Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nho Lâm Ngoại Sử - Tác giả: Ngô Kính Tử

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    Hồi 37

    Tế tiên thánh Nam Kinh sửa lễ
    Đưa Hiếu Tử Tây Thục tìm cha.

    Ngu bác sĩ ra tiếp mấy người khách. Sau khi thi lễ, tất cả mọi người ngồi xuống. Trì Hành Sơn nói:
    - Hôm nay chúng tôi đến đây để bàn về việc tìm người chủ tế trong buổi lễ ở đền Thái Bá. Vì Thái Bá là một vị thánh nhân cho nên người làm chủ tế cũng phải là một người hiền nhân mới không thẹn. Vì vậy, chúng tôi đến đây mời ông làm chủ tế.
    Ngu nói:
    - Ông nói như vậy tôi đâu dám nhận. Nhưng tế lễ là việc lớn, cố nhiên tôi rất vui lòng góp phần vào việc đó. Ngày tế định vào hôm nào?
    Trì Hành Sơn nói:
    - Định vào mồng một tháng tư này. Trước đấy một hôm, mời ông đến đấy, ăn chay, ngủ một đêm để tiện việc làm lễ.
    Ngu bác sĩ nhận lời. Trà được bưng lên mời khách uống. Sau đó khách cáo từ ra về, cùng nhau đến nhà Thiếu Khanh ở bên bờ sông ngồi. Trì Hành Sơn nói:
    - Chỉ sợ chúng ta không đủ người để tế.
    Thiếu Khanh nói:
    - May mắn vừa gặp lúc có một người bạn của tôi ở huyện lên đây.
    Thiếu Khanh liền mời Tang Đồ ra gặp mặt mọi người. Thi lễ xong, Trì Hành Sơn nói:
    - Trong việc tế lễ lớn này nhờ ông giúp cho để thêm phần long trọng.
    Tang Đồ nói: - Tôi rất vui lòng cùng dự vào lễ lớn này. Sau đó, mọi người ra về.
    Đến ngày hai mươi chín tháng ba, Trì Thành Sơn hẹn Đỗ Thiếu Khanh, Mã Thuần Phượng, Quý Vi Tiêu, Kim Đông Nhai, Lư Hoa Sĩ, Tân Đông Chi, Cừ Dật Phu, Dư Hòa Thanh, Lư Tín Hầu, Ngu Cảm Kỳ, Gia Cát Thiên Thân, Cảnh Lan Giang, Quách Thiết Bút, Tiêu Kim Huyễn, Chư Tín, Y Chiêu, Quý Điềm Dật, Kim Ngụ Lưu, Tôn Cơ, Vũ Thư, Tang Đồ đều đến cửa nam. Trang Thiệu Quang cũng đến đấy. Mọi người cùng đến xem đền Thái Bá. Mấy chục bậc tam cấp cao đưa đến cửa chính vào đền. Bên trái là một cái nhà để khám thịt tế. Phía trong đi qua cửa lớn là một cái sân rộng. Lại có mấy chục bậc tam cấp đi qua tam quan đến một cái sân rồng, hai bên là hành lang để những bài vị của các bậc tiên hiền các triều đại trước. Ở giữa là năm gian điện thờ lớn. Trong điện để bài vị Thái Bá có hương án, lư hương, đèn sáp. Phía sau điện lại là một cái sân rộng với năm gian nhà lầu, hai bên tả hữu, một bên là ba gian nhà đọc sách. Mọi người bước vào cửa lớn thấy ở trên cao treo một cái biển bằng vàng đề: “Thái Bá chi từ” (Đền thờ Thái Bá). Họ đi theo cái cửa thứ hai vào phía đông dọc theo hành lang đến một cái điện lớn. Ngẩng đầu lên thấy treo một cái biển đề mấy chữ vàng “Tập lễ lâu” (lầu tập lễ). Mọi người ngồi một lát ở trong thư phòng phía đông. Trì Hành Sơn cùng Mã Thuần Thượng, Vũ Thư và Cừ Dật Phu mở cửa lầu và cùng lên lầu đem tất cả những nhạc cụ xuống. Có cái để ở trong sảnh, có cái đưa ra ngoài sân. Trong sảnh đặt một cái chúc bài(1), bên hướng án cắm một lá cờ để chỉ dẫn ban nhạc, ngoài sân đốt đình liệu(2), cạnh cái cửa thứ hai có những chậu rửa tay, những chiếc khăn tay.
    Kim Thứ Phúc và Bão Đình Tỷ mang một ban nhạc: người cầm khanh ngọc, người cầm đàn cầm, đàn sắt, người cầm sáo, người cầm trống bỏi, người cầm chúc(3) người cầm ngữ(4) người cầm sinh, người cầm chuông lớn, người cầm tiêu, người cầm chuông, người cầm khánh và ba mươi sáu đứa trẻ để múa lục dật(5). Trì Hành Sơn cầm những cái sáo đỏ và những cặp lông trĩ giao cho những đứa trẻ. Đến chiều, Ngu bác sĩ đến Trang Thiện Quang, Trì Hành Sơn, Mã Thuần Thượng, Đỗ Thiếu Khanh cùng ra tiếp. Uống trà xong, họ mặc lễ phục và bốn người đưa Ngu Dục Đức vào phòng để khám thịt tế. Mọi người đều ăn chay và ngủ lại ở hai thư phòng hai bên.
    Hôm sau, canh năm, cửa đền mở rộng, mọi người đều dậy. Trên điện, dưới điện, trước cửa, trong sân, ở hai hành lang, đèn đuốc sáng choang, đình liệu được đốt lên. Trì Hành Sơn trước tiên mời Ngu Dục Đức làm chủ tế, rồi mời Trang Thiệu Quang làm á hiến (dâng rượu thứ hai). Khi mời đến người tam hiến (dâng rượu lần thứ ba) mọi người nhường nhau nói:
    - Nếu không phải ông Trì, thì phải là ông Đỗ. Trì Hành Sơn nói:
    - Hai chúng tôi làm dẫn tán (người đưa các vị tham dự vào chỗ đứng để làm lễ). Ông Mã là người Chiết Giang, xin mời ông Mã làm người dâng rượu lần thứ ba.
    Mã Thuần Thượng hai ba lần chối từ. Mọi người kéo Mã đến cùng ngồi với Ngu và Trạng, Trì Hành Sơn và Đỗ Thiếu Khanh đưa ba người đến xem thịt tế. Trì Hành Sơn và Đỗ Thiếu Khanh quay trở lại mời Kim Đông Nhai làm xướng lễ mời Vũ Thư cầm cờ, mời Tang Đồ đọc văn, mời Quý Vi Tiêu, Tân Đông Chi, Dư Hòa Thanh dâng rượu, mời Cừ Dật Phu, Lư Tín Hầu, Ngu Cảm Kỳ dâng ngọc, mời Gia Cát Thiên Thân, Cảnh Lan Giang, Quách Thiết Bút dâng lụa, mời Tiêu Kim Huyễn, Chư Tín, Y Chiêu dâng xôi, mời Quý Điềm Dật, Kim Ngu Lưu, Tôn Cơ dâng cỗ. Sau đó, mời Lư Hoa Sĩ giúp Kim Đông Nhai xướng lễ. Tất cả các vị đều cùng bước ra ngoài cái cửa thứ hai.
    Trống tế đánh ba hồi: Kim Thứ Phúc, Bão Đình Tỷ mang theo cả ban âm nhạc; người cầm khánh ngọc, người cầm đàn cầm, người cầm đàn sắt, người cầm sáo, người cầm trống bỏi, người cầm chúc, người cầm ngữ, người cầm sinh, người cầm chuông lớn, người cầm tiêu, người cầm chuông, người cầm khách và ba mươi sáu đứa trẻ để múa, tất cả đứng trong sảnh hay ở ngoài sân.
    Kim Đông Nhai, Lư Hoa Sỹ bước vào sảnh. Kim Đông Nhai xướng:
    - Chấp sự giả các tư kỳ sự!(6) (Tất cả mọi người đều lo đến công việc của mình).
    Những người cử nhạc cầm các nhạc khí trong tay.
    Kim Đông Nhai xướng:
    - Bài ban! (Đứng vào chỗ!).
    Vũ Thư cầm cờ, dẫn Quí Vi Tiêu, Tân Đông Chi, Dư Hòa Thanh cầm chén rượu, Cử Dật Phu, Lư Tín Hầu, Ngu Cảm Kỳ cầm ngọc, Gia Cát Thiên Thân, Cảnh Lan Giang, Quách Thiết Bút cầm lụa, tất cả vào chỗ đứng ở phía đông sân. Sau đó, Vũ Thư cầm cờ dẫn Tang Đồ lên điện để lo đọc văn. Rồi lại dẫn Tiêu Kim Huyễn, Chư Tín, Y Chiêu lo dâng xôi. Quí Điềm Dật, Kim Ngu Lưu, Tôn Cơ lo dâng cỗ đứng ở phía tây sân. Vũ Thư cũng cầm cờ đứng ở phía tay dưới mọi người. Kim Đông Nhai xướng:
    - Tấu nhạc!
    Trong sảnh và ngoài sân, nhạc nổi lên. Kim Đông Nhai xướng:
    - Nghinh thần! (Đón thần)
    Trì Hành Sơn, Đỗ Thiếu Khanh hai tay dâng hương, đi ra cửa đón tiếp. Kim Đông Nhai xướng:
    - Nhạc chỉ (nhạc dừng lại).
    Trong sảnh và ngoài sân, nhạc dừng bặt. Kim Đông Nhai xướng:
    - Phân hiến giả tựu vị (Các vị chủ tế thứ hai thứ ba vào chỗ) Trì Hành Sơn, Đỗ Thiếu Khanh ra mời Trang Thiệu Quang, Mã Thuần Thượng ra đứng bên trái hương án. Kim Đông Nhai xướng:
    - Chủ tế giả, tựu vị (chủ tế vào chỗ).
    Trì Hành Sơn, Đỗ Thiếu Khanh ra mời Ngu Dục Đức ở giữa sân. Trì và Đỗ đứng hai bên hương án. Trì Hành Sơn xướng:
    - Quán tẩy (rửa tay)!
    Và cùng Đỗ Thiếu Khanh đưa chủ tế đến chỗ rửa tay. Trì Hành Sơn xướng:
    - Chủ tế giả, nghệ hương án tiền! (chủ tế ra trước hương án).
    Trên hương án có một cái lư hương ở trong có cắm mấy cái cờ đỏ. Thiếu Khanh lấy ra một cái cờ trên có hai chữ “tấu nhạc”, Ngu Dục Đức đến trước hương án. Trì Hành Sơn xướng:
    - Quì! Thăng hương (dâng hương) quán địa (đổ rượu xuống đất) Bái! Hưng! Bái! Hưng! Bái! Hưng! Bái! Hưng! Phụ vị (trở lại chỗ đứng)!
    Thiếu Khanh lại rút một ngọn cờ có mấy chữ “nhạc chi”. Kim Đông Nhai xướng:
    - Tấu thần nhạc chi nhạc (tấu thần nhạc)
    Kim Thứ Phúc dẫn phường nhạc trong sảnh đều cử nhạc lên. Được một lát thì nhạc dừng.
    Kim Đông Nhai xướng: - Hành sơ hiến lễ:
    Lư Hoa Sĩ mang ở điện một cái biển đề hai chữ “sơ hiến” (lễ thứ nhất). Trì Hành Sơn, Đỗ Thiếu Khanh dẫn chủ tế Ngu Dục Đức vào tế. Vũ Thư cầm cờ đi trước. Ba người từ phía đông sân điện đi qua, theo sau là Quí Vi Tiêu dâng rượu, Cừ Dật Phu dâng ngọc, Gia Cát Thiên Thân dâng lụa, tất cả ra đón chủ tế. Họ đi qua phía tây sân điện thì vừa lúc Tiêu Kim Huyễn dâng xôi, Quí Điềm Dật dâng cỗ, từ phía tây ra đón chủ tế và đi qua hương án rồi sang phía đông. Khi bước vào điện, Đỗ Thiếu Khanh và Trì Hành Sơn đứng hai bên hương án, bên trái là Quí Vi Tiêu dâng chén, Cừ Dật Phu dâng ngọc, Gia Cát Thiên Thân dâng lụa; bên phải là Tiêu Kim Huyễn dâng xôi, Quí Điềm Dật dâng thịt. Trì Hành Sơn xướng:
    - Tựu vị (lại chỗ đứng)! Quỳ!
    Ngu Dục Đức quỳ trước hương án, Trì Hành Sơn xướng: - Hiến Tửu! (dâng rượu)!
    Quí Vi Tiêu quỳ xuống dâng rượu cho Ngu Dục Đức, Ngu đặt chén rượu lên hương án. Trì Hành Sơn xướng:
    - Hiến ngọc! (dâng ngọc)
    Cừ Dật Phu quỳ xuống, dâng ngọc cho Ngu Dục Đức, Ngu đặt ngọc lên hương án. Trì Hành Sơn xướng:
    - Hiến bạch! (dâng lụa)!
    Gia Cát Thiên Thân quỳ xuống đưa lụa cho Ngu để lên hương án. Trì Hành Sơn xướng:
    - Hiến tắc! (dâng xôi)!
    Tiêu Kim Huyễn quỳ xuống dâng xôi cho Ngu để lên hương án. Trì Hành Sơn xướng:
    - Hiến soạn! (dâng cỗ)!
    Quỳ Điềm Dật quỳ xuống dâng cỗ cho Ngu để lên bàn. Lễ xong, những người chấp sự lui về. Trì Hành Sơn xướng.
    - Bái! Hưng! Bái! Hưng! Bái! Hưng! Bái! Hưng!
    Kim Đông Nhai xướng:
    - Tấu nhạc “Chí đức” múa bài “Chí đức”!
    Âm nhạc bắt đầu nổi lên ở trong sảnh. Ba mươi sáu đứa trẻ tay cầm sáo đỏ, lông trĩ đều ra múa. Múa xong, Kim Đông Nhai xướng:
    - Giai hạ dự tế giả giai quỳ! (những người ở dưới thềm quì xuống)! Đọc chúc văn! (đọc văn)!
    Tang Đồ quỳ xuống đọc văn. Kim Đông Nhai xướng:
    - Thoái ban! (trở về chỗ).
    Trì Hành Sơn xướng:
    - Bình thân! (đứng lên)! Phục vị! (về chỗ)!
    Vũ Thư, Đỗ Thiếu Khanh, Trì Hành Sơn, Quí Vi Tiêu, Cử Dật Phu, Gia Cát Thiên Thân, Tiêu Kim Huyễn, Quí Điểm Dật đưa chủ tế là Ngu Dục Đức từ phía tây về chỗ đứng. Sau khi Ngu về chỗ, những người chấp sự cũng về chỗ đứng của mình.
    Kim Đông Nhai xướng:
    - Hành á hiến lễ! (lễ thứ hai cử hành)
    Lư Hoa Sĩ lại lên điện mang một cái biển có hai chữ “á hiến” (lễ thứ hai) Trì Hành Sơn, Đỗ Thiếu Khanh, dẫn chủ tế lần thứ hai là Trang Thiệu Quang ra trước hương án.
    Trì Hành Sơn xướng: - Quán tẩy! (rửa tay)
    Và cùng Đỗ Thiếu Khanh dẫn Trang Thiệu Quang đến chỗ rửa tay và lễ tiếp tục ba lần như vậy, lần thứ ba là Mã Tuần Thượng làm chủ tế và những người làm lễ thay đổi nhau để dâng các lễ vật(7).
    Lễ tiếp tục cho đến khi hết. Kim Đông Nhai xướng:
    - Lễ tất!
    Mọi người đem cất các đồ tế, các nhạc cụ, thay lễ phục và cùng ra phía sau lầu. Kim Thứ Phúc và Bão Đình Tỷ mang ba mươi sáu trẻ em đi múa và những người nhạc công vào hai thư phòng ở hai bên. Trong việc tế lễ này người chủ tế là Ngu bác sĩ, hai người giúp là Trang Thiệu Quang và Mã Thuần Thượng. Tất cả ba người. Người xướng lễ là Kim Đông Nhai, người đọc văn là Tang Đồ, Lư Hoa Sĩ tất cả ba người. Người dẫn tán là Trì Hành Sơn và Đỗ Thiếu Khanh, cầm cờ là Vũ Thư, dẫn rượu là Quí Vi Tiêu, Tân Đông Chi, Dư Hòa Thanh, dâng ngọc là Cừ Dật Phu, Lư Tín Hầu, Ngu Cảm Kỳ, dâng lụa là Gia Cát Thiên Thân, Cảnh Lan Giang, Quách Thiết Bút, dâng lụa là Tiêu Kim Huyễn, Chư Tín, Y Chiêu, dâng thịt là Quí Điềm Dật, Kim Ngụ Lưu, Kim Thứ Phúc và Bão Đình Tỷ đem theo mười hai người tấu nhạc và ba mươi sáu trẻ em để múa. Cộng tất cả là bảy mươi sáu người.
    Lúc này những người bếp đã khiêng lên một con bò, bốn con dê để cùng ăn với thịt tế và rau. Cỗ bàn bày ra: tất cả mười sáu bàn, tám bàn ở dưới lầu cho hai mươi bốn vị khách, tám bàn trong hai thư phòng để tiếp đãi những người khác. Sau khi ăn uống một ngày, Ngu bác sĩ lên kiệu về thành. Những người khác hoặc lên kiệu hoặc đi chân về nhà. Hai bên đường già trẻ kéo nhau lũ lượt ra xem. Mọi người đều vui vẻ. Mã Thuần Thượng cười, hỏi:
    - Các ông xem như thế nào?
    Mọi người đều nói:
    - Chúng tôi sinh ở Nam Kinh có người đã đến bảy tám mươi tuổi rồi. Nhưng từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ thấy một buổi lễ, chưa bao giờ nghe một buổi nhạc như thế này. Các cụ già nói rằng vị chủ tế là một vị thánh nhân giáng thế cho nên chúng tôi đều kéo nhau ra xem.
    Mọi người đều vui vẻ kéo nhau về thành.
    Vài ngày sau, Quí Vi Tiêu, Tiêu Kim Huyễn, Tân Đông Chi, Kim Ngu Lưu đều từ biệt Ngu bác sĩ để về Dương Châu. Mã Thuần Thượng và Cừ Dật Phu đến cái nhà bên bờ sông từ biệt Đỗ Thiếu Khanh để về Chiết Giang. Hai người bước vào nhà thấy Đỗ Thiếu Khanh, Tang Đồ và một người nữa cùng ngồi ở đấy. Cừ Dật Phu nhìn thấy giật mình, trong lòng nghĩ rằng:
    - Đây chính là lão Trương Thiết Tý đã dùng cái đầu người giả để lừa các cậu của ta ở Lâu Phủ. Hắn đến đây làm gì?
    Hai người chào nhau. Trương Thiết Lý nhìn thấy Cừ Dật Phu cũng thấy khó chịu, đỏ cả mặt. Uống trà xong, nói mấy câu từ biệt, Mã Thuần Thượng và Cừ Dật Phu cáo từ ra về. Đỗ Thiếu Khanh tiễn ra cửa. Cừ Dật Phu hỏi:
    - Tại sao anh lại quen cái thằng Trương ấy? Đỗ Thiếu Khanh nói:
    - Anh ta tên là Trương Tuấn Dân người ở huyện Thiên Trường của tôi.
    Cừ Dật Phu mỉm cười, kể lại sơ lược những việc hắn đã làm ở Chiết Giang khi mang danh là Trương Thiết Tý và nói:
    - Anh không nên chơi thân với thằng ấy. Nên cẩn thận! Đỗ Thiếu Khanh nói:
    - Tôi biết rồi.
    Hai người từ biệt ra về. Đỗ Thiếu Khanh trở vào hỏi Trương Tuấn Dân:
    - Này ông, có phải ngày xưa tên ông là Thiết Tý phải không?
    Trương Thiết Tý mặt đỏ gay nói: - Đó là tên tôi lúc còn trẻ.
    Trương ấp úng không nói được nửa lời. Đỗ Thiếu Khanh cũng không hỏi gì nữa. Trương Thiết Tý thấy người ta biết rõ chân tướng của mình rồi, biết rằng ở lại cũng không được. Vài hôm sau Trương cùng Tang Đồ về Thiên Trường. Tiêu Kim Huyễn cùng Gia Cát Thiên Thân và Quý Điềm Dật mắc nợ chủ quán nên không thể về được phải đến nhờ Đỗ Thiếu Khanh giúp cho mấy lạng bạc. Sau đó cả ba đều trở về. Còn Tôn trở về Hồ Quảng và mang một bức tranh đến nhờ Đỗ Thiếu Khanh đề cho mấy chữ. Đỗ đề ngay và tiễn ra cửa. Vừa gặp lúc Vũ Thư đến. Thiếu Khanh hỏi:
    - Anh Vũ Thư mấy lâu nay không gặp anh, anh ở đâu?
    - Hôm trước có thi tất cả sáu lớp của trường, tôi lại đỗ đầu.
    - Đó là một việc rất thú vị.
    - Chẳng có gì thú. Nhưng nhân việc đó tôi biết được một việc rất lạ.
    - Việc gì vậy?
    - Lần này triều đình có lệnh sắp xếp lại tất cả các sinh viên trong trường, cho nên sinh viên cả sáu lớp cũng đều thi chung. Có lệnh khám xét rất cẩn thận từ đầu đến chân chẳng khác gì thi hương vậy. Bài thi ra lấy trong hai đoạn của “Tứ Thư”, một đoạn của “Ngũ Kinh”. Có một người học về kinh “Xuân thu”(8) mang theo một quyển kinh “Xuân Thu” trong mình. Cái đó không có gì lạ. Nhưng sau khi đi đồng anh ta bỏ lộn quyển này vào trong quyển thi và nộp lên cho quan giám khảo. May sao, quan giám khảo là Ngu bác sĩ. Ngu bác sĩ cùng đứng với một người giám thị. Khi nhận quyển thi, Ngu bác sĩ nhận thấy quyển Xuân Thu liền bỏ vào ống giầy. Người giám thị đứng bên cạnh hỏi có việc gì vậy, Ngu bác sĩ nói:
    - Không có gì cả!
    Sau khi người sinh viên kia quay lại, Ngu bác sĩ nói với anh ta:
    - Anh cầm lấy đi, anh vừa nộp lộn cả quyển ấy vào quyển thi. May sao tôi thấy việc đó chứ nếu người khác thấy thì thế nào?
    Người kia giật mình kinh sợ và xấu hổ. Khi kết quả công bố anh ta đỗ hàng thứ hai. Anh ta đến cảm tạ Ngu bác sĩ, nhưng Ngu bác sĩ không nhận nói:
    - Tôi có nói gì với anh đâu. Có lẽ anh lầm rồi, không phải tôi.
    Hôm ấy tôi cũng vừa đúng lúc đến cảm tạ. Chính mắt tôi trong thấy việc đó. Khi người kia đi rồi, tôi mới hỏi thầy Ngu tại sao thầy không nhận. Thầy nói:
    - Học trò ai cũng phải giữ lấy liêm sỉ. Anh ta đến cảm ơn tôi, nếu tôi nhận là có nói thì anh ta còn mặt mũi nào nữa.
    Tôi không biết tên người kia là ai, tôi hỏi thầy Ngu tên anh ta là gì. Thầy không chịu nói. Anh thấy việc ấy có lạ không?
    Đỗ Thiếu Khanh nói: - Ông ta thường làm những việc như thế đấy. Vũ Thư nói:
    - Lại còn việc này buồn cười hơn. Anh biết người con của thầy lấy vợ, người vợ có mang theo một người đầy tớ gái, thầy đem gả người đầy tớ gái cho quản gia họ Nghiêm. Thằng khốn nạn này thấy ở nha môn này thanh đạm không kiếm ra tiền, cho nên có xin từ giã ra đi. Trước đấy, thầy đã không đòi một đồng nào cho không người đầy tớ gái. Nay thầy lại cho mang người đầy tớ gái đi. Nếu như người khác thế nào cũng bắt chuộc lại với số tiền không biết bao nhiêu mà kể. Thầy nghe hắn nói bèn bảo: “Cố nhiên là hai vợ chồng anh ra đi cũng được. Nhưng nay tiền ăn tiền ở đều không có thì làm thế nào?”. Thầy lại cho thêm mười lạng nữa.
    Khi anh ta đi thầy lại gửi anh ta đến giúp việc cho nha môn một quan huyện. Anh thấy như thế có buồn cười không?
    Đỗ Thiếu Khanh nói:
    - Thằng cha ấy là đồ hèn hạ không có lương tâm gì! Nhưng thầy cho anh ta tiền hai lần cố nhiên không phải là để được khen. Cái đó mới là ít có.
    Thiếu Khanh giữ Vũ Thư lại ăn cơm. Sau đó, Vũ Thư từ biệt Thiếu Khanh đi ra. Mới đến cầu Lợi thiệp đã gặp người, đầu đội mũ vuông, mình mặc áo cũ, lưng thắt dây tơ, chân đi giày cỏ, trên vai mang hành lý, đầu bạc hoa râm, dáng người tiều tụy. Người kia buông hành lý xuống vái chào
    Vũ Thư. Vũ Thư kinh ngạc nói:
    -Ông Quách! Từ khi từ biệt ở trấn Giang Ninh nay đã ba năm. Mấy lâu nay ông đi những nơi nào?
    - Nói ra dài lắm!
    - Mời ông vào quán trà ngồi!
    Hai người cùng vào quán trà. Người kia nói:
    - Tôi mấy lâu nay vì tìm cha(9) nên đi khắp thiên hạ. Trước đây, có người nói cha tôi ở Giang Nam cho nên tôi đến đó. Đến lần này là lần thứ ba. Lại có tin nói cha tôi không ở Giang Nam mà đã lên Tứ Xuyên cạo đầu đi tu. Cho nên ngày nay tôi lại lên Tứ Xuyên.
    Vũ Thư nói: - Thật đáng thương, ông đi đường hàng vạn dặm, có phải dễ dàng đâu. Tôi biết một ông huyện ở phủ Tây An, họ Vưu, là ban học với thầy Ngu ở trường Quốc Tử Giám. Nay tôi nhờ thầy Ngu viết một bức thư đến đó. Như thế là tiền ăn đường có thiếu thì ông ta có thể giúp đỡ ông.
    - Tôi vốn là người quê mùa, nay bước vào trường Quốc Tử Giám sợ không tiện.
    - Không hề gì. Nhà ông Đỗ Thiếu Khanh cách đây có mấy bước, tôi cùng ông đến nhà ông ta. Tôi sẽ đi lấy bức thư cho ông.
    - Ông Đỗ Thiếu Khanh à! Có phải cái ông ở thiên Trường được nhà vua mời ra nhưng không đi phải không?
    - Đúng đấy! - Như vậy thì tôi phải đến mới được. Trả tiền trà xong, hai người ra khỏi quán trà cùng đến nhà Đỗ Thiếu Khanh. Đỗ Thiếu Khanh ra tiếp hỏi:
    - Vị này là ai?
    Vũ Thư nói:
    - Vị này là Quách Lực hiệu là Thiết Sơn, hai mươi năm nay ông ta đi khắp thiên hạ, để tìm cha nên có tên là Hiếu Tử.
    Đỗ Thiếu Khanh nghe nói, vái chào một lần nữa, mời Quách Hiếu Tử ngồi lên ghế trên và hỏi:
    - Tại sao mấy mươi năm nay ông không nghe tin về cụ nhà ta?
    Quách Hiếu Tử nín lặng. Vũ Thư ghé tai Đỗ Thiếu Khanh thì thầm:
    - Trước kia ông ta làm quan ở Giang Tây, sau đầu hàng Ninh Vương cho nên bỏ trốn.
    Đỗ Thiếu Khanh nghe vậy kinh ngạc, lại càng kính trọng hành động của Quách Hiếu Tử bèn bảo Quách Hiếu Tử bỏ hành lý xuống.
    - Ông hãy tạm ở đây một hôm, ngày mai hãy đi.
    - Ông Thiếu Khanh, ông là người hào kiệt, cả thiên hạ đều biết. Tôi không làm khách, cũng xin ở lại một đêm.
    Thiếu Khanh vào bảo vợ giặt áo quần cho Quách Hiếu Tử, sửa soạn cơm rượu đãi khách. Khi Thiếu Khanh đi ra, Vũ Thư nhắc đến chuyện Quách muốn xin một bức thư của Ngu bác sĩ.
    Thiếu Khanh nói:
    - Cái đó thì dễ, ông Quách! Ông cứ ngồi đây. Tôi và ông Vũ sẽ đi lấy thư về.
    Chỉ nhân phen này, khiến cho:
    Khó nhọc ê chề, sá quản vào trong hang cọp:
    Non sông xa thẳm, lại đi đến cõi Tàm Tùng(10).
    Muốn biết sự việc như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
    ------------
    (1) Giá gỗ để văn tế.
    (2) Đồ dùng để thắp, làm bằng sắt trên cắm gỗ thông lúc làm lễ đốt gỗ thông lên.
    (3) Chúc là nhạc khí cổ hình vuông; bằng gỗ, người ta lấy dùi gỗ để gõ vào chúc.
    (4) Ngữ là nhạc khí cổ hình con hổ làm bằng gỗ trên lưng có 27 miếng kim khí gãy vào thành tiếng.
    (5) Múa lục dật là một lối múa cổ chia làm 6 hàng, mỗi hàng 6 người.
    (6) Những câu này chúng tôi phiên âm vì trong tế lễ Việt Nam người ta cũng xướng như vậy.
    (7) Trong nguyên văn có cả ba lần cũng tỉ mỉ như lần thứ nhất và cũng in hệt như lần thứ nhất chỉ thay đổi người thôi. Ở đây chúng tôi lược bớt vì bạn đọc sẽ cho là thừa.
    (8) Sách do Khổng Tử soạn.
    (9) Cha Quách là Vương Huệ đầu hàng Ninh Vương đã nói ở trên.
    (10) Tàm Tùng tên vua đất Ba Thục đời thượng cổ; sau này dùng để chỉ về địa phương Tử Xuyên


    hết: Hồi 37, xem tiếp: Hồi 38


    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #32
      Hồi 38

      Quách Hiếu Tử núi sâu đụng cọp
      Sư Cam Lộ đường hẹp gặp thù.

      Đỗ Thiếu Khanh giữ Quách Hiếu Tử ở lại nhà mình ở bên sông để ăn cơm, uống rượu. Sau đó, Đỗ cùng Vũ Thư đến nhà Ngu bác sĩ để nói cho Ngu biết Quách là người như thế nào và xin Ngu viết một bức thư để Quách mang đi Tây An. Ngu bác sĩ chăm chú lắng nghe và nói:
      - Cố nhiên, tôi sẽ viết thư! Nhưng viết thư vẫn chưa đủ. Ông ta cần tiền vì đường xa vạn dặm. Anh Thiếu Khanh! Tôi nhờ anh đưa cho ông ta một vài lạng bạc mà không cần nói đó là tiền của tôi.
      Ngu liền viết ngay một bức thư, lấy bạc đưa cho Đỗ Thiếu Khanh. Đỗ nhận tiền và thư rồi cùng Vũ Thư về cái nhà ở bên sông. Đỗ cũng đem cầm áo quần của mình lấy bốn lạng bạc. Vũ Thư cũng đem đồ đi cầm được hai lạng nữa. Họ cố tình giữ Quách ở lại thêm một ngày. Trang Thiệu Quang nghe vậy cũng viết một bức thư và đưa cho Đỗ bốn lạng bạc. Sang ngày thứ ba, Đỗ dọn bữa cơm sáng mời Quách ăn. Vũ Thư cũng ngồi tiếp. Ăn xong hai người buộc hành lý hộ Quách, đưa cho Quách hai mươi lạng bạc và hai phong thư. Quách không dám nhận. Đỗ Thiếu Khanh nói:
      - Số tiền này là số tiền của mấy người chúng tôi ở Giang Nam chứ không phải là tiền phi nghĩa, tại sao ông lại không nhận?
      Quách Hiếu Tử mới chịu nhận. Ăn cơm xong, Quách cáo từ ra đi. Đỗ Thiếu Khanh và Vũ Thư tiễn đến cửa Hán Tây mới trở về.
      Quách ngày đi đêm nghỉ, đi một mạch đến Thiềm Tây. Vì Vưu làm tri huyện ở Đồng Quan, nên Quách Hiếu Tử lại phải đi vòng đến Đồng Quan để gặp Vưu. Ông Vưu tên là Phù Lai tự là Thuỵ Đình, vốn là một danh sĩ ở đất Nam Kinh. Năm ngoái, vừa đến Đồng Quan, Vưu đã làm một việc tốt. Có một người nguyên quán Quảng Đông bị đày lên Thiềm Tây cùng mang vợ đi theo, không ngờ anh ta đi được nửa đường thì chết. Người vợ khóc than thảm thiết. Người đi đường nghe nói đều không hiểu tiếng nên phải đưa lên gặp quan. Vưu thấy chị ta muốn trở về làng, lòng không nỡ, cho năm mươi lạng bạc và sai một sai nhân già đưa về quê quán. Vưu tự mình lấy một miếng lụa trắng viết một bài văn rất cảm động, ký tên mình là Vưu Phù Lai vào đấy, đóng dấu tri huyện Đồng Quan ở dưới và dặn sai nhân: “Mày dẫn người đàn bà kia đi và mang theo tấm lụa này. Đến đâu, huyện nào mày cũng đưa tấm lụa ra cho quan địa phương và xin đóng dấu vào đấy. Sau khi đã đưa bà ta về quê quán rồi, mày phải mang thơ của quan địa phương về cho ta”.
      Sai nhân vâng dạ. Người đàn bà rập đầu lạy tạ rồi ra đi. Non một năm sau, sai nhân trở về nói:
      - Dọc đường đi các quan địa phương đọc bài văn của ngài, đều thương xót người đàn bà đó. Người cho mười lạng, kẻ cho tám lạng, sáu lạng. Lúc bà ta về nhà có được hai trăm lạng! Con đưa bà ta về đến Quảng Đông, trong họ có hơn một trăm người đều quì giữa trời lạy tạ ân đức của ngài! Họ lại rập đầu lạy con, gọi con là “Bồ Tát”. Nhờ ơn ngài, con cũng mang ơn lây!
      Vưu Công nghe nói rất mừng rỡ thưởng cho hắn mấy lạng bạc và cho hắn ta.
      Một người mang thiếp vào báo với Vưu rằng:
      Quách Hiếu Tử đã đến, mang theo một bức thư của Ngu bác sĩ.
      Vưu mở thư ra xem, trong lòng vô cùng cảm phục, liền mời vào chào hỏi và sai dọn cơm ăn. Đang lúc nói chuyện, người giữ cổng vào báo:
      - Mời quan xuống làng khám nghiệm!
      Vưu nói với Quách:
      - Thưa ông, việc này là việc quan, cho nên tôi phải đi, ba ngày nữa mới về. Tôi mong ông đợi ở đây, khi về tôi sẽ có mấy lời thưa lại. Vả chăng, lần này ông đi Thành Đô, tôi cũng có một người bạn ở đó muốn nhờ ông mang giúp cho một cái thư, xin ông chớ từ chối!
      - Ông đã nói vậy, tôi đâu dám chối từ! Nhưng có một điều tôi là người tính tình quê mùa không thể ở chỗ nhà quan. Ở đây có cái am nào thì cho tôi đến đấy ở vài ngày.
      - Am thì cũng có, nhưng hẹp. Ở đây có viện Hải Nguyệt Thiền Lâm, vị hòa thượng ở đấy là người có học thức, đưa ông đến đấy ở cũng được.
      Bèn dặn bọn nha dịch:
      - Dẫn ông Quách và đem hành lý của ông đến viện Hải Nguyệt Thiền Lâm. Nói với hòa thượng rằng ta đưa ông ta đến nhé!
      Sau dịch vâng dạ. Quách cáo từ. Vưu tiễn ra cửa mới thôi
      Quách Hiếu Tử cùng sai dịch đến phòng khách viện Hải Nguyệt Thiền Lâm. Nghe có khách đến, có người chạy vào báo. Vị hòa thượng già ra hỏi thăm mời ngồi uống trà, và bọn sai dịch trở về. Quách hỏi hòa thượng:
      - Có phải cụ từ trước đến nay vẫn ở đây không?
      - Bần tăng trước ở am Cam Lộ phủ Thái Bình, huyện Vũ Hồ ở Nam Kinh. Sau đó, bần tăng được đổi về chùa Báo Quốc ở Bắc Kinh. Nhưng vì chán cái cảnh náo nhiệt ở kinh đô, bần tăng mới xin đến ở đây. Ông họ Quách phải không? Ông đi Thành Đô có việc gì?
      Thấy hòa thượng mặt mày kham khổ nhưng rất hiền từ, Quách nói:
      - Việc này con không dám nói ra với ai, nhưng con xin nói thực với cụ.
      Quách bèn đem việc mình tìm cha gian khổ như thế nào kể lại một lượt. Vị hòa thượng già thở than rơi lệ, giữ Quách ở lại và đến tối làm cơm chay cho ăn. Quách đưa cho hòa thượng hai quả lê mình mới mua trên đường cái. Hòa thượng cảm ơn Quách, bảo người bếp mang hai cái vại lớn ra trước sân, bỏ một quả vào cái vại rồi đồ đầy nước, lấy gậy đập quả lê nát nhừ. Sau đó gõ mõ gọi hai trăm vị tăng đến, mỗi người uống một chén. Quách thấy vậy gật đầu thán phục.
      Sang ngày thứ ba, Vưu trở về sai dọn một bữa tiệc, mời Quách ăn, lúc uống rượu xong, Vưu đem ra năm mươi lạng bạc, một bức thư và nói:
      - Thưa ông, tôi muốn mời ông ở lại ít lâu, nhưng việc đi tìm cha là việc lớn, tôi không dám giữ lại. Nay tôi có năm mươi lạng biếu ông dùng tạm làm tiền ăn đường. Ông đến Thành Đô đem bức thư này của tôi cho ông Tiêu Hạo Hiên. Ông ta là một người có đạo đức của cổ nhân, nhà ở cách Thành Đô hai mươi dặm, nơi ấy gọi là Đông Sơn. Ông đến tìm ông ta, có việc gì cần, ông ta có thể giúp.
      Quách thấy Vưu hết sức khẩn khoản không từ chối được nên chỉ còn cách nhận tiền và cám ơn. Quách lấy tiền và thư rồi cáo từ. Quách đến việc Hải Nguyệt Thiền Lâm, từ biệt hòa thượng. Hòa thượng chắp tay nói:
      - Khi đến Thành Đô gặp được phụ thân, thế nào cư sĩ cũng viết cho bần tăng một bức thư để bần tăng khỏi lo lắng.
      Quách vâng dạ. Hòa thượng tiễn ra cửa nói quay vào.
      Quách vai mang hành lý lại đi mấy ngày nữa. Đường đi gồ ghề cheo leo. Đi một bước, sợ một bức. Hôm ấy, đi đến một nơi thì trời sắp tối. Nhìn xa không thấy làng xóm gì. Quách đi một lát nữa thì gặp một người, Quách vái chào hỏi:
      - Cụ làm ơn cho biết còn đi bao nhiêu nữa thì đến quán trọ?
      Người kia đáp:
      - Còn hơn mười dặm nữa. Ông khách! Ông nên đi gấp đi. Ban đêm trên đường có hổ đấy! Cần phải cẩn thận!
      Quách Hiếu Tử nghe vậy vội vàng bước nhanh. Trời đã gần tối. May sao khắp thung lũng hôm ấy là khoảng mười bốn, rằm, mặt trăng lên cao chiếu rất sáng. Quách Hiếu Tử đạp ánh trăng mà đi, đến một khu rừng bỗng một cơn gió thổi mạnh, lá cây rơi ào ào. Cơn gió vừa qua thì một con hổ nhảy ra! Quách Hiếu Tử kêu lên:
      - Nguy rồi!
      Và ngã lăn ra đất.
      Con hổ vồ Quách và ngồi lên trên. Nó ngồi một lúc thấy Quách nhắm nghiền hai mắt, nó tưởng Quách đã chết, bèn đi moi một cái hố. Nó kéo Quách vứt vào hố lấy lá khô phủ lên trên rồi bỏ đi. Quách ở trong hố mở mắt nhìn thấy hổ ta đã đi xa mấy dặm. Hổ lên đỉnh núi, hai con mắt đỏ như hai hòn than vẫn quay lại nhìn. Thấy Quách nằm yên, nó bèn bỏ đi. Quách ở trong hố bò ra, nghĩ bụng:
      - Tuy con quỉ kia đi rồi, nhưng thế nào nó cũng trở lại ăn thịt mình. Bây giờ làm thế nào?
      Lúc bấy giờ Quách chưa nghĩ ra được cách nào. Nhìn thấy một cây to ở trước mặt. Quách liền trèo lên. Trong bụng lại nghĩ: nếu con vật trở lại mà hét lên một tiếng thì mình có thể hoảng sợ ngã lăn xuống được! Quách bèn nghĩ ra một kế, tháo dây buộc chân ra, buộc mình vào thân cây.
      Đến nửa đêm, mặt trăng sáng như ban ngày. Quách thấy con hổ kia đi trước mang theo một con vật gì toàn thân trắng như tuyết, trên đầu có một cái sừng, hai con mắt đỏ rực như hai ngọn đèn và lúc đi thì đứng thẳng. Quách nhận không biết đó là con gì, chỉ biết nó tiến đến gần và ngồi xuống. Hổ ta vào hố tìm. Không thấy người, nó hoảng hốt nằm rạp xuống. Con vật kia giận lắm, giơ chân ra tát một cái vào đúng đấu con hổ làm con hổ chết tươi.
      Con vật kia dựng ngược cả lông, trông rất ghê sợ. Nó ngẩng lên nhìn thấy trên cành cây có bóng người. Nó bèn nhảy vọt lên. Lần đầu tiên nó vồ trật và rơi đạch xuống đất. Nó lại ra sức vồ lần nữa. Lần này, nó chỉ cách Quách có một thước. Quách nghĩ bụng: “Chuyến này mình hết đời rồi”. May sao trên cây có một cái cành khô, con vật kia nhảy lên, bụng va đúng vào cành khô. Vì dùng sức mạnh quá cành cây đâm thủng cả bụng, sâu đến một thước. Nó càng giẫy giụa thì cành cây càng đâm vào sâu. Nó vật lộn hết sức, đến nửa đêm thì bị chết treo trên cành cây.
      Khi trời tảng sáng, có mấy người đi săn, tay mang võ khí. Nhìn thấy hai con vật kia, họ giật mình hoảng sợ.
      Quách ở trên cây kêu lên, những người đi săn đỡ Quách xuống, hỏi họ tên. Quách nói:
      - Tôi là người qua đường. Cũng may trời phật phù hộ khiến cho tôi bảo toàn được tính mạng. Bây giờ tôi vội phải đi ngay. Các ông đem hai con vật này đến quan địa phương để xin tiền thưởng.
      Mấy người đi săn đưa lương khô thịt khô và thịt nai ra mời Quách ăn. Họ mang hành lý hộ, đưa Quách năm sáu dặm rồi từ biệt.
      Mang hành lý lên vai, Quách đi thêm mấy ngày đường nữa, rồi vào nghỉ trọ ở một am nhỏ trong thung lũng. Vị hòa thường trong am hỏi Quách về đường đi, đưa cơm rau ra ngồi bên cửa sổ cùng ăn. Đang lúc ăn cơm, Quách Hiếu Tử thấy có ánh sáng đỏ hình như cháy nhà ở đâu đây. Quách vội vàng đặt bát xuống kêu lên:
      - Cháy nhà! Cháy nhà!
      Hòa thượng mỉm cười nói.
      - Cư sĩ cứ ngồi yên, không nên hoảng sợ. Đó là con “Anh tuyết” của tôi đấy!
      Ăn cơm xong, thu dọn bát đĩa, hòa thượng ra mở cửa sổ, chỉ cho Quách thấy:
      - Cư sĩ xem kìa!
      Quách đưa mắt nhìn thấy ở núi trước mặt một con vật gì kỳ lạ đang ngồi xổm. Nó chỉ có một cái sừng và một con mắt, mắt lại sinh ở đằng sau tai. Con vật kỳ lạ này gọi là con “Bi hoàn”(1). Băng dù dày đến mấy thước nó chỉ hét một tiếng là vỡ tan. Hòa thượng nói:
      - Đấy là con “Anh tuyết” đấy!
      Đêm ấy tuyết rơi lả tả, suốt một ngày một đêm, dày đến ba thước, Quách không đi được đành phải ở lại một ngày.
      Sang ngày thứ ba, tuyết tạnh. Quách từ biệt hòa thượng ra đi, men theo đường núi đi một bước lại trượt một bước. Hai bên đều là khe suối, băng tuyết nhọn hoắt như dao. Quách đi chậm. Trời đã chiều, ánh sáng tuyết chiếu xa xa chừng nửa dặm thấy một cái gì đỏ đang treo lủng lẳng trên cành cây trước mặt. Một người đi đường ở đằng trước ngã lăn xuống khe. Quách đứng lại, trong lòng nghi hoặc:
      - Tại sao hắn thấy vật kia lại ngã lăn xuống khe?
      Nheo mắt nhìn, Quách thấy một người từ cái vật đỏ kia nhô ra, lấy hành lý của người kia mang đi mất. Quách nghi ngờ, vội vàng bước lên. Thì thấy ở trên cành cây treo một người đàn bà, tóc xoã, người mặc một cái áo đỏ, miệng ngậm một miếng vải đỏ lòng thòng giả làm lưỡi lè ra. Ở dưới chân, chôn một cái vại có một người ngồi ở trong. Người kia thấy Quách đi đến liền nhảy xổ ra. Nhưng thấy Quách dáng người oai vệ, hắn không dám giở trò, liền chắp tay nói:
      - Ông khách, ông đi đi, việc này không liên quan gì đến ông cả!
      Quách nói:
      - Anh làm trò đó, ta biết cả rồi! Anh đừng sợ ta sẽ giúp cho. Người đàn bà nào giả làm bộ chết treo đấy?
      - Đó là vợ tôi.
      - Anh tháo dây cho người ta xuống đi! Nhà anh ở đâu? Ta đến đó chơi!
      Người kia tháo cái dây thắt ở đằng sau gáy và để người đàn bà đứng xuống. Người đàn bà vấn lại mái tóc xoã, rút lưỡi giả ở miệng ra, tháo vòng giắt ở cổ để buộc sợi dây và cởi áo đỏ ra. Người kia chỉ cái nhà có hai gian ở bên đường nói:
      - Đó là nhà của tôi.
      Hai vợ chồng đưa Quách đến cái nhà ấy. Đến nhà, họ mời Quách ngồi, đi nấu một ấm trà. Quách nói:
      - Anh chẳng qua là không có kế sinh nhai, nhưng tại sao lại làm những việc ác như thế? Làm người ta sợ hãi mà chết là trái với lẽ trời. Tôi tuy nghèo, nhưng thấy vợ chồng anh đến tình cảm ấy, cũng rất thương! Tôi ở đây có mười lạng bạc, xin biếu hai vợ chồng anh, anh nên kiếm kế sinh nhai không nên làm cái trò này nữa, tên anh là gì?
      Người kia nghe vậy, sụp lạy Quách, nói:
      - Cảm ơn ông giúp đỡ. Tôi tên là Mộc Nại, hai vợ chồng vốn là con nhà tử tế. Gần đây, vì đói rét quá cho nên phải làm việc này. Nay nhờ ông giúp tôi tiền vốn, từ nay tôi sẽ bỏ cuộc đời cũ. Xin ân nhân cho biết họ tên?
      Quách nói:
      - Tôi họ Quách, người Hồ Quảng, nay đi đến phủ Thành Đô.
      Người vợ cũng ra lạy, làm cơm mời Quách ăn. Quách ăn cơm xong nói với Mộc Nại:
      - Thấy anh có gan dọa dẫm người ta trên đường, chắc anh phải có ít võ nghệ. Chỉ sợ võ nghệ anh không cao, thành không làm được việc gì lớn. Tôi có biết nghề múa đao, đánh quyền, để tôi truyền cho anh.
      Mộc Nại mừng lắm, giữ Quách Hiếu Tử hai ngày liền. Quách dạy cho y đao và quyền cẩn thận. Mộc Nại nhận Quách làm thầy. Sang ngày thứ ba, Quách kiên quyết ra đi. Mộc Nại gói lương khô, thịt khô, mang hành lý hộ Quách, tiễn ngoài ba mươi dặm mới cáo từ trở về.
      Quách lại mang hành lý đi được mấy ngày nữa. Hôm ấy trời rất lạnh, gió tây bắc thổi, đường núi đông lại như sáp trắng, vừa cứng vừa trơn. Quách đi đến chiều, nghe trong hang núi có tiếng gầm, một con hổ nhảy xổ ra. Quách nói:
      - Lần này thì chết thật rồi!
      Liền ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự. Hổ vốn chỉ ăn thịt những người nào sợ nó. Nay thấy Quách nằm thẳng cẳng ra đấy, hổ không dám ăn thịt, chỉ cúi xuống ngửi vào má, râu mép hổ đâm vào mũi Quách, làm cho Quách hắt hơi một cái thật mạnh. Hổ ta giật nẩy mình, quay lưng nhảy lên đỉnh núi rơi vào một cái khe. Khe này sâu lắm, hổ bị băng nhọn hoắt như đao kiếm đâm ngang mình chết cứng.
      Quách lổm ngổm bò dậy, không thấy con hổ nữa, nói:
      - Thật là hú vía!
      Quách lại mang hành lý đi. Quách đến Thành Đô và biết tin rằng cha mình đã làm hòa thượng trong một cái am cách đấy bốn mươi dặm. Quách hỏi được chỗ ở liền đi đến am, gõ cửa. Hòa thượng ra thấy con giật nẩy người, Quách thấy cha, quỳ dưới đất, khóc nức nở. Hòa thượng(2) nói:
      - Xin ông đứng dậy! Tôi không có con. Ông nhận lầm tôi.
      - Con đi vạn dặm đến đây tìm cha, sao cha không nhận?
      - Tôi đã nói mà! Tôi không có con. Ông có cha thì ông tìm, tại sao lại nhìn bần tăng mà khóc?
      - Mặc dầu mấy mươi năm con không thấy cha nhưng có lẽ nào con không nhận ra cha?
      Và quỳ xuống không đứng lên nữa. Hòa thượng nói:
      - Bần tăng từ nhỏ xuất gia, làm gì có con với cái?
      Quách khóc rống lên nói:
      - Cha không chịu nhận con, nhưng con nhất định nhận cha!
      Cứ thế năm lần bảy lượt, hòa thượng giận lắm:
      - Mày là đứa côn đồ ở đâu đến đây quấy nhiễu ta! Cút đi! Ta đóng cửa chùa bây giờ!
      Quách Hiếu Tử quì ở dưới đất, khóc rống lên không chịu ra. Hòa thượng nói:
      - Mày không ra thì tao lấy dao giết mày!
      Quách Hiếu Tử nằm rạp dưới đất, khóc và nói:
      - Thưa cha! Cha cứ giết con đi! Con không ra đâu!
      Hòa thượng giận lắm, hai tay nắm lấy cổ áo Quách lôi ra ngoài rồi đóng cửa lại. Quách kêu mấy cũng không thưa.
      Quách khóc ở ngoài cửa một hồi, khóc rồi lại khóc, nhưng không dám gõ cửa.
      Thấy trời sắp tối; Quách nghĩ bụng.
      - Thôi! Thôi! Chắc cha ta không chịu nhận ta rồi!
      Ngẩng đầu lên nhìn Quách thấy am này là am Trúc Sơn. Quách đành thuê một cái phòng cách đấy nửa dặm. Hôm sau, thấy một hòa thượng ở cửa am đi ra. Quách đút tiền cho hòa thượng để đưa củi và gạo vào nuôi cha. Không đầy nửa năm, tiền bạc hết nhẵn. Quách muốn đến Đông Sơn tìm Tiêu Hạo Hiên nhưng lại sợ đi thì không gặp và không ai lo cơm nước cho cha. Quách phải làm thuê cho một nhà gần đấy, gánh đất và chặt củi cho họ, mỗi ngày kiếm vài đồng cân bạc để nuôi cha. Có người bên cạnh đi Thiểm Tây, Quách viết thư kể lại tỉ mỉ câu chuyện tìm cha, nhờ người kia đưa đến cho hòa thượng ở Hải Nguyệt Thiền Lâm.
      Hòa thượng nhận được thư rất là mừng rỡ, lại càng kính phục Quách. Được mấy hôm, một vị sư đến viện. Hắn chính là Triệu Đại cầm đầu bọn cướp. Hắn để tóc xõa, hai con mắt trợn trừng, dáng điệu hung ác. Hòa thượng từ bi giữ hắn ở lại nhưng hắn uống rượu, hành hung, đánh người, không có cái gì mà hắn không làm. Người sư trưởng dẫn các tăng đến nói với hòa thượng:
      - Giữ hắn lại viện thì phá hoại hết cả quy củ! Hòa thượng mời hắn đi, hắn không chịu.
      Sau đó, người sư trưởng bảo một người đến nói với hắn.
      - Hòa thượng bảo ông đi, ông không đi, hòa thượng có truyền: nếu ông không chịu đi thì sẽ chiếu theo qui củ của viện mang ra sân sau bỏ vào lửa mà thiêu sống.
      Tên sư hung ác nghe vậy, nổi giận. Hôm sau, không cần từ biệt hòa thượng, hắn mang áo quần ra đi.
      Hòa thượng ở đấy nửa năm, muốn đến núi Nga Mi chơi, nhân tiện đi Thành Đô gặp Quách. Bèn từ biệt mọi người mang hành lý, dầm sương, dãi nắng, đi thẳng đến Tứ Xuyên.
      Sáng hôm ấy, sau khi đi khỏi Thành Đô trăm dặm, hòa thượng đi xem cảnh núi vào một cái quán trà để uống trà. Ở đấy đã có một hòa thượng khác nhận ra mình nhưng hòa thượng thì không nhớ. Khi nhận ra hòa thượng, người kia hỏi:
      - Hòa thượng! Ở đây trà không ngon, cách đây không mấy bước có cái am nhỏ, ta đến đấy uống trà đi!
      Hòa thượng vui mừng nói:
      - Tốt quá!
      Vị hòa thượng kia dẫn đi quanh co bảy tám dặm đường, đến một cái am nhỏ. Am làm kiểu “chữ tam”, am trước có tượng Già Lâm Bồ Tát. Am sau ba gian không có tượng, am giữa có một cái giường. Người kia đưa hòa thượng vào am mới nói:
      - Hòa thượng! Mày nhận ra tao không?
      Hòa thượng mới nhớ ra hắn là Triệu Đại, tên sư hung ác trước đây đã đến Hải Nguyệt Thiền Lâm bèn giật nẩy mình nói:
      - Tôi quên khuấy đi mất, bây giờ mới nhớ!
      Tên sư hung ác leo lên giường ngồi giương mắt tròn xoe nói:
      - Mày hôm nay đã đến đây thì có chạy đằng trời! Tao có cái hồ lô này mày mang ra ngoài núi chừng nửa dặm, ở đấy có một bà già mở một quán rượu. Mày đem cái hồ lô này đến đấy, lấy đầy rượu về. Mau lên!
      Hòa thượng già không dám trái lời xách hồ lô ra đi. Quả nhiên thấy ở sườn núi một người đàn bà già bán rượu. Hòa thượng đưa hồ lô cho bà ta. Người đàn bà cầm lấy hồ lô, nhìn hòa thượng từ đầu đến chân, nước mắt rơi lã chã trong khi vẫn rót rượu vào hồ lô.
      Hòa thượng giật nẩy mình, hỏi:
      - Mô phật! Sao bà thấy bần tăng lại đau xót như vậy.
      Người đàn bà nước mắt ròng ròng, nói:
      - Tôi thấy sư phụ, diện mạo từ bi, không ngờ lại gặp phải cái nạn này!
      Hòa thượng kinh ngạc hỏi:
      - Bần tăng gặp nạn như thế nào?
      - Tôi biết cái hồ lô này! Khi nào hắn muốn ăn não ai, thì hắn bảo mang hồ lô đến hiệu tôi lấy rượu thuốc. Sư phụ ơi! Sư phụ mang hồ lô về là không sống được đâu!
      Hòa thượng nghe vậy hồn xiêu phách tán, kinh hoảng nói:
      - Bây giờ làm thế nào! Tôi phải chạy trốn thôi. Người kia nói:
      - Sư phụ chạy làm sao được! Trong vòng bốn mươu dặm đều là đồ đảng của hắn hết. Nếu sư phụ đi trốn, thì hắn chỉ đánh mõ lên là lập tức có người trói gò sư phụ lại đem về am ngay.
      Hòa thượng quỳ xuống đất mà khóc:
      - Xin bồ tát cứu mạng!
      Bà già nói:
      - Tôi cứu làm sao được? Nếu nó biết tôi nói ra, thì tính mạng tôi cũng không còn. Nhưng thấy sư phụ từ bi chết thật đáng thương! Tôi chỉ cho một con đường sư phụ đến để tìm một người.
      Hòa thượng già nói:
      - Mô phật! Bà bảo tôi tìm ai?
      Bà già mới nói tên người ấy ra.
      Nhân việc đó khiến cho:
      Nóng lòng cứu nạn, lại thấy người động địa kinh thiên,
      Mang kiếm lập công, đều những việc trung thần báo quốc.
      Muốn biết bà già nói đến ai, hãy xem hồi sau phân giải.
      -------------
      (1) Ngờ là con Hùng cửu, tên một quái vật trong truyền thuyết thời xưa.
      (2) Hòa thượng đây là Vương Huệ sau khi đầu hàng Ninh Vương bỏ trốn lên Thành Đô; cạo đầu đi tu (xem hồi tám).


      hết: Hồi 38, xem tiếp: Hồi 39


      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #33
        Hồi 39

        Núi Minh Nguyệt Tiêu Vân Tiên cứu nạn
        Thành thanh phong Bình Thiếu Bảo lập công

        Hòa thượng nghe bà già nói như vậy liền quỳ xuống dưới đất khóc. Bà già nói:
        - Tôi cứu sư phụ sao được? Nhưng tôi có thể chỉ đường để sư phụ đi tìm một người.
        Hòa thượng nói:
        - Mô phật! Bà bảo tôi tìm ai bây giờ? Nói để cho tôi đi!
        - Cách đây một dặm có một cái gò núi gọi là Minh Nguyệt Lĩnh, theo con đường ở sau nhà tôi thì đi gần được một quãng. Trên đỉnh gò có một người trẻ tuổi đang tập bắn ná. Sư phụ đừng hỏi gì ông ta hết, cứ quì ở trước mặt. Đợi khi ông ta hỏi, sư phụ sẽ nói cho ông ta hay. Chỉ có người này mới có thể cứu được. Sư phụ đi mau nhờ ông ấy. Nếu như ông ấy cũng không cứu nổi thì tính mạng của tôi cũng nguy đến nơi vì hôm nay tôi đã nói việc này ra.
        Hòa thượng nghe vậy, run cầm cập, cảm ơn bà già, mang hồ lô đầy rượu theo con đường gồ ghề đằng sau nhà, víu dây leo mà đi. Quả nhiên đi được một dặm; thấy một hòn núi nhỏ. Trên hòn núi có một chàng tuổi trẻ đang tập bắn ná. Ở cửa hang để một hòn đá trắng to chỉ bằng đồng tiền. Chàng ngắm nghía cẩn thận, bắn phát nào là trúng phát ấy. Hòa thượng đến trước mặt, thấy chàng đầu đội khăn võ sĩ, mình mặc áo chiến bào màu xám, mặt trắng, hình dung tuấn tú. Chàng tuổi trẻ đang say sưa tập bắn. Hòa thượng đến gần quì trước mặt. Chàng đang định hỏi thì thấy một đoàn chim sẻ bay qua thung lũng. Chàng tuổi trẻ nói:
        - Hãy đợi tôi bắn rơi con chim sẻ kia.
        Và giờ cái ná lên, con chim đã rơi đạnh xuống đất.
        Nhìn thấy hòa thượng nước mắt rưng rưng đang quì trước mặt, chàng tuổi trẻ nói:
        - Sư phụ! Xin sư phụ đứng dậy ngay cho! Tôi đã hiểu ý của sư phụ rồi. Tôi tập bắn ở đây chính là vì việc ấy. Nhưng vì mới học được có chín phần còn một phần nữa chưa đạt, tôi sợ còn có chỗ sơ hở nên chưa dám ra tay. Nay sư phụ đã đến đây, tôi không làm không được. Chắc là nó đã đến ngày tận số. Thưa sư phụ! Sư phụ không nên dùng dằng ở đây, hãy mau mau mang hồ rượu về am. Vẻ mặt nhất thiết không được tỏ ra lo sợ, lại càng không được tỏ ra đau buồn. Sư phụ về đấy, nó bảo làm gì thì cứ làm, không được mảy may trái ý nó. Rồi tôi sẽ đến cứu.
        Hòa thượng không biết nói gì, mang hồ rượu theo đường cũ về đến am. Đến gian nhà thứ hai, thấy tên sư hung ác kia đang chễm chệ ngồi trên giường, tay cầm một con dao sáng loáng. Hắn hỏi hòa thượng:
        - Mày đi đâu mà bây giờ mới về?
        - Bần tăng lạc đường, cho nên về chậm.
        - Được! Quì ngay xuống đây!
        Hòa thượng quì xuống. Tên ác tăng nói:
        - Quì gần đây!
        Thấy ngọn dao lấp loáng trong tay hắn, hòa thượng không dám đến gần. Ác tăng nói:
        - Mày không đến gần, tao chẻ đôi đầu mày đi bây giờ!
        Hòa thượng quì xích lại gần. Tên ác tăng nói:
        - Mày cất mũ đi!
        Hòa thượng rơi nước mắt, cất mũ. Tên ác tăng lấy tay nắn cái đầu trọc của hòa thượng, dốc ngược hồ rượu uống một hơi, rồi tay trái cầm hồ rượu, tay phải cầm con dao sáng quắc, hắn nhắm dao vào chính giữa đầu. Hòa thượng lúc bấy giờ chưa đợi dao rơi xuống thì hồn đã bay đi đằng nào rồi.
        Tên ác tăng nhắm đúng giữa đầu, chỗ có não. Hắn tưởng rút dao ra là não cũng phọt theo ra và cùng uống nóng với rượu. Ý định như vậy, hắn cầm dao nhắm đầu hòa thượng mà bổ xuống. Không ngờ lưỡi dao chưa chạm đến đầu hòa thượng thì nghe vù một tiếng, một hòn đá từ ngoài cửa bay đúng vào mắt trái của tên ác tăng. Hắn kinh hoảng buông dao, buông cả rượu, đưa tay lên bưng mắt bên trái nhảy ra gian nhà ngoài. Thấy ở trên đầu Già Lam bồ tát có một người ngồi đấy. Tên ác tăng ngẩng đầu lên lại bị một phát đạn thứ hai bắn mù cả hai mắt. Hắn ngã vật xuống. Người tuổi trẻ nhảy xuống đi vào gian nhà trước mặt thì thấy hòa thượng sợ quá đã ngã lăn ra đất. Người tuổi trẻ kia gọi:
        - Sư phụ! Mau mau chạy đi!
        Hòa thượng nói:
        - Tôi sợ bủn rủn cả người rồi, không đứng dậy được nữa. Người tuổi trẻ nói:
        - Cụ đứng lên tôi cõng cụ chạy!
        Người tuổi trẻ bèn vực hòa thượng dậy, cõng lên vai, vội vàng ra cửa am, chạy một mạch bốn mươi dặm. Y đặt hòa thượng xuống và nói:
        - May quá, sư phụ vừa thoát khỏi một cái nạn lớn từ nay tiền đồ may mắn không có gì đáng ngại.
        Hòa thượng bấy giờ mới tỉnh hồn, quì ở dưới đất bái tạ mà hỏi:
        - Cho biết ân nhân tên họ là gì?
        Người tuổi trẻ nói:
        - Tôi chẳng qua muốn trừ một cái hại chứ không phải là có ý cứu sư phụ. Nay sư phụ đã thoát xin đi ngay, hỏi họ tên tôi làm gì?
        Hòa thượng lại hỏi nhưng người kia vẫn không chịu nói. Hòa thượng đành phải phủ phục lạy chín lạy và nói:
        - Xin từ biệt ân nhân, và nguyền báo ơn cho đến chết! Lạy xong lên đường.
        Người tuổi trẻ thấy mình đã mệt bèn tìm một cái quán ở bên đường vào ngồi, thấy ở trong quán có một người ngồi, ở trước mặt để một cái hộp. Người kia đầu đội khăn tang, mình mặc áo tang, chân đi dép gai, hình dung buồn bã, khoé mắt còn dính lệ. Người tuổi trẻ đến vái một vái rồi ngồi trước mặt.
        Người kia mỉm cười nói: - Thế giới thái bình vô sự thế này mà anh lại bắn mù mắt người ta rồi vào quán ngồi điềm nhiên như không thế à?
        Người tuổi trẻ hỏi:
        - Làm sao mà ông biết? Ông ở đâu đến thế?
        - Tôi nói đùa đấy thôi! Trừ những bọn ác, cứu những người thiện đó và việc hết sức quí. Ông họ tên là gì?
        - Tôi họ Tiêu tên là Thái tự là Vân Tiên, ở Đông Sơn cách phủ Thành Đô hơn hai mươi dặm.
        Người kia kinh ngạc nói:
        - Ở Đông Sơn, cách Thành Đô hai mươi dặm có ông Tiêu Hạo Hiên, ông ấy có phải cùng họ với ông không?
        - Đó là cha tôi. Tại sao ông biết?
        - Chính là phụ thân của ông à? Người kia bèn nói họ tên của mình và duyên do tại sao đi Tứ Xuyên:
        - Ở huyện Đồng Quan tôi có gặp ông huyện Vưu, ông ta có gửi một bức thư cho cụ nhà ta. Nhưng tôi nóng ruột tìm cha, nên chưa thể đến được, tôi cũng biết vị Hòa thượng mà ông vừa cứu. Bây giờ tôi lại được gặp ông, thật là duyên trời đun đủi. Tôi thấy ông anh hùng xứng đáng là con ông Hạo Hiên. Thực đáng phục! Đáng phục!
        Tiêu Vân Tiên nói:
        - Ông đã tìm được phụ thân rồi, tại sao không cùng ở đó, lại đến đây một mình làm gì?
        Quách nghe vậy, khóc mà rằng: - Không may thân sinh tôi đã qua đời rồi! Hài cốt của cha tôi hiện để ở trong cái hộp này! Tôi vốn người Hồ Quảng, nay tôi về quê nhà để mai táng.
        Tiêu Vân Tiên nghe nói rơi nước mắt mà rằng: - Thật là đau xót! Nhưng may nắm được gặp ông, không biết tôi có thể mời ông về nhà gặp phụ thân được không?
        - Đáng lý tôi phải đến nơi bái yết. Nhưng nay tôi mang hài cốt của phụ thân, thật là không tiện. Hơn nữa tôi đang nôn nóng về quê. Xin ông thưa lại với cụ nhà, sau này, nếu có lúc nào tiện, tôi sẽ xin đến thăm.
        Quách bèn lấy bức thư của Vưu ở trong hành lý ra đưa cho Tiêu Vãn Tiên. Quách lại lấy ra một trăm đồng tiền gọi chủ quán mua ba đấu rượu, cắt hai cân thịt và một ít rau, bảo đem nấu để cùng Tiêu Vân Tiên ăn. Quách nói với Tiêu:
        - Tôi với anh mới gặp nhau mà như là bạn cũ, đó là việc rất khó thấy trong đời người. Vả chăng, tôi từ Thiểm Tây lại đây mang thư đến cho cụ nhà, lại càng khác xa kẻ sơ giao. Việc anh vừa làm thật là một việc hiếm có trên đời. Nhưng tôi có một lời khuyên không biết có thể nói được chăng?
        - Tôi là người niên thiếu, mong các bậc cha anh chỉ giáo. Có điều gì lại không nên?
        - Mạo hiểm quên mình, đó là việc làm của người hiệp khách. Nhưng ngày nay không còn như thời Xuân Thu, Chiến Quốc là lúc những việc kia có thể làm nổi danh, mà đã là lúc bốn bể một nhà. Kinh Kha, Nhiếp Chính(2) sống bây giờ cũng chỉ là một thằng giặc. Anh tài mạo, võ nghệ như thế, lại có can đảm nghĩa khí thì nên ra giúp triều đình. Rồi đây ra biên cương, một đao, một thương tung hoành, nhờ vậy vợ sẽ được phong, con sẽ được tập ấm lưu danh sử sách. Không giấu gì anh, từ nhỏ tôi có học qua vũ nghệ, nhưng gặp cảnh cha tôi khốn khổ, nên lưu lạc gian nan mấy mươi năm trời. Nay tôi đã già, không làm nên trò trống gì nữa! Anh còn tuổi trẻ sức dồi dào, không nên để nó lần nữa qua ngày. Xin anh nhớ lấy lời của thằng già này!
        - Tôi nay được lời dạy bảo của tiên sinh thực như luồng gió quét hết mấy mù lại thấy mặt trời, tôi xin vô cùng cảm tạ.
        Hai người nói chuyện. Sáng hôm sau, trả tiền xong, Tiêu tiễn Quách ngoài hai mươi dặm, đến ngã ba đường gạt lệ chia tay.
        Tiêu Vân Tiên về đến nhà, hỏi thăm sức khỏe của cha và đưa bức thư của Vưu cho cha xem. Tiêu Hạo Hiên nói:
        - Ông bạn già và ta cách nhau đã hai mươi năm nay, không biết tin tức của nhau. Nay ông ta làm quan đắc ý cũng mừng cho ông ta.
        Lại nói:
        Quách Hiếu Tử võ nghệ tinh thông, từ nhở danh tiếng cũng ngang với ta. Đáng tiếc ngày nay hai người đến già. Nay ông ta đưa hài cốt phụ thân về nhà mai táng cũng là làm được một điều bình sinh ông ta mong mỏi.
        Tiêu Vân Tiên ở nhà hầu hạ cha được nửa năm. Ở miền biên cương Tùng Phiên xảy ra việc xích mích giữa người Hán và người Phiên, do việc buôn bán không công bằng. Người Phiên tính tình dữ tợn, không biết pháp luật nhà vua nên mang dao, gậy, khí giới xông vào đánh. Lính bắn cung đến cứu đều bị giết hoặc bị thương. Quân Phiên đánh chiếm lấy thành Thanh Phong. Tuần Vũ đem việc này phi báo về kinh. Triều đình nổi giận, sai Thiếu Bảo Bình Trị làm đô đốc quét sạch bọn phiến loạn để nêu rõ sự trừng phạt của triều đình. Thiếu Bảo Bình Trị được tháng chỉ, ra ngay khỏi kinh đô, đem quân ra đóng ở Tùng Phiên. Tiêu Hạo Hiên nghe việc ấy gọi Tiêu Vân Tiên đến mà rằng:
        - Ta nghe Bình Thiếu Bảo xuất quân, hiện nay đóng quân ở Tùng Phiên, muốn chinh phục bọn Phiên. Thiếu Bảo với ta là chỗ quen biết cũ. Lúc này chính là lúc kẻ hảo hán có dịp ra tay.
        - Cha đã già, con không dám đi xa!
        - Con nói như thế không được! Ta nay tuy già nhưng trong người không có bệnh tật gì; ăn được, ngủ được, cần gì phải có người săn sóc bên cạnh! Nếu con lấy cớ ấy không đi tức là tham việc yên vui, ở nhà quyến luyến vợ con, đó là bất hiếu. Từ nay đừng có nhìn mặt ta nữa!
        Mấy lời ấy làm cho Vân Tiên nói không ra lời đành phải từ biệt cha mang hành lý đi đầu quân. Trên đường đi không cần phải nói.
        Hôm ấy, Vân Tiên đi còn cách Tùng Phiên hơn một trạm đường, nhân đi từ sáng sớm nên đã được mười dặm, trời vẫn chưa sáng. Tiêu Vân Tiên vai mang hành lý, chân đang bước nhanh thì nghe đằng sau có tiếng chân người, Vân Tiên vội vàng nhảy ra một bên, quay lại nhìn. Thì ra một người cầm cái côn ngắn, đang xông đến đánh. Nhưng y đã bị Tiêu đá cho một cái ngã lăn xuống đất. Tiêu Vân Tiên giật lấy cái gậy ngắn nhằm đánh vào đầu người kia. Người kia ở dưới đất kêu:
        - Xin ông nể mặt sư phụ tôi mà tha cho tôi.
        Tiêu Vân Tiên dừng tay hỏi:
        - Sư phụ mày là ai?
        Lúc bấy giờ trời đã sáng. Vân Tiên thấy người kia trạc hơn ba mươi tuổi, mình mặc áo chẽn, chân đi dép gai, trên cằm lún phún râu. Người kia nói"
        - Tôi họ Mộc tên Nại, là đồ đệ của ông Quách Hiếu Tử. Tiêu Vân Tiên dựng y dậy hỏi căn vặn. Mộc Nại mới kể lại mình làm một tên cướp đường như thế nào cho đến khi gặp Quách Hiếu Tử và thành học trò của Quách. Tiêu Vân Tiên nói:
        - Ta biết sư phụ của anh. Bây giờ anh đi đâu? Mộc Nại nói:
        - Nay Bình Thiếu Bảo đang ở Tùng Phiên chiêu tập quân sĩ đánh Phiên, tôi muốn đến đó đầu quân. Nhưng vì đi đường hết tiền nên mới đắc tội với bậc huynh trưởng. Xin ông tha tội cho!
        Tiêu Vân Tiên nói: - Nếu vậy, thì ta cũng đang đi đầu quân đây. Chúng ta cùng đi có được không?
        Mộc Nại mừng quá, nhận làm người hộ vệ cho Vân Tiên rồi cùng đến Tùng Phiên nộp giấy đầu quân ở dinh trung quân.
        Thiếu Bảo sai hỏi căn vặn lai lịch, biết Vân Tiên là con Tiêu Hạo Hiên liền để ở dưới trướng cho làm chức Thiên tổng để đánh giặc. Còn Mộc Nại được thưởng một suất lương và đợi lệnh điều động.
        Mấy ngày sau, lương thực các nơi đều đã đưa đến. Thiếu Bảo ra lệnh cho các tướng lĩnh đến viên môn nhận lệnh. Tiêu Vân Tiên đến sớm thấy hai vị đô đốc đang đứng ở đấy. Tiêu hỏi thăm sức khỏe rồi ngồi bên cạnh.
        Một vị đô đốc nói: - Hôm trước, Mã tổng trấn xuất binh, bị quân Phiên ở thành Thanh Phong dùng kế đào hố làm cho cả người lẫn ngựa đều sa xuống hố. Vì vậy mà ông ta bị thương nặng, hai ngày sau thì chết. Nay thi hài vẫn chưa tìm ra. Ông Mã lại là cháu ngoại cụ Tư Lễ Giám hôm nay trong nội có thư ra nói nhất định phải tìm cho được cái đầu của Tổng Trấn, nếu không thì sau này chưa biết sẽ bị xử phạt như thế nào! Làm thế nào bây giờ?
        Một vị đô đốc nói:
        - Tôi nghe nói mấy mươi dặm xung quanh thành Thanh Phong không có cỏ, không có nước gì hết, ta hãy đợi lúc hết đông, khi tuyết mùa xuân tan thành nước, bấy giờ người và vật mới có nước uống. Nay nếu ta xuất binh đến đấy, chỉ trong vài ngày không có nước uống là chết khát. Như thế thì đánh làm sao được?
        Tiêu Vân Tiên nghe vậy, ra bẩm:
        - Xin hai vị không nên bận tâm. Thành Thanh Phong không những có nước và cỏ mà còn có nhiều nữa.
        Hai vị đô đốc nói:
        - Ông Tiêu Thiên Tổng! Ông đã đến đấy bao giờ chưa?
        - Tôi chưa bao giờ đến đấy.
        - Ông chưa đến thì làm sao mà biết được?
        - Tôi xem trong sách sử thấy nói nơi đó cỏ và nước đều nhiều.
        Hai vị đô đốc đổi sắc mặt nói:
        - Lời nói trong sách, tin làm sao được? Tiêu Vân Tiên không dám nói nữa. Lát sau, tiếng mõ vang lên. Ở Viên Môn tiếng trống và tiếng thanh la dậy đất. Thiếu Bảo ra trước trướng truyền lệnh sai hai đô đốc đem binh mã của mình làm trung quân ứng chiến. Tiêu Vân Tiên lĩnh năm trăm bộ binh làm đội tiên phong mở đường, còn Thiếu Bảo thì chỉ huy đội quân đi sau để điều khiển. Mệnh lệch hạ xuống các tướng chia nhau tiến quân. Tiêu Vân Tiên mang theo Mộc Nại, đem năm trăm bộ binh xông nhanh lên trước. Nhìn xa, một ngọn núi cao hết sức hiểm trở, trên đỉnh núi có cắm cờ. Núi này gọi là núi Ỷ Nhi Sơn, là cửa ngõ của thành Thanh Phong. Tiêu Vân Tiên dặn Mộc Nại:
        - Ngươi hãy mang hai trăm quân, theo con đường nhỏ trèo qua núi và đợi ở đường chính. Hễ nghe ở trên núi có tiếng súng thì phải reo hò xông đến trợ chiến, không được chậm trễ.
        Mộc Nại vâng dạ đi ra.
        Tiêu Vân Tiên lại gọi một trăm quân bảo mai phục ở thung lũng. Hễ nghe tiếng súng trên đỉnh núi thì kêu to: “Đại quân đã đến”! Và xông lên trợ chiến.
        Bố trí xong, Tiêu Vân Tiên mang theo hai trăm người và xông thẳng lên núi. Ở trên núi có mấy trăm người Phiên ẩn trong các hang. Thấy người đánh lên, họ đều xông cả ra đánh. Tiêu Vân Tiên lưng mang ná tay hoa thanh đao hăng hái xông lên trước. Tiêu chém chết mấy người Phiên. Chúng nhìn thấy bộ dạng dũng mãnh như vậy nên định bỏ chạy. Hai trăm quân ào lên như mưa sa bão táp. Bỗng một tiếng súng nổ, binh lính mai phục ở dưới thung lũng đều hô lớn:
        - Đại quân đến rồi!
        Và xông lên núi như bay. Quân Phiên hồn xiêu phách tán. Lại thấy ở sau núi có hai trăm người phất cờ reo hò xông đến, quân Phiên tưởng rằng đại quân đã lấy được thành Thanh Phong rồi, nên hoảng hốt chạy trốn tán loạn. Nhưng họ làm sao tránh được những phát đạn của Tiêu Vân Tiên. Phát thì bắn đúng vào mũi, phát thì bắn vào miệng, không còn biết chạy đường nào. Tiêu Vân Tiên tập hợp năm trăm người lại, reo hò dậy đất, giết sạch mấy trăm người Phiên như băm bầu, chém chuối, và cướp được vô số cờ xí, khí giới.
        Tiêu Vân Tiên cho quân nghỉ một lúc rồi hò hét xông lên, thì thấy một dãy rừng sâu bát ngát. Đi nửa ngày, qua quãng rừng đến một con sông lớn. Xa xa nhìn thấy thành Thanh Phong ở cách vài dặm. Tiêu Vân Tiên thấy không có thuyền để chèo qua, bèn gọi quân sĩ đẵn tre, gỗ làm bè. Lát sau, bè làm xong, tất cả cùng chèo qua sông. Tiêu Vân Tiên nói:
        - Đại binh của ta còn ở đằng sau, đánh lấy thành này không phải việc năm trăm người làm được. Cốt nhất là đừng để cho quân địch biết hư thực của ta như thế nào.
        Vân Tiên bèn ra lệnh cho Mộc Nại lấy cờ xí cướp được xé làm thang dây, đem theo hai trăm người, mỗi người mang một bó tre khô đến một nơi vắng ở phía tây thành, trèo lên thành đốt khô lương thực và kho cỏ. Tiêu nói:
        - Như thế là ta có thể thừa cơ hội đánh vào cửa đông. Kế hoạch bàn định xong.
        Hai vị đô đốc đem trung quân đến chân núi Ỷ Nhi Sơn. Hai người chưa biết Tiêu Vân Tiên đã đánh lấy núi này rồi nên bàn nhau:
        - Nơi hiểm yếu như thế này chắc chắn là có mai phục. Ta cứ ra sức bắn vào làm cho chúng không dám ra và ta báo tin thắng trận(3).
        Vừa lúc ấy, một kỵ mã phi đến báo rằng: Thiếu Bảo ra lệnh: phải tiến nhanh để tiếp ứng, vì sợ Tiêu Vân Tiên ít tuổi, khinh địch, làm hỏng công việc. Hai đô đốc được lệnh, không dám chậm trễ bèn ra lệnh cho quân đi gấp. Đến sông Đái Tử Hà, thấy những bè nứa đã có sẵn ở đấy, đang chèo bè qua sông thì thấy ở thành Thanh Phong khói bốc ngụt trời.
        Bấy giờ chính là lúc Tiêu Vân Tiên đang nổ súng, đánh vào cửa đông. Quân Phiên trong thành thấy lửa bốc lên, hoảng hốt chạy tán loạn. Ở ngoài thành trung quân đã đến hợp với cánh quân tiên phong, khép chặt thành Thanh Phong trong một cái kìm sắt. Bọn Phiên mở cửa phía bắc, liều mạng giao chiến một hồi. Chỉ còn mười mấy quân kỵ vượt vòng vây trốn thoát. Quân của Thiếu Bảo lại đến, trăm họ ở trong thành, đầu đội hương hoa đón quân Thiếu Bảo vào thành. Thiếu Bảo truyền lệnh cứu hoả, an dân tơ hào không cho phạm đến. Sau đó viết giấy sai quan báo tin thắng trận vào kinh.
        Tiêu Vân Tiên ra nghênh tiếp Thiếu Bảo. Thiếu Bảo rất mừng, thưởng cho một đùi dê, một vò rượu và hết sức khen ngợi. Mười ngày sau, có lệnh Thiếu Bảo về kinh. Hai đô đốc chờ lệnh thăng chức còn Tiêu Vân Tiên được làm Thiên Tổng thực thụ. Để tiện công việc, Thiếu Bảo giao cho Tiêu Vân Tiên việc cai trị thành này.
        Sau khi tiễn Thiếu Bảo về kinh, Tiêu Vân Tiên trở về thành. Qua một cơn binh lửa, thành bị phá hoại, kho thóc bị hư hại. Tiêu làm giấy báo tỉ mỉ gửi về trình Thiếu Bảo. Thiếu Bảo phê vào giấy sửa chữa thành như sau: Giao cho Tiêu Vân Tiên chịu trách nhiệm sửa chữa thành cẩn thận. Khi nào công việc xong sẽ tâu lên nhà vua.
        Nhân việc đó khiến cho:
        Cam đường rợp bóng(4). người sau luống những nhớ nhung.
        Phi tướng(5) không phong số xấu chỉ thêm than thở(6).
        Muốn biết Tiêu Vân Tiên sửa chữa thành như thế nào, xin xem hồi sau phân giải.
        ----------------
        (1) Ngờ là con Hùng cửu, tên một quái vật trong truyền thuyết thời xưa.
        (2) Hai người hiệp khách thời Chiến quốc, Kinh Kha ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành công. Nhiếp Chính giết tướng quốc nước Hàn tên là Hiệp Luỹ.
        (3) Cách báo tin thắng trận quá dễ dàng.
        (4) Thiệu Công đời Chu đi tuần hành thường nghỉ dưới cây cam đường xử việc. Sau dân nhớ công đức ông, không nỡ chặt cây cam đường
        (5) Lý Quảng đời Tây Hán, đánh giặc rất giỏi. Hung nô gọi là quan tướng bay. Nhưng vì bị gièm pha, nên không được phong hầu.
        (6) Theo các nhà khảo cứu hồi ba mươi tám và ba mươi chín, có nhiều chỗ không phải của Ngô Kính Tử vì văn của Ngô Kính Tử là văn hiện thực chỉ nhằm châm biếm xã hội, chứ không phải văn viết chuyện phiêu lưu, hoang đường. Những đoạn Quách Hiếu Tử mạo hiểm tìm cha và câu chuyện Tiêu Hạo Hiên trừng trị tên ác tăng Triệu Đại có tính chất của tiểu thuyết nghĩa hiệp lúc bấy giờ rất thịnh hành có lẽ do người khác đưa vào.


        hết: Hồi 39, xem tiếp: Hồi 40


        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #34
          Hồi 40

          Núi Quảng Vũ Tiêu Vân Tiên thưởng tuyết
          Cầu lợi Thiệp Thẩm Quỳnh Chi bán văn

          Tiêu Vân Tiên vâng lệnh Thiếu Bảo trông coi việc xây thành làm vất vả mất ba bốn năm mới xong. Thành chu vi mười dặm, có sáu cửa, trong thành có năm nha môn. Tiêu Vân Tiên viết bảng chiêu tập lưu dân đến ở và cho nhân dân đến khai khẩn đất hoang ở ngoài thành.
          Tiêu Vân Tiên nghĩ bụng: - Đất này khô, nếu gặp năm đói kém thì nhân dân không có lương thực mà ăn. Ta phải lo việc thủy lợi mới được.
          Tiêu Vân Tiên bèn đem tiền và lương thực ra thuê dân phu. Tiêu Vân Tiên thân hành chỉ dẫn nhân dân đào nhiều con sông trên khắp cánh đồng. Sông chảy vào ngòi, ngòi chảy vào lạch, cái cao, cái thấp, trông như cảnh tượng Giang Nam vậy. Khi làm xong, Tiêu Vân Tiên cưỡi ngựa mang theo Mộc Nại đi đến các nơi để khao thưởng, đến nơi nào, Tiêu Vân Tiên cũng giết bò, mổ dê, truyền lệnh gọi nhân dân địa phương đến đông đủ. Tiêu Vân Tiên xây một cái đàn, đặt bài vị Thần Nông ở đấy và mang thịt bò, thịt dê đến tế. Tiêu Vân Tiên đội mũ sa, mặc áo lễ đứng trước đàn, nhân dân đứng đằng sau. Mộc Nại ở bên cạnh xướng lễ. Sau khi dâng hương, rót ba tuần rượu, và lạy tám lạy, Tiêu lại dẫn nhân dân hướng về Bắc khuyết(1) tung hô cúi đầu, cảm tạ ơn đức nhà vua. Sau đó, cho mọi người ngồi thành một vòng, Tiêu ngồi giữa, tuốt kiếm chặt thịt, lấy chén tống ra uống rượu, reo hò cười vui. Họ uống rượu và vui chơi một ngày. Tiêu Vân Tiên quay về phía mọi người nói:
          - Ta và trăm họ được uống say hết một ngày trời ở đây là có nguyên do. Ngày nay nhờ ơn hoàng đế lại nhờ sức của trăm họ mới khai khẩn được nhiều ruộng. Ta là Vân Tiên cũng góp một phần vào đấy. Nay ta trồng một cây liễu, mỗi người các ngươi cũng trồng một cây, hoặc liễu, hoặc đào, hoặc mơ đều được, để nhớ công việc hôm nay.
          Mọi người reo hò như sấm dậy! Ai cũng đi trồng đào, liễu bên đường cái. Tiêu Vân Tiên và Mộc Nại nay ở nơi này, mai ở nơi khác, cùng nhân dân ăn uống mất mấy mươi ngày, trồng được mấy vạn cây liễu. Nhân dân cảm ân đức của Tiêu Vân Tiên dựng lên miếu “Tiên Nông Từ” ở ngoài thành. Ở chính giữa là bài vị Thần nông, ở bên cạnh có bài vị thờ sống Tiêu Vân Tiên, chúc Tiêu sống lâu và hưởng lộc nhiều. Lại tìm một người thợ vẽ để vẽ trên tường hình Tiêu Vân Tiên đầu đội mũ sa, mình mặc áo lễ, cưỡi ngựa, ở đằng trước vẽ hình Mộc Nại(2) tay cầm một cái cờ đỏ, dắt ngựa tỏ ra khuyến khích nghề nông. Trăm họ, trai gái đến ngày mồng một ngày rằm hàng tháng đến đó đốt hương, thắp đèn và gùi khấn vái.
          Năm sau, vào mùa xuân, dương liễu xanh tươi, hoa đào hoa hạnh dần dần nở. Tiêu Vân Tiên cưỡi ngựa, mang theo Mộc Nại ra ngoài chơi. Thấy dưới bóng cây xanh, trẻ con trăm họ, tụm năm tụm ba chăn bò, đứa thì cưỡi trên lưng bò, có đứa lại nằm ngang trên lưng, dắt bò đến ngồi bên ruộng uống nước. Uống xong, bò từ từ đi khuất sau các nhà. Tiêu Vân Tiên trong lòng vui sướng nói với Mộc Nại:
          - Xem quang cảnh này thì trăm họ có thể kiếm ăn được. Nhìn đứa trẻ nào cũng xinh xắn và thông minh. Bây giờ phải làm thế nào tìm thầy dạy cho chúng học thì mới được!
          Mộc Nại nói:
          - Ông không biết sao? Hôm trước có một người quê ở Giang Nam đến ở tại miếu Tiên Nông, có lẽ hiện nay ông ta vẫn còn ở đấy. Ông đi bàn với ông ta xem!
          Tiêu Vân Tiên nói:
          - Như thế thì tốt lắm!
          Tiêu Vân Tiên bèn quay ngựa đến miếu. Hai người bước vào vái chào người kia. Vân Tiên nói:
          - Nghe nói tiên sinh quê ở Giang Nam, làm sao lại đến ở nơi biên cương xa xôi này? Xin tiên sinh cho biết họ tên.
          Người kia nói:
          - Tôi họ Thẩm, người ở Thường Châu. Năm trước, tôi có đến thăm một người thân thích buôn bán ở Thanh Phong, không ngờ gặp cảnh chiến tranh, tôi phải lưu lạc ở đây đã năm sáu năm không trở về nhà được. Gần đây, nghe nói ông Tiêu ở triều đình lại đây đắp thành, lo việc thủy lợi cho nên tôi đến xem. Ông tên họ là gì, nha môn của ông ở đâu?
          - Tiểu đệ là Tiêu Vân Tiên, đang lo việc thủy lợi ở đây! Người kia đứng dậy vái chào và nói:
          - Ông thật là Định Viễn Hầu đời nay(3) tôi khâm phục vô cùng!
          - Tiên sinh đã tới đây, vậy tôi là chủ, xin mời tiên sinh đến công đường chơi.
          Vân Tiên bèn gọi hai người mang hành lý của Thẩm, bảo Mộc Nại dắt ngựa, Tiêu Vân Tiên và Thẩm dắt tay nhau về công đường, sai dọn cơm rượu để tiếp đãi và nói đến việc mình mời Thẩm dạy học. Thẩm nhận lời. Tiêu Vân Tiên lại nói:
          - Chỉ có một người dạy thì không đủ!
          Bèn chọn lấy mười người biết nhiều chữ nhất trong số hai ba ngàn quân sĩ đóng ở đấy nhờ Thẩm hàng ngày dạy cho họ học thêm và mở luôn mười lớp học. Những đứa trẻ nào hơi thông minh một chút đều được nuôi ở học đường để dạy dỗ. Được hơn hai năm. Thẩm dạy cho họ cái trò “phá đề” “phá thừa”, “khơi giảng” vân vân. Những người làm được đều được Tiêu Vân Tiên tôn trọng tỏ rằng mình ưu đãi. Những người kia cũng biết việc học là một việc sang trọng.
          Sau khi công việc đã xong. Tiêu Vân Tiên viết một công văn sai Mộc Nại mang đi. Mộc Nại yết kiến Thiếu Bảo, Thiếu Bảo hỏi tỉ mỉ sự tình thưởng cho y chức Bá Tổng(4) và căn cứ vào tờ công văn của Tiêu, viết một tờ công văn trình lên bộ Binh.
          Nhưng bộ Công viết giấy hạch toán như sau:
          “Việc Tiêu Vân Tiên xây đắp thành Thanh Phong đã được quan phụ trách báo cáo lên: Về gạch, vôi, thợ nề cộng tất cả tiền mất 19.360 lạng 12 phân 1 ly 5 hào.
          Nay xét lại, thì nơi ấy có nước gần, việc làm gạch làm vôi rất dễ. Dân lưu tán lo việc công dịch lại nhiều. Không thể để tùy ý xa phí như thế được! Như vậy, phải rút ra
          7.525 lạng bắt quan sở tại chịu. Xét ra, viên quan này là người phủ Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Vậy báo cho các quan địa phương biết để lưu ý làm sao cho số tiền này được trả đúng hạn. Chỉ này đã được hoàng đế y".
          Sau khi Tiêu Vân Tiên nhận được của quan trên bản sao về công văn này và lệnh trả tiền của quan trên, Tiêu Vân Tiên chỉ còn cách thu xếp hành lý trở về Thành Đô. Về đến nhà, thấy cha đã nằm liệt trên giường bệnh không sao dậy nổi. Tiêu Vân Tiên đến trước giường hỏi thăm sức khỏe của cha, và kể lại từ đầu đến đuôi mọi việc xảy ra từ khi đầu quân. Sau đó, cúi đầu nằm xuống đất không đứng lên nữa.
          Tiêu Hạo Hiên nói:
          - Con không làm việc gì sai trái, tại sao con lại không đứng lên?
          Tiêu Vân Tiên kể chuyện về việc xây thành, bị bộ Công hặc rút bớt chi phí nên phải bồi thường và nói:
          - Người con hiếu phải giúp đỡ cha mẹ. Nay con chẳng giúp đỡ cha được mảy may nào lại làm mất hết cả sản nghiệp của cha. Thực là con không bằng người ta, cho nên con rất lấy làm hổ thẹn!
          - Đó là mệnh lệnh của triều đình, chứ không phải là con tiêu tiền hoang phí, con không nên buồn bã làm gì cho vô ích. Sản nghiệp của ta nhặt nhanh tất cả cũng được chừng bảy ngàn lạng. Con cứ làm giấy giao hết cho triều đình.
          Tiêu Vân Tiên khóc và vâng lời. Nhìn thấy cha bệnh nặng. Tiêu Vân Tiên không kịp thay quần áo, chăm sóc cha mười ngày đêm liền, nhưng cũng không ăn thua gì. Tiêu Vân Tiên khóc mà hỏi:
          - Cha có trối lại gì không?
          Tiêu Hạo Hiên nói:
          - Con nói gì mà ngốc thế! Ta còn sống ngày nào thì còn làm chủ ngày ấy, ta chết đi rồi thì tất cả đều là việc của con. Ở đời cốt nhất là phải làm con người trung, hiếu, còn ngoài ra đều là việc vặt hết!
          Nói xong Hạo Hiên nhắm mắt qua đời.
          Tiêu Vân Tiên kêu trời gào đất hết sức đau xót và lo việc chôn cất chu đáo theo đúng tang lễ. Vân Tiên một mình thở dài:
          - Người ta nói: “Tái ông mất ngựa biết đâu là họa hay là phúc(5) Nếu không bị quan bắt bồi thường thì chắc chắn ta không thể về nhà. Như thế, thì không sao mà lo liệu được việc tống táng cha. Cho hay việc về nhà lần này cũng không thể nói là bất hạnh được.
          Chôn cất xong, Vân Tiên đem tất cả gia sản ra bồi thường còn thiếu trên ba trăm lạng. Quan địa phương vẫn thúc bách gắt gao. May gặp lúc quan tri phủ vì án trộm cướp nên bị giáng chức đi nơi khác. Quan tri phủ mới đến là người được Bình Thiếu Bảo đề cử khi Thiếu Bảo còn làm Tuần Vũ. Sau khi nhậm chức, tri phủ biết Tiêu Vân Tiên là người của Thiếu Bảo cho nên làm một tờ trình rằng Tiêu Vân Tiên đã thanh toán khoản bồi thường kia rồi, và khuyên Vân Tiên đến gặp Bình Thiếu Bảo để tìm cách bồi thường sau. Thiếu Bảo trông thấy Tiêu Vân Tiên an ủi một lúc và viết một cái giấy lên bộ Binh. Quan đương sự nói:
          “Việc Tiêu Vân Tiên xây thành không có lệ thăng thưởng. Phải cứ làm chức Thiên tổng cũ nhưng cho ăn lương bổng của thủ bị. Khi nào khuyết chân thủ bị thì sẽ dẫn đến bộ yết kiến”.
          Tiêu Vân Tiên đợi năm sáu tháng trong bộ mới được thăng làm thủ bị ở vệ Giang Hoài, phủ Ứng Thiên. Khi lên kinh yết kiến thì nhận được chiếu chỉ phải đi ngay đến nơi nhận chức.
          Tiêu Vân Tiên mang công văn ra khỏi kinh theo đường phía đông về Nam Kinh. Đi qua cầu Chu Long, đến vệ Quảng vũ, buổi chiều vào nghỉ trong một cái quán. Bấy giờ là lúc giữa mùa đông. Trời rất lạnh. Vào khoảng cuối canh hai, chủ quán nói với các hành khách:
          - Các ông mau mau tỉnh dậy! Ông Bả tổng Mọc Nại đi soát.
          Mọi người đều khoác áo ngồi dậy. Thấy bốn năm người lính mang đèn lồng soi đường cho ông Bả tổng đi khám xét danh sách hành khách. Tiêu Vân Tiên nhìn ra thì chính là Mộc Nại. Mộc Nại thấy Vân Tiên mừng rỡ khôn xiết hỏi thăm sức khỏe, vội vàng mời Vân Tiên về chỗ mình làm việc nghỉ một đêm.
          Hôm sau Tiêu Vân Tiên muốn đi. Mộc Nại giữ lại nói: - Ông hãy thư lại một hôm. Trời này sắp có nhiều tuyết. Hôm nay hãy đến xem đền thờ Nguyễn Công ở núi Quảng Vũ và ông hãy cho con làm tròn trách nhiệm người chủ.
          Vân Tiên bằng lòng.
          Mộc Nại bảo sửa soạn hai con ngựa, cùng Vân Tiên cưỡi ngựa, lại bảo một người lính mang theo nem, thịt và một hồ rượu đến đền thờ Nguyễn Công ở núi Quảng vũ. Đạo sĩ ra tiếp, mời vào ngồi ở lầu phía sau. Đạo sĩ không dám ngồi tiếp chỉ mang trà đến Mộc nại nhân tiện mở sáu cái cửa sổ nhìn ra núi Quảng Vũ.
          Trên núi cây cối tiêu điều, gió bắc thổi, làm cho quang cảnh thê lương. Những bông tuyết từ trên trời rơi xuống. Tiêu Vân Tiên thấy vậy, nói với Mộc nại:
          - Ở thành Thanh Phong hai chúng ta đã thấy tuyết không biết bao nhiêu lần rồi! Nhưng không lúc nào thấy nó thê lương buồn bã như hôm nay. Quả thật lạnh buốt xương!
          Mộc Nại nói: - Nhờ tới hai ông đô đốc lúc bấy giờ mặc áo điêu áo cừu đứng bên lửa, chắc là họ vui sướng lắm nhỉ!
          Uống rượu xong, Tiêu Vân Tiên đứng dậy đi dạo chơi. Ở lầu bên phải có một cái gác nhỏ, trên tường có nhiều danh nhân đề thơ ngâm vịnh. Tiêu Vân Tiên xem thấy ở trong đó có một bài đề là “Quảng Vũ sơn hoài cổ”, đọc lên là một bài thơ thất ngôn cổ phong. Tiêu đọc đi đọc lại mấy lần không ngờ rơi nước mắt. Mộc Nại đứng bên cạnh không hiểu tại sao. Tiêu Vân Tiên lại nhìn ở đắng sau có một hàng chữ đề “Do Vũ Thư hiệu là Chính Tự ở Nam Kinh viết”. Vân Tiên xem xong ghi nhớ trong lòng, sau đó thu thập hành lý về chỗ làm việc của Mộc Nại, ở lại đấy một đêm nữa. Hôm sau, trời sáng, Tiêu Vân Tiên từ biệt Mộc Nại ra đi. Mộc nại tiễn đến trạm Đại Liễu mới trở về.
          Tiêu Vân Tiên qua sông Dương Tử ở Phố Khẩu rồi đến kinh thành. Sau khi đưa giấy tờ, Tiêu đến nhận chức mới. Tiêu xét lại số người vận chuyển, số thuyền và bàn giao với người đã làm trước. Hôm ấy Tiêu hỏi người làm việc vận chuyển:
          - Anh có biết ở đây có ai họ vũ hiệu là Chính Tự không?
          - Tôi không biết. Ông hỏi ông ta vì cớ gì?
          - Ta ở Vệ Quảng vũ thấy thơ của ông ta nên muốn gặp.
          - Nếu là người làm thơ thì con đến trường Quốc Tử Giám hỏi là biết.
          - Thế thì anh đi hỏi nhanh đi!
          Hôm sau người kia trở về nói:
          - Tôi đến hỏi trường Giám, người ta nói có ông Vũ, gọi là Vũ Thư là giám sinh hiện ở Hoa Bài Lâu.
          - Mau gọi một người đi theo không cần mang theo gì. Ta muốn gặp ông ta lắm.
          Vân Tiên đi ngay đến Hoa Bài Lâu. lầu này quay mặt về hướng đông. Tiêu Vân Tiên đưa danh thiếp, Vũ Thư ra gặp. Vân Tiên nói:
          - Tôi là một kẻ vũ phu mới đến đây; nhưng ngưỡng mộ bậc hiền nhân quân tử. Hôm trước, ở trên tường núi Quảng Vũ, tôi được đọc bài thơ hoài cổ của ông cho nên muốn đến đây bái yết.
          - Bài thơ ấy của tôi, chẳng qua là xúc cảm trong lúc ấy mà làm không ngờ làm bẩn mắt ngài.
          Vũ Thư mang trà ra cùng uống. Vũ Thư nói: - Ông từ Quảng Vũ đến đây, tôi chắc là ở kinh phái đến. - Không giấu gì ông. Việc nói ra thì dài. Sau khi tôi lấy lại được thành Thanh Phong, tôi sửa chữa thành lãng phí, nên vừa mới trang trải xong số tiền bồi thường. Vừa đây, tôi được thăng từ chức thiên tổng đến làm ở vệ Giang Hoài này. Nay được gặp tiên sinh, tôi rất mừng, có điều gì mong tiên sinh chỉ giáo.
          - Tôi cũng mong được ông dạy bảo.
          Nói chuyện xong Tiêu Vân Tiên đứng dậy ra về! Vũ Thư tiễn ra ngoài cửa, thấy một người làm việc ở Giám chạy vào nói:
          - Cụ Ngu muốn gặp ông ở nhà.
          Vũ Thư bèn đến thăm Ngu bác sĩ, Ngu bác sĩ nói:
          - Việc sắc phong của bà cụ đã bị bác ba lần vì đơn xin quá chậm. Nay mới được chuẩn y. Tiền để làm nhà bia(6) hiện nay ở nhà tôi, anh mau đến mà lấy.
          Vũ Thư cảm tạ đi ra. Hôm sau Vũ Thư mang thiếp đến thăm Vân Tiên, Vân Tiên mời vào nhà, rót nước, mời ngồi, Vũ Thư nói:
          - Hôm qua ông hạ cố đến thăm tôi, tôi rất lấy làm cảm kích. Bài thơ của tôi lại được ông khen quá đáng trong lòng không an. Hiện nay tôi có mang theo đây một số bài thơ mong ông chỉ giáo.
          Vũ Thư rút trong ống tay áo ra một quyển thơ. Tiêu cầm lấy, xem mấy trang, nức nở khen. Tiêu mời Vũ vào thư phòng ăn cơm. Ăn xong, Tiêu lấy ra một quyển tranh đưa cho Vũ Thư và nói:
          - Đây là một tranh vẽ một vài việc tôi đã làm! Mong ông trổ tài văn chương đề vài bài thơ hay một bài văn để cho công việc làm của tôi sau này khỏi mai một đi.
          Vũ Thư nhận lấy, đặt lên bàn, giở ra xem. Tờ ngoài có bốn chữ “Tây chinh tiểu ký”. Ở trong có ba bức vẽ: Bức thứ nhất: “Phá địch ở Ỷ Nhi Sơn. Bức thứ hai: ”Đánh lấy thành Thanh Phong". Bức thứ ba: “Mùa xuân khuyến khích việc nông”. Dới mỗi bức tranh có viết tỉ mỉ sự việc xảy ra. Vũ Thư xem vui mừng nói:
          - “Phi tướng quân” gặp số không may(7). Xưa nay đại khái thế cả! Ông công lao như thế, ngày nay vẫn làm chức thấp! Còn việc làm thơ thì tôi xin lĩnh giáo. Vì ông địa vị thấp nên công danh sự nghiệp to tát như thế vẫn không được ghi vào sử sách. Nay cần phải có vài tay văn tài kể lại, như thế văn tập sẽ được lưu truyền và lòng trung nghĩa của ông sẽ không bị mai một.
          - Tôi xứng đâu với lời khen như thế! Nhưng nhờ văn tài của ông, tôi cũng nhờ đó mà không bị mai một.
          - Không phải thế đâu! Tôi xin mang tập tranh này về. Ở đây có mấy vị danh sĩ, rất thích tán dương những người trung hiếu. Nếu họ thấy sự nghiệp của ông chắc họ sẽ làm thơ ngâm vịnh. Như thế việc làm của ông sẽ được lưu truyền mãi.
          - Theo ý ông, tôi có thể đến thăm các vị ấy không?
          - Được chứ!
          Tiêu Vân Tiên lấy ra một tờ thiếp đỏ và bảo Vũ Thư viết tên và chỗ ở Ngu Dục Đức, Trì hành Sơn, Trang Thiệu Quang, Đỗ Thiếu Khanh. Vũ Thư viết xong, giao cho Tiêu Vân Tiên còn mình thì mang tập tranh về nhà.
          Hôm sau, Tiêu Vân Tiên đến thăm những người kia và họ đều đến thăm lại. Sau đó Vân Tiên vâng lệnh mang lương thực vận chuyển đến miền Hoài. Tiêu xuống thuyền đi đến Dương Châu. Trước cửa sở thuế chật ních những thuyền. Đang lúc ồn ào thấy đằng sau có một chiếc thuyền, trên thuyền có một người đứng. Thấy Tiêu, người kia kêu lên:
          - Ông Tiêu! Sao ông lại ở đây?
          Tiêu Vân Tiên ngoảnh lại:
          - A! Té ra ông Thẩm! Ông đến đây lúc nào thế?
          Tiêu Vân Tiên bèn bảo ghé thuyền lại gần. Thẩm nhảy lên thuyền. Vân Tiên nói:
          - Từ lúc xa nhau ở thành Thanh Phong đến nay đã mấy năm. Ông về Nam từ bao giờ?
          - Từ khi khi được ông đoái tới, tôi dạy học được hai năm dành được ít tiền trở về làng, đem con gái tôi đến gả cho nhà họ Tống ở Dương Châu. Hiện nay tôi đang đưa cháu về nhà chồng.
          - Chúc mừng lệnh ái!
          Tiêu bảo tùy tùng đưa cho người con gái một lạng bạc để làm lễ mừng và nói:
          - Tôi phải vận lương về phương Bắc cho nên không dám chậm trễ. Khi trở về nơi làm việc, tôi sẽ gặp ông.
          Hai người vái chào nhau và từ biệt.
          * * *
          Thẩm đem con gái là Quỳnh Chi lên bờ thuê cho nàng một cái kiệu nhỏ, và thân hành mang hành lý vào trọ ở hiệu “Đại Phong Kỳ” gần cửa Khuyết Khẩu. Những người buôn ở đấy tiếp đón và báo với chủ hiệu muối họ Tống, tên là “Vi Phú”(8). Tống Vi Phú cho người nhà đến nói:
          - Ông chủ bảo đưa cô dâu vào trong nhà, còn cụ Thẩm cụ thì cứ ở lại hiệu và dọn tiệc mời cụ ăn.
          Thẩm Đại Niên nghe vậy, nói với Quỳnh Chi:
          - Ta định ở lại đây đợi ngày tốt sẽ đưa dâu. Tại sao ông ta lại vội vàng như thế? Xem tình hình này thì chắc ông ta không lấy con làm vợ chính đâu? Việc này nên làm như thế nào đây! Con ơi, con định như thế nào?
          - Thưa cha, cha cứ yên tâm. Ta chưa làm giấy tờ gì và cũng chưa nhận tiền gì của họ, thì đời nào con lại chịu làm thiếp? Nếu ông ta đã lập mưu như thế mà cha lại sinh sự với ông ta thì chỉ làm cho người ngoài chê cười. Bây giờ cứ để con lên kiệu, đến đó xem ông ta đối đãi với con như thế nào.
          Thẩm Đại Niên đành phải nghe lời con, nhìn con tô điểm; đầu đội mũ, mình mặc áo đỏ rộng, vái chào cha lên kiệu. Người nhà họ Tống đi theo kiệu, đưa đến bến sông vào một cái cửa lớn. Mấy bà vú em bồng con ông chủ đang nói chuyện bông đùa với người quản gia. Nhìn thấy kiệu đến họ hỏi:
          - Có phải cô dâu họ Thẩm đấy không? Xin mời xuống kiệu, đi vào nhà theo ngõ bên cạnh.
          Thẩm Quỳnh Chi nghe vậy, không nói gì, bước xuống kiệu, đi thẳng vào phòng khách, Quỳnh Chi nói:
          - Mời ông chủ ra! Tôi họ Thẩm ở Thường Châu chứ không phải con nhà hèn hạ! Ông ta đã muốn lấy tôi; thì phải treo đèn, kết hoa, chọn ngày tốt để làm lễ cưới. Tại sao ông lại cho mang tôi lén lút như mang một người thiếp? Tôi không hỏi gì chuyện khác, chỉ cần ông đưa tôi xem tờ hôn thú có chữ ký của cha tôi, có thế mà thôi!
          Bà vú và người nhà giật mình kinh ngạc, chạy vào nhà sau báo với chủ. Tống Vi Phú bấy giờ đang ở trong phòng thuốc xem người điều chế nhân sâm. Nghe vậy, Tống đỏ mặt nói:
          - Bọn nhà buôn chúng tao, mỗi năm lấy ít nhất là bảy tám người thiếp. Nếu đứa nào cũng bướng bỉnh thế này thì còn sống sao được nữa. Nó đã bước vào đây thì có bay đi đằng trời!
          Y suy nghĩ một lát rồi bảo a hoàn:
          - Mày ra nói với cô dâu: hôm nay ông chủ không ở nhà, cô cứ tạm vào phòng. Muốn nói gì thì đợi ông về hãy nói.
          A hoàn trở lại nói như vậy. Thẩm Quỳnh Chi nghĩ bụng:
          - Ngồi ở đây cũng không ăn thua. Chi bằng ta hãy cứ vào đó xem sao. Bèn theo a hoàn ra sau sảnh theo một cái cửa nhỏ. Quỳnh Chi qua ba gian nhà gỗ hương, một cái sân rộng, xây núi giả lấy đá từ Thái Hồ về, men theo một con đường nhỏ ở bên trái núi giả, vào một cái vườn hoa. Ở đấy, bụi trúc xen nhau, đình đài rộng rãi, một cái ao cá vàng rất rộng. Hai bên bờ ao toàn là lan can màu đỏ sát với một cái hành lang. Ở cuối là một cái động nhỏ hình tròn có bốn cái cửa thiếp vàng. Bước vào là ba gian nhà, một gian là phòng phủ, bày biện gọn gàng đẹp đẽ, có riêng một cái sân. Người vú già đưa trà vào, Thẩm Quỳnh Chi uống trà và nghĩ bụng:
          - Nơi này hết sức tĩnh mịch, chắc gì chàng kia đã thưởng thức nổi! Thôi ta hãy nghỉ lại đây vài hôm đã.
          A hoàn trở lại bẩm với Tống Vi Phú
          - Cô dâu là người rất xinh đẹp, nhưng xem ra có vẻ bướng bỉnh, không thể trêu chọc được đâu?
          Hôm sau, Tống Vi Phú bảo quản gia đến hiệu buôn nói với người chủ hiệu đưa ra năm trăm lạng bạc cho cụ Thẩm bảo cụ trở về nhà để Quỳnh Chi ở lại đấy. Vi Phú cho rằng cụ Thẩm không ăn nói vào đâu được. Cụ Thẩm nghe vậy nói:
          - Hỏng rồi! Thế rõ ràng là nó lấy con tôi làm thiếp, như thế sao được?
          Thẩm Đại Niên lập tức đến huyện Giang Đô, phát đơn kiện. Tri huyện xem đơn nói:
          - Thẩm Đại Niên đã là cống sinh ở Thường Châu, cũng là một con người áo mũ, làm sao lại chịu để con gái đi làm thiếp? Bọn buôn muối ngang ngược đến thế là cùng.
          Và nhận lá đơn, Tống biết thế, vội vàng cho tay chân mang đơn lên kiện Thẩm và đút lót trên dưới để làm khó dễ. Hôm sau, quan phê vào đơn kiện: “Thẩm Đại Niên nếu đã gả con gái cho Tống Vi Phú làm vợ chính thì tại sao lại đưa con thầm lén đến nhà Tống, rõ ràng ông ta gả con làm thiếp nhưng đặt điều nói bậy(9). Đơn kiện của ông ta bị bác”.
          Và trên lá đơn kiện của Tống thì viết:
          “Xem lời phê trong lá đơn của Thẩm Đại Niên”.
          Thẩm Đại Niên lại làm một lá đơn khác. Tri huyện nổi giận cho ông ta là đồ gây sự kiện tụng, viết giấy sai hai tên sai nhân giải về Thường Châu.
          Thẩm Quỳnh Chi ở trong nhà họ Tống mấy ngày không có tin tức gì, nghĩ bụng:
          - Hắn lại tìm cách đến bảo cha ta im, và sau đó sẽ làm khổ ta chứ gì! Chi bằng ta cứ trốn khỏi nhà này rồi sẽ liệu sau.
          Quỳnh Chi bèn gói ghém tất cả số châu báu, chén bát bằng bạc và đồ trang sức, mặc bảy cái quần, cải trang làm đầy tớ gái và đút tiền cho a hoàn. Vào canh năm Quỳnh Chi chạy ra cửa sau, sáng tinh mơ thì đi qua cửa sở thuế và xuống thuyền. Thuyền này có cả gia quyến của chủ thuyền. Quỳnh Chi nghĩ bụng:
          - Nếu ta về Thường Châu với cha mẹ, thì người làng sẽ chê cười.
          Lại nghĩ:
          - Nam Kinh là nơi có nhiều danh nhân, ta lại biết làm vài ba câu thơ, sao ta không lên đó bán thơ mà sống? Biết đâu gặp may cũng nên.
          Chủ ý đã định, nàng đến Nghi Trung đáp thuyền đi thẳng lên Nam Kinh.
          Chỉ nhân phen này khiến cho:
          Nữ sĩ bán thơ, lại hóa ra phường trốn tránh;
          Nho sinh khoa cử, sẽ làm kẻ khách phong lưu.
          Muốn biết việc sau thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
          -----------
          (1) Cửa khuyết ở phía bắc cung điện nhà vua, vì vậy khi quay về phía kinh đô người ta cũng gọi là quay về bắc khuyết. Khuyết là cái cửa gồm hai cột trụ trên có lầu ở giữa để trống.
          (2) Quá trình biến đổi của Mộc Nại cũng đáng chú ý.
          (3) Định Viễn Hầu: Ban Siêu đời Đông Hán đi xa lập nhiều quân công ở Tây Vực; có công được phong làm Định Viễn Hầu.
          (4) Bá Tổng: chức quan võ nhỏ.
          (5) Tái ông mất ngựa: Có ông già ở chửa ải mất con ngựa, những người xung quanh đến chia buồn. Ông nói: ”Biết đâu đó lại là phúc". Sau con ngựa ấy về với một con ngựa khác, những người xung quanh đến mừng, ông nói: “Biết đâu đó là hoạ!” Đứa con trai của ông cưỡi ngựa ngã gãy chân, những người xung quanh đến chia buồn, ông lại nói: “Biết đâu đó là phúc!”. Một năm sau người Hồ xâm lăng, những người trai tráng đều phải đi lính nên phần lớn chết trận, đứa con trai của ông vì què nên sống sót. Ý nói việc may rủi không thể biết ngay được.
          (6) Nhà để biểu dương một người nào.
          (7) Vũ Thư ví Tiêu Vân Tiên với Lý Quảng đời Hán hiệu là: “Phi tướng quân”, Lý Quảng đánh trận giỏi nhưng vì không được ai nâng đỡ nên đến già vẫn không được phong hầu.
          (8) Trong sách cổ có câu “Vi phú bất nhân” nghĩa là những kẻ làm giàu thì không có nhân nghĩa gì. Ngô Kinh Tử đặt cái tên cho anh chàng này thật là thích đáng.
          (9) Quan huyện thay đổi ý kiến quá dễ dàng.


          hết: Hồi 40, xem tiếp: Hồi 41
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #35
            Cám ơn nahoku nhiều.

            Comment


            • #36
              Nguyên Văn Bài Viết Của PhuongThuc View Post
              Cám ơn nahoku nhiều.



              Hehehehe.....đúng ra mình phải cám ơn bạn đó, vì mình quên béng truyện này đang post dở dang , nhờ bạn nhắc nên "giựt mình"....post tiếp.....hehehhe.....Cám ơn bạn PT lần nữa nha.


              Thân,
              Nahoku
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #37
                Hồi 41

                Sông Tần Hoàn Trang Trạc Giang nói chuyện xưa,
                Huyện Giang Đô Thẩm Quỳnh Chi bị áp giải

                Thành Nam Kinh mỗi năm từ rằm tháng tư trở đi, phong cảnh sông Tần Hoài càng thêm xinh đẹp. Ở ngoài sông, thuyền đều cất lầu, gác mui và chèo ra giữa sông. Mỗi thuyền ở giữa khoang đặt một cái bàn vuông thiếp vàng. Trên bàn bày một ấm Nghi Hưng, những chén sứ xinh xắn từ thời Thành Hóa, Tuyên Đức. Trà là thứ ngon hạng nhất pha bằng nước mưa. Khách chơi thuyền mang theo rượu, trong khi thuyền từ từ qua sông. Đến tối, mỗi thuyền treo hai cái đèn lồng hình bánh ú, đi đi lại lại, ánh sáng phản chiếu xuống dòng sông. Từ cầu Văn Đức đến cầu Lợi Thiệp, cửa Đông Thủy, đêm đến tiếng sáo tiếng hát không lúc nào ngớt. Lại có những du khách mua thứ “pháo chuột’ ném xuống sông. Khi ném xuống ”pháo chiếu sáng loè từ mặt nước bay lên như những cành hoa lê. Đêm nào cũng vui chơi đến canh tư mới thôi.
                Sinh nhật của giám sinh Vũ Thư vào cuối tháng tư. Nhà Vũ thư nghèo, không mời khách được. Đỗ Thiếu Khanh phải sửa soạn các thứ quả, mấy cân rượu, gọi một chiếc thuyền bồng nhỏ cùng Vũ Thư đi chơi ở giữa sông. Từ sáng sớm, Thiếu Khanh đã mời Vũ Thư đến ăn cơm ở cái nhà bên sông. Rồi hai người theo cửa sau xuống thuyền. Đỗ Thiếu Khanh nói:
                - Anh Vũ Thư, chúng ta đến nơi nào yên tĩnh mà chơi đi!
                Thiếu Khanh bảo chủ thuyền chèo đến khúc Tiến Hương, rồi lại quay về. Hai người khoan thai uống rượu. Đến chiều, cả hai ngà ngà say. Thuyền đỏ ở cầu Lợi Thiệp, hai người lên bờ nhìn thấy ở bến có một cái biển trên viết “Thẩm Quỳnh Chi” người nữ sĩ ở Tỳ Lăng, thạo nghề thêu thùa viết thơ trên quạt, ở tại bên ao Vương Phủ ngõ Thủ Bạc. Khách hàng nhớ để ý đến “Tỳ Lăng Thẩm”.
                Vũ Thư xem xong cười rộ: - Anh Đỗ! Anh thấy ở Nam Kinh có nhiều việc lạ không? Những nơi này chỉ có gái điếm ở thôi. Cô này xem ra cũng là gái điếm thôi, nhưng lại treo biển thì thật là buồn cười!
                - Đó là việc người ta, liên quan gì đến mình? Ta cứ trở về thuyền pha trà uống đi!
                Hai người xuống thuyền, không uống rượu nữa, pha trà uống rồi nói chuyện suông. Một lát, quay đầu nhìn vầng trăng đã hiện lên, ánh bạc chiếu sáng khắp mạn thuyền. Con thuyền cứ từ từ trôi trên mặt nước, đến ao Nguyệt Nha, thấy bao nhiêu thuyền đang chơi pháo hoa ở đấy. Ở trong số này có một chiếc thuyền lớn, treo bốn cái đèn ú to, đang bày tiệc rượu. Trên thuyền trải một chiếc chiếu. Có hai người khách ngồi ở phía trước, đằng sau là một người ngồi địa vị chủ, đầu đội mũ vuông, mình mặc áo sa trắng, chân đi giày mùa hè, da mặt vàng, gầy gò, râu bạc thưa thớt. Bên cạnh là một chàng thanh niên lún phún mấy sợi râu, da mặt trắng đang liếc ngang liếc ngửa nhìn những cô gái trên các thuyền. Khi chèo lại gần, Đỗ Thiếu Khanh và Vũ Thư nhận ra hai người khách trong thuyền lớn kia là Lư Tín Hầu và Trang Thiệu Quang, còn hai người nữa thì không nhận ra là ai. Trang Thiệu Quang trông thấy hai người liền đứng dậy gọi:
                - Anh Thiếu Khanh! Mời anh sang đây chơi!
                Đỗ Thiếu Khanh cùng Vũ Thư đi sang cái thuyền lớn, chủ khách chào nhau. Người ngồi địa vị chủ hỏi:
                - Cho biết quí tính?
                Trang Thiệu Quang nói:
                - Vị này là ông Đỗ Thiếu Khanh ở Thiên Trường, vị này là ông Vũ Thư.
                Người chủ nói:
                - Ông Đỗ! Trước đây có một vị làm Thái thú ở Cống Châu có phải là người nhà của ông không?
                Đỗ Thiếu Khanh kinh ngạc nói:
                - Thưa đó là cha tôi.
                - Cách đây bốn mươi năm tôi cùng ông cụ nhà chơi với nhau suốt ngày. Đứng về mặt ngôi bực mà nói cụ nhà anh là anh họ tôi.
                Đỗ Thiếu Khanh nói:
                - Thế cụ có phải là cụ Trang Trạc Giang không?
                - Chính tôi.
                - Lúc ấy cháu còn bé, cháu chưa dược gặp chú, hôm nay may mắn được gặp.
                Đỗ cúi đầu chào Trang Trạc Giang. Vũ Thư hỏi Trang Thiệu Quang:
                - Vị này có phải cùng họ với ngài không?
                Trang Thiệu Quang cười mà rằng:
                - Ông ta là cháu tôi, lại là học trò của phụ thân tôi. Tôi với ông ta xa nhau đã bốn mươi năm nay, gần đây ông ta mới ở Hoài Dương lại.
                Vũ Thư nói:
                - Còn vị này?
                Trang Trạc Giang đáp:
                - Đó là con tôi.
                Người thanh niên bước ra chào. Tất cả ngồi xuống. Trang Trạc Giang bảo lấy rượu mới ra mời các vị cùng uống. Trang Trạc Giang hỏi:
                - Anh Thiếu Khanh đến đây từ bao giờ? Hiện nay anh ở đâu?
                Trang Thiệu Quang nói:
                - Ông ta ở Nam Kinh đã bảy tám năm nay, hiện nay nhà ở gần sông ...
                Trang Trạc Giang kinh ngạc nói:
                - Nhà của ông có vườn, nhà nghỉ mát, cây cối vào hạng nhất ở Giang Bắc, tại sao ông lại dời lên đây?
                Trang Thiệu Quang kể lại những cử chỉ hào hiệp của Thiếu Khanh, do đó ngày nay tiền bạc hết nhẵn. Trang Trạc Giang khôn xiết thán phục nói:
                - Tôi còn nhớ cách đây mười bảy, mười tám năm, khi tôi còn ở Hồ Quảng, ông Vi ở Ô Y có viết cho tôi một bức thư nói rằng tửu lượng của ông ta rất khá, hai mươi năm nay chưa có một bữa nào thật say. Chỉ có một lần ở Tứ Thư Lâu ở phủ Thiên Trường được uống một chum rượu giữ chín năm là say mềm một đêm. Ông ta thích quá nên cách xa ngoài ba ngàn dặm, viết thư cho tôi. Bấy giờ tôi không biết ai là chủ nhân ở phủ ấy. Nay nhắc đến, biết ngay là anh Thiếu Khanh chứ chẳng còn ai vào đấy.
                Vũ Thư nói:
                - Ngoài ông ấy ra, còn ai dám chơi nhã như thế nữa? Đỗ Thiếu Khanh nói:
                - Bác Vi cũng bạn với chú sao?
                Trang Trạc Giang nói:
                - Chúng tôi quen nhau từ thời còn để chỏm. Lúc cụ nhà ta còn nhỏ, thật là một vị hiền công tử, không ai không kính trọng. Bây giờ nhìn hình dung, diện mạo ông, tôi nhớ lại như thấy cụ nhà ở trước mặt.
                Lư Tín Hầu và Vũ Thư nói đến việc tế ở đền Thái Bá. Trang Trạc Giang vỗ đùi than:
                - Tiếc quá! Một việc quan trọng như thế mà mình lại đến chậm không dư được! Thế nào tôi cũng phải tìm một việc gì lớn để hội họp tất cả các vị thì mới thích!
                Bốn năm người kể lại chuyện cũ, cùng uống mãi đến nửa đêm. Trước nhà Đỗ Thiếu Khanh ở bên sông, những ngọn đèn lồng ở giữa dòng sông còn le lói; nhưng tiếng đàn, tiếng ca đã dần dần tắt. Chợt bên tai nghe tiếng sáo ngọc, mọi người nói:
                - Thôi chúng ta chia tay.
                Vũ Thư cũng lên bộ đi về.
                Trang Trạc Giang tuy đã già nhưng rất kính cẩn lễ phép với Trang Thiệu Quang. Khi thuyền đến nhà, Đỗ Thiếu Khanh từ biệt về nhà, Trang Trạc Giang tiễn Trang Thiệu Quang đến cầu Cửa Bắc rồi hai người cùng lên bộ. Người nhà cầm đèn lồng đưa Lư Tín Hầu đến nhà Trang Thiệu Quang rồi mới trở về. Trang Thiệu Quang giữ Lư Tín Hầu ở lại một đêm, sáng hôm sau hai người lại ra vườn hoa giữa hồ chơi. Hôm sau Trang Trạc Giang cùng con cầm tờ thiếp rủ Trang Thiệu Quang và con là Phi Hùng đến thăm Đỗ Thiếu Khanh. Thiếu Khanh lại đến cầu Liên Hoa đáp lễ và ở lại nói chuyện một ngày.
                Thiếu Khanh cũng đến hồ Hậu Hồ gặp Trang Thiệu Quang, Trang Thiệu Quang nói:
                - Anh cháu họ tôi không phải là tay vừa. Cách đây bốn mươi năm anh hùn vốn với một người khác mở một hiệu cầm đồ ở Tứ Châu. Người kia bị sa sút, anh đem tất cả số tiền kiếm được là hai vạn lạng bạc và cả hiệu cầm đồ nhường cho, rồi vai mang hành lý cưỡi một con lừa gầy, ra khỏi Tứ Châu. Mười mấy năm nay, anh buôn bán miền Việt, miền Sở lại kiếm được mấy vạn lạng bạc, dựng lên được sản nghiệp và đến ở Nam Kinh. Anh ngày thường rất tốt với bạn và tôn trọng luân lý. Khi phụ thân anh mất, anh một mình lo việc tang lễ không hề bắt anh em phải chịu một đồng tiền. Có nhiều người bạn quen chết không có họ hàng thân thích thì anh chôn cất giúp. Anh rất kính trọng lời dạy của thầy tôi, rất quí người văn nhân và ham mê không di tích cổ. Hiện nay anh bỏ ra ba, bốn ngàn lạng bạc để xây miếu Tào Vũ Huệ Vương(1) ở núi Kê Minh. Anh Thiếu Khanh! Khi nào miếu làm xong anh nói với anh Hành Sơn lo việc tế lễ giúp anh ta nhé!
                Đỗ Thiếu Khanh nghe vậy trong lòng vui vẻ. Nói chuyện xong Thiếu Khanh từ biệt ra về.
                Thấm thoắt hạ qua thu tới, gió hiu hắt báo trước mùa lạnh đã về. Cảnh sông Tần Hoài lại thay đổi hẳn. Người Nam Kinh đều thuê thuyền, nhờ các hòa thượng treo tranh đức Phật ở trên thuyền, đặt đàn tụng kinh niệm phật; họ rải những đồ cúng chúng sinh từ cửa Thủy Tây đến mãi quãng sông Tiến Hương. Trong vòng mười dặm, khói hương nghi ngút bay lên như mây mù. Tiếng thanh la, não bạt và tiếng tụng kinh không lúc nào đứt. Đến tối người ta thả những chiếc đèn hoa sen rất đẹp trôi trên sông. Lại có những chiếc thuyền giấy rất lớn để siêu độ những cô hồn lên trời theo thuyết ngày rằm tháng bảy xá tội vong nhân của đạo Phật. Vì vậy, sông Tần Hoài ở Nam Kinh biến thành nước Tây Vực và Thiên Trúc. Vào ngà hai mươi chín tháng bảy, có lễ Địa Tạng ở núi Thanh Lương. Người ta nói rằng Địa Tạng Bồ Tát nhắm mắt quanh năm, chỉ đến đêm hôm ấy mới mở mắt. Nếu thấy nhân dân cả thành phố bày hương hoa đền sáp thì Bồ Tát sẽ cho rằng suốt năm đều như thế, người sẽ phù hộ. Vì vậy đêm ấy khắp Nam Kinh trước cửa nhà nào cũng bày hai cái bàn trên có một cái lư hương và thắp hai ngọn đèn sáp suốt đêm. Trên con đường dài bảy tám dặm từ cầu Đại Trung đến núi Thanh Lương đèn sáng rực như một con rồng bạc.
                Mùi hương xông lên ngào ngạt dù gặp gió to cũng không thể thổi bạt đi được. Tất cả con trai con gái trong thành đều ra đốt hương xem hội.
                Thẩm Quỳnh Chi ở một cái phòng ở bên ao Vương Phủ, cùng đi ra với vợ chủ nhà để đốt hương. Từ khi Thẩm Quỳnh Chi đến Nam Kinh đến nay cũng có khách đến thuê làm thơ, viết chữ và thêu thùa. Lại có những bọn vô lại gây sự, kẻ này kháo với kẻ khác kéo nhau đến ngắm sắc đẹp của nàng, điều này xảy ra không phải chỉ một hai ngày. Hôm ấy Quỳnh Chi đi đốt hương về, ăn mặc xinh đẹp nên đằng sau có đến hơn trăm người đi theo. Trang Phi Hùng cũng theo sau. Thấy nàng đến bên ao Vương Phủ, trong lòng Phi Hùng nghi hoặc. Hôm sau Phi Hùng đến nhà Thiếu Khanh nói:
                - Cô Thẩm Quỳnh Chi ở bên ao Vương Phủ có một bọn vô lại chạy theo trêu thì cô ta mắng lại. Con người này xem ra kỳ lạ lắm. Anh Thiếu Khanh, ta hãy đến đó xem sao?
                - Tôi cũng nghe nói thế. Thời này có nhiều người không vừa ý, biết đâu cô ta không phải vì lánh nạn mà đến nơi đây? Tôi cũng định đến hỏi thăm cô ta.
                Thiếu Khanh giữ Phi Hùng ở lại nhà bên sông xem trăng non mới lên, lại mời thêm hai người khách nữa là Trì Hành Sơn và Vũ Thư. Sau khi nói chuyện suông một hồi Trang Phi Hùng lại đem việc Thẩm Quỳnh Chi bán thơ ra nói. Đỗ Thiếu Khanh nói:
                - Vô luận cô ta là người như thế nào, nhưng nếu biết thơ văn thì cũng là hiếm có.
                Trì Hành Sơn nói: - Anh không biết thành Nam Kinh thế nào ư? Danh sĩ bốn phương ở đây kể không hết, ai còn hơi đâu xem thơ văn của đàn bà làm quái gì? Đó chẳng qua là mượn cớ để làm cái mồi nhử người ta thôi. Có làm được hay không thì cũng mặc người ta!
                Vũ Thư nói:
                - Việc này cũng lạ! Một người con gái trẻ tuổi, không có bạn bè gì, lại sống bằng cách bán thơ văn, đó là điều không có trên thế gian này! Chắc có ẩn tình gì đây! Nếu cô ta đã biết làm thơ thì tại sao ta không mời cô ta đến làm thơ chơi?
                Mấy người nói chuyện và ăn cơm chiều. Mặt trăng lưỡi liềm đã từ lòng sông nhô lên soi sáng trên cầu. Đỗ Thiếu Khanh nói:
                - Anh Vũ Thư! Hôm nay đã muộn rồi. Ngày mai, anh đến nhà tôi ăn cơm sáng, rồi cùng đi thăm cô ta.
                Vũ Thư bằng lòng cùng Trì hành Sơn và Trang Phi Hùng từ biệt ra về.
                Hôm sau Vũ Thư đến nhà Đỗ Thiếu Khanh. Sau bữa cơm sáng, hai người cùng đến Vương Phủ, chỉ thấy một gian nhà lụp xụp ở trước cửa có hơn chục người đang hò hét om sòm. Vũ Thư và Thiếu Khanh đến gần, thấy ở trong nhà có một cô gái trạc mười tám, mười chín tuổi, đang mắng nhiếc. Tóc cô ta chải theo lối con gái nhà nghèo, người mặc áo sa rộng màu lam, cổ tròn... Đỗ Thiếu Khanh và Vũ Thư nghe một lát mới hiểu có người đến mua những túi thêu đựng hương, nhưng có mấy tên vô lại vô cớ mắng nhiếc họ, và bị Quỳnh Chi mắng cho một trận. Hai người nghe tất cả rồi mới bước vào. Bọn kia thấy hai người vào bèn lảng ra dần.
                Thấy hai người thanh nhã khác thường bước vào. Thẩm Quỳnh Chi vội vàng ra kính cẩn vái chào. Sau khi nói mấy câu chuyện, Vũ Thư nói:
                - Ông Đỗ Thiếu Khanh đây là thi bá trong thi đàn, hôm qua chúng tôi nghe nói cô thơ hay cho nên đến đây thỉnh giáo.
                - Tôi tới Nam Kinh đã hơn nửa năm nay. Ai đến đây nếu không cho tôi là con gái giang hồ thì cũng nghi là bọn trộm cắp. Những người như thế tôi không thèm chấp. Hôm nay hai vị đến đây không có ý dọa nạt tôi, cũng không nghi ngờ tôi. Tôi thường nghe cha tôi nói: “Danh sĩ Nam Kinh tuy nhiều nhưng chỉ có ông Đỗ Thiếu Khanh là người hào kiệt” Câu nói đó quả không lầm. Nhưng tôi không biết ông lên đây chơi hay là cả phu nhân cũng lên ở Nam Kinh?
                - Nhà tôi cũng lên Nam Kinh với tôi, hiện nay ở cái nhà bên bờ sông.
                - Nếu vậy tôi đến quí phủ thăm phu nhân, kể lại tâm sự của tôi có được không?
                Đỗ Thiếu Khanh vui lòng nhận lời cùng Vũ Thư từ biệt đi ra.
                Vũ Thư nói với Thiếu Khanh:
                - Theo tôi, cô ta quả là một người lạ! Nếu cô ta là hạng giang hồ thì tại sao không có chút gì dâm đãng. Nếu là hạng tỳ thiếp chạy trốn, thế tại sao không có chút gì tỏ ra hèn hạ? Tôi thấy cô ta tuy là hạng đàn bà nhưng vẫn cóvẻ hào hiệp. Cô ta ăn nói đơn giản, bề ngoài có vẻ thuỳ mị nhưng nhìn hai cánh tay thì phải là tay thạo nghề quyền thuật. Cố nhiên ở thời bây giờ cũng vị tất đã có những người hiệp nữ như Sa Trung Nữ Tử, Hồng Tuyến trong tiểu thuyết đời Đường,(2) nhưng tôi cho cô ta là một người bị bạc đãi hành hạ nên trốn nhà ra đi. Khi nào cô ta đến chơi, anh thử hỏi xem con mắt nhận xét của tôi có đúng không?
                Đang nói chuyện, hai người đã đến cửa nhà Đỗ. Nhìn thấy bà Diêu đang đeo một cái giành hoa đi lại, Đỗ nói:
                - Bà Diêu! Bà đến đúng lúc quá. Hôm nay tôi có một người khách lạ, bà ở đây mà xem.
                Đỗ mời Vũ Thư vào nhà ngồi và cùng bà Diêu vào nói chuyện với vợ. Một lát sau, Thẩm Quỳnh Chi đi kiệu đến. Đỗ Thiếu Khanh mời vào nhà trong, ở đấy vợ Đỗ tiếp và mời uống trà. Thẩm Quỳnh Chi ngồi ghế khách, bà Đỗ ngồi ghế chủ, bà Diêu ngồi tiếp. Đỗ Thiếu Khanh ngồi bên cửa sổ. Sau mấy câu chuyện suông bà Đỗ hỏi:
                - Cô Thẩm! Tôi thấy cô còn trẻ như thế tại sao lại ở đây một mình nơi đất khách? Cô có ai là bầu bạn không?
                Trong nhà ta ông cụ bà cụ vẫn còn cả chứ? Cô đã hứa hôn với ai chưa?
                - Cha tôi bao nhiêu năm đi dạy học ở xa, mẹ tôi đã qua đời. Từ bé, tôi có học qua nghề thêu thùa cho nên đến Nam Kinh làm nghề đó để sinh sống. Vừa rồi, tôi được Đỗ tiên sinh hạ cố đến nhà và hẹn tôi lại đây chơi, nay lại được phu nhân tuy mới gặp lần đầu nhưng đã xem như người thân, thật là người tri kỷ ở nơi góc biển chân trời!
                Bà Diêu nói:
                - Cô Thẩm thêu đẹp tuyệt trần! Hôm qua con được xem bức tranh thêu “Quan Âm tống tử” ở nhà ông Cát Lai Quan ngay trước cửa nhà ta. Bà Cát mới mua về, nói là của cô thêu. Thực là không bức tranh nào đẹp bằng!
                Thẩm Quỳnh Chi nói:
                - Tôi làm liều đấy, nó chỉ mua cười mà thôi. Bà Diêu đi ra. Thẩm Quỳnh Chi quì dưới chân bà Đỗ, Bà Đỗ hoảng sợ đỡ dậy. Thẩm Quỳnh Chi đem chuyện tên buôn muối lừa bắt làm thiếp và nàng mang theo đồ tế nhuyễn rồi trốn đi như thế nào kể lại một lượt.
                - Tôi chỉ sợ hắn theo dõi, tìm ra tung tích. Vậy xin phu nhân cứu tôi với!
                Đỗ Thiếu Khanh nói:
                - Bọn buôn muối giàu có, xa hoa, nhiều bọn sĩ đại phu thấy vậy mà kinh hồn hoảng vía. Nàng là một người con gái yếu đuối lại coi chúng như cỏ rác, thực là đáng kính vô cùng. Cố nhiên, hắn sẽ dò la tung tích, tai họa của nàng ắt không xa. Nhưng cũng không có gì mà phải lo lắm.
                Vừa lúc ấy, thì một người đầy tớ vào báo với Thiếu Khanh.
                - Ông vũ muốn nói gì với ông.
                Đỗ đi ra phòng ngoài, thấy hai người buông thõng tay đang đợi ở cửa giống như hai sai nhân. Đỗ giật mình hỏi:
                - Các anh ở đâu đến? Làm sao lại vào mãi đây?
                Vũ Thư nói:
                - Tôi bảo họ vào đấy! Lạ quá! Quan huyện Giang Đô có giấy bắt cô ta bảo rằng cô ta là nàng hầu của người buôn muối họ Tống trốn đi. Anh thấy tôi xét có đúng không?
                - Cô ta hiện nay ở trong nhà tôi. Nếu tôi đưa ra chả hóa ra tôi gây ra việc này sao? Việc này mà truyền đến Dương Châu thì người ta sẽ cho rằng tôi đã giấu cô ta trong nhà. Cô ta trốn hay không cái đó không quan hệ gì đến tôi, nhưng giao cô ta cho sai nhân thì không được.
                Vũ Thư nói:
                - Vì vậy tôi mới bảo sai nhân vào đấy! Anh Thiếu Khanh ạ. Bây giờ tốt nhất là đưa cho họ một tí tiền, bảo trở về bên ao Vương Phủ. Khi nào cô ta về nhà hãy bắt.
                Thiếu Khanh nghe lời Vũ Thư thưởng cho sai nhân bốn đồng cân bạc, sai nhân ra đi, không dám trái lời. Đỗ Thiếu Khanh lại vào nói với Thẩm Quỳnh Chi. Vợ Đỗ và bà Diêu rất kinh hoảng. Thẩm Quỳnh Chi đứng dậy nói:
                - Cái đó không can gì. Sai nhân đâu rồi? Tôi xin cùng đi với họ.
                Đỗ Thiếu Khanh nói: - Tôi đã bảo sai nhân đi rồi. Cô hãy ở đây ăn cơm. Ông Vũ Thư có một bài thơ muốn tặng cô. Cô hãy đợi ông ta viết xong đã.
                Thiếu Khanh bảo vợ và bà Diêu ngồi tiếp, còn mình ra phòng ngoài lấy một tập thơ đã khắc cùng với bài thơ của Vũ Thư và cân bốn lạng bạc gói lại bảo người đầy tớ đưa cho bà Đỗ biếu Thẩm Quỳnh Chi gọi là món quà khi chia tay.
                Thẩm Quỳnh Chi từ biệt lên kiệu đi thẳng về ngõ Thủ Bạc. Hai tên sai nhân đứng sẵn trước cửa cản lại:
                - Cô muốn đi kiệu hay là đi bộ theo chúng tôi? Cô không cần phải vào nhà làm gì?
                - Các ông ở nha môn quan huyện đến hay ở nha môn quan tuần, quan án đến? Tôi không phải là người phạm pháp, lại không phải là can án gì quan trọng, lẽ nào các ông lại ngăn cản tôi không cho tôi về nhà? Cái lối dọa nạt của các ông chỉ dọa được những người nhà quê ngờ nghệch mà thôi!
                Nói xong Quỳnh Chi xuống kiệu khoan thai bước vào nhà. Hai người sai nhân phải để cho nàng đi.
                Sau khi đã mang theo tập thơ và tiền bạc bỏ trong một cái hộp nữ trang, Quỳnh Chi đi ra, nói:
                - Phu kiệu! Cáng tôi lên quan huyện!
                Phu kiệu đòi tiền thêm. Sai nhân vội vàng nói:
                - Này cô! Ai sai đâu thì sai chứ bọn “sai nhân” thì không"nói sai" đâu đấy! Chúng tôi dậy từ sáng sớm đứng đợi nửa ngày trước nhà ông Đỗ. Lại muốn giữ thể diện cho cô, chúng tôi để cô đi kiệu về nhà. Cô là đàn bà con gái lẽ nào lại không biết đến việc thết chúng tôi hay sao?
                Biết rằng bọn sai nhân đòi tiền, nàng không thèm để ý chỉ cho những người khiêng kiệu thêm hai mươi bốn đồng tiền bảo họ đưa nàng đến huyện. Bọn sai nhân không biết nói sao, chạy vào huyện bẩm:
                - Chúng con đã mang Thẩm thị về đây.
                Tri huyện nghe nói, sai gọi đến công đường để hỏi. Khi dẫn lên, tri huyện nhìn diện mạo cũng khá bèn hỏi:
                - Nàng đã là đàn bà tại sao không chịu ở trong chốn buồng the lại lấy trộm vàng bạc nhà họ Tống rồi trốn đến ở huyện ta làm gì?
                Thẩm Quỳnh Chi nói: - Tống Vi Phú ép buộc con gái nhà lương thiện làm thiếp, cha tôi đi kiện ông ta, ông ta đút tiền cho quan nên cha tôi thua kiện. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Vả chăng, tôi tuy bất tài cũng biết qua dăm ba chữ. Tại sao một người con gái có thể lấy Trương Nhĩ lại đi làm nô tỳ cho Ngoại Hoàng?(3) Vì vậy cho nên tôi bỏ trốn. Đó là sự thực.
                - Việc này là việc tri huyện Giang Đô ta không xét? Nếu nàng biết chữ, vậy có thể làm một bài thơ ngay trước mặt ta không.
                - Xin quan cứ ra đề để tôi được thỉnh giáo.
                Tri huyện liền chỉ cây hoè ở dưới sân:
                - Lấy cây hoè làm đầu đề.
                Thẩm Quỳnh Chi không chút sợ sệt, ngâm một bài thơ bát cú, đã lanh lại hay. Tri huyện tán thưởng, sai người mang hành lý của nàng để ở ngoài sân vào khám xét. Khi mở hộp đồ trang sức thấy một gói bạc vụn, một cái gói trên viết “món quà lên đường’ trong có một quyển sách, một quyển thơ. Tri huyện xem xong, biết nàng đã xướng họa với các danh sĩ ở Nam Kinh. Y viết công văn và dặn sai nhân:
                - Chúng bay mang Thẩm Quỳnh Chi đến huyện Giang Đô. Trên đường đi phải săn sóc cô ta, không được gây sự, đến nơi phải lấy giấy chứng nhận đem về đây.
                Tri huyện này là bạn đồng khoa với tri huyện Giang Đô, y bí mật viết một cái thơ kèm vào tờ công văn dặn tri huyện tha nàng, trả về với cha nàng để nàng lấy chồng khác.
                Thẩm Quỳnh Chi và hai sai nhân ra khỏi huyên. Nàng thuê kiệu đến ngoài cửa thủy Tây, xuống thuyền đi Nghi Hoàng là người giàu và ngốc, sau người ấy lấy Trương Nhĩ được phong làm Triệu Vương.
                Trưng. Sai nhân để hành lý ở đầu thuyền và nằm nghỉ ở đấy. Thẩm Quỳnh Chi ở khoang trong. Nàng vừa ngồi xuống thì thấy có một chiếc thuyền bồng chờ hai người đàn bà đến, một người trạc hăm sáu, hăm bảy, một người trạc mười bảy, mười tám. Họ ăn mặc mộc mạc, nhưng điệu bộ có vẻ lẳng lơ. Người đàn ông đi theo đội mũ lông chiên đã rách, mặt đỏ như say rượu, lông mày rậm. Y mang hành lý đưa vào khoang. Hai người đàn bà cùng ngồi cạnh Quỳnh Chi và hỏi:
                - Cô đi đâu? - Tôi đi Dương Châu. Có lẽ cùng đi một đường với hai chị.
                Người đàn bà lớn tuổi hơn nói: - Chúng tôi đến Nghi Trưng không đi Dương Châu. Một lát sau, người chủ thuyền đòi tiền. Hai người sai nhân nhổ toẹt một cái và đưa công văn ra:
                - Coi này! Cái gì đây! Chúng tôi đi việc công không hỏi tiền anh là may rồi! Anh còn hỏi tiền chúng tôi sao?
                Chủ thuyền không dám hỏi tiền nữa. Quay lại hỏi tiền những người khác. Thuyền đỗ ở mỏm Yến Tử. Trong đêm đó, gió tây nam thổi, sáng sớm, thuyền đến bến Hoàng Nê. Sai nhân đòi tiền Thẩm Quỳnh Chi.
                Quỳnh Chi nói: - Hôm qua tôi nghe rõ ràng các anh nói là việc công không phải trả tiền đò kia mà!
                Sai nhân nói:
                - Cô Thẩm! Cô cay nghiệt vừa vừa chứ! Chúng tôi giữ chùa thì ăn oản chứ! Nếu ai cũng như cô cả, không chịu mất một đồng nào thì chúng tôi hớp gió mà sống à!
                Thẩm Quỳnh Chi nghe vậy nói:
                - Tôi không cho các anh tiền, các anh làm gì tôi?
                Nàng ra khỏi khoang, nhảy lên bờ, hai chân nhỏ xíu chạy như bay. Sai nhân vội vàng xách hành lý chạy theo, nhưng khi vừa túm được thì liền bị mấy cái đấm ngã hẳn xuống đất. Khi họ đứng dậy thì nàng kêu la ầm ĩ đến nỗi cả chủ thuyền và người đội mũ lông chiên rách phải chạy lại can và thuê cho nàng một cái kiệu. Hai tên sai nhân lẽo đẽo chạy theo.
                Người đội mũ lông chiên kia đưa hai người đàn bà đi qua đập Đầu Dạo, thẳng đến ngõ Phong Gia. Vương Nghĩa Ân ra đón nói:
                - Cô Tế và Cô Thuận đến đấy phải không? Ông Lý thân hành dẫn đến đây chứ. Công việc làm ăn ở cửa Thủy Tây ở Nam Kinh gần đây ra sao?
                Lý Lão Tứ nói:
                - Gần đây bọn con hát ở cầu Hoài Thanh nó phá đám nên phải chạy đến nhờ ông đây.
                - Tốt lắm! Ở đây đang thiếu hai người!
                Vương nghĩa An đưa hai người gái điếm vào một cái nhà tranh ba gian có phên ngăn ra từng buồng, đằng sau có một cái bếp. Một người đang rửa tay ở đấy. Nhìn thấy hai người gái điếm, y vui mừng khôn xiết. Chỉ nhân phen này khiến cho:
                Trong làng hoa nguyệt, chỉ ưa cậy thế khoe quan,
                Giữa đám bút nghiên, có lúc vì hoa nể liễu.
                Muốn biết việc sau thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
                ----------------------
                (1) Tào Bân danh tướng đời Tống lúc chết được phong làm Huệ Vương.
                (2) Hai nữ hiệp ở trong tiểu thuyết đời Đường. Xa Trung Nữ Tử có thuật phi hành nhanh như bay, cứu người trong chốn ngục sâu. Hồng Tuyến đã từng đêm khuya lẩn vào nhà hào phù lấy trộm hộp vàng bên gối nó. Từ đó nhà hào phú sợ không dám giết hại người nữa.
                (3) Thời chiến quốc, có một người đàn bà không chịu lấy Ngoại


                hết: Hồi 41, xem tiếp: Hồi 42


                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #38
                  Hồi 42

                  Công tử nói chuyện khoa trường nơi quán dĩ
                  Người nhà báo về tin tức đất Miêu Cương

                  Vương nghĩa An thấy hai người gái điếm bước vào phòng bèn nói với người đang rửa tay:
                  - Ông Lục! Ông lại đây mà xem hai cô mới đến!
                  Hai người gái điếm ngẩng đầu lên. Thấy một người mặt đen, rỗ, hai con mắt hấp ha hấp háy, đầu đội một cái mũ đã rách, mình mặc áo lụa xám dính bết cả đầu, chân đi đôi giầy cũ mũi nhọn, đang xắn ống tay áo lên rửa tay xem chẳng có vẻ gì là văn nhân hay võ sĩ cả.
                  Khi hắn ở nhà bếp đi ra thì hai người con gái chạy lại:
                  - Chào ông Lục.
                  Và cúi đầu, xoay mông đít một cái, một tay sờ chéo áo, cúi chào. lão Lục giơ hai tay đỡ lấy:
                  - Hai con ngoan ngoãn của tôi! Các con đến đây gặp được lão Lục này là may phúc lắm đấy!
                  Vương Nghĩa An nói:
                  - Ông Lục nói đúng đấy! Các cô đến đây đều nhờ ông Lục săn sóc cả đấy! Mời ông Lục ngồi. Đem trà đến đây cho ông Lục!
                  Thang Lão Lục ngồi trên một cái ghế dài. Hắn kéo hai cô gái ngồi xuống, mỗi người ngồi một bên. Hắn sắn quần lên, gác cái đùi đen bóng lên trên đùi cô Tế, kéo cái bàn tay trắng nõn của cô Tế đặt lên cái đùi đen thui của hắn. Uống trà xong, hắn lấy ra một cái bị đựng cau, bỏ cau vào miệng nhai rau ráu. Nước giãi tràn ra ngoài, chảy ròng ròng xuống râu. Hắn ngả người sang bên phải lại nghiêng sang bên trái, môi ghé vào má hai cô để chùi nước giãi. Khi hai cô kia lấy khăn tay ra lau má thì hắn giựt lấy khăn lau nách. Vương Nghĩa An cầm chén trà nói:
                  - Ông có nghe tin tức gì gần đây không?
                  - Có chứ! Hôm trước ông ta có sai một người đến Nam Kinh để thuê may hai mươi bốn lá cờ nhiễu điều thêu rồng, và một cái cờ soái màu vàng lớn. Tháng này, ông sẽ lên kinh. Vào tháng chín, lúc có sương sẽ làm lễ tế cờ. Hoàng Thượng sẽ làm Đại tướng quân và ông chú của tôi làm Phó tướng quân. Hai người sẽ cùng đứng trên một tấm thảm và cúi đầu. Cúi đầu xong, chú tôi sẽ làm tổng đốc.
                  Đang nói chuyện, có một tên kiếm gái gọi Vương Nghĩa An ra ngoài, thì thầm một hồi, Vương bước vào nói:
                  - Ông Lục, tôi xin hỏi ông. Vừa rồi có một người khách đến đây muốn gặp cô Tế, nhưng thấy ông ở đây nên không dám vào!
                  - Cứ đưa ông ta vào đây, có việc gì đâu? Tôi sẽ uống rượu với ông ta.
                  Vương Nghĩa An đưa người kia vào. Y là một người lái buôn trẻ tuổi.
                  Người khách kia vào ngồi. Vương nghĩa An liền nói với y bỏ ra một ít tiền mua một đĩa thịt lừa, một đĩa cá, mười be rượu. Vì Thang Lão Lục là người Hồi giáo nên Vương Nghĩa An lại mua thêm hai, ba mươi quả trứng gà luộc. Sau đó, thắp một ngọn đèn treo, Lão Lục ngồi ghế đầu, người khách ngồi đối diện. Lão Lục gọi cô Tế ra cùng ngồi một ghế đầu với khách. Cô Tế cứ nũng nịu đòi ngồi với Lão Lục. Khi bốn người đã ngồi, rượu rót ra. Sau đó bày trò đánh đố ai thua phải uống rượu, ai được thì hát. Lão Lục được và hát giọng ồ ồ bài “Ký sinh thảo”. Rồi đến cô Tế và khách chơi, cô Tế được Lão Lục bảo rót thêm rượu nghe cô Tế hát. Cô Tế quay mặt không chịu hát mà chỉ cười. Lão Lục lấy đũa gõ trên bàn làm nhịp, nhưng cô Tế chỉ cười không hát? Lão Lục doạ:
                  - Mặt tôi như cái rèm, cuốn lên cũng được, buông xuống cũng được! Tôi bảo cô Tế hát một bài, thì cô phải hát ngay.
                  Vương nghĩa An lại giục, cô Tế đành phải hát mấy câu. Hát xong nghĩa An nói:
                  - Ông Vương đến đây rồi!
                  Viên Bả tổng họ Vương đi tuần đến. Thấy Lão Lục ở đấy, y không nói năng gì. Những người gái điếm cúi lạy. Y vào bàn uống rượu. Người ta lại mua thêm năm, sáu be rượu nữa. Đến canh tư, một tên đầy tớ của nhà đô đốc mang đèn lồng “Đô đốc phủ” đến nói:
                  - Trong phủ gọi ông Lục về!
                  Lão Lục và ông Vương ra ngoài. Khách buôn bước vào phòng. Người múc nước rửa tay đến xin tiền, người mang khăn mặt đến xin tiền. Cô gái điếm chải đầu rửa mặt và tắm, bận rộn một hồi. Sau đó, hai người cùng lên giường. Lúc bấy giờ gà đã gáy sáng.
                  Sáng sớm hôm sau, Lão Lục đến bảo dọn một bữa tiệc tiễn hai công tử đi Nam Kinh. Vương nghĩa An nghe nói hai người con của quan đô đốc đến thì mừng rỡ như bắt được vàng, vội vàng hỏi:
                  - Ông Lục! Hai công tử đến ngay bây giờ hay chiều? Lão Lục móc ở lưng ra một gói bạc có năm mươi sáu đồng cân đưa cho Vương, bảo sửa soạn một bữa tiệc có bảy món ăn ngon và hai món điểm tâm:
                  - Nếu chưa đủ tiền thì đến nói với tôi. - Không dám! Không dám! Nếu ông Lục tìm được đám nào cho hai cô kia thì còn nói gì nữa. Vả lại, hôm nay lại là bữa tiệc thết ông cả, ông hai con quan đô đốc, chúng tôi xin cố gắng giúp ông Lục!
                  - Phải cho ngoan ngoãn đấy! Tôi muốn sao cho hai cô con gái ông vớ được hai ông thì thật là có phúc mười đời!
                  Vàng bạc, ngọc ngà, châu báu nhà ông ta chả thiếu thứ gì. Nếu gãi đúng tim đen hai ông ấy thì tha hồ mà tiêu! Cả đến bọn đầy tớ, bọn nấu bếp cũng kiếm được chán tiền!
                  Lý Tứ đứng bên cạnh, nghe vậy cũng mừng quýnh lên.
                  Dặn dò xong, Lão Lục ra đi. Ở nhà mọi người vội vàng lo dọn tiệc. Đến chiều Lão Lục cùng hai công tử đến, đầu đội mũ lụa, một người mặc áo tía thêu kim tuyến, một người mặc áo xám nhạt thêu kim tuyến, chân đi giày đen đế trắng, mang theo bốn người hầu, ngay giữa ban ngày cũng xách hai cái đèn lồng, một cái đề “Đô đốc phủ”, một cái đề “Nam Kinh hương thí”. Hai người vào ngồi. Hai cô gái cúi chào. lão Lục đứng bên cạnh. Người lớn tuổi hơn là Thang Do, nói:
                  - Anh Lục, có ghế đây, ngồi xuống chứ!
                  - Vâng, vâng! Xin hỏi ông cả, ông hai, còn hai cô đây thì có cho phép ngồi không ạ?
                  Thang Thực nói:
                  - Sao lại không? Bảo hai cô ngồi xuống chứ! Hai người con gái làm ra vẻ rón rén, rụt đầu rụt cổ, ngồi lên một cái ghế dài lấy khăn tay che miệng cười.
                  Thang Thực nói:
                  - Hai cô năm nay bao nhiêu tuổi?
                  Lão Lục đáp hộ:
                  - Một cô mười bảy, một cô mười chín.
                  Vương Nghĩa An mang trà lên, hai người con gái tay bưng chén trà, lấy khăn tay lau xung quanh chén cho khô rồi mang đến đưa cho hai công tử. Hai người tiếp chén trà và uống. Lão Lục hỏi:
                  - Khi nào hai ông đi?
                  Thang Do nói:
                  - Ngày mai, vì quan chủ khảo đã đến Nam Kinh rồi, cho nên chúng tôi không thể ở nán lại nữa.
                  Trong khi Lão Lục nói chuyện với Thang Do thì Thang Thực kéo cô Tế lại ghế của mình và sờ tay, sờ chân, âu yếm một hồi.
                  Lát sau, rượu đem lên. Họ đã thuê một người bếp Hồi giáo dọn những món ăn Hồi giáo: yến sào, thịt vịt, thịt gà, cá. Lão Lục tự rót rượu, mời hai công tử ngồi ghế khách; còn mình ngồi dưới tiếp, hai cô ngồi hai bên. Đồ ăn đem lên, hết món này đến món khác. lão Lục tay chân lúng túng, ngồi dưới uống rượu. Lão Lục hỏi:
                  - Hai ông lên Nam Kinh thì có vào trường ngay không? Từ canh năm ngày mồng tám, trước tiên đọc tên thí sinh phủ Thái Bình. Khi đọc đến phủ Dương Châu, sợ có muộn quá chăng?
                  Thang Do nói: - Đâu đã đọc ngay đến thí sinh phủ Thái Bình? Trước tiên ở trước viện nổ ba phát súng và cái cổng lớn mở ra. Sau đó, nổ ba phát nữa, cái cửa chính mở, lại nổ ba phát nữa thì cửa Long Môn mở. Có tất cả chín phát súng.
                  Thang Thực tiếp lời: “Súng ở đấy nhỏ hơn súng ở trước viên môn ông cụ tôi”.
                  Thang Do nói:
                  - Nhỏ, nhưng không nhỏ hơn lắm. Sau khi đã nổ súng, người ta đặt hương án ở nhà “Chí Công Đường”. Quan Phủ Doãn phủ Ứng Thiên mang đồ lễ mặc áo mãng bào ra làm lễ. Khi ngài đứng dậy có hai cái lọng che. Quan Bố chính quỳ xuống mời “Tam giới phục ma đại đế quan thánh đế quân” đến để trấn áp trường thi. Sau đó lại mời “Chu tướng quân” ra để kiểm soát trường thi. Cái lọng rẽ ra, quan Phủ Doãn lại ra làm lễ. Thư biện của quan Bố chính ra quỳ mời “Thất khúc văn xương”, “Khai hóa tử đồng đế quân” ra trường làm chủ khảo, mời “Khôi Tinh” ra để soi sáng. Lão Lục lè lưỡi:
                  - Mời những vị thần, Phật kia ra cả như thế rõ ràng là một việc lớn!
                  Cô Thuận nói:
                  - Hai ông thật là to gan, dám đến cái nơi có nhiều thần phật như thế! Chúng em thì thà chết cũng không dám vào!
                  Lão Lục nói:
                  - Hai ông đều là, sao “Văn khúc tinh” ở trên trời, có phải như thứ các cô đâu?
                  Thang Do nói:
                  - Sau khi đã mời “Văn xương” quan Phủ Doãn lại vái ba vái và Thư biện mời tất cả những người cha mẹ có công đức của những người đi thi.
                  Lão Lục hỏi: - Thế nào là cha mẹ có công đức? Thang Thực nói:
                  - Cha mẹ có công đức là cha mẹ những người đỗ tiến sĩ và ra làm quan. Chỉ có những người này mới được mời mà thôi. Còn hạng thi tú tài đến già đời và hạng bách tính thì mời ra làm gì?
                  Thang Do nói: - Trước mỗi phòng có một lá cờ đỏ, dưới cắm lá cờ đen. Dưới lá cờ đỏ là linh hồn những người mà thí sinh đã cứu giúp, dưới lá cờ đen là linh hồn những người có thù oán với thí sinh. Sau khi quan Phủ Doãn trở về chỗ, Thư biện hô lên: “Ân quỉ vào, oán quỉ vào!” và ở hai bên đốt vàng giấy. Một trận gió thổi ào ào, các linh hồn theo vàng giấy vào ngồi dưới những lá cờ đỏ và những lá cờ đen.
                  Cô Thuận nói: - A di đà phật! Cho hay ai là người tốt thì đến lúc ấy mới thấy rõ ràng!
                  Lão Lục nói: - Như cụ nhà ta ở biên cương có nhiều công đức, cứu được bao nhiêu nhận mạng thì ân quỉ chắc là không biết bao nhiêu mà kể. Ở dưới cờ đỏ chắc là không đủ chỗ mà ngồi.
                  Thang Do nói:
                  - Cũng may anh Lục không đi thi. Chứ nếu đi thi thì các “oán quỉ” nó lôi anh đi mất.
                  - Tại sao thế?
                  - Cứ xem anh Nghiêm bạn tôi ở Nghi Xương thi khoa trước thì biết. Anh là một ông tú tài hay chữ. Ở trong trường thi anh đã viết xong bảy bài văn và đang cao giọng ngâm nga thì bỗng có một trận gió nhẹ làm cho ngọn nến lảo đảo, cái vải che cửa bị kéo ra một bên và một cái đầu thò vào. Anh Nghiêm nhìn kỹ thì thấy đó là đầu một cô gái giang hồ đã cùng sống với mình. Nghiêm nói:
                  - Người đã chết rồi còn đến đây làm gì?
                  Người con gái nhìn nghiêm cười khanh khách. Nghiêm hoảng hốt cầm thẻ số hiệu đập một cái, nghiên mực bị lật đổ, mực đen đổ lên quyển thi thành vết bẩn to tướng. Sau đó, người kia biến mất. Nghiêm thở dài mà rằng: số ta phải như thế. Khi Nghiêm nộp quyển thì trời mưa to, anh liều ướt về nhà, bị ốm ba ngày liền. Lúc tôi đến thăm, anh ta nói đến việc đó, tôi nói:
                  - Chắc vì anh đã làm hại đến đời cô ta nên cô ta tìm đến anh. Anh Lục! Trong đời anh, anh đã làm hại bao nhiêu người? Như thế anh có vào trường thi được không?
                  Hai cô gái điếm vỗ tay reo:
                  - Này ông Lục! Ông đã làm hại đời chúng tôi! Nếu ông đi thi thì hai chúng tôi sẽ làm oán quỉ của ông đấy.
                  Ăn xong. Lão Lục giở cái giọng khàn khàn ra hát một bài, hai công tử vỗ đùi cùng hát một bài. Cố nhiên hai cô gái cũng hát. Ồn ào mãi đến canh ba, hai người mới sai xách đèn để về nhà.
                  Hôm sau, hai người thuê một cái thuyền lớn đi Nam Kinh. Lão Lục cũng tiễn chân đến tận thuyền mới trở về. Hai người ở trên thuyền nói chuyện suông, bàn đến cái cảnh náo nhiệt khi vào thi. Thang Thực hỏi:
                  - Anh bảo năm nay sẽ ra đầu đề gì? - Ta đoán nhất định sẽ ra đầu đề về chuyện phụ thân chúng ta đánh dẹp bọn Miêu năm ngoái ở Quí Châu.
                  - Đề ấy thì chắc sẽ ra ở Quí Châu. - Nếu vậy thì sẽ ra về việc cầu người hiền hay miễn thuế gì đấy thôi, chứ không có gì khác.
                  Họ nói chuyện suốt trên đường đến Nam Kinh. Người quản gia là Vưu Râu tiếp họ, mang hành lý đến đường Điếu Ngư.
                  Hai người đi vào nhà, đi quanh một cái nhà hai từng qua một cái cửa nách vào ba gian nhà sạch sẽ, mát mẻ nhìn ra sông. Ngồi đấy nhìn qua bên kia sông là một dãy nhà lan can màu đỏ, song cửa sổ sơn xanh và treo rèm trúc. Những người đỗ tú tài ở các nơi đều về, ở đó có thể nghe tiếng ngâm thơ bình văn.
                  Hai người vừa đến đó liền sai ngay Vưu Râu mua hai cái mũ vuông mới, giành, siêu đồng, vải che lều, vải che cửa, hoả lò, cọc sáp, kéo cắt bấc, đèn sáp bao đựng quyển thi mỗi thứ hai cái. Rồi họ vội vàng đến chùa Tựu Phong viết tên vào quyển rồi đem đi. Họ lại sắp sẵn những món ăn, bánh mặt trăng, mứt cam, mứt sen, long nhãn, nhân sâm, cốm, dưa muối, gừng, vịt muối. Người anh nói với em:
                  - Em nên mang theo một ít “a nguỳ”(1) ở Quí Châu đi, thứ đó làm tỉnh trí, khi viết chữ có sai thì không hoảng hốt.
                  Họ sửa soạn một ngày mới xong; hai người soát lại tỉ mỉ từng cái một, nói:
                  - Công danh là chuyện to, không có thể làm chơi được! Sáng ngày mồng tám, hai người giao hai cái mũ vuông cũ của họ cho hai người đầy tớ đội, để cho họ có thể sách giành đến chực sẵn ở trường thi. Trên con đường đi từ cầu Hoài Thanh, hai bên là hiệu sách của những người học trò nghèo dựng lên bán những quyển văn tuyển văn bát cổ bìa đỏ, bìa xanh do Tiêu Kim Huyễn, Gia Cát Thiên Thân, Quý Điềm Dật, Khuông Siêu Nhân,
                  Mã Thuần Thượng, Cừ Dật Phu ... chọn lọc. Đến mãi chiều tối, mới đọc xong danh sách những người tú tài ở Nghi Trưng và đọc đến tên hai người. Hai người phải thân hành xách giành, mang hành lý vào. Khi họ đang ngồi xuống đất để cởi áo và tháo giày thì thấy ở hai bên củi đốt lên, lửa cháy bốc cao tận trời và nghe ở trong có tiếng hô:
                  - Phải khám xét cẩn thận!
                  Hai người cùng với những thí sinh khác đi vào cái cổng thứ hai để nhận quyển rồi đi qua cửa Long Môn trở về chỗ ngồi của mình. Đến ngày mồng mười thì xong cả, hai người mỏi mệt, mỗi người ăn một con vịt rồi đánh một giấc.
                  Thi tam trường xong, đến ngày mười sáu, họ bảo đầy tớ mang danh thiếp của “Đô đốc phủ” thuê một ban hát để tạ ơn thần Phật.
                  Một lát sau, người hầu trà đến bên. Họ theo Hồi giáo cho nên có người bếp riêng của mình không thuê người ngoài. Những người trong ban hát mang rương hòm đến, theo sau là một người mang mười mấy cái đèn lồng trên có ba chữ “Tam nguyên ban”. Đằng sau là một người có một đứa đầy tớ nhỏ đi theo, tay cầm một hộp danh thiếp. Đến cửa, y nói với quản gia nhờ mang danh thiếp vào. Thang Do mở ra thì tờ danh thiếp kia viết:
                  “Tôi là Bão Đình Tỷ, đưa hai cây sáp, và một ban hát đến chúc mừng”.
                  Thang Do biết Bão là chủ ban hát, bèn gọi vào. Bão Đình Tỷ gặp hai người nói:
                  - Con có một ban hát nhỏ ở đây, chuyên hầu các văn nhân và các quan. Hôm qua nghe nói hai vị bảo diễn tuồng, hôm nay con xin đến đây hầu hai vị. Thang Do thấy Bão Đình Tỷ vui tính, giữ y lại cùng ăn cơm. Một lát, mấy người hát tuồng đến. Họ đốt ngựa giấy cứng “Văn xương đế quân” và “Quan thánh đế quân” trong cái nhà nhìn ra sông. Hai người sụp lạy. Lễ xong, họ cũng Bão Đình Tỷ ngồi vào một bàn. Tiếng thanh la và tiếng trống vang lên. Mở đầu diễn bốn vở ngắn trước khi ăn cơm. Đến tối ở trong sân đốt lên mười mấy ngọn đèn chiếu sáng khắp nhà. Tuồng diễn mãi canh ba mới xong. Bão Đình Tỷ nói:
                  - Những đứa trẻ của tôi chơi trò cưỡi ngựa rất hay! Để tôi bảo nó diễn hầu các công tử xem cho tỉnh rượu!
                  Mấy người diễn tuồng mình mặc áo khoác bằng lông điêu, đầu cắm lông trĩ, áo bên trong rất mới, nhảy ra, nhảy thành nhiều hình khác nhau. Hai người nhìn xem rất thú vị. Bão Đình Tỷ nói:
                  - Nếu hai vị cho phép, tôi xin chọn hai đứa trẻ ở lại đây để hầu hạ hai vị.
                  Thang Do nói:
                  - Những đứa trẻ như thế này thì hầu hạ gì được? Anh phải tìm một trò vui gì khác chứ?
                  Bão Đình Tỷ nói:
                  - Cái đó dễ lắm. Bên kia sông là nhà anh Cát Lai Quan. Anh ấy là học trò tôi. Anh ấy đã được nêu tên lên bảng khi ông Đỗ ở Thiên Trường có mở cuộc thi hát ở trong cái đình giữa hồ. Nếu ngài đến ngõ Thủy Miệt thì thấy có cái cửa hàng của thầy thuốc ngoại khoa họ Chu, bên kia cửa hàng có một cái hàng rào đen; đó chính là nhà của Cát Lai Quan.
                  Thang Thực hỏi:
                  - Nhà ông ta có đàn bà không? Nếu có, ta cũng muốn đi với anh.
                  - Ở đây, có cái nhà “Mười hai lầu” nổi tiếng, sao hai ông không đến đó chơi? Thế nào tôi cũng đi theo hầu.
                  Bấy giờ tuồng đã diễn xong, Bão Đình Tỷ từ biệt ra về. Hôm sau, Thang Do sắp sẵn tám hồ rượu, hai bình huyết sơn dương, bốn tấm gấm Miên, và sáu gói trà ngon, bảo người mang tất cả đến nhà Cát Lai Quan. Gõ cửa, một người đàn bà chân to ra đưa vào. Nhà trước gồm có hai gian, chia thành ba phòng. Cửa ở phía bên trái đi thẳng vào các buồng, phía sau nhìn ra sông. Cát Lai Quan mặc áo cà sa màu ngọc thạch, mười ngón tay búp măng đang mân mê cái quạt lông ngỗng trời, tựa vào lan can hóng mát. Nhìn thấy Thang Do vào, y hỏi:
                  - Mời ông ngồi! Ông ở đâu đến?
                  Thang Do nói:
                  - Hôm qua ông Bão nói với tôi rằng nhà ông nhìn ra sông rất đẹp mắt, cho nên tôi đến đây thăm ông. Tôi có mang theo ít lễ mọn, mong ông nhận giúp.
                  Gia nhân đưa các lễ vật đến. Lai Quan nhìn thấy vui mừng hiện ra nét mặt nói:
                  - Tôi dám đâu nhận tất cả những thứ này.
                  Và gọi người đàn bà chân to:
                  - Mang vào nhà và nói với bà dọn một bữa ăn.
                  - Chúng tôi là người Hồi giáo không ăn được thịt.
                  - Tôi mới mua được mấy con cua Dương Châu rất to. Không biết các ông có dùng được không?
                  - Nó là sản vật quê tôi đấy, tôi rất thích. Ông bác tôi ở Cao Yếu(2) viết thư cho tôi nói muốn ăn cua lắm mà không tìm được con nào.
                  - Ông cụ nhà ta có làm quan không?
                  - Thầy tôi làm đô đốc ở Quí Châu. Tôi về đây đi thi.
                  Đang nói chuyện, rượu bưng lên. Mây và sương mù bao phủ con sông trước mặt, nhà hai bên bờ sông đều lên đèn. Những người đi thuyền qua lại không ngớt. Cát Lai Quan uống xong mấy chén rượu, mặt bừng bừng đỏ, dưới ánh đèn nến, y giơ mấy ngón tay búp măng mời Thang uống rượu:
                  - Tôi uống nhiều rượu rồi! Cho tôi chén trà!
                  Cát Lai Quan bảo người đàn bà chân to dọn cua và các đĩa trái cây, lau bàn, lấy một cái ấm đất và nấu một ấm trà mai phiến. Hai người đang vui thú như thế thì bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào. Cát Lai Quan ra cửa nghe, thì thấy ông Chu thầy thuốc ngoại khoa mặt đỏ, bụng phệ đang mắng bà chân to tại sao bà ném cua vào đầy cửa nhà ông ta. Cát Lai Quan ra nói lại bị mắng một mẻ:
                  - Nhà anh ở là thứ nhà gì mà ăn cua không đổ ra trước cửa nhà mình lại hắt vào cửa nhà người ta. Anh không có mắt hay sao?
                  Hai người đang mắng nhau thì người quản gia của Thang ra bảo Cát vào nhà. Vừa vào nhà ngồi thì Vưu Râu đã vội chạy vào:
                  - Con tìm ông khắp nơi! Ông vẫn ở đây sao? - Anh làm gì mà ra vẻ hoảng hốt thế?
                  Ông Hai cùng đi với ông Bão đến uống trà ở cái nhà nào gần chùa Tựu Phong ở vườn Đông Hoa, nhưng bị mấy thằng côn đồ xông vào lột cả áo quần. Ông Bão hoảng sợ quá nên bỏ chạy mất. Bây giờ ông hai bị giữ lại trong cái nhà ấy và không sao về được. Ông hai như điên cuồng. Có bà Diêu bán hoa ở cạnh đấy nói rằng cô của người con gái đó đã đóng cửa lại không cho ông hai ra.
                  Thang Do nghe vậy, vội vàng bảo về nhà lấy đèn lồng để đưa đường đến chùa Tựu Phong.
                  Ở đấy bọn côn đồ kháo nhau: - Đã lâu chúng ta không có dịp nào may mắn! Nếu không có tiền chuộc thì chúng ta không thả ra.
                  Thang Do hùng hổ gạt mọi người đi vào, đẩy bà Diêu ra một bên và đấm bật cửa sập xuống. Người em thấy anh đến, vội vàng xông ra. Bọn côn đồ muốn cản lại nhưng thấy vẻ mặt của Thang Do hùng hổ, lại thấy cặp đèn lồng
                  “Đô đốc phủ” thành ra sợ hãi bỏ chạy tản đi nơi khác. Hai người trở về nhà.
                  Hơn hai mươi ngày sau, người ta đem mực vào trường thi để viết vào “bảng nhỏ”(3), họ biết là kết quả sẽ được công bố.
                  Hai ngày sau, bảng công bố, cả hai không có ai đỗ. Họ ngồi trong phòng buồn bã, bảy tám ngày liền, rồi đi lấy quyển thi hỏng về, Thang Do lấy ba quyển, Thang Thực lấy ba quyển. Không có quyển nào được đọc suốt từ đầu đến cuối. Họ chửi mắng các quan chấm thi dốt nát. Giữa lúc đó, thì một người nhà từ Quí Châu mang thư của Đô đốc đến. Hai người mở ra đọc. Chỉ nhân phen này khiến cho:
                  Bẻ quế xem hoa, cảnh ấy chỉ trong giấc mộng, Tranh long đua hổ phen này lại thấy chiến chinh. Muốn biết việc sau thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
                  ------------------------
                  (1) A nguỳ: chất nhựa cây rất hôi dùng để làm thuốc, người ta còn cho nó trừ được ma.
                  (2) Tức là tri huyện Thang ở hồi bốn.
                  (3) Bảng nhỏ “lam đơn” hay “lam băng” là cái bảng ghi tên những người phạm quy. Ngày xưa thường gọi là “băng gót” trái với bảng gỗ ghi những người thi đỗ.


                  hết: Hồi 42, xem tiếp: Hồi 43


                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #39
                    Hồi 43

                    Đầm Đã Dương tướng quân giết giặc
                    Nơi hát múa tù trưởng cướp dinh

                    Thang Do và Thang Thực sau khi lấy những quyển thi của mình về đang ngồi buồn bã thì một người nhà từ phủ Trấn Viễn ở Quí Châu đến đưa cho họ một phong thư. Họ mở ra và cùng đọc:
                    “ Bọn Miêu càng ngày càng thêm hung dữ. Sau khi treo bảng rồi bất kỳ đỗ hay hỏng, các con phải về ngay trấn thự của ta...”
                    Thang Do nói với em:
                    - Phụ thân muốn ta về nha môn. Chúng ta hãy về Nghi Trưng, thu xếp đồ đạc rồi sẽ đi.
                    Họ bảo Vưu Râu thuê một chiếc thuyền và trả tiền thuê phòng. Sau đó hai người lên kiệu, bảo đầy tớ mang hành lý đi ra cửa Thủy Tây lên thuyền. Cát Lai Quan nghe nói họ đi, bèn mang theo hai con vịt muối và trà đến thuyền để tiễn.
                    Thang Do lại dúi ngầm cho y một gói bốn lạng bạc. Sau đó Cát lai Quan ra về. Đêm ấy, thuyền nhổ sào và sáng hôm sau đến Nghi Trưng. Hai người lên bờ về nhà. Họ vừa rửa mặt xong và ngồi uống trà thì người giữ cổng vào báo:
                    - Có ông Lục đến.
                    Lão Lục vào, có một người lạ đi theo. Lão Lục nói:
                    - Tôi nghe tin cụ nhà đem quân đi đánh giặc dẹp quân Miêu. Quân Miêu bị đánh tan. Sang năm, triều đình nhất định mở khoa thi và cả hai ông nhất định đỗ. Cụ nhà ta sẽ được phong hầu. Cái gì chứ chức tập ấm nhất phẩm thì hai ông không cần và sẽ thưởng cho tôi chức ấy. Bây giờ tôi sẽ đem mũ sa ra khoe với cô Tế và cô ta sẽ càng kính phục tôi thêm.
                    Thang Do nói:
                    - Anh Lục! Anh muốn có một cái mũ sa để cho cô Tế sợ không? Nếu vậy tôi sẽ cho Vương Nghĩa An một cái.
                    Thang Thực nói:
                    - Các anh cứ lo chuyện mà thôi. Còn anh này thì ở đâu đến?
                    Người kia cúi đầu chào, lấy ra một bức thư. Lão Lục nói:
                    - Anh này tên là Tang Kỳ, người huyện Thiên Trường. Thơ này là của ông Đỗ Thiếu Khanh. Ông Đỗ nói Tang Kỳ là một con người có thể tin cậy được nên cho anh ta đến đây để hai công tử sai vặt.
                    Thang Thực mở phong thư và cùng anh xem. Lá thư bắt đầu hỏi thăm sức khoẻ rồi đến: “Tang Kỳ đã làm việc ở Quí Châu và thông thạo đường núi ở đấy, có thể dùng hắn để tiện sai khiến”. Thang Do xem xong nói với Thang Thực:
                    - Đã lâu chúng ta không gặp anh Đỗ. Nếu anh đã tiến cử người này thì ta giữ lại mà sai vặt.
                    Tang Kỳ chịu cúi đầu lạy tạ và lui ra.
                    Người giữ cửa lại vào:
                    - Ông Vương Hán Sách đến, đang đợi ở ngoài nhà sảnh. Thang Do nói với Thang Thực:
                    - Em ra ngoài xem ông ta muốn gì, còn anh và anh Lục đi ăn cơm.
                    Thang Thực ra tiếp khách, trong khi đó Thang Do bảo dọn cơm và cùng ngồi ăn với Lão Lục. Hai người đang ngồi ăn thì Thang Thực vào nói đã tiễn khách đi rồi. Thang Do hỏi:
                    - Ông ta nói gì thế?
                    - Ông ta nói ông chủ của ông ta là Vạn Tuyết Trai có hai thuyền muối hai ngày nữa sẽ đi. Ông ta mong rằng khi đi đường chúng ta để ý đến thuyền muối giúp ông ta.
                    Thang Thực ngồi xuống ăn. Ăn xong, Lão Lục nói:
                    - Tôi phải đi đây. Ngày mai tôi sẽ lại tiễn hai ông. Ông hai có rảnh đến thăm cô Tế một chút. Tôi sẽ bảo cô ta đợi ông.
                    Thang Thực nói:
                    - Anh Lục! Anh thực là cái con ma đòi nợ không bằng. Anh muốn giết người ta à? Bây giờ còn thì giờ đâu mà thăm cái của nợ ấy nữa!
                    Lão Lục cười, đi ra. Hôm sau, hai người thuê một chiếc thuyền lớn, Vưu Râu, Tang Kỳ mang hành lý xuống thuyền. Cờ biển cắm ở đầu thuyền rất oai nghiêm. Lão Lục đến bến Hoàng Nê nói dăm ba câu rồi từ biệt gọi một chiếc thuyền nhỏ để về nhà.
                    Người ta đốt pháo khi chiếc thuyền bắt đầu đi ngược dòng. Lúc sắp đến Đại cô đường thì gặp gió to. Thang Thực ra lệnh gọi mọi người lại buộc thuyền. Trên sông Dương Tử sóng bạc cuồn cuộn trắng xóa như tuyết. Hai chiếc thuyền muối bị gió đánh giạt vào bờ ở đấy có hai trăm chiếc thuyền con từ trong lạch chèo ra có chừng hai trăm người mặt mày hung ác, cùng reo lên:
                    - Thuyền muối đã giạt vào bờ rồi! Chúng ta mau ra khiêng đi thôi!
                    Chúng liền chèo thuyền con, nhảy lên hai thuyền lớn, và nhanh như chớp, cướp hết bao này đến bao khác, mang tất cả muối lên những chiếc thuyền nhỏ. Khi hai trăm chiếc thuyền kia đã đầy muối rồi, mỗi người vớ một cái chèo, chèo như bay, phút chốc đều chèo vào trong lạch chạy biến mất, không để lại một dấu vết gì!
                    Người lái thuyền và người coi muối nhìn nhau ngơ ngác, bó tay không biết làm thế nào. Nhìn xa, thấy cái thuyền bên cạnh mang cờ hiệu “Quí Châu tổng trấn đô đốc phủ” họ nhớ ra đó là thuyền của anh em họ Thang. Họ liền đến quỳ, kêu van thảm thiết:
                    - Chúng con là những người trong hai chiếc thuyền muối của ông Vạn vừa bị cướp giữa ban ngày! Các vị cũng thấy rõ ràng. Xin các vị nghĩ cách gì cứu chúng con với!
                    Hai người nói:
                    - Chúng tôi tuy là người cùng huyện với ông chủ các anh, nhưng việc mất cướp là do quan sở tại xét. Các anh phải đến nha môn mà trình với quan địa phương.
                    Những người kia đành phải nghe theo. Họ viết đơn và đưa đến huyện Bành Trạch. Quan huyện nhận lá đơn xong, liền ra công đường gọi người lái thuyền, người coi muối và những người chèo thuyền đến.
                    - Tại sao thuyền muối của các anh lại không nhổ neo mà đi. Tại sao các anh lại dừng thuyền ở huyện ta? Nói cho ta biết tên những kẻ ăn cướp! Các anh có biết chúng không?
                    Người lái nói:
                    - Thuyền chúng con bị gió đánh tạt vào bờ. Ở đấy có một cái lạch. Trong lạch có hai trăm chiếc thuyền con với hàng trăm bọn côn đồ xông ra cướp hết cả muối của chúng con để ở trên thuyền.
                    Quan huyện nghe vậy nổi nóng:
                    - Huyện ta là một huyện pháp lệnh nghiêm minh, dân cư vô sự, làm gì có những việc ấy! Rõ ràng là chúng mày đã thông đồng với anh coi muối bán hết cả muối để lấy tiền đi chơi gái và đánh bạc. Sau khi ăn cắp và bán hết cả ở dọc đường, chúng mày bày ra cái trò này để hòng thoát thân chứ gì! Nay đã đến huyện ta, có thế nào thì phải nói thực.
                    Và không cần hỏi han gì, y ném một nắm roi xuống. Bọn lính như lang như sói nhảy vào đè người lái xuống đánh hai mươi roi cho đến khi bật máu tươi. Rồi tri huyện lại chỉ vào người coi muối:
                    - Mày cũng là tay can dự vào vụ này! Có nói thực ra không?
                    Nói xong lại túm lấy bó roi ném ra.
                    Tên coi muối này vốn là người lớn lên trong cảnh ăn chơi. Gần đây hắn mọc mấy sợi râu nên chủ mới sai hắn đi theo thuyền muối lần đầu. Da thịt vốn non nớt, bị roi vọt thì chịu sao nổi. Cho nên thấy thế, hắn sợ đái ra quần, tri huyện bảo hắn nói gì thì hắn nói thế, không dám cãi lại một câu. Hắn lạy như tế sao và xin tha tính mạng! Sau đó tri huyện mắng bọn thủy thủ một trận nên thân dọa bắt giam tất cả đến ngày mai sẽ đem ra xử(1). Mất hồn, mất vía, tên coi muối cho một người chạy về nói với Thang Do ở ngoài thuyền và nhờ giúp. Thang Do sai Tang Kỳ mang thiếp của mình đến quan huyện. Tang Kỳ nói:
                    - Người nhà Vạn thật không cẩn thận gì hết! Nhưng số muối mất đi thì cũng không nhiều. Nay ngài đã phạt người lái để sau này hắn cẩn thận hơn. Vậy xin ngài rộng lượng mà khoan thứ cho họ.
                    Quan huyện bảo Tang Kỳ mang thiếp về nói với hai công tử rằng quan huyện gửi lời thăm, và xin theo đúng lời dặn.
                    - Đáng lý phải giải chúng mày đến huyện Giang Đô để bồi thường. Nhưng nay ta tha cho vì lần này là lần đầu!
                    Sau đó, cho tất cả mọi người ra.
                    Tên coi muối dẫn người lái đến thuyền Thang Do để vái chào và cảm tạ. Rồi mọi người in lặng trở về thuyền.
                    Hôm sau gió lặng, thuyền lại giương buồm ra đi. Sau khi đứng ở nhiều nơi, hai người lên bộ và đi đến phủ Trấn Viễn. Họ sai Vưu Râu chạy đi trước để báo tin họ đã về và cùng đến nha môn.
                    Hôm ấy Thang tống trấn đang tiếp khách. Người khách là tri phủ Trấn Viễn tên là Lôi Ký tự là Khanh Tích, tiến sĩ xuất thân, năm nay ngoài sáu mươi. Ông là khoa mục lâu năm, quê ở huyện Đại Hưng, do bộ bổ ra đây và sau năm sáu năm làm việc, ông rất thuộc tình hình người Miêu ở đây. Sau khi cùng ăn cơm uống trà với quan tổng trấn ở nhà khách phía tây, hai người bắt đầu nói chuyện về dân Miêu. Tri phủ nói:
                    - Có hai thứ Miêu, bọn Miêu lành là bọn Miêu dữ. Bọn Miêu lành thì rất tuân theo pháp luật không bao giờ làm điều gì bậy bạ. Trái lại bọn Miêu dữ thì luôn luôn nổi dạy. Bọn Miêu ở Thiên Thạch Nhai và Kim Cẩu Động thì lại tệ nhất! Hôm trước đây, quan địa phương là Điền Đức có bẩm: “Tú tài Phùng Quân Thụy bị bọn Miêu ở Kim Cẩu Động cầm đầu là Biệt Trang Yến bắt đi, Biệt Trang Yến không chịu trả, bắt phải có số tiền chuộc là năm trăm lạng”. Theo ý cụ thì việc này nên làm như thế nào? Phùng Quân Thụy là một người tú tài của ta, cái đó quan hệ đến danh dự của triều đình. Tên Biệt Trang Yến sao lại dám bắt cóc để đòi tiền chuộc? Như thế thật là không coi phép nước ra cái gì nữa! Cách duy nhất bây giờ là kéo quân vào động quét sạch bọn Miêu nghịch tặc kia bắt Phùng Quân Thụy về giao cho quan địa phương để xét xem thủ pham là ai mà trị tội. Ngoài ra không còn cách gì khác.
                    Lôi tri phủ nói:
                    - Ý định của cụ rất phải. Nhưng nay vì việc của một người mà ta huy động binh mã, tôi sợ không nên. Theo ý tôi chi bằng đưa Điền Đức đến động gặp tù trưởng Miêu, bảo nó trả Phùng Quân Thụy lại. Như thế công việc có thể xong.
                    - Ông nói thế là sai rồi! Bây giờ nếu cho ông Điền đến động lại bị bọn Miêu bắt cóc đi và đòi chuộc một ngàn lạng, rồi đến ông thân hành đến thuyết phục, nó lại bắt ông và đòi chuộc một vạn lạng ... như thế thì làm thế nào? Vả chăng, mỗi năm triều đình tốn hàng triệu bạc lương, tiền nuôi lính tráng để làm gì? Nếu cứ sợ huy động binh mã thì đừng nuôi những người ăn không còn hơn.
                    Lôi tri phủ không biết nói sao, đành nói: - Thế cũng được! Tôi sẽ viết một công văn trình rõ việc này để quan trên phê như thế nào! Chúng ta sẽ tuân theo lệnh mà thi hành.
                    Sau đó Lôi tri phủ cám ơn và về nhà môn. Ở viên môn súng nổ và cửa đóng lại. Thang tổng trấn sau khi tiễn khách ra, trở vào phòng. Hai con ra chào và hỏi thăm sức khoẻ. Tang Kỳ cũng cúi đầu chào. Thang tổng trấn hỏi qua về việc nhà mấy câu, mọi người đi ngủ.
                    Vài ngày sau, có lệnh quan tổng đốc đưa xuống: “Giao cho quan tổng trấn lĩnh binh mã của mình đi dẹp bọn Miêu phản nghịch để nêu phép tắc và kỷ luật. Mệnh lệnh này phải thi hành ngay!”.
                    Thang tổng trấn nhận được công văn lập tức sai gọi người thư biện của phòng binh ở phủ đến và cho y vào thư phòng rồi khóa lại. Thư biện hoảng sợ không hiểu tại sao. Đến gần nửa đêm, tổng trấn mới đến thư phòng và ra lệnh cho bọn tôi tớ đều phải rút lui hết. Y đưa ra năm mươi lạng bạc đặt ngay ở trên bàn và nói:
                    - Nhờ ông cầm lấy cho! Tôi mời ông đến đây là chỉ có việc này thôi: Tôi muốn mua của ông một chữ.
                    Thư biện run cầm cập:
                    - Xin cụ nói cho con biết cái gì; nếu con có thể làm được thì xin làm. Nhưng dù chết con cũng không dám nhận một cái gì của cụ thưởng.
                    - Đừng nói thế! Ta không làm việc gì liên lụy đến anh đâu! Ngày mai có lệnh cấp trên cho ta đem quân đi. Khi nào lệnh này đến phủ, anh chỉ việc thay cái chữ “đem binh mã của mình” bằng “đem nhiều binh mã”. Đây là tiền thưởng công cho anh. Tôi không đòi hỏi gì nữa.
                    Thư biện vâng dạ, lấy số tiền và được thả về.
                    Mấy hôm sau, tri phủ đưa lệnh xuất quân đến giục Thang tổng trấn, trong lệnh có câu “đem nhiều binh mã” Thang lấy ba “dinh” và hai “hiệp”(2) do mình điều khiển.
                    Quân sĩ đều chuẩn bị lương thực sẵn sàng.
                    Đêm giao thừa, tham tướng và thủ bị ở hai hiệp Thanh Giang và Đống Nhân bẩm:
                    - Binh pháp tránh dùng binh ngày hối.(3)
                    - Không can gì! Dùng binh kỳ diệu là tuỳ theo người! Hôm nay bọn Miêu đang ăn tết, ta có thể nhân lúc chúng sơ hở mà đánh.
                    Tổng trấn ra lệnh cho tham tướng Thanh Giang dẫn quân của mình từ Tiêu Thạch Nhai đến Cổ Lâu Pha để cắt đứt đường rút lui của địch. Lại sai thủ bị Đông Nhân dẫn quân của mình đi từ núi Thạch Bình thẳng đến gò Cửa Khúc để đánh vào phía trước. Còn mình dẫn trung quân đến Dã Dương. Điều động xem, bắt đầu tiến quân. Thang nói:
                    - Sào huyệt của bọn Miêu phản nghịch ở đầm Dã Dương. Nếu chúng ta theo đường cái mà đánh vào thì chúng sẽ đựa vào chỗ hiểm, cứ ung dung đợi chúng ta đến để đánh và do đó khó lòng đánh thắng được.
                    Thang tổng trấn hỏi Tang Kỳ:
                    - Ngươi có biết đường nhỏ nào đi xuyên về phía sau không?
                    - Tôi biết. Nếu đi từ sườn núi Hương Lô vượt núi đến khe Thiết Khê đi quặt ra phía sau thì có thể bớt được mười tám dặm. Nhưng suối ấy lạnh lắm, nay đã đóng băng rồi và đi cũng khó.
                    Thang tổng trấn nói:
                    - Không ngại.
                    Bèn ra lệnh cho đội kỵ binh mang giày da sơn dầu và đội bộ binh mang giày trèo núi. Rồi tất cả trung quân đi theo con đường đã định.
                    Bấy giờ, tù trưởng Miêu đang tụ tập đông đủ đàn ông đàn bà ở trong động để ăn mừng năm mới, uống rượu và chơi nhạc, Phùng Quân Thụy vốn là một thằng lưu manh, đã lấy con gái của tù trưởng Miêu, đang ngồi với bố vợ nhìn những người đàn bà Miêu mặc áo xanh, áo đỏ đánh trống và thanh la, múa hát theo điệu Miêu. Đột nhiên người lính canh chạy vào!
                    - Nguy rồi! Hoàng đế đã sai binh mã đến đây tiêu diệt chúng ta! Họ đã đến gò Cửu Khúc rồi!
                    Tù trưởng hồn vía bay lên mây, vội vàng ra lệnh cho hai trăm người mang giáo ra đối địch. Một tên lính canh khác lại chạy vào báo:
                    - Rất nhiều binh mã đã đến sườn Cô Lâu! Nhiều vô kể! Tù trưởng và Phùng Quân Thụy đang hoảng hốt không biết tính sao thì nghe tiếng súng nổ, đằng sau núi, đuốc sáng rực trời và tiếng hò hét “giết! giết!” vang trời, rồi quân lính từ trên cao ào ào đổ xuống như mưa. Tù trưởng dẫn quân ra liều mạng giáp chiến. Nhưng địch làm sao nổi quân lính của Thang, tay cầm giáo, kích quét sạch đến đầm Dã Dương. Binh lính Miêu chết và bị thương quá nửa. Tù trưởng và Phùng Quân Thụy tìm một con đường nhỏ chạy đến một động Miêu khác.
                    Tiền quân của thủ bị Đồng Nhân và hậu quân của tham tướng Thanh Giang đều gặp nhau ở đầm Dã Dương. Họ lùng tất cả các sào huyệt, giết tất cả những người Miêu sống sót, bắt gái Miêu thổi cơm hầu hạ trong doanh trại. Thanh tổng trấn ra lệnh cho ba quân đóng ở đầm Dã Dương. sau đó, tham tướng và thủ bị đến trướng để chúc mừng thắng trận. Thang nói:
                    - Hai tướng quân không nên coi thường. Mặc dầu bọn Miêu bại trận, nhưng chúng đã chạy đến động khác rồi. Chắc chắn chúng đã xin quân cứu viện và tối nay sẽ đánh vào dinh trại chúng ta. Chúng ta phải phòng bị mới được.
                    Và hỏi Tang Kỳ: - Động gần đây nhất là động gì?
                    - Có động Thụ Nhãn cách đây không đầy ba mươi dặm.
                    Thang tổng trấn nói:
                    - Ta đã có cách!
                    Và quay lại nói với tham tướng và thủ bị:
                    - Hai vị tướng quân! Hãy đem binh mã của mình mai phục ở cầu Thạch Trụ vì chắc chắn bọn Miêu sẽ đi theo đường ấy. Đợi đến khi chúng rút lui và nghe tiếng súng hãy ra lệnh cho tất cả nhảy xổ ra quét sạch chúng.
                    Hai người vâng lệnh ra đi. Sau đó, Thang tổng trấn sai chọn những người đàn bà Miêu hát hay nhất, bảo họ chải tóc, mặc quần áo thêu rồi hát và múa ở trong trướng trung quân, trong khi tất cả lính, ngựa và tướng sĩ ẩn sâu vào trong núi. Quả nhiên, canh năm đêm ấy, tù trưởng Miêu dẫn binh lính từ động Thụ Nhãn mang dao, giáo, im lặng sang qua cầu Thạch Trụ. Chúng thấy đèn lồng và đèn sáp sáng trưng trong trướng trung quân ở đầm Dã Dương, lại nghe tiếng hát và tiếng nhạc. Chúng vừa xông vào vừa reo hò. Nhưng chúng lầm! Trong trướng ngoài mấy mươi người đàn bà Miêu thì không còn ai nữa. Biết là bị mắc mưu, chúng lao ra ngoài. Bấy giờ binh mã mai phục sẵn ở trong núi nhất tề xông ra, tiếng hò reo vang tận trời xanh. Tù trưởng Miêu liều mạng dẫn quân xông ra phía cầu Thạch Trụ. Vừa lúc ấy, súng nổ vang và quân mai phục dưới cầu nhảy lên, vây lấy quân Miêu. Cũng may, quân Miêu da chân rất dày, không sợ núi đá cũng như gai nhọn. Cho nên nhanh như những con khỉ hay những con thỏ, chúng trèo lên núi trốn thoát.
                    Tổng trấn đại thắng. Sau khi điểm lại người ngựa ba “dinh” hai “hiệp” thì thấy tổn thất rất ít. Họ đắc thắng trở về, đến phủ Trấn Viễn, ở đấy Lôi tri phủ ra gặp và chúc mừng.
                    Sau đó tri phủ hỏi về tù trưởng Miêu là Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy. Thang nói:
                    - Chúng ta đã đánh thắng mấy trận, chúng chạy bán sống bán chết. Tôi cho rằng chúng chết rấp ở ngòi rãnh nào rồi!
                    Lôi nói:
                    - Đành rằng thế! Nhưng các quan trên hỏi việc ấy thì khó mà trả lời ngay. Nói như thế có vẻ qua loa quá!
                    Thang không biết trả lời sao. Y trở về nha môn, hai con chào đón và hỏi thăm sức khoẻ. Nhưng vì việc trên, y cứ áy náy không yên, đêm đó không sao ngủ được. Sáng sau, y gửi một báo cáo tỉ mỉ về việc xuất binh và thắng trận. Lời phê của tổng đốc cũng y như lời nói của Lôi tri phủ. Tổng đốc chỉ hỏi về hai người tội phạm chính là Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy:
                    “Phải bắt được chúng ngay và gửi về nha môn, sau đó mới tâu lên trên được”.
                    Thang hoảng sợ không biết tính sao. Bấy giờ Tang Kỳ đang đứng bên cạnh quỳ xuống mà bẩm:
                    - Con biết tất cả mọi con đường ở trong động Miêu. Để con đi tìm xem Biệt Trang Yến ở đâu, rồi cụ hãy nghĩ cách bắt hắn.
                    Thang tổng trấn mừng quá, cho Tang Kỳ năm mươi lạng bạc bảo y đi điều tra cho cẩn thận.
                    Tám chín ngày sau, Tang Kỳ trở lại nói:
                    - Con đã đi thẳng đến động Thụ Nhãn. Con biết tin vì Biệt Trang Yến mượn binh đánh cướp dinh bị thua nên tù trưởng Miêu ở đấy bực bội với hắn bây giờ hắn lại chạy sang động Bạch Trùng và nghe tin rằng Phùng Quân Thụy cũng ở đấy. Tất cả chỉ có độ trên mười người trong gia đình thôi, không còn một tên lính và một con ngựa nào nữa! Con cũng nghe nói đến cái kế chúng định bày ra ngày mười tám tháng giêng là ngày thần Thiết Khê xuất hiện, khắp thành ai nấy đều đóng cửa ngồi ở trong nhà. Hôm ấy chúng định ăn mặc giả làm ma và vào nha môn ngài để trả thù. Mong ngài nghĩ cách đề phòng.
                    Thang tổng trấn nói:
                    - Được rồi!
                    Bèn thưởng dê và rượu cho Tang Kỳ và bảo y đi nghỉ.
                    Theo phong tục nhân dân địa phương phủ Trấn Viễn thì ngày mười tám tháng giêng là ngày Thần Long cho em gái đi lấy chồng. Vì cô em xấu xí lắm, nên cô ta không muốn cho ai nhìn mình. Thần Long sai một đoàn binh đi hộ vệ. Nhà nào cũng phải đóng cửa và không ai được ra ngoài nhìn. Nếu ra ngoài, cô ta mà biết thì sẽ làm mưa to gió lớn nước dâng cao ba thước và nhiều người chết. Đó là tục lệ lâu đời ở đấy.
                    Hôm mười bảy. Thang tổng trấn gọi binh lính tuỳ tùng đến bảo:
                    - Đây có ai biết Phùng Quân Thụy không?
                    Trong đó có một người cao lớn ra quỳ xuống bẩm:
                    - Con biết!
                    - Tốt lắm!
                    Thang bảo y mặc một bộ áo trắng đội một cái mũ đen bằng giấy thật cao, lấy phấn bôi mặt cho đúng như câu chuyện tả con quỷ ở đấy. Lại bảo bọn đầy tớ giả làm lũ đầu trâu mặt ngựa Diêm Vương, quỷ dạ xoa, những quái vật rất hung ác. Thang nói với người cao lớn:
                    - Thấy Phùng Quân Thụy thì ngươi phải túm cho được hắn rồi ta sẽ trọng thưởng.
                    Khi tất cả đã sẵn sàng, tổng trấn ra lệnh cho người giữ cửa Bắc mở cửa thành trước khi trời sáng.
                    Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy trá hình là người nhà quê đi xem hội, mang theo trong người một con dao nhọn, đang giữa nửa đêm lẻn đến cửa Bắc. Thấy cửa thành mở, chúng lẻn đến trường chuồng ngựa của Thang tổng trấn, mười người tay cầm vũ khí trèo tường nhảy vào sân. Ánh trăng lờ mờ chiếu sáng cái sân rộng. Chúng đang ngơ ngác không biết đi đường nào, thì bỗng thấy một con quái vật nằm nấp ở bên tường, tay cầm cái thang la, đánh hai hồi lanh lảnh. Tường lung lay như bị đổ, rồi hàng chục ngọn đuốc chiếu sáng và hàng chục con quỷ nhảy ra tay cầm giáo, câu liêm.
                    Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy hoảng sợ quá chân như bị chôn xuống đất, thần Thiết Khê bước ra, lấy câu liêm móc lấy Phùng và reo lên:
                    - Tao đã bắt được thằng Phùng Quân Thụy rồi!
                    Mọi người xông vào, cả bọn Miêu mười mấy người đều bị bắt. Không đứa nào chạy thoát. Chúng bị đưa vào giam nhà thứ hai cho tổng trấn điểm số và hôm sau dẫn cả bọn đến nha môn tri phủ. Lôi tri phủ mừng rỡ thấy tên đầu sỏ và Phùng Quân Thụy đều bị bắt. Sau khi đọc mệnh lệnh nhà vua. Lôi tri phủ đem chém và bêu đầu Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy để răn dân chúng. Những người Miêu khác cũng bị giết. Sau đó y tâu về kinh. Dụ ở kinh ra trả lời:
                    “Để trừng trị bọn Miêu ở động Kim Cẩu, Thang Tấn đã khinh suất tiến vào sâu, làm hao tổn tiền và lương. Nay giáng ba cấp và điều đi nơi khác để răn những kẻ khác tham công Khâm thử”.
                    Thang tổng trấn nhận được bản sao thở dài. Sau đó có công văn ở bộ đến và viên quan mới đến thay. Sau khi bàn giao ấn tín xong. Thang bàn với hai con cùng thu xếp hành lý về nhà.
                    Chỉ nhân phen này khiến cho:
                    Tướng quân đi mất, cây cao xơ xác luống bùi ngùi;
                    Danh sĩ ngồi bàn, mồ mả tiên nhân lo cất đặt.
                    Muốn biết việc sau thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.
                    ----------
                    (1) Lối xử kiện của quan huyện thực là kỳ quặc. Có quan huyện như thế không trách gì có nhiều gặc cướp.
                    (2) Một dinh cơ năm trăm người, một hiệp có ba nghìn người.
                    (3) Ngày ba mươi.


                    hết: Hồi 43, xem tiếp: Hồi 44


                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #40
                      Hồi 44

                      Thang tổng trấn thành công về cố hương
                      Dư minh kính nâng chén bàn táng sự

                      Thang tổng trấn bàn bạc với hai con thu xếp hành lý để về. Lôi tri phủ đưa ra bốn lạng bạc nhờ bọn bếp của Thang làm một bữa tiệc rồi mời Thang đến nha môn của mình ăn. Hôm Thang lên đường, các quan trong thành đều đi tiễn. Thang đi đường thủy đến Thường Tức, qua hồ Động Đình theo Trường Giang về Nghi Trưng. Trên đường vô sự. Thang hỏi hai con về việc học hành hàng ngày và ngắm xem phong cảnh trên sông. Trong vòng hai mươi ngày đến đảo Sa Mã, Thang sai một người đầy tớ về nhà trước để chuẩn bị đón tiếp. Lão Lục nghe tin liền đến bến Hoàng Nê đón, chào chú và hai em họ và nói chuyện ở nhà. Thang thấy hắn ăn nói liến thắng nên rất bực và nói:
                      - Ta đi đã ba mươi năm về thấy mày đã lớn, nhưng mày học ở đâu cái lối ăn nói hạ lưu ấy?
                      Rồi Thang để ý thấy thằng cháu hễ mở miệng thì một là “bẩm cụ” hai là “bẩm cụ” nên nổi giận:
                      - Đồ hạ lưu! Sao mày ăn nói như thế! Tao không phải chú của mày sao? Tại sao mày không gọi tao là “chú” mà cứ gọi là “cụ”.
                      Nhưng Lão Lục thì vẫn cứ nói với hai công tử là “ông cả” “ông hai”. Cái đó càng làm cho Thang tổng trấn nổi giận hơn nữa:
                      - Đồ ăn cướp, mày đáng chết! Mày đã không lo dạy dỗ em họ mày, lại gọi nó là ông cả, ông hai à!
                      Lão Lục bị mắng mất hồn cúi mặt xuống.
                      Về đến nhà, Thang tổng trấn lạy tạ tổ tiên và mở hành lý ra. Người anh nguyên là tri huyện Cao yếu nay cũng cáo lão về nhà, anh em gặp nhau rất vui mừng, cùng uống rượu mấy ngày liền. Thang không đi ra phố cũng không đi lên phủ thăm các quan, chỉ ở trong cái biệt thự gần bờ sông, vui chơi cầm sách và dạy con học. Tuy vậy sau ba bốn tháng, y vẫn không vừa lòng về những bài văn bát cổ của con mình. Y nghĩ bụng:
                      - Văn chương như thế này thì không bao giờ thi đỗ! Bây giờ nhân lúc ở nhà, ta phải tìm cho chúng một thầy học.
                      Và trong lòng y cứ lo lắng về việc ấy.
                      Một hôm người giữ cổng đi vào báo:
                      - Có ông Tiêu thứ hai ở Dương Châu đến thăm. Thang tổng trấn nói:
                      - Đó là con ông bạn ta, nhưng không biết khi gặp anh ta, ta có nhận ra được không?
                      Bèn bảo mời ngay vào, Tiêu Bá Tuyền vào chào. Tổng trấn thấy y đẹp trai và ăn mặc rất lịch sự; tổng trấn đáp lễ, hai người ngồi xuống. Tiêu Bá Tuyển nói:
                      - Xin chúc mừng chú đã về. Cháu đáng lý phải đến sớm hơn để hầu thăm. Nhưng gần đây ông cụ Cao hàn lâm thị giảng ở Nam Kinh về hưu, cụ Cao đi qua Dương Châu nên cháu có giữ cụ ở lại ít hôm. Vì vậy cháu đến đây hơi muộn.
                      - Anh đã thi đỗ vào trường chưa? - Cháu được may mắn là ông chủ khảo trước đây đã lấy cháu vào ở trường bác sĩ. Tuy điều này không phải là hiếm nhưng cháu rất mừng là cách đây ba hôm cả thành đều học văn chương của cháu, điều đó chứng tỏ nhận xét và sự cân nhắc của quan chấm thi không phải là thiên lệch.
                      Thang tổng trấn thấy y ăn nói linh lợi, nên giữ lại thư phòng ăn cơm, gọi hai con ra tiếp. Chiều hôm ấy, Thang nói với y rằng mình muốn tìm một thầy học để giảng cử nghiệp cho hai con. Tiêu Bá Tuyền nói:
                      - Cháu gần đây có biết một người, ông ta tên là Dư Đặc, tự là Hữu Đạt người huyện Ngũ Hà đỗ khoa minh kinh, rất thông thạo về cử nghiệp. Hiện nay ông ta dạy trong nhà một người buôn muối, nhưng ở đấy ông ta không vừa ý lắm. Nếu chú muốn mời thầy dạy thì mời ông ta là hơn cả. Chú gửi một cái thư cho ông ta và cho một trong hai anh cùng đi với cháu thì ông Dư sẽ đến ngay. Tiền nuôi mỗi năm chẳng qua chỉ đến năm mươi lạng bạc thôi.
                      Thang tổng trấn nghe vậy rất mừng, giữ Tiêu Bá Tuyền ở luôn hai đêm, sau đó viết thư mời và bảo người con cả thuê một chiếc thuyền con cùng đi với Tiêu đến Dương Châu, đến cái nhà ở bên bờ sông của một người buôn muối họ Ngô để thăm Dư tiên sinh. Tiêu Bá Tuyền bảo Thang Do viết một tờ danh thiếp đề “văn sinh”, sau này ông Dư đã làm thầy rồi thì sẽ đổi là “môn sinh, Thang Do nói:
                      - Ông ta vừa là thầy vừa là bạn mà thôi. Bèn viết “bạn học và em”.
                      Tiêu Bá Tuyền không làm thế nào được, đành phải miễn cưỡng cầm danh thiếp và cùng đi đến nhà Dư. Người giữ cửa đưa thiếp của Tiêu và mời vào thư phòng. Thấy Dư đi ra đầu đội mũ vuông, mình mặc áo màu lam, chân đi giày đỏ, da mặt trắng, râu ba chòm, mắt cận thị, trạc độ năm mươi. Sau khi vào thư phòng, Dư chào hai người và ngồi xuống:
                      - Anh Bá Tuyền! Hôm trước anh đi Nghi Trưng phải không? Anh về đây từ bao giờ thế?
                      - Tôi đi Nghi Trưng thăm chú tôi là Thang tổng trấn. Chú tôi giữ tôi lại mấy hôm. Đây là người con của chú tôi là anh Thang Do.
                      Tiêu lấy ở trong ống tay áo ra một tờ danh thiếp. Sau khi nhìn tờ danh thiếp Dư đặt nó trên bàn nói:
                      - Như thế này thật là hân hạnh cho tôi quá! Tiêu nói Thang tổng trấn muốn mời Dư làm thầy dạy học!
                      - Vì thế cho nên chúng tôi đến đây. Nếu anh vui lòng nhận, tôi sẽ đưa thư và tiền.
                      Dư Hữu Đạt cười, nói:
                      - Cụ nhà làm quan cao, các công tử lại tài giỏi, tôi già nua và dốt nát dám đâu dạy! Xin để cho tôi suy nghĩ rồi sẽ trả lời.
                      Hai người từ biệt ra đi. Hôm sau, Dư Hữu Đạt đến thăm Tiêu Bá Tuyền, Dư nói:
                      - Anh Bá Tuyền ạ! Tôi không thể làm được việc anh nói hôm qua.
                      - Tại sao thế?
                      - Nếu ông ta đã nhận tôi làm thầy, tại sao lại viết danh thiếp đề là “em”. Rõ ràng ông ta không muốn học gì ở tôi. Sự việc là như thế. Tôi có một người bạn cũ nay làm tri châu ở châu Vô Vi. Hôm trước đây, tôi có nhận được thư của ông ta mời tôi đến đấy, cho nên tôi định đến thăm. Nếu ông ta giúp đỡ tôi một ít thì còn hơn là dạy học một năm. Trong vài ngày nữa tôi sẽ từ biệt ra đi. Nhờ anh thưa lại và tiến cử người khác cho quan tổng trấn.
                      Tiêu Bá Tuyền biết không sao ép nài được nữa, nên nói lại với Thang Do để tìm người khác.
                      Vài hôm sau quả nhiên Dư Hữu Đạt cáo từ nhà chủ, thu xếp hành lý để trở về ngũ Hà. Nhà Dư ở đường Kim Gia. Mới bước ra cửa, người em ruột đã chạy ra. Người này là Kim Trì tự là Hữu Trọng cũng là một trong những người tú tài giỏi nhất ở Ngũ Hà.
                      Bấy giờ ở ngũ Hà, họ Bành có mấy người đỗ tiến sĩ, hai người được vào hàn lâm. Người ở Ngũ Hà vốn tầm mắt hẹp hòi, cho nên tất cả huyện đều kính phục họ. Lại có một gia đình khác họ Phương, người Huy Châu, mở hiệu cầm đồ ở Ngũ Hà, sau chuyển sang buôn muối, mạo nhận là người ở địa phương và muốn lấy người địa phương đó. Trước đây, họ Dư ở đường Dư Gia vẫn đời đời kết hôn với gia đình họ Ngu là gia đình hương thân. Lúc đầu, cả hai họ đều không muốn kết hôn với họ Phương. Nhưng về sau, cũng có một vài người bất tài và vô liêm sỉ tham của hồi môn của họ Phương nên bắt đầu lấy con gái họ Phương và hai bên thành bà con. Nhưng sau nhiều đám cưới như thế thì họ Phương không những không cho của hồi môn mà lại nói vung lên rằng họ Dư và họ Ngu tham tiền họ Phương nên đến cầu thân.
                      Trong họ Ngu và họ Dư có hai hạng người không kể gì đến thể diện ông cha. Một bọn là bọn ngốc. Hành động của họ tóm lại trong tám chữ “Lấy gái họ Phương, chơi bạn họ Bành”. Một bọn thì tinh ranh hơn, hành động của họ tóm lại trong tám chữ “Bụng nghĩ họ Phương, miệng nói họ
                      Bành”. Hai câu đó đủ nói lên họ là người vô sỉ như thế nào. Giả thử không phải họ Phương mà mạo nhận là người Ngũ Hà thì chắc họ sẽ không sao có vợ, và nếu họ Bành không có ai đỗ tiến sĩ cả thì họ sẽ không có bạn. Bọn này trong bụng chỉ toàn nghĩ đến thế lợi. Nhưng kỳ thực chỉ là bọn ngốc thượng hạng. Còn như bọn gian giảo thì trong bụng muốn lấy con gái họ Phương, nhưng họ Phương lại không thèm. Đã không dám nhận việc đó cho rồi, chúng lại mở miệng nói quanh nói quẩn để lừa người khác. Người thì nói: “Cụ Bành là thầy học của tôi! Ông Bành thứ ba có mời tôi vào thư phòng, chúng tôi nói chuyện tâm sự nửa ngày trời. Người thì nói: ”Ông Bành thứ tư ở Bắc Kinh mới viết cho tôi một lá thư:
                      Nhờ cách ăn nói như vậy cho nên khi họ được mời đi dự tiệc, họ thường đem những câu chuyện ấy nói trong bữa tiệc để loè người khác. Phong tục ở Ngũ Hà xấu như vậy.
                      Nhưng anh em Dư Hữu Đạt và Dư Hữu Trọng thì vẫn giữ lời giáo huấn của ông cha, cho nên đóng cửa đọc sách, không nghĩ gì đến việc thế lợi bên ngoài. Dư Hữu Đạt tuy trong lúc giao du quen nhiều người làm quan ở các phủ, châu, huyện nhưng khi nào về thì không bao giờ ông ta nhắc đến họ. Lý do là vì dân Ngũ Hà yên chí rằng ai đỗ cử nhân, tiến sĩ thì cũng như là tri châu, tri huyện vậy. Khi những người này xin xỏ việc gì, thì nhất định quan tri châu, tri huyện phải y. Nếu có ai nói cho họ biết quan huyện kính trọng người nào đấy vì phẩm hạnh của ông ta hay quan chơi với người nào đấy vì ông ta là một danh sĩ, thì họ sẽ cười méo cả miệng. Đó là không nói đến những người thi hỏng. Nếu họ đưa danh thiếp vào thì dân Ngũ Hà, nói chung, cho rằng gặp tri huyện không phải là việc dễ. Về phẩm hạnh và văn chương, hai anh em họ Dư xưa nay không mấy ai bằng. Nhưng vì quan huyện không bao giờ đến thăm họ và họ cũng không lấy con gái họ Phương, không chơi với họ Bành nên mặc dầu bà con không dám khinh nhưng cũng không kính trọng họ.
                      Hôm ấy Dư Hữu Trọng đưa anh vào nhà, chào và sửa soạn cơm rượu để tiếp anh. Hai anh em vừa ăn vừa nói chuyện việc xảy ra trong năm. Uống rượu xong, Dư Hữu Đạt không vào phòng nghỉ mà ở lại thư phòng cùng ngủ một giường với em. Đến đêm, Hữu Đạt nói ý định của mình đi châu Vô Vi thăm một người bạn. Dư Hữu Trọng nói:
                      - Anh ở nhà một thời gian nữa chứ! Em muốn lên phủ thi một chút, anh đợi khi nào em về hẵng đi.
                      - Em không biết bao nhiêu tiền dạy học ở Dương Châu ta tiêu hết ráo cả rồi à! Bây giờ phải đi ngay đến châu Vô Vi lấy ít tiền để tiêu vào mùa hạ đây! Em cứ lên phủ mà thi. Ở nhà đã có vợ và chị lo liệu cho. Anh em mình bấy lâu vẫn cứ đóng cửa mà sống. Vậy em cần anh ở nhà làm gì?
                      - Lần này anh đi, nếu có được vài chục lạng thì khi trở về chúng ta có thể chôn cất cho thầy mẹ. Quan tài cha mẹ mười mấy năm nay ở trong nhà. Mỗi khi nghĩ đến việc đó là em không sao an tâm được.
                      - Phải đấy! Khi nào trở về, ta phải làm việc ấy ngay. Vài ngày sau, Dư Hữu Đạt đi châu Vô Vi. Mười hôm sau, quan chủ khảo đến Phượng Dương. Dư Hữu Trọng thu xếp hành lý đến đấy thuê một cái phòng để ở. Hôm ấy là ngày mồng tám tháng tư. Hôm mồng chín, quan chủ khảo hành hương. Mồng mười, treo bảng nhận đơn. Ngày mười một, niêm yết số học sinh tám huyện ở Phụng Dương được thi. Ngày mười lăm công bố người đỗ: Mỗi huyện ba người đỗ, trong đó có Dư Hữu Trọng. Ngày mười sáu, thi phúc thí. Ngày mười bảy, công bố kết quả. Hữu Trọng đỗ thứ hai trong số hạng nhất. Y ở Phụng Dương đến ngày hai mươi tư tiễn quan chấm thi xong mới trở về Ngũ Hà.
                      Khi người anh là Hữu Đạt đến châu Vô Vi, tri châu ở đấy nhờ tình bạn cũ, giữ lại mấy ngày nói:
                      - Tôi mới làm quan ít lâu nên không có tiền cho anh. Nay có một việc anh có thể giúp và tôi sẽ chuẩn y. Con người ấy có thể đưa ra bốn trăm lạng chia cho ba người. Như vậy, phần của anh là một trăm ba mươi lạng. Khi trở về anh có thể dùng số tiền ấy để chôn cất hai bác. Sau này tôi sẽ giúp anh việc khác nữa.
                      Hữu Đạt mừng lắm cám ơn tri châu và tìm bị cáo. Hắn là Phong Ảnh can tội giết người. Dư nói giúp hắn Quan tri châu chuẩn y. Hắn đưa tiền ra và Dư từ biệt tri châu, thu xếp hành lý để về nhà.
                      Đường về đi qua Nam Kinh, Hữu Đạt nghĩ bụng: Đỗ Thiếu Khanh bây giờ đang ở cái nhà bên sông gần cầu Lợi Thiệp. Ông ta là em họ mình; mình nhân tiện đến thăm chơi.
                      Hữu Đạt bèn vào thành đến tìm Đỗ Thiếu Khanh. Thiếu Khanh ra tiếp. Thấy Dư, Đỗ Thiếu Khanh mừng rỡ.
                      Chào nhau xong, hai người cùng ngồi, ôn lại những chuyện xảy ra hơn mười năm từ khi xa nhau. Dư thở dài mà rằng:
                      - Cả cái cơ nghiệp đồ sộ như thế, thật là đáng tiếc. Em trước là con một ông quan, nay phải viết văn mà sống. Cuộc đời sa sút như thế thì chịu làm sao được!
                      - Tôi ở đây vui với bạn bè sông núi. Bây giờ cũng quen rồi. Không giấu gì anh, tôi là cái thằng quê mùa mộc mạc, vợ chồng nuôi mấy đứa con, áo vải ăn rau, trong lòng bình thản. Việc cũ đã qua có tiếc cũng vô ích.
                      Nói xong Thiếu Khanh bưng trà mời anh họ uống. Uống trà xong, Đỗ đi vào nhà hỏi vợ xem có thể dọn một bữa tiệc mời Hữu Đạt ăn không. Bấy giờ Đỗ Thiếu Khanh đã nghèo, không dọn được tiệc nên đang nghĩ đến việc đem cái gì để cầm. Hôm ấy là mồng ba tháng năm, vừa gặp lúc nhà Trang Trạc Giang gửi đến một gánh lễ vật tết Thiếu Khanh. Người đầy tớ mang một cái quả trong có một con cá, hai con vịt rán, một trăm bánh nếp, hai cân đường trắng, lại có bốn lạng bạc. Đỗ Thiếu Khanh nhận lễ vật xong viết thiếp cảm ơn và đưa cho người đầy tớ cầm về. Đỗ Thiếu Khanh nói với vợ:
                      - Thế là có thể tiếp khách rồi đấy!
                      Thiếu Khanh sai mua thêm ít thức ăn nữa và vợ Đỗ thân hành dọn tiệc. Trì Hành Sơn và Vũ Thư vẫn ở cạnh. Thiếu Khanh cũng viết giấy mời họ đến gặp Dư Hữu Đạt. Khi họ đến, hỏi thăm sức khoẻ xong mọi người cùng ngồi vào bàn uống rượu. Trong khi ăn tiệc, Dư nhắc đến ý định của mình muốn tìm một chỗ để chôn cất cha mẹ. Trì Hành Sơn nói:
                      - Này anh! Miễn là đất khô ráo, không có gió và mối là anh có thể chôn cất hai cụ. Còn cái chuyện phát phú, phát quí, hoàn toàn là bịa đặt tất.
                      Dư nói:
                      - Đúng thế! Nhưng ở quê tôi, người ta chú ý việc này lắm. Do việc tìm đất rất khó khăn nên họ thường hoãn việc chôn cất cha mẹ. Tôi không bao giờ để tâm đến việc phong thủy. Các anh có biết nguồn gốc câu chuyện về Quách Phác(1) như thế nào không?Trì thở dài:
                      - Từ khi chức quan coi việc chôn cất bị bỏ bê, lệ chôn theo họ(2) không được tôn trọng nữa. Nhiều người có học thức cũng chạy theo thuyết phong thủy. Nhưng càng chạy theo phong thủy thì càng tỏ ra bất hiếu.
                      Dư kinh ngạc:
                      - Anh nói gì thế?
                      - Để tôi đọc anh nghe mấy câu thơ:
                      Khí tản gió xông đất chẳng lành
                      Tiên sinh điểm huyệt lẽ sao đành?
                      Giữa trưa chưa khỏi vòng tai nạn.
                      Người thế tin gì sách táng kinh!
                      Đó là một bài thơ của một nhà thơ viết trên mộ Quách Phác. Không điều gì làm tôi bực mình hơn là bọn thầy địa lý ngày nay, chúng chỉ mượn lời Quách Phác nói: đất này phát tiến sĩ, đất này phát trạng nguyên. Tôi hỏi anh: danh hiệu trạng nguyên là bắt đầu từ đời Đường mới có. Như thế thì Quách Phác sống ở đời Tần làm sao biết được danh hiệu đó mà lại nói đất thế nào thì phát trạng nguyên? Thật là buồn cười vô cùng. Nếu từ xưa có thể đoán được công danh theo địa lý thì tại sao Hàn Tín lúc chôn mẹ tìm một nơi cao ráo rộng rãi, sau đó làm đến Hoài âm hầu nhưng vẫn không khỏi bị tru di tam tộc? Như thế thì đất kia tốt hay xấu? Lại càng buồn cười hơn khi những cái bọn tục nhân kia nói rằng lăng mộ triều ta là do Lưu Cơ chọn đất. Lưu Cơ là con người đại hiền nhất trong triều đại ta. Ông ta lo việc binh, nông, lễ, nhạc, còn chưa đủ thì giờ, hơi đâu mà lo đến việc chôn đất? Không! Khi Hồng vũ lên ngôi thì việc chọn đất là việc bọn thuật sĩ làm chứ Lưu Cơ không có liên quan gì đến đó hết.
                      Dư Hữu Đạt nói:
                      - Anh giảng giải như vậy thật là rõ ràng, điếc cũng phải tỏ, mù cũng phải sáng.
                      Vũ Thư nói:
                      - Lời của anh Hành Sơn thật là không sai chút nào. Năm trước đây có trong thành này có một chuyện xảy ra, tôi xin nói các anh nghe.
                      Hữu Đạt nói:
                      - Tôi muốn nghe lắm, anh nói đi.
                      - Ở cầu Hạ Phù ngõ Thi gia có nhà thi ngự sử...
                      Trì Hành Sơn nói:
                      - Cái việc của Thi ngự sử tôi cũng có nghe nhưng không rõ lắm.
                      Vũ Thư nói:
                      - Thi ngự sử có một người em, anh này cho rằng Thi ngự sử đỗ tiến sĩ mà mình thì không đỗ là vì mồ mả bà mẹ không tốt nên chỉ phát về phía người anh mà không phát về phía người em. Ông ta mới nuôi một thầy phong thủy ở trong nhà và suốt ngày bàn bạc về việc chôn cất mẹ. Ngự sử nói: Mẹ chôn cất đã lâu rồi không nên dời đi nơi khác nữa. Nói rồi khóc lóc van xin người em, nhưng người em vẫn cứ đòi dời mả mẹ đi. Anh chàng phong thủy kia dọa dẫm: Nếu ông mà không dời mả mẹ đi thì không những ông hai không bao giờ làm quan mà còn sẽ bị mù mắt. Người em lại càng hoảng sợ, liền nhờ thầy phong thủy đi khắp nơi tìm đất. Người em nuôi sẵn một thầy phong thủy trong nhà nhưng lại quen rất nhiều phong thủy ở ngoài. Khi ông thầy phong thủy này đã tìm ra được đất, người em mời thêm mấy thầy phong thủy khác đến xem. Trò đời thật buồn cười! Mấy ông thầy kia cứ chê bai lẫn nhau chẳng ai chịu ai! Khi một thầy phong thủy tìm được đất này, thì tức khắc thầy phong thủy kia cho đất ấy hỏng.
                      Cuối cùng, ông thầy phong thủy lại tìm một nơi khác. Hắn đút tiền cho một người thân thích ở bên trái miếng đất kia tung tin rằng một đêm nằm mê thấy bà cụ ông ngự sử mặc áo lễ, đội mũ phượng đã chỉ miếng đất ấy cho hắn, ý muốn được cất mộ ở đấy. Vì chính bà cụ đã chọn đất cho mình, nên tất cả các thầy phong thủy kia không nói vào đâu được. Thế là dời mả mẹ đến để vào đó. Hôm ấy, Thi ngự sử và người em quỳ bên cạnh mả mẹ. Khi mả vừa đào lên thì hơi nóng trong quan tài phụt ra, đập vào mắt người em. Người em mù ngay tại chỗ. Nhưng hắn lại càng yên chí rằng ông thầy phong thủy của hắn là một ông thầy biết cả quá khứ lẫn tương lai. Sau đó, hắn trả cho ông ta mấy trăm lạng.
                      Dư Hữu Đạt nói:
                      - Dân ở chỗ tôi rất thích việc dời mả. Anh Thiếu Khanh! Theo anh như thế là đúng hay sai?
                      - Tôi xin nói thẳng: triều đình phải ra một cái luật bắt buộc ai muốn dời mả thì phải làm một cái đơn đưa đến nha môn và người thầy phong thủy phải cam đoan rành mạch rằng trong quan tài có bao nhiêu tấc nước, có bao nhiêu đấu mối. Nếu mở ra mà quả như vậy thì được. Trái lại nếu có mối có nước mà khi khai quật lên không có, thì người đao phủ đứng bên cạnh sẽ chặt ngay đầu thầy phong thủy chó má, còn người cất mả sẽ bị xử vào tội con cháu mưu giết ông cha và bị xẻo ra từng mảnh. Có thể, cái trò phong thủy mới có thể chấm dứt được.
                      Dư, Vũ, Trì vỗ tay reo:
                      - Hay, hay, phải uống một chén rượu mới được!
                      Nói chuyện một hồi, Dư đem việc Thang tổng trấn mời mình dạy hai người con ra nói, và cười:
                      - Rõ thật là vũ phu!
                      Vũ Thư nói:
                      - Cũng có những người vũ phu nhưng lại nhã hết sức.
                      Vũ Thư đem chuyện Tiêu Vân Tiên ra kể lại và nói:
                      - Anh Thiếu Khanh, anh đem tập tranh ấy đưa cho anh Dư xem.
                      Thiếu Khanh đem tập tranh ra. Sau khi nhìn bức tranh, Hữu Đạt đọc mấy bài thơ của Ngu bác sĩ và của những người khác. Và nhân hơi men, Hữu Đạt làm thêm một bài thơ họa theo vần của mọi người. Ba người kia khen ngợi. Họ uống mãi đến nửa đêm và Dư ở lại với Đỗ liền ba ngày.
                      Ngày thứ ba, một người buôn vịt ở Ngũ hà đến, mang một bức thư của Hữu Trọng. Khi Dư Hữu Đạt giở ra đọc thì mặt tái ngắt.
                      Nhân phen này khiến cho:
                      anh em giúp đỡ, tình cốt nhục nào dám hững hờ;
                      bầu bạn nhường nhau, nghĩa thanh khí càng thêm quấn quít.
                      Muốn biết nội dung bức thư thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.
                      ---------------
                      (1) Quách Phác người đời Tần; tục truyền là tổ phong thủy; làm sách táng kinh. Sau bị Vương Đồn giết khi chính trưa.
                      (2) Thời xưa có lệ chôn cất theo họ, trong vòng năm đời chôn ở một nơi.


                      hết: Hồi 44, xem tiếp: Hồi 45


                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #41
                        Hồi 45

                        Dày hữu nghị thay anh chịu tội lỗi,
                        Bàn địa lý về quán táng song thân

                        Dư Hữu Đạt đưa bức thư nhà cho Đỗ Thiếu Khanh xem. Đại khái bức thư viết: “Ở nhà vừa xảy ra một việc, em đang lo liệu. Anh nhất thiết nhớ có về. Nghe tin anh ở đấy với chú. Thiếu Khanh, em rất yên tâm. Anh cứ ở đấy và đừng có bận tâm gì hết. Khi nào thu xếp công việc xong, em sẽ đến đón anh về”.
                        Dư Hữu Đạt hỏi:
                        - Có việc gì xảy ra?
                        Đỗ nói:
                        - Nếu em anh không muốn nói ra thì anh cũng không có cách gì biết được. Anh cứ ở đây rồi sẽ biết.
                        Dư Hữu Đạt viết thư cho em: “Có việc gì thế? Em viết tất cả cho anh biết thì anh mới yên tâm được. Em không nói chỉ càng làm anh thêm lo lắng mà thôi”.
                        Người bán vịt mang bức thư về cho Dư Hữu Trọng. Lúc đó Hữu Trọng đang nói chuyện với một tên sai nhân ở nha môn phái đến. Hữu Trọng cầm bức thư và bảo người bán vịt về. Hữu Trọng nói với tên sai nhân:
                        - Tờ công văn này là để bắt tên phạm tội Dư Hữu Trọng. Nhưng tôi không bao giờ ở Vô Vi cả. Như vậy tôi đến nha môn để làm gì?
                        - Ai biết ông đến hay không? Tất cả công việc của bọn sai nhân chúng tôi là cứ chiếu theo công văn mà bắt người. Trong nha môn chúng tôi, khi bắt bọn ăn cắp thì đời nào chúng lại thú nhận, ngay lúc bị kìm kẹp gần chết chúng cũng chẳng nói thực bao giờ!Hữu Trọng đành phải lên nha môn với hắn. Y đến công đường gặp tri huyện, quỳ và bẩm:
                        - Con không bao giờ đến Vô Vi. Con không biết gì về việc này hết.
                        - Ta không biết anh có ở đấy hay không! Nhưng ta có một tờ công văn ở châu Vô Vi gửi đến. Anh nói không bao giờ ở châu Vô Vi hết thì hãy nhìn đây.
                        Tri huyện lấy một công văn có dấu son đỏ, bảo sai nhân đưa cho Hữu Trọng. Hữu Trọng đọc: “Về việc quan tri châu ở châu Vô Vi ăn hối lộ. Dự cống sinh người Ngũ Hà đã nhận của hối lộ...”.
                        Hữu Trọng nói:
                        - Việc này thì ngài thấy rất rõ: Tờ công văn này nói “cống sinh Hữu Trọng”. Nhưng con là tú tài, ít nhất cũng phải mười năm nữa mời là cống sinh.
                        Hữu Trọng nói xong trả tờ công văn và định quay đi ra. Tri huyện nói:
                        - Ông Dư! Đợi một lát đã! Tôi hiểu lời của ông! Cái đó có thể rõ ngay.
                        Và quay hỏi người thơ lại:
                        - Trong huyện có ai là cống sinh Dư Hữu Trọng không?
                        - Gia đình ông Dư có một người đỗ cống sinh nhưng không phải tên là Hữu Trọng.
                        Hữu Trọng nói:
                        - Như thế thật là tờ công văn này nói vu vơ không vào đâu! Hữu Trọng lại đứng dậy định đi ra. Tri huyện nói:
                        - Ông Dư! Ông về nhà viết một tờ trình nói rõ mình vô tôi. Sau đó tôi sẽ trả lời hộ ông.
                        Hữu Trọng vâng dạ đi ra. Y cùng với tên sai nhân ra khỏi nha môn vào một tiệm trà để uống trà. Hữu Trọng đứng dậy định đi thì sai nhân nói:
                        - Ông đi đâu thế? Tôi theo ông từ nhà đến nha môn suốt cả buổi sáng mà chưa hề có cơm nước gì cả. Mặc dầu đấy là việc của triều đình, nhưng ông cũng phải nể tôi thế nào chứ? Tôi giờ hơi sức đâu đi mãi với ông được nữa.
                        - Quan huyện bảo tôi về nhà viết một tờ trần tình.
                        - Ở công đường, ông vừa nói rằng ông là tú tài. Nhưng tú tài thì suốt năm viết đơn hộ người khác, còn về đơn của mình lại phải nhờ người khác viết hộ. Bên kia đường sau tiệm trà là chỗ cho các ông tú tài viết đơn. Ông vào đấy mà nhờ người ta viết.
                        Hữu Trọng và tên sai nhân vào một cái nhà sau tiệm trà. Tên sai nhân nói với một người ngồi đấy:
                        - Ông Dư muốn viết một cái đơn, anh viết giúp, ông Dư sẽ viết bản nháp và anh chép lại. Nếu ông ta mà không trả tiền cho anh thì thật lại nguy cho tôi. Tôi còn phải đến hàng cơm tìm cái thằng bị nhốt hôm qua, rồi tôi sẽ trở lại đây.
                        Hữu Trọng vái chào người viết hộ.
                        Người kia ngồi cái ghế ở bên bàn, đầu đội mũ rách, mặc áo cánh rách, đi đôi giày long cả đế. Hữu Trọng nhận ra là Đường Tam Đàm, một người bạn ở trong huyện, vốn là một người gây kiện tụng, lừa đảo. Đường Tam Đàm thấy Hữu Trọng liền nói:
                        - Ông Dư! Mời ông ngồi!
                        - Ông Đường! Ông đến đây sớm thế?
                        - Nào có sớm gì đâu! Sáng sớm tinh mơ, tôi ăn miến ở nhà ông Phương thứ sáu. Sau khi tiễn ông ta ra khỏi thành tôi mới đến đây. Việc ấy tôi biết cả rồi.
                        Y kéo Hữu Trọng ra một phía và nói thầm:
                        - Này ông hai! Việc này tuy không phải là án quan trên đưa xuống, nhưng cũng gần như là án quan trên đưa xuống. Ai lại không biết ông anh của ông hiện nay đang ở Nam Kinh sao? Nhưng trong những việc như thế này, điều quan trọng nhất vẫn là việc xét xử của quan huyện ở đây.
                        Mà quan huyện ở đây thì họ Bành nói gì là quan làm nấy. Như vậy, ông nên mau mau đến gặp ông Bành thứ ba để bàn bạc. Tất cả gia đình họ Bành đều dữ tợn như sói như cọp cả. Chỉ có ông Bành thứ ba là người tốt mà thôi. Nếu nhờ ông ta giúp đỡ trong lúc nguy cấp thì có lẽ ông ta cũng chẳng nghĩ gì đến việc trước đây anh không đi lại với ông ta. Ông ta là người nhân đức độ lượng, anh không sợ gì hết. Nếu như anh muốn, tôi sẽ cùng đi với anh. Thực ra hằng ngày phải năng lui tới với những người thân sĩ như thế. Tất cả chỉ vì ông anh của anh quá kiêu ngạo. Bây giờ, gặp phải việc này, anh biết nhờ vả vào ai.
                        - Cám ơn anh có lòng săn sóc đến tôi. Nhưng vừa rồi quan huyện bảo tôi viết tờ trình để cho ngài trả lời hộ. Còn việc kia xin cho tôi suy nghĩ sau.
                        - Cũng được! Tôi xem anh viết như thế nào.
                        Dư viết ngay tờ trình và nộp cho tri huyện, tri huyện bảo thư biện căn cứ vào đó viết công văn trả lời cho châu Vô Vi. Và cố nhiên thư biện không quên đòi tiền giấy bút. Nửa tháng sau, một công văn khác lại đến. Lần này viết rõ ràng hơn: “Phạm nhân Dư Hữu Trọng là cống sinh ở Ngũ Hà, người tầm thước, mặt trắng và lún phún râu trạc độ năm mươi tuổi. Ngày mồng tám tháng tư, hắn đến châu Vô Vi gặp Phong Ảnh trong miếu Thành Hoàng để dập tắt một vụ án mạng. Ngày mười một, hắn đến nha môn Vô Vi để xin xỏ, ngày mười sáu sau khi thẩm cung ở châu, Phong Ảnh sửa soạn một bữa tiệc đưa đến miếu Thành Hoàng, Phong Ảnh đưa ra bốn trăm lạng chia cho ba người. Dư Hữu Trọng lấy một trăm ba mươi ba lạng về phần mình. Ngày hai mươi hắn rời khỏi nha môn đi Ngũ Hà theo đường qua Nam Kinh. Chúng tôi có những chứng cớ rõ ràng về việc hắn đã nhận số tiền hối lộ. Tại sao lại nói không có người như thế? Đây là một vụ án mạng và luật pháp bị vi phạm. Phiền quí huyện tra xét việc này và giải ngay phạm nhân đến châu chúng tôi để có thể xét xử cho ra manh mối. Việc gấp”.
                        Tri huyện lại bảo sai nhân đến tìm Hữu Trọng. Hữu Trọng nói:
                        - Việc này rõ ràng lắm rồi. Để tôi viết một cái đơn khác, xin quan xét giúp cho.
                        Sau đó, Hữu Trọng về nhà viết một cái đơn khác. Người em vợ là Triệu Lâm Thư nói:
                        - Anh không nên làm thế. Rõ ràng là ông anh của anh can vào việc ấy! Ngày nay công văn về tới tấp. Anh còn chuốc lấy tội vào thân làm gì? Anh nên trình bày sự thực đi, và nói toạc ra rằng người anh của anh hiện nay ở Nam Kinh, để họ viết công văn đến đó bắt. Như thế là anh vô sự “Con nít không khóc thì bao giờ mẹ cho bú”. Rước quan tài người ta về khóc lóc để làm gì?
                        - Việc của anh em tôi, tôi sẽ có cách, cậu không phải lo.
                        - Nếu không phải tôi thì ai nói thế làm gì! Anh xem, tính khí ông anh của anh thật là ngang ngược, cứ sinh sự với người ta. Ông Phương thứ ba ở hiệu “Nhân xương” và ông Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân đại” là hai hương thân khét tiếng ở Ngũ Hà. Họ chơi với quan huyện Vương thân nhau như ruột thịt. Thế mà ông anh của anh lại gây chuyện với họ. Cách đây một hai ngày, con ông Phương thứ hai kết hôn với con gái ông Bành thứ năm. Ông Bành thứ năm lại vừa đỗ tiến sĩ. Tôi nghe nói ông huyện Vương làm mối và đám cưới định vào ngày mồng ba tháng sau. Trong đám cưới thế nào người ta cũng bàn chuyện này. Ông Bành thứ năm không cần nói nhiều về những tật xấu của ông anh anh. Ông chỉ cần nói bóng một câu là quan huyện hiểu. Lúc ấy quan huyện nổi giận cho là anh đã giấu ông ta thế là anh đủ chết. Anh phải nghe tôi mới được.
                        - Tôi hãy viết tờ trình một lần nữa, nếu quan thúc bách riết lắm, tôi sẽ nói thật cũng chưa muộn.
                        - Anh có thể nhờ ông Bành thứ năm giúp cho.
                        - Cái đó hãy khoan!
                        Triệu Lâm Thư thấy Hữu Trọng không nghe mình, liền bỏ đi. Hữu Trọng viết một tờ trình khác đưa lên huyện. Quan huyện căn cứ theo tờ trình, viết công văn trả lời như sau: “Tờ công văn của quí châu bảo phải bắt phạm nhân Dư Hữu Trọng, cống sinh ở Ngũ Hà, dáng người tấm thước, có râu lún phún, năm mươi tuổi, da mặt trắng, mồng tám tháng tư hắn ở Vô Vi, gặp Phong Ảnh trong miếu Thành Hoàng bàn việc dìm vụ án mạng. Ngày mười một, hắn đến nha môn châu Vô Vi để xin xỏ. Sau khi vụ án đã xét xong, ngày mười sáu Phong Ảnh có làm một bữa tiệc đưa đến miếu Thành Hoàng. Phong Ảnh đưa ra bốn trăm lạng bạc chia đều cho ba người. Hữu Trọng được một trăm ba mươi ba lạng. Ngày hai mươi tám, hắn rời khỏi Vô Vi về Ngũ Hà theo đường qua Nam Kinh. Có những chứng cớ rõ ràng về việc hắn nhận số tiền hối lộ. Sao lại nói là không có con người nào như thế? Đay là vụ án mạng và luật pháp bị vi phạm... Khi chúng tôi nhận được công văn thì lập tức cho người bắt Hữu Trọng. Theo trong lời khai: Hữu Trọng dáng người tầm thước, mặt rỗ, râu lún phún, bốn mươi tư tuổi là một lẫm sinh chưa phải là cống sinh. Ngày mồng tám tháng tư; quan chủ khảo đến Phụng Dương, mồng chín quan hành hương, mồng mười treo bảng, mười một thí sinh tám huyện đều thi. Dư Hữu Trọng cũng đi thi. Ngày mười lăm, công bố kết quả. Hữu Trọng đỗ. Ngày mười sáu Hữu Trọng thi Phúc Thí, đỗ thứ hai trong hàng thứ nhất. Ngày hai mươi tư, Hữu Trọng tiễn quan chấm thi lên đường rồi trở về nhà. Như vậy làm thế nào một người đồng thời thi ở Phụng Dương, đồng thời lấy tiền hối lộ ở Vô Vi? Huyện tôi sau khi hỏi, có đem sổ sách nhà trường ra xem thì quả là y có thi ở Phụng Dương, vì vậy không thể nào đến Vô Vi lấy tiền hối lộ cho nên không thể bắt y được. Chúng tôi nghĩ rằng có tên vô lại nào mạo danh Dư Hữu Trọng báo với ngài như vậy để trốn tránh tội của mình”.
                        Sau khi tờ công văn gửi đi, không thấy hỏi han gì nữa. Hữu Trọng như người cất được gánh nặng, viết thư cho anh về nhà. Hữu Đạt về nhà hỏi tỉ mỉ xem công việc như thế nào, nói:
                        - Tất cả thật là đều nhờ ở em hết. Và nói:
                        - Em tiêu ở nha môn mất bao nhiêu tiền?
                        - Việc đó anh hỏi làm gì? Nay anh có tiền đem về đây, chúng ta lo việc chôn cất cho cha mẹ.
                        Vài ngày sau, hai người bàn với nhau đến nhà thầy phong thủy là Trương Vân Phong. Vừa lúc ấy có một người bà con mời hai người đến nhà uống rượu. Sau khi đến thăm Trương Vân Phong, hai người đến nhà người bà con. Ở đấy không có người khách nào, ngoài hai người anh họ là Dư Phu và Dư Ân. Thấy Hữu Đạt và Hữu Trọng đến, hai người ra chào. Mọi người ngồi nói chuyện. Dư Phu nói:
                        - Hôm nay quan huyện Vương uống rượu ở nhà ông Bành thứ hai.
                        Người chú nói:
                        - Quan huyện Vương chưa đến đâu, quan vừa sai thầy bói cầm danh thiếp đến đây.
                        Dư Ân nói:
                        - Ông Bành thứ tư lần này làm chủ khảo. Hôm trước tôi nghe nói khi ông ta ở triều ra đi, ông có một câu gì sai nên bị nhà vua tát một cái.
                        Hữu Đạt cười, nói:
                        - Không biết ông ấy có nói gì sai không? Nhưng nếu ông ta có nói sai thì nhà vua ở xa làm sao mà tát được?
                        Dư Ân đỏ mặt nói:
                        - Không phải thế! Nay ông ta làm quan to, làm hàn lâm viện đại học sĩ. ngày nào ông ta cũng ở trong nội các bàn bạc. Nếu ông ta có nói cái gì sai thì chắc là bị nhà vua đánh. Không có lẽ nhà vua lại sợ ông ta?
                        Người chủ nói:
                        - Anh Hữu Đạt, trước đây ở Nam Kinh, anh có nghe quan phủ Ứng Thiên đổi về kinh không?
                        Dư Ân chưa trả lời, thì Dư Phu đã nói:
                        - Việc này cũng do ông Bành thứ tư đấy. Một hôm nhà vua hỏi ông ta có nên thay người khác làm tri phủ Ứng Thiên không? Ông Bành muốn tiến cử người bạn học của mình là Thang Tấu liền tâu với vua xin đổi. Ông lại muốn tránh tiếng nên viết một bức thư dặn quan Phủ Doãn lên kinh bệ kiến. Vì vậy cho nên quan Phủ Doãn phải lên kinh.
                        Hữu Trọng nói:
                        - Viện hàn lâm không lo việc thuyên chuyển quan lại. Chưa chắc việc này đã đúng!
                        Dư Ân nói:
                        - Đó là chính miệng quan huyện Vương hôm trước nói ở bữa tiệc trong hiệu Nhân Đại, không đúng sao được?
                        Đang nói chuyện thì tiệc rượu bưng lên. Có chín đĩa: thịt xào rau, cá chiên, gà nấu miến, trứng, tôm xào hành, một đĩa hạt dưa, một đĩa sâm, một đĩa lựu, một đĩa đậu phụ khô. Lại có một vò rượu nóng đậy kín mít. Họ uống rượu một lát, người chủ vào phòng lấy ra một cái bao bằng vải đỏ, ngoài buộc sợi dây đỏ, có mấy cục đất. Y hỏi Dư Phu và Dư Ân:
                        - Hôm nay tôi mời hai ông đến muốn nhờ hai ông xem hộ cái đất này ở trên núi có thể dùng được không?
                        Hữu Trọng hỏi:
                        - Đất này lấy lúc nào?
                        - Lấy hôm kia.
                        Dư Phu muốn mở túi ra xem hòn đất thế nào. Dư Ân tranh lấy và nói:
                        - Để tôi xem đã.
                        Y giật lấy móc hòn đất ra đặt trước mặt, hết nghiêng đầu về bên phải, lại ngả đầu về bên trái để nhìn, cuối cùng bẻ hòn đất ra, bỏ vào miệng nhai lấy nhai để. Nhai một hồi, Dư Ân đưa hòn đất cho Dư Phu và nói:
                        - Anh Bốn, anh xem đất này như thế nào?
                        Dư Phu cầm hòn đất để dưới đèn hết quay bên nọ lại quay bên kia rồi bỏ một miếng vào miệng nhai chầm chậm, mắt nhắm tít, miệng ngậm lại(1). Nhai một hồi lâu mới mở mắt ra và hít cục đất một lát rồi nói:
                        - Đất này không ra gì thực!
                        Người chủ hoảng hốt:
                        - Có thể chôn cất được không?
                        Dư Ân nói:
                        - Đất này không thể chôn cất được. Nếu chôn vào đấy thì gia đình nghèo đói ngay lập tức.
                        Dư Hữu Đạt nói:
                        - Tôi xa nhà đã mười mấy năm, không ngờ ngày nay hai em lại tinh thông phong thủy như vậy.
                        Dư Phu nói:
                        - Không giấu gì anh, đất nào hai anh em tôi đã xem thì không có ai trách vào đâu được nữa.
                        Dư Hữu Đạt hỏi:
                        - Đất này lấy ở núi nào?
                        Dư Hữu Trọng chỉ người chủ nhà nói:
                        - Đây là đất lấy ở mộ chú Tư. Họ đang làm việc dời mả đấy.
                        Dư Hữu Đạt tính đốt ngón tay nói:
                        - Chú Tư chết đến nay đã hai mươi năm, cả gia đình đều bình yên, dời đi làm gì?
                        Dư Ân nói:
                        - Sao anh lại nói như vậy? Đất này nước ngấm vào, lại bị mối ăn, làm con cháu mà để cha nằm ở nơi nước ngấm vào, bị mối ăn không dời đi sao còn là người được?
                        Dư Hữu Đạt nói:
                        - Bây giờ tìm đất mới ở đâu?
                        Dư Ân nói:
                        - Đất này không phải tôi tìm, đất chúng tôi tìm là ở đỉnh núi Tam Tiên. Để tôi nói cho anh biết kiểu đất ấy như thế nào?
                        Bèn cất hai đĩa ở trên bàn đi, chấm ngón tay vào rượu, vẽ một vòng lên bàn và nói:
                        “Này anh xem, đây là đỉnh Tam Tiêm mạch bắt đầu từ núi Phố Khẩu chạy xuống, cứ một cồn to lại một cồn nhỏ, ngoằn ngoèo quanh lượn đi mãi, dồn đến gò Chu Gia Cương trong huyện, ”long thần" uốn khúc đi qua, rồi lại một cồn to, một cồn nhỏ, lô nhô mấy mươi cái cồn đi thẳng xuống, kết thành một cái huyệt tình. Huyệt tình này gọi là “hoa sen mặt nước”.
                        Đang nói chuyện thì người đầy tớ đem vào năm bát miến. Chủ nhà đổ đĩa thịt xào vào bát miến, tưới dấm, rồi mời mấy người ăn, mọi người cầm đũa, bắt đầu ăn. Dư Ân ăn xong lấy ra hai sợ miến đặt nằm ngoằn ngoèo trên bàn giống như con rồng rồi mở tròn đôi mắt mà nói:
                        - Đất tôi chọn thì phải đỗ trạng nguyên. Nếu đã chôn vào đấy mà đỗ bảng nhãn thì cứ móc mắt tôi đi.
                        Người chủ hỏi:
                        - Ông có chắc là chôn ở đây thì phát không?
                        Dư Phu nói:
                        - Sao lại không? Phát chứ lỵ! Không phải đợi đến ba bốn năm đâu!
                        Dư Ân nói:
                        - Chôn cất xong là phát liền. Ông cứ đem đến đấy thì biết ngay.
                        Dư Hữu Đạt nói:
                        - Trước đây, ở Nam Kinh, tôi nghe mấy người bạn nói việc chôn cất chỉ cốt yên lòng cha mẹ, còn việc con cháu phát đạt là việc hoang đường.
                        Dư Phu nói:
                        - Không phải thế đâu! Cha mẹ được yên thì con cháu sẽ phát đạt chứ!
                        Dư Ân nói:
                        - Đúng thế! Cứ xem mộ của nhà họ Bành thì biết! Móng con rồng vừa nằm ngay vào phía tay trái của ông thân sinh ra ông Bành, vì vậy, nên ông Bành thứ tư bị vua tát đấy. Ông có thể chối không phải là móng con rồng được không? Này anh! Nếu anh không tin, ngày mai tôi sẽ đưa đến mộ xem thì anh thấy ngay.
                        Uống vài chén rượu nữa, mọi người đứng dậy ra về. Một người đầy tớ mang đèn lồng đưa họ về đường Dư Gia. Mọi người về nhà ngủ.
                        Hôm sau Hữu Đạt nói với em:
                        - Theo ý em thì hai người em họ của chúng ta nói như thế nào?
                        - Nói thì hay lắm nhưng học không đúng thầy. Chúng ta đến mời ông Trương Vân Phong thì hơn.
                        - Nói như vậy đúng đấy.
                        Hôm say hai người sửa soạn bữa cơm, mời Trương Vân Phong đến. Trương Vân Phong nói:
                        - Ngày thường tôi nhờ vả các ông rất nhiều. Bây giờ các ông có việc đại sự tôi xin hết lòng.
                        Dư Hữu Đạt nói:
                        - Anh em tôi là học trò nghèo, được ông thương đến, có việc gì thất lễ xin ông bỏ qua cho.
                        Hữu Trọng nói:
                        - Chúng tôi chỉ muốn chôn cất cha mẹ cho phải phép, nên đến đây nhờ ông. Chúng tôi không mong phú quí, chỉ mong có chỗ đất khô ráo, ấm áp, không có gió, không có mối như thế là chúng tôi cám ơn ông hết sức.
                        Trương nhận lời, vài hôm sau Trương tìm được một miếng đất ở bên cạnh mộ tổ. Hữu Đạt và Hữu Trọng cùng Trương Vân Phong đến đây xem. Hữu Đạt đưa ra hai mươi lạng bạc để mua miếng đất, nhờ Trương Vân Phong chọn ngày tốt. Hôm ấy, trước khi chọn được ngày tốt Hữu Đạt ở nhà sảnh, mua hai chai rượu, làm sáu, bảy đĩa nhắm định mời em đến nói chuyện. Vừa lúc ấy vào buổi chiều có tờ danh thiếp đưa đến, viết:
                        “Chiều nay ở nhà em có bữa cơm rau, mời hai Anh đến chơi, nói chuyện, xin đừng chối từ.
                        - Ngu Lương”.
                        Hữu Đạt xem danh thiếp, nói với người đầy tớ.
                        - Tôi biết rồi, về nói với ông chủ rằng chúng tôi sẽ lại.
                        Người đầy tớ vừa đi khỏi, thì có một người ở Tô Châu mở hàng rượu cho người mời Hữu Đạt và Hữu Trọng đến nhà để tắm. Hữu Đạt nói với Hữu Trọng:
                        - Thế nào ông Lăng Phong cũng mời chúng ta đến uống rượu. Chúng ta đến đó trước rồi hãy đến nhà ông Ngu.
                        Hai anh em đến nhà Lăng Phong. Vừa mới bước vào cửa thì đã nghe thấy tiếng ồn ào. Vì gia đình Lăng Phong không ở đấy nên y có thuê hai cô gái chân to làm việc. Đàn ông ở Ngũ Hà đều thường ngủ với hai cô này. Ngay trong những bữa tiệc của những gia đình lớn, mọi người đều đem việc này ra nói, cười lăn cười lóc, cho đó là vui và chẳng lấy thế làm xấu hổ gì cả. Hai cô gái này ở nhà họ Lăng, ngờ vực lẫn nhau. Người này nghi người kia, lấy được nhiều tiền của chủ, nên mắng mỏ nhau và đánh lẫn nhau. Trong lúc mắng nhau, hai người lại bới móc nhau rằng họ ngủ cả với người thư ký trong hiệu, cho nên người thư ký chạy vào cãi nhau với hai người này. Sau khi đã đập vỡ cả chén đĩa, họ đập vỡ luôn cả thùng nước tắm. Hai anh em họ Dư đến đấy đã không được uống rượu, không được tắm lại phải dàn xếp đến nửa ngày mới xong. hai người cáo từ chủ nhà ra về. Chủ nhà bẽ mặt, cứ xin lỗi hoài và mời hôm sau đến. Hai người ra khỏi nhà Lăng đến nhà Ngu, thì thấy tiệc rượu đã tàn, cổng đã đóng. Hữu Đạt cười, nói với em:
                        - Thôi chúng ta về nhà ăn tiệc của chúng ta đi.
                        Dư Hữu Trọng cười, cùng anh về nhà bảo lấy rượu ra uống không ngờ hai chai rượu và sáu bảy đĩa nhắm đã được hai bà vợ dùng hết, giờ chỉ còn trơ lại có chai không, và mấy đĩa không. Dư Hữu Đạt nói:
                        - Hôm nay chúng ta có ba bữa rượu, rốt cục chả còn bữa nào. Mới biết đến cả việc ăn uống cũng là do trời định trước!
                        Hai người cười vang, lấy cơm rau ra ăn. Ăn xong, uống vài chén trà, hai người lại trở về phòng ngủ.
                        Đến canh tư, ở ngoài cửa có tiếng ồn ào. Hai người kinh ngạc nhìn ra thì thấy cửa sổ đỏ rực, mới biết nhà trước mặt bị cháy, hai người vội vàng mang quần áo chạy ra, gọi người láng giềng mang giúp quan tài của cha mẹ ra ngoài đường. Hai cái nhà bị cháy mãi đến sáng mới dập tắt được ngọn lửa. Quan tài vẫn để ngoài đường. Theo như tục lệ Ngũ Hà, nếu quan tài đưa vào nhà thì nhà sẽ nghèo túng. Vì vậy bạn hữu giục Hữu Đạt và Hữu Trọng mang đi và chọn ngày để chôn cất. Hữu Đạt nói với em:
                        - Theo ý anh thì ta cứ khiêng quan tài vào nhà rồi chọn ngày chôn cất sau.
                        - Anh nói thế là phải, nếu có nghèo thì cũng chỉ trong hai anh em ta thôi.
                        Mọi người đều khuyên bảo nhưng họ không nghe, gọi người khiêng quan tài vào nhà, đợi Trương Vân Phong chọn ngày tốt đem chôn theo đúng nghi lễ. Hôm ấy cũng có nhiều người ở Ngũ Hà đi đưa. Gia đình họ Đỗ ở Thiên Trường cũng có mấy người đi. Từ đấy đâu đâu cũng nghe nói đến câu chuyện ấy. Họ cho là anh em họ Dư càng ngày càng ngu ngốc toàn gây những việc rắc rối.
                        Chỉ nhân phen này khiến cho:
                        Trong nơi thói xấu phong trần, cũng còn người giỏi;
                        Ngoài việc tính cơm lường củi, lại có kinh luân.
                        Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
                        ---------------
                        (1) Miêu tả cử chỉ của thầy phong thủy thực là sinh động.


                        hết: Hồi 45, xem tiếp: Hồi 46


                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #42
                          Hồi 46

                          Cửa Tam Sơn người hiền tiễn biệt
                          Huyện Ngũ Hà thế lợi nức lòng

                          Sau khi đã chôn cất cha mẹ, Dư Hữu Đạt bàn với em rằng mình muốn trở lại Nam Kinh để cảm ơn Đỗ Thiếu Khanh và tìm một chỗ dạy học vì tiền bạc đã hết. Hữu Đạt thu xếp hành lý quan sông Dương Tử đến nhà Thiếu Khanh ở bên bờ sông, Thiếu Khanh hỏi về vụ án, Hữu Đạt kể lại tỉ mỉ mọi việc xảy ra, Thiếu Khanh hết sức thán phục Dư Hữu Trọng. Hai người đang nói chuyện thì ở ngoài có người vào báo rằng cụ Thang ở Nghi Trưng đến chơi. Dư hỏi cụ Thang là ai. Thiếu Khanh nói:
                          - Cụ chính là người đã nhờ anh dạy con học. Anh cũng nên gặp cụ một chút.
                          Hai người đang nói chuyện thì Thang tổng trấn vào, vái chào rồi ngồi xuống. Thang nói:
                          - Ông Thiếu Khanh! Ngày tôi được hân hạnh gặp ông ở nhà ông Ngu, bỗng nhiên, bao nhiêu thói xấu xa quê mùa của tôi đều tiêu tan hết. Tôi liền đến nhà ông, nhưng không được gặp làm cho tôi chờ đợi suốt ngày. Vị này là ai?
                          - Đó là người anh họ của tôi là Dư Hữu Đạt, năm ngoái bác có mời anh ấy đến dạy học.
                          Thang cười vang mà rằng:
                          - May mắn quá, không ngờ lại được gặp một vị hiền sĩ ở đây. Thật là hân hạnh.
                          Thang đứng dậy vái chào một lần nữa rồi ngồi xuống. Dư Hữu Đạt nói:
                          - Ngài đã khó nhọc đối với xã tắc, nay lại về nhà ở ẩn, không hề nhắc đến công lao của mình. Thực là phong thái của những vị tướng ngày xưa.
                          Thang đáp:
                          - Đó chẳng qua là tình thế bắt buộc, không thể nào làm khác. Ngày nay nghĩ lại, thấy mình không quá nóng nảy chưa làm được việc gì có ích cho triều đình chỉ làm cho các quan trường thêm tổ ghét. Nhưng nay hối cũng muộn rồi.
                          Dư Hữu Đạt nói:
                          - Ngài làm việc như thế nào thiên hạ đều biết cả. Ngài không cần phải khiêm tốn quá đáng như vậy.
                          Đỗ Thiếu Khanh nói:
                          - Bác đến Nam Kinh lần này có việc gì? Hiện nay bác ở đâu?
                          - Ở nhà không có việc gì tôi mới lên Nam Kinh để được gặp các vị danh sĩ. Hiện nay tôi ở nhà Thừa Ân. Tôi định đến chào Ngu bác sĩ, Trang thiệu Quang và người cháu của ông.
                          Uống trà xong, Thang từ biệt đi ra, hai người tiễn Thang lên kiệu, Dư Hữu Đạt ở tạm tại nhà Đỗ Thiếu Khanh. Nhưng khi Thang tổng trấn đến trường Quốc Tử Giám và đưa danh thiếp vào thi Ngu bác sĩ không ở nhà. Thang lại đến cầu Bắc Môn thăm Trang Trạc Giang. Trang liền mời vào. Thang xuống kiệu và đi vào nhà khách. Chủ nhân đi ra, hai người vái chào ngồi xuống, đều nói mình mấy lâu ngưỡng mộ nay mới gặp. Thang nói ý định muốn đến thăm Trang Thiệu Quang ở Hậu Hồ.
                          Trang Trạc Giang nói: - Chú tôi hiện nay ở đây. Ông có muốn gặp không? - Thế thì còn gì hơn nữa!
                          Trang Trạc Giang bảo người nhà mời Trang thiệu Quang ra. Trang Thiệu Quang ra chào Thang tổng trấn rồi ngồi xuống. Mấy người lại uống một lượt trà, Trang Thiệu Quang nói:
                          - Lần này cụ đến đây vừa đúng lúc ông Ngu sắp đi nơi khác. Ngày trùng cửu gần đến, tại sao chúng ta không hội họp một buổi nhân tiện tiễn ông Ngu, lại vui chơi được một ngày tròn.
                          Trang Trạc Giang nói:
                          - Hay lắm! Đến ngày ấy chúng ta có thể gặp nhau ở đây.
                          Thang tổng trấn ngồi một lát rồi đứng dậy ra về, nói:
                          - Vài hôm nữa vào ngày họp, tôi sẽ đến. Chúng ta sẽ nói chuyện suốt cả ngày.
                          Hai người tiễn Thang ra cửa. Thang lại đến thăm Trì Hành Sơn và Vũ Thư. Trang Trạc Giang sai đầy tớ đem năm lạng bạc đến nhà trọ của Thang để thay cho bữa tiệc. Ba ngày sau người quản gia của Trang Trạc Giang mang giấy mời các vị khách đến sớm. Trạc Giang ngồi ở nhà đợi. Thiệu Quang cũng đã ở đấy. Một lát sau, Vũ Thư, Trì Hành Sơn và Đỗ Thiếu Khanh đều đến. Trang Trach Giang sai dọn dẹp một gian phòng rộng, bốn phía đều trồng hoa cúc. Bấy giờ là mồng năm tháng chín, trời trong sáng, mọi người mặc áo kép, vừa ngồi nói chuyện vừa uống trà. Một lát sau, Thang đô đốc, Tiêu thủ bị và Ngu bác sĩ đến. Mọi người đón chào. Thi lễ xong, tất cả ngồi xuống Thang nói:
                          - Chúng ta đều là những kẻ chân trời góc bể, nay may mắn được chủ nhân mời đến gặp nhau ở đây, thực là duyên nợ ba sinh! Chỉ tiếc rằng ông Ngu chẳng bao lâu nữa sẽ đi. Cuộc gặp gỡ như thế này chẳng biết bao giờ lại có.
                          Trang Trạc Giang nói:
                          - Các vị là những bậc kỳ tài, hôm nay đến đây thực là vinh dự cho nhà chúng tôi. Quả thực những người hiền nhân năm trăm dặm xung quanh bây giờ đều ở đây cả!
                          Mấy người ngồi xuống, người nhà bưng trà lên. Nhìn nước trà trong như nước lã, nhưng hương đặc biệt thơm, váng trắng nổi trên mặt nước. Sau đó lại uống trà Thiên Đô. Trà này tuy cất đã một năm nay nhưng hương lại càng thơm hơn. Ngu bác sĩ uống trà, mỉm cười hỏi:
                          Lúc ở trong quân ngũ, tôi chắc hai vị không bao giờ thấy thứ trà như thế này.
                          Tiêu Vân Tiên nói:
                          - Không những ở trong quân ngũ mà thôi, suốt cả sáu năm ở thành Thanh Phong, tôi cho được uống nước lã đã là may mắn rồi. Nó còn hơn nước đái ngựa.
                          Thang tổng trấn nói:
                          - Bấy giờ ở thành Thanh Phong có đủ nước và cỏ cho quan sĩ sống mấy năm.
                          Trang Thiệu Quang nói:
                          - Ông Tiêu có thể sánh với Thôi Hạo thời Bắc Ngụy(1) được.
                          Trì Hành Sơn nói:
                          - Mỗi thời mỗi khác! Ngày nay hoàn cảnh khác trước.
                          Đỗ Thiếu Khanh nói:
                          - Những người tế tướng phải là những người đọc sách đã đành, nhưng tướng soái cũng cần phải là những người đọc sách. Nếu không có học thức, Tiêu tiên sinh làm gì có được những công lao to tát như vậy!
                          Vũ Thư cười mà rằng:
                          - Tôi thấy cái này rất buồn cười: vị tướng ở biên cương không biết có nước và có thể mà hạng thư biện khi tính đến việc đó lại biết là có. Vậy thì đó là quan thượng thư có học vấn hay là hạng thư biện có học vấn?
                          Nếu các quan thượng thư có học vấn thì triều đình trọng văn khinh võ cũng là phải. Nhưng nếu việc này lại chính là do bọn thư biện tính toán, thì cũng thấy rõ phép tắc tính toán không thể thay đổi được.
                          Nói đến đây, tất cả đều cười rộ. Nhạc dừng lại, mọi người ngồi vào bàn tiệc. Những người diễn tuồng đến chào. Trang Phi Hùng đứng dậy.
                          - Hôm nay các vị đến đây, con có thuê mười chín người hát tuồng nổi danh ở trong bảng “Lê Viên”. Xin các vị mỗi người chọn một đoạn để diễn.
                          Ngu bác sĩ hỏi:
                          - Bảng “Lê Viên” là bảng gì?
                          Dư Hữu Đạt kể lại câu chuyện phong lưu năm xưa của Đỗ Thận Khanh. Mọi người cười vang. Thang hỏi Đỗ Thiếu Khanh:
                          - Người anh họ của ông đã được tuyển vào bộ chưa?
                          Đỗ Thiếu Khanh trả lời:
                          - Đã!
                          Vũ Thư nói:
                          - Sự đánh giá của ông Thận Khanh có thể nói bao giờ cũng công bình và đúng đắn. Nhưng tôi chỉ sợ sau khi làm quan, làm chủ khảo, biết đâu ông ta sẽ quáng mắt trước những màu sắc chói lọi cũng nên.
                          Mọi người lại cười. Họ ăn tiệc suốt cả ngày, khi tất cả các vở tuồng đều diễn xong, đến hoàng hôn tiệc mới tan. Trang Trạc Giang nhờ một họa sĩ vẽ một bức tranh “Đăng cao tống biệt”(2) ghi lại cuộc tiễn biệt hôm ấy và tất cả mọi người đều đề thơ. Sau đó mọi người lần lượt đến nhà Ngu bác sĩ để tiễn biệt.
                          Hơn một ngàn gia đình ở Nam Kinh đã đến tiễn Ngu bác sĩ. Ngu cảm thấy mệt quá, cho nên không để ai tiễn mình xuống thuyền. Hôm ấy, Ngu thuê một chiếc thuyền con, cắm sào ở Thủy Tây chỉ để một mình Đỗ Thiếu Khanh tiễn xuống thuyền. Thiếu Khanh bái biệt và nói:
                          - Chú đi rồi, cháu sẽ không còn có ai nương tựa.
                          Ngu bác sĩ cũng buồn rầu khôn xiết, mời Đỗ vào khoang thuyền, nói:
                          - Anh Thiếu Khanh, tôi không giấu gì anh, tuy tôi là anh học trò nghèo nhưng sáu bảy năm nay làm bác sĩ ở Nam Kinh, tôi đã để dành mỗi năm được mấy lạng bạc đủ để mua một thửa uộng, một năm kiếm được ba mươi gánh gạo. Lần này tôi có thể được bổ vào bộ, hoặc bổ đi các châu các huyện. Tôi sẽ làm nhiều là ba năm, ít là hai năm, để dành một ít tiền, mua thêm một thửa ruộng, một năm được thêm hai chục gánh gạo. Như thế vợ con tôi không phải chết đói là đủ lắm rồi. Còn về việc con cháu, tôi cũng không để ý đến. Hiện nay, ngoài việc dạy chữ cho con, tôi còn dạy thuốc cho nó để nó kiếm ăn sau này. Tôi thích gì làm quan? Anh ở Nam Kinh, tôi sẽ gửi thư cho anh luôn.
                          Hai người gạt lệ chia tay. Đỗ lên bờ chờ cho thuyền của Ngu bác sĩ đi khuất, mới quay về nhà. Dư Hữu Đạt đang ngồi ở đó. Đỗ kể lại những câu Ngu bác sĩ vừa dặn. Dư Hữu Đạt thở dài mà rằng:
                          - Không thích làm quan, chỉ thích rút lui, ông Ngu thực là một người quân tử. Nếu chúng ta có ra làm quan chúng ta phải bắt chước ông ta.
                          Hai người tán thưởng một hồi. Chiều hôm ấy. Hữu Đạt nhận được thư của em, thư viết:
                          “Thầy học ở nhà Ngu Lương em họ của chúng ta này đã đi nơi khác. Ông ta muốn nhờ anh dạy con ông ta. Xin anh về ngay”.
                          Dư Hữu Đạt nói cho Đỗ Thiếu Khanh biết rồi từ biệt. Hôm sau Hữu Đạt mang hành lý qua sông, Đỗ Thiếu Khanh tiễn Hữu Đạt sang sông mới trở về.
                          Hữu Đạt qua sông về nhà. Người em ra đón và đưa cho anh xem bức thư viết:
                          “Em họ là Ngu Lương kính mời anh Dư đến dạy cho đứa con của em, mỗi năm tiền công bốn mươi lạng bạc lễ tết không kể.
                          Dư Hữu Đạt xem xong, hôm sau đến nhà Ngu Lương, Ngu ra đón trong lòng mừng rỡ. Hai người vái chào và ngồi xuống. Người đầy tớ mang trà ra. Ngu Lương nói:
                          - Cháu nó ngu ngốc, thất học từ nhỏ. Mấy năm nay, em muốn nhờ anh dạy cho cháu, nhưng anh cứ ở xa. Nay anh về đây thực là may mắn cho cháu. Gia đình anh và gia đình em, người thi đỗ ở tỉnh và ở kinh chở hàng xe không hết chẳng phải hiếm hoi gì. Em chỉ mong cháu học được phẩm hạnh của anh, mới là có ích hơn nhiều.
                          - Anh vốn già và vụng. Hai gia đình ta mấy đời họ hàng với nhau nhưng chỉ có em là tâm đầu ý hợp với anh. Con của em cũng như con của anh cố nhiên anh phải hết lòng dạy dỗ. Về việc nó có đỗ cử nhân tiến sĩ hay không thì ngay bản thân anh cũng chưa đỗ bao giờ, chưa chắc anh đã làm được. Còn về phẩm hạnh và văn chương thì cháu vẫn có nề nếp gia giáo, anh cũng không phải lo đến việc đó.
                          Hai người đều cười, định ngày tốt mời thầy đến khai trường. Sáng hôm ấy Hữu Đạt dậy thật sớm, đứa con của Ngu Lương ra chào. Nó rất thông minh. Chào xong Ngu đưa nó đến lớp học, Hữu Đạt ngồi ghế thầy. Ngu Lương cáo từ và vào thư phòng. Ngu đang ngồi thì người giữ cửa đưa một người khách đến. Người này là anh ruột của Đường Tam Đàm, tên là Đường Nhị Bồng Thuỳ. Trong khoa thi trước y đỗ cử nhân văn và trước đây cũng vào trường một năm với Ngu Lương. Nhân hôm ấy trong nhà mới nuôi thầy, Đường cũng đến để tiếp thầy học. Ngu Lương giữ Đường Nhị ngồi lại uống trà. Đường Nhị hỏi:
                          - Hôm nay cháu bắt đầu học phải không?
                          - Vâng.
                          - Ông thầy này học rất giỏi, nhưng thiếu kiên nhẫn, lại thích những thứ học nhảm, mà sao lãng việc chính. Còn về việc thi cử, tuy ông không bắt chước thói xấu của bọn học trò ngày nay, nhưng lại muốn theo đòi những nho sĩ thời khai quốc. Như thế cũng đều là quá đáng!
                          - Cháu nó còn nhỏ quá chưa lo việc thi cử được. Tôi mời anh Dư đến cốt để dạy cho cháu đạo đức, đừng bắt chước bọn tiểu nhân, chạy theo thế lợi, như thế là đủ.
                          Một lát sau Đường Nhị nói:
                          - Anh Ngu, tôi có một điều muốn hỏi con người thông thạo cổ học như anh.
                          - Tôi nào có thông thạo cổ học gì đâu? Anh đùa tôi đấy phải không?
                          - Không phải đùa đâu. Tôi muốn hỏi thực anh đấy mà! Trong kỳ thi trước đây tôi may mắn đỗ. Tôi có một người cháu, nhà ở phủ Phụng Dương, anh ta cũng thi đỗ ở phủ Phụng Dương. Như thế là cùng đỗ một bảng lại là bạn học. Từ khi anh ta đỗ rồi, chưa bao giờ anh ta đến huyện. Nhưng nhân việc tế tổ, nên hôm qua anh đến nhà tôi, đưa tờ danh thiếp viết: “cháu và bạn học”. Nay tôi đến thăm lại, có nên viết “Chú và bạn học” hay không?
                          - Anh muốn nói gì vậy?
                          - Anh không nghe sao? Người cháu cùng đỗ một bảng với tôi, cũng do một quan chấm thi lấy đỗ, viết: “Cháu và bạn học” bây giờ tôi nên viết danh thiếp thế nào?
                          - Cố nhiên hai người cùng được một quan giám khảo lấy đỗ cả thì gọi nhau là “bạn học”. Nhưng viết chữ “cháu và bạn học” thì nó quái gở, ngớ ngẩn thế nào ấy?
                          - Tại sao lại ngớ ngẩn?
                          Ngu ngẩng mặt lên trời cười mà rằng:
                          - Từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ nghe một việc lạ như thế này.
                          Đường Nhị biến sắc mặt nói:
                          - Anh không nên giận tôi! Mặc dầu anh là con nhà gia thế, nhà anh có nhiều người thi đỗ, nhưng anh chưa thi đỗ. Có lẽ anh không rõ những nghi lễ trong quan trường. Người cháu của tôi đã gặp nhiều cụ lớn ở kinh, anh ta viết như vậy chắc là có duyên cớ, không thể nói là viết bừa được.
                          - Nếu anh đã cho như thế là đúng thì anh hỏi tôi làm gì?
                          - Anh không hiểu. Đợi ông Dư ra đây ăn cơm, tôi sẽ hỏi.
                          Đang nói chuyện thì người đầy tớ vào bẩm:
                          - Ông Diêu thứ năm vào thăm.
                          Cả hai đứng dậy, Diêu bước vào vài chào và ngồi xuống. Ngu Lương nói:
                          - Anh Năm, hôm qua sau bữa cơm anh đi đâu? Buổi chiều rượu đã sẵn sàng cả nhưng anh không tới.
                          Đường Nhị nói:
                          - Ông Năm, hôm qua ông ăn cơm ở đây sao? Chiều qua tôi gặp ông thì nói rằng ông vừa ăn cơm với cụ Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân xương”. Tại sao ông lại nói dối như vậy?
                          Người đầy tớ đem cơm ra, mời Dư Hữu Đạt ăn. Dư ngồi ghế đầu. Đường Nhị ngồi đối diện, Diêu ngồi ghế khách, chủ nhân ngồi tiếp. Ăn cơm xong, Ngu cười đem chuyện danh thiếp ra kể lại với Dư Hữu Đạt. Dư mặt đỏ gay, gân cổ nổi lên nói:
                          - Ai dám nói như vậy? Tôi hỏi ở trên đời việc tổ tiên, cha ông quan trọng hơn hay việc công danh quan trọng hơn?
                          Ngu nói:
                          - Cố nhiên là việc tổ tiên quan trọng hơn. Cái đó không cần bàn nữa!
                          Dư Hữu Đạt nói:
                          - Nếu vậy tại sao vừa mới đỗ cử nhân lại vứt tổ tiên đi, gọi chú là bạn học? Như thế là có tội với đạo đức luân lý. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy điều đó. Ông ta có đỗ cử nhân cũng là một anh dốt đặc cán mai. Nếu cháu tôi mà như vậy thì tôi lôi ra trước bàn thờ tổ tiên đánh cho mấy chục gậy!
                          Đường Nhị và Diêu thấy Dư Hữu Đạt nóng mặt, biết rằng Dư nổi giận nên nói lảng sang chuyện khác.
                          Một lát sau uống trà xong, Dư trở lại lớp học. Diêu đứng dậy nói:
                          - Tôi đi chơi một lát rồi sẽ trở lại.
                          Đường Nhị nói:
                          - Hôm nay đi ra chắc ông sẽ nói vừa ăn cơm với cụ Bành thứ hai.
                          Diêu cười mà nói:
                          - Hôm nay tôi ngồi tiếp thầy học ở đây, ai mà chẳng biết, không thể nói tôi ăn cơm đâu được.
                          Diêu cười và đi ra, một lát quay trở lại nói:
                          - Ông Ngu, ở ngoài sảnh có người khách đến thăm. Ông ta nói ở nha môn quan phủ đến. Hiện nay ông ta đang ngồi đợi ngoài nhà khách. Ông mau ra mà tiếp.
                          - Ông ta ở đâu? Tôi chẳng quen biết bao giờ. Đang lúc phân vân thì người đầy tớ đưa danh thiếp vào. Danh thiếp đề: “Bà con và bạn học là Quí Vi Tiểu đến thăm
                          Ngu Lương ra ngoài sảnh tiếp. Quý Vi Tiêu vái chào ngồi xuống rồi đưa ra một bức thư mà rằng:
                          - Tôi ở Bắc Kinh lại. Tôi nhân cùng quan phủ đến huyện này, người anh họ của ông là ông Đỗ Thận Khanh có nhờ tôi mang bức thư cho ông. Hôm nay được gặp ông đây, thực là hân hạnh.
                          Ngu Lương cầm bức thư giở ra xem, hỏi:
                          - Ông có phải là bạn với Lệ tri phủ ở phủ tôi không?
                          - Lệ tri phủ là học trò của bác tôi là cụ Tuân. Vì vậy ông ta mời tôi đến làm việc trong nha môn.
                          - Ông đến đây có việc gì?
                          - Ở đây chẳng có ai, tôi có thể nói cho ông biết. Lệ tri phủ nhận thấy những hiệu cầm đồ ở đây cho vay nặng lãi quá, bóc lột dân, cho nên bảo tôi đến đây xem xét. Nếu quả thực như vậy thì phải làm thế nào để trừ bỏ cái tệ ấy đi.
                          Ngu Lương kéo ghế lại gần Quý Vi Tiêu và nói thầm:
                          - Như thế đủ thấy rõ việc cai trị của quan phủ thực là nhân đức. Trong huyện tôi không ai cho vay nặng lãi trừ hai hiệu cầm đồ của họ Phương là hiệu “Nhân Xương” và hiệu “Nhân Đại”. Họ đều là bậc hương thân, lo việc buôn muối đồng thời lại quen biết các quan phủ, huyện, cho nên họ muốn làm gì thì làm. Nhân dân rất căm ghét nhưng không ai dám nói ra. Muốn trừ cái tệ này thì chỉ cần trị hai nhà kia. Nay cụ lớn đường đường là một ông phủ cần gì phải đi lại với những người như thế! Tôi nói như vậy để ông nghe thôi ông đừng cho ai biết tôi nói đấy nhé!
                          - Tôi xin lĩnh giáo.
                          - Được ông đến thăm, tôi cũng muốn mời ông ăn một bữa cơm xoàng để cùng nói chuyện. Nhưng tôi sợ làm không ra gì. Ở đây tai vách mạch rừng, ông ăn không tiện.
                          Ngày mai tôi sẽ đưa một bữa ăn đến nhà ông. Xin ông đừng chối từ.
                          - Tôi đâu dám thế!
                          Nói xong Vi Tiêu từ biệt đi ra. Ngu quay vào thư phòng. Diêu đón hỏi:
                          - Có phải ông ta ở nha môn quan phủ lại đây không?
                          - Chứ gì nữa!
                          Diêu lắc đầu, cười mà nói:
                          - Tôi không tin.
                          Đường Nhị trầm ngâm:
                          - Ông Diêu nói có lẽ đúng, khi nào ông ta lại ở nha môn đến đây? Quan phủ không phải là chỗ quen biết với ông. Quan phủ chỉ có đi lại thân thiết với cụ Bành thứ ba và cụ Phương thứ sáu mà thôi. Nghe nói ông kia đến, trong bụng tôi cũng lấy làm ngờ. Nếu ông ta quả ở nha môn quan phủ đến thì ông ta nhất định đã đến nhà cụ Bành, cụ Phương trước, chứ đến nhà anh để làm gì? Nói ra khó tin lắm! Tôi sợ rằng anh chàng kia là một tên lường gạt, tự cho rằng mình ở nha môn quan phủ đến để lừa người ta lấy tiền thôi. Anh phải đề phòng mới được.
                          Ngu nói:
                          - Có lẽ ông ta chưa đến nhà hai người kia.
                          Diêu cười và nói:
                          - Cố nhiên là chưa đến. Nếu đã đến nhà họ thì còn đến nhà anh làm gì?
                          Ngu nói:
                          - Không phải quan phủ bảo ông ta đến đây. Người anh họ của tôi là Đỗ Thận Khanh người Thiên Trường, hiện nay ở Bắc Kinh có nhờ ông ta đưa cho tôi một bức thư. Ông ta là Quý Vi Tiêu, một danh sĩ nổi tiếng.
                          Đường Nhị hoa tay nói:
                          - Thế lại càng khó tin nữa! Quý Vi Tiêu là một nhà danh sĩ đã chấm thi ở trong cuộc thi những người hát tuồng. Là một danh sĩ như vậy, chắc chắn ông ta biết các nha môn và các viện hàn lâm ở kinh. Hơn nữa, Đỗ Thận Khanh người Thiên Trường lại rất thân với ông Bành thứ tư. Nếu ông Vi Tiêu mang thư ở Bắc Kinh về cho anh, có lẽ nào lại không mang thư đến cho ông Bành! Nhất định không thể là Quý vi Tiêu được.
                          Ngu nói:
                          - Chuyện ấy bây giờ không cần bàn đến. Ta nói sang chuyện khác.
                          Và quay lại mắng đầy tớ:
                          - Tại sao tiệc rượu mãi đến giờ vẫn chưa xong?
                          Một người đầy tớ khác bước vào, vai mang hành lý, nói:
                          - Cụ Thành ở nhà quê lên.
                          Một người bước vào, đầu lốm đốm bạc, trông mặt ra vẻ một tay bợm rượu, đội mũ vuông, mặc áo vải xanh, đi giầy vải đế mỏng. Y vào vái chào và nói:
                          - May quá! Tôi đến vừa đúng lúc ông mới mời thầy dạy học, nhân tiện vào uống vài chén rượu để chúc mừng.
                          Ngu bảo đầy tớ đem nước ra để cho cụ Thành rửa mặt, kỳ cọ sạch bùn trên quần áo và bắp chân. Sau đó Ngu mời tất cả mọi người vào phòng khách. Trong phòng khách, tiệc đã dọn. Dư ngồi ghế đầu, mọi người ngồi tiếp. Trời đã tối, Ngu bảo thắp một cặp đèn. Cặp đèn này là do hoàng đế lấy ở điện “Vũ Anh” ra tặng người cố của Ngu xưa kia làm thượng thư, đến nay đã hơn sáu mươi năm nhưng vẫn hoàn toàn như mới. Dư nói:
                          - Cổ nhân có câu: “Nhà xưa, cây cao”. Câu ấy thực là đúng. Tôi không thấy gia đình nào trong huyện ta lại có những cái đèn như thế này.
                          Cụ Thành nói:
                          - Ông Dư, “cứ ba mươi năm thì nhân dân ở phía đông bờ sông phát đạt, rồi lại đến lượt nhân dân ở phía tây”. Cách đây ba mươi năm, hai gia đình của hai ông thịnh vượng biết là dường nào! Chính mắt tôi trông thấy điều ấy. Nhưng ngày nay gia đình họ Bành và họ Phương mỗi năm làm ăn một khá hơn. Không nói gì khác cứ xem quan phủ và quan huyện Vương đi lại với họ thân mật như thế nào, có chuyện gì cũng sai thơ lại trong nha đến bảo họ. Như vậy dân đen ai mà chả sợ họ. Đấy cứ xem những người thơ lại kia chẳng vào nhà ai bao giờ đâu!
                          Đường Nhị hỏi:
                          - Gần đây có người thơ lại nào ở nha môn quan phủ đến đây không?
                          Cụ Thành nói:
                          - Gần đây có một người họ “Cát”(3) đến có việc gì đấy. Ông ta ở với vị tăng trong chùa Bảo Lâm. Sáng hôm nay, ông ta đến hiệu Nhân Xương của cụ Phương thứ sáu. Cụ Phương thứ sáu lại mời cụ Bành thứ hai đến nhà để tiếp khách. Cả ba người vào thư phòng nói chuyện một ngày trời. Không biết trong nhà quan phủ làm việc gì không hay nên mới sai ông Cát kia đến đây hỏi.
                          Đường Nhị liếc mắt nhìn Diêu và cười nhạt: - Thấy không!
                          Dư Hữu Đạt nghe vậy lấy làm chán ngán, bèn hỏi cụ Thành:
                          - Năm ngoái cụ có nhận được áo và mũ tú tài không?(4) Cụ Thành đáp:
                          - Có, may quá, người giám khảo lại là bạn học với cụ Bành thứ tư. Tôi nhờ cụ Bành viết cho một bức thư nên nhận được áo mũ ngay.
                          Dư cười và nói: - Khi quan giám khảo thấy bộ mặt đỏ gay của cụ thì chắc gì ông ta đã cho?
                          Cụ Thành nói:
                          - Tôi nói là cái mặt tôi nó bị sưng lên đấy.
                          Mọi người đều cười rộ và cùng uống rượu. Cụ Thành nói:
                          - Ông Dư, tôi với ông đều là những người già cả bỏ đi rồi. Bây giờ hạng anh hùng là thuộc những người trẻ. Tôi mong rằng anh Ngu đến kỳ thi tới đây sẽ đỗ cao, cùng với ông Đường cả hai đều đỗ tiến sĩ. Như vậy, tuy không làm quan to như cụ Bành thứ tư, thì hai ông cũng được làm quan huyện như cụ Bành thứ ba, thứ hai, như thế cũng làm vinh hiển cho tổ tiên và chúng tôi cũng được mở mày mở mặt.
                          Câu nói ấy lại càng làm cho Dư Hữu Đạt chán ngấy.
                          Dư nói:
                          - Thôi chúng ta đừng bàn chuyện ấy nữa, chúng ta hãy chơi trò uống rượu đi.
                          Mọi người bèn chơi trò gọi là “trò uống rượu vui”. Họ cười mãi đến nửa đêm, tất cả mọi người đều say mềm. Cụ Thành được đưa vào phòng ngủ. Người nhà Ngu mang đèn lồng dẫn Dư Hữu Đạt, Đường Nhị, Diêu về nhà. Cụ Thành ngủ, nửa đêm tỉnh dậy vừa mửa vừa đi đồng. Không đợi đến trời sáng, cụ gọi một người đầy tớ vào để quét tước. Sau lại bảo nhỏ một đứa đầy tớ gọi hai người quản gia lo về việc thu tô vào để bàn bạc. Mấy người thì thầm với nhau một lúc, không biết nói chuyện gì. Sau đó mời Ngu Lương vào.
                          Chỉ nhân phen này khiến cho:
                          “Ở chốn làng quê, thói mộ thế nghĩ mà chán ngắt;
                          trước nơi trường học, việc lăng nhăng lại thấy xảy ra”.
                          Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
                          ---------------
                          (1) Thôi Hạo thời Bắc Nguỵ giỏi cả văn chương và quân sự.
                          (2) Lên chỗ cao tiễn nhau.
                          (3) Tức là Quý vi Tiêu. Theo âm Trung Quốc, chữ “Cát” và chữ Quý đọc gần như nhau.
                          (4) Tú tài đến một tuổi nào đó có thể mặc áo quần tú tài.


                          hết: Hồi 46, xem tiếp: Hồi 47


                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #43
                            Hồi 47

                            Gác Huyền Vũ, Ngu tú tài tu lý,
                            Đền Tiết Hiếu, Phương diêm thương làm ồn

                            Ngu Lương không phải là hạng người vừa. Từ năm lên bảy, lên tám, Ngu đã là thần đồng. Về sau, Ngu đọc tất cả kinh sử, bách gia chư tử, không có cái gì là không đọc, không có cái gì là không tinh và không có cái gì là không thông suốt. Năm hai mươi tuổi, học vấn toàn tài, tất cả mọi việc từ binh pháp, canh nông, nghi lễ, âm nhạc, thủ công, săn bắn, thủy lợi... đều biết. Văn chương hay như Mai Cao, Tư Mã Tương Như(1). Thi phú như Lý Bạch, Đỗ Phủ. Người cố làm thượng thư, ông làm hàn lâm, cha làm tri phủ, thực là một nhà nổi tiếng. Mặc dầu Ngu học vấn sâu rộng, người ở Ngũ Hà đều không coi Ngu ra gì. Phong tục ở Ngũ Hà nghe nói ai có phẩm hạnh là họ cười méo cả miệng. Nghe nói người nào là dòng dõi thế gia mấy chục năm trước đây thì họ khịt mũi chế nhạo. Ai đi làm thơ phú cổ văn thì họ cau mày mà cười. Hỏi họ ở huyện Ngũ Hà có phong cảnh núi non gì thì họ nói: “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có sản vật gì kỳ lạ, họ nói “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có ai có tài năng và đạo đức, họ nói “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có ai được mọi người kính trọng, họ cũng nói “Cụ Bành”. Lại còn một việc làm cho họ phục nhất là việc gia đình họ Phương ở Huy Châu kết hôn với gia đình họ Bành. Mọi người để ý nhất đến việc họ Bành bỏ số bạc lớn ra để mua ruộng. Ngu Lương sống trong cái nơi phong tục hủ bại này, lại vì có mấy mẫu ruộng vườn, không đi đâu được, cho nên càng thêm bực tức. Người cha làm tri phủ thanh liêm ngay lúc làm quan, gia đình cũng sống một cách thanh bạch. Ở nhà, Ngu Lương ăn tiêu tiết kiệm nên để dành được một ít tiền. Bấy giờ người cha về hưu không lo gì việc nhà. Mỗi năm Ngu Lương dành dụm được vài lạng bạc, nhờ anh em mua giúp mảnh ruộng hay một cái nhà. Nhưng khi bàn bạc gần xong thì Ngu lại mắng anh em một trận và không chịu mua nữa. Cả huyện đều cho Ngu là một người điên, nhưng họ thèm mấy lạng bạc của y, cho nên cũng làm quen.
                            Cụ Thành là người cầm đầu việc mối lái về ruộng đất. Hôm ấy cụ bảo những người quản gia mời Ngu vào thư phòng và nói:
                            - Hiện nay có một thửa ruộng ở bên trái nhà tôi. Ruộng này không phải lo gì hạn hán và nước lụt, mỗi năm có thể thu về được sáu trăm đấu gạo. Họ đòi hai ngàn lạng bạc. Hôm kia, ông Phương thứ sáu đã muốn mua, người chủ đã định bán cho ông ấy; nhưng người ở trại đấy không bằng lòng.
                            - Tại sao họ không bằng lòng?
                            - Bởi vì hôm ông Phương xuống thăm ruộng, chủ ruộng đòi người ở trại đó phải bày “hương án” đón tiếp ông ta. Nếu như tô nộp không đủ thì họ sợ bị đánh cho nên họ không chịu bán!
                            - Đã không bán cho ông ta thì còn bán cho tôi làm gì? Tôi xuống thăm ruộng họ có bày “xú án”(1) ra đón tiếp không? Tôi không đánh họ thì họ có đánh tôi không?
                            - Không phải vậy! Người ta biết rằng ông là người rộng rãi nhân đức, chứ không phải ác nghiệt như người khác, cho nên tôi đến đây bàn với ông. Không biết ông có sẵn tiền không?
                            - Tiền thì tôi có đấy, để tôi bảo đầy tớ mang ra cho cụ xem.
                            Ngu bảo đầy tớ mang ra ba mươi đĩnh bạc đặt lên trên bàn. Bạc lăn long lóc. Cặp mắt của cụ Thành cũng nhấp nháy theo những đĩnh bạc. Ngu bảo đem bạc vào nhà cất đi và nói với cụ Thành:
                            - Tôi không phải lừa cụ đâu, cụ cứ về làng thu xếp công việc cho xong, thế nào tôi cũng mua.
                            - Tôi còn phải ở lại đây mấy hôm chưa về làng được.
                            - Có việc gì thế!
                            Ngày mai tôi phải đến thăm quan huyện Vương để lĩnh tiền làm một cái “nhà bia” cho người thím của tôi đã chết được khen là có tiết hạnh. Đồng thời tôi muốn nộp thuế luôn. Ngày kia tôi phải đến chúc thọ người con gái cụ Bành đúng mười tuổi. Ngày kia lại là ngày ông Phương thứ sáu mời tôi đến ăn cơm trưa. Tôi phải đến đấy rồi mới về quê được.
                            Ngu khịt mũi cười, giữ cụ Thành ở lại ăn cơm trưa. Khi cụ Thành đến Nha Môn, Ngu sai một người đầy tớ mời Đường Tam Đàm đến. Vì họ Phương hàng ngày chỉ mời Đường Nhị đã đỗ cử nhân đến ăn tiệc, mà không mời Tam Đàm, cho nên Đường Tam Đàm luôn luôn dò la tin tức họ Phương: Ông ta biết hôm nào gia đình họ Phương mời khách, mời bao nhiêu người và cách dò la của ông ta bao giờ cũng đúng. Ngu biết ông ta có cái tật ấy nên mới đến nhà hỏi:
                            - Ông làm ơn hỏi xem ông Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân Xương” chừng ba hôm nữa có mời cụ Thành đến ăn tiệc không? Nếu ông hỏi dò đúng thì hôm ấy tôi mời ông ăn một bữa cơm.
                            Đường Tam Đàm nhận lời, đi một lát rồi trở về nói: - Không có việc ấy đâu. Ba ngày nữa ông Phương thứ sáu không mời ai hết.
                            - Tốt! Tốt lắm! Ba ngày nữa ông đến đây từ sáng sớm và chúng ta ăn tiệc suốt ngày.
                            Đường Tam Đàm đi rồi, Ngu bảo đầy tớ đến hiệu buôn hương, sáp nhờ người làm công ở đấy viết giúp một tờ thiếp đỏ, trên đề mấy chữ: “Trưa mười tám mời ông đến nhà tôi ăn cơm”. Dưới đề: “Phương thược”. Tờ thiếp được bỏ vào phong bì và dán lại. Ngu sai bỏ trên án thư trong phòng cụ Thành ngủ. Sau khi đã nộp thuế xong, cụ Thành trở về thấy tờ danh thiếp mời, mừng quýnh, nghĩ bụng:
                            - Ta thế mà gặp may! Nói liều một cái mà lại hóa đúng.
                            Cụ Thành vui vẻ đi ngủ.
                            Đến ngày mười tám, Đường Tam Đàm đến từ sáng sớm. Ngu mời cụ Thành vào nhà khách cụ Thành thấy đầy tớ lần lượt đi qua cổng xuống nhà bếp. Người thì mang rượu, người thì mang gà vịt, người lại mang cá, dò lợn, người mang bốn gói mứt, người mang một đĩa bánh nướng. Cụ biết là có bữa tiệc nhưng không hỏi gì. Ngu hỏi Đường:
                            - Anh có nói với những người thợ nề và thợ mộc về việc sửa nhà Nguyên Vũ không?
                            - Tôi đã nói rồi. Cần rất nhiều vật liệu. Tường ngoài đã đổ, cần phải xây lại, lại phải làm một cái nền mới. Như thế, thợ lợp nhà phải làm mất ba tháng. Cột nhà kèo cần phải thay và xà nhà phải đóng đinh. Cần nhiều thợ mộc. Nhưng trong việc sửa chữa nhà, thợ mộc, thợ nề chỉ làm nửa ngày thôi. Họ nói mất ba trăm lạng nhưng tôi sợ phải mất đến năm trăm lạng mới chữa xong.
                            - Tổ tiên ông ngày xưa đã dựng nên nhà Nguyên Vũ, nó đã làm cho nhiều người ở trong huyện này thi đỗ. Nhưng nay lại phát về họ Bành. Như vậy họ Bành phải xuất tiền ra chữa mới phải. Việc đó có liên quan gì đến ông, tại sao ông lại chịu mất nhiều tiền như vậy?
                            Ngu nói:
                            - Đúng đấy! Nhờ cụ làm ơn nói hộ với họ Bành để họ giúp tôi ít tiền. Tôi sẽ trả ơn cụ sau.
                            - Khi tôi gặp họ, tôi sẽ nói việc đó. Mặc dầu trong gia đình ấy có nhiều người làm quan, tự phụ và khinh người, nhưng họ vẫn tin nhưng điều lão già này nói lắm.
                            Người đầy tớ của Ngu thì thầm với một người bán cỏ ở cửa sau, đưa cho người kia bốn đồng tiền bảo vào trước cổng gọi:
                            - Cụ Thành, tôi ở nhà ông Phương thứ sáu lại đây, ông Phương mời cụ đến chơi. Ông đang đợi cụ ở nhà.
                            - Cụ Thành nói:
                            - Về bẩm với cụ tôi sẽ lại ngay.
                            Người bán cỏ ra ngay. Cụ Thành chào Ngu Lương đi thẳng đến hiệu Nhân Xương. Người giữ cổng đưa vào, chủ nhân là ông Phương thứ sáu ra đón. Hai bên thì lễ rồi ngồi xuống. Phương hỏi:
                            - Cụ đến đây bao giờ?
                            Cụ Thành kinh ngạc đáp:
                            - Đến đây hôm kia.
                            - Cụ ở đâu?
                            Cụ Thành lại càng hoảng sợ trả lời:
                            - Ở nhà ông Ngu Lương.
                            Đầy tớ bưng trà vào. Cụ Thành nói:
                            - Hôm nay tốt trời!
                            - Phải.
                            - Cụ đã gặp quan phụ mẫu chưa?
                            - Tôi đã gặp hôm kia.
                            Hai người ngồi không biết nói gì, chỉ uống trà. Cụ thành nói:
                            - Quan phủ mấy lâu nay không xuống huyện. Nếu quan phủ xuống huyện thì thế nào cũng đến nhà cụ trước. Ngài thân với cụ nhất. Thực ra cụ là người nhà ngài kính trọng nhất chẳng ai có thể sánh được!
                            - Quan án sát mới đã đến. Tôi chắc quan phủ thế nào cũng xuống huyện.
                            - Phải đấy!
                            Hai người ngồi, uống một lượt trà nữa nhưng không thấy có khách nào đến và cũng không thấy tiệc tùng gì bày ra. Cụ Thành rất phân vân, trong bụng lại đói, đành phải cáo từ một tiếng để xem cụ Phương nói thế nào. Bèn đứng dậy nói:
                            - Tôi xin chào cụ.
                            Phương cũng đứng dậy nói:
                            - Cụ ngồi chơi lát nữa.
                            - Không, tôi bận phải đi.
                            Cụ Thành từ biệt, Phương tiễn ra cổng. Cụ Thành ra khỏi cổng vò đầu, gãi tai, trong lòng suy nghĩ:
                            - Hay là ta đến sớm quá chăng?
                            Lại nghĩ:
                            - Hay là ta đã làm phật ý ông ta chăng? Lại nghĩ:
                            - Hay là ta đọc tờ danh thiếp sai chăng? Cụ chỉ suy nghĩ mãi nhưng không sao hiểu được. Rồi lại sức nhớ:
                            - Ở nhà ông Ngu hiện nay có bữa tiệc. Mình phải về ăn ngay, rồi sau hẵng hay.
                            Cụ Thành đi một mạch về nhà Ngu. Ngu đang ngồi ăn với Đường Tam Đàm, Diêu và hai người nhà ở trong thư phòng. Trước mặt là năm sáu bát đổ ăn, hơi bốc nghi ngút. Họ đang ăn uống vui vẻ thì thấy cụ Thành vào. Tất cả đứng dậy.
                            Ngu nói:
                            - Cụ Thành bỏ chúng ta đến nhà cụ Phương ăn một bữa tiệc ngon hơn.
                            Rồi lại thêm:
                            - Mau mau đưa một cái ghế ra đây cho cụ ngồi. Rót một chén trà lâu năm cụ uống cho tiêu cơm.
                            Đầy tớ đem ra một cái ghế đặt trước mặt mời cụ Thành ngồi. Lại rót trà liên tiếp cho cụ uống, hết chén này đến chén khác. Cụ Thành càng uống càng đói, cực quá nói không ra lời. Mắt nhìn thấy người ta xới thịt lợn, thịt vịt, cá, ba ba, mà thèm chảy nước dãi tức phát điên lên được. Họ ăn mãi đến tối mà cụ Thành thì phải nhịn đói tràn. Đợi cho Ngu tiễn khách ra cửa, cụ Thành mới gọi quản gia vào phòng xin một bát cơm rang qua rồi ăn. Sau đó cụ vào buồng ngủ, nhưng giận quá không sao ngủ được. Hôm sau, cụ Thành từ biệt Ngu Lương về làng. Ngu Lương nói:
                            - Bao giờ cụ trở lại?
                            - Khi nào việc ruộng kia thu xếp xong xuôi tôi sẽ trở lại. Nếu chưa xong, tôi phải đợi cho đến khi bà thím của tôi được vào đền thờ tiết hạnh tôi mới trở lại.
                            Nói xong cụ từ biệt ra về.
                            Một hôm Ngu Lương ở nhà không có việc gì. Đường Nhị đến chơi, hỏi:
                            - Anh Ngu, ông họ Quý hôm trước quả thật là ở nhà quan phủ đến đây. Ông ta ở chùa Bảo Lâm. Ông Phương thứ sáu và ông Bành thứ hai đều gặp ông ta rồi. Anh nói đúng thực!
                            - Hôm trước chính anh nói là không đúng, hôm nay lại chính anh nói là đúng. Nhưng thôi, đúng hay không ta cũng không cần bàn chuyện đó nữa.
                            Đường Nhị cười và nói:
                            - Tôi chưa bao giờ gặp quan phủ. Thế nào anh cũng đến phủ thăm ông Quý vậy cho tôi cùng đi để được gặp quan phủ có được không?
                            - Như thế cũng được.
                            Mấy hôm sau, hai người thuê hai cái kiệu đến phủ Phụng Dương. Đến nha môn, họ đưa danh thiếp. Ngu lại đưa một danh thiếp khác gửi cho Quý Vi Tiêu. Sau khi nhận danh thiếp, một người ra nói:
                            - Ông Quý đã đi Dương Châu rồi. Cụ mời các ông vào. Hai người vào, tri phủ tiếp ở thư phòng. Sau khi đi ra, hai người vào trọ trong một gian phòng ở phía đông thành phố. Tri phủ viết thiếp mời họ ăn cơm. Đường Nhị nói với Ngu Lương:
                            - Quan phủ mời chúng ta đến mai ăn cơm nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây đợi cho quan phủ cho người đến tìm thì không tiện. Ngày mai chúng ta cứ vào chùa Long Hưng ở trước cổng phủ, hễ thấy quan sai người đến mời là chúng ta vào luôn.
                            Ngu cười mà nói:
                            - Cũng được!
                            Hôm sau, ăn cơm trưa xong, hai người đến ngồi đợi trong nhà một vị hòa thượng ở chùa Long Hưng. Nghe ở nhà một vị hòa thượng bên cạnh có tiếng đàn, tiếng hát rất hay. Đường Nhị nói:
                            - Hát hay lắm. Tôi phải sang xem mới được. Đường đi xem nhưng quay trở lại ngay, mặt mày giận dữ trách Ngu Lương:
                            - Anh chơi tôi một vố cay quá. Anh có biết ai hát ở đấy không? Đó là cụ Phương thứ sáu chủ hiệu Nhân Xương ở huyện ta với công tử con quan phủ. bữa tiệc hết sức sang trọng. Mỗi người lại ôm một con hát tuồng. Quả thực họ ăn chơi sung sướng quá. Nếu tôi biết họ thân thiết với nhau như vậy thì hôm qua tôi đã cùng cụ Phương thứ sáu đến thăm quan phủ rồi. Nếu tôi cùng đến với ông ta thì nay tôi đã cùng ngồi một chỗ với công tử. Còn tôi đi với anh thì tuy được gặp mặt quan phủ đấy nhưng không sao thân mật như đi với cụ Phương được. Quả thực là tiếc!
                            - Đó là anh nói với tôi đấy chứ! Tôi có ép anh đâu. Bây giờ cụ Phương ở đây, anh cứ việc vào nhập bọn với ông ta cũng được chứ sao!
                            - Đã cùng đi với nhau thì phải đi cho trót. Tôi đã cùng anh đến thăm quan phủ, thì cùng phải đến ăn tiệc ở đấy chứ.
                            Vừa lúc ấy, trong nha môn có người ra mời, hai người đi vào. Tri phủ ra tiếp nói rằng mình ngưỡng mộ đã lâu, lại hỏi:
                            - Khi nào những người tiết hạnh ở trong huyện được đưa vào đền thờ, tôi sẽ phải xuống huyện để dự lễ.
                            Hai người đáp:
                            - Lúc trở về chúng tôi sẽ định ngày, thế nào cũng xin mời ngài đến.
                            Ăn cơm xong họ từ biệt ra về. Hôm sau, họ lại viết thiếp cáo từ và trở về huyện. Ngu Lương về nhà được một ngày thì Dư Hữu Đạt đến nói:
                            - Ngày mồng ba sắp đến sẽ làm lễ đưa những người tiết hạnh vào đền thờ. Hai gia đình chúng ta có nhiều bà bác và bà thím được đưa vào đền thờ. Chúng ta phải sắm đồ tế lễ, tất cả họ hàng đều phải ra để rước vào nhà thờ.
                            Chúng ta phải sắm đồ tế lễ, tất cả họ hàng đều phải ra để rước vào nhà thờ.
                            Chúng ta nên đi báo mọi người.
                            - Cố nhiên, gia đình em có một người, gia đình anh có hai người được phong tiết hạnh. Hai gia đình chúng ta có tất cả non một trăm năm mươi người, chúng ta phải ăn mặc đồ lễ phục để rước vào nhà thờ, như thế mới gọi là làm theo lối một gia đình lớn chứ.
                            - Tôi sẽ đi báo với gia đình và họ hàng tôi, anh sẽ đi báo với gia đình và họ hàng anh.
                            Ngu đi thăm họ hàng một lượt, bực bội vô cùng, về nhà cả đêm không sao ngủ được. Sáng hôm sau Dư đến, cặp mắt tròn xoe nói một cách giận dữ:
                            - Họ hàng của em nói như thế nào?
                            - Còn họ anh thì sao? Tại sao anh có vẻ tức tối như vậy.
                            - Em đừng hỏi anh nữa! Anh đem việc ấy nói với họ hàng anh, không ai đi cả, cái đó không cần nói. Nhưng họ lại nói rằng bà cụ Phương được đưa vào đền thờ, thế nào họ cũng phải đi rước và họ lại kéo anh cùng đi. Anh không nghe, họ chế nhạo bảo anh không hiểu gì thời thế hết. Em thấy như thế có tức không?
                            Ngu cười và nói:
                            - Họ hàng em cũng thế. Cả đêm em không sao ngủ được. Đến mai em sẽ sắm sửa đồ tế lễ và rước bà thím, không cần gì đến họ.
                            - Anh cũng phải làm như thế mới được.
                            Bàn định như thế là xong.
                            Đến ngày mồng ba Ngu mặc áo, đội mũ mới sai đầy tớ mang một bàn lễ vật đến nhà người em họ thứ tám. Vào cửa, Ngu thấy vắng tanh không có một người khách nào. Người em họ là một anh tú tài xác, áo quần rách rưới ra vái chào. Ngu vào nhà đến trước bàn thờ bà thím vái lạy đưa bài vị lên xe. Họ thuê một cái long đình(2) nhờ bốn người khiêng. Bốn người nhà quê thất thểu khiêng đi. Đằng sau không có một ai đi theo, chỉ có bốn người thổi sáo đi trước thổi lung tung trong khi khiêng long đình đi qua phố. Ngu Lương và em họ đi theo sau. Từ cửa từ đường nhìn ra, hai anh em Ngu Lương nhìn thấy hai cái long đình đã rách, lại không có người thổi sáo, theo sau chỉ có hai anh em Dư Hữu Đạt và Dư Hữu Trọng. Đến trước cửa từ đường bốn người gặp nhau vái chào. Nhìn thấy ở lầu Tôn Kinh trước nhà thờ đã treo đèn, treo cờ bày tiệc rượu. Lầu này rất cao lớn, lại ở ngay giữa đường, đứng ở đâu cũng nhìn thấy. Nhưng người hát tuồng đang mang rương hòm đến. Những người khiêng long đình nói:
                            - Những người hát tuồng của cụ Phương đã đến rồi.
                            Họ đứng đấy một lát thì nghe tiếng súng ở cửa tây. Những người khiêng long đình nói:
                            - Bà cụ Phương đã ra!
                            Lát sau nghe tiếng thanh la và tiếng trống. Hai cái dù vàng, tám cái cờ, và bốn đội cưỡi ngựa mang theo những cái biển đề: “Thượng thư bộ lễ”, “hàn lâm học sĩ”, “Đô đốc học viện”, “Trạng nguyên cập đệ”. Những cái biển này đều do gia đình họ Dư và họ Ngu đưa đến cả. Khi đám rước đi qua, tiếng thanh la, tiếng kèn vang lên, khói trầm nghi ngút, đoàn người rước bài vị của bà cụ Phương đến. Bài vị này được tám người đàn bà chân to khiêng đi. Cụ Phương thứ sáu đầu đội mũ sa tròn đi theo sau bài vị. Đằng sau, là hai hàng quan khách, hương thân và tú tài. Trong đám hương thân có ông Bành thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ bảy. Ngoài ra, những người đỗ cử nhân, tiến sĩ, cống sinh, giám sinh trong hai gia đình của Dư Hữu Đạt và Ngu Lương, tất cả đến sáu bảy mươi người đều đội mũ sa mặc áo cổ tròn, ra vẻ cung kính lắm. Lại đến sáu bảy mươi người tú tài của hai gia đình Ngu và Dư mặc áo dài, đội mũ vội vàng chạy theo sau. Người hương thân đi cuối cùng là Đường Nhị, tay cầm một quyển sổ đang ghi chép. Người tú tài cuối cùng là Đường Tam Đàm, tay cũng cầm một quyển sổ đang ghi chép. Bởi vì gia đình họ Ngu và họ Dư là gia đình thi lễ và cũng còn biết tự trọng cho nên khi đến trước bàn thờ, nhìn thấy long đình của người trong họ mình ở đây, cũng có bảy, tám người đến vái lạy. Sau đó tất cả đoàn người xô nhau đưa long đình của bà cụ Phương vào nhà thờ. Đằng sau là tri huyện, đốc học, thơ lại, bá tổng có đủ các đồ chắp sự, kèn trống. Quan huyện, quan học đạo, thơ lại, hương thân, tú tài, nhà chủ lần lượt vào lạy. Lạy xong, mọi người kéo nhau ra, đến lầu “Tôn kinh” ăn uống. Đợi cho mọi người đi hết, Dư và Ngu mang long đình đặt vào đúng chỗ. Trong họ Ngu, thì Ngu Lương soạn một bàn lễ tế, trong họ Dư thì Dư Hữu Đạt sửa lễ tam sinh. Lễ xong, họ khiêng bàn tế ra ngoài. Nhưng không có nơi nào ăn, họ định mượn nhà người giữ trường thi. Dư Hữu Đạt ngẩng đẩu lên nhìn lầu “Tôn Kinh” thấy khách khứa mặc áo gấm đi giày đỏ đang rót rượu chúc nhau. Cụ Phương thứ sáu sau buổi lễ thấy gò bó nên cất cái mũ sa và áo cổ tròn, đội một cái mũ vuông, mặc quần áo thường, đi đi lại lại, ngoài hành lang. Có một người đàn bà bán hoa họ Quyền, có đôi bàn chân to, bước lên lầu vừa cười vừa nói:
                            - Tôi đến đây để xem đưa bà cụ vào đền thờ. Vẻ mặt cụ Phương thứ sáu vui mừng hớn hở. Cụ đứng dựa vào lan can nhìn những ngọn cờ và những người chơi nhạc, chỉ vào vật này, vật kia và cắt nghĩa cho bà kia nghe. Bà Quyền thì một tay vịn vào lan can, một tay sờ vào lưng bắt rận. Bắt được con nào lại bỏ vào miệng cắn. Nhìn thấy thế, Dư Hữu Đạt chịu không nổi, nói:
                            - Này em, chúng ta không uống rượu ở đây làm gì, hãy khiêng bàn về nhà chúng ta. Hai anh sẽ đến nhà em ăn. Như thế còn hơn ngồi nhìn cái cảnh tượng này.
                            Mọi người bèn khiêng bàn thờ về nhà, bốn năm người theo sau. Trên đường cái, Hữu Đạt nói với Ngu Lương:
                            - Này em! Trong cái huyện này không còn biết lễ nghĩa, liêm sỉ gì nữa, cũng vì ở đây chẳng còn một ông thầy nào ra hồn. Nếu ở Nam Kinh chỗ Ngu bác sĩ thì làm gì có những việc như thế này!
                            Dư Hữu Trọng nói:
                            - Ngu bác sĩ không ngăn cấm ai việc gì. Nhưng nhìn những hành động của ông mọi người đều cảm hóa nên không ai làm những việc trái lễ.
                            Mấy người thở dài, cùng về nhà uống rượu rồi ai về nhà nấy.
                            Lúc này đã bắt đầu sửa chữa lầu Nguyên Vũ. Ngày nào Ngu Lương cũng đến đôn đốc công việc. Hôm ấy Ngu trở về nhà thì thấy cụ Thành đã ngồi trong thư phòng. Ngu vái chào, sai đem trà ra uống và hỏi:
                            - Tại sao trong ngày lễ trước đây không thấy cụ đến? - Hôm ấy tôi cũng muốn đến lắm nhưng còn mắc bệnh không thể đến được. Em tôi về làng nói buổi lễ thật là náo nhiệt, người đi đưa đám nhà cụ Phương chật mất nửa đường, quan huyện Vương và nhà cụ Bành cũng đều đi đưa. Ở trên lầu “Tôn Kinh” có ăn uống, hát xướng. Người các nơi đều kéo nhau đến xem, họ nói rằng: Ngoài gia đình cụ Phương ra, không có ai làm được một cái lễ như vậy. Thế nào? Ông cũng có mặt và uống rượu ở trên lầu có phải không?
                            - Cụ không biết hôm ấy tôi cũng phải đưa bà thím của tôi.
                            Cụ Thành cười nhạt nói:
                            - Ông em họ của ông nghèo quá không có tiền mua quần áo mà mặc, còn ai chịu đưa đám làm gì? Chắc ông đùa với tôi đấy thôi. Thế nào ông cũng đưa đám bà cụ Phương.
                            - Thôi, việc ấy đã qua rồi, nói làm gì nữa.
                            Ăn cơm chiều xong, cụ Thành nói:
                            - Người chủ ruộng và người mách mối đều lên đây. Hiện nay họ ở trong chùa Bảo Lâm. Nếu ông muốn mua ruộng thì đến mai là có thể xong.
                            - Như thế cũng được.
                            - Lại còn một việc nữa. Tôi chính là người nói cho ông biết về thửa ruộng ấy. Tôi muốn được năm mười lạng về tiền công. Ông phải trả cho tôi số tiền ấy, tôi lại sẽ lấy tiền ở người mách mối nữa.
                            - Cái đó chẳng cần phải bàn.
                            Cụ Thành mới kể lại tất cả tô, giá tiền mua ruộng, cân để cân, sổ bạ, giá tiền về gà, cỏ, tiền tô, tiền rượu, tiền chữ ký, tiền biếu nghiệp chủ vân vân... Cụ Thành đem người chủ ruộng, người mách mối đến nhà Ngu Lương từ sáng sớm. Cụ Thành đến, bảo viết khế cho xong. Nhưng khi bước vào thư phòng bảo Ngu Lương ký vào khế bán ruộng thì cụ Thành thấy những người thợ nề, thợ mộc đang lĩnh tiền ở đây. Ngu Lương đem tiền ra phân phát từng đỉnh năm mươi lạng một, một lát phát hết mấy trăm lạng. Chờ cho họ đi hết, cụ Thành đến bảo ký vào khế bán ruộng. Ngu Lương trợn mắt nói:
                            - Ruộng đắt quá, tôi không muốn mua.
                            Cụ Thành giật mình không biết nói gì. Ngu Lương nói:
                            - Thưa cụ, quả thật tôi không muốn.
                            Và quay lại bảo đầy tớ:
                            - Mày ra bảo những người nhà quê ở ngoài sảnh đi cho rảnh mắt.
                            Cụ Thành cau mày nhăn mặt đành phải đi ra.
                            Chỉ nhân phen này khiến cho:
                            Lìa nơi ác tục, thói nhà nho lại rạng môn tường;
                            đến chốn danh bang, người hiền triết tiếc không gặp mặt.
                            Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
                            ----------
                            (1) "Xú án" xú là thối ngược với “hương” là thơm. Đây Ngu Lương dùng lối chơi chữ.
                            (2) Long đình: Hương án trên có lợp mái, ở trong đề bài vị, hương hoa, có thể khiêng đi.


                            hết: Hồi 47, xem tiếp: Hồi 48


                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #44
                              Hồi 48

                              Phủ Huy Châu liệt phu chết theo chồng
                              Đền Thái Bá hiền xưa ghi việc cũ
                              Dư Hữu Đạt dạy học ở nhà Ngu Lương, theo thường lệ cứ sáng đi chiều về. Hôm ấy Hữu Đạt dậy sớm, rửa mặt xong, uống trà định sang lớp học. Nhưng vừa ra đến cửa thì thấy ba người cưỡi ngựa đến. Tất cả xuống ngựa chào mừng Dư Hữu Đạt, Hữu Đạt hỏi:
                              - Có việc gì mà chúc mừng thế?
                              Những người báo tin đưa ra một tờ giấy báo rằng Dư Hữu Đạt đã được bổ làm huấn đạo ở Huy Châu, Dư rất mừng rỡ, mời họ ăn cơm, uống rượu rồi cho tiền để họ về. Sau đó, Ngu Lương và bà con, bạn bè cũng đến mừng. Dư Hữu Đạt lo bận việc tiếp khách mất mấy ngày, rồi thu xếp để đến An Ninh lính bằng. Lĩnh bằng xong, Hữu Đạt đem gia đình đến nơi làm việc. Hữu Đạt mời Hữu Trọng cùng đi với mình. Hữu Trọng nói:
                              - Lương anh chẳng bao nhiêu. Khi anh đến đấy sợ không đủ chi dùng. Em ở nhà thôi.
                              Hữu Đạt nói:
                              - Hai anh em ta gặp được nhau ngày nào là quí ngày ấy. Trước đây, hai ta đều phải đi dạy học các nơi, có khi hàng năm không gặp mặt nhau. Nay chúng ta đã già rồi, chỉ mong anh em được sống với nhau cho lâu dài chứ việc no hay đói thì ta sẽ bàn sau. Làm quan lẽ nào chẳng hơn dạy học ở nhà riêng sao! Em cứ đi với anh.
                              Dư Hữu Trọng bằng lòng thu xếp hành lý, cùng đến Huy Châu. Vì Hữu Đạt là một nhà văn rất nổi tiếng, mọi người ở Huy Châu đều biết, cho nên ông đến đấy làm quan, nhân dân Huy Châu nghe tin đều mừng rỡ. Sau khi đến nhậm chức, mọi người thấy Hữu Đạt tính tình rộng rãi, ăn nói tỏ thông suốt, cho nên những người tú tài nào chưa đến gặp cũng đều muốn đến. Họ đều thấy mình được một vì thầy sáng suốt. Đến lúc nói chuyện với Hữu Trọng thấy lời nói nào của Hữu Trọng cũng là lời của con người có học vấn, mọi người lại càng thêm kính trọng. Ngày nào cũng có mấy người tú tài đến thăm. Hôm ấy, Hữu Đạt đang ngồi ngoài nhà sảnh bỗng thấy ở bên ngoài có một người tú tài bước vào. Y đầu đội mũ vuông, mình mặc áo màu lam, da mặt đen sạm, râu lốm đốm bạc, tuổi trạc sáu mươi. Người này cầm trên tay một tờ danh thiếp đưa cho Hữu Đạt. Hữu Đạt xem tờ danh thiếp đề: “Học trò là Vương Uẩn”. Sau khi đưa danh thiếp, Vương vái chào. Hữu Đạt đáp lễ và hỏi:
                              - Có phải tên tự của ông là Ngọc Huy phải không?
                              - Vâng chính tôi.
                              - Anh Ngọc Huy! Tôi mong anh đã hai mươi năm nay, ngày nay mới được gặp mặt. Chúng ta chỉ nên xem nhau là anh em, không cần phải theo lệ tục làm gì.
                              Hữu Đạt mời Vương vào thư phòng sai đầy tớ mời Hữu Trọng ra. Hữu Trọng ra gặp Vương Ngọc Huy. Cả hai đều nói mình mấy lâu khao khát nay mới được gặp nhau. Sau đó, cả ba ngồi xuống. Vương ngọc Huy nói:
                              - Con là tú tài ở trường này đã ba mươi năm nay. Con vốn là một con người ngông cuồng, mấy năm trước đối với thầy học chẳng qua chỉ gặp qua một lần ở công đường mà thôi, nhưng nay được tin thầy và chú ở đây là hai người nổi tiếng, con sẽ xin đến luôn để được thầy và chú dạy bảo. Mong thầy không xem con như mọi người môn sinh khác mà xem con như đứa học trò mới học.
                              Hữu Đạt nói:
                              - Sao anh nói như vậy? Chúng ta là bạn bè từ lâu.
                              Hữu Trọng nói:
                              - Trước đây tôi có nghe nói ông gia thế thanh bần. Độ này ông có dạy học ở nhà không. Mấy lâu nay ông làm nghề gì để sống?
                              - Chẳng giấu gì chú, sính bình tôi, có một chí hướng. Tôi muốn viết ba bộ sách để giúp đời.
                              Hữu Đạt hỏi:
                              - Ba bộ sách gì vậy?
                              - Một bộ sách về lễ, một bộ sách về văn tự, một bộ sách về hương ước.
                              Hữu Trọng hỏi:
                              - Bộ sách về lễ nói gì?
                              - Bộ sách về lễ nói đến ba thứ lễ lớn như nói về lễ với cha mẹ, lễ với người lớn, bậc huynh trưởng chẳng hạn. Những chữ lấy trong kinh ra thì viết lớn ở dưới có chú thích thêm lời bàn của các nhà và lấy những việc trong sử để dẫn chứng. Như vậy học sinh từ bé có thể học tập được.
                              Hữu Đạt nói:
                              - Một bộ sách như vậy cần phải được bộ học cho lưu hành khắp thiên hạ. Còn bộ sách về văn tự nói gì?
                              - Bộ này con làm mất bảy năm. Nay đã xong, con sẽ đưa lên để thầy xem.
                              Hữu Đạt nói:
                              - Việc học về văn tự mấy lâu nay người ta đã bỏ. Nay có quyển sách này thực là công lao không phải nhỏ. Còn quyển về hương ước thì nói gì?
                              - Quyền hương ước chẳng qua là ghi thêm những lễ nghi để dạy cho nhân dân.
                              Ba bộ sách này làm cho con bận rộn suốt ngày cho nên không có thì giờ dạy học.
                              Hữu Đạt hỏi:
                              - Ông có mấy người con trai?
                              - Con chỉ có một cháu trai, bốn cháu gái! Cháu gái đầu góa chồng ở nhà. Mấy cháu gái nhỏ cũng vừa lấy chồng một năm nay.
                              Dư Hữu Đạt giữ Vương ở lại ăn cơm, trả lại Vương tờ danh thiếp, mà rằng:
                              - Hai anh em tôi mời ông thỉnh thoảng đến chơi, xin ông đừng nề hà gì cái cảnh cơm rau của chúng tôi.
                              Sau đó, hai người tiễn Vương ra cửa. Vương bước thủng thỉnh về nhà. Nhà ở cách thành phố đến mười lăm dặm.
                              Vương Ngọc Huy trở về nhà nói với vợ và con về việc Dư huấn đạo đối đãi mình tốt như thế nào. Hôm sau, Dư Hữu Đạt đi kiệu xuống làng thăm và ngồi trong gian nhà tranh nói chuyện. Một lát rồi về. Hôm sau nữa, Dư Hữu Trọng lại thân hành đến mang theo một người đầy tớ quảy một đấu gạo. Hữu Trọng bước vào chào Vương Ngọc Huy, hai người cùng ngồi. Hữu Trọng nói:
                              - Đấu gạo này là bổng lộc của anh tôi.
                              Và lấy trong tay áo ra một gói bạc nói:
                              - Đây là một lạng bạc tiền lương của anh tôi, chúng tôi đưa đến cho ông mong để góp phần vào việc củi nước vài ngày.
                              Vương Ngọc Huy nhận lấy bạc và nói:
                              - Tôi không có chút gì kính biếu thầy và chú nay lại được thầy săn sóc đến thật là quá đáng.
                              Hữu Trọng cười mà rằng:
                              - Nói làm gì cái việc ấy! Lương huấn đạo vốn chẳng bao nhiêu, anh tôi lại mới đến nhậm chức. Ngu bác sĩ ở Nam Kinh vẫn thường biếu những người danh sĩ hàng chục lạng bạc. Anh tôi cũng muốn bắt chước ông ta.
                              - Đây là vật tặng của bậc trưởng giả, tôi dám đâu không nhận, vậy xin bái lĩnh.
                              Ngọc Huy giữ Hữu Trọng ở lại ăn cơm rồi đưa ra bản thảo của cả ba quyển sách cho Hữu Trọng xem, Hữu Trọng xem rất kỹ, trong lòng khôn xiết thán phục.
                              Hữu Trọng ngồi mãi đến chiều, chợt thấy một người vào bảo với Ngọc Huy:
                              - Thưa ông, anh ấy ở nhà bệnh rất nặng, chỉ bảo tôi đến mời ông về thăm. Xin mời ông đi gấp cho.
                              Vương Ngọc Huy bảo Dư Hữu Trọng:
                              - Đó là người nhà của đứa con gái thứ ba của tôi. Vì thằng con rể của tôi mắc bệnh cho nên nó bảo tôi về thăm.
                              Hữu Trọng nói:
                              - Như vậy tôi cũng xin từ biệt. Tôi xin đem bản thảo của ông về cho anh tôi xem. Xem xong tôi sẽ trả lại.
                              Nói xong Hữu Trọng ra về. Người đầy tớ đã ăn xong bữa cơm cùng bỏ mấy quyển sách vào cái thúng không gánh về thành.
                              Vương đi được hai mươi dặm đến nhà con rể. Quả nhiên thấy con rể mắc bệnh rất nặng. Thầy thuốc ở ngay đấy nhưng cũng vô hiệu. Sau mấy hôm người con rể qua đời. Vương Ngọc Huy khóc rống. Con gái của Ngọc Huy kêu trời gào đất thảm thiết đợi đến khi khâm liệm chồng xong mới ra lạy cha mẹ chồng và cha mình rồi nói:
                              - Thưa cha, chị cả của con đã góa chồng, ở nhà bắt cha mẹ phải nuôi. Ngày nay đến lượt chồng con cũng mất. Có lẽ nào con lại bắt cha mẹ nuôi nữa. Nghèo như cha nuôi làm sao được bấy nhiêu đứa con gái!
                              Vương Ngọc Huy nói:
                              - Bây giờ con định làm gì?
                              - Nay con muốn xin từ biệt cha mẹ chồng, từ biệt cha và xin xuống suối vàng với chồng con.
                              Cha mẹ chồng của nàng nghe vậy kinh hoảng, nước mắt như mưa và nói:
                              - Con ơi! Con điên rồi sao? Từ xưa đến nay con sâu con kiến còn tham sống kia mà! Tại sao con ăn nói như vậy? Con sống là người nhà của ta, chết là ma của gia đình ta. Ta sẽ nuối nấng con, không cần đến cha mẹ đẻ con đâu. Con không nên nghĩ như vậy!
                              Người con gái nói:
                              - Cha mẹ nay đã già rồi. Con làm dâu không hiếu thuận với cha mẹ lại làm cho cha mẹ phải lo lắng về con, như thế lòng con thật không yên. Cha mẹ cứ để con làm theo ý của con. Vài hôm nữa thì con chết, xin cha về nhà nói với mẹ con, đến đây để con gặp mặt, từ biệt trước khi chết. Con tha thiết mong việc đó.
                              Vương Ngọc Huy nói:
                              - Tôi đã nghĩ kỹ việc đó rồi. Đứa con gái của tôi thiết tha muốn chết theo chồng, đó là ý muốn của con tôi. Ta cứ để cho nó làm theo ý nó. Từ xưa đã có câu: “Lòng đã muốn làm sao mà cản được”.
                              Bèn quay lại nói với con gái:
                              - Con ơi! Con đã muốn thì đó là một việc lưu danh sử sách. Cha ngăn cản con làm gì! Con đã biết điều hay lẽ phải. Cha sẽ về nhà nói với mẹ con đến đây để từ biệt con.
                              Bên cha mẹ chồng không chịu nghe, nhưng Vương Ngọc Huy vẫn cứ giữ ý của mình, bước một mạch về nhà, đem việc ấy nói với vợ. Bà vợ nói:
                              - Ông càng già lại càng điên rồi sao? Con gái ông muốn chết, ông không khuyên nó thôi đi lại giục nó chết. Như thế là nghĩa làm sao?
                              - Bà làm gì mà hiểu được những việc như thế!
                              Người vợ nghe vậy, nước mắt nước mũi ròng ròng vội vàng lên kiệu đến nhà con gái để khuyên bảo con. Trong lúc ấy Vương Ngọc Huy ở nhà vẫn cứ điềm nhiên xem sách như trước chờ đợi tin tức con gái. Bà mẹ đến khuyên bảo con, nhưng người con vẫn không lay chuyển. Mỗi ngày nàng chải đầu rửa mặt ngồi hầu cạnh mẹ chồng nhưng không hề húp qua một thìa cháo. Mẹ chồng và mẹ đẻ cố ra sức khuyên lơn. Mặc dầu trăm phương nghìn kế nàng vẫn không ăn. Nhịn được sáu ngày, yếu quá không dậy nổi. Bà mẹ đẻ đến nhìn thấy đau lòng xót ruột nên cũng mắc bệnh phải khiêng về nhà nằm. Ở nhà, được ba ngày, chừng canh hai, có mấy người cầm mấy bó đuốc đến nhà, gõ cửa báo tin.
                              - Cô ba nhịn đói đã tám ngày và đã mất vào trưa hôm qua.
                              Ba mẹ nghe vậy khóc ngất đi, phải múc nước tưới vào mắt mới tỉnh dậy. Tỉnh dậy lại khóc mãi không thôi. Vương Ngọc Huy đến trước giường nói:
                              - Bà mày thật là ngốc! Con bà nay đã thành tiên rồi. Bà khóc mà làm gì? Chết như thế là giỏi! Chỉ sợ sau này ta muốn chết cho có một đề tài hay như thế mà không chết được thôi!
                              Bèn ngẩng lên trời cười khanh khách:
                              - Chết như thế là giỏi! Chết như thế là giỏi!
                              Và cứ cười khanh khách bước từng bước dài ra khỏi phòng.
                              Hôm sau Dư Hữu Đạt biết tin, kinh ngạc khôn xiết. Bèn đem hương hoa, đồ tam sinh đến trước quan tài làm lễ. Làm lễ xong trở về nha môn, lập tức bảo người thư lại làm công văn xin cho nàng được sắc phong làm liệt nữ. Dư Hữu Trọng cũng giúp đỡ trong việc làm công văn gửi đi ngay đêm đó. Sau đó, Hữu Trọng cũng đem đồ lễ vật đến viếng. Học trò thấy thầy học của mình kính trọng người đàn bà mới mất như vậy nên cũng kéo nhau đến viếng không biết bao nhiêu mà kể. Hai tháng sau, quan trên chuẩn y cho phép đưa vào đền thờ. Ở ngoài cổng đền làm một cái cổng chào. Đến ngày đưa vào đền thờ, Dư Hữu Đạt mời tri huyện đưa người liệt nữ vào đền. Các quan thân trong huyện cũng đều mặc lễ phục rước vào đền thờ. Sau khi đã đưa bài vị vào đền thờ, tri huyện, các quan thân, Dư Hữu Đạt và bà con hai gia đình tất cả đều vào làm lễ. Lễ kéo dài một ngày. Người ta bày tiệc ở nhà Minh Luân và mời Vương Ngọc Huy vào, nói rằng Vương Ngọc Huy đẻ một người con gái quí như vậy làm nổi tiếng cho cả họ. Nhưng Vương Ngọc Huy bây giờ cảm thấy đau đớn từ chối không vào dự tiệc. Mọi người ở Minh Luân Đường uống rượu xong rồi về.
                              Hôm sau Vương Ngọc Huy đến trường học cảm tạ Dư Hữu Đạt. Dư Hữu Đạt và Dư Hữu Trọng tiếp và giữ lại ăn cơm. Vương Ngọc Huy nói:
                              - Ở nhà, tôi thấy nhà tôi luôn luôn khóc lóc, trong lòng không chịu được cho nên muốn đi chơi xa ít lâu. Tôi nghĩ rằng nơi đi chơi thích nhất là Nam Kinh. Ở đây có những nơi in sách rất lớn, tôi có thể in được ba bộ sách này.
                              Dư Hữu Đạt nói:
                              - Ông muốn đến Nam Kinh nhưng tiếc rằng Ngu bác sĩ đã đi rồi. Nếu Ngu bác sĩ còn ở Nam Kinh thì chỉ cần ông ta xem một lần và khen một tiếng là các hiệu in tranh nhau in.
                              Dư Hữu Trọng nói:
                              - Nếu ông đi Nam Kinh thì anh có thể viết một bức thư cho ông Thiếu Khanh là em họ, và ông Thiệu Quang. Lời nói của những người này rất có giá trị.
                              Hữu Đạt vui lòng viết mấy bức thư cho Trang Thiệu Quang, Đỗ Thiếu Kanh, Trì Hành Sơn, Vũ Thư.
                              Vương Ngọc Huy già nên không thể đi bộ, xuống thuyền đi từ Nghiêm Châu tới Tây Hồ. Trên đường nhìn phong cảnh nước non xinh đẹp lại chạnh nhớ đến con gái, Vương càng buồn rầu. Đến Tô Châu phải chuyển sang thuyền khác. Vương nghĩ bụng. Ta có một người bạn cũ ở núi Đặng Uý, ông ta rất thích sách của ta, nhân tiện ta cũng đến thăm một thể.
                              Vương bèn để hành lý trong một cái quán ở hồ Sơn Đường, rồi thuê thuyền đến núi Đặng Uý. Bây giờ trời còn sớm, đến chiều thuyền này mới bắt đầu đi. Vương Ngọc Huy hỏi chủ quán:
                              - Ở đây, nơi nào xinh đẹp có thể du ngoạn?
                              - Cách đây chỉ độ sáu bảy dặm là gò Hổ Khâu. Đó là một nơi rất xinh đẹp.
                              Vương khóa trái cửa rồi ra. Đường đi lúc đầu còn hẹp. Đi được độ hai ba dặm, đường dần dần rộng. Bên đường có một quán trà, Vương vào uống một chén trà rồi nhìn những chiếc thuyền đi qua. Có những chiếc thuyền rất lớn, cột kèo làm bằng gỗ, chạm trổ tinh vi. Ở trong người ta đốt hương, bày tiệc rượu, Vương đi thẳng đến gò Hổ Khâu. Hết những thuyền của các du khách đi qua, lại đến những chiếc thuyền không treo rèm, ở trong có những người đàn bà ăn mặc rất xinh đẹp, ngồi uống rượu. Vương nghĩ bụng:
                              - Phong tục ở Tô Châu đây không ra gì, đàn bà thì phải ở trong chốn buồng the, có lẽ nào lại chơi thuyền xuôi ngược trên dòng sông như thế này!
                              Nhìn một lát, lại thấy một người đàn bà trẻ làm Vương sực nhớ đến con gái mình. Lòng Vương nghẹn ngào nước mắt lã chã tuôi rơi. Vương Ngọc Huy lau nước mắt bước ra, đi thẳng đến gò Hổ Khâu. Trên đường chỉ thấy người bán đậu phụ, bán chiếu, bán đồ chơi, bán hoa bốn mùa rất là náo nhiệt. Cũng có những người bán rượu, bán đồ điểm tâm. Vì Vương đã già, đi không được nhanh nên phải đi thủng thỉnh mất một lúc mới đến cửa chùa Hổ Khâu. Bước lên mấy bực tam cấp rồi đi quanh thì đến cái bia “Thiên nhân bi” ở đấy người ta đã bày một bàn trà. Vương ngồi xuống uống một chén trà, nhìn quanh bốn phía, phong cảnh thực là hoa lệ. Bấy giờ sắc trời u ám, hình như sắp có trận mưa. Vương không dám ngồi lâu, đứng dậy bước ra cửa chùa. Đi được nửa đường cảm thấy đói, Vương vào quán ăn mấy cái bánh, mỗi cái sáu đồng tiền, trả tiền rồi đi ra, thủng thỉnh về quán trọ. Khi ấy trời đã tối sẫm, chủ thuyền giục Vương mang hành lý xuống thuyền. Cũng may mưa không to nên đêm ấy thuyền đi suốt đêm, đến núi Đặng Uý. Vương đến nhà người bạn thì thấy cái nhà lụp xụp, ngoài cổng có mấy cây liễu rủ, hai cánh cổng đóng kín, ở ngoài dán giấy trắng. Vương giật mình, vội vàng gõ cửa. Chỉ thấy người con của bạn mình mặc đồ tang đi ra cửa. Thấy Vương Ngọc Huy, y liền hỏi:
                              - Tại sao mãi đến bây giờ bác mới đến? Cha cháu ngày nào cũng mong gặp bác. Ngay đến lúc nằm trên giường bệnh hấp hối cha cháu còn muốn gặp bác một lần nữa, trong lòng cứ tiếc không sao được đọc hết sách của bác.
                              Vương Ngọc Huy nghe vậy biết rằng bạn mình đã qua đời, nước mắt rơi như mưa, nói:
                              - Cha cháu mất từ bao giờ.
                              - Chưa được bảy ngày.
                              - Quan tài có ở nhà không?
                              - Vẫn còn ở trong nhà.
                              - Cháu dẫn bác đến!
                              - Mời bác hãy rửa mặt uống trà rồi cháu xin đưa bác vào.
                              Y mời Vương Ngọc Huy vào nhà, múc nước cho Vương rửa mặt. Nhưng Vương không chịu uống trà cứ bảo người con đưa mình đến trước quan tài. Người con đưa vào gian giữa, quan tài còn để ở giữa nhà. Trước mặt là lư hương, đèn sáp, chân dung người chết, cờ phan. Vương Ngọc Huy khóc một hồi, sụp lạy bốn lạy. Người con đáp lễ. Vương uống trà xong, lại lấy một số phần tiền đi đường để mua hương, giấy mã, thịt tế, rồi đặt những quyển sách của mình trước linh cữu, khóc rống một hồi. Vương nghỉ lại một đêm hôm sau mới ra đi. Người con giữ lại không được. Vương lại đến trước quan tài của bạn để cáo từ, khóc lóc thảm thiết rồi gạt nước mắt xuống thuyền. Con của người bạn tiễn chân đến tận thuyền mới trở về.
                              Vương đến Tô Châu, sang thuyền khác đi thẳng một mạch đến cửa Thuỷ Tây, thành Nam Kinh, mới lên bờ. Bước vào thành, Vương vào trọ trong am Ngưu Công. Hôm sau Vương mang thư đến để tìm gặp các danh sĩ. Nhưng bây giờ Ngu bác sĩ đã được bổ đi Chiết Giang. Đỗ Thiếu Khanh cũng đi Chiết Giang thăm bạn. Trang Thiệu Quang trở về làng để sửa lại phần mộ tổ tiên, Trì Hành Sơn, Vũ Thư đều đi xa. Vương ngọc Huy không gặp được ai nhưng cũng không lấy làm buồn, hàng ngày vẫn ở am Ngưu Công đọc sách như thường. Hơn một tháng sau, số tiền đã hết, Vương đang dạo chơi trên đường rẽ vào ngõ hẹp thì gặp một người vái chào hỏi:
                              - Bác tại sao lại đến đây?
                              Vương nhìn ra, thì người kia là người đồng hương tên là Đặng Nghĩa Tự và Chất Phu. Cha của Đặng Chất Phu là bạn học với Vương. Đặng Chất Phu vào trường chính nhờ Vương Ngọc Huy làm bảo lĩnh, vì vậy Đặng Chất Phu gọi Vương ngọc Huy là bác. Vương Ngọc Huy nói:
                              - Đã lâu không gặp cháu. Hiện nay cháu ở đâu?
                              - Bác ở đâu?
                              - Bác ở am Ngưu Công trước mặt, cách đây không xa. - Cháu hãy đến nhà bác đã.
                              Đến nhà, Đặng Chất Phu vái chào và nói:
                              - Từ khi cháu xa bác, cháu ở Dương Châu được bốn năm năm. Gần đây ông chủ của cháu bảo cháu đến bán muối ở trên sông. Cháu trọ ở Triều Thiên Cung. Bấy lâu nay cháu cứ nhờ bác, bác có mạnh khỏe không? Bác đến Nam Kinh làm gì?
                              Vương ngọc Huy mời ngồi và nói: - Cháu có nhớ không? Trước đây mẹ cháu thủ tiết thờ chồng, nhà láng giềng bị cháy, mẹ cháu cầu trời khấn Phật, có cơn gió nổi lên thổi tắt ngọn lửa. Việc đó thiên hạ đều biết. Ngày nay người con gái thứ ba của bác cũng là một liệt nữ.
                              Vương kể lại câu chuyện con gái mình tuẫn tiết theo chồng. Và nói:
                              - Vì bác ở nhà thấy bác gái khóc lóc trong lòng không đành. Quan huấn đạo ở phủ là ông Dư Hữu Đạt có viết mấy bức thư cho bác để gặp mấy người bạn ở Nam Kinh. Không ngờ bác đến đây không được gặp ai.
                              - Họ là ai?
                              Vương Ngọc Huy kể lại đầu đuôi. Đặng Chất Phu thở dài mà rằng:
                              - Cháu cũng tiếc bác đến đây đã muộn. Trong thời gian Ngu bác sĩ ở Nam Kinh, ở đây có nhiều người danh sĩ nổi tiếng, mọi người đều biết đến việc tế ở đền Thái Bá. Từ khi Ngu bác sĩ đi rồi, các vị danh sĩ cũng tản đi bốn phương như mây trôi nước chảy. Năm ngoái cháu có được gặp ông Đỗ Thiếu Khanh và nhờ ông Đỗ Thiếu Khanh, cháu được gặp ông Trang Thiệu Quang ở hồ Nguyên Vũ. Nhưng nay, họ đều không có ở nhà. Bác ở đây không tiện, mời bác đến Triều Thiên Cung ở với cháu.
                              Vương Ngọc Huy nhận lời, từ biệt hòa thượng sai người mang hành lý, cùng Đặng Chất Phu đến ở tại Triều Thiên Cung. Buổi tối, Đặng Chất Phu dọn tiệc rượu kể lại câu chuyện về đền Thái Bá. Vương Ngọc Huy nói:
                              - Đền Thái Bá ở đâu? Ngày mai tôi muốn đến thăm.
                              - Ngày mai cháu sẽ cùng đi với bác.
                              Hôm sau, hai người đi ra cửa nam, Đặng Chất Phu cho người giữ cổng mấy đồng tiền. Cổng mở, họ bước vào điện chính. Sau khi làm lễ ở điện chính, họ đi ra phía nam. Ở dưới lầu họ nhìn thấy tờ giấy vạch chương trình buổi lễ và những người được cử vào tế do Trì Hành Sơn dán lên tường trước kia. Hai người lấy ống tay áo lau bụi bặm và cầm lên xem. Họ lại bước lên lầu, thấy tám cái tủ lớn đựng các nhạc cụ, đồ tế. Vương Ngọc Huy muốn xem, người giữ điện nói:
                              - Chìa khóa hiện nay ở trong nhà ông Trì Hành Sơn.
                              Họ đành phải đi xuống theo hai đường hành lang, ở hai bên là phòng đọc sách. Họ đi thẳng đến gian nhà khám thịt tế rồi từ biệt người giữ đền thờ. Hai người lại đến chùa Báo Ân xem. Họ uống trà ở dưới chân tháp lưu Ly và ăn cơm trong một quán rượu trước cửa chùa. Vương Ngọc Huy nói với Đặng Chất Phu:
                              - Bác đi chơi đã lâu, nay muốn trở về nhưng không sao có tiền đi đường.
                              - Bác nói gì vậy? Cháu xin đưa tiền đi đường để bác về nhà.
                              Đặng Chất Phu làm một bữa tiệc tiễn hành, đưa ra mười mấy lạng bạc cho Vương, lại thuê một cái kiệu đưa Vương về Huy Châu. Đặng Chất Phu nói:
                              - Nay tuy bác đã đi nhưng bác cứ để lại cho cháu mấy bức thư của ông Dư Hữu Đạt. Khi nào các vị danh sĩ trở về, cháu sẽ đem thư đến cho họ, để họ biết rằng bác đã đến thăm.
                              - Như thế thì rất tốt!
                              Vương bèn trao mấy bức thư cho Đặng Chất Phu và lên kiệu về nhà. Vương Ngọc Huy đi được một vài hôm, Đặng Chất Phu nghe tin Vũ Thư đã trở về bèn đem thư đến nhà. Vũ Thư không ở nhà, Đặng không gặp mặt nhưng để thư ở lại và bảo người nhà rằng:
                              - Thư này là của ông Đặng ở Triều Thiên Cung đem đến. Ông ta muốn gặp ông chủ để trình bày đầu đuôi.
                              Vũ Thư về nhà đọc thư, định đến Triều Thiên Cung để thăm lại. Nhưng vừa lúc ấy thì Cao Hàn Lâm mời, chỉ nhân phen này khiến cho:
                              Bạn bè yến hội, bỗng dưng lại gặp người kỳ;
                              Hoạn nạn giúp nhau, cũng phải nhờ tay giỏi võ.
                              Muốn biết sự việc như thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.


                              hết: Hồi 48, xem tiếp: Hồi 49
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #45
                                Hồi 49

                                Hàn lâm bàn tán bảng long hổ
                                Trung thư mạo chiếm áo phượng hoàng

                                Vũ Thư định đến nhà Đặng Chất Phu thì có người đưa tờ danh thiếp đến. Tờ danh thiếp viết:
                                “Cao hàn lâm hôm nay mời ông đến chơi” Vũ Thư trả lời người kia:
                                - Tôi phải đi thăm một người khách rồi sẽ đến ngay. Anh về trước báo với ông chủ như vậy.
                                - Ông chủ tôi gửi lời thăm ông. Ông chủ tôi có mời ông Vạn ở Chiết Giang là người bạn rất thân từ trước đến nay. Lại có mời cả ông Trì nữa. Ngoài ra có ông Tần là bà con ông chủ.
                                Vũ Thư nghe nói có Trì Hành Sơn nên cũng miễn cưỡng nhận lời. Vũ Thư đến thăm Đặng Chất Phu nhưng không gặp. Buổi chiều, người nhà Cao đến mời hai lần, Vũ Thư mới đi. Cao Hàn Lâm ra tiếp, mời vào thư phòng. Thi ngự sử, Tần trung thư cũng đến ở đấy. Mấy người đang uống trà thì Trì Hành Sơn đến. Cao bảo quản gia mời ông Vạn đến và nói với Thi ngự sử:
                                - Ông Vạn là một người bạn của tôi giỏi bậc nhất ở Chiết Giang, viết chữ rất tốt. Cách đây hai mươi năm, lúc tôi đỗ tú tài tôi có gặp ông ở Dương Châu. Lúc đó, ông cũng đỗ tú tài, nhưng hành động của ông khác hẳn người thường. Bấy giờ mấy ông quan coi muối đều không dám khinh thường ông và việc ông làm ở đấy hơn tôi. Từ khi tôi lên kinh đến nay hai bên không gặp nhau nữa. Hôm trước đây, ông ở kinh về nói đã được bổ làm trung thư. Như vậy, nay mai ông sẽ là bạn cùng nha môn với ông Tần đây...
                                Tần cười:
                                - Ông là bạn đồng sự với tôi mà được cụ tôn kính như thế sao? Nếu vậy, ngày mai cụ phải đến chơi nhà tôi mới được.
                                Bấy giờ Vạn đã đi kiệu đến cửa và đưa danh thiếp vào. Cao Hàn Lâm chắp tay đứng dưới thềm nhà khách bảo quản gia mở cửa cho kiệu đi vào. Vạn xuống kiệu từ ngoài cửa bước vào, vái chào mọi người và ngồi.
                                Vạn nói:
                                - Tôi được cụ mời thực là hân hạnh! Xa nhau đã hai mươi năm, nay tôi cũng muốn mượn chén rượu nói chuyện xưa. Không biết hôm nay cụ có mời vị khách nào nữa không?
                                - Hôm nay không có vị khách nào khác, chỉ có Thi ngự sử, ông Tần là bà con và ông Vũ, ông Trì là bạn của tôi. Hiện nay tất cả đều ở trong nhà khách phía tây.
                                - Cho tôi được gặp mặt.
                                Người quản gia vào mời bốn người khách vào gian nhà khách chính. Thi ngự sử nói:
                                - Cụ Cao mời chúng tôi đến đây để tiếp ông.
                                Vạn nói:
                                - Tôi gặp cụ Cao cách đây hai mươi năm ở Dương Châu khi cụ chưa hiển đạt.
                                Nhưng nhìn cụ, thấy khác người thường; tôi cũng đoán biết sau này cụ sẽ thành một cột trụ của triều đình. Sau khi cụ Cao thi đỗ cao, tôi lưu lạc bốn phương chưa bao giờ có dịp trở về kinh để gặp mặt. Năm ngoái tôi có lên kinh, không ngờ cụ Cao đã về hưu. Hôm qua, tôi ở Dương Châu gặp mấy người bạn, bận chút việc cho nên mãi đến giờ mới được gặp. May sao hôm nay lại được gặp cụ và các vị.
                                Tần nói:
                                - Ông bao giờ thì nhậm chức. Tại sao ông lại rời khỏi kinh đô?
                                Vạn nói:
                                - Chức trung thư thì có thể đi theo con đường tiến sĩ, hay con đường giám sinh. Nhưng tôi thì được cử theo con đường ty thuộc chứ không phải theo đường khoa cử, cho nên sau này sợ suốt đời cũng không thoát khỏi hai chữ “trung thư”. Còn muốn làm đến hàn lâm, học sĩ thì sợ không làm được.
                                - Gần đây, việc tìm được một chức khuyết cũng rất khó.
                                Tần nói:
                                - Gặp dịp làm quan mà không làm thì cũng như là không gặp.
                                Vạn lảng sang chuyện khác, nói với Vũ Thư và Trì Hành Sơn"
                                - Hai ông đều là những bậc tài cao nhưng đã lâu vẫn chưa hiển đạt. Người tài cao thường thành đạt chậm. Chức quan của tôi thực ra nó chẳng ra gì. Kẻ sĩ thì trước sau phải xuất thân theo con đường khoa giáp.
                                Trì Hành Sơn nói:
                                - Chúng tôi đều là bọn tầm thường dám đâu sánh với bậc đại tài như cụ.
                                Vũ Thư nói:
                                - Cụ Cao cùng với cụ là bạn thân. Sau này biết đâu hai người chẳng hiển đạt như nhau?
                                Vừa lúc ấy một người đầy tớ vào báo:
                                - Mời các vị ra ngoài nhà khách phía tây dùng cơm.
                                Cao Hàn Lâm nói:
                                - Chúng ta ăn cơm xong rồi sẽ nói chuyện.
                                Sau khi mọi người sang nhà sảnh phía tây ăn cơm, Cao Hàn Lâm bảo quản gia mở cửa vườn hoa mời mọi người xem. Mọi người đi từ ngôi nhà phía tây qua một cái cửa tròn rồi đi dọc theo một cái tường dài quét vôi trắng, đến một cái cửa nhỏ ở góc tường đi vào cái hành lang. Họ theo hành lang rẽ sang phía đông, đi xuống mấy bậc tam cấp, đến một cái vườn hoa lan hình vuông. Bấy giờ khí trời ấm áp, lan đang nở hoa. Trước mặt là một hòn non bộ. Một cái bình phong bằng đá được đắp rất công phu. Trên núi là một cái đình nhỏ có thể ngồi ba bốn người. Bên cạnh bình phong là hai cái đôn sứ và đằng sau có hơn một trăm cây trúc. Sau bụi trúc là một cái lan can thấp, màu đỏ, bao bọc những khóm thược dược chưa nở. Cao Hàn Lâm và Vạn trung thư to nhỏ với nhau trong khi dắt tay nhau bước lên đình. Thi ngự sử và Tần trung thư đi bộ từ bụi trúc đến vườn thược dược. Trì Hành Sơn nói với Vũ Thư:
                                - Vườn rất tĩnh mịch nhưng phải cái có ít cây to.
                                Vũ Thư nói:
                                - Người xưa đã nói: “Đình và ao cũng như công danh, gặp thời là có thể có. Cây to như khí tiết, không nuôi dưỡng thì không thành”.
                                Lúc ấy Cao Hàn Lâm và Vạn trung thư đã ở trên đình bước xuống. Cao nói:
                                - Năm ngoái, trong nhà ông Trang Trạc Giang, tôi có được đọc bài thơ “Hoa thược dược nở” của ông Vũ. Vài hôm nữa, hoa thược dược sẽ nở.
                                Tất cả chủ và khách sáu người dạo chơi một lát, rồi trở về nhà khách phía tây. Quản gia bảo những người pha trà rót một tuần trà. Trì Hành Sơn hỏi Vạn trung thư:
                                - Tôi có một bạn ở Xử Châu cùng tỉnh ông, không biết ông có biết ông ta không?
                                Vạn trung thư nói: - Nổi tiếng nhất ở Xử Châu không ai bằng ông Mã Thuần Thượng. Tôi có mấy người bạn khác nữa nhưng không biết người bạn ông nói đây là ai?
                                - Chính là ông Mã Thuần Thượng đấy!
                                - Ông Mã là bạn rất thân với tôi, tại sao tôi lại không biết! Lần này ông ta đã lên kinh. Ông lên kinh lần này chắc là gặp thời vận.
                                Vũ Thư vội vàng nói:
                                - Ông ta đến nay vẫn chưa thi đỗ, vậy ông ta lên kinh để làm gì?
                                Vạn đáp:
                                - Sau khi đến nhậm chức ba năm, quan học đạo nhận thấy ông ta là người có đức hạnh nên đề cử ông ta. Nay ông ta lên kinh là đi theo con đường tắt. Chính vì vậy cho nên tôi nói rằng ông ta gặp thời vận.
                                Thi ngự sử nói:
                                - Công danh đi theo con đường tắt cũng không đi được xa đâu! Những người có chí khí nhất định phải xuất thân theo con đường khoa cử.
                                Trì Hành Sơn nói:
                                - Năm ngoái ông ta có đến đây chơi, tôi thấy ông ta quả thông thạo về cử nghiệp. Không hiểu tại sao mãi đến nay vẫn cứ mãi mãi là một anh tú tài. Cho hay việc thi cử không lấy đâu làm bằng cứ hết.
                                Cao Hàn Lâm nói: - Ông Trì nói như vậy là sai! Triều đại ta hai trăm năm nay, không có thay đổi chút nào về việc này hết. Ai đỗ đầu bao giờ cũng cứ là đỗ đầu. Ông Mã Thuần Thượng bàn về thi cử, thực ra chỉ biết lớt phớt bên ngoài, còn như cái phần bí ẩn bên trong thì tuyệt nhiên không biết gì. Nếu ông ta có làm anh tú tài suốt ba trăm năm thì ở huyện, hai trăm lần đỗ đầu, nhưng lúc thi ở phủ cũng cứ hỏng.
                                Vũ Thư nói:
                                - Như vậy thì cụ cho rằng các quan chấm thi ở phủ và quan học đạo xem bài khác nhau chăng?
                                Cao Hàn Lâm nói: - Tại sao lại không? Ai trong kỳ thi ở huyện đỗ cao thì khi thi ở phủ lại không đỗ. Vì vậy cho nên tôi không dám cầu may, tôi hết sức chú ý vào việc thi ở phủ. Lúc thi ở huyện học đạo chấm tôi vào hạng thứ ba cơ!
                                Vạn nói:
                                - Thế nhưng bài thi của cụ được đứng đầu, học sinh tỉnh tôi không ai không học thuộc lòng bài ấy.
                                Cao Hàn Lâm nói:
                                - Phải đoán biết ý thích của người chấm thi đó là cái mánh khoé trong nghề thi cử. Trong ba bài văn đi thi hương của tôi không có câu nào do tôi đặt ra, chữ nào cũng có điển tích. Vì vậy nên tôi đỗ. Nếu không biết mánh khoé ấy thì đến thánh cũng không đỗ nổi.
                                Ông Mã kia mấy lâu nay bàn về thi cử, những điều ông bàn chẳng phải là cử nghiệp. Nếu ông ta hiểu được mánh khoé này thì ông ta không biết đã làm đến chức quan gì rồi.
                                Vạn nói:
                                - Lời nói của cụ quả thực là theo ý tôi “khuôn vàng thước ngọc” cho bọn hậu bối. Nhưng ông Mã vẫn là người học rộng. Tôi có được đọc kinh “Xuân Thu” của ông xuất bản trong nhà người bạn của tôi ở Dương Châu. Tôi thấy ông ta chú thích rất công phu.
                                Cao nói:
                                - Ông không nên nói như vậy, ở đây có một ông họ Trang. Ông ta được triều đình mời ra. Nhưng ngày nay ông cũng đóng cửa chú thích “Kinh Dịch”. Hôm trước có một người bạn gặp ông ta trong một bữa tiệc nghe ông ta nói: “Ông Mã Thuần Thượng biết tiến mà không biết lui như con rồng ở trong Kinh Dịch”(1). Ông Mã sánh với con rồng được hay không điều đó chưa cần bàn đến. Nhưng lấy một ông tú tài còn sống để giải thích cho lời dạy của thánh hiền thì thực là buồn cười hết sức!
                                Vũ Thư nói:
                                - Ông Trang nói như vậy chẳng qua là ngẫu nhiên nói cho vui thôi. Nếu không lấy người sống ra để làm thí dụ được thế tại sao Chu Văn Vương, Chu Công lại lấy Vi Tử, Cơ Tử ra làm thí dụ? Tại sao sau này Khổng Tử lại nói đến Nhan Tử? Những người kia lúc bấy giờ vẫn còn sống cả.
                                Cao Hàn Lâm nói:
                                - Câu nói của ông chứng tỏ ông học rất rộng. Tôi chuyên học về “Kinh Thi” không học về “Kinh Dịch” cho nên có những việc trong “Kinh Dịch” tôi không rõ lắm.
                                Vũ Thư nói:
                                - Cụ nhắc đến “Kinh Thi” làm tôi nghĩ đến một việc buồn cười. Gần đây, những người đi thi cứ câu nệ theo những lời chú giải của Chu Tử; nên càng giải thích lại càng khó hiểu. Bốn năm năm trước đây, ông Đỗ Thiếu Khanh ở Thiên Trường soạn quyển “Thi Thuyết” có trích dẫn những lời nói của các vị danh nho đời Hán, tất cả những người bạn xem đều thán phục. Như vậy đủ thấy trong việc học vấn thi đỗ chưa phải là giỏi.
                                Trì Hành Sơn nói:
                                - Nói như vậy đều lệch hết? Cứ theo ý tôi, ai theo đuổi học vấn thì cứ lo theo đuổi học vấn không cần hỏi đến công danh. Ai theo đuổi công danh thì cứ theo đuổi công danh không cần nghĩ đến học vấn. Muốn được cả hai đường thì rút cục chẳng được đường nào.
                                Vừa lúc ấy người quản gia bảo:
                                - Mời các vị dùng cơm.
                                Cao Hàn Lâm mời Vạn trung thư ngồi ghế đầu, Thi ngự sử ngồi ghế thứ hai, Trì Hành Sơn ngồi ghế thứ ba, Vũ Thư ngồi ghế thứ tư, Tần ngồi ghế thứ năm, còn mình ngồi ghế chủ. Tiệc bày ra ba bàn ở nhà khách phía tây. Rượu và các món ăn rất chỉnh tề, nhưng không có hát tuồng. Trong bữa tiệc họ bàn về việc triều chính. Trì Hành Sơn nói với Vũ Thư:
                                - Từ khi Ngu tiên sinh ra đi đến nay chúng ta dần dần ít tụ họp.
                                Một lát sau, lại chuyển sang bữa tiệc khác. Đèn sáp đốt lên, uống được một tuần rượu, Vạn trung thư đứng dậy cáo từ. Tần trung thư giữ lại nói:
                                - Ông đến chơi nhà người bạn thân của người bà con tôi thì cũng như là bà con của tôi. Vả chăng, tôi với ông đều làm trung thư cả. Nay mai được bổ làm quan chắc cũng được làm một nơi. Ngày mai thế nào ông cũng phải đến nhà tôi chơi. Lần này, tôi về nhà sẽ viết danh thiếp đưa đến mời ông.
                                Và lại nói với mọi người:
                                - Đến mai vẫn sáu người chúng ta không thêm cũng không bớt một ai.
                                Trì Hành Sơn, Vũ Thư không nói một lời, Thi ngự sử nói:
                                - Tốt lắm! Tôi cũng có ý muốn mời ông Vạn ngày mai đến nhà tôi chơi. Nhưng nếu như thế này thì phải đợi đến ngày kia.
                                Vạn trung thư nói:
                                - Tôi mới đến đây hôm qua, không ngờ hôm nay lại được cụ Cao mời. Tôi chưa đến thăm các vị lần nào, tôi đâu dám quấy nhiễu các vị như thế!
                                Cao Hàn Lâm nói:
                                - Có ngại gì việc đó! Ông Tần là bà con của tôi lại là bạn trung thư với nhau. Ông cứ xem ông Tần như người quen. Ngày mai ông phải đến thật sớm đấy nhé!
                                Vạn trung thư miễn cưỡng nhận lời. Mọi người từ biệt chủ nhân ra về. Tần trung thư về nhà viết năm cái danh thiếp mời Vạn trung thư, Thi ngự sử, Trì Hành Sơn, Vũ Thư và cụ Cao. Tần viết giấy mời một bọn tuồng đến diễn vào sáng hôm sau, lại ra lệnh cho những người đầy tớ hầu trà và bọn quản gia phải làm một bữa tiệc thực long trọng.
                                Hôm sau, Vạn trung thư dậy, nghĩ bụng: “Nếu ta đến nhà ông Tần trước thì ông ta sẽ giữ ở lại. Bây giờ ta phải đi thăm mấy người kia. Như thế họ sẽ không giận, cho rằng ta chỉ đến thăm con người mời ta ăn tiệc. Ta phải đến chơi nhà họ trước, sau mới đến nhà ông Tần”. Vạn bèn viết bốn cái danh thiếp. Trước tiên Vạn đến nhà Thi ngự sử. Ngự sử ra tiếp. Biết rằng Vạn còn phải đến nhà Tần trung thư uống rượu nên Thi ngự sử không dám giữ lại. Vạn lại đến thăm Trì Hành Sơn. Người nhà Trì Hành Sơn nói:
                                - Tối qua ông đã đi Câu Dung xem chữa trường học, nay chưa về.
                                Vạn đến nhà Vũ Thư, người nhà nói:
                                - Ông chủ từ tối qua vẫn chưa về, khi nào về, ông sẽ đến thăm.
                                Hôm ấy vào buổi ăn sáng. Vạn trung thư đến nhà Tần trung thư. Thấy ở ngoài cửa là một cái tường xanh dài. Ở giữa là một cái cửa lớn có lầu đắp hoa nổi. Kiệu của Vạn dừng ở cổng. Vạn thấy ở trên bình phong quét vôi có dán một tờ giấy đỏ viết bằng chữ son: “Nội các trung thư”. Hai bên là những người quản gia sắp thành hai hàng. Sau lưng họ là những giá mũ của những người làm việc ở trên dán hai tờ cáo thị đề: “Những điều ngăn cấm”. Tần trung thư ra đón tiếp. Cửa giữa mở rộng. Vạn trung thư xuống kiệu, cầm tay Tần vào nhà khách. Hai người vái chào rồi ngồi uống trà. Vạn trung thư nói:
                                - Tôi rất hân hạnh được làm bạn đồng sự với ông, sau này có việc gì mong ông chỉ bảo. Hôm nay tôi đưa danh thiếp đến đây để bái yết. Lần sau, tôi sẽ đến thăm để cảm tạ.
                                - Người bà con của tôi cho tôi biết ông là một người rất có tài. Sau này tôi được làm quan, có việc gì cũng mong ông che chở cho.
                                - Cụ Cao bao giờ lại đây?
                                - Cụ vừa cho người đến đây nói hôm nay thế nào cụ cũng đến. Chắc chỉ lát nữa thôi.
                                Đang nói chuyện thì Cao Hàn Lâm và Thi ngự sử đã đi hai cái kiệu đến trước cửa. Hai người xuống kiệu bước vào, ngồi uống trà. Cao Hàn Lâm nói:
                                - Này ông Tần! Bao giờ ông Trì và ông Vũ đến đây.
                                - Tôi đã cho người đi mời.
                                Vạn trung thư nói:
                                - Ông Vũ thì có lẽ còn đến, chứ ông Trì thì không đến được.
                                Cao Hàn Lâm hỏi:
                                - Tại sao cụ lại biết?
                                Vạn trung thư nói:
                                - Tôi vừa đến thăm hai ông. Người nhà ông Vũ nói đêm qua ông chưa về. Còn ông Trì thì đã đi Câu Dung chữa trường học cho nên tôi biết ông ta không đến được.
                                Thi ngự sử nói:
                                - Hai ông ấy thực là lạ! Hễ tôi mời họ, thì mười lần là chín lần họ không đến. Nếu nói rằng họ bận thì mới đỗ tú tài mà bận cái gì chứ? Mới là một anh tú tài mà làm bộ làm tịch như thế?
                                Tần trung thư nói:
                                - Thôi được! Miễn là cụ và cụ Vạn ở đây còn hai ông kia đến hay không cũng được.
                                Vạn trung thư nói:
                                - Hai ông kia chắc là những người có học vấn sâu rộng.
                                Cao Hàn Lâm nói:
                                - Nào có học vấn gì đâu! Nếu có học vấn thì đã chẳng là một anh tú tài xác. Chỉ vì năm trước đây trong trường Quốc Tử Giám có Ngu bác sĩ thương họ nên nhiều người cũng chơi bời với họ. Nhưng gần đây đã ít đi rồi.
                                Vừa lúc ấy thấy ở phòng bên trái có một người kêu to:
                                - Hay quá! Hay quá!
                                Mọi người đều kinh ngạc. Tần trung thư bảo quản gia vào nhà sau xem người nào làm ồn ào như thế.
                                Quản gia bẩm:
                                - Đó là ông Phượng người bạn ông hai.
                                Tần trung thư nói:
                                - Có ông Phượng ở sau nhà, sao không mời ông vào nói chuyện?
                                Người quản gia vào thư phòng mời thì thấy một người to lớn trạc độ bốn mươi, hai con mắt ốc nhồi, cặp lông mày thẳng, râu đen dài mãi đến ngực, đầu đội mũ lực sĩ, mình mặc áo đoạn màu xám, chân đi đôi giày mũi nhọn, thắt dây lưng tơ, dưới nách lủng lẳng một cái dao ngắn. Người kia bước vào nhà khách vái chào mọi người và nói:
                                - Các vị đều ở đây cả, tôi ở nhà sau không biết xin thất lễ!
                                Tần trung thư mời Phượng ngồi và nói với Vạn trung thư:
                                - Ông Phượng đây là một người rất có nghĩa khí ở miền này. Ông rất giỏi về quyền thuật, thuộc lầu cả bộ “Dịch cân kinh” nếu ông ta lên gân thì dù một tảng đá nặng mấy ngàn cân rơi trên đầu hay trên mình cũng không hề gì. Em tôi mời ông ở đây để dạy võ nghệ.
                                Vạn trung thư nói:
                                - Xem vẻ người của ông tôi cũng đủ thấy là người khác thường thực chẳng phải là hạng trói gà không chặt!
                                Tần trung thư lại nói với Phượng:
                                - Ông vừa bảo hay quá, hay quá, là vì cớ gì?
                                - Đó không phải là tôi nói, mà là lời người em của ông. Ông ta vừa bảo tôi rằng người ta mạnh hay yếu là do trời sinh ra. Tôi bảo ông ta nín thở rồi sai người lấy gậy đánh vào người, càng đánh càng không thấy đau. Ông ta mừng quá nên mới kêu lên như vậy.
                                Vạn nói với Tần trung thư:
                                - Nếu người em của cụ ở đây sao không mời ông ta vào ngồi?
                                Tần trung thư bảo quản gia mời nhưng Tần Nhị đã ra cửa sau, cưỡi ngựa đi xem bắn tên ở ngoài trại lính rồi. Người đầy tớ mời thấy người khách vào sảnh dùng cơm. Cơm xong, những người đầy tớ mở cửa phía bên trái mời mọi người vào. Mọi người bước vào thấy hai gian nhà nhỏ hơn nhà khách một chút, nhưng bày biện rất là đẹp mắt. Mọi người thích đâu ngồi đấy. Họ uống mười hai thứ trà ngon trong lúc một cậu bé mười một, mười hai tuổi bỏ trầm vào lư hương. Vạn trung thư nghĩ bụng: nhà ông ta bày biện thực là đẹp mắt. Khi ta trở về cũng bày biện như thế này, chỉ tiếc cái cổng nhà ta không to lớn bằng, các quan sở tại không đến, và không đủ người phục dịch như ở đây.
                                Đang lúc suy nghĩ thì một người mặc áo hoa vào quì xuống trình bày bản các vở tuồng và nói:
                                - Mời cụ chọn một hai vở tuồng!
                                Vạn trung thư nhường cho Cao Hàn Lâm và Thi ngự sử chọn trước, sau đó chọn vở “Mời ăn tiệc”, vở “Tiễn biệt”. Thi ngự sử chọn vở “Anh em gặp nhau trên núi Ngũ Đại. Cao Hàn Lâm lại chọn vở ”Đuổi theo Hàn Tín". Người kia viết tên các vở tuồng vào cái hốt rồi đem vào phòng để các diễn viên chuẩn bị. Tần trung thư bảo rót một lượt chè xanh. Người quản gia vào bẩm:
                                - Mời các vị ra ngoài ngồi.
                                Mọi người theo Vạn trung thư ra cái nhà khách thứ hai; ở đây đã thấy chỗ diễn tuồng bày biện rất chỉnh tề. Hai bên là năm cái ghế dựa lót vải đỏ thêu kim tuyến. Mấy người lần lượt ngồi. Người trùm trò dẫn toàn ban ra chào, người nào ăn mặc theo vai của người ấy. Những người đánh trống đứng ở trước và gõ nhè nhẹ. Người đóng vai Hồng Nương dáng người yểu điệu bước ra. Người trùm trò lại vào quì một chân nói: “Xin cho phép ngồi”. Lúc bấy giờ những người thổi sáo mới ngồi xuống. Hồng Nương mới hát được một câu thì ở ngoài cửa nghe có tiếng thanh la. Lại có những người đội mũ đỏ viền đen bước vào. Mọi người đều ngờ vực vì trong vở “Mời ăn tiệc” không thấy mở đầu như thế này. Người quản gia chạy vào nói không ra lời. Thấy một vị quan đầu đội mũ sa mình mặc áo màu ngọc thạch, chân đi giày đen đế trắng bước vào nhà khách. Đừng sau là hai mươi người lính.
                                Hai người đi trước đến nắm lấy Vạn trung thư, lấy xích sắt xích cổ rồi kéo tuột ra ngoài. Vị quan cũng đi ra không nói nửa lời. Mọi người nhìn nhau ngơ ngác. Chỉ nhân phen này khiến cho:
                                Con em bạn hát, từ nay coi rẻ hương thân;
                                Anh kiệt giữa đường, ra sức gánh thay hoạn nạn.
                                Muốn biết việc sau thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.
                                --------
                                (1) Kinh Dịch nói “Cang long hữu hối” ý nói lúc tiến thì phải biết lui.


                                hết: Hồi 49, xem tiếp: Hồi 50
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X