Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

CÁT BỤI GIANG HỒ - Vuông khăn màu máu - Cổ Long

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    Hồi 28 : Gian hầm bí mật

    Nhìn theo đám người bỏ chạy như gặp quỷ ấy, Thư Hương cười :
    - Xem chừng uy phong của anh cũng không phải nhỏ đâu, bọn chúng không dám ló ra rồi.
    Lữ Ngọc Hồ làm thinh, hắn không nói mà cũng không cười.
    Thư Hương lại hỏi :
    - Anh nghĩ thử lão Hòa thượng đó trốn đi đâu?
    Lữ Ngọc Hồ đáp :
    - Cũng mong rằng hắn đừng bị quỷ bắt đi...
    Hắn nghiêm giọng nói tiếp :
    - Tôi thấy cô cũng nên đi mau ra khỏi chỗ này.
    Thư Hương cau mặt :
    - Tại sao?
    Lữ Ngọc Hồ cười :
    - Coi chừng ở đây có quỷ thật đó.
    Mặc dầu không sợ quỷ cho lắm nhưng Thư Hương cũng hơi ngán, tuy vậy ngoài mặt nàng làm bộ tỉnh :
    - Tôi không sợ!
    Lữ Ngọc Hồ hỏi :
    - Tại sao cô không sợ?
    Thư Hương nói :
    - Anh đừng quên tôi đã nói tôi là bằng hữu của anh.
    Lữ Ngọc Hồ nói :
    - Nhưng...
    Thư Hương chận nói :
    - Không nhưng nhị gì cả, đã là bằng hữu, tôi không thể để anh đi một mình, võ công của tôi chưa chắc đã giúp anh được gì, nhưng tôi không thể bỏ anh một mình ở lại...
    Nàng nói chưa dứt tiếng thì chợt nghe tiếng động nhỏ, khối nền dưới chân của Lữ Ngọc Hồ dạt ra, hắn lọt tuốt xuống và khối đá khép đóng trở lại...
    Thư Hương hoảng hốt, nàng bước lại dùng chân đạp chòi theo phía trên của những khối đá, nhưng làm sao nàng đạp nổi, những khối đá cứ trơ trơ ra...
    Thư Hương quýnh quáng, nàng la bài hãi :
    - Lữ Ngọc Hồ... Ngọc hồ...
    Gió bên ngoài thổi ào ào, mưa bắt đầu nặng hột.
    Bên trong vắng ngắt.
    Thư Hương nghiến răng, nàng thụt lần thụt lần và vùng quay mặt lại chạy nhanh ra cửa.
    Gió bên ngoài vẫn thốc mạnh vào.
    Gió bị dội vào vách nhà, cuộn lại.
    Những nùi tóc vẫn cuốn lên cuốn xuống.
    Trời không tối nhưng cũng mờ mờ vì mưa bão, Thư Hương vừa tới cửa thì mấy nùi tóc tấp dính vô mắt nàng, quấn vào cổ nàng, nó nhè nhẹ, mềm mềm, lành lạnh...
    Thư Hương rú lên một tiếng chạy tháo trở vô.
    Nàng ngoái tay khép cửa và đứng dựa lưng giử chặt lại, nàng sợ, sự hoảng hốt trong khung cảnh như ma như quỷ...
    Nàng gở những cuộn tóc trên mặt, trên cổ, mềm mềm, lành lạnh đó ra.
    Thư Hương muốn phát ói, nhưng không ói được.
    Nàng vừa thở vừa run.
    Bây giờ một mình đứng đây nhìn quanh, nàng thấy gian nhà quá rộng và nàng cảm thấy thân mình quá bé.
    Một tiếng động mạnh, khung cửa sổ bị gió thổi bung, gió phía ngoài ào vào, sét chớp giăng giăng và tiếng nổ lưng trời.
    Thư Hương phát lạnh, nàng ráng hết sức kêu lớn :
    - Có ai không? Có ai trong này không?
    Chỉ có tiếng nàng dội lại.
    Thư Hương càng run dữ.
    Cả nhà đều chết hết trong một đêm, phải chăng họ thật đã biến thành quỷ cả rồi!
    Gian nhà bây giờ như rộng thêm ra.
    Thư Hương nhìn thấy phía trong, sát vách tường còn có một khung cửa, nàng nghiến răng nhích lần vào.
    Thật sự thì Thư Hương cũng không ý thức được rõ ràng hành động của nàng, không hiểu nàng muốm khám phá cái gì qua khung cửa đó, nhưng nàng vẫn làm, cho dầu gặp Đạo sĩ, Tú tài cũng vẫn còn hơn một mình lạnh ngắt...
    Thâm tâm nàng có nhiều nổi nghi ngờ, biết đâu trong khung cảnh đó lại không dẩn tới chỗ đường hầm mà Lữ Ngọc Hồ vừa rơi xuống?
    Biết đâu hắn còn đang tìm tòi bên dưới?
    Biết đâu hắn chưa tìm được ngả ra?
    Thây kệ, gì thì gì, hành động còn đở sợ hơn đứng im.
    Càng nhích lần về phía khung cửa đó, phía sau lưng nàng nghe lạnh toát, nàng không dám quay đầu nhìn lại.
    Gom hết sức, Thư Hương tung mạnh một đạp vào cánh cửa đó.
    Cánh cửa chỉ khép chứ không gài chốt bên trong.
    Cánh cửa mở toát ra.
    Thư Hương nhích dần từng bước vô.
    Gian phòng tối đen nhưng nhờ có ánh chớp bên ngoài thấp thoáng nên nàng cũng thấy được mờ mờ. Trông giống như một phòng khách, bày biện trang trí sơ sài nhưng cũng chứng tỏ là có người ở nơi đây.
    Chung quanh thật lặng, Thư Hương có phần bớt sợ hãi, bất giác nàng thở phào và quan sát...
    Bình!
    Chưa nhận diện được khắp chỗ thì cánh cửa sau lưng nàng bỗng đóng ập trở lại.
    Thư Hương hoảng hốt, quay lại kéo mạnh nhưng vô hiệu, cánh cửa cứng ngắt như có người khóa ở bên ngoài.
    Bên ngoài vừa rồi đâu có một ai?
    Thư Hương chợt nghe nổi gai ốc đầy mình.
    Nàng nghiến răng, mồ hôi đượm ướt áo.
    Nàng lại lui dần, lui dần đến bên cái bàn nhỏ.
    Bây giờ nàng mới phát hiện trên bàn có ba chén trà, xâu chuỗi hột, quyển sách và cây phất trần.
    Rõ ràng đây là vật bất ly thân của Hòa thượng, Tú tài và Đạo sĩ.
    Ba chén trà còn ấm.
    Như vậy họ mới có mặt ở đây.
    Khi nàng và Lữ Ngọc Hồ bước vào sòng bạc, khi lão Hòa thượng chưa ra mặt thì cả ba ở trong phòng này.
    Nhưng bây giờ thì họ đi đâu?
    Thư Hương cười lạt :
    - Ta biết các ngươi trốn đâu rồi, hãy ra ngay.
    Lời lẽ tuy có vẻ không sợ nhưng giọng nàng lại có hơi run.
    Nàng lên tiếng, chứng tỏ nàng cũng đã bớt sợ...
    Không nghe tiếng động, cũng không nghe tiếng trả lời.
    Thư Hương đứng sững một chỗ, nàng cố bình tâm cho bớt sợ, cho khỏi run.
    Bây giờ nàng thấy thêm một chuyện lạ nữa.
    Đối diện với khung cửa nàng vừa bước vào có một tấm rèm trúc, hẳn bên trong còn có khung cửa nữa, nhưng nàng không chú ý đến, bởi nàng đang quan sát gian phòng này trước đã...
    Nhưng nàng vừa quay lưng thì phía đó lại có tiếng động.
    Thư Hương quay lại thật nhanh, nàng thấy tấm rèm trúc lay động nhưng không thấy bóng người.
    Thư Hương nghiến răng, nhìn chăm chăm...
    Không có người, nhưng rèm vẫn còn lay động, chuyện đó không thể nào...
    Đứng từ một chỗ xa, người ta có thể kéo dây.
    Bên trong rèm lại có cánh cửa, cánh cửa khép hờ.
    Bây giờ có sợ cũng không làm sao được. Thư Hương cắn răng thật chặt và bước tới, nhưng lần này nàng đã có kinh nghiệm, nàng chỉ đứng ngoài xô cánh cửa.
    Bên trong lại là một gian phòng nhưng trống trơn, không có gì cả, không có cửa thông, cửa sổ cũng không.
    Đây là gian mật thất.
    Không có gì, nhưng dưới đất có một người ngồi.
    Trong phòng chỉ có độc một chiếc phản, hình như bằng đá, chiếc phản lót ngay chính giữa người ngồi dưới đất, lưng dựa vào phiến thành phản, quay lưng về phía Thư Hương.
    Ánh sáng lờ mờ, nhưng cũng đủ cho nàng thấy đó là lão Hòa thượng khi nẫy...
    Thư Hương run run hỏi :
    - Hòa thượng, Lữ Ngọc Hồ đâu?
    Nàng hỏi và có phần đã bớt sợ.
    Dầu gì, dầu sự việc ra sao, nàng cũng vẫn thấy người sống.
    Hòa thượng ngồi im.
    Lão không trả lời mà cũng không quay lại.
    Thư Hương nhích lên nói :
    - Hòa thượng bị điếc phải không?
    Hòa thượng vẫn làm thinh.
    Thư Hương cười lạt, cũng thứ giọng cười để trấn áp :
    - Hòa thượng có muốn cái đầu vỡ ra không?
    Hòa thượng vẫn bất động.
    Tính “kỳ cục” của “Đào tiểu thơ” phát dậy, nàng bước mạnh tới, dang tay cú mạnh lên đầu Hòa thượng...
    Hòa thượng ngả chúi về phía trước.
    Đã đánh một cái rồi thì y như lòng cam đảm theo cái đánh lên thêm, Thư Hương nắm cổ áo Hòa thượng kéo ngang thân hình Hòa thượng lật lại và Thư Hương hốt hoảng thụt lui...
    Một giòng máu từ đỉnh đầu Hòa thượng chảy dài xuống mặt, theo mũi chảy dài xuống miệng.
    Hòa thượng đã chết rồi.
    Thư Hương tuy sợ nhưng nàng cũng nhận ra rằng Hòa thượng không phải chết ví cái cú của nàng, vì cái cú ấy tuy mạnh nhưng không thể lủng sọ như thế ấy.
    Nhưng ai giết lão?
    Chính là Lữ Ngọc Hồ?
    Rất có thể là Lữ Ngọc Hồ giết lão, vì ngoài y ra thì chẳng còn ai ở quanh đây cả.
    Nhưng muốn biết chuyện đó thì phải tìm Lữ Ngọc Hồ và hỏi hắn.
    Nhưng nàng không có cách gì thoát được.
    Trong cái mật thất và gian phòng ngoài kia chỉ có một cánh cửa, cánh cửa đó đã bị khóa bên ngoài, nàng dùng sức xô đẩy, dùng chân đạp nhưng, như đạp vào vách sắt, cánh cửa vẫn không lay chuyển.
    Cánh cửa không phải là cửa sắt, nhưng cây cứng và dầy, bốn bên tường xây đá, nếu có một thanh đao trong tay, nàng cũng không làm sao ra được.
    Thư Hương chợt cảm thấy mình như một con thú bị bẩy, đã lọt vào trong rọ, vừa giận dữ, vừa sợ sệt mà cũng vừa tức uất.
    Cái bi thảm hơn hết là không làm sao biết được kẻ gài bẩy là ai.
    Thư Hương gần như không còn sợ nữa mà chỉ tức. Tức vì không biết ai là kẻ hảm hại mình, tức vì không biết ai đã giết Hòa thượng?
    Thư Hương bây giờ chỉ cần biết được sự bí mật đó, biết xong dầu có chết nàng cũng không chút luyến tiếc.
    Trong phòng kín quá, chẳng có một tiếng động nào từ bên ngoài, dù là tiếng gió hoặc tiếng mưa rơi.
    Thư Hương bỗng có cảm giác như đang ở trong một phần mộ, một phần mộ đã được chuẩn bị chu đáo dành để cho nàng.
    Và cũng để mai táng luôn cho Hòa thượng.
    Nhưng bất luận như thế nào, thực tế là nàng và lão Hòa thượng cũng đang chung trong phần mộ, khác một điều là nàng chưa chết.
    Tình cảnh vừa đáng sợ vừa bi đát, thế nhưng thiếu chút nữa Thư Hương đã bật cười.
    Nàng nghĩ đến mộ “song hồn”.
    Người ta xây huyệt “song hồn” là dành để cho đôi vợ chồng son, để gọi là sống đồng lịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách, còn nàng mà nhè “đồng quách” với Hòa thượng thì quả là tức cười vỡ bụng.
    Chuyện này nếu có Đào Liễu...
    Nhớ Đào Liễu là nàng bỗng nhiên nhớ... Đại Đầu Quỷ.
    Không biết bây giờ hắn ở đâu? Không biết hắn có nhớ đến nàng không? Không biết nếu hắn biết nàng bị hảm trong này và chết, hắn có đau lòng không?
    Nghĩ đến đây, Thư Hương chợt cảm thấy con người của mình có nhiều điều lạ lùng.
    Mình đang nghĩ về hắn, đang nhớ về hắn, không biết hắn đang ở đâu và hắn đang nhớ ai?
    Thế là nàng lại bắt đầu nhớ đến... nhớ đến Đào Liễu, nhưng mỗi khi nhớ đến Đào Liễu thì nàng lại nhớ đến... Đại Đầu Quỷ.
    Thật là kỳ cục.
    Cũng có thể vì gần đây có lúc mình đã chung đụng với hắn?
    Đó chỉ là một cách giải thích.
    Có nhiều cách giải thích khác, nhưng Thư Hương nhất định không dám nghĩ, càng cố tâm phủ nhận.
    Chỉ có mỗi một điều nàng phải thừa nhận là cứ một mình là nàng lại nhớ hắn.
    Thư Hương nhè nhẹ thở dài.
    Nàng cảm thấy mỗi lúc tâm tình mình có phần hơi loạn.
    Trong một lúc, nàng có thể nghĩ đến rất nhiều việc, nhiều việc kỳ quái.
    Cái gì nàng cũng nghĩ, cái gì nàng cũng không bỏ sót, chỉ có một chuyện mà nàng tạm quên, đó là chuyện làm sao thoát khỏi nơi này.
    Những người con gái có nhiều tính cách lạ lùng.
    Họ thay đổi tâm tư một cách nhanh chóng, họ có thể bi thương đó và vừa bi thương đó, họ có thể vui vẻ ngay...
    Vì thế, nếu không hiểu rõ, bất cứ ai cũng không chịu nổi sự chung sống với một thiếu nữ.
    Bây giờ chính là lúc mà tâm tình của Thư Hương bị tạp nhạp nhất.
    Bỗng không, nàng vụt nhớ đến chén nước sen băng lạnh.
    Nàng nhớ đến chén sen băng lạnh, thứ băng từ quan ngoại đưa về.
    Và nhớ đến việc này là nàng không còn chịu nổi, nàng nghe cổ họng bỗng đắng nghét.
    Cơn tức tối của nàng bỗng nổi lên, nàng có ý nghĩ rằng nàng có thể dậm chân cho tảng đá này sụp xuống, cho tòa nhà nghiêng đổ.
    Và nàng bỗng nhiên nghe tiếng động dưới nền.
    Vừa nghĩ đến chuyện dậm cho sụp nền, cho nhà đổ, cho tất cả đều tan nát thì lại nghe tiếng động, làm như ý nghĩ của nàng có ngay phản ứng...
    Những khối đá này không biết ở chỗ nào, có tiếng động, tiếng động như tiếng nghiến vào nhau.
    Thư Hương nhảy tránh vào một góc.
    * * * * *
    - Lữ Ngọc Hồ.
    Khối đá được bắt chệch qua là Thư Hương đã kêu lên.
    Lữ Ngọc Hồ sửng sốt.
    Bây giờ thì mới thấy mặt hắn kinh hoàng.
    Hắn nhìn Thư Hương rồi nhìn Hòa thượng.
    Hắn mở tròn đôi mắt :
    - Làm sao cô lại có thể... gõ đầu lão được?
    Thư Hương càng mở mắt lớn hơn hắn nữa :
    - Ai gõ? Tôi mà gõ được cũng không gõ chết lão như thế đâu.
    Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
    - Tôi xuống dưới lòng đất, hắn ở đây với cô, tôi có thấy bóng dáng hắn hồi nào đâu mà gõ được?
    Thư Hương cau mặt :
    - Anh không biết, thì ai mà biết?
    Lữ Ngọc Hồ trầm ngâm :
    - Nhưng cô... cô vẫn cùng ở chung với lão từ hồi ấy đến giờ?
    Thư Hương nhảy dựng lên :
    - Ai mà ở chung với lão? Lão nhảy xuống rồi anh cũng xuống liền...
    Lữ Ngọc Hồ nói :
    - Thế nhưng khi tôi xuống thì không thấy gì cả.
    Thư Hương hỏi :
    - Thế anh thấy cái gì ở dưới?
    Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
    - Không thấy gì hết, có cũng không thấy được.
    Thư Hương hỏi :
    - Sao vậy?
    Lữ Ngọc Hồ đáp :
    - Tối thui, ngửa bàn tay không thấy thì thấy cái gì được?
    Thư Hương hỏi :
    - Rồi anh làm sao tìm được chỗ này?
    Lữ Ngọc Hồ nói :
    - Cô lại còn hỏi mãi như thế? May làm sao vừa đến đây thì cô vừa cạy được phiến đá lên...
    Thư Hương trừng mắt :
    - Ai cạy?
    Lữ Ngọc Hồ vội hỏi :
    - Ủa, không phải cô sao? Sao tôi thấy tảng đá bật lên?
    Thư Hương cười :
    - Tôi làm sao lại có thể làm nổi chuyện ấy?
    Lữ Ngọc Hồ ngẩn ngơ :
    - Lạ quá... Thế còn ai giết gã Hòa thượng...
    Thư Hương chận nói :
    - Tôi vô đây thì hắn đã chết rồi.
    Lữ Ngọc Hồ hỏi :
    - Thế ai giết lão?
    Thư Hương cười :
    - Quỷ...
    Tiếng “quỷ” vừa nói ra là nàng nín cười, bây giờ thì nàng lại sợ.
    Thật là lạ, tâm lý con người kỳ cục, khi nãy lo đủ thứ chuyện, không sợ quỷ, bây giờ có bạn, bớt lo thì chuyện quỷ lại... sợ.
    Lữ Ngọc Hồ hình như cũng ngan ngán, hắn nói :
    - Coi chừng, sao tôi thấy chỗ này kỳ cục quá, coi chừng có quỷ thật chớ chẳng chơi đâu... Nhưng tại làm sao cô cứ ở riết đây làm gì?
    Thư Hương nhăn nhó :
    - Bộ anh tưởng tôi ham ở cái ổ quỷ...
    Nàng lại nín ngang.
    Lữ Ngọc Hồ hỏi :
    - Chớ tại làm sao kỳ vậy? Tôi cứ tưởng cô ở đây chờ tôi...
    Thư Hương lắc đầu :
    - Tại vì tôi không đi được.
    Lữ Ngọc Hồ hỏi :
    - Sao vậy?
    Thư Hương đáp :
    - Tôi vừa vào đây thì cửa đóng và khóa lại bên ngoài...
    Lữ Ngọc Hồ nhướng mắt :
    - Ai khóa?
    Thư Hương nói :
    - Quỷ...
    Nàng đưa tay bụm miệng.
    Bây giờ thì nàng sợ thật tình.
    Lữ Ngọc Hồ hỏi :
    - Sao không xô mạnh coi.
    Thư Hương lắc đầu :
    - Xô đạp gì cũng không nổi cả.
    Lữ Ngọc Hồ trầm ngâm :
    - Có thể tại cô yếu...
    Thư Hương hất mặt :
    - Anh mạnh thì thử xem.
    Nàng không bảo thì hắn cũng thử, chẳng những thử mà hắn còn phải dùng mọi cách để thoát ra.
    Hắn bước lại gần cánh cửa, hắn nhắm phía rồi kê một bàn chân.
    Hắn làm hơi chậm, có lẽ hắn vận lực, nhưng hắn vụt quay lại và hắn ngó Thư Hương...
    Nàng hét :
    - Chịu chưa?
    Lữ Ngọc Hồ đáp :
    - Chịu!
    Thư Hương nói :
    - Có anh thì chắc phải có cách, cố mà tìm...
    Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
    - Thôi, không tìm...
    Thư Hương cau mặt :
    - Sao vậy? Định ở luôn trong này với cái xác xình đó à?
    Lữ Ngọc Hồ hỏi :
    - Không phải, tôi không tìm cách vì tôi mắc bận...
    Thư Hương hỏi :
    - Bận gì?
    Lữ Ngọc Hồ cười :
    - Bận đi ra...
    Hắn đưa tay xô cánh cửa.
    Hắn xô nhẹ và cánh cửa bung ra.
    Thư Hương mở đôi mắt tròn xoe và nhảy dựng lên :
    - Sao vậy? Cửa không có khóa?
    Lữ Ngọc Hồ không trả lời, hắn cầm khóa cửa đẩy ra đẩy vô, rồi hắn nhìn nàng bằng ánh mắt nghi ngờ.
    Cửa đã mở rồi, có thể đi ra được rồi đấy nhưng Thư Hương vẫn đứng y một chỗ.
    Mặt nàng xanh xạm.
    Thái độ của nàng vô cùng tức tối, ánh mắt nàng long lên.
    Bị nhốt là một chuyện mà bị nghi ngờ lại là một chuyện khác, bây giờ nàng thấy, nói tiếng nói “bị nhốt” y như là tiếng người khác chưởi vào mặt của mình.
    Nàng đứng giận rung.
    Lữ Ngọc Hồ thở dài :
    - Cứ cho là hồi nãy cánh cửa khóa nhưng bây giờ nó đã mở rồi thì mình đi ra chứ?
    Thư Hương vùng vằng :
    - Tôi không ra.
    Lữ Ngọc Hồ cau mặt :
    - Sao kỳ vậy?
    Thư Hương nói :
    - Anh nghi oan cho tôi, anh nghĩ rằng tôi đã gạt anh.
    Lữ Ngọc Hồ chớp mắt :
    - Ai nói hồi nào? Mà có cái gì đâu mà cô phải gạt tôi?
    Thư Hương nói :
    - Ngoài miệng anh nói thế, nhưng trong bụng anh đề quyết rằng tôi đã lừa anh.
    Lữ Ngọc Hồ mỉm cười dịu giọng :
    - Tôi chưa bao giờ có một ý nghĩ nào như thế, chưa bao giờ tôi nói tiếng nào mà cô lại không tin.
    Thư Hương cũng hơi dịu lại :
    - Thế nhưng cánh cửa..
    Lữ Ngọc Hồ chặn nói :
    - Cánh cửa đó khi nẫy có người khóa lại, người đó đã làm chuyện đó thì bây giờ họ không biết mở ra sao?
    Bây giờ thì Thư Hương mới toét miệng cười...
    Nhưng rồi nàng lại cau mày :
    - Nhưng cái con người làm chuyện kỳ cục đó là ai? Tại sao lại làm như thế?
    Lữ Ngọc Hồ cười :
    - Chỉ còn cách đi ra tìm người ấy là sẽ biết ngay.
    Thư Hương gật đầu :
    - Đúng rồi, phải tìm cho ra, phải hỏi cho ra, nếu cần sẽ đập hắn vài roi vào đít trước rồi tính gì hãy tính...
    Bây giờ thì nàng không đợi giục, nàng bước ra.
    Nhưng nàng lại nhìn ba chén trà.
    Ba chén trà vẫn đặt ngay ở trên bàn, cố nhiên là trà đã nguội...
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #32
      Hồi 29 : Chùa lại trở thành sòng bạc

      Trà đã nguội cả rồi nhưng Thư Hương đang khát.
      Giá như mấy ngày trước đây, nàng nhất định sẽ bưng ba chén trà uống cạn rồi, nhưng bây giờ thì không.
      Bây giờ thì nàng đã “lớn” rồi.
      Bây giờ đối với mọi việc, nàng đã cẩn thận hơn trước.
      Nàng cần phải xem ba chén trà đó có độc hay không.
      Muốn biết trà có độc hay không, những kẻ giang hồ lão luyện đều dễ dàng ngó thấy.
      Nàng cần gọi Lữ Ngọc Hồ.
      Nhưng khi nàng quay lại thì thấy hắn đứng nhìn cánh cửa trân trân.
      Nàng hỏi :
      - Làm gì mà đứng đớ ra đó? Phát hiện cái gì mới nữa à?
      Lữ Ngọc Hồ ngẩng lên nhìn nàng rồi nhìn cánh cửa, hắn bật cười nói :
      - Tôi đang nghĩ đến một chuyện ngồ ngộ.
      Thư Hương hỏi :
      - Chuyện gì?
      Lữ Ngọc Hồ đáp :
      - Tôi nghĩ giá như cánh cửa đừng mở ra được, tôi với cô bị giam trong này suốt đời chắc là vui lắm.
      Thư Hương nguýt dài :
      - Thì ra anh cũng là thứ chẳng ra gì đâu.
      Lữ Ngọc Hồ cười :
      - Đàn ông có mấy người ra gì đâu.
      Thư Hương hỏi :
      - Tôi có nói với anh là trước kia tôi định chọn anh làm chồng?
      Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
      - Cô có nói rồi.
      Thư Hương hỏi :
      - Sau đó, tôi có nói với anh là tôi đã bỏ ý định ấy?
      Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
      - Có nói.
      Thư Hương nói :
      - Bây giờ tôi lập lại, cho dầu có bị giam chung trong này với anh suốt đời, tôi cũng không thể lấy anh.
      Lữ Ngọc Hồ hỏi :
      - Tại sao vậy?
      Thư Hương đáp :
      - Tại vì tôi đã chọn người khác.
      Lữ Ngọc Hồ hỏi :
      - Người nào vậy?
      Thư Hương trầm ngâm :
      - Chờ khi gặp được rồi, tôi sẽ nói cho anh biết.
      Lữ Ngọc Hồ hỏi :
      - Cô nói như thế cô không sợ tôi buồn sao?
      Thư Hương lắc đầu :
      - Không.
      Lữ Ngọc Hồ hỏi :
      - Tại sao vậy?
      Thư Hương đáp :
      - Tại vì tôi biết rõ anh, tôi biết nếu anh cần chọn vợ thì người anh chọn nhất định không phải... theo loại của tôi.
      Lữ Ngọc Hồ cười lớn :
      - Đã thế chắc chúng mình chỉ nên làm bạn tốt với nhau thôi.
      Thư Hương gật đầu :
      - Chắc chắn như thế, vì tôi cũng đã có nói rồi, chúng ta sẽ là bằng hữu tốt.
      Nói xong câu chuyện, nàng chợt nghe thư thái cả người. Nàng đã nói được những gì nàng muốn nói, những gì nàng cần nói, nếu không nói được thì nó cứ canh cánh trong lòng nàng, thật là khó chịu cho nàng vô cùng.
      Hồi sáng lúc Lữ Ngọc Hồ thức dậy, nàng đã có nói phớt qua ý nghĩ của nàng, nhưng đó chẳng qua là ý nghĩ nhất thời, nhưng bây giờ nàng đã quyết tâm lắm rồi.
      Lữ Ngọc Hồ cười :
      - Đã thế đừng bao giờ giam mình trong này suốt đời, mình cần phải đi ra.
      Thư Hương gật đầu :
      - Đúng rồi, phải ra tìm vị bằng hữu giam tôi mới được.
      Nàng xô cửa bước hẳn ra ngoài và nàng khựng lại.
      Thiếu chút nữa là nàng đã kêu lên vì những điều mà nàng vừa thấy vừa nghe ở bên ngoài.
      Nhưng, đã nói bây giờ thì nàng đã lớn rồi, mọi việc đều cẩn thận, nàng không kêu, nàng quay lại nhìn Lữ Ngọc Hồ.
      Sự kinh dị đã làm cho nàng gần như không thể tin là thật...
      * * * * *
      Gian nhà thật rộng và dài, Tuy không ngăn, nhưng cách xắp xếp bàn ghế thì có lẽ lúc đến đây lão Kim Râu muốn cho tiện nên dồn hết bàn ghế ra ngoài, bên trong để trống, cho nên từ chỗ cánh cửa vô giữa phòng mà Thư Hương bị nhốt ra tới bên ngoài, còn một khoảng không, nếu nói nhỏ là không nghe được gì cả.
      Bây giờ thì Thư Hương nghe.
      Không những nghe mà nàng còn thấy.
      Những chuyện nghe thấy bây giờ, nếu có ai nói lại với nàng về những chuyện như thế, nàng sẽ cười lăn chiêng, vì nàng cho rằng đó là chuyện thần thoại mà người ta ngốc nghếch mới đâm tin chuyện đó.
      Vì chính bây giờ, nàng nghe, nàng thấy bằng tai, bằng mắt của chính nàng mà nàng vẫn chưa tin.
      Nàng đứng sững một chỗ như trời trồng.
      * * * * *
      Cửa vừa mở ra, Thư Hương vừa bước ra, trước hết nàng nghe tiếng cười, tiếng nói của những người thắng, tiếng càu nhàu, tiếng cự nự của những kẻ thua.
      Kế tiếp là nàng nghe tiếng xốc bài, tiếng hột xúc xắc đổ vào chén, tiếng xướng số điểm trên mặt hột, và tiếp theo là nàng thấy...
      Đèn đuốc sáng choang, người đông vầy vầy, sòng bạc đông như cũ.
      Đúng là nằm mộng.
      Mới đây, mới vừa rồi, cách đó không lâu lắm, toàn nhà không có một cái bàn, không còn một bộ bài, không thấy một hột xúc xắc mà toàn là Hòa thượng ngồi chấp tay dưới đất.
      Kế đó là họ hò nhau dông mất, để lại tòa nhà vắng hoe...
      Thế mà bây giờ, sau một chút bị giam trở ra, các hạng người đều có đủ, sòng bạc hiện nguyên hình.
      Không biết người ta từ đâu đến, ai nấy tới hồi nào bọn người này gầy sòng trông thật là xôm tụ.
      Chỉ có Hòa thượng là không có.
      Không có một cái đầu trọc, chớ đừng nói mấy mươi.
      Thư Hương đứng khựng.
      Nàng có cảm tưởng nàng bị xông thuốc mê và được cứu tỉnh lại nhiều lúc, cứ mỗi khi nàng tỉnh lại thì người ta bày ra một trò khác, người ta biến sòng bạc của Kim Râu thành sân khấu, rồi người ta đã sấp lớp lang cho một vở kịch biến đổi từng màn.
      Nhưng vì sân khấu có tánh cách lộ thiên, thay vì kéo màn thay cảnh thì họ lại xông thuốc mê... khán giả.
      Ngoài cách giải thích đó ra, nàng tin chắc không ai có thể giải thích nổi chuyện “sòng bạc biến thành chùa, rồi chùa bỗng biến đi, cho sòng bạc hiện nguyên hình trở lại”.
      Tất cả những con bạc bỗng... đi tu, cạo đầu trọc lóc vì nhất thời “khám phá hồng trần”, rồi vì nghiệp duyên chưa dứt, cho nên phật tổ cho tạm... xả hơi, trở về mọc tóc để tiếp tục trả cho vơi nghiệp chướng... đánh bài!
      Vì thế cho nên, chỉ một thoáng giây, từ con bạc, làm nhà sư, và từ Hòa thượng bị thâu y bát hiện nguyên hình... con bạc.
      Tất cả đều do phép Phật.
      Đó là cách giải thích thứ hai.
      Ngoài hai lối giải thích đó ra, ai nấy cũng đều... há hốc mồm kinh ngạc.
      * * * * *
      Thư Hương sực nhớ còn có Lữ Ngọc Hồ ở sau lưng, nàng quay đầu lại thì hắn đang há hốc mồm.
      Phong thái ngang tàng, coi trời đất chỉ bằng nửa con mắt của vị “đại nhân vật” này đã đi chơi chỗ khác, hiện tại hắn đã hiện nguyên hình... chàng ngốc.
      Thư Hương nghe cổ mình khô đắng, nàng hỏi hắn nhưng giọng chưa hết kinh hoàng :
      - Anh... anh có thấy hay chưa?
      Lữ Ngọc Hồ trả lời như cái máy :
      - Tôi... thấy....
      Thư Hương hỏi?
      - Thấy cái gì?
      Lữ Ngọc Hồ nói như cái bong bóng xì hơi, hắn nói :
      - Sòng bài.
      Thư Hương gặn lại :
      - Anh thấy thật như thế phải không?
      Lữ Ngọc Hồ như được “nhắc tuồng”, hắn đưa tay dụi mắt :
      - Rõ ràng nếu ai thấy không thật như thế thì người đó lọt tròng...
      Thư Hương định nói thêm, nhưng ngay khi ấy, có một người mặc áo gấm, tay cầm ống điếu, râu ria xồm xoàng, chầm chậm bước về phía hai người.
      Chỉ xem dáng đi đủ biết con người đó võ công không phải tầm thường.
      Ông ta bước lại cười cười, nhưng Thư Hương không dằn được, nàng chụp hỏi :
      - Sòng bài này khai trương từ bao giờ thế?
      Hình như cảm thấy cô gái này hay đùa vui, nên hắn nhìn nàng từ đầu xuống tới chân bằng tia nhìn thật lạ, hắn nói :
      - Khai trương từ lúc mà cô chắc còn... nằm trong bụng mẹ.
      Thư Hương trố mắt kinh nghi :
      - Sòng bài này khai trương là có ông ở đây rồi?
      Người áo gấm đáp :
      - Người khách thứ nhất tới đây, cũng chính tôi mời.
      Thư Hương hỏi :
      - Ông luôn túc trực ở đây?
      Người áo gấm nói :
      - Trừ giờ ngủ thì không có ở trong sòng bài.
      Thư Hương hỏi :
      - Còn hồi chiều hôm nay?
      Người áo gấm đáp :
      - Thường thường thì tôi phải ngủ ít nhất một giờ sau cơm trưa, nhưng hôm nay có mấy người bạn thân ở xa đến, tôi bỏ ngủ để ở đây hầu tiếp cho vui. Lâu lâu bạn xa đến, mình phải biết điều.
      Hai tay của Thư Hương nắm chặc lại, nàng ngó ra sau hỏi Lữ Ngọc Hồ :
      - Anh nghe cả rồi chớ?
      Lữ Ngọc Hồ tái mặt, hắn bước nhanh tới và gằn giọng :
      - Tốt hơn hết là ông nên nói thật.
      Người áo gấm bây giờ mới giật mình, ông ta coi đây không phải là chuyện đùa nữa, ông ta nghiêm giọng :
      - Tại làm sao tôi lại phải nói... không thật?
      Thư Hương hỏi :
      - Ông là ai vậy?
      Người áo gấm đáp :
      - Tôi họ Kim.
      Thư Hương cau mặt :
      - Họ Kim? Vậy Kim Râu là gì của ông?
      Người áo gấm rờ rờ hàm râu của mình và cười :
      - Tôi là Kim Râu đây.
      Thư Hương đâm cáu, nàng nói lớn :
      - Ông không phải là Kim Râu, nhất định không phải.
      Người áo gấm kinh hoảng ra mặt :
      - Tôi không phải là Kim Râu thì là ai?
      Thư Hương nói :
      - Tôi không cần biết ông là ai, nhưng tôi nói ông không phải là Kim Râu.
      Đến bây giờ thì hình như đã có nhiều người nghe, họ tràn tới bu quanh.
      Thư Hương không nhìn ai cả, nàng chỉ nhìn bộ mặt của người áo gấm, bộ mặt đang cười cười trông thật là... dễ ghét.
      Người áo gấm vừa cười vừa hỏi :
      - Tại làm sao cô nương đoán quyết ta không phải là Kim Râu?
      Thư Hương nói lớn :
      - Tại vì tôi biết Kim Râu, hắn không có râu, một sợi cũng không có.
      Người áo gấm vụt cười thật lớn, hắn chỉ Thư Hương và cười nói lớn :
      - Trời đất, vị cô nương này bảo Kim Râu không có râu...
      Nhiều tiếng cười rập lên, làm như họ vừa nghe chuyện... đùa.
      Họ vừa xúm nhau cười vừa nói :
      - Kim Râu mà sao lại không... râu?
      - Không râu thì tại sao lại gọi Kim... Râu?
      Họ lại cười, giọng cười nghe như chế nhạo nàng...
      Thư Hương giận run, giận đến muốn điên luôn.
      Nàng nói như hét vào tai thiên hạ :
      - Kim Râu chẳng những không râu, mà lại còn làm Hòa thượng rồi.
      Nàng vừa nói dứt thì cả gian nhà thiếu điều ngã xuống vì tiếng cười nổi lên một cái rần của cả bọn người trong đó.
      Cả sòng bạc quá đông, họ rập nhau cười và giành nhau nói :
      - Kim Râu mà đi làm Hòa thượng thì toàn thiên hạ đều là... phật.
      - Vị cô nương này nếu không phải là nhìn lầm người thì nhất định là tại vì cảm nặng nên đâm ra... sảng.
      Thư Hương nhảy dựng lên :
      - Tôi không có mê, tôi không có sảng, tôi không nhìn lầm, chính mắt tôi nhìn thấy.
      Người áo gấm ráng nín cười :
      - Cô thấy cái gì?
      Thư Hương đáp :
      - Tôi thấy Kim Râu làm Hòa thượng.
      Có người hớt hỏi :
      - Hắn đi làm Hòa thượng khơi khơi vậy à?
      Thư Hương nói :
      - Không, tại có người ép buộc hắn.
      Người áo gấm hỏi :
      - Ai ép hắn?
      Thư Hương đáp :
      - Một... một Hòa thượng.
      Tiếng cười lại rập lên, lần này thiên hạ đúng là cười đến nghiêng đến ngửa, cười ôm bụng, cười bò dưới đất...
      Thư Hương chợt nghe đầu nhức nhối chóng mặt...
      Trong ngày nay, nàng gặp những chuyện thật là kỳ dị, giá như có ai thuật cho nàng nghe như thế, chắc chắn nàng cũng phải ôm bụng cười như họ bây giờ...
      Nhưng bây giờ thì nàng không thể nào cười được, nàng muốn khóc.
      Nhưng ngay lúc đó chợt có tiếng hỏi :
      - Ai nói ai là Hòa thượng?
      Giọng nói thật trầm, không lớn nhưng bất cứ ai nghe cũng y như có một tiếng rống kề mang tai, tất cả đều nghe rền rền kéo dài, câu hỏi đã dứt từ lâu, nhưng nhiều người phải ôm đầu nhăn mặt...
      Chứng tỏ con người phát ra tiếng nói đó nội lực thâm hậu không thể tưởng.
      Và lập tức, đám đông dạt ra ngay, bao nhiêu cặp mắt quay về hướng phát ra tiếng nói.
      Không biết từ đâu đến, không biết đến tự bao giờ, từ trong góc của sòng bạc, một người chầm chậm bước ra và bây giờ thì mọi người cũng vừa nhận ra, người đó là Hòa thượng.
      * * * * *
      Đó là một Hòa thượng ốm tong teo.
      Đã ốm mà lại thấp người, thêm vào đó bộ mặt nhăn nhúm dài thòng trông y như con khỉ.
      Con người như thế, dáng sắc y như con bịnh lâu ngày mới mạnh nhưng bất cứ ai, chỉ cần biết qua võ công thì cũng đều không dám khinh thị, dầu chỉ mới nhìn qua lão một lần đầu.
      Không phải vì bên cạnh ông ta có hai nhà sư trung niên phong thái uy nghiêm, gần như hào tráng, cũng không phải vì họ ăn mặc quá sang trọng, càng không phải vì sâu chuỗi óng ánh vàng lấp lánh trên tay...
      Không ai hiểu được vì sao, không ai phân tách được rõ ràng, chỉ biết rằng nhìn qua ông ta thì bất cứ ai cũng đều nghe rúng động, không phải vì sợ sệt mà vì tôn kính.
      Thư Hương cũng thế.
      Bao nhiêu căm tức vì thái độ của Hòa thượng hiếp bức người trong sòng bạc ban trưa, bao nhiêu lời lẽ không bằng lòng nhưng hữu lý của Lữ Ngọc Hồ về những kẻ tu hành bất chánh đưa đến ý nghĩ xem thường, đều bay đi đâu mất, nhường chỗ cho sự e dè, kính trọng, nễ nang...
      Mặc dầu chưa bao giờ gặp Hòa thượng, trừ vị Hòa thượng đã gặp, nhưng khi thấy mặt nhà sư này, Thư Hương biết ngay đó là một vị cao tăng.
      Cao tăng vốn cũng như danh sĩ, bất luận ở một nơi nào, cũng đều được người ta đặc biệt chú ý.
      Chỉ cần bao nhiêu đó, người ta đủ thấy bản thân của cao tăng, danh sĩ đã có một chỗ đứng khá cao trong ý niệm con người, đó là một giá trị đặc biệt do những cao tăng danh sĩ từ ngàn xưa để lại.
      Cố nhiên, người ta không phải kính trọng một cá nhân, người ta kính trọng bởi truyền thống tinh thần của nó.
      Đứng trước một kẻ hung ác, sức mạnh con người không địch nổi, người ta có thể sợ sệt nhất thời, nhưng không ai có một ý niệm tôn kính như đứng trước một cao tăng, một danh sĩ trói gà không chặc.
      Nhưng cái lạ ở đây là vừa rồi, vì sự chú ý đặc biệt, Thư Hương và Lữ Ngọc Hồ không thấy trong sòng bạc có một nhà sư nào cả, như vậy không biết họ xuất hiện bằng cách nào, chỉ nghe tiếng là đã thấy có họ rồi.
      Không ai biết ba nhà sư này từ ngả nào bước vào đây.
      Thư Hương bước lên chớp chớp mắt :
      - Có phải vừa rồi đại sư đã hỏi tôi?
      Lão Hòa thượng gật đầu :
      - Nữ thí chủ vừa rồi có phải đã nói đến một Hòa thượng?
      Thư Hương đáp :
      - Phải.
      Lão Hòa thượng hỏi :
      - Vị Hòa thượng đó dáng dấp như thế nào?
      Thư Hương đáp :
      - Vị Hòa thượng đó có gương mặt tròn, trắng mập, hình như có lúm đồng tiền bên má.
      Lão Hòa thượng hỏi :
      - Độ bao nhiêu tuổi?
      Thư Hương đáp :
      - Dáng sắc thì chưa lớn lắm, nhưng giọng nói như già.
      Lão Hòa thượng hỏi :
      - Phải có một vị Đạo sĩ cùng đi với ông ta?
      Thư Hương đáp :
      - Chẳng những có Đạo sĩ mà lại còn có Tú tài.
      Lão Hòa thượng hỏi :
      - Họ đâu?
      Thư Hương đáp :
      - Đạo sĩ và Tú tài thì không thấy, chỉ thấy vị Hòa thượng...
      Nàng thở ra và nói tiếp :
      - Vị Hòa thượng đó đã mất rồi.
      Không thấy phản ứng trên gương mặt của lão Hòa thượng, người ta chỉ thấy bộ trường kỷ mà nàng đang đứng vịn, bỗng tự nhiên gãy tan, bốn cái chân gãy vụn, bộ ghế làm bằng thứ gỗ dầy và cứng bị nứt tét ra từng mảnh, y như một cái bàn trong căn nhà sập, bị sức ép của mái ngói làm cho gẫy bể tan tành.
      Lão Hòa thượng vẫn đứng yên, bàn tay đặt trên trường kỷ cũ, tay kia ông ta buông thẳng xuống, mặt ông ta không đổi sắc.
      Tất cả những người có mặt đều lạnh toát mồ hôi.
      Thật lâu, lão Hòa thượng hỏi từng tiếng một :
      - Vị Hòa thượng đó chết tại đâu?
      Thư Hương chỉ ngược lại gian phòng mà nàng và Lữ Ngọc Hồ vừa mới bước ra.
      Tay nàng vừa đưa ra thì hai nhà sư trung niên đứng sau lưng lão Hòa thượng đã tung mình vào tới cửa phòng.
      Những người đứng gần, cảm nghe như có một trận gió mạnh thổi ngang, vạt áo của họ phất lên, có người đội nón bị bay luôn theo hướng hai nhà sư vừa phóng tới.
      Thư Hương bất giác đưa mắt liếc nhanh về phía Lữ Ngọc Hồ.
      Lữ Ngọc Hồ đứng trơ ra.
      Gương mặt hắn bây giờ làm như có ai vừa treo thêm khối đá, vuông khăn choàng nơi cổ hắn đã đẩm mồ hôi.
      Chỉ trong nháy mắt hai nhà sư trung niên đã trở ra, trên tay lại có thêm thi thể của Hòa thượng mập.
      Vẻ mặt của hai nhà sư trung niên bây giờ thật là dễ sợ, đôi mắt của họ hình như có nhiều tia lửa bắn ra.
      Lão Hòa thượng chỉ liếc nhẹ vào thi thể Hòa thượng mập rồi niệm phật.
      Cho đến lúc ông ta hé mắt lên thì nàng chợt thấy trước mặt tối xầm, lão Hòa thượng đã đứng ngay sát trước mặt nàng và ông ta hỏi từng tiếng một :
      - Nữ thí chủ quí tánh?
      Thư Hương đằng hắng hai ba tiếng nhỏ :
      - Tôi họ Đào, tiên Thư Hương.
      Lão Hòa thượng nhìn nàng vài lượt rồi đưa tia mắt qua Lữ Ngọc Hồ :
      - Còn vị thí chủ đây?
      Lữ Ngọc Hồ đáp :
      - Tại hạ là Lữ Ngọc Hồ.
      Lão Hòa thượng gật gật đầu, những đường gân trên mặt ông ta nổi lên như những con trùng hổ...
      Ông ta lại nói từng tiếng trầm trầm :
      - Tốt, hảo võ công, hảo thân thủ, quả danh bất hư truyền.
      Thư Hương kêu lên :
      - Không, không phải, vị Hòa thượng này không phải chúng tôi giết, ông đừng có hiểu lầm.
      Lão Hòa thượng gằn giọng :
      - Không phải nam thí chủ thì nữ thí chủ phải không?
      Thư Hương la lên :
      - Làm sao lại là tôi? Tôi làm sao phải giết ông ta? Khi tôi gặp ông ta thì ông ta đã chết rồi.
      Lão Hòa thượng hỏi :
      - Gặp ở đâu?
      Thư Hương đáp :
      - Trong gian phòng đó.
      Lão Hòa thượng hỏi :
      - Lúc đó nam thí chủ cũng ở trong đó với nữ thí chủ phải không?
      Thư Hương đáp :
      - Không, hắn mới đến sau.
      Người áo gấm tự xưng là Kim Râu lên tiếng :
      - Đây là tư sản của tôi, tôi biết không có ngỏ nào khác nữa, nếu Lữ đại hiệp vào là phải đi vào đây thì chúng tôi phải thấy chớ?
      Thư Hương nói :
      - Hắn không có đi ngỏ này.
      Lão Hòa thượng nói :
      - Vị thí chủ mới nói rất rõ ràng, nhà này không có ngỏ nào khác nữa.
      Thư Hương nói :
      - Có, hắn từ dưới đất đi lên.
      Nói xong câu đó, nàng cảm thấy khó cho người ta tin được nên nàng vội nói thêm :
      - Hồi trưa này, khi chúng tôi đến đây thì vị Hòa thượng đó chưa chết, nhưng khi đang nói chuyện với chúng tôi thì bỗng dưng tụt rơi xuống dưới nền...
      Vừa nói, nàng vừa đưa tay chỉ dưới đất và nàng bỗng thấy mọi người trố mắt nhìn nàng trân trối...
      Họ nhìn nàng với một dáng cách làm cho nàng có cảm tưởng như họ đang nhìn... quát vật.
      Hình như họ muốn cười, nhưng vì không khí đang trầm trọng nên họ không dám cười thành tiếng.
      Lão Hòa thượng hỏi :
      - Rồi sau đó thì sao?
      Thư Hương đáp :
      - Sau đó, sau đó thì Lữ Ngọc Hồ cũng rơi xuống theo. Lúc đó trong nhà này không có một bóng người nào cả, tất cả những Hòa thượng bị ép cạo đầu đều đi hết, và khi tôi vào phòng giam kia thì bên ngoài khóa trái...
      Bây giờ thì mọi người càng ngó Thư Hương nhiều hơn nữa, hình như họ có nói thầm với nhau rằng rất có thể cô gái này mắc chứng cuồng tâm...
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #33
        Hồi 30 : Nhà sư già của Thiếu Lâm

        Chỉ có lão Hòa thượng là vẫn nghiêm trang đến lạnh lùng, mắt của ông ta không một người nào dám nhìn ngay.
        Ông ta ngó Thư Hương chầm chập và hỏi :
        - Cô nương đến đây hồi trưa này?
        Thư Hương đáp :
        - Lúc đó mới vừa quá ngọ một chút thôi.
        Lão Hòa thượng hỏi :
        - Lúc đó trong nhà này có người không?
        Thư Hương đáp :
        - Có.
        Lão Hòa thượng lại hỏi :
        - Có phải những người này không?
        Thư Hương lắc đầu :
        - Không phải, tất cả đều bị cạo đầu làm Hòa thượng, Kim Râu cũng thế.
        Bây giờ thì người áo gấm không còn dằn nổi nữa, ông ta bật cười :
        - Tại hạ có là Hòa thượng hay không thì chư vị ở đây đã chứng minh.
        Lão Hòa thượng nói :
        - Nhưng không một ai dám chứng minh chuyện của một cô gái nhỏ tuổi nói ra.
        Nếu cô nương nói thế thì những vị Hòa thượng đó bây giờ ở đâu?
        Thư Hương đáp :
        - Đã đi hết rồi.
        lão Hòa thượng hỏi :
        - Đi đâu?
        Thư Hương đáp :
        - Không biết.
        Lão Hòa thượng hỏi :
        - Họ đi rồi, nơi đây còn có những ai?
        Thư Hương đáp :
        - Không ai cả, không có một ai ở trong nhà này.
        Nhiều người không dằn được, nhưng cũng không dám cười lớn, họ nhủi đầu vào vai nhau cười sục sục...
        Lão Hòa thượng ngời ngời ánh mắt, ông ta nhìn quanh :
        - Các vị từ trưa đến giờ đều ở đây cả chứ?
        Một người lên tiếng :
        - Ở đây, tất cả đều có mặt ở đây.
        Lão Hòa thượng hỏi :
        - Các vị đến đây từ bao giờ?
        Nhiều người đáp :
        - Từ hồi sáng sớm.
        - Từ hồi chưa đến ngọ.
        - Đến từ tối hôm qua.
        Như vậy là họ đã đến đây lâu rồi, đến trước giờ mà Thư Hương và Lữ Ngọc Hồ đến đây và bằng vào cách nói đó, họ không hề đi đâu cả, họ vẫn ở sòng bạc đánh bài.
        Lão Hòa thượng hỏi :
        - Có vị nào đi khỏi nơi đây không?
        Nhiều người tranh nhau đáp :
        - Không, không có ai đi cả.
        - Cũng có, nhưng tiểu giải rồi quay vào ngay.
        Họ nói không ngoa, những con bạc mà đã nhập vào sáp phạt rồi, có đem đao kề nơi cổ họ, họ cũng không coi vào đâu.
        Thư Hương giận đến xanh mặt, nàng nói lớn :
        - Nói láo, rõ ràng từ trưa đến giờ, ngôi nhà này không có chuyện đánh bạc như vầy, cũng không có một ai, những người này không bao giờ có mặt ở đây.
        Lão Hòa thượng lạnh lùng :
        - Bảy tám mươi người ở đây nói láo, chỉ có một mình cô nương không nói láo?
        Thư Hương nổi nóng :
        - Tại làm sao tôi lại phải nói láo?
        Lão Hòa thượng hỏi :
        - Cô nương có biết vị Hòa thượng chết đó là ai không?
        Thư Hương trả lời :
        - Không biết.
        Lão Hòa thượng gằn giọng :
        - Ông ta là sư điệt của bần tăng, pháp hiệu là Vô Danh Đại Sư.
        Người áo gấm kinh hãi :
        - Có phải vị “Không Môn Đệ Nhất Hiệp Tăng” mà người ta thường gọi là “Đa Sự hòa thượng” của Thiếu Lâm không?
        Lão Hòa thượng gật gật đầu :
        - Đã là “Tăng” thì sao lại còn xưng là “Hiệp”, đó là chuyện đáng phiền...
        Người mặc áo gấm vẫn trong bộ mặt kinh hoàng :
        - Thế còn đại Hòa thượng đây...
        Lão Hòa thượng đáp :
        - Bần tăng là Vô Sắc, từ Thiếu Lâm đến.
        Nghe đến danh hiệu của nhà sư này, không khí trong sòng bạc bỗng thay đổi một cách quá nhanh.
        Bây giờ chẳng những không còn có tiếng cười, dầu đó là tiếng cười nho nhỏ, cũng không còn có nghe ai nói và cơ hồ cũng không ai dám thở mạnh nữa, làm như tất cả đều nín hơi lại.
        Bất cứ có phải là người trong võ lâm hay không, đối với vị hộ pháp của Thiếu Lâm, tất cả đều biết rõ.
        Thư Hương vốn giận lắm, vừa giận vừa tức uất đến run cả người nhưng bây giờ thì nàng cũng bình tĩnh rồi.
        Bằng chỉ một thoáng chốc, nàng cảm nghe như một chuyện... một chuyện mà hậu quả không phải chỉ giới hạn ở trong bao nhiêu người ở đây, chuyện quá lớn lao đến nỗi bất cứ ai cũng phải nổi óc rùng mình...
        Là sòng bạc cũng được, là chùa chiền gì cũng được, có tên Kim Râu hay không có tên Kim Râu trên đời này cũng không sao, nhưng chuyện giết chết cao đồ Thiếu Lâm, người mà giang hồ tôn kính là một “Hiệp Tăng” thì quả là chuyện kinh thiên động địa.
        Và đến bây giờ thì Thư Hương mới thấy rằng tất cả những chuyện xem như thần thoại này đều do bởi một âm mưu, một âm mưu được bố trí kỹ càng, một âm mưu đáng sợ.
        Một âm mưu không chỉ dễ sợ không thôi, mà âm mưu đó còn làm cho người mất mạng một cách rất dễ dàng.
        Lữ Ngọc Hồ và nàng đều được lừa vào bẫy rập, một bẫy rập mà chắc chắn rằng nàng, và cả Lữ Ngọc Hồ nữa, chẳng tài nào thoát nổi.
        Bây giờ thì nàng mới thấy rõ, mới ý thức được một khi người ta muốn vu oan, thì quả là chuyện không phải dễ dàng gở nổi, không thể nói cho người tin được rằng mình không có nhúng tay vào vụ án.
        Mỗi con mắt đều nhắm vào người nàng, nhưng cái nhìn bây giờ của họ rất khác xa khi nảy.
        Khi nảy, họ còn cười, họ thấy nàng có lẽ thuộc loại khật khờ khật khường, nói bậy nói bạ đến tức cười.
        Nhưng bây giờ thì họ nhìn nàng bằng cặp mắt khác hơn, họ nhìn nàng y như...
        thấy quỷ.
        Nhiều tiếng xầm xì :
        - Tại làm sao lại phải nói láo như thế?
        - Tại làm sao lại đặt ra một chuyện huyền hoặc như thế?
        - Nói như thế làm sao người ta tin được?
        - Tự nhiên là phải kiếm cách nói quanh chứ, ai lại dám nhận là mình đã giết một cao tăng?
        Thư Hương nghiến răng :
        - Ta với các ngươi không thù không oán, tại làm sao các người lại tìm cách hại ta như thế chứ?
        Người mặc áo gấm nhún nhún vai, hắn nhìn nàng bằng đôi mắt ác cảm và hắn lùi dần.
        Tất cả những người khác cũng dang ra xa, họ coi nàng như có mang theo một thứ bịnh truyền nhiểm ghế gớm lắm...
        Thư Hương trừng trừng mắt và nàng vụt chạy theo níu áo một người, giọng nàng khẩn khoản :
        - Tôi biết ông là một người tốt, tại sao ông không nói dùm một tiếng, tại sao ông không thừa nhận rằng từ trưa đến giờ ông không có mặt nơi đây, nơi đây không có một người nào?
        Da mặt người đó vùng trắng bết, hắn nói :
        - Ta không có ở đây? Tôi không có ở đây mà tôi đã thua trên năm trăm lượng bạc được à?
        Thư Hương giận run, nàng vung tay tát mạnh vào mặt hắn.
        Người ấy xoa mặt, đã không tức và giận dữ mà cũng không thèm để ý...
        Lão Hòa thượng hình như đã cố gắng hết sức, ông ta nhắm mắt lại lần chuỗi hột như cầu độ cho Vô Danh đại sư mà như cũng đang cầu độ cho hung thủ.
        Tự nhiên là ông ta đâu có gì phải gấp.
        Thư Hương và Lữ Ngọc Hồ y như hai hột cát trong tay.
        Như không chịu nổi, Thư Hương vươn mình lên la lớn :
        - Tôi đối với ông ta không ta oán không thù, cũng chưa từng biết mặt thì lý do gì tôi lại giết ông ta?
        Vô Sắc đại sư trầm ngâm thật lâu như không muốn nói, nhưng cuối cùng vẫn nói :
        - Cứ nghe nói thì Vô Danh đã nhập Sơn Lưu.
        “Sơn Lưu”? Sao lại gọi là “Sơn Lưu”?
        Thư Hương hỏi :
        - Vì ông ta nhập Sơn Lưu nên tôi giết ông ta à?
        Vô Sắc đại sư nói :
        - Muốn giết ông ta không phải chỉ có các ngươi, khi đã nhập Sơn Lưu, chẳng khác nào vào địa ngục.
        Thư Hương nhảy dựng lên la lớn :
        - Đúng là lời quỷ quái, cả “Sơn Lưu” tôi còn không biết là cái giống gì thì làm gì lại có chuyện vì thế mà giết ông ta chớ?
        Vô Sắc đại sư trầm giọng :
        - Trước mặt bần tăng không ai được vô lễ như thế.
        Thư Hương vẫn lớn tiếng :
        - Ông vô lý hay tôi vô lý? Giả như tôi có muốn giết ông ta, tôi làm sao có được bản lãnh như thế chứ?
        Cứ đứng làm thinh không hề hé môi, bây giờ Lữ Ngọc Hồ mới lên tiếng :
        - Vô ích.
        Thư Hương hỏi :
        - Sao mà vô ích?
        Lữ Ngọc Hồ nói :
        - Bây giờ bất luận nói gì cũng đều vô ích.
        Thư Hương trố mắt :
        - Nhưng... nhưng tôi...
        Lữ Ngọc Hồ chận nói :
        - Cô tuy không có bản lãnh giết nổi ông ta nhưng tôi thì có thể...
        Thư Hương gắt :
        - Nhưng anh đâu giết lão ta.
        Lữ Ngọc Hồ hỏi :
        - Ngoài cô ra, có ai chứng minh rằng tôi không giết ông ta?
        Thư Hương khựng lại.
        Và Lữ Ngọc Hồ vụt bật cười :
        - Trong mình của Lữ Ngọc Hồ này đã có hàng trăm vết thương rồi, sợ gì thêm một vài vết thương nữa?
        Vô Sắc đại sư trầm giọng :
        - Bần tăng cũng đã từng nghe danh Lữ thí chủ là bậc hào kiệt.
        Lữ Ngọc Hồ cười lớn :
        - Đúng, hảo hán làm, hảo hán chịu, nếu ông cứ quả quyết rằng tôi đã giết Vô Danh đại sư thì tôi nhận là có giết đó.
        Vô Sắc đại sư gật đầu :
        - Tốt, đã thế, vậy xin mời thí chủ cùng với bần tăng đến Thiếu Lâm tự bây giờ.
        Lữ Ngọc Hồ nói :
        - Đi thì đi, đừng nói Thiếu Lâm tự mà cho dầu đi vào núi kiếm rừng đao, họ Lữ này cũng không biết chuyện từ chối.
        Thư Hương vụt kéo tay áo Lữ Ngọc Hồ :
        - Anh... làm sao lại đi theo họ?
        Lữ Ngọc Hồ cười :
        - Tùy họ muốn gì cũng được.
        Thư Hương trừng mắt :
        - Nhưng rồi họ sẽ giết anh.
        Lữ Ngọc Hồ nói :
        - Cái mạng của tôi thật ra thì cũng chỉ là kiếm lại được trong nhiều cái chết mà thôi.
        Thư Hương nói :
        - Cho dầu như thế, kiếm lại được cũng bằng xương bằng máu, đâu có thể giao cho họ một cách bất minh như thế chớ.
        Người trung niên tăng nhân có tướng mạo uy nghiêm vụt nói :
        - Cô nương đừng quên rằng sát nhân là thường mạng, không phải lẽ trời mà còn là vương pháp.
        Thư Hương trừng mắt :
        - Cũng đừng quên rằng ông là kẻ xuất gia, tại sao mở miệng ra là nói toàn chuyện giết người như thế? “Kẻ trong không môn không phải là người tùy tiện sát nhân”, chẳng lẽ sư phụ lại không dạy ông điều đó hay sao?
        Người tăng nhân trung niên quắt mắt :
        - Cô nương hãy nhẹ lời.
        Thư Hương nói :
        - Bình sanh tôi không dám nặng lời với ai hết nhưng các ông phải biết kẻ xấu người tốt chớ đâu có hồ đồ như vậy.
        Người tăng nhân trung niên trầm giọng :
        - Kẻ xuất gia ăn nói không lanh lợi, nhưng...
        Lão Hòa thượng quay lại gật gật đầu :
        - Hay lắm, bao nhiêu năm tu hành, tại sao để vướng lời ăn tiếng nói như thế?
        Người trung niên tăng nhân lật đật chấp tay :
        - Đệ tử không dám!
        Cho đến bây giờ người ta thấy hai chuyện đáng nói. Thứ nhất Thiếu Lâm tự giới luật uy nghiêm, nhưng nhất định không bằng lòng cho bất cứ ai khinh thị. Thứ hai, Lữ Ngọc Hồ quả là kẻ cứng đầu.
        Thế nhưng cuộc diện này sẽ đi đến nơi đâu, điều đó không có ai dám nghĩ.
        Vô Sắc đại sư trầm giọng :
        - Chính vì thế bần tăng không muốn võng khai sát giới, cho nên mới thỉnh Lữ thí chủ đến Thiếu Lâm.
        Thư Hương hỏi :
        - Đến Thiếu Lâm để làm gì?
        Vô Sắc đại sư đáp :
        - Dùng môn qui mà xử trị.
        Thư Hương nói :
        - Hắn đâu phải là người của Thiếu Lâm, không phải người của Thiếu Lâm thì tại sao lại phải dùng môn qui xử trị?
        Vô Sắc đại sư đáp :
        - Lữ thí chủ đã giết người của bản môn, tự nhiên phải theo pháp trị của bản môn.
        Thư Hương hét lớn :
        - Ai thấy hắn giết Hòa thượng Thiếu Lâm?
        Vô Sắc đại sư đáp :
        - Sự thực như thế còn phải thấy hay không?
        Thư Hương bây giờ thì đã nổi tánh ngạo mạn cố hữu, đừng nói cao tăng Thiếu Lâm mà cho dầu là ông trời, nàng cũng không còn kiêng nể, nàng nhìn thẳng vào nhà sư và cười lạt :
        - Như thế nào gọi là sự thực? Ai là người thấy hắn giết Vô Danh đại sư? Ai có thể chứng minh rằng hắn hạ thủ?
        Vô Sắc đại sư đáp :
        - Bởi vì chỉ có các ngươi mới có cơ hội hạ thủ...
        Thư Hương gặn lại :
        - Tại sao?
        Vô Sắc đại sư đáp :
        - Bởi vì lúc đó chỉ có hai người cùng ở chung phòng với ông ta.
        Thư Hương hỏi :
        - Lúc đó ông ở đâu?
        Vô Sắc đại sư đáp :
        - Đang trên đường đi.
        Thư Hương cười gằn :
        - Đang trên đường thì làm sao ông lại biết chuyện ở đây? Tại làm sao ông có thể biết rằng gian nhà này không có người nào nữa?
        Vô Sắc đại sư hơi lộ sắc giận dữ :
        - Cô nương không được cưỡng từ đoạt lý.
        Thư Hương lắc đầu :
        - Chính lão Hòa thượng mới là người cưỡng từ đoạt lý chớ không phải là tôi.
        Vô Sắc đại sư trầm giọng :
        - Giỏi cho tiểu phụ nhân lẻo mép, bần tăng tuy không giỏi nói, nhưng Hàng Ma thủ pháp không thể không dùng.
        Cơn giận dữ quả đã đến rồi, nhà sư già Thiếu Lâm vì thế mới bảo rằng lời nói của ông ta chẳng phải là điều cấm kỵ, vậy mà chẳng ngờ vừa rồi ông ta đã cấm người đệ tử không được nói.
        Vị tăng nhân trung niên bị rầy khi nãy đang chấp tay cúi mặt làm như không nghe Vô Sắc đại sư nói câu vừa rồi.
        Cũng có thể đó là tự nhiên, “người lớn” khác hơn “người nhỏ”.
        Cũng có thể đó là tự nhiên từ ngàn xưa “lưu truyền” cho con cháu, vì thế cho nên không một ai dám phàn nàn.
        Không ai dám, nhưng Thư Hương thì dám, nàng cười lạt nói :
        - Như vậy lão Hòa thượng thì có quyền vọng động, còn tiểu Hòa thượng thì bị cấm?
        Vô Sắc đại sư trừng mắt :
        - Câm miệng, nếu kẻ nào vô lễ, đừng trách bần tăng sao quá nặng tay.
        Thư Hương nhướng mắt :
        - Sao? Bây giờ không nói nữa? Bây giờ tính chuyện tay chân phải không?
        Nàng quay lại vỗ vỗ Lữ Ngọc Hồ :
        - Lão không muốn nói, lão muốn chơi bằng tay đó, anh có nghe không?
        Lữ Ngọc Hồ đáp :
        - Nghe.
        Thư Hương hỏi :
        - Anh có sợ không?
        Lữ Ngọc Hồ cười :
        - Tôi là con người chỉ biết nói chuyện bằng tay chân, không biết nói bằng miệng.
        Thư Hương vỗ tay :
        - Đúng rồi, hảo hắn không sợ bị đánh vỡ đầu, tôi sợ ngươi nhát gan, nếu không hảo hán sẽ chỉ là củi mục.
        Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
        - Tôi nghe theo cô.
        Hắn vừa nói xong câu thì thân hình hắn đã nhoáng lên.
        Hắn không tấn công Vô Sắc đại sư mà lại nhắm vào người tăng nhân trung niên bên cạnh...
        Hắn tấn công thật chậm.
        Tay phải hắn vung lên, hắn hơi ngưng lại rồi mới đưa thẳng tới.
        Một người mới học võ công cũng có thể đở cú đánh đó dễ dàng.
        Và tăng nhân trung niên không phải người mới học võ, mà là một cao thủ đã nhiều năm tu luyện võ công.
        (Mất 2 trang, quyển 3 trang 490-491.)
        đánh” đó gọi là công phu “chịu”, chẳng những chịu được nắm tay mà còn phải chịu được đao.
        Câu nói đó có chứng minh.
        Không phải chứng minh bằng lời công nhận của người khác, mà chứng minh bằng thân hình của hắn.
        Trong mình hắn có hàng trăm vết đao.
        Thư Hương cười :
        - Đúng, ông ta đánh anh một quyền, anh đánh lại một quyền, như vậy coi như huề, chỉ tại vì ông ta không có... công phu “chịu” thì ông ta ráng... chịu.
        Lữ Ngọc Hồ đáp :
        - Minh bạch đó là công bình, giải thích như vậy là xác đáng.
        Da mặt của Vô Sắc đại sư xám xanh, ông ta bước tới cười lạt :
        - Tốt lắm, bần tăng cần xem thử coi thí chủ chịu giỏi đến mực nào.
        Lữ Ngọc Hồ nhướng mắt :
        - Sao? Đại sư cũng ra tay nữa sao?
        Thư Hương cau mặt...
        Như vậy không thể nói Lữ Ngọc Hồ chỉ biết đánh, chỉ biết liều mà không biết gì hơn nữa. Không, không phải thế.
        Cách tấn công của hắn đã nói lên rằng hắn biết lễ nghĩa.
        Không phải biết nói suông bằng lời, hắn còn biết lễ trong hành động.
        Bằng vào tuổi tác và danh vọng, hắn đã nhượng Vô Sắc đại sư là bật trưởng thượng, hắn tự đặt mình ngang hàng với đệ tử của ông ta, sự nhân nhượng đó chứng tỏ sự tấn công của hắn.
        Hắn nhắm vào nhà sư trung niên đệ tử của Vô Sắc đại sư chứ hắn không nhắm ông ta. Và sau khi tấn công hắn lui lại.
        Sự nhân nhượng đó càng bộc lộ qua câu hỏi: “Đại sư cũng ra tay nữa sao”?
        Nó có nghĩa là “đây không phải là chỗ của ông”, nó có nghĩa rõ ràng qua tiếng “cũng”.
        Một sự nhân nhượng bằng ý chớ không phải bằng lời.
        Hắn không dài dòng: “Không dám, tiền bối là bật trưởng thượng, vãn sinh không dám mạo phạm” hay là “mạt học dám xin tiền bối nương cho”...
        Không, hắn nhân nhượng bằng ý của hắn, có nghĩa là nếu Đại sư “cũng” ra tay thì tại hạ không từ chối.
        Vô Sắc đại sư trầm giọng :
        - Hãy ra chiêu.
        Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
        - Tốt!
        Nắm tay hắn đưa ra một lượt với tiếng nói và cũng y như lần trước, chẳng những hướng nhắm cũng vậy mà tốc độ cũng vậy.
        Hình như đây là một lối đặc biệt của Lữ Ngọc Hồ.
        Hắn đánh thật chậm chạp.
        Vô Sắc đại sư hạ mình xuống, lại cũng y như thế nữa.
        Cũng “Hàng Ma Phục Hổ Quyền”, cũng nhắm ngay bụng của đối phương.
        Nhưng cao thủ không phải hơn nhau ở chiêu thế, họ hơn nhau về nghị lực và hơn nhau về biến chiêu.
        Vô Sắc đại sư không biến chiêu, vì ông ta mới đánh chiêu đầu.
        Ông ta cũng thấy lối đánh của Lữ Ngọc Hồ và ai cũng như ông ta, nhất định không biến chiêu vì ông ta đã quyết xem cái “chịu” của hắn.
        Như vậy là ông ta sử dụng nội lực.
        Người ta đã nghe nói về nội lực của vị cao tăng Thiếu Lâm này.
        Người ta cũng đã thấy. Nhưng người có mặt ở đây cũng đã thấy, họ thấy khi ông ta phát nội lực đầu tiên khi ông ta ra mặt, nội lực đó thể hiện bởi mấy tiếng nói đầu.
        Người nào biết võ là biết ngay.
        Bằng với nội lực đó, ông ta có thể đánh tan một khối đá.
        Bằng với nội lực đó, hai người của Lữ Ngọc Hồ đứng kẹp vào nhau cũng đều phải gập làm đôi, nếu quả hắn “chịu” như vừa rồi...
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #34
          Cam on Ban nhieu . Nhanh thiet , da toi hoi 30.

          Comment


          • #35
            Hồi 31 : Kim Râu quả thật không râu

            Không phải chỉ có những cao thủ mới nhận ra cú đánh kinh khiếp của Vô Sắc đại sư, mà ngay cả Thư Hương, một người được coi như chỉ quọt quẹt đôi ba miếng, cũng vẫn thấy được cái nguy cơ mất mạng của Lữ Ngọc Hồ.
            Bằng vào sức đánh với toàn nội lực của Vô Sắc đại sư, nếu cái bụng của Lữ Ngọc Hồ không bị vỡ ra thì ít nhất xương sống hắn cũng sẽ gập xuống, không phải gập nhẹ như nhà sư bị hắn đánh vừa rồi, mà nó sẽ gập làm đôi và ngàn đời sẽ không làm sao thẳng lại.
            Thư Hương rú lên.
            Nàng chỉ mới rú trong bụng, tiếng chưa phát được ra ngoài thì nàng ngưng lại, vì Lữ Ngọc Hồ không “chịu” đánh...
            * * * * *
            Vô Sắc đại sư đánh vào trong gió.
            Mấy người đứng ngay sau lưng Lữ Ngọc Hồ, cách xa hơn trượng, bị sức gió từ nội lực ở nắm tay nhà sư già phóng ra đến xiểng niểng cả người.
            Hai người bị bức ngang vạt áo trước, một người bị quay luôn hai vòng, hai người té ngồi xuống đất.
            Rất may là họ đứng hơi xa, họ chỉ xanh mặt và hoảng hốt chứ không đến nỗi mang thương.
            Lữ Ngọc Hồ đang ở ngay trên đầu của Vô Sắc đại sư.
            Hắn chờ cho nắm tay của ông ta vào tới sát bụng rồi hắn mới nhảy vọt lên.
            Vô Sắc đại sư chủ quan.
            Ông ta có nghe về Lữ Ngọc Hồ, ông ta biết hắn là con người ương ngạnh, lỳ lợm và liều lĩnh. Ông ta đã thấy hắn “chịu” một cú đánh của đồ đệ ông ta, ông ta cũng nhìn rất kỹ cách đánh lại của hắn.
            Hắn đánh thật ngụy hiểm, mặc dù chiêu thế quá tầm thường nhưng vì hắn lỳ nên thế đánh tầm thường vụt trở thành đòn... độc, độc chứ không phải giỏi.
            Ông ta tin rằng hắn sẽ “chịu” nữa và ông ta tính toán thật kỹ rằng hắn sẽ ngả ngay vì nội lực của mình, nếu hắn quả “chịu” nổi thì, với cách đánh của hắn mà ông ta đã thấy, ông ta sẽ hóa giải dễ dàng.
            Chính vì sự tính toán có hai đường đó nên ông ta không tính đến con đường khác.
            Lữ Ngọc Hồ đổi con đường khác.
            Hắn nhảy tránh và hắn tấn công trở lại.
            Hắn vừa nhảy qua đầu Vô Sắc đại sư thì ở giữa không trung, bằng một thân pháp lỳ lợm và táo bạo, hắn lắc một cái thật mạnh làm cho thân mình xoay trở lại, tay hắn vươn ra như năm móc câu, bắt chụp đúng vào “Ngọc Chẩm huyệt” của nhà sư.
            Bây giờ thì hắn vẫn lỳ, nhưng không còn chậm như người ta đã thấy, hắn đánh thật nhanh.
            Vì chủ quan, vì không tính đối phương đổi thế. Vô Sắc đại sư thu thế không kịp, đến khi thu kịp thì Lữ Ngọc Hồ đã khởi thế công.
            Là cao thủ hạng nhất của Thiếu Lâm, cũng là một trong số nhất lưu cao thủ trong giang hồ, cũng không phản ứng cách nào cho kịp, ông ta bị đánh phải đòn tối hậu.
            Không phải bằng gỗ huyền, cũng không phải bằng hột... bồ đề, xâu chuỗi của Vô Sắc đại sư bằng thép, những viên thép được trui luyện đặc biệt, nhỏ nhưng thật nặng.
            Người ta bảo rằng xâu chuỗi của ông ta là một chất thép trắng, thứ thép đó nặng gấp ba lần thép thường.
            Bây giờ thì ông ta đành phải đánh theo cách “lưỡng bại câu thương”, vì tay của Lữ Ngọc Hồ đã sát đến đầu, không còn cách nào khác nữa.
            Nghĩa là khi tay hắn chạm vào Ngọc Chẩm huyệt thì cổ tay hắn cũng sẽ gãy ngang, quyền lực của hắn do đó bị giảm đi phần nào trọng lực, ông ta không chết nhưng rất có thể mang thương đến “bán thân bất toại”.
            Kể ra bằng vào thanh danh của hai người, nếu phải lưỡng bại câu thương thì địa vị của Vô Sắc đại sư kể như mất hết. Vì Lữ Ngọc Hồ dầu có được người võ lâm tôn trọng, cũng chỉ thuộc hàng hậu bối. Còn Vô Sắc đại sư thì đã là bậc đạo cao đức trọng, qua hai thế hệ, vả lại, lão lại còn là người coi như đại diện cho Thiếu Lâm.
            Nhưng trong tình thế đó, không có một con đường nào khác, nhưng có hay không, tương xứng hay không, Vô Sắc đại sư cũng phải chấp nhận, ông ta vút xâu chuỗi ngược lên.
            Những hạt chuỗi chạm vào nhau, tiếng khua điếc óc.
            Nhưng tuy là hạng lỳ lợm, liều lĩnh, nhưng Lữ Ngọc Hồ không như người ta tưởng, hắn không “chịu” chấp nhận “lưỡng bại câu thương”.
            Có nhiều cách giải thích về thái độ không “chịu” của hắn.
            Thứ nhất, hắn chưa thấy rõ ác ý của Vô Sắc đại sư, có thể ông ta chỉ hồ đồ nhất thời, khi thấy người sư đệ của mình bị chết. Sự hồ đồ của ông ta tạo thành cuộc diện hồ đồ. Lữ Ngọc Hồ không muốn chết sống vì cái hồ đồ đó.
            Thứ hai, cuộc chiến mới vừa phát sanh, dư lực đôi bên còn nhỏ quá, nếu trường hợp hắn bị buộc phải áp dụng, hắn sẽ không làm, nhưng đây là thế bị động của Vô Sắc đại sư, hắn không muốn vì cái bị động của người khác, kéo mình vào theo.
            Vì thế, khi Vô Sắc đại sư tung xâu chuỗi hột lên thì, cũng đang còn cái đà lơ lửng trên không đó, Lữ Ngọc Hồ không làm sao nhảy lên được nữa, hắn đành phải áp dụng thế “Lăng Không Đảo Khí”, hắn vận công, dồn sức nặng lên phần trên của thân mình, và hắn bật ngửa ra sau, lộn một vòng tròn như chong chóng và nhanh như chớp, hắn đạp nhẹ một chân lên vai của một người đứng phía sau, theo đà đó hắn xéo mình lên.
            Một thế tránh thật vô cùng đẹp mắt.
            Có nhiều tiếng hít hà và có nhiều tiếng vỗ tay nho nhỏ.
            Nhưng, đáng lý giải được thế “lưỡng bại câu thương” không đáng ấy, nhà sư già Thiếu Lâm nên thu thế lại cho đúng với tư cách “trưởng thượng” của mình, đàng này ông ta chợt như nổi ngay hung tánh, thuận tay vút luôn xâu chuỗi hột.
            Sức nặng của xâu chuỗi cộng với nội lực của nhà sư, khiến cho những hột thép ấy bay quá nhanh và bay theo đường thẳng chận tới. Vì đà phóng của Lữ Ngọc Hồ đi xiên, với hai đường đi đó, dầu hắn muốn tránh cách nào cũng không làm sao kịp được.
            Những người đứng dưới nghe như tim vọt ra ngoài.
            Họ không hề có được ý thức nghiêng về ai nhưng phản ứng tự nhiên khi thấy đôi bên đã dụng thế độc và nhất là trước cái chết của một người mà họ quen biết, khiến họ bàng hoàng.
            Nhất là Thư Hương, bây giờ nàng không còn cân nhắc được vấn đề nguy hiểm hay không, nàng cũng không nghĩ được hành động của nàng có gỡ được cái chết cho Lữ Ngọc Hồ hay không, hình như nàng bị phản ứng tự nhiên thúc đẩy, nàng dậm chân lao thẳng vào người của Vô Sắc đại sư.
            Cũng may là nàng chỉ vừa dậm chân chớ chưa phóng mình, thì có chuyện lạ xuất hiện khiến nàng kịp thời dừng lại.
            Vì khi nàng vừa dậm chân thì một tiếng động lớn từ trên nóc nhà làm mọi người đều giật mình và ngay khi đó thì ngói bể rơi rầm rầm...
            Không biết vì cái gì, nóc nhà bể trống một lỗ, từ lỗ đó có bàn tay thò xuống...
            Cánh tay không dài lắm, nhưng có lẽ là người ở trên nằm nghiêng, nên bàn tay thò đúng ngay trước đầu của Lữ Ngọc Hồ.
            Trước đầu của Lữ Ngọc Hồ không đầy một gang bàn tay là là xâu chuỗi thép.
            Bàn tay từ trên nóc nhà thò xuống chụp lấy xâu chuỗi hột.
            Chụp nắm, thụt lên, biến mất.
            Vô Sắc đại sư thét lớn :
            - Ai?
            Trên nóc nhà có tiếng cười dài :
            - Là một kẻ cần gõ tét đầu Hòa thượng, nhất là Hòa thượng Đa Sự.
            Thư Hương la lên :
            - Đừng để cho người đó thoát, có thể đúng là người đã giết Đa Sự hòa thượng.
            Nàng không la thì Vô Sắc đại sư cũng đã làm, chỉ nghe tay ông ta khua động thì thân ảnh đã vút lên lỗ hổng của nóc nhà.
            Ngay lúc đó, cũng từ trên nóc nhà, nhiều tiếng khua động, tất cả mấy ngọn đèn trong nhà đều tắt hết.
            Quá đông người, lại vừa mới xảy ra biến động, bóng tối vụt xuống, đám đông loạn ngay.
            Họ chen nhau, xô nhau tìm ngỏ để thoát ra ngoài.
            Rất may là nàng đã theo dõi vì lo sợ cho Lữ Ngọc Hồ từ đầu cho nên Thư Hương thấy rõ chỗ hắn vừa chúi xuống, nàng bước ngay lại.
            Vừa thấy bóng hắn, Thư Hương hỏi nho nhỏ :
            - Ngọc Hồ, làm sao?
            Lữ Ngọc Hồ sợ loạn, hắn nắm chắc tay nàng và Thư Hương vội nói :
            - Chúng ta không nên bị động vì một chuyện hàm hồ đó.
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Bây giờ mà đi, chúng càng nghĩ mình là hung thủ.
            Thư Hương nói :
            - Không đi, chúng lại càng nghi mình nhiều hơn.
            Lữ Ngọc Hồ chắc lưỡi :
            - Đi thì đi.
            * * * * *
            Cửa mở.
            Có lẽ vì họ tràn ra vội vàng, nên cánh cửa mở ra và không khép lại.
            Trời trong, sao nhiều, ánh sáng lờ mờ ngoài sân hắt vào không thấy rõ lắm, nhưng vẫn nhìn được chung quanh.
            Thư Hương kéo tay Lữ Ngọc Hồ bước nhanh ra, chợt có một người râu quanh hàm khuất cổ, cầm thanh đao xốc tới...
            Người mặc áo gấm tự xưng là Kim Râu.
            Hắn lầm bầm :
            - Đừng cho nó thoát, cản lại.
            Thanh đao nhoáng lên, Lữ Ngọc Hồ nhảy ngay vào dưới ánh đao.
            Hắn không sợ đao.
            Trong mình hắn đã hàng trăm vết đao, thêm một vết nữa, hắn đâu có ngán.
            Nhưng thanh đao không trúng hắn, thanh đao đã vào tay hắn.
            Thanh đao lại nhoáng lên, ánh đao chớp ngời trong đêm tối, trên mặt người áo gấm.
            Trọn hàm râu dưới của người áo gấm bị lưỡi đao chém ngang trụi lũi.
            Tay đao thật nhanh và chính xác.
            Tuy chưa bị thương, chỉ nghe dưới cằm hơi rát, nhưng sự khủng khiếp đã làm cho tên áo gấm hồn bất phụ thể, hắn té ngồi xuống đất và không dám đứng lên.
            Thư Hương ôm bụng cười lớn :
            - Ta đã nói mà không chịu tin, Kim Râu vốn không có... râu.
            Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
            - Sạch sẽ, không còn một sợi nào?
            Nhưng bây giờ, Kim Râu có râu hay không râu chỉ là chuyện cỏn con, vấn đề quan trọng là vấn đề không tóc, vấn đề Hòa thượng.
            Đa Sự hòa thượng bị ai giết?
            Có phải con người thò tay qua nóc nhà để bắt xâu chuỗi?
            Nhưng tại làm sao lại giết Hòa thượng?
            Tại làm sao lại bày màn kịch nhốt Thư Hương?
            Không thể giải thích được vì vấn đề quá phức tạp, không thể dự đoán, phải cần thêm sự kiện để chứng minh.
            Nhưng cho dầu cách nào, nhất định người đó phải là người theo dõi từ đầu chí cuối, nếu không phải do một tay y bố trí, và không thay đổi thì không tài nào nhìn thấy, không thể nào bắt kịp sâu chuỗi của nhà sư.
            Chắc chắn nhiều miếng ngói đã được dỡ sẵn rồi nhưng vì sự giằng co bên dưới nên không ai thấy.
            Chỉ có thể có một việc tình cờ may mắn, đó là chỗ người nấp để quan sát trên nóc nhà gần ngay chỗ xâu chuỗi bay lên, nếu không ngay hắn thì cũng không phải là xa lắm, nên hắn mới hành động kịp thời như thế.
            Đó là một cái may, nhưng nếu không, với con người của Lữ Ngọc Hồ cũng chưa chắc đã ra sao, không sao nhưng chắc chắn phải là khốn đốn.
            Vậy thì, người đó, đối với Lữ Ngọc Hồ vẫn được coi là một người ơn.
            * * * * *
            Sao sáng đầy trời.
            Đi một lúc lâu, Thư Hương dừng lại thở.
            Ở đây bây giờ không có Hòa thượng mà tên râu thì cũng đã cút rồi.
            Ngó ngó cái mặt của Lữ Ngọc Hồ, Thư Hương bỗng bật cười :
            - Cũng may mà anh không có để râu, đúng là vận hạn của anh còn tốt.
            Lữ Ngọc Hồ nhướng mắt :
            - Sao vậy? Sao không có râu mà gọi là vận hạn tốt?
            Thư Hương sặc cười :
            - Nếu mà anh có râu thì tôi sẽ nhổ không chừa một cọng!
            Nói đến “râu” là nhớ đến Kim Râu, nàng nhảy dựng lên :
            - Nè, mà anh có quen biết với tên Râu đó không?
            Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
            - Chẳng những không quen mà cũng chưa biết mặt lần nào.
            Thư Hương nói :
            - Tôi đã thấy nhiều người có râu, nhưng chưa từng thấy tên nào mà râu nhiều như tên đó.
            Lữ Ngọc Hồ lật qua lật lại thanh đao và cũng bật cười :
            - Cũng may là thanh đao này rất bén, nếu không thì cũng không dễ gì cạo sạch được hàm râu của hắn.
            Thư Hương cũng cười thốt :
            - Không ngờ chẳng những “chịu” đao giỏi, mà anh xử đao cũng hay quá nữa.
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Bất cứ kẻ nào đã “chịu” hàng trăm đao thì chắc chắn phải biết được những đường đao không tệ.
            Thư Hương thở ra :
            - Nhưng lão Hòa thượng Thiếu Lâm đó quả là lợi hại, lão giống như một con khỉ già mà không ngờ lại khó ăn thế ấy.
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Thiếu Lâm hàng ngàn hàng vạn Hòa thượng, không tên nào dễ ăn cả, huống chi lão là một tay cừ nhất trong số Hòa thượng khó ăn.
            Thư Hương hỏi :
            - Lão là đệ nhất cao thủ của Thiếu Lâm sao?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Cho dầu không phải là “đệ nhất” thì cũng không “tệ” là bao.
            Thư Hương lắc đầu :
            - Thảo nào luôn cả anh cũng không phải là đối thủ.
            Lữ Ngọc Hồ hấp háy mắt :
            - Có phải thật tôi không phải là đối thủ của lão không?
            Thư Hương nhếch nhếch môi :
            - Tôi thì tôi chỉ thấy nếu không có bàn tay thò xuống... thò xuống... thì... thì...
            Lữ Ngọc Hồ lắc đầu chặn nói :
            - Cái đó thì không kể.
            Thư Hương nhướng mắt :
            - Tại sao lại không kể?
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Bởi vì lão có binh khí, còn tôi thì tay không, tự nhiên là phải lép vế hơn.
            Thư Hương bĩu môi :
            - Bất quá đó cũng chỉ là một xâu chuỗi hột.
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Xâu chuỗi đó là binh khí của lão, nghề nào phải có thứ riêng của nghề đó, thằng cha bán vải rành về cây thước, thằng cha bán củi phải giỏi về đòn gánh, thầy chùa ra đường không lẽ cầm đao? Tự nhiên là lão phải cố luyện một món binh khí cho “hợp pháp” chớ.
            Thư Hương chớp chớp mắt :
            - Nhưng nếu lão tay không, anh có thể đánh bại lão không?
            Lữ Ngọc Hồ cười :
            - Nếu không đánh bại lão thì ít nhất tôi cũng không khốn đốn.
            Thư Hương nói :
            - Tôi nghe nói Thiếu Lâm là võ lâm chánh tông, trong mấy trăm năm nay chưa một môn phái nào qua được, nếu anh có thể ngang hàng với lão thì anh là đệ nhất cao thủ trong thiên hạ sao?
            Lữ Ngọc Hồ không trả lời mà lại cười ha hả...
            Thư Hương hỏi :
            - Sao anh lại cười?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Tôi cười là vì muốn cô không biết, tôi chẳng những không phải là vô địch trong thiên hạ mà hình như không có ai đáng nói là vô địch cả.
            Thư Hương cười :
            - Khá lắm, tôi công nhận anh là một con người trung thực.
            Lữ Ngọc Hồ cười :
            - “Đại hiệp” là phải trung thực.
            Thư Hương hỏi :
            - Theo anh biết thì trong thiên hạ có bao nhiêu người võ công bằng anh?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Không nhiều lắm đâu.
            Thư Hương nói :
            - Không nhiều nghĩa là sao?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Không nhiều lắm, cũng có nghĩa là không ít lắm.
            Thư Hương hỏi :
            - Nhưng phỏng đoán là bao nhiêu?
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Có những người đao pháp hạng nhất, có những người kiếm pháp hạng nhất, cho nên không biết sao mà kể...
            Thư Hương hỏi :
            - Nhưng ít ra cũng phải có người xứng đáng là đệ nhất cao thủ chứ?
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Nếu nói đáng kể thì phải nói “Tiểu Đổng Phi Đao”.
            Thư Hương hỏi :
            - Tiểu Đổng Phi Đao nào? Có phải Đổng Thám Hoa?
            Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
            - Đúng là người ấy, nhưng không phải vì giỏi về “phi đao” mà gọi là đệ nhất vô địch, đệ nhất anh hùng, danh từ tốt đẹp đó phải thuộc vào một vấn đề trọng đại hơn.
            Thư Hương hỏi :
            - Vấn đề gì?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Tâm địa, con người phải mang một tâm địa anh hùng, sau đó mới kể đến võ công.
            Thư Hương hỏi :
            - Nhưng nghe nói con người đó đã ở ẩn rồi mà?
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Ở ẩn hay không, những con người đó luôn luôn tồn tại.
            Hắn nói đúng.
            Những con người như thế luôn luôn tồn tại, vì tên họ đã ghi sâu vào tâm khảm con người.
            Nhưng nếu chỉ có võ công thật giỏi, tên tuổi cũng chỉ nhất thời, vì võ công chưa phải là cái trường tồn.
            Thư Hương nói :
            - Không kể những người đã ẩn cư, cứ kể người đang hoạt động trong giang hồ thì cỡ như anh có được bao nhiêu?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Nhiều lắm.
            Hắn ngẫm nghĩ một hồi rồi nói tiếp :
            - Thiếu Lâm chưởng môn, là Vô Cán đại sư, người này nội lực hùng hậu không sao lường nổi.
            Thư Hương hỏi :
            - Anh đã có giao đấu với người ấy hay chưa?
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Chưa, mà cũng không dám.
            Thư Hương nói :
            - Được rồi, như vậy là kể một người.
            Lữ Ngọc Hồ nói tiếp :
            - Còn có “Võ Đương” Phi Đạo Nhân, “Ba Sơn kiếm khách” Châu Mộc và Đại Mạc Thần Long... những người ấy tôi cũng cố tránh lãnh giáo luôn.
            Thư Hương cười :
            - Hết rồi à?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Ngoài ra còn một người nữa.
            Thư Hương hỏi :
            - Ai?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Người mới cứu tôi vừa rồi.
            Thư Hương cau mặt :
            - Anh chưa thấy mặt, chưa biết võ công ra sao thì...
            Lữ Ngọc Hồ chận nói :
            - Ở trên nóc nhà mà có thể thò tay xuống bắt đúng xâu chuỗi, chỉ kể một ngón đó thôi, tôi cũng đã không bì kịp.
            Thư Hương gật gật đầu :
            - Đúng, ngón đó quả là hay quá.
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Còn thêm một người nữa.
            Thư Hương hỏi :
            - Ai? Có phải người đã tắt đèn không?
            Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
            - Đúng rồi, cách ném ám khí đó quả thật là... có một không hai.
            Suy nghĩ hồi lâu, Thư Hương hỏi :
            - Anh nghĩ coi Vô Danh hòa thượng có phải do người ấy giết không?
            Lữ Ngọc Hồ cười :
            - Tôi chỉ biết là vị hòa thượng đó không phải do tôi giết.
            Thư Hương nói :
            - Tôi thật không hiểu nổi những người ấy không oán thù gì với mình cả, luôn cả mặt cũng chưa biết bao giờ, thế thì tại sao họ lại vu oan cho mình như thế ấy?
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Cũng chưa chắc họ nhằm vào mình, họ giết người nhưng họ lại dấu tay.
            Thư Hương lại trầm ngâm :
            - Anh muốn nói họ giết Vô Danh hòa thượng nhưng họ lại sợ Thiếu Lâm?
            Lữ Ngọc Hồ đáp :
            - Tôi nghĩ có thể gần như thế.
            Thư Hương cau mày :
            - Nhưng họ là ai? Tại sao lại quyết giết Vô Danh hòa thượng?
            Lữ Ngọc Hồ hỏi :
            - Cô hiểu ý nghĩa ba tiếng “Thiếu Lâm Phái” hay không?
            Thư Hương đáp :
            - Hiểu.
            Có thể nhiều người cũng hiểu biết như nàng.
            Mấy trăm năm nay, trong tâm ý của giang hồ, “Thiếu Lâm Phái” biểu hiện của “Võ Lâm Chánh Tông”.
            Chính vì thế mà không một ai muốn đụng chạm với họ cả.
            Lữ Ngọc Hồ hỏi :
            - Cô có biết địa vị của Vô Danh đại sư trong Thiếu Lâm như thế nào không?
            Thư Hương đáp :
            - Chắc phải là không thể thấp!
            Lữ Ngọc Hồ thở ra :
            - Đâu có thể nói “không thể thấp” mà thôi.
            Thư Hương nói :
            - Nghe kể từ Thiếu Lâm phương trượng trụ trì, còn có hai vị Hộ pháp.
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Không phải hai mà là bốn.
            Thư Hương cau mặt :
            - Sao?
            Lữ Ngọc Hồ nói :
            - Hai lớn, hai nhỏ.
            Thư Hương cười :
            - Anh nói làm tôi có tưởng tượng bọn Hòa thượng cũng giống như tam quan.
            Lữ Ngọc Hồ cũng cười :
            - Trừ Phật thì tôi không biết, tôi không biết là tại vì chưa lần nào gặp mặt, cho nên căn cứ vào hiện tại và truyền thuyết thì cũng vẫn có lớn có nhỏ như thường.
            Thư Hương nhìn Lữ Ngọc Hồ chăm chăm vào nàng vụt nói :
            - Tôi nghe anh nói chuyện mỗi lúc càng mỗi giống một người.
            Lữ Ngọc Hồ vội hỏi :
            - Ai?
            Thư Hương đáp :
            - Một người mà anh không biết...
            Nàng cắn môi không nói hết nhưng không hiểu sao nàng lại nghĩ đến tên... Đại Đầu Quỷ. Hắn bây giờ ở đâu? Không hiểu sao hắn lại mất biệt, không biết từ đây về sau nàng sẽ còn có gặp hắn không?
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #36
              Hồi 32 : Sơn Lưu

              Thư Hương làm thinh lâu quá, Lữ Ngọc Hồ vụt hỏi :
              - Vừa rồi chúng ta nói chuyện tới đâu?
              Thư Hương ửng mặt cười :
              - Nói về bốn vị Hộ pháp của Thiếu Lâm.
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Hai vị Đại Hộ pháp là hai người lớn tuổi, tu vi cao thâm, trừ khi đại sự, còn thì bình thường rất ít ra mặt.
              Thư Hương hỏi :
              - Còn hai tiểu Hộ pháp?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Thông thường là khoảng trung niên, quân sư tại Thiếu Lâm tự cũng là hai người ấy. Vì thế, họ phải là hai vị công bình mẫn cán, võ công thì tự nhiên cũng phải cao.
              Thư Hương nói :
              - Như vậy cũng không phải “tiểu”.
              Lữ Ngọc Hồ gật gật đầu :
              - Vô Danh hòa thượng vốn là vị tiểu sư đệ của đương kim Phương trượng.
              Thư Hương nói :
              - Nhưng nếu như thế thì ông ta cũng tầm thường.
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Thế nhưng trong mấy trăm năm nay, dám dây vào đám Hộ pháp của Thiếu Lâm thì chỉ có một thứ người.
              Thư Hương hỏi :
              - Thứ người nào?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Người điên!
              Thư Hương cau mặt nói :
              - Tại sao người điên lại còn dây dưa vào đám Hòa thượng?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Điều đó thì phải có hai nguyên nhân...
              Thư Hương nhìn hắn trầm ngâm...
              Lữ Ngọc Hồ nói tiếp :
              - Một thứ do chính họ phát điên, một thứ do người khác mà điên.
              Thư Hương chớp chớp mắt :
              - Anh cho rằng số người đó đã bị Vô Danh hòa thượng bức bách?
              Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
              - Chắc chắn tôi đoán không lầm.
              Thư Hương hỏi :
              - Nhưng Vô Danh hòa thượng tại sao lại bức họ?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Tại vì tên của ông ta là “Đa Sự”.
              Thư Hương hỏi :
              - Đã là Thiếu Lâm hộ pháp thì tại sao còn “đa sự” làm chi?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Tôi chỉ nói ông ta “vốn là” Thiếu Lâm họ pháp thôi.
              Thư Hương hỏi :
              - “Vốn là” thì có nghĩa là bây giờ thì không phải?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Sáu bảy năm về trước đã là không phải...
              Thư Hương hỏi :
              - Bị đuổi à?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Không phải, tự ông ta bỏ đi.
              Thư Hương cau mặt :
              - Rất khó khăn lắm mới leo lên tới địa vị như thế, tại làm sao ông ta lại bỏ đi?
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Tại vì Thiếu Lâm quá lạnh mà ông ta thì quá nóng.
              Thư Hương trầm ngâm :
              - Kẻ xuất gia đáng lý không nên nóng...
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Vì thế cho nên ông ta mới quyết xuống địa ngục.
              Thư Hương gật gật nhưng lại thở dài :
              - Đúng rồi, bây giờ tôi mới rõ ý nghĩa câu nói đó.
              Lữ Ngọc Hồ hỏi :
              - Hiểu sao?
              Thư Hương đáp :
              - Có những người xuống địa ngục, không phải vì bị tống xuống mà là để cứu người.
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Cô hiểu rõ câu nói ấy như thế là cô đã lớn rồi.
              Thư Hương bĩu môi :
              - Lớn lâu rồi chớ.
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Cô vốn chỉ là một cô gái lớn, bây giờ mới là người lớn.
              Thư Hương làm thinh.
              Chính nàng cũng mới nhận ra rằng trong vòng mấy ngày nay, nàng đã trưởng thành nhiều, gần như chỉ trong vòng mấy ngày, nàng đã lớn nhiều hơn cả mười mấy năm qua.
              Nàng cũng hiểu cái nghĩa khác biệt của “cô gái lớn” và “người lớn” mà Lữ Ngọc Hồ vừa mới nói.
              Khoảng cách giữa hai cái đó, một “cô gái lớn” không làm sao thấy được.
              Thật lâu, Thư Hương vụt hỏi :
              - Vừa rồi, nhà sư già nói một câu lạ lùng, anh có nhớ không?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Lão Hòa thượng đó nói mười câu thì đã hết tám câu lạ lùng rồi.
              Thư Hương nói :
              - Nhưng câu này thì đặc biệt Lữ Ngọc Hồ hỏi :
              - Câu gì?
              Thư Hương đáp :
              - Không phải một câu mà đúng lý thì chỉ là hai tiếng.
              Lữ Ngọc Hồ hỏi :
              - Hai tiếng gì?
              Thư Hương đáp :
              - Sơn Lưu!
              Lữ Ngọc Hồ chớp mắt.
              Hình như vừa nghe hai tiếng đó là mặt hắn có nhiều thay đổi.
              Thư Hương nói tiếp :
              - Nhà sư già nói Vô Danh hòa thượng đáng xuống địa ngục bởi vì ông ta nhập Sơn Lưu. Anh có nghe không?
              Lữ Ngọc Hồ gật gật đầu.
              Thư Hương hỏi :
              - Sơn Lưu là cái gì?
              Trầm ngâm một lúc khá lâu, Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Sơn Lưu là một đám người.
              Thư Hương cau mặt :
              - Một đám người?
              Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
              - Một đám bằng hữu, họ cùng một ý nghĩ, một sở thích như nhau họp lại, họ lấy hai tiếng “Sơn Lưu” đặt tên cho nhóm họp.
              Thư Hương hỏi :
              - Họ giống nhau ở một sở thích nào?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Hạ địa ngục!
              Thư Hương gặn lại :
              - Hạ địa ngục để cứu người?
              Lữ Ngọc Hồ gật đầu.
              Thư Hương trầm ngâm :
              - Trong con mắt của họ, sòng bạc cũng là địa ngục, họ muốn cứu số người trầm luân trong đó cho nên họ nhập sòng bạc để biến nơi ấy thành chùa?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Theo họ, chùa ít nhất cũng không phải là địa ngục, nhưng không có thứ chất độc làm cho con người tiêu ma tâm chí.
              Thư Hương nói :
              - Thế nhưng họ làm thế, nhất định những người mở sòng bạc sẽ thù họ tới xương.
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Chẳng những người mở sòng bạc, mà đến con bạc cũng thù họ luôn.
              Thư Hương hỏi :
              - Chính vì thế cho nên số người ấy mới... thèm cái mạng của lão?
              Lữ Ngọc Hồ gật đầu cười.
              Thư Hương cau mặt :
              - Chuyện trong giang hồ, khi ở nhà tôi nghe cũng đã nhiều, thế sao lại không nghe đến hai tiếng “Sơn Lưu”?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Vì tuy không thành một tổ chức hẳn hòi, nhưng họ làm việc có nguyên tắc lắm.
              Thư Hương nói :
              - Làm một chuyện tốt mà lại phải giấu nữa sao?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Làm một chuyện xấu mà phải giấu thì mới đúng là chuyện xấu, làm chuyện tốt mà không muốn cho người biết thì mới đúng là chuyện tốt.
              Thư Hương lắc đầu :
              - Muốn làm được thế chắc là khó lắm.
              Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
              - Đâu có dễ được.
              Thư Hương lim dim đôi mắt :
              - Đối phó với người xấu hình như không dễ...
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Chính vì thế hành động của đám Sơn Lưu thận trọng lắm, sơ sẩy một chút là mất mạng như chơi.
              Thư Hương nói :
              - Vậy mà họ vẫn cứ làm, biết nguy hiểm mà vẫn cứ làm?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Biết nguy hiểm đến đâu, họ cũng vẫn cứ làm, cho đến chết họ cũng không màng, họ không biết sợ là gì cả.
              Thư Hương thở ra, nàng nhìn vào khoảng trống không và nói bâng quơ :
              - Một ngày nào đó tôi sẽ tìm cách để biết họ...
              Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
              - Sợ không dễ lắm đâu...
              Thư Hương hỏi :
              - Anh bảo không gặp được họ à?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Họ là những con người không cần danh lợi, họ không cho ai biết thì làm sao mà gặp được.
              Thư Hương hỏi :
              - Anh có biết họ là những ai không?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Cho đến bây giờ thì tôi cũng chỉ biết có mỗi một mình Vô Danh đại sư, mà nếu ông ta còn sống thì cũng chưa chắc Vô Danh đại sư đã nói cho mình biết.
              Thư Hương nói :
              - Ngoài ông ta ra, có thể còn lão Đạo sĩ và Tú tài.
              Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
              - Họ cũng có thể là người trong Sơn Lưu, mà cũng có thể không phải, trừ trường hợp họ nói ra, còn thì rất khó mà đoán định được.
              Thư Hương trầm ngâm :
              - Đám người đó đã có Hòa thượng, có Đạo sĩ, Tú tài, chắc chắn sẽ còn nhiều nhân vật lạ lùng hơn nữa.
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Nghe nói trong Sơn Lưu thành phần phức tạp lắm, người của bọn họ không thuần nhất như những bang phái khác.
              Thư Hương nói :
              - Ngoài việc đồng một ý chí, chắc cũng phải được một người có danh vọng lắm mới tổ chức được đám Sơn Lưu, anh có nghĩ vậy không?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Tự nhiên là phải như thế.
              Thư Hương hỏi :
              - Anh nghĩ xem người đó là ai? Có thể cỡ như Liễu Phong Cốt, Nhạc Hoàn Sơn?
              Lữ Ngọc Hồ hỏi :
              - Cô có biết những người đó không?
              Thư Hương lắc đầu...
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Tôi cũng không biết họ.
              Thư Hương ngạc nhiên :
              - Ủa, anh cũng không biết họ? Nhưng anh có thử đoán được không?
              Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
              - Không!
              Thư Hương hỏi :
              - Sao vậy?
              Lữ Ngọc Hồ chỉ trong bụng :
              - Bụng mà trống thì không thể nghĩ gì cả.
              * * * * *
              Bụng trống thì không hay, nhưng đã trống thì có những cái hay.
              Trong một thành thị chen chúc, có nhiều chỗ y như là người ta xây nhà lên cả trên những ngôi mộ để ở.
              Vậy mà thỉnh thoảng lại có những khoảng đất trống không ai biết nguyên nhân.
              Những khu đất trống như thế có khi trước đó người ta chuẩn bị xây nhà, chuẩn bị dựng phái, hoặc cơ xưởng, nhưng không hiểu tại sao người ta lại bỏ luôn.
              Bỏ riết đến mức không ai còn biết chủ của nó là ai.
              Người ta chỉ biết đó là khoảng đất vô chủ, có thể ai muốn thả bò thả heo gì cũng được, đánh lộn giết người cũng được, mà cũng có thể làm chỗ phóng uế thì cũng không thấy có ai phiền hà.
              Ai muốn làm gì thì làm, nhưng tuyệt nhiên không một ai nghĩ đến việc kiếm ra tiền trên khoảng đất như thế.
              Vậy mà có một tay thấy kiếm được và làm ngay.
              Đó là gã bán thịt vò viên.
              Hắn thấy, hắn làm và làm liền.
              Giá như hắn chỉ quảy cái gánh, hay đẩy một cái xe nho nhỏ đó thì hắn sẽ tàn theo cái mảnh đất mà ai cũng chê đó rồi, nhưng hắn chọn thì hắn phải biết cái sống, hắn phải làm cho... sống.
              Cái thùng nấu của hắn cũng như những thùng nấu thường, nhưng hắn đóng giàn bên ngoài thật lớn, hắn chất thật nhiều tô chén và đặc biệt là hắn đi bứng nhiều thứ cây nho nhỏ có tàn chừng quá đầu người, nhưng dễ sống, đem trồng theo những cái bàn của hắn.
              Hắn làm những cái bàn nho nhỏ bốn người, hai người, hắn kê dài theo những tàn cây của hắn.
              Ban đầu, hắn nhờ bạn bè thân thuộc rao hàng, rao bằng cách “rao tai”, nói rằng :
              Đặc biệt, thằng đó chỉ bán một món thôi và món đó ngon hết chỗ chê”...
              Hắn khôn ngoan hơn nữa, hắn cho người thân tín đi thỉnh khách bằng lối mời dễ dãi, gọi là: “tôi biết chỗ ngon lắm, tôi mời anh đi một bữa”.
              Cố nhiên những bữa đó là hắn chịu.
              Mỗi xóm, mỗi vùng, hắn chịu tốn một vài việc mời như thế.
              Lập tức thiên hạ rủ nhau.
              Cũng tầm thường thôi, nhưng sau đó là... nổi tiếng.
              Hắn chọn ngay một cái tên, đặt thanh hiệu nghe rất lạ và rất bình dân: “Bảy Rưởi”!
              * * * * *
              Thư Hương hỏi :
              - Sao lại không tám không bảy, mà là bảy “rưởi”?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Bất cứ là thịt vò viên không, hay vò viên hủ tiếu cũng đều bảy rưởi, bảy xu rưởi đó biết không?
              Thư Hương gật đầu :
              - Biết rồi, nhưng tôi muốn hỏi tại sao không bán bảy xu hay tám xu mà lại bán bảy rưởi?
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Bảy thì lời ít, còn tám thì khách thấy nhiều.
              Thư Hương nói :
              - Bao nhiêu mà nhiều, bảy rưởi cũng thế mà tám thì cũng có hơn là bao?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Cô không buôn bán nên cô không biết, cái “rưởi” đó lợi hại lắm, nói “tám” thì nghe nhiều, nhưng nói “bảy rưởi” thì nghe ít, cô không biết chớ, ở những thành thị, người ta bán hàng giá đáng trăm lượng, họ chỉ nói “chín mươi chín” lượng thôi, ban đầu tôi cũng thắc mắc như cô, nhưng sau này thì tôi thấy họ khôn. Ngoài ra, nó còn có chỗ lạ tai, gợi tánh tò mò, bây giờ thì khắp nơi phụ cận, ai lại không nghe không biết “Bảy Rưởi”.
              Thư Hương hỏi :
              - Chỗ đó đông khách lắm phải không?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Lạng quạng không có chỗ ngồi...
              Thật không có chỗ ngồi.
              Thư Hương chưa bao giờ thấy chỗ nào mà nửa đêm gà gáy mà hiện tại lại tấp nập như thế này.
              Ngựa có, xe có, đám đất trống mênh mông bây giờ trở thành chật hẹp.
              Bao nhiêu bàn ghế, lớn nhỏ gì cũng đều chật ních.
              Thư Hương thật nghĩ không ra, nhiều con ngựa thật tốt, nhiều cỗ xe thật quí, chứng tỏ chủ nhân giàu có sang trọng, thế mà lại đến đây để ăn “Bảy Rưởi”.
              Mà đâu phải món ngon vật lạ, nó chỉ là “hủ tiếu vò viên”, không lạ mà cũng chưa chắc đã ngon hơn chỗ khác.
              Vậy mà thiên hạ dập dìu.
              Khu đất mênh mông, chỉ có mấy ngọn đèn lồng, lồng đèn ám khói lâu ngày, không còn sáng tỏ.
              Đã ít đèn, đèn lại không tỏ, nên ánh sáng ở đây mờ mờ vàng vọt.
              Chỗ ánh đèn không tới nhiều hơn chỗ sáng, người ta phải gầm mặt ăn thầm.
              Thư Hương và Lữ Ngọc Hồ đứng xấn rấn một lúc lâu mới có được chỗ ngồi, chỗ mà ánh đèn không với tới.
              Tự nhiên, ở một chỗ bóng tối trầm trầm như thế, không ai chú ý đến Lữ Ngọc Hồ.
              Rồi phải một lúc khá lâu nữa, gã tiểu nhị mới mang cái khăn dính mở chạy lại, hắn đặt đũa muỗng, dĩa nước chấm lên bàn và hỏi trống không :
              - Rượu không?
              - Có.
              - Bao nhiêu?
              - Năm cân!
              Hắn bỏ đi ngay.
              Từ khi hỏi cho đến khi đi, hắn không thèm nhìn khách đến nửa con mắt.
              Thư Hương nhìn theo hắn và cười mũi :
              - Coi bộ hách dịch dữ vậy?
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Mình đến ăn chứ không phải đến để... kết giao bằng hữu.
              Thư Hương nói :
              - Nhưng ít nhất hắn cũng phải hỏi xem mình ăn cái gì chứ?
              Lữ Ngọc Hồ nói :
              - Hỏi như thế là thừa, ở đây “độc món” mà.
              Thư Hương cười.
              Nàng nhìn quanh và thắc mắc :
              - Đèn đâu có tốn bao nhiêu so với việc buôn bán phồn thịnh như thế này, tại sao lại hà tiện quá vậy cà?
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Đâu phải hà tiện, trăm cái đèn nữa hắn cũng không tiếc, nhưng phải như thế này, chỗ sáng quá thì có thể hắn sẽ không bán được như thế này đâu.
              Thư Hương hỏi :
              - Tại sao kỳ vậy?
              Lữ Ngọc Hồ cười :
              - Cô không làm sao hiểu được, có lẽ cần phải nhìn lâu...
              * * * * *
              Nhiều chỗ có bàn mà ánh sáng vẫn không bò tới.
              Những chỗ không có bàn, lại càng tối nhiều hơn nữa.
              Thư Hương ngẩng mặt dòm quanh, nàng thấy phía trong tối thui trước mặt, có nhiều bóng người thấp thoáng.
              Nơi đó, rất khó phân biệt màu áo của họ, càng không thể nhận ra mặt họ.
              Không thấy rõ mặt nhưng mắt thì thấy, có nhiều cặp mắt long lanh rình rập, y như những cặp mắt mèo rình chuột.
              Thư Hương ngạc nhiên :
              - Đám người đó làm gì ở đó?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Buôn bán.
              Thư Hương càng ngạc nhiên hơn :
              - Buôn bán? Buôn bán cái gì ở đó?
              Lữ Ngọc Hồ đáp :
              - Bán cái thứ mà không cần ra ánh sáng.
              Ngẫm nghĩ hồi lâu, Thư Hương gật gật đầu tỏ ra hiểu biết nhưng không biết nàng biết thật hay biết giả.
              Chỗ vùng bóng tối đó, có đàn ông mà cũng có đàn bà.
              Những người đàn bà đứng trong bóng tối đó để buôn bán cái gì?
              À, bây giờ thì nàng đã biết rồi.
              Thư Hương vội quay mặt về hướng khác, hướng có ánh sáng nhiều hơn.
              Nàng không muốn nhìn vào chỗ bóng tối có đàn ông đàn bà “buôn bán” đó nữa.
              Giá như thời gian trước đây, nhất là lúc nàng còn ở nhà, thấy cái cảnh đó, chắc chắn nàng đã bĩu môi và không chừng nàng còn nhổ thêm một bãi nước bọt nữa là khác, thế nhưng bây giờ thì không.
              Nàng chỉ quay qua hướng khác và chầm chậm thở dài.
              Nàng đã biết về những người đàn bà đó.
              Không phải nàng quen với họ, nhưng tình cảnh của họ nàng không lạ lắm.
              Có thể họ đi vào nghề đó bằng nhiều con đường khác nhau, có con đường bất đắc dĩ, có con đường bị cưỡng bách mà cũng có con đường... tự nguyện.
              Nhưng bất cứ con đường nào, hiện tại của họ vẫn là đau khổ và tương lai của họ thật tối tăm...
              Nàng không tán đồng nhưng cũng không khinh ghét.
              Nàng không muốn nhìn lâu vào sinh hoạt của họ.
              Nàng nhìn qua phía bên này.
              Bên đây đủ các hạng người.
              Có giầu mà cũng có nghèo, giang hồ cũng có mà nông phu cũng có.
              Thật không nơi nào... bình dân bằng các quán ăn, nhất là quán ăn “Bảy Rưởi” này.
              Ở đây, không ai giống ai, từ dáng cách cho đến đồng tiền, thân thế, nhưng họ đều giống nhau một điểm: thức ăn và rượu.
              Thức ăn có thể nhiều hơn hay ít hơn, rượu cũng có thể nhiều hơn hay ít hơn, nhưng nhất định chỉ là một thứ nhiều hay ít, không biểu lộ được sự hơn kém, đến đây thì mọi người ai cũng như ai.
              Ở đây bàn ghế giống nhau, thức ăn và rượu giống nhau, sự tiếp rước cũng không phân biệt, vì thế, thực khách đến đây là đã mặc nhiên chấp nhận tư cách “sàng sàng” đó, không chịu thì xin... đi chỗ khác.
              Không một ai có tiếng phàn nàn.
              Khách đông, thức ăn mang đến chậm, không một ai thúc hối.
              Thực khách đến đây là đã quen biết quá rồi. Vả lại, ở đây bán về đêm, những ai đến đây cũng đều không gấp.
              Về đêm, nhất là đêm về khuya, gấp thì không đến.
              Thư Hương nhìn quanh, nàng chú ý không một ai có vẻ nôn nóng cả.
              Hình như họ đến đây vừa ăn uống vừa... giết thì giờ.
              Nghĩ đến “giết thì giờ” nàng mới chú ý đến chỗ khoáng khoát ở đây.
              Đất trống và rộng, ban ngày có thể không đẹp, nhưng ban đêm thật mát, thật thoáng.
              Nếu có người bực dọc vì gian nhà ẩm thấp của mình, hoặc bực dọc vì tâm tình thì thật không có chỗ nào “xả” cái bực dọc đó bằng ở chỗ này.
              Phải quan sát, nhận xét khá đầy đủ khung cảnh ở đây như thế rồi thì thức ăn mới tới, như vậy “trong khi chờ”, thực khách sẽ có được một cái thủ “thưởng cảnh” bất đắc dĩ nhưng lại khá hay ho...
              Bây giờ thì trước mặt đã có hai tô hơi bốc lên nghi ngút.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #37
                Hồi 33 : Một con người đáng phục

                Hủ tiếu vò viên thật nóng.
                Chỉ cần nóng thì dầu có dở cũng chẳng khó ăn.
                Thư Hương gắp một miếng cho vào miệng và nàng đặt đũa xuống nhìn chăm chăm vào mặt Lữ Ngọc Hồ.
                Chờ cho hắn “lùa” một hơi, nàng hỏi :
                - Anh bảo chỗ này nổi tiếng đây phải không?
                Lữ Ngọc Hồ vừa nhai vừa ậm ừ gụt gặt.
                Thư Hương gặn lại :
                - Nổi danh nhờ bán cái hủ tiếu vò viên này?
                Lữ Ngọc Hồ bưng tô lên húp và cũng ậm ừ gụt gặt.
                Thư Hương nhìn hắn húp sột sột và nàng lắc đầu thở ra :
                - Tôi thấy những người này đều có bịnh.
                Húp hết thứ nước trong tô, Lữ Ngọc Hồ mới chịu buông đũa, ngẩng mặt lên :
                - Ai?
                Thư Hương nói :
                - Những người đến ăn ở đây nè.
                Lữ Ngọc Hồ chép chép như đang ngon miệng lắm và hắn lắc đầu :
                - Không có bịnh.
                Thư Hương hỏi :
                - Còn người này?
                Lữ Ngọc Hồ nhìn theo ánh mắt của nàng, hắn thấy người đàn ông ngồi đối diện.
                Người đó vận y phục màu xanh bằng thứ hàng xem thật dầy nhưng lại thật mịn, chứng tỏ hắn thuộc dân sang.
                Hắn không lớn tuổi lắm, nhưng con người xem ra đạo mạo uy nghi, chỉ cần nhìn vào gương mặt đó, bất cứ ai cũng không thể khinh lờn, mặt dầu hắn đang ngồi trên chiếc bàn xiêu vẹo.
                Thư Hương nói :
                - Hắn là con người có địa vị.
                Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
                - Và địa vị không thể thấp.
                Thư Hương nói :
                - Nếu hắn muốn ăn thức ăn gì, có thể sang hơn, khó kiếm hơn và ăn ở tại nhà thì nhất định cũng sẽ có người đem đến tận nhà.
                Lữ Ngọc Hồ gật đầu :
                - Bất cứ giờ nào cũng có.
                Thư Hương nói :
                - Vậy mà hắn vẫn cứ đến đây? Nếu hắn không “bịnh” thì hắn không làm cái chuyện ngông như thế.
                Lữ Ngọc Hồ nhấp nhấp chén rượu trên môi, lần thứ nhất, Thư Hương mới thấy hắn uống chậm và hắn thở dài :
                - Cô có biết tịch mịch là gì không?
                Thư Hương đáp :
                - Tự nhiên là biết, nhưng biết nghĩa của nó và chính tôi cũng đã thưởng thức nó nhiều rồi.
                Lữ Ngọc Hồ hỏi :
                - Cô “tịch mịch” như thế nào?
                Thư Hương nói :
                - Tôi ngồi một mình nghĩ lung tung, nghĩ chuyện này chuyện khác, nghĩ chuyện ăn chơi, chuyện tìm người để nói chuyện.
                Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
                - Đó không phải là tịch mịch.
                Thư Hương cau mặt :
                - Chớ như thế nào mới gọi là tịch mịch?
                Lữ Ngọc Hồ trầm ngâm :
                - Cái của cô là một mình trong chỗ vắng, có thể là cái buồn chớ không phải là tịch mịch. Nếu lúc đó cô gặp cảnh tưng bừng, náo nhiệt thì cô sẽ vui ngay. Con người tịch mịch thì không như thế, đó là loại người mang nặng cô đơn, nó là thứ tâm tình vằng vặc bởi sự trống không, thiếu thốn, mất mát và hiu quạnh... Những con người như thế, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, cho dầu chung quanh tưng bừng náo nhiệt, lòng họ cũng vẫn là một khoảng trống mênh mông.
                Thư Hương im lặng ngồi nghe...
                Giọng của Lữ Ngọc Hồ trầm trầm :
                - Cô cứ thử tưởng tượng một con người đã chứng kiến, trải qua quá nhiều sự việc, bỗng không họ cảm thấy tất cả đều trở thành quá khứ; có người đã được thật nhiều, nắm trong tay thật nhiều, bỗng chợt thấy tất cả đều hư ảo, một khoảng trống mênh mông hiện lên trong lòng họ... nhất là những đêm dài thức trắng...
                Thư Hương chớp mắt, nàng nhìn sững Lữ Ngọc Hồ.
                Nàng bỗng thấy con người này không đơn giản như người ta đã nghĩ.
                Và nàng nhăn mặt :
                - Những khi như thế, tại sao anh không để cho tư tưởng của mình nghĩ về những chuyện vui hơn?
                Câu nói thốt ra rồi nàng mới giật mình. Thật ra, nhìn vào vẻ mặt, lắng nghe giọng nói, nàng thấy như hắn đang kể lễ tâm sự của mình chứ không phải nói về người khác. Nàng nghe như thế và đoán chừng như thế, nhưng đó cũng chỉ là nàng nghĩ, còn hỏi hắn thì đáng lý nàng không thể hỏi trực tiếp như thế...
                Nhưng hình như Lữ Ngọc Hồ không để ý, hắn nói :
                - Cái thống khổ nhất của loài người là mãi mãi không bao giờ khống chế nổi tình cảm của mình như thế, cho dầu cô có vận dụng trí tưởng tượng nghĩ đến những chuyện thích thú hơn nhưng không khi nào làm được, những cái thống khổ bi thương có nhiều sức mạnh vạn năng...
                Thư Hương cười :
                - Có phải sự thống khổ thật sự hay là... những thứ ấy chỉ do cảm giác của mình?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Ban đầu tôi cũng nghĩ như cô, tôi nghĩ có những con người giàu tưởng tượng rồi tự mình làm khổ cho mình, nhưng đến khi thực sự có cảm giác ấy rồi...
                Hắn cười thật thê lương :
                - Đến bấy giờ cô có cảm giác như thế, nghĩa là đến bao giờ cô nhận ra sự tịch mịch của lòng mình, chừng đó cô mới thấy rằng nó là thực tế chớ không phải do giàu tưởng tượng... Và chừng đó cô mới thấy chỉ có cách giữa đêm tìm những chỗ như thế này để uống rượu một mình...
                Trầm ngâm một lúc Thư Hương nói :
                - Cho dầu hắn quả thật sợ sự tịch mịch đi nữa thì cũng không cần phải đến chỗ này một mình như thế.
                Lữ Ngọc Hồ nhướng mắt :
                - Không cần phải một mình?
                Thư Hương gật đầu :
                - Ít ra hắn cũng nên tìm một người bạn.
                Lữ Ngọc Hồ lắc đầu :
                - Vô ích.
                Thư Hương hỏi :
                - Sao anh bảo là vô ích?
                Lữ Ngọc Hồ nói :
                - Một người bạn có thể gặp nhau một đôi ngày, năm bảy tháng, đôi ba năm, không một người bạn nào có thể cùng mình đến... bạc đầu.
                Hai tiếng “bạc đầu” làm cho Thư Hương giựt mình, nàng lại nhìn sững Lữ Ngọc Hồ, nàng đã biết hắn muốn nói gì...
                Và nàng vụt nói :
                - Anh nói làm tôi nhớ đến một chỗ và một người...
                Lữ Ngọc Hồ hỏi :
                - Ai?
                Thư Hương đáp :
                - Trương Hảo Nhi, đáng lý người đó...
                Nàng đưa mắt về phía người áo xanh ngồi một mình và nói tiếp :
                - Đáng lý người đó nên tìm một chỗ như thế...
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Có thể... và con người đó chắc cũng đã có đến rồi, không phải đến một lần mà đến rất nhiều lần, nhưng cô không biết, những chỗ đó cũng chỉ nhất thời thôi, con người tịch mịch có khi ngay lúc đến đó, ngay lúc cùng với người đẹp vui cười, ngoài mặt thì vui, nhưng trong lòng thì một nổi buồn man mác nổi lên... sự tịch mịch lại đến ngay trong lúc vui cười.
                Thư Hương nói :
                - Chính vì thế mà hắn bằng lòng chọn cách này, chọn cách ngồi một mình uống rượu trong một khung cảnh cũng... tịch mịch.
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Nhưng cũng không phải những kẻ đến đây vì nguyên nhân như thế cả, nó còn có những người vì không thể đến một chỗ sáng sủa hơn, cũng có thể có người cảm thấy chỗ này thật thích thú...
                Thư Hương nhướng mắt :
                - Còn có người thấy chỗ này thích thú à?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Tự nhiên, chính tôi cũng cảm thấy chỗ này khá lắm...
                Thư Hương hỏi :
                - Anh thấy chỗ này có những gì tốt nào?
                Lữ Ngọc Hồ đáp :
                - Chỗ này có thể không có gì thích thú, thức ăn và rượu cũng không ngon, nhưng nó có một không khí đặc biệt, không khí đó tìm nơi khác không có.
                Thư Hương hỏi :
                - Không khí gì?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Cái đó tùy từng tâm trạng mỗi người, nó là một chuyện mà không giải thích được, chẳng hạn như con người có bộ óc nhỏ, khác với con vật có bộ óc lớn...
                Thư Hương vụt nhóng mình lên...
                Câu nói của Lữ Ngọc Hồ làm cho nàng sực nhớ... Đại Đầu Quỷ.
                Không hiểu tại sao, nàng bỗng nghĩ rằng hắn có thể đến đây.
                Nàng suýt bật cười.
                Nàng nghĩ thầm, dầu sao thì mình cũng nên đi tìm hắn. Tìm hắn để làm gì thì thật nàng không ý thức rõ ràng, nàng chỉ cảm thấy... nên làm như thế.
                Nàng cắn môi ngó xuống mặt bàn...
                “Kệ xác hắn, cho dầu suốt đời hắn không đến tìm mình, cho dầu hắn chết bờ chết bụi cũng kệ xác hắn”.
                Nàng bật cười thành tiếng.
                Lữ Ngọc Hồ hỏi :
                - Cô cười gì vậy?
                Thư Hương không biết trả lời làm sao...
                Bỗng không nàng lại nghĩ đến hắn, rồi bỗng không nàng lại nhớ hắn, thật là kỳ cục.
                Không hiểu tại sao, có nhiều lúc cứ thấy mặt hắn là nàng bực, nhưng khi không có hắn, khi nghĩ về hắn, nàng vừa tưng tức mà cũng vừa thấy vui vui...
                Lữ Ngọc Hồ nhìn chầm chập vào mặt nàng :
                - Cô đang nghĩ gì thế?
                Thư Hương không trả lời được, nàng chớp chớp mắt hỏi :
                - Anh đang nghĩ gì thế?
                Lữ Ngọc Hồ trả lời ngay :
                - Tôi đang nghĩ về hắn.
                Thư Hương giật mình :
                - Ai?
                Lữ Ngọc Hồ đáp :
                - Cái người mà tôi đã nói với cô là tôi phục đó.
                Thư Hương hỏi :
                - Cái người từ trên nóc nhà thò tay xuống đó à?
                Lữ Ngọc Hồ gật gật đầu...
                Thư Hương hỏi :
                - Tại sao anh phục người dữ vậy?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Tại vì tôi không bằng hắn.
                Thư Hương nói :
                - Chắc gì người ấy đến đây?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Tôi chắc.
                Thư Hương hỏi :
                - Căn cứ vào đâu mà anh chắc thế?
                Lữ Ngọc Hồ nheo nheo mắt :
                - Căn cứ vào sự có mặt của hắn tại đây.
                Thư Hương nhóng mình lên :
                - Đâu?
                Lữ Ngọc Hồ nói :
                - Cô quay mặt lại xem.
                Thư Hương quay mặt lại.
                Cái nàng thấy trước nhất là Trương... Óc Mít.
                * * * * *
                Hắn có chết thành tro, nàng cũng nhận ra hắn như thường.
                Cái đầu lơn lớn, cái mặt tròn tròn, nước da trăng trắng, cái miệng ngậm lại thì như chưởi cha thiên hạ, nhưng khi cười thì y như cho thiên hạ... ngàn vàng.
                Thư Hương bỗng thấy hình như hắn có thay đổi. Không, ngàn đời hắn cũng không thay đổi, nhưng không hiểu tại sao, nàng bỗng thấy hắn có vẻ... dễ coi hơn.
                Nàng chợt thấy trong lòng nổi lên một cái gì thích thú, ấm áp, khoan khoái lạ lùng... Cái cảm giá của một con người đánh mất vật gì quí giá và bây giờ bỗng tìm lại được...
                Thiếu chút nữa thì nàng đã nhảy lên gọi hắn.
                Thế nhưng nàng quay trở lại không thèm nhìn hắn, nàng hất hất mặt lên.
                Hắn đang nói chuyện với người khác.
                Nàng bỗng cảm thấy hình như trong lòng hắn bây giờ, bất cứ người nào trên mặt đất này cũng đều quan trọng hơn nàng.
                Nàng đâm tức.
                Nàng không buồn vì nàng đang giận, giận xanh mặt.
                Làm như cứ hể thấy nàng là hắn phải chạy lại mừng tíu tít thì nàng mới chịu vậy.
                Lữ Ngọc Hồ mỉm cười :
                - Bây giờ thì cô chắc phải biết hắn là ai rồi?
                Thư Hương vùng vằng :
                - Tôi chỉ biết rằng anh thấy quỷ, Đại Đầu Quỷ.
                Nhưng rồi nàng lại hỏi :
                - Người mà anh phục nhất là hắn đấy à?
                Lữ Ngọc Hồ gật gật.
                Thư Hương hỏi :
                - Người thò tay từ trên nóc nhà xuống cứu anh là hắn?
                Lữ Ngọc Hồ đáp :
                - Cũng là người đã đắp tấm chăn bông cho cô hôm tôi say rượu.
                Thư Hương đỏ mặt :
                - Như... như vậy là anh thấy?
                Lữ Ngọc Hồ nói :
                - Tôi đã nói với cô mà tại cô quên, tôi say rượu thật, say dử lắm, nhưng không khi nào tôi điên cả. Và nhất là không khi nào tôi bị mê mang.
                Thư Hương trừng trừng :
                - Anh và hắn quen với nhau lâu rồi không phải?
                Lữ Ngọc Hồ đáp :
                - Không quen với hắn thì làm sao tôi lại phục hắn được.
                Hắn cười cười nói tiếp :
                - Một con người mà làm cho cô có thể phục một cách thật tình là khi nào cô đã chung đụng với con người ấy thật lâu, phải chung đụng thật lâu, cô mới có thể thấy con người ấy như thế nào, nếu chỉ gặp phớt qua thì ngàn đời cũng không hiểu được.
                Thư Hương làm thinh...
                Nàng biết Lữ Ngọc Hồ không nói đùa.
                Và nàng cố nghĩ về tên... Đại Đầu Quỷ: hắn là người thế nào?
                * * * * *
                Con người của Trương Dị.
                Con người của hắn thì Thư Hương đã biết lâu rồi.
                Vì biết hắn rồi nên nàng luôn gọi hắn là Trương... Óc Mít và mới đây thì lại một cái tên nữa là Đại Đầu Quỷ.
                Tự nhiên là không có cái tên nào đẹp nổi, nàng cũng không nghĩ đẹp về hắn nổi.
                Hắn là con nhà thế phiệt võ lâm, không những thế, hắn còn là danh môn tử đệ, hơn nữa, hắn còn là người con trai độc nhất của Trương Tam Gia, nhà họ Trương của hắn có một gia tài ức vạn.
                Thế nhưng hắn lại không chịu hưởng cái phước đó.
                Bắt đầu từ lúc nhỏ là hắn đã đi hoang.
                Nói đi hoang thì không đúng lắm, vì cái lối đi của hắn cũng kỳ cục giống y như con người của hắn.
                Hắn không thọ giáo chánh thức một môn phái nào cả, hắn học rất nhiều thầy và những ông thầy này sau đó đều trở thành bằng hữu của hắn.
                Tửu quán, lầu xanh, sòng bạc, chỗ nào hắn cũng xứng đáng là... chuyên gia.
                Có một bận nghe nói hắn say luôn mười bảy ngày đêm trong kỹ viện, nếu tính cái số rượu của hắn uống trong mấy ngày đó, có thể ngâm ngập đến ba người.
                Nhưng có lúc hắn lại giam mình trong chùa để làm bạn... cùng Hòa thượng, những lúc như thế, không biết vì hắn muốn “xả hơi” hay vì đã ăn năn sám hối tội lỗi của mình.
                Hắn không từ bất cứ mọi việc làm hoặc chọc ghẹo nào cho chúng ghét, nhưng cũng tuyệt đối không làm một chuyện nào để được người ta khen là phải.
                Người ta bảo vì cái đầu của hắn lớn nên da mặt của hắn thật dầy.
                Ai muốn nói gì về hắn thì cứ nói, hắn lờ đi như kẻ lãng tai.
                Nàng hiểu về hắn thật nhiều, nàng đã nghe “danh” của hắn từ lúc nhỏ, vì hai nhà vốn là chỗ thế giao.
                Thế nhưng bây giờ nàng bỗng nhận thấy hình như nàng không hiểu gì về hắn cả.
                Nàng nghĩ có lẽ nàng nhìn hắn chưa rõ lắm...
                Nàng trừng trừng mắt nhìn về phía hắn...
                Hắn đang đứng nói chuyện với mấy người, hắn nói thật nhỏ, dáng sắc có vẻ như bí mật.
                Con người của hắn càng nhìn càng thấy lạ, hình như hắn luôn luôn bí mật.
                Không hiểu cái tên “Dị” của hắn có từ bao giờ, không biết có trước hay có sau khi người ta phát hiện ra cái “dị” của hắn.
                Cái người đang nói chuyện với hắn vốn ngồi ở đó với bốn năm người khác, nhưng không hiểu những người kia đi từ lúc nào, bây giờ bàn đó chỉ còn có một người khi Trương Dị tới.
                Con người ngồi nói chuyện với Trương Dị hình như ăn uống thuộc vào hạng mạnh, chồng tô không trước mặt hắn cao gần ngang mũi hắn.
                Lúc Trương Dị tới thì hắn đang còn ăn một tô lở dở, hắn buông đũa đứng dậy chào, thái độ của hắn có phần kính trọng.
                Thư Hương bỗng cảm thấy hình như ngoài nàng ra, ai ai đối với hắn cũng đều kính trọng.
                Nhưng hắn nói chuyện gì thế?
                Hắn nói cái gì mà cứ rù rì không dứt?
                Bực quá, Thư Hương nhổm dậy kêu lớn :
                - Trương Dị, đi qua đây một chút cũng không được nữa hả?
                Đúng là kỳ cục, không gọi thì chờ, có gọi thì cũng phải gọi sao dễ nghe một chút, có đâu lại cọc cằn như thế?
                Nhưng không hiểu tại sao, không khi nào Thư Hương có thể nói được với hắn dịu dàng như nói với bao nhiêu người khác, làm như lúc nào nàng cũng không ưa nổi cái bản mặt của hắn vậy.
                Trương Dị ngẩng lên, hình như hắn hơi cau mặt...
                Không biết hắn nói cái gì với người ngồi chung bàn hắn, người đó cười cười đứng dậy đi ra.
                Hắn đi khập khểnh.
                À, cái tên ngồi chung với Trương Dị què chân.
                Hắn vừa ốm vừa xốc xếch, dáng hắn nghèo xơ.
                Hèn gì mà hắn ăn tợn quá.
                Chắc hắn đã đói mấy ngày rồi.
                Thư Hương bỉu bĩu môi :
                - Không biết tại sao hắn lại giao thiệp với hạng người như thế?
                Trương Dị đã tới bên bàn, hắn nói :
                - Sao? Cô có quen với hắn à?
                Thư Hương hất mặt :
                - Ai mà quen với hắn.
                Trương Dị hỏi chậm chậm :
                - Đã không biết thì làm sao cô biết hắn là hạng người nào?
                Thư Hương hơi khựng, nhưng vẫn gân cổ :
                - Thứ đó ai mà chẳng biết, bộ ngon lành lắm sao?
                Trương Dị nói :
                - Cũng không ngon lành gì, nhưng nếu hắn ngồi nói chuyện với tôi ba đêm ba ngày, tôi cũng ngồi nói được với hắn.
                Thư Hương đâm cáu, nàng gắt :
                - Bộ hắn nói chuyện hay lắm hả?
                Trương Dị đáp :
                - Không hay, nhưng rất đáng nghe.
                Và hắn chậm rãi nói tiếp :
                - Những lời nói đáng nghe, thường thường thì không hay lắm.
                Thư Hương quả đã bực quá mức, nàng hất hất mặt :
                - Gì mà đáng nghe dữ vậy? Bộ hắn chỉ chỗ có gái đẹp phải không?
                Lữ Ngọc Hồ bật cười.
                Thư Hương quay lại sừng sộ luôn :
                - Cười cái gì?
                Lữ Ngọc Hồ đáp :
                - Tôi cười các người.
                Thư Hương lườm mắt :
                - Các người? Các người nào?
                Lữ Ngọc Hồ đáp :
                - Hắn với cô.
                Hắn cười cười nói tiếp :
                - Khi chưa gặp thì ai hình như cũng đều mong nhớ, mà cứ gặp là như...
                Thư Hương trừng mắt :
                - Tôi là tôi, hắn là hắn, đánh một trăm roi cũng không ai thèm ở chung...
                Trương Dị vụt cười :
                - Trăm roi không được thì hai trăm.
                Thư Hương lừ mắt :
                - Trăm roi đập lên đầu anh, đập lên đầu... quỷ!
                Nói xong câu đó, mặt nàng vụt đỏ lên, không hiểu tại sao nàng bỗng gọi hắn là anh.
                Cũng không lạ, chẳng lẽ trước mặt Lữ Ngọc Hồ mà không giữ lịch sự một chút sao?
                Đó là một cách giải thích nhưng thật sự thì mặc dầu vẫn gây song nàng nghe trong bụng không ghét hắn như trước nữa, nàng nghe trong bụng vui vui...
                Và bây giờ thì nàng bỗng thấy chỗ đèn tối như thế mà hay hay, giá như đèn sáng để lộ cái mặt đỏ bừng cho tên... Đại Đầu Quỷ ngó thấy chắc là... xấu hổ vô cùng.
                Tên tiểu nhị le te đi lại, cái bộ mặt hất hất lạnh băng của hắn không biết bây giờ đâu mất, hắn cười với Trương Dị thật là thân thiết :
                - Bữa nay dùng chi đây?
                Trương Dị đáp :
                - Tính coi.
                Tên tiểu nhị cười hề hề :
                - Y như trước đi he.
                Trương Dị gật gật đầu :
                - Cũng được.
                Tên tiểu nhị hay háy mắt :
                - Rượu chớ?
                Trương Dị lắc đầu :
                - Bữa nay bận chút việc.
                Tên tiểu nhị cười :
                - In ít chút, một cân thôi.
                Hắn lại vòng tay khom mình, đối với Trương Dị coi bộ hắn rất vồn vã và thân thiết.
                Thư Hương nhướng nhướng mắt :
                - Khéo làm bộ hỏi, làm như đây còn nhiều thức ăn lắm vậy?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Ai nói không có? Người khác thì hết hủ tiếu vò viên đến vò viên hủ tiếu, chớ với Trương thiếu gia thì còn nữa chớ, chẳng hạn như xí quách, khô mực...
                Thư Hương hỏi :
                - Quán gì lại bán người vầy người khác thế?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Tại vì mỗi người đều khác nhau, chẳng hạn như người thì mập, người thì hơi ốm...
                Thư Hương chồm lên :
                - Ai ốm? Ai ốm?
                Lữ Ngọc Hồ cười :
                - Không ốm thì mập, thì giống nhau...
                Thư Hương đỏ mặt, nàng hứ một cái rồi ngoảnh mặt qua hướng khác...
                Trương Dị vụt nói :
                - Không phải muốn hỏi chơi đâu, hắn muốn nghe tôi nói đó.
                Thư Hương quay lại :
                - Nghe anh nói cái gì? Bộ anh nói nghe hay lắm hả?
                Trương Dị nói lững lơ :
                - Có nhiều người nói rằng giọng nói của tôi dễ nghe lắm, khá lắm, thật cô không để ý à?
                Thư Hương vụt ôm bụng khom mình, làm như sửa soạn để cười cho đã...
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #38
                  Hồi 34 : Giàu bạn hơn giàu đất

                  Thấy dáng cách của Thư Hương, Lữ Ngọc Hồ cũng bật cười.
                  Thư Hương vụt ngẩng mặt lên trừng hắn :
                  - Cười cái gì?
                  Lữ Ngọc Hồ cười :
                  - Tôi chợt nhớ một câu nói, câu nói này không những thú vị mà lại còn có lý hết sức.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Câu gì?
                  Lữ Ngọc Hồ nói :
                  - Một người con gái mà thường làm bộ ngúng nguẩy trước mặt ai, thì cô ta đã khoái anh ta rồi đấy.
                  Thư Hương nhổm dậy bĩu môi :
                  - Mốc xì, ai nói nói vậy?
                  Lữ Ngọc Hồ đáp :
                  - Trương Dị.
                  Hắn cười cười nói tiếp :
                  - Trương Dị, ngoài Trương Dị ra không ai có thể nói một câu như thế.
                  Thư Hương trề trề môi :
                  - Có chứ, còn có một người nói nữa chớ.
                  Lữ Ngọc Hồ hỏi :
                  - Ai?
                  Thư Hương vừa nói vừa gập mình xuống cười :
                  - Trư Bát Giới!
                  * * * * *
                  Mới nói đến “Trư” là có heo ngay.
                  Tiểu nhị bưng thức ăn đã đến, lần này có món giò heo.
                  Không có nạc, chỉ có da, gân sụn, món này ăn thật ngon.
                  Thư Hương ngó tên tiểu nhị :
                  - Cái này ở đâu có?
                  Tên tiểu nhị đáp :
                  - Trong nồi.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Tại sao hồi nãy không dọn lên?
                  Tiểu nhị đáp :
                  - Bởi vì cô nương không phải Trương Đại Ca.
                  Hắn không để Thư Hương hỏi nữa, trả lời chưa dứt câu là hắn bỏ đi luôn.
                  Giá như tên tiểu nhị là gái và nhất là đừng có dính mở đầy mặt, nhất định Thư Hương đã kéo lại “dạy” cho hắn một trận, chỉ tiếc là hắn là đàn ông và áo hắn quá nhiều lớp mở nên nàng chỉ đành lấy mắt nhìn hắn trừng trừng.
                  Thật là lạ, không hiểu tại sao cái tên Đại Đầu Quỷ này đến chỗ nào coi bộ người ta cũng đều khoản đãi hắn, Thư Hương nghĩ hoài mà nghĩ không ra...
                  Hồi lâu nàng hỏi :
                  - Hồi nẫy tên tiểu nhị gọi anh là gì thế? Trương Đại Ca phải không?
                  Trương Dị đáp :
                  - In hình là như vậy.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Hắn là anh em với anh à?
                  Trương Dị rùn vai :
                  - Được không?
                  Thư Hương nói :
                  - Sao lại không được, chỗ nào có người là chỗ đó anh có bằng hữu, có anh em.
                  Lữ Ngọc Hồ vụt nói :
                  - Nhưng nhớ phải thật là người, đó là điều trọng yếu, bởi vì có một số người vốn không phải là người.
                  Thư Hương hất mặt :
                  - Anh cũng là anh em của hắn?
                  Lữ Ngọc Hồ rùn vai :
                  - Được không?
                  Thư Hương nói :
                  - Sao không được, vì giọng nói của anh nghe rất giống hắn, giá như cái đầu của anh lớn một chút thì giống con hắn lắm nghe.
                  Lữ Ngọc Hồ nói :
                  - Tôi nghe còn có một người giọng điệu còn giống hắn nữa đó.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Ai?
                  Lữ Ngọc Hồ vừa đáp, vừa né sang hướng khác :
                  - Cô!
                  Quả thật, Thư Hương rút đũa...
                  Lữ Ngọc Hồ né ngang sau lưng Trương Dị, Thư Hương chồm tới giáng cho hắn một đôi đũa, hắn thụp xuống và đôi đũa trúng đầu Trương Dị.
                  Lữ Ngọc Hồ ôm bụng cười lăn...
                  Trên đời có nhiều người có một dáng cách rất đặc biệt, y như là... bịnh truyền nhiễm.
                  Chỉ cần sống chung với họ một thời gian ngắn là y như có rất nhiều người giống họ ngay.
                  Thư Hương chợt phát giác quả thật mình đã có nhiều điểm biến đổi, lời lẽ không giống như trước nữa.
                  Nàng còn đang suy nghĩ về sự thay đổi ấy thì chợt thấy phía trước, trong bóng tối có nhiều bóng người đi tới.
                  Dẩn đầu là một người đi... khấp khểnh.
                  Thư Hương hắt mặt :
                  - Thằng cha què đó cũng là anh em của anh phải không?
                  Trương Dị đáp :
                  - Hắn không phải “Thằng Cha Què”, vì từ trước đến giờ không ai gọi hắn như thế cả.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Chớ gọi hắn là gì?
                  Trương Dị đáp :
                  - Ngô Bán Thành!
                  Thư Hương hỏi :
                  - Tên gì lạ vậy?
                  Trương Dị đáp :
                  - Trước hắn tên là Ngô Bất Khả, tên Ngô Bán Thành là lúc người ta gọi sau này.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Tại sao lại sửa tên hắn?
                  Trương Dị đáp :
                  - Bởi vì đất trong thành này hết phân nửa là của hắn.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Hiện bây giờ?
                  Trương Dị đáp :
                  - Bây giờ thì hắn chỉ còn có mỗi khoảng này.
                  Thư Hương ngạc nhiên :
                  - Đất trống này của hắn?
                  Trương Dị gật đầu.
                  Thư Hương nhướng mắt :
                  - Hắn đã nghèo xác nghèo xơ như thế thì tại sao không lấy khoảng đất này lại để làm chỗ sinh nhai?
                  Trương Dị đáp :
                  - Bởi vì hắn sợ lấy khoảng đất này lại thì sẽ không có chuyện buôn bán như thế này, mà nếu không có thì tối hắn sẽ không có chỗ đi.
                  Thư Hương nhún vai :
                  - Bởi thế cho nên hắn đành chịu nghèo để lấy mắt nhìn người ta làm ăn trên đất của mình.
                  Trương Dị lắc đầu :
                  - Hắn không nghèo.
                  Thư Hương lại nhún vai :
                  - Cở đó mà còn gọi là không nghèo thì thiên hạ chắc là chẳng có ai nghèo.
                  Trương Dị nói :
                  - Tuy hắn đã đem đất gần nửa thành bán hết, nhưng đổi lại, hắn có hơn nửa thành bằng hữu. Vì thế, cái tên Ngô Bán Thành nằm trong ý nghĩa sau này.
                  Lữ Ngọc Hồ nói :
                  - Vì thế cho nên hắn thuộc về hạng giầu mà không phải giầu vì có vạn ức.
                  Thư Hương làm thinh.
                  Trên đời có khá nhiều người xem bằng hữu còn hơn điền sản, có nhiều bằng hữu, họ vui sướng hơn là nằm trên một đống vàng.
                  Thư Hương thở ra :
                  - Nếu thế thì hắn đúng là một... quái nhân.
                  Trương Dị nói :
                  - Bởi vì hắn là quái nhân, cho nên thường thường tôi được nghe từ cửa miệng của hắn nhiều tin quái dị.
                  Thư Hương sáng mắt lên :
                  - Hôm nay lại có tin quái dị phải không?
                  Con người của nàng thật đúng là háo kỳ, đã gặp những chuyện nghĩ muốn gần nát óc, thế mà nghe tin quái dị là phăng ngay.
                  Trương Dị nói :
                  - Thường thường có đông bằng hữu là có nhiều tin tức.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Nhưng hôm nay thì anh đã nghe được tin gì?
                  Trương Dị đáp :
                  - Hắn cho tôi biết là bên ngoài thành này có một cái chùa.
                  Thư Hương thở ra :
                  - Hay quá, tin tức thật là lạ quá ha! Hứ, chán đời, cả heo cũng còn biết chùa chớ đừng nói chi người. Làm như chùa là thứ mà chưa ai nghe thấy vậy.
                  Trương Dị làm như không nghe, cứ nói tiếp :
                  - Hắn còn cho biết trong chùa có ba Hòa thượng...
                  Thư Hương càng thất vọng :
                  - Đúng là tin con cà con kê, chùa không ăn cướp, chùa thì có Hòa thượng chớ không lẽ để cho... què ở? Xí, vậy mà cũng gọi là tin lạ.
                  Trương Dị cười :
                  - Hắn nói chùa vốn có ba nhà sư, nhưng hôm nay bỗng kéo đến mấy mươi hòa thượng nữa, mà không phải hòa thượng cũ, toàn là hòa thượng “mới toanh”.
                  Mắt Thư Hương vụt ngời, nàng chồm tới :
                  - Cái chùa đó ở đâu?
                  Trương Dị nói giọng lờ đờ :
                  - Cái tin đó heo cũng còn biết mà sao cô hỏi dữ vậy? Chẳng lẽ cô hổng bằng...
                  Hắn nín ngang, vì hắn sợ cô ta nổi nóng.
                  Thế nhưng Thư Hương không nổi nóng, trái lại, vẻ mặt thật vui, nàng cười :
                  - Ai nói tin tức đó heo cũng biết thì người đó là... heo.
                  Nàng nói một câu kèm theo cả một sự hứng thú, y như bắt được vật lạ. Đã có ngôi chùa, lại bỗng đến mấy mươi hòa thượng “mới”, thì nhất định đó là hòa thượng trong sòng bạc.
                  Và đã là Hòa thượng sòng bạc thì nhất định trong đó có Kim Râu.
                  Chỉ cần kiếm được Kim Râu, kiếm được số hòa thượng “sòng bạc” đó thì những bí mật đó sẽ được chứng minh.
                  Chỉ cần chứng minh được chuyện đó thì sẽ chứng minh rằng Đa Sự hòa thượng không phải do Lữ Ngọc Hồ giết chết.
                  Cái chìa khóa âm mưu đó hiện tại nhất định ở ngay ngôi chùa mà họ vừa nói tới.
                  Chính Lữ Ngọc Hồ cũng nôn, hắn nói :
                  - Ngôi chùa đó ở đâu?
                  Trương Dị đáp :
                  - Ở phía ngoài cửa thành phía bắc.
                  Lữ Ngọc Hồ hỏi :
                  - Có gần cửa thành không?
                  Trương Dị đáp :
                  - Rất gần.
                  Thư Hương đứng phắt lên :
                  - Vậy thì chờ gì nữa mà không đi?
                  Trương Dị nói :
                  - Khoan, đợi một chút.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Đợi gì?
                  Trương Dị đáp :
                  - Đợi một con người đáng đợi.
                  Thư Hương cau mặt :
                  - Nếu mình mà không nhanh, lỡ đám hòa thượng đó chạy mất hết rồi thì sao?
                  Trương Dị đáp :
                  - Chạy mất thì cũng phải chịu chớ biết làm sao bây giờ?
                  Thư Hương cau có :
                  - Chớ tại sao không chịu đi ngay mà còn đợi?
                  Trương Dị đáp :
                  - Không đợi không được...
                  Thư Hương hỏi :
                  - Trọng yếu lắm hay sao mà phải mất thì giờ như thế?
                  Trương Dị gật đầu.
                  Thư Hương ngồi trở xuống, nàng lại bắt đầu khó chịu.
                  Nhưng như không thể làm thinh nổi, nàng hỏi :
                  - Họ đưa tin tức quan trọng nữa à?
                  Trương Dị gật gật.
                  Thư Hương trừng hắn :
                  - Mà tin tức gì mới được chứ?
                  Trương Dị ư ư trong miệng và nâng chén lên nốc một hơi...
                  Hình như hắn không muốn trả lời...
                  Lữ Ngọc Hồ cười :
                  - Xem chừng tửu lượng của anh dạo này bết quá rồi đó nhe.
                  Trương Dị cũng cười cười :
                  - Cũng có hơi hơi “xuống”, nhưng vẫn còn đủ để đổ cho anh bò vậy...
                  Lữ Ngọc Hồ cười lớn :
                  - Đừng có nói tướng, lúc nào kiếm một chỗ đi, thử coi ai bò là biết.
                  Trương Dị nhướng nhướng mắt :
                  - Nhớ bận ở Hương Đào Quán không? Mỗi người một chén Trúc Diệp Thanh đó...
                  Đúng là chán, trong hoàn cảnh này mà hai người còn ở đó nói chuyện “năm xưa”, Thư Hương vừa giận vừa tức, nàng đập mạnh tay xuống mặt bàn nói lớn :
                  - Hai người đã quen nhau từ trước, thế tại sao lại không nói cho tôi biết chớ?
                  Trương Dị hỏi :
                  - Nhưng tại sao lại cứ phải cho cô biết?
                  Lữ Ngọc Hồ cười :
                  - Chúng tôi quen biết rất nhiều người, không lẽ cứ quen với ai cũng đều báo cáo với cô hết sao? Mà nếu muốn thế thì chắc cũng phải mất ít nhất là ba ngày ba đêm.
                  Thư Hương gần phát run.
                  Cái bọn đàn ông thật là đáng ghét, mới tối hôm qua đây, họ còn làm bộ không biết nhau, họ làm nàng mắc mưu của họ, họ làm như cố giăng cái bẫy cho nàng xụp xuống chơi, thế nhưng lối nói “đấm họng” của họ làm cho nàng không làm sao cải lại...
                  Thư Hương chợt nhớ Đào Liễu...
                  Cái con a đầu này lẻo mép lắm, giá như có nó nhất định không ai có thể lấn át được nàng...
                  Nhưng không biết cái con tử a đầu đó bây giờ ở đâu?
                  Trong cơn đương tức tối, Thư Hương đập tay xuống bàn, quắc mắt nói :
                  - Người của tôi đâu? Trả lại cho tôi.
                  Trương Dị nhướng nhướng mắt :
                  - Cô nói cái gì thế?
                  Thư Hương lừ mắt :
                  - Dụ dẩn con a đầu của tôi đi rồi bây giờ còn làm bộ hả?
                  Trương Dị cau mặt :
                  - Tôi dụ dẩn cô ta đi bao giờ?
                  Thư Hương lớn tiếng :
                  - Hôm qua, lúc anh từ sòng bạc đi ra thì nó theo anh...
                  Trương Dị hỏi :
                  - Sao cô lại để cho cô ấy tự tiện đi một mình như thế?
                  Thư Hương hơi lúng túng, nàng nói :
                  - Ai biết... ai làm sao nó được...
                  Trương Dị làm thinh, vẻ mắt hắn có vẻ hơi lo...
                  Nhìn vào bộ mặt hắn, Thư Hương biết hắn không đùa, nàng hỏi :
                  - Chớ anh không thấy nó sao?
                  Trương Dị lắc đầu...
                  Tay chân của Thư Hương phát lạnh ngang...
                  Nàng lo lắng hỏi :
                  - Hay là nó đã bị... bị người bắt rồi?
                  Nàng chợt nhớ Lưu tiên sinh, tay chân nàng càng lạnh...
                  Cứ nghĩ đến nếu không may mà Đào Liễu lại lọt vào tay bọn ác ma đó...
                  Thư Hương không dám nghĩ nữa, nàng cắn răng đứng dậy.
                  Trương Dị hỏi :
                  - Cô tính đi à?
                  Thư Hương gật đầu :
                  - Tôi đi tìm Đào Liễu.
                  Trương Dị hỏi :
                  - Kiếm ở đâu?
                  Thư Hương đáp :
                  - Trở lại chỗ Trương Hảo Nhi và sau đó nếu không có thì đến chỗ Vương đại nương...
                  Trương Dị hỏi :
                  - Cứ cho rằng cô ta có ở đó thật đi, nhưng rồi cô làm sao?
                  Thư Hương khựng ngang.
                  Nàng nóng lòng vì sự an nguy cho Đào Liễu, nàng đâm liều. Nhưng khi nghe Trương Dị hỏi gặn là nàng nhớ lại...
                  Lưu tiên sinh, Trương Hảo Nhi và Vương đại nương, không một người nào để nàng được yên thân, nàng không đỡ nổi một ngón tay của họ, chứ đừng nói chuyện cứu được Đào Liễu.
                  Cứ hể nhớ tới Lưu tiên sinh là Thư Hương nghe như có một con rắn bò luồn trong xương sống.
                  Trương Dị nói :
                  - Tôi thấy tốt hơn hết là cô nên ngồi xuống đó cho được chuyện.
                  Thư Hương tức quá la lớn :
                  - Mà tôi hỏi anh đợi cho đến bao giờ?
                  Trương Dị chậm rãi :
                  - Đợi đến bao giờ người ấy tới.
                  Thư Hương hỏi :
                  - Nếu người ta không tới thì sao?
                  Trương Dị đáp :
                  - Đợi hoài.
                  Thư Hương tức run, nàng hỏi như hét vào tai hắn :
                  - Bộ ông nội anh sao mà anh chu đáo dữ vậy?
                  Phía sau lưng nàng có tiếng trả lời :
                  - Bà mà làm sao làm ông được?
                  Giọng nói hơi thấp và không được trong, nhưng mang theo một âm hưởng dự cảm lạ lùng.
                  Giọng nói của đàn bà mà chính đàn bà cũng vẫn bị hấp lực đó lôi cuốn và Thư Hương quay đầu lại.
                  Nàng thấy ngay một người đàn bà.
                  Trong đời nàng, nàng chưa từng thấy một người đàn bà nào như thế.
                  * * * * *
                  Ánh đèn chiếu đến chỗ đó, đã trở thành một màu bịnh hoạn.
                  Nhưng chỗ đó vụt sáng lên rạng rỡ khi có mặt người thiếu phụ trung niên.
                  Sau câu nói đầu, bà ta đứng làm thinh, bất động.
                  Trên vẻ mặt không lộ một thứ tình cảm nào, thân người đứng thẳng và im lìm làm cho người nhìn có cảm giác như là một pho tượng.
                  Thế nhưng không hiểu tại sao, khi Thư Hương nhìn lại nàng vẫn thấy bà ta đang nói, không phải nói bằng miệng mà nói bằng khí sắc, nàng mường tượng như tất cả những bộ phận trên người bà ta, chỗ nào cũng có thể nói thành lời.
                  Nhất là đôi mắt, đôi mắt đã không mở rộng mà lại hơi khép lại, thứ mắt của một người ngủ vừa mới thức, thế nhưng khi nhìn vào đôi mắt đó, bất cứ ai cũng có thể “nghe thấy” như đang nói lên cho người đối diện những gì tịch mịch, những gì thê lương thống khổ nhất của cuộc đời.
                  Bất luận nhìn thấy một người nào như thế, không ai không cảm thông sâu sắc, mặc dầu chưa biết được cụ thể tâm tư của con người ấy ra sao.
                  Thế nhưng khi muốn thân cận với con người ấy, bất cứ ai cũng bỗng thấy như mình đang đứng cách một cái bóng thật xa xôi...
                  Người ta sẽ chợt thấy bàng hoàng khi tiếp xúc với con người ấy, sự bàng hoàng giống như mình thấy một cái gì đẹp quá, thích quá, tha thiết quá, nhưng đó là cái gặp trong giấc mộng, mơ hồ, phiêu diêu, chập chờn, sát ở bên mình mà cũng cách xa mấy từng mây...
                  Đó là người đàn bà, người thiếu phụ trung niên vừa tới.
                  * * * * *
                  Thư Hương đã từng thấy nhiều người đàn bà đẹp, kể cả Trương Hảo Nhi, nhưng nàng chưa hề thấy được người đàn bà nào như thế.
                  Phong tư của Trương Hảo Nhi thật ít có người nào sánh kịp, thế nhưng đứng trước mặt người đàn bà này, cô ta sẽ biến thành một cô gái thô kệch quê mùa.
                  Như vậy Trương Dị đang đợi người đàn bà này.
                  Thư Hương cắn môi xao xuyến.
                  Nàng công nhận người đàn bà này thật đáng để cho người ta chiêm ngưởng, nếu ai có hẹn thì, hơn tất cả những gì quan trọng khác, hơn cả với sanh mạng của mình, quả thật đây là một người đáng đợi.
                  Đây là một giá trị chót vót, giá trị chờ đợi vượt lên tất cả sự chờ đợi nào ở trên thế gian này.
                  Nhưng Thư Hương lại có một ý nghĩ... không bằng lòng.
                  Đàn bà là cái giống kỳ cục nhất trên đời.
                  Nếu trên đời này có quái vật thì đàn bà là một quái vật dị hợm nhất.
                  Họ biết nhìn cái đẹp, họ biết thấy sự hơn kém, họ biết họ không bằng một góc của người ta, thế nhưng họ vẫn có thể xí xô, bĩu môi, hứ hé, họ có thể nói “cái thứ” đó là đồ bỏ, trong khi họ không hiểu “cái thứ” đó là thứ gì? Họ không hiểu tại sao lại là “đồ bỏ”.
                  Dưới con mắt của đàn bà, thì đàn bà là đồ bỏ hết, chỉ trừ có mỗi một người, đó là người nói ra câu nói ấy.
                  Người ta đã nói rằng: “Đôi mắt của đàn bà là cặp kính chiếu yêu và tất cả đàn bà đều là yêu quái”.
                  Sở dĩ không một người nào tự chê mình, là vì cặp kính “chiếu yêu” đó gắn trên mặt họ, giá như có thể lấy ra chiếu ngược trở lại, họ cũng sẽ kêu lên rằng chính họ cũng là... yêu quái.
                  Người ta đã nói rằng khi một người không bao giờ thấy được cái xấu của đàn bà, thì hãy cầu viện ngay cặp mắt của đàn bà. Khi một con người chưa từng biết đố kỵ là gì thì cũng hãy mau mau cầu viện sự “giúp đỡ” của đàn bà.
                  Người ta bảo rằng sở dĩ nhân loại biết nói tiếng “chê” tiếng “xấu”, sở dĩ nhân loại biết “trề môi”, nháy nguýt, biết “vung trôn”, “hất đít” là cũng đều nhờ có đàn bà.
                  Người ta bảo đàn bà là giống vật có thính giác tinh vi nhất, thính giác đó biết “lọc” tiếng này trở thành một tiếng khác thật tài tình, chẳng hạn như khi có người khen họ đẹp, thính giác của họ “lọc” ngay tiếng đó ra thành tiếng “thật là con người dễ thương, đáng mến”, nhưng nếu có người khen một người đàn bà nào khác thì lập tức thính giác của họ sẽ “lọc” “đồ chúa ngục, đồ ăn cám xú, đồ ngu”.
                  Người ta nói rằng tất cả nghệ sĩ trên thế gian này nhập lại cũng không bằng một sợi lông chân của đàn bà, vì đàn bà là nhân vật “sáng tác” dồi dào nhất, khi có đức hạnh tốt đứng trước mặt họ thì họ lập tức “sáng tác” ra ngay cái xấu của người đàn bà ấy, nghĩa là nếu mình thấy một người đàn bà nào đó, đẹp cả sắc lẩn tâm hồn, nhưng mình muốn tìm một chỗ xấu của người đàn bà thì cứ thỉnh một người đàn bà khác đến, họ sẽ chỉ ngay cái xấu đó cho mình ngó thấy, họ chỉ rõ một cách hết sức... dễ dàng.
                  Chính vì thế cho nên người ta mới dặn nhau rằng, đừng bao giờ dại dột khen một người đàn bà trước mặt một người đàn bà khác, nếu người đàn bà đối diện với mình là người yêu, hay vợ của mình cho dầu mình khen một cách vô tư.
                  Vì đối với đàn bà, mình khen người khác một câu: “Chà, con người đó thật là hiền dịu”, thì người đàn bà đối diện với mình sẽ “nghe rằng: cô là một con người hung ác... hư thân mất nết”.
                  Và bây giờ thì Thư Hương đang hầm hầm...
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #39
                    Hồi 35 : Giai nhân và rượu

                    Thư Hương vẫn phải công nhận đó là một người đàn bà quả thật đáng đợi.
                    Một người đàn bà quả thật đáng nhìn.
                    Thế nhưng nàng vẫn cứ cắn môi cúi gầm mặt xuống.
                    Trương Dị và Lữ Ngọc Hồ cứ nhìn chăm chăm vào mặt người đàn bà đó.
                    Bà ta nâng cái chén đang đặt trước mặt Trương Dị, và Lữ Ngọc Hồ lật đật cầm bầu rót vào chén bà ta.
                    Người thiếu phụ nâng chén lên uống cạn.
                    Chỉ uống một hơi.
                    Uống rất nhanh.
                    Đàn bà đáng lý không nên uống như thế.
                    Thế nhưng người đàn bà đó uống, không ai ngó thấy đó là cử chỉ thô lỗ mà lại còn thấy cả một cung cách tao nhã, phong lưu.
                    Chỉ cần nhìn vào cung cách đó của người thiếu phụ, người ta đã nghe ngây ngất.
                    Có lẽ vì bà ta đẹp quá.
                    Không phải vẻ đẹp sắc sảo, mà là cái đẹp của chiều sâu, cộng với số tuổi, người ta không thấy cái đẹp “ồn ào”, người ta không phân tách được cái đẹp đó vì người ta đang say đắm.
                    Người thiếu phụ uống luôn một hơi sáu chén đầy rồi bà ta mới ngẩng mặt lên nhìn Thư Hương bằng cái mỉm cười.
                    Nhìn vào đôi má ửng hồng, màu da pha men rượu của người thiếu phụ, người ta bỗng cảm nghe con người của mình phiêu phiêu y như đang trôi theo mây vào chốn non tiên.
                    Thư Hương ngẩng mặt nhìn mấy vì sao nhấp nhánh trên trời.
                    Nàng không biết những vì sao sáng hay đôi mắt bà ta quá sáng.
                    Người thiếu phụ cạn chén rượu thứ mười.
                    Thư Hương lại cắn môi và nàng bật nói :
                    - Ở đây, người ta đang chờ đợi...
                    Người thiếu phụ đáp lời vẫn bằng một cái cười... mê mẩn...
                    Cố tình không nhìn bà ta nữa, Thư Hương nói bằng một giọng lạnh lùng :
                    - Bao giờ mới nói, còn những điều trọng yếu phải làm ngay.
                    Trương Dị mỉm cười điềm đạm :
                    - Khi rượu còn chưa đủ, Vương tam nương chưa thích nói.
                    Vương tam nương?
                    Vương đại nương?
                    Hai cái tên tương tự, giá như bình thường chắc Thư Hương hỏi ngay về chuyện đó, bây giờ tâm tình của nàng đang nôn nóng, nàng không chú ý cái tên, nàng hỏi :
                    - Bao giờ thì mới đủ?
                    Bây giờ thì người thiếu phụ Vương tam nương mới chịu hé môi, bà ta cười :
                    - Bao giờ say mới đủ.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Say rồi thì còn nói những gì?
                    Tay nâng chén rượu, mắt Vương tam nương nhìn vào khoảng trống trước mắt, giọng bà ta bỗng như xa vắng :
                    - Cái ta nói vốn là những chuyện... say.
                    Thư Hương đã bất mãn, bây giờ càng bất mãn hơn nữa :
                    - Thật không ngờ lời nói của người say mà lại cũng có kẻ thích nghe.
                    Trương Dị cười :
                    - Hằng hà sa số thiên hạ, có ai mà không nói những lời say?
                    Vương tam nương lại cười, bà ta vỗ vỗ tay Trương Dị :
                    - Cậu được lắm, gần đây thật tôi chưa thấy người đàn ông nào như cậu, thảo nào mà lại chẳng có người ghen!
                    Thư Hương cố hết sức để dằn, thế nhưng vẫn phải hỏi :
                    - Ai ghen?
                    Vương tam nương không trả lời mà lại quay mặt qua phía có ánh sáng và hỏi lại :
                    - Cô nhìn xem mặt tôi đã có nhiều vết nhăn rồi chớ?
                    Ánh đèn thật là yếu ớt.
                    Thư Hương không nhìn rõ được vết nhăn trên mặt bà ta nhưng nàng vẫn thấy được thần sắc thật vô cùng tiều tụy, mệt mỏi...
                    Vương tam nương lại nói :
                    - “Người đẹp dưới ánh đèn”... bất cứ người đàn bà nào ở dưới ánh đèn cũng đều được trẻ thêm đôi chút.
                    Thư Hương nghiêm mặt :
                    - Sao?
                    Vương tam nương điềm đạm mỉm cười :
                    - Người đàn bà đến một cái tuổi như tôi, thế mà có lúc cũng không tránh khỏi ghen, huống chi cô nương còn quá trẻ.
                    Thư Hương hất mặt lên :
                    - Bà đang nói những lời say đó chớ?
                    Vương tam nương nhè nhẹ thở ra :
                    - Lời say thường thường là lời thật, chỉ tiếc là thế nhân lại không thích nghe những lời say.
                    Trương Dị nói :
                    - Tôi rất thích nghe.
                    Ánh mắt long lanh của Vương tam nương lướt qua mặt hắn :
                    - Những lời mà cậu nghe vốn không phải là lời giả.
                    Trương Dị hình như có hơi đổi sắc, hắn nói :
                    - Tam Nương vốn biết là không phải giả.
                    Vương tam nương gật gật đầu nhưng lại làm thinh.
                    Trương Dị cũng làm thinh, đôi mắt hắn như sửng sốt, một lúc lâu hắn nói :
                    - Đa tạ.
                    Vương tam nương nói :
                    - Sau này chắc chắn cậu sẽ có cơ hội để tạ tôi, bây giờ thì...
                    Bà ta vụt quay qua phía Thư Hương và mỉm cười :
                    - Các vị cũng nên đi, đừng để vị tiểu muội muội đây đợi đến nôn nóng... Người đàn ông nếu để đàn bà đợi thì không phải đàn ông tốt.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Nhưng nếu đàn bà để đàn ông đợi thì sao?
                    Vương tam nương đáp :
                    - Không có gì quan hệ, tuy nhiên...
                    Thấy bà ta không nói tiếp, Thư Hương hỏi :
                    - Tuy nhiên sao?
                    Ánh mắt của Vương tam nương lại hướng về xa, giọng bà ta cũng trầm trầm :
                    - Tuy nhiên, cô cũng nên nhớ rằng đàn ông họ không có tánh nhẫn nại giỏi, cho dầu cô có đáng để cho họ đợi, họ cũng không thể đợi lâu.
                    Thư Hương lặng thinh.
                    Môi nàng hơi máy động, hình như nàng đang nhai đi nhai lại câu nói mang nhiều chua xót ấy.
                    Trương Dị nói :
                    - Chúng tôi đi, còn Tam Nương thì sao?
                    Vương tam nương đáp :
                    - Tôi ở lại đây, vì tôi còn uống rượu.
                    Lữ Ngọc Hồ nói nhanh :
                    - Tôi sẽ hầu rượu với Tam Nương.
                    Vương tam nương hỏi :
                    - Tại sao lại muốn bồi rượu với tôi?
                    Lữ Ngọc Hồ thở ra :
                    - Bởi vì tôi rất biết mùi vị của kẻ uống rượu một mình.
                    Tự nhiên ai cũng biết mùi vị đó rất là khốn đốn...
                    Vương tam nương cười :
                    - Bất cứ một mùi vị như thế nào, quen rồi thì cũng chẳng sao, cậu đi đi, không cần phải bồi bạn cùng tôi.
                    Bà ta cũng nâng chén lên.
                    Dáng cách chậm chạp như uể oải.
                    Không hiểu sao, không khí chợt có khí vị cô độc lạ lùng...
                    Bây giờ, cho dầu có hàng trăm hàng ngàn con người quanh đây, không khí vẫn là cô quạnh.
                    Trương Dị làm thinh, hắn đứng lên chầm chậm như uể oải và đưa tay vẫy vẫy về phía bóng tối, phía xa xa.
                    Từ trong bóng tối, chợt thấy một bóng người.
                    Không ai có thể thấy được bóng đó từ đâu tới, người ta chỉ thấy nơi con người của hắn phảng phất có cái gì đặc biệt, hình như hắn là con người của bóng tối, hắn có mặt trong bất cứ một bóng tối nào...
                    * * * * *
                    Bóng người lồ lộ trong bóng tối, nhưng y như hồn tan trong bóng tối.
                    Hình như bóng đó có nghiêng mình đối với Trương Dị nhưng hắn vẫn đứng y một chỗ.
                    Trương Dị quay lại nhìn người thiếu phụ :
                    - Tam Nương, tôi xin kính Tam Nương một chén.
                    Giọng nói của Vương tam nương trầm lắng :
                    - Chỉ mong rằng đây không phải là chén cuối cùng.
                    Trương Dị đáp :
                    - Tự nhiên là không phải.
                    Vương tam nương nâng chén lên uống cạn.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Chúng ta đi bây giờ?
                    Trương Dị gật đầu.
                    Thư Hương hết sức ngạc nhiên :
                    - Không nói chuyện sao?
                    Trương Dị đáp :
                    - Chuyện đã nói rồi.
                    Thư Hương càng ngạc nhiên hơn :
                    - Chỉ có nói thế thôi sao?
                    Trương Dị hình như có vẻ nặng nề, hắn lặng đi một lúc khá lâu rồi mới chậm rãi nói :
                    - Có lúc, người ta chỉ cần một câu, trong một câu chỉ cần một tiếng nhưng nó lại bằng thiên ngôn vạn ngữ...
                    Hắn chầm chậm đi về hướng bóng tối, hướng có người đang đứng.
                    Bóng người trong bóng tối vụt thoáng lên và y như một bóng ma, mất hút.
                    Trương Dị bước nhanh theo.
                    Lữ Ngọc Hồ và Thư Hương lật đật bước lên, họ cũng vội vàng đi vô bóng tối đã nuốt người kia.
                    Thật lâu, một lúc khá xa, Thư Hương mới quay đầu lại...
                    Vương tam nương vẫn ngồi một chỗ quay lưng về hướng bọn Trương Dị vừa đi, bà ta không nhìn theo, không nhúc nhích.
                    Thư Hương chỉ nhìn phía sau lưng của bà ta, tuy đã lớn tuổi, nhưng vóc người thật đẹp, tuy nhiên trong cái đẹp đó, nàng có cảm giác như cái lưng thon nhỏ của bà ta hơi khom xuống, phảng phất đang có một gánh nặng trên vai...
                    Phải chăng đó là cái gánh nặng của kiếp người?
                    Thư Hương chợt thấy trước mặt mình một bức tranh xơ xác, trong đó có một nhân vật cô đơn...
                    Trương Dị đang chờ phía trước.
                    Bóng tối phía trước, phảng phất có một bóng người, hình như đang dừng lại.
                    Thư Hương bước nhanh lên hỏi nhỏ :
                    - Làm gì cứ bám theo người đó vậy?
                    Trương Dị đáp :
                    - Hắn là kẻ dẫn đường.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Có phải người què chân đưa mình đến ngôi chùa đó không?
                    Trương Dị đáp :
                    - Không phải người què, đó là Ngô Bán Thành.
                    Thư Hương nhún nhún vai :
                    - Anh giao du rộng quá, không ngờ lại kết bạn với hạng người như thế ấy?
                    Trương Dị hỏi :
                    - Hạng người nào?
                    Thư Hương đáp :
                    - Tôi thấy khinh công của người đó khá cao.
                    Trương Dị hỏi :
                    - Gì nữa?
                    Thư Hương đáp :
                    - Gì nữa? Không gì hết.
                    Trương Dị cười cười.
                    Hắn vụt đưa tay vẫn vẫy người phía trước.
                    Bóng người nhoáng lên, Trương Dị cũng nhoáng lên.
                    Hai người vừa sát vào nhau, Thư Hương nhìn thấy hình như Trương Dị có nói gì với người đó, nhưng nhỏ quá mà cũng nhanh quá, vì nàng chỉ thấy “hình như” hắn nói thì bóng người đó đã lướt phớt qua sát bên nàng, y như một luồng gió nhẹ.
                    Trương Dị cũng quay trở lại mỉm cười.
                    Thư Hương cau mặt :
                    - Làm cái trò gì vậy?
                    Trương Dị đáp :
                    - Đâu có trò gì, tôi chỉ muốn cho cô biết hắn là hạng người nào vậy thôi.
                    Thư Hương nói :
                    - Biết cái gì mà biết? Tại sao anh không bảo hắn đứng lại trước mặt tôi? Bây giờ tôi biết cái gì về hắn? Biết hắn như... hơi gió đấy chớ biết cái gì. Cái mặt hắn trắng hay đen tôi cũng không biết nữa là...
                    Trương Dị nói :
                    - Mặt hắn thì không có gì đáng coi, nếu cần thì cô nên nhìn chỗ khác.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Chỗ nào?
                    Trương Dị đáp :
                    - Chẳng hạn như... tay của hắn.
                    Thư Hương trề môi :
                    - Tay của hắn thì có gì mà xem? Chẳng lẽ đầu ngón tay của hắn rẽ ra nhiều nhánh?
                    Trương Dị cười :
                    - Giá như thế thì hắn đã được gọi là quái nhân rồi còn gì? Không có đâu, chẳng qua tay hắn hơi dài...
                    Hắn ngưng một chút rồi lại cười :
                    - Trong người cô có rơi cái gì không vậy?
                    Thư Hương dòm lại mình rồi nói :
                    - Không...
                    Trương Dị gặn lại :
                    - Không thật à?
                    Thư Hương cười :
                    - Có cái gì trong mình nữa đâu mà rơi với rớt?
                    Trương Dị hỏi :
                    - Trong mình không có nhưng trên đầu thì chắc có?
                    Thư Hương nói :
                    - Càng không có...
                    Nàng không nói hết câu vì nàng chợt thấy tóc mình xõa xuống bờ vai...
                    Tóc nàng vốn đã được buộc gọn lên bằng một giải lụa màu hồng, bây giờ lại xõa xuống và giải lụa không biết rơi đâu mất!
                    Thư Hương sửng sốt...
                    Chẳng lẽ chỉ xẹt phớt ngang như gió mà hắn lại có đủ thì giờ mở được giải lụa của mình?
                    Không phải ngủ, càng không phải mê, làm gì hắn mở giải lụa mà nàng không biết?
                    Nhất định nếu hắn lấy thì hắn phải mở chứ không giựt ngang được, vì nàng buộc tóc rất chắc, phải mở mới lấy được, giựt ngang cũng có thể vuột ra đàng ngọn, nhưng nếu như thế thì nàng chắc chắn phải hay, chỉ xẹt qua nàng không thấy rõ bóng mà hắn mở ra được như thế thì quả... hắn có tài!
                    Trương Dị cười :
                    - Bây giờ thì chắc cô đã biết hắn là người như thế nào rồi chớ?
                    Thư Hương bĩu môi :
                    - Thật không ngờ bằng hữu của anh lại có đến ba tay!
                    Trương Dị cười :
                    - Đâu chỉ ba, mười ba đó chớ.
                    Thư Hương tuy trong bụng nàng đã phục tài, nhưng ngoài miệng nàng vẫn nói :
                    - Cho là mười ba tay đi, nhưng bất quá cũng chỉ là tên... ăn cắp.
                    Trương Dị hỏi :
                    - Ăn cắp cở đó đã gặp được mấy người?
                    Thư Hương lại trề môi :
                    - Chưa gặp, cũng may mà không gặp.
                    Nàng vừa nói vừa liếc lén về phía trước, người đó đã đứng y chỗ cũ như đợi chờ...
                    Hắn đứng im lìm, như chưa bao giờ xê dịch.
                    Thư Hương chớp chớp mắt :
                    - Có thể gọi hắn lại cho tôi xem rõ hắn không?
                    Trương Dị đáp :
                    - Ăn cắp mà có gì để xem?
                    Thư Hương nói :
                    - Xem... coi hắn có mấy tay mà.
                    Trương Dị nói :
                    - Tay hắn không thấy được đâu mà xem mất công.
                    Thư Hương bĩu môi :
                    - Vậy thì xem hắn được không?
                    Trương Dị đáp :
                    - Lại càng không được.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Tại sao không được?
                    Trương Dị đáp :
                    - Không ai có thể thấy được mặt hắn.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Còn anh? Anh có thấy không?
                    Trương Dị đáp :
                    - Tự nhiên là có.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Tại sao anh thấy được mà người khác không thấy được?
                    Trương Dị đáp :
                    - Tại vì hắn là bằng hữu của tôi.
                    Thư Hương hỏi :
                    - Ngoài cái loại ăn cắp ăn trộm, què chân què cẳng ra, anh còn có thứ bạn nào khác nữa không?
                    Trương Dị lắc đầu :
                    - Không.
                    Thư Hương bật cười :
                    - Rồng chơi với rồng, cọp chơi với cọp, còn chuột nhắt thì chơi với thứ... đào hang, câu nói đó tôi nghe lâu rồi, thật quả là đúng hết sức!
                    Trương Dị nói :
                    - Tôi còn có một thứ bạn nữa, nói ra sợ cô cười đến văng răng...
                    Thư Hương hỏi :
                    - Thứ nào?
                    Trương Dị nói :
                    - Đây là bạn gái, cái hay của cô ta là chỉ có cái tài gây họa, còn ngoài ra thì không có làm chuyện gì nên thân cả.
                    Thư Hương lừ mắt :
                    - Thây kệ người ta...
                    * * * * *
                    Đúng là chuyện đã làm cho Thư Hương giận muốn bể bụng luôn.
                    Trước khi gặp Trương Dị, nàng chưa từng biết một con người, người khác chọc tức mà có thể chết được là thế nào.
                    Có ai nói như thế, nhất định nàng cũng không tin.
                    Nàng bảo, không có chuyện gì phải tức như thế cả.
                    Nhưng từ ngày gặp Trương Dị, nàng cứ bị tức mãi, tức đến mức muốn bỏ cơm luôn.
                    Bây giờ thì nàng lại càng tức hơn nữa, tức đến nghe đầu óc, trong bụng như người bị trúng thực.
                    Nàng không hiểu tại sao hắn lại luôn luôn như thế? Làm như trời sanh hắn ra để chuyên chọc tức thiên hạ chơi thôi chứ không biết chuyện gì khác cả.
                    Nhưng càng tức nữa chớ, bất cứ đối với ai khác, hắn đều tỏ ra rất thân thiện, rất lễ độ, chỉ riêng đối với nàng là hắn luôn luôn như thế.
                    Càng tức chết được là nàng nói hắn đến tệ mạt, nói đến như đào đất chôn hắn xuống, nói đến mức mà chính nàng cũng đâm ra hơi ngại miệng, vậy mà hắn không khi nào tức cả.
                    Nói cách nào hắn cũng lờ lờ, càng nói tệ thì hắn lại càng móc lại, mà khi hắn móc lại là nàng càng... tức.
                    Chẳng hạn nàng nói hắn là heo, thì hắn cười, hắn nói: “heo thì là heo, có sao đâu, chỉ có người mà cứ đi nói chuyện với heo thì mới quả là không biết... con gì?”
                    Cứ như thế là nàng đâm... tức.
                    * * * * *
                    Kể ra thì cũng đáng tức.
                    Thường thường đàn bà mới dễ làm cho đàn ông tức, luôn làm cho đàn ông tức.
                    Hầu hết đàn ông, đã cứ phải đỏ mặt tía tai vì sự chọc tức của đàn bà, nhiều người đàn ông đã phải đập bàn, đạp ghế, có người còn phải đấm vào ngực mình đến sưng lên, cũng chỉ vì tức nơi đàn bà.
                    Vì vậy, các cô thường hay nói rằng đàn ông sanh ra là để cho đàn bà chọc tức.
                    Nhưng bây giờ thì cô con gái Thư Hương đang lộn gan, lộn mật.
                    Cũng may là nàng không hề giận ai lâu, cho nên có tức ai, nàng không tức đến mãn đời.
                    Nhất là đối với Trương Dị, nàng chỉ tức chớ không hề giận.
                    Đã không giận thì chuyện tức cũng chỉ trong thoáng chốc, nếu có đổi không khí, thay đổi hoàn cảnh thì bao nhiêu cái tức đó sẽ tiêu tan ngay.
                    Và bây giờ thì nàng đã hết tức rồi, nàng đang bận nghĩ chuyện khác, vì nàng thấy chuyện khác...
                    * * * * *
                    Chuyện đó là “Thập Tam Chích Thủ” Ngô Bán Thành vừa tới triền núi là vụt vút mình lên.
                    Hắn chỉ nhóng lên một cái là mất biệt.
                    Triền núi.
                    Bên trái là cánh rừng thật rậm.
                    Ngôi chùa dựng lên trong cánh rừng rậm đó.
                    Ánh đèn lờ mờ, dưới mái ngói cong vút, thấy có ba chữ “Phàn Âm tự” thật lớn óng ánh màu kim nhủ.
                    “Thập Tam Chích Thủ” mất ngay trước cổng chùa.
                    Đêm đã về khuya, nhưng trong đại điện đèn thắp sáng choang trông thật rực rỡ.
                    Ánh sáng thì rực rỡ, nhưng không khí thật u trầm.
                    Ánh sáng bên trong vẫn không rọi thấu khoảng quanh sân, quanh sân tường cao cao, chỉ thấy mờ mờ đục đục của sương đêm, nhưng không chắc có phải sương đêm hay là khói.
                    Một màu đặc mờ vàng vọt nặng nề.
                    Thư Hương thở ra.
                    Hình như nàng sanh ra vốn đã không hạp với cảnh chùa.
                    Cứ mỗi bận gặp chùa, nhất là về đêm thì nàng có một cảm giác hết sức lạ lùng.
                    Nàng cứ mường tượng cảnh chùa giống như cảnh chết, nàng tưởng tượng như thấy quan tài, thấy linh vị, thấy áo tang...
                    Tiếng mỏ hòa trong tiếng kệ, nàng cảm nghe như tiếng khóc rên rỉ, nàng không hiểu tiếng khóc với tiếng kinh nó có dính líu với nhau không mà cứ mỗi bận nghe tiếng này là nàng liên tưởng ngay tiếng khóc.
                    Không khi nào nàng cảm thấy vui tai khi nghe thấy tiếng tụnh kinh. Và mỗi khi nghe tiếng khóc than ray rức là nàng liên tưởng đến tiếng chuông trầm nặng.
                    Nàng chỉ thích nghe tiếng cười chứ không muốn nghe tiếng khóc, nàng càng không thích nghe tiếng tụng kinh.
                    Cũng may là bây giờ, nơi đây, hoàn toàn không có một tiếng gì.

                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #40
                      Hồi 36 : Chút tình còn lại ngày xưa

                      Ở đời có những chuyện rất lạ lùng.
                      Người ta thường sợ tiếng gọi là “ma kêu”, “quỷ khóc”, nói chung là người ta rất sợ những tiếng động đầy vẻ bí mật, ma quái, nhưng có trường hợp không có một tiếng động gì cả thì cái sợ lại khủng khiếp hơn lên.
                      Ngôi chùa sừng sững, ánh sáng trong đại điện choang choang, thế nhưng toàn ngôi chùa, toàn cánh rừng, lặng im phăng phắc.
                      Không có một tiếng động của người, không có một tiếng chim, không nghe thấy tiếng côn trùng, đúng là... đất chết.
                      Đất chết cũng không phải là đáng sợ, vì bãi tha ma cũng là đất chết, nhưng ở đây không phải là bãi tha ma.
                      Ở đây là chùa, đã là chùa mà lại có đèn sáng tỏ, sáng như ban ngày, thế như lại là “đất chết”, cái đó mới đáng lạnh mình.
                      Thư Hương không biết đã lạnh đến mức nào, nhưng nàng nghe thấy da gà vụt nổi cục lôm chôm, chân lông dựng đứng.
                      Trương Dị chiếu đôi mắt ngời ngời nhìn thẳng vào cửa chùa như muốn xoi thủng từ đại điện ra tới hậu liêu.
                      Hình như hắn muốn thấy cái ẩn kín trong ánh sáng ngụy tạo ấy.
                      Lữ Ngọc Hồ đứng sau lưng Trương Dị, hắn đứng làm thinh, không nhìn vào ngôi chùa mà lại nhìn vào con người Trương Dị.
                      Hắn biết, bây giờ thì không cần quan sát nơi đâu cả, không cần quan sát nhưng vẫn biết được không sót một cái gì, lành hay dữ, nguy hiểm hay không, tất cả đều có thể thấy như bật ngửa bàn tay, chỉ cần đừng bỏ sót qua một cử chỉ nào của Trương Dị.
                      Có lẽ từ ngày quen biết với Trương Dị tới giờ, hắn đã quen dùng lối quan sát “ngoại vật” như thế ấy rồi.
                      Trương Dị nói :
                      - “Thập Tam Chích Thủ” đã trở ra.
                      Thư Hương quay qua, nhưng nàng vẫn không nghe một tiếng động nào chứng tỏ rằng có người đến gần bên.
                      Nhưng Lữ Ngọc Hồ thì khác.
                      Hắn bước xéo qua một bên, từ phía sau lưng của Trương Dị bây giờ hắn đứng về phía sau lưng của Thư Hương.
                      Trước mặt họ là sân chùa, sau lưng họ là những cây cổ thụ, tàng che kín mít, dọc qua bên trái và dẫn thẳng ra hậu viện là cánh rừng dầy kịt.
                      Ánh sáng từ trong đại điện chỉ hắt ra sân, sáng sát bên thềm, càng ra xa càng tối lần và khi mút khỏi sân thì chỉ thấy bóng người chớ không còn nhìn rõ mặt.
                      Từ trong bóng tối đó, có một người đang đứng.
                      Thư Hương hoàn toàn không nghe tiếng động, Lữ Ngọc Hồ có thay đổi chỗ đứng, nhưng không biết hắn có nghe thấy hay không. Riêng Trương Dị thì tự nhiên là phải biết. Không ai biết hắn biết bằng cách nào, không hiểu hắn thấy hay nghe.
                      Nhưng chắc chắn hắn biết bởi vì hắn đã nói.
                      Nói xong, hắn quay trở lại.
                      Hắn và Thập Tam Chích Thủ nhìn nhau.
                      Thập Tam Chích Thủ đứng yên, Trương Dị bước tới.
                      Thập Tam Chích Thủ lên tiếng trước :
                      - Chết hết!
                      Trương Dị lập lại và hỏi :
                      - Chết hết! Bao nhiêu?
                      Thập Tam Chích Thủ đáp :
                      - Đến bao nhiêu là chết bấy nhiêu.
                      Trương Dị hỏi :
                      - Dấu vết?
                      Thập Tam Chích Thủ đáp :
                      - Chôn chung vào một cái hầm rác phía sau.
                      Trương Dị hỏi :
                      - Hắn?
                      Thập Tam Chích Thủ đáp :
                      - Không thấy.
                      Trương Dị hỏi :
                      - Hắn đi đã bao lâu?
                      Thập Tam Chích Thủ đáp :
                      - Lâu nhất là tàn hai phần ngọn nến.
                      Trương Dị hỏi :
                      - Nến trong chùa đã cháy quá hai phần?
                      Thập Tam Chích Thủ gật đầu :
                      - Đúng.
                      Hai người lặng thinh.
                      Họ vẫn đứng đối diện với nhau.
                      Thật lâu, Trương Dị hỏi :
                      - Còn có thể thâu thập tin tức gì ở đây được nữa không?
                      Thập Tam Chích Thủ đáp :
                      - Ở đây thì không.
                      Trương Dị hỏi :
                      - Ở đâu?
                      Thập Tam Chích Thủ đáp :
                      - Bà chị.
                      Trương Dị nói :
                      - Đã đi rồi.
                      Thập Tam Chích Thủ hỏi :
                      - Đi đâu?
                      Trương Dị đáp :
                      - Cẩm Tú sơn trang.
                      Trầm ngâm một chút, Thập Tam Chích Thủ nói :
                      - Đến gặp ngay hắn.
                      Trần đại hiệp :
                      - Cần đến đâu cho tiện?
                      Thập Tam Chích Thủ đáp :
                      - Quán rượu Nam Thành.
                      Đưa mắt nhìn về phía Thư Hương, Thập Tam Chích Thủ nhích lên một bước, giọng hắn thấp xuống vừa đủ cho hai người nghe :
                      - Trừ hắn không khó, nhưng khó về Lữ Ngọc Hồ.
                      Trương Dị nói :
                      - Không khó.
                      Thập Tam Chích Thủ chớp mắt, nhưng hắn không hỏi, vì tTrương Dị đã nói tiếp :
                      - Chính hắn phải nói ra rồi sau đó là tự hắn nhận lấy.
                      Thập Tam Chích Thủ hỏi :
                      - Phải có người...
                      Trương Dị lắc đầu chận ngang :
                      - Có cách, nhưng anh phải đến Thiếu Lâm tự.
                      Thập Tam Chích Thủ nhướng mắt :
                      - Vô Sắc hòa thượng?
                      Trương Dị gật đầu :
                      - Đúng rồi.
                      Thập Tam Chích Thủ hỏi :
                      - Cũng ở chỗ...
                      Trương Dị đưa mắt liếc nhanh vào chùa và khẽ vẩy tay.
                      Thập Tam Chích Thủ nhún chân, bóng hắn khuất vào cánh rừng bên trái.
                      Câu chuyện của hai người, bất cứ ai nghe cũng ấm ức, người ấm ức hơn hết tự nhiên là Thư Hương.
                      Vì thế, khi Thập Tam Chích Thủ vừa khuất thì nàng hỏi ngay :
                      - Sao? Họ đâu?
                      Trương Dị hỏi lại :
                      - Họ nào?
                      Thư Hương đáp :
                      - Thì đám “Hòa thượng” của sòng bạc đó.
                      Trương Dị lững lơ :
                      - Chân họ mọc ra từ trong mình của họ thì chỉ có họ mới biết chân họ đi đâu.
                      Thư Hương bắt đầu tức :
                      - Tại sao không đi tìm?
                      Trương Dị hỏi :
                      - Tìm ở đâu?
                      Thư Hương vùng vằng :
                      - Thì đã đến đây thì đi vào chùa tìm chớ còn đi đâu nữa?
                      Trương Dị lại lơ lững :
                      - Đâu có ai biết chắc có họ trong đó đâu mà vô?
                      ThThư Hương gắt :
                      - Thì đã không biết chắc nên mới vô tìm.
                      Trương Dị hỏi :
                      - Ai vô?
                      Thư Hương phát cáu, nhưng thật thì nàng cũng không biết phải nói làm sao!
                      Nàng đâu có thể bảo ai vô, mà nàng cũng không dám đi vô, nàng đi vô, chắc chắn tuy sợ nhưng nàng cũng vẫn bấm gan đi vô, vì họ bảo nàng thì họ phải có trách nhiệm yểm trợ, đàng này họ không bảo thì nàng làm sao lại dám.
                      Lữ Ngọc Hồ vụt ôm bụng cười khan.
                      Thư Hương quay lại gắt :
                      - Cười cái gì?
                      Lữ Ngọc Hồ đáp :
                      - Khuya quá rồi nên bỗng nhớ một chuyện tức cười.
                      Thư Hương hỏi :
                      - Chuyện gì?
                      Lữ Ngọc Hồ đáp :
                      - Có người không thích ăn cơm nguội, nhưng cứ hể thức khuya thì cơm nguội cũng ngon.
                      Trương Dị vụt quay bước bỏ đi ra cổng.
                      Thư Hương hỏi :
                      - Đi đâu vậy?
                      Trương Dị đáp tỉnh bơ :
                      - Đi kiếm cơm nguội.
                      Thư Hương giận lắm, nhưng khi Trương Dị đi thì nàng biết Lữ Ngọc Hồ cũng sẽ đi, mà nàng thì không thích chuyện đi sau, vì thế nên đành phải... bận đi theo.
                      Vừa đi nàng vừa mở miệng muốn kêu hỏi Trương Dị coi tại sao lại có chuyện “đi đến rồi về” như thế này, nhưng kịp dừng lại không hỏi, vì nàng sực nhớ rằng đối với hắn, khi đã tức rồi thì đừng hỏi đừng nói gì nữa, vì càng nói thêm thì sẽ càng tức tối thêm lên.
                      Bây giờ thì nàng đã có nhiều... kinh nghiệm.
                      Càng bực càng tức người khác thì chính mình làm cho mình khốn đốn.
                      * * * * *
                      Lối tự xưng của người đời thường hay có vẻ khiêm cung, hình như đó là một lối thông thường, có nhiều người rất khoe khoang trong mọi hành động nhưng lời lẽ của họ cứ làm ra vẻ... nhún nhường.
                      Chẳng hạn như gọi người thì luôn luôn kèm theo tiếng “Quí”, còn tự xưng là nhất định cứ phải là “Tệ”, họ dùng riết rồi thành ra một thói quen, mặc dầu họ đang ngự trong một tòa nhà tráng lệ nguy nga, họ cũng cứ nói là “Tệ Xá” và mặc dầu họ biết chắc mẻm người ta đang chui rút trong ổ chuột, họ cũng cứ gọi là “Quí Phủ”.
                      Thế nhưng mọi người vẫn bằng lòng, chẳng những không một ai có cảm nghĩ đó là lối chửi cha thiên hạ, mà người ta lại còn cho rằng đó là một cái gì của mình thì lại khác, người ta đặt một cái tên thật kêu, mặc dầu cái của mình vốn là trống rổng.
                      Nhiều lúc thực tế lại “chửi cha” cái danh xưng, nhưng cũng không một ai tỏ vẻ phàn nàn.
                      Chỉ cần một vài bụi trúc, người ta đã có được một danh xưng là “Trúc Lâm”; qui tụ toàn những tay đạo sĩ cờ bạc dâm loàn, người ta cũng dám đề “Tam Thanh Tịnh Xá”, sơn son thiếp vàng hực hở.
                      Nhưng nếu ai đặt chân đến Cẩm Tú sơn trang, thì cũng đều nhận rằng cái danh xưng này không khoe khoang một chút nào cả, quả đúng là một chỗ... danh phù kỳ thức.
                      Dựa lưng bởi một giải núi không cao mà nhiều cổ thụ rừng cây xanh mướt kéo thành một vệt dưới chân trời như một tấm thảm nhung, phía trước dòng suối uốn quanh, nước trong thấy cát.
                      Cẩm Tú sơn trang chiếm một khu đất non non trăm mẩu, bước qua khỏi hai cây cầu hình cánh cung có vòng lan can đỏ chói là ngay cánh cổng và chung quanh là ba trượng tường cao.
                      Đó là Cẩm Tú sơn trang.
                      Nhưng nếu chỉ nhìn bên ngoài như thế không thôi, tuy cũng đã thấy cái vẻ nguy nga đồ sộ, song cũng chưa thấy hết cái gọi là “Cẩm Tú”, người ta đã phải chắc lưởi hít hà khi bước qua cánh cổng, khựng mắt khi thấy quang cảnh bên trong.
                      Cổng là hai trụ xây bằng đá xanh, từ khối vuông xéo không đều, đã được khắn liền nhau hai người ôm không giáp, trên cao khoảng năm trượng, nghĩa là cao gần bằng chiều đứng của vòng tường, một cái lầu canh luôn có người túc trực.
                      Vòng theo tường mà chu vi gần trăm mẫu đó, cứ cách khoảng chừng mười trượng là lại có một lầu canh và bốn phía tường đều có cổng giống nhau, không ai có thể biết đâu là cổng chánh.
                      Nhưng Cẩm Tú sơn trang tuy canh phòng nhiêm mật như thế, tuy rộng lớn mênh mông, vẫn không thể gọi là “Thành”.
                      Cái phân biệt đó là tất cả những cổng đều bỏ ngỏ.
                      Bất cứ đứng bên phía tường nào cũng đều nhìn thấy bên trong.
                      Cái lạ lùng hơn nữa là Cẩm Tú sơn trang không thấy hậu viện, hay nói đúng hơn là khách vừa bước vào không thể biết hậu viện ở hướng nào.
                      Bất cứ vào cổng nào, người ta cũng đều có cảm giác đó là tiền viện, phía nào cũng có sân rộng, cũng có vườn hoa, hồ sen và nhà thủy tạ, với hồ sen thơm ngát quanh năm.
                      Con suối bên ngoài, không biết là tự nhiên hay do công phu của người, con suối chạy vòng vào vườn hoa, thông đi bốn ngã, vì thế mà bất cứ bước vào cổng nào, người ta cũng đều thấy những cây cầu nho nhỏ có lan can đỏ chói và bên dưới là từng đàn cả nhởn nhơ.
                      Đừng kể đến tòa nhà đồ sộ, đừng kể đến ngôi lầu mái cao cong vút xinh xinh, chỉ cần bước vào khỏi cổng là người ta nhận ra ngay cái “Cẩm Tú” của tòa “Sơn Trang” đó.
                      Quang cảnh thật đồ sộ, nhưng lại rất im tịnh.
                      Im tịnh đến gần như không nghe thấy một tiếng động, nhất là khi màn đêm từ sau rặng núi vương ra phủ xuống.
                      * * * * *
                      Những lầu canh vắng ngắt.
                      Không ai dám nói là không có người, vì cả bốn cánh cổng về đêm cũng đều bỏ ngỏ thì làm sao lại không có người canh, chỉ có điều họ canh ở đâu, họ ăn ở đâu, tất cả không ai nhìn thấy.
                      Giá như bên trong tòa nhà, trên những ngôi lầu cao đừng có ánh đèn thì người ta dám cho đây là một ngôi nhà hoang, một trang trại không có người ở.
                      Đêm đầu tháng, ánh trăng không sáng nhưng nên thơ, vành trăng lưỡi liềm chênh chênh trên rặng núi, sương đêm pha màu sửa loang loáng bàng bạc bao trùm Cẩm Tú sơn trang.
                      Toàn thể bốn mặt của khu vườn bát ngát không một bóng người, không một tiếng động, nhưng nếu có người chú ý, sẽ thấy ngoài hành lang của ngôi lầu phía đông có một bóng người, một tà áo trắng thỉnh thoảng lất phất theo làn gió nhẹ.
                      Một người thiếu phụ.
                      Cánh tay chống lên lan can lầu, ánh mắt của người thiếu phụ buông lơi trong màn sương đục, ánh mắt mơ màng.
                      Không thấy rõ mặt nhưng bằng vào mấy ngón tay chăng hờ bên má, những ngón tay tuy hơi gầy nhưng lại thật thon, ngón tay thon nhỏ, trắng muốt mịn màng, không ai dám nói người có bàn tay đó là một người đàn bà xấu xí.
                      Những lọn tóc trái đào được cuốn gọn lên cao để lộ cái cổ cao cao, làn da trắng ngần như ngọc, người thiếu phụ trông có vẻ thanh khiết lạ lùng.
                      Người thiếu phụ đứng gần như bất động, nếu không có những làn gió nhẹ lay tà áo, chắc chắn ai ai cũng cứ tưởng đó là một pho tượng thạch cao.
                      Một vài chiếc lá vàng sức cuống từ những tàng cây cổ thụ, rơi chầm chậm xuống mặt nước hồ sen, người thiếu phụ chợt thở dài...
                      Và bây giờ thì cửa lần hé mở.
                      Cánh cửa mở ra thật nhẹ, đứng gần cũng không nghe tiếng động và một bóng người, cũng thật nhẹ, từ trong cửa bước ra. Chỉ ra khỏi khung cửa một bước là dừng lại.
                      Một người đàn ông.
                      Một người đàn ông trung niên.
                      Hai tay buông xuôi, lưng không đeo kiếm, mắt không mở lớn, nhưng không hiểu sao trông con người đó toát ra một khí thái uy nghi nghiêm cách lạ lùng.
                      Từ trong đôi mắt không mở lớn đó, một tia sáng lóe lên rồi tắc ngấm.
                      Người đàn ông trung niên bất động.
                      Thật lâu, người thiếu phụ chầm chậm quay mình lại.
                      Lưng người thiếu phụ vẫn dựa nhẹ vào lan can.
                      Không ai nói một tiếng nào.
                      Lại một lúc thật lâu nữa, người đàn ông trung niên lên tiếng, ông ta kêu qua hơi thở như gió thoảng :
                      - Tam Nương!
                      Vành môi như trái tim mọng đỏ của người thiếu phụ nhếch lên rồi ngưng lại.
                      Vành môi không rung, nhưng ánh mắt người thiếu phụ như chìm nặng xuống.
                      Người đàn ông trung niên bước lui một bước, và hai cánh cửa mở rộng ra.
                      Không lên tiếng nữa, nhưng ai cũng có thể biết rất rõ đó là cử chỉ mời khách vào trong.
                      Người thiếu phụ đứng thẳng mình lên và nhích bước.
                      Người đàn ông quay trở vào trong.
                      Người thiếu phụ bước theo.
                      Người đàn ông trung niên dừng lại sau cánh cửa, ông ta không đưa tay theo thái độ mời khách thông thường, nhưng rõ ràng là nhường cho người thiếu phụ đi vào.
                      Dáng đi của người thiếu phụ như gió thoảng, đôi giày cỏ vốn đã nhẹ mà bước đi của người lại nhẹ hơn, nên đứng gần mà vẫn không nghe tiếng động.
                      Người thiếu phụ bước qua mặt người đàn ông trung niên và bước thẳng vào trong.
                      * * * * *
                      Trừ tiếng gọi “Tam Nương” thốt ra từ cửa miệng của người đàn ông trung niên, không ai nói thêm một tiếng nào, nhưng ai cũng có thể biết người thiếu phụ đó là Vương tam nương, người thiếu phụ có dáng cách cao quí mà phong trần đã hội kiến với bọn Trương Dị ở quán “Vò Viên” hồi tối hôm qua.
                      Từ con người đó cộng với thái độ, với cung cách thỉnh khách, người ta cũng đoán ra người đàn ông trung niên đó là Đào Đại Gia, vị trang chủ của Cẩm Tú sơn trang.
                      Vương tam nương bước vào phòng.
                      Giữa phòng có một chiếc bàn vuông, có bốn chiếc ghế bọc da.
                      Mặt bàn trải nhung xanh, phản chiếu với màu đỏ của bốn chiếc ghế bọc da, trông thật là sang trọng.
                      Trên bàn có một cái mâm bằng bạc, trong mâm có bốn chén trắng bằng sứ Giang Tây, có một bầu rượu và một bình trà.
                      Xế vào góc trong, một tấm màn nhung đỏ buông phủ, bên trong chắc là giường ngủ.
                      Gần cửa sổ có một tấm lụa đen phủ kín một vật vừa rộng vừa cao, trông giống như chiếc bàn.
                      Vương tam nương bước lại ngay chỗ đó.
                      Bàn tay mảnh khảnh của Vương tam nương nắm lấy chéo tấm lụa đen nhè nhẹ dở lên, bên trong quả đúng là một cái bàn.
                      Bàn trang điểm.
                      Một tấm kính hột xoài cao quá đầu người được lồng trong cái khung bằng gổ mun, cũng cẩn xa cừ óng ánh, hai bên là hai hộc tủ nổi trên mặt bàn, hộc tủ cũng bằng gỗ mun, cũng cẩn xa cừ.
                      Vương tam nương kéo hộc tủ ra, bên trong, những thỏo son, những hộp phấn, những mãnh trầm còn nguyên vẹn.
                      Người thiếu phụ dừng mắt nhìn trân trối.
                      Bàn tay đặt bên hộc tủ hình như có hơi rung...
                      Đào Đại Gia đứng im lặng bên đầu bàn, nhìn vóc thân mảnh khảnh của Vương tam nương ông ta vụt thở dài.
                      Vương tam nương vẫn không quay lại, giọng bà ta hơi run :
                      - Đào huynh, giữ những thứ này để làm chi?
                      Giọng của Đào Đại Gia chìm ngắm :
                      - Vương muội, mười mấy năm rồi, gian phòng này không ai được bước vào đây, cả lúc Thư Hương còn ở nhà, nó cũng không dám bước vào, không một ai... Gian phòng này chỉ có một mình tôi, chính tay tôi quét dọn...
                      Ánh mắt của Vương tam nương vụt long lanh :
                      - Làm chi như thế, Đào huynh...
                      Đào Đại Gia chận ngang :
                      - Vương Muội, tại sao Vương muội vẫn bảo rằng trọn đời xót thương đại tẩu...
                      Vương tam nương thở dài :
                      - Vì chính xót thương cho đại tẩu, thương xót người vắn số cho nên tiểu muội không thể ở lại đây.
                      Đào Đại Gia hỏi :
                      - Tại sao? Tại sao Vương muội không giữ trọn lời nguyền trước mặt đại tẩu, tại sao Vương muội không ở lại để chăm sót cho Thư Hương, để sớt chia ấm lạnh với ngu huynh?
                      Vương tam nương lắc đầu :
                      - Mười mấy năm nay phiêu bạt xứ người, không giây phút nào là tiêu muội không nhớ đến Cẩm Tú sơn trang, không lúc nào không nhớ đến Thư Hương.
                      Giọng của bà ta vụt thấp xuống và run rẩy :
                      - Không lúc nào tiểu muội không nhớn đến Đào huynh, nhưng...
                      Đào Đại Gia thở ra :
                      - Ngu huynh đã xử không phải với Vương muội không phải?
                      Vương tam nương lắc đầu :
                      - Không, trên đời này không một ai chiếu cố, thương xót tiểu muội cho bằng Đào huynh, không ai có thể đem lại cho tiểu muội được nguồn an ủi như Đào huynh...
                      Đào Đại Gia hỏi :
                      - Thế tại soa Vương muội lại ra đi? Phải chăng Cẩm Tú sơn trang quá lặng lẽ, quá thô lậu, nó không phải là chỗ giữ được Vương muội chăng?
                      Vương tam nương lại lắc đầu :
                      - Không, Đào huynh đã hiểu lầm, có thể trong vũ trụ này có nhiều nơi đẹp lắm, chỉ kể đất Giang Nam không thôi, cũng có nhiều chỗ hơn hẳn nơi này, nhưng nếu gom tất cả những nơi đẹp nhất dưới gầm trời này để đổi lấy Cẩm Tú sơn trang thì tiểu muội xin trả về tất cả để giữ một nơi đây, vì Cẩm Tú sơn trang là nơi mà tiểu muội cảm thấy vui sướng nhất, hạnh phúc nhất, nếu được sống mãi ở đây và chết ở đây...
                      Đào Đại Gia hỏi :
                      - Thế sao Vương muội lại cũng cứ bỏ đi?
                      Vương tam nương cúi mặt làm thinh.
                      Đào Đại Gia nhìn người đối diện thật lâu, cuối cùng ông ta nhẹ thở dài :
                      - Giờ phút lâm chung của Ngọc Nương, lúc hơi thở của nàng hấp hối, có lẽ vì quá thương hoàn cảnh bơ vơ của huynh, vì quá thương Thư Hương và tự nhiên cũng vì quá thương Vương muội, nên nàng cố lấy hơi căn dặn Vương muội hãy đừng bao giờ lìa khỏi nơi này, hãy thay nàng mà dạy dỗ Thư Hương, thay nàng mà chiếu cố cho ngu huynh khi nửa đường gảy gánh... Ngu huynh còn nhớ Vương muội đã vật vả khóc than và cương quyết nhận lời, nhận lời với cả một thái độ thương xót chân thành...
                      Ông ta cúi mặt thở dài sườn sượt và dàu dàu nói tiếp :
                      - Ngu huynh ngỡ rằng trên bước đường đời còn lại của ngu huynh sẽ vơi bớt cô đơn, sẽ được thành nhân dưới bàn tay và tấm lòng đùm bọc của người bạn thật thân của mẹ nó, người mà từ mới sanh cho đến khi lẩn đẩn, không phút nào nó chịu rời xa...
                      Không ngờ, thật không ngờ...
                      Ông ta nghẹn ngào nói không ra tiếng.
                      Vương tam nương bật khóc.
                      Bà gục đầu lên mặt bàn, thân bà như rủ xuống.

                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #41
                        Hồi 37 : Niềm đau không nói nên lời

                        Nhìn bờ vai rung rẩy của bà, Đào Đại Gia cắn môi cúi mặt...
                        Thật lâu, Vương tam nương ngẩng mặt lên, nước mắt đầm đìa trên má nhưng giọng bà ráo hoảnh :
                        - Đào huynh oán hận tiểu muội lắm phải không?
                        Đào Đại Gia lắc đầu :
                        - Không, ngu huynh không hề oán hận gì cả, ngu huynh không dám trách Vương muội mà chỉ thấy mình bạc phước...
                        Vương tam nương lắc đầu :
                        - Không, Đào huynh đừng nói thế...
                        Bà nhìn thẳng vào mặt Đào Đại Gia, giọng bà như đứt từng tiếng một :
                        - Chắc Đào huynh cũng nhớ rằng tiểu muội đã sống với Đào huynh và Ngọc thơ thơ từ khi còn để chỏm, đã được Đào huynh và Ngọc thơ thơ chiếu cố như một đứa em ruột, được Đào huynh và Ngọc thơ thơ truyền dạy võ công để trở thành một cao thủ nhất nhì trong thiên hạ. Trong đời tiểu muội chỉ có hai người thân duy nhất, đó là Đào huynh và Ngọc thơ thơ, và khi lớn lên, khi đến tuổi dậy thì, khi con tim đã biết yêu thì linh hồn của tiểu muội đã ký gởi cho Đào huynh, mặc dầu trong lúc đó không biết bao nhiêu chàng trai gắm ghé, đuổi theo...
                        Bà mím môi cố nở nụ cười nhưng đối với Đào Đại Gia, nụ cười đó còn hơn tiếng khóc, bà nói tiếp :
                        - Và cho đến bây giờ, Vương tam nương vẫn còn đây, vẫn còn là một... cô gái gần bốn chục mùa xuân chồng chất!
                        Đào Đại Gia nhăn mặt :
                        - Nhưng tại sao Vương muội lại bỏ đi?
                        Vương tam nương mím miệng thở dài :
                        - Đào huynh, tiểu muội xin hỏi Đào huynh một điều: Đào huynh có biết sau khi Ngọc thơ thơ mãn phần, Thư Hương nó cần cái gì không?
                        Đào Đại Gia nói ngay :
                        - Tự nhiên là nó rất cần một tình thương của mẹ nhưng mẹ nó đã mất rồi, nó vẫn phải có một tình thương tương tự, tình thương của một người đàn bà, một người có thể thay thế mẹ nó, chẳng hạn như...
                        Vương tam nương mỉm cười, cũng vẫn với nụ cười chua xót :
                        - Đào huynh đã lầm, cũng như phần đông thiên hạ đều lầm. Đã đành là một đứa bé mất mẹ rất cần tình thương hiền dịu của một người đàn bà, nhưng trên thực tế không bao giờ có được, không ai có thể thay thế được, cái có thể có được đó là tình thương trọn vẹn của một người cha, một tình thương trọn vẹn của người cha...
                        Đào Đại Gia chận ngang :
                        - Nhưng nếu nó được tình thương trọn vẹn của một người cha và bên cạnh đó lại có thêm một tình thương tương tự như tình của mẹ nữa thì là chuyện tốt chứ?
                        Vương tam nương gật đầu :
                        - Vâng, Đào huynh nói đúng, nhưng khi nó có được thêm một tình thương tương tự như người mẹ thì...
                        Bà lại cười khô héo và buồn buồn nói tiếp :
                        - Đào huynh, làm sao mà có được, không phải tiểu muội nói không có được mối tình tương tự như tình của mẹ, tiểu muội nói đến một vấn đề mà không ai nghĩ tới là tình thương của người cha sẽ không khi nào trọn vẹn, ngàn đời cũng không thể nào trọn vẹn, nếu bên cạnh đó có một người mẹ kế thì không bao giờ có được tình thương trọn vẹn của người cha, vì tình thương đó đã bị người chia sẽ.
                        Đào Đại Gia thảng thốt nói :
                        - Vương muội sao lại nói như thế được? Hóa ra những người đàn ông gảy gánh đều không được tục huyền?
                        Vương tam nương nhìn thẳng vào mặt Đào Đại Gia, bà ta cười như khóc :
                        - Đào huynh, đó là một sự thật phủ phàng mà không ai nhìn thấy, hay đúng hơn là, ích kỷ nên không ai chịu thấy.
                        Đào Đại Gia định nói nhưng nhìn vào tia mắt đau khổ của Vương tam nương sau câu nói đó làm cho ông ta khựng lại.
                        Nhưng vừa mới thấy có một vấn đề mới lạ xảy ra mà từ bấy lâu nay ông ta chưa hề nghe đến.
                        Ông ta chưa dám nhận đó là câu nói xác đáng, vì ông ta vẫn còn (mất 2 trang, quyển 4 trang 598-599)
                        Nhìn thái độ vui mừng của Đào Đại Gia, Vương tam nương càng nghe lòng đau xót, bà ta nhẹ lắc đầu :
                        - Không thể sớm hơn mà cũng chưa có thể bây giờ...
                        Thấy Đào Đại Gia muốn nói, Vương tam nương vội đưa tay chận lại :
                        - Tiểu muội biết rõ ý nghĩ của Đào huynh, nhưng có những việc mà mình không thể không nhìn thấy, Đào huynh nên biết rằng Thư Hương tuy đã trưởng thành, nay đã đến tuổi cặp kê trong mấy năm nay, tuy nó đã có những tình cảm riêng tư của nó, tuy rằng bây giờ mình có thể sống lại cho mình, nhưng Đào huynh cũng nên thấy rằng Thư Hương cũng vẫn chưa xuất giá...
                        Bà lại mỉm cười và nói tiếp bằng một giọng chậm rãi :
                        - Có thể không ai xấu với ai cả, nhưng sự đời vốn là mâu thuẩn, thứ mâu thuẩn gần như bất diệt ấy nó đã chi phối cả tình cảm giữa con người, không ai có thể giải quyết được mâu thuẩn đó, bởi vì chính bản thân mình cũng đã có sẵn mối tình ngược mà chính mình cũng không giải quyết được, vì thế cho nên đến bao giờ Thư Hương xuất giá, lúc đó mới có thể mà thôi...
                        Đào Đại Gia thiểu não :
                        - Nhưng, Tam Nương, có lẽ Vương muội cũng phải thấy rằng mùa xuân trên tóc của chúng ta đã qua quá mau, ngu huynh thì không thể làm sao được, vì âu cũng là số kiếp và ít nhất ngu huynh cũng còn có nghĩa vụ để hy sinh, nhưng còn Vương muội...
                        Ngu huynh thấy Vương muội đã chịu quá nhiều sự thiệt thòi, trừ phi Vương muội không thấy tình của chúng ta...
                        Vương tam nương lắc đầu :
                        - Không, trong đời tiểu muội chỉ có một lần yêu và sẽ tôn thờ tình yêu đó đến trọn đời, đến chết không hề phai lạt. Sao Đào huynh lại nghĩ rằng chỉ có Đào huynh mới có nghĩa vụ hy sinh mà tiểu muội thì không? Tình thương đối với Ngọc thơ thơ, tình thương của người mẹ đối với Thư Hương và tình yêu tha thiết đối với Đào huynh không phải là nghĩa vụ hay sao? Không đáng để cho tiểu muội hy sinh một chút cỏn con của mình hay sao?
                        Đào Đại Gia vùng sa nước mắt.
                        Lần thứ nhất trong khi Ngọc Hà chết và đây là lần thứ hai, người đàn ông đầy quả cảm, đầy cương nghị đã phải rơi nước mắt...
                        Giọng của ông ta như nghẹn lại :
                        - Vương muội, sự hy sinh của Vương muội phải chăng là đã quá mức rồi? Mười mấy năm trôi qua, từ một người con gái trong tuổi tràn đầy nhựa sống của yêu đương, chớp mắt đã thành thiếu phụ. Vương muội, ngu huynh biết Vương muội vẫn có nghĩa vụ để hy sinh, nhưng có phải đã quá hay chăng?
                        Nụ cười trên môi của Vương tam nương thật là héo hắt, tuy nhiên đối với Đào Đại Gia, ông ta vẫn tìm thấy vẻ yêu đời hồi năm nào hình như hãy còn nguyên vẹn...
                        Bà nói :
                        - Chỉ mới quá ba mươi lăm tuổi, sao Đào huynh lại cho rằng đã muộn màng?
                        Bà bỗng nở nụ cười thật tươi và nghiêng mặt :
                        - Đào huynh chê tiểu muội đã già?
                        Nụ cười tươi và dáng mặt nghiêng nghiêng của bà, Đào Đại Gia bỗng nhớ lại nụ cười của người con gái năm nào...
                        Hồi đó, khi Ngọc Hà còn sống trong Cẩm Tú sơn trang này, cũng trên giòng suối uốn quanh với những cây cầu nho nhỏ ấy, ba người thường hay dắt tay nhau dạo mát vào những đêm trăng sáng, môi nàng luôn luôn lúc nào cũng như cười và cũng trong dáng cách nghiêng nghiêng ưa nhìn đó đã nhiều lần làm cho ông ta đắm đuối.
                        Hồi đó sau khi Ngọc Hà chết được khá lâu, nỗi thương nhớ nguôi ngoai, cũng vào một đêm trăng, hai người dẫn Thư Hương đi dạo quanh dòng suối, nàng cũng nhìn ông ta bằng đôi mắt nghiêng nghiêng với nụ cười tươi tắn đó...
                        Lúc bấy giờ ông ta tưởng đâu mình đã chết đi rồi sống lại, nổi thương đau đối với người vợ hiền vừa vơi vơi thì những lời trăn trối của người chết nhắc nhở và gợi lại trong đầu... hình ảnh hạnh phúc mà trong đó có cả hạnh phúc của Thư Hương...
                        Nhưng đến khi ông ta đối diện nhắc lại, đối diện đặt thẳng vấn đề với Tam Nương thì nàng bỗng khóc luôn mấy ngày đêm và âm thầm rời bỏ Cẩm Tú sơn trang.
                        Nàng đi và để lại một lá thơ bảo rằng họ có duyên mà không có nợ...
                        Trong suốt mười mấy năm biền biệt, thỉnh thoảng ông ta dọ hỏi được tin nàng thì mới biết rằng nàng vẫn còn cô độc.
                        Nàng vẫn chịu cảnh độc thân, lấy việc du ngoạn đó đây để làm sinh thú.
                        Như vậy không phải nàng không yêu.
                        Nhưng tại làm sao? Tại làm sao nàng lại bỏ đi?
                        Nổi băn khoăn thắc mắc vằng vặc suốt mười mấy năm trời cho tới bây giờ mới có dịp phanh phui.
                        Càng phanh phui tình thương đối với nàng càng thêm chua xót.
                        Một người con gái đang tuổi yêu đương, có được đối tượng và hoàn cảnh, thế mà vẫn phải cắn răng xa lìa tất cả, để cho ngày xanh biền biệt trôi qua...
                        Thấy Đào Đại Gia cúi người trầm tư không nói, Vương tam nương lại nhoẻn miệng cười :
                        - Phải không? Đào huynh cho là tiểu muội đã già?
                        Câu hỏi của bà làm cho Đào Đại Gia hớt hãi, ông ta khoát tay lia lịa :
                        - Không không! Vương muội làm sao lại già, có chăng là ngu huynh...
                        Vương tam nương lại cười :
                        - Được rồi, Đào huynh nói phải không? Và vì già nên hết yêu rồi phải không?
                        Một lần nữa, nàng đã làm cho Đào Đại Gia đâm quýnh, ông ta lại khoát tay :
                        - Không phải... không phải, ngu huynh có già thật, nhưng Vương muội cũng biết ngu huynh chỉ quá bốn mươi, chỉ có điều... ngu huynh e rằng đối với Vương muội thì ngu huynh đã quá già...
                        Vương tam nương bật cười hăng hắc :
                        - Chỉ sợ Đào huynh không còn yêu nữa, chứ nếu không thì ai bảo Đào huynh già thì chắc chắn người ấy đã... lọt tròng.
                        Giọng cười và tiếng đùa cợt của nàng, khiến cho Đào Đại Gia bỗng cảm thấy như mình đang sống ở khoảng mười mấy năm về trước, bất giác ông ta nhìn sững người đối diện...
                        Vương tam nương cũng chợt cảm thấy nóng bừng đôi má, nàng bắt gặp đôi mắt sáng của người đàn ông mà nàng đã yêu tha thiết năm nào...
                        Cũng bằng đôi mắt “hớp hồn” ấy, bây giờ không vì những nét nhăn càn cạn trên trán mà làm cho bớt nóng... bà chợt nghe lòng mình rung động khi chạm vào ánh mắt năm xưa vẫn như... xưa.
                        Đào Đại Gia vụt chồm mình tới thêm chút nữa, giọng ông thoáng hơi run :
                        - Vương muội, có phải lần này...
                        Vẫn với nụ cười tươi nhuận, Vương tam nương vột ngắt ngang :
                        - Hứng rồi, Đào huynh. Tiểu muội phải có quyền lấy lại những gì đã mất chứ, phải không? Nhưng mà chưa vội lắm đâu, Đào huynh. Chúng ta cũng còn mấy việc, trước hết là chuyện Thư Hương...
                        Ánh mắt của Đào Đại Gia lại rực lên :
                        - Sao? Vương muội đã gặp Thư Hương?
                        Vương tam nương gật đầu :
                        - Có, tiểu muội có gặp.
                        Đào Đại Gia hỏi dồn :
                        - Ở đâu? Vương muội gặp nó ở đâu? Nó có chuyện gì nguy hiểm lắm không?
                        Vương tam nương đáp :
                        - Tiểu muội gặp Thư Hương tại Giang Nam, không có sao đâu. Thư Hương cùng đi với Trương Dị.
                        Đào Đại Gia cau mặt :
                        - Trương Dị? Tại sao Trương Dị lại không báo tin về...
                        Ông lại chụp hỏi :
                        - Quên, Thư Hương có nhận ra Vương muội không?
                        Vương tam nương lắc đầu :
                        - Làm sao nhận ra được? Mười mấy năm rồi, hồi đó nó còn bé quá...
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Vương muội có gặp tận mặt nó không?
                        Vương tam nương đáp :
                        - Có, ngồi chung một bàn trong quán.
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Vương muội không nhắc?
                        Vương tam nương lắc đầu :
                        - Không, tiểu muội thấy chưa cần lắm, vì còn phải giải quyết mấy công việc, tiểu muội thấy nên để lại mai mốt gì cũng được.
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Vương muội gặp Thư Hương và Trương Dị?
                        Vương tam nương gật đầu :
                        - Có cả Lữ Ngọc Hồ nữa.
                        Đào Đại Gia nhướng mắt :
                        - Có cả Lữ Ngọc Hồ? Nhưng Trương Dị có biết Vương muội không?
                        Vương tam nương đáp :
                        - Có biết, hắn cũng có nhờ tiểu muội vài việc.
                        Ngưng một giây, Vương tam nương nói tiếp :
                        - Nhưng hãy để nói sau, bây giờ tiểu muội muốn bàn với Đào huynh về chuyện của Trương Dị.
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Sao? Trương Dị thế nào?
                        Vương tam nương hỏi :
                        - Chắc Đào huynh có biết chuyện Trương Dị mất tích gần ba năm.
                        Đào Đại Gia đáp :
                        - Có biết. Vì ngu huynh liên lạc thường xuyên với Trương Tam Gia, nhưng không phải là chuyện mất tích, Trương Dị có tánh đi hoang từ lúc nhỏ, hắn rất ít khi ở nhà, trong ba năm nay hắn ra vùng quan ngoại, nghe đâu là để học võ với một vài nhân vật vùng Tây Vực chớ không phải là mất tích.
                        Vương tam nương làm thinh.
                        Thấy bà có vẻ trầm ngâm, Đào Đại Gia hỏi :
                        - Sao? Đã có chuyện gì? Trương Dị như thế nào?
                        Trầm ngâm một hồi nữa, Vương tam nương nói :
                        - Trong giang hồ có một số người nhận rằng Trương Dị mất tích và cho đến bây giờ, người ta cũng cho là thế...
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Những người đó là ai?
                        Không trả lời, mà Vương tam nương hỏi lại :
                        - Đào huynh có biết về nhóm Sơn Lưu?
                        Đào Đại Gia gật đầu :
                        - Có nghe, chỉ nghe hành động của họ thôi chớ không biết nhân vật nào trong nhóm đó cả.
                        Vương tam nương ngần ngừ một lúc rồi nói :
                        - Nhóm Sơn Lưu có lẽ không đáng bàn bằng nhóm Tứ Hải...
                        Đào Đại Gia cau mặt :
                        - Tứ Hải? Sao lại có cái tên nghe lạ quá...
                        Vương tam nương nói :
                        - Đó là một nhóm thành hình sau nhóm Sơn Lưu.
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Hành tung của họ ra sao? Nhân vật cầm đầu của họ như thế nào?
                        Vương tam nương đáp :
                        - Hình như họ thành hình với mục đích là chống lại nhóm Sơn Lưu, nhưng những nhân vật đầu sỏ thì chưa biết chắc lắm...
                        Ngưng một lúc, Vương tam nương hỏi :
                        - Chắc Đào huynh biết về hành tung của nhóm Sơn Lưu?
                        Đào Đại Gia gật đầu :
                        - Chỉ nghe mang máng chớ không rõ lắm, hình như họ muốn tảo trừng những thành phần bại hoại trong võ lâm thì phải...
                        Vương tam nương gật đầu :
                        - Có lẽ là như thế, nhưng nghe đâu hành động của họ hơi mạnh và có tánh cách bí mật gần như có những người trong tổ chức mà vẫn không biết rõ nhau..
                        Đào Đại Gia cau mày :
                        - Thế thì Tứ Hải...
                        Vương tam nương nói :
                        - Cứ nhìn vào hành động của Sơn Lưu thì có thể biết hành tung của Tứ Hải, chắc chắn họ là những phe nhóm bất hảo trong võ lâm, vì thế cho nên họ phải nhằm chống lại nhóm Sơn Lưu, vì nhóm này có hại cho hoạt động của họ.
                        Đào Đại Gia nói :
                        - Chẳng hạn như...
                        Vương tam nương nói ngay :
                        - Như những chủ sòng bạc lớn, những tay đầu sỏ của những tổ chức trộm cướp khét tiếng, ổ mãi dâm chuyên mua bán gái tơ...
                        Đào huynh hỏi :
                        - Hồi nãy Vương muội có nói Trương Dị...
                        Vương tam nương đáp :
                        - Về con người của Trương Dị sau chuyến mất tích quá lâu ở vùng quan ngoại, lần này hắn trở về thì tiểu muội chưa có dịp xác nhận về hắn, nhưng hắn có liên lạc với một số nhân vật tốt vùng Giang Nam, trong đó có một người mà tiểu muội biết nhiều là Thập Tam Chích Thủ, con người này không biết có phải trong nhóm Sơn Lưu hay không, nhưng thấy hắn đúng là nhân vật trọng nghĩa khinh tài, thường nhúng tay vào việc phải...
                        Đào Đại Gia chận hỏi :
                        - Nhưng Trương Dị hỏi Vương muội về chuyện gì?
                        Vương tam nương đáp :
                        - Hắn hỏi về nhóm Tứ Hải.
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Nhưng Vương muội có biết về nhóm Tứ Hải sao?
                        Vương tam nương lắc đầu :
                        - Chỉ biết một nhân vật có dính líu và vài nhân vật hồ nghi.
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Ai?
                        Vương tam nương không trả lời mà hỏi lại :
                        - Đào huynh có nhớ tiểu muội có một người anh thất lạc từ lúc nhỏ?
                        Đào huynh gật đầu :
                        - Biết, Vương Hà!
                        Vương tam nương hỏi :
                        - Gần đây Đào huynh có nghe về người đó không?
                        Đào Đại Gia lắc đầu :
                        - Không, Vương muội có tin sao?
                        Vương tam nương mỉm cười nhìn thẳng vào mặt Đào Đại Gia :
                        - Đào huynh có quen với Vương đại nương?
                        Đào Đại Gia đỏ mặt :
                        - Cô... xin Vương muội cảm thông, chỉ thỉnh thoảng thôi.
                        Vương tam nương vẫn cười, ánh mắt của bà nhìn Đào Đại Gia đầy vẻ xót thương :
                        - Tiểu muội đâu có nói về chuyện đó, tiểu muội chỉ muốn nói về con người của Vương đại nương thôi.
                        Đào Đại Gia hỏi :
                        - Sao? Vương đại nương là người của nhóm Tứ Hải à?
                        Vương tam nương đáp :
                        - Chủ sòng bạc, chủ thanh lâu, hầu hết đều có chân trong nhóm Tứ Hải, vì nhóm này bảo vệ quyền lợi của họ, họ sống nhờ vào nhau. Nhưng điều quan trọng mà tiểu muội muốn nói với Đào huynh là chuyện Vương đại nương, người ấy chính là Vương Hà đó.
                        Đào Đại Gia mở tròn đôi mắt :
                        - Vương Hà? Vương đại nương là Vương Hà? Là người anh của Vương muội?
                        Vương đại nương là... đàn ông?
                        Vương tam nương cười :
                        - Tại Đào huynh chưa... thân mật đúng mức với Vương đại nương nên Đào huynh không biết, nhưng Đào huynh không thấy người ấy giống tiểu muội đó sao?
                        Đào Đại Gia đập tay xuống mặt bàn :
                        - Đúng rồi... thảo nào khi gặp bà... quên, khi gặp ông ta, ngu huynh cứ mường tượng...
                        Ông ta bỗng cau mặt :
                        - Nhưng lịnh huynh và tiểu muội đã có nhận ra nhau chưa?
                        Vương tam nương gật đầu :
                        - Đã có lâu rồi, nhưng vì hai quan niệm và hai lối sống khác nhau, nên chỉ thăm hỏi thỉnh thoảng thôi chớ không khắn khít... Tiểu muội nghĩ rằng sở dĩ giữa tiểu muội và anh Vương Hà còn giữ được liên lạc với nhau, chắc vì chút tình huyết thống, chứ thật tình thì không ai muốn thấy mặt ai...
                        Đào Đại Gia như không muốn đá động đến vấn đề đó, nên ông ta hỏi sang chuyện khác :
                        - Vương muội bảo còn một vài người đáng nghi ngờ trong tổ chức Tứ Hải, nhưng chẳng hay có nên nói ra không?
                        Vương tam nương trầm ngâm một chút rồi nói :
                        - Cũng có thể, nhưng tốt hơn hết là nên chờ cho có đủ bằng cớ về họ, chưa nắm chắc mà nói thì e rằng tư cách của mình sẽ bị giảm đi chăng...
                        Và không chờ cho Đào Đại Gia hỏi, Vương tam nương hỏi lại :
                        - Đào huynh chắc biết nhiều về Liễu Phong Cốt chớ?
                        Đào Đại Gia gật đầu :
                        - Không gặp thường nhưng có biết nhiều về người ấy, kể về võ công thì phải được liệt vào hàng nhất nhì trong võ lâm hiện nay. Nhất là về công phu “Yến Tử Xuyên Liêm” thì những tay giỏi về thuật khinh công hiện có mặt trong giang hồ sợ rằng không có ai bì kịp. Về tư cách, ngu huynh công nhận rằng trong hàng nhỏ tuổi cở Liễu Phong Cốt, hắn là kẻ đáng được khen ngợi hơn ai hết.
                        Vương tam nương hỏi :
                        - Hắn có đến viếng Cẩm Tú sơn trang lần nào không?
                        Đào Đại Gia đáp :
                        - Có, ba lần.
                        Vương tam nương hỏi :
                        - Lần chót cách nay bao lâu?
                        Đào Đại Gia nhẩm tính và đáp :
                        - Chừng hơn ba tháng.
                        Vương tam nương hỏi :
                        - Hắn đến đó làm gì?
                        Đào Đại Gia đáp :
                        - Như Vương muội đã biết từ trước, ngu huynh may mắn hơn những bạn giang hồ khác là có tạo dựng được một sự nghiệp và nhất là không từng gây nên ân oán, bằng hữu giang hồ, kể cả những anh em trong hắc đạo võ lâm, mỗi khi cần, ngu huynh không hề đắn đo trong sự giúp đỡ, cố nhiên chỉ về phương diện tiền bạc.
                        Vương tam nương chận hỏi :
                        - Liễu Phong Cốt đến đây chỉ vì chuyện ấy?
                        Đào Đại Gia trầm ngâm như cố nhớ lại những chuyện đã qua...
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #42
                          Hồi 38 : Ngõ sau của quán rượu

                          Một lúc sau Đào Đại Gia nói :
                          - Có những người đến Cẩm Tú sơn trang chỉ để viếng thăm, không hiểu họ có dụng ý gì không thì không biết, nhưng có một số đến đây không phải với mục đích nhờ vã về tiền bạc, Liễu Phong Cốt là một trong số đó.
                          Vương tam nương hỏi :
                          - Còn về Lữ Ngọc Hồ? Đào huynh có biết nhiều về con người ấy hay không?
                          Đào Đại Gia đáp :
                          - Chưa từng gặp, nhưng nghe thì nhiều, hình như con người này thuộc vào hạng “vô thưởng vô phạt” trong võ lâm, ngoài trận chiến tại gò Bạch Hổ năm xưa với động cơ bởi một người con gái ra, không nghe hắn có hành tung gì nổi bật.
                          Trầm ngâm một chút, Vương tam nương vụt hỏi :
                          - Đào huynh có thể đến Giang Nam một bận không?
                          Đào Đại Gia hơi ngạc nhiên :
                          - Đi Giang Nam?
                          Vương tam nương gật đầu :
                          - Tiểu muội có một chuyện, không phải chuyện của tiểu muội mà chuyện này có quan hệ đến võ lâm, vì thế nên định nhờ Đào huynh...
                          Đào Đại Gia chận nói :
                          - Như Vương muội đã biết, ngu huynh chỉ giúp bằng hữu giang hồ trong những cơn túng ngặt về tiền tài, chứ từ lâu, sau ngày hạ sinh Thư Hương đến giờ, ngu huynh không hề xen vào với bất cứ chuyện gì của bất cứ phe phái nào cả, không phải vì sợ sệt mà ngu huynh muốn tạo cho con một cuộc sống yên lành, nhưng riêng đối với Vương muội...
                          Vương tam nương đưa tay chận lại cười :
                          - Đa tạ Đào huynh, điều đó thì tiểu muội có biết và thật sự thì chuyện tiểu muội nhờ Đào huynh vốn không phải là nhờ can thiệp mà là nhờ làm một cuộc thí nghiệm, muốn nhờ làm một chứng nhân, vì riêng tiểu muội và chung cho võ lâm, nói đúng hơn là một số bằng hữu võ lâm đang định khám phá một việc, vì thế...
                          Thấy Đào Đại Gia định nói, Vương tam nương đưa tay chận lại và nói tiếp :
                          - Tiểu muội chỉ nhờ Đào huynh làm một công việc thụ động, nghĩa là không nên có một phản ứng nào cả, trên con đường đi đến Giang Nam, nếu gặp chuyện gì bất trắc, Đào huynh cứ để mặc cho sự việc đến đâu hay đến đó, vì thế cho nên điều cần là Đào huynh chỉ đi một mình trên cỗ xe với tên đánh xe, tốt hơn hết là nên mướn xe, mướn luôn cả người đánh xe chớ đừng dùng xe nhà.
                          Đào Đại Gia cười :
                          - Không phản ứng thì vốn là cái nghề gần hai mươi năm nay của ngu huynh rồi, nhưng nếu gặp trường hợp nguy hiểm đến tánh mạng thì sao? Cũng cứ xuôi tay à?
                          Vương tam nương cũng bật cười :
                          - Tiểu muội chỉ bằng lòng chịu trể đến tuổi này thôi, chớ không khi nào chịu ở góa đến suốt đời đâu.
                          Đào Đại Gia nhìn cái cười, nhìn cái nghiêng nghiêng của người đẹp họ Vương, lòng ông ta bỗng nghe rộn rã...
                          * * * * *
                          Quán rượu.
                          Thường thường những quán rượu nho nhỏ lại hay có khách quen.
                          Có thể vì quá nhỏ nên khách đến không nhiều, những khách thường ngày là khách ở gần và nhất là khách... ăn chịu.
                          Quán rượu phía Nam thành là một quán rượu nổi tiếng vừa lớn vừa có rượu ngon, thức ăn tuyệt mà lại vừa có nhiều gái đẹp.
                          Quán rượu này có luôn khách điếm, phòng không nhiều nhưng luôn có sẵn và vì không phải thuần túy là khách điếm, nên người đến đây ở trọ không nhiều.
                          Thường thường phòng ở đây chỉ cho mướn giờ, mỗi khi khách nhậu cảm thấy hứng... nằm nghĩ thì chủ quán sẽ sẵn sàng tươm tất.
                          Cố nhiên là chủ quán đài thọ luôn khoản... gái và đổi lại, khách hàng sẽ chi số bạc hơn cho mướn phòng không dưới chín mười đêm.
                          Và thường đó là những khách quen.
                          Vì thế, tuy đây là một quán rượu lớn, nhưng khách quen lại cũng khá đông.
                          Có lẽ Trương Dị cũng là một trong những khách quen đó, nên thay vì chọn bàn, hắn vào quán rồi ngang nhiên đi thẳng ra sau.
                          Tên quản lý đưa mắt ra hiệu cho tên tiểu nhị, tên tiểu nhị đon đả chạy lại khúm núm :
                          - Dạ thưa... chẳng hay khách quan muốn chọn cở nào?
                          Trương Dị đáp :
                          - Cở... Lưu tiên sinh!
                          Tên tiểu nhị chừng như... mất hứng, hắn đưa mắt cho tên quản lý.
                          Bỏ bàn toán qua một bên, tên quản lý đi lại và Trương Dị lên tiếng trước :
                          - Lưu tiên sinh.
                          Tên quản lý tắt nụ cười, hắn nhìn Trương Dị từ đầu đến chân ấp a ấp úng nói không ra lời.
                          Cho tay vào túi lấy ra một đồng tiền, Trương Dị hất hàm :
                          - Đi!
                          Tên quản lý khúm núm và toét miệng cười ngay :
                          - Dạ phải... phải...
                          Hắn vẫy tên tiểu nhị :
                          - Đưa vị khách quan đây đi cho đàng hoàng nghe chưa.
                          Tên tiểu nhị vòng tay cười nịnh :
                          - Dạ, dạ... khách quan hãy theo tôi.
                          Trương Dị không nói thêm tiếng nào, hắn cứ lầm lũi đi theo.
                          * * * * *
                          Khỏi gian phòng ngủ là đến nhà cầu.
                          Tên tiểu nhị dẫn Trương Dị rẻ qua phía bên trái.
                          Lối đi này hơi tối và không được sạch.
                          Phía bên này là nhà cầu, phía bên kia là nhà bếp, con đường hẹp mà lại thêm có đường nước từ nhà bếp và nhà cầu đổ ra biến thành một thứ mùi... hổn tạp.
                          Qua khỏi dãy nhà cầu, bên trái có một cánh cửa nhỏ khép kín.
                          Tên tiểu nhị tháo chốt đưa tay ra hiệu cho Trương Dị đi theo và khép trái cánh cửa lại.
                          Bước qua cánh cửa thì một thứ mùi khác đập ngay vào mũi, mùi thuốc bắc.
                          Thứ mùi thuốc sống chớ không phải thuốc sắc trong siêu.
                          Qua cánh cửa cũng là một lối đi nhỏ, chỉ có điều bên này khá cao ráo sạch sẽ, hai bên lối đi nhỏ đó không phải vách tường mà là vách thuốc.
                          Bao lớn có, bao nhỏ có, thuốc được chất lên tới trần nhà.
                          Đây là bên sau của một hiệu thuốc bắc.
                          Trương Dị thiếu chút nữa đã bật cười.
                          Phải đi suốt con đường đẩm ướt, hôi hám bên kia, có lẽ nhờ thuốc này mà đỡ bịnh.
                          Quẹo qua hai ba bận loanh quanh là đến một bức vách, nơi đây cũng có một cánh cửa.
                          Tên tiểu nhị xô cách cửa.
                          Bên ngoài là một cái hẻm hẹp chừng một bước, ngỏ hẻm dài hun hút, rác rến ruồi bọ đổ loạn xạ, mùi hôi còn nặng hơn ngỏ hẻm bên quán rượu gấp mấy lần.
                          Đối diện với cánh cửa nhỏ bên tiệm thuốc là một cánh cửa cũng y như thế, cánh cửa này chỉ khép hờ.
                          Tên tiểu nhị kéo cánh cửa ra, bên trong không có người, chỉ thấy cây vụn chất từng đống cao nghiệu.
                          Những tấm ván dài ngắn không đều nhau, có tấm đã bào sạch, có tấm còn dấu cưa, chồng chất lên nhau không thứ tự gì cả và bụi đóng từng lớp như đã lâu ngày không ai mó tới.
                          Gian nhà này có lẽ dài lắm, phía trước nghe văng vẳng có tiếng cưa tiếng đục và kế gian phòng chất cây vụn này là một dãy hòm kê san sát vào nhau che lấp cả lối đi.
                          Đủ thứ quan tài, cái đã sơn rồi, cái thì chưa, lớn có, nhỏ có, chất dài ra phía trước và tiếng cưa tiếng đục ngoài xa hơn nữa.
                          Bây giờ thì Trương Dị đã biết đây là phía sau của một trại hòm.
                          Một lần nữa Trương Dị suýt bật cười.
                          Tiệm thuốc và trại hòm đâu đít vào nhau.
                          Có bịnh thì uống thuốc, không hết thì đã có trại hòm ở kế bên, kể ra thì người ta cũng khéo sắp đặt chu đáo quá.
                          Gian phòng chứa cây vụn có ba quan tài mà ván bên ngoài đã mục nhiều chỗ, có cái bị mọt ăn thủng nhiều lỗ.
                          Đây là ba cái mà có lẽ lâu quá không có người mua nên hư mục, trại hòm nào cũng thế, ít nhất là họ cũng phải có đến năm ba cái bỏ theo cây vụn.
                          Những cái đó vì ván xấu, rồi vì nhiều quá nên tồn lại, lâu ngày bị mọt, bị hơi nắng rọi vào và hư hại đi, nếu lúc thiếu cây, người ta cũng mang nó ra sửa lại, sơn phết lại để bán, nhưng những trại lớn, công việc đó chậm lắm, người ta lo làm cái mới hơn là sửa chửa lại cái đã hư.
                          Tên tiểu nhị chỉ cái đặt trong góc tối và nói :
                          - Cánh cửa bên trong, xin mời khách quan vào, tiểu nhân đã hết nhiệm vụ.
                          Trương Dị móc một nén bạc trao cho hắn, hắn cầm lấy bằng hai tay và khom mình xuống cám ơn rối tít.
                          Tên tiểu nhị quay trở vào tiệm thuốc.
                          Trương Dị bước thẳng tới chỗ quan tài trong góc, hắn đẩy cái nắp qua một bên và nhảy tót vào.
                          Một tay dở tấm ván đáy hòm, một tay kéo cái nắp lại như cũ, Trương Dị bước theo những bật thang bằng đá xuống hầm.
                          Bên dưới tối om om.
                          Đi xuống chừng hơn một trượng, thế dốc lai dần và cuối cùng là đất bằng.
                          Lối đi độc đạo.
                          Được hơn một khoảng nữa là gặp một cánh cửa chắn ngang, Trương Dị đưa tay gõ nhẹ.
                          Bên trong có tiếng động nho nhỏ, sau cùng có tiếng bước chân đi về phía cửa và cánh cửa hé ra.
                          Một vệt sáng bên trong chói hắt vào mặt Trương Dị, bên trong có tiếng reo :
                          - Ối cha, lâu quá vậy?
                          Trương Dị lách mình vào cười cười :
                          - Có rượu không?
                          Tiếng cười khà khà bên trong :
                          - Đâu có bao giờ mà lại không có rượu? Chỉ hiềm thiếu người đối ẩm đấy chớ.
                          Ánh sáng tuy không phải là sáng lắm, nhưng bên ngoài tối om, bước vào trong chợt thấy sáng như ban ngày, chủ nhân của gian hầm chìa tay mời khách với bộ mặt thật hết sức là đặc biệt.
                          Có nhiều con người, có nhiều bộ mặt, hoặc dữ hoặc hiền, hoặc gian xõa điêu ngoa, nhưng những người gặp qua vài lần là có thể quên ngay, vì trên đời những bộ mặt như thế quá nhiều.
                          Chỉ có bộ mặt của vị chủ nhân gian hầm này thì cho dầu chỉ phớt qua một lần ngoài đường, tới chết cũng khó lòng quên được.
                          Không phải đó là một bộ mặt... có nanh có vuốt, cũng không phải bộ mặt với những vết thẹo chằng chịt, mà đó là một bộ mặt dễ nhìn.
                          Bộ mặt tương đối sáng, chỉ có điều là da mặt men mét, nhưng cái làm cho người ta khó quên là ở cặp mắt của con người ấy.
                          Da mặt đã mét chẹt, đôi mắt lại ngơ ngơ, toàn bộ mặt không lộ ra một cái gì để người ta có thể phăng từ nơi ấy cá tánh của con người đó, nó không phải là bộ mặt của con người sống mà là bộ mặt của... thây ma.
                          * * * * *
                          Lưu tiên sinh.
                          Cũng với bộ mặt “chết” đó, nhưng bây giờ thì lại có điểm nụ cười, cố nhiên là nụ cười trông thật khó coi.
                          Hắn nâng chén rượu lên và nhướng mắt :
                          - Bao giờ đi?
                          Trương Dị đáp :
                          - Khỏi đi.
                          Lưu tiên sinh nhướng mắt :
                          - Sao vậy?
                          Trương Dị đáp :
                          - Hắn sẽ đến nạp mình...
                          Một thoáng ngần ngừ trên mặt, Trương Dị vụt hỏi :
                          - Nhưng cần gì phải làm như thế?
                          Lưu tiên sinh cười :
                          - Đã có tay trống rồi thì phải làm ngay, thứ nhất, để lâu biết đâu sẽ gặp trở ngại, thứ hai là đang cần vốn.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Nhưng dầu thi hành ngay bây giờ thì cũng phải có một thời gian cho hợp lý chớ.
                          Lưu tiên sinh gật gật :
                          - Cố nhiên, nhưng cũng đâu cần phải lâu, sau khi công bố hôn lễ là có thể tiến hành, cái khó là phải phòng ngừa Vô Sắc.
                          Trương Dị nói :
                          - Hạ hắn.
                          Lưu tiên sinh lắc đầu :
                          - Không được, Vô Sắc đại sư thì có thể hạ được, nhưng bứt mây động rừng, gây oán với Thiếu Lâm trong lúc này thì chưa được.
                          Trương Dị vụt hỏi :
                          - Vị chưởng môn tiền nhiệm của Võ Đương là ai?
                          Lưu tiên sinh đáp :
                          - Thanh Nhiên Đạo Trưởng.
                          Trương Dị hỏi :
                          - So với Phương Trượng Thiếu Lâm thì người ấy như thế nào?
                          Lưu tiên sinh đáp :
                          - Võ công có phần sút hơn đôi chút, nhưng danh vọng thì ngang nhau.
                          Trương Dị cười :
                          - Hơn chớ ngang nhau sao được?
                          Lưu tiên sinh gật đầu :
                          - Hơn là vì Thanh Nhiên Đạo Trưởng liên hệ nhiều với tục gia đệ tử, vì thế nên vấn đề giao thiệp có rộng hơn.
                          Trương Dị hỏi tới :
                          - Ông ta mất tích bao giờ?
                          Lưu tiên sinh đáp :
                          - Trong khoảng mùa hạ hồi mười năm về trước.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Trong trường hợp nào?
                          Lưu tiên sinh đáp :
                          - Trong một chuyến vân du Động Đình Hồ, nhưng nửa đường là mất tích.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Nguyên nhân?
                          Lục Tinh Đường lắc đầu :
                          - Không biết!
                          Trương Dị gặn lại :
                          - Đến nay vẫn không ai biết?
                          Lưu tiên sinh gật đầu :
                          - Sợ mãi mãi không ai biết được, vì đến nay thì chẳng những Võ Đương mà cả các phái như Thiếu Lâm, Nga Mi, Không Động, cùng hợp sức điều tra, nhưng suốt hơn mười năm nay cũng đành thúc thủ.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Như vậy những nhân vật danh vọng cũng có trường hợp chết mà không truy ra thủ phạm.
                          Lưu tiên sinh nhướng mắt :
                          - Chớ sao, chẳng những có mà từ trước đến nay lại còn có khá nhiều.
                          Trương Dị cười :
                          - Như vậy tại sao Vô Sắc đại sư không mất tích?
                          Lưu tiên sinh khựng ngang.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Tại không có trường hợp thuận lợi?
                          Lưu tiên sinh gật đầu :
                          - Đúng rồi, hạ thủ tuy có khó, nhưng cũng không khó bằng không có trường hợp thuận lợi để cho người ta truy không được.
                          Trương Dị hơi trầm ngâm một chút rồi vụt hỏi :
                          - Thiên Sơn Nhất Quái chết hồi nào?
                          Lưu tiên sinh đáp :
                          - Hồi sáu năm trước.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Ai lại có thể giết được con người mệnh danh là vô địch trong thiên hạ đó?
                          Lưu tiên sinh lắc đầu :
                          - Không ai có thể giết được cả, chưa có người nào là đối thủ của ông ta.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Thế tại sao ông ta lại chết?
                          Lưu tiên sinh đáp :
                          - Họ tạo cơ hội lừa ông ta xuống con đường hầm dẫn từ lòng núi Thiên Sơn, rồi dồn khói đẩy dần ông ta ra thác nước.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Nhưng một con người công lực vô địch như Thiên Sơn Nhất Quái lại không thể vượt thác nước được hay sao?
                          Lưu tiên sinh đáp :
                          - Ngay đầu thác nước, tức là lối thoát ra khỏi con đường ngầm đó, người ta đã đặt sẵn một thớt đá, đúng hơn là người ta đã làm cho gành đá nơi đó sụp sẵn và khi Thiên Sơn Nhất Quái vừa ló đầu ra là người ta cho gành đá sụp xuống đè luôn thây của ông ta dưới đáy nước.
                          Trương Dị hỏi :
                          - Nhưng nghe nói Thiên Sơn Nhất Quái đã ra vùng quan ngoại quá lâu, tại làm sao lại trở về Thiên Sơn?
                          Lưu tiên sinh cười :
                          - Đâu có khó, người ta có cách để dẫn dụ ông ta trở lại Thiên Sơn dễ như chơi.
                          Trương Dị gật gật đầu :
                          - Thanh Nhiên Đạo Trưởng mất tích, mười mấy năm nay không ai tìm ra thủ phạm, người ta lại có cách tạo cơ hội đến đúng một nơi để trừ Thiên Sơn Nhất Quái, thì tại sao không thể nhập hai chuyện lại để trừ Hòa Thượng Vô Sắc?
                          Lưu tiên sinh thoáng hơi khựng lại, nhưng hắn bật cười ngay :
                          - Đúng rồi, tạo cơ hội cho Vô Sắc đại sư đến chỗ mình có thể hạ thủ được, rồi sau đó là ông ta... mất tích.
                          Hắn gật gật và nói tiếp :
                          - Hay, nhưng làm sao tạo ra cơ hội đó?
                          Trương Dị nói :
                          - Tôi có cách.
                          Lưu tiên sinh hỏi :
                          - Cách nào?
                          Trương Dị đáp :
                          - Sau khi giải quyết xong vụ Cẩm Tú sơn trang.
                          Lưu tiên sinh nâng chén lên :
                          - Cạn cho hết cái này.
                          Trương Dị đưa tay chận lại :
                          - Khoan.
                          Lưu tiên sinh hỏi :
                          - Còn gì nữa?
                          Trương Dị cười :
                          - Tính trước chuyện chia chác đã chớ, làm cho kỷ để khỏi mất lòng sau.
                          Lưu tiên sinh cũng cười :
                          - Nói trước đi.
                          Trương Dị nói :
                          - Nếu thực hiện đúng được theo kế hoạch, thứ nhất thì chia hai cái sau, trường hợp không được thì giao trước cho tôi và thêm một phần ba cái sau nữa.
                          Lưu tiên sinh gặn lại :
                          - Sau hôn lễ?
                          Trương Dị gật đầu :
                          - Ngay sau đó.
                          Lưu tiên sinh nâng chén lên khỏi đầu :
                          - Quân tử nhất ngôn.
                          Trương Dị cũng đưa chén lên :
                          - Chỉ trừ trường hợp có kẻ phản trắc thì câu chuyện giao kết phải được thay đổi lại.
                          Lưu tiên sinh cười lớn :
                          - Nhưng chắc chắn là không có chuyện đó.
                          Cả hai kê chén vào miệng và cùng cạn một lần.
                          Khi Trương Dị ra gần tới cửa thì Lưu tiên sinh vụt nói :
                          - Lữ Ngọc Hồ.
                          Trương Dị gật đầu :
                          - Biết rồi...
                          Con đường hầm bị tắt mất ánh sáng khi cánh cửa được khép lại, bóng tối trầm trầm. Bóng tối của con đường hầm giống y như bóng tối trong lòng người khi có những âm mưu không sáng sủa...
                          * * * * *
                          Những kẻ làm chuyện ám muội thường thường hay đi trong bóng tối.
                          Vì bóng tối vừa làm cho người không thấy họ, mà chính họ cũng khỏi phải nhìn thấy ánh sáng, họ rất sợ ánh sáng, vì ánh sáng chói mắt làm cho những suy tính trong lòng họ không sâu sắc.
                          Nhưng những kẻ chính đại quanh minh lại cũng có lúc phải đi trong bóng tối.
                          Một là chỉ có vào bóng tối, họ mới có thể “moi” được những kẻ chuyên làm chuyện trong bóng tối, đó là nguyên tắc nhập địa ngục để tìm quỷ dọa xoa.
                          Trường hợp thứ hai, không phải quyết tâm khám phá việc gì, không có ý muốn tìm những kẻ trong bóng tối, nhưng con người chính đại quanh minh lại cũng phải đi trong bóng tối.
                          Đó là trường hợp lỡ đường.
                          * * * * *
                          Đào Đại Gia đang qua một cái truông.
                          Truông vốn đã ít khi sáng, bây giờ lại là về đêm, nên bóng tối càng dầy hơn nữa.
                          Cỗ xe không thể đi nhanh vì đường không thấy rõ.
                          Trước mặt là một khối đen ngòm, không thể biết đâu là rừng đâu là đường, bánh xe lăn từng vòng chậm chạp.
                          Tên đánh xe hình như hơi khiếp, hắn nói vọng vào xe :
                          - Đại Gia, tối quá.
                          Đào Đại Gia hỏi :
                          - Đã được bao xa rồi? Được nửa truông chưa?
                          Tên đánh xe đáp :
                          - Không biết được bao nhiêu, nhưng từ khi đến đầu truông đến giờ thì đã hơn một khắc thời gian rồi.
                          Đào Đại Gia cười :
                          - Đã không thể dừng lại thì phải đi luôn, chớ không lẽ quay lộn ngược lại? Bây giờ đâu còn nói chuyện tối sáng nữa, khi mới vào truông thì chính mình cũng đã biết tối rồi chớ đâu phải bây giờ mới biết.
                          Tên đánh xe làm thinh.
                          Hắn đâm tức mình ngang.
                          Quả thật, hồi ở đầu truông, hắn đã thấy trời bắt đầu tối, thế nhưng cho đến bây giờ thì hắn mới bắt đầu thấy sợ.
                          Những người khách đi biển, nếu không phải là thủy thủ, nếu không phải là những kẻ từng linh đinh trên biển cả thì tâm trạng của họ rất dị kỳ.
                          Khi mới bước chân xuống thuyền, họ cảm thấy chiếc thuyền lớn quá, vững quá, họ cảm thấy ngồi trên chiếc thuyền này còn vững hơn là ngồi trên bộ ván ở nhà.
                          Họ cảm thấy rằng cho dầu sóng gió cách nào, với một chiếc thuyền quá vững như thế này, ngàn đời cũng vẫn yên như bàn thạch.
                          Nhưng khi đã ra khơi, khi đã bị sóng cho nhồi lên hụp xuống khi họ nhìn thấy đâu đâu cũng là trời với nước, những bờ cây quen thuộc bây giờ đâu mất, y như mặt đất, cây cỏ, núi rừng đều bị biển cả nhận xuống đáy sâu...
                          Bây giờ thì họ mới thấy sức mạnh hãi hùng của biển cả, họ bỗng cảm thấy chiếc thuyền vững chắc của họ bây giờ giống như... thuyền giấy.
                          Họ bắt đầu rung.
                          Một khi đã rung rồi thì nhiều chuyện sợ khác nữa cứ theo tiếp đó mà... tiếp tục.
                          Chẳng hạn như họ thấy chiếc thuyền có thể vỡ ra từng mảnh, họ mường tượng như chiếc thuyền mục nát từ bao giờ, họ thấy chiếc thuyền chỗ nào cũng mỏng manh.
                          Họ lại sợ... biết đâu chừng có một con kình ngư phóng vào thuyền, chiếc thuyền chìm xuống rồi tất cả, cả người và cả chiếc thuyền sẽ được lùa vào bụng cá.
                          Con người là như thế, cứ một khi đã run rồi thì từ cái sợ này kéo theo nhiều cái sợ khác, có những cái sợ mà nếu khi còn ở trên đất liền, có ai nói ra chắc họ sẽ ôm bụng cười lăn, vì cái sợ quá vô lý, nhưng bây giờ, khi đã ra khơi rồi, khi cảm thấy không có chỗ nào bấu víu được lúc chiếc thuyền cứ như muốn đâm luôn xuống đáy biển như thế thì tất cả mọi thứ gì vô lý nhất cũng trở thành... có lý.

                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #43
                            Hồi 39 : Yến Tử Xuyên Liêm

                            Khi người ta đã sợ thì nhiều trường hợp khác nhau nhưng tâm trạng lại giống nhau.
                            Tên đánh xe này cũng thế.
                            Hồi mới thót lên xe và cho đến khi đi vào truông tối, chẳng những hắn không sợ sệt gì mà lại còn vô cùng tin tưởng.
                            Hắn đã nghe danh tiếng của Đào Đại Gia, hắn đã thấy con người dáng dấp oai hùng, bằng vào cái nghe, cái thấy đó, hắn coi mọi sự nguy hiểm trên đời này chỉ bằng một hạt tiêu.
                            Đừng nói con đường truông này, mà cho dầu cần phải đi vào chỗ miệng cọp hang hùm, phải đi và chỗ thiên quân vạn mã, giươm giáo dăng trời, hắn cũng coi chẳng vào đâu.
                            Thế nhưng bây giờ khi vào đến giữa truông rồi, tâm trạng của hắn bỗng thay đổi hẳn.
                            Trời tối ngửa bàn tay không thấy, bốn phía tối bưng bưng.
                            Giữa đường truông, hai bên rừng sâu thăm thẳm, không có một tiếng động, không nghe thấy tiếng chim kêu mà cũng không nghe thấy tiếng cọp gầm, tên đánh xe bỗng có cảm giác như đi vào đất chết.
                            Thật là tai hại, đang lúc sợ sệt mà trong ý nghĩ lại len vào tiếng chết, chỉ mới nghĩ đến “đất chết” không thôi là y như bao nhiêu cơn lạnh mùa đông chạy tuốt vào xương sống, luồn thẳng đến óc hắn, thân hình hắn bỗng co rúm lại...
                            Cũng may nhờ hắn ngồi sâu vào hiên xe, chiếc xe còn có tay vịn, nếu không chắc hắn sẽ bị lăn nhào xuống đất.
                            Đúng như Đào Đại Gia vừa nói, đã không thể dừng ngang giữa truông được thì phải đi luôn chớ không lẽ quay trở lại?
                            Nhưng nếu đi tới trong hoàn cảnh như thế này...
                            Bốn bên bóng tối như ép lại, xe vẫn lăn bánh nhưng hình như không còn có đường đi...
                            Bất cứ một tai họa nào cũng đều có thể xảy ra, bây giờ thì không nghe thấy tiếng động nào, nhưng bất cứ một tiếng động nào cũng có thể dẫn tới chết chóc.
                            Tên đánh xe lại càng bủn rủn khi nghĩ đến chết chóc.
                            Hắn nghĩ lung tung, hắn nghĩ đủ mọi việc, nhưng toàn là việc kinh khủng chớ không khi nào nghĩ đến chuyện sẽ yên lành ra khỏi con đường truông này cả.
                            Bây giờ thì hắn rất mong có một tiếng động, tiếng động gì cũng được, có thể tiếng động của một con chim đập cánh, có thể là một tiếng động của một con chồn ăn đêm bước gảy cảnh khô, cũng có thể là tiếng động của... cọp gầm, hắn cũng rất sợ cọp, nhưng nếu nghe tiếng gầm thì vẫn có thể kịp thời để tránh né, hơn là im lìm như... đất chết bây giờ.
                            Hắn thấy cái gì xảy ra cũng đều có thể chết được, từ một thân cây đốn gốc làm bẫy xập, chỉ cần có người chặt đứt sợi giây giữ thân cây thì cả cỗ xe, cả con ngựa và hai người trên cỗ xe này đều bị đè dập như một đống thịt.
                            Có thể người ta không làm cách đó mà người ta chôn thứ thuốc bắn đá và một khối đá dựa đường, người ta canh cài ngòi dẫn hỏa, khi cỗ xe vừa tới thì tiếng nổ phát lên...
                            Hắn nghĩ có một cách đơn giản hơn cả là người ta đào sẵn một cái hầm giữa đường, bây giờ trời tối đen như mực như thế này, thì họ không cần phải ngụy trang bằng lớp đất mỏng gì cả, người ta cứ để trống như những cái hầm đổ rác là cả xe cả ngựa cả người sẽ lọt tuốt xuống hầm sâu, chỉ cần năm ba cây chông bằng gốc tre già dựng phơ phèo cũng đủ giết cả ngựa lẩn người...
                            Nghĩ đến cây chông bằng gốc tre già là hắn càng rung hơn nữa.
                            Gốc tre chừng bốn năm mùa, trong ruột đỏ au, rựa búa lôi thôi chặt vào là nháng lửa. Thứ gốc tre đó, người ta chẻ nhỏ chừng bằng ngón chân cái, đầu nức ba cạnh...
                            Hắn lại rùng mình.
                            Hắn đã chứng kiến người Thượng Du bẫy heo rừng một bận, con heo thật dữ, phá hại cả trăm mẫu rẩy, những tay thợ săn “ba phát ba trúng”, những con chó săn cao lớn cũng đều phải chịu thua, nhưng khi con heo bị sụp xuống “hầm chông” thì nó chỉ rống lên mấy tiếng rồi tắt thở...
                            Những ngọn chông gảy sát vào da, chỉ có cách xẻ thịt ra mới mong lấy được...
                            “Hầm Chông”, hắn chỉ nghĩ thầm trong bụng mà nghe in như ai đó thét vào tai hắn thật lớn...
                            “Hầm Chông”!
                            * * * * *
                            Một tiếng thét thật lớn.
                            Tiếp theo đó là một cái... ào.
                            Cỗ xe sụp tuốt xuống hầm.
                            Nhưng không phải hầm chông...
                            Đó là một cái hầm trống, nhưng thật sâu và khi cỗ xe lọt xuống thì một màn lưới bằng giây gai cũng đã chụp xuống theo.
                            Tên đánh xe hồn phi phách tán, hắn vừa ngoái cổ dòm lên thì thấy một bóng người từ xa xẹt tới như chim én.
                            Đào Đại Gia kêu nho nhỏ :
                            - Yến Tử Xuyên Liêm!
                            * * * * *
                            Bất cứ sau một con đường lớn trong một thị trấn nào cũng đều có khu nhà đông đúc. Gần ngoài đường là những ngôi nhà khang trang, nơi nào cũng có vòng tường riêng biệt, bên trong những vòng tường đó là tòa nhà, tự nhiên tòa nhà thì dầu lớn cách mấy cũng có chừng mực, nhưng khu đất thì thật rộng, ngoài khu vườn hoa, tiền viện, hậu viện, gần chân tường còn những khoảng đất bỏ trống, có thể cất bốn giải nhà cho hàng trăm người ở cũng còn thừa.
                            Ngược lại với bên ngoài, đi sâu vào trong là khu nhà đông đảo hơn, chen kín mít vào nhau, đó là khu nhà của bần dân.
                            Đất ít người đông, họ cất sát vào nhau, chỉ chừa những con đường nhỏ, gánh một cái gánh mà thúng lớn là phải đụng, thêm vào đó, gặp mùa mưa là nước ngập đến ống chân.
                            Những con đường chằng chịt đó, nhiều khi lại sát vào mái hiên nhà, có khi sàn trước của nhà này lại là cái sân của nhà khác, họ chui rúc như ổ chuột...
                            Hình như không một nơi nào có một thứ giống nhau, ở vào khu nhà lụp xụp như thế, nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn thấy mọc lên một vài ngôi nhà khá lớn, khá đẹp, tự nhiên khi một ngôi nhà mọc lên “lạc lỏng” như thế, thì chính nó đã có sự cách biệt với chung quanh.
                            Về phía đông khu dân cư lụp xụp này, có một ngôi nhà như thế.
                            Thỉnh thoảng người ta thấy một cô gái hé cổng đi ra ngoài, có lẽ đó là cô tớ gái của chủ ngôi nhà đó, cô ta mua một ít thứ cần dùng rồi lại thụt mất vào trong, cánh cổng sắt kiên cố cách biệt hẳn với bên ngoài.
                            Chủ nhà là hạng người nào, chung quanh cũng không hề biết.
                            Giữa một khu nhà lụp xụp, bỗng có một tòa nhà “kín cổng” như thế, ban đầu chắc người ta cũng tò mò, nhưng riết rồi cũng không ai buồn để ý.
                            Người ta lo chén cơm manh áo, chớ hơi đâu cứ đi để ý vào chuyện của thiên hạ làm chi, nhất là “thiên hạ” có vòng tường, có vườn hoa, có cổng kín, mà cũng không động chạm đến ai thì cũng không ai mắc mớ gì “điều tra” cho mệt xác.
                            Tuy nhiên cũng có nhiều kẻ... đoán mò, người ta cho đó là một vị khoa bảng hồi hưu, “bế môn tạ khách” để an dưỡng tuổi xế chiều, cũng có người cho rằng một phú hộ nào đó lập “phòng hai”, để thỉnh thoảng về đây “đổi món”...
                            Cũng có người cho rằng chủ nhân ngôi nhà đó là bậc đã “khám phá hồng trần”
                            nhưng không muốn vào chùa, nên chọn một ngôi nhà an tịnh để độ xác phàm cho đến khi hết kiếp...
                            Nhiều lắm, họ đoán như thế này, như thế nọ, nhưng toàn là đoán tốt, không một ai nghĩ ngôi nhà đó có chuyện... bất lương, vì rồi, không hề xảy ra một chuyện gì phiền hà cho hàng xóm cả.
                            Những khu xóm dân nghèo thường là thế, họ vốn là lương thiện, họ có sẵn tâm niệm là đừng ai động đến mình là mình cũng vậy. Họ chỉ sợ người gây sự chứ họ không hề gây sự với ai. Nhưng nếu ai có dịp lẻn vào dòm thấy trong tòa nhà đó, nhất định là người ta... bật ngửa.
                            Khu vườn không rộng lắm, nhưng cây cối um tùm, cố nhiên không phải là cây rừng mà toàn là cây ăn trái, bên trong ngôi nhà đóng cửa im lìm, không thấy bóng người.
                            Phía trước có hai lớp cửa, cửa cây nhưng rất kiên cố, vách gổ được làm bằng một thứ gổ thật dầy, khoan sắt, song cửa cũng bằng sắt.
                            Nhà không có hành lang, lên thềm là cửa cách khoảng như hành lang, bên trong lại có một cửa nữa, cả hai lớp cửa không hề mở ra lần nào, ngày ngày tháng tháng đóng khít rim.
                            Qua khỏi hai lớp cửa ngoài là phòng khách, qua khỏi phòng khách lại là một lớp cửa nữa, bên trong là phòng ngủ, qua khỏi phòng ngủ lại thêm một lớp cửa và cuối cùng là phòng nấu ăn.
                            Gian dành để nấu ăn có một cái sân lộ thiên, vừa làm sàn nước mà cũng vừa để phơi y phục, nhưng bên trên không phải để trống như những sân lộ thiên khác, trên đó có một tấm lưới sắt cọng lớn bằng cổ tay và lỗ lưới thì không thể thò tay vào lọt.
                            Tấm lưới sắt đó chỉ khi nào trèo lên mới thấy, vì nó được khuyết dưới đầu tường.
                            Từ nhà bếp ra sân lộ thiên có một cánh cửa cũng bằng gổ nặng, qua khỏi sân lộ thiên lại có một cánh cửa nữa, cánh cửa này cũng kiên cố lắm, bên sau cánh cửa đó là gian phòng chất củi, bên ngoài lại có một cánh cửa dầy.
                            Người con gái mà người ta nghi là cô tớ gái của nhà này, thỉnh thoảng đi ra bằng ngỏ cửa nhà để củi, mỗi khi ra, cô ta khóa trái bằng một ống khóa thật to, khi vào thì song cửa sắt được gài vào then cẩn thận.
                            Từ nhà sau lên nhà trước, chỉ có mỗi một người: người con gái đó.
                            Người con gái đó là Đào Liễu.
                            Nàng được Trương Dị đưa về ở đó, ngoài Trương Dị thỉnh thoảng đi về, nàng không thấy một người nào khác.
                            Đáng lý cô ta đã hỏi :
                            - Nhà này là nhà ai? Ở đây đến bao lâu? Và sau đó là đi về Cẩm Tú sơn trang hay là tìm gặp Thư Hương?
                            Đáng lý còn nhiều câu hỏi khác nữa, nhưng nàng không hỏi.
                            Vì Trương Dị không bao giờ ở đây lâu, có chuyện hắn mới về, cô ta chỉ ra khỏi gian nhà này một lần là khi Trương Hảo Nhi âm mưu làm đám cưới Thư Hương với Lữ Ngọc Hồ giả, rồi sau đó, khi đến sòng bạc của Kim Râu là nàng lại trở về đây.
                            Khi mới bước vào nhà này, Trương Dị đã dặn ngay: “Khi cần mua sắm cái gì thì đi thật nhanh, càng ít đi càng tốt và cứ ở đó đợi hắn”.
                            Chính vì thế mà nàng không hỏi.
                            Nàng biết không cần phải hỏi, khi cần thì Trương Dị sẽ nói ngay, khi chưa cần, hỏi hắn vô ích, vì hắn rất ít nói chuyện với cô ta.
                            Không hiểu tại sao, gặp mặt Trương Dị là cô ta tin tưởng hắn vô cùng, mặc dầu hắn không có mặt ở đây, nhưng nàng biết chắc rằng chỗ này rất vững, ngoài sự xắp xếp của Trương Dị, lại còn mấy lớp cửa quá kiên cố, trừ khi ra ngoài mua đồ, ở trong nhà cô ta cảm thấy không ai làm gì được cả.
                            Vì thế mà cô ta rất ít đi ra.
                            Nhưng cô bé Đào Liễu không hề biết rằng những lớp cửa đó kiên cố thật, có thể dùng búa đập cũng khó mà vỡ nổi nhưng vẫn có người mở được, mở một cách dễ dàng mà nàng không hay biết.
                            Vì cô ta chưa nghe danh một nhân vật phi thường.
                            Nói phi thường không phải vì võ công quá giỏi, mà là phi thường về nghề... mở cửa.
                            Người đó là Thập Tam Chích Thủ.
                            Cái danh hiệu đó không phải bạn bè tặng mà chính hắn tự xưng.
                            Hắn bảo rằng hắn có thấy một tượng phật mười hai tay, người ta giải thích thật nhiều, hắn không nhớ rõ, nhưng mang máng hắn biết mười hai tay của ông phật đó tạo dùng để... quảng độ chúng sanh.
                            Hắn bảo hắn cũng có làm chuyện quảng độ chúng sanh, không phải nhiều hay ít, nhưng hắn quả quyết là hắn làm nhiều hơn phật, vì hắn chưa thấy phật làm như hắn.
                            Hắn bảo như thế cũng chưa đủ, vì mười hai cánh tay hắn lo “quảng độ chúng sanh” nhưng nếu chỉ thế thôi thì hắn không có... vốn. Và vì thế cho nên hắn cần thêm một cánh tay nữa, cánh tay này chuyên dùng để kiếm “vốn” bằng cách... mở cửa nhà giàu.
                            Do đó hắn tự xưng là Thập Tam Chích Thủ.
                            Thông thường lối tự xưng người ta hay quá lố, nhưng với Thập Tam Chích Thủ thì đúng là danh bất hư truyền.
                            Có người bảo rằng hắn tự xưng như thế vẫn còn là khiêm tốn.
                            Đối với bạn bè, mỗi khi nghe Thập Tam Chích Thủ định đột nhập vào một chỗ nào thì không một ai bàn đến chuyện khó hay dễ, vì với hắn thì không có vấn đề khó dễ, chỉ có chuyện hắn muốn làm hay không thế thôi.
                            Nếu Đào Liễu mà biết được về Thập Tam Chích Thủ thì chắc chắn cô ta không còn đem ỷ vào cái kiên cố của ngôi nhà này nữa.
                            Vì đối với những lớp cửa của ngôi nhà này, có thể là bất khả xâm phạm đối với tất cả thiên hạ, nhưng với Thập Tam Chích Thủ thì y như bỏ ngỏ.
                            Hắn vào nhà không có một tiếng động nào.
                            Không, nói không có tiếng động thì không đúng, phải nói là Đào Liễu có nghe tiếng “chuột chạy”, nàng nghe một tiếng thật nhỏ phía phòng khách nhưng khi nàng vừa quay lại thì không còn lên tiếng kịp.
                            Thật sự thì cô ta cũng không nhìn rõ con người đó, cô ta chỉ thấy một cánh tay và sau đó là bất tỉnh...
                            * * * * *
                            Trừ trường hợp phải nuốt sâu độc, chớ chuyện sâu bò trên mình thì chưa ai chết bao giờ.
                            Thế nhưng một trăm người, chưa nghe có người nào dám nói là chẳng sợ sâu.
                            Nhất là những cô gái, mười người sợ đến mười một.
                            Đào Liễu tỉnh dậy là thấy hai vật.
                            Cả hai vật đều có thể làm cho nàng có thể chết giấc trở lại như chơi.
                            Thứ nhất là Vương đại nương.
                            Vừa thấy Vương đại nương là Đào Liễu muốn nhắm ngay mắt lại.
                            Nếu nói bộ mặt quỷ là đáng sợ, cô ta vẫn bằng lòng thấy quỷ hơn là thấy cái bộ mặt xinh đẹp của con quỷ sống Vương đại nương.
                            Hắn cười thật dịu, thật đẹp, thật hiền, nhưng dưới con mắt của Đào Liễu, cái cười của Vương đại nương, cái hàm răng như ngọc đó có ló ra bốn cái nanh nhọn hoắc.
                            Cô ta định nhắm mắt lại nhưng không nhắm được, vì ngay đó là cô ta nhìn thấy vật thứ hai.
                            Đó là một cái thùng, bốn bên bằng thứ lưới mành mành, đầy nhóc một thùng...
                            sâu.
                            Những con sâu rọm bằng ngón tay cái, dài gần một gang tay xà nẹo với nhau thành từng cục dồn ngổn.
                            Sợ Vương đại nương thật, sợ đến mức Đào Liễu muốn nhắm ngay mắt lại chớ không dám nhìn, nhưng với thứ sâu này thì cô ta không còn sức để mà nhắm mắt, vì thế, cô ta thấy hết sức rõ ràng...
                            Chùm lông chôm chổm trên lưng sâu cố nhiên là đã rùng mình rồi, nhưng cái ghê gớm hơn hết là dưới bụng, không biết đó là chân hay vú, từng ngấn từng ngấn trăng trắng xanh xanh...
                            Bao nhiêu nước miếng trong miệng của Đào Liễu vùng khô khốc, toàn thân cô ta nổi gai tê buốt, hơi lạnh chạy từ dưới xương mông lên tới óc, mắt trợn trừng và quai hàm như tréo lại.
                            Vương đại nương cười thật dịu :
                            - Đừng sợ, kể ra thì cái đồ ôn dịch đó bò trên mình cũng nhột lắm, vậy mà em nghĩ coi, ở đây có những đứa em nhỏ kỳ cục lắm, dạy dỗ nó không chịu nghe, năn nỉ ỉ ôi cách gì cũng nhất định cải lại, trách mắng la rầy gì cũng không được, vậy mà cứ cởi quần áo ra cho chừng vài chục con sâu bò lên mình là nói cái gì cũng nghe lời răm rắp!
                            “Hắn” cười cười và nói tiếp :
                            - Em nghĩ coi; mắm không ngon, mắm để nêm canh, gia dục không lành thì chị em mình đóng cửa dạy nhau. Nói ráo nước miếng cũng không nghe, càng nói, chị càng tức muốn chết, chị em thương nhau hết tình dạy dỗ lại không chịu nghe, thế mà sâu nó dạy thì nghe, tức không?
                            Đào Liễu líu lưỡi, cô ta bỗng nghe từ dưới ruột cuộn lên phát ói...
                            Vương đại nương nói tiếp :
                            - Nhưng đâu phải toàn là cái thứ mất dạy như vậy, một trăm đứa mới có một đứa không ra gì, ngay như em nè, nhớ không? Lần trước chị thấy là biết ngay, chị đâu có ép em làm chuyện gì đâu, đã không ép mà chị còn gởi em vào chỗ sung sướng...
                            Đào Liễu chợt nghe hơi lạ.
                            Khi thấy Vương đại nương, khi thấy giỏ sâu lúc ngúc là cô ta nghĩ ngay đến chuyện bắt ép “hành nghề” đối với một người chứa điếm thì có chuyện gì ngoài chuyện ấy?
                            Thế nhưng câu nói vừa rồi của Vương đại nương làm cho cô ta động tánh tò mò.
                            Cô ta hỏi bằng một giọng như đớ lưỡi :
                            - Làm... làm gì? Ô... bà bảo tôi làm gì?
                            Vương đại nương cười :
                            - Bộ em tưởng chị đưa em về đây là bảo em tiếp khách à? Đâu phải, ở trong nghề mấy chục năm nay em tưởng chị không biết sao? Không có đâu, tùy theo người chớ, chị biết em đâu có thích làm cái nghề đó, mà chị thì thương em mà khi em đã không thích thì chị đâu có ép?
                            Đào Liễu càng ngạc nhiên.
                            Tú bà bắt gái tơ về mà không buộc tiếp khách thì không lẽ mời làm... tú bà?
                            Nàng chớp mắt hỏi :
                            - Tôi... tôi không... làm cái đó được, ngoài cái đó, bà bảo tôi làm gì tôi cũng chịu, giặt giủ, đổ cứt đổ đái gì cũng được.
                            Vương đại nương cười :
                            - Tầm bậy, ai mà bảo em làm cái chuyện cực nhọc như thế? Bây giờ thì em cứ nghỉ đi, nhưng em mà cần làm chuyện rước khách thì chị phải nói ngay, chớ còn em không làm chuyện đó thì có gì mà vội. Chị nói để em yên lòng, không bao giờ chị bảo em làm chuyện đó, chỉ khi nào trong thời gian còn ở đây với chị, mà em phải lòng một người nào, em ngỏ ý thì chị mới gả, bằng không thì thôi. Và khi nào em thấy không muốn ở với chị nữa thì em cứ việc cho chị biết, bao nhiêu công lao của em, chị sẽ tính sòng phẳng và để em đi ngay.
                            Là một cô gái mà đầu óc không phải tối tăm, làm sao Đào Liễu lại dám tin những lời nói của Vương đại nương? Thế nhưng chỉ cần là không gấp, chỉ cần có thời gian, kéo dài được ngày nào hay ngày nấy, nàng quyết tâm tìm cơ hội...
                            * * * * *
                            Thư Hương đâm cáu.
                            Cái nóng nực nhất của nàng là khám phá đám Hòa thượng “sòng bạc”, tìm cho ra Kim Râu, cần phải xem họ âm mưu gì, tại sao lại có chuyện gày bẫy để vu khống cho Lữ Ngọc Hồ? Vì thế, nàng cứ đòi đến Phàn Âm tự.
                            Vậy mà Lữ Ngọc Hồ và Trương Dị thì lại cứ suốt ngày uống rượu tán dóc, nói toàn những chuyện không đâu, những chuyện không ăn nhằm gì đến vụ quan trọng đó cả.
                            Trời đã hết một ngày.
                            Bây giờ thì hoàng hôn đã bắt đầu phủ xuống.
                            Trọn ngày nay, tuy tức lắm nhưng Thư Hương đã hạ quyết tâm không thèm nói, nàng nghĩ họ phải lo nhiều về chuyện đó hơn, nhất là Lữ Ngọc Hồ, vấn đề chết sống vốn là của hắn, hắn không nóng lòng thì nàng nóng lòng làm gì cho mệt.
                            Vậy mà khi hoàng hôn bắt đầu là nàng không làm thinh được nữa, nàng háy mắt và hỏi bằng một giọng ghét cay ghét đắng :
                            - Bây giờ ăn nhậu không sao?
                            Trương Dị đáp tỉnh bơ :
                            - Có công chuyện khác nữa chớ.
                            Thư Hương hỏi :
                            - Công chuyện gì?
                            Trương Dị đáp :
                            - Nói chuyện.
                            Thư Hương cắn răng làm thinh.
                            Giá như đủ sức, nàng sẽ tống cho hắn một đạp rồi kéo xển đầu hắn dậy nhận vô lu nước cho chết luôn, nàng bỏ cả hai ở đó để một mình đến Phàn Âm tự.
                            Thế nhưng nàng không làm được.
                            Nàng biết sức mình không làm được.
                            Thật lâu, nàng cố nuốt giận hỏi :
                            - Không đến Phàn Âm tự sao?
                            Trương Dị đáp :
                            - Đi chớ.
                            Thư Hương hỏi :
                            - Bao giờ mới đi?
                            Trương Dị đáp :
                            - Khi thấy cần đi thì đi.
                            Thư Hương thật ói gan, nhưng làm gì họ bây giờ?
                            Giá như nàng là một cô gái an phận, cứ mặc kệ họ, chừng nào họ muốn đi là đi, không đi thì nàng cứ nằm lún đó ăn rồi ngủ thì có lẽ nàng đỡ tức, thế nhưng nàng lại không phải thứ an phận, nếu nàng là người an phận thì nàng đâu lại bỏ nhà đi hoang như thế?
                            Và chính vì cái không chịu an phận của nàng nên nàng mới tức.
                            Cũng may nàng không bị tức lâu, vì sau đó bỗng có tiếng động ngoài tường.
                            Tiếng động giống như chim mổ kiến ăn đêm.
                            Trương Dị đứng lên đi ra cửa.
                            Thư Hương thò đầu dòm theo, nàng thấy bóng một người đứng mút giải hàng lang, đứng ở góc tường phía hậu viện.
                            Không cần phải đến gần, chỉ cần nhìn thấy cái bóng đen từ mắt cá đến đỉnh đầu, chỉ có hai con mắt y như mắt mèo đêm là nàng biết ngay đó là Thập Tam Chích Thủ.
                            Nàng định đứng dậy ra theo, nhưng Lữ Ngọc Hồ đã kéo nàng ngồi lại.
                            Thư Hương trừng mắt :
                            - Để ra xem họ nói gì.
                            Lữ Ngọc Hồ cười :
                            - Hai con người đó kỳ cục lắm, không nghe chuyện họ được đâu.
                            Thư Hương hỏi :
                            - Tại sao vậy?
                            Lữ Ngọc Hồ đáp :
                            - Không có mình thì họ nói chuyện, nhưng khi có mặt mình hoặc họ làm thinh, họ nói với nhau bằng mắt, hoặc nói những câu mà mình chẳng biết chút nghĩa nào, như thế thì nghe làm gì cho mệt.
                            Thư Hương cau mặt :
                            - Nhưng họ đâu phải người gian, chuyện gì phải giấu người ta như thế?
                            Lữ Ngọc Hồ cười :
                            - Ai nói họ giấu?
                            Thư Hương gặn lại :
                            - Không giấu chớ tại làm sao lại không cho người khác nghe?
                            Lữ Ngọc Hồ đáp :
                            - Những kẻ gian tự nhiên là giấu, những người ngay không có nghĩa là chuyện gì cũng phải la lên cho thiên hạ biết.
                            Thư Hương bực dọc :
                            - Nhưng không cho biết với giấu khác nhau ở chỗ nào?
                            Lữ Ngọc Hồ đáp :
                            - Khác rất nhiều, thiên hạ không phải là gian hết, nhưng như vậy không có nghĩa là chuyện gì của thiên hạ cũng phải đều cho cô biết hết.
                            Thư Hương trừng trừng đôi mắt, nàng giận lắm nhưng nàng cũng chợt nhận ra rằng hắn nói đúng.
                            Đâu có chuyện chi là không đúng, đâu phải chuyện gì người ta cũng phải mời nàng chứng kiến và lẽ phải đâu có cho phép chuyện gì của người ta nàng cũng cứ xía vô?
                            Nhất là một người con gái, người con gái không làm ra trò trống gì cả, chuyện gì cũng do thiên hạ đỡ đần, thì làm sao cứ đòi nghe chuyện của người ta?
                            Biết rõ như thế, hiểu một cách chính chắn như thế, vậy mà nàng vẫn tức.
                            Hình như nàng tức vì thái độ của bọn Trương Dị, hình như họ xem nàng y như...
                            con nít.
                            Càng tức, nàng càng muốn biết chuyện của họ, càng muốn biết nàng càng muốn nghe và vì muốn như thế cho nên nàng cảm thấy họ đều là một bọn người... vô lý.
                            Giá như còn thì giờ để nghĩ... kéo dài hơn chút nữa thì chắc Thư Hương đã la lối lên rồi, nhưng may là khi đó thì Trương Dị trở vô.
                            Hắn đã trở vô nhưng chỉ có một mình, không thấy Thập Tam Chích Thủ.
                            Và bây giờ, hắn bỗng đâm ra... mau mắn, vừa bước vô là hắn nói ngay :
                            - Đi, mình có thể đến Phàn Âm tự được rồi.
                            Lữ Ngọc Hồ không hỏi nửa tiếng, hắn lẳng lặng đứng lên, hình như hắn đặt cả niềm tin vào Trương Dị, hắn không có vẻ gì băn khoăn cả.
                            Nhưng với Thư Hương thì không thế, nàng vẫn thấy khó chịu, nàng bỗng muốn cự nự với Lữ Ngọc Hồ, nàng bỗng xem hắn không ra gì cả, nàng muốn hỏi một câu: “tại sao không hỏi Trương Dị? Chẳng lẽ hắn bảo ăn cứt cũng ăn sao?” Nhưng nàng lại thấy hỏi cũng vô ích, nàng đành phải hậm hực đứng lên theo họ...


                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #44
                              Hồi 40 : Cánh tay trong cỗ quan tài

                              Cũng giống y như đêm trước, trong đại điện của Phàn Âm tự cũng vẫn có đèn.
                              Chỉ khác hơn là ánh đèn bữa nay không được tỏ lắm.
                              Ánh đèn không tỏ, nhưng đứng bên ngoài, đứng trong bóng tối, nhìn vào trong cũng thấy rất rõ ràng.
                              Bọn Trương Dị dừng lại bên ngoài cổng.
                              Chỗ này cách ven rừng không xa lắm, ánh đèn bên trong đại điện chỉ rọi yếu ớt tới ngoài thềm, vì thế chỗ bọn Trương Dị tối đen.
                              Thư Hương bỗng nghe ngực mình hơi nằng nặng.
                              Không hiểu tại sao, cứ mỗi bận đến chùa là nàng cảm thấy không khoan khoái chút nào cả.
                              Nàng có cái so sánh thật lạ lùng, cứ nhìn vào bất cứ ngôi chùa nào, nàng cũng cảm thấy giống như một cái nhà mồ, cứ mỗi lần bước chân đến chùa, là y như nàng thấy... quan tài, cái gì trong chùa cũng đều như bất động, cho đến con người cũng thế, họ y như là kẻ không hồn, từ bệ thờ đến bàn ghế, cái gì nàng trông cũng giống quan tài.
                              Con người thì lim dim như mở mắt không lên, cho đến những kẻ liếng sáo nhất ngoài đời, nhưng khi bước chân vào chùa thì hình như họ cũng bị nhiễm cái không khí “nín thở” đó, họ cũng đâm ra lừ đừ luôn.
                              Hồi nhỏ, cứ mỗi bận đến chùa là nàng đều có cảm giác như thế ấy.
                              Nàng thấy vật dụng trong chùa giống hệt quan tài, con người trong chùa như hồn ma vất vưởng và tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh rì rào, nghe y như tiếng than tiếng khóc của người thiếu phụ chết chồng.
                              Cho đến bây giờ, hay đúng hơn là khi lớn lên, nàng mới mang máng biết ra được cái nguyên nhân làm cho nàng có cảm giác như thế.
                              Hình như hồi nhỏ, trước khi đi chùa là nàng đã thấy nhiều đám tang. Thứ đám tang có quan tài, có thầy chùa, có tiếng khóc than...
                              Có lẽ vì ấn tượng ăn quá sâu, cho nên sau đó, khi đặt chân đến chùa là nàng nhớ ngay chuyện đó.
                              Bản tánh của nàng vốn chỉ thích nghe tiếng cười chứ không ưa tiếng khóc.
                              Chính nàng từ nhỏ cũng không hay khóc.
                              Nhưng bây giờ thì cũng may là nơi đây không có một tiếng động nào.
                              Không có tiếng gõ mõ, tụng kinh và tự nhiên là cũng không có tiếng khóc than.
                              Nàng không thích những thứ tiếng đó, nàng không ưa những tiếng mõ tiếng kinh rì rào, thứ thanh âm cứ làm cho nàng nhớ đến... đám tang.
                              Nhưng cái không khí im lặng dị kỳ của ngôi chùa này, càng làm cho nàng ớn lạnh.
                              Chẳng thà không có đèn đóm gì cả, để có thể giải thích là chùa sập, chùa hoang, đàng này đèn sáng trong đại điện, màu đỏ màu vàng chấp chóa chứng tỏ không sập, không hoang mà lại không tiếng động. Người ta có nói một câu gần như vô nghĩa: “thứ âm thanh ghê gớm nhất là... im lìm”.
                              Thư Hương bỗng ao ước, giá như có tiếng mõ, tiếng tụng kinh, tuy có giống đám tang nhưng vẫn còn ít lạnh hơn là không có một tiếng động gì.
                              Nàng liếc lại và bắt gặp ngay bộ mặt trầm trọng của Trương Dị.
                              Hắn vốn là con người thản nhiên trước mọi sự, nhưng bây giờ không biết sao hắn lại bỗng nặng nề ngang.
                              Theo ý nghĩ của Thư Hương thì nàng cho rằng khi tới đây, hắn sẽ bảo nàng và Lữ Ngọc Hồ đứng ngoài và hắn sẽ một mình vào xem động tịnh. Bởi vì chính hắn phải làm như thế.
                              Nàng cũng dự định là nàng sẽ phản đối, nàng không chịu như thế.
                              Đúng hơn là bất cứ hắn nói cái gì nàng cũng sẽ phản đối.
                              Nàng thích có chuyện để cãi với hắn, nhưng khốn nổi là hắn bỗng như câm.
                              Thư Hương cố đợi, nhưng không thể đợi nổi, cuối cùng rồi nàng vẫn phải lên tiếng :
                              - Cái chùa này cũng đâu có gì đáng gọi là bí mật.
                              Trương Dị quay lại nhìn nàng, hắn làm thinh, hình như hắn đang chờ nàng nói tiếp.
                              Thư Hương nói ngay :
                              - Những con người đó có quan hệ khá nhiều.
                              Trương Dị hỏi :
                              - Những con người nào?
                              Thư Hương háy mắt :
                              - Thì Kim Râu và bọn thầy chùa... sòng bạc chớ còn ai nữa?
                              Trương Dị nhướng mắt :
                              - Họ sao?
                              Thư Hương nói :
                              - Họ đã đưa bọn đó đến đây, tự nhiên họ phòng bị mình tìm tới...
                              Trương Dị vẫn lững lơ :
                              - Rồi sao?
                              Thư Hương đáp :
                              - Họ không khi nào để mình tìm được bọn đó, vì thế...
                              Trương Dị hỏi :
                              - Vì thế sao?
                              Thư Hương đáp :
                              - Vì thế chắc chắn họ không khi nào hơ hỏng, nhất định là có mai phục.
                              Trương Dị hỏi :
                              - Có mai phục thì sao?
                              Thư Hương đáp :
                              - Đã có mai phục thì chúng ta không nên đi vào như thế này...
                              Nàng định gợi chuyện, cố ý nói khích Trương Dị để cho y phải có ý kiến, thế nhưng nàng gặp ngay một cây đinh.
                              Hắn nói xụi lơ :
                              - Như vậy thì mình trở về.
                              Thư Hương đâm cáu trở lại :
                              - Đã đến đây thì làm sao trở về không? Trở về như thế này sao?
                              Trương Dị nhún nhún vai :
                              - Đã không thể vào, cũng không trở về, theo ý cô thì phải làm sao?
                              Thư Hương nói :
                              - Chúng ta vào một người để xem tình hình trong đó ra sao, hai người ở ngoài đề phòng tiếp ứng.
                              Ai nói như thế thì nhất định nàng sẽ phản đối, vì nàng chỉ thấy như thế là không ổn, nhưng bây giờ không hiểu sao chính nàng lại nói ra...
                              Trương Dị chẳng những không có một cử chỉ nào gọi là phản đối, trái lại, hắn hỏi một cách thản nhiên :
                              - Theo ý cô thì ai nên vào trong xem xét?
                              Thư Hương tức muốn bể bao tử.
                              Đáng lý đó là câu hỏi của nàng, vì hắn phải là người chủ trương, vậy mà hắn hỏi được, hắn hỏi y như nàng là bậc... quân sư.
                              Giá như một người đàn ông nào khác, đứng trước hoàn cảnh này, đứng trước mặt một cô gái như thế là phải vổ ngực xăn tay nhận lảnh trách nhiệm đi vào quan sát, có đâu hai tên đứng đường... đực rựa như thế mà lại đi hỏi đàn bà?
                              Thư Hương quay lại ngó Lữ Ngọc Hồ.
                              Càng tức hơn nữa, cái tên này bây giờ y như không còn là đàn ông, hình như hắn cứ chờ Trương Dị.
                              Thư Hương thật không hiểu tại làm sao.
                              Con người của Lữ Ngọc Hồ cũng đâu phải tầm thường, thế mà không hiểu sao khi có mặt Trương Dị thì hắn bỗng... không ra gì cả.
                              Nàng ném vào mặt hắn một cái nhìn... bỏ xó :
                              - Sao? Không nói được nữa à? Nói thử coi ai nên đi vô?
                              Trương Dị nói chầm chậm :
                              - Ý kiến đó của cô đưa ra thì đáng lý là cô nên đi.
                              Đúng là... Trư Bát Giới.
                              Hai người đàn ông như thế mà lại bảo cô gái đi tiên phong?
                              Đúng là thứ không biết thể thống là cái gì nữa cả.
                              Thư Hương tức muốn phát điên, nàng nói như thét vào tai hắn :
                              - Được, tốt, ta đi phải không? Đi thì đi.
                              Trương Dị vẫn bằng một giọng nói chầm chậm :
                              - Cô vào rồi, nếu lỡ như có chuyện bất trắc xẩy ra, chúng tôi ở ngoài này có thể tiếp ứng, chớ nếu để cô ở ngoài này thì cô sẽ không thể nào cứu viện được đâu.
                              Đúng là thứ mặt dầy, Thư Hương muốn xáng cho hắn một tát tai tóe lửa.
                              Hắn đã không chịu làm một công chuyện mà đáng lý hắn phải làm, hắn nạnh nàng rồi lại còn lý sự.
                              Bây giờ thì nàng không thèm nghe hắn nữa, nàng quyết làm cho lớn gan, nàng đi thẳng vào trong.
                              Nàng không thèm nhìn hai cái tên đàn ông không ra gì đó nữa, cái thứ không ra gì đó không đáng cho nàng ngó, nàng đi vào mà không thèm nhìn lại coi chúng có theo không.
                              Nàng đi, mang theo sự bực dọc đó bằng những bước chân giận dữ nhưng khi đến cổng thì nàng dừng lại.
                              Hai cánh cửa chỉ khép chớ không đóng, bên trong cũng như bên ngoài không cài then.
                              Dòm vào trong, ánh đèn trong đại điện hắt ra thêm mù mờ, thấp thoáng giống như sương, như khói...
                              Có đèn, có khói nhang, đáng lý là phải có người.
                              Nhưng nếu có người thì tại sao lại không có tiếng động?
                              Hay là họ đã thấy nàng đi vào cho nên họ núp?
                              Hay là họ đã bị lối “sát nhân diệt khẩu” và bây giờ chỉ còn những thây ma?
                              Khi nhấc chân lên để đi vào, trong bụng Thư Hương y như một lò lửa vì giận “hai thằng đàn ông” nhút nhác, chẳng những bây giờ “lò lửa” không còn mà một chút hơi ấm cũng mất luôn.
                              Toàn thân nàng lạnh toát.
                              Bây giờ tay nàng muốn nắm lấy tay của một người đàn ông, hai tay nàng chẳng những hơi run mà lại còn gần tê cóng.
                              Nhất là nếu nắm tay Trương Dị thì càng vững hơn nữa, nàng đã từng được “vững”
                              bên hắn trong nhiều trường hợp lâm nguy.
                              Bây giờ nhất định nàng sẽ không giữ mặt giữ mày gì cả, nếu có hắn là nàng phải nắm tay hắn, chỉ có nắm bàn tay của hắn thì nàng mới bớt rung.
                              Đáng tức là cái tên... Đại Đầu Quỷ đó bây giờ lại không có ở đây, cả cái bóng của hắn cũng khuất mất trong bóng tối.
                              Nàng cứ nghĩ như thế chớ thật thì nàng vẫn chưa chịu quay lại.
                              Cả Lữ Ngọc Hồ cũng không thấy.
                              Khi gặp cả hai, nàng cảm thấy Lữ Ngọc Hồ tuy cũng có phần ngạo mạn, nhưng con người đó hình như có vẻ nuông nàng hơn Trương Dị, nàng nghĩ hắn không nở bỏ nàng một mình đi vào như thế, vậy mà hắn vẫn theo phe Trương... Óc Mít, hắn không chịu theo để giúp cho nàng bớt sợ.
                              Trương Dị chỉ có mấy cái tên phụ như... Trư Bát Giới, Trương... Óc Mít, Đại Đầu Quỷ, con heo hèm... chớ giá như có cả trăm tên, bây giờ nàng cũng lôi ra tất cả để gọi cho đã giận.
                              Hồi mới bỏ đi vào chùa nàng tức lắm, giận lắm, nhất định có dịp sẽ mắng hắn một trận, nhưng giá như bây giờ mà hắn ló mặt ra là nàng sẽ làm lành ngay, vậy mà hắn vẫn không chịu đến.
                              Bây giờ thì không thể làm cao được nữa, nàng quay đầu nhìn lại, nhưng vì cách xa và vì bóng tối, nàng không còn thấy bóng hai người.
                              Toàn thân của Thư Hương lạnh băng, lòng bàn tay của nàng rịn mồ hôi, cơn sợ đã kéo tới với nàng thật dữ dằn.
                              Nàng đã phải cố gắng lắm mới khỏi bật tiếng kêu.
                              Giá như nàng la lên, chỉ cần hả miệng ra thôi, thì nàng cũng sẽ quay lại chạy tuốt trở ra ngoài.
                              Nhưng nàng đã nén được không la.
                              Không la là không chạy.
                              Không chạy là không thấy họ theo vào, cơn tức của nàng lại nổi lên.
                              Nàng vừa chưởi thầm tám mươi đời tổ tông của Trư Bát Giới và vừa liều mạng bước lại đưa tay kéo cổng.
                              Cũng may là nàng không thấy được chỗ Lữ Ngọc Hồ và Trương Dị đứng, bóng tối đặc quá, chớ giá như nàng nhìn thấy thì chắc nàng sẽ kinh ngạc hơn thế nữa...
                              Vì khi nàng đưa tay kéo cửa cổng thì, trong chỗ bóng tối, Trương Dị vụt vung tay.
                              Thủ pháp của hắn thật nhanh, thêm vào đó hắn lại đứng phía sau, nên Lữ Ngọc Hồ bị hắn điểm ngã mà vẫn không hề hay biết...
                              * * * * *
                              Cánh cửa cổng khép kín nhưng không có gài then.
                              Thư Hương vừa kéo thì tiếng kẹt kẹt vì sắt nghiến vào nhau làm cho nàng rởn óc thêm lần nữa.
                              Nàng đứng khựng lại.
                              Hồi nảy, khi không khí quá im lìm, Thư Hương rất mong có tiếng động, nàng mong như thế vì khi có tiếng động sẽ có một chứng cớ là đất sống, chứng tỏ rằng nơi đây... chưa chết.
                              Thế nhưng bây giờ tiếng động của sắt nghiến vào nhau, tiếng động nghe khô khốc đó lại càng khiến cho nàng hoảng hốt.
                              Nhưng, một liều ba bảy cũng liều, nàng nghĩ cho dầu có tệ, Lữ Ngọc Hồ và Trương Dị không lẽ để cho nàng chết được.
                              Huống chi nơi đây tuy gờn gợn, nhưng chắc gì đã nguy hiểm, chắc gì sẽ có chuyện khủng khiếp xảy ra?
                              Thư Hương nghiến răng bước thẳng vào trong.
                              Sân rộng vắng tanh.
                              Hoàn toàn không có một bóng người.
                              Trong đại điện ánh đèn hắt ra yếu ớt nhưng cũng thấy được lờ mờ, sân trống, thềm chùa cũng trống.
                              Thư Hương lại cắn răng thật chặc, nàng bước từng bước một qua sân.
                              Bước từng bước một lên chùa.
                              Bây giờ thì Thư Hương không còn trí óc để nghĩ gì hơn nữa, cũng không thể có dự phòng kế hoạch ứng phó khi có chuyện xảy ra, vì thật thì làm sao biết chuyện gì sẽ xảy ra để mà có kế hoạch đối phó?
                              Bây giờ thì nàng chỉ có mỗi một sự ước mong, nàng mong sao đừng phải dẫm lên xác chết.
                              Hai mắt nàng bận quan sát chung quanh, tinh thần nàng còn phải bận tập trung nghe ngóng phía sau lưng, nàng không thể nhìn xuống đất một cách chính xác, vì thế, nàng cứ vái thầm đừng cho chân nàng phải dẩm một vật mềm mềm lạnh ngắt.
                              * * * * *
                              Trong sân không có một xác chết nào cả.
                              Cũng không có người sống.
                              Xuyên qua khỏi sân, chân của Thư Hương dẫm lên bực đá và bước lên thềm chùa.
                              Bây giờ thì đại điện đã ở trước mắt nàng.
                              Trong đại điện cũng không có người nào.
                              Không có người chết, cũng không có người sống, ngay đại điện chỉ có một đỉnh hương trầm tỏa khói.
                              Đám người của Kim Râu ở đâu?
                              Không lẽ họ đã biết trước nên trốn cả rồi?
                              Thư Hương lại nghiến răng bước thẳng vào.
                              Tự nhiên là nàng đi thật chậm.
                              Không biết nàng sợ cái gì? Không biết nàng sợ người chết hay người sống.
                              Chính trong bụng nàng cũng không phân định được rõ ràng.
                              Nàng chỉ biết rằng nàng đang sợ.
                              Sợ một cách... dễ sợ luôn.
                              Khói trong đỉnh trầm tỏa ra vàng vọt, mông lung, càng nhìn khung cảnh trống trơn với từng cuộn khói quyện lững lờ càng thêm khủng khiếp.
                              Không hiểu tại sao Thư Hương bỗng nhớ tới Lưu tiên sinh.
                              Có lẽ vì bộ mặt nửa sống nửa chết của hắn, có lẽ khung cảnh nửa sống nửa chết ở đây làm cho nàng liên tưởng...
                              Bao nhiêu tượng Phật trên bệ thờ kia, phải chăng có một mình hắn giả ra?
                              Phải chăng hắn chỉ chờ nàng bước lại gần là vươn tay gằn cổ nàng?
                              Pho tượng bất động nào đó, phải chăng thình lình sẽ “sống lên” nhảy lên ôm cứng lấy nàng, buộc nàng phải làm vợ hắn?
                              Chỉ nghĩ đến Lưu tiên sinh là hai chân của Thư Hương bủn ra, gần như nàng không còn đứng được.
                              Liếc thấy kế bên có một cái bàn vuông vuông dài dài, cái bàn hơi thấp, nàng bước lại ngồi lên đó.
                              Trong hoàn cảnh này, thật thì nàng cũng không muốn ngồi, nhưng nàng biết chắc rằng nếu nàng không ngồi thì nàng sẽ quị xuống ngay.
                              Và một khi đã quị rồi thì không còn mong gì đứng nổi.
                              Bất luận như thế nào, nơi đây, khung cảnh này nhất định cũng không thể nào ngồi được, nhưng không ngồi cũng vẫn phải ngồi, ngồi để gượng sức, không ngồi là té.
                              Hai chân nàng không còn gân cốt gì nữa cả.
                              Một ngọn gió đi chênh, bị cản bởi tường thốc vào đại điện, bao nhiêu cuộn khói lờ mờ bay tản ra sau, bao nhiêu pho tượng vụt y như thây ma vụt như sống dậy.
                              Thư Hương bỗng có cảm giác như “họ” đang vươn nanh múa vuốt chờ để... nhai người.
                              Từ trên trán, trên mặt của Thư Hương mồ hôi từng cục từng cục thi nhau rụng xuống.
                              “Khốn kiếp cái tên... Đại Đầu Quỷ, cái tên Trư... heo hèm, tên đại tổ tông của hắn, quả thật hắn đã bỏ “một mình nàng”.
                              Cho tới bây giờ, cho tới lúc nàng sắp ngất đến nơi mà hắn vẫn chết tiệt ở ngoài...
                              Càng nghĩ, Thư Hương càng tức, càng tức hơi giận càng bốc cao, bao nhiêu can đảm còn sót lại trong lòng hình như gom lại, hừng lên, nàng không thể để cho bọn Trương Dị khinh lờn nàng được...
                              Nhưng khi nàng đang “chuẩn bị” tập trung... gan cóc thì chuyện đáng... chết giấc vụt xảy ra.
                              Cái mặt bàn của nàng đang ngồi bỗng như lay động.
                              Mông của nàng vẫn còn dính cứng trên đó, nhưng chính nó hình như đang xê dịch.
                              Sự xê dịch thật nhẹ, thật chậm, nhưng vì nàng đang ngồi trên đó nên nàng nghe thấy rất rõ ràng.
                              Rõ ràng là nó đang xê dịch.
                              Bất giác, Thư Hương dòm xuống.
                              Từ nảy đến giờ nàng chưa từng ngó xuống, mắt nàng đang bận nhìn chung quanh, nhưng hiện tại thì không dừng được nữa, nàng phải nhìn xuống chỗ ngồi, nhìn xuống mặt bàn.
                              Khi nảy, nếu không ngồi thì nàng sẽ té, vì đôi chân không còn gân cốt, nhưng bây giờ thì khi nhìn xuống toàn thân nàng bỗng như... không có chút xương.
                              Thân hình nàng vẫn còn ngồi đó, nhưng tinh thần nàng đã nhập luôn rồi.
                              Cái mà nàng ngồi lên đó, không phải cái bàn mà là một... cỗ quan tài!
                              Bình thường, cỗ quan tài cũng không phải là vật đáng sợ, trong khung cảnh này mới thật sự dễ sợ, nhưng càng kinh khiếp có thể chết giấc được là cái nắp mà nàng tưởng là mặt bàn bây giờ đang từ từ chệch qua một bên.
                              Và, thật là khủng khiếp hơn tất cả sự khủng khiếp trên đời, từ trong cỗ quan tài, một cánh tay vụt thò ra.
                              Cánh tay thò ra và nắm cứng lấy cổ tay của Thư Hương.
                              Bàn tay lạnh như tay người chết.
                              Thư Hương điếng hồn hoảng vía, toàn thân lẩy bẩy, nàng tuông chạy ra ngoài...
                              Nhưng đó chỉ là ý định, chớ không phải thật, vì khi nàng vừa nhón mình lên thì đã bị ngả luôn.
                              Một phần vì cái kéo của cánh tay trong cỗ quan tài, một phần vì nàng không còn sức lực gì nữa cả.
                              Bây giờ thì nàng chỉ còn là một khối thịt mềm.
                              Thiếu chút nữa là nàng đã ngất đi.
                              Nhưng giá như ngất được thì âu cũng là điều may mắn, cái may đó lại không chịu tới với nàng.
                              Nàng chẳng những cái gì cũng thấy, mà cái gì nàng cũng nghe được rõ ràng.
                              Trong cỗ quan tài, chẳng những cánh tay ló ra, mà lại còn có tiếng cười.
                              Giọng cười rõ ràng nhưng xa xôi, giông giống thanh âm phát ra từ trong một cái lu, giọng cười lạnh ngắt, phảng phất như quỷ khóc.
                              Bao nhiêu khí lực trong con người của Thư Hương không biết nhờ vào một nguyên nhân nào, bỗng gom lại tạo thành sức mạnh, tạo nên can đảm, nàng thét lớn :
                              - Kẻ nào ở trong quan tài? Ta biết ngươi là người, đừng giả ma giả quỷ vô ích, ta không sợ đâu. Ai?
                              Không phải nàng đoán mò, hay nói cho đỡ sợ, mà chính nàng đã xác định được rõ ràng bàn tay nắm tay nàng đó là bàn tay của người sống chớ không phải bàn tay của ma quỷ.
                              Bàn tay tuy không ấm áp lắm, nhưng cũng không phải lạnh băng băng như bàn tay người chết.
                              Tiếng cười trong cỗ quan tài vụt mất.
                              Trong khung cảnh vắng ngắt chỉ còn có tiếng la của Thư Hương.
                              Từ đại điện chạy thẳng ra hậu liêu hình như dài lắm, tiếng la của Thư Hương y như rơi tòm xuống một vực sâu, âm hưởng loang ra văng vẳng.
                              Nàng chợt nghe như có tiếng ma quỷ đáp lại tiếng mình.
                              Thường thường, hoàn cảnh hay tạo ra sự khích động tinh thần, đứng trước một đoàn quân rầm rộ hát khúc chiến trường ca, lòng người vụt nổi lên hào khí, có người chưa bao giờ cầm đến một thanh đao xem nặng hay nhẹ, nhưng khi chứng kiến nhịp quân hành, tai nghe tiếng trống diễn binh, họ bỗng muốn xông ra trận mạc.
                              Có những người vốn rất lỳ lợm, chưa từng biết sợ ma quỷ là gì, nhưng đang đêm bỗng lạc vào bãi tha ma, dưới ánh trăng lờ mờ, bầu trời sương đùn đục, rải rác đó đây những giải mộ bia trắng toát, họ bỗng rùn mình...
                              Có khi lòng họ chưa sợ mà hơi lạnh đã công tâm, toàn thân rởn óc...
                              Mới đây, rõ ràng Thư Hương vừa tập trung được sự can đảm, đủ để nhận rõ rằng bàn tay nắm tay nàng là bàn tay người sống, nhất định không phải ma quỷ, nàng đã xác định rõ ràng như thế và đủ sức thét lớn lên.
                              Nhưng khi tiếng cười bên trong cỗ quan tài không còn nữa, khi đại điện trở về lặng im như... đất chết, thì cơn sợ bỗng ùn ùn tràn tới khiến nàng đâm ra mất tự tin.
                              Giữa người sống với ma quỷ trong trí óc của nàng chợt cũng mơ hồ...
                              Nàng bỗng nhớ lại một chuyện mà lúc ở nhà, nàng và Đào Liễu thường hay bàn bạc trong những lúc ngồi không...
                              Chuyện “tầm phào” đó bây giờ bỗng gợn lại một cách rõ ràng.
                              Nàng có nghe người ta nói rằng, có những người chết quàn lại giữa nhà mồ, đang đêm xác chết bỗng tung nắp hòm đứng dậy...
                              Người ta bảo đó là “quỷ nhập tràng”.
                              Có người lại kể rằng có những người chết, nhưng khi một con mèo nhảy ngang qua, hoặc có một người nào đến thăm mà lại “hạp bóng vía” thì xác chết đó cũng ngồi lên...
                              Như vậy, cánh tay trong cỗ quan tài này là cánh tay của người sống, họ giả ma để nhát nàng hày là...
                              Ba tiếng “quỷ nhập tràng” vụt đập mạnh vào óc của Thư Hương.
                              Cũng may, cơn sợ thật dữ dội, nhưng không lâu, cái “lỳ” của cô gái ngang ngạnh lại nổi lên, nàng gom tàn lực giựt cánh tay thật mạnh.
                              Nhưng cho dầu nàng có dùng đến hết sức, nàng đã ráng hết hơi, nàng vận đến rã rời, cánh tay trong cỗ quan tài vẫn dính vào cổ tay nàng như khoan sắt.
                              Tiếng thở của nàng hồ hộc, mồ hôi đẩm ướt cả áo ngoài.
                              Ai? Nhất định không phải ma.
                              Thư Hương có xác định lại một lần nữa như vậy. Và nàng bỗng tức ngang.
                              Sực tức tối vì sức mình không đủ đã kéo theo cơn giận dữ, đó là bản tánh của Thư Hương, có những lúc thật không đáng giận, nhưng vì tức bởi một chuyện gì đó, thì cơn giận của nàng thật ghê gớm, giận run.
                              Cơn giận trào lên, Thư Hương chỏi hai chân vào thành quan tài, hai tay nàng dùng sức giựt thật mạnh.
                              Lần này thì nàng nhất định phải vùng vẫy hết sức, nếu không giựt sút tay thì nàng cũng quyết lôi cho kỳ được cái con người trong cỗ quan tài ra ngoài để xem đó là ai...
                              Nhưng nàng quên một chuyện khá nguy hiểm là khi con người ta đã dùng hết sức thì khó mà gượng được, nếu bị phản ứng...
                              Từ đầu, bàn tay trong cỗ quan tài chỉ nắm cứng tay nàng, bây giờ thình lình rút lại.
                              Thư Hương bỗng thấy mình y như một con diều giấy, toàn thân nàng nhẹ bổng, nàng bị kéo luôn vô cỗ quan tài.
                              Không biết cái nắp quan tài được đẩy rộng ra từ lúc nào, khi Thư Hương nhận ra mình bị kéo đến gần thì thân nàng đã lọt tòm vô đó.
                              Lần này thì có lỳ đến mấy, có gan đến mấy nhất định cũng phải ngất, không còn cái khủng khiếp nào hơn nữa. Thế nhưng Thư Hương không ngất được, trái lại, nàng hết sức tỉnh, cái tỉnh táo... chết người.
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #45
                                Hồi 41 : Gian nhà hầm bí mật

                                Trong cỗ quan tài không phải chỉ có cánh tay không, mà còn có một người nguyên vẹn.
                                Không phải thây ma, vì có cựa quậy chớ không phải cứng đơ.
                                Nhưng sao lại y như là có... vải liệm?
                                Sao mà trắng toát như thế này?
                                Thư Hương chỉ thấy trong một cái nhoáng thôi, vì khi nàng đã lọt vào rồi thì nắp quan tài bị kéo lại khít rim.
                                Nàng chỉ cảm giác là chỉ có một thân người và hai cánh tay siết cứng mình nàng, chớ không còn thấy gì nữa cả.
                                Thần trí của Thư Hương bỗng thanh tĩnh một cách lạ lùng.
                                Có lẽ đó là phản ứng tự nhiên, khi con người bị đặt trong một hoàn cảnh khủng khiếp quá độ mà không ngất được.
                                Khi không ngất được là con người rất tỉnh, tỉnh hơn khi chưa bị sợ.
                                Thần trí Thư Hương thật là tỉnh táo, thế nhưng toàn thân nàng như bún, nàng chẳng những không còn vùng vẩy mà cũng không còn cựa quậy gì được nữa.
                                Bây giờ thì nàng không hơn xác chết bao nhiêu, toàn thân lạnh buốt và tê cứng.
                                Hai cánh tay của người trong cỗ quan tài càng siết lại, Thư Hương chợt nghe không khí lạnh ngắt, nàng càng nghĩ đến chuyện... quỷ nhập tràng.
                                Hay là nàng đã “hạp” với người chết, cho nên... quỷ nhập tràng kéo nàng chết luôn theo.
                                Không còn vùng vẩy được, Thư Hương muốn la lên nhưng hình như lưỡi nàng đã thụt mất rồi, cổ họng nàng khô quánh và bị nghẹt ngang.
                                Nàng không la được, không vùng vẩy được mà cũng không ngất được.
                                Nàng không khóc được thành tiếng, nhưng nước mắt chảy tràn ra.
                                Không còn cái bi thảm nào bằng hoàn cảnh của Thư Hương, vẫn tỉnh táo, vẫn ý thức được cảnh hãi hùng, thế nhưng hoàn toàn bất lực.
                                Giá như nàng bật khóc thành tiếng, giá như nàng la lên được thì có lẽ đỡ hơn, thế nhưng hoàn toàn không được, cổ họng nàng cứ nghẹn.
                                Ai có nằm mộng, thứ ác mộng thì ý thức được cái khổ này ngay.
                                Thấy chuyện khủng khiếp, biết rõ đó là khủng khiếp đã không vùng vẫy được cũng không kêu la được.
                                “Con quỷ” trong cỗ quan tài bỗng cất tiếng cười.
                                Khi tiếng cười phát lên, Thư Hương cảm nghe ngay hơi nóng phà vào cổ nàng, hơi nóng của... con người sống.
                                Có hơi nóng thì không phải thây ma.
                                Nhất định hắn là con người sống.
                                Toàn thân của Thư Hương bỗng giãn ra, cổ nàng thông lại.
                                Nàng vừa chòi đạp vừa la oai oái.
                                Người ôm nàng bỗng cười sằng sặt :
                                - Đừng có la, la khan tiếng chớ chẳng ích lợi gì cả, ở đây không có ai hết, ma quỷ cũng không.
                                Giọng nói không hầm hừ, không dữ tợn, giọng nói trầm trầm độc điệu.
                                Giọng nói thật quen, hay đúng hơn là giọng nói chỉ nghe qua một lần là ngàn đời không quên được.
                                Thứ giọng nói, tới chết nàng cũng không quên được.
                                Nàng nín thở luôn, không còn la được nữa.
                                Hơi thở của nàng gần như không còn thoát ra ngoài, tim nàng gần như đứng lại.
                                Vậy mà nàng vẫn không chết, không ngất, nàng tỉnh hơn bao giờ hết.
                                Tỉnh để ý thức rằng nàng đang ở trong tay một con người chớ không phải là ma quỷ, nhưng con người đó còn đáng sợ hơn ma quỷ.
                                Con người đó là... Lưu tiên sinh.
                                * * * * *
                                Giọng nói không gầm thét, không dữ dằn.
                                Giọng nói trầm trầm độc điệu.
                                Giọng nói như phát ra từ cỏi âm ty, giọng nói của Lưu tiên sinh.
                                Giọng nói của con người... ma quái.
                                Trên đời nếu nhập cả ngàn cái thây ma lại, có lẽ cũng không đáng sợ hơn con người của hắn.
                                Lưu tiên sinh.
                                Thây ma sống.
                                Thư Hương vốn muốn thét lên ba tiếng đó, thế nhưng quai hàm nàng vụt như tréo lại, chỉ nghe tiếng khò khè trong cổ họng chớ không thể phát ra thành tiếng.
                                Lưu tiên sinh cười khằng khặc :
                                - Bây giờ thì chắc chắn cô đã biết ta là ai rồi chớ? Sợ không?
                                Thư Hương không phải sợ.
                                Đúng hơn là tiếng “sợ” không thể hình dung được tâm trạng của nàng lúc bây giờ.
                                Tay của Lưu tiên sinh chầm chậm “hoạt động” trên thân thể của nàng, tiếng nói của hắn cũng tiếp tục chầm chậm :
                                - Cô đừng có quên rằng cô đã hứa bằng lòng làm vợ tôi, tôi đã là chồng của cô trên danh nghĩa, cùng với chồng nằm chung một chỗ, đâu có gì đáng sợ, phải không?
                                Hai bàn tay của hắn y như hai con rắn, cứ vờn lên vờn xuống trên người nàng.
                                Cái thân vốn như thây ma trong cỗ quan tài của hắn bỗng như sống dậy, không phải hai cánh tay không mà là “sống” cả thân mình, hắn động đậy khắp nơi...
                                Thư Hương uốn mình lên la lớn :
                                - Buông ta ra... buông ra...
                                Lưu tiên sinh cười khè khè :
                                - Buông ra à? Cô nghĩ xem tôi có thể buông cô ra không?
                                Cơn sợ đã trở thành ghê tởm và sự ghê tởm đến mức độ khiến cho Thư Hương trân mình lỳ lại, nàng hỏi, giọng hỏi không hề run, giọng hỏi rất rõ ràng :
                                - Ngươi muốn làm gì ta?
                                Câu hỏi của nàng làm cho Lưu tiên sinh hình như có vẻ ngạc nhiên.
                                Hắn không ngờ nàng lại có thể hỏi một câu như thế, với một giọng bình tĩnh như thế.
                                Một con người khi cái sợ đã đến một mức quá cao mà không ngất được thì họ trở thành bình tĩnh, bình tĩnh đến lạ lùng.
                                Cũng giống như một con người sắp chết, họ bỗng cực kỳ sáng suốt.
                                Lưu tiên sinh cười khà :
                                - Theo cô thì nghĩ tôi sẽ làm gì? Tôi chỉ muốn được nằm ngủ chung một chỗ với cô, khi sống không thể chung giường thì bây giờ, trong quan tài này mình cùng chết luôn cũng được.
                                Thư Hương hỏi :
                                - Vậy thì sao người không giết ta đi?
                                Lưu tiên sinh gặn lại :
                                - Giết à? Cô thật muốn chết à?
                                Thư Hương nghiến răng :
                                - Chỉ khi nào ta chết rồi thì ngươi muốn làm gì cũng được, còn ta sống thì ngươi đừng hòng động được thân thể của ta.
                                Lưu tiên sinh nói chậm rãi :
                                - Chỉ tiếc một điều là bây giờ thì tôi chưa muốn cho cô chết.
                                Thư Hương hỏi như thét :
                                - Ngươi... ngươi muốn làm gì ta?
                                Lưu tiên sinh hỏi lại :
                                - Cô đoán thử xem tôi muốn làm gì?
                                Vừa hỏi, hay tay hắn y như hai con rắn bắt đầu hoạt động nhiều hơn, mấy khuy áo của Thư Hương bắt đầu sút bung ra.
                                Hai người nằm chung trong cỗ quan tài, cho dầu Thư Hương còn đủ sức giảy dụa cũng không làm sao giảy được, huống chi bây giờ thì nàng đã bủn rủn rồi, tay chân nàng yếu còn hơn lúa.
                                Nàng cắn môi gần chảy máu, nàng cố gắng cho khỏi bật thành tiếng khóc...
                                Cơn đau vì môi gần chảy máu càng làm cho nàng tỉnh táo hơn, nàng nói :
                                - Ngươi quả thật muốn cưới ta à?
                                Lưu tiên sinh đáp :
                                - Sao cô còn hỏi chi câu đó? Tôi đã hao nhiều tâm huyết, đã mất quá nhiều ngày giờ, tiền bạc, đã phải đụng chạm với nhiều nguy hiểm, những chuyện đó không đủ chứng minh rằng tôi đã quyết tâm, đã tha thiết với cô sao?
                                Thư Hương nói :
                                - Nếu quả thật ngươi muốn cưới được ta thì ngươi không nên áp dụng cách thức này, vì như thế sẽ trở thành vô ích.
                                Lưu tiên sinh hỏi :
                                - Chớ cô muốn tôi phải làm sao?
                                Thư Hương đáp :
                                - Ta còn có cha, chuyện đó ngươi thừa biết chớ? Chỉ cần ngươi làm được chuyện đó, ngươi phải cậy được mai mối, phải được cha ta đồng ý, ta sẽ tình nguyện ưng ngươi.
                                Lưu tiên sinh gặn lại :
                                - Cô muốn tôi phải cầu hôn đúng phép trước mặt Đào Đại Gia?
                                Thư Hương đáp :
                                - Đúng như thế, ngươi làm đủ phép như thế là ta sẽ ưng ngươi, chớ nếu ngươi bắt ép ta như thế này thì dầu ngươi có được cũng chỉ được cái xác chết mà thôi.
                                Lưu tiên sinh hỏi :
                                - Cô hứa chắc không? Nếu cô đừng nuốt lời hứa thì tôi sẽ đưa cô đến trước mặt Đào Đại Gia ngay.
                                Thư Hương đáp :
                                - Ta nói ra là không nuốt lời, nhưng ta nói trước là phải được cha ta đồng ý.
                                Lưu tiên sinh vụt cười :
                                - Tưởng gì chớ chuyện đó thì quá dễ.
                                Thư Hương hơi ngạc nhiên :
                                - Dễ à?
                                Lưu tiên sinh đáp :
                                - Đâu có khó, tôi sẽ lo chuyện cầu thân ngay, tôi biết Đào Đại Gia không khi nào từ chối.
                                Câu nói hơi quả quyết của hắn làm cho Thư Hương hơi kinh ngạc.
                                Nàng nói như thế là cố dục hoản cầu mưu, cố kéo dài thì giờ để tìm cơ hội, nhưng nàng không ngờ hắn lại bằng lòng, không ngờ hắn lại nói chắc quá như thế.
                                Tại làm sao hắn lại tự tin?
                                Nàng không ngờ hắn cho đó là chuyện dễ dàng, nhưng bằng vào cái gì để cho hắn tin rằng hắn sẽ thành công?
                                Ngay trong lúc đó, Thư Hương bỗng cảm thấy cỗ quan tài xê dịch, không phải bị dời đi mà là tụt xuống.
                                Cỗ quan tài từ từ tụt xuống một cách thật bình ổn y như người ta hạ huyệt.
                                Bây giờ thì Thư Hương không đâm hoảng nữa, nàng biết bên dưới chắc chắn là nhà hầm, nàng đã từng biết chuyện đó khi ở sòng bạc Kim Râu.
                                Nàng lắng nghe cỗ quan tài tụt lần và hỏi :
                                - Ngươi định đưa ta đi đâu? Xuống địa ngục phải không?
                                Lưu tiên sinh cười :
                                - Cùng với người đẹp bên mình thì đâu có khi nào lại đi xuống địa ngục? Thiên đường mới phải chớ. Nhưng nếu không phải là thiên đường thì ít nhất cũng phải để người đẹp ở một chỗ khoáng khoát, có cây, có gió, có không khí chớ không lẽ cứ ở trong quan tài mãi hay sao?
                                Thư Hương làm thinh.
                                Đắn đo một lúc, nàng hỏi :
                                - Nhưng ta biết cha ta không khi nào đến chỗ này, nhất định không bao giờ đến chỗ này.
                                Lưu tiên sinh cười :
                                - Chỗ này đâu có gì không tốt? Nhưng làm sao cô dám chắc Đào Đại Gia không đến chỗ này?
                                Cỗ quan tài từ từ tụt xuống, lòng của Thư Hương chợt cũng tụt xuống theo...
                                Không lẽ cha mình cũng đã bị hắn bắt rồi?
                                Nếu không thì làm sao hắn lại nói bằng một giọng quả quyết và dễ dàng như thế?
                                Không, nhất định không.
                                Nàng không biết võ công của Lưu tiên sinh cao thấp như thế nào nhưng nàng đã thấy hắn không phải tầm thường, đồng thời nàng cũng biết một cách chắn chắn rằng hắn có thể không tầm thường đối với nàng và đối với người khác, nhưng với cha nàng thì nhất định hắn phải tầm thường.
                                Đào Đại Gia, trang chủ Cẩm Tú sơn trang đâu phải hạng như hắn mà có thể động đến được?
                                Nghĩ đến cha là Thư Hương có vẻ yên tâm.
                                Ngay trong lúc đó thì cỗ quan tài dừng lại.
                                Lần này không phải để hé mà cái nắp được xô rớt xuống.
                                Ánh sáng của đèn bừng lên.
                                Và bây giờ thì Thư Hương nhìn thấy rõ mặt Lưu tiên sinh.
                                Vẫn với bộ mặt... gà mái mét chẹt, trơ trơ, vẫn với dáng sắc của con người chết như ngày đầu nàng gặp hắn.
                                Nhưng Thư Hương so sánh, bộ mặt người chết vẫn còn dễ nhìn hơn mặt hắn.
                                Bởi vì người chết tuy cũng trơ trơ, tuy cũng không bộc lộ được cảm tình, nhưng người chết không có những âm mưu gian xảo như hắn, không làm hại người như hắn.
                                Cứ nhìn thấy mặt hắn là nàng muốn nhắm mắt lại ngay.
                                Lưu tiên sinh hỏi :
                                - Tại làm sao cô lại không mở mắt? Tại làm sao cô lại chẳng nhìn xem?
                                Thư Hương hỏi lại :
                                - Nhìn xem cái gì?
                                Lưu tiên sinh chậm rãi :
                                - Nhìn xem có phải Đào Đại Gia đã có mặt nơi đây như tôi đã nói hay là không phải?
                                Thư Hương bán tín bán nghi, nàng mở mắt ra và nàng sửng sốt.
                                Nàng có cảm tưởng như ai đó đã ném mình xuống giòng sông băng giá.
                                Toàn thân nàng lạnh buốt, trán nàng rịn mồ hôi.
                                Nếu không phải chính mắt nàng nhìn thấy thì cho dầu có hàng vạn người kể lại, nàng nhất định cũng không tin rằng cha nàng lại có mặt nơi đây...
                                * * * * *
                                Đây là một gian phòng, cố nhiên là phòng ngầm dưới đất.
                                Gian phòng vuông vức, khá rộng, có bàn ghế, có giường nệm, đèn thắp sáng choang.
                                Là gian nhà hầm, tự nhiên là không có cửa sổ, nhưng cái lạ là lại không có cửa cái, không lẽ chỉ có mỗi một cái cửa theo ngỏ quan tài từ trên tụt xuống?
                                Không đèn nhưng thấy ánh sáng, không biết ánh sáng từ đâu rọi tới, chỉ có điều Thư Hương biết được đó là thứ ánh sáng của đèn chớ không phải ánh sáng mặt trời.
                                Từ ánh sáng đó, nàng nhìn rõ cỗ quan tài.
                                Bây giờ thì nàng mới thấy cỗ quan tài này rất đặc biệt, rất lớn, lớn bằng hai thứ thường thấy. Nắp bằng chớ không phải mô tròn.
                                Có lẽ chính vì thế nên khi mới bước vào phật điện, nàng lầm tưởng đó là... cái bàn.
                                Phía trước mặt Thư Hương có mấy chiếc ghế.
                                Một lão già vóc dáng tầm thước ngồi trên ghế, tay cầm cái ống điếu đặc biệt, Thư Hương biết từ nhỏ, đó là cái ống điếu làm bằng một thứ gỗ quí, cứng như sắt, cứng mà dẽo chứ không dòn và qua cửa miệng của những nhân vật giang hồ có đến Cẩm Tú sơn trang, nàng lại biết cái ống điếu đó là vật đã giúp cho cha nàng thành danh trong chốn võ lâm.
                                Thư Hương bỗng nghe toàn thân lạnh buốt.
                                Cha nàng lại có thể đến đây sao?
                                Bị bắt hay được mời?
                                Nàng không tin.
                                Cha nàng không thể bị bắt một cách dễ dàng như thế và cũng nhất định không bao giờ bằng lòng giao thiệp với hạng người như Lưu tiên sinh.
                                Nàng rất biết, cha nàng có thể giúp cho hắn một số bạc vàng, hay một phương tiện nào đó để cho hắn tiến thân, nếu hắn đến yêu cầu.
                                Nhưng tuyệt nhiên, không khi nào cha nàng lại nhận lời mời của hắn mà đến đây.
                                Vậy thì tại làm sao cha nàng bỗng nhiên có mặt?
                                Phía sau lưng của Đào Đại Gia có một người đàn bà đang đấm lưng cho ông ta.
                                Đằng trước, trên bắp vế Đào Đại Gia lại có một người đàn bà nữa, người đàn bà này ngồi sát vào lòng ông ta và đang cầm mồi lửa nhỏ chậm vào ống điếu cho ông ta hút thuốc.
                                Dáng cách thật là quen thuộc, từ nhỏ đến khoảng mười ba, mười bốn tuổi, nàng cũng đã từng làm như thế, cũng đã từng ngồi trên bắp vế của người cha, từng dựa vào lòng cha để mồi thuốc cho cha nàng hút.
                                Bất luận trong một hoàn cảnh nào, cha với con, nhất là cha con nàng, gặp nhau như thế, nhất định nàng sẽ chạy lại gần bên, xà vào lòng cha tức tưởi.
                                Nàng đặc biệt tin tưởng rằng, cho dầu kẻ nào có thế lực đến đâu, cũng không thể bức hiếp được nàng, khi cha nàng có mặt.
                                Bằng với giá nào, cha nàng cũng không bao giờ chịu để cho họ làm cho nàng khổ sở.
                                Thế nhưng bây giờ thì Thư Hương vẫn đứng yên, nàng đứng dựa vào cỗ quan tài, toàn thân run bắn.
                                Vì nàng nhận ra hai người đàn bà đó.
                                Người đứng đấm lưng cho cha nàng là Vương đại nương, còn người ngồi trong lòng châm thuốc là Trương Hảo Nhi.
                                Hai người, một người không phải người, một người không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, là yêu quái: một người thì thật là đàn bà, đủ tư cách đàn bà, một người đàn bà đẹp, nhưng lại là thứ đẹp của giống... hồ ly.
                                Đúng là thứ hồ ly, thứ hồ ly chỉ thích ngồi trên bắp vế đàn ông.
                                Thư Hương càng run, nước mắt nàng càng trào ra.
                                Cha nàng có thể như thế hay sao?
                                Lần bắt gặp cha nàng đến “ổ nhện” của Vương đại nương, nàng nghĩ cha nàng đến đó để dò la tin tức của nàng, nhưng bây giờ thì...
                                Đào Đại Gia nhìn thẳng đến chỗ đứng của Thư Hương và ông ta lên tiếng :
                                - Hay quá, con đã đến rồi, như thế thì tiện lắm.
                                Cha nàng có thể nói một cách bình thản được như thế hay sao?
                                Thư Hương càng run hơn nữa, nàng cố ngậm miệng để cho khỏi bật thành tiếng khóc.
                                Vương đại nương cười hăng hắc :
                                - Cô đến thật là kịp lúc, chúng ta vừa mới nói chuyện về cô đây.
                                Thư Hương nghiến răng :
                                - Các người nói cái gì?
                                Vương đại nương đáp :
                                - Chúng tôi vừa thay mặt Lưu tiên sinh để nói chuyện cầu hôn.
                                Thư Hương gắt :
                                - Rồi sao nữa?
                                Vương đại nương cười :
                                - Đào Đại Gia nói rằng trai lớn thì phải có vợ, gái lớn thì phải có chồng, miễn là có mai mối đàng hoàng như thế là ông sẵn sàng chấp nhận.
                                Trương Hảo Nhi tiếp theo :
                                - Đào Đại Gia có khen rằng như thế là thật xứng đôi vừa lứa, ông đã bằng lòng, vậy hai người hãy “tiên phụ mẫu, hậu mai nhân”, lạy tạ đi rồi thành thân cho kịp giờ đại kiết.
                                Thư Hương nhìn sững cha nàng.
                                Nàng không nói mà chân cũng không nhúc nhích.
                                Toàn thân nàng bỗng như đã biến thành tượng đá.
                                Không biết từ bao giờ, Lưu tiên sinh đã đến sát bên nàng, hắn đặt tay lên vai nàng, hắn nói nho nhỏ :
                                - Bây giờ thì đã đủ lễ rồi...
                                Thư Hương hất mạnh tay hắn ra và thét lớn :
                                - Lấy cái tay hôi tanh của ngươi ra, đừng có động đến mình ta.
                                Lưu tiên sinh cười :
                                - Thân nàng có gì lạ đâu, hai bàn tay của ta đã không còn sót chỗ nào rồi mà?
                                Bây giờ thì đúng như điều giao ước của nàng đòi, mai dong đã có, cha mẹ đã bằng lòng, thành thân là hợp lý rồi còn chờ gì nữa?
                                Thư Hương không thèm nói chuyện với hắn, nàng cứ nhìn trân trân vào mặt Đào Đại Gia và vụt la lớn :
                                - Ngươi là ai?
                                Vương đại nương cười và nói hớt :
                                - Coi, Đào tiểu thư, sao lại có thái độ với cha mình như thế?
                                Thư Hương vụt chồm tới quát :
                                - Ngươi là ai? Là ai? Tại sao ngươi dám giả làm cha ta? Tại sao? Cha ta đâu?
                                Nàng chạy ào tới nhưng đã bị Lưu tiên sinh ôm cứng lại.
                                Vương đại nương chớp mắt :
                                - Cô biết không phải Đào Đại Gia? Làm sao cô biết là không phải?
                                Thư Hương vùng vẫy là la lớn :
                                - Cha ta ở đâu? Hãy đưa ta đến gặp cha ta.
                                Vương đại nương nặng mặt :
                                - Ta cho cô biết, từ đây trở đi, người này là Đào Đại Gia, phải hay không cũng là Đào Đại Gia, không phải với cô đi nữa thì cũng phải với thiên hạ, không có Đào Đại Gia nào nữa cả.
                                Thư Hương la lớn :
                                - Không, không phải cha ta, nhất định ta sẽ báo cho mọi người biết không phải là cha ta.
                                Vương đại nương vụt xáng cho “Đào Đại Gia” một tát tai đích đáng :
                                - Ta bảo ngươi phải giữ gìn, đã căn dặn năm lần bảy lượt như thế, tại sao ngươi lại để cho nó nhận ra chớ?
                                Người giả Đào Đại Gia xụ mặt :
                                - Ai mà biết, tại nó nhận ra chớ tôi đâu đã làm gì?
                                Vương đại nương tát vào mặt hắn một cái nữa rồi nói :
                                - Ta đã dặn ngươi đừng có nói nhiều, nói một vài tiếng thôi, tại làm sao ngươi lại nói lung tung như vậy chớ?
                                Tên giả Đào Đại Gia cãi :
                                - Nói nhiều hồi nào? Thì cũng phải nói cho trọn câu...
                                Vương đại nương đạp hắn một cái tuột luôn xuống ghế :
                                - Câm cái mồm ngươi lại.
                                Lưu tiên sinh can thiệp :
                                - Đừng có giết hắn, để lại mình dùng vào chuyện khác.
                                Vương đại nương làm thêm một đá, tên giả Đào Đại Gia lăn cù dưới đất.
                                Giọng của Đào Đại Gia hầm hừ như cọp :
                                - Đồ vô dụng, đồ... con chó...
                                Trương Hảo Nhi thở ra :
                                - Tôi đã nói trước, hắn không có giả được, sửa soạn thì có giống, nhưng dáng cách của hắn thì làm sao mà giống được.
                                Vương đại nương nói :
                                - Đúng rồi, hắn không thể lừa cô, vì cô biết hắn từ kẽ tóc đến chân lông, khắp người hắn cô đã biết không sót một chỗ nào. Cho nên đừng nói hắn đeo mặt giả mà cho dầu hắn chỉ ló một ngón chân ra là cô cũng chỉ cần nhắm mắt rờ rờ là đã biết ngay mà.
                                Trương Hảo Nhi cười cười, nụ cười có vẻ như “trả đũa” :
                                - Chớ sao, ghen rồi à?
                                Vương đại nương bĩu môi :
                                - Ghen chớ, nhưng người khác cà, ta thì không. Một vết tàn nhang trong chỗ kín nhất của cô ta cũng đã thấy cả trăm ngàn lần rồi, lạ gì nữa mà ghen. Nhưng cho dầu có ghen cũng không phải bây giờ, vì ta biết bây giờ cô đâu có dám kéo hắn vô buồng.
                                Thư Hương nhảy dựng lên :
                                - Đồ yêu, đồ quỷ. Các ngươi đừng có nói chuyện dơ dáy đó trước mặt ta. Cha ta đâu? Nếu các ngươi không dám đưa ta đến gặp thì ít nhất các ngươi cũng phải nói cho ta biết.
                                Vương đại nương thở ra :
                                - Bọn ta thật tình cũng có phần không dám làm chuyện đó.
                                Thư Hương xạm mặt :
                                - Tại sao? Tại sao các người không dám đưa ta đến gặp cha ta?
                                Vương đại nương thản nhiên :
                                - Ta hỏi ngươi mà ngươi chưa trả lời thì sao lại hỏi ta?
                                Thư Hương tức lắm, cô ta lại nhảy tới, nhưng chỉ mới được một bước là nàng khựng lại...
                                Nàng nhìn quanh, Lưu tiên sinh, Vương đại nương và Trương Hảo Nhi đứng im lặng cười.
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X