Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Tây Sơn bi hùng truyện - Lê Đình Danh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Chương 13

    Lũy Trường Dục, Nguyễn Hữu Chỉnh lập công.
    Thành Thăng Long, Trương Phúc Loan đền tội.


    Nói về thủy quân Trịnh do Hoàng Đình Bảo thống lĩnh vào đóng ở cửa biển Nhật Lệ. Quân bộ do Hoàng Ngũ Phúc thống lĩnh, thấy thủy quân mình vào cửa Nhật Lệ và quân Nguyễn lui về lũy Trường Dục cố thủ, Ngũ Phúc liền cho quân vượt sông Linh Giang lập doanh trại ở Nam châu Bố Chánh.
    Hoàng Ngũ Phúc dẫn các tướng ra các doanh trại chỉ vào lũy Trường Dục mà nói:
    - Thành Trường Dục lũy cao hào sâu, quân Nguyễn lại đặt súng đại bác cung tên rất nhiều trên mặt thành. Theo các ngươi ta phải đánh thế nào mới hạ được thành?
    Hoàng Đình Thể nói:
    - Thưa thượng tướng, theo tôi ta nên tập trung súng đại bác bắn cho thành tan vỡ, rồi cho quân tràn vào thì chắc rằng sẽ chiếm được lũy Trường Dục.
    Tiền Đình Hầu Hoàng Đình Thể vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng nói lớn:
    - Nếu đánh thế không thể nào thắng được!
    Mọi người nhìn lại thấy một người vừa mới nói tuổi trạc ba mươi, dáng dấp ung dung, mặt mày đĩnh ngộ. Hoàng Ngũ Phúc hỏi:
    - Ngươi là ai?
    Huy Đình Hầu Hoàng Đình Bảo bước ra nói:
    - Thưa tướng công người này ở Châu Lộc Nghệ An, tên Nguyễn Hữu Chỉnh văn võ song toàn, năm mười sáu tuổi đã thi đỗ hương cống, lúc trước vẫn thường theo tôi đi đánh giặc bể, rất giỏi thủy chiến, hiện đang ở dưới trướng của tôi.
    Hoàng Ngũ Phúc hỏi Chỉnh:
    - Vì sao ngươi lại nói rằng đánh như thế thì không thắng được?
    Chỉnh thi lễ rồi đáp:
    - Luỹ Trường Dục này là do Đào Duy Từ xây dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên chống nhau với quân ta đến nay đã hơn một trăm năm. Thành này kiên cố vô cùng, vả lại súng đại bác của địch đặt trên mặt thành, đại bác của ta chưa bắn đến thành thì đã bị súng địch bắn ta rồi vậy.
    Ngũ Phúc trầm tư nói:
    - Thành Trường Dục này kiên cố thế ư? - Đội nhiên Phúc hỏi Chỉnh - Đào Duy Từ là người thế nào?
    Chỉnh đáp:
    - Đào Duy Từ lúc còn nhỏ chăn trâu thường ví mình như Gia Cát Lượng. Đến lúc chúa Sãi rước về phong làm Nội Tán tước Khê Lộc Hầu. Chúa Sãi có làm bài thơ tặng Đào Duy Từ rằng:
    Vó ngựa sườn non tuyết lạnh lùng
    Cầu hiền lặn lội biết bao công
    Đem câu tá Hán ra dò ý
    Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng
    Bờ cõi đón chia ba thế đất
    Biên thùy ngăn cách một dòng sông
    Nếu như không có lời Nguyên Trực
    Thì biết đâu mà đón Ngọa Long
    Xem thế đủ biết Chúa Sãi cũng ví Đào Duy Từ như Gia Cát Lượng đời Hán vậy.
    Nguyễn Hữu Chỉnh nói thao thao. Ngũ Phúc nghe xong cười rằng:
    - Việc hơn một trăm năm trước mà ngươi vẫn thuộc làu làu, thật là thông kim bác cổ. Còn việc ngày nay theo ngươi thì phải đánh lũy Trường Dục như thế nào?
    Chỉnh đáp:
    - Quan trấn thủ thành Trường Dục tên Nguyễn Duy cũng là người quê ở Nghệ An vốn cùng tôi là huynh đệ đồng môn. Nay tôi xin vào thành đem ba tấc lưỡi thuyết Nguyễn Duy về hàng thì quân ta đã vào được cửa ngõ Thuận Hoá mà không tốn công sức vậy.
    Hoàng Ngũ Phúc mừng rỡ khen:
    - Ngươi quả nhiên là đa mưu túc trí. Nếu đại sự mà thành thì ngươi là kẻ có công đầu trong cuộc Nam chinh đó!
    Nói rồi cùng vào doanh trại truyền quân bày tiệc rượu khao Nguyễn Hữu Chỉnh đợi ngày mai vào thành Trường Dục.
    Ngày hôm sau tướng Nguyễn giữ thành Trường Dục là Nguyễn Duy nghe quân vào báo:
    - Có một người từ quân Trịnh sang xưng tên là Nguyễn Hữu Chỉnh xin ra mắt tướng quân.
    Nguyễn Duy liền cho võ sĩ cầm gươm trần đứng giăng hàng hai bên rồi cho mời Hữu Chỉnh vào. Chỉnh vào đến trông thấy hàng võ sĩ mặt đằng đằng sát khí liền cười lớn:
    - Cách nhau đã mười năm giờ mới hội ngộ, sư huynh lại dằn mặt nhau đến thế. Xin hỏi nếu sư huynh bệnh nặng, tôi mang thuốc đến sư huynh lại đối đãi tệ bạc đến thế ư?
    Nguyễn Duy liền đuổi võ sĩ ra ngoài, mời Chỉnh ngồi rồi nói:
    - Tôi cùng sư đệ vốn rất hiểu lòng nhau. Nhưng tôi vẫn mạnh khoẻ như xưa, sao Nguyễn đệ lại nói tôi bệnh nặng là ý làm sao?
    Nguyễn Hữu Chỉnh lại cười nói:
    - Hiện quân ở thành Trường Dục này của sư huynh chỉ có năm ngàn, còn quân Trịnh tôi hùng binh bốn vạn. Vả lại quân ở kinh thành Phú Xuân đã đưa cả vào Quảng Nam chống giặc Tây Sơn. Sư huynh ở cái lũy cỏn con này không binh cứu viện, ấy chẳng phải là chứng bệnh nan y đó sao?
    Nguyễn Duy cũng cười lớn nói:
    - Đành rằng là như vậy nhưng lũy này của Khê Lộc Hầu Đào Duy Từ đắp, đạn bắn không vỡ. Năm xưa Trương Phúc Phấn chỉ có mấy ngàn quân đánh nhau với đại binh của Trịnh Tráng vẫn giữ vững thành trì. Nay ta cứ canh phòng nghiêm ngặt không ra đánh thì quân Trịnh làm gì được ta?
    Nguyễn Hữu Chỉnh nghe Duy nói xong càng cười to hơn nữa, cười đến chảy nước mắt. Nguyễn Duy ngạc nhiên hỏi:
    - Tại sao huynh lại cười mãi thế?
    Chỉnh nghiêm nét mặt nói:
    - Sư huynh nên xét lại. Thế cuộc mỗi ngày một khác nhau. Năm xưa quân Nguyễn trên dưới đồng lòng, từ quân đến tướng muôn người như một. Vả lại mấy ngàn quân của Trương Phúc Phấn liều mình chống giữ lũy Trường Dục vì tin rằng sớm chiều tất có viện binh. Quả nhiên viện binh của chúa Nguyễn kéo ra liền đánh lui quân Trịnh khỏi sông Linh Giang. Còn nay, trong triều thì Phúc Loan lộng quyền làm lắm điều xằng bậy khiến lòng người ly tán. Vậy nên ở đất Quy Nhơn giặc Tây Sơn mới nổi dậy đánh phá, chúa Nguyễn phải sai tướng đem toàn quân ở kinh thành cứu viện Quảng Nam. Thành Trường Dục tuy rằng kiên cố, nhưng ba quân đả chán, chúa nản lòng thì làm gì đem hết sức mà đánh giặc. Xem lại việc lúc thủy quân của chúa Trịnh tôi vào cửa bể Nhật Lệ thì thủy quân của sư huynh liền vào chạy vào thành cố thủ, ấy là minh chứng rõ ràng. Cái lẽ được thua ở thành Trường Dục này xem ra đã rõ. Vả lại cơ đồ của nhà Nguyễn đã đến hồi mạt vận, trong thì mục nát, ngoài thì hai đầu thọ địch, dẫu rằng Tôn Ngô sống lại cũng phải bó tay. Sư huynh là người thông minh hơn người lại chẳng thấy điều đó hay sao?
    Nguyễn Duy buồn bã đáp:
    - Chẳng phải là tôi không biết việc ấy. Những muốn theo về chúa Trịnh, nhưng còn phân vân người ta đối đãi với bại tướng ra sao...
    Duy nói đến đây bỏ lửng. Hữu Chỉnh tươi cười bảo:
    - Việc này sư huynh chớ lo, tôi xin tiến cử sư huynh lên thượng tướng công Hoàng Ngũ Phúc, thì danh lợi nào kém gì làm quan cho chúa Nguyễn.
    Nguyễn Duy cả mừng nắm tay Chỉnh nói:
    - Ơn của sư đệ chẳng bao giờ dám quên. Phiền sư đệ về thưa cùng Hoàng tướng công ngày mai tôi xin mở cửa ra hàng.
    Hôm sau, tháng mười hai năm Giáp Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba lăm, Hoàng Ngũ Phúc lấy được thành Trường Dục không tốn một mũi tên hòn đạn. Phúc khen thưởng Hữu Chỉnh rất hậu và vẫn để Nguyễn Duy ở lại giữ thành, còn mình đem đại binh tiến lên đóng ở làng Hố Xá (Quảng Trị ngày nay).
    Ngày ấy Hoàng Ngũ Phúc họp các tướng nói:
    - Chúa Nguyễn vừa mới đưa thư cho ta hẹn trong mười hai ngày sẽ nộp Phúc Loan, và yêu cầu quân ta sau khi bắt được Phúc Loan thì hãy lui quân trả đất cho họ Nguyễn. Các ngươi thấy thế nào?
    Hoàng Đình Bảo khoát tay nói:
    - Mục đích của ta là chiếm đất nhà Nguyễn, diệt trừ Phúc Loan chỉ là cái cớ. Nay vô lẽ bắt được Phúc Loan lại lui quân trả đất, thì thật là tốn công vô ích!
    Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ cùng nói:
    - Lời Huy Đình Hầu nói rất phải. Nếu bắt được Phúc Loan rồi ta cứ tiến binh thì đã làm sao?
    Ngũ Phúc lắc đầu bảo:
    - Các ngươi nói sai rồi. Đại trượng phu phải lấy chữ tín làm đầu, huống chi ta vâng lệnh Chúa thượng truyền hịch khắp nơi là chỉ diệt trừ Phúc Loan chứ không xâm phạm đất đai của nhà Nguyễn. Nay nuốt lời tiến quân e rằng chúa ta mang tiếng thất tín với thiên hạ. Ngộ nhỡ chúa bắt tội thì ta biết ăn nói ra sao? Chi bằng ta án binh bất động rồi giải Phúc Loan về kinh đồng thời xin lệnh chúa thế nào!
    Nguyễn Hữu Chỉnh đứng dậy thưa:
    - Việc quân thành bại cốt ở thời cơ, nay thành Phú Xuân trống rỗng, ta mang đại binh vào đánh một trận ắt thu phục được kinh thành nhà Nguyễn. Nếu chờ họ giao nộp Phúc Loan rồi về kinh, lại chờ chiếu lệnh vào, mất ít thì cũng hơn một tháng. Lỡ họ lùi được quân Tây Sơn rồi điều binh ra ngoài cứu viện thì thật khó khăn cho ta. Theo ý tôi sau khi bắt được Phúc Loan, tướng công hãy truyền hịch và thư cho chúa Nguyễn rằng: Tuy bắt được Phúc Loan nhưng miền Trong hãy còn giặc Tây Sơn, ta xin đem quân vào Phú Xuân hợp sức dẹp giặc. Nếu chúa Nguyễn không bằng lòng thì ta đã có cớ để tiến binh. Tôi chắc rằng Chúa thượng hay được chẳng những không bắt tội mà còn trọng thưởng cho tướng công nữa.
    Ngũ Phúc mừng rỡ khen:
    - Hữu Chỉnh quả là cao kiến! Miễn làm sao có cớ để tiến quân, trên không mắc tội với chúa, dưới không ngượng miệng với dân. Dù ai đàm tiếu mặc lòng.
    Nói xong truyền quân bày yến tiệc, lệnh cho tướng sĩ án binh bất động, chờ ngày quân Nguyễn giao nộp Phúc Loan.
    *
    * *
    Khi ấy ở thành Phú Xuân, chúa Nguyễn Định Vương sai quân bắt Phúc Loan bỏ vào tù xa mang ra nộp cho Hoàng Ngũ Phúc. Lúc ra khỏi hoàng cung dân chúng trong kinh thành đổ xô đến xem, người đông nghìn nghịt. Có kẻ mắng:
    - Chính do mày mà dân tình thống khổ, đất nước ngửa nghiêng. Nay mày dù chết đi cũng chưa đền hết tội.
    Kẻ khác lại nhạo:
    - Ngày nào thì lên xe xuống ngựa, uy quyền tột đỉnh, muốn chém giết ai mặc lòng. Nay bị người khác giết lại ấy cũng là quả báo mà thôi!
    Trương Phúc Loan nghĩ thầm:
    - Năm xưa ta có thề với Tiên vương rằng: Nếu mà gian dối thì sẽ bị trăm quan bắt nộp cho địch quân xử tội bêu đầu. Nay lời thề xưa đã ứng. Thật là có quả báo không sai!
    Hoàng Ngũ Phúc đã được Trương Phúc Loan rồi, sai quân giải về Thăng Long cho Trịnh Sâm xét xử. Trịnh Sâm truyền đem ra chém.
    Giao nộp Phúc Loan xong chúa tôi nhà Nguyễn chờ tin quân Trịnh lui binh. Bỗng một hôm nhận được thư Hoàng Ngũ Phúc, chúa Nguyễn Định vương đọc xong quăng thư xuống đất nghiến răng trợn mắt quát:
    - Thằng Hoàng Ngũ Phúc thật là quân bội tín. Ta giao nộp Quốc phó cho chúng những tưởng chúng sẽ lui quân, ngờ đâu nay chúng viết thư bảo: Trong Quảng Nam hãy còn giặc Tây Sơn, chúng sẽ đem quân vào Phú Xuân hợp sức cùng quân ta dẹp giặc. Thật là phường điêu ngoa dối trá. Nếu biết vậy cần gì phải hy sinh Quốc phó.
    Thấy chúa nóng giận, Nguyễn Đăng Trường can:
    - Xin Chúa thượng bớt giận, ta giao nộp quan Quốc phó ấy là kế hoãn binh chờ Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính điều binh ở Quảng Nam ra cứu viện, thì không phải là Quốc phó hy sinh vô ích. Nay có lẽ Tiệp và Chính cũng sắp về đến.
    Trường vừa dứt lời có quân vào báo:
    - Kính Chúa thượng, tướng quân Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính dẫn quân về đang đợi lệnh ở cổng Nam kinh thành.
    Chúa Định Vương liền bảo:
    - Hãy mau truyền hai tướng vào ngay!
    Tiệp và Chính vào đến, chúa vội vàng nói:
    - Hai tướng về thật là đúng lúc. Nay Nguyễn Duy đã mở cổng thành Trường Dục đầu hàng quân Trịnh. Quân địch chỉ cách kinh thành chừng vài trăm dặm, hai tướng hãy kíp đem quân ra Bắc đánh giặc.
    Tôn Thất Tiệp thất kinh nói:
    - Thôi chết! Lâu nay ta chống nhau với quân Trịnh cốt nhờ vào thành Trường Dục, nay thành đã mất e rằng khó giữ được kinh thành.
    Nguyễn Đăng Trường trấn an hai tướng:
    - Nhị vị tướng quân chớ nên lo sợ. Tuy thành Trường Dục đã mất, nhưng giặc chưa đến sông Bái Đáp Giang, xin Tôn tướng quân mau dẫn bộ binh và Nguyễn tướng quân mau đem thủy binh cùng đến sông Bái Đáp Giang (Bến Hải ngày nay) gắng sức chống giặc. Chờ lão tướng Tống Phước Hiệp dẹp xong giặc Tây Sơn rồi hợp quân đánh Trịnh ắt là khôi phục được cơ đồ.
    Tiệp và Chính cùng khóc lạy chúa, Chính nói:
    - Người xưa có nói: Nuôi quân ba năm dụng một giờ. Nhà chúng tôi đã mấy đời công hầu thọ ơn sâu của chúa. Giặc đến, phận làm tướng phải liều mình vì xã tắc, dù không thắng được giặc chúng tôi xin chết giữa sa trường để đền nợ quân vương.
    Chúa cũng cầm tay hai tướng khóc:
    - Nước loạn mới biết trung thần, nay xã tắc ngửa nghiêng, ta chỉ còn trông cậy vào hai tướng mà thôi. Hai khanh nên gắng sức, mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng quả nhân.
    Tiệp và Chính lại khóc lạy, trước lúc ra đi còn bịn rịn không rời. Tôn Thất Tiệp dẫn bộ binh một vạn đến đóng đồn bố trận ở bờ Nam sông Bái Đáp Giang, còn Nguyễn Văn Chính dẫn thủy binh một vạn đến đóng thủy trại ở ngoài cửa bể Bái Đáp Giang.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      Chương 14

      Bái Đáp Giang, Hoàng Ngũ Phúc điều binh.
      Phú Xuân thành, Tĩnh Điệp Hầu cứu chúa.


      Nói về tướng Nguyễn là Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính đem quân thủy bộ đến đóng ở Bái Đáp Giang. Quân Trịnh về phi báo cùng Hoàng Ngũ Phúc, Phúc hội các tướng nói:
      - Nay quân Nguyễn đem thủy bộ binh hai vạn đến chặn đường tiến quân của ta ở sông Bái Đáp Giang. Chứng tỏ chúa Nguyễn biết mẹo hợp quân Phú Xuân để đánh giặc Tây Sơn của ta là giả. Vậy nay chỉ còn một cách là tranh thắng bại giữa trận tiền mà thôi. Các tướng sẵn sàng nghe lệnh: Hoàng Phùng Cơ lãnh ấn tiên phong đem năm ngàn quân khi nào thấy lửa cháy phía sau lưng địch thì vượt sông đánh thẳng vào đồn địch, ta sẽ đem đại binh đáp ứng. Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh lãnh thủy binh đánh thẳng vào thủy trại địch ở Bái Đáp Giang. Quân Nguyễn miễn cưỡng ra trận, trong lòng chỉ nghĩ thua mà không nghĩ thắng. Quân ta chỉ có tiến chứ chẳng có lùi. Nếu ai không thắng thì đừng về đây gặp mặt ta. Hãy mau sửa soạn xuất quân.
      Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh vâng lệnh ra đi. Hoàng Đình Thể không nghe gọi đến tên mình liền bước ra thưa:
      - Năm xưa cháu đã từng theo chú xông pha trận mạc dẹp giặc khắp bốn phương Nam Sơn, Kinh Bắc, Hải Dương, Thanh Hoá. Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật nghe đến tên thảy đều khiếp sợ. Nay Bình Nam đánh Nguyễn các tướng đều được lãnh binh dẹp giặc, sao chú chê cháu là kẻ bất tài không cho ra trận?
      Hoàng Ngũ Phúc nghe nói cả cười:
      - Tài của cháu từ xưa ta đã biết thì lý đâu chê cháu bất tài.
      Hoàng Đình Thể vẫn ấm ức hỏi:
      - Thế thì vì lẽ gì không cho cháu ra trận lập công?
      Phúc vờ lo lắng nói:
      - Phùng Cơ và Đình Bảo cũng đều là cháu của ta, nhưng chỉ có cháu là dũng lược hơn cả. Nay ta muốn giao cho cháu một trọng trách, không biết cháu có làm nổi chăng?
      Đình Thể nói:
      - Dù việc khó đến mấy cháu cũng xin hoàn thành. Nếu không, xin thượng công cứ xử theo tướng lệnh.
      Ngũ Phúc truyền lệnh:
      - Nay quân Nguyễn đắp đồn đặt súng ở bên kia sông. Nếu quân ta tấn công trực diện nhất định là tổn thất lớn. Ớ phía Tây doanh trại của ta có một hòn núi, sau lưng hòn núi có con đường nhỏ, cháu hãy lãnh năm ngàn tinh binh đi theo đường này, bí mật vượt sông đánh sau lưng quân địch, chúng không phòng bị ắt trở tay không kịp tất phải đại bại. Khi ấy ta thừa thắng tiến thẳng vào Phú Xuân.
      Hoàng Đình Thể vâng lệnh đi ngay.
      *
      * *
      Nói về tướng Nguyễn là Tôn Thất Tiệp và đô đốc thủy binh Nguyễn Văn Chính đóng quân tại Bái Đáp Giang ngày đêm canh phòng cẩn mật. Một sớm tinh mơ bỗng thấy quân Trịnh dùng thuyền nhỏ định vượt sông. Tôn Thất Tiệp chờ quân Trịnh ra đến giữa sông mới lệnh cho quân bắn súng và tên ra như mưa. Thuyền quân Trịnh đắm vỡ rất nhiều, vội vã lui quân.
      Tôn Thất Tiệp mừng quá cười nói với tả hữu rằng:
      - Quân Trịnh đã lui quân. Ta cứ canh phòng cẩn mật thế này ắt chúng không thể nào vượt sông được. Chỉ lo cho thủy binh của Nguyễn Văn Chính mà thôi!
      Vừa nói xong quân do thám về báo:
      - Thưa tướng quân, lính trên thuyền quân Trịnh toàn là hình nộm cả.
      Tiệp thất kinh chưa biết quân Trịnh dùng kế gì, chợt thấy hậu quân mình hỗn loạn, tiếng hò reo vang dậy, lửa cháy rực trời. Có tên quân hớt hải chạy về báo:
      - Thưa tướng quân, quân Trịnh từ trong núi đổ ra đánh vào sau đồn của ta. Quân ta bị bất ngờ đánh không lại, xin tướng quân định liệu.
      Tôn Thất Tiệp phi ngựa về phía hậu quân rút gươm hô:
      - Ba quân bình tĩnh theo ta đánh giặc, ai sợ giặc mà lui, chém!
      Vừa nói xong tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đã lướt ngựa đến quát:
      - Quân của ta hai mặt giáp công, tướng Nguyễn sao chưa xuống ngựa đầu hàng.
      Tôn Thất Tiệp quay nhìn phía trước đồn, thấy quân Trịnh đã vượt sông tràn vào như thác lũ, quân mình hoảng sợ vứt giáo chạy dài, Tiệp liền quay sang đánh cùng Hoàng Đình Thể định mở đường máu chạy thoát về kinh. Được vài hiệp Tôn Thất Tiệp bị Hoàng Đình Thể chém chết. Quân Trịnh thừa thắng giết quân Nguyễn chết không biết bao nhiêu mà kể, số còn sống tan hàng chạy trốn vào đồng hoang rừng rậm. Một số theo bờ sông chạy ra cửa bể đến với thủy quân Nguyễn Văn Chính. Ngờ đâu thủy trại quân Nguyễn bị thủy quân Trịnh do hai tướng là Hoàng Đình Bảo và Nguyễn Hữu Chỉnh đánh giết tơi bời. Nguyễn Văn Chính cố sức chống giữ nhưng lòng quân tan rã không còn bụng dạ nào đánh nhau với giặc. Nguyễn Văn Chính chống không nổi trúng tên chết. Quân Nguyễn thấy chủ chết liền xuôi thuyền chạy về Nam. Thủy bộ quân Nguyễn thảy đều đại bại, mười phần còn một chạy về kinh thành Phú Xuân. Hoàng Ngũ Phúc xua quân đuổi theo, thừa thắng tiến đánh Phú Xuân.
      *
      * *
      Nói về chúa Nguyễn Định Vương ngày đêm bồn chồn lo lắng. Chợt bại binh chạy về báo:
      - Chúa thượng ơi, nguy rồi! Thủy bộ quân của ta bị tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đánh tan cả. Tôn tướng quân và Nguyễn đô đốc đều tử trận. Hiện quân Trịnh đang tiến vào cách kinh thành năm mươi dặm.
      Chúa Nguyễn nghe xong như sét đánh ngang mày, bàng hoàng khóc lớn rằng:
      - Điều mà ta lo lắng nay đã thành sự thật. Tĩnh Điệp Hầu ơi! Giờ phải liệu làm sao?
      Nguyễn Đăng Trường luôn túc trực bên chúa liền tâu:
      - Xin Chúa thượng hãy bình tĩnh, lệnh cho Chữ Đức đem năm ngàn quân cấm vệ bảo vệ Chúa thượng cùng hoàng thân quốc thích đi đường bộ vào Quảng Nam hợp cùng quân Đông cung Nguyễn Phúc Dương tìm kế chống giữ. Một mình thần xin ở lại kinh thành chặn giặc.
      Chữ Đức hỏi:
      - Năm ngàn quân cấm vệ tôi đều mang theo để bảo vệ Chúa thượng. Trong thành không có một tên quân, Tĩnh Điệp Hầu làm sao ngăn được bốn vạn quân Trịnh.
      Trường đáp:
      - Việc gấp lắm rồi ông hãy mau hộ giá đi ngay. Tôi chỉ nhất thời ngăn giặc không cho chúng đuổi kịp Chúa thượng mà thôi, chứ không thể giữ được thành trì. Khi chúa vào đến Quảng Nam ông hãy lãnh ba ngàn quân ở lại trấn giữ ải Hải Vân. Ải này một bên núi cao hiểm trở, một bên vực sâu muôn trượng, đóng quân ở trên cao một có thể đánh trăm. Nếu ba quân đồng lòng gắng sức, quân Trịnh không thể nào vượt khỏi Hải Vân quan.
      Rồi Trường ôm chân chúa khóc nói:
      - Xin Chúa thượng lên đường bảo trọng. Nếu thần chết thì làm ma nhà Nguyễn, nếu còn sống thì dù ngàn dặm quan san cách trở, cũng tìm đường theo Chúa mà thôi.
      Chúa đỡ Nguyễn Đăng Trường dậy, khóc rằng:
      - Thế mới biết lòng trung dũng của quan văn có thua gì võ tướng. Nếu lúc trước ta đừng nghe lời Phúc Loan xây cung điện Phấn Dương tăng cao sưu thuế thì có đâu đến nỗi. Nay thì cả cơ đồ cũng đổ nát, kể gì đến cung điện Phấn Dương.
      Nói rồi cùng Chữ Đức vội vã ra đi. Chờ chúa và hoàng thân quốc thích ra cổng thành Nam xong, Nguyễn Đăng Trường bèn sai người hạ hết cờ hiệu trên mặt thành, mở toang cổng thành phía Bắc, rồi cầm bút nghiên tự tay viết trước cổng thành mấy chữ rằng: "Mở cổng thành giết Hoàng Ngũ Phúc". Viết xong về nhà đỡ mẹ lên ngựa, Đăng Trường giả dạng thường dân, hai mẹ con lên lưng một con ngựa ra cổng thành Nam bôn ba theo chúa!
      *
      * *
      Vừa lúc ấy Hoàng Ngũ Phúc dẫn đại binh đến cổng Bắc thành. Thấy trên mặt thành im lặng như tờ, không quân tướng, không cờ quạt, cửa thành lại mở toang, cầu treo hạ xuống sẵn sàng. Ngũ Phúc e ngại truyền quân dừng lại hỏi:
      - Ở trước cổng thành có viết hàng chữ gì vậy?
      Tiên phong Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể đến gần xem, về giận dữ nói:
      - Thưa thượng công, quân Nguyễn thật là vô lễ. Xin thượng công cho anh em tôi dẫn quân vào thành đánh một trận xem hư thực thế nào?
      Ngũ Phúc nghiêm mặt hỏi:
      - Ta hỏi ngươi hàng chữ ấy là chữ gì?
      Hoàng Đình Thể đáp:
      - Chúng viết rằng: Mở cổng thành giết Hoàng Ngũ Phúc. Thưa chú theo cháu thì chúa tôi nhà Nguyễn đã bỏ thành trốn, mới viết hàng chữ này cho ta sinh nghi để khỏi đuổi theo chúng mà thôi. Xin chú...
      Ngũ Phúc ngắt lời hỏi:
      - Nét chữ viết như thế nào?
      - Chữ viết đẹp như rồng bay phượng múa. Cháu chưa từng thấy ai viết chữ đẹp thế bao giờ. Theo cháu đây là nét chữ của quan văn chứ không phải là võ tướng, chứng tỏ chúa Nguyễn hết tướng bỏ thành mà chạy, cho quan văn ra viết chữ để làm kế nghi binh.
      Ngũ Phúc hạ lệnh:
      - Truyền các tướng không được mạo muội vào thành. Sai quân đắp đất bên ngoài rồi tập trung đại bác mà bắn vào thành khi nào thành vỡ mới được tiến quân.
      Hoàng Phùng Cơ nóng ruột hỏi:
      - Dám hỏi chú tại sao vì một hàng chữ ấy mà chú lại e ngại, không cho anh em cháu dẫn quân vào thành bỏ trống.
      Phúc đáp:
      - Các ngươi chỉ giỏi sức vóc đánh nhau mà chưa rành binh pháp, chưa nhìn sự việc mà biết được lòng người. Để ta giải cho các ngươi nghe. Nếu quan võ bỏ thành mà chạy thì quan văn còn bụng dạ nào mà cầm bút viết nên dòng chữ rồng bay phượng múa thế kia. Chẳng qua chúng tưởng ta là đứa hữu dũng vô mưu nên dùng hàng chữ này khích ta để trúng kế không thành của chúng mà thôi. Các ngươi không được nhiều lời, cứ y lệnh mà làm.
      Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể bán tín bán nghi nhưng không dám nói, liền sai quân đắp đất thành ụ, kéo đại bác đặt trên ụ đất bắn vào thành. Đại bác quân Trịnh ầm ầm bắn vào thành cũng không thấy quân Nguyễn bắn trả. Đến lúc một đoạn thành bị vỡ, quân Trịnh tràn vào mới biết là thành bỏ trống, chúa tôi họ Nguyễn đã rút chạy tự bao giờ.
      Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào thành khen rằng:
      - Tấm lòng trung dũng của người viết hàng chữ này thật đáng để ta khâm phục biết bao!
      Hoàng Ngũ Phúc cùng Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh vào tới. Hoàng Ngũ Phúc sai người mang thư báo tiệp đã thu phục được thành Phú Xuân cho chúa Trịnh Sâm biết, rồi truyền mở tiệc khao quân.
      *
      * *
      Trong lúc quân Trịnh, Nguyễn đang đánh nhau ở thành Trường Dục thì trong doanh trại quân Tây Sơn ở bờ Nam sông Trà Khúc, quân do thám về báo cùng Nguyễn Nhạc:
      - Tâu Chúa công, chúa Nguyễn phong Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung Thế tử. Hiện Đông cung đã vào trấn đất Quảng Nam. Đông cung Nguyễn Phúc Dương liền sai hai tướng là Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính điều hai vạn quân ra Bắc đánh Trịnh. Hiện ở bờ Bắc sông Trà Khúc chỉ còn một vạn quân cả thủy lẫn bộ do Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi thống lĩnh.
      Nguyễn Nhạc mừng rỡ khen:
      - Lúc trước quân sư dự đoán Nguyễn Văn Hoằng không dám vượt sông Trà Khúc quả nhiên là như thế. Nay quân Trịnh lại đánh vào mặt Bắc, chúa Nguyễn phải điều hai vạn binh ra Bắc đánh Trịnh cũng không ngoài dự đoán của quân sư. Quân sư thật là thần cơ diệu toán. Đã đến lúc ta đem quân đánh chiếm Quảng Nam.
      Các tướng Võ Đình Tú, Vũ Văn Nhận, Lý Tài, Tập Đình, Vũ Văn Dũng hăng hái đứng dậy nói:
      - Xin Chúa công xuống lệnh xuất quân, chúng tôi xin liều mình vì dân tử chiến.
      Quân sư Trương Văn Hiến vội vã khoát tay can rằng:
      - Xin Chúa công chớ nên động binh!
      Nguyễn Nhạc ngạc nhiên hỏi:
      - Lúc trước quân sư bảo: chờ khi quân Nguyễn điều binh ra Bắc đánh Trịnh, ta sẽ chiếm đất Quảng Nam chẳng khó khăn gì. Nay thời đã đến, sao quân sư lại nói chớ động binh?
      Trương Văn Hiến trầm ngâm đáp:
      - Chúa công dựng cờ khởi nghĩa ở đất Tây Sơn vốn lấy danh nghĩa tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan. Người nghèo khổ theo ta để có cơm no áo ấm, còn kẻ sĩ nặng óc trung quân thì theo ta để giành lấy ngai vàng nhà Nguyễn về cho Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là dòng chính thống. Vậy nên quân ta đi đến đâu mọi tầng lớp nhân dân đều nhất tề hưởng ứng. Nay Nguyễn Phúc Dương được phong làm Đông cung Thế tử, là người nối nghiệp chúa sau này lại vào trấn đất Quảng Nam, nếu ta động binh đánh Quảng Nam tức là đánh Hoàng tôn Dương. Mà đánh Hoàng tôn Dương tức là đi ngược danh nghĩa của quân Tây Sơn ta dùng để thu phục lòng người. Nếu ta động binh tôi e rằng dù chiếm được đất Quảng Nam nhưng mất lòng trăm họ thì lợi ít hại nhiều. Xin Chúa công nghĩ lại.
      Nghe Hiến nói xong, Nhạc như tỉnh ngộ gật đầu nói:
      - Ấy chính là lý do chúa Nguyễn lại phong Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung Thế tử, lại cho vào trấn đất Quảng Nam với ý đồ dùng Nguyễn Phúc Dương làm bình phong chặn đường tiến quân của ta. Theo ý quân sư nay ta phải làm thế nào?
      Hiến đáp:
      - Theo tôi, ta phải làm sao rước được Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương về với quân ta để làm chiêu bài điều khiển thiên hạ Đàng Trong. Đó là thượng sách.
      Nhạc nôn nóng hỏi:
      - Nhưng làm cách nào để rước được Nguyễn Phúc Dương về với ta?
      Hiến vuốt râu đáp:
      - Ta dùng ly gián kế - Rồi kề tai Nhạc nói nhỏ - Chúa công cứ làm như vầy... như vầy... nhất định Hoàng tôn Dương sẽ theo về với ta.
      Nguyễn Nhạc nghe xong sáng mắt khen:
      - Thật là diệu kế! Phiền quân sư lập tức thảo thư.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        Chương 15

        Rước Đông cung, Trương Văn Hiến dùng kế.
        Phá bắc quân, Võ Đình Tú ra oai.


        Nói về Nguyễn Phúc Dương được chúa Nguyễn phong làm Đông cung Thế tử vào đến thành Quảng Nam, trong lòng rất lấy làm sung sướng nói với tả hữu rằng:
        - Lúc ta lên chín tuổi thì Tiên chúa mất, Phúc Loan chuyên quyền giam lỏng ta trong cung điện suốt mười năm nay, dù cao lương mỹ vị, rượu ngon gái đẹp chẳng thiếu chi nhưng thật là tù túng. Nay ta làm đại trấn thủ đất Quảng Nam, uy quyền một cõi lại làm Đông cung Thế tử thì nối nghiệp nhà Nguyễn sau này không phải ta thì còn ai vào đây nữa!
        Lúc bấy giờ một người hầu thân tín bước ra nói:
        - Tôi trước từng theo hầu hạ cho Thế tử Nguyễn Phúc Hiệu là thân phụ của Thế tử. Tôi có đôi lời muốn nói, nếu không hài lòng mong Thế tử bỏ qua cho.
        Đang lúc vui Nguyễn Phúc Dương liền bảo:
        - Ngươi theo hầu ta từ lúc ta mới ra đời, lòng tận tụy của ngươi ta đã rõ. Có điều gì ngươi cứ nói đừng rào đón làm chi!
        Nguyễn gia Hầu liền thưa:
        - Thưa Thế tử, quân Tây Sơn nổi lên làm loạn ở đất Quy Nhơn đánh chiếm từ Bình Thuận đến Quảng Ngãi. Chúa ta phải sai Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi đem toàn quân ở kinh thành vào chống nhau với giặc. Quân Trịnh nhân cơ hội ấy mới động binh xâm phạm mặt Bắc. Chúa không còn cánh nào khác phải điều hai vạn quân ra Bắc đánh Trịnh, thì Nguyễn Văn Hoằng ở Quảng Nam chỉ còn một vạn quân không phải là đối thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn vốn lấy danh nghĩa đánh đổ Quốc phó tôn phò Thế tử để dấy binh, nên vạn bất đắc dĩ chúa phải phong Thế tử làm Đông cung sai vào trấn đất Quảng Nam, để chúa Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vì vướng nghĩa tôn phò mà không thể đem quân đánh tới. Chứ thật ra chúa nào yêu mến gì Thế tử. Nếu một mai quân Gia Định do Tống Phước Hiệp kéo ra dẹp được giặc Tây Sơn, tôi e rằng Thế tử phải lâm nguy!
        Nguyễn Phúc Dương giật mình nói:
        - Tuổi ta còn nhỏ chưa biết việc đời, nếu không nhờ ngươi nhắc nhở, một mai kia nước tới chân mới nhảy ắt là không kịp nữa. Theo ngươi giờ phải làm sao?
        Gia Hầu chưa kịp trả lời, có quân vào dâng thư nói:
        - Thưa Thế tử, chúa ở kinh thành sai người mang mật thư vào cho tướng quân Nguyễn Văn Hoằng.
        Phúc Dương tiếp thư đọc xong, giận dữ quăng thư xuống đất nói:
        - Quả đúng như lời ngươi nói. Chúa Định Vương mật báo cho Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi phải ngầm theo dõi hành tung của ta. Hắn sợ ta theo về với quân Tây Sơn phản lại triều đình. Đã thế này sao ta không nhờ Tây Sơn Nguyễn Nhạc kéo binh đến thẳng kinh thành lấy lại ngai vàng nhà Nguyễn cho ta. Theo ý ngươi thì ta nên làm thế nào?
        Gia Hầu thưa:
        - Tuy Thế tử mang tiếng là trấn thủ đất Quảng Nam, nhưng trong thành vỏn vẹn có năm trăm thủ hạ dưới quyền, binh quyền đều ở trong tay Nguyễn Văn Hoằng và Nguyễn Nghi ngoài chốn biên thùy. Nếu Tây Sơn còn thì Thế tử còn là Đông cung. Nếu Tây Sơn diệt tôi e rằng Thế tử không có đất để dung thân. Xem ra Thế tử không còn cách nào khác đành phải nhắm mắt đưa chân về với Nguyễn Nhạc. Nếu người ta thật lòng tôn phò, mình còn hy vọng lấy lại cơ đồ.
        Phúc Dương hỏi:
        - Nguyễn Nhạc là người thế nào?
        Gia Hầu đáp:
        - Bụng dạ của Nguyễn Nhạc thì tôi không biết được, còn việc làm của Nhạc thì toàn cõi Đàng Trong ai ai cũng rõ.
        Dương lại hỏi:
        - Nhạc làm những việc gì?
        Gia Hầu đáp:
        - Nguyễn Nhạc khởi binh đi đến đâu cũng nêu khẩu hiệu “Tôn phò hoàng tôn, đánh đổ Quốc phó”. Quân Nguyễn Nhạc lấy được đất nào đều mang lương thực phát cho dân nghèo vùng ấy, nên từ sĩ đến nông theo phục rất đông. Quân đi đến đâu liền đánh trống dồn dập, la ó vang trời, quan quân triều thất kinh hồn vía. Bởi lẽ ấy trong nhân dân thường có câu vè rằng: “Binh triều, binh Quốc phó. Binh ó, binh Hoàng tôn” là vậy đó!
        Phúc Dương nghe xong bảo:
        - Theo việc làm mà xét thì Nguyễn Nhạc là người tài đức vẹn toàn, trên trung với vua, dưới hiếu với dân. Người này chắc thực bụng tôn phò. Ngươi hãy vì ta sang doanh trại Tây Sơn dò ý một phen.
        Nguyễn gia Hầu lãnh mệnh đi ngay.
        *
        * *
        Ngày ấy trong doanh trại, Nguyễn Nhạc cùng Trương Văn Hiến đang đàm đạo, quân canh vào báo:
        - Tâu Chúa công, có người tự xưng là sứ giả của Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương xin ra mắt Chúa công.
        Nhạc bảo:
        - Mau mau mời vào!
        Quân canh lui ra. Nhạc hỏi Hiến:
        - Không biết Nguyễn Phúc Dương sai sứ giả đến đây có dụng ý gì?
        Hiến cười đáp:
        - Theo tôi có lẽ Phúc Dương đã nhận thư của ta giả danh chúa Định Vương gởi cho Nguyễn Văn Hoằng nên sai người đến đây dò ý Chúa công đó!
        Nhạc gật đầu tán đồng.
        Gia Hầu vào đến chưa kịp thi lễ đã bị Nhạc quát hỏi:
        - Ngươi là ai to gan lớn mật dám giả danh là sứ giả của Đông cung? Quân bay lôi ra chém!
        Gia Hầu mất vía luôn miệng kêu rằng:
        - Oan cho tôi lắm, xin tướng quân rộng xét, tôi chính là người thân tín của Đông cung.
        Nhạc vờ chưa tin, gạn hỏi:
        - Ngươi quả thật già mồm, sứ giả của Đông cung thì phải có y phục chỉnh tề, có kẻ theo hầu, còn ngươi một thân một mình, áo quần rách rưới, mặt mũi nhơ nhớp thế kia mà dám bảo là sứ giả của Đông cung.
        Gia Hầu liền đáp:
        - Xin tướng quân cho tôi được bày tỏ đôi lời. Nguyên Hoàng tôn vừa được phong làm Đông cung Thế tử, chúa Nguyễn Định Vương sai vào trấn thủ Quảng Nam. Nhưng chúa lại đem dạ nghi ngờ viết mật thư cho tướng Nguyễn Văn Hoằng phải quản thúc Đông cung. Nguyễn Văn Hoằng lại đóng binh ở biên cương đánh nhau với tướng quân. Nên tôi phải giả dạng thường dân băng rừng vượt suối mới toàn mạng ra mắt tướng quân. Mong tướng quân rộng xét.
        Nhạc lại vờ hỏi:
        - Ngươi có bằng chứng gì của Đông cung chăng?
        Gia Hầu đáp:
        - Thưa có! Đây là huyết thư có dấu ấn của Đông cung!
        Nhạc tiếp thư xem xong vội vã bước xuống đỡ Gia Hầu dậy mời ngồi, sai quân bày yến tiệc, lại lấy nước trầm hương rửa mặt, lấy y phục cho thay.
        Nhập tiệc, Gia Hầu hỏi Nhạc:
        - Dám hỏi tướng quân, tại sao lại đối đãi với tôi tử tế như thế?
        Nhạc vờ thật thà đáp:
        - Tiên sinh sao hỏi lạ thế? Nhạc tôi dấy binh mong đánh tới kinh thành bắt Trương Phúc Loan và chúa Định Vương trị tội đã làm nhiều điều thoán đoạt, rồi phò Hoàng tôn lên ngôi chúa cho rõ nghĩa cương thường trong thiên hạ. Nhạc này dù chưa gặp mặt nhưng đã tự nhận là tôi của Hoàng tôn, còn tiên sinh là kẻ thân tín của Hoàng tôn ấy là người một nhà cả, sao lại không tử tế với nhau! Nhưng không hiểu sao Định vương lại phong cho Hoàng tôn làm Đông cung Thế tử, cho vào trấn đất Quảng Nam mà còn đem dạ nghi ngờ là cớ làm sao?
        Gia Hầu nghe Nhạc nói trong bụng rất mừng, liền vui vẻ đáp:
        - Tướng quân không rõ thật sao? Số là tướng quân dấy binh để phò Hoàng tôn, nên Định Vương mới phong Hoàng tôn làm Đông cung vào trấn đất Quảng Nam để chặn đường tiến binh của tướng quân đến kinh thành. Nhưng Định vương lại sợ nếu Hoàng tôn về với tướng quân, rồi sai tướng quân đem quân Bắc tiến thì ngai chúa của hắn sẽ lâm nguy. Vì lẽ ấy Định Vương mới mật thư cho Nguyễn Hoằng Văn quản thúc Đông cung.
        Nhạc vờ mắng rằng:
        - Định Vương thật là đứa xảo quyệt. Nay Hoàng tôn sai tiên sinh đến đây đã tính toán thế nào chưa?
        Gia Hầu vội trình bày:
        - Hoàng tôn bảo tôi nhờ tướng quân tiến đánh Nguyễn Hoằng Văn và Nguyễn Nghi, rồi vào thành Quảng Nam, Hoàng tôn sẽ truyền hịch bốn phương, danh chánh ngôn thuận cùng tướng quân kéo đến kinh thành.
        Nguyễn Nhạc quay sang Hiến hỏi:
        - Ý Hoàng tôn như thế, quân sư định liệu thế nào?
        Trương Văn Hiến đáp liền:
        - Tiên sinh hãy về bảo với Hoàng tôn rằng khi Nguyễn Văn Hoằng thua ắt chạy về thành Quảng Nam cố thủ, Hoàng tôn chờ quân Chúa công tôi đến, rồi sai người tâm phúc đốt lửa hiệu mở cổng thành. Chiếm được thành Quảng Nam xong Chúa công tôn Hoàng tôn lên ngôi chúa, cùng nhau thẳng tiến thu phục kinh đô.
        Gia Hầu cả mừng nói:
        - Ấy thật là hồng phúc của nhà chúa nên trời mới sai tướng quân giúp cho Hoàng tôn đó. Tôi xin lập tức quay về.
        Nói xong rồi từ biệt ra đi. Nguyễn Nhạc liền sai quân mời các tướng đến nhận lệnh. Các tướng đến đông đủ. Nhạc nói:
        - Nay quân Trịnh xâm phạm thành Trường Dục ở châu Bố Chánh, chúa Nguyễn phải điều hai vạn quân của Nguyễn Văn Hoằng ra Bắc. Hiện quân Nguyễn Văn Hoằng đối địch với ta chỉ còn một vạn. Đây là thời cơ để ta đánh chiếm Quảng Nam. Vậy ai lãnh ấn tiên phong?
        Võ Đình Tú hăng hái bước ra nói:
        - Tôi từ lúc theo Chúa công đến nay chưa lập được công trạng gì. Xin Chúa công cho tôi làm tiên phong đánh Nguyễn lập công!
        Tập Đình cũng hùng hổ bước ra tranh với Võ Đình Tú rằng:
        - Từ lúc đánh đèo Thạch Tân anh em ta đều lãnh ấn tiên phong. Ngươi tài cán gì mà tranh với ta!
        Các tướng thấy Tập Đình hống hách trong lòng không ưa. Đình Tú trợn mắt vung côn quát:
        - Nếu ngươi thắng được côn đồng của ta thì hãy lãnh ấn tiên phong.
        Nguyễn Nhạc liền can:
        - Có tranh thắng bại thì tranh giữa trận tiền với địch quân, người trong một nhà hơn thua mà chi. Nhưng trận này vô cùng quan trọng, nếu không thắng thì không rước được Hoàng tôn. Vậy ai dám kí cam đoan trạng quân thua chém tướng thì lãnh ấn tiên phong.
        Tập Đình hăm hở bào Lý Tài:
        - Nghĩa huynh mau ký quân lệnh trạng, anh em ta lãnh ấn tiên phong.
        Lý Tài thoái thác:
        - Mấy hôm nay sức khỏe ta bất an không thể nào ra trận được. Việc này tùy nơi nghĩa đệ.
        Nghe Lý Tài nói vậy Tập Đình còn đang lưỡng lự thì Võ Đình Tú đã bước tới tiếp tờ quân lệnh trạng trên tay Nguyễn Nhạc vừa ký vừa nói:
        - Người xưa có câu: Trường đồ tri mã lực, sự cửu thức nhân tâm, thật chẳng sai tí nào!
        Nói xong Tú quay lưng cười lớn.
        Tập Đình vừa giận vừa thẹn đành xấu hổ lui ra. Ra ngoài doanh trại, Lý Tài ngửa mặt lên trời than rằng: Người xưa có nói “Không ở lâu với người hiếu động, không bàn việc với kẻ đa ngôn”. Tập Đình là người vừa đa ngôn vừa hiếu động vậy!
        *
        * *
        Mấy ngày sau Nguyễn Nhạc hạ lệnh tiến quân. Võ Đình Tú dẫn hai ngàn quân tiên phong vượt sông giáp chiến. Nguyễn Nhạc cùng các tướng đem đại binh theo sau trợ chiến. Nguyễn Văn Hoằng mặc giáp cầm đao lên ngựa xông ra, gặp Võ Đình Tú hai bên hỗn chiến. Được ba mươi hiệp Nguyễn Văn Hoằng mồ hôi ướt đẫm chiến bào, lại thấy quân mình càng đánh càng nao núng, liệu bề không chống nổi quất ngựa chạy dài. Võ Đình Tú càng đánh càng hăng hô quân rượt đuổi. Quân Nguyễn tan vỡ hỗn loạn tháo chạy. Nguyễn Nghi nghe tin bộ binh của Nguyễn Văn Hoằng thất thủ, liền dẫn thủy binh lui về đóng ở Sơn Trà. Nguyễn Văn Hoằng bại binh chạy về đến thành Quảng Nam, thấy chúa Định Vương đang ở trong thành thất kinh sụp lạy:
        - Kính Chúa thượng, quân Tây Sơn dũng mãnh, tôi chống không nổi. Xin Chúa thượng trị tội. Dám hỏi vì sao Chúa thượng lại ở nơi này?
        Chúa Định Vương khóc đáp:
        - Nguyễn Duy đầu hàng dâng thành Trường Dục cho quân Trịnh. Hai tướng Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính tử trận ở Bái Đáp Giang, ta cùng Chữ Đức phải đem gia quyến bỏ kinh thành vào đây ấn náu. Hiện Chữ Đức còn mấy ngàn quân đóng ở Hải Vân. Hoàng Ngũ Phúc có lẽ đã chiếm lấy kinh thành, Tĩnh Điệp Hầu không biết sống chết thế nào? Nay quân ta tan tác lưỡng đầu thọ địch giờ phải làm sao?
        Nói xong lại ôm mặt khóc lớn. Nguyễn Văn Hoằng đứng dậy trấn an:
        - Cúi xin Chúa hãy dằn cơn bi lụy. Nguyễn Nghi đã lui thủy binh đóng ở Sơn Trà. Chúng ta nên tạm thời bỏ Quảng Nam đem toàn quân đến Sơn Trà hợp cùng quân Nguyễn Nghi xuôi thuyền vào Sài Côn để quân Tây Sơn với quân Trịnh đánh nhau rồi ta chiêu binh mãi mã chờ quân Trịnh diệt xong Tây Sơn thì có cơ thu phục lại kinh thành.
        Hoằng vừa nói xong quân thám mã qua báo:
        - Kính Chúa thượng, quân Tây Sơn tiến cách phía Nam thành hai mươi dặm, thanh thế rất lớn hiện đang ồ ạt kéo đến đây.
        Định Vương cuống quít nói:
        - Hãy đem toàn quân ra phía Đông thành kéo xuống Sơn Trà.
        Đông cung Nguyễn Phúc Dương bước ra nói:
        - Nếu bỏ trống thành, giặc vào rồi đuổi theo thì sao? Và mấy ngàn quân của Chữ Đức ở Hải Vân ắt là không còn lối thoát. Vậy tôi xin ở lại, lên mặt thành phủ dụ Tây Sơn, rồi phi báo cùng Chữ Đức kéo quân về sẽ chạy theo sau. Quân Tây Sơn vốn lấy nghĩa tôn phò tôi nay thấy tôi trấn thủ thành này chắc nhất thời chưa dám tấn công.
        Chúa Định Vương cùng các tướng lúc ấy không còn bụng dạ nào hiểu được ẩn ý của Phúc Dương. Định Vương liền sai người tâm phúc ra Hải Vân triệu hồi Chữ Đức để Nguyễn Phúc Dương ở lại giữ thành, rồi cùng Nguyễn Văn Hoằng, Nguyễn Phúc Nghiêm đưa gia quyến ra cửa Đông thành Quảng Nam chạy đến Sơn Trà, xuống thuyền vào Sài Côn.
        Chúa Nguyễn Định Vương đi rồi, Nguyễn Phúc Dương liền sai Nguyễn gia Hầu mở cửa thành đón quân Tây Sơn. Nhạc vào thành mời Nguyễn Phúc Dương ngồi trên ngôi cao, rồi cùng các tướng quỳ tung hô vạn tuế. Nguyễn Phúc Dương vội bước xuống đỡ Nguyễn Nhạc dậy, mừng rỡ nói:
        - Ấy chính là hồng phúc Tiên vương, nên trời mới sai tướng quân dấy nghĩa tôn phò, nay Định Vương đã chạy trốn vào Nam. Chỉ còn Chữ Đức và mấy ngàn quân đóng tại ải Hải Vân. Ngày xưa chính Chữ Đức đã nghe lệnh Phúc Loan bắt giam Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân và Thái úy Trương Văn Hạnh, rồi đem quân bắt giết cả nhà Thái úy cùng Đô thống Ngô Mãnh. Chắc Chữ Đức cũng đang trên đường rút về Quảng Nam. Tướng quân hãy sai quân đón bắt về trị tội phản chúa cho rõ nghĩa cương thường.
        Trương Văn Hiến liền nói:
        - Xin chúa công lệnh cho Võ Đình Tú cùng Vũ Văn Dũng lập tức đón bắt Chữ Đức rồi sai quân đóng cũi giải về, còn Tú và Dũng hãy mau mau tiến ra chiếm lấy Hải Vân quan. Nếu quân Trịnh lấy mất thì binh ta thất thế.
        Nguyễn Nhạc liền sai Tú và Dũng lập tức xuất quân. Đến nửa đường gặp Chữ Đức, Văn Dũng lướt ngựa lên quát lớn:
        - Thành Quảng Nam đã bị Tây Sơn ta chiếm mất. Thằng nhãi Định Vương bỏ chạy vào Phiên trấn, Hoàng tôn cùng quân ta sắp tiến ra thu phục kinh thành, ba quân sao còn chưa bỏ giáo quy hàng.
        Quân Nguyễn liền quỳ mọp đồng thanh nói:
        - Chúng tôi xin quy hàng! Chúng tôi xin quy hàng!
        Chữ Đức hồn phách phi tán, quất ngựa chạy trốn vào một đường nhỏ. Võ Đình Tú trông thấy tức tốc đuổi theo. Hai ngựa cách nhau chừng vài trượng, Võ Đình Tú nhún mình nhảy qua lưng ngựa Chữ Đức, từ phía sau nắm lấy thắt lưng Chữ Đức giơ hông lên rồi quăng xuống đất. Quân Tây Sơn bắt giải về thành Quảng Nam.
        Vừa lúc ấy có quân do thám chạy về báo cùng Tú và Dũng:
        - Thưa tướng quân, có một vạn quân Trịnh do tiên phong Hoàng Đình Thể chỉ huy để chiếm lấy Hải Vân hiện đang dẫn quân xuống đèo thẳng tiến về phía quân ta.
        Nghe xong Đình Tú nói với Văn Dũng:
        - Ở phía trước chừng mười dặm có một đường đèo nhỏ, đệ sẽ đem năm trăm kỵ binh đi gấp lên chiếm trước, rồi hiền huynh dẫn bộ binh đến sau. Ta chiếm lĩnh núi này chặn đường tiến binh quân Trịnh, rồi phi báo về cho Chúa công đem đại binh đến giúp.
        Văn Dũng nói:
        - Hiền đệ hãy kíp đi ngay!
        Khi ấy Hoàng Đình Thể đã dẫn quân đến chiếm lấy núi trước rồi, nghe quân về báo:
        - Thưa tướng quân, giặc Tây Sơn đang kéo đến.
        Hoàng Đình Thể nói:
        - Quân Tây Sơn đã chiếm thành Quảng Nam. Từ lâu ta chỉ đánh với quân Nguyễn, nay đánh với quân Tây Sơn một chuyến xem thử thế nào!
        Nói rồi liền sai con là Hoàng Đình Định đem hai ngàn quân phục ở bên tả núi, Hoàng Đình Vị đem hai ngàn quân phục ở hữu núi rồi chờ quân Tấy Sơn đến.
        Võ Đình Tú dẫn năm trăm kỵ binh đến sát chân đèo, bỗng nghe một phát súng nổ vang. Quân Trịnh từ trong hốc núi kéo ra chặn đường. Hoàng Đình Thể đứng trên đỉnh đèo cười lớn:
        - Các ngươi đã lọt vào trận mai phục của ta, mau khai tên họ rồi xếp giáp quy hàng!
        Võ Đình Tú thất kinh nói:
        - Bọn chúng đã đi trước ta một bước. Truyền quân chỉnh tề hàng ngũ mà lui.
        Hoàng Đình Thể trên đèo lấy cờ phất lên, Hoàng Đình Định và Hoàng Đình Vị từ hai bên núi kéo ra chặn đường về. Võ Đình Tú bình tĩnh bảo ba quân:
        - Quân giặc đã bao vây bốn mặt, các ngươi hãy cùng ta tử chiến một phen.
        Nói xong rồi vung côn xông vào quân Trịnh. Nguyên năm trăm kị binh của Võ Đình Tú toàn là quân thiện chiến võ dũng hơn người, đánh quân Trịnh chết liền mấy lớp. Nhưng quân Trịnh đông quá cứ ồ ạt xông lên, Võ Đình Tú tả xung hữu đột, năm trăm quân hao gần một nửa, chiến bào Đình Tú ướt đẫm máu quân Trịnh mà vẫn chưa thoát khỏi trùng vây. Hoàng Đình Thể đứng trên đèo thị chiến nói với tả hữu rằng:
        - Quân Tây Sơn thật là dũng mãnh, thảo nào quân Nguyễn phải bỏ Quảng Nam chạy vào Sài Côn.
        Nói rồi lại hô lên:
        - Quân bay tiếp tục thúc trống tiến quân!
        Vừa nói xong bỗng thấy một đạo binh Tây Sơn do một tướng dẫn đầu đánh vào sau lưng quân Hoàng Đình Định và Hoàng Đình Vị. Quân Định và Vị rối loạn hàng ngũ, Đình Thể liền hối quân:
        - Mau mau đánh trống thu binh!
        Quân Trịnh nghe trống liền vội vã lui quân. Vũ Văn Dũng nóng lòng phá vây cứu Võ Đình Tú, dẫn đầu ba quân chém giết quân Trịnh tơi bời. Gặp Tú, Dũng liền hỏi:
        - Hiền đệ có làm sao không? Thôi ta hãy lui về đóng đồn ngăn quân Trịnh, chờ Chúa công đến rồi sẽ hay.
        Đình Tú nói:
        - Giặc đều chiếm giữ các nơi hiểm yếu, ta đóng quân trơ trọi giữa đồng, giặc đông, ta ít, giặc ba bên đánh tới thì sao? Chi bằng đang lúc thắng thế ta đuổi theo giặc tiến lên đánh mấy đèo kia làm nơi cố thủ mới vẹn toàn.
        Nói rồi dẫn ba trăm kỵ binh còn lại, người nào người nấy chiến bào đẫm máu vẫn ồ ạt xông lên, Vũ Văn Dũng thấy Đình Tú quyết ý liền vung đao nói với ba quân:
        - Nếu hôm nay không chiếm được núi này, không về gặp mặt Chúa công.
        Quân Tây Sơn hét vang nhất tề xông lên. Quân trịnh thấy Tây Sơn can đảm phi thường trong lòng nao núng không dám kháng cự chạy về đồn trên đỉnh đèo. Hoàng Đình Thể thấy quân Tây Sơn đuổi theo đến nửa đèo liền bảo ba quân: Hãy lăn gỗ đá xuống!
        Quân thưa:
        - Hai tướng Hoàng Đình Định và Hoàng Đình Vị dẫn quân chạy trước, quân Tây Sơn theo sau chém giết thì lăn gỗ đá thế nào được.
        Hoàng Đình Thể đấm ngực than rằng:
        - Ta cứ tưởng đánh trống thu binh thì chúng thoát chết không dám đuổi theo. Nào ngờ chúng lại còn thừa thắng xông lên. Quân cướp này thật là liều lĩnh. Truyền quân lui về trấn giữ Hải Vân quan.
        Văn Dũng và Đình Tú chiếm được núi, sửa sang đồn lũy chặt cây gom đá dự trữ đề phòng quân Trịnh đánh tới, rồi sai người về Quảng Nam phi báo cùng Nguyễn Nhạc.
        *
        * *
        Hôm ấy Hoàng tôn Dương, Nguyễn Nhạc và Trương Văn Hiến đang đàm đạo trong trướng. Quân canh vào báo:
        - Hai tướng Văn Dũng và Đình Tú bắt được Chữ Đức sai quân giải về đang ở ngoại đợi lệnh.
        Nhạc truyền:
        - Mau dẫn vào!
        Quân lôi Chữ Đức đến, Đức hai tay bị trói chặt vẫn đứng trơ trơ. Nguyễn Nhạc quát:
        - Không được vô lễ. Trước mặt Hoàng tôn sao dám không quỳ?
        Võ sĩ đè Chữ Đức quỳ xuống, Hoàng tôn Dương hỏi:
        - Chữ Đức, ngươi đã biết tội của mình chưa?
        Đức hỏi lại:
        - Tôi có tội gì?
        Phúc Dương gằn giọng:
        - Ngươi còn hỏi tội gì ư? Ta hỏi ngươi mười năm trước ai đã nghe lệnh Phúc Loan hạ ngục Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân và Thái úy Trương Văn Hạnh rồi ép uống thuốc độc cho chết? Ai đã bắt giết cả nhà quan Trương Văn Hạnh và Đô thống Ngô Mãnh? Ai đã giam lỏng ta suốt mười năm trời? Rồi mới đây ngươi lại bắt Quốc phó Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh? Bao nhiêu việc ấy ngươi chẳng phải là phường bán chúa cầu vinh đó sao?
        Chữ Đức bình thản đáp:
        - Mười năm trước tôi nghe lệnh Phúc Loan vì Phúc Loan có gươm lệnh và chiếu chỉ của Tiên vương. Còn mới đây tôi bắt Phúc Loan là làm theo ý chúa Định Vương. Xét các việc tôi làm là làm theo lệnh chúa, thì sao lại bảo là bán chúa cầu vinh!
        Phúc Dương ấp úng chưa biết trả lời làm sao, Trương Văn Hiến xen vào hỏi Chữ Đức:
        - Năm xưa không biết chiếu chỉ của Phúc Loan là giả sao?
        Chữ Đức đáp:
        - Không biết!
        Hiến lại hỏi:
        - Nhưng gia quyến của Trương Văn Hạnh tội gì mà ngươi tàn sát từ già đến trẻ?
        Chữ Đức đáp:
        - Ấy cũng là theo lệnh Phúc Loan!
        - Lúc ngươi tàn sát cả nhà Trương Văn Hạnh có ai thoát chết không?
        - Có một người tùy tướng của Trương Văn Hạnh là Trương Văn Hiến võ nghệ siêu quần thoát khỏi trùng vây chạy thoát!
        - Ngươi có biết Trương Văn Hiến nay ở đâu không?
        - Không biết!
        Hiến vả vào mặt Chữ Đức một tát như trời giáng, nghiến răng nói:
        - Ta chính là tùy tướng của quan Thái úy Ý Đức Hầu Trương Văn Hạnh!
        Phúc Dương mừng rỡ nói:
        - Thì ra quân sư chính là Trương Văn Hiến. Thảo nào các khanh dấy nghĩa tôn phò. Nay ta xử Chữ Đức thế nào?
        Văn Hiến nói với Chữ Đức:
        - Theo ý ngươi những việc ngươi làm là trung quân phải vâng lệnh chúa, nay đến lúc chết mà không run sợ cũng đáng khen thay. Nhưng ngươi thờ chúa bằng trí óc ngu si và lương tâm độc ác của loài cầm thú. Loài cầm thú như ngươi còn để sống làm gì?
        Nói rồi truyền võ sĩ lôi ra chém. Võ sĩ lôi Chữ Đức ra ngoài, bỗng có quân vào báo:
        - Thưa Chúa công, lúc Chữ Đức dẫn quân chạy về thành Quảng Nam, tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đã tiến chiếm Hải Vân quan đang bỏ trống, rồi sai Hoàng Đình Thể làm tiên phong tiến vào chiếm lấy hòn núi nhỏ cách Hải Vân quan hai mươi dặm. Tướng quân Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú đánh lui quân Hoàng Đình Thể chiếm lại núi này. Hiện quân Trịnh đã lui về đóng ở Hải Vân quan. Hai tướng Dũng và Tú xin tướng quân đem đại binh tiếp viện.
        Nguyễn Nhạc truyền lệnh:
        - Hãy cho mời các tướng đến thương nghị!
        Vũ Văn Nhậm, Lý Tài, Tập Đình đến, Nhạc nói:
        - Nay tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đem quân bốn vạn vào chiếm Hải Vân quan. Lý Tài vừa nhuốm bệnh hãy ở lại cùng Hoàng tôn giữ thành Quảng Nam. Ta với quân sư, Tập Đình và Vũ Văn Nhậm đem toàn quân ra trợ chiến với Văn Dũng và Đình Tú. Các tướng chỉnh đốn binh mã, sáng ngày mai lập tức xuất quân.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #19
          Chương 16

          Bỏ đất Quảng Nam, Nguyễn Nhạc nghe lời Trương Văn Hiến.
          Lấy lòng hiền sĩ, Nguyễn Huệ tha mạng Nguyễn Đăng Trường.


          Nói về Nguyễn Nhạc kéo quân đến núi nhỏ của Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú trấn thủ. Nhạc đứng trên núi ấy nhìn ra Hải Vân quan trên mây dưới bể, trên thì núi non trùng điệp, đá dựng chênh vênh, nhiều hòn cao ngất đụng đến trời mây, dưới biển rộng mênh mông ầm ầm sóng vỗ vào chân đá dựng. Quân Trịnh đóng quân án giữ đường đèo lều trại san sát, thủy binh đậu ngoài biển ghe thuyền lố nhố. Nhạc chỉ tay ra nói với các tướng:
          - Hải Vân quan quả nhiên hiểm trở, kỳ vĩ lạ thường. Nay quân Trịnh thủy bộ hai mặt án giữ đường ra kinh thành, quân sư và các tướng có kế gì phá địch hay chăng?
          Võ Đình Tú bước ra nói:
          - Thưa Chúa công, binh cốt giỏi chớ không cốt nhiều, tôi xin đem ba ngàn quân làm tiên phong đánh giặc. Nếu không thắng xin trị tội theo tướng lệnh.
          Nguyễn Nhạc vỗ vai Đình Tú cười bảo:
          - Qua trận vừa rồi ta mới biết Đình Tú là người dũng lược. Nhưng trên vai còn mang vết thương thế kia ngộ nhỡ ra trận có điều gì sơ sẩy e hối không kịp!
          Đình Tú cứng cỏi đáp:
          - Thưa Chúa công, hôm trước tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đem một vạn quân tiến chiếm núi này. Tôi chỉ có năm trăm kỵ binh đi trước, hiền huynh Vũ Văn Dũng dẫn một ngàn năm trăm bộ binh đi sau mà đánh lui một vạn quân của Hoàng Đình Thể chạy về Hải Vân quan. Đại trượng phu một lời đã nói bốn ngựa khó theo, tôi đâu phải là hạng người chỉ khua môi múa mép mà không dám kí vào quân lệnh trạng!
          Nghe Đình Tú nói, Tập Đình tức khí bước ra thưa:
          - Lần trước tôi không kí quân lệnh trạng là e rằng mang tiếng tranh quyền tiên phong với tướng quân Đình Tú. Nay tôi xin đem quân bản bộ cướp trại địch, nếu không thắng xin Chúa công xử theo tướng lệnh.
          Đình Tú cầm tay Tập Đình nói:
          - Tôi một lòng vì Chúa công nên nói thế, vô tình xúc phạm đến tướng quân. Xin tướng quân vì sự đoàn kết trong quân đừng để bụng làm gì! Lúc đánh đèo Thạch Tân đã biết oai võ của tướng quân, nay thấy tướng quân khí khái hơn người, Tú tôi rất lấy làm cảm phục.
          Nghe Đình Tú khen mình Tập Đình lại ngạo mạn nói với Nguyễn Nhạc:
          - Tôi dù thất thế theo về với Chúa công nhưng cũng là đại tướng của Thiên triều, thì sá gì lũ quân Trịnh tôm tép kia. Xin kí vào quân lệnh trạng thua binh chém tướng.
          Nguyễn Nhạc cả mừng nói:
          - Nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Có mọi người đều nghe lời tướng quân làm minh chứng, thôi không phải ký tá làm gì. Tướng quân mau ra oai võ của Thiên triều.
          Tập Đình lãnh lệnh hùng hổ đi ngay.
          Tập Đình đem một ngàn binh bản bộ đến trước doanh trại quân Trịnh dưới chân Hải Vân quan. Quân do thám vào báo cùng Hoàng Ngũ Phúc:
          - Thưa đại tướng quân, có một đạo quân toàn là người Tàu đang tiến gần doanh trại quân ta.
          Ngũ Phúc hỏi:
          - Bọn chúng là quân nào thế? Khoàng bao nhiêu người, dùng thứ vũ khí gì?
          Tên quân đáp:
          - Thưa, bọn chúng ước một ngàn quân, đều cởi trần, đầu vấn khăn vàng, tay cầm khiên, tay cầm đao, bộ tướng trông rất dữ dằn.
          Ngũ Phúc lấy làm lạ hỏi Hoàng Đình Thể:
          - Hôm trước ngươi đánh nhau với quân Tây Sơn có thấy quân này không?
          Đình Thể đáp:
          - Hôm trước quân Tây Sơn toàn là người Đàng Trong, quân thì mặc áo đỏ, tướng thì đội mũ lông, không thấy có lũ quân này!
          Hoàng Ngũ Phúc hỏi các tướng:
          - Ai xung phong ra trận hỏi xem chúng là bọn cướp phương nào? Nếu dung nạp được thì cho làm tiền quân đi đánh Tây Sơn.
          Có một viên tiểu tướng bước ra thưa:
          - Bọn cướp đường này thì phiền gì các tướng quân phải ra trận cho nhọc sức. Tôi tuy tài hèn mọn, xin ra trận chặn bọn chúng hỏi cho rõ sự tình!
          Ngũ Phúc hỏi:
          - Người này là ai?
          Đình Thể đáp:
          - Đây là tùy tướng của tôi tên Vũ Tá Kiên.
          Ngũ Phúc mừng rỡ đáp:
          - Được! Ta cho ngươi hai ngàn tinh binh ra trận. Chưa rõ lai lịch của chúng thì chớ giết bừa.
          Vũ Tá Kiên vâng lệnh đi ngay. Hai bên giáp mặt thấy đạo quân người Tàu dàn đội hình chiến đấu, Vũ Tá Kiên thúc ngựa đến hỏi lớn:
          - Các ngươi là giặc cướp phương nào? Có phải quân Tây Sơn chăng?
          Nghe địch hỏi, Tập Đình biết địch quân không biết mình là quân Tây Sơn, giả vờ nói:
          - Ở phía Nam thành Quảng Nam có khu phố Hội An là phố của người Tàu chúng tôi sinh sống. Chẳng may quân Tây Sơn đem quân đánh chiếm Quảng Nam sát hại chúng tôi. Gặp quân chúa Nguyễn cũng bảo chúng tôi theo Tây Sơn nên đánh đuổi. Chúng tôi không còn đất dung thân nên mới chạy đến đây, xin tướng quân dung nạp.
          Vũ Tá Kiên cả tin nói:
          - Ngươi hãy tạm đóng binh ở nơi này để ta thu quân về bẩm cùng đại tướng quân sẽ thu nạp các ngươi.
          Nói xong liền lui quân. Chờ quân Trịnh mới quay lưng không đề phòng, Tập Đình hô quân xông tới hét lớn:
          - Ta là tiên phong của Tây Sơn đây!
          Vũ Tá Kiên thất kinh hô quân quay lại đánh.
          Quân Trịnh bất ngờ trở tay không kịp bị quân Tây Sơn đánh giết rất nhiều. Vũ Tá Kiên mới ra trận lần đầu, cố sức mà đánh, Tập Đình lỡ hứa cùng Nguyễn Nhạc quyết thắng không lui. Hai đàng đánh nhau bất phân thắng bại. Quân của Tập Đình đánh hăng quá, quân Trịnh càng đánh càng tử vong, nao núng muốn lui. Hoàng Ngũ Phúc bèn sai Hoàng Đình Thể đem kỵ binh trợ chiến. Hoàng Đình Thể cùng hai người con đem năm trăm kỵ binh xung trận. Hoàng Phùng Cơ đem bộ binh tiếp chiến. Tập Đình không chống nổi bèn cùng đám quân tín cẩn quay ngựa chạy trốn vào rừng. Đạo binh người Tàu tan vỡ chạy về núi nhỏ cùng quân Tây Sơn. Tập Đình ngửa mặt lên trời than rằng:
          - Chỉ tại ta kiêu căng háo thắng, trước mặt Nguyễn Nhạc đòi ký quân lệnh trạng quân thua chém tướng. Lý huynh từng nhắc nhở mà ta vẫn không chừa thói ngạo mạn, nên mới ngu muội đưa các ngươi vào chỗ chết. Nay ăn năn đã muộn, muốn quay về cũng không được, biết làm sao đây!
          Nói rồi ôm mặt khóc. Có tên quân quỳ thưa:
          - Việc đã đến nước này, tướng quân sầu thảm cũng chẳng ích gì. Chi bằng chúng ta hãy tìm lối băng rừng lần ra ngoài cửa bể, rồi tìm thuyền về nơi quê quán ở Quảng Đông an phận cuốc cày, không màng thế sự chẳng thanh thản hơn ư.
          Tập Đình gạt nước mắt nói:
          - Giờ chỉ có đường sống ấy mà thôi!
          Rồi cùng mươi quân tín cẩn tìm đường về Quảng Đông. Đến nơi bị quan quân nhà Thanh bắt được đem chém.
          *
          * *
          Nói về quân Trịnh đánh tan quân Tập Đình thừa thắng tiến đánh núi nhỏ, bị quân Tây Sơn từ trên núi lăn gỗ đá xuống không sao tiến được. Gặp lúc tối trời Hoàng Ngũ Phúc hạ lệnh đóng đồn, rồi họp các tướng bàn kế sách đánh Tây Sơn. Hoàng Đình Thể bàn rằng:
          - Quân Tây Sơn từ trên cao lăn gỗ đá xuống, quân ta từ dưới đánh lên thật là thất thế. Xin đại tướng quân hãy lệnh cho Hoàng Đình Bảo và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh vào đánh lấy thành Quảng Nam, rồi từ Quảng Nam đánh ra. Quân Nhạc lúc bấy giờ không còn đường lui ắt phải đầu hàng. Nhược bằng Nhạc không hàng, nếu dễ thì ta hai mặt giáp công, nếu chúng liều chết cố thủ thì ta cứ vây chặt, tuyệt đường binh lương, Nguyễn Nhạc không hàng chẳng lẽ chịu chết đói hay sao?
          Hoàng Ngũ Phúc khen:
          - Kế này rất hay!
          Nói rồi sai người đem mật lệnh cho Hoàng Đình Bảo và Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh theo đường bể vào đánh thành Quảng Nam.
          *
          * *
          Trong đêm ấy bên doanh trại Tây Sơn, Trương Văn Hiến bàn rằng:
          - Quân Trịnh quân đông thế mạnh, Hoàng Ngũ Phúc lại rất giỏi dụng binh. Binh ta ít, nhựa hỏa hổ khó tìm từ Quy Nhơn chưa vận chuyển ra kịp. Nếu ta cứ đồn binh ở đây cố thủ với Hoàng Ngũ Phúc, ngộ nhỡ chúng đem thủy binh theo đường bể vào đánh thành Quảng Nam, e rằng Lý Tài với một ngàn quân bản bộ đương không nổi. Nếu mất thành Quảng Nam thì ta tiến thoái lường nan.
          Nguyễn Nhạc bèn hỏi:
          - Theo ý quân sư thì phải thế nào?
          Hiến chậm rãi đáp
          - Cái thế yếu của quân ta là không có thủy binh thật khó bề chống giữ. Vả lại lương thực lấy được của quân Nguyễn ta đã đem phân phát cho dân nghèo. Chi bằng ta hãy tạm lui quân bỏ Quảng Nam về giữ Quảng Ngãi. Lúc bấy giờ ta chia quân ra giữ cửa sông Trà Khúc, thì không phải lo quân Trịnh đem thủy binh vào các cửa bể thọc vào sườn rồi đánh vào sau lưng ta. Đợi hết xuân sang hạ quân Trịnh sẽ khắc lui binh.
          Đình Tú, Văn Dũng, Văn Nhậm đồng thanh hỏi:
          - Cớ gì hết xuân sang hạ chúng lại lui binh?
          Hiến trầm ngâm đáp:
          - Quân Trịnh vốn là người phương Bắc ngại nóng ưa lạnh. Nay đang xuân khí trời mát mẻ, chúng còn mạnh khỏe hung hăng, đợi sang hè khí nghịch hỏa xông gió Nam khô nóng, tạng người không hợp ắt sinh bệnh tật. Vả lại tôi xem khí tượng thấy gần đây vùng trời đất Quảng Nam đêm đêm thấp khí rất nhiều. Đến mùa hè thì hỏa nhiệt thịnh. Hễ khí tượng mà sinh ra thấp nhiệt thì con người sẽ bị bệnh nơi trường vị mà sinh chứng tả lỵ triền miên. Thưa Chúa công ta cứ bỏ Quảng Nam cho quân Trịnh, nhất định sang mùa hạ Hoàng Ngũ Phúc sẽ bỏ đất Quảng Nam mà lui binh. Nếu không như thế Hiến tôi xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
          Nguyễn Nhạc nghi ngờ hỏi:
          - Xin hỏi quân sư việc làm ấy có chắc lắm không?
          Hiến bình tĩnh đáp:
          - Tôi xin đem tánh mạng ra bảo đảm. Xin Chúa công đừng ngại.
          Nguyễn Nhạc vẫn bán tín bán nghi, nhưng không có kế nào khác bèn hạ lệnh cho toàn quân trong đêm ấy bỏ đất Quảng Nam lui về giữ phủ Quảng Ngãi.
          Trương Văn Hiến tuổi già sức yếu dầm sương dãi gió chinh chiến triền miên về đến Quảng Ngãi thì lâm trọng bệnh. Vào dinh phủ thấy Văn Hiến hơi thở thỏn mỏn, Nhạc lo sợ hỏi:
          - Quân sư cảm thấy trong người có khỏe không?
          Hiến thều thào đáp:
          - Mạng tôi đến đây là hết. Chúa công hãy gắng sức vì muôn dân bá tánh dựng nghiệp Võ Thang.
          Nhạc vừa khóc vừa kể:
          - Kể từ ngày Tây Sơn dấy nghĩa, quân sư ngày quên ăn đêm bỏ ngủ lo bàn mưu định kế, lại chẳng quản gió sương cùng Nhạc tôi xông pha trận mạc, nên quân ta mới được như bây giờ. Nay đại sự chưa thành mà quân sư nỡ bỏ ra đi. Đương lúc quân ta tình thế nguy nan, ngoài thì Hoàng Ngũ Phúc đánh vào, trong thì Tống Phước Hiệp đánh ra. Nghĩa binh ta lưỡng đầu thọ địch, không có quân sư tôi biết liệu thế nào đây?
          Hiến gắng gượng đáp:
          - Chúa công hãy yên tâm, xin cho vời Nguyễn Huệ đến đây. Tôi còn đôi điều chưa dạy cho Huệ xong, muốn dặn dò Huệ vài lời mới yên lòng nhắm mắt.
          Nói xong mệt quá lịm đi. Nguyễn Nhạc bảo Vũ Văn Dũng trông nom Văn Hiến, rồi sai người cấp tốc vào Quy Nhơn triệu Nguyễn Huệ.
          *
          * *
          Lại nói về tôi thần của chúa Nguyễn Định Vương là Tĩnh Điệp Hầu Nguyễn Đăng Trường giả dạng thường dân đưa mẹ vượt bao gian khổ hiểm nghèo lội suối trèo đèo chạy theo chúa Định Vương, lần hồi đến phủ Quy Nhơn. Chẳng may có một tên dân trước là quân Nguyễn nhận dạng Nguyễn Đăng Trường bèn vào thủ phủ báo cùng Nguyễn Huệ:
          - Thưa tướng quân, có một người là quan tham tán quân cơ của chúa Nguyễn đang ở trong thành, tôi xin vào bẩm báo tướng quân.
          Huệ hỏi:
          - Sao ngươi biết?
          Tên dân đáp:
          Lúc trước còn trong quân chúa Nguyễn có thời gian tôi làm cấm vệ trong thành nên có biết ông ấy!
          Huệ quay sang hỏi Nguyễn Thung:
          - Tiên sinh có biết ông ấy là người thế nào chăng?
          Thung đáp:
          - Ông ấy làm tham tán quân cơ bàn mưu tính kế cho Định Vương, tước Tĩnh Điệp Hầu, tên Nguyễn Đăng Trường, tính người trung nghĩa thờ mẹ rất có hiếu. Lúc quân Trịnh vào đánh Phú Xuân ông ấy khuyên chúa đem gia quyến chạy vào Quảng Nam. Một mình ông ta ở trong thành chặn giặc, ông ấy mở toang cổng Bắc thành đề bảy chữ “Mở cổng thành giết Hoàng Ngũ Phúc”. Phúc thấy thế nghi ngại không dám đem quân đuổi theo chúa, nhờ vậy chúa thoát được vào Quảng Nam. Sau đó ông ấy một mình phò tá mẹ, nên không kịp chạy theo chúa vào Quảng Nam xuống thuyền vào Gia Định. Có lẽ ông ấy muốn đi đường bộ vào Nam nên mới lánh nạn đến đây!
          Huệ bảo tên dân:
          - Ta cho vài mươi tên quân theo ngươi đến nơi ẩn náu của Nguyễn Đăng Trường vời ông ấy về đây cho ta hầu chuyện.
          Tên dân vâng lệnh đi ngay. Quân dẫn Nguyễn Đăng Trường và mẹ đến. Huệ mời ngồi hỏi:
          - Xin hỏi, tiên sinh có phải là quan tham tán quân cơ của chúa Định Vương?
          Biết tông tích bại lộ, Trường đáp:
          - Phải, ta chính là Tĩnh Điệp Hầu Nguyễn Đăng Trường!
          Huệ ân cần hỏi:
          - Nay tiên sinh định đưa Nguyễn mẫu đi đâu?
          Trường thản nhiên đáp:
          - Ta định đưa mẹ vào Gia Định cùng chúa, chẳng may bọn giặc Tây Sơn các ngươi bắt được, muốn làm gì thì làm chớ hỏi lôi thôi.
          Huệ ôn tồn nói:
          - Quân Tây Sơn tôi dấy binh đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan, đưa ngôi chí tôn trả về cho Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Nay đại huynh tôi đang tôn phò Hoàng tôn đánh nhau với quân Trịnh mong chiếm lại kinh thành, thu phục cơ đồ cho nhà chúa Nguyễn, sao tiên sinh lại gọi quân Tây Sơn tôi là giặc?
          Nghe Huệ nói, Nguyền Đăng Trường cười lớn:
          - Hoàng tôn Dương tuổi còn nhỏ dại chưa từng trải việc đời, nên mới bị các ngươi đem nghĩa tôn phò ra lừa dối chứ gạt ta sao được!
          Huệ kính cẩn đáp:
          - Tôi nào dám nói gạt tiên sinh.
          Trường lớn tiếng nói;
          - Chẳng qua bọn giặc các ngươi thừa dịp triều đình có biến, mượn tiếng tôn phò, thu chúng mị dân, mưu định bá đồ vương. Ta là một kẻ sĩ trong thiên hạ, đâu phải như lũ ngu dân kia hòng cho mi dối gạt!
          Huệ vẫn dịu giọng rằng:
          - Nếu đại huynh tôi định bá đồ vương đem ấm no về cho thiên hạ lại không đúng hay sao?
          Trường cười nhạt báo:
          - Thừa nước loạn dấy binh phản chúa, ta nói ngươi đúng ở chỗ nào?
          Huệ không đáp lời Trường mà hỏi lại:
          - Muôn dân đói khổ lầm than, quân Tâm Sơn tôi khởi nghĩa đi đến đâu muôn dân đều có cơm ăn áo mặc nên thiên hạ đều phục. Dám hỏi tiên sinh, so với vua Lê Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn thì đại huynh tôi khởi nghĩa ở Tây Sơn khác nhau ở chỗ nào?
          Trường lại cười lên ha hả:
          - Bọn các ngươi thật là lũ nông dân ít học. Hỏi một câu mà đứa con nít cũng phải bật cười!
          Nghe Trường buông lời vô lễ, tả hữu rút gươm khỏi vỏ. Huệ ngăn lại vẫn kính cẩn nói:
          - Anh em tôi thật là nông dân, vì dân dấy nghĩa. Xin tiên sinh giảng giải vì sao tôi hỏi thế, đứa con nít cũng phải bật cười?
          Trường trịch thượng đáp:
          - Ngày xưa vua Lê Thái tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn là đánh đuổi quân Minh ở nước Tàu ra ngoài bờ cõi, chính nghĩa rạng ngời. Còn các ngươi thừa lúc triều đình có biến đấy binh phản chúa, mượn tiếng mị dân kẻ thức giả ai mà không biết. Hai việc khác nhau một trời một vực lại ngây ngô hỏi rằng khác ở chỗ nào, bảo ta không cười sao được?
          Nghe Trường nói xong Huệ bèn nói tránh:
          - Anh em tôi vừa mới cai quản phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi chưa biết phép trị dân, vừa rồi có một kẻ ỷ mạnh đánh một người hàng xóm rất dã man, lại có một người cha đánh một đứa con cũng rất dã. man. Cả hai nạn nhân đều thương tích như nhau. Xin tiên sinh dạy cho phải xử người nào tội nặng hơn?
          Trường đáp:
          - Phải xử người cha đánh con tội nặng hơn!
          Huệ ung dung hỏi:
          - Vì sao?
          Trường cao giọng rằng:
          - Vì cha con là tình thâm cốt nhục, còn hai kẻ kia là người dưng nước lã. Cha mà đánh con dã man như người dưng là ác tâm hơn, phải xử tội nặng hơn!
          Bẩy giờ Huệ bẻ lại rằng:
          - Cảm ơn tiên sinh vui lòng dạy bảo Vậy xin hỏi tiên sinh giặc Minh là người Tàu khác dòng khác giống sang xâm chiếm nước ta, đàn áp bóc lột dân ta ấy là lẽ thường tình. Còn như chúa tôi họ Nguyễn là cha mẹ của dân, sao quan lại thì dinh thự đồ sộ, cổng kín tường cao, ra ngoài thì lên xe xuống ngựa, trong nhà gấm lụa thiếu chi! Còn muôn dân đói cơm rách áo, không tiền nộp thuế phải chịu roi vọt tù đày, kẻ ăn xin đầy rẫy phố phường, người chết đói dọc đường nhan nhản. Xin hỏi tiên sinh ấy chẳng phải là chúa tôi nhà Nguyễn ác tâm hơn lũ giặc Minh xâm lược kia sao? Mà ác tâm hơn thì chẳng phải là đáng tội hơn sao?
          Trường bất ngờ bị Huệ bẻ lại chưa biết đối đáp thế nào, Huệ liền nói tiếp:
          - Tội đã nặng như thế thì không đáng để đánh đổ hay sao? Anh em ta khởi binh ở Tây Sơn cứu giúp muôn dân đánh đổ bạo tàn, trên thuận ý trời dưới hợp lòng dân sao dám gọi là không sáng ngời chính nghĩa. So với vua Lê Thái Tổ khởi binh ở đất Lam Sơn nào có khác gì? Có khác chăng là xưa nay kẻ sĩ trong thiên hạ nặng óc nhân trung, cho nên ta mới mượn tiếng tôn phò. Tiên sinh là người thức giả ta chẳng giấu làm gì. Nhưng người thức giả thì phải hiểu câu: “Chim khôn chọn cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ”. Nay chúa Nguyễn hôn muội, quan lại tham nhũng bạo tàn, tiên sinh là người trung nghĩa thanh liêm lại quyết một lòng theo chúa Định Vương sao?
          Đăng Trường khăng khăng đáp:
          - Ta chỉ biết câu: “Tôi trung không thờ hai chúa”, sống làm tôi nhà Nguyễn, chết làm ma nhà Nguyễn, muốn chém giết mặc lòng!
          Huệ cười lớn nói:
          - Tấc lòng trung hiếu của tiên sinh Huệ tôi rất lấy làm cảm phục. Tiên sinh muốn đi Huệ tôi xin cấp ghe thuyền lương cho tiên sinh vượt biển vào Gia Định theo chúa.
          Trường nghi ngờ hỏi:
          - Ngươi thả cho ta đi thật ư?
          Nghe Trường nói, Huệ lại cười lớn rồi khẳng khái đáp:
          - Nếu muốn giết tiên sinh tôi cứ giết ở đây nào có sợ gì. Tiên sinh chớ ngại, Huệ tôi là người quang minh chính đại không dối gạt tiên sinh dâu!
          Đoạn Nguyễn Huệ sai quân sắp sẵn một chiếc thuyền lớn và vật dụng lương thực đầy đủ. Đến bến sông Huệ tự tay đỡ Nguyễn mẫu và Đăng Trường lên thuyền hỏi: Tiên sinh đi chuyến này nghĩ rằng mình có thể xoay chuyển lại trời đất lần nữa được sao?
          Trường cảm khái đáp:
          - Xin cảm ơn tướng quân mở lượng hiếu sinh, tôi rất lấy làm khâm phục kẻ anh hùng, nhưng tôi sống ở đời không thể mang tiếng bất trung Sau này hai người hai chiến tuyến, nếu có dịp tôi nhất định trả ơn.
          Huệ lại hỏi:
          - Ngộ nhỡ tiên sinh bị tôi bắt lần nữa thì thế nào?
          Trường đáp:
          - Nguyễn Đăng Trường tôi chỉ có chết mà thôi!
          Nói rồi vòng tay bái biệt mà đi, giong buồm ra cửa bể. Trường đi rồi, Nguyễn Thung hỏi Huệ:
          - Người vô lễ ngạo mạn thế, sao tướng quân không giết quách cho rồi?
          Huệ đáp:
          - Giết Trường thì được lợi gì? Thiên hạ ai cũng biết Đăng Trường là người trung hiếu. Ta phải tôn kính Đăng Trường để tỏ lòng chiêu hiền đãi sĩ của ta chứ!
          - Nhưng Đăng Trường là người đa mưu túc trí, theo về chúa Nguyễn ắt chống lại quân ta thì lợi ít hại nhiều đó!
          Huệ cười rằng:
          - Đăng Trường đã đa mưu túc trí như Gia Cát Vũ Hầu chưa? Thế sự bây giờ dù Gia Cát Lượng có sống lại thì đã làm gì được ta nào?
          Nói rồi Huệ quay lưng vào thủ phủ. Bỗng có quân đến báo:
          - Thưa tướng quân có ba người xưng là huynh đệ đồng môn của tướng quân xin vào ra mắt.
          Huệ cho mời vào. Vừa trông thấy họ, Huệ reo lên:
          - Đặng Văn Long tứ đệ! Từ ngày ta lên Tây Sơn Thượng dựng cờ khởi nghĩa, anh em ta chia tay đã ba năm sao giờ tứ đệ mới đến?
          Đặng Văn Long vòng tay nói:
          - Ngày ấy đệ hay tin mẹ bệnh nên không kịp lên Tây Sơn tụ nghĩa. Về nhà chăm sóc mẹ ít lâu, chẳng may mẹ bệnh nặng qua đời, phải ở nhà cư tang cho mẹ ba năm. Nay đã mãn hạn tang vội đến tìm đại sư huynh mong đem chút tài hèn mọn ra cứu dân.
          Huệ mời ngồi rồi hỏi Đặng Văn Long:
          - Còn hai vị này là ai?
          Văn Long đáp:
          - Người mặt đen tên là Đặng Xuân Phong. Người mặt đỏ tên Đặng Xuân Bảo cùng với đệ là huynh đệ đồng đường, đều là hào kiệt cả. Xin hỏi đại sư huynh thầy và nhị sư huynh Nguyễn Lữ, tam sư huynh Vũ Văn Dũng đang chinh chiến ở nơi nào?
          Huệ đáp:
          - Nguyễn Lữ hiện đang trấn giữ ải Cù Mông. Thầy và Vũ Văn Dũng đang cùng đại huynh ta đánh nhau với quân Trịnh ở Quảng Nam…
          Huệ chưa dứt lời có quân vào dâng thư. Tiếp thư đọc xong, Huệ nói:
          - Quân Trịnh tiếng đánh Quảng Nam, đại huynh lui về Quảng Ngãi, thầy ta lại lâm trọng bênh. Đại huynh triệu ta phải kíp ra ngay!
          Văn Long giật mình:
          - Thôi chết. Tính mạng thầy ắt phải lâm nguy!
          Huệ trách Văn Long:
          - Tứ đệ thường ngày xuất ngôn nho nhã, sao nay lại nói năng hồ đồ thế!
          Long lo lắng đáp:
          - Trên đường đến đây ngang qua chùa Thập Tháp đệ gặp một cao nhân nói lời tiên tri nên bàng hoàng thốt chẳng giữ lời, xin đại huynh lượng thứ!
          Huệ vội hỏi:
          - Ngươi ấy nói thế nào?
          - Người này cốt cách tiên phong, gặp ba anh em đệ liền nói: “Vừa mãn tang mẹ, đến để tang thầy”. Nay đại sư huynh nói thầy bệnh nặng, vừa nghe qua trong lòng thảng thốt...
          Huệ trấn an Văn Long:
          - Chẳng qua người ấy biết tứ đệ vừa để tang mẹ xong nên buông lời nói ngông đó thôi!
          Long lắc đầu:
          - Đệ với người này vốn chưa từng quen biết thì sao rõ gia cảnh của đệ được. Người ấy còn hỏi anh em đệ đi đâu? Đệ đáp: tòng quân Tây Sơn đánh giặc. Người ấy bảo: khởi binh Tây Sơn thì nhổ cây Sơn, trận đầu ra quân, trước dân xử tướng, dù là việc nên làm nhưng ấy là điềm gở. Danh là lưu hậu thế, nhưng sự nghiệp khó bền.
          Huệ thất sắc bảo:
          - Nếu nói vậy thì thầy ta nguy mất! Nay ba anh em tứ đệ hãy ở lại thành phụ tá Nguyễn Thung tiên sinh, trông coi mọi việc ở Quy Nhơn, ta phải lập tức đi ngay.
          Nói xong vội vã lên đường.
          Đến Quảng Ngãi, Huệ vào ra mắt Văn Hiến. Vũ Văn Dũng đang ở cạnh giường Hiến ôm lấy Huệ khóc rằng:
          - Đại sư huynh! Thầy khó lòng qua khỏi!
          Hiến cựa mình hỏi:
          - Chúa công đâu?
          Huệ cầm tay Hiến đáp:
          - Thưa thầy đại huynh con đang đi nhắc các tướng canh phòng chiến trận cho cẩn mật.
          Hiến bảo Huệ:
          - Đại huynh con là người nhân nghĩa, nhưng không phải tài cao, chí lớn. Việc thống nhất sơn hà về sau con nên hết lòng giúp đỡ đại huynh.
          Huệ nước mắt ròng ròng nói:
          - Xin thầy hãy bình tâm tịnh dường, vì muôn dân con hứa hết lòng!
          Huệ vừa nói xong Nhạc về đến. Hiến thều thào hỏi Huệ:
          - Tình hình mặt trận phía Nam thế nào?
          Huệ kính cẩn đáp:
          - Tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp lãnh binh ở ba dinh Long Hồ, Phiên Trấn, Trấn Biên thuộc đất Gia Định cả thảy hai vạn quân tiến ra đánh Bình Thuận. Con đã lệnh cho Nguyễn Lữ và Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân bỏ Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên lui về trấn giữ ải Cù Mông.
          Hiến giật mình hỏi lớn:
          - Vì sao chưa đánh mà lui?
          Huệ vội trấn an:


          Thiếu hai trang 226-227
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #20
            Chương 17

            Thương vua Lê, Vũ Trần Thiệu bỏ mình gián chúa.
            Lo xã tắc, Lê Quý Đôn cầu thuốc danh y.


            Nói về quân Trịnh sau khi Tây Sơn bỏ đất Quảng Nam lui về giữ Quảng Ngãi, Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào thành Quảng Nam bỏ trống truyền ba quân mở tiệc khao thưởng tướng sĩ. Rượu ngà ngà say, Phúc đắc ý nói:
            - Ta vâng chiếu chỉ đem quân đánh một trận là thu phục được đất Thuận Hóa, chiếm lấy Phú Xuân, đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Rồi đối đầu với giặc Tây Sơn, giặc chưa đánh đã bỏ Quảng Nam mà chạy. Oai danh vang dội khắp thiên hạ. Thật từ trước đến nay trong đời làm tướng của ta chưa bao giờ thỏa nguyện như bây giờ. Nay đang là mùa hè nóng bức, gió Nam khô róc, quân ta là người phương Bắc, không quen phong thổ. Ta có nghe tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp từ Gia Định kéo ra chiếm lại đất Phú Yên, đuổi Tây Sơn chạy về Quy Nhơn. Vậy đang khi trái gió trở trời ta án binh bất động dưỡng uy sức nhuệ chờ quân Nguyễn và Tây Sơn đánh nhau, một bên chết, một bên tất bị thương, khi ấy ta chỉ ra một trận oai hùm thì một dải đất Nam Hà kia không thuộc về chúa ta hỏi còn ai vào đây nữa?
            Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Bảo, Hoàng Đình Thể, Nguyễn Hữu Chỉnh cùng nâng ly khen:
            - Thượng tướng công thật liệu việc như thần.
            Cuộc vui chưa tàn bỗng có quân vào báo:
            - Thưa thượng tướng công, quân ta bỗng nhiên sinh chứng đau bụng tả lỵ rất nhiều. Xin vào bẩm báo.
            Phúc bảo:
            - Ấy chẳng qua là do rượu thịt no nê nên tích nhiệt tại nơi trường vị sinh bệnh tả lỵ mà thôi. Truyền quân từ nay về sau không được uống rượu.
            Nói xong bảo quân hầu dẹp ngay bàn tiệc của mình để làm gương, rồi thân ra các trại xem xét bịnh trạng quân sĩ.
            Mấy hôm sau số binh sĩ bị bệnh càng tăng, Hoàng Ngũ Phúc lấy làm lo lắng, cho mời các tướng vào thương nghị. Bỗng có quân canh vào báo:
            - Thượng tướng công, có sứ giả của quân Tây Sơn xin vào yết kiến.
            Phúc cho mời vào. Đến nơi, Nguyễn Thung thi lễ nói:
            - Thưa tướng quân, tôi là sứ giả của Tây Sơn. Xin ra mắt tướng quân.
            Không thèm ngó mặt Nguyễn Thung, Phúc ngoảnh nơi khác bảo:
            - Hai bên đang đánh nhau, quân Tây Sơn các ngươi bỏ Quảng Nam mà chạy. Nay Nguyễn Nhạc sai ngươi đến đây để cầu hòa chăng?
            Thung nhìn thẳng mặt Phúc đáp lớn:
            - Hai đàng binh hùng, tướng mạnh như nhau, muốn tránh cho sanh linh khỏi nạn binh đao mới giảng hòa với nhau. Còn Tây Sơn tôi là những người dân nghèo khổ bởi chúa Nguyễn áp bức mới nổi dậy đấu tranh, đâu dám tự cho mình bằng quý quốc mà nói chuyện giảng hòa!
            Phúc quay lại hỏi:
            - Vậy Nguyễn Nhạc sai ngươi đến đây để làm gì?
            Thung đáp:
            - Chủ tướng tôi vốn biết uy danh của tướng quân. Vả lại nghĩ phận mình là con dân trong nước do vua Lê Thái Tổ khởi binh sáng lập. Thêm trong lòng mến phục Tĩnh Đô Vương nên dám đâu chống lại binh trời. Nay chủ tướng tôi sai tôi đến đây có ít lễ vật dâng lên tướng quân gọi là chút lòng thành, nhờ tướng quân tâu cùng chúa Tĩnh Đô Vương xin cho chủ tướng tôi được làm tiên phong đánh Nguyễn. Về sau diệt được nhà Nguyễn non sông đều quy về một mối thì công lớn này không phải của tướng quân sao? Và chủ tướng tôi khi ấy được làm một chức quan nhỏ thì ơn của tướng quân tạc dạ ghi lòng dù chết cũng để bụng mang theo.
            Nói rồi gọi người mang lễ vật vào. Ngà voi năm cặp, vàng bạc trăm cân, lụa gấm nghìn thước. Hoàng Ngũ Phúc thấy lễ vật rất nhiều, lại thêm Nguyễn Thung nói lời khiêm tốn dễ nghe, luôn miệng tán dương công đức danh uy của mình, trong lòng rất đẹp. Phúc vui vẻ bảo:
            - Được! Ngươi cứ về tâu lại Nguyễn Nhạc, ta sẽ hết lòng dâng sớ xin phong. Nếu chúa Tĩnh Đô Vương thuận ý, ta sẽ sai người đem ấn kiếm vào cho Nguyễn Nhạc lãnh chức tiên phong.
            Nguyễn Thung mừng rỡ bái tạ ra về. Nguyễn Hữu Chỉnh bước ra thưa:
            - Nguyễn Nhạc tuy là kẻ cùng đinh nổi dậy, nhưng xét việc hắn làm, lúc yếu thế thì mượn tiếng tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Nay trong thì Tống Phước Hiệp đánh ra, ngoài thì quân ta đánh vào nên mới giảng hòa với ta, để rảnh tay đối phó với Tống Phước Hiệp. Người như thế không phải là kẻ tầm thường, xin thượng tướng công hãy khá đề phòng.
            Phúc cười nói:
            - Điều này ta há chẳng biết sao? Ta cứ tương kế tựu kế chờ cho ngao cò tranh nhau, ta làm ngư ông thủ lợi, đợi thời cơ bắt hết cả hai nào có nhọc sức gì?
            Nói rồi liền lấy giấy bút viết thư sai người hỏa tốc mang về Thăng Long thỉnh ý chúa Trịnh Sâm.
            *
            * *
            Lúc ấy ở kinh thành Thăng Long, Trịnh Sâm ngày đêm mê đắm phi tần Đặng Thị Huệ. Thị Huệ sắc đẹp nghiêng thành, tiếng nói thánh thót như tiếng chim hót.
            Hôn ấy, trong vườn thượng uyển trên lầu ngũ giác, Trịnh Sâm cùng Đặng Thị Huệ đờn ca xướng họa, chén tạc chén thù. Sâm vòng tay ôm Thị Huệ vào lòng, bỗng Thị Huệ lấy từ trong ngực của Sâm ra một viên ngọc. Thị Huệ nũng nịu hỏi:
            - Thưa Chúa thượng đây là ngọc gì vậy?
            Sâm vội đỡ lấy tay Thị Huệ đáp:
            - Ấy! Đây là viên ngọc Minh Châu ban đêm thường phát ra ánh sáng, ta yêu quý vô cùng lúc nào cũng mang theo trong người. Nàng hãy cầm nhè nhẹ tay.
            Thị Huệ rất lấy làm thích, cầm viên ngọc ngắm nghía mãi. Sâm nhắc:
            - Nàng hãy nhè nhẹ tay kẻo xước viên ngọc quý của quả nhân.
            Thị Huệ vùng quăng ngọc xuống sàn dậm chân khóc rằng:
            - Chúa thượng nói yêu thiếp hơn tất cả mọi thứ trên đời. Vậy mà thiếp vừa cầm viên ngọc mới có một tý đã sợ hư ngọc. Hóa ra là chúa quý vật hơn người, thôi thì để thiếp chết đi cho rồi.
            Nói xong chạy ra thành lầu toan lao đầu xuống đất. Trịnh Sâm chạy theo níu lại năn nỉ:
            - Nàng làm gì mà mau hờn dỗi thế! Chẳng qua ta muốn giữ ngọc cho đẹp để tặng nàng ấy mà.
            Nói rồi liền cầm ngọc giao cho Thị Huệ. Thị đổi giận làm vui, kéo Trịnh Sâm vào giường trong ân ái. Thừa lúc Trịnh Sâm đang vui Thị Huệ thủ thỉ:
            - Nước ta từ lúc nhà Lê Trung Hưng đến nay, tuy tiếng là họ Lê làm vua, nhưng vua Lê thật là bất tài nhu nhược, việc gì cũng trông cậy vào nhà chúa. Nay ân đức của chúa đã thấm nhuần khắp trong ngoài, sao chúa không lên ngôi Thiên tử cho xứng dáng với công đức của mình, tội gì cứ làm kẻ giữ chùa để cho thiên hạ đem lễ vật vào dâng lên bàn Phật?
            Sâm cao hứng nói:
            - Lời nàng rất hợp ý ta, nếu sau này ta lên ngôi Thiên tử thì ngôi Chánh cung hoàng hậu nhất định sẽ dành cho nàng đó!
            Thị Huệ mừng rỡ lạy tạ. Trịnh Sâm liền về dinh phủ gọi Phạm Ngô Cầu đến bảo:
            - Ngày trước ta bức tử Thái tử Lê Duy Vỹ không có ai dám làm. May nhờ có khanh một lòng trung với ta nên mới đem thuốc độc vào ngục ép Thái tử uống. Nay ta có một việc muốn nhờ khanh, chẳng hay khanh có vui lòng chăng?
            Ngô Cầu quỳ lạy nói:
            - Ngô Cầu này một lòng trung với chúa, việc giết Thái tử còn dám làm thay. Có điều gì xin Chúa thượng cứ xuống lệnh, Ngô Cầu dù chết chẳng từ nan.
            Trịnh Sâm mừng rỡ vẫy Ngô Cầu đến gần bảo:
            - Ngày mai là đến hạn thiết triều, trước bá quan văn võ khanh hãy nói như vậy... như vậy... nếu việc mà thành thì ngôi tể tướng là của khanh đó.
            Cầu mừng rỡ lạy tạ xin vâng.
            Hôm sau thiết triều nơi phủ chúa, Sâm hỏi bá quan văn võ:
            - Trong nước có việc gì quan trọng, các khanh cứ mạnh dạn tâu trình.
            Các quan đều thưa:
            - Muôn dân no ấm, bốn phương thiên hạ thái bình không có việc gì lạ cả!
            Bỗng Tạo Quận Công Phạm Ngô Cầu đứng lên nói:
            - Xin hỏi các quan, muôn dân no ấm, thiên hạ thái bình, bờ cõi lại mở mang về phương Nam chiếm lấy đất Thuận Hóa, kinh thành Phú Xuân của họ Nguyễn, đuổi Định Vương chạy vào Gia Định là nhờ công đức của ai?
            Bá quan bất ngờ nghe hỏi, lại thấy Trịnh Sâm lộ vẻ hài lòng, liền đồng thanh đáp:
            - Ấy chính là nhờ công đức của Chúa thượng!
            Ngô Cầu hăm hở nói tiếp:
            - Nay vua Lê ở ngôi ba mươi sáu năm, tuổi đã già, sức đã yếu, mà không có công đức gì cho trăm họ. Mọi việc lớn nhỏ trong nước đều do nơi Chúa thượng của ta, vua Lê chỉ ngồi không mà hưởng lộc, ở trên đời sao lại có việc bất công như thế. Chi bằng chúng ta sẵn dịp đông đủ trăm quan kéo qua điện vua Lê, bảo nhà vua thoái vị nhường ngôi Thiên tử cho chúa thì lẽ cương thường mới gom về một mối. Chứ trong nước đã có vua lại còn có chúa, từ quan đến dân đều theo lệnh chúa thì vua ngồi đó để làm gì? Trăm quan nghe thử lời tôi nói có đúng chăng?
            Bây giờ quan trong triều phần đông đều là tay chân của Trịnh Sâm nghe vậy đồng thanh nói:
            - Lời Tạo Quận Công rất phải, chúng ta hãy qua điện vua bảo vua Lê thoái vị cho rồi!
            Nói xong đồng loạt đứng dậy toan đi. Bỗng có một người bước ra nói lớn:
            - Việc ấy không nên!
            Mọi người giật mình nhìn lại, hóa ra kẻ vừa nói là quan Thị lang Vũ Trần Thiệu. Ngô Cầu nổi giận mắng Thiệu:
            - Ngươi chỉ là một chức quan nhỏ dám kháng lệnh chúa hay sao?
            Vũ Trần Thiệu bình thản đáp:
            - Chúa chưa xuống lệnh sao gọi là kháng lệnh? Vả lại người xưa có câu: “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Nay thấy họa diệt vong của chúa lẽ nào tôi nhắm mắt làm ngơ.
            Trịnh Sâm giận lắm nhưng cố nén hỏi:
            - Ngươi nói thử xem họa diệt vong của ta là ở chỗ nào?
            Thiệu bình thản đáp:
            - Khải Chúa, tuy rằng truất ngôi vua Lê là điều trên thuận ý trời, dưới hợp lòng dân. Nhưng từ xưa đến nay người nước Tàu bao giờ cũng lăm le chờ có cơ hội là sang xâm chiếm nước Nam ta đặt làm quận huyện. Nếu Chúa thượng phế ngôi vua, ngộ nhỡ vua Càn Long nhà Thanh mượn cớ ấy đem quân sang đánh, thì không phải là bá quan đem cái họa diệt vong về cho chúa hay sao?
            Sâm đổi giận làm vui hỏi:
            - Lời khanh rất đúng! Vậy theo khanh thì phải thế nào?
            Thiệu hiến kế:
            - Theo ý thần thì ta nên viết một tờ cáo đại ý rằng: Muôn dân ở nước Nam đều mong ngóng nhà chúa được lên ngôi Thiên tử trị vì trăm họ, hoàng tộc nhà Lê không còn ai xứng đáng để làm vua nữa, rồi bá quan đồng ký tên vào tờ cáo ấy. Thần tuy bất tài cũng xin cầm tờ cáo ấy đi sứ sang Tàu trình với vua Càn Long nhà Thanh, xin được phong cho chúa làm An Nam quốc vương, khi ấy ta truất phế vua Lê để Chúa thượng lên ngôi hoàng đế đã muộn màng gì?
            Trịnh Sâm nghe xong khen:
            - Ý của khanh thật là chu đáo. Nếu việc lớn mà thành thì công của khanh không nhỏ.
            Nói rồi liền sai Vũ Trần Thiệu viết tờ cáo, rồi bảo các quan đều ký tên vào. Xong việc, Trịnh Sâm truyền bãi triều. Ra ngoài Phạm Ngô Cầu bảo Vũ Trần Thiệu:
            - Lúc nãy ta hiểu lầm ý ông nên buông lời không phải. Thật không ngờ ông trung với chúa chẳng kém gì ta.
            Thiệu cười nói:
            - Ông không nghe người xưa nói rằng: “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần” hay sao?
            Nói rồi liền quay lưng về nhà thu xếp chờ ngày đi sứ sang Tàu.
            Vũ Trần Thiệu và đoàn tùy tùng đi rồi, Trịnh Sâm ngày đêm trông ngóng tin vui, mơ ngày lên ngôi Cửu Ngũ.
            Ngày kia Trịnh Sâm thiết triều, quân canh vào báo:
            - Khải Chúa, sứ đoàn đã trở về xin vào ra mắt.
            Sâm mừng khấp khởi bảo:
            - Mau mau cho vào!
            Sứ đoàn vào đến. Không thấy Vũ Trần Thiệu, Sâm hỏi:
            - Vũ Trần Thiệu đâu rồi?
            Viên phó sứ sợ hãi quỳ thưa:
            - Xin Chúa thượng tha tội!
            Sâm gắt:
            - Việc thế nào hãy nói mau?
            Quan phó sứ vẫn quỳ mọp đáp:
            - Khải Chúa! Lúc sứ đoàn đi đến Động Đình Hồ thuộc đất Lưỡng Quảng thì quan Chánh sứ Vũ Trần Thiệu đem tờ cáo đốt đi rồi uống thuốc độc mà chết. Quan chánh sứ để lại một bức thư phong kín cẩn thận, ngoài đề gửi cho Chúa thượng. Hạ thần không biết làm thế nào đành phải quay về. Đây là thư của Vũ Trần Thiệu xin Chúa thượng duyệt lãm.
            Trịnh Sâm nghe qua như sét đánh ngang mày tiếp thư đọc, thư đại ý rằng: Ngày trước chúa giết chết Thái tử, nay lại toan làm điều soán nghịch. Trăm quan trong phủ chúa đều là tay chân của chúa, biết bụng chúa mới hòng truất phế nhà vua. Nhưng ngoài trăm họ đều nhớ ơn vua Lê Thái Tổ, Thái Tông. Nếu không như thế thì ngày xưa sao Bình An Vương Trịnh Tùng có thể dứt được nhà Mạc mà lập nên nhà Lê Trung Hưng? Nay chúa hòng giẫm lên bước chân của Mạc Đăng Dung ngày trước, trên cãi ý trời, dưới nghịch lòng dân thần e rằng chúa phải mang tiếng bất nhân và gây họa binh đao làm khổ cho bách gia trăm họ. Hôm ấy sống không thể mở miệng can ngăn, nay thần lấy cái chết để viết lời khuyên giải. Tuy rằng chúa tiếng không phải là vua, nhưng quyền thì đã nghiêng thiên hạ. Đừng quá tham danh trong một lúc, mà để hại cho nước non dân tộc về sau. Dưới tuyền đài khuyên chúa hãy bình tâm suy xét lại.
            Sâm đọc xong vò nát thư nắm trong tay, vừa giận vừa thẹn bảo quan phó sứ:
            - Truyền cho ngươi lui! Từ nay về sau cấm không ai được nhắc đến việc này nữa.
            Quan phó sứ liền lui ra mồ hôi toát đầm đìa!
            Xong việc ấy quân canh lại vào báo:
            - Khải Chúa! Có thư của Bình Nam thượng tướng từ Quảng Nam gửi về, trình chúa duyệt lãm.
            Trịnh Sâm tiếp thư đọc xong nói:
            - Thượng tướng Hoàng Ngũ Phúc dâng biểu xin phong cho Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm trấn thủ hai phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi để Nhạc đem quân đánh Nguyễn ở phương Nam. Chờ chúng đánh nhau cho kiệt sức ta sẽ đem quân thôn tính toàn cõi Đàng Trong. Các quan thấy thế nào?
            Quan đại học sĩ Lê Quý Đôn bước ra thưa:
            - Tâu Chúa thượng, nay nhân lúc Tây Sơn đang ở thế lưỡng đầu thọ địch, chúng phải chia quân ra giữ hai mặt Bắc và Nam, tất lực lượng phải bị phân tán, Chúa thượng nên lệnh cho Hoàng Ngũ Phúc lập tức tấn công tiêu diệt. Nếu ta lầm kế giảng hòa của Nguyễn Nhạc để chúng rảnh tay tập trung lực lượng đánh Nguyễn xong, rồi Nhạc lại đem toàn quân ra Bắc chống nhau với ta thì e rằng ta bỏ lỡ thời cơ hiếm có. Vả lại trong dân gian có truyền câu sấm rằng: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công”. Xin Chúa thượng hãy khá đề phòng giặc Tây Sơn.
            Trịnh Sâm nói:
            - Nhưng trong thư Hoàng Ngũ Phúc tâu rằng, chiếm Quảng Nam xong, gặp lúc mùa hè nóng nực quân ta bị bệnh, dịch tả lỵ rất nhiều không thể ra trận được. Còn những câu sấm kia, ấy chẳng qua là chuyện hoang đường lấy gì cho là thực? Từ trước đến nay các Tiên vương đánh nhau với họ Nguyễn bảy lần đã có lần nào vượt khỏi sông Linh Giang chưa? Nay tướng của ta mới ra oai một trận đã chiếm đất Thuận Hóa thu phục kinh thành Phú Xuân, đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Gặp Tây Sơn chưa đánh, giặc nghe tiếng đã bỏ Quảng Nam mà chạy trốn vào Quảng Ngãi. Nay dang là mùa hè nóng nực cứ để quân ta dưỡng uy sức nhuệ, chờ chúng đánh nhau tay chân sứt mẻ, rồi ta đem quân khỏe đến bắt vào có khó gì? Quân bay đem bút nghiên ra, ta viết chiếu phong quan cho Nguyễn Nhạc.
            Lê Quý Đôn quỳ xuống can:
            - Xin Chúa thượng hay mau diệt Tây Sơn rồi thống nhất sơn hà!
            Sâm bực tức quát rằng:
            - Không làm vua được thì cần gì phải thống nhất sơn hà! Ý ta đã quyết, ai còn can ngăn, chém!
            Đôn sợ hãi lui ra. Viết chiếu phong quan cho Nguyễn Nhạc, rồi sai người mang trao Hoàng Ngũ Phúc xong, Sâm truyền bãi triều. Ra ngoài phủ chúa Lê Quý Đôn lập tức đến nhà danh y Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Đôn nói với Trác:
            - Xin thầy viết cho toa thuốc trị bệnh tả lỵ.
            Hữu Trác cười vuốt hàm râu bạc phơ, hỏi Đôn:
            - Đại quan ngồi cho tôi xem mạch chẩn đoán định bịnh rồi bốc thuốc về nhà uống, cần gì mà phải viết toa?
            Đôn đáp:
            - Không phải tôi bị bệnh!
            Trác cười nói:
            - Nếu người nhà bị tả lỵ, tôi xin bốc thuốc biếu đại quan, đem về không cần phải viết toa.
            Đôn suy tư đáp:
            - Bệnh tả lỵ này cả hàng mấy ngàn người mắc phải, liệu tủ thuốc của danh y có đủ không?
            Trác giật mình hỏi:
            - Nếu nói vậy ắt ở địa phương nào bị dịch tả lỵ chăng?
            Đôn gật đầu đáp:
            - Tướng quân Hoàng Ngũ Phúc đem bốn vạn quân vào đến Quảng Nam thì quân bị dịch tả lỵ nên tôi mới đến xin toa thuốc của danh y, cứu nguy quân ta.
            Lê Hữu Trác nhẩm tính:
            - Năm nay là năm Ất Mùi thuộc âm kim. Đại trường (ruột già) ứng kim có bệnh. Mùa hè hành hỏa nhiệt thịnh, Tiểu trường (ruột non) ứng hỏa tích nhiệt, gặp phải thấp khí bốc lên ứng vào hành thổ của tỳ vị (dạ dày, lách). Nếu trong năm nay vào mùa hè ở địa phương nào có nhiều thấp khí bốc lên, nhất định là thấp nhiệt tích nơi trường vị mà sinh dịch bệnh tả lỵ triền miên.
            Lê Quý Đôn lo lắng hỏi:
            - Vậy danh y có thuốc gì chữa khỏi bịnh này chăng?
            Hữu Trác đáp:
            - Có ba loại cỏ thường mọc khắp nước Nam ta ấy là Lệ trường thảo, Thủy tinh thảo và Mã xĩ thảo. Hái lá tươi giã nhỏ vắt lấy nước mà uống lập tức khỏi ngay. Nhưng theo tôi có hai điều khó, một là từ Thăng Long mang bài thuốc vào đến Quảng Nam có nhanh nhất cũng hết mười ngày, thì số người đang mắc bệnh ắt phải tử vong, hai là nếu nơi ấy ban đêm khí trời nóng bức, ban ngày màu nắng vàng vọt là thấp khí vẫn bốc lên nhiều, thì phải lập tức rời khỏi vùng đất ấy ngay mới mong bảo toàn tánh mạng.
            Lê Quý Đôn ngửa mặt than:
            - Nếu thế là số trời đã giúp quân Tây Sơn rồi vậy!
            Nói xong Đôn vòng tay cáo từ Lê Hữu Trác ra về. Đến nhà Đôn lập tức viết thư sai người thân tín ngày đêm đi gấp vào Quảng Nam trao cho Hoàng Ngũ Phúc.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #21
              Chương 18

              Lừa Đông cung, Nguyễn Huệ dùng kế nghi bình.
              Lầm Tây Sơn, Tổng Phước Hiệp thua quân bỏ mạng


              Nói về Hoàng Ngũ Phúc đóng quân trong thành Quảng Nam ngày kia nhận được chiếu chỉ của Trịnh Sâm, bèn hội các tướng nói:
              - Ta vừa nhận được lệnh chúa phong Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng, trấn thủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi. Vậy ai có thể mang ấn kiếm vào Quy Nhơn? Trước là thừa lệnh chúa phong quan cho Nguyễn Nhạc, sau là dò xét tình hình quân Tây Sơn mạnh yếu thế nào?
              Nguyễn Hữu Chỉnh đứng lên nói:
              - Tôi xin lãnh mệnh vào Quy Nhơn làm sứ giả!
              Phúc cả mừng nói:
              - Nguyễn Hữu Chỉnh thông kim bác cổ, ứng đối như lưu, lại có tại dụng binh. Nay tướng quân lãnh trọng trách này, thật ta chẳng lo gì nữa.
              Nói xong rót rượu tiễn Nguyễn Hữu Chỉnh.
              Hôm ấy Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn nghe quân vào bảo:
              - Tâu Chúa công, có sứ giá của chúa Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh đến gọi Chúa công ra tiếp chiếu.
              Nhạc cả mừng nói:
              - Ngày trước Nguyễn Thung tiên sinh đem lễ vật dâng Hoàng Ngũ Phúc cầu hoà. Nay quân Trịnh lại sai sứ giả đến bảo ta tiếp chiếu ắt lá thuận ý rồi đây!
              Nói rồi truyền quân mời sứ giả vào. Chỉnh vào đến thấy Nguyễn Nhạc vẫn ngồi yên trên bệ, hai bên các tướng đứng hầu, liền nói:
              - Tôi vâng lệnh chúa đêm chiếu chỉ và ấn kiếm đến đây cho tướng quân thọ chức. Sao tướng quân không quỳ mà lĩnh chiếu?
              Nhạc nghiêm mặt hỏi:
              - Từ xưa đến nay chỉ nghe nói tiếp chiếu của vua chưa nghe nói tiếp chiếu của chúa bao giờ. Nay nghe ngài bảo là vâng lệnh chúa nên Nhạc tôi còn lưỡng lự chưa biết phải làm sao?
              Chính liền đáp:
              - Từ thời Lê Trung Hưng đến nay các vua Lê đã giao cho các chúa thay quyền nhiếp chính, điều hành mọi việc trong nước, bất cứ việc gì cũng không phải xin lệnh của vua. Nếu tướng quân không nhận chiếu chỉ của chúa, Chỉnh tôi xin về tâu lại.
              Nhạc với bước xuống bệ nói:
              - Ấy! Chẳng qua tôi là người nước người nên không hiểu lệ ấy mà thôi. Nếu vua đã trao quyền cho chúa thì chiếu của chúa là chiếu của vua.
              Nói rồi liền cũng các tướng quỳ nghe chiếu, Chỉnh đọc:
              "Nước Đại Việt niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi sáu. Tĩnh Đô Vương hạ chiếu:
              Nay sắc phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng trấn thủ hai phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, lệnh cho Tây Sơn hiệu trưởng đem quân hai phủ tiền đánh giặc Nguyễn ở phương Nam, đem non sông gom về một mối. Tiếp được chiếu này lập tức thi hành chớ phụ lòng mong đợi của quả nhân.
              Nay chiếu"
              Nhạc nghe xong lậy ba lậy nhận ấn kiếm của Chỉnh trao cho, rồi truyền quân bày yến tiệc. Nhập tiệc Nhạc rót rượu mời Chỉnh. Nhạc nói:
              - Nay tôi được sắc phong của Tĩnh Đô Vương và cùng với ngài là bạn đồng liêu, xin mời ngài một chén.
              Chỉnh nâng chén uống cạn hỏi:
              - Đã nhận sắc phong rồi, vậy hiệu trưởng định bao giờ xuất quân đánh Nguyễn?
              Nguyễn Huệ liền đứng lên đỡ lời Nhạc:
              - Xin ngài về thưa cùng chúa, đại huynh tôi hẹn trong mười ngày sẽ đánh tan hai vạn quân của Tôn Phước Hiệp chiếm lấy Phú Yên.
              Chỉnh thấy Huệ còn rất trẻ mới đắn đo rằng:
              - Hay lắm! Những việc quân thắng bại là lẽ thường tướng quân sao đã vội định ngày? Vả lại Tôn Phước Hiệp là một lão tướng của Nguyễn Định Vương, tướng quân đừng nên khinh địch mà chuốc lấy bại vong đó.
              Nói rồi vòng tay cáo biệt ra về. Nhạc quở trách Huệ:
              - Trước mặt Hữu Chỉnh em đã vội hứa trong mười ngày phá xong địch chiếm Phú Yên. Ngộ nhỡ trong mười ngày mà việc không xong hoá ra ta nói khoác với họ thì còn mặt mũi nào?
              Huệ thưa:
              - Xin đại huynh chớ lo, trận này em xin lãnh binh phá địch, nếu trong mười ngày không thắng xin chịu mất đầu theo tướng lệnh.
              Huệ vừa nói xong bỗng có một người xồng xộc bước vào nói lớn:
              - Nguyễn Nhạc sao dám lừa dối ta. Ông hứa đánh Trịnh chiếm lại Phú Xuân tôn phò ta lên ngôi chúa, mà nay đi nhận sắc phong của họ Trịnh là nghĩa làm sao?
              Mọi người nhìn lại hoá ra là Đông cung Nguyễn Phúc Dương. Huệ thấy Đông cung Dương đã biết cơ mưu của mình liền đáp rằng:
              - Xin Đông cung Thế tử chớ khá hiểu lầm. Đại huynh tôi buộc phải giả hoà với quân Trịnh để là kế hoãn binh, vì không thể đem hết toàn quân r Quảng Nam đánh Trịnh. Bởi ở Phú Yên Tống Phước Hiệp đã đem đại binh hai vạn lăm le đánh chiếm Quy Nhơn, Đông cung Thế tử đã biết chưa?
              Nguyễn Phúc Dương đáp:
              - Việc nay ta có biết.
              Huệ lại nói:
              - Giờ xin Thế tử hay viết một bức thư nói rõ ý tôn phò của đại huynh tôi cho Tống Phước Hiệp được biết yêu cầu ông ấy lui bình. Nếu Tống Phước Hiệp cho nghe lệnh Định Vương Nguyễn Phúc Thuần mà không nghe lệnh Thế tử thì quân Tây Sơn ta phải đánh Tống Phước Hiệp trước, sau đó sẽ dốc toàn lực quay sang đánh Trịnh, mới có cơ thu phục được kinh thành đưa Thế tử lên ngôi chúa. Chẳng hay ý Thế tử thế nào?
              Nguyễn Phúc Dương còn nhỏ tuổi thật thà, nghe Huệ nói thế tỏ ý ăn năn đáp:
              - Ta thật là hồ đồ, chút nữa đã hiểu lầm tấm lòng trung nghĩa của các vị tướng quân. Để ta viết thư cho Tống Phước Hiệp xem thứ ý ông ấy thế nào?
              Nguyễn Phúc Dương viết xong, Nhạc bèn sai Nguyễn Thung đem thư sang Phú Yên cho Tống Phước Hiệp.
              Nói về Tống Phước Hiệp lúc ấy đã ngoài sáu mươi tuổi, được chúa Định Vương phong làm tổng binh quản dinh Bình Tây đại tướng quân, bèn lấy quân ở ba dinh Long Hồ, Phiên Trấn, Trấn Biên tổng cộng hơn hai vạn dân. Các con là Tống Phước Khương, Tống Phước Lương, Tống Viết Phước, Tống Viết Nghĩa ồ át xua quân ra Bình Thuận. Quân Nguyễn tiến đến đâu quân Tây Sơn chỉ lui mà không đánh.
              Chỉ trong vòng hai tháng Tống Phước Hiệp đã chiếm lại ba thành Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên. Chiếm thành Phú Yên, Tống Phước Hiệp đích thân cưỡi ngựa đến ải Cù Mông xem xét. Thấy núi non trùng điệp đá dựng hiểm trở, chỉ có một con đường độc đạo lên đến đỉnh đèo, Hiệp nói với các con:
              - Ải Cù Mông hình thế hiểm trở quân Tây Sơn lại đóng ở trên đỉnh đèo có lợi thế từ cao đánh xuống. Dù ta có thiên bình vạn mã cũng không thể nào qua khỏi ải này. Các con hãy chia quân đóng giữ các nó hiểm yếu cho binh sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức rồi ta sẽ tính kế sau.
              Người con nhỏ của Hiệp là Tống Viết Nghĩa hỏi:
              - Thưa cha ải này không cao và hiểm trở bằng ải Vân Phong (đèo Cả). Ải Vân Phong ta con lấy được dễ dàng thì ải Cù Mông này sao cha lại ngại?
              Tống Phước Hiệp vuốt râu cười:
              - Ải Vân Phong tuy rằng hiểm trở nhưng giặc Tây Sơn chỉ lui mà không đánh nên ta mới chiếm được dễ dàng. Còn ải Cù Mông này con hãy nhìn xem trên sườn núi dọc theo đường đèo lều trại san sát, mỗi một khúc quanh đá đều gom thành đống, chứng tỏ chúng phong bị rất kỹ càng, không thể nào đánh được.
              Nói xong liền quay ngựa về doanh trại. Vừa đến nơi có quân canh vào bảo:
              - Thưa đại tướng quân, có sứ giả quân Tây Sơn xin vào yết kiến.
              Phước Hiệp cho vào. Đến trước án, Nguyễn Thung thi lễ nói:
              - Tôi là sứ giả của Tây Sơn xin được ra mắt tướng quán.
              Hiệp vênh mặt hỏi:
              - Tây Sơn các người đánh nhau với ta thua quá bỏ luôn ba dinh Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên mà chạy về Quy Nhơn. Nay cùng đường Nguyễn Nhạc sai ngươi đến cầu hoà phải chăng?
              Thung ung dung đáp:
              - Chủ tướng tôi bỏ ba dinh lui về Quy Nhơn không phải vì thua quân, mà vì chủ tướng tôi với tướng quân đều là tôi trong một nước nên không muốn chém giết lẫn nhau do thôi!
              Hiệp vỗ bàn quát:
              - Láo xược! Nguyễn Nhạc khởi loạn ở Tây Sơn kéo ra đánh Quảng Nam đuổi chúa ta chạy vào Gia Định sao dám bảo ta với hắn là tôi trong một nước? Nhà ngươi nói không ra lẽ, ta giết chết không tha.
              Không chút sợ hãi, Thùng đáp rằng:
              - Chủ tướng tôi khởi binh ở Tây Sơn đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan chuyên quyền làm lắm điều tàn bạo, tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương vốn dòng chính thống bị Phúc Loan truất phế. Nay Đông cung sai chủ tướng tôi đem quân Bắc tiến thu phục kinh thành Phú Xuân về chỗ chúa Nguyễn. Ấy chẳng phải chủ tướng tôi là tôi của chúa Nguyễn rồi ư?
              Hiệp suy nghĩ giây lát rồi bảo:
              - Điều ngươi vừa nói nghe ra hợp lý, nhưng việc Nguyễn Nhạc tôn phò Đông cung lấy gì để làm bằng?
              Thùng lấy thư trong ngực ra dâng Phước Hiệp rồi nói:
              - Đây là thư của Đông cung gửi cho tướng quân. Xin tướng quân xem lấy làm bằng.
              Tống Phước Hiệp tiếp thư đọc xong nói:
              - Trong thư Đông cung bảo ta phải lui binh, để Nguyễn Nhạc tin tưởng dồn toàn lực ra Quảng Ngãi đánh Trịnh. Nhưng nếu ta lui binh thì các người thừa cơ chiếm lại Phú Yên thì làm sao?
              Thùng ngạc nhiên hỏi:
              - Trong thư có dấu ấn của Đông cung, tướng quân vẫn chưa tin ư?
              Hiệp vuốt râu cười đáp:
              - Ngộ nhỡ các ngươi dùng vũ lực ép Thế tử viết thư để lừa ta, bảo ta tin sao được? Nếu thật lòng người về thưa cùng Đông cung, chờ ta sai người ra Quy Nhơn diện kiến, nếu đúng là ý của Đông cung ta lập tức lui binh.
              Nguyễn Thung cáo biệt ra về. Ngày sứ giả của Tống Phước Hiệp đến, Nguyễn Nhạc, mời Nguyễn Phúc Đường ngồi giữa, Nhạc và các tướng đứng hầu hai bên, rồi truyền cho sứ giả vào. Sứ giả vào đến trông thấy Nguyễn Đường liền sụp lậy tung hô:
              - Kính chúc Thế tử sức khoẻ an khang!
              Nguyễn Phúc Đường ân cần nói:
              - Tống Phước Hiệp không tin thư ấy là của ta, nên mới sai người đến xem hư thực thế nào có phải vậy chăng?
              Sứ giả đáp:
              - Đúng là như vậy, dám hỏi Thế tử sự thể thế nào?
              Nguyễn Phúc Dương bảo:
              - Tống tướng quân cẩn thận vậy là đúng! Ngươi hãy về thưa cùng Tống tướng quân đem đại binh quay về Gia Định truất phế Định Vương Nguyễn Phúc Thuần thì ta mới yên tâm đem toàn quân ra Quảng Nam đánh Trịnh. Có như thế sau khi đuổi Trịnh ra khỏi sông Linh Giang, thu phục kinh thành Phú Xuân, tất cơ đồ nguyên vẹn như xưa, nghĩa cương thường gom về một mối, thì công của Tống tướng quân rất lớn. Ta đã viết sẵn một phong thư, ngươi hãy kíp mang về tâu lại cùng Tống tướng quân.
              Sứ giả vâng lệnh quay về dâng thư của Phúc Đường cho Tống Phước Hiệp. Hiệp xem thư xong cười rằng:
              - Đông cung tuổi còn nhỏ chưa trải việc đời, nên mới bị Nhạc dối gạt. Ta chưa có kế gì đánh chúng thì chúng tự đem thân nộp mạng cho ta.
              Mấy người con Tống Phước Hiệp cũng thưa:
              - Cha nói vậy là nghĩa gì, chúng con không hiểu?
              Hiệp đáp:
              - Ta đã sai người dò xét tình hình quân địch. Chờ cho thám mã về bảo, các con khắc rõ.
              Vừa nói xong quân thám mã về bảo:
              - Thưa đại tướng quân, giặc Tây Sơn đang chưa bị bịnh mà định ngày tiến đánh quân ta.
              Hiệp vuốt râu bảo:
              - Đúng như điều ta dự đoán, Nguyễn Nhạc mượn tiếng tôn phò Đông cung, giả danh đánh Trịnh để ta không đề phòng rồi bất ngờ tiến đánh. Chúng tưởng ta cũng khờ khạo như Đông cung sao?
              Nói xong cười lớn. Tống Viết Nghĩa hỏi:
              - Thưa cha vậy ta nên liệu tính thế nào?
              Hiệp đáp:
              - Ta tương kế tự kế đánh cho chúng một trái không còn manh giáp.
              Nói rồi liền viết thư sai một tên quân đem sang ải Cù Mông báo cho quân Tây Sơn hẹn trong năm ngày sẽ rút quân về. Hiệp bảo Tống Viết Nghĩa rằng:
              - Tống Viết Nghĩa và Tống Viết Phước hai con lãnh một vạn tinh binh ra phía Bắc thành mai phục quân Tây Sơn từ ải Cù Mông tiến vào thì cứ để cho chung đi qua, đợi khi nào quân ta mở cổng thành giao chiến, hai con lập tức đánh vào sau lưng giặc.
              Tống Viết Phước và Tống Viết Nghĩa lãnh lệnh lui ra. Tống Phước Hiệp xuống lệnh:
              - Tống Phước Khương lãnh năm ngàn quân ra canh phòng ở cửa bể đề phòng chúng đánh ta bằng thuỷ binh. Tống Phước Lương ngày đêm cho quân canh phòng cẩn mật ở mặt Bắc thành, chúng chỉ có thể đánh ta bằng hai con đường ấy mà thôi.
              Nói về Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn nhận được thư của Tống Phước Hiệp mở ra xem nói:
              - Tống Phước Hiệp hẹn trong năm ngày sẽ kéo quân về Gia Định truất phế Định Vương Nguyễn Phúc Thuần. Vậy nhân lúc chúng không đề phòng ta bt ngờ tiến đánh ắt là toàn thắng.
              Nguyễn Huệ can rằng:
              - Xin đại huynh hay khoan. Nếu ta đem quân qua ải Cù Mông theo đường đại ộ đánh Phú Yên nhất định sẽ gặp quân mai phục của Tống Phước Hiệp.
              Huệ vừa dứt lời quân thám mã về báo:
              - Tâu Chúa công, Tống Phước Hiệp sai con là Tống Viết Nghĩa đem một vạn quân mai phục ở phí Bắc thành Phú Yên chờ quân ta đến thì đổ ra đánh. Tống Phước Khương đêm năm ngàn quân canh phòng mặt bể.
              Nghe xong Nhạc giật mình hỏi Huệ:
              - Sao em biết rằng Tống Phước Hiệp nhất định cho quân mai phục?
              Huệ đáp:
              - Tống Phước Hiệp là một lão tướng đa mưu túc trí. Hắn biết ta giả hoà để bất ngờ tiến đánh, nên tương kế tựu kế cho quân mai phục chờ ta tiến đánh rồi hai mặt giáp công.
              Lý Tài bước ra cười hỏi:
              - Nếu tướng quân đã biết thế thì sao còn giả kế giảng hoà, để quân Nguyễn càng cẩn mật đề phòng thì quân ta càng khó bề thủ thắng?
              Huệ cũng cười bảo:
              - Nhưng Tống Phước Hiệp chỉ đề phòng phía trước mặt mà không che chắn ở sau lưng. Tôi làm thế để chia quân của địch ra mai phục ở mặt Bắc ta thừa cơ đem binh tiến đánh phía sau lưng.
              Nhạc ngạc nhiên hỏi:
              - Em làm cách nào mà đánh được ở sau lưng quân Nguyễn?
              - Thưa đại huynh, ở phía Nam thành Quy Nhơn có một con đường núi của các bộ tộc người Thượng thông thương với nhau. Con đường này đi vòng qua phía tây ải Cù Mông vào đến thành Phú Yên. Nay ta bí mật theo đường này đánh lấy Phú Yên, chặn đường rút của một vạn quân Tống Viết Nghĩa mai phục. Khi ấy không những ta chiếm được Phú Yên mà con tiêu diệt được hai vạn quân Nguyễn đang uy hiếp ta ở mặt Nam. Ấy là kế giương Đông kích Tây, xin đại huynh xuống lệnh xuất quân.
              Lý Tài cười hỏi:
              - Nếu là giương Đông kịch Tay, thì ta làm kế ngh bình ở ải Cù Mông, rồi theo đường này mà đánh việc gì phải cho Đông cung làm kế giải hoà?
              Huệ ung dung đáp:
              - Lúc Tống Phước Hiệp đánh lấy Bình Thuận Diên Khánh, Phú Yên của ta, hắn cho thuỷ binh làm kế nghi binh nói phao rằng sẽ đem thuỷ binh đánh vào các cửa bể, khiến ta sợ quân mình lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch nên phải lui quân về giữ ải Cù Mông bỏ ba dinh cho quân Nguyễn, chứng tỏ Tống Phước Hiệp không phải là kẻ vô mưu. Nếu chỉ dùng kế kế nghi binh thường tình như Lý tướng quân nói sao lừa được Tống Phước Hiệp.
              Lý Tài lại cãi:
              - Nếu chỉ dùng kế nghi binh như tôi vừa nói, mà hắn không biết có con đường núi kia thì ắt chẳng đề phòng. Còn bây giờ dù có cho Đông cung Thế tử là kẻ giả hoà mà hắn biết có con đường núi ấy tất hắn lại càng đề phòng hơn nữa!
              Nguyễn Huệ cười lớn đáp:
              - Ta làm kế giả hoà để cho hắn đề phòng. Nay hắn đem một vạn quân mai phục ở mặt Bắc, để năm ngàn quân phòng thủ ở mặt Đông, trong thành còn lại năm ngàn quân. Chứng tỏ hắn không biết rằng ở phía Tây có con đường núi bí mật này. Ấy chẳng phải là biết người biết ta trăm trận trăm thắng đó sao?
              Lý Tài nghe xong không còn bắt bẻ vào đâu nữa. Nguyễn Thung bước ra nói:
              - Mưu của Nguyễn Huệ thật là diệu kế thập toàn. Xin Chúa công cho Nguyễn Huệ điều binh khiển tướng đánh trận này mới mong đập tan lực lượng của địch quân.
              Nguyễn Nhạc y lời nói:
              - Nay có đông đủ các tướng, ta phong Nguyễn Huệ làm chánh tướng điều binh khiển tướng. Có ai không phục chăng?
              Các tướng vui vẻ đồng thanh nói:
              - Chúng tôi đều phục!
              Chỉ có Lý Tài là chẳng nói gì. Nguyễn Huệ dõng dạc bước lên nhận gươm lệnh của Nhạc trao cho rồi quay lại lấy trong mình một phong thư gọi tên quân đến bảo:
              - Ngươi lập tức đến ải Cù Mông trao cho Nguyễn Lữ, Cứ y như trong thư ta dặn mà làm.
              Tên quân lãnh lệnh đi ngay. Huệ lại truyền:
              - Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đem hai mươi thớt voi kéo theo một trăm khẩu đại bác cùng năm trăm quân hoả hổ đi trước mở đường, ta sẽ đem đại binh tiếp ứng. Trận này nếu không tiêu diệt được hai vạn quân Nguyễn thề không về gặp mà Chúa công!
              Nói rồi hạ lệnh xuất quân. Năm ngàn quân Tây Sơn ngựa cất lạt người ngậm tăm, lặng lẽ theo đường núi tiến vào Phú Yên. Nguyễn Huệ chờ đến nửa đêm cho quân áp sát thành, quân Nguyễn vẫn không hề hay biết. Bố trận xong, Huệ hạ lệnh tiến quân. Quân Tây Sơn đặt đai bác nhằm cổng thành mà bắn. Cổng thành vỡ, Huệ cho bộ binh tràn vào tung hoả hổ đốt phá trại địch trong thành. Tống Phước Lương đang chia quân canh phòng cổng Bắc, bổng nghe phía Tây thành đại bác nổ ầm ầm, rồi thì lửa cháy rực trời, quân hò reo vang dậy, trống trận dậy dồn. Lương thất kinh hồn vía chạy vào thủ phủ tìm cha. Đến nơi thấy Tống Phước Hiệp vừa mặc giáp xong đang cầm thương lên ngựa. Hiệp lo âu hỏi:
              - Giặc từ đâu đánh thẻ?
              Lương hớt hải đáp:
              - Phía Bắc thành không nghe động tĩnh. Con vừa nghe súng nổ ở phía Tây thành vội chạy đến tìm cha ngay.
              Hiệp liền bảo:
              - Màu về phía ấy xem sao!
              Nói rồi ra roi thúc ngựa về phía Tây thành. Đến nơi thấy quân Tây Sơn đã tràn vào như thác lũ, còn quân mình bàng hoàng vừa tỉnh cơn mê, không biết đường nào chống đỡ hỗn loạn mà chạy, bị quân Tây Sơn chém giết rất nhiều.
              Cha con Tống Phước Hiệp liệu bề không chống lại bên quay ngựa nhắm cổng Nam thành mà chạy. Nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân đầu vấn khăn lụa, mình mặc áo bà ba, ngồi trên lưng voi một ngà trông thấy hét lớn:
              - Tống Phước Hiệp chạy đâu cho thoát!
              Hét xong giương cung lắp tên bắn một phát trúng tay trái Tống Phước Hiệp. Hiệp nghiến răng nhổ tên, nằm mọp trên lưng ngựa quất ngựa chạy dài. Trần Quang Diệu thúc ngựa xua quân đuổi theo. Hai tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Khoa Kiên khua đao rượt đánh Trần Quang Diệu cho Tống Phước Lương phò tá Hiệp chạy trước. Hiền và Kiên bị Trần Quang Diệu vung đại đao chém trong một lúc, đầu Hiền và Kiên cũng rơi xuống đất. Ra khỏi thành chỉ chừng chừng trăm tên quân chạy theo cha con Tống Phước Hiệp. Chạy về gần đến ải Vân Phong bỗng thấy một đạo quân từ trong đường hẻm kéo ra, Tống Phước Lương giật mình nhìn lại, thì ra anh mình là Tống Phước Khương. Khương chạy đến ôm Hiệp khóc, quỳ tạ tội rằng:
              - Cha bị nguy con không cứu kịp, đến nơi cha bị trọng thương, tội con đáng chết!
              Nói rồi hai anh em đỡ cha xuống ngựa nằm nghỉ dưới gốc cây bên vệ đường. Hiệp hỏi Khương:
              - Sao con về được đến đây?
              Khương đáp:
              - Con thấy lửa cháy ngút trời lại nghe súng nổ ầm ầm ở thành Phú Yên, biết có biến vội kéo quân về tiếp viện. Mới đến nửa đường gặp tàn quân của ta chạy đến nơi: Cha đã bỏ thành chạy về ải Vân Phong nên con bèn đi đường tắt đến đây.
              - Chẳng hay Việt Phúc và Việt Nghĩa đâu không thấy?
              Lương đỡ lời cha đáp:
              - Thưa đại ca, hai em ta đã đem một vạn quân mai phục ở phía Bắc thành. Nay quân Tây Sơn đã chiếm mất thành, tất hai em ta không còn đường lui, nếu giặc từ ải Cù Mông đánh ra e rằng hai em ta nguy mất!
              Tống Phước Khương liền nói với Tống Phước Lương:
              - Nhị đệ mau dìu cha về cố thủ ải Vân Phong, để ta đem năm ngàn quân đánh cứu hai em.
              Tống Phước Hiệp lúc ấy tuổi đã già lại bị thương máu ra nhiều sức đã kiệt, gắng gượng hỏi:
              - Tướng Tây Sơn điều khiển đánh trận này là ai?
              Khương đáp:
              - Thưa cha, nghe nói là Nguyễn Huệ em và Nguyễn Nhạc mời vừa hai mươi mốt tuổi.
              Hiệp nghe xong bảo:
              - Hai con hãy mau cho vài mươi người thân tín ở đường bể lẻn ra Quy Nhơn phao tin lên rằng quân Trịnh sắp đem quân vào đánh Quảng Ngãi. Nguyễn Nhạc tất gọi Nguyễn Huệ đem quân về đề phòng mặt Bắc.
              Tống Phước Khương y lời gọi quân đến dặn dò. Quân đi xong, Khương nói:
              - Xin cha cho con đem quân giải cứu hai em!
              Hiệp bảo:
              - Sau khi cha chết đi hai con lập tức đem tàn quân về giữ ải Vân Phong, không được liều lĩnh đánh nhau cùng Nguyễn Huệ. Các con không phải là đối thủ của nó. Con hai em con sống chết đánh phó thác cho trời không còn cách nào khác đâu!
              Nói rồi Hiệp than:
              - Ta đã hơn ba mươi năm làm tướng, nay đã quá tuổi lục tuần mà phải thua mưu của một thằng con nít miệng con hơi sữa, để đến nỗi bị một đứa con gái đuổi theo bắn trọng thương. Nhục nhã thay!
              Than xong lại khóc:
              - Hai con đi! Biết hai con đang nguy khốn mà đành bó tay không cứu được, lòng cha đau xót lắm thay!
              Nói rồi vừa đau thường vừa uất ức, Tống Phước Hiệp thổ huyết mà chết.
              Tống Phước Khương, Tống Phước Lương khóc rống một hồi, rồi đưa thi hài Tống Phước Hiệp và lui quân về ải Văn Phong.
              Trong đêm Nguyễn Huệ đem quân theo đường núi chuẩn bị đánh thành Phú Yên, thì Tống Viết Nghĩa và Tống Viết Phước mai phục ở phía Bắc thành, bỗng thấy quân Tây Sơn ở trên ải Cù Mông đánh trống dập dồn, đốt đuốc sáng rực. Tống Viết Nghĩa nói với Tống Viết Phước:
              - Cha của ta thật là thần cơ diệu toán, quân Tây Sơn quả nhiên trúng kế...
              Nói chưa dứt lại bỗng nghe ở phía thành Phú Yên súng nổ ầm ấm chuyển đất. Ngoảnh lại nhìn thấy lửa cháy sáng rực mây trời. Tống Viết Phước la lên:
              - Nguy rồi, ta đã trúng kế giương đông kích tây của giặc rồi. Anh em ta mau kéo binh về cứu cha.
              Việt Nghĩa nói:
              - Em đem năm ngàn quân đi trước, anh đem năm ngàn quân đi sau đoạn hậu đề phòng giặc ở Cù Mông đánh ra.
              Nói rồi liền quay ngựa hối hả dặn quân quay lại thành Phú Yên. Trời vừa hửng sáng, Việt Nghĩa đến nơi thì cửa thành đã mở toang, trong thành một đạo quân áo đỏ xông ra, đi đâu là ba viên dũng tướng, một viên tướng tuổi còn rất trẻ diện mạo khôi ngô quát lớn:
              - Có ta là Tây Sơn đại tướng Đặng Văn Long ở đây, sao các ngươi con chưa xuống ngay quỳ hàng?
              Tống Viết Nghĩa thất kinh than:
              - Thành đã mất về tay giặc rồi. Chẳng biết cha và anh ta sống chết ra sao! Chúng đánh bằng cách nào mà nhanh thế!
              Nói xong liều chết vung đao hò quân giáp chiến. Đặng Văn Long lướt ngựa khua kích rượt đánh. Quân Tây Sơn càng đánh càng hăng. Quân Nguyễn lòng đã hoang mang không còn tinh thần chiến đấu bị Tây Sơn giết chết vô số. Tống Viết Nghĩa đánh được mươi hiệp bị Đặng Văn Long vung kích chém chết. Quân Nguyễn vỡ tan bỏ chạy, tiếng khóc la vang trời dậy đất. Đặng Xuân Bảo và Đặng Xuân Phong thừa thắng xua quân đuổi theo. Văn Long ngăn lại nói:
              - Hai em đừng nên truy sát làm chi, để chúng chạy ra sẽ gặp nhị sư huynh Nguyễn Lữ từ Cù Mông kéo đến. Chúng cùng đường ắt phải xin hàng.
              Nói rồi lệnh cho quân, địch chạy đến đầu đuổi theo đến đấy không được giết hại.
              Nhắc lại tướng Nguyễn là Tống Viết Phước đi sau đoạn hậu, bỗng thấy tiền quân mình rối loạn, có tên quân đến bảo:
              - Thưa tướng quân, tướng quân Tống Viết Nghĩa đã tử trận. Hiện giặc đang đuổi theo truy sát.
              Phước thất kinh hồn vía bảo quân sĩ:
              - Phía Bắc có một vùng núi non hiểm trở mà chạy đến đấy mau!
              Phước dẫn quân chạy đến chân núi đã thấy quân Tây Sơn chặn đường. Tướng Tây Sơn là Nguyễn Lữ thét to:
              - Các ngươi không còn đường thoát thân, sao ngoan cố chưa chịu quy hàng.
              Tống Viết Phước hét lên rằng:
              - Ta dù bại binh cũng quyết sống mái một trận đời nào lại đi hàng lũ giặc các ngươi.
              Phan Văn Lân đang ở sau lưng Nguyễn Lữ nghe Phước gọi quân mình là giặc nổi giận vung thương thúc ngựa xông ra đánh nhau với Tống Viết Phước. Đánh mới vài hiệp Tống viết Phước vã mồ hôi hột. Thêm mặt Nam Đặng Văn Long đem quân đuổi đến dồn quân Nguyễn vào giữa vòng vậy. Trong cơn nguy khốn bỗng thấy từ trong núi một đạo binh trương cờ đề bốn chữ "Lương Sơn tá quốc", cầm đầu là bốn viên dũng tướng hùng hổ đánh vào sau lưng quân Tây Sơn. Vòng vây được mở, Tống Viết Phước liền thúc ngựa chạy về phía ấy. Phan Văn Lân thúc ngựa đuổi theo. Một viên tướng trong đạo quân Lương Sơn xông ra hét lớn:
              - Giặc Tây Sơn kia chớ giết hại binh triều, có ta là Châu Đoan Hãn đến đây!
              Hét xong hắn vung đao đón đánh Phan Văn Lân. Nhờ vậy Tống Viết Phước và vài trăm quân chạy thoát được về phía quân Lương Sơn. Châu Văn Tiếp bảo:
              - Phạm Văn Sĩ mau đưa Tống tướng quân lui về doanh trại, anh em ta ở lại chặn đánh giặc Tây Sơn.
              Nói vừa dứt lời ngoảnh lại đã thấy Châu Đoan Hãn bị Phan Văn Lân đâm một thương ngã nhào xuống ngựa. Châu Văn Tiếp hét lên một tiếng cùng em là Châu Đoan Chân lướt ngựa đến vây đánh Văn Lân. Nguyễn Lữ trông thấy liền sai Ngô Văn Sở vác đại đao xông ra trợ chiến. Quân Tây Sơn ồ ạt tiến lên. Châu Văn Tiếp liệu bề không chống nổi đành rút quân về sào huyệt trong núi Trà Lang. Quân Tây Sơn toàn thắng bắt được hàng binh và vũ khí rất nhiều. Đến rạng sáng hôm ấy, toàn phủ Phú Yên đều thuộc về Tây Sơn cả.
              Nguyễn Huệ chiếm được Phú Yên bèn hạ lệnh chiêu an bá tánh kêu gọi quân Nguyễn còn đang lần trốn ra đầu thú, cho quân nghỉ ngơi kiểm điểm binh mà định ngày tiến đánh ải Vân Phong.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #22
                Chương 19

                Cái số trời, Hoàng Ngũ Phúc mạng vong.
                Khuyên xuất quân, Nguyễn Huệ giá bệnh.


                Ngày ấy Nguyễn Nhạc ở thành Quy Nhơn nghe quân về báo:
                - Tâu Chúa công, tướng quân Nguyễn Huệ trong một đêm đã chiếm xong toàn phủ Phú Yên.
                Nguyễn Nhạc thở dài buột miệng nói:
                - Nguyễn Huệ thật là tài năng xuất chúng, ta không thể nào sánh kịp!
                Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
                - Nay ta đã phá được thế lưỡng đầu thọ địch của họ nhà Trịnh, Nguyễn, ấy là nhờ tài thao lược của Nguyễn Huệ. Chúa công nên vui mới phải sao lại thở dài?
                Nguyễn Nhạc giật mình cười đáp:
                - Ta thở dài bởi thương Huệ phải vì ta mà xông pha nơi hòn tên mũi đạn. Vả lại Huệ đem quân đánh Phú Yên, ngộ nhỡ quân Trịnh thừa cơ đánh Quảng Ngãi e rằng Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú ít quân không địch nổi thì sao!
                Vừa nói xong có quân vào báo:
                - Tâu Chúa công, có tin đồn rằng quân Trịnh nay mai sẽ tiến vào đánh Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Dân chúng trong thành ngoài phủ bàn tán xôn xao.
                Nguyễn Thung nghe xong nói:
                - Tống Phước Hiệp mới bại binh, hai vạn quân tan vỡ, quân Nguyễn sợ ta thừa thăng đánh thẳng vào Nam, nên mới bày kế này để ta triệu hồi Nguyễn Huệ đem quân về phòng thủ mặt Bắc để giải nguy cho chúng mà thôi. Xin Chúa công chớ vội tin.
                Nhạc nghiêm mặt hỏi:
                - Nếu ngộ nhỡ quân Trịnh thất tín đem quân đánh thật thì ông liệu thế nào?
                Thung không biết nói sao đánh nín thỉnh. Nhạc liền sai người vào Phú Yên gọi Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn. Huệ để Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lãnh hai ngàn quân ở lại giữ Phú yên. Lúc sắp kéo quân về Văn Sở hỏi:
                - Tướng quân cấp hai ngàn quân giao trọng trách cho chúng tôi giữ Phú Yên. Nếu quân Nguyễn từ Gia Định kéo đại binh ra đánh thì làm thế nào?
                Huệ đáp:
                - Quân Nguyễn sợ ta tiến đánh nên mới lập kế phao tin rằng quân Trịnh sắp sửa tiến đánh Quảng Ngãi. Đại huynh ta lầm kế của giặc nên mới triệu ta về. Năm ngàn quân của Tống Phước Khương ở ải Vân Phong còn chưa hoàn hồn. Tướng chúng dù muốn đánh, quân chỉ hòng chực chạy, binh như thế thì có đánh được ai? Còn quân của chúng ở Gia Định, ta sẽ đánh chúng trước khi chúng kịp chỉnh đốn binh mã. Các em không phải lo.
                Ngô Văn Sở nghi ngờ hỏi:
                - Tướng quân đánh địch ở Gia đình bằng cách nào?
                Huệ cười đáp:
                - Việc quân cơ không thể lộ. Nếu các em còn lo lắng, thì khi nào quân Nguyễn kéo đến các em hay bỏ Phú Yên về Quy Nhơn, ta xin chịu tội trước đại huynh.
                Ngô Văn Sở nói:
                - Nếu vậy chúng tôi an lòng trấn thủ Phú Yên.
                Phan Văn Lân xen vào hỏi:
                - Sao tướng quân không sai người về Quy Nhơn nói rõ kế của quân Nguyễn rồi thừa thắng đánh thẳng vào Nam, việc gì phải kéo đại quân về?
                Huệ lắc đầu bảo:
                - Chỉ có một người có thể nói được với đại huynh ta. Nay người ấy không còn, dù có nói cách nào đại huynh cũng chẳng nghe, lại còn cho ta là kháng lệnh thì nguy.
                Lân hỏi:
                - Dám hỏi tướng quân người nói cho Chúa công nghe được là ai?
                Huệ đáp:
                - Người ấy là thầy ta, Quân sư Trương Văn Hiến!
                Nói rồi Nguyễn Huệ đem ba ngàn quân rút về Quy Nhơn. Đến Quy Nhơn, Huệ ra mắt Nguyễn Nhạc, hỏi:
                - Quân ta đang thắng sao đại huynh lại triệu hồi em về?
                Nhạc vô vai Huệ thân mặt nói:
                - Ta nghe dân chúng đồn rằng quân Trịnh sẽ đem quân vào đánh Quảng Ngãi, Quy Nhơn, nên mới gọi em về phòng khi hữu sự
                Huệ nắm tay anh thân mật bảo rằng:
                - Lúc trước Trịnh Sâm phong đại huynh làm Tây Sơn hiệu trưởng bảo ta đánh quân Nguyễn. Nay đại huynh nên sai người sang Trịnh báo tin thắng trận rồi dò la động tĩnh thế nào?
                Nhạc khen phải và viết thư sai Nguyễn Thung đi sứ sang Trịnh.
                Nguyễn Thung sang đất Quảng Nam yết kiến Hoàng Ngũ Phúc nói:
                - Thưa đại tướng quân, Nguyễn hiệu trưởng đánh tan hai vạn quân chúa Nguyễn ở Phú Yên, sai tờ dâng thư báo tiệp cũng đại tướng quân.
                Phúc tiếp thu xem xong vui vẻ nói:
                - Hay lắm! Ta vâng lệnh Tĩnh Đô Vương kéo quân vào đây cốt là đánh Nguyễn. Nay hiệu trưởng đã đánh được chúng, ta kéo quân về trấn thủ Thuận Hoá, phong Nguyễn hiệu trưởng làm đại trấn thủ ba dinh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
                Nguyễn Thung mừng rỡ tạ ơn. Nguyễn Hữu Chỉnh nói đùa rằng:
                - Hôm ấy Nguyễn Huệ hẹn trong mười hôm sẽ phá được Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay đã trễ hẹn một ngày lại không có lời xin lỗi với ta sao?
                Nguyễn Thung nửa đùa nửa thật đáp lại:
                - Tướng quân Nguyễn Huệ đánh tan hai vạn quân Tống Phước Hiệp chiếm đất Phú Yên chí trong ba ngày, một ngày từ Phú Yên về Quy Nhơn báo tiệp, ba ngày tới từ Quy Nhơn đến Quảng Nam, tướng quân tính xem có đúng không nào?
                Nói rồi cáo biệt ra về. Nguyễn Thung đi xong, Chỉnh hỏi Phúc:
                - Nguyễn Nhạc ngoài mặt hoà ta đánh Nguyễn nhưng trong lòng vẫn muốn làm vua một cõi, sao thượng tướng quân bỏ đất Quảng Nam cho hắn?
                Phúc vuốt râu cười bảo:
                - Quân ta hiện đang bị bệnh dịch tả lỵ chết mà mấy ngàn người, số còn lại đều gầy còm suy nhược. Vả lại ta vừa nhận được thư của quan đại học sĩ Lê Quý Đôn, cho toa thuốc của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, ông ấy khuyên ta nên rút quân khỏi vùng đất bị địch tả lỵ. Nhất cứ lưỡng tiện ta mà giao đất Quảng Nam cho Tây Sơn để ban ơn cho Nguyễn Nhạc.
                Nói rồi liền sai quân tìm ba vị thuốc là Thuỷ tinh thảo, Lệ trường thảo và Mã sĩ thảo cho quân sĩ uống. Quân uống vào nội nhật hôm ấy liền cầm chứng tả lỵ ngay. Quân sĩ trầm trồ khen:
                - Hay quá thuốc tiên! Hai Thượng Lãn Ông thật là thần y xưa nay hiếm có.
                (Từ ấy về sau thiên hạ truyền nhau bài thuốc này để chữa bệnh tả lỵ, đi người ra máu mủ rất là thần hiệu, bằng ba loại cỏ mộc khắp nước Nam: Thuỷ tinh thảo là cỏ sữa, Lệ trường thảo là có mực, Mã sĩ thảo là rau sam).
                Hoàng Ngũ Phúc thấy quân mình bớt bệnh liền hỏi các tướng đến thương nghị. Phúc nói:
                - Nay quân ta nhờ bài thuốc tiên của thần y Hải Thượng Lãn Ông mà bớt bệnh. Ta định thôi không rút binh khỏi Quảng Nam nữa, đợi quân ta dưỡng sức khỏe mạnh như xưa, rồi nhân lúc Nguyễn Nhạc dồn toàn lực đánh nhau với quân Nguyễn ở phương Nam ta xuất kỳ bất ý tiến đánh Quảng Ngãi ắt là toàn thắng. Các ngươi thấy thế nào?
                Phúc vừa dứt lời bỗng nghe trong bụng đau quặn thắt, Phúc ôm bụng rên la ngã vật ra đất, các tướng hoảng hốt vội dìu Phúc ra hậu dinh tĩnh dưỡng. Ngày hôm ấy Hoàng Ngũ Phúc đi tả lỵ triền miên. Quân hấu lấy ba vị thuốc Thuỷ tinh thảo, Lệ trường thảo, Mà sĩ thảo cho Phúc uống, suốt ba ngày không khỏi. Các tướng xúm lại hối hận. Hoàng Đình Thể buột miệng nói:
                - Bài thuốc này hàng vạn quân bị bệnh uống và tức khắc khỏi ngay, sao đại tướng quân uống đã ba ngày mà không khỏi bệnh?
                Phúc mệt mỏi hỏi:
                - Các ngươi thấy màu nắng ngoài trời thế nào?
                Nguyễn Hữu Chỉnh đáp:
                - Mấy ngày trước thời tiết trong sáng. Ngày nay khí trời bỗng trở nên nóng bức, màu năng vàng vọt như có sương mù che phủ.
                Phúc bảo:
                - Các tướng hay lệnh cho quân sĩ chuẩn bị quân trang. Rạng sáng ngày mai lập tức rút binh về Phú Xuân!
                Các tướng vâng lệnh ra đi. Hoàng Ngũ Phúc than:
                - Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thật là trời đã giúp cho quân Tây Sơn rồi vậy!
                Ngày hôm sau Hoàng Ngũ Phúc nằm trên xe, Hoàng Đình Bảo theo sau hộ tống. Quân Trịnh người mạnh cáng người bệnh lục đục bỏ Quảng Nam rút về Phú Xuân. Về đến Phú Xuân, Hoàng Ngũ Phúc mất, thọ bảy mươi tuổi. Hoàng Đình Bảo, Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ, Nguyễn Hữu Chỉnh, sai quân đưa linh cữu về Thăng Long. Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương thương tiếc vô cùng, mai táng rất là trọng thể, rồi sai Bùi Thế Đạt vào thay Hoàng Ngũ Phúc làm trấn thủ giữ đất Thuận Hoá.
                Lại nói đến Nguyễn Thung về tới Quy Nhơn nói với Nguyễn Nhạc:
                - Hoàng Ngũ Phúc bỏ đất Quảng Nam cho ta, lui về trấn thủ tại ải Hải Vân trở ra Thuận Hoá. Tôi nghĩ hắn chẳng có bụng tốt gì, chẳng qua vì quân Trịnh bị địch tả lỵ mà chết rất nhiều nên mới bỏ đất ấy mà thôi.
                Nghe Thung nói xong, Nhạc vùng ôm mặt khóc lớn. Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
                - Quân Trịnh bị địch tả lỵ mà chết, Ngủ Phúc rút khỏi Quảng Nam ấy là trời giúp ta. Chúa công nên mừng mới phải, sao lại khóc?
                Nhạc nghẹn ngào không nói được. Các tướng đều ngơ ngác nhìn nhau. Nguyễn Huệ ứa nước mắt nói:
                - Các vị chưa rõ do thôi. Nguyên trước lúc lâm chung thầy tôi có khuyên đại huynh nên rút khỏi Quảng Nam, bỏ đất ấy cho quân Trịnh. Thầy xem khí tượng đoán biết rằng, sang mùa hè nhất định quân Trịnh bị bệnh dịch tả lỵ mà chết rất nhiều tự khắc sẽ lui binh. Nay quả đúng như vậy, nên đại huynh tôi thương thầy mà khóc đây thôi.
                Nghe Huệ nói, Nhạc càng khóc lớn, kêu lên:
                - Quân sư ơi! Quân sư!
                Mọi người trông thấy đều bùi ngùi rơi lệ! Nguyễn Huệ bước ra nói:
                - Xin đại huynh hãy vì việc nước mà nén lại tin riêng. Nay quân Trịnh đã rút khỏi Quảng Nam, tướng Trịnh chỉ có Hoàng Ngũ Phúc có tài, nay Phúc ở chết thì mặt Bắc ta không còn lo gì nữa. Xin đại huynh hay kíp cho quân vào Gia Định đánh chúa Nguyễn Định Vương chiếm lấy toàn cõi Nam Hà, xây dựng lực lượng để chờ ngày đem quân Bắc tiến.
                Nhạc lau nước mắt đáp:
                - Việc ấy thì không phải vội gì. Quân ta từ ngày khởi bình đến nay chinh chiến triền miên, nên cho tướng sĩ nghỉ ngơi dưỡng sức, đợi đến mùa đông gió bắc thổi mạnh, ta sẽ đem quân theo hai đường thuỷ bộ vào bắt chúng nào có muộn gì!
                Nói xong Nhạc truyền bãi triều.
                Nói về Lý Tài sau ngày Tập Đình chết, biết mình không còn được Nguyễn Nhạc tin dùng trong lòng buồn bực. Hôm ấy trên đường về tư dinh Lý Tài bỗng gặp Đông cung Nguyễn Phúc Dương xăm xăm đi đến, Tại chặn lại hỏi:
                - Thế tử đi đâu mà gấp thế?
                Dương hầm hầm nói:
                - Ta đến hỏi Nguyễn Nhạc xem, Tống Phước Hiệp đã thuận ý đem quân về Gia Định truất phế Nguyễn Phúc Thuần để Nguyễn Nhạc rảnh tay đem quân ra đánh Trịnh, cớ sao lại thừa cơ Tống Phước Hiệp không phòng bí mật đem quân đánh lấy Phú Yên?
                Lý Tài cười hỏi:
                - Thế tử lấy quyền gì mà bắt bẻ Chúa công tôi?
                Dương gằn giọng đáp:
                - Ta là Đông cung Thế tử, thiên hạ theo Nguyễn Nhạc vì Nguyễn Nhạc phò ta. Theo lệ ấy là nghĩ chúa tôi, ta lại không bắt lỗi Nguyễn Nhạc được sao?
                Lý Tài ôm bụng cười ngặt nghèo. Dương giận lắm hỏi:
                - Ngươi cười gì mãi thế?
                Lý Tài vụt nín cười đáp:
                - Tôi cười Thế tử tuổi nhỏ ngây thơ, lần trước Chúa công tôi nhận sắc phong của họ Trịnh bị Thế tử quở, Chúa công tôi không dám nói gì vì còn nhờ Thế tử lừa Tống Phước Hiệp để sai tướng quân Nguyễn Huệ đánh lấy Phú Yên. Nay Tống Phước Hiệp đã thua binh mà chết, hai vạn quân còn lại mấy ngàn người về giữ ải Vân Phong. Bảy giờ thì Chúa công tôi đâu cần đến Thế tử nữa. Nếu Thế tử không biết phận mình nói chẳng giữ lời, lỡ Chúa công tôi nổi giận thì nguy.
                Nguyễn Phúc Dương giật mình nói:
                - Nghe ông nói ta mời vỡ lẽ. Ta đã bị anh em Nhạc Huệ lợi dùng, ví như bù nhìn bị giam lòng mà thôi! Xin cảm ơn ông!
                Nói rồi Nguyễn Phúc Dương quay lưng toan ra về. Lý Tài gọi lại hỏi:
                - Thế tử bị người ta giam lỏng để lợi dụng cũng đành chịu thế ư?
                Dương dò xét đáp:
                - Ta như cá chậu chim lồng biết phải làm sao. Còn ông là tay chân của Nguyễn Nhạc sao hỏi ta những lời ấy?
                Lý Tài kéo Phúc Dương đến chỗ kín đáo sụp lậy nói:
                - Chẳng giấu gì Thế tử, tôi vốn chiêu mộ được hơn ngàn nghĩa sĩ. Nghe Nguyễn Nhạc tôn phò Đông cung nên mới đem quân theo giúp. Nào ngờ Nguyễn Nhạc mưu định bá đồ vương, giam lỏng Thế tử để lại dùng. Lâu nay tôi đã biết bụng Nguyễn Nhạc, nhưng hắn chưa để lộ hành tung, nên tôi dù thường kính Thế tử cũng khó mở lời. Nay Nguyễn Nhạc đã lộ mặt giả nghĩa tôn phò, sớm muộn cũng hại đến Thế tử, xin Thế tử hay khá giữ mình, chờ khi nào có dịp tôi sẽ đưa Thế tử vào Gia Định cùng nhau khôi phục cơ đồ.
                - Tôi có một kế khiến Nguyễn Nhạc không thể hại để Thế tử được. Chẳng hay Thế tử muốn nghe chăng?
                Phúc Dương vội hỏi:
                - Kế thế nào xin ông chỉ bảo!
                Lý Tài mỉm cười đáp:
                - Nguyễn Nhạc có một người con gái tên là Thọ Hương, nhan sắc hơn người nhưng bản chất thật thà, Thế tử cứ làm như vậy... như vậy.. Nguyễn Nhạc tất không nghi ngờ gì mà hại đến Thế tử.
                Dương mừng rỡ nói:
                - Thật là diệu kế! Nếu không gặp ông chỉ vẽ thì tôi nguy mất. Gặp được ông là trời giúp ta vậy!
                Nói rồi hai người chia tay nhau.
                Hôm sau Nguyễn Phúc Dương đến tư dinh Nguyễn Nhạc. Dương lừa lúc thuận tiện nói:
                - Nghe nói tướng quân có một người con gái tên là Thọ Hương tuổi vừa đôi tám nhan sắc hơn người. Xin tướng quân hãy nhận tôi làm nghĩa tế.
                Nhạc dò hỏi:
                - Quân ta vừa đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp chiếm đất Phú Yên, Thế tử đã biết chưa?
                Phúc Dương vui vẻ đáp:
                - Việc này tôi có biết. Nhưng ấy là do Tống Phước Hiệp giả vờ nghe lời tôi về Gia Định phế Người Phúc Thuần, rồi lại cho quân mai phục. Tướng quân đã biết việc ấy nên mới đánh đuổi Tống Phước Hiệp đi. Nhưng việc ấy tướng quân đều vì tôi mà làm cả tôi sao trách được tướng quân.
                Nguyễn Nhạc nghe xong mừng rỡ nói:
                - Cảm ơn Thế tử hiểu được lòng tôi. Mai sau định yên xã tắc, cả giảng sơn này đều là của Thế tử thì có xá gì một đứa con gái mà tôi dám không vâng lời.
                Đường cung mừng rỡ nói:
                - Vậy khi nào tướng quân cho phép thành thân?
                Nhạc đáp:
                - Xin Thế tử hay thư thả, đợi khi nào thu phục được kinh đô, Thế tử lên ngôi chúa, thì Thế tử và Thọ Hương làm lễ thành thân cũng chẳng muộn gì. Nếu bây giờ hai người tác hợp tôi e thiên hạ dị nghị rằng tôi dùng mỹ nhân kế để mê hoặc Thế tử chăng?
                Phúc Dương suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
                - Tướng quân nói rất phải, nhưng mai sau xin chớ quên lời!
                Nói rồi bái biệt ra về. Từ ấy về sau Nguyễn Dương thường say mê tửu sắc, lấy việc săn bắn ngoạn cảnh làm vui, không bàn đến việc đại sự. Nguyễn Nhạc thấy thế nghĩ rằng Dương đã tin tưởng mình, không nghi ngờ gì cả.
                Đến mùa đông năm ấy Nguyễn Huệ không nghe Nguyễn Nhạc nói gì đến việc vào Gia Định đánh Nguyễn, nhân lúc thiết triều Huệ hỏi Nhạc:
                - Lần trước đại huynh bảo đợi đến mùa đông gió Bắc thổi mạnh sẽ đem quân theo hai đường thuỷ bộ vào Gia Định đánh Nguyễn. Nay đã gần hết mùa đông sao không nghe đại huynh nói gì đến việc xuất binh?
                Nhạc đáp rằng:
                - Uớc nguyện của ta lúc khởi binh ở Tây Sơn Thượng là làm vua một cõi của ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên. Nay đã được như thế là thoả mãn lắm rồi, việc gì phải chém giết chinh chiến làm chi cho nhọc sức!
                Huệ thất kinh sụp lạy tâu:
                - Thưa đại huynh, chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định xuống hịch cần vương, chiêu binh mãi mã thu nạp nhân tài, ngày đêm rèn luyện sĩ tốt mưu toan khôi phục cơ đồ. Nếu ta không đành họ, ắt họ đến đánh ta, thì sự thanh bình của nhân dân ba phủ liệu có còn chăng? Vả lại đất Gia Định phì nhiêu màu mỡ lương thảo dồi dào, nếu họ Nguyễn xây dựng lực lượng đối địch cùng ta, em e rằng ba phủ nhỏ bé này không thể sánh kịp. Xin đại huynh suy xét lại.
                Nhạc lại nói:
                - Nhưng ải Vân Phong dễ giữ khó đánh. Ai giữ ải này một có thể chống lại trăm. Nay ải Vân Phong về tay quân Nguyễn, ta làm sao tiến binh được.
                Huệ liền thưa:
                - Thưa đại huynh, việc này em đã tính từ trước nên mới sai Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc ngày đem luyện tập thuỷ binh. Nay quân ta đầy đủ có thuyền to, súng lớn, em xin đem thuỷ binh theo đường bể vào cửa Cần Giờ đánh thành Sài Côn rồi tiến quân ra đánh Trấn Biên, Bình Thuận, Diên Khánh. Ấy là ta không cần phải vượt ải Vân Phong mà vẫn bình định được một dải đất Nam Hà. Xin đại huynh chớ nên chậm trễ.
                Nguyễn Nhạc lưỡng lự hỏi:
                - Nhưng ngộ nhỡ ta kéo đại binh vào Nam, quân Trịnh thừa cơ xâm phạm mặt Bắc thì làm sao trở tay kịp?
                Huệ luận rằng:
                - Chính vì lẽ ấy, nên em mới xin đại huynh đừng nên chậm trễ mà lỡ mất thời cơ. Nay quân Trịnh vì bị dịch tả lỵ chết mấy ngàn người, họ xem Quảng Nam là vùng đất chết, không dám xâm phạm, lại thêm Hoàng Ngũ Phúc vừa mới mất, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ không màng đến việc binh nhung. Ấy là trời giúp ta rảnh tay đập đổ nhà Nguyễn làm bàn đạp cho việc thống nhất sơn hà về sau. Xin đại huynh đừng bỏ lỡ thời cơ.
                Các tướng cũng đứng lên nói:
                - Lời Nguyễn Huệ tướng quân rất phải. Xin Chúa công xuống lệnh xuất quân, chúng tôi hết lòng đánh giặc.
                Nguyễn Nhạc thấy các tướng đồng lòng thế mà vẫn tìm cớ thoái thác:
                - Nay đã gần đến tết nguyên đán cũng chưa vội gì. Đợi ăn tết xong ta sẽ hạ lệnh xuất quân.
                Nói rồi truyền bãi triều. Ra ngoài các tướng lấy làm lạ hỏi nhau:
                - Vì cớ gì Chúa công lại không muốn xuất binh?
                Có người bàn rằng:
                - Hay vì Chúa công đã nhận Đông cung làm có rể nên ngài đánh Nguyễn sẽ mất lòng Đông cung?
                Kẻ khác lại bảo:
                - Vô lý! Đánh Phúc Thuần trả ngôi chúa cho Đông cung thì sao lại mất lòng Đông cung được? Có lẽ Chúa công ngại Trịnh đánh thình lình nên không dám để quân vào Nam đánh Nguyễn?
                Bỗng Đặng Văn Long tủm tỉm cười nói:
                - Việc này chỉ có đại sư huynh tôi mới xin được Chúa công xuất lệnh xuất quân.
                Mọi người đều bảo:
                - Văn Long nói lạ! Tướng quân Nguyễn Huệ đã mấy lượt khẩn cầu mà Chúa công vẫn không chấp thuận kia mà!
                Long cười đáp:
                - Bởi đại sư huynh tôi không biết cách nói mà thôi!
                Nói xong liền tìm gặp riêng Nguyễn Huệ, Long nói:
                - Tôi có một kế khiến Chúa công lập tức xuất quân!
                Huệ buồn bã nói:
                - Kẻ của tứ đệ ta đã biết. Có phải Lòng bảo ta giả bệnh thì đại huynh lập tức sai người khác vào đánh Gia Định chăng? Nhưng không có ta đi thi làm sao bắt được Nguyễn Phúc Thuần? Vả lại đại sư huynh vừa nói là sau tết Nguyên đán sẽ hạ lệnh xuất quân. Nên kẻ này phải sau tết mới thực hiện được để tránh tiếng cho đại sư huynh ta.
                Văn Long vong tay bái Nguyễn Huệ rồi nói:
                - Tài trí và lòng trung nghĩa của đại sư huynh thật đáng để Văn Long tôi kính phúc lắm thay!
                ***
                Mùng năm tết Nguyên đán năm sau Nguyễn Lữ đến báo cùng Nguyễn Nhạc:
                - Thưa đại sư huynh, anh Huệ đi du xuân ngã ngựa, hai chân bị trặc đi lại không được.
                Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Lữ đến thăm Nguyễn Huệ. Nhạc ân cần hỏi:
                - Em đi chơi thế nào để đến nỗi này? Có đau lắm không em?
                Huệ cầm tay Nhạc ứa nước mắt đáp rằng:
                - Chỉ có một chấn thương nhỏ mà anh đã lo lắng cho em như vậy, lòng em cảm động vô cùng.
                Nói rồi ba anh em chuyện trò rất là thân mật. Bỗng Nhạc hỏi:
                - Nay ta định cho quân vào Gia Định đánh Nguyễn em bị thương thế này làm sao xuất binh cho được?
                Nguyễn Lữ xen vào nói:
                - Anh Huệ bị thương không đi được, đại huynh khinh em Lữ này bất tài sao?
                Nhạc đáp:
                - Ta không bảo rằng em bất tài. Nhưng em hàng ngày làm việc thường không cẩn thận. Nay em lãnh mạng mang quân đi đánh đất người, ta lấy làm lo lắm.
                Huệ cười thưa:
                - Đại huynh cứ để cho Nguyễn Lữ cầm quân đánh giặc. Em xin tiến cử một người theo giúp thì không phải lo gặp điều gì sơ sót.
                Nhạc hỏi:
                - Ngươi ấy là ai?
                Huệ đáp:
                - Ngươi này cũng là học trò của thầy cũng với em và Nguyễn Lữ là huynh đệ đồng môn. Ấy là tứ sư đệ Đặng Văn Long.
                Nguyễn Lữ mừng rỡ nói:
                - Nếu có Đặng Văn Long đi cũng thì lo gì không thắng quân Nguyễn.
                Vừa nói xong bỗng nghe ngoài ngõ xôn xao tiếng người. Thì ra các tướng Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Trương Văn Đa, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong và mưu sĩ Nguyễn Thung nghe tin Huệ bệnh kéo nhau đến thăm. Huệ nói:
                - Vừa nhắc Văn Long, Văn Long đã đến. Việc đánh Nguyễn xin đại huynh thiết triều hãy nói, chớ bàn ở nơi này.
                Các tướng vào đến, anh em chúa tôi nói vui vẻ chuyện đời thường. Đợi mọi người về hết cả Đặng Văn Long nói với Nguyễn Huệ:
                - Tôi xem cách cư xử thấy Chúa công tỏ ra ra thương yêu đại sư huynh. Chúa công là người khoan dung độ lượng với kẻ dưới, nhưng lại đố kỵ với kẻ tài đức hơn mình. Thật đáng tiếc thay!
                Huệ làm thinh không nói gì!
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #23
                  Chương 20

                  Bị vây ấp Hoà Hưng, Văn Lộc to gan nên toàn thắng.
                  Làm chủ thành Sài Côn, Nguyễn Lữ nhụt chí lui binh.


                  Mùa xuân năm Bính Thân (1776) niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi bảy, Nguyễn Nhạc thấy Nguyễn Huệ bệnh không ra trận được liền sai Nguyễn Lữ làm chánh tướng, Đặng Văn Long làm phó tướng cũng các đô đốc là Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong lãnh một trăm đại thuyền, thuỷ binh một vạn theo đường biển rầm rộ kéo vào Gia Định.
                  Lúc chiến thuyền quân Tây Sơn chạy quá mũi Đại Lãnh, Tống Phước Khuông đứng trên ải Vân Phong nhìn ra bể thấy cờ bay đỏ nước, chiến thuyền lớp lớp ào ào rẽ sóng. Tống Phước Khuông thất kinh nói với Tống Phước Lương:
                  - Quân Tây Sơn lấy đâu ra chiến thuyền to lớn thế? Nay chúng định kéo vào Gia Định đánh thành Sài Côn chăng? Nếu vậy thì chúa ta nguy mất!
                  Nói xong liền gọi vài tên quân đến bảo:
                  - Các ngươi hay lập tức phi ngựa ngày đêm vào thánh Bình Thuận báo cho tổng trấn Nguyễn Văn Hoằng gấp đem quân về Gia Định cứu chúa, không được chậm trễ.
                  Quân lãnh lệnh đi ngay. Tống Phước Lương thở dài nói:
                  - Quân Tây Sơn thật là lợi hại, chúng thấy ải Vân Phong đèo cao hiểm trở khó lòng đánh thắng, nên mới đem thuỷ binh vượt biển bất ngờ tiến đánh Gia Định. Chúa ta chắc không lường trước ắt chẳng đề phòng. Đúng như lời cha ta đã nói, anh em Nhạc, Huệ, Lữ không phải là kẻ tầm thường.
                  Nói xong Khuông truyền quân đêm ngày canh phòng cẩn mật ải Vân Phong.
                  Ngày ấy nơi nội điện trong thành Sài Côn, chúa Nguyễn Định vương bảo các quan văn võ:
                  - Ta từ ngày bỏ kinh thành chạy vào đây để ngày lo việc khôi phục cơ đồ. Ta đã xuống hịch cần vương thu nạp hiền sĩ, chiêu binh mãi mã. Kế đến là nghe lão tướng quân Tống Phước Hiệp bại binh ở Phú Yên mà chết. Hai con là Khuông và Lương đem ta quân về giữ ải Vân Phong phủ Diên Khánh. Ta nghe lời Đăng Trường sai Nguyễn Văn Hoằng đem quân ra giữ ải Bình Thuận để làm thành viện cho Khuông và Lương. Từ ấy đến nay không thấy quân Tây Sơn động binh là cớ làm sao?
                  Nguyễn Đăng Trường đáp lại Định Vương:
                  - Thân nghe nói trước lúc chết lão tướng quân Tống Phước Hiệp cho người ra Quy Nhơn phao lên rằng, quân Trịnh sắp đem quân vào đánh Quảng Ngãi. Nguyễn Nhạc liền triệu hồi Nguyễn Huệ đem đại binh về Quy Nhơn phòng quân Trịnh đánh tới. Vì lẽ ấy nên quân Tây Sơn không tiến đánh ải Vân Phong.
                  Định vương bùi ngùi nói:
                  - Thương thay cho Tống lão tướng quân đến lúc chết còn bày ra diệu kế đuổi quân Tây Sơn phải rút binh về. Tống lão tướng quân tài giỏi thế, sao lại lầm mưu thua binh với Nguyễn Huệ. Tĩnh Điệp Hầu được Nguyễn Huệ thả cho đi, khanh thấy hắn là người thế nào?
                  Bằng Trường dè dặt đáp:
                  - Thần đã gặp người này nên có biết Nguyễn Huệ vừa mới hai mươi mốt tuổi mà võ nghệ tuyệt luân, sức mạnh vô cùng, giỏi dụng binh, tinh thông thao lược làm mưu nhiều kế lại có tại hùng biện. Về sau các tướng đối địch với Nguyễn Huệ nên thận trọng mới được!
                  Vừa nói xong bỗng nghe quân hớt hải chạy vào báo rằng:
                  - Kính Chúa thượng, thuỷ binh Tây Sơn vượt bể vào cửa Cần Giờ đang tiến đến gần đến Thị Nghè. Quân đồn trấn sai về cấp báo cùng Chúa thượng!
                  Bình Vương rụng rời tay chân nói:
                  - Ta đã sai Nguyễn Văn Hoằng đem quân trấn thủ Bình Thuận để làm thành viên cho Tống Phước Khuông đang giữ ải Vân Phong. Không ngờ chúng lại đem thuỷ binh vào đánh. Nay trong thành chỉ có mấy ngàn quân, biết phải làm sao?
                  Nguyễn Đăng Trường nói:
                  - Đồn Thị Nghè án ngữ đường sông, là cửa ngõ của thành Sài Côn. Đồn Thị Nghè mất, Sài Côn không thế giữ nói. Vậy Chúa thượng hay cho Nguyễn Nghi đem ba ngàn quân ra cố thu dọn Thị Nghè, chân đường tiền của quân Tây Sơn. Đông thơi sai người đem chiều lệnh đến hai đình Long Hồ và Trấn Biên mang quân về cứu giá.
                  Định Vương nghe lời sai Nguyễn Nghi lập tức xuất quân. Nguyễn Nghi vâng lệnh dẫn quân đến đồn Thị Nghè thì đã thấy quân Tây Sơn đem thuyền chiến đến dàn kín sông phía trước mặt thành. Nguyễn Nghi lệnh cho quân bắn cung và súng trường xuống thuyền Tây Sơn.
                  Tên đạn quân Nguyễn bay ra như cát vãi. Tướng tiền quân Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết liền cho lui thuyền ra khỏi tầm tên quân Nguyễn, rồi hạ lệnh tấn công. Súng đại bác ở trên thuyền quân Tây Sơn ầm ầm nhả đạn, tiếng nổ rền trời. Quân Nguyễn trên mặt đồn đang bắn tên xuống bỗng nghe súng Tây Sơn nổ vang như sấm sét, các điếm canh trên mặt đồn trúng đạn đều đổ cả. Quân Nguyễn hồn phí phách tán quăng súng, cung mà chạy. Nguyễn Nghi thấy quân mình hoảng sợ rùng rùng tháo lui liền rút gươm ra hét:
                  - Ba quân quay lại liều chết mà đánh, kẻ nào sợ chạy, chém!
                  Nói rồi vung gươm chém chết vài tên quân. Bỗng một viên đạn đại bác rồi nhằm lưng ngựa Nguyễn Nghi đang cưỡi. Ngựa ngã quỵ hất Nghi ngã nhào xuống đất. Bá quan thấy thế lại càng kinh hãi cùng nhau tháo chạy, Nguyễn Nghi không biết làm sao đành hoà trong đám loạn quân chạy về thành Sài Côn. Quân Tây Sơn đổ bộ xong lên chiếm đồn Thị Nghè.
                  Chạy về ra mắt chúa Định Vương, Nguyễn Nghi hớt hải tâu:
                  - Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn, bạn và đồn Thị Nghè quân ta không chống nổi. Xin Chúa thượng trị tội.
                  Đăng Trường nói:
                  - Đồn Thị Nghè mất, thành này không thể nào giữ nổi. Chúa thượng hãy mau bỏ Sài Côn lui về Trấn Biên cũng quan trấn thủ Hồ Văn Lân, rồi gọi Nguyễn Văn Hoằng từ Bình Thuận đem quân về hợp sức. Sau đó do ta mất chiếu sai trấn thủ Long Hồ là Lê Văn Quân đem quân đánh ra, ta từ Trấn Biên đánh vào, quân Tây Sơn ắt phải lui binh khỏi thành Sài Côn.
                  Trường vừa nói xong đã nghe súng đại bác Tây Sơn nổ ầm ầm ở mặt Đông thành. Chúa tôi vội dẫn quân ra cửa Bắc thành chạy về Trấn Biên. Quân Tây Sơn toàn thắng. Nguyễn Lữ vào thành Sài Côn ra lệnh chiêu an bá tánh, cấm quân lính không được xâm phạm của dân. Đặng Văn Long bàn:
                  - Nhị sư huynh hãy ở lại giữ thành Sài Côn, sai Tuyết và Lộc chia thuỷ binh giữ các ngả sông. Tôi xin đem năm ngàn quân đuổi theo Nguyễn Phúc Thuần đánh thành Trấn Biên (Biên Hoà). Rồi kéo rốc ra đánh lấy Bình Thuận, Diên Khánh ắt là bắt được chúa tôi Nguyễn Phúc Thuần, khi ấy một dải đất từ Quảng Nam đến Phiên Trấn đều thuộc về ta cả. Xin nhị sư huynh thuận cho.
                  Nguyễn Lữ lắc đầu nói:
                  - Việc ấy có hai điều chưa thể làm được!
                  Long lấy làm lạ hỏi:
                  - Hai điều chưa được là hai điều gì?
                  Lữ đáp:
                  - Điều thứ nhất là nếu tứ sư đệ kéo quân ra Trấn Biên thì quân Nguyễn từ Long Hồ đánh ra Sài Côn Tuyết và Lộc dù giỏi thuỷ chiến nhưng không rành địa hình sông ngòi chằng chịt ở đất Gia Định e rằng bất lợi. Điều thứ hai là quân ta chiếm được đồn Thị Nghè và Sài Côn dễ dàng vì Phúc Thuần điều binh ra giữ Bình Thuận, Diên Khánh đề phòng ta ở Quy Nhơn đánh chúng bằng đường bộ, nên quân trấn thành Sài Côn không còn được bao nhiều. Nay chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy ra Trấn Biên ắt gọi Nguyễn Văn Hoằng từ Bình Thuận đem quân vào cứu viện. Chúng tất phòng bị sẵn sàng không dễ gì đánh được.
                  Đặng Văn Long nói:
                  - Việc tranh thắng bại ở trận tiền cốt ở lòng can đảm. Nay quân ta khí thế đang hăng muôn lòng như một, chỉ một hồi trống là hạ được thành Sài Côn. Xét việc tam sư huynh Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú chỉ có hai ngàn quân mà đánh lui một vạn quân Trịnh của Hoàng Đình Thể hồi năm trước, xem thế đủ biết tinh thần chiến đấu quan trọng như thế nào. Vả lại quân Nguyễn ở thành Sài Côn yếu, thì quân ở Long Hồ không thể nào mạnh được. Bởi thành Sài Côn là cửa ngõ của Long Hồ không có lý gì Văn Tuyết và Văn Lộc lại ngại thế giặc ở Long Hồ. binh chúng có mạnh chẳng là từ Trấn Biên trở ra đến Bình Thuận, Diên Khánh. Về mặt này Văn Long tôi xin đảm nhận trọng trách, xin nhị huynh chớ ngại.
                  Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc cũng nói:
                  - Lời Văn Long rất phải, xin tướng quân cho chúng tôi ra trận lập công.
                  Nguyễn Lữ do dự hồi lâu nói:
                  - Các đệ đã quyết thế thì hãy về kiểm điểm binh mã, rạng sáng ngày mai xuất trận. Còn phần ta sẽ mở kho lương phát chẩn cho dân nghèo. Ấy là đúng với câu binh pháp, chiếm thành không bằng chiếm lòng dân vậy!
                  Đặng Văn Long can:
                  - Việc ấy không nên!
                  Lữ ngạc nhiên hỏi:
                  - Quân Tây Sơn ta từ lúc khởi binh đến nay ở đến đâu đều phát chẩn cho dân nghèo nên thường họ đều theo phục. Nay ta cũng làm theo cách ấy để thu phục lòng dân, sao Văn Long lại bảo không nên?
                  Long đáp:
                  - Nhân dân ở các phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Quảng Nam, bị quan lại cướp bóc thậm khổ nên khi ta phát chẩn người người đều hưởng ứng. Còn ở đất Gia Định này, đồng ruộng phì nhiêu, lúa thóc làm một mùa ăn ba năm không hết. Xuống sông thường là bắt được cá, ra vườn với tay là bắt được chim. Nhà nhà đều lúa thóc đầy bồ thì làm gì có người nhận phát chẩn của ta.
                  Lữ cười bảo:
                  - Văn Long nói sai rồi! Lòng tham con người vốn sâu không đáy. Như vua quan nhà Nguyễn dinh thự đồ sộ, vàng bạc gấm lụa đầy rẫy, cao lương mỹ vị rượu ngon gái đẹp rất là dư dả sao còn thả sức vơ vét của nhân dân? Vậy dân chúng trong thành Sài Côn đã được dư dật như thế chưa mà không nhận phát chẩn của ta?
                  Nói rồi liền sai quân thông báo cho dân trong thành được biết và mở kho lương lập tức phát chẩn. Quả như lời Văn Long nói, kho lương mở từ sáng đến tối chỉ có vài người đến nhận thóc. Nguyễn Lữ liền triệu các tướng đến nói:
                  - Nhân dân ở thành Sài Côn không nhận phát chẩn, chứng tỏ ta không được sự ủng hộ của bá tánh lòng dân đã như vậy e rằng khó giữ được thành, còn nói gì đến việc đem quân đi đánh Trấn Biên, Bình Thuận. Theo ý tôi, ta nên lấy hết lương thực ở trong thành rút về Quy Nhơn bẩm báo cho đại huynh được biết rồi sẽ liệu sau.
                  Đặng Văn Long can:
                  - Tôi đã dự đoán trước nhân dân đất Gia Định không nhận phát chẩn của ta bởi nhà nhà đều cơm no áo ấm, chứ chưa hẳn là bá tánh ở đất Gia Định ở chống đối lại ta. Nay ta cho người truyền hịch đi các nơi rõ nghĩa tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đánh đổ Định vương Nguyễn Phúc Thuần rồi sau ở sẽ tiến binh ra đánh thành Trấn Biên, Bình Thuận thì lo gì thiên hạ không phục. Nếu bây giờ ta lấy hết thóc gạo rút về Quy Nhơn e rằng thiên hạ bảo ta là quần cướp mà thôi. Xin nhị sư huynh xét lại.
                  Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong đồng thanh nói:
                  - Lời Văn Long rất phải!
                  Nguyễn Lữ thấy các tướng đồng lòng lại gật đầu bảo:
                  - Vậy ta hay sai quân mau mau truyền hịch nói rõ nghĩa tôn phò.
                  Bấy giờ ở đất Tam Phụ ngoại thành Sài Côn thuộc dinh Phiên Trấn, có một người tên là Đỗ Thành Nhân, giỏi võ nghệ có tài thao lược, lợi dụng vùng sông ngòi chằng chịt, cây cối um tùm ở đất Tam Phụ, Đỗ Thành Nhân ứng nghĩa cần vương chiêu binh mãi mã ước năm ngàn người để chống nhau với quân Tây Sơn. Thánh Nhân lại dựng cờ thêu hai chữ "Đông Sơn" tỏ ý đối nghịch với Tây Sơn.
                  Ngày ấy nghe tin quân Tây Sơn đi truyền hịch các nơi nói nghĩa tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương đánh đổ Định vương Nguyễn Phúc Thuần, Nhân nổi giận nói:
                  - Quân Tây Sơn kia lợi dụng Đông cung giả nghĩa tôn phò dối gạt thiên hạ. Từ khi chúa bỏ kinh thành chạy vào Gia Định truyền hịch cần vương, ta chiêu binh mãi mã đợi ngày phò vua tá quốc, nay giặc Tây Sơn lại vào chiếm thành Sài Côn. Đây là lúc ta đánh giặc lập công với nước trả ơn vua.
                  Nói rồi liền sai anh em Võ Nhân, Võ Tánh đem một ngàn quân làm tiên phong, Đỗ Thành Nhân dân đại binh đi sau nhằm thành Sài Côn thẳng tiến. Đến cách thành Sài Côn chừng mười dặm, bỗng thấy mấy người dân gồng gánh từ phía thành đi tại. Thành Nhân gọi lại hỏi:
                  - Các ngươi là dân nơi nào, gồng gánh đi đâu thế?
                  Dân đáp:
                  - Chúng tôi là dân trong thành Sài Côn. Mấy hôm trước quân Tây Sơn chiếm được thành, tướng Tây Sơn là Nguyễn Lữ mở kho lương phát chẩn cho dân nghèo. Mấy người chúng tôi đến nhận thóc của quân Tây Sơn, về nhà bị hàng xóm mắng nhiếc thậm tệ lấy làm xấu hổ nên rủ nhau về quê sinh sống.
                  Dân nói xong bỏ đi. Võ Tánh hiến kế:
                  - Quân Tây Sơn phát chẩn là muốn chiếm lòng dân. Nay ta dùng kế điệu hổ ly sơn ắt là phá được chúng.
                  Võ Tánh kề tai Đỗ Thành Nhân nói nhỏ:
                  - Cười tướng cứ làm như vậy... như vậy...
                  Thành Nhân khen:
                  - Thật là diệu kế. Võ Tánh còn nhỏ tuổi mà đa mưu túc trí, về sau ắt làm nên danh tướng.
                  Nói rồi xuống lệnh:
                  - Võ Nhân đem một ngàn quân mai phục ở cánh rừng phía Đông ấp Hoà Hưng, Đỗ Nhàn Trập một ngàn quân mai phục ở cánh rừng phía Tây ấp Hoà Hưng. Ta cùng Võ Tánh đem ba ngàn quân vào trong ấp chờ giặc.
                  Hôm sau có mấy người dân vào thành Sài Côn thưa cùng Nguyễn Lữ:
                  - Thưa tướng quân, gần đây có tên cướp tên là Đỗ Thành Nhân quy tụ lâu la hàng ngàn người thường ngày vào thôn ấp cướp phá hãm hiếp dân lánh. Chúng tôi không bao giờ sống được yên ổn. Quan quân nhà Nguyễn ươn hèn không dẹp được, nay nghe tướng quân mến dân nhờ tướng quân cho người đánh cướp cứu dân.
                  Nguyễn Lữ liền hỏi:
                  - Hiện giờ bọn chúng đang ở đâu?
                  Dân đáp:
                  - Bọn chúng hiện đang cướp ở ấp Hoà Hưng huyện Bình Dương ở phía Nam thành Sài Côn.
                  Nguyễn Lữ hỏi các tướng:
                  - Nay dân đang gặp cướp bóc vậy ai xung phong đánh cướp cứu dân.
                  Nguyễn Văn Tuyết bước ra nói:
                  - Tôi xin đi!
                  Nguyễn Văn Lộc cũng bước ra nói:
                  - Tôi xin cùng Tuyết tướng quân đánh cướp cứu dân.
                  Nguyễn Lữ liền cấp cho Tuyết và Lộc hai ngàn quân lập tức ra ngoài thành đến ấp Hoà Hưng đánh cướp (Quận X Sài Côn ngày nay). Tuyết và Lộc dẫn quân đến cánh đồng trong đầu làng bỗng nghe một phát súng nổ vang, từ trong làng một đạo binh hùng hổ xông ra, đi đầu là hai viên đại tướng cùng lá cờ đề hai chứ "Đông Sơn". Nguyễn Văn Tuyết dừng ngựa vểnh râu quát hỏi:
                  - Các ngươi là giặc cướp phương nào dám vào làng nhiễu hại lương dân?
                  Viên tướng ấy cười to bảo:
                  - Ta là Đông Sơn Đỗ Thành Nhân dấy binh đánh giặc Tây Sơn giúp chúa. Các ngươi đã trúng kế điệu hổ ly sơn của ta, sao còn chưa xếp giáp quy hàng?
                  Đỗ Thành Nhân nói vừa dứt lời bỗng nghe ngoài rừng hai bên cánh đồng pháo lệnh nổ vang, quân reo inh ỏi. Hai đạo quân từ trong rừng xông ra vậy quân Tây Sơn vào giữa. Nguyễn Văn Tuyết nói với Nguyễn Văn Lộc:
                  - Giặc ba mặt vây ta vào giữa, tình thế rất nguy tôi và ông phải liều chết phá vây chạy về thành!
                  Lộc tức giận đấm ngực nói.
                  - Từ ngày tới theo Chúa công đến nay chỉ huấn luyện thuỷ binh ở Quy Nhơn chưa được đánh trận nào. Nay trận đầu ra quân mà bại trận thì còn mặt mũi nào nhìn ba quân tướng. Dù có rút binh về cũng phải hàng ngũ chỉnh tề, đánh chúng một trận cho đáng mặt anh hùng, dù chết cũng cam.
                  Tuyết nói:
                  - Vậy tôi và ông chia làm hai mặt vừa đánh vừa lui.
                  Nói rồi Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy hậu quân làm tiền quân quay lại phá vây. Nguyễn Văn Lộc chỉ huy tiến quân làm hậu quân đi sau đoạn hậu. Hai bên đánh nhau rất dữ dội tiếng hò reo vang dậy góc trời. Tiền quân Nguyễn Văn Tuyết vung sống đao đánh cùng Võ Nhân, Đỗ Nhàn Trập không nè nào nung. Quân Tây Sơn cùng đường lông lên như hổ dữ, đánh vẹt quân Đông Sơn phá vòng vây. Nguyễn Văn Tuyết dùng hết sức bình sinh vùng sống đao cũng một lúc chém Võ Nhân và Đỗ Nhàn Trập. Hai tướng Đông Sơn đưa đao lên đỡ, chẳng ngờ Nguyễn Văn Tuyết chém mạnh quá Võ Nhân và Đỗ Nhàn Trập bủn rủn tay chân, ngựa lui liền mấy bước. Nguyễn Văn Tuyết thừa cơ thoát được, dẫn quân nhằm hướng thành Sài Côn mà chạy. Chạy được một đoạn quay lại không thấy Nguyễn Văn Lộc đâu, Tuyết bảo bá quan:
                  - Tướng quân Nguyễn Văn Lộc đi sau đoạn hậu cho chúng ta chạy thoát, hiện ông ấy con bị vây trong trận. Các ngươi hãy cũng ta chỉnh đốn hàng ngũ quay lại liều chết giải vây. Không cứu được Lộc tướng quân thề quyết không về.
                  Quân Tây Sơn dạ ran, sắp xếp đội ngũ theo Nguyễn Văn Tuyết quay lại ấp Hoà Hưng. Khi ấy Nguyễn Văn Lộc đang dũng mãnh đánh cùng Đỗ Thành Nhân và Võ Tánh. Nguyễn Văn Lộc không chút sợ hãi đánh liền nửa canh giờ. Thành Nhân và Võ Tánh đổ mồ hôi hột lui ra. Lộc thấy tiền quân Nguyễn Văn Tuyết đã ra khỏi vòng vây bèn thúc ngựa đuổi theo hai tướng Đông Sơn. Đỗ Thành Nhân thất kinh quát:
                  - Ba quân chặn giết tướng giặc cho ta!
                  Quân Đông Sơn vây Nguyễn Văn Lộc vào giữa. Lộc lồng lên như mãnh hổ vung trường thương tả xung hữu đột giết quân Đông Sơn thây nằm lớp lớp. Lộc tháo thắt lưng vung lên làm hiệu, tiền quân Tây Sơn trông thấy hiệu lệnh, liền chia nhau lập thành một vòng tròn khép kín, giữa vòng vây Đông Sơn như một bức thành đồng. Quân Đông Sơn thấy quân Tây Sơn can đảm phí thường, không dám giáp chiến. Đỗ Thành Nhân lệnh quân xạ tiến. Quân Đông Sơn bốn mặt bắn tên như mưa. Quân Tây Sơn dùng khiên mà đỡ chẳng mảy may thương tích. Có tên quân hỏi Nguyễn Văn Lộc:
                  - Sao tướng quân không ra lệnh phá vây. Đến tối quân ta đói khát sao địch nổi giặc?
                  Lộc lăm lăm trường thương đáp:
                  - Các ngươi chớ lo, Nguyễn Văn Tuyết dẫn quân quay lại tức thì. Đánh lui giặc ta mới quay về.
                  Vừa dứt lời bỗng thấy vòng vây quân Đông Sơn phía Bắc hỗn loạn. Nguyễn Văn Tuyết dẫn đoàn quân Tây Sơn xung trận. Võ Nhân và Đỗ Nhàn Trập ngăn không nổi dẫn quân chạy vào hai cánh rừng. Nguyễn Văn Lộc trông thấy liền thúc ngựa hô quân tiến về phía Đỗ Thành Nhân mà đánh. Thành Nhân thấy trận mình đã vỡ bèn thúc trống thu quân vào trong ấp Hoà Hưng. Đỗ Thành Nhân nói với mọi người:
                  - Quân Tây Sơn thiện chiến, tướng Tây Sơn đều mạnh lại giỏi dùng quân, thế mới biết hữu mưu vô dũng cũng không giành phần thắng được!
                  Võ Tánh bước ra nói:
                  - Quân Tây Sơn hữu dũng ta không thể diệt chúng được. Tôi xin hiến một kế có thể khiến Nguyễn Lữ rút quân khỏi thành Sài Côn.
                  Đỗ Thành Nhân hỏi:
                  - Kế thế nào Tánh hay nói ta nghe thử xem?
                  Võ Tánh kề vai Nhận nói nhỏ:
                  - Chủ tướng hay làm như vậy... như vậy. Nguyễn Lữ ắt sẽ mà bỏ Sài Côn rút về Quy Nhơn. Chủ tướng vào thành Sài Côn rồi cho người đi rước chúa về, thì công đầu không phải của chủ tướng thì công ai vào đây nữa?
                  Nhận mừng rỡ khen:
                  - Thật là diệu kế!
                  Nói rồi liền viết một phong thư sai người tâm phúc mang đi ngay.
                  Phần Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Lộc thu quân về thành Sài Côn, dọc đường Tuyết hỏi Lộc:
                  - Tôi đã phá được vòng vây sao ông không chịu lui quân?
                  Lộc cười đáp:
                  - Có thể ông mới đem quân quay lại liều chết mà đánh lui được giặc. Dù không diệt được chúng, ta cũng thắng trận trở về.
                  Nói xong hai tướng Tây Sơn cũng cười vang. Vào thành Sài Côn nghe Tuyết kể xong Nguyễn Lữ khen:
                  - Lộc tướng quân trí dũng song toàn thật đáng khâm phục. Xin hỏi tướng quân, binh pháp nào đã dàn quân thành vòng tròn giữa vòng vây giặc?
                  Lộc cười đáp:
                  - Tướng quan há chẳng biết rằng võ roi ở xứ Quy Nhơn ta có thế võ còn gọi "Trâu dằn" là bắt chước của loài trâu đó sao?
                  Lữ lấy làm lạ hỏi:
                  - Thế võ "Trâu dằn" người Quy Nhơn ai mà không biết. Nhưng có liên quan gì đến việc lập trận này?
                  Lộc lại cười đáp:
                  - Việc nhỏ này cần gì đến binh pháp, lúc nhỏ tôi nhà nghèo vào rừng chăn trâu cho nhà giàu trong núi Kỳ Sơn. Tôi quan sát thấy mỗi lần gặp cọp hay sói, trâu đều vây thành vòng tròn nghênh sừng ra trước cọp và sói đều không dám vào. Tôi chỉ bắt chước trò luyện quân lập trận ấy mà thôi!
                  Đặng Văn Long cười to nói:
                  - Đỗ Thành Nhân mà nghe ông nói chắc phải xấu hổ chết mặt thời!
                  Các tướng đều cười rất vui vẻ, Nguyễn Văn Lộc nói:
                  - Ngày mai tôi cùng Tuyết tướng quân xin đem quân đến ấp Hoà Hưng dẹp lũ giặc Đông Sơn mới hả dạ.
                  Lộc vừa dứt lời có quân thám mã về báo:
                  - Chúng tôi đi do thám ngoài thành gặp một tên gian tế, tên này thấy quân ta liền bỏ chạy, chúng tôi bắn tên giết chết, lục trong người thấy có mật thư xin trình lên tướng quân.
                  Nguyễn Lữ tiếp thư xem xong băn khoăn nói:
                  - Thư này của quân trấn thủ Long Hồ là Lê Văn Quân gửi cho chúa Định Vương. Quân bảo rằng đã cầu viện được vua Cao Miên đem binh sang giúp. Chưa hẹn ngày xuất binh, Lê Văn Quân từ Long Hồ dẫn ra, Định Vương từ Trấn Biên đánh vào, Cao Miên từ hướng Tây đánh xuống. Thành Sài Côn của ta ba mặt thọ địch, thật là nguy khốn. Theo tôi ta nên bỏ thành Sài Côn rút về Quy Nhơn để bảo toàn lực lượng, bẩm báo cùng đại huynh rồi sẽ liệu sau.
                  Đặng Văn Long can:
                  - Theo tôi nước Cao Miên và nước Tiêm La xưa nay thường đánh lẫn nhau luôn. Quân Cao Miên yếu thế nước mình còn lo không giữ được, lẽ đâu lại đem qua giúp cho nhà Nguyễn. Ấy chẳng qua là kế của giặc mà thôi, xin nhị sư huynh xét lại chớ vội lui quân.
                  Nguyễn Văn Lộc hăng hái nói:
                  - Dù chúng có sang thật, ta lại sợ chung sao? Tướng quân cứ cho Nguyễn Văn Tuyết trấn mặt Nam thành, Đặng Văn Long tiến đánh Trấn Biên, tôi xin đem quân án ngữ mặt Tây, tướng quân và Đặng Văn Bảo, Đặng Xuân Phong giữ thành tuỳ tình hình mà đem quân tiếp viện, thì có sợ gì chúng.
                  Lữ nói:
                  - Chẳng phải là ta sợ giặc. Nhưng lẽ được thua là cốt ở lòng dân. Nay dân trong thành không nhờ phát chẩn của Tây Sơn ta, ngoài thành thì kẻ vô danh như Đỗ Thành Nhân cũng chiêu mộ được mấy ngàn binh mã đối địch cùng ta. Xem thế đủ biết lòng dân ở đất Gia Định này không phục Tây Sơn ta. Mà kia quân Nguyễn kéo đến nhân dân đều nhất tề theo giặc thì ta làm thế nào?
                  Văn Long bàn rằng:
                  - Đỗ Thành Nhân chiêu binh mãi mã lúc Định vương mới vào Sài Côn xuống hịch Cần vương. Nhân dân ở Gia Định chỉ nghe lời nhà chúa mà không biết chính nghĩa của ta, nên ta mới chiếm Sài Côn đã không nhận thóc phát chẩn. Nay ta đã truyền hịch tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương. Binh ta quân kỷ nghiêm minh, không mảy may xúc phạm của dân đã phần nào chứng tỏ là đạo binh nhân nghĩa. Thiên hạ còn bán tín bán nghi ắt khoanh tay chờ có xem hư thực thế nào mà thôi. Về mặt nhân hoà binh ta chưa hẳn là thất thế, ấy là một lẽ. Nói về thực lực, quân Nguyễn đánh đâu thua đó, tướng lãnh bất tài, lòng quân nao núng ắt không phải là đối thủ của ta, ấy là hai lẽ. Quân Cao Miên là người man rợ nếu đem binh sang giúp nhà Nguyễn tắt sanh lòng đạo tặc mà cướp bóc của dân khiến lòng người sẽ ngả về ta, ấy là ba lẽ. Xét ba điều ấy, ta nên đánh chứ chẳng nên lui.
                  Nguyễn Lữ lại bảo:
                  - Lúc xuất quân đại huynh có căn dặn ta rằng đánh Sài Côn lần này là để phá rối hậu cứ của quân Nguyễn, không cho chúng điều binh ra đánh Phú Yên. Nay Nguyễn Văn Hoằng từ Bình Thuận đem quân về Trấn Biên viện binh cho chúa Định Vương là đã đúng với ý đồ chiến lược của ta. Vậy ta đã hoàn thành sứ mạng sao chẳng rút binh về? Đất Gia Định không có núi non hiểm trở, nếu ở lâu nơi thành Sa Côn trơ trọi này ngộ nhỡ có điều sơ sảy e mắc tội với đại huynh. Ý ta đã quyết Văn Long đừng nói nữa!
                  Nói xong truyền quân lấy hết lương thực trong thành ước trăm vạn hộc, xuống thuyền rút bình về Quy Nhơn. Lúc quân kéo buồm nhổ neo, Nguyễn Văn Tuyết nói:
                  - Tướng quân Nguyễn Lữ là người không quyết đoán, thật đáng tiếc thay!
                  Đặng Văn Long than:
                  - Nếu đại sư huynh Nguyễn Huệ đi chuyến này thì bình đất Gia Định như trở bàn tay. Thật là đáng tiếc!
                  Quân Tây Sơn rút đi rồi, Đỗ Thành Nhân đem quân vào thành Sài Côn không mặt một mũi tên hòn đạn. Thành Nhân liền cho người đi mời chúa Định Vương.
                  Định Vương đem Hoàng thân quốc thích về lại thành Sài Côn, phong Đỗ Thành Nhân làm Tổng trấn Sài Côn kiêm phụ chính. Chúa chia các tướng trấn giữ các nơi ở đất Gia Định. Mạc Thiên Tứ trấn thủ Hà Tiên, Lê Văn Quân trấn thủ thành Trường Đồn. Hồ Văn Lân trấn thủ thành Trấn Biên. Nguyễn Văn Hoằng trấn thủ thành Bình Thuận. Tống Phước Khuông trấn thủ thành Diên Khánh. Tống Phước Lương đón trấn ải Vân Phong. Nguyễn Nghi trấn đồn Thị Nghè. Chúa Định Vương chiêu binh mãi mã mà trong lòng vẫn canh cánh tiêu diệt quân Tây Sơn, đêm ngày lo toan việc khôi phục cơ đồ.
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #24
                    Chương 21

                    Quấy Gia Định, Nguyễn Huệ dựng mưu sâu.
                    Hiềm Lý Tài, Đỗ Thành Nhân làm phản


                    Lại nói về Nguyễn Lữ không nghe lời can gián của Đặng Văn Long kéo quân về thành Qui Nhơn báo cáo tình hình Gia Định cho Nguyễn Nhạc. Nghe Lữ nói xong, mưu sĩ Nguyễn Thung bước ra thưa:
                    - Nay Chúa Nguyễn Định Vương ngày đêm xây dựng lực lượng mưu toan việc khôi phục cơ đồ. Nếu ta không đập đổ nhà Nguyễn ở phương Nam, đợi khi binh của chúng mạnh lên ắt Tây Sơn ta lại lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch của hai nhà Trịnh – Nguyễn như hồi năm trước thì nguy. Xin Chú công hãy gấp lệnh cho Nguyễn Huệ đem đại binh vào Gia Định lần nữa. Lần này phải chiếm hết toàn cõi đất Nam Hà, bắt cho được Định Vương Nguyễn Phúc Thuần để trừ hậu hoạ. Ấy là việc nên làm.
                    Nguyễn Nhạc thấy các tướng sĩ đều mến phục Nguyễn Huệ, trong lòng không muốn, còn đang lưỡng lự thì Nguyễn Huệ bước ra nói:
                    - Theo tôi việc ấy không nên làm!
                    Thung ngạc nhiên hỏi:
                    - Vì lý do gì tướng quân lại bảo việc đánh Nguyễn ở Nam Hà là không nên làm?
                    Huệ đáp:
                    - Vừa rồi Hoàng Ngũ Phúc mất, Chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào làm trấn thủ đất Thuận Hoá, lại sai quan văn là Lê Quí Đôn cùng vào lo việc trị dân. Bùi Thế Đạt là một lão tướng ở Đàng Ngoài. Năm Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi, chính Bùi Thế Đạt đã đem quân dập tắt cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật ở Trấn Ninh, Nghệ An. Còn Lê Quí Đôn đã từng khuyên Trịnh Sâm đem đại binh đánh ta, lúc ta xin hoà với Trịnh để đánh tướng Nguyễn là Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay họ Trịnh sai hai người này vào trấn thủ Thuận Hoá, Phú Xuân là có ý dòm ngó Tây Sơn ta. Vả lại quân Trịnh ở Phú Xuân còn những mấy vạn, ta không nên sơ xuất mà đem đại binh vào đánh Nguyễn ở phương Nam, để đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc.
                    Thung lại hỏi:
                    - Thế sao tháng trước tướng quân lại xin cho Nguyễn Lữ đem đại quân vào Nam Hà đánh Nguyễn?
                    Huệ cười nói:
                    - Thế của Tây Sơn ta là lưỡng đầu thọ địch, cho nên việc hành binh của ta phải tốc chiến tốc thắng mới có thời gian đối phó kịp thời với địch ở hai mặt Bắc Nam. Lúc Nguyễn Lữ kéo đại binh đi, quân Trịnh vừa rút khỏi Quảng Nam, binh lính bệnh hoạn mệt mỏi, chúng lo rằng ta thừa cơ tiến đánh còn nói gì đến việc đánh người khác. Nhưng lúc này tình hình quân Trịnh đã đổi khác ta không thể không đề phòng.
                    Thung lo âu hỏi:
                    - Nếu không đánh Nguyễn lúc này sớm muộn gì chúng chẳng đánh ta?
                    Huệ đáp:
                    - Tôi có một kế không cần phải động binh có thể làm hao mòn lựu lượng của quân Nguyễn và làm rối loạn đất Gia Định khiến chúng không thể nào dòm ngó đất Phú Yên của ta được!
                    Nguyễn Nhạc liền hỏi:
                    - Kế thế nào Huệ nói mau xem?
                    Huệ ung dung đáp:
                    - Kế của tôi là thả hổ về rừng!
                    Đặng Văn Long xen vào nói:
                    - Ngày xưa thời Tam Quốc, Lưu Bị mượn câu: “Thả hổ dễ, bắt hổ khó” để xui Tào Tháo giết Lã Bố. Trong binh pháp chỉ nghe kế “Điệu hổ ly sơn” là dụ hổ rời núi chứ chưa từng nghe nói kế thả hổ về rừng là gì. Đại sư huynh hãy nói rõ hơn xem.
                    Huệ giảng giải rằng:
                    - Từ ngày Tập Đình thua quân Trịnh ở Hải Vân quan, phạm vào cam đoan trạng bỏ trốn về Tàu, Lý Tài biết mình không được đại huynh tin dùng. Lý Tài ở với quân ta khác nào cọp ở trong lồng. Nay ta thả Lý Tài ra, ắt Lý Tài theo về cùng chúa Nguyễn Định Vương. Ấy chính là kế thả hổ về rừng đó.
                    Nguyễn Nhạc thắc mắc hỏi:
                    - Thả Lý Tài cho Nguyễn là thêm vây cánh cho địch, sao ta lại dùng kế ấy?
                    Huệ chậm rãi thưa:
                    - Hiện Lý Tài còn hai ngàn quân bản bộ toàn là người Tàu thiện chiến, lại thêm Lý Tài tánh kiêu ngạo tham quyền. Đỗ Thành Nhân vừa mới lập công, được chúa Nguyễn phong làm Tổng trấn Sài Côn kiêm phụ chính, nay lại thấy kẻ khác tranh quyền với mình nhịn sao cho nổi. Nay ta thả Lý Tài vào Gia Định chắc chắn Lý Tài và Đỗ Thành Nhân sẽ sinh ra bất hoà mà chém giết lẫn nhau. Ấy là kế thả hổ về rừng cho hai hổ tranh nhau vậy.
                    Nguyễn Thung nói:
                    - Nếu đúng như vậy thì thật là độc kế. Nhưng ngộ nhỡ Lý Tài hạ mình theo về với giặc hợp sức đánh ta thì sao?
                    Huệ lắc đầu đáp:
                    - Lý Tài bất đắc dĩ hết lương thực mới theo về cùng ta. Con người của Lý Tài luôn nuôi trong đầu mộng bá vương, nay trong tay có hai ngàn quân dưới trướng đời nào chịu ở dưới quyền kẻ khác. Nếu Lý Tài và Đỗ Thành Nhân không chém giết lẫn nhau tôi xin dâng đầu mình trước án. Xin đại huynh chớ ngại.
                    Nguyễn Nhạc gật đầu nói:
                    - Lâu nay ta nuôi Lý Tài khác nào nuôi ong tay áo, Lý Tài không có tội gì giết đi thì sợ mang tiếng với thiên hạ. Nhưng phải thả Lý Tài bằng cách nào?
                    Huệ hiến kế:
                    - Đại huynh cho gọi Lý Tài đến nói như vầy... ắt Lý Tài tin ngay. Thế là ta đã thả được Lý Tài rồi đó!
                    Nguyễn Nhạc liền cho quân mời Lý Tài đến, Nhạc nói:
                    - Ta vừa nghe tin quân Nguyễn sắp đem quân theo hai đường thuỷ bộ tiến đánh Phú Yên. Bộ binh của ta đã có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân chỉ huy, nhưng ở Phú Yên chưa có thuỷ binh. Vậy phiền tướng quân đem quân bản bộ đi đường thuỷ vào trấn giữ mặt bể. Chẳng hay tướng quân có vui lòng chăng?
                    Lý Tài nghe qua mừng thầm trong bụng nhưng không dám lộ ra mặt giả vờ nói:
                    - Nuôi quân ba năm dụng một giờ. Lâu nay tôi chịu ơn sâu của Chúa công, có gì cần Chúa công cứ sai bảo, tôi dù nhảy vào lửa cũng chẳng dám từ nan.
                    Nói xong Lý Tài lãnh lệnh đi ngay. Giong buồm ra ngoài cửa bể, Lý Tài ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi. Tả hữu hỏi:
                    - Tướng quân cười gì mãi thế?
                    Lý Tài phấn khích đáp:
                    - Ta nghe nói Nguyễn Huệ nhìn thấu được lòng người, nay mới biết là hữu danh vô thực. Nếu Huệ hiểu lòng người ắt can Nguyễn Nhạc không cho ta vào trấn Phú Yên. Thật là Nhạc, Huệ phen này đã thả hổ về rừng.
                    Nói rồi Lý Tài truyền quân không cho thuyền ghé Phú Yên mà chạy thẳng vào Gia Định, Sài Côn. Lý Tài đóng thuỷ binh tại cửa Cần Giờ rồi sai người tâm phúc đến thành Sài Côn yết kiến Định Vương. Sứ giả vào thành gặp Định Vương nói:
                    - Thần là sứ giả của tướng quân Lý Tài. Chủ tướng thần muốn theo phò chúa thượng đánh giặc Tây Sơn. Mong được chúa thượng dung nạp!
                    Định Vương dò hỏi:
                    - Lúc Tây Sơn làm loạn, Lý Tài ở dưới trướng Nguyễn Nhạc nay vì sao lại phản Nguyễn Nhạc theo về với ta?
                    Sứ giả đáp:
                    - Lúc ấy do Trương Phúc Loan chuyên quyền làm lắm đều tàn bạo, Nguyễn Nhạc giả tiếng tôn phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đánh đổ Quốc phó Trương Phúc Loan. Lý tướng quân tưởng thật mới đem quân theo giúp Nguyễn Nhạc. Nay Nguyễn Nhạc rước được Đông cung Dương về, lại giam lỏng ở thành Qui Nhơn, không nói gì đến việc tôn phò, nên Lý tướng quân mới bỏ Nguyễn Nhạc đem hai ngàn quân bản bộ vào theo về cùng Chúa thượng mong khôi phục lại cơ đồ nhà Nguyễn.
                    Đỗ Thành Nhân nạt:
                    - Nếu Lý Tài vâng mệnh Nguyễn Nhạc giả hàng rồi ở trong thành làm nội ứng thì sao?
                    Sứ giả ung dung đáp:
                    - Tướng quân nói thế chứng tỏ là không hiểu được thực lực của quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn hiện nay hùng binh ba vạn, hàng trăm viên đại tướng đều trí dũng song toàn. Chiến thuyền lớn hàng ngàn chiếc, súng đại bác hơn vạn khẩu, voi chiến trăm con. Nếu Nguyễn Nhạc đem quân vào Gia Định thì tôi e không có thành trì nào có thể đứng vững dưới làn mưa đạn đại bác của quân Tây Sơn. Quân của chúng thiện chiến một có thể địch được hai, ba. Nếu đại bác chúng bắn vỡ thành rồi thì khi giáp chiến liệu binh ta có phải là địch thủ của quân Tây Sơn chăng? Thực lực đôi bên đã rõ ràng như thế thì cần gì phải sai người mạo hiểm làm nội ứng làm chi? Xin tướng quân xét lại kẻo oan cho tướng quân tôi!
                    Đỗ Thành Nhân ngạo mạn cười lớn bảo:
                    - Ngươi khéo già mồm! Quân Tây Sơn tài giỏi thế nào mà một người có thể địch được hai, ba?
                    Nguyễn Đăng Trường xen vào nói:
                    - Đỗ tướng quân chưa biết đấy thôi! Năm trước quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy có năm ngàn quân mà đánh tan ba vạn quân ta ở sông Lại Dương thuộc phủ Qui Nhơn, khiến ba cha con Tôn Thất Hương tử trận. Năm sau Nguyễn Huệ lại đem năm ngàn quân vào Phú Yên đánh tan hai vạn quân ta, khiến Tống lão tướng quân uất ức mà chết. Người này không có ý dối ta đâu!
                    Đỗ Thành Nhân lại gạt đi bảo:
                    - Nhưng việc hệ trọng không thể tin bừa. Xin hỏi sứ giả ý tốt của tướng quân có chi làm bằng?
                    Sứ giả lấy ở trong người ra một phong thư trao cho Định Vương nói:
                    - Trước khi bỏ Nguyễn Nhạc mà đi, Lý tướng quân vẫn thường trao đổi với Đông cung. Đây là thư của Đông cung dặn Lý tướng quân trao cho Chúa thượng.
                    Định Vương đọc xong mừng rỡ bảo:
                    - Theo trong thư cua Đông cung thì việc Lý Tài theo về với ta là thực. Vậy phiền sứ giả về nói với Lý Tài rằng ta thuận ý, bảo ông ấy mau dẫn quân về Sài Côn cùng hợp sức đánh giặc Tây Sơn.
                    Sứ giả vâng mệnh ra về thuật lại việc với Lý Tài. Lý Tài bèn đem chiến thuyền đến đậu ở sông Thị Nghè. Chúa Định Vương nghe quân báo Lý Tài có thuyền to súng lớn liền đích thân dẫn Nguyễn Đăng Trường, Nguyễn Nghi, Đỗ Thành Nhân đến xem. Lý Tài lên bờ lạy chào Chúa Định Vương. Vương mừng rỡ nói:
                    - Tướng quân là người của Đông cung tức là tôi của nhà Nguyễn ta rồi – Đoạn Vương chỉ chiến thuyền của Lý Tài nói tiếp – Thật xưa nay chưa thấy chiến thuyền nào to, súng nào lớn như thế này cả. Tướng quân lấy ở đâu ra thế?
                    Lý Tài đáp:
                    - Nhờ hồng phúc của Chúa thượng nên Lý Tài tôi cướp được của quân Tây Sơn vượt bể về theo Chúa thượng.
                    - Tướng quân có biết quân Tây Sơn học ở đâu cách đúc súng, đóng thuyền lớn thế này không?
                    Lý Tài nhanh trí vờ than rằng:
                    - Thuyền to súng lớn này là ở bên Trung Quốc thần lánh nạn giặc Thanh qua đất Qui Nhơn mới bày vẽ cho Nguyễn Nhạc làm ra. Giờ biết bụng Nguyễn Nhạc, ăn năn thì đã muộn!
                    Định Vương xua tay bảo:
                    - Tướng quân chớ có phiền muộn. Giờ về với ta, tướng quân hãy bày vẽ cho quân ta đóng thuyền, đúc súng lớn như thế là lập công chuộc tội rồi. Tướng quân cho quân lính bắn thử một phát súng đại bác xem sao!
                    Lý Tài vâng lệnh sai quân nhồi thuốc nạp đạn, nhắm cây cổ thụ trên bờ mà bắn. Súng nổ mật tiếng long trời, đạn bay trúng một cành cây cổ thụ, cây liền gãy lìa làm đôi. Định Vương cùng các quan đều giật mình kinh hãi. Vương nói:
                    - Súng đại bác này thật lợi hại. Thảo nào quân Tây Sơn đánh đâu thắng đó. Phiền tướng quân hãy đóng tạm ở sông Thị Nghè, ta về thành Sài Côn sẽ theo nghi lễ mà tiếp đón. Nhất định ta sẽ phong khanh làm ĐạI tướng quân điều binh khiển tướng đánh giặc Tây Sơn.
                    Nói rồi liền về thành. Về phần Đỗ Thành Nhân, đến tư dinh, Nhân tức giận nói với thủ hạ là Võ Nhân, Võ Tánh, Đỗ Nhàn Trập rằng:
                    - Công lao quân Đông Sơn ta vào sinh ra tử đuổi quân Tây Sơn đi lấy được Sài Côn rước Chúa thượng về đây. Nay Lý Tài chân ướt chân ráo mới đến hàng, Chúa thượng định phong cho hắn làm Đại tướng quân điều binh khiển tướng, không thèm đếm xỉa gì đến ta cả. Thật tức chết đi được.
                    Đỗ Nhàn Trập bàn:
                    - Nay trong thành Sài Côn do quân Đông Sơn ta kiểm soát, chủ tướng truyền quân đóng cửa thành không cho Lý Tài vào thành xem hắn làm gì được ta.
                    Thành Nhân tán thành nói:
                    - Được! Các ngươi mau truyền lệnh cho ba quân, bao giờ có lệnh ta mới được mở cổng thành, ngoài ra không nghe lệnh của bất cứ ai, kể cả Chúa thượng!
                    Võ Tánh can:
                    - Nếu làm thế e rằng ta can tội khi quân. Xin chủ tướng xét lại.
                    Thành Nhân hậm hực bảo:
                    - Can tội khi quân thì Chúa làm gì được ta nào?
                    Võ Tánh cúi đầu thận trọng thưa:
                    - Chúa không làm gì được ta. Nhưng ở Trường Đồn thì có Lê Văn Quân trấn thủ, Trấn Biên, Bình Thuận thì có Hồ Văn Lân, Nguyễn Văn Hoằng. Gần đây là đồn Thị Nghè thì có trấn đồn Nguyễn Nghi lại thêm Lý Tài mới về hàng trợ giúp. Nếu ba bên đánh tới thì Đông Sơn ta ở thành Sài Côn nguy mất.
                    Thành Nhân cười rằng:
                    - Chúa thượng ở trong tay ta thì quân các trấn dám động binh sao? Các ngươi không phải nói nữa, cứ y lệnh mà làm!
                    Võ Tánh, Võ Nhân, Đỗ Nhàn Trập vâng lệnh lui ra. Sáng hôm sau, Chúa Định Vương cùng Nguyễn Đăng Trường ngồi cùng một cỗ xe, lại sắp sẵn một cỗ xe trống đi sau. Cỗ xe này chúa Định Vương dùng để rước Lý Tài cho đúng lễ cầu hiền. Chúa tôi ra cổng thánh Đông, quân giữ cổng ngăn lại. Định Vương quát hỏi:
                    - Chúng bay chẳng thấy ta sao, còn chưa mở cổng thành!
                    Quân canh bình thản đáp:
                    - Xin Chúa thượng bớt giận, chúng thần được lệnh của quan Trấn thủ phụ chính không được mở cổng thành cho bất cứ ai.
                    Định Vương giận quát lớn:
                    - Chúng bay muốn làm phản hay sao?
                    Nói xong toan rút gươm, Nguyễn Đăng Trường ngăn lại can:
                    - Xin Chúa thượng bớt giận. Bọn chúng là quân sĩ chỉ nghe lệnh chủ tướng, lỗi này là ở Đỗ Thành Nhân. Chi bằng ta hãy về cung gọi Đỗ Thành Nhân hỏi cho ra lẽ.
                    Định Vương bấm bụng quay về cung gọi Đỗ Thành Nhân đến hỏi:
                    - Vì sao ngươi lệnh cho quân sĩ đóng cổng thành không cho ta đi?
                    Nhân đáp:
                    - Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho giặc Tây Sơn, nên hạ thần đóng cổng không cho Lý Tài đem quân vào thành.
                    Vương nén giận hỏi:
                    - Nhưng Lý Tài đã có thư tiến cử của Đông cung?
                    Nhân đáp:
                    - Lòng người khó đoán, dù có moi tim cũng dễ hồ biết thật hay giả, sá gì một tờ giấy lộn mà Chúa thượng cả tin. Thần làm thế là để bảo toàn cơ nghiệp cho Chúa thượng mà thôi!
                    Nói rồi quay ra truyền quân canh phòng cẩn mật không cho Định Vương cùng hoàng tộc ra ngoài cung cấm.
                    Định Vương hỏi Nguyễn Đăng Trường:
                    - Vì sao Thành Nhân lại phản ta?
                    Trường ngao ngán đáp:
                    - Chúa thượng định phong Lý Tài làm Đại tướng quân, Đỗ Thành Nhân sợ Lý Tài tranh mất quyền mình nên làm phản.
                    Vương lại hỏi:
                    - Bây giờ phải làm thế nào?
                    Trường buồn rầu nói:
                    - Bây giờ ngoại bất nhập, nội bất xuất không thể liên lạc với quân các trấn bên ngoài đành khoanh tay ngồi chờ vậy.
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #25
                      Chương 22

                      Thả Đông cung, Vũ Văn Nhậm được vợ.
                      Bỏ Tây Sơn, Nguyễn Phúc Dương đoạt ngôi.


                      Nói về Nguyễn Nhạc ở thành Qui Nhơn đêm đêm nằm mộng thấy mình mặc áo hoàng bào ngồi trên ngai vàng có kẻ hầu người hạ như một bậc đế vương. Mộng xong thường ngồi dậy quát gọi quân hầu. Quân hầu chạy đến thưa:
                      - Mấy đêm liền Chúa công thấy chiêm bao, nửa đêm giật mình ngồi dậy. Tiểu nhân xin đi mời quan thái y đến thăm bệnh Chúa công.
                      Nguyễn Nhạc gạt đi bảo:
                      - Không cần! Ngươi hãy đi mời mưu sĩ Nguyễn Thung đến dây cho ta.
                      Nguyễn Thung vội vàng khăn áo chỉnh tề đến, thi lễ xong hỏi Nhạc:
                      - Có việc quan trọng đến thế nào mà nửa đêm Chúa công cho gọi Nguyễn Thung này?
                      Nhạc đáp:
                      - Mấy đêm liền ta nằm mộng thấy mình làm vua không đêm nào ngủ được, nên cho mời tiên sinh đến hỏi xem có cao kiến gì để ta lên ngôi vua được chăng?
                      Nguyễn Thung suy nghĩ giây lâu rồi can:
                      - Quân dân ở phủ Qui Nhơn vẫn thường gọi Chúa công là vua trời. Dù Chúa công chưa lên ngôi nhưng trong lòng dân Chúa công đã là vua rồi vậy. Vả lại quân Tây Sơn ta lấy nghĩa tôn phò để dấy binh. Nay Đông cung Nguyễn Phúc Dương vẫn ở trong quân ta mà Chúa công xưng vương e rằng mất nghĩa tôn phò thì không thu phục được lòng dân. Đợi khi bình Nam dẹp Bắc xong, Chúa công lên ngôi Hoàng đế nào có muộn gì!
                      Nhạc buồn rầu hỏi:
                      - Không có cách nào làm vua sớm hơn được sao?
                      Nguyễn Thung đành nói hoãn:
                      - Hiện thời chưa có kế gì. Tôi xin về suy nghĩ lại rồi sẽ bẩm Chúa công sau.
                      Nói rồi Thung cáo biệt ra về. Nguyễn Thung không về nhà mà tìm đến tư dinh Nguyễn Huệ, quân canh vào báo với Huệ:
                      - Thưa tướng quân, có mưu sĩ Nguyễn Thung đến xin gặp tướng quân.
                      Nguyễn Huệ còn bận đồ ngủ vội ra ngoài nghênh tiếp. Mời Thung vào nhà, Huệ hỏi:
                      - Chẳng hay có việc chi hệ trọng mà nửa đêm tiên sinh đến gặp tôi?
                      Nguyễn Thung kể lại việc nằm mộng của Nguyễn Nhạc cho Huệ nghe. Nghe xong Huệ cười nói:
                      - Việc này nào có khó gì, xin tiên sinh về dinh an nghỉ. Ngày mai tôi cùng tiên sinh đến gặp đại huynh thì đâu vào đấy cả.
                      ***
                      Sáng hôm sau, Nguyễn Thung, Nguyễn Huệ đến gặp Nguyễn Nhạc. Huệ cầm tay Nhạc nói:
                      - Hiện nay đại huynh chưa thể lên ngôi Hoàng đế. Nhưng đại huynh có thể xưng Vương được!
                      Nguyễn Thung ngạc nhiên hỏi:
                      - Quân ta lấy nghĩa tôn phò Đông cung. Chúa nhà Nguyễn chỉ mới có tước Vương. Nay Chúa công xưng Vương còn đâu nghĩa tôn phò?
                      Huệ quay lại trả lời Thung rằng:
                      - Lúc mới khởi binh thế lực còn yếu nên ta mới mượn cớ tôn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương để thu phục lòng người. Nay ta binh hùng tướng mạnh chính là lúc cần nói rõ chính nghĩa của Tây Sơn là đập đổ hai nhà Trịnh – Nguyễn, đem giang sơn qui về một mối, mang thái bình lại chi trăm họ. Con cờ Đông cung ta không dùng đến nữa. Thả Lý Tài vào Gia Định quả như tôi dự đoán, Lý Tài và Đỗ Thành Nhân tranh giành quyền nhau. Hiện Đỗ Thành Nhân quản thúc Định Vương trong thành Sài Côn không cho Lý Tài đầu hàng. Lý Tài bơ vơ tiến thoái lưỡng nan. Nay ta thả Đông cung Nguyễn Phúc Dương, Dương tất theo về với Lý Tài, Lý Tài tất có chính nghĩa để đem quân đánh Đỗ Thành Nhân. Khi ấy thành ra Chúa Định Vương và Đông cung tranh quyền đánh giết lẫn nhau, lòng người sẽ sinh ra chán ngán mà hướng về đại huynh. Khi ấy, đại huynh chính thức xưng Vương thì không phải là hợp lẽ hay sao?
                      Nguyễn Nhạc lắc đầu nói:
                      - Lâu nay Nguyễn Phúc Dương không màng chính sự, đam mê tửu sắc lấy trò săn bắn làm vui, chỉ trông cậy vào ta đánh Nam dẹp Bắc để đưa hắn lên ngôi chúa. Thì cớ gì Nguyễn Phúc Dương lại bỏ Tây Sơn ta mà chạy vào Gia Định?
                      Huệ cười đáp:
                      - Đại huynh chưa tường bụng dạ của Đông cung. Số là từ khi đại huynh nhận sắc phong của quân Trịnh đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, thì hắn biết rằng đại huynh không thực bụng tôn phò, nên giả vờ ngây thơ như thế để đại huynh không chú ý rồi thừa dịp trốn đi đấy thôi! Nay ta thả lỏng hắn mà hắn không trốn đi, Nguyễn Huệ tôi xin dâng đầu dưới trướng. Xin đại huynh chớ khá nghi ngờ!
                      Nguyễn Thung vỗ tay khen:
                      - Thật là biết người biết ta diệu kế thập toàn, Nguyễn Thung tôi xin cúi đầu bái phục.
                      Nguyễn Nhạc mừng rỡ nói:
                      - Nhờ mưu của em, ta đã được xưng Vương rồi. Nhưng ta phải thả Đông cung như thế nào cho hắn nghĩ rằng tự hắn trốn khỏi Tây Sơn ta như Lý Tài vậy?
                      Huệ hiến kế:
                      - Đại huynh hãy cho sửa sang lại thành Qui Nhơn, nguyên là thành Đồ Bàn của vua cũ Chiêm Thành. Ta viện cớ sửa thành đem Đông cung ra ở chùa Thập Tháp. Chùa Thập Tháp ở phía Bắc thành, lại gần sông. Nguyễn Phúc Dương chắc chắn sẽ xuống thuyền ra cửa biển Cách Thử mà trốn vào Gia Định.
                      Nguyễn Nhạc y lời sai quân gọi Nguyễn Phúc Dương đến nói:
                      - Nay quân ta chưa đủ mạnh để đánh Trịnh chiếm lại kinh thành Phú Xuân. Tôi định cho người sửa sang lại thành Đồ Bàn thành đất đế kinh. Vậy phiền Thế tử tạm ra ở chùa Thập Tháp, đợi khi nào sửa xong thành sẽ rước Thế tử về chính thức xưng Vương, không phải dùng vương hiệu của Định Vương Nguyễn Phúc Thuần nữa. Chẳng hay ý Thế tử thế nào?
                      Nguyễn Phúc Dương mừng thầm trong bụng nói:
                      - Tướng quân vì tôi phải lao tâm khổ trí. Tướng quân sắp xếp thế nào tôi nhất nhất tuân theo.
                      Nói xong liền về tư dinh sửa soạn hành lý. Nguyễn Nhạc sai Vũ Văn Nhậm làm hộ vệ cho Nguyễn Phúc Dương. Trước khi đi, Nhạc dặn Nhậm:
                      - Ngươi hãy mang một trăm quân theo hộ vệ Nguyễn Phúc Dương ra ở chùa Thập Tháp, rồi làm như sơ hở để Dương thừa cơ trốn đi. Đến chùa Thập Tháp, Nguyễn Phúc Dương bàn với người hầu già là Nguyễn Gia Hầu:
                      - Nguyễn Nhạc nghĩ rằng ta tin hắn thật sự tôn phò, nên không nghi ngờ mới cho ta ra ở nơi này. Ta nhân dịp này trốn vào Gia Định với Lý Tài thì có cơ khôi phục cơ đồ.
                      Nguyễn Gia Hầu nói:
                      - Tôi thấy việc Nguyễn Nhạc cho Đông cung ra ở chùa Thập Tháp là có ẩn ý gì đây!
                      Dương giật mình hỏi:
                      - Ngươi nói thế là thế nào?
                      Gia Hầu đáp:
                      - Vũ Văn Nhậm là một đại tướng của Tây Sơn rất giỏi võ nghệ, theo lệnh Nguyễn Nhạc theo hộ vệ nhưng kỳ thực là quản thúc Đông cung. Nếu Nguyễn Nhạc không nghi ngờ ta sao còn làm như thế?
                      Dương lại hỏi:
                      Vậy ta phải làm sao mới thoát được Nguyễn Nhạc?
                      Gia Hầu đáp:
                      - Tôi có một kế khiến Vũ Văn Nhậm bó tay đứng nhìn ta thoát vào Gia Định.
                      Dương hối thúc:
                      - Kế thế nào nói mau xem!
                      Gia Hầu từ tốn thưa:
                      - Nguyên từ ngày Nguyễn Nhạc hứa sau này sẽ gả con gái mình là Thọ Hương cho Thế tử. Tôi nhận thấy Thọ Hương phải lòng Thế tử và thường tơ tưởng chuyện nhân duyên. Nay ta cứ làm thế này... thế này... thì không những thế tử thoát được vào Gia Định, còn khiến cho Nguyễn Nhạc phải tức uất mà chết!
                      Nguyễn Phúc Dương mừng rỡ khen:
                      - Ngươi thật là đa mưu túc trí. Nếu sau này ta tự chủ dựng nghiệp thì ngươi sẽ là quân sư của ta đó!
                      Nói xong liền bảo Gia Hầu lập tức quay về thành Qui Nhơn. Nguyễn Gia Hầu đến gặp tiểu thư Thọ Hương, nói:
                      - Thế tử ra ở chùa Thập Tháp mới có mấy ngày không được trông thấy tiểu thư mà lâm bệnh. Nếu tiểu thư không đến thăm e rằng Thế tử chết mất.
                      Thọ Hương đau xót nói:
                      - Tuy rằng cha tôi hứa gả tôi cho Thế tử, nhưng chưa phải là nên nghĩa phu thê. Nếu tôi đến thăm Thế tử e rằng phạm vào chữ hạnh trong tứ đức của người phụ nữ thì sao?
                      Nói xong lau nước mắt. Gia Hầu biết Thọ Hương đã xiêu lòng, liền quì mọp cầu khẩn:
                      - Thế tử chưa được lệnh của Tây Sơn chủ tướng nên không dám quay về. Nếu tiểu thư không đến Thế tử ắt tương tư mà chết.
                      Tiểu thư Thọ Hương bằng lòng nói:
                      - Thôi được ông hãy vế trước! Ta sẽ trốn cha ta đến gặp Thế tử một phen!
                      Thọ Hương đi rồi, quản gia vào báo cùng Nguyễn Nhạc. Nhạc thất kinh nói:
                      - Thôi chết, con ta đã bị Nguyễn Phúc Dương lừa mất rồi!
                      Nói xong liền lên ngựa đem theo vài tên hộ vệ lập tức đuổi theo. Lúc ấy Vũ Văn Nhậm đang ngủ trong tự quán nghe quân vào báo:
                      - Thưa tướng quân có Chúa công thân hành đến chùa.
                      Vũ Văn Nhậm thất kinh ra đón. Nhạc hỏi:
                      - Thọ Hương con gái ta đâu?
                      Văn Nhậm sợ hãi đáp:
                      - Chúa công dặn phải để Phúc Dương trốn thoát, nên tôi chẳng chủ tâm theo dõi, không biết tiểu thư ra đến nơi này.
                      Tên quân canh bước ra nói:
                      - Tôi vừa trông thấy Thế tử cùng tiểu thư cưỡi ngựa ra bến sông.
                      Nguyễn Nhạc cùng Vũ Văn Nhậm liền đuổi theo đến bờ sông. Đến nơi thấy Phúc Dương và Thọ Hương đã ở trên thuyền, Nguyễn Nhạc cho quân trương cung lắp tên. Nhạc gọi lớn:
                      - Thế tử muốn đi hãy đi một mình, hãy để con gái ta ở lại.
                      Phúc Dương liền rút gươm kề cổ Thọ Hương nói trả:
                      - Nếu ngươi xạ tiễn ta sẽ giết chết Thọ Hương!
                      Đoạn Dương bảo Gia Hầu hối quân chèo gấp. Nguyễn Nhạc chưa biết làm thế nào, Vũ Văn Nhậm liền giương cung lắp tên bắn một phát trúng vào cổ tay cầm gươm của Nguyễn Phúc Dương. Dương đau quá buông gươm ôm lấy tay. Tiểu thư Thọ Hương trên mạn thuyền mất đà té nhào xuống sông. Vũ Văn Nhậm liền nhảy xuống nước bơi ra dìu Thọ Hương vào bờ. Ba quân trông thấy tài thiện xạ của Vũ Văn Nhậm nói với nhau rằng:
                      - Vũ tướng quân bắn cung thật tài tình, chẳng khác Dưỡng Do Cơ ngày xưa vậy!
                      Từ ấy trong quân thường gọi Vũ Văn Nhậm là tiểu Dưỡng Do Cơ. Về thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc hội các tướng đến nói:
                      - Nguyễn Phúc Dương không biết rằng ta cố tình thả hắn nên lập mưu bắt con gái ta làm con tin để chạy vào Gia Định. May nhờ có Vũ Văn Nhậm trổ tài thiện xạ cứu được con ta. Vả lại ta thiết nghĩ nam nữ thọ thọ bất thân, mà Nhậm đã ôm con gái ta dìu vào bờ khác nào tình chồng vợ. Vậy nay ta định tác hợp Nhậm và Thọ Hương nên nghĩa phu thê. Chẳng hay ý Nhậm thế nào?
                      Vũ Văn Nhậm quì lạy tạ ơn. Nguyễn Nhạc liền định ngày làm lễ thành hôn cho Vũ Văn Nhậm và Thọ Hương.
                      ***
                      Nói về Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương dong thuyền chạy vào Gia Định. Đến sông Thị Nghè gặp Lý Tài, Dương hỏi:
                      - Lý tướng quân đã yết kiến Chúa thượng hay chưa? Sao còn đóng thuỷ trại nơi này?
                      Lý Tài đáp:
                      - Thưa Thế tử, tôi đã đưa thư tiến cử của Thế tử đến Chúa thượng. Chúa thượng hẹn sẽ đón vào thành dung nạp. Đến nay đã gần hết một tuần trăng sao chẳng thấy động tĩnh gì?
                      Dương hỏi:
                      - Tướng giữ đồn Thị Nghè là ai?
                      Lý Tài đáp:
                      - Là Nguyễn Nghi!
                      Nguyễn Phúc Dương bèn cùng Lý Tài đi thuyền đến gần đồn. Dương gọi Nguyễn Nghi ra hỏi:
                      - Nguyễn tướng quân có nhận ra ta chăng?
                      Nguyễn Nghi trông thấy Dương liền vội vàng nghênh đón vào trong đồn, quì lạy hỏi:
                      - Nghe tin Thế tử bị quân Tây Sơn bắt sao thoát được về đây?
                      Dương đáp:
                      - Ta cùng Lý Tài hẹn nhau trốn khỏi Qui Nhơn vào đất Gia Định mưu khôi phục cơ đồ. Sao Chúa thượng không dung nạp Lý Tài?
                      Nghi đáp:
                      - Chúa thượng có ý phong Lý Tài làm đại tướng quân điều binh khiển tướng. Chẳng ngờ vào trong thành không thấy nói gì đến việc Lý Tài cả. Tôi đã sai người về thành Sài Côn hỏi ý, nào ngờ quân trong thành không cho vào, chẳng hiểu là ý gì?
                      Phúc Dương, Lý Tài liền cùng Nguyễn Nghi đem theo một trăm quân cưỡi ngựa đến thành Sài Côn gọi Đỗ Thành Nhân. Nghi gọi lớn:
                      - Đỗ tướng quân mau mở cổng thành, có Đông cung Thế tử xin vào yết kiến Chúa thượng.
                      Đỗ Thành Nhân trên mặt thành nói vọng xuống:
                      - Tôi là người Gia Định đem quân Đông Sơn đuổi Tây Sơn giúp chúa, không biết mặt Đông cung Thế tử. Vậy có chi làm bằng người ấy là Đông cung Thế tử?
                      Nghi nói:
                      - Vậy phiền tướng quân cho mời Chúa thượng lên mặt thành nhận diện.
                      Nhân đáp:
                      - Chúa thượng long thể bất an không thể rời khỏi long sàng.
                      Nguyễn Phúc Dương bảo Đỗ Thành Nhân:
                      - Trong hoàng tộc có một người cháu của Định Vương tên là Nguyễn Phúc Ánh. Tướng quân hãy cho gọi người này lên thành nhận diện, không phải phiền đến Chúa thượng.
                      Đỗ Thành Nhân đích thân đi gọi Nguyễn Phúc Ánh. Nhân thấy Ánh vừa mới mười lăm tuổi, làn da trắng trẻo, mặt nhỏ, mắt tròn, vóc người lanh lẹ, liền bào Ánh:
                      - Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho Tây Sơn, tôi can gián mãi Chúa thượng không nghe, bất đắc dĩ mới không cho Chúa thượng đón Lý Tài vào thành. Nay Lý Tài dẫn một người đến dưới thành xưng là Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương, mời hoàng điệt lên thành nhận diện để vào yết kiến Chúa thượng, xin cho Lý Tài đem quân vào thành. Nếu Lý Tài vào thành rồi làm nội ứng cho giặc Tây Sơn thì chúa ta nguy mất, vậy khi lên mặt thành, hoàng điệt chớ nhìn Đông cung Thế tử, đuổi chúng đi cho rồi. Nếu không như thế thì tôi không bảo toàn tính mạng cho Chúa thượng và hoàng tộc được đâu.
                      Phúc Ánh giận dữ nói:
                      - Tôi xin vào trong lấy cây cung tôi thường sử dụng, bắn bọn chúng cho hả dạ!
                      Nói rồi liền quay vào lấy cung tên theo Đỗ Thành Nhân lên mặt thành. Nguyễn Phúc Dương trông thấy Ánh liền gọi lớn:
                      - Ta là Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Dương đây! Phúc Ánh hoàng đệ có nhận ra ta chăng?
                      Nguyễn Phúc Ánh quát lớn:
                      - Ngươi là kẻ vô danh nơi nào dám nhận là Đông cung Thế tử! Hãy xem thần tiễn của ta đây!
                      Nói rồi dương cung lắp tên bắn một phát nhằm ngay chóp nón Nguyễn Phúc Dương. Dương giật mình kinh hãi nhổ tên ra, thấy có bức thư dán cẩn thận quanh thân tên. Nhìn lên mặt thành lại thấy Phúc Ánh nháy mắt làm hiệu, Dương hiểu ý liền dẫn quân về đồn Thị Nghè. Đỗ Thành Nhân khen Nguyễn Phúc Ánh:
                      - Hoàng điệt tuổi còn niên thiếu mà sáng suốt hơn người, lại giỏi nghề cung kiếm. Thật trí dũng song toàn, đáng khen thay!
                      Phúc Ánh cười thầm chẳng nói gì.
                      Nguyễn Phúc Dương về đồn Thị Nghè giở thư Phúc Ánh ra đọc. Thư rằng:
                      Đỗ Thành Nhân làm phản quản thúc Chúa thượng. Thế tử hãy họp quân các trấn đánh thành Sài Côn cứu Chúa thượng cùng hoàng thân quốc thích.
                      Dương đọc xong nói:
                      - Nguyễn Phúc Ánh mới mười lăm tuổi mà trí dũng song toàn thật đáng khen. Nếu không nhờ Phúc Ánh đưa tin, thì ta không rõ tại sao Chúa thượng ở trong thành Sài Côn lại nội bất xuất, ngoại bất nhập như thế. Lý Tài và Nguyễn Nghi cùng hợp quân tiến đánh Sài Côn. Ta sẽ sai người gọi Nguyễn Văn Hoằng, Hồ Văn Lân ở Trấn Biên, Bình Thuận kíp đem quân tiếp viện.
                      Nguyễn Nghi can:
                      - Đỗ Thành Nhân dùng Chúa thượng làm con tin để khống chế các trấn. Nay nếu ta đem quân đánh Sài Côn, e rằng Đỗ Thành Nhân bức tử Chúa thượng cùng hoàng tộc thì sao?
                      Phúc Dương ngẫm nghĩ rồi nói:
                      - Đỗ Thành Nhân dùng Chúa thượng để khống chế chúng ta. Nay ta cứ giả vờ như không nghe lệnh Chúa thượng, Đỗ Thành Nhân thấy con tin không còn giá trị ắt chẳng bức Chúa thượng cùng hoàng tộc làm chi.
                      Nói rồi truyền Lý Tài và Nguyễn Nghi đem toàn quân tổng cộng được năm ngàn, tiến về vây thành Sài Côn. Phúc Dương nói riêng với Lý Tài:
                      - Nếu Đỗ Thành Nhân bức tử Chúa thượng thì ta đường đường nối nghiệp tổ tiên khôi phục cơ đồ.
                      Đến thành Sài Côn, Lý Tài cho quân đem đại bác bắn phá khắp thành. Quân Đông Sơn chống không nổi, từng tảng đá trên mặt thành bị đạn đại bác bắn đổ rào rào. Đỗ Thành Nhân liệu bề đánh không lại liền đem Định Vương Nguyễn Phúc Thuần lên mặt thành. Phúc Dương trông thấy liền bảo Lý Tài lệnh quân ngừng bắn. Đỗ Thành Nhân lên mặt thành nói lớn:
                      - Có Chúa thượng ở đây, các người định làm phản hay sao?
                      Nguyễn Phúc Dương cười lớn nói:
                      - Ngươi ngu muội tưởng có Định Vương là khiển được chúng ta hay sao? Ta đây là Đông cung Thế tử mới là dòng chính thống. Định Vương năm xưa chẳng qua do Trương Phúc Loan chuyên quyền làm điều soán nghịch mà thôi. Quân ta bắn phá được thành sẽ bắt ngươi cho tứ mã phanh thây.
                      Nguyễn Phúc Thuần thất kinh khóc lớn:
                      - Năm xưa Trương Phúc Loan phế truất cháu, thì ta chẳng qua là con cờ của Phúc Loan mà thôi. Bởi vậy ta mới phục chức cháu là Đông cung Thế tử. Nay cháu và các tướng không phục ta thì cũng nghĩ đến tình cốt nhục mà lui binh. Nếu không Đỗ Thành Nhân sẽ giết chết hoàng thân trong thành thì cháu cũng mang tiếng là người bất nhân vậy!
                      Đỗ Thành Nhân nghe Phúc Thuần nói xong liền tiếp lời:
                      - Nếu ngươi lui binh về đồn Thị Nghè, ta sẽ thả Chúa thượng cùng hoàng tộc, bằng nếu lòng quyết đánh, ta giết hết không tha!
                      Nguyễn Nghi nói với Phúc Dương:
                      - Nay Đỗ Thành Nhân cùng đường e nổi giận làm càn. Chi bằng ta lui quân về đồn Thị Nghè, cho hắn thả hoàng tộc rồi sẽ đánh lấy Sài Côn sau.
                      Phúc Dương nghe lời liền thu quân về. Lý Tài nhăn mặt hỏi riêng Phúc Dương:
                      - Nếu ta tiếp tục đánh Sài Côn, Đỗ Thành Nhân nổi giận bức tử Định Vương thì Thế tử lên ngôi tôn nắm quyền nhiếp chính, ta lại trừ được phản tặc Đỗ Thành Nhân, lấy thành Sài Côn. Một công lợi đôi ba việc, sao Thế tử không làm?
                      Dương trầm ngâm đáp:
                      - Nếu ta làm thế e rằng mang tiếng bất nhân, sợ các tướng không phục mà sinh nội biến, ấy là một lẽ. Chúa thượng là người nhu nhược, ta bảo ông ấy thoái vị nhường ngôi ông ấy ắt phải nghe, thì ta vẫn nắm quyền nhiếp chính, ấy là hai lẽ. Sau khi thả hoàng tộc xong, Đỗ Thành Nhân tất phải bỏ Sài Côn mà chạy, thì ta vẫn lấy được thành mà không phải hao binh tồn tướng, ấy là ba lẽ. Vì ba điều lợi ấy nên ta mới thu binh về đồn Thị Nghè.
                      Lý Tài mừng rỡ khen:
                      - Thế tử liệu việc thật sâu sắc, không còn ngây thơ như trước nữa rồi. Vậy tôi xin đem quân bản bộ xuống phía Nam thành Sài Côn mai phục ở cánh rừng cạnh làng Hoà Hưng, đợi Đỗ Thành Nhân đến đó đánh một trận mà diệt trừ hậu họa.
                      Nguyễn Phúc Dương y lời, Lý Tài dẫn quân đi ngay.
                      Lúc ấy Đỗ Thành Nhân ở trong thành Sài Côn nói với thủ hạ:
                      - Ta tưởng có Định Vương trong tay là sai khiến được tướng sĩ, nào ngờ Đông cung Thế tử lại thoát khỏi tay quân Tây Sơn quay về Gia Định làm đảo lộn toàn bộ kế sách của ta. Các tướng có kế gì xoay chuyển tình thế được chăng?
                      Võ Tánh bàn:
                      - Nay Nguyễn Phúc Dương lui quân về đồn Thị Nghè, ta hãy mau bỏ thành Sài Côn rút về căn cứ Đông Sơn ta ở đất Tam Phụ. Nếu chậm trễ chúng điều binh của Lê Văn Quân ở Long Hồ, Hồ Văn Lân ở Trấn Biên, ba mặt cùng giáp công thì ta không còn đường thoát.
                      Đỗ Thành Nhân nghiến răng nói:
                      - Đang được phong làm phụ chính dưới quyền chúa, bỗng chốc phải bỏ trốn vào rừng. Cơ sự cũng do thằng giặc Tàu Lý Tài mà ra. Thù này có ngày ta phải trả.
                      Nói rồi mở cửa Nam thành Sài Côn đem năm ngàn quân Đông Sơn rút về vùng rừng Tam Phụ.
                      Quân Đông Sơn mới đi đến cánh đồng trống ở đầu ấp Hoà Hưng, bỗng nghe pháo lệnh nổ vang, súng đại bác từ hai cánh rừng ầm ầm bắn ra, tiếp theo là trận mưa tên đổ xuống. Quân Đông Sơn trúng tên đạn chết rất nhiều.
                      Đỗ Thành Nhân thất kinh than:
                      - Ta đã bị Lý Tài mai phục mất rồi!
                      Nói rồi dẫn quân chạy một mạch không dám ngoái đầu lại. Về đến rừng Tam Phụ, Thành Nhân kiểm điểm binh mã thấy hao hết một ngàn quân, số còn lại áo quần rách rưới, thương tích đầy mình. Thành Nhân nghiến răng trợn mắt hét vang:
                      - Bớ Lý Tài! Thù này ta quyết chẳng đội trơi chung!
                      Quân Đông Sơn đi rồi, Nguyễn Phúc Dương vào thành Sài Côn ngự nơi chính điện, cho mời Nguyễn Phúc Thuần đến. Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Đăng Trường đến thấy Dương ngự trên ngai chúa, dưới thì võ sĩ hai hàng mặt đằng đằng sát khí. Thuần thấy vậy ngao ngán nói:
                      - Ta bất tài kém đức nên lòng người không phục. Chính vì Quốc phó Trương Phúc Loan đưa ta lên ngôi chúa nên Tây Sơn mới thừa cơ dấy loạn, xã tắc ngả nghiêng. Vậy nay ta thoái vị nhường ngôi cho cháu nắm quyền nhiếp chính đánh giặc Tây Sơn khôi phục cơ đồ nhà Nguyễn ta.
                      Năm Bính Thân (1776), niên hiệu Cảnh Hưng thứ Ba mươi bảy, Nguyễn Phúc Dương tôn Định Vương Nguyễn Phúc Thuần làm Thái Thượng Vương, còn mình tự xưng làm Tân Chính Vương cùng lo việc khôi phục cơ nghiệp nhà Nguyễn. Từ ấy họ Nguyễn ở Gia Định có một lúc hai chúa, nhưng quyền hành đều ở trong tay Tân Chính Vương cả. Thiên hạ thấy trong lúc đất nước như ngàn cân treo sợi tóc mà các chúa tranh quyền với nhau, đều lắc đầu chán ngán.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #26
                        Phần II - Chương 23

                        ĐẬP TAN NHÀ NGUYỄN.
                        Lo nước xa, Lê Quý Đôn trổ tài.
                        Sợ ma gần, Phạm Ngô Cầu bày kế.


                        Trong lúc chúa tôi họ Nguyễn ở Gia Định đang đánh giết lẫn nhau, quân do thám Tây Sơn về Qui Nhơn báo cùng Nguyễn Nhạc. Nhạc liền cho mời các tướng đến thương nghị. Nhạc nói:
                        - Quả nhiên không ngoài dự đoán của Nguyễn Huệ, ta thả Lý Tài và Thế tử Nguyễn Phúc Dương vào Gia Định, làm cho Lý Tài và Đỗ Thành Nhân đánh giết lẫn nhau, Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng tranh ngôi chúa. Hiện nay Thuần và Dương đều xưng Vương hiệu cả khiến tướng sĩ nản chí, lòng dân tan rã. Nay lòng người ở Đàng Trong đều mong ngóng vào chính nghĩa của Tây Sơn ta. Vậy đây là lúc ta phải xưng Vương hiệu cho an lòng mong mỏi của bá tánh.
                        Nguyễn Huệ can rằng:
                        - Xin đại huynh chớ vội. Hễ bứt dây thì phải động rừng!
                        Nhạc phật ý hỏi:
                        - Lúc trước Huệ bảo ta thả Hoàng tôn Dương cho Dương và Phúc Thuần tranh quyền lực đánh giết lẫn nhau khiến lòng người chán ngán thì ta xưng Vương là hợp lẽ. Nay thời thế đúng như vậy, ta định xưng Vương thì Huệ lại nói bứt dây động rừng là nghĩa làm sao?
                        Nguyễn Huệ quỳ đáp:
                        - Thưa đại huynh, hợp lẽ là hợp lẽ ở Đàng Trong, còn đối với họ Trịnh ở Đàng Ngoài thì đại huynh đang thụ phong chức Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Nay đại huynh xưng Vương, họ Trịnh sẽ vin vào cớ ấy mà xuất binh đánh ta. Hiện thời ta chưa diệt được họ Nguyễn ở Gia Định mà phải dấy động can qua với họ Trịnh ở mặt Bắc thì thật là thất sách. Xin đại huynh xét lại.
                        Nhạc miễn cưỡng hỏi:
                        - Vậy ta phải làm thế nào?
                        Huệ vẫn quỳ dưới đất tâu:
                        - Từ khi Hoàng Ngũ Phúc bị bệnh tả lỵ bỏ đất Quảng Nam mà rút về Phú Xuân Thuận Hoá, thì quân ta ở Qui Nhơn do Vũ Văn Dũng và Võ Đình Tú chỉ huy đã tiến ra đánh chiếm lại Quảng Nam. Nay đại huynh hãy sai người khéo nói đi sứ sang Trịnh xin phong làm Quảng Nam trấn thủ để dò xét xem ý tứ của họ thế nào rồi ta sẽ liệu bề tiến thủ.
                        Bất đắc dĩ, Nhạc bảo:
                        - Việc này không phải Nguyễn Thung tiên sinh thì còn ai làm nổi!
                        Nguyễn Thung bước ra thưa:
                        - Tôi xin vì Chúa công đi sứ sang Trịnh lần nữa!
                        Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Thung:
                        - Lần trước tiên sinh đi sứ sang Trịnh gặp Hoàng Ngũ Phúc, đại huynh tôi liền được phong làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Lần này tiên sinh sang gặp Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn ắt phải bị đuổi về, nhưng nếu tiên sinh đi thẳng ra Thăng Long yết kiến Trịnh Sâm, thì buộc lòng Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn phải để cho tiên sinh đi.
                        Nguyễn Thung lấy làm lạ hỏi:
                        - Huệ nói thế nghĩa là thế nào? Thật tình tôi không hiểu?
                        Huệ nói nhỏ với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Thung:
                        - Đại huynh cứ bảo Nguyễn Thung tiên sinh làm như vầy... như vầy... thì sẽ ra được Thăng Long mà dò ý Trịnh Sâm.
                        Nhạc và Thung đồng thanh khen:
                        - Thật là diệu kế!
                        Nguyễn Thung đến Phú Xuân gặp Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn nói:
                        - Thưa quan trấn thủ, Tây Sơn hiệu trưởng sai tôi sang dâng sớ xin phong, phiền quan trấn thủ mở cổng thành cho đi qua!
                        Bùi Thế Đạt nói:
                        - Trời đã tối, sứ giả hãy về nghỉ nơi công quán. Ngày mai ta sẽ mở cổng thành cho đi.
                        Nguyễn Thung lui ra, Bùi Thế Đạt liền vời quan tham thị Lê Quý Đôn đến hỏi:
                        - Nay Nguyễn Nhạc sai sứ ra Thăng Long gặp Chúa thượng dâng sớ xin phong. Theo ông là ý thế nào?
                        Lê Quý Đôn suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
                        - Năm xưa Chúa thượng vì lợi dụng quân Tây Sơn đánh họ Nguyễn ở phương Nam, trong lúc quân ta bị dịch tả lỵ ở Quảng Nam nên mới phong cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân. Nay quân Tây Sơn đã tiếp quản đất Quảng Nam bỏ trống, lại muốn đem đại binh vào tiêu diệt họ Nguyễn, nhưng sợ ta thừa cơ xâm phạm mặt Bắc, nên Nguyễn Nhạc mới sai sứ xin phong để dò ý Chúa ta như thế nào mà tuỳ cơ ứng biến đó thôi. Ta nhân dịp này khuyên Chúa ta đánh giặc Tây Sơn. Vậy ngài hãy đuổi sứ giả Nguyễn Nhạc về, đừng cho họ ra Thăng Long gặp Chúa xin phong.
                        Hôm sau Bùi Thế Đạt mời Nguyễn Thung đến hỏi:
                        - Trước khi đem ra Thăng Long cho Chúa thượng, xin sứ giả cho xem sớ xin phong.
                        Nguyễn Thung lấy tờ sớ trong tay áo trao cho Bùi Thế Đạt. Đạt đọc xong cười lớn nói:
                        - Nguyễn Nhạc đã được phong làm Tây Sơn hiệu trưởng, tiền phong tướng quân, đem binh đi đánh họ Nguyễn ở phương Nam. Nay Chúa Nguyễn đang hùng cứ đất Gia Định, sao Nguyễn Nhạc không đem binh thảo phạt, lại thừa cơ lúc quân ta bị dịch tả lỵ rút khỏi Quảng Nam, mà đem quân chiếm đất Quảng Nam bỏ trống, ấy là ra mặt đối nghịch với Chúa ta. Thế mà dám dâng sớ xin phong làm Quảng Nam trấn thủ là ý thế nào? Ngài hãy về thưa lại cùng Nguyễn Nhạc, ta thừa lệnh của Chúa tự quyết mọi việc ở đất Quảng Nam Thuận hoá, đừng hoài công đến Thăng Long làm gì?
                        Nguyễn Thung ung dung đáp:
                        - Khi tướng quân Hoàng Ngũ Phúc sợ dịch tả lỵ mà lui khỏi đất Quảng Nam, Tây Sơn hiệu trưởng ra giữ đất này cứu dân khỏi bệnh, vỗ an bá tánh, phân phát lương thực cho dân nghèo để tỏ rõ đức độ trị quốc an dân của Chúa Tĩnh Đô Vương, thì sao lại bảo là ra mặt đối nghịch cùng Chúa thượng? Vả lại nay tôi vận lệnh Tây Sơn hiệu trưởng đem sổ bộ dân của các tình Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên ra kinh thành Thăng Long dâng cho Chúa thượng. Mỗi phủ bao nhiêu huyện, mỗi huyện gồm bao nhiêu ấp, mỗi ấp được bao nhiêu gia đình đều ghi rõ trong sổ bộ dân này. Tây Sơn hiệu trưởng chiếu theo sổ bộ ấy thu thuế của dân sai tôi đem ra kinh thành nộp cho Chúa thượng. Nay ngài đuổi tôi về, ngộ nhỡ Chúa bắt tội Tây Sơn hiệu trưởng không nộp thuế như hồi họ Nguyễn làm khi xưa, lúc ấy ngài có đứng ra chịu trách nhiệm cho hiệu trưởng được chăng?
                        Bùi Thế Đạt bảo:
                        - Nếu Tây Sơn hiệu trưởng nộp sổ bộ và thuế, tôi sẽ sai quân áp tải ra kinh. Ngài cứ quay về không ngại gì cả!
                        Nguyễn Thung cười nói:
                        - Ngài nói thế sai rồi! Phàm xưa nay quan các trấn thủ mỗi khi nộp thuế đều tự áp tải về kinh. Chưa từng nghe nói đến việc phải giao cho trấn khác áp tải bao giờ. Nếu ngài cản trở không cho đi tôi xin quay về báo cùng Tây Sơn hiệu trưởng vậy!
                        Nói rồi vòng tay bái tạ toan lui ra. Lê Quý Đôn bước ra ngăn lại:
                        - Xin tiên sinh hãy khoan đi, vui lòng cho tôi coi qua sổ bộ xem thử có điều gì gian dối chăng?
                        Nguyễn Thung liền gọi quân mang sổ bộ vào, Lê Quý Đôn xem qua một lượt, trả lại cho Nguyễn Thung rồi bảo:
                        - Xin tiên sinh tạm về công quán nghỉ ngơi. Nguyên lúc Hoàng tướng quân chiếm được thành Phú Xuân có tịch biên được sổ bộ dân lưu trữ của các phủ Đàng Trong. Đợi tôi sai ngườI tìm lại rồi ngày mai ngài đem sổ bộ của ngài ra đối chiếu. Nếu quả đúng như vậy sẽ để ngài áp tải số thuế ra kinh.
                        Nguyễn Thung đi rồi Lê Quý Đôn nói với Bùi Thế Đạt:
                        - Nay Nguyễn Thung áp tải số thuế của các phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên ra kinh. Nếu ta ngăn trở, Chúa thượng hay được sẽ bắt tội khi quân, nên không thể không cho hắn đi. Nếu Nguyễn Thung đến được Thăng Long gặp Chúa ta, ắt chúa ta thấy cái lợi trước mắt mà phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ. Câu sấm: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” đã ứng rồi vậy. Tôi e sau này nước ta nguy mất!
                        Bùi Thế Đạt nói:
                        - Nói vậy nghĩa là không có cách nào ngăn họ đi sứ ra kinh. Nhưng theo tôi được biết lúc lúc Chúa Nguyễn bỏ thành Phú Xuân đã mang theo sổ bộ dân của các phủ Đàng Trong chạy vào Gia Định, làm gì có việc Hoàng Ngũ Phúc tịch biên được sổ bộ dân. Vậy sao ông bảo Nguyễn Thung ngày mai đem sổ bộ dân ra đối chiếu là ý thế nào?
                        Đôn buồn bã đáp:
                        - Sau khi phong Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ rồi, chúa ta sẽ không đề phòng quân Tây Sơn. Chủ ý của tôi là muốn cho Nguyễn Nhạc biết rằng đất Bắc hà ta không hiếm người tài. Để sau này khi diệt xong nhà Nguyễn, Nhạc dù muốn dòm ngó nước ta cũng dè dặt mà không dám dấy động can qua.
                        Đôn nói rồi gọi quân đem bút nghiên đến viết một mạch từ đầu đến cuối bốn quyển sổ bộ dân của bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Viết xong, Đôn nói:
                        - Ngày mai ta cứ nói dối rằng đây là sổ bộ dân lưu trữ ở thành Phú Xuân mà Hoàng tướng quân tịch biên được năm xưa. Xin cam đoan không sai sót một chữ nào.
                        Bùi Thế Đạt thất kinh nói:
                        - Từ nhỏ đã nghe danh ông là thần đồng nhớ giỏi. Nay tận mắt thấy trí nhớ của ông, thật là quỉ khốc thần sầu!
                        Ngày sau Nguyễn Thung đem sổ bộ dân ra đối chiếu quả nhiên không sai một chữ nào. Nguyễn Thung tháo mồ hôi hột, vòng tay bái Lê Quý Đôn:
                        - Nét mực vừa mới ráo, chứng tỏ ngài vừa viết xong. Mới đọc qua sổ bộ một lần mà chép lại không sai một chữ. Tài của ngài thật đáng sợ thay!
                        Đôn cười bảo:
                        - Ấy là việc vặt nào có tài cán gì. Đất Bắc Hà còn lắm người tài năng gấp bội. Tôi vì bất tài nên không được ở chốn kinh thành mới vào trấn nhậm Phú Xuân. Ông chớ khen quá lời tôi lấy làm xấu hổ lắm!
                        Nguyễn Thung vòng tay cáo biệt cùng đoàn tuỳ tùng lên đường ra Thăng Long. Trên đường đi, Thung nói với tả hữu:
                        - Nếu không nhờ Nguyễn Huệ bày mưu nộp thuế, thì làm gì ta được đi sứ Thăng Long.
                        ***
                        Ngày ấy ở kinh thành Thăng Long, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có việc ra ngoài phủ. Sâm bèn bảo quân sắp sẵn xe tứ mã, dùng nghi lễ như một vị vua. Sâm vừa bước lên xe bỗng nhiên trời đất tối sầm, gió thổi ào ào, mây đen vần vũ. Từ trong đám gió bụi kia xảy một người bước ra chặn trước đầu xe. Người ấy mặt mũi khôi ngô, mình mặc áo hoàng bào, đầu vấn khăn vàng, chân đi hài tía. Sân tức giận quát hỏi:
                        - Ngươi là ai sao dám chặn đường ta?
                        Người ấy quát lớn:
                        - Thằng nghịch tặc, ta là Thái tử Lê Duy Vĩ đến đòi mạng ngươi đây!
                        Nói xong vung gươm chém Trịnh Sâm. Sâm hoảng sợ nhảy tránh, té xuống xe. Quân hậu vệ vội vàng chạy đỡ Sâm dìu vào tướng phủ. Phạm Ngô Cầu lúc nào cũng theo hầu bên cạnh Sâm. Sâm hỏi Phạm Ngô Cầu:
                        - Khi cơn gió lạ nổi lên ngươi có thấy Thái tử Lê Duy Vĩ hiện ra chăng?
                        Ngô Cầu ngạc nhiên đáp:
                        - Cơn gió lạ này rất giống cơn gió lạ lúc hạ thần vào ngục ép Thái tử Lê Duy Vĩ uống thuốc độc mà chết. Nhưng cơn gió lúc nãy hạ thần không trông thấy Thái tử.
                        Sâm buồn rầu than:
                        - Ngày trước tuổi trẻ ngông cuồng ta giết chết Thái tử. Nay Thái tử chết oan về tìm ta đòi mạng. Thật là gieo nhân nào gặt quả ấy vậy!
                        Nói rồi bảo Phạm Ngô Cầu dẹp bỏ nghi lễ thiên tử mình đang dùng. Ngô Cầu rùng mình sởn gai ốc liền vội vã đi ngay. Trịnh Sâm lại sai người tìm tìm những nơi phong cảnh tốt tươi khắp trong thành, ngoài nội xây dựng chùa chiền, lệnh quan sở tại ngày đêm thay nhau cầu đảo luôn luôn cho hồn Thái tử được siêu thoát.
                        ***
                        Ngày ấy ở kinh thành Thăng Long, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có việc ra ngoài phủ. Sâm bèn bảo quân sắp sẵn xe tứ mã, dùng nghi lễ như một vị vua. Sâm vừa bước lên xe bỗng nhiên trời đất tối sầm, gió thổi ào ào, mây đen vần vũ. Từ trong đám gió bụi kia xảy một người bước ra chặn trước đầu xe. Người ấy mặt mũi khôi ngô, mình mặc áo hoàng bào, đầu vấn khăn vàng, chân đi hài tía. Sân tức giận quát hỏi:
                        - Ngươi là ai sao dám chặn đường ta?
                        Người ấy quát lớn:
                        - Thằng nghịch tặc, ta là Thái tử Lê Duy Vĩ đến đòi mạng ngươi đây!
                        Nói xong vung gươm chém Trịnh Sâm. Sâm hoảng sợ nhảy tránh, té xuống xe. Quân hậu vệ vội vàng chạy đỡ Sâm dìu vào tướng phủ. Phạm Ngô Cầu lúc nào cũng theo hầu bên cạnh Sâm. Sâm hỏi Phạm Ngô Cầu:
                        - Khi cơn gió lạ nổi lên ngươi có thấy Thái tử Lê Duy Vĩ hiện ra chăng?
                        Ngô Cầu ngạc nhiên đáp:
                        - Cơn gió lạ này rất giống cơn gió lạ lúc hạ thần vào ngục ép Thái tử Lê Duy Vĩ uống thuốc độc mà chết. Nhưng cơn gió lúc nãy hạ thần không trông thấy Thái tử.
                        Sâm buồn rầu than:
                        - Ngày trước tuổi trẻ ngông cuồng ta giết chết Thái tử. Nay Thái tử chết oan về tìm ta đòi mạng. Thật là gieo nhân nào gặt quả ấy vậy!
                        Nói rồi bảo Phạm Ngô Cầu dẹp bỏ nghi lễ thiên tử mình đang dùng. Ngô Cầu rùng mình sởn gai ốc liền vội vã đi ngay. Trịnh Sâm lại sai người tìm tìm những nơi phong cảnh tốt tươi khắp trong thành, ngoài nội xây dựng chùa chiền, lệnh quan sở tại ngày đêm thay nhau cầu đảo luôn luôn cho hồn Thái tử được siêu thoát.
                        ***
                        Nói về Nguyễn Thung cùng đoàn tuỳ tùng áp tảI xe vàng bạc lúa thóc ra Thăng Long nộp thuế, thấy khắp nơi đều tấp nập chặt cây, chẻ đá xây dựng chùa chiền, Thung lấy làm lạ hỏI dân:
                        - Vì sao trong thành ngoài nộI lạI xây cất chùa chiền nhiều như thế?
                        Dân đáp:
                        - Năm xưa chúa Trịnh giết chết Thái tử Lê Duy Vĩ, nay Thái tử về đòi mạng chúa, nên chúa lệnh các nơi xây cất chùa chiền cầu đảo cho hồn Thái tử được siêu thoát. Việc này khắp kinh thành ai mà không biết!
                        Nguyễn Thung quay về nói vớI tả hữu:
                        - Ấy chẳng qua là làm điều tàn bạo, lương tâm bất ổn, nên tưởng tượng sinh ra mộng mị, chứ làm gì có việc ngườI chét đi lạI về đòi mạng.
                        Nói xong vào phủ chúa xin yết kiến Trịnh Sâm. Thung dâng sổ bộ dân và sổ bộ thuế bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Sâm xong trong lòng rất vui, cườI nói hỉ hả.
                        Thừa lúc chúa đang vui, Nguyễn Thung dâng sớ của Nguyễn Nhạc xin phong. Sâm xem xong còn chưa quyết, chợt Phạm Ngô Cầu vào báo:
                        - KhảI Chúa! Có một lão già bày dân hát lờI nhạo báng Chúa thượng, tộI đáng bêu đầu. Hạ thần đã bắt về đây cho Chúa thượng trị tội.
                        Sâm nhướng mắt hỏI:
                        - Hát lờI nhạo báng ta như thế nào?
                        Cầu khúm núm:
                        - Thưa! Hạ thần không dám nói. Xin giảI hắn vào cho Chúa thượng tra xét.
                        Nói xong liền lôi tộI nhân vào. TộI nhân là một lão già tuổI quá tám mươi, râu tóc bạc phơ. Sâm quát hỏI:
                        - Lão già kia! Ngươi bày vẽ dân chúng hát lờI nhạo báng ta là lờI gì?
                        Lão già thản nhiên đáp:
                        - Già thấy dân chặt cây đục đá làm chùa chiền buột miện ca rằng: “Dầu xây chín bực phù đồ. Không bằng làm phúc cứu cho một ngườI”. MọI ngườI nghe xong liền bắt chước ca theo. Thật tình già không dám nhạo báng Chúa thượng.
                        Sâm dịu giọng hỏI:
                        - Ngươi ca hai câu ấy nghĩa là gì?
                        Lão già đáp:
                        - Xin chúa tha tộI, ý già nói rằng trước đây nếu chúa không giết chết Thái tử thì ngày nay cần gì phảI xây dựng chùa chiền khắp nơi như thế.
                        Sâm hỏI:
                        - Ngươi không sợ chết sao?
                        ***
                        Nói về Nguyễn Thung cùng đoàn tuỳ tùng áp tải xe vàng bạc lúa thóc ra Thăng Long nộp thuế, thấy khắp nơi đều tấp nập chặt cây, chẻ đá xây dựng chùa chiền, Thung lấy làm lạ hỏi dân:
                        - Vì sao trong thành ngoài nội lại xây cất chùa chiền nhiều như thế?
                        Dân đáp:
                        - Năm xưa chúa Trịnh giết chết Thái tử Lê Duy Vĩ, nay Thái tử về đòi mạng chúa, nên chúa lệnh các nơi xây cất chùa chiền cầu đảo cho hồn Thái tử được siêu thoát. Việc này khắp kinh thành ai mà không biết!
                        Nguyễn Thung quay về nói với tả hữu:
                        - Ấy chẳng qua là làm điều tàn bạo, lương tâm bất ổn, nên tưởng tượng sinh ra mộng mị, chứ làm gì có việc người chết đi lại về đòi mạng.
                        Nói xong vào phủ chúa xin yết kiến Trịnh Sâm. Thung dâng sổ bộ dân và sổ bộ thuế bốn phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên. Sâm xong trong lòng rất vui, cười nói hỉ hả.
                        Thừa lúc chúa đang vui, Nguyễn Thung dâng sớ của Nguyễn Nhạc xin phong. Sâm xem xong còn chưa quyết, chợt Phạm Ngô Cầu vào báo:
                        - Khải Chúa! Có một lão già bày dân hát lời nhạo báng Chúa thượng, tội đáng bêu đầu. Hạ thần đã bắt về đây cho Chúa thượng trị tội.
                        Sâm nhướng mắt hỏi:
                        - Hát lời nhạo báng ta như thế nào?
                        Cầu khúm núm:
                        - Thưa! Hạ thần không dám nói. Xin giải hắn vào cho Chúa thượng tra xét.
                        Nói xong liền lôi tội nhân vào. Tội nhân là một lão già tuổi quá tám mươi, râu tóc bạc phơ. Sâm quát hỏi:
                        - Lão già kia! Ngươi bày vẽ dân chúng hát lời nhạo báng ta là lời gì?
                        Lão già thản nhiên đáp:
                        - Già thấy dân chặt cây đục đá làm chùa chiền buột miệng ca rằng: “Dầu xây chín bực phù đồ. Không bằng làm phúc cứu cho một người”. Mọi người nghe xong liền bắt chước ca theo. Thật tình già không dám nhạo báng Chúa thượng.
                        Sâm dịu giọng hỏi:
                        - Ngươi ca hai câu ấy nghĩa là gì?
                        Lão già đáp:
                        - Xin chúa tha tội, ý già nói rằng trước đây nếu chúa không giết chết Thái tử thì ngày nay cần gì phải xây dựng chùa chiền khắp nơi như thế.
                        Sâm hỏi:
                        - Ngươi không sợ chết sao?
                        Lão già không chút sợ hãi đáp:
                        - Năm ấy Thái tử mới ngoài ba mươi tuổi còn không sợ chết thay, lão nay đã ngoài tám mươi còn sợ chết nỗi gì!
                        Phạm Ngô Cầu nổi giận toan lôi ra chém. Sâm khoát tay bảo:
                        - Hãy tha cho lão được sống. Việc này là do lỗi ở ta – Nói xong nét mặt dàu dàu tâm thần bất định. Sâm bảo Nguyễn Thung:
                        - Ngươi hãy ra nghỉ ngơi ngoài công quán. Việc Nguyễn Nhạc xin phong ngày khác sẽ bàn đến – Nói xong truyền bãi triều.
                        Phạm Ngô Cầu về tư dinh nghĩ đến việc hồn Thái tử báo oán, trong lòng lo lắng bèn nói với vợ:
                        - Năm ấy Tĩnh Đô Vương giết chết Thái tử, nhưng chính ta là người mang thuốc độc vào ngục ép Thái tử uống. Nay Thái tử về đòi mạng chúa ắt sớm muộn gì cũng đến lượt ta.
                        Vợ Ngô Cầu bàn:
                        - Thiếp nghe nói hồn ma chỉ quanh quẩn gần nơi bị chết không thể đi xa được. Vậy phu quân hãy xin chúa đi trấn nhậm phương xa thì hồn Thái tử không thể nào theo được.
                        Cầu than thở:
                        - Nhưng chúa rất tin cậy ta, Năm ấy giết Thái tử chúa chỉ sai ta. Rồi khi gợi ý các quan về việc sang Tàu xin phong làm vua, chúa cũng bảo ta khởi xướng. E rằng chúa chẳng cho ta đi trấn nơi xa đâu!
                        Vợ Ngô Cầu hiến kế rằng:
                        - Nay chúa đang lo lắng vì hồn Thái tử theo báo oán. Phu quân hãy nhờ người nói với chúa rằng hồn Thái tử theo báo oán phu quân nên làm kinh động đến ngọc thể. Vậy chúa hãy cho phu quân đi trấn nhậm phương xa. Hồn Thái tử sẽ theo phu quân mà không ở gần Chúa thượng, thì lo gì mà chúa chẳng cho đi.
                        Cầu khen:
                        - Không ngờ nàng lại đa mưu túc trí, nhưng việc này phải nhờ ai?
                        - Vợ Cầu đáp:
                        - Phu quân đã bao năm được phong tước Tạo quận công, trong các bạn đồng liêu lại không tin cậy được ai sao?
                        Bỗng Phạm Ngô Cầu reo lên rằng:
                        - Đã có một người! Đã có một người!
                        Nói xong liền đến công quán gặp Nguyễn Thung. Phân ngôi chủ khách xong, Cầu hỏi Thung:
                        - Việc Tây Sơn hiệu trưởng xin phong làm Quảng Nam trấn thủ, Chúa thượng đã thuận lòng chưa? Sao ông còn ở mãi không về?
                        Nguyễn Thung đáp:
                        - Từ hôm ấy đến nay đã mấy ngày rồi tôi xin vào yết kiến nhưng Chúa thượng chẳng tiếp ai. Tôi rất nóng lòng nhưng chẳng biết phải làm sao?
                        Cầu nói:
                        - Tôi có một kế khiến Chúa thượng lập tức thuận phong cho Tây Sơn hiệu trưởng.
                        Thung vội hỏi:
                        - Kế thế nào xin ông làm ơn chỉ vẽ. Hiệu trưởng ngày sau sẽ hậu tạ quận công!
                        Cầu kế tai Nguyễn Thung nói nhỏ:
                        - Ông cứ làm như vầy... như vầy..., ắt chúa sẽ vui mừng thuận cho Tây Sơn hiệu trưởng làm trấn thủ Quảng Nam.
                        Nguyễn Thung cả mừng nói:
                        - Xin cảm ơn quận công bày kế, ơn này thật chẳng dám quên.
                        Ngày sau Nguyễn Thung đến phủ chúa xin vào ra mắt Trịnh Sâm. Quan nội thị bảo:
                        - Chúa đang bệnh không tiếp ai cả.
                        Thung nói:
                        - Nhờ ngài vào bẩm báo cùng Chúa thượng, có sứ giả của Tây Sơn hiệu trưởng xin vào thăm bệnh Chúa thượng.
                        Quan nội thị vào trong một hồi rồi quay ra mời Nguyễn Thung vào nội phủ. Sâm miễn lễ cho Nguyễn Thung rồi hỏi:
                        - Có phải tiên sinh nói vào đây thăm bệnh cho ta?
                        - Thung đáp:
                        - Chúa thượng thần sắc nhợt nhạt, nhãn quan không định ấy là do tâm thần bất ổn, bởi yêu ma quấy phá. Bệnh này dùng thuốc không thể khỏi!
                        Sâm lo lắng hỏi:
                        - Vậy phải làm thế nào?
                        Thung đáp:
                        - Việc này không thể nói cho người khác nghe được!
                        Sâm liền đuổi hết tả hữu ra ngoài. Thung đưa mắt nhìn Phạm Ngô Cầu không nói. Sâm hiểu ý đuổi cả Phạm Ngô Cầu. Bấy giờ Thung mới nói:
                        - Thần nghe nói năm xưa chính Ngô Cầu đã ép Thái tử uống thuốc độc mà chết. Nay hồn Thái tử về báo oán Phạm Ngô Cầu làm kinh động đến Chúa thượng. Vả lại sách xưa có nói rằng: “Hễ người tướng quí thì kỵ yêu ma”. Tôi xét thấy có quan trấn thủ Bùi Thế Đạt là dũng lược hơn người, oai phong lẫm liệt, lại thêm quan thị lang Lê Quý Đôn là quan thanh liêm, tâm hồn cao thượng. Vậy Chúa thượng hãy vời hai người này về hầu hạ bên cạnh sẽ trấn được yêu ma. Đồng thời Chúa thượng cho Ngô Cầu vào làm trấn thủ Phú Xuân Thuận Hoá, thì hồn Thái tử sẽ theo Ngô Cầu vào Phú Xuân đòi mạng. Chúa thượng tất bình an vô sự.
                        Trịnh Sâm mừng rỡ khen:
                        - Cảm ơn tiên sinh bày cho diệu kế trừ yêu ma. Vậy tiên sinh muốn vật chi ta sẵn sàng ban thưởng.
                        Thung đáp:
                        - Thần vì vận mệnh quốc gia chứ không có lòng tham vàng ngọc. Xin hỏi Chúa thượng xét việc Tây Sơn hiệu trưởng xin phong như thế nào, để thần sớm được quay về quê quán?
                        Sâm liền lấy bút nghiên viết chiếu phong Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên uý đại sứ, Cung quận công rồi trao ấn chiếu cho Nguyễn Thung. Thung lạy tạ lui ra. Sâm lại gọi Phạm Ngô Cầu phong làm trấn thủ đất Thuận Hoá, Nguyễn Lệnh Tân làm tham thị vào thay Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn. Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn được triệu hồi về Thăng Long.
                        Về đến công quán, Nguyễn Thung vui mừng nói với tả hữu:
                        - Phạm Ngô Cầu là người tàn ác tham lam và nhu nhược. Nếu Ngô Cầu vào trấn thủ Phú Xuân, Thuận Hoá, là trời đã bày ra chuyện yêu ma mà giúp cho Chúa công ta vậy.
                        Nguyễn Thung đem chiếu và ấn về Qui Nhơn dâng lên Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huệ nói:
                        - Trịnh Sâm không được làm vua nên chẳng màng đến việc mở mang bờ cõi về phía Nam. Phạm Ngô Cầu bất tài nhu nhược thì ta không lo bị tấn công ở mặt Bắc. Vậy là đại huynh xưng Vương và phát đại binh vào Gia Định tiêu diệt Chúa Nguyễn được rồi đó!
                        Năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng thứ ba mươi tám, Nguyễn Nhạc xưng làm Tây Sơn Vương.
                        Các tướng sĩ đều theo công trạng mà thăng thưởng. Luận công tướng sĩ xong, Nguyễn Thung nói:
                        - Nay Chúa công vừa mới xưng Vương nên sai tướng đem đại binh vào Gia Định dẹp yên họ Nguyễn, thống nhất toàn cõi Đàng Trong để tỏ rõ chí hướng của Chúa công cho thiên hạ biết vậy.
                        Nguyễn Nhạc gật đầu nói:
                        - Tiên sinh nói rất phải, phen này phải đập tan họ Nguyễn ở đất Gia Định, bắt cho được hai chúa Thái thượng vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương. Vậy ai dám lãnh trọng trách này?
                        Các tướng đồng thanh nói:
                        - Ngoài tướng quân Nguyễn Huệ không ai làm nổi!
                        Nhạc hỏi Huệ:
                        - Em có dám lãnh trọng trách này chăng?
                        Huệ bước ra đáp:
                        - Nếu không bình định được đất Gia Định, thống nhất cõi Đàng Trong, bắt chúa nhà Nguyễn, Huệ tôi thề quyết không về.
                        Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lãnh thuỷ binh hai vạn, đem theo các tướng Nguyễn Lữ, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Đặng văn Long, Bùi Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Phạm Ngạn, Nguyễn Uy và Lê Chu vượt biển tiến vào Gia Định đánh chúa Nguyễn.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #27
                          Chương 24

                          Dạ con nít, Đỗ Thành Nhân treo xác Lý Tài.
                          Bụng đàn bà, Bùi Thị Xuân tha mạng Phúc Ánh.


                          Nói về Nguyễn Huệ vâng lệnh Nguyễn Nhạc đem hai vạn thuỷ binh vào Gia Định đánh chúa Nguyễn. Đến cửa bể Cần Giờ, Nguyễn Huệ cho dừng quân, mời các tướng lên soái thuyền nhận lệnh. Huệ giở bản đồ ra rồi hạ lệnh:
                          - Nguyễn Lữ làm chánh tướng, Đặng Văn Long phó tướng cùng Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo và Phạm Ngạn dẫn một vạn quân theo sông Đồng Nai, tiến đánh chiếm thành Trấn Biên rồi Lữ và Long chia binh làm ba cánh. Một là cho Đặng Xuân Bảo lãnh một ngàn quân đi đường tắt đến con đường sang nước Cao Miên ở phía Tây thành Sài Côn đốt lửa làm kế nghi binh, không cho Lý Tài ở thành Sài Côn chạy trốn sang Cao Miên. Cánh thứ hai là Nguyễn Lữ và Phạm Ngạn lãnh ba ngàn quân ở lại giữ Trấn Biên đề phòng tiếp ứng cho Đặng Xuân Bảo. Cánh thứ ba là Đặng Văn Long và Đặng Xuân Phong đem sáu ngàn binh mã tiến ra đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh và ải Vân Phong.
                          Nguyễn Lữ nghe xong lãnh lấy lệnh bài. Nguyễn Huệ lại truyền:
                          - Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Uy lãnh bốn ngàn quân vào cửa biển Hàm Luông theo sông Tiền Giang tiến lên đánh lấy thành Trường Đồn (nay là Mỹ Tho). Chiếm được thành rồi, ba tướng phải canh phòng cẩn mật không cho quân của Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên đem binh tiếp viện, đồng thời chẹn đường rút binh của chúa Nguyễn từ thành Sài Côn về Hà Tiên, làm cho chúng hai đầu không cứu ứng với nhau được. Các tướng nên nhớ trận này vô cùng quan trọng, phải tốc chiến tốc thắng tiêu diệt bằng được họ Nguyễn ở Gia Định rồi lập tức rút binh về Qui Nhơn đề phòng họ Trịnh đánh ta nơi mặt Bắc.
                          Các tướng đều hăng hái nhận lệnh đi ngay. Bỗng Trần Quang Diệu bước ra nói:
                          - Các tướng đều đã dẫn quân ra trận. Còn thành Sài Côn do Lý Tài trấn giữ, vợ chồng tôi xin lãnh binh tiên phong chiếm thành.
                          Nguyễn Huệ cười rằng:
                          - Thành Sài Côn không cần phải đánh, ta chỉ đem chiến thuyền và hai ngàn quân tiến theo sông Thị Nghè làm kế nghi binh. Đợi khi Nguyễn Lữ và Đặng Văn Long chiếm xong thành Trấn Biên, Lý Tài ắt phải bỏ thành Sài Côn mà chạy vào Trường Đồn. Nơi này có vùng rừng Tam Phụ do quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân hùng cứ.
                          Thành Nhân mà nghe Lý Tài chạy đến đây ắt sẽ đem quân đón đánh báo thù năm trước Lý Tài đuổi Đỗ Thành Nhân khỏi thành Sài Côn, lấy mất binh quyền. Ấy là ta không đánh mà địch quân phải hao binh tổn tướng gấp hai lần vậy. Đợi hai con hổ này đánh nhau sức cùng lực kiệt xong, dù chúng có tài dời non lấp biển, cũng không thể nào thoát khỏi vòng vây của ta!
                          Trần Quang Diệu nghe xong nói:
                          - Tướng quân dùng binh như thần. Nhưng kể từ ngày đến Tây Sơn tụ nghĩa, vợ chồng tôi chịu ơn tướng quân sâu nặng, mà chưa lập được công trạng gì để trả nợ nước. Nay vào đến đất Gia Định này cũng không được cầm quân ra trận thật đáng buồn thay!
                          Huệ vỗ vai Quang Diệu thân mật nói:
                          - Quang Diệu chớ buồn, đánh trận này chính vợ chồng Diệu – Xuân là lập nên đại công vậy!
                          Bùi Thị Xuân hỏi lẫy rằng:
                          - Không cầm quân ra trận dám hỏi dượng rể sao lại lập nên đại công?
                          Huệ chỉ vào bản đồ nói:
                          - Khi chúa tôi nhà Nguyễn chạy vào Trường Đồn thì Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Văn Tuyết tất đã chiếm được thành Trường Đồn triệt đường về Hà Tiên của địch. Lúc ấy chúa Nguyễn chỉ còn một con đường là xuống thuyền theo sông Tiền Giang ra các cửa bể Cung Hầu và cửa bể Hàm Luông hòng chạy trốn ra ngoài hải đảo mà thôi. Vậy Diệu – Xuân hãy lãnh bốn ngàn binh chia quân mai phục ở các cửa bể này chờ hai chúa Nguyễn chạy ra đón bắt, thì không phải là lập được đại công đó sao.
                          Diệu và Xuân mừng rỡ tạ ơn rồi lãnh lệnh đi ngay. Ngày hôm sau, Nguyễn Huệ mới gọi Lê Chu và hai ngàn quân dưới quyền mình theo sông Thị Nghè từ từ tiến về Sài Côn.
                          Lúc ấy trong thành Sài Côn quân thám mã hớt hải chạy về phi báo cùng Nguyễn Phúc Dương. Dương cuống cuồng lo sợ gọi Lý Tài đến hỏi:
                          - Hai vạn quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy hiện đang đóng ở cửa biển Cần Giờ, sớm chiều sẽ tiến đánh Sài Côn. Tướng quân đã có kế sách đánh giặc hay chưa?
                          Lý Tài nói cứng:
                          - Thần đã có cách tiến thủ, xin Tân vương chớ lo!
                          Dương lại hỏi:
                          - Cách tiến thủ thế nào mau nói ta nghe thử?
                          Tài đáp:
                          - Thần đã cho người hoả tốc đến Trường Đồn gọi Lê Văn Quân, Trấn Biên gọi Hồ Văn Lân, Bình Thuận gọi Nguyễn Văn Hoằng mang quân về cứu viện. Hiện thần đã cho quân đặt đại bác trên mặt thành thì không dễ gì Nguyễn Huệ lấy thành được. Chờ ít lâu viện binh về đến, Nguyễn Huệ tất lui binh, lúc ấy ta đem quân đuổi đánh ắt là toàn thắng.
                          Phúc Dương hoàn hồn nói:
                          - Ấy thật là kế sách vẹn toàn, nhưng Nguyễn Huệ mưu mẹo vô cùng, dùng binh rất lạ. Nhớ năm xưa hắn chỉ dùng có năm ngàn quân mà đánh tan ba vạn quân của Tôn Thất Hương ở núi Bích Kê sông Lại Dương, Qui Nhơn phủ. Năm sau hắn đem năm ngàn quân lại đánh tan hai vạn quân của Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Nay Nguyễn Huệ vào Gia Định đem hùng binh tới hai vạn nên ta lấy làm lo lắng lắm.
                          Lý Tài trấn an Dương:
                          - Xin Tân vương bình tâm. Năm xưa Tôn Thất Hương bất tài, Tống Phước Hiệp khinh địch nên mới lầm mưu sâu mà bại dưới tay Nguyễn Huệ. Sao đem Lý Tài này so sánh với hai người ấy được. Nay đồn Thị Nghè là yết hầu của thành Sài Côn đã có tướng Nguyễn Nghi trấn đóng, thần xin đem toàn quân ra hợp với Nguyễn Nghi giữ Thị Nghè thì Tân vương ở trong thành Sài Côn như ngồi trên bàn thạch vậy.
                          Nói rồi liền dẫn quân đi. Lý Tài đi rồi, quân thám mã về báo với Dương: Thưa Tân vương, quân Tây Sơn đã đánh chiếm thành Trấn Biên, quan trấn thủ Hồ Văn Lân bỏ thành chạy trốn.
                          Nguyễn Phúc Dương hoảng hốt định sang dinh phủ Nguyễn Phúc Thuần, vừa lúc thấy Phúc Thuần và Nguyễn Đăng Trường đến. Dương không kịp mời ngồi hỏi ngay:
                          - Quân Tây Sơn chiếm lấy Trấn Biên, Thái Thượng vương đã biết chưa?
                          Nguyễn Đăng Trường đỡ lời nói:
                          - Thượng vương đã biết nên mới sang đây bàn bạc với Tân vương.
                          Dương hỏi:
                          - Vậy ta phải làm thế nào?
                          Trường đáp:
                          - Nay quân Tây Sơn đã lấy mất Trấn Biên thì Nguyễn Văn Hoằng không thể đem quân về cứu viện. Nguyễn Huệ lại từ cửa Cần Giờ đánh tới Thị Nghè, thành Sài Côn không thể nào giữ nổi. Hai Chúa hãy mau bỏ thành Sài Côn mà lui về Trường Đồn. Nếu Tây Sơn đánh tới Trường Đồn ta còn đường chạy về hà Tiên nương nhờ Mạc Thân Tứ, chứ ngồi ở thành Sài Côn này, ngộ nhỡ Nguyễn Huệ lại cho một cánh quân đánh lấy Trường Đồn, thì quân ta bốn bề thọ địch, khác nào cá nằm trong rọ vậy.
                          Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Đăng Trường liền đem gia quyến bỏ thành Sài Côn nhằm hướng Nam mà chạy.
                          Trong đêm ấy Nguyễn Huệ thừa lúc nước lớn cho chiến thuyền tiến sát đồn Thị Nghè đánh trống tưng bừng. Lý Tài và Nguyễn Nghi lệnh quân bắn đại bác xuống thuyền Tây Sơn, Nguyễn Huệ liền cho thuyền lui ra khỏi tầm súng. Một đêm mấy lần như thế, quân Lý Tài bằn hết đạn đại bác thì trời vừa hừng sáng. Bỗng quân từ thành Sài Côn chạy về phi báo: Quân Tây Sơn đã chiếm Trấn Biên. Hai chúa Tân vương và Thượng vương đã bỏ thành Sài Côn chạy về Trường Đồn.
                          Lý Tài thất sắc nói:
                          - Quân Tây Sơn sao chiếm được Trấn Biên nhanh thế. Tân vương chạy về Trường Đồn sao không bảo ta một tiếng!
                          Nói rồi truyền quân bỏ đồn Thị Nghè chạy theo hai chúa.
                          Lúc ấy sào huyệt quân Đông Sơn Đỗ Thành Nhân ở rừng Tam Phụ cạnh thành Trường Đồn. Đỗ Thành Nhân nghe quân vào báo:
                          - Thưa tướng quân, chúa Thái Thượng vương và Tân Chính vương bỏ thành Sài Côn vừa chạy ngang qua nơi này. Hiện Lý Tài cũng sắp sửa đến nơi.
                          Đỗ Thành Nhân mừng rỡ nói:
                          - Đây là dịp để ta báo thù năm trước, truyền lệnh xuất quân.
                          Lý Tài dẫn quân chạy đến rừng Tam Phụ bỗng nghe một phát pháo lệnh nổ vang, quân Đông Sơn từ hai bên rừng bắn tên ra như mưa. Quân Lý Tài dùng khiên mà đỡ. Đỗ Thành Nhân thấy quân Lý Tài chẳng chết bao nhiêu liền hô quân giáp chiến. Võ Nhân, Võ Tánh từ bên phải xông ra, Đỗ Thành Nhân, Đỗ Nhàn Trập từ bên trái đánh tới. Lý Tài cùng đường bèn quay lại bảo quân sĩ:
                          - Các ngươi hãy cùng ta quyết đánh một trận. Thắng quân Đông Sơn là chúng ta thoát nạn. Nếu quay lại gặp quân Tây Sơn thì chỉ còn con đường chết mà thôi.
                          Nói xong rồi vung đao xông tới. Hai bên giáp chiến, quân Lý Tài thất thế chống không nổi bị giết thây nằm chật đất. Lý Tài ngửa mặt than:
                          - Không ngờ Lý Tài ta cùng đường chết thảm nơi này!
                          Than xong đâm cổ tự vẫn. Đỗ Thành Nhân toàn thắng, tàn sát quân Lý Tài không còn một người nào cả. Nhân kiểm điểm binh mã thấy tổn thất cả ngàn quân, tức giận bảo quân lấy xác Lý Tài treo lên cây ven rừng, đoạn Nhân chỉ vào thây Lý Tài đang treo lủng lẳng trên cây mắng:
                          - Nếu không có mày đến đây thì giờ này ta đang làm phụ chính trong thành Sài Côn thống lãnh binh quyền phò tá chúa. Chính mày làm chúa tôi ta mỗi người đi một ngả, nghi kỵ lẫn nhau, làm rối loạn đất Gia Định này. Tội mày chết vẫn chưa trả được.
                          Nói xong liền chia nhau đi tìm chúa Nguyễn.
                          ***
                          Lúc ấy hai chúa đem gia quyến chạy khỏi rừng Tam Phụ cách thành Trường Đồn hai mươi dặm. Bỗng thấy một đám tàn quân từ thành Trường Đồn chạy đến. Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương đón quân ấy lại hỏi:
                          - Các ngươi là lính của trấn nào?
                          Quân ấy đáp:
                          - Kính Chúa thượng, chúng thần là quân ở thành Trường Đồn, thành Trường Đồn bị quân Tây Sơn đánh chiếm, tướng quân Lê Văn Quân không rõ trốn tránh nơi nào. Chúng thần định chạy về Sài Côn báo cho chúa biết chẳng ngờ gặp chúa nơi bày.
                          Tân vương thất kinh hỏi Nguyễn Đăng Trường:
                          - Tây Sơn chiếm thành Trường Đồn là ta không còn đường chạy về Hà Tiên. Nay bốn bên địch vây phủ vậy phải làm sao?
                          Trường vẫn cần mẫn đáp:
                          - Ta chỉ còn một con đường là theo đường sông ra cửa bể Hàm Luông chạy ra ngoài hải đảo mà thôi!
                          Nói đoạn chúa tôi đưa gia quyến xuống thuyền xuôi dòng sông hòng ra cửa bể. Trong đoàn thuyền lánh nạn ấy có chiếc thuyền chở người cháu nội Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, con Hoàng tử Nguyễn Phúc Luân bị Phúc Loan giết chết trong ngục ở Phú Xuân cùng Ý đức hầu Thái uý Trương Văn Hạnh năm xưa. Người này tên gọi Nguyễn Phúc Ánh cùng mẹ và em gái là tiểu thư Ngọc Du đang ở trong thuyền, bỗng thuyền bị gãy cột buồm nên đi chậm lại một đoạn khá xa. Phúc Ánh giật mình đứng trên mũi thuyền nói thầm rằng:
                          - Ta nghe nói tướng ra trận gãy cờ là điềm gở. Thuyền đang đi gãy buồm chắc là việc chẳng lành!
                          Vừa nói xong bỗng thấy phía trước đoàn thuyền chúa Nguyễn xuất hiện một đoàn thuyền chiến Tây Sơn từ trong ngả rẽ ào ào xông ra. Tướng Tây Sơn đứng trên mũi thuyền là Trần Quang Diệu quát:
                          - Hai chúa đừng chạy nữa, tôi chờ hai chúa ở cửa sông này đã lâu!
                          Nói xong Diệu liền hô quân vây bắt hai chúa Nguyễn. Tân vương ngoảnh lại thấy mình chỉ còn vỏn vẹn mười chiếc thuyền nhỏ và một trăm tên quân, biết không thoát được đành bó tay chịu trói. Thượng vương Nguyễn Phúc Thuần liền chạy ra sau lái thuyền gào to lên rằng:
                          - Phúc Ánh cháu ơi mau chạy đi!
                          Gào xong nhảy xuống sông tự vẫn. Nguyễn Đăng Trường hét lên một tiếng đâm đầu theo Phúc Thuần. Trần Quang Diệu sai quân lặc xuống nước vớt Thuần và Trường lên thuyền. Về phần Nguyễn Phúc Ánh ở nơi xa thấy hai chúa bị Tây Sơn bắt liền quay thuyền hối quân chèo gấp. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân lướt thuyền theo đuổi bắt. Chạy được một đoạn Phúc Ánh liệu bề ở dưới sông không chạy kịp liền bảo quân quay thuyền vào bờ dìu mẹ và em gái lên đất liền chạy trốn. Bùi Thị Xuân cũng tấp thuyền vào cùng mươi nữ hộ vệ đuổi theo Phúc Ánh. Vì vướng mẹ và em nhỏ chạy chẳng thoát, ngoảnh lại thấy quân đuổi theo toàn là nhi nữ, Ánh bèn quay lại vung gươm rượt đánh. Được vài hiệp, Thị Xuân chờ giáo Phúc Ánh đâm tới, liền đưa tay chụp lấy mũi giáo kẹp vào trong nách mình. Phúc Ánh dùng hết sức rút giáo về nhưng cánh tay Bùi Thị Xuân như sắt không sao rút được. Thị Xuân kề gươm vào cổ Ánh hô nữ binh trói lại. Lúc ấy mẹ Ánh và em gái Ánh là tiểu thư Ngọc Du cũng vừa bị giải đến. Mẹ Ánh quỳ lạy Thị Xuân và khóc rằng:
                          - Nay dòng họ Nguyễn của tiên vương chỉ còn một mình nó là trai. Xin bà hãy bắt mẹ con tôi về làm tội, hãy tha thứ cho Phúc Ánh để nó lo việc tế tự tổ tiên về sau.
                          Nói xong khóc lóc thảm thiết. Tiểu thư Ngọc Du lúc ấy vừa tròn mười bốn tuổi cũng quỳ cạnh mẹ mà lạy Thị Xuân. Thị Xuân ngoảnh mặt gạt đi:
                          - Không van xin gì cả! Quân bay giải về hết cho ta!
                          Lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh mới quỳ lạy Thị Xuân ba lạy nói:
                          - Tôi tuy còn nhỏ nhưng là nam nhi, vì nước loạn mà chết chẳng ân hận gì. Bất đắc dĩ phải lạy nữ tướng quân ba lạy, xin nữ tướng hãy thả cho mẹ và em tôi được sống. Mẹ tôi đã già, em tôi là nữ nhi thường tình không thể làm hại cho xã tắc được, xin nữ tướng quân mở lượng hiếu sinh.
                          Thị Xuân quay lại bảo:
                          - Được! Ta tha cho mẹ và em ngươi. Quân bay giải Phúc Ánh đi!
                          Mẹ Ánh ôm chân phải Thị Xuân khóc rống lên rằng:
                          - Cả dòng họ chỉ còn mình nó là trai. Nó chết đi mẹ con tôi còn sống làm gì nữa.
                          Tiểu thư Ngọc Du ôm chân trái Thị Xuân khóc nức nở cầu xin:
                          - Bà cũng là phụ nữ, cũng làm mẹ cũng có con, ắt hiểu được tấm lòng của mẹ con tôi. Vậy xin bà hãy tha cho anh tôi được sống.
                          Hai mươi nữ binh của Thị Xuân trông thấy cảnh này đều rơi nước mắt. Thị Xuân động lòng nói với em mình là Bùi Thị Cúc:
                          - Nếu ta tha Phúc Ánh, ngộ nhỡ Chúa công bắt tội biết ăn nói làm sao?
                          Thị Cúc đáp:
                          - Việc này chỉ có chị em ta cùng hai mươi vệ quân thân tín, ta giấu đi sao Chúa công biết được. Chỉ e rằng Phúc Ánh là dòng hoàng tộc nếu sau này khởi binh báo thù thì nguy cho xã tắc mà thôi!
                          Thị Xuân cười bảo:
                          - Cả một cơ đồ còn phải sụp đổ thay, huống gì thằng con nít này trong tay chẳng một tên quân thì làm gì ta được.
                          Nói rồi liền ra lệnh tha cho ba mẹ con Phúc Ánh. Phúc Ánh cùng mẹ và em rối rít lạy tạ ơn, rồi vội vàng dìu nhau đi về làng dân gần đó. Ngọc Du hỏi Ánh:
                          - Anh ơi! Nay không cửa không nhà, không người thân thích biết phải về đâu?
                          Ánh vỗ về Ngọc Du:
                          - Trời đất này là của nhà Nguyễn ta, nay ta lại không có chỗ dung thân sao? Ta sẽ về với Đỗ Thành Nhân.
                          Nguyễn mẫu hỏi:
                          - Ngày trước Thành Nhân quản thúc Thượng vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn. Nay theo về với hắn để làm tù nhân ư. Thà mẹ sống làm một người dân hạ tiện còn hơn về với Đỗ Thành Nhân!
                          Ánh trấn an mẹ và em rằng:
                          - Mẹ cứ an tâm! Lần trước quản thúc họ nhà ta trong thành Sài Côn hắn tưởng rằng con khờ dại nên mới bảo con lên mặt thành vờ không nhận Đông cung Thế tử Dương. Nhờ vậy con bắn tên đưa thư cho Thế tử Dương thông báo việc Thành Nhân làm phản. Đến nay Thành Nhân vẫn nghĩ rằng con tin hắn một dạ trung thành ắt vui vẻ mà đón tiếp mẹ con ta. Vả lại Thành Nhân dấy binh lấy tên Đông Sơn là có ý cho rằng binh hắn đối dịch với Tây Sơn. Nay có mẹ con ta hắn ắt mừng vì có nghĩa tôn phò, không hậu tiếp con sao được? Mẹ chớ lo!
                          Nói rồi liền dìu mẹ và em ngày đi đêm nghỉ bước thấp bước cao cực khổ trăm bề, tìm đến rừng Tam Phụ nương náu Đỗ Thành Nhân.
                          ***
                          Nói về tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ vào thành Sài Côn rồi. Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân dẫn Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương, Tĩnh điệp hầu Nguyễn Đăng Trường về nộp dưới trướng. Nguyễn Huệ cười hỏi Phúc Dương:
                          - Đại huynh tôi sửa thành Đồ Bàn, tạm mời Đông cung Thế tử ra chùa Thập Tháp, chờ sửa xong thành sẽ rước Thế tử về xưng vương. Sao Thế tử lại chạy vào Gia Định để nhà Nguyễn ta có một lần hai chúa vậy?
                          Phúc Dương đáp:
                          - Ta thoát được về Gia Định mưu khôi phục cơ đồ. Nay việc không thành là do lòng trời vậy. Muốn chém giết mặc lòng, chớ hỏi lôi thôi.
                          Nguyễn Huệ truyền quân đem tạm giam Dương và Thuần, rồi tự tay mở trói cho Nguyễn Đăng Trường hỏi:
                          - Ngày trước chia tay ở Qui Nhơn, tiên sinh ra đi định xoay chuyển lại đất trời. Nay tiên sinh bị tôi bắt lần nữa, cỗ xe cầu hiền tôi vẫn dành cho tiên sinh đó. Chẳng hay ý tiên sinh thế nào?
                          Trường lạnh lùng đáp:
                          - Ngày nay chỉ có chết mà thôi!
                          Huệ cười bảo:
                          - Nếu thả tiên sinh lần nữa, chỉ e rằng lần sau quân lính của Huệ lại tốn thêm một sợi dây trói chứ lợi ích gì?
                          Nói rồi Huệ truyền quân lôi Thượng vương Phúc Thuần, Tân vương Phúc Dương và Nguyễn Đăng Trường ra chém. Chém xong Huệ lại sai quân tống táng theo nghi lễ vương hầu.
                          ***
                          Nói về Nguyễn Lữ lấy xong thành Trấn Biên rồi, bèn sai Đặng Văn Long đem sáu ngàn binh mã tiến đánh Bình Thuận. Quân Tây Sơn trước đặt đại bác bắn vỡ thành rồi xung phong giáp chiến. Quân Nguyễn nghe súng nổ, trống đánh vang trời đã kinh hồn bạt vía bèn bỏ thành chạy trốn vào rừng. Nguyễn Văn Hoằng lúc ấy đã ngoài năm mươi tuổi, lên ngựa mặc giáp cùng vài trăm quân tín cẩn đến cửa thành cản địch, bị Đặng Xuân Phong chém một đao rơi đầu. Đặng Văn Long thừa thắng kéo quân ra thẳng thành Diên Khánh. Đồn trại quân Nguyễn dọc đường bị quân Tây Sơn tung hoả hổ mà đốt, khắp nơi lửa cháy ngút trời. Bại binh quân Nguyễn đổ xô chạy về thành Diên Khánh, tên nào tên nấy áo rách tả tơi, kẻ phồng mình, người gãy tay, sứt trán kêu khóc xin mở cửa thành. Quan trấn thủ Diên Khánh là Tống Phước Khuông kinh hãi đốc thúc quân canh phòng cẩn mật. Bỗng nghe trống trận Tây Sơn dồn dập từ xa, quân của Khuông run lên bần bật. Khương nổi giận vung gươm chém một tên quân vì sợ hãi mà rơi mất giáo. Khuông quát:
                          - Giặc tới phải liều chết mà đánh, nếu ai sợ ta giết chết không tha.
                          Vừa dứt lời quân Tây Sơn ở dưới thành đặt đại bác bắn vào. Súng nổ ầm ầm, đạn bay vèo vèo lên mặt thành, trúng vào đâu gạch đá vỡ tan. Quân Khuông hò nhau bỏ chạy. Khuông ngăn không được bèn hoà trong đám loạn quân bỏ thành mà trốn. Chiếm được thành Diên Khánh, Đặng Văn Long nói với Đặng Xuân Phong:
                          - Nay từ Qui Nhơn vào Gia Định chỉ còn quân Nguyễn đóng trên ải Vân Phong. Chiếm được ải này là từ Quảng Nam đến Sài Côn đã thuộc về Tây Sơn ta vậy!
                          Nói rồi truyền quân tiến đánh ải Vân Phong. Quân Tây Sơn đến chân đèo, thấy trên đèo tĩnh mịch như tờ, không một bóng người. Long liền cho vài tên quân lên dò thám, đến nơi mới hay tướng giữ Vân Phong là Tống Phước Lương và toàn quân đã bỏ trốn mà trốn tự bao giờ!
                          Quân Tây Sơn khắp nơi toàn thắng. Nguyễn Huệ liền để Lê Chu giữ thành Sài Côn, Nguyễn Uy giữ thành Trường Đồn, Phạm Ngạn giữ Trấn Biên, Đặng Xuân Phong giữ Bình Thuận, Diên Khánh rồi hợp binh các đạo tại cửa Cần Giờ định ngày rút về Qui Nhơn. Văn Long hỏi Huệ:
                          - Nay ta mới bình chứ chưa yên được đất Gia Định. Lê Chu, Nguyễn Uy, Phạm Ngạn đều là người hữu dũng vô mưu không biết phép trị dân, nay ở lại trấn Gia Định e lòng người không phục.
                          Huệ đáp:
                          - Ta cũng biết thế, nhưng lúc xuất binh ở Qui Nhơn đại huynh dặn dò ta khi chiếm được Gia Định phải để ba người này trấn thủ ba dinh, rồi rút đại binh về Qui Nhơn để phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc. ta để Lê Chu, Phạm Ngạn, Nguyễn Uy trấn thủ ba dinh là làm theo lệnh đại huynh mà thôi.
                          Nguyễn Văn Tuyết vểnh râu nói:
                          - Nguyễn Uy, Lê Chu, Phạm Ngạn là do Chúa công lập trường đấu võ tuyển dụng ra. Chúa công đố tài tướng quân nên để ba người này trấn Gia Định để làm vây cánh ở cõi ngoài mà thôi.
                          Huệ ôn tồn bảo Văn Tuyết:
                          - Tuyết nói sai rồi! Chẳng qua đại huynh ta thấy các ông đều là hào kiệt nên muốn cùng ta về Qui Nhơn đề phòng quân Trịnh. Tuyết chớ nói càn mà mang tội khi quân.
                          Văn Tuyết quỳ tâu:
                          - Tướng quân là người trung hậu, tình nhà nghĩa nước vẹn đôi bề. Đối với Chúa công hết dạ trung thành, chúng tôi rất lấy làm kính phục. Bản thân Tuyết tôi chịu ơn cứu mạng của Chúa công, nguyện đem thân này ra đáp trả. Nhưng Tuyết tôi nghĩ sao thì nói vậy, Chúa công là người nhân hậu, vì thương người nghèo mà dấy nghĩa cứu dân, nhưng Chúa công tánh hay đố kỵ người tài trí hơn mình, e bất lợi cho đại sự, tướng quân nên tính trước. Tuyết tôi nói thế là vì quốc dân mà thôi. Xin tướng quân tha tội.
                          Nguyễn Huệ trợn mắt quát:
                          - Văn Tuyết to gan! Nếu không nghĩ ngươi là một công thần theo đại huynh ta từ lúc Tây Sơn dấy nghĩa, ta giết chết không tha.
                          Nói rồi đuổi Văn Tuyết ra ngoài, truyền quân xuất phát đem đại binh về Qui Nhơn.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #28
                            Chương 25

                            Đánh Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc lên ngôi.
                            Nương Thành Nhân, Phúc Ánh làm chúa.


                            Ngày kia thiết triều, Nguyễn Nhạc trang trọng nói:
                            - Nguyễn Huệ đem đại binh vào Nam Hà đánh một trận giết được hai chúa nhà Nguyễn, toàn bộ đất đai từ Quảng Nam vào Gia Định đều thuộc nhà Tây Sơn ta cả. Thành Đồ bàn vừa mới sửa xong, ý ta muèn lên ngôi Hoàng đế các khanh nghĩ thế nào?
                            Nguyễn Huệ vội bước ra can:
                            - Xin đại huynh chớ lên ngôi Hoàng đế!
                            Nguyễn Nhạc phật ý nói:
                            - Nay ta đã tiêu diệt xong nhà Nguyễn, thống nhất toàn cõi Đàng Trong, sao lại không lên ngôi Hoàng đế được?
                            Huệ quỳ xuống nói:
                            - Thưa đại huynh, dân nước Nam ta vẫn còn nhớ ơn vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Minh, nên trong lòng trăm họ chỉ có họ Lê làm vua mà thôi. Đến như họ Trịnh nắm quyền ở Đàng Ngoài, quyền nghiêng thiên hạ còn không dám truất bỏ nhà Lê. Họ Nguyễn ở Đàng Trong tự chủ hơn một trăm năm cùng họ Trịnh bảy lần giao chiến, cũng chỉ dám xưng Vương mà thôi. Nay nhà Tây Sơn ta mới dấy binh, ân đức cùng bá tánh chưa rộng khắp, nếu đại huynh lên ngôi Thiên tử e lòng người nhớ ơn nhà Lê mà oán Tây Sơn ta, ấy là một lẽ. Đại huynh đang nhận sắc phong của họ Trịnh làm Quảng Nam trấn thủ, nếu đại huynh lên ngôi Hoàng đế, Trịnh Sâm ắt mượn tiếng vua Lê cử đại binh vào đánh ta, ấy là hai lẽ. Hiện thời dù ta đã tiêu diệt được họ Nguyễn nhưng thủ hạ của chúng không phải không còn. Như Đỗ Thành Nhân rút vào căn cứ ở rừng Tam Phụ, các tướng Nguyễn là Lê Văn Quân, Hồ Văn Lân, Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương vẫn đang lẩn trốn trong rừng thừa cơ nổi dậy. Nếu nghe đại huynh lên ngôi vua dù dòng họ Nguyễn không còn ai nhưng chúng sẽ mượn tiếng phò Lê như ngày trước ta mượn tiếng tôn phò Hoàng tôn Dương vậy, ấy là ba lẽ. Vì ba điều bất lợi ấy nên em dập đầu xin đại huynh chớ lên ngôi Hoàng đế.
                            Nguyễn Nhạc giận lắm nạt:
                            - Ngày trước ta có ý xưng Vương, ngươi ba lần bảy lượt can ngăn. Nay binh ta hùng, tướng ta mạnh, ta định lên ngôi Hoàng đế ngươi lại viện đủ lý do quyết lòng cản trở là ý làm sao?
                            Nguyễn Huệ sợ hãi dập đầu dưới trướng thưa:
                            - Xin đại huynh bớt giận, em chỉ vì đại cuộc mới nói lời ngay thật mà thôi! Chờ ít năm nữa ta yên được lòng dân Gia Định, cho không còn mầm mống phản loạn bên trong, rồi ta mượn tiếng phò Lê đem quân diệt Trịnh thống nhất sơn hà, xoá bỏ ranh giới Linh Giang, cho dân một nước không còn cảnh binh đao khói lửa, anh em dòng giống không còn chém giết lẫn nhau, thì ân đức của đại huynh sẽ ngàn sau lưu truyền cùng sử sách. Nếu bây giờ đại huynh lên ngôi Hoàng đế, e rằng trong nước sẽ sinh ra biến loạn, quân Tây Sơn ta phải thọ địch khắp nơi. Xin đại huynh xét lại!
                            Nguyễn Nhạc nổi giận quát lớn:
                            - Nguyễn Huệ to gan dám bảo ta lên ngôi thì trong nước sẽ sinh ra biến loạn sao? Quân bây đâu lôi ra ngoài cho đánh ba mươi trượng cho chừa thói xàm ngôn phạm thượng.
                            Quân vệ sĩ vốn sợ uy Nguyễn Huệ đang còn chần chừ, Nguyễn Lữ bước ra quỳ bên cạnh Nguyễn Huệ khóc rằng:
                            - Xin đại huynh bớt giận, anh Huệ chỉ vì quốc dân mà nói lỡ lời. Xin đại huynh hãy nghĩ đến công lao hãn mã của anh Huệ mà tha cho anh ấy một phen. Từ ngày thân phụ mất đi, đại huynh nuôi dạy hai anh em, công lao ấy tạc dạ ghi lòng. Nếu anh Huệ có lỗi xin đại huynh dùng đạo nhà mà trị, chứ nếu lấy phép nước mà đánh anh Huệ ba mươi trượng thì còn gì xương thịt mà phụ mẫu tạo ra!
                            Nghe Lữ nói xong, Huệ ôm em mà khóc. Các tướng trông thấy đều quỳ xuống xin tha cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc trông thấy hai anh em ôm nhau quỳ khóc dưới trướng động lòng ứa nước mắt nói:
                            - Nể lời các tướng ta tha cho lần này. Nhưng đạo nhà không thể không trị!
                            Dứt lời Nhạc truyền quân đem roi mây đến, bắt Huệ nằm giữa điện tự tay cầm roi đánh vào mông ba mươi roi. Đánh xong bước lên ngai, Nhạc bảo:
                            - Ý ta đã quyết, còn ai can ngăn. Chém!
                            Năm Mậu Tuất (1778) Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Thái Đức, đổi tên thành Qui Nhơn thành Hoàng Đế Thành, phong con là Nguyễn Bảo làm Thái tử, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Vũ Văn Nhậm, Trương Văn Đa làm Phò mã, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Đặng Văn Long, Đặng Xuân Bảo, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đều phong làm đô đốc.
                            Việc lên ngôi của Nguyễn Nhạc vừa xong, các tướng Nguyễn Văn Tuyết, Văn Lộc, Văn Long rủ nhau đến tư dinh thăm Nguyễn Huệ. Huệ tươi cười mời vào nhà hỏi:
                            - Nay có việc chi mà các ông đến nhà Huệ đông thế?
                            Nguyễn Văn Lộc đáp:
                            - Hôm ấy Hoàng thượng giận đánh tướng quân ba mươi roi mây vào mông. Nghe nói tướng quân bị đau không ngồi được nên chúng tôi đến thăm tướng quân chớ không có việc gì cả!
                            Huệ cười nói:
                            - Hôm ấy Hoàng huynh tôi giận đòi đánh tôi ba mươi trượng. Nhưng Hoàng huynh rất thương yêu tôi đời nào lại đánh tôi như thế. Còn việc dùng roi mây giáo huấn, Nguyễn Huệ tôi từ nhỏ nhờ đại huynh răn dạy nay mới được nên người thì có chi là đau đớn. Các ông xem tôi vẫn ngồi được như thường đấy thôi!
                            Thấy Văn Tuyết nhìn quanh quất, Huệ hỏi:
                            - Văn Tuyết tìm ai thế?
                            Tuyết lại hỏi Huệ:
                            - Tiết chế Nguyễn Lữ đâu chẳng thấy?
                            Huệ đáp:
                            - Hoàng huynh cùng Lữ đệ thăm tôi vừa mới ra về.
                            Khi ấy Văn Tuyết mới nói:
                            - Hôm ấy nếu không nhờ Tiết chế đem tình cốt nhục ra can gián và anh em chúng tôi không đồng lòng xin hộ thì Hoàng thượng làm sao rút lời. Thế có phải là Long Nhương tướng quân bị ba mươi trượng xương tan thịt nát rồi không?
                            Huệ cười to đáp:
                            - Văn Tuyết nói sai rồi! Hoàng huynh ta thừa biết rằng ta bị tội các tướng tất phải xin cho. Hoàng huynh vì giận mà nói thế chứ nào cố làm tội ta.
                            Văn Long xen vào nói:
                            - Hoàng thượng là người nhân đức, thấy việc nghĩa dám quên mình, xem tướng sĩ như huynh đệ, phụ tử khiến người dưới quyền đều mến phục. Đến nỗi Hoàng thượng nới lên ngôi tôi đã nghe quân đồn trấn ải Cù Mông đặt câu ca rằng:
                            Ơn vua Thái Đức chí tình
                            Cù Mông vắng vẻ nhưng mình vẫn vui Xem thế đủ biết ân đức của Hoàng thượng đã rộng khắp phủ Qui Nhơn. Nhưng Hoàng thượng có hai tật nhỏ làm lu mờ đức lớn, thật đáng tiếc thay!
                            Văn Lộc hỏi:
                            - Hai tật nhỏ của Hoàng thượng là tật gì mà đến nỗi làm lu mờ đức lớn như thế?
                            Long đáp:
                            - Thứ nhứt là mộng làm vua khiến kẻ sĩ trong thiên hạ nghĩ rằng Hoàng thượng mưu định bá đồ vương mà giả nhân, giả nghĩa. Thứ hai là tánh đố tài không dám mạnh dạn cho Long Nhương tướng quân điều binh khiển tướng, làm chậm đi bước tiến của quân Tây Sơn ta trên con đường thống nhất giang san. Nếu Hoàng thượng cứ chuyên tâm trau dồi đức độ, giao binh quyền cho Long Nhương như ngày xưa Lư Bị giao quyền cho Gia Cát vũ hầu thì việc thống nhất giang san chỉ trong một sớm một chiều mà thôi.
                            Nghe Long nói xong Nguyễn Huệ nạt:
                            - Văn Long không được nhiều lời. Đại huynh ta giờ là vua một cõi Đàng Trong há để cho các ngươi đem ra bình phẩm hay sao? Nếu Hoàng huynh ta nghe được liệu cái đầu của ngươi có còn nằm yên trên cổ không?
                            Long sợ hãi vòng tay nói:
                            - Chẳng qua là đệ lấy làm tiếc cho sự nghiệp của nhà Tây Sơn ta mà thôi. Xin đại huynh bớt giận.
                            Nguyễn Huệ nét giận hầm hầm nói:
                            - Ngày trước Hoàng huynh ta tôn thầy làm sư phụ. Nhưng bây giờ dù thầy ta còn sống cũng không dám buông lời bình phẩm như ngươi vừa nói. Ta nể tình huynh đệ đồng sư môn mà tha cho ngươi một lần đó. Từ giờ trở đi nếu có kẻ nào còn đàm tiếu đại huynh thì đừng có trách ta là huynh đệ vô tình. Nói xong liền đuổi Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết đi về. Ba tướng sợ hãi bái tạ lui ra.
                            Trên đường về, Đặng Văn Long nói với Văn Tuyết và Lộc:
                            - Long Nhương tướng quân bị Hoàng thượng đố tài kiềm chế mà không oán, bị anh đánh oan giữa chỗ đông người mà không giận vẫn một lòng hiếu đễ, thật đáng phục thay!
                            ***
                            Nói về Nguyễn Phúc Ánh băng rừng lội suối về rừng Tam Phụ nương náu Đỗ Thành Nhân. Nghe tin Nguyễn Huệ rút đại binh về Qui Nhơn, Ánh bảo Đỗ Thành Nhân:
                            - Nguyễn Huệ tưởng rằng đã giết hết nhà Nguyễn ta, nên rút đại binh về Qui Nhơn đề phòng quân Trịnh xâm phạm mặt Bắc, hắn để Nguyễn Uy ở lại giữ Trường Đồn, Lê Chu giữ Sài Côn, Phạm Ngạn giữ Trấn Biên. Vậy tướng quân hãy sai người đi khắp các nơi liên lạc với các tướng hiện đang lẩn trốn, bảo họ đem quân về họp tại căn cứ Tam Phụ của ta rồi chỉnh đốn binh mã lấy lại đất Gia Định, đừng nên bỏ lỡ thời cơ.
                            Đỗ Thành Nhân suy tư nói:
                            - Ngày trước lúc tôi làm phụ chính ở thành Sài Côn vì sợ Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho giặc, nên mới giữ không cho chúa Định vương ra thành đón Lý Tài. Vì việc ấy mà các tướng bảo tôi làm phản quản thúc Chúa thượng. Nay tôi triệu tập các tướng làm gì họ chịu đến đây?
                            Ánh cười bảo:
                            - Việc này tướng quân chớ lo. Tôi sẽ viết mật thư cho người đi gọi. Các tướng biết tôi còn sống ắt sẽ đến ngay.
                            Thành Nhân cả mừng nói:
                            - Vậy phiền Hoàng điệt viết thư nói rõ tấm lòng trung quân của tôi để các tướng dẹp bỏ thành kiến, cùng quyết tâm khôi phục cơ đồ là Hoàng điệt giải oan cho tôi rồi vậy.
                            Nguyễn Phúc Ánh liền viết mật thư trao cho quân đi triệu tập các tướng. Ít lâu sau Lê Văn Quân, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Nguyễn Nghi đem tàn quân về hội ở rừng Tam Phụ. Phúc Ánh ôm các tướng khóc rằng:
                            - Chú tôi là Thái Thượng vương, anh họ tôi là Tân Chính vương, cùng hoàng thân quốc thích và Tĩnh điệp hầu Nguyễn Đăng Trường đều bị quân Tây Sơn bắt giết hết cả rồi. Chỉ còn mình tôi tả xung hữu đột đưa mẹ và em vượt khỏi trùng vây chạy thoát mới viết mật thư triệu tập các tướng đến đây cùng nhau khôi phục cơ đồ mà tiên vương đã tốn bao công sức mới dựng nên.
                            Các tướng cùng khóc nói:
                            - Họ hàng vợ con chúng tôi đều bị quân Tây Sơn giết cả. Thù này không trả được còn sống trên đời làm gì nữa!
                            Đỗ Thành Nhân khuyên giải:
                            - Xin Hoàng điệt và các vị hãy bình tâm, dẹp bỏ ưu phiền để cùng nhau mưu bàn đại sự. Nay tuy hai chúa đã bị hại nhưng hoàng tộc hãy còn có Hoàng điệt Phúc Ánh. Vậy ta hãy tôn Hoàng điệt làm nhiếp chính quốc, Bình Tây đại Nguyên Soái cho an lòng tướng sĩ rồi sẽ khởi binh chiếm lại đất Gia Định tính kế lâu dài.
                            Ánh thoái thác:
                            - Tôi tuy là Hoàng điệt nhưng mới mười bảy tuổi, tài cán gì mà dám nhận chức ấy. Xin các vị hãy cử người khác cho.
                            Lê Văn Quân nói:
                            - Người xưa có câu: “Tài không đợi tuổi”, Hoàng điệt không có tài sao một mình có thể thoát khỏi trùng vây của giặc Tây Sơn được. Nếu Hoàng điệt không nhận chức ấy, thì sao gom được lòng dân về một mối mà chống giặc Tây Sơn?
                            Đỗ Thành Nhân thêm vào:
                            - Lời Lê tướng quân rất phải! Xin Hoàng điệt hãy thuận cho. Nếu ngại về việc điều binh khiển tướng đã có tôi đây bàn mưu định kế. Xin Hoàng điệt chớ lo!
                            Nói rồi liền ra hiệu cho các tướng quỳ xuống tung hô:
                            - Chúng tôi ra mắt Bình Tây đại Nguyên Soái!
                            Lúc ấy Ánh mới nói:
                            - Thôi các tướng đừng thi lễ nữa. Ta đâu dám phụ lòng các tướng. Vậy các vị hãy đứng lên cùng bàn việc khởi binh.
                            Nguyễn Ánh và các tướng cùng ngồi vào bàn.
                            Thành Nhân hỏi:
                            - Tuy Nguyễn Huệ đã rút đại binh về Qui Nhơn, nhưng quân Tây Sơn rất là thiện chiến. Muốn chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên, ta nên dùng mưu chớ nên dùng sức, các vị có kế gì chăng?
                            Bàn qua tính lại mãi vẫn chưa có kế gì đánh quân Tây Sơn, bỗng nghe ngoài bản doanh có tiếng quân cười nói xôn xao. Nhân gọi quân vào hỏi:
                            - Ngoài kia có việc chi mà ồn ào thế?
                            Tên quân đáp:
                            - Thưa tướng quân! Trong quân của ta có một tên lính dung mạo giống tướng quân như tạc. Lúc đầu mọi người cứ ngỡ là tướng quân. Sau vỡ lẽ lấy làm lạ bèn xúm nhau mà coi nên bàn tán xôn xao thế!
                            Thành Nhân nhíu mày hỏi:
                            - Ngươi bảo dung mạo giống ta như tạc ư?
                            Tên quân đáp:
                            Thưa phải!
                            Nhân truyền:
                            - Đem hắn vào đây cho ta!
                            Võ sĩ dẫn tên quân vào. Quả nhiên người này vóc dáng nhỏ hơn, nhưng dung mạo giống Thành Nhân như tạc.
                            Thành Nhân trợn mắt bảo:
                            - Trên đời sao có sự lạ thế! Truyền quân đem chém!
                            Tên quân hoảng sợ van xin:
                            - Xin tướng quân tha mạng! Tôi chẳng may trời sinh giống tướng quân. Chứ từ trước đến nay chưa phạm tội gì. Xin tướng quân thương tình tha mạng!
                            Thành Nhân đáp:
                            - Trùng tên vua chúa là phạm huý, phải đổi tên khác. Mặt giống vua chúa là phạm mạo, phải đổi mặt khác. Không chém đầu ngươi sao tra đầu khác vào được?
                            Nói xong mặc tên lính khóc lạy van xin, Thành Nhân hô quân lôi ra chém! Bỗng một người bước ra nói:
                            - Tôi có một kế chiếm lại đất Gia Định như trở bàn tay!
                            Phúc Ánh hỏi Nhân:
                            - Người này là ai thế?
                            Thành Nhân đáp:
                            Người này trí dũng song toàn, là thuộc tướng của tôi tên là Võ Tánh.
                            Ánh thấy Võ Tánh tướng mạo đường đường, mặt mày cương trực khôi ngô trong lòng rất thích hỏi:
                            - Kế thế nào tướng quân hãy nói xem?
                            Tánh đáp:
                            - Tiểu tướng xin đem hai trăm quân vào thành Trường Đồn trá hàng. Nguyên Soái và các tướng phục sẵn bên ngoài khi nào thấy lửa hiệu và cổng thành mở thì đem quân tràn vào mà đánh. Phải lưu ý chớ cho quân chạy thoát thành về Sài Côn báo với Lê Chu. Chiến xong Trường Đồn ta dùng y phục quân Tây Sơn về Sài Côn lừa Lê Chu mở cổng thành. Nếu dùng kế này có thể chiếm được Trường Đồn, Sài Côn dễ dàng.
                            Thành Nhân cười bảo:
                            - Ta e rằng ngươi vào Trường Đồn xin hàng, Nguyễn Uy sợ trá hàng mà giết ngươi trước thì sao?
                            Võ Tánh đáp:
                            - Ta làm khổ nhực kế, Nguyễn Uy tất sẽ tin mà cho tôi quy hàng.
                            Ánh hỏi:
                            - Khổ nhục kế thế nào?
                            Tánh quỳ lạy Đỗ Thành Nhân nói:
                            - Tướng quân tha tội tiểu tướng mới dám thưa!
                            Nhân bảo:
                            - Vì đại cuộc sao bảo là tội! Ngươi cứ nói thử xem?
                            Tánh đáp:
                            - Khổ nhục kế chính là cái đầu của tên quân vừa bị chém đó. Ta cứ làm như vầy... như vầy... Nguyễn Uy ắt phải lầm mưu.
                            Thành Nhân khen:
                            - Thật là diệu kế. Nhưng ngươi nên cẩn thận, quân Tây Sơn rất thiện chiến. Nhớ năm trước thằng vô lại Văn Tuyết và thằng chăn trâu Văn Lộc mắc kế điệu hổ ly sơn, bị ta vây ở ấp Hoà Hưng mà vẫn vũ dũng dùng hai ngàn quân đánh lui năm ngàn quân của ta. Võ Tánh chớ nên khinh địch, hãy theo kế ấy lập tức thi hành.
                            Võ Tánh lãnh lệnh đi ngay.
                            ***
                            Ngày ấy trong thành Trường Đồn, tướng Tây Sơn Nguyễn Uy nghe quân vào báo:
                            - Thưa tướng quân có một viên tướng dẫn hai trăm quân xưng là thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân đứng dưới thành xin hàng.
                            Nguyễn Uy bảo tả hữu:
                            - Lúc Long Nhương tướng quân rút đại binh về Qui Nhơn có căn dặn ta rằng: “Đất Gia Định dễ đánh mà khó giữ, nên dùng ân đức để thu phục lòng dân”. Nay có tướng địch ra hàng nên ta dung nạp để tỏ rõ lòng khoan dung của Tây Sơn ta vậy!
                            Trong quân hầu cận có người nói:
                            - Đành rằng như thế nhưng làm thế nào để phân biệt thật giả? Ngộ nhỡ giặc trá hàng vào thành làm nội ứng thì sao?
                            Uy bảo:
                            - Ta cứ lên mặt thành xem hư thực thế nào rồi sẽ liệu sau!
                            Nói rồi nai nịt lên mặt thành quan sát. Thấy viên tiểu tướng dẫn hai trăm quân đứng dưới thành, Uy hỏi lớn:
                            - Nếu ngươi muốn về với Tây Sơn ta, thì có chi làm bằng không phải là gian kế chăng?
                            Viên tiểu tướng đáp:
                            - Tôi tên là Võ Tánh, là thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân. Vừa rồi tôi khuyên Đỗ Thành Nhân ra hàng, Thành Nhân không nghe lại toan giết tôi, tôi bèn chém chết Đỗ Thành Nhân rồi cắt thủ cấp đem đến xin hàng.
                            Đoạn Võ Tánh giơ thủ cấp lên nói:
                            - Đây là thủ cấp của Đỗ Thành Nhân xin tướng quân xem lại.
                            Nguyễn Uy cả mừng bảo tả hữu:
                            - Ngươi mau đi gọi mấy tên quân trước ở trong quân của Đỗ Thành Nhân đến đây cho ta!
                            Vài tên quân đến, Uy hỏi:
                            - Các ngươi hãy nhìn xem thủ cấp kia có phải của Đỗ Thành Nhân chăng?
                            Tên quân đáp:
                            - Người cầm thủ cấp chính là Võ Tánh thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân. Còn thủ cấp kia do người chết không giống người sống, nên ở xa chúng tôi không dám quyết.
                            Nguyễn Uy liền xuống thành, dàn quân làm hai hàng, tự mình cưỡi ngựa cầm đao đứng giữa rồi cho mở cổng thành. Võ Tánh vào thành rồi quỳ mọp dưới ngựa Nguyễn Uy dâng thủ cấp. Nguyễn Uy hỏi quân:
                            - Chúng bay xem cho kỹ có phải là thủ cấp của Đỗ Thành Nhân chăng?
                            Mấy tên quân nhìn tới nhìn lui một hồi rồi nói:
                            - Thưa tướng quân! Đây đúng là dung mạo của Đỗ Thành Nhân.
                            Nguyễn Uy lại hỏi:
                            - Không thể lầm lẫn chứ?
                            Quân đáp:
                            - Chúng tôi thường ở trong quân Đỗ Thành Nhân mấy năm trời không thể lầm lẫn được!
                            Lúc ấy Nguyễn Uy nhảy xuống ngựa đỡ Võ Tánh dậy nói:
                            - Ngươi chớ lo sợ, ta làm thế chẳng qua là sợ gian kế mà thôi. Nay biết ngươi thật bụng, ta lại chẳng thật lòng hậu đãi hay sao?
                            Võ Tánh lạy tạ ơn. Uy lại hỏi:
                            - Thường ngày ngươi có tài gì?
                            Tánh cung kính đáp:
                            - Tôi theo đòi võ nghệ cũng thạo nghề cung kiếm.
                            Uy đang vui vẻ liền bảo:
                            - Bình sanh ta rất thích võ nghệ. Vậy ngươi hãy biểu diễn vài đường cho ba quân biết vũ dũng của ngươi đi.
                            Tánh vâng lời liền cầm thương bỏ bộ mà múa. Đường thương linh hoạt lui tới nhịp nhàng trông rất là ngoạn mục. Ba quân thấy thế vỗ tay reo hò cổ vũ.
                            Uy hứng chí nhảy ra nói:
                            - Đánh võ một người sao hứng thú. Ta với ngươi thử sức cho vui.
                            Nói rồi cầm đao đánh với Võ Tánh. Kẻ đánh người đỡ, kẻ tiến người lui. Qua năm mươi hiệp bất phân thắng bại. Nguyễn Uy vờ núng thế bỏ bộ quay lưng tháo lui. Võ Tánh mừng rỡ nghĩ bụng: “Ta nhân dịp này giết chết Nguyễn Uy ắt là hàng được quân sĩ vậy”. Nghĩ xong nhảy theo đâm một thương trí mạng, chẳng ngờ Nguyễn Uy quay lại, một tay chụp lấy mũi thương, một tay vung đại đao chém hậu. Đao vừa đến cổ Võ Tánh, Nguyễn Uy liền dừng lại. Võ Tánh tháo mồ hôi hột phân trần rằng:
                            - Trong lúc đấu võ phải trổ hết tài nghệ. Nếu tướng quân không đánh thế võ này, thì đường thương của Tánh tôi vừa đến áo giáp của tướng quân liền dừng lại. Xin tướng quân chớ khá hiểu lầm.
                            Nguyễn Uy thu đao về cười lớn:
                            - Điều này ta há chẳng biết sao? Cũng như đường đao của ta vừa đến cổ ngươi liền dừng lại. Ngươi dùng thương pháp ắt phải có thế Hồi mã thương. Thế đà đao của người Qui Nhơn ta thường gọi là phản bối đao vậy!
                            Võ Tánh bái lạy:
                            - Tướng quân võ nghệ siêu quần, Tánh tôi rất lấy làm khâm phục.
                            Nguyễn Uy cả cười nắm tay Võ Tánh vào trong tướng phủ.
                            Đêm ấy nhân lúc Nguyễn Uy ngủ say, Võ Tánh lén chia quân mở bốn cửa thành, phóng hoả ở nhà chứa cỏ cho ngựa rồi chạy ra cửa Bắc thành đón quân mình.
                            Quân Nguyễn Phúc Ánh thấy lửa cháy trong thành Trường Đồn, lại thấy cửa thành mở toang liền ồ ạt xông vào thành. Nguyễn Uy đang ngủ nghe tiếng quân hò reo inh ỏi, giật mình thức dậy, lại thấy lửa cháy ngút trời. Uy thất kinh vội vàng mặc giáp cầm đao lên ngựa đem theo vài mươi tên quân tín cẩn nhắm cửa Bắc thành mà chạy. Gần đến cổng thành, Uy nghe Võ Tánh nói với quân Tây Sơn đang chiến đấu rằng:
                            - Quân ta đã chiếm được thành, các ngươi còn ngoan cố hay sao? Các ngươi đều là người Gia Định cả. Ơn chúa Nguyễn chưa đền sao theo giặc Tây Sơn? Còn không mau bỏ giáp quy hàng, ta hứa bảo toàn tính mạng cho các ngươi.
                            Nghe Võ Tánh nói quân Tây Sơn đều đầu hàng cả. Nguyễn Uy thấy vậy hơi giận ngút trời, chẳng nói chẳng rằng vung đao xông tới chém Tánh. Tánh đưa thương lên đỡ. Nguyễn Uy trong cơn giận sức mạnh vô cùng, Võ Tánh đánh không lại bị Uy chém một nhát trúng tay liền quay ngựa bỏ chạy.
                            Uy đuổi theo hét vang:
                            - Thằng súc sinh lừa đảo kia chạy đâu cho thoát!
                            Bỗng từ bên phải có tiếng rằng:
                            - Tướng giặc chớ hung hăng, có ta là Đỗ Thành Nhân đến đây.
                            Nguyễn Uy giật mình quay lại thấy một người cưỡi ngựa dung mạo giống hệt thủ cấp Võ Tánh dâng lúc ban ngày. Uy thất kinh nghĩ bụng, thằng này đã chết rồi sao lại còn đây. Võ Tánh nhân lúc Uy phân tâm liền quay lại đâm một thương vào giữa bụng Nguyễn Uy. Đâm xong Tánh bảo:
                            - Đây là thế Hồi mã thương của ta đấy!
                            Nguyễn Uy dùng hết hơi tàn gắng gượng nói:
                            - Nếu biết bụng ngươi quyết giết ta lúc thử võ, ta dùng phản bối đao chém chết cho rồi!
                            Nói xong nhào xuống ngựa mà chết. Quân Nguyễn chiếm được thành Trường Đồn, quân Tây Sơn thấy chủ tướng chết đều đầu hàng cả. Thấy Võ Tánh bị thương, Đỗ Thành Nhân để Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ Trường Đồn cùng Võ Tánh, còn mình đem đại quân cùng Nguyễn Phúc Ánh tiến ra Sài Côn. Trước khi đi, Võ Tánh nói riêng với Đỗ Thành Nhân rằng:
                            - Nguyên Soái là người khôn ngoan sắc sảo, không phải thật thà nhu nhược như chúa Định vương ngày trước. Dù binh quyền ở trong tay chủ tướng, cũng xin chủ tướng hãy thật lòng phò tá, chớ để cho Nguyên Soái nghi ngờ.
                            Nhân cười đáp:
                            - Tánh thật là lo xa quá đấy. Lúc quản thúc Định vương trong thành Sài Côn, ta đã biết Nguyên Soái là người như thế nào rồi. Vả lại đường đường nắm giữ binh quyền không phải là ta thì còn ai vào đây nữa, việc gì ta lại không thực bụng tôn phò. - Nói rồi không chút nghi ngại dẫn quân đi.
                            ***
                            Một đêm kia quân Tây Sơn ở cổng Nam thành Sài Côn nghe tiếng gọi: Mau mau mở cổng thành!
                            Quân canh nhìn xuống thấy một đạo binh đều vận quân phục của Tây Sơn cả. Liền hỏi:
                            - Binh nào! Ở đâu đang đêm gọi cổng thành!
                            Quân dưới thành đáp:
                            - Ta là Nguyễn Uy giữ Trường Đồn đây! Quân Nguyễn đánh Trường Đồn dân trong thành theo giặc nổi dậy, ta phải bỏ thành chạy về đây. Các ngươi hãy gọi tướng Lê Chu mau mở cổng thành.
                            Lê Chu lên mặt thành trông thấy toàn quân mình liền bảo quân mở cổng. Đỗ Thành Nhân, Võ Nhân dẫn binh vào thành đánh giết quân Tây Sơn. Nguyễn Phúc Ánh, Hồ Văn Lân, Lê Văn Quân, Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương nấp ở cánh rừng ngoài thành liền hò quân xông lên tiếp ứng. Quân Nguyễn tiến vào thành như thác, tiếng hò reo vang dậy đất trời. Quân Tây Sơn bất ngờ trở tay không kịp bị giết rất nhiều. Tướng Tây Sơn là Lê Chu mắc lừa quân Nguyễn phải bỏ thành thoát thân chạy về Trấn Biên. Nguyễn Ánh vào thành Sài Côn đến nhà Thái miếu, thấy linh vị Tiên vương đều bị quân Tây Sơn đập phá, nhang tàn khói lạnh. Ánh thề rằng:
                            - Thù này không trả được thề chẳng làm người, cùng anh em thằng buôn trâu Nhạc – Huệ quyết chẳng đội trời chung.
                            Thế rồi sai người sửa sang thái miếu đặt lại linh vị thờ cúng tiên vương.
                            Lúc bấy giờ Lê Chu chạy về Trấn Biên nói với quan trấn thủ là Phạm Ngạn:
                            - Tôi với ông và tướng quân Nguyễn Uy, ba chúng ta đều do Hoàng thượng chọn trong trường thi võ mà cho vào trấn đất Gia Định. Nay Nguyễn Uy tử trận ở Trường Đồn, tôi lại để mất Sài Côn. Tội của tôi đã đành, nhưng ngộ nhỡ Hoàng thượng hỏi vì sao ông không đem binh cứu viện thì ông trả lời thế nào?
                            Phạm Ngạn hỏi lại Lê Chu:
                            - Giờ ta phải làm sao?
                            Chu đáp:
                            - Ông hãy ở lại giữ thành Trấn Biên. Hiện tôi còn được hai ngàn quân. Ông vui lòng cho tôi mượn thêm một ngàn quân mã và năm mươi khẩu đại bác. Tôi sẽ đem binh chiếm lại Sài Côn. Khi ấy Hoàng thượng có hỏi là hỏi tội tôi chứ ông không có tội gì cả!
                            Phạm Ngạn nghe xong lấy làm phải cho Lê Chu mượn quân, Lê Chu liền dẫn binh đi ngay. Nào ngờ có một tên quân dưới trướng Phạm Ngạn vốn người Gia Định nghe lén được cuộc nói chuyện giữa Lê Chu và Phạm Ngạn, mới lẻn trốn về Sài Côn báo cho Phúc Ánh hay. Ánh liền cho quân mai phục. Lê Chu dẫn quân đi được nửa đường đến một đoạn đường vắng bỗng nghe tiếng hò reo vang dậy, quân Nguyễn từ bốn mặt xông ra.
                            Lê Chu thất kinh than:
                            - Thôi ta đã lọt vào trận mai phục của giặc rồi!
                            Than rồi quay lại liều chết phá vây. Lê Chu tả xung hữu đột giết quân Nguyễn máu đỏ chiến bào, nhưng vòng vây dày quá, Lê Chu đánh một hồi thấm mệt mà chưa ra khỏi trận. Lê Chu liệu bề không thoát được, lấy gươm đâm cổ tự vẫn. Nguyễn Phúc Ánh thừa thắng sai Lê Văn Quân đem quân tiến đánh Trấn Biên. Tướng Tây Sơn giữ Trấn Biên là Phạm Ngạn thấy thanh thế quân Nguyễn lớn quá phải bỏ thành Trấn Biên chạy về Bình Thuận. Từ ấy đất Nam Hà, Gia Định lại thuộc về quân Nguyễn cả.
                            ***
                            Ngày ấy Nguyễn Phúc Ánh ở trong thành Sài Côn họp các tướng bàn việc quốc gia.
                            Đỗ Thành Nhân quỳ tâu:
                            - Nay quân ta đã thu phục được đất Gia Định. Vậy Nguyên Soái hãy mau mau xưng Vương hiệu, kế tục nối nghiệp Tiên vương cho an lòng tướng sĩ. Rồi danh chánh ngôn thuận kéo quân ra trị tội Nguyễn Nhạc dám ngông cuồng lên ngôi Hoàng đế.
                            Nguyễn Phúc Ánh hỏi:
                            - Đối với các tướng ta có đáng được xưng Vương chăng?
                            Tống Phước Khuông nói:
                            - Nguyên Soái mới khởi binh mà đã khiến cho lòng người qui thuận. Đi đến đâu anh hùng hào kiệt đều xin theo dưới cờ, đánh một trận đã chiếm xong ba thành ở Gia Định. Tài thế ấy, đức thế ấy, chính nghĩa thế ấy sao không đáng để xưng Vương?
                            Rồi quay sang các tướng bảo:
                            - Chúng ta cùng tôn Nguyên Soái lên ngôi Vương.
                            Khuông nói xong mọi người đều quỳ cả. Riêng Thành Nhân vừa quỳ vừa nói:
                            - Nguyên Soái lên ngôi Vương là thuận lý. Vì chỉ có một mình Nguyên Soái là con cháu nhà chúa mà thôi.
                            Nguyễn Ánh lên ngôi Vương, phong Đỗ Thành Nhân làm Ngoại hữu – phụ chính – Thượng tướng công và thăng thưởng cho các tướng.
                            Từ ấy về sau nhân dân gọi nhà Nguyễn của vua Thái Đức là nhà Nguyễn Tây Sơn. Vì vua Thái Đức phát tích ở ấp Tây Sơn, phủ Qui Nhơn. Gọi nhà Nguyễn của Nguyễn Vương là nhà Nguyễn Gia Miêu. Vì họ nhà chúa Nguyễn phát tích ở ấp Gia Miêu, phủ Thanh Hoá. Và gọi giai đoạn lịch sử ấy là thời: Nhị Nguyễn tranh hùng!
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #29
                              Chương 26

                              Võ Tánh náu thân rừng Tam Phụ.
                              Nguyễn Vương đại bại Thất Kỳ Giang.


                              Nguyễn Phúc Ánh được Đỗ Thành Nhân và các tướng tôn lên ngôi chúa xong. Hôm sau Nguyễn Nghi yết kiến nói riêng với Phúc Ánh:
                              - Lúc Lý Tài bỏ Tây Sơn theo chúa Định vương ở thành Sài Côn, nhưng Đỗ Thành Nhân ở trong thành quản thúc chúa Định Vương, khiến cho nội bất xuất ngoại bất nhập. Kế đến Đông cung Thế tử trốn khỏi Quy Nhơn đến đồn Thị Nghè. Chính thần và Đông cung đến xin vào thành Sài Côn. Lúc ấy có phải chính Thượng vương đã xa tiễn trao thư báo tin Thành Nhân làm phản?
                              Ánh đáp:
                              - Chính ta đã xạ tiễn trao thư cho Đông cung báo tin Đồ Thành Nhân làm phản.
                              Nguyễn Nghi hỏi tiếp;
                              - Vậy tại sao khi viết mật thư triệu tập các tướng về rừng Tam Phụ, Thượng vương lại bảo rằng Đỗ Thành Nhân vì sợ Lý Tài giả hàng làm nội ứng, nên Thành Nhân bất đắc dĩ không cho Định Vương ra ngoài thành mà đón Lý Tài. Vậy té ra lúc xạ tiễn trao thư bảo Thành Nhân làm phản là Thượng vương đã lầm lẫn chăng?
                              Ánh đáp:
                              - Lúc ấy Thành Nhân làm phản, quản thúc Định vương, ta xạ tiễn trao thư không hề lầm lẫn.
                              Nghi hỏi:
                              - Vậy bây giờ Thượng vương bảo Thành Nhân lũ ấy không có bụng làm phản, là bây giờ Thượng vương lầm lần chăng?
                              Ánh cười đáp:
                              - Ta không hề lầm lẫn!
                              Nghi lại hỏi:
                              - Cả hai điều trái ngược nhau mà không có điều nào lầm lẫn là Thượng vương có ý gì chăng?
                              Ánh nghe xong, khen Nghi rằng:
                              - Khanh thật là có mắt tinh đời. Lúc quân ta bị Nguyễn Huệ đánh tan tành, mọi người lẩn tranh mọi nơi, hai chúa đều bị bắt, chỉ có binh Đỗ Thành Nhân ở rừng Tam Phụ là chưa bị tổn thất gì cả. Ta muốn mượn thế lực Đỗ Thành Nhân khôi phục cơ đồ, nên mới viết mật tư triệu tập các tướng về hội quân như thế, Đỗ Thành Nhân yên tâm mà điều binh đuổi quân Tây Sơn khỏi đất Gia Định. Trong các đại thần theo chúa Định Vương từ Phú Xuân đến đây chỉ còn lại có mỗi mình khanh. Khanh thấy Thành Nhân là người thế nào?
                              Không chút do dự Nghi đáp:
                              - Thành Nhân tôn phò Thượng vương để thu phục nhân tâm mưu đồ bá vương.
                              Ánh nghiêm mặt hỏi:
                              - Dựa vào đâu mà khanh quả quyết thế?
                              Nghi tâu:
                              - Lúc tôn Thượng vương làm Nguyên soái, Thành Nhân nói rằng việc điều binh khiển tướng đã có hắn lo liệu. Ấy là tự cho mình tài hơn Thượng vương. Lúc giết tên quân dung mạo giống mình, Thành Nhân nói: "Mặt giống vua chúa là phạm mạo". Ấy là trong lòng đã có chí làm vua chúa. Rồi mời đây Thượng vương xưng vương, Thành Nhân lại nói: Chỉ có một mình Thượng vương là con cháu nhà chúa mà thôi. Ấy chẳng phải là Thành Nhân vì bất đắc dĩ mới ở dưới quyền của Thượng vương sao? Xét ba điều ấy nếu để Thành Nhân lấn quyền sớm muộn gì cũng sinh ra tai hoạ!
                              Ánh gật đầu nói:
                              - Lời khanh rất hợp ý ta. Nhưng hiện nay trong thành Sài Côn toàn là quân Đông Sơn cả, vả lại ở Trường Đồn còn có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trấn giữ. Nếu giết Thành Nhân e rằng quân Đông Sơn làm loạn thì sao?
                              Nghi hiến kế:
                              - Hiện trong thành Sài Côn còn có thần, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương mở người đều có hơn ngàn thủ hạ. Vả lại quân Đông Sa theo Thành Nhân vì Nhân tôn phò Thượng vương. Nếu kết tội Thành Nhân làm phản đem giết đi thì quân Đông Sơn ắt theo về cùng Thượng vương. Việc Sài Côn không đáng lo, chỉ lo Võ Tánh và Đỗ Nhàn Tráp ở Trường Đồn mà thôi!
                              Ánh nói:
                              - Sau khi giết Đỗ Thành Nhân rồi ta lập tức xuống chỉ sai người vào Hà Tiên bảo Mạc Thiên Tứ tiến quân ra, ta từ Sài Côn tiến vào vây Trường Đồn bắt Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập để tiệt trừ hậu hoạ. Khanh thấy thế nào?
                              Nghi mừng rỡ thưa:
                              - Kế ấy rất hay. Ta nên thi hành ngay, đừng chậm trễ.
                              Hôm sau Phúc Ánh cho mời Đỗ Thành Nhân đến nơi cung. Nhân không nghĩ ngơ gì cả, ung dung vào ra mắt Nguyễn Ánh. Ánh hỏi:
                              - Nay quân ta đã chiếm được ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Vậy việc đem quân ra tiêu diệt Tây Sơn Nguyễn Nước, thượng tướng công đã có kế sách gì chưa?
                              Nhân đáp:
                              - Thần có quên một đạo sĩ người Pháp Lang Sa tên là Bá Đa Lộc. Người này từ Tây Dương đến giảng truyền đạo Hoà Lan (kito giáo) ở nước Nam ta. Đạo sĩ Bá Đa Lộc có mượn cho thần mấy chiếc tàu đồng to và súng đại bác lớn, hẹn trong một tuần trăng nữa sẽ từ Pháp Lang Sa vượt biển vào Sài Côn giúp cho ta. Thần định cho họ đem tàu đồng súng lớn sang đã rồi sẽ định ngày đem quân Bắc tiến.
                              Ánh hỏi:
                              - Việc hệ trọng như thế sao thượng tướng còn không cho ta hay?
                              Nhân cười bảo:
                              - Thượng vương cứ ngồi trên ngai chúa gọi người hầu hạ. Mọi việc đã có hạ thần lo!
                              Ánh tức giận vỗ án, quát:
                              - Thành Nhân to gan. Người từ khi có công đã xem ta như con nít hay sao mà buông lời xúc phạm. Võ sĩ đâu trói lại cho ta.
                              Võ sĩ liền xông ra trói Thành Nhân lại. Thành Nhân lúc ấy mời hoảng sợ van xin:
                              - Hạ thần nói thế vì không muốn cho Thượng vương phải hao tâm khổ trí. Xin Thượng vương tha tội.
                              Ánh cười đáp:
                              - Tha cho ngươi lần này, lần sau ngươi có tha cho ta chăng? Ngươi tưởng rằng ta không biết bụng ở của ngươi sao? Đến như chúa Định Vương và hoàng thân quốc thích người con dám quăn thúc trong thành Sài Côn để khống chế quân các đạo. Tội của ngươi thật là đáng chết.
                              Thành Nhân ngạc nhiên nói:
                              - Ngày trước vì sa Lý Tài giả hàng làm nội ứng cho Tây Sơn, nên hạ thần bất đắc dĩ phải làm như thế. Khi ấy chính Thượng vương cũng đồng ý với hạ thần nên mới lên mặt thành bắn tên đuổi Đông cung Thế tử đi kia mà! Sao này bỗng dưng lại đổ lỗi cho hạ thần làm phản?
                              Ánh cười mỉa mai nói:
                              - Trò dối trá của ngươi tưởng rằng có thể lừa được ta sao? Đến nay ngươi vẫn nghĩ rằng ta tin là ngươi thật dạ trung thành ư? Ta nói cho người biết, hôm ở mũi tên ta bắn trúng nón của Đông cung Thế tử trong mũi tên ấy có phong thư của ta nói ngươi làm phản, nên Đông cung và Lý Tài mới hợp quân các trấn tiến đánh Sài Côn đuổi ngươi về rừng Tam Phụ. Giờ người đã rõ chưa?
                              Thành Nhân bây giờ mới nói:
                              - Trong thành Sài Côn còn có thủ hạ của thần là Võ Nhân và mấy ngàn binh mã. Ở Trường Đồn còn có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trấn thủ. Nếu Thượng vương giết th ần e rằng thành Sài Côn sẽ thành biển lửa.
                              Ánh đập bàn quát:
                              - Ngươi còn hăm doạ ta sao! Thật là lòng mưu phản tự miệng ngươi nói ra rồi đó. Ngươi bảo trong thành sẽ chìm trong biển lửa ư? Ngươi chớ lo, mọi việc ta lo liệu cả rồi - Ánh vừa dứt lờ, Hồ Văn Lân vào báo:
                              - Thần vừa vây nhà bắt được Võ Nhân. Xin đem về cho Thượng vương xét xử!
                              Phúc Ánh liền sai quân đem Đỗ Thành Nhân và Võ Nhân ra chém. Lúc đao phủ sắp khai đao hành quyết, Thành Nhân ngửa mặt than rằng:
                              - Đỗ Thành Nhân ta một thời ngang dọc. Bởi ta không nghe lời Võ Tánh nên phải thua trí mà chết dưới tay một thằng con nít.
                              Nói xong giương cổ chịu hình. Giết Đỗ Thành Nhân xong, Nguyễn Phúc Ánh liền sai người đi mời đạo sĩ Bá Đa Lộc đến yết kiến. Ánh nói:
                              - Nghe nói Giám mục định giúp cho tướng của ta tên là Đỗ Thành Nhân tàu đồng và súng đại bác, điều này có chăng?
                              Bá Đa Lộc đáp:
                              - Thưa có! Vài hôm nữa tàu chiến sẽ đến đây.
                              Ánh lại hỏi:
                              - Đỗ Thành Nhân đã chết rồi, Giám mục đã biết chưa?
                              Lộc giật mình đáp:
                              - Điều này tôi chưa được biết. Dám hỏi vì sao Đỗ tướng quân lại chết?
                              Ánh trầm ngâm nói:
                              - Lúc trước ta giao cho Thành Nhân tìm cách liên lạc với người nước Pháp Lang Sa của ngài mua cho được tàu đồng súng lớn đánh giặc Tây Sơn phục quốc cho nhà Nguyễn ta. Nào ngờ Thành Nhân lòng đầy tham vọng lợi dụng việc ấy mưu dùng vũ khí của các ngài làm quân đội riêng toan phản ta để đoạt quyền. Ta hay được mới giết đi. Nay cho mời ngài đến đã nói cho rõ việc ấy mà thôi!
                              Bá Đa Lộc thất sắc quỳ xuống lậy thưa:
                              - Việc Thành Nhân mưu phản tôi không được biết. Xin Thượng vương lượng cả xét soi.
                              Ánh đỡ Lộc dậy mời ngồi, an ủi:
                              - Việc ấy không can gì đến ngài. Chỉ mời ngài để nói rằng từ này về sau việc mua khí giới của nước Pháp Lang Sa ngài cứ trực tiếp bàn bạc với ta, để tránh sự hiểu lầm về sau. Chẳng hay ý ngài thế nào?
                              Bá Đa Lộc đáp:
                              - Nếu được vậy thật là diễm phúc cho tôi quá. Tôi là kẻ truyền đạo không màng đến vật chất, nên việc đem tàu đồng súng lớn sang đây là giúp cho Thượng vương đánh lũ giặc Tây Sơn để phục quốc thật lòng không nói đến việc mua bán. Chỉ xin Thượng vương cho những kẻ hành đạo nhà chúng tôi được truyền bá đạo lành của Đức Chúa trời để loài người biết thương yêu nhau mà thôi. Xin Thượng vương chấp thuận cho!
                              Ánh cả mừng nói:
                              - Việc này nào có khó gì. Ngài cứ giúp tàu chiến và vũ khí cho ta đánh giặc Tây Sơn, khi lãnh thổ của ta đến đâu, thì quyền truyền đạo của các ngài rộng ra đến đó. Ta lấy tư cách là vua trong một nước mà hứa với ngài!
                              Nói rồi Ánh liền trao cho Bá Đa Lộc một cái thẻ bài nói:
                              - Đây là hiệu lệnh của ta, có hiệu lệnh này ngài ở bất cứ đâu trên lãnh thổ của ta mà không ai có quyền ngăn cản. Nếu có kẻ nào gây khó dễ, ngài cứ đem hiệu lệnh này đến trình quan trấn thủ sẽ cho quân trị tội chúng ngay.
                              Trao thẻ bài cho Bá Đa Lộc xong, Ánh lại cho bày tiệc thết đãi, của ngon vật lạ cao lương mỹ vị chẳng thiếu món gì. Ánh lại sai người sửa sang công quán cho tươm tất mời Bá Đa Lộc đến nghỉ. Bá Đa Lộc vui mừng cảm tạ ra về. Bỗng các tướng Nguyễn Nghi, Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương bước vào đồng thanh quỳ nói:
                              - Xin chức mừng Thượng vương!
                              Ánh ngạc nhiên hỏi:
                              - Vì sao các khanh lại chúc mừng ta?
                              Nguyễn Nghi đáp:
                              - Cái hoạ trong tâm phúc là Đỗ Thành Nhân đã trừ được rồi. Thượng vương lại mượn được tàu đồng súng lớn của người Pháp Lang Sa thì cái cơ khôi phục cơ đồ xem như đã chắc mười phần rồi vậy. Bởi thế nên chúng thần mới đến đây chúc mừng Thương vương.
                              Ánh suy tư nói:
                              - Tuy đã diệt được Đỗ Thành Nhân nhưng có cháu Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập, em Võ Nhân là Võ Tánh đang trấn thủ Trường Đồn. Chưa trừ được hai người này, ta lấy làm lo lắm.
                              Nghi tâu:
                              - Bởi biết Thượng vương lo việc ấy nên chúng thần mới đến đây cũng bàn việc này.
                              Ánh xuống lệnh:
                              - Hồ Văn Lân, Tống Phước Khuông đem năm ngàn quân mã tiến đánh Trường Đồn. Ta đã sai người ào Hà Tiên triệu Mạc Thiên Tứ đem quân hợp sức.
                              Hai đạo binh hai mặt giáp công ắt phải chiếm được thành, hai tướng nên hết lòng mau báo tiệp khải hoàn cho an lòng quả nhân.
                              Hồ Văn Lân và Tống Phước Khuông lãnh lệnh đi ngay.
                              ***
                              Nói về Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập trong thành Trường Đồn ngày ấy nghe quân vào báo:
                              - Có người nhà của thượng tướng công xin vào ra mắt nhị vị tướng quân có điều cơ mật.
                              Võ Tánh bảo:
                              - Lập tức mời vào!
                              Người nhà Đỗ Thành Nhân vào, đến ôm chậm lấy Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh khóc rằng:
                              - Thượng tướng công Đỗ Thành Nhân và tướng quân Võ Nhân đã bị Thượng vương giết chết cả rồi!
                              Đỗ Nhàn Trập đau đớn quá hét lên hai tiếng "Chú ơi" rồi ngã lăn ra đất. Võ Tánh sửng sốt hỏi:
                              - Vì cớ gì Thượng vương lại giết chết thương tướng công và anh ta?
                              Người nhà đáp:
                              - Thượng vương bát tội thương tướng công lúc trước làm phản, quản thúc chúa Định Vương và hoàng tộc trong thành Sài Côn. Lại sai người đang đêm vào nhà bắt Võ Nhân rỗi đem chém hết cả đi. Tôi may mắn thoát được vội đến báo tin cho nhị vị tướng quân được rõ.
                              Đỗ Nhàn Trập vùng đứng dậy nghiến răng mắng:
                              - Thằng con nít Nguyễn Phúc Ánh kia, lúc trốn thoát khỏi tay quân Tây Sơn, đói cơm rách áo cù bất cù bơ. Nhờ có chú ta đem về phò tá, mang quân đi đánh chiếm lại đất Gia Định đưa nó lên ngôi chúa. Thằng khốn nạn ấy không nghĩ đến công ơn lại còn đem lòng đố kỵ mà giết chết chú ta. Thù này không trả được thề không phải là người.
                              Nói rồi Tráp quay sang hỏi Võ Tánh:
                              - Còn anh của ông là Võ Nhân cũng bị thằng giặc Ánh giết chết. Ông còn chờ có gì nữa mà không cùng tôi mang quân đánh Sài Côn bắt thằng Phúc Ánh trả thù cho hai người ấy?
                              Tánh gạt nước mắt đáp:
                              - Đứt tay thì đau ruột, anh tôi chết tôi không đau lòng sao được. Nhưng phàm làm việc gì nên suy tính phải trái thiệt hơn. Theo tôi nghĩ, Thượng vương giết chủ tướng và anh tôi tất sớm muộn gì cũng đem quân tiến đánh Trường Đồn bắt hai ta để tiệt trừ hậu hoạ. Tôi và ông ở đây chỉ có ba ngàn quân mã, không thể chống nổi với đại binh ở thành Sài Côn. Nếu để họ kéo binh đến đây chặn mất đường về căn cứ của ta ở rừng Tam Phụ, rồi Thượng vương lại sai Mạc Thiên Tứ đem quân từ Hà Tiên đánh ra thì ta không còn đường thoát thân. Vậy ta hãy mau mau bỏ thành Trường Đồn đem ba ngàn quân về cố thủ trong rừng Tam Phụ rồi sẽ liệu sau.
                              Nói rồi Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập liền dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ thành Trường Đồn lui về căn cử Tam Phụ. Tống Phước Khuông và Hồ Văn Lân đem quân đến thành Trường Đồn thì Mạc Thiên Tứ đã chiếm được thành rồi. Hai người bèn để Mạc Thiên Tứ trấn thủ Trường Đồn rồi kéo binh về Sài Côn báo cùng Nguyễn Phúc Ánh. Ánh con chưa quyết bỗng quân vào báo:
                              - Thưa Thượng vương, quân do thám của ta về báo rằng: Quân Tây Sơn đang chuẩn bị lực lượng tiến vào đánh Gia Định. Xin Thượng vương định liệu.
                              Ánh bảo các tướng:
                              - Hay tạm gác việc Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập lại. Ta nên luyện tập binh mã cũng cố lực lượng để chống nhau với quân Tây Sơn vậy.
                              Vừa dứt lời có quân vào báo:
                              - Thưa Thượng vương, có đạo sĩ Bá Đa Lộc xin và yết kiến.
                              Ánh mừng rỡ reo lên:
                              - Cứu tinh của ta đã đến rồi đây, mau mời vào.
                              Bá Đa Lộc vào đến Ánh mời ngồi, đón hỏi:
                              - Dám hỏi đạo sĩ có phải tàu đồng của ta đã đến tới đây rồi chăng?
                              Bá Đa Lộc đáp:
                              - Thưa Thượng vương, tôi vừa mượn được hai chiếc tàu đồng và hai trăm quân của nước Pháp Lang Sa do viên đô đốc tên là Mạn Hòe (Manuel), chỉ huy dẫn đầu tại sông Thị Nghè chờ có lệnh Thượng vương.
                              Ánh liền nói:
                              - Chúng ta hãy đến đấy xem tàu chiến như thế nào?
                              Nói rồi liền cùng các tướng theo Bá Đa Lộc đến sông Thị Nghè. Đến nơi thấy hai chiếc thuyền vừa cao, vừa rộng, vừa dài. Sức lớn của nó ước chừng gấp năm lần thuyền gỗ nước Nam. Toàn thân tàu được đúc bằng đồng sáng loáng. Mọi người lên tàu thấy sàn tàu cũng được bọc bằng đồng đều trầm trồ khen ngợi. Viên tướng chỉ huy hai chiếc tàu tên là Mạn Hòe ra mắt Ánh xong ngạo mạn nói:
                              - Tàu đồng của chúng tôi đạn bắn không thủng, lửa đốt không cháy. Giặc ở xa thì dùng súng lớn bắn một phát đắm vỡ một tàu. Giặc đến gần thì dùng súng nhỏ, đạn bay vừa xa vừa chính xác. Cung tên của các ngài đối với nước Pháp Lang Sa của chúng tôi đã trở thành vô dụng rồi. Xin Thượng vương cứ an tâm, hai chiếc thuyền của tôi là bất khả xâm phạm, quân Tây Sơn là lũ giặc nào mà dám đến đây.
                              Phúc Ánh cả mừng liền phong cho Mặn Hoè là chức tướng quân và ban thưởng rất hậu, lệnh cho Hòe đậu ở bến Thị Nghè chờ có lệnh. Ánh lại cho quân lập một đồn canh trên núi Cấp (Vũng Tàu ngày nay). Nhiệm vụ quân đồn này là ngày đêm thay phiên nhìn ra biển, hễ thấy thuyền chiến Tây Sơn đến lập tức đốt lửa báo cho quân ở Sài Côn biết để kịp thời ứng chiến. Xong việc Ánh vui vẻ bảo:
                              - Giờ ta có thể ăn ngon ngủ yên, chờ có giặc Nguyễn Huệ đến đánh một trận cho chúng biết lợi hại tàu đồng súng lớn của nước Pháp Lang Sa.
                              ***
                              Trong lúc Phúc Ánh ở Gia Định đem ngày xây dựng quân đội chờ quân Tây Sơn, thì ngày ấy trong thành Hoàng Đế vua Thái Đức nhà Tây Sơn đang đánh cờ với một viên thái giám tên là Vũ Tâm Can, chợt nghe quân vào báo:
                              - Tâu Bệ hạ có Long Nhương tướng quân xin vào yết kiến.
                              Vua Thái Đức bảo:
                              - Hãy gọi em ta vào đây!
                              Nguyễn Huệ vào đến quỳ tâu:
                              - Thưa hoàng huynh, quân thám mã từ đất Gia Định về báo rằng, cháu Định vương Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Phúc Ánh còn sống sót quy tập những tướng lãnh còn đang lẫn trốn nơi đây đánh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Tướng của ta là Lê Chu và Nguyễn Uy tử trận, Phạm Ngạn phải bỏ thành Trấn Biên lui về cố thủ ở Bình Thuận. Phúc Ánh lại cầu viện người Pháp Lang Sa đem tàu đồng súng lớn đóng ở sông Thị Nghè xây dựng lại lực lượng hòng đánh lại quân ta để khôi phục cơ đồ. Hoàng huynh nên sớm lo liệu.
                              Vua Thái Đức nghe Huệ nói xong quăng cờ đứng dậy tức giận nói:
                              - Thằng con nít Phúc Ánh dám lộng hành giết chết hai tướng ta tuyển từ trong trường thí võ. Không bắt được Phúc Ánh trị tội thì còn gì oai võ vua trời.
                              Nói xong liền hạ lệnh thiết triều. Các tướng đến đông đủ, vua nói:
                              - Ta những tưởng đã tiêu diệt hết dòng họ Nguyễn Gia Định, ngờ đâu cháu Định Vương là Phúc Ánh lại còn sống sót dấy binh chiếm lại ba thành Trường Đồn, Sài Côn, Trấn Biên. Nay ta định ngự giá thân chính đem đại binh vào Gia Định một phen. Các tướng chuẩn bị xuất chinh.
                              Nguyễn Huệ bước ra thưa:
                              - Tâu hoàng huynh, đánh Nguyễn Phúc Ánh thì cần gì đến hoàng huynh phải ngự giá thân chính cho nhọc nhằn lòng thế. Em xin đem mười ngàn quân thuỷ bộ vào Gia Định bắt Nguyễn Phúc Ánh đem về đây cho hoàng huynh trị tội. Việc đánh quân Nguyễn ở Nam Hà là việc dễ, nhưng việc giữ đất Gia Định vỗ an bá tánh để lòng dân không nghĩ đến chúa Nguyễn mới là khó.
                              Vua Thái Đức nghĩ ngợi hồi lâu nói:
                              - Được! Vậy Nguyễn Huệ hãy vì ta vào Gia Định lần nữa. Nhưng Phúc Ánh là người xảo quyệt cứu viện người nước Pháp Lang Sa về chống lại ta. Em chỉ đánh bằng thuỷ binh thì e rằng không bảo đảm toàn thắng. Vậy ta nên sai tướng đem một vạn quân bộ vào Bình Thuận tiến đánh Trấn Biên như thế mới nắm được phần thắng. Tướng nào có thể lãnh bộ binh Nam tiến.
                              Nguyễn Huệ nói:
                              - Em xin tiến cử hai người lãnh bộ binh Nam tiến.
                              Vua Thái Đức hỏi:
                              - Hai người ấy là ai?
                              Huệ đáp:
                              - Từ ngày Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân theo em vào đánh Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, thì Sở và Lân trấn thủ Phú Yên đến nay. Ngô Văn Sở tính tình điềm đạm làm việc cẩn thận, dụng binh quy củ. Phan Văn Lân vũ dũng phi thường bá quan đều mến đức sợ uy. Nếu dùng hai người này lãnh bộ binh Nam tiến thì không phải lo có điều gì sơ sảy.
                              Vua Thái Đức nghe lời liền sai người vào Phú Yên triệu hồi Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Huệ lại nói:
                              - Đất Gia Định vốn là nước của ngươi Chân Lạp được thiên nhiên ưu đãi, không bao giờ xảy ra lụt lội hạn hán, đất đai bằng phẳng màu mỡ phì nhiêu. Chúa nhà Nguyễn mới đem dân vào khai hoang lập ấp, các quan lại dẫn dân, binh vào nói đất khách xa xôi ngàn dặm, đều là người trung quân ái quốc tràn đầy nhiệt huyết cả. Vả lại trong thời gian lập ấp ở xứ người thường bị tộc Chân Lập đánh phá, bởi vậy nên tướng sĩ xem nhau như phụ tử, quân với dân như cá với nước, đoàn kết một lòng chống lại người Chân Lạp để được sanh tồn. Chính vì lẽ ấy nên đến nay người ở đất Gia Định được cơm nó áo ấm đều nhờ ở chúa nhà Nguyễn. Thế cho nên dòng họ Nguyễn còn, nhân dân Gia Định liền nổi dậy đi theo. Ấy chính là điều khó nhất của ta trong việc bình định đất Gia Định vậy. Vua hỏi:
                              - Theo em, thì nên phải làm thế nào?
                              Huệ đáp:
                              - Nay có một người trí dũng song toàn, kính người già như cha mẹ, thương trẻ nít như con. Múa kích thì có thể giết được hổ dữ, xuất ngôn nho nhã khiến kẻ sĩ phải tuân. Sau khi dẹp được giặc Phúc Ánh, nếu ở người này làm tổng trấn Gia Định, thì lo gì không yên được cõi Nam Hà.
                              Vừa hỏi:
                              - Người ấy là ai?
                              Huệ đáp:
                              - Người ấy chính là đô đốc Đặng Văn Long!
                              Vua Thái Đức vỗ trán nói:
                              - Đặng Văn Long là học trò của quân sư Trương Văn Hiến. Ngày trước quân sư còn sống vẫn thầm khen Văn Long như thế. Ta vì lo nhiều việc mà quên mất Văn Long.
                              Rồi vua xuống lệnh:
                              - Các tưởng hãy về kiểm điểm binh mã, chờ có Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân về đến sẽ xuất binh Năm phát.
                              Nói xong truyền bãi triều. Quan thái giám Vũ Tâm Can nói với vua Thái Đức rằng:
                              - Đành rằng là nên đánh giặc người, xin Bệ hạ cũng phải đề phòng các hoạ bên trong!
                              Vua Thái Đức trầm ngâm hỏi:
                              - Ngươi nói vậy là ý thế nào?
                              Tâm Can đáp:
                              - Hạ thần muốn nói về Long Nhương tướng quân đó. Xin Bệ hạ xét lại. Vợ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân là cháu vợ của Long Nhương. Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lại chịu ơn nhà của Bùi Thị Xuân cùng Long Nhương uống máu ăn thề tính nhà thủ túc. Nay Long Nhương lại xin Bệ hạ cho hai người ấy vào Nam giữ binh quyền Nam phát là có ý gì? Vũ Văn Dũng, Đặng Văn Long đều là học trò quân sự Trương Văn Hiến, cũng với Long Nhương là huynh đệ đồng môn. Nay Long Nhương lại xin cho Văn Long trấn thủ đất Gia Định là có ý gì? Các người này lại chỉ biết có Long Nhương mà không biết có Bệ hạ, nếu để họ lớn quyền như thế chẳng đáng ngại làm ư?
                              Vua Thái Đức giật mình nói:
                              - Vậy ta phải ngự giá thân chính để hạn chế Huệ mới được. Và đạo quân bộ phải cho Vũ Văn Nhậm chỉ huy.
                              Năm Nhâm Dần (1782) niên hiệu Thái Đức thứ tư, vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem hai vạn quân theo hai đường thuỷ bộ tiến vào Nam. Vua Thái Đức và Long Nhương cũng các tướng Đặng Văn Long, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trương Văn Ba đi đường thuỷ vào cửa Cần Giờ. Khi đến ngoài khơi cửa Cần Giờ thấy trên hơn núi nhỏ trên đất liền khói lên nghi ngút, vua Thái Đức hỏi rằng:
                              - Trên hòn núi này bỗng khói lên nghi ngút là cớ làm sao?
                              Nguyễn Huệ đáp:
                              - Ấy là Nguyễn Phúc Ánh lập đồn canh trên ở nhìn ra biển, hễ thấy quân ta tiến vào, quân đồn trú đốt lửa làm hiệu để Phúc Ánh ở thành Sài Côn hay được kịp thời ứng phó mà thôi.
                              Vua hơi lo lắng hỏi:
                              - Vậy là Phúc Ánh đã có chuẩn bị, ta phải tiến quân như thế nào?
                              Huệ cương quyết đáp:
                              - Hoàng huynh cứ cho quân tiến binh vào cửa Cần Giờ rồi sẽ tuỳ cơ mà ứng biến.
                              Vua liền hạ lệnh:
                              - Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, kịp đem hai mươi đại thuyền và hai ngàn quân đi trước mở đường.
                              Nguyễn Văn Tuyết lãnh lệnh đi ngay. Khi ấy Nguyễn Phúc Ánh ở thành Sài Côn nghe quân hốt hoảng vào báo rằng:
                              - Thưa Thượng vương, quân ta trên núi Cấp ngoài cửa bể đốt lửa làm hiệu. Xin Thượng vương định liệu.
                              Phúc Ánh nạt rằng:
                              - Hễ giặc đến thì ta đã có kế sách mà đánh, việc gì ngươi sợ hãi thế. Nếu tự hậu còn như thế nữa ta giết chết không tha.
                              Tên quân hoảng sợ lui ra. Phúc Ánh liền đem toàn quân được hơn vạn người xuống thuyền theo sống Sài Côn ra cửa Cần Giờ cứ địch. Khi chiếc thuyền ra đến một đoạn sông rộng lớn ngả rẽ chằng chịt, Phúc Ánh hỏi tả hữu rằng:
                              - Sông này là sông gì?
                              Tả hữu đáp:
                              - Đoạn sông này có năm nhánh nối liền với các sông Tiền Giang ở Nam và sống Đồng Nai ở Bắc cộng với thượng lưu và hạ lưu của dòng sông chính tạo thành ngã bảy sông nên có tên gọi là Thất Kỳ Giang (này là sông Ngã Bảy).
                              Phúc Ánh liền cho đóng thuỷ trại ở Thất Kỳ Giang và hạ lệnh:
                              - Nguyễn Nghi đem hai ngàn quân và hai mươi đại chiến thuyền tiến ra cửa Cần Giờ, hễ gặp quân Tây Sơn đến thì đánh, chỉ được thua chứ không được thắng. Đợi cho giặc vào đến Thất Kỳ Giang rồi quay thuyền lại mà đánh.
                              Nguyễn Nghi hăm hở lãnh lệnh đi ngay. Phúc Ánh lại hạ lệnh:
                              - Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân, Mạn Hòe, mọi người lãnh một ngàn năm trăm quân mai phục ở bốn ngả sông. Ta cũng đạo sĩ Ba Đa Lộc lãnh ba ngàn quân mai phục hai ngã năm thượng lưu, chờ giặc đến cùng nhất tề đổ ra mà đánh. Trận này nhất định phải bắt cho được anh em Nhạc - Huệ.
                              Các tướng hăng hái lãnh lệnh và đồng thanh khen rằng:
                              - Thượng vương tuổi còn trẻ mà mới nhìn qua địa hình đã biết bày ra thế trận. Không biết bát trận ở của Gia Cát ngày xưa là có thật hay chăng. Con ngả này anh em Nhạc, Huệ lọt vào thất trận do của Thượng vương ắt là chết chẳng toàn thây!
                              Nói rồi cũng chia nhau bố trận. Lúc ấy Nguyễn Nghi dẫn hai ngàn quân và hai mươi đại thuyền đi tiên phong ra đến cửa Cần Giờ gặp đoàn thuyền tiên phong của Đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Văn Tuyết. Nguyễn Nghi trông thấy đại bác Tây Sơn đặt trên thuyền bề thế uy nghi nghĩ thầm rằng:
                              - Quân Tây Sơn thuyền to súng lớn nếu mà giáp chiến giả thua e rằng không thoát khỏi bọn này. Chi bằng ta từ xa bắn trước vài phát súng, chờ cho chúng bắn đại bác ra, rồi làm bộ hoảng sợ quay thuyền bỏ chạy, dụ chúng vào Thất Kỳ Giang rồi sống mái một trận cũng chẳng muộn gì!
                              Nghĩ rồi dàn thuyền truyền quân khai hoả mà bắn. Quân Nguyễn bắn được vài phát đại bác, tầm bắn chưa đến được thuyền Tây Sơn đã nghe đại bác Tây Sơn nổ ầm ầm, đạn bay trúng thuyền quân Nguyễn vỡ liền máy chiếc. Nguyễn Nghi thất kinh hồn vía, quay thuyền mà chạy. Nguyễn Văn Tuyết không đuổi theo lại lệnh quân neo thuyền chờ đại binh Tây Sơn. Đến nơi vua Thái Đức hỏi Nguyễn Văn Tuyết:
                              - Sao không tiến binh mã dừng quân nói cửa bể?
                              Tuyết đáp:
                              - Tâu Bệ hạ, thần vừa đến đây gặp một đoàn hai mươi đại thuyền của giặc Nguyễn Gia Miêu. Quân ta mới bắn vài phát đạn chúng đã bỏ chạy. Thần e có mai phục nên không dám đuổi theo mới đóng quân đây chờ thượng lệnh.
                              Nguyễn Huệ khen:
                              - Văn Tuyết cẩn thận như thế là đúng. Quân Nguyễn đốt lửa trên núi báo hiệu tất chúng đã có phòng bị. Đã phòng bị sao chưa đánh đã chạy, tất dụ ta vào trận mai phục.
                              Huệ giở bản đồ ra nói tiếp:
                              - Hoàng huynh hãy xem, nhất định là chúng mà phục ta ở sông Thất Kỳ Giang này.
                              Vua Thái Đức hỏi:
                              - Vậy theo em ta phải đánh thế nào?
                              Huệ chỉ vào bản đồ nói:
                              - Tại sông Thất Kỳ Giang nhất định Ánh cho giấu thuỷ quân trong các ngả sông chờ chiến thuyền ta lọt vào ổ phục kích rồi đổ ra mà đánh. Hoàng huynh cứ mạnh dạn tiến binh chia quân làm sáu cánh, mỗi cánh đánh vào một ngả sông nơi quân Nguyễn mai phục. Chúng chia quân mai phục thì ta chia quân mà đánh chỗ chúa tôi Phúc Ánh tan tác chẳng nhìn thấy nhau.
                              Vua Thái Đức trao bảo kiếm cho Nguyễn Huệ nói:
                              - Em đã một lần đánh vào Gia Định nên tỏ tường địa thế sông ngòi. Ta giao cho em được trọn quyền điều binh khiển tướng. Em mau hạ lệnh tiến binh.
                              Huệ chậm rãi nói:
                              - Xin Hoàng huynh chớ vội. Bây giờ thuỷ triều đang rút chạy, ta tiến quân mệt sức, chốc lát nữa nước cạn sẽ có thuyền quân Gia Miêu đến khiêu chiến. Khi ấy nước thuỷ triều lên ta theo sức nước mà đuổi theo giặc thì thuyền đi đã mau, mà quân lại khỏe.
                              Vua Thái Đức nghe lời đóng binh chờ quân Nguyễn.
                              ***
                              Nói về Nguyễn Nghi đem quân ra khiêu chiến bị tướng Tây Sơn là Đô đốc Tuyết bắn vỡ vài chiếc đại thuyền liền quay đầu chạy một mạch về Thất Kỳ Giang. Không thấy quân Tây Sơn đuổi theo, Nghị đến đại bản doanh gặp Phúc Ánh, tâu:
                              - Thưa Thượng vương, quân Tây Sơn thuyền to súng lớn. Đạn thuyền của thần bắn chưa đến được thuyền giặc, thì đã bị đại bác Tây Sơn bắn vỡ mất hai đại thuyền. Thần vội chạy về đây, không rõ vì lý gì giặc chẳng đuổi theo!
                              Khi ấy Mạn Hòe vì nóng lòng lập công khoe tàu đồng súng lớn. Mạn Hòe theo Nguyễn Nghi vào gặp Phúc Ánh, thưa:
                              - Tôi xin đem hai chiếc tàu đồng ra cửa biển dụ giặc. Nếu chúng đuổi theo thì ta dụ vào Thất Kỳ Giang mà đánh. Nếu chúng sợ thì tôi sẽ bắn vỡ thuyền chúng ở cửa Cần Giờ cho khỏi nhọc sức Thượng vương.
                              Phúc Ánh y lời phong Mạn Hòe làm tiên phong, đem hai chiếc tàu đồng và hai mươi đại thuyền cùng hai ngàn quân ra cửa Cần Giờ khiêu chiến. Mạn Hòe hùng hổ kéo quân đi ngay. Đến gần thuỷ trại Tây Sơn, vua Thái Đức trong thấy bảo:
                              - Quá đúng như Nguyễn Huệ tiên đoán, ngoài cả quân Nguyễn lại ra khiêu chiến, lần này chúng có hai chiếc tàu đồng lớn, có phải của người Pháp Lang Sa chăng?
                              Nguyễn Huệ nói, giọng rền như sấm:
                              - Cái lũ người mắt xanh mũi lõ này, mượn tiếng truyền đạo có ý đồ dòm ngó nước ta. Trận này phải đốt hai chiếc tàu đồng này cho chúng biết quân Tây Sơn ta hùng mạnh thế nào!
                              Nói rồi sai Nguyễn Văn Tuyết làm tiên phong, phò mã Trương Văn Đa làm hậu quân Đô đốc, bảo vệ vua Thái Đức, còn mình đem toàn quân giáp chiến. Tiến vừa tầm đạn, quân Tây Sơn nhất tề khai hoả, đại bác nổ ầm ầm, đạn bay tới tấp trên thuyền quân Nguyễn. Mạn Hòe cầm đầu hai chiếc tàu đồng đi trước liền bắn trả. Nhưng quân Tây Sơn đông quả lại tập trung hoả lực vào hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe, chẳng mấy chốc súng đại bác trên tàu đồng của Mạn Hòe đều bị đạn quân Tây Sơn bắn hỏng cả. Mạn Hòe liền hạ lệnh lui binh. Quân Tây Sơn ồ ạt đuổi theo. Vừa đến Thất Kỳ Giang, Nguyễn Huệ ra lệnh:
                              - Đặng Văn Long đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ nhất. Nguyễn Văn Lộc đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ hai. Ngô Văn Sở đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ ba. Phan Văn Lân đem hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ tư, Trần Quang Diệu lãnh hai mươi đại thuyền và một ngàn quân đánh vào nhánh sông thứ năm.
                              Các tướng lãnh lệnh chia quân đi ngay. Nguyễn Huệ cùng Bùi Thị Xuân cầm trung quân đốc chiến thúc quân tiến lên vây hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe vào giữa. Quân Pháp Lang Sa trên tàu thấy Tây Sơn giáp chiến liền lấy súng nhỏ mà bắn. Quân Tây Sơn lấy khiên đồng đỡ đạn lầm lũi tiến lên. Đến gần tàu đồng Mạn Hòe, quân Tây Sơn tung hoả hổ mà đốt. Nguyên nhựa hoả hổ của Tây Sơn văng đâu dính đó, sức nóng vô cùng. Hoả hổ bắn tung tóe như mưa lên tàu Mạn Hòe, hai chiếc tàu đồng của quân Pháp Lang Sa bốc cháy. Mạn Hòe cùng hai trăm quân người Pháp Lang Sa đều bị chết cháy cả. Các cánh quân mai phục của Nguyễn Gia Miêu đều bị Tây Sơn đánh tan tác, chiến thuyền đắm vỡ gần hết, quân chết thôi vô số. Các tướng Nguyễn Phúc Ánh là Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân, Nguyễn Nghi đều theo lạch nhỏ mà chạy trốn. Lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh thấy thuyền Tây Sơn lọt vào Thất Kỳ Giang trong bụng mừng lắm nói:
                              - Anh em Nhạc, Huệ quả nhiên trúng kế, chờ chúng vào hết trong trận sẽ nhất tề tiến đánh.
                              Nói vừa dứt câu lại thấy quân Tây Sơn chia thuyền làm sáu cánh, mỗi cánh tiến vào một ngả sông. Ánh giật mình nói với Bá Đa Lộc rằng:
                              - Sao quân Tây Sơn lại bố trận như thế. Không lẽ quân cơ của ta đã lộ rồi chăng?
                              Bá Đa Lộc lại thất sắc kêu Ánh:
                              - Quân Tây Sơn vây hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe. Xin Thượng vương mau hạ lệnh tiến quân giải vây cho Mạn Hòe.
                              Phúc Ánh liền hô quân xung trận. Thuyền quân Nguyễn vừa mới xông ra đã bị đạn đại bác Tây Sơn bắn chìm liền mấy chiếc. Quân Nguyễn thấy vậy hoảng sợ không dám tiến, Ánh ở phía sau tuốt gươm hét:
                              - Quân bay mau tiến lên liều chết mà đánh, đứa nào sợ lui ta chém chết không tha.
                              Ánh hết vừa dứt lời nhìn vào giữa trận thấy hai chiếc tàu đồng của Mạn Hòe bốc cháy, quân sĩ cả kinh đều quay thuyền chạy cả. Ánh ngăn không nổi đành cũng Bá Đa Lộc tất tả chạy theo.
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #30
                                Chương 27

                                Khuyên Đỗ Nhàn Trập, Võ Tánh một dạ trung quân.
                                Trốn Bùi Thị Xuân, Nguyễn Vương hai lần thoát hiểm.


                                Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh đánh cùng quân Tây Sơn ở Thất Kỳ Giang bị thua trận, bèn cùng Bá Đa Lộc quay thuyền mà chạy.
                                Nữ Đô đốc Tây Sơn Bùi Thị Xuân trông thấy nói với Nguyễn Huệ:
                                - Chiếc thuyền rồng kia chắc của Nguyễn Phúc Ánh, tôi xin đuổi bắt giết chết nó cho rồi.
                                Nói xong Xuân qua một chiếc dài thuyền dẫn đầu nữ binh đuổi theo Phúc Ánh. Phúc Ánh trông thấy hồn phi phách tán, nghĩ thầm rằng: Con tiện tỳ này võ nghệ siêu quần sức khỏe vô song. Nếu phen này mà nó bắt được ta thì dù cố vạn lậy mòn đầu gối nó cũng chẳng tha.
                                Nghĩ xong hối quân chèo gấp. Thị Xuân đuổi theo, Ánh liệu bề ở trên thuyền không chạy khỏi, bảo quân ghé thuyền vào bờ lên đất liền mà trốn. Bùi Thị Xuân cũng lên bờ đuổi theo. Bá Đa Lộc dẫn Ánh chạy vào trong một xóm đạo, đến nhà thờ lớn Lộc bảo máy đạo sĩ:
                                - Mau mau tìm chỗ cho vua nấp, kẻo giặc đuổi tới nơi.
                                Nói vừa xong người canh cổng vào bảo rằng;
                                - Có đạo binh toàn là con gái, gươm giáo lăm lăm đang lùng sục khắp nơi.
                                Đạo sĩ giữ nhà thờ nói:
                                - Xin vua và giám mục mau ra trốn nơi hậu quân.
                                Ánh và Lộc liền chạy ra hậu quân. Vừa vào trong đã nghe tiếng Bùi Thị Xuân quát ở ngoài rằng:
                                - Các ngươi hay lục soát khắp nơi bắt kỳ được Phúc Ánh cho ta.
                                Ánh chẳng còn hồn vía nào, nhận thấy mấy người đàn bà đang hộ sanh cho một phụ nữ đang trở dạ, liền cùng Bá Đa Lộc chui xuống gầm giường ấy mà trốn. Bùi Thị Xuân mở cửa bước vào thì vừa lúc đứa trẻ chào đời khóc oa oa. Thị Xuân thấy vậy liền vội vã lẩn ra ngoài. Bùi Thị Cúc hỏi:
                                - Vì sao chị vừa vào đã vội ra ngày?
                                Xuân đáp:
                                - Trong ấy có người phụ nữ vừa sanh con. Ta làm người đẻ sợ hãi lên máu sản hậu mà chết nên phải ra ngày.
                                Cúc lại hỏi:
                                - Thế ngộ nhỡ Phúc Ánh chui xuống gầm giường ấy mà trốn thì sao?
                                Xuân cau mày đáp:
                                - Nguyễn Phúc Ánh đến nỗi nào mà hèn như thế được! Vả lại nếu ta vào lục soát, người mẹ mới sanh con kia sẽ sợ hãi lên sản hậu mà chết. Lòng ta sao nỡ! Thôi! Mau đi tìm ở hướng khác.
                                Tìm đến tối vẫn không thấy tăm dạng Phúc Ánh đâu, Bùi Thị Xuân đành quay về báo cùng Nguyễn Huệ:
                                - Thưa tướng quân, Phúc Ánh chạy thoát chính la lỗi do tôi.
                                Huệ cười bảo:
                                - Việc gì mà cô Xuân phải tạ lỗi. Đất Gia Định sông ngòi chằng chịt, rừng rậm um tùm, hắn đã chạy trốn thì dễ gì mà kiếm cho ra. Vả lại số của Ánh chưa tàn mà thôi. Nay Phúc Ánh trốn thoát chạy vào thành Sài Côn, vợ chồng Diệu và Xuân hãy đem hai ngàn quân chia nhau chân ở hai cửa Cung Hậu và Hàm Luông do sông Tiền Giảng đổ ra. Đợi Vũ Văn Nhậm đem bộ binh tiến đánh Trấn Biên, Ánh tất bỏ Sài Côn mà chạy về Trường Đồn. Ta đã sai Nguyễn Văn Lộc tiến đánh Trường Đồn, Nguyễn Văn Tuyết đánh Long Hồ. Phúc Ánh chỉ còn một con đường là lợi dụng vùng sông ngòi chằng chịt theo sông Tiền Giang trốn ra hải đảo mà thôi. Lần này có thể vợ chồng Diệu Xuân lại lập công to như lần trước bắt hai chúa Thái Thượng vương và Tấn Chính vương của nhà Nguyễn vậy. Hai người nên cố gắng tiêu diệt được Phúc Ánh, xem như ta đã bình được đất Gia Định vậy.
                                Bùi Thị Xuân ân hận nói:
                                - Nguyễn Phúc Ánh thoát được là do lỗi ở Xuân này. Xin tướng quân trị tội.
                                Huệ cười hỏi:
                                - Ta chưa từng nghe nói có điều quân lệnh nào là bảo rằng không bắt được tướng giặc là có tội. Cô Xuân đừng nên bứt rứt như thế.
                                Bùi Thị Xuân không dám kể rằng chính mình đã tha mạng cho Phúc Ánh năm xưa lúc bắt hai chúa Nguyễn, bên cáo từ Nguyễn Huệ rồi cùng chồng là Trần Quang Diệu lãnh lệnh ra đi.
                                Nhắc lại Nguyễn Phúc Ánh thấy Bùi Thị Xuân dẫn nữ binh đi rồi, liền cùng Bá Đa Lộc chui ra khỏi gầm giường. Ánh bồng đứa bé mới sinh trên tay và nói:
                                - Ngươi chính là người trời sai xuống cứu vua. Và ta phong cho ngươi làm hộ giá đại tướng quân. Ngày sau phục quốc nhất định tìm mà ban thưởng.
                                Đoạn Phúc Ánh chia tay với Bá Đa Lộc rồi tìm đường về thành Sài Côn. Đến nơi thấy Lê Văn Quân cũng kéo quân về tới. Ánh giật mình hỏi Quân:
                                - Khanh đang thủ thành Trấn Biên sao lại kéo quân về đây?
                                Vâm Quân quỳ tạ lỗi:
                                - Giặc Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy từ Bình Thuận kéo vào đánh rất dũng mãnh. Binh ta không địch nổi, thần đành phải chạy về đây hợp quân cùng Thượng vương cố thủ đất Sài Côn.
                                Ánh bảo:
                                - Binh ta đã bị quân Tây Sơn đánh tan ở Thất Kỳ Giang. Mạn Hòe tử trận, các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân đều thất lạc cả. Nay nếu giặc ba bề đánh tới thì làm gì mà cố thủ Sài Côn. Bây giờ chỉ còn có một đường là bỏ thành mà chạy vào Trường Đồn với Mạc Thiên Tứ mới mong bảo toàn tính mạng.
                                Vừa dứt lời nghe quân hớt hải vào báo:
                                - Thưa Thượng vương, Vũ Văn Nhậm đem quân đánh đến cửa Bắc thành.
                                Phúc Ánh cả kinh liền sai Lê Văn Quân đem một ngàn quân đoạn hậu, còn mình đích thân dìu mẹ và em lên xe tứ mã mở cửa thành Nam mà chạy.
                                Nhắc lại từ khi Đỗ Thành Nhân bị Phúc Ánh giết chết, thuộc hạ của Đỗ Thành Nhân là Đỗ Nhàn Trập và Võ Tánh dẫn ba ngàn quân Đông Sơn bỏ Trường Đồn về tránh ở căn cứ là rừng Tam Phụ.
                                Ngày ấy quân thám mã về báo cùng Đỗ Nhàn Trập:
                                - Thưa tướng quân, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đem quân thuỷ bộ vào đánh Gia Định. Thượng vương Phúc Ánh bị thua to ở Thất Kỳ Giang. Bộ quân Tây Sơn do phò mã Vũ Văn Nhậm đã đánh chiếm thành Trấn Biên. Hiện Thượng vương và tướng quân Lê Văn Quân đã lui về cố thủ Sài Côn.
                                Đỗ Nhàn Trập nghe xong liền quay sang Võ Tánh nói:
                                - Từ ngày anh ông là Võ Nhân và chú tôi bị Phúc Ánh bắt giết chết, tôi và ông phải về ẩn náu ở nơi này, lúc nào tôi cũng nuôi chí báo thù. Nay quân Tây Sơn sắp sửa đánh chiếm thành Sài Côn, Phúc Ánh không thể nào địch nổi sớm mượn gì thành Sài Côn cũng mất về tay quân Tây Sơn. Tôi với ông đều là bậc hào kiệt, vậy ta nên theo về với Tây Sơn đánh Phúc Ánh báo thù cho chúa. Chẳng hay ý ông thế nào?
                                Võ Tánh lắc đầu nói:
                                - Nếu ta đầu Tây Sơn đánh Thượng vương thì không phải là ta báo thù mà sẽ phụ lòng chủ tướng nói suối vàng vậy.
                                Nhàn Trập hỏi:
                                - Phúc Ánh giết chủ tướng. Nay ta đánh Phúc Ánh để báo thù sao lại bảo là phụ lòng chủ tướng.
                                Tánh không đáp, hỏi lại Nhàn Trập:
                                - Xin hỏi ông vì sao chủ tướng ứng nghĩa cần vương giúp chúa Định Vương lại lấy tên quân ta là Đồng Sơn.
                                Trập đáp:
                                - Chú tôi lúc ấy lấy tên Đông Sơn là tỏ ý đối nghịch với Tây Sơn.
                                Tánh hỏi:
                                - Vậy nay ta đầu hàng Tây Sơn thì chẳng phải là phụ lòng chủ tướng sao?
                                Trập đáp:
                                - Ngươi xưa có nói: Chim khôn chọn cây mà đỗ, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay Phúc Ánh tâm địa nhỏ nhen, mượn tay người rồi lại giết người, mới đặng chim đã vội vàng bẻ ná. Vả lại Phúc Ánh muốn tranh lấy ngôi vàng nhà chúa mà không màng đến điều hại của quốc dân, nên mới mượn binh của nước Pháp Lang Sa, đổi lại cho Bá Đa Lộc được tuyên truyền tà đạo, người như thế đâu phải là minh quân. Vả chăng Phúc Ánh vốn có lòng muốn giết hai ta ở tiệt trừ hậu hoạ nên mới sai Mạc Thiên Tứ từ Hà Tiên đánh ra, Lê Văn Quân và Hồ Văn Lần từ Sài Côn đánh vào lúc hai ta còn trấn thủ ở Trường Đồn. Nay nếu ông ra phò Phúc Ánh có dám chắc rằng bảo toàn tính mạng được chăng? Tôi có nghe vua Thái Đức Tây Sơn là người nhân nghĩa, ban quân pháp không được giết hàng quân, đi đến đâu đều cứu giúp dân nghèo. Đến như năm xưa chúa Định Vương bỏ Quảng Nam vượt bể vào Gia Định, vua Tây Sơn bắt được Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường, cảm mến lòng trung hiếu của Tính Điệp hầu, vua Tây Sơn lại cấp ghe thuyền cho Tính Điệp hầu vào Gia Định theo chưa. Người như thế không phải là đại nhân dài đức hay sao? Này nếu ta cứ câu nệ hai chữ trung quân không đầu quân Tây Sơn, thì đối với Phúc Ánh cũng mang tiếng là phản chúa. Chẳng lẽ ông lại để cho mấy ngàn quân Đông Sơn ở mãi trong rừng Tam Phụ này sao?
                                Võ Tánh bác lời của Đỗ Nhàn Trập:
                                - Thượng vương giết chủ tướng là do chủ tướng cậy công mà xem thường tiểu chúa, làm anh tôi phải bị chết oan, thì sao lại đổ lỗi cho Thượng vương được. Ấy là một lẽ! Thượng vương mượn binh Pháp Lang Sa mong khôi phục cơ đồ ấy là điều đúng. Đạo do Bá Đa Lộc tuyên truyền cũng dậy người làm điều thiện thì sao lại bảo lả tà đạo? Ấy là hai lẽ. Thượng vương muốn giết chết hai ta để trừ hậu hoạ vì hai ta là thuộc hạ của chủ tướng, ở trong cương vị này ai cũng phải làm như thế mà thôi. Phận làm tôi không được đem lòng oán chúa. Ấy là ba lẽ! Vả lại tôi không ở trong thành Trường Đồn để Thượng vương bắt làm tội cho trọn câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" mà về ẩn thân nơi rừng Tam Phụ vì nghĩ rằng thân này còn có ngày giúp chúa đánh Tây Sơn. Tôi cũng như Tính Điệp hầu Nguyễn Đăng Trường chỉ biết câu: "Tôi trung không thờ hai chúa" mà thôi. Lẽ đâu lại đi hàng thằng buôn trâu Nguyễn Nhạc, vả lại quân Tây Sơn mượn tiếng tôn phò giả nhân giả nghĩa nên mới thả cho Tính Điệp hầu để lấy lòng hiền sĩ. Nếu không thế, tại sao lúc bắt Tính Điệp hầu lần thứ hai lại không cảm lòng trung hiếu tha cho mà bắt giết đi. Xin ông chớ có lầm anh em thằng buôn trâu là người nhân nghĩa.
                                Đỗ Nhàn Trập nghĩ thầm rằng: Võ Tánh đã quyết như thế ta có nói thế nào cũng không lay chuyển được, chi bằng ta làm hoà rồi thừa cơ trốn đi là hơn. Nghĩ xong làm như giật mình tỉnh ngộ, Tráp nói:
                                - Nếu không nhờ ông phân giải, tôi đã làm quân Tây Sơn. Nhưng Thượng vương cứ muốn giết hai ta thì làm sao mà ra giúp chúa cho được?
                                Tánh bàn rằng:
                                - Hiện giờ ta chưa thể chứng minh lòng trung của ta được. Nay tôi và ông hay kéo quân đến thành Sài Côn giúp chúa chống Tây Sơn. Lẽ nào chúa chẳng tin ta?
                                Trập vội can:
                                - Nếu làm như thế tôi e rằng quân ta chưa đến nơi thì Thượng vương đã bỏ thành mà trốn.
                                Tánh ngạc nhiên hỏi:
                                - Vì sao ông lại nói thế?
                                Trập vờ lo lắng nói:
                                - Nay Sài thành mặt Bắc thì bộ binh Vũ Văn Nhậm đang uy hiếp, mặt Đông thì thuỷ binh Nhạc, Huệ tấn công. Nếu quân do thám về báo với chúa rằng có Võ Tánh và Đỗ Nhàn Trập đem quân Đông Sơn tiến đánh mặt Nam thì Chúa thượng lại ngồi yên trong thành được sao? Ông làm thế thành ra hại chúa vậy!
                                Tánh gật đầu hỏi:
                                - Theo ông nay tôi phải làm sao?
                                Trập hiến kế:
                                - Nay chỉ còn có cách là chờ có chúa thất thủ Sài Côn ắt phải chạy vào Trường Đồn cùng Mạc Thiên Tứ, vào Trường Đồn tất phải chạy ngang qua rừng Tam Phụ của ta. Khi ấy ta kéo quân ra đánh Tây Sơn đang đuổi theo để cứu chúa. Chỉ có như vậy mới chứng tỏ được lòng trung của mình cho chúa biết mà thôi.
                                Tánh thở dài nói:
                                - Biết chúa lâm nguy mà không ra giúp được, phải chờ cho chúa bại binh. Nhưng không còn cách nào khác đành phải vậy thôi!
                                Trập bảo:
                                - Tôi xin đem một ngàn quân bản bộ làm tiên phong ra ngoài rừng đến ven đường mai phục. Ông chỉnh đốn hàng ngũ vạn chuyển binh lương cũng toán binh đến sau.
                                Nói rồi Trập từ biệt Võ Tánh đi ngay.
                                Nói về Nguyễn Phúc Ánh bỏ thành Sài Côn mà chạy đến gần khu rừng Tam Phụ, xảy thấy vài tên quân mình từ hướng Nam chạy đến bảo:
                                - Thưa Thượng vương, tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Lộc đem quân theo đường bé vào cửa Hàm Luông chiếm lấy Trường Đồn. Nguyễn Văn Tuyết theo sông Tiền Giang đánh chiếm Long Hồ. Tổng trấn Mạc Thiên Tứ đã bỏ Trường Đồn chạy về cố thủ Hà Tiên.
                                Phúc Ánh thất kinh than:
                                - Nay hai đầu địch quân đánh tới biết phải chạy về đâu?
                                Vừa than dứt lời bỗng thấy một đạo binh trong rừng xông ra. Viên tướng cầm đầu đạo binh ấy hết lớn:
                                - Nguyễn Phúc Ánh chạy đâu cho thoát. Hôm nay ta quyết giết ngươi để trả thù cho chúa ta là Đỗ Thành Nhân.
                                Nguyễn Phúc Ánh tâm thần bấn loạn nói:
                                - Quân Đông Sơn lại kéo đến đánh, Lê Văn Quân mau chặn Đỗ Nhàn Trập lại cho ta.
                                Quân vội vàng nói:
                                - Chúa thượng mau phò quốc mẫu chạy vào con đường nhỏ ở hướng Đông lánh nạn. Thân xin ở lại liều mình chết cùng Đỗ Nhàn Trập.
                                Văn Quân nói xong hô quân cự chiến với Đỗ Nhàn Trập. Binh Nguyễn bị Tây Sơn đuổi chạy tướng sĩ người ngựa mệt mỏi đều quẳng giao bỏ trốn. Lê Văn Quân cũng vài mươi tuỳ tùng quất ngựa chạy theo Phúc Ánh. Đỗ Nhàn Trập quyết chí báo thù thúc ngựa đuổi theo. Văn Quân chạy một hồi thấy xa giá quốc mẫu và Phúc Ánh phía trước mà sau lưng Đỗ Nhàn Trập vẫn rượt nã theo. Trong cơn nguy khốn bỗng nghe một tiếng hét vang:
                                - Quân giặc kia không được hại chúa!
                                Người vừa hét mặt đen như than, thân hình cao lớn tay cấm đại đao từ đâu xông đến chặn Nhàn Trập mà chém. Nhàn Trập giơ thương lên đỡ nghe rủn cả tay, hoảng kinh quát ngựa mà chạy. Nhờ vậy nên Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân mới thoát nạn. Phần Đỗ Nhàn Trập thì dẫn quân về thành Sài Côn đầu hàng quân Tây Sơn.
                                Nói về viên tướng mặt đen sau khi đuổi Đỗ Nhàn Trập đi rồi bèn quay ngựa lại ra mắt Phúc Ánh. Ánh hỏi:
                                - Tráng sĩ tên họ là gì, quê quân ở đâu? Sao biết ta lâm nạn nơi này mà cứu?
                                Tướng ấy đáp:
                                - Thần dân tên Trương Tấn Bửu, quân làng Hiệp Hưng, Tổng Tân An, Châu Định Viễn ở gần đây. Nay quân Tây Sơn bủa vây bọn phía, xin mời chúa hãy lẩn về nhà thần dân nghỉ tạm qua đêm rồi sẽ liệu sau!
                                Phúc Ánh và Lê Văn Quân liền đưa quốc mẫu về nhà Trương Tấn Bửu. Mẹ con Phúc Ánh và Lê Văn Quân mỏi mệt quá đánh nằm trên giương rơm, dưới ánh đèn dầu leo lét, trong túp lều tranh lụp xụp ngủ vùi. Sáng sớm hôm sau nghe Trương Tấn Bửu gọi:
                                - Đỗ Nhàn Trập về hàng quân Tây Sơn, hiện đang dẫn giặc đi lùng sục khắp nơi. Xin Chúa thượng mau đi tránh.
                                Phúc Ánh mệt mỏi lo lắng hỏi:
                                - Nay quân ta tan tác chỉ còn có vài người tuỳ tùng. Giặc đuổi đến biết tránh đi đâu?
                                Bửu trấn an rằng:
                                - Xin Chúa thượng chớ lo. Thân dân ở vùng này rất rành địa thế, xin đưa chúa qua ở cồn vắng bên kia sông thì không lo giặc tìm ra tông tích.
                                Nói xong Bửu dùng thuyền nhỏ đưa mẹ con Phúc Ánh qua cù lao giữa sông mà tránh. Đến nơi quốc mẫu lại kêu đói. Ánh bảo Tấn Bửu:
                                - Phiền ngươi đi tìm thức vật cho mẹ con ta lót dạ.
                                Tấn Bửu đi một hồi quay lại nói:
                                - Thần dân định về nhà lấy cơm dâng quốc mẫu và Chúa thượng, nhưng ngắt nỗi quân Tây Sơn đang lùng sục trong làng nên không tiện quay về. Xin chúa cùng quốc mẫu dùng tạm quả này cho đỡ đói.
                                Nói xong Bửu dâng quả rừng cho Phúc Ánh. Ánh cắn thử một miếng thấy vị vừa chưa vừa chát liền hỏi Trương Tấn Bửu:
                                - Quả này tên gọi quá gì?
                                Bửu thưa:
                                - Cây này thường mọc bên bờ sông, tên gọi cây bần.
                                Ánh tò mò hỏi:
                                - Vì sao gọi là cây bần?
                                Bửu đáp:
                                - Vì quả này thương những người nghèo khó thiếu cơm mới ăn qua bữa, nên có tên lá cây bần.
                                Ánh bèn bảo:
                                - Họ nhà ta làm chúa cả thiên hạ, nay phải ăn trái bần lót dạ. Từ nay cấm không gọi là trái bần nữa.
                                Bửu hỏi ngày:
                                - Thưa chúa vậy phải gọi là trái gì?
                                Ánh ngẫm nghĩ rồi đáp:
                                - Từ nay phải gọi là cây Thuỷ Liễu!
                                Ánh nói xong liền dâng trái Thuỷ Liễu cho mẹ dùng. Hôm sau Trương Tấn Bửu lại đem về một chiếc thuyền lớn nói với Phúc Ánh:
                                - Nay giặc Tây Sơn đi lùng sục khắp nơi, sớm mượn gì cũng đến nơi này. Vậy mới Chúa thượng mau lên thuyền chạy ra ngoài hải đảo lạnh nạn mới yên.
                                Phúc Ánh nói:
                                - Năm xưa hai chúa cũng vì chạy ra hải đảo lánh nạn nên mới bị nữ tướng của giặc là Bùi Thị Xuân bắt ở cửa Hàm Luông. Nay nếu ta chạy theo đường đó làm gì mà không bị đón bắt như hai lần trước?
                                Bửu đáp:
                                - Xin Chúa thượng chớ lo, kênh rạch vùng này thân dân rất rành. Thân dân sẽ cho thuyền theo rạch nhỏ mà đi ra ngoài biển. Giặc Tây Sơn không thể nào biết được.
                                Phúc Ánh và Lê Văn Quân nghe lời đưa quốc mẫu và công chúa Ngọc Du lên thuyền theo Trương Tấn Bửu mà đi. Bửu cho ghe luồn lách trong rạch nhỏ quả nhiên không gặp quân Tây Sơn. Nhưng vừa ra cửa bể bỗng gặp nữ tướng Tây Sơn Bùi Thị Xuân đem vài chiến thuyền đi tuần tiễu trông thấy. Bùi Thị Xuân gọi lớn:
                                - Chiếc thuyền kia mau dừng lại cho quân ta tra xét.
                                Trương Tấn Bửu không đáp, giong buồm cho thuyền chạy ra khơi. Thị Xuân nói:
                                - Long Nhương tướng quân đoán không lầm. Quả nhiên là thuyền Phúc Ánh chạy trốn. Mau đuổi theo!
                                Phúc Ánh trông thấy Bùi Thị Xuân đuổi theo liền trương cũng lắp tên bắn một phát. Thị Xuân lẹ mắt chụp được mũi tên ấy, rồi lấy cung bắn trả. Tên bay xé gió trúng dây buồm dứt lìa. Thuyền Phúc Ánh đứt dây buồm không chạy được. Ánh cả kinh than:
                                - Lần nào ta chạy trốn cũng bị con tiện tỳ này rượt đuổi. Số của ta phải chết dưới tay đàn bà sao?
                                Than vừa dứt lời bỗng trời mây vần vũ, rồi mưa tờ gió lớn nổi lên. Bùi Thị Xuân liền hối quân chạy thẳng vào bờ nấp bão, lạ lùng thay chiếc thuyền nhỏ của Phúc Ánh trong giông bão giữa biển khơi lại chẳng hề hấn gì. Bão tan chẳng thấy thuyền quân Tây Sơn đâu nữa. Nhờ vậy Nguyễn Phúc Ánh và Lê Văn Quân, Trương Tấn Bửu thoát được chạy ra đảo Phủ Quốc ẩn náu.
                                Nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân sau cơn bão không thấy thuyền Phúc Ánh bèn thu quân về thành Sài Côn ra mắt vua Thái Đức, tâu:
                                - Thần dẫn quân đi tuần ngoài cửa bể Hàm Luông, gặp thuyền Phúc Ánh chạy trốn thần đuổi theo gần kịp, bỗng một cơn bão nổi lên thần đành cho thuyền vào bờ núp bão. Khi bão tan không thấy Phúc Ánh, đành kéo quân về ra mắt Bệ hạ.
                                Vua Thái Đức nói:
                                - Ở giữa biển lại gặp bão tố, thuyền Phúc Ánh làm gì mà không bị đắm. Phen này ắt là đã diệt xong dòng họ chúa Nguyễn. Phúc Ánh chết các tướng sĩ quân Nguyễn chạy trốn ắt là như rắn mất đầu ta có lo gì nữa.
                                Đoạn vua bảo các tướng:
                                - Hay chuẩn bị quân trang định ngày xa giá hồi kinh!
                                Nguyễn Huệ hỏi vua:
                                - Vậy hoàng huynh đệ Đặng Văn Long trấn thủ Gia Định chứ?
                                Vua Thái Đức suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
                                - Đỗ Nhàn Trập vừa mới hàng ta. Trập là người Gia Định ắt hiểu rõ nhân văn địa lý vùng này, ta cho Trập trấn thủ Gia Định là hợp lý. Vả lại, Trập vừa mới hàng ta, ta trọng dụng Trập lại càng tỏ rõ đức độ của ta. Thế chẳng phải là nhất cứ lưỡng tiện hay sao?
                                Vua Thái Đức nói xong liền để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đất Gia Định. Nguyễn Huệ không dám cãi đành theo Nguyễn Nhạc đem đại binh về Quy Nhơn!
                                Nói về chúa tôi Nguyễn Phúc Ánh nhờ cơn bão mà thoát khỏi tay nữ tướng Tây Sơn là Bùi Thị Xuân chạy ra đảo Phủ Quốc. Hay tin vua Thái Đức và Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ rút đại binh về, Lê Văn Quân bàn:
                                - Nay anh em Nhạc, Huệ đã rút đại binh về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập trấn thủ đã Gia Định. Ta nên thừa cơ hồi này hưng binh khôi phục đất Gia Định.
                                Ánh buồn rầu hỏi:
                                - Nay ta ở đây chỉ có ngươi và Trương Tấn Bửu cùng mấy tên quân. Còn các tướng Nguyễn Nghi, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Hồ Văn Lân không biết đang lẩn trốn nơi nào thì làm sao hội quân mà khôi phục đất Gia Định?
                                Quân hiến kế:
                                - Nay Chúa thượng nên viết chiếu chỉ mời mọi người đem quân vào Gia Định. Các tướng của ta hiện đang lẩn trốn nghe người ấy có mệnh của chúa ta hội tàn quân về theo thì có thể chiếm lại Gia Định.
                                Ánh hỏi ngay:
                                - Người ấy là ai?
                                Quân đáp:
                                - Ngươi này tên là Chu Văn Tiếp, quê ở huyện Phù Ly phủ Quy Nhơn. Lúc Nguyễn Nhạc làm loạn ở Tây Sơn, Tiếp mộ quân ở núi Bô Chinh Sơn kéo vào cứu quan trấn thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên, chẳng may thua trận, anh của Tiếp là Châu Đoan Chữ tử trận. Tiếp bèn đem quân về đóng ở núi Trà Lang phủ Phú Yên. Sau Nguyễn Huệ lại đem quân vào Phú Yên đánh lão tướng Tống Phước Hiệp. Tiếp lại cứu được con Tống lão tướng quân là Tống Viết Phước. Trận ấy chẳng may em Tiếp là Châu Đoan Hãn lại bị tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân giết chết. Chu Văn Tiếp có thù sâu với giặc Tây Sơn. Hiện Chu Văn Tiếp còn hơn ngàn quân ở núi Trà Lang giữa lòng đất địch mà vẫn giữ vững núi ấy thật đáng là danh tướng. Nay Chúa thượng nên viết mật chiếu triệu Chu Văn Tiếp vào Gia Định mới mong khôi phục cơ đồ.
                                Phúc Ánh nghe lại liền viết mật thư sai người ý tâm phúc đi đường bằng lên ra Phú Yên đến núi Trà Lang trao cho Chu Văn Tiếp.
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X