Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Anh Hùng Lĩnh Nam - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    Hồi 30

    Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
    Nỗi ngày một ngã bóng dâu tà tà


    Đào Thế Kiệt lắc đầu :
    – Thưa Lục-trúc tiên sinh, bất cứ việc gì, tiên sinh chỉ cần viết một lá thư, chúng tôi sẽ kính cẩn nghe theo. Nhưng tiên sinh dạy chúng tôi quy phục người Hán, muôn ngàn lần không được. Tổ tiên chúng tôi là đệ tử của Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung, khai quốc công thần thời Âu Lạc. Khi Âu Lạc bị Triệu Đà dùng gian kế chiếm nước, tổ tiên chúng tôi mai danh ẩn tích, chiêu hiền nạp sĩ, chờ ngày quang phục, trãi đã gần 200 năm. Đến đời chúng tôi vì bất tài bạc phước, nên Đinh, Đào trang bị Thái thú Nhâm Diên đánh phá. Chúng tôi thà ngọc nát chứ không chịu để có vết, không chịu đầu hàng. Đinh, Đào chỉ có mấy trăm tráng đinh, cũng đánh cho Nhâm Diên thất điên bát đảo, giết được vợ con y, giết luôn cả mẹ già y, cướp luôn chiến thuyền ra lập nghiệp ở đảo này, chờ ngày về quang phục. Nay tiên sinh dạy chúng tôi đầu Hán. Chúng tôi thật không tuân được.
    Chu Bá cười :
    – Phải giống như loài rồng, khi lớn bằng trời đất, khi nhỏ, bằng con giun, con trùn. Đào hầu bằng này tuổi, sao không biết lẽ tiến thoái bằng lệnh đồ và Tam công tử ?
    Nghe nói đến Tam công tử, vợ Đào Thế Kiệt và Đinh Xuân Hoa vội hỏi :
    – Chu huynh vừa nói đến đệ tử và tiểu tử, chẳng hay chúng nó đã làm gì khiến huynh cho rằng chúng biết lẽ tiến thoái ?
    Chu Bá mỉm cười :
    – Đào hầu có người đệ tử thứ ba là Hoàng Thiều Hoa cô nương có phải không ? Trong trận cảng Bắc, Hoàng cô nương gặp một người tướng trẻ người Hán tên Nghiêm Sơn, tình ý nảy sinh. Nàng bỏ ngoài tai những gì là Hán, những gì là Việt, kết hôn với tên tướng trẻ đó. Nay nàng đã trở thành phu nhân của Lĩnh-nam công. Nghiêm công sủng ái nàng cùng cực. Mỗi mỗi đều chiều theo ý. Như vậy, chẳng là người thức thời ư ? Còn Đào tiểu công tử, khi lạc gia đình, chạy ra Long-biên, giữa chợ giết lính Hán. May nhờ sư huynh tôi đây là Hoàng Đức làm Huyện lệnh, che chở cho mới khỏi bị giết. Nhạc phụ tôi thấy y là con nhà danh gia, mang về Thái-hà trang nuôi cho ăn học. Chính muội phu Lục Mạnh Tân đây là thầy dạy y. Lục muội phu ! Ngươi kể chuyện Đào tiểu công tử cho Đào hầu nghe đi.
    Lục Mạnh Tân thấy ngôn từ Chu Bá muốn bẻ quẹo việc Đào Kỳ được ông dạy học thành ơn nghĩa của nhạc phụ. Vốn là người đọc sách, ông không muốn người khác vì ông mà bị lừa nên nói :
    – Bấy giờ, tôi chưa là nghĩa tế của nhạc phụ đại nhân. Nhạc phụ nhờ tôi dạy cho Lan Phương tiểu thư học thuật Trung-nguyên. Khi tôi đến làm giáo thụ, Đào công tử là thư đồng của trang Thái hà. Nhìn qua, tôi đã đoán ra ngay công tử là con nhà danh gia, chẳng may gặp nạn. Tôi mượn cớ giảng sách cho Lan Phương, cố nói lớn tiếng cho công tử nghe. Khổng Tử nói : Giáo bất khả biệt loại, phàm dạy học không phân biệt loại người. Người xưa đi tìm thầy, ngược lại, thầy cũng đi tìm trò nữa. Tôi đậu Hiếu-liêm, không ưa công danh nên mới xuống vùng Lĩnh Nam truyền đạo Thánh. Đào Kỳ là học trò yêu nhất của tôi. Y là đệ tử danh môn chính phái, biết phân biệt phải trái. Y không những không nghi ngờ tôi, mà còn coi tôi như ông thầy đáng kính.
    Đào hầu, Đào phu nhân ! Các vị có người con thông minh chưa đáng mừng. Điều đáng mừng là công tử khoáng đạt,biết xử thế, biết lẽ tiến lui. Khi tôi giảng bài cho Lan Phương, Đào công tử ngồi ở phòng bên cạnh. Tôi có ý giảng thực to cho y nghe. Lúc tôi ra về, y theo tiễn chân tôi và tỏ cho tôi biết, y hiểu ý tôi muốn giảng cho y nghe hơn là giảng cho Lan Phương.
    Ngừng một lát, ông tiếp :
    – Tôi dạy Đào công tử tất cả sách vở của Trung-nguyên từ Tứ thư, Ngũ kinh cho tới Bách gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo. Đào công tử không ham công danh, chứ nếu đi thi thì Hiếu liêm sẽ đậu dễ dàng. Công tử chỉ thích học Tôn-ngô binh pháp và Lục-thao của Khương Thái công. Trong những ngày gần đây tôi đã giảng Tả truyện với Bắc sử cho Đào công tử .
    Qua lời nói của Chu Bá và Lục Mạnh Tân, Đào hầu nhận ra hai người con rể Lê Đạo Sinh khác nhau quá xa. Một người giòng Việt, lại đi xu phụ làm quan với người Hán. Một người là Hán, thi đỗ Hiếu liêm, nếu muốn làm quan, cũng được chức Thái thú như ai, lại không ham công danh. Đúng như Lục nói, chắc Đào Kỳ bị bắt làm nô bộc, rồi được Lục dạy học, chứ việc Đào Kỳ học không phải do hảo ý của Lê Đạo Sinh. Trong khoảnh khắc, Đào hầu thấy Lục tiên sinh là một Khổng, Mạnh tái sinh, chứ không còn là một tên Hán cướp nước nữa. Ông đứng dậy, chấp tay xá Lục Mạnh Tân ba xá, rồi nói :
    – Lục tiên sinh, ơn giáo hóa còn nặng hơn ơn sinh thành. Đào trang xin kính cẩn gởi đến tiên sinh lời cảm tạ.
    Đức Hiệp gật đầu :
    – Đào hầu ơi ! Người nghĩ lại coi có đúng không. Cứu tiểu công tử khỏi chết là sư đệ Hoàng Đức, dạy tiểu công tử là muội phu Lục Mạnh Tân. Còn một điều quan trọng nữa, Đào tiểu công tử là nghĩa tế của Chu sư đệ đây ! Sư phụ tôi, nhất sinh cực kỳ sủng ái cháu ngoại Chu Tường Quy, thế mà người đã đem đứa cháu bửu bối đó gã cho tiểu công tử.
    Y quay lại gọi Tường Quy :
    – Tường Quy cháu ra lạy bố mẹ chồng đi.
    Trước khi rời thuyền, Tường Quy được mẹ trang điểm cho cực kỳ lộng lẫy. Nàng mặc bộ quần áo lụa xanh, cổ choàng chiếc khăn màu hồng, cổ đeo một chuỗi ngọc trai năm vòng trông phiêu hốt như một tiên nữ. Nàng được ông ngoại cho biết, ông dẫn nàng đi yết kiến cha mẹ Đào Kỳ để cho nàng chính thức kết hôn vối y.
    Bây giờ thấy sự sắp thành, nàng vội tiến tới trước mặt Đào hầu phục xuống lạy. Đào phu nhân thấy nàng xinh đẹp, nhu nhã như tiên nga, chỉ mới trông qua đã thấy thương rồi. Lại nghe nói nàng là vợ Đào Kỳ lại càng mừng rỡ.
    – Con với Đào Kỳ đã làm lễ bái đường rồi à ?
    Tường Quy e lệ cúi đầu :
    – Chưa, nhưng chúng con đã...
    Chu Bá ngắt lời :
    – Con kể cho Đào phu nhân nghe về chuyện Đào Kỳ đi.
    Tường Quy e lệ kể :
    – Ngày nọ con về thăm ông ngoại và gặp Đào đại ca. Anh Kỳ rủ con đi Cổ-loa nghe ngóng tin tức gia đình. Nhưng chúng con chỉ gặp được Chu Thổ Quan. Chú cho biết chú Đào Thế Hùng có các em Hiển Hiệu, Quý Minh, Phương Dung đến Cổ-loa dò tin tức Đào, Đinh gia. Chiều hôm đó về, chúng con xuống du thuyền của ông ngoại, chơi đêm trên sông. Con đánh đàn thổi tiêu cho Đào đại ca nghe.
    Đào phu nhân thấy Tường Quy ké né, e thẹn, mặt đỏ bừng lên trông như một tiên nữ, bà càng thương, cầm lòng không đậu, bà nắm lấy tay nàng, kéo ngồi xuống bên cạnh.
    Hoàng Đức hỏi Đào phu nhân :
    – Phu nhân ! Liệu phu nhân có một người con gái có phẩm chất như cháu Tường Quy, dù phu nhân có tin tưởng một cậu trai nào đến đâu chăng nữa, phu nhân có để cho con gái mình đi du lịch xa với cậu trai đó không ? Liệu phu nhân có cho phép cậu trai đó xuống du thuyền quý trọng nhất đi chơi trăng không ?
    Đào phu nhân gật đầu :
    – Nếu đúng như thế thì quả thật Lục trúc tiên sinh và Chu huynh đã ưu đãi cháu Kỳ nhiều quá.
    Bà cầm tay Tường Quy :
    – Thế Đào Kỳ hiện giờ ở đâu, cháu có biết không ?
    Tường Quy bật thành tiếng khóc :
    – Đại ca... đại ca bị ông ngoại xích chân rồi !
    Vũ Hỷ cười :
    – Đào phu nhân ! Đào tiểu công tử và Tường Quy không giữ được lòng, buông thả quá độ, nên sư phụ tôi phạt giam lại, đợi gặp Đào hầu có mai mối chính thức, cưới hỏi rồi mới cho chúng gặp nhau.
    Chu Bá thở dài :
    – Đào công tử là người thông minh anh tuấn. Tiện nữ bản chất cũng không thường, chúng nó có thể kết thành đôi uyên ương. Tất cả những gì kể từ nãy tới giờ, đều chứng minh rằng Thái hà trang chúng tôi đối với Đào trang một lòng một lòng thân kính. Cho nên, nhạc phụ chúng tôi mới thân hành tới đây, mời Đào hầu về lục địa tu sửa Đào, Đinh trang. Thỉnh đại công tử, nhị công tử ra làm việc với phủ Đô sát Cửu-chân. Xin Đào hầu dạy cho một lời, để chúng ta còn bắt tay vào việc.
    Đào Nghi Sơn đứng ra chắp tay, nói :
    – Về việc Đào Kỳ, trước hết, xin các vị cho chúng tôi thấy mặt y đã. Không phải chúng tôi không tin lời quý vị, nhưng cha mẹ tôi xa con đã bảy năm, muốn gặp lại y, trước khi quyết đoán bất cứ việc gì về y.
    Trần Dương Đức cũng bước ra nói :
    – Thưa Lục Trúc tiên sinh ! Thưa quý vị cao nhân ! Thưa sư phụ, sư mẫu, sư thúc ! Những lời vừa rồi con không tin. Nếu thật sự Thái-hà trang ưu đãi tiểu sư đệ, tại sao không đưa tiểu sư đệ đến đây tương hội với sư phụ, sư mẫu. Nếu bảo rằng Thái hà trang tử tế, sao còn mang đến đảo gần một ngàn người để uy hiếp chúng ta ? Con nghi Thái-hà trang kéo đông người đến đây để làm áp lực đe dọa. Họ muốn nói chuyện trên thế mạnh. Nếu chúng ta nghe lời họ thì thôi, bằng không họ sẽ kéo lên đảo này gây chiến. Trên ba thuyền lớn của họ, có gần một ngàn người. Chúng ta tuy không đông bằng họ. Nhưng địa thế đảo này, chúng ta đã thông thuộc. Chúng ta thủ, họ tấn công. Một người thủ, phải mười người mới vào nổi. Vì họ không đủ năm ngàn người, nên họ mới lên đảo đàm phán. Họ lên đảo rõ ràng với ác ý. Rõ ràng do người Hán sai khiến. Tô Định muốn cho đất Lĩnh-nam tưởng rằng trận chiến nếu xảy ra, là do Thái-hà trang với Đinh, Đào trang bất hòa, chứ không phải do y chủ trương. Thái-hà trang hòa kiệt đâu có thiếu, sao không hiểu lẽ đó ? Nhưng họ vẫn làm theo ý Tô là tại sao ? Vì họ sợ chúng ta trở lại chiếm Đinh, Đào trang, mà Đinh, Đào trang hiện đang nằm trong tay Phong-châu song quái. Theo thiển ý đệ tử, muốn phân rõ trắng đen, xin họ cho tiểu sư đệ ra đây tương kiến đã.
    Lê Đạo Sinh cười :
    – Điều đó dễ lắm. Vũ Hỷ ! Ngươi ra thuyền đón Đào công tử vào đây cho ta, để xem ta có phải là người nói dối không ?
    Vũ Hỷ đi rồi, Đào hầu gọi lớn :
    – Mang rượu ra đây ! Đào gia, Đinh gia chúng tôi mời quý khách dùng chút thổ sản hải đảo.
    Đệ tử mang rượu và đồ ăn bày giữa sảnh đường. Đào Thế Kiệt đứng lên ân cần mời khách. Tường Quy e thẹn không dám ngồi, Đào phu nhân nắm tay Tường Quy, nói :
    – Con lại đây với ta.
    Bà ngắm Tường Quy từ đầu đến chân, tự nghĩ :
    – Có một thiếu nữ xinh đẹp, nhu mì như thế này về làm dâu Đào-gia, hỏi còn gì bằng nữa ?
    Bà hỏi :
    – Con có học võ không ?
    Chu Bá đáp thay :
    – Cháu học võ với ông ngoại và tôi. Bản lĩnh cháu, tuy không bằng Đào công tử, nhưng trong giới nữ lưu trẻ tuổi ít ai bằng.
    Đào Kỳ ngồi ở hàng ghế đệ tử Đào, Đinh, cười thầm :
    – Vũ Hỷ ơi Vũ Hỷ ! Mi trở lại thuyền không thấy ta, mi có dám trở lại không ? Ta cứ ngồi đây đợi mi, xem bộ mặt mi thế nào ?
    Lê Đạo Sinh ngồi uống rượu đã lâu, vẫn không thấy tăm hơi Vũ Hỷ. Y rối ruột, bảo Phương Anh :
    – Ngươi ra xem sao lâu quá vậy ?
    Phương Anh dạ một tiếng định đi, nhưng Vũ Hỷ đã trở lại. Mặt y đầy vẻ đăm chiêu. Y hướng vào Đạo Sinh nói :
    – Thưa sư phụ ! Đào công tử đã bẽ gãy xích sắt trốn đi rồi !
    Cả sảnh đường im lặng, dồn mắt vào Lê Đạo Sinh. Nét mặt Đạo Sinh nhíu lại, y hỏi Vũ Hỷ :
    – Ngươi đã tìm khắp trong thuyền chưa ? Trên đời làm gì có người bẻ được xích sắt lớn như thế ? Từ biển vào đây khá xa, dù y có trốn cũng không bơi vào được. Không lẽ y là cá voi ?
    Vũ Hỷ quả quyết :
    – Con đã cho tráng đinh tìm khắp cả ba con thuyền, nhưng không còn dấu vết gì của y để lại. Hành lý cũng mất luôn. Rõ ràng y đã trốn rồi.
    Chu Bá nói lớn :
    – Đào hầu, cháu Kỳ thế nào cũng trốn lên đảo. Vậy người cứ cho tìm một lúc sẽ ra ngay.
    Trần Dương Đức cười :
    – Chu tiên sinh ! Điều kiện tiên quyết là tiểu sư đệ phải xuất hiện. Nếu y không xuất hiện, chúng tôi nhất quyết không tin.
    Từ đầu đến giờ, Đinh Đại vẫn ngồi yên. Bây giờ mới lên tiếng :
    – Thưa Lục trúc tiên sinh ! Xin mời quý vị dùng cơm rồi rời đảo cho. Dù cho cháu Kỳ có xuất hiện, dù y có là rể của Chu tiên sinh đi nữa, chúng tôi nhất quyết không cho đệ tử làm chó săn cho bọn giặc Hán. Nếu quý vị giữ y để đe dọa, chúng tôi coi như y đã tuẫn quốc.
    Ông quay lại nói với Đào hầu :
    – Tỷ phu ! Chúng ta cần phải giữ khí tiết của tổ tiên, dù có phải chết hết cũng cam lòng.
    Đức Hiệp tái mặt, nói :
    – Đinh hầu ! Chúng tôi lấy lễ đối với hầu, tại sao hầu lại sỉ mạ chúng tôi ? Hầu bảo rằng những người làm quan với Hán là chó săn, vậy trong mười đệ tử của sư phụ chúng tôi, có tới năm người làm Huyện-úy. Hiện diện đây có Chu, Hoàng, Vũ, Phương, như vậy, có khác gì hầu bảo các sư đệ tôi là chó săn không ? Đinh Đại cười nhạt :
    – Chó săn hay không chó săn, tự các người biết.
    Hoàng Đức giận run người. Y nhảy vèo đến, đánh một quyền vào sau gáy Đinh Đại. Đinh Đại trầm người xuống tránh, rồi trả đòn. Hiện trường náo loạn cả lên. Các đệ tử Đào, Đinh đều rút kiếm ra khỏi vỏ. Nhưng Đào Thế Kiệt vội vẫy tay ra hiệu ngồi xuống.
    Đinh, Hoàng đã đấu với nhau trên mười hiệp. Đinh Đại lui lại, đánh ra một chưởng, véo một cái. Hoàng Hiệp xuống Trung bình tấn, phát chưởng đỡ Bùng một tiếng, cả hai cùng lùi lại. Họ gườm gườm nhìn đối thủ, và tự biết khó thắng nổi nhau.
    Trước đây mười năm, nếu Đinh Đại đấu với Hoàng Đức chắc chắn ông không phải là đói thủ của y. Bởi y là đệ tử của Đệ nhất cao nhân đương thời Lê Đạo Sinh. Trải qua bảy năm, nung nấu mối hận mất trang, ấp, Đinh Đại, Đào Thế Kiệt suốt ngày luyện võ. Nhờ vậy, công lực tinh tiến vô cùng. Với một chưởng vừa rồi, người bàng quang đều thấy họ ngang nhau.
    Hoàng Đức cười nhạt :
    – Đinh-hầu ! Người là một trong Cửu chân song kiệt, ngươi có dám song đấu với ta không ? Hay là ngươi chỉ cậy đông người.
    Đinh Đại cười nhạt :
    –Ta há sợ ngươi sao ?
    Lê Đạo Sinh bước ra nói :
    – Khoan ! Kể về nhân số, các vị đông gấp bội chúng ta, nhưng kể về võ công thì chưa chắc. Vậy bây giờ tôi sẽ cử ra ba người đấu với Đào, Đinh hầu và Đào phu nhân. Nếu chúng tôi thắng hai trận, quý vị phải nghe lời chúng tôi. Ngược lại chúng tôi bại, chúng tôi nguyện sẽ rời khỏi nơi đây.
    Đinh Đại nhìn Đào Thế Kiệt hỏi ý kiến. Đào Thế Kiệt tự thị anh em đã trải qua bảy năm luyện võ công trên đảo, công lực tiến rất nhiều. Ông gật đầu :
    – Lục trúc tiên sinh là thái sơn bắc đẩu đất Lĩnh-Nam, chắc không chịu ra tay cùng bọn hậu bối như chúng tôi. Không biết bên quý trang, ai là ngươéi dạy dỗ chúng tôi mấy chiêu đây ?
    Hoàng Đức vẫn đang cơn giận, nói ngay :
    – Ta sẽ dạy dỗ các ngươi.
    Đinh Đại hất hàm về phía Hoàng Đức :
    – Được ! Ta với con chó săn của người Hán đấu trận đầu.
    Hoàng Đức giận quá, vung chưởng đánh liền. Hai người quấn lấy nhau, chưởng phong trùm khắp hội trường. Đào Kỳ nhìn Đinh Đại đánh với Hoàng Đức, nghĩ :
    – Không ngờ có bảy năm, mà võ công cậu ta đã tiến tới trình độ này. Hoàng Đức là đệ nhất cao đồ của Lê Đạo Sinh, e khó địch lại cậu ta.
    Được khoảng năm mươi hiệp, Hoàng Đức đã yếu dần, chỉ đỡ nhiều hơn đánh. Đạo Sinh ngạc nhiên nghĩ :
    – Hoàng Đức là đệ tử của ta, võ công không tầm thường. Trong những bọn ngang hàng như Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng, Đặng Thi Kế cũng khó ai thắng nổi. Tên Đinh Đại, võ công vốn tầm thường, không hiểu sao lại tiến mau đến trình độ này ?
    Hoàng Đức bị dồn vào góc phòng, y chỉ còn chống đỡ cầm chừng.
    Vũ Hỷ làm Đô sát Cửu-chân đã bảy năm, y biết hết chiêu thức võ công phái Cửu-chân, nên những chiêu thức Đinh Đại đánh ra, y đều đoán trước được. Y nghĩ cách giúp ngầm Hoàng Đức.
    Y chợt lên tiếng :
    – Sơn cao, thủy tận.
    Hoàng Đức đang bị dồn vào thế bí, thấy có người nhắc, y vội trầm người xuống, ra chiêu Sơn cao thủy tận. Bịch một tiếng, Đinh Đại bị đánh trúng vai, loạng choạng lùi lại.
    Vũ Hỷ lại nhắc :
    – Thủy nhập thanh điền.
    Hoàng Đức quay tròn người, phi thân lên cao, đánh một chưởng từ trên xuống. Bạch một tiếng, chân y đã đá trúng sườn Đinh Đại.
    Đào Kỳ thấy Vũ Hỷ nhắc Hoàng Đức, gây khốn cho Đinh Đại, chàng vội len lỏi về phía trước. Chàng biết cả võ công Tản viên lẫn Cửu chân, nên cũng muốn nhắc cậu. Giữa lúc Hoàng Đức lui lại ra chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục ngưu thần chưởng. Chưởng lực này sức mạnh hướng về phía trước, lúc biến chiêu sẽ rẽ sang phải hoặc sang trái, nên để lộ ra chỗ sơ hở phía trên. Chàng vội hô lớn :
    – Loa thành nguyệt chiếu.
    Chưởng Hoàng Đức đánh thẳng về trước, Đinh Đại vọt người lên cao, đánh từ trên xuống. Chưởng phong chụp lên đầu Hoàng Đức. Hoàng Đức đẩy vòng chưởng lên đỡ, nhưng đã hơi trễ. Bùng một tiếng, chưởng Đinh Đại đã đánh trúng người Hoàng Đức. Y bị bật lui liền ba bước, khí huyết chạy nhộn nhạo. Người y muốn ngộp thở.
    Đào Kỳ lại lên tiếng :
    – Kình ngư xuất hải.
    Đinh Đại nhào người tới trước, lộn người lên cao, đá móc một cái trúng vai Hoàng Đức. Y bị đá văng ra giữa sân. Đào Kỳ lại hô tiếp :
    – Song thu diệp lạc.
    Đinh Đại xoay hai tay thành vòng tròn, đẩy tới một chưởng. Mọi người kêu thét lên, vì biết chưởng đó đánh tới ắt Hoàng Đức phải chết. Phương Anh nhảy ra đỡ chưởng của Đinh Đại. Bùng một tiếng Đinh Đại, Phương Anh đều lùi lại, mặt đỏ gay.
    Đào Thế Kiệt hô lớn :
    – Ngừng tay !
    Hai người cùng nhảy lui lại.
    Đinh Đại chỉ Phương Anh :
    – Các ngươi định hai người đánh một ư ?
    Phương Anh chỉ Đào Kỳ :
    – Hai người đấu với nhau, tại sao ngươi ở ngoài chĩa mõm vào ?
    Đào Kỳ chỉ Vũ Hỷ :
    – Thế còn mõm của chồng mụ là mõm gì ?
    Đào Kỳ nhắc cho Đinh Đại ba chiêu, đã đánh cho Hoàng Đức gần bỏ mạng, khiến Đào hầu, Đào phu nhân cùng ngẩn người ra, tự nghĩ :
    – Đệ tử ở đây ta biết mặt hết, vậy thiếu niên này là ai, sao ta không nhận ra ?
    Bà đưa mắt nhìn đại đệ tử Trần Dương Đức, như để dò hỏi. Dương Đức nhận ra Đào Kỳ là thiếu niên mới bơi vào đảo, chàng đã gặp ban nãy. Chàng định đến bên sư mẫu, nói cho bà biết nhưng lại thôi.
    Trong lòng Đào phu nhân đầy nghi vấn :
    – Không lẽ trong đám đệ tử của ta có người thông minh đến trình độ đoán ra các thế võ của đôi bên ?
    Phương Anh thấy Đào Kỳ chỉ là một đệ tử nhỏ tuổi của Đào trang, y thị không thèm cãi với chàng. Y thị đưa mắt nhìn chồng. Vũ Hỷ gật đầu tiến ra :
    – Trận đấu thứ nhì ta xuất lực. Bên Cửu-chân, ai là người có chân tài, hãy ra đây.
    Đào hầu nghĩ :
    – Trong ba trận, chỉ cần bên mình thắng hai là đủ. Vậy bây giờ mình xuất trận đấu với Vũ Hỷ, như vậy, trận sau có thể khỏi phải ra tay nữa.
    Nghĩ rồi, ông tiến tới trước nói :
    – Vũ Hỷ ! Năm xưa ngươi theo quân Hán đuổi đánh ta, làm cho ta tan cửa nát nhà. Hôm nay là ngày ngươi đền tội.
    Nói xong, ông phát quyền đánh vù một cái. Vũ Hỷ lui lại đỡ. Đào Kỳ thấy công lực của cha mạnh hơn xưa gấp bội, chàng mừng lắm, tự nhủ :
    – Năm xưa, cha mẹ ta chỉ đỡ một chưởng của Song quái đã phun máu miệng. Nay công lực của người đã cao hơn y khá nhiều. Đúng như lời Tường Loan nói trước đây.
    Vũ Hỷ biết võ công Cửu-chân, nên Đào hầu ra chiêu nào y cũng đoán được. Đấu trên trăm hiệp vẫn bất phân thắng bại. Bỗng Vũ Hỷ lùi lại, phóng ra một chưởng. Chưởng phong bao trùm khắp hội trường. Đào Thế Kiệt cũng vội phóng ra một chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả hai cùng lùi lại. phóng ra một chưởng. Đào Kỳ nhận ra chưởng của Vũ Hỷ là Phục ngưu thần chưởng.
    Vũ Hỷ lại phóng chưởng thứ nhì, Đào hầu cũng phóng chưởng đỡ, kình phong ào ào, đó là chiêu Hải triều lãng đãng, lớp thứ nhất, Bùng một tiếng cả hai đều lùi lại một bước.
    Vũ Hỷ phóng chiêu thứ nhì là Ngưu ngọa ư Sơn, trong khi Đào hầu phóng lớp thứ nhì. Bùng một tiếng, Vũ Hỷ lùi lại một bước, phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong, trong khi lớp thứ ba của Đào hầu đã đổ xô đến. Bùng một tiếng, Vũ Hỷ bị bắn tung lại phía sau, còn Đào hầu, vẻ mặt nhăn nhó, khó chịu, bàn tay ông đỏ những máu. Ông quát lớn :
    – Đồ lưu manh !
    Vũ Hỷ tay cầm con dao nhỏ, cười ha hả. Bấy giờ ,mọi người mới hiểu Vũ Hỷ phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong , một tay phát chưởng, một tay y đưa ra sau rút dao trủy thủ đẩy vào giữa chưởng của ông.
    Vũ Hỷ đắc thế, xuất một chưởng định kết liễu tính mạng Đào Thế Kiệt. Đào phu nhân thấy chồng lâm nguy, vội rút kiếm nhảy vèo đến đâm y liền mười chiêu. Chiêu nào cũng thần tốc phi thường. Vũ Hỷ thấy kiếm chiêu kình lực veo véo, y vội lui lại. Phía sau lưng y như có mắt, y rút kiếm của vợ, vòng lên đỡ kiếm của Đào phu nhân. Động tác của y nhanh không thể tả được. Đỡ xong kiếm của Đào phu nhân, y vọt ra khỏi vòng chiến nói :
    – Trận thứ nhì mỗ đã thắng Đào-hầu. Vậy, trận thứ ba, ai bên Đào trang xuất chiêu ?
    Đào Kỳ thấy cha thì bị thương, mẹ thì bối rối không thể, chàng vội nhảy vèo đến bên Đinh Tĩnh Nương, tay rút kiếm của nàng, nhấp nhô một cái, chàng đã lui lại phía sau, phóng kiếm đâm Vũ Hỷ.
    Động tác nhảy tới, rút kiếm, nhảy lui, ra chiêu đều thần tốc quái dị vô cùng.
    Vũ Hỷ trông thấy rõ ràng, nhưng cũng vẫn không đỡ kịp. Xoẹt một tiếng, kiếm đã xuyên qua mạng sườn y, khiến áo y rách bung. Y kinh hoảng đến độ ngẩn người, miệng lắp bắp không thành tiếng.
    – Thì ra Đào trang cũng có người học kiếm pháp Long-biên đấy.
    Đào Kỳ nóng lòng cứu mẹ, thuận tay xuất một trong 72 chiêu trấn môn của phái Long-biên, đâm Vũ Hỷ bị thương ở sườn. Vũ Hỷ đã lùi lại. Đào Kỳ xé vạt áo buộc vết thương ở tay cho cha.
    Đinh Đại, vợ chồng Đào Thế Kiệt thấy thiếu niên lạ mặt, mới nhắc có ba câu, đã khiến Đinh Đại đánh thắng Hoàng Đức, bây giở mới ra một chiêu đã làm Vũ Hỷ bị thương, thì đều ngơ ngác, tự hỏi :
    – Thiếu niên này là đệ tử bản môn, sao mình không biết tên y ? Y ra chiêu kiếm vừa rồi, nếu là mình cũng đành chịu chết, chứ không chống lại được.
    Buộc vết thương cho cha rồi Đào Kỳ chỉ Vũ Hỷ :
    – Mi là quân quái quỷ, tội ác ngập trời. Hôm nay ta phải giết mi, để báo cái thù mi làm cho Đào trang, Đinh trang tan nát. Cũng để trừ cho đất Lĩnh-Nam một con chó săn ác độc nhất.
    Chàng không rút kiếm, chỉ từ từ đi tới. Mọi người chỉ thấy thấp thoáng một cái, ánh kiếm vung lên đâm vào cổ Vũ Hỷ. Y hoảng hồn vung kiếm gạt, nhưng kiếm của Đào Kỳ co lại như cái lò xo, rồi vọt tới như con rắn trúng vào vai y. Vũ Hỷ la lên một tiếng, ôm vai lùi lại, máu chảy ròng ròng.
    Trong khi đó, Đào Kỳ tra kiếm vào vỏ. Động tác rút kiếm, đâm, tra vào vỏ nhanh vô cùng. Không ai nhìn rõ chàng đã làm như thế nào.
    Đào Kỳ cười gằn :
    – Mi có nhớ bảy năm trước dựa thế người Hán, ngươi đánh phá Đào trang nhà ta. Trong trận đánh cảng Bắc, mi đã đánh sư phụ ta một chưởng phun máu miệng, hôm nay ta đâm mi một kiếm để trừng phạt mi.
    Vũ Hỷ lui lại để Chu Bá băng bó cho. Phương Anh rút kiếm tiến lên :
    – Thiếu niên này, ngươi là ai ?
    Đào Kỳ chỉ Đào Thế Kiệt :
    – Ta là đệ tử của người.
    Phương Anh cầm kiếm, khom người xuống thủ chờ đợi. Đào Kỳ khoanh tay tiến lên. Ánh kiếm lấp loáng vòng một vòng trước mặt Phương Anh. Mụ vội vung kiếm lên gạt. Đào Kỳ tra kiếm vào vỏ, lui lại cười. Miệng Phương Anh bị khoanh một kiếm, máu tuôn xối xả, trông thực thảm bại.
    Phương Anh tuy bị thương ở miệng, nhưng không dàm phân tâm. Tay mụ vẫn thủ kiếm đề phòng.
    Đào Kỳ tiến lên, hướng về phía Phương Anh. Chàng rút kiếm đâm về trước, Phương Anh định đỡ, thanh kiếm Đào Kỳ co lại như con rắn, rồi vọt sang ngang, mổ vào đầu Đức Hiệp.
    Đức Hiệp hấy ánh thép lấp loáng trước mặt, y vội trầm người xuống tránh. Nhưng không kịp nữa. Xoẹt một tiếng búi tóc trên đầu y đã bị tiện đứt, lưỡi kiếm bật trở về, đánh choang một cái, gạt bay thanh kiếm của Phương Anh lên cao, cắm vào xà nhà rung động không ngớt.
    Đức Hiệp kinh sợ quá. Y lùi lại la hoảng :
    – Ngươi là người hay ma ?
    Cử tọa thấy Đào Kỳ Tiến lại phía Phương Anh, những tưởng là Đào Kỳ đối phó với y thị, không ngờ chàng lại rút kiếm cắt đứt búi tóc của Đức Hiệp. Đức Hiệp phát run, vì nếu chàng định giết y, y đã chết rồi.
    Chu Bá tiến lên hỏi Đào Kỳ :
    – Ngươi không phải là đệ tử Cửu chân. Ngươi là đệ tử của Nguyễn Phan, phái Long biên. Kiếm pháp ngươi vừa dùng là kiếm pháp phái Long biên. Nếu ngươi dùng võ công Cửu chân mà thắng được ta, ta mới phục ngươi.
    Đào Kỳ giật mình :
    – Mình thật đáng chết ! Nếu mình dùng kiếm pháp Long biên thắng bọn chúng, đâu có dương oai võ công bản môn ?
    Nghĩ vậy, chàng lên tiếng :
    – Được ! Ta sẽ dùng những võ công nhập môn của Cửu chân để thắng ngươi. Ngươi đã từng nghe nói : Phái Cửu chân có một pho võ công gọi là Lý ngư chưởng pháp, để dạy cho đệ tử nhập môn. Ta sẽ dùng chưởng pháp này đấu vối ngươi. Nếu ta thua, ta sẽ cúi đầu, lạy tôn ngươi làm bề trên. Còn nếu ta thắng, ngươi tính sao ?
    Đào Kỳ nói câu này, chàng nghĩ thầm trong bụng : Ta thua hay thắng, ta vẫn phải quỳ gối, lạy ngươi tôn là nhạc phụ đại nhân. Ta hứa vậy là hứa ăn gian, ngươi đâu có biết ?
    Chu Bá là đệ tử yêu, con rể của Lê Đạo Sinh, võ công y chỉ thua có cha vợ. Đạo Sinh có ý định thống nhất các phái võ Lĩnh Nam, nên đã nghiên cứu đủ các võ công thiên hạ. Y nghiên cứu rất tường tận võ công Cửu chân, cho nên Chu Bá cũng được học công trình nghiên cứu đó. Chu Bá biết chưởng pháp Lý ngư là chưởng pháp dạy cho đệ tử nhập môn của phái Cửu chân luyện cho quen chân, quen tay. Thực ra đó chỉ là thứ chưởng pháp vô dụng. Y nắm chắc phần thắng trong tay, nên nói :
    – Nếu thua ngươi, ta cũng quỳ gối tôn ngươi làm bề trên.
    Đào Kỳ lắc đầu :
    – Ngươi ngang tuổi với cha mẹ ta, lại quỳ gối trước ta, ta không dám đâu. Ta làm thế sẽ mất đức khiêm cung trước một vị nho sĩ đạo đức là Lục tiên sinh đây, thì coi sao được ?
    Chàng chắp tay vái Lục Mạnh Tân :
    – Lục tiên sinh ! Hồi nãy nhạc phụ cùng các sư huynh, sư đệ tiên sinh có ý muốn lừa dối ân sư của tôi là Đào hầu. Nhưng Lục tiên sinh đã nói thực. Tiếng đồn tiên sinh là Khổng tử tái sinh quả không sai. Tiểu đồ xin tiên sinh dạy cho : Nếu tiểu đồ thắng Chu tiên sinh, Chu tiên sinh sẽ phải làm gì cho tiểu đồ ?
    Lục Mạnh Tân không nhận ra Đào Kỳ. Mọi người thấy chàng là một đệ tử của Cửu-chân, lại tỏ lòng tôn kính Lục Mạnh Tân, người của phe thù nghịch, lại còn thỉnh ý kiến của Lục, đều không khỏi ngạc nhiên. Lục Mạnh Tân là Nho sĩ thâm nhiễm triết lý Khổng, Mạnh, thích được đứng ra hòa giải những việc như vậy. Ông nói với Đào Kỳ :
    – Tiểu hữu này, thực đúng là người đọc sách thánh hiền. Người quân tử phải giữ Lễ, giữ Cung . Dù tiểu hữu có thắng được Chu sư huynh, cũng không thể bắt Chu sư huynh quỳ gối tôn là người trên được. Vậy tôi đề nghị, nếu tiểu hữu thắng, Chu sư huynh sẽ phải làm cho tiểu hữu một việc gì đó, miễn là việc đó hợp đạo lý Khổng, Mạnh.
    Đào Kỳ chắp tay, cực kỳ cung kính, vái Lục :
    – Đa tạ tiên sinh đã chỉ dạy cho hậu học.
    Lục Mạnh Tân ngạc nhiên không ít. Ông tự hỏi :
    – Tại sao giữa đảo này lại có một thiếu niên, từ lời nói đến cử chỉ đều đúng như Nho gia vậy kìa ?
    Đào Kỳ cầm kiếm lên, búng một cái vào chuôi kiếm. Kiếm rít véo lên một tiếng, bay đến trước mặt Đinh Bạch Nương. Bạch Nương hoảng sợ không dám bắt. Nàng cúi đầu xuống tránh, thì thanh kiếm tới trước mặt nàng, tự nhiên ngừng lại chui vào bao. Bạch Nương ngẩn người ra, trách thầm.
    – Mình thực ngu quá ! Anh này là đệ tử bản môn, đâu có hại mình, sao mình quá sợ như vậy.
    Đào Kỳ đứng trước mặt Chu Bá, tay thủ quyền. Chu Bá quát lên một tiếng, phóng chưởng đánh liền. Đào Kỳ đánh một thế quyền nhập môn của Cửu chân đỡ lại. Hai người quấn lấy nhau giao đấu. Chu Bá dùng những chiêu thức tinh vi của Tản viên. Trong khi Đào Kỳ chỉ dùng những chiêu thức tầm thường của Cửu chân để chống lại. Mặc cho Chu dùng chiêu nào, võ nào, chàng cũng chỉ dùng có 12 chiêu võ thô kệch của Cửu-chân để đỡ hoặc tấn công. Nội lực của chàng mạnh như núi lỡ, mỗi chiêu đánh ra, quyền phong rít lên veo véo.
    Đào Thế Kiệt châu mày suy nghĩ :
    – Thiếu niên này rõ ràng chỉ biết rất ít về quyền pháp Cửu chân, nhưng công lực y mạnh vô cùng, nên mới chống đỡ nỗi với Chu Bá. Nội công của y dường như là nội công Cửu chân phảng phất như Tản viên, nhưng ta không thể phân biệt được thế mới kỳ.
    Nếu Đào Kỳ muốn thắng Chu Bá, chàng chỉ cần một hai chiêu cũng đủ lấy mạng y ? Nhưng vì nể mặt Tường Quy, nên chàng không muốn đấu tận lực với y.
    Bỗng Chu Bá quát lên một tiếng lớn, phát một chưởng cực kỳ mãnh liệt, đò là chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục ngưu thần chưởng, áp lực chưởng như muốn vỡ tung cả phòng. Đào Kỳ biết chiêu này đánh thẳng, biến chiêu ra hai bên, nên chàng nhảy vọt lên cao. Từ trên cao chàng phát chiêu Lý ngư nhược thủy trong Lý ngư chưởng pháp đánh thẳng xuống.
    Bùng một tiếng người chàng bật lên cao. Chàng đá gió một cái, đáp xuống đất nhẹ như chim.
    Chu Bá lại phát chưởng thứ nhì. Đào Kỳ nhận ra chiêu đó là Ngưu thực ư dã. Chiêu này, kình lực vòng lên cao, rồi chụp xuống như một cái nón, biến chiêu thẳng về trước. Chàng bước xéo sang phải để tránh bớt sức ép của chưởng, rồi ra chiêu Lý ngư du thủy đánh vào giữa chưởng của Chu Bá.
    Những cao thủ có mặt đều toát mồ hôi, vì chiêu Lý ngư du thủy là chiêu rất thô kệch. Trong khi đó chiêu Ngưu thực ư dã cực kỳ tinh vi. Chưởng phong của Chu Bá ào ào chụp xuống, gặp chưởng lực của Đào Kỳ hợp làm một. Đào Kỳ đẩy xéo sang một bên, hướng vào người Đức Hiệp, Hiệp kinh hoảng, vội vọt người lên cao tránh khỏi, nhưng chân y cũng đau buốt vì sức chưởng vượt qua.
    Hai người vừa giao đấu, vừa di chuyển đến gần Đức Hiệp. Nhớ cái hận bị Đào Kỳ cắt búi tóc, y phát chưởng đánh vào lưng Đào Kỳ. Đào Kỳ tay trái chống với Chu Bá, tay phải vận đủ mười thành công lực, phóng về sau một chỉ. Véo một tiếng, người Đức Hiệp bật văng vào tường. Tiếp theo rắc một tiếng, ván tường đã bị thủng, người y văng ra sân. y cố gắng ngồi dậy hai lần đều không được. Miệng y phun ra một búng máu rồi nằm im. Vũ Hỷ nhảy ra bồng y vào sảnh đường.
    Lê Đạo Sinh quát lớn :
    – Khoan !
    Chu Bá, Đào Kỳ cùng nhảy ra khỏi vòng chiến. Lê Đạo Sinh vẫy Chu Bá :
    – Ngươi không phải là đối thủ của y đâu hãy lui lại.
    Chu Bá tuân lệnh, lui về sau.
    Nguyên Lê Đạo Sinh thấy một đệ tử nhỏ tuổi của Cửu chân, sử dụng kiếm pháp Long biên, tinh diệu còn hơn Phương Dung, Phật Nguyệt, nội công có phần trội hơn Nguyễn Phan, y cho rằng Đào Kỳ không thể là đệ tử Nguyễn Phan. Tiếp theo, chàng lại đánh bại Chu Bá bằng những chiêu thức nhập môn của Cửu chân. Cho đến khi Đức Hiệp ra tay, chàng đã sử dụng một chỉ, không phải của Đào gia, đến nổi Đức Hiệp bị bật tung về sau. Y nghĩ :
    – Công lực này có lẽ cao không kém gì sư huynh của ta là Trần Đại Sinh. Không chừng y là đệ tử của sư huynh ta cũng nên. Ta tổ chức cuộc hành quân vô cùng bí mật, kể cả bọn Đức Hiệp, Chu Bá đều không được biết trước, sao sư huynh ta biết mà cho đệ tử đến đây cản trở ?
    Nghĩ rồi, Lê Đạo Sinh tiến lên, nói :
    – Giỏi ! Thì ra ngươi là đệ tử của sư huynh ta. Ngươi thực vô phép thấy sư thúc không hành lễ. Sư huynh ta hiện ở đâu ?
    Đào Kỳ cười nhạt :
    – Tôi là đệ tử Đào hầu, chưởng môn Cửu chân. Còn Khất đại phu hiện ở đâu, tôi không biết. Tiên sinh là sư đệ của người, tiên sinh phải biết chứ ?
    Lê Đạo Sinh thở dài :
    – Nếu vậy, lão phu xin thỉnh giáo ngươi mấy chiêu.
    Đào hầu, Đào phu nhân, Đinh Đại tự nhiên thấy một thiếu niên đệ tử xuất hiện kiếm pháp tuyệt vời. rồi thấy chỉ một chỉ quái dị đã đánh bại đệ tử của Lê Đạo Sinh là Đức Hiệp bay ra xa, cùng ngơ ngác nhìn nhau, không ai hiểu gì cả. Họ thấy chàng sắp đấu với Lê Đạo Sinh, đều lo cho chàng, vì Lê là đệ nhất cao nhân đương thời.
    Lê Đạo Sinh phóng một chưởng cực kỳ hùng hậu, chưởng chưa phát hết, nhưng áp lực đã làm mọi người nghẹt thở. Đào Kỳ nhận ra đó là chiêu Ngưu nhập thanh điền trong Phục ngưu thần chưởng. Chiêu thức này trông rõ ràng thuộc dương, nhưng thực ra lại có vẻ nhu, tức Dương trung hữu Âm. Chàng vội xuất chiêu Thiết kình hồi đầu của Cửu chân chống lại. Hai chưởng đụng nhau bật thành tiếng lớn. Đạo Sinh bị đẩy lui lại một bước, người y vọt lên cao, hai tay chụm lại đánh vào đầu Đào Kỳ như con chim ưng vồ mồi. Đào Kỳ ung dung xỉa cánh tay bật thành chỉ pháp. Chỉ rít lên rất lớn, đánh vào giữa lòng bàn tay Đạo Sinh. Đạo Sinh vận đủ mười thành công lực chịu đòn. Chỉ lực đẩy y bật lên cao. Trên cao y lộn một vòng, phóng cước đá chàng. Đào Kỳ dẫn khí về Đốc-mạch, chuyển xuống Túc dương minh Vị kinh, rồi chàng cùng nhảy lên cao, đưa cước đỡ cước y. Hai cước chạm nhau. Hai người cùng bật ra xa, rồi rơi xuống đất.
    Bấy giờ Lê Đạo Sinh mới thấy nội lực Đào Kỳ vừa cương, vừa nhu, chứ không phải nội lực dương cương của Tản viên, do đó không phải là đệ tử của sư huynh. Y nghĩ :
    – Khắp đất Lĩnh-Nam làm gì có người biết nội công cương nhu thế này ?
    Đầu óc y chợt lóe lên một tia sáng :
    – À, phái Quế lâm có thứ nội công cương nhu. Người mạnh nhất là Nghiêm Sơn cũng không bằng được thiếu niên này. Thế y là ai ?
    Nghĩ rồi y vận sức ra chiêu Ngưu tẩu như phi. Chiêu này kình lực rất dũng mãnh, vừa mau, vừa mạnh, như thác đổ, như sét đánh.
    Đào Kỳ biết chiêu này không tầm thường, chàng vận đủ mười thành công lực, phát chiêu Thiết kình phi chưởng của Cửu chân đỡ lại. Chàng vận khi vào Đơn-điền, không tâm xuất lực. Lý thuyết này chàng mới luyện hôm trước ở trên thuyền. Bùng một tiếng, Lê Đạo Sinh bật tung trở lại, đập lưng vào cái cột nhà. Cây cột gãy rắc, còn Đạo Sinh ngồi xuống đất, máu miệng ri rỉ chảy ra.
    Đào Kỳ nghĩ đến Lê Đạo Sinh giam cầm mình ở dưới thuyền, khí giận bốc lên, phóng một chưởng nữa. Chưởng phong cực kỳ hùng mạnh. Vợ chồng Vũ Hỷ, Chu Bá, Hoàng Đức cùng nhảy tới vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng, năm người bật lui trở lại. Trong tiếng Bùng có tiếng một thiếu nữ kêu thét lên :
    – Anh Kỳ ! Nhẹ tay một chút.
    Rồi Tường Quy nhảy vèo ra vung chưởng tấn công Đào Kỳ để cứu ông ngoại. Đào Kỳ sợ hai chưởng đụng nhau làm nàng bị thương, chàng vội thu nội lực trở về.
    Chàng lùi lại, lột râu, đến trước cha me,ï quỳ xuống hành le :
    – Con bất hiếu là Đào Kỳ, trở về thăm bố mẹ, cậu mợ. Con kính chúc bố mẹ, cậu mợ sống lâu trăm tuổi..
    Đào hầu, Đào phu nhân, vợ chồng Đinh Đại thấy thiếu niên võ công kinh người lại là Đào Kỳ, nỗi mừng vui kể sao cho siết nói không nên lời.
    Đào Kỳ đến trước mặt Lục Mạnh Tân khấu đầu :
    – Con xin vấn an thầy cô, kính chúc thầy cô mạnh khỏe.
    Rồi Đào Kỳ chỉ Lục giới thiệu với bố mẹ :
    – Thưa bố mẹ, Lục tiên sinh là Thánh Khổng tái sinh. Người là đấng quân tử khó kiếm ở trên đời. Con đã được người dạy dỗ tận tình. Xin bố mẹ tạ ơn thầy cho con.
    Lục Mạnh Tân hướng vào Đào hầu :
    – Đào chưởng môn ! Tôi là văn nhân người Hán, Đào hầu một niềm phản Hán phục Việt, vậy Đào hầu có ghét tôi không ?
    Đào hầu cười ha hả :
    – Không dám ! Nếu tất cả người Hán đều như Lục tiên sinh, dù tôi có hô hào phản Hán phục Việt, cũng không ai nghe theo. Nếu tất cả đều như tiên sinh, thì trên thế gian này làm gì có chiến tranh ?
    Lục Mạnh Tân chỉ Lê Đạo Sinh :
    – Đây là nhạc phụ đại nhân của tôi. Xin Đào hầu rộng dung cho người, cho các sư huynh, sư đệ của tiện phụ rời đảo được không ?
    Đào hầu chắp tay :
    – Đã có lời của Lục tiên sinh, tôi xin kính cẩn tiễn Lục trúc tiên sinh lên đường.
    Đào phu nhân hướng vào Lục Mạnh Tân :
    – Lục tiên sinh ! Tháng dài ngày rộng còn nhiều, vợ chồng chúng tôi kính cẩn xin mời tiên sinh và phu nhân ở lại đảo chơi ít ngày, không biết tiên sinh có nhận không ?
    Đào Kỳ thấy mẹ ngỏ ý mời thầy ở lại đảo, chàng mừng quá, vội tiếp :
    – Thưa thầy ! Giữa Thái hà trang và Đào trang có những tỵ hiềm, thầy là người khiêm khiêm quân tử , nếu thầy ở lại đảo có thể xóa được tỵ hiềm đó. Xin thầy nhận lời cho.
    Điều Đào Kỳ nói, chính là điều Lục tiên sinh đã nghĩ tới. Tiên sinh tiến lên đỡ nhạc phụ dậy.
    – Nhạc phụ đại nhân ! Con nghĩ nhạc phụ nên xóa bỏ hết những tỵ hiềm giữa Thái hà trang và Đào trang. Con là nghĩa tế của nhạc phụ, có bổn phận như con đẻ. Con tình thầy trò với Đào Kỳ, có bổn phận như cha. Nếu Kỳ có điều gì quá đáng, cha hãy coi như đứa cháu ngoại mà đại xá cho. Cha có đứa cháu ngoại văn võ kiêm toàn, còn hơn có kẻ thù nguy hiểm. Xin cha nghĩ lại.
    Lê Đạo Sinh tuyệt không ngờ công lực của Đào Kỳ tiến mau đến trình độ đó. Y ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu :
    – Thôi được ! Cha nghe lời con. Con với Lan Phương muốn ở lại đảo thì tùy con. Cha phải về.
    Lê Đạo Sinh từ từ đứng dậy, phất tay cho đệ tử, rồi hướng vào Đào hầu, xá một xá dài :
    – Đào hầu ! Hậu hội hữu kỳ.
    Phong châu song quái gườm gườm nhìn Đào Kỳ rồi đi theo đồng bọn. Đào hầu, Đinh hầu là những hào kiệt rộng lượng, không để thù hận làm mất vẻ phong nhã. Ông vẫy vợ, con, đệ tử theo tiễn Lê Đạo Sinh ra tận bờ biển. Tường Quy nắm chặt bàn tay Đào Kỳ cùng đi ra. Nàng muốn ở lại đảo, muốn lên tieéng với mẹ, nhưng Lê Đạo Sinh đã vẫy tay nói :
    – Cháu ngoại ! Cháu là con dâu Huyện lệnh Đăng châu, cháu là gái có chồng, phải theo ông về Long-biên, ông sẽ cho người đưa cháu về nhà chồng.
    Tường Quy như bị một tiếng sét ngang đầu. Nàng vội buông tay Đào Kỳ, nước mắt tuôn rơi, rồi bật tiếng khóc, ngước nhìn mẹ.
    Đào Kỳ tiến lên vái Chu Bá :
    – Chu tiên sinh ! Trước khi giao đấu chúng ta đã có ước hẹn, nếu tôi thắng, tiên sinh sẽ ưng cho một điều. Nay xin tiên sinh giữ lời hứa.
    Vợ Chu Bá là Lê Thị Hảo hỏi :
    – Chẳng hay Đào công tử yêu cầu ta điều gì ?
    Bà hỏi Đào Kỳ bằng giọng đầy thiện cảm. Đào Kỳ chỉ Tường Quy :
    – Chu cô nương với cháu... với cháu... Xin Chu phu nhân cho Tường Quy ở lại đảo này được không ?
    Lê Đạo Sinh cười nhạt :
    – Đào công tử ! Chu Bá hứa làm cho ngươi một điều, miễn điều đó không trái với đạo lý. Tường Quy là gái có chồng, vì vậy, nếu chúng ta để nó ở lại đảo với ngươi là trái đạo lý. Chúng ta không thể chấp nhận điều đó được.
    Đào Kỳ liếc nhìn Tường Quy. Hai người thấy như trời đất tối sầm lại. Vũ trụ tuy bao la mà nhỏ bằng hạt đậu.
    Đinh Đại vốn tính cương nghị. Bấy lâu nay cháu bị mất tích, tuy ông không buồn rầu khóc lóc như chị ông, nhưng ông cũng thấy thương nhớ bối rối. Nay, bất thình lình trong cơn nguy nan, Đào Kỳ xuất hiện, dùng võ công đánh thắng đệ nhất cao nhân Lĩnh-Nam. Ông mừng đến chảy nước mắt. Giữa cái mừng đó, ông thấy cháu mình vướng vào nữ sắc khó có lối thoát. Ông là người kinh nghiệm nhiều. Ông biết trên đời này có ba mối tình : Một là tình yêu trai gái, Hai là tình yêu thương nhân luân của cha mẹ với con cái, Ba là tình yêu thương dân tộc, đồng loại. Ông muốn dùng thứ tình yêu sau để chế ngự tình yêu trai gái của cháu. Ông vẫy Đào Kỳ lại gần, ghé tai chàng nói nhỏ mấy câu :
    – Trên đời này nếu không có Tường Quy, cháu cũng không thể chết được.Trên đời này, nếu không có cha mẹ, cháu cũng không đến nỗi không sống được. Nhưng nếu trên đời này, đất Lĩnh-Nam không còn, cha mẹ, cậu mợ cùng cháu còn sống làm chi nữa ? Cháu hãy hy sinh Tường Quy để đổi lấy Lĩnh-Nam có được không ?
    Quả nhiên hùng khí bốc dậy, Đào Kỳ nói :
    – Cậu dạy chí phải. Cha mẹ cháu, cùng cả hai họ Đào, Đinh có thể vì Lĩnh-Nam mà hy sinh.
    Đinh Đại ghé tai chàng thì thẫm mấy câu. Đào Kỳ tươi mặt lên. Chàng đến bên Chu Bá nói :
    – Thưa Chu bá phụ ! Cháu có điều muốn thưa với bá phụ.
    Chàng ngoắc Chu Bá lui ra xa mọi người, rồi khẩn khoản, nói :
    – Chuyện cháu với Tường Quy coi như đã tuyệt vọng. Bây giờ cháu có một yêu cầu đối với bá phụ. Cháu thấy Lục trúc tiên sinh ngày càng đi vào con đường chống Lĩnh-Nam. Vì vậy, điều cháu yêu cầu bá phụ, xin bá phụ hãy tìm cách khuyên Lục trúc tiên sinh trở về với Lĩnh-Nam, hoặc nếu không được xin bá phụ trở về để chúng ta cùng phục hồi đất tổ .
    Chu Bá thấy những điều Đào Ký nhận xét rất đúng, y cảm động, nói khẽ :
    – Ta nhận lời cháu, nhưng cần phải làm cho kín đáo. Nếu lộ ra, tính mạng ta e cũng khó toàn.
    Ông nắm tay Đào Kỳ hồi lâu rồi, rồi trở lại.
    Cả đoàn người xuống mủng rồi từ từ ra khơi. Đào Kỳ nhìn theo cho tới khi bóng Tường Quy khuất trên mặt biển, chàng mới quay trở lại.
    Đào phu nhân biết tâm sự của con, bà nâng mặt Đào Kỳ lên :
    – Con tôi lớn quá rồi. Giống bố hồi trẻ như đúc. Không biết tính tình có giống bố không ?
    Đào Kỳ ôm lấy ngang lưng bà, gục vào lòng bà. Chàng thấy mùi thơm thơm quen thuộc, chàng nói :
    – Mặt thì giống bố, nhưng tính thì một phần giống bố, một phần giống mẹ và một phần giống Khổng Tử, vì con đã được thầy dạy đọc sách Nho giáo.
    Kể từ khi xảy ra vụ đánh phá Đào, Đinh trang đến giờ, lúc nào Đào hầu, Đào phu nhân, Đinh hầu đều buồn rười rượi, vì tổ nghiệp mấy trăm năm bị tan nát, không biết đến bao giờ mới khôi phục lại. Ông bà lại bị lạc mất đứa con út là Đào Kỳ, cùng người đệ tử thứ ba là Thiều Hoa và trên trăm đệ tử, tráng đinh. Ông cho người đi dò tìm, và đã khám phá ra vụ đệ nhị đệ tử Trịnh Quang phản sư môn theo Phong châu song quái. Y ẩn ở Đào trang làm nội ứng, hiện cùng trên trăm đệ tử lưu ngụ ở Hoa-lư. Đệ tam đệ tử Thiều Hoa đã lấy Nghiêm Sơn, còn con út là Đào Kỳ vẫn tuyệt vô âm tín.
    Ông điều tra thấy Nghiêm Sơn là người hiệp nghĩa, có tư cách. Nghiêm Sơn được Đệ tứ thái bảo Nguyễn Tam Trinh đứng ra chủ hôn, do đó ông đã rất yên lòng. Ông được tin Lê Đạo Sinh tuân lệnh Tô Định tổ chức đại hội Tây hồ, mục đích quy tụ các môn phái quy phục Hán đế. Ông biết sức mình phá không được, đành cho Tường Loan về để lột mặt nạ Trịnh Quang và tỏ ý chí không tham dự đại hội cầu phong Trung nguyên. Trong đại hội, Đào Kỳ đã xuất hiện nhưng Tường Loan chưa về tới, nên ông chưa biết kết quả. Giữa lúc đó người Thái hà trang xuất hiện do chính Lê Đạo Sinh cầm đầu các đại đệ tử đến ép ông phải đầu hàng, làm tôi cho người Hán. Đại cuộc sắp lâm nguy, bỗng một thiếu niên xuất hiện, đánh thắng tất cả các cao thủ, thắng luôn Lê Đạo Sinh lại là con út của mình, ông mừng kể sao cho siết ?
    Về đến sảnh đường, Đào Kỳ mới có dịp hỏi đến đại sư huynh và hai anh Nghi Sơn, Biện Sơn, sư đệ Quách Lãng, hai người em con cậu là Đinh Bạch nương và Đinh Tĩnh Nương. Trong bữa tiệc đoàn viên, trước mặt thầy cô, bố mẹ, cậu mợ, Đào Kỳ kể hết những gì chàng gặp từ ngày rời Đào trang. Chàng chủ trương :
    – Đối với cha mẹ, cậu mợ, thầy cô, không cần dấu diếm gì cả. Bởi vì, đối với cha mẹ mà dấu diếm là bất hiếu.
    Về Lục Mạnh Tân, chàng nghĩ :
    – Ông là thầy mình, là con rể Lê Đạo Sinh. Kinh Xuân thu kể lại tích : Một người đứng giữa hai phài tranh giành. Phái thứ nhất tỏ vẻ tin tưởng vào người đó, người đó sẽ ngã theo phái thứ nhất. Vậy mình phải tỏ ra tin tưởng Lục tiên sinh, tiên sinh sẽ ngã theo mình.
    Vì vậy, chàng kể hết, dù là chuyện riêng tư giữa chàng Phương Dung và Tường Quy. Đào hầu nghe con kể, ông không ngờ rằng con mình lại gặp nhiều kỳ duyên đến thế. Ông như trẻ lại đến tuổi, ông nói :
    – Tạ ơn Quốc tổ Hùng vương, An dương vương đã phù hộ cho con gặp được nhiều điều may mắn.
    Ông bà đối với Lục Mạnh Tân cực kỳ cung kính. Ông dành cho vợ chồng Lục một căn nhà đẹp, đằng trước có vườn hoa, có lầu đọc sách. Lục Mạnh Tân là một Nho sĩ khoáng đạt, có chí khí muốn đem đạo Nho đi dạy thiên hạ. Nên những ngày ở đó, ông tổ chức giảng sách hàng ngày cho đệ tử Đinh, Đào gia. Đào hầu không cắt cử tỳ nữ hầu hạ ông bà, mà cử các đệ tử thân tín hầu hạ thầy cho phải đạo. Trong lời nói hằng ngày, ông bớt xỉ mạ người Hán hơn.
    Một buổi tối, ông tụ họp đệ tử Đinh, Đào trang. Vì đây là buổi họp môn phái nên ông không mời Lục Mạnh Tân tham dự. Sau khi lễ tổ Hùng vương, An Dương vương xong, ông nói :
    – Chúng ta đều là đệ tử Cửu-chân, Đào-trang, Đinh-trang được thành lập đã trên 200 năm. Nay bỗng nhiên bị người chiếm mất, đó là sỉ nhục, chúng ta phải chiếm lại. Thứ nhì, ta cho người về dò thám trong chín dòng của Âu-Lạc, tất cả đều gặp khốn khổ vì Ngũ pháp của Hán-đế ban ra. Các Huyện-úy đều là những người Việt, nhưng tàn ác vô cùng. Bây giờ chúng ta nên về chiếm lại trang ấp, hay chỉ hành hiệp trừ ác thôi ? Đó là điều ta muốn thỉnh ý kiến của phu nhân, của Đinh đệ và các đệ tử. Ai có ý kiến gì, cứ tự nhiên phát biểu.
    Đinh Bạch Nương đứng lên :
    – Thưa bác con nghĩ tổ tiên đã gây nghiệp trên 200 năm nay bị người chiếm mất, ta phải chiếm lại là lẽ đương nhiên. Phái Cửu-chân có chín trang, nhưng chỉ có Đào, Đinh trang dám đứng mũi chịu sào phản Hán phục Việt. Nay Đào, Đinh bị đánh tan, như vậy đất Lĩnh-Nam hào kiệt không ai dám đứng lên chống Hán nữa.
    Đại đệ tử của Đinh Đại là Quách Lãng thưa :
    – Thưa sư bá, sư phụ ! Nếu bây giờ chúng ta xuất lĩnh tráng đinh chiếm lại hai trang, dĩ nhiên sẽ đuổi được Phong châu song quái đi. Nhưng Vũ Hỷ là Đô sát Cửu-chân, trong tay nắm một Lữ bộ binh, bốn Lữ kỵ binh. Y có quyền điều động tráng đinh của các trang khác. Vậy liệu Đào, Đinh trang chúng ta có đủ sức thắng lại y không ? Dù thắng được y, nhưng khi kỵ binh của Thái-thú kéo đến, chúng ta sẽ đối phó ra sao ?
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #32
      Hồi 31 - Phượng hề ! Quy cố hương (Tư Mã Tương Như)

      Đinh Đại nói :
      – Chúng ta ẩn ở đảo này đã bảy năm, vừa rồi Lê Đạo-Sinh tuân lệnh đánh đảo bị thất bại, trước sau gì, hải quân Tô Định cũng sẽ đến đây. Trên đảo chúng ta chỉ có 500 đệ tử. Võ công chúng ta tuy cao, địa thế quen, nhưng làm sao địch lại lực lượng Hải-quân của Giao-chỉ ? Dù chúng ta có thắng, lực lượng Lĩnh-nam tất kéo đến. Nhất hổ nan địch quần hồ ! Một đệ tử của ta không thể địch lại trăm tên lính Hán.
      Có tiếng gõ cửa, một đệ tử vào thưa :
      – Thưa sư phụ, có ba hải thuyền rất lớn neo ngoài khơi. Trên thuyền kéo cờ Đào trrang. Xin sư phụ định liệu.
      Đào hầu bảo đại đệ tử :
      – Đức, con ra quan sát và tùy nghi giải quyết.
      Một lát sau, Trần Dương Đức đã trở lại :
      – Thưa sư phụ, sư muội Tường-Loan trở về có dẫn theo nhiều khách quý. Họ muốn yết kiến sư phụ.
      Đinh Đại đứng dậy :
      – Là những ai ?
      Trần Dương-Đức thưa :
      – Trình sư thúc có Thái thượng chưởng môn phái Tản-viên là Khất đại phu Trần Đại-Sinh, đệ nhất Thái-bảo phái Sài-sơn là Nam-hải nữ hiệp Trần-thị Phương-Châu.
      Đào Thế-Kiệt thất kinh, vội bảo đệ tử :
      – Dương-Đức, con hãy đánh trống tập họp đệ tử, chuẩn bị đón quý khách. Ta với sư mẫu, sư thúc phải thân ra bờ biển tiếp rước.
      Tuy Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại là một cặp hào kiệt uy tín nhất Cửu-chân, nhưng vai vế, võ công, đạo đức so với Nam-hải nữ hiệp và Khất đại phu thì còn thua xa. Ông đã nhiều lần cùng sư đệ Đinh Đại và phu nhân ao ước được diện kiến hai vị cao nhân Lĩnh-nam này. Bây giờ nghe họ đến đảo thăm, ông không mừng sao được ?
      Ông vẫy phu nhân, Đinh Đại, Đào Kỳ cùng ra bờ biển. Xa xa, ngoài khơi, tám cái mủng chở người đang bơi vào bờ. Đào Kỳ chỉ cái mủng thứ nhất, giới thiệu với cha mẹ :
      – Vị râu tóc bạc phơ là Khất đại phu Trần tiên sinh, người đã trị bệnh, có thể nói đã dạy dỗ con rất nhiều. Phía sau người là hai nữ đệ tử Trần Năng và Lê Ngọc-Trinh. Chồng của Trần Năng là Hùng Bảo, đệ tử của tam sư tỷ.
      Cái mủng thứ nhì chèo tới Đào Kỳ giới thiệu :
      – Vị trung niên nữ lưu trên mủng là Nam-hải nữ hiệp. Phía sau là học trò của người, gồm Đông-triều nữ hiệp Lê Chân và Đăng-châu nữ hiệp Phùng Vĩnh-Hoa.
      Đào Kỳ chỉ mủng thứ ba, giới thiệu :
      – Thiếu nữ xinh đẹp ngồi giữa là một trong Tản-viên song phượng Trưng Nhị, người ngồi bên cạnh là Đinh Hồng-Thanh, thủ lĩnh 36 động Nam Mê-linh, đệ tử của chú Đào Thế-Hùng, người đứng trên mủng là đệ tứ Thái-bảo phái Sài-sơn Nguyễn Tam-Trinh.
      Đào Kỳ chỉ cái mủng thứ tư giới thiệu :
      – Người râu tóc bạc ngồi giữa là Nguyễn Trát tiên sinh, chưởng môn phái Long-biên, người con gái đứng sau là Phương-Dung, còn hai cô bé ngồi bên là Quế Hoa, Quỳnh Hoa, cháu ngoại Khất đại phu.
      Đào Kỳ giới thiệu đến đây thì mủng đã vào đến bờ. Ông bà Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại chắp tay ân cần chào từng người khách một. Trên mủng thứ năm có Tường-Loan, Đào Hiển -Hiệu, Đào Quý-Minh. Mủng thứ sáu, có Thiều-Hoa, Nghiêm Sơn, cô bé Tử-Vân. Mủng thứ bảy gồm Hùng Bảo, Đàm Ngọc-Nga, Hồ Đề.
      Mọi người bơi mủng từ từ vào bờ. Họ ngạc nhiên khi thấy Đào Kỳ đứng cạnh Đào hầu, giới thiệu từng người một.
      Từ mấy chục năm nay, Đào hầu, Đinh hầu đã nghe danh Khất đại phu. Cả hai đều ước ao có dịp tương kiến vị Thái-sơn bắc-đẩu, lòng đầy nhân nghĩa này. Nay thấy người thân tới hải đảo xa xôi thăm viếng, thì mừng rỡ không biết đâu mà lường.
      Khất đại phu cười vui như một tiên ông :
      – Đào hầu ! Lão phu đi ăn xin khắp nơi, nghe tiếng Đào hầu thương người, có chí phản Hán phục Việt, nên hôm nay thầy trò tới đây xin một bữa ăn.
      Ông chỉ Đào Kỳ :
      – Này bạn nhỏ, sau đại hội Tây-hồ, tự nhiên bạn nhỏ mất tích, mọi người lo lắng vô cùng. Nào có ngờ đâu bạn nhỏ đã trở về đây thăm cha mẹ. Thật là hiếu tử.
      Đào Kỳ mải giới thiệu mọi người với cha mẹ, chợt có ba bàn tay mềm mại nắm lấy tay chàng. Mùi hoa Quế, hoa Quỳnh thoang thoảng. Chàng quay lại thấy Phương Dung, Quế Hoa, Quỳnh Hoa đứng sau. Chàng nhìn Phương Dung lòng xao xuyến.
      – Phương Dung, hôm ở Tây hồ, em tham dự buổi họp ở phủ Thái-thú, anh có việc khẩn cấp anh phải đi ngay, không kịp báo cho ai biết cả.
      Chàng không quen nói dối, nói đến đây, chàng dừng lại. Phương Dung lắc tay chàng :
      – Khi họp ra em được tin chị Vũ Trinh-Thục cho biết : Lê Đạo-Sinh dẫn đệ tử và trên 500 tráng đinh đi trên ba con thuyền hướng ra biển. Chị cũng cho biết con thuyền chở sư tỷ Tường-Loan từ đảo về đã bị người ta chiếm mất, giết chết đò phu. Chị Phùng Vĩnh-Hoa đoán ra Lê tra khảo nhà đò biết được chỗ ở của Đào, Đinh hầu, y tổ chức cuộc tập kích. Cha em vội mời Nam-hải nữ hiệp và Khất đại phu đi cứu trợ hai nhà Đinh, Đào hai nhà. Nghiêm đại ca giận lắm xuất lĩnh hải đội kéo theo. Cha em can rằng : Đào hầu cả đời chỉ phản Hán phục Việt, nay Nghiêm công mang hải quân tới cứu trợ người, e rằng chỉ làm người buồn hơn vui. Nam-hải nữ hiệp bèn hỏi mượn ba chiến thuyền cùng với thủy thủ đoàn, còn chị Lê Chân xuất lĩnh tráng đinh những trang ấp thuộc quyền kéo đến đây, không ngờ... Lê Đạo-Sinh chưa tới.
      Đào Kỳ cảm động :
      – Y tới rồi nhưng bị thua, đã bỏ chạy.
      Đào Kỳ nhìn Quế Hoa, Quỳnh Hoa, hai cô càng lớn trông càng xinh đẹp, chàng nói :
      – Hai em cũng đi cứu viện Đào gia phải không ?
      Quế Hoa mở cái giỏ trong có đầy hoa quả đưa cho Đào Kỳ. Đào Kỳ cảm động, đưa đến trước mặt cha mẹ :
      – Con mời bố mẹ dùng quả tươi.
      Đào phu nhân cầm lấy giỏ trái cây bà dắt tay Quế Hoa, Quỳnh Hoa theo Đào hầu, mời khách vào đại sảnh.
      Các đệ tử đã được giải tán ai về nhà nấy. Chỉ còn một số có nhiệm vụ tiếp khách ở lại mà thôi.
      Phân ngôi chủ khách xong, Trưng Nhị trịnh trọng đứng dậy, nói :
      – Đào hầu, Đinh hầu ! Hôm nay chúng tôi đường đột tới đây trước là để tỏ lòng lân mẫn với chư vị về việc Đào, Đinh trang bị Thái-thú Nhâm Diên đánh phá cách nay bảy năm. Lúc đó Nhâm Diên đang đeo mặt nạ nhân nghĩa, đem văn minh Trung nguyên giáo hóa đất Man-di. Không ngờ y lại thâm độc đến thế. Khi chúng tôi được tin, mọi sự đã trễ. Tin Đào, Đinh trang bị đánh khiến hào kiệt Lĩnh-nam không ai không chau mày. Nếu bảo Đào, Đinh trang bị đánh là một mất mát cho cho hào kiệt Lĩnh-nam, thì cũng nói được rằng sau vụ này lòng hận thù Hán tặc càng tăng lên. Có thể nói các nơi đều sôi sục căm phẫn.
      Nam-hải nữ hiệp tiếp lời :
      – Việc thứ nhì chúng tôi tới đây là vì việc riêng của Đào gia. Đáng lẽ việc này chúng tôi không được phép xen vào. Ngặt vì cách đây bảy năm, lúc bấy giờ không biết Đào hầu ở đâu, chúng tôi đã tự chuyên, thành ra phải tạ lỗi.
      Đào Thế-Kiệt ngạc nhiên :
      – Tất cả mọi việc của Đào trang, nếu được Nam-hải nữ hiệp xử lý cho, tôi e cầu mà cũng không được.
      Nguyễn Tam-Trinh đứng dậy, chỉ vào Đào Kỳ :
      – Cách đây bảy năm, tôi thường làm nghề đưa khách sang sông. Một hôm tôi đưa bạn trẻ này và một cô nương dung nhan tuyệt thế và một quan nhân người Hán vượt sông Hồng. Tôi tấu bất cứ khúc nhạc nào, Đào công tử cũng hiểu hết. Người thực là tri âm của tôi. Tôi nhận ra võ quan người Hán đi cùng Đào công tử võ công cao thâm hơn tôi gấp bội, tôi phải dùng cách đánh đắm thuyền mới mời được y và Đào công tử đến trang Mai-động chơi. Võ quan người Hán bị tôi bắt, không lấy làm tủi nhục, mà còn cho rằng tôi bắt được y bằng phương pháp nào, cũng đều là thắng cả, y chịu thua. Tôi thấy y là người hào kiệt nên đã thả y ra. Tôi những tưởng y sẽ mang quân đến làm cỏ trang Mai-động. Không ngờ, ít hôm sau, y mang trâu đến thế mạng, còn ngồi uống rượu với tôi. Tôi thấy người Hán này thực hào sảng tín nghĩa nên kết bạn với y. Y thú thực cùng vị tiểu cô nương xinh đẹp yêu thương nhau. Tôi mạn phép trộm lệnh Đào hầu đứng ra làm lễ thành hôn cho vị cô nương với y. Vị cô nương đó là đệ tử thứ ba của Đào hầu. Hôm đại hội Hồ Tây, tuy cô nương Tường-Loan có cho biết ý kiến của Đào hầu, nhưng tôi cũng phải tới đây, tạ lỗi với người và phu nhân.
      Đào phu nhân đứng lên nói :
      – Đã là hào kiệt thì Hán cũng thế mà Việt cũng vậy. Tiểu-đồ Thiều-Hoa được đệ tứ Thái-bảo Sài-sơn đứng ra chủ trương cho, thì còn gì hơn nữa ? Vả lại, từ ngày Nghiêm Sơn sang đây tới giờ, tuy thân cầm đại quân trong tay, nhưng lòng hào sảng, hiệp nghĩa có khác gì Lục tiên sinh đâu ? Vợ chồng chúng tôi rất tự hào có người rể như vậy.
      Qua những lời nói của Đào phu nhân, Nghiêm Sơn nhận thấy chàng có trách nhiệm lớn lao. Phải làm sao xứng đáng với lòng tốt của Nguyễn Tam-Trinh và sự tín nhiệm của Đào Thế Kiệt.
      Phương Dung nháy Đào Kỳ, rồi nói với Nghiêm Sơn :
      – Nghiêm đại ca, dường như bên Trung-nguyên, khi kết hôn người ta phải trải qua Lục lễ hay Ngũ lễ, phải không ?
      Nghiêm Sơn gật đầu :
      – Đúng đấy. Trước kia là Lục lễ, sau này chỉ còn Ngũ lễ thôi.
      Trưng Nhị hướng vào Lục Mạnh Tân:
      – Bên Trung-nguyên, hôn lễ cho kẻ sĩ phải đủ Ngũ lễ, thiếu một lễ cũng không được. Tôi ít đọc sách, không rõ Ngũ lễ là những lễ gì ? Thỉnh Lục tiên sinh dạy cho.
      Lục Mạnh-Tân hướng vào Trưng Nhị :
      – Theo sách Lễ-ký chương Sĩ hôn lễ, năm lễ đó là : Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Thính kỳ và Nghinh thân. Nạp thái là lễ đầu tiên nhà trai mang con nhạn đến nhà gái, tỏ ý cầu hôn. Sau đó đến Vấn danh : Nhà trai đem lễ đến nhà gái, hỏi khuê danh cô gài cùng niên canh bát tự.
      Hồ Đề ít đọc sách, ngắt lời Lục Mạnh-Tân :
      – Lục tiên sinh, tôi dốt nát mà tiên sinh cứ nói chữ, làm sao tôi hiểu được ! Niên canh bát tự là gì ?
      Lục Mạnh-Tân hướng vào Hồ Đề :
      – Xin lỗi Hồ thống lĩnh, tôi đã nói vắn tắt quá. Niên canh bát tự là giờ, ngày, tháng và năm sinh.
      Hồ Đề không chịu :
      – Như vậy mới tứ tự, chứ đâu phải bát tự ?
      Lục Mạnh-Tân cười :
      – Trong phép làm lịch của vua Phục Hy, mỗi năm có một tên để gọi. Đó là phương pháp Can, chi, kỷ, niên. Can có 10 can, gọi là Thập can , gồm : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Trong 10 can có 5 can âm và 5 can dương. Năm can âm là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý.
      Đào Kỳ đã được học về phương pháp làm lịch, nên, tiếp :
      – Còn năm can dương là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Thập nhị chi cũng chia làm sáu chi âm và sáu chi dương. Sáu chi âm là : Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi. Sáu chi Dương là Tý, Dần, Thìn, Ngọ Thân và Tuất. Dùng Can, Chi ký niên là ghép một Can với một chi thành một năm. Nguyên tắc là ghép can dương với chi dương, can âm với chi âm. Bởi vậy chúng ta mới có những năm Giáp Tý, Ất Sửu.vv..
      Lục Mạnh Tân thấy học trò đối đáp trôi chảy thì mừng lắm, vội tiếp :
      – Trở lại với Can chi ký niên, như vậy cứ 60 năm, cả can chi sẽ trở lại một lần. Như năm sinh của Trưng Trắc là Giáp Tuất, khi bà 60 tuổi, mới trở lại năm Giáp Tuất. Hồ cô nương hỏi niên canh bát tự, chỉ nguyên tuổi của cô gái đã mất hai chữ. Sau đó dùng can chi để chỉ tháng, ngày, giờ. Cộng lại có phải tám hay không ? Như niên canh bát tự của Trưng Trắc là : Năm Giáp Tuất, tháng Mậu Thìn, ngày Ất Sửu, giờ Canh Thìn. Cộng lại đúng tám chữ .
      Lục tiếp :
      – Sau lễ Vấn danh, tới lễ Nạp cát. Nhà trai mang lễ vật tới chính thức hỏi cô gái làm vợ cho con mình. Qua ít lâu sau là lễ Thỉnh kỳ, nhà trai mang lễ tới nhà gái hỏi ngày cưới. Hai bên thỏa thuận với nhau sẽ ấn định ngày cưới. Lễ cưới là lễ Nghinh Thân vậy.
      Phùng Vĩnh Hoa đứng dậy nói :
      – Cháu có ít lời muốn trình với Đào lão bá, không biết lão bá có cho phép không ?
      Đào Thế Kiệt gật đầu :
      – Đăng châu nữ hiệp Phùng Vĩnh-Hoa nổi tiếng mưu thần, chước thánh, tôi ở hải đảo cũng nghe tiếng. Hồi ở Đăng-châu xá đệ Thế-Hùng và khuyển tử Kỳ được cô nương bày cho nhiều kế lạ. Nay chúng tôi xin kính cẩn nghe lời cô nương.
      Phùng Vĩnh-Hoa bước ra giữa sảnh đường, vòng tay thưa :
      – Đất Lĩnh-nam ta, hiện nay các trang, các động thu lại trong một số nhà mà thôi. Kể một nhà. Thái-hà trang lớn nhất, với năm Huyện úy, mấy chục trang động, thế lực lớn lao vô cùng. Nhưng từ ngày phái Tản-viên thống nhất đến giờ Thái-hà trang lui lại hàng thứ nhì.
      Ngừng một lát nàng tiếp :
      – Phái Cửu-chân thống lĩnh chín gia, mấy trăm trang ấp trước đây thực là rực rỡ. Từ ngày Nhâm Diêm dùng ngụy kế làm cho năm nhà theo chúng, hai nhà trở thành bất lực. Cuối cùng chỉ còn Đào, Đinh. Sau Nhâm Diên đánh Đinh, Đào, vùng Cửu-chân tưởng không còn của Lĩnh-nam nữa. May mắn được tin Đinh, Đào vẫn bảo toàn được lực lượng, tiện nữ kính đề nghị Đinh hầu, Đào hầu trở về đất cũ, chỉnh đốn lại cơ nghiệp tổ tiên. Không biết nhị vị lão bá nghĩ thế nào ?
      Đào Thế Kiệt tưởng các cao nhân đến đảo khuyên ông điều gì, hóa ra họ khuyên ông trở lại đất liền, điều mà ông hằng mơ ước.
      Đào Nghi-Sơn bước ra nói :
      – Đăng châu nữ hiệp dạy mấy lời thực phải. Đinh, Đào hai nhà chúng tôi đang bàn nhau, làm thế nào giữ được nghiệp tổ. Tiếc rằng hai trang Đinh, Đào hiện giờ do Song-quái chiếm mất. Vũ Hỷ giữ chức Đô-sát Cửu-chân. Phùng Chính-Hòa đệ tử thứ năm của Lê Đạo-Sinh lại giữ chức Huyện-úy Ngọc-đường. Nếu Đinh, Đào chúng tôi chiếm lại trang ấp, Vũ Hỷ, Phùng Chính-Hòa sẽ xuất lĩnh tráng đinh các nơi khác cùng lực lượng quân Hán ở Cửu-chân chiếm lại, chúng tôi cô thế, sẽ không địch nổi. Dù chúng tôi thắng được quân ở các nơi khác sẽ kéo đến... thực khó khăn vô cùng.
      Phùng Vĩnh-Hoa cười :
      – Người ta đồn Đào hầu có ba người con trai, nhân nghĩa đạo đức dư là Nghi-Sơn, khoáng đạt, anh hùng là Biện-Sơn, mẫn tiệp đa năng là Đào Kỳ, quả đúng. Nghi-Sơn đại ca, có thực đại ca không tìm ra phương cách chiếm lại Đào, Đinh trang không ?
      Nghi-Sơn nhìn cha, mẹ, cầu hỏi ý, rồi trả lời bằng cái lắc đầu, tỏ vẻ tuyệt vọng.
      Đào Kỳ liếc nhìn Phương Dung, Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa :
      – Chỉ có phương pháp ấy mà thôi.
      Trưng Nhị tủm tỉm cười :
      – Thế thì tiến hành đi chứ !
      Đào Kỳ nhìn Phương-Dung :
      – Chỉ sợ trên đời này không có một Tần Mục-công thứ nhì.
      Phương-Dung liếc nhìn Nghiêm Sơn :
      – Tần Mục-công thứ nhì khó kiếm, nhưng gái Lĩnh-Nam bổ xa gái Tấn.
      Nguyên những người ngồi đây thì Trưng Nhị, Vĩnh- Hoa, Phương-Dung, Đào Kỳ là những người đọc sách nhiều, họ dùng điển cố nói chuyện với nhau hầu giới hạn người biết chuyện. Điển cố mà họ nói, chép trong Tả-truyện nói về phu nhân của Tần Mục-công, đem củi chất đống, rồi cùng các con lên dàn để đòi Tần Mục-công tha cho Thế-tử nước Tấn. Tần Mục-công vì thương vợ con, đành nhượng bộ.
      Ý Phùng Vĩnh-Hoa định nói với Nghi Sơn là: muốn chiếm lại Đinh, Đào trang mà không sợ bộ quân Hán can thiệp, phải dùng Thiều-Hoa ép Nghiêm Sơn. Thành ra những người ngồi đó chỉ có Trưng Nhị, Phương-Dung, Đào Kỳ hiểu được mà thôi. Lục Mạnh-Tân tuy đọc sách nhiều nhưng không biết chuyện Thiều-Hoa, Nghiêm Sơn, nên ông không đoán ra sự việc thế nào.
      Đào Kỳ nhìn Phùng Vĩnh-Hoa :
      – Sư tỷ, mọi việc nhờ sư tỷ định liệu cho.
      Vĩnh-Hoa hiểu ý Đào Kỳ muốn nhờ mình bày mưu. Nàng nói :
      – Sơ bất gián thân, tôi là người ngoài.
      Đào Kỳ thấy không đừng được, chàng nghĩ :
      – Mình tuy lớn rồi, nhưng vẫn còn sử dụng cái tình Tiểu sư đệ được.
      Chàng chạy lại bên Thiều-Hoa, ôm lấy lưng nàng :
      – Bố ơi ! Những lúc xa bố, xa mẹ, con khổ không biết bao nhiêu mà kể, nào nhớ nhung, nào buồn phiền... cũng may có sư tỷ ở bên, thành ra con mới chịu nổi. Còn lúc nào sư tỷ cũng nghĩ mình là Mỵ-Châu, con khuyên mà sư tỷ không yên dạ. Con nói sư tỷ chẳng phải là Mỵ-Châu, Nghiêm đại ca không phải là Trọng-Thủy. Thế mà sư tỷ không nghe. Bây giờ trước mặt các vị đạo cao, đức trọng, con muốn bố mẹ làm lễ cưới lại cho sư tỷ.
      Chàng đứng sau Nghiêm Sơn,Thiều-Hoa mà nói, rồi chàng nháy cha mẹ gật đầu. Đào Thế Kiệt thấy con trai đối đáp với Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa bằng những lời lẽ cao xa, biết ngay chàng đã có ý gì, ông gật đầu đáp :
      – Con nói vậy cũng phải, Nghiêm Sơn là kẻ sĩ trong thiên hạ, lại là người Hán, phải làm lễ cưới theo nghi lễ Trung-nguyên.
      Nguyễn Tam-Trinh cười :
      – Tôi với Nghiêm công đánh nhau rồi kết bạn, vậy tôi xin làm mai đàng trai.
      Nguyễn Trát cười :
      – Thôi thì tôi làm mai đàng gái.
      Phương-Dung cười ngất :
      – Nghiêm đại ca, dẫn lễ thì phải dẫn lớn đó nghe, vì Hoàng sư tỷ là người đẹp nhất, nhu mì nhất Lĩnh-nam. Đại ca định dẫn lễ gì bây giờ ?
      Nghiêm Sơn luống cuống :
      – Tôi tối tăm lắm, chịu không biết dẫn gì ? Phùng cô nương, cô nương giúp tôi đi, nguyện không bao giờ quên ơn.
      Phùng Vĩnh-Hoa nghiêm nét mặt :
      – Cầm quân đánh Đinh, Đào trang là đại ca. Không thù, không oán lại còn làm vợ đại ca là Hoàng sư tỷ. Như vậy đại ca phải chuộc lỗi trước đi đã.
      Nghiêm Sơn khảng khái :
      – Trong đời Nghiêm này có mối hận nhất là bị mắc mưu Nhâm Diên đánh Đinh, Đào trang. Bây giờ Phùng cô nương bảo tôi phải làm gì để tạ lỗi xưa ?
      Vĩnh-Hoa gật đầu :
      – Cũng dễ thôi, đại ca nhắm mắt cho Đào, Đinh hầu chiếm lại trang. Cấm các nơi khác không được mang binh viện trợ Vũ Hỷ và Phùng Chính-Hòa, thế là êm, có gì khó đâu ?
      Nghiêm Sơn ngẩn người ra vì đề nghị của Vĩnh-Hoa. Hiện giờ thế lực chàng bao trùm Lĩnh-nam. Từ Thái-thú, Đô-sát, Đô-úy cho đến các Huyện-lệnh, Huyện-úy đều do chàng bổ nhiệm. Chỉ duy có Tô Định là người của Mã thái hậu chàng không muốn đụng vào. Tô Định bao che cho Lê Đạo-Sinh, Vũ Hỷ, Phùng Chính-Hòa, nhưng chúng không có tội gì, nếu đem chúng ra chặt đầu, e kỷ cương Lĩnh-nam không còn nữa.
      Chàng là Lĩnh nam công, binh quyền trong tay, chàng có cả nghìn cách để cách chức hai người, hoặc nếu cần vẫn có thể dùng quân pháp chặt đầu chúng. Khổ một nỗi, điều khó nhất là, bây giờ thay thế chúng rồi để Đinh, Đào là hai nhà chủ trương phản Hán phục Việt trở lại, chỉ cần một bản mật tấu về Lạc-dương là nguy cho chàng ngay. Trong lòng chàng rối như tơ vò. Trọn đời chàng chưa bao giờ gặp phải vấn đề khó khăn như thế này. Còn nếu không đưa Đinh, Đào về đất cũ, thì suốt đời chàng phải mang một mối ân hận. Ngược lại, đề nghị của Phùng Vĩnh-Hoa rất hợp lý.
      Trong phòng mọi người đều im lặng, mọi người đều đổ dồn mắt về phía Nghiêm Sơn.
      Chàng đưa mắt nhìn vợ. Khuôn mặt thanh tú, đôi mắt dịu hiền, tấm thân thon thon, tròn tuyệt thế, không có hai. Kỷ niệm ban đầu, chàng gặp Thiều-Hoa trong trận đánh cảng Bắc. Đào Kỳ lấy bông hoa bằng vàng trên tóc Thiều-Hoa tặng chàng. Bông hoa đó chàng vẫn cài trên áo.
      Thiều-Hoa ngẩng mặt lên, nhìn chàng bằng con mắt sâu thẳm.
      Chàng quyết định :
      – Ta có thể hy sinh bản thân đổi lấy nguồn vui cho Thiều-Hoa, ta cũng làm. Vậy ta cứ chấp thuận đề nghị của Vĩnh-Hoa. Bất quá ta mất chức Lĩnh-nam công là cùng chứ gì ?
      Chàng nhìn Thiều-Hoa mỉm cười, bước ra, nói :
      – Đăng châu nữ hiệp, tôi xin có lời cảm ơn nữ hiệp giúp tôi có ý kiến đó. Suốt bảy năm trời nay, tôi với phu nhân sống bên nhau tình nghĩa mặn nồng không kể sao cho xiết. Nhưng lúc nào trong mắt phu nhân cũng có điều buồn tủi, nghĩ mình là Mỵ-Châu. Tôi nghĩ, có phải chết đến mấy lần để đổi lấy niềm vui cho phu nhân, tôi cũng bằng lòng huống hồ việc nữ hiệp đề nghị.
      Mọi người không ngờ Nghiêm Sơn lại đa tình đến như thế, khẳng khái đến trình độ đó.
      Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu :
      – Tứ sư thúc quả có con mắt tinh đời, người kết bạn với Nghiêm đại ca thật không uổng. Này Nghiêm đại ca! Đại ca quyết định việc đó, một là vì hối hận mà ra, Khổng Tử nói : Hữu quá tắc cải làm việc gì sai, phải sửa. Hai là vì tình nghĩa với Hoàng sư tỷ. Ba là vì đạo nghĩa võ học. Nhưng này Nghiêm đại ca, đại ca đang có hiềm khích với Tô Định, nay người đồng ý cho Đinh hầu, Đào hầu chiếm lại trang ấp, dựng lại uy thế phái Cửu-chân, mà phái Cửu-chân chủ trương phản Hán phục Việt, có thể Tô Định sẽ mật tấu về gây khó khăn cho đại ca. Chắc đại ca nghĩ : Dù ta có mất chức Lĩnh-nam công, nhưng được phu nhân, rong ruổi tiêu dao sơn thủy, là điều ta cầu mà không được. Có phải thế không ?
      Nghiêm Sơn nhìn Vĩnh-Hoa với con mắt thán phục :
      – Đăng châu nữ hiệp đã nhìn thấu tâm can tôi. Đúng ! Tôi đã nghĩ như thế.
      Trưng Nhị nháy Vĩnh-Hoa, Phương-Dung, rồi tiếp :
      – Phàm con thỏ đào hang phải có hai cửa. Người ta chặn lưới cửa này, còn cửa khác mà chạy. Nghiêm đại ca quyết định như thế tỏ ra là đấng anh hùng. Nhưng nếu đại ca bị mất chức, Tô Định đem quân đánh Đào, Đinh trang thì sao ?
      Phương-Dung nhìn Vĩnh-Hoa, mỉm cười :
      – Dễ lắm, nếu muốn Tô Định không hại được Nghiêm đại ca, chỉ có một cách là Đào lão bá chấp thuận tặng Đào sư tỷ món của hồi môn. Thưa lão bá đất Lĩnh-nam mình có lệ, con gái lấy chồng, cha mẹ sẽ cho mang theo món của hồi môn. Vậy, lão bá chẳng hẹp hòi gì mà không cho Hoàng sư tỷ .
      Đào Thế-Kiệt bị cô lập ở đảo mấy năm, lòng uất hận không nguôi. Nay, bỗng dưng con trai út trở về với võ công, kiến thức, thâm sâu không lường, kéo theo bao nhiêu bạn hữu cùng lứa tuổi. Họ bàn luận cao xa. Trước kia ông cho rằng mình cô đơn, không có người đồng tâm nhất trí phản Hán phục Việt. Giờ đây trước mắt ông, mấy chục người lòng dạ cùng như nhau. Khi ông nghe Phương-Dung đề nghị món của hồi môn, ông vui vẻ nói :
      – Được rồi, ta nghe cháu. Cháu đề nghị gì ta cũng nghe, miễn đề nghị đó không hại đến việc phản Hán phục Việt.
      Phương-Dung chắp tay vái Thế-Kiệt :
      – Hàn Tín xưa kia anh hùng là thế, lúc chưa gặp thời đã phải lòn trôn tên bán thịt. Hậu thế không ai chê Hàn Tín. Vậy, muốn Tô Định không hại Nghiêm đại ca, cùng bảo vệ Đào, Đinh trang, cháu xin lão bá cho đại ca Nghi-Sơn, nhị ca Biện Sơn giữ một chức võ quan nào đó. Tô Định đâu còn có gì hại Nghiêm đại ca được nữa ? Quyết định của lão bá là... món hồi môn đó. Xin lão bá ban cho một lời.
      Đào Thế-Kiệt tỉnh ngộ:
      – Tôi có ba người con trai. Nhỏ nhất là Kỳ, quý vị đều đã biết. Con lớn là Nghi-Sơn, con thứ là Biện-Sơn. Kể về văn võ chúng cũng không đến nỗi nào. Tôi quyết định cho chúng đi theo muội phu là Nghiêm Sơn.
      Ông quay lại nói với hai con :
      – Chú con, hiện là Huyện-úy Đăng-châu mà có ai cười chê đâu ? Vậy bố gửi hai con cho Nghiêm Sơn, ra làm quan, giúp dân hơn là theo chí của bố. Hôm qua, Lục-Trúc tiên sinh muốn các con ra làm việc với phủ Đô-sát Cửu-chân, bố từ chối mà xảy ra động võ. Hôm nay, bố bằng lòng cho hai con đi theo Nghiêm Sơn.
      Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, Phương-Dung, Đào Kỳ nhìn nhau gật đầu, tỏ vẻ hiểu ý Đào hầu. Chỉ duy có Nguyễn Trát, Đinh Đại và Đào phu nhân là có vẻ ngơ ngác, không hiểu.
      Nguyên khi vừa tới đảo, người con lớn của Đào Thế-Hùng là Đào Hiển-Hiệu đã đưa cho Đào Thế-Kiệt một phong thư của bố. Đào Thế-Kiệt được thư thì mừng lắm. Trong thư Thế-Hùng cho biết, hiện giờ đã làm Huyện-úy Đăng-châu, hơn nữa đã nắm chặt được Huyện-lệnh và quân đội trong tay ; khi hữu sự, đạo quân Đăng-châu sẽ đánh từ phía sau lên Luy-lâu. Trang Hiển-minh của Thế-Hùng hiện là nơi chứa chấp những người bị Hán truy lùng. Thư cũng kể vụ Đào Kỳ lập được trang ấp, gồm toàn những lao binh được cứu thoát. Cộng lực lượng Văn-lang, Âu-lạc, Hiển minh cũng tới cả vạn quân. Sau này sẽ là lực lượng chính đánh vào hông Luy-lâu. Thế Hùng khuyên anh nên lợi dụng Nghiêm Sơn, cho con ra làm quan với người Hán, nhất là quan võ để nắm binh quyền trong tay. Khi hữu sự thì nhất cử thành danh. Chính vì vậy, Thế-Kiệt đã đổi thái độ. Ông tự nghĩ :
      – Bây giờ cho các con ra làm quan với người Hán, sẽ dễ dàng cho Nghiêm Sơn đuổi Vũ Hỷ. Ông sẽ chiếm lại trang ấp. Rồi từ đó khống chế các trang của Cửu-chân. Khi khởi binh sẽ thuận lợi cho đại cuộc hơn.
      Đào hầu mời ân cần mọi người nhập tiệc. Trong tiệc Đào phu nhân ngồi bên Trưng Nhị. Bà vốn hâm mộ Trưng Nhị từ lâu, nay mới được gặp, không chuyện gì không hợp. Nhân tiện Trưng Nhị đem chuyện Đào Kỳ, Phương-Dung ra thuật lại một lượt. Đào phu nhân ngẩm nghĩ :
      – So về nhan sắc, Phương-Dung đẹp ngang với Thiều-Hoa. Nàng lại thông minh, võ công tuyệt cao, con nhà danh gia, hơn hẳn Tường-Quy nhiều. Trước mắt bà, Tường-Quy là một đứa con gái hư danh thất tiết, có chồng còn đi với trai. Hơn nữa, chồng là một tên Hán ngu muội, yếu đuối, muôn ngàn lần bà không thể Đào Kỳ đi vào cạm bẫy nữa. Bà ngoắc Đào hầu vào hậu đường bàn luận. Hai người đồng ý phải cưới vợ cho Đào Kỳ ngay, dùng Phương-Dung cột chân con trai lại.
      Một lúc sau, ông đứng lên nói :
      – Tôi và phu nhân xin đa tạ Mai-động hầu, Cối-giang hầu làm mai mối cho nữ đồ Thiều-Hoa kết hôn với Nghiêm Sơn. Bây giờ tôi mạo muội nhờ Khất đại phu và Nam-hải nữ hiệp đứng chủ cho một cuộc hôn nhân khác.
      Nam-hải nữ hiệp đã đoán được chín phần, nên cười :
      – Chà ! Tôi xin làm mai nhà gái. Cô dâu kiếm thuật thần thông đệ nhất thiên hạ, tôi cũng cảm thấy hãnh diện.
      Bà nói câu này mọi người đều hướng mắt về phía Phương-Dung. Phương-Dung tuy thông minh võ công cao, nhưng dù sao cũng vẫn là một cô gái, nàng thẹn thùng, đỏ mặt cúi xuống.
      Khất đại phu cũng đoán ra :
      – Lão già này suốt đời đi ăn mày, nay tự nhiên được làm ông mai cho một người bạn trẻ thì sướng thật. Đào tiểu hữu, ngươi đứng lên đi.
      Đào Kỳ chưa kịp đứng dậy, Khất đại phu đã đến nhấc chàng lên kéo lại trước Nguyển Trát, nói :
      – Lão ăn mày không biết văn vẻ, chỉ biết một điều : Đào hầu nhờ mỗ đứng hỏi cô gái ngàn vàng của Nguyễn tiên sinh cho người bạn trẻ của mỗ, không biết Cối-giang hầu có nhận không ?
      Nguyễn Trát đứng dậy :
      – Trước đây tôi gặp cháu Kỳ trong lúc đang đấu với vệ sĩ của Tô Định, xin bỏ Ngũ-lệnh cho dân đất Cổ-đại. Từ ngày đó, cháu về ở Cối-giang với tôi, là bạn với Phương-Dung. Có ngờ đâu cháu lại là người của Thái sư phụ tôi, được Thái sư phụ ủy nhiệm đem kiếm pháp Long-biên dạy lại cho Phương-Dung. Âu đó là lòng trời. Hôm nay được Đào hầu và phu nhân đoái tưởng, tôi kính cẩn tuân lời.
      Khất đại phu đẩy Đào Kỳ quỳ xuống :
      – Này, chàng rể kêu ba tiếng nhạc phụ đại nhân đi.
      Đào Kỳ lạy đủ bốn lạy. Nam-hải nữ hiệp dắt Đào Kỳ, Phương-Dung đến trước mặt Đào hầu và phu nhân :
      – Hai con quỳ xuống tạ ơn cha mẹ đi.
      Đào Kỳ, Phương-Dung lạy cha mẹ đủ bốn lạy. Đào phu nhân tháo chuỗi ngọc trai năm vòng trên cổ đeo vào cho Phương-Dung :
      – Cha mẹ có người con dâu thế này, không biết phúc đức kết từ đời nào.
      Bà chưa dứt lời, chợt có đệ tử vào báo :
      – Thưa sư phụ ngoài khơi có sáu chiến thuyền kéo cờ Hán, vây đảo vào giữa. Dường như họ định thả mủng, tiến vào đánh chúng ta.
      Tiếng y nói nhỏ, nhưng mọi người đều nghe thấy hết. Đinh Đại đứng lên vẫy Trần Dương-Đức :
      – Ngươi đánh trống cho dàn đệ tử, phòng thủ đảo như thường.
      Dương-Đức vội vã ra đi. Tiếng trống ngũ liên báo động đánh liên hồi. Trai tráng trên đảo tập trung người nào vào đội nấy, tiến ra các vị trí phòng thủ. Trần Dương-Đức lên đài chỉ huy phất cờ ban lệnh.
      Chủ khách đều trầm trồ :
      – Người ta nói Đào hầu giỏi dùng binh quả không sai. Hèn chi năm xưa chỉ với 500 tráng đinh, ông đã chống lại hơn 10 ngàn thiết kỵ Hán trong trận đánh cảng Bắc. Đã vậy còn cướp được thuyền tẩu thoát mất dạng. Bây giờ cứ coi tình hình này thì đủ biết.
      Đào Thế Kiệt cùng mọi người ra ngoài quan sát. Quả thực sáu chiến thuyền đã vây chung quanh đảo. Trên chiến thuyền đều kéo hiệu kỳ đỏ của Hán. Cơ chừng này, ít ra cũng gần hai ngàn quân. Mọi người đưa mắt nhìn Nghiêm Sơn, chờ chàng phản ứng. Dù sao chàng cũng là người cẫm quân trên toàn đất Lĩnh-nam.
      Hồ Đề vốn người bộc trực, ít đọc sách, quay lại hỏi Nghiêm Sơn :
      – Nghiêm đại ca toàn thể quân sĩ vùng Lĩnh-nam do đại ca thống lĩnh phải không ? Nếu không có lệnh đại ca, liệu họ có dám xuất quân bao vây đảo không ? Trước khi rời Long-biên chúng tôi có mượn của đại ca ba chiến thuyền và thủy thủ, chứ không mượn Hải-quân. Chúng tôi nghĩ , dù sao đại ca với Hoàng sư tỷ cùng đi với chúng tôi, dù thủy thủ có trở mặt cũng không đáng sợ.
      Trưng Nhị vỗ khẽ lẽn vai Hồ Đề :
      – Em lầm rồi. Nghiêm công tuy cầm quân, nhưng các huyện đều có quân đội riêng, các huyện ven biển đều có hải quân trực thuộc. Huyện-úy, Huyện-lệnh đều có thể cho xuất phát thủy đội. Nghiêm công và phu nhân đi với chúng ta, dại gì người sử dụng quân đội tập kích ? Chẳng hóa ra người muốn tự tử ư ?
      Hồ Đề tỉnh ngộ nghĩ :
      – Ừ nhỉ, nếu Nghiêm muốn hại mình thì thiếu gì cách ? Nội trong bọn mình đây, chỉ cần một cao thủ ra tay, y đã bị mất mạng.
      Ngoài khơi sáu chiến thuyền Hán bao vây hải đảo, dường như họ đã nhìn thấy ba chiến thuyền của Nghiêm Sơn. Một chiến thuyền chạy lại gần, một số người trên khoang, hướng sang hỏi han gì đó, nhưng vì ở xa, nên không hiểu họ nói với nhau điều gì.
      Nghiêm Sơn quay lại nhìn viên võ theo hầu hất hàm ra hiệu. Viên võ quan lấy trong túi ra, một mũi tên, châm lửa đốt, rồi hướng ra khơi, bắn lên trời. Đào Kỳ nhận ra mũi tên lửa màu tím, trước đây chàng đã thấy Nghiêm sử dụng trong việc báo tin với Phong châu song quái ở Hoa-lư.
      Lập tức chiến thuyền ngoài khơi hạ cờ Đào trang xuống, kéo lên là cờ Hán cực lớn, trên có chữ Bình nam đại tướng quân, Lĩnh nam công.
      Tiếp theo ba cái mủng nhỏ bơi vào bờ, trên có sĩ quan chỉ huy ba chiến thuyền tháp tùng Nghiêm Sơn.
      Mủng vào bờ, viên thuyền trưởng đến trước mặt Nghiêm Sơn, khoanh tay hành lễ :
      – Thưa Quốc công, có chiến thuyền đến neo ngoài khơi. Tiểu nhân ra hỏi, họ nói thuộc hải đội Ngọc-đường. Họ nhận lệnh Huyện-úy tới bao vây đảo, bắt bọn phỉ đồ chiếm cứ đã lâu.
      Phùng Vĩnh-Hoa biết Huyện úy Ngọc-đường là Phùng Chính-Hòa, đệ tử thứ năm của Lê Đạo-Sinh. Nàng muốn gây chia rẽ giữa Lê và Nghiêm, nên đến trước mặt Nghiêm cười :
      – Nghiêm đại ca ! Đại ca là Bình-nam đại tướng quân chỉ có tên cho oai thôi, chứ còn thực quyền do các Huyện-úy thống lĩnh phải không ? Nếu không sao đại ca ở đây mà hải đội Ngọc-đường bảo tiểu trừ phỉ tặc ? Đại ca là phỉ tặc hay sao ?
      Nghiêm Sơn vốn ít nói, bản chất lại là người chính nhân quân tử, chàng không hiểu rõ thâm ý của Vĩnh-Hoa, nên nổi giận, móc lệnh bài bảo viên thuyền trưởng :
      – Ngươi đưa lệnh bài ra, triệu tất cả sáu viên thuyền trưởng kia vào đây, triệu luôn cả viên chỉ huy hải đội Ngọc-đường nữa.
      Mọi người thất vậy mới yên tâm. Nghiêm Sơn bảo Thiều-Hoa :
      – Dầu sao hôm nay cũng là ngày cưới chính thức của chúng ta. Anh quyết không để bất cứ ai trên đảo nghi ngờ. Dù thế nào chăng nữa, hải đội Ngọc-đường tới đây, anh cũng là người có trách nhiệm.
      Đào hầu thấy mọi chuyện tạm yên, vội mời khách vào sảnh đường tiếp tục tiệc rượu. Trần Dương-Đức vẫn ở lại trên đài chỉ huy và dưới đài các đệ tử vẫn túc trực đề phong biến cố.
      Một lát, viên chỉ huy hải đội Ngọc-đường cùng sáu thuyền trưởng vào tới nơi. Chúng hành lễ theo quân cách với Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn tuy là người võ lâm, nhưng chàng trị quân cực kỳ nghiêm, thuộc cấp đều rất kính trọng.
      Chàng lên tiếng hỏi :
      – Ngươi báo tên họ đi ?
      – Tiểu nhân họ Phùng tên Doãn.
      – Ngươi giữ chức vụ gì ?
      – Thưa Hải đội trưởng.
      – Như vậy sáu chiến thuyền do ngươi chỉ huy ?
      – Huyện-úy xin lệnh với Đô-úy Cửu-chân được quyền điều động Hải-đội Ngọc-đường ra đảo tiểu trừ phỉ tặc. Huyện lệnh nói với tiểu nhân rằng đảo này trước đây bỏ hoang. Trong bảy năm qua đã bị bọn phỉ tặc không hơn ngàn người chiếm lĩnh, nên cần mang quân tiễu trừ.
      – Trên sáu chiến thuyền có bao nhiêu binh mã, ai là người chỉ huy ?
      – Không có binh mã Hán, toàn tráng đinh, binh mã Việt do Huyện-úy điều động. Huyện-úy xin tiểu nhân chở quân cho y, chứ không có quân Hán xuất trận. Tất cả khoảng hai ngàn người, do Huyện-úy Phùng Chính-Hòa đích thân chỉ huy.
      – Ngươi có lệnh của Đô-úy Cửu-chân không ?
      Phùng Doãn luống cuống một lúc rồi nói :
      – Huyện-úy nói rằng đã xin lệnh miệng với Đô-úy, bảo tiểu nhân cứ tuân theo lệnh của Huyện-úy là được, vì đảo này nằm ngoài khơi Ngọc-đường thuộc quản hạt của Huyện-úy.
      Nghiêm Sơn nghiêm nét mặt :
      – Đảo này ta đã kinh lược mấy ngày hôm nay. Ta đã có mặt ở đây, mọi chuyện sẽ do ta xếp đặt. Ngươi trở ra tập trung hải đội thành hàng chữ nhất, chờ lệnh ta. Nhất thiết mọi việc nhổ neo, trở về, phải do lệnh của ta.
      Ông lấy giấy bút viết công lệnh, cho vào bao thơ, dán lại, đưa cho Phùng Doãn và dặn y :
      – Đây là thủ lệnh của ta. Ngươi ra mời Huyện-úy vào gặp ta. Nếu y tuân thì thôi. Nếu y không tuân ngươi cho hải đội đánh đắm thuyền, bơi vào bờ. Thi hành xong sẽ được trọng thưởng.
      Phùng Doãn cúi đầu nhận lệnh rồi đi ra.
      Phùng Vĩnh Hoa hỏi Đào Thế Kiệt :
      – Đào hầu, trên đảo hiện có bao nhiêu đệ tử, tráng đinh có thể chiến đấu được ?
      Từ lúc phái đoàn khách đến đảo, Đào Thế Kiệt đã được Đào Kỳ cho biết Phùng Vĩnh-Hoa là đệ tử của Đệ-tam Thái-bảo Sài-sơn, Tiên-yên nữ hiệp Trần-thị Phương-Chi. Vĩnh-Hoa cực kỳ thông minh. Bách-gia, Chu-tử, Tam-giáo, Cửu-lưu, binh pháp thảy đều tinh thông. Nàng lại là người nhiều mưu kế vô cùng. Ông xuất thân văn võ kiêm toàn, biết dùng binh nên rất có thiện cảm với Vĩnh-Hoa.
      – Tráng đinh, đệ tử ước khoảng 500. Khi cần thiết có thể sử dụng thêm 560 phụ nữ. Tất cả đều được tổ chức thành cơ, đội, thạo thủy chiến lẫn bộ chiến.
      Trưng Nhị nhìn Vĩnh-Hoa gật đầu tỏ vẻ hiểu ý nàng. Vĩnh-Hoa nhìn Phương-Dung, cũng thấy nàng gật đầu hướng vào Đào Kỳ. Đào Kỳ hỏi cha :
      – Chúng con cần khoảng hai ngàn sợi dây trói giặc, liệu bố có đủ không ?
      Đào hầu thấy Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, Phương-Dung, Đào Kỳ gần như có ý nghĩ giống nhau. Họ chỉ nhìn nhau đã hiểu ý. Họ nói với nhau những lời mà ông không hiểu hết. Ông mừng trong lòng :
      – Ta đã gần 50 tuổi rồi, hậu sinh toàn những người như thế này, việc khôi phục đất Lĩnh-nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Biết ta có còn sống đến ngày đó để nhìn đất nước sạch bóng quân thù không ?
      Ông quay sang hỏi con trưởng :
      – Nghi-Sơn có đủ dây không ?
      Nghi-Sơn gật đầu :
      – Thưa cha, đủ.
      Nghiêm Sơn nhìn Phùng Vĩnh-Hoa :
      – Phùng cô nương ! Cô hiểu hết rồi ư ?
      Vĩnh-Hoa cười :
      – Đâu phải mình tôi ? Ở đây ít nhất có thêm ba người nữa hiểu ý đại ca. Vì vậy tôi phải chuẩn bị giúp đại ca đó mà.
      Lê Chân hỏi Trưng Nhị :
      –Thế là thế nào ?
      Trưng Nhị giảng :
      – Lê Đạo-Sinh định diệt Đào, Đinh gia, bị Đào tam đệ đánh cho hút bỏ mạng. Y về bàn với đệ tử là Phùng Chính-Hòa xin lệnh Đô-úy Cửu-chân mang bản bộ binh mã huyện Ngọc-đường cùng với tráng đinh của Lê Đạo-Sinh tiểu trừ đảo. Dĩ nhiên Đô-úy đồng ý. Đô-úy ra lệnh cho Hải-đội Ngọc-đường giúp chở quân. Không ngờ y đến đây gặp ba chiến thuyền của Nghiêm đại ca. Đúng là ăn trộm bị bắt. Nghiêm đại ca ra lệnh cho hải đội Ngọc-đường vào, ra lệnh cho y tập trung chiến thuyền, gọi Phùng Chính-Hòa vào, trói y lại, chặt đầu vì tội lạm dụng binh quyền.
      Lê Chân gật đầu :
      – Em hiểu rồi. Nghiêm đại ca viết mật lệnh cho Phùng Doãn, trường hợp Phùng Chính-Hòa trở mặt, lập tức cho thủy quân đánh đắm thuyền bơi vào bờ. Chúng ta chỉ việc ra bắt trói đám trang đinh của Phùng Chính-Hòa không khó khăn gì lắm. Hèn chi, Đào tam đệ hỏi Đào hầu có đủ dây trói không ?
      Trưng Nhị nhìn Phương Dung :
      – "Phàm dụng binh chi đạo, toàn quân vi thượng, phá quân thứ chi."
      Phương Dung gật đầu :
      – "Tâm chến vi thượng, binh chiến vi hạ."
      Hồ Đề vốn ít học, vội hỏi Vĩnh-Hoa ý nghĩa của câu đối đáp giữa Trưng Nhị và Phương-Dung. Vĩnh-Hoa giảng :
      – Chị Trưng muốn nói với Phương-Dung, cách dụng binh hay nhất là phải giữ cho binh đội toàn vẹn, để binh đội tan nát là hạ sách. Phương Dung đáp lại bằng ý kiến cao hơn : Trường hợp này chỉ nên dùng tâm chiến, không nên dùng binh chiến. Dùng tâm chiến là làm sao thuyết phục cho đám tráng đinh Ngọc-đường bỏ Phùng Chính-Hòa.
      Khất đại phu hướng vào Đào Thế-Kiệt :
      – Đào hầu ! Việc nước là việc chung. Ở đây Đào hầu, Đinh hầu biết dùng binh, nhưng còn Nghiêm Sơn, Phùng Vĩnh-Hoa, Phương-Dung, Trưng Nhị, Đào tam đệ cũng đều giỏi dùng binh. Vạn nhất xảy ra cuộc chiến Đào hầu định sau đây ?
      Thế-Kiệt hiểu ý Khất đại phu định nói, quân tại đây là của ông, nhưng ông không có tài điều quân bằng mấy người kia, vậy ông có trao quyền cho họ hay không ? Ông là người khoáng đạt, tự thấy những người mới đến đây đều là tinh hoa của Lĩnh-nam. Ông trả lời :
      – Tráng đinh, đệ tử đều đã thành đội ngũ, nếu xảy ra trận chiến, tôi xin nhường quyền chỉ huy lại cho các vị.
      Nam-hải nữ hiệp khẩn khoản nói với Đào-hầu:
      – Người ta bảo Đào hầu có chí khí của một đại anh hùng quả không ngoa. Ở đây nhiều người cò tài dùng binh. Tài của Vĩnh-Hoa là bày mưu thiết kế. Tài của Trưng Nhị là xét người, xét tình hình. Nghiêm công có tài vương bá. Phương-Dung có tài ước tính tình hình lẫn điều quân, e rằng không thua Hàn Tín thuở xưa đâu.
      Mọi người cũng đều nhận thấy thế. Đào phu nhân mặt tươi hẳn lên khi thấy cô con dâu người đẹp như tiên nga, kiếm pháp thần thông lại có tài nguyên súy, bà bảo Nghi-Sơn :
      – Nghi-Sơn, con hãy đem tình hình trình bày cho Phương-Dung nghe.
      Phương-Dung biết không từ chối được, nàng đến gần bên Nghi-Sơn nghe tường trình tình hình trên đảo. Nàng chăm chú lắng tay ghi nhớ.
      Sau đó nàng tiến đến trước mặt Đào hầu :
      – Thưa Bố, xin Bố cho con mượn kiếm lệnh .
      Đào hầu tháo kiếm bên hông đưa cho Phương-Dung. Nàng đặt kiếm trước mặt rồi nói :
      – Đại ca Nghi-Sơn tức tốc trở về điều động đệ tử trên ba chiến thuyền nhà mình, đến gần chiến thuyền Ngọc-đường. Nhớ phải mang theo cung tên đề phòng. Nếu chiến thuyền Ngọc-đường lại gần thì chèo ra xa. Họ chạy thì đuổi theo. Nghĩa là giữ khoảng cách giữa hai thủy đội khoảng một hai dặm là đủ. Nếu họ cho quân xuống bè vào bờ tấn công, cứ để cho họ đi. Khi họ vào tới bờ, lập tức cho thuyền mình sát thuyền họ, nhảy sang chiếm lấy, rồi đốt lửa để làm loạn lòng quân họ. Xin các sư tỷ Lê Chân, Hồ Đề, các sư đệ Quý-Minh, Hiển-Hiệu theo giúp đỡ đại ca Nghi-Sơn một tay.
      Phương-Dung đứng dậy hướng vào Nguyễn Tam-Trinh.
      – Người Mai-động giỏi thủy chiến, cháu xin sư bá điều động các vị sư huynh Mai-động ngũ hùng và Tử-Vân cùng với đại ca Biện-Sơn ra giữ ba chiến thuyền mượn của Nghiêm đại ca tuần phòng quanh đảo, đề phòng ba thuyền của Lê Đạo-Sinh trở lại, thì dàn ra ứng chiến. Mục đích cầm cự, không cho đạo quân của Lê liên lạc với Phùng Chính-Hòa.
      Nguyễn Tam-Trinh vẫy các con cùng đi với Biện-Sơn.
      Phương-Dung hướng vào Đinh Đại và Đào phu nhân cung kính:
      – Xin cậu và mẹ điều động nữ binh phân tán phục rải rác ở các bụi cây. Nếu giặc tràn vào bờ, vừa bắn tên, vừa lẫn vào cây cỏ. Tuyệt đối không ham chiến. Mục đích chia lực lượng địch.
      Đào phu nhân, Đinh Đại đứng lên đi liền. Phương-Dung tiếp :
      – Biểu muội Tĩnh-Nương, Bạch-Nương xuất lĩnh đội nữ binh còn lại bảo vệ khu gia đình. Nếu giặc tràn vào thì quyết tử chiến, sẽ có người tiếp ứng. Hùng Bảo sư điệt ra trấn phía Đông. Trần Năng trấn phía Tây. Sư tỷ Vũ Trinh-Thục trấn phía Bắc. Sư tỷ Đàm Ngọc-Nga trấn phía Nam. Nhất thiết tùy cờ hiệu trên đài chỉ huy hành động. Còn lại các vị Phật-Nguyệt, Lê Ngọc-Trinh, Đinh Hồng-Thanh, Tường-Loan, đại sư ca Trần Dương-Bá, mồi người lĩnh một Tốt tráng đinh ở trung tâm làm trừ bị.
      Phương-Dung đứng lên trịnh trọng nói :
      – Còn Khất đại phu, đại sư bá, Nghiêm đại ca, anh Kỳ ở trung quân phòng cao thủ Thái-hà trang xuất hiện còn có chỗ tiếp ứng.
      Đào Thế-Kiệt thấy Phương-Dung không nói gì đến mình, thì ngạc nhiên hỏi :
      – Còn Bố với Nghiêm đại ca, sư tỷ Thiều-Hoa sao con không dùng tới ?
      Phương-Dung đáp :
      – Hôm nay là ngày cưới của sư tỷ. Trong trời đất, người phụ nữ lấy đức làm trọng. Sư tỷ không nên xuất trận. Bố là chủ đảo cần ngồi ở trung quân tiếp ứng.
      Nàng hướng vào Trưng Nhị :
      – Kế hoạch đã xong. Xin mời chị lên đài chỉ huy.
      Trưng Nhị không từ chối lên đài cao cùng với mọi người. Nàng đứng nhìn ra khắp bốn phương. Ngoài khơi, sáu chiến thuyền Ngọc-đường dàn thành hình chữ nhất. Ba chiến thuyền Đào trang đến gần chiến hạm Ngọc-đường. Ba chiến thuyền của Nghiêm Sơn đang tuần hành quanh đảo
      Bỗng Nghiêm Sơn quát lớn :
      – Đồ hèn hạ ! Đồ phản phúc !
      Mọi người vội nhìn ra xa thấy trên khoang chiến hạm, Phùng Doãn đã bị Phùng Chính-Hòa giết chết. Các thủy thủ đang chiến đấu với bọn người của Chính-Hòa. Nam-hải nữ hiệp hỏi Phùng Vĩnh-Hoa :
      – Con có cách nào cứu thủy thủ Hán trên sáu chiến thuyền không ?
      Vĩnh-Hoa lắc đầu :
      – Từ đây ra đó xa quá, chúng ta làm sao được ? Mấy người thủy thủ đó coi như đã tuẫn quốc. Sau này Nghiêm ca sẽ thuy tặng cho con cháu họ.
      Chỉ một lát, đám thủy thủ bị giết sạch, xác ném xuống biển.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #33
        Hồi 32

        Giang hồ mài một lưỡi gươm
        Những phường giá áo túi cơm sá gì ?
        (Kiều)


        ọn thủy thủ Ngọc-đường bị giết quăng xác xuống trước mặt Nghiêm Sơn. Trong tâm Ngiêm Sơn nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn :
        – Phùng Chính-Hòa chỉ là một viên Huyện-úy. Quân sĩ trực thuộc không được là bao. Khi ta sai Lê Đạo-Sinh tổ chức đại hội Tây-hồ, y xin với Tô Định cho Phùng Chính-Hòa làm Huyện-úy. Tô Định chỉ biết tham nhũng, không nghĩ xa, nhắm mắt đề nghị với ta cho Phùng làm Huyện-úy Thiên-trường. Tô ngu thực là ngu. Nếu y tình một chút, y phải biết rằng một phần ba trang ấp Giao-chỉ chịu ảnh hưởng của Lê Đạo-Sinh. Lê hiện giữ chức Đô-úy, binh quyền trong tay, thêm năm đệ tử làm Huyện-úy, thế mà Tô không lo giảm bớt binh quyền của Lê thì thôi, lại còn xin cho Phùng làm Huyện-úy, có khác gì tạo thêm cánh cho hổ ? Vì vậy ta đã làm như tử tế với Đạo-Sinh chấp nhận cho Chính-Hòa làm Huyện-úy Ngọc-đường. Vũ Hỷ làm Đô-sát Cửu-chân. Đất Cửu-chân còn ảnh hưởng của Đào, Đinh gia, người người đều nghĩ đến phục quốc. Ta cho Phùng vào Cửu-chân, để lỡ ra Đạo Sinh làm phản, Phùng muốn điều động tráng đinh các trang cũng không ai nghe theo. Muốn điều động quân Hán, phải xin lệnh của Đô -úy là tam sư đệ trong Hợp-phố lục hiệp. Còn Vũ Hỷ làm Đô-sát, y chỉ có quyền báo cáo không có binh quyền. Ta đã dặn Hợp-phố nhị hiệp Lư Dương tuyệt đối không nghe lời y.
        Chàng đưa mắt nhìn một lượt các anh hùng Lĩnh-nam có mặt, thấy Trưng Nhị, Đào Kỳ, Vĩnh-Hoa, Phương-Dung hiện rõ nét hân hoan trên mặt. Còn Khất đại phu, Nam-hải nữ hiệp, Nguyễn Trát, Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại hiện ra vẻ tức giận. Chàng tự nghĩ :
        – Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, Đào Kỳ có tài vạn dặm, trông rộng nhìn xa. Có thể ngồi trong màn quyết thắng ngoài nghìn dặm như Khương Tử Nha, như Trương Lương, như Hàn Tín. Còn lại, họ chỉ có thể như Anh Bố, Bành Việt. Giao cho họ cầm quân phá thành, chém tướng thì được. Cứ coi bọn thủy thủ Ngọc-đường bị giết thì rõ. Họ là người nghĩa hiệp hiện lên vẻ tức giận Phùng Chính-Hòa. Còn bọn Trưng Nhị, khi thấy Phùng Chính-Hòa làm phản, họ biết Lê Đạo-Sinh làm phản. Lê làm phản có thể do Tô Định ra lệnh. Tô Định với Lê có gan bằng trời cũng không dám chống ta. Vậy việc này do chính Mã thái hậu đã ban mật chỉ. Giữa ta với Tô Định ắt có chiến tranh. Ta phải phản Hán. Kết quả dù ta thắng hay Hán thắng, tinh lực sẽ mất hết. Họ chỉ cần trở tay một cái, Lĩnh-nam lại về với Lĩnh-nam. Bọn người này có tài vương bá, ta không nên coi họ là cừu thù, phải lấy tình huynh đệ mà đãi họ, họ giúp ta xây dựng Lĩnh-nam thành một vùng giàu có, mưu hạnh phúc cho dân. Ta với Tô Định, Lê Đạo-Sinh khác nhau chỉ ở chỗ đó.
        Phía anh hùng Lĩnh-nam, mỗi người bàn một ngã, phân vân chưa quyết. Vĩnh-Hoa đến bên Trưng Nhị, lấy ngón tay viết lên bàn chữ Kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Trưng Nhị nhìn Vĩnh-Hoa cả hai mỉm cười. Phương-Dung, Đào Kỳ ngồi bên gật đầu tỏ ý hiểu. Còn Nam-hải nữ hiệp thì bà lắc đầu tỏ vẻ không hiểu.
        Ngoài khơi trên sáu chiến thuyền Ngọc-đường, thả xuống 18 cái bè, trên bè chở đầy người, hướng vào bờ.
        Phương-Dung hỏi Nghiêm Sơn :
        – Nghiêm đại ca mỗi cái bè như vậy chở được bao nhiêu người ?
        Nghiêm Sơn thấy mình bị phản, thì giận căm gan thẫn thờ đáp :
        – Hai mươi.
        Phương-Dung chỉ ra biển :
        – Đợt đầu chúng đổ bộ lên đảo 360 người, không biết đó là tráng đinh hay binh sĩ bản bộ của Ngọc-đường ? Tính chung lực lượng theo phản loạn khoảng hơn ngàn. Chính-Hòa ở vùng nầy lâu, y dư biết muốn đổ bộ phải chờ nửa đêm, trăng lên, thủy triều lớn, chiến thuyền có thể vào sát đảo thì quân đổ bộ mới đỡ tốn sức. Nay y lại cho đổ bộ lúc này, một là y ngu đần, hai là có sự bất thường.
        Nghe Phương-Dung phân tích, Nghiêm Sơn nhìn Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa thấy cả hai người ngơ ngác không hiểu. Chàng nhìn Đào Kỳ như hỏi ý kiến. Đào Kỳ gật gật đầu rồi nói :
        – Chính-Hòa là tên xảo quyệt, lưu manh hơn Vũ Hỷ nhiều. Y đã học binh pháp,kinh nghiệm về quy luật hành quân. Một là phải biết lợi dụng thiên thời. Hai là phải biết lợ dụng địa lợi. Ba là phải biết lợi dụng lòng quân. Bốn là phải biết cái sở trường của địch. Đây Phùng làm ngược lại, bỏ cả thiên thời, địa lợi, lòng quân, dùng cái sở đoản đánh cái sở trường, tức là y có chủ ý riêng.
        Nghe Đào Kỳ nói, Nghiêm Sơn nhìn cậu tiểu sư đệ của mình và Phương-Dung tủm tỉm cười, ngụ ý khen hai người nhớ dai.
        Sự thực mà bàn, trong bốn người đều có tài ngang nhau. Họ cùng thông minh, cùng học Lục-thao, Tôn Ngô. Lục thao, Tôn ngô chỉ dạy triết lý Quân-chính, Quốc-phòng, chứ không dạy tác chiến, xung phong, hãm trận. Việc trước mắt đòi hỏi phải có cả hai mới hiểu nổi. Sở dĩ Đào Kỳ, Phương-Dung hiểu, vì hồi hai người ở phủ Lĩnh-nam công đã được Nghiêm Sơn giảng giải rất kỹ về phương pháp tác chiến, đánh thành, xung phong, hãm trận, luyện quân của Hán.
        Phương-Dung cười :
        – Phùng Chính-Hòa ! Phùng Chính-Hòa ! Ngươi không qua mặt được ta đâu. Ngươi giả vờ ngu để lừa ta, nhưng ta cũng làm như mắc mưu ngươi, ngươi chạy đâu cho thoát ?
        Phương-Dung nói với Trưng Nhị :
        – Phùng giả vờ làm người ngu lệnh sai quân đổ bộ từng đợt 360 người lên đảo, cho mình tiêu diệt dần. Nhưng sự thực, ở đợt đầu, đợt nhì chúng đổ bộ binh mã Ngọc-đường hỗn chiến với đệ tử trên đảo. Dù thắng, dù bại, chúng ta cũng bị mệt mỏi hao tổn rất nhiều. Binh sĩ Ngọc-đường toàn người Cửu-chân, đa số là người Đào, Đinh trang. Chúng muốn mượn đệ tử Đào, Đinh trang giết họ. Sau này xong việc chúng sẽ đưa người các trang khác về Ngọc-đường thay thế. Đó là một cái khôn. Sau khi đổ bộ hai đợt, chúng sẽ ngừng không đổ bộ nữa, làm cho chúng ta căng thẳng đầu óc, rồi đợi trăng khuya nước lớn, chúng đổ độ toàn tráng đinh của chúng. Chúng sẽ chiếm được đảo.
        Nghe Phương-Dung lý luận, quần hùng Lĩnh-nam mới tỉnh ngộ. Chính Nguyễn Trát cũng ngạc nhiên về con mình :
        – Từ nhỏ ta thấy nó thông minh, tinh nghịch phá phách thì hay trách phạt. Lớn lên cho học văn, nó không học suốt ngày chỉ đọc Bách-gia, Chư-tử, Lục-thao, Tôn Ngô. Nó đòi làm Khương Tử Nha, Trương Lương, Hàn Tín, ta cho rằng tính trẻ con viển vông. Thế rồi, mỗi tuổi một tiến, thời gian vừa qua, xa ta mới có mấy tháng, nó cùng Đào Kỳ đánh úp mấy đoàn vận tải của Tô Định, lập trang Văn-lạc. Bây giờ nó tiến tới trình độ này e rằng không thua gì Nghiêm Sơn đâu.
        Nghiêm Sơn nhìn Phương-Dung lòng sung sướng :
        – Cô vợ của tiểu sư đệ thông minh tài trí lỗi lạc thế này, ta chỉ cần trọng dụng cái tài của nàng, sẽ có lợi cho dân Lĩnh-nam biết mấy ? Nàng học cách điều binh của ta, mà nay bản lĩnh của nàng còn muốn vượt hơn cả ta.
        Nghiêm Sơn nói với Phương-Dung :
        – Dung ơi ! Trước đây anh đã mời em và Trưng Nhị một người làm Tư-không, một người làm Tư-mã đất Lĩnh-nam. Bây giờ bản lĩnh em đã đổi, anh mời em làm Quân-sư. Trận đánh này quá nhỏ, anh để mình em với Trưng sư muội thử những gì đã học, xem kết quả tới đâu.
        Thiều-Hoa nghe chồng xưng hô thân thiện với Trưng Nhị, trong lòng như nở ra một vườn hoa : Nghiêm Sơn không còn coi mình là người Hán, chàng đã coi Phương-Dung, Trưng Nhị như Đào Kỳ. Đó là điều Thiều-Hoa mong mỏi từ lâu. Nàng nhủ thầm : Chỉ cần một vài biến cố nữa, Nghiêm Sơn sẽ ngả về phía Lĩnh-nam. Giá Nghiêm Sơn là người Việt chàng có thể tiếp tục sự nghiệp Hùng-vương, An-dương vương, lập ra triều đại mới cho Lĩnh-nam.
        Đứng trước thế nguy hiểm : Người dưới mang một số quân đông đảo tạo phản, có thể mất mạng trong chốc lát mà Nghiêm vẫn thản nhiên, coi lực lượng Phùng Chính-Hòa như bầy chuột. Chàng còn giao việc điều khiển cho Phương Dung thực tập lý thuyết đã học, quần hào mới hiểu rõ Nghiêm Sơn hơn : Can đảm trước hiểm nguy, bình tĩnh trước nghịch cảnh. Từ trước đến nay họ chỉ nghe Nghiêm Sơn có tài vương bá, võ công, mưu trí bao trùm Trung-nguyên. Một tay dựng lại cơ nghiệp nhà Hán. Có người cho rằng Nghiêm gặp thời. Bây giờ, họ mới thấy ở Nghiêm tỏa ra khí phách của người anh hùng. Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại, Trưng Nhị nổi danh anh hùng Lĩnh-nam bấy lâu, nay thấy Nghiêm Sơn có con mắt tinh đời, dám giao tính mệnh cho Phương-Dung, một cô gái mới 19, 20 tuổi, khi biết nàng có chân tài. Với bản lĩnh đó, hèn chi chàng coi sự kèn cựa của Tô Định, âm mưu hãm hại của Mã thái hậu coi như không có. Bất cứ người nào trong đám anh hùng có mặt cũng không bằng Nghiêm.
        Nghiêm Sơn thản nhiên ngồi uống rượu, nói chuyện với Thiều-Hoa.
        Bất chợt Phương-Dung hỏi Đào Thế Kiệt :
        – Thưa bố, trên đảo có cờ Hán không ?
        – Có, trong trận đánh cảng Bắc, bố cướp được mấy lá cờ Hán, nay vẫn còn.
        Phương-Dung vui mừng :
        – Như vậy đỡ đổ máu. Xin bố lấy tất cả cờ Hán ra đây. Viết lên cờ hàng chữ "Bình Nam đại tướng quân, Lĩnh nam công, Nghiêm" thực lớn. Càng mau, càng tốt.
        Thế-Kiệt thấy việc khẩn cấp vội cho làm ngay. Chỉ một lát đã xong ba lá cờ. Phương-Dung hướng vào Nghiêm Sơn :
        – Nghiêm đại ca ! Tất cả những tráng đinh của Lê Đạo-Sinh đều là tráng đinh của các Lạc hầu thân Hán. Còn binh lính của huyện Ngọc-đường cũng là binh sĩ Hán. Trên nguyên tắc họ là binh lính của đại ca. Nay Phùng Chính-Hòa làm phản, tất nói dối binh sĩ là tuân lệnh trên đi tiễu trừ phỉ tặc. Vì vậy em cho treo cờ hiệu của đại ca ở ba góc đảo. Dù binh sĩ lên chỗ nào cũng trông thấy cờ. Xin đại ca xuất hiện, nói cho binh sĩ biết, chúng buông vũ khí, đỡ đổ máu. Sau khi chúng buông vũ khí, đại ca ủy lạo chúng, dùng chúng làm lực lượng chống Phùng Chính-Hòa.
        Trưng Nhị cầm cờ vàng phất một cái. Tốt thứ nhất gồm một trăm đệ tử do Tường-Loan chỉ huy, dàn ra bãi biển, nơi có quân sắp đổ bộ, dàn phía sau các ụ cát, trên ụ, cây cối um tùm. Nàng phất hai cái. Tốt thứ nhì, 100 người do Trần Dương-Đức chỉ huy, tiến ra các ụ cát, mai phục. Nàng phất ba cái. Tốt thứ ba do Phật-Nguyệt chỉ huy cùng Nghiêm Sơn dàn ra bãi biển, chờ đợi quân đổ bộ.
        Quân đổ bộ dàn thành hàng từ từ tiến lên.
        Nghiêm Sơn tiến ra trước, cầm loa quát :
        – Các người là quân ở đâu đến đây ?
        Viên tướng đi đầu là một người Việt nói :
        – Ta là Lữ-trưởng Ngọc-đường, vâng lệnh Huyện-lệnh lên đảo tiểu trừ phỉ tặc.
        Nghiêm Sơn chỉ ngọn cờ, nói :
        – Các ngươi có trông thấy cờ hiệu không ? Ta là Bình Nam đại tướng quân đây. Các ngươi là binh sĩ dưới quyền phải nghe ta. Trên đảo không có giặc cướp nào cả, chỉ có thường dân lương thiện. Ta đóng quân ở đây lâu rồi, các ngươi không được nghe Phùng Chính-Hòa làm phản. Ai theo y, ta giết ba họ.
        Binh sĩ nghe nói, vội ngừng bước. Vì không biết mặt Lĩnh-nam công, nên họ đưa mắt nhìn viên tướng chỉ huy, hỏi ý kiến. Viên tướng chỉ huy nạt lớn :
        – Khi sắp đổ bộ Phùng huyện úy đã dặn : Trên đảo có phỉ tặc giả xưng Lĩnh-Nam công, ai giết y sẽ được thưởng.
        Nghiêm Sơn phất tay một cái, các đội núp sau ụ cát đều xuất hiện. Chàng chỉ nói :
        – Trên đảo ta có hàng chục vạn quân, muốn giết các ngươi thực quá dễ dàng, việc gì ta phải nói dối các ngươi ? Các ngươi nghe ta, buông bỏ vũ khí. Nếu không sẽ bị chặt đầu.
        Viên tướng chỉ huy vừa mở miệng định nói, bỗng thấp thoáng một cái, người y đã bị bật lên cao. Bay về phía sau Nghiêm Sơn. Nguyên Nghiêm Sơn lợi dụng lúc y nói, tung dây chụp người y giật mạnh.
        Nghiêm Sơn chụp cổ y, nói :
        – Mi có chịu đầu hàng không ? Mi tên gì ?
        Viên tướng đau quá, kêu lên :
        – Xin Quốc-công tha mạng. Tiểu nhân tên Thái Kiêm. Lữ trưởng thuộc huyện Nghi-sơn. Tiểu nhân ở dưới quyền Huyện-úy. Y bảo sao, tiểu nhân nghe vậy.
        Nghiêm Sơn buông Thái Kiêm ra, nói với toàn quân :
        – Chư quân nghe đây ! Ta là Lĩnh-Nam công. Tên Phùng Chính-Hòa làm loạn, phạm thượng, sẽ bị giết cả nhà. Chư quân vô can, hãy vào trong đảo. Ta hứa tha tội chết cho các ngươi. Nếu các ngươi chống cự, đại quân trên đảo sẽ giết các ngươi.
        Chàng phất tay chỉ vào đảo. Đoàn quân lục tục tiến vào.
        Trưng Nhị hô lớn :
        – Đốt cỏ lên !
        Trần Dương-Đức, Tường-Loan cho tráng đinh đốt những bó cỏ khô mang theo, khói bốc lên mù mịt. Người đứng xa không sao phân biệt được tình hình. Nàng nói lớn với Nghiêm Sơn :
        – Bây giờ ngoài khơi, Phùng Chính-Hòa không phân được tráng đinh hay quân Ngọc-đường. Phiền đại ca đẫn đội quân này vào sảnh đường giáo hóa họ, để họ theo mình.
        Rồi Trưng Nhị hô lớn :
        – Dương-Đức, Tường-Loan ! Xin hai vị cho đệ tử giả đấu trận với nhau, lẫn trong khói, để ngoài khơi, Chính-Hòa tưởng quân Ngọc-đường đang đánh nhau với tráng đinh.
        Đệ tử trên đảo thường dàn trận giả đấu với nhau hàng ngày. Nay thấy Trưng Nhị ra lệnh, hô liền xáp vào nhau đánh trận giả. Đao thương chạm nhau choang choảng, hỗn loạn trong khói lửa.
        Trưng Nhị nhìn ra khơi, thấy toán đổ bộ thứ nhì đã vào gần bờ biển. Nàng phất cờ một cái, đám đệ tử do Tường-Loan, Dương-Đức chỉ huy lập tức lui vào các ụ ẩn kín.
        Đám đổ bộ sau đều là binh sĩ Ngọc-đường. Họ chia làm bốn Tốt, dàn hàng tiến lên đảo. Ở xa họ đã thấy khói lửa ngùn ngụt, tiếng vũ khí chạm nhau hỗn loạn. Nhưng khi lên đảo họ chỉ thấy khói mịt mờ, còn người thì không một bóng. Viên Lữ-phó Ngọc-đường chỉ huy đợt đổ bộ thứ nhì phất cờ cho ba Tốt tiến lên. Khi vượt quan mấy hàng cây vào trong, chợt nghe tiếng pháo nổ, tráng đinh trên đảo đổ ra bao vây bên phải, bên trái và cắt mất đường lui quân. Phía trước, một tráng đinh kéo cờ Hán lên cột cờ. Lá cờ bay phất phới trên có hàng chữ "Bình-Nam đại tướng quân, Lĩnh nam công, Nghiêm."
        Một trung niên hán tử, dáng điệu uy nghi đứng đó. Người ấy là Nghiêm Sơn.
        Viên lữ phó Ngọc-đường thấy Nghiêm Sơn, y vội làm lễ trình diện :
        – Đại tướng quân, thì ra ngài ở đây thực. Phùng hiệu úy nói trên đảo có một đám phỉ đồ mạo xưng ngài. Huyện-úy dẫn chúng tôi đi tiễu trừ. Như vậy là thế nào ? Tiểu nhân không hiểu ?
        Nghiêm Sơn hỏi :
        – Ngươi tên gì ?
        – Tiểu nhân là Phương Chiêu, Lữ-phó Ngọc-đường. Trước đây, tiểu nhân là Tốt trưởng Luy-lâu, được đại nhân đề bạt chức Lữ-phó Ngọc-đường năm trước.
        Nghiêm Sơn gật đầu :
        – Binh lính của ngươi có nghe lệnh ngươi không ?
        – Thưa tiểu nhân bảo chết, họ cũng chết.
        – Được ngươi dẫn họ theo ta.
        Trưng Nhị hô :
        – Dương-Đức, Tường-Loan ! Đốt cỏ và hai đội giả đấu với nhau nữa.
        Dương-Đức, Tường-Loan lại cho hai đội tráng đinh giả đấu với nhau nữa. Vừa đấu, vừa reo hò vang dội.
        Trưng Nhị cùng mọi người vào sảnh đường. Trong đó, trên 700 binh lính đã ngồi chật ních. Phía trên Nghiêm Sơn ngồi đó. Hai Lữ-trưởng và phó Ngọc-đường cung kính đứng hầu phía sau.
        Nghiêm Sơn chỉ vào Đào Nghi-Sơn, rồi ra lệnh cho viên Lữ-trưởng :
        – Ngươi dẫn anh em ra sân nghỉ ngơi. Nhất thiết phải tuân theo mệnh lệnh của vị tướng quân này. Các người có mang theo lương thực không ? Nếu không hãy xin vị tướng quân này giúp đỡ.
        Trưng Nhị sai phất cờ lệnh, gọi ba chiến thuyền mượn của Nghiêm Sơn và ba chiến thuyền của đảo về. Phút chốc, cả sáu chiến thuyền đều cập bến.
        Trưng Nhị nói với mọi người :
        – Bây giờ, ngoài khơi, Chính-Hòa tưởng chúng ta đang giao chiến vơi hải đội Ngọc-đường. Chúng chờ khuya sẽ đổ bộ lên đảo. Xin các vị ăn uống, nghỉ ngơi. Ai ở vị trí đó, chờ giặc đổ bộ hãy đổ ra đánh.
        Trên đảo, Đào Thế-Kiệt tổ chức rất chu đáo như một đội quân để chờ ngày tái chiếm Đào, Đinh trang, nên lương thực, dụng cụ đầy đủ. Một lát cơm dọn lên, mọi người ăn vội vàng rồi vào họp.
        Phùng Vĩnh-Hoa hỏi Nghiêm Sơn :
        – Đại ca cho biết tình hình bên địch.
        Nghiêm Sơn bước ra nói :
        – Theo Thái Kiêm thì Phùng Chính-Hòa lấy hết năm Tốt của Lữ Ngọc-đường, còn mượn thêm hai Tốt của Lữ Nghi-sơn. Cộng khoảng 700 người đã đổ bộ. Số còn lại là tráng đinh Bắc-đái và Long-biên ước khoảng 300. Chính-Hòa ra lệnh cho Lữ-trưởng Thái Kiêm chỉ huy lực lượng đánh đảo. Sau khi chiếm được đảo, sẽ bắn bốn mũi tên trời làm hiệu. Y sẽ cho tráng đinh tiếp ứng. Bây giờ ta cho Phương Chiêu bắn tên, dụ Phùng đổ bộ. Liệu y có dám đổ bộ không ?
        Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu :
        – Y sẽ đổ bộ. Một trăm lần y sẽ đổ bộ. Sau khi đẩy hết 700 quân lên đây, y nghĩ trên đảo có khoảng 300 tráng đinh, sau trận đánh, số thương vong ít nhất cũng tới 200. Y chỉ dơ tay là chiếm được đảo.
        Nghiêm Sơn nói với Phương-Dung:
        – Việc hành quân sẽ do Phương-Dung thiết kế.
        Hồi sáng mọi người thấy Phương-Dung điều động có quy tắc, lệnh ban thông minh, ước tính tình hình, đâu ra đó thành công trọn vẹn. Bây giờ họ càng tin tưởng hơn. Phương-Dung cầm kiếm lệnh lên đài, nàng nói :
        – Tình thế bây giờ đổi khác. Địch có sáu chiến thuyền vối 300 đệ tử tráng đinh biết võ, rất trung thành, khi lâm sự chúng sẽ tử chiến. Nếu ta cũng dùng đệ tử đấu lại, có thắng được họ, số thương vong cũng rất cao. Đó là điều mà đạo làm tướng nên tránh. Lúc nào ta cũng phải nhớ còn 500 đệ tử tráng đinh nữa đi theo Lê Đạo-Sinh, ngày đêm sẵn sàng xuất hiện đánh phía sau hay vào mạng sườn ta, điều khiến ta lâm nguy. Đó là bàn về quân. Còn bàn về tướng, bên địch có Lê Đạo-Sinh, tuy bị Đào tam ca đánh trọng thương, nhưng ở đây chỉ có Đào tam ca, Khất đại phu, sư thúc Phật Nguyệt và tôi có thể thắng y. Vậy hai trong bốn người phải lên chiến thuyền ra khơi. Nếu y xuất hiện, phải đánh liền. Ngoài ra địch còn Vũ Hỷ, Phương Anh, Chu Bá, Lê Thị Hảo, Đức Hiệp, Hoàng Đức võ công ngang nhau. Ở đây chúng ta có Nam-hải nữ hiệp, Mai động hầu, Cối giang hầu, Đào hầu, Đào phu nhân, Đinh hầu, Nghiêm công. Chúng ta đủ sức thắng chúng. Chúng ta còn các sư tỷ Trưng Nhị, Lê Chân, Phùng Vĩnh-Hoa, Đàm Ngọc-Nga, Vũ Trinh-Thục...Trước sau gần 20 người. Vậy chúng ta hơn họ về tướng. Ta cần đàn áp tướng. Tướng bại tất quân tan.
        Phương-Dung ngừng một lát, mọi người nhìn nhau tán thành ý kiến của nàng. Nàng đứng dậy chắp tay, cung kính hướng vào Khất đại phu :
        – Thưa Khất đại phu, có thứ thuốc gì làm cho người ta nóng lên chịu được lạnh không ?
        Khất đại phu gật đầu :
        – Có nhiều thứ lắm, không biết cháu cần bao nhiêu ?
        – Cháu cần đủ cho khoảng 500 người dùng. Thưa đại phu, như vậy phải cần bao nhiêu vật liệu chế biến ?
        – Phải dùng các vật liệu sau đây : Gừng tươi hoặc khô, Quế-chi, Cam-thảo, Gạo cháy mỗi thứ khoảng 20 cân, không biết Đào hầu có đủ cung ứng không ?
        Đào Thế-Kiệt gật đầu :
        – Trên đảo hiện có trên trăm cân gừng khô, quế-chi vài trăm cân, gừng tươi đào lên thì gần trăm cân, cam thảo ước mười cân. Không biết như vậy có đủ không ?
        Phương-Dung nói lớn :
        – Mời sư tỷ Tường-Loan, các sư muội Bạch-Nương, Tĩnh-Nương ra nhận lệnh khẩn cấp.
        Ba người ra đứng giữa trướng, Phương-Dung hỏi :
        – Thưa Khất đại phu cách chế thuốc chống lạnh như thế nào ?
        Khất đại phu không hiểu Phương-Dung định làm gì cũng trả lời :
        – Mười cân Gừng khô, mười cân Quế-chi, Một cân Cam-thảo nghiền nhỏ thành bột. Dùng 20 cân gạo rang cháy một nữa. Nhớ làm sao cho hột gạo cháy một nữa, tán thành bột, trộn với nhau, chia thành từng viên bằng quả chanh. Sau khi uống, một khắc sau người nóng như sốt, dù nhảy xuống nước vào mùa đông cũng chịu được hàng giờ. Thời gian hiệu nghiệm khoảng ba giờ. Muốn thuốc công hiệu lâu, thì dùng thêm mật ong vào.
        Phương-Dung tiếp :
        – Mời ba sư muội làm thuốc, càng gấp, càng tốt. thuốc gói thành từng gói nhỏ 25 viên một. Sau khi hoàn thành đưa đến đây ngay.
        Phương-Dung hướng vào cử tọa, tiếp :
        – Bây giờ chúng ta áp dụng phương pháp: "Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị". Nghĩa là xuất quân ngoài sức tưởng tượng của chúng, đánh vào chỗ chúng không phòng bị. Lối đánh này được gọi là dùng kỳ binh. Binh thư nói : Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng. Ta đã biết ta rõ ràng, bây giờ ta cần biết Phùng Chính-Hòa nghĩ gì ? Chắc chắn y cho rằng trên đảo có trận chém giết ghê gớm. Lữ Ngọc-đường đã bị giết hết. Trên đảo chỉ còn ít người không đủ chống với hắn. Người trên đảo đã bị Lữ Ngọc-đường tiêu diệt gọn. Tuy nhiên, hắn vẫn còn sợ, chưa đổ bộ, có lẽ đợi Lê Đạo-Sinh. Số người của Lê Đạo-Sinh gần 500. Tổng cộng chúng có 800 người. Kế sách của ta như sau :
        Thứ nhất : chỉ huy ba chiến thuyền mượn của Luy-lâu là sư bá Tam-Trinh, phụ có các sư huynh Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín cùng các sư muội Tử-Vân, Giao-Chi, thêm Bố cháu và sư tỷ Hồ Đề; sư điệt Hùng Bảo, Trần Năng đi trợ chiến. Nhờ Khất đại phu đi theo đề phòng Lê Đạo-Sinh xuất hiện. Hải đội này đặt tên là hải đội 1. Chờ trời tối hãy xuống thuyền, để ngoài khơi, Phùng Chính-Hòa không nhìn thấy. Hải đội 1 án binh bất động, luôn quan sát ngoài khơi. Khi thấy đoàn thuyền của Lê Đạo-Sinh thì chận đánh, không cho chúng đến gần đảo tiếp viện. Mai động ngũ hùng thêm Giao Chi, Tử Vân giỏi thủy tính, tìm cách lặn xuống biển, đục thuyền địch.
        Phương-Dung nhấn mạnh :
        – Trường hợp chúng bỏ chạy không nên đuổi theo. Xin đại sư huynh Trần Dương-Dức mang theo 100 tráng đinh trên đảo làm lực lượng xung kích chính.
        Thứ nhì : Chỉ huy ba chiến thuyền của đảo tức hải đội 2 là Đinh hầu, có các vị sau đây trợ chiến : Các sư tỷ Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga, Vũ Trinh-Thục, Lê Ngọc-Trinh, các sư đệ Hiển-Hiệu, Quý-Minh. Xin Thái-sư thúc Phật-Nguyệt đi theo để đề phòng Lê Đạo-Sinh. Xin đại ca Nghi-Sơn đem theo 100 tráng đinh làm nhiệm vụ xung kích. Chờ trời tối hãy xuống thuyền. Đợi khi Phùng Chính-Hòa đổ bộ, sẽ đánh chiếm các chiến thuyền của chúng.
        Thứ ba : Chỉ huy lực lượng phòng vệ trên đảo là Đào hầu, Đào phu nhân, cùng với Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách Lãng. Cần giữ cho chắc, tuyệt đối không để cho giặc đột nhập vào khu gia đình, để yên lòng tướng sĩ. Lực lượng xung kích chính, là hải đội nữ đệ tử trên.
        Thứ tư : Lực lượng chiến đấu trên đảo, chúng ta có 700 quân Ngọc-đường và 300 tráng đinh. Số 700 quân Ngọc-đường chia làm hai, đóng ở hai bên Đông và Tây đảo làm lực lượng trừ bị. Lực lượng này do sư tỷ Thiều-Hoa chỉ huy. Số 300 tráng đinh đặt dưới quyền điều khiển của sư tỷ Tường-Loan, sư muội Đinh Hồng-Thanh, Lữ trưởng Thái Kiêm, Lữ phó Phương Chiêu đi theo phụ tá cho sư tỷ Tường-Loan, lấy y phục của binh sĩ Ngọc-đường cho tráng đinh mặc, kéo ra bờ biển hạ trại. Thái Kiêm bắn tên cho Chính-Hòa biết đã toàn thắng. Phùng tuy có vẻ không tin, nhưng cũng sẽ đổ bộ. Khi chúng đổ bộ, sư tỷ Tường-Loan dẫn quân ra đánh. Sư tỷ Thiều-Hoa tung 700 quân Ngọc-đường đánh tập hậu. Nghiêm đại ca, Đào tam ca ra bờ biển ẩn vào đạo quân của sư tỷ Tường-Loan phòng Lê Đạo-Sinh xuất hiện.
        Phương-Dung quay lại nói với Trưng Nhị :
        – Mời sư tỷ lên đài chỉ huy.
        Người vui mừng nhất là Nghiêm Sơn. Chàng nghĩ : Phương-Dung thông minh tuyệt thế. Nàng học Lục-thao, Tôn-Ngô phối hợp với phương pháp dàn binh lập trận do ta dạy nàng, thành bản lĩnh riêng. Nàng dám hạ lệnh cho ta, chứng tỏ nàng hiểu thấu đáo quy luật hành quân. Ngày trước Hàn Tín cũng dám hạ lệnh cho Hán Cao-tổ. Phương chính hầu Trần Tự Minh cũng dám hạ lệnh cho An-dương vương.
        Chàng nghĩ tiếp :
        – Vĩnh-Hoa nhiều mưu lắm mẹo, nhưng không giỏi binh pháp. Phương-Dung ít mưu hơn, nhưng vì đọc binh thư, nàng giỏi điều quân. Trưng Nhị chỉ huy đúng phép, rõ ra tài đại tướng. Ừ nếu so về cả ba phương diện, không ai bằng mình. Nhưng nếu so từng mặt một, ta thua cả ba nàng. Ba người chủ trương phản Hán phục Việt, họ biết kết hợp với nhau, đất Lĩnh-nam tất phải trả cho người Việt.
        Trời cuối thu, gió biển về khuya lạnh buốt tới xương. Đám binh sĩ Ngọc-đường đã được uống thuốc chống lạnh, họ đủ sức ngồi chờ địch.
        Đào Kỳ ngửa mặt nhìn trời cao suy nghĩ :
        – Không biết giờ này Tường-Quy ở đâu ? Nàng đang làm gì ? Nếu nàng còn ở trên thuyền với ông ngoại, khi trận chiến xảy ra, không biết có sao không ?
        Trời kéo mây đen, rồi mưa trút xuống như thác nước. Đêm tối như mực, xòe bàn tay ra như không thấy gì.
        Đào Kỳ ngồi bên Nghiêm Sơn. Chàng nghe Nghiêm Sơn kể lại những trận đánh ở Trung-nguyên. Lớn nhất là trận Côn-dương. Tướng bên giặc là Sầm Bành, võ công cao thâm không biết đâu mà lường. Các tướng Hán như Phùng Dị, Mã Vũ đều bị bại. Đào Kỳ hỏi :
        – Hôm trước đại ca kể Sầm Bành là tướng Hán, sao đại ca lại đại chiến với y ?
        – Hồi đó, y còn theo Vương Mãng. Võ công y giỏi, nhưng tài dùng binh còn thua ta rất xa. Vì vậy bị ta bắt sống. Y khâm phục, đầu hàng. Kỳ này sang Trung-nguyên, thế nào Tiểu-sư đệ cũng phải đấu với hắn.
        Đào Kỳ hỏi :
        – Về võ công, liệu bản lĩnh của hắn có bằng Khất đại phu hay Lê Đạo-Sinh không ?
        – Cũng cỡ đó. Có điều võ công hắn thiên về dương cương. Chưởng lực của hắn hùng hậu vô song. Ta chỉ chịu được hai chưởng mà thôi.
        – Liệu với Phục ngưu thần chưởng, Khất đại phu có thắng được y không ?
        – Nếu đại phu đánh từng chưởng thì thua. Còn nếu đại phu học đủ 36 chưởng, y sẽ thua. Sư đệ muốn thắng y, phải dùng Lĩnh-nam chỉ pháp do tiểu sư đệ chế ra, hoặc vận khí dương cương qua Thủ tam dương kinh, hoặc dùng Phục ngưu thần chưởng âm nhu. Còn nếu sư đệ muốn thắng y bằng chưởng Cửu chân thì rất dễ, vì võ công Đào gia khắc chế với võ công của y.
        – Y bao nhiêu tuổi ?
        – Khoảng bốn mươi.
        Bỗng Đào Kỳ suỵt khẽ :
        – Đại ca ! Có tiếng chèo đò. Chúng đổ bộ đấy.
        Tiếng chéo đò mỗi lúc một gần, sau cùng là tiếng người dội nước lõm bõm. Đào Kỳ bốc viên sỏi, búng đến "vèo" một tiếng trúng cái chuông trên đài chỉ huy. Trưng Nhị thấy ám hiệu của Đào Kỳ, biết quân ngoài khơi đã đổ bộ, nàng nói với Phương-Dung :
        – Em ước tính đúng. Chúng đổ bộ thực. Mũi tên này bắn ra, ngoài khơi Đinh hầu sẽ tấn công chiếm các chiến thuyền Ngọc-đường. Phùng Chính-Hòa sẽ mất đường về.
        Nàng châm lửa, bắn mũi tên lửa màu tím lên trời. Một lát sau, cũng thấy từ xa xa một mũi tên lửa màu tím bắn lên. Trưng Nhị nói :
        – Đinh hầu đã chuẩn bị sẵn, đợi chúng đổ bộ xong là tiến đánh hải đội Ngọc-đường.
        Mây đen kéo đi, ánh trăng chiếu xuống bãi biển rõ như ban ngày. Nghiêm Sơn đếm từng bè một, nói :
        – Phùng Chính-Hòa dẫn đầu. Hắn đổ bộ có 20 người mà thôi, chắc để lại 100 giữ thuyền.
        Toán đổ bộ âm thầm tiến vào bãi cát.
        Đuốc được đốt lên đồng loạt. Người dẫn đầu toán đổ bộ là Phùng Chính-Hòa. Y vẫy tay cho tráng đinh dàn hàng ngang, kéo vào bờ. Thái Kiêm, Phương Chiêu đứng trước trại quân, hô lớn :
        – Khải bẩm Huyện-uý, chúng tôi đã chiếm được đảo. Phía Ngọc-đường chết hơn 200 người. Chúng tôi chỉ còn khoảng 400 người khỏe mạnh. Bọn phỉ tặc bị giết không biết bao nhiêu mà kể. Mấy tên đầu sỏ đã bị bắt, hiệm để ở căn nhà giữa đảo, mời đại nhân vào phát lạc.
        Phùng Chính-Hòa gật đầu. Y vẫy Thái Kiêm, Phương Chiêu đi theo. Khi y tiến vào giữa đảo, thấy nhà cửa nguyên vẹn chợt sinh nghi. Y quay lại hỏi Thái Kiêm, Phương Chiêu, thì hai người đã biến đâu mất. Số quân Ngọc-đường dàn ra phía sau chặn mất đường về.
        Trên đài cao, Trưng Nhị bắn bốn mũi tên đỏ lên trời, báo hiệu cho hải đội đánh chiếm chiến thuyền Ngọc-đường.
        Một tiếng pháo lệnh nổ vang, bốn bên đốt đuốc đồng loạt. Hai phía hông Phùng Chính-Hòa bị hai đạo quân đông gấp bội, chặn mất lối. Y đang luống cuống thì trước mặt là Khất đại phu, Nghiêm Sơn, Đào Kỳ đứng nhìn y.
        Nghiêm Sơn nói lớn :
        – Các tráng đinh nghe đây ! Ta kinh lược đảo này từ lâu, Phùng Chính-Hòa làm phản. Các ngươi vô tội. Vậy mau buông vũ khí ta tha cho. Kẻ nào chống trả ta giết không tha. Ta còn về trang ấp giết cả nhà.
        Thái Kiêm hô lớn :
        – Phùng Chính-Hòa, ngươi lừa ta mang quân tiểu trừ phỉ đồ, không ngờ Nghiêm công ở trên đảo này. Ta là tướng sĩ dưới quyền phải theo chủ soái. Ngươi bị bao vây rồi.
        Bỗng có tiếng loa trên đài cao hô lớn :
        – Đệ tử của Bắc-đái nghe đây ! Phùng Chính-Hòa có tội, một mình y bị mà thôi. Các ngươi bị lừa, nếu buông vũ khí sẽ được tha. Kẻ nào ngoan cố sẽ bị giết cả nhà.
        Đám đệ tử ngơ ngác nhìn nhau. Chiến đấu thì một địch sao lại ba ? Còn hàng thì sợ Phùng Chính-Hòa trả thù.
        Trên đài tiếng loa lại kêu lớn :
        – Các người nhìn coi ! Chiến thuyền ngoài khơi đã bị chiếm mất rồi.
        Đám đệ tử nhìn ra khơi thì thấy lửa bốc lên từ chiến thuyền. Một tên đệ tử buông đao xin hàng. Phùng-Chính Hòa nhảy "vèo" đến, đưa ngang lưỡi kiếm. Đầu tên tráng đinh rơi xuống đất.
        Đào Kỳ nhún mình một cái đến bên y, vung chưởng đánh. Chàng thấy, nếu mình không đánh bại y ngay, tất sẽ có trận giao chiến, sẽ có nhiều người chết. Vì vậy chưởng này chàng vận đến năm thành công lực. Chính-Hòa thấy chưởng lực hùng hậu, vội nhảy lui lại hai bước, vô tình tới trước mặt Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn vung chưởng và nói :
        – Tiểu sư đệ ! Ta là tướng soái của y, để ta trừng phạt.
        Nghiêm Sơn vung chưởng đánh liền. Phùng Chính-Hòa lui lại đỡ. Chưởng của y là Phục-ngưu thần chưởng. Còn chưởng của Nghiêm Sơn là chưởng phối hợp cương nhu. Lối đánh của chàng là lối đánh, của người già dặn kinh nghiệm chiến đấu.
        Đào Kỳ nhìn trận chiến. Từ ngày biết Nghiêm Sơn đến giờ, chàng chưa biết rõ võ công của người tỷ phu. Trước đây tại Luy-lâu, chàng có đối chưởng với Nghiêm, nhưng chưa biết bản lĩnh chân thực của Nghiêm ra sao. Chàng thấy võ công Nghiêm trội hơn Phong-châu song quái nhiều, ngang hàng với Đức-Hiệp chứ không phải tầm thường.
        Nghiêm Sơn phát chiêu khoan thai thái độ ung dung nhàn nhã, tiến thoái có thứ lớp. Qua mươi hiệp, Chính-Hòa bị đuối sức, chỉ còn chống đỡ mà thôi. Y lùi dần. Thình lình, y phóng ra một chưởng quái dị. Nghiêm Sơn vội nhảy lùi lại tránh. Y thò tay vào bọc rút ra một vật tròn to bằng nắm tay. Đào Kỳ nhận ra đó là trái hỏa lựu của Lê Đạo Sinh, vội kêu lớn lên :
        – Nghiêm đại ca ! Cẩn thận đấy.
        Nghiêm Sơn nhấp nhô một cái đã đến bên Phùng Chính-Hòa, chụp tay y, bẻ đến "rắc" một cái, đã lấy được trái hỏa lựu, thuận thế, chàng đá y ngã úp sấp xuống đất.
        Chàng hô lớn :
        – Phùng Chính-Hòa đã đền tội các đệ tử Bắc-đái mau đầu hàng, nếu không ta sẽ giết không còn một mạng.
        Đám đệ tử buông vũ khí. Tường-Loan cho lệnh binh sĩ Ngọc-đường trói lại, vì sợ chúng phản phúc.
        Vĩnh-Hoa nói với Trưng Nhị :
        – Em nghĩ, có lẽ Lê Đạo-Sinh không trở lại đâu. Nếu y trở lại, đã đổ bộ rồi. Vậy chúng ta cho thu quân thôi.
        Trưng Nhị thấy Vĩnh-Hoa có lý, bèn ra hiệu nổi trống, bắn tên lửa thu quân.
        Phương-Dung nói với Nghiêm Sơn :
        – Bây giờ phải lấy khẩu cung Phùng Chính-Hòa về việc y tạo phản. Có ba vấn đề đặt ra : Y cùng đường, bị đẩy vào thế tạo phản ? Do Lê Đạo-Sinh chủ trương hay do chính Tô Định chủ trương ?
        Nghiêm Sơn đồng ý :
        – Lấy khẩu cung một tên lưu manh phải có người trí tuệ sáng suốt. Vậy sư muội cùng với Hồ Đề hỏi cung, y mới nói thực.
        Nói rồi Nghiêm Sơn cười khúc khích, bước vào hội trường, vì chàng biết Phương-Dung tinh nghịch, trong khi Hồ Đề có nhiều con thú, có thể dùng để tra khảo. Chỉ hai thiếu nữ ngỗ nghịch này mới đấu lại Phùng Chính-Hòa.
        Lát sau Phương Dung, Hồ Đề trở lại sảnh đường. Nàng hỏi Đinh Đại :
        – Xin cậu cho biết tình hình ngoài khơi.
        Đinh Đại nói :
        – Tên Phùng Chính-Hòa giỏi, nhưng bày binh bố trận thì ngu như lợn. Y biết ba chiến thuyền của tôi ở xa xa, mà vẫn đổ bộ. Vì vậy, khi thấy ám hiệu ở trên đài chỉ huy, tôi đánh chiếm quá dễ dàng.
        Bên ta có chín đệ tử bị thương. Bên địch chết trên 30, còn bị bắt 68 tên. Hầu hết bị thương. Tôi đã cho băng bó cẩn thận.
        Nguyễn Tam-Trinh báo cáo :
        – Hải đội 1 đi tuần tiểu quanh đảo, tuyệt không thấy bóng dáng đoàn thuyền Lê Đạo Sinh đâu. Không biết y có âm mưu gì khác không ?
        Chợt Phùng Vĩnh-Hoa kêu lên :
        – Nguy to rồi ! Tôi sợ Lê Đạo-Sinh trở về lục địa tác quái, chứ y không chịu thua đâu. Lê tin rằng với 700 binh Ngọc-đường cùng 300 đệ tử, Phùng Chính-Hòa dư sức đánh chiếm đảo, giết đại ca. Một mặt y trở về lục địa, dùng lệnh bài của đại ca đánh phá các nơi. Vậy, đại ca phải trở về ngay.
        Trước đây Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại nổi tiếng về tài dùng binh, huấn luyện tráng đinh, tổ chức thành đội ngũ chiến đấu. Hai ông cho rằng bọn tướng sĩ Hán chẳng qua là dựa vào quân số đông, chứ thật sự bản lĩnh điều binh không có gì. Bây giờ, trước lực lượng của Phùng Chính-Hòa đánh đảo, hai ông chưa biết phải hành động ra sao. Trong khi Nghiêm Sơn thản nhiên, coi Phùng Chính-Hòa như đứa con nít, đến nỗi chàng không cần đưa ra một đường lối nào hành động. Chàng còn để mặc cho Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, Đào Kỳ, Phương-Dung phản ứng. Tỏ ra bản lĩnh chàng đã đến mức siêu việt. Ông nghĩ thầm trong lòng :
        – Tài dùng binh của y đã đến trình độ nào ta cũng chưa biết. Song cử thấy việc cũ : Một thước gươm cùng Quang-Vũ khởi binh ở Côn-dương, trở tay một cái lấy năm quận. Từ đó chiêu mộ binh mã, đánh bại Vương Mãng, Xích Mi và các sứ quân. Trước mặt ta trận chiến vừa rồi do Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa điều khiển muôn ngàn lần ta không bằng bọn trẻ. Tuy nhiên ta thử hỏi Nghiêm Sơn xem nhận xét của y thế nào ?
        Ông hướng vào Nghiêm Sơn :
        – Quốc công ! Tôi nghe Quốc công giảng binh pháp cho Phương-Dung, Đào Kỳ. Trận đánh vừa qua, Quốc-công khoanh tay ngồi coi đám trẻ điều khiển. Vậy, xin Quốc-công cho chúng tôi một vài nhận xét..
        Nghiêm Sơn liếc mắt nhìn Đào hầu một cái :
        – Kể ra, với tuổi các sư muội lần đầu tiên xuất trận đã biết thiết kế dùng binh pháp. Biết uyển chuyển thay đổi đạt được chiến thắng như vậy, cổ kim chưa từng có. Tuy nhiên, Phương-Dung thiết kế, Trưng Nhị chỉ huy, thành ra có một sơ hở lớn, không biết nắm lấy thời cơ. Binh pháp nói rằng : "Bất chiến nhi khuất binh, thiện chi, thiện dã đã", nghĩa là : Không đánh mà hàng phục được binh đoàn địch, là những người dùng binh giỏi trong những ngưởi dùng binh.
        Ông quay lại nhìn Phương-Dung cười khúc khích, thái độ khoan hòa, như sư phụ nhìn đệ tử sử dụng võ công lần đầu :
        – Khi ta thu phục binh sĩ Ngọc-đường, gã họ Phùng chỉ còn mấy trăm tráng đinh, việc gì phải tổ chức phục kích trong đêm ? Việc gì phải cho tráng đinh giả giao chiến đánh nhau lừa y ? Chỉ việc cho Lữ trưởng, Lữ phó Ngọc-đường thư cho Phùng nói rằng Lĩnh-Nam công kinh lược đảo rồi, đảo không còn đạo tặc nữa, mời Huyện-úy lên đảo yết kiến Quốc-công. Thế là Phùng cùng tráng đinh bỏ chạy, có phải giản dị hơn không ? Đỡ tốn sức, đỡ đổ máu hơn không ?
        Trưng Nhị, Phương-Dung cùng gật đầu, Phương-Dung nói :
        – Đa tạ đại ca chỉ dạy.
        Nghiêm Sơn tiếp :
        – Phương-Dung, ta cho sư muội thực tập một lần nữa. Bây giờ phải làm gì ?
        Phương Dung nói với Trưng Nhị :
        – Sư tỷ, điều quân thì em, nhưng mưu mẹo phải nhờ chị. Xin chị quyết đoán cho.
        Trưng Nhị biết không từ chối được, nói :
        – Bây giờ cháu xin đề nghị với Đào hầu, Đinh hầu. Hai sư bá cùng tất cả đệ tử nên rời đảo ngay ngày mai, trở về chỉnh đốn lại Đào, Đinh trang. Nghiêm đại ca đi cùng hai sư bá. Ngay khi về đất liền, Nghiêm đại ca cho ngựa lưu tinh đi các nơi đề phòng Lê Đạo-Sinh. Tiểu muội đề nghị đại ca không nên cách chức hết các đệ tử của Lê. Cứ để chúng đó, từ từ tính từng đứa một. Việc trước mắt là cử Huyện-úy Ngọc-đường thay Phùng Chính-Hòa, cử người làm Đô-sát Cửu-chân thay Vũ Hỷ.
        Nghiêm Sơn gật đầu :
        – Ta xin nghe lời sư muội.
        Phùng Vĩnh-Hoa nói :
        – Còn lại tất cả chúng ta phải trở ra Bắc ngay, chuẩn bị cuộc đi Trung-nguyên. Hôm trước trong buổi họp tại phủ Thái-thú. Tô hẹn chúng ta sẽ lên đường ngày 15 tháng 10, vậy chỉ còn hơn tháng nữa mà thôi. Xin chuẩn bị để lên đường là vừa.
        Khất đại phu hướng vào Đào Thế-Kiệt :
        – Đào hầu, hôm đại hội Hồ-tây, phái Cửu-chân khẳng định không tham dự phái đoàn. Người võ lâm nói một là một, hai là hai, vậy thì phái Cửu-chân không cử người đi nữa. Nhưng lão xin phép cho Đào tam lang đi trong phái đoàn của phái Long-biên. Cuộc đi này chúng ta phải đấu với anh hùng võ lâm Trung-nguyên. Võ công Trung-nguyên thiên về dương cương, lão phu cũng thiên về dương cương e có gì sơ sẩy chăng ? Võ công Đào tiểu hữu gồm cương lẫn nhu, vì vậy, nếu Đào tiểu hữu có mặt trong chuyến đi, sẽ làm rạng rỡ đất Lĩnh-nam nhà mình.
        Đào Thế Kiệt là hào kiệt đương thời, dễ thức tỉnh, biết tùy nghi. Tuy ông tuyệt đối chống Hán, nhưng nghe lý luận của Khất đại phu, ông thấy điều đó đúng. Ông nhìn vợ hỏi ý kiến. Dầu sao Đào phu nhân cũng là phụ nữ, bà xa con đã bảy năm ròng, bây giờ mẫu tử trùng phùng mới được vài ngày. Bà thấy bịn rịn trong lòng không nỡ. Bà nhìn chồng :
        – Khất đại phu đã dạy, vợ chồng ta đâu dám không nghe theo ? Nhưng xin Đại phu ở lại đây một ngày, để vợ chồng tôi làm lễ thành hôn cho đôi trẻ đã.
        Nghe Đào phu nhân nói, mọi người mới chợt nhớ hôm nay là ngày cưới chính thức của Nghiêm Sơn với Thiều-Hoa. Trước trận đánh, Khất đại phu, Nam-hải nữ hiệp đã đứng ra làm mai cho Đào Kỳ với Phương-Dung. Một lời đôi bên cha mẹ đã hứa với nhau, coi như cuộc, hôn nhân đã thành. Bởi vậy lúc điều quân, Phương-Dung tự coi mình là con dâu nhà họ Đào. Trong cách xưng hô, nàng gọi Đào hầu bằng bố, Đào phu nhân bằng mẹ. Nàng gọi Nghiêm Sơn là tỷ phu.
        Khất đại phu hướng vào Nguyễn Trát :
        – Cối giang hầu, đúng ra phải đủ Ngũ lễ theo bậc của kẻ sĩ, để người quân tử Đào Kỳ cầu hôn cùng thục nữ Phương-Dung. Ngặt vì chúng ta đang ở hoàn cảnh cần kíp, nếu đòi hỏi Ngũ lễ e lâu quá. Lão phu dám xin hầu đại xá cho. Mai này về Bắc, lão phu sẽ thân đến Cối-giang tạ lỗi với phu nhân về việc này. Chẳng hay Cối-giang hầu tính thế nào ?
        Nguyễn Trát là người không câu nệ lễ nghi, ông thấy Khất đại phu là người bề trên của mình nói vậy, vội đứng dậy, vòng tay thưa :
        – Khất đại phu, Nam-hải nữ hiệp và Đào hầu cùng phu nhân đã thương đến cháu Dung, quý vị dạy sao, chúng tôi xin nghe làm vậy.
        Trong đám ngang hàng với Đào Kỳ có Hồ Đề là người có tính hào sảng như nam nhi, nàng vỗ tay nói :
        – Đào tam đệ, chị có mấy lời khuyên, chẳng hay tam đệ có chịu nghe không ?
        Đào Kỳ gật đầu :
        – Xin chị cứ dạy.
        Hồ Đề vẫy tay :
        – Dạy Tam đệ thì chị không dám, nhưng chị muốn Tam đệ hứa mấy điều trước khi lấy vợ, thế thôi. Điều thứ nhất, Tam đệ đã cưới Phương-Dung làm vợ, kể từ nay không được mơ tưởng tới cô Tường-Quy, cháu ngoại Lê Đạo-Sinh nữa. Tường-Quy so với Phương-Dung khác xa lắm. Phương-Dung đẹp hơn, võ công cao cường gấp bội. Bàn về gia thế, gia đình Cối-giang hầu hào hiệp, thông minh, tín nghĩa, thiên hạ đều phục. Còn gia thế Tường-Quy thì cha làm Hán gian cho giặc, chồng là một tên Hán ngu dốt, văn không thông, võ không thạo. Tam đệ có hứa với ta không ?
        Đào Kỳ bị Hồ Đề nói huỵch tẹt tâm sự ra trước mặt mọi người khiến chàng xấu hổ, không dám nhìn lên. Chàng chỉ khẽ gật đầu.
        Hồ Đề không chịu :
        – Công lực Tam đệ cao thâm không biết đâu mà lường, sao lại gật đầu yếu thế ?
        Đào Kỳ quýnh quá vội nói lớn ;
        – Tiểu đệ xin hứa.
        Hồ Đề chỉ Khất đại phu :
        – Khất đại phu làm mai nhà trai, xin đại phu làm chứng cho đấy. Nếu sau này, Đào tam đệ lăng nhăng với cô Tường-Quy, ta dù võ công thua tam đệ, ta cũng sẽ cho ong đốt tam đệ đủ một triệu mũi. Ta là con gái người Mường dữ hơn bà Chằng , ta nói cho mà biết trước !
        Hồ Đề nhìn Phương Dung :
        – Tiếc rằng ta không là trai. Nếu là trai, ta quyết cưới em làm vợ mới nghe. Hôm mới gặp, ta đã tặng em con ngựa ô, ta tặng Trưng Nhị con voi trắng. Bây giờ đám cưới, ta tặng em cái này.
        Nói rồi Hồ Đề móc trong bọc ra một cái gói, mở ra thì là một cây gậy bằng ngà voi, chạm trổ rất tinh vi, đưa cho Phương-Dung. Phương-Dung cúi đầu cảm tạ. Tiếp theo mỗi người tặng một món quà. Đến lượt Phùng Vĩnh-Hoa, nàng nói với Đào Kỳ :
        – Đào tam đệ ! Hôm ở Tây-hồ, ngươi nhờ ta bày kế cho. Ngươi hứa trước mặt Lê Chân rằng sẽ làm cho ta một việc. Bây giờ, ta muốn tam đệ làm ngay. Nam nhi đại trượng phu hứa một lời như đinh đóng cột, ngươi có nghe theo không ?
        Đào Kỳ giật mình lúng túng :
        – Quả em có nợ sư tỷ một món nợ. Sư tỷ dạy gì, xin nói ra ?
        Vĩnh-Hoa chỉ Phương-Dung :
        – Việc gì sư đệ làm cho ta đó, ta dành làm lễ mừng đám cưới Phương-Dung. Điều ta yêu cầu là : Từ nay mọi việc lớn nhỏ, sư đệ phải tuyệt đối nghe theo lời Phương-Dung. Sư đệ hứa đi.
        Đào Kỳ bật cười :
        – Thì từ trước đến giờ, có bao giờ em không nghe lời Phương-Dung đâu ?
        Mọi người cùng cười ồ lên.
        Đào phu nhân khuyên con :
        – Sư tỷ Hồ Đề, Vĩnh-Hoa vì yêu thương hai con mà nói thế, chứ không phải vì thiên vị Phương-Dung đâu. Đất Lĩnh-nam mình, coi nam nữ như nhau, khác với Trung-nguyên, họ trọng nam khinh nữ. Con thấy không ? Người Hán ở Lĩnh-nam có đến nửa triệu, thế mà không có một nữ hào kiệt nào. Còn Lĩnh-nam mình biết bao nhiêu mà kể ? Trong nhà mọi việc bố đều hỏi mẹ. Cổ nhân nói : "Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn ". Con nhớ lấy việc đó. Việc gì cũng phải bàn với Phương-Dung.
        Mọi người vào bàn tiệc. Tiệc tan, Phùng Vĩnh-Hoa từ ngoài sân bước vào, nói :
        – Phùng Chính-Hòa cung khai đầy đủ : Mã thái hậu mật dụ cho Tô Định tìm cách hại Nghiêm đại ca bằng bất cứ giá nào, kể cả đánh thuốc độc. Nhân Lê Đạo-Sinh xuất lĩnh tráng đinh đánh Đinh, Đào, Tô Định được tin, Lĩnh-Nam công trên đường ra đảo, y bèn viết thư cho Phùng truyền mang quân tiểu trừ đảo giúp Lê Đạo-Sinh. Song Lê, Phùng không liên lạc được với nhau. Phùng cô thế bị chúng ta bắt.
        Nghiêm Sơn gật đầu :
        – Cám ơn sư muội, ta khắc có biện pháp đối phó.
        Suốt ngày hôm sau trên đảo treo đèn kết hoa, tiệc tùng linh đình.
        Sang ngày thứ ba, mọi người phải lên đường. Nghiêm Sơn điều động đám binh sĩ Ngọc-đường giải Phùng Chính-Hòa xuống thuyền. Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại điều khiển đệ tử trên đảo xuống ba chiến thuyền hướng Ngọc-đường tiến phát. Đám khách đến, lại trở về với ba chiến thuyền mượn của Nghiêm Sơn, mang theo Đào Kỳ ra Bắc.
        Nam-hải nữ hiệp dành cho cặp vợ chồng mới cưới Đào Kỳ, Phương-Dung một căn phòng riêng, dưới khoang thuyền. Bên cạnh Phương-Dung, Đào Kỳ thấy vợ mình với Tường-Quy khác nhau quá xa. Phương-Dung thì tự trọng, việc gì phải thì bảo phải, việc gì trái thì bảo trái, minh bạch rõ ràng. Tường-Quy quá ủy mị, việc gì cũng do chàng quyết định hết.
        Lúc đi, bên cạnh Tường-Quy. Lúc về bên cạnh Phương-Dung. Bên cạnh Tường-Quy chàng chỉ nói chuyện yêu thương. Còn bên cạnh Phương-Dung, hai người luận bàn quân sự, võ công với nhau.
        Một hôm Phương-Dung chợt nhớ ra điều gì, nói với Đào Kỳ :
        – Anh Kỳ ơi ! Lúc rời Long biên đi, em được tin trang Văn-lạc của chúng mình lên tới 7000 người, họ luyện tập rất thành thuộc. Sau này đó là đội quân chủ lực của mình. Từ trang Văn-lạc lên Mê-linh không xa cho lắm. Khi cử sự mình lấy trang đó làm mũi dùi chính đánh Luy-lâu.
        Đào Kỳ lo ngại :
        – Trang của mình lớn mau như vậy, chỉ sợ tiếng đến tai Tô Định, y cất quân chinh tiểu thì nguy tai.
        Phương-Dung cười :
        – Anh khéo lo xa. Nếu cất quân đi đánh, phải có lệnh Nghiêm đại ca. Nghiêm đại ca cất quân đánh chúng ta, em e rằng chưa khởi binh, sư tỷ Thiều-Hoa đã báo cho chúng mình biết rồi. Sợ gì ?
        Hai người đang bàn luận với nhau, có tiếng gõ cửa, rồi giọng Phùng Vĩnh-Hoa vọng vào :
        – Hai em ngưng lại một chút lên khoang họp với Khất đại phu đi.
        Hai người vội mở cửa khoang ra ngoài. Vĩnh-Hoa chỉ cho hai người vào trong khoang thuyền lớn, tại đó, đã có đông đủ mọi người.
        Sau khi hai người ngồi xong Khất đại phu nói :
        – Lão phu mời các vị tới họp để chúng ta bàn định chuyện tương lai phải làm. Lão phu tuổi đã cao, trí lực mòn mỏi, vậy ở đây có cháu Vĩnh-Hoa, Trưng Nhị, Phương-Dung trí lự cao siêu. Các cháu thử đưa ý kiến xem chúng ta phải hành động như thế nào, để lập lại đất Lĩnh-nam nhà mình ?
        Trưng Nhị nhìn Vĩnh-Hoa gật đầu :
        – Trước hết cháu xin thưa về việc Thái sư thúc Lê Đạo-Sinh. Thái sư thúc đào tạo đến 10 đệ tử, tốn không biết bao nhiêu tâm huyết, rồi cho họ ra làm Huyện-úy hết năm người, thêm Vũ Hỷ là sáu. Còn năm đệ tử thì người cho quy dân lập ấp, hàng chục động. Kể ra, việc làm của người xứng đáng là một đại quân tử.
        Ngừng một chút nàng thở dài, tiếp :
        – Tiếc rằng Thái sư thúc muốn mau thành công, người ra tay khủng bố các võ phái khác, dùng cường lực chiếm trang ấp, ép trang nhỏ nhập vào trang lớn, thành ra mới gặp sự chống đối. Cuối cùng người tổ chức ra đại hội Tây-hồ để làm gì ? Đó là điều cháu nghĩ không ra. Không lẽ người tổ chức đại hội Tây-hồ chỉ với mục đích hỗ trợ Tô Định ? Thực vô lý, vì người đâu phải là kẻ xu phụ họ Tô ?
        Phùng Vĩnh-Hoa vỗ tay :
        – Em hiểu rồi ! Khi Tô Định sang đây rất lo ngại thế lực của Lê Đạo-Sinh. Lê thấy vậy mới đi đêm với Tô Định, xúi Tô Định ban hành Ngũ-pháp cấm dân tập võ. Rồi Lê đứng ra cùng Tô triệu tập đại hội Tây-hồ, tuyển chọn người có võ công cao nhất sang Trung-nguyên cầu phong. Đối với Tô Định, việc này có nghĩa : Chỉ người nào đi Trung-nguyên được phong tặng, mới được dạy võ. Mà những người này đều là người của Tô cả, như vậy mầm mống chống đối không còn nữa. Tô sẽ ngồi cao ôm gối hưởng thụ. Còn Lê Đạo-Sinh thì khác. Y lợi dụng việc cầu phong, đem anh hùng Lĩnh-nam sang đấu với anh hùng Trung-nguyên gây tiếng vang. Lê hối lộ các quan người Hán nói rằng : Đất Lĩnh-nam không còn mọi rợ nữa, mà cũng có văn hiến, võ học như Trung-nguyên, xin Hoàng đế phong cho y làm Thái-thú, không chừng từ Thái-thú y muốn làm Thứ-sử cũng nên.
        Phương-Dung lắc đầu :
        – Có một điều em không hiểu nổi. Nếu y muốn làm Thái-thú thì luồn cúi Nghiêm đại ca mới đúng. Vì Nghiêm đại ca là Lĩnh-nam công, toàn quyền quyết định ủy nhiệm sáu Thái-thú đất Lĩnh-nam. Lê biết như vậy, sao còn chống lại ?
        Trưng Nhị tiếp :
        – Còn một điều thắc mắc nữa. Dường như Tô Định được cử làm Thái-thú là do Mã thái hậu, chứ Nghiêm không biết gì. Đúng ra, Nghiêm là Lĩnh-nam công, tất Thái-thú phải do Nghiêm cử, tại sao hoàng đế Trung-nguyên lại phong Tô Định làm Thái-thú ngoài ý muốn của Nghiêm ? Bất cứ lúc nào Nghiêm cũng có thể chặt đầu Tô Định, tại sao Tô lại chống Nghiêm ? Đó là điều chúng ta cần điều tra cho kỹ.
        Mọi người đều cho ý kiến của Vĩnh-Hoa là đúng, sát với thực tế. Phương-Dung tiếp :
        – Trong đại hội Tây-hồ, Lê đã bị lộ mặt ra. Thế chuyến đi này có lợi cho Tô Định sao ? Tôi thấy giữa Tô Định với Nghiêm Sơn có mối hiềm khích lớn. Tô dựa vào thế lực Mã thái hậu chống Nghiêm. Còn Nghiêm thì cầm trọn binh quyền trong tay. Nghiêm trước đây là ân nhân của Hán đế, Nghiêm muốn làm gì thì làm, sao Nghiêm không giết Tô, là cái gai trước mắt ? Một vài điều chúng ta không hiểu, là ngay việc cử Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát Cửu-chân, Nhật-nam, Hợp-phố, Quế-lâm, Tượng-quận... Nghiêm được toàn quyền... Chủ trương của Nghiêm là giao đất Lĩnh-nam cho người Lĩnh-nam cai trị, miễn là thần phục Hán đế. Chủ trương đó trước đây Lê Đạo-Sinh thích lắm, vì có lợi cho y. Nay Lê lại chống.
        Vũ Trinh-Thục đập bàn một cái :
        – Đúng như lời Phương-Dung nói. Hiện giờ bên Trung-nguyên vẫn còn chiến tranh. Tô Định gởi sớ tâu rằng : Đất Giao-chỉ đã phục tùng, cử người võ lâm sang cầu phong, vậy xin Hán đế rút quân về, chỉ để lại quân địa phương mà thôi. Tức là rút về sáu quân đoàn ở sáu quận, cộng chung tới gần 30 vạn quân. Nghĩa là trực thuộc Giao-chỉ không còn quân nữa, chỉ ở các huyện mỗi nơi một Sư và mỗi huyện có một Lữ. Làm thế, Nghiêm sẽ trở thành tướng mà không có quân và Tô Định có thể chống lại Nghiêm. Ở đất Lĩnh-nam, Tô sẽ tha hồ tác quái. Nhưng Tô khó thành công, bởi các Đô-úy tại sáu quận và các Huyện-úy đều là người của Nghiêm ca.
        Phùng Vĩnh-Hoa ngắt lời :
        – Về tình cảm ta bênh Nghiêm. Nhưng về phương diện phản Hán phục Việt, chủ trương của Tô Định lợi cho chúng ta lắm. Khi quân Hán đã rút đi, mỗi quận còn một sư nửa Hán, nửa Việt, việc của chúng ta sẽ dễ dàng. Vậy ta phải làm thế này : Khai thác triệt để mâu thuẫn giữa Tô và Nghiêm. Một mặt ta cho người tài tình nguyện ra làm Huyện-úy, làm Lữ-trưởng cho Hán, giả như cộng tác với Nghiêm. Khi đã nắm hết các chức Huyện-úy rồi, chỉ cần đánh một tiếng trống, đất Lĩnh-nam thuộc về ta. Ngay khi về đất liền chúng ta thi nhau cử người tài ra làm quan với Nghiêm Sơn, làm như không ưa Tô Định. Nghiêm có nhiều uy tín lắm quyền. Hàng ngày chúng ta chủ trương chống Tô Định trước mặt Nghiêm. Nhưng khi sang Trung-nguyên yết kiến Hán-đế, chúng ta lại tỏ ra rằng đất Lĩnh-nam đã quy phục hoàn toàn, để Hán đế quyết định rút quân. Giữa lúc quân Hán rút đi, tất nhiên Nghiêm phải trở về, những người thân Nghiêm sẽ hoang mang. Chúng ta khởi binh ắt chiếm lại được đất Lĩnh-nam không khó.
        Đào Kỳ thực tế hơn :
        – Vùng Cửu-chân, Nhật-nam thì không khó. Khó là đất Quế-lâm, Tượng-quận và Nam-hải. Tại Giao-chỉ ta có đạo kỳ binh Văn-lạc, của năm Lạc hầu phái Long-biên, bảy Lạc hầu phái Cửu-chân, mười sáu Lạc hầu phái Sài-sơn, 36 động Nam Mê-linh, 72 động Bắc Mê-linh, 72 động Tây-vu. Với lực lượng như thế, chúng ta chiếm Luy-lâu, giết Tô Định. Còn các nơi khác chỉ đánh một tiếng trống là thu được thành trì.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #34
          Hồi 33 Phù Thế giáo, một vài câu thanh nghị. (Nguyễn Công Trứ)

          Nam-hải nữ hiệp tán đồng ý kiến :
          – Chúng ta hãy lấy hành động của Đào hầu làm hướng chung. Đào hầu, Đinh hầu là những người nằm gai, nếm mật từ bảy năm nay, nhất tâm, nhất trí phản Hán, phục Việt. Hễ nói đến người Việt ra làm quan với Hán là các ông không tiếc lời thống mạ. Thế rồi, biến chuyển thời cuộc đưa đến, Đào Thế Hùng làm Huyện-úy Đăng-châu. Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại thuận cho đệ tử ra làm quan với Hán. Phải hiểu hành động ra làm quan với Hán là, mượn tên Hán để phục Việt, việc làm cao cả hơn là cứ khăng khăng chống Hán. Chúng ta nhắm mắt để người Hán làm Huyện-lệnh, cho dân chúng ghét. Chúng ta chỉ làm Huyện-úy để cầm quân mà thôi. Sau vụ Phùng Chính-Hòa, Nghiêm Sơn sẽ cách chức hoặc chém các Huyện-úy theo Lê Đạo Sinh. Chúng ta tiến cử người tài trí cho Nghiêm, điền vào chỗ khuyết. Các Huyện-lệnh khác nếu có tâm huyết với Lĩnh-nam, chúng ta để. Còn kẻ ác đức, chúng ta sẽ bí mật giết đi. Chỗ khuyết, Nghiêm lại cử người của chúng ta vào. Ta thấy Nghiêm có tài vương bá. Y biết Trưng Nhị cũng có chí phục Việt, Phương-Dung công khai hoạt động phản Hán phục Việt, mà Nghiêm vẫn phong hàm, Trưng Nhị làm Tư-mã, Phương-Dung làm Quân-sư. Nghiêm lại sủng ái Thiều-Hoa. Thiều-Hoa coi Đào Kỳ như ruột thịt. Chúng ta muốn gì, cứ để Đào Kỳ nói với Thiều-Hoa. Thiều-Hoa nói lại với Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn tất đem bàn lại với Trưng Nhị, Phương-Dung. Hai người cần bàn sao cho hợp lý .
          Phương-Dung gật đầu :
          – Đại sư bá dạy chí phải ! Đối với Nghiêm đại ca, ta không nên dùng mưu mẹo mà qua mặt người. Ta dùng chữ hiệp nghĩa, dùng cái gọi là ân đức cho dân, vì chỉ có hai điều đó mới khiến Nghiêm đại dễ dàng chấp thuận mọi đề nghị.
          Khất đại phu liếc nhìn Trần Năng. Hai thầy trò cùng hiện niềm vui vô tả, cử tọa không ai hiểu tại sao. Thông minh như Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa cũng không đoán ra. Trần Năng nói :
          – Cháu giám quả quyết với Nam hải nữ hiệp rằng, dù chúng ta làm bất cứ việc gì Phản Hán phục Việt, mà không trái với hiệp nghĩa, Nghiêm công còn nhắm mắt cho chúng ta làm. Kẻ nào xu phụ theo Hán dù trung thành đến đâu Nghiêm công cũng tìm cách loại bỏ hay giết chết. Tốt hơn hết chúng ta cứ tâm niệm coi Nghiêm công như Vạn-tín hầu.
          Trưng Nhị ngơ ngác :
          – Sư thúc thế nghĩa là...
          Trần Năng liếc nhìn sư phụ :
          – Xin sư phụ trả lời Trưng Nhị.
          Khất đại phu tủm tỉm cười xoa đầu Trưng Nhị như con nít :
          – Cháu ngoan, Trần Năng nói đúng đó. Ta nghĩ, nên coi Nghiêm như An-dương vương. Nếu sau có sự gì không hay, ta xin chịu tội.
          Uy tín Khất đại phu vang lừng thiên hạ. Người người đều coi ông là một vị tiên sống, chuyên cứu nhân, độ thế. Ông ít tham dự việc đời. Hôm nay, ông đã xác quyết như vậy, chắc phải có lý do.
          Vĩnh-Hoa bàn :
          – Bấy giờ về Luy-lâu, chúng ta cứ nay tiệc, mai mời Nghiêm đại ca hội họp với chúng ta. Tự nhiên Nghiêm thấy chúng ta chỉ phản Hán phục Việt chứ không chống Nghiêm. Bọn tham ô người Hán thấy thế lực Nghiêm mạnh, chúng càng e sợ đại ca hơn.
          Thuyền tự nhiên chao đi một cái, rồi thăng bằng trở lại, làm chén, bát, hoa quả đổ ngổn ngang khắp khoang thuyền. Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa vội sắp xếp lại thì thuyền lại chao đi một lần nữa, lần này mạnh hơn. Trong khoang, người nào võ công cũng cao, nên không việc gì. Chỉ có Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa võ công kém, lại không đề phòng nên bị ngã lăn ra sàn.
          Thuyền laị chao đi hai lần liên tiếp. Tử-Vân đệ tử của Nguyễn Tam-Trinh quen thủy tính, vội mở cửa khoang ra ngoài, mọi người ra theo. Trên trời mây đen kéo mịt mờ, gió thổi rất lớn. Thuyền trưởng hô lên :
          – Bão đến nơi rồi ! Mời quý khách trở vào khoang thuyền, đóng cửa cẩn thận.
          Y quay lại thủy thủ đoàn, hô :
          – Hạ buồm xuống mau.
          Ba cánh buồm lớn hạ xuống từ từ. Đây là chiến thuyền của người Hán, dài đến 25 trượng (25 mét). Sàn thuyền rộng có thể tập trung đến vài trăm người. Trên sàn có đài chỉ huy, có buồng cho tài công lái, không sợ sóng gió hay nước biển tạt vào. Tầng dưới gồm nhiều phòng ở và chỗ ngồi cho thủy thủ chèo thuyền. Tầng dưới cùng là chỗ chứa nước ngọt, lương thực, vũ khí. Người Hán đặt một hải đoàn đóng ở Đông-triều và Long-biên. Hải đoàn có mấy chiếc thuyền đặc biệt cho Thái-thú, Đô-úy dùng riêng. Chiến thuyền này là của Nghiêm Sơn vẫn dùng, thủy thủ đoàn toàn là những tay lão luyện trong nghề. Mặc dù gió to, buồm hạ xuống, nhưng tài công vẫn vững tay lái, nương theo sóng, tránh bị lật.
          Trên thuyền ngoại trừ Nguyễn Tam-Trinh và đệ tử của ông, đều là những người thạo thủy tính, họ rất bình tĩnh. Đào Kỳ nổi danh là rái cá , chàng cũng yên tâm. Lê Chân hiện là Đông Triều nữ hiệp, nàng xuất thân nghề đánh cá, rất thạo nghề biển, quen sóng gió. Nàng đứng bên tài công giúp đỡ y. Tài công thấy một thiếu nữ xinh đẹp, làm bạn với Lĩnh nam công, đứng bên cạnh, y cảm động lắm, gật đầu tỏ vẻ biết ơn, mắt vẫn đăm đăm nhìn ra biển quan sát tình hình. Trời đổ mưa như trút nước, gió lộng càng mạnh, con thuyền bao phen muốn lật úp, làm nhiều người trong thuyền say sóng. Bỗng một cơn gió lùa mạnh, rắc một tiếng, tài công ngã lăn, Lê Chân vội đỡ y dậy : Bánh lái bị gẫy, con thuyền quay tròn, nghiêng đi muốn lật.
          Thuyền trưởng hô lớn :
          – Quý khách cẩn thận, lên ngay trên khoang, lỡ thuyền lật còn nhảy ra kịp.
          Mọi người đều lên trên khoang, bám lấy nhau cho khỏi bị văng đi. Thuyền cứ thế dập dềnh trong đêm.
          Khoảng gần nửa đêm, gió từ từ dịu lại, trời tạnh mưa, mọi người lại xuống dưới khoang thuyền nghỉ ngơi. Ai cũng ướt sủng cả.
          Lê Chân hỏi thuyền trưởng :
          – Anh tên gì ?
          – Tôi họ Lê, tên Hải.
          – À, thì ra anh cùng họ với tôi. Thế anh có biết chúng ta đang ở đâu không ?
          Lê Hải lắc đầu :
          – Lúc chưa bão, thì thuyền đang đi qua vùng Trường-yên (Ninh-bình ngày nay), nhưng bây giờ tiểu nhân không nhận được vị trí nữa.
          Mọi người vào khoang nằm ngủ, ai nấy đều phải mệt nhoài vì phải đứng ngoài với gió mưa, chống chọi với bão tố.
          Tiếng chim hải âu kêu trên biển làm Đào Kỳ thức giấc. Chàng ngồi dậy nhìn vợ đang say sưa trong giấc ngủ, miệng như cười mà không phải cười. Chàng cúi xuống hôn phớt trên môi vợ, tự nói với mình :
          – Phương-Dung đẹp như nàng tiên thế này, ai ngờ lại có bản lãnh kiếm thuật kinh người, tài điều khiển quân sĩ như một đại tướng. Ừ ! Không hiểu sao đã là chồng Phương-Dung, mình vẫn không quên được Tường-Quy.
          Chàng nghiệm thấy đối với Tường-Quy, chàng vừa yêu vừa tội nghiệp. Đối với Phương-Dung chàng vừa yêu, vừa kính. Chàng nhớ lời hứa với Hồ Đề, vội nhắm mắt lại xua đuổi hình ảnh Tường-Quy. Nhưng càng xua đuổi, Tường-Quy lại càng hiện ra rõ ràng hơn. Sau cùng không biết làm thế nào, chàng nghĩ đến những chuyện khác.
          Chàng chuyển ý nghĩ phân biệt tình yêu với Tường-Quy, Phương-Dung, chàng yêu ai hơn ? Chàng thấy tuy mình yêu hai người thật đậm đà, mà không thể nào sánh bằng yêu bố mẹ được. Nghĩ đến đây hình ảnh Tường-Quy biến đi mất. Trước mắt chàng cha mẹ hiện lên uy nghiêm, dịu dàng, nồng nàn, thơm ngọt như miếng cam thảo.
          Phương-Dung giật mình tỉnh giấc thấy chồng đang nhìn mình đăm đăm, nàng cảm động lắm, nắm lấy tay Đào Kỳ.
          Có tiếng Trần Năng nói ở ngoài :
          – Mời tiểu sư thúc ra ăn điểm tâm.
          Phương-Dung tính ưa ồn ào, nàng với Trần Năng là một đôi bạn thân hơn là tình đồng môn. Nàng mở cửa hỏi Trần Năng.
          – Trần châu trưởng Lôi-sơn chỉ mời một mình tiểu sư thúc thôi còn người ta nữa tính sau đây ?
          Trần Năng cười :
          – Khi cô dâu mới về nhà chồng, dù ăn cơm hẩm, rau luộc, cá kho cũng ngon. Bên cạnh lang quân, có nhịn đói một tháng cũng được.
          Trần Năng chỉ Hồng Thanh :
          – Bây giờ sư thúc Hồng Thanh mới là châu trưởng Lôi-sơn, còn cháu chỉ là cựu châu trưởng mà thôi.
          Đào Kỳ, Phương-Dung vào khoang ăn sáng. Lê Chân hỏi Lê Hải :
          – Thuyền trưởng này! Bánh lái gãy, mình có cách nào tiếp tục đi được không ? Chẳng lẽ đành ngồi chờ giữa biển hay sao ?
          Lê Hải chỉ tay về phía chân trời xa xa :
          – Phía xa xa là bờ biển. Bây giờ cứ kéo buồm lên, dùng buồm làm bánh lái, có thể tới bờ. Tới bờ, mình vào làng xóm, có thợ mộc chữa bánh lái lại cho mình.
          Lê Hải ra lệnh cho thủy thủ dương buồm. Thuyền từ từ hướng bờ đi vào.
          Trong tất cả những người có mặt, Khất đại phu là người đi nhiều, nghe nhiều, biết nhiều nhất. Ông đứng trên phòng chỉ huy nhìn vào đất liền. nhưng ông cũng không phân biệt được đây là vùng nào. Thuyền càng gần bờ, làng xóm hiện ra với ngọn khói xanh bốc lên giữa những luồng cây cối xanh um.
          Lê Hải sai thủy thủ bỏ neo, thả mủng xuống. Phùng Vĩnh-Hoa vẫy Lê Hải :
          – Thuyền trưởng cứ ở thuyền được rồi, để chúng tôi lên bờ kiếm thợ mộc sửa thuyền.
          Nàng chỉ Lê Chân, Đào Kỳ, Phương-Dung và Trần Năng :
          – Chúng ta lên bờ đi.
          Năm người xuống mủng chèo vào bờ. Lê Chân, Đào Kỳ ở biển quen, mỗi người cầm một mái chèo. Hai người võ công cao, nên chỉ một lát mủng đã vào tới bờ. Vĩnh-Hoa hỏi :
          – Có ai mang theo tiền hay vàng bạc không ?
          Đào Kỳ vỗ túi nói :
          – Nhiều thì không có, nhưng ít thì có.
          Chàng móc ra được mấy nén vàng đưa cho Vĩnh-Hoa. Bốn người lội qua một bãi cát, tiến vào khu rừng thông. Gió biển thổi, tiếng thông reo vi vu như tiếng than thở của người dân Âu-lạc mất nước từ thuở nào. Qua rừng thông, có con đường khá rộng. Tiếp tục đi một lát thấy hiện ra một trang với hàng rào tre cao vút. Đào Kỳ nhìn Phương-Dung, hai người hội ý vì thấy những cây tre làm hàng rào kiên cố giống như trang Mai động của Nguyễn Tam-Trinh.
          Chợt Phùng Vĩnh-Hoa chỉ xuống đất :
          – Ở đây có nhiều vết ngựa, không hiểu là ngựa của dân hay là ngựa của quân Hán ?
          Lê Chân chỉ về phía trước :
          – Đằng kia dường như là cổng trang. Chúng ta hãy đến đó tìm thợ mộc.
          Năm người men theo hàng rào vào đến nơi, thấy trên cổng có tấm bảng đề Thiên bản . Phương Dung đưa mắt nhìn Lê Chân ngụ ý hỏi xem có biết Thiên bản là đâu không ? Lê Chân trả lời bằng cái lắc đầu. Năm người đến trước cổng trang. Cổng đóng. Bên trong cổng là một cái khiên tròn, quấn rơm trấn ở giữa cửa.
          Vĩnh-Hoa nói :
          – Dường như trong trang đề phòng ở ngoài tấn công vào trong trang thì phải. Không biết họ chống cướp hay chống giặc Hán ?
          Lê Chân đến cổng gọi vào :
          – Có ai trong trang không ? Chúng tôi người Việt đi qua, muốn ghé trang nhờ chút việc.
          Trong trang nổi lên ba tiếng trống, rồi hai người con trai tuổi khoảng 16, 17 với một lão già lưng đeo bảo đao, nhô đầu lên khỏi ụ rơm hỏi :
          – Các người ở đâu đến ? Tên là gì ? Mau tránh ra chỗ khác, nếu không lát nữa kỵ binh Hán đến, thì chết hết.
          Lê Chân tiến lên trước hỏi :
          – Thưa bác chúng cháu đi thuyền, bị bão đánh gãy bánh lái, ghé thôn trang cho người sửa dùm, cháu xin hậu tạ.
          Lão già lắc đầu :
          – Chúng tôi muốn giúp cô nương lắm, ngặt vì trang chúng tôi bị quân Hán đánh phá mấy ngày liền, nhiều người bị thương. Không biết ngày nào sẽ bị chúng giết hết. Bởi vậy chúng tôi không thể giúp cô nương. Chính trang chủ chúng tôi cũng bị thương.
          Trần Năng thấy nét mặt lão già có vẻ thảm thương, thì mũi lòng, nói :
          – Chúng tôi không dám tò mò, không biết quý trang chủ bị thương ra sao ? Trong chúng tôi có người biết chữa thương, không chừng chúng tôi trị được vết thương cho trang chủ cũng nên.
          Thiếu niên nhìn lão già :
          – Lão Tứ ! Họ là người Việt cả, mình mời họ vào trang đi, không sao đâu.
          Lão già gật đầu, phất tay ra lệnh. Con bùi nhùi rơm được kéo lùi lại, rồi cánh cổng mở ra. Năm người người theo thiếu niên và lão Tứ vào trong trang.
          Tới căn nhà có trang đinh canh gác nghiêm mật, thiếu niên đẩy cửa, mời mọi người vào trong và kêu người mời trà.
          Trong phòng một thiếu phu tuổi khoảng bốn mươi, nhan sắc khá xinh đẹp, trên vai quấn vải trắng, lem luốc vết máu. Thiếu niên nói với thiếu phụ :
          – Mẹ ơi ! Có khách ở xa đến, họ nói có thể chữa bệnh cho mẹ.
          Thiếu phụ ngẩng đầu dậy, gật đầu chào khách :
          – Xin quý khách miễn chấp, tôi bị thương không đứng dậy chào đón được. Không biết quý khách từ đâu đến ?
          Trần Năng đỡ bọc trên lưng xuống, chạy lại đỡ thiếu phụ, nói :
          – Xin mời tiểu sư thúc và lão Tứ tạm thời ra ngoài để tôi trị bệnh cho trang chủ.
          Trần Năng cởi băng ra, thấy trên vai thiếu phụ bị một vết thương khá sâu. Nàng nói :
          – Phu nhân bị trúng độc đã lâu, cần chữa trị ngay, nếu không, e cánh tay sẽ bị liệt.
          Nàng bảo thiếu niên :
          – Em lấy nồi đun cho chị một nồi nước sôi, mang vào đây cho chị một đĩa muối trắng.
          Một lát sau thiếu niên mang nước và muối lên. Trần Năng rút trong túi ra một con dao nhỏ, ngâm vào nồi nước, rồi nói :
          – Phu nhân ráng chịu đau một chút, sau đó sẽ khỏi.
          Thiếu phụ tủm tỉm cười :
          – Cô nương cứ tự nhiên. Tôi không sợ đau đâu.
          Rồi thiếu phụ thở dài tiếp :
          – Cái đau làm thân nô lệ từ bé đến giờ còn chịu được, huống chi cái đau này, đâu có thấm gì ?
          Trần Năng nhìn Vĩnh-Hoa, Phương-Dung hội ý với nhau :
          Lại một anh hùng nữa. Nàng dùng con dao nhỏ, vận sức, khoét hết chỗ thịt bầm thối. Nước đen theo lưỡi dao rỉ ra. Một lát sau mới thấy máu bầm chảy, rồi mới tới máu đỏ. Trần Năng dùng vải nhúng nước muối chà vào vết thương. Thiếu phụ nghiến răng chịu đựng không kêu, không cả nhăn mặt. Ai nhìn cũng sởn cả gai ốc. Trần Năng lấy thuốc đắp vào vết thương, dùng kim may lại, rồi băng bó cho thiếu phụ.
          Nàng ngừng tay, trên mặt thiếu phụ đã hiện ra vẻ hồng hào. Nàng dặn :
          – Phu nhân bị trúng tên độc, bây giờ chất độc đã được lấy ra hết, vết thương đã may lại rồi, chỉ cần tỉnh dưỡng nửa tháng sẽ bình phục như thường.
          Thiếu phụ mời mọi người ra phòng khách. Phòng rộng rãi, giữa phòng để một bài vị thờ người quá cố, viết bằng máu : Liệt sĩ Lĩnh-nam, Mai tướng công chi linh vị . Dưới đề : Tuẫn quốc ngày Mậu-ngọ, tháng tư, năm Mậu-dần . Phùng Vĩnh-Hoa tính nhẩm một lúc rồi nói :
          – Thưa phu nhân, thì ra tướng công nhà ta tuẫn quốc đã mười tám năm rồi.
          Thình lình có người chạy vào, báo :
          – Thưa trang chủ, Huyện-úy mang quân tới đánh rất gấp. Anh em đang chống trả, xin báo để trang chủ định liệu.
          Thiếu phụ nghiến răng đứng dậy, nói :
          – Xin quý vị ngồi chơi để tôi ra xem tình hình thế nào.
          Thiếu phụ đứng dậy, rút thanh kiếm trên tường đeo vào lưng. Năm người cùng theo sau.
          Tại cổng trang, quân Hán dùng tên lửa bắn vào, một vài nơi đã bốc cháy, khói lên nghi ngút. Trong trang, tráng đinh núp sau các ụ đất, sau bụi tre kiên cố bắn ra.
          Có tiếng loa hô :
          – Ngưng chiến lùi ra xa.
          Quân Hán lui trở lại, dương cung đứng nhìn. Một người lùn tịt, ti hí mắt lươn, dáng người bần tiện, cưỡi ngựa tiến lên nói :
          – Các ngươi vào kêu Lê Thị Hoa, trang chủ ra nói chuyện với ta.
          Thiếu phụ chống gươm leo lên chòi cao, nhìn xuống, hỏi :
          – Trang trưởng Thiên-bản đây, ngươi muốn nói gì ?
          Viên quan cỡi ngựa nói :
          – Ta là Huyện-úy Lục-hải có mấy lời khuyên, chẳng hay nàng có nghe hay chăng ?
          Thiếu phụ gật đầu :
          – Ngươi cứ nói.
          Huyện-úy cầm roi ngựa chỉ vào trang :
          – Trang Thiên-bản của nàng bất quá được hơn trăm tráng đinh, làm sao có thể chống lại một Lữ kỵ binh, một Lữ bộ binh của ta ? Ta khuyên nàng nên đầu hàng là hơn. Trước kia, Mai Tiên, chồng nàng bị Thái-thú Tích Quang giết chết. Nàng thay chồng khởi binh báo thù là phải. Sau Tích Quang chết, Tô thái thú để cho nàng ở yên, tại sao nàng lại chống Ngũ-pháp của người ? Mấy hôm nay còn giết hàng chục lính của bản huyện ?
          Lê Thị Hoa cười nhạt :
          – Trước kia chồng ta không phạm tội mà bị Tích Quang giết, ta phải báo thù cho chàng. Sau này, Tô Định sang, ban Ngũ-pháp cực kỳ tàn bạo, không cho tập võ, không cho tụ hội, bắt nộp gạo, nộp tráng đinh. Trang của ta người ít, nghèo nàn lại bắt nộp đủ thứ. Con chó người đuổi cùng đường, nó cũng phải cắn, huống chi con người ? Còn ngươi, ngươi là người Việt, làm Huyện-úy cho giặc, mang người Việt đi giết người Việt, đạo lý đó là đạo lý gì, ngươi có thể nói cho ta hay được không ?
          Viên Huyện-úy cười nhạt :
          – Trước kia Chu Võ-vương phong cho 800 chư hầu, sau này Tần Thủy-Hoàng thống nhất làm một, vì vậy, nào Sở, nào Hán, nào Tần, nào Tề, nào Việt cũng chỉ là một. Kể từ khi đức Cao-tổ chém rắn khởi nghĩa, trải mấy trăm năm. Mới đây, Vương Mãng cướp ngôi, Kiến-vũ thiên tử lại trung hưng lên được. Khắp thiên hạ đều là con đỏ của Hán triều. Ta là Huyện -úy, thừa lệnh thiên tử, bảo an cho dân, ngươi phản loạn, ta dẹp ngươi. Ngươi lại còn đem Việt, đem Hán ra phân biệt sao ?
          Lê Thị Hoa chưa biết nói sao, Phương-Dung đã leo lên đài, đứng cạnh bà, chỉ vào mặt Huyện-úy, nói :
          – Huyện úy, ngươi đã dốt, thì đừng đem cái dốt ra bịp người. Ta hỏi ngươi Chu Võ-vương phong cho 800 chư hầu, đó là những chư hầu người Trung-nguyên. Còn đất Văn-lang ta đâu phải chư hầu của họ ? Đất nước này lập nên từ thời Lạc Long Quân, đến nay đã trải trên 2000 năm. Đời Âu-lạc kế tiếp, đất Nam của người Việt. Chúng ta bị Triệu Đà dùng gian kế chiếm nước, rồi triều Hán diệt Triệu Đà. Lĩnh-nam vẫn là Lĩnh-nam. Còn ngươi bảo rằng khắp thiên hạ đều là con dân Hán, thế ta cũng bảo là khắp thiên hạ đều là con dân Âu-lạc ngươi nghĩ sao ? Giặc Hán tàn bạo đuổi chúng đi không khó. Khó vì những tên Việt làm đầy tớ cho Hán như ngươi !
          Huyện-úy thấy tự nhiên có một thiếu nữ xinh đẹp, nói năng hoạt bát, thông thuộc lịch sử lên đài chửi mình. Y không dám lên mặt nữa. Y nói :
          – Lê Thị Hoa, ngươi có giỏi, mở cổng trang ra đánh nhau với ta, chứ đại trượng phu mà cứ trốn chui, trốn nhủi như vậy, sao gọi là anh hùng ?
          Phương-Dung cười nhạt :
          – Huyện úy, ngươi thực ngu hơn bò. Lê phu nhân đây là nữ lưu, đâu phải là đại trượng phu ? Nói mà không nghĩ, chẳng khác gì con tôm lộn cứt lên đầu. Ta khuyên ngươi nên về quỳ gối hầu hạ bọn Hán thì hơn.
          Phía sau Huyện-úy có ba thiếu niên cỡi ngựa, đeo kiếm. Một thiếu nữ người lùn tịt, mắt lé, dáng người thô lỗ cục mịch như con lợn. Một trong ba thiếu niên vọt ngựa ra trước, nói lớn :
          – Trong trang Thiên-bản có ai địch lại ta, sư phụ ta sẽ rút binh. Còn không, hãy mau đầu hàng đi.
          Lê Thị Hoa cười :
          – Hoàng Đức-Phi, tướng mi lùn tịt, ti hí mắt lươn, đi làm đầy tớ cho bọn Hán, chắc lũ đệ tử toàn là thứ trộm cắp, có tài cán gì. Mi có giỏi, hãy cho lui binh lại, thiếu niên trong trang đâu có sợ lũ học trò thối tha của ngươi ?
          Hoàng Đức-Phi vẫy tay. Binh lính lùi lại phía sau. Lê Thị Hoa xuống đài, ra lệnh cho trang đinh mở cổng. Cánh cửa mở ra, bốn thiếu niên tướng mạo hùng vĩ cỡi ngựa thủng thẳng tới dàn đối diện với Hoàng Đức-Phi. Phi nhìn bốn thiếu niên, nói :
          – Ta nghe Mai Tiên chết đi để lại bốn người con là Mai Đạt, Mai An, Mai Thỏa và Mai Tứ tức bọn này đây chăng ? Được ta cũng giới thiệu cho biết bốn đệ tử của ta, đó là Hoàng Bá-Hiển, Hoàng Phi-Long, Hoàng Vĩnh-Liên và Hoàng Thị Huệ. Bản lĩnh chúng hiếm có trên thế gian. Vậy ta đề nghị, bây giờ, ba đệ tử của ta đấu với ba đứa con của nàng. Nếu bên ta bại hai trận, coi như ta bại, ta sẽ rút lui. Vĩnh viễn để yên cho trang Thiên-bản các ngươi muốn làm ma làm quỷ gì thì làm. Còn ngược lại bên ta thắng, các ngươi phải giải giới toàn trang. Ta sẽ cử ngưởi khác về cai quản thôn trang. Ngươi có dám hứa không ?
          Lê Thị Hoa nhìn các con với vẻ hãnh diện :
          – Con ta là dòng dõi Âu-lạc, anh hùng, dù chết, dù sống, dù thắng, dù bại cũng vẫn là anh hùng, há sợ gì ngươi ?
          Hoàng Bá-Hiển nhảy xuống ngựa, tiến đến trước, khoanh tay thành quyền đầy vẻ tự đắc :
          – Anh em họ Mai, người nào dám xuất trận với ta ?
          Mai An bước ra nói :
          – Mai An xin lãnh giáo võ công của công tử.
          Nói rồi chàng rút kiếm khoanh một vòng, kiếm hướng chênh chếch về trước thành chiêu Tạ thiên bái địa , một chiêu dùng để chào. Vĩnh-Hoa nhìn Phương-Dung :
          – Kiếm pháp Long-biên, không biết anh em nhà họ Mai là đệ tử của ai ? Không chừng là người nhà cũng nên.
          Hoàng Bá-Hiển cũng rút kiếm, trầm người xuống chào. Đến lượt Phương-Dung nhìn Đào Kỳ :
          – Anh coi kiếm pháp họ Đào nhà mình kìa. Anh em họ Hoàng là đệ tử của ai ? Không biết Hoàng Đức-Phi có liên hệ gì với chú Hùng không ?
          Hai người đã bắt đầu đấu, Phương-Dung trong lòng nghi hoặc, nói với Vĩnh-Hoa :
          – Chị Hoa thực lạ quá, Hoàng Bá-Hiển sử dụng võ công Cửu-chân, còn Mai An sử dụng võ công Long-biên. Chị đoán thử xem họ có liên hệ gì với chúng ta ? Không biết chúng ta nên bênh bên nào ?
          Vĩnh-Hoa cười chúm chím :
          – Coi bộ em mới lấy chồng, lú lẫn rồi hay sao ? Muốn biết anh em họ Mai học võ với ai, cứ hỏi Lê phu nhân khắc biết chứ có khó gì ? Còn anh em họ chắc chắn không học võ với Đinh hầu, Đào hầu. Chỉ còn Đào Thế-Hùng, nhưng từ Lục-hải tới Đăng-châu xa quá, chắc cũng không phải ông dạy cho bọn này. Vậy họ học ở đâu ? Không lẽ là chị Thiều-Hoa dạy chúng như dạy Hùng Bảo chăng ?
          Phương-Dung đến bên Lê Thị Hoa hỏi bà :
          – Phu nhân kiếm pháp của Tam công tử vững mà trầm trọng, không biết công tử học với ai vậy ?
          Lê Thị Hoa gật đầu đầy vẻ hãnh diện :
          – Các con tôi đều học với hai vị anh hùng nức tiếng là Trương Thủy-Hải và Trương Đằng-Giang của phái Long-biên.
          Đào Kỳ nhìn Phương-Dung, Vĩnh-Hoa nháy mắt làm hiệu, y nói :
          – Hãy chờ xem, đừng ra mặt vội.
          Vĩnh-Hoa nhìn Hoàng Bá-Hiển, nhíu mày suy nghĩ rồi hỏi Đào Kỳ :
          – Đào tam đệ, võ công của Hoàng Bá-hiển có thật là võ công Cửu-chân không ?
          Đào Kỳ cũng đang nghĩ thế, vì chàng thấy thỉnh thoảng Bá-Hiển lại đánh lẫn một vài chiêu của phái Tản-viên. Nhất là bộ pháp, gần như là của Tản-viên. Chàng cố moi óc xem anh em họ Hoàng học võ với ai trong nhà chàng. Chàng nói với Phương Dung :
          – Mai An thua đến nơi rồi, bởi kiếm pháp Long biên lấy mau thắng chậm, nhưng y ta lại không biết lợi dụng cơ hội thắng địch ngay lúc đầu, cứ kéo dài mãi như vậy tất thua. Vì võ công Cửu-chân thiên về dương cương, đánh chậm mà chắc, mỗi lúc một trầm trọng thêm.
          Quả nhiên Mai An đã có vẻ luống cuống, Vĩnh-Hoa bảo Phương-Dung.
          – Dù bên nào là người nhà, bên nào là kẻ thù ta phải giúp bên họ Mai. Bởi họ Mai thua, chúng ta sẽ mất đi một trang chủ phản Hán. Phải để cho họ Hoàng thua, hầu trang này tồn tại. Em giúp Mai An đi.
          Phương-Dung đến bên Mai Đạt nói nhỏ :
          – Em của anh thua đến nơi rồi. Tôi là người ngoài không tiện lên tiếng. Vậy tôi chỉ điểm cho em anh. Tôi nói câu nào, anh nhắc lại nguyên câu đó thực nhanh nghe.
          Mai Đạt đứng ngoài cũng thấy em mình sắp thua, nhưng không biết làm thế nào. Chợt thấy Phương-Dung nói thế, cũng nghe theo, gật đầu. Phương-Dung thấy Mai An lùi lại, kiếm đánh từ phải sang trái, trong khi kiếm của Hoàng Bá-Hiển đâm về trước. Nàng nói khẽ :
          – Hoàng long phi thiên.
          Mai Đạt nhắc lại nguyên lời. Mai An nghiêng người qua trái tránh kiếm của Bá-Hiển, rồi chém thẳng về trước ba kiếm liền. Choang một tiếng, kiếm Bá Hiển rơi xuống đất. Cổ tay máu chảy đầm đìa. Y lùi lại, ôm tay, mặt nhăn nhó, đau đớn. Mai An chĩa kiếm vào cổ y :
          – Ngươi thua rồi. Ta tha cho đấy hãy về trận băng bó tay đi.
          Hoàng Phi-Long bước ra nói :
          – Vừa rồi sư đệ ta đấu với Mai An, sao các ngươi ở ngoài xía miệng vào, như vậy không kể.
          Mai Đạt xì một tiếng :
          – Xưa nay đấu võ, người bên ngoài có quyền hô hào, cổ võ, có ai cấm đâu? Các ngươi thua rồi. Nếu là anh hùng hảo hán, thua thì phải nhận thua. Còn cãi chầy, cãi cối, không phải thái độ của người Việt.
          Mai Thỏa định bước ra đấu với Phi-Long. Vĩnh-Hoa vội hỏi Lê Thị Hoa :
          – Phu nhân, Đạt với Thỏa võ công ai cao hơn ?
          – Dĩ nhiên là Đạt.
          Vĩnh-Hoa nói nhỏ ;
          – Chỉ còn một trận nữa, nên cho Đạt xuất thủ, cần gì phải để dành đấu trận sau ?
          Lê Thị Hoa tỉnh ngộ nói :
          – Đạt, con ra lãnh giáo Hoàng Phi-Long đi.
          Mai Đạt tin tưởng Phương-Dung, chàng bước ra, khoanh tay nói :
          – Mai Đạt xin lãnh giáo kiếm pháp của công tử Phi-Long.
          Phi-Long rút kiếm đánh véo một cái, ra chiêu Đại bàng thăng thiên. Mai Đạt thấy thế kiếm hùng mạnh, nhảy lùi lại, không đỡ, mà đâm xéo ra một kiếm. Hai người quấn lấy nhau mà đấu. Đào Kỳ nhận thấy võ công của Phi-Long không hơn gì Hùng-Bảo mấy năm trước. Chàng độ chừng anh em họ Hoàng học với những người ngang vai chàng, chứ không phải chú chàng, nên tạm yên tâm.
          Phương-Dung nói nhỏ vào tai Đào Kỳ :
          – Họ Hoàng học võ với nhị sư huynh Trịnh Quang. Rõ ràng võ công của y pha võ công Tản-viên.
          Đào Kỳ nhìn kỹ lại chiêu thức thì quả đúng, chàng không còn úy kỵ gì về anh em họ Hoàng nữa.
          Trong trận, bỗng Phi-Long trầm kiếm xuống, rồi nhảy lên cao, Mai Đạt cũng nhảy lên cao. Hai kiếm chạm nhau đánh choang một tiếng, cả hai đều bị văng mất kiếm. Mai Đạt vung chưởng đánh thẳng vào mặt Long. Long lấy ngón tay chỏ làm chỉ hướng về trước, nếu Mai Đạt tiếp tục đánh tới, chính chàng sẽ bị thương. Mai Đạt vội biến chưởng thành cầm nã bắt cổ tay Long. Long bật tay ngang ra. Hai cổ tay đụng nhau. Hai người cùng đau đớn, lùi lại.
          Chợt, Long quát lên một tiếng, vung chưởng đánh tới, chưởng lực cực kỳ hùng mạnh. Đào Kỳ vội kêu lên :
          – Thiết kình phi chưởng phải cẩn thận.
          Mai Đạt vung chưởng đở. Bộp một tiếng, cả hai đều lùi lại, nhìn nhau gườm gườm. Long lại vung chưởng đánh ra, Mai Đạt cũng vung chưởng đỡ, hai chưởng dính tét vào nhau. Thế là hai người đấu nội lực. Hai bên cùng vận hết sức đẩy ra. Đào Kỳ bảo Phương-Dung :
          – Nguy tai, nếu đấu nội lực, Mai Đạt thua mất, vì võ công Cửu-chân thiên về dương cương, võ công Long-biên thiên về âm nhu. Mai Đạt đấu sao lại ? Thua đến nơi rồi.
          Vĩnh-Hoa hỏi Đào Kỳ :
          – Đào Tam đệ, trong phái Cửu-chân có lối vận khí nào lên cực mạnh rồi nguy hiểm không ?
          Đào Kỳ nhíu mày, nói :
          – Có, không nguy hiểm, nhưng bị tê liệt trong vài khắc.
          Vĩnh-Hoa bảo Đào Kỳ :
          – Em làm như nhắc Phi-Long để giúp y thắng Mai Đạt. Sau đó y bị liệt coi như hòa. Chỉ cần hòa bàn này, chúng ta có thể thắng trận sau.
          Đào Kỳ tỉnh ngộ nói lớn :
          – Hoàng Phi-Long công tử nghe đây !
          Rồi chàng tiếp :
          – Khi đấu nội lực gặp đôi thử dùng nội công âm nhu, phải cho khí trầm Đơn-điền. Từ đơn điền đưa khí xuống thận. Từ thận đưa ngược lên Thượng-tiêu. Như vậy âm kình của địch sẽ bị hóa giải.
          Phi-Long đang đấu nội lực với Mai Đạt, thấy có người nhắc dùng nội công tâm pháp của mình, vội làm theo. Quả nhiên y đẩy mạnh một cái, Mai Đạt lùi lại hai bước, ngã lộn đi hai vòng không ngồi dậy được nữa. Phi-Long mừng quá thu tay về nói :
          – Ngươi thua rồi !
          Bỗng y choáng váng mặt mày, ngã ngồi xuống mặt tái mét, chân tay run run như người trúng lạnh.
          Lê Thị Hoa bước ra đỡ con dậy. Bên kia, Hoàng Bá-Hiển cũng nhảy ra bồng Phi-Long về.
          Lê thị Hoa bước ra nói :
          – Trận thứ nhì, con ta bị đánh ngã, nhưng bên ngươi Phi-Long cũng bị kiệt lực. Vậy coi như hòa. Chúng ta đấu trận thứ ba.
          Phùng Vĩnh-Hoa nghĩ ra một kế, vội đến bên Lê Thị Hoa, nói :
          – Phu nhân, người xin hai bên bãi chiến để ăn cơm đã, sao đó hãy đấu tiếp, tôi có kế giúp phu nhân.
          Lê Thị Hoa thấy đám Đào Kỳ, năm người đột ngột xuất hiện chữa thương cho bà, rồi họ còn bàn nhỏ, bàn to giúp con mình thắng một trận, hòa một trận. Bà nảy sinh lòng kính trọng. Nghe Vĩnh-Hoa, bà bước ra, nói lớn :
          – Hoàng huyện úy, trời đã trưa rồi, chúng ta hãy ngừng lại để ăn cơm, lát nữa tái đấu nên chăng ?
          Hoàng Đức-Phi là người gian xảo, y muốn nghỉ trưa để tìm kế thắng địch, nên đồng ý ngay :
          – Được, giờ Mùi tái đấu.
          Lê Thị Hoa vẫy tay, tráng đinh rút vào trong trang, đóng cổng lại. Bà mời mọi người vào sảnh đường, chắp tay hướng vào Trần Năng :
          – Trước hết xin đa tạ cô nương đã chữa bệnh cho. Chẳng hay cô nương với Khất đại phu là người thế nào ?
          Trần Năng lễ phép đáp :
          – Thưa tôi là đệ tử của người. Sư phụ tôi ở cách đây không xa.
          Lê Thị Hoa ái chà một tiếng, nói :
          – Thì ra thế, lối chữa bệnh của cô nương có một không hai trên đời. Cách đây mấy ngày, tôi bị thương, định lên đường tìm Khất đại phu xin trị bệnh. Nhưng chị em khuyên rằng Khất đại phu như con rồng khi ẩn khi hiện, không biết người ở đâu, thành ra tôi chưa đi. Duyên may đưa cô nương tới đây chữa trị cho, trang Thiên-bản kính cẩn tạ ơn cô nương.
          Bà quay lại nhìn Phương-Dung, Đào Kỳ :
          – Hai vị là ai lại biết rõ cả võ công Cửu-chân lẫn võ công Long-biên, giúp các con tôi ?
          Trần Năng giới thiệu :
          Trần Năng giới thiệu :
          – Vị này là ái nữ của chưởng môn Long-biên tên Phương-Dung.
          Mai Đạt cùng các em vội chắp tay hướng vào Phương-Dung, hành lễ :
          – Thì ra sư tỷ, sư tỷ là đệ nhất cao nhân của bản phái. Trong đại hội Tây-hồ đã trổ kiếm pháp thần thông, làm cho bọn phản đồ kinh hồn, táng đởm. Sư phụ thường nhắc đến sư tỷ luôn. Người nhớ nhung sư tỷ lắm đó. Người bảo rằng sư tỷ sắp lấy chồng.
          Phương-Dung chỉ Đào Kỳ :
          – Đây là Đào Kỳ, chồng của chị.
          Lê Thị Hoa kêu lên :
          – Thì ra tiểu công tử của Đào hầu Cửu-chân. Tôi nghe công tử đã học võ công Cửu-chân, Long-biên, Tản-viên đến chỗ siêu việt, đánh thắng Lê Đạo-Sinh trong đại hội Tây-hồ. Thảo nào chỉ nhắc Phi-Long một câu đã khiến nó phun máu miệng.
          Đào Kỳ chỉ Lê Chân :
          – Đây là chị Lê Chân.
          Mai Đạt kêu lớn :
          – Thì ra Đông-triều nữ hiệp đây. Bọn chúng tôi ở xa mà cũng nghe danh, không ngờ có cơ duyên, hôm nay được gặp gỡ ở đây.
          Rồi Mai Đạt chỉ Phùng Vĩnh-Hoa :
          – Còn sư tỷ đây chắc là Đăng-châu nữ hiệp, vì tôi thấy mưu thần, chước thánh khó ai bì kịp.
          Đào Kỳ bảo anh em họ Mai :
          – Các sư đệ được sư thúc truyền thụ võ công, chúng ta không dám bình luận ưu liệt. Chúng tôi qua đây, thấy trang Thiên-bản gặp nạn, phải cứu. Hiện cả bốn sư đệ, đều không phải đối thủ của anh em họ Hoàng đâu, vì chúng là học trò của nhị sư huynh tôi. Trong phái Long-biên có một pho kiếm pháp kỳ diệu, các sư đệ biết chứ ?
          Mai An gật đầu :
          – Sư phụ nói pho kiếm đó chỉ có chưởng môn mới được học. Năm trước, sư tổ có kỳ duyên gặp sư huynh trong tù, nhờ sư huynh học rồi đem ra truyền thụ cho người phái Long-biên. Sư huynh đã truyền cho sư tỷ Phương-Dung. Đó là 72 chiêu trấn môn và bài quyết biến hóa. Nếu học được, có thể nối các chiêu bản môn làm một, thành anh hùng vô địch. Năm xưa, tổ sư Vạn-tín hầu đã thắng phò mã Sơn Tinh bằng pho kiếm này, có phải không ?
          Đào Kỳ nhìn Phương-Dung :
          – Bây giờ chúng ta phá lệ, truyền cho các sư đệ mấy chiêu biến hóa, để các sư đệ có thể thắng anh em họ Hoàng. Sau trận đánh chúng ta sẽ dạy thêm.
          Phương-Dung đồng ý, nàng bắt bốn anh em họ Mai đứng giữa sảnh đường chỉ điểm cách biến chiêu từng ly, từng tí một. Sau khi họ được học sáu chiêu biến hóa, mọi người tạm nghỉ để ăn trưa. Rồi Phương-Dung lại bắt tập tiếp. Đến giờ Mùi, họ đã tập được 12 chiêu.
          Đào Kỳ dặn :
          – Với 12 chiêu biến hóa, các sư đệ thừa sức thắng anh em họ Hoàng. Nhưng nhớ, đừng giết chúng, bởi chúng ta cần hòa hoãn với Huyện-úy.
          Lê Thị Hoa truyền đánh ba hồi trống, mở cổng trang. Bên ngoài, bọn họ Hoàng đã dàn hàng ra chờ đợi.
          Hoàng Đức-Phi nói :
          – Nào, bên họ Mai ai sẽ ra tay ?
          Phương Dung chỉ Mai Tứ :
          – Sư đệ còn nhỏ, ra tay khiến cho chúng khinh địch, lúc đấu hãy giả thua, luống cuống rồi bất thần phản công.
          Mai Tứ ôm kiếm từ từ bước ra, ngoài sức tưởng tượng của bọn Hoàng Đức-Phi. Địch thủ của Mai Tứ là Hoàng Thị Huệ.
          Mai Tứ vung kiếm ra chiêu chào khách, quay tròn đánh một chiêu, tay trái bắt kiếm quyết coi rất đẹp. Hoàng Thị Huệ vung kiếm đánh lại. Chỉ trong khoảng mười chiêu Mai Tứ cứ lùi mãi. Thị Huệ cho rằng bên địch yếu thế nên tấn công rất gắt. Bất thình lình Mai Tứ quay kiếm tròn một vòng, rồi biến chiêu như hoa rơi, như nước chảy, không biết đâu mà lường. Hoàng Thị Huệ choáng váng mặt mày, chân tay luống cuống.
          Cũng may Phương-Dung, Đào Kỳ đã dặn trước, nếu không Mai Tứ đã đả thương y thị rồi. Mai Tứ như đùa giỡn với đối thủ, biến từ chiêu này sang chiêu khác, như có như không. Hoàng Thị Huệ đã mệt nhừ. Y thị thở hổn hển nói :
          – Con mẹ nó, ngươi muốn giết thì cứ giết đi, ta không cần sống nữa.
          Mai Tứ chĩa kiếm vào cổ y thị, nói :
          – Hoàng Thị Huệ, bấy lâu mi đi làm đầy tớ cho tên lùn Hoàng Đức-Phi, mi tưởng cuộc đời tôi tớ hãnh diện lắm, nên theo gót y làm biết bao điều ô uế. Hôm nay ta phải trừng phạt ngươi. Trước hết ta đánh dấu vào mặt mi, để mi trốn đâu thiên hạ cũng nhận ra.
          Ánh kiếm lóe lên, hai bên má Thị Huệ bị gạch chéo hai vết kiếm, máu chảy đầm đìa.
          Mai Tứ nói :
          – Người Việt Mình thường ví bọn lưu manh bằng câu "Nhất lé nhì lùn". Sư phụ mi là một thằng lùn, thủ lãnh bọn ma đầu. Mi vừa lùn, vừa lé, ta vẽ cho mi hai vết trên má coi đẹp gớm.
          Hoàng Thị Huệ uất quá, đánh rơi kiếm, ngã lăn xuống đất, ngất xỉu không biết gì nữa.
          Lê Thị Hoa đứng trước trận nói lớn :
          – Hoàng huyện úy. Người hứa rằng trong ba trận nếu bên tôi thắng hai, người sẽ để cho trang chúng tôi yên ổn. Bây giờ bên Hoàng gia thua hai, hòa một, không biết người có giữ lời hứa không ?
          Hoàng Đức-Phi ngửa mặt lên cười, đôi mắt ti hí kéo dài tới mang tai :
          – Mai phu nhân tôi đã hứa, dĩ nhiên phải giữ lời. Từ nay tôi không lý tới trang Thiên-bản của phu nhân nữa.
          Rồi y vẫy tay ra lệnh thu quân.
          Lê Thị Hoa cũng ra lệnh cho rút vào trong trang.
          Tới đại sảnh Phùng Vĩnh-Hoa lắc đầu nói :
          – Tôi xem ý Hoàng Đức-Phi chưa chắc chịu bỏ qua đâu. Chúng ta phải tìm lấy một lối giải quyết lâu dài cho trang Thiên-bản, hơn là để kéo dài tình trạng này.
          Lê Chân tường thuật sơ lược những gì xảy ra ngoài đảo cho Lê Thị Hoa nghe, rồi ngỏ ý nhờ bà giúp đỡ sửa bánh lái chiến thuyền. Bà ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói :
          – Từ đây về Long-biên phải một ngày ngựa. Đi thuyền phải mất năm ngày. Tôi đề nghị : Thợ mộc sẽ ra sửa bánh lái thuyền, cho thủy thủ có thể trở về Long-biên. Còn quý vị, nên lên bờ, dùng ngựa tốt hơn. Quý vị tuy tin Nghiêm Sơn, nhưng biết đâu thủy thủ đoàn đã không tuân lệnh Tô Định ? Lỡ giữa biển họ đánh chìm thuyền, chúng ta khó toàn vẹn.
          Vĩnh-Hoa gật đầu đồng ý. Nàng để Đào Kỳ, Phương-Dung, Trần Năng ở lại. Còn nàng dẫn thợ, chèo mủng ra khơi sửa chiến thuyền.
          Phương-Dung, Đào Kỳ hết tâm luyện võ cho anh em họ Mai. Bốn anh em họ Mai gặp được người sư tỷ, mà sư phụ họ gọi là đệ nhất cao nhân bản phái, thì mừng rỡ vô cùng. Họ luyện tập không ngừng.
          Tới chiều, Khất đại phu với mọi người đã vào đến trang. Lê Thị Hoa mừng rỡ vô cùng. Họ lại đàm luận việc phục quốc. Phùng Vĩnh-Hoa nói :
          – Đêm nay chúng ta thám thính tình hình huyện Lục-hải xem sao đã. Nếu họ Hoàng để cho trang Thiên-bản yên thì thôi. Nếu y có mưu đồ gì khác, chúng ta giết y quách, để Nghiêm đại ca cử người của mình vào là được việc nhất.
          Trưng Nhị đồng ý :
          – Kể ra giết y như vậy cũng không anh hùng. Nhưng đối với việc phục quốc, giết bớt đi một tên chó săn lại là điều cần thiết. Đêm nay Vĩnh-Hoa, Trần Năng, Hồ Đề đi là được rồi. Các hành động nhất thiết do Vĩnh-Hoa quyết định.
          Phương-Dung không chịu, nói :
          – Sư tỷ tại sao em không được đi ?
          Trần Năng cười :
          – Sư thẩm đi, sư thúc ở nhà một mình buồn chết. Ai lại cho cô dâu mới lấy chồng bỏ chồng một mình bao giờ ? Cổ nhân nói: Vợ chồng mới cưới, đêm xuân đáng giá nghìn vàng. Sư thẩm lỡ đánh mất nghìn vàng ư?
          Phương-Dung xấu hổ đánh Trần Năng. Trần Năng trầm người tránh khỏi, cười khúc khích. Vĩnh-Hoa bảo Phương-Dung:
          – Em phải ở nhà để cùng sư bá và Đào tam đệ luyện võ cho bốn sư đệ họ Mai.
          Bây giờ nàng mới hiểu ý Trưng Nhị. Nàng nhìn cha, nói :
          – Bố ơi, Bố cho phép con phá lệ, dạy bí quyết trấn môn cho các sư đệ.
          Nguyễn Trát gật đầu :
          – Con nghĩ vậy là phải. Phục quốc là việc lớn hơn hết.
          Đợi tối trời, Vĩnh-Hoa, Trần Năng, Hồ Đề lấy ngựa hướng về huyện đường Lục-hải. Tới gần huyện đường ba người cột ngựa vào rừng, len lỏi vào phố huyện. Phố xá Lục-hải khá đông đúc, đèn đuốc sáng rực. Ba người hỏi thăm tìm đến huyện đường. Huyện đường xây bằng đá, đèn nến sáng trưng. Bên ngoài có lính canh phòng cẩn mật.
          Ba người vòng ra sau, nhảy qua hàng rào vào trong, qua dãy nhà ngang tới huyện đường. Họ theo vườn hoa đến bên cửa sổ ghé tai nghe ngóng. Có tiếng từ trong vọng ra :
          – Không hiểu tại sao hôm nay có một chiến thuyền, cờ hiệu của hải đoàn Luy-lâu đậu ngoài khơi, rồi bốn gái một trai vào trang Thiên-bản. Chính bọn này giúp họ Mai thắng đám đệ tử của ta. Ngươi thử đoán xem họ là ai ?
          Có tiếng đáp lại :
          – Sở Tế-tác Lục-hải báo cáo rằng, đó là những người có võ công rất cao. Hồi chiều còn năm mươi người nữa từ chiến thuyền đổ bộ vào trang Thiên-bản. Già có, trẻ có, nam có, nữ có. Không biết họ là ai ? Nhất định có liên hệ tới phủ Bình-Nam đại tướng quân.
          Có tiếng Hoàng Đức-Phi nói :
          – Thế thì kỳ lạ thực. Chúng ta phải mau phúc bẩm về phủ Thái-thú mới được. Chứ để họ giúp phản tặc ở trang Thiên -bản, chúng ta sẽ nguy đến nơi mất.
          Có tiếng khác nói :
          – Đêm mai, chúng ta bất thần mang hết lữ bộ binh ở đây, cùng với trang đinh trang Lục-hải đến tấn công. Trang Thiên-bản sẽ thành bình địa. Bấy giờ Lĩnh-Nam công binh vực cũng không được nữa. Bây giờ chúng ta nghỉ ngơi mai sẽ điều quân.
          Ba người ẩn vào bụi cây, thấy Hoàng Đức-Phi tiễn một người ra. Vĩnh-Hoa đoán rằng đó là Huyện-lệnh.
          Đợi cho Hoàng Đức-Phi đóng cửa rồi, ba người vẫy tay nhảy qua cữa sổ vào phòng. Hoàng Đức-Phi thấy ba người con gái lạ nhảy vào thì quát lớn :
          – Các người là ai ?
          Y vung quyền lên đánh. Trần Năng thuận tay đỡ. Bộp một tiếng y văng vào góc nhà. Mặt nhăn nhó khổ sở. Nàng rút gươm chỉ vào cổ hắn, nói :
          – Im mồm. Nếu mi kêu một tiếng, ta chém đầu tức thì.
          Trước khi đi Trần Năng nghe Lê Thị Hoa nói Hoàng Đức-Phi là người Việt lấy vợ Hán. Võ công y cao đến đâu không ai hay, chỉ thấy đám học trò y là Bá-Hiển, Phi-Long, Vĩnh-Liên võ công cũng khá cao, chắc võ công y cũng thuộc vào loại khá. Vỉ vậy Trần Năng mời vận tới năm thành công lực để đỡ. Nào ngờ y chỉ là cái bị thịt.
          Hồ Đề cầm kiếm dí vào ngực y hỏi :
          – Huyện lệnh tên gì ?
          – Dạ, tên Phạm Thu-Tòng.
          – Tòng có biết võ nghệ không ?
          – Thưa biết, y là một cao thủ Trung-nguyên.
          – Bây giờ mi lấy bút mực ra viết đi.
          Hoàng Đức-Phi riu ríu lấy bút mực ra. Phùng Vĩnh-Hoa đọc :
          Niên hiệu Kiến vũ thứ 12, nhà Đại-hán.
          Huyện úy Lục-hải là Hoàng Đức-Phi khấu đầu trước Lục tiên sinh. Từ khi được tiên sinh dạy dỗ đề bạt cho tiểu nhân được làm Huyện-úy Lục-hải, lúc nào Ty chức cũng nhớ ơn tiên sinh canh cánh bên lòng.
          Hôm trước được lệnh tiên sinh dạy phải chuẩn bị trang đinh cùng bản bộ binh mã phục sẳn bên đường đợi khi tên Nghiêm Sơn từ Cửu-chân ra, dùng cung tên giết chết. Tiểu nhân lúc nào cũng theo dõi, không dám ngừng trệ. Ngặt vì tiểu nhân sức hèn, văn không đủ tài, võ không đủ dùng, nên e có điều sơ xuất. Vậy dám xin tiên sinh viện cho tiểu nhân một cao thủ vào trợ lực, thì mới hy vọng thành công.
          Tiểu nhân khép nép cúi đầu đợi lệnh tiên sinh.
          Hồ Đề bắt y ký tên, đóng dấu, niêm phong lại, rồi cầm lấy. Phùng Vĩnh-Hoa nói :
          – Mưu đồ đánh chiếm trang Thiên-bản của ngươi đã bị bại lộ. Nếu trở mặt ta sẽ giết cả nhà mi, biết không ?
          Hoàng Đức-Phi run sợ gật đầu.
          Nguyên Hoàng Đức-Phi cha mất sớm, phiêu bạt, vô sở bất chí. Y theo bọn ăn cướp lưu lạc sang Trung-nguyên, lấy vợ là gái điếm người Hán. Y cũng học được dăm ba thế võ phòng thân. Nhân ăn trộm được một món tiền lớn, đem tặng cho ông thầy người Hán. Ông ta nhận y làm đệ tử, nhưng vì không có khiếu học võ, thành ra đi đâu y cũng chỉ đưa tên sư phụ ra để bịp đời. Vợ người Hán cũng có nhan sắc. Y cùng vợ theo Tô Định làm kẻ hầu hạ. Vợ là gái điếm quen đường cũ, thường vào dinh ăn nằm với Tô Định. Hai đứa con của y, thì một đứa là con Tô.
          Từ khi sang Giao-chỉ, Tô Định có nhiều gái, không cần đến Hoàng Đức-Phi, mới cho y một chức Huyện-úy. Trong khi ra vào cửa Thái-thú, y quen với Trịnh Quang, tên phản đồ phái Cửu-chân.
          Hoàng Đức-Phi chỉ biết dăm ba miếng võ, nhưng lại muốn làm ra vẻ ta đây, một đại tôn sư võ học. Y rủ Huyện-lệnh Phạm Thu-Tòng, Lữ-trưởng Trần Phúc, Lữ phó Nguyễn Văn Thinh, Giám-sở tế tác Trần Minh-Long và hai võ sư Trung-nguyên Hoàng Xuân-Nam, Nguyễn Đăng-Giầu xưng là "Lục hải thất hiệp". Y là Huyện-úy, thân thiện với Tô Định được sáu người kia nể nang, cho đứng đầu. Tuy y võ nghệ rất kém nhưng đứng đầu Lục-hải thất hiệp. Võ lâm anh hùng thấy võ công của mấy người kia cao cường, do đó tưởng rằng người cầm đầu hẳn bản lĩnh phải ghê gớm lắm, nên người ta đã sợ bóng sợ gió y mấy năm qua.
          Y chỉ biết dăm ba miếng võ mèo cào, muốn dọa thiên hạ, y treo bảng tuyển học trò. Có bảy tám người đến theo học với y. Trong đó có Bá-Hiển, Phi-Long, Vĩnh-Liên. Y dạy văn cho ba người, còn võ, y để Trịnh Quang dạy.
          Trịnh Quang thấy y được Tô Định trọng dụng nên cúi đầu tôn y làm sư phụ. Cái ngược đời nhất kim cổ không ai ngờ tới : Trịnh Quang là đệ tử danh môn chính phái, sư phụ nổi tiếng anh hùng đương thời, lại phản sư môn, tôn một tên lưu manh không biết võ nghệ làm thầy.
          Hoàng Đức-Phi bảo Trịnh Quang dạy võ cho bọn Phi-Long, Bá-Hiển. Y tuân lệnh. Thành ra ba tên đệ tử, cứ tưởng đại sư huynh thay sư phụ dạy mình. Có ngờ đâu Hoàng Đức-Phi chỉ là một tên lưu manh hoạt đầu.
          Trịnh Quang có một sư muội cùng học Phong-châu song quái với y là Thị Huệ. Trước đây Thị Huệ là con một tên phu xe ngựa ở Luy-lâu. Y thị được Song-quái thu làm đệ tử, dạy cho mấy miếng võ. Nay được Trịnh Quang giới thiệu với Hoàng Đức-Phi. Phi cũng mang về nuôi, cho mang họ Hoàng và tuyên bố là đệ tử.
          Ở Lục-hải y giữ chức Huyện-úy, ngày ngày mang lính đi đàn áp các trang ấp, sách nhiễu vàng bạc, bắt tráng đinh làm lao binh. Mấy hôm nay định chiếm trang Thiên-bản để làm trang ấp của mình, thì gặp phải mẹ con họ Mai dũng mãnh chống trả. Giữa lúc y đang thắng thế, đám Đào Kỳ xuất hiện. Tối nay y gặp phải Vĩnh-Hoa, Trần Năng, Hồ Đề dọa cho y sợ đến té đái, vãi phân ra quần.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #35
            Hồi 34 - Thái âm bổ dương

            Hồ Đề, Trần Năng, Vĩnh-Hoa trở về trang Thiên-bản trời đã nửa đêm. Mọi người ngồi chờ dưới đèn. Nhìn nét cười ngỗ nghịch của Hồ Đề, Trưng Nhị đoán cuộc thám thính đã thành công. Nàng lên tiếng :
            – Sự thể thế nào, chắc có chuyện gì vui lắm phải không ?
            Vốn tính bộc trực, Hồ Đề vội nói ngay :
            – Khi đi, nghe Lê phu nhân nói võ công Hoàng Đức-Phi cao cường, làm bọn em cẩn thận thái quá. Lúc nhảy qua cửa sổ vào, y phóng quyền đánh, Trần Năng vung chưởng đỡ. Chưởng của chị Trần Năng mạnh quá, tí nữa thì y bị nát thây. Khiếp, học trò Khất đại phu có khác !
            Rồi nàng tường thuật tỉ mỷ mọi chuyện, hỏi Vĩnh-Hoa :
            – Em bảo sao chị làm vậy, không hiểu tại sao lại không giết hắn, lại bắt hắn viết thư cho Lê Đạo-Sinh ? Hắn đâu phải là người của Thái-hà trang ?
            Trưng Nhị cười :
            – Em để chị nói cho nghe. Chúng ta đã có kế hoạch bàn luận trên thuyền rằng : Một là chia rẽ trầm trọng hơn giữa Tô Định và Nghiêm Sơn ; hai là giúp Nghiêm Sơn tỉa bớt vây cánh Tô Định và Lê Đạo-Sinh ; ba là tìm cách giúp Tô Định thực hiện ý muốn Hán rút quân khỏi Lĩnh-nam. Vĩnh-Hoa bắt Hoàng Đức-Phi như vậy, rồi tìm cách làm sao cho thứ đó đến tay Nghiêm Sơn, Nghiêm sẽ giết Phi, hận thù giữa Tô và Nghiêm ngày càng tăng, chúng ta nhân đó tiến cử người cho Nghiêm, thế là Huyện Lục-hải thuộc về ta. Bây giờ chúng ta cần biết nhiều chi tiết hơn về Hoàng Đức-Phi. Xin bốn vị công tử trang Thiên-bản cho biết về y càng nhiều, càng tốt.
            Mai An đứng dậy, nói :
            – Về cha con Hoàng Đức-Phi, chúng tôi biết rất rõ. Y có hai vợ, vợ lẽ người Việt do cha con y dùng cường lực bắt ép. Tuy có vợ lẽ, nhưng y sợ người vợ Hán như sợ cọp. Cô vợ Hán tên Sài Phố An Mả Rị, xuất thân là kỹ nữ. Khi Tô Định còn là Huyện-lệnh Dương-phố, vợ chồng y theo hầu Tô. Y cho vợ tằng tịu với Tô để được tín nhiệm. Trong hai đứa con của y, hết một đứa là con Tô Định. Y lại tằng tịu ăn nằm với chị ruột đẻ ra đứa con gái tên Hoàng Yến-Tuyết. Khi Tô Định được cử làm Thái-thú Giao-chỉ, y theo sang. Tới Giao-chỉ, Tô Định có nhiều gái mới, không thích Sài Phố nữa, bèn kiếm cách cho y chức Huyện-úy. Tuy làm Huyện-úy dưới quyền Huyện-lệnh, nhưng y dựa thế Tô Định, nên Huyện-lệnh phải sợ y.
            Mai Đạt tiếp lời em :
            – Y bày cho Tô Định thuyết Thái âm bổ dương. Dường như cái lối hành lạc này Tô Định rất thích. Chính y, y cũng thích nữa.
            Đào Kỳ nhìn Phương-Dung nhớ lại, cách nay hai năm, chàng với Phương-Dung thám thính phủ Thái-thú, thấy Tô Định bày cách uống rượu cùng Ngũ-phương kiếm rồi lập kế bắt giam. Chàng hỏi Khất đại phu :
            – Lão bá chẳng hay cái thuyết Thái âm bổ dương đó như thế nào ? Có thực bổ dương không ? Hay chỉ là lối hành lạc dâm đãng của người Hán ?
            Trần Đại-Sinh gật đầu :
            – Thuyết đó đã được bàn đến trong y học, chứ không phải là lối hành lạc dâm đãng đâu. Trong vũ trụ mọi vật đều phân âm dương. Mặt trời là dương, mặt trăng là âm. Nóng là dương, lạnh là âm. Nước là âm. lửa là dương, Trong cơ thể người thì ngũ tạng gồm Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận thuộc âm. Lục phủ gồm Đại-trường, Tiểu-trường, Vị, Đởm, Tam-tiêu và Bàng-quang thuộc dương. Khí là dương, huyết là âm. Phía lưng là dương, phía trước là âm. Trên là dương, dưới là âm. Bên phải là dương, bên trái là âm.
            Đào Kỳ đã biết về học thuyết âm dương, nên nghe Khất đại phu giảng, chàng không lấy gì làm ngạc nhiên cho lắm. Còn Hồ Đề, Vĩnh-Hoa, Lê Chân say mê ngồi nghe.
            Khất đại phu liền tiếp :
            – Đàn ông là dương, đàn bà là âm. Dựng vợ gã chồng là phép Hòa hợp âm dương. Trong đời sống lứa đôi, tuổi người đàn ông với người đàn bà như thế nào khiến cho chuyện phòng the đầm ấm ? Tuổi nào với tuổi nào khiến cho hai người mạnh khỏe sống lâu ? Các y gia đã nghiên cứu đưa ra thuyết Thái âm bổ dương, nghĩa là lấy âm để bổ dương. Đầu tiên về tuổi tác. Người đàn ông có đời sống tình dục lâu hơn người phụ nữ. Bắt đầu từ 16 tuổi thì có tinh khí cho đến chết. Trừ trường hợp bệnh hoạn tinh khí khô hiệt không kể. Còn đàn bà bắt đầu ở tuổi 13, tận cùng vào tuổi hết kinh, tức là từ 45 đến 50. Các y gia thu thái kinh nghiệm : Về tuổi lứa đôi tốt nhất là đàn ông hơn đàn bà từ 12 đến 20 tuổi. Nếu căp vợ chồng lấy nhau ở tuổi đó, người đàn ông khỏe mạnh dẻo dai ít bệnh tật. Người đàn bà cũng thế. Người đàn ông là dương cần có âm chất của đàn bà để hòa hợp. Nếu người đàn bà lớn tuổi hơn đàn ông, âm chất không đủ hợp với dương khí. Cả hai người đều hay bệnh tật mau già. Cho nên những cặp vợ chồng lớn hơn từ 12-20 tuổi, họ sẽ trẻ và sống lâu. Ca dao người Việt mình nói :
            Chồng già vợ trẻ là tiên,
            Vợ già chồng trẻ là duyên con bò.
            Trần Năng tính ngỗ nghịch, nàng được Khất đại phu cưng chiều như cháu nội, nên không úy kỵ thầy trò. Nàng hỏi :
            – Sư phụ ! Người đời gọi sư phụ là tiên ông. Con thấy sư phụ tuổi trên 70 mà tóc chưa bạc, răng chưa rụng, da mặt hồng hào. Chắc sư mầu trẻ hơn sư phụ ít ra cũng đến 15 tuổi.
            Khất đại phu gật đầu :
            – Sư mẫu nhỏ hơn ta 18 tuổi. Năm nay ta 79 tuổi, mà cơ thể còn trẻ dường này là nhờ ta lấy sư mẫu trẻ mà được.
            Tử-Vân tính trẻ con cũng hỏi Nguyễn Tam-Trinh :
            – Sư phụ! Chắc người cũng biết thuyết Thái âm bổ dương ? Sư mẫu còn trẻ quá, nhỏ hơn sư phụ đến 28 tuổi. Sư phụ năm nay tuổi 65 mà trẻ trung như trai 20 vậy.
            Mọi người cười ồ lên, Trần Đại-Sinh tiếp :
            – Nguyên trong y học thuyết Thái âm bổ dương có thế. Sau này các y gia nghiên cứu rộng tìm ra Ngũ pháp trường xuân nữa. Người đời không hiểu y học đã cho rằng dơ bẩn hay dâm đãng. Ta chưa thấy dơ bẩn và cũng chẳng thấy dâm đãng chút nào. Bọn Nho-sĩ chê là dâm đãng, hủ lậu, thế mà trong phòng the, còn quá tệ hơn nữa. Ngũ pháp là lối tận hưởng xuân tình giữa đôi nam nữ.
            Mai Đạt tuổi còn trẻ, tò mò hỏi :
            – Thưa lão bá, chẳng hay Ngũ pháp là gì ?
            Khất đại phu xua tay :
            – Xin lỗi Nam-hải nữ hiệp, xin lỗi mấy cháu gái, để ta giảng giải cho mấy cháu trai biết một chút về lối ăn chơi của người Hán. Ngũ pháp không phải là Ngũ lệnh của Tô Định đâu. Một là, cứ đầu xuân phải kiếm cho được một thanh nữ giao hợp. Giữa khoảng tiết dương xuân, lấy nguyên khí của trinh nữ là người âm, tức là thu được trọn âm khí vào người. Trong năm đó sẽ được may mắn, sức khỏe tăng tiến dồi dào. Nguồn gốc chỉ có thế, nhưng giới quan lại, phú gia đi mua nhiều gái trinh về hành lạc quanh năm. Ta nghe Huyện-lệnh Luy-lâu, mỗi ngày phải cung cấp cho Tô Định, một cô gái tuổi từ 14 đến 18 để y hành lạc theo lối này.
            Nguyễ Tam-Trinh nghiến răng :
            – Chữ trinh của người con gái đáng giá ngàn vàng, thế mà tên Tô Định hàng ngày hại người. Không biết từ lúc sang Giao-chỉ tới giờ, nó đã hại bao nhiêu trinh nữ ô danh, thất tiết rồi ?
            Khất đại phu tiếp :
            – Pháp thứ nhất không phải ai có tiền, có quyền là làm được. Pháp thứ nhì, thì hầu như tất cả các cặp vợ chồng đều biết. Khi người đàn bà được vuốt ve, âm đạo tiết ra một thứ nước trắng, gọi là âm dịch. Âm dịch là tinh hoa thận khí của người nữ. Người nam dùng miệng hút lấy. Đó là cách Thái âm bổ dương mà người con trai có vợ cũng phải biết. Cách này không làm hại sức khỏe người nữ, ngược lại còn làm cho vợ chồng chăn gối thêm đậm đà.
            Trần Năng liếc nhìn chồng. Hùng Bảo nheo mắt tỏ vẻ đồng ý. Cử chỉ này không qua khỏi mắt Hồ Đề. Nàng nhìn Hùng Bảo chúm chím cười thầm như ngụ ý : "Ta đã biết chúng bay làm gì trong phòng kín rồi".
            Khất đại phu nhìn Đào Kỳ, Phương Dung cười :
            – Nhưng dù sao trai gái cũng cần phải biết tiết dục. Nếu người nữ được nam sủng ái quá độ ; áp dụng pháp thứ nhì nhiều quá, khiến cho Thận tinh người nữ bị hư hao. Mà thận thì chủ não, chủ tủy. Khi thận hư hao, không cung cấp đủ tinh khí cho não, người nữ sẽ bị mất trí nhớ, hoặc suy nghĩ thiếu linh hoạt. Thận hư hao thì không cung cấp đủ tinh khí cho xương, việc đi đứng sẽ chóng mệt mỏi. Cho nên cô gái mới về nhà chồng thường ngơ ngơ ngác ngác, ai hỏi gì cũng chỉ cúi đầu mỉm cười, chỉ vì cô dâu được chồng sủng ái quá mà ra.
            Câu nói này làm mọi người nhìn Phương-Dung mỉm cười. Bởi, thường ngày nàng rất thông minh, lanh lợi, việc gì cũng nghĩ ra được. Thế mà mấy hôm nay nàng thường nói những câu lẩn thẩn. Nàng luôn ngơ ngơ ngác ngác, cúi đầu mỉm cười.
            Trần Năng tính hay đùa nghịch, rất thân với Phương-Dung, đã vỗ lưng nàng nói :
            – Sư thẩm khỏi mắc cỡ, cháu cũng qua đoạn cầu hạnh phúc cô dâu mới rồi mà. Này liệu sư thẩm còn sử dụng võ công được không ?
            Mọi người cười ồ.
            Đương thời, con người sống gần với thiên nhiên như trời mưa, trời nắng, không cần phải dấu diếm những gì trong đời sống lứa đôi.
            Phương-Dung hỏi Khất đại phu :
            – Lão bá còn pháp thứ ba là gì ?
            Khất đại phu cười :
            – Pháp này người đời ít ai chịu xử dụng. Đó là uống nước tiểu lẫn của nhau. Khác với pháp thứ nhất, thứ nhì, khi hành xử cả nam lẫn nữ đều được rung cảm mãnh liệt. Còn pháp thứ ba chỉ một người được hưởng mà thôi. Đó là người uống.
            Trần Năng nhăn mặt :
            – Sư phụ! Uống nước tiểu khai chết đi được, lại bẩn thỉu quá, ai mà dám uống.
            Khất đại phu vỗ lên lưng đệ tử :
            – Con bé ngạnh đầu này, quên hết lời dạy rồi sao ? Ta đã nói rằng : Đàn bà mới đẻ, khí huyết đều hư, cần uống nước tiểu con trai khi sáng mới thức . Hoặc uống nóng, hoặc chưng với nghệ mà uống, thì sức khỏe mau phục hồi là gì ? Bẩn ở chỗ nào ? Nhưng về phương thức Thái âm bổ dương, có đôi chút khác. Vợ chồng trong phòng the, đầu gối tay ấp, tình ý nồng nàn, gần như hai người là hai bát nước trộn lẫn vào nhau, thì còn biết gì là dơ, là bẩn nữa đâu ? Vợ chồng là hai thể âm dương đối nghịch. Uống nước tiểu của nhau là bồi bổ hỗ trợ lẫn cho nhau. Như đã nói, pháp này chỉ người uống cảm thấy rung động mà thôi. Nước tiểu còn ở trong người thì không khai, khi ra không khí mới khai. Vậy cần ghé miệng vào uống thẳng, đừng để nước tiểu ra không khí.
            Nghe lời Khất đại phu giảng đám trai trẻ ngồi như sáng mắt ra. Họ cảm thấy như vừa tìm được một chân trời hạnh phúc mới.
            Khất đại phu tiếp :
            – Pháp thứ tư trai gái thường áp dụng. Đó là trai hút tinh của gái và gái hút tinh của trai. Gái hút tinh của trai bất cứ lúc nào cũng được. Còn trai hút kinh của gái, chỉ nên áp dụng vào ngày cuối cùng của kinh kỳ. Ngày đó tinh huyết mới thực đầy đủ.
            Hồ Đề tính ồn ào, không câu nệ, xấu hổ, nàng liếc nhìn Trần năng, Hùng Bảo, Phương-Dung, Đào Kỳ như dò xét xem mấy người này có áp dụng pháp thứ tư không. Thấy Trần Năng thản nhiên như thường, Hồ Đề đoán rằng cặp vợ chồng này có áp dụng. Còn Phương-Dung ngơ ngác nhìn chồng. Hồ Đề biết ngay cặp này chưa áp dụng qua.
            Mai Đạt lại hỏi :
            – Thưa lão bá còn pháp thứ năm.
            Khấ đại phu cười nhìn Đào Kỳ :
            – Đào tiểu hữu, pháp này ngươi đã thấy qua khi thám thính phủ Thái-thú. Hồi ngươi đương bệnh ở nhà ta, ngươi có kể cho ta nghe một lần. Có đúng thế không ?
            Đào Kỳ gật đầu :
            – Trước hôm cứu Ngũ-kiếm, cháu và Phương-Dung vào thám thính phủ Thái-thú thấy Tô Định áp dụng với Ngũ-kiếm. Nhưng hồi đó, cháu không hiểu rõ nguyên lý này.
            Trần Đại Sinh cười :
            – Có gì mà không hiểu ? Đây là lối hưởng thụ của giới giàu có, quan lại. Họ nuôi nhiều thanh nữ trẻ đẹp, cho ăn uống toàn thức bổ dương. Họ dùng nước hay rượu đổ vào âm hộ thanh nữ, rồi ghé miệng vào mà uống. Đây mới đúng là Thái âm bổ dương. Họ làm như vậy sẽ giữ được sức khỏe lâu bền, sống lâu, trường thọ.
            Mai Đạt như bừng tỉnh giấc mơ :
            – Cháu nghe Hoàng Đức-Phi, Tô Định dùng phương thức Thái âm bổ dương cho rằng hắn đã bày đặt ra, không ngờ lại có nguồn gốc y khoa như thế. Dường như tất cả Ngũ pháp của Tô Định chỉ áp dụng với một mình Sài Phố mà thôi. Bây giờ đến độ mỗi ngày không được y thị đái vào miệng, Tô Định khổ sở vô cùng. Trong khi Tô Định lo mãi mê trong phòng the với vợ Đức-Phi, y đã mang quân đi bắt các trang, các động nộp ngà voi, ngọc trai, gỗ quế, cùng vơ vét vàng bạc. Y muốn làm gì thì làm, Tô Định cũng phải im miệng.
            Ghi chú,
            Ngũ pháp trường xuân bổ dương, xin đọc Giảng-huấn tình dục bằng y học Trung-quốc của Trần Đại-Sỹ, do Thuvienvietnam. com, California, USA xb. 2002)
            Trưng Nhị nhìn ra xa suy nghĩ rồi nói :
            – Bây giờ chúng ta làm thế nào để Nghiêm Sơn giết tên Hoàng Đức-Phi này đi, để trừ hại cho dân, rồi đưa người của mình vào làm Huyện-úy. Việc này phải nhờ tới Vĩnh-Hoa mới xong.
            Phùng Vĩnh Hoa nhìn Đào Kỳ :
            – Đào tam đệ ! Ngoài ngươi ra không ai làm được. Phu nhân Lĩnh-Nam công cưng chiều em, em nói gì bà cũng nghe. Trong khi bà nói gì Nghiêm công cũng nghe. Ta bày một kế thế này : Tất cả chúng ta lên đường về Bắc, chỉ để em với Phương-Dung đi ngược trở lại hướng Cửu-chân, thế nào cũng gặp Nghiêm công đi trở ra. Em kể cho Nghiêm công về vụ thuyền gặp bão, chúng ta ghé vào trang Thiên-bản, nhất nhất thuật lại đúng sự thật, sau đó, em thêm vào đoạn : Em thấy Đức Hiệp đến hội họp với Hoàng Đức-Phi, chúng dự trù đánh thuốc độc, hại Nghiêm đại ca. Vì vậy em phải trở lại báo để cho Nghiêm đề phòng. Nghiêm là người can đảm, tất sẽ cùng em đến thanh sát huyện Lục-hải. Đức-Phi nghe Nghiêm tới, tất phải ra đón tiếp, đãi đằng. Trong lúc đó em tìm cách bỏ thuốc độc vào trong thức ăn của Nghiêm. Giữa lúc Nghiêm trúng độc, ngã lăn ra, em với Phương-Dung xuất hiện cứu Nghiêm ra. Trong khi đó bỏ thư này vào đầu giướng hay án thư làm việc của Đức-Phi. Em nhờ Trần Năng cứu tỉnh Nghiêm, trong khi Phương-Dung dùng lời khích Nghiêm giết Đức-Phi.
            Hồ Đề dơ tay trái phát biểu ý kiến :
            – Vậy phải để Trần Năng, Hùng Báo và em ở lại.
            Nghe Hồ Đề nói, mặt Khất đại phu tươi lên nhìn Nguyễn Trát, Nam-hải nữ hiệp và Nguyễn Tam-Trinh. Ba người hội ý với nhau, cùng nghĩ : Bàn về việc khởi nghĩa, phục quốc, giới già không đủ linh mẫn làm việc cần phải có người trẻ đứng ra. Ông và ba người trên đường đi, bàn tính rằng, đám trẻ mà họ gặp, lòng dạ hăng say, võ công cao, kiến thức quảng bác, nhưng chúng quá phức tạp. Ai sẽ là người cầm đầu đây ? Họ ngại nhất là những cái đầu thông minh của Phương-Dung, Trần Năng, Hồ Đề, Trưng Nhị, không ai chịu phục ai. Nhưng những biến cố vừa qua cho họ thấy Phương-Dung, Hồ Đề, Trần Năng hòan toàn phục tùng Trưng Nhị, coi Trưng Nhị như người lãnh đạo. Đáng lẽ ông là người địa vị cao nhất rồi tới Nam-hải nữ hiệp, mà Hồ Đề không xin phép, mà lại xin phép Trưng Nhị, điều này tỏ rõ, họ đã phục tùng Trưng Nhị. Ông nhìn ba vị kia, cùng nhau tỏ rõ niềm vui.
            Trưng Nhị mỉm cười :
            – Được, chị đồng ý, nhưng tất cả kế hoạch phải do Phương-Dung. Chứ em nóng tính, lại nghịch ngợm quá, sợ hư việc.
            Hồ Đề nhìn Phương-Dung :
            – Chị yên tâm. Em thương Phương-Dung lắm, chả vậy sao lần đầu vừa gặp Dung, em đã tặng ngựa Ô, rồi em còn bắt Đào tam đệ tuyệt đối phục tùng Dung đó sao ?
            Trang Thiên-bản rất nhiều ngựa, đủ cung cấp cho mọi người lên đường về Bắc. Còn bọn Đào Kỳ lên đường xuôi về Nam.
            Đào Kỳ đi ngược trở lại con đường 7 năm trước chàng cùng đi với Nghiêm và Thiều-Hoa. Có điều ngày đó, chàng đi mà trong lòng nhớ nhung cha mẹ, với nỗi buồn nhà tan, cửa nát, thân thế trôi nỗi không biết sẽ về đâu. Còn hôm nay bên cạnh người vợ xinh đẹp, thông minh còn có Hồ Đề hào sảng, Trần Năng nghịch ngợm và Hùng Bảo thâm trầm như một người lớn tuổi.
            Năm người đều ngang tuổi nhau, võ công cao, kinh nghiệm đời nhiều, họ ruổi ngựa, vừa đi, vừa nói chuyện, coi trời đất không ra gì nữa.
            Hùng Bảo luôn đề nghị đi vào thôn xóm mua sắm lương thực. Còn Hồ Đề sống với thiên nhiên đã quen, nàng đề nghị bắn chim, săn thú, ăn ngủ ngoài trời. Phương Dung không biết nghe ai, đành xin biểu quyết. Hùng Bảo bị thiểu số.
            Tối hôm đó họ dừng lại giữa khu rừng, bên cạnh có suối chảy trong veo.
            Hồ Đề chỉ suối nói :
            – Ta nghe Đào tam đệ là con rái cá vùng Cửu chân, bắt cá giỏi lắm, vậy Tam đệ ra suối bắt cá. Phương Dung với ta đi săn thú. Nhìn qua cũng biết vùng này có nhiều nai hoẵng. Chúng ta đi săn thú đây.
            Đào Kỳ vẫy Trần Năng, Hùng Bảo ra suối. Chàng lấy kiếm chặt một cây trúc nhỏ, vót nhọn đầu, rồi ra đứng hòn đá cạnh suối. Nhìn từng đàn cá tung tăng bơi lội dưới suối, chàng phóng cành trúc xuống. Cứ mỗi cái phóng là chàng được một con. Chỉ chốc lát, chàng xiên được gần hai chục con cá.
            Chàng bảo Trần Năng :
            – Phu nhân lấy ít đất sét lên đây, tôi dạy cách nướng cá.
            Trần Năng bốc lên một tảng đất sét lớn. Đào Kỳ nói :
            – Cá ở suối không tanh như cá ở sông, cá biển, cá ao. Nhưng cá ở dưới suối thường có nhiều chất độc. Muốn khỏi trúng độc, khi nướng cá phải để nguyên cả bộ đồ lòng không được móc ra.
            Trần Năng gật đầu :
            – Sư phụ cháu có dạy : Con cá chống được chất độc nhờ bộ lòng của nó. Bởi vậy, những loại cá ở vùng có chất độc, khi ăn không nên bỏ bộ lòng đi.
            Đào Kỳ gật đầu :
            – Ta lấy đất sét bọc phía ngoài cá rồi nướng. Đất sét khô sẽ hút hết chất độc ra, mùi tanh của cá cũng mất... Chứ nướng hun khói tuy đẹp mắt thật, nhưng ăn vào tanh lắm.
            Ba người lấy đất sét bọc cá, để lên dàn củi khô mà đốt. Khói bốc lên tỏa ra giữa rừng xanh âm u, thơ mộng như trong cảnh tiên.
            Ba người đang nướng cá thì HỒ Đề, Phương Dung trở về mang theo một con nai nhỏ. Hồ Đề lấy kiếm cùng Phương Dung lột da nai, moi bộ lòng mang xuống suối rửa sạch. Nàng lấy dây leo buộc bốn góc tấm da nai vào một cái khuôn hình vuông, làm bốn cái chân, thế là đã có một cài nồi bằng da. Hồ Đề chặt lấy hai cái đùi xuyên qua hai khúc cây đem nướng. Phần còn lại, nàng chặt nhỏ, cho vào nồi da chất củi đun.
            Hùng Bảo, Trần Năng là công tử, tiểu thư từ nhỏ, những kinh nghiệm về cuộc sống thiên nhiên gần như không biết gì. Bây giờ thấy Hồ Đề làm thịt nai, chế nồi nấu giữa rừng, mới thấy Hồ Đề có lý khi đòi ăn ngoài trời. Sống giữa trời, con người tự tạo lấy phương tiện, Hùng Bảo cảm thấy thích thú hơn ăn cơm quán nhiều.
            Hồ Đề chỉ vào một bụi cây đầy dây leo :
            – Đây là dây Sàn bát . Loại rau này ăn vào vừa mát, vừa dễ ngủ. Chúng ta hái một ít cho vào nồi da nấu, sẽ có một bữa canh ngon.
            Phương-Dung mỉm cười :
            – Bây giờ em mới hiểu câu nồi da nấu thịt là thế nào. Cũng như người Hán họ dùng người Việt để giết người Việt vậy.
            Đào Kỳ mang cá nướng mời mọi người ăn. Trần Năng cầm con cá nướng lên thấy khô như thịt gà, ăn vào vừa thơm, vừa bùi, có lẫn cả mùi khét của lửa nướng.
            Ăn xong, họ lăn ra bải cỏ, ngủ giữa thiên nhiên. Họ ngủ mãi tới khi gần hoàng hôn mới giật mình thức giấc vì tiếng vó ngựa phi dồn dập. Đào Kỳ có nội công thâm sâu nhất, chàng ghé tai xuống đất nghe rồi đếm :
            – Đi trước là hai con, một con bị thương ở chân. Dường như đây là hai người bị đuổi. Đi sau là bốn con ngựa nữa, dường như là của những người đuổi theo.
            Vì đã ước hẹn trước, Hồ Đề đưa mắt hỏi ý kiến Phương-Dung. Phương-Dung nói :
            – Hùng Bảo mau đem ngựa dấu trong rừng, đừng để người đi đường trông thấy. Chị Hồ Đề núp bên đường, chuẩn bị dây sẵn, nếu em ra hiệu thì tung dây bắt địch. Trần Năng, Hùng Bảo núp một bên, hễ thấy tôi ra hiệu thì xuất hiện.
            Nàng vẫy Đào Kỳ cùng núp vào bên đường chờ đợi.
            Phía trước có hai con ngựa chạy tới, quả nhiên có một con bị thương, bước phi không đều. Trên lưng ngựa, một nam, một nữ đang ra roi rất gấp. Phía xa xa có bốn kỵ mã đang đuổi theo.
            Đang chạy ngon trớn, bỗng con ngựa của cô gái khụy chân xuống hất bổng nàng lên. Thiếu nữ vội nhún mình vọt khỏi lưng ngựa, rồi từ từ đáp xuống đất. Người nam dừng cương lại hỏi :
            – Chị Lan sao vậy ?
            Thiếu nữ nhăn nhó :
            – Con ngựa của chị bị thương, chắc mệt quá nên trật chân. Thôi em chạy trước đi. Cố gắng chạy đến Trường-yên báo cho Cao-cảnh hầu biết. Chị quyết ở lại đây sống chết với bốn tên giặc non này.
            Thanh niên tỏ ra cương quyết :
            – Không ! Chết cùng chết cả. Chị em ta không thể kẻ sống, người chết được.
            Rồi thiếu niên cột ngựa vào gốc cây, cùng chị đứng hiên ngang chờ đợi kẻ thù. Chỉ một lát, bốn kỵ mã cũng tới. Phương-Dung bấm Đào Kỳ :
            – Lại thầy trò Huyện-úy Hoàng Đức-Phi đây !
            Bốn người thấy đôi trai gái dừng ngựa, đứng giữa đường, vội cùng nhau bao vây. Hoàng Đức-Phi cười híp hai mắt ti hí :
            – Lê Thị Lan, Lê Anh Tuấn, hai đứa mày không thóat khỏi tay ta đâu. Mau chịu trói, ta hứa sẽ xử nhẹ tay cho bọn ngươi.
            Thiếu nữ tên Lê Thị Lan cười ngạo nghễ :
            – Hoàng Đức-Phi, ta hỏi ngươi, ngươi dựa vào đâu mà đòi xét xử ta? Ta là con cháu vua Hùng, vua An-Dương. Chỉ những người của đất Lĩnh-nam mới có quyền xét xử ta mà thôi. Còn ngươi, thân làm tôi tớ cho người Hán, đòi xét xử ta, thì thật là ngu. Hôm nay, chị em ta bị trúng độc của cha con ngươi, chỉ còn có con đường tử chiến mà thôi.
            Hoàng Bá-Hiển nhảy xuống ngựa, vung chưởng đánh tới. Thiếu nữ cười, phát chưởng chống lại. Đào Kỳ nói nhỏ :
            – Võ công của nàng là võ công Tản-viên đấy.
            Bá-Hiển lùi lại, nói :
            – Lê Thị Lan, ngươi đã trúng độc còn vận sức phóng chưởng chỉ mau uổng mạng mà thôi.
            Vừa nói, y vừa tấn công liên tiếp. Đào Kỳ cũng thấy võ công của thiếu nữ, cao hơn võ công của đám thầy trò Hoàng Đức-Phi nhiều. Nhưng nàng đã bị thương không thể chống lại nổi.
            Phía bên kia, Hoàng Phi-Long, Hoàng Vĩnh-Liên cũng đang ráo riết tấn công thiếu niên. Thiếu niên bình tĩnh chống trả. Vì chàng cũng bị trúng độc, nên quyền pháp hơi rối loạn.
            Giữa lúc đó, một đoàn kỵ mã từ phía Nam đi tới. Dẫn trước là một Ngũ-kỵ binh. Năm kỵ mã thấy có đám đánh nhau vội ngừng lại coi, mặt họ lãnh đạm như nhìn một cảnh thiên nhiên.
            Thiếu nữ chống trả được mấy chiêu nữa thì loạng choạng ngã xuống. Bá-Hiển dùng dây trói nàng lại. Bên kia thanh niên tên Lê Anh-Tuấn cũng bị bắt trói.
            Tên Kỵ-binh Hán quát :
            – Các người tránh ra mau, để cho Bình-Nam đại tướng quân đi.
            Anh em họ Hoàng ỷ mình có võ công cao, lại là đệ tử của Huyện-úy, không coi mấy tên kỵ binh Hán vào đâu, chúng lờ đi như không nghe thấy, cứ tiếp tục trói chị em Lê Thị Lan.
            Tên Ngũ-trưởng quát lớn :
            – Các người có nghe không ? Tránh đường mau !
            Quát rồi, y vung roi ngựa quất vào đầu Hoàng Đức-Phi đến bộp một cái, máu chảy ròng ròng. Bá-Hiển thấy sư phụ bị đòn, vội phóng chưởng vào đầu ngựa tên Ngũ-trưởng đến bình một cái. Con ngựa đau quá nhảy dựng lên, hất tên Ngũ-trưởng xuống đất. Bốn tên kỵ binh thấy đồng đội bị đánh, cùng xông vào rút đao hỗn chiến.
            Bọn Đức-Phi không coi đám kỵ binh vào đâu, cùng phát chưởng đánh lại. Vừa khi đó một toán kỵ mã nữa tới, gồm tất cả bốn người. Phương-Dung đẩy khẽ Đào Kỳ :
            – Nghiêm đại ca, Hoàng sư tỷ, đại ca Nghi-Sơn, đại sư ca Trần Dương-Đức.
            Bốn người dừng ngựa đứng nhìn đám Đức-Phi đánh nhau với đám kỵ binh. Họ nhận ra võ công của ba thiếu niên là võ công Cửu-chân. Nghi-Sơn quát lớn :
            – Ngừng tay !
            Bọn kỵ binh ngừng tay, lùi lại. Đám đệ tử Đức-Phi cũng lùi lại. Nghi Sơn tiến lên trước, hỏi :
            – Chẳng hay các vị huynh đệ đây cao danh quý tính là gì ? Tôn sư là ai ? Có thể cho biết được chăng ?
            Đức-Phi thấy một người dáng điệu uy vũ, đi cạnh một thiếu nữ đẹp tuyệt trần lưng đeo bảo kiếm. Phía trưốc hai thiếu niên tướng mạo anh tuấn, lời lẽ khách khí, bèn tiến lên nói :
            – Ta là Huyện-úy Lục-hải, còn đây là ba đệ tử của ta : Bá-Hiển, Vĩnh-Liên, Phi-Long đều là quan chức. Hôm nay chúng ta đuổi theo bắt hai tên phi tặc, không ngờ gặp bọn kỵ binh hỗn láo gây sự. Chẳng hay các vị là ai ? Hãy thông danh tính cho ta biết ?
            Nghi-Sơn liếc nhìn Nghiêm Sơn một cái. Nghiêm Sơn gật đầu tỏ ý bằng lòng. Nghi-Sơn chỉ vào Trần Dương-Đức :
            – Đây là đại sư ca của tôi, họ Trần. Kia là sư tỷ của tôi, họ Hoàng. Và kia là muội phu họ Nghiêm, còn tôi họ Đào. Chúng tôi đều từ Cửu-chân ra đây. Chẳng hay hai người này mắc tội gì mà đại nhân bắt họ ?
            Đức-Phi nhìn Nghi-Sơn với vẻ nghi ngờ :
            – Chúng là bọn trộm cắp, ta bắt về trị tội.
            Lê Thị Lan quát lên :
            – Đồ khốn kiếp ! Chị em ta đi vào chợ Lục-hải ăn cơm, thì thằng đệ tử mất dạy của mi trổ mòi trêu ghẹo, rồi muốn cướp ngựa của em ta. Nó bị chúng ta tát một cái phải bỏ chạy. Không ngờ nó kêu chủ quán bỏ độc vào thức ăn, chị em ta ăn vào bị say thuốc, đành lên ngựa bỏ chạy. Mi kéo cả nhà đuổi theo. Nếu ta không bị trúng độc, cả bọn thầy trò mi cũng mất mạng.
            Thiều-Hoa nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu. Nàng quên mất Nghi-Sơn giới thiệu nàng là một người đi đường. Nàng dùng ngôn ngữ của một phu nhân quyền quý :
            – Hoàng Huyện-úy, ngươi thực không phải. Ngươi là Huyện-úy, giữ binh quyền trong huyện để trừ đạo tặc, ngươi đã không biết dạy đệ tử, để đệ tử làm càn, đó là một tội. Khi biết chúng làm càn, ngươi không trách phạt là hai tội. Không trách phạt thì chớ, ngươi lại cùng các đệ tử cướp của, bắt người, thế là ba tội. Theo quân luật ngươi có biết sẽ bị tội gì không ?
            Thiều-Hoa đã đẹp, tiếng nói lại khoan thai, buông lời trách cứ Đức-Phi. Y liếc nhìn nàng nghĩ :
            – Con bé này ở đâu mà đẹp thế này ? Phải chi ta bắt được đem về ôm ấp một đêm, dù có chết cũng không oán trách.
            Bá-Hiển nghe thấy Thiều-Hoa mắng sư phụ, y tiến lên rút kiếm đâm liền. Thiều-Hoa biết chiêu đó là Loa thành nguyệt chiếu rất nguy hiểm của phái Cửu-chân. Nàng không đỡ chỉ đạp chân vào yên ngựa, vọt người lên cao. Còn lơ lửng trên không, nàng đã phóng xuống một chưởng. Vì giận dữ, nàng đã vận đủ mười thành công lực. Nàng mặc bộ quần áo vàng, cổ choàng khăn đỏ, trông phiêu phiêu, hốt hốt như một vị tiên. Chưởng phong chụp xuống. Bá-Hiển thấy nàng xử dụng võ công phái Cửu chân thì giật mình, vội thu kiếm về lăn đi một vòng mới thoát chết.
            Thiều-Hoa quát lớn :
            – Ban nãy sư huynh ta hỏi ngươi, sư thừa là ai, vì nghĩ ngươi là chỗ đồng môn. Ngươi không trả lời, còn vô lễ sư phụ của ngươi họ Đào phải không ?
            Trong lòng Thiều-Hoa nghĩ rằng anh em họ Hoàng là con Huyện-úy thì có thể là đệ tử của sư thúc Đào Thế-Hùng chăng nên nàng mới hỏi rõ.
            Hoàng Bá-Hiển cười nhạt :
            – Ta chẳng biết tên họ Đào, họ cởi gì hết.
            Vừa nói, y vừa vung chưởng đánh tới. Dù sao Thiều-Hoa cũng là tam đệ tử của Đào Thế-Kiệt. Võ công nàng có kém, là kém so với Đào Kỳ, với sư huynh nàng mà thôi. Còn đối với bọn này, nàng có coi ra gì. Tay trái nàng sử dụng một thức cầm nã bắt lấy tay Bá-Hiển. Tay phải nàng tát vào mặt hắn hai cái thật mạnh. Thuận chân nàng đá hắn một cước, khiến hắn bay vào bụi cây gần đó.
            Bị đòn đau, Bá-Hiển vọt dậy đã thấy Vĩnh-Liên, Phi-Long đang vây Thiều-Hoa vào giữa. y cũng nhảy vào vòng chiến.
            Vì thấy anh em họ Hoàng xử dụng võ công Cửu-chân, Thiều-Hoa có ý nhân nhượng đôi chút. Nay thấy ba người xúm vào vây đánh mình, nàng thầm tức giận ; nghĩ :
            – Đệ tử Cửu-chân dù ở cấp nào chăng nữa, hể thấy người đồng môn, thì phải khai sư thừa và thân ái với nhau. Thế mà ta đã hai lần hỏi sư phụ chúng là ai, chúng cũng không trả lời, vậy ta cứ thẳng tay, dù sư phụ chúng là ai cũng không trách ta được.
            Nghĩ thế, nàng đánh liền ba quyền. Binh, binh, binh. Ba đệ tử của Đức-Phi bị đánh bật ra ngoài, ngã lăn lông lốc. Chúng liền bò dậy dùng kiếm tấn công Thiều-Hoa bằng những chiêu cực kỳ tàn bạo. Thiều-Hoa không rút kiếm trả đòn. Nàng xen lẫn vào giữa ba anh em họ Hoàng, thỉnh thoảng lại tát cho mỗi tên một cái.
            Liếc thấy Đức-Phi đang đứng nhìn các con vây nàng, Thiều-Hoa phát bực mình. Nàng đẩy một chưởng thật mạnh về phía Bá-Hiển làm y muốn ngộp thở, bèn nhảy lùi lại. Nàng nhảy vèo đến túm cổ Đức-Phi trên ngựa làm vũ khí, đưa ra đỡ kiếm của ba đệ tử. Anh em họ Hoàng hoảng sợ, lùi lại, chống kiếm ngơ ngác nhìn nhau. Thiều-Hoa tát vào mặt Đức-Phi một cái mắng :
            – Bọn đệ tử mất dạy, ta đánh sư phụ.
            Rồi nàng quẳng Đức-Phi xuống đất, dẫm chân lên ngực y, nói :
            – Ba đứa bây mau quỳ xuống, lạy ta đủ mười lần, ta tha cho tên này. Bằng không ta sẽ nhả kình lực, xương ngực hắn sẽ gãy nát liền.
            Ba đệ tử của Đức-Phi đứng nhìn nhau, ngần ngại. Vì đánh, cả ba không phải là đối thủ của người đàn bà đẹp này, còn quỳ xuống lạy thì nhục nhã quá.
            Đức-Phi sợ quá, lắp bắp :
            – Các ngươi mau lạy đi ! Lạy đi !
            Ba tên vội cúi đầu lạy Thiều-Hoa đủ mười lạy.
            Thiều-Hoa hỏi :
            – Về phần bọn mi, ta miễn cho khỏi bị đòn. Bây giờ ta hỏi câu nào, bọn mi phải trả lời câu đó. Thứ nhất sư phụ mi là ai ?
            – Sư phụ chúng tôi là Hoàng Đức-Phi. Võ công của chúng tôi không do sư phụ trực tiếp dạy, mà do đại sư huynh Trịnh Quang, nhị sư tỷ Hoàng Thị Huệ truyền thụ.
            Thiều-Hoa, Nghi-Sơn, Dương-Đức, cùng ồ lên một tiếng ngạc nhiên. Thiều-Hoa hỏi tiếp :
            – Khi dạy võ công cho mi, đại sư huynh có nói rằng thuộc môn phái nào không ? Sư phụ của y là ai ?
            Hoàng Bá-Hiển đáp :
            – Sư huynh nói võ công này do sư phụ truyền cho.
            Thiều-Hoa nghiêm mặt :
            – Mấy đứa chúng bây thực ngu hết chỗ nói. Tên mặt mo Hoàng Đức-Phi chỉ là một cái bị thịt, một miếng võ mèo cào cũng không biết, không lẽ bọn mi không nhìn ra ? y đã không biết võ làm sao truyền cho tên Trịnh Quang ?
            Bá-Hiển đáp :
            – Tôi chưa thấy sư phụ giao chiến với ai bao giờ làm sao biết bản lĩnh của người ?
            Thiều-Hoa biết bọn chúng nói thật, nàng thầm nghĩ :
            – Tên Trịnh Quang thật đốn mạt, đi nhận giặc làm thầy.
            Nàng thu chân lại, đá Đức-Phi một cái bay ra xa, rồi tiến đến cởi trói cho chị em Lê Thị Lan. Bọn thầy trò Đức-Phi vội lên ngựa phóng mất. Thiều Hoa chợt nhớ ra điều gì, vội hỏi Lê Thị Lan :
            – Hồi nãy chị thấy em sử dụng võ công Tản-viên, vậy em là đệ tử của cao nhân nào ?
            Lê Thị Lan cảm động nói :
            – Em cám ơn chị đã cứu mạng. Sư phụ em họ Nguyễn, húy Thành-Công.
            Nghiêm Sơn bật lên tiếng kêu :
            – Úi chà !
            Nguyên Nguyễn Thành-Công là sư phụ của Phong-châu song quái, sư thúc của Đặng Thi-Sách, Trưng Trắc, Trưng Nhị, danh vang thiên hạ về võ công cũng như đạo đức.
            Lê Thị Lan hỏi :
            – Dường như chị là đệ tam đệ tử của Đào chưởng môn phái Cửu-chân thì phải. Hèn chi võ công trác tuyệt, tính tình nghĩa hiệp hào sảng.
            Thiều-Hoa ngạc nhiên :
            – Tại sao em đoán được là chị ?
            Lê Thị Lan cười :
            – Sư phụ em thường nói rằng chưởng môn phái Cửu-chân là Đào Thế-Kiệt, một trong những hào kiệt đạo đức đương thời. Người có ba con trai : Nghi-Sơn, Biện-Sơn và Kỳ. Ba đệ tử là Dương-Đức, Trịnh Quang và Thiều-Hoa, sau này còn thu thêm Tường-Loan nữa. Thiều-Hoa đẹp như một tiên nữ. Ban nãy thấy chị sử dụng võ công Cửu-chân, lại đẹp như tiên, gì mà em không đoán ra ?
            Nghi-Sơn hỏi Lan :
            – Dường như cô nương bị trúng độc, đó là độc chất gì vậy ?
            Lê Anh Tuấn nói :
            – Chị em tôi bị trúng thuốc mê, nhờ công lực cũng không đến nỗi tệ, nên không bị ngã. Bây giờ, chất độc đã ra rồi, không sao cả.
            Trần Dương-Đức hỏi :
            – Chẳng hay chị em cô đi đâu vậy ?
            Lê Anh Tuấn đáp :
            – Sư phụ sai chúng tôi vào Cửu-chân tìm người con thứ ba của Đào hầu là Đào Kỳ có chuyện khẩn cấp. Không ngờ qua đây thì bị nạn.
            Thiều-Hoa đỡ Lê Thị Lan dậy :
            – Nếu vậy, em phải trở về thôi. Tiểu sư đệ của tôi đã về Bắc gần mười lăm ngày rồi. Hiện giờ y ở nhà nhạc phụ tại Cối-giang tức là chưởng môn phái Long-biên.
            Nghiêm Sơn xen vào :
            – Thôi chúng ta trở lại Lục-hải kiếm gì ăn chiều. Mai hãy ra Bắc.
            Thiều-Hoa mời Lê Thị Lan cùng cỡi một ngựa. Cả đoàn lại tiếp tục lên đường.
            Bốn người, thêm chị em Lê Thị Lan thành sáu, cỡi ngựa ruổi bước về Lục-hải. Tới nơi, trời đã hoàng hôn. Sáu người tới huyện đường.
            Lính gác thấy sáu người có kị binh theo hầu, đoán biết là quan nha, vội tiến ra cung kính hỏi :
            – Các vị từ đâu tới ? Có việc gì ?
            Tên Ngũ-trưởng kị binh theo hầu móc lệnh bài ra, nói :
            – Ngươi vào báo Huyện-lệnh, có Lĩnh-Nam công giá lâm.
            Tên lính gác cửa thấy vị tướng là người chỉ huy tối cao của mình, vội khúm núm hành lễ rồi đánh ba tiếng cồng. Một tên ngũ trưởng từ trong chạy ra. Tên canh cổng nói mấy tiếng. Tên ngũ trưởng vội chạy vào. Một lát, Huyện-lệnh Phạm Thu-Tòng áo mão chỉnh tề bước ra, vái dài xuống đất :
            – Quốc công giá lâm tệ huyện, tiểu nhân không biết trước nghênh đón, thực có tội.
            Nghiêm Sơn chỉ Trần Dương-Đức và Nghi-Sơn, nói :
            – Đây là hai vị tân huyện úy Ngọc-đường và Nghi-sơn.
            Chàng chỉ Thiều-Hoa :
            – Còn đây là phu nhân của tôi.
            Rồi chàng chih chị em Lê Thị Lan :
            – Đây là hai người bạn của chúng tôi.
            Huyện-lệnh vội mời tất cả vào huyện đường, thét pha trà, làm tiệc thết đãi.
            Nguyên Nghiêm Sơn lĩnh tước Lĩnh-Nam công lại là nghĩa đệ của đương kim hoàng đế nhà Hán, chàng được cử sang Lĩnh-Nam với toàn quyền về tổ chức, quân sự, đối với quan lại các cấp, chàng được quyền tiền trảm hậu tấu. Chàng lại là người anh minh hiệp nghĩa, võ công cao cường, nhất là chàng không tham nhũng, quan lại các cấp nghe đến tên chàng đều run sợ, kính trọng. Huyện-lệnh Lục-hải là người Hán, nhờ có học, được cử sang Giao-chỉ làm lại, rồi được cất nhắc lên đến Huyện-lệnh. Lục-hải được coi là bờ xôi, giếng mật, dân cư trù phú, trên rừng có gỗ quý, dưới biển có ngọc trai, quan lại nào được cử tới đây, coi như một đặc ân. Thu-Tòng cũng như các quan người Hán khác, sang Giao-chỉ với mục đích : Vàng bạc và gái. Về gái, y bị Hoàng Đức-Phi cho vào tròng với vợ y. Thu-Tòng nhiều khi muốn thoát ra, nhưng lại sợ Đức-Phi là tay chân của Tô Định, y lại có ba đệ tử võ công cao cường. Vì vậy, tuy là huyện lệnh, nhưng y sợ Đức-Phi như sợ cọp. Hôm nay, bất ngờ Lĩnh-Nam công tới thăm huyện đường, làm y có cảm tưởng một cái gì không may sẽ xảy đến. Nghiêm Sơn lại giới thiệu hai huyện úy trẻ với y. Trước đây mấy hôm, y được ngựa lưu tinh báo rằng Huyện-úy Ngọc-đường Phùng Chính-Hòa làm phản, bị Nghiêm Sơn chặt đầu, tài sản bị tịch thu. Tiếp theo có lệnh truy nã Đô-sát Vũ Hỷ rất gấp, làm y càng lo ngại. Y lo ngại vì Hoàng Đức-Phi thường làm càn làm bậy quá đáng mà y không cản được.
            Nhập tiệc một lúc, y gợi chuyện :
            – Không hiểu Quốc-công giá lâm tệ huyện có điều chi dạy bảo ? Để tiểu nhân sai người đi gọi huyện úy tới đây trình diện đại nhân.
            Nghiêm Sơn hỏi :
            – Theo ý Huyện-lệnh, Hoàng Đức-Phi là người thế nào ?
            Câu hỏi đột ngột làm Phạm Thu-Tòng không trả lời được. Nhưng thạo nghề làm quan, y đáp lệch đi :
            – Tiểu nhân với Huyện-úy thường hội ý làm việc với nhau.
            Nghiêm Sơn đâu lạ gì câu trả lời đó, chàng ngắt :
            – Xin mời Lữ-trưởng Lục-hải tới gặp tôi trước đã.
            Thu-Tòng xin phép ra ngoài. Lát sau, dẫn một quân nhân bước vào. Quân nhân hành lễ quân cách với Nghiêm :
            – Lữ trưởng Lục-hải Trần Phúc tham kiến Quốc-công.
            Nghiêm Sơn mời ngồi rồi hỏi :
            – Lữ trưởng trấn ở đây được mấy năm rồi ?
            – Tiểu nhân trấn nhậm ở đây đã được ba năm.
            – Tình hình an ninh tại huyện ra sao ?
            – Bẩm hoàn toàn tốt. Tuy không động đến binh, nhưng tiểu nhân vẫn thao luyện sĩ tốt, không dám xao lãng.
            Người nhà Huyện-lệnh bưng trà, hoa quả tráng miệng vào. Phạm Thu-Tòng mời Nghiêm Sơn uống trà, ăn trái cây. Nghiêm Sơn uống chum trà thứ nhất xong, chàng thấy mùi vị hơi lạ, vội bưng chung thứ nhì lên ngửi. Thấy mùi hơi chua. Chàng hạ chung trà xuống, hỏi Huyện-lệnh :
            – Trà này là trà gì ? Sao có mùi chua vậy ?
            Huyện-lệnh cũng nghiệm thấy thế. Y cho rằng người nhà nấu nước bị ám khói, vội pha bình trà khác. Nhưng khi y vừa đứng lên, thì người lảo đảo ngã xuống. Nghiêm Sơn la lên :
            – Trà có thuốc độc.
            Trần Phước cũng lảo đảo ngã xuống. Chàng quay lại thấy vợ còn đứng vững trong khi Nghi-Sơn, Dương-Đức và chị em Lê Thị Lan đang nghiến răng cố chịu đựng. Chàng thấy người lảo đảo, muốn vung tay phát lực mà không được
            Chợt cánh cửa bật mở, thầy trò Đức-Phi cùng ùa vào, cười ha hả :
            – Nghiêm Sơn hỡi Nghiêm Sơn ! Thế là mày đã lọt vào tay tao rồi. Đố mày chạy thoát đấy.
            Nghiêm Sơn nghiến răng vận sức vào tay, phóng một chưởng đánh vào đầu Hoàng Đức-Phi để tự cứu mình. Bá-Hiển thấy chưởng mãnh liệt khủng khiếp, vội lạng mình vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng, người y bị bật văng vào cột nhà. Cột nhà gãy rắc một cái, y nằm im, không động đậy. Đức-Phi nhảy đến đỡ y dậy, nhưng toàn bộ xương ngực Bá-Hiển đã bẹp dúm, đầu vỡ làm hai, chết liền tức khắc. Đức-Phi kinh hãi vì chưởng lực của Nghiêm Sơn.
            Trước đây nghe nói Nghiêm Sơn võ công kinh người, nhưng với bản tính lưu manh, biết vài ba miếng võ tạp nhạp, y không thể ngờ trên đời, võ học có thể đạt tới trình độ như y thấy hôm nay. Y hoảng hồn đứng chết trân. Cả mấy thầy trò y cùng kinh hồn động phách. Tiến lên thì không dám, lùi lại cũng không xong.
            Bỗng Nghiêm Sơn, Thiều-Hoa cùng lảo đảo, ngã ngồi xuống ghế. Hoàng Phi-Long biết thuốc đã ngấm, rút kiếm tiến lên nói :
            – Sư phụ ! Giết chúng hay bắt sống ?
            Đức Phi đã tỉnh lại. Y lắp bắp nói :
            – Hãy trói chúng lại đã.
            Vĩnh-Liên, Phi-Long dùng giây trói Nghiêm Sơn, Thiều-Hoa và mọi người lại. Đến lượt Huyện-lệnh và Trần Phúc thì Đức-Phi bảo đệ tử :
            – Đừng trói chúng. Hãy đem nước lạnh vào dội lên đầu để cứu tỉnh chúng đã.
            Vĩnh-Liên chạy ra ngoài lấy nước lạnh vào dội lên đầu hai người. Hai người tuy trúng độc ngã xuống, chân tay không cử động được, nhưng đầu óc còn nhận biết được mọi việc. Khi chân tay còn cử động được, Huyện-lệnh quát lên :
            – Hoàng Huyện-úy ! Ngươi mau cởi trói cho Lĩnh-Nam công. Nếu chậm trễ khó tránh khỏi sát thân cả ba họ.
            Trần Phước rút kiếm của Đào Nghi-Sơn, đứng trước Nghiêm Sơn, nói :
            – Phụ tử chi binh. Họ Trần này trọn đời trong quân ngũ chưa từng thấy một tướng soái nào anh minh hiệp nghĩa, coi binh lính như ruột thịt bằng Nghiêm công. Nếu cha con ngươi muốn giết người, phải giết ta trước đã. Các ngươi có giỏi hãy tiến lên đi.
            Đức-Phi là tên du thủ du thực, cả đời sống bằng những lời lưu manh, lừa đảo người, y vẫy hai con lùi lại, cười ha hả :
            – Phạm Huyện-lệnh, Trần lữ trưởng ! Các người cứu Nghiêm Sơn, liệu lát nữa y tỉnh dậy, có tha cho các người không ? Y bất thình lình tới đây với những người có võ công cao như thế này là có lý do của y. Y đã được phúc bẩm rằng các ngươi thu được nhiều ngọc ngà châu báu, nên muốn đến đây để xử trí các ngươi về tội tham nhũng, các ngươi có biết không ? Chứ nếu chỉ đi duyệt xét binh tình y đã cho ta biết trước rồi...
            Ngừng một lát, y tiếp :
            – Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu. Phạm huyện lệnh, Trần lữ trưởng chi bằng ta giết hết những tên đàn ông thối tha này, quẳng xác vào rừng cho thú ăn thịt vô tang. Sau đó chúng ta mật bẩm về Tô thái thú, ngài sẽ trọng thưởng chúng ta. Tôi cam đoan việc này tốt đẹp. Hôm qua Tô thái thú cho người phi ngựa tới bảo vợ tôi ra Luy-lâu hầu ngài ngay. Tôi biết vợ tôi nó thạo nghề phòng the lắm. Tô thái thú nghiền nó như nghiền rượu vậy. Trong phòng the, Tô thái thú nhiều lần nói cho nó biết rằng ngài muốn giết tên Nghiêm Sơn đã lâu, ngặt vì uy thế y quá lớn, võ công y lại cao. Bây giờ chúng ta giết y thì Thái-thú sẽ thăng Huyện-lệnh làm Đô-sát, còn Lữ-trưởng sẽ thăng lên làm Sư-trưởng.
            Lữ trưởng Trần Phước quát :
            – Đức-Phi ! Ngươi đừng hòng hoa ngôn, xảo ngữ lừa ta. Ta không nghe đâu. Dù Lĩnh-Nam công với Tô thái thú có xung đột với nhau, ta là quân nhân, ta phải bảo vệ tướng soái.
            Hoànng Đức-Phi cười :
            – Thôi được ngươi lại cởi trói cho y đi.
            Trần Phước chạy lại cởi trói cho Nghiêm Sơn, thì véo một cái, Hoàng Phi-Long đã phóng kiếm đâm y. Y hoảng hồn nhảy lùi lại, thì choang một tiếng, kiếm đã đâm trúng ngực y. May y mặc giáp sắt, kiếm đâm không thủng. Y vung kiếm đánh với Phi-Long.
            Trần Phước chỉ là một võ tướng, có sức mạnh, nhưng không phải là đối thủ của một đệ tử võ học Cửu-chân. Được mười hiệp, Phi-Long đã đánh kiếm của y rơi xuống đất, và chĩa kiếm vào cổ y.
            Đức-Phi nói :
            – Trần Phúc bây giờ có hai đường : Một là ngươi cầm kiếm đâm chết Nghiêm Sơn. Hai là ta giết ngươi, giết hết các con ngươi, đoạt vợ ngươi, nàng hầu của ngươi đem về làm tỳ thiếp. Của cải của ngươi ta hưởng hết.
            Phi-Long đứng sau trần Phúc chĩa kiếm vào hông y, nói :
            – Mi nhặt kiếm, tiến lên chém Nghiêm Sơn. Ta đứng sau ngươi, nếu ngươi chém Nghiêm, ta sẽ rút kiếm ra. Còn không ta đẩy kiếm vào giữa tim ngươi.
            Đức-Phi cũng nhặt kiếm đưa cho Huyện-lệnh :
            – Ngươi cũng thế, ngươi tiến lên đâm chết con vợ của Nghiêm Sơn đi.
            Phạm Thu-Tòng quát lên :
            – Đầu ta có thể rơi, chứ ta không thể giết Lĩnh-Nam công.
            Đức-Phi cười gằn :
            – Được ta đếm ba tiếng, nếu ngươi không ra tay, ta sẽ giết ngươi trước. Nào một... hai... ba.
            Khi Vĩnh-Liên, Phi-Long vung kiếm lên bỗng cánh cửa sổ kêu đánh binh một tiếng, ba người vọt qua cửa vào. Chỉ một chiêu đã bắt sống Phi-Long, Vĩnh-Liên, Đức-Phi.
            Nghiêm Sơn tuy trúng độc, chân tay tê liệt, nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh, nên nhận biết mọi sự. Chàng thấy ba người nhảy vào trước là Đào Kỳ, Phương-Dung, Trần Năng tiếp theo sau đó là Hồ Đề, Hùng Bảo.
            Trần Năng bảo Trần Phúc :
            – Mau lấy nước lạnh cứu người.
            Trần Phúc chạy ra ngoài một lát trở vào cùng vài tên lính bưng nước lạnh đưa Trần Năng. Trần Năng cùng Phương-Dung lau mặt cho mọi người. Đào Kỳ, Hùng Bảo rất quan tâm đến Thiều-Hoa. Thiều-Hoa mở mắt, tỉnh dậy mỉm cười :
            – Tiểu sư đệ ! Đồ nhi Hùng Bảo các người hay quá.
            Hùng Bảo vui mừng nói :
            – Sư nương ! Sư nương khỏe hẳn chưa ?
            Thiều-Hoa đứng dậy :
            – Bảo nhi, ngươi yên tâm. Ta khỏi hẳn rồi.
            Mọi người được cứu tỉnh và cởi trói. Nghiêm Sơn nói với Trần Phúc :
            – Trần lữ trưởng, ngươi là đấng anh hùng. Suốt đời ta không quên ngươi đâu. Ngươi mau triệu tập binh mã, vây kín trang ấp của Hoàng Đức-Phi, dù con chó, con mèo cũng không được thoát ra ngoài. Nhưng đừng giết ai.
            Lát sau Trần Phuc đã giải cả nhà Hoàng Đức-Phi tới.
            Nghiêm Sơn quay lại nói với Huyện-lệnh Phạm Thu-Tòng :
            – Ngươi đã nói thà mất đầu chứ quyết không để cho Đức-Phi giết ta. Ta thề với trời đất, cả đời đối xử với ngươi như anh em. Ngươi cho ta mượn Huyện-đường một lát.
            Rồi Nghiêm Sơn sai điệu cả nhà Hoàng Đức-Phi vào hỏi cung.
            Thì ra khi Nghiêm Sơn đến Huyện-đường, bọn Đức-Phi đã được thông báo. Y biết rõ nữ lang đánh với y hồi trưa là phu nhân của Lĩnh-Nam công. Người đứng lược trận là Nghiêm Sơn thì không còn hồn vía. Y định cùng vợ con lên ngựa cao chạy xa bay. Nhưng đệ tử Phi-Long cản y :
            – Việc gì phải chạy. Ta cho người lén vào bếp của Huyện-lệnh, bắt trói đầu bếp, bỏ thuốc mê vào trà cho bọn nó uống. Chúng ta bắt chúng trói lại, giết đi, có khi Tô Thái thú còn trọng thưởng là khác.
            Đức-Phi là đứa tiểu nhân, nhát gan nhưng hay làm liều. Nay gặp bước đường cùng, y đành theo lời đệ tử. Không ngờ giữa lúc cha con y sắp thành công, lại bị bọn Đào Kỳ nhảy vào can thiệp.
            Bây giờ cả bọn đã bị trói. Hoàng Bá-Hiển bể đầu chết thảm nằm đó. Y biết chắc không thể nào thoát nạn chu diệt toàn gia, đành nhắm mắt, cúi đầu, không nói được lời nào.
            Hồ Đề nói với Nghiêm Sơn :
            – Nghiêm đại ca ! Chúng tôi cứu đại ca, vậy đại ca thưởng cho chúng tôi cái gì đây ?
            Nghiêm Sơn quay lại nhìn vợ hỏi ý kiến. Lúc đó, Thiều-Hoa đang ngồi trên ghế, Hùng Bảo đứng hầu phía sau, còn Đào Kỳ đang bóp vai cho nàng. Trong lòng chàng nảy ra mối thiện cảm :
            – Tiểu sư đệ, Hùng Bảo lúc nào cũng chỉ nghĩ đến phục quốc, luôn miệng nguyền rủa Mỵ-Châu, nhưng lại cực kỳ sủng ái phu nhân ta. Họ đã coi ta là người hiệp nghĩa chứ không phải Trọng-Thủy. Coi phu nhân ta là người biết đạo nghĩa chứ không phải Mỵ-Châu. Hôm ở đảo, ta bị Phùng Chính-Hòa phản, hôm nay lại bị Đức-Phi phản, đều do người thân của phu nhân cứu cả.
            Thiều-Hoa thấy chồng hỏi ý kiến, nàng nhìn Hồ Đề, biết Hồ Đề có tính hay đùa, nàng nói :
            – Hồ cô nương ! Ngươi muốn gì, dù ngươi không cứu chúng tôi, chúng tôi cũng chiều hết. Huống chi hôm nay, chúng tôi đã tới Quỷ môn quan lại được người cứu sống ?
            Hồ Đề cười :
            – Tôi chỉ muốn Nghiêm đại ca cho phép đề nghị biện pháp trừng phạt tên Hoàng Đức-Phi mà thôi.
            Nghiêm Sơn ngẩn người ra, hỏi :
            – Được. Nghiêm mỗ sẽ nghe lời đề nghị của cô nương. Nhưng không lẽ cô nương muốn cho voi dày hay ong đốt chết y ?
            Hồ Đề vỗ tay :
            – Không ! Tôi đi chuyến này không mang ong theo, cũng không mang voi theo, làm sao cho voi dày, ong đốt được ? Bây giờ đại ca cứ theo quân pháp xử trước. Chắc chắn y sẽ bị tử hình. Nhưng trước khi giết hắn, tôi xin được trừng phạt để làm gương cho những tên Đức-Phi sau này. Đại ca nghĩ có nên không ?
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #36
              Hồi 35 - Giao long nữ

              Trời đã về khuya, Huyện-lệnh sai dọn phòng mời mọi người đi nghỉ. Trong phòng ngủ Thiều-Hoa hỏi chồng :
              – Anh nghĩ xem sư muội Hồ Đề sẽ làm gì thầy trò Đức-Phi ? Nghiêm Sơn lắc đầu :
              – Hồ Đề là người Mường, sống với thiên nhiên đã quen. Ý nghĩ của nàng khác với ý nghĩ của chúng ta. Như hôm ở đại hội Tây-hồ thì rõ. Khi Đinh Công-Minh chửi Hùng Bảo chui đầu trong quần vợ, ai cũng cho là nhục nhã. Ngược lại nàng cho đó là việc dĩ nhiên, ông chồng nào mà chẳng chui đầu trong quần vợ, đã là sự thực thì đâu còn nhục nữa ? Rồi nàng dạy Công-Minh chui dưới háng Trần Năng. Nàng lại cho dùng rắn, dùng ong trêu người, thật là ngoài sự tưởng tượng của ta. Ngày mai, nàng hành tội cha con Đức-Phi thế nào, ta phải chờ mới biết được.
              Sáng hôm sau, dân chúng các trang ấp tề tựu về Huyện Lục-hải, đông như hội. Họ được tin báo đúng giờ Ngọ, sẽ xử tội Huyện-úy Đức-Phi. Họ còn biết ngoài tội hà lạm, tàn ác với dân chúng ra, đêm hôm trước thầy trò y đã tạo phản, mưu sát Bình-Nam đại tướng quân Lĩnh-Nam công.
              Trong mấy năm ở Lục-hải, thầy trò Hoàng Đức-Phi đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác. Các Lạc hầu, Lạc tướng khổ sở với y vô cùng. Y căn cứ vào Ngũ pháp của Tô Định, mà đi khắp nơi bất người làm lao binh đưa sang Trung-nguyên. Khiến trong huyện, nhà nào cũng lâm vào cảnh tang tóc, muốn sống không nổi. Nay nghe tin hắn bị xử tội, người ta kéo nhau đi xem đông nghẹt. Người người chen nhau ở bãi đất trống trước huyện đường.
              Đúng giờ Ngọ, ba hồi chiêng trống vang lừng, thầy tò Đức-Phi bị điệu ra trước sân huyện đường. Lính dẫn y lên đài trói vào cột. Trên đài có một cái bàn trải lụa đỏ. Giữa bàn có một lư hương, khói bốc lên nghi ngút.
              Chợt tiếng loa hô lớn :
              – Lĩnh-Nam công đến ! Quì xuống !
              Dân chúng lập tức tuân lệnh, Nghiêm Sơn ra hiệu miễn lễ. Tiếng loa lại xướng :
              – Miễn lễ !
              Nghiêm Sơn lên bàn ngồi. Huyện-lệnh Phạm Thu-Tòng đứng lên cầm tập giấy, đọc lớn :
              Lĩnh-Nam công, lĩnh Bình-Nam đại tướng quân, cáo tri cho các Lạc hầu, Lạc tướng, Động trưởng, Châu trưởng cùng các chức sắc, bô lão, dân chúng trong huyện Lục-hải rõ :
              Kể từ khi bản soái được Kiến-vũ thiên tử ủy nhiệm sang Lĩnh-Nam, trước khuất phục các thái thú dư đảng của phản tặc Vương Mãng, sau giúp dãn Việt an cư lạc nghiệp. Hơn 8 năm qua bản soái đã ban hành pháp lệnh :
              1. Cho người Việt cũng như người Hán được bình đẳng trước pháp luật. Không còn cảnh người Hán phạm tội được tha, người Việt phạm tội bị phạt.
              2. Người Hán, người Việt có tài , đều được trọng dụng. Toàn đất Lĩnh-Nam có 6 quận, thì đã có 5 thái thú là người Việt. Đô sát có nơi là người Việt, có nơi người Hán. Quan lại các cấp huyện lệnh tuy vẫn còn là người Hán, nhưng huyện úy hầu hết là người Việt.
              3.Trừng phạt nặng nề những quan chức nhũng lạm. Tại đất Lục-hải được coi là bờ xôi, giếng mật của Lĩnh-Nam, Huyện lệnh lại có tài. Lạc hầu, Lạc tướng đều là người biết lo cho dân. Thế mà dân chúng vẫn khổ sở, tiếng than vang đến Luy-lâu. Bản soái nhiều lần muốn đến thanh sát, cải tiến nền nội trị, ngặt vì công việc đa đoan, mãi nay mới thực hiện được.
              Bản soái qua Lục-hải điều tra, thấy gốc của thống khổ ở Lục-hải đều do tên Hoàng Đức-Phi, huyện úy gây ra.
              Đức-Phi sinh giờ Ngọ, ngày rằm tháng mười, tuổi Bính tý. Y xuất thân lưu manh, trộm cướp. Mồ côi cha từ nhỏ thất học, gian dâm với cả chị ruột, sinh ra một gái tên Hoàng Yến Tuyết. Theo luật của thừa tướng Tiêu Hà bản triều, tội đáng phanh thây. Y bỏ nhà, phiêu bạt sang Trung-nguyên, lấy vợ làm gái điếm tên Sài Phố An Mả Rị, tuổi Ất-dậu, không rõ ngày tháng sinh. Y phiêu bạt tới Khúc-giang làm tôi tớ cho Khúc-giang ngũ hiệp, học được một vài thế võ. Từ đó y mượn tiếng danh gia, lừa bịp thiên hạ.
              Khi trở về Giao-chỉ, được lĩnh chức huyện úy. Tuy võ công y chỉ học được vài ba cái múa nhưng, lại ra cái điều là đệ tử danh gia, rủ thêm 6 người nữa, gửi thư về sư môn , xin được quy phục. Khúc giang ngũ hiệp, phần ở xa, phần thấy có người quy phục nên chấp nhận.
              Bảy người theo thứ tự tuổi tác như sau :
              Nguyễn Dân Phú trưởng võ đường Thanh-long.
              Hoàng Xuân Nam, trưởng võ đường Bát-quái.
              Nguyễn Văn Thịnh, lữ phó Lục-hải.
              Trần Minh-Long giám-sở Tế tác Lục-hải.
              Hoàng Đức-Phi, huyện úy Lục-hải.
              Trần Phúc, lữ trưởng Lục-hải.
              Phạm Thu Tòng, huyện lệnh Lục-hải.
              Tri tình Nguyễn Dân Phú là võ sư uy tín, ngay thẳng, từ Trung-nguyên sang dạy võ, đã tạo được uy tín đáng khen. Con trưởng là Nguyễn Dân Việt là một lương y, thay cha làm chưởng môn, đạo đức có tiếng. Bản soái có lời khen tặng cả hai cha con, ban cho tước lạc hầu trang Thanh-long.
              Hoàng Xuân Nam hơn 20 năm dạy võ ở miền biển giáo dục thiếu niên, công đức với dân đã dày Bản soái ban cho tước lạc hầu các trang ven biển.
              Trần Minh-Long biết tội trạng Hoàng Đức-Phi, bị y đánh thuốc độc chết, không người kế tục, nghĩ cũng đáng thương. Bản soái ban cho làm Phúc thần, dân Lục-hải phải thờ cúng quanh năm.
              Nguyễn Văn Thịnh khí tiết trung lương, đến tuổi về hưu vẫn còn lo dạy học. Bản soái ban cho tước lạc hầu trang Đông hải.
              Trần Phúc tâm tính lương thuần, tận tụy với nhiệm vụ. Bản chức thăng lên chức huyện lệnh Nga sơn.
              Phan Thu-Tòng văn võ toàn tài, lòng dạ trung lương đang lẽ được cất nhắc lên chức vụ lớn hơn, nhưng vì là người trên, không kiểm soát được Đức-Phi, Bản soái vẫn để ở chức vụ cũ .
              Các đệ tử của Hoàng Đức-Phi, tên Hoàng Bá-Hiển, tri tình Phi là đứa gian manh, văn dốt, võ không quá ba cái múa, mà vẫn cuối đầu lạy làm thầy, cướp vợ của sư đệ Hoàng Phi-Long là Phạm Thị Hân, bản soái đã phóng chưởng đánh chết đêm qua. Hoàng Vĩnh-Liên xuất thân trong gia đình hào kiệt, bị Phi lừa dối nghĩ cũng đáng thương, truyền đưa về Luy-lâu cho được ăn học. Hoàng Phi-Long cũng bị lừa. Nhưng khi đã biết bị lừa vẫn còn theo Phi, khép vào tội gian nhân, hiệp đảng. Song xét kỹ, chỉ vì ngu dốt, nên được tha tội chết, nhưng phải xung vào lao binh trong năm năm.
              Tên Hoàng Thị Huệ, xuất thân trong gia đình nghèo khó, cha làm phu xe, đã biết nỗi khổ của bần dân mà vẫn theo Đức-Phi làm nhiều điều trái luân thường. Gian dâm phá thai đến ba lần. Bản soái chiếu luật bản triều, truyền :
              – Xử tử toàn gia Hoàng Đức-Phi. Con cái, tôi tớ từ 15 tuổi trở lên được miễn tử, song phải xung quân. Đàn bà từ 15 tuổi trở lên, truyền đưa vào Nhật-Nam làm nô bộc cho binh sĩ xa nhà. Bất kể nam nữ dưới 15 tuổi được ân xá.
              – Tịch thu tài sản. Phàm vàng bạc châu báu sung vào công khố. Đất đai y cướp của các lạc hầu, lạc tướng được trả về chủ cũ.
              – Truyền cho thống lĩnh 72 động Tây-vu làm giám sát xử tử tội nhân.
              – Hoàng Thị Huệ cũng bị xử tử.
              – Truyền cho thống lĩnh 72 động Tây-vu làm giám trảm. Tùy ý áp dụng hình cụ xử tội.
              Đúng giờ Ngọ, sau ba hồi chiêng trống vang lừng, Hoàng-Đức Phi cùng vợ con bị điệu ra trước đài cao.
              Hồ Đề từ dưới đài bước lên. Dân chúng thấy nàng phục sức theo lối người Mường của miền rừng núi, đều ngẩn người ra nhìn. Họ thấy nàng xinh đẹp, tươi tắn, nhẹ nhàng thanh thoát, cho rằng nàng là một vị tiên cô giáng trần. Hồ Đề hướng vào dân chúng nói :
              – Cha con tên Hoàng Đức-Phi làm hại dân chúng đã nhiều. Bây giờ tôi muốn tất cả chúng ta cùng trừng trị y.
              Dân chúng hoan hô vang dội.
              Nàng tiếp :
              – Bãi đất trước kia đã được cất lên một cái nhà sàn. Các người đã nhìn thấy chưa ?
              Dân chúng đều nhìn rõ. Họ thấy một cái nhà chòi bằng gỗ, lợp rạ, theo lối nhà sàn mới dựng lên. Phía Bắc và Nam có cầu thang. Nhà chia làm hai, có ván ngăn đôi, có cả cửa, đóng kín.
              Dân chúng ngơ ngác không hiểu căn nhà đó dùng để làm gì. Hồ Đề giải thích :
              – Cái chòi kia không phải để giam Đức-Phi. Nó là một cái nhà cầu. Ta cho lệnh trói cha con tên Phi vào mấy cái cột dưới sàn nhà. Trên sàn nhà có hai phòng kín. Phòng phía Bắc cho đàn bà con gái. Phòng phía Nam cho đàn ông con trai. Bây giờ chúng ta lần lượt lên nhà sàn vào phòng kín, đi tiêu, đi tiểu lên đầu cha con y, như vậy mới hả mối căm hờn từ lâu của dân chúng.
              Ngừng lại một chút, nàng tiếp :
              – Nếu cứ để dân chúng đi tiêu, đi tiểu vào đầu chúng, chỉ mấy ngày sau chúng sẽ chết mất. Như vậy chẳng khiến cho chúng sung sướng lắm sao ? Chủ ngục Lục-hải mỗi ngày cho người mang cơm, nước uống cho cha con y. Dân chúng sẽ được đi tiêu, đi tiểu vào đầu chúng hàng tháng cho đến khi nào chúng chết thì thôi.
              Dân chúng sướng quá,hò reo vang dậy.
              Cả nhà Hoàng Đức-Phi gồm có : Ba cha con y và mười người nữa, cũng bị điệu ra cùng một lúc với Hoàng Thị Huệ tới gần nhà sàn. Dân chúng nam phụ lão ấu chia nhau xếp hàng lên nhà sàn.
              Nghiêm Sơn nhìn Hoàng Thiều-Hoa như muốn nói : Ai ngờ Hồ Đề nghĩ ra hình phạt kinh khiếp như vậy !
              Xong việc, Nghiêm Sơn hỏi Đào Kỳ tại sao lại ở đây cùng với Trần Năng, Hồ Đề..v.v... Đào Kỳ liền tường thuật biến chuyển từ lúc rời đảo đến giờ. Chàng chỉ có kế hoạch đã bàn với Khất đại phu và Nam hải nữ hiệp về việc phục quốc mà thôi.
              Trước mặt Hoàng Thiều-Hoa, lúc nào Đào Kỳ cũng chỉ là cậu tiểu sư đệ mà thôi. Nàng nói :
              – Bây giờ em đã có vợ, phải hành sự như người lớn. Hôm rời đảo về Cửu-chân, bọn Song-quái đã trốn mất. Sư phụ, sư thúc đã chỉnh đốn lại trang ấp. Dân chúng nghe tin sư phụ trở về kéo nhau đi đón. Yến tiệc linh đình, vui lắm. Họ hỏi tiểu sư đệ đâu. Sư phụ trả lời rằng đã sai sư đệ ra Bắc có việc. Sau, chúng ta thuyết phục sư phụ cho phép đại sư ca Trần Dương-Đức làm huyện úy Ngọc-đường thay Phùng Chính-Hòa, còn đại ca Nghi-Sơn làm huyện úy Nghi-sơn. Các sư đệ Biện-Sơn, Quách Lãng đều làm lữ trưởng Nghi-sơn, Ngọc-đường. Hôm chúng ta từ biệt để về Bắc, sư phụ cho đại sư ca và đại ca tiễn chúng ta đến đây. Giữa đường lại gặp tiểu sư đệ.
              Đào Nghi-Sơn bảo Đào Kỳ :
              – Trước khi đi, bố có gửi cho em bức thư. Tam muội sẽ đưa cho em.
              Thiều-Hoa đưa thư cho Đào Kỳ. Đào Kỳ đứng dậy sửa y phục lại ngay ngắn, rồi mới mở thư đọc. Dân Lĩnh-Nam rất coi trọng chữ hiếu. Người ta có thể chết thay cho cha mẹ. Đối với lời nói, mệnh lệnh của cha mẹ, người con tuyệt đối tuân theo. Khi được thư cha mẹ, phải chỉnh đốn y phục, như ngồi trước mặt song thân, rồi mới mở ra xem.
              Đào Kỳ nhẩm đọc :
              Đất Lĩnh-nam, nước Âu-lạc,
              Lạc-hầu Cửu-chân, chưởng môn Đào Thế-Kiệt,thư cho con út là Đào Kỳ ở xa, nghe lệnh dạy dỗ.
              Phàm việc mình, có thể tự quyết. Phàm việc nhà, phải thuận trên dưới mới được làm. Phàm việc nước, trên coi có thuận lòng trời, hợp lòng người, việc cử sự mới xong. Con xa ta bảy năm, không được dạy dỗ nhiều, ta lấy làm ân hận. Tuy con đã được thúc phụ Thế-Hùng và các danh nhân đương thời như Trần Đại-Sinh, Nguyễn Trát, Nguyễn Tam-Trinh, Nam-hải dạy thêm. Nhưng dạy như thế ở trong nhà coi như đã tạm đủ, còn đứng ra để lo việc phục hưng Lĩnh-Nam, vẫn còn thiếu. Con may mắn được Lục tiên sinh dạy văn, học được võ công cao nhất thiên hạ, nhưng hành sự chưa được chính đạo. Ta viết thư này dặn con : Tuyệt hẳn, không được lai vãng với Tường-Quy nữa. Nếu trái lời thì con đã bất hiếu với ta đó.
              Về Lê Đạo-Sinh, y đã hợp tác với Tô Định mưu hại Nghiêm Sơn. Nghiêm là người hào sảng, muốn tâu với Hán đế trả đất Lĩnh-Nam cho người Lĩnh-Nam. Nghiêm có ơn với Kiến-vũ, việc này chắc không khó. Vậy con cần nhìn phải, nhìn trái, bàn với Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, Phương-Dung mà hành động.
              Thư bất tận ngôn. Mong ngày tái ngộ.
              Đào Thế-Kiệt cẩn bút.
              Đào Kỳ kính cẩn gấp thư bỏ vào túi, rồi hỏi Thiều-Hoa :
              – Sư tỷ, mẹ em có dặn điều gì không ?
              Thiều-Hoa lắc đầu :
              – Sư mẫu chỉ dặn chị chiếu cố cho tiểu sư đệ . Thực sự bây giờ sư đệ đã là đại sư đệ rồi. Cả kiến thức võ công đều bỏ xa chị. Sư đệ có nhiều bạn tốt như Trưng Nhị, Hồ Đề, Vĩnh-Hoa..., có cô vợ thông minh, tài trí như Phương-Dung, ta có muốn chiếu cố đến sư đệ cũng không được nữa. Hay bây giờ thế này, Sư đệ lớn rồi chiếu cố lại cho chị đi.
              Phương-Dung nheo mắt :
              – Đúng đấy! Khi xa bố mẹ, anh Kỳ mới có 13 tuổi, Hoàng sư tỷ đã nuôi nấng, chiếu cố tận tâm, không khác gì mẹ hiền. Bây giờ anh Kỳ thành người, phải báo hiếu lại cho sư tỷ.
              Đào Kỳ nắm tay Thiều-Hoa cảm động nói :
              – Em không muốn báo hiếu sư tỷ. Cứ để nợ nần sư tỷ như vậy, thành ra lúc nào em cũng nhớ đến sư tỷ, có phải hay hơn không ?
              Từ ngày gặp Đào Kỳ, Nghiêm Sơn vẫn có thiện cảm với cậu Tiểu sư đệ của vợ. Huống chi, chàng lại thấy vợ hết sức yêu thương Đào Kỳ, lại càng thấy thích y hơn. Chàng nói :
              – Ta xuất thân làm con một đại tướng quân, nhà giàu có, ta vẫn không thấy thế hơn người. Mười bảy tuổi, cùng Hợp-phố lục hiệp cứu Quang-vũ, cùng nhau kết bạn, khởi nghĩa chiếm Côn-dương, dẹp Vương Mãng, Xích My, được phong tới Lĩnh-Nam công, trong thiên hạ, ngoài hoàng đế ra không ai có uy quyền, giàu có bằng ta. Nhưng ta vẫn không thấy thế làm sung sướng. Điều sung sướng nhất đời ta là, khi sang Lĩnh-Nam gặp Hoàng muội. Sau đó, ta lại được Đào hầu cùng các huynh đệ không nghi ngờ xem ta là thằng Ngô là giặc Hán , đã giúp đỡ ta. Tất cả những thứ đó đều nhờ Hoàng muội cả. Cho nên Hoàng muội muốn gì ta cũng nghe theo hết.
              Phương-Dung ngồi lại ngay ngắn, nói :
              – Nghiêm đại ca ! Hôm nay đại ca đã hứa rằng. Hoàng sư tỷ muốn gì, đại ca cũng chiều, đại ca nhớ nhé.
              Nghiêm Sơn cầm đôi đũa bẻ làm đôi, nói :
              – Ta, Nghiêm Sơn, hứa trước mặt phu nhân ta là Hoàng Thiều-Hoa cùng các sư huynh, đệ, muội, các quan rằng : Trọn đời ta chỉ sủng ái Hoàng muội. Hoàng muội nuốn gì, ta cũng chiều theo. Nếu trái lời, sẽ như chiếc đũa này.
              Chàng vừa dứt lời, Thiều-Hoa đã nắm lấy tay chàng, mắt long lanh nhìn chàng chiếu ra những tia sáng nhu mì, trông đẹp hơn bao giờ hết.
              Chàng liếc thấy trên mặt Phương-Dung chiếu ra những nét kỳ dị, vui cũng không phải, mà buồn cũng không đúng. Chàng chợt nghĩ ra :
              – Mình chỉ muốn hứa không bao giờ tuyển tỳ thiếp. Chuyện vợ chồng nhất thiết chiều Thiều-Hoa. Nhưng vừa rồi mình nói tổng quát quá, khiến Phương-Dung mai phục một câu, sau này khó mà gỡ được. Ta phải chiều Thiều-Hoa. Thiều-Hoa cực kỳ thương yêu tiểu sư đệ Đào Kỳ. Đào Kỳ lại có Phương-Dung bên cạnh. Không chừng nàng Đào Kỳ xúi Thiều-Hoa bắt ta khởi binh phản Quang-vũ cũng nên. Nhưng ta đã hứa rồi không thể rút lại được nữa.
              Chàng nhìn Phương-Dung. Bốn mắt gặp nhau, Phương Dung cười tủm tỉm, ý như muốn giao hẹn : Đừng quên lời hứa đấy nhé !
              Hùng khí bốc dậy, Nghiêm Sơn tiếp :
              – Ta được mối nhu tình của Thiều-Hoa, dù có chết đến mươi lần vẫn cảm thấy hạnh phúc.
              Phương-Dung mỉm cười nói với Nghiêm Sơn :
              – Nghiêm đại ca ! Trong nhà mình, đại ca Nghi-Sơn, nhị ca Biện-Sơn đều làm quan cả rồi. Nghiêm đại ca cho anh Kỳ một chức quan gì đi.
              Nghiêm Sơn biết Phương-Dung nói đùa, nên lắc đầu :
              – Ta chẳng có chức gì xứng đáng với Đào sư đệ cả. Không lẽ ta nhường chức Bình-Nam Đại tướng quân cho tiểu sư đệ hay sao ?
              Phương-Dung cười như nắc nẻ :
              – Sao lại không ? Đại sư ca, đại ca đều là huyện úy. Nhị ca, Quách sư đệ là lữ trưởng, tại sao Nghiêm đại ca không phong anh Kỳ làm Thái-thú Giao Chỉ ? Em cũng muốn làm Thái-thú phu nhân đây.
              Câu nói của Phương-Dung kéo Nghiêm Sơn về thực tại. Hiện chàng đang thiếu chức huyện úy Lục-hải. Các đời trước đều cấm không được dùng người Việt làm bất cứ một chức quan nào, dù võ hay văn. Từ khi Nghiêm Sơn thụ phong Lĩnh-Nam công, chàng cải lại, chức huyện lệnh là người Hán, còn huyện úy không bắt buộc. Nhân sĩ Lĩnh-Nam không ai hiểu ý chàng thế nào. Vì huyện úy là người cầm quân trong huyện, tại sao lại giao cho người Việt ? Lỡ họ mang quân làm phản sẽ trở tay sao kịp ?
              Nghiêm Sơn nói với Trần Phúc :
              –Huyện lệnh Nga-sơn đất Cửu-chân mới từ trần, ta quyết định dề cử lữ trưởng Trần Phúc vào chức đó. Trần huynh đệ, ngươi thực là khí tiết đáng khen. Ngày mai ngươi lên đường ngay đi. Đất Cửu-chân là đất anh hùng, văn vật như đất Trung-nguyên. Vào trong đó, nếu có gì khó khăn, ngươi hãy liên lạc với nhạc gia ta là Đào hầu và sư thúc của phu nhân ta là Đinh hầu. Đất Cửu-chân, Thái-thú, Đô-úy đều là Hợp-phố lục hiệp, huynh đệ của ta cả. Ngươi không sợ bị cô đơn. Hiện diện ở đây có sư huynh phu nhân ta là Đào Nghi-Sơn, Trần Dương-Đức đều đáng tin cậy. Anh em dựa vào nhau làm việc.Ta sẽ điều lữ trưởng Nga-sơn ra đây, và cho con trai lớn của Trang trưởng trang Thiên-bản là Mai Đạt làm lữ trưởng Nga-sơn. Còn huyện úy Lục-hải, chưa biết nên cử ai ?
              Huyện-lệnh Phạm Thu-Tòng nhìn Thiều-Hoa, góp ý :
              – Thưa Quốc-công ! Tiểu nhân nghi tuy Đức-Phi đã bị tội, nhưng phe đảng của chúng không phải đã hết. Tiểu nhân xin Quốc-công cử một trong những bằng hữu, sư đệ của phu nhân trấn nhậm, tiểu nhân mới an tâm.
              Thiều-Hoa cũng nhận thấy lời huyện úy có lý. Huyện lệnh tuy biết võ công, nếu không có người thân tín sẽ rất nguy hiểm. Nàng nghĩ xem mình còn ai không ? Chẳng lẽ cử Đào Kỳ ? Chắc y không đời nào chịu. Vậy nên cử ai ?
              Phương-Dung nhớ đến kế hoạch đã bàn ở trên tàu với Trưng Nhị, bèn cười nói :
              – Sư tỷ, em góp một lời có được không ?
              Thiều-Hoa vỗ lưng nàng :
              – Trên đời này em chỉ thua có Khương Thái-công và Tôn Võ-tử mà thôi. Nay, hai người đó xương thịt đã nát thành tro cả rồi, nếu em có bàn lời nào, ai cãi cho nổi ?
              Phương-Dung mỉm cười :
              – Huyện Lục-hải lưỡng đầu thọ địch, một bên chân tay bọn Đức-Phi chưa hết, một bên, Tô Định nhòm ngó. Vậy, chỉ có thế tử của Lĩnh-Nam công chúng mới sợ mà thôi.
              Nghiêm Sơn cười :
              – Sư muội nói đúng. Nhưng ta với sư tỷ chưa có con.
              Phương-Dung chỉ Hùng Bảo :
              – Hùng sư điệt tuy không phải là con sư tỷ. Nhưng em sợ sau này sư tỷ có con, chưa chắc nó đã hiếu thuận với sư tỷ bằng Hùng sư điệt. Hùng sư điệt vừa học võ với sư tỷ, vừa học văn với anh Kỳ, văn võ kiêm toàn. Sư tỷ thương y như con, tại sao không để Hùng Bảo làm huyện úy ?
              Thiều-Hoa tỉnh ngộ, nhìn Hùng Bảo :
              – Đồ nhi ! Sư nương bảo ngươi làm huyện úy Lục-hải, ngươi có nghe không ?
              Hùng Bảo tới trước mặt Thiều-Hoa, quỳ xuống nói :
              – Sư nương đối với con, ơn hơn núi. Sư nương dạy sao con xin nghe vậy.
              Nghiêm Sơn cười :
              – Khi cưới phu nhân, ta cứ tưởng được một người đẹp nhất, nhu mì nhất Lĩnh-Nam, bây giờ còn được người thân của phu nhân giúp nữa.
              Chàng nâng Hùng Bảo dậy, nói :
              – Đồ nhi ! Vậy từ nay ngươi là huyện úy Lục-hải.
              Phương-Dung liếc nhìn Lê Thị Hoa :
              – Trang chủ Thiên-bản ! Tôi nghĩ trang chủ nên giao trang ấp lại cho Hùng Bảo coi giùm. Phu nhân cùng những huynh đệ của tôi vào Cửu-chân. Phu nhân hãy mang hết những ai muốn theo phu nhân vào đó. Huyện lệnh Trần Phúc đại nhân đây, sẽ giúp đỡ phu nhân. Phu nhân cần nhớ : Những gì chúng tôi nói với phu nhân, phu nhân có thể bàn với phụ thân Đào tam ca là Đào hầu.
              Lê Thị Hoa biết Phương-Dung nhắc đến mưu đồ phục quốc đã bàn ở trang của bà, nhưng không tiện nói ra đây. Bà gật đầu, nói :
              – Chúng tôi xin nghe lời cô nương.
              Sáng hôm sau, Nghiêm Sơn, Thiều-Hoa dẫn Đào Kỳ, Phương-Dung, Hồ Đề ra Bắc, để Hùng Bảo, Trần Năng ở lại. Còn Nghi Sơn, Dương-Đức, Trần Phúc, đám gia đình họ Mai do Lê Thị Hoa dẫn đầu, lên đường đi Cửu-chân. Chị em Lê Thị Lan, Lê Anh-Tuấn cùng theo Nghiêm Sơn một đường.
              Dọc đường, Đào Kỳ nhắc lại kỷ niệm ngày đầu tiên cách đây bảy năm chàng theo Nghiêm Sơn, Thiều-Hoa đi trên con đường này ra Bắc. Nhưng tâm trạng hai lần khác nhau khá xa. Đi đường, Phương-Dung bàn với Nghiêm Sơn về chuyến Bắc du, làm thế nào để Kiến-vũ hoàng đế đồng ý lập lại đất Lĩnh-Nam. Mọi vấn đề đều xuôi đẹp. Nhưng có điều, dùng lại triều Âu-lạc hay Văn-lang là vấn đề rất nan giải.
              Nghiêm Sơn cũng đang nhức đầu về vấn đề này. Chàng nghĩ : Vùng Cửu-chân đương nhiên do Đào hầu, nhạc phụ của chàng. Vùng Nhật-Nam giao cho Đinh hầu, sư thúc của Thiều-Hoa cũng được. Nhưng vùng Giao-chỉ, ai sẽ là người có đủ hả năng thống lĩnh? Còn Nam-hải và Tượng-quận sẽ do ai đây ?
              Chàng liếc nhìn Phương-Dung, định đem vấn đề bàn với nàng, thì gặp ánh mắt tinh quái của nàng đang nhìn lại. Chàng vội hỏi :
              – Phương-Dung ơi ! Ta muốn thỉnh ý kiến sư muội một việc.
              Phương-Dung gò cương, cho ngựa đến gần Nghiêm Sơn :
              – Có phải đại ca đang muốn kiếm người thống lĩnh đất Nam-hải và Tượng-quận phải không ?
              Nghiêm Sơn kinh hãi nghĩ thầm :
              – Cô em dâu này, tuổi bất quá 19, 20 sao lại thông minh đến độ này ? Nàng chỉ liếc nhìn đã thấu rõ tâm sự ta. Vậy từ nay, việc lớn việc nhỏ ta đều có thể bàn với nàng.
              Chàng thấy đối với Thiều-Hoa, vợ chồng tình ý nồng nàn, mọi chuyện có thể bàn với nàng. Còn những quyết định lớn, đưa ra kế hoạch thường là chàng. Đối với Đào Kỳ, các vấn đề liên quan tới hành binh, bố trận, võ công, văn học đều bàn được. Chàng vẫn thiếu một người trông rộng, nhìn xa bên cạnh để cùng bàn việc. Nay chàng đã tìm thấy ở cô em dâu vợ.
              Nghiêm Sơn hỏi :
              – Đúng đây ! Sư muội, ý kiến người em thế nào ?
              Phương-Dung thở dài :
              – Từ trước đến nay, nhân sĩ sáu quận thuộc Lĩnh-Nam thường bất đồng ý kiến. Cửu-chân, Nhật-Nam, Long-biên thuộc Âu-lạc. Sài-sơn, Tản-viên thuộc Văn-lang. Quế-lâm thuộc Triệu Đà. Không ai chịu ai. Bây giờ nếu phục hồi Lĩnh-Nam, ta cứ theo ý dân. Kinh thư nói : Trời sinh trăm họ, cũng nói Ý dân là ý trời. Trong thư Đào hầu viết cho anh Kỳ cũng nói như vậy.
              Câu nói của Phương-Dung làm Thiều-Hoa chấn động :
              – Thì ra sư phụ dạy tiểu đệ lo phục quốc. Tại sao ta không nhân lúc vợ chồng tình ý mặn nồng thế này mà thuyết phục Nghiêm đại ca phục quốc cho Lĩnh-Nam ?
              Nghĩ rồi, nàng nói với Phương-Dung :
              – Phương-Dung nếu có cao kiến gì, cứ nói ra.
              Câu nói của Thiều-Hoa khiến Phương-Dung hiểu ý nàng muốn nói : Phương Dung định làm gì cứ nói ra, đã có sư tỷ hậu thuẫn. Suy nghĩ một lát, Phương-Dung nói :
              – Em nghĩ thế này. Dân chúng hiện sống trong các trang, ấp có một Lạc-hầu, Lạc-tướng cai trị. Vậy Nghiêm đại ca lệnh cho sáu quận, mỗi quận họp các Lạc-hầu, Lạc-tướng, Châu-trưởng, Động-chúa, rồi bầu lấy một người Thống-lĩnh. Cứ ba năm bầu lại một lần. Mỗi khi quyết định chuyện gì lớn, Thống-lĩnh phải triệu tập các Lạc-hầu, Lạc-tướng mà hỏi ý kiến. Như vậy sẽ tránh khỏi tranh chấp. Sau đó, sáu Thống-lĩnh các quận họp nhau bầu một người chúa tể Lĩnh-Nam. Thế là không còn mối tranh chấp lập Văn-lang hay lập Âu-lạc nữa.
              Nghiêm Sơn tỉnh ngộ. Nhưng chàng vẫn còn vấn đề nan giải : Các quan lại người Hán đến Lĩnh-Nam cai trị. Khi ra đi, trong đầu óc họ đã an bài sẵn ý tưởng bóc lột, làm giàu. Bấy giờ hất họ ra ngoài, đời nào họ chịu ngồi yên ? Bấy giờ, tất họ họp nhau, gom góp tiền bạc, đút lót trong triều, khó lòng Quang-vũ chiều theo ý chàng.
              Chàng liếc nhìn Thiều-Hoa, Phương-Dung, tự nhủ :
              – Quang-vũ không trả Lĩnh-Nam cho người Việt, anh hùng Lĩnh-Nam tất sẽ nổi dậy đánh đuổi người Hán. Chiến tranh khó tránh được. Bấy giờ mình phải đem bạn hữu Lĩnh-Nam đánh Quang-vũ, thực đau lòng. Hai bên cùng là bạn. Phía Hán, hầu hết tướng sĩ đều đã ở dưới quyền mình. Phía Lĩnh-Nam, hầu hết anh hùng đều thân với mình. Bấy giờ, hai bên chém giết nhau, mình phải giải quyết sao đây ?
              Phương-Dung như đọc được ý nghĩ của Nghiêm Sơn. Nàng nói :
              – Lê Đạo-Sinh tổ chức đại hội Tây-hồ. Đại hội lại biến thành chỗ tụ họp kết tội y. Đại hội Tây-hồ trở thành thuận lợi cho đại ca. Đại ca thống lĩnh anh hùng Lĩnh-Nam sang Trung-nguyên để tâu cùng Hán đế trả Lĩnh-Nam cho người Việt. Đó chẳng qua để cho Hán đế vui lòng, không gây chiến tranh với Lĩnh-Nam mà thôi. Chứ thực sự, Lĩnh-Nam đã phong cho đại ca, coi như Lĩnh-Nam đã được phục hồi rồi. Bây giờ đại ca cứ cho cải tổ nền cai trị như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, cắt cử người hiền vào các chức vụ quan trọng, nghĩa là đổi từ Hán qua Việt, song làm từ từ mà thôi.
              Nghiêm Sơn lắc đầu :
              – Khó quá, khó quá ! Nếu Quang-vũ không chấp thuận, sẽ có chiến tranh, sinh linh sẽ đồ thán. Người Hán, người Việt sẽ chết không biết bao nhiêu mà kể. Như sư muội thấy, luật nhà Hán khi phong cho ai làm Thái-thú một vùng, Thái-thú có toàn quyền về quân sự, hành chánh, triều đình không xen vào. Cao hơn nữa, phong cho người nào tước hầu, họ được ăn lộc một vùng nhưng không có quyền gì về cai trị. Ngược lại, phong cho người nào tước Công, Vương, hoặc Đại tướng quân trấn thủ một vùng, họ có toàn quyền cất cử từ chức Thái-thú trở xuống. Quang-vũ tuy là bạn ta, phong cho ta làm Lĩnh-Nam công thực, nhưng triều đình lại cử Tô Định sang Giao-chỉ làm Thái-thú, ngoài ý muốn của ta. Ta cho người về mật tấu với Quang-vũ cách chức y về tội ban hành Ngũ lệnh. Quang-vũ cho biết Tô Định là người rất thâm tình của Mã Thái hậu. Chính Mã Thái hậu ra lệnh cho triều đình ban chiếu phong y làm Thái-thú mà Quang-vũ không dám can.
              Phương Dung à lên một tiếng :
              – Chính vì vậy, Tô Định mới lôi kéo Lê Đạo-Sinh, bao phen định hại đại ca. Không chừng y nhận mật chỉ của Thái-hậu giết đại ca đi, rồi y sẽ thay thế đại ca làm Lĩnh-Nam công. Trước đây em với Trưng sư tỷ nghĩ nát óc mà không ra, vì lẽ Tô là thuộc cấp của đại ca, lại dám chống đại ca thì quả y to gan bằng trời. Đại ca này, đại ca là tướng trấn thủ biên cương, có toàn quyền, đại ca cứ khép tội y, rồi chặt đầu, Thái-hậu đâu còn nói gì được nữa ?
              Nghiêm Sơn cười :
              – Lý thì như thế. Nhưng ta là bạn Quang-vũ, ta không muốn hoàng đế vì ta mà gặp nỗi khổ tâm. Ta giết Tô Định, Thái-hậu hận ta, bắt Quang-vũ hại ta. Điều này chắc Quang-vũ không chịu. Từ đó sẽ sinh ra mẫu tử bất hòa. Còn nếu y hại ta, sẽ mất nghĩa khí bằng hữu, bị thiên hạ chê là sát hại công thần, sau này còn ai vì nhà Hán mà ra sức nữa ?
              Mọi người nghe Nghiêm Sơn luận bàn với Phương-Dung, họ tìm thấy ở Phương-Dung một kiến thức còn sâu rộng muốn hơn Nghiêm Sơn. Nhân một lúc nghỉ trưa, Phương-Dung cùng Đào Kỳ dẫn nhau ra bên một giòng suối tâm tình. Phương-Dung hỏi Đào Kỳ về bức thư của thân phụ. Đào Kỳ lấy đưa cho Phương-Dung coi. Phương Dung đứng ngay ngắn, sửa lại y phục rồi mở ra đọc. Nàng bùi ngùi cảm động :
              – Đào hầu là đấng anh hùng thời đại, dạy con như thế, hèn gì các con không thành hào kiệt.
              Nàng nhắc Đào Kỳ :
              – Trên thuyền chúng ta bàn kế hoạch phục quốc, ai ngờ hợp với bố và cậu. Bây giờ, vùng Cửu-chân, Nhật-Nam đã thuộc về nhà họ Đào, họ Đinh mình rồi. Đất Giao-chỉ, mình được thêm Lục-hải. Nếu cộng với Đăng-châu của thúc phụ, cối giang của cha em và ba vùng của sư thúc Đông Bảng, Thủy Hải, Đằng Giang, thêm trang Văn-lạc của chúng ta, châu Lôi-sơn của Đinh Hồng-Thanh, 72 động Tây-vu của Hồ Đề và gần 200 động khác của Nhị Trưng, thì hiện thời Tô Định không còn gì nữa. Chuyến đi Trung-nguyên, chúng ta làm sao tỏ ra thần phục cho Hán đế yên tâm, rút quân về. Bấy giờ, ta chỉ phất ngọn cờ là lập lại Lĩnh-Nam.
              Đào Kỳ gật đầu :
              – Trường hợp Kiến-vũ hoàng đế rút quân về, tức nhiên Nghiêm đại ca phải về Trung-nguyên. Quyền hành vào tay Tô Định thì nguy.
              Phương-Dung cười :
              – Quyền gì ? Khi quân trong tay chúng ta, nghĩa là bấy giờ tuy không còn Nghiêm đại ca giúp chúng ta, Nhưng Tô Định cũng không dùng quân Hán đánh ta được.
              Hai người đi dần về phía Nghiêm Sơn. Viên Ngũ-trưởng hướng đạo đến trước Nghiêm Sơn trình :
              – Cách đây năm dặm là sông Ninh-cơ, vượt qua sông, đi về phía Bắc một ngày đường nữa là tới Long-biên. Xin Quốc-công định liệu, nên vượt sông bây giờ hay để sáng mai ?
              Nghiêm Sơn hỏi :
              – Hai bên sông có đội quân nào đóng không ?
              – Thưa bên này sông là Cổ-lễ, bên kia là đất Thiên-trường, chỉ có thủy quân, không có kị binh.
              Nghiêm Sơn gật đầu :
              – Chúng ta vượt sông ngay bây giờ. Bảo hải đội Cổ-lễ dành một chiến thuyền đưa chúng ta sang sông. Không cần tiếp đón, lễ nghi gì cả.
              Mọi người lên ngựa, tiếp tục đi. Quả nhiên, một lát sau tối một con sông rộng, nước chảy cuồn cuộn, màu đỏ tươi như máu. Viên chỉ huy hải đội Cổ-lễ đứng đón Nghiêm Sơn bên bờ sông. Nghiêm hỏi han mấy câu về binh tình, rồi cùng nhau xuống thuyền.
              Thuyền trưởng ra lệnh. Thủy thủ đẩy thuyền rời bến. Nghiêm Sơn cùng mọi người lên sàn đứng ngắm cảnh. Đào Kỳ đến bên Thiều-Hoa, nói :
              – Sư tỷ nhớ ngày nào chúng mình vượt sông Hồng không ? Hôm đó gặp bác Nguyễn Tam-Trinh tấu nhạc nghe thực thú vị.
              Đào Kỳ vừa dứt lời, bỗng vang vang có tiếng nhạc du dương trầm buồn từ phía sau vọng lại. Một con thuyền nhỏ, trên có buồm, đang băng qua sông. Trên thuyền, một thiếu nữ ngồi thổi tiêu. Tiếng tiêu nhu hòa, dìu dặt vọng đi rất xa.Con thuyền phúc chốc đã vượt lên kịp chiến thuyền. Nghiêm Sơn than :
              – Tại sao có người giỏi thủy tính đến trình độ kia ? Ngồi trên thuyền nhỏ, bánh lái gắn với giây buồm. Dùng cả bánh lái lẫn buồm để lái thuyền, thế mà vẫn thổi tiêu được. Cô gái này thực không phải tầm thường.
              Cô gái ghì buồm cho huyền chạy chậm lại, ngừng thổi tiêu, nói vọng sang :
              – Tiểu nữ đa tạ Nghiêm đại hiệp khen ngợi. Để tiểu nữ tấu khúc nhạc nữa, xin đại hiệp cùng phu nhân thưởng thức. Nếu hay, xin thưởng cho.
              Thiều-Hoa có cảm tình với cô gái nên vui vẻ nói :
              – Ta muốn thưởng thức âm thanh tuyệt diệu của em mà thôi. Tiền bạc là của phù vân, đâu xứng đáng với tài Trương Chi ? Em cần bao nhiêu, đến bờ ta xin hai tay kính biếu.
              Thiếu nữ cười khoe hai hàm răng trắng đều như bắp, môi hồng tươi, nhất là đôi mắt tinh anh, thoáng vẻ ngỗ nghịch :
              – Người ta đồn Nghiêm phu nhân là đệ tử của anh hùng đương thời dất Cửu-chân có khác. Hào sảng, trọng nghĩa, khinh tài. Tiểu muội xin tấu một khúc đây.
              Lê Thị Lan nói nhỏ với Thiều-Hoa :
              – Sư tỷ ! Nên đề phòng cẩn thận. Chúng ta đến đây, không ai hay biết. Tại sao cô gái này biết rõ như vậy ? Hẳn có người theo dõi chúng ta từ Lục-hải. Sư tỷ nghĩ xem cô có ác ý hay không ?
              Phương-Dung lắc đầu :
              – Không ! Nếu có ác ý, họ sẽ ngấm ngầm hại chúng ta, chứ dại gì xuất hiện công khai. Cô bé này biết lý lịch của chúng ta, hẳn cô cũng biết trình độ võ công cả chúng ta. Cô dại gì gây chiến với chúng ta để có thể bị mất mạng ?
              Cô gái bắt đầu thổi tiêu.
              Tài tình ở chỗ chân nàng điều khiển bánh lái và buồm để thuyền đi song song với chiến thuyền, không xa không gần, không nhanh không chậm. Cô gái để ống tiêu lên miệng thổi, tiếng tiêu réo rắt, rộn ràng, vui tươi như chim xuân, như ánh sáng đẹp ban mai.
              Tiếng tiêu dứt, Hồ Đề hỏi :
              – Em điều khiển thuyền thực giỏi. Ta muốn xuống với em được chăng ?
              Cô gái cười :
              – Chị có biết bơi không mà xuống đây ? Nguy hiểm lắm, đừng xuống là hơn.
              Rồi cô gái chỉ Đào Kỳ :
              – Em muốn anh chàng kia nhảy xuống. Này anh ! Nếu là anh hùng, hãy nhảy xuống đây. Nhớ nhảy cho đàng hoàng kẻo lại chìm xuống nước thì chết ngộp đấy.
              Đào Kỳ thách :
              – Nếu ta nhảy đúng vào giữa thuyền của cô thì sao ?
              Cô gái lắc đầu không tin :
              – Nếu ngươi nhảy xuống trúng thuyền ta, ta sẽ kêu ngươi bằng đại ca cả đời. Còn ngươi rơi xuống nước, ngươi phải kêu ta bằng chị. Nào, ngươi nhảy đi.
              Đào Kỳ nảy ý tinh nghịch, chàng nhắm thuyền của nàng nhảy xuống. Khi người chàng còn lơ lửng trên không, cô gái bỗng co chân một cái, cánh buồm đổi chiều, vọt ra xa. Đào Kỳ vội đá gió một cái, cho người đổi chiều theo con thuyền cô gái. Cô ta vọt người lên, hướng vào chàng, phóng một chưởng. Đào Kỳ hoảng kinh, vội vận chưởng chống lại. Tuy nhiên, chàng không dám vận hết sức, sợ làm cô gái bị thương. Hai chưởng đụng nhau. Cô gái bật ngược trở về. Người cô quay ba vòng trên không, đáp xuống thuyền, chân để vào bánh lái. Nói thì chậm, nhưng diễn biến thật mau. Còn Đào Kỳ rơi tỏm xuống sông.
              Đào Kỳ biết mình thất thế. Chàng nghĩ :
              – Cô gái này tinh nghịch không kém gì Trần Năng với Hồ Đề. Vậy mình phải trêu cô mới được.
              Chàng giả bộ nhô lên thụp xuống như người không biết bơi, rồi chìm nghỉm xuống đáy sông.
              Cô gái tưởng thật, vội lái thuyền đến vớt chàng :
              – Trời ơi ! Ngươi đi cùng vối Nghiêm công thì phải giỏi lắm mới phải. Ai đời, mới rơi xuống nước đã chìm nghỉm.
              Trên thuyền, Nghiêm Sơn, Thiều Hoa, Phương-Dung, Hồ Đề đều biết Đào Kỳ giả vờ, nên im lặng, đợi xem chàng sẽ làm gì.
              Cô gái không thấy Đào Kỳ nổi lên, kinh hãi la lớn :
              – Nước chảy xiết thế, ngươi lại không biết bơi, chắc phải chết mất.
              Nói rồi, cô nhảy ùm xuống nước. Một lát sau, cô đã nắm áo Đào Kỳ, vọt lên thuyền của cô. Cô để Đào Kỳ nằm ngang trên thuyền rồi tiếp tục thổi tiêu. Chợt bực một tiếng, giây nối bánh lái với buồm bị Đào Kỳ dùng hai ngón chân kẹp đứt. Buồm bị thổi ngược, con thuyền xoay ngang, quay tròn trên mặt nước. Cô gái không biết Đào Kỳ tinh nghịch. Nàng luống cuống nhảy lên mui thuyền, ghì được buồm, nối lại giây.
              Nghiêm Sơn ra lệnh thủy thủ ngừng chèo, cho chiến thuyền trôi theo thuyền cô gái xem sao. Cô gái nối được giây buồm, thì bánh lái đã bị Đào Kỳ vận âm kình đạp gẫy, không một tiếng động. Cô gái ngơ ngác không hiểu tại sao xảy ra như vậy. Cô đưa mắt nhìn lên chiến thuyền, thấy mọi người đang cười.
              Cô bực mình, nói :
              – Các người cười ư ? Khổng Tử nói rằng Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Khi các người gặp điều không may, người khác cười khoái trá, các người có bằng lòng không ?
              Hồ Đề nói :
              – Tiểu đệ của ta thấy ngươi xinh đẹp, muốn xuống thuyền chơi với ngươi. Ngươi đánh tiểu đệ ta rơi xuống nước. Y uống nước no, chết rồi cũng nên. Hồn ma của y về cắt đứt giây buồm của ngươi, lại còn chặt đứt bánh lái nữa. Này cô bé, ngươi mau quỳ xuống lạy tiểu đệ của ta đi, nếu không, thuyền ngươi chìm bây giờ đấy.
              Cô bé cãi :
              – Chị không biết gì cả, chắc chị ở rừng xuống quá. mới uống có mấy hớp nước, làm sao đã chết được ?
              Hồ Đề cũng không vừa :
              – Tiểu đệ của ta bị bệnh suyễn, hễ ngộp nước là chết liền. Không tin, ngươi sờ ngực y mà coi. Tim y hết đập rồi đấy.
              Cô gái tưởng thực, đưa tay sờ ngực Đào Kỳ. Đào Kỳ vội quy tức cho tim nưng đập. Cô gái hoảng hồn la lên :
              – Thôi chết rồi ! Ngươi chết thực rồi à ? Ta... ta... chỉ đùa thôi, không ngờ làm ngươi chết ngộp. Vậy ngươi có xuống Diêm vương cũng đừng thưa kiện ta nghe. Đêm tối, ngươi đừng nhát ta nghe.
              Đào Kỳ giả vờ rên lên hừ hừ, chân dẫy đành đạch :
              Hồ Đề nói :
              – Tiểu đệ ta chết phải giờ linh, chắc đã hóa thành quỷ nhập tràng rồi đó. Từ nay, ngươi đi đâu, con quỷ sẽ theo bên cạnh ngươi.
              Cô gái lật Đào Kỳ dậy, thấy mắt chàng trợn ngược, lưỡi thè ra trông thật kinh khiếp. Cô run rẩy, rồi nhảy ùm xuống nước. Cô chỉ vọt người hai cái đã đến cạnh chiến thuyền, rồi người cô vọt lên cao. Cô đá giò một cái, đáp xuống chiến thuyền.
              Thân pháp của cô đẹp vô cùng. Đào Kỳ nhìn thấy mà kính phục ngầm :
              – Ta chỉ có thể vọt lên khỏi mặt nước một trượng là cùng. Cô này lại vọt được hơn hai trượng. Quả thực, ta không bằng cô.
              Cô gái đứng trên chiến thuyền nhìn xuống, thấy Đào Kỳ đã ngồi dậy, tay cầm mái chèo, chèo theo chiến thuyền. Cô biết mình bị lừa, tức quá la lên :
              – Thì ra ngươi chưa chết ! Ngươi lừa ta.
              Đào Kỳ cười :
              – Ta chết thực rồi, nhưng khi xuống âm phủ, Diêm vương bảo ta phải trở về đòi ngươi xuống hầu kiến.
              Cô gái biết mình bị lừa nên phóng mình nhảy xuống thuyền. Đào Kỳ vung chưởng hướng vào cô. Cô cũng vung chưởng đỡ, người cô bay ra xa, rơi tõm xuống nước. Nhưng vừa xuống tới nước, người cô lại vọt lên như con cá, phóng chưởng đánh Đào Kỳ. Đào Kỳ không dám vận kình lực sợ cô gái bị thương. Bình một tiếng, cô gái lại rơi xuống nước. Cứ thế, hai người đánh nhau tới chưởng thứ mười thì thuyền đến bờ. Cô gái nhảy lên bờ, chỉ Đào Kỳ :
              – Ngươi tự thị là anh hùng mà bắt nạt người con gái yếu đuối, không biết xấu.
              Đào Kỳ cười :
              – Cô mà yếu đuối à ? Trên đời này, nếu cô yếu đuối, có lẽ sẽ không có ai mạnh cả.
              Cô gái cười :
              – Đào tam lang ! Không ngờ hôm nay ta đánh ngươi rơi xuống sông nước. Như vậy có phải ngươi thua ta rồi không ? Nam nhi đại trượng phu, cái gì cũng phải phân minh, ngươi có nhận thua ta không ?
              Đào kỳ ngạc nhiên :
              – Cô nương ! Tại sao cô biết ta ?
              Cô gái cười :
              – Gì mà ta không biết ? Ngươi là Đào Kỳ, còn vị đại ca lớn tuổi kia chắc là Nghiêm Sơn. Chị mặc áo vàng đẹp như tiên kia chắc là Hoàng Thiều-Hoa. Còn chị mặc áo da kia là Hồ Đề, Thống-lĩnh 72 động Tây-vu. Cô nương xinh đẹp đeo kiếm kia chắc là Phương-Dung, vợ mới cưới của ngươi. Ngươi ngạc nhiên tại sao ta biết ư ? Vì cách đây mấy tháng, đại sư bá ta cùng Khất đại phu, Trưng Nhị qua đây chơi với sư phụ ta. Tứ sư bá khen ngợi ngươi giỏi bơi lội như con rái cá. Ta không tin, nên ra đây thử ngươi. Thế là ngươi thua ta rồi đó.
              Hoàng Thiều-Hoa nắm tay cô gái :
              – Thì ra em là đệ tử của đệ thất Thái-bảo Trần Quốc-Hương tiên sinh đây. Ta thực có lỗi. Vùng Thiên-trường này là chỗ ở của người mà ta quên khuấy đi. Tiểu sư muội, ngươi tên gì vậy ?
              Cô gái thấy Thiều-Hoa thân thiện với mình thì cười :
              – Em mồ côi, không biết cha mẹ là ai. Em được sư phụ đem về dạy dỗ, đặt tên là Quốc. Em lấy họ của sư phụ, nên em họ Trần. Sư phụ sai em ra đây đón các vị, mời các vị qua ấp chơi vài ngày, rồi hãy đi.
              Nghiêm Sơn nhìn Phương-Dung hỏi ý kiến. Phương-Dung gật đầu. Chàng quay lại dặn viên Ngũ trưởng dẫn đường :
              – Thôi, các ngươi xong nhiệm vụ. Ta cho các ngươi về.
              Viên Ngũ trưởng cúi đầu hành lễ, định đi. Thiều-Hoa gọi lại :
              – Khoan !
              Nàng móc túi lấy một xâu tiền đưa cho y :
              – Ngươi cầm lấy, dọc đường anh em mua rượu uống.
              Tên Ngũ trưởng cảm tạ rồi từ biệt, lên ngựa.
              Nghiêm Sơn cùng mọi người theo Trần Quốc đi về phía Bắc. Khoảng nửa giờ sau, tới trước một trang lớn, có đề chữ Thiên-trường. Trang trại vừa hùng vĩ vừa có tính chất hoa mỹ. Xung quanh trang, những bụi tre Đồng-gộc già, ngả màu vàng óng ánh. Cây nào cũng to bằng bắp tay, cao hơn chục truợng. Không hiểu người ta dùng cách nào mà các bụi tre được cắt xén tỉ mỉ.
              Trời đã về chiều, cò trắng, cò lửa từ khắp nơi kéo về đậu trên các cây tre, nô đùa với nhau. Chúng bay nhảy, kêu lên những tiếng nhẹ nhàng, nhưng vang đi rất xa.
              Lần đầu tiên trong đời Đào Kỳ thấy một trang ấp hùng vĩ, rộng lớn như vậy. Trước đây chàng tưởng trang Thái-hà, Mê-linh, Lôi-sơn đã là lớn. Nay, so với trang Thiên-trường thì không thấm vào đâu. Liếc vào trong trang, nhà nào cũng bằng gạch ngói đỏ san sát. Đường đi rộng rãi, nếp sốngn dân chúng thanh thản, hạnh phúc.
              Người giữ cổng trang đánh một hồi trống. Lát sau, một hán tử trung niên, dáng người thanh nhã, đi với bốn thanh niên và một thiếu nữ ra đón khách. Nàng Quốc giới thiệu :
              – Đây là sư phụ cùng các sư huynh, sư tỷ của tôi.
              Rồi nàng lại giới thiệu nhóm Nghiêm Sơn.
              Nguyên đệ thất Thái-bảo phái Sài-sơn họ Trần tên Quốc-Hương, lập nghiệp ở Thiên-trường và Hoàng-xá. Hoàng-xá, ông để cho con trưởng trông coi, ông về vùng gần biển lập ra ấp Thiên-trường, quy tụ dân lại đông đến mấy vạn. Ông là người đạo đức, nhân hiệp, khéo chiêu dân, dạy dân, không ác độc, hoang phí coi dân là tôi mọi như các lạc hầu xung quanh. Do đó dân theo về ngày một đông. Cách đây hơn nửa tháng, Trần Đại-Sinh là chú ruột ông, cùng với chị cả cũng là đại sư tỷ Trần-thị Phương-Châu, trên đường từ đảo trở về đã ghé thăm ông, cho ông biết qua kế hoạch phục quốc. Ông cho đệ tử là nàng Quốc ra sông đón khách.
              Thấy khách, ông mừng lắm :
              – Tại hạ chờ đón quý vị hơn nửa tháng, nào mời quý vị vào.
              Ông thấy Đào Kỳ ướt sũng, ngó qua thấy đệ tử mình cũng ướt. Ông biết ngay thế nào cũng xảy ra chuyện gì rồi. Ông hỏi :
              – Quốc con ! Hết kiêu căng chưa ?
              Nàng Quốc vẫn cười :
              – Hết sạch rồi sư phụ. Cả hai cùng ướt hết.
              Đào Kỳ chắp tay hướng vào phía Trần Quốc :
              – Tiểu sư muội ! Năm trước, Nghiêm đại ca của tôi bị đệ tứ sư bá dùng kế đánh chìm mà chịu thua. Lần này tôi bị tiểu sư muội dùng kế đánh rơi xuống nước, tôi cũng đã bị thua.
              Thiều-Hoa kể chuyện qua sông cho Trần Quốc-Hương nghe, tất cả mọi người đều cười :
              Trần Quốc-Hương hướng vào Lê Thị Lan hỏi :
              – Cháu là đệ tử của Tản-viên song hùng Nguyễn Thành-Công. Như vậy, các cháu là sư muội của Phong-châu song quái phải không ?
              Lê Anh-Tuấn thưa :
              – Thưa sư bá ! Sư phụ cháu đã trục xuất hai người đó ra khỏi môn hộ lâu rồi. Chúng cháu không còn liên hệ gì với họ nữa.
              Trần Quốc-Hương thở dài :
              – Song quái mới xuất hiện ở đây ngày hôm qua. Ta đánh không lại Vũ Hỷ. Có lẽ tối hôm nay chùng sẽ trở lại. Hiện có Lĩnh-Nam công ở đây, để người trị chúng nó, vì Vũ Hỷ là cựu Đô-sát Cửu-chân.
              Nghiêm Sơn lắc đầu :
              – Thưa tiên sinh, Vũ Hỷ đã bị cách chức và bị án tử hình. Tôi đã sức đi khắp nơi, ai bắt hoặc giết được chúng sẽ được thưởng lạng vàng. Không biết chúng tời đây quấy nhiễu quý trang ra sao ? Dù hắn có là Đô-sát hay không, khi chúng đi quấy nhiễu các nơi, tôi là người cầm quân, vẫn phải trị chúng. Tôi xin chịu trách nhiệm.
              Trần Quốc-Hương rót nước mời mọi người uống :
              – Cách đây năm ngày, vợ chồng Vũ Hỷ tới đây cầu kiến. Tôi mời họ vào, đãi đằng rất tử tế. Chúng cho tôi biết rằng, Kiến-vũ hoàng đế cách chức Nghiêm công, cử Tô Định thay thế. Chúng mời tôi ra làm chức Huyện-úy vùng này. Tôi từ chối, vì tôi đã được đại sư tỷ cho biết mọi sự. Thấy bại lộ, chúng liền ra tay tấn công. Võ công tôi kém không địch lại. Chúng bỏ đi. Hứa chiều nay sẽ quay trở lại. Chúng ra điều kiện: Một là tôi theo chúng, hai là chúng sẽ giết chết tôi.
              Nghiêm Sơn đứng dậy nói :
              – Vậy lát nữa, khi chúng trở lại xin tiên sinh cứ dấu, đừng cho chúng biết chúng tôi đã tới đây. Nếu không, e chúng sẽ trốn mất. Đêm nay nếu chúng tới tôi sẽ bắt chúng.
              Đào Kỳ hỏi Lê Thị Lan :
              – Sư tỷ ! Chẳng hay bản lĩnh sư tỷ so với Phong-châu song quái ra sao ?
              Lê Thị Lan lắc đầu :
              – Chúng tôi nhập môn sau, bản lĩnh thua chúng rất xa. Không biết sư huynh hỏi thế làm gì ?
              Đào Kỳ hỏi tỉ mỷ, chàng thấy chị em Lê Thị Lan học được khá nhiều bản lĩnh của sư phụ. Nhưng về công lực thì còn thua Song-quái. Chàng nói :
              – Ở đây Nghiêm đại ca có thể thắng được một trong hai quái. Tôi với Phương-Dung dĩ nhiên thắng chúng. Nhưng e chúng tôi với Nghiêm đại ca xuất hiện, e chúng sẽ chạy mất.Vậy chúng ta làm sao đây ?
              Phương-Dung nghiõ ra một kế :
              – Em với anh Kỳ giả làm đệ tử của Thất sư bá. Chỉ cần hóa trang đi một chút, chúng sẽ không nhận được. Nghiêm đại ca với sư tỷ cũng hóa trang đi. Khi chúng xuất hiện, chị Lan, anh Tuấn nhân danh sư phụ thách đấu để thanh lý môn hộ. Đào tam ca ở bên ngoài nhắc các chiêu thức để hai vị đấu với song quái. Nếu hai vị thắng thì thôi. Ngược lại, Nghiêm đại ca với Đào tam ca thình lình ra tay, chúng sẽ trở tay không kịp.
              Bàn định xong xuôi, Trần Quốc-Hương mời mọi người dùng cơm. Nàng Quốc sai gia nhân dọn cơm ra. Chủ khách cùng ngồi ăn. Nàng giới thiệu :
              – Các vị ghé thăm tệ trang, xin mời thưởng thức chút ít hương vị Thiên-trường gọi là lấy thảo. Món đầu tiên mời quý vị dùng là món ốc nhồi nấu chuối xanh. Gọi là món giả ba ba, do sư mẫu tôi đích thân làm.
              Hồ Đề ở rừng ít được ăn món đồng bằng nói :
              – Giả ba ba là thế nào ?
              Nàng Quốc nói :
              – Ba ba là con vật thuộc họ rùa. Thường thì nấu ba ba với chuối xanh. Nhưng ba ba ăn độc lắm thành ra phải nấu giả ba ba. Ốc nhồi loại lớn, luộc sơ đi, khêu ruột ra khỏi vỏ, rửa cho sạch vì thịt ốc thường lẫn bùn, ăn vào tanh lắm. Muốn cho ốc nhả hết bùn, sau khi bắt ta phải cho vào vò ngâm với nước vo gạo độ ba ngày. Dùng ốc xào với thịt ba chỉ thái nhỏ, xào cho đến khi nào thịt teo đi mới thôi. Còn chuối xanh tước vỏ, thái mỏng, ngâm với muối nửa ngày. Khi thịt teo rồi, đổ chuối vào, cho mắm tôm, me bung nhừ. Đợi chuối nhừ mới cho bánh đa, lá xương xông, tía tô. Nào mời quý vị dùng.
              Nàng múc vào từng bát mời khách. Hồ Đề là người miền núi, tánh tình bộc trực, thấy ngon, lạ miệng, nàng ăn kỳ no, không cần khách sáo.
              Nàng Quốc nói tiếp :
              – Món này thì thường thôi : Dưa cải chua nấu với tép riu, cá rô Đầm-sét kho keo.
              Những món này mọi người đã ăn qua, nhưng vừa ăn lại vừa được nàng Quốc giảng giải cách nấu nướng, thành ra rất ngon. Cuối cùng nàng Quốc bưng ra một mâm hoa quả :
              – Mùa này chỉ có chuối tiêu, chuối hương, mời quý vị.
              Ăn xong, trời vừa tối. Các con của Trần Quốc-Hương đều giỏi âm nhạc. Họ cùng tấu nhạc cho khách nghe.
              Truyện vãn một chút thì có ba tiếng trống vọng vào. Nàng Quốc nói :
              – Sư phụ để con ra xem ai. Có thể là Song-quái không chừng.
              Nàng vọt lên ngựa ra đi, lát sau dẫn vào một người. Vừa thoạt trông thấy, Đào Kỳ đã kêu lên :
              – Nguyễn Thành-Công tiên sinh !
              Chị em Lê Thị Lan cũng reo mừng :
              – Sư phụ ! Người vẫn mạnh khỏe chứ ?
              Người vừa vào là Nguyễn Thành-Công. Trần Quốc-Hương chắp tay tạ lỗi :
              – Tản viên song hùng tới, mà tôi không biết ra nghênh đón, thực có lỗi.
              Nguyễn Thành-Công vẫy tay :
              – Không dám ! Nghe tin Trần hầu bị bọn phản đồ tới đây làm phiền, tôi là sư phụ, phải đến để thu thập chúng.
              Ông nhìn Lê Thị Lan :
              – Các con gặp Đào tam đệ ở đâu mà cùng tới đây ?
              Nguyên ông viết cho Đào Kỳ một bức thư, yêu cầu chàng tham dự trong phái đoàn sang Trung-nguyên, ông sai hai đệ tử mang đi. Lê Thị Lan và Lê Anh-Tuấn đi tới nửa đường thì gặp Đào Kỳ và đưa thư cho chàng. Đào Kỳ cũng cho biết cha chàng đã nghe lời Khất đại phu, Nam-hải nữ hiệp, cử chàng đi. Chị em Lê Thị Lan mừng quá, cùng theo chàng về Bắc. Không ngờ hôm nay lai gặp sư phụ ở đây.
              Đào Kỳ tường trình mọi việc cho Nguyễn Thành-Công nghe. Nghe xong, ông gật đầu :
              – Thực cha nào, con nấy, thầy nào trò ấy. Đào hầu có đệ tử, có con anh hùng, lão phu vô phúc dạy phải anh em Vũ Hỷ.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #37
                Hồi 36 - Giã nhà đeo bức chiến bào (Chinh phụ ngâm khúc)

                Đào Kỳ chợt nhớ ra điều gì hỏi nàng Quốc :
                – Tiểu sư muội, hồi trưa lúc đấu với ta, Tiểu sư muội từ dưới nước vọt lên như một giao long, đó là võ công của sư bá dạy tiểu sư muội hay tiểu sư muội tự luyện tập ?
                Trần Quốc-Hương cười :
                – Cháu chưa hiểu đấy thôi, nguyên trang ấp của ta thuộc vùng đất phù sa đổ ra biển mới tạo thành. Đồng lầy, nước trũng quanh năm, nên đệ tử của ta đều thạo thủy tính. Ta được Quốc từ hồi mới 6 tuổi, trôi lênh đênh trên một chiếc thuyền vô chủ. Ta đoán rằng cha mẹ nó bị sóng cuốn đi mất. Ta đem về nhận làm đệ tử nuôi như con. Quốc rất giỏi nghề bơi lội. Khi nó học võ với ta, ta cũng dạy như nhiều đệ tử khác. Tự nó nghĩ, luyện tập thành võ công từ dưới nước vọt lên như con cá chép. Riết rồi thành môn võ công đặc biệt. Sư huynh, sư đệ đông môn gọi nó là Giao-long nữ. Nước sông chảy xiết đến đâu, nó cũng có thể bơi ngược chiều như con Giao-long. Nó lặn dưới nước bắt cá như chúng ta bắt cóc ở trên bờ. Vì vậy khi nghe đại sư tỷ nói cháu bơi như con rái cá, nó tỏ vẻ không phục, mới xin ta đi đón cháu, đấu với cháu. Cũng may cháu nhẹ tay chứ không thì đã bỏ mạng rồi.
                Đào Kỳ được cha dạy dỗ rất cẩn thận, thua thì nhận thua, chàng nói :
                – Quả thực lúc đầu cháu thua tiểu sư muội. Tiểu sư muội thách cháu nhảy xuống thuyền của nàng. Cháu nhẹ dạ nhảy xuống bị trúng kế. Nàng vọt lên đánh cháu một chưởng. Cháu không dám nặng tay nên rơi xuống sông. Sau sư tỷ Hồ Đề với cháu trêu tiểu sư muội một bữa, cười thỏa thích.
                Chàng quay lại nói với Giao-long nữ :
                – Tiểu sư muội ! Năm nay giỏi lắm mới 17-18 tuổi, võ công đã nhường ấy, nếu tiểu sư muội chịu khó tập ít năm nữa ta e rằng đến Thái sư thúc của Phương-Dung là Phật-Nguyệt chưa chắc đã là đối thủ của Tiểu sư muội. Trước đây ta cứu một cô bé tên Tư-Vân. Cô được đệ tứ sư bá Nguyễn Tam-Trinh thu làm đệ tử. Cô cũng có bản lĩnh lội nước vô cùng lợi hại. E rằng cũng không thua kém gì Tiểu sư muội lắm đâu.
                Trong nhà đang luận bàn, có tráng đinh chạy vào báo :
                – Thưa trang chủ những người khách hôm qua lại đến. Xin trang chủ định liệu. Họ đang chờ ở cổng.
                Trần Quốc-Hương nhìn Nguyễn Thành-Công :
                – Là Song quái đấy !
                Phương-Dung là một thiếu nữ thông minh sắc sảo. Nàng được anh hùng trên đảo Đào, Đinh đề cử đánh trận. Nàng quên mất đây là trang Thiên trường chứ không phải hải đảo. Nàng ra lệnh :
                – Thành-Công sư bá, Nghiêm đại ca, Đào đại ca xin vào nhà tôi hóa trang cho. Trần sư bá cho mời tất cả đệ tử vào đại sảnh đường tiếp Song-quái như thường. Nhớ cho người canh gác phía ngoài cẩn thận, kẻo chúng chạy trốn.
                Trần Quốc-Hương được đại sư tỷ là Nam-hải nữ hiệp nói nhiều về Phương-Dung, nên khi thấy nàng hạ lệnh ông không tự ái, bảo con lớn là Trần Quốc-Dũng :
                – Con đánh trống hợp tất cả đệ tử trong đại sảnh đường cho ta.
                Phương-Dung hỏi Quốc-Dũng :
                – Ngoài sư bá ra, ai là người có quyền chỉ huy đệ tử và tráng đinh ở đây ?
                Quốc-Dũng chỉ em thứ nhì là Quốc-Lực :
                – Em tôi và tôi.
                Phương-Dung lại hỏi :
                – Đại công tử, người có thể cho tôi xem bản đồ của trang Thiên-trường chăng, để tôi làm kế bắt hết bọn họ !
                Quốc-Dũng đem bản đồ chỉ cho Phương-Dung, trình bày từng chi tiết một. Phương-Dung nghiên cứu xong nói :
                – Chúng tới đây khoảng bao nhiêu người, đi bộ hay ngựa ?
                Quốc-Dũng nói :
                – Hôm qua chúng đến bằng đường bộ, rồi ra đi. Tất cả 25 người, chúng tôi chỉ biết Vũ Hỹ và Phương-Anh. Còn lại thì không rõ. Tôi cho người theo dõi, chúng đều xuống một cái thuyền lớn đậu ở ven sông Vị-hoàng. Trong thuyền có nhiều người canh giữ.
                Phương-Dung gật đầu :
                – Bây giờ chúng ta lập kế bắt hết chúng. Đại công tử, người cho Tam công tử cùng Giao-long nữ ra sông Vị-hoàng lấy 5 con thuyền nhỏ, lui tới đánh cá gần con thuyền lớn của chúng. Giao-long nữ giả làm ngư phủ, chui xuống đục thuyền chúng. Nhớ đục 6 hay 7 miếng rộng không hơn thước một, áp dụng thủ kình sao cho lưỡi dao gần xuyên thủng miếng ván thì ngưng. Giữa miếng gỗ bị đục đóng đinh, đầu đinh cột vào một sợi dây.
                Giao-long nữ bật cười :
                – Em hiểu rồi ! Chị không muốn em đục thủng thuyền nhận chìm chúng nó ngay phải không ? Em chỉ đục tới mức gần xuyên tấm ván thì ngừng lại. Để rồi khi bọn chúng thua chạy trở về, em cầm sợi dây giật một cái, tấm ván bật tung ra, nước tràn vào thuyền, bọn chúng sẽ xuống ở với Hà-bá. Em nói có đúng không ?
                Phương-Dung gật đầu :
                – Sư muội thông minh quá. Khi sư muội bơi ra giật dây, tấm ván rời thuyền, đáy lủng thuyền bị đắm. Bấy giờ Tam công tử dùng lưới cá chụp lên đầu từng đứa mà bắt. Nhớ chớ cho chúng lại gần thuyền. Võ công chúng cao lắm có thể hại mình được.
                Giao-long nữ cùng Trần Quốc-Thắng ra đi. Phương-Dung hóa trang cho mọi người rồi vào đại sấnh đường. Trong đại sảnh đường, đệ tử tập họp đông đảo. Phía trên cùng là Trần Quốc-Hương đang ngồi đối diện với Phong-châu song quái. Đàng sau Song quái khoảng 20 người. Đào Kỳ nhận ra là Phương-Đại, Hầu Mạnh-Đức, Triệu Thiết và Lý Tam-Mạnh năm xưa chàng đã đấu cùng chúng ở Cổ-đại đòi Tô Định miễn cho dân khỏi chịu Ngũ-pháp.
                Đào Kỳ nói nhỏ với Phương-Dung :
                – Như vậy là Tô Định nhúng tay vào vụ này rồi.
                Trên bàn Vũ Hỷ đấu khẩu với Trần Quốc-Hương đến hồi gay cấn. Vũ Hỷ nói gằn từng câu :
                – Trần hầu, chúng tôi khẩn khoản nói rằng, Tô thái thú yêu tài, yêu đức Trần hầu, mời ra làm chức Giám-sở Tế-tác huyện này, thế mà Trần hầu cứ một mực từ chối là tại sao ?
                Trần Quốc-Hương thản nhiên :
                – Tôi chỉ thích tiêu dao với ruộng vườn cây cỏ. Khi chí đã thích như vậy thì công danh phú quý cũng như tuồng ảo hóa mà thôi. Xin nhị vị thưa với Thái-thú rằng, tôi cảm tạ thịnh tình của ngài.
                Vũ Hỷ đập bàn một cái, cái bàn sứt một góc :
                – Như vậy chúng tôi mời Trần hầu rời khỏi trang Thiên-trường này tức khắc cùng với vợ con, của cải trong nội ngày hôm nay. Để chúng tôi trao trang ấp cho người khác quản nhiệm.
                Trần Quốc-Hương cười nhạt :
                – Trang ấp này do tổ tiên tôi thọ lĩnh từ đời Hùng vương đến nay trải mấy chục đời, lẽ nào chúng tôi phải bỏ đi.
                Vũ Phương-Anh quát lớn :
                – Hôm qua đã ước hẹn, vậy hôm nay chúng ta đành phải ra tay.
                Vũ Phương-Anh bước ra đứng giữa sảnh đường :
                – Trần hầu, nếu người có bản lĩnh đuổi được chúng tôi, thì chúng tôi xin đi. Còn ngược lại xin người hãy rời khỏi nơi đây !
                Trần Quốc-Hương chưa kịp trả lời Lê Anh Tuấn bước ra nói :
                – Vũ Phương-Anh! Phái Tản-viên ta xưa nay toàn anh hùng nghĩa hiệp, không ngờ các ngươi lại làm những điều ngỗ nghịch trái đạo lý như vậy sao? Sư phụ nghe các ngươi tác quái nên sai ta đến bắt các ngươi đây !
                Vũ Phương-Anh nhìn Lê Anh-Tuấn cau mày :
                – Mi... mi là đệ tử lão già Nguyễn Thành-Công ? Ta nghe lão già chưa chết mới thu hai chị em ngươi làm đệ tử. Hừ, đến lão già có mặt tại đây cũng chưa chắc thắng bọn ta, huống hồ các ngươi. Liệu mà cút đi, nếu không ta sẽ đập nát xương bây giờ ?
                Vũ Hỷ bảo Lê Anh-Tuấn :
                – Ta không giết ngươi đâu. Hãy tránh sang một bên, để người lớn nói chuyện với nhau. Ngươi có biết không ? Hiện ta đây được cử làm Đô-sát đất Giao-chỉ. Ta dến đây nói chuyện với Trần hầu, chứ không phải nói với bọn trẻ con các ngươi.
                Y coi như không có Lê Anh-Tuấn, tiếp tục nói với Trần Quốc-Hương :
                – Trần hầu, Tô thái thú hậu đãi người Việt mới sai ta mời Trần hầu. Tại sao ngươi không biết thức thời, muốn cho trang ấp này thành bình địa hay sao ?
                Nghiêm Sơn được Phương-Dung hóa trang ngồi trong sảnh đường, thấy Vũ Hỷ nói láo quá chịu không được. Chàng vứt râu giả vụt đi, bước ra trước sảnh đường, quát lớn :
                – Vũ Hỷ ta cách chức tuyên án tử hình ngươi và thông trát đi khắp nơi, ai bắt được ngươi thì thưởng một trăm lạng vàng. Bây giờ gặp ngươi ở đây, ngươi còn trốn được không ?
                Vũ Hỷ thấy Nghiêm Sơn xuất hiện, nghĩ rằng chàng đã dùng binh bao vây bắt chúng. Y khiếp sợ nhìn đồng bọn ngơ ngác rồi vung chưởng tấn công Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn phát chưởng đánh lại. Bản lĩnh Vũ Hỷ vốn thua Nghiêm Sơn xa, y lại mới bị Đào Kỳ đánh bị thương, nên chỉ mấy hiệp đã đuối sức. Vũ Phương-Anh thấy vậy nhảy vào cùng tấn công Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn bình tĩnh trả đòn. Chàng là người có kinh nghiệm chiến đấu, một đấu với hai, vẫn không coi Song-quái ra gì. Vũ Hỷ vừa đánh, vừa nghĩ cách chạy trốn, y luống cuống ra mặt, thì Phương Đại nhảy vào vòng chiến. Lê-Anh Tuấn nhảy ra cản lại. Thế là trong sảnh đường 5 người hỗn đấu. Bỗng Vũ Hỷ la lên :
                – Ao ao lộc minh.
                Đó là hiệu lệnh rút lui. Lập tức bọn đứng sau đồng nhảy vào đánh Nghiêm Sơn và Lê Anh-Tuấn một chiêu, rồi vọt ra khỏi sảnh đường chạy biến vào đêm tối.
                Nghiêm Sơn hô to :
                – Đuổi theo mau !
                Khi chàng đuổi tới cổng trang thì gặp Phương-Dung cản lại.Chàng ngạc nhiên :
                – Sư muội sao không để ta bắt nó.
                Phương-Dung cười hinh hích :
                – Đây là trang Thiên-trường, để người của Trần hầu bắt chúng. Chúng ta là khách chỉ cần ngồi coi là đủ.
                Nghiê Sơn biết cô vợ của Tiểu sư đệ mưu cơ thần diệu không biết đâu mà lường, nên chàng nghe theo trở về đại sảnh đường.
                Phương-Dung hướng vào Nghuyễn Thành-Công :
                – Sư bà, có phải sư bá đuổi Song-quái ra khỏi môn hộ rồi không ?
                Nguyễn Thành-Công gật đầu
                – Nếu chúng nó bị ai giết, lão cũng không biết đến nữa.
                Phương-Dung hỏi Trần Quốc-Hương :
                – Lát nữa, người của trang Thiên-trường bắt được chúng, sư bá có xử tới chúng không ? Hay giao cho Nghiêm đại ca ?
                Trần hầu là người đạo đức, ông nói :
                – Chúng nó là gian phạm, giao cho Lĩnh-Nam công xử. Nhưng cháu làm thế nào mà bắt được chúng. Võ công chúng cao lắm mà ?
                Phương-Dung mỉm cười không trả lời. Mọi người ngồi uống trà nói chuyện hơn giờ, đã thấy Trần Quốc-Lực, Trần Quốc-Thắng và Giao-long nữ dẫn tráng đinh điều cả bọn Vũ Hỷ trở về. Đứa nào cũng ướt như chuột lột, đầu tóc tả tơi trông thực thảm thiết.
                Phương Dung, Đào Kỳ đã bỏ hóa trang ngồi uống nước.
                Vợ chồng Vũ Hỷ thấy hai người thì không còn hồn vía nào nữa. Vũ Hỷ hướng vào Trần hầu :
                – Trần Quốc-Hương, ngươi dùng thủ đoạn hèn hạ bắt ta thế này đâu phải anh hùng? Nam nhi đại trượng phu hành sự phải quang minh lỗi lạc. Ngươi dìm chúng ta xuống nước mà bắt thì còn dám xưng anh hùng không ?
                Phương-Dung chỉ vào Trần Quốc hỏi Vũ Hỷ :
                – Đồ quái gở ! Trước kia ngươi, đã từ chối không phải là nam nhi đại trượng phu, cũng chẳng phải đại anh hùng mà đồ quái gở, nay nhãn tiền quả báo. Trần lão anh hùng đâu có bắt ngươi ? Bắt ngươi là cô bé này kia mà !
                Nàng chỉ vào Giao-long nữ, Nàng Quốc cười hì hì nói :
                – Ta bắt ngươi sư phụ ta cũng không biết. Chính sư tỷ Phương-Dung dạy ta cách bắt ngươi đấy. Bọn ngươi tự thị lưu manh quái gở, thế mà bị một đứa con gái như tatung lưới bắt ntgươi chưa chịu phục ư ? Thôi để ta đem ngươi ra hồ dìm cho uống nước nữa.
                Nói rồi nàng làm bộ túm cổ đem Vũ Hỷ mang đi. Vũ Hỷ sợ quá nói :
                – Được ta chịu thua ngươi !
                Giao-long nữ xòe tay ra trước mặt Nghiêm Sơn :
                – Đại ca người lớn không nói dối trẻ con. Đại ca sức giấy đi khắp nơi rằng ai bắt, giết được Vũ Hỷ thì thưởng một trăm lượng vàng. Vậy bây giờ đại ca ban thưởng đi chứ. Anh em chúng tôi tất cả 20 người bắt được Vũ Hỷ và 24 đồng đảng. Đại ca cho 200 lượng đủ rồi. Đại ca bảo bắt hay giết gì cũng được cả. Thôi để em đem chúng ra dìm nước cho chết, rồi nộp xác cho đại ca.
                Nghiêm Sơn nhìn con mắt long lanh tinh quái của Trần Quốc, chàng bật cười nghĩ thầm :
                – Cô này hợp với Phương Hồ Đề thành bộ ba được. Coi bộ cô chỉ muốn dọa chúng nó chứ không định giết đâu. Ta cứ để cho cô đùa nghịch, cũng không hại gì.
                Chàng nói :
                – Tiểu sư muội! Đây là đất Thiên-trường, thuộc quản hạt Trần gia, Tiểu sư muội là đệ tử, nghĩa nữ Trần hầu. Tiểu sư muội bắt được chúng thì tùy Tiểu sư muội muốn giết, muốn băm vằm thế nào mặc ý. Miễn là sau đó tiểu sư muội giao mấy cái đầu chúng cho ta, ta thưởng cho tiểu sư muội 1000 lượng vàng.
                Mắt Trần Quốc long lanh như hai hạt châu nàng mỉm cười :
                – Thôi để tiểu muội chặt chúng ra từng khúc một !
                Nàng hướng về Trần hầu :
                – Bố ơi bố ! Bố cho con mượn thanh kiếm để chặt đầu chúng !
                Nàng rút kiếm sư phụ đưa đến xoẹt một cái hớt gần hết tóc trên đầu Vũ Hỷ, y sợ quá mặt tái ngắt. Phương-Dung ghét Song-quái, muốn dọa cho bõ tức, bảo nàng Quốc :
                – Tiểu muội đem chúng ra ngoài chém đầu, chứ chém ở đây làm dơ bẩn sảnh đường của sư phụ.
                Giao-long nữ gật đầu :
                – Sư tỷ nói phải, thôi chúng ta đem chúng ra ngoài kia chém cho xong.
                Đám tráng đinh xúm vào lôi bọn Song-quái ra. Vũ Hỷ chẳng còn hồn vía nào nữa run run nói với Nguyễn Thành-Công :
                – Sư phụ xin cứu chúng con với, từ nay chúng con nguyện quy phục người, người dạy gì chúng con cũng xin nghe theo.
                Thấy Nguyễn Thành Công làm thinh, hắn hướng vào Nghiêm Sơn :
                – Lĩnh-Nam công xin ngài dung tình, chúng tôi chỉ la người thừa lệnh Tô thái thú.
                Nghiêm Sơn tính trầm mặc ít đùa cợt, thấy dọa Song-quái như vậy đã đủ, chàng nói với Giao-long nữ :
                – Tiểu sư muội, sáng mai tôi sẽ viết thư cho Huyện-lệnh Thiên-trường, để y xuất công nho 1000 lượng vàng thưởng cho Tiểu sư muội. Tiểu sư muội để tôi đem chúng về Luy-lâu đối chứng với Tô Định.
                Sáng hôm sau Nghiêm Sơn từ tạ Trần hầu :
                – Trần hầu, hậu hội hữu kỳ. Trưa nay có người đưa vàng đến cho tiểu sư muội. Chúng tôi xin lên đường.
                Nguyễn Thành-Công cần ở lại bàn bạc với Trần Quốc-Hương, Lê Thị Lan, Lê Anh-Tuấn cùng ở lại với sư phụ. Bọn Nghiêm Sơn, Đào Kỳ, Phương-Dung và Hồ Đề giải bọn Song-quái lên đường về Luy-lâu. Nghiêm Sơn truyền Hải-đội Vị-hoàng lấy một chiến thuyền lớn đi theo chàng về Long-biên.
                Nàng Quốc nói với Trần hầu :
                – Bố ơi ! Con chưa biết Long-biên ở đâu. Bố cho con đi với sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa ít ngày nữa con về.
                Trần hầu tiếng rằng là sư phụ, là cha nuôi nàng Quốc, chứ thật sự ông thương nàng còn hơn con ruột ông. Ông rất mực sủng ái nàng, nên nàng nói gì ông cũng nghe theo. Ông thấy Đào Kỳ, Phương-Dung, Hồ Đề, không hơn con mình bao nhiêu tuổi, mà lịch lãm kinh nghiệm rất nhiều, ông muốn cho học lấy những thứ đó nên đồng ý liền :
                – Con đi theo các sư huynh, sư tỷ, phải học lấy những kinh nghiệm trên đường đời. Bố dạy con như vậy cũng chưa đủ. Bây giờ con phải học các sư huynh, sư tỷ thêm mới đủ. Nhất thiết mọi việc phải nghe theo các anh, các chị.
                Thế là Giao-long nữ khăn gói theo bọn Nghiêm Sơn.
                Từ Thiên-trường về Long-biên phải mất trọn một ngày một đêm đường thủy. Tới Long-biên, Nghiêm Sơn bí mật gọi bọn Sư-trưởng bộ binh, Sư-trưởng kỵ binh và Hải-đoàn trưởng Long-biên tới hội, hỏi thăm tình hình. Chàng không cho triệu tập Giám-sở Tế-tác cùng Huyện-úy. Vì Huyện-úy là Hoàng Đức, đệ tử Lê Đạo-Sinh.
                Trước khi Nghiêm Sơn tới Lĩnh-Nam, thì 6 Thái-thú Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, Nhật-Nam, Giao-chỉ và Cửu-chân; cũng như các Thái-thú khác của triều Hán, quan chế dành cho quyền hành như một ông vua. Thái-thú được triều đình bổ nhiệm, bên cạnh có Đốc-bưu coi về thanh tra, Đô-sát coi về tình báo như ngày nay là cảnh sát, công an. Đô-úy coi về quân sự. Ba chức quan này đều do triều đình bổ nhiệm, chịu quyền chỉ huy của Thái-thú. Dưới Thái thú có các Huyện-lệnh. Cạnh Huyện-lệnh có một Huyện-úy coi về quân sự, một Giám-sở Tế-tác coi về an ninh.
                Thời Hùng-vương, An-Dương vương, dưới quyền các Huyện-lệnh là các Lạc-hầu, Lạc-tướng cai quản trang ấp mình theo chế độ cha truyền, con nối. Khi Tần Thủy-hoàng sai Đồ Thư sang đánh Âu-lạc, chiếm vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, bỏ chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng mà chia thành từng xã, từng thôn. Xã có Xã-trưởng, thôn có Thôn-trưởng.
                Trong khi đó đất Âu-lạc vẫn duy trì Lạc-hầu, Lạc-tướng. Triệu Đà cai trị Âu-lạc vẫn giữ nguyên tổ chức cũ. Tổ chức đó duy trì đến thời Nghiêm Sơn sang. Vì vậy đất Lĩnh-Nam chia làm hai khu vực : Khu vực Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận thì đơn vị chính hạ tầng là xã, thôn. Khu vực Nhật-Nam, Cửu-chân, Giao-chỉ duy trì Lạc-hầu, Lạc-tướng. Trong ấp của mình Lạc-hầu, Lạc-tướng giữ chế độ cha truyền, con nối, cai trị trang ấp như một nước riêng biệt. Có nhiều nơi dân chúng không phục Lạc-hầu, Lạc-tướng xin đến trang ấp khác cư ngụ. Như Lê Đạo-Sinh, Đào Thế-Hùng đến vùng đất mới, phá rừng chiêu mộ người phiêu bạt, lập trang ấp. Đào Kỳ, Phương-Dung lập trang Văn-lạc.
                Về quân sự mỗi Thái-thú có một Quân gồm 12.500 quân bộ binh, một sư kỵ gồm 2.500 toàn người Hán. Mỗi Huyện có một Sư bộ binh 2.500 người, một Lữ kỵ binh 200 người theo lối hỗn hợp có nơi 4 Hán một Việt, có nơi 1 Việt 4 Hán. Tại trang ấp, số tráng đinh nhiều hay ít do Lạc-hầu hay Lạc-tướng quyết định.
                Nghiêm Sơn và Hợp-phố lục hiệp kinh lược Lĩnh-Nam. Các Thái-thú tuy quy phục triều Hán, nhưng vẫn duy trì quân của mình như một giang sơn riêng biệt. Nghiêm Sơn biết thế chàng chưa dám ra tay vội. Vì chàng ra tay, các Thái-thú sẽ trở mặt cát cứ như một lãnh chúa thì khó mà dẹp dược. Đầu tiên khi chiếm được đất Quế-lâm, chàng cử ngưới thân tín vào các chức vụ Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát. Chàng đặt quân đội Quế-lâm dưới quyền của phủ Lĩnh-Nam công. Thế là chàng có trong tay một Quân với 12.500 bộ binh, 2.500 kỵ binh. Với lý do chỉnh bị về Trung-nguyên dẹp dư đảng Vương Mãng, chàng trưng dụng quân của các huyện Quế-lâm, rồi tổ chức thành 2 Sư bộ, 2 Lữ kỵ nữa. Kinh nghiệm luyện quân, thưởng phạt công minh, coi sĩ tốt như huynh đệ, 3 Quân bộ, 3 Sư kỵ của chàng trở nên lực lượng tinh nhuệ bậc nhất.
                Nhâm Diên bịa đặt, vu hãm cho Đinh, Đào trang, yêu cầu chàng đem quân vào trợ chiến. Ý đồ của Nhâm Diên là mượn tay chàng trừ 2 trang không phục y. Nếu dân chúng căm hận, y đổ cho Lĩnh-Nam công. Chàng điều động Quân-bộ và Sư-kỵ Giao-chỉ vào trợ chiến. Giữa trận đánh, chàng phát hiện ra Nhâm Diên lừa dối mình, chàng truyền quân đội án binh bất động. Vì vậy chỉ với 500 trang đinh, Đào Thế-Hùng, Đinh Đại đánh phá phủ Thái-thú giết chết vợ con, mẹ già Nhâm Diên. Giữa lúc Nhâm Diên táng đởm kinh hồn vì gia đình tan nát. Nghiêm Sơn kết tội, cách chức y. Trên đường Nhâm Diên từ Cửu-chân về Trung-nguyên, chàng cho Hợp-phố lục hiệp đón đường giết chết, làm gương cho bọn quan lại Lĩnh-Nam.
                Chàng cử Lư Đường làm Thái-thú, Hà Thiên làm Đô-úy Cửu-chân. Họ là hai trong Hợp-phố lục hiệp. Chàng đặt toàn quân đội Cửu-chân trực thuộc phủ Lĩnh-Nam công. Chàng giữ luôn Quân bộ và Sư kỵ Giao-chỉ không trả về nữa. Thế là chàng nắm hoàn toàn Quế-lâm, Cửu-chân và Giao chỉ. Dư biết Lê Đạo-Sinh là phường lưu manh, ngụy quân tử, chàng vẫn kéo y theo mình, rồi cách chức Thái-thú Tích Quang. Khi Quang trên đường về Trung-nguyên, chàng cho Hợp-phố lục hiệp đón đường giết y, tịch thu tất cả vàng bạc châu báu mà y đục khoét ở Giao-chỉ, để sung vào công khố.
                Tô Định được Mã thái hậu nâng đỡ, cử sang Lĩnh-Nam cầm chân chàng. Là người có bản lĩnh, không tham vọng, chàng coi Tô Định như một đứa trẻ con. Chàng nắm hết quân đội của Tô, ra lệnh trưng dụng quân đội của 15 huyện thuộc quận Giao chỉ, cùng với quân bản bộ tổ chức thành 4 Quân bộ, 3 Sư kỵ. Bây giờ chàng có tới 10 Quân bộ, 10 Sư kỵ, tổ chức thống nhất chỉ huy, huấn luyện và trang bị đầy đủ. Trong 6 Quận thì 5 Thái-thú, Đô-sát, Đô-úy, Đốc-bưu đều là người thân tín của chàng ; chỉ duy có quận Giao-chỉ là do triều đình cử sang. Chàng nghĩ rằng Tô Định không có quân trong tay, y muốn chống chàng cũng không làm nên sự. Qủa đúng như chàng ước tính. Tô Định được tin chàng ra Đào Đinh đảo, y khích Lê Đạo-Sinh cùng Phùng Chính-Hòa làm phản đánh úp chàng. Tuy bị bất ngờ chàng vẫn coi như không, nhắm mắt cho Phương-Dung điều quân phản công. Rời Đào Đinh đảo chàng trở về Cửu-chân điệu Phùng Chính-Hòa ra chém trước chợ. Cách chức, tuyên án tử hình Vũ Hỷ, tịch thu tài sản; cử Trần Dương-Đức, Đào Nghi-Sơn làm Huyện-úy.
                Trên đường từ Cửu-chân ra Bắc, lại gặp Huyện-úy Hoàng Đức-Phi mưu hại. Chàng biết y dám hại chàng vì y biết chủ ý của Tô Định, chàng đem cả nhà y ra chém.
                Nghiêm Sơn nghĩ rằng tất cả việc làm của chàng, Tô Định sẽ đổ lên đầu Lê Đạo-Sinh. Bấy giờ chàng sẽ cách chức Lê và các Huyện-úy tay chân y. Lợi dụng sự kinh hoàng của Tô Định, chàng cử anh hùng Lĩnh-Nam vào chức các Huyện-úy của đệ tử Lê Đạo-Sinh. Còn hàng trăm trang ấp của Lê, chàng thẳng tay cách chức các Lạc-hầu, Động-trưởng, Châu-trưởng giao cho hào kiệt cai trị, Tô Định sẽ bị cô lập.
                Vì vậy chàng không thể trở về Luy-lâu, mà đến Long-biên trước. Vì Long-biên là nơi Đô-úy Lê Đạo-Sinh đóng bản doanh. Chàng cho mời Sư trưởng bộ binh. Lữ trường kỵ binh họp mặt mà không cho mời Đô-úy, Huyện-úy.
                Trong buổi họp quân sự, Phương-Dung được Nghiêm Sơn cho giả trai ngồi nghe. Sau buổi họp Phương-Dung cứ ngồi ôm gối cười hoài. Nghiêm Sơn biết nàng có điều gì khác lạ hỏi :
                – Sư muội có gì mà cười mãi thế ?
                Phương-Dung lại cười :
                – Có phải Tô Định đang ăn thua đủ với đại ca không ? Tài trí như đại ca mà không trừ được y, thật là nực cười.
                Nghiêm Sơn muốn thử xem nàng có hiểu mưu kế của mình không, chàng nói :
                – Ta quá tối tăm, sư muội soi sáng cho ta được klhông ?
                Phương-Dung nhìn Đào Kỳ :
                – Anh thấy không? Rõ ràng Tô Định với Lê Đạo-Sinh cấu kết với nhau, tìm đủ cách hại Nghiêm đại ca. Bằng chứng rõ rệt : Phùng Chính-Hòa định giết Nghiêm đại ca. Rồi Vũ Hỷ được Tô Định dung dưỡng, đi khắp nơi kết bè, kết đảng hại Nghiêm đại ca. Chứng cớ rõ ràng, không lẽ đại ca không có phản ứng sao ?
                Ngừng một lúc nàng nói tiếp :
                – Tiểu muội có bốn kế xin đại ca nhận lấy một.
                – Ta nghe sư muội!
                – Kế thứ nhứt đại ca xua binh mã, bắt Tô Định, Lê Đạo-Sinh và các Huyện-úy thuộc phe hắn đem ra chém đầu. Đó là đường, chính chính. Kế trên có thể đụng tới Mã thái hậu. Kế thứ nhì là đại ca tổ chức họp mặt, giữa buổi họp đại ca bắt chúng giết đi. Hiện chúng tưởng đại ca không bao giờ dám làm thế. Vì một mình đại ca đâu có địch nổi Lê Đạo-Sinh, đừng nói thêm hàng chục đệ tử của y ? Đại ca có thể nhờ Khất đại phu, thái sư thúc Phật Nguyệt, Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công, Đào tam ca và tôi. Như vậy dư sức bắt chúng. Kế này hơi xáo trộn một chút nhưng mau chóng hơn. Kế thứ ba : Đại ca sai một trong những chân tay của đại ca, đêm lén vào phủ giết chết Tô Định, đổ cho người Việt giết. Còn Lê Đạo-Sinh thì muốn trừ lúc nào mà chả được ? Kế thứ tư : Đại ca mời Tô Định đến họp, kể tội Vũ Hỷ, Hoàng Đức, rồi truyền lệnh chém đầu chúng, liệu Tô có dám bênh không ? Thế là từ nay không còn tên nào dám theo Tô Định phản đại ca nữa.
                Nghiêm Sơn ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
                – Ta không muốn giết Tô, mà chỉ muốn giết Lê Đạo-Sinh với chân tay hắn mà thôi.
                Phương-Dung nhìn Đào Kỳ cười :
                – Nếu bây giờ em khiến Tô Định giết Lê Đạo-Sinh, đại ca sẽ thưởng em cái gì nào ?
                Nghiêm Sơn biết Phương-Dung hay đùa nói :
                – Sư muội với ta, tuy chỉ là tình anh rể, em dâu vợ, nhưng tình hơn ruột thịt. Ta là sư muội, sư muội là ta, sư muội muốn cái gì ta cũng ừ hết. Vậy sư muội làm đi.
                Phương-Dung ghé tai Nhgiêm Sơn :
                – Đại ca biết không ? Tên Lê Đạo-Sinh bắt giam Tô Phương con Tô Định, em biết. Nếu bây giờ đại ca cứu Tô Phương ra, tự nhiên Tô Định sẽ trở thành người chịu ơn đại ca. Tô ắt giết Lê để trả thù.
                Nghiêm Sơn thất kinh :
                – Ta tưởng Tô Phương bị Huyện-lệnh Trương Thanh bắt giam chứ ?
                Phương-Dung cười :
                – Trương Thanh không biết gì cả. Con y là Trương Minh-Đức bắt giam Tô Phương. Sau đám người của Lê Đạo-Sinh bắt Tô Phương dấu đi, nhốt tại trang Thái-hà. Đại ca hãy gặp Tô Định, thăm dò ý kiến úp mở cho biết nơi con y bị nạn, rồi cùng y đánh phá Thái-hà trang cứu Tô Phương ra, thì mọi sự trắng đen rõ rệt chứ gì ? Bây giờ đại ca đi Luy-lâu chỉnh đốn mọi việc, còn bọn em về thăm cha. Nếu đại ca cùng Tô Định đánh phá Thái-hà trang, cho chúng em biết trước, chúng em tới chỉ nơi giam Tô Phương cho. Đại ca phải làm xong mọi việc trước ngày lên đường về Trung-nguyên mới được.
                Nghiêm Sơn hoài nghi nói :
                – Như vậy ta chờ Tiểu sư đệ, sư muội lo liệu mọi sự. Bây giờ hai em về thăm nhà rồi trở lại đi với ta thì ta mới an tâm. Thú thực ta không thể địch nổi Lê Đạo-Sinh. Sư muội đi trong bốn ngày có được không ?
                Phương-Dung nhăn mặt :
                – Đại ca làm như em là một tướng quân không bằng. Con gái mới lấy chồng, về thăm cha mẹ phải lâu lâu một chút mới đủ. Thôi được vì ông thần Hoàng Thiều-Hoa nên em nể cây đa Nghiêm Sơn. Bốn ngày sau em trở lại đi với đại ca.
                Sáng hôm sau Đào Kỳ, Phương-Dung tạ từ Nghiêm Sơn lên đường đi Cối-giang. Đào Kỳ thắc mắc hỏi Phương-Dung :
                – Rõ ràng Tô Phương bị Lê Chân bắt giam ở Đông-triều, tại sao em bảo Lê Đạo-Sinh bắt y ?
                Phương-Dung nói nhỏ vào tai chàng :
                – Tô Phương bị bắt giam, nhưng y không biết bị ai bắt và giam ở đâu. Bây giờ chúng ta lên đường đi Đăng-châu, gặp Phùng Vĩnh-Hoa, Lê Chân bàn kế hoạch sao đưa Tô Phương vào trong nhà giam Thái-hà trang, rồi chúng ta cùng Nghiêm Sơn vào nhà giam cứu y ra. Nhất định Tô Định tin chúng ta, trả thù cho con và sẽ giết Lê Đạo-Sinh.
                Đào Kỳ nhíu mày :
                – Vu oan giá họa cho người ta như vậy sao phải anh hùng ?
                Phương-Dung nhăn mặt :
                – Bố thường dạy anh : Vì chuyện phục quốc bản thân còn không tiếc huống hồ một chút mưu kế ?
                Phương-Dung đem lời bố ra để biện luận, làm Đào Kỳ im bặt. Hai người tới Đăng-châu, rồi rẽ sang trang An-biên. Phùng Vĩnh-Hoa, Lê Chân thấy hai người tới vội kéo vào nhà bàn luận. Đào Kỳ kể sơ lược từ khi xa nhau cho hai người nghe. Phùng Vĩnh-Hoa biết được kế này thích quá, tát khẽ vào má Phương-Dung :
                – Em còn nhiều mưu hơn chị nữa. Vậy đêm nay hai em phải giả vờ đến chỗ chúng ta giam Tô Phương. Ta để hai em nói truyện một lúc rồi giả bộ khám phá ra các em. Chúng ta cùng nhau chiến đấu. Ta nhờ mấy vị sư đệ giả tiếng Chu Bá, Hoàng Đức đấu khẩu với hai em. Tô Phương ắt tin rằng hai đứa này giam y. Ngày mai chúng ta trói Tô Phương vào xe, dấu kín đưa lên Long-biên giam kín một nơi bí mật. Khi hai em từ Luy-lâu cùng Tô Định và Nhgiêm Sơn trở về, thì chúng ta đem Tô Phương vào để ở nhà tù Thái-hà. Bấy giờ hai em và Nghiêm Sơn xuất hiện cứu y ra. Cố gắng gây cuộc đấu võ kinh khủng trước khi đi. Dĩ nhiên Lê Đạo-Sinh chẳng hiểu chi cả... Sau đó mặc Tô Định đối phó với y.
                Phùng Vĩnh-Hoa chợt nhớ ra điều gì, nói với Đào Kỳ :
                – Đào hiền đệ chị có một lời mong em để tâm.
                – Xin chị cứ nói.
                – Hiện Tường-Quy có mặt tại Đăng-châu. Em bây giờ là trai có vợ. Phương-Dung xinh đẹp, thông minh. Em không được đi thăm Tường-Quy, nếu trái lời ta không nhìn mặt em nữa đâu.
                Đào Kỳ quả có ý ấy, nghe Vĩnh-Hoa nói chàng đành gật đầu hứa.
                Tối hôm ấy, cơm nước xong Đào Kỳ, Phương-Dung đến chỗ giam Tô Phương. Hai người đẩy cửa bước vào, Phương-Dung bật lửa đốt lên hỏi :
                – Tô đại công tử ?
                Có tiếng đáp lại :
                – Tôi ở đây.
                Phương-Dung đến gần soi lửa vào mặt y :
                – Công tử nhớ tôi không ?
                Tô Phương cảm động nói :
                – Nguyễn cô nương không ngờ cô nương còn tìm đến gặp tôi. Tôi hận không biết mình bị giam ở đâu, do ai giam, để làm gì và đã bị giam bao lâu rồi ?
                Phương-Dung sẽ nói :
                – Công tử bị giam giữ đã ba năm. Người giam công tử là Chu Bá, Huyện-úy Bắc-đái. Y là đệ tử Lê Đạo-Sinh. Tại sao y giam công tử thì quả thật tôi không rõ. Suốt từ ngày ấy đến nay, tôi dò mãi mới biết chỗ giam công tử, nay tôi đến cứu công tử đây.
                Nàng nhìn xuống chân thấy Tô Phương bị xích bằng xích lớn, nói :
                – Bây giờ làm thế nào ?
                Tô Phương thở dài :
                – Dễ lắm, cô nương để tôi viết mấy chữ cho cha tôi, người sẽ tìm cách cứu tôi. Nhưng trong nhà tù kiếm đâu ra giấy mực bây giờ ?
                Phương-Dung đưa bao kiếm bằng gỗ cho Tô Phương :
                – Công tử dùng dao nhỏ của tôi, viết mấy chữ vào đây cho Tô đại nhân, người thấy sẽ tin ngay.
                Tô Phương lắc đầu :
                – Để tôi cắn tay lấy máu viết vào áo cô nương được không ?
                Phương-Dung xé vạt áo để trước mặt y. Tô Phương cắn tay viết :
                "Tô Phương kính gởi đến cha là Tô thái thú Giao-chỉ. Con bị Lê Đạo-Sinh bắt giam đã ba năm nay. Xin cha nhất nhất nghe lời Nguyễn cô nương đến cứu con ra. Tô Phương khấp bái. "
                Vừa đến đó bỗng có tiếng quát bên ngoài :
                – Đứa nào dám đến đột nhập vào ấp của Chu gia này.
                Đào Kỳ, Phương-Dung vội nói :
                – Chúng tôi phải trốn chạy ngay.
                Hai người ra đến cửa thì thấy Lê Chân, Phùng Vĩnh-Hoa chờ sẵn, chỉ vào hai thanh niên. Đào Kỳ quát :
                – Chu Bá ngươi có giỏi cùng ta đấu chưởng, chứ dùng đông người bắt ta sao gọi anh hùng.
                – Đấu chưởng, đấu kiếm ta cũng dám. Ngươi là ai ? Hãy coi võ công Tản-viên của ta đây.
                Rồi hai người đấu với nhau tiếng đao kiếm chạm nhau xoang xoảng. Được mấy chục hiệp Đào Kỳ hô :
                – Chạy thôi.
                Thế là cả bọn cùng chạy về ấp An-biên. Phùng Vĩnh-Hoa bảo Phương-Dung :
                – Nghiêm Sơn là người tinh tế không chừng y về Cối-giang tìm em.Vậy ngay bây giờ em đi Cối-giang thăm gia đình cố ý nấn ná đợi Nghiêm Sơn đến tìm, để y thấy sự thật em có về Cối-giang. Rồi em lên đường về Luy-lâu với hắn. Khi em với Nghiêm Sơn trở lại Long-biên cứu Tô Phương, ta cũng cho Ngũ-kiếm xuất hiện với em, đảo lộn Thái-hà trang một phen. Chúng ta hãy cho người Hán và Thái-hà trang đanh nhau càng nhiều càng tốt.
                Đào Kỳ Phương-Dung nghe nói mới nhớ đến Ngũ-phương thần kiếm. Hai người vội từ giã Lê Chân, Phùng Vĩnh-Hoa đi Cối-giang. Sáng hôm sau tới nơi. Nguyễn Trát xa con gái và con rể mới hơn tháng, mà ông cảm thấy dài hàng mấy năm. Đào Kỳ và Phương-Dung kể hết những biến chuyển dọc đường cho ông nghe. Ông như trẻ lại được 10 tuổi. Ông nói :
                – Ba vị sư thúc Đông-Bảng, Thủy-Hải và Đằng-Giang cùng ta thao luyện tráng đinh, đệ tử. Tổng số nam nữ của ba chúng ta khi hữu sự có thể được 2.000 người, lừa ngựa khỏang vài trăm con, lương thực đủ dùng ba tháng. Như vậy khi khởi sự, ta với sư thúc Đông-Bảng đánh Long-biên, sư thúc Thủy-Hải và Đằng-Giang đánh Bắc-Đái. Sư thúc Khổng Chúng với Đào Thế-Hùng đánh Luy-lâu. Con thấy thế nào ?
                Phương-Dung ngẫm nghĩ một lát rồi nói :
                – Đánh Long-biên, dĩ nhiên lúc nào mình đánh cũng được. Có điều làm thế nào không cần đánh, mà giặc phải bỏ đất đi. Binh pháp nói : Biết mình, biết người trăm trận, trăm thắng. Quân Hán có một Sư kỵ, một Sư bộ và một Hải đoàn ở Long-biên. Đó là lực lượng Giao-chỉ. Còn lực lượng Long-biên có một Lữ kỵ, một Lữ bộ hỗn hợp. Huyện-úy còn có thể điều động tráng đinh của các Lạc-hầu, Lạc-tướng trong vùng nữa. Cho rằng chúng ta chiếm được Long-biên, thì trong 2.000 người tất hao hụt 1.000 người. Sau khi được Long-biên rồi trang ấp chúng ta trống rỗng. Giặc từ Bắc-đái, Lục-hải, Thiên-trường đánh lên. Ta lấy người đâu mà chống đỡ ? Dù Bắc-đái, Lục-hải, Thiên-trường cùng nổi dậy chiếm đuổi giặc, thì sau đó Hán đế gửi quân cứu viện sang, chúng ta lất đâu ra người, lương cho binh mã ăn mà chiến đấu ? Cho nên chúng ta đã ước hẹn phải làm sao để cho Hán đế tin tưởng rút quân về. Khi nổi dậy các nơi cùng nổi một lúc. Chiếm lại được Lĩnh-Nam, ta phải lấy sự hòa hợp mọi người, tha cho những ai trót theo Hán, gây tình đoàn kết thống nhất nhân tâm. Bấy giờ ta khuyến khích trồng trọt, tích trữ lương thảo, thao luyện sĩ tốt. Có như vậy, người Hán mới bỏ ý định trở lại, ta mới tồn tại được. Mong bố hãy nghĩ kỹ.
                Nguyễn Trát tuy lớn tuổi, nhưng tính tình bồng bột, ông thấy cứ cách vài tháng xa con gái, lại thấy con ông trông rộng, nhìn xa hơn. Ông mừng lắm. Phương-Dung lại nói với bố:
                – Bố phải theo gương Hàn Tín. Hàn Tín thuở còn thơ ấu đi câu cá làm kế sinh nhai. Ông thích đeo kiếm. Khi bị tên hàng thịt gây sự. Y bảo : Ngươi thích đeo kiếm, vậy có giỏi thì hãy giết ta đi. Còn không thì phải chui dưới quần ta. Hàn Tín suy nghĩ : Nếu giết tên bán thịt thì dễ quá, nhưng giết y thân bị tù tội, đâu còn làm được việc lớn nữa ? Ông chịu lòn qua háng tên bán thịt. Vì vậy sau này ông làm nên những chuyện kinh thiên động địa. Bố bây giờ cũng vậy : Nín nhịn luyện tập sĩ tốt, tích trữ lương thảo, liên lạc với người Hán làm như phục tùng họ. Chờ thời cùng các nơi nổi dậy. Việc của chúng con là đi Trung-nguyên, tỏ ý quy phục Hán triều cho họ rút quân về. Họ rút đi rồi chúng ta nổi dậy dễ dàng hơn. Việc trước mắt thứ nhì là làm sao chia rẽ giữa Nghiêm Sơn và Tô Định, chúng ta đã làm xong. Nghiêm Sơn bây giờ đã là người đi cùng đường với ta. Ta lại phải chia rẽ Tô Định với lực lượng Lê Đạo-Sinh cho chúng ghét nhau. Ta là ngư ông hưởng lợi. Nhân Tô với Lê chém giết nhau, phần bại sẽ về Lê Đạo-Sinh, ta thanh toán hết thủ lĩnh các trang ấp của Lê, như vậy dù chưa đuổi được Tô Định đi, mà các trang ấp đã là của ta hết rồi !
                Hai bố con đang bàn định, thấy Phan Đông Bảng tới. Phương-Dung đứng dậy cúi đầu hành lễ. Đông-Bảng nắm tay cháu nâng dậy :
                – Cháu giỏi lắm, con hơn cha là nhà có phúc. Trước đây thấy võ công cháu đã hơn hẳn bố và sư thúc đã là điều mừng. Nay thấy kiến thức của cháu hơn tụi già này nhiều lắm, chú nghĩ giá có chết ngay cũng sung sướng. Việc cháu giúp đỡ các sư đệ ở Lục-hải chú đã biết đầy đủ. Chú mới từ đó về. Trang Thiên-bản đang là một trang bị quân Hán đánh phá, cháu biến các sư đệ cháu thành những người cầm quân, chuẩn bị cho mai sau. Không biết trong chuyến đi này, cháu sẽ mang ai đi Trung-nguyên ?
                Phương-Dung hỏi bố :
                – Đào hầu đồng ý cho Đào tam lang đi với con, bố với các sư thúc làm thế ỷ dốc với nhau, lỡ Lê Đạo-Sinh đánh một trong bốn trang, thì chúng ta cũng khởi sự đánh Thái-hà... Bố với các sư thúc ở nhà, mình cần giữ vững cơ sở. Thái sư thúc Phật Nguyệt đi, lỡ có gì sơ suất còn có thể tiếp tay cho anh hùng các nơi.
                Phương-Dung cùng Nguyễn Trát và các sư thúc bàn định cách giữ trang ấp, đề phòng Lê Đạo-Sinh tập kích bất ngờ suốt hai ngày liền. Ngày thứ ba, nàng thưa với Nguyễn Trát :
                – Thưa bố, chúng con phải lên đường ngay. Chậm trễ Nghiêm đại ca mong đợi, chúng con đã lớn không thể thất hẹn với người.
                Nguyễn Trát truyền làm cơm tiễn con và rể lên đường. Gia đình, môn phái tụ họp ăn uống vui vẻ, trò chuyện thân mật. Trương Thủy-Hải, Trương Đằng-Giang là hai người nhiều tình cảm, tính tình cương trực. Từ khi hai ông biết những việc làm của Phương-Dung, hai ông càng thêm yêu qúy cháu. Thủy-Hải cầm tay Phương-Dung :
                – Khi nào cháu về Lĩnh-Nam, cùng Nhị Trưng phất cờ, các sư thúc sẽ hội quân nghe lệnh cháu. Khi cháu cầm kiếm lệnh thì cháu là Hùng Vương, An-Dương Vương, các sư thúc đều nghe lệnh cháu hết !
                Bỗng nghe tiếng trống báo có khách tới, rồi tráng đinh vào thưa :
                – Thưa sư phụ, có tam đệ tử của Đào hầu Cửu-Chân cầu kiến.
                Phương-Dung nhìn bố :
                – Thưa bố, tam sư tỷ của Đào tam lang đến đó.
                Nguyễn Trát vốn ưa Thiều-Hoa, ông vội cùng mọi người ra cổng đón. Đào Kỳ thấy sư tỷ reo lên :
                – Bọn em đang đinh lên đường thì sư tỷ đến. Sư tỷ có việc gì khẩn cấp không ? Hay ở lải chơi mấy ngày đã !
                Hoàng Thiều-Hoa nắm tay Đào Kỳ :
                – Mình phải đi ngay. Kiến-vũ hoàng đế thất trận nặng nề. Nguyên niên hiệu Kiến-vũ thứ 6 (30 sau Thiên chúa). Ngỗi Hiêu làm phản, xưng làm tôi nước Thục. Năm Kiến-vũ thứ 8, vua Quang-Vũ thân đi đánh Ngỗi Hiêu. Y sắp bị diệt, thì Công-tôn Thuật lại làm phản tiếp cứu. Đến năm Kiến-vũ thứ 9, Ngỗi Hiêu chết con là Ngỗi Thuật kế nghiệp. Năm Kiến-vũ thứ 10 Ngổi Thuật bị thất trận đầu hàng Hán. Đất Lũng-hữu được dẹp yên. Nhưng Công-tôn Thuật binh lực hùng mạnh vẫn tiếp tục làm phản. Đại-tư mã là Đặng Vũ, Chinh-tây đại tướng quân Phùng Dị, Xa-kị đại tướng quân Ngô Hán, Phiêu-kỵ đại tướng quân Sầm Bành, Phục-ba tướng quân Mã Viện đều bị đánh bại. Thục đang tiến ra đánh Kinh-châu, Hán-trung. Dân chúng Trường-an rúng động. Kiến-vũ hoàng đế triệu Nghiêm đại ca về đánh Thục.
                Phương-Dung mừng rỡ :
                – Trun-nguyên rối loạn, chúng ta khởi binh ngay chiếm lại Lĩnh-Nam.
                Hoàng Thiều-Hoa lắc đầu :
                – Điều cần thiết là chúng ta chờ quân Hán rút khỏi Lĩnh-Nam đã.
                Đào Kỳ thắc mắc :
                – Khi những đại tướng danh tiếng của Trung-nguyên đã bị bại, thì Nghiêm đại ca chắc gì thắng được ?
                Hoàng Thiều-Hoa đáp :
                – Nguyên khi mới khởi nghĩa, bọn Đặng Vũ, Sầm Bành, Ngô Hán, Phùng Dị đều ngang nhau. Hán đế cho bốn người cầm bốn đạo quân đánh Thục. Không ai chịu ai hết. Vì chỉ huy không thống nhất nên mới bị Thục đánh bại.Vì vậy Quang-vũ tìm một người trí dũng, uy tín hơn chúng, thống lĩnh binh mã toàn quốc đánh Thục. Xét ra chỉ có hai người : Một là Hoài-Nam vương Lưu Quang, hai là Nghiêm đại ca. Quang-vũ không muốn giao quyền nghiêng nước cho người họ Lưu, vì sợ có biến. Ngài mới quyết định giao cho Nghiêm đại ca.
                Thiều-Hoa ngưng lại một lúc rồi tiếp :
                – Nghiêm đại ca trước đây từng là chúa tướng của bốn đại tướng quân kia. Đại ca còn là em kết nghĩa của Quang-vũ, tước phong tới Công. Nếu Nghiêm đại ca trở về thống lĩnh ắt họ phải tuân phục. Quang-Vũ đã ban chiếu phong Nghiêm đại ca làm Lĩnh-Nam vương, Tả tướng quân, điều động binh mã Lĩnh-Nam, Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, Trường-an đánh Thục. Nghiêm đại ca khẩn khoản nhờ tiểu sư đệ với Phương-Dung giúp cho.
                Đào Kỳ, Phương-Dung từ tạ cha mẹ, sư thúc lên đường. Ngựa phi như bay, đến chiều thì tới Hải-đoàn Long-biên. Nghiêm Sơn và Đào Kỳ phu phụ xuống thuyền đi Luy-lâu. Thuyền tới Luy-lâu thì thấy một rừng cờ xí ngập trời, quân mã nghiêm chỉnh. Các võ tướng dẫn thiết kỵ ra đón Nghiêm Sơn. Trong đám đi đón có cả Tô Định. Mặt Tô vui cũng không vui hẳn, lo âu cũng không hẳn lo âu. Nghiêm Sơn lên ngựa về thẳng vương phủ. Bá quan văn võ đều tề tựu. Long án bày sẵn, hương khói nghi ngút. Sứ giả là một người trung niên, khuôn mặt nho nhã. Nghiêm Sơn cùng sứ giả trà nước, hỏi thăm tình hình, rồi nghiêm ra trước long án, quay về Bắc hô lớn :
                – Tất cả quỳ xuống tiếp chỉ !
                Văn võ các quan đồng loạt quỳ trước bàn thờ. Đào Kỳ, Phương-Dung cũng phải quì theo. Hồ Đề nói nhỏ vào tai Trần Quốc :
                – Tiên sư thằng cha Lưu Tú, vì sự nghiệp phục quốc Hồ Đề, Trần Năng phải quỳ gối tiếp chỉ của mày. Nếu đất Lĩnh-Nam cũng rộng, người Lĩnh-Nam cũng đông như Trung-nguyên thì chúng mày tất phải quỳ gối trước tổ cô nhà mày.
                Tính Hồ Đề bướng bỉnh, nàng thấy Trần Quốc hiện ra nét bướng bỉnh tinh quái, thì nói vào tai nàng, suýt nữa Trần Quốc bật lên tiếng cười.
                Sứ giả mở chiếu ra đọc :
                "Thừa thiên hưng vận, Kiến-vũ hoàng đế chiếu viết :
                Từ cổ đất Trung-nguyên đã có kỷ cương được mệnh trời cai trị thiên hạ. Cho nên đời nào cũng có chúa thánh tôi hiền. trải qua Hạ, Thương, Chu văn thánh, võ đức, thiên hạ âu ca. Cuối đời Chu, Tần thống nhất thiên hạ, Thủy-hoàng bạo nghịch, đốt sách, chôn học trò, thiên hạ nổi lên như ong. Đức Cao-tổ nhà ta chém rắn khởi nghĩa, lập nên nhà Đại Hán. Suốt gần 300 năm trải qua 12 đời, dân chúng sống cảnh ngày Nghiêu tháng Thuấn. Tứ phương quy phục.
                Vừa rồi gian thần Vương Mãng dã tâm cướp ngôi, khiến thiên hạ đều nổi dậy để trung hưng cớ nghiệp Đại Hán ta. Ta vốn dòng dõi Trường-sa vương, hậu duệ của đức Cao Tổ, tuốt ba thước gươm khởi binh từ Hoài-Nam, diệt Vương Mãng lập lại cơ nghiệp Tiên Đế. Đời Cơ Nhiếp Đế phong cho Công-tôn Thuật quản nhiếp năm quận. Thời Vương Mãng soán vị, Thuật xưng Thục-vương,chiếm Ích-châu, Hán-trung, tự xưng Thiên-tử, lập triều đình ở Thành-đô. Trẫm sai Đại Tư Mã Đặng Vũ, Chinh-Tây đại tướng quân Phùng Dị, Xa-kỵ đại tướng quân Ngô Hán, Phiêu-kỵ đại tướng quan Sầm Bành, Phụ-ba tướng quân Mã Viện, đem quân chinh tiễu. Ngặt vì thế giặc hung hăng, tướng sĩ tuy hết lòng mà không dẹp yên được.
                Nghĩ lại khi trẫm mới khởi binh ở Hoà-dương, được khanh ra công cứu giá. Từ đó nghĩa thì chúa tôi, nhưng tình thì như chân tay. Khanh một mình một ngựa, cùng Hợ-phố lục hiệp, kinh lược Lĩnh-Nam khiến bọn Nhâm Diên, Tích Quang, Đặng Nhượng cúi đầu qui phục. Mấy năm qua, lương thảo binh mã Lĩnh-Nam được khanh gửi sang trợ giúp, Trẫm đã bình được Lũng-hữu, Ngổi Thuần đầu hàng. Nay Công-tôn Thuật hung hăng, cát cứ Ích-châu, Hán-trung, thuận thế đánh Kinh-châu, Trường-an, thiên hạ náo động. Trẫm nghĩ tới khanh, kinh luân gồm tài, phong khanh chức Tả-tướng quân, tước Lĩnh-am vương. Khanh hãy vì sự ngiệp ngàn năm của nhà Đại Hán, vì lòng trung liệt chúa tôi, vì tình nghĩa huynh đệ với Trẫm, điều động binh mã Lĩnh-Nam, Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, Trường-an chinh tiễu Công-tôn Thuật. Gác công thần Trẫm đã dành cho vẽ hình khanh cạnh Trương Lưu hầu. Khanh được chiếu chỉ, cấp lên đường, xứng đáng với lòng mong mỏi của Trẫm.
                Khâm thử"
                Nghiêm Sơn, Tô Định cùng các quan tung hô vạn tuế rồi đứng dậy. Tô Định lấm lét nhìn Ngiêm Sơn, vẫy các quan quì xuống tung hô lớn :
                – Bọn tiểu thần kính mừng vương gia. Kính chúc Vương gia tiên phúc vĩnh hưởng, nhất cử thành danh, chúng nhân tôn phúc.
                Sứ giả nói với Nghiêm Sơn :
                – Hiện đạo quân Đại-tư-mã Đặng Vũ đóng ở Kinh-châu. Đạo quân Xa-kỵ đại tướng quân Ngô Hán đóng ở Hán-trung. Tất cả đang chờ lệnh vương gia.
                Nghiêm Sơn nhìn xuống thấy đủ mặt các quan sáu quận Nhật-Nam, Cửu-chân, Giao-chỉ, Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm. Chàng cầm thanh Thượng-phương bảo kiếm thăng trướng nói :
                – Cô gia xuất thân là người hiệp nghĩa. Trước đây vì hiệp nghĩa cùng Hợp-phố lục hiệp xả mạng bảo gia đức hoàng đế. Xong việc, bản soái cũng như Hợp-phố lục hiệp đều muốn thảnh thơi ngao du thiên hạ làm việc nghĩa. Nhưng Kiến-vũ thiên tử muốn bản soái kinh lược đất Lĩnh-Nam, thu phục Tích Quang, Nhâm Diên, Đặng Nhương, Đỗ Mục. Mấy năm qua Cô-gia giữ binh quyền cung cấp lương thảo cho các đạo quân trung hưng Hán thất. Việc vừa xong, bản soái tưởng được trở lại ruổi ngựa tiêu dao, thì ngài lại ban chỉ cho chinh thảo nghịch tặc Công-tôn Thuật. Từ Trung-nguyên đến đất Thục đường sá xa xôi, lương thảo vận chuyển khó khăn. Vậy bản soái quyết định lấy hết tất cả các dạo quân Lĩnh-Nam làm lực lượng xung kích. Lương thảo do Thái-thú chu cấp. Trễ hạn, hoặc thiếu thì trên từ Thái-thú, dưới đến các Huyện-lệnh đều bị xử tử.
                Lời tuyên bố của Nghiêm Sơn khiến các võ tướng có mặt vỗ tay hoan hô. Nghiêm Sơn nhìn trong đó Phương-Dung, Đào Kỳ, Hồ Đề vỗ tay lớn hơn hết, vương không hiểu tại sao. Vương có ngờ đâu Phương Dung cùng hào kiệt Lĩnh-Nam bàn định trên thuyền từ đảo về Bắc làm sao rút được quân Hán, thì việc phục hồi Lĩnh-Nam mới thành công. Phương Dung ghé tai Hồ Đề :
                – Phục hưng Lĩnh-Nam đã được một nửa rồi đấy.
                Nghiêm Sơn cho rằng Phương-Dung, Đào Kỳ coi vương như anh rể, họ thấy anh rể được phong quan lớn thì vui mừng mà thôi.
                Nghiêm Sơn tổ chức đãi yến đãi sứ giả và quan lại văn võ các cấp Lĩnh-Nam. Tiệc tan, vương cùng các tướng tiễn sứ giả về Trung-nguyên. Vương truyền lệnh đi khắp nơi, gọi các Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát, Đốc-bưu, các tướng cấp Quân trưởng, Sư trưởng, Hải-đoàn trưởng tề tựu họp khẩn cấp.
                Vương trở về dinh thì thấy Đào Kỳ, Phương-Dung, Giao-long nữ đều hiện diện. Người nào mặt cũng hớn hở, vương bảo Đào Kỳ :
                – Tiểu sư đệ! Ta viễn chinh lần này phải mang sư đệ theo. Võ công ta không bằng sư đệ, song ta có một bản lĩnh, hiện giờ không ai địch nổi. Ta với Hoàng sư tỷ kết hôn 7 năm chưa có con, vì vậy ta muốn truyền bản lãnh đó cho sư đệ. Song ngồi giảng giải e sư đệ thụ lĩnh không được nhiều. Vì vậy ta mang sư đệ đi để truyền thụ dọc đường.
                Đào Kỳ ngơ ngác :
                – Đại ca muốn nói bản lĩnh ?
                Nghiêm Sơn cười :
                – Võ công thì giỏi lắm địch ngàn người. Ta dạy sư đệ bản lĩnh địch trăm vạn người. Bản lĩnh đó trong lịch sử chỉ có Khương Tử-Nha, Tõn Vũ, Ngô Khởi, Hàn Tín là có.
                Đào Kỳ mừng rỡ :
                – Tiểu đệ hiểu rồi, chính bản lĩnh đó đại ca giúp Quang-vũ thắng Vương Mãng, bình Xích Mi, dẹp các sứ quân Trung-nguyên và kinh lược Lĩnh-Nam.
                Nghiêm Sơn gật đầu :
                – Đúng đấy, ta dốc túi truyền cho sư đệ.
                Phương-Dung hỏi :
                – Đại ca chỉ truyền cho Đào tam ca mà không truyền cho em ư ?
                Nghiêm Sơn gật đầu :
                – Nếu sư muội muốn ta truyền cho cả hai người một lúc.
                Đào Kỳ khẳng khái nói :
                – Em có một điều phải nói trước với đại ca. Đại ca truyền bản lĩnh dùng người, dùng binh cho em, thì em tôn kính đại ca như Lục tiên sinh. Song có điều em nói trước. Em sẽ dùng nó để thực hiện cái chí của bố em, là phục hồi Lĩnh-Nam. Vậy đại ca nên nghĩ kỹ trước khi dạy em.
                Nghiêm Sơn gật đầu :
                – Tiểu sư đệ ! Hoàng sư tỷ thường ca tụng rằng tiểu sư đệ có chí khí anh hùng. Ta tin nhưng không hoàn toàn tin hẳn. Bây giờ nghe tiểu sư đệ nói câu đó, ta mới hoàn toàn tin. Truyền dạy bản lĩnh là ta, xử dụng là tùy tiểu đệ, ta không bắt tiểu sư đệ phải làm một Lê Đạọ-Sinh thứ nhì đâu.
                Nghiêm Sơn ngẫm nghĩ một chút, rồi nói với Đào Kỳ :
                – Tiểu sư đệ, ngươi có tin ta không ?
                Đào Kỳ gật đầu :
                – Em tin Đại ca.
                Nghiêm Sơn chỉ bút mực nói :
                – Tiểu sư đệ viết thư cho các vị sau đây : Nam-hải nữ hiệp, Khất đại phu, Nguyễn Tam-Trinh, Đặng Thi-Sách, Trưng Nhị, Trưng Trắc và thân phụ của tiểu sư đệ về Cối-giang càng sớm, càng tốt. Mục đích : Tiểu sư đệ sẽ trình bày việc cơ mật. Khi các vị ấy về, ta sẽ cùng tiểu sư đệ, Phương-Dung tới họp với họ.
                Đào Kỳ ngần ngừ định hỏi, Phương-Dung bật cười :
                – Anh Kỳ, bộ anh sợ Nghiêm đại ca giết mấy vị đó ư? Nếu Nghiêm đại ca có ý đó, thì hôm ở hồ Tây đã cho thiết kỵ Giao-chỉ ra tay rồi. Chẳng qua Nghiêm đại ca muốn trình bày với các vị hào kiệt có uy tín Lĩnh-Nam trước khi lên đường chinh chiến, nội dung có lợi cho Lĩnh-Nam mà đại ca không muốn cho người Hán biết. Chứ còn đại ca bảo các vị đó làm lợi cho Hán thì với uy quyền Lĩnh-Nam vương đại ca truyền lệnh họ phải về ngay, liệu có ai dám chống ?
                Nghiêm Sơn nhìn Phương-Dung :
                – Ta nói thực, sư muội là người ta thương yêu như Tiểu sư đệ, lại là người cùng phe với ta. Nếu sư muội là người đối lập với ta, ta phải giết sư muội trước tiên.
                Thiều-Hoa cũng cười :
                – Vì sư muội là tri kỷ của đại ca. Tri kỷ mà cùng phe thì thật là lợi hại vô cùng. Còn tri kỷ mà ở phe đối nghịch thì càng nguy hiểm.
                Đào Kỳ ngồi viết thư, Phương-Dung trao thư cho Giao-long nữ :
                – Sư muội cầm thư này đưa về Cối-giang cho thân phụ của chị. Phụ thân chị sẽ nhờ các anh chị phi ngựa ngày đêm đưa đến các vị. Riêng đất Cửu-chân, vừa đi, vừa về ít ra là 6 ngày, sư muội nhắc phụ thân chị phải người đi cho. Phiền sư muội đi ngay dùm.
                Giao-long nữ đang là cô gái ở thôn dã, bỗng dưng được giao trọng trách. Nàng thích quá cầm thư đi ngay.
                Suốt mấy ngày Nghiêm Sơn bận rộn hội họp với các tướng chuẩn bị lên đường: Quân-số, ước tính tổn thất, chuẩn bị bổ sung lương thảo, lừa ngựa, và bổ nhiệm nhân sự. Bên cạnh vương còn có Hoàng Thiều Hoa, Phương-Dung, Đào Kỳ giúp đỡ như những tham tướng, khiến vương cũng bớt mệt mỏi. Các tướng lĩnh thấy Lĩnh-Nam vương phi cùng sư đệ, sư muội của nàng đồng tâm giúp vương gia hết lòng, họ sinh cảm tình. Nhất là Phương-Dung, nàng chủ trương cần được lòng tướng sĩ, nên nhất nhất lỗi lầm của họ, nàng cố nhờ Thiều-Hoa tìm cách che chở.
                Năm ngày sau, Đào Kỳ báo cho Nghiêm Sơn biết đã mời đủ các vị anh hùng về Cối-giang như Nghiêm Sơn muốn. Nghiêm Sơn gọi Uy-viễn tướng quân vào trướng dặn :
                – Ta có việc đi xa một ngày. Mọi việc nhất thiết do đại ca thay ta giải quyết. Bất cứ ai hỏi ta với vương phi đi đâu. Đại ca trả lời rằng ta đi Mê-linh có chút việc riêng.
                Lưu Nhất-Phương là người đứng đầu Hợp-phố lục hiệp. Đối với Nghiêm Sơn, về lý thì ông là thuộc hạ, nhưng về tình là sư huynh đệ trong cùng môn phái. Cho nên nhất mọi việc vương đều nhờ Lưu thay mặt.
                Phương-Dung hóa trang Nghiêm Sơn thành một ông già, Thiều-Hoa thành một bà nhà quê, rồi lên đường đi Cối-giang. Dọc đường Nghiêm Sơn hỏi Đào Kỳ :
                – Đến Cối-giang sư đệ định họp ở đâu ?
                Phương-Dung đáp thay :
                – Tốt hơn ta chèo thuyền ra giữa sông họp, ta khỏi phải canh phòng.
                Nghiêm Sơn dặn :
                – Gặp các vị anh hùng. Tiểu sư đệ cứ đóng vai chủ động hết. Chỉ khi thuyền ra giữa sông, ta mới ra mặt. Như vậy mới giữ được cơ mật.
                Thiều Hoa là vợ Nghiêm Sơn, việc gì vương cũng nói với nàng. Đây là lần đầu tiên vương không thổ lộ trước nội dung buổi họp.
                Bốn người tới Cối-giang, Nguyễn Trát ra tận cổng đón vào. Ông đưa mắt hỏi Đào Kỳ về Nghiêm Sơn và Thiều-Hoa, Đào Kỳ trả lời :
                – Thưa bố đây là hai vị nông dân, trình bày nhiều tin tức cơ mật trong buổi họp này.
                Đào Kỳ gặp lại bố, chàng mừng lắm chạy đến bên ông hành lễ.
                – Thưa bố, con thấy bố trẻ lại hơn trước ít tuổi. Không biết mẹ và cậu mợ có được an khang không ?
                Đào Thế-Kiệt xoa đầu Đào Kỳ :
                – Cả nhà vẫn bình yên.
                Đào Kỳ chắp tay chào mọi người :
                – Thưa Khất đại phu, Nam-hải sư bá, Mai-động sư bá, Đặng đại ca, Nhị Trưng tỷ tỷ. Tại hạ cả gan dám mời các vị về họp khẩn cấp vì vận mệnh Lĩnh-Nam sắp chuyển hướng. Cuộc họp cần bảo vệ cơ mật, xin mời các vị xuống thuyền chúng ta ra giữa sông họp.
                Các vị anh hùng thấy Đào Kỳ nhỏ tuổi, mà đã làm được nhiều việc vĩ đại, nên nghi chàng mời họ về họp kỳ này để bàn việc khởi binh. Trên thuyền có Khất đại phu, Nam-hải nữ hiệp, Nguyễn Tam-Trinh, Nguyễn Trát, Đặng Thi-Kế, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đào Thế-Kiệt, Đào Kỳ, Phương-Dung, Giao-long nữ Trần Quốc. Đám anh hùng Lĩnh-Nam ngạc nhiên khi thấy có một cặp vợ chồng nhà quê đi theo không nói một câu nào. Đào Thế Kiệt là người tinh tế, nhìn lưng bà lão nhà quê thấy quen quen, song ông không ngờ là Thiều-Hoa.
                Thuyền ra giữa sông Phương-Dung nói với Trần Quốc :
                – Trong thiên hạ, không có ai giỏi thủy tính bằng sư muội. Chúng ta họp trên này, biết đâu có gian tế nghe trộm? Vậy phiền sư muội bơi vòng quanh thuyền canh chừng giùm.
                Một lần nữa Trần Quốc được coi trọng, nàng mừng lắm, hướng quần hùng hành lễ, rồi nhảy ùm xuống sông.
                Đào Kỳ là người đứng mời các anh hùng, chàng đứng dậy chắp tay nói :
                – Thưa các vị anh hùng Lĩnh-Nam. Tôi trẻ người, tài nông, ngặt vì đất Lĩnh-Nam có nhiều biến chuyển trọng đại, nên lớn mật mời các vị về để đạt đạo biến chuyển đó.
                Nói xong chàng chỉ vào Nghiêm Sơn, Thiều-Hoa. Nghiêm Sơn lên tiếng :
                – Tại hạ là Nghiêm Sơn, chưởng môn phái Quế-lâm và tiện nội là Hoàng Thiều-Hoa xin ra mắt các vị anh hùng.
                Vương nói đến đó, các anh hùng bật lên tiếng ồ. Vương nói tiếp :
                – Vì sợ tai mắt gian tế, tại hạ nhờ Đào sư đệ đứng ra tổ chức buổi họp này. Xin các vị lượng thứ.
                Anh-hùng Lĩnh-Nam có mặt đều biết Nghiêm Sơn được phong là Tả tướng quân, tước Lĩnh-Nam vương. Bây giờ vương mời họ về họp, lại xưng danh là chưởng môn Quế lâm thì biết vương muốn dùng tình võ lâm mời họ. Tất cả đều cảm thấy có điều gì trọng đi sắp xảy ra.
                Nghiêm Sơn nhìn Khất đại phu, Mai-động hầu Nguyễn Tam-Trinh rồi rút ra trong bọc một cuốn sách nhỏ, bìa da, hai tay trịnh trọng đưa Phương-Dung :
                – Đây là gia phả nhà ta. Sư muội hãy đọc cho chư vị nghe !
                Phương-Dung tiếp lấy trịnh trọng đọc. Đến trang cuối nàng kính cẩn gấp lại, đưa Nghiêm Sơn. Vương cầm lấy cất đi, rồi nói :
                – Phàm làm con thì không được quên lời di chúc của tổ tiên. Tại hạ quyết theo di chí của tiên phụ. Vì vậy tại hạ mời các vị đến đây, cầu các vị bắt tay cùng tại hạ bắt tay vào việc.
                Vương quay lại nhìn Trưng Nhị, Phương-Dung, Đào Kỳ nói :
                – Bây giờ sư đệ, sư muội hết thắc mắc tại sao từ ngày sang đây đến giờ ta thẳng tay trừng trị, xử tử không biết bao nhiêu tham quan người Hán. Ta đã xử tử bốn trong sáu Thái-thú. Ta giao trọng trách quân sự cho người Việt. Giao chức vụ Đô-úy, Đô-sát cho người Việt. Trưng Nhị sư muội là người chí lớn, trông rộng, nhìn xa, nếu sư muội ở vào địa vị ta sư muội sẽ làm những gì ? Khi người Hán chống ta, Mã thái hậu muốn hại ta ? Người Việt nhìn ta là tên Hán cướp nước, là tên chó Ngô ?
                Vương nhìn Phương-Dung :
                – Ngày nọ trong rừng ta đấu võ với Khất đại phu bị thua. Khất đại phu bắt ta phải làm cho người một việc. Ta đem chuyện này nói với người. Thân thế người cao biết mấy, ta lại đấu võ thua người vậy mà người thụp lạy ta, cũng vì lẽ đó.
                Vương lại nhìn Đào Kỳ ;
                – Tiểu sư đệ, ngày nọ ta bị Mai-động hầu Nguyễn Tam-Trinh bắt trên sông. Đúng ra ta phải đem quân san bằng trang Mai-động, thế mà ta lại quý trọng người. Chính người cũng không hiểu. Ta phải đem chuyện này nói với người, người vội quỳ thụp xuống đất lạy ta, và đứng ra gả sư tỷ Thiều-Hoa cho ta cũng vì lẽ đó.
                Đến đây Khất đại phu nói lớn :
                – Các vị hãy theo lão phu cùng cúi lạy Nghiêm đại hiệp.
                Quần hùng cùng sụp lạy Nghiêm Sơn. Vương để yên cho họ hành lễ đủ 8 lạy rồi nói :
                – Các vị trở về cứ tiếp tục việc của các vị. Truyện hôm nay, không được tiết lộ với bất cứ ai. Ngày mai, tôi có buổi họp với các tướng lĩnh, mời các vị cùng về Luy-lâu họp.
                Buổi họp chấm dứt, Phương-Dung ra đầu thuyền gọi :
                – Giao-long nữ ! Xong rồi, cảm tạ sư muội.
                Ầm một tiếng, Giao-long nữ từ dưới nước vọt lên cao, đáp xuống thuyền. Tay nàng cầm hai xâu cá : Nào cá chép, nào cá trắm, cá rói. Con nào cũng còn dãy dụa. Nàng nói :
                – Em biết họp xong các vị sẽ đói, nên bắt cá tươi mang lên làm thịt ! Khiếp cá sông Hồng khó bắt ghê. Cá ở Thiên-trường, em chỉ chớp một cái là bắt được. Cá ở đây phải dùng Giao long cầm nã mới bắt chúng được.
                Ngay chiều hôm đó, Nghiêm Sơn cùng Thiều-Hoa, Đào Kỳ, Phương-Dung trở về Luy-lâu. Hai hôm sau Lưu Nhất-Phương trình cho Nghiêm Sơn biết: Các Thái-thú, Đô-sát, Đô-úy, Đốc-bưu, Quân-trưởng, Sư-trưởng đều tề tựu. Vương ra lệnh họp tức thì.
                Trong đại sảnh đường phủ Lĩnh-Nam vương, giáp sĩ gươm giáo sáng ngời canh gác vòng trong, vòng ngoài. Ba hồi chiêng trống vang lừng. Lĩnh-Nam vương bước vào trướng, ngồi vào ghế bọc da hổ. Vương để thanh Thượng-phương bảo kiếm lên bàn dõng dạc nói :
                – Kiến vũ thiên tử phong Cô-gia tước Lĩnh-Nam vương, Tả tướng quân chưởng quản binh mã Lĩnh-Nam, Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, Trường-an và Lương-châu, phạt Thục. Trước khi lên đường, Cô gia quyết định bổ nhiệm từ ngày hôm nay như sau : Uy-viễn đại tướng quân Lưu Nhất-Phương, phong tước Long-biên đình hầu, thay Cô gia tổng trấn Lĩnh-Nam, được toàn quyền quyết định thay Cô gia.
                Lưu Nhất-Phương tiến lên lạy tạ.
                Nghiêm Sơn lại tiếp :
                – Hợp-phố nhị hiệp là Lư Dương lĩnh Thái-thú Nhật-Nam. Mời Nguyễn Thành-Công tiên sinh làm Đô-úy. Đệ tử là Lê Anh-Tuấn giữ chức Đô-sát kiêm Đốc-bưu. Hợp-phố lục hiệp Tiết Bảo là Thái-thú Cửu-chân. Huyện-úy Ngọc-đường Trần Dương-Đức thăng lên Đô-úy. Huyện-úy Nghi-sơn Đào Nghi-Sơn thăng lên Đô-sát kiêm Đốc-bưu. Các chức sắc Giao-chỉ không thay đổi. Hợp phố tam hiệp Hà Thiên làm Thái-thú Quế-lâm. Mời Đặng Thi-Kế tiên sinh làm Đô-úy, mời Trương Đằng-Giang tiên sinh làm Đô-sát kiêm Đốc-bưu. Hợp-phố ngũ hiệp Phùng Đạo-Hiển thăng Thái-thú Nam-hải. Mời đệ ngũ thái bảo Sài-sơn Vũ Công-Chất sung chức Đô-úy. Mời đệ thất Thái-bảo Trần Quốc-Hương sung chức Đô-sát kiêm Đốc-bưu.
                Ngừng một chút đoạn chàng tiếp :
                – Các cựu Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát, Đốc-bưu được thăng Đại-tướng quân, điều động bản bộ binh mã theo Cô gia tùng chinh lập công. Cô gia quyết định chia binh mã ra làm ba đạo phạt Thục. Đạo thứ nhất do Xa-kỵ đại tướng quân Ngô Hán chỉ huy, điều động binh mã Hán-trung, Lương-châu, Trường-an đánh vào Hán-trung. Đạo thứ nhì do Đại tư mã Đặng Vũ chỉ huy, điều động binh mã Kinh-châu, theo ngã Xuyên-khẩu tiến vào Thục đạo. Đạo thứ ba là đạo Lĩnh-Nam, đạo chủ lực chính điều động binh mã Lĩnh-Nam. Đạo này cần phải có người võ công vô địch, làu thông binh pháp, hiểu biết hết nhân vật Lĩnh-Nam và là người thân tín của Cô gia. Cô gia quyết định cử sư đệ của Vương phi là Đào Kỳ lãnh chức Chinh-viễn đại tướng quân.
                Nghiêm Sơn truyền trao ấn tín cho mọi người, rồi vương hướng vào cử tọa nói :
                – Cô gia có một quyết định mà tự cổ chưa bao giờ có : Cô gia quyết định mời Nguyễn Phương-Dung nữ hiệp làm đệ nhất Quân sư. Mời Trưng nữ hiệp làm đệ nhị Quân sư. Mời Phùng Vĩnh-Hoa nữ hiệp làm đệ tam Quân sư.
                Các quan Hán, Việt đều đã nghe danh tiếng Đào Kỳ, Phương-Dung, Trưng Nhị từ lâu, không ai ngạc nhiên lắm. Nhưng khi nghe đến tên Phùng Vĩnh-Hoa, họ nhìn nhau ngơ ngác. Song họ vốn phục tài Nghiêm Sơn, nên nghĩ rằng : Vương gia cử người chắc không lầm đâu.
                Nghiêm Sơn lại hỏi các tướng :
                – Còn ai có ý kiến gì ?
                Phương-Dung bước ra khỏi chỗ nói :
                – Vương gia chỉ đem bản bộ binh mã Lĩnh-Nam về đánh Thục, tôi trộm nghĩ không đủ. Vương gia hiện có ba việc lớn cần phải làm lập tức...
                Các tướng Hán biết nàng là phu nhân của sư đệ Lĩnh-Nam vương phi, được vương phi cưng chiều như con đẻ, kiến thức nàng siêu quần vượt chúng, còn võ cộng cao cường không tưởng tượng được. Trước họ khiếp phục Lê Nghĩa-Nam, Mai Huyền-Sương, Hoàng Đức-Tiết là đệ nhất danh gia kiếm thuật Lĩnh-Nam, vậy mà Phương-Dung chỉ mấy chiêu hạ bọn này trong đại hội Tây-hồ. Bây giờ nghe nàng phát biểu ý kiến, họ lắng tai nghe.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #38
                  Hồi 37 - Nhiệm tính hiệp đạo

                  Phương-Dung nói tiếp :
                  – Việc thứ nhất, vương mang quân đi chuyến này với tất cả sự ước vọng của Kiến-vũ hoàng đế. Vương không được thất bại. Vì thất bại thì Công-tôn Thuật sẽ cử một đạo binh chinh phục Lĩnh-Nam. Giải đất này sẽ trở thành phên lũy của Thục. Bấy giờ Thuật chỉ cần tiến quân từ Lĩnh-Nam vòng theo bờ biển Mân Việt đánh vào phía sau Kinh-châu. Đạo quân của Đại tư mã Đặng Vũ sẽ trở thành lưỡng đầu thọ địch. Nếu Đặng Vũ tan, Lạc dương không còn nữa. Vương tiến quân dựa vào lương thảo, binh lính bổ sung của Lĩnh-Nam, vậy trước khi tiến quân, phải có phương pháp giữ vững gốc rễ. Đạo dùng binh, cần nhất an lòng sĩ tốt, lương thảo đầy đủ. Xưa Cao tổ xuất quân, an tâm vì có thừa tướng Tiêu Hà chu cấp đầy đủ lương thảo. Vậy nay vương gia cần an lòng sĩ tốt đã. Muốn an lòng sĩ tốt vương gia đã làm gì và làm đến mục nào rồi ?
                  Các tướng sĩ cùng gật đầu công nhận lời của nàng đúng. Nàng để mọi người xì xầm một lúc, rồi tiếp :
                  – Điều thứ nhì, cách nay mấy tháng đại hội Tây-hồ đề cử các gia, phái cùng đi với vương gia sang Trung-nguyên xin triều kiến Hoàng-thượng, xin thụ phong. Các gia, phái đều chuẩn bị lên đường. Trước kia Vương gia tước Công, phải dẫn cao nhân các phái sang Trung-nguyên xin phong. Nay Vương gia là Vương thì toàn quyền, xin vương gia ban cho một lời, chỉ một lời của vương gia cũng đủ để mời tất cả các cao nhân cùng tòng chinh đánh Công-tôn Thuật.
                  Nghiêm Sơn gật đầu :
                  – Quân sư nói rất đúng. Vậy Cô gia quyết định :
                  "Kể từ ngày hôm nay bãi bỏ Ngũ lệnh trên toàn cõi Lĩnh-nam.
                  Luật nhà Hán do thừa tướng Tiêu Hà soạn thảo được áp dụng trên toàn cõi Lĩnh-Nam.
                  Người Hán, người Việt hoặc các sắc dân khác sinh sống trên đất Lĩnh-Nam đều có quyền lợi như nhau.
                  Các chức quan lớn nhỏ sẽ trao cho người tài đức được dân chúng mến mộ".
                  Quần hùng Lĩnh-Nam có mặt vỗ tay hoan hô rúng động cả sảnh đường.
                  Chờ tiếng hoan hô dứt, Nghiêm Sơn tiếp :
                  "Trong khi Cô gia chinh phạt Thục, Thái-thú tùy nghi bổ nhiệm các chức vụ cho người tài đức. Từ trước đến giờ Huyện-lệnh là người Hán, nay theo quyết định trên; các Thái-thú có thể bổ nhiệm người Việt. Tuy nhiên các Huyện-úy cũng như các chức vụ khác do đích thân Cô gia quyết định, khi vắng mặt Cô gia các Thái-thú không được tự ý thay đổi. Nếu họng phạm tội phải trình Uy viễn đại tướng quân lấy quyết định, không được tự chuyên".
                  Nghiêm Sơn đưa ra quyết định này, vì vương không muốn Tô Định lũng đoạn khi vắng mặt vương. Vương lại tiếp :
                  – Công-tôn Thuật khéo chiêu hiền nạp sĩ, nên võ sĩ theo về rất đông. Võ công cao như Sầm Bành, Phùng Dị mà còn bị đánh bại. Vậy Cô gia phải nhờ anh hùng Lĩnh-Nam ra tay giúp sức, việc này Cô gia nhờ Đào tiểu sư đệ mời các cao nhân tùng chinh, cũng đã tạm xong. Về binh mã ta có sẵn hai đạo Hán-trung, Kinh-châu, nay có thêm đạo Lĩnh-Nam nữa. Riêng đạo Lĩnh-Nam ta có 19 Quân bộ, 19 Sư kỵ, tổng số gần 30 vạn người. Binh pháp có nói Binh quý hồ tinh, bất quý hồ đa. Giáp sĩ của Ngô Hán trên 20 vạn mà bị quân Thục đánh bại, giáp sĩ của Đặng Vũ trên 25 vạn, mà cũng bị 20 vạn quân của Công-tôn Thuật đánh bại. Bây giờ ta có trên 30 vạn tinh binh, hợp với số quân còn lại của hai đạo kia lo gì không thắng Công-tôn Thuật. Mai này nhân buổi họp với các cao nhân võ học Lĩnh-nam Cô gia sẽ chánh thức mời họ tham dự cuộc tiễu phạt Công-tôn Thuật. Vậy lẽ tất thắng của ta không còn điều gì đáng nghi ngờ nữa.
                  Cuộc họp vừa tan, Phương-Dung đến trước mặt Tô Định nháy mắt ra hiệu. Từ ngày sang đất Lĩnh-Nam, Tô Định dựa thế Mã thái hậu, chống Nghiêm Sơn nhiều lần. Vừa qua y khích Lê Đạo-Sinh đánh úp Nghiêm Sơn, bị thất bại. Song quái thuyết phục các nơi phản Nghiêm Sơn đã bị bắt. Huyện-úy Lục-hải Hoàng Đức-Phi là tay chân của Tô, mưu sát Nghiêm, đã bị Nghiêm chặt đầu. Ngày đêm y lo ngay ngáy không biết Nghiêm chặt đầu cách chức lúc nào. Trong buổi họp hôm nay, không thấy Nghiêm đả động gì đến, y mới gỡ được mối lo bấy lâu. Người mà y sợ nhất là Đào Kỳ, Phương-Dung thì trong buổi họp cả hai luôn nhìn y mỉm cười. Bây giờ Phương-Dung nháy mắt ra hiệu, y biết nàng muốn nói riêng với y điều gì, nên y đi chậm lại phía sau. Phương-Dung tiến lên ngang Tô nhét vào tay y một miếng giấy. Tô đoán có điều cơ mật. Về dinh, y mở giấy ra coi chỉ thấy vỏn vẹn có mấy chữ :
                  "Tô lão bá cháu, là bạn với Tô công tử. Suốt ba năm cháu đi dò xét tin người. Nay đã biết được. Mong gặp riêng lão bá để trình bày. Đào Kỳ và Phương-Dung kính bái"
                  Tô Định hồi hộp ngơ ngác nghĩ thầm :
                  – Con ta bị Ngũ kiếm hay bắt giam chính ta cũng không rõ. Không biết sao hai người này lại có tin tức ! Thư lờ mờ, không biết con ta còn sống hay đã chết ! Vậy ta phải tìm gặp hai người này mới được. Cả hai là sư đệ, sư muội của Lĩnh-Nam vương phi, ta cứ đến vương phủ gặp họ không khó gì.
                  Ngồi trong dinh, Tô đem mảnh giấy ra cùng vợ bàn luận. Vợ Tô Định nói :
                  – Trước đây nhân chứng đều nói con ta đi cùng một nam, một nữ người Việt, không lẽ là Đào Kỳ và Phương-Dung? Nếu vậy vụ nghi án này có thể sáng tỏ được rồi.
                  Cả hai đang băn khoăn bàn luận, thì có quân hầu báo :
                  – Có đôi nam, nữ xưng là sư đệ, sư muội Lĩnh-Nam vương phi đến cầu kiến.
                  Tô Định vội cùng vợ ra cổng đón. Một là Tô nể phục võ công hai người. Hai là Tô nóng lòng muốn biết tin đứa con trai yêu quý đã mất tích từ ba năm. Cả hai vợ chồng cúi rạp người đón Đào Kỳ và Phương-Dung. Trà nước yên vị, Phương-Dung cứ hỏi hết chuyện này sang chuyện, khác không đề cập tới việc Tô Phương. Một lúc vợ Tô Định nóng ruột quá vào đề :
                  – Đào phu nhân! Nghe nói phu nhân quen thân với Tô Phương nhà tôi, xin phu nhân cho biết tin tức được không ?
                  Phương-Dung thở dài, làm vợ chồng Tô Định muốn run lên. Nàng nói :
                  – Cách đây ba năm, anh em chúng tôi từ Long-biên lên Bắc-đái thì gặp Tô công tử. Người thực nhã lượng, hào sảng, không tự cao con đại quan mà kết thân với chúng tôi. Chúng tôi đi cùng đường với với công tử, trên đường đi có cả Ngũ-kiếm. Rồi chúng tôi gặp Trương Minh-Đức. Minh-Đức hỗn láo bị Lam kiếm sửa trị. Đêm đến y đem thủ hạ vào khách điếm xông thuốc mê, bắt công tử cùng Ngũ kiếm. Anh em chúng tôi vắng mặt nên không bị bắt. Khi trở về, sang phòng công tử thấy hành lý còn đó, chúng tôi vội mang đi. Sáng hôm sau, chủ khách điếm không thấy chúng tôi, y báo cùng Huyện-lệnh Truơng Thanh. Trương Thanh cho người đến điều tra chỉ thấy hành lý của Ngũ kiếm, mà không thấy hành lý của Tô công tử và của chúng tôi là thế.
                  Tô Định mở to mắt gật đầu :
                  – Nghi vấn trước đây tôi cho điều tra vì không biết hai vị thiếu hiệp là ai? Đi đâu ? Cũng như hành lý của con tôi biến mất. Chính Trương Thanh cũng điên đầu vì vụ này. Bây giờ phu nhân nói tôi mới rõ mọi sự.
                  Đào Kỳ chậm rãi tiếp lời :
                  – Chúng tôi tìm đến Đăng-châu lao xá cứu công tử. Trương Minh-Đức vì trót tra tấn làm nhục công tử nên không dám thả ra. Y giữ công tử ở đâu tôi tìm chưa ra, nên đành cứu Ngũ kiếm. Ngũ kiếm cùng chúng tôi tìm công tử không thấy. Lại bị Lưu Chương giám sở Tế-tác đem quân vây đánh và bàn nhau phúc bẩm rằng Ngũ kiếm giết công tử để đoạt vàng bạc. Ngũ kiếm không biết mưu đó trở về Luy-lâu. Còn Lưu Chương một mặt sai con rể và đệ tử Lê Đạo-Sinh là Chu Bá và Đức Hiệp cùng Phong-châu song quái giam giữ công tử. Một mặt sai quân đưa đồ đạc hằng ngày của công tử dấu tại nhà của Ngũ kiếm. Vì vậy Tô đại nhân mắc mưu tra khảo Ngũ kiếm. Chính tôi và Dung muội phải xả thân cứu Ngũ kiếm vì biết Ngũ kiếm hàm oan. Vì tính mạng của công tử chúng tôi đã vô phép với Nghiêm tỷ phu, may mà tỷ phu không bắt lỗi. Hiện Ngũ kiếm phiêu bạt nơi đâu chúng tôi cũng không rõ.
                  Phương-Dung tiếp lời :
                  – Chúng tôi tiếp tục một mình dò la manh mối công tử, rất may gần đây đã kiếm ra.
                  Vợ Tô Định thấy Phương-Dung úp mở, không chịu nói con mình còn sống hay chết, trong lòng phát run :
                  – Thế thì Tô Phương...
                  Phương-Dung thấy làm vợ chồng Tô Định lo sợ như vậy đã đũ, nàng lấy vạt áo có chữ máu của Tô Phương đưa ra. Tô Định với vợ run run cùng đọc, nước mắt chan hòa. Tô Định đập mạnh tay xuống bàn đánh bình một cái.
                  – Ta thề băm vằm Lê Đạo Sinh ra từng mảnh mới được. Xin thiếu hiệp cho biết con ta bị giam ở đâu ?
                  Phương Dung chậm rãi nói :
                  – Thế lực Lê Đạo-Sinh không nhỏ. Chúng có tới 6 Huyện-úy là đệ tử, có tới 6 Huyện-úy là thân thích. Trang ấp thuộc quyền lớn vô cùng. Nếu đại nhân hấp tấp, chúng khởi binh làm phản tất nguy đến sự cứu viện Trung-nguyên, mà tính mạng Tô công tử khó vẹn toàn.
                  Tô Định thấy Phương-Dung nói thế, nhận thấy rất đúng. Y đứng dậy chắp tay vái hai người.
                  – Hai vị là bạn con tôi. Nếu hai vị nghĩ cách vẹn toàn cứu được nó, vợ chồng chúng tôi vô cùng cảm tạ. Tiền bạc thì quý vị không cần, nhưng nếu quý vị sai khiến điều gì mà Tô này có thể làm được, đều xin tuân theo.
                  Phương-Dung cùng Đào Kỳ cũng đứng dậy đáp lễ :
                  – Tô đại nhân là ntgười lớn lời hứa là vàng. Anh em chúng tôi đã nghĩ ra kế, hẹn ba ngày sẽ cứu công tử về đoàn tụ cùng đại nhân và phu nhân. Bây giờ chúng tôi xin kiếu từ.
                  Hai người rời phủ Thái-thú ra bến xe ngựa, tìm người người phu xe có đeo khăn trắng ở cổ, gửi thư cho Vũ Trinh-Thục cùng Trưng Nhị, nhờ mời họp anh hùng Lĩnh-Nam trên con thuyền của trang Mai-động, đậu bên bờ hồ Tây. Sau đó trở về vương phủ. Hoàng Thiều-Hoa thấy Đào Kỳ, Phương-Dung đón vào nói :
                  – Nghiêm đại ca cùng Hồ Đề và Giao-long nữ đang chờ các em về ăn cơm.
                  Trong bàn ăn Nghiêm Sơn nói với Phương-Dung :
                  – Sư muội, trong cuộc chinh phạt này tỷ phu được sư muội làm quân sư chắc chắn Công-tôn Thuật sẽ bị ta bắt. Sau khi chúng ta thắng giặc, Kiến-vũ thiên tử thế nào cũng chấp nhận lời xin của ta trả đất Lĩnh-Nam cho người Việt.
                  Phương-Dung, Đào Kỳ cũng kể sơ lược vụ Tô Phương với đầy đủ chi tiết. Nghiêm nghe nhưng không hề ngờ rằng vụ này do Đào Kỳ, Phương-Dung, Lê Chân và Phùng Vĩnh-Hoa đạo diễn. Vương cũng tin hai người như Tô Định.
                  Đào Kỳ kết luận :
                  – Vậy với mối lo Lê Đạo-Sinh, coi như đã giải quyết vì giữa y và Tô Định có mối thù bất cộng đái thiên. Ngày mai, sau khi đại hội, đại ca định để Tô Định thanh toán Lê Đạo-Sinh và tay chân hay đại ca sẽ tự ra tay ?
                  Nghiêm Sơn suy nghĩ :
                  – Ta để cho Tô Định ra tay thì hơn. Lê là người xu phụ Tô, nay ta để Tô giết Lê cho đáng đời bọn xảo quyệt !
                  Đến ngày hẹn, anh hùng Lĩnh-Nam tề tựu đông đủ trên con thuyền lớn của trang Mai-động. Buổi hội này Đào Kỳ nhân danh Chinh-viễn đại tướng quân chỉ huy đạo Lĩnh-Nam tổ chức, nên phủ Tế-tác Giao-chỉ, ngay cả Tô Định cũng không dám tò mò. Thật là buổi họp kỳ lạ nhất : Anh-hùng Lĩnh-Nam bàn chuyện phản Hán phục Việt trên con thuyền lớn, mà hai bên bờ sông, kỵ binh người Hán của Chinh-viễn đại tướng quân rong ruỗi... canh phòng !
                  Khi thấy trên thuyền đủ mặt, thuyền ra giữa sông Phùng Vĩnh-Hoa đứng dậy nói :
                  – Buổi họp hôm nay chúng ta phải đề cử lấy người chủ tọa, không biết quý vị sẽ đề cử ai ?
                  Nam-hải nữ hiệp Trần-thị Phương-Châu nói :
                  – Nếu bàn về võ công tất không ai hơn Khất đại phu. Khất đại phu là một tiên ông. Chí của người là trị bịnh cho dân chúng, tiêu dao sơn thủy. Vậy chúng ta không nên ép người vào chuyện phục quốc. Phục quốc không nhất thiết dùng người có võ công cao. Mà cần người có tấm lòng sắt son, thiên hạ đều biết.
                  Nguyễn Trát cũng phụ họa :
                  – Đúng vậy ! Khi bàn về phục quốc, dân chúng thường truyền tụng Bắc Nhị Trưng, Nam Đinh Đào. Vậy cần mời Đào hầu, Đinh hầu hoặc Nhị Trưng đứng ra chủ trì thì việc mới thành. Đinh hầu hiện vắng mặt, hiện diện tại đây chỉ có Đào hầu và Nhị trưng, vậy ta đề cử ai ?
                  Khất đại phu đứng lên nói :
                  – Tốt hơn hết, chúng ta mời Đào hầu cùng Trưng Trắc cùng chủ tọa, như thế vừa có uy của Bắc, vừa có đức của Nam.
                  Đào Thế-Kiệt suốt cuộc đời chỉ mong có ngày hôm nay, nghe Khất đại phu đề cử mình, ông đứng dậy nói :
                  – Tôi tài hèn, sức mọn nhưng nếu quý vị dạy bảo điều gì, tôi xin kính cẩn nghe theo.
                  Trưng Trắc cũng nói :
                  – Các vị cao nhân, sư đệ, sư muội đồng đề cử, tôi kính cẩn nghe lời mà ngồi đồng chủ tọa buổi hội hôm nay.
                  Cử tọa vỗ tay vang dội, Đào Thế-Kiệt và Trrưng Trắc lên ngồi ghế chủ tọa, còn quần hùng, mạnh ai tìm chỗ an tọa không phân biệt tuổi tác chức phận.
                  Trưng Trắc nhìn qua một lượt rồi khoan thai nói :
                  – Chúng ta tuy đồng tâm mà hầu hết không biết mặt, Phương-Dung đi nhiều, biết nhiều xin đứng ra giới thiệu. Buổi hội này khác với buổi hội đại hội võ lâm, mà là những người quyết tâm phản Hán phục Việt. Cục diện biến đổi, kế hoạch đã bàn đi từ đảo Đào hầu về Bắc không hợp nữa. Cần có kế hoạch khác hợp với hoàn cảnh mới.
                  Phương-Dung tuân lệnh đứng lên :
                  – Trước tiên tôi giới thiệu phái Tản-viên, các vị có địa vị cao nhất là Khất đại phu, kế đến các sư bá Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế. Các sư huynh, sư tỷ Lê Anh-Tuấn, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Nguyễn Quý-Lan, Lê Ngọc-Lan.
                  Đợi quần hào ngớt vỗ tay, nàng nói tiếp :
                  – Kế đến đông đảo nhất, ở đây là phái Sài-sơn : Tất cả 8 vị Thái-bảo đều có mặt. Đệ nhất Thái-bảo Nam-hải nữ hiệpTrần-thị Phương-Châu với đệ tử của người là Đông-triều nữ hiệp Lê Chân, Hạ-long nữ hiệp Hùng Xuân-Nương. Đệ nhị Thái-bảo Trần Công-Minh, tức Nam-thành vương thống lĩnh nghĩa quân châu Ký-hợp chống Hán từ 5 năm nay. Đệ tử và cũng là cháu ruột của người là Nguyễn Thánh-Thiên là một đại tướng quân, phó thống lĩnh cho người. Sư tỷ Thánh-Thiên võ công tuy không cao, nhưng tài dụng binh với mưu thần chước thánh không biết đâu mà lường. Đệ tử của Nam-thành vương hiện diện hôm nay còn có Nguyệt-điện nữ hiệp Đàm Ngọc-Nga. Đệ tam Thái-bảo Tiên yên nữ hiệp Trần-thị Phương-Chi, đệ tử của người là Đăng châu nữ hiệp Phùng Vĩnh-Hoa.
                  Tiên yên nữ hiệp không mấy khi ra ngoài, tiếng tăm ít người biết đến. Song Phùng Vĩnh-Hoa tiếng tăm đã vang dội, nên Phương-Dung phải ngừng cho mọi người hoan hô rồi tiếp :
                  – Đệ tứ Thái-bảo Cầm tiêu tiên sinh Nguyễn Tam-Trinh. Năm người con của tiên sinh nổi danh Mai-động ngũ hùng : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và con gái Giao-Chi được tôn là Thanh-long tiên tử. Đệ tử mới là bé Tía tức Tử-Vân. Đệ ngũ Thái-bảo là Phương-lâu đại hiệp Vũ Công-Chất, cùng ái nữ của người là Bát-nàn nữ hiệp Vũ Trinh-Thục. Đệ lục Thái-bảo là Nam-thiên đại hiệp Đặng Đường Hoàn. Các đệ tử của người là Đào Chiêu-Hiển, Đào Tam-Lang, Đào Đô-Thống. Ba vị sư huynh hiện trông coi trang Ngọc-động. Đệ thất Thái-bảo Thiên-trường đại hiệp Trần Quốc-Hương, đệ tử là Trần Bá-Sơn và Giao-long nữ hiệp Trần Quốc. Đệ bát Thái-bảo Vân-hà nữ hiệp Trần Vĩnh-Huy.
                  Ngừng một lúc Phương-Dung giới thiệu tiếp :
                  – Phái Cửu-chân, Cửu-chân song kiệt hôm nay chỉ có Đào hầu hiện diện, bào đệ người là sư thúc Trần Thế-Hùng. Đệ tử của các người là Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, Đào Kỳ, Trần Dương-Đức, Đào Hiển-Hiệu, Đào Quý-Minh, Đào Phương-Dung, Đinh Hồng-Thanh, Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Hoàng sư tỷ là Lĩnh-Nam vương phi hôm nay vắng mặt.
                  Phương-Dung phải ngừng lại vì quần hùng vỗ tay vang dội hết tràng này sang tràng khác. Nguyên phái Cửu-chân không phải là võ công đệ nhất, nhưng suốt bao năm qua từ sư phụ đến đệ tử luôn chủ trương phản Hán phục Việt, đều nổi danh vì khí tiết. Quần hùng hoan hô, là hoan hô khí tiết của họ.
                  Phương-Dung tiếp tục :
                  – Phái Hoa-lư Thái-thượng chưởng môn là Trường-yên đại hiệp Cao Cảnh-Minh, sư đệ của người là đại hiệp Cao Cảnh-Sơn. Đệ tử của người là Cao Cảnh-Khê, Cao Cảnh-Nham, Cao Cảnh-Thụy, Cao Cảnh-Thạch.
                  Phái Quế-lâm, Lư-giang đại hiệp Lương Hồn-Châu. Kim-sa đại hiệp Triệu Anh-Vũ, Lôi-sơn đại hiệp Đinh Công-Thắng. Đệ tử của Kim-sa đại hiệp là Đinh Công-Minh.
                  _ Thống lĩnh 72 động Tây-vu sư tỷ Hồ Đề.
                  Hồ Đề vừa đứng lên, quần hùng vỗ tay cười ồ, vì nghĩ đến cái nghịch ngợm tai quái của nàng trong kỳ đại hội hồ Tây vừa rồi.
                  Phương-Dung lại tiếp :
                  – Thống-lĩnh Lôi-sơn Đinh Hồng Thanh và các vị sư bá Đinh Công-Hùng, Trần Năng, Hùng Bảo.
                  – Ngoài ra còn phái Nhật-Nam, Thiên-thủ viên hầu Lại Thế-Cường, ở xa thành ra không tham dự kịp. Cũng như Khúc-giang ngũ hiệp tuy không về được nhưng tất cả khẳng định sẵn sàng tuân theo lệnh đại hội
                  Sau khi Phương-Dung giới thiệu, Đào Thế-Kiệt nói :
                  – Đại hội này bàn về việc phục quốc. Ai là con dân Lĩnh-Nam đều có quyền phát biểu. Tất cả ý kiến được tôn trọng, chúng ta sẽ lấy quyết định theo biểu quyết. Nếu ý kiến được đa số tán thành, tất cả mọi người phải tuân theo. Bây giờ mời quý vị cho ý kiến.
                  Lê Chân nói :
                  – Trước đây chúng ta tìm trăm phương ngàn kế tách rời Tô Định với Nghiêm Sơn, làm Tô Định và Lê Đạo-Sinh mất uy tín. Vì việc này chúng ta đã trừ được Phùng Chính-Hòa, Vũ Hỷ, Hoàng Đức-Phi. Chúng ta phác họa kế hoạch cử hiền tài cho Nghiêm Sơn, để khi khởi sự chúng ta có người trong hàng ngũ giặc. Bây giờ kết quả đi quá ước vọng, trừ Giao-chỉ, còn tất cả các Đô-úy, Đô-sát, Đốc-bưu đều là người Việt. Các Huyện-úy chiếm tới 9 phần 10. Huyện-lệnh tới 7 phần 10. Toàn quân Lĩnh-Nam do Đào Kỳ thống lĩnh. Chúng ta có nên khởi binh hay không ? Nếu khởi binh bây giờ chỉ cần đánh một tiếng trống là xong.
                  Nguyễn Thánh-Thiên nói :
                  – Chúng ta mong mỏi Hán quân rời khỏi Lĩnh-Nam, bây giờ ta được như ý muốn. Còn lại chỉ có quân địa phương người Việt do các Huyện-úy điều khiển, mà Huyện-úy chúng ta chiếm 9 phần 10 rồi. Tô Định muốn làm gì cũng bó tay, Lĩnh-Nam vương ra lệnh Tô không được tự quyền thay đổi Huyện-úy như vậy ta yên tâm. Đào Kỳ tuy được phong Chinh-viễn đại tướng quân, chỉ huy toàn quân Lĩnh-Nam ttrên 30 vạn người ; Trưng Nhị, Phương-Dung, Phùng Vĩnh-Hoa là quân sư của Lĩnh-Nam vương, nhưng ta không thể khởi binh lúc này, tại sao ?
                  Thánh-Thiên ngừng lại cho cử tọa suy nghĩ rồi tiếp:
                  – Một là người Việt được cử làm Đô-sát, Đô-úy, Đốc-bưu, nhưng mới được bổ nhiệm chưa nắm được guồng máy cai trị. Trong khi đó các quan lại thuộc các phủ Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát, Đốc-bưu quá nửa vẫn là ngưới Hán.
                  – Hai là quân Hán đóng ở Lĩnh-Nam đã lâu đời, vợ con, nhà cửa tài sản còn ở đây. Bây giờ phải đi đánh Thục lòng vẫn còn lưu luyến. Ta cần thời gian ít lâu để quân Hán rời khỏi Lĩnh-Nam, đem vợ con tài sản theo. Bấy giờ chúng ta khởi sự chưa muộn.
                  – Đào Kỳ tiếng là chúa tướng, nhưng các tướng chỉ huy Quân, Sư, Lữ toàn là người Hán. Chúng ta khởi sự bây giơ,ø chưa chắc lệnh Đào Kỳ đã được các tướng nghe theo. Đó là điều thứ ba.
                  – Quân Hán ra đi, mà ta chưa tổ chức được quân đội, nếu Quang-vũ lại cử đại binh sang, chúng ta làm sao chống giặc ? Vậy phải cần một thời gian đợi khi ta tổ chức được binh đội. Đó là điều thứ tư khiến ta không nên khởi sự lúc này.
                  Từ trước đến giờ, quần hào từng nghe Nguyễn Thánh-Thiên là phó tướng cho Nam-thành vương, bây giờ mới thấy kiến thức của nàng rất rộng, tầm nhìn rất xa.
                  Trưng Trắc gật đầu :
                  – Vậy ta phải làm gì ?
                  Nguyễn Thánh-Thiên nói :
                  – Chúng ta chia người làm hai. Một số theo giúp Lĩnh-Nam vương đánh Thục. Tất Nghiêm Sơn phải giao quyền tướng quân cho chúng ta, khi đó ta học hỏi cách tổ chức, huấn luyện, điều quân, xung phong, hãm trận của quân Hán. Rồi với kinh nghiệm học hỏi, ta tổ chức quân đội, chiến pháp riêng cho Lĩnh-Nam. Khi đánh Thục, quân Hán ở Lĩnh-Nam phải hao tốn đến 7-8 phần. Chúng ta bổ sung bằng tráng đinh Việt. Quân và tướng chỉ huy các Quân, Sư, Lữ đều dần trở thành Việt. Bấy giờ Nghiêm Sơn tâu với Quang-vũ xin trả đất Lĩnh-Nam cho người Việt, Quang-vũ thuận thì tốt, nếu không thuận, ta dùng đạo quân Lĩnh-Nam toàn người Việt quay về Lĩnh-Nam khởi binh. Đồng thời phân nữa chúng ta ở nhà huấn luyện tráng đinh, tích trữ lương thảo. Cả hai lại chúng ta có đầy đủ một đạo quân kinh nghiệm với đầy đủ lương thảo. Khi ấy ta sợ gì quân Hán !
                  Sau khi Thánh-Thiên trình bày, quần hùng bàn tán hơn thiệt, và đồng ý kiến với nàng.
                  Sau cùng Trưng Trắc kết luận :
                  – Đào Kỳ phúc bẩm với Lĩnh-Nam vương là quần hùng Lĩnh-Nam sẵn sàng giúp người đánh Thục. Người muốn mời bất cứ ai, chúng ta đều hết lòng. Bây giờ chúng ta đến vương phủ để ra mắt Lĩnh-Nam vương.
                  Đại hội chấm dứt, trên đường từ hồ Tây về vương phủ, Đào Kỳ bàn với Vĩnh-Hoa, Lê Chân, Trưng Nhị kế hoạch đưa Tô Phương vào giam trong lao xá Thái-hà. Tất cả đồng ý phải nhờ đến Khất đại phu mới xong. Đào Kỳ vẽ lại chi tiết bản đồ nhà tù để Khất đại phu đem Tô Phương đánh thuốc mê vào giam trong đó.
                  Khi tới Lĩnh-Nam vương phủ đã thấy đèn đuốc sáng trưng, quân giáp sĩ nghiêm trang đứng dàn chào, không cần nói cũng biết việc một vị Nguyên soái đón tiếp anh hùng rất chu đáo và trang trọng. Mọi người được mời vào cẩm đôn đã đề tên sẵn. Khi mọi người an tọa, viên tham quan sai người đốt pháo lệnh, cổng vương phủ khép chặt. Quân giáp sĩ tuần tiễu vòng trong, vòng ngoài cực kỳ nghiêm mật.
                  Khi đó Lĩnh nam vương Nghiêm Sơn nghiêm trang tiến ra hành lễ với mọi người nói :
                  – Thưa các vị tiền bối, thưa các vị huynh đệ. Buổi họp hôm nay là buổi hội của võ lâm đồng đạo Lĩnh-Nam, chứ không phải của Lĩnh-Nam vương, Tả tướng quân Đại Hán !
                  Cử tọa hoan hô vang dậy, Nghiêm Sơn sang sảng tiếp :
                  – Trước đây Kiến-vũ hoàng đế bị gian thần xàm tấu, ban Ngũ lệnh xuống đất Lĩnh-Nam, khiến trời sầu đất thảm. Chúng ta phải tổ chức đại hội Tây-hồ, tuyển cao nhân các phái sang Trung-nguyên cầu phong. Sắp lên đường thì tại hạ nhận được chiếu chỉ phong Tả tướng quân, Lĩnh-Nam vương, cùng ban cho Thượng phương bảo kiếm mang binh mã nửa thiên hạ chinh phạt Công-tôn Thuật. Tại hạ được toàn quyền quyết định mọi sự ở Lĩnh-Nam, Kinh-châu, Đông-xuyên, Tây-xuyên và Lương châu.
                  Nghiêm Sơn phải dừng lại, vì toàn hội trường tiếng hoan hô vang lên như sấm dậy. Chờ một lát vương tiếp :
                  – Đất Lĩnh-Nam quá xa Lạc-dương, Từ trước đến nay bị coi như Man, Di. Các quan cai trị Hán tới đây chỉ lo vơ vét, coi người Việt như chó, lợn. Vì vậy tại hạ sẽ xin Thiên-tử trả đất Lĩnh-Nam cho người Việt và Lĩnh-Nam sẽ là chư hầu phên dậu cho Trung-nguyên. Như vậy nhà Đại Hán có một chư hầu hằng năm tiến cống hơn là có một cõi đất Man di luôn luôn chống đối, khiến máu đổ thịt rơi công khố hao tổn. Để lời bảo tấu của tại hạ sau cuộc phạt Thục có kết quả như ý, tại hạ đề nghị các gia, phái đề cử hào kiệt theo quân diệt giặc lập công khuôn phò nhà Đại Hán.
                  Như đã đồng ý trước, quần hào hăng say tán thành, khiến Nghiêm Sơn cảm động, vương hô lớn :
                  – Phái tản viên xin Khất đại phu cử người.
                  Khất đại phu nói :
                  – Lão phu cử người bản phái Trưng Nhị, Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa, Lê Ngọc-Trinh.
                  Nghiêm Sơn sai người ghi danh rồi tiếp :
                  – Phái Sài-sơn xin Nam-hải nữ hiệp cử người.
                  Nam-hải nữ hiệp lên tiếng :
                  – Tôi đề cử đệ tử Lê Chân, sư điệt Phùng Vĩnh-Hoa, Trần Quốc, Mai-động ngũ hùng, Nguyễn Giao-Chi. Ngoài ra còn có hai đội Giao-long binh Thiên-trường 100 đệ tử. Đội Thần-long của Mai-động 100 người lặn dưới nước như raí cá.
                  Mắt Nghiêm Sơn rạng ngời, vương được Đào Kỳ cho biết quần hào Lĩnh-Nam sẵn sàng giúp vương, nhưng vương không thể ngờ được họ giúp tận tình như vậy. Có thể nói các phái đã dốc túi cử các đệ nhất hảo thủ theo vương. Chỉ riêng đội 200 đệ tử võ lâm, lặn dưới nước như rái cá, vương đã có ưu thế về thủy chiến.
                  – Phái Hoa-lư xin Trường-yên đại hiệp Cao Cảnh-Minh đề cử người.
                  Cao Cảnh-Minh chỉ 4 đệ tử nói :
                  – Tôi xin cử Thần-nỏ Âu-lạc, chỉ huy 4 đội Thần-nỏ. Mỗi đội gồm trăm xe chở nỏ liên châu.
                  Nghiêm Sơn nghe Cao Cảnh-Minh nói, vương liếc mắt nhìn Đào Kỳ. Vương biết phái Hoa-lư là đệ tử Cao Cảnh hầu thời Âu-lạc. Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đã chế nỏ thần, bắn một phát cả ngàn mũi tên. Tên bắn lại xa gần bằng 5 lần sức người. Sau khi Cao Nỗ và em là Cao Tứ tuẫn quốc, kỹ thuật bị thất truyền. Gần đây Đào Kỳ tìm được sơ đồ chế nỏ thần ở cây gậy đồng, trao lại cho phái Hoa-lư. Phái Hoa-lư đã theo đó chế tạo, luyện tập được 10 đội Thần-nỏ, nay đem giúp vương 4 đội. Thần-nỏ mà bắn ra làm sao quân Thục chịu được?
                  Phái Long-biên xin Nguyễn Phương-Dung cử người.
                  Phương-Dung đứng dậy:
                  – Thân phụ và Đào hầu vì có việc khẩn cấp không thể tới họp, nên đã để tiện muội chuyển lời đề cử : Phái Long-biên đề cử chính tiện muội. Phái Cửu-chân Đào hầu đề cử tướng công của tiện muội là Đào Kỳ và Thiều-Hoa sư tỷ Lĩnh-Nam vương phi !
                  Quần hào và cả Nghiêm Sơn cười như ong vỡ tổ, không khí thật cởi mở. Đợi bớt tiếng cười nói Nghiêm Sơn tiếp :
                  – Châu Lôi-sơn xin mời cựu Châu trưởng Trần Năng đề cử.
                  Trần Năng chỉ Đinh Công-Thắng :
                  – Tôi đề cử Đinh tam gia trong Lôi-sơn tam hiệp.
                  – 72 động Tây-vu xin mời Hồ thống lĩnh đề cử.
                  Hồ Đề đứng lên cười :
                  – Vương gia cho tôi cử nhiều được không ?
                  Nghiêm Sơn chỉ ngán tính tinh nghịch của Hồ Đề, nay thấy nàng nói vậy mừng lắm :
                  – Hồ thống lĩnh cử bao nhiêu người cũng được, càng nhiều, càng tốt.
                  Hồ Đề cười nói :
                  – Người của tôi thì ít, nhưng đội binh rừng thì nhiều.
                  Đến đây nàng hú lên một tiếng dài liên tu bất tận, lập tức ngoài phòng hội cũng có một tiếng hú đáp lại, rồi 6 thiếu niên tuổi khoảng 13-15 chạy vào. Chúng hành lễ với Hồ Đề. Quần hào, võ tướng bật cười vì 6 đứa trẻ phục sức như 6 con khỉ, đồng thời cũng giật mình kinh hãi, vì Hồ Đề chỉ đi họp có một mình. Vậy mà không hiểu sao 6 đứa trẻ này vượt được quân giáp sĩ tuần phòng vào được tận phòng họp mà không ai báo động? Cả 6 đứng nhìn mọi người nhăn nhó, gãi tai giống hệt mấy con khỉ. Hồ, Đề giới thiệu :
                  – Đây là Tây-vu lục hầu tướng, chỉ huy đoàn thần hầu. Trước hết là Trấn bắc hầu tướng thường mặc quần áo đen, gọi là Khỉ đen, chỉ huy 100 thần hầu lông đen. Thứ nhì là Trấn Tây hầu tướng, quần áo trắng, thường gọi là khỉ trắng chỉ huy 100 Thần hầu lông trắng. Thứ ba là Bình nam hầu tướng, mặc quần áo đỏ, thường gọi khỉ lửa hoặc khỉ đỏ mỏ. Chỉ huy 100 Thần hầu đỏ đít. Thứ tư là Chinh đông hầu tướng, mặc quần áo xanh, chỉ huy Thần hầu lông nâu. Thứ năm Trung quân hầu tướng, quần áo vàng, chỉ huy 100 thần hầu mặt vàng. Cuối cùng là Hậu quân hầu tướng, quần áo rằn chỉ huy 100 dã nhân, thường gọi là đười ươi. Đội Thần hầu dùng để vượt rừng tiếp tế, leo mặt thành thám sát, ám sát chủ tướng.
                  Hồ Đề ngừng một chút, ra lệnh 6 đứa trẻ lui về sau, rồi tiếp :
                  – Tiểu muội đề cử thêm :
                  Thứ nhì là Tây-vu tam hổ tướng. Hắc hổ, Hoàng hổ, Bạch hổ. Ba Hổå tướng không có mặt ở đây, mỗi Hổ tướng chỉ huy 100 Thần hổ, để phục kích xung phong, hãm trận.
                  – Thứ ba là Tây vu tam báo tướng. Hắc, Hoàng, Bạch báo chỉ huy 300 Thần báo, dùng để leo cây phục kích xung phong hãm trận.
                  – Thứ tư là đội Thần-long, do Tây-vu ngũ long công chúa chỉ huy, đó là Hoàng, Bạch, Hắc, Thanh, Xích long công chúa chỉ huy. Mỗi công chúa thống lãnh 500 Thần-long gồm Hổ lửa, Mái gầm, Trăn, Lục tổng số 2500 con để phục kích gây hỗn loạn khi cướp trại.
                  – Thứ năm là đội Thần tương, do em trai tôi là Hồ Hác thống lĩnh gồm 200 thớt voi. Dùng cho các tướng cỡi, đuổi giặc, chống kỵ binh địch.
                  – Thứ sáu là đội Thần-phong, do Lục phong quận chúa thống lĩnh gồm 10 triệu ong bầu đốt, tấn công địch.
                  Đến đây quần hùng xôn xao bàn tán, vì họ thấy sự lợi hại của các đội quân Hồ Đề. Chưa cho là đủ Hồ Đề tiếp :
                  – Thứ bảy là Tây-vu Thiên ưng lục tướng, thường gọi Lục Sún. Sún Lé, Sún Cao, Súng Đen, Sún Lùn, Sún Rỗ và Sún Hô chỉ huy 600 thần ưng, để do thám, canh phòng và tấn công từ trên cao.
                  – Cuối cùng là Ngao-sơn tứ lão, do 4 vị lão tướng chỉ huy 400 Thần-ngao, tức chó sói để canh gác phòng vệ.
                  Quần hào và chư tướng nghe Hồ Đề kể, lại nhớ đến hôm đại hội Tây-hồ, nàng dùng thú rừng dấy động khiến mọi người tán đởm kinh hồn. Bây giờ họ mới biết nàng nuôi thú rừng, dạy dỗ dùng làm quân lính !
                  Lại nghe Hồ Đề nói :
                  – Ngoài ra tôi còn một đội Tê-giác khoảng 10 thớt không đáng kể. Thưa Lĩnh-Nam vương gia như vậy đã đủ chưa ? Nếu vương gia cho là chưa đủ, tôi sẽ dốc toàn lực Tây-vu tòng chinh. Ở Tây-vu tôi còn lực lượng để dành nhiều gấp 4 lần các đội này !
                  Hồ Đề là người Mường, nàng định nói lực lượng trừ bị mà quên mất nên nói lực lượng để dành. Nghiêm Sơn nghe nàng tiến cử thất kinh hồn vía !
                  – Đủ rồi ! Đủ quá rồi Hồ sư muội, vấn đề tiếp tế lương thực cho đao quân của sư muội ra sao đây ?
                  Hồ Đề cười :
                  – Đội thần hầu, chúng ăn trái cây rau đậu. Thần-phong ăn đường, Thần-tương ăn cỏ; còn Hổ, Báo, Rắn, Ưng, Chó Sói chúng ăn thịt. Đại ca chỉ lo cho chúng khi đi qua làng mạc. Đường rừng chúng tự túc. Còn khi xuất trận đã có sẵn thịt quân giặc, khỏi cần nuôi ăn chúng.
                  Quần hùng nghe nói thất kinh hồn vía.
                  Nghiêm Sơn là người đánh quen trăm trận, vương nghĩ thầm : Nếu có đội quân rừng này trợ chiến, việc công thành xung phong thám sát sẽ thuận lợi biết bao.
                  Vương nói :
                  – Bây giờ tới phái Quế-lâm, xin hai vị sư thúc Triệu Anh-Vũ và Lương Hồng-Châu theo giúp sư điệt. Cuối cùng là phái Nhật-Nam, xin Thiên-thủ viên hầu Lại Thế-Cường đại hiệp cử người.
                  Lại Thế-Cường đứng lên nói :
                  – Chúng tôi xin cử Trần gia tam nương.
                  Cử tọa ồ lên những tiếng kinh ngạc, vì Thiên-thủ viên hầu ở quá xa với Giao-chỉ, không ngờ lại có đệ tử ở vùng Quất-lưu là Trần gia tam nương. Nguyên ba chị họ Trần là Đạm nương, Hồng nương, Thanh nương là ba chị em ruột, võ nghệ kinh người, nhan sắc mặn mà, không biết từ đâu đến vùng Quất-lưu lập ấp, dân chúng quy phục rất đông. Trên từ Nghiêm Sơn, Tô Định cho tới võ lâm không ai biết Tam nương thuộc môn phái nào, bây giờ mới biết là đệ tử của Thiên-thủ viên hầu.
                  Họp mãn, Nghiêm Sơn truyền dọn tiệc, Thiều-Hoa lẽ ra không dự vào việc tiếp khách vì tục lệ Hán trọng nam khinh nữ, dầu phu nhân các đại quan đều ăn ở phòng the. Nhưng Nghiêm Sơn áp dụng phong tục Việt, người phụ nữ có nhiều quyền. Vả lại Thiều-Hoa là đệ tử Đào Thế-Kiệt anh hùng nức tiếng đương thời. Nàng cùng Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa, Tử Vân và Giao-long nữ ra vào mời khách, mọi người vui vẻ.
                  Tiệc tan, trời đã khuya, Nghiêm Sơn đứng lên nói :
                  – Xin quý vị nghe đây : Hiện giờ kỵ binh, giáp sĩ đang vây kín Thái-hà trang theo lời khẩn cầu của Tô Định. Lý do cách đây ba năm Tô công tử bị mất tích, Tô Thái-thú nghi ngờ Ngũ phương thần kiếm nên bắt giam tra khảo Ngũ kiếm. Đào Kỳ, Phương-Dung đã cứu Ngũ kiếm ra. Hiện giờ Tô Thái-thú được tin con bị giam giữ tại Thái-hà trang và xin tại hạ cho kỵ binh vây kín. Nếu quý đồng đạo võ lâm chưa mệt, tại hạ mời quý vị tới chứng kiến, nếu không Lục Trúc tiên sinh sẽ kêu oan. Hơn nữa Lục Trúc tiên sinh có tới 5 đệ tử, Vũ Hỷ, thân nhân cộng 10 người đang là Huyện-úy mọi chuyện phải minh bạch. Tại hạ không muốn Tô Thái-thú uất ức, cũng không muốn Lục trúc tiên sinh và 10 Huyện-úy bị vu oan.
                  Nghiêm Sơn khéo léo lái cuộc thanh trừng Lê Đạo-Sinh thành cuộc tranh chấp giữa Tô Định và Lê Đạo-Sinh.
                  Quần hùng do lòng hiếu kỳ, phần lớn lên ngựa đi Thái-hà trang. Tới nơi trời vừa sáng. Thiết-kỵ, giáp sĩ ước trên vạn đã bao kín Thái-hà trang như thành đồng vách sắt, dù quân sĩ tráng đinh Thái hà đông cách mấy cũng không thoát được. Khi Nghiêm Sơn, Tô Định đến cổng trang, thấy Lê Đạo-Sinh đang đích thân điều khiển tráng đinh phòng thủ. Xung quanh Lê Đạo-Sinh đệ tử nhìn nhau ngơ ngơ ngác. Sáng sớm nay, y được tin tự nhiên quân thiết kỵ kéo đến bao vây Thái-hà trang trùng trùng điệp điệp, tỏ ý bất thiện. Y sai Đức-Hiệp dò hỏi. Đức-Hiệp là người giao du nhiều với tướng Hán, nhất là các tướng chỉ huy Thiết-kỵ Luy-lâu. Nhưng chỉ được viên tướng chỉ huy lắc đầu không biết, và chỉ vắn tắt trả lời rằng được lệnh Tả tướng quân Lĩnh-Nam vương đem quân bao vây đợi lệnh. Không cho người trong ra, người ngoài vào. Lê Đạo-Sinh tưởng rằng vì y tuân lệnh Tô Định đánh đảo Đào Thế-Kiệt, lại sai Phùng Chính-Hoà bất thần đem binh sĩ Ngọc-đường làm phản. Lại còn vụ y cho Hoàng Đức-Phi, Phong-châu song quái đi các nơi hô hào lật đổ Nghiêm Sơn. Chỉ cần một vụ Nghiêm Sơn cũng có thể tru di tam tộc nhà y, huống chi tới 4 vụ. Y tính thầm : Nếu Nghiêm Sơn tra hỏi, ta cứ đổ thừa Tô Định. Nghiêm Sơn là người nghĩa hiệp chắc không truy xét kẻ thừa hành bắt tội ta đâu. Ta phải gặp Tô Định trước để xem sao ?
                  Y nhân danh Đô-úy, yêu cầu tướng chỉ huy dẫn y đến phủ Thái-thú. Viên tướng chỉ huy thiết kỵ tuy rất thân với y, mà cũng không dám cho y rời khỏi Thái-hà trang, vì Lĩnh-Nam vương trị quân rất nghiêm, y chỉ biết nói với Lê Đạo-Sinh.
                  – Xin Lê đô úy cứ yên tâm, chờ trời sáng Lĩnh-Nam vương đích thân sẽ tới đây !
                  Bây giờ y thấy Nghiêm Sơn và võ lâm đồng đạo cùng tới vẻ mặt khoan hòa, y hơi yên tâm thân mở cổng trang ra, hành lễ nói :
                  – Lê tôi và trang Thái-hàtừ trước đến nay một lòng trung thành với Hán triều, không biết vì việc gì mà Vương gia lại cho thiết kỵ bao vây thế này ?
                  Nghiêm Sơn chỉ Tô Định nói :
                  – Cô gia theo lời cầu của Tô thái thú. Thái-thú nói đại công tử của người bị Thái-hà trang bắt giam từ ba năm nay. Thái-thú không đủ quân bao vây, giải cứu đại công tử. Lại sợ Lê đô úy kêu oan, nên nhờ Cô gia cấp thêm và đứng ra làm chứng. Bây giờ Cô gia và các vị anh hùng sẵn sàng chứng kiến vụ tranh chấp giữa Tô thái thú và Lê đô úy.
                  Lê Đạo-Sinh liếc nhìn thấy hiện diện đầy đủ các anh hùng Lĩnh-Nam, người nào nhìn y cũng không thiện cảm. Nam-hải nư’ hiệp nói :
                  – Lục trúc tiên sinh, vụ này không nhỏ đâu. Bởi Tô công tử tuy là con Tô thái thú, nhưng cũng là Đô-sát Giao-chỉ, một mệnh quan của triều đình. Công tử mất tích đã ba năm. Bây giờ Tô thái thú kiện với Lĩnh-Nam vương gia xin xử lý. Vương gia không muốn mang tiếng nghe lời Tô thái thú áp đảo một chức quan người Việt, nên mời chúng tôi đến chứng kiến. Thực hư thế nào cũng sẽ rõ. Nếu quả tiên sinh không bắt giam Tô công tử, vương gia cũng như Tô thái thú không thể nào bắt tội được tiên sinh.
                  Mặt Lê Đạo Sinh tái nhợt :
                  – Tôi với Tô thái thú từ xưa nay cũng như môi với răng. Tôi có gan lớn bằng trời, cũng không dám bắt giam công tử của người. Tôi bắt Tô công tử bao giờ, phải có chứng cớ ?
                  Lúc đó vợ Tô Định bước ra, đưa giải áo có bút tích của Tô Phương cho Khất đại phu, Trưng Trắc và Nghiêm Sơn coi, rồi nói :
                  – Vương gia là người chính trực, Khất đại phu là sư huynh của Lê đô úy, Trưng phu nhân cũng là người anh kiệt của phái Tản-viên coi đây : Tự tích con tôi cắn tay lấy máu viết từ nhà tù gửi ra cho tôi, làm sao không tin được ?
                  Lê Đạo-Sinh cầm tấm vạt áo đọc xong nói :
                  – Oan ơi là oan ! Được xin quý vị cứ tra xét khắp trang Thái-hà xem tôi dấu công tử ở đâu thì đưa ra !
                  Lê tự tin ở mình, mở rộng cổng trang mời mọi người vào trong :
                  – Trang Thái-hà tuy lớn thực nhưng không dễ gì dấu Tô công tử được. Nào mời quý vị hãy lục xét. Nếu Tô công tử quả có trong trang, tôi xin thụ hình như luật bản triều !
                  Phủ Tế-tác đem toàn lực, đến hơn trăm con chó. Lính Tế tác đưa quần áo Tô Phương cho chó ngửi, rồi dẫn chó chạy suốt từ Đông sang Tây, từ Nam xuống Bắc. Người và chó lục lọi từng nhà, từng phòng tìm kiếm, nhưng không thấy. Lê Đạo-Sinh bình tĩnh ngồi vuốt râu uống trà nơi sảnh đường. Trời xế trưa thì đàn chó hướng phía nhà tù vẫy đuôi. Mọi người kéo đến khu nhà tù. Người và chó bao vây kín mít. Đức Hiệp trao chìa khóa nhà tù cho viên chỉ huy cuộc lục soát của Sở-tế tác nói :
                  – Trong đó sư phụ tôi có giam mấy, tên trộm cắp, tội trạng của trang mà thôi. Ngoài ra không còn ai khác nữa.
                  Phật Nguyệt cười nhạt :
                  – Trước đây dường như tiên sinh đãgiam hai người sư điệt là Đặng Thi-Kế và Nguyễn Thành-Công tại đây phải không ? Chính sư phụ của tôi cũng bị người giam trong này, cắt hai chân làm cho lão nhân gia tàn tật.
                  Lê Đạo-Sinh không nói gì, mặt tái nhợt, đẩy cửa nhà tù củng mọi người vào trong. Lính tế tác mở tung cửa phòng giam lục lọi. Có khoảng hơn năm chục tù nhân, người bị khóa chân tay, người bị đóng gông. Nhưng lục khắp nhà tù không thấy Tô Phương đâu cả. Bỗng con chó dì mũi vào tấm ván gỗ trong một phòng trống sủa mấy tiếng, vẫy đuôi liên miên. Lính Tế tác lật tấm ván lên, thấy ló ra một cửa hầm. Bọn lính đốt đuốc nhảy xuống. Lát sau có tiếng nói vọng lên :
                  – Tô công tử đây rồi !
                  Vợ Tô Định và Lê Đạo-Sinh nhảy xuống theo, thấy một người ngồi ủ rũ, mơ mơ tỉnh tỉnh, bị xích chân tay vào cột, da mặt nhợt nhạt, râu tóc dài lê thê như một quái nhân, người không ra người, quỷ không ra quỷ. Vợ Tô Định kêu lên :
                  – Con, có phải con đấy không ?
                  Người đó đáp lại bằng giọng yếu ớt :
                  – Mẫu thân ơi, con đây. Mẫu thân đến cứu con đấy ư ?
                  Lê Đạo-Sinh không tin ở tai mình, y nói :
                  – Hãy đưa người này lên trên để trắng đen rõ rệt đã.
                  Lính Tế-tác dùng búa chặt xích sắt. Xích sắt đứt hết. Lính Tế tác đỡ Tô Phương lên trên. Mọi người nhìn rõ ràng. Người Tô Phương tuy gầy, râu tóc bù xù, nhưng trông còn thấy giống Tô Định. Bỗng có nhiều tiếng nói một lúc :
                  – Tô công tử ! Thì ra người bị giam ở đây. Trong ba năm qua, chúng ta đi tìm người khắp giải Lĩnh-N nam mà không thấy. Chúng ta cứ tưởng người qua đời rồi chứ ? Tô thái thú nghi chúng ta giết người đoạt của, tra tấn chúng ta tàn tệ. Nay tìm được thấy người thì mới giải được mối hàm oan của chúng ta.
                  Mọi người nhìn ra thì thấy Ngũ kiếm từ trên nóc nhà nhảy xuống đứng bên Tô Phương. Tô Định quay lại bên Lê Đạo-Sinh :
                  – Lê Đạo-Sinh ! Người cùng ta mưu sự với nhau 4 năm. Không hiểu tại sao ngươi bắt con ta thế này ?
                  Lê Đạo-Sinh thấy chứng cớ rành rành, y không biết ai hại mình, muốn chối mà không chối được. Y nhìn quanh thấy cao thủ đông nghẹt, nhất là có cả sư huynh Khất đại phu, Đào Kỳ, Phật Nguyệt, Phương-Dung là những người bản lĩnh kinh thiên. Y vội nhảy vèo lại, một tay chụp Tô Phương, một tay chụp vợ Tô Định nói lớn :
                  – Tô Định ! Nếu các người để ta rời khỏi nơi này thì ta để vợ con trai ngươi sống. Còn không cùng chết cả. Ta chỉ cần kẹp tay, vợ con ngươi lập tức nát ra ngay.
                  Tô Định biết y nói thực vội nhìn Nghiêm Sơn khẩn khoản :
                  – Xin vương gia hứa cho một lời để cứu vợ con tôi.
                  Nghiêm Sơn nói :
                  – Được Lục Trúc tiên sinh, ta hứa cho ngươi rời khỏi đây. Ngươi tha Tô phu nhân và Tô công tử đi.
                  Lê Đạo-Sinh cắp hai người nhảy khỏi nhà tù :
                  – Tôi mượn phu nhân và công tử làm con tin. Mọi người phải dừng lại, nếu không đừng trách tôi tàn ác.
                  Mọi người nghe nói tránh dạt sang một bên. Lê Đạo-Sinh lườm lườm ra khỏi vòng vây.
                  Nhưng chợt vèo một cái, thấy có bốn bóng người nhảy vào vây bốn phía Lê Đạo-Sinh. Đó là 4 trong Ngũ kiếm, Hoàng kiếm nói :
                  – Lê Đạo-Sinh, Lĩnh-Nam vương gia tha cho ngươi, nhưng chúng ta không phải là thuộc hạ của vương gia. Chúng ta không tha ngươi.
                  Lê Đạo-Sinh cười nhạt :
                  – Bình thường lão phu đâu có sợ gì bọn Ngũ phương thần kiếm các ngươi. Chẳng qua hôm nay cao thủ đông như kiến. Lê mỗ đành thất thế. Bọn ngươi có giỏi hãy chờ, lão phu sẽ lãnh kiếm thần của ngươi sau. Bây giờ lão phu đi đây.
                  Tô Định chắp tay vái Ngũ phương thần kiếm :
                  – Ngũ hiệp, trước đây vì ngu dại, tôi phạm tội với các vị, nay xin các vị để Lê Đạo-Sinh rời khỏi nơi đây, nếu không y giết vộ con tôi !
                  Dù sao Ngũ phương thần kiếm cũng là người nghĩa hiệp, không muốn vì mình mà Tô Phương chết oan. Hoàng kiếm nói :
                  – Chúng ta cần cứu Tô công tử. sau này chúng ta kiếm y trả thù cũng chưa muộn. Y tàn ác chẳng cần chúng ta ra tay, thiếu gì người giết y.
                  Anh em Ngũ kiếm thu kiếm vào vỏ lui lại.
                  Lê Đạo Sinh cười gằn cặp hai người đi :
                  – Tô đại nhân, tôi sẽ tha phu nhân và công tử ở cổng Tây trang Thái-hà. Bây giờ xin Nghiêm vương gia cho lệnh kỵ binh mở cổng đường phía Tây cho.
                  Vừa nói, y vừa cười đắc ýđi về phía tây. Bỗng một người con gái rút kiếm nhảy vèo đến trước mặt Lê Đạo-Sinh cười lớn :
                  – Tô Định ! Ngươi tàn ác vô cùng, có ngờ đâu gặp ngày hôm nay. Ta phải giết vợ con ngươi trả thù !
                  Mọi người nhìn xem, thì ra là Phật Nguyệt. Nàng rút kiếm nhảy lại đâm Tô Phương và vợ Tô Định. Kiếm của nàng thần tốc vô cùng. Lê Đạo-Sinh biết nếu để nàng đâm chết con tin mạng y cũng sẽ mất. Y vội ôm hai người nhảy nhót tránh. Đến chiêu thứ ba thì không kịp nữa, y vội tung hai người lên cao, phóng chưởng đánh Phật Nghuyệt
                  Phương-Dung bảo Đào Kỳ :
                  – Đào lang, Ngưu hổ tranh phong gấp !
                  Đào Kỳ giật mình vội phóng ra chiêu trong Phục ngưu thần chưởng hướng về Lê Đạo-Sinh. Đào Kỳ tuy còn đứng cách xa Lê Đạo-Sinh mà y cảm thấy chưởng phong cực kỳ hùng hậu ập đến. Y biết không ra tay vận chưởng chống đỡ thì người sẽ nhứ nhừ chết tại chỗ. Y là người giàu kinh nghiệm chiến đấu, vội hít một hơi, lui trở lại và cũng phát một chiêu trong Phục ngưu thần chưởng để đỡ chưởng của Đào Kỳ. Y lại mượn đà nhảy lui hai bước để giảm áp lực chưởng phong. Phật Nguyệt, Nghiêm Sơn đã vọt đến đỡ lấy vợ Tô Định và Tô Phương lùi lại. Lê Đạo-Sinh biết mất con tin, tính mệnh nguy hiểm, y vội nghiến răng đỡ chưởng thứ nhì của Đào Kỳ rồi nhảy lui định chạy. Nhưng y đã thấy bốn phía: Khất đại phu, Nghiêm Sơn, Phương-Dung, Đào Kỳ vây kín.
                  Nguyên trong lúc Lê Đạo-Sinh định cắp hai con tin ra đi, Phùng Vĩnh-Hoa nghĩ được một kế, nói nhỏ vào tai Phương-Dung, Phật Nguyệt. Phật Nguyệt tấn công Tô Phương và vợ Tô Định làm như có mối tử thù với Tô Định, khiến Lê Đạo-Sinh phải tung con tin lên cao để ứng phó. Phương-Dung hô Đào Kỳ phóng chưởng bắt Lê Đạo-Sinh phải lùi, nhân đó Phật Nguyệt, Nghiêm bắt lấy con tin.
                  Lê Đạo-Sinh biết chạy cũng không thoát y hướng vào Nghiêm Sơn :
                  – Lĩnh-Nam vương gia đã hứa để tôi đi sao người nuốt lời?
                  Nghiêm Sơn là người nghĩa hiệp thủ tín, vả lại vương thấy dường như trong vụ này có gì bí ẩn, Lê Đạo-Sinh bị oan. Vương đưa mắt nhìn, thấy Phương-Dung và Phùng Vĩnh-Hoa như cười mà không phải cười thì vương đoán rằng chắc hai cô bé giở trò quỷ thuật để hại Lê Đạo-Sinh chứ thật y không giám bắt giam Tô Phương. Vương thản nhiên bảo Lê :
                  – Lê tiên sinh, người cứ tự tiện rời khỏi nơi đây, non xanh còn đó, sẽ có ngày chúng ta tái ngộ !
                  Lê Đạo-Sinh mừng quá, hướng về Nghiêm Sơn vái một cái rồi vọt về cuối trang, không ai cản đường y nữa.
                  Nghiêm Sơn hướng về phía Khất đaÏi phu :
                  – Trần tiên sinh, Lê Đạo-Sinh là sư đệ của tiên sinh, Thái-hà trang của phái Tản-viên, vậy xin tiên sinh cai quản lấy.
                  Khất đaÏi phu chỉ đệ tử là Lê Ngọc-Trinh :
                  – Con thay sư phụ cai quản. Nhất thiết lấy đạo đức làm căn bản, chứ đừng dùng luật lệ mà trị người.
                  Nói đoạn ông hạ lệnh tha hết những bị giam và châm lửa đốt nhà tù.
                  Nghiêm Sơn ra lệnh quân thiết kỵ rút khỏi nhà tù. Tô Định chắp tay hướng về Nghiêm Sơn, Khất đại phu, Đào Kỳ, Phương-Dung, Phật Nguyệt nói :
                  – Tôi và vợ tôi thành tâm cảm tạ vương gia và các vị đã hết lòng cứu được con tôi.
                  Ngũ kiếm cũng hướng vào Đào Kỳ :
                  – Đào công tử, hôm trước công tử cứu bọn tôi. Tôi thấy võ công của công tử đã cao lắm rồi, không ngờ so với hôm nay võ công công tử đã đến trình độ không bao giờ chúng tôi tưởng tượng được. Ngũ phương kiếm chúng tôi được kết bạn với công tử thật, tam sinh hữu hạnh.
                  Hoàng kiếm lại quay ra hỏi Tô Định :
                  – Tô thái thú, người và chúng tôi lấy võ công kết bạn với nhau. Lúc người sang Giao-chỉ, người ngỏ ý mời bọn tôi sang giúp người ổn định đất này. Khi xẩy ra vụ đại công tử bị người hãm hại, Thái-thú đã không cứu xét lời chúng tôi, lại đánh thuốc mê, giam vào ngục tra tấn chúng tôi thập tử nhất sinh. Nếu không được Đào công tử và Nguyễn cô nương cứu, thì chắc chúng tôi chết oan, ngậm hờn trong ngục. Bây giờ việc trắng đen rõ rệt, người trả lời sao với chúng tôi ? Hồi đó, nếu người nghe lời chúng tôi, giờ có lẽ đã tìm ra công tử rồi. Đâu đến nổi công tử bị cầm tù ba năm ?
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #39
                    Hồi 38 Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời (Chinh phụ ngâm khúc)

                    Tô Định kết bạn với Ngũ phương thần kiếm đã lâu ngày, nên y biết tính tình cùng phương cách xử thế của họ : họ hào sảng, xả thân giúp người đến nơi, đến chốn. Còn như ai tự nhiên gây hấn với họ, thì coi như suốt đời gặp một đối thủ ghê gớm. Trước đây vì nhẹ dạ tin người, Tô đánh thuốc mê bắt Ngũ kiếm tra tấn bằng cực hình ghê độc ; đến nỗi Ngũ kiếm công lực thâm hậu biết là chừng nào mà cũng bị mê man bất tỉnh. Tô ngồi hỏi cung họ mà luôn mạt sát họ là quân trộm cướp. Tô còn bạo miệng nói rằng Ngũ kiếm tuy có Thượng-phương bảo kiếm trong tay, nhưng đó là do Cảnh-thủy hoàng đế ban cho chứ không phải của Kiến-vũ hoàng đế, vì vậy nếu y giết Ngũ kiếm không chừng y còn được Kiến-vũ hoàng đế vui lòng ban khen.
                    Bây giờ nỗi oan của Ngũ kiếm y biết không thể vài lời mà bỏ qua thù hằn bấy lâu, nên y đành hỏi ngược :
                    – Sự thể đã như thế, xin Ngũ phương thần kiếm định thế nào, tôi chịu như thế chứ biết làm sao ?
                    – Vay nợ thì trả phải trả cả vốn lẫn lời. Tô thái thú bắt giam chúng tôi tra tấn cực hình suýt bỏ mạng. Chúng tôi phải dưỡng thương đến hơn năm. May được Đông-triều nữ hiệp Lê Chân cô nương cầu Khất đại phu trị cho mới khỏi tàn tật. Bây giờ chúng tôi cũng xin Tô thái thú trả đúng như vậy mà thôi.
                    Tô Định nghe mà ớn da gà. Như thế có nghĩa Ngũ phương thần kiếm muốn đánh Tô Định 5 lần đau như Tô Định đã đánh họ. Chỉ cần bằng một lần, Tô cũng đã đủ chết rồi. Trước đây mỗi lần gặp tai vạ, Tô Định đều nhờ Nghiêm Sơn giúp đỡ, nhưng gần đây y dựa thế Mã thái hậu tìm cách chống đối Nghiêm Sơn, không biết Nghiêm chặt đầu y lúc nào, hy vọng gì cầu cứu nữa ?
                    Nhưng tính Tô hèn hạ, y đành đưa mặt mo :
                    – Lĩnh-Nam vương gia, xin vương gia thương tình giúp tiểu nhân qua cơn hoạn nạn này !
                    Nghiêm Sơn lắc đầu :
                    – Ngũ phương thần kiếm không phải quan lại đất Giao-chỉ, thành ra tôi không can thiệp vào việc của họ. Họ cũng không phải thần dân đất Lĩnh nam, tôi không nhân danh Lĩnh-Nam vương xử lý việc của họ. Tô thái thú đã là bằng hữu của họ, nên điều đình thẳng với họ thì hơn.
                    Trưng Nhị nhìn Ngũ phương thần kiếm nói :
                    – Ngũ hiệp, nếu các vị không chê tôi kiến thức thô lậu, để tôi giải quyết vụ này dùm được không ?
                    Bạch kiếm chắp tay :
                    – Trưng cô nương đã cứu anh em chúng tôi, chúng tôi xin để cô nương xử sự. Cô nương quyết đoán thế nào anh em chúng tôi cũng nghe theo.
                    Trưng Nhị quay hỏi Tô Định :
                    – Còn Tô thái thú nghĩ sao ?
                    Tô Định nghĩ dù Trưng Nhị xử cách nào cũng nhẹ hơn cách của Ngũ kiếm nên y vội gật đầu :
                    – Tôi xin kính cẩn nghe lời cô nương.
                    – Điều này dễ thôi; Người ám hại Ngũ kiếm là Trương Thanh, Huyện-lệnh Đăng-châu. Vậy Tô thái thú phải xử tội y đã làm mất lòng Ngũ kiếm. Đó là trừ một món nợ.
                    Tô Định chắp tay :
                    – Tôi sẽ xử tử y. Dù Trưng cô nương không đặt vấn đề tôi cũng không tha y được. Tội y phải giết cả nhà mới đáng.
                    Trưng Nhị tiếp :
                    – Trong vụ này người bị khảo đả oan ức nhất là chủ nhân Anh-hùng tửu lâu Phùng Đại-Niên tiên sinh, thân phụ Đăng-châu nữ hiệp Phùng Vĩnh-Hoa. Huyện-lệnh Trương Thanh tra khảo tiên sinh tàn bạo, độc ác. Trong khi Tô công tử bị bắt giam, Ngũ phương thần kiếm tìm cách cứu người, được Đăng-châu nữ hiệp giúp đỡ đánh Lưu Chương chứ không phải Phùng tiên sinh hành động. Vậy mà người bị Trương Thanh đổ tội lên đầu, tra tấn và còn định giết chết. Tô đại nhân nên giúp Ngũ hiệp đền ơn Đăng-châu nữ hiệp thế nào để chuộc lỗi với Phùng tiên sinh. Như vậy trừ được món nợ thứ hai.
                    Tô Định quay qua Nghiêm Sơn :
                    – Phùng tiên sinh vốn là người trưởng giả, tính khí ôn hòa, là thân phụ Đăng-châu nữ hiệp. Xin vương gia chuẩn cho tiểu nhân được mời Phùng tiên sinh nhậm chức Huyện-lệnh thay Trương Thanh.
                    Nghiêm Sơn gật đầu :
                    – Như vậy còn gì bằng. Vĩnh-Hoa sư muội ! Người mời lệnh đường dùm ta nghe ! Lệnh đường mà làm Huyện-lệnh, dân chúng sẽ sống những ngày Nghiêu, tháng Thuấn.
                    Phùng Vĩnh-Hoa chắp tay :
                    – Tiểu muội cố gắng mời thân phụ như Đại ca dạy.
                    Trưng Nhị lại tiếp :
                    – Người bắt giam Tô công tử là Huyện-úy Bắc-đái. Vậy phải bắt y xử tội để Ngũ kiếm được mát lòng. Điều đó thuộc quyền Lĩnh-Nam vương gia, không biết vương gia có ưng không để trừ món nợ thứ ba của Tô thái thú.
                    Nghiêm Sơn nói :
                    – Ta đã cho ngựa lưu tinh đi bắt hết bộ thuộc, tòng đảng của Lê Đạo-Sinh, có lẽ giờ này chúng đã bị giam hết rồi. Tại hạ xin mời Trần Quốc-Dũng thiếu hiệp phái Sài-sơn đảm nhiệm chức Huyện-úy Bắc-đái. Xin thiếu hiệp vì dân tình mà nhận cho.
                    Quốc-Dũng vừa đinh lên tiếng từ chối, nhưng chàng liếc thấy Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa đưa mắt nháy. Chàng đành chắp tay :
                    – Nếu vương gia ra lệnh vì dân mà làm Huyện-úy tôi xin kính cẩn nghe theo.
                    Trưng Nhị tiếp :
                    – Huyện lệnh Chu-diên là cha Trương Thanh, xin vương gia cách chức, vì tội gia pháp bất nghiêm, không dạy con. Như vậy trừ được bốn món nợ với Ngũ kiếm, còn người thay thế là việc của Nghiêm vương gia.
                    Nghiêm Sơn nói :
                    – Tôi đồng ý để Trưng cô nương xử lý vụ Thần kiếm, vậy quyết định cách chức Huyện-lệnh Chu-diên và mời tỷ phu Trưng cô nương là Đặng Thi-Sách tiên sinh hùng tài dũng lược, lại thương dân như con đỏ, làm Huyện-lệnh đất Chu-diên.
                    Quần hùng đều ồ một tiếng kinh ngạc. Vì Đặng Thi-Sách nổi tiếng khắp Lĩnh-Nam vì chủ trương phản Hán phục Việt, đã không bị bắt tội chặt đầu, lại được mời làm Huyện-lệnh một huyện lớn nhất Lĩnh nam.
                    Đặng Thi-Sách ngơ ngác không ngờ Nghiêm Sơn mời mình. Ông do dự một chút, liếc mắt nhìn Nghiêm Sơn, thấy Nghiêm nháy mắt ngón tay trỏ lay động, ra hiệu chấp thuận. Ông biết Nghiêm Sơn và Trưng Nhị đã bàn nhiều điều ích lợi cho Lĩnh-Nam. Ông chắp tay nói :
                    – Tôi xin tuân lệnh !
                    Trưng Nhị tiếp :
                    – Ngũ phương thần kiếm nghĩa tới mây xanh, các vị lại không thích quan tước. Vậy Tô thái thú hãy giao cho người lệnh bài đặc biệt. Trên được trừng phạt các cấp từ Huyện-lệnh, dưới được tha tội các lương dân bị oan ức trên toàn đất Giao-chỉ. Có như thế Ngũ phương thần kiếm hành hiệp giang hồ được mọi điều thuận tiện.
                    Tô Định gật đầu :
                    – Như vậy có khác gì Ngũ phương thần kiếm thay tôi đi kinh lược khắp xứ. Tôi còn mong gì hơn.
                    Sau cùng Trưng Nhị quay qua Ngũ kiếm :
                    – Không biết Ngũ phương thần kiếm có chấp nhận lối giải quyết của tôi không ?
                    Hoàng kiếm nói :
                    – Từ trước đến giờ người ta cứ đồn rằng Đào gia ở Cửu-chân thù hận người Hán. Chúng tôi là người Hán, thế mà cứu chúng tôi và Tô công tử là Đào tam công tử cùng phu nhân. Thì ra người Đào gia chỉ ghét bọn Hán tàn ác tham ô hại dân. Đối với ơn nghĩa này, chúng tôi không thể nói mấy lời mà trả hết ơn. chỉ xin hứa rằng : Từ nay Đào gia cần gì đến anh em chúng tôi, chúng tôi xin tuân lệnh. Còn giải pháp của Trưng nữ hiệp nhằm hóa giải mối thù của chúng tôi với Tô thái thú, thì toàn là như’ng điều nhân đức và công bình, sáng suốt. Chúng tôi xin hoàn toàn đồng ý. Xin cám ơn Trưng nữ hiệp.
                    Câu nói của Hoàng kiếm làm mọi người Hán, Việt có mặt hôm đó giật mình. Vì họ là 5 người uy bao trùm khắp vùng Mân-Việt, Lĩnh nam, kiếm thuật lại thần thông khôn lường. Khi họ đã hứa một lời dù mất mạng cũng thực hiện bằng được.
                    Phương-Dung nói với Hoàng kiếm :
                    – Ngũ hiệp, chúng tôi xin đa tạ thịnh tình của Ngũ hiệp.
                    Nghiêm Sơn bảo Tô Định :
                    – Lê Đạo-Sinh phạm tội, Cô gia cách chức y và bổ nhiệm Đốc-bưu La Quốc kiêm nhiệm Đô-úy.
                    La Quốc tên thật là Trần Khổng-Chúng, ông là người Việt. Khi ông sang Trung-nguyên đầu quân lấy tên này. Hiện nay chỉ có Nguyễn Trát, Đào Kỳ, Phương-Dung là biết chân tướng của ông mà thôi.
                    Sau đó quần hùng giải tán. Những người được đề cử tòng chinh Trung-nguyên cùng Nghiêm Sơn và Tô Định đến dinh Lĩnh-Nam vương chờ ngày lên đường.
                    Toàn đất Lĩnh-Nam rúng động vì những cuộc chuyển quân. Chúng ta nên nhớ thời bấy giờ, lãnh thổ Lĩnh-Nam gồm từ Quảng-bình ra Bắc, kể cả Quảng-đông, Quảng-tây và Vân-nam thuộc Trung-quốc ngày nay, dân số chưa tới 10 triệu người, mà cuộc di chuyển lên đến 30 vạn người, ngựa nên rất là nhộn nhịp. Nhất là quân Hán ở đâu lấy vợ, sinh con, làm nhà cửa ở đó. Bỗng chốc họ được lệnh về Trung-nguyên, có người sung sướng được về quê, có người lưu luyến đất mới, ra đi phải bỏ lại tài sản, nhà cửa lòng đầy luyến tiếc.
                    Thiều-Hoa được coi như một võ tướng cầm quân, nàng cũng chuẩn bị xuất chinh theo chồng. Cuộc viễn chinh làm nàng hồi hộp, nhưng vì đi bên cạnh còn có Đào Kỳ, Phương-Dung, Trưng Nhị là những người nàng quý mến, yêu thích nên cũng vui.
                    Hồ Đề từ tạ Nghiêm Sơn trở về Tây-vu chuẩn bị đạo quân đặc biệt của nàng. Nghiêm Sơn nói :
                    – Sư muội lên đường tôi trao cho sư muội lệnh bài đặc biệt : Với lệnh bài này, sư muội đại diện tôi, được toàn quyền trưng dụng quân sĩ, lương thực dọc đường để hoàn tất cuộc di chuyển đạo quân đặc biệt của Tây-vu. Không biết sư muội cần ai giúp sức không ?
                    Hồ Đề cười :
                    – Ở đây có ba bộ óc kinh thiên động địa là Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa. Đạo quân của tôi có hơi đặc biệt, vậy xin cho một trong ba người đi theo bày mưu tính kế, chứ tôi thì ngu lắm !
                    Nghiêm Sơn hỏi :
                    – Không biết trong ba vị ai sẵn sàng giúp Hồ sư muội ?
                    Nam hải nữ hiệp xen vào :
                    – Trong ba nhân tài này thì Phương-Dung giỏi điều quân hơn mưu mẹo, Phùng Vĩnh-Hoa giỏi bày mưu nhưng không quen bày binh bố trận. Cả hai cùng ưa tinh nghịch, gặp cháu Hồ Đề cũng tinh nghịch, ta e có điều quá đáng. Chỉ có Trưng Nhị vừa nhiều mưu cơ, vừa giỏi bày binh bố trận, làm việc thao lược, tính lại nghiêm cẩn, vậy cháu nên đi với Hồ Đề thì hơn.
                    Nghiêm Sơn cũng nghĩ như vậy, vương đồng ý :
                    – Vậy phiền Trưng cô nương đi với Hồ muội. Suốt một dải đất Quế-lâm, Giao-chỉ, cô nương được toàn quyền điều động văn từ Huyện-lệnh, Huyện-úy, võ từ Sư-trưởng trở xuống để chuyển quân. Hẹn nhau ngày 25 tháng 10 sẽ hội nhau ở Quế-lâm làm điểm hội quân tiến đánh Ích-châu. Nhưng xin quý vị chờ ngày 15 tháng 9 làm lễ tế cờ rồi hãy lên đường cũng chưa muộn.
                    Trong khi Nghiêm Sơn phải họp liên miên miên với bộ tham mưu, lo chuẩn bị cho đoàn quân viễn chinh, thì Trưng Nhị cũng lo họp với Trưng Trắc, Thi-Sách, Nguyễn Trát, Nguyễn Tam-Trinh hoạch định kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa, trong trường hợp đề nghị trả Lĩnh-Nam cho ngưới Việt bị bác bỏ.
                    Trong một buổi họp. Đào Kỳ trầm tư suy nghĩ rồi phát biểu ý kiến :
                    – Giữa việc làm của chúng ta và Lê Đạo-Sinh, tôi thấy có đôi phần giống nhau. Lê cho đệ tử và người thân thích ra làm Huyện-úy với giặc, đồng thời thi ân bố đức cho dân chúng, xin được hoàng đế nhà Hán phong cho làm Thái-thú. Còn chúng ta làm hơn thế nữa : Chúng ta cho người làm Huyện-úy, Huyện-lệnh khắp nơi. Chúng ta lại theo đội quân Hán đánh giặc không công cho họ, để cầu được tái lập lại đất Lĩnh-Nam, có gì khác hơn đâu ? Lê Đạo-Sinh bắt giam các cao nhân võ học Nguyễn Phan, Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công, chúng ta bắt giam Ngũ phương thần kiếm. Lê Đạo-Sinh dựa thế người Hán đánh phá các trang ấp không phục tùng y, chúng ta cũng mượn người Hán đánh phá các trang ấp của y. Theo thiển ý, y còn khá hơn chúng ta, việc ác là ác, việc thiện là thiện. Còn chúng ta bắt giam Ngũ phương thần kiếm rồi giả nhân, giả nghĩa cứu họ ra, đổ tội cho Trương Thanh với Lê Đạo-Sinh. Tôi thấy chúng ta phải đổi thái độ, nếu không thiên hạ bất phục, việc quang phục khó thành đấy.
                    Lời nói của Đào Kỳ làm nhiều người ngẫm nghĩ gật đầu đồng ý, vì họ cảm thấy những biến chuyển gần đây lôi kéo họ vào chỗ thân thiết với người Hán. Nhất là những người có uy danh hiển hách như Nguyễn Thành-Công, Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại, Đặng Thi-Sách mà ra làm quan với Hán thì thực uổng phí oai danh đã có bao lâu. Nhưng họ chỉ cảm thấy có điều gì bất ổn khó nói lên lời. Bây giờ được Đào Kỳ nói rõ tâm sự, họ mới hả dạ một chút.
                    Nghe Đào Kỳ nói, Trưng Nhị nhìn Phương-Dung, Vĩnh-Hoa rồi cả ba bỗng rũ ra cười. Nhất là Vĩnh-Hoa cười đến đỏ cả mặt lên. Hồ Đề là người bộc ttrực hỏi :
                    – Vĩnh-Hoa sao em lại cười như vậy ? Đào tam đệ nói đúng đó. Chính chị cũng nghĩ như vậy. Em cười là chê Tam đệ, chê Tam đệ là chê chị đấy. Nếu có ong ở đây, thế nào chị cũng đốt em ít mũi cho biết tay !
                    Hồ Đề là người nóng tính, khi giận nàng nói lắp bắp, giọng Việt hơi ngọng, mặt nàng đỏ bừng.
                    Vĩnh-Hoa lè lưỡi ra :
                    – Trước khi giận em, chị cũng phải cho em giải thích chứ. Chị Trưng Nhị, Phương-Dung và em cười Đàøo tam đệ vì lối suy nghĩ một chiều. Thôi em để chị Trưng Nhị giải thích.
                    Trưng Nhị chưa kịp trả lời, Thiên-thủ viên hầu Lại Thế-Cường vẫy tay cho mọi người im lặng rồi nói :
                    – Cháu Kỳ, để ta thay Trưng Nhị hỏi cháu điều này : Cháu gần Trưng Nhị đã lâu, có bao giờ thấy Trưng Nhị lo cho bản thân, cho gia đình hay cho môn phái của nàng điều gì không ? Nàng có ghen ghét với võ lâm đồng đạo không ? Có bao giờ nàng âm mưu ám hại người trung lương của Lĩnh-Nam không ?
                    Đào Kỳ và mọi người im lặng không trả lời, công nhận lời của Thiên-thủ viên hầu là đúng. Ông lại tiếp :
                    – Trưng Nhị là người như thế. Vĩnh-Hoa, Phương-Dung cũng như Trưng Nhị có khác gì đâu ? Bây giờ các vị xem xét. Ba thiếu nữ chủ trương hành động của chúng ta có người nào thích ăn ngon mặc đẹp, thích tiền tài danh vọng không ? Tuyệt nhiên không, họ là những giai nhân tuyệt thế, văn học làu thông, võ công không thua kém ai. Vậy tại sao họ phải ưu tư suy nghĩ ? Chẳng qua vì nòi giống Âu-lạc mà ra cả. Nào ! Hãy so sánh hành động của chúng ta với Lê Đạo Sinh. Lê chỉ lo cho tham vọng bản thân : Đầu tiên y muốn làm Thái sơn bắc đẩu võ lâm, tiền rừng bạc bể là chỉ lo cho cá nhân mình, y muốn có nhiều trang ấp, quy dân lập nghiệp đông đảo là muốn lo cho gia đình mình. Y bắt giam Nguyễn Phan để lấy tinh hoa võ học Long-biên cho bọn Lê Nghĩa-Nam. Xúi Phong-châu song quái phản sư môn theo y phá người đồng môn, hầu nắm môn hộ của người. Y vu oan cho người trung lương, mượn tay người Hán tiêu diệt Đinh hầu, Đào hầu ở Cửu-chân, đó là ghen ghét với võ lâm đồng đạo. So sánh Lê Đạo-Sinh với Trưng Nhị, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa thật khác một trời, một vực. Một bên chỉ lo bản thân, giết hại đồng bào, hại dân,hại nước, còn một bên chỉ biết đại nghĩa của thiên hạ, dốc một lòng phục hưng nòi giống Âu-lạc.
                    Tiếng Lại Thế Cường sang sảng vang động trong khoang thuyền, làm mọi người tỉnh ngộ.
                    Nam-hải nữ hiệp lại tiếp lời Thiên-thủ viên hầu :
                    – Lê Đạo-Sinh chỉ muốn làm một chức quan lớn của triều Hán, cỡi lên đầu, lên cổ của chúng ta. Còn chúng ta đồng tâm hiệp lực lập lại Lĩnh-Nam cho người Việt, khác nhau ở chỗ đó. Y cho đệ tử, than-thích làm Huyện-úy là y tạo vây cánh, gây uy thế với triều Hán để được phong chức quan lớn.Y và đệ tử cúi đầu tuân phục Hán. Còn chúng ta ra làm việc với Hán là để nắm giữ binh quyền, một mai dễ dàng cử đại sự. Vì vậy việc chúngta với Lê Đạo-Sinh khác nhau một trời, một vực. Hai bên như mặt trăng, mặt trời vậy.
                    Lúc đó Trưng Nhị mới ngỏ lời :
                    – Những điều Nam-hải nữ hiệp và Thiên-thủ viên hầu nói ra là những điều chúng tôi muốn nói. Vĩnh-Hoa cười là cười Đào tam đệ. Tam đệ là chồng Phương-Dung, hai người tuy mới là vợ chồng, nhưng đã đi bên cạnh nhau như hình với bóng từ bốn năm qua, mà Tam đệ vần không hiểu vợ. Nếu người khác thì Vĩnh-Hoa không cười, nhưng cười Tam đệ, vì Tam đệ đã đọc đủ sách Trung-nguyên, trên từ Tứ thư Ngũ kinh, Bách gia chu tử cho tới Lục-thao của Thái-công. Binh pháp của Tôn Vũ, Ngô Khởi, lại là học trò yêu của Lục Mạnh Tân tiên sinh mà vẫn còn phán đoán như vậy.
                    Vĩnh-Hoa cũng nghiêm trang nói :
                    – Đào tam đệ! Chúng ta bắt giam Tô Phương cũng khác xa với việc Lê Đạo-Sinh bắt giam các cao thủ. Chúng ta bắt giam Tô Phương để chia rẽ Ngũ phương thần kiếm và Tô Định, chia rẽ Ngũ phương thần kiếm với Trương Thanh, để sư thúc Đào Thế-Hùng nắm trọn quyền ở Đăng-châu. Đăng châu sát Luy-lâu, có đạo quân Đăng-châu trong tay, khi khởi sự, chỉ phất tay là Luy-lâu ở trong tay chúng ta. Thời cơ đến, ta lại thả Tô Phương để chia rẽ Lê Đạo-Sinh và Tô Định. Tam đệ nghĩ xem trước đây mấy năm Tô Định cấu kết với Lê Đạo-Sinh, Ngũ phương thần kiếm mạnh đến chừng nào mà y còn dám chống lại cả Nghiêm Sơn. Bây giờ y cụt hết chân tay. Nghiêm Sơn là người của chúng ta. Ngũ phương thần kiếm là bạn của Tam đệ, còn Lê Đạo-Sinh và đồng bọn thân bại danh liệt. Các Huyện-úy, Huyện-lệnh gần như do người của chúng ta nắm hết. Tô Định chỉ còn cố thủ trong dinh của y mà thôi.
                    Ngừng lại một lúc để mọi người thấm lời, nàng tiếp :
                    – Chỉ vì đất Lĩnh-Nam chúng ta ít người, chứ không bất cứ ai trong chúng ta, chỉ cần đột nhập vào dinh đâm y một nhát là đất nước này thuộc hẳn về chúng ta. Nhưng liệu như thế, chúng ta có giữ vững được không ? Khi mà dân Trung-nguyên đông gấp trăm, gấp ngàn ta. Khi họï kéo đại quân sang, trong lúc chúng ta chưa kịp cũng cố lực lượng, thì nạn diệt chủng không tránh khỏi. Bởi vậy chúng ta đi một bước dùng lễ trước, đó là ngoài mặt chúng ta tỏ ý quy phục như trước vua Hùng, vua An-dương đã làm. Việc chúng ta cùng Nghiêm Sơn xuất binh đánh Ích-châu, ta đâu có mang binh theo mà sợ bị hao tổn xương máu, mà bảo đánh thuê ? Chỉ mấy người võ lâm dẫn người Hán đánh người Hán. Quân Hán đánh với đạo quân Thục, dù thắng, dù bại đạo quân này cũng hao tổn quá nửa, sau này không đủ sức trở về thống trị đất này nữa. Hơn nữa chúng ta góp mặt viễn chinh để tỏ cho Hán đế biết : Lĩnh-Nam đầy rẫy anh hùng, liệt nữ, nhưng lại sẵn sàng tuân phục Hán triều. Nếu Hán để yên chúng ta yên, ta sẽ là bạn tốt. Nhược bằng họ muốn đánh chúng ta, thì sẽ gặp cái vạ hao tinh, tổn tướng như Tần Thủy-hoàng. Tóm lại việc đi viễn chinh ở Trung-nguyên đem lại hai lợi ích : Một đem quân Hán rời khỏi Lĩnh-Nam. Hai là cho người Hán biết tài thao lược của anh hùng Lĩnh-Nam. Chúng ta đâu có đi đánh dùm để được tiền, được bạc mà gọi là đánh thuê, đánh mướn?
                    Phương-Dung tiếp lời Vĩnh Hoa :
                    – Chủ trương này phù hợp với đạo dùng binh. Binh pháp Tôn Tử nói : " Bảo tồn quân đội là nhất, làm tan đội quân là điều cấm kỵ ". Lật ngược đi, ta làm cho đội quân Hán ở Lĩnh-Nam phải rời khỏi Lĩnh-Nam, rồi bị thiệt hại nặng. Dù thắng, dù bại ở đất Ích châu. Trên đất Lĩnh-Nam ta chỉ còn các quân đội địa phương người Việt, do chính các Huyện-lệnh, Huyện-úy của ta chỉ huy, thì còn lo sợ gì nữa ?
                    Tất cả hào kiệt ngồi đó đều tỉnh ngộ, họ thầm nghĩ : Kiến thức mình còn thua xa ba cô gái trẻ này. Có lẽ sau này khi khởi binh khôi phục đất Lĩnh-nam, phải để Trưng Trắc làm thủ lĩnh, Trưng Nhị làm Nguyên-soái, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa làm Quân-sư mới phải.
                    Đào Kỳ cũng nhận thấy kiến thức mình còn thua vợ rất nhiều. Chàng là người quân tử nên thích thú nhiều hơn ghen tỵ.
                    Tan họp Đào Kỳ, Phương-Dung vừa về tới phủ Lĩnh-Nam đã thấy Quế Hoa ra đón :
                    – Đại ca vừa về kịp, Nghiêm đại ca đang mong đại ca lắm đấy.
                    Bước vào trướng, Đào Kỳ thấy bộ tham mưu của Nghiêm Sơn người nào mặt cũng nghiêm trọng. Nghiêm Sơn nắm tay Đào Kỳ :
                    – Có việc quan trọng phải nhờ tiểu sư đệ mới được.
                    Quỳnh-Hoa ngắt lời :
                    – Nghiêm đại ca cho em góp một lời được không ?
                    – Được, sư muội cứ nói.
                    – Ngày xưa, Đào tam ca mới mười một, mười hai tuổi, Hoàng sư tỷ thường dắt đi chơi mới kêu là tiểu sư đệ. Còn bây giờ Đào tam ca đã quá 20 tuổi, cao lớn hơn cả Đại ca, thế mà Đại ca cứ gọi Tiểu sư đệ thì...
                    Nghiêm Sơn gật đầu :
                    – Cám ơn sư muội nhắc ta. Từ 8 năm nay ta sống gần Đào tam đệ, cứ gọi vậy thành quen mất rồi.
                    Chàng quay lại nói với Đào Kỳ :
                    – Ta cho người lên bắt Trương Thanh, thì y cùng với Lưu Chương xuất tráng đinh mười mấy trang ấp, cùng bản bộ binh mã Đăng-châu chống lại. Nếu ta cử đại quân lên đánh thì hao tổn binh mã cả hai bên. Hiện Tam đệ đã là Chinh-viễn đại tướng quân, vậy ta muốn Tam đệ cùng Vĩnh-Hoa, Lê Chân, Đàm Ngọc-Nga, Trần Quốc giải quyết vụ này. Nhất thiết tránh đổ máu, nếu có đổ càng ít, càng tốt.
                    Hoàng Thiều-Hoa bảo Nghiêm Sơn :
                    – Đại ca cho em đi cùng Tam đệ được không ? Sao đại ca không cử Phương-Dung đi giúp Tam đệ vậy ?
                    Nghiêm Sơn lắc đầu :
                    – Phương-Dung là Quân sư của ta. Hiện đang có nhiều việc quan trọng cần bàn thảo, ta cần giữ nàng cùng trưng Nhị ở cạnh.
                    Chàng nhìn Đào Kỳ láy mắt một cái, Đào Kỳ hiểu ngay, sở dĩ Nghiêm Sơn cho chàng đi giải quyết vụ này, vì ở Đăng-châu còn có Tường-Quy. Nếu để Phương-Dung đi, nàng sẽ thẳng tay, e rằng đổ máu nhiều. Nghiêm Sơn là người chỉ huy tướng sĩ hàng trăm trận, chàng xử dụng người rất giỏi.
                    Đào Kỳ, Hoàng Thiều-Hoa, Phùng Vĩnh-Hoa, Đàm Ngọc-Nga và Lê Chân cùng hơn trăm quân kỵ lên đường ngay. Đội thiết kỵ được cử theo Lĩnh-Nam vương phi và Chinh-viễn đại tướng quân lần này, họ đều vui sướng ra mặt. Bởi trong quân Hán đồn rằng Hoàng-Thiều Hoa là tiên nữ giáng trần, ai cũng muốn diện kiến nàng một lần. Đây họ được đặt dưới quyền, đi chung với nàng thì còn gì sung sướng hơn.
                    Từ Luy-lâu đi Đăng-châu mất hơn hai giờ, mãi chiều tối mới đi tới nơi. Viên tướng sư trưởng đã dẫn quân bao vây huyện lỵ Đăng-châu, nhưng chưa dám tấn công, vì Lĩnh-Nam vương ra lệnh án binh bất động. Nay y thấy đích thân Lĩnh-Nam vương phi cùng Chinh-viễn đại tướng quân xử lý vụ này, y như được cất đi gánh nặng. Đào Kỳ cùng mọi người vào trướng, viên sư trưởng trình bày tình hình.
                    – Tiểu nhân là Tôn Mạnh, sư trưởng bộ binh Luy-lâu. Cách nay 7 ngày Lĩnh-Nam vươngsai sứ giả lên bắt Trương Thanh, thì Lưu Chương bắt giam sứ giả. Y còn điều động tráng đinh các ấp cố thủ chống lại. Lữ trưởng kỵ binh theo Trương Thanh làm phản dẫn quân kỵ chống ta. Tiểu nhân được lịnh vương gia đến vây án binh bất động, chờ vương phi tới. Vậy xin vương phi và Đào tướng quân hoạch định kế sách.
                    Đăng-châu nữ hiệp Phùng Vĩnh-Hoa móc trong bọc ra một trục lụa trải trên bàn nói :
                    – Đăng-châu là quê hương tôi và Đàm Ngọc-Nga, chúng tôi thuộc hết đường xá. Đây là bản đồ Đăng-châu.
                    Đào kỳ với Thiều-Hoa cùng với ban tham mưu của Tôn Mạnh cùng nghiên cứu. Tôn Mạnh lấy bút khoanh vào những trang ấp theo Trương Thanh, cùng cách dàn binh của y. Đào Kỳ cười :
                    – Trương Thanh thực ngu như lợn, chúng bố trí quân như thế này mà đòi làm phản, thì thực tự tử không bằng. Này nhé huyện đường ở cạnh con sông, chúng bố trí một tốt bảo vệ huyện đường, bốn tốt bốn góc toàn những đường chánh vào huyện đường. Chúng bỏ trống hai bên hông cánh đồng hoang này. Nếu ta cho dàn quân làm áp lực, rồi cho một đội kỵ binh chọc vào hông tiến tới huyện đường, thì lập tức bốn ngả đều hỗn loạn, không đánh cũng bị bại. Đây là nói cách hành quân, nhưng Nghiêm vương gia không cho giao chiến. Vậy ta cần phải nghiên cứu kỹ mới được. Ngươi có biết Huyện-úy Đăng-châu theo Trương Thanh hay chống lại y không ?
                    Tôn Mạnh lắc đầu:
                    – Tiểu nhân không rõ vì, chưa liên lạc được với Đào Thế-Hùng.
                    Đào Kỳ nhìn Thiều-Hoa :
                    – Nghiêm đại ca là người hiệp nghĩa, thành ra không ước tính được bụng dạ tiểu nhân. Nếu Nghiêm đại ca gửi một phong thư mật cho chú em, thì ông chỉ cần trở tay một cái là bắt được Trương Thanh. Đại ca tưởng Trương Thanh tuân theo phép nước như ở Trung-nguyên, sai đi bắt về. Chó cùng đường thì nó cắn lại, cho nên Trương Thanh xuất lĩnh bản bộ binh mã làm phản, sau đó sẽ cùng gia đình trốn chạy. Được! Chúng ta hãy nghỉ ngơi đã, nhưng phải đề phòng chúng chạy. Nếu Trương Thanh chạy thì srẽ không chạy đường bộ, vì quân ta trấn đóng hết rồi. Y sẽ chạy theo đường thủy. Tại Đăng-châu có một Hải đội Hán, không biết họ có theo y không ?
                    – Không ! Trương Thanh bắt các quan tại huyện ký giấy chống Tô thái thú. Hải đội trưởng không chịu ký, y bị giết ngay tại chỗ. Thủy thủ thấy chúa tướng bị giết, họ liền nhổ neo. Hải đội có 10 chiến thuyền, 8 cái chạy được, hiện neo ở gần đây chờ lệnh. Để tôi gọi Hải đội phó đến hầu tướng quân.
                    Lát sau Hải đội phó vào trướng hành lễ :
                    – Hải đội phó Đăng-châu Trần Như-Ý xin tham kiến Đại-tướng quân.
                    Đào Kỳ gật đầu :
                    – Thì ra Hải đội phó là người Việt, quê của người ở đâu ?
                    – Thưa tiểu nhân ở Thiên-trường, thuộc trang Vị-hoàng.
                    – Thế nhân huynh có anh em gì với Trần Quốc-Hương tiên sinh không ?
                    – Thưa đó là thúc phụ tiểu nhân.
                    – Tôi đã có dịp lưu lại trang Thiên-trường mấy ngày được Trần sư bá dạy dỗ. Xin nhân huynh cho biết, thủy thủ là người Hán hay người Việt, họ có tuân lệnh nhân huynh không ?
                    _ Trần Như-Ý thấy Đại-tướng quân ngọt ngào và có tình thân với gia đình mình, thì mừng lắm :
                    – Thưa Hải đội có 200 người, Hải đội trưởng là người Hán, bị Trương Thanh bắt giết cùng hai thủy thủ. Cộng thêm 18 người bị bắt giữ là 21 người. Hiện còn 175 người đều tuân lệnh tôi, tất cả đều là người Việt.
                    Phùng Vĩnh-Hoa ghé tai Đào Kỳ nói nhỏ mấy câu, Đào Kỳ gật đầu :
                    – Thay mặt Lĩnh-Nam vương, kể từ lúc này tôi cử Hải đội phó làm Hải đội trưởng Đăng-châu. Trần nhân huynh tiến cử người có tài đức làm Hải đội phó.
                    Trần Như-Ý chắp tay :
                    – Đa tạ Đại tướng quân !
                    Đào Kỳ ngồi ngay ngắn lại :
                    – Nếu Trương Thanh chạy sẽ chạy bằng đường thủy. Y không biết chúng tôi có mặt tại đây. Vậy chúng sẽ làm như ngu, dốt cho hải thuyền chạy về hướng Nam. Chúng ta mải bao vây ba chiến thuyền, chúng sẽ dùng dân thuyền chạy về hướng Bắc, sau đó sẽ lên bờ trở về Trung-nguyên. Ý đồ của y cho rằng chúng ta tưởng chúng chạy về phương Nam mà thôi, vì về hướng Bắc, nước ngược, thuyền đi rất khó. Ta phải giả ngu, mắc kế chúng, ta mới dễ dàng bắt được cả bọn.
                    Chàng tiếp :
                    – Vậy Như-Ý huynh chia Hải đội ra làm hai : 4 chiến thuyền chuyển lên phía Bắc Đăng-châu, 4 chiếc khác xuôi xuống Nam Đăng-châu. Tất cả dàn hàng ngang sông, cấm bất cứ thuyền bè nào qua lại. Ai trái lệnh cứ giết không tha. Nhưng có Lưu Chương làm phản theo Trương Thanh, nên trên thuyền Trương Thanh thế nào cũng có y. Võ công y rất cao, vậy phiền sư tỷ Lê Chân theo đoàn thuyền phía Nam. Sư tỷ Đàm Ngọc-Nga, sư tỷ Thiều-Hoa theo đoàn thuyền phía Bắc. Tôi đoán Trương Thanh sẽ chia làm hai để chạy, một nửa sẽ làm nghi binh chạy về phía Nam, còn đích thân y sẽ chạy lên phía Bắc. Mình sẽ làm như mắc mưu, khi gặp thuyền phía Nam ta sẽ đánh rất gắt, quyết không cho đi, còn thuyền phía Bắc ta đánh cầm chừng. Khi nào Lưu Chương xuất hiện, sư tỷ Thiều-Hoa sẽ đấu chưởng với y. Công lực của sư tỷ hiện giờ hơn hẳn Lưu Chương, vậy sư tỷ dụ y tới mạn thuyền rồi đánh y rơi xuống nước, để tôi có kế bắt sống. Nếu sư tỷ tìm bắt được Trương Thanh xin bắn tên lửa làm hiệu.
                    Hoàng Thiều-Hoa là vương phi nàng được mọi người trọng vọng, nay được cậu Tiểu sư đệ ra lệnh, nên thấy vui vui, ra đi.
                    Đào Kỳ lại nói với Phùng Vĩnh-Hoa :
                    – Sư tỷ đi đón bá phụ. Ngày mai chiếm Đăng-châu, bá phụ phải cầm quyền ngay. Huyện Đăng-châu không nên một ngày không có chủ.
                    Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu :
                    – Được tôi lên đường ngay.
                    Đào Kỳ cho gọi Giao-long nữ vào. Nàng thấy Trần Như-Ý, thì kêu lên :
                    – Sư huynh, người ở đây à ?
                    Anh em gặp nhau mừng mừng, tủi tủi.
                    Đào Kỳ dặn Giao-long nữ :
                    – Sư muội cùng ta đi thám thính Đăng-châu. Nhất thiết sư muội không được ra tay...Bởi tính sư muội ưa nghịch ngợm.
                    Trần Quốc cười :
                    – Lỡ người ta đánh tiểu muội, tiểu muội cũng phải chịu hay sao ?
                    – Được, nếu người ta đánh thì sư muội được phản công.
                    Chàng dặn dò Tôn Mạnh ít câu, rồi cơm nước, chờ trời tối cùng Trần Quốc theo ngả rừng vào Đăng-châu. Trong huyện lỵ vắng bóng người qua lại. Chàng đi về phía trang Hiển-minh, tới phía Đông chỗ hàng rào thấp, chàng dắt Trần Quốc vượt rào vào trong. Đường sá trong trang chàng thuộc làu nên không bị lạc. Đi một lát tới đaÏi sảnh, nơi Đào Thế-Hùng ở. Phía trước sân, Đào Phương-Dung đang đứng nhìn trời. Vốn sủng ái cô em họ, chàng rón rén đến bên cạnh, đánh một chưởng vào vai. Phương-Dung giật mình đẩy chưởng về sau chống đỡ. Chàng bắt lấy chưởng rồi hai tay ôm chặt lưng nàng. Phương-Dung hoảng hốt giật mạnh tay thoát ra, nhưng không được. Nàng móc chân về sau đá vào hông Đào Kỳ, Đào Kỳ vận khí chịu một cước. Phương-Dung thấy đá một cước mà đối phương không hề hấn gì, nàng thất kinh hồn vía hỏi :
                    – Người là ai ?
                    Đào Kỳ nói khẽ vào tay nàng :
                    – Ta là tướng cướp tới đây kiếm vàng !
                    Đào Phương-Dung quát :
                    – Người không phải là cướp. Cướp không có võ công bằng người.
                    Đào Kỳ bật cười thành tiếng, buông nàng ra. Phương-Dung thoát ra được, nhìn lại thấy anh mình, nàng đánh nhẹ vào vai Đào Kỳ :
                    – Anh làm em hết hồn. Tại sao anh lọt vào đây ? Vào nhà mau, bố em có chuyện lo lắng.
                    Sau đại hội Tây-hồ, Đào Thế-Hùng được Trưng Nhị và Lê Chân tới thăm, hai người nhờ ông khuyên Đào Thế-Kiệt đừng kết tội Thiều-Hoa lấy chồng Hán, và nhất là bớt cứng rắn cho hai con ra làm việc với người Hán để nắm binh quyền trong tay, chờ khi khởi binh đã có lực lượng sẵn. Ông đồng ý cử hai con là Hiển-Hiệu và Quý-Minh ra đảo. Việc ở đảo xong hai người theo Đào Kỳ đến Lục-hải. Rồi từ Lục-hải hai người đi thẳng Đăng-châu chứ không ghé Luy-lâu. Hai người đã tường trình mọi việc cho ông rõ. Nghe hai con kể chuyện, lòng ông mừng rỡ tưởng như nhìn thấy ngày Lĩnh nam phục quốc không còn bao xa nữa. Ông vội rời Đăng-châu, đi liên lạc với nhữnhg người ở trang Văn-lạc của Đào Kỳ, lo sắp đặt kế hoạch cho việc khởi nghĩa. Khi từ Văn-lạc trở về, ông được biết Hiển-Hiệu Quý-Minh và vợ ông được mời vào huyện đường, rồi bắt trói giữ làm con tin. Trương Thanh yêu cầu ông đứng ngoài cuộc tranh chấp giữa y và Nghiêm Sơn. Tuy không biết tường tận những việc mới xảy ra ở Luy-lâu, như việc Nghiêm Sơn bao vây Thái-hà trang, giải thoát Tô Phương, nhưng ông lờ mờ hiểu đã có xích mích giữa Tô Định với Trương Thanh. Vì lo cho tính mệnh vợ với hai con, ông cũng phải đem tráng đinh phòng thủ trang ấp mình.
                    Nay thấy Đào Kỳ xuất hiện thuật hết các biến chuyển mới, ông mới võ lẽ. Là người đa mưu, túc trí, quyết đoán mau lẹ, ông bảo Đào Kỳ :
                    – Phương-Dung ở nhà giữ trang, còn ta với cháu và Giao-long nữ đi thám thính hai chiến thuyền coi sao rồi hãy quyết định kế hoạch.
                    Đào Kỳ đồng ý, thế là ba người lần trong đêm tối đi đến mé sông. Hai chiến thuyền đậu sát bờ, trên thuyền có ánh đèn chiếu ra. Hai tấm ván từ thuyền nối liền với bờ được rào kỹ bằng bằng những dây mây đầy gai.
                    Đào Kỳ bảo chú :
                    – Chú trấn trên bờ, cháu với Trần Quốc xuống thuyền xem sao.
                    Chàng cùng Trần Quốc hai người ra bãi sông bơi nhẹ đến sát thuyền, rồi bám dây neo, trèo lên thuyền. Đào Kỳ hiểu rõ lối kiến trúc chiến thuyền Hán, chàng và Giao-long nữ tiến đến đằng lái. Qua cửa sổ khoang có ánh đèn, ghé mắt nhìn vào, chàng thấy ngồi bên trong có 4 người đàn bà ăn mặc sang trọng, một khoảng 50 tuổi, còn 3 người khoảng 20-25tuổi. Cạnh đó là Trương Thanh-Mai, con gái Trương Thanh, chàng đã biết mặt.
                    Chợt Trương Thanh-Mai lên tiếng :
                    – Mẫu thân, thân định mai chúng ta lên đường. Nhưng chạy đâu bây giờ ? Con thấy trên sông, cả hai phía Nam, Bắc đều có chiến thuyền của họ ngăn cản, làm sao chúng ta đi được ?
                    Người đàn bà lớn tuổi đáp :
                    – Con đừng hoảng sợ, ngày mai Lưu thúc thúc ra lệnh đốt huyện Đăng-châu, lùa dân chúng xuống thuyền chạy về cả hai ngã Bắc, Nam. Thủy thủ trên các chiến thuyền có hạn làm sao kiểm soát hết? Thừa cơ hỗn loạn ta sẽ trà trộn với dân mà đi.
                    Một người đàn bà trẻ hỏi :
                    – Như vậy lính Tế-tác ngày mai sẽ đi lùa dân chúng trong huyện ?
                    – Đúng thế.
                    Lại thấy người đàn bà khác tiếp lời :
                    – Chúng ta sợ là sợ Sư bộ binh của Tôn Mạnh, chứ còn Hải đội chỉ có gần 200 người, chia làm hai thì sợ gì ? Nguyên một mình Lưu thúc cũng đã đủ đánh chúng tan nát, lại còn chị Tường-Quy nữa võ công đâu kém gì ai ?
                    Đào Kỳ nghe nhắc đến Tường-Quy tim chàng lại đau nhói một cái. Chàng vẫy Trần Quốc bơi vào bờ, cả ba sau đó trở về trang Hiển-minh. Đào Kỳ thuật cho Đào Thế-Hùng nghe đối thoại trên thuyền, ngẫm nghĩ một lúc chàng tiếp :
                    – Thưa chú, cháu nghĩ vấn đề bắt Trương Thanh không khó nữa, chỉ làm sao tránh đổ máu mà thôi. Theo chú năm tốt trưởng có thật tâm theo Trương Thanh hay không ?
                    Đào Thế Hùng lắc đầu :
                    – Trong 5 tốt trưởng thì 3 là đệ tử của chú, còn 2 là người Hán. Cả hai người này chưa chắc đã theo y. Điều khó khăn là thím và hai em bị lọt vào tay chúng.
                    Đào Kỳ quyết định :
                    – Đêm mai chúng ta ra tay trước, xin chú cho tráng đinh chuẩn bị sẵn. Đợi cháu trở về điều quân cứu thím và các em. Sau đó chú cho vây huyện đường,. Tại huyện đường chỉ có gần 100 người, chúng ta khống chế dễ dàng. Bốn tốt canh phòng bốn phía, chỉ cần chúng không tiếp cứu huyện đường. Còn hai tốt của người Hán cháu sẽ cho bao vây.
                    Chàng lại nói với Giao-long nữ :
                    – Sư muội ra bờ sông, lên hai chiến thuyền, làm sao cắt đứt những dây giương buồm. Nhớ cắt làm nhiều đoạn, để họ không nối được, rồi xuống nước phá bánh lái.
                    Giao-long nữ cười :
                    – Chỉ có việc dễ như vậy sao ?
                    Đào Kỳ gật đầu :
                    – Dễ, nhưng tất cả mọi ngườn không ai làm được, trừ sư muội.
                    Đào Kỳ sau đó kiếu từ Đào Thế-Hùng cùng Giao-long biến vào đêm tối. Về tới bản doanh, các tướng sĩ vẫn ngồi chờ lệnh. Đào Kỳ phân công :
                    – Chúng ta phải đánh Đăng-châu ngay bây giờ. Sư huynh Tôn Mạnh đem 2 tốt lên phía Bắc Đăng-châu lục soát kỹ, sẽ thấy mấy cỗ xe ngựa dấu trong rừng. Phải bắt sống phu xe và giữ ngựa, xe. Khi thấy Trương Thanh bỏ thuyền lên bờ tìm chỗ dấu ngựa, xe. Sư trưởng phải bắt hết không cho một người chạy thoát. Cố tránh giết người, cấm không cho quân sĩ cướp bóc, hãm hiếp đàn bà con gái. Trái lệnh chém tại chỗ.
                    – Lữ trưởng lữ 1, dẫn bản bộ binh mã tiến vào cửa Nam Đăng-châu. Tốt trưởng ở đó là người Hán, hãy dùng lời chiêu dụ rằng nếu đầu hàng sẽ được khoan hồng. Nếu y không chịu hàng, phải bao vây chờ lệnh không được tự động chém giết.
                    Chàng ngừng lại đoạn tiếp :
                    – Còn các Lữ trưởng khác bao vây vòng ngoài, ai chạy ra bắt hết, tập trung một chỗ dù đàn bà trẻ em cũng vậy.
                    Điều quân xong, Đào Kỳ trở lại trang Hiển-minh, đã thấy Đào Thế-Hùng chuẩn bị xong tráng đinh, ra lệnh âm thầm tiến đến huyện đường. Ông cũng viết ba phong thư sai người đưa đến 3 đệ tử đang giữ chức vụ tốt trưởng trấn giữ 3 cửa Tây, Bắc, Đông dặn phải án binh bất động không tiếp cứu huyện đường.
                    Ông với Đào Kỳ tiến về huyện đường. Là huyện úy, ông thuộc hết mọi ngõ ngách, ông lựa một chỗ bóng cây, cùng Đào Kỳ nhảy vào sân. Ông khẽ bảo Đào Kỳ :
                    – Hai em bị giam trong công đường, do lính Tế-tác canh giữ. Bây giờ chú cháu mình đánh thẳng vào tất cứu được.
                    Hai người tời sát trước cửa công đường, có hai tên lính cầm đao canh giữ. Đào Kỳ vọt lên, chộp cổ hai tên bóp mạnh. Chúng phát hiện ra chàng, vừa định kêu thì cổ họng tắt nghẽn. Chàng xách hai tên ra bụi cây, dí dao vào cổ hỏi :
                    – Nếu chúng mày kêu lên một tiếng ta giết chết. Ta hỏi chúng mày : huyện lệnh Trương Thanh ở đâu ?
                    Một tên đáp :
                    –Ở công đường với Lưu Chương.
                    – Hai công tử con Đào huyện úy bị giam ở đâu ?
                    – Giam ở phòng giam sở Tế-tác.
                    Đào Kỳ xé áo chúng nhét vào miệng, dùng giây lưng trói lại bỏ vào bụi hoa, đe dọa :
                    – Nằm yên, nếu lên tiếng ta chém đầu. Ta chỉ bắt Trương Thanh mà thôi, không việc gì đến ngươi. Sáng mai ngươi sẽ được tha.
                    Chàng cùng Đào Thế-Hùng đến sở Tế-tác, trước phòng giam có một đội binh Hán cầm vũ khí đi đi lại lại canh phòng. Chàng nhảy vèo đến nơi. Véo véo véo, chàng phóng ba chỉ đã đánh ngã ba tên. Trong khi đó Đào Thế-Hùng dùng chưởng đánh bật cửa nhà tù, ông nhảy vào trong đánh lửa soi rõ. Nhà tù trống rỗng. Bên ngoài Đào Kỳ cũng thanh toán xong đám lính sở Tế-tác. Đào Thế-Hùng lại mở các cửa phòng giam bên cạnh, cũng không thấy các con đâu.
                    Ông hoảng hốt hỏi Đào Kỳ :
                    – Thế này là thế nào ?
                    Đào Kỳ cũng giật mình :
                    – Chúng ta bị mắc mưu Lưu Chương, chúng bắt giam thím và các em một nơi, rồi phao lên là ở sở Tế-tác hầu đánh lừa ta. Bây giờ phải đánh thẳng vào công đường.
                    Lúc đó binh Hán đã báo động, đèn đuốc đốt sáng trưng. Đào Kỳ bảo chú :
                    – Chú xuất hiện là đủ, cháu ẩn mặt tùy nghi hành động.
                    Đào Thế-Hùng Lấy một mũi tên lửa bắn lên, lệnh cho đệ tử bao vây huyện đường.
                    Quân Hán xuất hiện, chĩa tên vào Đào Thế-Hùng. Lưu Chương, Trương Thanh xuất hiện. Lưu Chương cười :
                    – Đào huynh! Tôi không bắt Đào huynh theo tôi, chỉ cần huynh án binh bất động. Thế mà Đào huynh không giữ lời, đến đây định giải cứu phu nhân và hai lệnh lang phải không ? Ba người hiện ở một nơi rất an toàn, không ở trong phủ này đâu !
                    Phía ngoài tráng đinh reo hò bao vây bốn phía huyện đường. Không thấy quân tiếp viện, biết việc không xong, Trương Thanh hướng vào Đào Thế Hùng :
                    – Phiền Đào huynh mở lối ra sông, khi lên thuyền rồi chúng tôi sẽ tha phu nhân và hai công tử ngay.
                    Đào Thế-Hùng đành phất tay ra hiệu, tráng đinh mở lối. Trương Thanh, Lưu Chương dẫn theo một số người tiến về bờ sông. Đám Hán binh giật lùi, hướng tên về phía sau đề phòng.
                    Đào Kỳ từ mái nhà nhảy xuống sân nói với chú :
                    – Như vậy ta đã phá hỏng ý đồ đốt huyện lùa dân của chúng. Bọn chúng như kiến bò chảo nóng, chạy đâu cho thoát? Ta hãy lục soát huyện đường tìm thím và hai em đã.
                    Đào Thế-Hùng cho tráng đinh tiến chiếm huyện đường, lục soát khắp nơi, vẫn không thấy ba người. Ông chợt vỗ đùi kêu lên :
                    – Thôi rồi ! Ta ngu quá! Chúng giam người dưới thuyền rồi.
                    Đào Kỳ cùng chú chạy ra bờ sông, thì hai chiến thuyền cùng hàng chục dân thuyền đã rời bến. Hai người vội lấy hai dân thuyền đuổi theo. Đào Thế-Hùng bơi về phía Nam. Còn Đào Kỳ bơi về phía Bắc. Một lúc sau Đào Kỳ đã thấy phía thượng lưu, ba chiến thuyền dàn thành hàng ngang sông, đèn đuốc sáng rực, thủy thủ gươm giáo, cung tên sáng ngời. Thấp thoáng dưới ánh lửa, Đàm Ngọc-Nga, Phùng Vĩnh-Hoa đứng trên đài chỉ huy.
                    Trên hai chiến thuyền chạy trốn. Lưu Chương đứng ở mũi chỉ huy đội binh Hán bắn tên sang chiến thuyền Thiều-Hoa. Thình lình Lưu Chương phi thân sang chiến thuyền Đàm Ngọc-Nga, y phóng chưởng tấn công. Đàm Ngọc-Nga vung kiếm trả đòn. Võ công Lưu Chương thuộc loại thượng thừa, không thua gì Đào Thế-Hùng, trong khi võ công Đàm Ngọc Nga chỉ bình thường. Vì vậy, qua mấy chiêu đã thấy nàng thất thế, phải nhảy lui về phía lái. Lưu Chương dồn công lực, định phóng chưởng đánh nàng rơi xuống sông. Thình lình phía sau y, một Hán binh quăng vào y một cuộn dây, y vội né tránh, nhờ thế Đàm Ngọc Nga chạy thoát. Lưu Chương bỏ Đàm Ngọc-Nga vọt lên đài chỉ huy định khống chế thuyền trưởng, nhưng mới tới lưng chừng y chợt thấy có luồng gió mạnh như cuồng phong tạt vào mặt. Hoảng kinh y vội giơ song chưởng ra đỡ, tay y tê dại. Y nhìn đối thủ, thì ra là một thiếu phụ trẻ, quần đen áo vàng sắc nước hương trời. Y ngẩn người ra như phỗng :
                    – Ối trời ơi ! Từ thuở sinh ra đến giờ, ta chưa từng thấy ai đẹp như nàng, mà võ công dũng mãnh vào hàng thượng thừa. Chiêu thế dường như thuộc phái Cửu-chân, nhưng còn có vẻ mạnh hơn Đào Thế-Hùng.
                    Y vội hít vào một hơi, phóng ra một chưởng. Hoàng Thiều-Hoa đón đở rồi phản công lại liền. Hai người quấn lấy nhau mắ đấu. Đúng ra với bản lãnh Thiều-Hoa hiện giờ, chỉ cần vài chiêu nàng đã có thể thắng Lưu Chương, nhưng nàng mới học các chiêu số do Đào Kỳ truyền lại, nên chưa thuần thục đủ kinh nghiệm. Trải qua vài chục chiêu, nàng dồn Lưu Chương về phía mạn thuyền. Y thấy yếu thế, quật một chưởng rồi cười lớn :
                    – Mỹ nhân ơi ! Ta chịu thua ngươi, ta đi đây.
                    Nói rồi y nhảy ùm xuống sông. Tên Hán binh quăng dây để giải cứu cho Đàm Ngọc-Nga lúc nãy cũng nhảy theo xuống nước.
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #40
                      Hồi 39

                      Hay là khuất núi đi rồi,
                      Nàng cho anh biết, anh về thắp hương.
                      (Ca dao)


                      Đào Kỳ ngạc nhiên tự hỏi : tại sao trong đám Hán binh lại có người bản lãnh phi thường như thế ? Chàng lệnh cho thuyền chèo lại gần, bây giờ nhìn rõ hơn, tên Hán binh đang vật lộn với Lưu Chương. Lưu Chương tỏ ra thạo thủy tính, nhưng còn thua tên Hán binh nhiều. Chỉ một lát sau, y bị tên Hán binh dìm xuống nước, cho uống đầy bụng rồi trói y lại. Trói Lưu Chương xong, tên Hán binh vọt người lên cao như cá chép vượt vũ môn, đáp xuống thuyền, đoạn cầm đầu dây giật mạnh một cái đã thấy Lưu Chương bay bổng lên rơi xuống sàn. Đào Kỳ nhìn kỹ tên Hán quân thấy lưng y quen quen, mà chàng không nhận ra hắn là ai. Bỗng thấy ánh đuốc của một thủy thủ soi gần mặt y, chàng phì cười : Mình thật ngu, thì ra là Giao-long nữ.
                      Đám phản loạn trên thuyền bị bắt hết chỉ có bốn dân thuyền là thoát được về hướng Bắc. Đào Kỳ sai tra xét đám tù binh : Nam có, nữ có, cả người già và trẻ con, nhưng tuyệt nhiên không thấy Trương Thanh. Lục soát dưới hầm chiến thuyền, chàng tìm được thím và hai em, chàng vội cởi trói và tìm lời an ủi, đồng thời sai người báo tin ngay lập tức cho Đào Thế-Hùng.
                      Hải đội trưởng Trần Như-Ý báo cáo :
                      – Thuyền chúng tôi ít, thuyền địch nhiều nên chỉ bắt được chiến thuyền với 5 dân thuyền, đánh chìm 12 dân thuyền, nhưng có 4 dân thuyền thoát được, vậy xin đại tướng quân cho quân đuổi theo.
                      Đào Kỳ ban lời khen rồi lắc đầu :
                      – Không cần thiết, chúng không chạy thoát đâu. Ta cứ từ từ theo sau cũng được.
                      Chàng sai bắn tên lửa lên trời báo hiệu cho Lê Chân biết đã xong mọi việc, và quay hỏi Đàm Ngọc-Nga :
                      – Sư tỷ nghĩ xem có khi nào bọn Trương Thanh chạy về phía Nam không ?
                      Ngọc-Nga lắc đầu :
                      – Không! Có lẽ chúng thoát trong bốn dân thuyền kia.
                      – Như vậy chúng sẽ bị bắt hết. Thôi chúng ta trở về huyện đường.
                      Truyền trở lại huyện đường đã thấy Lê Chân cùng các chiến thuyền neo tại bến Đăng-châu. Chàng dặn Trần Như-Ý tiếp tục tuần hành trên sông rồi cùng mọi người lên bờ. Huyện đường do tráng đinh trang Hiển-minh chiếm đóng, ba tốt do đệ tử Đào Thế-Hùng chỉ huy cũng rút về. Tốt quân Hán trấn đóng cửa Nam cũng đã đầu hàng. Chàng để việc kiểm điểm tù binh cho Đào Thế-Hùng. Cuộc tấn công thành công mỹ mãn, phía tấn công không ai bị thiệt mạng, phía theo Trương Thanh thiệt hại 8 người trong lúc hỗn chiến với đệ tử của Đào Thế-Hùng.
                      Đào Thế-Hùng tập họp văn võ bá quan cùng quân sĩ huyện Đăng-châu lại để ủy lạo. Ông cho biết chỉ hai người bị tội là Trương Thanh và Lưu Chương, còn tất cả chỉ vì bắt buộc phải thừa hành nên được miễn tội và giữ nguyên chức vụ cũ. Bá quan, tướng sĩ Đăng-châu hoan hô vang dậy, rồi ai về nhà nấy. Tới gần sáng mới thấy Tôn Mạnh trở về, y dẫn theo khoảng 30 người bị bắt trong đó có vợ, tỳ thiếp và con gái Trương Thanh là Trương Thanh-Mai, cùng họ hàng thân thuộc. Duy có Trương Minh-Đức và Tường-Quy không thấy đâu. Đào Thế-Hùng tra hỏi Trương Thanh, được biết con trai và con dâu đi trên dân thuyền bị đánh chìm trên sông, chắc bị chết đuối. Đào Kỳ thất kinh hồn vía, truyền lệnh cho hải đội trưởng Trần Như-Ý phải tìm cách vớt mọi người chết chìm, và mang nộp tất cả tử thi.
                      Đáng lý xong việc Đăng-châu, Đào Kỳ phải trở về Luy-lâu ngay. Nhưng chàng viện cớ do đất Đăng-châu chưa yên để lần lửa ở lại chờ tin Tường-Quy. Chàng cho ngựa lưu tinh báo tin thắng trận với Lĩnh-nam vương. Hai ngày sau, sứ giả từ Luy-lâu đến trao lệnh bảo chàng phải về ngay. Sứ giả mang sắc phong của Lĩnh-nam vương cử Phùng Đại-Tín, cha của Phùng Vĩnh-Hoa thọ chức huyện lệnh. Dân chúng được tin reo hò mừng rỡ, vì Phùng Đại-Tín là người tài, đức thương dân, đồng thời huyện Đăng-châu có huyện lệnh và huyện úy cùng là người Việt.
                      Chiều hôm ấy, Trần Như-Ý báo cáo vớt được tất cả 23 người, nhưng không có thi thể của Tường-Quy và Minh-Đức. Hẳn hai người chết đuối, xác trôi đi xa, trước khi Trần Như-Ý chăng lưới vớt xác.
                      Đào Phương-Dung hiểu tâm sự anh, nàng an ủi :
                      – Tường-Quy chết chìm như vậy là may. Trương Thanh làm phản, cả nhà tất bị chém. Liệu anh có can đảm chém Tường-Quy không ?
                      Đọan nàng sai làm mâm cơm với đầy đủ lễ vật, đem ra bờ sông để Đào Kỳ tế Tường-Quy. Đào Kỳ đứng trước bàn thờ khói hương nghi ngút, tưởng nhớ lại khuôn mặt ôn nhu của Tường-Quy, hình ảnh buổi đầu tiên gặp gỡ ở Thái-hà trang, rồi cùng nhau du lịch cố đô Cổ-loa. Tới khi chàng đi Đăng-châu thăm nàng, bị đánh một chưởng, đâm một kiếm,... và chàng với Tường-Quy ở trên hoang sơn một đêm với nhau.
                      Đợi anh khóc cạn hết nước mắt. Đào Phương-Dung mới kéo anh về huyện đường. Chàng sai đóng gông giải cả gia đình Trương Thanh và Lưu Chương về Luy-lâu.
                      Phùng Vĩnh-Hoa nói :
                      – Chị thấy ở đây chưa an, lòng người chưa khuất phục, thì chú em và cha chị làm sao làm việc được ? Muốn người các thuộc cấp Hán nghe lệnh phục tùng, phải cần đem chém hai người để thị oai.
                      Thấy Đào Kỳ ngần ngừ, nàng lại nói :
                      – Đức Khổng phu tử làm tướng nước Lỗ có ba ngày, ngài sai chém gian thần Thiều Chính-Mão. Đệ tử hỏi sao thầy là người nhân nghĩa mà giết người ? Ngài trả lời: Cần giết một người, để cứu vạn người. Vậy bây giờ cần giết hai tên Trương Thanh và Lưu Chương để làm gương cho bọn Hán quy phục Huyện-lệnh và Huyện-úy.
                      Đào Kỳ đành chấp thuận. Chàng tập trung dân chúng ngoài chợ, kể tội hai tên Trương Thanh và Lưu Chương, sai chém đầu, đem bêu khắp các trang. Còn gia đình giải về Luy-lâu cho Nghiêm Sơn định đoạt.
                      Trước khi cùng Đào Kỳ trở về Luy-lâu, Phùng Vĩnh-Hoa dặn cha :
                      – Bố với chú Đào Thế-Hùng giờ đây như chân với tay, giờ con không còn phải lo lắng gì nữa. Chỉ khi nào có lệnh khởi binh. Bố phải ở nhà giữ huyện cho chắc, để mình sư thúc tiến quân lên Luy-lâu, bố đừng vì nóng lòng mà cả hai bỏ đi.
                      Đào Kỳ cho lệnh Tôn Mạnh rút quân trước, rồi cùng Thiều-Hoa, Lê Chân, Vĩnh-Hoa, Giao-long nữ lên ngựa trở về Luy-lâu. Tới nơi đã thấy Nghiêm Sơn và Tô Định thân ra đón. Nghe Thiều-Hoa tường thuật chi tiết trận đánh, vương gật đầu tỏ ý hài lòng. Vương là một vị tướng không hiếu sát. Từ khi giúp Quang-vũ đánh dư trăm trận, nhưng bao giờ vương cũng lựa đường lối ít đổ máu nhất. Khi Thiều-Hoa thuật đến chỗ Tường-Quy và Trương Minh-Đức chết chìm mất xác, vương không tin :
                      – Ta nghi tiểu sư đệ thả hai người trốn chạy thì đúng hơn. Địa vị ta là tiểu sư đệ chắc cũng thả cho họ.
                      Nhưng khi nghe thuật Đào Kỳ ra sông tế Tường-Quy, Trưng Nhị nói :
                      – Vậy thì không phải rồi, nếu Tam đệ thả họ đi, chắc y sẽ chịu lỗi với đại ca, chứ y không làm trò hề, bày cuộc tế vọng, lừa dối chúng ta đâu.
                      Thiều-Hoa hiểu tính tình Đào Kỳ, vì hai chị em sống bên nhau đã lâu, nàng cũng đồng ý với Trưng Nhị.
                      Nghiêm Sơn tưởng thưởng quân sĩ hữu công. Khi điểm danh sách tù binh không thấy tên Trương Thanh và Lưu Chương, chàng ngạc nhiên và được Thiều-Hoa cho biết, Đào Kỳ đã nghe lời Vĩnh-Hoa chém hai người giữa chợ để răn chúng. Vương nhìn Phương-Dung rồi nói với Thiều-Hoa :
                      – Ở nhà ta với Dung muội cũng ước tính Phùng Vĩnh-Hoa sẽ chém hai tên này chứ không phải Đào Kỳ.
                      Vương giao Tô Định xử lý tù nhân gia đình Lưu, Trương và dùng của cải hai tên này, để phủ tuất nạn nhân của cuộc chiến ở Đăng-châu. Xong chàng quen lệ hỏi :
                      – Còn ai khiếu nại điều gì không ?
                      Giao-long nữ Trần Quốc dơ tay :
                      – Ai có công cũng được thưởng hết. Tiểu muội lặn dưới nước, đục thuyền, cắt dây buồm, bắt sống Lưu Chương sao không được vương huynh thưởng gì hết ?
                      – Thế sư muội muốn ta thưởng gì ?
                      –Tiểu muội muốn vương huynh gia phong cho làm đô đốc thủy quân !
                      – Không được, việc quân không phải việc đùa. Tiểu sư muội mới có 17 tuổi sao lĩnh được chức Đô đốc? Đợi qua năm 18 tuổi thành người lớn đã !
                      Giao-long vùng vằng không chịu :
                      – Thế xưa kia, tổ sư phái Sài-sơn là Phù-đổng Thiên-vương mới có 7 tuổi đã làm nguyên soái đánh giăc Ân thì sao ? Nếu đợi 18 tuổi thì còn gì là đất nước. Và nếu đại ca bảo tiểu muội là trẻ con, sao đại ca lại dùng trẻ con đánh giặc ? Bất công, tiểu muội nhất định không chịu !
                      Nghiêm Sơn đành dỗ :
                      – Thôi được, đợi đại quân tới Quế-lâm, ta sẽ giao đội Hải quân cho sư muội chỉ huy. Trong cuộc viễn chinh này chỉ có hải quân Quế-lâm tham dự. Còn hải quân Nhật-nam, Giao-chỉ, Cửu-chân không dùng tới. Họ chỉ lo nhiệm vụ tải lương mà thôi.
                      Ngày xuất quân đã đến. Các đoàn quân Hán từ khắp Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam tề tựu về. Các huyện lệnh, huyện úy đều có mặt. Kỵ binh, bộ binh dàn ra. Ở giữa đã dựng sẵn một đài cao. Cờ xí ngợp trời.
                      Nghiêm Sơn cỡi bạch mã duyệt binh, rồi vương lên đài :
                      Một viên văn quan đọc hịch xuất quân cho ba quân tướng sĩ nghe. Nghiêm Sơn cũng vận khí đơn điền lớn tiếng dặn quân sĩ phải hết lòng, không được trộm cướp, hiếp đáp dân chúng, bất cứ ai vi lệnh sẽ bị chèm không tha. Sau đó ba hồi chiêng, trống vang lên, pháo lệnh nổ liên hồi. Một giáp sĩ dẫn con trâu ra chém trước cờ, lấy chậu hứng máu dâng lên Nghiêm Sơn. Vương quay qua Phương-Dung :
                      – Phiền Quân-sư viết chữ cho !
                      Phuông-Dung hoa tay cầm bút viết đại tự :
                      Lĩnh-nam vương, Tả tướng quân Nghiêm
                      Nghiêm Sơn ra lệnh để đầu trâu lên đàn tế cờ. Cuộc tế theo nghi thức xong, các tướng dẫn đoàn quân của mình ai về trại đó nghỉ, ngày mai lên đường sớm.
                      Nghiêm Sơn ra lệnh :
                      – Đào Kỳ lĩnh ấn Chinh-viễn đại tướng quân, thống lĩnh 3 Quân bộ, 3 Sư kỵ với các cao nhân theo trợ giúp là : Nam-hải nữ hiệp, Trường-yên nữ hiệp, Thiên-thủ viên hầu, cùng 3 sư muội là Trần Năng, Lê Chân, Phương-Dung. Tới Côn-minh dừng lại đợi ta.
                      – Sư thúc Đinh Công-Thắng lĩnh ấn Hổ-oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo Giao-chỉ gồm : 4 Quân bộ, 3 Sư kỵ đi cánh thứ nhì. Phụ giúp có các cao nhân Khất đại phu, Lê Ngọc-Trinh, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa.
                      – Sư thúc Triệu Anh-Vũ lĩnh ấn Chinh-di đại tướng quân, thống lĩnh đạo Cửu-chân gồm : 3 Quân bộ, 3 Sư kỵ. Cao nhân theo trợ giúp gồm : Nữ hiệp Phùng Vĩnh-Hoa, Đàm Ngọc-Nga và Vương phi Hoàng Thiều-Hoa.
                      – Kỳ dư tất cả đi theo đạo trung quân do vương thống lĩnh !
                      Trời tháng mười, gió heo may len lỏi trong sương mai. Cây cỏ tiêu sơ. Miền Bắc Giao-chỉ lạnh buốt xương. Đào Kỳ căn dặn các tướng giữ kỷ luật nghiêm minh, cấm nhũng nhiễu dân chúng. Đi được hai ngày, quân đến một thung lũng ở giữa hai dãy núi hùng vĩ, cao chót vót. Phương-Dung nhìn núi cao, rừng già hỏi :
                      – Không biết đây là đất Giao-chỉ hay đã sang Quế-lâm rồi ?
                      Trần Năng chỉ ngọn núi cao chót vót :
                      – Qua rặng núi này, tới một con sông nữa là địa phận Tiên-yên, nơi hành hiệp của đệ tam sư thúc ? Vì vậy người có mỹ hiệu là Tiên-yên nữ hiệp. Suốt dãy Đông-triều bị ảnh hưởng của Cấm-sơn hay Ma tần lĩnh. Cách đây mấy trăm năm Trung-tín hầu Cao Nỗ tục danh Ông Nồi phá quân Đồ Thư, giết hơn 50 vạnquân Tần ở đây. Tương truyền quân Tần bị vây hãm, rồi bị Hầu dùng hỏa công thiêu chết trong khe núi. Xác chết bốc mùi thối hơn trăm dặm, do đó khi gió lùa đi từ Cấm-sơn ra gây nên bệnh thời khí. Dân chúng dị đoan cho rằng hồn quân Tần ra hại người, nên lập miếu thờ và gọi Cấm-sơn là Ma-tần lĩnh.
                      Ghi chú.
                      Địa phận này, ngày nay thuộc vùng Chi-lăng.
                      Đi được một lát, Lê Chân chỉ ngôi miếu lớn gần đường, Đào Kỳ và mọi người vào miếu. Dân chúng đang đốt nhang vái xì xụp. Họ thấy quan binh thì tránh dạt sang bên có vẻ sợ hãi. Chợt có người nhận được mặt Lê Chân reo lên :
                      – Đông-triều nữ hiệp ! Thì ra là người. Người đi đâu đến đây ?
                      Lê Chân phủ dụ họ và hỏi han sự tình. Dân chúng đồng nói :
                      – Cách nay mấy ngày, gió chướng từ Ma Tần lĩnh thổi qua, cả vùng bị bệnh, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng tôi phải cúng quảy những con ma Tần. Khổ lắm cô ơi ! Bọn ma này hoành hành từ lâu đời rồi.
                      Đào Kỳ hỏi Trần Năng :
                      – Hùng phu nhân, người thử xem họ bịnh gì,
                      Trần Năng đến chẩn mạch, xem lưỡi hỏi han mấy con bệnh hiện diện, một lát trở lại nói :
                      – Tôi xem mạch, thấy Phù mà xác, lưỡi khô, bợn lưỡi vàng, mồ hôi xuất, người sốt, mắt đỏ, tiện bí. Rõ ràng bị Phong nhiệt làm cảm mạo, chứ không có ma Tần, ma Hán nào làm ra cả. Muốn chữa trị không khó đâu !
                      Lê Chân hành hiệp ở vùng này nhiều năm, nàng coi dân chúng như tay chân ruột thịt, vội nối với Trần Năng :
                      – Sư muội! Trước đây nhiều lần chị muốn phá ngôi đền này nhưng sợ dân chúng phản đối. Nếu em chữa trị khỏi bệnh cho họ, chị có cách làm cho dân chúng tự động phá miếu.
                      – Muốn giải Phong nhiệt, phải dùng Ma hoàng phát mồ hôi. Mồ hôi ra Phong nhiệt được giải. Thêm hạnh nhân cho bớt ho, bớt sưng cổ. Cam thảo làm vị thuốc hòa các vị khác với nhau. Sau cùng Thạch cao để hạ nhiệt xuống. Sở dĩ có người chết vì Phong nhiệt nhập bì mao làm bế tắc phế khí, rồi đưa đến mũi nghẹt, hầu sưng, hơi thở bế tắc, nhiệt độc nhập tim, làm tim ngưng đập. Vì vậy dùng Ma hoàng, Thạch cao, Hạnh nhân giải Phong nhiệt, sẽ khiến Phế khí thông được với bì mao. Bệnh nhân khạc ra đờm được thì bệnh khỏi.
                      Bệnh Phong nhiệt mà Trần Năng nói đó ngày nay gọi là Cúm. Theo Tây-y là chứng grippe do siêu vi trùng gây ra. Với y học Việt-Hoa ngày xưa, bài thuốc của Trần Năng chữa trị có kết quả vẹn toàn.
                      Trong quân Hán tại Lĩnh-Nam có nhiều thầy thuốc đi theo, họ có sẵn những vị thuốc căn bản thường dùng. Trần Năng cho gọi quân y sĩ lấy một ít, dân chúng tìm hái những vị có sẵn. Nàng sai lấy thùng lớn, nấu thuốc cho dân chúng uống. Vài khắc sau, những người khỏe, bệnh nhẹ, khạc ra đờm hết ho, hết sưng cổ. Những người mê man tỉnh dần nhiệt hạ, ăn uống biết ngon.
                      Đào Kỳ căn dặn chư tướng tiếp tục đưa quân lên đường, còn chàng ở lại với bộ chỉ huy chờ trị bệnh cho dân. Chiều Lê Chân nói :
                      – Chúng ta nên đi thăm Ma Tần lĩnh, để biết dấu vết chiến trường cổ, nơi Trung-tín hầu đánh tan quân Tần.
                      Mọi người theo Lê Chân vào một khu lòng chảo, thấy trê góc núi có một tấm bia đá rất lớn, tạc một bài ký. Phương-Dung lớn tiếng đọc :
                      Đại phàm, vạn sự ở thế gian đều do thượng đế sắp đặt. Xưa kia vua Đế Minh cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh gặp Tiên nữ, kết hôn với nhau, sinh được Thái-tử đặt tên là Lộc Tục. Vua Đế Minh ở với Tiên ít lâu rồi trở về phương Bắc. Ngài truyền các quan lập đàn tế trời rồi thề rằng :
                      "Ta nhất sinh có nhiều cung tần mỹ nữ, nhưng chỉ sinh có một Thái tử. Sau lại kết hôn với Tiên nữ ở Động-đình hồ mà có thêm Lộc Tục. Vậy ta phong Thái tử làm vua phương Bắc đến núi Ngũ-lĩnh. Từ núi Ngũ-lĩnh về Nam, gọi là Lĩnh-nam, phong cho Lộc Tục làm vua. Trước đất trời nguyện rằng : Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương ".
                      Kể từ đấy thiên hạ chia đôi. Bắc do vua Đế Nghi cai trị. Nam do Thái tử lên ngôi, hiệu là Kinh-dương vương. Nước Lĩnh-nam phía Bắc tới Động-đình hồ, phía Nam giáp với nước Hồ-tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, Đông giáp biển Nam-hải. Kinh-dương vương kết hôn với con gái của Động-đình quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm. Thái tử Sùng Lãm kế tục ngôi vua lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết hôn với Công chúa Âu Cơ con vua Đế Lai, sinh được trăm con. Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng làm vua, hiệu là Hùng vương, đặt tên nước là Văn-lang. Lại phong 99 con mỗi người làm chủ một ấp, vì vậy đất Lĩnh-nam mới có trăm họ. Đó là nguồn gốc Bách-việt vậy.
                      Nước Văn-lang chia làm 15 bộ :
                      Văn-lang Tân-hưng
                      Lục-hải Giao-chỉ
                      Hoài-hoan Châu-diên
                      Vũ-định Ninh-hải
                      Cửu-chân Cửu-đức
                      Phú-lộc Vũ-ninh
                      Dương-tuyền Nhật-nam
                      Việt-thường
                      Nước Văn-lang truyền được 88 đời vua. Kể từ năm Nhâm-tuất, Kinh-dương vương lập quốc đến năm Quí-mão bị vua An-dương bản triều chinh phật vong quốc dài 2622 năm. Danh hiệu 88 đời coné lưu truyền được 18 đó là :
                      1. Lục-dương vương (Kinh-dương vương)
                      2. Hùng-hiển vương (Lạc-long quân)
                      3. Hùng-quốc vương
                      4. Hùng-diệp vương
                      5. Hùng-hy vương
                      6. Hùng-huy vương
                      7. Hùng-chiêu vương
                      8. Hùng-vi vương
                      9. Hùng-định vương
                      10. Hùng-nghi vương
                      11. Hùng-trinh vương
                      12. Hùng-vũ vương
                      13. Hùng-việt vương
                      14. Hùng-anh vương
                      15. Hùng-triệu vương
                      16. Hùng-tạo vương
                      17.Hùng-nghi vương
                      18. Hùng-tuyên vương
                      Năm Đinh-hợi, niên hiệu An-dương vương thứ 44, Tần-thủy hoàng sai tướng Đồ Thư mang 500 ngàn quân sang đánh Bách-việt, chiếm đất phía Nam Ngũ-lĩnh. Đặt ra 3 quận Quế-lâm, Nam-hải và Tượng-quận. Vua An-dương cử ta đem quân chống giặc Tần. Tháng 11 năm ấy giết Đồ Thư, phá tan quân Tần ở chỗ này.
                      Than ôi ! Tần-thủy hoàng diệt 800 chư hầu Trung-nguyên, làm vua một vùng đất rộng chưa cho là đủ, quên lời thề tổ tiên, xâm chiếm Lĩnh-nam, nên Đồ Thư mới bị giết.
                      Ta nhân ngày lành tạc bia này cho đời sau biết.
                      Niên hiệu An-dương thứ 45, năm Mậu Tuất tháng 3 ngày rằm làm bia này.
                      Bình-bắc đại tướng quân tước Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung ghi.
                      Trần Năng tính đốt ngón tay nói :
                      – Tính từ khi lập quốc đến đời vua An-dương vương là 2.622 năm. Vua An-dương ở ngôi được 50 năm thì bị Triệu Đà chiếm mất. Từ ngày chúng ta mất nước đến nay là 243 năm. Như vậy nước Lĩnh-nam chúng ta lập quốc được 2.915 năm.
                      Lê Chân ít đọc sách, không thạo địa dư hỏi :
                      – Nước Hồ-tôn là nước nào vậy ?
                      Thiên-thủ viên hầu đáp :
                      – Tiếp giáp với phía Nam của Nhật-nam. Bây giờ đổi quốc hiệu là Chiêm-thành. Nước này có nền văn hiến không phải tầm thường. Võ công của họ lấy dương cương làm căn bản.
                      Đào Kỳ thở dài :
                      – Nước Lĩnh-nam chúng ta vốn có cương thổ, trước kia từ hồ Động-đình phía Nam núi Ngũ-lĩnh. Nhà Tần sang đánh, chúng ta phải lùi về vùng Giao-chỉ ngày nay. Đồ Thư chiếm đất đai phía Bắc lập ra Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải giao cho Triệu Đà trấn nhậm. Khi Triệu Đà khởi binh diệt vua An-dương chiếm Âu-lạc. Lĩnh-nam lại được thống nhất. Không biết bây giờ chúng ta phục quốc, chỉ đòi lại Quế-lâm, Cửu-chân và Giao-chỉ. Hay là đòi hết đất đai từ phía Nam núi Ngũ-lĩnh ?
                      Lê Chân khảng khái rút kiếm chém tảng đá bể đôi nói :
                      – Phải chiếm lại hết ! Một tấc đất của tổ tiên cũng không bỏ.
                      – Nhưng sư tỷ không biết đó thôi. Từ hơn hai trăm năm nay người phương Bắc xuống lập nghiệp tại vùng Nam-hải, Tượng-quận. Còn người Việt ta bỏ xuống Giao-chỉ, Quế-lâm. Nay muốn chiếm lại đất e khó khăn lắm.
                      Trần Năng kiên quyết :
                      – Sư thúc, một tấc đất cũng phải đòi. Người Hán đến Tượng-quận, Nam-hải đồng hóa người Việt, nay ta cứ đòi rồi đồng hóa lại họ chứ có gì đâu ?
                      Nam-hải nữ hiệp nhìn Trường-yên đại hiệp lẩm nhẩm gật đầu, tỏ ý thông cảm với nhau. Bởi thế hệ của bà đã trên 60 tuổi, sống lâu dài trong tăm tối vong quốc. Bị người Hán đô hộ khổ nhục tưởng không sống được. Thế hệ bà, mọi người chỉ mong người Hán để yên thân, nay hy vọng phục quốc lóe lên, việc phục hồi Lĩnh-nam, chỉ trong một sớm, một tối. Đám trẻ lại muốn đi xa hơn, tức là đòi lại vùng đất phía Nam Ngũ-lĩnh. Bà thấy lòng bừng bừng như uống rượu say, mỉm cười sung sướng một mình. Lê Chân liếc mắt thấy hôm nay nét mặt sư phụ tươi hồng trẻ hẳn lại hàng chục tuổi. Nàng ngạc nhiên :
                      – Sư phụ ! Không hiểu sau hôm nay sư phụ lại cao hứng thế ? Sư phụ có thể cho chúng đệ tử biết không ?
                      Nam-hải nữ hiệp mỉm cười :
                      – Sư phụ thấy con chém đá, Trần Năng lại lập chí đòi đồng hóa lại người Hán, thì biết chúng con hơn chúng ta nhiều, vì vậy ta vui lắm.
                      Sau hai ngày, dân chúng hầu hết đã khỏi bệnh. Ba vị trang trưởng thân đến tạ ơn Trần Năng, Đào Kỳ và Lê Chân.
                      Phương-Dung nói với Lê Chân và ba vị trang trưởng :
                      – Đông-triều nữ hiệp và ba vị trang trưởng ở vùng này sao lại để cho tên giăc bại trận Đồ Thư làm hại dân chúng ? Vừa qua có hàng chục người chết vì chúng, mấy trăm người bệnh hoạn. Nay Hùng phu nhân ra tay cứu chữa khỏi, như vậy trận đấu giữa Hùng phu nhân và đám ma Tần đã rõ. Vậy nữ hiệp còn đợi gì mà không đánh cho chúng mấy roi để lần sau không còn hoành hành hại người ?
                      Các trang trưởng nghe vậy mừng lắm. Họ cho rằng nếu trừ tiệt được đám cô hồn Đồ Thư, để khỏi phải cúng tế như một vị thần thì sung sướng biết mấy.
                      Lê Chân cùng ba vị trang trưởng tụ tập dân chúng trước bàn thờ Đồ Thư. Mở cửa thấy hai con ngựa gỗ, trên có hai tướng cầm đao oai phong lẫm liệt. Ở giữa bệ Đồ Thư ngồi trên ngai lưng đeo kiếm. Lê Chân lớn tiếng nói với Đào Kỳ :
                      – Trước kia Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung giết Đồ Thư tại đây, Trung-tín hầu là tổ sư sáng lập phái Cửu-chân. Vậy hiền đệ là đệ tử phái Cửu-chân hãy thay ngài đánh chúng vài chưởng !
                      Đào Kỳ lùi lại vận khí, phát một chiêu trong Thiết-kình phi chưởng đánh ngay tượng Đồ Thư. Bình một tiếng tượng tan nát. Đào Kỳ đánh tiếp hai chưởng, đập tan nát cả người lẫn ngựa hai viên tướng hầu. Mọi người thất kinh hồn vía vì thấy máu văng khắp đền tanh hôi chịu không được.
                      Lê Chân chỉ vào pho tượng nát vụn, đầm đìa máu quát :
                      – Thế là chúng mày chết lần nữa. Từ nay không được hại người.
                      Phương-Dung đề nghị dân chúng tạc tượng Trung-tín hầu thờ để trấn áp tên giặc Đồ Thư. Ba vị trang trưởng và dân chúng hoan hỉ làm theo.
                      Hôm sau mọi người lên đường, Đào Kỳ thắc mắc hỏi Lê Chân :
                      – Sư tỷ! Hôm qua sư tỷ bảo tôi phóng chưởng đánh tượng Đồ Thư, tôi làm theo. Không ngờ bên trong lại có máu là nguyên cớ gì ?
                      Lê Chân cười khúc khích :
                      – Trước đó tôi đã cho người đổ máu lợn vào bụng tượng. Lúc Đào đệ phóng chưởng đánh tượng, máu văng tung tóe, dân chúng càng tin hơn, chứ có gì lạ đâu !
                      Phải mất ba ngày đường nữa, đoàn quân mới tới biên giới Quế-lâm. Từ xa Đào Kỳ đã thấy ba vị võ tướng cỡi ba tuấn mã đứng đầu đoàn thiết kỵ uy vũ, phía sau dân chúng tụ họp đông đủ chờ đón. Lại gần thì ra Thái-thú Hà Thiên, Đô-úy Đặng Thi-Kế vá Đô sát Trương Đằng-Giang.
                      Hà Thiên là tam hiệp trong Hợp-phố lục hiệp, hôm Nghiêm Sơn phong Hà làm Thái-thú, Đào Kỳ thấy Hà Thiên miễn cưởng nhậm chức Thái-thú theo lệnh Nghiêm Sơn. Chàng nói riêng với ông :
                      – Tam ca đừng lấy việc phải gò ép nơi quan trường, không được tiêu dao làm buồn. Nghiêm đại ca là người suy tính thâm sâu vô hạn. Đại ca bao giờ cũng trọng ý riêng của Tam ca, từ xưa chưa bao giờ làm trái ý. Nay ép Tam ca làm Thái-thú chắc có lý do quan trọng lắm. Em biết được lý do đó. Tam ca là người nghĩa hiệp ưa cứu kốn phò nguy, vậy mà đất Quế-lâm là quê hương của Tam ca. Từ mấy trăm năm nay người Việt bị coi như chó lợn. Nay Nghiêm đại ca thân là Lĩnh-nam vương không thể trực tiếp thay đổi cục diện Quế-lâm, phải nhờ đến Tam ca là người khảng khái, lại là con dân Việt không sợ người Hán; may ra cục diện Quế-lâm đổi khác đi. Gia dĩ bên cạnh Tam ca còn có Đô-sát, Đô-úy là người đồng tâm. Chắc Tam ca không sợ gì bọn quan lại người Hán quen đè đầu, đè cổ dân Việt.
                      Hà Thiên nghe Đào Kỳ biện luận, mặt tươi hẳn lên, hăm hở trở về Quế-lâm nhận chức Thái-thú. Bây giờ gặp lại Đào Kỳ, cả hai mừng mừng, tủi tủi.
                      Đào Kỳ là Chinh-viễn đại tướng quân, thống lĩnh binh mã toàn cõi Lĩnh-nam, chức lớn hơn Thái-thú, Đô-sát, Đô-úy nhiều. Nhưng thúc phụ chàng với Đặng Thi-Kế là bạn thân. Trương Đằng-Giang lại là sư thúc của Phương-Dung, còn Hà Thiên là sư huynh của Nghiêm Sơn… nên chàng vẫy mọi người xuống ngựa tiến lại ra mắt ba người.
                      Trần Năng là tiểu đệ tử của Khất đại phu, được ông cưng chiều đã quen, tính lại tinh nghịch, nàng vừa làm lễ ra mắt Đặng Thi-Kế, vừa nói :
                      – Sư huynh, từ hôm sư huynh làm Đô-úy Quế-lâm đến giờ, việc quan bận rộn mà em thấy sư huynh trẻ lại đến mười tuổi. Không biết sư huynh có thêm chị dâu mới người Quế-lâm nào không ?
                      Thời bấy giờ ở tuổi 40-50 đã đạo mạo, nghiêm túc lắm. Với tuổi đó, họ là ông nội, ông ngoại một đàn cháu. Huống hồ Đặng Thi-Kế vang danh thiên hạ về võ công, về hiệp nghĩa. Ông lại là thân phụ Đặng Thi-Sách, lãnh tụ số một Lĩnh-nam chủ trương phản Hán phục Việt. Thế mà Trần Năng cũng trêu ông. Nhưng Trần Năng là lương y, nàng đùa, mà là sự thật. Đặng Thi-Kế quả trẻ ra gần 10 tuổi. Suốt mấy năm bị sư thúc Lê Đạo-Sinh cầm tù. Ông buồn vì tù thì ít, buồn vì sư thúc tham danh vọng, mưu đưa Lĩnh-nam làm tôi tớ Hán thì nhiều. Khi Đào Kỳ cứu ông ra, được biết con và dâu là Trưng Trắc tiếng tăm vang lừng thiên hạ vì uy tín phản Hán phục Việt. Tự nhiên ông cảm thấy có bổn phận nghe lệnh những người cầm đầu như Khất đại phu, Nam-hải nữ hiệp đã đành. Ông sẵn sàng nghe lệnh cả Trưng Nhị, Phương-Dung. Đặng Thi-Sách thố lộ với ông, lợi dụng được phong chức tước, Nghiêm Sơn cắt cử anh hùng Lĩnh-nam nắm lấy các chức vụ Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát để chuẩn bị khởi nghĩa nếu cuộc cầu phong với Quang-vũ không thành. Vì vậy ông sẵn sàng hy sinh danh tiếng để nhận cái chức Đô-úy Quế-lâm. Ngay khi tới Quế-lâm, ông cùng Hà Thiên với Trương Đằng-Giang lấy lý do Nghiêm Sơn vừa được tấn phong, ba người ban 5 điều lệnh :
                      – Thả tù,
                      – Tha thuế những người còn thiếu,
                      – Những người nghèo khổ, nay phải bán thân làm nô lệ, nay được giải phóng về với gia đình.
                      – Ấn định lại mức tô cho tá điền.
                      – Bình đẳng giữa người Hán và người Việt.
                      Từ trước đến giờ theo luật Tiêu Hà, nông dân tá điền phải nộp một nửa hoa màu cho điền chủ. Nay ba người cải tổ lại : Tất cả nông sản thu được, sau khi trả công cày bừa, gặt hái, tát nước, phân bón và thuê trâu, mới đem chia đôi, chủ một nửa, nông dân một nửa. Trước đó công thợ người Việt chỉ bằng nửa người Hán, đã thế người Việt không được quyền làm sở hữu chủ ruộng đất, chỉ có quyền làm tá điền. Nay do ban hành chính sách mới, người Việt như mới được làm người, nên Đặng Thi-Kế cảm thấy khoan khoái trong lòng, ông trẻ lại vì vậy.
                      Sau khi làm lễ ra mắt xong, Chinh-viễn đại tướng quân ra lệnh đóng quân ngoài thành, rồi cùng mọi người trở vào Phiên-ngung, thủ phủ Quế-lâm, dọc đường Đặng Thi-Kế hỏi Trần Năng :
                      – Tiểu sư muội, sư thúc đi theo đạo quân nào ?
                      Nghe hỏi đến sư phụ, nàng vội lập nghiêm :
                      – Đa tạ sư huynh, sư phụ em đi trong đạo quân của Đinh Công-Thắng đại hiệp, có lẽ hai ngày nữa mới tới.
                      Vào trong Phiên-ngung, đã thấy đủ mặt quần hào và 3 tướng quân chỉ huy 3 Quân-bộ cùng 3 tướng chỉ huy 3 Sư-kỵ chào đón. Đó là đạo Quế-lâm.
                      Quân đội thời Tây-hán chia làm hai loại : Một là quân của Thiên-tử do các tước vương, công, hầu chỉ huy. Đó là đạo quân trừ bị quốc gia. Khi Nghiêm Sơn được lệnh kinh lược Lĩnh-nam, tuy quyền lớn nhưng không có quân trong tay. Nên các Thái-thú coi như không có, muốn làm gì thì làm. Sau 8 năm với tài thao lược, vương gom hết binh quyền Lĩnh-nam về một mối và giao đệ nhất hiệp Lưu Nhất Phương chức Uy-viễn đại tưống quân thống lĩnh. Mới rồi Quang-vũ cần đánh Thục, gia phong vương tước, quyền Tả tướng quân, được điều động binh mã khắp thiên hạ. Vương đã có sẵn binh mã Hán-trung, Trường-an do Ngô Hán chỉ huy; binh mã Kinh-châu, Ích-châu, Lương-châu do Đặng Vũ, Sầm Bành chỉ huy. Tất cả hiện đang cầm chân quân Thục. Vương lấy binh mã Lĩnh-nam trao quyền chỉ huy cho Đào Kỳ. Binh mã Lĩnh-nam lại được vương chia làm 6 đạo. Ba đạo đã được vương cử người làm đại tướng quân thống lĩnh :
                      – Đạo Nhật-nam, Long-nhượng đại tướng quân thống lĩnh 3 Quân bộ, 3 Sư kỵ.
                      – Đạo Giao-chỉ, Hổ-oai đại tướng quân Đinh Công-Thắng thống lĩnh 4 Quân Bộ, 4 Sư kỵ.
                      – Đạo Cửu-chân do Chinh-di đại tướng quân Triệu Anh-Vũ thống lĩnh 3 Quân bộ, 3 sư kỵ. Triệu Anh-Vũ là sư thúc của Nghiêm Sơn, vốn dòng dõi Triệu Đà. Sợ nhân tâm bất phục, vương cử đích thân vương phi Hoàng Thiều-Hoa đi theo đạo quân này cùng Đàm Ngọc-Nga và Phùng Vĩnh-Hoa.
                      Chỉ còn quân ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận vẫn còn trực thuộc Lưu Nhất-Phương, chờ ngày hội quân ở Quế-lâm mới quyết định tướng chỉ huy.
                      Tất cả bá quan văn võ đều biết Đào Kỳ được phong Chinh-viễn đại tướng quân, thống lĩnh quân 6 quận Lĩnh-nam theo Lĩnh-nam vương tăng viện Trung nguyên phạt Thục. Hơn nữa chàng lại là em của vương phi, võ công thao lược gồm tài. Vì vậy các tướng chỉ huy các Quân, Sư đều kính cẩn ra mắt chàng. Đào Kỳ hòa nhã hỏi thăm quân tình, nên được các tướng kính phục.
                      Thái-thú Hà Thiên mời Đào Kỳ về dinh, cả hai đàm đạo rất tương đắc. Hà Thiên là Tam hiệp trong Hợp-phố lục hiệp, đệ tử của thân phụ Nghiêm Sơn là Nghiêm Bằng. Từ thiếu thời Hà Thiên theo sư phụ hành hiệp, cùng với 5 huynh đệ lừng danh Hợp-phố lục hiệp. Khi Nghiêm Bằng lâm chung định truyền chức chưởng môn cho Đệ nhất hiệp Lưu Nhất-Phương là đại đệ tử. Giữa lúc ấy nhũ mẫu của Nghiêm Sơn đến thăm bệnh. Bà đuổi hết con cháu, cùng đệ tử ra ngoài, để đàm thoại riêng với ông. Hơn một giờ sau, Nghiêm Bằng gọi con cháu, đệ tử tới để di chúc truyền chức chưởng môn Quế-lâm cho Nghiêm Sơn. Ông lại dặn riêng hai sư đệ là Lương Hồng-Châu và Triệu Anh-Vũ cùng Hợp-phố lục hiệp rằng :
                      – Khi ta qua đời, các sư đệ, các đệ tử phái Quế-lâm nhất thiết phải nghe lời Nghiêm Sơn. Nếu thấy y hành động phản dân, hại nước, khi sư diệt tổ, cũng đừng vội chống đối. Vì y lãnh một di mạng cơ mật do ta truyền lại, y phải hành động như thế để đi đến thành công, rạng danh môn phái. Đừng thấy y nhỏ tuổi mà coi thường.
                      Nghiêm Sơn vốn mồ côi mẹ từ bé. Vương được nhũ mẫu nuôi nấng, dạy dỗ còn hơn con đẻ. Vương kính yêu nhũ mẫu và tuyệt đối nghe lời bà. Một hôm thấy bà ôm mặt khóc thảm thiết, vương hỏi nguyên do, bà chỉ lắc đầu không trả lời. Ba ngày sau, bà gọi vương đến nói chuyện suốt một ngày.
                      Sau đó, Nghiêm Sơn mời Hợp-phố lục hiệp tới và yêu cầu Lục-hiệp cùng chàng đi Trường-sa cứu Thế-tử Lưu Tú con của Trường-sa vương Lưu Hiệp.
                      Bảy người lên đường, cứu được hai anh em Lưu Tú. Nghiêm Sơn lại kết huynh đệ với Lưu, giúp Lưu khởi binh ở Côn-dương, đoạt 5 quận, chiếm Kinh-châu, diệt Vương Mãng thắng Xích Mi. Đến đây chỉ còn cần bình định vài sứ quân. Nghiêm Sơn bàn với Quang-vũ để chàng kinh lược Lĩnh-nam gây thanh thế. Quang-vũ nghe, phong chàng làm Lĩnh-nam công. Hợp-phố lục hiệp là người Việt không muốn lãnh quan chức Hán triều, viện tinh thần hiệp nghĩa không muốn bị gò bó, nhưng sẵn sàng theo Nghiêm Sơn bình định đất Lĩnh-nam. Hai tháng trước Nghiêm Sơn được Quang-vũ gia phong vương tước, điều động binh mã phạt Thục. Vương nghĩ phải giữ vững căn bản là Lĩnh-nam nên quyết định cử Lưu Nhất-Phương làm Đại-tư mã Lĩnh-nam, lĩnh chức Uy-viễn đại tướng quân, tước Long-biên hầu. Còn 5 sư đệ của Lưu Nhất-Phương được cử làm Thái-thú 5 quận Quế-lâm, Tượng-quận, Cửu-chân, Nhật-nam, Nam-hải. Cả sáu anh em Hợp-phố lục hiệp nhất quyết từ chối. Nghiêm Sơn phải đem di chúc của cha ra mới thuyết phục được Lục-hiệp. Cả Lục-hiệp cùng nhớ lại rằng khi sư phụ cử Tiểu sư đệ làm chưởng môn, đã để di chúc kỳ lạ bắt mọi người tuân lệnh chàng, dù chàng có hành động phản quốc, hại dân, đều biết rằng chàng được ủy thác một sứ mạng gì lớn lắm.
                      Tam hiệp Hà Thiên nhờ Đào Kỳ phân tích mới hơi biết sứ mạng của Nghiêm Sơn do sư phụ giao phó. Bây giờ chàng mới biết sư phụ nhìn xa trông rộng.
                      Thời An-dương Quế-lâm vốn thuộc lãnh thổ Âu-lạc. Khi Đồ Thư chiếm lĩnh, giao cho Triệu Đà cai trị. Triệu Đà là người Trung-nguyên, y tham vọng muốn lập cơ nghiệp lâu dài, y trở về Trung-nguyên quy tụ dân trộm cắp, du thủ, du thực đem qua Quế-lâm cấp phát ruộng đất cho chúng làm ăn. Y chỉ áp dụng luật pháp nhà Tần cho người Hán, còn người Việt y coi như man di, mọi rợ. Người Hán muốn đánh thì đánh, muốn giết thì giết. Bọn trộm cắp người Hán được thể đàn áp người Việt khổ sở đến không sống nổi. Từ ngày ấy, dân Lĩnh-nam chia làm hai, thù hận, chém giết lẫn nhau. Khi Triệu Đà phản Hán, thành lập nước riêng, y cho dân Việt và Hán bình đẳng. Nhưng sau khi họ Triệu bị diệt, Lĩnh-nam lại trở về chế độ cũ : dân Hán là người cai trị, dân Việt là người bị trị, đời đời thù hận nhau.
                      Hà Thiên kể Đào Kỳ nghe : Khi chàng cùng Đặng Thi-Kế, Trương Đằng-Giang được cử về làm Thái-thú, Đô-sát, Đô-úy quận Quế-lâm, bọn quan lại và các phú gia, địa chủ người Hán thấy cả ba là người Việt tìm cách chống đối.
                      Những ngày đầu, Hà Thiên mời Đặng Thi-Kế và Trương Đằng-Giang tìm cách chỉnh đốn guồng máy cai trị, cùng dung hòa mối thù giữa hai sắc dân Hán, Việt. Trương Đằng-Giang là đại quân tử, chủ trương của ông rõ ràng : Phải bình đẳng giữa Hán và Việt. Người Hán có kẻ xấu, người tốt, cũng như Việt có người quân tử, kẻ tiểu nhân. Theo ông, thủ phạm gây ra thù hận giữa Việt-Hán là bọn Hán lưu manh thiển cận, hai nước lân bang. Chúng nghĩ mình là dân giàu trong nước mạnh, có quyền ăn hiếp nước yếu. Ngược lại, có một đám người Việt thiển cận cũng không kém, chúng vơ đũa cả nắm thù hận tất cả mọi người Hán. Cứ như thế đời đời hai dân tộc Việt-Hán thù hận, chém giết nhau đến bao giờ mới hết ? Ông có rất nhiều bạn Hán cũng đồng ý với ông phải trừng trị những người Hán bạo tàn, lưu manh. Ông ngỏ ý đó với Hà Thiên và Đặng Thi-Kế. Cả ba cùng một nhận định. Họ quyết định cách chức ba huyện lệnh không chịu thi hành cải cách, tiếp tục kỳ thị, tham ô, tàn bạo và đem xử chém. Khi 3 huyện lệnh bị tống giam, ngay chiều hôm đó phủ Thái-thú nhận được danh thiếp của bẩy huyện lệnh khác, cùng 50 phú gia, điền chủ người Hán xin yết kiến, đòi ân xá cho chúng.
                      Thấy người Hán phản ứng mạnh, chàng bàn định cùng Đặng, Trương hai người rồi quyết định : Gửi phúc bẩm về Lĩnh-nam vương xin chỉ thị. Hai ngày sau sứ giả của Lĩnh-nam vương đem lệnh tới : Xử chém 3 huyện lệnh, tịch thu tài sản sung công quỹ. Chính sứ giả sẽ chứng kiến cuộc xử trảm.
                      Bọn tham quan Hán kinh hoàng không dám chống đối cải cách của ba người nữa. Tuy nhiên, mầm chống đối vẫn âm ỉ chưa tàn. Ba người lo lắng tìm cách giải quyết sao cho êm đẹp, vì dân Quế-lâm phân nửa là người Hán, họ nắm hết các chức huyện lệnh, huyện úy, cùng các chức quan trọng trong phủ Thái-thú, Đô-úy,Tế-tác. Ngoài dân chúng, họ là những điền chủ giàu có thế lực, cùng là thương gia tiền rừng, bạc biển. May thay lúc đó có công thư khẩn cấp rằng lệnh của Tả đại tướng quân sẽ hội binh tại Quế-lâm ban lệnh đánh Thục. Ba đạo Nhật-nam, Giao-chỉ, Cửu-chân sẽ hợp với đạo Quế-lâm cùng xuất phát. Riêng hai đạo Tượng-quận và Nam-hải chỉ tướng soái về họp mà thôi, quân sĩ sẽ có lệnh sau. Bây giờ quan lại người Hán thấy đạo quân Nhật-nam đi theo Đào Kỳ hùng tráng, kỷ luật nghiêm minh. Các tướng soái hòa nhã. Trong quân còn có nhiều nữ tướng xinh đẹp. Lại nghe đồn các vị nữ tướng võ công kinh người. Họ đành nhìn nhau tự an ủi.
                      – Thôi đành chịu thua Thái-thú Hà Thiên cho bọn chó Việt được làm người.
                      Hôm sau các tướng sĩ nhập Phiên-ngung. Phiên-ngung vốn là thủ đô nước Nam Việt, Triệu Đà và con cháu đóng đô ở đây gần trăm năm, nên thành trì rộng lớn hơn Long-biên và Luy-lâu. Dân cư đông đúc ngựa xe qua lại tấp nập.
                      Thái-thú Hà Thiên làm tiệc khao quân, tất cả tướng chỉ huy Quân, Sư hai đạo Nhật-nam và Quế-lâm cùng bá quan văn võ được mời dự tiệc tại dinh Thái-thú. Phủ Thái-thú dựa trên bờ sông nước chảy xiết. Trong tiệc, một viên Quân bộ đạo Quế-lâm tiến đến trước Nam-hải nữ hiệp cúi xuống hành đại lễ :
                      – Đệ tử là Minh Giang, xin tham kiến Nam-hải sư thúc, kính chúc sư thúc an khang.
                      Phương-Dung thấy vậy lấy làm lạ tự hỏi : Nam-hiệp là con trưởng, lại là người đứng đầu phái Sài-sơn thì sao lại có người gọi bằng sư thúc ? Viên tướng này là ai ?
                      Riêng Nam-hải nữ hiệp nghe giọng Việt của Minh Giang hơi khác lạ, bà hỏi :
                      – Cháu là đệ tử cao nhân nào, sao ta không nhận ra ?
                      Minh Giang kính cẩn thưa :
                      – Tiểu đồ là đệ tử Trần Nhất Gia Khúc-giang. Sư phụ cháu thường nhắc tới sư thúc. Người lại sặn rằng, trong kỳ hội quân này thế nào sư thúc cũng tới. Phải tìm sư thúc vấn an thay sư phụ.
                      – Thì ra cháu là đệ tử của Đăị sư huynh trong Khúc-giang ngũ hiệp. Các vị sư huynh của ta mạnh khỏe không ?
                      – Sư phụ của đệ tử và bốn vị sư thúc đều khỏe mạnh. Các vị đi Trung-nguyên, không biết để làm gì ?
                      Đào Kỳ thấy Minh Giang có liên quan với võ lâm Lĩnh-nam, chàng ân cần giới thiệu từng người với Minh Giang :
                      – Đây là Trường-yên đại hiệp Cao Cảnh-Minh.
                      Minh Giang thưa :
                      – Tôi được nhge đồn rằng Trường-yên đại hiệp bắn tên xa trăm trượng. Mỗi lần buông tên hai chim nhạn rơi xuống. Nay được tương kiến thật là tam sinh hữu hạnh.
                      Kế tiếp Đào Kỳ giới thiệu thứ tự từng người. Minh Giang chỉ biết Nam-hải nữ hiệp và Phương-Dung. Còn Trần Năng, Lê Chân y chưa được biết. Khi nghe được Đào Kỳ giới thiệu Trần Năng là đệ tử của Khất đại phu, Minh Giang mừng rỡ :
                      – Thì ra sư thúc là đệ tử của Thái sư thúc. Gần đây khắp Nam-hải, Quế-lâm đồn rằng Thái sư thúc thành tiên bay đi chữa bệnh cho dân chúng !
                      Trần Năng cười :
                      – Sự thực không phải sư phụ tôi thành tiên đâu. Chẳng qua người ẩn hiện không chừng. Tính người dễ dãi, khi uống nước suối ngủ rừng. Khi uống rượu ăn thịt. Người lấy việc chữa bệnh làm lẽ sống. Dân chúng kính phục người gọi là Tiên ông. Người cũng sắp tới đây.
                      Minh Giang nói với Đào Kỳ :
                      – Tiểu tướng nghe tin anh hùng võ lâm anh hùng Cửu-chân, Nhật-nam và Giao-chỉ cùng theo Lĩnh-nam vương gia Bắc viện lập công, hầu xin hoàng thượng cho Lĩnh-nam tái lập quốc, thật mừng vô tả. Không biết có vị võ lâm nào thuộc Quế-lâm, Na-hải, Tượng-quận nào tòng chinh chăng ?
                      Đào Kỳ thấy Minh Giang có phong thái giống Nghiêm Sơn, chàng lấy làm thích thú trả lời :
                      – Quế lâm có Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu cùng tòng chinh. Triệu Anh Vũ lĩnh ấn Chinh-di đại tướng quân, còn Lương Hồng-Châu theo cạnh Lĩnh-nam vương. Còn Tượng-quận và Nam-hải chưa thấy.
                      Tiệc tan, Đào Kỳ muốn dò xét dân tình Quế-lâm, Nam-hải nên mời Minh Giang đi chung với chàng. Chàng biết Minh Giang là đệ tử Khúc-giang ngũ hiệp, nên tuy y là người Hán, chàng cũng đặt hết lòng tin tưởng. Trên đường đi Minh Giang hỏi Đào Kỳ :
                      – Đào tướng quân, không biết ý Lĩnh-nam vương gia muốn xin phục hồi Lĩnh-nam như thế nào? Ngài muốn phục hồi gồm tất cả đất Lĩnh-nam cũ gồm 6 quận Nam-ải, Quế-âm, Tượng-uận, Cửu-hân, Nhật-am, Giao-hỉ, hay chỉ xin ba quận mà bỏ Quế-âm, Nam-ải, Tượng-qận ?
                      Đào Kỳ không trả lời mà hỏi ngược lại :
                      – Theo ý đại ca thì nên thế nào ?
                      Minh Giang thở dài :
                      – Đất Quế-âm hiện quá nửa là người Hán. Đất Nam-hûi, Tượng-uận còn tệ hơn nữa. Người Việt bị Triệu Đà cai trị hơn trăm năm, lại bị Hán cai trị hơn 200 năm. Họ bị đàn áp coi như tôi mọi quen rồi, mất cả hùng khí. Riết rồi họ coi cái nhục không hơn chó lợn là việc thường. Đã thế suốt ba quận, dưới huyện là xã, là làng chứ không có chế độ lạc hầu, lạc tướng, nên dân chúng không có người cầm đầu, khó nổi dậy được. Về môn phái chỉ có Quế lâm, Khúc giang là môn phái người Việt. Còn người Hán họ làm chủ ba quận đã lâu đời. Trên quan lại, dưới điền chủ phú gia, đều là người Hán, bây giờ bảo họ phải trực thuộc Lĩnh-nam khó lòng họ chịu theo mình. Cứ coi như vừa rồi Hà thái thú ban hành chính sách mới mà còn bị người Hán chống lại, đến nỗi phải xin lệnh Lĩnh-nam vương mới dám trị tội các tham quan người Hán thì đủ biết !
                      Phương-Dung nghe đến đây cũng nhập cuộc :
                      – Theo ý Minh huynh, nếu Kiến-vũ hoàng đế không chịu cho phục hồi đất Lĩnh-nam, thì ta phải làm gì ?
                      Minh-Giang nói ngay :
                      – Ý dân là ý trời. Chúng ta đã lập đại công đánh Thục. Lại tỏ ý quy phục xin phong. Việc cử quan lại cũng thế, mà để chúng ta tự trị làm một chư hầu cũng thế. Hoàng đế có tốn tiền, tốn gạo gì đâu ? Chẳng qua là một tờ giấy ban chiếu chỉ mà thôi. Nếu như người không chịu thì kiếm trong tay, dân một lòng ta há sợ gì ?
                      Đào Kỳ cảm động hai tay nắm lấy hai tay Minh Giang, cả hai như nghẹn lời không nói được câu nào.
                      Lát sau Minh Giang lại góp ý :
                      – Ý tôi như thế này : Nay mai khi Lĩnh-nam vương tới đây. Đào đại ca đặt vấn đề sẽ lấy quân số ở đâu để bổ sung quân Hán khi bị hao hụt đánh Ích-châu. Lúc đó tôi tình nguyện đưa ý kiến rằng, nếu lấy tráng đinh thì một là chưa kinh nghiệm, hai là phải mất thời gian huấn luyện. Chi bằng lấy trong các địa phương bổ sung. Tỉ như thiếu 300 quân, thì lấy 300 quân Hán ở các lữ địa phương, rồi tuyển 300 tráng đinh thay vào. Đề nghị như vậy chắc vương gia và các đại tướng quân cho rằng tôi sốt sắng, khôn ngoan hết lòng với đoàn quân phạt Thục. Nhưng sự thực lại khác, vì các Thái-thú gửi quân Hán đi, tất phải tuyển các tráng đinh Việt thế vào. Chỉ vài trận là các ữ địa phương trở thành toàn quân Việt. Trường hợp phải bổ sung các tốt trưởng, lữ trưởng cũng thế. Các Thái-thú phải ưu tiên đưa người Hán đi thay.
                      Phương-Dung khen ngợi Minh Giang :
                      – Minh huynh thật là người đa mưu túc kế. Với ý kiến như vậy, chúng ta sẽ thành công.
                      Hai hôm sau đạo Trung-quân của Lĩnh-nam vương mới đến Quế-lâm. Hà thái thú đem bá quan văn võ, cùng nam phụ, lão ấu treo đèn kết hoa, đốt pháo mừng ông vua nhân đức áo gấm về làng.
                      Nguyên năm Đinh-hợi tức 214 trước Tây lịch, nhà Tần cướp đất Lĩnh-nam, trải qua nhà Triệu phản Tần, rồi nhà Hán diệt Triệu lập Lĩnh-nam thành quận, huyện cai trị đã gần 300 năm Dân Lĩnh-nam là kẻ bị trị, dãn chúng nhục nhã vô cùng, người Việt không được làm bất cứ quan chức gì. Mãi cho đến khi Nghiêm Sơn được phong Lĩnh-nam công được toàn quyền kinh lý mọi việc, chàng mới cho người Việt làm tới chức huyện úy, huyện lệnh, trong quân được cử tới cấp sư trưởng. Nay Nghiêm được phong tới tước vương, và cho người Việt giữ cả chức Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát. Đã thế chính vương là người Quế-lâm bảo sao dân chúng không vui mừng hoan hô dậy đất ?
                      Nghiêm Sơn dùng phủ Thái-thú làm đại bản doanh. Bộ chỉ huy của Đại-tư mã Đặng Vũ và Xa-kỵ tướng quân Ngô Hán đã tề tựu đông đủ. Vương hẹn ba hôm nữa sẽ họp tướng lãnh toàn quân, bàn định kế sách. Chiều hôm ấy cơm nước xong, Hoàng Thiều-Hoa hỏi chồng :
                      – Bây giờ đại ca dẫn em về thăm nhà đi chứ ? Em mang tiếng là đồ đệ Đào hầu, lễ nghĩa có thừa, vậy mà lấy chồng đã sáu, bảy năm cũng chưa biết gia đình nhà chồng ra sao, nghĩ thực xấu hổ !
                      Nghiêm Sơn nắm tay nàng cảm động :
                      – Đó là lỗi tại anh. Vì bận rộn, nên chưa đưa em về thăm nhà. Họ hàng nhà anh rất đông, lại thêm người trong môn phái. Bây giờ chắc họ tụ hội ở trang ấp, chờ chào mừng chúng mình.
                      Đoạn vương cho mời hai vị sư thúc Triệu Anh-Vũ và Lương Hồng-Châu, rồi tất cả lên ngựa về thăm nhà. Trang ấp của thân phụ Nghiêm Sơn tên Nhạn-sơn, nằm ở phía Nam thành Phiên-ngung. Phụ thân vương vốn là một đại tướng quân ở Trường-sa thời Tây-Hán. Ông về Quế-lâm dưỡng lão, ông giàu có, gia sản súc tích, tráng đinh, đệ tử trong ấp hàng trăm người. Khi từ trần ông để lại cho vương. Cách đây 8 năm, khi Nghiêm Sơn được phong Lĩnh-nam công. Thái-thú Quế-âm đã tuyển thợ khéo cất phủ đệ cho vương. Nhưng chưa bao giờ chàng về Nhạn-sơn mà chỉ ở Long-biên và Luy-lâu thuộc Giao-chỉ. Kịp khi được gia phong tước phong tước vương, Thái-thú Hà Thiên lại xuất công quỹ tu sửa, dinh thự trở thành một vương phủ tráng lệ. Thái-thú lại cắt cử quân lính, mã phu, thị nữ phục dịch. Khi mọi việc vừa hoàn tất thì kịp Nghiêm Sơn dẫn binh phạt Thục về qua.
                      Hôm nay vương cùng vương phi và hai sư thúc một Hán, một Việt cùng là hai đại tướng quân và sư huynh là Thái-thú sở tại trở về nhà. Nên dân địa phương náo nức chờ đón ông Vua nhà mình, quang cảnh thực là náo nhiệt. Dân chúng trong trang ấp vừa sung sướng, vừa hãnh diện. Họ hãnh diện vì là con dân thang mộc ấp, họ sung sướng vì theo luật thời bấy giờ, họ được miễn mọi thứ thuế má binh dịch.
                      Nghiêm Sơn có lòng nhân từ, vương không muốn phiền hà dân chúng đón đưa, nên âm thầm dẫn một ít người về thăm nhà không tiền hô, hậu ủng. Vậy mà khi về gần tới trang Nhạn-sơn, đã thấy dân chúng dàn hàng phủ phục hai bên đường chào đón. Đến cửa trang, đã thấy cờ biển rực rỡ, giáp sĩ gươm giáo sáng choang đứng dàn chào. Vương mời các bô lão, nhân sĩ địa phương, đệ tử bản môn vào dinh dự tiệc. Bước vào sảnh đường, vương nói với quan khách :
                      – Nhờ phúc ấm tổ tiên Nghiêm Sơn này được phong Lĩnh-nam vương. Cô không lấy tước vương làm quý, mà lấy việc tạo phúc cho dân làm lẽ chính. Song thân tôi qua đời sớm, nay áo gấm về làng chỉ còn nhũ mẫu. Chữ hiếu là kỷ cương của trời đất. Vậy xin quý vị ngồi uống rượu để vợ chồng tôi vào vấn an nhũ mẫu đã.
                      Đọan vương và Thiều-Hoa bước vào nội đường thăm nhũ mẫu. Hoàng Thiều-Hoa đã được Nghiêm Sơn kể cho nghe rằng vương có một nhũ mẫu, nuôi dưỡng, thương yêu vương từ nhỏ. Vương kính như mẹ đẻ.
                      Đến nội đường, thấy căn nhà mỹ lệ, cột kèo chạm trổ tinh vi. Trước nhà có nữ tỳ đứng hầu, thấy vương gia và vương phi đến, họ vội quỳ xuống vấn an. Nghiêm Sơn khóat tay miễn lễ hỏi :
                      – Má má ta ở trong này phải không ? Người vào thông báo có ta và hiền thê cầu kiến.
                      Hoàng Thiều-Hoa kinh ngạc, vì thời bấy giờ nhũ mẫu là một thứ tôi đòi, vậy mà Nghiêm Sơn gọi bằng má má, tức tiếng dùng để gọi mẹ đẻ. Lại nữa vương là vương gia dù nhũ mẫu cũng phải quỳ đón, tại sao lại phải nhờ nữ tỳ thông báo, xin cầu kiến như đối với một vị thái hậu vậy ?
                      Một lát nữ tỳ ra nói :
                      – Phu nhân mời vương gia và vương phi !
                      Nghiêm Sơn đẩy cửa bước vào. Thiều-Hoa cũng vào theo, nàng thấy một thiếu phụ tuổi khoảng trên 30, nhan sắc diễm lệ, ngồi trên ghế sơn son thiếp vàng. Nghiêm Sơn chạy đến ôm lấy bà gọi :
                      – Má má con về thăm má má đây !
                      Vương vẫy Thiều-Hoa :
                      – Em lại ra mắt má má đi.
                      Thiều-Hoa nghe chồng nói bỡ ngỡ đến ngẩn người ra. Trong tâm nàng nảy không biết bao nhiêu nghi vấn : Dù vương có đến đâu chăng nữa, cũng không thể bất nàng là một vương phi ra mắt một nhũ mẫu, tức một loại tôi tớ. Trước đây vương nói : Nhũ mẫu nuôi sữa vương suốt hai năm liền. Sau này vương sống bên cạnh nhũ mẫu, nên tính tình vương không giống mẹ mà giống nhũ mẫu. Năm nay Nghiêm đã 33 tuổi, ít ra bà cũng khoảng trên dưới 50, chứ sao lại chỉ chừng 30 tuổi ? Cho rằng phụ thân vương là đại tướng quân bỏ tiền mướn nhũ mẫu cho vương, nhưng sao lại có người xinh đẹp đến thế mà chịu đi làm nhũ mẫu ? Nàng thấy bà có sắc đẹp giống Đinh Hồng Thanh, nhu nhã mềm mại, mờ mờ như người trong sương khi có, khi không ?
                      Thiều-Hoa tiến lại, còn đang bỡ ngỡ không biết phải dùng lễ gì ra mắt, bà đã nắm lấy tay nàng, kéo ngồi xuống cạnh bà :
                      – Đẹp đẹp thực ! Trên đời, ta chưa từng thấy ai đẹp như thế này. Xưa kia ta và sư tỷ nổi danh là hai hoa khôi đất Trường-sa, nhưng so với vương phi còn kém xa.
                      Bà lại kéo tai Nghiêm Sơn :
                      – Thằng chó con này, mấy năm không về thăm má má. Thì ra con có vợ đẹp rồi quên má má hẳn ? Ta nghe Quang-vũ chờ công chúa Vĩnh-Hòa lớn lên rồi gả cho con. Khi công chúa được 15 tuổi, Quang-vũ nghe tin con mới cưới vợ, quần thần tâu rằng : Con là Quốc-công, tỳ thiếp bao nhiêu mà không được, cứ gả công chúa Vĩnh-Hòa cho con. Hồi ấy ta nghe Thái-thú Tích Quang cũng mật tấu về rằng vợ con là gái Việt. Con chỉ sủng ái mình nàng, nhất quyết không để ý đến người thứ nhì.
                      Ngừng một chút ngắm nghía Thiều-Hoa, bà tiếp :
                      – Công chúa Vĩnh-Hòa là con gái sư tỷ của ta. Chúng ta đẹp ngang nhau, không ai hơn. Vậy mà ta nghe đâu công chúa còn đẹp hơn mẹ. Ta nghe truyện cứ tiếc cho con mãi. Bây giờ gặp mặt vương phi thấy con chỉ sủng ái mình nàng là đúng. Nếu ta là con, ta cũng hành sử như vậy. Nàng đẹp thực !
                      Rồi bà cười với ThiềuHoa :
                      – Ta nghe vương phi xuất thân danh gia đệ tử, học trò Đào hầu đất Giao-chỉ, nổi danh võ nghệ cao cường, lễ nghĩa văn học đều thông. Nhìn sắc diện vương phi nếu nói ôn nhu, văn nhã cũng có vẽ ôn nhu, văn nhã. Nếu nói có vẻ thanh tao yểu điệu thì cũng có vẽ thanh tao, yểu điệu. Nhưng điều khó kiếm là sắc diện tươi hồng của người tập võ. Hiếm có nữ lưu nào lại vẹn toàn như vương phi.
                      Thiều-Hoa càng ngạc nhiên, khi bà gọi hoàng đế bằng tiếng trống trơn Quang-vũ. Thiên tử cùng Lĩnh-nam vương bà mặc nhiên coi như người dưới. Vậy mà với nàng bà vẫn một điều gọi là vương phi.
                      Nghiêm Sơn tỉ tê tường thuật tất cả những gì xảy ra xung quanh vương. Bà chăm chú nghe, thỉnh thoảng hỏi thêm chi tiết. Cuối cùng căn dặn chàng :
                      – Con cố gắng giúp Quang-vũ. Nó là anh em kết nghĩa với con. Nó làm hoàng đế Trung-nguyên, con làm vua Lĩnh-nam, má má chỉ mong hai đứa thi ân bố đức cho thiên hạ, là má má mát lòng.
                      Bà lại thăm hỏi Thiều-Hoa từng li, từng tí. Bà đứng lên bưng ra cái hộp nhỏ thiếp vàng, rồi mở nắp. Bên trong, có một chiếc vòng ngọc đỏ như máu và một chuỗi hạt trai. Bà cầm hai chiếc vòng ngọc đeo vào hai tay Thiều-Hoa và đem chuỗi hạt trai choàng cổ nàng. Nàng thấy bà đầm ấm, dáng điệu ôn nhu, yểu điệu kỳ lạ. Nàng tự nghĩ : Không biết sao nhũ mẫu của Nghiêm Sơn lại có những thứ trân bảo nhất thế gian này? Bà đeo vào người tặng ta, cũng chẳng cần hỏi xem ta có thuận hay không. Thật kỳ lạ.
                      Bà bước lui ngắm nhìn Thiều-Hoa rồi nói :
                      – Hai chiếc vòng và chuỗi ngọc là kỷ vật của Tiên vương đã tặng má má, bây giờ má má cho con.
                      Thiều-Hoa ngắm cặp vòng, trên có khắc chữ "Chính-hòa tam niên". Nàng giật mình, vì Chính-hòa là niên hiệu Vũ-đế nhà Tây-hán. Kể từ năm Chính-hòa thứ ba đến bây giờ vừa đúng 135 năm !
                      Trọn đêm đó, Nghiêm Sơn và Thiều-Hoa lưu lại trang Nhạn-sơn. Nhũ mẫu mang đàn ra tấu hơn chục nhạc khúc. Thiều-Hoa học văn, học võ đều giỏi, nhưng nàng không có kiến thức nhiều về âm nhạc. Nghe bà tấu hơn 10 khúc nàng chỉ nhận ra có khúc Phượng cầu kỳ hoàng của Tư-mã Tương Như, khúc Dương xuân bạch tuyết của Tiêu Sử và khúc Ly-tao của Khuất Nguyên.
                      Đêm ấy, khi vào trướng với chồng, nàng đem những thắc mắc ra hỏi Nghiêm Sơn, nhưng cũng chỉ được chồng nói sơ lược về nhũ mẫu :
                      – Khi anh được mấy tháng, thân mẫu bị bệnh mất sữa. Nhân thân phụ đi săn gặp nhũ mẫu bị nạn, người cứu bà về nhà. Nhũ mẫu cũng vừa bị mất con, sữa làm căng ngực khó chịu, bà nhận nuôi anh. Từ đấy tình yêu anh quyến luyến bà theo gia đình anh về Quế-lâm. Bà lớn hơn anh đúng 18 tuổi, năm nay vừa đúng 51, song bà là đệ nhất hoa hậu đất Trường-sa, lại giỏi âm nhạc. Tính bà ưa thanh nhàn, thích ẩn dật nên trẻ lâu, vì vậy sắc diện bà tưởng chừng mới 30. Cũng như ái thê của anh, lấy chồng từ thuở 18, đã 8 năm rồi mà vẫn như mới 20 tuổi vậy !
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #41
                        Hồi 40 - Phấn son tô điểm sơn hà

                        Hôm sau Nghiêm Sơn và Hoàng Thiều-Hoa kiếu từ nhũ-mẫu trở lại Phiên-ngung. Trước khi mở cuộc họp tổng quát với hai đạo binh mã Hán-trung và Kinh-châu, Nghiêm Sơn họp riêng với bộ chỉ huy đạo Lĩnh-nam. Vương để Trưng Nhị, Phương Dung và Phùng Vĩnh Hoa lần lượt thuyết trình về tình hình Trường-an, Lương-châu, Kinh-châu, Ích-châu và Hán-trung về nhân văn, địa hình, binh tướng... Sau đó vương kết luận :
                        – Tư-mã Đặng Vũ là một đại tướng giỏi nhất Trung-nguyên. Y cắp gươm theo vua Quang Vũ với cô gia ngay từ ngày mới khởi binh. Y là người thao lược tài kiêm văn võ. Hiện y là lĩnh chức Đại-tư mã, tức một trong Tam-công triều Hán. Y thống lĩnh binh mã chín quận Kinh-châu đánh vào đất Thục. Bên cạnh y còn có Phiêu-kỵ đại tướng quân Sầm Bành, xuất thân Võ-trạng-nguyên thời Vương Mãng, sau y đầu hàng Hán. Sầm Bành là anh hùng vô địch Trung-nguyên, trải trăm trận đánh với các tướng của Vương Mãng, Xích Mi, Công-tôn Thiệu không ai địch nổi y. Trước đây chỉ có Xích Mi Phan Sùng là đấu ngang tay với y mà thôi.
                        Anh hùng Lĩnh-nam nghe nói vậy đều đưa mắt nhìn Khất đại-phu, Đào Kỳ. Vương lại tiếp :
                        – Xa-kỵ đại tướng quân Ngô Hán cũng là người theo Kiến Vũ thiên tử và Cô-gia từ lúc khởi binh, vào sinh ra tử trăm trận. Võ công y bình thường, nhưng mưu lược, dùng binh giỏi và có đại đởm. Y thống lĩnh đạo binh mã Trường-an, Hán-trung. Bên cạnh y có Chinh-tây đại tướng quân Phùng Dị, võ công cũng không thua kém Sầm Bành.
                        Sau khi nghe trình bày về hai đạo binh mã của Ngô Hán và Đặng Vũ, Đào Kỳ hỏi Nghiêm Sơn :
                        – Trong đạo binh mã Lĩnh-nam, trước khi rời Giao-chỉ đại ca đã phong các vị Lại Thế Cường, Triệu Anh Vũ, Đinh Công Thắng lĩnh ấn đại tướng quân chỉ huy ba đạo Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Còn ba đạo Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận chưa có người chỉ huy. Ý đại ca thế nào ? Đại ca định để em trực tiếp điều động các quân, sư hay chỉ định tướng thống lĩnh ?
                        – Cần phải có tướng chỉ huy ba đạo quân này. Nhưng ta muốn em cử người, để giữa soái và tướng tâm đầu ý hợp.
                        Đào Kỳ còn hơi bỡ ngỡ, thì Nghiêm Sơn mỉm cười :
                        – Ta đã dạy sư đệ, phép chọn tướng cần phải đủ năm đức tính: Một là trí. Thiếu trí thì không biết mình, biết người. Hai là dũng, dũng gồm hai phần võ công và đởm lược. Ba là mưu, không mưu thì không thể biến hóa uyển chuyển lừa địch, dùng ít mà có thể thắng nhiều. Bốn là nghiêm, nghiêm để trị quân. Tướng giỏi, binh tinh, lương nhiều mà không kỷ luật cũng vô ích vì đó chỉ là đạo kiêu binh hại nhiều hơn lợi. Năm là tín, không tín thì thượng hạ không đồng tâm, sinh nghi ngờ lẫn nhau, lòng quân tất hỗn loạn. Nào sư đệ muốn đệ muốn đề cử ai ?
                        Đào Kỳ trầm tư một lát rồi trả lời :
                        – Điều này tiểu đệ đã thường nghĩ tới. Trong tâm tiểu đệ nghĩ : thân phụ, thúc phụ và cữu phụ. Song các vị đang mang trọng trách ở nhà, ngoài ra còn Mai-động ngũ hùng, các em Hiển Hiệu, Quý Minh cùng sư đệ Quách Lãng. Ngay cạnh đây còn có sư thúc Lương Hồng Châu và Minh Giang, ai cũng có thể đảm đương trọng trách ấy. Vậy căn cứ năm điều lựa tướng, tiểu đệ xin đề cử sư thúc Lương Hồng Châu thống lĩnh đạo Nam-hải, sư đệ Minh Giang thống lĩnh đạo Quế-lâm, sư đệ Hiển Hiệu thống lĩnh đạo Tượng-quận.
                        Nghiêm-Sơn tươi nét mặt, Vương móc túi ra một tờ hoa tiên trao Đào Kỳ :
                        – Sáng nay, ta đã bàn với Phương-Dung điều này. Dung muội góp ý nên để sư đệ với tư cách thống lĩnh binh mã Lĩnh-nam tự tuyển tướng, đề cử. Tuy nhiên chúng ta đã ước tính xem sư đệ sẽ đề cử ai. Bây giờ sư đệ mở giấy coi thử.
                        Đào Kỳ mở ra coi, thấy ghi : Đạo Nam-hải Lương Hồng-Châu, đạo Quế-lâm Hoàng Thiều-Hoa, đạo tượng-quận Đào Hiển-Hiệu.
                        Nghiêm Sơn cười :
                        – Sư đệ thấy không ? Ta đoán sai một chút về đạo Quế-lâm. Ta đoán, Quế-lâm là quê hương ta, tất sư đệ phải cử Hoàng sư tỷ vào chỗ đó. Nào ngờ sư đệ không thiên vị tình thâm, lấy lẽ công minh cử Minh Giang. Giỏi ! Sư đệ tiến mau hơn ta ước tính. Lương sư thúc, Minh Giang hiện có đây. Còn Đào Hiển Hiệu vừa mang tin Giao-chỉ tới, cũng có mặt từ hôm qua. Ta đồng ý, vậy sư đệ cho mời ba vị vào đây.
                        Đào Kỳ ghi thiếp mời ba người tới khẩn cấp. Cả ba đều không hiểu chuyện gì xảy ra. Nghiêm Sơn đứng dậy nói :
                        – Chúng ta vì đạo nghĩa, mưu cầu hạnh phúc cho trăm họ, vậy nhờ các vị ghé vai ghánh vác. Cô gia từ Lĩnh-nam về tăng viện Trung-nguyên có 6 đạo quân. Ba đạo Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam đã có ba vị hiệp nghĩa thống lãnh. Còn ba đạo Quế-lâm, Nam-hải và Tượng-quận thì chưa. Cô gia đã hỏi ý Chinh-viễn đại tướng quân. Tướng quân đề cử ba vị. Vậy, phụng lệnh Kiến-vũ thiên tử, nhân danh Lĩnh-nam vương cô gia mời :
                        – Sư thúc Lương Hồng-Châu thống lĩnh đạo Nam-hải, 3 quân bộ, 3 sư kỵ. Lĩnh ấn Vũ-oai đại tướng quân.
                        – Sư đệ Đào Hiển-Hiệu thống lĩnh đạo Tượng-quận, 3 quân bộ, 3 sư kỵ. Lĩnh ấn Hổ-nha đại tướng quân.
                        – Tướng quân Minh Giang thống lĩnh đạo Quế-lâm, 3 quân bộ, 3 sư kỵ. Lĩnh ấn Phấn-oai đại tướng quan.
                        Cả ba lạy tạ Lĩnh-nam vương nhận ấn. Lương Hồng-Châu, Đào Hiển-Hiện đều là người giang hồ, tuy vui vẻ vì cầm quân cho mục đích phục hồi đất Lĩnh-nam, nhưng không thích lắm khi nghĩ đến sự gò bó trong quân lữ. Riêng Minh Giang sự vui mừng cảm động hiện ra mặt, vì đang là quân trưởng, một bước được đề cử làm đại tướng quân.
                        Thấm thoát đã đến buổi họp toàn quân phạt Thục. Nghiêm Sơn chủ tọa buổi hội, chỉ có sự hiện diện thống soái các mặt trận cùng bộ tham mưu. Ngô Hán dẫn theo gần 30 người, Đặng Vũ dẫn theo 40 người. Còn Đào Kỳ, phía Lĩnh-nam chỉ có 20 người.
                        Khi vào phòng họp, tướng hai đạo kia thấy tướng đạo Lĩnh-nam hầu hết còn rất trẻ, lại có đến ba thiếu nữ cực kỳ diễm lệ do một thiếu niên anh tuấn dẫn đầu, thì ngẩn người ra. Họ ngắm nhìn Vĩnh Hoa, thấy nàng khoảng 20 tuổi, mặc quần áo lụa trắng khoác khăn xanh đai hồng, lưng đeo bảo kiếm, trông như một tiên nữ trong tranh. Trưng Nhị mặc quần áo lụa hồng, cũng chỉ khoảng trên 20, cổ khoác khăn trắng, đai màu xanh, không mang vũ khí, dáng điệu uy nghiêm, nhưng không dấu được vẻ yêu kiều. Phương Dung còn trẻ hơn nữa, họ ước đoán nàng chỉ độ 16-17 tuổi, mặc quần áo lụa xanh cổ khoác khăn hồng đai vàng sẫm, lưng đeo bảo kiếm. Họ thầm nghĩ không biết cô này làm gì trong đội quân Lĩnh-nam ?
                        Sau phần giới thiệu, Nghiêm Sơn chỉ định Đặng Vũ thuyết trình trước.
                        Đặng tường trình về đạo Kinh-châu : quân số trên 25 vạn, trong đó chỉ có hơn vạn kỵ binh. Mới đây bị tổn thất ba trận liền, được bổ sung nhưng chưa phục hồi quân khí. Phía quân Thục đương đầu với Kinh-châu có khoảng 15 vạn cố thủ trong thành, quân ít nhưng nhờ địa thế hiểm trở đã làm Đặng Vũ thiệt quân, mà không có cách nào chiếm được. Theo ý Đặng Vũ nếu có đánh, chỉ gây tổn thất thêm và không hy vọng chiếm thành.
                        Thấy y ngưng nói Phương Dung hỏi :
                        – Đại tư mã, tôi nghe đạo Kinh-châu có Phiêu-kỵ đại tướng quân Sầm Bành, võ công vô địch Trung-nguyên. Không biết các tướng bên Thục, võ công như thế nào ?
                        Đặng Vũ thấy cô bé lên tiếng hỏi, y nhìn Nghiêm Sơn, ngụ ý xem có phải trả lời hay không.
                        Nghiêm Sơn nói :
                        – Tôi xin giới thiệu với Đại-tư mã và chư tướng đây là Đào phu nhân, nhũ danh Phương Dung. Các vị cứ gọi bằng nhũ danh. Vì người Lĩnh-nam thích được gọi bằng tên thời con gái hơn là tên chồng.
                        Bấy giờ Sầm Bành mới đứng lên, chậm rãi trả lời thay Đặng Vũ :
                        – Võ công của tôi thiên về dương cương. Tôi sử dụng đại đao. Còn tướng Thục võ công cao nhất là Công-tôn Thiệu và Chu Vũ. Chúng thuộc phái Thiên-sơn. Chúng sử dụng kiếm. Về võ công chúng thấp hơn tôi một chút.
                        Đến lượt Ngô Hán thuyết trình. Ngô là người đọc sách, nói năng lưu loát. Ngô cho biết đạo Hán-trung có 20 vạn quân, trong đó có 4 vạn kỵ binh. Mới đây bị thua một trận. Tướng Thục là Thái-tử Công-tôn Tư, lĩnh chức Đại-tư mã, văn võ kiêm toàn, dùng binh giỏi. Kết quả trong cuộc giao chiến với Thục, Hán thắng 6 trận và bại 4 trận. Thục thủ trong thành kiên cố, tướng sĩ hết lòng, nên Hán không tiến nổi.
                        Nghiêm Sơn và chúng tướng nghe trình bày tiếp tình hình địch từng địa phương, cùng cá tính, khả năng, tật xấu và cả bệnh tật của từ vua là Công-tôn Thuật cho tới các tướng sĩ văn võ. Đến chiều, Vương truyền bãi họp và hẹn giờ thìn hôm sau tái họp.
                        Buổi tối, sau khi cơm nước xong, Nghiêm Sơn mời họp riêng tất cả anh hùng Lĩnh-nam. Vương hỏi Trưng Nhị :
                        – Trưng cô nương nghĩ sao ?
                        Trưng Nhị đặt lại câu hỏi :
                        – Nghiêm đại ca là ân nhân, anh em kết nghĩa với Kiến-vũ Thiên tử, cần phải công bằng, coi hai đạo quân kia như đạo Lĩnh-nam. Đó là điều để cho tướng sĩ phục tùng. Vì vậy, những gì khó khăn có phải đại ca định để cho đạo Lĩnh-nam gánh vác, những gì dễ dàng sẽ để cho Kinh-châu và Hán-trung đảm nhiệm. Có đúng thế không ?
                        Nghiêm Sơn gật đầu. Trưng Nhị tiếp :
                        – Vậy tôi đề nghị chúng ta chia ra làm ba mặt đánh Ích-châu : mặt Tây do Ngô Hán, mặt Đông do Đặng Vũ, mặt Nam trao cho Đào Kỳ. Hai mặt kia địch có quân phòng thủ kỹ lưỡng, ta cần tấn công ráo riết hầu cầm chân địch. Đồng thời cho quân băng rừng, vượt núi đánh vào sau lưng địch. Khi ta đột nhập được vào phía sau, địch không kịp huy động quân phòng thủ, Ích-châu sẽ rối loạn, chỉ cần đánh một trận là xong.
                        Phùng Vĩnh-Hoa cũng tiếp lời :
                        – Hôm nay các đạo đều kêu ca binh sĩ, lừa ngựa tổn thất không được bổ sung. Xin đại ca truyền lệnh bắt Thái-thú 9 quận Kinh-châu bổ sung cho Đặng tướng quân. Thái thú các vùng Trường-an, Kỳ-sơn, Lương-châu bổ sung cho Ngô Hán; như đại ca đã ra lệnh cho 6 Thái-thú Lĩnh-nam bổ sung cho Đào sư đệ.
                        Minh Giang nhìn Đào Kỳ, Phương-Dung gật đầu tỏ ý thông hiểu. Sau khi bàn các chi tiết đến tận khuya, mọi người mới đi ngủ.
                        Sáng hôm sau giờ thìn, lại khai hội. Nghiêm Sơn lên trướng ngồi. Đợi mọi người an tọa, Vương đứng dậy giới thiệu :
                        – Hôm nay tôi giới thiệu với các vị tướng quân : Đào phu nhân, quân sư của chúng ta.
                        Tướng, soái các đạo cùng nhìn nhau thất kinh hồn vía, tự hỏi : Nghiêm Sơn là tướng tài kiêm văn võ, mưu lược hơn người, sao lại dùng cô bé này làm quân sư ? Không lẽ để cô ra trận cho quân giặc mê man mà chết chăng ?
                        Đợi tiếng xì xào ngớt, Nghiêm Sơn lại mời Trưng Nhị đứng dậy :
                        – Đây, Trưng Nhị cô nương, quân sư đạo Kinh-châu giúp Đặng tư mã.
                        Mọi người lại kinh ngạc lần nữa. Biết thế, nhưng Vương lại lờ đi tiếp tục chỉ Phùng Vĩnh Hoa :
                        – Còn đây cô nương Phùng Vĩnh-Hoa, quân sư đạo Hán-trung giúp Ngô tướng quân.
                        Mọi người nhìn ba cô gái Việt mảnh mai, yểu điệu, thầm nghĩ : các cô gái xinh đẹp, ẻo lả thế kia, chỉ cần nhìn thấy tướng giặc cũng đủ khiếp vía, vậy còn điều khiển ai đây ?
                        Sau đó Vương trao ấn kiếm cho Phương-Dung, Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa. Rồi Vương nói với Phương-Dung :
                        – Xin mời quân sư Phương-Dung điều quân .
                        Phương-Dung tiến lên đài, ngồi xuống cẩm đôn, đặt thanh kiếm lên bàn, đoạn nàng thản nhiên như đã cầm quân lâu ngày, từ tốn nói :
                        – Xưa đức Cao-tổ từ Thục xuất chinh đánh Hạng Vũ sở dĩ Hoài-âm hầu Hàn Tín yên tâm đánh giặc vì biết chắc Thừa-tướng Tiêu Hà cung ứng đủ lương thực, bổ sung binh mã kịp thời. Lương thực là mạch máu của tướng sĩ, vậy ta phải chuẩn bị đầy đủ.
                        Các tướng nhìn nhau, gật đầu tỏ ý khâm phục. Phương-Dung ngừng một lúc để mọi người thấm ý nàng, đoạn tiếp :
                        – Vì vậy đạo quân Hán-trung thì các Thái-thú Đông-xuyên, Trường-an, Lương-châu phải lo cung cấp. Còn đạo quân Kinh-châu thì 9 Thái-thú sở tại phải lo toan. Số lương thảo phải đủ dùng trong ba tháng. Hẹn một tháng phải vận tải ra mặt trận. trễ một ngày sẽ chiếu quân pháp trị tội.
                        Đặng Vũ, Ngô Hán gật đầu bằng lòng vui mừng ra mặt. Còn các Thái-thú liên hệ nhìn nhau lo sợ. Phương-Dung tiếp :
                        – Đạo Hán-trung vừa bị hao hụt, cần phải bổ sung tân binh. Ta mới thua, địch mới thắng, nhuệ khí địch tăng. Nay ta đem tân binh mới mộ ra trận, làm sao Ngô tướng quân thắng giặc ? Vậy các đô úy 9 quận Hán-trung, 9 quận Tây-lương, 12 quận Lũng-thương phải lựa binh tinh nhuệ trong các đội quân địa phương bổ sung kịp thời. Sau đó tuyển tráng đinh lấp chỗ trống. Hẹn trong một tháng phải xong. Giao nạp trễ hẹn, binh lính yếu đuối già nua bệnh tật, cũng chiếu quân pháp trị tội.
                        Các đô úy liên hệ ngơ ngác nhìn nhau thì thào :
                        – Trời ơi ! Quân sư cô nương này sao ác thế. Lấy hết tinh binh, lỡ có việc mình làm sao đây ?
                        Ngô Hán nhìn Phương-Dung với con mắt khác, với đầy sự khâm phục. Nàng lại tiếp :
                        – Binh pháp nói : "Một ngày nuôi quân, tốn tiền của dân chúng không biết bao nhiêu mà kể". Chúng ta phải tốc chiến, để đỡ tốn tiền của dân. Kinh Thi nói : "Trời sinh ra trăm dân". Khổng tử nói : "Ý dân là ý trời" . Vậy ta phải làm sao cho dân đỡ khổ vì binh dịch. Đạo quân Kinh-châu đã có nhiều võ tướng anh hùng, đủ sức đàn áp địch không cần thêm tướng. Tuy nhiên ta án binh lâu ngày, giặc khinh thường, vậy cần dồn quân đánh chiếm một thành cho địch mất nhuệ khí. Đặng đại-tư mã, nếu tôi có cách làm cho quân Thục không dám lên mặt thành chống cự trong vòng một giờ, liệu tướng quân có vào được thành không ?
                        Đặng Vũ hiên ngang nói :
                        – Chỉ cần nửa giờ binh tướng của tôi đã vào được thành rồi !
                        Nghe vậy Phương-Dung nói :
                        – Vậy nữ tướng Hồ Đề sẽ cho một đội quân đặc biệt đánh cho quân Thục không dám lên mặt thành ít nhất là nửa giờ. Bây giờ tôi định thế này : Khi trở về Đặng tư mã cho khiêu chiến với địch. Nữ tướng Hồ Đề sẽ cho kỳ binh xuất hiện, đánh giặc một trận long trời lở đất. Binh Thục mất tinh thần phải rút vào thành cố thủ. Xin Đại tư mã cho quân vây thành, lúc đó nữ tướng Hồ Đề sẽ làm cho binh lính trên mặt thành tê liệt trong vòng một giờ, để Đặng tư mã lấy thành.
                        Đặng Vũ hỏi lại :
                        – Xin quân sư cho biết đội quân đặc biệt đó là quân gì ?
                        Phương Dung đưa măét nhìn Hồ Đề. Nàng đứng dậy vỗ hai tay vào nhau cười khúc khích.
                        – Điều này tối cơ mật, ngay Lĩnh-nam vương gia còn chưa biết. Nhưng tôi xin bảo đảm quân giặc sẽ bị tê liệt trong vòng nửa giờ. Sau khi lấy được thành Đặng tư mã sẽ phải cười bò về đạo quân quái gở của tôi.
                        Phương-Dung tiếp :
                        – Nữ tướng Hồ Đề cần một quân sư đi theo, vậy đệ nhị quân sư Trưng Nhị hãy theo giúp. Ta cũng cần một võ lâm cao thủ bậc nhất theo nàng, đề phòng bên địch cho cao thủ xuất trận. Vậy nữ tướng Phật-Nguyệt, Trần Năng, Lê Chân sẽ theo trong quân. Tất cả đặt dưới quyền điều khiển của Long Nhượng đại tướng quân Lại Thế-Cường.
                        Phương-Dung lại tiếp :
                        – Về đạo quân Hán-trung tôi sẽ tăng viện cho Xa-kỵ đại tướng quân các cao thủ đệ nhất. Xin Khất đại phu điều khiển các tướng Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa đi theo trong quân. Đệ tam quân sư Phùng Vĩnh-Hoa sẽ đi theo các vị. Các vị cũng được tăng cường đặc biệt Trường-yên đại hiệp Cao Cảnh-Minh với đội thần nỏ Âu-lạc. Sau khi đội quân Tây-xuyên được bổ sung đầy đủ hãy xuất trận. Trận đầu cần nhất Khất đại-phu trổ thần oai đánh bại đệ nhất cao thủ địch, làm chúng mất nhuệ khí, quân ta sẽ thừa thế tràn lên, địch thua một trận tất vào thành cố thủ. Bấy giờ khi quân đánh chiếm thành xin Trường-yên đại hiệp cho thần nỏ Âu-lạc xuất hiện ở bốn cửa thành bắn chết tướng trấn thủ. Giặc kinh hồn bỏ chạy, quân sư Phùng Vĩnh-Hoa sẽ có kế bắt hết.
                        Đợi mọi người ghi nhớ hết kế hoạch, Phương-Dung tiếp :
                        – Một giặc cố thủ, trăm người khó đánh. Binh thư còn ghi : "Phù ! Dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng, công thành vi hạ. Tâm chiến vi thượng, binh chiến vi hạ". Nghĩa là đạo dụng binh cần đánh vào tâm lý địch, hơn là đánh thành địch. Tâm chiến là kế tốt, binh chiến là kế tồi. Ta cần cho giặc táng đởm kinh hồn hai trận ở hai nơi Hán-trung và Kinh-châu, lòng chúng lo sợ, tất bại trận dễ dàng.
                        Các tướng ngơ ngẩn nhìn nhau. Vì những điều Phương-Dung dẫn ra trong binh pháp, họ đều thuộc lòng. Nhưng họ không biết cách áp dụng mà thôi. Nay thấy Phương-Dung áp dụng một cách thần kỳ, thì tỏ lòng khâm phục. Bất giác họ ngước mắt nhìn quân sư, chỉ vẫn thấy khuôn mặt mỹ ái, nhu nhã.
                        Nàng lại tiếp :
                        – Sau khi chiếm được ải, hai đạo quân án binh bất động, nhưng phải theo dõi sát quân địch. Hễ chúng rút lui thì rượt đánh, nhưng đừng chém giết chi hết. Chỉ chận đánh một nữa, còn cho một phần chạy thoát... Như vậy khi tàn quân kéo về ải thứ nhì, sẽ làm quân trú phòng mất tinh thần luôn, ta sẽ lấy dễ dàng mà không hao binh tổn tướng...
                        ... Bây giờ mới tới đạo quân Lĩnh-nam. Quân Lĩnh-nam chưa xuất trận, tinh thần và thể xác còn khỏe vậy lĩnh nhiệm vụ nặng hơn. Đạo quân này Chinh-viễn đại tướng quân Đào Kỳ điều động theo kế hoạch đã do Lĩnh-nam vương trù liệu kế sách.
                        Đến đây Thiên thủ viên hầu Lại Thế-Cường hỏi :
                        – Tôi thống lĩnh 4 vạn quân bộ, 8 ngàn kỵ binh Nhật-nam. Tôi được tăng cường cho Đặng tư mã, vậy có mang theo bản bộ binh mã lên Kinh-châu không ?
                        Nghiêm Sơn quyết định :
                        – Dĩ nhiên ! Tướng đâu, quân đó.
                        Đào Kỳ nói :
                        – Tôi đánh vào Thục, chiếm thành phá ải. Đọat được thành, việc bổ nhiệm người trấn thủ sẽ do ai chịu trách nhiệm ?
                        Nghiêm Sơn nói :
                        – Đâào tam đệ giỏi dùng binh, võ công vô địch, nhưng tam đệ chỉ là người ngồi trên lưng ngựa mà thắng giặc, chứ không phải người ngồi trên mình ngưạ mà cai trị dân. Ta sẽ cử Nam-hải nữ hiệp và vương phi theo giúp tam đệ việc đó.
                        Sau cùng Phương-Dung căn dặn Đặng Vũ :
                        – Đại tư mã là dũng tướng, tuy nhiên nên nán đợi quân Lĩnh-nam đánh vô sau lưng Thục đã rồi hãy động binh. Tuyệt đối không nên ra binh trước.
                        Ngô Hán vốn là văn quan nghĩ : từ phía Nam đánh vào đất Ích-châu, phải qua biết bao rừng núi, sông ngòi hiểm trở. Làm sao đưa cả một đạo quân vào được ? Đào phu nhân là quân sư, ước tính mưu cơ sâu xa, mà đưa chồng vào hiểm địa chắc bà phải có kế hoạch toàn thắng mới làm. Nhưng kế hoạch nào đây. Có 4 con sông từ Lĩnh-nam thông với Ích-châu. Nhưng Lĩnh-nam ở phía Nam, nước chảy từ Ích-châu xuống như thác đổ, làm sao đi được. Lại còn núi cao, rừng rậm, đường sạn đạo khó đi. Vậy mà sao như thấy bà đã nắm chắc phần thắng. Ly kỳ thật.
                        Trước khi tan họp, Phương-Dung ngoắc Ngô Hán :
                        – Xa-kỵ đại tướng quân ! Tôi muốn hỏi thăm tướng quân vài việc riêng. Tan họp xin tướng quân ở lại.
                        Tướng sĩ các đạo đều ra về. Ngô Hán theo Phương-Dung vào mật trướng, bên ngoài có Trần Quốc, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa canh gác cẩn mật.
                        Sau khi an tọa Phương-Dung rót nước mời Ngô Hán :
                        – Ngô tướng quân ! Ngài là tôi rường cột nhà Đại-hán, việc lập công kiến tạo sự nghiệp như Lưu hầu Trương Lương, Hoài-âm hầu Hàn Tín, Thừa tướng Tiêu Hà là chí của tướng quân. Còn chúng tôi là người Lĩnh-nam, ưa tiêu dao tự tại, cứu khốn phò nguy. Tôi được biết Kiến-vũ Thiên tử hứa rằng, ai bắt được Công-tôn Thuật sẽ được thay thế làm chúa Ích-châu. Nay tuy ta có ba đạo quân, song chỉ có tướng quân với Đặng tư mã tranh nhau mà thôi. Trước kia Cao-tổ nói : ta ngồi trên mình ngựa mà được thiên hạ. Trương lưu hầu thưa rằng : Bệ hạ ngồi trên mình ngựa mà được thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên mình ngựa mà cai trị thiên hạ. Theo thiển kiến, giữa tướng quân và Đặng tư mã, cả hai cùng có thể ngồi trên mình ngựa mà được Ích-châu. Nhưng chỉ riêng tướng quân là có thể cai trị Ích-châu. Cho nên tôi muốn giúp tướng quân bắt Công-tôn Thuật.
                        Ngô Hán là người đọc sách, nhìn xa trông rộng, y biết Phương-Dung nói thực. Y nghĩ Phương-Dung gọi y vào đây, là có ý muốn bắt y chịu một điều kiện gì mới giúp y, y hiên ngang nói :
                        – Nếu Đào phu nhân giúp tôi thành công, nguyện không quên ơn.
                        Vĩnh-Hoa đứng bên cạnh tiếp :
                        – Đặng Vũ có uy dũng, nhưng hơi tàn nhẫn. Bây giờ ông ấy chưa gặp thời còn khá, khi tới thời rồi sẽ chỉ biết mình mà thôi. Nếu ông ta thành công nắm Ích-châu trong tay, sẽ tàn ác với thiên hạ, không còn úy kỵ ai nữa ? Còn tướng quân, nếu được Ích-châu, tướng quân sẽ đem đạo Khổng, Mạnh trị dân, khiến cho dân được sung sướng. Tướng quân sẽ lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân. Vì vậy chúng tôi muốn giúp tướng quân.
                        Ngô Hán liếc nhìn Phương-Dung, Trưng Nhị, Phùng Vĩnh-Hoa thầm nghĩ : Ba vị cô nương này về nhan sắc e chánh cung nương nương cũng thua xa. Ta lại nghe đồn võ công vô địch, mưu thần, chước thánh, lại là người thủ tín. Ta cũng chẳng nên dấu diếm tâm sự, e phụ lòng tri kỷ. Nghĩ vậy y nói :
                        – Ba vị Quân-sư có chi dạy bảo cứ nói. Ngô Hán nguyện tuân theo.
                        Phương-Dung nói :
                        – Điều thứ nhất xin tướng quân chỉ điểm cho địa hình, địa vật, nơi đồn trú của giặc ở phương Nam Ích-châu.
                        Rõ ràng Ngô Hán đã thuyết trình đầy đủ tình hình quân giặc, nhưng tại sao Phương-Dung còn hỏi? Như vậy là nàng muốn giữa đạo quân Đào Kỳ với y có sự thống nhất làm việc. Là người thông minh, y đáp ngay :
                        – Không hiểu chiến thuật của quân sư đánh từ phía Nam lên như thế nào ? Theo tôi nghĩ, ta đưa được lọt một đạo quân nhỏ vào chiếm bất cứ cửa ải làm đầu cầu tất xong việc.
                        Y ngẫm nghĩ một lát rồi tiếp :
                        – Vì nghĩ đến việc đó nên tội cho tế tác do thám quân tình giặc rất kỹ. Tôi thấy hai lộ trình có thệ tiến đánh Ích-châu : Một là từ phía Kim-sa giang, phải qua ải Độ-khẩu. Lấy được Độ-khẩu có thể dùng thuyền chiếm Tây-xương. Từ Tây-xương do đường bộ đến Hán-nguyên, chiếm được Hán-nguyên, đường đến Thành-đô không xa là bao. Nhưng khó nhất là nhiếm được Độ-khẩu. Chỗ này nơi ba con sông lớn gặp nhau thác nước rất mạnh. Công-tôn Thuật cho trấn ở đây một Lữ bộ và một Hải đội. Nếu giặc cố thủ không có cách nào đánh vào. Thành nằm trên bờ sông có ba cửa, còn một cửa do hải quân đóng. Nếu có cách nào vượt sông đánh úp Hải đội, thì chiếm được thành. Từ đây lên Tây-xương có thể bị quân Phổ-cách, Mỹ-cơ đánh chặn hậu. Đường thứ nhì từ Xích-thủy đánh lên Long-xương, nhưng núi non hiểm trở vô cùng, nhất là phải vượt qua núi cao, vách đá dựng đứng đến 1500 trượng (3000 mét ngày nay). Nếu ta chiếm được Long-xương, đánh vào Thành-đô dễ như lấy đồ trong túi.
                        Trưng Nhị gật đầu :
                        – Thế thì chúng ta đánh cả hai đường. Ta không cần nhiều, chỉ cần đem một số tinh binh, đánh phá làm địch hoang mang, hoảng sợ. Rồi phô trương thanh thế khiến địch bỏ chạy tứ tán ra. Vậy khi trở về tướng quân đánh một trận, rồi án binh bất động, chờ Đào Kỳ, Đặng Vũ tiến quân. Khi chúng tôi vào Thành-đô tất Công-tôn Thuật cùng tướng sĩ sẽ chạy qua mặt Tây. Bấy giờ đạo quân Đào Kỳ án ở trước, Đặng Vũ không đuổi theo Thuật được. Tướng quân ở đối diện với giặc, chỉ đánh một trận là bắt được y.
                        Phương-Dung tiếp lời :
                        – Khi bắt được Thuật, tướng quân sẽ được phong trấn thủ Ích-châu. Tôi chỉ xin tướng quân dùng nhân đức trị trăm họ, lưu danh muôn thuở mà thôi.
                        Ngô Hán nghe như tỉnh cơn mê vâng dạ lên đường.
                        Tối hôm ấy, anh hùng Lĩnh-nam cùng họp mặt với nhau. Hồ Đề thắc mắc :
                        – Tại sao chúng ta giúp Ngô Hán mà không giúp Đặng Vũ.
                        Phùng Vĩnh-Hoa cười :
                        – Giúp Ngô Hán là ta tự giúp ta. Nếu sau khi được Ích-châu, Hán-đế thuận trả Lĩnh-nam thì tốt, bằng không tất chúng ta phải khởi binh. Một trong hai tướng Ngô Hán hoặc Đặng Vũ sẽ cầm quân đánh Lĩnh-nam. Đối phó với Đặng Vũ rất dễ. Võ công y cao, nhưng không hơn Đào hầu, Đinh hầu. Chỉ cần Phương-Dung, Đào Kỳ hoặc Khất đại phu là đủ giết y. Nhưng đối phó với Ngô Hán khó hơn. Y là người đọc sách, thâm mưu viễn lự, làm việc gì cũng cân nhắc kỹ. Nếu nay ta giúp Ngô Hán được làm chúa Ích-châu. Người cầm quân tất phải là Đặng Vũ dễ cho ta hơn.
                        Mọi người đều cho là phải.
                        Sau khi Đặng Vũ, Ngô Hán đi rồi, Nghiêm Sơn hỏi Phương-Dung :
                        – Ta thấy từ phía Nam đánh lên, muôn ngàn khó khăn, muội có cách nào chưa ?
                        – Hiện giờ thì chưa, nhưng chúng ta có một đội binh rất đặc biệt, đó là đội Giao-long binh do sư bá Trần Quốc Hương cho đi theo đại ca trợ chiến. Ta lại có thêm Giao-long nữ cùng Mai động ngũ hùng và Giao Chi thạo thủy tính vào bậc nhất thiên hạ thì việc chiếm Độ-khẩu chắc có thể được. Còn đạo quân của sư tỷ Hồ Đề có thể vượt núi Kim-sơn mà vào thành Long-xương.
                        Nói xong, nàng cho mời Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng phân công :
                        – Xin hai vị sư bá đi thám thính núi Kim-sơn, tìm đường vượt núi vào Thục. Còn Đào-lang, Giao-long nữ và tôi sẽ đi thám sát Độ-khẩu. Khi chúng tôi đi rồi, xin đại ca cho dời bản doanh đạo Lĩnh-nam lên Côn-minh trước.
                        Trước khi đi, Nghiêm Sơn căn dặn :
                        – Các vị lên đường cần ghi nhớ : Nhất thiết không được lộ hình tích. Dù vùng Độ-khẩu, Xích-thủy là lãnh địa Tượng-quận. Thái thú Tượng-quận là Cù Anh-Thông, người thứ tư trong Hợp-phố lục hiệp. Đô úy là sư thúc Trương Thủy-Hải. Đô sát là sư đệ Đinh Công-Minh. Trước lúc họ lên đường nhậm chức, cô gia đã chỉ thị cho các vị ấy phải bỏ nhiều vàng bạc thám thính tình hình Thục. Bây giờ ta đánh mặt Nam là dùng kỳ binh, mà dùng kỳ binh thì chỉ cần giặc biết trước nửa ngày là bao nhiêu công lao, kế hoạch phải bỏ hết.
                        Giao-long nữ là một cô gái 17 tuổi, khi ở với Trần Quốc-Hương, ông cưng chiều như trứng mỏng, coi nàng như một thiếu nữ thơ ngây. Từ khi đi theo Đào Kỳ, Phương-Dung đến giờ, nàng được coi như người lớn, lại trở thành một tướng quân nên nàng mừng lắm. Hôm xảy ra trận đánh Đăng-châu, Đào Kỳ trao nàng một nhiệm vụ rấr khó khăn mà nàng hoàn thành dễ dàng. Bây giờ lại được Nghiêm Sơn đặt ngàng ngang với các danh tướng Trung-nguyên như Đặng Vũ, Ngô Hán thì hết sức phấn khởi. Thấy Ngô Hán cho rằng không nào qua nổi cửa Độ-khẩu, mà Phương-Dung lại tin rằng có nàng thế nào cũng vượt sông được, thì bảo sao nàng không hãnh diện?
                        Hôm nay ba người Đào Kỳ, Phương-Dung và Giao-long nữ lên đường giả làm học trò Lĩnh-nam sang học nghề canh nông, để che mắt địch. Dọc đường Trần Quốc được Đào Kỳ chỉ điểm thêm về võ công, nàng học rất mau. Đêm nào nàng cũng thức tới canh ba để luyện võ. Trước đây nàng rất ít đọc sách, nay Phương-Dung khuyên rằng sau này nàng sẽ là Đô-đốc thống lĩnh thủy binh, cần phải nghiên cứu binh pháp. Dọc đường Phương-Dung giảng sách cho nàng, chiều tối Đào Kỳ dạy võ. Nàng bừng bừng vui mừng, càng nghĩ, càng nhớ ơn sư phụ: nàng chỉ là đứa trẻ mồ côi không cha, không mẹ, được sư phụ thương mang về nuôi nấng dạy dỗ. Rồi do sư phụ, nàng được quen những nhân vật kỳ vĩ của Lĩnh-nam. Những lúc không đọc sách nàng thường nhớ lại trang Thiên trường, nhớ đến khuôn mặt từ ái của sư mẫu, đến khuôn mặt cương quyết, hiền hòa của sư phụ. Nàng nghĩ :
                        – Ta cứ học võ, đọc binh thư, đợi khi về Giao-chỉ thăm sư phụ, sư mẫu chắc người sẽ vui sướng khi thấy ta học được nhiều học thuật quý báu của thế gian. Nàng lại tự hỏi : Tại sao Phương-Dung, Đào Kỳ lại tử tế với mình như vậy ? Bâng khuâng mãi nàng mới tìm ra, hai người thương nàng chẳng qua nàng có bản lĩnh thủy tính hơn đời, chẳng qua hai người với nàng cùng mưu phục hồi Lĩnh-nam mà thôi. Phương-Dung giảng muốn thắng giặc, phải tự biết mình, biết giặc. Nàng tự hỏi : Biết mình là biết Giao-long nữ, biết giặc là biết tướng chỉ huy thủy quân của giặc. Ừ nhưng nàng đã biết Đô đốc giặc là ai đâu ? A phải rồi biết mình là biết sông ngòi, nước thủy triều lên xuống giờ nào. Tại mỗi con sông, nước sâu hay cạn, chỗ nào nước xoáy, và biết khả năng thủy thủ. Nhưng mình đã có thủy quân đâu ? Còn biết người là biết thủy quân địch. Thủy quân Hán dùng toàn chiến thuyền to lớn, vậy mình phải có chiến thuyền lớn hơn thuyền địch để chiếm ưu thế. Nhưng đóng thuyền lớn thì tốn tiền và lại khó vào sông nhỏ. Vậy mình thay vì đóng thuyền lớn, thì đóng thật nhiều thuyền nhỏ khoảng ba bốn người chèo, từ sông lạch nhỏ đổ ra thuyền lớn mà đánh hoặc đốt cháy bằng cỏ, hoặc đục thủng thuyền địch. Thắng rồi cướp lấy thuyền lớn của giặc. Còn như thua thì chèo chạy vào lạch, ngòi nhỏ sợ gì ? Ừ được, ta làm như vậy thì xong.
                        Dọc đường, đi qua các sông ngòi có thuyền của người Hán, nàng nghĩ : Không biết thuyền của Hán có gì hơn thuyền Giao-chỉ không ? Nếu họ có gì hơn mình thì phải bắt chước mới được. Để ý quan sát, quả nhiên nàng thấy đến 5, 6 kiểu thuyền Hán khác xa thuyền Việt, nàng lấy bút cặm cụi vẽ kiểu và ghi chú chi tiết bên cạnh.
                        Chiều hôm ấy, ba người tới Độ-khẩu, dân vùng này lẫn lộn người Việt, người Hán. Họ phục sức hơi khác người Giao-chỉ, giọng nói nặng như giọng Cửu-chân. Phương-Dung chỉ địa thế nói :
                        – Kìa ba con sông Kim-long, Nhã-long giang, Đinh-hà gặp nhau, chia làm bốn ngả, nước chảy xiết gần như thác cuộn. Bên này thuộc Hán, bên kia thuộc Thục. Thành bên Hán là Vĩnh-nhân, xây trên ngọn đồi cao, dựa vào một vách núi, có thác cước đổ xuống. Còn sông Kim-sa giang rộng tới mấy trăm trượng, dưới sông Hải đội gồm 10 chiến thuyền lớn và hơn 50 chiến thuyền nhỏ, đậu sát nhau. Thủy thủ sống trên thuyền trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Bên kia sông là thành Độ-khẩu xây theo hình tam giác, mũi nhọn là nơi hai con sông Kim-sa giang và Nha-long giang hợp lại. dưới sông cũng có nhiều chiến thuyền lớn nhỏ, đậu san sát. Trên mặt thành, gươm đao, cung tên sáng ngời, luôn có quân sĩ tuần hành.
                        Đào Kỳ nhìn qua nói :
                        – Ngô Hán nói đúng, dùng thủy quân đánh sang bên kia, thì không lên được thành. Còn dùng bộ binh lại không có đường sang. Muốn dùng thuyền chở quân vượt sông thì gặp thủy quân chặn đánh. Nước chảy xiết thế kia, thuyền chở quân nặng làm sao chèo nổi ?
                        Ba người vào một quán bên sông ăn bánh, uống nước. Chủ quán thấy một thiếu niên kỳ vĩ, hùng tráng và hai thiếu nữ trẻ đẹp đi theo, cả ba đều cỡi ngựa. Cho rằng khách sang, tiếp đón niềm nở. Trong quán có một thiếu nữ chiêu đãi xinh xinh, nàng tiến ra hỏi :
                        – Khách quan dùng gì ?
                        Đào Kỳ xin cho ăn bánh bao, uống trà. Cô gái thấy Đào Kỳ nói giọng lạ hỏi :
                        – Khách quan từ xa tới đây ?
                        Đào Kỳ đáp:
                        – Chúng tôi là vợ chồng, còn đây là em gái tôi. Chúng tôi từ quận Giao-chỉ sang tìm thầy học.
                        Hồi bấy giờ người Giao-chỉ sang Tượng-quận học là sự thường, nên chủ quán không ngạc nhiên hỏi :
                        – Thế công tử và phu nhân định học gì ?
                        – Phong thổ ở đây giống Giao-chỉ. Tôi muốn sang đây học nghề thuốc, nhưng chưa gặp được lương sư. Nếu ông biết có thầy giỏi, chỉ cho chúng tôi xin hậu tạ.
                        – Công tử và phu nhân có biết chữ không ?
                        Phương-Dung đáp thay chồng :
                        – Ba chúng tôi đều biết chữ cả, nhưng thuốc thì không biết một tí gì.
                        Chủ quán thở dài :
                        – Công tử muốn tìm thầy giỏi, tất phải đi Đông-xuyên, Côn-minh, chứ đây là biên giới. Bên kia thuộc Thục, bên này thuộc Hán. Hai bên lúc nào cũng chỉ chực đánh nhau, các thầy giỏi đều bỏ đi cả rồi.
                        Phương-Dung móc tiền ra trả, nàng lại lấy thêm mười đồng tiền, hai tay đưa cho chủ quán :
                        – Gọi là chút quà mọn tạ ơn ông chỉ bảo.
                        Ngay lúc đó một Ngũ lính đi tuần tới, thấy ba người lạ hỏi :
                        – Chủ quán, ai vậy ?
                        Chủ quán đáp lơ đãng :
                        – Ba người từ Giao-chỉ sang tìm thầy học thuốc. Tôi chỉ họ đi Đông-xuyên hoặc Côn-minh.
                        Viên ngũ trưởng hỏi :
                        – Ba vị từ Giao-chỉ đến đây, thế có thẻ bài chứng minh thân phận không ?
                        Phương-Dung giả vờ ngơ ngác :
                        – Thái thú Giao-chỉ không bắt dân dùng thẻ bài nên chúng tôi không có.
                        – Vậy mời ba vị đến sở Tế-tác gặp Giám-sở chúng tôi. Bởi đây là biên cương, chỉ sợ tế tác địch do thám.
                        Đào Kỳ liếc nhìn Phương-Dung, rồi cùng đi theo viên Ngũ-trưởng. Tới cổng thành, y dẫn ba người vào một căn nhà gỗ khá sạch sẽ. Y nói lớn :
                        – Trình Giám-sở có ba người từ Giao-chỉ tới, không có thẻ bài, chúng tôi mời họ về đây để Giám-sở định liệu.
                        Trong nhà, một thanh niên khoảng 25 tuổi bước ra, nhìn ba người rồi mời vào phòng, tự giới thiệu :
                        – Tôi là Ngô Đạt, Giám-sở Tế-tác Vĩnh-nhân. Đây là biên giới cần đề phòng cẩn mật. Vậy xin ba cô cậu khai cho đúng :Ba cô cậu từ đâu tới, tên họ gì ? Đến để làm gì ?
                        Phương-Dung trả lời :
                        – Chồng tôi họ Kỳ tên Đào, tôi họ Phương, còn đây là em chồng tôi, tên Quốc, chúng tôi từ Giao-chỉ tới tìm thầy học thuốc cứu người !
                        Giám sở nhìn ba con ngựa hỏi :
                        – Con ngựa Ô này là ngựa rừng, tôi chưa từng thấy qua. Con hai con chiến mã này, móng đóng thiếc của kỵ binh, tại sao các vị có ?
                        Phương-Dung giật mình nhận ra sự sơ hở của mình và công nhận Giám sở tinh tế, thông minh, nhận ra chân tướng mình. Nàng chưa biết trả lời sao thì Ngô Đạt lại nói :
                        – Các vị không có thẻ bài, vậy cho chúng tôi khám được không ?
                        Giao-long nữ cười :
                        – Không được ! Ngô đại nhân mà khám, e rằng sẽ gặp một vật làm đại nhân chết khiếp.
                        Ngô Đạt thấy Trần Quốc xinh đẹp, nói năng có duyên, thì cười :
                        – Tiểu cô nương ! Không lẽ trong bọc cô nương có rắn rết ? Nói thực tôi không sợ đâu. Tôi khám đây.
                        Y chụp bọc của Trần Quốc.
                        Nàng trầm mình tránh khỏi, rồi nói :
                        – Trời ơi ! Đại nhân định khám thật ư ? Này tôi nói cho mà biết, nam nữ thụ thụ bất thân, đại nhân không được đụng vào người tôi !
                        Ngô Đạt là người học võ, chàng thấy lối né tránh của nàng khác lạ, rõ ràng nàng là một cao thủ. Y giật mình chụp vai nàng. Trần Quốc lại trầm mình tránh khỏi.Y thất kinh chụp lần nữa, lần này nàng cũng tránh thoát. Sau bốn lần chụp hụt, y nhận thấy bản lãnh đối phương cao hơn mình nhiều, y lùi lại rút gươm chém tạt một nhát, Trần Quốc cũng tránh được. Y tiếp tục chém mười chiêu đều bị nàng tránh dễ như chơi. Y biết đối thủ không có ác ý, nếu không chỉ một chiêu là y đã bỏ mạng. Thấy quân sĩ đã vây kín xung quanh, y yên tâm quay lại nhìn Đào Kỳ, Phương-Dung thấy hai người như không chú ý đến cuộc giao tranh, ngồi bình thản quan sát cơ sở. Y bỏ kiếm xuống hỏi :
                        – Xin quý vị cho biết rõ lý lịch.
                        Phương-Dung lấy một gói trong bọc đưa cho y, rồi nói :
                        – Có người gởi cho quan trấn thủ ải nầy món quà, nhờ Ngô giám sở đưa dùm.
                        Ngô Đạt lấy cái hộp bọc lụa, mở ra thì trong có ba tấm thẻ bài và một phong thư. Y cầm lên coi thấy tấm thứ nhất đề : Trần Quốc, Thống-lĩnh Hải-đoàn Lĩnh-nam. Tấm thứ nhì : Đào Kỳ Chinh-viễn đại tướng quân. Tấm thứ ba : Nguyễn Phương-Dung Đệ nhất Quân-sư. Phong thư có ấn son đỏ đề : "Lĩnh-nam vương Tả tướng quốc, lệnh văn võ các cấp phải tuân lệnh điều động của Đệ nhất Quân-sư và Chinh-viễn đại tướng quân. Trái lệnh xử trảm".
                        Ngô Đạt đã được Thái-thú Cù Anh-Thông loan báo đại quân Lĩnh-nam vương đã tới Quế-lâm. Chinh-viễn đại tướng quân sẽ tới bí mật bất kể ngày đêm để dọ thám bên địch. Hễ thấy không được chào hỏi, phải mời vào gặp cấp trên ngay. Vì vậy y vẫy quân sĩ :
                        – Các người tránh ra hết.
                        Đợi quân sĩ đi hết, y mới chắp tay hành lễ quân cách :
                        – Giám-sở Tế-tác Vĩnh-nhân xin ra mắt Quân-sư và Đại-tướng quân.
                        Thái độ y hiên ngang, kính trọng mà không sợ hãi. Đào Kỳ thấy thiện cảm :
                        – Chúng ta đi gặp vị trấn thủ ải này rồi hãy nói truyện.
                        Ngô Đạt dẫn ba người vào một căn nhà khác. Y ra hiệu ba người ngồi chờ, rồi vào trong. Một lát sau y trở ra cùng một tướng quân, tuổi khoảng 50 dáng điệu uy nghiêm.Viên tướng trấn thủ hành lễ quân cách :
                        – Tiểu-tướng Trần Huê xin ra mắt Quân-sư và Đại tướng quân.
                        Đào Kỳ và Phương-Dung đáp lễ. Y mời ba người vào trong trướng, sai đãi trà. Phương-Dung cho y biết sơ ý định đánh Thục. Vì vậy nàng và Đào Kỳ tới đây để đích thân thám sát tình hình. Nàng bày tỏ nỗi lo lắng không vượt sông được, nói với Trần Huê :
                        – Sông này, rộng sâu thế nào ?
                        – Kim-sa giang rộng khoảng một ngàn trượng. Sâu không biết bao nhiêu mà lường. Mùa nước cạn còn rộng khoảng 800 trượng mà thôi, nước chảy cũng ít mạnh. Còn về tình hình bên địch xin để Ngô Đạt trình bày.
                        Ngô Đạt đỡ lời Trần Huê :
                        – Đạo quân Độ-khẩu của Thục có một Lữ kỵ binh, một Lữ bộ binh và một Hải đoàn. Hải đoàn đóng sát ngay chân thành Độ-khẩu. Trong thành có hai tốt kỵ, hai tốt bộ. Tổng cộng cả bộ, kỵ, thủy là 600 người. Tướng trấn thủ là Sơn Ngọc-Quang, ít học, nhưng là một tướng có tài và là một tay võ công trác tuyệt. Y lại là người kiên trì cẩn thận. Trong thành y để 600 quân, bên ngoài y còn cho đóng hai đồn Hoa-bình và Mễ-dịch, cách Độ-khẩu khoảng 15 dặm. Mỗi đồn đều có 100 quân bộ và 100 quân kỵ. Nếu chúng ta vượt sông đánh Độ-khẩu, sẽ bị hai đồn đánh bọc hậu.
                        – Từ trước đến giờ tướng quân đã vượt sông lần nào chưa ?
                        Trần Huê thưa :
                        – Phục-ba tướng quân Mã viện đã cho thử vượt sông. Tuy đổ quân được sát vào chân thành Đội-khẩu, nhưng bị hai đồn Hoa-bình và Mễ-dịch kéo về đánh, thành ra bị bại. Quân đổ bộ phải rút về, chết chìm phân nữa. Từ đấy không thấy lệnh trên nói gì nữa, tiểu tướng chỉ biết trấn thủ nghiêm ngặt mà thôi.
                        Phương-Dung gật đầu nói với Ngô Đạt :
                        – Xin Giám-sở mang theo 2000 trượng dây lớn cỡ bằng đầu ngón tay út. Chúng ta lên đường ngay.
                        Ngô Đạt cáo từ một lát rồi trở lại đã có sẵn dây. Phương-Dung dẫn Ngô Đạt, Trần Hụê cùng đi dọc theo Kim-sa giang. Trời về đêm lạnh buốt tới xương. Hai tướng công lực còn kém đều phát run. Đào Kỳ móc túi đưa mỗi người một viên thuốc chống lạnh của Khất đại phu chế trên đảo cho phụ thân chàng. Hai tướng nuốt vào, thấy người ấm áp dễ chịu. Đi một lát Ngô Đạt chỉ sang phía bên kia sông :
                        – Kia là đồn Hoa-bình. Thường thường bên kia sông lúc nào cũng có binh lính tuần tiễu. Nhưng nay là mưa lạnh, chúng yên tâm không ai dám vượt sang, nên chúng án binh ngủ.
                        Phương-Dung chỉ vào bên này sông :
                        – Khoảng giữa Độ-khẩu và Hoa-bình, chúng ta có thể vượt sông. Xin lang quân giúp sức.
                        Đào Kỳ rút kiếm chặt hai cây tre lớn nhất ở bụi tre gần sông, vót nhọn đầu. Đoạn chàng cầm hai cây tre, nhún người vọt lên cao, lộn một vòng đầu xuống trước. Khi tới đáy sông chàng vận khí, dùng sức cắm hai cây tre lún gần phân nửa, rồi vọt lên đáp vào bờ. Chàng bảo Giao-long nữ :
                        – Tiểu muội với ta mỗi người đeo một cuộn dây, vượt sông, chằng dây, để Ngô giám sở và sư tỷ bám dây lội qua.
                        Ngô Đạt thất kinh hồn vía :
                        – Nước sông lạnh lại chảy xiết, làm sao vượt qua ?
                        Giao-long nữ cười :
                        – Tôi là Giao-long, Đào đại ca là rái cá. Chúng tôi tu luyện ngàn năm thành người, qua sông có gì khó ?
                        Nói xong nàng nhào xuống nước cùng Đào Kỳ lặn sâu trong đáy sông. Một lát sau cả hai đã nổi bên kia bờ sông. Họ chỉ bị trôi về hạ lưu hơn trăm trượng thôi. Đào Kỳ lại chặt cây, cắm xuống sông, cột dây vào, đoạn chàng bắt chước tiếng chim, rúc lên một hồi.
                        Bên này Phương-Dung bảo Trần Huệ :
                        – Tướng quân đứng ở đây, để tôi với Ngô giám-sở bám dây lội qua sông.
                        Bây giờ Ngô Đạt mới tỉnh ngộ. Y nhảy xuống sông bám dây lội qua. Khi đến được bờ đã thấy Phương-Dung ngồi đó tự bao giờ. Bốn người len lỏi trong đêm đến Độ-khẩu, theo đường bộ qua Mễ-dịch rồi lại trở về chỗ cũ, lội sông, sang Vĩnh-nhân.
                        Tới thành Vĩnh-nhân Phương-Dung nói :
                        – Trần, Ngô tướng quân cần giữ bí mật, coi như chúng tôi chưa tới đây, để tế tác giặc không biết. Tướng quân được phép tổ chức cờ bạc, ăn chơi cho quân sĩ trong ngày cuối năm, để đánh lạc hướng chú ý của giặc. Tôi sẽ có lệnh sau.
                        Sáng hôm sau ba người lên đường trở về Côn-minh, tới nơi thì Triệu Anh-Vũ và Đinh Công-Thắng cũng vừa về tới. Nghiêm Sơn mời tất cả vào trướng thương nghị.
                        Đinh Công-Thắng trình bày :
                        – Chúng tôi đi thám thính, đường Kim-sơn đến Long-xương phải qua một ngọn núi cao 1500 trượng. Sang chân núi bên kia chỉ có một tốt khoảng 100 binh sĩ canh phòng. Tới mãi Long-xương mới có một lữ kỵ binh đóng trong thành nhỏ. Đây là đồng bằng, dân chúng sống hiền hòa, binh sĩ trễ nãi, việc canh phòng sơ hở. Có điều khi vượt qua Kim-sơn, chúng tôi phải nhờ đến đội Thần-hầu của Hồ Đề lên trước cột dây mới qua được. Tuy vậy, nếu mạo hiểm đánh chiếm Long-xương, tất Thành-đô rúng động. Chỉ sợ sau đó chúng rút quân từ hai đạo Tây-xuyên và Kinh-châu về, chúng ta ít người khó đương cự nổi.
                        Triệu Anh-Vũ là sư thúc Nghiêm Sơn, ông là người can trường, nói :
                        – Tôi với Đinh huynh đã bàn, nếu cần hy sinh tính mạng, chúng tôi cũng quyết làm cho được.
                        Đào Kỳ ngẩn người nghĩ :
                        – Anh của Đinh Công-Thắng bị Phương-Dung giết, mà sao Công-Thắng lại đổi tính mau như vậy ?
                        Chàng chợt nhớ ra, anh em Lôi-sơn tam hùng chỉ ước muốn làm chúa 36 động Mê-linh, nay Trần Năng nhường chức Thống-lĩnh cho Đinh Hồng-Thanh rồi, có lẽ vì vậy anh em họ Đinh đã thỏa lòng.
                        Suốt hai ngày Nghiêm Sơn bàn định với Phương-Dung, Đào Kỳ để quyết định phương kế tối hậu. Vương cho đánh trống khẩn cấp họp tướng sĩ. Vương thăng trướng ban lệnh :
                        – Chúng ta phải tới Thành-đô ăn Tết Bính-thân. Vậy xin các vị sư bá, sư thúc, chư huynh đệ và tướng sĩ nghe lệnh :
                        – Đào hiền đệ chỉ huy đạo thứ nhất, bí mật đến Độ-khẩu, làm thế nào tới nơi mà giặc không biết. Khi tới chia quân làm ba : Đội thứ nhất do Trần Huệ, ngày đêm tuần tiễu phía Nam Kim-sa giang, đề phòng địch vượt sông tập kíck. Trần Huệ cũng phụ trách việc tiếp tế lương thảo và bảo vệ đường liên lạc giữa Đào hiền đệ và Tổng hành dinh của ta. Sư muội Trần Quốc chỉ huy đội Giao-long binh Thiên-trường chăng dây qua sông. Sau khi vượt sông Trần muội chia đội Giao-long ra làm hai, mai phục phía ngoài Độ-khẩu và Hoa-bình, nếu gặp tuần đội tiễu địch phải giết sạch, không để thóat một mạng. Trong khi đó sư huynh Nguyễn Nhân cùng năm tướng Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Giao-Chi chỉ huy đội quân ráp cầu phao cho thực nhanh, làm sao trước lúc trời sáng phải xong 4 cầu phao. Đầu cầu phía Nam do Giám-sở tế tác Vĩnh-nhân, Ngô Đạt chỉ huy bảo vệ. Đầu cầu phía Bắc do sư huynh và chúng huynh đệ bảo vệ. Đào hiền đệ phải cho một sư bộ và một sư kỵ đổ bộ trước khi trời sáng. Sau khi cầu phao làm xong, Đô-đốc Trần Quốc lập tức trở về Vĩnh-nhân điều khiển Hải đội sẵn sàng, chờ tín hiệu của nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa sẽ đánh thẳng sang bên kia Độ-khẩu.
                        – Đào hiền đệ cho Lữ bộ mai phục trên đường từ Hoa-bình về Độ-khẩu. Khi đánh Độ-khẩu tất quân Hoa-bình đổ về cứu. Ta cứ để cho chúng đi, chỉ cho một phần phục binh đánh cầm chân, phần kia tiến chiếm Hoa-bình. Để một số quân Hoa-bình chạy thoát và mở vòng vây để toán quân giặc tiếp cứu Độ-khẩu chạy được về Độ-khẩu, chúng sẽ làm binh lính ở đây rối lọan mất tinh thần.
                        – Cho hai Lữ bộ và kỵ tiến đánh Mễ-dịch, nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy cánh quân này. Khi bắt đầu đánh Mễ-dịch, nhớ bắn tên lửa làm hiệu để Đô-đốc Giao-long nữ thúc quân vượt sông đánh vào Hải đội địch. Giặc bị công phá bốn phía, thua chạy. Đào hiền đệ phải chuẩn bị trước phục binh chặn bắt hết, không để một tên tẩu thoát báo tin.
                        – Sau khi chiếm được Độ-khẩu, Hoa-bình và Mễ-dịch, Minh Giang sẽ đóng tại Độ-khẩu, Vĩnh-nhân. Còn Đào đệ thúc quân tiến đánh Đức-xương, Tây-xương, Việt-tây và Hán-nguyên. Đến Hán-nguyên, phải án binh tại chỗ, chờ bắt tay với đạo Kim-sơn rồi cùng đánh Thành-đô.
                        Từ hồi xuất binh tới giờ, chư tướng chỉ thấy ba vị quân sư điều binh khiển tướng. Bây giờ mới thấy Nghiêm Son đích thân ban lệnh, kế hoạch chính xác, ngồi trong trướng mà định việc trăm dặm, Vương quả không hổ danh tướng trăm trận, trăm thắng, không phụ lòng Hán đế cho chỉ huy cả Đặng Vũ, Ngô Hán, Phùng Dị và Mã Viện.
                        Đợi các tướng được phân công ghi nhớ kỹ lệnh, đoạn Vương tiếp :
                        – Đạo thứ nhì do sư thúc Triệu Anh-Vũ và Đinh Công-Thắng chỉ huy tiến đánh Long-xương. Đường tiến quân của nhị vị sư thúc rất khó khăn, nhưng nếu đem được quân tới Long-xương là giặc kinh hồn, táng đởm rồi. Vậy hai vị ưu tiên chọn một Lữ bộ toàn quân khỏe mạnh, can đảm và kỷ luật. Dùng đoàn quân Thần-hầu của Hồ Đề leo núi, chăng dây trước hai vị lên theo dùng dây kéo người. Đầu tiên kéo hai, sau thành bốn rồi thành tám, cứ thế khi có 200 quân thì kéo xuống chân núi bố phòng, để quân còn lại tiếp tục vượt núi. Khi cả Lữ qua rồi thì để đội Thần-hầu thủ bên này Kim-sơn bảo đảm tiếp tế lương thực. Đợi đêm hãy vượt rừng đánh chiếm đồn nhỏ của địch trấn giữ chân núi Kim-sơn không cho một người chạy thoát, bắt chúng giao binh phù, hướng dẫn đường bất thần đánh Long-xương. Chiếm được Long-xương thì không còn gì đáng sợ nữa. Lúc đó nhị vị sư thúc cần liên hệ với Đào hiền đệ. Kể từ đây, mọi tiếp tế, bổ sung đều từ Hán-nguyên đưa đến.
                        – Sau khi hai đạo quân chiếm Hán-nguyên và Long-xương bắt tay được với nhau, chúng ta sẽ dồn hết 16 quân Bộ, 16 sư Kỵ Lĩnh-nam vào Ích-châu. Bấy giờ Chinh-viễn tướng quân cho binh tiến chiếm Thành-đô. Nhớ răn dặn tướng sĩ, không được giết hại người, không được cướp bóc. Cần phải đánh thật mau, trước khi Đặng Vũ tới.
                        Sau cùng thông lệ chàng hỏi:
                        – Có ai thắc mắc gì không ?
                        Giao-long nữ nói :
                        – Sau khi đánh Độ-khẩu, tiểu muội với đội Giao-long và đội của trang Cối-giang sẽ làm gì ?
                        Nhờ nàng nhắc Nghiêm Sơn mới chợt nhớ ra :
                        – Trần đô-đốc điều khiển hai lực lượng này theo tướng quân Đào Kỳ đánh chiếm các đội thủy quân địch ở Hán-nguyên. Rồi góp thủy quân dọc sông Dân-giang lên đánh Thành-đô. Tiểu muội tổng chỉ huy thủy quân Lĩnh-nam.
                        Giao-long nữ nghe vậy thích quá, gật gật đầu cười.
                        Nghiêm Sơn đứng dậy, cung kính đưa ấn kiếm cho Nam-hải nữ hiệp :
                        – Thưa sư bá, sau đây cháu phải đi Kinh-châu cùng sư muội Phương-Dung xem xét tình hình. Việc điều khiển tất cả bá quan văn võ từ Lĩnh-nam cho tới Kinh-châu đều do sư bá thay cháu. Nhất là việc bảo đảm việc trấn thủ hậu quân cho Đào hiền đệ. Phụ giúp sư bá, có sư thúc Lương Hồng-Châu và sư muội Lê Ngọc-Trinh.
                        Nam-hải nữ hiệp khảng khái nhận lời :
                        – Tôi xin nhận trách nhiệm này. Tôi có thắc mắc, khi Hồ Đề đi giúp Đặng Vũ có mang theo đội Thần-phong, Thần-ưng. Còn Vĩnh-Hoa mang theo đội Thần-báo, Thần-hổ. Ở đây đội Thần-hầu theo Triệu Anh-Vũ. Còn đội Thần-xà và Thần-ngao để làm gì ?
                        Giao-long nữ khúc khích :
                        – Xin sư bá cho cháu đội Thần-xà để đánh hải đội của địch !
                        Nghiêm Sơn đồng ý giao đội Thần-xà cho Giao-long nữ và tiếp :
                        – Đội Thần-ngao sẽ được chia đều cho ba đạo, để canh phòng, thám thính.
                        Phương-Dung tiếp lời Nghiêm Sơn :
                        – Sau khi chiếm được Độ-khẩu, sư bá có thể cho dời tổng hành dinh đến đó theo Đào lang. Lúc trở về Lĩnh-Nam, chúng ta sẽ dùng sông Trường giang đổ ra Kinh-châu, rồi từ Kinh-châu về Giao-chỉ bằng đường biển. Nhất thiết các đồn trại của giặc chiếm được dọc đường, xin sư bá tự quyết đề cử tướng sĩ trấn nhậm. Các chức huyện lệnh, huyện úy vùng mới chiếm, Đào lang sẽ trình sư bá để quyết định. Chúng ta cần người tài đức để an dân. Biết và dùng người trên thế gian này khó ai bằng sư bá. Có điều bên Hán trọng nam khinh nữ, không như bên Lĩnh-nam ta. Vì vậy xin sư bá hiển lộng thần uy nếu cần để tướng sĩ phục tùng. Bởi họ chỉ phục sức vũ dũng mà thôi.
                        Nam-hải nữ hiệp tủm tỉm cười :
                        – Nguyễn Trát sinh ra cháu quả là viên ngọc quí hiếm trên thế gian.
                        Nghiêm Sơn thấy Lê Ngọc-Trinh mặt buồn rười rượi, chàng hỏi :
                        – Lê sư muội dường như có diều gì không được vui lòng ?
                        Lê Ngọc-Trinh trả lời :
                        – Ai cũng ra trận được cả, chỉ mình tôi ngồi gác lương thực, chán quá !
                        Nghiêm Sơn nói :
                        – Sư muội lầm rồi. Đại phàm đạo dùng binh, quan trọng ngất là bảo vệ lấy căn bản. Căn bản là hậu quân. Vì vậy ta phải nhờ hai vị có uy tín nhất là Nam-hải nữ hiệp và sư thúc của ta trấn giữ. Nếu để giặc chiếm mất hậu quân, chặn đường về, chúng ta chết hết. Sư muội là đệ tử Khất đại phu, giỏi trị bệnh, võ công cao cường, ta để ở với Nam-hải nữ hiệp bảo vệ sau lưng toàn quân, đó chức vụ quan trọng nhất.
                        Vốn tính hiền hòa, Lê Ngọc-Trinh đổi buồn làm vui, gật đầu mỉm cười.
                        Sau đó mọi người giải tán, ai về lo nhiệm vụ nấy, chuẩn bị thi hành lệnh được giao phó.
                        Bộ Anh hùng Lĩnh-Nam
                        đến đây đã chấm dứt, xin xem tiếp bộ
                        ĐỘNG ĐÌNH HỒ NGOẠI SỬ
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #42
                          Phụ bản



                          Những di tích lịch sử về vùng Mê-Linh hiện còn
                          I. Vị trí thủ đô Mê-linh,
                          Vị trí của thủ đô Mê-linh thời Lĩnh Nam, ngày nay bao gồm khu tam giác ba huyện Lương-sơn, Quốc -oai, Thạch-thất thuộc tỉnh Sơn Tây. Hay nằm trong khu vực bao gồm bởi :
                          – Phía Tây là sông Đà, bao bọc hai hòn núi Ba Vì (1281 m), Vua Bà (1031 m)
                          – Phía Bắc do sông Thao, sông Lô đổ vào sông Hát.
                          – Phía Đông bao bọc bởi sông Đáy.
                          – Phía Nam thuộc vùng Chương-mỹ.
                          II. Di tích thờ kính anh hùng thời Lĩnh Nam quanh Mê linh.
                          Di tích mà chúng tôi tìm được quanh vùng Mê-linh, cho đến nay (1988), còn tất cả 45 đền thờ anh hùng thời Lĩnh-Nam. Đa số thờ các vị tuẫn tiết trong trận đánh Cẩm Khê. Dưới đây liệt kê những đền thờ, miếu chính, theo số thứ tự. Con số trong ngoặc cuối dòng để chỉ số anh hùng :
                          1. Phạm Thông, Phạm Như. Tướng thuộc quyền Tương-liệt đại vương Nguyễn Thành-Công, tử chiến thành Mê-Linh. (2 vị)
                          2. Vũ Trinh-Thục, Công-chúa Bát-Nàn, phụ trách toàn bộ hệ thống Tế-tác ngày nay là Tình-báo quốc gia. Nếu vào thời Việt-Nam Cộng-hòa thì bao gồm Tổng-nha Cảnh-sát, Phòng-nhì bộ Tổng-tham-mưu, Phủ đặc ủy Trung-ương tình-báo. Nếu ở Hoa-kỳ thì bao gồm cả CIA lẫn FBI. Nếu tại Việt-Nam hiện thời thì gồm bộ Công-an, Cục Quân-báo. (3)
                          3. Chu Chiêu-Trung, Chu Đỗâ-Lý. Đệ tử anh hùng Chu Bá, tuẫn quốc sau vua Trưng, khi Mã Viện tiến đánh Cửu-chân .(5)
                          4. Ba chị em Chiêu Nương: Chiêu Anh Nương, Chiêu Hoa Nương, Chiêu Tiên Nương. Trong đội hộ giá vua Trưng. Tử chiến trận Mê-linh. (8)
                          5. Ba anh em họ Cao. Cao Chiêu Hựu, Cao Đà, Cao Nguyệt Nương, trong đội quân Tây Vu . Tuẫn quốc trận Nam-hải. (11)
                          6. Nguyễn Nga. Tuẫn quốc trận Hành Sơn. (12)
                          7. Phùng Vĩnh-Hoa. Một trong 12 nữ đại công thần thời Lĩnh-Nam. Đại bác học thời Lĩnh-Nam. Ngài được phong tước Công-chúa Nguyệt Đức, lĩnh Tư-đồ triều đình Lĩnh Nam). (13)
                          8. Chu Tước. Tướng chỉ huy đội Thị-vệ. Tuẫn quốc trận Cẩm Khê. (14)
                          9. Sáu mẹ con Ngọc Ba. Không rõ họ. Mẹ tên Ngọc Ba. Năm con gồm hai gái Ngọc Bích, Ngọc Hồng. Ba trai Minh Thiên, Minh Nhân, Minh Đức. Tất cả tuẫn quốc trận Cẩm-khê. (20)
                          10. Ba tướng họ Đặng: Đại, Trung, Thiếu. Tuẫn quốc trận Lãng Bạc. Cả ba đều là tướng chỉ huy đội tiễn thủ. (23)
                          11. Ông Cai, không rõ họ, chức tước. Tuẫn quốc trận Lãng-bạc. (24)
                          12. Nhất Trung A, Nhị Trung A. Thuộc đạo quân Tây-vu. Tuẫn quốc trận Hành Sơn. (26)
                          13. Lý Minh. Tướng kị binh. Tuẫn quốc trận Lãng Bạc. (27)
                          14. Đao Khang. Tướng thuộc đạo binh Tây-vu. Tuẫn quốc trận Lãng Bạc. (28)
                          15. Ả-Lã. Tướng thuộc đạo binh Tây-vu. Tuẫn quốc trận Cẩm Khê. (29)
                          16. Sa-Lãng. Tướng thuộc đạo binh Tây-vu. Tuẫn quốc trận Cẩm Khê.(30)
                          17. Chu Hải-Diệu. Tướng thuộc đạo binh Tây-vu. Tuẫn quốc trận Nam Hải . (31)
                          18. Lôi-Chân. Tướng thuộc đạo binh Tây-vu. Tuẫn-quốc trận Hành-sơn. (32)
                          19. Nguyễn An, Ngự-trù của vua Trưng. Tuẫn quốc trận Cẩm Khê. (33)
                          20. Hoàng Đào, Tướng chỉ huy đội Thi-vệ. Tuẫn quốc trận Lãng Bạc. (34)
                          21. Ả Tự, Ả-Huyền, Thương-Cát. Tướng thuộc đạo binh Tây-vu. Tuẫn quốc trận Cẩm Khê. (37)
                          22. Đỗ Năng Tế, Tạ Thị Cẩn, Không giữ chức vụ gì, được tôn là Quốc-sư. Đền thờ hai ngài tại thôn Mỹ– giang, xã Tam-hiệp, huyện Quốc-oai ngoại thành Hà Nội. Hai ông bà được thờ chung. Ông bà là thầy dạy của vua Trưng và Trưng Nhị. Tuẫn quốc trận Cẩm Khê. (39).
                          23. Phùng Thị Chính. Tướng phó thống lĩnh Tế-tác (Tình báo quốc gia)). Tuẫn quốc trận Nam Hải. (40)
                          24. Man-Thiên, Man-Đà. Người phụ trách giữ đền nói Man-Thiên là sinh mẫu vua Trưng. Man Đà là cậu vua Trưng. Cả hai cùng tuẫn quốc trận Cẩm Khê. (42)).
                          III. Những hiện vật thời Lĩnh Nam quanh vùng Mê Linh.
                          Quanh Mê-linh, cho đến năm 1980 còn tìm được rất nhiều di vật thời Lĩnh-Nam. Một trong những loại di vật chính là trống đồng. Các nhà khảo cổ Việt Nam thường nhắc đến trống Đồng.
                          1. Trống đồng,
                          Nhiều giả thuyết cho rằng trống đồng được chế vào thời Hùng-vương. Giả thiết này tương đối vững, tin được. Vì khi dùng quang tuyến xác định niên đại đã chứng minh rõ ràng điều đó.
                          Trong khi tìm kiếm tài liệu về Anh Hùng Lĩnh Nam, chúng tôi đã thấy nói đến trống Đồng rải rác ở khắp các cuốn phổ.
                          Huyền thoại nói rằng phò mã Sơn Tinh dâng nhiều lễ vật lên vua Hùng, cầu hôn với công chúa Mỵ Nương. Trống đồng đó trước 1945 còn để tại hang Địch-lộng, vùng Ninh-bình. Hồi 1945, thuật gia đã viếng thăm, được thấy trống này. Không biết nay có còn không ?
                          Huyền thoại nói rằng trong trận đánh giữa Phù Đổng Thiên vương với giặc Ân, " trống đồng hơn trăm chiếc, đánh rung động cả Sài Sơn".
                          An Tiêm từ đảo trở về, vua Hùng truyền đánh trống đồng đón rước. Đấy là trống được nhắc đến trong thời vua Hùng. Thời vua An Dương vương trống đồng cũng xuất hiện : Trận đánh giữa Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung với Đồ Thư tại vùng núi Đông-triều ngày nay : " rống đồng đánh vang dội, quân Tần khiếp vía".
                          Đến thời Lĩnh Nam, sau khi thành đại nghiệp, vua Trưng bàn với Công-chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh Hoa về việc đúc trống đồng. Công chúa hội ý với Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, rồi truyền đúc 6 loại trống khác nhau, tướng trấn thủ sáu vùng là Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải. Tây-vu lục tướng được đề cử đúc trống. Các ông đề nghị khắc hình chim. Công chúa Gia-hưng (Trần Quốc) đề nghị thêm hình thuyền với người chèo đò, cuối cùng hoa văn trên trống được đưa ra triều nghị. Trống đồng được dùng trong quân, trong lễ nghi thời ấy.
                          Năm 1923 tìm thấy trống đồng trong vùng Mê linh, gọi là trống Sơn Tây.
                          Năm 1932 tìm thấy gần chùa Tùng-lâm, thuộc xã Mỹ -lương, huyện Chương-mỹ, 5 cây số Bắc Miếu-môn một trống đặt tên là Tùng-lâm (I). Gần đây, năm 1959 tìm thấy một trống nữa đặt tên là trống Tùng-lâm (II).
                          Năm 1959, tìm thấy trống lớn ở xã An-tiên huyện Mỹ -đức gần chùa Hương-tích.
                          Năm 1961 tìm thấy ở Thượng-lâm một trống, đặt tên là trống Miếu-môn (I).
                          Năm 1966 đã tìm thấy một trống ở đồi Ro, xã Long– sơn, huyện Lương-sơn, phía Tây Nam chợ Bến 5 cây số. Đặt tên là trống đồi Ro.
                          Năm 1973, tìm thấy ở cánh đồng Vọng-châu, xã Phú– lương, huyện Quảng-oai, nay là huyện Ba-vì, gần đê sông Hồng, 2 trống đặt tên là Phú-lương (I-II).
                          Năm 1975 tìm thấy trống Đồng bên bờ trái sông Côn (3 cây số tây bắc huyện lỵ Thạch Thất) một trống nữa, mang tên trống Thạch Thất.
                          Năm 1976 lại tìm thấy một trống lớn cạnh đền thờ công chúa Nguyệt Đức Phùng Vĩnh Hoa gọi là trống Miếu Môn (II). Tương truyền đây là trống lệnh của vua Trưng ban cho Công chúa Nguyệt Đức, khi bà lĩnh chức tổng trấn Tượng-quận, đem quân đánh nhau với Ngô Hán, Vương Bá.
                          Chúng tôi hiện giữ hai trống đồng tại Paris. Một do vua Trưng ban cho Công chúa Gia Hưng Trần Quốc, khi bà nhận lệnh đem thủy quân đánh lên vùng Bắc Nam Hải (Ngày nay ngang với Hương Cảng). Trận này bà giết chết đại đô đốc Hán là Đoàn Chí. Một do vua Trưng ban cho Bình Ngô đại tướng quân, Công chúa Thánh Thiên, làm trống lệnh, tổng trấn Nam Hải (Quảng Đông ngày nay).
                          2. Hiện vật, chiến cụ,
                          Thời Pháp thuộc cũng như sau này, trong vùng Mê-linh và phụ cận, các toán khảo cổ đã đào được rất nhiều búa, rìu, lao, mác, là vũ khí chế tạo thời vua Trưng, chôn cất, còn lại.
                          – Năm 1924, toán nghiên cứu địa dư Đông Dương đào được tại Quảng-oai một hố. Trong hố có 43 cái rìu, 12 cây giáo, 2 cây kiếm. Hiện vật này được đem về Pháp.
                          – Năm 1925, toán tìm kiếm mỏ của người Pháp, đào được một hầm chứa 5 cây đao, 7 cây búa, 12 cây giáo. Hầu hết đều mục nát. Nơi tìm thấy là xã Hà-hiệp, huyện Quốc-oai.
                          – Tháng 6 năm 1979, tại xã Hà-bằng, đã đào được một hầm ở độ sâu 0,50-0,70 cm 44 chiếc rìu, một chiếc giáo.
                          Việc tìm thấy trống đồng, vũ khí quanh Mê-Linh là truyện rất thường. Song các tỷ dụ trên, cho thấy đó là nơi chôn cất tập thể, có tính chất cất giấu, chứng tỏ xưa kia, đây là bãi chiến trường thời vua Trưng.
                          IV. Vị trí của đất Mê Linh trong sách sử cổ.
                          Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc-sử quan triều Nguyễn, khi chú thích về địa danh Cẩm-khê đã dẫn sách Thủy kinh chú của Dịch Đạo Nguyên như sau :
                          " heo sách Việt Chí, Cẩm-khê là Kim-khê ở phía Tây Nam huyện lỵ Mê-linh".
                          Vị trí của thành Mê linh ở trung tâm Cổ-lỗi trang. Về thành Mê-linh Cao Hùng Trưng ghi trong An Nam chí vào giữa thế kỷ 17. Sách Đại nam nhất thống chí của Quốc-sử quán triều Nguyễn dẫn sách Cao Hùng Trưng như sau :
                          "Thành cổ Mê Linh, theo An Nam chí thì Mê Linh ở phía tây phủ Giao Châu. Thời thuộc Hán là huyện của quận Giao Chỉ. Nhà hậu Hán vẫn theo như trước. Giữa thời Kiến Vũ, hai bà Trưng đóng đô ở đây".
                          "Thành cổ Phong Châu, theo An Nam chí chép : Ở phía tây bắc phủ Giao Chỉ, tức đất Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ đời Hán".
                          "Thành cổ Bình Đào, theo An Nam chí thì thành cổ Bình Đào ở phía tây bắc phủ Giao Châu, tức thuộc huyện Yên Lãng bây giờ..."
                          Sau khi thành đại nghiệp, vua Trưng cho xây thành Mê Linh , cùng cung điện. Các cung điện mà lịch sử còn ghi được gồm :
                          – Điện Kinh Dương, nơi vua thiết đãi triều, tiếp các Lạc vương, Lạc công. Trong điện có vẽ hình nguồn gốc phát tích của Quốc Tổ Hùng Vương : Vua Đế Minh kết hôn với Tiên nữ ở hồ Động Đình. vua Đế Minh tế cáo trời đất, phong cho con thứ là Lộc Tục làm vua Lĩnh Nam. Lạc Long Quân kết hôn với Âu Cơ đẻ ra trăm trứng. Sự tích An Tiêm làm lịch. Sự tích Phù Đổng Thiên Vương. Sự tích vua An Dương. Sự tích Vạn tín hầu Lý Thân xây thành Cổ Loa. Sự tích Trung tín hầu Vũ bảo Trung giết Đồ Thư. Sự tích Cao cảnh hầu chế nãy nỏ thần.
                          – Cung Âu Cơ, nơi vua Trưng ở.
                          – Điện Minh Đức, nơi vua Trưng làm việc hàng ngày cùng với Tam công, Tể tướng và Lục bộ.
                          – Phủ Lạc Long, nơi vua thiết tiêu triều.
                          – Phủ Thiên Vương, nơi vua Trưng luyện võ cùng với triều thần.
                          – Phủ An Tiêm, nơi nghiên cứu Thiên văn, Lịch số, chép sử.
                          Tục lệ do Quốc Tổ Hùng Vương để lại, là tổ chức lễ tế trời đất gọi là lễ Nam Giao. Ý nghĩa rằng : nhà vua thay trời đất cai trị muôn dân. Lễ Nam Giao trên một nền đất gọi là đàn Nam Giao ở phía Nam kinh thành. Di tích của thời Lĩnh Nam là chỗ dân Nam Giao xưa, nay thành xã Nam Giao thuộc tổng Hòa Lạc, tức xã Tân Xã, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây.
                          V. Kết luận,
                          Kết lại, thủ đô Mê Linh thời Lĩnh Nam hiện vẫn còn đầy đủ di tích. Nào đền thờ các anh hùng tuẫn quốc, nào các hố chôn vũ khí, nào trống đồng, nào dàn Nam Giao. Hồi 1952, thuật gia đã được viếng cố đô Mê Linh, lặn lội khắp vùng. Bấy giờ mới 13 tuổi. Mãi tới năm 1990 mới được trở lại nghiên cứu chi tiết.
                          Đến nay (1990) sau 1948 năm, trải không biết bao nhiêu lớp sóng phế hưng, mưa nắng, nhưng cố đô vẫn không bị mai một. Dân chúng vẫn thờ kính, tưởng nhớ công đức chư vị anh hùng.
                          Tôi đã tổ chức một cuộc du lịch Việt-Nam cho những người yêu văn hóa lịch sử tộc Việt. Đoàn gồm 36 người, chia ra: Việt 9, Pháp 20, Đức 3, Anh 2, Hòa-lan 1, Bỉ 1. Chi phí rất rẻ, vì chúng tôi chia phí tổn đồng đều. Tôi làm hướng dẫn viên (Nhưng cũng trả tiền như mọi người). Đoàn đã viếng thăm 10 kinh đô tộc Việt:
                          1. Phong-châu thời vua Hùng.
                          2. Cổ-loa thời vua An-Dương.
                          3. Mê-linh thời Lĩnh-Nam.
                          4. Vạn-xuân thời Tiền Lý.
                          5. Trường-yên thời Đinh, Tiền Lê.
                          6. Thăng-long thời Lý, Trần, Lê.
                          7. Tây-đô (Thanh-hóa) thời nhuận Hồ.
                          8. Đồ-bàn, Chiêm-quốc.
                          9. Thần-kinh (Huế) thời Nguyễn.
                          10. Sài-gòn, thời Việt-Nam Cộng-Hòa.
                          Không biết do tôi thuyết trình hay do hoàn cảnh lịch sử, mà thính giả tỏ ra cực kỳ xúc động khi viếng Mê-linh và Cổ-loa. Chính tôi cũng cực kỳ rung động khi thuyết trình. Nếu các cơ sở du lịch của người Việt tại hải ngoại đọc được những dòng này, mà tổ chức hành hương 10 cố đô của tộc Việt, thực là vừa nhắc nhở du khách nhớ đến những thời oanh liệt của tổ tiên ta, vừa thu được nhiều... tiền. Mong lắm.
                          Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment

                          Working...
                          X