Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Tây Sơn bi hùng truyện - Lê Đình Danh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #46
    Chương 43

    Lầm Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huỳnh Đức về theo Phúc Ánh.
    Trừ Nguyễn Hữu Chỉnh, Bắc Bình Vương cầu cứu Ngọc Hân.


    Nhắc lại Bằng Trung Công Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long nghe tin anh em nhà Tây Sơn đánh nhau, Chỉnh cả mừng nói:
    - Ngày trước khi khuyên Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh phò Lê ta đã biết trước Nguyễn Nhạc tất đem lòng đố kỵ mà trị tội kháng mệnh của Nguyễn Huệ, thật quả không sai. Nhưng không ngờ Nguyễn Huệ xem nhẹ luân thường đạp trên đạo lý nên phản chúa phụ anh, điều này ta không lường trước được. Nay Nguyễn Huệ tất bị thiên hạ chê cười, mất lòng tin trăm họ thì dù có tài dùng binh như Tôn Ngô ngày trước cũng chẳng ích gì. Đây chính là lúc ta thu đất Nghệ An dùng sông Linh Giang chia hai thiên hạ như hai nhà Trịnh - Nguyễn trước kia thì Nguyễn Huệ chỉ còn có đất Thuận Hóa nghèo nàn chật hẹp sao sánh cùng ta được.
    Con Chỉnh là Nguyễn Hữu Du hỏi:
    - Cha làm thế nào thu phục được đất Nghệ An?
    Chỉnh đáp:
    - Trước khi đem quân ra Bắc ta có hẹn cùng hai tướng trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức khi ta chiếm được Bắc Hà, Du và Đức sẽ trở giáo theo ta đánh lại Tây Sơn. Ta đã có kế này không tốn một mũi tên hòn đạn, không những lấy được Nghệ An mà có thể thu phục Động Hải nữa là khác.
    Hữu Du hỏi:
    - Nguyễn Duy và Huỳnh Đức trước đã giao ước cùng ta vậy nay ta lấy đất Nghệ An là việc dễ. Nhưng làm thế nào có thể lấy được Cát Dinh, Động Hải mà không tốn một mũi tên hòn đạn.
    Chỉnh kề tai Du nói nhỏ như vầy... như vầy... nghe xong Du khen:
    - Cha thật là đa mưu túc trí. Nguyễn Huệ không thể bì kịp.
    Nguyễn Hữu Chỉnh liền viết thư sai sứ giả đem vào Nghệ An trao cho Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức.
    Nhận được thư Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Duy bàn với Nguyễn Huỳnh Đức rằng:
    - Bằng Trung Công bảo ta viết thư cho trấn thủ Động Hải là Vũ Văn Nhậm, khuyên Nhậm làm phản Bắc Bình Vương rồi cùng hợp binh vào Phú Xuân đánh Bắc Bình Vương. Vậy ý ông thế nào?
    Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
    - Kế này rất hay. Nguyễn Huệ vừa đánh nhau với Nguyễn Nhạc. Vũ Văn Nhậm lại là con rể của Nguyễn Nhạc tất sợ bị Nguyễn Huệ nghi ngờ sớm muộn gì cũng làm hại. Nay được liên mình với ta đánh Nguyễn Huệ lập công với cha vợ ắt phải thuận lòng.
    Nguyễn Duy nghe lời ấy liền viết thư sai người tâm phúc vào Động Hải trao cho Vũ Văn Nhậm. Vũ Văn Nhậm nhận được thư của Nguyễn Duy nhủ thầm rằng: Bắc Bình Vương Hoàng Thúc là người kiệt hiệt, lại thêm các tướng đều trí dũng song toàn, dù ta liên minh cùng Nguyễn Duy và Huỳnh Đức cũng không dễ gì chống nổi ông ấy. Vả lại ta có nghe Trần Quang Diệu mở đường Thượng đạo ra đến Nghệ An. Nếu Bắc Bình Vương sai Diệu theo đường này chiếm lấy Nghệ An thì ta ở Động Hải lưỡng đầu thọ địch tiến thoái lưỡng nan ắt là phải chết. Chi bằng ta đem việc này tâu cùng Bắc Bình Vương để lấy lòng tin của ông ấy là hơn.
    Nghĩ rồi liền thét võ sĩ chém đầu sứ giả, lại sai người vào Phú Xuân báo tin cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ liền bảo quân:
    - Mau ra Động Hải truyền lệnh ta bảo Vũ Văn Nhậm cất quân đánh Nghệ An bắt Nguyễn Duy và Huỳnh Đức về đây cho ta.
    Quân vâng lệnh đi ngay. Nguyễn Duy ở Nghệ An nghe thám mã về báo rằng:
    - Vũ Văn Nhậm chém đầu sứ giả, lại vâng lệnh Bắc Bình Vương chỉnh đốn binh mã chuẩn bị tiến ra Nghệ An đánh ta. Xin tướng quân định liệu.
    Nguyễn Duy thất sắc hỏi Nguyễn Huỳnh Đức:
    - Nay ta phải liệu thế nào?
    Huỳnh Đức đáp:
    - Nay ta đã là người của Bằng Trung Công vậy ta hãy cầu ông ấy đem binh cứu viện.
    Nguyễn Duy nghe lời bèn sai sứ giả cấp tốc ra Thăng Long báo cho Hữu Chỉnh hay và xin binh cứu viện.
    Nhận được tin ấy Chỉnh nói với sứ giả:
    - Ngươi hãy về thưa với Nguyễn Duy tướng quân rằng: việc này lộ ra là do Nguyễn Duy không kín đáo nên mới đến tai Bắc Bình Vương. Vậy Nguyễn Duy hãy tự lo lấy, việc Nghệ An không can dự gì đến ta.
    Sứ giả về tâu cùng Nguyễn Duy, Duy thất kinh nói:
    - Chỉnh hứa sẽ dung ta, bày ta kế liên minh cùng Vũ Văn Nhậm. Nay lại bỏ ta là cớ làm sao?
    Huỳnh Đức điềm nhiên đáp:
    - Vũ Văn Nhậm không dám phản Bắc Bình Vương nên mới lộ việc. Hữu Chỉnh sợ nếu cứu ta là ra mặt chống đối Bắc Bình Vương, nhỡ Bắc Bình Vương đem quân đánh ra thì không chống nổi nên mới bỏ ta.
    Nguyễn Duy nổi giận quát:
    - Thằng giặc Chỉnh thật là phường bất nhân bất nghĩa. Ta ít quân giữ cũng không được mà chạy theo Chỉnh cũng không xong. Vậy phải làm sao?
    Huỳnh Đức làm ra vẻ bí mật đáp:
    - Ta hãy còn có một con đường sống.
    Duy hỏi:
    - Ấy là đường nào?
    Đức cười đáp:
    - Ông trước là tôi của Chúa Nguyễn Định Vương, nay hãy cùng tôi trốn sang Tiêm La Quốc theo phò Chúa Nguyễn Vương Phúc Ánh. Ấy là con đường sống vậy.
    Nguyễn Duy than:
    - Đến nước này chỉ còn con đường ấy mà thôi.
    Nói rồi Nguyễn Duy cùng Nguyễn Huỳnh Đức bỏ Nghệ An đem theo trăm quân tín cẩn xuống thuyền ra bể tìm đường sang Tiêm La Quốc.
    *
    * *
    Đến Vọng Cát ra mắt Nguyễn Vương Phúc Ánh, Huỳnh Đức tâu:
    - Tội thần là Nguyễn Huỳnh Đức ngày trước bị giặc Tây Sơn bắt ở cửa Hàm Luông, nay thoát được về đây xin ra mắt Thượng vương.
    Phúc Ánh hỏi:
    - Từ ngày ngươi bị bắt đến nay đã được bốn năm ở dưới trướng của giặc sao mãi đến nay mới về được.
    Đức đáp:
    - Hạ thần bị bắt, Nguyễn Huệ dụ hàng nhưng thần quyết chẳng nghe. Sau Huệ giao ước nếu về sau biết Thượng vương ở đâu thì đi hay ở là tuỳ ý sở cầu nên thần mới tạm hàng Nguyễn Huệ. Nay nghe Thượng vương ở Tiêm La Quốc bèn nhắc lời giao ước với Nguyễn Huệ rồi vượt biển đến đây.
    Phúc Ánh chỉ Nguyễn Duy hỏi:
    - Còn người này là ai?
    Đức đáp:
    - Đây là tướng quân Nguyễn Duy trước trấn thủ thành Trường Dục dưới thời Chúa Định Vương. Nay theo thần về phò Thượng vương.
    Ánh nghiêm giọng chỉ mặt Nguyễn Duy nói:
    - Ngươi là tôi của nhà Nguyễn ta, quân Trịnh đến thì theo hàng quân Trịnh, Tây Sơn đánh Trịnh thì bỏ Trịnh đầu Tây. Nay cùng đường lại theo về với ta. Loài phản phúc như ngươi để sống làm gì.
    Nói rồi hô quân lôi Nguyễn Duy ra ngoài mà chém.
    Võ sĩ lôi Nguyễn Duy đi xong, Phúc Ánh ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
    - Đó là kết cuộc của kẻ bất trung, các ngươi hãy lấy đó làm gương.
    Nguyễn Huỳnh Đức dập đầu lạy thưa:
    - Hạ thần không phải như Nguyễn Duy, xin Thượng vương xét lại.
    Phúc Ánh đỡ Đức dậy an ủi rằng:
    - Lòng trung của khanh ta đã biết, khanh không cần phải lo sợ. Khanh hãy nói rõ tình hình quân Tây Sơn như thế nào.
    Đức đáp:
    - Năm Bính Ngọ Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc, trong một tháng giết Trịnh Khải chiếm Thăng Long.
    Phúc Ánh giật mình nói:
    - Họ Trịnh binh hùng tướng mạnh lại là một nước đã nên gốc rễ hơn hai trăm năm. Vậy mà Nguyễn Huệ đem quân vào nước người chỉ trong một tháng đã diệt được họ Trịnh ư. Tài Nguyễn Huệ thật là đáng sợ. Rồi sau đó thế nào?
    Huỳnh Đức đáp:
    - Tâu Thượng vương, Nguyễn Nhạc thấy Nguyễn Huệ lập võ công hiển hách, uy danh lừng lẫy nên đem lòng nghi kỵ gọi về Quy Nhơn thọ tội, Huệ giận đem quân vây thành Quy Nhơn, Nhạc không chống nổi phải xin hòa. Từ ấy Nhạc phong cho Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ đèo Hải Vân trở ra Phú Xuân, Thuận Hóa và phong Nguyễn Lữ là Đông Định Vương cai quản từ đèo Vân Phong vào đến Gia Định, Sài Côn.
    Nghe đến đây Phúc Ánh vui mừng reo lên rằng:
    - Anh em Nhạc, Huệ, Lữ bất hòa chia ba lãnh thổ, Nguyễn Huệ lại trấn thủ mặt Bắc, thật là trời giúp ta rồi vậy.
    Nguyễn Văn Thành xen vào nói:
    - Nhưng trấn thủ Gia Định với Nguyễn Lữ còn có Đặng Văn Long. Đặng Văn Long trí dũng song toàn, ngày trước chính nó đã bắt sống Nguyễn Huỳnh Đức ở cửa Hàm Luông, sau lại chặn đường về của ta ở Rạch Gầm trên sông Tiền Giang. Gia Định còn Đặng Văn Long là còn một mối lo vậy.
    Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
    - Đặng Văn Long là tay chân của Nguyễn Huệ. Nay Nhạc, Huệ bất hòa Long sợ Nhạc làm tội nên bỏ Gia Định theo về Phú Xuân với Nguyễn Huệ rồi.
    Phúc Ánh lại vỗ tay giậm cẳng nói:
    - Ấy thật là trời đã bày ra chuyện thằng buôn trầu Nguyễn Nhạc có tính đố tài để giúp cho ta khôi phục cơ đồ rồi vậy.
    Nguyễn Huỳnh Đức bàn rằng:
    - Nay Nguyễn Huệ và các tướng giỏi đều đã ở Phú Xuân cả, vậy Thượng vương nên nhân cơ hội này về nước chiêu binh mãi mã chiếm đất Gia Định khôi phục cơ nghiệp đừng bỏ lỡ thời cơ.
    Phúc Ánh nói:
    - Từ ngày ta cho con là hoàng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc sang nước Pháp Lang Sa làm con tin để cầu viện đến nay đã hai năm mà chẳng thấy tin tức gì, ta thật lấy làm lo lắng. Để ta sai người đến Pháp Lang Sa liên lạc với Bá Đa Lộc xem sự thể thế nào rồi sẽ liệu sau.
    Đoạn Phúc Ánh liền sai sứ giả kíp đi ngay sang nước Pháp Lang Sa tìm Bá Đa Lộc.
    *
    * *
    Nhắc lại sau khi Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trốn đi rồi, tướng Tây Sơn trấn thủ Động Hải là Vũ Văn Nhậm kéo quân ra chiếm thành Nghệ An bỏ trống. Vào thành rồi Vũ Văn Nhậm tự đắc nói với tả hữu rằng:
    - Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức mới nghe oai ta đã bỏ thành mà chạy. Nếu Bắc Bình Vương chẳng dặn trước là không được đánh ra Bắc thì ta đã kéo rốc ra Thăng Long bắt luôn Nguyễn Hữu Chỉnh cho thiên hạ biết tài.
    Nói rồi Nhậm bèn sai quân về Phú Xuân báo tin thắng trận cho Nguyễn Huệ hay. Nguyễn Huệ nhận được thư báo tiệp của Vũ Văn Nhậm liền bảo với các tướng rằng:
    - Nguyễn Hữu Chỉnh thật xảo quyệt. Hắn xúi Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức chống lại ta, khi lộ việc Vũ Văn Nhậm kéo quân ra đánh, hắn sợ không dám dung Nguyễn Duy nên Nguyễn Duy bất đắc dĩ phải theo Nguyễn Huỳnh Đức chạy theo phò Nguyễn Phúc Ánh.
    Trần Văn Kỷ tâu:
    - Dù Chỉnh có ra mặt dung túng Nguyễn Duy mà phản ta, ta cũng không phải vì cớ ấy mà cất quân đánh hắn được.
    Các tướng đồng thanh hỏi:
    - Vì sao ta lại không đánh Chỉnh được.
    Huệ đỡ lời Trần Văn Kỷ:
    - Vì Nguyễn Hữu Chỉnh đang nấp bóng phò Lê.
    Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
    - Thằng giặc Chỉnh mấy phen được Chúa công cứu mạng lại cho mượn quân ra tung hoành trên đất Bắc, nay ra mặt làm phản ta thật tức chết đi được.
    Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
    - Nếu muốn cất quân đánh Chỉnh ta phải nhờ đến một người mới được!
    Các tướng đồng thanh hỏi:
    - Người ấy là ai?
    Huệ đáp:
    - Ấy chính là Ngọc Hân công chúa!
    Nói xong Nguyễn Huệ truyền bãi triều rồi lui về hậu cung. Ngọc Hân hỏi Huệ rằng:
    - Việc nước có gì hệ trọng mà phu quân buồn rầu như thế?
    Huệ thở dài nói:
    - Lúc trước ta vâng lệnh Tiên đế đưa cháu của nàng là Lê Duy Kỳ tên ngôi vua Chiêu Thống. Nhưng ngặt nỗi Hoàng huynh ta thình lình ra Bắc triệu về Quy Nhơn thọ tội nên ta không thể nào ở lại Thăng Long phò tá vua Lê. Bởi vậy Trịnh Bồng mới đem quân về kinh ép vua phải lập lại ngôi Chúa, phong vương cho Trịnh Bồng. Vua uất hận lấy máu viết mật thư triệu Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Chỉnh đã đuổi được Trịnh Bồng đi, nhưng Chỉnh là người kiêu ngạo tham quyền lại đi theo vết cũ họ Trịnh, lập con làm thế tử, tự ý phong hầu cho các tướng, hiếp đáp vua Lê, khiến hào kiệt bất bình nổi dậy khắp nơi, làm trăm họ thật là điêu đứng. Ta vì danh nghĩa là người của nước Tây Sơn ở Đàng Trong không thể lấy lý gì mà đem quân ra Bắc. Thấy muôn dân đói khổ lầm than nên trong lòng đau đớn mà ưu phiền là thế.
    Huệ nói xong mặt mày càng ủ dột. Ngọc Hân thương lắm đến gần Huệ an ủi rằng:
    - Xin phu quân chớ quá thương tâm. Thiếp có một kế có thể khiến vua Chiêu Thống viết mật chỉ vời phu quân ra cứu giá, trừ Hữu Chỉnh giúp dân.
    Nguyễn Huệ lắc đầu nói:
    - Lúc Hoàng huynh ra Bắc buộc ta rút binh về thì Tây Sơn ta đã thất tín với vua Lê và thiên hạ Đàng Ngoài. Vua Chiêu Thống đã không tin thì làm gì dám gọi ta về cứu giá?
    Ngọc Hân ngậm ngùi đáp:
    - Thiếp là công chúa nhà Lê theo chồng xa cố quốc, nay thiếp viết thư về thăm Hoàng tộc, lại ngầm sai sứ giả nói với vua thế này... thế này. Ắt vua phải tin phu quân mà vời chàng về cứu giá.
    Nguyễn Huệ mừng rỡ khen:
    - Nàng thật là đa mưu túc trí. Phen này dân Bắc Hà nhờ nàng mà thoát vòng loạn lạc vậy.
    Ngọc Hân khiêm tốn nói:
    - Việc cứu dân Bắc Hà về sau là nhờ vào tài kinh bang tế thế của phu quân. Kế mọn của thiếp có đáng kể gì?
    Nói rồi Ngọc Hân liền viết thư sai người tâm phúc ra Thăng Long trao cho vua Lê Chiêu Thống.
    *
    * *
    Sứ giả ra đến Thăng Long vào Hoàng cung xin gặp vua, quân canh liền dẫn vào dinh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh hỏi:
    - Ngươi là người ở đâu. Xin vào gặp vua có việc gì?
    Sứ đáp:
    - Tôi là người nhà của Ngọc Hân công chúa. Công chúa sai tôi mang thư ra dâng vua và thăm hỏi Hoàng tộc.
    Chỉnh bảo:
    - Phiền ngươi đưa thư cho ta xem trước thử có điều gì gian dối hay chăng?
    Sứ giả vâng lời đưa thư cho Chỉnh. Chỉnh tiếp thư đọc thấy lời lẽ thăm hỏi bình thường không có ẩn ý gì, bèn bảo quân:
    - Các ngươi mau lục soát khắp người hắn xem có giấu giếm gì chăng.
    Quân soát xong chẳng phát hiện thấy vật gì, Chỉnh bèn trả thư cho sứ giả và nói:
    - Hiện nay họ Trịnh đang cho tay chân tìm cách ám hại vua nên ta phải cẩn thận đề phòng. Ngươi đừng vì thế mà phiền lòng.
    Đoạn Chỉnh cho phép sứ giả vào điện yết kiến vua Chiêu Thống. Đọc thư của công chúa Ngọc Hân xong vua Chiêu Thống hỏi sứ giả:
    - Ngoài lá thư thăm hỏi này Hoàng cô còn nói gì nữa chăng?
    Sứ giả đáp:
    - Bắc Bình Vương và phu nhân có nhắn lời tạ lỗi cùng Bệ hạ.
    Vua hỏi:
    - Tạ lỗi thế nào?
    Sứ đáp:
    - Bắc Bình Vương bảo thần thưa cùng Bệ hạ rằng: Năm Bính Ngọ đem quân ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, Bắc Bình Vương những muốn đóng quân ở lại giúp Bệ hạ định quốc an dân. Chẳng ngờ vua Thái Đức thình lình ra Bắc buộc Bắc Bình Vương phải rút quân về, làm cho Bắc Bình Vương mang tiếng là người thất tín. Nay Bắc Bình Vương và phu nhân bảo hạ thần nhắn lời tạ lỗi cùng Bệ hạ là do thế.
    Vua Chiêu Thống lại hỏi:
    - Nếu Bắc Bình Vương thật lòng sao không tự viết thư mà phải nhắn miệng. Thật là họ khinh ta quá lắm.
    Sứ vội vàng đáp:
    - Xin Bệ hạ chớ khá hiểu lầm. Bắc Bình Vương biết Hữu Chỉnh áp chế Bệ hạ tất phải dò xét người có liên quan nên Bắc Bình Vương không dám viết thư. Quả nhiên khi hạ thần đến đây liền bị Hữu Chỉnh kiểm duyệt thư và lục soát khắp người. Bắc Bình Vương và phu nhân không dám viết thư tạ lỗi cùng Bệ hạ là do thế.
    Vua Chiêu Thống bấy giờ mừng rỡ nói:
    - Nay Bắc Bình Vương đã tự lập riêng một cõi không phải chịu mệnh vua Thái Đức và thật lòng như thế, vậy ta mau viết mật chỉ cho ngươi đem về trao Bắc Bình Vương đem quân ra giúp trừ Nguyễn Hữu Chỉnh.
    Sứ giả tâu:
    - Nếu có mật chỉ, Bắc Bình Vương nào dám không vâng. Nhưng khi hạ thần ra về e rằng Hữu Chỉnh sẽ lục soát rồi mới cho đi. Nếu Chỉnh phát hiện ra mật thư thì nguy cho Bệ hạ.
    Vua ngẫm nghĩ rồi bảo:
    - Nay người của ta ra khỏi kinh thành đều bị Chỉnh kiểm soát. Vậy làm sao đưa mật chỉ cho Bắc Bình Vương được.
    Sứ giả tâu:
    - Phu nhân có dặn thần tâu cùng Bệ hạ kế này ắt việc sẽ thành.
    Vua vội hỏi:
    - Hoàng cô bày kế thế nào?
    Sứ giả kề tai vua nói nhỏ:
    - Bệ hạ vời Chỉnh đến nói như vầy… như vầy… ắt Chỉnh sẽ nghe lời mà đưa người của Bệ hạ vào Phú Xuân trao mật chỉ cho Bắc Bình Vương.
    Vua mừng rỡ khen:
    - Hoàng cô từ nhỏ đã nổi danh tài sắc vẹn toàn, nay xuất giá theo chồng mà còn lo lắng cho nước nhà. Thật đáng thương thay.
    Sứ giả đi rồi Vua Chiêu Thống vời Chỉnh đến nói:
    - Đất Nghệ An là nơi trọng yếu của nước ta nay Nguyễn Huệ đã lấy mất. Ta định bàn với khanh sai sứ giả vào đòi lại đất Nghệ An. Chẳng hay ý khanh thế nào.
    Chỉnh nghi ngờ hỏi lại vua:
    - Trước giờ không nghe Bệ hạ nói đến việc ấy. Nay bỗng dưng nảy ra ý định đòi lại đất Nghệ An là cớ làm sao?
    Vua đáp:
    - Lâu nay ta nghĩ Nguyễn Huệ là kẻ giảo quyệt nên ta không nói đến việc này. Nay Hoàng cô Ngọc Hân sai người tâm phúc ra nói với trẫm rằng: Năm Bính Ngọ vua Thái Đức ra Bắc buộc Nguyễn Huệ phải kéo quan về Quy Nhơn thọ tội cho nên Nguyễn Huệ đành thất tín với thiên hạ và nhà Lê ta. Bởi vậy Huệ giận mới cất quân đánh Nhạc. Nay biết Nguyễn Huệ không chịu mệnh vua Thái Đức lại thật lòng phò Lê, chắc chắn là Huệ phải trả đất Nghệ An cho ta. Vả lại, khanh sai sứ giả vào Phú Xuân đòi đất, ta sẽ cử thêm Hoàng thân Lê Duy Án nhân danh Hoàng tộc vào thăm Hoàng cô Ngọc Hân, xúi Ngọc Hân nói thêm vào. Nguyễn Huệ rất sùng ái Ngọc Hân lẽ nào chẳng bằng lòng.
    Chỉnh cả mừng nói:
    - Bệ hạ thật là sáng suốt. Phen này nước ta lại vẹn vẻ như xưa. Hạ thần xin theo kế ấy lập tức thi hành.
    Nói xong Chỉnh từ biệt về dinh phủ sai Trần Công Xán cầm đầu sứ bộ định ngày vào Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ.
    Phần vua Chiêu Thống viết mật chỉ rồi bảo Lê Duy Án cuộn tròn vào trong thắt lưng quần mà giấu. Đoạn vua đưa Lê Duy Án qua dinh Nguyễn Hữu Chỉnh và nói:
    - Hoàng thân Lê Duy Án sẽ theo sứ bộ vào Phú Xuân gặp riêng Hoàng cô Ngọc Hân, nhờ Hoàng cô nói thêm vào. Nghĩa chung và tình riêng đều thuận cả, phen này nhất định Nguyễn Huệ phải trả đất Nghệ An.
    Nguyễn Hữu Chỉnh không chút nghi ngờ. Tiễn sứ đoàn đi xong, Chỉnh tươi cười hớn hở bảo Nguyễn Hữu Du:
    - Lần này cái chí dùng sông Linh Giang chia đôi đất nước của cha đã thành rồi đó.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #47
      Chương 44

      Nguyễn Hữu Chỉnh mắc mưu đòi đất Nghệ An.
      Nguyễn Huệ bất đắc dĩ giết Trần Công Xán.


      Nói về Trần Công Xán vào Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ. Huệ hỏi:
      - Tiên sinh đến đây có điều chi dạy bảo.
      Xán đáp:
      - Hạ thần vâng lệnh vua nước thần vào xin Bắc Bình Vương trả đất Nghệ An.
      Nguyễn Huệ nói:
      - Vua nước ngài kinh thành còn không giữ nổi để hết Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế lộng hành rồi đến Trịnh Bồng và Hoàng Phùng Cơ áp chế nên vua phải viết mật chỉ vời Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Nguyễn Hữu Chỉnh xin lệnh của ta, ta bèn sai Chỉnh đem quân ra Bắc cứu vua Lê. Nào ngờ xong việc Chỉnh lại ra mặt cấu kết với Nguyễn Duy và Huỳnh Đức làm phản. Tội ấy ta chưa hỏi, nay hắn lại mượn tiếng vua Lê đòi đất Nghệ An. Tiên sinh hãy về tâu với vua Lê rằng: đợi ta đem binh ra chém đầu Hữu Chỉnh rồi sẽ trả luôn đất Nghệ An cho vua Lê.
      Trần Công Xán hỏi:
      - Năm Bính Ngọ vua nước ngài ra Bắc gặp vua thần tại điện Kính Thiên có nói rằng: Đất họ Trịnh một tấc cũng không để, đất họ Lê một tấc cũng không lấy. Nay họ Trịnh đã diệt sao còn không trả đất Nghệ An.
      Nghe Xán nhắc đến vua Thái Đức, Huệ liền nói hoãn:
      - Phiền tiên sinh ra nghỉ ngoài công quán, đợi ta sai người về Quy Nhơn thỉnh ý Hoàng huynh rồi mới trả lời.
      Trần Công Xán ra nghỉ ngoài công quán, đêm ấy bảo với Lê Duy Án rằng:
      - Nguyễn Huệ nuốt lời không muốn trả đất Nghệ An. Vậy Hoàng thân hãy vào gặp Hoàng cô Ngọc Hân nhờ người nói giúp xem sao.
      Lê Duy Án liền đi ngay đến hậu cung xin vào yết kiến Ngọc Hân. Án nói:
      - Hoàng thượng có mật chỉ nhờ Hoàng cô trao cho Bắc Bình Vương.
      Ngọc Hân đọc mật thư xong bèn nói:
      - Quả nhiên Hữu Chỉnh theo vết xe họ Trịnh áp chế nhà Lê ta. Nay Hoàng thượng viết mật chỉ vời Bắc Bình Vương về cứu giá. Vậy Hoàng thân mau ra ngoài công quán kẻo Trần Công Xán nghi ngờ, ta sẽ trao mật chỉ cho Bắc Bình Vương ngay.
      Ngọc Hân đến gặp Nguyễn Huệ, khóc nói:
      - Nhà Lê của thiếp đã hai trăm năm bị họ Trịnh hiếp đáp, sau nhờ phu quân đem binh ra Bắc diệt Trịnh phò Lê, những tưởng đã nắm lấy quyền hành, nào ngờ nay Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành áp chế vua trẻ, xin phu quân hãy vì dân vì nước ra Bắc diệt Chỉnh, ơn ấy ngàn đời thiếp chẳng dám quên.
      Nói xong Ngọc Hân trao mật chỉ cho Nguyễn Huệ rồi lấy vạt áo lau nước mắt. Nguyễn Huệ cảm động an ủi Ngọc Hân:
      - Nàng chớ nên buồn phiền như thế. Nay có mật chỉ của vua Lê ta mới danh chính ngôn thuận ra Bắc trừ Nguyễn Hữu Chỉnh được.
      Ngọc Hân mừng rỡ thưa:
      - Cảm ơn phu quân đã có lòng đoái thương đến nhà Lê của thiếp. Ơn này thiếp xin tạc dạ.
      Nói xong Ngọc Hân mủi lòng khóc mãi. Nguyễn Huệ vỗ về Ngọc Hân rằng:
      - Nàng hãy về cung nghỉ trước, ta còn phải đi gặp người bàn việc nước.
      Ngọc Hân hỏi:
      - Phu quân định đi gặp ai vào giờ này?
      Huệ đáp:
      - Ta đi gặp Trần Văn Kỷ.
      Nói xong Nguyễn Huệ tiễn Ngọc Hân về cung rồi sang nhà Trần Văn Kỷ, vừa đến cổng đã thấy Trần Văn Kỷ xăm xăm bước ra. Huệ hỏi Kỷ:
      - Đêm đã khuya tiên sinh còn đi đâu đó?
      Kỷ thi lễ rồi đáp:
      - Tôi định sang yết kiến Chúa công. Không ngờ Chúa công lại đến đây, nên không kịp nghênh đón. Xin Chúa công miễn chấp.
      Đoạn Kỷ mời Huệ vào nhà. An toạ xong Huệ hỏi:
      - Chắc có điều gì hệ trọng nên tiên sinh mới định đến tìm tôi vào đêm khuya chăng.
      Văn Kỷ đáp:
      - Thần nghe có sứ giả của Chỉnh vào đòi đất Nghệ An, nên định sang hỏi Chúa công liệu tính thế nào?
      Nguyễn Huệ đáp:
      - Nguyễn Hữu Chỉnh quả nhiên trúng kế, nghe lời Lê Chiêu Thống sai sứ vào đòi đất Nghệ An. Vua Lê mới cho Hoàng thân Lê Duy Án theo sứ bộ đem mật chỉ vời ta ra cứu giá. Nay ta có mật chỉ của vua Lê tất có chính nghĩa cất quân ra diệt Chỉnh.
      Trần Văn Kỷ hỏi:
      - Vậy sau khi diệt Chỉnh rồi Chúa công liệu thế nào.
      Huệ đáp:
      - Ta ở lại giúp vua Lê ít lâu sau rồi lại kéo quân về.
      Trần Văn Kỷ ung dung nói:
      - Vậy mà tôi cứ ngỡ Chúa công nửa đêm đến đây là để nói về việc truất bỏ nhà Lê.
      Nguyễn Huệ mừng rỡ bảo:
      - Tiên sinh thật là hiểu ta đó.
      Trần Văn Kỷ hỏi:
      - Chúa công định dùng kế gì để truất nhà Lê.
      Nguyễn Huệ cười đáp:
      - Kế của tôi là “rung cây nhát khỉ”.
      Trần Văn Kỷ cười theo, nói:
      - Chúa công có chí tự cường nên mới dùng chữ Nôm là “rung cây nhát khỉ”. Kế này trong binh thư chữ Hán gọi là “Phạt thảo kinh xà” đó.
      Nguyễn Huệ nắm tay Trần Văn Kỷ cười to nói:
      - Tiên sinh thật là người tri kỷ của ta vậy. Nhưng việc này ta phải nói trước với Ngọc Hân mới được.
      Văn Kỷ can:
      - Ta phạt thảo, rung cây mà không ai biết, thì Chúa công chớ nên nói trước với công chúa làm gì. Ngộ nhỡ công chúa không bằng lòng truất bỏ nhà Lê rồi lộ việc thì làm thế nào?
      Huệ trầm ngâm đáp:
      - Ta đã có cách nói khiến công chúa phải bằng lòng cho ta truất bỏ nhà Lê.
      Đoạn Nguyễn Huệ về hỏi Ngọc Hân:
      - Vua Chiêu Thống là người như thế nào?
      Ngọc Hân buồn rầu đáp:
      - Nhà Lê thật là vô phước nên anh của thiếp là Duy Vỹ bị Trịnh Sâm giết chết, khiến Hoàng tôn Duy Kỳ mới kế vị ngôi vua là Lê Chiêu Thống. Chiêu Thống là người vô tài kém đức, đố kỵ nhỏ nhen. Nếu phu quân không ra tay cứu giúp, e Bắc Hà loạn lạc muôn đời.
      Nguyễn Huệ lại hỏi:
      - Chuyến này ta ra Bắc diệt Chỉnh xong, nếu kéo quân về thì Bắc Hà vẫn loạn. Nhược bằng đóng binh phò giúp vua tất phải tự quyền điều hành vận mệnh quốc gia thì nước mới yên được. Khi ấy e rằng vua kém tài mà muốn quyền cao lại cho ta là lộng hành thì sao. Khi ấy nàng có hiểu cho ta chăng?
      Ngọc Hân lo sợ hỏi lại Huệ rằng:
      - Vậy phu quân liệu tính thế nào?
      Huệ trầm tư đáp:
      - Ta ngày quên ăn đêm bỏ ngủ vì e rằng khi nói ra điều này nàng sẽ giận ta mà thôi.
      Ngọc Hân nói:
      - Thiếp với chàng nên nghĩa phu thê ấy là duyên kỳ ngộ. Lòng trung với dân hiếu với nước của chàng thiếp lại chẳng biết sao. Nay việc nên làm là thế nào chàng cứ nói ra đừng ngại ngần gì cả.
      Nguyễn Huệ chậm rãi nói:
      - Bấy lâu hào kiệt ở Bắc Hà chỉ mượn tiếng phò Lê, mỗi người hùng cứ một phương đánh giết lẫn nhau tranh giành danh lợi khiến trăm họ vô cùng thống khổ, lòng người chán ngán không biết đâu là thật giả. Cổ nhân có câu: Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Nay Lê Chiêu Thống bất tài kém đức sao đem được thái bình về cho trăm họ. Vận mệnh của nhà Lê đã hết, muốn thống nhất sơn hà dựng đời thịnh trị chỉ có cách duy nhất là truất phế nhà Lê mà thôi.
      Nguyễn Huệ nói xong, Ngọc Hân thảng thốt kêu lên:
      - Đành rằng như thế, nhưng lòng dân Bắc Hà vẫn còn thương tiếc công đức của vua Lê Thái Tổ, Thái Tông. Nếu không phò Lê, phu quân lấy danh nghĩa gì kéo quân ra Bắc?
      Nguyễn Huệ đáp:
      - Ta ra Bắc lần này vẫn lấy danh nghĩa diệt Chỉnh phò Lê.
      Ngọc Hân ngạc nhiên hỏi:
      - Phu quân muốn truất bỏ nhà Lê sao lại còn lấy danh nghĩa phò Lê?
      Nguyễn Huệ đáp:
      - Nay ta có chiếu chỉ của vua Lê vời về kinh cứu giá trình trước thiên hạ, ấy là ta có danh nghĩa phò Lê kéo quân ra Bắc đánh Chỉnh. Nhưng khi ta đánh Chỉnh vua Lê Chiêu Thống tất bỏ kinh thành mà chạy không dám ở ngôi vua, ấy là ta truất bỏ nhà Lê vậy.
      Ngọc Hân lấy làm lạ hỏi:
      - Nghe quân ta đem mật chỉ diệt Chỉnh phò Lê kéo quân ra Bắc, thì vua Lê phải ở kinh thành đón quân ta, cớ gì phải bỏ chạy.
      Nguyễn Huệ đáp:
      - Ta dùng kế “Phạt thảo kinh xà” thì đuổi vua Chiêu Thống bỏ nước mà chạy, còn đối với thiên hạ ta vẫn được tiếng phò Lê. Chỉ e rằng truất bỏ nhà Lê nàng sẽ oán ta mà thôi.
      Ngọc Hân gạt nước mắt nói:
      - Việc làm của phu quân là vì dân vì nước, thiếp dù thương tiếc cơ nghiệp tổ tiên cũng không thể oán phu quân được. Nhưng thiếp vẫn chưa hiểu thế nào là kế “Phạt thảo kinh xà”?
      Nguyễn Huệ kề tai Ngọc Hân nói:
      Ta cứ làm như vầy... như vầy... tất vua Lê Chiêu Thống phải sợ mà trốn khỏi kinh thành.
      Ngọc Hân lại hỏi:
      - Nhưng Trần Công Xán và Lê Duy Án là người vô tội.
      Nguyễn Huệ phân trần rằng:
      - Muốn đem giang san quy về một mối, cứu muôn dân Đàng Ngoài khỏi cảnh lầm than thì phải hy sinh Lê Duy Án và Trần Công Xán. Nếu làm thế nàng có cho ta là người sâu hiểm hay chăng.
      Ngọc Hân bùi ngùi đáp:
      - Phu quân là người đức cả tài cao, quang minh chính đại. Trước tha mưu sĩ Nguyễn Đăng Trường về với Định Vương, sau thả Nguyễn Huỳnh Đức theo cùng Phúc Ánh. Nay phu quân vì dân vì nước, bất đắc dĩ phải làm như thế thiếp sao dám cho chàng là người hiểm độc. Tuy là việc nên làm, nhưng những giọt nước mắt này là vì thương tiếc cơ nghiệp của tổ tiên. Xin phu quân rộng xét.
      Nguyễn Huệ cả mừng nói:
      - Truất bỏ nhà Lê, ta thật là khó xử nên mới đem ra bàn trước với nàng. Cảm ơn nàng đã thấu được lòng ta.
      Đoạn Nguyền Huệ âu yếm lấy khăn lau nước mắt cho Ngọc Hân. Hai người mặt nhìn mặt, tay nắm tay dìu nhau vào phòng trong tâm sự hàn thuyên.
      *
      * *
      Nói về Trần Công Xán hôm ấy đi dạo quanh phố rồi vê công quán lo lắng hỏi Lê Duy Án rằng:
      - Hoàng cô Ngọc Hân hứa với ông thế nào mà ta nghe khắp kinh thành bàn tán xôn xao rằng Bắc Bình Vương đã sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đem năm ngàn binh mã ra Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm đánh Thăng Long phò Lê diệt Chỉnh. Vậy ông mau vào Hậu cung hỏi Hoàng cô xem sự thể thế nào?
      Lê Duy Án đi một hồi rồi về báo:
      - Quân canh bảo Hoàng cô đang ở Vương phủ với Bắc Bình Vương, không có nơi hậu cung.
      Trần Công Xán lòng nóng như lửa đốt, bèn nói:
      - Vậy ta phải vào Vương phủ diện kiến Bắc Bình Vương hỏi cho ra lẽ mới được.
      Nói xong khăn áo vào chầu. Gặp Huệ, Xán hỏi:
      - Việc vua của thần xin lại đất Nghệ An, Đại Vương liệu tính thế nào?
      Huệ cười hỏi lại Xán:
      - Tiên sinh vào đây đòi đất là theo mệnh vua hay Hữu Chỉnh?
      Xán đáp:
      - Xưa nay thần chỉ theo mệnh vua.
      Huệ ôn tồn hỏi:
      - Tiên sinh theo mệnh vua, vậy tại sao vua viết mật chỉ vời ta ra cứu giá trừ Nguyễn Hữu Chỉnh tiên sinh lại không biết.
      Xán thản nhiên đáp:
      - Xin Đại Vương đừng cậy thế hiếp người. Phàm làm việc gì cũng phải có chứng cứ hẳn hoi, chớ nghe lời xàm tấu.
      Nguyễn Huệ đưa tờ mật chỉ của vua Chiêu Thống cho Xán rồi hỏi:
      - Tiên sinh hãy nhìn cho rõ, đây chăng phải là thủ bút của vua sao? Dấu ấn này chẳng phải của triều đình nhà Lê sao. Vậy đây là chứng cứ hay lời xàm tấu?
      Trần Công Xán sững sờ nhìn đăm đăm vào tờ mật chỉ, rồi bình tĩnh nói:
      - Vua thần không có ý đòi đất Nghệ An. Vậy thần xin được về nước.
      Huệ cười bảo:
      - Nay ta đang sắp đặt binh mã ra đánh Chỉnh nếu tiên sinh về thì lộ việc quân cơ. Thôi, ta tạm giữ tiên sinh ở lại Phú Xuân, chờ lấy đầu Hữu Chỉnh xong sẽ cho tiên sinh về nước.
      Trần Công Xán quả quyết nói:
      - Nếu không được về nước Trần Công Xán này chỉ có chết mà thôi.
      Nguyễn Huệ lại cười rằng:
      - Ta nói đùa để thử lòng tiên sinh, quả nhiên ông là người trung nghĩa. Đêm nay ta sắp sẵn ghe thuyền, ngày mai sẽ sai người đưa tiên sinh cùng sứ đoàn về nước.
      Khi đoàn thuyền đi đến vùng biển thuộc phủ Nghệ An, viên đô đốc Tây Sơn chỉ huy quân hộ tống gọi vài tên thuộc hạ đến bảo:
      - Các ngươi mau lặn xuống biển đến đục thuyền Lê Duy Án và Trần Công Xán.
      Quân xây Sơn vâng lệnh lập tức thi hành. Trần Công Xán và Lê Duy Án đang ở trong khoang, bỗng nước từ dưới đáy thuyền phun lên ào ào. Thuyền từ từ chìm xuống. Trần Công Xán tức tối vỗ đùi nói lớn:
      - Nguyễn Huệ vì sợ lộ việc quân đã giết bọn ta trên đường về rồi vậy.
      Lê Duy Án kinh hãi bảo:
      - Không lý nào có việc ấy được, chắc do thuyền bị thủng mà thôi. Ta mau ra ngoài gọi thuyền hộ tống đến cứu.
      Nói xong liền vội vã ra khỏi khoang thuyền gọi lớn:
      - Các ngươi mau mau đến cứu ta.
      Quân Tây Sơn chỉ nhìn mà không cứu. Nước tràn vào mỗi lúc một nhiều. Nước đã ngập hết lòng thuyền, Lê Duy Án vừa khóc vừa gào lên rằng:
      - Nếu ta mất mạng, Bắc Bình Vương sẽ lấy đầu các ngươi ngay.
      Viên đô đốc Tây Sơn cười to nói:
      - Ngài có uất thì xuống Diêm vương mà kiện.
      Lúc ấy nước đã đến thắt lưng, Trần Công Xán hướng mặt về phía Bắc lạy ba lạy rồi quay lại bảo Lê Duy Án:
      - Được vì nước mà chết ông còn uất nỗi gì mà gào lên như thế?
      Lê Duy Án hoảng loạn nói:
      -Ta đem mật chỉ của Hoàng thượng vời Nguyễn Huệ về kinh diệt Chỉnh. Vậy cớ gì Nguyễn Huệ lại giết ta?
      Nước đã ngập hết con thuyền, Trần Công Xán ngước mặt tránh sóng tràn vào mui rồi hét lên:
      - Vậy Nguyễn Huệ giết ta đã đành, cớ gì lại giết cả ngươi.
      Lê Duy Án dùng hết sức bình sinh ôm cột buồm leo lên khỏi làn nước gào khóc rằng:
      - Nếu không đem quân diệt Chỉnh phò vua cũng chẳng can cớ gì phải giết chết ta.
      Dứt lời Lê Duy Án và Trần Công Xán theo con thuyền chìm xuống biển sâu. Viên đô đốc Tây Sơn gọi mấy tên quân đến bảo:
      - Các ngươi mau lội vào bờ lựa chỗ đông người phao tin này lên cho khắp nơi được biết.
      Đoạn viên đô đốc Tây Sơn quay về tâu cùng Nguyễn Huệ. Huệ gọi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đến bảo:
      - Văn Sở đem thủy binh, Văn Lân đem bộ binh đến Nghệ An hợp cùng Vũ Văn Nhậm cứ y như trong thư ta dặn mà làm.
      Sở và Lân lãnh mệnh đi ngay.
      *
      * *
      Nhắc lại vua Lê Chiêu Thống và Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long ngày ấy đang đàm đạo trong trướng nghe quân vào báo:
      - Tâu Bệ hạ, quân Tây Sơn lội vào bờ đến ranh giới đất Nghệ An và Thanh Hóa hô lên rằng: Sứ đoàn trở về nước bị bão đánh chìm thuyền đều chết hết cả. Quan trấn thủ Thanh Hóa sai thần về cấp báo.
      Nguyễn Hữu Chỉnh giật mình nói:
      - Nguyễn Huệ làm thế là có ý gì?
      Vừa dứt lời quân thám mã thứ hai hớt hải chạy vào báo:
      - Tâu Bệ hạ, tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân thống lĩnh một vạn binh tiến đánh Thanh Hóa. Tướng quân trấn thủ Lê Duật tử trận.
      Chỉnh nghe qua như sét đánh ngang mày, nhưng cố giữ bình tĩnh nói:
      - Như vậy Nguyễn Huệ đã lợi dụng tình chồng vợ bảo Hoàng cô nói gạt Bệ hạ là hắn thực bụng phò Lê rồi bất ngờ tiến đánh. Thần phải lập tức vào Thanh Hóa chống giặc mới được. Những tưởng đòi được đất Nghệ An nào ngờ lại mất luôn Thanh Hóa.
      Đoạn Chỉnh hỏi tên quân rằng:
      - Trước khi ra trận Lê Duật có nói gì chăng.
      Tên quân đáp:
      - Khi nghe quân Tây Sơn tiến đánh, Lê tướng quân có nói rằng: “Biết lòng người thì dễ, biết tài người mới là việc khó. Ta không biết tài bằng Trung Công vậy!”
      Hữu Chỉnh than:
      - Ta lại không biết tài Nguyễn Huệ vậy. Rồi Lê Duật ra trận thế nào?
      Tên quân đáp:
      - Lúc ấy có người khuyên Lê tướng quân bỏ thành Thanh Hóa lui về giữ ải Tam Điệp. Lê tướng quân bảo: Ta đã hứa với Bằng Trung Công là thà bỏ mạng không bỏ đất, nay bỏ thành mà chạy còn mặt mũi nào nhìn ai được nữa. Khi bị quân Tây Sơn vây, Lê tướng quân đâm cổ mà chết.
      Nghe xong Chỉnh vừa đi vừa ứa nước mắt than:
      - Thương thay lê Duật. Và ta không biết tài Nguyễn Huệ mà đã hại chết ngươi rồi!
      Chỉnh đi rồi vua Chiêu Thống gọi Phan Lê Phiên đến bảo:
      - Nguyễn Huệ bảo Hoàng cô lừa ta viết mật chỉ vời Huệ về kinh cứu giá. Có mật chỉ rồi hắn lại giết sứ của ta là cớ làm sao?
      Phan Lê Phiên đáp:
      - Việc này bởi do Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền nên Nguyễn Huệ mới thừa cơ dùng ly gián kế. Hắn muốn cướp nước ta mà không có cớ gì, nên mới lừa Hoàng cô Ngọc Hân đem tình nhà gạt Bệ hạ để hắn có mật chỉ của Bệ hạ. Được danh chánh ngôn thuận để xuất quân rồi hắn lại giết chết Trần Công Xán và Lê Duy Án, thật rõ là lòng gian dối. Việc đến nước này chỉ trông chờ vào tài dùng binh của Hữu Chỉnh mà thôi.
      Vua Chiêu Thống hỏi:
      - Ngộ nhỡ Chỉnh bại trận thì sao.
      Phiên đáp:
      - Thì ta phải bỏ Hoàng cung mà chạy. Nếu ở lại trước sau gì Nguyễn Huệ cũng hại đến Bệ hạ.
      Vua tức tối đấm ngực kêu lên:
      - Nguyễn Huệ lừa ta. Nguyễn Huệ lừa ta!
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #48
        Phần IV - Chương 45

        TRUẤT BỎ TRIỀU LÊ.
        Nguyễn Hữu Chỉnh háo danh mà thiệt mạng.
        Vũ Văn Nhậm hám lợi phải mất đầu.


        Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh về dinh phủ gọi con là Nguyễn Hữu Du và tướng là Nguyễn Như Thái đến bảo:
        - Hai người lãnh một vạn quân mau mau vào chiếm giữ đèo Tam Điệp. Nếu để quân Tây Sơn lấy mất thì binh ta thất thế. Ta sẽ gọi Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc và Nguyễn Viết Tuyển ở Tây Sơn về hợp quân rồi đem đại binh theo tiếp ứng.
        Nguyễn Hữu Du cười bảo Chỉnh:
        - Cha cứ an tâm ăn ngon ngủ yên. Con đi phen này sẽ lấy đầu Vũ Văn Nhậm về nộp dưới trướng.
        Nói xong liền xuất quân. Nguyễn Hữu Du và Nguyễn Như Thái kéo quân vừa vượt Sông Vị Hoàng, xảy quân thám mã về báo:
        - Thưa Thế tử, quân Tây Sơn đã chiếm đèo Tam Điệp hiện đang tiến cách quân ta chừng trăm dặm.
        Nguyễn Hữu Du thất kinh nói:
        - Quân Tây Sơn thế mạnh lại chiếm đèo Tam Điệp, chi bằng ta lui về bờ Bắc sông Vị Hoàng, dùng sông này làm hào chống nhau với giặc là hơn.
        Nguyễn Như Thái bàn:
        - Quân ta vừa mới vượt sông mà tiến, nghe giặc đến lại vượt sông mà lùi sao khỏi mất đi nhuệ khí. Theo tôi nhân lúc này ta bày trận Bối thủy quay lưng xuống sông mà chống nhau với giặc.
        Nguyễn Hữu Du hỏi:
        - Bày trận Bối thủy ngộ nhỡ thua binh chẳng phải là mình tự chặn đường về của mình sao?
        Như Thái đáp:
        - Quân ta một vạn, quân Tây Sơn do Phan Văn Lân làm tiên phong thống lãnh chỉ có năm ngàn, ta lại bày trận Bối thủy buộc quân ta phải liều chết mà đánh. Thế nhất định phải thắng.
        Hữu Du còn e ngại nên bàn:
        - Vậy ta sai quân đem chiến thuyền vận chuyển đến chỗ kín đáo giấu đi. Nếu lỡ thua binh thì dùng thuyền ấy thoát về bờ Bắc.
        Nói xong hai người theo kế đã bàn mà làm.
        Quân Hữu Du vừa bố trận xong, quân Tây Sơn rầm rộ kéo đến, đi đầu là tiên phong Phan Văn Lân. Nguyễn Như Thái trông thấy liền lướt ngựa đến hét lớn:
        - Nguyễn Huệ hết tướng hay sao mà sai thằng thư sinh trói gà không chặt như ngươi ra trận. Mau xuống ngựa quy hàng ta sẽ tha chết.
        Phan Văn Lân cả cười nói:
        - Mày là đồ vô đanh tiểu tốt sao biết được oai ta. Hãy về hỏi Hữu Chỉnh xem thư sinh Đại tướng Phan Văn Lân lợi hại thế nào?
        Nói xong hai bên liền giáp chiến. Quân Tây Sơn khí thế đang hăng, quân Bắc cùng đường liều chết mà đánh, tiếng hò reo vang dội. Đánh được mấy hiệp Nguyễn Như Thái cả kinh nghĩ thầm, thằng học trò này trông gầy gò ốm yếu mà sức mạnh vô cùng. Nó dùng thương lợi thế đánh xa, ta dùng đoản đao phải lừa thế đánh gần mới mong giết được nó. Nghĩ rồi chờ thương Văn Lân đâm tới, Thái dùng hết sức bình sinh hất mũi thương lên rồi hoành đao mà chém ngang hông Văn Lân. Chẳng ngờ Lân lanh lẹ bình thương đỡ lưỡi đao rồi trở đốc thương đâm Như Thái. Đốc thương đâm ngay vào miếng kính tâm trên áo giáp Như Thái mạnh đến nỗi Thái văng khỏi lưng ngựa hộc máu chết tươi. Nguyễn Hữu Du trông thấy Thái chết thì thất kinh quất ngựa mà chạy, đến bờ sông vội vã cướp thuyền sang sông về bờ Bắc. Quân sĩ thấy vậy vứt giáo quăng gươm, kẻ nào lên thuyền được thì lên, còn không bèn cởi giáp lội bộ qua sông chạy theo chủ tướng. Quân Tây Sơn đại thắng giết quân Bắc và thu lượm vũ khí rất nhiều. Phan Văn Lân thắng trận rồi bèn gò ngựa đứng nhìn dòng sông Vị Hoàng mênh mông, lại thấy trời đã tối Lân bèn bảo quân hạ trại chờ Vũ Văn Nhậm và Ngô Văn Sở đến rồi sẽ vượt sông.
        Vừa lúc ấy Vũ Văn Nhậm dẫn bộ binh và Ngô Văn Sở đem thủy binh cùng đến Vị Hoàng. Vũ Văn Nhậm bàn:
        - Quân do thám ta về báo rằng Chỉnh đã đem quân đến làng Bình Vọng. Từ đây đến Thăng Long đường bộ thời xa mà đường thủy thì gần. Vậy ông Sở hãy đem thủy quân theo sông Vị Hoàng tiến lên rồi bất ngờ đánh vào phía Tây thành Thăng Long. Chiếm được Thăng Long thì quân Chỉnh ở làng Bình Vọng sẽ không còn đường rút, ta và ông Lân đem đại bộ binh đánh ra ắt là bắt được Hữu Chỉnh.
        Ngô Văn Sở y lệnh thống lãnh thủy quân tiến lên thượng lưu sông Vị.
        *
        * *
        Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long triệu Nguyễn Cảnh Thước về rồi bèn thống lĩnh đại binh trợ chiến cho Nguyễn Hữu Du và Nguyễn Như Thái. Đại binh đi đến làng Bình Vọng, Chỉnh quay lại hỏi Nguyễn Viết Tuyển:
        - Có phải làng Bình Vọng này tục gọi là làng Bằng đó chăng?
        Tuyển đáp:
        - Thưa ấy chính là làng Bằng.
        Chỉnh ngậm ngùi nói:
        - Ngày trước ta kéo quân ra diệt Trịnh Bồng ngang ra làng Bằng có chim Phượng ra đón. Nay chim Phượng ấy ở đâu?
        Chỉnh vừa dứt lời bỗng một chim Phượng hoàng bay đến đậu trên biển danh của làng. Chẳng ngờ tấm biển đề hai chữ Bình Vọng ấy lâu ngày đã mục, chim vừa đậu lên, biển liền gãy đổ tan tành. Chim hốt hoảng kêu lên ba tiếng thất thanh rồi vỗ cánh bay đi.
        Nguyễn Viết Tuyển nói:
        - Chim Phượng hoàng năm cũ đã ra nhưng lại đạp vỡ cổng làng Bằng e là điềm gở. Xin Bằng Trung Công liệu tính.
        Nguyễn Hữu Chỉnh trong lòng hồi hộp bèn nói:
        - Giờ trời đã tối truyền lệnh ta đóng quân nghỉ tạm, ngày mai lại tiếp tục hành quân.
        Vừa hạ trại xong quân canh vào báo cùng Hữu Chỉnh:
        - Thưa Thượng công, Thế tử thua trận chạy về xin vào ra mắt.
        Chỉnh đang ăn cơm quăng đũa đứng dậy bảo:
        - Mau cho con ta vào đây.
        Hữu Du vào đến quỳ thưa:
        - Con kéo quân vượt sông Vị Hoàng thì quân Tây Sơn tiến đánh. Con liền bày trận Bối thủy chống nhau với giặc, không ngờ quân Tây Sơn dũng mãnh quân ta đương không nổi. Nguyễn Như Thái bị Phan Văn Lân đánh chết. Con may cướp được thuyền còn mấy trăm quân chạy về xin chịu tội.
        Hữu Chỉnh hỏi:
        - Ai bày ngươi lập trận Bối thủy.
        Hữu Du đáp:
        - Thưa cha, Nguyễn Như Thái.
        Chỉnh vỗ đùi than:
        - Quân Tây Sơn thiện chiến, còn quân ta mới mộ, phần thua nhiều hơn phần thắng lại bày trận Bối thủy triệt đường về của mình, khiến một vạn quân ta đều chết cả. Thật là đồ bất dũng vô mưu.
        Nguyễn Viết Tuyển bàn:
        - Từ đây đến kinh thành không núi sông hiểm trở e rằng ta không đương nổi với giặc Tây Sơn. Chi bằng ta rút quân về Thăng Long rồi đem vua chạy lên Sơn Tây tránh thế mạnh của giặc rồi sẽ liệu sau.
        Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời liền lệnh quân nhổ trại lui binh.
        Vua Chiêu Thống ở thành Thăng Long ngày ấy nghe lòng nóng như lửa đốt, hết ra lại vào trông tin Nguyễn Hữu Chỉnh. Bỗng quân thám mã về báo:
        - Tâu Bệ hạ, Bằng Trung Công thua binh chạy về thành. Hiện đã ra cửa Tây thành chạy lên Sơn Tây.
        Vua thất kinh nói:
        - Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đi sao không bảo ta một tiếng.
        Tên quân đáp:
        - Giặc Tây Sơn đang đuổi sau lưng nên Bằng Trung Công không kịp vào yết kiến, người sai hạ thần đến báo cùng Bệ hạ.
        Vua buồn rầu than:
        - Đã đến nước này ta phải đem Hoàng tộc chạy lên Sơn Tây theo Nguyễn Hữu Chỉnh.
        Phan Lê Phiên hầu cạnh vua can rằng:
        - Việc ấy không nên.
        Vua ngạc nhiên hỏi:
        - Nếu không theo Hữu Chỉnh chẳng lẽ ở lại kinh thành cho Nguyễn Huệ hại ta ư.
        Phiên đáp:
        - Nay Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm truyền khắp thiên hạ mật chỉ phò Lê diệt Chỉnh do chính tay Bệ hạ viết ra. Vậy Bệ hạ chạy theo Chỉnh khác nào chạy vào chỗ chết.
        Vua Chiêu Thống giật mình hỏi:
        - Ở lại với Huệ cũng không được, theo Chỉnh cũng không xong. Vậy phải làm sao?
        Phiên đáp:
        - Bệ hạ nên chạy ra Kinh Bắc xuống hịch cần vương chiêu dụ quân các trấn Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang rồi đùng sông Như Nguyệt làm hào chống nhau với giặc Tây Sơn. Nếu quân ta yếu thế thì theo đường Lạng Sơn chạy sang đất Đại Thanh cầu viện vua Càn Long đem binh sang giúp tất có thể khôi phục được cơ nghiệp. Thần nay đã răng long đầu bạc không còn sức theo hầu Bệ hạ. Xin Bệ hạ bảo trọng.
        Nói xong Phan Lê Phiên lạy từ biệt vua về nhà. Vua Chiêu Thống liền đem gia quyến chạy ra Kinh Bắc.
        *
        * *
        Phần Hữu Chỉnh dẫn quân ra cửa Tây thành năm dặm bỗng gặp một đạo quân Tây Sơn xông ra cản đường, đi đầu là một viên dũng tướng. Viên tướng ấy vung đại đao lướt ngựa đến hét lên:
        - Phản tặc Nguyễn Hữu Chỉnh chạy đâu cho thoát. Có ta là Khổn Nghịch đại tướng quân Ngô Văn Sở đến đây.
        Nguyễn Hữu Chỉnh quay lại bảo các tướng:
        - Ngô Văn Sở đao pháp tinh thông. Năm Bính Ngọ ta dẫn Nguyễn Huệ ra phò Lê diệt Trịnh, chính Ngô Văn Sở một mình bắt sống hai tướng Ngô Cảnh Hoàn và Mai Thế Pháp trên sông Thúy Ái nên mới có tên là Khổn Nghịch đại tướng quân. Nay nó chặn đường rút của ta, vậy phải liều chết mà đánh mới dược.
        Nói xong Chỉnh cùng Nguyễn Hữu Du, Nguyễn Viết Tuyển, Nguyễn Cảnh Thước đồng loạt xông lên. Ngô Văn Sở vẫy tay làm hiệu, đội xạ thủ lập tức bắn tên, Nguyễn Viết Tuyển và Nguyễn Cảnh Thước trúng tên độc ngã ngựa chết tươi. Bấy giờ Ngô Văn Sở mới hô quân giáp chiến. Quân Hữu Chỉnh không còn tinh thần chiến đấu, chưa đánh đã tan. Cha con Chỉnh liệu thế không xong bèn quất ngựa mà chạy. Văn Sở một mình thúc ngựa đuổi theo. Chạy một hồi cha con Hữu Chỉnh thấy Ngô Văn Sở không quân hộ vệ liền quay lại vây Văn Sở mà đánh. Ngô Văn Sở không hề nao núng vung đại đao cự chiến, khi quay bên tả chặn thương Hữu Du, lúc tràn bên hữu bạt kiếm Hữu Chỉnh. Đánh dược ba mươi hiệp Văn Sở hoành đao chém Hữu Du rơi đầu. Chỉnh chẳng còn hồn vía nào quay lưng toan chạy, Văn Sở hạ đao chém chân ngựa Hữu Chỉnh. Ngựa ngã qụy hất Chỉnh té nhào xuống đất. Văn Sở bèn trói Hữu Chỉnh đặt lên lưng ngựa rồi cắt đầu Hữu Du treo nơi cổ ngựa quay lại phía quân mình. Quân Tây Sơn trông thấy đồng thanh nói:
        - Phản nghịch Nguyễn Hữu Chỉnh gặp Khổn Nghịch đại tướng quân thì chạy đâu cho thoát.
        Vào thành Thăng Long, Văn Sở nộp Chỉnh dưới thềm. Vũ Văn Nhậm quát hỏi Chỉnh:
        - Ngươi mượn tay Tây Sơn ta ra làm vương đất Bắc lại đem lòng bội phản Bắc Bình Vương. Tội đã đáng chết hay chưa?
        Chỉnh điềm nhiên đáp:
        - Ta chết đã đành, nhưng trước lúc chết ta muốn hỏi ngươi một điều.
        Nhậm đáp:
        - Ngươi cứ hỏi.
        Chỉnh nói:
        - Ta quản thúc vua Lê rất kỹ, sao vua Lê viết mật chỉ vời Nguyễn Huệ về kinh cứu giá lại lọt khỏi sự kiềm soát của ta?
        Nhậm cười to đáp:
        - Đến giờ này ngươi còn chưa biết mà dám kiêu ngạo tự cho mình ngang tài với Bắc Bình Vương. Tấm mật chỉ phò Lê diệt Chỉnh do Lê Duy Án trao cho Bắc Bình Vương khi theo Trần Công Xán vào đòi đất Nghệ An đó!
        Nghe Nhậm nói xong, Chỉnh than dài một tiếng:
        - Ta thật không sánh bằng Nguyễn Huệ vậy.
        Vũ Văn Nhậm lại hỏi:
        - Trước khi chết ngươi còn ân hận gì chăng?
        Chỉnh đáp:
        - Ta chỉ ân hận rằng lúc trước không đem quân giúp Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức giữ Nghệ An dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi thiên hạ với Nguyễn Huệ mà thôi.
        Nhậm cười bảo:
        - Ngươi trước lúc chết còn ngông cuồng nói lời càn rỡ. Về trí thì không biết lòng người nên mới xui ta làm phản Bắc Bình Vương. Về dũng thì hai cha con ngươi không cự nổi một đường đao của Ngô Văn Sở, thế mà dám nuôi chí chia đôi thiên hạ với Chúa ta. Người chết thật là đáng lắm. Quân đâu lôi ra ngoài chém.
        Giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, Vũ Văn Nhậm sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đi khắp các nơi dán yết thị chiêu an bá tánh, còn Nhậm đích thân đi xem xét các kho tàng ở trong kinh thành. Thấy các kho đều trống rỗng không có vật gì đáng quý, Nhậm gọi tên quản kho đến bảo:
        - Năm Bính Ngọ ta theo Bắc Bình Vương ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh thấy trong kho báu vật rất nhiều. Sao nay các kho đều trống rỗng là cớ gì?
        Tên quản kho của vua Lê đáp:
        - Thưa tướng quân, lúc tướng quân kéo đại binh đến, vua Lê và Bằng Trung Công nghe tin đã bỏ thành mà chạy. Dân chúng trong thành thừa dịp ấy bèn kéo nhau đến phá cửa kho lấy châu báu về làm của riêng hết cả rồi.
        Vũ Văn Nhậm liền quay về dinh phủ gọi tên tùy tướng tên là Trần Đường đến bảo:
        - Ngươi hãy dẫn quân đi soát khắp nhà dân trong thành. Nhà nào có châu báu trong kho tịch thu hết về đây cho ta.
        Trần Đường vâng lệnh dẫn quân đi.
        Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đang đem quân đi dán cáo thị diệt Chỉnh phò Lên chiêu an bá tánh, bỗng một lão già từ đâu chạy đến gào khóc kêu lên:
        - Quân các ngươi đi cướp bóc của dân thì dán cáo thị chiêu an bá tánh làm gì!
        Sở và Lân nhìn theo hướng chỉ tay của lão già, quả nhiên thấy một toán quân Tây Sơn đang khiêng hòm châu báu thật. Phan Văn Lân liền chặn viên tiểu tướng lại hỏi:
        - Các ngươi là quân nào, khiêng hòm châu báu đi đâu?
        Tên tiểu tướng đáp:
        - Hạ thần tên Trần Đường vâng lệnh phò mã Tiết Chế Vũ Văn Nhậm đi lục soát nhà dân lấy lại châu báu dân cướp trong kho khi kinh thành bỏ trống.
        Ngô Văn Sở thất kinh nói:
        - Tiết chế phò mã sao lại làm như thế. Tây Sơn ta quân pháp nghiêm minh, nếu Bắc Bình Vương nghe được ắt phải chết.
        Đoạn Sở và Lân tức tốc tìm gặp Vũ Văn Nhậm. Sở nói:
        - Bọn tay chân của phò mã thừa lệnh làm càn, cho quân cướp bóc của dân. Vả lại bọn ta vâng lệnh Bắc Bình Vương ra đây là vì dân không vì lợi. Tiết Chế làm thế e rằng mất chính nghĩa Tây Sơn ta.
        Nhậm phật ý đáp:
        - Châu báu trong kho là của vua Lê, bọn gian tà lấy đi ta sai quân lấy lại có gì là không đúng. Nếu Hoàng thúc bắt tội ta xin chịu, các ông không phải lo.
        Phan Văn Lân nói:
        - Nhưng dân khắp kinh thành đều bảo phò mã cậy thế là rể vua làm điều trái đạo. Xin phò mã nghĩ lại.
        Nhậm không đáp lời Lân, lại bảo Trần Đường:
        - Ngươi hãy dẫn quân đi khắp kinh thành, ai đặt điều nói bậy chém chết cho ta.
        Nói xong Nhậm quay gót vào hậu dinh bỏ mặc Sở và Lân nơi tiền sảnh. Về bản doanh Phan Văn Lân ức uất nói với Ngô Văn Sở rằng:
        - Vũ Văn Nhậm thấy bạc vàng lóa mắt, tham quá hóa sân si. Hắn cậy là phò mã khinh anh em ta quá đáng. Ta ở dưới quyền, vậy làm sao ngăn hắn đừng sách nhiễu lương dân.
        Ngô Văn Sở đáp:
        - Ta phải mật báo với Chúa công mới được.
        Nguyễn Huệ ở Phú Xuân nhận được mật báo của Ngô Văn Sở, liền bảo tả hữu:
        - Mau sai quân sắp sẵn ngàn quân cấm vệ và năm mươi thớt voi. Ta phải lập tức lên đường ra Bắc.
        Trần Văn Kỷ hỏi:
        - Vũ Văn Nhậm phạm vào quân lệnh, sao Chúa công không viết chiếu lệnh triệu Nhậm về trị tội, cần gì phải thân hành ra Bắc?
        Nguyễn Huệ lắc đầu đáp:
        - Kể từ khi ta vào vây thành Quy Nhơn buộc Hoàng huynh phải thả con tin thì Vũ Văn Nhậm đã có ý ngờ ta. Nay Vũ Văn Nhậm nắm quyền ở Thăng Long, nếu ta viết chiếu chỉ gọi Nhậm về trị tội, ta sợ rằng Nhậm sợ tội mà làm phản. Việc này nếu ta không thân hành ra Bắc ắt không xong.
        Nói rồi Nguyễn Huệ liền lên đường ra Bắc.
        *
        * *
        Nguyễn Huệ đến Thăng Long đã quá nửa đêm. Đến dưới thành Huệ sai quân gọi lớn:
        - Mau mở cổng thành, có Bắc Bình Vương đến!
        Quân canh nhìn xuống thấy đèn đuốc sáng ngời, rõ ràng Nguyền Huệ ngồi trên bành voi oai phong lẫm liệt, bệ vệ uy nghi. Quân trong thành thất kinh vội vàng mở cổng. Vào thành rồi Huệ bảo quân:
        - Các ngươi ai ở yên nơi ấy không được làm kinh động bá tánh.
        Nguyễn Huệ vào dinh Vũ Văn Nhậm bảo bọn canh cửa:
        - Các ngươi ai ở yên nơi ấy không được làm kinh động đến phò mã.
        Quân sĩ vốn sợ uy Nguyễn Huệ, răm rắp vâng lời không đám động đậy. Nhậm lúc ấy vẫn đang ngủ say không hề hay biết. Huệ đến gần lay Vũ Văn Nhậm. Nhậm cựa mình gắt:
        - Kẻ nào dám quấy rầy giấc ngủ của ta.
        Nguyễn Huệ bình thản đáp:
        - Thưa Tiết Chế phò mã, có Bắc Bình Vương đến.
        Nhậm giật mình ngồi phắt dậy quát:
        - Đứa nào dám đùa với ta thế?
        Vừa dứt lời ngước lên thấy Nguyễn Huệ đứng sừng sững trước mặt, Vũ Văn Nhậm thất kinh sụp lạy:
        - Cháu không biết là Hoàng thúc đến đây nên không kịp nghênh đón. Xin Hoàng thúc tha tội.
        Nguyễn Huệ nghiêm giọng hỏi:
        - Vũ Văn Nhậm! Ngươi có biết ta đang lo trăm công ngàn việc ở Phú Xuân lại phải cấp tốc ra Thăng Long là vì sao không?
        Nhậm cúi đầu đáp:
        - Thưa, cháu không được biết.
        Huệ lại hỏi:
        - Vậy ngươi có biết ai đã sai quân đi cướp bóc của nhân dân trong thành Thăng Long chăng?
        Vũ Văn Nhậm sợ hãi đáp:
        -Ấy là châu báu trong kho của vua Lê, dân chúng trộm đi nên cháu mới sai quân lấy lại sung vào công quỹ.
        Lúc ấy Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân vừa đến, thi lễ với Huệ xong, Sở thưa:
        - Chúa công nửa đêm đến đây chúng thần không được biết. Xin Chúa công thứ tội!
        Nguyễn Huệ liền bảo:
        - Hai ngươi mau đi bắt hết tòng phạm của Vũ Văn Nhậm về đây cho ta.
        Rồi quay sang Nhậm, Huệ hỏi:
        - Vậy số châu báu đang cất tại kho nào?
        Nhậm run rẩy chỉ vào mấy chiếc hòm ở góc phòng, đáp:
        - Cháu còn cất nơi đây chưa kịp đưa vào kho.
        Nguyễn Huệ nạt:
        - Quân bay mau trói Vũ Văn Nhậm lại cho ta.
        Võ sĩ xông vào trói Nhậm. Nhậm cố van nài:
        - Xin Hoàng thúc nghĩ tình Phụ vương mà tha cho cháu một lần.
        Lúc ấy Phan Văn Lân vừa giải Trần Đường đến. Huệ bảo Vũ Văn Nhậm và Trần Đường rằng:
        - Ngày mai ra trước dân, dân bảo tha thì ta tha, dân bảo chém thì ta chém.
        Đoạn Huệ sai quân lập công đường ngoài dinh phủ chờ trời sáng sẽ đem Vũ Văn Nhậm ra trước dân mà xử. Sáng hôm sau nhân dân ở thành Thăng Long nghe tin rủ nhau đến xem, người đông nghìn nghịt. Vũ Văn Nhậm và Trần Đường bị trói quỳ trước án. Nguyễn Huệ hướng về phía dân cất tiếng sang sảng hỏi:
        - Bá tánh hãy nhìn cho rõ, kẻ nào đã dẫn quân đi cướp của nhân dân trong thành?
        Một cụ già bước ra nói:
        - Thưa Bắc Bình Vương, tôi thay mặt bá tánh trong thành xin thưa rõ mọi chuyện.
        Nguyễn Huệ kính cẩn khích lệ:
        - Sự thật thế nào xin cụ cứ nói ra.
        Cụ già chỉ mặt Trần Đường nói:
        - Chính vị tướng quân này dẫn quân đi lấy cướp vàng bạc châu báu của dân.
        Quay sang Trần Đường, Huệ hỏi:
        - Trần Đường! Có đúng là ngươi đã dẫn quân đi cướp của dân chăng?
        Trần Đường hoảng sợ lạy như tế sao:
        - Xin Bắc Bình Vương tha mạng, kẻ hạ thần chỉ làm theo lệnh của phò mã mà thôi.
        Nguyễn Huệ lại quay sang hỏi Vũ Văn Nhậm:
        - Vũ Văn Nhậm! Ngươi theo Tây Sơn ta từ lúc mới dấy binh. Vậy quân lệnh của ta, cướp của dân phải xử thế nào ngươi có biết chăng?
        Vũ Văn Nhậm kinh hồn bạt vía dập đầu thưa:
        - Phải xử tội chết. Xin Hoàng thúc hãy nghĩ tình Phụ hoàng mà tha cho cháu một phen.
        Nguyễn Huệ nghiêm giọng nói:
        - Quân pháp bất vị thân. Nếu tha cho ngươi sao an được lòng dân, sao nghiêm minh quân kỷ!
        Nhậm cố van nài:
        - Ngày xưa khởi binh cháu chém đầu tham quan giữa chợ cho Phụ hoàng nhậm chức Biện lại Vân Đồn. Lại có công thả Hoàng tôn Dương, xạ tiễn cứu công chúa Thọ Hương. Cháu từng theo Hoàng thúc vào Nam ra Bắc, sinh tử có nhau. Nay vì một tội nhỏ mà Hoàng thúc nỡ quên tình xưa nghĩa cũ xử cháu vào tội chết hay sao? Xin Hoàng thúc thương tình nghĩ lại!
        Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
        - Ngày trước ngươi chém đầu tham quan giữa chợ, sao nay làm quan lại còn cướp của hại dân. Xạ tiễn cứu Thọ Hương được phong làm phò mã ấy là công đã được trả. Nếu người có công ai cũng cậy công làm càn như ngươi thì trăm họ sẽ ra sao? Võ sĩ đâu đem Vũ Văn Nhậm và Trần Đường ra pháp trường xử trảm.
        Nhậm thấy van nài không được bèn nói cứng:
        - Hạ thần có tội đã đành, nhưng thần là Phò mã rể vua. Xin Hoàng thúc giải thần về Quy Nhơn cho Phụ hoàng xử tội.
        Nguyễn Huệ bảo:
        - Ngươi gây tội ở Thăng Long phải xử ở Thăng Long, có tội với dân phải trước dân mà xử, không thể đem ngươi về Quy Nhơn được.
        Vũ Văn Nhậm thấy Nguyễn Huệ đã quyết ý hoảng sợ khóc rống lên rằng:
        - Dù sao cháu cũng là người trong nhà. Hoàng thúc hãy nể Phụ hoàng, nghĩ tình Thọ Hương mà tha cho cháu một phen.
        Thấy Nhậm cuống cuồng kêu khóc, Nguyễn Huệ ứa nước mắt rồi nghiêm giọng nói gằn từng tiếng:
        - Pháp luật nghiêm minh! Chém!
        Nhìn võ sĩ lôi Vũ Văn Nhậm và Trần Đường đi, hai hàng nước mắt Nguyễn Huệ chảy ròng ròng. Thấy vậy Trần Văn Kỷ khuyên:
        - Ấy là vì thi hành pháp luật, xin Chúa công chớ quá thương tâm.
        Nguyễn Huệ lau nước mắt đáp:
        - Vũ Văn Nhậm đã từng cùng ta vào sinh ra tử, lại là cháu rể của ta. Nay phạm tội chết ta không đau lòng sao được!
        Rồi Nguyễn Huệ bảo dân chúng rằng:
        - Trong bá tánh ai bị Vũ Văn Nhậm lấy vật gì hãy đến khai rõ cùng quan Trung thư Trần Văn Kỷ sẽ được trả lại. Nếu phát hiện người nào khai gian tội khó dung tha.
        Dân chúng bảo nhau rằng:
        - Bắc Bình Vương xử trị nghiêm minh, hành pháp vô tư, đến phò mã còn bị đưa ra trước dân xử tội chết. Hãy lấy đó làm gương, mất vật gì phải khai cho thật.
        Nội nhật hôm ấy Trần Văn Kỷ trả lại của cải bị mất cho dân không sót một tờ hào nào cả.
        Xong việc ấy Nguyễn Huệ chia quân đi đồn trú khắp các trấn thủ ở Bắc Hà, lại truyền hịch rằng ai biết được chỗ trú ẩn của vua Lê Chiêu Thống để quân Tây Sơn đến rước vua về kinh trị vì trăm họ, thì kẻ đó sẽ được phong quan.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #49
          Chương 46

          Trần Văn Kỷ đón Ngô Thì Nhậm.
          Nguyễn Huệ đuổi Đặng Trần Thường.


          Lúc bấy giờ ở Thăng Long có một người tên Đặng Trần Thường. Ngày ấy nghe hịch quân Tây Sơn truyền ra, Thường nhủ thầm rằng:
          - Nếu có kế rước được vua về kinh sẽ được phong quan. Vậy ta phải hỏi kế Ngô Thì Nhậm mới được.
          Nghĩ rồi bèn lên ngựa đến phủ Thái Bình gặp Ngô Thì Nhậm. Phân ngôi chủ khách xong, Thường nói:
          - Ngô huynh trước làm quan cho Chúa Trịnh sau vì tội mà đến đây ở ẩn. Nay đã đến lúc ra làm quan trở lại sao còn ở mãi trong chòi tranh chật hẹp nơi núi rừng hoang vắng như thế này.
          Ngô Thì Nhậm hỏi:
          - Đặng huynh nói vậy là ý thế nào?
          Thường đáp:
          - Vừa rồi Nguyễn Huệ ra thông báo, ai có kế rước được vua về kinh trị vì trăm họ sẽ được phong quan. Ngô huynh là danh sĩ bậc nhất Bắc Hà lại không có kế gì sao?
          Nghe Thường nói xong, Nhậm hỏi:
          - Nếu rước được vua về rồi, Đặng huynh sẽ làm quan với vua Lê hay với nhà Tây Sơn?
          Thường đáp:
          - Nguyễn Huệ phò Lê xong ít lâu sau lại rút quân về thì ta vẫn làm quan với nhà Lê vậy.
          Nhậm lại hỏi:
          - Thế ngộ nhỡ lần này Nguyễn Huệ chiếm luôn Bắc Hà không rút quân về trả nước cho vua Lê thì làm thế nào.
          Thường đáp:
          - Nguyễn Huệ phò Lê nên mới rước vua về trị vì trăm họ, sao có việc chiếm đất Bắc Hà.
          Nghe Thường nói xong, Nhậm ôm bụng cười to. Thấy Nhậm cười mãi, Thường phật ý nhưng nén lòng hỏi:
          - Cớ gì Ngô huynh cười mãi thế?
          Nhậm nín cười đáp:
          - Tôi cười vì Đặng huynh xét việc nông cạn, đến nước này mà còn bảo Nguyễn Huệ phò Lê. Nguyễn Huệ truyền hịch tìm vua Lê tức là đuổi vua Lê đó.
          Thường ngạc nhiên hỏi:
          - Ngô huynh nói vậy là ý thế nào.
          Nhậm hỏi lại Thường rằng:
          - Đặng huynh không nghe việc Ngô Duy Án và Trần Công Xán đi sứ về bị chết chìm ngoài biển hay sao?
          Thường đáp:
          - Việc này tôi có nghe. Nhưng đó là Nguyễn Huệ thấy Trần Công Xán có tài nên mới giết đi, việc đó nào có liên quan gì đến việc phò Lê hay không phò Lê.
          Ngô Thì Nhậm lắc đầu bảo:
          - Nguyễn Huệ đang thu phục lòng nho sĩ đất Bắc cớ gì phải giết Trần Công Xán. Vả lại Trần Công Xán tài gì mà Nguyễn Huệ phải giết đi, chẳng qua Nguyễn Huệ dùng kế “Phạt thảo kinh xà” để đuổi vua Lê Chiêu Thống chạy khỏi nước mà thôi.
          Thường ngạc nhiên hỏi:
          - Ngô huynh nói gì tôi vẫn chưa hiểu. Kế thế nào là “Thảo phạt kinh xà”?
          Nhậm đáp:
          - Trần Công Xán và Lê Duy Án ngoài theo lệnh Hữu Chỉnh đi sứ vào đòi đất Nghệ An. Trong khi đó Lê Duy Án lại giấu mật chỉ của vua Lê Chiêu Thống viết vời Nguyễn Huệ về kinh cứu giá trừ Chỉnh. Có mật chỉ rồi Nguyễn Huệ lại giết Lê Duy Án là tay chân của vua Lê, khiến vua Lê hoảng sợ. Nên khi Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê ra đánh Chỉnh vua Lê phải bỏ Hoàng thành mà chạy trốn. Trần Công Xán cầm đầu sứ đoàn nên phải chết theo Lê Duy Án chứ Nguyễn Huệ nào cố ý giết Trần Công Xán. Ấy chính là kế “Phạt thảo kinh xà” của Nguyễn Huệ vậy.
          Đặng Trần Thường cãi:
          - Vô lý! Nếu muốn đuổi vua Lê thì Nguyễn Huệ cứ đem quân ra đánh không nêu nghĩa phò Lê, ắt vua Lê cũng phải bỏ kinh thành mà chạy, cần gì phải giết Lê Duy Án và Trần Công Xán.
          Nhậm đáp:
          - Lê Duy Án theo lệnh vua Lê đem mật chỉ cứu giá trao Nguyễn Huệ. Vậy nếu Huệ không giết Lê Duy Án làm sao gây nghi sợ trong lòng vua Lê được. Dùng kế này Nguyễn Huệ đã đuổi được vua Lê lại có chính nghĩa phò Lê lấy lòng trăm họ. Nay nghe Nguyễn Huệ thông báo tìm vua Lê, vua Lê lại càng hoảng sợ mà lo chạy cho xa. Còn những kẻ sĩ như Đặng huynh cũng phải tin Nguyễn Huệ phò Lê, kể gì đến kẻ dân thường ít học. Thật là một mũi tên mà trúng hai đích vậy.
          Đặng Trần Thường trầm trồ khen:
          - Ấy thật là độc kế! Theo ý Ngô huynh Nguyễn Huệ là người thế nào?
          Nhậm đáp:
          - Theo tôi Nguyễn Huệ là một bậc anh hùng kiệt hiệt, mưu trí hơn người, xuất thân là nông dân áo vải giúp nước cứu dân dựng nên nghiệp lớn xưa nay hiếm thấy. Xét việc trị tội Vũ Văn Nhậm thật là một đấng minh quân. Cơ trời sắp đổi, vận mệnh nhà Lê đã hết, tôi định ra phò minh Chúa góp công định quốc an dân, nhưng e người đời hiểu lầm rằng mình tham danh hám lợi nên chưa biết tính sao.
          Đặng Trần Thường cáo từ nói:
          - Ngô huynh là Hồng Hạc chờ người ta đến đón, còn tôi chim sẻ phải tự lo kiếm ăn. Cảm ơn Ngô huynh đã chỉ cho chỗ sáng. Xin tạm biệt Ngô huynh, tôi ra làm quan với nhà Tây Sơn đây.
          Rời khỏi chòi tranh Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường rong ruổi đến kinh thành. Tới nơi nghe dân chúng bảo nhau rằng:
          - Bắc Bình Vương đưa Hoàng thân Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc. Hiện Bắc Bình Vương đang ở tại hoàng cung.
          Đặng Trần Thường nghĩ thầm:
          - Nguyễn Huệ đang ở tại Hoàng cung ắt phải về lại tư dinh. Vậy ta cứ phục trên đường về tất gặp được Nguyễn Huệ.
          Nghĩ rồi bèn đến nằm dưới gốc cây bên vệ đường. Quả nhiên thoáng chốc đã thấy Nguyễn Huệ từ Hoàng cung đi về phía mình. Chờ Huệ đến gần, Đặng Trần Thường vừa nhịp chân vừa ca rằng:
          Dân nhớ ơn vua Lê.
          Người đuổi vua Lê.
          Lại được lòng dân.
          Đời thật oai oăm!.
          Kế “Phạt thảo kinh xà”.
          Quả là lợi hại.
          Nguyễn Huệ nghe tiếng ca giật mình hỏi Trần Văn Kỷ:
          - Người này là ai mà biết kế của ta?
          Trần Văn Kỷ đáp:
          - Bắc Hà đất rộng dân đông, danh sĩ hằng hà, kẻ hạ thần không biết được.
          Nguyễn Huệ liền xuống ngựa đến gần Đặng Trần Thường thi lễ rồi hỏi:
          - Cao nhân quý danh là gì. Biết rõ kế của Huệ ắt phải là nhân tài bậc nhất ở Bắc Hà?
          Thường đứng dậy vái chào Nguyễn Huệ rồi đáp:
          - Thần dân họ Đặng tên Trần Thường, chỉ là một kẻ hủ nho nơi đất Bắc. Kế của Chúa công ngoài thần dân ra còn có một người biết nữa là hai.
          Nguyễn Huệ liền hỏi:
          - Người ấy là ai?
          Thường đáp:
          - Đó là Ngô Thì Nhậm, người làng Thanh Oai trấn Nam Sơn, làm quan chức Đốc Đồng ở Hải Dương. Trịnh Sâm thường khen là tài học không dưới người khác. Sau vì loạn kiêu binh nên bỏ về ở ẩn. Ngô Thì Nhậm cũng biết Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” truất bỏ nhà Lê. Nhậm định tìm gặp vua Lê Chiêu Thống khuyên vua quay về lại kinh thành ắt Chúa công vì lấy lòng dân xứ Bắc mà vẫn phải phò Lê. Nếu như thế e đại sự khó thành.
          Nguyễn Huệ hỏi Đặng Trần Thường:
          - Tiên sinh là người đa mưu trúc trí vậy có kế gì giúp ta chăng?
          Thường đáp:
          - Nay kẻ hạ thần quyết lòng bỏ chữ ngu trung ra giúp Chúa công định quốc an dân. Nếu Chúa công không chê hạ thần xin hiến một kế.
          Nguyễn Huệ vui mừng nói:
          - Huệ ta lúc nào cũng chiêu hiền đãi sĩ, ngưỡng mộ nhân tài. Được tiên sinh theo giúp còn hân hạnh gì hơn. Kế thế nào xin tiên sinh chỉ vẽ.
          Đặng Trần Thường đáp:
          - Trong lúc Ngô Thì Nhậm chưa đến tìm gặp vua Lê Chiêu Thống, ta ra tay trước là hơn.
          Nguyễn Huệ kiên nhẫn hỏi:
          - Thế nào là ra tay trước?
          Thường đáp:
          - Thần xin chỉ nơi ẩn náu của Ngô Thì Nhậm, Chúa công sai người đến giết Nhậm là xong.
          Nguyễn Huệ nghe xong nói ngay:
          - Xin mời tiên sinh về dinh cùng Huệ. Huệ tôi sắp xếp có chức gì phù hợp sẽ mời tiên sinh thọ chức.
          Nói xong liền mời Đặng Trần Thường về cho nghỉ ngoài công quán. Đến tư dinh, Nguyễn Huệ hỏi Trần Văn Kỷ:
          - Theo ý Trung thư, Đặng Trần Thường là người thế nào?
          Trần Văn Kỷ đáp:
          - Thần xem Đặng Trần Thường không phải là người ngay. Mới gặp Chúa công đã bày chuyện hại người. Người này chớ nên dùng.
          Nguyễn Huệ gật đầu nói:
          - Ta nghe Ngô Thì Nhậm là danh sĩ bậc nhất ở Bắc Hà, trong lòng ngưỡng mộ từ lâu. Nay Trung thư có thể đến thuyết Nhậm theo giúp Tây Sơn ta được chăng?
          Trần Văn Kỷ đáp:
          - Thần nghe Ngô Thì Nhậm tài hoa lỗi lạc, là kẻ thức thời, nay xin đến thuyết nhất định Nhậm sẽ theo về với Chúa công.
          Hôm sau Ngô Thì Nhậm theo Trần Văn Kỷ đến yết kiến Nguyễn Huệ. Huệ mời ngồi hỏi:
          - Ta nghe tiên sinh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, vẫn hằng mong được nghiêng mình chào đón. Nay tiên sinh đến đây thật là hồng phúc của nước nhà. Tiên sinh là bề tôi cũ của nhà Lê, nay ta truất phế nhà Lê, tiên sinh có oán ta chăng.
          Ngô Thì Nhậm đáp:
          - Vua Lê vô tài kém đức, để nước nhà loạn lạc muôn dân đói khổ lầm than, Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” truất nhà Lê cứu dân vực nước sao hạ thần lại dám oán Chúa công.
          Nguyễn Huệ nói:
          - Cảm ơn tiên sinh đã hiểu được Huệ ta. Nhưng có người bảo ta rằng tiên sinh định khuyên vua Lê Chiêu Thống quay lại Hoàng cung phá thế “Phạt thảo kinh xà” của ta. Chính vì lẽ ấy nên ta mới hỏi tiên sinh có vì nhà Lê mà oán ta chăng.
          Ngô Thì Nhậm kinh ngạc hỏi:
          - Ai bảo với Chúa công điều ấy?
          Nguyễn Huệ đáp:
          - Đó chính là Đặng Trần Thường!
          Ngô Thì Nhậm lấy làm lạ hỏi:
          - Đặng Trần Thường có đến hỏi thần về thế cuộc. Thần khuyên Thường ra giúp Chúa công, làm gì có việc thần định khuyên vua Chiêu Thống về lại kinh thành. Sao lại có sự lạ như thế?
          Nguyễn Huệ trầm ngâm hỏi:
          - Tiên sinh và Đặng Trần Thường có thù oán gì chăng?
          Nhậm đáp:
          - Mỗi khi gặp khó họ Đặng thường đến vấn kế của thần, làm gì có việc thù oán.
          Nguyễn Huệ ngoảnh lại bảo quân:
          - Mau đến công quán mời Đặng Trần Thường tới đây cho ta.
          Quân đi rồi Nguyễn Huệ lại bảo Ngô Thì Nhậm:
          - Tiên sinh cảm phiền nấp sau bức bình phong, ta có việc riêng cần hỏi Đặng Trần Thường ít câu.
          Nhậm liền làm theo lời Huệ. Thường đến, Huệ hỏi:
          - Đặng tiên sinh khuyên ta nên giết Ngô Thì Nhậm. Nay có người khuyên nên thuyết Nhậm bỏ Lê ra giúp ta. Vậy theo ý tiên sinh thì thế nào?
          Đặng Trần Thường đáp:
          - Làm gì có việc ấy. Chính hạ thần đã thuyết Nhậm ra phò Chúa công nhưng Nhậm không nghe kia mà!
          Nguyễn Huệ cười bảo:
          - Nhưng người này lại thuyết được Ngô Thì Nhậm chẳng phải là tài hơn Đặng tiên sinh sao. Để ta gọi người này ra cho Đặng tiên sinh gặp mặt.
          Nói xong Huệ quay vào trong gọi:
          - Ngô tiên sinh hãy ra di!
          Ngô Thì Nhậm từ sau bức bình phong bước ra. Nhìn thẳng vào mặt Đặng Trần Thường, Nhậm hỏi:
          - Tôi khuyên Đặng huynh ra giúp Tây Sơn. Sao Đặng huynh lập kế hãm hại tôi?
          Đặng Trần Thường thất sắc chẳng biết đối đáp thế nào. Bỗng nghe Nguyễn Huệ vỗ án quát:
          - Phường tiểu nhân đê tiện! Quân đâu, lôi Đặng Trần Thường ra ngoài chém chết cho ta.
          Ngô Thì Nhậm vội can Nguyễn Huệ:
          - Đại trượng phu là kẻ kính người quân tử, thương xót tiểu nhân. Xin Chúa công hãy thương xót mà tha cho họ Đặng một phen.
          Nguyễn Huệ hầm hầm nói:
          - Bình sinh ta rất ghét bọn người lấy oán trả ân. Nể lời Ngô Thì Nhậm tha chết cho ngươi, nhưng phải đánh hai mươi hèo làm gương cho kẻ khác.
          Ngô Thì Nhậm lại can:
          - Đặng Trần Thường là học trò sao chịu nổi hai mươi hèo. Xin Chúa công mở lượng hiếu sinh mà tha cho.
          Nguyễn Huệ bảo Thường:
          - Ngươi là học trò, vậy ta ra một vế đối. Nếu đối được thì tha, bằng không phải đánh hai mươi hèo.
          Đặng Trần Thường thoát chết, hoàn hồn thưa:
          - Xin Chúa công ra câu đối.
          Nguyễn Huệ mỉm cười đọc rằng:
          - Trần tục, tầm thường như Đặng Trần Thường, kẻ tiểu nhân làm gì nên đặng.
          Đặng Trần Thường nhăn trán chau mày suy nghĩ sợ đà sởn gai ốc, đổ mồ hôi hột mà vẫn chưa tìm ra vế đối. Trong cơn nguy khốn chợt nghe Ngô Thì Nhậm nói:
          - Người thượng quân từ sánh bằng cây trúc, người trung quân tử sánh với cây ngô đồng. Nhậm tôi thời đến được Chúa công trọng dụng cho nhậm chức, sự quân tử chỉ đáng sánh với cây ngô đồng mà thôi.
          Thường nghe Nhậm nói xong mừng rỡ thưa cùng Nguyễn Huệ:
          - Tiểu sinh xin đọc vế đối.
          Huệ hất hàm bảo:
          - Ngươi hãy đọc đi. Nếu đối được ta sẽ tha không đánh!
          Đặng Trần Thường đối rằng:
          - Thời đến, chức nhậm như Ngô Thì Nhậm, người quân tử đáng sánh cây ngô.
          Nguyễn Huệ vỗ án quát:
          - Câu đối của ngươi tuy chỉnh về văn nhưng không chỉnh về ý. Quân bay đè xuống đánh hai mươi hèo.
          Thường thất kinh hỏi:
          - Thưa Chúa công thế nào là không chỉnh ý?
          Huệ đáp:
          - Ngươi lấy oán trả ân toan hại Ngô Thì Nhậm. Nhậm không lấy đó làm hiềm, nhắc ý cho ngươi đối được câu đối của ta để cứu ngươi. Đó là thượng quân tử đáng sánh bằng cây trúc, sao bảo rằng chỉ sánh bằng cây ngô. Ấy là không chỉnh về ý. Quân bay đè xuống đánh ngay.
          Đặng Trần Thường bị đánh hai mươi hèo lột da cháy máu đau đớn tủi hổ rời khỏi dinh. Thường nghĩ thầm:
          - Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm hùa nhau làm nhục ta. Ta nghe Nguyễn Phúc Ánh đang khởi binh ở Gia Định chống nhau với Tây Sơn, vậy thì nên vào theo Chúa Nguyễn. Trước là lập công danh với đời, sau là báo tư thù mới hả dạ.
          Nghĩ xong liền tìm thuyền vượt biển vào Gia Định.
          Phần Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm, sau khi đuổi Đặng Trần Thường đi rồi, Nhậm hỏi:
          - Lê Chiêu Thống bị Chúa công dùng kế “Phạt thảo kinh xà” đuổi khỏi kinh thành, thần e rằng vua Lê sẽ sang Tàu cầu cứu vua Càn Long nhà Thanh. Nếu quân Thanh mượn cớ phù Lê sang xâm lược nước ta thì nguy. Xin Chúa công liệu trước.
          Nguyễn Huệ khen Nhậm:
          - Tiên sinh mới ra khỏi chòi tranh mà biết trước thời cuộc thật tài năng hiếm có. Đây là phong thư ta viết sẵn xin tiên sinh cất giữ, khi nào quân Thanh sang xâm lược nước ta thì tiên sinh hãy mở ra xem. Trong đó đã có kế chống nhau với giặc.
          Đoạn Huệ trao thư cho Nhậm. Nhậm quỳ nhận thư, Huệ lại dặn:
          - Việc ta giao mật thư này cho khanh không được tiết lộ cho một ai biết, kể cả Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Tuyết.
          Ngô Thì Nhậm tò mò hỏi:
          - Kế chống giặc thế nào mà hệ trọng thế?
          Huệ cười đáp:
          - Đợi quân Thanh sang khanh mới được giở ra, khi ấy khắc biết!
          Dặn dò Ngô Thì Nhậm xong, Nguyễn Huệ hội các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết đến nói:
          - Nay ta phong Ngô Văn Sở đứng đầu quan võ, Ngô Thì Nhậm cai quản quan văn, giao mười một trấn ở Bắc Hà cho các khanh định đoạt. Đừng nên phân biệt kẻ văn người võ, kẻ mới người cũ mà khích bác lẫn nhau. Nếu không có việc hệ trọng thì không cần tâu bẩm làm chi. Các khanh nên gắng sức chớ phụ lòng mong đợi của ta.
          Sắp đặt mọi việc xong, Nguyễn Huệ liền cùng Trần Văn Kỷ trở về Phú Xuân.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #50
            Chương 47

            Võ Tánh bày điệu hổ ly sơn.
            Nguyễn Văn Trương dùng ly gian kế.


            Nhắc lại Nguyễn Vương Phúc Ánh ở Tiêm La quốc chờ Bá Đa Lộc cầu viện nước Pháp Lang Sa đem binh thuyền đến giúp. Chờ mãi không thấy tăm hơi đâu cả, Ánh liền sai sứ tìm đường sang Pháp quốc dò la tin tức Bá Đa Lộc. Một ngày kia sứ giả về báo rằng:
            - Tâu Thượng vương, nước Pháp Lang Sa có loạn nên vua Pháp không bằng lòng đem quân sang giúp. Bá Đa Lộc nói sẽ tự mình bỏ tiền mua súng đóng thuyền tuyển mộ binh lính rồi sẽ đến giúp Thượng vương.
            Nguyễn Phúc Ánh buồn rầu nói:
            - Ta không thể nào chờ Bá Đa Lộc được nữa, phải tự mình lo lấy mà thôi. Nhưng bây giờ trong tay chỉ có một ngàn quân sao về nước đánh Tây Sơn được. Các tướng ai có kế gì chăng.
            Nguyễn Huỳnh Đức bước ra nói:
            - Hiện nay Nguyễn Huệ cai trị từ ải Hải Vân trở ra Bắc. Anh em Nhạc - Huệ bất hòa đánh giết lẫn nhau. Đất Gia Định do Nguyễn Lữ trấn thủ. Nguyễn Lữ thật thà, bất tài, nhu nhược, Đặng Văn Long lại bỏ Nguyễn Lữ ra Phú Xuân theo Nguyễn Huệ. Ấy thật là trời giúp Thượng vương nên mới dành đất Gia Định cho Thượng vương đó. Đánh lấy Gia Định đất rộng dân đông là nương theo thiên thời mà giành địa lợi.
            Nguyễn Vương chặn Đức lại hỏi:
            - Nhưng quân ta chỉ có một ngàn, sao chiếm nổi Gia Định?
            Đức đáp:
            - Muốn giành địa lợi thì phải được nhân hòa.
            Nguyễn Vương hỏi:
            - Thế nào là nhân hòa?
            Đức đáp:
            - Nay ở Gia Định có một người nắm trong tay hàng vạn quân lập căn cứ trong rừng đang đánh nhau với quân Tây Sơn. Thượng vương thuyết người này về giúp lo gì không lấy được Gia Định.
            Nguyễn Vương hỏi:
            - Người ấy là ai. Lập căn cứ tại đâu?
            Nguyễn Huỳnh Đức đáp:
            - Người này nổi danh là đệ nhất hùng trong Gia Định tam hùng. Đang lập căn cứ tại rừng Tam Phụ.
            Nguyễn Vương lắc đầu nói:
            - Ta trước giết Võ Nhân là anh ruột Võ Tánh, nên năm xưa ta sai Ngô Tùng Châu đến thuyết mà Võ Tánh không theo. Nay nói cách gì cho Võ Tánh giúp ta được?
            Ngô Tùng Châu xen vào thưa:
            - Võ Tánh là người trung quân ái quốc, nhưng e Thượng vương ngờ Võ Tánh còn nhớ thù nhà nên chưa đến giúp Thượng vương được đó thôi.
            Nguyễn Vương hỏi:
            - Ta thì ngại Võ Tánh còn nhớ thù anh. Võ Tánh thì sợ ta vì điều ấy mà không tin Tánh thực lòng theo giúp. Vậy phải làm sao hóa giải được nỗi hiềm nghi này.
            Ngô Tùng Châu cười đáp:
            - Trước Thượng vương cắt đứt ruột thịt người ta, nay Thượng vương nên đem ruột thịt của mình nhà thưởng cho họ, ắt Võ Tánh sẽ hết nghi ngờ.
            Nguyễn Vương ngạc nhiên hỏi:
            - Ngô tham mưu nói vậy là ý thế nào. Ta vẫn chưa hiểu?
            Ngô Tùng Châu kề tai Phúc Ánh nói nhỏ một hồi. Nghe xong Nguyễn Vương mừng rỡ khen:
            - Ngô tiên sinh thật là cao kiến. Vậy phiền tiên sinh tìm về cố quốc đến rừng Tam Phụ gặp Võ Tánh lần nữa.
            Ngô Tùng Châu vâng lệnh đi ngay. Gặp nhau, Tánh hỏi Châu:
            - Năm xưa tôi hẹn với Ngô huynh chờ mãn hạn tang anh sẽ đem quân theo giúp Chúa. Không ngờ Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định đuổi Chúa chạy sang Tiêm La quốc. Nay tôi muốn theo Chúa vậy phải tìm ở đâu?
            Ngô Tùng Châu mừng rỡ đáp:
            - Chẳng giấu gì Võ đệ, tôi vâng lệnh Chúa đến trao cho Võ đệ một vật để chứng tỏ rằng Chúa không hề nghi ngờ gì Võ đệ cả.
            Võ Tánh hỏi:
            - Ấy là vật gì?
            Ngô Tùng Châu liền đưa cho Võ Tánh xem một bức tranh vẽ hình một người con gái dung nhan diễm lệ. Xem xong Tánh ngạc nhiên hỏi:
            - Bức chân dung này của ai. Cho tôi xem có dụng ý gì.
            Ngô Tùng Châu cười đáp:
            - Đây là chân dung của quận chúa Ngọc Du là em ruột của Chúa. Nay Chúa muốn gả quận chúa Ngọc Du cho Võ đệ, ấy là muốn lấy tình thật mà đãi ngộ Võ đệ đó!
            Võ Tánh xua tay nói:
            - Tôi nay ra giúp Chúa vì đã mãn hạn tang anh không còn sợ mang tiếng là người bất hiếu. Nếu chờ Chúa gả em gái mới ra giúp sao bảo là trung được. Ngô huynh hãy về tâu với Chúa rằng khi nào Chúa về nước, Tánh tôi sẽ thân hành đem quân đến đón. Còn việc gả Quận chúa, Tánh tôi là kẻ vũ phu thật tình không dám nhận.
            Tùng Châu hỏi:
            - Chúa ta trong tay chỉ có năm ngàn quân sao dám đường đột về nước. Theo tôi Võ đệ hãy ra quân đánh lấy Trường Đồn, Hà Tiên. Chúa sẽ theo đường bể về Hà Tiên. Như vậy mới tiện.
            Võ Tánh cười đáp:
            - Một ngàn quân cũng đã chiếm được Hà Tiên. Nguyễn Lữ nghe Chúa ta ít quân tất đem quân tiến xuống Trường Đồn đánh Hà Tiên. Khi ấy tôi ở rừng Tam Phụ sẽ bất ngờ đánh chiếm Sài Côn, Nguyễn Lữ ở Trường Đồn sẽ lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Ấy là kế điệu hổ ly sơn đó.
            Ngô Tùng Châu mừng rỡ khen:
            - Ấy thật là diệu kế. Phen này phải bắt sống Nguyễn Lữ.
            Nói xong Châu liền từ biệt Võ Tánh sang Tiêm La quốc thuật lại kế Võ Tánh cho Nguyễn Vương nghe.
            Nguyễn Vương cảm khái nói:
            - Võ Tánh thật là người trung hiếu vẹn toàn xưa nay hiếm thấy. Nghĩa thật là đáng kính, tài thật là đáng phục.
            Đoạn Nguyễn Vương liền đem quân theo đường bể tiến đánh Hà Tiên.
            *
            * *
            Bấy giờ Đông Định Vương Nguyễn Lữ ngày ấy ở trong thành Sài Côn nghe quân thám mã về báo rằng:
            - Thưa Đông Định Vương, Nguyễn Phúc Ánh từ Tiêm La quốc đem quân về đánh chiếm Hà Tiên. Xin Đông Định Vương định liệu.
            Nguyễn Lữ giật mình nói:
            - Hai anh ta bất hòa khiến lòng người ly tán. Dân Gia Định chỉ một lòng về với Phúc Ánh. Vả lại Phúc Ánh ở Tiêm La về chiếm Hà Tiên chắc là có quân Tiêm La theo giúp. Chi bằng ta bỏ Gia Định về Quy Nhơn với Hoàng huynh là hơn.
            Nguyễn Lữ vừa dứt lời bỗng nghe tiếng nói lớn:
            - Xin Đông Định Vương chớ bỏ Gia Định.
            Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra người vừa nói là quan Thái bảo Phạm Văn Tham. Nguyễn Lữ hỏi:
            - Văn Tham cho rằng ta có thể địch nổi với quân Tiêm La hay sao mà bảo đừng bỏ đất Gia Định.
            Phạm Văn Tham đáp:
            - Năm trước quân Tiêm La bi tiêu diệt ở Rạch Gầm, Trường Đồn, năm vạn quân còn lại mấy trăm ôm đầu chạy về nước. Từ ấy đến nay chúng nghe tiếng Tây Sơn ta đã kinh tâm tán đởm làm gì mà dám sang lần nữa. Xin Đông Định Vương chớ vội bỏ đất Gia Định.
            Nguyễn Lữ chau mày nói:
            - Dù quân Tiêm không sang thật, nhưng lòng dân Gia Định chỉ theo về Phúc Ánh, thành Sài Côn lại chẳng có núi non che chở e không chổng nổi với giặc. Ý ta đã quyết, Văn Tham đừng nói nữa.
            Tham quỳ dưới án một mực cầu xin:
            - Bệ hạ giao cho bọn ta trấn thủ Gia Định, giặc đến chưa đánh đã chạy sao đáng mặt làm tướng. Nếu Đông Định Vương muốn lui xin hãy tạm về đóng ở Trấn Biên cho an lòng quân sĩ. Tôi xin ở lại Sài Côn đánh Phúc Ánh. Nếu chẳng may Văn Tham tôi bỏ mạng thì Đông Định Vương từ Trấn Biên chạy về Quy Nhơn cũng chẳng muộn gì.
            Nguyễn Lữ nghe vậy an tâm liền đem năm ngàn quân lui về giữ Trấn Biên.
            Lúc bấy giờ ở trong quân Tây Sơn có một viên tiểu tướng tên là Nguyễn Văn Trương hay việc ấy bèn bảo bọn thủ hạ rằng:
            - Đông Định Vương Nguyễn Lữ là người bất tài, sớm muộn gì đất Gia Định không mất về tay Chúa Nguyễn. Bọn ta đều là người Gia Định sao không theo về với Chúa Nguyễn lập công danh với đời.
            Nói xong Trương đem ba trăm thủ hạ về Hà Tiên quy hàng Nguyễn Vương. Nguyễn Vương hỏi:
            - Ngươi bỏ Tây Sơn theo ta lấy gì tin là thực.
            Nguyễn Văn Trương đáp:
            - Hạ thần xin hiến một kế khiến Nguyễn Lữ phải bỏ Trấn Biên mà chạy về Quy Nhơn, Phạm Văn Tham tất bị cô lập ở Sài Côn. Khi ấy Thượng vương lấy đất Gia Định như trở bàn tay, rồi tin thực hay không tùy Thượng vương phán quyết.
            Nguyễn Vương hỏi:
            - Kế thế nào?
            Trương đáp:
            - Thượng vương cứ làm như vầy... như vầy. Ấy là ly gián kế.
            Nguyễn Vương nghi ngờ hỏi:
            - Kế mọn này có thể lừa được Nguyễn Lữ sao.
            Trương đáp:
            - Phạm Văn Tham biết Nguyễn Lữ là người bất nhất, tất cả hai sẽ trúng kế. Thần xin đem đầu ra bảo đảm, xin Thượng vương chớ lo.
            Nguyễn Vương nghe Văn Trương cả quyết thế liền theo kế thi hành.
            Nhắc lại Phạm Văn Tham trấn thủ Sài Côn nghe quân vào báo:
            - Thưa tướng quân, vua Thái Đức sai ngươi đi đường biển vào trao thư cho Đông Vương.
            Phạm Văn Tham nói:
            - Đông Vương không có ở đây, vậy ta phải mở thư ra xem vua dặn dò đánh giặc thế nào?
            Tham mở thư ra đọc. Thư rằng:
            Em quyết lòng rút binh mà Phạm Văn Tham nhất định xin ở lại trấn Sài Côn là có ý ở biên cương để dễ hàng gịăc. Đã biết ý của Tham như thế sao không giết đi còn tâu bẩm làm gì!
            Phạm văn Tham xem thư xong thất kinh than:
            - Ta một lòng vì nước sao Đông Vương nỡ ngờ ta như thế. Ta phải về Trấn Biên minh oan cùng Đông Vương mới đuợc.
            Nói rồi Phạm Văn Tham chỉ đem vài trăm quân ra cửa Bắc thành Sài Côn, nhắm Trấn Biên trực chỉ. Nguyễn Lữ ở trong thành Trấn Biên nghe quân vào báo:
            - Thưa Đông Vương, dân ở thành Trấn Biên xầm xì bàn tán rằng: Phạm Văn Tham đã dâng thành Sài Côn đầu hàng Nguyễn Phúc Ánh.
            Nguyễn Lữ gạt đi bảo:
            - Phạm Văn Tham là người trung nghĩa làm gì có việc phản ta.
            Vừa dứt lời quân tín cẩn vào báo:
            - Khắp trong thành ngoài nội đều đồn rằng Phạm Văn Tham sắp dẫn quân Nguyễn Phúc Ánh đến đánh ta.
            Nguyễn Lữ liền đứng lên đi đi lại lại nghĩ thầm:
            - Lẽ đâu Phạm Văn Tham muốn hàng nên mới một mực xin ta cho ở lại trấn thủ Sài Côn.
            Lữ còn đang hoài nghi bỗng quân do thám hớt hải chạy vào báo rằng:
            - Thưa Đông Vương, Phạm Văn Tham đang dẫn quân tiến về thành Trấn Biên. Chẳng hiểu là có ý gì?
            Nguyễn Lữ giật mình kinh hãi nói:
            - Phạm Văn Tham đã phản ta rồi dẫn quân Nguyễn Phúc Ánh đến đánh ta đó. Mau rút binh về Quy Nhơn.
            Than rồi Lữ liền dần quân ra cửa Bắc thành mà chạy. Hay tin ấy Phạm Văn Tham than:
            - Nếu vậy ta chỉ còn một cách là đánh thắng Phúc Ánh mới minh oan với vua Thái Đức và Đông Vương Nguyễn Lữ được mà thôi.
            Đoạn Phạm Văn Tham lại dẫn quân quay về thành Sài Côn. Đến nơi Tham gọi tên thuộc tướng là Phạm Hổ tới bảo:
            - Ta đã viết sẵn một phong thư, ngươi hãy gấp ra Phú Xuân báo cáo tình hình cùng Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Chỉ Bắc Bình Vương mới cứu ta được mà thôi.
            Phạm Hổ vâng lời liền lên thuyền đi đường biển ra Phú Xuân. Hổ đi rồi, Tham bảo quân:
            - Mau truyền lệnh ta đem toàn quân vào Trường Đồn đánh Nguyễn Phúc Ánh.
            Nguyễn Vương hay tin ấy bảo các tướng:
            - Nguyễn Lữ và Phạm Văn Tham trúng kế ly gián của Nguyễn Văn Trương. Phạm Văn Tham kéo quân đến Trường Đồn ắt Sài Côn bỏ trống đúng như Võ Tánh dự đoán. Vậy ta phải mật sai Võ Tánh từ rừng Tam Phụ đánh chiếm Sài Côn. Khi ấy Phạm Văn Tham không còn đường rút tất phải đầu hàng.
            Phạm Văn Tham ở Trường Đồn nghe quân vào báo:
            - Võ Tánh ở rừng Tam Phụ đã đem quân đánh chiếm Sài Côn.
            Tham thất kinh nói:
            - Ta đã lầm mưu Nguyễn Phúc Ánh. Thành Sài Côn mất, ta ở Trường Đồn ba mặt đều thọ địch, nếu không sớm theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông theo đường biển rút quân về Bắc, ngộ nhỡ địch đem thủy binh chặn mất đường ấy thì làm thế nào.
            Tham vừa dứt lời quân thám mã lại vào báo:
            - Thưa tướng quân, thủy binh quân Nguyễn đã đóng thủy trại kín cả một dải Tiền Giang.
            Phạm Văn Tham buồn rầu hạ lệnh:
            - Ba quân canh phòng cẩn mật liều chết thủ thành chờ Bắc Bình Vương đem quân đến cứu.
            Phạm Văn Tham lo lắng lên mặt thành Trường Đồn nhìn xuống sông Tiền Giang, chiến thuyền của quân Nguyễn giăng lớp lớp. Lại trông về phương Bắc tin quân cứu viện của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ còn trong làn sương khói xa mờ. Phạm Văn Tham thở dài than:
            - Vái trời cho Phạm Hổ đến được Phú Xuân cầu cứu Bắc Bình Vương.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #51
              Chương 48

              Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm Gia Định.
              Lê Chiêu Thống cầu cứu Mãn Thanh.



              Nói về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân ngày ấy nghe quân vào báo:
              - Sứ giả của Thái Đức Hoàng Đế đem thư từ Quy Nhơn đến!
              Nguyên Huệ liền sai quân lập hương án rồi quỳ tiếp chỉ. Đọc thư xong Nguyên Huệ khóc lớn kêu lên rằng:
              - Nguyễn Lữ em ôi!
              Đặng Văn Long và Vũ Văn Dũng giật mình đồng thanh hỏi:
              - Nhị sư huynh thế nào mà Đại sư huynh đau lòng vậy?
              Huệ gạt nước mắt đáp:
              - Nguyễn Lữ thọ bệnh đau hai mắt đã mất tại Quy Nhơn!
              Văn Long ngạc nhiên hỏi:
              - Nhị sư huynh đang trấn thủ Gia Định cớ sao có mặt tại Quy Nhơn?
              Huệ đáp:
              - Trong thư Hoàng huynh bảo Nguyễn Phúc Ánh từ Tiêm La đem quân về đánh, Phạm Văn Tham dâng thành Sài Côn hàng giặc. Nguyễn Lữ phải bỏ chạy về Quy Nhơn lâm bệnh mà chết.
              Huệ vừa dứt lời, quân lại vào báo:
              - Thưa Chúa công, có sứ giả của tướng quân Phạm Văn Tham từ Gia Định xin vào ra mắt.
              Huệ liền bảo:
              - Mau cho vào.
              Phạm Hổ vào đến quỳ khóc thưa:
              - Tướng quân Phạm Văn Tham bị vua Thái Đức và Đông Định Vương nghi oan hàng Nguyễn Phúc Ánh nên không cho quân vào cứu Gia Định. Phạm tướng quân sai tôi vượt ngàn dặm biển đến đây cầu xin Bắc Bình Vương đem quân vào cứu. Nếu không Gia Định phải lâm nguy.
              Nguyễn Huệ giật mình than:
              - Nói vậy Nguyễn Lữ và Phạm Văn Tham đã bị ly gián kế của Nguyễn Phúc Ánh rồi. Hiện Phạm Văn Tham đang đóng quân tại đâu?
              Phạm Hổ đáp:
              - Hiện Phạm tướng quân đã kéo quân đến Trường Đồn chống nhau với quân Nguyễn Phúc Ánh ở Hà Tiên.
              Nguyễn Huệ lại thở dài rằng:
              - Thương thay Phạm Văn Tham. Kéo toàn quân đóng ở Trường Đồn thì Phạm Văn Tham nguy mất. Nếu quân Võ Tánh từ rừng Tam Phụ đánh chiếm Sài Côn thì Trường Đồn bốn mặt đều thọ địch phải liệu làm sao? Ôi. Thương thay Phạm Văn Tham!
              Phạm Hổ dập đầu khóc:
              - Xin Bắc Bình Vương mau cho quân vào cứu.
              Nguyễn Huệ còn chau mày suy nghĩ, Vũ Văn Dũng lớn tiếng:
              - Đại sư huynh hãy cho thần và sư đệ Văn Long vào Gia Định đánh Phúc Ánh cứu Phạm Văn Tham và báo thù cho Nhị sư huynh. Cứu binh như cứu hỏa, đại sư huynh còn ngẫm nghĩ nỗi gì.
              Huệ trầm ngâm nói:
              - Ngô Văn Sở ở Bắc Hà báo rằng vua Lê Chiêu Thống đã sang Tàu cầu viện vua Càn Long nhà Thanh. Đã một năm nay ta dồn hết nhân tài vật lực trong nước chuẩn bị đánh giặc ngoại xâm phương Bắc. Nay chúng sắp sang nên ta không thể cho hai em đem quân vào Nam được.
              Vũ Văn Dũng lại lớn tiếng rằng:
              - Nhị sư huynh vì thua Phúc Ánh mà chết, đại sư huynh lại chẳng muốn báo thù sao?
              Huệ điềm tĩnh đáp:
              - Nguyễn Lữ là em ruột của ta, ta không đau lòng sao được. Nhưng thù nhà là việc phụ, nước dân là vệc chính. Giặc Thanh rất đông, rất mạnh. Nước ta nhỏ phải địch nước lớn gấp mười lần, quân ta ít phải cự với giặc nhiều. Quân đã ít không đủ để chống giặc còn cứu được ai!
              Phạm Hổ thất kinh hỏi:
              - Nếu Bắc Bình Vương không cứu, Phạm tướng quân tôi phải tính thế nào?
              Nguyễn Huệ chậm chạp nói:
              - Nếu Nguyễn Phúc Ánh chưa lấy Sài Côn thì ngươi mau bảo Phạm Văn Tham bỏ thành Trường Đồn về giữ Sài Côn. Ta sẽ viết thư sai người vào Bình Thuận bảo Đặng Xuân Phong kéo quân vào Trấn Biên làm thế môi răng với Phạm Văn Tham ở Sài Côn thì không phải lo gì nữa.
              Phạm Hổ hỏi:
              - Nếu Sài Côn đã mất thì làm thế nào?
              Huệ đau xót đáp:
              - Nếu thế Văn Tham ở Trường Đồn bốn bề thọ địch, khi ấy ta e nước xa không cứu được lửa gần. Ngươi hãy bảo Phạm Văn Tham tạm quy hàng Phúc Ánh, chờ ta phá xong quân Thanh ở Bắc sẽ lập tức đem quân vào Nam đánh giặc Ánh. Khi ấy Phạm Văn Tham làm nội ứng là lập nên công lớn vậy.
              Phạm Hổ không biết làm sao đành gạt nước mắt từ biệt Nguyễn Huệ đi ngay. Hổ đi rồi Nguyễn Huệ than:
              - Hoàng huynh ta càng già càng lo hưởng thụ cầu an, thật là đáng tiếc! Ôi! Thương thay Phạm Văn Tham!
              Phạm Hổ đến Gia Định nghe tin Phạm Văn Tham bị vây ở Trường Đồn, trong hết lương thảo, ngoài không quân cứu viện nên đã mở cửa thành ra hàng Phúc Ánh. Phạm Hổ cải trang tìm gặp Phạm Văn Tham thuật lại lời Nguyễn Huệ cho Tham nghe. Phạm Văn Tham than:
              - Giờ chỉ còn cách ấy mà thôi. Ông trời sao bày cảnh éo le.
              Phạm Hổ hỏi:
              - Sao tướng quân lại nói thế.
              Tham đáp:
              - Nếu vua Thái Đức tài cao chí lớn như Bắc Bình Vương thì ta đâu lâm vào cảnh éo le như thế này!
              Tham vừa dứt lời bỗng võ sĩ đập cửa xông vào bắt Phạm Văn Tham và Phạm Hổ trói lại. Nguyễn Phúc Ánh từ ngoài bước vô nói:
              - Ta biết ngươi bất đắc đĩ mới ra hàng ắt có ngày tạo phản nên ngầm cho người theo dõi, quả nhiên là thực. Quân bay lôi ra chém!
              Lúc đao phủ khai đao, Phạm Văn Tham ngửa mặt lên trời than rằng:
              - Nếu Bắc Bình Vương là anh vua Thái Đức thì Phạm Văn Tham ta đâu chết thảm thế này!
              Than xong đầu bèn lìa khỏi cổ.
              *
              * *
              Lại nói về Đặng Xuân Phong đang thủ thành Bình Thuận được thư Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Phong liền đem quân vào giữ Trấn Biên. Đến nơi nghe tin Phạm Văn Tham đã hàng Phúc Ánh, thành Sài Côn đã mất, Phong bèn sai người về Quy Nhơn tâu vua Thái Đức xin đem quân vào đánh. Thái giám Vũ Tâm Can hầu cận bên vua, thừa lúc vua say rượu đang vui cùng mỹ nữ, Tâm Can nói gièm:
              - Đặng Xuân Phong đang trấn thủ Bình Thuận, không có lệnh của Bệ hạ bỗng kéo quân vào Trấn Biên, chẳng khác nào Phạm Văn Tham cố xin Đông Định Vương trấn Sài Côn để dễ hàng giặc. Xin Bệ hạ lo liệu.
              Vua Thái Đức lúc ấy đã quá say, ôm mỹ nữ trong lòng khề khà hỏi:
              - Vậy phải làm sao?
              Vũ Tâm Can đáp:
              - Nên giết đi để trừ hậu hoạn.
              Thái Đức phán:
              - Ngươi hãy thay trẫm làm việc đó.
              Đặng Xuân Phong ở Trấn Biên nghe quân vào báo có tướng quân Lê Trung đem lệnh vua đến. Đặng Xuân Phong hỏi:
              - Kế sách đánh Phúc Ánh nhà vua liệu thế nào. Sao chỉ có mình ông đến đây và sao lại triệu tôi về kinh?
              Lê Trung đáp:
              - Hoàng thượng triệu ông về và sai tôi vào thay. Tôi với ông là chỗ thâm tình đã từng vào sinh ra tử nên tôi mới nói với ông điều này, tùy ông định liệu. Tôi e rằng nịnh thần trong triều che mắt Hoàng thượng toan hại ông chăng?
              Đặng Xuân Phong nghĩ thầm rằng:
              - Anh ta là Đặng Văn Long đã bỏ vua Thái Đức theo Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Ngộ nhỡ vua vì việc ấy mà hại ta thì sao.
              Nghĩ rồi Đặng Xuân Phong bảo Lê Trung:
              - Bắc Bình Vương trấn ngoài mặt Bắc, Hoàng thượng không chịu nhìn xa, Nguyễn Phúc Ánh thừa thời đem quân về lấy đất Gia Định. Ông là đại tướng hãy một lòng đánh giặc giúp vua. Tôi vì thế buộc nên phải ra đi, nếu về kinh thế nào cũng chết.
              Lê Trung hỏi:
              - Ông định đi đâu?
              Phong đáp:
              - Nếu không ra Phú Xuân cùng Bắc Bình Vương còn biết đi đâu nữa.
              Nói xong Đặng Xuân Phong xuống thuyền vượt bể ra Phú Xuân. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân nghe Đặng Văn Phong kể đầu đuôi sự việc, Huệ thở dài nói:
              - Hoàng huynh ta ngày càng bỏ bê chính sự, e rằng không địch nổi Nguyễn Phúc Ánh. Còn ta phải chờ phá giặc Thanh xong mới kéo quân vào Nam được. Không diệt Phúc Ánh khi đang xây dựng lực lượng, đợi hắn lớn mạnh càng khó khăn thêm.
              *
              * *
              Nói về vua Lê Chiêu Thống bỏ thành Thăng Long chạy về Kinh Bắc rồi trốn lên vùng rừng núi Lạng Sơn. Vua Chiêu Thống sai bọn thị thần Lê Quýnh và Trần Danh Án sang cầu viện vua Càn Long nhà Thanh.
              Lê Quýnh và Trần Danh Án ra mắt Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị. Lê Quýnh tâu:
              - Nhà Lê của hạ thần làm vua ở nước An Nam đã ba trăm năm nay. Vua nào lên trị vì cũng đều sai sứ sang thiên quốc xin phong. Nay vua của hạ thần bị giặc Tây Sơn đánh đuổi phải trốn lên chốn rừng sâu nước độc, nếm mật nằm gai. Vua sai bọn hạ thần lội suối băng rừng tìm đến thiên quốc dập đầu dưới trướng cầu xin thiên quốc đem binh sang giúp đuổi giặc Tây Sơn đưa vua hạ thần về nước thì ơn ấy tạc dạ ghi lòng ngàn năm giữ phận con dân, trọn đời triều cống. Xin đại quan đoái thương tâu lên cùng Thiên tử.
              Nói xong Quýnh và Án cùng dập đầu gào khóc.
              Tôn Sĩ Nghị mân mê tóc đuôi sam bảo với sứ vua Lê:
              - Hai ngươi hãy ra nghỉ ngoài công quán, ta sẽ cố sức tâu xin, thế nào Hoàng thượng cũng chuẩn y.
              Lê Quýnh và Trần Công Án cả mừng lạy tạ lui ra. Còn lại một mình, Tôn Sĩ Nghị hất mạnh đuôi tóc ra sau lưng nói lớn:
              - Ta mượn cớ giúp vua Lê tâu xin Hoàng thượng đem quân chiếm nước An Nam là lập nên đại công vậy.
              Đoạn Tôn Sĩ Nghị viết biểu sai người về kinh dâng lên vua Càn Long. Vua Thanh bèn phong Tôn Sĩ Nghị làm Tiết Chế điều binh bốn tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây tổng cộng được ba mươi vạn quân sang đánh nước An Nam.
              Tôn Sĩ Nghị hớn hở bảo các tướng:
              - Nay ta tuân lệnh vua đem đại binh ba mươi vạn sang đánh An Nam. Các ngươi hãy cùng ta cố sức lập công lớn trả ơn vua lưu danh hậu thế.
              Các tướng đồng thanh thưa:
              - Xin Tiết Chế xuống lệnh, chúng tôi thề cố sức lập công.
              Tôn Sĩ Nghị truyền:
              - Ô Đại Kinh đem sáu vạn quân theo đường Tuyên Quang tiến xuống, Sầm Nghi Đống đem sáu vạn quân theo đường Cao Bằng tiến sang, ta sẽ đem mười tám vạn quân đi đường Lạng Sơn. Cả ba đạo cùng tiến sang làm cỏ nước Nam, hẹn gặp tại Thăng Long kinh đô của chúng.
              Ô Đại Kinh và Sầm Nghi Đống bước ra lãnh lệnh. Tôn Sĩ Nghị lại truyền:
              - Nay ta phong Trương Triều Long làm tiên phong đem năm vạn quân đi trước mở đường. Ta cùng Tả dực phó tướng Thượng Duy Thăng cùng đại binh đi sau tiếp ứng. Truyền lệnh ta, quân các đạo lập tức xuất binh.
              Tháng 10 năm Mậu Thân (1788) quân Thanh chia làm ba mũi, tiến vào An Nam.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #52
                Chương 49

                Ngô Thì Nhậm khuyên tướng lui quân.
                Phan Văn Lân một mình chặn giặc.


                Tin quân Thanh kéo quân đến ải Nam Quan bay về tới Thăng Long. Ngô Thì Nhậm hay tin ấy nhủ thầm: Trước khi về Phú Xuân, Chúa công có trao cho ta một lá thư và dặn rằng khi nào quân Thanh sang đánh mới được mở ra xem, sẽ có kế chống giặc. Vậy ta mau xem thử trong thư ấy nói gì.
                Nghĩ xong làm liền. Thư viết rằng:
                Khi quân Thanh sang đánh, khanh nên khuyên Ngô Văn Sở bỏ Bắc Hà rút bộ binh về giữ ải Tam Điệp, đem thủy binh đóng tại cửa biển Biện Sơn, làm kế “không thành” trên toàn cõi Bắc Hà rồi ta sẽ có cách vây đánh chúng. Còn việc thuyết cho Ngô Văn Sở nghe theo, ta nghĩ rằng khanh thừa sức để làm việc đó!
                Đọc thư xong Ngô Thì Nhậm lại nghĩ thầm:
                - Sao Chúa công không lệnh cho Ngô Văn Sở làm theo kế ấy mà phải bảo ta thuyết Ngô Văn Sở. Ấy là Chúa công muốn ta lập công với Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết đây mà. Chúa công thật là chu đáo, ta dù phơi gan trải mật cũng quyết đáp đền ơn tri ngộ của Chúa công.
                Nghĩ xong ngoảnh về Nam lạy ba lạy. Bỗng quân vào báo:
                - Đại tư mã Ngô Văn Sở mời tiên sinh sang trướng phủ bàn việc quốc gia.
                Ngô Thì Nhậm liền vội vã đi ngay. Đông đủ văn thần võ tướng, Ngô Văn Sở lo lắng nói:
                - Chúa công giao cho bọn ta được trọn quyền điều xử mọi việc ở Bắc Hà. Nay quân Thanh mượn cớ phò vua Lê xua binh ba mươi vạn sang xâm lược nước ta. Vậy theo ý các ông ta nên tiến thủ thế nào?
                Nguyễn Văn Tuyết bàn:
                - Bọn ta là võ tướng hễ giặc đến thì đánh. Nay chúng kéo binh bằng ba đường xâm lược nước ta. Vậy ta phải chia quân làm ba đạo lên biên cương ngăn giặc.
                Ngô Văn Sở lắc đầu bảo:
                - Đánh giặc tất là phải đánh, nhưng chia quân làm ba đạo là việc không nên.
                Tuyết vểnh râu hỏi:
                - Vì sao không nên.
                Văn Sở đáp:
                - Quân ta ở Bắc Hà chỉ non hai vạn, nếu đem ra biên cương sao ngăn được ba mươi vạn quân địch.
                Tuyết lại hỏi:
                - Theo ý ông ta phải đánh thế nào?
                Sở đáp:
                - Giặc chia quân làm ba đạo tiến theo đường Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Nhưng ba đường này đều gặp nhau ở bờ Bắc sông Như Nguyệt mới đến được Thăng Long. Từ ngàn xưa đến nay ông cha ta đều dựa vào sông Như Nguyệt này làm hào chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Bài thơ do Lý Thường Kiệt làm ra giả là của thần để kích động tinh thần chiến đấu của quân sĩ rằng:
                Sông núi nước Nam vua Nam ở
                Rành rành đã định tại sách trời
                Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
                Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
                cũng ở sông Như Nguyệt này đấy. Vậy ta nên lệnh toàn quân các trấn lui về cố thủ ở bờ Nam sông Như Nguyệt rồi cấp báo cho Chúa công đem đại binh ra đánh, đó mới là thượng sách.
                Ngô Thì Nhậm khen Ngô Văn Sở:
                - Ngô tướng quân đã có tài thao lược, thông kinh sử rành văn thơ thật là văn võ toàn tài. Nhưng theo tôi kế của tướng quân chưa phải là thượng sách.
                Ngô Văn Sở nghi ngại hỏi:
                - Theo Ngô mưu sĩ thế nào mới là thượng sách.
                Ngô Thì Nhậm đáp:
                - Ta nên bảo toàn lực lượng rút toàn quân về núi Tam Điệp, thủy binh về đóng tại cửa biển Biện Sơn, bỏ Bắc Hà và thành Thăng Long cho giặc. Đó mới là thượng sách.
                Phan Văn Lân nãy giờ chưa bàn định gì, nghe Ngô Thì Nhậm nói xong Lân xen vào hỏi:
                - Giặc đến chưa đánh đã lui, ngộ nhỡ Chúa công bắt tội bỏ đất cho giặc thì biết ăn nói thế nào. Tôi tuy bất tài cũng xin lãnh binh đến bờ Nam sông Như Nguyệt chặn giặc. Xin Ngô huynh thuận cho.
                Văn Sở bảo:
                - Văn Lân đừng nóng nảy, cứ để Ngô mưu sĩ nói hết ý xem sao.
                Ngô Thì Nhậm giở bản đồ ra nói:
                - Trong binh pháp giặc đến thì đánh, đánh không được thì giữ. Nay giặc đông ta ít, vả lại người Bắc Hà lắm kẻ còn trung quân mù quáng vẫn tin rằng nhà Thanh đem quân sang giúp Lê Chiêu Thống. Bởi vậy nên bấy lâu quân sĩ ta có người nào đơn độc đi vào đồng nội rừng hoang đều bị bọn người này giết chết. Quân ít, lòng dân không theo, đánh tất phải thua. Đánh không được còn giữ thì thế nào? Sông Như Nguyệt tuy sâu nhưng thành Thăng Long trống trải. Nếu ta đem quân chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt ngộ nhỡ quân Thanh đem thủy binh vào cửa Lục Đầu hoặc cửa Đại An theo sông Nhị Hà đánh chiếm Thăng Long thì quân ta ở sông Như Nguyệt tiến thoái lưỡng nan phải làm thế nào.
                Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Tuyết chưa biết trả lời sao, Ngô Thì Nhậm liền nói tiếp:
                - Chúa công còn ở tận Phú Xuân đường xa hàng vạn dặm mà quân Thanh ngấp nghé ải Nam Quan. Nước xa không cứu được lửa gần, đánh không được mà giữ cũng không xong, chi bằng ta rút binh lui về ải Tam Điệp. Đây là đường độc đạo muốn ra Bắc vào Nam đều phải qua ải này. Ta dựa vào thế núi hiểm trở chống giặc dù chúng có thiên binh vạn mã cũng chẳng hề chi. Trong có thể khích được lòng quân sĩ, ngoài có thể khiến giặc kiêu căng mà không phòng bị, đợi Chúa công kéo đại binh ra ta sẽ đuổi chúng đi. Ấy là kế “không thành” trên toàn cõi Bắc Hà, xem như ta cho chúng ngủ trọ một đêm nào có hại gì. Nếu Chúa công bắt tội, Ngô Thì Nhậm tôi xin chịu, các vị chớ lo.
                Ngô Văn Sở trầm ngâm nói:
                - Chúa công bắt tội cả bọn ta cùng chịu sao đổ lỗi một mình ông. Nhưng cách này mới là thượng sách. Vậy phiền Ngô mưu sĩ mau thảo một lá thư giảng hòa, tôi sai người tâm phúc đem dâng Tôn Sĩ Nghị làm kế hoãn binh để ta có đủ thời gian gọi quân các trấn lui về hội tại Thăng Long.
                Ngô Thì Nhậm nghe lời lập tức thảo thư. Ngô Văn Sở lại gọi quân đến bảo:
                - Hãy đem lệnh bài của ta đến gọi các quan trấn thủ phải kíp lui binh về Thăng Long. Trên đường rút có dừng quân nấu ăn rồi phải xóa ngay mọi dấu vết và vãi gạo sống đầy đường. Ai sai lệnh chém đầu.
                Phan Văn Lân đứng lên nói:
                - Tôi xin đem một ngàn tinh binh đến sông Như Nguyệt chặn giặc.
                Nguyễn Văn Tuyết vội can Lân:
                - Đại tư mã vừa hạ lệnh rút binh, ai sai lệnh chém đầu. Sao Văn Lân còn xin đi đánh giặc.
                Lân đáp:
                - Ấy là tôi làm theo lệnh rút quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở đó chứ.
                Tuyết ngạc nhiên hỏi:
                - Văn Lân nói vậy là ý thế nào.
                Lân đáp:
                - Quân các trấn ở Bắc Hà muốn rút về Nam đều phải về hội tại Thăng Long. Nếu ta không ngăn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt để quân Thanh tiến đến Thăng Long ắt quân ta ở các trấn không còn đường rút. Nay tôi xin đem quân chặn giặc cho quân ta ở các trấn kịp lui về . Ấy chẳng phải là làm theo lệnh của Đại tư mã Ngô Văn Sở ư.
                Ngô Văn Sở nói:
                - Phan đệ muốn đánh giặc Thanh và đã tìm được một lý do rất là chính đáng. Nhưng chỉ xin ngàn quân sao ngăn được giặc?
                Lân đáp:
                - Quân cốt giỏi chớ chẳng cốt nhiều. Nếu quân Thanh đến được Thăng Long trước quân các trấn của ta rút binh về, Văn Lân tôi xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
                Văn Sở bảo:
                - Vậy Phan đệ hãy đi đi. Khi có tin báo quân ta đã lui kịp thì phải lập tức rút ngay.
                Phan Văn Lân mừng rỡ lãnh lệnh mà đi.
                *
                * *
                Nói về Tôn Sĩ Nghị đem đại binh đến ải Nam Quan gặp lúc tối trời liền dừng quân đóng trại. Chợt quân vào báo có sứ giả Tây Sơn đến xin ra mắt. Tôn Sĩ Nghị liền cho vào hỏi:
                - Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì?
                Sứ giả đáp:
                - Chúa công tôi xin Đại tướng quân hãy rút binh về tránh cho hai nước khỏi nạn can qua. Chúa tôi xin lui quân về đất Tây Sơn, trả nước cho vua Lê. Đây là thư Chúa tôi viết, trình đại tướng quân duyệt lãm.
                Tôn Sĩ Nghị cầm thư đắc ý cười lớn:
                - Ta nghe người nước Nam ca tụng Nguyễn Huệ dùng binh như thần. Sao mới nghe tiếng ta đã mất mật xin giảng hòa. Phen này ta quyết bắt anh em thằng buôn trầu Nhạc - Huệ trị tội dám dấy loạn giết chúa đuổi vua thì cần gì phải xem thư Nguyễn Huệ.
                Nói xong Nghị xé toạc thư quăng xuống đất rồi thét võ sĩ lôi sứ Tây Sơn ra chém tức thì. Lê Quýnh và Trần Danh Án là hai sứ thần của vua Lê Chiêu Thống thấy vậy quỳ tâu:
                - Đại tướng quân thật là uy vũ anh minh.
                Bỗng quân vào báo rằng:
                - Thưa đại tướng quân, vua An Nam là Lê Chiêu Thống xin vào ra mắt.
                Tôn Sĩ Nghị liền mời vào. Chiêu Thống vào đến, Lê Quýnh và Trần Danh Án cùng quỳ thi lễ rồi vua tôi ôm nhau ứa lệ. Vua Chiêu Thống nói:
                - Nhờ hai khanh lội suối trèo đèo sang thiên quốc cầu viện nên đại tướng quân mới đem binh sang giúp. Phen này ắt là đuổi được giặc mạnh Tây Sơn phục hồi nước cũ của Tiên đế.
                Chiêu Thống nói xong, Tôn Sĩ Nghị cười lớn mấy hồi. Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi:
                - Đại tướng quân cười gì mãi thế.
                Tôn Sĩ Nghị vừa cười vừa nói:
                - Vua tôi các ngươi thật là bất tài nên mới cho Nguyễn Huệ là anh hùng, quân Tây Sơn là giặc mạnh. Đối với ta, chúng chỉ là loài chim chuột mà thôi. Vừa nghe quân ta tới ải Nam Quan, Nguyễn Huệ đã vội sai sứ đến cầu hòa. Ta vừa chém đầu sứ giả của Nguyễn Huệ đó!
                Đoạn Nghị quay lại bảo quân:
                - Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đưa Tân vương về nơi cố quốc.
                Quân Thanh tiến liền một mạch đến bờ Bắc sông Như Nguyệt. Nhìn sang bờ Nam thấy đồn lũy quân Tây Sơn canh phòng cẩn mật, Tôn Sĩ Nghị cười bảo:
                - Từ ải Nam Quan đến đây, quân Tây Sơn sợ chạy vắt giò lên cổ không dám dừng quân nấu ăn. Chúng lợi dụng sông Như Nguyệt vừa rộng vừa sâu lại là cửa ngõ của thành Thăng Long nên đóng quân ngăn binh thiên triều. Vậy ta hãy tạm nghỉ ngơi chờ hai đạo quân của Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh đến rồi cùng tiến đánh Thăng Long.
                Lê Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi:
                - Quân Tây Sơn nghe tiếng thiên binh đến đã sợ mà chạy về đây. Nhưng từ biên giới đến đây hết năm, bảy ngày đường chẳng lẽ chúng nhịn đói hay sao mà đại tướng quân bảo chúng không dám dừng quân nấu ăn.
                Tôn Sĩ Nghị cười đáp:
                - Bệ hạ còn nhỏ không rành binh pháp nên không biết đấy thôi. Trên đường tiến quân ta không thấy bếp lò của giặc mà chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Ấy là chúng không dám dừng quân nấu ăn, phải nhai gạo sống mà chạy đó.
                Chiêu Thống vỡ lẽ tấm tắc khen:
                - Đại tướng quân liệu việc như thần. Quân Tây Sơn quả nhiên sợ uy danh đại tướng quân như sợ cọp. Không biết Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh có biết việc này mà tiến binh cho nhanh chăng?
                *
                * *
                Nói về Sầm Nghi Đống dẫn quân theo đường Cao Bằng tiến sang nước Nam mà không gặp một sự kháng cự nào. Sầm Nghi Đống bảo quân:
                - Chúng bay dò xem trên đường rút chạy, giặc dừng quân nấu nướng ở đâu rồi báo cho ta hay.
                Quân đi một hồi quay lại báo:
                - Thưa tướng quân, chúng tôi chia quân lùng sục khắp nơi mà không thấy bếp lò nấu ăn của giặc.
                Sầm Nghi Đống vừa ôm bụng vừa ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi. Tả hữu ngạc nhiên hỏi :
                - Tướng quân cười gì mãi thế ?
                Đống nín cười đáp:
                - Trên đường tiến quân ta thấy giặc Tây Sơn để gạo rơi vãi đầy đường, giờ nghe báo không thấy bếp lò nấu ăn của giặc. Ta cười vì nghe quân ta đến đây, giặc Tây Sơn sợ đến nỗi không dám dừng quân nấu ăn phải nhai gạo sống mà chạy. Thật xưa nay chưa từng thấy oai nào lớn như vậy.
                Đoạn Sầm Nghi Đống truyền quân thẳng tiến. Đến bờ Bắc sông Như Nguyệt gặp quân Tôn Sĩ Nghị. Nghị họp các tướng nói:
                - Nếu ngày nay quân Ô Đại Kinh chưa đến kịp, ngày mai quân ta vẫn tiến đánh Thăng Long.
                *
                * *
                Nói về Ô Đại Kinh dẫn quân theo đường Tuyên Quang tiến vào nước Nam. Trên đường tiến quân thấy gạo rơi vãi khắp nơi, Ô Đại Kinh nghĩ thầm rằng:
                - Xưa nay người Nam nước nhỏ ít quân nên giỏi đánh phục binh. Trên đường tiến quân không thấy quân Tây Sơn dừng quân nấu ăn, chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Chẳng lẽ chúng nhai gạo sống mà chạy ư? Hay chúng dụ ta khinh thường đem quân vào sâu rồi phục binh đổ ra đánh. Ta phải đề phòng mới được.
                Đoạn Ô Đại Kinh bảo quân:
                - Mau dừng quân đóng trại canh phòng cẩn mật, cho quân thám mã đi trước dò la tin tức, có gì nghi hoặc phải lập tức phi báo.
                Tả hữu hỏi:
                - Quân Tây Sơn sợ ta đã bỏ trốn cả, sao tướng quân không gấp tiến vào Thăng Long trước để lập công đầu.
                Ô Đại Kinh gạt đi bảo:
                - Các ngươi biết gì mà bàn, cứ y lệnh mà làm, quân từ từ mà tiến đề phòng giặc mai phục.
                *
                * *
                Nhắc lại tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân đem một ngàn tinh binh đến đóng ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Nhìn sang bờ Bắc thấy quân Thanh đông như kiến cỏ, tinh kỳ rợp đất, gươm giáo ngời ngời, Phan Văn Lân bảo quân:
                - Các ngươi tuần phòng dọc sông cho nghiêm ngặt, nếu thấy giặc vượt sông lập tức báo ta hay.
                Bờ Bắc sông Như Nguyệt Tôn Sĩ Nghị và các tướng ra khỏi doanh trại đi thị sát địa hình. Vua Chiêu Thống lo lắng hỏi:
                - Giặc Tây Sơn rút chạy đã phá cầu và thuyền bè, làm cách nào quân ta vượt sông?
                Không trả lời vua Chiêu Thống, Sĩ Nghị bảo quân:
                - Truyền lệnh ta lập tức bắc cầu phao.
                Quân Thanh chặt cây đóng cọc, kết tre làm ván hối hả bắc cầu. Quân Tây Sơn vào báo với Phan Văn Lân:
                - Thưa tướng, quân giặc Thanh đang bắc cầu qua sông.
                Lân ra ngoài xem xét thấy quân Thanh đã bắc cầu vào tầm đạn đại bác, Lân liền hạ lệnh:
                - Mau tập trung súng bắn vào cầu ấy cho ta.
                Súng Tây Sơn ầm ầm nhả đạn, cầu quân Thanh lọt vào tầm súng đều đổ vỡ cả. Quân Thanh liền chạy về báo cùng Tôn Sĩ Nghị. Nghị hạ lệnh:
                - Thượng Duy Thăng đem một vạn quân chặt tre, chuối làm bè rồi làm hình nộm đặt lên bè, chờ đêm đến thả bè thuận gió bấc trôi sang trại địch.
                Thượng Duy Thăng bước ra lãnh lệnh. Nghị lại bảo:
                - Trương Triều Long đem năm ngàn quân lên thượng nguồn sông Như Nguyệt tìm chỗ nước cạn vượt sông rồi đánh vào sau lưng địch.
                Trương Triều Long bước ra lãnh lệnh. Nghị hăm hở nói:
                - Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đốc thúc toàn quân kết thật nhiều bè chờ Trương Triều Long phá địch ở bờ Nam xong, lập tức sang sông tiến đánh Thăng Long.
                Các tướng đồng thanh thưa:
                - Đại tướng quân liệu việc hơn người, chúng thần xin tuân mệnh.
                Nói rồi ai vào việc nấy.
                Bờ Nam sông Như Nguyệt, Phan Văn Lân đốc thúc quân tuần phòng dọc sông thật cẩn mật. Tả hữu hỏi Văn Lân:
                - Quân ta chỉ có một ngàn, địch đông hơn hai mươi vạn. Nếu địch lên thượng nguồn đánh vào sau lưng ta thì sao, chi bằng ta rút về Thăng Long cùng Đại tư mã Ngô Văn Sở lui binh vào Tam Điệp là hơn.
                Phan Văn Lân bảo:
                - Ta nhận lệnh đến đây ngăn giặc cho đại binh ta rút lui. Chưa có lệnh của Ngô huynh ta lui binh sao được.
                Xảy quân do thám vào báo rằng:
                - Thưa tướng quân, quân Thanh cho chặt rất nhiều tre và chuối, lại ra đồng lấy rơm rạ rất nhiều, chẳng biết định làm gì. Xin tướng quân định liệu.
                Phan Văn Lân cười ngất nói:
                - Tre, chuối làm bè, rơm rạ làm hình nộm, mẹo vặt này sao lừa ta được. Đêm nay ta tương kế tựu kế đánh chúng một trận mới được.
                Nói rồi, Phan Văn Lân sai quân bố trận…
                Canh ba đêm ấy Thượng Duy Thăng sai quân cột dây vào bè đẩy ra sông rồi bảo:
                - Bao giờ quân Tây Sơn bắn đại bác ra thì cầm dây kéo bè về. Quân Tây Sơn thôi bắn lại thả dây cho bè trôi về địch.
                Thượng Duy Thăng quay lại thi lễ rồi thưa với Tôn Sĩ Nghị:
                - Tháng mười một đang là mùa gió bấc, bè nghi binh của ta thuận gió thẳng tiến về địch. Phan Văn Lân phen này trúng kế. Chờ Trương Triều Long đánh tập hậu giặc tất phải tan, đại tướng quân thật là thần cơ diệu toán.
                Tôn Sĩ Nghị đắc ý bảo:
                - Ta đã từng học sách binh thư của tiền nhân nước ta như Tôn Võ binh pháp, Ngô Khởi binh pháp, Khổng Minh binh pháp thì kế mọn này nào đáng kể gì.
                Đoạn Tôn Sĩ Nghị hỏi quân:
                - Bè nghi binh của ta đã vào tầm đạn của giặc chưa?
                Quân đáp:
                - Thưa đã vào rồi.
                Nghị giật mình nghĩ thầm, bè nghi binh đã vào tầm đạn, sao Phan Văn Lân không bắn. Không có lẽ kế của ta đã lộ rồi sao. Nghĩ xong, Nghị hạ lệnh:
                - Thượng Duy Thăng mau đem năm ngàn quân lên thượng nguồn sông Như Nguyệt tiếp ứng cho Trương Triều Long, không được chậm trễ.
                Thượng Duy Thăng lãnh quân đi ngay.
                Nhắc lại Trương Triều Long đến phía sau doanh trại Tây Sơn thấy cờ quạt chỉnh tề, quân canh súng ống đều hướng xuống sông thì mừng rỡ nói:
                - Quân Tây Sơn quả nhiên không phòng bị mặt sau. Ba quân tiến lên.
                Quân Thanh hò hét xông thẳng vào. Đến nơi mới hay quân sĩ Tây Sơn toàn là hình nộm, còn súng ống toàn bằng cây gỗ. Trương Triều Long thất kinh than:
                - Thôi ta đã trúng kế của quân Tây Sơn rồi. Mau rút quân!
                Vừa dứt lời đã nghe một phát pháo lệnh nổ vang. Tên đạn quân Tây Sơn từ ba bên bắn vào như mưa. Quân Thanh năm ngàn hao hết một nửa. Trương Triều Long cầm khiên che tên liều mình dẫn quân theo đường cũ mà rút, bỗng thấy một viên tướng dáng dấp thư sinh, tay cầm trường thương, ngồi trên lưng bạch mã lướt đến chặn đường. Hai bên giáp chiến đánh nhau dữ đội, tiếng hò reo vỡ màn đêm tĩnh mịch. Quân Tây Sơn dũng mãnh, quân Thanh mỗi lúc một lùi. Trương Triều Long nghĩ thầm: Thằng học trò này đánh hăng quá, nếu không liều chết biết chạy đi đâu. Nghĩ rồi liền vung đao bảo quân:
                - Giặc Tây Sơn chỉ có ngàn tên, các ngươi chớ sợ. Nay ta đã bị dồn vào mé sông, nếu không quyết đánh đành chịu chết hay sao?
                Quân Thanh lại hò hét xông lên, hết lớp này đến lớp khác vẫn không sao mở được đường máu thoát thân. Trong cơn nguy khốn bỗng thấy phía sau quân Tây Sơn hàng ngũ rối loạn. Trương Triều Long mừng rỡ nói lớn:
                - Quân ta có viện binh. Mau tiến lên.
                Thượng Duy Thăng từ phía sau đánh tới, quân Thanh hai mặt giáp công. Quân Tây Sơn dần dần núng thế. Phan Văn Lân thét quân:
                - Mau quay lại phá vây mà rút.
                Nói rồi vung trường thương cầm đầu ba quân tả xung hữu đột. Đánh một hồi ngàn quân Tây Sơn dần dần chết cả. Phan Văn Lân đơn thân độc mã thúc ngựa nhắm hướng Nam mà đi, gặp tướng đánh tướng, gặp quân giết quân. Trường thương Văn Lân khi đâm tới xỏ lòi hai ba tên địch, lúc hoành thương lia ngang vỡ đầu đứt cổ năm bảy thằng quân, vung lên rồi bỏ xuống, gặp đao đỡ đao nhằm tên gạt tên vẫn bình tĩnh như đi vào chỗ không người. Quân Thanh sợ hãi không dám xáp lại gần. Thượng Duy Thăng thấy vậy giận lắm bèn vác đao ra chặn Văn Lân mà đánh. Văn Lân đâm lia đâm lịa làm Thượng Duy Thăng đỡ gạt liên hồi vã mồ hôi hột. Văn Lân không ham đánh liền đâm giả một thương rồi thúc ngựa phi ra khỏi trận. Thượng Duy Thăng hô quân đuổi theo. Chạy được vài dặm vừa ra khỏi một cây cầu nhỏ, Lân liền quay lại đứng chặn giữa cầu tay hờm sẵn cung tên. Duy Thăng vừa dẫn quân đuổi đến liền bị Văn Lân bắn một phát, mũi tên nhằm giữa miếng kính tâm, Thăng giật mình gò ngựa bên kia cầu hỏi quân:
                - Thằng học trò thua quân còn lại một mình sao không chạy nữa mà chặn ta ở đây?
                Tả hữu nghi hoặc đáp:
                - Ngươi đâu mà to gan thế. Chúng có mẹo gì chăng. E rằng có mai phục.
                Vừa dứt lời nhìn sang thấy một tên quân Tây Sơn phi ngựa từ hướng Nam về phía Văn Lân. Thượng Duy Thăng bảo quân:
                - Quả nhiên là chúng có mẹo thật. Bọn bay mau đóng trại canh phòng chờ đại binh đến rồi đánh cũng chẳng muộn gì.
                Bên kia cầu tên quân Tây Sơn nhảy xuống ngựa hỏi Phan Văn Lân:
                - Quân ta đâu mà tướng quân chỉ có một mình?
                Lân đăm đăm ngó sang phía quân Thanh, đáp:
                - Ngàn quân ta bị vạn quân địch giết chết cả rồi. Ta thoát được về đây đứng chặn giặc ở cầu này.
                Tên quân lại hỏi:
                - Một mình sao địch nổi giặc. Sao tướng quân không chạy về Thăng Long.
                Lân đáp:
                - Ta nhận lệnh ngăn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt cho quân ta từ các trấn về hội tại Thăng Long. Nếu ta bỏ chạy, giặc tiến chiếm Thăng Long, quân các trấn ta tất không còn đường rút.
                Tên quân bái lạy Văn Lân rồi nói:
                - Lòng trung dũng của tướng quân thật đáng cho người đời khâm phục. Quân các trấn đã kịp rút lui, đại tư mã Ngô Văn Sở sai tôi đến gọi tướng quân lập tức về ngay.
                Phan Văn Lân liền quày ngựa theo tên quân chạy về Thăng Long rồi theo đại binh rút về Tam Điệp.
                Quân Thanh vượt sông Như Nguyệt vào thành Thăng Long như chỗ không người. Tôn Sĩ Nghị họp các tướng bàn việc quân, Thượng Duy Thăng nói:
                - Ta kéo binh đến đâu quân Tây Sơn chỉ lui mà không đánh. Tôi e Nguyễn Huệ dùng kế “không thành”. Xin Đại tướng quân suy xét.
                Sĩ Nghị cười bảo:
                - Kế “không thành” là phục binh bốn phía chờ địch vào thành rồi đổ ra vây đánh. Nay giặc nghe oai thiên binh bỏ chạy một mạch vào ải Tam Điệp, bỏ toàn cõi Bắc Hà cho ta, thì quân nào đổ ra vây đánh mà bảo là kế “không thành”.
                Trương Triều Long thưa:
                - Trận Như Nguyệt, Phan Văn Lân tuy thua còn một mình một ngựa chạy về. Quân Tây Sơn chết chỉ một ngàn, còn quân ta hao mất mấy ngàn. Vậy chứng tỏ quân Tây Sơn không phải là không dũng mãnh. Nay chúng bỗng dưng chưa đánh đã rút đại binh về ắt không phải là vô cớ, xin đại tướng quân minh xét.
                Tôn Sĩ Nghị hỏi:
                - Nếu không phải chúng sợ ta mà chạy, vậy theo ngươi Nguyễn Huệ có kế gì?
                Các tướng đều đưa mắt nhìn nhau không ai đoán ra là Nguyễn Huệ có kế gì. Sĩ Nghị nói tiếp:
                - Ngô Văn Sở ít quân bỏ Bắc Hà Thăng Long chạy về trấn giữ Tam Điệp, Biện Sơn là nơi hiểm yếu. Đạo làm tướng ai không làm như Ngô Văn Sở, có gì mà các ngươi phải ngại. Nay ta đã sai Lê Chiêu Thống xuống hịch cần vương hiệu triệu dân chúng lập thành quân đội đi trước đánh nhau với quân Tây Sơn. Ấy là không nhọc sức mà lập công to vậy, kế này là kế "dĩ Việt trị Việt” mà tiền nhân nước ta sang đô hộ An Nam vẫn thường làm đó.
                Nghe xong các tướng đều khen:
                - Đại tướng quân liệu việc sâu sắc chúng tôi không sánh kịp.
                Sĩ Nghị đắc ý bảo:
                - Ngô Văn Sở nghe oai ta đã bỏ chạy vào Tam Điệp. Từ Tam Điệp đến Thăng Long đường bằng đồng trống không núi non hiểm trở, vậy ta phải lập đồn lũy canh phòng giặc tiến công. Nay ta lệnh cho Trương Triều Long đem ba vạn quân vào làng Hà Hồi cách thành Thăng Long năm mươi dặm đóng đồn lập trại. Thượng Duy Thăng đem năm vạn quân vào làng Ngọc Hồi cách thành Thăng Long hai mươi dặm đóng đồn hạ trại. Hai đồn này làm thế ỷ giốc tiếp ứng cho nhau phòng giữ mặt Nam. Ta nghe quân Tây Sơn là giống người mọi giỏi đánh đường núi, vậy Sầm Nghi Đống hãy đem ba vạn quân đến làng Khương Thượng cách phía Tây thành Thăng Long mười dặm đóng đồn hạ trại. Ta đóng đại binh ở Thăng Long sẽ tùy cơ tiếp ứng. Chờ quân Ô Đại Kinh đến đây ăn tết Nguyên đán xong, ta sẽ xua binh vào Phú Xuân bắt Nguyễn Huệ.
                Các tướng cùng bước ra lãnh lệnh, ai vào việc nấy.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #53
                  Chương 5O

                  Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế.
                  Vua Quang Trung thỉnh cầu Phu tử.


                  Nói về Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết rút toàn quân lui về ải Tam Điệp cách thành Thăng Long ba trăm dặm đóng quân. Ngô Văn Sở nói:
                  - Theo kế Ngô mưu sĩ, binh ta rút an toàn về đây, vậy Nguyễn Văn Tuyết hãy mau về Phú Xuân cấp báo cho Chúa công được biết.
                  Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu lắc đầu nói:
                  - Về Phú Xuân cấp báo thì thiếu chi người sao lại sai tôi. Vả lại giặc đông ta ít nếu giặc đem quân đánh tới chỉ có hai ông chống đỡ, tôi không an tâm đi đâu.
                  Văn Sở an ủi Văn Tuyết:
                  - Ải Tam Điệp hiểm trở, quân Thanh dù thiên binh vạn mã cũng không thể đánh được ta. Tướng quân hãy an tâm mà đi đi. Vả lại ông có ngựa Xích kỳ ngày chạy ngàn dặm không biết mệt mới mau cấp báo cho Chúa ta đem quân ra đánh giặc cứu dân.
                  Vỡ lẽ Nguyễn Văn Tuyết nói:
                  - Nếu vậy tôi xin đi.
                  Tuyết tạm biệt Sở và Lân, Nhậm rồi lên lưng ngựa Xích kỳ nói lớn:
                  - Ngựa Xích kỳ! Ngựa Xích kỳ! Hãy phi mau về báo cho Chúa ta được rõ, rằng quân Thanh đã đem binh xâm lược nước ta.
                  Ngựa Xích kỳ lồng lên nhằm hướng Nam phi mau như gió. Đến Phú Xuân gặp Nguyễn Huệ, Tuyết hổn hển quỳ thưa:
                  - Tâu Chúa công, vua Càn Long nhà Thanh sai Đại tướng Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn đại binh sang xâm lược nước ta!
                  Nghe Tuyết nói xong, các quan văn võ đều hết thảy giật mình. Nguyễn Huệ điềm nhiên nói:
                  - Nguyễn Phúc Ánh giết Phạm Văn Tham lấy đất Gia Định mà ta vẫn không đem quân vào đánh, ấy là còn lo việc đánh quân Tàu. Nay chúng sang đây cũng không ngoài dự liệu của ta, cớ sao mới nghe qua các khanh lại lo sợ như thế? Nguyễn Văn Tuyết bình tĩnh mà nghe ta hỏi: Chúng đem quân sang, ở Bắc Hà các ngươi đối phó thế nào?
                  Nguyễn Văn Tuyết đáp:
                  - Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn quân mượn cớ phò vua Lê Chiêu Thống về nước, chúng chia quân làm ba đạo, theo ba đường Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang sang đánh nước ta. Ngô Văn Sở lệnh toàn quân lui về ải Tam Điệp. Phan Văn Lân đem ngàn tinh binh ra chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt làm đoạn hậu cho đại binh rút lui. Vì ít quân bị giặc vây đánh, ngàn quân ta đều chết cả, Phan Văn Lân một mình một ngựa chạy về. Hiện toàn quân ta đã lui về Tam Điệp được an toàn. Thần vội vã về phi báo, xin Chúa công định liệu.
                  Nguyễn Huệ cười hỏi:
                  - Kế bảo toàn lực lượng lui về Tam Điệp có phải của Ngô Thì Nhậm chăng?
                  Tuyết đáp:
                  - Ấy chính Ià do Ngô Thì Nhậm bày ra.
                  Nguyễn Huệ lại hỏi:
                  - Còn kế xóa bếp lò, vãi gạo ra đường cho giặc khinh thường tưởng quân ta phải nhai gạo sống mà chạy có phải của Ngô Văn Sở chăng?
                  Tuyết đáp:
                  - Kế ấy là do Ngô Văn Sở bày ra.
                  Nguyễn Huệ cười lớn nói:
                  - Hai họ Ngô ở Bắc Hà làm rất tốt. Tôn Sĩ Nghị đã trúng kế “không thành” của ta. Bọn chúng sang xâm lược nước ta lần này chỉ chuốc lấy cái chết mà thôi.
                  Trần Quang Diệu hỏi:
                  - Dụ địch vào thành rồi bốn mặt đổ ra vây đánh mới là kế “không thành”. Còn bây giờ ta đã rút quân vào Tam Điệp bỏ Bắc Hà cho giặc chiếm đóng sao Chúa công bảo là kế “không thành”?
                  Các tướng đồng thanh:
                  - Lời Trần Quang Diệu rất phải. Xin Chúa công giảng giải.
                  Nguyễn Huệ ôn tồn đáp:
                  - Binh pháp xưa nay dụng kế “không thành” như Trần Quang Diệu nói là ta đánh địch khi địch còn trên mình ngựa mặc giáp mang gươm, dù ta có thắng địch nhưng tổn thất không phải là nhỏ. Kế “không thành” của ta là chờ cho giặc cởi giáp bỏ gươm, xuống ngựa nghỉ ngơi rồi mới đánh. Đánh như thế nào tiêu diệt được quân địch còn bên ta vẫn bình yên vô sự, ấy mới là phương châm đánh giặc của ta.
                  Đặng Văn Long hỏi:
                  - Ngô Văn Sở đã lui quân về Tam Điệp, còn đại sư huynh đang ở tại Phú Xuân, vậy quân nào phục binh bốn phía đánh địch như kế “không thành”?
                  Nguyễn Huệ đáp:
                  - Ấy chính là yếu tố bất ngờ để cho giặc xuống ngựa nghỉ ngơi, quăng gươm cởi giáp. Kế sách đánh giặc ta đã tính toán hết cả rồi, đợi đem đại binh ra Tam Điệp hợp cùng Ngô Văn Sở ta sẽ phân nhiệm sau. Truyền lệnh ta các tướng về kiểm điểm binh mã, ngày mai lập tức xuất quân.
                  Mưu sĩ Trần Văn Kỷ quỳ tâu:
                  - Xin Chúa công chớ vội xuất quân.
                  Nguyễn Huệ ngạc nhiên hỏi:
                  - Quân Thanh xâm lược nước ta tàn hại đồng bào mỗi một ngày có biết bao người chết. Ta muốn ngay lập tức tiêu diệt lũ giặc bạo tàn kia. Sao Trần trung thư lại bảo ta chớ vội xuất binh?
                  Trần Văn Kỷ đáp:
                  - Nước Nam ta ngoài thì Lê Chiêu Thống rước giặc Thanh về giày xéo non sông đã rõ là một ông vua bán nước, trong thì vua Thái Đức nhu nhược cầu an khiến lòng người ly tán, nên nhân dân bốn cõi đều trông mong vào tài định quốc an dân của Chúa công. Vậy xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế cho an lòng trăm họ rồi cất quân đuổi giặc ngoại xâm cũng chẳng muộn gì.
                  Các quan văn võ cùng quỳ xuống đồng thanh nói:
                  - Lời Trần tiên sinh rất phải, xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế cho an lòng trăm họ mới mong đánh thắng được giặc dữ.
                  Nguyễn Huệ xua tay nói :
                  - Việc này thật không nên.
                  Các quan cùng hỏi:
                  - Vì sao không nên?
                  Huệ đáp:
                  - Ta vốn không có chí làm vua, chẳng qua do thời loạn nên mới giúp Hoàng huynh đánh Nam dẹp Bắc mong đem thái bình về cho trăm họ rồi sẽ mặc áo tơi mang giày cỏ mà ngao du khắp bốn cõi non sông. Nay nhà Tây Sơn đã có Hoàng huynh là vua Thái Đức, ta lại lên làm vua nữa hóa ra ta là kẻ háo danh và nước ta lại có hai vua là việc xưa nay chưa từng có. Vì vậy ta không thể nào lên ngôi được!
                  Trần Văn Kỷ thưa:
                  - Vua Thái Đức đã chia lãnh thổ cho Chúa công được quyền cai quản, việc binh bị, việc chính trị đều khác hẳn nhau thì không thể gọi là một nước. Vả lại Chúa công lên làm vua rồi đem quân ra đuổi quân Thanh lấy đất Bắc Hà là lấy ngôi vua Lê không can dự đến vua Thái Đức. Xin Chúa công chớ ngại.
                  Nguyễn Huệ lo lắng hỏi:
                  - Ta mấy phen cất quân ra Bắc diệt Trịnh trừ Chỉnh đều lấy tiếng phò Lê. Nay lại dứt Lê e mang tiếng là lừa dân chăng? .
                  Trần Văn Kỷ chưa kịp đáp bỗng nghe giọng đàn bà nói lớn rằng: .
                  - Chúa công lên ngôi vua không có gì là lừa dân cả!
                  Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra chính là Ngọc Hân công chúa, Nguyễn Huệ liền hỏi:
                  - Nàng đang ở hậu cung sao đến đây?
                  Ngọc Hân quỳ vừa khóc vừa thưa:
                  - Thiếp vừa hay tin cháu thiếp là vua Lê Chiêu Thống rước giặc Thanh về tàn hại non sông nên mới đến đây hỏi Chúa công việc đánh giặc thế nào. Tình cờ nghe Chúa công phụ lòng trăm họ chẳng chịu lên ngôi nên có lời mạo phạm, xin Chúa công tha tội.
                  Nguyễn Huệ hỏi:
                  - Nàng cũng cho rằng ta lên ngôi là phải lẽ hay sao?
                  Ngọc Hân đáp:
                  - Chúa công ra Bắc một dạ tôn phò, trừ loạn thần trả nước cho nhà Lê. Bởi Lê Chiêu Thống bất tài nhu nhược, chẳng biết lo điều chính sự nên trong triều rối ren, ngoài bá tánh loạn lạc. Nay lại rước giặc ngoài về tàn hại dân ta, khiến trăm họ đều ngoảnh mặt trông về Chúa công. Nhà Lê nay không đáng làm vua nữa thì Chúa công lên ngôi cho thỏa lòng mong đợi của trăm họ sao gọi là lừa dân!
                  Các quan đồng thanh nói thêm vào:
                  - Lời phu nhân rất phải, xin Chúa công hãy lên ngôi Hoàng đế.
                  Nguyễn Huệ hỏi Ngọc Hân:
                  - Nàng khuyên ta lên ngôi là phải lẽ, vậy cớ sao nàng lại khóc?
                  Ngọc Hân lau nước mắt đáp:
                  - Thiếp khóc là vì xấu hổ bởi có đứa cháu là phường bán nước buôn dân, và vì thương tiếc cơ nghiệp của tổ tiên. Còn khuyên Chúa công lên ngôi là vì quốc gia dân tộc. Chỉ e rằng Chúa công lên ngôi là mắc tội với vua anh mà thôi!
                  Nguyễn Huệ đứng lên nói:
                  - Nàng còn dám vì nghĩa nước mà gạt bỏ tình nhà. Ta lại không sánh bằng một người nữ nhi hay sao!
                  Bá quan cùng quỳ xuống tung hô:
                  - Hoàng thượng vạn tuế! Hoàng thượng vạn tuế!
                  Ngày 25 tháng 11 năm Mậu thân (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy đế hiệu là Quang Trung.
                  Vua Quang Trung phong Bùi phu nhân làm Chánh cung Hoàng hậu, phong công chúa Ngọc Hân làm Bắc cung Hoàng hậu, phong con của Chánh cung Hoàng hậu là Quang Toản làm Thái tử.
                  *
                  * *
                  Đêm ấy vua Quang Trung vào từ biệt Bắc cung Hoàng hậu để ngày mai ra trận. Hoàng hậu Ngọc Hân nói:
                  - Hoàng thượng ra Bắc lần này, nghe thế giặc mạnh thiếp lấy làm lo lắm.
                  Vua Quang Trung cười lớn bảo:
                  - Chẳng qua chỉ nội mười ngày là ta sẽ quét sạch ba mươi vạn quân Mãn Thanh mà thôi. Nàng chớ lo gì.
                  Hoàng hậu Ngọc Hân gọi tỳ nữ bưng một cái mâm đồng dâng lên tràng kỷ. Hoàng hậu thưa:
                  - Ngày mai tiễn Hoàng thượng lên đường giết giặc, trong dịp tết Nguyên đán này phu thê kẻ Nam người Bắc, thiếp tự tay gói bánh chưng dâng lên Hoàng thượng gọi là để vợ chồng ăn tết trước.
                  Vua Quang Trung nhìn đăm đăm vào chiếc bánh chưng đặt trong mâm đồng rồi suy tư hỏi:
                  - Bánh chưng này thay cơm dùng được năm ngày trong dịp tết, có phải chăng?
                  Lê Hoàng hậu đáp:
                  - Thưa phải!
                  Vua Quang Trung cầm cái bánh chưng hình vuông mân mê trong tay rồi bóp tròn lại vừa vặn tay cầm. Lê Hoàng hậu ngạc nhiên hỏi:
                  - Bánh này thiếp tự tay nấu cho Hoàng thượng dùng. Sao Hoàng thượng lại bóp nát đi?
                  Vua Quang Trung bảo:
                  - Ta vừa nói trong mười ngày là quét sạch quân Mãn Thanh ra ngoài bờ cõi vì còn phải dừng quân để nấu cơm ăn. Nay ta nấu sẵn bánh chưng này thành hình trụ cho vừa tay cầm để quân sĩ vừa hành quân vừa ăn uống không phải nghỉ để nấu cơm thì ta phá giặc chỉ nội năm ngày và ít phải hy sinh anh em nghĩa sĩ.
                  Lê Hoàng hậu khóc nói:
                  - Lúc đang ăn còn nghĩ đến việc quân. Tấm lòng vì dân vì nước của Hoàng thượng thật đáng động đến trời. Cầu trời cao phù hộ cho Hoàng thượng mau phá xong giặc dữ.
                  Vua Quang Trung tạm biệt Hoàng hậu Ngọc Hân. Người nói:
                  - Ấy chính là nhờ lòng chung thủy của nàng đã giúp ta nghĩ ra được mưu sâu phá giặc.
                  Hôm sau vua Quang Trung để Thượng Đạo tướng quân Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và Vũ Văn Dũng trấn thủ Phú Xuân, rồi đem Võ Đình Tú, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc kéo tám vạn quân theo vai đường thủy bộ nhằm hướng Bắc trực chỉ.
                  *
                  * *
                  Quân đi đến thành Nghệ An, vua Quang Trung cho dừng quân nghỉ ngơi. Vua bảo Trần Văn Kỷ:
                  - Ta từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa đến nay, lúc nào cũng một lòng chiêu hiền đãi sĩ, đã ba lần cầu La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp ra giúp nước. Nhưng cả ba lần Nguyễn Thiếp đều đưa thư thoái thác. Nay ta muốn nhờ khanh mang thư ta đến vời phu tử một lần nữa xem sao.
                  Trần Văn Kỷ bàn:
                  - Nguyễn Thiếp đã mười lăm năm ẩn dật, nghiên cứu Phật học, mắt không nhìn công danh, bỏ tai ngoài thế sự. Chí người đã muốn tu tiên, Hoàng thượng còn mời mọc làm chi.
                  Vua Quang Trung bảo:
                  - Nguyễn Thiếp trau dồi đức hạnh đang tu tiên chớ chưa phải là người tiên, bỏ tai ngoài thế sự mà trong lòng mong tế độ chúng sinh. Nếu không như thế sao Nguyễn Thiếp lại thi ân bố đức, nên bá tánh quanh vùng mới gọi là La Sơn Phu tử. Nay ta viết thư gồm mười bốn chữ, tin chắc đọc xong mười bốn chữ này phu tử phải ra. Khanh hãy cảm phiền giúp trẫm một phen nữa!
                  Trần Văn Kỷ quỳ tâu:
                  - Hoàng thượng đã xuống lệnh hạ thần nào dám không tuân. Cảm tấm lòng khẩn khoản cầu hiền của Hoàng thượng, Trần Văn Kỷ thần xin hứa hết lòng.
                  Nói xong Kỷ lãnh thư của vua Quang Trung đi đến Lục Niên Thành mời La Sơn Phu tử.
                  Đến Lục Niên Thành, Trần Văn Kỷ thấy non xanh nước biếc, đầy hoa thơm cỏ lạ. Trong cảnh bồng lai ấy hiện ra một ngôi nhà nhỏ, trước cổng đề ba chữ: “Hạnh am cốc”. Gặp một tiểu đồng Trần Văn Kỷ hỏi:
                  - Xin hỏi đây có phải là cư xá của La Sơn Phu tử.
                  Tiểu đồng hỏi lại Kỷ:
                  - Quý khách hỏi có việc gì.
                  Văn Kỷ đáp:
                  - Tôi xin được diện kiến Phu tử.
                  Tiểu đồng bảo:
                  - Xin quý khách cảm phiền chờ ngoài cổng. Thầy tôi đang tham thiền nhập định. Để tôi vào bẩm báo, bao giờ được phép sẽ mở cửa cho quý khách vào.
                  Tiểu đồng vừa dứt lời cửa nhà trong liền bật mở, một cụ già cốt cách tiên phong, bạc phơ râu tóc bước đến thi lễ cùng Trần Văn Kỷ, rồi vừa quỳ vừa nói:
                  - Hạ dân Nguyễn Thiếp xin tiếp chiếu chỉ của Hoàng thượng.
                  Trần Văn Kỷ liền đỡ Nguyễn Thiếp dậy hỏi:
                  - Tôi vận y phục dân thường sao Phu tử lại biết là sứ giả của vua?
                  Nguyễn Thiếp chắp tay đáp:
                  - Tôi mười lăm năm ở ẩn tuy không xuất gia nhưng thành tâm đầu Phật, học phép tham thiền biết quá khứ vị lai, nên mới rõ Hoàng thượng sai Trần Trung thư đến đây trao thư gọi hạ dân ra diện kiến.
                  Nghe Thiếp nói xong, Trần Văn Kỷ liền trao thư và nói:
                  - Nay quân Mãn Thanh xua binh ba mươi vạn sang xâm lược nước ta. Vua mới sai tôi trao thư kính cẩn mời Phu tử ra bày kế phá giặc cứu dân.
                  Nguyễn Thiếp tiếp thư rồi đặt lên tràng kỷ, bảo Trần Văn Kỷ:
                  - Xin quan Trung Thư Lệnh hãy ngồi nghỉ, tôi vào trong thu xếp rồi sẽ cùng ngài đến diện kiến Hoàng thượng.
                  Trần Văn Kỷ ngạc nhiên hỏi:
                  - Sao Phu tử không xem thư của Hoàng thượng.
                  Thiếp cười đáp:
                  - Tôi không đọc cũng biết thư vua viết chỉ vỏn vẹn mười bốn chữ:
                  Quốc gia đã đến lúc hưng vong,
                  Xin Phu tử bày cho diệu kế.
                  Trần Văn Kỷ thất kinh nói:
                  - Vua bảo tôi: Đọc mười bốn chữ này Phu tử phải ra. Hoàng thượng liệu việc như thần. Còn Phu tử quả là bậc thánh vậy.
                  Nguyễn Thiếp quay vào trong, tiểu đồng hỏi Thiếp:
                  - Bắc Bình Vương trước đã ba lần đưa thư mời, thầy đều không đến. Nay cớ gì ông ấy mới lên làm vua đưa thư mời, thầy vội vã đi ngay.
                  Nguyễn Thiếp đáp:
                  - Ta ba lần chối từ không ra giúp Tây Sơn vì đã không màng thế sự, xem nhẹ công đanh. Nhưng nay nhân dân cả nước đang sục sôi khí thế chống giặc ngoại xâm. Ta đã từng dạy cho thiên hạ là: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Vậy vua vời ta ra hỏi kế phá giặc, ta không đến hóa ra lại không bằng kẻ thất phu sao?
                  Tiểu đồng khóc hỏi:
                  - Phen này thầy theo giúp vua bao giờ mới về?
                  Nguyễn Thiếp cười đáp:
                  - Ta đến để khỏi mang tiếng với thiên hạ là kẻ thất phu rồi sẽ về ngay, con chớ lo.
                  Đoạn Thiếp ra xe theo Trần Văn Kỷ đến yết kiến vua Quang Trung. Vua Quang Trung trông thấy Nguyễn Thiếp liền quỳ trước xe thi lễ nói:
                  - Trẫm hằng trông Phu tử như trời hạn trông mưa. Nay Phu tử chịu ra thật là hồng phúc của muôn dân vậy.
                  Nguyễn Thiếp thất kinh vội vã xuống xe quỳ lạy vua Quang Trung và nói:
                  - Thần tuổi đã cao nên đã ba lần chối từ không ra giúp Hoàng thượng, để Hoàng thượng phải nhọc lòng tội thật đáng muôn chết.
                  Vua Quang Trung đỡ Nguyễn Thiếp dậy mời vào trong, vua chỉ vào áo Nguyễn Thiếp đang mặc rồi nói:
                  - Phu tử tuổi già sức yếu, nay tháng chạp là mùa Đông gió Bấc, Phu tử mặc cái áo cũ đã ngả màu này chắc là lạnh lắm.
                  Đoạn vua quay sang bảo quân:
                  - Mau mang áo mới đến đây cho Phu tử mặc.
                  Quân đem áo đến, vua Quang Trung tự tay mặc cho Nguyễn Thiếp. Mặc xong vua Quang Trung hỏi:
                  - Nay quân Tàu lại sang xâm lược nước ta, trẫm thân đem đại binh ra đánh. Xin Phu tử bày cho diệu kế phá giặc cứu dân.
                  Nguyễn Thiếp đáp:
                  - Kế phá giặc Hoàng thượng đã sắp đặt cả rồi, chẳng qua chỉ nội năm ngày là Hoàng thượng sẽ quét sạch ngoại xâm ra ngoài bờ cõi mà thôi!
                  Vua Quang Trung giật mình hỏi:
                  - Phu tử có biết quân số của giặc là bao nhiêu? Quân số của ta là bao nhiêu chăng?
                  Thiếp đáp:
                  - Thần không được biết.
                  Vua Quang Trung hỏi tiếp:
                  - Phu tử có biết Tôn Sĩ Nghị là người như thế nào chăng? Quân Thanh đóng binh ở nơi nào chăng?
                  Thiếp đáp:
                  - Hoàng thượng có quân thám mã nên biết được địch tình, còn thần ở ẩn chòi tranh nên không được rõ.
                  Vua Quang Trung lại hỏi:
                  - Phu tử không biết gì về thực lực hai bên, sao dám quyết rằng quân ta chỉ trong năm ngày là quét sạch quân Mãn Thanh?
                  Nguyễn Thiếp ôn tồn đáp:
                  - Thần chỉ dùng phép tham thiền của nhà Phật mà biết được quá khứ vị lai. Không cần tìm hiểu quân tình.
                  Vua Quang Trung ngạc nhiên nói:
                  - Nếu không tận mắt trông thấp sao trẫm dám tin Phu tử là thánh nhân như lời đồn được. Vậy xin Phu tử lưu lại trong trướng cùng trẫm bàn kế phá giặc.
                  Nguyễn Thiếp vòng tay nói:
                  - Thần chỉ biết mà không làm được. Còn Hoàng thượng là người làm mà biết trước ngày đại thắng ấy mới là bậc thánh. Kế phá giặc Hoàng thượng đã sắp đặt cả rồi, thần không còn gì để bàn nữa cả. Xin Hoàng thượng cho thần lui về tệ xá, ngày sau thay đổi quốc tự thần nhất định sẽ ra.
                  Vua Quang Trung thất kinh bảo:
                  - Phu tử thật là thánh nhân vậy!
                  Đoạn vua đứng lên tiễn Nguyễn Thiếp ra xe. Thiếp tâu :
                  - Thần xin trả áo lại cho Hoàng thượng.
                  Nói xong Thiếp toan cởi áo. Vua ngăn lại nói:
                  - Sá gì một cái áo mà Phu tử khách sáo thế.
                  Thiếp đáp:
                  - Không phải thần khách sáo mà do thần nay tuổi già sức yếu, lưng còng mỗi khi đi đều phải chống gậy. Do lưng của thần còng xuống nên vạt áo trước thấp xuống, vướng vào chân không đi được.
                  Vua Quang Trung liền nói:
                  - Phu tử cứ cầm gậy mà đi, trẫm xin đỡ vạt áo tiễn Phu tử ra xe.
                  Nói rồi vua Quang Trung nâng vạt áo trước đưa Nguyễn Thiếp ra tận xe. Tiễn Thiếp đi xong, vua Quang Trung lại dẫn quân Bắc tiến.
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #54
                    Chương 51

                    Trần Danh Bính đốt tay đi sứ.
                    Võ Đình Tú mượn ngựa diệt thù.


                    Ngày kia ở ải Tam Điệp, Ngô Văn Sở nghe quân vào báo có vua Quang Trung đem đại binh đến gần ải. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Ngô Thì Nhậm cùng chắp hai tay ra sau lưng, Sở bảo quân:
                    - Ngươi mau dùng dây trói bọn ta lại rồi giắt kiếm vào lưng để bọn ta ra chịu tội cùng vua.
                    Quân nghe lệnh lập tức thi hành. Ra ngoài cửa ải gặp vua Quang Trung đến, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Ngô Thì Nhậm cùng quỳ xuống đồng thanh thưa:
                    - Thua binh chém tướng, xin Hoàng thượng trị tội!
                    Vua Quang Trung ngồi trên bành voi bảo quân:
                    - Mau cởi trói cho ba quan tướng cùng vào đại bản doanh, tội công sẽ luận.
                    Vào đại bản doanh, vua Quang Trung ngồi nơi hổ tướng, mưu thần, võ tướng đều đứng hầu hai bên, Sở, Lân và Nhậm vẫn quỳ mọp chịu tội. Vua Quang Trung bảo:
                    - Nay quân Mãn Thanh mượn tiếng phò Lê sang xâm lược nước ta. Quân địch đông mạnh, khí thế đang hăng, Văn Sở, Văn Lân ở Bắc Hà quân ít đánh tất phải thua. Các khanh biết bảo toàn lực lượng lui về giữ nơi hiểm yếu, trong thì khích lòng tướng sĩ, ngoài khiến giặc kiêu căng. Ấy là công sao bảo là tội. Mới nghe qua ta đã biết là kế của Ngô Thì Nhậm, kịp hỏi Văn Tuyết thật quả không sai. Ngô Thì Nhậm là một quan văn nhưng bày thượng sách đánh giặc không ai có thể cao hơn được nữa.
                    Nói xong vua tự tay rót ngự tửu ban cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm lạy tạ đón nhận, khóc nói:
                    - Ơn tái tạo của Hoàng thượng, Nhậm tôi dù phơi gan trải mật cũng không đền đáp được.
                    Đoạn Ngô Thì Nhậm quay sang Sở và Lân nói:
                    - Bọn ta đã thề rút về Tam Điệp có công cùng hưởng có tội cùng chia. Nay vua ban ngự tửu xin mời nhị vị tướng quân dùng trước.
                    Sở và Lân chưa kịp phản ứng, vua Quang Trung cười bảo:
                    - Nếu vậy Ngô Thì Nhậm hãy giữ chung rượu ấy chờ ta ban thưởng cho Văn Sở, Văn Lân xong, ba người cùng uống càng vui vẻ chớ sao.
                    Đoạn vua bảo Ngô Văn Sở:
                    - Khanh biết nghe lời nói phải, lui quân về Tam Điệp, lập kế xóa bếp lò vãi gạo ra đường khiến Tôn Sĩ Nghị kiêu căng khinh địch, rồi đây quân ta sẽ dễ dàng thủ thắng. Chung rượu này ban thưởng cho khanh.
                    Ngô Văn Sở đứng lên cầm lấy chung rượu. Vua Quang Trung rót chung thứ ba, Phan Văn Lân vẫn quỳ thưa:
                    - Hoàng thượng không bắt tội là may mắn lắm rồi, hạ thần sao dám nhận ngự tửu vua ban.
                    Vua Quang Trung hỏi:
                    - Sao Văn Lân lại nói thế ?
                    Lân đáp:
                    - Hạ thần phụng mệnh đem ngàn quân chặn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Thua binh ngàn quân đều chết cả. Tội không kể thì thôi, công gì mà thưởng.
                    Vua Quang Trung ôn tồn nói:
                    - Thắng bại là lẽ thường của binh gia, huống hồ Văn Lân chỉ có ngàn quân mà ngăn được hai mươi vạn quân địch, dù còn lại một mình vẫn trên cầu chặn giặc cho các đạo quân ta lui về Tam Điệp được an toàn. Lòng trung nghĩa can trường của Văn Lân không đáng để khen thưởng hay sao?
                    Phan Văn Lân khóc nói:
                    - Quân ta kể từ khi Tây Sơn dấy nghĩa đến nay lấy ít địch nhiều, bách chiến bách thắng. Nay thua binh để ngàn anh em nghĩa sĩ phải hy sinh, Văn Lân tôi đau đớn hổ thẹn trong lòng, thật tình không dám nhận thưởng.
                    Vua Quang Trung bước xuống đỡ Văn Lân dậy rồi an ủi:
                    - Quân Tây Sơn ta từ trước đến nay một chỉ địch được hai, ba. Nay Văn Lân đánh với giặc đông hơn hai trăm lần dù thua binh có gì mà phải hổ thẹn. Nay ta đem mười vạn đại binh đến đây nhất định tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh, bắt sống Tôn Sĩ Nghị báo thù cho ngàn anh em nghĩa sĩ của ta. Nhưng chiến công sau này là do các khanh ở Bắc Hà khéo sắp đặt trước, trong đó lại chẳng có công của Văn Lân ư? Hãy mau cầm chung rượu thưởng, chớ phụ lòng ta.
                    Phan Văn Lân thấy chối từ không tiện bèn đón lấy chung ngự tửu rồi cùng Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm nâng lên uống cạn. Mọi người an tọạ xong vua Quang Trung giở bản đồ ra nói:
                    - Tôn Sĩ Nghị chia quân đóng đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi ở mặt Nam thành Thăng Long, và đồn Khương Thượng ở mặt Tây thành Thăng Long. Đồng thời lại cho bọn cựu thần nhà Lê mộ quân đi trước gần ải Tam Điệp, Nghị cho quân do thám gần doanh trại của ta. Vậy chứng tỏ Nghị chưa phải đã tuyệt đối khinh địch. Nay ta muốn dùng khổ nhục kế khiến quân Thanh xếp giáp cất gươm ăn nghỉ no say mà không phòng bị. Khi ấy ta tiến đánh ắt dễ dàng tiêu diệt giặc và quân ta ít phải tổn thất. Ngặt vì không ai có thể lãnh mạng thi hành kế độc.
                    Các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết cùng đứng lên đồng thanh nói:
                    - Hạ thần xin vâng lệnh thi hành khổ nhục kế!
                    Vua Quang Trung xua tay bảo:
                    - Không được. Các khanh đều là đại tướng, nay mai đánh quân Thanh các khanh đều đã được phân sắp đâu đó cả rồi. Không thể làm việc này được!
                    Vua Quang Trung vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng nói lớn:
                    - Khổ nhục kế thế nào, hạ thần xin lãnh mạng sang đầu Tôn Sĩ Nghị.
                    Mọi người giật mình nhìn lại thấy một viên thư lại mặt trắng môi son dáng dấp thanh tao. Vua Quang Trung hỏi:
                    - Người này là ai?
                    Trần Văn Kỷ bước ra nói:
                    - Người này là cháu thần tên Trần Danh Bính, tuổi còn trẻ nhưng trung nghĩa thanh liêm. Thần biết vậy mới cho theo phụ việc văn thư.
                    Vua Quang Trung hỏi Trần Văn Kỷ:
                    - Việc này vô cùng quan trọng cho kế hoạch đánh quân Thanh của ta, nên không thể đường đột chọn người. Theo Trần trung thư thì Trần Danh Bính có đáng tin cậy mà giao trọng trách chăng?
                    Trần Văn Kỷ đáp:
                    - Trần Danh Bính lòng trung kiên như Bắc Đẩu không dời, tính can trường tựa thái sơn không nhụt. Thần xin đem tánh mạng ra bảo đảm cho Trần Danh Bính.
                    Trần Danh Bính cởi áo giơ lưng ra nói:
                    - Xin hoàng thượng hãy sai người đánh thần để làm khổ nhục kế.
                    Vua Quang Trung bảo:
                    - Khổ nhục kế này không phải như kế xưa nay thiên hạ vẫn dùng. Kế khổ nhục này không phải ta đánh người của ta rồi sai người ấy mang thương tích trá hàng làm nội ứng, mà ngươi sẽ làm sứ giả mang thư trá hàng của ta đến dâng Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo ngươi để hỏi động tĩnh của ta ở Phú Xuân, ngươi cứ một mực khai rằng ta đang run rẩy ở Phú Xuân, sai ngươi đến xin hàng. Lần này chắc chắn Tôn Sĩ Nghị khinh địch mà xếp giáo cất gươm, ăn ngủ no say. Binh ta đến đánh chúng tất trở tay không kịp. Trọng trách nặng nề như thế ngươi có đảm đương nổi hay chăng? Nếu ngươi bị đau khai thật thì Tôn Sĩ Nghị biết ta đã đến Tam Điệp tất càng đề phòng hơn nữa, hóa ra là ta tự làm hỏng kế của ta. Việc quan trọng như thế nên ta phải dè đặt chọn người.
                    Trần Danh Bính đáp:
                    - Kẻ hạ thần có một cách khiến cho Hoàng thượng tin vào lòng can đảm của thần.
                    Nói xong Trần Danh Bính đốt một cây đèn bạch lạp rồi giơ ngón tay út của mình lên ngọn lửa của cây đèn bạch lạp ấy. Ngón tay bị đốt của Bính phồng dần lên đổi màu vàng và bay mùi khét. Trần Danh Bính mắt mở trừng trừng mồ hôi vã ra như tấm vẫn không hề kêu lên một tiếng. Đốt một hồi Bính lấy tay ra khỏi ngọn lửa thì ngón tay út đã cháy đen như một que củi. Người chứng kiến đều lè lưỡi lắc đầu. Có kẻ khen rằng:
                    - Gạn dạ như Trần Danh Bính dù Quan Vân Trường đời Hán cũng không sánh kịp.
                    Trần Danh Bính lấy vạt áo lau mồ hôi nói:
                    - Dù lóc thịt chặt xương cũng không thể đau đớn hơn thế được. Xin Hoàng thượng mau thi hành diệu kế!
                    Vua Quang Trung mừng rỡ bảo:
                    - Khanh thật là người trời sai xuống để giúp quân ta đó. Vậy khanh hãy mang thư ta đến gặp Tôn Sĩ Nghị. Nghị sẽ tra khảo khanh, khanh hãy gắng chịu đau mà nói thế này… thế này… tất Tôn Si Nghị sẽ xếp giáo cất gươm ăn no ngủ say cho quân ta đến đánh. Ấy là khổ nhục kế của ta vậy.
                    Trần Danh Bính tuân lệnh bèn tạm biệt lên đường.
                    Đến Thăng Long gặp Tôn Sĩ Nghị, Nghị hỏi Bính:
                    - Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì?
                    Bính đáp:
                    - Chúa công của kẻ hạ thần khiếp đảm oai trời trong lòng sợ hãi nên sai hạ thần dâng thư xin hàng. Mong Đại tướng quân dung nạp.
                    Đón thư đọc xong, Nghị cười lớn hỏi:
                    - Nguyễn Huệ xin ta đến hết Tết Nguyên Đán là ngày mùng sáu sẽ tự thân trói mình ra Thăng Long chịu tội. Vậy ta hỏi ngươi Nguyễn Huệ đang ở đâu. Nghe quân ta đến đây hắn phản ứng thế nào.
                    Bính vờ sợ hãi đáp:
                    - Chúa công của hạ thần ở Phú Xuân ngày quên ăn, đêm bỏ ngủ. Nghe Đại tướng quân đến đây người vội sai thần đem thư xin hàng. Đại tướng quân vừa đọc thư xong sao còn hỏi?
                    Nghị vỗ án quát:
                    - Láo xược! Ta nghe người nước Nam đồn rằng Nguyễn Huệ anh hùng lão luyện vào Nam ra Bắc xuất quỷ nhập thần. Sao nay lại dễ dàng quy hàng như thế? Ngươi mau khai thật, nếu không sẽ sai quân dùng cực hình tra khảo.
                    Trần Danh Bính run rẩy đáp:
                    - Anh hùng ở An Nam cũng không sánh bằng thất phu ở đất Bắc. Huống hồ Đại tướng quân là nhân tài kiệt hiệt, Chúa công của hạ thần dám đâu chống lại oai trời.
                    Tôn Sĩ Nghị bảo:
                    - Lời ngươi nói ta vẫn chưa tin. Võ sĩ mau chặt ngón tay của nó cho ta.
                    Quân võ sĩ nọc Bính ra chặt đứt một ngón tay. Bính đau đớn rên la cầu xin tha tội. Nghị quát hỏi:
                    - Nguyễn Huệ ở Phú Xuân động tĩnh thế nào. Mau khai ra?
                    Bính dập đầu thưa:
                    - Sự thật hạ thần đã nói rồi. Xin tướng quân tha cho!
                    Nghị vỗ án quát:
                    - Chặt tay nữa cho ta.
                    Võ sĩ chặt đứt chín ngón tay của Bính, Bính vẫn một mực khai như thế. Tôn Sĩ Nghị bảo quân:
                    - Mau lôi ra ngoài chém!
                    Bính hỏi:
                    - Hai nước đánh nhau không nên chém sứ, huống hồ Chúa của hạ thần đã xin hàng sao lại chém thần.
                    Nghị không đáp phất tay bảo quân:
                    - Mau đem ra chém!
                    Võ sĩ lôi Bính đi, Bính ngoảnh lại mắng:
                    - Tôn Sĩ Nghị! Mày là phường man di mọi rợ. Không ngờ Chúa ta lại chịu hàng một thằng mọi rợ như mày.
                    Quân đem đầu Trần Danh Bính vào dâng trước án. Nghị hỏi:
                    - Trước khi bị chém Bính có nói gì chăng.
                    Quân đáp :
                    - Hắn có nói rằng: Ta bị chết thảm cũng do ta phò Chúa nhu nhược ươn hèn.
                    Nghị vỗ tay cười lớn bảo:
                    - Nguyễn Huệ quả nhiên sợ ta như cọp không dám động binh. Truyền lệnh ta cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán, đợi đến mùng sáu tháng giêng năm Kỷ Dậu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Nguyễn Huệ.
                    Nói về vua Quang Trung trong đại bản doanh ở ải Tam Điệp nghe quân do thám về báo:
                    - Tôn Sĩ Nghị chém đầu quan Chánh Sứ Trần Danh Bính. Nghị lại cho quân ăn chơi thỏa thích trong dịp Tết Nguyên Đán. Nghe quân Thanh đồn rằng mùng sáu sẽ cất quân vào Phú Xuân bắt Bệ hạ.
                    Vua Quang Trung vỗ tay bảo:
                    - Tôn Sĩ Nghị quả nhiên trúng kế. Nhưng ta không ngờ nước Tàu tự xưng là văn hóa xem bốn bên là Bắc rợ, Nam man, Tây di lại đi chém sứ của ta. Thương thay Trần Danh Bính! Phen này phải bắt Tôn Sĩ Nghị báo thù Trần Danh Bính!
                    Đặng Văn Long hỏi:
                    - Vậy Bệ hạ còn chờ gì mà chưa xuống lệnh xuất quân?
                    Vua Quang Trung đáp:
                    - Chưa được!
                    - Vì sao chưa được?
                    - Hiện có năm mươi tên quân Thanh do thám ở cách ải Tam Điệp hai mươi dặm, nếu ta tiến binh bọn do thám này chạy về báo tin cho Trương Triều Long ở Hạ Hồi thì quân cơ bại lộ, và Trần Danh Bính phải chết vô ích. Vậy phải tiêu diệt bọn quân do thám này thì trong ngoài kín mít như bưng. Ta đến nơi mà Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết.
                    Phan Văn Lân bước ra thưa:
                    - Thần xin đem hai trăm quân đi giết hết bọn do thám này.
                    Vua Quang Trung xua tay nói:
                    - Không được. Quân Thanh cưỡi giống ngựa phương Bắc cao lớn chạy nhanh, ngựa của ta không thể nào đuổi kịp. Nếu Văn Lân tiến đánh thế, nhất định cũng có tên thoát được.
                    Võ Đình Tú bước ra tâu:
                    - Xin Bệ hạ cho thần mượn một vật. Thần sẽ đơn thân độc mã ra bắt năm mươi tên quân do thám ấy.
                    Vua Quang Trung hỏi:
                    - Đình Tú muốn mượn vật gì?
                    Tú đáp:
                    - Thần xin mượn ngựa Xích kỳ của Nguyễn Văn Tuyết!
                    Vua Quang Trung lại hỏi :
                    - Nếu khanh để quân do thám này có một tên thoát được làm lộ quân cơ của ta thì thế nào?
                    Tú đáp:
                    - Thần xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
                    Vua Quang Trung cả mừng nói:
                    - Phiền Văn Tuyết hãy cho Đình Tú mượn ngựa Xích Kỳ.
                    Nói xong rót rượu tiễn Võ Đình Tú. Tú cưỡi ngựa Xích Kỳ nhằm hướng Bắc trực chỉ. Gặp toán quân Thanh do thám, Tú chẳng nói chẳng rằng vung côn đồng xông vào đánh giết. Quân Thanh hò nhau vây Đình Tú vào giữa, Tú tả xung hữu đột côn lia đến đâu địch quân phọt óc vỡ đầu. Đánh một hồi quân Thanh chết hơn phân nửa, còn lại hai mươi tên hò nhau bỏ chạy. Ngựa Xích kỳ phi mau quá, quân Thanh hốt hoảng bỏ chạy tứ tán. Đình Tú nhanh tay lẹ mắt, gần thì vung côn đánh chết, xa thì trương cung xạ tiễn, năm mươi tên quân Thanh do thám đều tử trận dưới tay Tú. Tú liền nhảy xuống ngựa cắt năm mươi cái đuôi tóc của bọn quân Thanh rồi lên ngựa phi về báo với vua Quang Trung rằng:
                    - Tâu Hoàng thượng, thần đã giết xong năm mươi tên quân Thanh do thám.
                    Vua Quang Trung hỏi:
                    - Lấy gì làm chắc rằng khanh đã giết hết năm mươi tên quân Thanh do thám đó.
                    Đình Tú liền gọi quân mang vào bó tóc đuôi sam rồi nói:
                    - Đủ năm mươi cái không thiếu cái nào. Xin Hoàng thượng xem xét.
                    Vua Quang Trung mừng rỡ khen:
                    - Vũ dũng như Đình Tú thật là hiếm có. Khanh đã lập được công đầu trong cuộc đại phá quân Thanh rồi vậy. Các tướng hãy sẵn sàng nghe lệnh.
                    Mọi người đồng thanh nói:
                    - Chúng thần đang chờ lệnh giết giặc cứu dân.
                    Vua Quang Trung bảo:
                    - Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đem trăm đại thuyền và một vạn quân theo đường bể ra Bắc vào sông Lục Đầu. Đến nơi hai tướng chia quân làm hai cánh, Nguyễn Văn Tuyết dùng thủy binh đánh chiếm đất Hải Dương ở phía Đông thành Thăng Long, phô trương thanh thế làm kế nghi binh, khiến Tôn Sĩ Nghị sợ không dám theo đường biển chạy về nước. Nguyễn Văn Lộc đem quân bộ đi gấp lên Kinh Bắc đến làng Phương Nhãn chiếm núi Yên Thế rồi án binh bất động chờ Tôn Sĩ Nghị chạy về thì đổ ra đánh bắt cho được Tôn Sĩ Nghị.
                    Lộc và Tuyết bước ra lãnh lệnh. Vua Quang Trung dặn :
                    - Văn Lộc đến phục ở núi Yên Thế vào đêm mùng bốn tết. Nếu chậm hơn, chém!
                    Lộc sợ hãi quỳ tâu:
                    - Hoàng thượng muốn giết, thần xin được chết ở đây chứ hạ thần không dám lãnh trọng trách này.
                    Vua Quang Trung cười hỏi:
                    - Ta lựa người vũ dũng chặn đường về bắt Tôn Sĩ Nghị. Năm xưa Lộc bị Đông Sơn Đỗ Thành Nhân vây ở ấp Hòa Hưng một đánh hai mà lui được giặc, sao nay lại lo sợ thế?
                    Đoạn vua than rằng:
                    - Thế mới biết cái oai của nước Tàu thật là to lớn vậy!
                    Văn Lộc tức tối nói:
                    - Nước Tàu đã từng bị cha ông ta đánh ôm đầu chạy về nước thì có gì thần phải sợ chúng. Nhưng thần e rằng trong bốn ngày không thể đến được Yên Thế mà thôi.
                    Vua Quang Trung hỏi:
                    - Vì sao trong bốn ngày không đến được Yên Thế.
                    Lộc đáp:
                    - Thần và Nguyễn Văn Tuyết là hai tướng thủy binh nên rất rõ việc này. Nay đang là tháng chạp mưa phùn gió bấc, từ đây đến cửa Lục Đầu vào Yên Thế đường xa diệu vợi, ngược hướng gió không thể trong bốn ngày mà đến nơi cho được.
                    Vua Quang Trung hỏi:
                    - Nếu trong ngày mùng bốn có gió Đông nam thổi mạnh thì đến đêm có thể đến được Yên Thế được chăng.
                    Nguyễn Văn Lộc đáp:
                    - Nếu vậy chắc chắn là đến kịp để bày trận mai phục.
                    Vua Quang Trung hạ lệnh:
                    - Tuyết và Lộc hãy lãnh binh phù lập tức xuất quân. Gió Bấc nhẹ thì sai quân dùng chèo mà đi, gió Bấc mạnh thì dong buồm theo hình chữ chi mà tiến. Đầu giờ Ngọ ngày mùng ba tết sẽ có gió Đông nam thổi mạnh đến giờ Ngọ ngày mùng bốn tết. Nếu không đến nơi kịp chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị lệnh chém đầu.
                    Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu hỏi:
                    - Xin hỏi Hoàng thượng mùa này mưa phùn gió Bấc hơi lạnh cắt da thì lấy đâu ra gió Đông nam. Và nếu không có gió Đông nam thì thế nào?
                    Vua Quang Trung cười đáp:
                    - Nếu đến ngày ấy mà không có gió Đông nam hai tướng cứ kéo quân về. Ta lấy lý gì mà bắt tội hai tướng được.
                    Nguyễn Văn Lộc xen vào hỏi:
                    - Nếu đúng vậy thần sẽ chặn đường về của Tôn Sĩ Nghị trong đêm mùng bốn. Vậy Hoàng thượng nghĩ rằng chỉ trong năm ngày ta đuổi quân Thanh ra khỏi Thăng Long sao? Trong lúc quân chúng đông gấp ba lần quân ta.
                    Không trả lời Văn Lộc, vua Quang Trung hỏi:
                    - Nếu trong năm ngày ta đuổi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi Thăng Long chạy về Yên Thế mà Văn Lộc không bắt được Tôn Sĩ Nghị thì thế nào?
                    Lộc đáp:
                    - Nếu Hoàng thượng làm được điều kỳ diệu thế, mà Lộc tôi không bắt được Tôn Sĩ Nghị, xin chịu tội theo quân pháp.
                    Vua Quang Trung trao binh phù cho Văn Lộc xong, quay sang Văn Long vua bảo:
                    - Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đem ba vạn quân theo đường núi ở phía Tây đường đại lộ, đến làng Nhân Mục đánh vào đồn Khương Thượng ở phía Tây nam thành Thăng Long. Chiếm được Khương Thượng rồi Long và Phong phải thừa thắng đánh Thăng Long, đuổi Tôn Sĩ Nghị. Mất Thăng Long, quân của Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi và Trương Triều Long ở Hà Hồi tất không còn đường rút. Phen này ta quyết tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh báo thù cho dân ta mới hả dạ. Đánh trận này là nhờ vào trọng trách của hai ngươi, phải tốc chiến tốc thắng. Nếu đến ngày mùng năm tết Kỷ Dậu không chiếm được thành Thăng Long, chém!
                    Đặng Văn Long nói mát rằng:
                    - Xét theo lẽ quân thần, hạ thần và Hoàng thượng là nghĩa vua tôi. Xét theo tình riêng, thần với đại sư huynh là huynh đệ đồng sư môn thọ giáo thầy Trương Văn Hiến thuở còn để chỏm. Nếu Đại sư huynh bảo chết, Văn Long tôi xin chết, cần gì phải mượn quân pháp để giết hạ thần.
                    Vua Quang Trung cười hỏi:
                    - Sao Văn Long lại bảo là ta muốn giết khanh?
                    Long đáp:
                    - Đường đến làng Nhân Mục là đường núi quanh co khúc khuỷu xa đến bốn trăm dặm thì làm sao đi trong bốn ngày mà đến nơi cho được. Chẳng phải là Đại sư huynh muốn giết Long tôi sao?
                    Vua Quang Trung lại hỏi:
                    - Đường đến Phương Nhãn, Yên Thế còn xa hơn Khương Thượng rất nhiều mà Nguyễn Văn Lộc dám lãnh mạng đi trong bốn ngày, sao đến Khương Thượng Văn Long lại không dám?
                    Đặng Văn Long cãi:
                    - Đường đến Yên Thế tuy xa nhưng đi bằng đường thủy có thể vừa ăn vừa tiến. Còn bộ binh phải dừng quân để nấu ăn, do vậy trong bốn ngày không thể đến nơi được.
                    Vua Quang Trung gọi quân mang vào một cái bánh, ngoài gói lá chuối đặt lên án rồi nói:
                    - Việc này ta đã liệu trước nên mới sai người nấu bánh chưng thành hình ống vừa vặn tay cầm gọi là bánh tét. Văn Long cứ việc hành quân, dùng bánh tét thay cơm không cần nghỉ ngơi để nấu ăn. Vậy trong bốn ngày có thể đến Khương Thượng được chưa?
                    Đặng Xuân Phong xen vào nói:
                    - Đành rằng bốn ngày có thể tới nơi, nhưng quân ta đi suốt ngày đêm tướng sĩ mỏi mệt sao đánh thắng quân Thanh đang nghỉ ngơi khỏe khoắn được. Binh pháp có câu không lấy quân mệt mà đánh quân khỏe. Xin Hoàng thượng xét lại.
                    Vua Quang Trung cười bảo:
                    - Binh thư là cái ai cũng có thể học được. Đánh giặc ngoài binh thư mới bất ngờ chắc thắng. Việc này ta đã tính trước nên mới sai người làm thật nhiều võng. Nay ta cấp cho đạo quân của ngươi, cứ ba người một cái võng; hai người khiêng một người nằm ngủ, thay phiên nhau mà đi. Một ngày gồm mười hai canh giờ, vậy một người vẫn ngủ được bốn canh giờ mà hành quân ngày đêm không nghỉ. Quân ta đến nơi đúng thời gian quy định mà tướng sĩ vẫn mạnh khoẻ như thường.
                    Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đồng thanh nói:
                    - Hoàng thượng liệu việc như thần. Danh tướng từ cổ chí kim không ai sánh kịp.
                    Nói rồi liền bước ra lãnh lấy binh phù.
                    Vua Quang Trung vỗ án đứng lên chỉ về phương Bắc cao giọng rằng:
                    - Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lãnh ấn tiên phong đánh hai thành Hà Hồi và Ngọc Hồi. Ta và Võ Đình Tú, Đặng Xuân Bảo cầm trung quân tùy cơ tiếp ứng. Hẹn ngày mùng năm tết cùng vào đến Thăng Long. Truyền lệnh ta quân các đạo lập tức xuất binh.
                    Quân Tây Sơn đúng giờ giao thừa năm Mậu Thân - Kỷ Dậu (1789) ngựa cất lạt, người ngậm tăm âm thầm mà tiến.
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #55
                      Chương 52

                      Sầm Nghi Đống treo cổ gò Cây Đa.

                      Tôn Sĩ Nghị chật cầu phao sông Nhị Hà.


                      Vua Quang Trung đem quân đến đồn Hạ Hồi vào lúc nửa đêm. Nhìn vào đồn thấy quân kỳ xiêu vẹo, điếm canh trống trải, trong ngoài im ắng, bốn bên phẳng lặng như tờ. Vua Quang Trung bảo Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân:
                      - Phan Văn Lân đem một cánh quân ra vây mặt Bắc, Ngô Văn Sở đem một cánh quân đến vậy mặt Đông, khi nào nghe loa của ta gọi hàng thì bảo quân đồng loạt dạ rân.

                      Sở và Lân tuân lệnh lập tức thi hành.
                      Nói về tướng tiên phong của quân Thanh là Trương Triều Long đem năm vạn quân đông ở đồn Hạ Hồi. Nhân dịp tết Nguyên đán, Trương Triều Long cùng các thuộc hạ ăn uống no say. Tả hữu can rằng:

                      - Đành rằng này là tết Nguyên đán ai cũng chào đón ăn mừng, nhưng xin tướng quân hay khá đề phòng quân Tây Sơn bất ngờ đánh tới.
                      Trương Triều Long cả cười nói:
                      - Ngươi quá lo xa đó thôi. Quân Tây Sơn nào dám đến đánh? Khi quân ta kéo đến ải Nam Quan, Ngô Văn Sở vắt giò lên cổ, không dám dừng quân nấu ăn, phải nhai gạo sống mà chạy một mạch về Tam Điệp. Nguyễn Huệ nghe Tôn Đại tướng quân định mùng sáu tết Kỷ Dậu sẽ cất quân vào bắt tội, sợ đã mất mật nên mới sai Trần Danh Bính làm sứ giả đến xin Tôn Đại tướng quân rằng: "Mùng sáu tết sẽ tự trói ra hàng". Tôn đại tướng quân thị uy chém đầu Trần Danh Bính, ta e rằng hiện Nguyễn Huệ đang lo sợ mà sinh bệnh đừng nói gì đến việc đánh ta. Vả lại ta đã sai năm mươi quân do thám dò xét địch tình ở Tam Điệp, thấy quân Tây Sơn vẫn án binh bất động, vậy các ngươi cứ cùng ta ăn uống no say chớ ngại gì cả.
                      Trương Triều Long vừa dứt lời bỗng nghe ngoài đồn có tiếng rền vang như sấm. Trương Triều Long thất kinh hỏi:

                      - Ngoài kia có chuyện gì thế?
                      Quân canh hớt hải chạy vào báo rằng:
                      - Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn đã bao vây tứ phía, bắc loa gọi hàng, tiếng quân giặc dạ ran như sấm. Quân ta đang say ngủ giật mình thức giấc sợ hãi rối loạn cả lên.
                      Trương Triều Long tỉnh rượu bàng hoàng than:
                      - Thôi chết. Ta đã trúng kế của Nguyễn Huệ rồi. Nhưng còn quân do thám của ta đâu, sao không thấy về báo tin?

                      Than rồi liền nai nịt cầm đao lên ngựa bảo quân:
                      - Chúng bay không được náo động, theo ta phá vây, chạy về Ngọc Hồi cùng Tả dực Thượng Duy Thăng.

                      Quân Thanh theo Trương Triều Long liều mình sống ra cửa Bắc, gặp tên, đạn quân Tây Sơn bắn vào chết thôi như rạ. Trương Triều Long cầm khiên đỡ tên đạn cùng quân tin cẩn cố phá vòng vây mà chạy. Bỗng nghe tiếng hét lớn:
                      - Trương Triều Long chạy đâu cho thoát!

                      Trương Triệu Long giật mình nhìn kỹ hoá ra là Phan Văn Lân lướt ngựa đến chặn đường. Trương Triều Long mắng Văn Lân rằng:

                      - Ta dù thất thế lại không giết được một thằng học trò như ngươi sao?
                      Phan Văn Lân cười lớn nói:

                      - Hôm trước ở bờ sông Như Nguyệt ta ít quân nên bại trận chạy về. Hôm nay ta sẽ cho ngươi biết học trò nước Nam dùng võ như thế nào!
                      Nói xong hai đàng kẻ vung đao, người khua thương xáp chiến. Mời vài hiệp Trương Triều Long bị Phan Văn Lân đâm một thương nhằm ngày yết hầu ngã ngựa chết tươi. Quân Thanh thấy chủ tướng chết liền vứt giáo xin hàng. Chiếm thành Hạ Hồi xong, vua Quang Trung lệnh quân thừa thắng tiến đánh Ngọc Hồi.

                      Tướng Thanh là Tả dực Thượng Duy Thăng đem năm vạn quân trấn giữ Ngọc Hồi. Sáng mùng ba tết Kỷ Dậu quân thám mã về báo cùng Thượng Duy Thăng:

                      - Thưa tướng quân, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy nửa đâm vây đánh Hạ Hồi, quân ta đang ngủ bị bất ngờ trở tay không kịp. Tướng quân Trương Triều Long tự trận, quân sĩ lớp chết, lớp hàng, không một ai chạy thoát. Hiện quân Tây Sơn đang tiến đến cách thành chừng vài dặm. Xin tướng quân định liệu.

                      Thượng Duy Thăng giật mình bảo tả hữu:
                      - Mau sai người về Thăng Long báo tin cùng Tôn Đại tướng quân và xin binh tiếp viện. Ba quân mau chỉnh đốn hàng ngũ phòng thủ kỹ càng.
                      Nói rồi Thượng Duy Thăng thân lên dài quan sát, thấy quân Tây Sơn đã tiến đến ngoài đồn.

                      Thượng Duy Thăng cầm cờ lệnh phất lên, súng lớn súng nhỏ quân Thanh nhất tề nhả đạn. Quân Tây Sơn không tiến lên được liền đặt đại bác bắn trả, súng nổ rầm trời, khắp chiến địa mịt mù khỏi lửa. Vua Quang Trung cưỡi voi đứng trên gõ cao quan sát nói với tả hữu rằng:
                      - Quân Thanh súng lớn bắn xa, hoả lực rất mạnh. Ta nên thu quân tìm kế khác đánh thành mới được.

                      Nói rồi truyền quân đánh trống thu binh lui năm dặm hạ trại. Vua Quang Trung bảo:

                      - Ngô Văn Sở mau kén lấy 600 tinh binh đảm lược, võ nghệ hơn người lập thành quân cảm tử sẵn sàng đợi lệnh.

                      Ngô Văn Sở tuân mệnh đi ngay. Vua lại truyền:

                      - Phan Văn Lân mau sai quân dùng ván gỗ đóng ghép lại thành từng tấm cao 5 thước, rộng 20 thước phải làm cho đủ 50 tấm, lại lấy rơm ướt che phủ mặt ngoài, xong việc đến đây nhận lệnh.

                      Phan Văn Lân lãnh lệnh đi ngay. Hồi lâu Ngô Văn Sở về báo:

                      - Tâu Hoàng thượng, quân cảm tử đã chọn xong đang chờ lệnh.

                      Phan Văn Lân về báo:

                      - Tâu Hoàng thượng, ván đã ghép xong, xin xuất lệnh xuất quân.
                      Vua Quang Trung bảo:
                      - Các ngươi cứ án binh bất động, dụng cụ chuẩn ở sẵn sàng, chờ có gió Nồm rồi mới đánh.

                      Phan Văn Lân nóng lòng hỏi:
                      - Quân bộ ta giáp chiến, mạnh được yếu thua, sa lại chờ gió Nồm?
                      Vua Quang Trung cười đáp:

                      - Quân ta đánh tất phải thắng. Nhưng ta muốn đánh thế nào khiến quân địch không còn đường rút và bị tiêu diệt hoàn toàn. Đánh như thế nào cho sau lần thua trận quân giặc sẽ kính hồn bạt vía, không còn dám lăm le dòm ngó nước ta. muốn vậy phải chờ có gió Nồm rồi mới đánh.

                      Võ Đình Tú hỏi:
                      - Vì sao có gió Nồm ta lại tiêu diệt hoàn toàn quân địch?

                      Vua Quang Trung chỉ tay ra hướng Đông đáp:

                      - Thuỷ binh Tuyết và Lộc đang chờ gió Nồm xuôi thuyền ra Bắc vào cửa Lục Đầu. Tuyết dùng quân thuỷ chặn mặt Đông, Lộc đem quân bộ mai phục tại núi Yên Thế. Các ngươi đã biết vì sao ta chờ gió Nồm rồi mới đánh hay chưa?

                      Đặng Xuân Bảo nghi ngờ hỏi:
                      - Nếu không có gió Nồm thì sao?
                      Bảo vừa dứt lời, quân cận vệ la lên:
                      - Đã có gió Nồm! Đã có gió Nồm!
                      Mọi người nhìn theo hướng chỉ tay của bọn quân sĩ. Lá cờ đỏ mặt trời vàng đã phấp phới trỏ ra hướng Bắc.
                      Ngô Văn Sở Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Đặng Xuân Báo đồng thanh tâu:

                      - Hoàng thượng thật là thánh sống, du Hưng Đạo Đại vương có sống lại cũng không thể nào bì kịp. Xin Hoàng thượng xuống lệnh tấn công!
                      Vua Quang Trung lại xua tay bảo:
                      - Chưa được!

                      Các tướng ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Vua Quang Trung nói:
                      - Tôn Sĩ Nghị không thể ngờ ta đoán biết gió Nồm điều thuỷ binh ra Bắc và hắn lại càng không thể ngờ trong bốn ngày quân ta có thể đến nơi đánh thành Khương Thượng. Nghị tất sẽ điều binh vào cứu viện Ngọc Hồi, bỏ trống thành Thăng Long cho Văn Long từ Khương Thượng đánh xuống. Hãy chờ thêm chờ thuỷ binh của Lộc và Tuyết đến nơi và Đặng Văn Long đánh Khương Thượng rồi ta sẽ tiến đánh Ngọc Hồi.

                      Các tướng lại đồng thanh bảo:

                      - Hoàng thượng dụng binh không mảy may sai lệch. Chúng thần xin bái phục!
                      ***
                      Nói về đạo quân Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc đem thuỷ binh theo đường biển ngược sông gió chậm chạp tiến quân. Lộc bảo Tuyết:

                      - Nếu chèo mãi thế này biết bao giờ mới đến được Yên Thế chặn đường Tôn Sĩ Nghị?
                      Tuyết đáp:

                      - Hoàng thượng bảo ngày hôm nay sẽ có gió Nồm ta tất đến nơi đúng giờ quy định.

                      Tuyết vừa dứt lời, gió Bấc đang thổi mạnh bỗng giảm dần rồi ngừng hắn. Trời quang mây tạnh nắng ấm chói chang, gió Nồm từ đâu thổi đến lồng lộng. Nguyễn Văn Lộc phấn khích bảo:

                      - Hoàng thượng của ta đúng là tiên giáng thế. Quân bay lập tức càng buồm. Tôn Sĩ Nghị phen này ắt không còn đường thoát vậy!

                      Thuyền Tây Sơn thuận gió Nồm ào ào rẽ sóng tiến về hướng Bắc.
                      ***
                      Nói về đạo quân Tây Sơn do đại Đô đốc Đặng Văn Long và đô đốc Đặng Xuân Phong theo đường núi mà tiến đến làng Nhân Mục. Quân Tây Sơn cứ ba người một cái vòng thay phiên nhau hai người khiêng một người nghỉ, hành quân đêm ngày không nghỉ, khi đói lột bánh tét mà ăn. Quân Tây Sơn vừa đi vừa bảo nhau rằng:

                      - Hành quân không dừng lại để ăn, ngủ mà vẫn được ăn, ngủ. Hoàng thượng thật là thần cơ diệu toán.
                      Đến gần đón Khương Thượng, Đặng Văn Long bảo quân:
                      - Mau đẹp bỏ võng, bí mật tiến đánh Khương Thượng.

                      Tướng Thanh giữ đón Khương Thượng là Sầm Nghi Đống đang ngủ bỗng giật mình thức giấc vì tiếng súng nổ ầm ầm, đạn bay đã vỡ. Quân hớt hải vào báo:
                      - Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn từ đâu đổ ra đánh phá dữ đôi. Xin tướng quân định liệu.

                      Sầm Nghi Đống kinh hồn bạt vía nói:

                      - Ngày 30 tết chúng án binh bất động ở Tam Điệp, nay mới mùng bốn tết sao chúng đến đây được. Tướng của chúng từ trên trời rơi xuống, quần của chứng từ dưới đất chui lên hay sao mà mau thế. Truyền quân mau theo ta ra ngoài nghênh chiến.
                      Quân Tây Sơn ùa vào thành như thác đổ, tung hoả hổ mà đốt, lửa cháy rực trời, tiếng trống rền vang, tướng quân reo tở mở. Quân Thanh đương không nổi bị giết rất nhiều, quăng gươm tháo chạy. Sầm Nghi Đống liệu thế không xong bên bờ đồn đem tàn quân chạy về Thăng Long. Đặng Văn Long xua quân đuổi theo truy sát. Thương thay sáu vạn quân Thanh ở Khương Thượng chết thôi như ra, người nó gọi người kia, thây chất thành đống, máu chạy thành khe, sát khí ngất trời, mùi tanh hôi vạn dặm.
                      Sầm Nghi Đống dẫn quân chạy được năm dặm, bỗng thấy một đạo quân Tây Sơn kéo ra chặn mất đường về, đi đầu là một viên dũng tướng mặc chiến bào đen, mặt đen như nhọ, cầm côn sắt đen, cưỡi ngựa đen. Tướng ấy quát lên như sấm:
                      - Sầm Nghi Đống chạy đâu cho thoát! Mau xuống ngựa quy hàng, có ta là đô đốc Đặng Xuân Phong chờ ngươi đã lâu.
                      Sầm Nghi Đống kinh hoàng than:
                      - Quả nhiên tướng Tây Sơn người mọi đến như than nên chúng đi đường núi mau quá chặn mất đường về, vậy phải liều diệt mà đánh mới được!

                      Đặng Xuân Phong cười ha hả nói:
                      - Ngươi bảo ta là mọi, vậy Uất Trì Cung hiệu Kính Đức tướng nhà Đường bên Tàu của ngươi cũng là mọi rợ hay sao?
                      (Vì câu nói ấy và thấy Đặng Xuân Phong bề ngoài giống Uất Trì Cung nên từ ấy trong quân thường gọi Đặng Xuân Phong là "Trại Kính Đức").

                      Nói đoạn, Đặng Xuân Phong xua quân đánh giết, phía sau lưng Đặng Văn Long đuổi tràn tời. Quân Tây Sơn thẳng tay tàn sát, quân Thanh không đường chống đỡ kêu khóc vang trời. Có tên quân bảo Sầm Nghi Đống rằng:

                      - Thưa tướng quân, ở bên đường có một cái gò đất trên gò ấy có cây đa cổ thụ mọc ùm tùm, người quanh vùng gọi là gò Cây Đa. Xin tướng quân mau chạy đến chỗ gò Cây Đa cố thủ chờ viện binh.

                      Sầm Nghi Đống liền té ngựa chạy về gò Cây Đa, chạy theo còn chừng ngàn quân tin cẩn. Đặng Văn Long trông thấy bảo Đặng Xuân Phong:

                      - Đệ đuổi theo vây bắt Sầm Nghi Đống, ta thừa thắng tiến đánh Thăng Long.
                      Nói đoạn anh em họ Đặng chia nhau mà đánh. Đặng Xuân Phong đem quân vậy Cây Đa, hô quân tiến lên giáp chiến. Sầm Nghi Đống liệu bề không thoát được bên bảo quân rằng:
                      - Phận ta làm tướng của nhà Đại Thanh thua binh chịu chết đã đành, còn các ngươi, sau khi ta chết đi ba quân hãy đầu hàng quân Tây Sơn may ra tìm được con đường sống.

                      Vài trăm quân hộ vệ quỳ lạy Sầm Nghi Đống, khóc rằng:

                      - Bọn chúng tôi mang nặng ơn sâu của tướng quân, sống theo tướng quân mà chết cùng theo tướng quân vậy.
                      Khi Đặng Xuân Phong dẫn quân đến nơi thì thấy Sầm Nghi Đống đã treo cổ trên cành đa mà tự tử, còn vài trăm quân cận vệ đều đâm cổ chết theo chủ tướng.

                      Đặng Xuân Phong cảm kích nói:
                      - Cuộc chiến nào cũng có kẻ tà người chính, kết cuộc phải có bên bại bên thắng. Nhưng tấm lòng trung dũng của tướng sĩ họ Sâm thật đáng phục thay!

                      Khi quân Nam đuổi được quân Thanh về nước, bọn trẻ chăn trâu ra gò Cây Đa thường hát rằng: "Ông Đống treo cổ cây đa!". Vì câu hát ấy, về sau quen miệng nên người nước Nam mới đặt tên gò ấy là gò Đống Đa. Về sau, người khách trú ở Thăng Long lập đền thờ ở ngõ Sầm Công sau Hàng Buồm.
                      Người đời sau là nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi đi ngang qua đến thờ Sầm Nghi Đống bên viết bài thơ vịnh rằng:

                      Ghé mắt trông qua thấy bảng treo.
                      Kìa đền thái thú đứng cheo leo.

                      Ví đây đổi phận làm trai được.

                      Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!

                      Ấy là việc của đời sau!

                      ***
                      Nhắc lại Tôn Sĩ Nghị đang vui đón tết ở Thăng Long. Trên bàn tiệc cao lương mỹ vị ê hề, trong trướng phủ mỹ nữ xiêm y lộng lẫy. Bỗng quân ở đồn Ngọc Hồi về cấp báo:

                      - Thưa Đại tướng quân, Nguyễn Huệ dẫn quân nửa đêm tiến lên vậy đồn Hạ Hồi không một ai hay biết. Tướng quân tiên phong Trương Triều Long tử trận. Nguyễn Huệ lại kéo quân đến đánh Ngọc Hồi, tướng quân Thượng Duy Thăng xin Đại tướng quân điều binh cầu viện.
                      Tôn Sĩ Nghị nghe qua như sét đánh ngang mày, giật mình nói:
                      - Trần Danh Bính bị tra khảo đến chết vẫn một mực khai rằng Nguyễn Huệ con run rẩy ở Phú Xuân chờ mùng sáu tết sẽ ra hàng. Sao nay Nguyễn Huệ lại tiến binh đánh ta? Nếu Huệ dùng khổ nhục kế để gạt ta thì kế khổ nhục này thật là kế lạ. Hứa Thế Hanh mau đem năm vạn quân cầu viện Ngọc Hồi.

                      Hứa Thế Hanh đi rồi quân thám mã mặt Đông về báo:

                      - Thưa Đại tướng quân, tướng Tây Sơn là đô đốc Nguyễn Văn Tuyết đem quân theo đường thuỷ chiếm lấy Hải Dương, hiện đang vào uy hiếp mặt Đông thành Thăng Long.

                      Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ ra lệnh:
                      - Tuỳ tướng Tôn Đường Bảo mau đem hai vạn quân ra phía Đông thành tìm chỗ hiểm yếu chặn giặc.
                      Tôn Đường Bảo chưa kịp nhận lấy binh phù, bỗng nghe phía Tây súng nổ ầm ầm, nhìn ra phía ấy thấy lửa cháy rực trời, quan hò reo inh ỏi. Một viên tiểu tướng hổn hển chạy vào bảo rằng:
                      - Thưa Đại tướng quân, tướng giặc Tây Sơn là đại Đô đốc Đặng Văn Long đem quân theo đường núi đánh úp đồn Khương Thượng. Tướng quân Sầm Nghi Đống đương không nổi phải treo cổ tự vẫn. Hiện quân Tây Sơn đã vào cửa Tây thành đánh giết lung tung, quân ta không còn tinh thần chiến đấu, hoảng loạn mà chạy. Xin Đại tướng quân định liệu.

                      Tôn Sĩ Nghị lực ấy không còn hồn vía nào nữa, bủn rủn chân tay, kinh tâm tán đởm, nhanh tay chụp lấy cái tráp đựng văn thư ấn tín rồi chạy ra ngoài nhảy lên mình ngựa cầm cương toan ra roi. Tôn Dương Bảo chạy theo hỏi:
                      - Sao Đại tướng quân không mặc giáp trụ?

                      Nghị đáp:

                      - Nước đã đến trôn mà còn mặc giáp trụ nỗi gì! Mau đem quân hộ vệ ta chạy về nước kéo không còn tính mạng.
                      Nói rồi nhằm cửa Bắc thành Thăng Long mà chạy, Tôn Đường Bảo không biết làm thế nào đành đem mấy trăm quân cận vệ chạy theo chủ tướng. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ quân mà chạy thì tán loạn chạy theo. quân Tây Sơn ùa vào thành tha hồ chém giết.
                      Đặng Văn Long bảo quân hô lớn rằng:
                      - Bắt sống Tôn Sĩ Nghị báo thù Trần Danh Bính.
                      Tôn Sĩ Nghị nghe vậy càng hoảng sợ, cắm cổ quất ngựa chạy dài. Ra khỏi thành rồi qua cầu phao bắc ngang sông Nhị Hà, Tôn Sĩ Nghị bảo Tồn Đường Bảo rằng:

                      - Sống Nhị Hà vừa rộng vừa sâu, ngươi hãy mà chặt dứt cầu này ắt quân Tây Sơn không thể truy đuổi kịp ta được.

                      Tôn Đường Bảo hỏi:

                      - Quân ta vừa qua cầu được chừng hơn một vạn nếu chặt đứt cầu còn tính mạng mười vạn quân ta bên ấy đành giao cho giặc Tây Sơn hay sao?
                      Nghị đáp:

                      - Quân Tây Sơn hành bình thần tốc, nếu không chặt cầu, chúng đuổi theo thì ta và ngươi phải chết kể gì quân sĩ. Mau theo lệnh ta quay lại chặt cầu.
                      Tôn Đường Bảo vâng lời quay lại chặt đứt cầu phao sông Nhị.

                      Thương thay hàng mấy vạn quân Thanh rớt xuống sông chết đuối nhiều đến nỗi sông Nhị Hà rộng đến mấy dặm mà bị nghẽn nước không chảy được.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #56
                        Chương 53

                        Thượng Duy Thăng vùi thây đầm Mực.

                        Tôn Sĩ Nghị bỏ ấn giữ thân.


                        Vua Quang Trung đóng quân tại phía Nam thành Ngọc Hồi. Ngày mùng bốn tết Kỷ Dậu (1789) quân do thám vào đại bản doanh báo rằng:

                        - Tâu Hoàng thượng, đại đô đốc Đặng Văn Long đã chiếm đón Khương Thượng, tướng giặc Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn. Hiện đại đô đốc Văn Long đang tiến đánh Thăng Long.

                        Vua Quang Trung vỗ tay bảo:
                        - Mất Khương Thượng tất Tôn Sĩ Nghị phải bỏ Thăng Long mà chạy. Năm vạn quân của Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi sẽ không còn đường rút. Thượng là cao, Thăng là bay, hắn muốn bay lên cao, ta sẽ vùi thây hắn tại đầm Mực cho người Tàu biết nước Nam ta đánh giặc như thế nào!
                        Đoạn vua gọi:
                        - Võ Đình Tú!
                        Tú đứng lên đáp:

                        - Có!
                        Vua hạ lệnh:
                        - Khanh hãy đem hai ngàn quân tinh nhuệ, dùng thuyền nhỏ theo sông Tô Lịch đến huyện Quỳnh Đô ở phía Bắc Ngọc Hồi rồi án binh bất động. Khi Thượng Duy Thăng thua trận chạy về thì khua chiêng nổi trống làm kế nghi binh, Thượng Duy Thăng tất theo đường đê Yên Duyên chạy vào đầm Mực. Khi thấy giặc chạy vào đến Yên Duyên rồi, Tú lập tức đem quân ra Bắc đánh quân tiếp viện của Hứa Thế Hanh.

                        Võ Đình Tú bước ra lãnh lấy binh phù. Vua Quang Trung gọi:
                        - Đặng Xuân Bảo!
                        Bảo bước ra đáp:

                        - Có!
                        Vua hạ lệnh:
                        - Khanh mau đem một ngàn quân và một trăm thớt voi theo đường núi Sơn Minh đến làng Đại Áng sau đó ra phục quân bên đầm Mực. Khi thấy Thượng Duy Thăng dẫn quân lội băng qua đầm Mực, lập tức lừa voi xuống dìm chúng trong đầm Mực cho ta.

                        Đặng Xuân Bảo lãnh lấy binh phù đi ngay. Đoạn vua tuốt gươm đứng lên nói lớn:
                        - Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đánh Ngọc Hồi. Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở cứ ý lời ta dặn mà làm.
                        Phan Văn Lân dùng một ngàn tinh binh, chia nhau cứ hai mươi người khiêng một tấm ván phủ rơm dàn hàng ngang đi trước. Ngô Văn Sở đem một vạn quân khom mình nắp sau tấm vẫn ấy tiến vào đồn Ngọc Hồi. Tướng Thanh là Thượng Duy Thăng thấy quân Tây Sơn cứ lừ lừ mà tiến, liền bảo quân:
                        - Chờ chúng đến gần tầm đạn rồi nhất tề nổ súng.

                        Quân Thanh bắn tên đạn ra như cát vãi. Quân Tây Sơn không hề nao núng cứ thế tiến lên. Thấy vậy Thượng Duy Thăng bảo quân rằng:

                        - Mau bắn tên lửa ra, ván gặp lửa tất phải bị cháy.
                        Quân Thanh lại dùng tên lửa nhằm quân Tây Sơn mà bắn. Tên lửa gặp rậm ướt phụ ngoài tấm ván liền tắt ngấm. Hai bên giáp trận, Phan Văn Lân hạ lệnh:

                        - Mau liệng ván giáp chiến.
                        Quân Tây Sơn xô ván, nhất loạt rút vũ khí tràn vào tựa nước vỡ bờ, thế như mãnh hổ. Quân Thanh rối loạn hàng ngũ, mạnh ai nấy chạy. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân thúc quân đuổi tràn theo, Thượng Duy Thăng đương không nổi bèn bỏ chạy về phương Bắc. Chạy đến sông Tô Lịch, tiền quân đến bảo:

                        - Thưa tướng quân, quân Tây Sơn chặn đường về thành Thăng Long, xin tướng quân định liệu.

                        Thượng Duy Thăng thất kinh than:

                        - Nay hai đều đều thọ địch, ta phải liệu làm sao.
                        Tả hữu hiến kế:
                        - Thưa tướng quân, theo thượng nguồn sông Tô Lịch có đê Yên Duyên dẫn đến đầm Mực. Đầm này nước không quá cổ, vậy ta nên theo đê Yên Duyên mà chạy rồi vượt quá đầm Mực tất thoát được về Thăng Long.

                        Thượng Duy Thăng liền bảo quân chạy về phía ấy. Thấy quân Thanh chạy về để Yên Duyên, Võ Đình Tú nói thầm rằng:
                        - Hoàng thượng liệu việc như thần. Quân Thanh quả nhiên chạy vào đầm Mực.

                        Tướng Tây Sơn là Đặng Xuân Bảo đem một trăm con voi phục dưới chân núi quanh đầm Mực. Thấy Thượng Duy Thăng dẫn tàn quân toan vượt đầm, Đặng Xuân Bảo nói:

                        - Hoàng thượng liệu việc như thần. Tượng binh lập tức xung trận.
                        Đặng Xuân Bảo lựa một trăm thớt voi tràn xuống đầm Mực. Voi gầm thét xông lên, dùng chân mà dày, dùng vòi mà quật, dùng ngà mà húc. Quân Tây Sơn ngồi trên bành voi thấy quân Thanh ở xa thì trương cung xạ tiễn. Thương thay hàng vạn quân Thanh bị dìm trong đầm mà chết. Nước đầm Mực vốn đen nay đỏ lên như máu.
                        Thượng Duy Thăng thực ngựa mà chạy, Đặng Xuân Bảo thúc voi đuổi theo. Con ngựa của Thượng Duy Thăng chạy cả ngày đã đuối sức, voi Xuân Bảo đuổi mỗi lúc một gần. Liệu bề không thoát, Thượng Duy Thăng ngửa mặt khóc than rằng:

                        - Cha mẹ đặt ta tên Thượng Duy Thăng nghĩa là bay lên cao. Không ngờ Thượng Duy Thăng ta phải chết trong bùn lầy ao tù ở nước An Nam.
                        Than xong liền đâm cổ tự vẫn.

                        Bây giờ tướng Thanh là Hứa Thế Hanh vâng lệnh Tôn Sĩ Nghị đem ba vạn quân tiếp cứu cho Thượng Duy Thăng ở Ngọc Hồi. Vừa đem quân ra khỏi cổng Nam thành được vài dặm bỗng nghe ở Thăng Long súng nổ rền vang, lửa cháy rực trời, quân reo tở mở, Hứa Thế Hanh con đang lưỡng lự chưa biết nên tiến thoái thế nào. Bỗng vài tên quân từ hướng Bắc phi ngựa đến bảo:

                        - Thưa tướng quân, sau khi tướng quân dẫn binh đi rồi, tướng Tây Sơn là Đặng Văn Long bất ngờ đánh úp đồn Khương Thượng, tướng quân Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn. Quân Tây Sơn thừa thắng đánh vào cửa Tây thành Thăng Long, Tôn Đại tướng quân bất ngờ trở tay không kịp đã thua chạy về nước. Chúng tôi là quân giữ cửa Nam thành chạy ra không kịp nên mới chạy vào theo báo cho tướng quân được rõ.
                        Hứa Thế Hanh thất kinh nói:
                        - Thành Thăng Long mất, ắt ta chẳng còn đường rút, vậy phải vào hợp bình cùng Thượng Duy Thăng trấn thủ Ngọc Hồi chờ quân cầu viện.

                        Hanh vừa dứt lại, quân mặt Nam chạy về phi báo:
                        - Thưa tướng quân, Nguyễn Huệ đã chiếm Ngọc Hồi, tướng quân Thượng Duy Thăng tử trận. Hiện quân Tây Sơn đang đuổi đến nơi, xin tướng quân định liệu.

                        Hứa Thế Hành đang ngồi trên mình ngựa, thả cương vừa lấy tay vỗ đùi, thúc chân vào bụng ngựa vừa than:
                        - Ta đã thua mưu Nguyễn Huệ rồi!
                        Chẳng dè con ngựa được nới đây cương lại bị thúc vào hỏng ngỡ chủ bảo chạy, liền chồm lên phi nước đại. Hứa Thế Hanh bất ngờ mất đà té nhào xuống đất. Vừa lúc ấy tướng Tây Sơn là Võ Đình Tú lướt ngựa đến đập một côn, Hứa Thế Hành bể sọ vọt óc chết tươi. Quân Thanh thấy chủ tướng chết, đều vứt giáo xin hàng.
                        Nhắc lại đại Đô đốc Đặng Văn Long chiếm được thành Thăng Long rồi, nghe quân vào báo:
                        - Thưa tướng quân, Hoàng thượng đã tiêu diệt mười vạn quân Thanh ở Hạ Hồi và Ngọc Hồi. Hiện Hoàng thượng đang tiến quân về thành Thăng Long.

                        Đặng Văn Long bảo quân:
                        - Mau mở cổng Nam thành đón vua.

                        Nhân dân trong thành ngoài nội kéo ra chật hai bên đường, đồng thanh hỏi:

                        - Hoàng thượng đâu? Hoàng thượng đâu?

                        Tên quân đi trước lên chỉ vào vua đáp:

                        - Hoàng thượng đang ngồi trên lưng voi kia kìa. Các ngươi sao không tung hô con hỏi gì nữa.
                        Dân lại hỏi:
                        - Vua phải mặc hoàng bào chứ, người này mặc áo đen ắt không phải là Hoàng thượng.
                        Tên quân đáp:

                        - Hoàng thượng mặc hoàng bào ngự giá thân chinh ra trước trận tiền nên hoàng bào dạ nhuộm đen màu thuốc súng đó thôi.
                        Vừa lúc ấy Đặng Văn Long ra đón. Gặp vua, Long xuống ngựa quỳ tâu:

                        - Hoàng thượng vạn tuế!
                        Bá tánh trông thấy liền quỳ xuống hô vang rằng:
                        - Hoàng thượng vạn tuế! Đại đế muôn năm!

                        Vào thành rồi vua Quang Trung hạ lệnh:
                        - Đặng Xuân Phong và Đặng Xuân Bảo đem một vạn quân truy kích Tôn Sĩ Nghị. Đến Yên Thế gặp Nguyễn Văn Lộc chặn đường về của giặc thì hai mặt giáp công.
                        Phong và Bảo lãnh lệnh đi ngay.

                        Nói về Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân một vạn chạy về đến Yên Thế, tuỳ tướng Tôn Dương Bảo hỏi:
                        - Nơi này hai bên núi non hiểm trở, cỏ cây rậm rạp, chỉ có một con đường độc đạo mà đi, nếu quân Tây Sơn đem binh chặn ở nơi này thì ta nguy mất.
                        Tôn Sĩ Nghị bảo:
                        - Từ ải Tam Điệp đến Thăng Long đường xa năm trăm dặm mà Nguyễn Huệ vừa đi vừa đánh chỉ có năm ngày đã là thần tốc lắm rồi, đông tây kim cổ chưa tiếng nghe nói. Hoa may Nguyễn Huệ có thiên binh, thiên tướng mới chặn được ta ở ải này.
                        Tôn Sĩ Nghị vừa dứt lời bỗng nghe một tiếng pháo lệnh nổ vang, tức thì hai bên sườn núi tên bắn xuống như mưa. Quân Thanh trúng tên chết gần hết. Tôn Sĩ Nghị thất kinh hỏi:
                        - Nguyễn Huệ điều binh đi đường nào mà đến được Yên Thế chặn đường về của ta?

                        Tôn Dương Bảo đáp:

                        - Nguyễn Huệ chỉ có cách dùng thuỷ binh mới đưa quân đến đây được mà thôi!
                        Tôn Sĩ Nghị thở dài nói:
                        - Nếu vậy ắt Nguyễn Huệ phải biết ngày đổi gió Đông nam mới sắp đặt kế sách đánh ta. Ta thật không phải là đối thủ của Nguyễn Huệ. Ba quân phá liều chết phá vây mà chạy.
                        Tôn Đường Báo cùng đoàn quân hộ vệ cố gắng gạt tên che chở cho Tôn Sĩ Nghị chạy gần thoát khỏi hẻm núi. Chợt một viên tướng Tây Sơn đầu đội kim khôi, mình mặc giáp trụ, tay cầm trường thương lướt ngựa đến chặn đường. Tướng ấy hét lên rằng:
                        - Tôn Sĩ Nghị chạy đâu cho thoát, có ta là đô đốc Nguyễn Văn Lộc đợi ngươi đã lâu.
                        Tôn Sĩ Nghị quay lại thấy quân hộ vệ của mình chỉ còn tuỳ tướng Tôn Dương Bảo và vài mươi tên lính. Biết không thoát được, Nghị quăng gươm xuống ngựa chịu trói. Tôn Dương Bảo và bọn quân sĩ thấy vậy đều bỏ vũ khí xin hàng. Nguyễn văn Lộc đưa mắt ra hiệu cho quân mình, quân Tây Sơn liền đồng loạt vung gươm giáo giết hết Tôn Dương Bảo và bọn quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị thất kinh hỏi Nguyễn Văn Lộc:

                        - Bọn ta đã hàng sao còn giết hết đi?

                        Nguyễn Văn Lộc cười ha hả nói:

                        - Ta giết hết bọn quân sĩ của ngươi là muốn giữ mạng sống cho ngươi đó.

                        Nghị nghi hoặc hỏi:
                        - Tướng quân nói vậy là ý thế nào?
                        Nguyễn Văn Lộc cười ngạo nghễ nói:

                        - Ta muốn tha mạng cho của ngươi, không thèm giết làm gì cho bẩn thương của ta. Vậy lúc về nước bọn quân sĩ của ngươi lộ tin: ngươi bị ta bắt rồi thả cho đi, thì Càn Long lại tha mạng cho ngươi sao? Và tiếng hèn của ngươi ắt con để đến ngàn thu. Vì thế ta mới giết hết bọn quân sĩ của ngươi để giữ mạng và giữ gìn thanh danh cho ngươi đó.

                        Chúa hết ngờ vực, Nghị lại hỏi:
                        - Nhưng vì sao tướng quân lại tha cho ta?
                        Lộc cười lớn rồi đáp, giọng khinh bỉ:

                        - Ta tha cho ngươi chạy về để cả nước Đại Thanh biết rằng: Đại tướng Tôn Sĩ Nghị sang đánh nước Nam thua trận đến nỗi người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đóng yên tất tả chạy về. Chứ nếu ta giết ngươi thì người nước Tàu sao thấy cái oai của nước Nam ta được.

                        Nói xong Lộc lại cười to, Nghị cả thẹn cúi gầm mặt. Lộc nâng cằm Nghị lên bảo:
                        - Đáng lẽ ta giết ngươi để bá thù cho Trần Danh Bính. Những xét thấy nhà Thanh các ngươi là tổ Mãn cũng phường mọi rợ nên chẳng biết luật: Hai nước đánh nhau không nên chém sứ, thành ra ta mới mở lượng hiếu sinh mà tha cho kẻ chẳng biết gì. Và ngươi hãy lậy tạ ba lậy gọi là tạ lỗi cùng Trần Danh Bính rồi ta sẽ để cho ngươi đi.
                        Nghị còn đang do dự, Lộc vung thương quát:
                        - Lậy không thì bảo?
                        Nghị hoàng hồn sụp xuống chân ngựa của Lộc mà lậy. Chẳng dè trong lúc luống cuống cúi lậy, cái tráp Nghị giấu trong người rơi xuống đất. Lộc bảo quân lấy nộp lên. Thấy cái tráp sơn son thếp vàng ngoài đề mấy chữ: "Bình Nam Đại tướng quân Tôn Sĩ Nghị", Lộc nghiêm mặt hỏi:
                        - Tráp này đựng sắc thư ấn tín của Càn Long ban cho ngươi phải không?
                        Nghị chưa kịp đáp, Lộc lại bảo:

                        - Nay Đại tướng quân người không cần mặc giáp ngựa không cần đóng yên cũng đã bình được nước Nam rồi. Vậy Đại tướng quân hãy về nước ngay chớ kéo ta đổi ý thì nguy đó.

                        Nghị lấm lét nhìn sắc thư ấn tín nằm trong tay Lộc, rồi ngậm đắng nuốt cay nhảy lên mình ngựa toan ra roi. Bỗng nghe Lộc gọi giật:
                        - Hãy khoan!
                        Nghị tháo mồ hôi hột:
                        - Tướng quân con dậy thêm gì nữa chăng?

                        Lộc cười bảo:
                        - Ngươi về gặp vua Càn Long hay thưa là: phá vây thoát được chạy về. Chờ dại dột mà khai rằng bị bắt bị lột sạch sắc thư ấn tín rồi được tha cho đi đấy nhé. Nếu người khai như thế thì người nước ngươi sẽ cười Tôn Sĩ Nghị hèn nhát khóc than lậy lục mới được thả! Và vua Càn Long sẽ chặt đầu ngươi đó. Vả lại Tôn tướng quân chớ vội, ta sẽ đích thân đưa tướng quân về đến ải Nam Quan, kéo đi một mình ngộ nhỡ gặp dân ta bắt giết, thì Lộc ta phải mang tội với vua.
                        Đoạn Tôn Sĩ Nghị theo Nguyễn Văn Lộc đến ải Nam Quan, rồi một mình một ngựa lủi thủi về nước trong sự lo mừng của một người vừa thoát chết.
                        Tôn Sĩ Nghị đi rồi, Nguyễn Văn Lộc lệnh cho tả hữu:

                        - Mau truyền bảo quân sĩ nói phao lên rằng: sẽ đuổi sang biên giới bắt cho được Tôn Sĩ Nghị mới thôi!
                        Dân chúng Trung Hoa ở biên cương thấy Đại tướng quân Tôn Sĩ Nghị người không khôi giáp, ngựa chẳng áo yên hớt hải chạy về; lại nghe quân Tây Sơn kháo ầm lên như thế, người người dắt díu bồng bế nhau chạy trốn về phương Bắc. Cách ải Nam Quan hàng mấy trăm dặm tuyệt nhiên không một bóng người.
                        Nói về đạo quân Thanh do Ô Đại Kinh thống lãnh đi theo đường Tuyên Quang tiến đến trấn Sơn Tây ở phía Tây thành Thăng Long. Ô Đại Kinh nghe quân do thám báo:

                        - Thưa tướng quân, quân Tây Sơn tiến đánh Thăng Long, các tướng Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, Hứa Thế Hành, Sầm Nghi Đống đều tử trận. Tôn Đại tướng quân đã bỏ Thăng Long chạy về nước.

                        Ô Đại Kinh giật mình nói:
                        - Mau truyền lệnh ta lập tức rút binh. Nếu ta không dè dặt mà vội đi trước để tranh công ắt mạng chẳng còn.
                        Nói xong liền dẫn sáu vạn quân dưới trướng vội vã rút về.
                        Thế là trong vòng năm ngày, vua Quang Trung thống lãnh mười vận quân Tây Sơn tiêu diệt hơn hai mươi vạn quân Thanh, đuổi giặc ngoại xâm ra ngoài bờ cõi.
                        Nhắc lại Nguyễn Văn Lộc đuổi Tôn Sĩ Nghị ra khỏi ải Nam Quan rồi, Lộc cắt tướng ở lại giữ ải, đoạn thu bình về Thăng Long ra mắt vua Quang Trung. Lộc quỳ thưa:

                        - Tâu Bệ hạ, Tôn Sĩ Nghị đã trốn thoát về nước. Thần bắt được sắc thư ấn tín của hắn xin dâng Bệ hạ duyệt lãm.
                        Nói xong Lộc dâng các chiến lời phẩm lên vừa. Các tướng Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú cùng quỳ thưa:
                        - Xin Bệ hạ tha tội cho Nguyễn Văn Lộc.

                        Vua Quang Trung cười hỏi:
                        - Vì sao các khanh lại xin ta tha tội cho Nguyễn Văn Lộc.

                        Phan Văn Lân đáp:

                        - Trước lúc xuất quân, Lộc tướng quân có nói nếu Bệ hạ trong năm ngày đuổi quân Thanh khỏi Thăng Long mà Văn Lộc không bắt được Tôn Sĩ Nghị thì sẽ chịu tội theo quân pháp. Nên chúng thần mới xin Bệ hạ tha tội cho Văn Lộc đó.

                        Vua Quang Trung lại mỉm cười hỏi:
                        - Đối nhà Trần, trong cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất, khi Thoát Hoan dẫn đại binh chạy về đến Vạn Kiếp vẫn còn đủ các đại tướng là Lý Hằng, Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán, vậy mà Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho quân kéo chạy mới thoát được về nước. Còn hôm nay khi Đặng Văn Long đánh vào cửa Tây thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị mới vội vàng tháo chạy, đến nỗi người không kịp mắc giáp, ngựa không kịp đóng yên. Trong khi do ta đã sai Nguyễn Văn Lộc đem quân phục sẵn ở Yên Thế. Núi Yên Thế hiểm trở chỉ có một con đường chạy về phương Bắc. Nếu một trong các tướng chặn đường này liệu Tôn Sĩ Nghị có chạy thoát được chăng?

                        Đặng Văn Long đáp:
                        - Vũ dũng như Văn Lộc lại chặn đường hiểm đi Yên Thế thì Tôn Sĩ Nghị sao có thể thoát được. Việc này chúng thần không hiểu nổi.
                        Vua Quang Trung cười lớn bảo:
                        - Văn Lộc! Khanh hay nói cho các tướng nghe xem vì sao Tôn Sĩ Nghị chạy thoát về nước được.

                        Bấy giờ Nguyễn Văn Lộc mới nói:

                        - Tôn Sĩ Nghị chạy thoát khỏi Yên Thế mà trở về nước là do thần đã thả hắn đó.

                        Nghe Lộc nói xong, các tướng sững sờ kinh ngạc. Võ Đình Tú hỏi:
                        - Tại sao ông dám cãi lệnh vua mà không bắt tướng giặc?
                        Lộc đáp:

                        - Số là lúc tôi nhận lệnh đem thuỷ binh cùng Nguyễn Văn Tuyết vào cửa Lục Đầu sau đó tôi đem quân lên Yên Thế chặn đón đường Tôn Sĩ Nghị. Nhưng trước khi đi vua có sai người trao cho tôi một bức mật thư bảo tôi bắt được Tôn Sĩ Nghị rồi phải tha cho hắn đi. Nếu hắn chết thì tôi phải tội! Nên tôi bắt được hắn xong phải hộ tống hắn đến ải Nam Quan mới dám quay về.

                        Đặng Xuân Bảo ngạc nhiên hỏi:
                        - Nhưng vì sao phải tha Tôn Sĩ Nghị?
                        Lộc đáp:

                        - Việc này tôi không được biết, tôi chỉ làm theo lệnh mà thôi - Rồi quay sang vua Quang Trung, Lộc hỏi - Xin Bệ hạ giảng giải vì sao phải tha Tôn Sĩ Nghị?
                        Vua Quang Trung cười đáp:

                        - Đánh trận này ta sai Đặng Văn Long chiếm dồn Khương Thượng và thành Thăng Long trước, tất bốn viên đại tướng quân Thanh là Sầm Nghi Đống, Hứa Thế Hành, Thượng Duy Thăng và Trương Triều Long sẽ không còn đường thoát. Quả nhiên bốn tên này đều phơi thây tại trận. Vậy nếu ta không tha cho Tôn Sĩ Nghị thì lấy ai về báo kế sách đánh giặc của ta cho vua Càn Long nhà Thanh hay. Càn Long tất sợ rằng sai tướng sang đánh báo thù sẽ thua trận nữa, nên sẽ thuận lòng khi ta sai sứ sang cầu hoà. Thế là ta sẽ tránh cho dân nước ta được một trận can qua. Vì lẽ ấy nên ta mới tha Tôn Sĩ Nghị đó.

                        Nguyễn Văn Tuyết con tức lắm, vểnh râu hỏi:

                        - Nếu vậy ta tha cho vài tên tiểu tướng chạy về báo cùng được. Sao Bệ hạ lại tha cho Tôn Sĩ Nghị?
                        Vua Quang Trung lắc đầu đáp:

                        - Bọn tiểu tướng chỉ sai đâu đánh đó làm sao biết được sách lược hành binh. Một Đại tướng soái thua trận chạy về mà không biết bị đánh như thế nào thì Càn Long mới sợ. Có khi hắn sẽ sai người sang ta làm hoà trước cho các khanh xem.
                        Đặng Văn Long nghi ngờ hỏi:
                        - Càn Long là tay anh hùng kiệt hiệt ở phương Bắc, có lý đâu lại hạ mình cầu hoà với ta trước?
                        Quang Trung cười bảo:
                        - Thua trận này Càn Long đem quân đánh báo thù thì sẽ thua nữa, mà nhịn đi thi nhục. Càn Long sẽ sai người sang bảo ta hạ mình cầu hoà thì hắn sẽ cho hoà, thế Càn Long mới là tay anh hùng kiệt hiệt. Các khanh hãy nhớ lời ta xem ta nói đúng hay không nhé.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #57
                          Chương 54

                          Sợ Nam quân Phúc Kháng An sai sứ bảo giảng hoà.
                          Giận Bắc Triều, Ngô Thì Nhậm viết thư bãi cống.


                          Nói về Tôn Sĩ Nghị thua trận chạy thoát về Bắc Kính quỳ trước triều chịu tội. Vừa Càn Long giậm chân quát:
                          - Võ sĩ! Lôi Tôn Sĩ Nghị ra chém tức thì!
                          Nghị vã mồ hôi hột, đập đầu van:

                          - Xin Hoàng thượng tha mạng. Chẳng phải hạ thần không hết lòng, nhưng vì quân Tây Sơn hùng mạnh, Nguyễn Huệ chước quý mưu thần bất ngờ tiến đánh làm hạ thần trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng minh xét!
                          Vua Càn Long nét mặt hầm hầm hỏi:
                          - Nguyễn Huệ dùng kế gì mà ngươi gọi là chước quỷ mưu thần, để đến nỗi bốn viên đại tướng và hai mươi vạn quân phải bỏ thây Nam quốc, làm nhục mệnh của ta?
                          Nghị lau mồ hôi đáp:

                          - Tâu Hoàng thượng, lúc quân ta kéo sang đưa vua Lê về nước, Nguyễn Huệ bảo quân bộ Bắc Hà rút về cố thủ ở đường độc đạo là ải Tam Điệp. Trên đường rút, quân Tây Sơn lại xoá hết bếp lò, vãi gạo ra đường khiến thần ngờ rằng quân Tây Sơn sợ đến nỗi phải nhai gạo sống mà chạy...
                          Ngắt lời Nghị, Càn Long quát:
                          - Rồi ngươi dương dương tự đắc vào Thăng Long như chỗ không người nên chẳng đề phòng chứ gì. Một kế mọn như thế mà cũng lầm để quân ta đại bại. Tội thật đáng chết.

                          Tôn Sĩ Nghị vội tâu:
                          - Đến Thăng Long hạ thần vẫn cẩn thận cho quân đóng đồn cảnh giới chờ ăn tết xong sẽ cất quân vào đánh Huệ. Chẳng ngờ bị trúng khổ nhục kế của Nguyễn Huệ mới không phòng bị.
                          Càn Long nghi ngờ hỏi:
                          - Khổ nhục kế như thế nào.
                          Nghị có gắng giảng giải:
                          - Nguyễn Huệ sai Trần Danh Bính làm sứ giả đem thư đến xin hàng. Hạ thần tra khảo Trần Danh Bính hỏi xem Nguyễn Huệ động tĩnh thế nào. Đến lúc chết Bính vẫn một mực khai rằng Huệ còn ở Phú Xuân đêm ngày lo sợ, sai sứ giả đến xin hàng, nên hạ thần mới tin rằng Nguyễn Huệ chưa đem quân đến thật mà xao nhãng việc canh phòng. Xin Hoàng thượng rộng xét.
                          Vua Càn Long dịu giọng bảo:
                          - Kế khổ nhục là ta tự đánh người của ta, rồi sai đi trá hàng. Kế khổ nhục này là giả hàng trước, cho địch đánh người của ta, ấy thật là kế lạ xưa nay chưa từng nghe nói. Nguyễn Huệ thật đa mưu túc trí. Nhưng khi mất Hạ Hồi thì các ngươi đã biết mà cẩn thận đề phòng, vì sao quân đông gấp ba lần mà thua một?
                          Nghị đáp:

                          - Nguyễn Huệ sai quân rút khỏi Thăng Long là dùng kế "không thành". Nhưng Huệ không mai phục bốn phía rồi đổ ra đánh vì sợ lộ, bởi lòng người còn thương mến nhà Lê. Huệ dùng khổ nhục kể cho thần không đề phòng rồi đưa quân từ Tam Điệp ra vây thành Thăng Long nên hạ thần trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng tha mạng.
                          Vua Càn Long lại vỗ ngai quát hỏi:
                          - Binh pháp có câu "Biết người biết ta trăm trả trăm thắng!", thế còn quân thám mã của ta ở đâu, để đến nỗi Nguyễn Huệ đưa quân vây thành mà không một ai biết.
                          Nghị cố phân trần:
                          - Đường từ Tam Điệp đến Thăng Long xa bốn trăm dặm. Đêm ba mươi tết thám mã còn về báo rằng quân Tây Sơn ở Tam Điệp vẫn án binh bất động, vậy mà đến ngày mùng bốn tết chúng đã có mặt ở Thăng Long lúc quân ta còn cất gươm cởi giáp chưa tỉnh cơn say nên trở tay không kịp. Xin Hoàng thượng tha tội!
                          Càn Long lại hỏi:
                          - Nghĩa là chúng hành bình thần tốc khiến ngươi không lường được phải chăng?

                          Nghị đập đầu đáp:

                          - Đường đại lộ thì có Trương Triều Long đóng ở Hạ Hồi, Thượng Duy Thăng đóng ở Ngọc Hồi, nên Nguyễn Huệ mới cho một đạo quân theo đường núi dẫn vào phía Tây thành Thăng Long. Đường núi này xa ba trăm dặm, dù hành quân ngày đêm không nghỉ, không dừng lại ăn uống cũng phải hết bốn ngày đường là ít nhất, nên hạ thần không lường trước được.

                          Càn Long lấy làm lạ hỏi:
                          - Nguyễn Huệ hành binh bằng cách gì mà nhanh thế?
                          Nghị hổ thẹn đáp:

                          - Điều này quân ta không một ai hay biết.
                          Càn Long quay sang quần thần hỏi:
                          - Các ngươi hãy suy nghĩ xem Nguyễn Huệ hành quân bằng cách gì mà không dừng quân nấu ăn không cho quân nghỉ ngơi mà vẫn mạnh khỏe đánh thắng được quân ta?

                          Quần thần xôn xao bàn tán một hồi, Càn Long hỏi bọn quan văn:

                          - Các khanh đã nghĩ ra chưa.
                          Cận thần là Hoà Thân đáp:

                          - Chúng thần vẫn không nghĩ ra. Hoạ mà Nguyễn Huệ có tài sái đậu thành binh.
                          Càn Long quay sang hàng quan võ:
                          - Còn các khanh thì thế nào?
                          Võ quân Phục Khang An tâu:
                          - Sách bình thư chúng thần không rành bằng Bệ hạ nên vẫn nghĩ chưa ra.
                          Càn Long nghĩ thầm rằng: Thắng bại là lẽ của binh gia, nhưng từ xưa đến nay tướng thua trận chạy về phải biết được địch đánh thế nào khiến ta thua trận. Nay, việc Tôn Sĩ Nghị thua trận lại không biết Nguyễn Huệ hành bình như thế nào thì thật là lạ. Đã không biết người biết ta làm sao thắng được địch.

                          Tuy nghĩ vậy, vua Càn Long vẫn lạnh lùng hạ lệnh:
                          - Nay ta phong Phúc Khang An làm chánh tướng Thang Hùng Nghiệp làm phó tướng đem năm mươi vạn đại binh sang nước Nam đánh Nguyễn Huệ báo thù.
                          Nói xong Càn Long truyền bãi triều. Đi ngang qua mặt Phúc Khang An vua Càn Long bảo:
                          - Bình thư, thao lược khanh giỏi nhất trong các tướng của ta nên ta mới sai khanh sang đánh Nguyễn Huệ. Vậy có cảm thấy khó khăn điều gì hãy đến gặp riêng ta.
                          ***
                          Đêm hôm ấy Phúc Khang An tìm đến yết kiến vua Càn Long. Càn Long hỏi:
                          - Khanh gặp khó rồi phải không.
                          An đáp:

                          - Thần đã học nhiều binh pháp của tiền nhân như Tôn Võ, Ngô Khởi, Khổng Minh, nhưng có điều chưa rõ nên đến đây thỉnh ý Hoàng thượng trước khi đem quân đánh Nguyễn Huệ.

                          Vua Càn Long bảo:
                          - Điều gì khanh cử hôi.
                          An hỏi:
                          - Trong binh pháp cầu nào là hệ trọng nhất đối với đạo làm tướng khi đối địch?

                          Càn Long đáp:
                          - Biết người biết ta trăm trận trăm thắng.

                          - Vậy xin hỏi Hoàng thượng: nay ta không biết Nguyễn Huệ hành binh bằng cách gì mà thần tốc từ cổ chí kim chưa từng có, vậy ta phải đối phó thế nào?
                          Vua Càn Long thở dài nói:
                          - Không biết người thì sao biết được ta nên làm thế nào để thủ thắng. Chẳng qua khanh là người tâm phúc của ta nên ta mới sai khanh đánh Nguyễn Huệ để báo thù đấy thôi.

                          Phúc Khang An hỏi:
                          - Vậy ý là Hoàng thượng còn cố ý gì chăng?

                          Càn Long gật đầu đáp:

                          - Ta sai khanh đánh Nguyễn Huệ vì tướng giỏi như khanh tất phải thấy lẽ được thua nếu lần nữa cất quân. Không đem quân đánh báo thù thì nhục, mà đem quân sang đánh tất phải thua.

                          Phúc Khang An hỏi:
                          - Vì lẽ ấy, trước triều Hoàng thượng phải sai thần sang đánh Nguyễn Huệ để thần đến nhận lệnh riêng của Bệ hạ?
                          Càn Long đáp:

                          - Nay ngoài mặt khanh cứ nhận lệnh giữa triều chỉnh đốn binh mã. Phía sau lưng khanh hãy sai sứ sang nước Nam nói với Nguyễn Huệ thế này... thế này... Huệ tất sẽ dâng biểu cầu hoà. Có biểu của Huệ ta lập tức bãi binh mà không phải hổ thẹn cùng thiên hạ.
                          Phúc Khang An mừng rỡ bái tạ khen:
                          - Hoàng thượng thật là cao kiến!
                          Nói xong An liền về tư dinh viết thư rồi sai người đem sang Nam quốc.

                          Phần vua Càn Long, sau khi Phúc Khang An về rồi, vua ngửa mặt than:
                          - Ta ở ngôi đã năm mươi năm, nay tuổi đã bát tuần mà chưa bao giờ gặp phải cảnh hoà cũng không được mà đánh cũng không xong như thế này. Thật đáng giận thay!

                          Nói về sứ giả vâng lệnh Phúc Khang An đến Nam quốc yết kiến vua Quang Trung. Sứ thưa:

                          - Tâu Hoàng thượng, thần là người thân tín của quan tả đạo Giang Tây Thang Hoàng Nghiệp. Vừa rồi Hoàng đế nước thần sai đại tướng Phúc Khang An và chủ hạ thần đem năm mươi vạn quân sang nước của Hoàng thượng đánh báo thù cho bọn tướng là Hứa Thế Hành, Sầm Nghi Đống, Trương Triều Long và Thượng Duy Thăng. Chủ hạ thần vì không muốn can qua nên sai thần đến đây khuyên Hoàng thượng chủ động cầu hoà để hai nước tránh khỏi nạn binh đao dân chúng an hưởng thái bình. Xin Hoàng thượng minh xét.
                          Vua Quang Trung xua tay nói:
                          - Hoàng đế Càn Long nhà Đại Thanh vốn là vua nước lớn, vừa rồi đem ba mươi vạn quân sang đánh nước ta bị thua, ắt vì tự ái mà quyết báo thù. Ta e rằng vua Càn Long không chịu cho hoà. Đã biết thế còn cầu khẩn làm gì thêm hao hơi tốn mực, ngươi về bảo với Thang Hùng Nghiệp và Phúc Khang An rằng: muốn đánh thì cứ đem quân sang đây. Nước Nam ta tuy nhỏ nhưng để giữ gìn độc lập không quản ngại chiến chinh.
                          Sứ giả thất kinh nói:
                          - Vì muôn vàn sinh linh nên chủ hạ thần mới sai thần đến đây cùng Hoàng thượng bàn việc hoà bình. Chủ thần xin hiến một kế khiến Hoàng thượng nước thần thuận ý cho hoà!
                          Vua Quang Trung hỏi:
                          - Thang Hùng Nghiệp bày kế thế nào?
                          Sứ giả đáp:

                          - Trong triều đại Thành của thần có Thái sử Hoà Thân. Thái sư bàn thế nào Hoàng đế thần đều chuẩn y. Nay Hoàng thượng một mặt lo lót vàng bạc cho Thái sư để Thái sư nói thêm vào, một mặt Hoàng thượng nể nước lớn hạ mình dâng biểu xin hoà trước việc ắt sẽ thành.
                          Nghe xong vua Quang Trung vỗ ngai quắc mắt quát:
                          - Lão xược, Mãn Thanh các ngươi tuy là nước lớn nhưng đối với nước Nam ta là hai nước hai vua. Ta từ Tây Sơn dấy nghĩa ngang dọc tung hoành, bốn lần vào Nam, ba lần ra Bắc. Tiêu diệt quân Tiêm La bạt vía Chiêu Tăng, đập tan quân Thanh các ngươi kinh hồn Tôn Sĩ Nghị. Giúp dân dựng nước, tế cáo trời đất lên ngôi không chịu thụ phong của vua Càn Long sao ngươi dám bảo phải chịu hạ mình. Quan bay lôi ra chém!
                          Sứ giả thất kinh hồn vía lậy như tế sao rằng:
                          - Xin Hoàng thượng tha mạng, thần vì muốn hạ nhục khỏi nạn binh đao mà nói là lời chữ nào đã dám xúc phạm đến oai võ của Hoàng thượng. Vả lại hai nước đánh nhau không nên chém sứ. Hoàng thượng không hoà thời thôi sao lại chém thần.
                          Vua Quang Trung làm bộ giận dữ hét lớn rằng:
                          - Ngươi bảo hai nước đánh nhau không nên chém sứ, vậy tại sao ta sai Trần Danh Bính đến gặp Tôn Sĩ Nghị xin hoà, đã không cho hoà con chém sứ của ta?
                          Sứ giả sợ đã mất mật gắng sức van xin rằng:
                          - Xin Hoàng thượng tha mạng. Hoàng thượng là đáng minh quân lẽ nào lại làm như Tôn Sĩ Nghị há sao. Xin Hoàng thượng tha mạng.
                          Vua Quang Trung cười rằng:
                          - Ta vì mong muốn bình an dân quốc mới để cho ngươi được sống. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, ta chịu hạ mình viết biểu cầu hoà, nhưng bạc vàng châu báu nước Nam ta Tôn Sĩ Nghị đã sang cướp hết cả rồi. Vậy người hãy về thưa cùng Thang Hùng Nghiệp bảo Tôn Sĩ Nghị đem vàng bạc châu báu mà lo lót cho Hoà Thân. Nếu không bằng lòng như thế chứ ngươi muốn đánh thì cứ kéo quân sang đây!

                          Sứ giả hoàn hồn lậy tạ rồi thưa:
                          - Đáp ơn Hoàng thượng, thần nào dám không vâng. Đây là thư của chủ thần Thang Hùng Nghiệp kính trình lên Hoàng thượng.
                          Tiếp thư xong vua Quang Trung bảo:
                          - Ngươi hãy về thưa cùng Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp, ta xem thư xong sẽ viết biểu cầu hoà nhờ chủ ngươi chuyển giúp đến vua Càn Long.
                          Sứ giả đi rồi, vua Quang Trung mà thư ra đọc. Trong đó có đoạn:

                          "Xét họ Lê bên An Nam thuần phục thiên triều đã lâu, một sớm bị họ Nguyễn Tây Sơn chiếm đoạt mất đô thành, nên Hoàng đế ta phải sai tướng g ra ngoài cửa ải khôi phục đất nước cho họ Lệ và cứ cho vẫn được nối chức chịu phong như trước. Chẳng dè Lê Duy Kỳ vô tài kém đức không làm nên trò trống gì cả cứ chạy trốn hoài, đến nỗi nhà Lệ không ngóc đầu lên được. Từ đây về sau thiên triều quyết chẳng đem nước An Nam giao cho Duy Kỳ nữa.

                          Họ Nguyễn Tây Sơn nhà ngươi nhân trước khi chưa có chỉ dụ, mau mau làm biểu đem sang đây gõ cửa kêu với Đại Hoàng đế của ta rằng: Lê Duy Kỳ không được dân vọng, nhân dân bơ vơ và tản đi bốn ngả, bất đắc dĩ thần phải đem binh ra thay nhà Lê vỗ về bá tánh. Nào ngờ dọc đường gặp quân nhà vua đụng ai giết nấy, tình thế dữ dội. Nếu chúng thần bó tay chịu trói thì thế nào cũng bị giết sạch. Vì vậy đám di binh di mục chúng thần phải hết sức chống cự, tự biết như thế là tội nặng lắm. Cúi xin Đại Hoàng đế đoái thương mọi rợ không biết gì mà tha thứ cho.
                          Nếu các ngươi biết điều nói như thế chắc được Đại Hoàng đế soi xét lòng thành mà cho chủ trì việc nước.
                          Thuận theo thì được phúc, trái nghịch vạ vào thân. Tuỳ ngươi định đoạt".
                          Đọc đến đây vua Quang Trung cười rằng:
                          - Quả nhiên Càn Long vì sợ thua nên mới bảo Phúc Khang An sang khuyên ta cầu hoà trước để giữ thể diện thiên triều. Vậy là kế tha Tôn Sĩ Nghị để doạ Càn Long của ta đã có tác dụng rồi đó.

                          Ngô Thì Nhậm hỏi:
                          - Đây phải chăng là ý của Phúc Khang An vì sợ phải cất quân sang bỏ thây ở nước Nam ta nên tự sai sứ để bảo ta cầu hoà, chứ lý đâu lại là lệnh của Càn Long?
                          Vua Quang Trung cười bảo:
                          - Nếu không có lệnh của Càn Long mà Phụ Khang An và Thang Hùng Nghiệp làm là khi quân sao tránh khỏi mất đầu. Mà việc bang giao giữa hai nước phải đâu là việc nhỏ. Phúc Khang An tất phải biết rằng sớm muộn gì cũng lộ việc lại dám làm ư?
                          Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ cùng tâu:
                          - Hoàng thượng anh minh. Quả nhiên là Càn Long sợ thua mới làm thế thật.
                          Vua Quang Trung bảo quần thần rằng:
                          - Mãn Thanh là nước lớn gặp mười lần ta. Ta tạm thời nhịn họ, đợi ta dưỡng uy sức nhuệ, nước mạnh dân giàu rồi sẽ cất quân sang đánh chúng lấy lại đất Lưỡng Quảng trước kia là của nước Nam ta về sau người Tàu đoạt đi. Nay dù nhịn chúng để giảng hoà nhưng không vì thế mà chịu nhục. Bọn chúng bảo ta là mọi rợ, ta viết thư miệt thị chúng xem chúng đã làm gì ta nào.
                          Nói xong vua Quang Trung liền sai lấy bút nghiên ra viết thư. Viết xong vua trao Ngô Thì Nhậm và bảo:
                          - Đây là thư ta gửi riêng Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp. Con viết biểu gửi Càn Long xin hoà ta giao cho Ngô Thì Nhậm được trọn quyền lo liệu. Trong cương có nhu, cương nhu phải lúc, không được làm nhục quốc thể nước Nam ta. Nay ta rút đại binh về Phú Xuân - giao cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết trong coi võ bị, việc ngoại giao với nhà Thanh giao cho Ngô Thì Nhiệm. Hay nhớ không được làm nhục mệnh của ta.
                          Đoạn vua Quang Trung rút đại binh về Phú Xuân.
                          Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp nhận được thư vua Quang Trung liền giở ra đọc. Trong thư có đoạn:

                          "Ôi! Quân tinh cốt ở hoà thuận không cốt đông, cần tinh nhuệ không cần nhiều. Ngươi khéo thắng là ở chỗ rất mềm dẻo chứ không phải lấy mạnh đè yếu, nhiều hiếp ít. Ví bằng chút tình trước không được bày tỏ, thiên triều không khoan dung một chút cứ muốn động binh gây chiến, thế là làm cho nước nhỏ không được phụng sứ nước lớn thì bây giờ đại quốc bảo gì tôi cũng xin vâng theo mà thôi".

                          Đọc đến đây Phúc Khang An hỏi:
                          - Nguyễn Huệ nói vậy là ý thế nào?
                          Nghiệp đáp nhỏ rằng:

                          - Đại ý nói rằng nếu ta muốn đánh thì hắn sẽ đánh cho mà xem. Còn viết như vậy chẳng qua là dùng lời hoa mỹ cho ra vẻ cũng thuận mà thôi.
                          Phước Khang An giận dữ bảo:
                          - Nguyễn Huệ thật vô lễ, dám coi khinh thiên triều không có tướng giỏi hay sao. Thật là đáng giận! Còn việc lo lót cho Hoà Thân, Huệ liệu thế nào?
                          Nghiệp đáp:

                          - Huệ bảo sứ ta về bấm lại rằng: vàng bạc trong nước Tôn Sĩ Nghị đã cướp hết cả đi nên hắn không còn gì để lo lót. Hắn nhờ ta bảo Tôn Sĩ Nghị cho xin vàng bạc lo lót cho Hoà Thân để xong việc nghị hoà.
                          An nổi giận vỗ án quát:
                          - Thật là lão xược. Nếu đã thế ta xua năm mươi vạn quân sang đánh xem ai thắng ai bại cho hay.

                          Nghiệp vội can:
                          - Xin tướng quân bớt giận. Nếu ta không lo xong việc giảng hoà thì tôi e mạng không còn giữ được, nói gì đến việc cầm quân đánh Nguyễn Huệ.

                          An hỏi:
                          - Ông nói vậy nghĩa là sao.
                          Nghiệp đáp:

                          - Ta viết thư sai sứ sang bày hắn xin hàng, bức thư ấy Nguyễn Huệ còn giữ. Nay nếu ta giận mà bỏ việc nghị hoà ngộ nhỡ Huệ đưa thư ấy cho vua ta. Vua ta tất sẽ bắt tội ta làm nhục quốc thể thì liệu tôi và tướng quân có thoát chết được chăng.

                          Phúc Khang An nghĩ thầm rằng, ta nhận mặt lệnh của vua nói với Thang Hùng Nghiệp rằng riêng ta chủ việc nghị hoà, nên Nghiệp mới ngờ rằng ta kháng mệnh khi quân làm nhục quốc thể.
                          Nghĩ rồi Khang An ngửa mặt than:
                          - Từ cổ chí kim chưa từng nghe nói thiên tử phải nhịn nước nước Nam nhỏ bé như thế bao giờ!
                          Thân xong, liền vào triệu yết kiến vua Càn Long. Phúc Khang An quỳ tâu:
                          - Muốn tâu Hoàng thượng, binh pháp có câu: Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Nay quân ta nghe Nguyễn Huệ đánh tan ba mươi van quan trong năm ngày khiến Tôn Đại tướng quân người không kịp mắc giáp, ngựa không kịp đóng yên phải quăng cả sắc thư ấn tín chạy về nước nên lòng người đều nao núng. Còn quân Nam khí thế đang hăng, muôn người như một e rằng ta sang đánh chưa hẳn đã dễ dàng thủ thắng. Ấy là một lẽ. Nay sắp sang mùa hạ, nước An Nam đầy lam sơn chướng khí, quân ta là người phương Bắc không hạp phong thổ tất sinh bệnh tật. Ấy là hai lẽ. Bởi hai lẽ bất lợi ấy mà nhân lúc Nguyễn Huệ cầu hoà, Hoàng thượng nên chuẩn tấu để tránh sự can qua. Đó là làm sáng tỏ đức độ của Hoàng thượng vậy. Đây là tở biểu cầu hoà của Nguyễn Huệ, kính trình lên Hoàng thượng. Xin Hoàng thượng duyệt lãm.
                          Vua Càn Long tiếp tờ biểu trên tay Phúc Khang An mà nét mặt chẳng vui, không muốn mở ra xem. Thấy vậy Hoà Thân bước ra quỳ tâu:
                          - Lời Phúc Khang An rất phải. Xin Hoàng thượng minh xét.
                          Vua Càn Long đổi giận làm vui giơ biểu ra xem. Trong đó có đoạn:

                          "Ôi! Kể ra nhân dân ở gốc biển này ai chẳng là con đỏ của thiên triều. Đại Hoàng đế là bậc thay trời hành đạo há lại ưa viển vông ham công lợi mà gây sự với nước nhỏ ở biên cương khiến dân nước tôi phải sa vòng tên đạn.

                          Ôi! Cứ kể nhân sĩ giáp bình ở một dải bờ biển này sánh cùng Đại quốc không được một phần muôn. Những sông sâu trước mặt, cọp dữ sau lưng nên lòng người sợ chết tất ai cũng phải cố gắng hăng hái! Bởi thế nên thần không tránh được tiếng quang chuột bể đồ bèn đem năm ba tên trái tráng trong làng ra Bắc.
                          Mùng Năm tháng Giêng nam Kỷ Dậu thần tiến đến Lê Thành, những mong Tôn Sĩ Nghị nghĩ lại, hoạ may đem đồ ngọc lụa thay đồ can qua, đổi binh xa làm hội xiêm áo. thần nhũn nhặn xin bái yết, Nghị không thèm trả lời.
                          Quá bữa sau quân Nghị xông ra đánh trước, vừa mải giao phong đã đổ vỡ chạy tan bốn ngả đè lên nhau mà chết. Thây phơi đầy đồng nội, xác dồn dập nghẽn sông. Còn những quân chạy trốn các thôn trang thì bị dân đánh giết gần hết, chứ thần nào đánh đấm gì đâu? Ấy là do Tôn Sĩ Nghị không dùng quân kỷ để chúng hiếp gái cướp chợ làm cho muôn dân căm hận đến tận xương tuỷ mà ra.
                          Trộm nghĩ: Việc binh đao là bất đắc dĩ của thánh nhân. Đại Hoàng đế thâm nghiêm ngủ ở cửu trường, những chuyện cương thường ở biên cương Tôn Sĩ Nghị không hề tâu rõ, Hắn che lấp tai mắt nhà vua làm cho mọi sự rối ren như thế. Châu chấu đá xe thần thật không dám. Song cửa vua xa cách muôn dặm thần bị kẻ ở biên thần hiếp đáp không sao nhịn nổi nên hình tích mới dường như chống cự.
                          Nay lòng trời đã chán nhà Lê. Xét nghĩ Đại Hoàng đế là bậc theo ý trời ban trị hoá. Xin ngài theo lẽ tự nhiên thứ cho cái tội đánh Tôn Sĩ Nghị, lập kẻ tư mục này để chăn dân, dựng nước phên dậu để vững thế, ban ơn mệnh cho thần được làm An Nam Quốc Vương đứng làm bình phong ở phía Nam, giữ cái chức phiên mục khiến cho bản quốc có người cầm đầu cai quản vậy".
                          Đọc xong vua Càn Long nói:
                          - Tờ biểu này lời văn khiêm tốn, lý lẽ sắc bén, hào khí tiềm ẩn. Nguyễn Huệ thật là người tâm thì hoà, thần thì minh, mà tính thì dũng vậy. Nhưng nếu ta đồng ý bãi binh thuận hoà hoá ra ta là nước lớn mà số nước nhỏ hay sao?
                          Hoà Thân bàn rằng:
                          - Hoàng thượng buộc Nguyễn Huệ phải cống hai người vàng như triều Lê lúc trước, Nguyễn Huệ muốn hoà tất phải bằng lòng. Vậy ta chiếm thế thượng phong không sợ mang tiếng nước lớn mà sợ nước nhỏ. Nguyễn Huệ vội vã nộp cống người vàng còn cảm ơn ta tha mà không đánh.

                          Vua Càn Long khen:
                          - Kế của khanh khiến ta vừa được ơn vừa được lợi, nhất cử lưỡng tiện thật là diệu kế.
                          Nói xong vua Càn Long liền sai viết chiếu cho sứ giả đem sang Nam quốc.

                          Vua Quang Trung nhận được thư vua Càn Long liền cho với Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ đến hỏi:

                          - Càn Long thuận hoà nhưng ra điều kiện buộc ta phải nộp cống hai người vàng như triều Lệ thuở trước. Khanh trước là tôi nhà Lê, vậy việc này là như thế nào.
                          Nhậm đáp:

                          - Ba trăm năm trước vua Lê Thái Tổ khởi binh Lam Sơn đánh đuổi quân Mình xâm lược giành độc lập cho nước ta có giết hai viên đại tướng của quân Minh là Liễu Thăng và Lương Minh ở tại Chi Lăng. Sau vua Lê Thái Tổ xin hoà, nhà Minh buộc vua Lê phải đền hai người vàng to bằng người thật hàng năm nộp cống để đền mạng cho Liễu Thăng và Lương Minh. Vua Lê Thái Tổ ta vì muốn tránh binh đao nên phải tuân theo. Về sau thành lể. Nay Càn Long bù tà phải theo lệ ấy mới thuận cho hoà để thu lợi lớn.

                          Vua Quang Trung gằn giọng bão:
                          - Thật là vô lý! Bọn chúng sang xâm lược nước ta tàn hại dân ta, chết là đáng lắm, chúng không đền mạng cho dân ta thời thôi, sao ta lại đi đền mạng cho chúng? Muốn hoà thời hoà, muốn đánh thời đánh, nhất định không nộp cống người vàng.
                          Các tướng Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu cũng đứng lên nói:
                          - Lời Hoàng thượng rất phải. Việc giảng hoà nhờ tài Ngô tiên sinh. Nếu họ không hoà đã có Tây Sơn thập hổ chúng thần và Hoàng thượng lo liệu. Nhất định không chịu cống người vàng.
                          Ngô Thì Nhậm nhìn các tướng rồi hỏi:
                          - Ở đây chỉ có bảy vị tướng quân sao bảo là Tây Sơn thập hổ tướng?
                          Vua Quang Trung cười đáp:

                          - Thế ba người đang trấn thủ Bắc Hà là Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết lại không phải là hổ tướng hả sao? Mười tướng này từ ngày khỏi bình ở Tây Sơn đến nay được bá quan tặng danh hiệu là Tây Sơn thập hổ đại tướng quân đó!

                          Vỡ lẽ, Ngô Thì Nhậm nói:
                          - Hồng hạc bay cao nhờ vây cánh. Chính nhà Tây Sơn nhờ thập hổ tướng mà Hoàng thượng điều binh thần tốc khiến tướng thiên triều phải thất kinh hồn vía mà xui ta giảng hoà. Thần xin cố sức múa bút cầu hoà nhưng không nộp cống người vàng. Nhất định không phụ mệnh Hoàng thượng và làm nhục quốc thể nước Nam ta.
                          Nói xong Nhậm liền lấy bút nghiên ra viết biểu. Viết xong dâng vua. Xem rồi vua Quang Trung khen:
                          - Giọng văn của tiên sinh viết đúng ý như phong thái của ta. Thật hiểu ta không ai bằng tiên sinh vậy. Tiên sinh làm cách nào mà viết đến mức xuất thần như thế được?

                          Nhậm vô tình đáp:

                          - Ngươi hành văn muốn viết xuất thần phải biết hoá thân. Khi mượn danh Hoàng thượng viết biểu, hạ thần hoá thân tư tưởng mình là Hoàng thượng nên mới viết được lời của Hoàng thượng đó.

                          Vua Quang Trung rót một chung rượu thưởng cho Ngô Thì Nhậm. Đoạn vua đóng ấn triện vào tờ biểu ấy và sai sứ sang Mãn Thanh trao cho vua Càn Long, đoạn vua truyền bãi triều.
                          Ra ngoài Trần Văn Kỷ nói riêng với Ngô Thì Nhậm rằng:
                          - Ông là danh sĩ người trong nước đều biết tiếng sao trước mặt vua nói không biết giữ lời, muốn mất đầu hay sao chứ?

                          Nhậm lại hỏi Văn Kỷ:

                          - Tôi nói gì mà bảo là muốn mất đầu?

                          Kỷ đáp:

                          - Ông bảo rằng tư tưởng mình là Hoàng thượng thì không phải là đáng tội chết ư? Nếu một mai thất sủng thì thế nào?
                          Ngô Thì Nhậm cười đáp:

                          - Hoàng thượng là người khoan dung rộng lượng đời nào cố chấp chuyện vô tình.
                          Kỷ hỏi:
                          - Ông tự cho rằng mình thấu hiểu Hoàng thượng đến thế sao.

                          Nhậm đáp:

                          - Nếu không thấu được lòng vua sao tôi có thể viết biểu cho Càn Long y như là lời và ý của vua được.

                          Nói xong Nhậm cáo biệt ra về. Trần Văn Kỷ vào gặp vua Quang Trung rồi quỳ tâu:
                          - Xin Hoàng thượng tha tội cho Ngô Thì Nhậm.
                          Vua Quang Trung cười hỏi:
                          - Ta có bắt tội Nhậm bảo giờ sao khanh lại vào xin tội?
                          Kỷ đáp:

                          - Lúc này trong triều Ngô Thì Nhậm có nói câu "tư tưởng làm Hoàng thượng." Xét theo lý là khi quân muốn ngang hàng với vua, những xét theo tin là lời ngày thật của kẻ cầm bút. Xin Hoàng thượng chớ để tâm làm gì.
                          Vua Quang Trung cười mà nói:
                          - Cảm ơn khanh đã dùng lời trung thực mà can gián trẫm. Nhưng trẫm đây há lại chẳng biết rằng kẻ sĩ muốn mệnh danh người nào để hạ bút xuất thần tất phải hoá thân làm người đó hay sao? Trẫm đời nào lại để tâm vì câu nói vô tình của Ngô Thì Nhậm chứ!
                          Trần Văn Kỷ ra về than rằng:

                          - Ta hãy còn thua Ngô Thì Nhậm một bậc vậy.
                          Nói về vua Càn Long nhận được biểu của Nam Vương bèn giở ra xem. Biểu đại ý rằng:

                          "Từ ngàn xưa đến nay Đại quốc với An Nam đã phân hai nước rõ ràng, tiếng nói phong tục đều khác, bờ cõi cương vực đã chia. Vậy nên sau khi đuổi nhà Minh lấy lại nước xong, vua Lê Thái Tổ có viết trong bài Bình Ngô Đại Cáo rằng: "Từ Đinh, Lê, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương". Chứng tỏ ý trời và lòng người đều muốn định phân địa lợi. Nhà Minh vì trên cãi ý trời, dưới nghịch lòng người mới đem Bắc quân xâm phạm Nam quốc. Đâu chính đâu tà, thần tôi trộm nghĩ dù không biện luận nhưng anh minh như Đại Hoàng Để tất đã thấu rõ. Bởi không được thiên thời, địa lợi, nhân hoà nên nhà Minh mới bại binh ở Nam Quốc. Vua Nam là Lê Thái Tổ thấy nước mình bé nhỏ sợ nước lớn hiếp đáp mới phải cầu hoà. Nhà Minh nhân cơ hội ấy muốn việc hai tướng Lương Minh và Liễu Thăng tử trận tại ải Chi Lăng mà buộc Nam quốc đúc hai người vàng, hàng năm nộp cống để đền mạng cho hai tướng ấy, mới thuận cho hoà. Ngươi Nam vì bắt đắc dĩ mới bỏ vàng bạc ra mua sự sống cho mình. Nhưng còn thượng quốc nhận cống người vàng thì điều phải trái nên suy nghĩ như thế nào? Nay Đại Hoàng đế lệnh cho thần hàng năm phải nộp cống người vàng theo lệ nhà Lrr thuở trước, mới thuận cho hoà. Thiết nghĩ nước thần nghèo, chinh chiến triền miên, vả lại vừa rồi Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang đây thả sức vơ vét khiến tài vật trong nước nay đã cạn kiệt mà mỗi năm phải kiếm cho ra bốn vạn lượng vàng đức người nộp cổng thật là quá sức. Trong lúc dân nước thần chưa an cư lạc nghiệp, người người đói khát mà thần buộc phải vơ vét để nộp cống cho thượng quốc thử hỏi nhân đạo như Đại Hoàng Để không đau lòng sao được? Thậm chí, Đại Hoàng Để bắt phải đúc bón người vàng thế mạng cho Hứa Thế Hành, Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Sầm Nghi Đống hàng năm nộp cống thì dân nước thần ắt là phải chết. Còn nếu không nộp, Đại Hoàng Bé sai tướng sang bắt tội cũng không sống được. Vậy dân thần xin chọn cái chết nhàn hơn, mau hơn và vinh hơn. Xin Đại Hoàng Để nghĩ lại mà tha cho tội không nộp cống người vàng".
                          Đọc xong vua Càn Long tấm tắc khen:
                          - Ta đã từng ngao du bốn cõi, kết giao hào kiệt mười phương nhưng chưa từng gặp người nào anh hùng như Nguyễn Huệ cả. Nếu ta không thuận hoà hoá ra ta là kẻ không biết điều nhân đạo hay sao.

                          Nói xong vua Càn Long bèn bãi lệ cống người vàng và tự tay viết chiếu phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương.
                          Vua Quang Trung nhận được chiếu rồi bèn cười nói với Ngô Thì Nhậm và Trần Văn Kỷ:

                          - Nay ta hoà được với Mãn Thanh và bỏ lệ cống người vàng mà nước Nam ta đã gánh chịu suốt ba trăm năm. Ấy là một thắng lợi lớn vậy. Ta đọc sử nghe rằng đất lưỡng Quảng xưa kia là của nước Nam ta, về sau người Tàu đuổi người Nam đi mà lấy đất ấy. Điều này có hay chăng?

                          Kỷ đáp:

                          - Thưa, đúng là như vậy!
                          Vua lại hỏi:
                          - Hai khanh đều là danh sĩ làu thông kinh sử, vậy ta hỏi hai khanh: từ xưa đến nay nước Nam ta đã có ai dám đánh nước Tàu chưa?
                          Ngô Thì Nhậm đáp:

                          - Thưa, đã có nhiều ví như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đều có công đánh quân Tàu giữ nước. Gần đây có vua Lê Thái Tổ đuổi quân Minh cũng là đánh quân Tàu cả.
                          Vua Quang Trung cười hỏi:
                          - Ấy là người Tàu sang xâm lược nước ta rồi ta mới đánh. Trẫm muốn hỏi đã có ai đem quân sang đánh nước Tàu chưa?
                          Trần Văn Kỷ đáp:

                          - Hơn ngàn năm trước có Triệu Đà làm vua nước Nam Việt gồm cả đất Lưỡng Quảng đã đem quân sang đánh quân Trường Sa nước Tàu, sau Lưỡng Quảng mặt về tay người Tàu. Đời Lý có Đại tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân sang đánh Lưỡng Quảng cũng là sang đánh nước Tàu vậy!
                          Vua hỏi:
                          - Đánh Tàu rồi thắng bại thế nào.
                          Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm không biết ý vua muốn nói gì nên đưa mắt nhìn nhau. Nhậm dè dặt đáp:

                          - Hai người ấy sang đánh Tàu được toàn thắng nhưng phải vội kéo quân về.
                          Vua lại hỏi:
                          - Thế có ai sang đánh rồi chiếm đất của nước Tàu hay chưa?
                          Trần Văn Kỷ đáp:

                          - Việc này xưa nay chưa ai làm được.

                          Vua Quang Trung vụt đứng lên vỗ án nói:
                          - Đợi vài năm nữa ta sẽ sang đánh và chiếm đất Lưỡng Quảng xưa là đất của nước Nam ta cho các khanh xem. Nhưng trước tiên cần phải tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở miền Nam, sau đó sẽ điều toàn binh ra Bắc đánh Mãn Thanh.
                          Nghe vua Quang Trung nói xong Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm một lần nữa đưa mắt nhìn nhau trong lòng hoài nghi mà không dám nói.

                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #58
                            Chương 55

                            Không phục kẻ thù, Nguyễn Phúc Ánh bị ngất.
                            Hiểu được bụng Chúa, Lê Văn Quân phải chết.


                            Nói về vua Thái Đức ở Hoàng đế thành Quy Nhơn phủ nghe quân về báo:
                            - Tâu Hoàng thượng, quân Mãn Thanh ở nước Tàu đem ba mươi vạn đại binh xâm phạm Bắc Hà. Bắc Bình Vương liền lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra Bắc chống nhau với quân Thanh.
                            Vua Thái Đức thở dài nói:
                            - Quả nhiên thằng Huệ có chí làm vua. Thảo nào trước kia mới lần ta muốn lên ngôi là nó ba lần bảy lượt can ngăn. Nay nó lên ngôi vua, thật không xem ta ra gì nữa.
                            Vua vừa dứt lời quân thám mã lại về báo:
                            - Tâu Hoàng thượng, vua em Quang Trung kéo quân ra Bắc chỉ trong năm ngày tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh. Nguyên soái quân Thanh là Tôn Sĩ Nghị ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp một mình chạy thoát về nước.
                            Vua Thái Đức than rằng:

                            - Nguyễn Huệ quả nhiên tài ba tột bực, ta không thể nào sánh kịp. Nhưng dù nó tài ba đến đâu đi nữa sao dám coi khinh ta mà lên ngồi Hoàng đế chứ?

                            Đoạn vua sai quân mang rượu ra uống đến say mềm. Lúc quân hầu dìu vào giường ngủ vua Thái Đức con lảm nhảm rằng: "Thằng Huệ không xem ta ra gì nữa rồi!".
                            ***
                            Phần Nguyễn Vương Phúc Ánh ở Gia Định, nghe quân vào báo:
                            - Tâu Thượng vương, vua Càn Long nhà Thanh sai đại tướng là Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn quân xâm phạm Bắc Hà. Nguyễn Huệ liền lên ngôi lấy để hiệu là Quang Trung rồi lập tức đem mươi vạn bình ra Bắc cự địch.

                            Nguyễn vương vỗ tay cười lớn nói:
                            - Nguyễn Huệ dù tài giỏi thế nào cũng không thể là đối thủ của quân Mãn Thanh. Nguyễn Nhạc cai quản từ ải Hải Vân trở vào, lại là người bất tài nhu nhược. Phen này thật là trời giúp ta rồi vậy. Quân bay mau mời các tướng đến bàn việc quốc gia.
                            Nguyễn vương vừa dứt lời thì các tướng Võ Tánh, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Tống Viết Phước, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Phạm Văn Sĩ, Nguyễn Huỳnh Đức, Hồ Văn Lân, lão tướng Nguyễn Nghi, mưu sĩ Ngô Tùng Châu, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức cũng đến. Mọi người cũng quỳ xuống tâu:
                            - Chúng thần xin chúc mừng Vương thượng!
                            Nguyễn vương ngạc nhiên hỏi:
                            - Sao các khanh lại vô cớ chúc mừng ta?
                            Ngô Tùng Châu thưa:
                            - Nguyễn Huệ nhất định phải bại binh ở Bắc Hà. Đã là cơ hỏi ngàn năm để Thượng vương khôi phục cơ đồ. Chúng thần chúc mừng Thượng vương là do thế.
                            Ngô Tùng Châu nói xong, Nguyễn Vương vùng ôm mặt khóc. Võ Tánh ngạc nhiên hỏi:
                            - Cớ gì Thượng vương lại khóc?
                            Nguyễn vương lau nước mắt đáp:
                            - Đành rằng ta với anh em thằng buôn trâu Nhạc Huệ thù không đội trời chung. Nhưng vua Càn Long nhà Thanh mượn tiếng đánh Tây Sơn mà xua quân tàn hại lương dân, hỏi ta không đau lòng sao được.

                            Mọi người đồng thanh nói:
                            - Đại đức của Thượng vương xưa nay hiếm thấy. Nhưng thời cuộc đã như thế, xin Thượng vương chớ quá đau lòng.
                            Nguyễn vương lấy vạt áo chấm nước mắt rồi cầm gươm lệnh giơ lên bảo:
                            - Các tướng mau chuẩn bị binh mã, nhận cơ hội này tiến đánh Bình Thuận, Diên Khánh.
                            Nguyễn vương vừa dứt lời, xây quân thám mã về báo:
                            - Tâu Thượng vương, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc chỉ nội năm ngày tiêu diệt hơn hai mươi vạn quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp đông yên, quăng cả sắc thư ấn tín chạy trốn về nước.
                            Nguyễn vương nghe qua, tháo mồ hôi khắp người, bàng hoàng buông rơi gươm lệnh, các tướng đều giật mình kinh sợ. Bỗng Nguyễn vương mặt mày tái nhợt, chân tay co cứng ngã vật ra đất. Mỗi người vội vã đưa Nguyễn vương đến ngự nội long sàng rồi gọi quan ngự ý đến. Quan ngự ý xem mạch cho Nguyễn vương rồi bảo:
                            - Các ngài ra ngoài đứng đợi, đừng làm kinh động đến long thể.
                            Mọi người ra ngoài rồi, Nguyễn Vương vùng ngồi dậy bảo quan ngự y:
                            - Ngươi hãy ra nói với các tướng thế này... thế này... nếu sai lời phải chém.
                            Ngự y vừa mở cửa bước ra các tướng liền xúm lại hỏi:
                            - Thượng vương long thể thế nào?
                            Ngự y đáp:
                            - Thượng vương thình lình trúng cơn gió lạ, giờ đã khỏe hắn. Người bảo tôi thưa cùng chư vị tướng quân đến chờ nơi đại điện rồi người sẽ tới bàn việc quốc gia.
                            Lê Văn Quân nghi ngờ hỏi:
                            - Cơn gió gì mà làm Thượng vương ngắt đi như thế.

                            Ngự y ngẫm nghĩ rồi đáp:
                            - Ngọn gió ấy mang khí độc chết người gọi là Hắc tuyến phòng, ai trúng phải gió này lập tức chết ngay. Nhờ Thượng vương có chân mệnh đế vương nên chẳng hề hấn gì.
                            Các tướng đều lè đầu lè lưỡi rồi kéo nhau đến đại điện chờ Nguyễn vương. Lát sau Nguyễn vương đến, Vương hùng dũng bước lên ngai rồi hạ lệnh:
                            - Truyền lệnh ta lập tức xuất đại binh Bắc phạt.
                            Ngô Tùng Châu can:
                            - Xin Thượng vương chờ xuất đại binh.

                            Nguyễn vương cau mày hỏi:
                            - Tại sao?
                            Châu đáp:
                            - Nguyễn Huệ đuổi được quân Thanh đã đem đại binh rút về Phú Xuân. Nếu ta xuất đại binh ra đến Bình Thuận ngộ nhỡ Nguyễn Huệ lại đem thuỷ quân vào cửa Cần Giờ tiến đánh Sài Côn thì liệu thế nào.
                            Nguyễn vương ngẫm nghĩ rồi đáp:
                            - Lời khanh rất có lý. Vậy ta phải làm sao?
                            Ngô Tùng Châu đáp:
                            - Thượng vương nên đóng quân phòng thủ Sài Côn rồi sai tướng đem binh đánh lấy Bình Thuận. Đó là thượng sách!
                            Nguyễn vương bèn quay sang hỏi các tướng:
                            - Ai có thể lãnh binh ra đánh Bình Thuận?
                            Lê Văn Quân bước ra nói:
                            - Thần xin đi!

                            Võ Tánh cũng bước ra thưa:
                            - Thần cũng xin đi!

                            Nguyễn vương hạ lệnh:
                            - Nay ta phong Lê Văn Quân làm chánh tướng, Võ Tánh làm phó tướng, hai người mau đem binh Bắc tiến. Trước là lấy đất Bình Thuận, sau là dò xét xem quân Tây Sơn của Nguyễn Nhạc mạnh hay yếu thế nào.
                            Lê Văn Quân bước đến lãnh lệnh, còn Võ Tánh chần chừ chưa chịu đi. Nguyễn vương hỏi đùa rằng:
                            - Võ Tánh còn muốn điều gì chăng. Hay là sợ xa quận chúa Ngọc Du?
                            Võ Tánh nghiêm trang đáp:
                            - Lê tướng quân tuổi cao sức yếu, nếu phong là chánh tướng e tướng sĩ không phục.
                            Lê Văn Quân giận lắm lớn giọng rằng:
                            - Ta tuy giá thật nhưng trí dũng có thừa. Nếu không như thế sao mới mấy năm trước đây ta bắt sống Võ Nhân ở thành Sài Côn rồi đem quân đuổi Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập bỏ thành Trường Đồn trốn về rừng Tam Phụ.
                            Nghe Lê Văn Quân nói xong Võ Tánh giận tái mặt nói chẳng ra lời. Nguyễn vương vội can:
                            - Hai tướng dừng tranh nhau nữa. Nay ta phân Võ Tánh và Lê Văn Quân mới người được lãnh một đạo quân thuỷ hoặc bộ. Ai chiếm được Bình Thuận trước sẽ được phong làm chánh tướng. Hai người có bằng lòng chăng.

                            Lê Văn Quân và Võ Tánh cùng thưa:
                            - Thần bằng lòng!
                            Nguyễn vương lại hỏi:
                            - Vậy ai lãnh quân thuỷ, ai lãnh quân bộ.
                            Võ Tánh đáp:
                            - Nay đang mùa gió Đông nam thổi mạnh, quá thuỷ tất sẽ tiến mau hơn. Lê tướng quân đã cao tuổi xin nhường người lãnh quân thuỷ.
                            Nói xong Võ Tánh lành binh phù quân bộ, còn Lê Văn Quân lành binh phù quân thuỷ rồi quay đi. Nguyễn vương gọi Lê Văn Quân lại hỏi:
                            - Lê tướng quân năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ.
                            Văn Quân đáp:
                            - Thưa đã ngoài sau mươi!
                            Nguyễn vương trìu mến hỏi:
                            - Lê tướng quân đã hơn mười năm theo phò ta qua bao gian khó hiểm nguy này đã răng long đầu bạc. Tóc khanh bạc ta đã thấy rồi, vậy còn răng đã long chua.
                            Văn Quân cảm động đáp:
                            - Thưa đã rụng mất vài chiếc.
                            Nguyễn vương bảo:
                            - Răng cứng thì mau gẫy, lưỡi mềm mới còn nguyên. Ta khuyên tướng quân đừng nên cứng cỏi quá.
                            Lê Văn Quân cúi đầu không đáp rồi lậy mà đi.

                            ***
                            Bấy giờ trấn thủ Bình Thuận là tướng Tây Sơn tên Lê Trung. Hôm ấy quân do thám Tây Sơn về bảo với Lê Trung rằng:
                            - Thuỷ quân Nguyễn Gia Miêu do Lê Văn Quân thống lĩnh đã đổ bộ vào phía Đông thành, bộ quân do Võ Tánh chỉ huy đã tiến gần rừng Lá. Xin báo cùng tướng quân định liệu.

                            Lê Trung bên gọi còn là Lê Chất đến bảo:
                            - Ở phía Nam thành có một khu rừng Lá âm u hiểm trở, con hay đem một đạo binh đến phục ở rừng này chờ bộ quân Võ Tánh. Cha sẽ đem quân bỏ thành Bình Thuận lui về Diên Khánh.
                            Lê Chất hỏi:
                            - Thanh Bình Thuận nhỏ, tường không cao, hào không sâu, có phải cha định dùng kế "không thành"?
                            Lê Trung cười đáp:
                            - Con còn nhỏ mà đã làu thông binh pháp, cha thật chẳng lo gì nữa.
                            Nói rồi cha con chia nhau mà đi. Lê Văn Quân dẫn quân đến gần thành, bỗng thấy cửa thành mở toang, một viên tướng dẫn quân xông ra đánh nhau. Đánh được vài hiệp Lê Văn Quân gạt đao tướng ấy rồi hỏi:
                            - Ngươi có phải trấn thủ Bình Thuận là Lê Trung?
                            Tướng ấy gắng gượng đáp:
                            - Phải, ta chính là Lê Trung.
                            Văn Quân cười lớn nói:
                            - Ta nghe Lê Trung trí dũng song toàn, nay một biết là hữu danh vô thực.
                            Nói rồi vung đao mà chém, tướng ấy đánh không lại bèn quay ngựa chạy vào thành. Lê Văn Quân thúc quân đuổi theo. Quân Tây Sơn không kịp đóng cổng thành, quân Nguyễn Gia Miêu ồ ạt trấn vào. Văn Quân đuổi theo tướng ấy đến cửa Bắc thành, tướng ấy lại dẫn quân chạy ra ngoài thành. Lê Văn Quân gò ngựa lại nói:
                            - Trời đã tối rồi không thêm đuổi nữa. Ta và thành rồi báo tin thắng trận cho Thượng vương hãy xem Võ Tánh còn dám tranh quyền với ta chăng.

                            Đoạn Lê Văn Quân sai lính canh phòng cẩn mật rồi vào tướng phủ nghỉ ngơi. Hôm sau, trời vừa tờ mờ sáng lính canh vào đánh thức Lê Văn Quân dậy nói:
                            - Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn đã bao vây bốn phía.
                            Văn Quân thất kinh lên mặt thành xem xét. Nhìn xuống thấy một viên đại tướng đầu đội kim khôi, mặc hồng bào, tay cầm đại đao ngồi trên bạch mã. Lê Văn Quân gọi vọng xuống hỏi:
                            - Lê Trung đã bị ta đánh chạy rồi. Tướng kia là ai mà dám đến chịu chết.

                            Tướng ấy vuốt chòm râu đen như mực cười lớn, nói:
                            - Lê Trung chính là ta đây. ngươi hôm quá đánh với người chỉ là một tên tiểu tướng của ta thôi. Lê Văn Quân, hôm này là ngày tận của ngươi sao còn chưa mở cửa ra hàng?
                            Văn Quân than thầm:
                            - Cũng do ta nôn nóng tranh công cùng Võ Tánh mà trúng kế "không thành" của Lê Trung.
                            Than xong Lê Văn Quân liền bảo lính sắp sẵn súng đạn cung tên, gỗ đã, nước sôi hễ quân Tây Sơn tấn công thì cố sức chống trả. Lê Trung trong thấy quân Nguyễn sửa soạn phòng thủ bèn cười lớn rằng:
                            - Ta không cần phải đánh ngươi, đừng phong để uổng công. Trước khi rút quân ta đã đem hết lương thực đi rồi. Vậy ta xem người sống được mấy ngày.
                            Lê Văn Quân giật mình gọi lính đi xem xét kho lương trong thành. Một lúc lính quay về báo:
                            - Quả nhiên Lê Trung dùng kế "không thành" nên đã đem lương thực đi trước rồi.

                            Lê Văn Quân thất kinh bảo tướng sĩ có sức chống giữ chờ quân cầu viện, đoạn gọi tuỳ tướng là Trần Kiến đến bảo:
                            - Nay ta bị giặc Tây Sơn vây khốn. Vậy ngươi có thế phá vây về báo cho bộ quân Võ Tánh đến cứu được chăng.

                            Trần Kiến đáp:
                            - Xin tướng quân chớ lo. Tôi quyết về gặp được Võ Tánh rồi mới chết.
                            Nói xong Kiến lên ngựa cầm giáo đem theo vài trăm quân mở cửa Nam thành xông ra. Quân Tây Sơn trong thấy liền kéo đến vây đánh. Quân Nguyễn thế cô lần lượt chết hết cả, một mình Trần Kiến tả xung hữu đột thoát ra khỏi trấn nhằm hướng Nam quất ngựa mà chạy. Vừa đến khu rừng Lá bỗng nghe tiếng quát lớn rằng:
                            - Tướng kia chớ chạy, có ta là Lê Chất đến đây.

                            Trần Kiến chẳng nói chẳng rằng vung đao đâm Lê Chất. Đánh nhau mới vài hiệp Kiến bị Lê Chất bắt sống. Chất hỏi Kiến:
                            - Ngươi một mình, một ngựa chạy đi đâu?

                            Kiến trừng mặt quát:
                            - Ta phá vây chạy về bảo bộ quân Võ Tánh đến cứu chủ ta là Lê Văn Quân ở thanh Bình Thuận. Nay bị người bắt được, muốn chém giết mặc lòng, cần gì mà hỏi lôi thôi.
                            Lê Chất hỏi:
                            - Có phải Võ Tánh là đệ nhất hùng trong Gia Định tam hùng đó chăng?

                            Kiến đáp:
                            - Nghe tiếng đệ nhất hùng trong Gia Định ta hùng người đã tháo mồ hôi chưa? Hãy mau giết ta đi nếu để ta thoát được bảo Võ Tánh đến đây ắt ngươi phải chết.
                            Lê Chất quay lại bảo quân:
                            - Mau cởi trói, cấp ngựa tha cho Trần Kiến đi.

                            Kiến được cởi trói ngạc nhiên hỏi:
                            - Vì sao người lại thả ta đi?
                            Chất đáp:
                            - Ngươi hãy về báo cùng Võ Tánh kéo quân để đây thử sức một phen.
                            Kiền mừng rỡ lên ngựa mà đi. Tả hữu hỏi Lê Chất:
                            - Sao tướng quân lại thả Trần Kiên về báo tin cho Võ Tánh?
                            Lê Chất cười đáp:
                            - Ta thả Trần Kiến là để bắt Võ Tánh vậy.
                            Đoạn Lê Chất bảo quân:
                            - Truyền lệnh ta toàn quân đến phục ở rừng Lá chờ Võ Tánh đến cứu Lê Văn Quân thì đổ ra đánh.

                            Phần Trần Kiến chạy qua khỏi rừng Lá được mấy mươi dặm thì gặp Võ Tánh kéo quân đến. Trần Kiến xuống ngựa quỳ thưa:
                            - Tướng quân Lê Văn Quân bị tướng Tây Sơn là Lê Trung dùng kế không thành vây ở thành Bình Thuận rất ngặt. Lê tướng quân sai tôi phá vây để cầu tướng quân kịp đem quân cầu viện.
                            Võ Tánh hỏi:
                            - Cha con Lê Trung, Lê Chất đều là dũng tướng của Tây Sơn. Ngươi đơn thân độc mã sao có thể thoát được vòng vây mà đến gặp ta. Hay người đã hàng Lê Trung rồi đến dụ ta vào ổ phục kích của giặc.
                            Trần Kiến khích Võ Tánh rằng:
                            - Xin tướng quân chớ khá nghi ngờ Nguyễn tôi bị Lê Chất bắt sống. Nguyên tôi định đi cầu cứu tướng quân, Lê Chất cười bảo: "Võ Tánh bất tài vô dụng mà cũng tự xưng là Đệ nhất hùng trong Gia Định tam hùng". Rồi Chất tha tôi đi để báo cho tướng quân để đánh cho rõ thực hư.
                            Chẳng ngờ Võ Tánh quay lại bảo quân:
                            - Truyền lệnh ta dừng quân hạ trại.
                            Trần Kiến thất kinh hỏi:
                            - Nếu tướng quân không cứu thì chúa tôi nguy mất. Sao tướng quân chẳng chịu tiến binh.
                            Tánh đáp:
                            - Lê Chất thả người về khích ta, tất hẳn phục binh ở rừng Lá để đánh ta. Nếu ta tiến binh là và cho chết. Vậy người hãy kíp vào Sài Côn bão cho Thượng vương đem thuỷ binh ra cứu.

                            Trần Kiến nói rằng:
                            - Về Sài Côn cầu cứu tôi e nước xa không cứu được lửa gần. Giờ chỉ trông cậy vào tướng quân mà thôi.
                            Võ Tánh thoái thác rằng:
                            - Ta đem binh đến rừng Lá là vào chỗ chết, là không cứu được Lê Văn Quân. Ngươi về Sài Côn bảo Thượng vương sẽ sai tướng đường thuỷ thuận gió Đông Nam ra cứu như vậy có thể kịp.
                            Trần Kiến thấy Võ Tánh đã quyết bèn vội vàng lên ngựa bất kể ngày đêm chạy về Sài Côn báo tin cùng Nguyễn vương. Nguyễn vương họp các tướng đến hỏi:
                            - Võ Tánh biết Lê Chất phục binh ở rừng Lá nên không thể đem quân bộ đến cứu Lê Văn Quân. Trần Kiến về đây xin ta đem thuỷ binh ra cứu. Vậy ai có thể đi được?
                            Nguyễn Huỳnh Đức bước ra thưa:
                            - Thần và Nguyễn Văn Thành xin đến Bình Thuận cứu Lê Văn Quân.
                            Nguyễn vương mừng rỡ nói:
                            - Hai khanh đều là tướng trong Gia Định Tam hùng, hãy ra đánh một trận cho Lê Trung, Lê Chất biết tài.
                            Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức kéo quân đến Bình Thuận rồi đổ bộ lên bờ, chẳng dè Lê Trung phòng thủ kỹ càng, quân Nguyễn đánh mấy trận liền mà không thắng được. Nguyễn Văn Thành bảo Huỳnh Đức:
                            - Lê Trung tinh thông binh pháp, hắn đã cho quân án ngữ các nơi hiểm yếu ta không đành được. Phải tìm cách thông báo cho Lê lão tướng quân hẹn giờ mở của thành từ trong đánh ra, ta từ ngoài đán vào mới mong phá được vòng vây.
                            Trần Kiến bước ra thưa:
                            - Tôi xin liều mình vào thành báo cho chúa tôi được biết.
                            Nói rồi Trần Kiến lại cầm giáo lên ngựa xông vào thành. Vào đến gần thành Trần Kiến thương tích đầy mình. Biết sức đã cạn kiệt Trần Kiến bèn trương cung lắp tên bắn vào thành rồi liền bị quân Tây Sơn giết chết.
                            Lê Văn Quân trên mặt thành bắt được mũi tên thử của Trần Kiến với mở ra xem. Xem xong Lê Văn Quân khóc rằng:
                            - Võ Tánh không muốn cứu ta nên mới bắt Trả Kiến về Sài Côn cầu cứu. Thương thay Trần Kiến. Đáng giận thấy Võ Tánh!
                            Đoạn Lê Văn Quân đem toàn quân mở cửa cổng thành ra đánh, gặp Lê Trung đem quân chặn đường. Đánh một hồi quân Nguyễn chết trận gần hết mà Văn Quân vẫn chưa ra khỏi vòng vây. Trong cơn nguy khốn bỗng phía sau quân Tây Sơn hỗn loạn, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành đem quân đánh tới. Lê Trung trông thấy bèn vung đao chỉ về phía tả, tiền quân Tây Sơn liền chỉnh đốn đội ngũ lui về phía tả. Lê Trung lại gio đao chỉ về phía hữu, hậu quân Tây Sơn chỉnh đốn đội ngũ lui về phía hữu. Nhờ Lê Trung hai lần giơ đao điều binh mà Văn Quân thoát được vòng kiêm toả ở của đao pháp Lê Trung. Văn Quân quất ngựa chạy khỏi vòng vây. Gặp Văn Thành và Huỳnh Đức, Lê Văn Quân bẽn lẽn nói:
                            - Cám ơn hai vị tướng quân đã cứu mạng. Vậy ta nên thừa thắng tiến đánh Lẻ Trung lấy thành Bình Thuận.
                            Nguyễn Huỳnh Đức can:
                            - Lê Trung dùng binh quy củ không dễ gì đánh được. Theo tôi ta nên rút quân về báo cùng Thượng vương là hơn.
                            Quân Nguyễn rút binh về Sài Côn. Ra mắt Nguyễn vương, Lê Văn Quân quỳ tâu:
                            - Thần phụng mệnh đem quân đánh Bình Thuận chẳng may thua trận làm nhục mệnh Thượng vương. Xin Thượng vương trị tội.
                            Nguyễn Vương vỗ án quát:
                            - Trước khi đi ta đã dặn dò ngươi đừng nên cứng cỏi quá. Ngươi chẳng nghe lời, tham tranh công không tự lượng sức làm chết hết mấy ngàn quân của ta. Tội thật đáng chết.

                            Lê Văn Quân bình thản đập đầu lậy thưa:
                            - Thần đã biết tội. Nhưng ba ngàn quân ta bị chết ở Bình Thuận không phải tội của một mình thần.
                            Nguyễn vương hỏi:
                            - Vậy con tội của ai.
                            Văn Quân đáp:
                            - Bộ tướng của thần là Trần Kiến phá vây chạy về báo tin cho Võ Tánh. Võ Tánh không đem quân đến cứu mà buộc Trần Kiến phải về Sài Côn báo tin. Bởi thế lâu ngày quân của thần ở trong thành phải ăn mỗi ngày một nửa khẩu phần của mình, thành ra khi gặp giặc đánh không nổi mà phải chết. Tội này Võ Tánh cũng có một phần!
                            Nguyễn vương xua tay bảo:
                            - Tạm cho ngươi lui về nghỉ, ta sẽ triệu hồi Võ Tánh về đầy hỏi cho ra lẽ. Nếu Võ Tánh thực có tội ta quyết chẳng tha.
                            Nói xong Nguyễn vương truyền bãi triều.
                            Đêm ấy vợ Võ Tánh là quận chúa Ngọc Du tìm đến Hoàng cung gặp Nguyễn vương. Ngọc Du hỏi:
                            - Nghe nói Hoàng huynh đình triệu hồi chồng em về bắt tội. Xin hỏi Hoàng huynh điều ấy có chăng?

                            Nguyễn vương cười đáp:
                            - Võ Tánh có công đem binh giúp ta lấy lại đất Gia Định, lại là tướng trẻ tài năng, Võ Tánh lại là em rể của ta, sao ta bắt tội Võ Tánh cho được. Em chớ quá lo!
                            Ngọc Du hỏi:
                            - Nhưng Lê Văn Quân cứ một mực đòi quy tội cho chống em, vậy Vương huynh liệu tính thế nào?
                            Nguyễn vương đáp:
                            - Lúc trước ở đảo Côn lôn ta đặt tên trái bần là trái thuỷ liễu, Lê Văn Quân bảo ta là tham sang phụ khó. Ở đảo Phú Quốc ta gửi hoảng tử Cảnh theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, Lê Văn Quân bảo ta là bán nước cầu vinh. Rồi khi quân Tiêm La về giúp, nữ tặc Tây Sơn Bùi Thị Xuân bắn thư kẻ việc nó tha cho mẹ con ta ở cửa Hàm Luông để khích ta ra đánh, Lê Văn Quân lại bắt được thư ấy. Nếu tin này tiết lộ thật chẳng hay ho gì. Ta nhân lúc này trừ Văn Quân mới được.
                            - Nhưng Lê Văn Quân là công thần theo phò Vương huynh từ thuở long đong, nay lấy cớ gì trừ đi để khỏi mang tiếng với thiên hạ.
                            - Lê Văn Quân tính tình cứng cỏi; ta không bắt tội, nhưng có cách làm cho Lê Văn Quân phải chết.
                            Nói xong Nguyễn vương gọi sứ giả đến bảo:
                            - Ngươi hãy gọi Lê Văn Quân đến gặp ta.

                            Sứ giả đi một hồi rồi về báo:
                            - Thưa Thượng vương, Lê tướng quân lâm trọng bệnh không đi được, bảo hạ thần về thưa lại Thượng vương.
                            Nguyễn vương hỏi:
                            - Ngươi thấy Lê Văn Quân thần sắc thế nào?
                            Sứ giả đáp:
                            - Lê tướng quân thần sắc nhợt nhạt ắt là bệnh thật.
                            Nguyễn vương bảo:
                            - Ngươi hãy mang thư ta đến trao cho Lê Văn Quân, lấy ấn tín về đây cho ta.

                            Sứ giả vâng mệnh mang thư của Nguyễn vương trao cho Lê Văn Quân. Quân giở thư ra đọc, thư rằng:

                            "Nay ta định phong cho khanh làm Bình Bắc đại tướng quân đem binh đánh Tây Sơn, không ngờ khanh lại lâm trọng bệnh. Việc quân khẩn cấp, vậy khanh hay tạm trả ấn tín để ta sai tướng khác đánh giặc. Bao giờ khanh hết bệnh ta sẽ trả lại".
                            Đọc thư xong Lê Văn Quân liền lấy ấn tín trao cho sứ giả rồi nói rằng:
                            - Phiền ngài về thưa cùng Thượng vương rằng: "Thỏ non dù còn nhưng chó săn đã già cũng nên giết thịt". Thượng vương muốn ta chết thì ta xin chết vậy!
                            Nói rồi liền bưng chén thuộc độc mà uống. Uống vừa khỏi miệng Lê Văn Quân thổ huyệt chết ngay. Sứ giả về thuật lại việc Lê Văn Quân, Nguyễn vương bên sang ôm thây Lê Văn Quân khóc rằng:
                            - Lê lão tướng quân sao lại cố chấp đố tài như vậy, ta chỉ tạm mượn ấn tín mà thôi, nào có bạc đãi tướng quân bao giờ, sao lại nông nổi thế!
                            Các tướng thấy cảnh này đều bùi ngùi rơi lệ, rồi xúm lại khuyên can mãi Nguyễn vương mới thôi khóc, Nguyễn vương gạt nước mắt bảo:
                            - Truyền lệnh ta xuất công quỹ lo hậu sự cho Lê lão tướng quân theo lễ công hầu và lệnh các tướng sẽ đều phải để tang.
                            Việc hậu sự Lê Văn Quân xong, Ngô Tùng Châu đến gặp riêng Nguyễn vương nói:
                            - Thưa Thượng vương, dân trong thành đặt lời ca phản nghịch ạ.
                            Nguyễn vương hỏi:
                            - Thế nào là lời ca phản nghịch.
                            - Họ đặt thành câu ca rằng:

                            "Xin đừng được tướng bỏ quân

                            Hậu phò quên kẻ trước từng gian lao".
                            - Hai câu ấy là ý thế nào?
                            - Câu trên ý nói được tướng mới, bỏ Lê Văn Quân đã từng gian lao theo phò Vương thượng. Hậu phò trong ca được ám chỉ Hậu Quân phò mã Võ Tánh đây à.
                            Nguyễn vương thở dài hỏi:
                            - Theo khanh ta nên đối phó thế nào.
                            Châu đáp:
                            - Ta nên tìm người đặt câu ca ấy trị tội để làm gương cho kẻ khác.
                            Nguyễn vương bảo:
                            - Ấy không phải là thượng sách.
                            Tùng Châu hỏi:
                            - Hạ thần ngu muội không nhìn xa thấy rộng. Xin hỏi Thượng vương thế nào mới là thượng sách?
                            Nguyễn vương hỏi lại Ngô Tùng Châu rằng:
                            - Khanh đọc truyện xưa, vua Tống là Triệu Khuông Dân lúc con long đong chạy nạn ngang qua nơi diễn tuồng hát. Hôm ấy tuồng hát diễn đoạn vua Đường là Lý Thế Dân bị Cáp Tô Văn rượt đuổi, rồi Uất Trì Cung sẽ ra cứu giá. Triệu Khuông Dân dừng lại xem tuồng hát, thấy Cáp Tô Văn đuổi Lý Thế Dân nguy cấp mà Uất Trì Cung mãi chẳng thấy ra. Tức Khuông Dân bèn nghĩ thầm rằng, nếu ta không cứu Ly Thế Dân thì lấy ai lập nền nhà Đường. Nghĩ rồi liền trương cung lắp tên nhằm tên kép hát đóng vai Cáp Tô Văn mà bắn. Tên kép hát trúng tên chết tươi. Vậy ta hỏi khanh theo khanh nên xử Triệu Khuôn Dân thế nào?
                            Ngô Tùng Châu đáp:
                            - Nếu là người thường tất phải xử đền mang. Những Triệu Khuông Dân có chân mệnh đế vương nên người đời sau đã không xét việc Triệu Khuông Dân giết người mà còn luận rằng tên kép hát kia tới số chết.
                            Nguyễn vương cười ha hả đáp:
                            - Ta cũng có chân mệnh để vương nên ở đảo Côn lôn ta cầu nước trời liền cho nước. Quân Tây Sơn vô đạo, trời nổi bão đánh chìm. Nay ta nhắc lại chân mệnh đế vương của ta có thần tiên theo giúp không còn ai nghĩ đến việc Lê Văn Quân tự vẫn nữa.
                            Ngô Tùng Châu hỏi:
                            - Thượng vương định nhắc lại việc ấy bằng cách gì?
                            Nguyễn vương đáp:
                            - Hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc vừa từ Pháp về đem theo tàu đồng và súng lớn giúp cho ta. Ngươi ra còn có một vật có thể bay được trên trời gọi là khinh khí cầu. Nay ta cứ làm như vậy… như vậy... ắt việc phải thành.
                            Ngô Tùng Châu khen rằng:
                            - Thượng vương liệu việc như thần, thần xin bái phục.
                            Một ngày kia trời trong nắng ấm, Nguyễn vương đem theo vài mươi vệ sĩ đi dạo trong thành. Bỗng một đám mây trong như quá bóng từ trên trời sa xuống, dưới đám mây trong ấy có một vị tiên ông ngồi trong đèn lồng sắc mầu rực rỡ. Tiên ông từ lưng chừng trời cất tiếng như sấm rằng:
                            - Ngọc Hoàng giáng chỉ! Nước Hoàng giáng chỉ!
                            Nguyễn vương và bàn dân thiên hạ trông thấy thần tiên giáng thế hiện hiện giữa ban ngày thẩy đều rùng mình sởn ốc vội vàng quỳ xuống. Tiên ông đáp xuống đất phán rằng:
                            - Người nào tên là Nguyễn vương Phúc Ánh hãy theo ta lên trời nhận ấn kiếm của Ngọc Hoàng phong làm vua nước Nam.
                            Nguyễn vương bèn bước vào đèn lồng cạnh tiên ông, tức thì đám mây trong như quá bóng kia từ từ cất lên kéo theo đèn lồng có tiên ông và Nguyễn vương trong ấy bay lên cao, xa dần rồi mất hút. Dân chúng ngẩn ngờ nhìn theo rồi xì xầm bàn tán:
                            - Xưa nay chưa từng thấy điều như thế bao giờ. Nguyễn Vương thật là có chân mệnh đế vương!
                            Từ ấy thiên hạ xôn xao truyền nhau tin Nguyễn Vương được lên trời cùng thần tiên, không ai nhắc đến việc Lê Văn Quân tự vẫn nữa.
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #59
                              Chương 56

                              An lòng dân, Thái Đức cầu Quang Trung.

                              Mộng mở nước , Văn Dũng sang Mãn Thanh.


                              Nói về vua Tây Sơn là Thái Đức ở Hoàng đế thành Quy Nhơn phủ, ngày ấy đang uống rượu nghe đàn xem cung nữ múa hát. Bỗng quân vào báo:
                              - Tâu Hoàng thượng, quân do thám của ta về báo rằng: Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định được thần tiên rước lên trời phong làm vua nước An Nam. Hiện Ánh đang chỉnh đốn binh mã chờ mùa gió Đông Nam sẽ đem thuỷ quân ra đánh ta. Dân chúng ở Phú Yên Quy Nhơn, Quảng Ngãi nghe tin ấy náo động cả lên.
                              Vua Thái Đức giật mình quăng ly rượu, đuổi mỹ nữ ra ngoài rồi gọi con là Nguyễn Bảo đến hỏi:
                              - Tình hình như thế, theo con ta nên đối phó thế nào?
                              Thái tử Nguyễn Bảo quỳ tâu:
                              - Phụ vương nên truyền hịch vạch rõ âm mưu của Nguyễn Phúc Ánh để vô an bá tánh. Trong nước có yên thì mới mong thắng được giặc người. Xin Phụ hoàng minh xét.
                              Vua Thái Đức khen phải bèn theo cách ấy mà làm. Hịch truyền được mấy ngày vua Thái Đức gọi thái giám Vũ Tâm Can đến hỏi:
                              - Ta truyền hịch vỗ an bá tánh mấy hôm nay thiên hạ thế nào?
                              Vũ Tâm Can đáp:
                              - Tâu Hoàng thượng, hịch vua truyền ra lập tức dân chúng ai về nhà nấy yên ổn làm ăn, binh sĩ vững tâm quyết lòng giữ nước. Việc giặc Ánh đem quân đến đánh không phải lo gì nữa à.
                              Rủi thay vừa lúc ấy Thái tử Nguyễn Bảo bước vào. Nghe Vũ Tâm Can nói xong, Nguyễn Bảo lớn tiếng mắng Can rằng:
                              - Ngươi là thái giám kề cận bên vua, lại dùng lời dối trá che mặt thiên tử. Tội thật đáng chết!
                              Vua Thái Đức hỏi:
                              - Con nói vậy là ý làm sao?
                              Bảo quỳ tâu:
                              - Xin Phụ hoàng tha tội con mới đám thưa.

                              - Ý con thế nào cứ nói ta hay. Nếu lời ngay thật sao cha lại bắt tội con.
                              Bấy giờ Nguyễn Bảo mới quỳ tâu:
                              - Con giả dạng dân thường ra ngoài xem xét nghe thiên hạ bàn rằng: Lâu nay vua trời lên ngôi Hoàng để đã thoả nguyện thiên tử bỏ bê chính sự, chẳng nghĩ đến dân, không màng việc nước, nên Nguyễn vương mới có cả manh nha phục quốc. Nay Nguyễn Vương nhờ thế Pháp Lang Sa tướng mạnh binh hùng bọn ta không lo sao được. Tâu Phụ vương, có là điều con tai nghe mắt thấy; xin Phụ vương để tâm chăm lo việc nước, xa lánh nịnh thần, chém đầu Vũ Tâm Can làm gương cho kẻ khác. Ấy là hồng phúc của nước nhà vậy.
                              Vua Thái Đức vỗ án quát hỏi:
                              - Vũ Tâm Can! Sự thật như thế sao ngươi đám bảy trò tâu dối ta.
                              Vũ Tâm Can vờ sợ hãi đáp:
                              - Hạ thần sợ Hoàng thượng lo lắng mà long thể bất an nên mới nói như thế. Xin Hoàng thượng tha mạng.
                              Thái tử Nguyễn Bảo chỉ mặt Vũ Tâm Can mắng
                              - Tội hại nước dối vua là khi quân phạm thượng không thể dung tha.
                              Vua Thái Đức bảo:
                              - Vũ Tâm Can tội thật đáng chết, nhưng ta vì tin cha ngươi là Vũ Tất Thận theo ta dấy nghĩa ở Tây Sơn Thượng phạm quân lệnh mà phải tội chết. Vì vậy ta tha chết chỗ người nhưng đuổi khỏi Hoàng cung về làm dân dã, từ nay về sau chớ để ta thấy mặt.
                              Đuổi Vũ Tâm Can đi rồi, vua Thái Đức hỏi Thái tử Nguyễn Bảo:
                              - Ta đã hạ chiếu chiêu an bá tánh, sao thiên hạ lại chẳng tin ta.
                              Nguyễn Bảo đáp:
                              - Xưa nay người ta chỉ tin vào việc làm, không ở tin vào lời nói suông. Xin Phụ hoàng minh xét.
                              Vua Thái Đức hỏi:
                              - Vậy phải làm sao mới yên được lòng dân?
                              Báo đáp:
                              - Dân nước ta chỉ tin vào một người. Nay Phụ hoàng nên nhờ người ấy đứng lên soạn hịch thì sẽ an lòng bá tánh.
                              Vua Thái Đức vội hỏi:
                              - Người ấy là ai?
                              Thái tử Báo đáp:
                              - Người ấy chính là Hoàng thúc của con, là Quang Trung Hoàng đế.

                              Vua Thái Đức phật ý bảo:
                              - Thằng Huệ năm xưa phụ anh phản chúa và đánh ta ở Thành Hoàng để. Nay nó lên ngôi vua không kể gì đến ta. Nếu ta cầu nó đứng tên soạn hịch chiêu an bá tánh thì thiên hạ con xem ta ra gì. Việc này không thể được.

                              - Hoàng thúc xưa giúp cha chinh Nam phạt Bắc quân thù khiếp sợ là nhờ Hoàng thúc dùng ít đánh nhiều, trong một ngày là tiêu diệt quân địch. Chỉ trận đánh quân Mãn Thanh lâu nhất là năm ngày mà thôi. Sự thật phải thế chăng, thưa Phụ vương?
                              Vua ầm ừ rồi đáp:
                              - Đúng là như thế.
                              Thái tử Báo lại hỏi:
                              - Vậy khi Hoàng thúc đánh Phụ vương, người vầy thành Hoàng đế trong bao lâu.
                              Vua Thái Đức đáp:
                              - Nó vây ta suốt hai tháng trong thành.
                              Thái tử Bảo nói:
                              - Hoàng thúc dùng hai vạn quân tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La ở Rạch Gầm chỉ trong một đêm, tiêu diệt ba mươi vạn quân Mãn Thanh ở Thăng Long nội có năm ngày. Vậy tại sao thành Hoàng đế nhỏ nhoi này Hoàng thúc phải vây suốt hai tháng trời mà không hạ được? Thưa Phụ hoàng, ấy chẳng qua vì tình cốt nhục Hoàng thúc không đánh, chỉ xin Phụ hoàng thả gia quyến mà thôi, sao bảo là Hoàng thúc phụ anh phản chúa? Con khi quân Thanh sang xâm lược nước ta, một nước không có vua sao an lòng trăm họ mà chống giặc ngoại xâm? Phụ hoàng chỉ có chí làm vua bốn phủ Nam, Ngãi, Quy, Phụ nên mới chia đất từ Hải Vân ra Bắc cho Hoàng thúc, nên Gia Định mặt về tay Nguyễn Phúc Ánh, Phụ hoàng cũng không tính kế lấy lại, thì Phụ hoàng sao lại trách việc Hoàng thúc lên ngôi. Nay nếu không cầu Hoàng thúc vỗ án bá tánh con e rằng nước ta loạn mất.
                              Vua Thái Đức buồn rầu nói:
                              - Vậy con phải đích thân ra Phú Xuân cầu cứu chú con mới được.
                              Thái tử Bảo mừng rỡ vội vã đi ngay. Còn lại một mình, vua Thái Đức thứ dài than:
                              - Cuối cũng rồi ta cũng phải chịu thua nó!
                              Nói về vua Quang Trung ở thành Phú Xuân nghe quân vào báo:
                              - Tâu Hoàng thượng, có đại Thái tử Nguyễn Bảo từ Quy Nhơn đến xin yết kiến.

                              Vua Quang Trung giật mình đứng bật dậy thốt:
                              - Châu ta đích thân đến đây e Quy Nhơn có biến. Mau mời đại Thái tử vào!
                              Nguyễn Bảo vào tới không thi lễ mà kêu lên "chú ơi" rồi ôm chầm vua Quang Trung mà khóc. Vua vỗ về hỏi:
                              - Cháu hay bình tâm nói cho chú rõ, có phải Nguyễn Phúc Ánh đem quân đánh tới Quy Nhơn chăng?

                              Nguyễn Bảo gạt nước mắt kể lại đầu đuôi sự việc rồi nói:
                              - Nguyễn Phúc Ánh đang sắp đặt binh mã định đến mùa gió Nồm sẽ tiến đánh Quy Nhơn. Xin Hoàng thúc sai tướng đem quân vào giúp.
                              Vua Quang Trung liền sai lấy bút nghiên viết tờ hịch trao cho Nguyễn Bảo rồi nói:
                              - Cháu hay đem tờ hịch này về truyền khắp trong nước tất sẽ vỗ an bá tánh.
                              Nguyễn Bảo hỏi:
                              - Nếu quân Nguyễn đem quân đánh tới thì tiến thủ thế nào.
                              Vua Quang Trung không đáp mà hỏi lại Nguyễn Bảo rằng:
                              - Hiện nay ai trấn thủ Phủ Yên?
                              Bảo đáp:
                              - Tướng quân Nguyễn Quang Huy.
                              - Nguyễn Quang Huy là người thế nào?
                              - Huy là người Phú Yên nên rất rành địa thế trong vùng, Huy lại là tướng trí dũng song toàn. Theo cháu có Nguyễn Quang Huy trấn thủ thỉ Phú Yên không phải lo.
                              Vua Quang Trung bảo:
                              - Nếu vậy cháu hay gọi cha con Lê Trung, Lê Chất bỏ đất Bình Thuận, Diên Khánh đem quân về trấn thủ Quy Nhơn với cháu thì không phải lo gì nữa!
                              Nguyễn Bảo hờn dỗi hỏi:
                              - Hoàng thúc bảo bỏ đất Bình Thuận, Diên Khánh cho Nguyễn Phúc Ánh là ý muốn nói cha con cháu chỉ giữ được bốn phủ Nam, Ngài, Quý, Phú thôi chứ gì. Hoàng thúc không giúp thời thôi tự cháu sẽ lo liệu lấy. Sao chú lại khuyên lui quân bỏ đất cho giặc.
                              Vua Quang Trung cả mừng khen:
                              - Nếu cha cháu mà được như cháu thì chắc gì Nguyễn Phúc Ánh về được đất Gia Định. Chú khuyên cháu bỏ đất Bình Thuận, Diên Khánh cho Nguyễn Phúc Ánh lui về giữ từ Phú Yên trở ra vì Phụ Yên có đèo Vân Phong là hiểm địa án ngữ, mặt biển phía Đông đều có núi non làm thành trì che chở. Ta dựa vào địa hình hiểm trở chống giữ với quân Nguyễn Phúc Ánh trong mùa gió Nồm, đợi hết Hạ sang Thu đầu mùa gió Bấc chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh đều phải chết cả thì ta lấy lại cả miền Nam Gia Định chứ chẳng riêng gì đất Bình Thuận thôi đâu.

                              Nguyễn Bảo ngạc nhiên hỏi:
                              - Vì cớ gì hết Hạ sang Thu chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh đều phải chết.
                              Vua Quang Trung trầm ngâm đáp:
                              - Hết Hạ sang Thu đầu mùa gió Bấc ta sẽ đem đại binh vào Gia Định tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng việc này nếu Phụ hoàng của cháu không thuận lòng e đại sự khó thành.
                              Nguyễn Bảo càng ngạc nhiên hỏi:
                              - Vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh sao cho cháu lại không thuận lòng.
                              Vua Quang Trung đáp:
                              - Đánh Phúc Ánh phải dùng thuỷ bộ binh hai đạo. Bộ binh ta muốn vào Nam đánh Phúc Ánh phải qua đất của Hoàng huynh. Nếu Hoàng huynh không thuận thì làm thế nào?
                              Nguyễn Bảo vui mừng nói:
                              - Việc này Hoàng thúc chớ lo. Cháu đã có cách nói cho Phụ hoàng phải vui lòng thuận ý.
                              Vua Quang Trung cả mừng bảo:
                              - Việc tiêu diệt Phúc Ánh trừ hậu hoạ trăm sự đều nhờ cháu cả. Cháu hãy về thưa lại cũng Phụ hoàng xem sao. Cháu hãy mau báo tin cho chú bày sách lược hành quân.
                              Nguyễn Bảo bên từ tạ vua Quang Trung ra về. Đến Hoàng đế thành gặp vua Thái Đức, Bảo quỳ tâu:
                              - Hoàng thúc bảo rằng muốn an lòng dân Quy Nhơn, Quảng Ngãi phải truyền hịch, hẹn mùa gió Bấc đánh Phúc Ánh. Mà việc này không làm được, nếu Hoàng thúc chưa viết hịch truyền.
                              Vua Thái Đức thở dài than:
                              - Đem quân đánh Phúc Ánh thì có gì mà không làm được. Chẳng qua nó con oán ta việc năm xưa ta bắt giam gia quyến của nó trong thành Quy Nhơn nên không đánh Phúc Ánh giúp ta ấy mà.
                              Nguyễn Bảo liền nói:
                              - Đánh Phúc Ánh tất Hoàng thúc phải kéo quân qua Quảng Ngãi, Quy Nhơn, người sợ Phụ hoàng không cho mượn đường vào Nam thì việc đánh Phúc Ánh tất không thành được. Vì lẽ ấy nên Hoàng thúc ngài thất tín với thiên hạ mà không dám viết hịch truyền hẹn ngày đánh Phúc Ánh cho an lòng dân Quy Nhơn, Quảng Ngãi của ta.
                              Vua Thái Đức buồn rầu than:
                              - Bây giờ đến lúc nguy cấp ta mới thấy rằng ta là vật cản trên con đường thống nhất giang sơn của Hoàng thúc con. Ngày trước vì cha mà Hoàng thúc con trở ngại việc đánh đổ Trịnh lấy Bắc Hà. Ngày nay cha lại là vật cản trở của Hoàng thúc con trên đường tiêu diệt Phúc Ánh ư?
                              Nguyễn Bảo hỏi:
                              - Vậy này cha liệu thế nào?
                              Vua hỏi lại Nguyễn Bảo:
                              - Còn có phải là đối thủ của Phúc Ánh chăng?

                              Báo đáp:
                              - Ánh cầu viện quân Pháp Lang Sa, thế lực mỗi ngày một mạnh, con không thể sánh được.
                              Vua Thái Đức lại hỏi:
                              - Phúc Ánh so với Hoàng thúc con thì thế nào?
                              Bảo đáp:
                              - Hoàng thúc còn là tướng của vua Trời. Phúc Ánh người phàm mắt thịt sao sánh được với Hoàng thúc của con.
                              Vua Thái Đức cười hiền hậu bảo:
                              - Nay vua Trời định nhường nước cho Hoàng thúc con trị quốc, điều quân. Ý con thế nào?
                              Nguyễn Bảo mừng rỡ tâu:
                              - Con định khuyên Phụ hoàng như vậy mà chứ biết phải nói sao. Nay Phụ hoang đã quyết thế thì đó là hồng phúc của dân của nước đó.

                              Vua Thái Đức thở dài nói:
                              - Ta với Hoàng thúc còn là anh em một nhà. Nước Nam ta không thể có hai vua. Đợi tá viết thư này con hãy mang ra cho Hoàng thúc và bảo chú con mau xuống hịch chiêu an bá tánh.
                              Nguyễn Bảo đến Phú Xuân trao thư của vua Thái Đức cho vua Quang Trung. Đọc xong vua Quang Trung ứa nước mắt nói:
                              - Thương thay cho Hoàng đại huynh - Đoạn vua quay sang Nguyễn Bảo hỏi - Tờ hịch chú đã viết cho cháu đem về rồi. Sao trong thư cha cháu còn bảo cho mau viết hịch truyền.
                              Nguyễn Bảo đáp:
                              - Trong tờ hịch chữ hẹn rằng đầu mùa gió Bấc sẽ đem quân vào đánh Phúc Ánh, vậy nếu Phụ hoàng cháu không cho mượn đường thì có phải là chú thất tín với thiên hạ chăng. Vì lẽ ấy nên cháu chờ thuyết phục Phụ hoàng thuận ý hợp tác đánh Phúc Ánh rồi mới đưa ra. Dè đâu cha cháu lại thuận trao quyền định quốc cho Hoàng thúc. Ấy thật là hồng phúc của nước nhà.
                              Vua Quang Trung hỏi Nguyễn Bảo:
                              - Vậy cháu hãy mau về gặp kẻo Hoàng huynh cứ ta lo lắng. Cháu nên nhớ tờ hịch này chẳng những an lòng dân trong nước mà con làm rối loạn đất Gia Định của giặc Ánh. Cháu hãy gấp truyền ra.
                              Nguyễn Bảo về rồi, vua Quang Trung bảo quân:
                              - Mau gọi các tướng đến bàn việc quốc gia.
                              Tám tướng Vũ Văn Dũng, Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong đến, vua Quang Trung giở bản đồ ra hỏi:
                              - Giảng hoà với Mãn Thanh ở mặt Bắc xong, ta quyết định đợi vài tháng nữa đến mùa gió Bấc sẽ thân đem đại binh vào Gia Định tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh, đập tan âm mưu xâm lược của bọn Phá Lang Sa giả danh đạo sĩ. Vậy các tướng thử bàn xem ta phải đánh thế nào cho Nguyễn Phúc Ánh không còn đường chạy thoát.
                              Trần Quang Diệu nói:
                              - Xưa nay Hoàng thượng dụng binh tính toàn việc binh cơ, nước gió, địa lý, nhân văn chưa hề sai sót sao này bỗng nhiên lại hỏi chúng thần là có gì?
                              Vua Quang Trung đáp:
                              - Bởi trận này là trận then chốt, ta phải giết cho được Nguyễn Phúc Ánh thì kẻ sĩ trong thiên hạ nặng óc trung quân mới không còn cơ dấy loạn. Thắng thì nhất định là ta phải thắng, nhưng ta muốn hỏi các tướng bắt được Phúc Ánh thì phải đánh thế nào.
                              Đặng Văn Long đáp:
                              - Theo thần, trước ta cho thuỷ quân vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường về Hà Tiên của Phúc Ánh. Sau đó cho một đạo quân thuỷ vào cửa Cần Giờ tấn công mặt Đông thành Sài Côn, bộ quân ta từ Phú Yên tiến vào uy hiếp mặt Bắc thành Sài Côn. Như vậy có thể bắt được Phúc Ánh.

                              Vua Quang Trung hỏi:
                              - Con ai có kế sách nào khác chăng.

                              Các tướng đồng thanh nói:
                              - Chúng thần đều một ý với Bắng Văn Long.
                              Vua Quang Trung lắc đầu bảo:
                              - Đất Gia Định sông ngòi chằng chịt cửa biển nhỏ rất nhiều. Nếu đánh như thế thì Phúc Ánh lại theo lách nhỏ trốn ra ngoài hải đạo, hoắc trốn vào rừng rậm ở phía Tây thành Sài Côn thì làm sao bắt được.

                              Vua vừa dứt lời bỗng nghe tiếng hỏi lớn:
                              - Đánh Phúc Ánh sao dượng rể không cho tôi hay?
                              Mỗi người giật mình nhìn lại, thì ra người vừa nói ấy là nữ đô đốc Bùi Thị Xuân. Xuân quỳ lạy khóc nói:
                              - Nguyễn Phúc Ánh sống sót dấy loạn ở miền Nam là do tội của tôi. Nếu không cho tôi theo lập công chuộc tôi Xuân này chết không nhắm mắt.
                              Vua Quang Trung bực mình gắt:
                              - Ta đã bao lần khuyên nhủ không bắt được tướng giặc đâu phải là tội. Sao cô Xuân cứ lấy do làm điều.

                              Bùi Thị Xuân càng khóc lớn nghẹn ngào nói:
                              - Năm xưa Hoàng thượng còn là Long Nhương tướng quân vâng lệnh vua anh đem binh vào Gia Định bắt hai Chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương ở cửa Hàm Luông. Thần đuổi theo bắt được ba mẹ con Phúc Ánh ở bờ sông Tiền Giang. Mẹ con Phúc Ánh lậy lục xin thả, lúc ấy thần thấy Phúc Ánh hãy còn nhỏ dại không một tên quân nên động lòng trắc ẩn mới tha cho đi. Giờ hiểu ra bụng đàn bà làm hư việc lớn. Lâu nay sợ tôi chẳng dám mở lời, nếu giữ mãi trong lòng còn đau hơn cái chết. Giờ đập đầu khai thật, xin Hoàng thượng xuống lệnh giả hình.
                              Xuân nói xong nức nở mãi không thôi. Mọi người nghe qua đều bất ngờ sửng sốt. Trần Quang Diệu lặng lẽ đến quỳ bên vợ khấu đầu chịu tội. Vua Quang Trung hỏi:
                              - Việc này Quang Diệu có biết chăng?

                              Bùi Thị Xuân đáp:
                              - Thần quyết lòng giấu nhẹm nên chống không được biết. Xin Hoàng thượng giảng tội một mình thần.
                              Vua Quang Trung cười bảo:
                              - Lòng nhân đã rõ, khi khái anh hùng sao bảo là tội. Hai khanh mau đứng lên.
                              Vợ chồng Diệu, Xuân vẫn quỳ mọp dưới thêm. Xuân gạt nước mắt nói:
                              - Đội ơn Hoàng thượng tha mạng. Nhưng nếu Hoàng thượng không cho thần theo đánh giặc Ánh thì Xuân tôi sống khác gì là chết.
                              Vua Quang Trung cười bảo:
                              - Được! Lần này bắt Nguyễn Phúc Ánh công đã lại là của Diệu, Xuân vậy. Hãy mau đứng lên bàn việc quân cơ.
                              Vợ chồng Diệu, Xuân mừng rỡ lậy tạ rồi đứng lên ngồi vào bàn. Vua Quang Trung chỉ vào bản đồ nói:
                              - Nay nước Ai Lao và nước Cao Miên nghe oai đã thần phục Tây Sơn ta. Trước hết Diệu, Xuân lãnh đạo bộ quân đem theo tượng binh bằng đường thượng đạo sang Lào qua Cao Miên đến đường Tây Ninh đánh xuống phía Tây thành Sài Côn, Phúc Ánh bất ngờ ắt trở tay không kịp. Đạo quân bộ thứ hai do ba anh em Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong qua Quy Nhơn hợp cùng cha con Lê Trung, Lê Chất tiến đánh Bình Thuận, Trấn Biên. Ta sẽ đích thân đem thuỷ binh vào cửa Cần Giờ đánh lên mặt Đồng thành Sài Côn. Sau đó ba đạo quân hợp ở Sài Côn tiến đánh Trường Đồn, Hà Tiên, Long Hồ thì Nguyễn Phúc Ánh tất không còn đất sống.

                              Đặng Văn Long cười lớn:
                              - Đại sư huynh tiến đánh Trường Đồn thì Nguyễn Phúc Ánh theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông trốn ngoài hải đạo. Tiến đánh Hà Tiên thì Nguyễn Phúc Ánh ra biển Hà Tiên chạy sang Tiêm quốc. Thần e rằng đánh thế cũng không bắt được Phúc Ánh.

                              Vua Quang Trung gọi:
                              - Hai tướng thuỷ binh Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc.
                              Tuyết và Lộc đồng thanh đáp:
                              - Có thần.
                              Vua Quang Trung vỗ án truyền:
                              - Khi ấy ta sẽ cấp cho hai tướng đại bộ phần thuỷ binh chia thuyền tuần tiễu từ cửa Cần Giờ đến mũi Cà Mau vòng qua Phú Quốc, chặn lối Hà Tiên chờ Nguyễn Phúc Ánh chạy ra biển đón bắt đem về cho ta trị tội bán nước buôn dân.
                              Các tướng nghe xong vòng tay nói:
                              - Hoàng thượng liệu việc như thần, chúng thần mắt phàm không nhìn thấy được.

                              Bùi Thị Xuân mừng rỡ vỗ tay reo:
                              - Phen này Phúc Ánh chỉ có chết mà thôi. Xuân tôi mới yên tâm mà sống vậy.
                              Bỗng Vũ Văn Dũng lớn tiếng trách vua rằng:
                              - Tây Sơn thập hổ ai có việc nấy. Đại sư huynh chê thần bất tài hay sao mà không dùng đến?
                              Vua Quang Trung cười nói:
                              - Ta đâu dám chê Tam sự đệ bất tài. Kế hoạch đánh Phúc Ánh mấy tháng nữa mới thực hành, còn bây giờ ta giao trọng trách Văn Dũng phải lập tức đi ngay.

                              Vũ Văn Dũng hỏi:
                              - Ấy là việc gì.
                              Vua đáp:
                              - Văn Dũng có tài xem núi non sông núi mà vẽ lên địa đồ. Nay ta muốn nhờ Văn Dũng đi vẽ bản đồ.

                              Dùng hỏi:
                              - Đại sư huynh đã chinh chiến từ Nam ra Bắc. Nước Nam ta ở đâu chẳng có bản đồ? Còn sai thân vẽ nơi nào nữa?
                              Vua Quang Trung đáp:
                              - Văn Dũng sang Mãn Thanh vẽ bản đồ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
                              Văn Dũng cười to nói:
                              - Thần sang đất Lưỡng Quảng vẽ bản đồ ắt quân Mãn Thanh bắt thân mà chém. Thôi, thôi! Việc này không được đâu.

                              Vua Quang Trung vỗ vai Văn Dũng bảo:
                              - Ta sai sứ sang Mãn Thanh dâng biểu cầu hôn công chúa con vua Càn Long và xin lại đất Lưỡng Quảng xưa kia thuộc nước Nam ta. Nếu Càn Long thuận cho thì tốt, nhược bằng không ta sẽ mượn cớ để đánh Mãn Thanh lấy đất Lưỡng Quảng. Vậy nên nay ta sai Văn Dũng tháp tùng theo sứ bộ bí mật vẽ bản đồ hai tỉnh. Sau khi tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định xong, người cầm án tiên phong Bắc tiến chính là Tam sư đệ đó.
                              Văn Dũng lại cười rằng:
                              - Nếu vậy thì thần xin đi. Phen này cho vua tôi nhà Đường, nhà Tống hết khoe hùng.
                              Nói rồi Dùng lãnh lệnh đi ngay.
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #60
                                Chương 57

                                Chí tự cường, Quang Trung thay quốc tự.
                                Luận cơ trời, Hoàng hậu bình thơ.


                                Nói về Nguyễn vương ở Gia Định, ngày ấy nơi thành Sài Côn Nguyễn vương họp các tưởng nói:
                                - Nay đã đến mùa gió Nồm ta nên đem thuỷ quân thuận gió đánh Quy Nhơn. Các tướng ai có kế gì chăng?

                                Nguyễn vương vừa dứt lời. Xảy quân do thám vào báo:
                                - Tâu Thượng vương, đây là tờ hịch của vua em Tây Sơn là Quang Trung Nguyễn Huệ truyền cho dân chúng ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên. Kính trình Thượng vương duyệt lãm.
                                Nguyễn vương với đón lấy tờ hịch mở ra đọc, hịch rằng:

                                "Hịch truyền dân chúng ba phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên.
                                Kể từ ngày Tây Sơn dấy nghĩa đến nay nhờ dân ba phủ hết lòng giúp đã nên Hoàng Đại huynh ta mới dựng nên cơ nghiệp lớn. Công lao của nhân dân ba phủ thật đáng lưu truyền vào sử xanh.
                                Vua rồi nghe Nguyễn Phúc Ánh được bọn người Pháp Lang Sa theo giúp, lại được thần tiên rước lên trời khiến nhân dân nghi ngại bỏ việc nông tang, xôn xao bàn điều thế sự.

                                Thật ra ấy là bọn Pháp Lang Sa dùng khinh khí cầu bay được lên cao đem chuyện thần tiên phỉnh lừa bá tánh. Ta còn lạ gì khinh khi cầu của bọn chúng! Bọn người mắt xanh mũi lõ, nước da trắng bệch như một xác chết trôi ngoài biển Bắc kia nào có tài cán gì mà dân chúng phải sợ? Ta đã từng đốt cháy tàu của chúng trận sông Thất Kỳ Giang, đuổi Nguyễn Phúc Ánh lội bùn Gia Định mà chạy như một con vịt lạc. Đại quân ta, xưa nay đi đến đâu không kẻ thù nào dám chống cự, không thành trị nào ngăn cản được. Điều này hẳn dân ta cũng đã biết.
                                Nay đã đến mùa gió Nồm, dân chúng hãy hết lòng giúp đỡ Hoàng Đại huynh ta đề phòng Phúc Ánh đánh ra.

                                Đợi hết Hạ sang Thu đầu mùa gió Bấc ta sẽ thân chinh kéo đại binh vào Gia Định tiêu diệt bọn Pháp Lang Sa, giết cho được Nguyễn Phúc Ánh, để mầm mống phản loạn không còn manh nha quấy rối, cho nhân dân cả nước được an cư lạc nghiệp.
                                Nay chiếu.
                                Quang Trung Nguyên niên".
                                Xem xong Nguyễn vương toát mồ hôi nói:
                                - Ta những tưởng Nhạc - Huệ bất hoà nước ai nấy lo, không ngờ Huệ lại định đem quân giúp Nhạc đánh ta. Trăm vạn quân Tây Sơn ta không ngại, chỉ ngại có mình Nguyễn Huệ mà thôi.
                                Võ Tánh hỏi:
                                - Phải đến mùa gió Bắc Nguyễn Huệ mới đem quân vào đánh ta được. Nay ta nên thuận gió Nồm đánh Nhạc ở Quy Nhơn, hay cũng cố lực lượng chống Nguyễn Huệ.
                                Nguyễn vương lấy vạt áo lau mồ hôi trán rồi nghiến răng nói:
                                - Truyền lệnh ta lập tức xuất quân!
                                Tháng ba năm Nhâm Tý (1792) Nguyễn Vương đem đại binh theo đường biển thuận gió Đông Nam ra đánh Quy Nhơn. Thái tử Tây Sơn là Nguyễn Bảo và cha con Lê Trung, Lê Chất rút thuỷ quân vào đóng trong đầm Thị Nại rồi chia quân giữ các nơi hiểm yếu. Quân Nguyễn vương đánh mãi không được, Nguyễn vương đành kéo quân về Gia Định.

                                Đến Sài Côn thấy trên bến sông Thị Nghè các giáo sĩ người Pháp Lang Sa rộn ràng đem gia quyến xuống thuyền. Nguyễn vương gọi lại hỏi:
                                - Ta đã cho các ngài được tự do truyền đạo. Vậy có ai dám kháng lệnh quậy phá các ngài hay sao mà cả ngài lại bỏ đi?

                                Một giáo sĩ đáp:
                                - Nay đã gần đến mùa gió Bấc, chúng tôi phải di tản về nước tránh Nguyễn Huệ đem quân vào đánh!.

                                Nói rồi cả bọn liền từ biệt Nguyễn vương mà đi. Nguyễn Vương vào thành mời các tướng đến thương nghị. Nguyễn vương hỏi:
                                - Nay Nguyễn Huệ đã hoà với nhà Thanh. Huệ định đến mùa Thu sẽ đem quân đánh ta. Vậy ta nên tiến thủ thế nào.
                                Mưu sĩ Ngô Tùng Châu bước ra nói:
                                - Nguyễn Huệ đánh ta tất phải dùng cả thuỷ cả bộ, vậy ta phải chia quân ra giữ hai cửa biển Cần Giờ, Hàm Luông. Bộ quân ta tăng cường trấn thủ Trường Đồn ở phía Nam, Trấn Biên ở phía Bắc thì Thượng vương ở Sài Côn vững như bàn thạch vậy.
                                Nguyễn vương lo lắng nói:
                                - Kế này là kế năm xưa Ngô tiên sinh tiến cử Gia Định tam hùng trấn thủ các nơi ấy, nhưng khi Nguyễn Huệ tiến quân vào thì không ai giữ nổi. Nguyễn Huỳnh Đức giữ Hàm Luông thì bị Đặng Văn Long bắt sống, quân ta bại trận khắp nơi. Nay dùng kế ấy e cũng như năm xưa nào có khác gì.
                                Võ Tánh tức khí bước ra nói lên:
                                - Tuy kế sách chống giữ cũng như nhau nhưng quân tình có khác. Phen này phải đánh thắng Nguyễn Huệ mới được!
                                Nguyễn vương hỏi:
                                - Quân tình khác ở chỗ nào?
                                Tánh đáp:
                                - Lúc ấy quân ta mới mộ, còn này tướng sĩ đã thiện chiến. Lúc ấy vũ khí thô sơ, còn nay người Pháp giúp ta tàu đồng, đại bác. Vả lại lúc ấy thần cố an thân ở rừng Tam Phụ, nay thần đã quyết lòng đánh giặc lập công chuộc tội, báo đáp ơn trị ngộ của Thượng vương. Ấy là ba điểm khác nhau của quân tình vậy.
                                Nguyễn vương nghe thế tạm an lòng. Từ ấy ngày đêm rèn luyện quân sĩ chờ quân Tây Sơn đến đánh.

                                Nói về vua Quang Trung ở Phú Xuân sai Vũ Văn Dũng đi sứ Mãn Thanh rồi, vua bàn với Trần Văn Kỷ rằng:
                                - Quân ta từ trước đến nay chỉ là người tình nguyện xung phong làm lính. Nay ta muốn tuyển thêm quân để dự phòng đánh Mãn Thanh, vậy phải làm thế nào?
                                Trần Văn Kỷ đáp:
                                - Số người còn lại không muốn đi lính vì nặng óc trung quân, cho rằng Hoàng thượng không phải dòng chính thống. Nay nếu ta cứ bắt lính bừa bài e náo động nhân tâm.
                                Vua hỏi:
                                - Vì sao lại náo động nhân tâm.
                                Kỷ đáp:
                                - Số người không muốn đầu quân khi bị bắt lính trốn từ làng này sáng làng khác. Nếu Hoàng thượng xuống lệnh bắt gắt gao e rằng bọn hương lý thừa cơ hội ấy sách nhiễu lương dân nên náo động nhân tâm là do thế.
                                Đêm ấy vua Quang Trung trằn trọc mãi. Hôm sau vừa gọi Trần Văn Kỷ đến hỏi:
                                - Nếu ta có cách bắt lính mà vẫn giữ được kỷ cương khiến kẻ nhút nhát không thể trốn việc đầu quân, và bọn hào lý không thể sách nhiều dân lành được thì thế nào?
                                Trần Văn Kỷ lại hỏi vua rằng:
                                - Xin hỏi Hoàng thượng ấy là cách nào?
                                Vua Quang Trung đáp:
                                - Ta lệnh cho dân trong nước mỗi người phải đeo một cái thẻ bài để bốn chữ "Thiên Hạ Đại Tín". Trong thẻ bài ấy phải ghi rõ tên, họ và tuổi tác. Hễ ai có thẻ bài là dân trong nước của ta, rồi cứ ba tráng đinh kén lấy một người đầu quân, nhờ đó không ai có thể trốn tránh được và hào lý địa phương cũng không có cớ gì sách nhiễu dân lương thiện có thẻ bài. Nếu vậy chắc chắn tuyển được thêm quân và kỷ cương pháp luật được giữ vững. Trần tiên sinh thấy thế nào?
                                Trẫm Văn Kỷ vòng tay nói:
                                - Ấy thật là kế sách vẹn toàn. Hoàng thượng có tài kinh bang tế thế xưa nay chưa từng thấy vậy.
                                Vua Quang Trung trầm ngâm nói:
                                - Nước Nam ta đất rộng dân thưa. Nay ta muốn mũ xuống hịch khuyến nông xuất ngân khố nhà nước giúp đỡ dân nghèo khai khẩn đất hoang thì mới mong dân giàu nước mạnh đề đối chọi với Mãn Thanh phương Bắc và bọn Pháp Lang Sa ở miền Nam được. Vậy phiền Trần tiên sinh hãy soạn hịch khuyến nông truyền khắp trong nước.
                                Trần Văn Kỷ tuân lệnh lập tức thi hành.
                                Hôm sau vua Quang Trung giả dạng dân thường đem theo Võ Đình Tú và Trần Văn Kỷ ra ngoài thành xem xét. Đến một thôn trang kia, thấy dân chúng trong thôn tụ tập ở sân đình nghe quan chánh thôn đọc chiếu khuyên nông.
                                Vua Quang Trung bảo Võ Đình Tú và Trần Văn Kỷ:

                                - Ta mau đến gần xem thử quan lại các cấp thi hành pháp lệnh thế nào.
                                Vua tôi tới nơi vừa lúc quan chánh thôn đã đọc xong bài hịch rồi. Một cụ già bước ra hỏi:
                                - Chiếu vừa ban ra quan trên đọc bảng tiếng Hán. Dan đen chúng tôi ít học nên không hiểu, nhờ quan trên dịch nghĩa Nôm cho thì dân chúng tôi mới biết trong chiếu vừa nói gì.
                                Quan chánh thôn đáp:
                                - Lệnh vua ban ra bảo đọc chiếu chứ không bảo dịch chiếu. Các ngươi muốn hiểu thì tự đi học lấy chữ Thánh hiền.
                                Nói xong quan chánh thôn liền bỏ về. Vua Quang Trung hỏi cụ giá ấy:
                                - Vậy cụ phải nhờ ai địch chiếu của vua.
                                Cụ già đáp:
                                - Nhờ quan chánh thôn chứ còn ai nữa.
                                Vua ngước nhìn hỏi:
                                - Lúc này quan đã không chịu dịch rồi kia mà.
                                Cụ già cười đáp:
                                - Cứ đến nhà riêng mang theo lễ vật, quân lập tức dịch ngay.
                                Nghe xong vua Quang Trung lẳng lặng ra về. Trên đường về Trần Văn Kỷ bàn:
                                - Hoàng thượng nên xuống hịch cho quan sở tại có bổn phận phải dịch Nôm cho dân chúng nghe thì tránh được tình trạng quan lại thừa kẽ hở của pháp luật mà nhận quà cáp của dân.
                                Vua Quang Trung bảo:
                                - Ta có cách không cần phải ra lệnh cho quan sở tại dịch Nôm, mà họ vẫn phải đọc chiếu của vua bằng tiếng Nôm của ngươi Nam ta cho dân chúng hiểu được.
                                Trần Văn Kỷ hỏi:
                                - Thưa, ấy là cách gì?
                                Vua Quang Trung vừa đi đến đoạn đường có nhánh cây to bằng bắp chân đâm ngang chặn lỗi, vua đưa tay vận sức bẻ nhánh cây ấy xuống và nói:
                                - Thay đổi quốc tự!
                                Văn Kỷ giật mình hỏi:
                                - Thế nào là thay đổi quốc tự?
                                Vua đáp:
                                - Từ nay về sau không dùng chữ Hán của người Tàu mà dùng chữ Nôm của ngươi Nam ta viết chiếu chỉ, văn thư.

                                Văn Kỷ lo lắng hỏi:
                                - Nhưng nước Nam ta từ mấy ngàn năm nay trải quả bao triều đại đều dùng chữ Hán làm quốc tự. Nay Hoàng thượng đổi quốc tự e không thuận lòng người. Xin Hoàng thượng nên thận trọng xem xét lại.
                                Vua Quang Trung ném nhánh cây xuống đất đáp:
                                - Ta đã suy xét từ lúc tóc còn để chỏm. Nay thả canh dần ta dùng chữ Hán làm quốc tự gặp bao điều rắc rối ta càng quyết tâm hơn. Văn Kỷ hãy truyền hịch khắp thiên hạ từ nay trở đi dùng chữ Nôm làm quốc tự.
                                Trần Văn Kỷ tuân lệnh theo ý vua mà làm. Chiếu lệnh được ban ra. Hôm sau vua Quang Trung và Võ Đình Tú, Trần Văn Kỷ lại giả dạng dân thường a ngoài thành xem xét. Đến chỗ đông người nghe một nho sĩ nói lên rằng:
                                - Vua Quang Trung không học sách Thánh hiền mà hạ lệnh dùng chữ Nôm làm quốc tự thay chữ Hán.
                                Võ Đình Tú nghe vậy nổi giận phừng phừng, vùng tung người nhảy đến chỗ tên nho sĩ vừa nói. Vua Quang Trung lẹ mắt nhảy vội theo chụp được bàn chân Võ Đình Tú kéo xuống đất. Vua quở:
                                - Khi chưa có lệnh ta không được làm càn.
                                Võ Đình Tú tức tối, nói:
                                - Tên hủ nho buông lời phạm thượng. Xin để thần bắt nó đến chỗ Hoàng thượng trị tội.
                                Vua Quang Trung gạt đi bảo:
                                - Đã nói họ là hủ nho còn chấp họ làm gì. Mau theo ta về cung.
                                Về cung, vua hỏi Trần Văn Kỷ:

                                - Kẻ hủ nho trong thiên hạ không phải là ít. Nay họ đặt điều nói gièm e không lợi cho ta. Theo tiên sinh ta phải đối phó bằng cách nào?
                                Trần Văn Kỷ đáp:
                                - Việc này thật thần chưa từng gặp. Xin Hoàng thượng hãy vấn kế Ngô Thì Nhậm xem sao.
                                Vua trầm ngâm bảo:
                                - Ngô Thì Nhậm đang cùng Văn Sở, Văn Lân, Văn Tuyết trấn thủ Bắc Hà. Ta phải triệu Thì Nhậm về ngay mới được.
                                Đoạn vua viết chiếu lệnh sai quân gặp ra Thăng Long. Về đến Phú Xuân gặp vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm hiến kế:
                                - Kẻ sĩ trong thiên hạ đều tâm phục khẩu phục một người, xem như bậc thầy tôn làm phụ tử, ấy là La Sen Nguyễn Thiếp. Nay Hoàng thượng mời Nguyễn Thiếp ra chủ trì việc thay đổi quốc tự, tất kẻ hủ nho không còn ai dám buông lời gièm xiểm.
                                Vua Quang Trung mừng rỡ vỗ tay khen:
                                - Ngô tiên sinh thật là cao kiến. Vậy phiền khanh đến mời phu tử một phen.
                                Ngô Thì Nhậm tuân lệnh sớm sứa lên đường.
                                Nói về La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp ở Hành Âm cốc ngày ấy đang tham thiền nhập định bỗng giật mình gọi tiểu đồng đến bảo:
                                - Ngươi mau dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị hương ở cho ta tiếp chỉ của vua.
                                Tiểu đồng vừa làm xong thì Ngô Thì Nhậm đến đọc chiếu mời của vua. Nguyễn Thiếp vui vẻ nói:
                                - Xin ngài chờ cho một lát. Tôi vào trong thu xếp rồi sẽ đi ngay.

                                Vào trong tiểu đồng hỏi Nguyễn Thiếp:
                                - Vua Quang Trung lần trước mời thầy vấn kế đánh Mãn Thanh, thấy đi rồi lại quay về. Lần này thầy đi bao giờ mới về?
                                Nguyễn Thiếp đáp:
                                - Hết Hạ sang Thu, đầu mùa gió Bấc ta sẽ quay về.
                                Tiểu đồng lại hỏi:
                                - Thày đi lo việc thay đổi quốc tự sao mới hai tháng quay về.
                                Thiếp buồn rầu đáp:
                                - Ta mười làm năm ở ăn học phép tham thiền biết điều quá khứ vi lại. Vua Quang Trung là người nhìn xa trông rộng, yêu nước thương dân, lo toan chính sự chuyên tâm cải cách. Nhưng ta định tâm nhìn vào tương lai thấy mọi sự đều bất thành. Thật là đáng tiếc.

                                Tiểu đồng ngạc nhiên hỏi:
                                - Thấy biết việc không thành sao còn nhận lời ra giúp vua.
                                Thiếp trầm ngâm đáp:
                                - Ta thường dạy học trò rằng: "Quốc giá hưng vong. Thất phu hữu trách". Việc vua thay đổi quốc tự dù không thành nhưng tiếng để ngàn thu. Nếu ta không giúp người đời sau sẽ bảo ta không bằng kẻ thất phu sao.
                                Nói rồi liền chống gậy ra xe theo Ngô Thì Nhậm về kinh yết kiến vua Quang Trung. Vua Quang Trung phong Nguyễn Thiếp làm viện trưởng Sùng Chính Viện, chiêu tập kẻ thức giả trong nước vào làm việc trong viện, dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để truyền dậy dân chúng. Kẻ sĩ lúc bây giờ bảo nhau rằng:
                                - La Sơn phu tử là người chẳng thiết công danh không màng sinh tử nên vua vời đã ba lần mà ông ta không ra giúp. Nay phu tử là bậc thầy của bọn ta lại ra giúp vua thay đổi quốc tự tất việc này phải có ý nghĩ gì đây. Bọn ta không hiểu thời thôi, chớ bình phẩm vô tội vạ kẻo thiên hạ cười ta là kẻ chẳng biết gì.
                                Vua Quang Trung nghe những lời ấy bèn đến Sùng Chính Viện thi lễ với Nguyễn Thiếp, vua nói:
                                - Xin thầy hãy nhận của trẫm một lạy này.
                                Thiếp thất kinh vội can:
                                - Hoàng thượng là thiên tử sao lại làm thế cho lão thần mang tội với trời đất.

                                Vua Quang Trung nói:
                                - Nhờ thầy ra giúp việc thay quốc tự mà kẻ sẽ trong thiên hạ không chê trẫm là người ít học, nên trẫm đến đây tạ ơn phu tử
                                Nguyễn Thiếp vừa đỡ vừa vua nói:
                                - Ấy là bổn phận của thần đối với dân với nước. Nay thần đã hoàn thành sứ mạng dùng chữ Nôm là quốc tự mà Hoàng thượng giao cho, vả lại lão thần tuổi cao sức yếu, xin Hoàng thượng cho về nơi nước biếc non xanh hưu trí tuổi già.
                                Vua khẩn khoản rằng:
                                - Nay trẫm mới lên ngôi, thiên hạ chưa định, việc nước chưa yên. Phu tử là người nhìn xa trông rộng lại bỏ trẫm mà đi, ngộ nhỡ trong nước có điều khó xử thì trẫm biết thỉnh cao ý của ai.
                                Nguyễn Thiếp đáp:
                                - Nói về tại kinh bang tế thế thì xưa nay không ai bằng Hoàng thượng. Vả lại giúp việc vẫn thì đã có Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ đều là tay tài hoa lỗi lạc. Lo việc võ thì đã có Tây Sơn thập hổ đều là tướng trí dũng song toàn. Song thành bại là do trời mà thôi!
                                Vua Quang Trung hỏi:
                                - Ý Phụ tử đã quyết trẫm không dám ép. Trước lúc chia tay trẫm có điều muốn hỏi, xin Phụ tử dậy cho!
                                Nguyễn Thiếp đáp:
                                - Xin Hoàng thượng cứ nói.
                                Vua hỏi:
                                - Trẫm đã sai sứ sang Mãn Thanh gặp vua Càn Long đòi đất Lưỡng Quảng xưa kia là lãnh thổ của nước Nam ta. Nếu Càn Long không thuận thì sau khi tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định xong, trẫm sẽ đem quân Bắc tiến đánh Mãn Thanh lấy đất cũ về cho nước ta. Xin hỏi Phu tử hai việc ấy thành bại thế nào?
                                Nguyễn Thiếp buồn rầu đáp:
                                - Lão thần định tâm nhìn vào tương lai thấy không có điều bình Nam, Bắc tiến. Lão thần có một bài thơ xin trao Hoàng thượng, đợi lão thần đi rồi Hoàng thượng hãy mở ra xem.
                                Nói rồi Thiếp vòng tay cáo biệt. Tiễn ra đến xe, vua Quang Trung cầm tay Nguyễn Thiếp hỏi:
                                - Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định chẳng qua nay mai trẫm chỉ đánh một trận là biết được mà thôi. Có việc đánh Mãn Thanh đòi Lưỡng Quảng, phu tử cho rằng trẫm không làm nổi ư?
                                Nguyễn Thiếp đáp:
                                - Cả hai việc ấy Hoàng thượng thừa sức làm.
                                Vua ngạc nhiên hỏi:
                                - Vậy cớ gì thầy lại bảo không có điều bình Nam Bắc tiến?
                                Nguyễn Thiếp đáp:
                                - Thiên cơ bất khả lậu! Những gì có thể nói thần đều viết trong bài thơ ấy cả. Xin Hoàng thượng hãy giữ gìn long thể.
                                Đoạn Thiếp ứa nước mắt từ biệt vua mà đi. Còn lại một mình, vua Quang Trung liền giờ thơ ra đọc. Thơ rằng:

                                Một nước hai vua nặng vai già
                                Cuộc cờ phú quý pháo ngựa qua
                                Trời Nam mau gầy cây Sơn giống
                                Đất Bắc hãy còn cột Phúc Ba!
                                Con thú một sừng gần trở mặt
                                Mà người chột mắt vẫn không ra
                                Bao giờ Nhật Nguyệt quang minh hội
                                Khi ấy du ca rỡ giống nhà.

                                Đọc xong bài thơ ấy, vua Quang Trung nét mặt dàu dàu lặng lẽ lui về hậu cung, Hoàng hậu Ngọc Hân hỏi:
                                - Hoàng thượng có điều buồn bực chăng. Sao long nhan lại ủ dột như thế?
                                Vua Quang Trung đáp:
                                - Ta hỏi Phu tử về việc đánh Gia Định giết Phúc Ánh và việc đánh Mãn Thanh lấy đất Lưỡng Quảng. Phu tử bảo không thầy có điều binh Nam, Bắc tiến. Phu tử lại trao cho ta bài thơ này. Ta đọc chưa rõ ý ra sao nên trong dạ không vui.
                                Nói xong vua trao bài thơ cho Lê Hoàng hậu.
                                Hoàng hậu đọc xong suy nghĩ giây lát rồi bàn rằng:
                                - "Một nước hai vua nặng vai già,
                                Cuộc cờ phú quý pháo ngựa qua"

                                ý muốn nói rằng trong bàn cờ bá vương đã có vua em Quang Trung còn có vua anh Thái Đức. "Nặng vai già" có lẽ ý nói thầy Phu tử không kham nổi nên mới về ở ẩn chăng?

                                Vua đáp:
                                - Câu này ta cũng hiểu nghĩa chung là như thế. Vậy hai cậu tiếp theo ý thế nào?
                                Hoàng hậu đáp:
                                - Trời Nam mau gầy cây Sơn giống
                                Đất Bắc hãy còn cột Phúc Ba!

                                vậy Nguyễn Phúc Ánh không bị diệt nên phục quốc. "Gầy cây Sơn giống", ý muốn nói nên gìn giữ dòng giống của nhà Tây Sơn chăng?

                                Vua Quang Trung giục:
                                - Hoàng hậu cứ bàn tiếp xem câu thứ tư là ý thế nào.
                                Hoàng hậu đáp:
                                - Câu thứ tư là: "Đất Bắc hãy còn cột Phúc Ba!". Cột Phúc Ba lá cây cột mà hai ngàn năm trước tướng nhà Hán là Mã Viện trồng ở ranh giới nước ta và nước Tàu. Câu này nghĩa là cột Phúc Ba hãy còn đó thì không có điều Bắc tiến.
                                Vua Quang Trung trầm ngâm nói:
                                - Hai câu này đúng ý mà Phụ tử đã nói với ta. Còn các câu sau thế nào?
                                Lê Hoàng hậu bàn rằng:
                                - Trong rừng sâu có một loại thú dữ một sừng gọi là Tê giác còn có tên là con Tây. Nay nghe nói người Tây dương theo giúp Phúc Ánh ở Gia Định có lẽ ứng vào câu năm là "Con thứ một sừng gần trở mặt" chăng?

                                - Còn câu tiếp theo?
                                - Ba câu sau thiếp thật không hiểu là ý thế nào. Nhưng xét cho cùng lời Phu tử đã lấy gì làm chắc!
                                Vua Quang Trung buồn rầu nói:
                                - Lần trước Phu tử đoán trong năm ngày ta đã phá quân Thanh, quả nhiên không sai. Lời Phu tử không thể xem thường. Nhưng việc đang làm ta cứ làm, thành bại là do trời vậy.
                                Lê Hoàng hậu an ủi vua rằng:
                                - Việc đánh Phúc Ánh, đàn bà như thiếp cũng biết rằng trăm phần chắc tháng, sao Phu tử lại bảo là không có điều binh Nam? Thiếp e lần này Phu tử lầm lẫn làm cho Hoàng thượng phải phiền muộn. Xin Hoàng thượng hãy vào trong chờ thiếp hầu hạ đừng nên lo lắng làm gì.
                                Vua vừa đứng lên toan đi theo Lê Hoàng hậu, bỗng quân cận vệ vào báo:
                                - Tâu Hoàng thượng, tướng quân Đặng Xuân Phong và tướng quân Võ Đình Tú đang đánh nhau ở điện Thái tử.
                                Vua ngạc nhiên hỏi:
                                - Có việc ấy thật sao?
                                Quân đáp:
                                - Thưa, hai tướng được lệnh Thái tử phải thí võ cho xem nên đánh nhau long trời lở đất.
                                Vua hầm hầm nổi giận lập tức đến điện Thái tử. Đến nơi thấy Võ Đình Tú dùng côn đồng, Đặng Xuân Phong dùng côn sắt quần nhau chí tử. Thái tử Quang Toản và quan nội thị Bùi Đắc Tuyên cũng bọn quân hầu vỗ tay reo hò inh ỏi. Vua Quang Trung quát lên như sấm rằng:
                                - Mau dừng tay lại!
                                Tú và Phong đang đánh nhau; hoảng hốt quăng côn, mọi người đều quỳ thi lễ. Vừa lớn giọng hỏi Tú và Phong:
                                - Hai khanh đều là đại tướng của ta. Đường côn khai quốc lại đem làm trò vui cho kẻ khác mà không biết thẹn hay sao?
                                Võ Đình Tú cúi đầu đáp:
                                - Thái tử lệnh cho thần và Đặng tướng quân đấu võ cho người xem, nên chúng thần không dám không vâng.
                                Vua gọi Quang Toản đến hỏi:
                                - Vì sao còn lại làm việc ấy?
                                Quang Toản lúc ấy mới mười tuổi, Toàn vừa chỉ quan nội thị Bùi Đắc Tuyên vừa tâu rằng:
                                - Thường ngày cậu theo chơi với con, thấy con phiền muộn cậu bày con gọi tướng quân Võ Đình Tú và Đặng Xuân Phong đấu võ cho con xem.
                                Vua Quang Trung cả giận quát Bùi Đắc Tuyên rằng:
                                - Ngươi là cậu ruột của Thái tử nên mới được phong làm quan nội thị trông nom Thái tử. Sao đã xui Thái tử làm điều xằng bậy khinh dễ công thần tội thật đáng chết. Quân bay lôi vào chém!
                                Quang Toản quỳ khóc van xin:
                                - Từ ngày Mẫu hậu mất đi, cậu thay mẹ trông nom lo lắng cho con. Nay Phụ hoàng giết cậu thì là ai lo cho con. Xin Phụ hoàng tha cho cậu một phen!
                                Vua Quang Trung ôm Quang Toản vào lòng nói:
                                - Nể tình Thái tử ta tha chết cho nhưng phải đánh hai mươi roi làm gương cho kẻ khác. Võ sĩ mau thi hành lệnh ta.
                                Bùi Đắc Tuyên bị đánh hai mươi rơi vào mông lột da chảy máu đau đớn lắm cà nhắc mà về nhà.
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X