Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Tây Sơn bi hùng truyện - Lê Đình Danh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    Chương 28

    Chu Văn Tiếp trương cờ "Lương Sơn tá quốc".
    Ngô Tùng Châu tiến cử "Gia Định tam hùng".


    Lại nhắc đến Chu Văn Tiếp ở trong núi Trà Lang ngày ấy nghe quân vào báo:
    - Tướng quân Tống Viết Phước đi dọ đường đã về đến xin vào ra mắt tướng quân.
    Tiếp cho vào, Tống Viết Phước nói:
    - Tôi vâng lệnh tướng quân đi dọ đường này việc đã xong nên về bẩm báo.
    Tiếp nói:
    - Ta muốn đem quân vào Gia Định hợp sức với chúa chống giặc Tây Sơn. Ngặt nỗi thuyền bè không có, không thể đi đường biển được, nên mới nhờ tướng quân đi dọ đường vào Gia Định. Nay việc ấy thế nào?
    Phước đáp:
    - Lúc theo cha tôi là Tống Phước Hiệp đem quân từ Gia Định ra đánh Tây Sơn chiếm lại Bình Thuận, Diên Khánh, Phú yên, tôi nhận thấy từ thành Trấn Biên đến Quy Nhơn chỉ có một con đường đại lộ dọc theo miền duyên hải mà thôi. Con ở hướng Tây toàn là núi non rừng rậm. Nay ta bí mật mở một con đường theo sườn núi phía Tây đi là vào được Trấn Biên như đường đại lộ vậy. Tiếp do dự hỏi:
    - Nhưng việc mở đường e rằng khó quá!
    Phước vung tay nói:
    - Tôi vì nóng lòng báo thù nhà đến nợ nước xin đem quân đi trước mở đường. Nếu không như thế ta đành ở mãi trong núi Trà Lang này sao?
    Phước vừa dứt lời có quân vào báo:
    - Chúng tôi bắt được một người xưng là kẻ tâm phúc của Nguyễn Phúc Ánh xin được vào gặp tướng quân.
    Tiếp liền cho vào. Tên quân đến quỳ thưa:
    - Chúa thượng thua binh ở Gia Định phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Ngươi sai tôi trình mật thư cho tướng quân Chu Văn Tiếp.
    Tiếp nhận thư, xem xong mừng rỡ nói:
    - Nay chúa viết mật chiếu phong ta làm Bình Tây đại Nguyên soái, bảo gấp đem quân vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập chiếm lại Sài Côn. Phen này Chu Văn Tiếp ta đã lập được đại công rồi vậy, thể chẳng uổng công ta phải nằm chờ thời cơ trong núi Trà Lang suốt mấy năm nay. Và chẳng uổng công Tốn tướng quân ọ đường vào Gia Định.
    Nói xong liền sai Tống Viết Phước đem năm trăm quân đi trước mở đường, còn Tiếp cùng em là Chu Đoan Chân và bộ tướng là Phạm Văn Sở đem toàn quân cùng băng rừng vào Gia Định.
    Chu Văn Tiếp nóng lòng chiếm Sài Côn, nhận chức Bình Tây đại Nguyên soái, Tống Viết Phước mang nặng thù nhà ai nấy đều hết lòng thúc quân mở đường. Tiếp chia quân làm năm đội, đội nào mệt đi sau nghỉ ngơi, đội khoẻ lại lên trước chặt cây xẻ núi. Cứ như vậy luân phiên nhau suốt mấy tháng trời vào được đến khu rừng phía Tây thành Sài Côn.
    Chu Văn Tiếp hội các tướng bàn việc đánh chiếm Sài Côn. Phạm Văn Sở hiến kế:
    - Vừa rồi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem thuỷ binh vào đánh quân chúa ở sông Thất Kỳ Giang, các tướng đều tan tác mỗi người một ngã, chúa và Lê Văn Quân phải chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn. Theo tôi các tướng Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tôn Phước Lương, Nguyễn Nghi hiện đang lẩn trốn ở phía Đông Nam thành Sài Côn. Nay ta sai người lên các nơi ấy bảo các tướng hội quân nơi đây uy hiếp Thị Nghè. Đỗ Nhàn Trập ắt phải đem quân trong thành ra đồn Thị Nghè ở mặt Đông mà chống giữ không đề phòng ở phía Tây thành. Khi ấy ta bất ngờ từ hướng Tây đánh tới chắc là chiếm được thành.
    Chu Văn Tiếp khen:
    - Phạm Văn Sở thật là cao kiến. Nhưng việc liên lạc với các tướng phải cậy ai bây giờ?
    Tống Viết Phước ra nói:
    - Tôi mang ơn tướng quân cứu mạng, nay xin lãnh trọng trách này. Và chăng năm xưa cha tôi là Tống Phước Hiệp, anh tôi là Tống Viết Nghĩa bị Nguyễn Huệ đánh chết, lửa báo thù còn nung nấu tâm can. Nay hai anh là Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương lại bị anh em Nhạc, Huệ đánh ở Thất Kỳ Giang chưa biết sống chết thế nào, tính cốt nhục dày vò gan mật. Vậy tôi xin lặn lội đi tìm các tướng trước là do đại sự, sau là vì tình riêng. Xin tướng quân thuận cho.
    Văn Tiếp cả mừng nói:
    - Nếu tướng quân lãnh nhận trọng trách này ta con lo gì nữa!
    Nói rồi rót rượu tiễn Tống Viết Phước.
    Tống Viết Phước đem theo vài người thân tín tìm đường về ấp Hoà Hưng thì trời vừa tối. Phước bèn gõ cửa một ngôi nhà xin vào tá túc. Chủ nhà ra mở cửa là một cụ già râu tóc bác phơ tinh thần quắc thước, cốt cách tiên phong. Cụ già hỏi:
    - Khách lạ người phương nào, đi đâu trong đêm vắng gõ cửa tệ xá có điều gì chăng?
    Phước cung kính đáp:
    - Tôi vì đi tìm người thân, lỡ đường trời tối. Xin tiên sinh cho tạm ngủ qua đêm, sáng mai lại đi tiếp.
    Cụ già mời Phước vào nhà. May thay lúc ấy hai tướng Tống Phước Lương và Tống Phước Khuông lại đang tá túc nhà sau, nghe tiếng người lạ, Khuông và Lương lên nhìn quá khe cửa thì thấy em mình là Tống Viết Phước. Khuông và Lương vội chạy ra ôm chầm lấy Phước. Anh em bất ngờ hội ngộ mừng mừng tủi tủi. Khuông hỏi:
    - Từ ngày anh em ta theo cha ra Phú Yên đánh giặc Tây Sơn. Sau Nguyễn Huệ dùng mưu dương Đông kích Tây đánh lấy thành Phú Yên. Cha bị trúng tên của con nữ tặc Bùi Thị Xuân, uất hận mà chết, hai em thì bị vây ở chân núi Trà Lang anh không làm sao cứu được, lòng vô cùng đau đớn. Đến nay đã sáu năm, vì sao em mới về được đến đây, còn tam đệ Tống Viết Nghĩa ở đâu?
    Phước gạt nước mắt đáp:
    - Lúc ấy em và tam ca Tống Viết Nghĩa phục ở phía Bắc thành dưới chân núi Trà Lang, nghe ở thành Phú Yên súng nổ ầm ầm, lửa cháy rực trời liền kéo quân về cứu cha, không ngờ thành đã bị chiếm mất rồi tam ca bị tướng giặc là Đặng Văn Long chém chết. Em liều mình tử chiến trong cơn tuyệt vọng. May thay có tướng quân Chu Văn Tiếp chiêu binh mãi mã lập căn cứ trong núi Trà Lang đem quân cứu em cùng mấy trăm binh sĩ. Nay em tìm đường về đây là theo lệnh Chúa thượng Nguyễn Phúc Ánh, đi tìm các tướng mời khởi binh khôi phục lại thành Sài Côn.
    Lương lấy làm lạ hỏi:
    - Sau khi thua trận ở Thất Kỳ Giang chúa tôi thất lạc mỗi người một ngả. Nay chúa đang ở đâu mà em vâng lệnh chúa được?
    Phước lấy mật thư của Nguyễn Phúc Ánh trao cho hai anh rồi nói:
    - Chúa chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn, cũng không rõ các tướng đang ẩn náu nơi đâu, nên người mới sai kẻ tâm phúc mang mật thư ra Phú Yên gọi tướng quân Chu Văn Tiếp đem binh vào Gia Định đánh Đỗ Nhàn Trập. Hiện Chu tướng quân đáng giấu quân ở cánh rừng phía Tây thành Sài Côn. Em mới lãnh mạng đi tìm các tướng hội quân theo lệnh Chu tướng quân đánh giặc.
    Khương mừng rỡ hỏi:
    - Chu tướng quân có bao nhiêu binh mã?
    Phước đáp:
    - Có một ngàn năm trăm binh mã.
    Khuông lắc đầu nói:
    - Quân Đỗ Nhàn Trạp có tới bốn ngàn người lại trong thành Sài Côn vững chắc, lương tháo dồi dào thì một ngàn năm trăm quân của Chu Văn Tiếp là sao đánh thành cho được.
    Nghe Khuông nói xong, cụ già chủ nhà cười hỏi:
    - Sau năm trước Nguyễn Huệ chỉ dùng có năm ngàn quân mà trong một đêm đánh thắng hai vận quân của Tống lão tướng quân. Đến nỗi anh em phá ly tán sáu năm mới gặp mặt là vi đâu?
    Khuông quay sang cụ già đáp:
    - Lúc ấy do cha tôi lầm kế giương Đông kích Tây của Nguyễn Huệ nên mới bại binh.
    Cụ già lại nói:
    - Vậy tại sao nay không dùng lại kế ấy để dùng một ngàn năm trăm quân Chu Văn Tiếp đánh bố ngàn quân của Đỗ Nhàn Trập. Việc này còn dễ hơn năm xưa Nguyễn Huệ dùng năm ngàn quân đánh hai vạn quân của Tống lão tướng quân rất nhiều.
    Khuông liền hỏi:
    - Dám hỏi tiên sinh kế thế nào là giương Đông kích Tây?
    Cụ già đáp:
    - Thành Sài Côn tiếng là bốn mặt, nhưng thực chất chỉ có hai vùng. Mặt Tây, Bắc là vùng đất bằng rừng rậm, mặt Đông, Nam là vùng kênh rạch sông ngòi. Nay quân ta vừa mới thua ở sông Thất Kỳ Giang, Đỗ Nhàn Trập ắt đề phòng tàn quân của ta nơi đây ở mặt Đông, Nam mà không đề phòng mặt Tây, Bắc. Vậy các tướng nên thu thập tàn quân thừa lúc đêm tối đột kích đồn Thị Nghè làm kế nghi binh, Đỗ Nhàn Trập tất đem quân cứu đồn Thị Nghè. Lúc ấy Chu Văn Tiếp dẫn binh đánh vào mặt Tây, thành Sài Côn không phòng bị chắc chắn là chiếm được thành. Ấy chẳng phải là kế giương Đông kích Tây đó sao? Tướng quân Tống Viết Phước lặn lội đi tìm các tướng chẳng phải là để thi hành kế độc này sao?
    Tống Viết Phước giật mình hỏi:
    - Tôi đến đây chính là vì kế ấy! Dám hỏi tiên sinh cao danh quý tánh là chi mà nhìn xa thấy rộng như thế?
    Tống Phước Lương đỡ lời đáp:
    - Tiên sinh đây tên huý là Võ Trường Toàn, hiệu là Sùng Đức ở trường dạy học ở ấp Hoà Hưng đã lâu. Dạy học trò trung quân ái quốc, tuy về ở ẩn mà vẫn hết lòng vì chúa, nên hai anh thua trận mới về tá túc trong nhà.
    Phước hỏi:
    - Tiên sinh học rộng tài cao, đa mưu túc trí sao không ra giúp chúa, cứu nước nhà đang lúc hưng vong.
    Võ Trường Toàn đáp:
    - Lão này tuổi tác đã cao, mở trường dậy học không màng đến việc thiên hạ. Nhưng không lâu nữa sẽ cho học trò ra giúp chúa khôi phục cơ đồ.
    Tống Phước Khuông nói:
    - Ý tiên sinh như thế không nên nói ép làm chi. Ngày mai em hãy quay về thưa cùng Chu tướng quân hẹn ngày khởi sự.
    Nhắc lại Đỗ Nhàn Trập về hàng Tây Sơn được vua Thái Đức phong là tổng đốc trấn thủ đất Gia Định, ngày ấy ở trong thành Sài Côn nghe quân vào báo:
    - Thưa tổng đốc, các tướng của Nguyễn Phúc Ánh là Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông Tống Phước Lương, thua binh ở Thất Kỳ Giang nay lại nổi lên tụ tập tàn quân tập kích đồn Thị Nghè tình thế rất nguy. Xin tổng đốc định liệu.
    Đỗ Nhận Trập nghe báo liền đích thân đem hai ngàn quân ra tiếp viện đồn Thị Nghè, để thuộc tướng là Đỗ Thành Tôn thủ thành Sài Côn. Đỗ Nhàn Trập kéo binh đến đồn Thị Nghè thì quân Nguyễn đã lui binh. Bỗng có quân từ thành Sài Côn chạy đến báo rằng:
    - Thưa tổng đốc, quân Nguyễn từ hướng Tây bất ngờ đánh tới quân ta ở trong thành trở tay không kịp nên bại binh. Tướng quân Đỗ Thành Tôn đã tử trận. Xin tổng đốc định liệu.
    Đỗ Nhàn Trập thất kinh than:
    - Thôi ta đã lầm gian kế của giặc rồi!
    Nói xong Trập dẫn quân chạy về cố thủ thành Trấn Biên. Chu Văn Tiếp và Phạm Văn Sở, Chu Đoan Chân chiếm được thành Sài Côn liền trường cờ bốn chữ "Lương Sơn Tá Quốc lên mặt thành. Các tướng Nguyễn là Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Tống Viết Phước cũng về hội quan trong thành, binh thế lại mạnh lên. Chu Văn Tiếp một mặt sai người ra đảo Phú Quốc đón chúa Nguyễn Phúc Ánh, một mặt sai Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân đem binh đánh Đỗ Nhàn Trập ở Trấn Biên. Đỗ Nhàn Trập đánh không lại phải chạy về cùng Phẩm Ngàn trấn thủ Bình Thuận rồi sai người ra Quy Nhơn cấp bảo. Từ ấy đất Gia Định từ Trấn Biên vào đến Hà Tiên lại về tay quân Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh về Sài Côn rồi liền xuống chỉ cầu hiện. Nhân tài đất Gia Định theo giúp rập rất đông như Lê Văn Duyệt, Hồ Công Siêu, Dương Đông Trừng, Nguyễn Văn Quý. Con cháu trong hoàng tộc lại có thêm Tôn Thất Mẫn và Tôn Thất Dụ đều là võ tướng anh hùng cả. Trong các võ tướng Nguyễn Phúc Ánh thấy Lê Văn Duyệt nhỏ người thấp bé tỏ ý không mấy quan tâm. Lê Văn Duyệt hiểu ý tâu rằng:
    - Thưa Thượng vương, quân Tây Sơn đã ba phen vào đánh Gia Định, lần nào quân ta cũng đại bại là bởi do ta tổ chức phòng thủ không chu đáo mà nên cơ sự như thế
    Ánh hỏi:
    - Theo ngươi tổ chức như thế nào mới là chu đáo?
    Duyệt giở bản đồ chỉ vào đáp:
    - Quân Tây Sơn vào Gia Định luôn theo cửa Cần Giờ đánh vào thành Sài Côn. Đồn Thị Nghè là cửa ngõ trấn giữ mặt thuỷ của thành Sài Côn. Đồn tuy vững chắc những nằm trơ trọi một mình mà sông ngòi chằng chịt, giặc có thể dùng thuyền nhỏ theo kênh rạch rồi đổ bộ tấn công cả ba mặt, nên đồn Thị Nghè phải thất thủ là do thế. Nay Chúa thượng nên cho đắp ba đồn là đồn Bến Nghé, đón Thảo Câu và đón Dác Ngư, các nơi này đều quan trọng vì là cửa ngõ của các cửa sông đến thành Sài Côn. Đồng thời ta thao luyện thuỷ binh để chặn binh Tây Sơn từ cửa Cần Giờ. Nếu thuỷ binh ta yếu thế có thể lui về các đồn này cố thủ, làm thành thế ỷ giốc, như vậy sẽ có thể đối địch được với giặc Tây Sơn.
    Phúc Ánh nghe xong giật mình nói:
    - Nếu không nhờ ngươi mách bảo, ta chỉ lo thao luyện thuỷ quân mà quên mất việc về thành cố thủ. Ngươi tuy vóc người nhỏ nhắn mà thật là trí dũng song toàn.
    Nói xong liền trọng dụng phong Lê Văn Duyệt làm tả tham mưu, luôn giữ bên mình bàn mưu định kế.
    Một hôm Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Duyệt đi thuyền trên sông Bến Nghé quan sát các đồn mới đắp, bỗng nghe trong bờ sông có tiếng ca vọng ra:
    Thảo Câu, Bến Nghé, Dác Ngư
    Hàm rồng bỏ ngỏ cũng như không làm.
    Phúc Ánh ngạc nhiên lệnh quân quay thuyền vào bờ tìm người vừa ca ấy. Quân giải một người tư cách phong lưu, tướng mạo khoan thai nho nhã đến. Ánh hỏi:
    - Tiên sinh có phải là người vừa mới ca đó chăng?
    Người ấy đáp:
    - Thưa chính là thần dân.
    Ánh hỏi:
    - Tiên sinh cao danh là gì. Quê quán ở đâu?
    Người ấy đáp:
    - Thần dân tên Ngô Tùng Châu quê quán miền Quy Nhơn phủ, vào đất Gia Định tìm thầy học chữ thánh hiền, vốn là học trò cùng Đức, Võ tiên sinh.
    Ánh cung kính hỏi:
    - Nay ta cho đắp thêm ba đồn Thảo Câu, Bến Nghé, Dác Ngư cùng đồn Thị Nghè làm thế ỷ giốc trấn giữ thành Sài Côn, sao tiên sinh lại bảo " Hàm rồng bỏ ngỏ cũng như không làm", là cố ý gì?
    Ngô Tùng Châu ung dung đáp:
    - Nay Chúa thượng cho đắp thêm ba đồn Thảo Câu, Bến Nghé, Đắc Ngư là đề phòng thủ thành Sài Côn. Nếu Tây Sơn lại đi thuyền vào cửa bể Hàm Luông đánh lên Trường Đồn (Mỹ Tho), rồi lại kéo ra đánh vào mặt Nam thành Sài Côn. Khi ấy liệu bỏ đồn này có thể giữ được thành Sài Côn chăng. Vì cửa Hàm Luông là nơi trọng yếu của thành Trường Đồn nên thần dân mới nói Hàm Rồng bỏ ngỏ là do thế.
    Lê Văn Duyệt giật mình tâu với Phúc Ánh:
    - Kẻ sách đắp đồn giữ Sài Côn của thần là kế nhỏ, việc giữ yên đất Gia Định mới là kế lớn. Chúa thượng nên trọng dụng người này.
    Nguyễn Phúc Ánh liền mời Ngô Tùng Châu về thành tiếp đãi trọng hậu. Ánh nâng ly mời rượu Châu rồi hỏi:
    - Vậy theo tiên sinh thì phải thế nào?
    Châu cạn ly hiến kế:
    - Chúa thượng nên cho người hùng tài kiệt hiệt vào trấn thủ thành Trường Đồn chặn giữ Hàm Luông thì có thể yên tâm mà dưỡng uy sức nhuệ chờ ngày Bắc phạt.
    Ánh hỏi:
    - Hiện quân tướng của ta con ít nếu chia quân và giữ Hàm Luông, ngộ nhỡ Tây Sơn lại đánh cửa Cần Giờ thì làm thế nào?
    Châu đáp:
    - Thành Sài Côn và cửa Cần Giờ đã có nguyên soái Chu Văn Tiếp, ba anh em họ Tống, tướng quân Lê Văn Duyệt, Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu đồn giữ. Trấn Biên thì đã có Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân trấn thủ che chở mặt Bắc. Nay xin tiến cử ba người trấn thủ đất Trường Đồn chặn cửa Hàm Luông ở mặt Nam thì Chúa thượng không phải lo gì nữa!
    Ánh vội hỏi:
    - Ba người ấy là ai?
    Châu cười hỏi lại Ánh:
    - Chúa công khởi binh ở đất Gia Định đánh Tây Sơn không biết ở Gia Định văn thì có Gia Định Tam Gia, võ thì có Gia Định Tam Hùng hay sao?
    Ánh khiêm tốn nói:
    - Ta tầm nhìn hạn hẹp, xin tiên sinh chỉ giáo!
    Châu thưa rằng:
    - Thầy của thần dân là Sùng Đức Võ tiên sinh mở trường dạy học, tuổi đã già không ra giúp chúa, nay người sai thần dân tìm đến diện kiến Chúa thượng. Thầy còn ba người học trò có thừa lòng trung quân ái quốc, văn chương như nước chảy, trí tuệ tựa Thái Sơn. Ấy là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh được người đời xưng tưng là Gia Định Tam Gia. Nay Chúa thượng nên mời ba người này ra giúp nước trị quốc an dân. Dân có yên thì quân mới mạnh. Xin Chúa thượng minh xét.
    Phúc Ánh cả mừng liền viết chiếu sai người đi triệu Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh. Xong việc Ánh lại hỏi:
    - Ấy là văn, còn võ thì thế nào?
    Châu đáp:
    - Đất Long Hồ vùng Ba Thắc thì có Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức dấy binh. Ơ Tam Phụ giữ Trường Đồn thì có Võ Tánh hùng cứ. Lúc Chúa thượng chạy ra Phú Quốc ba người này vẫn một lòng đánh giặc Tây Sơn. Quân Tây Sơn thường gọi Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh và Đỗ Thành Nhân là Gia Định Tam Hùng. Sau Đó Thành Nhân làm phản Chúa thượng đã trừ đi. Xét về tài thì Nguyễn Văn Thành nào kém Đỗ Thành Nhân! Nay Chúa thượng nêm xuống chỉ dụ phong chức Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức chặn lối Hàm Luông, cho Võ Tánh làm Trường Đồn trấn thủ. Nếu được ba người này làm thành trì che chở mặt Nam, thì đất Gia Định, Nam Hà ta yên như bàn thạch vậy!
    Ánh ngẫm nghĩ rồi nói:
    - Hai người kia thì được, còn Võ Tánh không xong.
    Châu lấy làm lạ nhướng mắt hỏi:
    - Vì sao lại không xong?
    Ánh thở dài đáp:
    - Lúc trước Đỗ Thành Nhân và Võ Nhân làm phản, ta bất đắc dĩ phải giết đi. Võ Nhân là anh Võ Tánh. Hay tin đó, Tánh và Đỗ Nhàn Trập bỏ thành Trường Đồn đem quân Đông Sơn lui về rừng Tam Phụ ẩn náu. Rồi Đỗ Nhàn Trập lại về hàng giặc Tây Sơn, được Nguyễn Nhạc phong làm Trấn thủ Gia Định. Vừa rồi nhờ có Chu Văn Tiếp đánh đuổi Nhàn Trập đi lấy lại đất Gia Định. Việc như thế ta làm sao dám tin dùng Võ Tánh. Vả lại dù ta có tin dùng hồ dễ Võ Tánh lại đâm ra giúp. Việc này thật là khó!
    Ngô Tùng Châu khoát tay nói:
    - Xin Chúa thượng cứ xuống chỉ dụ. Thần dân xin vì Chúa thượng đi mời Gia Định Tam Hùng về giúp.
    Ánh lại hỏi:
    - Ngộ như Võ Tánh vì nhớ thù nhà mà hại đến tiên sinh thì sao?
    Châu đáp:
    - Tánh có thời gian theo hầu dưới trướng Sùng Đức Võ tiên sinh, cũng với thần dân có tình cố cựu. Võ Tánh này vì bất đắc dĩ mới bỏ Chúa thượng và ẩn ở rừng Tam Phụ, chứ Võ Tánh là người hết lòng trung quân. Việc này xin Chúa thượng chớ lo!
    Nói rồi Ngô Tùng Châu từ biệt Nguyễn Phúc Ánh đi chiêu mộ Gia Định Tam Hùng. Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thánh nhân được chỉ dụ phong chức tướng quân liền đem quân đóng đồn canh phòng ở bến Hàm Luông. Thu phục Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành xong, Ngô Tùng Châu lại bôn ba đến rừng Tam Phụ diện kiến Võ Tánh. Võ Tánh mừng rỡ mới ngồi nói:
    - Tôi từ ngày giã biệt thầy theo Đông Sơn chủ tướng đánh giặc Tây Sơn giúp chúa, đến nay mới gặp lại Ngô huynh. Chẳng hay Ngô huynh này đến đây có việc gì?
    Châu lạnh lùng đáp:
    - Tôi vâng lệnh thấy đến đây truyền đạt lời của thấy nhắn cùng Võ đệ!
    Võ Tánh nghe nói có thầy chuyển lời liền quỳ xuống hỏi:
    - Dám hỏi Ngộ huynh thấy nhắn gửi điều gì?
    Ngô Tùng Châu lên tiếng rằng:
    - Thấy bảo tôi nói cùng Võ tướng quân rằng: Ta không có người học trò nào tên là Võ Tánh cả. Từ nay về sau, xin Võ tướng quân chớ nhận thầy dậy và cho mình là Sùng Đức tiên sinh Võ Trường Toàn.
    Võ Tánh thất kinh nói:
    - Đôi với thấy, Tánh tôi vẫn một lòng tôn kính, vì cớ gì thầy lại từ tôi?
    Tùng Châu làm mặt giận bảo:
    - Thầy bảo rằng thấy đã từng dậy: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Chúa cho người đến Trường Đồn bắt, Võ đã lại dám bỏ thành mà trốn về Tam Phụ. Đó là một lỗi! Rồi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vào đánh, Võ đã không đem quân cứu chúa, để đến nỗi chúa phải trốn tránh từ Sài Côn ra đến ngoài Phú Quốc. Ấy là hai tội! Đã không giúp chúa còn để cho Đỡ Nhàn Trập về hàng Tây Sơn. Ấy là ba tội! Với ba tội ấy thầy bảo với tôi rằng Võ Tánh bất trung nên không nhận tình thầy trò cùng Võ được nữa.
    Võ Tánh nghe xong khóc ngất nói:
    - Xin sư huynh về thưa cùng thầy kẻo oan cho Tánh tôi quá. Nguyên tôi không ở thành Trường Đồn chờ chúa đến bắt tội vì nghĩ thân này còn có ngày đánh Tây Sơn giúp chúa. Nên không màng câu: "Quân xử thần tử" mà kéo quân tạm tránh về rừng Tam Phụ, ấy là một lẽ! Chúa giết anh tôi, lại ngờ tôi cố ý báo thù, nếu tôi ra giúp chúa chắc gì chúa đã nhận, ấy là hai lẽ! Đỗ Nhàn Trập tự ý ra hàng không phải lỗi do tôi, ấy là ba lẽ! Nếu không có giặc Tây Sơn, Tánh tôi thà chết chứ đời nào lại chịu mang tiếng bất trung. Xin Ngô huynh về bẩm cùng thầy hộ tôi với.
    Châu đỡ Tánh đứng lên nói:
    - Việc ấy tôi sẽ với thưa với thấy minh oan cho tướng quân. Con việc đem quân ra giúp chúa đánh Tây Sơn thì sao?
    Tánh gạt nước mắt đáp:
    - Đánh Tây Sơn lúc nào tôi lại không đánh. Có ra giúp chúa bây giờ có hai điều e rằng chưa được!
    Châu liền hỏi:
    - Hai điều ấy là gì?
    Tánh lại ứa lệ nói:
    - Điều thứ nhất là chúa vẫn nghĩ rằng tôi làm phản, kéo binh về Tam Phụ đề báo thù anh. Điều thứ hai là bốn câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" còn có câu: "Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu". Anh tôi là Võ Nhân thay cha nuôi tôi từ thuở nhỏ thì cũng như là quyền huynh thế phụ. Nay cha chết chưa được mãn tang đã theo phò tá người giết cha mình thì chẳng mang tiếng là người bất hiếu hay sao? Bởi thế ngay bây giờ tôi chưa thể ra phò tá chúa được!
    Ngô Tùng Châu trầm ngâm:
    - Lời Võ đệ nghe ra có lý! Chẳng giấu gì Võ đệ tôi theo lệnh chúa đi chiêu mộ Gia Định Tam Hùng. Hiện Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đá quy thuận đem quân đóng giữ ở cửa biển Hàm Luông. Chỉ còn có Võ đệ nữa là tôi đã làm tròn sứ mạng, bây giờ Võ đệ chưa thể ra giúp chúa được sao?
    Tánh chưa xót đáp:
    - Tiếng bất trung sớm muộn gì tôi cũng rửa được những nếu chưa mãn hẳn tang anh mà ra giúp chúa thì tiếng nhơ bất hiếu đến ngàn thu còn đó làu làu. Tánh tôi thà chết chứ đời nào lại làm người bất trung bất hiếu!
    Ngô Tùng Châu không biết nói sao đánh cáo biệt ra về, thuật lại lời Võ Tánh cho Nguyễn Phúc Ánh, nghe xong Ánh nói:
    - Nếu sau khi mãn tang Võ Nhân mà Vô Tánh không đem quân ra giúp là có ý ngờ ta.
    Nó rồi bảo Ngô Tùng Châu chờ mãn tang Võ Nhân sẽ đến đón Võ Tánh. Ngô Tùng Châu vâng lệnh lui ra.
    Từ ấy về sau Nguyễn Vương ngày đêm sai quân xây thành đắp luỹ, đãi sĩ cầu hiền, đóng thuyền đúc súng, tích thảo đồn lương, chiêu mộ binh lính, chờ có cô h6i là đánh Tây Sơn phục quốc!
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #32
      Chương 29

      Nguyễn Hữu Chỉnh cùng đường theo về Tây Sơn.
      Chu Văn Tiếp thua binh chạy sang Tiêm Quốc.


      Nói về chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ngày ấy nhận thấy trong người sảng khoái, Trịnh Sâm liền bảo với phi tần Đặng Thị Huệ:
      - Nhờ sứ giả của Tây Sơn Nguyễn Nhạc bày kế triệu Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn về để nhờ tướng quý của hai người này xua đuổi yêu ma. Từ ấy đến nay ta không thấy hồn Duy Vỹ theo báo oán nữa. Thật là trời giúp ta vậy!
      Sâm vừa dứt lời, quân vào báo:
      - Tâu Chúa thượng, lão tướng Bùi Thế Đạt và đại học sĩ Lê Quý Đôn lâm trọng bệnh qua đời.
      Sâm giật mình hỏi:
      - Hai người ấy mất lúc nào?
      Quân đáp:
      - Bùi tướng quân mất giờ Hợi. Đại học sĩ mất giờ Tý. Cùng trong một đêm.
      Sâm ngửa mặt than:
      - Ơi! Trời đã hại ta rồi!
      Đêm ấy, Trịnh Sâm đang mơ màng giấc điệp bỗng thấy Thái tử Vỹ mặc hoàng bào, chân đi giầy tía khoanh tay đứng trên đầu giường nhìn chằm chạp vào mắt mình, Sâm kinh khiếp la hoảng giữa đêm khuya. Từ ấy về sau không đêm nào Trịnh Sâm ngủ yên được, thần sắc xanh xao, thân hình tiều tuỵ. Biết mình không sống được, Trịnh Sâm gọi Đặng Thị Huệ vào cạnh giường nói:
      - Trước khi chết ta muốn viết di chiếu phế con lớn là Trịnh Khải, truyền ngôi cho con nàng là Trịnh Cán. Nhưng ngắt nỗi Trịnh Cán tuổi còn nhỏ, vả lại việc phế lập sau khi ta chết e rằng triều đình sinh biến, vậy phải cậy ai cho yên việc bây giờ?
      Đặng Thị Huệ khóc thưa:
      - Trong các tướng giỏi kể từ khi Việp quận công mất đi, chỉ có Huy quận công Hoàng Đình Bảo là hùng tài mọi người đều sợ phục. Nay Hoàng Đình Bảo đang trấn thủ đất Nghệ An, Chúa thượng nên triệu hồi Bảo về giao trọng trách thì lo gì không xong việc.
      Sâm bảo:
      - Lúc Tiên vương khởi binh đánh họ Mạc khôi phục cơ đồ cho nhà Lê Trung Hưng là ở đất Nghệ An nhờ dân binh ở xứ này mà làm nghiệp cả. Binh ở ở phủ Nghệ An, Thanh Hoá, Hả Tĩnh có công nên được gọi là lính "Tam phủ ưu binh". Bọn ưu binh ở kinh thành cậy có công lại thường hay làm loạn. Dân Nghệ An cậy có công lại thường hay yêu sách coi thường phép nước. Bởi vậy ta mới để Hoàng Đình Bảo trấn thủ Nghệ An, dùng uy mà uý lạo dân chúng.
      Ta há chẳng biết Hoàng Đình Bảo la kẻ hùng tài sao? Nay nếu triệu Hoàng Đình Bảo về kinh thì phải cử ai vào thay Hoàng Đình Bảo trấn thủ Nghệ An?
      Thị Huệ đáp:
      - Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc có một người em rể là trung Hàu Vũ Tá Dao. Chúa thượng nên cho người này vào thay Hoàng Đình Bảo. Vả lại thủ hạ của Đình Bảo la Hữu tham quân nắm giữ binh ở Nghệ An tên là Nguyễn Hữu Chỉnh lại là em rẻ Vũ Tá Dao. Nay cho Vũ Tá Dao vào trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh thì kẻ mới người cũ đều là anh em một nhà dễ dàng cộng sự với nhau hơn, ta không phải lo biến loạn ở trấn xa.
      Trịnh Sâm khen phải, làm y theo lời Đặng Thị Huệ. Huy quận công Hoàng Đình Bảo về đến kinh thành liền vào yết kiến chúa Trịnh, Trịnh Sâm giao di chiếu cho Bao rồi truyền:
      - Khanh hãy vì ta hết lòng phó Trịnh Cán lên kế vị. Có vậy ta mới yên lòng nhắm mắt.
      Nói xong Sâm chết. Ấy là vào tháng chín năm Nhâm Dần niên hiệu Lệ Cảnh Hưng thứ bốn mươi ba. Sâm chết khi tròn bốn mươi bốn tuổi.
      Triều đình lo hậu sự của Trịnh Sâm xong, Huy quận công Hoàng Đình Bảo bên phò Trịnh Cán, lúc ấy mới sáu tuổi lên thay quyền kế vị. Lúc bây giờ các quan trong triều thấy Đình Bảo làm điều phế lập, Trịnh Cán lại còn nhỏ tuổi nên lắm người không phục. Huy quận công Hoàng Đình Bảo, (người đường thời thường gọi là Quận Huy), hay qua lại bên cung Chánh cung Đặng Thị Huệ bàn bạc việc giữ ngôi cho ấu chúa Trịnh Cán. Một hôm từ cung Đặng Thị Huệ về, Huy quận công Hoàng Đình Bảo nghe quân báo:
      - Thưa Quận công, dân chúng trong thành đặt lời ca phản nghịch ạ!
      Bảo nhíu mày hỏi:
      - Lời ca thế nào là phản nghịch?
      Quân lấm lét cúi đầu thưa:
      - Dân chúng khắp kinh thành đều ca rằng:
      Trăm quan có một như mù
      Để cho Huy quận vào rờ chính cung
      Xin tâu cùng quận công định liệu.
      Đình Bảo vỗ án quát:
      - Đứa nào dám cả gan đặt lời càn rỡ. Ngươi hạ truyền lệnh ta sai quân mỗi người đem theo một cái móc đi khắp kinh thành, hễ nghe ai ca lời ấy đem móc kéo lưỡi ra mà cắt cho ta.
      Quân vâng lệnh đi lùng sục tìm người ca lời ấy trị tội. Bỗng một cụ già say rượu ngất ngường hát:
      Trăm quan có một như mù
      Để cho Huy quận vào rờ chính cung
      Quân lính nghe thấy liền dùng móc kéo lôi cụ già ra cắt rời lưỡi đi. Cụ già ôm miệng máu chạy về nhà rồi chết. Con ông già ấy tên Nguyễn Bằng làm chức biện lại trong quân "tam phủ ưu binh". Thấy cha chết thảm Nguyễn Bằng giận căm gan, liền tụ họp mấy người có uy tín trong quân tam phủ ưu binh, Nguyễn Bằng nói:
      - Tiên chúa mới mất quận Huy đã tư thông với Chánh cung Đặng Thị Huệ, bỏ trưởng lập thứ. Trần Cán còn nhỏ, quyền hành ở trong tay quận Huy, quận Huy lại là người cương cường thường hay đối nghịch với tam phủ ưu binh ta, e rằng ta không thể yêu sách như lúc trước được. Chỉ bằng ta rủ nhau vào phủ chúa giết Hoàng Đình Bảo. Phế thứ Trịnh Cán, lập trưởng Trịnh Khải lên ngôi chúa thì sau này bọn ta muốn gì mà không được!
      Mấy người kia khen phải. Nguyễn Bằng nói lại:
      - Vậy chúng ta hay chia nhau vận động khắp trong quân tam phủ. Hẹn ngày mai tôi đến trước phủ chúa đánh ba hồi tróng, mọi người nghe trống lệnh hãy xúm lại giết quận Huy.
      Hôm sau vừa tờ mờ sáng, nơi phủ chúa bỗng nghe ba hồi trống vang dội khắp nơi. Quân tam phủ tụ tập gần đó liền kéo đến vây phủ chúa, đông đến vài ngàn người. Quân vào phi báo cùng Hoàng Đình Bảo. Bảo mặc giáp cầm gươm mang cung tên lên voi dẫn theo vài mươi quân hộ vệ ra trước điện chúa. Bảo tuốt gươm quát:
      - Ai xui các ngươi làm điều càn rỡ khinh lờn phép nước. Nay ta bảo các ngươi ai ở đâu thì về nơi ấy, ta sẽ tâu vua bỏ qua việc này, nếu không tội chết khó dung.
      Quân tam phủ vốn sợ oai Hoàng Đình Bảo, vả lại không người chi huy ai nấy đều khép nép lui ra. Nguyễn Bằng lại nói với đồng bọn:
      - Quận Huy tuy là người hữu dũng những trong tay chỉ có mấy mươi cận vệ thì làm gì được bọn ta. Nếu ta không làm tới nơi tới chốn mà nghe lời hắn bỏ đi, rồi hắn phụng mệnh chúa điều binh các trấn về bắt bọn ta, chừng ấy ai bênh vực cho bọn ta được?
      Quân tam phủ nghe Bằng nói xong nhao nhao:
      - Phải đó! Phải đó! Chỉ có lập chúa mới thì bọn ta đã vô tội lại còn có công. Mau xong lên giết chết quận Huy.
      Nói xong muôn người như một nhất tề xông lên. Hoàng Đình Bảo thấy thế lấy cung mà bắn chẳng ngờ cung gấy, lấy súng nạp đạn mà bắn thuốc, đạn đốt lại không cháy. Bảo bèn vung gươm ngồi trên bành voi chém xuống, quân tam phủ chết vài mươi người. Bọn chúng liền dùng móc câu kéo Đình Bảo té xuống đất đâm chết. Chúng chia người đi đón Trịnh Khải để trên chiếc mâm đồng khiêng sang phủ chúa đặt lên ngai. Trịnh Khải nhờ quân tam phủ làm loạn được lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương, phe Trịnh Cán xuống làm Cung quận công. Đoan Nam Vương lại sai quân tam phủ đi lùng bắt đồng bọn của Hoàng Đình Bảo mà giết. Bọn lính tam phủ thừa dịp ấy đi khắp trong thành ngoại nội cướp bóc của nhân dân. Tiếng kêu oán thán vang dậy đất trời.
      Lúc bây giờ thủ hạ của Hoàng Đình Bảo có một người tên là Nguyễn Viết Tuyển trốn thoát được chạy vào Nghệ An tìm gặp Nguyễn Hữu Chỉnh, nói:
      - Thưa tướng quân, bọn kiêu binh ở kinh thành nơi đây giết chết Huy quận công, bắt Thái phi Đặng Thị Huệ giảm vào ngục, phế chúa Trịnh Cán xuống làm Cung quận công, phò Trịnh Khải lên ngôi chúa xưng là Đoan Nam Vương. Sớm muộn gì Đoan Nam Vương cũng mật chiếu sai người vào bắt tướng quân vì tôi và tướng quân đều là người của Huy quận công. Tôi mấy thoát được vào đây báo cùng tướng quân hãy lo liệu sớm.
      Chỉnh liền giấu Nguyễn Viết Tuyển trong nhà rồi sang đinh trấn thủ Nghệ An là Dao trung Hầu, Vũ Tá Dao. Chỉnh hỏi Đào:
      - Ở kinh thành quân tam phủ đã giết chết quận Huy, phe Trịnh Cán, lập Trịnh Khải làm Đoan Nam Vương, chẳng hay trung hầu đã biết chưa?
      Vũ Tá Dao thở dài đáp:
      - Nay lại có việc này nữa sao? Thật triều đình không còn kỷ cương gì nữa cả. Từ xưa đến nay cha từng nghe nói quân lính nào lại nổi loạn giết vua quan như bọn tam phủ này cả. Rồi sự việc thế nào?
      Chỉnh đáp:
      - Đoan Nam Vương sai người tìm giết phe đảng của Huy quận công Hoàng Đình Bảo, ắt sớm muộn gì cũng có mật chỉ đến bắt tôi.
      Đạo hỏi:
      - Vậy nay ông tính thế nào?
      Chỉnh đáp:
      - Huy quận công Hoàng Đình Bảo, phó tướng trấn thủ Thuận Hoá là Hoàng Đình Thể và tôi trước là thuộc tướng của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Nay tôi xin khuyên Hoàng Đình Thể giết chết trấn thủ là Phạm Ngô Cầu chiếm lấy đất Thuận Hoá là một tay cứu viện. Còn ông giữ lấy trấn Nghệ An giữ thế môi và răng cùng các tướng Thuận Hoá, rồi đóng trọng binh ở các nơi hiểm yếu, tích thảo đồn lương thì có thể giữ được lâu dài. Còn việc phòng giữ mặt biển Chỉnh này xin cáng đáng hết cả.
      Vũ Tá Dao suy nghĩ rất lâu chẳng nói gì, Chỉnh nóng ruột hỏi:
      - Trung hầu tính thế nào?
      Đào đáp:
      - Việc này là ra mặt phản lại triều đình, tự lập riêng một cõi thật là điều đại sự. Hãy thư thả cho ta suy nghĩ rồi sẽ nói.
      Chỉnh thấy Vũ Tá Dao ý không dám làm liền nói:
      - Chờ ông suy nghĩ xong chắc là triều đình đã có mật chỉ vào bắt tôi rồi đấy!
      Nói rồi bỏ về nhà hối thúc gia quyến thu xếp hành lý đưa vợ con xuống một chiếc thuyền lớn. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
      - Tướng quân định tránh nơi nào lại đi bằng thuyền?
      Chỉnh cười đáp:
      - Trời đất bao la lại không có chỗ cho ta dung thân sao? Nay chúa không dùng ta thì ta vào cùng Tây Sơn Nguyễn Nhạc!
      Nói xong dong buồm đi thẳng vào Quy Nhơn ra mắt vua Thái Đức. Gặp vua, Chỉnh quỳ lậy, vua Thái Đức vội vàng đỡ dậy và hỏi:
      - Ông đến đây ắt là có chiếu chỉ của chúa. Vậy ta phải quỳ tiếp chiếu mới phải sao ông lại quỳ là cớ làm sao?
      Chỉnh không dám đứng lên, cúi lấy thưa:
      - Nay bọn kiêu binh làm loạn ở Thăng Long giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán và Trịnh Khải lên ngôi chúa. Trịnh Khải lại ra lệnh tập nã tay chân của Huy quận công, nên thần phải trở vào đây xin Bệ hạ dung nạp.
      Vua Thái Đức lại hỏi:
      - Tây Sơn ta là nước nhỏ, ông là người của nước lớn. Nếu ta dùng ông ngộ nhỡ chúa Trịnh đem binh vào vấn tội thì ta biết liệu làm sao?
      Chỉnh đáp:
      - Bệ hạ đã có chí tự lập không nhận sắc phong của họ Trịnh nên mới lên ngôi Hoàng đế, việc tiến thủ ắt đã có kế sách thì Bệ hạ có sợ gì họ Trịnh mà mượn cớ thoái thác. Nếu Bệ hạ không dùng, Chỉnh tôi xin được chết tại nơi này!
      Vua Thái Đức cười bảo:
      - Ta chỉ thử Hữu Chỉnh một tý mà thôi. Ta và ông vốn là cô nhân trong lúc đánh Định Vương Nguyễn Phúc Thuần sao nỡ bỏ nhau khi hoạn nạn.
      Nói xong vua sai quân bày yến tiệc khoản đãi Nguyễn Hữu Chỉnh. Rượu vào vài chén, Chỉnh nói:
      - Nay ở đất Bắc Hà, họ Trịnh hiếp đáp vua Lê khiến thiên hạ bất bình. Vừa rồi Trịnh Sâm chết, hai còn là Trịnh Khải và Trịnh Cán lại tranh ngôi chia phe đảng giết hại lẫn nhau. Cương thường đã mất, giềng mối đã lìa, lại thêm nói bình kiêu dân oán không còn ra thể thống gì cả. Nếu Bệ hạ nhân dịp này mà đem binh ra đánh một trận thì đất Bác Hà không thuộc vào Bệ hạ thì con ai vào đây nữa!
      Vua Thái Đức nói:
      - Bắc Hà là nước của vua Lê sao ta lại đem binh xâm phạm được? Vả lại họ Trịnh từ khi lấy được đất Thuận Hoá rồi dùng ải Hải Vân làm ranh giới nước ai người ấy giữ, sao ta lại dấy động can qua làm khổ cho lê dân trăm họ? Nay ông đã đến đây, đối với ta là thượng khách sống an nhàn há chẳng hơn sao?
      Vừa vừa dứt lời quân do thám về báo:
      - Tâu Bệ hạ, Chu Văn Tiếp từ Phú Yên đi đường núi vào Gia Định đánh lấy Sài Côn, tướng quân Đỗ Nhàn Trập thua chạy về Bình Thuận. Chu Văn Tiếp đón Phúc Ánh từ Phú Quốc về hưng binh đánh chiếm đất Gia Định. Tướng quân Đỗ Nhàn Trập sai người về báo cùng Bệ hạ định liệu.
      Vua Thái Đức liền sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ, tiết chế Nguyễn Lữ, tướng quân Lê Trung, phò mã Trương Văn Đa đem một trăm chiếc đại thuyền và một vạn quân vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vua Thái Đức bàn đánh Nguyễn ở phương Nam nên đành thôi không xin vua đem quân đánh Trịnh ở mặt Bắc nữa.
      Bây giờ là mùa xuân, tháng hai, năm Quý Mão (1783), nội thành Sài Côn Nguyễn vương họp các tướng bàn quốc sự. Nguyễn vương lo lắng hỏi:
      - Quân do thám của ta từ Quy Nhơn báo tin về rằng:
      Nguyễn Huệ đang chuẩn bị binh thuyền vào đánh ta. Vậy theo các khanh ta nên đối phó như thế nào?
      Chu Văn Tiếp bước ra thưa:
      - Tâu Thượng vương, bộ quân ta đã có Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thủ thành Trấn Biên. Nay ta cho tướng đem quân tăng cường yểm trợ cho Hồ Văn Lân thì mặt Bắc không phải lo gì nữa. Cửa Hàm Luông thì Ngô mưu sĩ đã tiến cử Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Huỳnh Đức chặn giữ, vậy mặt Nam đất Gia Định cũng chẳng phải lo. Đáng lo nhất vẫn là cửa Cần Giờ tiến đến Thất Kỳ Giang vỗ mặt đồn Thị Nghè uy hiếp mặt Đông thành Sài Côn. Đạo quân này chắc chắn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Nếu ta đánh thắng được đạo quân của Nguyễn Huệ, các đạo khác tự khắc sẽ tan.
      Nguyễn vương lại hỏi:
      - Quân Tây Sơn rất thiện chiến, Nguyễn Huệ là giỏi dùng quân. Lần trước ta phục binh ở Thất Kỳ Giang mà không lừa được Nguyễn Huệ nên bị thua trận. Vậy nay phải đánh thế nào?
      Chu Văn Tiếp cười đáp:
      - Quân Tây Sơn lần trước đánh Thượng vương Thất Kỳ Giang dùng hoả hổ đốt tàu đồng của người Pháp Lang Sa. Vậy trên thuyền của giặc lúc nào cũng có chất dẫn hoả. Theo tơi ta nên dĩ độc trị độc!
      Nguyễn vương vội hỏi:
      - Thế nào là dĩ độc trị độc?
      Tiếp vui vẻ hoạt bát đáp:
      - Đất Gia Định chỉ có hai mua: từ tháng ba để tháng tám là mùa mưa, gió Năm từ biển thổi vào, từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc, mà người Gia Định thường gọi là gió Chướng từ đất liên thổi ra. Nay là tháng hai mùa khô gió Chướng, ta lợi dụng sức gió nên dùng hoả công mà đánh. Quân Tây Sơn lại có chất dẫn hoả trên thuyền, ấy chẳng phá là dĩ độc trị độc đó ư? Xin Thượng vương suy xét!
      Nghe xong Nguyễn vương mừng rỡ nói:
      - Chu Nguyên soái thật có tài đại tướng, ta còn lo gì không thắng được Nguyễn Huệ. Nay ta giao trọn quyền điều binh cho khanh. Mau báo tiệp khai hoả cho ăn lòng ta Văn Tiếp nhé!
      Chu Văn Tiếp lãnh lệnh, bái tạ Nguyễn vương rồi dẫn thuỷ binh đến Thất Kỳ Giang bày trận.
      Đến sông Thất Kỳ Giang gặp lúc nước thuỷ triều đang lai láng, gió Chướng lồng lộng từ đất liền thổi ra biển, Tiếp phấn khích hạ lệnh:
      - Châu Đoan Chân lãnh án tiên phong đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân ra cửa Cần Giờ đánh giặc, giả thua chạy vào Thất Kỳ Giang.
      Châu Đoan Chân lạnh lệnh đi ngay. Tiếp lại bảo Phạm Văn Sở:
      - Ngươi hãy dẫn quân đem một ngàn bè cỏ phục hai bên bờ sông, chờ Châu Đoan Chân giả thua chạy qua khỏi rồi phóng hoả bè cỏ đẩy ra giữa sông chặn thuyền quân Tây Sơn mà đốt.
      Phạm Văn Sở lạnh mệnh xuất quân. Tiếp ngoảnh lại bảo các tướng:
      - Các ngươi chuẩn bị binh thuyền, chờ ta đốt xong thuyền Tây Sơn thì đổ ra vây bắt Nguyễn Huệ.
      Tống Phước Lương vòng tay nói:
      - Nếu Nguyễn Huệ vào Thất Kỳ Giang chắc chắn sẽ bị Chu đô đốc đời nay dùng hoả công mà đánh cho tan tán, khác nào Chu đô đốc ngày xưa đốt Tào Tháo trên sông Xích Bích vậy!
      Nói rồi Phước cùng các tướng chia nhau bố trận.
      Phần Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn đến ngoài khơi cửa Cần Giờ, nhìn vào núi Cấp thấy khói bốc lên nghi ngút, Huệ cười bảo:
      - Lại đốt lửa báo hiệu trên núi Cấp rồi phục binh ở Thất Kỳ Giang như cũ chớ gì!
      Nói rồi Huệ hạ lệnh:
      - Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo đem ba mươi đại thuyền và ba ngàn quân vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường Nguyễn Phúc Ánh từ Sài Côn chạy về Hà Tiên.
      Hai tướng Long và Bảo lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại tuốt gươm chỉ vào cửa Cần Giờ bảo:
      - Trương Văn Đa lãnh ấn tiên phong, lệnh toàn quân tiến đánh Sài Côn.
      Quân Tây Sơn hùng dũng tiến lên!
      Vào đến cửa Cần Giờ bỗng gặp thuyền quân Nguyễn do Châu Đoan Chân tiến ra. Hai bên giáp chiến, vừa mới giao phong Châu Đoan Chân hô quân tháo lui. Nguyễn Huệ thấy vậy cười bảo:
      - Lại giả thua dụ ta vào trận mai phục như lần trước chứ gì! Truyền đánh trống thu binh!
      Nguyễn Lữ nghi ngại hỏi:
      - Nay là mùa khô, gió chướng từ bờ thổi ra, quá ta nghịch gió. Nếu tiến binh ngộ nhỡ Chu Văn Tiếp đánh hoả công thì làm thế nào? Bởi thế anh mới đánh trống thu binh chớ gì?
      Nghe Lữ nói xong, Nguyễn Huệ gật đầu rồi bảo:
      - Truyền lệnh dừng quân lập thuỷ trại!
      Quân Tây Sơn neo thuyền ngoài cửa Cần Giờ nghỉ ngơi. Đến lúc nước lớn đầy, gió bấc chướng vẫn lồng lộng từ đất liền thổi ra. Nguyễn Lữ nói:
      - Nếu lúc này ta tiến quân ắt giờ này vào Thất Kỳ Giang đã bị Chu Văn Tiếp dùng hoả công mà đốt mất rồi!
      Nguyễn Huệ chỉ mỉm cười mà không nói. Nước triều lên đầy rồi lại chảy, bấy giờ Nguyễn Huệ lại truyền lệnh tiến quân. Nguyễn Lữ bèn can:
      - Nước vẫn còn đang chảy, gió bấc chướng thổi ra; phần tiến quân ngược nước gió, phần thì địch thuận lợi dùng hoả công, sao anh lại tiến binh vào lúc này?
      Nguyễn Huệ cười đáp:
      - Chu Văn Tiếp thì biết gì mà đánh hoả công. Vả lại nếu nói gió bấc chướng sợ giặc đánh hoả công chẳng lẽ lại rút quân về? Cứ truyền lệnh ta lập tức tiến quân.
      Nguyễn Lữ vội can.
      - Xin anh đừng nên khinh địch. Hãy sai quân do thám rồi tiến binh cũng chẳng muộn nào.
      Nguyễn Huệ gạt đi báo:
      - Địch tình ta đã nắm rõ thì cần gì do thám.
      Nói rồi không nghe lời Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ bảo quân:
      - Ngược nước chèo đổ mồ hôi. Gặp giặc, không đổ máu mã giặc phải tan!
      Quân sĩ Tây Sơn không rõ vì cớ gì, nhưng vốn tin phục Nguyễn Huệ nên gắng sức mà chèo!
      ***
      Nói về Chu Văn Tiếp thấy Châu Đoan Chân giả thua chạy về mà không thấy quân Tây Sơn đuổi theo. Tiếp bảo Chu Đoan Chân rằng:
      - Bây giờ nước đang lớn hãy cho quân nghỉ ngơi, đợi sang ngày mai nước chảy sẽ đem quân ra dụ địch.
      Nước lên đến trưa thì đầy; đầy xong lại chảy; chảy đến chạng vạng tối thì đã gần cạn kiệt. Trong bóng đêm chập choạng, bỗng thấy thuyền Tây Sơn lừ lừ tiến vào trận Thất Kỳ Giang, Chu Văn Tiếp ngạc nhiên nói:
      - Nguyễn Huệ sao lại tiến binh vào lúc nước đang chảy. Chắc hẳn sợ mai phục nên ngược nước để đánh bất ngờ chăng?
      Đoạn Tiếp ngước nhìn trời, trời còn gió bấc chướng, cúi nhìn nước, nước vẫn chạy riu riu. Tiếp mừng rỡ nói:
      - Quân Tây Sơn cậy mạnh, Nguyễn Huệ cậy có tài mà khinh địch, phen này ắt bại dưới tay ta.
      Đoạn Tiếp truyền lệnh:
      - Quân bay thuận nước thuận gió phóng hoả bẻ cỏ đẩy ra giữa sông!
      Quân Gia Miêu lập tức thi hành! Một ngàn bè cỏ cất cao ngọn lửa rần rật trôi về phía quân Tây Sơn. Nguyễn Lữ thất kinh than:
      - Em đã can rồi mà anh còn khinh địch. Giờ giặc đánh hoả công phải chạy cho mau.
      Nguyễn Huệ lại cười nói:
      - Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt thuyền quân Nguyễn đây. Em chớ lo!
      Lúc ấy gió bấc chướng mỗi lúc một giảm dần, bè lửa trôi chầm chậm về phía quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ vỗ tay cười ngất bảo quân:
      - Truyền đánh trống thu binh!
      Chu Văn Tiếp thấy quân Tây Sơn lui, liền xua đại binh theo sau bè lửa mà tiến. Tiếp bảo các tướng:
      - Chờ bè lửa đốt thuyền giặc xong, hay tiến truy bắt Nguyễn Huệ.
      Tiếp vừa dứt lời trời bỗng nhiên lặng gió, mặt sông phẳng lặng như tờ. Bấy giờ nước thuỷ triều lại lớn lên, bè lửa theo nước trôi ngược về thuyền quân Nguyễn.
      Chu Văn Tiếp con đang bàng hoàng ngơ ngác, bỗng trời nổi gió nồm nam từ biển thổi vào rất mạnh. Ngàn bè lửa thuận gió, thuận nước chạy ào ào về đốt thuyền quân Nguyễn. Chu Văn Tiếp ở phía sau thấy vậy ngửa mặt lên trời hét rằng:
      - Trời hại ta rồi! Trời hại ta rồi!
      Hét xong vội vã cùng các tướng quay thuyền mà chạy.
      Thuyền quân Nguyễn Gia Miêu bị đốt cháy tan tác, khói lửa ngút trời. Bên quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ bảo Nguyễn Lữ:
      - Anh đã bảo Chu Văn Tiếp làm nội ứng cho ta đốt quân chúa Nguyễn giờ em đã thấy chưa?
      Nói rồi Huệ truyền quân thúc trống tiến binh. Các tướng Nguyễn tan hàng mạnh ai nấy chạy trốn, Chu Văn Tiếp được em mình là Châu Đoan Chân hộ vệ chạy về hướng Sài Côn. Bỗng thấy một chiếc thuyền Tây Sơn giong buồm đuổi theo, một viên tướng Tây Sơn đứng trên mui thuyền quát lớn:
      - Tướng giặc kia chớ chạy, có ta là phò mã Trương Văn Đa đến đây!
      Chu Đoan Chân bảo Tiếp:
      - Anh hãy dùng thuyền nhỏ chèo vào bờ lên đất liền mà chạy. Em ở đây chặn giặc rồi sẽ theo sau.
      Tiếp nghe lời liền cùng Phạm Văn Sở xuống thuyền nhỏ vào bờ. Đến nơi, nhìn ra sông thấy Chu Đoan Chân đã bị Trương Văn Đa đâm chết, Tiếp khóc lớn rằng:
      - Ba anh em của ta đều bị giặc Tây Sơn giết chết. Thù này không trả được, Chu Văn Tiếp ta đâu đáng là người. Đoạn Chân em ới, trời đổi gió đã hại chết em rồi!
      Tiếp đau lòng than khóc mãi. Phạm Văn Sở can gián một hồi, Tiếp gạt nước mắt bảo:
      - Quân Tây Sơn đi thuyền tiến đánh Sài Côn, ta đi đường bộ về thành không kịp. Vậy phải làm sao?
      Phạm Văn Sở hiến kế:
      - Theo tôi ta nên băng rừng đến thành Trấn Biên hợp cùng Hồ Văn Lân và Nguyễn Nghi đem binh và chiếm lại Sài Côn.
      Chu Văn Tiếp khen phải liền tất tả đi ngay. Đến đoạn đường lớn giữa thành Sài Côn và Trấn Biên, bỗng thấy vài tên quân từ hướng Bắc chạy vào, Tiếp chặn lại hỏi:
      - Các ngươi là quân ở đâu lại chạy đến đây?
      Tên quân đáp:
      - Chúng tôi ở dưới trướng tướng quân Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân. Thành Trấn Biên bị tướng Tây Sơn là Đặng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập chiếm mất, hai tướng Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân không biết trốn tránh nơi nào.
      Lại thấy vài tên quân từ hướng Nam chạy đến bảo:
      - Thưa đại Đô đốc, Nguyễn Huệ đem quân đánh thành Sài Côn, các tướng giữ đồn Thảo Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư đều tử trận. Chúa thượng đã bỏ thành Sài Côn chạy vào Trường Đồn.
      Chu Văn Tiếp thất kinh than:
      - Quân ta bại trận khắp nơi. Thành Sài Côn và Trấn Biên đều mặt về tay giặc, ta biết phải đi đâu?
      Phạm Văn Sở lại hiến kế:
      - Tôi có nghe ngày trước chúa ta và vua nước Tiêm La kết giao sẽ cứu giúp nhau khi hoạn nạn. Nay ta hãy tìm đường sang Tiêm quốc. Xin Tiêm vương đem thuỷ quân sang Hà Tiên đến Trường Đồn hợp cùng Chúa thượng đánh Tây Sơn.
      Chu Văn Tiếp khen phải liền cùng Phạm Văn Sở và vài mươi tên quân băng rừng nhằm hướng Tây tìm đường sang Tiêm quốc.
      Nói về Nguyễn Phúc Ánh trong thành Sài Côn nghe quân ở đồn Thị Nghè về báo:
      - Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ đánh tan quân của Chu nguyên soái ở Thất Kỳ Giang. Chu nguyên soái chưa biết sống chết thế nào. Nguyễn Huệ lại chia quân làm bốn cánh đánh bốn đôn Thảo Câu, Thị Nghè, Bến Nghé, Dác Ngư Tướng của ta giữ đồn Thị Nghè là Hồ Công Siêu tử trận.
      Quân đồn Bến Nghé về báo:
      - Thưa Chúa thượng, tướng quân giữ đồn Bé Nghé là Dương Công Trừng bị Nguyễn Lữ chém chết. Quân Tây Sơn đã chiếm lấy đồn.
      Phúc Ánh con đang bàng hoàng, lại nghe quân đồn Dác Ngư về cấp bảo:
      - Thưa Chúa thượng, tướng Tây Sơn là Lê Trung tiến đánh đồn Dác Ngư, tướng quân Nguyễn Văn Quý tử trận, hiện quân Tây Sơn đang ồ ạt tiến về thành Sài Côn.
      Phúc Ánh hoảng hốt hối quân:
      - Hai tướng Lê Văn Duyệt và Trương Tấn Bửu lãnh ba ngàn quân đi đoạn hậu. Mau mở cửa Nam thành chạy về cố thủ Trường Đồn.
      Nguyễn Huệ và các tướng dẫn quân chiếm thành Sài Côn bỏ trống. Nguyễn Lữ hỏi Huệ:
      - Trận Thất Kỳ Giang sao anh biết rằng Chu Văn Tiếp sẽ đánh hoả công mà lợi dụng sức gió đốt thuyền quân Nguyễn?
      Huệ đáp:
      - Nay là tháng hai ở Quy Nhơn là mùa xuân, mưa thuận gió hoà, khí hậu mát mẻ. Nhưng ở đất Gia Định lại là mùa nắng to khô ráo thì làm gì Chu Văn Tiếp lại không dùng hoả công mà đánh ta. Nên ta mới nói đùa cũng Nguyễn Lữ rằng Chu Văn Tiếp là nội ứng cho ta đốt thuyền quân chúa Nguyễn đấy.
      Trương Văn Đa lại hỏi:
      - Thúc phụ đã biết Chu Văn Tiếp dùng hoả công sao còn tiến quân? Nếu lúc đó trời không trở giờ có phải là quân ta đã bị đốt thành tro bụi rồi chăng.
      Nguyễn Huệ cười to nói:
      - Ấy là ta biết trước giờ đổi gió nên mới tiến binh, sao Văn Đa lại bảo là may gặp lúc trời đổi gió.
      Trương Văn Đa và Lệ Trung đồng thanh hỏi:
      - Làm cách nào thúc phụ biết trước giờ đổi gió?
      Nguyễn Huệ liền treo trên vách một tờ lịch và nói:
      - Các ngươi hãy nhìn cho rõ, sẽ biết giờ đổi gió.
      Lịch viết rằng:
      Tháng 2 và tháng 8 thuỷ triều là ngày: 03, 17, 29.
      Tháng 3 và tháng 9 thuỷ triều là ngày: 13, 27
      Tháng 4 và tháng 10 thủy triều là ngày: 11, 25
      Tháng 5 và tháng 11 thuỷ triều là ngày: 09, 23
      Tháng 10 và tháng chạp thuỷ triều là ngày: 07, 21
      Tháng 7 và tháng giêng thuỷ triều là ngày: 05, 19
      Nguyễn Lữ xem xong thắc mắc hỏi:
      - Thuỷ triều là ngày gì? Sao biết được giờ đổi gió?
      Huệ giải rằng:
      - Đất Gia Định chỉ có hai mùa. Từ tháng ba để tháng tám là mùa mưa gió nồm Nam từ biển thổi vào. Từ tháng chín đến tháng hai là mùa khô gió bấc chướng từ đất thổi ra. Chu Văn Tiếp định lợi dụng mùa khô gió bấc chướng dùng hoả công đốt thuyền ta đó.
      Nguyễn Lữ nôn nóng hỏi:
      - Nhưng vì sao anh lại biết giờ đổi gió mà tương kế tựu kế đốt lại thuyền quân chúa Nguyễn?
      Nguyễn Huệ chỉ vào tờ lịch đáp:
      - Ngày thuỷ triều là ngày chuyển giao giữa hai con nước, mỗi tháng có hai con nước nên có hai ngày thuỷ triều. Riêng tháng hai và tháng tám lại có ở ngày thuỷ triều là ngày 3, ngày 17 và ngày 29. Con nước thứ ba mà ngày thuỷ triều là ngày 29 gọi là nước giao mùa. Gặp nước giao mùa gió bị ảnh hưởng của thuỷ triều, hệ nước chảy thì gió bấc chướng từ bờ thổi ra, hễ nước triều lên gió nồm Nam từ biển thổi vào. Ta chọn thời gian vào Cần Giờ lúc hạ tuần tháng hai, tức là nhằm con nước giao mùa. Ta lựa ngày nước phát lên xuống mạnh nhất trong con nước giao mùa mới tiến binh, vì ngày đó khi nước lên sẽ có gió nồm Nam. Bởi thế ta phải tiến quân vào lúc nước chảy, trời con bấc chướng, tất đến Thất Kỳ Giang khi nước sắp lên. Ấy là ta nhử Chu Văn Tiếp thấy cơn bấc chướng mới dùng hoả công. Tiếp phóng bè lửa xong, lúc sẩm tối nước thuỷ triều sẽ lớn lên, trời tất đổi gió nồm Nam quay lại đốt thuyền quản Gia Miêu. Bởi lúc sấm tối nước lên, lặng bấc trở nồm, nên dân vùng biển thường có câu vè rằng "Bắc lặng hôm, nồm lặng mai" đó. Đánh trận này ta đã tính trước cả sao lại bảo lá may gặp lúc trời trở gió!
      Nghe Huệ nói xong, các tướng bấy giờ mới vỡ lẽ đồng thanh khen:
      - Long Nhương đánh giặc liệu cả việc nắng mưa, nước gió, dụng binh thật quỷ thân cũng không tính trước. Chúng tôi xin bái phục.
      Vừa lúc ấy quân do thám vào báo rằng:
      - Thưa tướng quân, trấn thủ Bình Thuận là Đăng Xuân Phong và Đỗ Nhàn Trập đem quân đến chiếm Trấn Biên. Tướng Nguyễn là Nguyễn Nghi và Hồ Văn Lân thua binh bỏ trốn.
      Nguyễn Huệ ra lệnh:
      - Nguyễn Lữ lãnh hai ngàn binh ở lại giữ Sài Côn. Ta cũng Trương Văn Đa, Lê Trung đem bốn ngàn quân truy kích quân Nguyễn. Trận này phải bắt cho được Nguyễn Phúc Ánh. Giống cỏ gấu này không nhổ tận gốc cứ nảy ra hoài thật là đáng ghét.
      Nói rồi Nguyễn Huệ liền đem quân đuổi theo Nguyễn Phúc Ánh.
      Nói về Phúc Ánh dẫn quân chạy về đến Trường Đồn (Mỹ Tho), tướng giữ Trường Đồn là Mạc Thiên Tứ mở cổng thành đón vào. Vừa lúc ấy Nguyễn Huệ dẫn quân đuổi theo thấy Phúc Ánh đã vào thành bèn nói với Trương Văn Đa và Lê Trung:
      - Trước khi vào cửa Cần Giờ ta đã sai Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo vào cửa Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn, chắn đường rút binh của Nguyễn Phúc Ánh. Chúa Phúc Ánh đã sai tướng giỏi chắn cửa Hàm Luông, nên Long và Bảo chưa đến được nơi này. Vạy ta mau đánh lấy Trường Đồn rồi đem quân xuôi đồng Tiền Giang đánh vào sau lưng địch ở cửa Hàm Luông.
      Nói rồi Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công Trường Đồn.
      Quân Tây Sơn đặt đại bác bắn phá thành. Lê Văn Quân nói với Phúc Ánh rằng:
      - Chúa thượng mau đem gia quyến theo Mạc Thiên Tứ lui về Hà Tiên. Thân cùng Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu thủ thành cản đường tiến quân của giặc.
      Nguyễn Phúc Ánh nghe lời theo Mạc Thiên Tứ chạy về Hà Tiên, Lê Văn Quân lên mặt thành thúc quân cố sức chống trả. Một lúc sau thành vỡ, quân Tây Sơn tràn vào thành chém giết. Quân Nguyễn chết thôi không biết bao nhiêu mà kể, số còn lại lớp hàng, lớp quăng gươm giáo bỏ trốn. Lê Văn Quân, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu vội vàng lên ngựa chạy về Hà Tiên theo Phúc Ánh.
      Nguyễn Phúc Ánh về Hà Tiên vừa vào dinh phủ chưa kịp ngồi đã thấy Lê Văn Quân, Văn Duyệt, Tấn Bửu theo đến nơi. Người nào cũng mang thường tích trên mình, quần áo tả tơi mặt mày hốc hác. Ánh giật mình hỏi:
      - Ta vừa mới đến đây, các khanh đã thua trận chạy về, quân Tây Sơn sao lấy được thành nhanh thế?
      Lê Văn Quân quỳ thưa:
      - Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy công thành rất dữ. Chúng thần không chống nổi, thành vỡ thua binh phải chạy thoát thân. Xin Chúa thượng trị tội.
      Ánh đứng dậy và nói:
      - Mất Trường Đồn thì quân của Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành ở Hàm Luông nguy mất. Các tướng mau thu thập tàn quân chỉnh đốn hàng ngũ theo ta tái chiếm Trường Đồn.
      Ngô Tùng Châu bước ra nói:
      - Xin Chúa thượng bình tâm. Quân ta ở trong thành, giặc từ xa kéo đến, ta còn không giữ nổi thành, huống gì quân ta nay mười phần còn một tướng sĩ đều mệt mỏi, thương tích đầy mình. Nếu bây giờ giặc đem quân đánh tới, thành Hà Tiên e rằng không giữ nổi nói gì đến việc tái chiếm Trường Đồn.
      Phúc Ánh nghe xong ngồi xuống hỏi:
      - Vậy nay ta nên chống giữ thế nào?
      Tùng Châu đáp:
      - Nguyễn Huệ vừa chiếm được Trường Đồn ắt là chuẩn bị đánh ta ở Hà Tiên, sớm muộn gì cũng kéo binh đến đây. Vậy Chúa hãy mau sai người lên mất báo cho Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức đang trấn giữ cửa Hàm Luông, kéo quân về đánh vào sau lưng Trường Đồn. Nếu lúc ấy Nguyễn Huệ kéo đại binh đến đánh Hà Tiên, thì Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành có thể chiếm lại Trường Đồn. Nếu Đức và Thành chiếm lại được Trường Đồn thì Nguyễn Huệ lại lâm vào thễ lưỡng đầu thọ địch. Khi ấy Nguyễn Huỳnh Đức từ Trường Đồn đánh tới, ta từ Hà Tiên đánh ra thế nào cũng phá được giặc.
      Phúc Ánh khen:
      - Ấy thật là diệu kế.
      ***
      Lúc ấy Nguyễn Huệ vào thành Trường Đồn, Lê Trung nói:
      - Tôi xin đem quân đuổi theo Phúc Ánh đến Hà Tiên bắt Phúc Ánh về cho Long Nhương trị tội, cho tiết nòi cỏ gấu ấy đi!
      Huệ bảo:
      - Hà Tiên là thành trì cuối cùng của Phúc Ánh. Nếu ta đem quân đánh tới, Ánh chỉ con đường chạy ra biển mà thôi. Hiện Phúc Ánh như cả nằm trong chậu, ta muốn bắt lúc nào chẳng được, việc đánh Hà Tiên chẳng vội gì. Kế hoạch của ta là cho Đặng Văn Long và Đặng Xuân Bảo đánh chiếm Trường Đồn trước, chặn đường về Hà Tiên để sớm bắt được Phúc Ánh. Nhưng Lòng và Bảo vẫn chưa đến được nơi này ắt là Phúc Ánh đã cho tướng giỏi chặn Văn Long ở cửa Hàm Luông. Vậy Lê Trung hay lãnh hai ngàn tinh binh theo sông Tiền Giang ra cửa Hàm Luông dẫn vào sau lưng trại địch. Phá giặc ở Hàm Luông xong, Trung cùng Văn Long đem quân về đây hợp sức đánh Hà Tiên bắt Phúc Ánh cũng chẳng muộn gì!
      Lê Trung lãnh mệnh đi ngay.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #33
        Chương 30

        Cửa Hàm Luông, Nguyễn Huỳnh Đức thua mưu bị bắt.
        Đảo Côn Lôn, Nguyễn Phúc Ánh nhờ bão thoát thân.


        Nói về Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức theo mệnh chúa Nguyễn Phúc Ánh đem quân đóng ở cửa biển Hàm Luông. Ngày ấy được tin quân Tây Sơn do Đặng Văn Long chỉ huy tiến vào cửa Hàm Luông, Nguyễn Văn Thành liền hỏi Nguyễn Huỳnh Đức:
        - Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn lại rất là thiện chiến, còn quân ta mới mộ chưa được huấn luyện thuần thục, e rằng không chống nổi với địch ông có kế gì chặn giặc hay chăng?
        Đức suy nghĩ giây lâu đáp:
        - Nguyễn Huệ sai Đặng Văn Long vào cửa Hàm Luông ý muốn theo sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn chặn đường rút quân của chúa ta ở thành Sài Côn. Tôi có nghe Đặng Văn Long là danh tướng của Nguyễn Huệ, trí dũng song toàn, lầu thông kính sử. Nay ta lập tức sai người đem vài cọc gỗ vót nhọn hai đầu, cắm xuống lòng sông. Ta bảo quân cắm như thế nào để khi nước lên các cọc gỗ này sẽ bị long gốc nổi lên mặt nước, rồi ta cứ làm như vậy... như vậy... Đặng Văn Long ắt sợ mà phải lui binh!
        Nguyễn Văn Thành khen:
        - Ấy thật là diệu kế!
        Nói rồi lập tức thi hành.
        Khi ấy tướng Tây Sơn là đô đốc Đặng Văn Long đem chiến thuyền vào cửa biển, thúc quân tiến đánh thuỷ trại của quân Nguyễn. Nguyễn Huỳnh Đức đem chiến thuyền ra cự địch, quân Nguyễn đánh không lại xem đã núng thế, Đức liền hạ lệnh lui quân. Quân Nguyễn giả thua mà chạy, Đặng Văn Long thúc quân đuổi theo, lúc ấy thuỷ triều đang lớn, nước đang lai láng, Nguyễn Huỳnh Đức hối quân:
        - Truyền lệnh ta chèo gấp khỏi tầm đại bác của giặc. Qua khỏi khúc sông này nước thuỷ triều rút giặc sẽ rút theo.
        Lúc ấy Đặng Văn Long đang đứng trên mui thuyền cầm đầu quân Tây Sơn đuổi theo quân Nguyễn, bỗng chốc lại thấy vài cọc gỗ hai đầu vót nhọn từ dưới đáy sông trồi lên khỏi mặt nước, tất cả được hơn vài mươi cọc gỗ, lại thấy xa xa một đoàn chiến thuyền cắm cờ quân Nguyễn từ thượng lưu sông Tiền Giang kéo xuống, Đặng Văn Long liền bảo quân:
        - Mau truyền lệnh ta đánh trống thu binh.
        Đặng Xuân Bảo ngạc nhiên hỏi:
        - Quân ta đang thắng, giặc thua chạy sao đại huynh lại ra lệnh lui quân?
        Văn Long đáp:
        - Ngày xưa Ngô Quyền dùng mưu đóng cọc xuống lòng sông Bạch Đằng rồi thừa lúc nước lớn cho thuyền ra khiêu chiến nhử quân Nam Hán đến đoạn sông đóng cọc rồi chặn đánh, đến khi nước cạn thuyền giặc bị đâm thủng đều đắm cả. Quân Nam Hán đại bại, tướng giặc là Hoàng Thao bị chém. Nay Nguyễn Huỳnh Đức giả thua mà chạy rồi lại cho thuyền ra tiếp ứng, chẳng phải là dùng mưu Ngô Quyền ngày trước hay sao? May cho ta là quân Nguyễn nôn nóng đóng cọc dưới lòng sông không được chắc chắn, nên lúc nước lớn vài mươi cọc bị nhổ mà trồi lên mặt nước, nên ta mới rõ mưu của Nguyễn Huỳnh Đức mà kịp lui quân.
        Đặng Xuân Bảo khen:
        - Đại huynh thật là rảnh cả cô kim binh pháp và Nguyễn Huỳnh Đức quá không họ đánh là một tròn Gia Định Tam Hùng.
        Nói rồi anh em họ Đặng rút quân khỏi khúc sông nghi ngờ có cọc, lập thuỷ trại.
        Lúc ấy Nguyễn Văn Thành theo kế Nguyễn Huỳnh Đức đem vài trăm quân chật tre và chuối làm bè, trên bè cắm đầy cờ xí khiến Đặng Văn Long ở xa ngỡ là chiến thuyền quân Nguyễn tiếp ứng sợ lâm mưu cắm cọc phải lui binh. Nguyễn Văn Thành dẫn quân chèo bè tre đến nói:
        - Đặng Văn Long quả nhiên trúng kế chạy dài. Sao ông không thừa tháng đuổi theo?
        Đức nhíu mày suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
        - Ta vì yếu thế mới tạm dùng kế này lui giặc. Để khi nước cạn Đặng Văn Long không thấy cọc gỗ cắm ở lòng sông, tất biết lầm mưu tức giận lại đem quân đến đánh. Vậy ta cứ đem bè tre cắm đây cờ xí làm kế nghi binh đóng thuỷ trại nơi này. Tôi và ông đem binh mai phục, chờ Đặng Văn Long kéo đến sẽ đổ ra vây đánh. Như vậy có thể phá được giặc.
        Nguyễn Văn Thành lại khen:
        - Ấy thật là diệu kế!
        Nói về Đặng Văn Long lui ra khỏi khúc sông nghi có cọc, lập thuỷ trại, lúc nước cạn không thấy cây cọc nào cắm giữa lòng sông cả. Đặng Văn Long khen rằng:
        - Nguyễn Huỳnh Đức thật đa mưu túc trí. Thực lực không bằng quân ta nên mượn chuyện xưa làm kế nghi binh buộc ta phải lui binh. Đáng khen thay! Đáng khen thay!
        Đặng Xuân Bảo tức giận nói:
        - Anh cứ đề cao địch làm giảm nhuệ khí quân ta. Tôi xin đem quân tiên phong đánh trại địch, nếu không thắng xin chịu tội theo quân lệnh.
        Đặng Văn Long dắt Bảo ra ngoài thuyền chỉ về hướng thuỷ trại quân Nguyễn nói:
        - Em không thấy thuỷ trại giặc cờ xí rợp trời, chiến thuyền lớp lớp hay sao mà đòi đem quân đánh địch?
        Bảo đáp:
        - Ấy là Nguyễn Huỳnh Đức dùng kế nghi binh để gạt ta. Nếu thực lực như thế sao con giả bày kế cắm cọc lòng sông đuổi đại huynh chạy dài. Nếu không có đại huynh tôi không cần biết Ngô Quyền nào cả, cứ thúc quân đánh bừa ắt là bắt được Huỳnh Đức rồi.
        Văn Long nói:
        - Được, đêm nay Bảo đem một ngàn quân đến thuỷ trại của địch, trận này nhất định phải bắt sống Nguyễn Huỳnh Đức.
        Xuân Bảo hỏi:
        - Con đại huynh thì thế nào?
        Long đáp:
        - Khi em đến đánh thuỷ binh trại địch, nếu bị vây thì chớ sợ, đã có anh tiếp cứu.
        Nói xong Long kề tai Bảo nói nhỏ. Bảo nghe xong anh em cũng cả cười rồi chia nhau sửa soạn chờ đến đêm xuất kích.
        Đêm ấy Đặng Xuân Bảo đem chiến thuyền áp sát thuỷ trại quân Nguyễn. Thấy thuỷ trại địch toàn là bè tre bè chuối cắm cờ, đốt đèn sáng choang, Đặng Xuân Bảo nghĩ thầm rằng, đại huynh ta liệu việc không sai, thì vừa hay đã thấy hai cánh quân Nguyễn từ thượng lưu và hạ lưu xông ra vây Xuân Bảo vào giữa. Nguyễn Văn Thành ở thượng lưu quát lớn:
        - Tướng giặc đã trúng kế quân ta, sao con chưa quy hàng?
        Xuân Bảo cười ngất đáp:
        - Mẹo vặt của các ngươi sao lừa đại huynh ta được. Hãy nhìn xem ai trúng kế của ai nào?
        Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức nhìn ra đã thấy quân Tây Sơn lướt thuyền ào ào xông tới. Nguyễn Huỳnh Đức thất kinh than rằng:
        - Thôi rồi, Đặng Văn Long biết kế của ta mà tương kế tựu kế. Phen này nguy mất.
        Than rồi hối quân quay thuyền phá vòng vây. Đặng Văn Long trông thấy cười to quát:
        - Nguyễn Huỳnh Đức chạy đâu cho thoát!
        Quát xong liền cho thuyền chặn Huỳnh Đức mà đánh. Đặng Xuân Bảo đem quân tấn công Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Văn Thành nhờ ở thượng lưu vòng vây quân Tây Sơn mỏng ra sức tả xung hữu đột, phá được vòng vây thừa bóng đêm chạy trốn, quân Nguyễn bị quân Tây Sơn giết sạch. Cánh quân do Nguyễn Huỳnh Đức chỉ huy cũng bị đánh tan tác cả. Quân Tây Sơn nhảy sang thuyền Huỳnh Đức, Đức vung đao chém chết cả mấy chục mạng. Đặng Văn Long thấy vậy nổi giận vác kích nhảy sang đánh cùng Huỳnh Đức. Đánh một hồi Nguyễn Huỳnh Đức đuối sức bị Đặng Văn Long đánh văng mất đao. Long liền hô quân trói lại. Đức bảo:
        - Ta đã bại trận sao chẳng giết đi con trói làm gì?
        Long nói:
        - Khá khen cho người là người trung dũng, ta bắt ngươi đem về chúa ta xử trí.
        Nói rồi liền hô quân thẳng tiến Trường Đồn. Thuyền vừa đi được một đoạn đã thấy Lê Trung dẫn quân đến. Long hỏi Trung:
        - Long Nhương tướng quân đã chiếm được Trường Đồn rồi chăng?
        Trung đáp:
        - Phải! Long Nhương bảo tường quân ít gặp tướng giỏi của Phúc Ánh chặn đường nên Người sai tôi đêm quân tiếp cứu.
        Long nói:
        - Không chiếm được Trường Đồn để Phúc Ánh chạy thoát là tội của tôi vậy!
        Nói rồi từ trói tay mình, vào thành Trường Đồn, Long và Bảo quỳ xuống thưa:
        - Tướng quản giao trọng trách đánh chiếm Trường Đồn, chặn đường lui quân của Phúc Ánh, tôi không làm tròn sứ mạng. Xin tướng quản trị tội!
        Nguyễn Huệ sai quân mở trói cho Long và Bảo hỏi:
        - Có phải Văn Long gặp tướng giỏi chặn đánh chăng?
        Long liền thuật lại việc đánh nhau với Nguyễn Huỳnh Đức trên sông Tiền Giang rồi nói:
        - Nguyễn Huỳnh Đức thật là người trí dũng song toàn. Nay tôi đã bắt được Huỳnh Đức về đây tự tướng quân định liệu.
        Nguyễn Huệ liền sai quân giải Huỳnh Đức vào. Đức vào vẫn đứng trơ trơ giữa điện. Huệ vỗ án quát:
        - Bại tướng to gan. Trước mặt ta sao dám không quỳ?
        Đức cười to nói:
        - Phận làm tướng thua binh, cam chịu chết. Sao lại quỳ?
        Huệ bảo:
        - Quân lệnh của Tây Sơn là không giết hàng quân. Nếu người chịu hàng cớ gì phải chết?
        Đức quát lên rằng:
        - Ta là tôi nhà chúa Nguyễn, chỉ có chết chẳng có hàng!
        Huệ thấy Huỳnh Đức diện mạo khôi ngô, hình dung kỳ vĩ, lại mười phần trung dũng trong lòng rất thích, liền bước xuống tự tay mở trói cho Huỳnh Đức, nói:
        - Bình sanh ta rất mến mộ đấng anh hùng. Nguyễn Phúc Ánh tài đức gì mà tướng quân quyết một lòng chết vì Phúc Ánh thế?
        Đức lớn giọng bảo:
        - Giặc Tây Sơn các ngươi dấy binh phản chúa. Ta giúp chúa khôi phục cơ đồ, chẳng may sa cơ bị bắt chỉ có chết mà thôi.
        Huệ dịu giọng hỏi:
        - Tây Sơn ta dấy binh cứu dân thoát cảnh lầm than đói khổ sao lại bao là giặc?
        Đức hỏi lại Huệ rằng:
        - Đất Gia Định ta từ ngày được chúa Nguyễn vào đuổi người Chân Lạp khai hoang lập ấp đến nay đời đời no ấm, sao lại bảo là nhân dân đói khổ lầm thân?
        Huệ không biết trả lời thế nào đành lệnh giam Huỳnh Đức vào ngục. Quân dẫn Đức đi xong, Huệ nói với các tướng:
        - Trong sự nghiệp thống nhất giang san của nhà Tây Sơn ta có hai trở ngại lớn, một là đất Gia Định được cơm nó áo ấm nên bá tánh còn mang ơn chúa Nguyễn, hai là lòng trung quân mù quáng từ ngàn xửa đến nay đã thấm sau vào tiềm thức kẻ sĩ khó mà gột rửa được.
        Trương Văn Đa hỏi:
        - Thưa thúc phụ, vậy không có cách gì bình được đất Gia Định sao?
        Huệ trầm ngâm nói:
        - Muốn bình đất Gia Định phải dùng hai cách một là ta dùng ân mà trị dân để dần dần trăm họ sẽ quên ơn chúa Nguyễn. Sau này nếu ta rút đại binh về Quy Nhơn, sẽ để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, hai người đều có tài văn võ, biết nghe lời nói phải, kính trên nhường dưới, thương dân như con thì có thể lấy được lòng dân. Ấy là một trong hai cách vậy!
        Văn Long hỏi:
        - Con cách thứ hai thì thế nào?
        Huệ lạnh lùng đáp:
        - Cách thứ hai là kẻ sĩ trong thiên hạ còn nặng óc ngu trung. Nay ta không cho họ có chúa xem họ ngu trung vào đâu.
        Rồi Huệ đứng dậy vỗ tay xuống án nói lớn:
        - Đặng Văn Long, Lê Trung đem bốn ngàn quân tiến đánh Hà Tiên!
        Đặng Văn Long và Lê Trung lãnh mệnh xuất quân. Huệ lại bảo Trương Văn Đa:
        - Quân ta tiến đánh Hà Tiên, Phúc Ánh ắt thu binh mã chạy ra đảo Phú Quốc lánh nạn, vậy ta mà đem thuỷ binh ra đảo Phú Quốc trước. Ngươi hay để chiến thuyền vào chỗ kín đáo giấu hết cả đi, rồi để quân phục sẵn trên đảo chờ có Phúc Ánh đến thì đổ ra mà đánh. Như thế chắc là diệt được Phúc Ánh.
        Trương Văn Đa lại lãnh lệnh xuất thuỷ binh.
        ***
        Lại nói Phúc Ánh ở Hà Tiên nói cùng các tướng:
        - Ta đã sai người mặt báo cho Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức lên đánh vào sau lưng Trường Đồn nếu Nguyễn Huệ tiến đánh Hà Tiên. Đến nay vẫn không thấy Nguyễn Huệ động bình, và không nghe tin tức gì của Văn Thành và Huỳnh Đức cả là cớ làm sao?
        Ánh vừa dứt lời nghe quân vào báo:
        - Thưa Chúa thượng, có tướng quân Nguyễn Văn Thành từ Hàm Luông về xin ra mắt.
        Ánh liền bảo:
        - Mau cho vào!
        Nguyễn Văn Thành vào đến quỳ tâu:
        - Thưa Chúa thượng chúng thần vâng lệnh Chúa thượng giữ cửa Hàm Luông. Tướng Tây Sơn là Đặng Văn Long tiến đánh, chúng thần dùng kế nghi binh lừa được giặc, những sau đó lại lầm mưu thất trận, Nguyễn Huỳnh Đức bị Đặng Văn Long bắt sống. Thần may mắn thoát được về đây báo tin cùng Chúa thượng.
        Nguyễn Văn Thành nói xong lại nghe quân thám mã:
        - Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ kéo đại binh tiến đánh Hà Tiên, hiện còn ở cách thành năm mươi dặm.
        Phúc Ánh nói:
        - Vậy là Nguyễn Huệ trước là đã cho tướng vào cửa Hàm Luông đánh Văn Thành và Huỳnh Đức, nay Văn Thành và Huỳnh Đức thua trận, Huệ mới tiến đánh ta ở Hà Tiên. Nguyễn Huệ thật đáng sợ, không có kế nào của ta có thể che mặt hắn được. Hà Tiên là nơi cố thủ cuối cùng của ta, nay Huệ lại đem binh tiến đánh, các tướng có cách gì chặn giặc chăng?
        Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Lê Văn Quân cùng bước ra nói:
        - Xin Chúa thượng chớ lo, chúng thần nguyện liều mình chống giặc.
        Các tướng vừa nói xong quân lại vào báo:
        - Thưa Chúa thượng, quân sĩ của ta nghe tin Nguyễn Huệ kéo đại binh đến đánh sợ hãi rủ nhau ở trốn nửa phần. Xin Chúa thượng định liệu, kéo để chúng trốn hết thì nguy.
        Nguyễn Văn Thành nói:
        - Xin Chúa thượng hạ lệnh canh phòng cẩn mật, kẻ nào bỏ trốn lập tức chém đầu, như thế hoạ may quân mới không bỏ trốn.
        Ánh xua tay bảo:
        - Quân bỏ trốn là do lỗi ở ta không chống được giặc để yên lòng quân thì sao lại chém họ. Vả lại quân đã không còn tinh thần chiến đấu, bắt ở lại cũng chẳng ích gì.
        Ánh lại gọi Mạc Thiên Tứ hỏi:
        - Lâu nay khanh vốn trấn thủ Hà Tiên ắt rành địa thế sông ngòi. Vậy khanh có chước gì phá giặc chăng?
        Mạc Thiên Tứ đáp:
        - Thưa Chúa thượng, xưa này chưa từng nghe nói địa thế hiểm trở mà lòng quân tan rã lại có thể thắng giặc bao giờ!
        Ánh lại hỏi:
        - Vậy theo khanh này nên làm thế nào?
        Tứ đáp:
        - Thưa Chúa thượng, Nguyễn Huệ đã hai lần vào Gia Định đánh ta, lần nào chiếm được đất xong cũng vội vàng rút quân về vì sợ họ Trịnh xâm phạm mặt Bắc, chỉ để một lực lượng nhỏ ở lại phòng thủ mà thôi. Lần thứ ba này ắt cũng thế, vậy ta nên tạm ra đảo Phú Quốc ở phía Tây Hà Tiên lánh nạn, rồi cho người ở lại Hà Tiên phao lên rằng chưa đã chạy trốn sang Tiêm La quốc. Nghe tin ấy Nguyễn Huệ tất không dò la tin tức của chúa, mà rút quân về Quy Nhơn. Lúc ấy ta lại tìm kế khôi phục cơ đồ.
        Mạc Thiên Tứ vừa nói xong, quân hớt hải vào báo:
        - Thưa Chúa thượng, quân Tây Sơn đã kéo đến cách thành chừng năm dặm.
        Phúc Ánh với đứng lên bảo:
        - Nay chỉ còn cách là làm theo lời Mạc Thiên Tứ mà thôi!
        Nói rồi Ánh truyền lệnh bỏ thành Hà Tiên, xuống thuyền ra đảo Phú Quốc. Khi lên thuyền kiểm quân còn chưa đến ngàn người, Ánh đậm chân chỉ tay lên trời thề rằng:
        - Nguyễn Phúc Ánh ta thề cùng anh em thằng buôn trâu Nhạc, Huệ không đội trời chung.
        Nói rồi truyền quân nhỏ neo nhằm đảo Phú Quốc trực chỉ. Quân Nguyễn Ánh cập thuyền vào bờ, chúa tôi tướng sĩ vừa lên đảo bỗng nghe chiêng trống vang trời, quân Tây Sơn ba bên xông đến. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa thét lớn:
        - Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát, ta vâng lệnh Long Nhương tướng quân chờ ngươi đã lâu!
        Phúc Ánh chẳng còn hồn vía nào hỏi các tướng:
        - Mau quay lại ra thuyền chạy trốn!
        Trương Văn Đa thúc quân đánh giết. Các tướng cố sức chống đỡ bảo vệ Phúc Ánh xuống được thuyền, còn quân sĩ lớp chết lớp xin hàng hết cả. Trương Văn Đa thúc quân lên thuyền đuổi theo, Nguyễn Phúc Ánh lên thuyền rồi cứ nhằm ra khơi mà chạy. Nhìn đi nhìn lại chỉ còn mấy người hầu cận, Lê Văn Quân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Mạc Thiên Tứ và con Mạc Thiên Tứ là Mạc Tử Sinh người nào cũng mang thương tích cả, Nguyễn Phúc Ánh than:
        - Nguyễn Huệ thật là lời hại. Hắn biết ta sẽ chạy ra đảo Phú Quốc nên cho tướng ra phục sẵn. Nếu không nhờ các khanh hết lòng phò tá, ắt là ta đã ở giặc bắt rồi. Nay quân sĩ không còn một mạng, cả khanh đều thương tích đầy mình, nếu giặc đuổi theo kịp biết liệu làm sao?
        Mạc Thiên Tứ nói:
        - Ở phía trước có một hòn đào tên là đảo Côn Lôn, ta nên ghé thuyền vào đảo ấy lánh nạn, kẻ lênh đênh giữa biển dễ bị giặc nhìn thấy.
        Phúc Ánh khen phải liền ghé vào đào Côn Lôn. Đến nơi ai này đều đói bụng cồn cào. Lê Văn Quân nói:
        - Lúc hỗn loạn ở đảo Phú Quốc, ta lên nhằm chiếc thuyền không có lương thực. Giờ biết lấy gì lót dạ?
        Ánh nói:
        - Trên thuyền có một con ngựa hãy giết thịt mà ăn.
        Lê Văn Quân hỏi:
        - Con ngựa này để cho chúa đi lại đỡ chân, nay giết đi thì làm thế nào?
        Trương Tấn Bửu nói:
        - Lần trước dẫn chúa đi trốn tôi có hái trái bần cho chúa đừng qua bữa. Vậy để tôi đi tìm xem trên đảo này có trái bần chăng?
        Ánh nhíu mày bảo Trương Tấn Bửu:
        - Ta đã bảo khanh không được gọi là trái bần. Hãy gọi là trái Thuỷ Liễu, khanh đã quên rồi sao?
        Trương Tấn Bửu tạ tội rồi vội vã đi ngay. Lê Văn Quân hỏi Phục Ánh:
        - Thưa, sao trái bần lại gọi là trái Thuỷ Liễu?
        Ánh cương quyết đáp:
        - Nhà Nguyễn ta làm chúa thiên hạ đã gần hai trăm năm này, ăn thiếu gì cao lương mỹ vị, nay vì gặp nạn mới ăn đến quả này, gọi tên bần nghe hèn quá nên ta mới đổi tên là trái Thuỷ Liễu.
        Lê Văn Quân vô tình hỏi:
        - Nếu Chúa thượng đổi tên như vậy e Trương Tấn Bửu ngại rằng Chúa trọng phú, khinh bần mà không hết lòng phò tá chăng?
        Ánh phật ý hỏi lại Lê Văn Quân:
        - Ý ngươi muốn bảo ta là người tham sang phụ khó chứ gì?
        Quân vội vàng tạ lỗi nói:
        - Hạ thần vì lo cho chúa thượng, nói thành thực lỡ lời chứ không có ý gì khác. Xin Chúa thượng tha tội.
        Ánh cau mày xua tay ra hiệu cho Quân lui ra. Một lúc sau Bửu quay lại nói:
        - Thưa Chúa thượng, trên đảo này không có cây Thuỷ Liễu.
        Ánh bảo:
        - Thôi đành làm thịt ngựa ăn tạm vậy!
        Phúc Ánh cũng mẹ, vợ con, em gái và các tướng ăn xong người hầu lại tâu:
        - Thưa Chúa thượng, trên thuyền không còn nước uống.
        Lê Văn Quân nói:
        - Chúa thượng hãy nghỉ tạm dưới bóng cây cùng quốc mẫu và gia quyến, chúng thần chia nhau mỗi người một ngả đi tìm xem trên đảo này có nước uống chăng.
        Nói rồi các tướng và bọn hầu cận liền đi ngay.
        Một hồi lâu tên hầu quay về mừng rỡ tâu:
        - Thưa Chúa thượng, trên tảng đá đằng kia có một hồ nước cạn, nước trong vắt, tiểu nhân múc về dâng Chúa thượng.
        Phúc Ánh liền cùng mẹ, em và vợ con chia nhau uống ngay. Uống xong Ánh bảo:
        - Ngươi hãy đem ta đến hồ nước ấy xem sao!
        Tên hầu nói:
        - Ngựa đã giết thịt rồi, chân chúa lại bị đau, tiểu nhan xin cõng Chúa thượng đến nơi ấy.
        Tên hầu vất vả cõng Phúc Ánh đến hồ nước. Nhìn hồ nước vừa bằng miệng chậu, nước trong leo lẻo. Ánh bảo:
        - Ngươi hãy tát nước trong hồ ra ngoài xem sao.
        Tên hầu vâng lời, khom mình dùng nón mà tát.
        Nước mạch từ trong đã tuôn ra hoài, tát mãi vẫn không cạn. Ánh lại bảo:
        - Ngươi mau đi tìm một hòn đã vừa miệng hố đậy lên hố nước cho ta.
        Tên hầu vâng lệnh làm theo lời Ánh bảo. Xong việc tên quân hỏi:
        - Xin hỏi Chúa thượng sai tiểu nhân làm thế là có dụng ý gì chăng?
        Ánh cười đáp:
        - Ngươi theo hầu ta đã lâu, âu cũng là người tâm phúc, nên ta cũng không ngại nói cho ngươi hay. Nay quân ta thực là sức cùng lực kiết e rằng các tướng nản chí mà không hết lòng phò tá. Nay ta định là như vậy... như vậy..., các tướng ắt tin ta có chân mệnh đế vương, tất một dạ tôn thờ.
        Tên hầu kính cẩn khen:
        - Chúa thượng thật là anh minh xưa nay hiếm có.
        Chợt Ánh bảo:
        - Nhưng nếu việc này tiết lộ thì ta làm trò cười cho thiên hạ sao.
        Tên hầu sợ hãi nói:
        - Việc này chỉ có Chúa thượng và tiểu nhân biết. Chúa tôi ta không nói ra thì sao tiết lộ được.
        Ánh trầm ngâm bảo:
        - Lấy gì làm chắc rằng ngươi sẽ không nói ra? Chỉ có mình ta biết mới bảo toàn bí mật được mà thôi!
        Nói xong Ánh rút gươm chém tên hầu. Tên này sợ hãi lui ra bị mũi gươm chạm xả ngực loạng choạng trượt chân mép vực té nhào xuống biển.
        Nguyễn Phúc Ánh an tâm đi về chỗ cũ. Đến nơi các tướng cũng vừa tới, Lê Văn Quân buồn rầu tâu:
        - Thưa Chúa thượng, chúng thần đã tìm khắp đảo không thấy nơi nào có nước ngọt cả.
        Phúc Ánh chị tay bảo:
        - Các tướng hay theo ta đến tảng đá cao đằng kia quan sát xem, nếu không thấy thuyền giặc thì lập tức lên thuyền đi nơi khác tìm nước uống.
        Khi đến tảng đá ấy, nhìn ra biển thấy thuyền quân Tây Sơn thấp thoáng ngoài khơi xa, Ánh quỳ xuống ngửa mặt lên trời khấn:
        - Nếu trời chưa diệt dòng họ Nguyễn, thì xin cho tôi đâm mũi kiếm xuống tảng đá này sẽ có nước ngọt mà uống. Bằng không chúa tôi ta đánh chết khát nơi đây.
        Khấn rồi đứng lên rút gươm nhằm mép hòn đá dày trên hồ nước mà đám xuống. Ánh rút gươm lên thấy mũi gươm có nước, Ánh và mừng rỡ réo lên:
        - Mau cậy tảng đá này lên ắt là có nước uống.
        Các tướng cùng nhau cây tảng đá lên, quả nhiên thấy cái hố vừa bằng miệng chậu, nước trong leo lẻo. Mọi người liền lấy tay vốc nước mà uống. Uống xong các tướng quỳ xuống lậy Phúc Ánh và đồng thanh nói:
        - Chúa thiêng thật là có chân mệnh Đế vương nên trời ban cho nước uống. Vậy nghiệp cả ắt thành.
        ***
        Nói về Trương Văn Đa đem chiến thuyền đuổi theo Phúc Ánh, nhưng không thấy thuyền Phúc Ánh đâu cả bên sai quân do thám khắp nơi. Hôm ở Trương Văn Đa đi thuyền đến gần đảo Côn Lôn bỗng thấy một người ôm khúc cây to lênh đênh trên biển, Đa bèn sai quân vớt người ấy lên. Cứu chữa cho người ấy xong Văn Đa hỏi:
        - Ta xem ý phục của ngươi đúng là quân của Nguyễn Phúc Ánh. Phúc Ánh ở đâu, sao người một mình trời đất giữa biển, trên mình lại mang thương tích là vì đâu?
        Người ấy khóc đáp:
        - Tôi thật là người hầu của chúa Nguyễn vương. Chúa tôi trốn lên đảo Côn Lôn, không còn nước uống, tôi tìm được một hố nước đem về dâng Nguyễn vương uống. Chẳng ngờ Nguyễn Vương lại muốn giết tôi. May tôi trượt chân nơi mép vực rơi xuống biển lại vớ được cây to lênh đênh giữa biển, nhờ tướng quân cưu mang.
        Văn Đa ngạc nhiên hỏi:
        - Vì sao Phúc Ánh lại toan giết người?
        Tên quân kể lại mưu của Phúc Ánh, Đa nghe xong trợn mắt quát:
        - Thật là loại độc ác sâu hiểm, bội nghĩa vong ơn. Lần này ta vây đảo Côn Lôn bắt nó, xem có trời nào cứu nó được chăng?
        Nói rồi Văn Đa đem toàn chiến thuyền tiến đến chia nhau vây kín đảo. Quân Tây Sơn dùng thuyền nhỏ sắp sửa đổ bộ vào đảo, các tướng Nguyễn trên đảo trông thấy đều đưa mắt nhìn nhau. Phúc Ánh thất kinh nói:
        - Trời vừa cho nước uống cứu ta lẽ nào bây giờ trời lại bỏ ta sao?
        Ánh vừa dứt lời trời đang nắng to bỗng mây đến vần vũ, mưa tuôn như trút, giông to nổi lên. Trương Văn Đa kinh hãi lệnh quân dẫn thuyền về phía kín gió mà núp bão. Đến lúc gió lặng bão tan, chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh thấy chiến thuyền quân Tây Sơn dồn về một phía, bèn xuống thuyền phía không có quân Tây Sơn vây chạy trốn. Khi ấy thuyền nhỏ quân Tây Sơn đều bị sóng đánh đắm cả, chỉ còn lại hai mươi đại thuyền và một ngàn quân. Trương Văn Đa bèn đem đoàn quân trở về thành Trường Đồn ra mắt Nguyễn Huệ kẻ rõ sự tình. Nghe xong Huệ thở dài nói:
        - Lần trước Phúc Ánh bị Bùi Thị Xuân truy đuổi ở cửa biển Hàm Luông cũng nhờ bão mà thoát nạn, lần này cũng thế. Con người Phúc Ánh thật tiểu nhân đê tiện sao trời lại giúp cho nó thế.
        Nói xong Huệ lệnh toàn quân theo hai đường thuỷ bộ rút về thành Sài Côn. Đến nơi Huệ họp các tướng nói:
        - Ta phải rút binh về Quy Nhơn đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. Nay phong Trương Văn Đa làm chánh tướng, Đặng Văn Long làm phó tướng cùng nhau trấn thủ đất Gia Định. Hai tướng nên dùng lễ mà đãi kẻ sĩ, dùng ân đức mà trị dân, đồng thời gắng dò thêm Phúc Ánh lẩn trốn nơi đâu, để quân bắt giết tiệt trừ hậu hoạ, như vậy mới có thể bình được đất Gia Định.
        Trương Văn Đa bước ra nói:
        - Đặng tướng quân văn võ gồm đủ, trí dũng song toàn tôi không sánh được, nên đám đâu nhận là chánh tướng.
        Nguyễn Huệ nói:
        - Văn Đa là người biết nghe lời nói phải, tánh lễ phép khiêm cung, biết kính trên nhường dưới nên ta mới để Đa làm chánh tướng. Văn Long là người vì dân vì nước không màng danh lợi chẳng tranh công quyền, nên ta mới để Văn Long làm phó tướng trợ giúp Văn Đa thì mọi việc sẽ vẹn toàn.
        Văn Đa lại tâu:
        - Thưa thúc phụ, cháu đang là phò mã, đối với Phụ hoàng và thúc phụ là tinh nhà. Nay không có tài mà thúc phụ cho ở địa vị cao, hoá ra thúc phụ mang tiếng là thiên vị ư? Như thế lòng người sao phục?
        Văn Long xen vào nói:
        - Trường tướng quân nói thế là còn ngại Văn Long này ư? Những lời tướng quân vừa nói thật là của người đức độ đáng làm Văn Long tôi kính phục lắm thay.
        Nguyễn Huệ bảo:
        - Việc chánh phó là việc nhỏ, việc nước dân là việc lớn. Hai người lòng chỉ lo việc lớn mà quên việc nhỏ thường tình ta thật là an tâm lắm. Vả lại ấy là việc của đại huynh dặn dò ta lúc xuất binh vào Gia Định, Văn Đa chớ có kháng lệnh.
        Trương Văn Đa nghe vậy, bấy giờ mới chịu lui ra.
        Mùa hè năm Quý Mão (1783) niên hiệu Thái Đức thứ sáu. Nguyễn Huệ để Trương Văn Đa và Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định, rồi rút đại binh về Quy Nhơn.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #34
          Chương 31

          Cậy thế Tiêm La, Chu Văn Tiếp báo thù mà bỏ mạng.
          Mượn oai Long Nhương, Đặng Văn Long doạ giặc để cứu dân.


          Nói về Nguyễn Phúc Ánh, nhờ bão chạy thoát khỏi tay tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa ở đảo Côn Lôn, đang lênh đênh giữa biển bỗng thấy một chiếc tàu lớn tiến lại gần. Hoá ra đó là thuyền của giáo sĩ Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc đem chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh lên tàu xong, nói:
          - Từ ngày thoát khỏi tay con nữ tặc Bùi Thị Xuân ở Thất Kỳ Giang, thấy quân Tây Sơn mạnh quá ta bèn chạy về nước cầu cứu vua nước tôi giúp chúa khôi phục cơ đồ. Xin chúa hãy về đất liền ta sẽ bàn kỹ việc này.
          Phúc Ánh bảo:
          - Từ ngày chia tay với giáo sĩ ta phải chạy trốn ra đảo Côn Lôn gian nan cực khổ trăm bề. Sau Nguyễn Huệ rút binh về Quy Nhơn, nhờ các tướng dấy binh lấy lại đất Gia Định. Nào ngờ Nguyễn Huệ lại dẫn đại binh vào đánh quân ta tan tác cả. Nay ta không một mảnh đất dung thân biết phải về đâu?
          Mạc Thiên Tứ nói:
          - Trương Văn Đa bỏ đảo Phú Quốc đuổi theo ta đến đảo Côn Lôn. Vậy ta lại chạy về Phú Quốc ắt an toàn.
          Bá Đa Lộc khen phải, cho tàu cập bến đảo Phú Quốc. Đến nơi tìm hang đá tạm trú xong, Ánh hỏi Bá Đa Lộc:
          - Giáo sĩ cầu cứu vua nước ngài thế nào? Xin ngài mau phân tỏ.
          Bá Đa Lộc đáp:
          - Vua nước tôi đồng ý giúp chúa tàu đồng, súng ống lương thực và binh sĩ. Những khi lấy được nước rồi chúa phải để phố Hội An cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn được thuộc quyền cai trị của nước tôi, và chỉ cho người của nước tôi được độc quyền buôn bán và truyền đạo trên đất An Nam. Chẳng hay ý chúa thể nào?
          Phước Ánh cả mừng đáp:
          - Nếu lấy lại được nước đã mất, bấy nhiêu ấy nào có nghĩa gì? Ta xin viết giấy làm bằng nhờ giáo sĩ về tâu cùng vua của ngài mau đem binh sang giúp.
          Phúc Ánh viết xong trao cho Bá Đa Lộc. Lộc lại nói:
          - Đành rằng lòng chúa ngay thực, nhưng e vua tôi ngài rằng khi lấy lại nước rồi chưa nuốt lời thì là thế nào?
          Ánh suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
          - Nay ta đã mất tất cả lấy gì cho vua của ngài là tin được! Hoạ chăng ta chỉ có một đứa con duy nhất lá Thế tử Cảnh mới vừa bốn tuổi. Nay ta cho Thế tử Cảnh sang ở với vua nước ngài để làm con tin. Vậy có được chăng?
          Bá Đa Lộc cả mừng nói:
          - Nếu được vậy vua tôi nhất định cho quân sang giúp.
          Ánh năm tay Lộc bảo:
          - Vậy ngài hay ra tàu nghỉ ngơi rồi định ngày về nước, tâu cùng vua nước ngài. Ta sẽ sửa soạn cho Thế tử Cảnh theo ngài sang nước Pháp Lang Sa.
          Bá Đa Lộc đi rồi, Lê Văn Quân quỳ tâu:
          - Thần xem Bá Đa Lộc không phải là người tốt, Chúa thượng nên khá đề phòng!
          Ánh phật ý hỏi:
          - Giáo sĩ Bá Đa Lộc sang nước ta giảng truyền đạo giáo, vì thương ta bị giặc Tây Sơn cướp nước, nên mới lặn lội thỉnh cầu vua nước Pháp Lang Sa sang giúp sao người lại bảo ông ấy không phải là người tốt?
          Lê Văn Quân đáp:
          - Thần thấy có hai điều đáng ngờ. Một là nếu Bá Đa Lộc không có lệnh của vua nước Pháp Lang Sa sao dám tự quyền đặt điều kiện trao đổi đất đai với ta? Hai là nếu Bá Đa Lộc chỉ vào Gia Định giảng truyền đạo giáo sao biết được phố Hội An và Đà Nẵng là nơi giàu có sầm uất nhất ở Đàng Trong mà đặt điều đánh đổi. Chính vì vậy mà thần ngờ rằng Bá Đa Lộc được lệnh vua nước Pháp Lang Sa cố ý dòm ngó nước ta.
          Ánh nghiêm giọng hỏi:
          - Nếu vậy thật thì sao?
          Lê Văn Quân đáp:
          - Xin chúa nói với Bá Đa Lộc rằng sau khi lấy lại nước, ta sẽ trả bằng vàng ngọc châu báu chứ đừng đánh đổi đất đai.
          Ánh nén giận hỏi:
          - Ngỡ như họ không chấp thuận thì sao?
          Văn Quân nhẫn nại đáp:
          - Thì ta tự lo lấy việc nước, không cần phải nhờ viện binh của họ.
          Ánh gằn giọng rằng:
          - Tự lo lấy làm sao! Nguyễn Huệ đã ba lần vào đánh Gia Định, hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương phải chết. Ta ba lần trốn chui trốn nhủi hết nơi này sang nơi khác, còn các tướng phải bỏ thành mà chạy thoát thân. Văn thì Ngô Tùng Châu và Gia Định Tam Gia còn lẩn trốn ở Hà Tiên. Võ thì Nguyễn Huỳnh Đức là một trong Gia Định Tam Hùng bị Tây Sơn bắt sống, Ta thì cơm không có ăn, nước không có uống, may nhờ bão đánh đắm thuyền giặc hai lần mà thoát chết. Còn người đã có kế sách gì phá giặc hay chưa mà bảo rằng tự lo lấy?
          Lê Văn Quân thấy chúa giận nhưng gắng gượng quỳ tâu:
          - Thưa, Chúa thượng có chân mệnh Đế vương. Ở đảo Côn Lôn không có nước uống chúa cầu nước, trời liền cho nước, ấy là điềm được nước. Giặc đến đánh trời làm bão nhấn chìm thuyền. Lòng trời đã giúp chúa như thế, trước sau gì cũng lấy lại nước Nếu bây giờ đổi đất lấy viện binh Pháp Lang Sa, e người sau đàm tiếu rằng chúa tôi ta bán nước cầu vinh. Xin Chúa thượng xét lại.
          Phúc Ánh xua tay bảo:
          - Ngươi hãy ra ngoài cho ta suy nghĩ lại.
          Lê Văn Quân đi rồi Ánh nghĩ thầm rằng: Thằng tướng già này lúc ở đảo Côn Lôn ta đặt tên trái bần là trái Thuỷ Liễu, thì bảo ta là tham vọng phụ phó. Nay ở đảo Phú Quốc lại bảo ta là bán nước cầu vinh, thật là quá quắt. Nếu ta không đang cần người phò tá nhất định giết chết không tha.
          Vừa lúc ấy lại có quân vào báo rằng:
          - Kính Chúa thượng, tướng quân Chu Văn Tiếp sau khi thua trận ở Thất Kỳ Giang chạy sang nước Tiêm La, nay Chu tướng quân sai người về nước tìm Chúa thượng dâng mật thư.
          Phúc Ánh tiếp thư, xem xong bảo quân:
          - Hãy mau đi mời Bá Đa Lộc đến chỗ ta bàn việc.
          Bá Đa Lộc đến, Ánh hỏi:
          - Nay một viên tướng của ta là Chu Văn Tiếp chạy sang Tiêm La cầu viện. Vua Tiêm La đã đồng ý cho quân sang giúp. Ta nghĩ đường về nước ngài xa xôi cách trở, mà nước Tiêm La lại ở gần bên, nên ta định sang gặp vua Tiêm La cầu viện trước để sớm dẹp giặc Tây Sơn khôi phục cơ đồ. Nếu việc không thành sẽ nhờ đến ngài, chẳng hay ý ngài thế nào?
          Bá Đa Lộc đáp:
          - Vậy xin Chúa thượng hãy kịp đi ngay. Tôi cùng theo chúa sang Tiêm La, xin vua Tiêm La cho lập giáo sớ để truyền đạo. Một là vì đất Gia Định đã bị quân Tây Sơn chiếm, tôi vì giúp chúa nên có thù với họ không thể đến nơi ấy được, hai là được ở gần chúa, nếu việc cầu viện vua Tiêm không thành, tôi sẽ lên đường về Pháp quốc cầu viện vua tôi.
          Nói xong chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh và giáo sĩ Bá Đa Lộc xuống thuyền sang nước Tiêm La, đến kinh đô Vọng Các (Băng Cốc) Tiêm vương được tin sai người đi đón, rồi mời Phúc Ánh vào nội điện bày yến tiệc khoản đãi. Bỗng Chu Văn Tiếp ở ngoài chạy vào ôm chân Phúc Ánh mà khóc. Ánh động lòng ứa nước mắt, Tiếp vừa khóc vua nói:
          - Thần được Chúa thượng trọng dụng phông là Bình Tây đại Đô đốc lại không chống nổi giặc, để nỗi chúa tôi mọi người thất lạc một nơi, ấy là tội của thần. Nhà thần có bốn anh em theo phò tá chúa, nay ba người đều bị giặc Tây Sơn đánh chết, Chúa thượng hãy cầu viện binh của Tiêm vương, thần xin đem ta quân đi trước. Trước là trả nợ nước sau là báo thù nhà cho tỏ chí khí của người trung nghĩa trượng phu.
          Phúc Ánh đỡ Văn Tiếp dậy nói:
          - Ta nhận được mật thư của khanh sang đây cũng vì việc ấy.
          Tiêm vương thấy chúa tôi Phúc Ánh ôm nhau khóc, động lòng liền thuận ý viện binh.
          Tiêm vương sai Chiêu Tăng làm đại tướng quân, Chiêu Sương làm tiên phong thống lĩnh ba vạn thuỷ quân và trăm chiến thuyền. Đạo quân này do Nguyễn Phúc Ánh và Chu Văn Tiếp đem một ngàn quân đích thân dẫn đường. Tiêm vương lại sai Sa Uyển và Lục Côn đem hai vạn quân bộ thẳng đường sang Chân Lạp họp với tướng Chân Lạp là Chiêu Thuỷ Biện rồi cùng tiến sang đường Châu Đốc đánh nước An Nam.
          Mùa hạ năm Giáp Thìn (1784) niên hiệu Thái Đức thứ bảy, quân Tiêm La thuỷ bộ gồm năm vạn rầm rộ tiến sang làm cỏ đất Gia Định.
          Lúc ấy ở thành Sài Côn, Trương Văn Đa nhắn tin cấp báo liền hỏi Đặng Văn Long:
          - Nay quân Tiêm La năm vạn do Phúc Ánh đương hùng hổ tiến sang xâm lược nước ta. Theo tướng quân nên tiến thủ thế nào?
          Long đáp:
          - Hiện thành Sài Côn ta có năm ngàn quân, còn lại đều chia nhau giữ các nơi hiểm yếu ở Trường Đồn, Hà Tiên, Châu Đốc. Tính cả thẩy không đầy một vạn, e không thể nào chặn giặc ở biên cương được!
          Trương Văn Đa hỏi:
          - Trước khi về Quy Nhơn, thúc phụ có dặn rằng: Sông Tiền Giang là ranh giới, thành Trường Đồn là cửa ngõ của hai dinh Long Hồ và Phiên Trấn. Ý tướng quân muốn bảo rằng nên bỏ dinh Long Hổ hợp binh về cố thủ Trường Đồn để giữ Phiên Trấn, Sài Côn chăng?
          Đặng Văn Long đáp:
          - Trường tướng quân thật là tuổi trẻ tái cao. Ý của tôi chính là như vậy.
          Nói rồi Đặng Văn Long và Trương Văn Đa vào Trường Đồn lập đón luỹ canh phòng cẩn mật, động thời sai quân mang lệnh cho quân các trấn Châu Đốc, Hà Tiên, Trấn Giang (Cần Thơ), Ba Thắt kíp bảo toàn lực lượng đem quân về hội ở Trường Đồn (Mỹ Tho). Nói về thuỷ, quân Tiêm La tiến đến đâu quân Tây Sơn lui đến đấy. Tiến một mạch đến Đông Khẩu gặp lúc trời tối liền dừng quân đóng trại. Trong đại bản doanh Chiêu Tăng tự đắc nói với chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh:
          - Tôi nghe chúa Nguyễn vương nói rằng quân ta rất mạnh, thế mà quân ta tiến sang giặc chỉ lui mà không dám đánh, chẳng mấy chốc đã chiếm hết cả một vùng đất rộng lớn từ sông Tiền Giang trở vào. Chẳng qua là do chúa tôi Nguyễn vương không có người tài mà thôi chứ quân Tây Sơn đối với quân Tiêm ta thật là hữ danh vô thực.
          Nói xong cả cười. Phúc Ánh can:
          - Xin tướng quân đừng nên khinh địch. Ngươi Huệ đã đem đại binh về Quy Nhơn, chỉ để Trương Văn Đa và Đặng Văn Long trấn thủ đất Gia Định, quân chưa đầy một vạn nên Đặng Văn Long mới đổ quân cố thủ Trường Đồn chặn đường tiến quân của ta về Sài Côn. Ấy là quân Tây Sơn đã có kế sách phòng thủ để chờ Nguyễn Huệ đem đại binh vào rồi phản công lại ta. Vậy tướng quân nên kịp phá giặc Trường Đồn. Ta chiếm được Trường Đồn coi như đã chiếm xong toàn cõi Gia Định. Xin tướng quân hãy khá tiến binh.
          Chiêu Tăng cười lớn nói:
          - Nguyễn Huệ tài cán gì mà xem ra chúa sợ Huệ đến thế, hãy thư thả cho quân ta nghỉ ngơi dưỡng sức, chờ Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn kéo vào bây giờ ta mới tiến đánh bắt hết cả, khỏi phải nhiều lần nhọc sức, thế chẳng hơn sao.
          Chúa tôi Phúc Ánh thấy Chiêu Tăng không nghe lời mình, đành về doanh trại chờ quân Tiêm La muốn đánh lúc nào thì đánh chứ chẳng biết phải làm sao. Chiêu Tăng, Chiêu Sương thả quân hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc vơ vét của cải dân lành, dân chúng phải bỏ làng mạc trốn vào bưng biền rừng rậm, tiếng oán thán vang dậy đất trời. Nguyễn Phúc Ánh nghe tin ấy liền sang doanh trại Chiêu Tăng nói:
          - Thưa tướng quân, lẽ được thua là cốt ở lòng dân. Quân ta chỉ tiến một mạch chiếm được nửa đất Gia Định, quân Tây Sơn chỉ lui mà không dám phục binh chặn đường tiến binh của ta, vì sợ rằng nếu phục binh sẽ bị nhân dân tố giác. Nay tướng quân thả binh sĩ cướp bóc của dân, trong thì quân khinh nhờn binh pháp, ngoài thì trăm họ oán ghét, làm sao mà thắng giặc cho được. Xin tướng quân xét lại.
          Chiêu Tăng bảo:
          - Vậy tôi hỏi chúa, vua tôi sai tôi kéo năm vạn binh sang đây biết bao nhiêu là nhân mã, khí giới quân lương để được cái gì? Nếu chỉ để đưa chúa lên ngai vàng mà thôi, thì ai làm vua ở nước Nam này chẳng được, việc gì mà nước tôi phải nhọc sức? Binh pháp có nói làm tướng giỏi thưởng phạt phải nghiêm minh. Nay binh sĩ có công mà không thưởng thì sao cho họ hết lòng đánh giặc. Nếu không để quân ta cướp của dân, vậy nhà chúa lấy gì để nuôi quân và thường cho binh sĩ của ta đây.
          Phúc Ánh nghe Chiêu Tăng nói càn như thế, đánh bấm bụng ra về than cùng các tướng:
          - Quân Tiêm La ngày càng tàn ác, e rằng mà lòng dân thật bất lợi cho ta!
          Lúc Nguyễn Phúc Ánh dẫn quân Tiêm La về nước, Ngô Tùng Châu và Gia Định Tam Gia là Ngô Nhơn Tĩnh, Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định kéo đến theo phò. Nghe Phúc Ánh than thở, Ngô Tùng Châu bước ra thưa rằng:
          - Nhân dân Gia Định vẫn một lòng chung với chúa. Cướp bóc của nhân dân là tội của quân Tiêm La, trăm họ có oán là oán quân Tiêm La cớ gì oán chúa được.
          Lê Văn Quân bàn:
          - Nếu ta cứ lệ thuộc quân Tiêm mãi ắt họ muốn làm gì thì làm. Nay quân của ta mộ được đã đến hai ngàn người, vậy thần xin đem thuỷ binh tiến đánh Trường Đồn, ắt Chiêu Tăng sẽ cho quân theo giúp, nhờ vậy mà quân Tiêm sẽ không được rảnh rang cướp bọc của nhân dân.
          Ngô Tùng Châu hỏi:
          - Hiện quân Tiêm La đang ham lợi mà quên nghĩa vụ lân bang. Vậy lấy gì làm chắc rằng họ sẽ cho quân theo giúp? Nếu họ không giúp thì hai ngàn quân của ta đi đánh Trường Đồn khác gì lấy trứng mà chọi đá. Nếu họ không giúp, ta lại không dám tiến quân Chiêu Tăng lại cười ta là nói khoác mà thôi.
          Lê Văn Quân ung dung nói:
          - Xin Chúa thượng hay sai người sang nói với Chiêu Tăng rằng ngày mai quân ta sẽ tiến về Trường Đồn đánh Tây Sơn. Nếu Chiêu Tăng không cử tướng theo giúp, Lê Văn Quân xin dâng đầu trước án.
          Nguyễn Phúc Ánh nghĩ thầm rằng: Lê Văn Quân một lần bảo ta tham sang phụ khó, một lần bảo ta bán nước cầu vinh, ta đang muốn giết đi mà không có cớ gì. Nay ta nghe theo kế của nó, nếu đúng như thế thì ta đỡ mang tiếng với dân. Nhược bằng không thì ta đã giết được nó vậy. Nghĩ xong Ánh cả mừng nói:
          - Được! Cứ ý theo lời Văn Quân mà làm. Nếu Chiêu Tăng không giúp, ta tất không thể tiến binh thì ta kẻ tội tướng quân tự ý làm để quân Tiếp không cười ta được. Khi ấy tướng quân có chết cũng đừng oán ta đấy nhé!
          Lê Văn Quân đáp:
          - Phận làm tôi tận trung vì chúa, chẳng dám oán hờn.
          Nguyễn Phúc Ánh liền viết thư sai người sang doanh trại quân Tiêm báo cho Chiêu Tăng biết ngày mai sẽ xuất binh. Chiêu Sương bàn với Chiêu Tăng:
          - Nay chúa tôi Nguyễn vương nóng lòng xuất binh, ngày mai họ tiến đánh Trường Đồn. Nguyễn Vương chỉ cơ hai ngàn quân trong tay, nếu để họ thua quân Tây Sơn mà chết hết thì lấy ai làm hướng đạo cho ta. Sau đó nếu quân Tây Sơn lại tiến đánh ta, ta không rành địa hình thì biết tiến thủ thế nào?
          Chiêu Tăng cười bảo:
          - Phúc Ánh chỉ giả vờ làm thế để buộc ta phải tiến đánh mà thôi, chứ làm gì dám mạo muội xua quân. Ta cứ án binh bất động cướp của chở về nước, xem thử ngày mai Phúc Ánh có dám tiến quân chăng?
          Chiêu Tăng nói:
          - Hiện vùng đất từ sông Tiền Giang trở vào quân ta vơ vét của cải chở về nước cũng đã hết. Vả lại Phúc Ánh vì sợ mang tiếng với dân e cùng đường liều lĩnh. Nếu chúa tôi Phúc Ánh chết cả thì ta không người hướng đạo cũng thật bất lợi. Vậy ngày mai tôi xin đem quân giúp Nguyễn vương tiến đánh Tây Sơn. Chiếm được đất mới ta có lợi mới, lại có ân với chúa tôi họ, chẳng phải là nhất cử, lưỡng tiện hay sao?
          Chiêu Tăng khen phải, liền sai người sang báo cho Phúc Ánh ngày mai hội quân tiến đánh Tây Sơn.
          Được tin, Phúc Ánh liền từ tay rót rượu thưởng Lê Văn Quân. Ánh nói:
          - Lê tướng quân đám lấy cái chết bảo đảm bày kế hay cho chúa. Ly rượu này thưởng cho lòng trung của tướng quân.
          Lê Văn Quân bưng rượu uống cạn. Ánh rót ly thứ hai nói:
          - Ly rượu này thưởng cho tướng quân bày điệu kế khiến Chiêu Tăng phải chịu xuất binh đánh Tây Sơn.
          Lê Văn Quân liền uống cạn. Ánh rót ly thứ ba nói:
          - Nhờ kế của tướng quân nên muôn dân thoát cảnh bị quân Tiêm cướp bóc. Ly rượu nay ta thây mặt bá tánh cảm tạ Lê tướng quân.
          Lê Văn Quân cần nốt ly thứ ba. Ánh lại truyền:
          - Nay ta phong Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại Đô đốc, Lê Văn Quân làm phó tướng, chuẩn bị ngày mai hợp quân cùng Chiêu Tăng phá giặc.
          Lúc bây giờ có một tên quân Nguyễn quê quán ở Hà Tiên bị quân Tiêm là hãm hiếp vợ mình đến chết nên đem lòng oán hận. Nhân biết được việc liên minh Tiêm, Nguyễn chuẩn bị đánh Tây Sơn, trong đem ấy tên quân bèn trốn sang doanh trại Tây Sơn ở đồn Trà Tân cách thành Trường Đồn hai mươi dặm bẩm báo.
          Lúc ấy Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đang thị sát đồn Trà Tân. Hay tin ấy Đặng Văn Long nói với Văn Đa:
          - Tướng quân hãy sai Đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn cấp báo cùng Hoàng thượng xin viện binh. Tôi và ông đem quân mai phục ở rách Mân Thít chờ giặc đến đó ra mà đánh để làm tiêu hao lực lượng và chặn đường tiến quân của địch.
          Trương Văn Đa liền viết mật thư sai Đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn cấp báo, Đặng Văn Trấn nói:
          - Tôi thân làm tướng ngoài biên ải giặc đến chưa kịp đánh đã được lệnh tướng quân rút một mạch về đây. Nay hai tướng đã đến những tưởng được ra trận đánh giặc cứu dân bảo quốc, nào ngờ lại bị sai về Quy Nhơn đưa thư. Việc đưa thư thì thiếu chi người sao là sai tôi?
          Văn Đa an ủi Đặng Văn Trấn rằng:
          - Ta thưa biết lòng trung dũng của Đô uý cũng như toàn quân ta trước cảnh non sông đang bị giặc xăm lăng tàn phá. Nhưng ngoài việc đưa thư Đô uý còn phải trình bày tình hình chiến sĩ của quân ta và quân địch ở Gia Định. Nếu không phải Đô uý thì ai làm được việc này. Đại Long Nhương tướng quân kéo đại binh vào đây ông đi theo đánh giặc Tiêm nào có muộn gì?
          Đặng Văn Trấn nghe xong vỡ lẽ liền lãnh thư đi ngay. Trong đem ấy Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đem chiến thuyền mai phục ở các rạch nhỏ trên sông Mân Thít chờ quân Tiêm - Nguyễn.
          Nói về quân Nguyễn do Chu Văn Tiếp và Lê Văn Quân thống lĩnh, được tướng Ngm là Thát Si Đa đem năm ngàn quân và năm mươi chiến thuyền đi sau phô trương thanh thế, liên quân Tiêm - Nguyễn ào ạt theo sông Tiền Giang tiến xuống. Vừa đến sống Mân Thít bỗng nghe pháo lệnh nổ vang, quân Tây Sơn dùng thuyền nhỏ xông ra. Bên phải Trương Văn Đa thống lĩnh, bên trái Đặng Văn Long chỉ huy đổ ra đánh rất hăng, tướng Tiêm La là Thát Si Đa trong thấy liền nói với tả hữu:
          - Cứ để hai bên đánh nhau, đợi Tây Sơn để thuyền lớn xung trận bây giờ ta sẽ tiến binh.
          Nói xong Thát Si Đa truyền quân dừng thuyền ở ngoài xa thị chiến. Khi ấy tướng Nguyễn là Chu Văn Tiếp nói với Lê Văn Quân:
          - Ta đã lọt vào trận mai phục của giặc Tây Sơn, tôi và ông chia quân làm hai cánh chống đỡ. Lát nữa quân Tiêm trợ chiến ắt giặc phải tan.
          Nói rồi Lê Văn Quân đón đánh Đặng Văn Long, Chu Văn Tiếp chặn Trương Văn Đa cự chiến. Hai bên đánh nhau dữ dội, quân Nguyễn thúc quân khua chiêng, quân Tây Sơn đốc binh nổi trống tiếng hò reo rền trời. Chu Văn Tiếp thấy tướng Tây Sơn là phò mã Trương Văn Đa tuổi còn rất trẻ mặt trắng môi son nghĩ thầm rằng, tháng con nít này thúc quân đánh hăng quá, nếu ta không giết nó e binh ta phải bại trận. Nghĩ xong bèn tiến lên áp sát thuyền Trương Văn Đa. Trương Văn Đa trông thấy thuyền quân Nguyễn có đề bốn chữ "Lương sơn tá quốc" lại có dải kỳ đề "Bình Tây đại Đô đốc", Đa nghĩ thầm rằng, ta nghe nói Chu Văn Tiếp khởi binh ở núi Trà Lương nên trương cờ "Lương sơn tá quốc". Tá quốc sao con rước giặc Tiêm La về giầy xéo non sông. Quân Tiêm La sang tàn hại dân ta, cũng do thằng bất tài tham công này gây ra. Phen nay ta quyết giết chết nó trừ hại cho dân. Nghĩ xong chờ thuyền Chu Văn Tiếp gần, Đa quát hỏi:
          - Thằng giặc kia, mí có phải là Chu Văn Tiếp đó chăng?
          Tiếp trấn mặt hét:
          - Thằng con nít kia đã biết oai ta sao không xưng danh rồi chịu chết.
          Đã nạt:
          - Xưng danh với thằng cầu viện ngoại bang buôn dân bán nước như ngươi ta thật lấy làm xấu hổ. Nhưng ta e rằng lát nữa chết đi xuống âm phủ gặp anh em ngươi hỏi ngươi bị ai giết lại không biết đường trả lời thì cũng tội cho ngươi. Hay lắng tai mà nghe cho rõ, ta là Tây Sơn phò mã Trương Văn Đa mà quyết giết loại chó săn như ngươi đấy!
          Chu Văn Tiếp nghe lời nhục mạ, khí uất xông lên. Lại nghe đánh xưng là phò mã Trương Văn Đa, Tiếp chợt nhớ mùa xuân năm trước khi dùng hoả công bị gió thổi ngược, em mình là Chu Đoan Chân cũng bị người xưng phò mã Trương Văn Đa giết chết. Không dằn được lửa hận, Tiếp hét vang vung đao nhảy qua thuyền địch. Văn Đa chờ Tiếp vừa đáp xuống sân thuyền liền đâm một thương nhằm giữa bụng. Đã rút thương, Tiếp tế nhào xuống nước. Bộ tướng của Tiếp là Phạm Văn Sở nghĩ thầm: Tướng Tây Sơn thằng nào cũng giỏ võ, đến thằng con nít này cũng múa thương như rồng bay phượng múa. Năm trước quân Pháp Lang Sa là Mạn Hòe bị Nguyễn Huệ đánh chết ở Thất Kỳ Giang ta có lấy được một cây súng dài. Để ta bắn xem nó có đỡ gạt được không?
          Nói rồi lấy súng nạp đạn mà bắn. Trương Văn Đa trúng đạn bị thương, liền hối quân đánh trống thu binh. Nhờ vậy Phạm Văn Sở sai quân vớt được Chu Văn Tiếp lên thuyền. Khi ấy bên trái Đặng Văn Long thúc quân đánh rát quá, quân Nguyễn chết rất nhiều. Lê Văn Quân chống không nối lại chẳng thấy quân Tiêm La ứng chiến bèn truyền lui quân. Thát Si Đa đang ở xa thị chiến thấy thuyền Tây Sơn toàn là thuyền nhỏ mới truyền lệnh tiến quân cứu quân Nguyễn. Đặng Văn Long thấy tướng kỳ trên thuyền quân Tiêm, lại thấy một viên tướng đứng trên thuyền ấy, cạnh những thùng gỗ lớn. Đặng Văn Long nghĩ thầm, mấy thùng gõ kia chắc là thùng thuốc súng chăng? Nghĩ rồi rút tên lửa nhằm vào thùng ấy mà bắn. Tên lửa bắt thuốc súng cháy bùng lên, Thát Si Đa đứng gân đó bị lửa táp cháy vào phồng mình liền nhảy xuống sông. Chiếc soái thuyền của Thát Si Đa chạy lui. Quân Tiêm La vớt Thát Si Đa lên thuyền mình mẩy đều phồng hết cả, đau đớn rên la. Hai bên đều đánh trống thu binh.
          Nhắc lại Phạm Văn Sở vớt Chu Văn Tiếp lên thuyền thấy mau loang đó cả vạt áo. Văn Sở liền cởi áo Chu Văn Tiếp, băng bó vết thương ở bụng Tiếp. Văn Sở lo lắng hỏi:
          - Đại đô đốc thấy trong người thế nào?
          Chu Văn Tiếp ngồi bắt dậy hét lên:
          - Trời chưa cho ta bình Tây tặc hay sao?
          Văn Tiếp hét to quá đến nỗi ruột lòi ra ngoài vết thương nơi bụng mà chết. Phạm Văn Sở ôm thây khóc mãi không thôi, rồi cùng Lê Văn Quân và Thát Si Đa lui binh về đại bản doanh ở Đông khâu (Sa Đéc).
          Nói về tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa bị thương cùng Đặng Văn Long thu binh về đồn Trà Tân.
          Đặng Văn Long bàn với Trương Văn Đa:
          - Nay quân Tiêm - Nguyễn cả thuỷ lẫn bộ hùn binh năm vạn, quân ta ở đón Trà Tân này có mấy ngàn người. Vả lại tướng quân bị thương, theo tôi ta nên bỏ đồn Trà Tân lui về cố thủ Trường Đồn mới là thượng sách.
          Trương Văn Đa vung tay hỏi:
          - Tôi chỉ bị thương ở vai nào có hề hấn gì mà Đặng tướng quân phong ngại. Vả chăng giặc tiến ta lại lui, nếu bỏ đón Trà Tân, giặc lại tiến đánh Trường Đồn ta lui nữa hay sao?
          Long ôn tồn nói:
          - Trường Đồn thành cao hào sâu, quân Tiêm Nguyễn muốn đánh chỉ có hai con đường độc đạo mà thôi, một là đường bộ từ Trà Tân tiến xuống, hai là đường thuỷ theo sông Tiền Giang đánh tới. Trương tướng quân lãnh bộ binh về giữ Trường Đồn, tôi để thuỷ binh án ngữ sông Tiền Giang, thì giặc không ở gì đánh được. Nếu chúng đến đánh ta chỉ có chết chẳng có lùi. Nếu Trường Đồn mà mất, thành Sài Côn dinh Phiên Trấn không thể nào giữ nổi.
          Bàn bạc xong Đặng Văn Long và Trương Văn Đa lệnh quân chuẩn bị quân trang để ngày mai bỏ đồn Trà Tân lui về cố thủ Trường Đồn. Chẳng ngờ dân chúng trong vùng hay tin đó, trong đêm ấy rủ nhau kéo đến đồn Trà Tân xin gặp quan trấn thủ. Đặng Văn Long và Trương Văn Đa nghe báo liền ra trước dân hỏi:
          - Đang đêm các ngươi kéo đến đây có việc gì?
          Một cụ già bước ra đáp:
          - Quân Tiêm La đi đến đâu cũng tàn sát người già, con nít, hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc của cải dân lành. Nay tướng quân định bỏ đồn mà đi, thì quân Tiêm kéo đến chúng tôi ắt là phải chết. Xin tướng quân hãy ở lại đánh giặc. Nhân dân chúng tôi già trẻ lớn bé xin tình nguyện làm lính đánh quân Tiêm La.
          Dân chúng đồng thanh hô vang:
          - Xin tướng quân ở lại đánh giặc! Xin tướng quân ở lại đánh giặc!
          Chờ dân chúng lắng im, Đặng Văn Long ứa nước mắt nói:
          - Nguyễn Phúc Ánh rước giặc Tiêm La về tàn hạ dân ta. Hiện binh của chúng đông hơn ta gấp bội, đồn Trà Tân lại trống trải không thể giữ được lâu dài nên ta định lui về cố thủ Trường Đồn, chờ Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem đại binh vào sẽ đánh đuổi chúng đi. Xin bá tánh hiểu cho chúng tôi không phải là sợ giặc, chỉ tránh thế mạnh giặc lúc đầu đề bảo toàn lực lượng mà thôi.
          Dân cũng nói:
          - Nếu tướng rút quân về Trường Đồn, dân chúng tôi đành phải bỏ xóm làng theo về thành Trường Đồn lánh nạn vậy.
          Nói rồi dân chúng về nhà thu dọn hành ly, già trẻ lớn bé gồng gánh đều dìu nhau chạy về thành Trường Đồn. Trương Văn Đa nói với Đặng Văn Long rằng:
          - Nay dân chúng bỏ làng mạc theo quân ta, vậy tôi và ông phải tạm thời ở lại trấn thủ Trà Tân cho khi dân chúng đến nơi rồi ta sẽ rút binh sau.
          Đặng Văn Long gật đầu bảo:
          - Sáng ngày mai quân Tiêm - Nguyễn sẽ tiến đánh ta, ắt đêm nay chúng sẽ cho quân do thám đến gần đồn dò xét. Vậy ta dùng kế nghi binh, giặc tạm thời sẽ không dám tiến quân.
          Trương Văn Đa hỏi:
          - Sao tướng quân dám chắc rằng ngày mai chúng sẽ tiến đánh ta?
          Văn Long trầm ngâm đáp:
          - Chu Văn Tiếp bị tướng quân đâm chết, Thát Si Đa bị tôi đốt cháy khắp mình, Chiêu Tăng tất nổi giận mà đánh báo thù. Ngặt vì đêm nay nước thuỷ triều đang lớn, chúng tiến xuống sẽ ngược dòng nước chảy. Rạng sáng ngày mai nhân lúc nước rút chúng sẽ xuôi dòng tiến đánh quân ta. Ngay bây giờ ta cứ làm như vậy... như vậy... Nguyễn Phúc Ánh ắt sợ mà khuyên Chiêu Tăng án binh bất động dò xét thực hư khi ấy nhân dân quanh vùng đã về đến Trường Đồn rồi. Bấy giờ ta có rút binh cũng chẳng muộn gì.
          Trương Văn Đa khen:
          - Long Nhương tướng quân thật là sang suốt mới để Đặng tướng quân ở lại cùng tôi trấn đất Gia Định.
          Nói xong Trương Văn Đa đến các doanh trại bộ binh. Đặng Văn Long xuống nơi thuỷ trại. Hai người bảo quân sĩ đồng thanh họ lớn: Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tán. Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tàn.
          Trong đem tĩnh mịch tiếng hô vang dội xa hàng mấy dặm.
          Nói về Nguyễn Phúc Ánh ở Đông Khẩu nghe tin quân bại trận, Đô đốc Chu Văn Tiếp bỏ mạng, Thát Si Đa bị thương bỏng nặng. Phúc Ánh khóc Tiếp rằng:
          - Thương thay Chu Văn Tiếp, khi thì từ Phú Yên vào Gia Định giúp chúa, khi thì lặn lội sang Tiếm quốc viện binh. Nhà có bốn anh em đều vì ta mà chết cả. Ôi thương thay Chu Văn Tiếp!
          Khóc rồi sai quân mai táng trọng thể. Chiêu Tăng thấy Thát Si Đa bị bỏng khắp mình nổi giận quát rằng:
          - Lũ giặc có Tây Sơn dám đốt tướng của ta. Nay ta sai Chiêu Tăng đem một vạn thuỷ binh tiến đánh thuỷ trại của giặc, và Lục Côn, Sa Uyển đem một vạn bộ binh tiến đánh đồn Trà Tân. Vậy phiền chúa hạ cho tướng theo dẫn đường.
          Phúc Ánh mừng rỡ nói:
          - Tướng quân tiến đánh Tây Sơn là may cho ta lắm, việc dẫn dường nào có khó gì.
          Nói xong Ánh bảo tướng của mình rằng:
          - Nay ta phong Lê Văn Quân thay Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, dẫn đường bình thuỷ đánh Tây Sơn. Phong Lê Văn Duyệt làm tả quân đô đốc dẫn đường binh bộ đánh Trà Tân.
          Phúc Ánh và Chiêu Tăng phân công đâu đó xong xuôi chờ ngày mai xuất kích.
          Rạng sáng hôm sau quân Tiêm - Nguyễn, thuỷ bộ hai đạo hàng ngũ chỉnh tề chờ có nước xuống sẽ xuất quân. Bỗng quân do thám hớt hải về báo rằng:
          - Thưa Chúa thượng, quân Tây Sơn trong đồn Trà Tân và thuỷ trại trên sông Tiền Giang đồng hô vang rằng: Long Nhương tướng quân đã đến, quân Tiêm - Nguyễn ắt phải tan. Chúng thần nghe thấy vội về báo cùng Chúa thượng được rõ.
          Phúc Ánh giật mình:
          - Nay Nguyễn Huệ đã đem binh vào đến Trà Tân, ắt là có phòng bị. Theo ý ta nên dồn binh để xem thực lực của Huệ thế nào rồi xuất binh tiến đánh cũng chẳng muộn gì.
          Chiêu Tăng cau mày bảo:
          - Lúc ta chưa muốn tiến binh thì chúa hối thúc để đến nỗi tướng của ta bị cháy bỏng khắp mình. Nay ta muốn đánh báo thù thì chúa lại ngăn trở là ý là sao? Thì ra là chúa sợ Nguyễn Huệ đến thế ư?
          Ánh chống chế:
          - Chẳng phải là ta sợ Nguyễn Huệ không đã tiến binh. Nhưng binh pháp có câu: Biết người biết ta trăm trận trăm thăng. Quân Tây Sơn có Nguyễn Huệ thật là kiết hiệt đa mưu túc trí, dụng binh rất lạ không ai có thể lường trước được. Nhớ năm xưa sông Lại Dương hắn bày mưu đốt lửa ngăn sông, chỉ dùng có năm ngàn quân tiêu diệt ba vạn quân ta do Tôn Thất Hương thống lĩnh. Rồi ở thành Phú Yên hắn cũng chỉ dùng năm ngàn binh lập kế nghi binh đánh tan hai vạn quân ta do Tống Phước Hiệp chỉ huy. Sau đó hắn ba lần đem quân vào Gia Định, lần đấu bắt sống hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương, lần thứ hai đốt cháy tàu quân Phá Lang Sa sang cầu viện cho ta, lần thứ ba đợt thuyền Chu Văn Tiếp ở Thất Kỳ Giang. Hắn lại biết trước ta thế nào cũng chạy ra Phú Quốc mới sai tướng phục sẵn nơi đảo này, ta chạy thoát sang đảo Côn Lôn tướng của hắn là Trương Văn Đa, đem chiến thuyền vậy đảo. May nhờ trời giúp cho, nổi gió đánh đắm gần hết thuyền giặc nên ta mới thoát chết sang cầu viện Tiêm vương. Nay hắn lại kéo đại binh vào đây ta không thể không đề phòng. Xin tướng quân nghĩ lại.
          Chiêu Tăng nghe Ánh nói xong bực mình bảo:
          - Truyền lệnh ta bãi binh. Sai quân do thám tình hình quân địch xem sao rồi sẽ liệu.
          Nói xong Chiêu Tăng quày quả ra về đại bản doanh. Bên doanh trại Tây Sơn, Trương Văn Đa nghe tin ấy khen Đặng Văn Long:
          - Quá đúng như tướng quân dự đoán, quân Tiêm - Nguyễn không dám tiến binh. Đặng tướng quân thật liệu việc hơn người.
          Văn Long nhún nhường nói:
          - Trương tướng quân khen quá lời, tôi nào có tài cán gì. Chẳng qua ấy là nhờ uy danh của Long Nhương tướng quân mà thôi.
          Nói xong Trương Văn Đa và Đặng Văn Long bỏ đồn Trà Tân đem binh lui về giữ Trường Đồn.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #35
            Chương 32

            Bùi Thị Xuân bắn tên mắng Nguyễn Vương.
            Nguyễn Long Nhương sai sứ hoà Tiêm quốc.


            Nhắc lại Đô đốc Đặng Văn Trấn vâng lệnh Trương Văn Đa về Quy Nhơn cấp báo cùng vua Thái Đức.
            Vua Thái Đức liền sai quân nổi trống thiết triều. Đủ mặt bá quan văn võ, vua nói:
            - Đô uý Đặng Văn Trấn từ Gia Định về báo rằng: Phúc Ánh cầu viện nước Tiêm La. Hiện quân Tiêm La đem thuỷ bộ binh năm vạn tiến sang. Phò mã Trương Văn Đa và đại Đô đốc Đặng Văn Long lui binh về giữ Trường Đồn. Nghe giặc Tiêm La sát hại đồng bào, hãm hiếp phụ nữ, vơ vét của cải, ta thật thương lương dân gặp nạn, giận lũ giặc tham tàn. Vậy nay ta lệnh cho Long Nhương Nguyễn Huệ làm chánh tướng, Tiết chế Nguyễn Lữ làm phó tướng được trọn quyền điều động binh lương. Huệ và Lữ hãy lập tức xuất binh đuổi ngoại xâm ra khỏi biên thuỳ, cứu muôn dân thoát vòng nước lửa, chớ phụ lòng mong đợi của ta.
            Các tưởng cũng quỳ tâu:
            - Xin Bệ hạ an lòng, chúng thần nguyện một lòng quét sạch quân Tiêm ra ngoài bờ cõi, bắt Phúc Ánh về cho Bệ hạ trị tội bán nước buôn dân.
            Bỗng Vũ Văn Dũng từ ngoài chạy vào nói lớn:
            - Xin Bệ hạ cho thần vào Nam đánh quân Tiêm - Nguyễn chứ thần làm võ tướng mấy năm nay trấn thủ Quảng Nam, không được đánh đấm gì cả, thật là chân ngứa ngáy vô cùng.
            Nguyễn Huệ bước ra hỏi:
            - Tam sư để Vũ Văn Dũng đang cùng Võ Đình Tú trấn thủ Quảng Nam vì sao lại có mặt ở kinh thành?
            Dùng vung tay đáp:
            - Tôi từ Quảng Nam về đây bẩm báo tình hình biên ải. Từ ngày Phạm Ngô Cầu vào trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, lấy đèo Hải Vân làm ranh giới án binh bất động, không có ý dòm ngó đất Quảng Nam ta. Nào ngờ mới về đến đây nghe Phúc Ánh cõng rắn cắn gà nhà, rước giặc Tiêm La giày xéo nước ta. Tôi nghe như lửa đốt trong lòng. Xin Bệ hạ và đại sư huynh cho tòng chinh vào Nam đánh giặc.
            Nguyễn Huệ ôn tồn khuyên Vũ Văn Dũng:
            - Quân Trịnh ở Phú Xuân, Thuận Hoá còn hai vạn binh tinh nhuệ đang chờ có dịp xâm phạm đất Quảng Nam ta, thế nên việc trấn thủ đất Quảng Nam phòng quân Trịnh, ngoài Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú có ai làm nổi. Dũng nên nhớ rằng có yên được mặt Bắc thì mới đánh thắng mặt Nam. Vậy Văn Dũng hãy trở về cùng Võ Đình Tú trấn thủ Quảng Nam, ấy là đã lập nên công lớn đó.
            Vũ Văn Dũng vâng lệnh lui ra.
            Hôm sau Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh hai trăm chiến thuyền và hai vạn tinh binh cùng các tướng Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Văn Trấn đi đường bể vào Nam đánh giặc. Vua Thái Đức đích thân ra đến tận cửa Thị Nại tiễn đưa. Vua tự tay rót rượu cho Huệ và Lữ rồi nói:
            - Hai em đã vì anh xông pha nơi hòn tên mũi đạn chinh Nam phạt Bắc. Chuyến này vào Gia Định hãy gắng công mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng anh.
            Huệ và Lữ cùng nâng chén uống cạn. Huệ nói:
            - Xin hoàng huynh chớ nên lo lắng. Em đi đánh giặc phen này xin hứa sẽ quay về ăn tết Ất Tỵ.
            Vua Thái Đức nghi ngờ hỏi:
            - Nay đã là ngày hai mươi tháng mười một năm Giáp Thìn, chỉ còn bốn mươi ngày nữa là đến tết Ất Tỵ. Tính thời gian đi ra đi vào mắt hết hai mươi ngày, chỉ còn hai mươi ngày em nghĩ răng có thể phá được giặc sao?
            Huệ đáp giọng tự tin:
            - Khi hay tin Đặng Văn Long và Trương Văn Đa đem toàn quân về cố thủ Trường Đồn thì kế sách đánh giặc em đều tính toán cả rồi. Quân ta vào phen này chỉ đánh một trận là tiêu diệt xong quân Tiêm - Nguyễn mà thôi. Xin hoàng huynh chớ ngại.
            Nói rồi bái biệt toan bước xuống thuyền, bỗng nghe tiếng gọi lớn:
            - Long Nhương tướng quân xin dừng bước!
            Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra nữ đô đốc Bùi Thị Xuân đang lướt ngựa xông đến. Bùi Thị Xuân nhảy xuống ngựa thi lễ với vua Thái Đức. Xuân nói:
            - Xin Bệ hạ cho thần được tòng chinh vào Nam đánh giặc Tiêm - Nguyễn.
            Vua bảo:
            - Ta đã trao quyền điều binh khiển tướng cho Nguyễn Huệ, việc này do Huệ định đoạt vậy.
            Nguyễn Huệ nói đùa cùng Xuân rằng:
            - Ta vào Nam chuyến này tinh binh hai vạn, hổ tướng có thừa. Cô Xuân là nữ nhi anh kiệt thiên hạ đểu biết tiếng còn xin theo chinh chiến làm gì?
            Bùi Thị Xuân nét mặt đau đáu đáp:
            - Chẳng phải tôi muốn làm nữ nhi anh kiệt. Nhưng Nguyễn Phúc Ánh rước quân Tiêm La về tàn hại dân ta là do tội của tôi. Nay tôi xin theo tướng quân đánh giặc, quyết trừ Phúc Ánh mới lấy công chuộc tội của tôi được. Nếu Long Nhương không cho tôi quyết quỳ mãi nơi này.
            Nguyễn Huệ hỏi Trần Quang Diệu:
            - Có Xuân đã quyết lòng như thế, ý Trần Quang Diệu thế nào?
            - Năm xưa phu nhân tôi hai lần truy đuổi đều để cho Phúc Ánh chạy thoát, nên trong lòng áy náy tự cho rằng mình có tội. Nay Phúc Ánh rước giặc Tiêm La tàn hại dân lành, phu nhân tôi lại càng bị lương tâm cắn rứt. Xin tướng quân hay cho phu nhân tôi tòng chinh ắt trong lòng sẽ thảnh thơi hơn. Ấy là tướng quân đã ban ơn cho vợ chồng tới đó. (Nguyên lần tha Nguyễn Phúc Ánh, Bùi Thị Xuân giấu cả chống mình là Trần Quang Diệu nên Diệu chỉ biết có hai lần, một lần Phúc Ánh chui xuống giường sản phụ mà trốn, một lần ở cửa Hàm Luông, Phúc Ánh nhờ bão thoát thân).
            Nghe Diệu nói xong, Nguyễn Huệ vui vẻ cho Bùi Thị Xuân tòng chinh. Xuân mừng rỡ khóc lậy tạ ơn. Nguyễn Huệ cảm động hỏi:
            - Ta đã bao lần nói với cô Xuân rằng: xưa nay có sách binh thu nào nói không bắt được tướng giặc là có tội bao giờ. Sao cô lại cố chấp tự làm khổ mình như vậy!
            Bùi Thị Xuân chỉ gạt lệ không đáp.
            Nguyễn Huệ hạ lệnh xuất binh. Hai trăm chiến thuyền và hai vạn quân Tây Sơn giong buồm ra cửa bể thẳng đường Nam tiến. Nguyễn Huệ đi rồi thái giám Vũ Tâm Can tâu với vua Thái Đức:
            - Long Nhương tướng quân vào Nam phen này đem theo các tướng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đều là tay chân của Long Nhương cả. Điều ấy không đáng ngại hay sao?
            Vua Thái Đức giận lắm nạt:
            - Giặc Tiêm La đang hại dân ta, nếu không phải là Nguyễn Huệ cầm quân thì liệu ai có thể phá được năm vạn binh lang sói ấy. Trong lúc bá quan tướng sĩ đều vì nước vì dân, xả thân chinh chiến ngoài biên ải ngươi lại bướng lời gièm xiểm, thật là đáng chết.
            Nói xong vua truyền quân lôi Vũ Tâm Can ra chém. Võ sĩ lôi Vũ Tâm Can đi xong, vua Thái Đức ngh lại rằng: Năm xưa cha nó là Huyền khê Vũ Tất Thận vì uống rượu phạm vào quân lệnh bị ta xử tội trước dân ở ấp Tây Sơn mà phải tự vẫn mà chết. Từ ấy ta tự nguyện nuôi nó như con. Nay nếu giết đi chẳng hoá ra ta là người bất nhân bất nghĩa hay sao?
            Nghĩ xong liền hối quân xá tội cho Vũ Tâm Can, rồi quay về ngự điện. Vũ Tâm Can thoát chết về nhà hỏi mẹ:
            - Những lần trước con nói gièm rằng, nên đề phòng Nguyễn Huệ đem nanh vuốt ra ngoài biên ải thì Nguyễn Nhạc giật mình liền cho người tam phủ theo để chia binh quyền với Nguyễn Huệ. Sao lần na Nguyễn Nhạc lại toan giết chết con?
            Vũ mẫu đáp:
            - Nguyễn Nhạc có tính hay đố kỵ người tài đức hơn mình, nhưng lại rất thương kẻ cùng đường cô thế. Lần này Nguyễn Nhạc chỉ nghĩ đến việc nhân dân Gia Định bị quân Tiêm La tàn hại, mà quên việc Nguyễn Huệ lấn quyền. Lần sau nếu muốn báo thù cha, còn phải lựa thời mà nói.
            Vũ Tâm Can thưa:
            - Con xin vâng lời mẹ dậy! Nguyễn Nhạc những ngày khởi binh ở Tây Sơn Thượng nhờ cha con đem hết gia đình của cải theo giúp. Cha con chỉ vì phạm tội uống rượu mà phải bị Nguyễn Nhạc xử tội chết. Con thề sẽ phá tan có nghiệp của anh em Nhạc, Huệ báo thù cha mới thoả lòng căm hận.
            Nói về Nguyễn Huệ đem hai vạn binh vào Nam lần này Huệ không vào cửa Cần Giờ lên thành Sài Côn mà cho chiến thuyền vào cửa biển Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến vào thành Trường Đồn. Phò mã Trương Văn Đa và Đô đốc Đặng Văn Long hay tin tự trói mình ra đón Nguyễn Huệ. Trương Văn Đa quỳ thưa:
            - Quân Tiêm sang xâm lược nước ta. Cháu và đại đô đốc Đặng Văn Long không chống nổi phải để toàn quân về cố thủ Trường Đồn, bỏ hết một nữa đất đai Gia Định về tay giặc. Xin thúc phụ trị tội!
            Nguyễn Huệ sai quân mở trói cho hai tướng rồi an ủi:
            - Tránh thế mạnh của địch lúc ban đầu, bảo toàn lực lượng quân ta lui về giữ nơi hiểm yếu, ấy thật là thượng sách. Lần trước rút binh về Quy Nhơn ta đã để Đặng Văn Long ở lại giúp Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, vậy kế này có phải của Đặng Văn Long chăng?
            Trương Văn Đa đáp:
            - Thưa thúc phụ, kế này chính là do Đặng đô đốc bày ra.
            Nguyễn Huệ hạ lệnh:
            - Trương Văn Đa đã lập nên công lớn giết chết thằng bán nước Chu Văn Tiếp, vả lại Đa đang bị thương và ta lệnh cho ngươi quay về trấn thủ thành Sài Côn để dưỡng thương - Đoạn quay sang Đặng Văn Long, Huệ nói - Đặng Văn Long quay về thành Trường Đồn trấn thủ. Các tướng sĩ không được nghĩ ngợi theo ta tiến lên đồn Trà Tân đánh quân Tiêm - Nguyễn.
            Đặng Văn Long can rằng:
            - Quân ta đi đường xa mới đến ắt có phần mỏi mệt. Quân Tiêm - Nguyễn đóng một nơi an nhàn mạnh khỏe, lấy quân mệt đi đánh quân khỏe e rằng bất lợi. Xin đại huynh xét lại.
            Huệ cười đáp:
            - Ta hẹn với hoàng huynh về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ, mà này đã là mùng một tháng chạp! Ta gấp rút đem quân tiến đánh là muốn phô trương thanh thế quân ta và xem thực lực của giặc mà thôi. Ta đâu dại đem quân mình vào chỗ chết. Tứ sư đệ chớ lo!
            Nói rồi không nghe lời Văn Long, Huệ lệnh quân thừa lúc nước thuỷ triều đang lớn thẳng tiến về đồn Trà Tân.
            Nơi đại bản doanh Tiêm - Nguyễn, quân do thám về báo cùng Nguyễn Phúc Ánh và Chiêu Tăng.
            - Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đang tiến đánh quân ta.
            Phúc Ánh giật mình nói với Chiêu Tăng:
            - Quân Tây Sơn chủ động tấn công trước chắc là Nguyễn Huệ đã đem đại binh vào đến nên chúng mới dám to gan như vậy.
            Nói rồi Ánh liền cùng Chiêu Tăng đích thân ra ngoài thuỷ trại xem xét. Đến nơi thấy từ xa thuyền Tây Sơn lớp lớp, ào ào lướt sóng tiến về phía quân mình, lại thấy chiếc soái thuyền dẫn đầu đoàn quân Tây Sơn trương cờ đề "Long Nhương đại tướng quân", Phúc Ánh lại giật mình nói với Chiêu Tăng:
            - Xin tướng quân hay lệnh quân sĩ giữ vững đoạn trái, dùng thuỷ trại và đồn Trà Tân làm thế ỷ giốc với nhau. Nếu quân Tây Sơn tiến đánh thuỷ trại, thì đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống giặc ắt phải lui.
            Chiêu Tăng nhếch mép cười bảo:
            - Việc gì mà chúa lại sợ Huệ đến thế. Lần trước Đặng Văn Long giả danh cho quân sĩ họ lên rằng: "Long Nhương tướng quân đến", khiến chúa sợ bóng sợ gió không dám tiến binh, nên Đặng Văn Long mới lui về Trường Đồn được an toàn. Rồi khi quân do thám của ta về bảo rằng giặc Tây Sơn ở đồn Trà Tân về cố thủ Trường Đồn thì chúa lại báo rằng: "E Nguyễn Huệ dùng kế không thành". Lần hồi mãi đến nay mới chiếm lấy Trà Tân bỏ trống. Ấy thật là chúa vì sợ, thấy gà hoá cuốc làm chậm bước tiến của quân ta mà thôi.
            Phúc Ánh xấu hổ chẳng biết trả lời thế nào. Chiêu Tăng lại nói tiếp:
            - Nay trời đã xế chiều xuất quân không tiện, ta cứ án binh phòng thủ xem Nguyễn Huệ làm gì được ta nào.
            Chiêu Tăng vừa nói xong đã thấy chiến thuyền Tây Sơn tiến sắt thuỷ trại. Nguyễn Huệ đứng trên soái thuyền hạ lệnh tiến công. Quân Tây Sơn bắn đại bác ầm ầm vào thuỷ trại quân Tiêm - Nguyễn. Chiêu Tăng phất cờ hiệu, đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống và đại bác trong thuỷ trại quân Tiêm bắn ra. Chiến thuyền nhỏ quân Tây Sơn trúng đạn vỡ mất vài chiếc. Nguyễn Huệ liền hô quân lui ra khỏi tầm đại bác. Huệ bảo các tướng:
            - Quân Tiêm rất đông và mạnh, thuyền và súng đại bác của chúng chẳng kém quân ta. Chúng lại lấy thuỷ trại dưới sông Tiền Giang và bộ binh trên đồn Trà Tân làm thế ỷ giốc với nhau. Nếu chúng không ra đánh, ta thật khó mà thủ thắng. Phải làm sao dụ chúng ra khỏi trại mà tiêu diệt mới xong.
            Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
            - Để tôi bảo quân sĩ gọi thằng bán nước ra mà chửi xem thử nó có chịu ra đánh hay chăng?
            Nói xong Văn Tuyết bảo quân đồng thanh hô lên rằng:
            - Thằng bán nước Phúc Ánh, có giỏi thì ra mà đánh với ta! Thằng bán nước Phúc Ánh, có giỏi thì ra mà đánh với ta!
            Trong doanh trại, nghe quân Tây Sơn chửi, Phúc Ánh nói với các tướng:
            - Cứ án binh bất động, lát nữa nước triều rút, chúng cũng sẽ rút theo.
            Quân Tây Sơn chửi mãi mà quân Tiêm - Nguyễn vẫn không ra. Trời tối nước triệu rút, Nguyễn Huệ truyền lệnh thu binh. Khi quân lui về đến nửa đường từ Trà Tân đến Trường Đồn, lòng sông bắt đầu mở rộng chừng vài dặm, Huệ bảo:
            - Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc, hai người hãy lãnh ba ngàn quân và ba chục chiếc đại thuyền lập thuỷ trại giăng ngang sống cố thủ nơi này. Hễ sáng thuỷ triều lên thì đem binh đến trại địch khiêu chiến. Đến khi thuỷ triều rút thì lại lui về đây. Nếu giặc đem đại binh tiến đánh thì lập tức lui quân về Trường Đồn. Khi chưa có lệnh ta cứ như vậy mà làm.
            Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết vâng lệnh đem chiến thuyền giăng ngang sông lập thuỷ trại.
            Nguyễn Huệ lại tiếp tục đem chiến thuyền lui về Trường Đồn. Đến đoạn sông có một nhánh sông nhỏ đâm ngang nơi tả ngạn, lòng sông lại mà rộng hơn, giữa sông nổi lên một cù lao dài chừng mấy dặm. Huệ hỏi các tướng:
            - Các tướng có biết sông và cù lao này tên gọi là gì chăng?
            Đô uý Đặng Văn Trấn thưa:
            - Nhánh sông nhỏ này tên gọi là sông Rạch Gầm. Cù lao này là cù lao Thới Sơn.
            Huệ lại hỏi:
            - Các ngươi có biết vì sao ta quân tâm đến đoạn sông này chăng?
            Các tướng đều đáp:
            - Chúng tôi không được biết! Xin Long Nhương giải cho!
            Huệ trỏ tay xuống sông nói lớn:
            - Nay là mùng một tháng chạp. Các ngươi hãy nhớ lấy lời ta, ngày mùng chín tháng chạp ta sẽ giết giặc ở đoạn sông này!
            Nguyễn Lữ hỏi:
            - Em không hiểu vì sao lại là ngày mùng chín. Xin anh cắt nghĩa rõ hơn?
            Huệ nhíu mày, vầng trán đầy nếp nhăn rồi chậm rãi nói:
            - Đợi chín ngày nữa tháng giặc rồi anh sẽ giải.
            Nói xong Nguyễn Huệ xuôi về Trường Đồn lập đã bản doanh.
            Hôm sau trời vừa hửng sáng nước thuỷ triều lên mạnh, Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc lại đem chiến thuyền đến Trà Tân khua chiêng trống inh ỏi. Quân Tiêm - Nguyễn vẫn cố thủ không ra đánh. Quân Tây Sơn tiến đến gần lại bị súng đại bác trên đồn Trà Tân bắn xuống phải lui ra. Tuyết và Lộc lại bảo quân gọi tên Phúc Ánh mà chửi. Quân Tây Sơn hét vang:
            - Thằng Phúc Ánh bán nước buôn dân, mau ra đã chịu chết!
            Chửi mãi đến lúc nước triều rút chảy quân Tây Sơn phải kéo nhau về. Lộc bảo Tuyết:
            - Quân Tiêm - Nguyễn chỉ thủ mà không đánh. Ta cứ tiến lên rồi lại lui về thật hoài công vô ích.
            Văn Tuyết nhăn nhó nói:
            - Long Nhương cần đến ta chưa có lệnh cứ như vậy mà làm. Ngày mai lại khiêu chiến nữa xem sao.
            Lộc bảo:
            - Đêm nay ta sai người về bẩm báo cùng Long Nhương xem người có kế gì chăng?
            Nói rồi sai quân mang thư về Trường Đồn dâng Nguyễn Huệ. Huệ xem xong cười bảo:
            - Tuyết và Lộc thấy giặc cố thủ không ra đánh nóng ruột xin lệnh tấn công. Quân bay quay về bảo đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc cứ y lời ta dặn mà làm. Nếu trái lệnh chém đầu.
            Bùi Thị Xuân bước ra thưa:
            - Xin Long Nhương cho tôi ngày mai theo đô đốc Tuyết và Lộc ra trận. Tôi có kế dụ Nguyễn Phúc Ánh phải ra đánh.
            Huệ lắc đầu bảo:
            - Phúc Ánh nghe ta đến đây, dù gan trời cùng chẳng dám xuất quân.
            Bùi Thị Xuân hỏi:
            - Nếu tôi khích được Phúc Ánh ra trận thì Long Nhương tính thế nào?
            Huệ cả cười đáp:
            - Nếu được thế ta nhường quyền điều bình khiển tướng cho có Xuân. Nhược bằng không từ giờ về sau ta sai đâu thì phải y lệnh không được xin xỏ gì cả!
            Xuân cương quyết nói:
            - Xin dượng rễ chớ có quên lời, phen này dượng rễ ắt là phải thua cuộc rồi.
            Sáng ngày thứ ba, Bùi Thị Xuân theo Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc ra trận. Đến thuỷ trại quân Tiêm - Nguyễn thấy soái thuyền Phúc Ánh từ xa, Bùi Thị Xuân quấn một phong thư quanh thân tên rồi nhằm thuyền Phúc Ánh mà bắn. Lúc ấy Lê Văn Quân đứng trên mui thuyền bắt được tên thư bèn giở ra xem. Thư viết rằng:
            "Nay đô đốc Tây Sơn là Bùi Thị Xuân gửi Nguyễn vương Phúc Ánh.
            Năm xưa Chúa ta hát được hai chúa Thái Thượng vương và Tân chính vương ở cửa Hàm Luông. Ta đuổi theo bắt được mẹ con ngươi. Thương mẹ và em ngươi làm phận đàn bà, lại thấy ngươi là thằng con nít nên ta mới tha chết cho ngươi; Ngờ đâu ngày trước ngươi quỳ lạy dưới gấu quần của ta nay lại giở thói hèn hạ ấy quỳ lạy Tiêm La rước giặc về tàn hại dân lành. Ta bảo ngươi, nay ta định đây quyết bắt ngươi để chuộc tội ngày xưa thả cho thằng tiểu nhân đê hèn bán nước cầu vinh. Ngươi hãy bảo quân Tiêm La đem binh thuyền ra giữa chiến trường huyết chiến một phen, đừng chui rúc trong hàng như loài chim chuột, thân nhi nữ khuê môn bất xuất như ta cũng lấy làm xấu hổ lắm thay!
            Lê Văn Quân xem xong rồi đem vào dâng lên Phúc Ánh, Phúc Ánh giở thư ra đọc xong xé nát thư, đỏ mặt nói:
            - Con tiện tỳ này ngày trước đuổi ta ở Hàm Luông, nhờ bão nên ta và ngươi cùng Trương Tấn Bửu mới chạy thoát. Nay Nguyễn Huệ thấy ta cố thủ không ra đánh, mới sai Bùi Thị Xuân đặt điều nói bậy để khích ta mà thôi.
            Phúc Ánh nói xong xua tay ra hiệu cho Lê Văn Quân ra ngoài. Quân đi xong Ánh nghĩ thầm: Việc Bùi Thị Xuân tha chết cho ta chỉ có ba mẹ con ta biết. Nay thêm Lê Văn Quân, nữa là người thứ tư.
            Bùi Thị Xuân bắn tên đứa thư cho Phúc Ánh xong, chờ mãi vẫn không thấy quân Tiêm - Nguyễn ra đánh bèn sai quân gào lên: "Nguyễn Phúc Ánh ra mà lậy, nữ đô đốc sẽ tha chết cho".
            Trong doanh trại quân Tiêm - Là, Chiêu Tăng nghe vậy nói với thủ hạ:
            - Quân Tây Sơn đã ba ngày liền kêu tên Phúc Ánh chửi mắng mà Phúc Ánh vẫn không xin ta ra đánh chứng tỏ Phúc Ánh sợ Nguyễn Huệ đến dường nào.
            Chiêu Sương hỏi:
            - Kế sách đánh Tây Sơn tướng quân như thế nào?
            Chiêu Tăng đáp:
            - Quân Tây Sơn mới tới khí thế đang hăng, ngả nào cũng ra khiêu chiến. Ta cứ án binh bất động, lau ngày chúng nản lòng ắt sinh lười nhác, khi ấy ta thừa cơ tiến đánh tất phải thắng.
            Ngoài sông Tiền Giang quân Tây Sơn chửi mãi đến lúc nước rút lại kéo nhau về. Bùi Thị Xuân về Trường Đồn yết kiến Nguyễn Huệ, nói:
            - Tôi dùng mọi cách để khiêu khích, Phúc Ánh vẫn cố thủ không ra đánh.
            Nguyễn Huệ cả cười bảo:
            - Con người của Phúc Ánh dám cam tâm lậy lục ngoại bang về tàn hại dân nước mình, thì chửi như nào mà không chịu được, có chửi mắng thế nào cùng vô ích mà thôi!
            Nói rồi Nguyễn Huệ gọi tên quân đến bảo:
            - Ngươi mau tới thuỷ trại đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc truyền lệnh ta: Bắt đầu từ ngày mai án binh bất động canh phòng cẩn mật không phải đến trại địch khiêu chiến nữa.
            Quân lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại hỏi:
            - Nay ta muốn giảng hoà với quân Tiêm La, Phan Văn Lân có thể vì ta đi sứ được chăng?
            Phan Văn Lân bước ra hỏi lại Nguyễn Huệ:
            - Tôi thân làm võ tướng gặp giặc thì đánh, sao Long Nhương lại sai tôi đi sứ?
            Huệ cười hỏi:
            - Văn Lân có can trường của võ tướng những lại có vóc dáng của một thứ sinh, ắt Chiêu Tăng không nghi ngờ rằng ta sai tướng sang do thám địch tình. Văn Lân lại không làm được việc này sao?
            Phan Văn Lân đáp:
            - Nếu là tướng lệnh, há tôi lại sợ chúng hay sao!
            Huệ cả mừng nói:
            - Hay lắm! Vậy Văn Long hãy kíp sang doanh trại Tiêm La gặp Chiêu Tăng nói như vậy... như vậy... Chiêu Tăng ắt sẽ trúng kế của ta. Nhất định ngày mùng chín hắn sẽ đem binh tiến đánh.
            Nơi về Chiêu Tăng, ngày hôm sau không thấy quân Tây Sơn đến khiêu chiến, liền mời Phúc Ánh đến nói:
            - Nguyễn Huệ vừa kéo binh đến đây, ba ngày liền cho quân khiêu chiến, hôm nay lại không thấy để chẳng biết là có ý gì?
            Phúc Ánh chưa kịp đáp xảy quân vào báo:
            - Thưa đại tướng quân, có sử giả quân Tây Sơn xin vào ra mắt.
            Chiêu Tăng hỏi:
            - Sứ giả Tây Sơn xin vào gặp ta hay gặp chúa Nguyễn vương?
            Tên quân đáp:
            - Sứ giả nằng nặc đòi gặp riêng đại tướng quân.
            Chiêu Tăng bảo Phúc Ánh:
            - Phiền chúa hãy tạm lánh mặt để tôi tiếp sứ xem Nguyễn Huệ muốn gì.
            Ánh liền đến nắp sau bức bình phòng, Chiêu Tăng cho gọi sử giả vào. Phan Văn Lân vào tới, Chiêu Tăng nạt thị oai:
            - Tên học trò kia không sợ chết sao mà dám vào đồn đây gặp đại soái?
            Phan Văn Lân điềm nhiên đáp:
            - Long Nhương tướng quân tôi vì sợ chết nên mà sai tôi đến đây gặp đại soái xin giảng hoà.
            Chiêu Tăng cười to nói:
            - Nguyễn Huệ to gan dám phạm oai trời, ba ngày liền cho quân khiêu chiến chửi mắng suốt ngày. Nay thấy không thắng nổi quân ta mới giảng hoà chăng?
            Văn Lân đáp:
            - Quân Tây Sơn tôi chỉ kêu Phúc Ánh mà chửi chứ đâu phạm đến oai trời. Nay Long Nhương tướng quân sai tôi đến đây thưa với đại soái rằng: Việc của chúa Nguyễn Phúc Ánh và vua Tây Sơn là việc của nước tôi. Vua tôi với Tiêm Vương vốn không thù oán việc gì đại soái phải gây cuộc đại chiến cho tổn hại sinh linh. Nếu đại soái bằng lòng rút binh về nước để người nước tôi tự giải quyết lấy chuyện riêng thì sau khi an bình, vua nước tôi theo lệ hằng năm nộp cống. Ấy chẳng phải là được lợi cả đôi bên sao?
            Nghe Văn Lân nói xong, Chiêu Tăng giả vờ ngẫm nghĩ rồi nói:
            - Lời ông cũng hữu lý. Vậy phiền ông hãy về trước thưa cùng Long Nhương tướng quân chờ ta suy nghĩ lại rồi sẽ sai sứ sang bàn bạc với Long Nhương sau.
            Nói rồi Chiêu Tăng ân cần sai quân tiễn đưa Phan Văn Lân ra về. Nguyễn Phúc Ánh từ sau bình phong bước ra lo lắng nói:
            - Xin tướng quân chớ nghe lời dối trá của Nguyễn Huệ. Năm xưa hắn làm loạn ở đất Tây Sơn lấy danh nghĩa là đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan, tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Vậy mà về sau bắt được Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Huệ liền giết chết. Đến như việc cả thiên hạ đều biết họ còn trơ mặt, thì một lời hứa suông đã lấy gì làm chắc. Nay tướng quân lui binh về nước bỏ mặc tôi, nếu sau này Nguyễn Huệ nuốt lời, tướng quân lại một lần nữa đem binh sang hỏi tội hay sao? Khi ấy chúa tôi của Ánh này không còn nữa thì tướng quân lấy danh nghĩa gì để động binh. Và lấy ai dẫn đường cho tướng quân đánh Tây Sơn?
            Nghe Phúc Ánh nói xong. Chiêu Tăng cười to bảo:
            - Việc gì mà chúa phải hoảng lên như thế? Đời nào ta nghe lời Nguyễn Huệ rút binh. Nay Nguyễn Huệ thấy ta hùng mạnh liệu không thắng nổi mà phải xin hoà. Ta giả vờ ưng thuận làm kế hoãn binh rồi bàn với chúa xem có kế gì phá giặc hay chăng?
            Phúc Ánh đáp:
            - Tôi thật tình xin lỗi vì đã hiểu lầm ý tốt cứ tướng quân. Theo tôi tướng quân cứ giả vờ hoà cùng Nguyễn Huệ, hẹn ngày rút binh về nước, Nguyễn Huệ ắt lơ đễnh việc phòng bị, khi ấy ta bất ngờ đem thuỷ bộ binh hai đạo cũng tiến đánh tất phải phá được Nguyễn Huệ.
            Chiêu Tăng vỗ tay nói:
            - Ý của ta cũng như ý chúa vậy. Phen này phải phá tan giặc Tây Sơn để Nguyễn Huệ biết tài thao lược của ta.
            Nói rồi Chiêu Tăng bèn sai tướng là Chiêu Thuỷ Biện sang doanh trại Tây Sơn gặp Nguyễn Huệ nói chuyện giảng hoà. Thấy sứ Tiêm La đến, Nguyễn Huệ và mừng rỡ sai quân bày yến tiệc tiếp đãi rất trọng hậu. Chiêu Thuỷ Biện nói:
            - Nay đại tướng quân sai tôi sang đây nói với tướng quân, xin hẹn ngày rút binh về nước. Sau khi dẹp được Phúc Ánh, xin tướng quân chớ quên lời nộp cống hàng năm.
            Huệ hỏi Chiêu Thuỷ Biện:
            - Vậy Chiêu tướng quân định bao giờ sẽ rút binh về?
            Biện đáp:
            - Nay là ngày mùng năm tháng chạp, đại tướng quân tôi xin hẹn đến ngày mươi lăm sẽ rút binh.
            Nghe Biển nói xong, Nguyễn Huệ cười thầm trong bụng, sai người tiễn sứ ra về. Chiêu Thuỷ Biện đi rồi, Nguyễn Huệ tủm tỉm cười mãi. Nguyễn Lữ hỏi:
            - Vì cớ gì anh cười mãi thế?
            Huệ vẫn cười vui vẻ đáp:
            - Đúng như ta dự đoán, Chiêu Tăng hẹn mười lăm sẽ rút binh, ắt trong đêm mùng chín chúng sẽ tiến binh đánh ta. Phen này ta quyết tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La, trả thù cho dân ta mới hả dạ. Nguyễn Lữ lại hỏi:
            - Vì sao anh lại quyết đoán rằng chúng sẽ tiến đánh vào đem mùng chín?
            Các tướng đồng thanh hỏi:
            - Phải! Vì sao tướng quân đoán chắc là ngày ấy?
            - Đến hôm ấy các em sẽ rõ vì sao chúng sẽ tiến quân đánh ta vào đem mùng chín. Khi ấy ta sẽ phục binh ở đoạn sông Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn tiêu diệt quân Tiêm - Nguyễn.
            Nói xong Nguyễn Huệ cùng các tướng xuống thuyền đi thị sát trên sông Tiền Giang. Đến thuỷ trại đô đốc Lộc và Tuyết, Huệ bảo hai tướng rằng:
            - Bắt đầu từ ngày nay trở đi Tuyết và Lộc cứ làm như vậy... như vậy... Đêm mùng chín Chiêu Tăng và Phúc Ánh sẽ đem thuyền tiến đánh. Hai tướng vờ như bị đánh bất ngờ giả thua mà chạy, đến đoạn sông Xoài Mút thì quay lại cố sức mà đánh. Ta sẽ đích thân đem quân tiếp ứng.
            Đặng Văn Long hỏi:
            - Vậy đại sư huynh hãy lệnh cho chúng tôi chia quân mai phục sẵn. Ngộ nhỡ chúng tiến đánh ta sớm hơn ngày mùng chín thì sao?
            Huệ cười đáp:
            - Liên quân Tiêm - Nguyễn chỉ có thể tiến đánh ta vào đêm của ngày mùng chín. Không thể sớm hơn hoặc muộn hơn được. Việc quân cơ phải tuyệt đối bí mật. Ta cho quân mai phục trước, nếu lộ việc quân thì kế ta ắt hỏng. Khi ấy ba vạn quân ta muốn thăng năm vạn quân Tiêm - Nguyễn tất phải hao binh tổn tướng rất nhiều. Ta muốn đánh thế nào cho năm vạn binh giặc không đường chạy thoát, còn quân ta vẫn bình yên vô sự ấy mới là phương châm đánh giặc của ta. Các tướng hãy yên tâm, điều ta tính toán không thể nào sai được. Đợi đến rạng sáng ngày mùng chín ta đem quân mai phục, đêm của ngày mùng chín sẽ tiêu diệt giặc cũng chẳng muộn gì!
            Nguyễn Lữ thật thà hỏi:
            - Ngày xưa em và anh cũng học với thầy Trương Văn Hiến, chưa nghe nói thầy dạy cho anh thuật bói toán bao giờ. Anh dựa vào đâu và dám cả quyết giặc sẽ tiến đánh ta vào đêm mùng chín?
            Nguyễn Huệ cả cười bảo:
            - Ấy là ta tính toán việc quân cơ, chứ ta nào có bói toán bảo giờ! Thôi không hỏi nhiều lời nào, cả tướng cứ y lệnh của ta mà làm.
            Mỗi người đều thắc mắc nhưng chẳng dám hỏi. Nguyễn Huệ liền quay thuyền về đại bản doanh ở Trường Đồn.
            ***
            Nói về sứ Tiêm La là Chiêu Thuỷ Biện quay về gặp Chiêu Tăng thuật lại lời hẹn với Nguyễn Huệ rồi nói:
            - Khi nghe tôi hẹn ngày mười lăm rút binh Nguyễn Huệ rất mừng bày yến tiệc thết đãi. Xem ra Nguyễn Huệ đã tin lời thuận hoà của ta.
            Chiêu Tăng cả mừng nói:
            - Hay lắm! Hãy cho quân do thám xem quân Tây Sơn động tĩnh thế nào?
            Hôm sau quân do thám Tiêm La về báo với Chiêu Tăng:
            - Tiền thuỷ binh của Tây Sơn do đô đốc Tuyết và Lộc thống lĩnh suốt ngày bày rượu thịt ăn uống, rủ nhau đờn ca hát xướng không đề phòng gì cả.
            Chiêu Tăng cả mừng bảo quân:
            - Hay lắm! Mau cho mời chúa tôi Nguyễn Vương đến thương nghị.
            Chúa tôi Phúc Ánh đến. Chiêu Tăng phân ngôi chủ khách mới ngồi rồi nói:
            - Nguyễn Huệ đã tin lời hẹn ước rút binh của ta nên tiền thuỷ binh Tây Sơn mới lơ đễnh việc canh phòng. Nay ta xuất kỳ bất ý đem đại binh ngay mà tiến đánh ắt là phá được Nguyễn Huệ. Nếu để lâu ngày e lộ việc quân cơ.
            Nguyễn Phúc Ánh dè dặt nói:
            - Theo ta Nguyễn Huệ có gian kế gì chăng, chứ lẽ đâu hắn lại đi mắc lừa như vậy?
            Chiêu Tăng nóng nảy lớn tiếng:
            - Gian kế như của Đặng Văn Long bày quân hô vang Long Nhương tướng quân đến, khiến chúa sợ bóng sợ gió không dám tiến đánh Trà Tân để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa lui khỏi đón Trà Tân được an toàn. Lúc đồn Trà Tân đã bỏ trống chúa cũng không dám tiến binh sợ lầm kế thông thành của Nguyễn Huệ. Nếu chúa sợ hắn bày gian kế thì tôi rút binh về nước, tuỳ chúa muốn liệu thế nào thì liệu.
            Phúc Ánh sợ Chiêu Tăng rút binh về thật, bèn nói hoãn:
            - Xin tướng quân chớ vội giận. Ý ta muốn nó rằng ngày mai ta chưa thể tiến quân được thì nên tiếp tục cho quân do thám dò xem Nguyễn Huệ có gian kế gì chăng?
            Chiêu Tăng kiên nhẫn hỏi:
            - Vì sao ngày mai lại chưa thể tiến binh?
            Ánh ôn tồn giảng giải:
            - Nay là mùng bảy, đang là ngày đói con nước cứ thuỷ triều, nên mức nước sông không lên không xuống trong ba ngày là ngày mùng sáu, mùng bảy, mùng tám. Nếu ta xuất quân trong các ngày này thì không thể lợi dụng sức nước để tiến binh thần tốc được. Vì lẽ đó ta mới nói ngày mai chưa thể xuất quân được đó mà.
            Chiêu Tăng nghe Phúc Ánh nói hợp lý liền hỏi tiếp:
            - Vậy theo chúa ngày nào xuất quân được thuận lợi?
            Ánh đáp:
            - Chỉ cần ta hoãn lại một ngày, đến ngày mùng chín nước phát, thuỷ triều lên xuống rất mạnh ta sẽ tiến binh, Nguyễn Huệ bất ngờ ắt trở tay không kịp. Nếu ta tiến binh sớm hơn ngày mùng chín thì không lợi dụng được sức nước, muộn hơn ngày mùng chín thì e Nguyễn Huệ thấy nước chảy mạnh tất sẽ phòng bị.
            Chiêu Tăng vỗ tay khen:
            - Chúa thật liệu việc hơn người, sao lại còn e Nguyễn Huệ đến thế
            Nói rồi truyền cho các tướng chuẩn bị hai ngày nữa là ngày mùng chín sẽ xuất quân. Nguyễn Phúc Ánh về đến doanh trại hỏi các tướng nói:
            - Kế hoạch của ta thật là chu đào. Nhưng ta vẫn lấy làm lo lăm.
            Ngô Tùng Châu hỏi:
            - Xin hỏi chúa lo về việc gì?
            Ánh nói giọng ngờ vực:
            - Lần này sao Nguyễn Huệ lại dễ mắc lừa như thế?
            Ngô Tùng Châu đáp:
            - Lần này Nguyễn Huệ bị mắc lừa là vì hai lẽ: một là xưa nay Nguyễn Huệ ra trận chỉ có thắng chẳng có thua, nên ngờ rằng quân Tiêm La cũng sợ hắn mà chịu giảng hoà rút binh, hai là hắn thấy nay đang là ngày nước kém nên cho rằng ta chẳng thể tiến binh. Vì hai lẽ ấy nên Nguyễn Huệ mới không phòng bị.
            Phúc Ánh lại bảo:
            - Xưa nay Nguyễn Huệ dụng binh thần tốc lại rất là cẩn thận. Việc này dự tính của ta tuy rằng kỹ lưỡng nhưng ta vẫn lấy làm lo lắm.
            Lê Văn Quân bước ra thưa:
            - Năm xưa thần làm trấn thủ dinh Long Hồ, nên có biết ít nhiều địa thế vùng này. Nếu Nguyễn Huệ có gian kế thì chỉ có thể cho quân mai phục ở đoạn sông Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn mà thôi. Nay ta đã tính ngày mùng chín sẽ tiến quân thì ngày mai sai quân đến đấy do thám xem có quân Tây Sơn mai phục chăng. Nếu ngày mai mùng tám không có quân Tây Sơn mai phục ở cù lao Thới Sơn, ắt lần này Nguyễn Huệ phải lâm mưu, ngày mùng chín ta tiến binh trăm phần chắc thắng.
            Nguyễn Phúc Ánh khen phải liền cho quân do thám đi ngay.
            sáng sớm hôm sau mùng tám tháng chạp, Nguyễn Huệ đang ngủ trong trướng nghe phía ngoài lao xao tiếng người liền gọi quân hỏi:
            - Việc gì mà người kia ồn ào thế?
            Quân đáp:
            - Thưa Long Nhương, tiết chế Nguyễn Lữ và các tướng Đặng Văn Long, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Bùi Thị Xuân đều đến xin ra mắt.
            Huệ ngồi dậy bảo quân:
            - Mau mời em ta cùng các tướng vào đây!
            Các tướng vào đến, Huệ cười vui vẻ hỏi:
            - Các em vì nóng lòng phá giặc nên đến gặp ta chăng?
            Nguyễn Lữ nói lẫy:
            - Giờ này mà anh còn cười được sao? Hôm trước anh bảo rằng quân Tiêm - Nguyễn sẽ đánh ta vào đêm mùng chín, nay đã là mùng tám rồi sao không thấy anh bày binh bố trận nên chúng tôi rủ nhau để hỏi cho rõ.
            Huệ vẫn cười bảo:
            - Ấy là do các tướng nóng lòng quá mà thôi. Hôm trước ta có bảo là đêm mùng chín giặc sẽ tiến đánh ta, sáng mùng chín ta sẽ bày trận mai phục, nay mới là ngày mùng tám kia mà.
            Đặng Văn Long cẩn thận hỏi:
            - Sao đại sư huynh không cho chúng tôi đem quân mai phục trước một ngày nào có hại gì?
            Huệ lại cười đáp:
            - Ngày nay nếu ta cho quân mai phục, giặc sai người đến do thám thì sao. Nếu bắt quân do thám của giặc lại, Phúc Ánh không thấy quân trở về ắt không dám tiến binh. Còn nếu thả chúng quân cơ bại lộ Phúc Ánh lại dám tiến binh sao? Sáng nay các tướng đã đến đây hãy cùng ta uống rượu giết thời gian, sáng ngày mai sẽ bày binh giết giặc.
            Nói rồi Huệ sai quân đem rượu thịt, lên mặt thành cùng các tướng ăn uống không lo lắng gì cả.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #36
              Chương 33

              Trận Rạch Gầm, quân Tiêm La đại bại.
              Thành Vọng Các, Nguyễn Phúc Ánh lưu vong.


              Sáng sớm hôm sau, ngày mùng chín tháng chạp năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ hội các tướng nói:
              - Hôm này là ngày quân Tây Sơn ta giết giặc cứu dân. Các tướng hãy sẵn sàng nghe lệnh!
              Các tướng đồng thanh nói:
              - Chúng tôi xin chờ lệnh!
              Huệ truyền:
              - Cách thành Trường Đồn năm dặm có một cánh rừng dừa, đường đại lộ từ đồn Trà Tân đi đến Trường Đồn phải xuyên giữa cánh rừng dừa này. Vậy vờ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đem năm ngàn quân bộ đến rừng dừa mai phục. Quân Tiêm La kéo đến cứ để chúng đi qua, khi nào chúng thua trận chạy về thì Diệu, Xuân chặn đường về của chúng mà đánh.
              Trần Quang Diệu bước ra lãnh lệnh. Bùi Thị Xuân hỏi:
              - Thưa Long Nhương, trong đạo quân bộ này có Nguyễn Phúc Ánh hay chăng?
              Huệ cười đáp:
              - Hôm trước cô Xuân cuộc với ta nếu không khích được Phúc Ánh ra trận thì ta sai đâu phải tuân đó kia mà.
              Bùi Thị Xuân đành làm thinh cùng chồng là Trần Quang Diệu đi ngay.
              Nguyễn Huệ lại quay sang bảo Nguyễn Lữ:
              - Em hay lãnh ba ngàn quân ở lại giữ thành Trường Đồn. Đêm nay quân Tiêm La đến đánh em cứ ở trên thành sai quân bắn tên xuống đừng ra đánh làm chi, đợi ta phá tan thuỷ binh của giặc trên sông Tiền Giang, quân bộ của chúng sẽ vội vã rút chạy. Em hay mở cửa thành đuổi theo truy sát, đã có Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân chặn đường về của chúng. Binh ta hai mặt giáp công giết cho hết loài lang sói cho ta. Đêm nay ta đích thân thống lãnh thuỷ binh tiêu diệt giặc trên sông Tiền Giang.
              Phân công quân bộ xong Nguyễn Huệ lại truyền:
              - Ngô Văn Sở đem một ngàn quân và một trăm khẩu đại bác đến phục ở cù lao Thới Sơn. Phan Văn Lân đem một ngàn quân và một trăm khẩu đại bác đến phục ở bờ sông phía bên kia cù lao Thới Sơn tả ngạn sông Tiền Giang, khi nào nghe pháo lệnh của quân ta thì hai người từ hai phía bắn đại bác xuống huyền quân Tiêm - Nguyễn.
              Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân lãnh lệnh toan đi, Huệ gọi lại dặn:
              - Hai tướng bố trận xong bảo quân nghỉ ngơi cho khỏe, đến lúc trăng gần lặn khoảng nửa đêm đầu giờ Tý gọi quân dậy sẵn sàng diệt địch. Không việc gì phải nôn nóng làm chi. Ngô Văn Sở hỏi:
              - Thế ngộ nhỡ chúng đến trước nửa đêm trăng lặn thì sao?
              Huệ cười đáp:
              - Làm gì có việc đó! Mà nếu thật vậy thì ta không bắt tội hai tướng.
              Sở và Lần nghe vậy an lòng lãnh lệnh đi ngay. Phân công Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân điều động pháo binh xong, Nguyễn Huệ đứng dậy toan đi. Đặng Văn Long kéo áo Huệ hỏi:
              - Đại sư huynh đi đâu?
              Huệ nén cười đáp:
              - Ta phải đích thân đến tiền thuỷ binh của Lộc và Tuyết dặn dò hai tướng theo mưu hành động.
              Đặng Văn Long tức tối hỏi:
              - Nhị sư huynh Nguyễn Lữ và các tướng đều được phân công ra trận. Đặng Văn Long tôi đâu phải bất tài, sao đại sư huynh chê mà không dùng đến?
              Nguyễn Huệ ôn tồn bảo:
              - Ta đâu dám nói tứ sư đệ bất tài. Chẳng qua là còn một trọng trách lớn lao ngoài Văn Lộc ra không ai làm nổi.
              Long nói:
              - Tôi và Trương Văn Đa vì ít quân nên đành rút toàn quân về cố thủ Trường Đồn, chờ có đại sư huynh dẫn đại binh vào sống mái với giặc một phen. Đã có tới đây đại sư huynh còn đi gọi Nguyễn Văn Lộc làm gì?
              Huệ xua tay đáp:
              - Thắng giặc thì dễ, những tiêu diệt giặc mới là việc khó. Khi quân Tiêm - Nguyễn lọt vào trận mai phục của ta nhất định phải bại binh mà chạy. Ta sẽ đi gọi Văn Lộc đem thuỷ binh mai phục ở Rạch Gầm đợi khi giặc thua chạy thì đổ ra chặn đường về của chúng. Trận này phải bắt cho được thằng bán nước Nguyễn Phúc Ánh.
              Đặng Văn Long lại hỏi:
              - Việc như thế sao đại sư huynh không sai tôi mà lại đi gọi Nguyễn Văn Lộc?
              Huệ cười đáp:
              - Vì ngươi lãnh sứ mạng chặn đường về của giặc chỉ cần dùng sức chẳng phải dùng mưu. Năm xưa Nguyễn Văn Lộc theo Nguyễn Lữ vào đánh Gia Định lần thứ nhất, bị Đỗ Thành Nhân dùng kế điệu hổ ly sơn vây ấp Hoà Hưng. Nguyễn Văn Tuyết đã phá vây được mà Lộc vẫn không chịu rút quân, dũng mãnh chống trả giữa vòng vây giặc để Văn Tuyết quay là hợp sức thắng giặc. Nay giặc bị chặn đường về ắt cùng đường hung hãn. Trọng trách này nếu không ở Văn Lộc đảm đương thì con ai làm nổi.
              Đặng Văn Long tức tối nói lớn:
              - Cây kích của tôi đã từng chém đầu Tống Viết Nghĩa ở Phú Yên. Cửa Hàm Luông bắt sống một trong Gia Định Tam Hùng là Nguyễn Huỳnh Đức là không phải là dũng mãnh hay sao?
              Làm như không quan tâm, Huệ đáp:
              - Ở Phú Yên chém Tống Viết Nghĩa thì quân ta đang thắng thế. Cửa Hàm Luông bắt Nguyễn Huỳnh Đức là tứ sư đệ dùng mưu, chưa dũng mãnh bằng Nguyễn Văn Lộc giữa vòng vây của giặc.
              Đặng Văn Long càng tức tối nói to lên rằng:
              - Tôi xin biểu diễn một môn võ bí truyền để đại sư huynh xem thử Văn Long này có vũ dũng bằng Nguyễn Văn Lộc hay chăng?
              Nói rồi Đặng Văn Long nắm tay Nguyễn Huệ kéo ra ngoài doanh trại. Long gọi tên quân đến bảo:
              - Ta cho ngươi cầm côn mà đánh. Nếu đánh không hết sức lập tức chém đầu.
              Tên quân vâng lệnh cầm côn đánh Văn Long. Long chỉ dùng hai tay không mà đỡ chẳng hề đánh trả. Tiếng côn đập vào đôi tay của Văn Long chan chát. Đánh một hồi tên quân đổ mồ hôi hột, mệt thở chẳng ra hơi mà Văn Long vẫn điềm nhiên như không. Bá quan mục kích reo hò vỗ tay như sấm dậy.
              Nguyễn Huệ bảo Văn Long:
              - Thầy của ta là Trương Văn Hiến thì giỏi về nhu công. Ta có nghe dòng họ Đặng của Văn Long chân truyền về môn cương công, những lâu nay chưa được chứng kiến. Nay ta mượn việc đi gọi Nguyễn Văn Lộc để khích Văn Long trổ tài, chứ phải đâu ta không biết tài vũ dũng của tứ sư đệ. Nay được tận mắt thấy quả nhiên là tứ sư đệ có cánh tay như sắt vậy. (Từ ấy về sau quân thường gọi Long là: Thiết thu đại đô đốc Đặng Văn Long).
              Long hỏi Huệ:
              - Vậy cái vũ dũng của tôi đã cầm binh chặn đường về của liên quân Tiêm - Nguyễn được chưa?
              Nguyễn Huệ mừng rỡ nói:
              - Hay lắm! Phen này có bắt được Nguyễn Phúc Ánh chăng là ở trọng trách này đây. Ta cấp cho Văn Long một trăm đại thuyền và một vạn quân. Và Long đem binh thuyền đến phục ở nhánh sông Rạch Gầm. Khi thuỷ binh Tiêm - Nguyễn tiến quân hãy chờ cho chúng đi qua. Lúc chúng lọt vào trận mai phục Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc sẽ quay thuyền lại đánh, Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở sẽ bắn đại bác xuống chiến thuyền địch. Đợi đến lúc đó Văn Long đem binh thuyền từ nhánh sông Rạch Gầm đổ ra chặn đường lui của giặc trên sông Tiền Giang. Bấy giờ chúa tôi Phúc Ánh và quân Tiêm La như cá nằm trong nơm. Có bắt được cá chăng là do người cầm nơm vậy, Văn Long nên cố sức lập đại công.
              Đặng Văn Long lãnh lệnh đi ngay. Phân công đâu đó xong xuôi, Nguyễn Huệ lại xuống thuyền đến thuỷ trại của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc. Huệ bảo Tuyết và Lộc:
              - Hai tướng cứ giả vờ lơ đễnh việc canh phòng. Đêm nay cuối giờ Tuất đầu giờ Hợi (tức 21-22 giờ ), chúng sẽ đến đánh. Tuyết và Lộc giả thua vừa đánh vừa chạy nhử cho quân Tiêm - Nguyễn lọt vào trận mai phục dùng vào giữa giờ Tý. Khi ấy là trăng lặn nước triều sẽ lớn, quân ta phản công xong sẽ thuận nước tiến đánh Trà Tân. Hai tướng nên gắng sức, trận này ta có tiêu diệt được năm vạn quân Tiêm La chăng là nhờ công của hai tướng vậy!
              Dặn dò xong Nguyễn Huệ lại quay thuyền về đại bản doanh ở Trường Đồn.
              Lúc ấy trong doanh trại quân Tiêm - Nguyễn, quân do thám về báo cùng Phúc Ánh rằng:
              - Tâu Chúa thượng, chúng thần đi do thám ở Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn mãi đến đêm hôm qua là ngày mùng tám vẫn không thấy quân Tây Sơn mai phục, lại thấy ở thành Trường Đồn, Nguyễn Huệ cùng các tướng lên mặt thành bày yến tiệc không phòng bị gì cả.
              Phúc Ánh mừng rỡ reo lên với Chiêu Tăng:
              - Nguyễn Huệ quả nhiên trúng kế giương đông kích tây của ta. Xin tướng quan hạ lệnh xuất quân.
              Chiêu Tăng hạ lệnh:
              - Lục Côn, Sa Uyển đem hai vạn quân bộ theo tả ngạn sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn.
              Lục Côn và Sa Uyển cùng bước ra lãnh lệnh. Chiêu Tăng lại dặn:
              - Hai tướng đi đường bộ tất chậm hơn thuỷ quân vậy hãy lập tức xuất quân, chờ đến nửa đêm thuỷ binh ta theo nước triều tiến xuống đánh thuỷ trại của Nguyễn Huệ, hai người sẽ tấn công thành Trường Đồn, làm cho chúng thuỷ, bộ không thể cứu ứng lẫn nhau.
              Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho tướng của mình rằng:
              - Lê Văn Quân đem một ngàn quân đi tiên phong dẫn đường cho hai tướng Lục Côn và Sa Uyển tiến đánh Trường Đồn.
              Hai tướng Tiêm là Lục Côn, Sa Uyển và tướng Nguyễn là Lê Văn Quân lãnh lệnh đi ngay.
              Chiêu Tăng lại bảo:
              - Chiêu Thuỷ Biện và Thát Si Đa lãnh năm ngã quân ở lại giữ doanh trại, ta cũng Chiêu Sương sẽ dẫn đại thuỷ binh tiến đánh thuỷ trại của giặc Tây Sơn.
              Phúc Ánh hăng hái nói:
              - Ta còn trong tay vài mươi viên đại tướng và năm ngàn quân sĩ, xin làm tiên phong dẫn đường cho đại binh của tướng quân. Phen này nếu không bắt được Nguyễn Huệ, cũng phải đánh cho quân Tây Sơn không còn manh giáp.
              Đêm hôm ấy, trời vừa chạng vạng tối, trăng đứng giữa đỉnh đầu, nước thuỷ triều vừa rúng chảy, ba vạn thuỷ binh Tiêm - Nguyễn, trên ba trăm đại chiến thuyền xuất phát. Chiến thuyền thì tắt hết đèn đuốc, quân sĩ miệng ngậm tăm, âm thầm theo dòng nước chảy tiến đánh trại Tây Sơn.
              Tiền thuỷ binh Tây Sơn do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết và đô đốc Nguyễn Văn Lộc thống lĩnh cho quân thắp đèn đuốc sang cả mặt sông, lại đem nước lã đổ vào bình rượu ngồi uống cười nói huyên thuyền. Đến gần hết giờ Tuất, Nguyễn Văn Lộc hỏi Nguyễn Văn Tuyết:
              - Long Nhương dặn ta đêm nay cuối giờ Tuất đầu giờ Hợi quân Tiêm La sẽ tiến đánh. Vậy đã tới giờ sao không thấy chúng đến đánh?
              Lộc vừa dứt lời, Nguyễn Văn Tuyết chỉ tay về thượng nguồn sông Tiền Giang nói:
              - Long Nhương tướng quân thật là thánh nhân. Quả nhiên quân Tiêm La đến thật.
              Phía xa xa dưới ánh trăng mờ mờ thuyền Tiêm -Nguyễn ào ào tiến tới. Chờ quân địch đến gần tầm súng, Tuyết và Lộc lệnh quân bắn vài phát đại bác rồi rút chạy. Nguyễn Phúc Ánh trông thấy thế nói với các tướng:
              - Quân Tây Sơn quả nhiên không phòng bị. Mau đuổi theo.
              Quân Tây Sơn vừa đánh vừa chạy. Liên quan Tiêm - Nguyễn rầm rộ đuổi theo, không hay rằng đang đi vào chỗ chết.
              Lúc ấy Ngô Văn Sở phúc pháo binh ở cù lao Thới Sơn đợi đến nửa đêm nhủ thầm:
              - Long Nhương dặn ta đến nửa đêm trăng lặn quân Tiêm - Nguyễn sẽ lọt vào trận, sao đến bây giờ vẫn chưa thấy?
              Vừa nghĩ xong đã thấy tiền thuỷ binh Tây Sơn trá bại chạy về. Ngô Văn Sở buột miệng khen:
              - Long Nhương của ta thật là bậc thánh. Ba quân cứ án binh bất động, bao giờ có lệnh ta mới được nổ súng.
              Phan Văn Lân phục pháo binh trên tả ngạn sông Tiền Giang, thấy thuỷ binh Tiêm - Nguyễn bắt đầu lọt vào trận đúng giờ trang lên, Lân tấm tắc khen:
              - Long Nhương tướng quân liệu việc như thần. Ba quân chờ pháo lệnh mới được nổ súng.
              Đô đốc Tuyết và Lộc dẫn quân chạy đến sông Xoài Mút thì thấy Nguyễn Huệ đem đại binh đã đợi sẵn. Quân Tiêm - Nguyễn vô tình hăng hái đuổi theo. Bỗng nghe ba phát pháo lệnh nổ vang, chiến thuyền quân Tây Sơn nhả đạn về phía thuyền quân Tiêm -Nguyễn, pháo binh của Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở ở tả ngạn sông Tiền Giang và cù lao Thái Sơn bắn xuống. Quân Tiêm - Nguyễn đang thừa thắng đuổi theo bỗng nghe súng nổ ầm ầm như sấm sét, đạn lớn đạn nhờ đổ xuống như mưa thì tán đởm, kinh tâm, hồn phí phách lạc không biết đường nào mà chống đỡ. Nguyễn Phúc Ánh rụng rời tay chân than:
              - Thôi chết. Phen này lại thua mưu Nguyễn Huệ nữa rồi. Mau rút quân!
              Quân Tiêm - Nguyễn thua to, ba trăm đại chiến thuyền bị đại bác Tây Sơn bắn chìm gần hết, quân sĩ chết không biết bao nhiêu mà kể. Đại bác bắn xong Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công. Chiến thuyền Tây Sơn lúc bấy giờ mới ào ạt tiến lên truy sát. Quân Tiêm -Nguyễn là khóc vang trời, thây người trôi lềnh bềnh đầy sông, mau loang đó nước.
              Nguyễn Phúc Ánh và các tướng Tiêm La là Chiêu Tăng, Chiêu Sương vội vàng tháo chạy, ba vạn còn không đầy năm ngàn quân. Đến gần nhánh sông Rạch Gầm lại thấy chiến thuyền Tây Sơn giăng ngang sông chặn mất đường về. Trên soái thuyền Tây Sơn thấy cờ thêu năm chữ "Đô đốc Đặng Văn Long" bay phấp phới. Nguyễn Văn Thành than:
              - Đặng Văn Long là danh tướng của Tây Sơn. Năm trước chính nó đã bắt sống Huỳnh Đức ở cứ Hàm Luông, nay nó lại chặn mặt đường về của quân ta, phen này e khó thoát.
              Chiêu Tăng ôm Chiêu Sương ứa nước mắt nói:
              - Nguyễn Huệ thật là ghê gớm. Không ngờ anh em ta lại bỏ thây ở xứ người.
              Phúc Ánh nghiến răng bảo:
              - Ta phải liều chết mà đánh, mới tìm ra đường sống mà thôi.
              Nói rồi hô quân xông lên. Quân Tiêm - Nguyễn cùng đường chết hết lớp này tiến lên lớp khác. Văn Long nói lớn bảo bá quan:
              - Giặc Tiêm La tàn hại dân ta, nay cùng đường liều chết mà đánh. Vậy ta phải giết nó báo thù cho dân ta.
              Quân Tây Sơn hô vang:
              - Giết quân xâm lược báo thù cho dân ta!
              Đánh một hồi quân Tiêm - Nguyễn chết quá nửa. Chúa tôi Phúc Ánh và hai tướng Tiêm La sợ Đặng Văn Long trông thấy bèn vớt thây quân mình rồi cởi bỏ áo bào vua tướng, mặc áo quân sĩ vào toàn tìm đường chạy trốn, nhưng quân Tây Sơn vậy chặt quá không thể nào ra khỏi, phía sau lưng Nguyễn Huệ lại xua quân đánh tới. Quân Tây Sơn hô vang:
              - Lệnh Long Nhương tướng quân phải giết cho được Phúc Ánh.
              Phúc Ánh ngửa mặt than:
              - Phen này ắt phải chết. Trời cứu ta ở đảo Côn Lôn làm gì để giờ đây phải chết thêm mấy vạn sinh linh!
              Ánh vừa than dứt lời bỗng trời đổ mưa như trút. Trương Tấn Bửu nói:
              - Trời mưa to đèn đuốc đều tắt cả, trong đem tối địch, ta không phân biệt được. Quân Tây Sơn thuyền lớn ở sau, vậy ta nên dùng thuyền nhỏ men theo bờ cạn ra khỏi vòng vây.
              Phúc Ánh khen phải. Chúa tôi và hai tướng Tiêm La dầm mưa ngồi trên thuyền con men theo bờ cạn mà đi. Quân sĩ đi theo chỉ còn có vài mươi người thoát khỏi vòng vây quân Tây Sơn chạy về đồn Trà Tân. Nguyễn Phúc Ánh thoát rồi trời liền dứt mưa. Nguyễn Huệ ở phía trước, Đặng Văn Long ở phía sau hai đạo binh ập lại bắt hết quân Tiêm - Nguyễn. Kiểm điểm lại không thấy Phúc Ánh và các tướng Nguyễn đâu cả.
              Đặng Văn Long nói:
              - Chắc chúa tôi Phúc Ánh đều chết dưới dòng sông Tiền Giang cả rồi. Chứ vòng vây của ta con cá cũng không lọt lẽ nào Phúc Ánh lại chạy thoát được?
              Không đáp lời Đặng Văn Long, Nguyễn Huệ hạ lệnh:
              - Truyền quân thừa thắng tiến đánh Trà Tân truy kích Phúc Ánh!
              Nói về đạo binh bộ Tiêm - Nguyễn do hai tướng Tiêm La là Lục Côn, Sa Uyển thống lĩnh và tướng Nguyễn là Lê Văn Quân dẫn đường theo tả ngạn sông Tiền Giang tiến đánh Trường Đồn. Hai vạn bộ binh Tiêm - Nguyễn đánh thành Trường Đồn lúc trăng gần lặn. Ngó lên mặt thành thấy quân Tây Sơn cờ xí nghiêm trang, quân canh hàng chỉnh tề, Lê Văn Quân nghĩ thầm: Nguyễn Huệ bị mắc mưu sao quân trong Trường Đồn canh phòng cẩn mật thế?
              Vừa xong liền nghe Nguyễn Lữ trên mặt thành nói vọng xuống:
              - Quân Tiêm - Nguyễn kia, phen này chúng bay đã lầm kế mai phục của ta, nếu không xuống ngựa quy hàng chỉ có còn đường chết mà thôi.
              Nói rồi Nguyễn Lữ lệnh quân bắn tên đạn xuống như mưa. Lục Côn và Sa Uyển liền lui ra khỏi tầm tên, Sa Uyển nói:
              - Ta tạm đóng bình ngoài thành, chờ có thuỷ binh của đại tướng quân tiến đánh thuỷ trại của địch, bấy giờ ta sẽ tấn công thành Trường Đồn.
              Quân Tiêm - Nguyễn chưa kịp hạ trại bỗng nghe dưới sông Tiền Giang súng nổ rền trời, quân reo dậy đất, trống trận dập dồn, lửa cháy sáng cả một vùng. Lê Văn Quân thất kinh nói:
              - Thôi chết, thuỷ binh ta đã lọt váo trận mai phục của Nguyễn Huệ ở Rạch Gầm và cù lao Thới Sơn. Đêm trước ta đã cho quân do thám thấy quân Tây Sơn vẫn án binh bất động nên ta mới tiến quân. Sao Nguyễn Huệ lại biết được quân cơ của ta mà điều binh tài tình thế, Bô binh ta phải lập tức rút quân.
              Lê Văn Quân vừa dứt lời liền thấy quân Tây Sơn mở cổng thành xông ra, quân Tiêm - Nguyễn hoảng loạn rút chạy. Chạy về đến rừng dừa bỗng một phát pháo lệnh nổ vang, tên đạn quân Tây Sơn từ trong rừng dừa bắn ra như cát vãi, quân Tiêm - Nguyễn trúng tên chết không biết bao nhiêu mà kể. Lục Côn, Sa Uyển và Lê Văn Quân liều chết gạt tên mà chạy. Vợ chồng Trần Quang Diệu vung đại đao, Bùi Thị Xuân múa song kiếm xua quân xông ra đánh giết, sau lưng Nguyễn Lữ đuổi tràn tới, quân Tiêm - Nguyễn chết thây phơi như rạ, máu chảy thành khe. Các tướng Tiêm La là Lục Côn, Sa Uyển, tướng Nguyễn là Lê Văn Quân thoát được, quất ngựa chạy dài. Vợ chồng Xuân - Diệu đuổi theo truy sát. Trần Quang Diệu trương cung lắp tên bắn một phát nhằm chân con ngựa của Lục Côn. Lục Côn chạy không kịp bị Bùi Thị Xuân lướt đến chém một gươm đầu rơi xuống đất. Bỏ quân Tiêm - Nguyễn hai vạn còn lại mấy trăm quân theo chủ tướng chạy về đồn Trà Tân. Đến nơi, trái vừa hửng sáng bỗng thấy mấy tên quân đang cưỡi ngựa chạy như bay đến, Lê Văn Quân chặn lại hỏi:
              - Các ngươi là thuỷ binh ta bại trận chạy về, và chúa ta và hai tướng Tiêm La quốc ở nơi đâu?
              Mấy tên quân dừng ngựa, một tên nói lớn rằng:
              - Ta là Thượng vương Phúc Ánh và các tướng chạy về đây, Văn Quân không nhận ra sao?
              Lê Văn Quân và Sa Uyển thất kinh xuống ngựa quỳ lạy tả tơi:
              - Bởi Chúa thượng và các tướng thay y phục quân sĩ, trên mặt lại đầy bụi đất nên chúng thần không nhận ra. Xin Chúa thượng và đại tướng quân tha tội.
              Chiêu Tăng hổ thẹn nói:
              - Ta lầm mưu Nguyễn Huệ, ba vạn thuỷ binh đã chết hết cả. Bọn ta may nhờ trời đổ mưa bên thay y phục quân sĩ, trát bùn lên mặt mới hòng chạy thoát về đây. Còn bộ binh hai tướng thế nào?
              Sa Uyển cúi gằm mặt đáp:
              - Hai vạn bộ binh ta bị quân Tây Sơn mai phục đánh chết hết cả. Lục Côn bị con nữ tặc Tây Sơn chém chết, tôi và Lê Văn Quân may thoát được về đây ra mắt đại tướng quân.
              Nguyễn Phúc Ánh hỏi Lê Văn Quân:
              - Con nữ tặc đó có phải là Bùi Thị Xuân chăng?
              Lê Văn Quân đáp:
              - Ấy chính là Bùi Thị Xuân!
              Nguyễn Phúc Ánh liền nói với Chiêu Tăng:
              - Thưa đại tướng quân, chúng ta hay mau mà đem mấy trăm quân trong đồn Trà Tân theo đường bộ bỏ chạy về Tiêm quốc. Nếu chậm trễ quân Tây Sơn theo hai đường thuỷ bộ đuổi đến thì nguy.
              Chiêu Tăng vội vã dân tàn quân và chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh lập tức lên đường, đêm ngày không dám nghỉ, theo đường bộ chạy sang nước Chân Lạp rồi tìm đường về Tiêm Quốc.
              Thế là chỉ trong một đem, Nguyễn Huệ thống lĩnh hai vạn binh Tây Sơn đánh một trận tiêu diệt hết năm vạn quân Tiêm La hùm cọp, đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.
              Các đạo quân Tây Sơn đều toàn thắng, thu binh về thành Trường Đồn. Nguyễn Huệ bảo các tướng:
              - Trước khi xuất quân vào Nam, ta đã hứa với hoàng huynh rằng sẽ thắng giặc rút binh về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ. Nay ta đã quét sạch giặc Tiêm La ra ngoài bờ cõi, chỉ còn nửa tháng nữa là đến tết Ất Tỵ, ta phải kịp rút binh về Quy Nhơn. Vậy ta để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa ở lại trấn thủ đất Gia Định. Văn Long nên dò xem Nguyễn Phúc Ánh trốn tránh nơi nào, kịp bắt giết đi để tiệt trừ hậu hoạ.
              Đặng Văn Long hỏi:
              - Thưa Long Nhương, chẳng phải là Nguyễn Phúc Ánh đã chết trong đám loạn quân làm mồi cho cá dưới sông Tiền Giang rồi sao?
              Nguyễn Huệ đăm chiêu đáp:
              - Đất Gia Định chỉ có hai mùa mưa và nâng. Từ tháng chín đến tháng hai là sáu tháng nắng không một giọt mưa. Nay trong đêm mùng chín tháng chạp lúc ta sắp bắt được chúa tôi Phúc Ánh trời bỗng đổ mưa như trút. Ta e rằng Phúc Ánh thừa cơ hội ấy trốn đi, nếu đúng như thế là cả ba lần trời đều làm mưa bão mà cứu Phúc Ánh cả. Thật ta vẫn lấy làm lo lắm!
              Đặng Văn Long nói:
              - Xin đại sư huynh yên tâm, tôi nguyện hết sức truy tìm tông tích của Phúc Ánh.
              Bỗng Nguyễn Lữ bước ra hỏi:
              - Long Nhương thật liệu việc như thần, lúc xuất bình đi đã định được ngày về. Nhưng trong trận Rạch Gầm vừa rồi sao Long Nhương biết được rằng lúc trăng lặn trong đêm mùng chín giặc sẽ tiến đánh ta?
              Huệ đáp:
              - Lúc xuất quân ở đất Quy Nhơn ta đã biết được rằng sẽ tiêu diệt giặc trong đêm mùng chín tháng chạp nên mới hẹn với hoàng huynh sẽ về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ, chứ đâu phải kéo quân vào đất Gia Định này mới biết rằng giặc sẽ tiến đánh ta vào đêm mùng chín.
              Các tướng đồng thanh hỏi:
              - Dựa vào đâu mà Long Nhương biết trước để ngày giờ diệt giặc. Xin tướng quân phân giải?
              Huệ đáp:
              - Ba lần trước đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, ta đã cho người vẽ bản đồ đất Gia Định đề phòng khi dùng tới. Đến khi nghe đô uý Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo rằng: Đặng Văn Long và Trương Văn Đa rút quân các trấn về chặn giặc ở Trường Đồn, ta đã nghĩ đến việc mai phục diệt giặc quân bộ thì phục ở Rừng Dừa, thuỷ binh thì phục ở cù lao Thới Sơn và Rạch Gầm trên sông Tiền Giang. Nhưng để giặc lọt vào trận mai phục, ta phải giả vờ sợ giặc, xin giảng hoà với quân Tiêm La. Chiêu Tăng và Phúc Ánh ngờ rằng ta tin quân Tiêm La sẽ rút quân về Tiêm quốc mà không phòng bị nên bất ngờ tiến đánh ta. Ta tương kế tựu kế phục binh đánh một trận, quả nhiên chỉ trong một đêm mà tiêu diệt cả năm vạn binh thuỷ, bộ của liên quân Tiêm - Nguyễn.
              Nguyễn Lữ nôn nóng hỏi:
              - Nhưng em muốn hỏi anh rằng, vì cớ gì lại đoán trước được giặc sẽ tiến đánh ta vào đêm mùng chín tháng chạp.
              Huệ cả cười hỏi lại:
              - Chậm rãi rồi anh sẽ giải thích. Khi ta sai sứ giảng hoà với Chiêu Tăng lá ngày mùng mấy?
              Nguyễn Lư đáp:
              - Ấy là ngày mùng bốn tháng chạp.
              Bấy giờ Nguyễn Huệ liền treo tờ lịch lên vách rồi chỉ tay vào tờ lịch, Huệ nói:
              - Đây là lịch của các ngày thuỷ triều trong tháng. Các tướng hãy nhìn cho rõ.
              Mọi người đều nhìn vào tờ lịch viết rằng:
              Tháng 2 và tháng 8 các ngày thuỷ triều là 3, 17, 29
              Tháng 3 và tháng 9 các ngày thuỷ triều là 13, 27
              Tháng 4 và tháng 10 các ngày thuỷ triều là 11, 25
              Tháng 5 và tháng 11 các ngày thuỷ triều là 9, 23
              Tháng 6 và tháng chạp các ngày thuỷ triều là 7, 21
              Tháng 7 và tháng giêng các ngày thuỷ triều là 5, 19
              Chờ các tướng xem tờ lịch thuỷ triều xong, Nguyễn Lữ hỏi:
              - Đây là tờ lịch thuỷ triều mà năm trước đốt thuyền Chu Văn Tiếp ở Thất Kỳ Giang, Long Nhương huynh đã đem ra để luận giờ đổi gió. Còn hôm na anh luận thế nào mà biết được ngày giờ giặc sẽ tiến đánh ta để phục binh diệt giặc?
              Nguyễn Huệ cười rồi chậm rãi nói:
              - Ngày thuỷ triều là ngày chuyển giao giữa hai con nước. Vào những ngày này nước thuỷ triều không lên không xuống nên việc lợi dùng sức nước để bất ngờ tiến binh cho nhanh không được thuận lợi. Ta đem quân đánh Trường Đồn nhằm ngày mùng một từ là thượng tuần tháng chạp, ắt thuỷ triều là ngày mùng bảy. Mùng bốn ta sai sứ giảng hoà với Chiêu Tăng, chúng liền cho quân do thám thấy ta chểnh mảng việc canh phòng mới lập mưu bất ngờ tiến đánh. Nhưng ngày mùng sáu và mùng tám là hai ngày cạn thuỷ triều, nước lên xuống rất kém không lợi cho việc thuỷ binh của chúng tiến đánh bất ngờ. Đến ngày mùng chín nước sẽ bỗng nhiên phát lên rất lớn, ắt đến đêm sẽ chảy rất mạnh. Giặc sợ để lâu e lộ việc quân cơ tất phải tiến đánh ta vào đêm mùng chín. Các tướng đã rõ vì sao ta biết được ngày giờ để phục binh tiêu diệt giặc hay chưa?
              Các tướng đồng thanh thưa
              - Long Nhương thật là bậc thánh, dẫu Tôn Ngô sống lại cũng chẳng bị kịp. Chúng tôi xin đập đầu bái phục!
              Đặng Văn Long hỏi:
              - Long Nhương liệu việc như thần thì lo gì không trừ được Phúc Ánh.
              Nguyễn Huệ nói:
              - Đánh thắng giặc là việc của ta. Nhưng giết được Phúc Ánh là mệnh của trời, ta không lường trước được.
              Nói rồi Nguyễn Huệ để Đặng Văn Long và Trương Văn Đa trấn thủ đất Gia Định, rồi rút đại binh về Quy Nhơn. Vua Thái Đức sai mở tiệc khao quân nhằm vào tết năm Ất Tỵ.
              ***
              Nhắc lại chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh theo Chiêu Tăng và Chiêu Sương chạy sang Vọng Các là kinh đô của Tiêm quốc. Chiêu Tăng và Phúc Ánh quỳ tạ tội, vua Tiêm than:
              - Nếu biết quân Tây Sơn hùng mạnh thế thì ta đâu vì ham lợi nhỏ mà khiến cho hơn bốn vạn quân của ta phải bỏ thây ở xứ người.
              Phúc Ánh cố nói:
              - Xin Tiêm Vương chớ lo buồn. Quân ta bại trận là do Chiêu tướng quân thả quân cướp bóc của dân khiến lòng người oán hận. Ta phục binh thì lộ, giặc phục binh thì không người nào tố giặc. Vì lẽ ấy nên ta mới bị Nguyễn Huệ mai phục đánh thua. Nay xin Bệ hạ ban hành quân lệnh nghiêm minh, cho quân sang đánh báo thù ắt là phải thắng!
              Tiêm Vương nói:
              - Được! Ta sẽ cấp binh lương cho Chiêu Tăng và Chiêu Sương sang nước An Nam lần nữa đánh Tây Sơn báo thù cho quân ta. Ý hai tướng thế nào?
              Chiêu Tăng lưỡng lự rồi thưa:
              - Bệ hạ đã xuống lệnh, hạ thần xin tuân mệnh.
              Tiêm vương truyền bãi triều. Lúc ra về Chiêu Sương tìm đến nhà Chiêu Tăng hỏi:
              - Tướng quân một lần nữa đem binh đưa Nguyễn vương về nước, liệu có thắng được quân Tây Sơn chăng?
              Chiêu Tăng đáp:
              - Quân Tây Sơn hùng mạnh, Nguyễn Huệ lại rất giỏi dụng binh. Nay họ vừa thắng trận khí thế đang hăng, quân ta vừa mới bại, nhuệ khí giảm sút, cái lẽ được thua là rõ, sao người còn phải hỏi.
              Chiêu Sương ngạc nhiên hỏi:
              - Vậy tại sao giữa triều, tướng quân lại tuân lệnh Bệ hạ đem quân sang đất An Nam lần nữa?
              Chiêu Tăng thở dài nói:
              - Ta thân làm đại tướng đem quân sang đánh đất người, bị lầm kế Nguyễn Huệ thua binh, quân nay vẫn còn lại mấy trăm người băng rừng chạy về nước. Giữa triều nếu chối từ thượng lệnh, e vua bắt tội thua binh chém tướng thì biết liệu làm sao? Bởi vậy nên ta mới tạm thời tuân lệnh vừa rồi sau sẽ tìm kế khuyên vua bãi binh. Nếu cãi lời vua không ra trận cũng chết, mà mang quân sang đánh với Nguyễn Huệ thì cũng chết mà thôi. Ta thật chưa biết phải tính sao cho thoát nạn này.
              Chiêu Sương nói:
              - Tôi có một kế khiến vua ta phải ra lệnh bãi binh mà không bắt tội tướng quân được.
              Chiêu Tăng liền hỏi:
              - Kế thế nào ngươi hãy mau nói xem. Nếu ta thoát khỏi nạn này thì ngươi là an nhân của ta vậy.
              Chiêu Sương hiến kế:
              - Tướng quân hãy vờ như hăng hái, lệnh cho quân các doanh trại chuẩn bị quân trang để chờ ngày kéo quân sang nước An Nam đánh báo thù. Quân sĩ của ta ắt sẽ như vậy... như vậy... Nhà vua hay được tin đó nhất định sẽ bại binh.
              Chiêu Tăng mừng khấp khởi khen:
              - Ấy thật là diệu kế.
              Nói rồi liền theo kế thi hành. Đêm hôm ấy, Tiêm vương cũng Nguyễn vương đang đàm đạo, bỗng quân vào báo:
              - Tâu Bệ hạ không hiểu vì cớ gì mà nghe quân cả trại nhốn nháo, than khóc om sòm. Xin tâu cùng Bệ hạ được rõ.
              Tiêm vương và Nguyễn Phúc Ánh ngạc nhiên thân hành ra các doanh trại xem xét. Đến nơi nghe quân khóc lóc than thở với nhau:
              - Quân Tây Sơn rất là hùng mạnh, chỉ trong một đếm đánh năm vạn quân, ta còn lại mấy trăm người mang đầy thương tích lủi thủi chạy về nước. Nay vua sai Chiêu đại tướng quân đem bọn ta sang An Nam đánh báo thù. Bọn ta xa vợ xa còn đi viễn chinh phen này chỉ có chết mà thôi.
              Tiêm vương nghe thấy những lời ấy bèn quay về ngự điện nói với Nguyễn vương:
              - Quả nhân những muốn cất quân sang đánh Tây Sơn báo thù thua trận ở Rạch Gầm và đưa Nguyễn vương về nước, không ngờ lòng quân khiếp sợ như thế thì còn đánh được ai. Thôi thì quả nhân xin cấp đất cho tướng sĩ Nguyễn vương nương náu chờ có cơ hội rồi sẽ liệu sau.
              Nguyễn Vương buồn bã nói:
              - Cám ơn lòng tốt của Bệ hạ. Phúc Ánh tôi cùng đành phải thế chứ chẳng biết làm sao hơn.
              Nói rồi chúa tôi Nguyễn vương theo người hướng đạo ra trú ngụ ở đất phía Tây thành Vọng Các. Nguyễn vương nói cùng các tướng:
              - Sau trận Rạch Gầm người Tiêm La sơ giặc Tây Sơn như cọp, không mong gì nhờ vả họ được nữa. Và ta nên mời Bá Đa Lộc đến bàn việc cầu viện người Pháp Lang Sa đem quân sang giúp mới mong khôi phục cơ đồ.
              Nói rồi sai người đi mời Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc đến, Nguyễn vương nói:
              - Vua Tiêm La từ khi thua trận, sợ Nguyễn Huệ không dám hưng binh giúp cho ta. Vậy xin Giám mục hãy đem con ta là Thế tử Cảnh sang nước ngài là tin cầu vua ngài đem quân sang giúp. Sau khi đuổi được giặc Tây Sơn lấy lại nước, vua nước ngài muốn gì Ánh này cũng xin vâng.
              Bá Đa Lộc bảo:
              - Vậy xin chúa hãy làm tờ cam kết có điều khoản rõ ràng, để về sau cứ theo tờ cam kết ấy mà thi hành.
              Nguyễn vương bằng lòng cùng Bá Đa Lộc làm tờ cam kết gồm các điều khoản sau:
              Nước Pháp Lang Sa đồng ý giúp Nguyễn Vương:
              - Năm mươi chiếc tàu đồng, trên tàu trang bị đã đủ súng đại bác.
              - Hai trăm khẩu súng đại bác trang bị cho quân bộ.
              - Hai ngàn binh lính và vũ khí cá nhân để hướng dẫn sử dụng số tàu đồng và đại bác nói trên.
              - Lương thực đủ để quân dùng trong 6 tháng.
              Đổi lại Nguyễn vương bằng lòng giao cho nước Pháp Lang Sa:
              - Trọn quyền sử dụng cửa Đà Nẵng, phố Hội An và đảo Côn Lôn.
              - Để người Pháp Lang Sa được độc quyền sang buôn bán và truyền đạo trên lãnh thổ nước Nam.
              Tờ cam kết viết xong, Bá Đa Lộc liền từ tạ Nguyễn vương đem Thế tử Cảnh lên đường về nước. Chúa tôi Nguyễn vương ở lại nước Tiêm La cày cấy nuôi nhau, chờ ngày Bá Đa Lộc đem binh thuyền đến giúp!
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #37
                Phần III - Chương 34

                LẬT ĐỔ HỌ TRỊNH.
                Nguyễn Huệ nhắc kế Nguyễn Hữu Chỉnh.
                Triệu Bình Tiệp xem tướng Phạm Ngô Cầu.


                Nhắc lại tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ đem hai vạn binh vào đánh quân Tiêm La do Nguyễn vương Phúc Ánh cầu viện. Quân Tiêm La năm vạn còn lại mấy trăm người trốn về nước, từ ấy không dám dòm ngó nước Nam nữa. Đuổi quân Tiêm La xong, Nguyễn Huệ đem đại binh về Quy Nhơn phục mệnh vua Thái Đức. Vua sai mở tiệc khao quân. Trước các tướng, vua Thái Đức nói:
                - Nguyễn Huệ lúc xuất chinh có hẹn trước với ta sẽ về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ. Nay ta mở tiệc khao quân nhằm vào tết năm Ất Tỵ, lời Nguyễn Huệ thật quả không sai. Vậy em muốn ta ban thưởng vật gì ta cũng chiều theo ý em.
                Nguyễn Huệ quỳ tâu rằng:
                - Em không muốn ban thưởng vật gì cả, chỉ có một điều thỉnh cầu, xin Hoàng huynh thuận cho.
                Vua Thái Đức bảo:
                - Điều gì em cứ nói.
                Huệ thưa:
                - Lần trước vào Nam đánh Phúc Ánh em có bắt được tướng của Phúc Ánh là Nguyễn Huỳnh Đức đem về đây xin Hoàng huynh giam vào thiên lao cho cơ hội dụ hàng. Nay Nguyễn Phúc Ánh chưa biết sống chết hay phiêu dạt nơi đâu, ấy chính là cơ hội dụ hàng Nguyễn Huỳnh Đức. Nếu Huỳnh Đức chịu quy thuận, ấy là hồng phúc của nước nhà và Hoàng huynh lại được thêm một viên tướng giỏi. Xin Hoàng huynh cho em vào thiên lao dụ hàng Huỳnh Đức. Vua bảo:
                - Việc này nào có khó gì, lát nữa tiệc tàn em cứ đi dụ hàng Huỳnh Đưa. Ta biết ý em dụ hàng Huỳnh Đức là để thu phục lòng dân đất Gia Định, chứ Huỳnh Đức lại sánh bằng Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo, Vũ Văn Nhậm của ta sao?
                Vua Thái Đức vừa dứt lời bỗng một người bước ra nói lớn:
                - Bệ hạ khinh thân là nữ nhi thường tình hay sao mà không kể đến?
                Vua vỗ trán cả cười nói:
                - Bởi tướng giỏi của ta đông quá, nên ta sơ xuất mà quên mất nữ kiệt Bùi Thị Xuân, ba lần đuổi Nguyễn Phúc Ánh chạy vắt giò lên cổ, xạ tiễn trọng thương Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, mới đây là chém tướng Tiêm La là Lục Côn rơi đầu, thì sao ta là dám bảo cô Xuân là nhi nữ thường tình.
                Nói rồi vua cũng nâng chén uống mừng đại thắng Tiêm La và vui tết năm Ất Tỵ.
                Tiệc tan ai về nhà nấy, Nguyễn Huệ tìm đến thiên lao gặp Nguyễn Huỳnh Đức, Huệ hỏi Đức:
                - Đã hơn năm nay tướng quân còn sống ở tại thiên lão là do Huệ tôi hết lòng xin Hoàng huynh đừng giết kẻ anh hùng. Việc ấy Huỳnh Đức có biết chăng?
                Đức ngồi trong ngục bình thản đáp:
                - Việc này tôi có biết.
                Nguyễn Huệ lại hỏi:
                - Nguyễn Vương Phúc Ánh bán nước cầu vinh, viện quân Tiêm La về hại dân lành Huỳnh Đức có biết chăng?
                Đức đáp:
                - Chúa ta viện quân về đánh giặc Tây Sơn lấy là nước là điều đúng. Tàn hại dân lành là tội của quân Tiêm La, sao đổ tội cho Chúa ta được.
                Nghe Đức gọi Tây Sơn là giặc, Nguyễn Huệ vẫn điềm nhiên hỏi:
                - Ta vừa đem quân vào đất Gia Định đánh một trận tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La, quét sạch ngoại xâm ra ngoài bờ cõi. Nguyễn vương Phúc Ánh chưa biết sống chết thế nào, tướng quân đành đem tấm thân hữu dụng mà tìm cái chết hay sao.
                Đức cười đáp:
                - Nếu Nguyễn vương không còn, Đức này nguyện sẽ chết theo. Nếu Nguyễn vương còn sống mà vua Thái Đức không bằng Tào Tháo đã thả Quan Vân Trường ngày xưa, thì Đức này đành cam tâm chỉ chết chứ nhất định không hàng.
                Nghe Nguyễn Huỳnh Đức nói xong Nguyễn Huệ bảo:
                - Tướng quân lại không bằng một câu nói của Mạnh Tử gần ngàn năm trước vậy.
                Nói rồi Nguyễn Huệ quay gót về dinh. Huệ đi rồi Nguyễn Huỳnh Đức nói thầm rằng: Mạnh Tử có nói câu: "Dân vì quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" ý Nguyễn Huệ bảo ta là ngu trung vậy!
                Trên đường về nhà Nguyễn Huệ gặp quân ngự sử Nguyễn Thung. Nguyễn Thung hỏi:
                - Tướng quân đem binh vào Nam đánh một trận đuổi giặc Tiêm La ra ngoài bờ cõi, uy danh lừng lẫy thì nên vui mới phải, cớ gì nét mặt lại dàu dàu như thế?
                Huệ lắc đầu đáp:
                - Năm trước ta bắt được tướng tài của Nguyễn Phúc Ánh tên Nguyễn Huỳnh Đức. Ta thương tài mến nghĩa không nỡ giết, đã mấy phen dụ hàng mà Đức không quy thuận nên đâm ra buồn bực trong lòng. Nguyễn Thung nói:
                - Tôi xin vì tướng quân vào thiên lao khuyên Huỳnh Đức quy hàng.
                Đoạn Nguyễn Thung đến gặp Huỳnh Đức nói:
                - Tôi là thuyết khách của Long Nhương tướng quân.
                Đức cười đáp:
                - Đến cái chết ta còn không sợ, thì điều gì có thể lay chuyển được ta.
                Nguyễn Thung cũng vô cùng rằng:
                - Không sợ chết chưa hắn đã là người quân tử.
                Nguyễn Huỳnh Đức nghiêm mặt hỏi:
                - Vậy thế nào mới là người quân tử?
                Thung ung dung đáp:
                - Khi thất thủ ở Hạ Bị, Quan Văn Trường lúc ấy nếu chọn cái chết, thì làm gì tiếng để đến ngàn thu thì làm gì có việc phò nhị tẩu, qua ngũ quan trảm lục tướng, về sau lại trấn thủ đất Kinh châu uy danh lừng lẫy. Vì nghĩ đến tấm thân hữu dụng của mình, sau phò Chúa nên Quan Văn Trường mới giao ước ba điều tạm hàng Tào Mạnh Đức. Nay Nguyễn vương chưa biết sống chết, hoặc lưu lạc nơi nào, nếu tướng quân chọn cái chết ngộ nhỡ Nguyễn vương con sống, hưng binh khôi phục cơ đồ thì ắt là thiếu đi một tướng tài phò tá, ấy là tướng quân trung nhưng là trung chưa trọn vẹn vậy. Tình thế của tướng quân bây giờ thì chẳng khác gì Quan Văn Trường ngày xưa. Sao tướng quân không noi theo gương ấy, đến lúc nghe Chúa còn sống thì đi hay ở là tuỳ ý của tướng quân, ấy chẳng phải là kẻ thức thời biết tiến thoái để giữ lại tấm thân hữu dụng ư? Long Nhương tướng quân là người bách chiến bách thắng, tính khí lại ngang trời dọc đất, thế mà lại không giết tướng quân, rõ là vì thiên hạ thương tiếc anh hùng. Nếu tướng quân là hàng chim chuột thì Long Nhương tướng quân đâu phải nhọc lòng sai tôi đến đây!
                Nghe Nguyễn Thung nói xong Huỳnh Đức hỏi:
                - Tôi bằng lòng hàng Tây Sơn. Nhưng khi nghe Nguyễn vương con sống tôi nhất quyết theo Chúa cũ. Vậy Nguyễn Huệ có bằng lòng chăng?
                Thung cười đáp:
                - Lúc quân Tây Sơn ta mới khởi binh chỉ lấy được đất Quy Nhơn, Quảng Ngãi, binh lực con non yếu. Ngoài thì địch Hoàng Ngũ Phục ở Quảng Nam, trong thì cự Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Trong lúc lưỡng đầu thọ địch thế mà Long Nhương tướng quân còn dám tha mạng quan tham tán quân cơ đa mưu túc trí của chúa Nguyễn là Tĩnh Diệp hầu Nguyễn Đăng Trường, huống hồ gì ngày nay Long Nhương lại không giữ lời hứa mà thả tướng quân sao?
                Huỳnh Đức nói:
                - Nếu thế phiền ông về thưa cùng Long Nhương tướng quân tôi thuận ý xin hàng.
                Nguyễn Thung quay về nói với Nguyễn Huệ rằng:
                - Nguyễn Huỳnh Đức giao ước một điều nếu tướng quân bắng lòng Đức sẽ quy hàng.
                Huệ hỏi:
                - Đức giao ước điều gì?
                Thung đáp:
                - Huỳnh Đức thuận ý quy hàng, nhưng khi nào biết Nguyễn vương ở đâu sẽ bỏ Tây Sơn ta đi theo Chúa.
                Huệ cười bảo:
                - Việc này nào có khó gì. Phiền quan Ngự sử vời Huỳnh Đức đến đây.
                Nguyễn Thung đưa Đức đến. Đức vòng tay thi lễ nói:
                - Đức tôi giao ước Long Nhương tướng quân có bằng lòng chăng?
                Huệ đáp:
                - Ta bằng lòng nên mới vời Huỳnh Đức đến đây.
                Đức nói:
                - Vậy khi nào biết Chúa ở đâu, tôi quyết lòng theo Chúa. Lúc ấy xin tướng quân chớ khá quên lời.
                Huệ cười bảo:
                - Một lời đã nói, bốn ngựa khó theo. Huỳnh Đức muốn làm Quan Văn Trường đời nay, ta lại không bằng Tào Mạnh Đức ngày xưa sao?
                Nói xong truyền quân bày yến tiệc thết đại huynh Đức. Từ ấy Nguyễn Huệ giữ Huỳnh Đức ở luôn trong quân.
                ***
                Nhắc lại tướng Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh năm ấy vì loạn kiêu binh đứa Trịnh Khải lên ngôi Chúa, Chỉnh sợ luỵ đến thân, bỏ đất Nghệ An theo về Quy Nhơn nương nhờ vua Thái Đức.
                Ngày ấy Hữu Chỉnh tâu vua Thái Đức rằng:
                - Ngày nay Bệ hạ diệt xong nhà Nguyễn làm cho một cõi Đàng Trong uy danh lừng lẫy. Nhưng đất đai họ Nguyễn gồm cả đất Thuận Hoá, nay đất ấy đã bị họ Trịnh lấy mặt, Bệ hạ hãy đem quân lấy lại đất này, dùng sông Linh Giang làm ranh giới như ngày xưa hai nhà Trịnh - Nguyễn đã làm, thì Bệ hạ ở Đàng Trong như ngồi trên bàn thạch mà hưởng lộc vậy.
                Vua Thái Đức xua tay nói:
                - Vì thương lê dân lâm cảnh đói nghèo nên ta khởi binh ở đất Tây Sơn cứu trăm họ thoát chốn lầm than. Nay thiên hạ đại thái bình muôn dân đã no ấm, họ Trịnh lấy đèo Hải Vân làm ranh giới không xâm phạm chủ quyền của ta, việc gì ta phải dấy động can qua, làm khổ cho sinh linh thật lòng ta không nỡ!
                Nguyễn Hữu Chỉnh lại tâu:
                - Nay đất Thuận Hoá do Phạm Ngô Cầu trấn thủ. Ngô Cầu là người tham lam tàn bạo vơ vét của cải dân lành, nếu Bệ hạ đem quân Bắc tiến ắt trăm họ một lòng hưởng ứng thì chỉ một hồi trống là lấy xong đất Thuận Hoá mà thôi. Ấy là không phải Bệ hạ dấy động can qua làm khổ bá tánh mà là đem nhân nghĩa để cứu dân đó.
                Vua Thái Đức gạt đi bảo:
                - Đèo Hải Vân hiểm trở lại do quân Trịnh chiếm đóng, Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá còn những hai vạn binh tinh nhuệ thì tài gì một hồi trống có thể đuổi được họ đi. Vả lại dân ở Thuận Hoá khổ sở thế nào ta chỉ nghe người nơi mà thôi, nếu động binh, cứu dân nghèo đâu chưa thấy chỉ thấy quân ta lại thêm hao binh tổn tướng một lần nữa. Quân của ta lúc dấy binh đến nay chinh chiến triền miên, lòng người đều mong cảnh thái bình. Nay đã thái bình lại còn gây chinh chiến làm chi. Ý ta đã quyết ngươi chớ nhiều lời.
                Nói xong vua đuổi Nguyễn Hữu Chỉnh ra ngoài. Về nhà Chỉnh nói với thủ hạ là Nguyễn Viết Tuyển rằng:
                - Ta những muốn mượn tay Tây Sơn đem quân đánh Trịnh đẹp yên xứ Bắc, rồi sẽ mượn cớ phò Lê xin anh em Nhạc - Huệ cho ta ở lại vỗ yên Bắc Hà. Khi ấy ta sẽ chiêu binh mãi mã thì làm Chúa Đàng Ngoài không phải là ta hỏi còn ai vào đây nữa? Ngặt nỗi vua Thái Đức chí nhỏ tài sơ đã mấy phen khẩn cầu mà không dám động binh. Ngươi có kế gì cho họ xuất quân chăng?
                Viết Tuyển bàn rằng:
                - Vua Thái Đức càng già càng thụ động cầu an, là có tính đố tài không muốn cho Nguyễn Huệ đem quân ra ngoài cõi. Tôi có nghe năm xưa Nguyễn Huệ xin cất quân vào Nam đánh Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Nhạc vì ngại cho Huệ cầm quân chuyên quyền cõi xa còn không cho Huệ cầm binh thì chẳng có cớ gì nên chẳng chịu xuất quân. Về sau Nguyễn Huệ phải giả bệnh, Nguyễn Nhạc mới nhận cơ hội ấy sai Nguyễn Lữ vào Nam đánh Định vương Nguyễn Phúc Thuần. Vậy tướng quân nên đốc thúc Nguyễn Huệ cầm quân Bắc tiến, may ra Nguyễn Huệ sẽ có cơ khuyên Nguyễn Nhạc xuất binh.
                Nguyễn Hữu Chỉnh khen phải, liền đến tư dinh Nguyễn Huệ. Chỉnh nói với Nguyễn Huệ rằng:
                - Từ ngày tướng quân vào Nam đánh quân Tiêm La đến nay đã hơn một năm, quân ta đã đủ thời giờ để dưỡng uy sức nhuệ. Nay Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá không phòng bị, sao tướng quân không xin vừa đem quân Bắc tiến.
                Huệ hỏi lại Chỉnh:
                - Hoàng huynh tôi đã cao tuổi ngại việc chinh chiến, tôi cầu xin chưa chắc người đã nghe. Ông là thượng khách của Hoàng huynh tôi sao không xin giúp một lời.
                Chỉnh đáp:
                - Tôi đã mấy lượt khẩn cầu những vua không thuận ý.
                - Ông viện cớ gì để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân?
                - Tôi xin vua nên đánh lấy đất Thuận Hoá dùng sông Linh Giang và luỹ Trường Dục làm ranh giới như chúa Nguyễn lúc trước thì có thể an nhàn mà hưởng lộc.
                Nguyễn Huệ cười to nói:
                - Hoàng huynh tôi vì thấy trăm họ lầm than mà dựng cơ khởi nghĩa. Ông lại đem cái lợi để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân, thảo nào Hoàng huynh tôi chẳng chịu nghe theo.
                Nguyễn Hữu Chỉnh lại nói:
                - Tôi có tâu với vua rằng lương dân ở Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đàn áp bóc lột, xin người cất quân đánh Trịnh cứu dân. Nhưng nhà vua vẫn để ngoài tai.
                - Lời ông nói lấy gì để Hoàng huynh tôi tin là nhân dân ở Thuận Hoá thật sự bị bóc lột khổ sở. Hay là ông muốn vin vào cớ ấy để muốn quân Tây Sơn ta đưa ông về Bắc Hà?
                Chỉnh thất sắc nói:
                - Ngày trước còn là tôi nhà chúa Trịnh, tình hình đất Bắc Hà thế nào tôi rất rõ, nên mới xin tướng quân đánh Trịnh cho bá tánh được nhờ ơn mưa móc.
                Còn việc cầm quân Bắc tiến, tôi có tài cán gì mà thống lĩnh binh quyền để mượn binh của nhà vua về xứ Bắc. Xin tướng quân xét lại.
                Thấy Nguyễn Hữu Chỉnh lo sợ, Nguyễn Huệ an ủi rằng:
                - Dù ông có muốn quân của Hoàng huynh tôi ra có diệt Trịnh phò Lê thì tình giao hảo giữa nước của nhà Lê và nhà Tây Sơn ta càng thêm gắn bó, có gì mà ông phải ngại. Từ ngày đánh tan quân Tiêm La do Nguyễn Phúc Ánh rước về đến nay đất Gia Định đã bình yên. Tôi cũng muốn đem quân đánh lấy đất Thuận Hoá, những Hoàng huynh tôi ngại việc chiến chinh, nên chưa dám xin quân Bắc tiến. Nay nhờ có ông xin hộ, Hoàng huynh tôi ắt sẽ bằng lòng đánh Trịnh.
                Hữu Chỉnh ngạc nhiên nói:
                - Tôi vừa thưa với tướng quân, tôi đã mấy lượt cầu xin mà nhà vua không thuận ý kia mà.
                Huệ cười bảo:
                - Người xưa có câu: "Trăm nghe không bằng mắt thấy. Ông hay đưa Hoàng huynh tôi ra đất Thuận Hoá để người được tận mắt chứng kiến cảnh muôn dân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu áp bức bóc lột. Hoàng huynh tôi là người đại đức, thấy việc nghĩa dù nhảy vào lửa cũng chẳng từ nan. Nếu người được thấy tận mắt cảnh nhân dân cùng khổ ắt sẽ lập tức xuất quân.
                Chỉnh ngẫm nghĩ rồi hỏi:
                - Nhưng làm cách nào mà đưa Bệ hạ ra Thuận Hoá cho được?
                Huệ mỉm cười nói:
                - Ông là người đa mưu túc trí của đất Bắc Hà lại nghĩ không ra cách, thì tôi làm sao mà biết được.
                Thấy nét mật Chỉnh lộ vẻ thất vọng, Huệ vỗ vai Chỉnh bảo:
                - Việc này cũng chưa vội gì, sớm muộn ông cũng nghĩ ra kế. Giờ hay theo tôi đến trại quân xem tướng sĩ tập binh giải sầu.
                Nói rồi Huệ liền đưa Hữu Chỉnh đến các trại quân. Đến nơi thấy quân lính đang háo hức luyện võ nghe. Chỉnh đứng nhìn một hồi rồi nói:
                - Tôi từ nhỏ theo dõi cung kiếm, tuy không dám sánh cùng các tướng Tây Sơn nhưng thập bát ban võ nghệ cũng từng học qua. Về quyền thuật thì Hổ Quyền, Long Quyền, Hầu Quyền, Xa Quyền cũng khá tính thông nhưng chưa từng trông thấy loại quyền thuật nào là như bài quyền mà quân lính đang tập cả. Tướng quân có thể cho biết bài quyền này xuất xứ ở đâu chăng?
                Huệ đáp:
                - Bài quyền này tên là Hùng Kê Quyền chưa tìm có trong võ thuật cổ truyền. Nó do em tôi là Tiết Chế Nguyễn Lữ nghiên cứu các thế võ của gà rừng chọi nhau mà sáng tạo nên. Bởi vậy mới có tên là Hùng Kê Quyền đó!
                Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
                - Tại sao không là gà chọi mà phải của gà rừng?
                Huệ mỉm cười đáp:
                - Ông không thấy sao. Người sử dụng bài quyền này chuyên dùng các ngón tay và ngón chân điểm vào các yếu huyệt của đối phương. Trong khi ra đón thân pháp lại lanh lẹ bay nhảy như chim, nếu không phải của gà rừng thì làm gì có được sở trường đó? Chín nhờ bài quyền thuật này mà từ lúc Tây Sơn tôi khởi binh đến nay mới biến thua thành thắng, dùng ít địch nhiều đều nhờ công lao của Nguyễn Lữ cả đây.
                Hữu Chỉnh lấy làm lạ lại hỏi:
                - Vậy Tiết chế phải cất công lên tận rừng sâu xem gà rừng đá nhau ư? Vả lại giữa rừng rộng mênh mông thì làm sao tìm thấy được một cặp gà trống đá nhau.
                Nguyễn Huệ cười lớn một hồi mà không đáp. Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
                - Long Nhương tướng quân cười gì mà cười mãi thế?
                Huệ cố nín cười nói:
                - Tôi nghe người ta bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh huyện Chân Lộc phủ Nghệ An nổi danh là văn võ song toàn, đa mưu túc trí, năm mươi sau tuổi đã thi đỗ Hương Cống lại không nghĩ ra cách để nhìn thấy gà rừng đá nhau sao?
                Hữu Chỉnh vẫn chưa hiểu ý, liền hỏi:
                - Tôi thật tình không nghĩ ra. Xin tướng quân chỉ bảo.
                Huệ mỉm cười đáp:
                - Ta chỉ cần đặt bẫy bắt nhiều gà rừng về nhốt trong nhà ắt chúng sẽ đã cho ta xem chứ có gì là khó. Nếu không đến nơi xem được thì đem chúng về cho ta xem. Có thế mà ông chẳng nghĩ ra.
                Nghe Huệ nói xong, Chỉnh lầm bầm một mình rằng:
                - Không đến nơi xem được thì đem về nhà! Không đến nơi xem được thì đem về nhà!
                Rồi quay sang Huệ, Chỉnh nói:
                - Cấm ơn tướng quân đã cho tôi xem một bài quyền bổ ích. Xin cáo biệt tướng quân.
                Nói rồi Hữu Chỉnh quay gót ra về. Tên hầu cần hỏi Nguyễn Huệ:
                - Theo tiện nhân được biết bài Hùng Kê Quyền này là Tiết chế xem thế đá của gà chọi mà sáng tạo ra, sao tướng quân lại bảo với Nguyễn Hữu Chỉnh là của gà rừng?
                Nguyễn Huệ đáp:
                - Việc nay ta há chẳng biết sao. Ta nói vậy là có dụng ý ngươi không hiểu được đâu! Lát nữa về tư dinh ngươi hãy thử xắp những vật dụng cần thiết chuẩn bị theo ta đem quân Bắc tiến.
                ***
                Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh đến nhà rồi, Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
                - Nguyễn Huệ có kế gì khuyên vua Thái Đức xuất quân chăng mà trông tướng quân vui vẻ thế?
                Chỉnh đáp:
                - Lần này Nguyễn Huệ chẳng có kế gì hay cả. Nhưng nhờ Huệ đưa ta đi xem các trại tập binh nên tình cờ ta nghĩ ra một kế có thể kích động lòng nhân của vua Thái Đức khiến ông ấy phải đồng ý xuất quân.
                Nguyễn Viết Tuyển liền hỏi:
                - Xin hỏi tướng quân ấy là kẻ gì.
                Chỉnh đáp:
                - Ấy là khổ nhục kế!
                Rồi Chỉnh kề tai Tuyển nói nhỏ. Nghe xong Tuyển khen:
                - Nếu vua Thái Đức là người đức lớn như đế hiệu của ông ấy thì đây là kế hay vậy. Tôi chịu ơn tướng quân cưu mang bấy lâu, nay tôi xin vì tướng quân chọn thêm vài người tin cẩn thi hành kế này.
                Nói rồi Tuyển gọi mấy tên quân tâm phúc vào. Bọn Tuyển cởi trần quỳ giữa nhà, Hữu Chỉnh tự tay cầm roi mây mà đánh. Người nào trên lưng cũng hằn đấy vết roi cả. Đánh xong Chỉnh đỡ đám thủ hạ dậy rồi quỳ xuống khóc nói:
                - Ta vì muốn về nước nên bất đắc dĩ mới phải dùng kế này. Nếu được về tung hoành ngang dọc Bắc Hà chính là nhờ ơn của các ngươi vậy! Khi vào gặp Thái Đức các ngươi nhớ nói rằng mình là dân Thuận Hoá, không được nhận là người nhà của ta. Nếu việc bị lộ ra là mắc tội khi quân, ta và các người không tranh khói mất đầu.
                Nói xong Chỉnh liền sửa soạn khăn áo dẫn theo bọn Tuyển vào chầu vua Thái Đức. Chỉnh thưa:
                - Tâu Bệ hạ, có mấy người dân ở Thuận Hoá ở Phạm Ngô Cầu sai quân cướp bóc đánh đập nên mới đi đường biển trốn đến Quy Nhơn vào nhà hạ thần tá túc. Hạ thần không dám tự tiện nên vội đến tâu cùng Bệ hạ được rõ.
                Vua Thái Đức hỏi:
                - Những người dân ấy hiện ở đâu.
                Chỉnh đáp:
                - Thưa, đang đứng đợi bên ngoài.
                Vua Thái Đức liền bảo quân:
                - Hãy mau gọi họ vào đây cho ta dạy việc.
                Bọn Nguyễn Viết Tuyển vào đến, vua ôn tồn hỏi:
                - Các ngươi là dân xứ nào. Vì sao phải lưu lạc đến đây?
                Nguyễn Viết Tuyển vờ khóc to rồi đáp:
                - Tâu Bệ hạ, thần dân là người ở Phú Xuân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đặt sưu cao thuế nặng không đủ tiền nộp thuế, nên bị quan quân nhà Trịnh đánh đập dã man chẳng thể nào sống nổi. Nghe vua là người đức lớn nên liều mình bỏ trốn vào theo nương nhờ ơn mưa móc.
                Nói xong bọn Tuyển cùng khóc rống lên rất là thảm thiết. Vua cảm động bước xuống ngai tự tay đỡ bọn Tuyển đứng lên. Thấy quần áo bọn Tuyển rách tả tơi, vua thương hại nói:
                - Năm xưa ta vì thương dân nghèo bị quan quân nhà Nguyễn bóc lột thậm khổ nên mới khởi nghĩa đất Tây Sơn. Nay các ngươi bất luận ở đâu đó đói khổ mà bỏ quê quán đến đây thì là con dân trong nước của ta.
                Nói rồi liền bảo quân mang quần áo mới vào cho bọn Tuyển thay. Bọn Tuyển vừa cởi áo ra, nhìn thấy lưng người nào cũng hằn đầy vết roi ứa máu, vua liền chộp lấy nghiên mực trên bạn quăng xuống đất vỡ tan. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng bọn Tuyển thấy đều thất kinh hồn vía. Vua giận dữ quát lớn:
                - Thằng giặc Phạm Ngô Cầu thật là tàn ác. Năm xưa nó vì ham quyền tước mà nghe lời Trịnh Sâm giết chết Thái tử, nhờ vậy được Trịnh Sâm phòng tước Tạo quận công, cất nhắc làm đại tướng trấn thủ đất Thuận Hoá. Nay lại vì ham lợi mà hà hiếp bóc lột đàn áp lương dân. Nếu ta không đem quân vượt Hải Vân quan bắt Phạm Ngô Cầu về đây trị tội bán vua hại dân thì ta đâu phải là vừa trời Thái Đức.
                Nghe vua nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh và bọn Tuyển đổi sợ làm vui, khắp khởi mừng thăm. Vua lại bảo quân:
                - Hay truyền lệnh ta, ngày mai với bá quan văn võ lập tức thiệt triều.
                Hôm sau thiết triều, đông đủ các quan văn võ, vua Thái Đức nói:
                - Nay tướng của họ Trịnh là Phạm Ngô Cầu trấn thủ đất Thuận Hoá tham lam tàn ác hà khắc lương dân. Ta những muốn đem quân đuổi quân Trịnh ở khỏi sông Linh Giang. Trước là cứu muôn dân Thuận Hoá, sau là lấy lại đất đai của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Nhưng quân Trịnh ở thành Phú Xuân còn hai vạn tinh binh lại chiếm lấy đèo Hải Vân hiểm trở các khanh ai có kế gì lấy đất Phú Xuân, Thuận Hoá mà ít phải hy sinh binh sĩ hay chăng?
                Nguyễn Hữu Chỉnh bước ra thưa:
                - Đèo Hải Vân hiểm trở, ai chiếm đóng đèo này một có thể địch được trăm. Vậy ta đánh bằng quân bộ e rằng bắt lợi. Theo hạ thần ta nên đem thuỷ binh vượt bể vào cửa Tư Hiền (cửa Thuận An ngày nay) đánh lấy thành Phú Xuân. Thành Phú Xuân mất ắt quân trấn thủ ở Hải Vân quân tấn thôi lưỡng nan tất phải đầu hàng.
                Chỉnh vừa dứt lời, Nguyễn Huệ bước ra nói:
                - Mục đích của Hoàng huynh tôi là đánh như thế nào để chiếm được thành mà ít phải tổn hao binh sĩ. Tuy rằng Phạm Ngô Cầu là kẻ bất tài nhu nhược nhưng phó tướng Hoàng Đình Thế là một tay kiệt hiệt từng theo Hoàng Ngũ Phúc xông phá trăm trận ắt thành Phú Xuân được phỏng thủ kỹ lưỡng. Sách lược của ông Chỉnh chắc chắn là thắng nhưng nhất định tổn thất không phải nhỏ.
                Vua Thái Đức hỏi:
                - Vậy theo em phải đánh thế nào?
                Huệ đáp:
                - Ngày trước quan Ngự sử Nguyễn Thung tiên sinh đi sứ ra Thăng Long xin Trịnh Sâm cho Hoàng huynh làm đại chức Trấn thủ đất Quảng Nam. Nguyễn tiên sinh có biết việc Phạm Ngô Cầu vì sợ hồn Thái tử Duy Vỹ theo báo oán nên Cầu mới bày kế cho Nguyễn tiên sinh mách cùng Trịnh Sâm cho Cầu vào trấn đất Thuận Hoá, đồng thời với Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn lúc ấy đang trấn thủ Thuận Hoá về Thăng Long, hầu hạ cánh Trịnh Sâm để nhờ tướng quý của hai người này đuổi hồn ma Thái tử, cho Ngô Cầu vào Thuận Hoá. Vậy nay ta cho một người ra Phú Xuân nói với Ngô Cầu như vậy... như vậy... ắt Phạm Ngô Cầu sẽ làm theo mà lơ đễnh việc canh phòng. Sau đó ta bất ngờ tiến đánh, tin chắc quân Trịnh ở Phú Xuân sẽ trở tay không kịp thì tổn thất của ta chẳng đáng kể gì.
                Vua Thái Đức khen:
                - Hay lắm. Em thật là đa mưu túc trí. Sang sứ Phạm Ngô Cầu, ai có thể làm được việc này.
                Nguyễn Thung bước ra thưa:
                - Ngày trước ra Thăng Long thần có biết rõ Phạm Ngô Cầu là người hay tin vào những điều huyễn hoặc nhưng lại không nghĩ ra kế này. Long Nhương tướng quân quả nhiên chước quỷ mưu thần. Việc sang sứ Phạm Ngô Cầu thần xin tiến cử một người.
                Vua Thái Đức hỏi:
                - Người ấy là ai?
                Thung đáp:
                - Người này tên là Triệu Đình Tiệp, rất giỏi tử vi tướng số, tinh thông dịch lý. Nay ta nhờ người nay sang gạt Phạm Ngô Cầu mới không sợ có điều sơ sảy. Triệu Đình Tiệp cùng với thần là chỗ thâm giao, thần xin vì Bệ hạ đi vời Tiệp một phen!
                Vua cả mừng bảo:
                - Ấy là trời đã giúp ta ra tay cứu bá tánh ở đất Thuận Hoá vậy. Phiền quan Ngự sử hãy đi ngay cho.
                Nói xong vua truyền bãi triều.
                Ra ngoài Nguyễn Huệ nạt Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
                - Cống Chỉnh to gan khi quân phạm thượng. Ông dám bày khổ nhục kế gạt Hoàng huynh ta xuất binh Bắc phạt mà không sợ mất đầu ư?
                Chỉnh thất kinh nói nhỏ với Huệ rằng:
                - Ai mách với tướng quân như thế. Những người ấy đều là dân ở Thuận Hoá bị Phẩm Ngô Cầu đàn áp trốn vào đây mà thôi.
                Huệ nghiêm mặt bảo:
                - Ông xem tôi là con nít hay sao. Để tôi vào thưa cùng Hoàng huynh đem những người dân ấy ra tra hỏi xem hư thực thế nào?
                Nói xong Huệ quay lưng toan đi. Nguyễn Hữu Chỉnh thất kinh níu áo Huệ lại van xin:
                - Ôi! Nếu tướng quân đã biết tới cũng không đã giấu. Chẳng qua vì tôi nóng lòng báo thù cho chúa, trị tội bọn kiêu binh ở Bắc Hà, nên bất đắc dĩ mới dùng kế ấy. Vả chăng tướng quân cũng đã bảo tôi tìm cách c khuyên vua xuất quân Bắc tiến sao, bây giờ lại toan hại tôi như thế?
                Bảy giá Huệ mới cười rằng:
                - Nào tôi cố ý hại ông. Chẳng qua tôi muốn biết ai bày kế hay cho ông nên mới nói thế mà thôi.
                Chỉnh vô tình đáp:
                - Chẳng ai bày kế cho tôi cả. Bởi hôm ấy đi xe quân tập bài Hùng Kê Quyền, tướng quân có nói câu: "Không lên rừng xem gà rừng đá nhau được thì bắt chúng về nhà đá cho ta xem", nên tôi mới nghĩ ra được kế này.
                Nguyễn Huệ khen Hữu Chỉnh:
                - Ông không hổ danh là nhân tài đất Bắc vậy.
                Nguyễn Hữu Chỉnh cáo từ ra về. Nguyễn Huệ bấm bụng cười mỉm.
                ***
                Nói về đại tướng trấn thủ Thuận Hoá là Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, ngày ấy ở tư dinh trong thành Phú Xuân nghe quân hầu vào báo:
                - Thưa tướng quân, tiện nhân nghe quân đồn đại ở ngoài phố có một người coi tử vi rất giỏi, thiên hạ rủ nhau đi xem rất đông. Sao tướng quân không xem một quẻ thử hậu vận thế nào.
                Ngô Cầu vốn rất ưa thích việc bói toán, nghe tên hầu nói thế liền cái trang thành thường dân đến gặp người thầy bói hỏi:
                - Nghe nói thấy xem tử vi đoán biết việc quá khứ vị lai. Vậy tử vi là thế nào?
                Thầy bói nhìn Ngô Cầu rồi đáp:
                - Xem tử vi là theo năm, tháng, ngày, giờ sinh mà an các sao vào mười hai cung là Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quân, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Thê, Huynh gọi là lá số. Rồi theo lá số ấy mà đoán thì có thể biết vận mệnh, sinh tử, tiền tài, danh vọng, nhà cửa, bạn bè, tai nạn, vợ con của người ấy trong suốt cuộc đời sẽ như thế nào.
                Ngô Cầu hỏi:
                - Nhưng tôi không biết được ngày giờ sinh của mình thì làm thế nào?
                Thầy bói đáp:
                - Hễ thiếu một trong bọn yếu tố của ngày, giờ tháng, năm sinh thì không thể xem được tử vi. Nhưng chẳng hề gì, tôi có thể xem tướng cho ngài cũng được.
                Ngô Cầu mừng rỡ hỏi:
                - Vậy thầy hãy xem thử tôi là người thế nào?
                Người thầy bói ngắm thấy diện mạo Phạm Ngô Cầu, mắt ốc bươu, mũi lõ, miệng rộng đến tận mang tai, răng hô, tai to và nhăn như tai heo. Thầy bói nghĩ thầm rằng: Ta đang đình tìm cách vào dinh Phạm Ngô Cầu thi hành độc kế chẳng lẽ hắn lại tìm đến đây? Nghĩ xong liền nói:
                - Tướng của ngài không là đại tướng thì cũng là công hầu!
                Ngô Cầu kinh ngạc bảo:
                - Lời đồn quả thật không sai. Ta là trấn thủ đất Thuận Hoá, chức đại tướng, tước quận công. Thầy đoán hai điều đều đúng cả hai vậy.
                Nói xong liền mời thấy tướng vào dinh phủ. Đến nơi, Cầu hỏi:
                - Dám hỏi thầy dựa vào đâu mà đoán chính xác thế?
                Thầy tướng đáp:
                - Diện mạo tướng quân thì mắt lộ, mũi to, răng hô, miệng rộng, tai vênh ấy là tướng ngũ lộ. Người có tướng này nhất định danh vọng thênh thang, phú quý tột bực. Việc này rất dễ coi bí quyết của khoa toán số hoặc tử vi là nơi đúng về hậu vận mới hay.
                Cầu liền hỏi:
                - Vậy thầy hãy đoán xem hậu vận của ta thế nào?
                Thầy tướng đáp:
                - Tướng quân đang có nạn. Nếu qua khỏi nạn này ắt là đường hoạn lộ không ai bì kịp!
                Cầu giật mình hỏi:
                - Thấy bảo ta có nạn, ấy là nạn gì?
                Thầy tướng đáp:
                - Nhãn quang của tướng quân bất định, thần sắc lại nhợt nhạt. Nếu tôi đoán không lầm ắt là có âm hồn theo báo oán.
                Phạm Ngô Cầu kinh hãi hỏi ngay:
                - Lời thầy nói quả không sai. Ngày trước ta có giết lầm một người, nay chắc là oan hồn người đó theo báo oán ta chăng? Vậy thầy có cách gì xua đuổi hồn oan ấy được không?
                - Ngươi này chết oan rất là thảm thiết nên trong lòng uất hận thành ra oan hồn rất dữ. Nếu muốn đuổi được đi phải lựa nơi ngoài thành đất bằng rộng rãi đủ chỗ cho một ngàn người đứng. Rồi đắp đàn cho cao triệu thầy pháp cao tay lên đàn cầu đảo. Trong khi cầu đảo một ngàn quân phải đeo tang, hàng ngũ chỉnh tề đứng như pho tượng không được cử động. Từ sáng đến chiều thì thay quân khác cho quân cũ ra ở uống nghỉ ngơi cho đến sáng lại đến lượt mình. Sau bảy ngày bảy đêm như thế thì chắc chắn đuổi được hồn oan giải nạn cho tướng quân.
                Phạm Ngô Cầu vẫn còn lo âu nói:
                - Ta sẽ làm ý theo lời chỉ dạy của thấy. May ra có thể đuổi được âm hồn theo báo oán.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #38
                  Chương 35

                  Mở đường Thượng đạo Trần Quang Diệu nổi danh.
                  Can tội giết vua Phạm Ngô Cầu bị chém.


                  Ngày ấy trong Hoàng đế thành (thành Quy Nhơn) vua Thái Đức thiết triều. Đủ mặt bá quan, vua nói:
                  - Triệu Đình Tiệp về báo tin rằng đã lừa được Phạm Ngô Cầu lập đàn cầu đảo giải oan hồn Thái tử Vỹ theo báo oán. Vậy nay ta phong Nguyễn Lữ là chánh tướng được trọn quyền điều động binh lương. Em hãy cất quân lấy đất Thuận Hoá và đuổi quân Trịnh ra khỏi Luỹ Thầy, dùng sông Linh Giang làm ranh giới, bắt Phạm Ngô Cầu về cho ta trị tôi giết vua hại dân. Nếu được thế thì ta đã dựng nên nghiệp lớn là vừa nghênh ngang một cõi, so với họ Trịnh ở Bắc Hà nào có kèm gì? Lữ hãy mau lãnh lấy binh phù.
                  Nguyễn Lữ thật thà nói:
                  - Lấy đất Thuận Hoá là việc trọng đại, e rằng em không dám đương nổi. Xin Hoàng huynh giao cho anh Huệ điều binh.
                  Nguyễn Lữ vừa dứt lời, bỗng một người bước ra nói lớn:
                  - Nếu Tiết chế Hoàng thúc thoái thác, thần xin lãnh binh đánh giặc.
                  Mọi người giật mình nhìn lại thì ra là phò mã Vũ Văn Nhậm. Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu xen vào nói:
                  - Tâu Bệ hạ, người thống lĩnh ba quân phải được tướng sĩ đồng lòng, mến đức sợ uy. Xem ra việc này ngoài Long Nhương tướng quân không ai làm nổi.
                  Vũ Văn Nhậm do mặt tía tai nói:
                  - Long Nhương Hoàng thúc vừa đánh quân Tiêm La về xong còn phải nghỉ ngơi. Tiết chế Hoàng thúc chối từ trọng trách. Vả chăng Phạm Ngô Cầu đâu phải là kẻ bất tài, việc gì phải cần đến Long NHương Hoàng thúc ra tay.
                  Vua Thái Đức can hai tướng rằng:
                  - Tuyết và Nhậm chớ cãi nhau nữa. Quả thật việc đánh Thuận Hoá nếu không do ta ngự giá thân chinh thì phải do Nguyễn Huệ điều binh đánh giặc mới yên. Vậy Huệ có thể vì ta mà vất vả một phen nữa chăng?
                  Nguyễn Huệ kính cẩn đáp:
                  - Hoàng huynh đã xuống lệnh, vì muôn dân xã tắc dù phải phơi thây ngoài cỏ nội em chẳng dám từ nan.
                  Vũ Văn Nhậm thẹn vì không được giao quyền điều binh khiển tướng ben hỏi Huệ rằng:
                  - Theo Hoàng thúc ta nên đánh bằng thuỷ binh hay quân bộ?
                  Huệ đáp:
                  - Đường bộ đến Phú Xuân có Hải Vân quân hiểm trở, chỉ nên dùng quân bộ làm kế nghi binh. Chủ lực chiếm Phú Xuân phải bằng thuỷ binh.
                  Vũ Văn Nhậm thư với vua Thái Đức:
                  - Xin Phụ hoàng cho con lãnh đạo quân bộ, nếu ai vào Phú Xuân trước là người ấy lập công đầu.
                  Nguyễn Huệ hỏi:
                  - Đường bộ đến Phú Xuân phải qua Hải Vân quá hiểm trở, dù thiên binh vạn mã cũng khó lòng đánh thắng. Nhậm nghĩ rằng có thể đến Phú Xuân trước thuỷ binh sao?
                  Nhậm đáp liều:
                  - Nếu tôi không đến Phú Xuân trước thì cũng phải đến cùng lúc với Hoàng thúc vậy.
                  Nguyễn Huệ mỉm cười bảo:
                  - Ta tin tài của Nhậm có thể vượt Hải Vân qua dễ dàng. Xin Hoàng huynh hãy cho Vũ Văn Nhậm lãnh bộ binh đi trước.
                  Vua Thái Đức xua tay bảo:
                  - Không được!
                  Huệ hỏi:
                  - Thưa Hoàng huynh, vì sao không được?
                  Vua Thái Đức đáp:
                  - Quân Trịnh chiếm Hải Vân quân từ cao đánh xuống một có thể địch trăm. Nếu cược như thế Vũ Văn Nhậm nóng lòng xua quân tiến đánh tất quân ta phải tổn thật lớn. Việc này thật không nên.
                  Nguyễn Huệ tâu:
                  - Hoàng huynh hãy yên tâm. Em xin bảo đảm rằng Vũ Văn Nhậm sẽ có cách vượt Hải Vân quân mà không tổn tướng hao quân.
                  Vua Thái Đức hỏi:
                  - Nếu Vũ Văn Nhậm làm tổn thất quân ta thì thế nào.
                  Huệ đáp:
                  - Nếu vậy em xin chịu tội thay cho Nhậm.
                  Vua Thái Đức bảo:
                  - Được. Tin lời Huệ ta lệnh cho Vũ Văn Nhậm đem một vạn quân bộ tiến đánh ải Hải Vân. Nguyễn Huệ đem một vạn thuỷ binh tiến đánh Phú Xuân, ai vào Phú Xuân trước sẽ lập được công đầu.
                  Vũ Văn Nhậm lãnh binh phù hăm hở đi ngay.
                  Nguyễn Huệ lãnh binh phù rồi lui ra. Ra ngoài Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi Huệ:
                  - Tướng quân cuộc với Hoàng thượng và phò mã phen này là Vũ Văn Nhậm lập được công đầu là tướng quân lại mắc tội với vua vậy.
                  Nguyễn Huệ cười hỏi:
                  - Ông Chỉnh nói vậy là ý thế nào.
                  Chỉnh đáp:
                  - Vũ Văn Nhậm sẽ xua một vạn quân đánh Hải Vân quan dù tổn thất những chắc phải thắng. Tổn thất thì tướng quân lãnh tội, Nhậm vào thành trước thì được công. Ấy chẳng phải là tướng quân thiệt hoàn toàn ư?
                  Huệ cười bảo:
                  - Vũ Văn Nhậm sẽ không tổn thất một mũi tên hòn đạn mà vẫn vượt Hải Vân quân thì ta sao bị tội được. Nhậm sẽ chiếm được thành trước nhưng không dám nhận là công. Ta muốn mượn việc này cho Nhậm một bài học, hầu bỏ bớt tật kiêu căng hiếu thắng.
                  Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
                  - Sao lại có việc lạ như thế.
                  Huệ cười đáp:
                  - Đợi vào thành Phú Xuân ông sẽ rõ.
                  Chỉnh hồ nghi nhưng không dám hỏi, bèn bái tạ ra về. Nguyễn Huệ liền gọi Trân Quang Diệu và Bùi Thị Xuân đến bảo:
                  - Hai người mau lãnh một ngàn tinh binh theo đường Thượng đạo đi vòng qua phía Tây ải Hải Vân rồi bắt ngó đánh úp chiếm lấy ải. Xong việc phải lấy đầu Hoàng Nghĩa Hồ rồi dẫn quân vào rừng ẩn nấp. Bao giờ thấy ở thành Phú Xuân treo cờ Tây Sơn thì hay đem đầu Hoàng Nghĩa Hồ vào gặp ta.
                  Trân Quang Diệu và Bùi Thị Xuân tuân lệnh đi ngay.
                  Xong mọi việc Nguyễn Huệ mới lệnh truyền thuỷ binh Bắc tiến.
                  Mùa hè năm Bình Ngọ (1786) niên hiệu Thái Đức thứ chín, quân Tây Sơn thuỷ bộ hai đạo rầm rộ tiến đánh Phú Xuân, Thuận Hoá.
                  Nguyễn Huệ và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thuỷ binh vào cửa biển Tư Hiền, thuỷ binh quân Trịnh bị bắt ngờ trở tay không kịp bỏ thuyền chạy vào thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ bảo quân:
                  - Truyền lệnh ta lập thuỷ trại ngoài cửa biển không được đuổi theo.
                  Nguyễn Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:
                  - Sao tướng quân không thừa thắng tiến đánh thành Phú Xuân mà lại đóng binh ở đây?
                  Huệ chỉ lên hòn núi cạnh cửa biển rồi đáp:
                  - Núi Quý Sơn án ngữ đường thuỷ vào thành Phú Xuân. Ta đóng quân ngoài cửa biển tất Hoàng Đình Thể sẽ đem quân chiếm núi Quý Sơn chống nhau với thuỷ binh của ta ở mặt Đông, bỏ trống mặt Nam cho Vũ Văn Nhậm chiếm thành. Nhậm chiếm thành rồi Hoàng Đình Thể tiến thoái lưỡng nan tất phải đầu hàng. Ấy là quân ta không tốn bao nhiêu công sức mà bình được Thuận Hoá vậy.
                  Chỉnh nói:
                  - Tôi e Vũ Văn Nhậm vượt qua Hải Vân quan hao quân tổn tướng không đủ sức để chiếm thành. Khi ấy là tướng quân bỏ lỡ thời cơ tốt.
                  Huệ cười bảo:
                  - Ông liệu việc sai rồi. Vũ Văn Nhậm chiếm ải Hải Vân mà không tốn một mũi tên hòn đạn nào đâu.
                  Chỉnh không cãi nhưng trong lòng không phục.
                  ***
                  Nói về Phạm Ngô Cầu đem một vạn quân thay phiên nhau lập đàn cầu đảo ở phía Tây Năm thành Phú Xuân, ngày đêm thành khẩn cầu cho hồn Thái tử Vỹ được siêu thoát. Đến ngày thứ bảy quân lính mỏi mệt ra rời, Phạm Ngô Cầu bảo quân:
                  - Chỉ còn ngày nay nữa là xong việc. Ta sẽ cho các ngươi ăn uống nó say, nghỉ ngơi thoả thích, để bù cho bảy ngày đêm cực nhọc quá chừng.
                  Cầu vừa dứt lời thì một tên quân hớt hải chạy vào phi báo:
                  - Thưa đại tướng quân, phó tướng Hoảng Đình Thể sai người đến bảo rằng, giặc Tây Sơn đem thuỷ binh vài cửa biển Tư Hiền uy hiếp mặt Đông thành Phú Xuân.
                  Cầu giật mình kinh hãi nói:
                  - Thôi chết! Quân Tây Sơn thừa lúc ta bận cầu đảo không phòng bị nên tiến đánh bất ngờ. Truyền quân mau về thành.
                  Vào thành, Cầu hỏi Hoàng Đình Thể rằng:
                  - Phó tướng có kế gì chống giặc chăng?
                  Thể đáp:
                  - Tôi có một cách khiến giặc phải chết không còn một mạng.
                  Cầu vội hỏi:
                  - Kế thế nào. Nếu hay ta lập tức thi hành!
                  Thế đáp:
                  - Đại tướng quân cứ lập đàn mới thầy pháp về cầu đảo ắt giặc phải tan.
                  Cầu buồn rầu nói:
                  - Ta đã biết lỗi, việc đến nước này trách nhau phỏng có ích gì. Tướng quân hay vì xã tắc mà định kế chống giặc cho.
                  Bấy giờ Hoàng Đình Thể mới nói:
                  - Nguyễn Huệ đem thuỷ binh đồng ở cửa biển Tư Hiền, tôi xin đem binh chiếm núi Quý Sơn cản đường tiến quân của địch. Đại tướng quân ở lại giữ thành.
                  Cầu hỏi lại:
                  - Thế ngộ nhỡ bộ binh của giặc từ phía Nam đánh tới thì sao?
                  Thế đáp:
                  - Phía Nam thành có ải Hải Vân hiểm trở, một quân ta có thể địch trăm quân giặc. Ải Hải Vân lại do Quyền Trung Hầu Hoàng Nghĩa Hồ trấn thủ thì giặc không thể nào vượt khỏi Hải Vân quân.
                  Cầu bảo:
                  - Nếu vậy ta an tâm thủ thành, tướng quân mu đi đi.
                  Hoàng Đình Thể liền cùng hai con trai là Hoàng Đình Vị, Hoàng Đình Đình, tuy tướng Vũ Tá Kiên đem một vạn quân ra phía Đông thành chiếm đóng núi Quý Sơn. Bố trận xong Hoàng Đình Thể chỉ tay xuống thuỷ trại Tây Sơn nói với hai con mình rằng:
                  - Nguyễn Huệ là danh tướng của giặc Tây Sơn, sẽ vào cửa biển Tư Hiền mà không chiếm núi Quý Sơn trước. Thật là lạ. Ta e rằng Nguyễn Huệ có kế gì đây! Các con phải canh phòng cẩn mật mới được.
                  ***
                  Phần Vũ Văn Nhậm dẫn bộ quân đến ải Hải Vân. Nhậm đứng quân dưới núi rồi sai quân len lên ải do thám. Quân do thám về báo rằng:
                  - Quân Trịnh trên ải Hải Vân đã bỏ trốn không còn một ai cả. Doanh trại đều bỏ trống.
                  Vũ Văn Nhậm tự đắc nói với tả hữu rằng:
                  - Hoàng Nghĩa Hồ vừa nghe oai Tây Sơn phò mã Vũ Văn Nhậm ta đã kinh hoàng bỏ trốn mất rồi.
                  Nói xong thích chí cười ha hả. Đoạn Nhậm bảo quân do thám:
                  - Các ngươi mau đi trước đến thành Phú Xuân dò xét xem sao.
                  Nhậm hạ lệnh tiền quân chiếm ải Hải Vân. Quân do thám lại về bảo với Nhậm rằng:
                  - Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem thuỷ binh vào cửa Tư Hiền. Tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đã đem toàn quân chiếm núi Quý Sơn chống nhau với thuỷ quân của Long Nhương. Trong thành Phú Xuân còn lại một vạn quân do Phạm Ngô Cầu trấn giữ.
                  Nhậm lại hỏi:
                  - Quân Phạm Ngô Cầu mạnh yếu thế nào?
                  Quân đáp:
                  - Vạn quân này theo Phạm Ngô Cầu lập đàn cầu đảo mất ăn mất ngủ suốt bảy ngày đêm, hiện đang rất là mỏi mệt.
                  Nhậm cả mừng nói:
                  - Ấy thật là trời giúp ta rồi vậy. Truyền quân bí mật tiến đánh thành Phú Xuân.
                  Quân Nhậm lặng lẽ thừa lúc tối trời tiến sát cổng Nam thành Phú Xuân. Quân Trịnh trong thành không hề hay biết. Nhậm sai quân đặt đại bác bắn phá thành, Phạm Ngô Cầu đang đêm nghe súng nổ rền trời, thất kinh nói:
                  - Hoàng Nghĩa Hồ trấn ải Hải Vân sao không thấy về báo việc quân. Sao giặc Tây Sơn chiếm ải Hải Vân tài tình thế? Đến nước này ta đầu hàng là hơn, may ra con đường sống.
                  Nói xong Cầu sai quân mở cửa ra hàng.
                  ***
                  Phần Nguyễn Huệ lập thuỷ trại ở cửa biển Tư Hiền, thấy quân Trịnh kéo ra đóng quân ở núi Quý Sơn, Huệ cười bảo Chỉnh:
                  - Hoàng Đình Thể quả nhiên đem quân ra khỏi thành đóng ở núi Quý Sơn để chặn quân ta. Nếu Vũ Văn Nhậm chiếm được thành chẳng phải Hoàng Đình Thể cùng đường sao?
                  Chỉnh cười thưa:
                  - Núi Quý Sơn là yết hầu của Phú Xuân. Bậc làm tướng giỏi tất phải chiếm lấy Quý Sơn, và phải thấy rằng Vũ Văn Nhậm vượt ải Hải Vắn tất không còn đủ binh lực chiếm lấy thành Phú Xuân.
                  Huệ hỏi:
                  - Nếu ông là Hoàng Đình Thể thì ông sẽ điều bình như thế nào?
                  Chỉnh đáp:
                  - Tôi cũng đem binh chiếm núi Quý Sơn.
                  Huệ cười bảo:
                  - Kẻ cầm quân muốn trăm trận trăm tháng thì phải thấy được cái mà người làm tướng bình thường không nhìn thấy.
                  Huệ vừa dứt lời đã thấy cờ đỏ mặt trời vàng bay phấp phới trên mặt thành Phú Xuân. Huệ vỗ tay cười nói:
                  - Vũ Văn Nhậm đã chiếm được thành Phú Xuân. Vậy Hoàng Đình Thể không phơi cùng đường là gì.
                  Nguyễn Hữu Chỉnh kinh ngạc hỏi:
                  - Tướng quân liệu việc như thần. Sao tướng quân đoán trước được Vũ Văn Nhậm vượt Hải Vân quân và chiếm thành Phú Xuân nhanh thế?
                  Huệ lại cười rồi đáp:
                  - Chờ vào thành gặp Vũ Văn Nhậm ông sẽ rõ. Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đánh Hoàng Đình Thể ở núi Quý Sơn.
                  Quân Tây Sơn ồ ạt tiến lên. Quân Trịnh thấy thành Phú Xuân mất, hoảng sợ rối loạn hàng ngũ. Cha con Hoàng Đình Thể và tuỳ tướng Vũ Tá Kiên cố sức chống giữ, sau cùng thất thế chết trong đám loạn quân.
                  Nguyễn Huệ toàn thắng dẫn quân vào thành. Huệ cùng các tướng vào nơi phủ, Vũ Văn Nhậm ra đón mới vào. An toạ xong Nhậm hỏi Huệ:
                  - Lúc xuất quân ở thành Quy Nhơn, Hoàng thượng có bảo, ai chiếm thành trước sẽ lập công đầu, được trao quyền điều binh khiển tướng lấy Thuận Hoá. Nay cháu đã chiếm thành trước, vậy ý Hoàng thúc thế nào?
                  Huệ cười đáp:
                  - Lời ta đã hứa trước Hoàng huynh ta quên sa được. Nhưng Nhậm đánh ải Hải Vân thế nào. Nếu hao quân tổn tướng ta sẽ về thọ tội với Hoàng huynh.
                  Nhậm tự đắc đáp:
                  - Cháu đem quân đánh ải Hải Vân được toàn thắng, chém đầu Hoàng Nghĩa Hồ, tiêu diệt toàn bộ địch quân, bên ta không mất một nhận mạng. Xin Hoàng thúc chớ lo có tội.
                  Nhậm vừa dứt lời, Huệ vỗ án quát:
                  - Vũ Văn Nhậm thật là láo xược. Ngươi kéo quân đến, ải Hải Vân đã bỏ trống, sao dám bảo là đánh chiếm ải, chém đầu Hoàng Nghĩa Hồ?
                  Nhậm giật mình nhưng cố chống chế:
                  - Nếu không phải cháu đánh chiếm Hải Vân quan, sao có thể chiếm thành Phú Xuân được. Xin Hoàng thúc xét lại.
                  Huệ hỏi:
                  - Ngươi chém Hoàng Nghĩa Hồ, vậy thủ cấp của Hoàng Nghĩa Hồ đâu?
                  Nhậm đáp:
                  - Cháu không đem theo làm gì nên đã quang thả Hoàng Nghĩa Hồ xuống vực.
                  Huệ quay lại bảo quân:
                  - Hay bảo Trần Quang Diệu mang thủ cấp Hoàng Nghĩa Hồ đến đây cho ta.
                  Trần Quang Diệu đem vào một cái đầu người dâng dưới trướng. Huệ hỏi Nhậm:
                  - Ngươi hãy nhìn xem, đây có phải là thủ cấp cứ Hoàng Nghĩa Hồ chăng?
                  Nhậm thất kinh đáp:
                  - Đây là lá thủ cấp của Hoàng Nghĩa Hồ. Nhưng sao Trần Quang Diệu có được?
                  Huệ cười trả lời Nhậm rằng:
                  - Ta đã nói với Hoàng huynh rằng nếu người đánh ải Hải Vân mà hao quân tổn tướng thì ta xin chịu tội với Hoàng huynh. Vậy nếu ngươi tham tranh cổng, cứ thúc binh đánh bừa tất đưa quân ta vào chỗ chết, nên ta trước đã sai Trần Quang Diệu lén đem binh đánh úp sau lưng ải Hải Vân chém đầu Hoàng Nghĩa Hồ rồi dẫn quân vào rừng mà nấp. Nay Trần Quang Diệu đã đem đầu Hoàng Nghĩa Hồ đến để làm bằng, ngươi còn xảo ngôn để tranh công nữa chăng?
                  Nhậm nghi ngờ hỏi:
                  - Làm gì có còn đường nào có thể đi được đến sau lưng ải Hải Vân?
                  Huệ cười đáp:
                  - Ngươi chưa biết đấy thôi. Trần Quang Diệu đã mở một con đường núi dọc theo dãy Trường Sơn gọi là đường Thượng đạo. Đường này trong có thể vào đến Bình Thuận, ngoài có thể ra đến Nghệ An. Quang Diệu theo đường này đánh vào sau lưng thành Phú Xuân cũng được, cứ gì ải Hải Vân. Nhưng nếu không đánh ải Hải Vân chém Hoàng Nghĩa Hồ trước, tất Vũ Văn Nhậm vì tham công tranh quyền sẽ xua quân theo đường đại lộ lên ải là quân ta hy sinh vô ích. Vũ Văn Nhậm! Giờ người đã rõ vì sao ngươi đem quân đến ải Hải Vân bỏ trống hay chưa?
                  Vũ Văn Nhậm sợ hai quỳ đáp:
                  - Cháu đã biết tội, xin Hoàng thúc tha cho!
                  Huệ đỡ Nhậm dậy nói:
                  - Ta vì muốn cho người biết, tài năng của bậc làm tướng phải thế nào mới không đưa quân vào chỗ chết nên trước đã sai Trần Quang Diệu dọn đường cho ngươi lập công đó. Từ nay về sau làm việc gì cũng phải vì dân vì nước, chết vì lợi riêng mà làm tổn hại bá quan.
                  Nhậm hổ thẹn lui về chỗ ngồi. Nguyễn Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi Trần Quang Diệu:
                  - Đường Thượng đạo này từ cổ chí kim chưa từng nghe nói. Sao tướng quân biết được mà mở đường này?
                  Diệu khiêm tốn đáp:
                  - Tôi vốn sinh trưởng ở vùng rừng núi huyện Bồng Sơn phủ Quy Nhơn nên thường giao lưu với người Thượng. Đường Thượng đạo này vốn là lối mòn của các bộ tộc người Thượng đi lại với nhau, tôi theo lối mòn ấy mà mở ra đường này, chữ có gì là lạ.
                  Nghe xong Chỉnh quay sang Huệ nói:
                  - Có Trần Quang Diệu mở đường Thượng đạo ra đến Nghệ An thì việc đánh Bắc Hà như trở bàn tay. Xin tướng quân đem quân ra lấy Bắc Hà.
                  Nguyễn Huệ bảo:
                  - Hoàng huynh ta đã dặn dò chỉ đem quân ra lấy đất Thuận Hoá mà thôi. Việc tiến quân ra Bắc hà khoan bàn đến. Nay ta lệnh cho Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú đem năm ngàn quân tiến đánh Cát Doanh, Động Hải và luỹ Trường Dục, gom thâu Thuận Hoá!
                  Nhậm, Dũng, Tứ cùng bước ra lãnh lệnh. Nguyễn Huệ lại dặn dò ba tướng rằng:
                  - Ba viên tướng họ Võ nên gắng lập công. Đồn Cát Doanh, Đông Hải trơ trọi, một hồi trống ắt lấy được thành, nhưng luỹ Trường Dục ngày xưa do Đào Duy Từ đắp rất là vững chắc các ngươi nên thận trọng.
                  Hữu Chỉnh xen vào nói:
                  - Tôi có một kế chiếm luỹ Trường Dục không tốn một mũi tên hòn đạn.
                  Huệ hỏi:
                  - Kế thế nào?
                  Chỉnh đáp:
                  - Tướng giữ luỹ Trường Dục tên Nguyễn Duy trước cùng tôi là sư đệ đông môn. Nay tôi xin gửi một phong thư thuyết Nguyễn Duy. Nguyễn Duy nhất định phải hàng.
                  Huệ cả mừng bảo:
                  - Vậy phiền Hữu Chỉnh hãy thảo thư cho.
                  Vũ Văn Nhậm cất quân đi xong, Nguyễn Huệ sai quân đóng gông giải Phạm Ngô Cầu về Quy Nhơn. Vua Thái Đức hỏi:
                  - Nay người bị tội trảm có ân hận gì chăng?
                  Ngô Cầu thất kinh van lậy rối rít:
                  - Xin Hoàng thượng tha mạng. Thần có nghe quân lệnh của Hoàng thượng là không giết hàng quân nên mở cửa thành đầu hàng. Sao Hoàng thượng không dùng mà lại giết?
                  Vua Thái Đức cười rằng:
                  - Đã đành quân lệnh của Tây Sơn ta là không giết hàng quân. Những cũng phải phân biệt hạng nào nên giết, hạng nào không. Nếu chẳng như thế vô lẽ kẻ làm điều hùng ác đều đến hàng, hoá ra nhà Tây Sơn ta là nói chứa chấp đồ vô đạo thì con ra thể thống gì nữa.
                  Ngô Cầu run run hỏi:
                  - Vậy thần là hạng vô đạo hay sao?
                  Vua trợn mắt quát:
                  - Năm xưa vì ham quyền tư lợi, ngươi nghe lời Trịnh Sâm giết Thái tử lại không phải là vô đạo ư?
                  Phạm Ngô Cầu van xin:
                  - Năm xưa Nguyễn Thung tiên sinh đi sứ ra Thăng Long xin cho Hoàng thượng làm Quảng Nam đại trấn thủ. Nếu không nhờ thần bày kế chắc gì Chúa Trịnh đã thuận phong. Xin Hoàng thượng nghĩ tình ấy mà tha cho thần một phen.
                  Vua cười lớn bảo:
                  - Nam ấy ngươi bày kế cho Nguyễn Thung là để Nguyễn Thung xin cho ngươi vào trấn thủ đất Thuận Hoá hòng tránh xa khỏi hồn ma Thái tử theo báo oán. Ngươi là kẻ phải chịu ơn còn lên giọng kể ơn. Người nên nhớ lưới trời lồng lộng, gieo nhân thì gặt quả. Đêm rồi Thái tử về báo mộng cho ta, đúng giờ Ngọ hôm nay đem ngươi ra pháp trường Thái từ sẽ hiển linh về chém đầu ngươi báo oán!
                  Nói rồi truyền võ sĩ lôi Phạm Ngô Cầu ra pháp trường. Võ sĩ trói Phạm Ngô Cầu vào cột hành quyết cũng vừa đúng Ngọ. Vừa lúc ấy bỗng mặt luồng gió lạ nổi lên. Ngô Cầu trông thấy hiển hiện Thái tử Lê Duy Vỹ mặc Hoàng bào, đầu chít khăn vàng, chân đi hài tía, tay cầm bảo kiếm từ trong luồng gió ấy bước ra. Thái tử vung gươm chém Phạm Ngô Cầu, vừa vặn lúc đao phủ khai đao. Đầu Phạm Ngô Cầu liền rơi xuống đất.
                  ***
                  Nói về Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú dẫn quân gần đến đón Cát Doanh. Tướng giữ đồn là Ninh Tốn nghe tin nhủ thầm rằng: Thành Phú Xuân gồm hai vạn tinh binh, quân Tây Sơn chỉ đánh trong một đêm là lấy được thành, bắt sống Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, giết cha con Tiền đình hầu Hoàng Đình Thế. Nay họ lại kéo quân đến đây, ta ở đồn Cát Doanh trơ trọi này có mấy ngàn quân sao chống nổi giặc? Nghĩ rồi liền bỏ thành dẫn quân chạy về đồn Động Hải. Tướng giữ đồn Động Hải là Phái vị hầu thấy Ninh Tốn chạy về hoảng sợ, bàn với Ninh Tốn rằng:
                  - Nay thành Phú Xuân thất thủ, nếu ta ở đây chống với giặc khác nào lấy trứng chọi đá, chi bằng hãy bỏ Động Hải về hợp quân cũng Nguyễn Duy trấn giữ luỹ Trường Dục, xin binh cầu viện ở Nghệ An, ấy mới là thượng sách.
                  Phái vị hầu vừa nói xong nghe quân vào báo:
                  - Thưa tướng quân, có quân ở luỹ Trường Dục vào xin gặp tướng quân có điều cơ mật.
                  Ninh Tốn truyền cho vào. Tên quân thưa:
                  - Tôi ở luỹ Trường Dục dưới trướng Nguyễn Duy. Tôi tình cờ nghe lỏm được việc Nguyễn Hữu Chỉnh sai người theo đường biển đưa thư khuyên Nguyễn Duy về hàng Tây Sơn, lại dặn dò Nguyễn Duy chặn đường rút quân của ta ở Động Hải, Cát Doanh, nên vội vàng trốn về đây báo cho tướng quân hãy sớm lo liệu.
                  Ninh Tốn thất kinh nói:
                  - Nếu vậy ta phải mau theo đường bể chạy ra Nghệ An cũng Đường trung hầu Bùi Thế Toại. Nếu để chúng nhanh chân chặn mất đường thì ta chỉ còn có đường chết mà thôi.
                  Nói xong hai tướng liền đem toàn quân xuống thuyền chạy ra Nghệ An.
                  Thế là Vũ Văn Nhậm không tốn một mũi tên hòn đạn đã lấy xong Cát Doanh, Động Hải và Trường Dụ. Lấy luỹ Trường Dục xong Nhậm liền sai người giải Nguyễn Duy về Phú Xuân cho Nguyễn Huệ xét xử.
                  Nguyễn Huệ ngắm Nguyễn Duy một hồi nghĩ thấm rằng: Nguyễn Duy trước là tôi họ Nguyễn Gia Miêu, nghe Hữu Chỉnh về hàng Chúa Trịnh. Nay lại nghe Chỉnh về hàng Tây Sơn ta. Nguyễn Duy lưỡng quyền quá cao mà nhân trung quá ngắn là gương mặt của loại phản phúc. Nay xét việc hắn thấy kẻ nào mạnh thì theo kẻ ấy, mới hay người xưa xem tướng biết lòng người thật quả không sai. Nghĩ rồi Huệ hỏi Nguyễn Huỳnh Đức rằng:
                  - Huỳnh Đức thấy ta đánh Thuận Hoá thế nào?
                  Đức đáp:
                  - Long Nhương dụng binh như thần, Chúa Nguyễn vương của tôi không thể nào sánh được.
                  Nguyễn Huệ lại chỉ Nguyễn Duy hỏi Huỳnh Đức rằng:
                  - Hai người đều là tôi nhà Nguyễn, vậy có biết nhau chăng?
                  Huỳnh Đức đáp:
                  - Nguyễn Duy tướng quân trấn thủ ở luỹ Trường Dục là tôi của chúa Định vương Phúc Thuần, còn tôi đóng giữ cửa Hàm Luông dấy binh phò Nguyễn vương Phúc Ánh. Kẻ Nam người Bắc, kẻ trước người sau nên không được biết!
                  Huệ cười bảo:
                  - Hai người quả là hai tính cách khác nhau, kẻ quá thức thời người cố chấp, nay đều ở dưới trướng của ta âu cũng là duyên số vậy.
                  Nói rồi Nguyễn Huệ phong Nguyễn Duy chức tướng quân, lưu lại ở trong quân cùng Nguyễn Huỳnh Đức.
                  Tối hôm ấy Trần Quang Diệu đến gặp riêng Nguyễn Huệ hỏi:
                  - Huỳnh Đức tạm hàng ta nhưng lòng vẫn trông về Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Duy là người phản phúc sao Long Nhương lại để hai người này ở cạnh nhau. Tôi thật chẳng yên lòng.
                  Huệ cười đáp:
                  - Ở gần nhau trong binh của ta là chẳng có binh quyền, thì có gì đáng ngại. Nếu để Nguyễn Duy giữ luỹ Trường Dục nếu nó phản phúc chẳng đáng ngại sao.
                  Trần Quang Diệu chịu và phải lui ra.
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #39
                    Chương 36

                    Tìm minh chủ, Trần Văn Kỷ làm thơ.
                    Vĩ đại nghĩa, Nguyễn Huệ ra Bắc.


                    Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh về đến tư dinh, thủ hạ Nguyễn Viết Tuyển hỏi Chỉnh rằng:
                    - Tướng quân những muốn mượn tay quân Tây Sơn mà về đất Bắc. Nay Nguyễn Huệ đã lấy xong Thuận Hoá nhưng không tiến quân khỏi sông Linh Giang thì làm sao ta về Bắc được?
                    Chỉnh trầm ngâm đáp:
                    - Ngày mai ta sẽ khuyên Nguyễn Huệ mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh. Nếu Nguyễn Huệ nghe lời ta nghĩ là ta đã bắn một mũi tên trúng hai mục đích đó.
                    Tuyển hỏi:
                    - Thế nào là một mũi tên trúng hai đích?
                    Chỉnh đáp:
                    - Nguyễn Nhạc chí nhỏ, tài sơ nhưng quyền hành lớn. Nguyễn Huệ chí cả tài cao mà lại ở dưới quyền Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ nghe lệnh Nguyễn Nhạc nhưng trong lòng ắt là bất phục. Nguyễn Nhạc dùng Nguyễn Huệ tránh sao khỏi nghi ngờ. Nay nếu Nguyễn Huệ nghe lời ta mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc. Diệt Trịnh rồi Huệ rút quân về tất phải cử người ở lại Bắc Hà để phò Lê. Người ấy không phải là ta thì còn ai cho hợp lý hợp tình hơn nào. Ấy là một mục đích.
                    Viết Tuyển hỏi:
                    - Ấy thật là diệu kế. Còn mục đích thứ hai là gì?
                    Chỉnh không đáp mà hỏi lại Tuyển:
                    - Theo người trong thiên hạ ngày nay ai là kẻ anh hùng?
                    Tuyển đáp ngày:
                    - Theo tôi Nguyễn Huệ thật là bậc anh hùng trong thiên hạ.
                    Chỉnh nói:
                    - Nguyễn Huệ đánh Nam dẹp Bắc chước quỷ mưu thần đạp đổ nhà Nguyễn ở Đàng Trong, bốn lần và Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh không còn manh giáp, trong một đêm tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La thật đáng mặt anh hùng. Nhưng đoán anh hùng từ lúc hàn vi mới là thức giả. Vậy ta muốn hỏi người ai chưa nên sự nghiệp mà đáng mặt anh hùng, sánh cùng Nguyễn Huệ?
                    Tuyển đáp:
                    - Tôi là người hèn mọn chẳng thấy việc cao xa. Xin tướng quân chỉ dạy.
                    Chỉnh trầm ngâm nói:
                    - Nếu Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc tất Nguyễn Nhạc vốn sẵn đã nghi ngờ sẽ bắt tội kháng lệnh, dù nghĩ tình ruột thịt cũng tước mất binh quyền. Ấy là ta không đành mà trừ được Nguyễn Huệ. Chẳng phải là địch thứ hai sao?
                    Nguyễn Viết Tuyển vòng tay bái nói:
                    - Hùng tài của tướng quân thật đã sánh cùng Nguyễn Huệ.
                    Nguyễn Hữu Chỉnh cười lớn rằng:
                    - Sau khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc thì trong thiên hạ chỉ còn lại một mình ta là đáng anh hùng.
                    Rồi Chỉnh đến gặp riêng Nguyễn Huệ nói:
                    - Nay Chúa công kéo quân đến đây chỉ đánh một trận gom châu Thuận Hoá uy danh lừng lẫy. Chúa công nên thừa lúc thế quân như chẻ tre đem quân Bắc tiến cho non sông quy về một mối, xoá bỏ ranh giới Linh Giang mà hai nhà Trịnh - Nguyễn đã dựng nên suốt hai trăm năm này. Ấy chẳng phải là công nghiệp chưa từng có hay sao?
                    Nguyễn Huệ điềm nhiên hỏi:
                    - Từ ngày vừa Lê Thái Tổ dựng nước đến nay đã ba trăm năm lòng người đời đời nhớ ơn, đến như họ Trịnh hung tàn còn không dám truất bỏ. Nay ta lấy lý gì để kéo quân vào đất ấy được?
                    Chỉnh đáp:
                    - Họ Trịnh bao đời nay hiếp đáp vua Lê, thiên hạ đều bất bình. Vả lại quân nhà Trịnh thêm nạn kiêu binh muôn dân hờn oán, nếu Chúa công dùng chiếc bài phò Lê diệt Trịnh thì nhân dân Bắc Hà ai là chẳng theo.
                    Huệ nói:
                    - Ta hỏi thế là để thử tài ông mà thôi. Tám năm trước đã biết trước sẽ có ngày đêm quân Bắc tiến diệt Trịnh phò Lê, nên ta mới khuyên Hoàng huynh cho lên ngôi Hoàng đế. Nếu lúc ấy Hoàng huynh nghe lời ta thì hôm nay ta ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh đường đường chính chính đóng quân ở Bắc Hà thống nhất giang sơn dựng đời thịnh trị. Ngặt nỗi Hoàng huynh ta này đã xứng đế hiệu lập riêng một nước nếu muốn thống nhất sơn hà chỉ có cách phế bỏ nhà Lê, bằng không phải kéo quân về trả nước cho họ. Nếu vậy ta đem quân ra Bắc được lợi lộc gì?
                    Chỉnh đáp:
                    - Thánh nhân dựng nghiệp chỉ nói về nghĩa không kể về lợi. Nay Hoàng thượng lên ngôi là mất nghĩa để thống nhất giang sơn thì Chúa công phải tự lập mà dựng nên nghiệp lớn. Nay Chúa công để quân ra Bắc diệt Trịnh phó Lê lại cứu dân khỏi ách họ Trịnh ấy là được nghĩa. Vua Lê nhu nhược, trăm họ mến đức nhưng bá quan lại chẳng sợ uy làm gì mà nước không sinh loạn. Thừa lúc nước loạn Chúa công cử người ở lại mượn tiếng phò Lê định yên cõi Bắc rồi sẽ tuỳ thời mà liệu việc, cũng chưa hẳn là không lợi cho nghiệp đế về sau.
                    Huệ cười hỏi:
                    - Lời ông cũng phải, vậy theo ông sau khi ta rút quân về ai có thể ở lại định yên cõi Bắc?
                    Chỉnh giả vờ hỏi lại rằng:
                    - Dưới trướng chúa công nhiều tướng giỏi chẳng biết người sẽ chọn ai.
                    Huệ đáp:
                    - Việc này chỉ có ông là làm được mà thôi.
                    Chỉnh thất sắc nói:
                    - Tôi bất tài dám đâu nhận trọng trách ấy.
                    Huệ vờ nói lảng sang chuyện khác rằng:
                    - Ta chỉ vâng lệnh Hoàng huynh đánh Thuận Hoá. Nếu đem quân ra Bắc e mang tội kháng lệnh thì sao?
                    Chỉnh đáp:
                    - Binh pháp có câu: "Tướng ngoài biên ải không cần phải nhất nhất tuân lệnh của vua".
                    Huệ ngẫm nghĩ hôi lâu rồi bảo:
                    - Những điều ông nói đều đúng, riêng việc này ta cần suy nghĩ lại. Và có một điều ta cấm ông không được gọi ta bằng hai tiếng "Chúa công"!
                    Hữu Chỉnh đáp:
                    - Hai tiếng Chúa công tôi vô tình thốt ra bằng lòng kính phục. Bởi chí Hoàng thượng không bằng chí của tướng quân, xin tướng quân tha tội. Tự hậu không còn dám hồ đồ như thế nữa.
                    Nói rồi Nguyễn Hữu Chỉnh cáo lui.
                    Nguyễn Hữu Chỉnh về rồi, Nguyễn Huệ cứ đi đi lại lại trong phòng, hết ngồi lại đứng, không ngớt thở dài, suốt đêm chẳng tài nào ngủ được.
                    Hôm sau Huệ đem theo vài người hậu cận ra khói thành đến cầu Trường Tiền bắc ngang sông Hương ngắm dòng nước chảy suy nghĩ đăm chiêu. Trên mặt sông phẳng lặng vài chiếc thuyền con chở than đi bán nhẹ nhàng lướt sóng. Bỗng trong những chiếc thuyền ấy cất lên giọng ca trong trẻo rằng:
                    Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
                    Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?
                    Huệ giật mình bảo quân:
                    - Hãy mau gọi những chiếc thuyền ấy lại cho ta!
                    Quân chưa kịp gọi thì những chiếc thuyền ấy đã qua khỏi khúc quanh mất hút.
                    Nguyễn Huệ liền vội vã về dinh gọi đô đốc Nguyễn Văn Tuyết lên một chiếc thuyền lớn cứ ngược dòng Sông Hương mà đi. Gặp chiếc thuyền bán thân nào Huệ cũng gọi lại hôi rằng:
                    - Xin cho hỏi các ngươi có biết kẻ bản than nào lúc sáng ca rằng: " Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
                    Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?" hay chăng?
                    Những người bán than đều lắc đầu bảo: "Không biết!". Đến chiều tối người ca hai câu phú ấy vẫn bặt tăm. Huệ thất vọng ra về. Các tướng nghe Huệ gặp điều buồn bực liền đến vấn an. Vừa trông thấy Huệ, Trần Quang Diệu giật mình hỏi:
                    - Mới không gặp một ngày sao Long Nhương mặt mày hốc hác, thần sắc xanh xao như thế?
                    Huệ đáp:
                    - Ta có việc lo buồn suốt đem trằn trọc thành ra như vậy.
                    - Long Nhương có thể cho chúng tôi biết được hay chăng.
                    - Việc này các ngươi không thế hiểu được đâu.
                    Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu xen vào hỏi:
                    - Có phải vì tìm không gặp tên nho sinh ca ban sáng mà Long Nhương buồn bực hay chăng. Để tôi ở tìm bắt nó về cho Long Nhương trị tội.
                    Huệ gạt đi bảo:
                    - Văn Tuyết chớ nói càn. Việc ta lo buồn không phải do người ca ấy. Ta muốn tìm người ca ấy, hoạ may người này có thể giải được nỗi lo của ta!
                    Trần Quang Diệu bàn rằng:
                    - Ngươi ca hai câu phú ấy ắt không phải là kẻ tầm thường, chí muốn giúp đời không phải người ở ấn. Ta không biết kẻ sĩ ở đâu để dùng lễ cầu hiền. Cao nhân ai lại nhận mình là cao nhân. Dù nhận để giúp đời tránh sao khỏi thế thái hiểu lầm là tham danh hám lợi. Theo tôi người này nhất định ở trong đoàn thuyền bán than ấy nhưng vì tự trọng nên không thể nhận mình là người ca câu phú ấy mà thôi.
                    Huệ hỏi:
                    - Ta không biết chỗ ở để cầu. Hiền sĩ vì sĩ mà không thể đến. Vậy phải làm sao?
                    Diệu hiến kế:
                    - Những người bán than đều ở thượng lưu cầu Trường Tiền. Nay Long Nhương cứ đem một chiếc thuyền chặn ở cầu Trường Tiền rồi cứ làm như vậy... như vậy... người ấy tất phải ra.
                    Nguyễn Huệ khen rằng:
                    - Ấy thật là diệu kế.
                    Nguyễn Huệ thân hành đem vài chiếc thuyền đến cầu Trường Tiền, sai Trần Quang Diệu đón phường bán than ở thượng lưu xuống, nói:
                    - Ta sẽ ra đầu đề, nếu trong các ngươi có ai làm được một bài thơ phú thì ta sẽ cho qua cầu bán than bằng không thì phải quay về.
                    Phường bán than năn nỉ rằng:
                    - Chúng tôi nghèo hẹn ít học chỉ biết chèo thuyền bán than, không biết làm thơ phú. Nếu tướng quân không cho qua chắc phải chết đói.
                    Trần Quang Diệu nhất định bảo quân chặn lại không cho đi. Đến chiều cũng chẳng có ai chịu làm thơ phú cả. Nguyễn Văn Tuyết bực dọc nói lớn rằng:
                    - Thu phục võ tướng thì dễ, cầu kẻ sĩ sao mà khó thế?
                    Lúc ấy có một chiếc thuyền bán than cũng vừa chèo đến. Người mới đến thân mình đen đủi bụi thân, nhưng đôi mắt sáng quắc, toát lên vẻ ung dung từ tại. Người ấy nói với Trần Quang Diệu rằng:
                    - Tôi dốt nát nhưng trong nhà đã hết gạo nên đánh liều múa rìu qua mắt thợ. Nếu không hay xin tướng quân tha tội.
                    Trần Quang Diệu mừng thầm nhưng vờ nạt:
                    - Phải đọc thơ phú bằng tiếng Nam ta, không đọc bằng tiếng Hán. Đọc hay cho qua, đọc dở đuổi về.
                    Người ấy nói:
                    - Xin tướng quân ra đề.
                    Nguyễn Huệ xen vào ôn tồn bảo:
                    - Ai cũng muốn qua cầu bán than. Vậy ra đâu đề là qua cầu bán than.
                    Người ấy ứng khẩu đọc ngay một bài thơ Nôm rằng:
                    "Thương người lạnh, ta bán than.
                    Lòng nhân đã mỏi, con mang cho đầy.
                    Neo thuyền đậu dưới cầu này.
                    Nhân tình thế thái đổ đầy hai vai.
                    Thuyền ta xuôi ngược sông dài.
                    Đời như dòng nước chảy hoài ngàn năm!
                    Nhen khó cháy chẳng mua lầm.
                    Lửa lòng nguội tắt lạnh căm đó mà.
                    Thân hầm chẳng phải than hoa.
                    Dẫu cùng nhơ nhớp như gà tranh ăn!
                    Hồn tương tư, cánh chim Bằng.
                    Trời cao đổi gió, ngậm trăng no sấu.
                    Than đen vẽ sóng bạc đấu.
                    Thì thôi lỡ nhịp qua cầu mà chi?
                    Đời như nước gánh về đi.
                    Cầm bằng ném ngọc lưu ly đáy hồ!

                    Người ấy đọc xong, Nguyễn Huệ tấm tắc khen:
                    - Hay! Quả nhiên là xuất khẩu thành thơ. Chẳng phải anh hùng thì không thể làm được bài thơ này. Oán thán thay! Mà hùng tráng thay! Giọng điệu này ắt hắn phải là kẻ anh hùng lỡ vận.
                    Nói rồi Nguyễn Huệ liền mời người ấy lên thuyền hỏi:
                    - Chẳng hay tiên sinh cao danh là gì. Quê quân ở đâu?
                    Người ấy đáp:
                    - Tôi tên Trần Văn Kỷ.
                    Nguyễn Huệ mừng quá ngắt lời Trần Văn Kỷ rằng:
                    - Lục lâm chung thấy tôi có dặn, ngày sau tiến quân đến Phú Xuân phải mời cho được Trần tiên sinh ra giúp rập. Tôi nghe lời ấy nên vừa đến đã sai quân đến làng Văn Trình tìm kiếm, nhưng tiên sinh đã dời nhà đi, hỏi thăm không ai biết. Nay được diện kiến dung nhan thật là duyên hạnh ngộ.
                    Vẫn Kỷ hợi:
                    - Thầy của tướng quân có phải là quân sư Trương Văn Hiến chăng?.
                    - Trương Văn Hiến chính là thầy tôi đó.
                    Văn Kỷ nói:
                    - Tới đối với Trường tiên sinh là hàng hậu bối. Lúc Trường tiên sinh còn ở Phú Xuân vẫn thường cùng tôi luận bàn thế sự, khinh Chúa tôi nhà Nguyễn mà chẳng ra ứng thi. Nay nghe Trường tiên sinh mất sớm thật thương tiếc vô cùng. Con phần tôi về sau họ Trịnh vào chiếm Phú Xuân, tôi ra thi do Giải Nguyên. Nhưng sau thấy Chúa Trịnh ở ngoài chẳng khác nào Chúa Nguyễn ở trong, lại thêm trấn thủ Phạm Ngô Cầu ngu si, tàn ác, tham lam nên tôi từ quan lui về ở ẩn. Lòng vẫn hàng mong được gặp minh quân đem chút tài hèn ra giúp dân giúp nước.
                    Huệ hỏi Văn Kỷ:
                    - Có phải hôm trước tiên sinh ca hai câu phú rằng: " Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
                    Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?" đó chăng?
                    Văn Kỷ nói phải. Huệ lại hỏi:
                    - Tiên sinh ca hai câu phú ấy là có ý gì?
                    Văn Kỷ ngạc nhiên hỏi lại Huệ rằng:
                    - Thế chẳng phải tướng quân sắp sửa đem quân Bắc tiến mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh thống nhất sơn hà đó sao, mà còn hỏi tôi những lời ấy?
                    Huệ giật mình đáp:
                    - Đúng là tôi sẽ đem quân Bắc tiến... Nhưng không được. Phải! Phải thống nhất sơn hà. Nhưng e rằng không được!
                    Trần Văn Kỷ cười lớn rằng:
                    - Tướng quân ngôn ngữ bất nhất tất tâm thần bất định. Tướng quân ở trong tình thế phải chọn một trong hai.
                    Huệ hỏi:
                    - Thế nào là chọn một trong hai?
                    Văn Kỷ đáp:
                    - Nếu chọn nước chọn dân, phải phụ anh, phụ Chúa. Hoặc ngược lại. Ấy là chọn một trong hai vậy.
                    Huệ kinh ngạc nói:
                    - Sinh tôi là cha mẹ, hiểu tôi có hai người, xưa là Trương quân sư thầy tôi, nay là Trần tiên sinh vậy! Đó chính là điều mà mấy hôm này tôi mất ăn mất ngủ. Theo tiên sinh nếu tôi kéo quân ra Bắc diệt Trịnh phò Lê thống nhất sơn hà, Hoàng huynh tôi không thể bỏ qua tội kháng lệnh cho tôi sao?
                    Văn Kỷ đáp:
                    - Kháng lệnh là cái cớ, không phải tội của tướng quân.
                    Huệ hỏi:
                    - Vậy thế nào là tội?
                    Văn Kỷ đáp:
                    - Tôi tướng quân là tài cao chí lớn hơn vua.
                    Huệ lại hỏi;
                    - Dám hỏi sao tiên sinh lại nghĩ rằng chí Hoàng huynh không lớn?
                    Trần Văn Kỷ cười lớn một hồi, rồi đáp:
                    - Ngươi đời sau bình luận về thời Hán - Sở tranh hùng rằng: Lưu Bang không có tài trị nước bằng Tiêu Hà, không có tài quân sự bằng Hàn Tín, không có tài chính trị bằng Trương Lương, vậy tại sao ba người này đều thần phục Lưu Bang? Bởi Tiêu Hà chỉ lập chí làm thừa tướng, Hàn Tín chỉ lập chí làm nguyên soái Trương Lương chỉ lập chí báo thù cho nước Hán không có ai lập chí làm vua như Lưu Bang cả. Ấy là chuyện xưa ở nước Tàu. Còn chuyện nước ta ngày nay chí thống nhất sơn hà là chí lớn, chí làm vua lại là chí nhỏ. Năm ấy Thái Đức Hoàng thượng lên ngôi là chỉ nghĩ đến việc lấy đất họ Nguyễn ở Đàng Trong mà lập riêng một nước. Nếu nghĩ đến việc thống nhất sơn hà ắt biết có ngày phải diệt Trịnh phò Lê thì không được lên ngôi vua mới là thượng sách. Xem thế mới biết chí của Thái Đức Hoàng thượng là chí nhỏ vậy.
                    Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
                    - Trần tiên sinh lập luận rất sâu sắc, thật có mắt tinh đời. Nay nếu ta muốn thống nhất sơn hà phải đem quân Bắc tiến. Vậy đối với Hoàng huynh ta nên thế nào?
                    Văn Kỷ đáp:
                    - Tướng quân ra Bắc lần này phải mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh. Diệt Trịnh xong thì phải kéo quân về, trả nước cho vua Lê, vì nước của tướng quân là nước của vua Thái Đức ở Đàng Trong. Khi tướng quân kéo quân về, Hoàng thượng sẽ mượn cớ kháng lệnh mà bắt tội, ít nhất cũng tước hết binh quyền của tướng quân. Vậy muốn thống nhất sơn hà, tướng quân chỉ còn một cách là bất tuân thành chỉ, ở lại Phú Xuân không được về Quy Nhơn phục mệnh.
                    Huệ buồn rầu hỏi:
                    - Vậy là ta phải mang tiếng phản Chúa phụ anh.
                    Trần Văn Kỷ đáp:
                    - Nếu bây giờ tướng quân sợ tội kháng lệnh, thay vì kéo quân ra Bắc lại quay về Quy Nhơn thì chẳng bao giờ còn có cơ hội thống nhất sơn hà, định yên xã tắc, dựng đời thịnh trị. Đó là ý của tôi, tuỳ tướng quân quyết định.
                    Nguyễn Huệ ứa nước mắt nói:
                    - Nếu về Quy Nhơn thì xót thương lê dân ở Bắc Hà, đem quân Bắc tiến thì mắc tội với anh. Anh ta thay cha nuôi dậy ta từ nhỏ, nay phải phụ anh lòng ta sao nỡ.
                    Trần Văn Kỷ vòng tay nói:
                    - Dù không đem quân ra Bắc cũng xin tướng quân hãy vì dân trong nước vua Thái Đức. Tôi xin phép cáo từ.
                    Nguyễn Huệ ngạc nhiên hỏi:
                    - Mới gặp nhau chưa thoả lòng cầu hiền, sao tiên sinh định bỏ tôi mà đi.
                    Trần Văn Kỷ đáp:
                    - Tướng quân kéo binh về Quy Nhơn thì những điều tôi vừa nói với tướng quân nếu Hoàng thượng nghe được ắt cái đầu tôi không còn trên cổ. Nên tôi xin được về cùng non nước, đi trong gió mây mà tránh tai hoạ vậy.
                    Huệ nắm tay Văn Kỷ nói:
                    - Xin tiên sinh chớ vội. Tôi đã quyết định rồi, sẽ đem quân Bắc tiến.
                    Hôm sau Nguyễn Huệ họp các tướng nói:
                    - Nay ta định đem quân Bắc tiến, mượn tiếng phò Lê cứu dân lành thoát tay họ Trịnh bạo tàn. Nhưng ngặt nỗi nếu về Quy Nhơn xin lệnh và lương thực của Hoàng huynh e Hoàng huynh không cho đi. Nếu không đủ lương thực sao đánh được Bắc Hà. Các tướng có kế gì chăng?
                    Nguyễn Văn Lộc hỏi:
                    - Thành Phú Xuân ta vừa chiếm được lương thực dồi dào, sao Long Nhương lại bảo là không có lương?
                    Huệ buồn rầu đáp:
                    - Chúa tôi họ Trịnh hà khắc để lương dân đói rách lầm than. Mấy năm gần đây thêm thiên tai hạn hán mất mùa dân tình càng thêm điêu đứng. Nay ta vừa lấy đất Thuận Hoá, liền mở kho lương phát cho dân nghèo, nên hiện nay lương thực ở thành Phú Xuân chỉ đủ để dự trữ cho dân đến mùa thu hoạch không thể dùng vào việc quân. Ấy là nỗi lo của ta.
                    Nghe Nguyễn Huệ nói định đánh Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh mừng lắm liền rút từ tay áo ra một tấm bản đồ. Giở bản đồ trên bàn, Hữu Chỉnh nói:
                    - Đây là bản đồ đất Bắc, nếu ta đem thuỷ quân vào cửa Ba Lạt theo sống Nhị Hà đánh lấy Vị Hoàng thì có thể giải quyết việc quân lương.
                    Huệ hỏi:
                    - Tại sao đánh lấy Vị Hoàng thì có thể giải quyết việc quân lương?
                    Chỉnh đáp:
                    - Vì ở Vị Hoàng có một kho lương thực. Kho này chứa thóc của các trấn Thận Hoá, Nghệ An, Thanh Hoá gồm trăm vạn hộc. Nhưng nếu ta đem thuỷ quân đánh lấy Vị Hoàng là đơn độc vào sâu trong đất địch e rằng mạo hiểm.
                    Nguyễn Huệ mừng rỡ nói:
                    - Có quân lương ta chẳng lo gì nữa. Con việc đánh lấy Vị Hoàng có gì là mạo hiểm.
                    Hữu Chỉnh hỏi:
                    - Từ sông Linh Giang trở ra phải quá hai thành Nghệ An, Thanh Hoá, đường xa hàng mấy trăm dặm mới đến Vị Hoàng. Nếu Bùi Thế Toại ở Nghệ An chặn được bộ binh ta rời quân ở Thanh Hoá do Tạ Danh Thuỳ tiến ra và quân ở Thăng Long tiến vào đánh quân ta ở Vị Hoàng, thì lúc ấy ta lưỡng đầu thọ địch sao bảo là không mạo hiểm.
                    Huệ cười bảo:
                    - Quân ở Nghệ An thiên binh thiên tướng gì mà có thể ngăn được bộ binh ta. Còn việc vào sau đất địch ư? Ta bốn lần vào Gia Định, từ ải Vân Phong phải qua Bình Thuận, Trấn Biên, Sài Côn, Phiên Trấn mới đến Trường Đồn đường xa hàng ngàn dặm đều từ trong lòng địch. Vậy mà ta vẫn sai tướng trước đem thuỷ quân đánh lấy Trường Đồn chặn đường lui quân của giặc. Nay đánh lấy Vị Hoàng ở Bắc Hà, so với việc đánh lấy Trường Đồn ở Nam Hà ngày xưa có đáng gì mà bảo là mạo hiểm. Việc này ông Chỉnh chớ lo. Nay ta phong Hữu Chỉnh chức Hữu quân tiên phong đem tám ngàn quân và tám chục đại thuyền tiến đánh Vị Hoàng, chiếm khó lương. Ta sẽ cho Đô đốc Nguyễn Văn Lộc và Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết là hai tướng giỏi thuỷ binh của ta theo trợ giúp. Ba người hay cùng nhau bàn bạc việc quân, nếu gặp giặc cứ để Tuyết, Lộc đi đầu không ngại gì cả.
                    Rồi quay sang Nguyễn Văn Lộc, Huệ hỏi:
                    - Từ Phú Xuân đến Vị Hoàng phải hết mấy ngày đường?
                    Lộc đáp:
                    - Nay đang là tháng năm, gió Đông Nam thổi mạnh, đi đến nơi nhiều nhất là năm ngày đường.
                    Huệ liền bảo:
                    - Ta cho đạo quân của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc năm ngày lương. Đến nơi đánh thắng giặc lấy lương mà ăn.
                    Hữu Chỉnh thất kinh hỏi:
                    - Việc quân thắng bại là thường. Nay Long Nhương chỉ cấp lương đủ dùng trên đường đi, ngộ nhỡ không thắng giặc là Long Nhương đem chúng tôi và chỗ chết hay sao?
                    Nguyễn Huệ lại cười bảo:
                    - Quân dưới quyền của ta trải qua hàng trăm trận đánh Nam dẹp Bắc chỉ có thăng chẳng biết thua. Vả lại Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc đều là tâm phúc của ta. Ta lại đem tâm phúc của ta vào chỗ chết hay sao mà ông phỏng ngại. Nếu Hữu Chỉnh không đi thi Tuyết và Lộc lập tức xuất quân.
                    Nguyễn Hữu Chỉnh vội vàng nói:
                    - Quân ta thiện chiến tiến binh thần tốc như vậy tôi còn ngại gì mà chẳng đi.
                    Nguyễn Huệ gọi Trần Quang Diệu bảo:
                    - Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân hãy lãnh năm ngàn tinh binh theo đường thượng đạo đánh lấy Nghệ An.
                    Trần Văn Kỷ hỏi:
                    - Quân của Ninh Tốn ở Cát Doanh và Phái vị hầu ở Động Hải đã rút về hợp cùng Bùi Thế Toại trấn thủ Nghệ An. Quân Trịnh ở Nghệ An hai vạn người, tướng quân Trần Quang Diệu chỉ có năm ngàn quân làm sao thắng giặc?
                    Nguyễn Huệ cười đáp:
                    - Trần tiên sinh chưa biết đó thôi. Nguyên Trần Quang Diệu đã từng tay không đánh cọp giữa rừng mở đường Thượng đạo. Quân ta hạ thành Phú Xuân trong một đêm chính là nhờ Trần Quang Diệu theo đường Thượng đạo từ hướng Tây đánh xuống. Từ ấy trong quân thường gọi Diệu là Thượng đạo tướng quân Trần Quang Diệu đó.
                    Nói xong Nguyễn Huệ lại gọi Nguyễn Lữ bảo:
                    - Tiết chế Nguyễn Lữ! Em lãnh ba ngàn quân ở lại giữ thành Phú Xuân. Tứ sư đệ tướng quân hợp cùng Vũ Văn Nhậm, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú đang đóng giữ luỹ Trường Dục đem quân Bắc tiến. Các tướng hay lãnh lấy lệnh bài!
                    Nguyễn Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Quang Diệu đều bước ra lãnh lệnh. Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu hỏi:
                    - Bọn võ tướng chúng tôi đều lãnh lệnh cầm gươm lên ngựa ra trước trận tiền. Vậy con Trần tiên sinh sẽ làm gì?
                    Trần Văn Kỷ cười đáp:
                    - Đâu phải chỉ biết cấm gươm mới là đánh giặc. Ngày xưa vua Lê Thái Tổ khởi binh đánh giặc Mình xâm lược, Ức trai Nguyễn Trãi dùng một ngòi bút mà thăng Vương Thông ở thành Thăng Long, đuổi giặc Mình ra ngoài bờ cõi, rồi Nguyễn Trãi lại dùng văn tài của mình cứu đất nước khỏi nạn binh đao do quân Minh định kế trả thù, ấy chẳng phải chiến công của người cầm bút hay sao?
                    Nguyễn Văn Tuyết lại hỏi:
                    - Việc này tôi có biết. Còn Trần tiên sinh đã cầm bút đánh giặc được hay chưa?
                    Trần Văn Kỷ lấy từ trong ngực ra một tờ thư trao cho Nguyễn Huệ, Kỷ nói:
                    - Đây là tờ hịch phò Lê diệt Trịnh tôi đã sao xong, trình tướng quân duyệt lãm!
                    Nguyễn Huệ tiếp tờ hịch xem, đến một đoạn Huệ thích thú đọc lớn lên rằng:
                    Vả bấy lâu thần nịnh Chúa hôn, gương bình trị lòng trời ắt muốn!
                    Sao gặp hội binh kiêu dân oán, sửa kỷ cương tài cả chẳng ra?
                    Hai câu phú này là tiên sinh đã ca trên dòng sông Hương đây mà.
                    Trần Văn Kỷ nói:
                    - Thưa phải.
                    Nguyễn Huệ lại đọc tiếp rằng:
                    "Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn.
                    Bình tức khắc lại giương buồm Bắc Hải.
                    Sang sông Mạnh phất cờ Chu Vũ, ra tay sửa chính dẹp tà.
                    Vào đất Quan hét ngựa Hán Hoàng, quyết chí lấy nhân trừ bạo.
                    Truyền lệnh ta các tướng đánh đến đâu phải truyền hịch này cho muôn dân đến đó.
                    Nguyễn Huệ lại gọi quân vào trao thư và dặn:
                    - Ngươi mau đem thư của ta về Quy Nhơn trao cho Hoàng thượng bảo người hay ta đem quân Bắc tiến.
                    Nói rồi Nguyễn Huệ xăm xăm bước ra ngoài chính điện. Các tướng lấy làm lạ liền vội vã bắt đầu theo. Ra ngoài Nguyễn Huệ quay mặt về hướng thành Quy Nhơn lạy ba lậy nhủ thầm rằng: Nếu Hoàng huynh có bắt tội, nếu em Huệ này phụ lòng Hoàng huynh cũng bởi vì quốc gia dân tộc phải làm điều bất đắc dĩ mà thôi!
                    Lậy rồi Huệ đủng lên rưng rưng hai giọt lệ bảo các tướng rằng:
                    - Các tướng ai lo việc nấy. Truyền lệnh ta lập tức xuất binh!
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #40
                      Chương 37

                      Giận lời khích tướng, Ngô Văn Sở bắt tướng.
                      Lầm kế bất trung, Lý Trần Quán chết trung.


                      Nhắc lại Ninh Tốn và Phái vị hầu hậu bỏ đồn Cát Doanh và Động Hải chạy về Nghệ An ra mắt Đường trung hầu Bùi Thế Toại kể lại việc mất Thuận Hoá. Bùi Thế Toại liền sai người hoả tốc mang thư về kinh thành Thăng Long báo cùng Đoan nam vương Trịnh Khải. Trịnh Khải liền thiết triều hỏi bá quan văn võ bàn việc quốc gia. Trịnh Khải hỏi:
                      - Đường trung hầu Bùi Thế Toại trấn thủ Nghệ An báo tin về, quân Tây Sơn đã đánh lấy Thuận Hoá. Tạo quận công Phạm Ngô Cầu bị bắt, Tiền đình hầu Hoàng Đình Thể tử trận. Nay giặc Tây Sơn đã tiến đến sông Linh Giang, các quan bàn bạc xem ta nên tiến thủ thế nào?
                      Trần Công Xán trong hàng quan văn bước ra thưa:
                      - Việc mất đất Thuận Hoá là điều may, Chúa thượng nên mừng chớ nên lo.
                      Chúa Trịnh Khải ngạc nhiên hỏi:
                      - Đất của ta mất về tay giặc sao Trần Công Xán bảo ta nên mừng là ý thế nào?
                      Trần Công Xán đáp:
                      - Đất Thuận Hoá trước là do Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc lấy được trong tay nhà Nguyễn. Nơi này đường sá xa xôi, núi sông cách trở đất đai cằn cỗi chật hẹp. Mười mấy năm nay ta chiếm đóng xứ này hao binh tổn tướng mà chẳng được lợi lộc gì. Nay đất ấy mất, khỏi nhọc sức cho quân đi đồn trấn phương xa, ấy là điều may vậy. Nay ta cứ lấy sông Linh Giang cứ làm ranh giới hai miền Nam - Bắc. Cõi Đàng Trong giao cho họ Nguyễn và giặc Tây Sơn muốn làm thế nào thì làm, không can hệ đến ta, cho nên giữ lấy đất Nghệ An trở ra là đất đai của Tiên vương mà thôi.
                      Chúa Trịnh Khải lại hỏi:
                      - Lời khanh cũng phải. Vậy theo khanh ta nên dùng kế sách gì giữ vững đất Nghệ An?
                      Trần Công Xán đáp:
                      - Nghệ An có Đường trung hầu Bùi Thế Toại trấn đóng là đã vững như bàn thạch vậy. Bùi Thế Toại gồm tài thao lược, đất Nghệ An lại hiểm trở. Trước thì có sông Linh Giang làm hào, sau thì có núi Phượng Hoàng, Dũng Quyết làm luỹ. Thành Nghệ An chắc chắn, đất hiểm, tướng tài lại không giữ vững được sao. Vả lại quân Tây Sơn là bọn giặc mới ở núi cao thừa thời nổi loạn, nay chiếm được hết đất đai của họ Nguyễn đã cho đó là may, làm gì có tham vọng xâm lấn nước của ta. Về việc đất Nghệ An xin Chúa thượng chớ lo!
                      Nghe Trần Công Xán nói xong, Chúa Trịnh Khải vẫn dùng dằng chưa hết lo âu. Bỗng nghe trong hàng quan võ có tiếng hỏi lớn:
                      - Lấy gì làm chắc rằng quân Tây Sơn không xâm phạm đất Nghệ An ta. Giặc đem đại binh hai vạn đánh Phú Xuân trong một đêm, nếu chúng lại tiến đánh Nghệ An, Đường trung hầu Bùi Thế Toại sao chống nổi giặc.
                      Mọi người giật mình nhìn lại, thì ra ấy là Thái đình hầu Trịnh Tự Quyền. Chúa Trịnh Khải hỏi Trịnh Tự Quyền rằng:
                      - Theo ý khanh thì thế nào?
                      Quyền đáp:
                      - Đất Thuận Hoá là do Tiên vương sai Việp quận công cất bốn vạn quân vào lấy được đã mười mấy năm nay. Nay đất của ta mất về tay giặc thì lại bảo là may. Giặc đã lăm le ngoài biên ải thì vô cớ lại bảo rằng giặc không có tham vọng lấy đất Nghệ An. Ấy là luận điệu của kẻ trói gà không chặt, nhác việc binh đao, xin Chúa thượng chớ nghe theo mà hại cho xã tắc. Vả lại binh pháp có câu: "Chờ cậy rằng: giặc không đến. Cứ cho là giặc sẽ đến ta đã có kế sách đánh chúng rồi vậy". Nói như Trần Công Xán tiên sinh thì là chưa từng biết việc binh gia. Trong các tướng dưới trướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc năm xưa còn có ai hùng tài hơn Tiền đình hầu Hoàng Đình Thể? Vậy mà quân Tây Sơn trong một đêm đã lấy được thành, cha con Tiền đình hầu đều bỏ mình bảo quốc. Nay Đường trung hầu Bùi Thế Toại mật báo về kinh ý xin binh cầu viện, ta lại bảo là giặc không tham vọng lấy đất Nghệ An chẳng chịu xuất quân. Ngộ nhỡ chúng đem quân đánh đất Nghệ thật, Trần Công Xán tiên sinh có dám đem đầu mình bảo đảm rằng Bùi Thế Toại thắng trận hay chăng.
                      Trịnh Tự Quyền nói một hồi, Trần Công Xán không biết trả lời thế nào đánh nín thinh rồi len lén lui ra. Chúa Trịnh Khải hỏi lại rằng:
                      - Vậy theo ý Thái đình hầu nên tiến thủ thế nào?
                      Trịnh Tự Quyền đáp:
                      - Thần làm võ tướng giặc đến thì đánh. Thần tuy bất tài cũng xin đem quân vào đất Nghệ An chống giặc Tây Sơn.
                      Trịnh Khải cả mừng nói:
                      - Lời khanh rất hợp ý ta. Nay ta phong khanh làm Bình Nam đại tướng quân, lập tức đem binh và Nghệ An chống giặc.
                      Trịnh Tự Quyền tâu:
                      - Xin Chúa thượng cho thần thu xếp trong năm ngày mới xuất quân được.
                      Trịnh Khải hỏi:
                      - Cứu binh như cứu hoả, sao khanh không đi ngay mà phải đợi đến năm ngày.
                      Quyền đáp:
                      - Khải Chúa, từ ngày bọn lính tam phủ phá cung quận công Trịnh Cán đưa Chúa thượng lên ngôi chúng cậy công coi thường phép tắc. Nay thần đã vâng mệnh Chúa thượng nhưng không dễ gì hợp binh liền được nên xin hẹn đến năm ngày.
                      Trịnh Khải than rằng:
                      - Lời khanh rất phải, ta nhờ lính tam phủ mà được ngôi, nhưng lại không khiến được chúng. Xã tắc phen này e nguy mất.
                      Năm ngày sau Trịnh Tự Quyền hiệu triệu được ba vạn quân bèn vào phủ Chúa từ biệt Chúa Trịnh lên đường. Vừa vào đến nơi nghe quân vào báo rằng:
                      - Khải Chúa thượng, có trấn thủ Thanh Hoá là Thuỳ trung hầu Tạ Danh Thuỳ xin vào ra mắt.
                      Trịnh Khải ngạc nhiên nói:
                      - Thuỳ trung hầu đang trấn thủ Thanh Hoá sao bỗng dưng lại bỏ về đây. Mau cho vào!
                      Tạ Danh Thuỳ vào đến dập đầu thưa:
                      - Khải Chúa thượng, quân Tây Sơn đã tiến đánh chiếm kho lương ở Vị Hoàng, hiện còn cách kinh thành hai trăm dặm.
                      Trịnh Khải thất kinh hỏi:
                      - Chúng đánh thế nào mà nhanh thế. Còn binh tướng các ngươi ở hai trấn Nghệ An, Thanh Hoá thì sao?
                      Tạ Danh Thuỳ đáp:
                      - Hạ thần ở Thanh Hoá nghe tin Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn đánh chiếm kho lương ở Vị Hoàng, thần định đem binh ra lấy lại Vị Hoàng. Không ngờ Nguyễn Huệ đem bộ binh tiến đánh Nghệ An, trấn thủ Bùi Thế Toại phải bỏ thành chạy trốn. Nghệ An và Vị Hoàng đều mất, thần ở Thanh Hoá lưỡng đầu thọ địch phải bỏ thành bảo toàn lực lượng theo đường bộ chạy về đây báo cùng Chúa thượng. Xin Chúa thượng trị tội.
                      Trịnh Khải liền hô quân lôi Tạ Danh Thuỳ ra chém. Trịnh Tự Quyền can rằng:
                      - Tình hình như vậy, dù ai trấn thủ Thanh Hoá cùng phải thế mà thôi. Xin Chúa thượng tha tội cho Tạ Danh Thuỳ đoái công chuộc tội. Nay giặc đã tiến đến Vị Hoàng, hạ thần phải đem toàn quân gia lấy Sơn Năm, Chúa thượng mau sai Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng đem thuỷ quân án ngữ trên sông Nhị Hà. Như thế may ra có thể chặn được giặc.
                      Chúa Trịnh y lời, sai Quyền và Nhưỡng dẫn quân đi ngay.
                      Lúc ấy bên quân Tây Sơn hợp binh ở Vị Hoàng. Nguyễn Huệ hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
                      - Ta nghe nói đất Bắc Hà ngàn năm văn vật, đầy rẫy anh tài. Vậy mà ta kéo binh một hồi ra đến Vị Hoàng không thấy sự kháng cự nào đáng kể là cớ làm sao?
                      Hữu Chỉnh cười đáp:
                      - Nhân tài đất Bắc chỉ có một mình Chỉnh tôi mà thôi. Nay tôi đã bỏ đi, nước tất trống không. Xin tướng quân chớ ngại.
                      Huệ nửa đùa nửa thật rằng:
                      - Không có ai để ngại hoá ra chẳng phải là ngại mỗi mình ông Chỉnh đó sao?
                      Chỉnh thất sắc đáp:
                      - Tôi tự biết mình tài hèn những tôi nói thế là để chứng tỏ rằng Bắc Hà không có người tài mà thôi.
                      Thấy Chỉnh có vẻ lo sợ Huệ an ủi rằng:
                      - Lúc kéo quân đi đánh Vị Hoàng, ông e rằng quân ta vào sâu trong đất địch là mạo hiểm. Giờ ông đã thấy chưa, quân ta đánh giặc đều cân nhắc kỹ, không mạo hiểm bao giờ. Nay quân ta đã đến đây còn ngại gì mà không tiến. Nói rồi hạ lệnh tiến đánh quân Trịnh ở Nam Sơn. Quân Tây Sơn thuỷ bộ hai đạo ào ạt tiến lên. Thuỷ quân Tây Sơn theo sông Nhị Hà tiến đến khúc sông Lục Môn Giang thì gặp quân Trịnh. Tướng Trịnh là Đinh Tích Nhưỡng đứng trên soái thuyền chờ chiến thuyền quân Tây Sơn đến vừa tầm đạn sẽ nổ súng. Ngờ đâu quân Tây Sơn súng lớn bắn xa bất ngờ nổ súng trước, đại bác Tây Sơn ầm ầm bắn tới, quân Trịnh thất kinh hồn vía quay thuyền mà chạy về thành Thăng Long. Đinh Tích Nhưỡng không chống nổi đành phải chạy theo. Nguyễn Huệ hô quân truy kích. Quân Tây Sơn thần tốc đuổi theo. Quân Trịnh ở dưới sông liều bề không chạy kịp liền bỏ thuyền lên bờ chạy về đồn quân bộ của Trịnh Tự Quyền. Bộ binh Trịnh Tự Quyền thấy thuỷ binh Đinh Tích Nhưỡng tan vỡ, hoảng sợ rối loạn hàng ngũ mạnh ai nấy chạy. Trịnh Tự Quyền ngăn không nổi đành hoà trong đám loạn quân mà trốn.
                      Nguyễn Huệ thừa thắng hô quân theo sông Nhị Hà thẳng tiến về thành Thăng Long. Khi thuỷ quân tiến đến sông Thuý Ái bỗng gặp một đạo quân Trịnh gồm vài mươi chiếc thuyền nhỏ và mấy trăm quân xông ra cản đường. Đi đầu là hai viên dũng tướng tay cầm đại đao chém giết quân Tây Sơn rất hăng.
                      Quân Tây Sơn đồng loạt bắn tên, hai viên tướng dùng đại đao gạt tên hô quân tiến lên giáp chiến. Hai người này đao pháp tinh thông đánh quân Tây Sơn chết hàng mấy lớp. Nguyễn Huệ đứng trên soái thuyền trông thấy ngạc nhiên hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
                      - Ta từ Thuận Hoá kéo quân đến đây quá Nghệ An, Thanh Hoá, Vị Hoàng, Sơn Nam, quân Trịnh đông hàng mấy vạn vừa mới giao tranh đã vỡ tan mà chạy. Nay mới gặp mấy trăm quân của hai tướng này tinh thần chiến đấu thật là dũng mãnh thật đáng khen thay! Hữu Chỉnh có biết hai người này chăng?
                      Nguyễn Hữu Chỉnh đáp:
                      - Đây là hai viên tiểu tướng đồn quân nơi bến sông Thuý Ái. Một người tên là Ngô Cảnh Hoàng, một người tên là Mai Thế Pháp. Cả hai đều tinh thông đao pháp cả.
                      Nguyễn Huệ nói:
                      - Nếu đại tướng bên Trịnh cầm quân kỷ luật như hai người này thì dễ gì ta kéo quân đến đây được - Nói xong quay lại bảo quân - Truyền lệnh ta không được bắn súng, phải bao vây bắt sống hai người này cho ta!
                      Lệnh truyền ra, quân Tây Sơn lập tức thi hành. Thấy mấy trăm quân của mình đều chết trận cả, quân Tây Sơn lại bao vây bốn phía, Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng vẫn đứng trên thuyền tả xung hữu đột. Bỗng quân Tây Sơn nới rộng vòng vây gọi lớn:
                      - Hai tướng kia hãy mau đầu hàng, Long Nhương tướng quân sẽ tha cho mạng sống!
                      Ngô Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp dựng đại đao đồng hét lớn rằng:
                      - Bọn ta thà chết chẳng quy hàng.
                      Trên soái thuyền Tây Sơn, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy bước ra thưa cùng Nguyễn Huệ:
                      - Ơn tướng quân tha mạng chưa có dịp báo đền, nay chúng tôi xin ra trận bắt Ngô Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp gọi là đáp ơn tri ngộ của tướng quân.
                      Nói rồi Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy cũng vác đao lướt thuyền ra trước trận. Nguyễn Huỳnh Đức nhảy lên thuyền địch đánh với Ngô Cảnh Hoàng, Nguyễn Duy tranh tài cùng Mai Thế Pháp. Hai bên đánh nhau hơn năm mươi hiệp bất phân thắng bại. Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Duy xem chừng đuối sức vội nhảy sang thuyền mình chạy về nói với Nguyễn Huệ:
                      - Ngô Cảnh Hoàng và Mai Thế Pháp đao pháp tinh thông, sức mạnh vô cùng. Chúng tôi không đánh lại.
                      Võ Đình Tú và Phan Văn Lân cùng bước ra thưa:
                      - Chúng tôi xin đi bắt tướng giặc!
                      Nguyễn Huệ nhìn Ngô Văn Sở rồi bảo Võ Đình Tú và Phan Văn Lân rằng:
                      - Hai người này dùng đại đao, ta phải lấy đại đao mà trị. Hai tướng đại đao của ta là Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu hiện theo quân bộ không có ở đây. Xem ra muốn bắt sống hai tướng nay ta phải thân hành mới xong. (Nguyễn Huệ nói vậy vì sở trường cũng sử dụng đại đao).
                      Ngô Văn Sở bước ra nói lớn:
                      - Ngô Văn Sở tôi cũng sở trường đánh đại đao, sao không nghe Long Nhương nhắc đến, lại chỉ nói về Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu thôi.
                      Nói xong không cần đợi lệnh liền vác đại đao nhảy xuống thuyền mà đi. Nguyễn Huệ liền gọi Phan Văn Lân bảo:
                      - Ta nói vậy là để khích Ngô Văn Sở. Không ngờ Ngô Văn Sở thường ngày điềm đạm, nay vì tự ái mà nổi nóng như vậy. Phan Văn Lân mau theo ứng giúp Ngô Văn Sở, để Văn Sở một chọi hai e có điều sơ sảy.
                      Phan Văn Lân tuân lệnh cầm trường thương đi ngay. Khi Phan Văn Lân đến nơi thì Ngô Văn Sở đã đánh rớt đao Mai Thế Pháp, Lân bèn nhảy lên thuyền bắt Mai Thế Pháp trói lại. Ngô Cảnh Hoàng cũng bị Ngô Văn Sở bắt sống. Sở và Lân đem Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng đến soái thuyền nộp cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huỳnh Đức khen Ngô Văn Sở rằng:
                      - Đao pháp cửa Ngô tướng quân thật thần sầu xưa nay hiếm thấy.
                      Ngô Văn Sở vẫn còn giận Nguyễn Huệ, nói mát:
                      - Ông nội tôi là Ngô Mãnh từng làm Đô thống dưới thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, đao pháp chưa từng có địch thủ. Chỉ một mình Long NHương tướng quân chê mà không dùng đến.
                      Nguyễn Huệ cả cười rằng:
                      - Hổ tướng của ta đông quá, từ ngày khởi binh đến nay ai cũng đua nhau lập được công đầu, chỉ có Ngô Văn Sở tính tình điềm đạm không tranh quyền ra trận lập công. Ta vẫn biết thế nên sẵn dịp này mới nói khích cho Văn Sở ra trận một mình bắt hai tướng để tỏ rõ dũng lực của mình mà thôi. Nào ta có bảo đao pháp của Sở thua Diệu và Dũng bao giờ. Ba tướng của ta thật đáng gọi là Tây Sơn tam đao vậy!
                      (Từ ấy trong quân thường gọi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở là Tây Sơn tam đao, lại tặng Ngô Văn Sở biệt đanh ở Khổn nghịch Đại tướng quân).
                      Lúc ấy hai tướng Trịnh là Mai Thế Pháp và Ngô Cảnh Hoàng bị trói trên thuyền, thừa lúc mọi người lơ đễnh, hai người bèn lao mình xuống sông tự vẫn.. Các tướng Tây Sơn bất ngờ đều ngơ ngác nhìn nhau. Nguyễn Huệ thương tiếc nói:
                      - Long trung dũng của hai người này thật đáng phục thay!
                      Lúc ấy ở thành Thăng Long, chúa Trịnh Khải nghe tin hai đạo quân thuỷ bộ của mình đã thua trận ở trấn Sơn Nam, Khải liền lên voi dẫn quân cấm vệ ra cửa Tây Luông đánh giặc. Quân Tây Sơn tiến đến, chúa thúc quân ra đánh, quân Trịnh lúc ấy khiếp sợ, người này đưa mắt nhìn người kia không ai dám tiến. Đến khi nghe tiếng súng nổ, tiếng rèo hò, tiếng trống trận của quân Tây Sơn thì quân Trịnh không còn hồn vía nào mạnh ai nấy trốn. Các quan văn võ thảy đều trốn cả, đi theo chúa chỉ còn vài tên hầu cận nhằm hướng Sơn Tây mà chạy. Ra khỏi thành được vài dặm tên quân hầu nói:
                      - Nay ta thua trận mà chạy còn có mấy người. Xin Chúa hay bỏ voi và thay y phục, kẻo những kẻ ăn ở hai lòng bán Chúa cầu vinh, nhận được Chúa rồi ba quân Tây Sơn thì nguy.
                      Trịnh Khải nghe lời liền bỏ voi, thay đổi y phục.
                      Chúa tôi đi đến làng Giao Cốc trời đã xế chiều, ai nấy đều mệt và đói. Chúa Trịnh Khải bảo quân:
                      - Hôm trước quân Tây Sơn đánh lấy Vị Hoàng, ta đã xuống hịch cần vương sai quan Thiên lại là Lý Trần Quán về Sơn Tây mộ quân ở tại làng này. Vậy ngươi hãy mau đi vời Lý Trần Quán đến đây cho ta dậy việc. Ta sẽ tạm ngồi đợi ở quân nước bên đường.
                      Tên quân hầu vâng lệnh đi ngay. Lát sau Lý Trần Quán đến, thấy Chúa Trịnh, Quán toan sụp lạy. Chúa nhảy mắt ra hiệu gọi Quán đến gần bảo:
                      - Ngươi không cần phải giữ lễ như thế. Bây giờ nước mất nhà tan, vàng thau lẫn lộn nhỡ kẻ ăn ở hai lòng biết ta là Chúa báo cho giặc thì sao? Ngươi mộ quân đã được nhiều ít gì chưa? Hãy đưa ta đến thành Sơn Tây cũng Thạc quận công Hoàng Phụng Cơ rồi sẽ liệu kế đánh giặc.
                      Lý Trần Quán thưa rằng:
                      - Có người làm chức Tuần đinh trong làng tên là Nguyễn Trang đem vài mươi tráng binh theo thần. Thần bảo Trang phò Chúa lên Sơn Tây trước, còn thần mộ thêm quân sẽ đến sau.
                      Chúa Trịnh Khải lo lắng hỏi:
                      - Ngươi này có tin cậy được không.
                      Quân đáp:
                      - Nguyễn Trang vốn là học trò của thần có thể tin cậy được, xin Chúa chớ ngại.
                      Chúa Trịnh Khải nghĩ thầm rằng: Ta với Trịnh Cán vốn là anh em cật ruột, vì tranh giành ngôi báu mà còn hãm hại lẫn nhau. Tuy ta tin Lý Trần Quán, nhưng học trò ông ấy lấy gì làm chắc là có thể tin được.
                      Thấy Chúa còn do dự, Lý Trần Quán thưa:
                      - Thần xin đem tính mệnh ra bảo đảm. Xin Chúa thượng an lòng.
                      Rồi Lý Trần Quán quay sang Nguyễn Trang bảo:
                      - Ngươi mau phò Chúa lên Tây Sơn trước. Ta có việc ở lại rồi sẽ đến sau.
                      Nói xong Quân từ biệt Chúa Trịnh quay lại vào làng. Lý Trần Quán đi rồi Nguyễn Trang sai thủ hạ dắt ngựa Chúa Trịnh Khải đi. Chúa ngạc nhiên hỏi:
                      - Sao không đi về hướng Tây đến Sơn Tây mà dắt ngựa ta về hướng Đông.
                      Nguyễn Trang đáp:
                      - Về hướng Đông để đến kinh thành gặp quân Tây Sơn.
                      Chúa kinh hãi hỏi:
                      - Chúng mấy toan làm phản hay sao?
                      Nói xong liền rút kiếm chém bọn Nguyễn Trang. Lúc ấy Chúa Trịnh Khải đã đói và mệt đánh không lại bị bọn Trang tuốt kiếm bắt trói lại đóng cũi khiêng đi. Mấy tên quân theo hầu Chúa cũng đều bị giết. Một tên quân cướp được ngựa chạy vào làng gọi Lý Trần Quán. Quân một mình một ngựa tất tả đuổi theo bọn Trang. Gặp Trang, Quán hỏi:
                      - Ta là thầy của anh, anh làm thế không sợ mang tiếng là phản sư sao. Chúa là Chúa của thiên hạ anh không thương Chúa mà làm điều bán Chúa cầu vinh ư?
                      Trang trâng tráo đáp:
                      - Sợ thấy không bằng sợ giặc, thương Chúa không bằng thương mình.
                      Nói rồi Nguyễn Trang gọi thủ hạ giải Chúa đi. Lý Trần Quán ngăn lại khóc lóc năn nỉ Nguyễn Trang rằng:
                      - Ngươi hay nên tính ta là thầy của ngươi mà tha cho Chúa một phen.
                      Nguyễn Trang đáp:
                      - Việc đã đến nước này, nếu tha cho Chúa, ngộ nhỡ quân Tây Sơn đến hỏi tội tôi dung dưỡng Chúa thì tôi chỉ có chết mà thôi!
                      Quán bảo:
                      - Ngươi tha cho Chúa về Sơn Tây tất quân các trấn Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Kinh Bắc đều kéo đến phò đánh đuổi giặc đi thi ngươi sợ gì quân Tây Sơn bắt tội?
                      Trang đáp:
                      - Nếu đuổi giặc Tây Sơn đi rồi Chúa lại tha tội cho tôi được sao? Tha cho Chúa đằng nào tôi cùng chết. Chỉ có nộp Chúa cho quân Tây Sơn là tôi mới còn đường sống mà thôi.
                      Quán nổi giận mắng rằng:
                      - Thằng nghịch tặc kia. Nếu ngươi nộp Chúa cho Nguyễn Huệ mà Nguyễn Huệ không chém đầu ngươi thì hay trở về làng Giao Cốc này đào mả ta mà đổ xuống sông đi.
                      Nguyễn Trạng đỏ mặt nói:
                      - Nếu không nể tình thầy dạy tôi, tôi giết chứ không tha.
                      Nói rồi lệnh cho thủ ha khiêng cũi Chúa đi liền. Lý Trần Quán chạy theo khóc với Chúa Trịnh rằng:
                      - Hạ thần ngờ là cứu Chúa, không ngờ đã giết Chúa rồi.
                      Chúa Khải rơi nước mắt bảo Quán:
                      - Long trung của khanh ta đã biết. Sống chết là bởi mệnh trời đừng tự dằn vặt mình như thế, khanh hãy về đi. Ta là Chúa của thiên hạ đâu có thể làm nhục đến tổ tông.
                      Nói rồi rút dao ngắn trong người đâm cổ tự vẫn. Nguyễn Trang lẹ mắt giật con dao trong tay Chúa rồi hét quân đi mau. Lý Trần Quán ngỡ Chúa đã chết liền rút dao ngắn trong người đâm cổ chết theo.
                      Bọn Nguyễn Trang dẫn chúa Trịnh Khải đến gần thành Thăng Long Chúa vẫn chưa chết. Chúa Trịnh nghĩ thầm rằng:
                      - Lúc nãy Nguyễn Trang giật mất lưỡi dao nên vết thương cạn quá. Nếu ta con sống gặp giặc Tây Sơn chúng làm nhục mệnh thì sao?
                      Nghĩ xong liền thò ngón tay vào vết thương nơi cổ họng móc cho rộng ra. Khi Nguyễn Trang đem Trịnh Khải đến nộp cho Nguyễn Huệ nơi phủ chúa ở kinh thành Thăng Long thì Khải đã chết rồi. Nguyễn Huệ hỏi Trang:
                      - Ngươi chỉ có mấy mươi thủ hạ sao bắt được Trịnh Khải.
                      Nguyễn Trang vô tình cứ y như việc ở làng Giao Cốc mà kể. Nghe xong Huệ hỏi:
                      - Vì sao người lại bắt Chúa nộp cho ta?
                      Trang khúm núm đáp:
                      - Tướng quân kéo binh đến đây diệt Trịnh phò Lê. Thảo dân là con dân của vua Lê nên bắt Chúa Trịnh nộp cho tướng quân.
                      Nguyễn Huệ khen rằng:
                      - Ngươi thật là người trúng nghĩa biết vì vua vì nước. Nay ngươi đã làm một việc tốt cho nước, và hãy về nhà mà lo phần con dân.
                      Nguyễn Trang ngập ngừng thưa:
                      - Xin tướng quân thưởng công cho.
                      Huệ ngạc nhiên hỏi:
                      - Tại sao người lại bảo ta thưởng công?
                      Nguyễn Trang đánh bạo hỏi lại rằng:
                      - Chẳng phải tướng quân đã ra thông báo rằng: "Ai bắt Chúa Trịnh đem nộp sẽ được thưởng công sao?
                      Huệ nghiêm mặt đáp:
                      - Chính ta ra thông báo như vậy.
                      Nguyễn Trang mừng rỡ thưa:
                      - Vậy là kẻ thảo dân tất được thưởng công.
                      Nguyễn Huệ quắc mắt bảo:
                      - Nếu ngươi bỏ đi mà không đòi thưởng công là nộp chúa để phò vua, ta tự khắc sẽ gọi lại thưởng công. Giờ ngươi đòi thưởng công rõ là phường phản sư, bán chúa, tội phải trừng, công gì mà thưởng. Võ sĩ đâu lôi ra chém.
                      Võ sĩ lôi Nguyễn Trang ra ngoài. Trang mếu mão than khóc rằng:
                      - Ngỡ rằng được sống làm công hầu, ngờ đâu phải chết làm quỷ không đầu. Lý Trần Quán thầy của ta thật là cao kiến.
                      Chém Nguyễn Trang xong, Nguyễn Huệ sai người theo vương lễ tống táng Trịnh Khải.
                      Xong việc ấy Nguyễn Huệ gọi Nguyễn Hữu Chỉnh đến bảo:
                      - Lúc mới chiếm được thành ta đã sai người sang phủ vua bảo vệ vua Lê cùng Hoàng gia. Nay mọi việc đã tạm yên ta nên đến yết kiến vua Lê cho rõ nghĩa tôn phò.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #41
                        Chương 38

                        Mộng bá vương Nguyễn Hữu Chỉnh làm mối.
                        Gặp giai nhân Nguyễn Huệ đối văn.


                        Hôm sau Nguyễn Huệ và Trần Văn Kỷ theo Nguyễn Hữu Chỉnh đến điện vua Lê Hiển Tông. Vua Lê Hiển Tông lúc ấy đã bảy mươi tuổi, già yếu lắm rồi lại thêm phần vì lâm trọng bệnh, nghe Nguyễn Huệ đến vừa gắng gượng ngồi dậy định tiếp Huệ. Nguyễn Huệ thi lễ xong vội vàng đỡ vua nằm xuống giường ngủ rồi nói:
                        - Hạ thần đến ra mắt Bệ hạ là bổn phận con dân trong nước. Bệ hạ mình rồng bất an cử nằm yên nghỉ đừng vì hạ thần mà nhọc nhằn lòng thế. E rằng thần phải đắc tội với vua.
                        Vua Lê hỏi:
                        - Ngài có phải là Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân ra đây đó chăng?
                        Nguyễn Huệ kính cẩn đáp:
                        - Hạ thần là kẻ áo vải ở Tây Sơn nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ăn áo mặc nhưng thân bấy lâu vẫn kính mến thành đức. Nay được thấy long nhan thật thoả lòng mong ước. Họ Trịnh vô đạo giết chết Thái tử Lê Duy Vỹ, hiếp đáp Bệ hạ nên trời cao mới mượn tay thần chỉ trong vòng một tháng đánh đổ xong họ Trịnh suốt hai trăm năm bức bách Hoàng gia. Ấy là nhờ oai đức của Bệ hạ cả!
                        Vua Lê xua tay bảo:
                        - Ấy là võ công của tướng quân chứ quả nhân nào có tài đức gì?
                        Nguyễn Huệ khiêm tốn đáp:
                        - Hạ thần ra đây cốt vì nghĩa phò vua đâu dám kể công, nên trước truyền hịch tôn phò rồi mới kéo qua đi. Quả nhiên quân Trịnh là con dân trong nước của Bệ hạ nghe quân của thần đến để phò vua họ bèn quăng vũ khí không dám theo họ Trịnh chống là mệnh trời. Ấy chẳng phải là nhớ oai đức của Bệ hạ đó sao? Nay họ Trịnh đã diệt là ý trời muốn Bệ hạ cầm cương nảy mực, khiến cho trong ấm, ngoài êm hạ thần ở cõi xa cũng được ơn nhờ.
                        Vua Lê Hiển Tông nghe Huệ nói xong liền hỏi:
                        - Sao tướng quân lại nói là ở cõi xa? Chẳng phá tướng quân ở đây giúp trẫm lập lại kỷ cương ở đất Bắc Hà sao?
                        Nguyễn Huệ trầm ngâm đáp:
                        - Hạ thần đến đây diệt Trịnh xong phải đem quân về Nam phục mệnh vua anh nên không thể ở lại được!
                        Vua Hiển Tông bảo:
                        - Nếu tướng quân đem quân về Nam ngay là tướng quân đã hai nhà Lê ta, sao bảo là tôn phò.
                        Nguyễn Huệ hỏi:
                        - Nếu ở lâu e thiên hạ bảo thần là mượn tiếng phò vua mưu đồ lấy đất nên phải kéo quân về! Hạ thần diệt Trịnh trả nước cho nhà vua sao lại bảo là hại Bệ hạ?
                        Vua Hiển Tông đáp:
                        - Trẫm làm vua hắn bốn mười năm nay không tham gia việc triều chính, chẳng biết việc dân sinh xã tắc. Trăm quan làm việc đều ở dưới quyền họ Trịnh. Nay họ Trịnh diệt, bá quan đều bỏ trốn, triều đình trống rỗng, quân binh chẳng có. Nếu tướng quân để quân về Nam, nước của quả nhân không kỷ cương pháp luật tất là sinh loạn. Ấy chẳng phải là tướng quân đã hại trẫm rồi sao?
                        Vua buồn rầu ứa nước mắt, nói tiếp:
                        - Nếu con của trẫm là Thái tử Vỹ con sống thì may ra nhân dịp này lấy lại quyền hành của họ Lý mà định quốc an dân.
                        Nguyễn Huệ cảm động thưa rằng:
                        - Năm trước Tĩnh đô vương Trịnh Sâm sai Phạm Ngô Cầu vào ngục giết Thái tử. Nay Trịnh Sâm đã bị hồn Thái tử theo báo oán mà chết. Còn Phạm Ngô Cầu bị hạ thần bắt đem về Quy Nhơn luận tội giết Thái tử phải chịu bêu đầu. Ấy là mối thù của Thái tử đã được rửa, oan hồn Thái tử cũng tiêu diêu miền cực lạc, xin Bệ hạ chớ quá thương tâm. Còn việc quốc gia nếu Bệ hạ làm được điều này thì hạ thần xin ở lại Bắc Hà giúp Bệ hạ sửa sang giềng mối, lập lại kỷ cương phép tắc, xong mới kéo quân về.
                        Vua Lê Hiển Tông liền hỏi:
                        - Xin hỏi tướng quân ta phải làm điều gì tướng quân mới bằng lòng ở lại giúp cho?
                        Huệ phân giải rằng:
                        - Sở dĩ bá quan con trốn tránh vì họ nghĩ hạ thần ra đây mượn tiếng tôn phò để mưu đồ tư lợi. Nay Bệ hạ nên xuống chỉ dụ để hiệu triệu các quan, định ngày thiết triều. Các quan có chiếu chỉ của vua ắt là phải đến, lúc ấy hạ thần sẽ đem số bỏ dân binh, thuế khá điền trạch mà họ Trịnh chiếm giữ suốt hai trăm năm nay trao về cho Bệ hạ. Ấy là Bệ hạ lấy lại quyền hành của Tiên đế từ thuở gian lao đất Lam Sơn dấy nghĩa. Rồi trước mặt trăm quan Bệ hạ lệnh cho hạ thần trong giúp vua lập nên đế nghiệp, ngoài cứu dân khỏi cảnh lầm than, thì hạ thần mới danh chín ngôn thuận mà ở lại Bắc Hà, đến khi nước được yên ổn rồi sẽ quay về.
                        Vua Lê cả mừng nói:
                        - Lời tướng quân rất là hữu lý, việc này nào có khó gì?
                        Nói xong vừa liền ngồi dậy sai người lấy bút nghiên viết chiếu chỉ hiệu triệu bá quan, định ngày đến để thiết triều.
                        Nguyễn Huệ vừa đến tư dinh nơi phủ Chúa Trịnh, Trần Văn Kỷ nói riêng với Huệ rằng:
                        - Nếu vua Thái Đức không lên ngôi hoàng đế lúc này Tây Sơn ta đã danh chính ngôn thuận thống nhất sơn hà trong nước của vua Lê, ấy chẳng phải là công nghiệp xưa nay chưa từng có hay sao?
                        Nguyễn Huệ gạt đi bảo:
                        - Ấy là chí hướng của Hoàng huynh, Trần tiên sinh đừng bàn đến nữa. Ta chỉ nên làm những gì có thể được trong tình hình hiện tại mà thôi.
                        Nói rồi liền sai quân mở kho thóc Hữu Viên phát chẩn dân nghèo, hạ lệnh chiêu an bá tánh, quân không được mảy may xâm phạm của dân, gặp phường trộm cướp phải đem ra trước dân mà xử.
                        Đến hôm thiết triều, vua Lê Hiển Tông ngồi trên ngai vàng, quan văn kéo đến chầu được vài mươi người, còn võ tướng thì không ai dám đến. Các đại thần gồm có Trần Công Xán, Phan Lê Phiền, Uông Sĩ Điền đến đứng hầu ở hai bên ngai vua. Vua bảo các quan rằng:
                        - Họ Trịnh tiếng là phò Lê nhưng thực chất đã cướp quyền của nhà Lê ta suốt hai trăm năm này, các khanh đã biết chưa? Nay Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ từ nơi xa xôi lội suối trèo đèo đem quân đến đây diệt họ Trịnh trả nước cho ta các khanh đã biết chưa? Nay ta tuy tuổi già sức yếu không biết sống chết lúc nào nhưng cũng vì xã tắc mà gắng gượng ra gánh vác việc quốc gia được ngày nào hay ngày ấy. Vậy các quan trước ở chức gì hãy về chân ấy giúp trẫm định yên xã tắc.
                        Trần Công Xán bước ra hỏi dò Nguyễn Huệ rằng:
                        - Ý Long Nhương tướng quân diệt Trịnh trả nước cho vua tôi, vậy sao còn chưa rút quân về.
                        Chưa vội đáp lời Xán, Huệ gọi quân mang số bộ dân váo rồi kính cẩn dâng cho vua Hiển Tông, Huệ thưa rằng;
                        - Đây là số dân quân hộ tịch xin trao về Bệ hạ. Mong Bệ hạ hãy thay trời hành đạo đem ấm no về cho trăm họ.
                        Vua run run nhận sổ xong. Huệ quay sang bảo Trần Công Xán:
                        - Xin hỏi ngài có phải là Trần Công Xán ngươi làng Yên Vĩ, Tổng Yên Cảnh, Huyện Đông An, phủ Khoái Châu đó chăng
                        Xán đáp:
                        - Phải. Chính là tôi đây!
                        Huệ lại hỏi:
                        - Khi đạo binh tôn phò của tôi đánh lấy Vị Hoàng tôi nghe nói ngài bày mưu cho Trịnh Khải rằng: "Quân Tây Sơn từ nơi xa kéo quân đến đây ắt là mỏi mệt cứ nhử cho chúng vào sâu trong đất của ta rõ kéo quân đánh một trận ắt diệt được giặc". Xin hỏi ngài điều ấy có chăng?
                        Nghe Huệ nói, Phan Lê Phiền, Uông Sĩ Điền và các quan đều sợ thất sắc nghĩ rằng Nguyễn Huệ hoạch tội để giết Trần Công Xán. Xán vẫn thản nhiên đáp:
                        - Phải, người bày mưu ấy chính là tôi!
                        Nguyễn Huệ cười nói:
                        - Nếu ngài bảy mưu ấy cho Chúa Trịnh là ngài có ba điều không rồi vậy.
                        Xán hỏi lại Huệ rằng:
                        - Thế nào là ba điều không?
                        Nguyễn Huệ lại mỉm cười đáp:
                        - Quân Tây Sơn tôi phò vua Lê diệt Trịnh, ngài lại bày mưu cho Trịnh đánh quân phò vua, ấy là bất trung. Quân Trịnh nghe hịch tôn phò của tôi đều nhờ ơn vua quang gươm giáo mà không kháng cự, vả lại họ Trịnh lúc ấy tướng lười, bình kiêu, ngài lại bảo rằng nhử giặc vào sâu rồi đánh một trận là tiêu diệt được, ấy là bất trí. Bày mưu chúa Trịnh đánh vua Lê, nay chúa mất rồi còn mặt mũi nào mà theo về với vua, ấy là bất nghĩa. Bất trung, bất trí, bất nghĩa là ba điều không vậy.
                        Trần Công Xán tái mặt cãi lại rằng:
                        - Tướng quân truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân đến nước tôi. Trong lúc vàng thau lẫn lộn biết đâu là thật giả, ngộ nhỡ diệt được Trịnh rồi tướng quân không trả nước cho vua thì sao? Vậy tôi bày mưu cho Chúa đánh tướng quân để giữ nước cho vua sao bảo là bất trung. Nay Chúa Trịnh Khải dù đã diệt những còn dư đảng là Trịnh Lê, Trịnh Bồng. Vả lại nay được biết tướng quân thật đã tôn phò tôi mới phò vua mà không theo Trịnh sao bảo là bất nghĩa. Tôi bày việc quân cơ cho Chúa là kế hay, khác nào Đức thánh Trần Hưng Đạo nhử giặc Nguyên vào sâu, chỉ vì không có tướng tài để đánh một trận là diệt xong địch như nhà Trấn thuở trước, sao bảo là tôi bất trí.
                        Nghe Trần Công Xán nói xong Nguyễn Huệ cười lớn mấy hỏi rồi hỏi:
                        - Qua lời biện luận mới rõ ngài là người đại trung đại nghĩa, đại trí. Tôi thành thật xin lỗi vậy. Vậy tôi hỏi ngài, nay nếu tôi kéo quân về Nam ngay e dư đảng họ Trịnh kéo đến ăn hiếp vua thì tướng tài nào ra tay dẹp loạn? Bọn kiêu binh quân Trịnh còn đang lẩn trốn ngoài thành thừa dịp này cướp bóc của dân thì lấy ai cứu nguy trăm họ? Nếu ngài có kế hay định yên xã tắc, Huệ tôi lập tức rút binh.
                        Trần Công Xán đáp bừa rằng:
                        - Ngài cứ rút quân, người nước tôi tự có kế để giữ lấy nước mình.
                        Nguyễn Huệ lắc đầu nói:
                        - Ngài nghi ngờ tôi không thực bụng tôn phò mà nói thế. Nhưng lời ngài là vô căn cứ tôi không thể nghe theo. Tôi ra đây là để phò vua. Vậy việc về hay ở xin để cho Bệ hạ định đoạt.
                        Lúc này vua Hiển Tông mới bảo rằng:
                        - Trần Công Xán không được nhiều lời. Nay trước mặt ba quân ta phong Nguyễn Huệ chức Đại Nguyên soái, phù chính dực vận Uy Quốc Công, trao Nguyên soái bảo kiếm tiền trảm hậu tấu. Nguyên soái hãy lại đóng quân giúp trẫm định quốc an dân, lập lại các bộ, sửa sang giềng mối luân thường, chỉnh đốn kỷ cương phép tắc cho dân ngoan biết đến vua hiền, hưởng cuộc đời thái bình thịnh trị. Ấy là nhờ Tiền đế linh thiêng sai Nguyên soái tái tạo cho nhà Lê ta vậy. Chỉ tiếc rằng Thái tử Vỹ không còn sống mà thôi.
                        Nói xong vừa mui lòng sa nước mắt. Nguyễn Huệ cảm động thưa:
                        - Xin Bệ hạ ăn tâm, hạ thần xin hứa sẽ hết lòng phò vua đến khi nào người trăm họ đều thấm nhựa thành đức mới thôi.
                        Nói rồi từ biệt về dinh phủ. Đọc đường Nguyễn Huệ hỏi Trần Văn Kỷ rằng:
                        - Tiên sinh nghe Trần Công Xán luận về Trung, Nghĩa, Trí thế nào?
                        Trần Văn Kỷ đáp:
                        - Luận về Trung, Nghĩa thì đúng, nhưng luận về Trí rõ là người bát trị nói càn.
                        Nguyễn Huệ nói:
                        - Các quan trong triều vua Lê lúc thiết triều không ai dám há môi mở miệng. Nghe ta bảo là Trần Công Xán bất trung, bắt nghĩa, bất trị thì sợ đà mất mật. Chỉ có Trần Công Xán tuy rằng bất trị nhưng là người trung liệt đáng khen.
                        ***
                        Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh nghe Nguyễn Huệ hứa với vua Lê Hiển Tông sẽ đóng binh ở đất Bắc định yên xã tắc rồi mới quay về, Chỉnh về đến tư dinh bồn chồn ngồi đứng không yên. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
                        - Việc gì mà tướng quân lại lo lắng ưu phiền như thế?
                        Hữu Chỉnh thở dài đáp:
                        - Ta xui Nguyễn Huệ kéo quân ra diệt Trịnh. Những tưởng diệt Trịnh xong rồi Nguyễn Huệ sẽ kéo quân về giao binh cho ta ở lại Bắc Hà phò việc nhà Lê. Chẳng ngờ Nguyễn Huệ không nói gì đến việc ấy cả. Ta e rằng Nguyễn Huệ hiểu được bụng ta không thực lòng quy thuận nên vạn nhất Huệ có kéo binh về Nam cũng chẳng thể giao binh quyền cho ta nơi đất Bắc, thì cái chí lấy ngai của chúa Trịnh dùng sông Linh Giang chia đôi thiên hạ với quân Tây Sơn ắt chẳng thành.
                        Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
                        - Vậy tướng quân phải chịu theo hầu dưới trướng Nguyễn Huệ mãi sao?
                        Chỉnh đáp:
                        - Đời nào ta chịu yên như thế Ta có một kế có thể khiến Nguyễn Huệ phải chịu để cho ta mượn binh trấn thủ Bắc Hà.
                        Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
                        - Kế ấy là kế gì?
                        Chỉnh đáp:
                        - Ấy là mỹ nhân kế!
                        Rồi Chỉnh kề tai Tuyển nói nhỏ. Nghe xong Tuyển khen:
                        - Hay! Mỹ nhân là của ngươi khác lại dùng được để nên việc của ta. Thật là diệu kế.
                        Bàn với Nguyễn Viết Tuyển xong, Nguyễn Hữu Chỉnh liền soạn khăn áo sang bái yết vua Lê. Chỉnh tâu:
                        - Tâu Bệ hạ, lúc ban sáng Bệ hạ phong cho Nguyễn Huệ chức Đại Nguyên soái tước Uy Quốc Công, Nguyễn Huệ có về bảo với hạ thần rằng: Ta ra đây cốt để phò vua Lê. Nếu không nghĩ đến công của vua Thái Tổ đã ba trăm năm dựng nước thì ta muốn xưng đế xưng vương gì chẳng được? Nay vua lại đem cái chức Nguyên soái để phỉnh dụ ta. Hỏi cả tước Uy Quốc Công hão ấy ta được thêm gì? Nếu không nhận thì ra thất lễ với vua, mà nhận thì mang tiếng la người không biết gì! Tâu Bệ hạ, Nguyễn Huệ nói vậy đó!
                        Vua Lê thật thà ngỡ là thật, cả sợ hỏi Chỉnh:
                        - Rồi Nguyên soái còn nói gì nửa chăng?
                        Chỉnh đáp:
                        - Nguyên soái đòi kéo quân về Nam bỏ mặc Bắc Hà ra sao thì ra.
                        Vua Lê thất kinh nói:
                        - Nếu vậy thì nước ta loạn mất. Khanh trước là tớ của trẫm vì họ Trịnh bức bách phải bỏ nước theo vua Tây Sơn. Nay vì nghĩa cử có thể bày kế gì cho trẫm được chăng?
                        Chỉnh đáp:
                        - Hạ thần đến đây là vì an nguy của Bệ hạ và xã tắc đó.
                        Vua vội vàng hỏi:
                        - Nói vậy nghĩa là khanh đã có kế?
                        Chỉnh hiến kế rằng:
                        - Hạ thần nghe nói trong các công chúa có Ngọc Hân công chúa là sắc nước hương trời. Theo ý hạ thần Bệ hạ nên gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyên soái. Một là để tỏ thành ý với Nguyên soái để Nguyên soái không nghĩ rằng Bệ hạ dùng chức hão mà phỉnh dụ ông ta. Hai là lấy tinh thần lôi kéo Nguyên soái ở lại Bắc Hà giúp cho Bệ hạ. Ngộ nhỡ trong Nam Hà có biến, Nguyên soái phải kéo quay về, Bệ hạ hay xin cũng Nguyên soái cho hạ thần được cầm binh ở lại trả ơn Bệ hạ cho trọn nghĩa vua tôi khi trước. Nguyên soái khi ấy đã là rể của Bệ hạ, vì nghĩa nước tình nhà không thể không vâng.
                        Vua Lê Hiển Tông ngẫm nghĩ rồi bảo Hữu Chỉnh:
                        - Lời khanh có lý. Vả lại trong các con, Ngọc Hân là người trẫm thương yêu nhất. Nay có được một tấm chồng anh hùng hào kiệt như Nguyên soái ta cũng an tâm. Vậy phiền khanh hãy về dò ý của Nguyên soái xem sao rồi mau báo cho trẫm hay để trẫm khỏi lo lắng.
                        Vua nói xong nằm trên giường ngự mệt nhọc ôm ngực ho khan. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vua Lê trúng kế của mình bấm bụng cười thầm rồi cáo biệt ra về. Nguyễn Hữu Chỉnh lại đến tìm gặp Nguyễn Huệ nói:
                        - Vua Hiển Tông tiếng làm vua hơn bọn mười năm nhưng quyền hành đều trong tay họ Trịnh. Nhà vua tâm sự với tôi rằng tuy đã phong chức Nguyễn Soái cho Chúa công nhưng nhà vua thanh bạch không có gì ban thưởng cho Chúa công nên trong lòng lấy làm áy náy lắm.
                        Nguyễn Huệ gạt đi bảo:
                        - Ta đem binh ra dây cốt là diệt Trịnh để cứu dân. Nay đến đây mới thấy nhờ truyền hịch phò Lê mà lòng quân Trịnh hoang mang chưa đánh đã tan khiến quân ta chiến thắng dễ dàng. Xét lòng trăm họ có thương tiếc nhà Lê, vậy vì dân tại sao ta không thực bụng tôn phò? Vả lại nhà vua là người nhân hậu nhu mì, bị họ Trịnh áp chế tình cảnh thật đáng thương. Xét về nhân không nên lấn át. Vậy ta phải đến gặp vua phân cho rõ tấm lòng kẻo vua áy náy lo âu thì ta là người đặc tội.
                        Nói xong đứng dậy toan đi. Nguyễn Hữu Chỉnh ngăn lại nói:
                        - Xin Chúa công chớ vội, vua Lê sai tôi đến đây dò ý Chúa công.
                        Huệ ngạc nhiên hỏi:
                        - Dò ý ta về việc gì?
                        Chỉnh đáp:
                        - Số là nhà vua có một nàng công chúa tên là Ngọc Hân sắc đẹp như tiên giáng thế nên trong Hoàng gia thường gọi là Chúa Tiên. Chúa Tiên tính nết đoan trang, am tường ca cầm kỳ thi hoạ. Vua nhờ tôi dò ý Chúa công, nếu không chê, vua sẽ nhận Chúa công làm phò mã để tỏ lòng thành với Chúa công phò vua vực nước.
                        Nguyễn Huệ gạt đi bảo:
                        - Việc này ta thác không đảm nhận.
                        Chỉnh hỏi:
                        - Vì sao Chúa công lại từ chối lòng thành của nha vua?
                        Huệ đáp:
                        - Ta ra đây phò Lê không được lệnh của Hoàng huynh. Dù binh pháp có câu: "Tướng ngoài biên ải không nhất nhất phải nghe lệnh vua, nhưng Hoàng huynh có lý bắt ta về tội kháng lệnh. Nay ta lấy vợ mà không được phép của mẹ và anh, ấy là bất hiếu. Nếu ta làm thế tất Hoàng huynh ta vin vào tội bất hiếu càng khẳng định tội ta kháng mệnh bất trung. Đó là một lẽ.
                        Hữu Chỉnh dò hỏi:
                        - Còn điều thử hai là gì?
                        Huệ trầm ngâm đáp:
                        - Vua Lê vì ngại ta kéo quân về, Bắc Hà sẽ loạn nên vạn bất đắc dĩ mới gả công chúa để lấy lòng ta. Nếu thuận ý, hoá ra ta nhận lúc người cần mà ép người sao? Đó là hai lẽ. Vì hai lẽ đó, ta không thể thuận lòng.
                        Trần Văn Kỷ xen vào nói:
                        - Theo tôi việc này thật khó xử.
                        Huệ nói:
                        - Thế nào là khó xử.
                        Kỷ đáp:
                        - Chúa công đã nhận chức Nguyên soái của vua Lê, xét theo lẽ là nghĩa quân thần. Nay vua không xuống lệnh mà hạ mình trước dò ý Chúa công, nên Chúa công không nhận hoá ra là thất lễ với vua. Nhận cũng không được mà từ chối cũng không xong ấy là điều khó xử.
                        Nguyễn Huệ lo âu hỏi:
                        - Thật khó khăn cho ta, đằng nào cũng bị mang tiếng. Theo tiên sinh nên làm thế nào mới vẹn toàn.
                        Trần Văn Kỷ đáp:
                        - Tôi có kế khiến Chúa công dù chối ta cũng không thất lễ với vua.
                        Huệ mừng rỡ hỏi:
                        - Kế thế nào?
                        Kỷ e dè đáp:
                        - Xin Chúa công tha tội, tôi mới đám thưa.
                        Nguyễn Huệ bảo:
                        - Có kế hay xin tiên sinh cứ dậy. Đừng khách sáo giữ lẽ làm chi.
                        Văn Kỷ hiến kế:
                        - Ngươi Bắc Hà tự cho mình ở đất ngàn năm văn vật, xem quân Tây Sơn ta như man di mọi rợ. Côn chúa dù thông minh nhưng cũng là phận nữ nhi khuê môn bất xuất, tất cũng nghe lời đồn đại trong Hoàng gia mà không ngoại lệ khi nghĩ về Tây Sơn ta. Vậy Chúa công hãy đến gặp vua nói như vầy... như vầy. Khi ấy ắt công chúa sẽ chối từ, thì Chúa công khỏi thất lễ với vua. Lời tôi ngay thật xin Chúa công tha tội.
                        Nguyễn Huệ bảo:
                        - Tướng quân của ta có binh lính người Thượng nên những kẻ xấu thường thừa dịp bảo quân Tây Sơn ta là có quân man mọi. Việc nay ta có biết, tiên sinh nào có lỗi gì? Cám ơn tiên sinh bày diệu kế, ta phải lập tức thi hành.
                        Nói rồi liền cùng Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Chỉnh khăn áo sang chầu vua Lê.
                        ***
                        Nói về vua Lê Hiển Tông, khi Nguyễn Hữu Chỉnh đi rồi vua liền gọi công chúa Ngọc Hân đến. Vua nói:
                        - Nay cha định gả con cho Nguyễn Huệ, chẳng biết ý con thế nào?
                        Công chúa kính cẩn hỏi:
                        - Thưa Phụ vương, việc này là do Nguyễn Huệ cầu hôn chăng?
                        Vua đáp:
                        - Việc này Nguyễn Huệ còn chưa biết.
                        Ngọc Hân lại hỏi:
                        - Vậy vì lẽ gì Phụ vương lại định gả con cho Nguyễn Huệ.
                        Vua đáp:
                        - Nguyễn Huệ đem quân đến đây diệt Trịnh trả nước cho nhà Lê ta. Nay nếu Nguyễn Huệ kéo quân về Nam, nước ta ắt loạn. Nên cha định gả con cho Nguyễn Huệ là lấy tình thật đãi người, ắt người cũng vì tình hết dạ giúp ta. Vả lại nay cha đã gần đất xa trời, thấy con lấy được một tấm chồng anh hùng kiết hiệt như Nguyễn Huệ cha mới yên lòng nhắm mắt.
                        Ngọc Hân thưa:
                        - Nếu là bậc anh hùng hào kiệt thì Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc Phụ vương mà kéo quân về Nam được. Phụ vương không cần gả con để giữ người.
                        Vua ngạc nhiên hỏi:
                        - Vì sao con dám quả quyết như thế?
                        Ngọc Hân đáp:
                        - Nguyễn Huệ truyền hịch phò Lê diệt Trịnh kéo quân đến đây, nay trong lúc nước ta con loạn lạc chưa yên mà bỏ mặc Phụ vương thì sao khỏi mang tiếng thất tín với thiên hạ. Nếu là bậc anh hùng hào kiệt ai lại làm điều thất tín, cần gì phải gả con. Còn nếu Nguyễn Huệ bỏ ta mà đi trong lúc này tất là người thất tín, cũng chỉ như phường thừa nước đục thả câu, tình gì mà phải giữ.
                        Vua giật mình nói:
                        - Con thật là sáng suốt. Nhưng cha đã sai Nguyễn Hữu Chỉnh đi dò ý Nguyễn Huệ, nếu Nguyễn Huệ bằng lòng thì con cũng nên ưng thuận cho cha được yên lòng.
                        Ngọc Hân an ủi rằng:
                        - Xin Phụ vương an tâm, Nguyễn Huệ đem quân đến đây vẫn một lòng tôn kính Phụ vương. Mở kho thóc họ Trịnh phát chẩn dân nghèo, quân không mảy mây xâm phạm của dân, bắt được cướp đem ra trước dân mà xử. Một đạo binh nghiêm kỷ như thế, thì tướng tất phải là người quang minh lỗi lạc. Nay việc đã lộ, cứ để xem ý Nguyễn Huệ thế nào con sẽ liệu mà xử sự.
                        Ngọc Hân vừa nói xong, quân canh vào báo:
                        - Tâu Bệ hạ, Nguyên soái xin vào yết kiến.
                        Vua bảo Ngọc Hân:
                        - Con hãy tạm lánh một sau bức bình phong. Để cha tiếp Nguyễn Huệ xem ý Huệ thế nào.
                        Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Trần Văn Kỷ vào đến thi lễ xong Huệ thưa:
                        - Tâu Bệ hạ, việc Bệ hạ nhận hạ thần làm phò mã thật thần không dám vâng lời.
                        Nhà vua buồn rầu nói:
                        - Nhà Lê của trẫm hai trăm năm này ví như là tù nhân được họ Trịnh cấp gạo cho ăn. Trẫm tiếng là vua, con gái trẫm tiếng là công chúa nhưng cảnh nhà thanh bạch thật là hữu danh vô thực. Trẫm biết thế nên đâu dám mời Nguyên soái đến hỏi thẳng, phải nhờ Hữu Chỉnh dò ý Nguyên soái. Chẳng ngờ Nguyên soái chê mà không thuận ý, nhà Lê của ta thật là vô phúc vậy.
                        Nguyễn Huệ thất kinh tâu:
                        - Xin Bệ hạ bình tâm cho thần tỏ đôi lời. Số là hạ thần không dám nhận làm phò mã; bởi thần ra đi vì nghĩa đối với vua đang bị họ Trịnh áp chế, vì nhân đối với dân đang cực khổ lầm than. Ấy là một lẽ. Nay nếu kể công mà nhận thưởng chẳng hoá ra là người giả nghĩa giả nhân ư? Ấy là hai lẽ. Còn công chúa nếu không ưng mà vâng lời Bệ hạ phải bằng lòng thì hoá ra hạ thần là kẻ ngu phu ư. Ấy là ba lẽ! Tâu Bệ hạ, vi ba lẽ ấy mà hạ thần không dám nhận. Xin Bệ hạ đừng nói tiếng chê mà thần phải mang tội khi quân thất kính.
                        Vua Lê vẫn dàu dàu hỏi:
                        - Nói đi nói lại rốt cuộc là Nguyên soái từ chối nhân duyên chứ gì?
                        Nghe vừa hỏi Huệ nghĩ thầm rằng, bây giờ có thể nói kế của Trần Văn Kỷ ra được rồi đây, bèn nói:
                        - Xin Bệ hạ cho thần được giáp mặt công chúa hỏi một câu. Nếu công chúa không chê hạ thần mới dám nhận, để khỏi mang tiếng là ép buộc nhân duyên.
                        Vua Lê cả mừng nói:
                        - Việc này nào có khó gì. Quân bay mau mời Ngọc Hân công chúa đến đây.
                        Ngọc Hân từ bình phong bước ra thi lễ với vua xong lại quay sang kính cẩn chào Nguyễn Huệ. Nguyên lúc Ngọc Hân ở sau bức bình phong nghe được cuộc đối đáp của Nguyễn Huệ với vua cha, nghe tiếng Nguyễn Huệ ngân như chuông, lời lẽ quang minh chính đại. Đến khi thấy Nguyễn Huệ mắt phượng mày tằm, ánh nhìn như chớp, tướng mạo phi phàm thì trong lòng sinh ra cảm phục. Còn Nguyễn Huệ thấy Ngọc Hân công chúa tóc mây, da tuyết, mày như lá liễu, mặt nhìn tựa sóng mùa thu, dung nhan cực kỳ diếm lệ thì nhìn mãi không thôi. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy mừng thầm nhắc khéo Nguyễn Huệ rằng:
                        - Thưa Chúa công, ấy chính là Ngọc Hân công chúa.
                        Nguyễn Huệ giật mình quở Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:
                        - Ở nước ta, ngươi gọi ta là Chúa công đã đánh. Đây là ở nước Hoàng thượng, và ta đã nhận sắc phong của Hoàng thượng vậy là nghĩa tôi thần, ngươi còn gọi ta là Chúa công sao phải!
                        Rồi Huệ quay sang Ngọc Hân nói:
                        - Huệ tôi từ nơi xa đến đây, nghe thiên hạ đồn rằng công chúa Ngọc Hân sắc đẹp như tiên giáng thế nên người đời thường gọi là Chúa Tiên. Nay tôi đã thưa cùng Hoàng thượng xin cầu hôn công chúa. Chẳng hay ý công chúa thế nào?
                        Ngọc Hân cười nói:
                        - Cám ơn Chúa công đã có lòng đoái hoài. Nếu Chúa công đưa ra một lễ vật, thiếp nguyện suốt đời sửa túi nâng khăn.
                        Nguyễn Huệ hỏi:
                        - Tôi tuy không phải là người trong nước, nhưng nay đã nhan sắc phong của Hoàng thượng, xin công chúa hay gọi tôi theo sắc phong, chờ gọi là Chúa công theo thủ hạ của tôi. Công chúa muốn thách lễ cưới vật gì xin hãy nói ra.
                        Ngọc Hân đáp:
                        - Thiếp xin ra một vế đối, nếu Chúa công đối được ấy là Chúa công đã trao lễ vật vậy.
                        Nguyễn Huệ liền bảo:
                        - Điều thứ nhất xin công chúa chớ gọi tôi là Chúa công, Điều thứ hai xin hãy ra vế đối!
                        Ngọc Hân đáp:
                        - Nếu Chúa công đối được câu đối này thì thiếp sẽ không gọi là Chúa công mà gọi là Nguyên soái theo phong của Phụ hoàng thiếp. Vậy thiếp xin đọc vế đối:
                        Chúa công, Công chúa hội ngộ
                        Thiếp nghe nói Chúa công chỉ hay dùng văn Nôm mà không ưa văn Hán. Vậy Chúa công hay dùng văn Nôm mà đối lại câu văn Hán này.
                        Nghe Ngọc Hân công chúa nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh thất kinh hồn vía than thầm rằng:
                        - Cuộc nhân duyên chắc chắn lỡ làng, việc lớn của ta chẳng những bất thành. Nguyễn Huệ không đối được bị bẽ mặt, tính mạng ta e rằng khó giữ.
                        Nghĩ xong Chỉnh bèn kéo Trần Văn Kỷ ra xa hỏi nhỏ rằng:
                        - Công chúa ra câu đối hiếm như thế lại còn bắt dùng văn Nôm mà đối. Nếu Chúa công không đối được thì sao.
                        Trần Văn Kỷ cười đáp:
                        - Mục đích Chúa công đến đây là từ chối cuộc hôn nhân, nếu không đôi được thì càng tốt chứ sao.
                        Nghe Văn Kỷ nói Chỉnh lại càng rầu rĩ.
                        Còn vua Lê Hiển Tông kéo công chúa lại gần bảo:
                        - Nếu con không thuận ý thì thôi việc gì phải bày trò câu đối mà hạ nhục Nguyên soái. Con làm việc này là đã giết cha rồi đó.
                        Ngọc Hân đáp:
                        - Xin cha cứ an tâm, Nguyên soái không phải là người kém tài văn chương đâu.
                        Nói xong Ngọc Hân quay sang hỏi Nguyễn Huệ:
                        - Xin hỏi Chúa công có đối được chăng?
                        Bây giờ Nguyễn Huệ mới mỉm cười đáp:
                        - Bình sinh tôi chỉ tranh thắng thua nơi chiến trận, định kế mưu chém tướng đoạt thành. Trên lĩnh vực văn chương thật là mai một. Nay công chúa đã ra vế đối bằng văn Hán, bắt phải đối bằng văn Nôm, Huệ tôi tuy ít học nhưng để chứng tỏ văn Nôm của người Nam ta sao không đối được cùng văn Hán của người Tàu, nên cũng xin múa rìu qua mắt thợ.
                        Ngọc Hân nói:
                        - Vậy xin Chúa công hay đối đi cho.
                        Lúc ấy vua Lê Hiển Tông nghĩ Nguyễn Huệ không đối được sẽ kéo quân về Nam mà sợ toát mồ hôi hột, Nguyễn Hữu Chỉnh lo nhân duyên bất thành lại vạ đến thân, mặt không còn hột máu, chỉ Trần Văn Kỷ là bình thản như không. Bỗng nghe Nguyễn Huệ đáp lời Ngọc Hân rằng:
                        - Công chúa ra câu đối văn Hán: "Chúa công, Công chúa hội ngộ". Tôi xin đọc vế đối văn Nôm: "Một mai, mai một anh hùng".
                        Nguyễn Huệ vừa dứt lời, Nguyễn Hữu Chỉnh mừng quá buột miệng khen:
                        - Hay. Thật không còn vế đối nào hay và chỉnh hơn thế được!
                        Vua Lê Hiển Tông thở phào nói lớn:
                        - Nguyên soái thật là người hiếu trung gồm đủ, trí dũng có thừa, văn võ song toàn đó. Nguyên soái đã đối được vế đối, con còn gì để nói nữa chăng?
                        Ngọc Hân quỳ thưa:
                        - Nguyên soái đã trao lễ vật, xin Phụ vương cho con cùng người nên nghĩa Châu Trần.
                        Nguyễn Huệ cũng quỳ tâu:
                        - Đội ơn Bệ hạ đoái thương. Hạ thần xin được ra về nhờ người mai mối định ngày làm lễ tơ hồng.
                        Nói rồi vua Lê, Nguyễn Huệ, Ngọc Hân và Nguyễn Hữu Chỉnh vui vẻ chia tay. Chỉ có Trần Văn Kỷ là hãy còn thắc mắc. Về đến tư dinh, Văn Kỷ hỏi Nguyễn Huệ:
                        - Chúa công định từ cười hôn nhân, sao con đối vế đối của công chúa làm gì?
                        Nguyễn Huệ đáp:
                        - Lúc chưa gặp vua, mới nghe Hữu Chỉnh nói ta những tưởng vua vì bất đắc dĩ mới gả công chúa cho ta. Nếu nhận là ép người, bất nghĩa. Giờ tận mắt thấy vua thật lòng muốn nhận ta làm phò mã, nên chối từ hoá ra là khi quân thất lễ, nên ta phải thuận lòng. Vả lại, ta không bất nghĩa với vua Lê mà được làm phò mã thì càng danh chánh ngôn thuận phò vua nhà Lê, ắt có lợi cho việc tiến thoái về sau để thống nhất sơn hà. Văn Kỷ chớ nghĩ rằng ta say đắm nhan sắc của công chúa mới phải đối văn.
                        Trần Văn Kỷ vui vẻ nói:
                        - Trai anh hùng, gái thuyền quyền. Mối lương duyên này thật là do trời sắp đặt.
                        Đến ngày cưới, Nguyễn Huệ dâng lễ vật cho vua Lê, rước công chúa Ngọc Hân về soái phủ (Là phủ Chúa Trịnh lúc trước). Nhân dân ở thành Thăng Long hay tin đi xem đông như kiến, mọi người đều tấm tắc khen rằng:
                        - Công chúa con vua nước ta lại lấy em vua nước Tây Sơn. Thật trai tài gái sắc, xứng đôi phải lứa xứ này chưa từng thấy. Phò mã ắt phải giữ nước cho cha vợ, lo gì nước chẳng yên.
                        Rước Ngọc Hân về soái phủ rồi, Nguyễn Huệ hỏi Ngọc Hân rằng:
                        - Công chúa không thương thì thôi sao ra câu đối hiểm như vậy? Ngộ nhỡ tôi không đối được hoá ra công chúa muốn làm bẽ mặt tôi ư?
                        Ngọc Hân đáp:
                        - Khi ra về đối này thiếp đã nghĩ trước, chỉ có anh hùng trong thiên hạ mới đối được mà thôi. Phu quân là người anh hùng quan thế sao lại chẳng đối được câu này.
                        Nguyễn Huệ nắm tay Ngọc Hân nói:
                        - Mới gặp mặt lần đầu đã đoán biết anh hùng. Ta với nàng thật là tri kỷ. Anh hùng quán thế sánh duyên cùng tuyệt thế giai nhân, ấy chẳng phải là ý trời ư?
                        Nói rồi hai người cũng dắt tay nhau vào động phòng hoa chúc.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #42
                          Chương 39

                          Nguyễn Hữu Chỉnh thêm một lần bị đuổi khỏi nước.
                          Nguyễn Long Nhương phải hai phen kháng lệnh vua anh.


                          Nói về vua Thái Đức nhà Tây Sơn ở Hoàng đế thành (thành Quy Nhơn) nghe quân vào báo:
                          - Tâu Bệ hạ, Long Nhương tướng quân đã chiếm xong đất Thuận Hoá. Long Nhương sai quân mang thư báo tin thắng trận.
                          Vua Thái Đức mừng rỡ mở thư ra, đọc xong vua sa sầm nét mặt, đập tay xuống ngai quát:
                          - Nguyễn Huệ thật to gan!
                          Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
                          - Long Nhương tướng quân báo tin thắng trận vì sao Bệ hạ lại giận dữ nhà vậy?
                          Vua Thái Đức đáp:
                          - Ta lệnh cho Nguyễn Huệ đánh Thuận Hoá xong phải kéo quân về. Vậy mà Huệ sai người báo tin thắng trận lại báo luôn tin sẽ đem quân đi đánh Bắc Hà. Ấy chẳng phải là Nguyễn Huệ lộng quyền đã khinh thường ta, kháng mệnh hay sao?
                          Nguyễn Thung tâu:
                          - Long Nhương tướng quân xưa nay phàm làm việc gì cũng đặt quốc gia đại sự làm đầu, không kể về danh lợi, bản thân. Nay Long Nhương đem quân ra Bắc ắt không là ngoại lệ. Xin Bệ hạ bình tâm suy xét lại.
                          Nghe Nguyễn Thung nói, vua càng giận quát:
                          - Ngươi bao giờ cũng bênh vực cho Nguyễn Huệ cả. Ngươi tưởng rằng chức quan Ngự sử có thể can vua là ta không giết được người sao?
                          Thấy vua Thái Đức quá giận. Nguyễn Thung quỳ mọp dưới thềm không dám ngước lên. Vua gọi thái giám Vũ Tâm Can bảo:
                          - Ngươi hãy mau mang chiếu chỉ của ta ngay để ra thành Phú Xuân gọi Nguyễn Huệ về đây cho ta.
                          Vũ Tâm Can vâng lệnh đi ngay. Vừa bỏ mặc Nguyễn Thung quỳ dưới thềm đứng lên lui vào hậu cung. Vũ Tâm Can đi rồi tháng sau quay về báo:
                          - Tâu Bệ hạ, Long Nhương tướng quân và các tướng đã đem binh đánh Bắc Hà. Chỉ còn một mình Tiết chế Nguyễn Lữ ở lại trấn thủ Thuận Hoá mà thôi!
                          Vua Thái Đức hỏi:
                          - Huệ đem binh đi vào lúc nào?
                          Vũ Tâm Can đáp:
                          - Ngày trước Long Nhương sai người về kinh báo tin, ngày sau Long Nhương vội kéo quân đi.
                          Vua Thái Đức giận lắm, gằn giọng rằng:
                          - Nguyễn Huệ biết nếu xin lệnh của ta ắt ta sẽ không cho đi, nên nó chuẩn bị xuất binh trước rồi mới bảo ta hay. Đã đến nước này đành cho nó kéo binh về rồi sẽ hay. Lần này nếu ta không dùng phép nước mà trị tội nó thì còn gì là kỷ cương phép tắc.
                          Nghe vua Thái Đức nói, Vũ Tâm Can mừng lắm nhưng làm ra về buồn rầu rồi xin phép cáo lui.
                          Ít hôm sau quân lại vào dâng thư của Nguyễn Huệ và tâu với vua Thái Đức rằng:
                          - Tâu Bệ hạ, Long Nhương tướng quân đem binh vào Thăng Long đánh tan quân Trịnh. Long Nhương tướng quân sai người mang thư về xin Bệ hạ duyệt lãm.
                          Tiếp thư đọc xong, vua Thái Đức nói:
                          - Nguyễn Huệ mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh đem quân ra Bắc, nay đã đánh đến kinh thành Thăng Long. Huệ mượn cớ giúp vua Lê chỉnh đốn cõi Bắc mà đóng quân ở nơi ấy ít lâu rồi sẽ kéo quân về phục mệnh.
                          Vũ Tâm Can tâu:
                          - Long Nhương tướng quân chỉ trong một tháng mà lật đổ họ Trịnh làm Chúa ở Đàng Ngoài suốt hai trăm năm. Long Nhương hiện giờ vang danh khắp thiên hạ, trong tay nắm binh hùng tướng mạnh nên mới dám kháng lệnh của Bệ hạ. Long Nhương là người quyết đoán, nếu Bệ hạ không đích thân ra Bắc mà chỉ sai sứ giả đem chiếu đi triệu Long Nhương thì hạ thần e rằng chưa hẳn ông ấy đã vâng lời.
                          Vua Thái Đức nói:
                          - Lời ngươi thật là hữu lý, ta phải thân hành ra Bắc mới yên.
                          Nói rồi vừa thiết triều giao quyền cho con là Thái tử Nguyễn Bảo trông coi chính sự, việc binh nhung giao cho đại tướng Lê Trung. Vừa lại tuyển hai ngàn quân cấm vệ định ngày ra Thăng Long.
                          Quan ngự sử Nguyễn Thung biết việc ấy thì nghĩ thầm rằng: Càng ngày vua càng tin chắc rằng Long Nhương cậy công lấn quyền, phen này e Long Nhương nguy mất.
                          Nghĩ rồi bèn về nhà viết thư sai người tâm phúc ngày đêm đi gặp ra Thăng Long báo trước cho Nguyễn Huệ.
                          ***
                          Nhắc lại ở thành Thăng Long, Nguyễn Huệ và Ngọc Hân công chúa thành thân được ít hôm thì vua Lê Hiển Tông lâm trọng bệnh. Vua cho vời Nguyễn Huệ và Ngọc Hân đến trăng trối:
                          - Nay ta biết mình không còn sống được nữa. Và sau khi ta mất đi Phò mã hãy đưa Hoàng tử tôn Lê Duy Kỳ lạ con trai Thái tử Lê Duy Vỹ lên kế vị. Duy Kỳ mới mười tám tuổi hãy còn nhỏ dại nhờ Phò mã hết lòng phò tá cho.
                          Nói xong vừa băng hà. Nguyễn Huệ đứng ra lo hậu sự cho vua rất trọng thể. Sau đó đưa Hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên ngôi. Lê Duy Kỳ lên làm vua lấy hiệu là Chiêu Thống (năm Bính Ngọ, 1786).
                          Việc vừa xong Nguyễn Huệ nghe quân vào báo:
                          - Thưa Long Nhương, có người tâm phúc của quan ngự sử Nguyễn Thung xin vào ra mắt.
                          Nguyễn Huệ giật mình nói:
                          - Nguyễn Thung sai người ra gặp ta tất có điều cơ mật. Mau cho vào.
                          Người nhà Nguyễn Thung vào dâng thư cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đọc xong trầm ngâm nói:
                          - Thật không ngoài dự liệu của ta. Nguyễn Thung mật báo cho ta hay, Hoàng huynh ngự giá ra Bắc triệu ta về kinh thành Quy Nhơn trị tội kháng mệnh. Ít hôm nưa Hoàng huynh sẽ đến đây.
                          Trần Văn Kỷ hỏi:
                          - Vậy Chúa công liệu tính thế nào?
                          Nguyễn Huệ đáp:
                          - Cứ để Hoàng huynh ta đến đây, rồi tuỳ theo thái độ của người thế nào ta sẽ liệu mà xử sự.
                          Vài hôm sau vua Thái Đức và hai ngàn quân cận vệ đến Thăng Long, Nguyễn Huệ cùng các tướng ra cổng thành Nam nghênh đón. Các tướng cũng quỳ tung hô vạn tuế, Nguyễn Huệ kính cẩn thưa rằng:
                          - Tâu Hoàng huynh, em chưa được lệnh của Hoàng huynh mà đã đem quân ra Bắc, khiến Hoàng huynh phải nhọc sức ngự giá đến đây. Em thật là đắc tội xin Hoàng huynh lượng thứ.
                          Vua Thái Đức an ủi rằng:
                          - Ta ở Hoàng đế thành nghe báo tin em chiếm Thuận Hoá xong liền đem quân ra đánh Bắc. Em đem binh đi đánh Thuận Hoá chỉ có hai vạn quân trong khi đó Bắc Hà đất rộng dân đông, binh họ Trịnh có hơn mười vạn, anh sợ em có điều sơ sảy là anh đã phụ lời di huấn của phụ thân, nên anh chẳng quản ngày đêm ra đến đây gọi em về đó.
                          Nói xong vua Thái Đức liền theo Nguyễn Huệ vào nội Trịnh phủ. Đêm ấy vua Thái Đức cho gọi đông đủ các tướng rồi bảo Nguyễn Huệ rằng:
                          - Em nhân danh Tây Sơn ta ra đây đánh Trịnh phò Lê. Nay họ Trịnh đã diệt, vậy em hãy lệnh cho ba quân tướng sĩ chuẩn bị quân trang ít hôm nữa thì kéo quân về.
                          Nguyễn Huệ thưa:
                          - Thưa Hoàng huynh, Chúa Trịnh tuy đã diệt nhưng dư đảng vẫn còn có Trịnh Lệ, Trịnh Bồng. Vả lại ngoài chúng dân loạn lạc, cướp bóc nổi dậy khắp nơi, nhân tình thật là thống khổ. Nay nước chưa yên mà ta đã vội kéo quân về thì đối với thiên hạ thật không đúng nghĩa tôn phò, e người đời đi nghĩ là Tây Sơn ta thất tín.
                          Vua Thái Đức vỗ án quát:
                          - Nguyễn Huệ thật to gan! Ngươi có hai tội đáng chết, ta nghĩ tình không bắt tội thì thôi, lại còn dám cãi nữa hay sao.
                          Huệ run run hỏi:
                          - Xin hỏi Hoàng huynh, em có hai tội gì gọi là đáng chết?
                          Vua cười gắn đáp:
                          - Ngươi còn giả vờ chưa biết thì hay nghe ta kể tội đây! Ta lệnh cho ngươi đem binh đánh Thuận Hoá dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi thiên hạ với họ Trịnh ở Bắc Hà. Ngươi lại dám cãi lời vua đem quân Bắc tiến. Tội thứ nhất là kháng mệnh bất trung. Phận làm con, việc hôn nhân là do mẹ cho định đoạt. Mẹ cha mất phải hỏi ý của anh. Nay mẹ vẫn còn đó, anh vẫn còn đây ngươi dám qua quyền mà tự tiện lấy vợ. Tội thứ hai là luân thường bất hiếu. Ta hỏi người bất trung bắt hiếu phải xử thế nào.
                          Nguyễn Huệ đập đầu thưa
                          - Hoàng huynh là người nhân đức, thích cảnh thái bình, ghét việc binh đao nên Hoàng huynh không muốn đem quân đánh Phú Xuân, Thuận Hoá. Đến lúc thấy nhân dân Thuận Hoá bị quân Trịnh áp bức không sống nổi phải trong vào nước ta nương nhờ thánh đức, Hoàng huynh liền xuống lệnh xuất quân. Ấy bởi Hoàng huynh không phải vì đất Thuận Hoá mà vì lòng nhân đức ra tay tế độ chúng dân. Khi em đánh chiếm Thuận Hoá xong rồi, đưa mắt nhìn ra ngoài cõi Bắc, thấy muôn dân cũng thống khổ lầm than, nên mới đem binh dẹp loạn. Xét về ly, tội là kháng mệnh, xét về tình là thi hành đức lớn của Hoàng huynh. Ấy là một lẽ.
                          Đi đánh Trịnh cứu dân phải mượn tiếng phò Lê. Vua Lê khăng khăng đòi nhận em làm Phò mã để danh chánh ngôn thuận mà vực nước cứu dân. Vua Lê lúc ấy đã lâm trọng bệnh chưa biết sống chết thế nào. Nếu nhà vua chẳng may khuất núi, việc hôn nhân ắt phải bất thành, thì còn đâu nghĩa cả giúp dân. Nếu em về Quy Nhơn xin phép mẹ và Hoàng huynh rồi lại trở ra, đường sá xa xôi núi sông cách trở mà vua Lê không cầm cự được lâu ngày, thành ra lỡ việc lớn, nên em buộc lòng phải tự quyết lấy. Quả nhiên, sau hôn lễ mấy ngày vua Lê đã băng hà. Sự thực là như thế, em nào dám gian dối. Xét theo lý, là qua quyền bất hiếu với mẹ cha, xét theo tình là hiếu với dân với nước. Ấy là hai lẽ. Xin Hoàng huynh hay vì hai tình ấy mà giảm cho hai tội chết kia.
                          Vua Thái Đức nói:
                          - Ngươi khá già mồm, giỏi biện luận. Ta vì tình cốt nhục mà tha cho tội chết chứ không phải vì những lời nguỵ biện ấy đâu.
                          Nguyễn Huệ thấy anh đã bớt giận bèn cố xin thêm:
                          - Hoàng huynh đã rõ em vì hai tình lớn mà phạm vào hai lỗi nhỏ, vậy xin Hoàng huynh cho đóng quân ở lại ít lâu giúp vua Lê cho vẹn tình trọn nghĩa tôn phò.
                          Vua Thái Đức gạt đi bảo:
                          - Ta tha cho ngươi tội chết, tội sống khó tha phải theo ta về Quy Nhơn phục mệnh.
                          Nguyễn Huệ thấy ý vua đã quyết không dám mở miệng. Nguyễn Hữu Chỉnh xen vào thưa:
                          - Long Nhương theo Bệ hạ về Quy Nhơn, cũng xin Bệ hạ hay cử tướng ở lại Bắc Hà phò giúp vua Lê là lòng dân xứ Bắc cũng chưa phải là không có lợi về sau.
                          Vua Thái Đức cười bảo:
                          - Hữu Chỉnh là tôi thần của vua Lê. Việc này ngoài ngươi ra còn ai có thể thuận lý hơn được nữa. Sau khi ta về Quy Nhơn sẽ để Hữu Chỉnh ở lại xứ Bắc giúp vua Lê.
                          Nguyễn Hữu Chỉnh mừng thầm lạy tạ lui ra. Bỗng nghe quân vào báo rằng:
                          - Tâu Bệ hạ, có vua Lê Chiêu Thống đến xin cầu kiến.
                          Vua Thái Đức hỏi Nguyễn Huệ:
                          - Ta định thu xếp việc trong nhà rồi sẽ sang bái yết vua Lê. Nay vua Lê lại đến đây trước, vậy phải làm thế nào cho phải?
                          Nguyễn Huệ đáp:
                          - Vua Lê hiện đang nhờ vả Tây Sơn ta, nay lại nghe tin Hoàng huynh đến đây nên vua Lê mới đến cầu kiến trước, ấy là việc phải làm của người thất thế. Những theo nghĩa ta lấy tiếng tôn phò để diệt Trịnh cứu dân, nếu để người ta cầu luỵ mình e rằng mất nghĩa. Xin Hoàng huynh xét lại.
                          Vua Thái Đức cười bảo:
                          - Ý em ta đã hiểu. Theo em là ta phải có bổn phận sang cầu kiến vua Lê cho đúng nghĩa tôn phò.
                          Nguyễn Huệ vội vàng đáp:
                          - Ý em không phải là như vậy.
                          Vua Thái Đức hỏi:
                          - Vua Lê sang cầu kiến ta thì ngươi bảo là e mất nghĩa. Vậy nếu ta không cầu kiến vua Lê thì là thế nào?
                          Huệ đáp:
                          - Vua Lê ở cung vua, Hoàng huynh ở phủ Trịnh vậy hai vua nên gặp nhau tại chính điện Kính Thiên là nơi dùng để thiết triều, thì không bên nào thất lễ với nhau. Hoàng huynh xem có tiện chăng?
                          Vua Thái Đức vừa ngáp vừa nói:
                          - Ta cũng gắng chiều ý ngươi cho trọn nghĩa tôn phò. Vậy hãy mau ra hẹn với vua Lê định ngày gặp nhau nơi chính điện.
                          Đến ngày hẹn, vua Thái Đức nhà Tây Sơn và vua Chiêu Thống nhà Lê gặp nhau tại chính điện Kính Thiên. Bên vua Lê chỉ toàn quan văn, bên Tây Sơn tinh là võ tướng. Sau khi thi lễ và phân ngôi chủ khách xong, vua Chiêu Thống nói:
                          - Bệ hạ từ Nam Hà lặn lội ra đến đây, tôi mới lên ngôi việc nước còn rối ren, không hay biết ra ngoài thành tiếp đón thật là thất lễ.
                          Vua Thái Đức khiêm tốn nói:
                          - Anh em tôi vì nghĩa tôn phò, đối với Bắc Hà là nước lớn, đối với Bệ hạ là kẻ bề trên. Tôi có bổn phận phải xin diện kiến với Bệ hạ, nếu để Bệ hạ tiếp đón e rằng không phải đạo.
                          Bỗng vua Chiêu Thống đứng dậy chắp tay nói:
                          - Được Bệ hạ ngự giá thân chinh đến tận nước tôi đem nghĩa tôn phò bố cáo cũng thiên hạ, ấy thật là hồng phúc của nước tôi vậy. Nay tôi có hai điều thỉnh cầu xin Bệ hạ thuận cho.
                          Vua Thái Đức hỏi:
                          - Hai điều ấy là điều gì?
                          Vua Chiêu Thống đáp:
                          - Điều thứ nhất là: Tôi còn nhỏ tuổi lại mới lên ngôi, thêm binh quyền không có, trong nước rối ren. Xin Bệ hạ cử tướng ở lại giúp tôi định quốc an dân rồi hãy quay về. Điều thứ hai là, nhà Lê tôi tiếng là làm vua, nhưng quyền hành đều trong tay họ Trịnh cảnh nhà thanh bạch không có gì để khao thưởng tướng sĩ. Vậy khi xong việc rút quân về, tôi xin dâng đất Nghệ An là nơi giáp giới với nước của Bệ hạ ở làm lễ khao quân. Chẳng hay ý Bệ hạ thế nào?
                          Vua Thái Đức cười đáp:
                          - Nguyễn Phúc Ánh vẫn ngấp nghé dấy loạn ở đất Gia Định nên nay tôi phải kéo quân về phòng khi có biến. Tôi sẽ để Hữu Chỉnh ở lại Bắc Hà giúp vua. Điều thứ nhất chắc chắn làm được. Quân Tây Sơn tôi ra đây vì nghĩa phò Lê diệt Trịnh, không vì lợi. Nếu là đất họ Trịnh một tấc cũng không để. Đất nhà Lê một tấc cũng không lấy. Xin Bệ hạ đừng nói điều cắt đất khao quân, tôi thật áy náy lắm.
                          Vua Chiêu Thống cả mừng nói:
                          - Ngày xưa Trịnh Sâm giết giết cha tôi. Nay Bệ hạ sai Nguyên soái kéo quân ra diệt Trịnh là đã trả giùm thù cha cho tôi rồi. Nhà Lê tôi bị họ Trịnh ở nên suốt hai trăm năm, nay được nắm giữ lấy vận mệnh nước nhà là Bệ hạ đã tái tạo cho nhà Lê tôi. Hai ơn ấy thật là ví như trời biển biết lấy gì báo đáp.
                          Vua Thái Đức xua tay nói rằng:
                          - Tôi ra đây vì nghĩa thì sao dám kể ơn. Xin Bệ hạ hay giữ lấy kỷ cương, lập lại giềng mối nối nghiệp Tiên đế để hai nước đời đời giao hảo là tôi đã thoả nguyện lắm rồi.
                          Nói xong vua Thái Đức cáo biệt vua Chiêu Thống cùng các tướng quay về phủ Chúa Trịnh.
                          Hôm sau vua Thái Đức gọi Nguyễn Huệ đến bảo:
                          - Em hãy lệnh cho các tướng chuẩn bị quân trang nửa đêm nay sẽ rút đại binh về nước!
                          Nguyễn Huệ hỏi:
                          - Nếu Hoàng huynh kéo binh về nước bỏ mặc vua Lê thì còn đâu là nghĩa tôn phò, e rằng thất tín với thiên hạ. Xin Hoàng huynh xét lại.
                          Vua Thái Đức gạt đi bảo:
                          - Nguyễn Hữu Chỉnh muốn mượn tay Tây Sơn ta đưa hắn về nước nên mới xui người mượn tiếng phò Lê đánh Trịnh. Ngươi không rõ bụng hắn vội nghe lời hắn kháng lệnh ta kéo quân ra Bắc. Nay ta lệnh cho ngươi lập tức kéo quân về. Có thất tín là thất tín với vua Lê và dân xứ Bắc chứ có thất tín với dân nước ta đâu mà ngại. Vả lại ta hứa với vua Lê rằng sẽ để Hữu Chỉnh ở lại Bắc Hà giúp vua Lê thì ta vẫn để Hữu Chỉnh lại đấy thôi. Sao bảo rằng ta thất tín.
                          Nguyễn Huệ biết anh đã quả quyết thế, không dám van nài bèn hỏi:
                          - Em vẫn biết Chỉnh muốn mượn quân Tây Sơn ta làm bá vương nơi cõi Bắc. Những em kéo binh ra đã là diệt Trịnh cứu dân không phải vì chẳng hiểu bụng Chỉnh. Chính vì vậy nên em định để tướng của ta ở lại Bắc Hà giúp vua Lê, chứ không phải là Hữu Chỉnh. Đã biết bụng Chỉnh sao Hoàng huynh còn cho hắn mượn binh ở lại Bắc Hà.
                          Vua Thái Đức đáp:
                          - Lệnh rút quân không được để lộ cho Hữu Chỉnh biết. Ta nào cho hắn mượn binh. Ngươi Thăng Long oán Chỉnh đến xương tuỷ. Ta chỉ muốn để hắn lại một mình không quản, không tướng, mượn tay người Bắc Hà giết hắn mà thôi.
                          Nguyễn Huệ hỏi:
                          - Vậy là Hoàng huynh không cho người ở lại giữ vua Lê?
                          Vua Thái Đức nghiêm mặt bảo:
                          - Ý ta đã quyết em chớ nhiều lời.
                          Nguyễn Huệ không dám cãi lời, lặng lẽ lui ra. Vua Thái Đức lại sai quân gọi Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh đến, vua cười nói:
                          - Ngọc Hân công chúa thật là xinh đẹp. Nguyễn Huệ mới ra đã được khanh làm mối cho một cô vẻ đẹp đến thế. Nay ta đã đến đây khanh có thể làm mối cho ta được chăng?
                          Hữu Chỉnh thấy vua Thái Đức vui vẻ, mạnh dạn thưa rằng:
                          - Nếu Bệ hạ không chê gái Bắc Hà thì thần sao dám tiếc công làm mối.
                          Vua Thái Đức vờ mừng rỡ bảo:
                          - Vậy ngày nay khanh phải ở lại đây với ta tâm sự hàn huyên. Ngày mai khanh phải khéo tìm cho ta một cô vợ nhé.
                          Nói rồi sai quân bày yến tiệc cùng Nguyễn Hữu Chỉnh chén tạc chén thù. Nguyễn Hữu Chỉnh ngỡ vua lấy lòng mình để nhờ mình tìm vợ nên chẳng nghi ngờ gì cả, cứ thật lòng ăn uống no say. Đến nửa đêm Nguyễn Hữu Chỉnh đã ngà ngà say. Vua Thái Đức nói:
                          - Trẫm sẽ sai người đưa khanh về đến tận bản doanh. Khanh muốn ở lại Bắc Hà, trẫm sẽ cho khanh được toại nguyện. Nhưng nhờ rằng ngày mai hay tìm cho trẫm một cô vợ đấy nhé.
                          Nguyễn Hữu Chỉnh mừng rỡ lậy tạ ơn rồi cáo biệt ra về. Đến nhà Nguyễn Hữu Chỉnh nói với thủ hạ là Nguyễn Viết Tuyển rằng:
                          - Nguyễn Huệ phen này phải theo vua Thái Đức về Quy Nhơn thọ tội kháng lệnh. Vua Thái Đức sẽ cho ta cầm binh ở lại định yên cõi Bắc, chí của ta phen này đã thành. Nguyễn Huệ bị tước quyền rồi hỏi trong thiên hạ còn ai anh hùng hơn ta được. Khi ở Phú Xuân ta xui Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc ấy là kế "nhất tiễn diệt song điêu" của ta vậy.
                          Nói rồi thích thú trong lòng nằm lăn ra mà ngủ.
                          Mấy tên quân đưa Hữu Chỉnh về rồi quay lại báo cùng vua Thái Đức:
                          - Nguyễn Hữu Chỉnh về đến nhà liền ngủ say không hay biết gì cả.
                          Vua Thái Đức bảo:
                          - Truyền lệnh ta lập tức rút quân về nước!
                          Nửa đêm hôm ấy quân Tây Sơn theo hai đường thuỷ, bộ lặng lẽ rút binh. Mờ sáng hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh còn đang mơ màng với giấc mộng Bá vương bỗng có người lay mình dậy và gọi lớn:
                          - Tướng quân dậy mau. Tướng quân dậy mau!
                          Chỉnh giật mình thức giấc, thấy người gọi mình là Nguyễn Viết Tuyển, bèn hỏi:
                          - Việc gì mà người hốt hoảng thế?
                          Nguyễn Viết Tuyển đáp:
                          - Quân Tây Sơn đã rút toàn quân về nước mất rồi!
                          Chỉnh trấn an Tuyển rằng:
                          - Làm gì có việc ấy. Ta vừa cùng vua Thái Đức uống rượu đến nữa đêm có nghe động tĩnh gì đâu?
                          Nguyễn Viết Tuyển thưa:
                          - Dân chúng trong thành đều truyền miệng nhau như vậy, ngoài kia đang náo động cả lên. Tôi vừa cho mấy tên quân do thám đến trại quân Tây Sơn xem thế nào, chắc gần về tơi.
                          Tuyển vừa dứt lời mấy tên quân do thám chạy vào báo rằng:
                          - Thưa tướng quân, người ngựa thuyền bè của quân Tây Sơn không còn một ai cả.
                          Lúc ấy Hữu Chỉnh thất kinh than:
                          - Nguyễn Nhạc lừa ta. Nguyễn Nhạc lừa ta. Hắn bỏ ta ở lại Bắc Hà không quân, không tướng để mượn tay người Bắc Hà giết ta đây mà.
                          Vừa than dứt lời đã nghe ngoài cổng tiếng người giục nhau rằng:
                          - Quân Tây Sơn đã đi rồi, ta mau giết Hữu Chỉnh đi để làm giương cho những kẻ dẫn giặc về phá nhà.
                          Hữu Chỉnh liền cùng Viết Tuyển và mấy tên quân đem gia quyến đi ngõ sau trốn ra phía bờ sông. Đến bến sông Nguyễn Viết Tuyển cướp được một chiếc thuyền lớn bèn đưa gia quyến xuống thuyền. Vừa lúc ấy có vài mươi người cầm vũ khí đuổi đến nơi, bị Nguyễn Hữu Chỉnh đứng trên bờ vung gươm giết sạch. Lên thuyền rồi Chỉnh sai quân giong buồm ra cửa bể. Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
                          - Giờ tướng quân định đi đâu?
                          Chỉnh đáp:
                          - Đi theo quân Tây Sơn chứ còn đi đâu nữa!
                          Tuyển lại hỏi:
                          - Nguyễn Nhạc định mượn tay người Bắc Hà giết ta. Nay ta lại theo Nhạc, chắc gì Nhạc đã dùng?
                          Chỉnh đáp:
                          - Nếu Nhạc đang tâm giết ta cần gì phải mượn tay người. Vả lại không theo Nhạc con biết phải đi đâu?
                          Nói rồi truyền quân cứ cho thuyền thẳng hướng Nam mà chạy theo thuỷ quân Tây Sơn.
                          ***
                          Về phần vua Lê Chiêu Thống nghe quân bảo rằng quân Tây Sơn đã rút cả về Nam. Vua thất kinh nói:
                          - Nguyễn Nhạc thật là xảo ngon thất tín. Hắn vừa hứa với ta sẽ cho tướng ở lại trợ giúp ta, nay lặng lẽ bỏ đi, lại lấy hết cả vàng bạc châu báu trong kho chúa Trịnh. Giờ trong nước trống rỗng, ngộ nhỡ sinh ra biến loạn thì lấy gì mà trị?
                          Trần Công Xán bàn rằng:
                          - Trước khi Tiên đế chưa băng hà, thần đã biết rằng quân Tây Sơn mượn tiếng tôn phò để mưu đồ tư lợi, hạng người ấy còn kế gì đến tín nghĩa. Ấy bởi do ta cả tin mà thôi. Việc đã lỡ trách họ cũng chẳng ích gì. Nay Bệ hạ nên hạ chiếu cần vương đem đi các trấn triệu các tướng về bảo vệ kinh thành để phòng sinh biến loạn.
                          Vua Chiêu Thống khen phải bèn y theo kế của Trần Công Xán mà làm. Quân các trấn nhận được chiếu cần vương của vua Chiêu Thống bên vin vào cớ ấy chiêu binh mãi mã, mỗi người hùng cứ một phương đánh giết lẫn nhau. Quân lính lại được dịp kết bè lập đảng cướp bóc của dân. Thân ôi! Trăm họ thêm lầm than, sinh linh càng điêu đứng, Nhân dân Bắc Hà vì lẽ ấy lại đâm oán Tây Sơn. Họ truyền với nhau rằng: Cứ dưới ách Chúa Trịnh đành rằng là sưu cao thuế nặng, nhưng vẫn còn chút pháp luật kỷ cương. Quân Tây Sơn mượn tiếng phò Lê, diệt Trịnh rồi lấy của cái kéo binh về để nước ta loạn lạc là do anh em Nhạc, Huệ vậy.
                          ***
                          Nhắc lại anh em vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ theo đường bộ vào đến Nghệ An trời vừa sẩm tối. Vua liền truyền lệnh nghỉ đêm nội thành Nghệ An. Xảy nghe quân vào báo:
                          - Tâu Bệ hạ, Nguyễn Hữu Chỉnh đem gia quyến theo ta xin được vào ra mắt.
                          Vua Thái Đức giật mình nói:
                          - Khá khen Hữu Chỉnh quyền biến. Ta bỏ hắn cho người Bắc Hà giết hắn, vậy mà hắn lại thoát chết chạy theo ta. Hữu Chỉnh tuy là người giảo quyệt nhưng chưa từng ra mặt phản ta, nay vô cớ giết đi thì không nỡ. Vậy theo Huệ phải làm thế nào?
                          Nguyễn Huệ đáp:
                          - Chỉnh vì bất đắc dĩ mới ở dưới trướng của ta Nguyễn Duy vừa theo hàng ta, hai người này trước sau gì mà chẳng phản ta. Nay Hoàng huynh nên lựa chừng một ngàn quân vừa mới tuyển được ở Bắc Hà cấp cho Hữu Chỉnh, Nguyễn Duy ở lại trấn thủ đất Nghệ An. Nếu họ không phản thì ta có được đất Nghệ An. Nếu họ phản thì ta cũng chẳng mất gì vì Nghệ An là đất của nhà Lê.
                          Vua Thái Đức hỏi:
                          - Lời em rất phải. Nhưng em một dạ phò Lê nay lại lấy đất của nhà Lê là thế nào?
                          Huệ đáp:
                          - Em phò Lê không phải vì nhà Lê, mà vì dân vậy.
                          Vua Thái Đức lại bảo:
                          - Vậy em hãy thay ta mà nói chuyện cùng Hữu Chỉnh. Ta không muốn gặp mặt Chỉnh.
                          Nguyễn Huệ vâng lời bái tạ đi ra ngoài. Gặp Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ nói:
                          - Hoàng huynh ta bất ngờ ra Bắc đem ta về trị tội kháng lệnh. Hoàng huynh lại không cử tướng ở lại giúp vua Lê khiến cho ta phải thất tín với thiên hạ. Còn ông vì tôi khuyên ta đi đánh Bắc Hà nên Hoàng huynh ta mới để ông ở lại cõi Bắc mà không muốn cho theo.
                          Nguyễn Hữu Chỉnh buồn rầu nói:
                          - Tướng quân bỏ về Nam không cử tướng giúp vua Lê khiến Bắc Hà loạn lạc. Lòng người xứ Bắc lại đổ tội cho tôi rước gấu về phá tổ ong. Nếu Hoàng thượng không cho theo mà để tôi ở lại xứ Bắc không quân không tướng thì chỉ có chết mà thôi. Tướng quân có cách gì cứu tôi chăng?
                          Nguyễn Huệ không đáp mà hỏi lại Chỉnh rằng:
                          - Ông có biết vì sao ta đem quân ra đánh Bắc Hà không?
                          Chỉnh đáp ngay:
                          - Chí của tướng quân là thống nhất giang sơn.
                          Huệ cười bảo:
                          - Khá khen ông biết chí của ta. Vậy ông có nghĩ rằng ta cũng biết chí của ông chăng.
                          Chỉnh đáp ngay:
                          - Tôi hiểu tướng quân thưa biết chí của tôi.
                          Huệ cười bảo:
                          - Ta cố van nài, Hoàng huynh ta đã bằng lòng cấp cho ông một ngàn quân mà ở lại trấn thủ Nghệ An. Ý ông thế nào?
                          Chỉnh dè dặt hỏi:
                          - Đã biết chí tôi là muốn xưng hùng đất Bắc, sao tướng quân còn cấp binh mã cho tôi trấn thủ Nghệ An?
                          Huệ trầm ngâm đáp:
                          - Sau khi ta bỏ vua Lê mà đi, Bắc Hà tất loạn. Nhân tài xứ Bắc chỉ mỗi mình ông. Ta cấp binh chống trấn thủ Nghệ An. Ít lâu sau nước loạn, vua Lê Chiêu Thống sẽ gọi ông đem quân về cứu giá, khi đó tất ông sẽ được toại chí. Nhưng nếu bạc đãi vua Lê bức bách hoàng gia, thì ta sẽ đem quân Tây Sơn ra Bắc lần nữa để trừ ông đó.
                          Hữu Chỉnh cả mừng đáp:
                          - Được vậy thì còn gì bằng. Ấy là nhờ ơn tái tạo của tướng quân, Chỉnh tôi xin tạc dạ ghi lòng. Chỉnh tôi muốn xưng hùng đất Bắc cũng chỉ vì muốn binh yên đất nước mà thôi. Xin tướng quân chớ nghi ngờ.
                          Nguyễn Huệ cười bởi:
                          - Biết lòng thành của ông, ta còn xin cho tướng theo giúp việc cho ông. Ông mà biết được còn vui mừng nhiều đấy.
                          Hữu Chỉnh lo Nguyễn Huệ cho tướng theo giám sát mình, dè dặt hỏi:
                          - Tướng ấy là ai?
                          Nguyễn Huệ đáp:
                          - Là huynh đệ đồng môn với ông, Nguyễn Duy tướng quân đó.
                          Nguyễn Hữu Chỉnh vờ khen Nguyễn Huệ rằng:
                          - Tướng quân thật sáng suốt. Nguyễn Duy trước cũng là tướng Trịnh, nay tướng quân để anh em tôi trấn đất Nghệ An thì mặt Bắc không phải lo gì nữa.
                          Sáng sớm hôm sau vua Thái Đức lại truyền quân lên đường về Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Duy ra cổng Nam thành Nghệ An đưa tiễn. Đi được một đoạn, Nguyễn Huỳnh Đức giục ngựa theo xe vua tâu:
                          - Tâu Bệ hạ, đành rằng Nguyễn Hữu Chỉnh chưa ra mặt phản ta, nhưng Chỉnh là người xảo trá không thể tin được. Nay cấp quân cho hắn ở lại Nghệ An khác nào thả hồ về rừng.
                          Vua Thái Đức nói:
                          - Ta vẫn biết thế nhưng người ta chưa phản giết đi thi không nỡ, Vả lại đất Nghệ An là của Lệ Trịnh. Chỉnh có phản ta, ta cũng chẳng mất gì.
                          Huỳnh Đức lại thưa
                          - Hạ thần đội ơn tha mạng của Bệ hạ chưa là được công gì trả đặng. Xin Bệ hạ cho được ở lại trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Duy để thăm dò động tĩnh và có cách kiềm chế họ.
                          Vua Thái Đức khen phải rồi bảo Nguyễn Huệ đưa Nguyễn Huỳnh Đức quay lại cùng Nguyễn Hữu Chỉnh. Dọc đường Nguyễn Huệ bảo Huỳnh Đức:
                          - Hoàng huynh ta để Huỳnh Đức ở lại trấn Nghệ An cùng Nguyễn Hữu Chỉnh mới là thả hổ về rừng đó.
                          Huỳnh Đức giật mình hỏi:
                          - Long Nhương nói vậy là ý thế nào?
                          Huệ cười đáp:
                          - Đức gạt Hoàng huynh ta, chứ gạt ta sao được. Phen này ngươi đã bỏ ta mà đi rồi đó.
                          Nguyễn Huỳnh Đức ngồi trên ngựa với Nguyễn Huệ rồi nói:
                          - Ngày trước tôi bằng lòng hàng tướng quân là có điều giao ước. Nay nghe Chúa tôi đang ẩn náu tại Tiêm La Quốc, nên tôi xin ở lại trấn thủ Nghệ An để tìm đường theo Chúa. Xin Long Nhương chớ quên lời giao ước năm xưa.
                          Huệ cười bảo:
                          - Người quân tử nói phải giữ lời, ta quên sao được. Nhưng vì đâu ngươi không xin ta thả cho ngươi đi mà kiếm cớ ở lại Nghệ An?
                          Nguyễn Huỳnh Đức không nói, cười lớn lên mấy hồi. Nguyễn Huệ hỏi:
                          - Huỳnh Đức cười gì mãi thế.
                          Bảy giờ Nguyễn Huỳnh Đức mới đáp:
                          - Nếu tôi theo Long Nhương về Quy Nhơn, vua Thái Đức bắt tội kháng lệnh của Long Nhương, và con ai có thể thả cho tôi theo Chúa được. Phen này Long Nhương không bị tội chết cũng bị tước mất binh quyền thì còn ai là đối thủ của Nguyễn Vương. Tôi cười là do thế.
                          Nghe Huỳnh Đức nói xong, Nguyễn Huệ cũng ngửa mặt lên trời cười lên mấy hồi. Đức ngạc nhiên hỏi:
                          - Tôi nói không đúng sao mà Long Nhương cười mãi thế?
                          Nguyễn Huệ nín cười đáp:
                          - Tuy không có ta, nhưng ngươi quên mất một người là đối thủ của Nguyễn Phúc Ánh.
                          Đức hỏi:
                          - Người ấy là ai?
                          Huệ đáp:
                          - Người này đang trấn thủ đất Gia Định, ngày trước đã bắt sống ngươi tại cửa Hàm Luông. Ấy chính là Đô đốc Đặng Văn Long.
                          Nguyễn Huệ nói xong cũng vừa đến nơi. Huệ bèn giao Huỳnh Đức cho Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi quay ngựa chạy theo vua Thái Đức.
                          Khi đại binh Tây Sơn về đến Động Hải (Động Hải, Quảng Bình ngày nay), vua Thái Đức gọi Vũ Văn Nhậm đến bảo:
                          - Nay ta cho con năm ngàn binh mã trấn thủ Động Hải và luỹ Trường Dục. Nếu Nguyễn Hữu Chỉnh phản ta thì con hãy dùng sông Linh Giang làm ranh giới chia đôi thiên hạ với nhà Lê, và làm thế môi răng cùng Nguyễn Lữ ở Phú Xuân. Khi chưa có lệnh không được đem quân ra khỏi sông Linh Giang. Con nên cố gắng chớ phụ lòng ta.
                          Vũ Văn Nhậm hỏi:
                          - Con ở tiền biên trấn thủ Động Hải, Trường Dục. Tiết chế hoàng thúc trấn thủ thành Phú Xuân, và còn Long Nhương hoàng thúc thì thế nào?
                          Vua Thái Đức đáp:
                          - Ta phải đem Nguyễn Huệ về Quy Nhơn thọ tội kháng mệnh.
                          Nói rồi vua Thái Đức đem đại binh về Phú Xuân. Vũ Văn Nhậm trấn thủ Động Hải vui mừng nghĩ thầm rằng:
                          - Trong các tướng, tài của ta chỉ kém Long Nhương hoàng thúc. Nay Long Nhương theo Phụ hoàng về Quy Nhơn thọ tội, để Tiết chế hoàng thúc trấn thủ Phú Xuân. Tiết chế là người thật thà như nhược, vậy binh quyền ở đất Thuận Hoá này không về tay ta thì còn ai vào đây nữa.
                          Quân Tây Sơn về đến Phú Xuân thì trời vừa tối. Vua Thái Đức truyền quân nghỉ đêm tại thành Phú Xuân. Đêm ấy Nguyễn Huệ đi đi lại lại trong phòng, hết ngồi rồi đứng không sao ngủ được. Trần Văn Kỷ hỏi:
                          - Nguyễn Hữu Chỉnh nuôi mộng Ba Vương. Nguyễn Duy là người phản phúc. Nguyễn Duy trước bỏ Nguyễn hàng Trịnh, sau bỏ Trịnh hàng ta đều do Nguyễn Hữu Chỉnh lấy tình huynh đệ đồng sư môn mà thuyết cả. Nay Long Nhương lại cấp quân cho họ trấn đất Nghệ An khác nào xui họ làm phản ta sao.
                          Nguyễn Huệ đáp:
                          - Nhà Lê đã đến hồi mạt vận, không người tài giữ lấy kỷ cương. Tướng lĩnh Bắc Hà ai cũng mượn tiếng phò Lê, mưu đồ danh lợi. Ta rút binh về Bác Hà ắt loạn. Vậy nên tôi mới xin Hoàng huynh cho Hữu Chỉnh trấn đất Nghệ An được gần Thăng Long. Sớm muộn gì vua Chiêu Thống lại chẳng mật chiếu với Hữu Chỉnh về kinh giúp vua. Nhân tài Bắc Hà chỉ có Hữu Chỉnh là trội hơn cả, Chỉnh nắm quyền phò vua, may ra có thể tạm yên phần nào đất Bắc, trong khi ta con bận đối phó với Hoàng huynh ở mặt Nam.
                          Trần Văn Kỷ e dè hỏi:
                          - Long Nhương nói vậy nghĩa là...
                          Huệ tiếp lời:
                          - Vì muôn dân đại nghĩa, ta không thể nào theo Hoàng huynh về Quy Nhơn thọ tội. Tính Hoàng huynh ta đã biết, rất thương kẻ cũng đường nhưng không muốn ai hơn mình. Khi ta lần thứ hai kháng mệnh ai dám chắc rằng Hoàng huynh không dấy động can qua.
                          Sáng hôm sau Nguyễn Huệ dẫn các tướng đến gặp vua Thái Đức. Huệ tâu:
                          - Thưa Hoàng huynh, đất Thuận Hoá chưa yên lòng dân còn ly tán, xin Hoàng huynh cho em ở lại trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá lập lại kỷ cương...
                          Huệ chưa dứt lời vua Thái Đức vỗ án quát:
                          - Nguyễn Huệ to gan! Tội khi quân kháng lệnh của ngươi ta không giết thì thôi. Ta lệnh cho ngươi về Quy Nhơn thọ tội, ngươi lại xin ở lại Phú Xuân là thế nào.
                          Nguyễn Huệ khóc nói:
                          - Xin Hoàng huynh bớt giận mà bỏ lỗi cho, lần này em không thể nghe lệnh Hoàng huynh.
                          Vua Thái Đức hét lớn rằng:
                          - Quân bay mau bắt Nguyễn Huệ lại cho ta.
                          Nguyễn Huệ khóc lớn nói:
                          - Hoàng huynh nghĩ rằng lính của Hoàng huynh có thể bắt được em sao?
                          Lúc bấy giờ các tướng Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú, Vũ Văn Dũng, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đều là người tâm phúc của Nguyễn Huệ cả. Bọn họ đều lặng lẽ cúi đầu. Vua Thái Đức biết các tướng nghe lời Nguyễn Huệ mà không nghe lệnh mình nhưng cũng gắng nạt thị oai:
                          - Các ngươi không nghe lệnh của ta ư? Muốn làm phản hay sao?
                          Các tướng vẫn lặng thinh. Nguyễn Lữ bước ra khóc hỏi:
                          - Long Nhương huynh vì Hoàng huynh và nhà Tây Sơn đánh Nam dẹp Bắc có tội gì mà Hoàng huynh bắt tội.
                          Rồi quay sang Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ thật thà khóc hỏi:
                          - Xưa nay Hoàng huynh chỉ lấy đạo nhà mà dậy có bao giờ dùng phép nước trị tội anh đâu. Sao ăn không theo Hoàng huynh về Quy Nhơn thọ tội, gây nên cảnh huynh đệ bắt hoa như thế này.
                          Bỗng Nguyễn Văn Tuyết bước ra hỏi lớn:
                          - Xin hỏi Bệ hạ, Long Nhương tướng quân có tội gì. Kể từ khi Tây Sơn Thượng dấy binh đến nay, ai đã vì Bệ hạ ra Bắc vào Nam dựng nên nghiệp lớn? Đánh thành Quy Nhơn xong Bệ hạ lại mượn lời di huấn của phụ thân không để Long Nhương xông pha nơi hiểm nghèo mà chẳng cho cầm quân Bắc tiến. Vậy tại sao gặp quân Tôn Thất Hương kéo binh ba vạn vào sông Lại Dương Giang Bệ hạ lại gọi Long Nhương đem quân làm tiên phong đánh giặc mà quên lời di huấn của phụ thân? Rồi ai đã đánh tan hai vạn quân Tống Phước Hiệp ở Phú Yên cứu Tây Sơn ta thoát khỏi thế lưỡng đầu thọ địch của hai nhà Trịnh -Nguyễn. Như vậy không phải vào chốn hiểm nghèo hay sao. Kể đến Long Nhương khuyên Bệ hạ vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Thuần, Bệ hạ hẹn lần hẹn lữa chẳng chịu xuất quân để khi Long Nhương phải giả du xuân ngã ngựa Bệ hạ liền sai Nguyễn Lữ đem binh Nam tiến. Ấy chẳng phải là Bệ hạ đố tài kiềm chế Long Nhương sao? Lại nữa, vì đâu khi vào Gia Định tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La hùm cọp, Long Nhương vội vã kéo quân về để cho anh khỏi sinh lòng ngờ vực. Nay ra Bắc Hà cũng một lòng vì dân vì nước, công không kể thì thôi, xin hỏi Bệ hạ, Long Nhương tướng quân có tội gì mà phải bắt?
                          Nguyễn Văn Tuyết nói một hồi, vua Thái Đức không biết trả lời thế nào, bèn vỗ án quát:
                          - Nguyễn Văn Tuyết! Ngày ngươi thích khách Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát không thành, cướp ngựa Xích kỳ mà trốn, ai đã cứu người thoát chết khỏi tay giặc dữ. Nay ngươi đủ lông đủ cánh là hùa theo Nguyễn Huệ mà phản ta sao.
                          Nguyễn Văn Tuyết khẳng khái đáp:
                          - Ơn Bệ hạ cưu mang Tuyết hạ thần sao đã quên. Nhưng ơn ấy là tình riêng, việc quốc dân là nghĩa chung, thần không thể vì tình riêng mà bỏ nghĩa chung được. Hẹn khi nào non nước bình yên thần sẽ đem mạng mình về Quy Nhơn trả cho Bệ hạ.
                          Vua Thái Đức đưa mắt nhìn các tướng rồi chậm rãi nói:
                          - Vậy là các ngươi đều một lòng ở lại đất Thuận Hoá phò Nguyễn Huệ phản lại ta. Nguyễn Lữ mau theo ta về Quy Nhơn.
                          Nói xong vua Thái Đức liền bước ra ngoài chính điện đem hai ngàn quân cấm vệ thẳng đường về Nam. Nguyễn Lữ vừa khóc vừa bái biệt Nguyễn Huệ và các tướng rồi lên ngựa chạy theo vua Thái Đức. Nguyễn Huệ nhìn theo anh và em mỗi lúc một xa hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Các tướng đều cúi đầu ứa lệ.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #43
                            Chương 40

                            Nhờ tình mẫu tử, Nguyễn Huệ lập kế can anh.
                            Mượn nghĩa tôi thần, Nguyễn Hữu Chỉnh xin quân đánh giặc.


                            Về đến Quy Nhơn vua Thái Đức liền thiết triều. Vua giận dữ bảo các quan văn võ rằng:
                            - Nguyễn Huệ thật khinh ta quá lắm! Nó ỷ có quân đông tướng mạnh, dám ngang nhiên cãi lệnh ta không về Quy Nhơn mà đóng binh nơi Thuận Hoá. Các tướng mau kiểm điểm binh mã cùng ta cất quân đánh Thuận Hoá hỏi tội Nguyễn Huệ mới hả cơn giận của ta.

                            Nguyễn Lữ bước ra khóc nói:
                            - Xin Hoàng huynh bớt giận, hiện Long Nhương huynh có trong tay hai vạn tinh binh, các tướng giỏi từ lúc Tây Sơn Thượng dấy nghĩa như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc đều theo về dưới trướng. Vả lại tướng của ta ở kinh thành chỉ còn lại hai cha con Lê Trung, Lê Chất, quân sĩ của ta từ trước đến nay đều sợ ơn uy của Long Nhương huynh. Nay nếu Hoàng huynh gây cuộc binh đao huynh đệ tương tàn, em e rằng đã không thắng được mà tiếng nhơ còn để ngàn sau. Xin Hoàng huynh xét lại.
                            Vua Thái Đức quát lớn:

                            - Nhưng nó khinh ta ra mặt hôi ta nhịn sao cho nổi.
                            Thái giám Vũ Tâm Can bước ra thưa:
                            - Tâu Bệ hạ, ngày trước cha thần vì phạm tội uống rượu phải tự đâm cổ mà chết để tỏ rõ là quân pháp bật vị thân. Huống hồ nay Long Nhương đã hai lần kháng mệnh, khi quân phạm thượng. Nếu Bệ ha không cử binh vấn tội, thần e lòng người bất phục.
                            Nghe nói vậy, vua Thái Đức càng quả quyết bảo các quan rằng:
                            - Các khanh mau về kiểm điểm binh mã, chuẩn bị lương thảo đạn dược, ta sẽ thân chinh hỏi tội Nguyễn Huệ. Ý ta đã quyết không ai được can ngăn.

                            Nói xong vua truyền bãi triều. Các quan văn võ đều ra về thu xếp công việc. Quan ngự sử Nguyễn Thung vừa đi vừa nghĩ rằng, nếu Hoàng thượng cất binh ra đánh Long Nhương tướng quân thì hai bên đều hao binh tổn tướng, lòng người tan rã. Nhà Tây Sơn phen này nguy mất. Ta phải có cách gì ngăn vua mới được.

                            Về đến nhà, Nguyễn Thung cứ đi đi, lại lại nhăn trán cau mày mà chưa nghĩ ra cách gì. Bỗng có người tâm phúc vào thưa rằng:
                            - Thưa đại quân, tháng trước đại quan sai tôi đem mật thư ra Thăng Long cho Long Nhương tướng quân báo tin rằng Hoàng thượng ra bắt tội Long Nhương. Nay tôi đã hoàn thành sứ mạng xin về báo cho đã quân được rõ.
                            Nguyễn Thung hỏi:
                            - Long Nhương tướng quân có dặn điều gì chăng.

                            Người tâm phúc Nguyễn Thung đáp:

                            - Long Nhương có thư bảo trao cho đại quan.

                            Nguyễn Thung đọc thư xong mừng rỡ nói:

                            - Long Nhương tướng quân liệu việc không sai, ta phải mau theo kế ấy thi hành mới mong cản được vua dấy động can qua.

                            Nói rồi Nguyễn Thung liền tìm gặp Nguyễn Lữ. Thung hỏi Lữ:
                            - Long Nhương vì sợ tội nên không dám theo Hoàng thượng về Quy Nhơn. Hoàng thượng nghĩ rồi Long Nhương khi quân phạm thượng mà đem quân vấn tội. Nếu để hai người đánh nhau e rằng nhà Tây Sơn ta nguy mất. Tiết chế là anh em cốt ruột là không can được Hoàng thượng sao.
                            Nguyễn Lữ đáp:

                            - Chức Ngự sử là dùng để can vua. Ông ở chức ấy mà không can được vua, việc này là việc nước chữ chân phải việc nhà ông trách ta sao được. Vả lại Hoàng huynh đang giận lắm, tôi không dám can ngăn.

                            Nguyễn Thung nói:
                            - Nay Tiết chế có thể nhờ một người can được Hoàng thượng sao Tiết chế không làm.
                            Nguyễn Lữ cười báo:
                            - Người mà ông định nói ta đã biết. Phụ mẫu ta có thể can được Hoàng huynh. Nhưng dù sao cũng phận đàn bà cao tuổi, không nghĩ xa nên Long Nhương huynh phải phạm thêm tội bất hiếu!
                            Nguyễn Thung hỏi:
                            - Vì sao Thái hậu can không cho Hoàng thượng đánh Long Nhương thì Long Nhương lại phạm tội bất hiếu?
                            Nguyễn Lữ đáp:

                            - Phụ mẫu ta can được Hoàng huynh rồi tất muốn anh em phải hoà hiếu với nhau, người ắt gọi Long Nhương huynh về giải hoà cùng Hoàng huynh. Long Nhương huynh tội với vua quá nặng sao dám về, thì có phải là Long Nhương thêm tội bất hiếu nữa chăng. Vì lẽ ấy ta còn đắn do chưa cho mẹ hay.

                            Nguyễn Thung nói:
                            - Tiết chế hãy thưa cùng Thái hậu thế này... thế này... ắt Thái hậu sẽ không gọi Long Nhương về, thì không sợ Long Nhương mang tội bất hiếu!
                            Nguyễn Lư khen:
                            - Quan Ngự sử thật là cao kiến.
                            Nói xong Nguyễn Lữ liền đi tìm gặp mẹ.
                            Hôm sau nghe báo có Thái hậu thân hành đến tìm, vua Thái Đức ra ngoài nghênh đón, lậy chào mẹ xong vua hỏi:
                            - Những lần trước muốn gặp con, Thái hậu đều sai người đến gọi. Lần này có việc chi hệ trọng mà mà lại thân hành đến tìm con?
                            Thái hậu nhỏ nhẹ đáp rằng:

                            - Ta nghe con định cắt ruột của mẹ, nên đến cầu xin con tha cho mẹ?

                            Vua Thái Đức thất kinh hỏi:

                            - Sao mẹ lại nói cơn như thế?
                            Thái hậu mắng rằng:
                            - Các con đều là khúc ruột của mẹ, nay con định giết em con thì chẳng phải là cắt ruột mẹ sao?
                            Vua quỳ không dám ngẩng mặt lên. Vua nói:
                            - Do nó dám ra mặt phản con, nếu không trị thì còn gì phép nước. Xin mẹ hiểu cho!
                            Thái hậu hỏi:
                            - Vì sao cơn bảo rằng thằng Huệ phản con?
                            Vua đáp:

                            - Con thân hành ra Bắc bảo nó về Quy Nhơn thọ tội. Nó phản con cãi lệnh không về mà đóng quân lại Thuận Hoá.

                            Thái hậu lại hỏi:
                            - Nó tội gì mà còn phải đích thân ra Thăng Long bắt nó về Quy Nhơn thọ tội?

                            Vua đáp:

                            - Con sai nó mang quân đánh Thuận Hoá, nó cãi lệnh con đánh tới Bắc Hà.
                            Bây giờ Thái hậu mới lên tiếng rằng:
                            - Thuận Hoá và Bắc Hà đều của quân Trịnh, nó đánh giặc chưa báo cho mày, mày liền bắt tội. Vậy mà toan giết em mày mà không báo cho ta thì là tội gì?
                            Vua Thái Đức cả sợ cúi mặt làm thinh. Thái hậu vừa khóc vừa nói tiếp rằng:
                            - Tháng Huệ tài cao quyết đoán nhưng tính tình cương trực thẳng thắn, lúc nào cũng một lòng hiếu đễ, bởi tại con đem lòng ngờ vực nó, thân ra Thăng Long bắt tội nên nó sợ mà chẳng dám theo về. Nếu nó có lòng phản Chúa phụ anh thì mấy phen đem đại binh vào Gia Định nó lại không làm phản được sao? Từ ngày Tây Sơn khởi nghĩa đến nay nhờ nó đánh Nam dẹp Bắc, xông pha nơi hòn tên mũi đạn đưa mày lên ngôi vua, công sao mày không thưởng lại nhân lúc em mày đánh giặc chưa kịp báo tin liền ra bắt tội. Ta hỏi mày nó có tội gì mà mấy phải bắt?
                            Vua Thái Đức thầy mẹ giận càng sợ lắm không dám mở lời. Thái hậu quát:
                            - Ta nói mày có nghe không?
                            Vua Thái Đức giật mình đáp:

                            - Thưa mẹ, con xin vâng lời mẹ đây.

                            Thái hầu bảo:
                            - Hay truyền lệnh cho tướng sĩ lập tức bãi binh. Mày mau viết chiếu phong thằng Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá. Phong thằng Lữ làm Đông Định Vương trấn thủ Gia Định, Sài Côn. Mỗi đứa cai trị một nơi khởi động chạm sinh ra xích mích. Nếu con coi ta là mẹ thì chớ cãi lời. Anh em bất hoà đều do tính đố kỵ của mày mà ra cả. Xong việc rồi đến báo cho ta hay.

                            Nói rồi Thái hậu quày quả trở về hậu cung. Thái hậu đi rồi vua Thái Đức nói với thái giám Vũ Tâm Can rằng:

                            - Thường ngày Phụ thân ta không mang đến việc quốc gia. Sao nay lại biết phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn thủ Gia Định, Sài Côn? Việc này ắt là có kẻ bày kế cho đây.

                            Vũ Tâm Can tâu:
                            - Thường ngày quan Ngự sử Nguyễn Thung thường hay bênh vực cho Long Nhương tướng quân. Việc này có lẽ do quan Ngự Sử bày ra cho Thái hậu chăng.

                            Vua Thái Đức bảo:

                            - Ngày trước Nguyễn Thung và cha ngươi là anh em kết nghĩa cùng theo ta tụ nghĩa Tây Sơn. Và ngươi hãy lấy tình bác cháu gần gũi Nguyễn Thung dò xét hắn xem sao.
                            Vũ Tâm Can vâng lệnh lui ra.
                            ***
                            Mùa đông năm Bính Ngọ (1786) niên hiệu Thái Đức thứ chín, vua Thái Đức phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ ải Hải Vân trở ra Bắc, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương cai quản từ ải Vân Phong (Đèo Cả) trở vào Nam. Vua Thái Đức tự xưng là Trung ương Hoàng đế cai quản bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên. Ba anh em nhà Tây Sơn từ ấy thoả thuận nhau chia ba lãnh thổ trị vì.
                            Nhắc lại ở Bắc Hà, khi quân Tây Sơn rút về Nam rồi vua Lê Chiêu Thống xuống hịch cần vương gọi quân các trấn về bảo vệ kinh thành. Lúc bây giờ ở Kinh Bắc có quàn Bồi tụng tên là Dương Trọng Tế nhận được hịch của vua, Tế bên lập vương thân là Trịnh Lệ lên làm Chúa rồi kéo quân về thành Thăng Long. Quân của Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế vừa đến nơi liền truyền hịch phò vua và xuống lệnh chiêu an bá tánh. Đồng thời Tế lại bố cáo cùng thiên hạ lập ngôi chúa Trịnh phù trợ nhà Lê định yên xã tắc.
                            Vua Lê Chiêu Thống biết việc ấy liền bàn cùng các cận thần rằng:
                            - Nguyễn Huệ dù vì lợi mượn tiếng tôn phò kéo đến đây nhưng cũng nhờ đó mà lật đổ được họ Trịnh đã hiếp đáp ta suốt hai trăm năm này. Điều may chưa kịp mừng thì thằng nghịch thần Dương Trọng Tế mượn tiếng phò vua hòng dựng lại ngôi chúa định áp bức ta nữa sao. Ta nay vừa mới lên ngôi, nước nhà loạn lạc, thực quyền không có vậy phải làm thế nào?
                            Trần Công Xán bàn rằng:
                            - Lúc trước họ Trịnh áp chế các Tiên đế vì họ Trịnh nắm hết quyền hành trong nước. Nay họ Trịnh đã đổ, Dương Trọng Tế muốn dựng lại ngôi chúa cho Trịnh Lệ ắt còn phải dò xét xem ý quân các trấn thế nào, vì còn cần Bệ hạ làm bức bình phong cho Trịnh Lệ. Nay Bệ hạ cứ cương quyết hạ chiếu chỉ quở trách Trịnh Lệ không cho lập lại ngôi chúa chắc Trịnh Lệ nhất thời không dám cãi lệnh. Xem thử ý Trịnh Lệ như thế nào rồi sẽ liệu sau.
                            Vua Chiêu Thống khen phải, nói:
                            - Phen này ta lên kế vị phải cương quyết lấy là oai quyền thiên twr, điều hành vận mệnh nước nhà. Nếu về sau trẫm lấy lại được đế quyền thì bọn nghịch thần như Trịnh Lệ và Dương Trọng Tế phải giết hết không tha!
                            Nói xong vua liền viết chiếu chỉ sai sứ giả để sang phủ chúa Trịnh. Dương Trọng Tế và Trịnh Lệ quỳ nghe chiếu, sứ giả đọc chiếu xong, Dương Trọng Tế đứng phắt dậy giật tờ chiếu trên tay sứ giả. Tế xe tờ chiếu làm mấy mảnh quăng ngày trước mặt sứ giả rồi nói lớn:
                            - Mấy trăm năm nay nhà vua nhờ Chúa lo việc quốc gia nên mới ngồi không mà hưởng lộc. Quân Tây Sơn vừa đến giết hai chúa, nước không có chúa liền sinh ra loạn lạc. Ta lập lại ngôi chúa cho yên xã tắc vì sao vừa lại quở trách. Nhà vua mới lên ngôi từ còn nhỏ nên nghe lời xàm tấu của bọn văn nho. Ngươi hãy về thưa cùng Bệ hạ, ta sẽ đến điều tra cho rõ kẻ nào bày điều quấy cho vua liền đem ra chém tức thì.
                            Sứ giả thấy Dương Trọng Tế nổi giận liền vội và lui ra. Dương Trọng Tế quay lưng toan bước đi, Trịnh Lệ hỏi:

                            - Tướng quân định đi đâu?

                            Tế đáp:

                            - Tôi sang điện vua hỏi cho rõ việc này.
                            Tế vừa dứt lời xảy quân hớt hải vào báo:
                            - Thưa tướng quân. Có biến, có biến!
                            Dương Trọng Tế giật mình hỏi:
                            - Biến thế nào?
                            Quân đáp:

                            - Thạc quận công Hoàng Phụng Cơ và Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng phò Côn quận công Trịnh Bồng làm Chúa đem quân từ Sơn Tây về kinh, hiện đến cách cửa Tây thành hai mươi dặm.
                            Trịnh Lệ kinh hãi nói:
                            - Đinh Tích Nhưỡng trước làm trấn thủ Sơn Nam giỏi thuỷ chiến, Hoàng Phụng Cơ là cháu Hoàng Ngũ Phúc cũng là tướng tài cả. Nay hai người này theo phò Trịnh Bồng tranh ngôi chúa với ta, e rằng ta không địch nổi, vậy ta phải làm sao.
                            Dương Trọng Tế đáp:

                            - Xin Chúa thượng chớ lo, thần xin đem quân chặn đánh chúng ở ngoài thành.
                            Nói rồi liền kéo quân đi. Quân Dương Trọng Tế ra khỏi thành liền gặp Trịnh Bồng, Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phụng Cơ vừa dẫn quân tới. Hai bên xáp chiến. Dương Trọng Tế ít quân lại ô hợp, địch không nổi bị quân Trịnh Bồng giết chết rất nhiều.

                            Dương Trọng Tế bèn dẫn quân chạy vào thành, Trịnh Bồng xua quân đuổi theo. Quân Dương Trọng Tế tan vỡ cả. Trọng Tế chỉ kịp ghé qua phủ Trịnh gọi Trịnh Lệ, cả hai chỉ còn lại trăm quân hầu cận chạy ra cửa Bắc thành trốn về Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh).
                            Trịnh Bồng vào thành rồi, lại sai người xé bỏ cáo thị của Trịnh Lệ, dán hịch truyền chiêu an bá tánh phò vực vua Lê, rồi cùng Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng sang cung vua yết kiến vua Chiêu Thống. Thi lễ xong Hoàng Phụng Cơ tâu với vua rằng:
                            - Quân Tây Sơn kéo quân đến đây mượn tiếng phò vua giết chúa, rồi lại lấy hết kho tàng lương thực kéo quân về để nước ta loạn lạc. Vậy xin Bệ hạ hay phong Côn quận công tước vương, lập lại ngồi chúa cho ở lòng muôn dân, mới mong lập lại kỷ cương cho xã tắc.
                            Vua Chiêu Thống gạt đi bảo:

                            - Nếu các khanh một lòng phò vua giúp nước không vì lợi ích thì việc gì phải đòi phong vương. Hay cũng muốn lập lại ngôi chúa dựng riêng triều đình nắm quyền hành để áp chế ta.

                            Hoàng Phụng Cơ đáp:

                            - Oai đức của nhà vua là để an lòng trăm họ quyền hành nhà chúa là để hiệu triệu trăm quân. Xưa nay vẫn thế, nếu Bệ hạ muốn yên xã tắc thì không thể làm khác được.

                            Vua Chiêu Thống cương quyết nói:
                            - Nếu vậy người hay tự phong vương cho mình cần gì phải xin mệnh của ta.
                            Nói rồi vua liền đứng lên quày quả vào hậu cung bỏ mặc bọn Trịnh Bồng, Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng. Trịnh Bồng về phủ chúa hỏi Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng:

                            - Nay vừa không chịu phong vương và lập lại ngôi Chúa cho ta, vậy phải làm thế nào?
                            Đinh Tích Nhưỡng đáp liều rằng:
                            - Ta cho quân sang vay điện vua nói dối rằng bảo vệ Hoàng cung, không cho vua và Hoàng tộc ra ngoài đề phòng vua trốn ra khỏi thành xuống hịch cần vương chống lại ta. Rồi thần xin vào điện vua bức vua phải hạ chỉ phong vương. Có mệnh vua, Chúa thượng mới hiệu triệu được quân các trấn.

                            Trịnh Bồng bảo:
                            - Nếu muốn lập lại nhà chúa ta chỉ còn có cách ở mà thôi.
                            Nói rồi liền theo kế của Đinh Tích Nhưỡng mà làm.
                            ***
                            Nhắc lại vua Lê Chiêu Thống lui vào hậu cung, Trần Công Xán hỏi vua rằng:
                            - Hoàng Phụng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng đều là bọn võ tướng ngu phu. Nay Bệ hạ căng thẳng quá e vũ phu ấy tham quyền làm liều thì sao?
                            Vua Chiêu Thống hỏi lại:
                            - Theo ý khanh thì phải thế nào. Không lẽ ta lập lại ngôi chúa cho bọn chúng hiếp đáp ta ư?

                            Trần Công Xán hiến kế:
                            - Theo thần nếu bọn Trịnh Bồng dùng uy vũ ép vua, Bệ hạ hãy vờ nghe theo lời hắn phong vương lập lại ngôi Chúa. Rồi Bệ hạ nên mật chiếu với một người mang quân về cứu giá diệt Trịnh Bồng.
                            Vua vội vàng hỏi:
                            - Người ấy là ai?
                            Xán đáp:

                            - Người ấy là Nguyễn Hữu Chỉnh hiện đang theo lệnh vua Thái Đức nhà Tây Sơn trấn thủ Nghệ An.
                            Vua Chiêu Thống hỏi:
                            - Nguyễn Hữu Chỉnh đã phản ta theo vua Tây Sơn thì làm gì nghe chiếu chỉ của ta mang quân về cứu giá.
                            Xán đáp:

                            - Năm xưa kiêu binh giết Huy quận công Hoàng Đình Bảo phế vương tử Cán lập vương tử Khải lên làm Chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh là tay chân của Hoàng Đình Bảo nên sợ tội mà trốn theo vua Tây Sơn, thật lòng không muốn phản. Mới đây Chỉnh xui Nguyễn Huệ mượn tiếng tôn phò đem quân đến đây, ý muốn mượn tay Tây Sơn diệt Trịnh. Diệt được Trịnh rồi Chỉnh lại xin Tiên đế gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ và nhờ Tiên đế xin cho Chỉnh mượn quân ở lại Bắc Hà giúp vua. Không ngờ vua Thái Đức nhà Tây Sơn bất ngờ ra Bắc buộc Nguyễn Huệ phải kéo quân về, bỏ Hữu Chỉnh ở Bắc Hà không quân không tướng, làm đảo lộn mọi kế hoạch của Chỉnh và khiến cho Chỉnh suýt chết dưới tay dân chúng ở Thăng Long. Hữu Chỉnh lần thứ hai bất đắc dĩ phải theo vua Tây Sơn nhưng trong lòng rất oán. Nay Bệ hạ mật chiếu đến vời, Nguyễn Hữu Chỉnh nhất định nhân dịp này sẽ bỏ Tây Sơn đem quân về cứu giá.

                            Trần Công Xán vừa dứt lời, nghe quân vào báo:
                            - Tâu Bệ hạ, Đinh Tích Nhưỡng đem quân vây kín Hoàng cung chẳng rõ là có ý gì?
                            Trn Công Xán trấn an vua:
                            - Xin Bệ hạ bình tâm, Đinh Tích Nhưỡng chỉ e Bệ hạ phong vương cho Trịnh Bồng mà thôi. Xin Bệ hạ cứ theo lời thần dặn mà làm!
                            Quả nhiên, Đinh Tích Nhưỡng vào đến, không lậy mà vịn tay vào đốc kiếm hỏi vua Chiêu Thống rằng:
                            - Việc Côn quận công xin phong vương, Bệ hạ định thế nào?
                            Vua Chiêu Thống vờ hoảng sợ nói:
                            - Quả nhân ngay bây giờ xuống chiếu phong vương.
                            Nói xong liền đem nghiên bút viết chiếu phong Trịnh Bồng làm Yến Đô Vương chức nguyên soái, rồi trao cho Đinh Tích Nhưỡng. Nhường cầm tờ chiếu trên tay cười lớn nói:
                            - Phải như thế! Chứ lẽ đâu có cái gương của Thái tử thời Tiên đế, Bệ hạ lại chẳng thấy hay sao (ý Đinh Tích Nhưỡng muốn nói việc Thái tử Vỹ là cha vua Lê Chiêu Thống bị Trịnh Sâm giết chết).
                            Nói xong Nhưỡng bỏ ra ngoài. Vua Lê Chiêu Thống nghe những lời của Nhưỡng, uất ức mà thổ huyết. Quân hầu đỡ vua dậy. Vua gạt đi bảo:

                            - Hay mang một tấm lụa đến cho ta.

                            Quân mang lụa đến. Vua Chiêu Thống ngồi xuống nền điện cho huyết thổ ra, lấy tay chấm vào huyết ấy mà viết mật chỉ. Viết xong vua bảo:
                            - Hãy lập tức sai người tâm phúc lén vào Nghệ An trao mật chiếu này cho Nguyễn Hữu Chỉnh.
                            ***
                            Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh lúc ấy đang cùng Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trấn thủ Nghệ An. Nhận được mật chỉ của vua Lê Chiêu Thống, Chỉnh bảo sứ giả rằng:
                            - Ngài quay về trước tâu vua hãy hạ mình giữ gìn long thể. Tôi điểm binh rồi lập tức về kinh cứu giá.

                            Sứ giả vâng mệnh đi ngay. Nguyễn Viết Tuyển nói với Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:

                            - Có mật chiếu của vua là ta có thể khiến được thiên hạ ở Bắc Hà. Vậy tướng quân mau đem binh về kinh.

                            Nguyễn Hữu Chỉnh bảo:
                            - Ta trấn thủ Nghệ An cùng Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức tất trên danh nghĩa vẫn là tôi nhà Tây Sơn. Nay nếu đem quân ra Bắc cũng phải xin lệnh của Bắc Bình Vương mới được.

                            Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
                            - Ta đã muốn bỏ Tây Sơn thì cần gì phải xin mệnh Bắc Bình Vương.
                            Chỉnh đáp:

                            - Ngươi cơ trí phải biết đường tiến thoái. Nếu ta tự tiện đem quân ra Thăng Long mà không xin lệnh Bắc Bình Vương, ngộ nhỡ không thắng còn quay lại được sao.

                            Tuyển lại hỏi:
                            - Nếu ta xin lệnh trước mà Bắc Bình Vương không cho đi thi làm thế nào?
                            Chỉnh đáp:

                            - Bắc Bình Vương có hai lẽ phải một dạ phù Lê. Nay nghe vua Lê hạ chiếu cần vương tất phải cho ta ra Bắc.
                            Tuyển hỏi:
                            - Vì hai lẽ gì mà Bắc Bình Vương phải một dạ phù Lê?
                            Chỉnh đáp:

                            - Lẽ thứ nhất Bắc Bình Vương là rể của họ Lê, nay nghe bên vợ kêu cứu lẽ nào mà không giúp. Lẽ thứ hai là Bắc Bình Vương lần trước ra Bắc mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh, nào ngờ vua Thái Đức ra bắt về khiến Nguyễn Huệ thất tín với thiên hạ, bẽ mặt với Ngọc Hân công chúa. Nay được dịp để chứng tỏ lòng thành, lấy lại uy tín thì làm gì không một một lần nữa truyền hịch phò Lê diệt Trịnh.
                            Viết Tuyển lại hỏi:
                            - Nhưng tôi vẫn e rằng Nguyễn Huệ không cho tướng quân cầm binh ra Bắc.
                            Chỉnh hỏi:
                            - Vì sao?
                            Tuyển đáp:

                            - Vì Nguyễn Huệ rất rõ chí của tướng quân.
                            Chỉnh cười đáp:

                            - Nguyễn Huệ biết rõ chí ta. Nhưng ta cũng biết rõ Nguyễn Huệ tất phải để ta đi không thể khác được, thế mới lạ kỳ.

                            Nói rồi liền viết mật thư sai người tâm phúc lập tức mang vào Phú Xuân trình Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
                            Nguyễn Huệ ở thành Phú Xuân nhận được thư Nguyễn Hữu Chỉnh liền hỏi Trần Văn Kỷ rằng:

                            - Ta này đã được trọn quyền lo mọi việc từ đèo Hải Vân ra Bắc, không phải chịu mệnh của Hoàng huynh. Quả như ta dự đoán khi theo Hoàng huynh rút khỏi Thăng Long là Bắc Hà sinh loạn. Nay Trịnh Bồng lấy lại ngai Chúa bức bách ấu quân. Vua Chiêu Thống mới lấy máu viết mật chỉ vời Nguyễn Hữu Chỉnh về kinh cứu giá. Nguyễn Hữu Chỉnh lại viết thư vào xin lệnh của ta, vậy theo ý Trung Thư ta phải thế nào?
                            Trần Văn Kỷ đáp:

                            - Theo ý tôi Chúa công chớ nên cho Hữu Chỉnh cầm quân ra Bắc.
                            Huệ hỏi:
                            - Vì sao?
                            Kỷ đáp:

                            - Chí Hữu Chỉnh là muốn làm bá vương nơi đất Bắc, dùng sông Linh Giang chia cắt trời Năm. Nếu để Hữu Chỉnh ra Bắc phen này ắt hắn dựa vào tiếng phò Lê trước sau gì mà chẳng phản ta. Chi bằng ta sai tướng khác cầm quân ra Bắc vậy.
                            Nguyễn Huệ nói:
                            - Việc này không được.

                            Trần Văn Kỷ hỏi:

                            - Xin hỏi Chúa công vì sao lại không được?

                            Huệ đáp:

                            - Trên danh nghĩa đối với thiên hạ, Tây Sơn ta và Bắc Hà là hai nước hai vua. Vua Lê chỉ mật chiếu vời Hữu Chỉnh về cứu giá. Nay nếu ta giữ Hữu Chỉnh lại Nghệ An, sai tướng khác truyền hịch tôn phò đem quân ra Bắc, e rằng vua Lê sẽ hoảng sợ mà trốn khỏi kinh thành hạ chiếu cần vương mộ quân đánh lại Tây Sơn ta thì ta trở thành kẻ xảo ngôn vậy.
                            Trần Văn Kỷ lại hỏi:

                            - Dám hỏi Chúa công vì sao sai tướng khác ra phò Lê, giữ Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An thì vua Lê phải hoảng sợ mà trốn khỏi kinh thành.
                            Huệ đáp vẻ nuối tiếc:

                            - Lần trước Hoàng huynh ra Bắc triệu ta về Quy Nhơn thọ tội, khiến Tây Sơn ta phải thất tín với vua Lê và thiên hạ Đàng Ngoài. Vua Lê bây giờ tất sinh lòng ngờ vực, lại thấy ta giữ Hữu Chỉnh ở Nghệ An sai tướng khác cầm quân Bắc tiến, dù có truyền hịch phò Lê thì vua Lê ắt sẽ nghĩ ta thừa dịp mà đem quân cướp nước lại chẳng trốn khỏi Hoàng cung ư? Vì lẽ ấy nên trước kia ta để Chỉnh trấn thủ Nghệ An tất vua Lê sẽ gọi về cứu giá. Bởi chỉ mình Chỉnh mới đủ chính nghĩa phò Lê sau khi Tây Sơn ta thất tín ở Bắc Hà mà thôi.
                            Trần Văn Kỷ nói:

                            - Lời Chúa công rất phải. Vậy ta bắt đắc dĩ phải để Hữu Chỉnh đem quân ra Bắc. Nếu về sau hắn ra mặt chống lại ta thì sao.
                            Huệ cười đáp:

                            - Nguyễn Hữu Chỉnh có tài làm tướng mà lập chí bá vương, sớm muộn gì cũng sinh ra biến loạn ở Bắc Hà. Khi ấy ta sẽ danh chánh ngôn thuận thống nhất sơn hà.
                            Nói rồi Nguyễn Huệ liền viết thư thuận ý cho Nguyễn Hữu Chỉnh cầm quân Bắc tiến, sai người ra Nghệ An trao cho Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Hữu Chỉnh nhận được thư của Nguyễn Huệ bên cười to bảo Nguyễn Viết Tuyển rằng:
                            - Nguyễn Huệ đã thuận ý cho ta ra Bắc Hà diệt Trịnh phò Lê. Ngươi thấy ta liệu việc thế nào, ở sánh cùng Nguyễn Huệ được chưa?

                            Nguyễn Viết Tuyển đáp:

                            - Tướng quân liệu việc như thần. Thực tài nào có kém gì Nguyễn Huệ.
                            Hữu Chỉnh nghe Tuyển khen thích thú lắm cười nói:
                            - Ta ra Bắc phen này ắt cái chí dùng sông Linh Giang chia đôi thiên hạ với nhà Tây Sơn đã thành rồi vậy.
                            Nói xong bèn họp các tướng bàn việc quân. Chỉnh nói với Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức rằng:

                            - Nay Bắc Bình Vương sai tôi ra Bắc diệt Trịnh phò Lê. Tôi đi chuyến này nếu diệt được Trịnh Bồng ắt vua Lê Chiêu Thống không cho tôi về. Xin chia ta trước với hai ông vậy.

                            Nguyễn Duy thất kinh nói:
                            - Tôi trước bỏ Nguyễn theo Trịnh, sau bỏ Trịnh theo Tây Sơn đều làm theo ý của sư đệ cả. Nay sư đệ ra Bắc không về, Bắc Bình Vương tất nghĩ tôi với sư đệ thông đồng với nhau, ông ấy lại dùng tôi sao. Nếu sư đệ ra Bắc không về là đã hại tôi rồi vậy.
                            Nguyễn Huỳnh Đức hiểu bụng của Nguyễn Hữu Chỉnh và Nguyễn Duy liền xen vào nói:
                            - Theo tôi, nếu hai ông liên kết lại làm thế môi răng thì không ai có thể hại được hai ông!

                            Nguyễn Duy hỏi:
                            - Ông nói vậy là ý thế nào?
                            Huỳnh Đức đáp:

                            - Nay ông Chỉnh mang quân ra Bắc là vâng mệnh của Bắc Bình Vương. Nếu thua binh thì chạy về và nương náu dưới quyền Bắc Bình Vương, nếu thắng thì tung hoành nơi đất Bắc ắt ông Duy phải luỹ đến thân. Vậy tại sao ông Chỉnh không dùng ông Duy lấy lại đất Nghệ dùng sông Linh Giang làm ranh giới đối chọi Bắc Bình Vương, ấy không phải là thượng sách ư?
                            Nghe Huỳnh Đức nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh tuốt gươm khỏi vỏ quát lên rằng:
                            - Quân bay mau bắt Nguyễn Huỳnh Đức lại, ta giải về cho Bắc Bình Vương trị tội.
                            Võ sĩ xông vào trói Huỳnh Đức. Đức cười lớn hỏi:

                            - Tôi có tội gì mà ông bắt tôi cho Bắc Bình Vương trị tội.
                            Chỉnh trợn mắt quát:
                            - Lòng ngươi mưu phản Bắc Bình Vương lại còn chối nữa hay sao.
                            Đức điềm nhiên đáp:
                            - Ngày xưa tôi bị Bắc Bình Vương bắt sống ở miền đất Gia Định. Bắc Bình Vương khuyên hàng đã có điều giao ước, ngày sau nghe Chúa Nguyễn Phúc Ánh ở đâu thì đi hay ở là tuỳ ý sở cầu. Mới đây vua Thái Đức đem Bắc Bình Vương về Quy Nhơn thọ tội, tôi bèn xin ông ấy cho ở lại Nghệ An với hai ông để tiện đường về với chúa. Nay tôi bày kế cho hai ông cũng là vì chúa của tôi. Bắc Bình Vương là người quang minh chính đại, lý gì mà bắt tội tôi được.
                            Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi:
                            - Ông vừa nói bày kế cho hai ta là vì chúa của ông. Vậy nếu đại sự mà thành thì chúa ông có lợi gì.
                            Nguyễn Huỳnh Đức đáp:

                            - Sau khi thua trận ở Trường Đồn, Rạch Gầm, Chúa tôi đã sang ẩn náu ở Tiêm La Quốc mưu việc khôi phục cơ đồ nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Nay anh em Nhạc, Huệ, Lữ đã chia ba lãnh thổ ra mà cai trị. Lãnh thổ của Nguyễn Huệ chỉ vỏn vẹn có vùng Phú Xuân, Thuận Hoá đất hẹp dân nghèo. Nếu ông là Chúa ở Bắc Hà đất rộng dân đông thì Bắc Bình Vương ở Thuận Hoá không phải là đối thủ của ông. Khi ấy ông cho tôi mượn quân đánh đổ Tây Sơn có Đàng Trong dựng lại cơ nghiệp cho Chúa tôi. Khi diệt được Tây Sơn rồi ta lại dùng Linh Giang làm ranh giới, ông Đàng Ngoài, Chúa tôi Đàng Trong đời đời giao hiếu thế chẳng tốt hay sao?

                            Nguyễn Hữu Chỉnh mừng rỡ cởi trói cho Nguyễn Huỳnh Đức rồi nói:

                            - Từ xưa đến nay chỉ có mình ông nói ra điều mưu phản là không sợ tội mà thôi. Tôi vẫn biết ông có thế đặc biệt thế, nên mới giả vờ như vậy để ông nói ra hầu rõ lòng nhau mà thôi. Ngày sau nếu được như vậy thì Nguyễn Duy sư huynh muốn lấy tình sư đwj mà theo tôi học lấy nghĩa chúa cũ mà theo chúa Nguyễn là tuỳ ý sở cầu như Huỳnh Đức đã giao ước với Nguyễn Huệ vậy.
                            Nguyễn Hữu Chỉnh nói xong, ba tướng cùng bắt tay nhau thích thú cười vang. Bàn bạc xong Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức ở lại trấn thủ Nghệ An, con Nguyễn Hữu Chỉnh đem năm ngàn quân truyền hịch diệt Trịnh phò Lê lên đường ra Bắc.






                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #44
                              Chương 41

                              Mộng Bá Vương, Bằng Trung Công mượn tiếng phò vua.
                              Vì đại nghĩa, Bắc Bình Vương cất quân đánh anh.


                              Nhắc lại Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An đem quân theo gồm tướng Nguyễn Viết Tuyển, Lê Duật, Nguyễn Như Thái, Nguyễn Cảnh Thước cử binh lên đường ra Bắc. Hữu Chỉnh thúc quân đi cả ngày đêm, khi đến được núi Tam Điệp (đèo Ba Dội) mới cho quân nghỉ ngơi ăn uống. Sáng hôm sau chưa nghe Hữu Chỉnh truyền lệnh xuất quân Nguyễn Viết Tuyển hỏi:
                              - Từ Nghệ An đến đây tướng quân hối quân đi ngày đêm không nghỉ, giờ quân ta đã nghỉ qua đêm, sức lực sung mãn sao tướng quân chưa cho tiến binh.
                              Chỉnh đáp:
                              - Tây Sơn rút binh về, Bắc Hà trống rỗng không quân không tướng, từ Nghệ An đến Thăng Long chỉ có ải Tam điệp này là hiểm địa. Ai lấy được đèo này thì có thể chặn lui quân địch, còn từ Tam Điệp ra Thăng Long đất phẳng đường liền, mạnh được yếu thua nên ta gấp hối quân đi là vì lẽ ấy. Nay đã lấy được đèo rồi có gì mà phải gấp, để quân ta nghỉ thêm một vài hôm nữa rồi vào Thăng Long nào có muộn gì.
                              Nói rồi cho quân nghỉ ngơi. Hai hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh mới hạ lệnh tiến binh. Khi quân đi đến trấn Sơn Nam cách thành Thăng Long một trăm dặm thì gặp lúc tối trời, Chỉnh liền bảo quân hạ trại cạnh một ngôi làng. Bỗng một con chim Phượng hoàng từ đâu bay đến đậu trên cổng làng ấy hót lên ba tiếng vui mừng thánh thót rồi vỗ cánh bay đi. Nguyễn Hữu Chỉnh hỏi:
                              - Cổng làng kia có tấm biển đề chữ gì vậy?
                              Nguyễn Viết Tuyển thưa:
                              - Tấm biển ấy đề hai chữ Bình Vọng là tên chữ của làng này, tục thường gọi là làng Bằng.
                              Hữu Chỉnh vui mừng nói:
                              - Ngày trước theo Hoàng Ngũ Phúc đánh Thuận Hóa về ta được Chúa Trịnh Sâm phong tước Bằng Lĩnh hầu. Nay kéo quân đến làng Bằng như tước phong của ta thì có Phượng hoàng ra đón, ấy thật là điềm lành vậy. Truyền lệnh ta, quân sĩ nghỉ ngơi ngày mai sẽ tiến vào Thăng Long!
                              Quân Chỉnh thấy điềm lành thế đều phấn chấn dạ ran.
                              *
                              * *
                              Nói về Trịnh Bồng ở thành Thăng Long nghe quân vào báo rằng:
                              - Tâu Chúa thượng! Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An truyền hịch phò Lê đem quân ra Thăng Long, hiện đang đóng ở làng Bằng cách thành một trăm dặm.
                              Trịnh Bồng hỏi quân do thám rằng:
                              - Binh Chỉnh được bao nhiêu người?
                              Quân đáp:
                              - Ở Nghệ An, Chỉnh chỉ có hơn năm ngàn quân. Trên đường qua Thanh Hóa, Vị Hoàng, Sơn Nam quân ta trước chạy lạc lúc giặc Tây Sơn ra Bắc nay đều theo Chỉnh nên quân lên đến hàng vạn.
                              Trịnh Bồng lo lắng hỏi các tướng rằng:
                              - Hữu Chỉnh trước dẫn Nguyễn Huệ ra Bắc phò Lê diệt Trịnh giết chết Đoan Nam Vương. Nay ta vừa mới kế vị ngôi Chúa, nó lại truyền hịch phò Lê kéo quân đến đây, vậy ta nên tiến thủ thế nào.
                              Hoàng Phùng Cơ đáp:
                              - Nguyễn Hữu Chỉnh trước cùng thần đều ở dưới trướng Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc, cũng là người đa mưu túc trí. Từ trấn Sơn Nam đến kinh thành không có núi sông hiểm trở để lập trận đánh địch. Vậy ta cứ ở trong thành cố thủ, chờ Chỉnh đem quân đến đây thần sẽ có cách khuyên Chỉnh lui binh. Chúa thượng không phải lo.
                              Vừa lúc ấy quân vào báo:
                              - Tâu Chúa thượng, quân Nguyễn Hữu Chỉnh đã đến gần cổng Nam thành. Xin Chúa thượng định liệu.
                              Hoàng Phùng Cơ liền truyền quân canh phòng cẩn mật rồi mặc giáp đeo gươm lên mặt thành gọi lớn:
                              - Bằng Lĩnh hầu kéo quân đến đây toan phản vua bội chúa chăng?
                              Hữu Chỉnh đáp lớn rằng:
                              - Các ngươi đều là tôi của vua Lê, đáng lẽ nên thừa lúc nhà chúa đã diệt mà phò vua mới phải, sao còn rước Trịnh Bồng về làm chúa? Hòng ép vua nữa chăng?
                              Hoàng Phùng Cơ đáp:
                              - Quân Tây Sơn mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh vào nước ta cướp của, rồi kéo quân về để nước ta loạn lạc. Vua bèn viết chiếu triệu Yến Đô Vương về làm chúa phò vua để yên thiên hạ sao lại bảo là ép vua. Vả lại ngày trước ngươi cũng chịu mệnh của chúa, được Tĩnh Đô Vương phong tước Bằng Lĩnh hầu, nay lại kéo về kinh thành phản vua bội chúa. Nay vua viết chiếu phong cho ngươi làm trấn thủ đất Thanh Hóa, mau kéo quân về cho rõ nghĩa tôi thần.
                              Hữu Chỉnh nói:
                              - Vậy xin mở cổng thành cho ta vào nhận chiếu của Bệ hạ rồi sẽ kéo quân đi ngay.
                              Hoàng Phùng Cơ bảo:
                              - Bởi trước ngươi đã theo quân Tây Sơn nên giờ vua không dám tin, vậy ngươi hãy rút quân về trước để tỏ lòng thành, rồi vua sẽ sai sứ giả đem chiếu chỉ đến sau.
                              Nguyễn Hữu Chỉnh nổi giận mắng rằng:
                              - Thằng giặc già kia, mày xem ta như con nít hay sao mà hòng lừa phỉnh. Ta vì bất đắc dĩ phải bỏ nước mà đi nhưng lòng lúc nào cũng trông về cố quốc. Người tín cẩn của ta đã kể cho ta biết việc mày và Đinh Tích Nhưỡng mượn chuyện Tĩnh Đô Vương giết Thái tử Vĩ dọa vua, buộc vua phải phong vương cho Trịnh Bồng. Nay còn dám giả mệnh vua để gạt ta. Đợi ta phá thành rồi sẽ bắt chúa tôi Yến Đô Vương của ngươi quỳ trước bệ rồng đối chất xem thật giả thế nào.
                              Hoàng Phùng Cơ biết không gạt được Hữu Chỉnh liền hô quân bắn tên xuống như mưa. Nguyễn Hữu Chỉnh gạt quân lui ra khỏi tầm tên rồi hạ lệnh tấn công. Quân Chỉnh đặt đại bác mà bắn. Súng nổ ầm ầm như sấm, cổng thành liền vỡ. Quân Trịnh Bồng bảo nhau rằng:
                              - Nguyễn Hữu Chỉnh mượn đại bác của quân Tây Sơn đánh thành ta địch sao cho nổi, mau chạy thoát thân.
                              Nói rồi mạnh ai nấy chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh xua quân vào thành chém giết như chỗ không người. Hoàng Phùng Cơ đương không nổi phải phò Trịnh Bồng ra cửa Tây thành chạy trốn về Sơn Tây.
                              Vào thành rồi Nguyễn Hữu Chỉnh liền vào cung yết kiến vua Lê Chiêu Thống, Chỉnh quỳ tâu:
                              - Nhận được mật chỉ, hạ thần lập tức đêm ngày mang quân về kinh cứu giá. Nhờ oai võ của Bệ hạ thần đã đuổi được bọn Trịnh Bồng chạy trốn hết cả. Nay đến đây quỳ dưới bệ rồng xin phục mệnh.
                              Vua Chiêu Thống mừng rỡ nói:
                              - Khanh về đây cứu giá đuổi loạn thần thật công lao rất lớn. Nay ta phong khanh làm Bình Chương quốc quân trọng sự, Đại tư đồ tước Bằng Trưng Công. Khanh hãy cầm trọng binh ở lại kinh thành giúp trẫm định yên xã tắc.
                              Nguyễn Hữu Chỉnh khấu đầu lạy tạ. Mưu sĩ Trần Công Xán bàn rằng:
                              - Nay Dương Trọng Tế và Trịnh Lệ vẫn hùng cứ ở Kinh Bắc, Hoàng Phùng Cơ vùng vẫy đất Sơn Tây, Đinh Tích Nhưỡng làm chủ đất Hải Dương. Vậy nhân khi chúng hãy còn ô hợp, quan Đại tư đồ nên chia quân đánh bắt, nếu để lâu chúng liên kết với nhau ba mặt đánh tới kinh thành, e rằng quân ta bất lợi.
                              Nguyễn Hữu Chỉnh khen phải liền sai Nguyễn Viết Tuyển đem binh đánh Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây, sai Nguyễn Cảnh Thước sang Kinh Bắc đánh Dương Trọng Tế và sai Nguyễn Như Thái xuống Hải Dương đánh Đinh Tích Nhưỡng.
                              Chẳng bao lâu quân Chỉnh đánh bắt dược Hoàng Phùng Cơ và Dương Trọng Tế giải đến kinh thành. Nguyễn Hữu Chỉnh xin mệnh vua Chiêu Thống rồi đem Hoàng Phùng Cơ và Dương Trọng Tế ra chém.
                              *
                              * *
                              Ngày ấy họp các tướng, Chỉnh tự đắc nói:
                              - Ta từ Nghệ An đem quân ra Bắc, đi đến đâu không ai dám kháng cự. Chém đầu Hoàng Phùng Cơ, phanh thây Dương Trọng Tế, chỉ còn Đinh Tích Nhưỡng đem Trịnh Bồng đi trốn ở hóc hẻm nào. Bọn ấy thì có sá gì! Nay ta phong Nguyễn Viết Tuyển làm trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Cảnh Thước làm trấn thủ Kinh Bắc, Nguyễn Như Thái trấn thủ Sơn Nam, Lê Duật trấn thủ Thanh Hóa. Đợi ít lâu nữa ta yên được đất Bắc chiêu binh mãi mã sẽ đối đầu với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xem ai là kẻ anh hùng.
                              Nói rồi sai quân bày yến tiệc, Chỉnh tự tay rót rượu tiễn các tướng. Nguyễn Viết Tuyển, Nguyễn Cảnh Thước và Nguyễn Như Thái liền bái biệt lên đường. Riêng Lê Duật hãy còn chần chừ chưa muốn đi. Chỉnh liền hỏi Duật:
                              - Ngươi còn muốn nói gì nữa chăng.
                              Duật hỏi lại Chỉnh:
                              - Đất Nghệ An do hai tướng Tây Sơn là Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức trấn thủ, Thanh Hóa lại giáp giới đất Nghệ An. Nay tôi vào trấn thủ Thanh Hóa nếu Tây Sơn đem quân đến đánh thì nên tiến thủ thế nào?
                              Chỉnh cười lớn đáp:
                              - Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức tiếng là tướng của Tây Sơn nhưng đều là người nhà của ta ngươi không phải ngại.
                              Lê Duật nói:
                              - Tôi chịu ơn tri ngộ của tướng quân xin đem thân khuyển mã báo đền. Nhưng Nguyễn Duy là người phản phúc tôi vẫn lấy làm lo lắm. Mạng tôi nào có sá gì, chỉ e rằng thua binh làm nhục mệnh của tướng quân mà thôi.
                              Nguyễn Hữu Chỉnh an ủi Lê Duật rằng:
                              - Lòng trung của Duật thật đáng khen thay. Hiểu được bụng người trung nghĩa thì dễ, hiểu được lòng dạ của kẻ phản phúc mới là việc khó. Vậy mà ta hiểu được bụng của Nguyễn Duy đó. Nguyễn Duy ở cái thế phải phản Nguyễn Huệ mà không thể phản ta. Ngươi hãy an tâm mà đi đi. Nếu Nguyễn Duy và Nguyễn Huỳnh Đức mà đem quân đánh tới, ngươi cứ bỏ Thanh Hóa mà chạy về đây, có gì ta cũng không bắt tội.
                              Lê Duật liền thưa rằng:
                              - Tướng quân đã nói chắc thế tôi thật là an lòng. Tin ở lòng người là việc dễ, tin ở người tài mới là việc khó. Vậy mà tôi đã tin tài của tướng quân đó. Nếu tướng quân đoán lầm, Duật tôi quyết bỏ mình không bỏ đất.
                              Nói rồi từ biệt Hữu Chỉnh mà đi. Lê Duật đi rồi, con Chỉnh là Nguyễn Hữu Du bước ra hỏi:
                              - Nay các tướng đã được phong hầu, còn con đã từng theo cha xông pha trận mạc sao cha không phong tước cho con.
                              Chỉnh cười đáp:
                              - Ta sẽ phong cho con ngôi Thế tử .Ý con thế nào?
                              Nói rồi liền sai quân lập dinh thế tử cho Nguyễn Hữu Du đến ở. Vua Chiêu Thống hay tin ấy bèn nói với các quan tín cẩn rằng:
                              - Nguyễn Hữu Chỉnh ngày càng kiêu ngạo hống hách không coi ta ra gì cả. Hắn tự ý lập ngôi thế tử cho con mình, tự ý phong hầu cho các tướng. Tuy không tự xưng vương nhưng việc làm nào có khác gì họ Trịnh. Cũng mượn tiếng phò vua mà làm chúa đó thôi! Ta cũng muốn trừ Hữu Chỉnh lấy lại quyền thiên tử, các khanh có kế gì chăng.
                              Quan nội thị Ngô Vi Quý hiến kế:
                              - Bệ hạ lấy cớ Chỉnh đã trừ được Hoàng Phùng Cơ và Dương Trọng Tế, mời Chỉnh vào điện uống rượu rồi đánh thuốc độc mà giết đi thì có khó gì.
                              Vua Chiêu Thống gật đầu khen phải, toan theo kế ấy mà làm. Bỗng nghe có Trần Công Xán đến chầu vua liền đem kế ấy nói với Trần Công Xán. Xán thất kinh nói:
                              - Ai bày cho Bệ hạ kế ấy là hại Bệ hạ, nguy cho xã tắc rồi.
                              Vua Chiêu Thống hỏi:
                              - Vì sao giết Chỉnh lại hại ta và nguy cho xã tắc.
                              Xán đáp:
                              - Đành rằng là Hữu Chỉnh cậy công lộng quyền, còn hơn để bọn Cơ, Nhưỡng, Tế, Lệ, Bồng thay nhau áp chế Bệ hạ. Vả lại nhờ có Chỉnh mà kinh thành yên ổn, bọn vô lại không còn mượn tiếng cần vương giết hại lẫn nhau làm kinh động cửa khuyết, rối loạn nhân tâm. Nay nếu giết Chỉnh thì tay chân Chỉnh là Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc, Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Tây, Nguyễn Như Thái ở Sơn Nam, Lê Duật ở Thanh Hóa kéo về làm loạn thì Bệ hạ xử trí thế nào. Ấy chẳng phải là hại cho Bệ hạ và nguy cho xã tắc ư?
                              Vua Chiêu Thống giật mình nói:
                              - Lời khanh rất phải! Ta vì uất hận bởi những lũ tiểu nhân cứ đem nhà Lê ta ra làm bức bình phong tranh giành danh lợi mà suýt nữa đã làm lỡ việc quốc gia. Từ nay thôi không bàn đến việc ấy nữa.
                              Rồi vua ngửa mặt than rằng:
                              - Không lẽ ta đành cam để cho phường phản nghịch hiếp đáp mãi sao.
                              Trần Công Xán thương vua ứa nước mắt rồi cáo biệt lui ra. Xán đến gặp Nguyễn Hữu Chỉnh nói:
                              - Hoàng thượng là người cương quyết không muốn cho người áp chế nên khi ông vừa kéo quân đến đây Hoàng thượng đã phóng hỏa đốt Trịnh phủ. Sao ông còn giẫm lên bước chân của họ Trịnh, tự ý phong hầu cho các tướng lập ngôi thế tử, khiến Hoàng thượng giận nghe lời Ngô Vi Quý toan giết ông, ông đã biết chưa.
                              Nguyễn Hữu Chỉnh giận lắm nhưng cố nén hỏi Trần Công Xán rằng:
                              - Luyện Đường hầu vì vua hay vì tôi mà kể với tôi những lời ấy?
                              Xán đáp:
                              - Tôi vì vua vì ông nên không muốn vua và ông nghi kỵ bất hòa nhau, ấy là tôi vì xã tắc vậy.
                              Chỉnh lại hỏi:
                              - Thế ngộ nhỡ tôi giận mà hại vua thì ông nghĩ thế nào.
                              Xán đáp:
                              - Phò vua là bổn phận của bề tôi không thể kể là công. Ỷ công lấn quyền vua là trái đạo, việc trái do mình gây ra thì không được giận, nếu giận là bất nghĩa bất nhân. Tôi biết ông là người nhân nghĩa. Vả, nếu ông có giận mà hại vua thì mất chính nghĩa thiên hạ ắt loạn, ấy là việc làm của người bất trí. Ông là kẻ trí sao dám hại vua. Vì hai lẽ ấy nên tôi nói ra điều vua định giết ông mà không ngại.
                              Chỉnh đổi giận làm vui nói:
                              - Ông thật là xét việc sâu xa nhìn thấu lòng người. Việc tôi đã lỡ làm, nếu rút lại hóa ra làm trò cười cho thiên hạ, vậy xin ông hãy tâu vua xuống lệnh thuận phong. Ngoài việc ấy ra từ nay về sau làm việc gì tôi cũng sẽ vào xin mệnh của vua.
                              Trần Công Xán về tâu với vua Chiêu Thống những lời của Chỉnh. Vua thở dài nói:
                              - Ở với người bất nhân bất nghĩa mà có trí cũng còn hơn ở với kẻ bất nghĩa bất trí bất nhân.
                              Nói rồi vua Chiêu Thống viết chiếu thuận phong Thế tử cho con và tước hầu cho các tướng của Chỉnh. Chỉnh nhận được chiếu rồi từ ấy về sau làm việc gì cũng không cần bàn với vua nữa. Vua giận lắm tuy chẳng dám nói ra nhưng định bụng có dịp sẽ ra tay trừ Chỉnh.
                              *
                              * *
                              Lại nói về Nguyễn Huệ ở Phú Xuân, nhận được chiếu chỉ của vua Thái Đức phong làm Bắc Bình Vương cai quản từ ải Hải Vân trở ra rồi, Huệ bèn hội các tướng bàn việc nước. Huệ nói:
                              - Nay ta đã được tự lập riêng một cõi, không chịu sự kiềm chế của Hoàng huynh. Vậy ta phải tổ chức quân đội, các tướng phải chia binh phòng thủ các nơi, thường xuyên thao luyện quân sĩ lại giúp dân canh tác cấy cày. Ý các tướng thế nào?
                              Nguyễn Văn Tuyết bước ra thưa:
                              - Bọn hạ thần theo Chúa công dựng nghiệp cứu dân nào sá chi sinh tử hiểm nghèo. Nhưng bây giờ phải đi trấn nhậm thật chẳng an tâm.
                              Nguyễn Huệ cười hỏi:
                              - Ngày xưa Văn Tuyết một mình vác song đao thích khách Võ Vương cướp ngựa Xích kỳ không hề nao núng, sao nay đi trấn nhậm lại chẳng an tâm?
                              Tuyết đáp:
                              - Nay Chúa công tự lập riêng một cõi cùng Bệ hạ chia ranh giới ra cai trị. Bọn hạ thần theo Chúa công ở Phú Xuân, còn vợ con gia quyến chúng thần lại đang ở Quy Nhơn bảo chúng thần an tâm sao được?
                              Các tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Võ Đình Tú, Vũ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Lộc cùng quỳ cạnh Nguyễn Văn Tuyết đồng thanh thưa:
                              - Xin Chúa công cho được đi đón gia quyến đến đây rồi sẽ lo việc nước cũng chẳng muộn gì.
                              Nguyễn Huệ trầm ngâm nói:
                              - Vợ con ta cũng đang còn ở thành Quy Nhơn. Nay các tướng đã quyết lòng như thế, ta sẽ thảo thư xin Hoàng huynh cho gia quyến của bọn ta đến đây.
                              Nói xong Nguyễn Huệ liền viết thư sai người gấp mang vào Quy Nhơn trao cùng vua Thái Đức. Trước khi sứ giả lên đường Nguyễn Huệ căn dặn rằng:
                              - Ta có riêng bức mật thư ngươi hãy kín đáo mà đưa cho quan Ngự Sử Nguyễn Thung.
                              Sứ giả vâng lệnh mà đi.
                              Vua Thái Đức ở thành Quy Nhơn nhận được thư của Nguyễn Huệ, đọc xong vua đưa cho Vũ Tâm Can xem và hỏi:
                              - Theo ý ngươi thì thế nào.
                              Vũ Tâm Can đáp:
                              - Bắc Bình Vương và các tướng mưu toan làm phản sợ ta hại gia quyến nên mới lập kế đưa vợ con ra trước. Chi bằng ta giữ vợ con họ lại làm con tin, ắt là Bắc Bình Vương không dám cử động.
                              Vua Thái Đức nói:
                              - Ta cũng định như vậy, nhưng nếu mẫu thân ta hay được rằng ta bắt giam vợ con Nguyễn Huệ người lại quở trách ta thì làm thế nào.
                              Can đáp:
                              - Thái hậu đã già yếu, quanh năm không ra khỏi cung cấm sao biết được việc bên ngoài. Nay Bệ hạ nên cho người tâm phúc hộ vệ bên ngoài không cho ai vào thì việc chắc là không đến tai Thái hậu được.
                              Vua Thái Đức khen phải bèn theo kế ấy mà làm, sai quân bắt tất cả gia quyến của Nguyễn Huệ và các tướng giam lỏng một nơi. Nguyễn Thung hay tin ấy nhủ thầm rằng: Bắc Bình Vương bảo ta nếu vua bắt giam gia quyến làm con tin thì tâu lên Thái hậu. Vậy ta phải thân đến gặp Thái hậu mới được.
                              Nghĩ rồi bèn khăn áo mà đi. Đến cung Thái hậu quân canh chặn lại hỏi:
                              - Quan Ngự Sử vào cung Thái hậu có việc gì?
                              Nguyễn Thung đáp:
                              - Ngày trước khi chưa khởi binh ta và Thái hậu là chỗ hàng xóm với nhau, nay nhân đi ngang qua chợt nhớ định ghé thăm thôi mà. Các ngươi mau cho ta vào đi.
                              Quân canh nói:
                              - Thái hậu sức khỏe bất an, vua lệnh cho chúng tôi không được để ai vào.
                              Nguyễn Thung không biết làm sao đành lủi thủi ra về. Đến nhà chợt nghe quân vào báo có Vũ Tâm Can đến thăm. Thung mời vào. Vũ Tâm Can vào nhà hỏi Nguyễn Thung:
                              - Bá phụ vào thăm Thái hậu bị quân lính coi thường nên buồn bực chứ gì.
                              Nguyễn Thung đáp:
                              - Quân lính chỉ tuân theo mệnh vua cớ sao ta lại buồn bực họ.
                              Thung lại giật mình hỏi:
                              - Nhưng sao cháu lại biết việc này?
                              Vũ Tâm Can đáp:
                              - Cháu lúc nào cũng hầu hạ bên Hoàng thượng, nghe quân vào báo cùng Hoàng thượng việc bá phụ vào thăm Thái hậu nên cháu mới biết. Bá phụ gặp Thái hậu có việc gì cứ nói với cháu, cháu sẽ có cách giúp cho Bá phụ.
                              Nguyễn Thung nói:
                              - Bắc Bình Vương bảo ta tâu cùng Thái hậu nhờ Thái hậu khuyên Hoàng thượng thả gia quyến Bắc Bình Vương và các tướng về Phú Xuân. Nhưng ta không có cách gì báo cho Thái hậu hay được. Nếu Đông Định Vương còn ở Quy Nhơn ta sẽ nhờ Đông Định Vương vào bẩm với Thái hậu nhưng nay Đông Định Vương đã vào Gia Định biết phải làm sao?
                              Vũ Tâm Can nói:
                              - Việc này nào có khó gì. Bá phụ hãy viết một phong thư nói giả là của Đông Định Vương từ Gia Định gởi về cho Thái hậu. Quân canh ắt mang thư vào ngay, không nghi ngờ gì cả.
                              Nguyễn Thung hết kế và ngỡ Vũ Tâm Can ngay lòng nói thật, liền viết thư cầm vào nhờ quân canh trao cho Thái hậu.
                              *
                              * *
                              Hôm sau vua Thái Đức thiết triều cho đòi Nguyễn Thung đến hỏi:
                              - Lần trước có phải ngươi đã bày Thái hậu ngăn ta đem quân đánh Nguyễn Huệ. Và lần này ngươi đã bày Thái hậu bảo ta thả vợ con Nguyễn Huệ và mấy tên phản nghịch về Phú Xuân có phải chăng.
                              Nguyễn Thung thất sắc đáp:
                              - Việc này là do nơi Thái hậu, hạ thần không dám can dự.
                              Vua Thái Đức quăng lá thư xuống đất quát:
                              - Vậy lá thư này là thủ bút của ai đây. Ta vốn đã biết bụng ngươi nên cho Vũ Tâm Can bày kế lấy chứng cớ bắt tội ngươi cho được rõ ràng trước mặt trăm quan. Ngươi còn gì để nói nữa chăng!
                              Nguyễn Thung khóc rằng:
                              - Hạ thần làm thế là vì lòng trung với Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét cho.
                              Vua quát hỏi:
                              - A dua theo thằng Huệ phản ta sao bảo là trung.
                              Thung đáp:
                              - Nếu Bệ hạ thả gia quyến thì anh em hòa thuận. Bằng không sớm muộn gì Bắc Bình Vương cũng đem quân đánh tới. Xin Bệ hạ hãy nghe lời thần mà tha cho gia quyến họ.
                              Vua Thái Đức cười hỏi:
                              - Ta có con tin trong tay, Nguyễn Huệ và đồng bọn dám động binh hay sao.
                              Nguyễn Thung lại khóc rằng:
                              - Con chim trước khi chết hót ra lời thánh thót, con người trước khi chết thường nói đúng không sai. Thần nay tất phải chết có mấy lời sau cùng xin thưa cùng Bệ hạ. Bắc Bình Vương xét việc phải làm là ích nước lợi dân thì không có việc gì mà ông ấy chẳng dám làm. Nếu Bệ hạ nghĩ rằng dùng gia quyến của họ làm con tin mà có thể kềm chế được Bắc Bình Vương thì hãy đem hài cốt của tôi mà chặt làm chín khúc.
                              Nói dứt lời Nguyễn Thung đâm đầu vào cột rồng vỡ sọ mà chết. Các quan trông thấy không ai dám nói lời nào. Vua Thái Đức thấy Nguyễn Thung chết rồi liền truyền bãi triều.
                              Vũ Tâm Can về kể chuyện Nguyễn Thung chết cho Vũ Mẫu nghe. Vũ Mẫu buồn rầu hỏi:
                              - Nguyễn Thung xưa cùng cha con kết nghĩa huynh đệ. Lúc cha con bị Nguyễn Nhạc xử tội chết, chính ông ấy đã xin đem thi hài cha con về quê an táng. Ông ấy là người ơn của gia đình ta sao con lại lập mưu hại chết Nguyễn Thung.
                              Vũ Tâm Can đáp:
                              - Con vẫn biết vậy nhưng Nguyễn Thung cứ giúp anh em Nhạc, Huệ giải hòa nhau. Không hại ông ấy sao ta phá được nhà Tây Sơn của Nhạc, Huệ.
                              Vũ Mẫu hỏi:
                              - Nay Nhạc đã bắt giam vợ con Huệ cùng các tướng. Vậy Nguyễn Huệ phản ứng thế nào?
                              Can đáp:
                              - Con sẽ cho người ra báo tin cùng Nguyễn Huệ, sớm muộn gì anh em họ chẳng chém giết lẫn nhau.
                              Vũ Mẫu lại hỏi:
                              - Người của ta sao ra báo tin cho Nguyễn Huệ dược.
                              Vũ Tâm Can đáp:
                              - Trước con thường kết giao với một người là anh vợ của Nguyễn Huệ, lại là chú ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Khi Nguyễn Nhạc bắt gia quyến thì hắn trốn vào nhà con xin nương nhờ. Nay ta thả hắn về Phú Xuân tất hắn sẽ kể việc bắt giam gia quyến và giết chết Nguyễn Thung. Như vậy ta đã đạt mục đích mà hắn còn mang ơn ta nữa.
                              Vũ Mẫu vội hỏi:
                              - Người ấy là ai?
                              Can đáp:
                              - Hắn là Bùi Đắc Tuyên.
                              Nói xong Can liền quay đi sắp xếp ghe thuyền sai người tín cẩn đưa Bùi Đắc Tuyên đi trốn.
                              *
                              * *
                              Bùi Đắc Tuyên trốn được ra Phú Xuân xin vào yết kiến Nguyễn Huệ, kể chuyện vua Thái Đức bắt giam gia quyến và giết chết Nguyễn Thung cho Huệ và các tướng nghe. Nghe xong Huệ khóc lớn rằng:
                              - Thương thay Nguyễn Thung. Chính ta đã hại chết Nguyễn Thung rồi vậy. Hoàng huynh sao nỡ nhẫn tâm giết hại công thần như thế!
                              Trần Quang Diệu bước ra hỏi:
                              - Hoàng thượng khi trên người thì thi ân bố đức, cảm thấy kém người thì đố kỵ làm càn. Nay việc đã như vậy, Chúa công liệu tính làm sao?
                              Nguyễn Huệ gạt nước mắt đáp:
                              - Truyền lệnh ta, các tướng hãy chỉnh đốn binh mã theo ta vào Quy Nhơn đòi Hoàng huynh phải trả con tin.
                              Trần Văn Kỷ bước ra can:
                              - Thưa Chúa công có hai điều không nên làm việc ấy.
                              Huệ hỏi:
                              - Ấy là điều gì?
                              Trần Văn Kỷ đáp:
                              - Nếu Chúa công động binh đánh Quy Nhơn, Hoàng thượng tất nổi giận mà giết hết gia quyến, ấy là một lẽ. Hai bên đánh nhau tất hao quân tổn tướng làm suy yếu nhà Tây Sơn ta, ấy là hai lẽ. Vì hai lẽ ấy nên thần cúi xin Chúa công chớ động binh.
                              Nguyễn Huệ nói:
                              - Hoàng huynh vì giận làm càn nhưng người biết rõ tánh ta không vì tình nhà mà bỏ quên việc nước ắt là không dám giết gia quyến. Lẽ thứ nhất không phải lo. Hiện nay trấn thủ Quảng Nam là Đặng Mộng Kỳ, trấn thủ Quảng Ngãi là Lê Trung. Lê Trung trước từng theo ta vào Gia Định đánh Nguyễn Phúc Ánh vốn chịu ân đức của ta lại dám chống lại ta sao? Đặng Mộng Kỳ văn võ song toàn biết điều lễ nghĩa, nay ta dùng nghĩa lý mà khuyên Đặng Mộng Kỳ phải lui quân, thì chẳng lo gì đến việc phải đánh nhau. Ấy là hai lẽ! Chẳng qua ta kéo binh vào làm áp lực buộc Hoàng huynh thả con tin không được kềm chế ta mà thôi. Nếu không như thế ta mãi chịu mệnh nhỏ của Hoàng huynh thì làm sao có thể thi hành được nghĩa lớn là thống nhất sơn hà. Việc này Văn Kỷ chớ lo!
                              Nói xong Nguyễn Huệ hạ lệnh:
                              - Trần Văn Kỷ mau soạn hịch kể tội Hoàng huynh ta truyền đi khắp các phủ trước, không được chậm trễ.
                              Trần Văn Kỷ vâng lệnh lui ra.
                              Nguyễn Huệ nhìn hết các tướng một lượt rồi bảo:
                              - Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú lãnh năm ngàn binh trấn thủ Phú Xuân. Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân theo đường thượng đạo đến Tây Sơn Thượng xuống đèo Mang bất ngờ đánh lấy ải Cù Mông. Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc đem năm ngàn thủy quân theo đường bể chiếm cửa biển Thị Nại và cửa Cách Thử uy hiếp mặt Đông. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân theo ta đi đường đại lộ tiến đến Quy Nhơn. Các tướng nên nhớ kỹ, khi ta kéo đến, quân Hoàng huynh tất lui về thành Quy Nhơn cố thủ, các ngươi không được chém giết, ai trái lệnh chém đầu.
                              Các tướng cùng bước lên lãnh lệnh. Trần Quang Diệu hỏi:
                              - Nếu quân Hoàng thượng kháng cự thì phải thế nào.
                              Nguyễn Huệ quả quyết đáp:
                              - Ta đã sai Trần Văn Kỷ đi trước truyền hịch khắp nơi, nay thấy binh ta đến chắc chắn các tướng của Hoàng huynh chẳng dám chống lại ta. Nếu gặp kháng cự cứ kéo quân về có gì ta cũng không bắt tội.
                              Nói rồi Nguyễn Huệ truyền lệnh xuất quân.
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #45
                                Chương 42

                                Giấu mẹ hiền, vua Thái Đức bắt giam Nguyễn Lữ.
                                Cầu Thái hậu, Đặng Văn Long bắn Tử Cấm Thành.


                                Nhắc lại việc Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn đánh vua Thái Đức.
                                Quân Nguyễn Huệ vượt ải Hải Vân vào đất Quảng Nam, quân tiền đồn chạy về phi báo cùng trấn thủ Quảng Nam là Đặng Mộng Kỳ. Kỳ bèn bàn với phó tướng là La Xuân Kiều rằng:
                                - Hoàng thượng bắt giam gia quyến của Bắc Bình Vương và các tướng theo Bắc Bình Vương ở lại Phú Xuân. Nav Bắc Bình Vương truyền hịch đến đây nói là chỉ kéo quân vào yêu cầu vua thả con tin chứ không có gì khác. Vậy theo ông ta nên xử trí thế nào?
                                La Xuân Kiều đáp:
                                - Hoàng thượng thấy uy đanh của Bắc Bình Vương lừng lẫy, sợ Bắc Bình Vương làm phản nên mới bắt giam gia quyến làm con tin. Theo tôi nếu Bắc Bình Vương có lòng tạo phản thì cứ thúc quân mà đánh cần gì phải truyền hịch trước, bọn chúng ta đâu phải là đối thủ của ông ấy!
                                Đặng Mộng Kỳ lại hỏi:
                                - Theo ông nay ta nên làm thế nào.
                                La Xuân Kiều đáp:
                                - Nay ta nên rút quân về Quảng Ngãi với Lê Trung xem thử ý Lê Trung thế nào rồi sẽ liệu mà xử sự.
                                Đặng Mộng Kỳ khen phải bèn bỏ Quảng Nam rút về Quảng Ngãi. Đọc tờ hịch của Bắc Bình Vương do Đặng Mộng Kỳ trao xong, trấn thủ Quảng Ngãi Lê Trung nói:
                                - Bọn chúng ta mà chọi với Bắc Bình Vương khác nào lấy trứng chọi đá. Bắc Bình Vương là người sống phải nghĩa phải tình ắt là không có ý hại anh, vả lại việc này do nơi Hoàng thượng mà ra. Vậy chi bằng ta hãy kéo quân về thành Quy Nhơn nói là đánh không lại Bắc Bình Vương, ắt Hoàng thượng cũng không thể bắt tội ta đrợc.
                                Nói rồi ba người liền bỏ Quảng Ngãi kéo quân về Quy Nhơn.
                                Vua Thái Đức ở trong thành Quy Nhơn ngày ấy nghe quân vào báo rằng:
                                - Tâu Bệ hạ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân theo lệnh Bắc Bình Vương đem quân theo đường Thượng đạo đánh lấy ải Cù Mông. Hiện quân Trần Quang Diệu đã vây kín mặt Tây Nam.
                                Quân do thám mặt Đông về báo:
                                - Bắc Bình Vương sai Đô đốc Tuyết và Đô đốc Lộc đem thủy binh vào chiếm cửa biển Cách Thử và cửa biển Thị Nại uy hiếp mặt Đông.
                                Vua Thái Đức còn đang bối rối chợt quân canh lại vào báo:
                                - Tướng quân Đặng Mộng Kỳ trấn thủ Quảng Nam và tướng quân Lê Trung trấn thủ Quảng Ngãi đã kéo quân về thành còn đang đợi mệnh.
                                Vua Thái Đức truyền cho vào. Vua quát hỏi:
                                - Tại sao giặc đánh tới hai ngươi chưa đánh mà đã lui binh?
                                Lê Trung đáp:
                                - Tâu Bệ hạ, trước hạ thần đã từng theo Bắc Bình Vương vào Nam đánh Nguyễn nên có biết tài của ông ấy. Bọn thần không phải là đối thủ của Bắc Bình Vương, nếu chống nhau với ông ấy chỉ có bại binh mà thôi, ấy là một lẽ. Bắc Bình Vương và Hoàng thượng là anh em cật ruột, binh tướng chúng ta đều là người một nhà cả đã từng đồng cam cộng khổ sinh tử có nhau, nay chém giết lẫn nhau máu chảy ruột mềm, lòng thần không nỡ, ấy là hai lẽ. Vả lại Bắc Bình Vương truyền hịch đi các nơi rằng chỉ đem binh vào xin Hoàng thượng thả gia quyến mà thôi. Xin Hoàng thượng hãy thả gia quyến của họ ra để tránh cho trăm họ phải cảnh can qua.
                                Vua Thái Đức giận lắm quát hỏi:
                                - Ngươi có dám chắc rằng sau khi thả gia quyến, nó không làm phản ta chăng?
                                Lê Trung đáp:
                                - Nếu Bắc Bình Vương có lòng tạo phản chúng thần xin cam tâm chịu chết.
                                Vua Thái Đức thét quân:
                                - Quân bay mau bắt giam Lê Trung, Đặng Mộng Kỳ và La Xuân Kiều vào ngục. Sau khi thả gia quyến mà thằng Huệ không chịu bãi binh thì ta đem ba ngươi làm lễ tế cờ rồi sẽ xuất quân!
                                Quân lôi ba tướng vào ngục xong, lại có tin báo:
                                - Tâu Bệ hạ, Bắc Bình Vương đã đem quân vây kín bốn mặt thành. Bắc Bình Vương mời Bệ hạ lên mặt thành nói chuyện.
                                Vua Thái Đức liền nai nịt lên mặt thành. Thấy bốn bên gươm giáo ngời ngời, tinh kỳ phấp phới, lại thấy Nguyễn Huệ mình mặt giáp trụ, đầu đội kim khôi cưỡi voi trước trận, vua giận lắm mắng rằng:
                                - Thằng phản chúa phụ anh kia, hiện mẹ còn đang ở trong thành mày lại đem quân vây đánh, thật là phường bất trung bất hiếu. Mày có giỏi thì cứ đánh đi, gọi ta lên nói chuyện để làm gì.
                                Nguyễn Huệ chắp tay nói:
                                - Em vì mặc giáp trụ không thể thi lễ được, xin Hoàng huynh miễn chấp. Em kéo quân đến đây cốt gặp mặt Hoàng huynh để nói một lời, xin Hoàng huynh trao trả con tin, em lập tức lui binh.
                                Vua Thái Đức cười lớn mấy hồi, cười đến rơi nước mắt rồi bảo:
                                - Ta biết ngươi có lòng tạo phản nên mới bắt gia quyến làm con tin. Quả nhiên ta có con tin mà ngươi còn đem quân đánh tới. Nếu ta thả con tin thì ngươi giết chúa hại anh nào có ngại gì. Ngươi không ngại tiếng đời thì cứ đánh đi, phen này ta quyết liều mạng với ngươi.
                                Nói rồi vua lệnh các tướng canh phòng cẩn mật, súng ống sẵn sàng, cung tên nước sôi gỗ đá đầy đủ, hễ địch tấn công thì liều chết mà đánh.
                                Nguyễn Huệ thấy vua Thái Đức quyết lòng giữ con tin liều chết thủ thành lấy làm lo ngại lắm.
                                Đêm ấy trong đại bản doanh Nguyễn Huệ hết đứng lên lại ngồi xuống rồi đi quanh quẩn trong phòng thở dài não ruột. Trần Văn Kỷ thấy vậy hỏi:
                                - Chúa công có điều lo lắng lắm sao mà nét mặt dàu dàu như thế.
                                Nguyễn Huệ buồn rầu đáp:
                                - Ta cứ ngỡ đem quân vây thành là Hoàng huynh sợ ta quyết đánh phải thả con tin. Nào ngờ Hoàng huynh lại càng giữ con tin liều chết cố thủ. Nay việc đã lỡ chỉ còn cách gọi Nguyễn Lữ về đây mới mong khuyên được Hoàng huynh thả gia quyến của ta và các tướng ra mà thôi.
                                Nói rồi Nguyễn Huệ liền viết thư sai người tâm phúc cấp tốc vào Sài Côn trao cho Nguyễn Lữ.
                                *
                                * *
                                Nguyễn Lữ ở thành Sài Côn nhận được thư Nguyễn Huệ, đọc xong Lữ oà khóc lớn nói rằng:
                                - Hai anh ta sao lại đến nỗi này.
                                Đặng Văn Long thất kinh nói:
                                - Việc gì mà nhị sư huynh lại tỏ ra bi thảm thế?
                                Nguyễn Lữ vẫn khóc nói:
                                - Hoàng huynh bắt giam gia quyến của Bắc Vương huynh và các tướng trong thành Quy Nhơn. Bắc Vương huynh đem quân vây hãm kinh thành buộc Hoàng huynh phải thả con tin. Hoàng huynh vì sợ thả con tin rồi Bắc Vương huynh làm phản đánh thành nên liều chết cố thủ. Nay Bắc Vương huynh viết thư gọi ta về Quy Nhơn vào thành báo cùng mẹ ta khuyên Hoàng huynh thả hết gia quyến, Bắc Vương huynh sẽ lập tức lui binh. Ta phải kíp đi ngay.
                                Đặng Văn Long nói:
                                - Việc này rất nghiêm trọng, tôi cũng phải theo nhị sư huynh về Quy Nhơn mới được!
                                Nói rồi Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long gọi quan Thái Báo tên là Phạm Văn Tham đến nói:
                                - Nay ta và Đặng Văn Long phải về Quy Nhơn hòa giải hai anh ta. Vậy ngươi hãy thay ta trấn thủ Gia Định Sài Côn, xong việc ta sẽ quay về.
                                Dặn dò Phạm Văn Tham xong, Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long liền lên ngựa nhắm hướng Bắc trực chỉ.
                                Đến Quy Nhơn ra mắt Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ ôm Huệ khóc rằng:
                                - Anh Huệ ơi. Vì sao phải đến nông nỗi này?
                                Nguyễn Huệ ôm em khóc nói:
                                - Hoàng huynh nghi ngờ anh có lòng tạo phản nên bắt giam gia quyến của anh và các tướng trong thành. Ngự Sử Nguyễn Thung can gián, Hoàng huynh lại giết chết Nguyễn Thung. Anh bất đắc dĩ phải đem quân vây thành yêu cầu Hoàng huynh thả con tin, không ngờ Hoàng huynh quyết giữ con tin liều chết cố thủ. Anh vì tình cốt nhục không thể động can qua. Nay em hãy vào thành báo cho mẹ hay, mẹ sẽ bảo Hoàng huynh thả con tin, anh kíp kéo quân về hàn gắn tình huynh đệ, cùng lo việc quốc gia. Việc này chỉ có mình em làm được mà thôi.
                                Nguyễn Lữ nghe lời Nguyễn Huệ liền quay đi. Nguyễn Huệ bước theo dặn dò Nguyễn Lữ rằng:
                                - Khi vào được thành em chớ để lộ việc báo mẹ hay cho Hoàng huynh biết, nếu không như thế việc ắt chẳng thành.
                                Nguyễn Lữ vâng lời gạt nước mắt mà đi. Nguyễn Lữ một mình một ngựa đến trước cổng thành gọi lớn:
                                - Quân bay mau vào báo cùng Hoàng thượng có ta là Đông Định Vương Nguyễn Lữ xin vào yết kiến.
                                Quân canh vào báo cùng vua Thái Đức. Vua đích thân lên mặt thành xem xét, thấy quả nhiên Nguyễn Lữ đứng dưới thành không quân không tướng. Vua bèn truyền mở cổng thành rồi đích thân xuống dưới thành đón Nguyễn Lữ. Anh em gặp mặt ôm nhau mà khóc. Tướng sĩ trông thấy đều bùi ngùi rơi lệ. Vua Thái Đức hỏi Nguyễn Lữ:
                                - Nay em nghe lời Nguyễn Huệ đến gặp anh có gì để nói.
                                Lữ quỳ lạy đáp:
                                - Em trấn thủ Sài Côn Gia Định, nghe hai anh có việc bất hòa, dấy cuộc binh đao lòng đau như cắt vội vã về đây dập đầu can gián. Xin hỏi Hoàng huynh, anh Huệ là người trung nghĩa dày công hạn mã giúp Hoàng huynh dựng nên nghiệp lớn, sao Hoàng huynh lại bắt giam gia quyến làm con tin.
                                Vua Thái Đức liền hỏi:
                                - Nó là người trung nghĩa sao kéo quân vây thành phản chúa phụ anh?
                                Nguyễn Lữ đáp:
                                - Anh Huệ bảo em xin Hoàng huynh hãy thả con tin anh ấy sẽ lui binh.
                                Vua Thái Đức đang nước mắt dầm dề bỗng cười to nói:
                                - Em thật thà nghe lời lừa phỉnh của nó. Ta có con tin nó còn đem quân vây thành. Nếu thả con tin nó bốn mặt công thành thì làm thế nào? Em hãy về bảo nó lập tức lui binh trước, ta sẽ thả con tin sau.
                                Nguyễn Lữ nghĩ thầm rằng: Anh Huệ lui quân, Hoàng huynh cho rằng giữ con tin là kềm chế được anh Huệ thì lại càng không thả con tin, vậy mối bất hòa này bao giờ mới dứt. Chi bằng ta báo mẹ là hơn. Nghĩ xong bèn nói:
                                - Anh Huệ đã quyết ý chưa có gia quyến thì nhất định chẳng lui binh dù em có nói thế nào cũng không lay chuyển được. Vậy em xin vào vấn an mẹ, việc này do hai anh tự xử với nhau vậy.
                                Nói xong dợm bước toan đi. Vua Thái Đức quát:
                                - Quân bay mau bắt Nguyễn Lữ lại cho ta.
                                Võ sĩ vâng lệnh bắt Nguyễn Lữ trói lại dưới thềm.
                                Lữ ngạc nhiên hỏi:
                                - Em có tội gì?
                                Vua Thái Đức đáp:
                                - Nếu em vào gặp mẹ cho mẹ biết việc này ắt mẹ sẽ buộc ta thả con tin ra. Khi ấy nó đánh thành thì ta lấy gì chống đỡ. Bởi vậy anh tạm giam em, khi nào thằng Huệ lui binh anh sẽ thả em ra.
                                Nguyễn Lữ bị võ sĩ lôi đi nói với lại rằng:
                                - Em chỉ vào vấn an mẹ, không nói tới việc này.
                                Vua Thái Đức đáp:
                                - Em thật thà không lường được bụng dạ thằng Huệ. Việc ấy lấy gì làm chắc.
                                Nguyễn Lữ khóc rống lên rằng:
                                - Hoàng huynh ơi! Anh đã lầm rồi!
                                Vào ngục rồi Nguyễn Lữ cứ ngồi khóc mãi không thôi.
                                Thấy vua Thái Đức bắt giam Nguyễn Lữ rồi, thái giám Vũ Tâm Can nhủ thầm rằng, nay ta báo tin này cho Nguyễn Huệ, chắc chắn Huệ sẽ hạ lệnh đánh thành. Anh em nó tàn hại lẫn nhau là ta đã báo được thù cha rồi vậy.
                                Đêm ấy Vũ Tâm Can quấn thư quanh thân tên rồi lén lên mặt thành nhắm vào quân Nguyễn Huệ mà bắn. Quân bắt được thư đem vào dâng lên Nguyễn Huệ. Huệ đọc xong bèn hội các tướng nói:
                                - Nguyễn Lữ để lộ việc báo tin cho mẹ nên đã bị Hoàng huynh bắt giam. Mẹ ta tuổi đã già ở mãi trong cung, Hoàng huynh lại chẳng cho ai vào, thành ra mẹ ta không hề hay biết việc Hoàng huynh bắt giam gia quyến và ta đã đem binh vây thành. Chỉ có cách báo mẹ ta hay mới giải quyết được việc này. Vậy ai có kế gì chăng?
                                Mưu sĩ Trần Văn Kỷ và các tướng còn đang suy nghĩ thì Đặng Văn Long bước ra nói:
                                - Hạ thần có một kế có thể báo được cho Thái hậu.
                                Nguyễn Huệ liền hỏi:
                                - Kế thế nào?
                                Long đáp:
                                - Ở gần phía Đông Nam thành có một hòn núi tên là núi Long Cốt. Ở trong thành có một vòng thành nhỏ gọi là Tử Cấm Thành để cho Hoàng thượng và Thái hậu ở. Núi Long Cốt cao hơn mặt thành chừng mươi trượng, thần xin đem vài khẩu đại bác đặt trên đỉnh núi Long Cốt thì chắc chắn tầm đạn bắn đến Tử Cấm Thành. Thái hậu nghe súng nổ đạn bay ắt phải dò cho ra lẽ, thì lo gì việc không thành.
                                Nguyễn Huệ cả mừng khen rằng:
                                - Đặng Văn Long thật trí dũng song toàn, kế này rất hay. Nhưng e rằng đạn lạc ngộ nhỡ mẹ ta và Hoàng huynh có mệnh hệ nào thì hối không kịp.
                                Đặng Văn Long đáp:
                                - Hạ thần trấn thủ Gia Định nghe Phúc Ánh lẩn trốn ở Tiêm La Quốc đang cầu viện quân Pháp Lang Sa định ngày trở lại, nên đã cùng quân sĩ ngày đêm luyện tập bắn súng đại bác không sai lệch bao giờ. Thần đem đại bác lên núi Long Cốt chỉ nhắm vào mặt thành của Tử Cấm Thành mà bắn. Dinh thự nhà cửa sẽ không hề hấn gì, xin đại sư huynh chớ ngại. (Lúc bấy giờ đạn đại bác không có sức nổ công phá. Đạn chỉ bay đến mục đích như một cục sắt mà thôi).
                                Nguyễn Huệ nói:
                                - Nếu vậy thì ta theo cách ấy mà làm. Phen này tứ sư đệ đã cứu ta rồi đó.
                                Đặng Văn Long kéo đại bác lên núi Long Cốt hướng nòng súng vào Tử Cấm Thành, ngắm nghía xong Văn Long sai quân nạp đạn nhồi thuốc mà bắn.
                                Bà Thái hậu đang ở trong cung bỗng nghe súng nổ ầm ầm, đạn bay lên mặt Tử Cấm Thành tới tấp. Thái hậu sợ hỏi a hoàn:
                                - Con ta Đông Định Vương Nguyễn Lữ đang trấn thủ Gia Định, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang trấn thủ Phú Xuân, vậy ở thành Quy Nhơn giặc nào đánh tới.
                                A hoàn tâu:
                                - Thưa Thái hậu chúng con không được rõ.
                                Thái hậu bảo:
                                - Hãy mau đưa ta sang ngự điện hỏi vua xem.
                                Bọn a hoàn dìu Thái hậu ra ngoài, gặp lính tuần canh, Thái hậu hỏi:
                                - Giặc từ đâu đánh tới. Vua hiện đang ở nơi nào?
                                Quân canh đáp:
                                - Bắc Bình Vương đem quân vây thành đã mấy tháng. Nay Bắc Bình Vương kéo đại bác nơi núi Long Cốt bắn vào Tử Cấm Thành.
                                Thái hậu thất kinh liền vội vã vào ngự điện, gặp vua Thái hậu vừa khóc vừa hỏi:
                                - Thằng Huệ đem quân vây thành đã mấy tháng sao con không cho mẹ hay.
                                Vua Thái Đức thất kinh quỳ lạy đáp:
                                - Thưa Thái hậu, con sợ mẹ không vui nên không dám nói.
                                Thái hậu lại hỏi:
                                - Vậy thì cớ gì nó lại đem quân vây thành?
                                Vua không dám giấu đáp:
                                - Con sợ thằng Huệ làm phản nên bắt giam gia quyến của nó và các tướng ở Phú Xuân làm con tin. Quả nhiên nó làm phản đem quân đánh tới.
                                Thái hậu nổi giận quát:
                                - Thảo nào mà mày giấu nhẹm không cho ta hay. Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, việc này do nơi lòng đố kỵ của ngươi gây ra đó. Nếu nó có lòng phản chúa phụ anh thì cứ bắn cho vỡ Hoàng đế thành rồi xua quân đánh giết việc gì phải kéo đại bác lên núi Long Cốt bắn đến Tử Cấm Thành làm chi. Ta chắc là nó mượn súng đại bác để báo tin cho ta hay vậy.
                                Vua Thái Đức thấy mẹ giận không dám mở miệng chỉ cúi mặt làm thinh. Thái hậu bảo:
                                - Giờ ta lên mặt thành gặp nó, mày hãy mau vào ngục đưa Quang Toản lên mặt thành ngay.
                                Vua Thái Đức khóc nói:
                                - Con xin vâng lời mẹ dạy.
                                Thái hậu chống gậy lên đứng trên mặt thành. Đặng Văn Long trông thấy liền bảo quân:
                                - Thái hậu đã đến rồi, mau ngừng bắn.
                                Nguyễn Huệ lúc ấy đang cưỡi ngựa trước trận trông thấy mẹ đứng trên mặt thành mà khóc thì thất kinh hồn vía liền quăng gươm xuống ngựa, lột bỏ nón kim khôi, cởi luôn giáp trụ khấu đầu mà lạy rồi gào lớn lên rằng:
                                - Con bất hiếu xin cúi đầu chịu tội!
                                Lúc ấy vua Thái Đức vừa dẫn Nguyễn Lữ và con Nguyễn Huệ là Quang Toản mới vừa năm tuổi lên mặt thành đứng cạnh Thái hậu. Quang Toản ngây thơ kêu lớn:
                                - Cha ơi. Sao không về với con?
                                Vua Thái Đức vừa khóc vừa nói:
                                - Nồi da xáo thịt sao em đành lòng!
                                Nguyễn Huệ dưới thành ngửa mặt nhìn lên, lệ tuôn lã chã nói vọng lên rằng:
                                - Xin mẹ và Hoàng huynh tha cho đại tội. Bởi tại trời cao xui nên nghịch cảnh, chứ em nào có lòng phản chúa phụ anh.
                                Quân tướng hai bên trông thấy cảnh này không ai là không rơi nước mắt. Nguyễn Huệ đứng lên quay lại bảo quân:
                                - Truyền lệnh ta lập tức lui binh.
                                Nguyễn Văn Tuyết hỏi:
                                - Hoàng thượng chưa thả con tin, sao Chúa công đã vội lui binh?
                                Huệ đáp:
                                - Việc này ngươi không phải lo, đã có mẹ ta ở đó.
                                Trên mặt thành Thái hậu bảo vua Thái Đức:
                                - Con còn chờ gì mà không thả con tin ra.
                                Vua Thái Đức vâng lời thả hết gia quyến. Nguyễn Huệ và các tướng đem gia quyến lặng lẽ rút binh về Phú Xuân. Trước khi đi Nguyễn Huệ gọi Đặng Văn Long đến bảo:
                                - Nhờ trí dũng của tứ sư đệ đã hòa giải được mối bất hòa của anh em ta. Vậy Văn Long hãy mau theo Nguyễn Lữ vào trấn đất Gia Định đề phòng Nguyễn Phúc Ánh rước ngoại xâm về giày xéo nước ta.
                                Đặng Văn Long đáp:
                                - Nay hạ thần không thể vào Gia Định được nữa.
                                Huệ hiểu mà vẫn hỏi:
                                - Vì sao?
                                Long đáp:
                                - Hoàng thượng vâng lời Thái hậu mà phải cùng Đại sư huynh giảng hòa, nhưng trong lòng vẫn còn uất hận vì uy quyền bị bất phục. Nếu thần về Gia Định e Hoàng thượng không dung. Xin Đại sư huynh cho thần theo về Phú Xuân mới được vẹn toàn.
                                Nguyễn Huệ thở dài:
                                - Nguyễn Lữ là người thật thà, nếu không có Văn Long trợ giúp e rằng Nguyễn Lữ không phải là đối thủ của Nguyễn Phúc Ánh.
                                Văn Long nói:
                                - Việc đến nước này chẳng thể khác được. Vả lại theo phò Đông Định Nhị sư huynh còn có Thái Bảo Phạm Văn Tham cũng là người tài trí. Nếu sau Phúc Ánh có rước giặc ngoài về ta sẽ liệu sau.
                                Nguyễn Huệ không biết làm thế nào đành để Đặng Văn Long theo về Phú Xuân.
                                Nguyễn Huệ rút quân đi rồi, vua Thái Đức liền sai quân thả La Xuân Kiều và Đặng Mộng Kỳ về trấn thủ Quảng Nam, Lê Trung về trấn thủ Quảng Ngãi. Phần Nguyễn Lữ vì khóc nhiều quá đến nỗi máu tuôn theo nước mắt, hai mắt sưng vù nên phải tĩnh dưỡng chờ khi lành bệnh mới vào Gia Định.
                                Lúc các tướng La Xuân Kiều, Đặng Mộng Kỳ và Lê Trung vào bái biệt lên đường, vua Thái Đức say khướt vừa cười vừa khóc bảo:
                                - Ai đã đựng cờ khởi nghĩa cứu dân, dựng nên cơ nghiệp. Các ngươi được như ngày nay là nhờ ai? Vậy mà em ta nó đã phản ta rồi!
                                La Xuân Kiều, Đặng Mộng Kỳ và Lê Trung cùng khóc lạy rồi ra đi.
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X