Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nho Lâm Ngoại Sử - Tác giả: Ngô Kính Tử

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Mạo họ tên, cậu bé cầu danh;
    Nhớ thân thích, ông già mắc bệnh. Ngưu Phố Lang đến am Cam Lộ đọc sách, hòa thượng hỏi họ tên là gì, y liền vái chào mà rằng:

    - Thưa lão sư phụ, con họ Ngưu, ở phố đằng trước mặt đây. Vì con sinh trưởng ở nhà bà ngoại ở Phố Khẩu, cho nên người ta gọi là Phố Lang. Không may cha mẹ qua đời. Con chỉ còn ông nội năm nay đã ngoài bảy mươi, mở một hiệu buôn hương nến nhỏ để sinh sống. Mỗi ngày, ông con giao cho con cái sổ nợ này đi đòi nợ. Con đi ngang qua trường học, nghe tiếng người ta đọc sách vui tai cho nên con cũng ăn trộm một ít tiền trong hiệu để mua sách đọc. Con thấy con làm phiền sư phụ quả thật là không phải.

    - Ta vẫn thường nói có người mất tiền đón thầy cho con cái học mà con cái cũng không chịu học! Bây giờ thì anh trộm tiền mua sách mà đọc, thật là một việc đáng khen! Nhưng con ngồi ở dưới đất thì lạnh, đèn lưu ly lại không sáng. Ta có cái bàn ở trong điện, có cả ngọn đèn treo ở đấy. Con vào đó mà đọc thì tốt hơn.

    Phố Lang cảm tạ hòa thượng và bước vào. Quả nhiên có một cái bàn vuông ở trên treo một ngọn đèn dầu. Phòng rất là yên tĩnh. Phố Lang từ đấy thường đến am đọc sách. Hòa thượng ngồi tĩnh tọa ở phòng bên, đêm nào y cũng đọc cho đến canh ba.

    Một hôm nghe y ngâm thơ, hòa thượng đến hỏi:

    - Này con! Ta tưởng rằng con học để đi thi cho nên mua sách văn chương để mà đọc. Không ngờ hôm nay nghe con đọc thì lại là thơ. Thơ thì đọc để làm gì?

    - Đi buôn như con thì mơ việc thi cử làm sao được? Chỉ đọc vài ba câu thơ cho nó thanh cao nhuần nhã con người thôi.

    Hòa thượng thấy y ăn nói khác người thường bèn hỏi:

    - Con đọc thơ vậy có hiểu được không?

    - Nhiều chỗ con không hiểu. Nhưng hễ hiểu được một hai câu thì trong lòng thấy hứng thú.

    - Con đã thích thơ như thế, thì hôm nào ta sẽ cho con xem hai tập thơ. Chắc chắn con sẽ càng thích thú nữa.

    - Sư phụ nói thơ ở đâu? Cho con xem với!

    Hòa thượng cười mà rằng:

    - Khoan đã! Đợi vài hôm nữa hẵng xem.

    Qua một thời gian, hòa thượng xuống làng để tụng kinh, đi luôn mấy ngày không về. Hòa thượng khóa cửa phòng lại và nhờ Phố Lang giữ hộ điện thờ. Phố Lang trong lòng nghi hoặc:

    - Sư phụ có những bài thơ gì mà không chịu cho ta xem làm ta nóng cả ruột?

    Phố Lang cứ nghĩ mãi, và nói: - Ba xin không bằng một trộm. Chiều hôm ấy nhân lúc hòa thượng không ở nhà, y mở cửa lẻn vào phòng. Thấy ở trên bàn có một cái lư hương, một đĩa đèn dầu, một chuỗi tràng hạt. Trên bàn lại có mấy quyển kinh đã nhàu nát. Xem một lượt không thấy thơ đâu cả. Phố Lang ngờ vực nói:

    - Lẽ nào sư phụ dối ta?

    Y lại tìm ở đầu giường thì thấy một cái hòm khóa bằng một cái khóa đồng. Phố Lang mở khóa ra thấy có hai quyển bìa gấm gói rất cẩn thận trên đề: “Ngưu Bố Y thi cảo”.(#1) Phố Lang mừng rỡ, nói:

    - Đây rồi!

    Y vội vàng lấy sách ra, khóa hòm lại, chạy ra khỏi phòng và đóng cửa phòng lại như cũ. Ngưu cầm hai quyển thơ đem đến dưới ánh đèn xem một lượt, bỗng nhiên mặt mày tươi tắn, đứng dậy hoa tay múa chân. Vì sao? Thì ra hàng ngày đọc thơ Đường, nghĩa thơ sâu sắc y không hiểu lắm. Còn đây là thơ của người đương thời xem ra thì mười phần hiểu được năm, sáu cho nên rất đỗi vui mừng. Lại thấy thơ có những đề mục như: “Trình tướng quốc mỗ đại nhân”, “Nhớ đốc học Chu đại nhân”, “Đi chơi hồ Oanh Đậu với Lâu công tử đồng tặng Thông Chính”, “Từ biệt Lỗ Thái Sư”, “Tặng Vương Quan Sát”,, ngoài ra có những bài thơ tặng các quan thái thú, tư mã, tri phủ, thiếu doãn

    v.v... Phố Lang nghĩ bụng:

    - Tướng quốc, đốc học, thái sư, thông chính rồi đến thái thú, tư mã, tri phủ đều là tên gọi những chức quan đời nay. Thế ra chỉ cần biết làm dăm câu thơ không cần phải học hỏi đỗ đạt cũng có thể tới lui các nhà quan! Thật là vinh hạnh!

    Lại nghĩ:

    - Ông ta họ Ngưu, ta cũng họ Ngưu. Thơ ông chỉ viết độc có Ngưu Bố Y không có tên thật. Bây giờ ta cứ cho tên ta vào, lấy hiệu của ông ta. Ta cho thợ khắc hai con dấu đóng lên trên thế là sách này đã thành của ta rồi! Từ nay ta lấy hiệu là Ngưu Bố Y.

    Đêm ấy y về nhà tính toán xong mừng quá không ngủ được.

    Hôm sau, y lại lấy trộm thêm ít tiền ở hiệu, chạy đến hiệu khắc của Quách Thiết Bút ở cửa chùa Cát Tường. Y vái chào Quách Thiết Bút và ngồi xuống:

    - Nhờ ông khắc cho tôi hai con dấu vuông.

    Quách Thiết Bút đưa ra một tờ giấy:

    - Xin ông viết tên và hiệu.

    Phố Lang bỏ tên của mình là “Lang” viết một con dấu khắc chìm “Ngưu Phố Chi ấn”, một con dấu khắc nổi hai chữ “Bố Y”.

    Quách Thiết Bút cầm tờ giấy lên nhìn Phố Lang một lượt và nói:

    - Ông là ông Ngưu Bố Y?

    - Bố Y là tên tự của tôi.

    Quách Thiết Bút hoảng hốt chạy ra khỏi quầy hàng vái chào một lần nữa, mời ngồi, rót nước mời uống và nói:

    - Tôi lâu nay nghe nói có ông Ngưu Bố Y trú tại am Cam Lộ, ông ta không thiết tiếp khách, bạn bè đều là những vị tai to mặt lớn. Xin lỗi thất lễ, xin lỗi! Tôi xin khắc dấu biếu ông, và không dám lấy tiền. Ở đây có mấy người bạn của tôi cũng ngưỡng mộ ông, hôm nào chúng tôi đến hầu thăm.

    Phố Lang sợ ông ta đến am sẽ biết rõ tông tích nên phải đáp:

    - Được tiên sinh yêu quí như thế tôi rất cảm ơn. Nhưng độ rày tôi có một ông bạn làm quan ở huyện bên hẹn tôi đến để làm thơ. Tôi phải vắng mặt một ít hôm. Đến mai phải đi sớm. Tiên sinh đừng đến làm gì. Khi nào trở về, chúng ta sẽ nói chuyện. Còn cái dấu thì để sáng mai tôi cũng xin lấy luôn.

    Quách Thiết Bút vâng lời. Hôm sau Phố Lang lấy được con dấu đóng vào sách và đem cất kỹ. Mỗi buổi tối lại đem sách ra đọc ở trong am.

    Một buổi chiều người ông của Phố Lang là cụ Ngưu đang ngồi rảnh trong làng, thấy cụ Bốc chủ hiệu buôn gạo ở sát tường qua chơi nói chuyện. Cụ Ngưu có sẵn rượu thuốc ở trong hiệu, bèn đi hâm một hồ. Cụ lấy ra hai miếng đậu phụ, một ít măng khô, dưa muối đặt lên quầy hàng và bắt đầu nói chuyện.

    Cụ Bốc nói:

    - Cụ thế mà khá đấy, buôn bán năm nay phát tài. Cái thằng cháu lớn lại lanh lợi. Cụ có người nối dõi như thế thì thật là có phúc sau này.

    - Cụ nói gì thế! Tôi nay không may con trai và dâu thì chết cả, chỉ còn để lại một thằng cháu quái quỷ ấy vợ con chưa có, năm nay đã mười tám tuổi đầu rồi! Ngày nào tôi cũng bảo nó đi đòi nợ mà nó thì mãi đến khuya cũng chưa chịu về. Nói ra cụ không tin, việc này đã nhiều lần lắm rồi! Bây giờ nó đã khôn lớn rồi, thôi tha hồ mà đi theo bọn du đãng hư thân mất nết. Nó cứ chơi bời lêu lổng hỏng cả một đời, như thế thì sau này còn ai lo chôn cất cái thân già này nữa?

    Nói xong, cụ Ngưu có vẻ rất buồn. Cụ Bốc nói:

    - Chuyện đó không khó khăn gì! Nếu như ông lo ngại cậu ta chưa có vợ thì sao không cưới cho cậu ta một cô vợ để lo liệu cửa nhà? Vả chăng việc đó thì sớm muộn thế nào cũng phải lo!

    - Ông ơi! Cái nghề buôn của tôi nuôi miệng ăn chưa đủ, kiếm đâu ra tiền mà lo cho nó?

    Cụ Bốc trầm ngâm, nói:

    - Bây giờ có một nơi, không biết ông có ưng ý không. Nếu ông ưng thuận thì không mất một đồng tiền nào hết.

    - Làm gì có cái việc như thế?

    - Tôi trước đây có một gái út gả cho nhà họ Giả làm việc chuyển vận thóc lúa. Không may nó mắc bệnh mất. Thằng rể của tôi lo buôn bán ở xa để lại một cháu gái ngoại cho tôi nuôi, năm nay mười chín, lớn hơn cháu trai cụ một tuổi. Nếu cụ không nghĩ gì, thì tôi gả cháu gái tôi cho cháu cụ. Tôi với cụ là chỗ láng giềng với nhau, yêu con ngon của. Tôi cũng không đòi lễ vật, tiền bạc gì, cụ cũng không đòi tôi của hồi môn làm gì, chỉ cần mấy bộ áo quần vải to là đủ. Nhà chúng ta ở sát vách nhau, chúng ta chỉ phải mở một cái cửa là đưa cháu sang. Mọi tiền cưới xin đều có thể bỏ đi được.

    Cụ Ngưu nghe vậy mừng rỡ nói:

    - Thật thì cụ tốt quá. Ngày mai tôi sẽ đưa người mối lái sang nhà cụ.

    - Cái đó cũng không cần! Nó không phải cháu nội tôi, tôi với cụ khách sáo với nhau làm gì! Bây giờ người làm chủ là tôi, người làm mối cũng là tôi. Cụ chỉ phải mua hai cái thiếp. Tôi sẽ đem thiếp đề ngày sinh tháng đẻ của cháu, cụ nhờ một người xem ngày tốt. Như thế là công việc xong.

    Cụ Ngưu nghe vậy liền rót một chén rượu đưa cho cụ Bốc và bước ra khỏi ghế vái một vái. Ngay đó, công việc bàn xong. Cụ Bốc trở về nhà.

    Buổi tối hôm ấy, Phố Lang về nhà. Cụ Ngưu đem việc này nói lại với y một lượt. Ngưu Phố không dám trái lời. Sáng hôm sau y viết hai cái thiếp đỏ, một cái mời cụ Bốc làm mối, một cái để xin cô con gái ở nhà họ Giả. Khi nhà gái nhận được thiếp, bèn đưa lá số sang. Cụ Ngưu nhờ thầy bói họ Từ chọn ngày hai mươi bảy là ngày tốt để làm ngày cưới. Cụ Ngưu bán mấy đấu gạo bấy lâu còn giữ lại để mua một cái áo vải ngắn màu lục lót bông, một cái quần vải đỏ, một cái áo ngoài vải xanh, một cái quần vải tím, tất cả bốn cái đều bằng vải. Lại sắm bốn cái đồ trang sức cài đầu đưa sang ba ngày trước hôm cưới.

    Ngày hai mươi bảy, cụ Ngưu dậy từ sáng sớm, đem chăn nệm đặt lên quầy hàng vì từ nay giường cụ là ở đấy. Trong nhà chỉ có một gian một chái, chái để quầy hàng còn lại một gian thì nửa ngoài là chỗ tiếp khách và phía trong là buồng cô dâu. Sau khi đã nhường cái giường của mình cho cháu, cụ Ngưu giúp chú rể sửa soạn chăn, màn, đệm. Cụ lại còn khiêng một cái bàn nhỏ đến đặt ở dưới mái sau nhà, có ánh sáng cửa sổ rọi vào để cho cô dâu đặt gương soi mà chải đầu.

    Sau khi dọn dẹp trong buồng đâu vào đấy rồi, cụ bèn dựng một cái mái bằng chiếu ở sân trong làm nhà bếp. Bận rộn mất một buổi sáng. Sau đó đưa tiền cho Ngưu Phố đi mua các đồ vật. Cụ Bốc đã sắm sửa gương, giá đèn, bình trà, chậu rửa mặt, hai cái gối, bảo con cả là Bốc Thành gánh đến. Bốc Thành đến ngoài cửa vái chào cụ Ngưu. Cụ Ngưu trong lòng áy náy, mời ngồi, vội vàng lấy ở sau quầy hàng ra một cái hộp đem ra hai miếng mứt cam và một ít kẹo, rót một chén trà cầm hai tay đưa cho Bốc Thành và nói:

    - Như thế này thật là làm phiền anh quá, lòng tôi áy náy hết sức!

    - Bác không nên nói thế. Việc này là việc của cháu.

    Nói xong, ngồi xuống uống trà.

    Bỗng thấy Ngưu Phố đầu đội mũ hình miếng ngói mới, mình mặc áo xanh mới may, đi đôi giày mới ở ngoài bước vào. Đằng sau có một người nữa tay cầm mấy miếng thịt tướng, hai con gà, một con cá to, một ít măng khô, rau. Ngưu Phố thì tay bưng mỡ, muối và các đồ gia vị. Cụ Ngưu nói:

    - Đây là cậu của cháu! Cháu lại mà chào cậu đi.

    Ngưu Phố đặt đồ đạc xuống, cúi chào Bốc Thành, rồi đứng dậy cho người gánh đồ mấy đồng tiền. Còn mình mang các thức ăn xuống bếp.

    Vừa lúc ấy Bốc Tín, con thứ hai của cụ Bốc bưng một cái hòm sang. Ở trong ấy có đủ kim, chỉ, mặt hài của cô dâu. Lại đem đến một cái khay lớn. Trên khay có mười cái chén đựng kẹo bọc hoa giấy để ngày mai làm lễ cúng tổ tiên. Cụ Ngưu giữ lại uống trà. Ngưu Phố cũng ra chào. Bốc Thành và em ngồi một lúc rồi từ tạ về. Cụ Ngưu xuống nhà bếp chuẩn bị dọn tiệc, bận rộn suốt một ngày.

    Đến tối, cụ Ngưu thắp hai cây sáp đỏ cao, mỗi cây sáp trang điểm thêm mấy bông hoa giấy và mời hai bà già hàng xóm đưa cô dâu vào lạy trước đuốc hoa. Cụ Ngưu lại bày một bữa tiệc cho họ ở trong buồng cô dâu để họ cùng cô dâu ngồi ăn. Sau đó, cụ lại đặt một cái bàn ở trong phòng khách, thắp một ngọn nến, bày bát đũa ra mời ba cha con cụ Bốc ngồi. Cụ Ngưu trước tiên rót một chén rượu để cảm tạ trời đất, rồi rót một chén nữa đưa cho cụ Bốc, mời cụ Bốc ngồi lên ghế trên nói:

    - Việc kết hôn này trăm sự nhờ cụ có lòng yêu. Tôi cảm kích khôn xiết. Nhưng chúng ta đều là người nghèo cả không làm sao dọn một bữa tiệc cho nó kha khá. Cho nên chỉ có một chén rượu nhạt. Tôi lại làm phiền cả hai cậu đến đây. Có việc gì xin thứ lỗi cho.Cụ Ngưu nói xong đứng vái dài. Cụ Bốc cũng đáp lễ lại. Cụ Ngưu lại mời Bốc Thành, Bốc Tín ngồi vào bàn. Hai người hai ba lần từ chối mới chịu ngồi xuống.

    Cụ Ngưu nói:

    - Thực ra thì thế này không phải là bữa tiệc, nhưng là chỗ thân thiết chắc các vị cũng không cười. Nhà chúng tôi không có gì khác ngoài lá chè và than. Cho nên hôm nay chúng tôi có nấu một ấm chè để giữ các vị cùng ở lại nói chuyện đến canh năm, cho đến khi hai cháu ra lạy chào. Tôi chỉ biết làm thế để tỏ lòng biết ơn sâu sắc.

    Cụ Bốc nói: - Này ông! Cháu tôi nó trẻ người chưa biết gì là lễ phép. Cha nó lại không ở đây, của hồi môn thành ra cũng không có. Tôi xấu hổ chết đi được! Nếu nói chuyện đến sáng thì tôi cũng xin vâng, về mà làm gì?

    Tiệc xong, Bốc Thành và Bốc Tín đều trở về. Cụ Bốc ở lại đến canh năm. Hai vợ chồng ăn mặc xong ra, mời cụ Ngưu ngồi ở trên để cùng lạy. Cụ Ngưu nói:

    - Này cháu! Ông nuôi cháu đến ngày nay không phải là việc dễ. Nay may nhờ có ông ngoại cháu giúp ông lo việc trăm năm cho cháu nên cháu đã nên vợ nên chồng. Từ nay trở đi, tất cả mọi việc trong cửa hàng, ông đều giao cho cháu lo liệu hết. Tất cả mọi việc mua bán, lãi lỗ cho vay cháu đều phải tự mình lo liệu lấy. Ông thì già mệt rồi, chỉ có thể ngồi xem xét, giúp đỡ cháu trông hàng. Cháu xem ông như người già giúp việc vậy. Cháu được một người vợ tốt. Ông mong hai vợ chồng cháu sẽ bách niên giai lão, đông con nhiều cháu.

    Lạy cụ Ngưu xong, hai vợ chồng mời cụ Bốc ngồi lên để nhận lễ. Hai người lại cúi đầu lạy.

    Cụ Bốc nói:

    - Nếu cháu ngoại của tôi có làm điều gì trái, xin anh chỉ bày cho. Cháu phải kính trọng người trên, chớ có trái lời cha, lời chồng. Cháu là người đàn bà duy nhất trong nhà. Phàm việc gì cũng phải chăm chỉ, chu đáo, chớ để cho ông cháu phải lo.

    Nói xong cụ Bốc đỡ hai người dậy. Cụ Ngưu giữ ông thông gia lại ăn sáng. Cụ Bốc cáo từ ra về. Từ đấy nhà cụ Ngưu có tất cả ba người, sống qua ngày qua tháng.

    Sau khi lấy vợ, trong một thời gian, Ngưu không đến am. Một hôm nhân việc đi đòi nợ, Ngưu thuận đường đi ngang qua am. Vừa tới cửa Phù Kiều, trông thấy ở ngoài cửa am có năm sáu con ngựa, trên ngựa đều có hành lý, có người coi ngựa. Đến gần thì thấy ở phía tây điện Vi Đà có ba bốn người ngồi trên ghế dài, đầu đội mũ lông chiên rộng, mình mặc áo lụa. Tay phải thì vuốt râu, tay trái ve vẩy cái roi ngựa, họ ngồi vắt chân cho nên thấy cả cái giày đầu đen đế trắng. Ngưu Phố không dám vào, nhưng hòa thượng đã nhìn thấy, vội vàng vẫy tay:

    - Này con! Sao mấy lâu nay không thấy con đến chơi! Ta đang đợi con đến nói câu chuyện đây. Mau mau vào đây!

    Ngưu Phố thấy hòa thượng gọi, đánh bạo bước vào. Thấy hòa thượng đã thu xếp hành lý chỉnh tề như sắp đi đâu Ngưu Phố bèn kinh ngạc hỏi:

    - Sư phụ! Sư phụ mang hành lý định đi đâu7?

    - Mấy người đợi ở ngoài là do cụ lớn Tề làm đề đốc ở kinh sai đến. Cụ lớn Tề trước đây là môn đệ của ta, lúc ta còn ở kinh. Nay cụ đã làm quan to, nên đặc biệt cho người mời ta về kinh để coi chùa Bảo Quốc. Ta vốn không muốn đi, nhưng vì trước đây có một người bạn của ta chết ở chùa này, ông ta có một người bạn lên kinh thi hội. Ta muốn nhân cơ hội này lên kinh để nói với người kia đem quan tài người này về nhà mà chôn. Như thế cũng là thỏa điều mong ước của ta. Hôm trước ta nói có hai quyển thơ muốn cho con, đó là thơ của người chết này. Hiện nay để ở trong hòm. Ta cũng không có thì giờ mở ra xem. Con cứ mở hòm ra lấy xem. Lại có cái nệm lót giường và mấy cái đồ vặt vãnh ta không mang đi được, con giữ hộ, đợi khi ta về.

    Ngưu Phố muốn hỏi thì mấy người kia vào nói:

    - Hôm nay trời còn sớm cần phải đi vài mươi dặm. Xin mời sư phụ mau mau lên ngựa để cho chúng con đi kẻo trễ.

    Nói xong, mang hành lý, đỡ hòa thượng lên ngựa và mấy người này cũng đều nhảy lên ngựa đi theo. Ngưu Phố tiễn ra ngoài, chỉ nói được một câu: “Chúc sư phụ lên đường bình an”, thì đoàn ngựa đã phi như bay.

    Ngưu Phố nhìn không thấy hòa thượng mới quay vào, thân hành xem lại các đồ vật, lấy cái khóa ở cửa phòng của hòa thượng đem ra khóa cửa am rồi về nhà nghỉ.

    Hôm sau y lại đến am, nghĩ bụng:

    - Hòa thượng đi rồi, không còn ai biết nữa. Tại sao ta không nhận phắt là Ngưu Bố Y?

    Bèn lấy một tờ giấy viết năm chữ lớn: “Ngưu Bố Y ở đây”. Và từ đấy, ngày nào cũng đến am.

    Một tháng qua, cụ Ngưu ngồi trong hiệu không có việc gì làm, mới đem sổ sách ra xem thì thấy số người mắc nợ mình không còn lại bao nhiêu. Mỗi ngày bán được vài chục đồng tiền chỉ dùng vào tiền gạo, tiền củi là hết nhẵn. Sau khi tính toán thấy số tiền vốn mười phần đã mất đi bảy phần, cửa hàng này sắp đến ngày đóng cửa, cụ giận lắm chỉ trợn mắt không nói một lời. Đến tối Ngưu Phố về nhà, cụ đem việc này hỏi y. Ngưu Phố trả lời ấp úng, trong miệng chỉ thấy “chi, hồ, giả, dã”(#2) không đâu vào đâu hết.

    Cụ Ngưu tức quá sinh ốm. Người đã già bảy mươi tuổi, nguyên khí suy nhược, lại không có thuốc thang tẩm bổ, bệnh chỉ trong mười ngày là tận số quy tiên.

    Hai vợ chồng Ngưu Phố khóc, la ầm ĩ. Cụ Bốc nghe vậy vội vàng chạy sang thấy xác cụ Ngưu đặt ở ngoài cửa liền gọi:

    - Anh!

    Và hai dòng nước mắt chảy như mưa. Nhìn thấy Ngưu Phố đứng bên cạnh khóc nức nở không nói ra tiếng, cụ Bốc nói:

    - Việc đã như thế này không phải là lúc khóc than. Cháu hãy bảo vợ cháu giữ gìn ông cháu, còn cháu thì cùng ta lo liệu việc khâm liệm.

    Ngưu Phố gạt lệ cảm tạ cụ Bốc. Hai người cùng đi tới một cái hiệu cụ Bốc quen, mua chịu một cái quan tài, lại mua mấy thước vải nhờ thợ may cắt áo quần. Đến buổi chiều thì khâm liệm. Hôm sau thuê tám người khiêng quan tài đi đến chỗ phần mộ của tổ tiên để an táng. Cụ Bốc lại mời một người thầy bói là ông Từ. Cụ cỡi con lừa, cùng đi với ông Từ đến huyệt. Nhìn người thân hạ huyệt, cụ khóc một hồi rồi cùng thầy bói trở về, để lại Ngưu Phố trông coi phần mộ ba ngày.

    Cụ Bốc vừa về đến nhà thì người đủ mọi lớp đến đòi tiền. Cụ Bốc đều hứa trả cho họ. Nhưng khi Ngưu Phố về, nhặt nhạnh trong nhà chỉ còn đủ năm lạng để trả tiền áo quan. Ngoài ra tiền vải, tiền thợ may, tiền người khiêng đều không biết lấy đâu ra. Không biết làm thế nào, Ngưu đành đem cầm cái nhà mình ở cho người giữ đập nước ở cầu Phù Kiều lấy mười lăm lạng bạc. Sau khi trả mọi thứ nợ, Ngưu Phố còn lại hơn bốn lạng. Cụ Bốc bảo giữ lại để đến tiết thanh minh sang năm đắp mộ cho cụ Ngưu. Thấy Ngưu Phố và vợ không có nơi ở, cụ Bốc dọn một gian nhà của mình cho hai người đến ở để giao nhà lại cho người kia. Hôm dọn nhà, cụ Bốc soạn một bữa cơm để đón hai người về và ngồi với họ một lát. Nhưng nghĩ đến người thân đã chết thì cụ lại nức nở, nghẹn ngào.

    Thấm thoắt đến ngày ba mươi tết. Cụ Bốc sửa soạn ăn mừng năm mới. Dâu, con trong phòng chuẩn bị rượu, đồ ăn và một lò than. Cụ Bốc đưa mấy cân than cho Ngưu Phố bảo Ngưu Phố đốt than ở trong phòng. Lại đưa vào một bàn rượu thịt bảo y lập bài vị mà cúng ông nội. Ngày mồng một đầu năm, lại bảo y đi ra mộ đốt vàng giấy. Cụ vừa nói vừa khóc:

    - Anh ra ngoài mộ, thưa với cụ rằng tôi tuổi già, năm nay trời lạnh, tôi không thể ra chúc cụ năm mới được.

    Ngưu Phố vâng dạ, đi ra.

    Đến mãi ngày mồng ba, cụ Bốc mới đi mừng lại các nhà khác. Sau khi uống vài chén rượu, ăn vài miếng ở nhà bạn, cụ đi qua cầu Phù Kiều. Nhìn thấy nhà người giữ đập nước dán đôi câu đối mừng xuân đỏ chói, cụ không sao cầm được nỗi lòng, khóc hoài khóc mãi. Đang định trở về thì bỗng gặp người cháu rể nắm lấy tay cụ mời vào nhà. Người cháu gái mặc quần áo đẹp ra chúc mừng năm mới. Chào xong, họ giữ cụ lại uống rượu, ăn bánh nếp. Cụ ăn được hai cái thì thôi. Đứa cháu gái mời mãi, cụ mới lại ăn thêm hai cái nữa. Lúc trở về nhà thì gặp phải cơn gió độc, cụ biết mình mắc bệnh. Đến tối nhức đầu sốt nóng và phải đi nằm. Mời thầy thuốc đến, nói là cụ lo lắng nhiều nên sinh chứng đờm. Người thì bảo phải dùng thuốc phát tán.

    Người bảo phải dùng thuốc ôn trung. Người lại cho là tuổi già phải dùng thuốc bổ, không ai giống ai. Bốc Thành, Bốc Tín hoảng hốt, cả ngày ở bên cạnh. Ngưu Phố sáng chiều vào phòng hỏi thăm.

    Hôm ấy trời tối, cụ Bốc nằm trên giường thấy có hai người trèo qua cửa sổ đến trước giường tay cầm một tờ giấy đưa cho cụ xem. Nhưng lúc cụ hỏi mọi người, thì tất cả đều trả lời rằng không thấy ai cả. Cụ Bốc cầm tờ giấy trong tay, nhìn ra là một danh sách tên người viết bằng chữ son, có tất cả ba mươi bốn, ba mươi lăm tên, tên đầu là Ngưu Tương, tên người thông gia của cụ, tên chót là Bốc Sùng Lễ chính là tên của cụ. Cụ lại định hỏi người mang giấy đến nhưng chợp mắt một cái, cả người lẫn giấy đều không thấy ở đâu.

    Nhân phen này làm cho

    cửa quan giao kết nên chi thân thích khôn nương,

    đường hoạn ngao du, may được họ hàng khá cậy.

    Muốn biết cụ Bốc tính mạng ra sao hãy xem hồi sau phân giải.

    Chú thích:

    (1-) Bản thảo tập thơ của Ngưu Bố Y.

    (2-) Chi, hồ, giả, dã là bốn trợ từ thường dùng trong văn ngôn nên nói văn ngôn thường gọi là “chi, hồ, giả, dã”.

    Nhận ông cháu, Ngọc Phố tìm tông;
    Ưa giao du, Tuyết Trai lưu khách. Cụ Bốc nằm ngủ thấy có giấy ở dưới âm phủ gọi về, biết rằng số mình đã hết, liền gọi hai con trai và con dâu đến bên cạnh, trối trăng mấy lời, kể lại điều mình vừa thấy. Cụ nói:

    - Mau mau đem áo quần lại cho cha mặc! Cha sắp đi đây.

    Hai người con khóc lóc, vội vàng lấy áo quần ra mặc cho cụ. Mặc xong cụ nói:

    - Ta vui mừng, vì thấy cùng ở chung một danh sách với ông thông gia của ta. Ông ta đứng đầu, ta ở cuối. Ông ta đã đi trước ta xa lắm, ta phải theo kịp.

    Nói xong, người duỗi ra, đầu ngả xuống gối. Hai con lạy không được. Nhìn ra, thì cụ đã tắt thở. Việc chôn cất đã sẵn sàng, lại còn phải lo việc ma chay, cúng thất(#1), báo tang, làm rạp cho người ta đến điếu. Ngưu Phố lo việc tiếp khách.

    Ngưu Phố cũng có mấy người nhà nho là bạn quen biết. Nhân lúc tang gia bối rối, họ cũng lăn vào ăn uống. Lúc đầu, nhà họ Bốc cũng vui vui vì có thêm những người mới quen biết. Nhưng sau thấy họ đến đông, nhà mình lại là nhà buôn bán, miệng họ cứ nói “chi, hồ, giả, dã” đâu đâu nghe không chịu được. Cho nên nhà họ Bốc cảm thấy chán cứ than phiền luôn.

    Một hôm, Ngưu Phố đi đến am, cửa am đóng. Mở ra thì thấy một tờ danh thiếp đút qua khe cửa rơi ở dưới đất. Ngưu cầm lên xem. Trên tờ danh thiếp viết:

    - “Tiểu đệ là Đổng Anh. Khi lên kinh thi hội, đến nhà ông Phùng Trác Am, tiểu đệ có được đọc những bài thơ của ngài trong lòng khao khát, mong sao được gặp. Tiểu đệ đi đến đây để tìm ngài, nhưng không được gặp, rất lấy làm ân hận. Sáng mai mong ngài lưu lại một lát để cho tiểu đệ được thỉnh giáo. Rất hân hạnh.”

    Ngưu Phố xem xong biết rằng người kia đến tìm Ngưu Bố Y. Nhưng thấy trong danh thiếp nói: “Lòng khao khát mong sao được gặp”, Ngưu Phố đoán biết ông này chưa gặp Ngưu Bố Y bao giờ, nghĩ bụng:

    - Tại sao ta không cứ nhận mình là Ngưu Bố Y để tiếp ông ta? Rồi lại nghĩ:

    - Ông ta nói rằng ông ta lên kinh thi hội, vậy chắc chắn là một ông quan to. Ta phải bảo ông ta đến nhà họ Bốc để gặp ta. Như thế ta sẽ làm cho anh em họ Bốc khiếp sợ một mẻ chơi.

    Chủ ý đã định, Ngưu Phố vào am lấy giấy bút viết một cái thiếp đề:

    “Ngưu Bố Y gần đây ở nhà người bà con họ Bốc. Ai đến thăm xin mời đến hiệu buôn gạo họ Bốc ở đầu đường phía nam cầu Phù Kiều”.

    Viết xong, Ngưu Phố đi ra, khóa cửa lại, dán tờ giấy ở ngoài cửa. Y về nói với Bốc Thành, Bốc Tín rằng:

    - Ngày mai có một ông họ Đổng đến thăm tôi. Ông ta sắp làm quan, chúng ta không nên khinh thường. Nhờ cậu cả sáng mai quét cái nhà khách cho sạch sẽ. Nhờ cậu hai bưng cho chúng tôi hai chén trà. Việc ông ta đến thăm sẽ làm cho tất cả mọi người mở mày mở mặt. Hai cậu giúp cho một chút.

    Anh em họ Bốc nghe nói có quan đến thăm, mừng rỡ vô cùng, vui lòng nhận ngay.

    Sáng hôm sau, từ tinh mơ, Bốc thành đã dậy quét nhà khách và dọn những thùng đựng gạo ra ngoài mái hiên sau cửa sổ. Y lấy sáu cái ghế đặt đối diện nhau, bảo vợ quạt than để pha một ấm trà, tìm một cái khay, hai chén trà, hai cái thìa lại bóc bốn hạt nhãn. Mỗi chén bỏ hai hạt: Mọi việc chuẩn bị sẵn sàng. Øn cơm sáng xong một người mặc áo xanh, tay cầm tờ danh thiếp đỏ đi vào hỏi:

    - Ở đây có ông Ngưu không? Ông Đổng muốn vào thăm. Bốc Thành nói:

    - Ông ta ở đây.

    Bốc Thành nhận tờ thiếp, chạy vào báo. Ngưu Phố ra đón, thấy kiệu đỗ ở ngoài cửa. Đổng hiếu liêm(#2) xuống kiệu, đầu đội mũ sa, mình mặc áo lam cổ tròn, chân đi giày đen đế trắng. Người râu ba chòm, da trắng, trạc độ ba mươi tuổi. Thi lễ xong, hai người phân ngôi chủ khách cùng ngồi. Đổng hiếu liêm nói ngay:

    - Tôi đã lâu nghe đại danh của ông, lại được đọc những bài thơ hay của ông, trong lòng vô cùng hâm mộ. Tôi nghĩ rằng ông là bậc túc nho nhiều tuổi, không ngờ nay thấy ông là một trang thanh niên, lại càng thêm kính phục.

    - Vãn sinh là người ở chốn quê mùa, viết lăng nhăng mấy câu thơ, được ông Phùng Trác Am quá khen thật là rất thẹn.

    Đổng nói:

    - Không dám!

    Bốc Thành bưng ra hai chén trà, đi từ phía trước mặt đến đưa cho Đổng. Đổng cầm lấy chén trà, Ngưu cũng cầm một chén, Bốc Tín đứng sừng sững trước mặt Đổng ở giữa nhà. Ngưu Phố vội vái Đồng hiếu liêm và nói:

    - Người nhà của tôi là người quê mùa, không biết lễ nghĩa xin tiên sinh chớ cười.

    Đổng cười và nói:

    - Tiên sinh là một vị cao sĩ, khác tục, tôi dám đâu nghĩ thế!

    Bốc Tín nghe nói vậy cúi đầu lẩm bẩm bước ra mang theo khay trà, mặt đỏ gay. Ngưu Phố lại hỏi:

    - Lần này tiên sinh đi đâu?

    - Tiểu đệ đã được bổ làm tri huyện. Nay đến phủ Ứng Thiên đợi nhậm chức. Tất cả hành lý còn ở dưới thuyền. Vì khao khát muốn được gặp ông, cho nên tôi hai lần đến tìm. Nay may mắn được thỉnh giáo, chiều nay sẽ đáp thuyền đi Tô Châu.

    - Vãn sinh may mắn được lọt vào mắt xanh của ngài nhưng chỉ mới gặp nhau một ngày chưa làm hết nghĩa vụ của người chủ tiếp khách, tại sao ngài đã vội vàng đi ngay như thế?

    - Chúng ta là những khách văn chương chỗ thanh khí quen nhau cần gì phải theo thế tục! Khi nào nhậm chức xong, tôi sẽ mời tiên sinh đến nhà tôi để được thỉnh giáo.

    Đổng nói xong, đứng dậy ra đi. Ngưu Phố giữ lại không được nói:

    - Vãn sinh xin xuống thuyền tiễn tiên sinh.

    - Không dám bận đến tiên sinh, tôi xuống thuyền là đi ngay, sợ không có thì giờ nói chuyện với tiên sinh được.

    Hai người chào nhau rồi từ biệt. Ngưu Phố tiễn ra ngoài cửa. Đổng lên kiệu đi.

    Ngưu Phố trở về, thấy Bốc Tín giận dữ, hai má đỏ gay đón y ở ngoài cửa và mắng:

    - Này anh Ngưu! Tôi vụng về như thế nào thì cũng vẫn là người cậu của anh, vẫn là bậc lớn hơn anh. Thế mà anh lại gọi tôi bưng trà lên. Cái đó thì không nói gì, cũng được đi. Nhưng tại sao anh lại xỉa xói tôi trước mặt cụ Đổng, như thế để làm gì?

    - Này câu, phàm quan đến thăm thì theo lễ phép là phải rót trà ba lượt. Cậu chỉ rót có một lượt. Tôi đã không trách cậu thì thôi nay cậu lại còn nói tôi như thế! Thật là buồn cười!

    Bốc Thành nói:

    - Này anh! Anh không nên nói như thế. Mặc dầu cậu hai có bưng trà từ đằng trước đi lại thì anh cũng không được đem việc ấy ra nói với ông Đổng để cho ông ấy cười!

    Ngưu Phố nói:

    - Ông Đổng thấy hai cậu lẩm cà lẩm cẩm như thế là ông ta đã cười rồi, chẳng cần cho đến lúc bưng trà lên không đúng phép tắc nữa.

    Bốc Tín nói:

    - Chúng tôi là con nhà buôn không cần các quan thăm hỏi. Đến chẳng được ân huệ gì hết lại để cho họ cười.

    Ngưu Phố nói:

    - Tôi không dám nói cái này, nhưng thật ra nếu tôi không ở nhà hai cậu thì dù đến một, hai trăm năm cũng không có ông quan nào đến nhà này đâu.

    Bốc Thành nói:

    - Đừng có nói láo! Anh có bạn làm quan thật đấy nhưng anh có phải là quan cách gì đâu!

    - Cậu cứ hỏi bất kỳ ai xem. Ngồi với các ông quan vái chào nhau tiếp chuyện nhau là hơn, hay là bưng trà mời họ lại làm sai bét để họ cười cho là hơn?

    Bốc Tín nói:

    - Anh không được ăn nói hỗn xược như thế! Nhà chúng tôi không quý trọng gì những ông quan như thế đâu!

    Ngưu Phố nói:

    - Ngày mai tôi sẽ viết giấy đưa cho ông Đổng, ông ta sẽ đưa giấy đến huyện Vũ Hồ để người ta đánh cho các cậu một trận mới được.

    Hai người kia tru tréo lên: - Loạn thực! Loạn thực! Cháu rể ngoại mà lại muốn làm cho các cậu bị đánh à? Chúng ta nuôi mày trong nhà suốt cả năm nay thật là toi cơm. Mày cứ đến huyện nói xem đứa nào bị đánh.

    - Tôi sợ các cậu sao! Nào cùng đi nào!

    Hai người kia kéo Ngưu Phố đến trước cửa huyện. Bấy giờ mõ mới đánh hai lần quan huyện chưa ra công đường. Ba người đứng chờ ở ngoài bình phong. Bỗng nhiên thấy Quách Thiết Bút đi qua. Quách Thiết Bút hỏi có việc gì, Bốc Thành nói:

    - Ông Quách! Từ xưa đã có câu “một đấu gạo làm thành một ân nhân, mười đấu gạo làm thành một kẻ thù”. Chúng tôi nuôi cái thằng này mấy lâu nay thật là như vậy!

    Quách Thiết Bút cũng trách Ngưu Phố:

    - Từ xưa đến nay đã có kẻ trên người dưới, kẻ già người trẻ. Ông nói như thế là không được. Thân thích với nhau cả mà kéo nhau lên quan là việc không hay chút nào.

    Quách Thiết Bút bèn kéo họ vào tiệm trà. Quách bảo Ngưu Phố rót trà mời hai cậu. Bốc Thành nói:

    - Anh Ngưu! Tôi có điều này muốn nói với anh. Ngày nay, cha chúng tôi trăm tuổi rồi, trong nhà miệng ăn thì đông. Anh em chúng tôi lo lắng không nổi. Nhân có ông Quách ở đây chúng tôi cũng đem câu chuyện này ra nói nốt. Chúng tôi đành phải nuôi cháu gái của chúng tôi, nhưng còn anh Ngưu thì anh phải kiếm lấy việc mà làm, nếu anh chỉ lo nhờ vả chúng tôi thì không được.

    - Các cậu muốn như thế à? Tốt lắm! Cái đó thì dễ, hôm nay tôi sẽ mang hành lý đi để tự kiếm kế sinh nhai, không cần nhờ vả đến hai cậu nữa.

    Uống trà xong, việc chửi lộn cũng xong nốt. Ba người cám ơn Quách Thiết Bút. Quách Thiết Bút cũng từ biệt mà về.

    Bốc Thành, Bốc Tín trở về nhà. Ngưu Phố hầm hầm về nhà lấy chăn nệm mang đến am ở. Không có gì ăn, y đem cầm tất cả thanh la, não bạt của hòa thượng. Ngồi rảnh không có việc gì, y đi đến nhà Quách Thiết Bút. Thiết Bút không ở hiệu. Ở quầy hàng, có một quyển ghi danh sách những người làm quan, Ngưu Phố giở ra xem thấy Đổng Anh tự là Ngạn Phương, người phủ Nhân Hòa, tỉnh Chiết Giang hiện mới bổ làm tri huyện ở huyện An Đông phủ Hoài An, bèn nói:

    - Được rồi! Tại sao ta không đi tìm ông ta?

    Bèn vội vàng về am xếp chăn lại, đem lư hương và khánh đá của hòa thượng đi cầm, được tất cả hai lạng bạc. Y không về nhà họ Bốc mà đáp thuyền đi ngay. Gặp được lúc xuôi gió một ngày một đêm đã đến mỏm Yến Tử ở Nam Kinh. Y định đáp thuyền đi Dương Châu. Khi vào một hàng cơm, người chủ hàng nói:

    - Hôm nay thuyền đều đi cả rồi! Phải nghỉ lại một đêm chiều mai sẽ đi.

    Ngưu Phố đặt hành lý xuống, bước ra cửa hàng thấy ở bờ sông buộc một chiếc thuyền lớn. Y gọi người chủ quán hỏi:

    - Thuyền này bao giờ đi?

    Chủ quán cười mà rằng:

    - Ông không đi thuyền ấy được đâu! Thuyền ấy đang chờ một ông quan to mới đi.

    Ngưu Phố lại bước vào hàng. Người hầu bàn đem đến một đôi đũa, hai đĩa rau, một đĩa thịt lợn, một đĩa đậu phụ rán, một bát canh, một bát tô cơm tướng. Ngưu Phố hỏi:

    - Đĩa rau và bát cơm bao nhiêu?

    Người hầu bàn nói:

    - Cơm thì hai ly một bát, thịt một phân một đĩa, rau nửa phân một đĩa.

    Ngưu Phố ăn hết cả rau và cơm rồi bước ra cửa. Y thấy ở bên sông có một cái kiệu đang chờ ở đấy, có ba gánh hành lý và bốn người tùy tùng. Ở trong kiệu bước ra một người đầu đội mũ vuông, mình mặc áo lụa màu gỗ trầm hương, chân đi giày đen đế trắng, tay cầm một cái quạt giấy trắng. Y đầu bạc hoa râm, trạc tuổi trên năm mươi, đôi mắt như con nhím, hai gò má cao. Người này bước xuống kiệu thì bảo chủ thuyền:

    - Ta muốn đến thăm quan coi sở muối ở Dương Châu, anh phải lo lắng cẩn thận, khi đến Dương Châu ta sẽ thưởng cho. Nếu anh sơ suất ta sẽ viết giấy cho quan huyện Giang Đô bắt anh trị tội đấy.

    Chủ thuyền vâng dạ luôn miệng, dắt y xuống thuyền. Chủ thuyền cũng mang giúp hành lý xuống thuyền.

    Chính đang lúc bận rộn, người chủ quán nói với Ngưu Phố:

    - Ông mau mau xuống thuyền đi!

    Ngưu Phố mang hành lý lên vai, chạy ra đằng đuôi thuyền. Chủ thuyền nắm lấy tay y lôi xuống thuyền, giơ tay ra hiệu bảo y không được nói năng gì và đưa y vào ngồi ở bếp.

    Khi tất cả hành lý đều mang xuống thuyền, Ngưu Phố thấy người tùy tùng đem ra cái đèn lồng có đề mấy chữ: “Việc công ở Lưỡng Hoài” treo ở cửa thuyền, lão chủ thuyền đem cái lò ra đốt một ít lửa để nấu trà đưa vào khoang. Bấy giờ trời còn tối, bốn người tùy tùng đều ngồi ở đằng sau thuyền sửa soạn các món ăn. Họ hâm rượu, sắp sẵn đâu vào đấy rồi đưa vào khoang, đốt một ngọn sáp đỏ. Ngưu Phố liếc mắt nhìn trộm qua khe hở thấy người kia ngồi trước ngọn nến, trên bàn bày bốn đĩa ăn, tay trái cầm chén rượu, tay phải cầm một quyển sách xem chăm chú, vừa xem vừa gật đầu, xem một lúc rồi ăn cơm. Một lát sau thổi tắt ngọn đèn đi ngủ. Ngưu Phố cũng thiu thiu ngủ. Đêm ấy, gió đông bắc thổi mạnh. Đến canh ba, mưa bắt đầu rơi lách tách. Cái chiếu che sau bếp bị dột nước chảy lộp bộp, Ngưu Phố trằn trọc trở mình không ngủ được. Đến canh năm nghe tiếng trong khoang nói:

    - Ông lái! Tại sao không cho thuyền đi?

    Người chủ thuyền nói:

    - Gió rất mạnh, đằng trước là vịnh Hoàng Thiên Đãg. Tối hôm qua mười mấy chiếc thuyền phải dừng lại ở đây, không có cái nào dám đi hết!

    Một lát sau, trời sáng rõ. Người chủ thuyền nấu nước rửa mặt mang vào khoang. Những người tùy tùng ra rửa mặt ở sau thuyền. Đợi cho họ rửa mặt xong hết cả, người chủ thuyền mới đưa một chậu nước cho Ngưu Phố rửa. Ngưu thấy hai người tùy tùng cầm dù lên bờ. Một người khác đang rửa một cái chân giò ở bên cạnh thuyền. Một lát sau hai người tùy tùng kia về mang một con cá, một con vịt quay, một miếng thịt, măng tươi, rau cần đem lên thuyền. Chủ thuyền lấy gạo thổi cơm. Mấy người tùy tùng đều quay lại lo việc nấu ăn. Khi tất cả mọi việc đều xong, họ dọn lên bốn đĩa to tướng, lại có một bầu rượu và bày tất cả vào khoang để người kia ăn sáng. Bốn người tùy tùng mang những thức ăn còn lại ra sau thuyền cùng ăn. Øn xong, họ lau ván thuyền sạch sẽ. Lúc đó, chủ thuyền mới lấy ở bếp ra một đĩa củ cải và một bát cơm cho Ngưu Phố ăn. Ngưu Phố cũng ăn.

    Mưa đã ngớt, gió vẫn còn mạnh. Lúc gần trưa, người ở trong khoang mở miếng ván ở sau thuyền và nhìn thấy Ngưu Phố, bèn hỏi:

    - Người kia là ai?

    Chủ thuyền nhăn nhở nói:

    - Đó là một người tôi chở thêm để kiếm ít tiền mua rượu.

    - Như thế tại sao không đưa anh ta vào trong khoang?

    Ngưu Phố chỉ chờ có thế. Y vội vàng từ phía sau bước ra vái chào và quỳ xuống. Người kia giơ tay ra nói:

    - Trên thuyền chật chội không phải làm lễ! Anh cứ ngồi!

    Ngưu Phố hỏi:

    - Không dám, xin tiên sinh cho biết quý danh.

    Người kia nói:

    - Anh hỏi tôi sao? Tôi họ Ngưu tên là Giao, tự là Ngọc Phố. Tôi vốn là người ở Huy Châu. Anh ở đâu?

    Ngưu Phố nói:

    - Con cũng họ Ngưu, tổ tiên con ở Tân An.

    Ngưu Ngọc Phố không đợi y nói hết, liền nói ngay:

    - Nếu như anh họ Ngưu thì năm trăm năm trước đây anh cũng là người một nhà với ta, cũng cùng chung một tổ tiên cả. Ta ở Huy Châu, như thế ta là ông mà anh là cháu, từ nay anh phải gọi ta bằng ông nhé.

    Ngưu Phố nghe vậy rất lấy làm ngạc nhiên, nhưng người kia xem ra rất oai vệ, cho nên không dám từ chối bèn nói:

    - Thưa ông, lần này ông đi Dương Châu có việc gì?

    Ngưu Ngọc Phố nói:

    - Chẳng giấu gì cháu, ta quen nhiều người bạn làm quan, to ai cũng muốn mời ta vào làm việc ở nha môn họ, nhưng tính ta lười không muốn ra khỏi cửa. Hiện nay ta đang đi đến nhà ông Vạn Tuyết Trai. Ông ta không phải là một người quan trọng lắm, nhưng ông ta mời ta vì ta quen biết các quan và có thanh thế. Ta ở đây, mỗi năm ông ta đưa cho mấy trăm lạng bạc gọi là tiền giấy mực. Nói rằng tiền giấy mực, chẳng qua là lấy danh nghĩa mà thôi. Ta cũng không muốn đến nhà ông ta vì đó là một nơi thế tục, cho nên đến ở cung Tý Ngọ. Nay anh đã biết ta thì ta có cách giúp anh.

    Và y nói ngay với chủ thuyền:

    - Ông đưa hành lý của anh ấy vào đây! Tôi sẽ trả tiền đò cho anh ấy.

    Chủ thuyền nói:

    - Ông lại nhận ra bà con! Như thế thì phải thêm tiền thưởng để chúng tôi uống rượu chứ!

    Hôm đó Ngưu Phố ăn cơm chiều với Ngưu Ngọc Phố. Đến đêm lặng gió, trời lại tạnh. Canh năm, thuyền đã đến Nghi Trưng đỗ ở bến Hoàng Nê. Ngưu Ngọc Phố rửa mặt xong, dắt tay Ngưu lên bờ và nói:

    - Øn cơm ở dưới thuyền mất thì giờ. Ở đây có tiệm “Đại quan lâu” nấu ăn rất ngon. Chúng ta đi đến đó, ăn một bữa đi!

    Và quay lại bảo người lái thuyền:

    - Các anh cứ ăn cơm đi! Chúng tôi đến “Đại quan lâu” ăn không cần phải người đi theo nữa.

    Hai người đi đến “Đại quan lâu” và cùng lên gác. Ở trên lầu thấy một người đội mũ vuông. Khi nhận thấy Ngưu Ngọc Phố người kia giật nẩy mình kêu lên:

    - Thế nào! Lại gặp “ông anh” ở đây!

    Ngưu Ngọc Phố nói:

    - À, thế ra anh cũng ở đây sao!

    Hai người vái chào nhau. Người kia hỏi:

    - Ông này là ai?

    Ngưu Ngọc Phố nói:

    - Đây là thằng cháu của tôi.

    Và nói với Ngưu Phố:

    - Anh chào ông ta mau đi! Ông ta là người “bạn thân thiết” với ta đã hai mươi năm nay, tên là Vương Nghĩa An, trước thường cùng làm việc ở “nha môn”(#3) với ta.

    Ngưu Phố vái chào. Phân ngôi chủ khách cùng ngồi, Ngưu Phố ngồi một bên. Người hầu bàn đem cơm lên: một bát mì xào, một đĩa nem, ba người cùng ăn. Ngưu Ngọc Phố nói:

    - Từ khi chúng ta từ biệt nhau ở nha môn cụ Tề đến nay, giờ mới lại gặp nhau.

    Vương Nghĩa An nói:

    - Cụ Tề nào?

    - Cụ Tề làm Cửu môn đề đốc ấy mà!

    - Cụ Tề đối đãi với hai chúng ta thật là không chê trách vào đâu được.

    Đang nói chuyện thân mật thì ở dưới lầu bước lên hai người tú tài đội mũ vuông. Người đi trước mặc áo lụa trừu ở trước áo có một vết dầu. Người đi sau mặc áo màu tro, hai ống tay áo rách tả tơi. Hai người vừa tới thấy Vương Nghĩa An thì người mặc áo lụa hỏi:

    - Đó có phải là cái thằng cha Vương Nghĩa An kiếm gái cho các nhà thổ ở đường Phong Gia Hạng không?

    Người mặc áo màu tro nói:

    - Hắn chứ còn ai nữa.

    - Hắn làm thế nào lại dám đội mũ vuông vác mặt đến đây?

    Hai người kia liền chạy đến, giằng lấy cái mũ vuông(#4) của Vương Nghĩa An tát một cái rất mạnh vào má. Vương ta ngã lăn quay ra đất, dập đầu lạy như tế sao. Hai người kia lại càng nổi giận. Ngưu Ngọc Phố đến can thì bị mắng một trận:

    - Ông là người áo mũ nhà nho tại sao lại còn ngồi ăn cơm một bàn với cái thằng kiếm gái cho nhà thổ. Ông đã không biết thì thôi, ông lại còn đến xin xỏ cho nó. Như thế thì cả ông nữa cũng đáng chết. Nếu ông không đi ngay, chúng tôi cũng không nể mặt đâu.

    Ngưu Ngọc Phố thấy việc chẳng lành vội vàng kéo Ngưu Phố đi xuống lầu trả tiền cơm về thuyền.

    Hai người tú tài kia định cho tên kiếm gái một trận nhừ tử. Mặc dù chủ quán đến xin hộ, và cả Vương Nghĩa An xin lỗi, hai người tú tài vẫn không chịu thôi lại còn dọa đem y lên quan. Tên kiếm gái bị đánh đau sợ hãi, phải sờ lấy ở lưng ra ba lạng bảy mươi đồng đưa cho hai người để làm lễ ra mắt, họ mới tha cho y đi.

    Ngưu Ngọc Phố và Ngưu Phố xuống thuyền đi Hàng Châu. Thuyền đỗ ở cung Tý Ngọ. Đạo sĩ ra tiếp. Hai người xếp đặt hành lý xong đâu đấy rồi đi ngủ. Sáng hôm sau, Ngưu Ngọc Phố đưa ra một cái mũ vuông cũ và một cái áo lam cho Ngưu Phố và nói:

    - Hôm nay tôi cùng anh đi đến nhà ông Vạn Tuyết Trai. Anh mặc áo đội mũ và cùng đi với tôi.

    Hai người gọi hai cái kiệu đến, bảo hai người đầy tớ đi theo mang bọc chăn áo. Họ đi thẳng đến bến sông thấy một cái cửa lầu cao lớn, có bảy, tám người đang ngồi trên ghế nói chuyện với một vú em. Kiệu dừng trước cửa. Hai người xuống kiệu, đi vào. Đầy tớ Vạn Tuyết Trai nhận ra và nói:

    - Ông Ngưu đã về! Mời ông vào thư phòng!

    Hai người đi qua một cái cổng có đắp hai con hổ. Đi qua một cái sân trong lát gạch phẳng phiu, rồi đến phòng khách. Ở giữa sảnh treo một cái biển lớn có ba chữ vàng: “Thân tư đường”. Ở bên cạnh có một hàng chữ: “Tuân Mai, là Diêm vụ sử ở Lưỡng Hoài viết”. Hai bên là một đôi câu đối chữ vàng:"Độc thư hảo, canh điền hảo, học hảo tiện hảo"; “Sáng nghiệp nan, thủ thành nan, trị nan bất nan.(#1) Ở dưới treo một bức họa của Nghê Vân Lâm. Ở án thư bày một hòn ngọc lớn chưa giũa. Trong nhà có mười hai cái ghế gỗ hoa lê. Ở bên trái là một cái gương soi độ cao sáu thước. Luồn qua phía sau cái gương là một cái cửa, hai cánh mở toang, dưới sân lát toàn đá cuội. Họ đi men theo bờ ao có dãy lan can sơn đỏ. Vào sâu nữa một cái sảnh gồm ba gian. Ở gian giữa treo một cái rèm trúc, có hai tiểu đồng vội vàng kéo rèm và mời vào. Đưa mắt nhìn thấy những đồ đạc đều bằng gỗ quí đánh bóng loáng. Ở giữa treo một cái biển dán giấy trắng viết chữ đen ”Xem hoa, làm thơ".

    Hai người ngồi uống trà. Chủ nhân là Vạn Tuyết Trai ở trong nhà bước ra, đầu đội mũ vuông, tay phe phẩy cái quạt lụa màu vàng, mình mặc áo lụa, chân đi giày đỏ. Y đi ra vái chào Ngưu Ngọc Phố. Ngưu Ngọc Phố bảo Ngưu Phố ra chào và nói:

    - Đây là cháu của tôi đến chào tiên sinh.

    Ba người phân ngôi chủ khách cùng ngồi. Ngưu Phố ngồi ở dưới. Khi trà bưng lên, Vạn Tuyết Trai nói:

    - Ông làm gì ở Nam Kinh mãi thế?

    Ngọc Phố nói:

    - Chỉ vì danh tiếng tôi to quá! Tôi vừa đến Nam Kinh ở tại chùa Thừa Ân thì đã có bao nhiêu người đến thăm. Người mang giấy, kẻ mang quạt, mang sách đến. Ai cũng muốn xin tôi vài chữ hay một bài thơ. Có người, tôi đã ra đề văn, đề thơ cho làm cũng đến tìm tòi hỏi ý kiến và xin chỉ giáo. Thật cả ngày cả đêm không lúc nào rảnh. Đến khi rảnh thì cậu hai con Từ quốc công không biết tại sao, biết tôi đến, nên lại năm lần bảy lượt cho người đến mời. Quản gia nhà công tử đều là hạng chỉ huy bọn Cẩm y vệ, chức từ ngũ phẩm trở lên. Họ đến mời tôi nhiều lần thành ra tôi cũng phải đến nhà công tử chơi mấy hôm.

    Tôi xin đi hai ba lần không được. Sau tôi phải nói ông Tuyết Trai muốn gặp tôi có việc gấp, lúc đó họ mới để tôi đi. Cậu hai rất hâm mộ thơ ông, và tự tay chấm những bài thơ của ông.

    Ngọc Phố nói xong, lấy trong ống tay áo ra hai tập thơ đưa cho Vạn Tuyết Trai. Vạn cầm lấy và hỏi:

    - Tôi chưa hề gặp người cháu của ông bao giờ! Năm nay bao nhiêu tuổi? Hiệu là gì?

    Ngưu Phố nói không ra lời, Ngọc Phố nói: - Nó năm nay hai mươi tuổi, còn trẻ nên chưa có hiệu.

    Vạn Tuyết Trai đang xem tập thơ thì thấy người đầy tớ chạy vào bẩm:

    - Có ông Tống xin vào!

    Vạn Tuyết Trai đứng dậy nói:

    - Tôi muốn tiếp ông nhưng người thiếp thứ bảy của tôi ốm, tôi có mời ông Tống đến xem bệnh nên phải vào tiếp ông ta một lát. Tôi xin lỗi. Ông cứ tự nhiên, dùng cơm xong xin cứ ở lại đến chiều.

    Vạn nói xong đi vào.

    Người quản gia bưng ra bốn đĩa đồ ăn, hai bát, hai đôi đũa và khiêng một cái bàn để hai người ngồi ăn cơm. Ngọc Phố nói với Ngưu Phố: Họ mới xếp đặt chén bát, còn một lát nữa mới có cơm. Ta ra ngoài chơi một lát. Ở đây có mấy cái phòng đẹp lắm!

    Y dẫn Ngưu Phố qua một cái cầu nhỏ và đi men theo bờ ao. Nhìn xa xa, thấy có nhiều lầu, cái cao, cái thấp. Bờ ao hẹp, trồng liễu. Ngọc Phố quay lại nói với Ngưu Phố:

    - Tại sao lúc nãy ông Vạn hỏi anh, anh lại không trả lời?

    Ngưu Phố nhìn Ngọc Phố trừng trừng, không ngờ trượt chân rơi tõm xuống ao. Ngọc Phố vội vàng chạy đến kéo lên. Cũng may, ở đấy có mấy cây liễu, Ngưu bám lấy mà lên được. Giày và áo ướt sũng. Ngọc Phố bực bội nghiêm sắc mặt nói:

    - Anh không biết nói năng, cư xử trước mọi người như thế nào hết.

    Bèn gọi đầy tớ lấy một bộ áo quần ra cho y thay và bảo y về nhà trước. Nhân việc đó thành ra:

    Người bên nói chuyện, vạch toang tông tích chủ nhân;

    con trẻ ác tâm, nên nỗi người ta cụt hứng.

    Muốn biết sự việc thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

    Chú thích:

    (1-) Đọc sách là việc tốt, cày là việc tốt, học hai điều ấy tốt là tốt. Khai sáng cơ nghiệp là điều khó, giữ gìn nó là điều khó, nhưng nếu biết điều đó là khó thì không còn khó nữa.

    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      Lộ âm mưu, thi nhân bị đánh;
      Than cảnh già, quả phụ tìm chồng. Ngưu Ngọc Phố thấy Ngưu Phố sểnh chân ngã xuống ao chẳng còn ra thể diện gì nữa, bèn bảo đầy tớ đưa y lên kiệu về nhà. Ngưu Phố trở về nhà rất bực mình, ngồi cứ lẩm bẩm. Một lát tìm được đôi giày khô để thay. Đạo sĩ hỏi y đã ăn cơm chưa, y phải nói dối rằng mình đã ăn rồi. Kết quả là phải nhịn đói nửa ngày. Ngưu Ngọc Phố ở nhà họ Vạn uống rượu mãi đến chiều tối mới trở về. Vừa lên lầu, thấy mặt Ngưu Phố, y đã mắng cho một trận. Ngưu Phố không dám ho he. Sau đó, hai người đi nghỉ.

      Hôm sau, không có chuyện gì. Sang ngày thứ ba, Vạn Tuyết Trai lại cho người đến mời. Ngưu Ngọc Phố dặn dò Ngưu Phố ở nhà giữ nhà, còn mình thì đi kiệu đến nhà Vạn Tuyết Trai. Ngưu Phố ở nhà ăn sáng với đạo sĩ. Đạo sĩ nói:

      - Tôi phải đi đến viện Mộc Lan ở cửa thành thăm một đạo sĩ khác. Ông ở nhà giữ nhà nhé!

      Ngưu Phố nói:

      - Tôi ở nhà chẳng có việc gì, cũng muốn đi chơi với ông cho vui.

      Ngưu Phố bèn khóa trái cửa chùa, cùng đạo sĩ đi đến một cái thành cũ. Hai người vào một tiệm trà. Người hầu trà mang đến một ấm trà, một đĩa kẹo và một đĩa đậu. Đạo sĩ hỏi:

      - Ông là bà con thế nào với ông Ngưu Ngọc Phố? Trước đây tôi chưa bao giờ thấy ông đến đây cả?

      - Tôi gặp ông ta trên đường, lúc nói chuyện mới biết là bà con. Tôi xưa nay ở nha môn quan huyện Đổng ở An Đông. Cụ Đổng rất tốt với tôi. Nhớ lần đầu tiên, tôi đưa danh thiếp vào, cụ vội vàng cho hai người sai nhân ra đón và đỡ tôi xuống kiệu. Nhưng lúc bấy giờ, tôi không đi kiệu lại cưỡi lừa. Tôi muốn xuống lừa, hai người sai nhân không cho, dắt con lừa đi thẳng vào nhà trong, lừa bước lên tấm ván nhà nghe lóc cóc. Cụ Đổng thân hành ra mở cửa, chào tôi, cầm tay tôi mà dắt vào. Cụ giữ tôi lại hai mươi ngày. Tôi muốn xin từ biệt trở về, cụ lại cho tôi bảy mươi lạng, bốn đồng cân, năm phân bạc. Cụ dắt tôi đi qua công đường, nhìn tôi lên mình lừa và nói: “Anh đi, nếu vừa ý thì thôi, nếu không vừa ý thì cứ lại đây tìm tôi”. Con người như thế thực là khó kiếm. Bây giờ tôi lại muốn trở lại tìm cụ...

      - Những người như thế thực là hiếm có?

      - Ông Vạn Tuyết Trai là người danh vọng như thế nào? Sau này ông ta có làm quan không?

      Đạo sĩ khịt mũi cười, nói:

      - Ông hỏi ông Vạn ư? Chỉ có ông Ngưu của anh mới kính trọng ông ta mà thôi! Còn chuyện làm quan thì dù mũ sa kia biết bay, bay khắp gầm trời rồi rơi vào đầu ông ta, cũng vẫn cứ có người giật đi.

      - Tại sao lại thế? Ông ta không phải là con hát, không phải là nô tì, lính tráng, như thế nếu mũ sa rơi vào đầu ông ta, còn ai dám giật!

      - Anh chưa biết ông ta xuất thân như thế nào à! Để tôi nói anh nghe, nhưng cấm anh không được nói với ai đấy nhé! Ông Vạn lúc nhỏ là tôi tớ ông Trình Minh Khanh, người trước đây làm chủ hiệu Vạn Hữu Kỳ ở bên sông. Lúc nhỏ, ông ta hầu hạ ở thư phòng, người chủ là Trình Minh Khanh thấy ông ta thông minh, nên năm ông mười tám tuổi cho ông ta làm tiểu tư khách...

      - Làm tiểu tư khách là thế nào?

      - Những người buôn muối ở đây, nếu thuê một người bạn để thay mình tiếp khách, tiếp các quan thì mỗi năm hưởng mấy trăm lạng và gọi là đại tư khách. Còn nếu như làm những việc vặt vãnh trong việc buôn bán, hay để sai vặt thì gọi là “tiểu tư khách”. Ông ta làm “tiểu tư khách” một ít lâu rất là chăm chỉ. Mỗi năm gom góp được mấy lạng bạc, và bắt đầu buôn bán nhỏ. Sau đó, ông ta thuê giấy phép buôn muối. Trong mấy năm, gặp số đỏ, giấy phép buôn muối rất cao, ông ta kiếm được bốn năm vạn lạng bạc. Ông bèn chuộc được thân mình ra khỏi địa vị nô tỳ, mua một cái nhà và bắt đầu tự mình đứng ra buôn muối. Công việc làm ăn phát tài, ông thành một người giàu, vốn liếng đến mấy chục vạn. Trong lúc đó, ông Trình Minh Khanh trước kia là chủ hiệu “Vạn Hữu Kỳ” lại nghèo túng, sa sút, hết cả vốn liếng, nên trở về Huy Châu. Vì vậy không còn ai biết việc cũ của ông ta nữa. Năm ngoái, ông Vạn cưới vợ cho con. Người con dâu là con gái một ông Hàn lâm. Nhà họ Vạn tốn mất mấy ngàn lạng bạc mới cưới được cô dâu về. Hôm cưới, tiếng trống, tiếng sáo inh tai, đèn lồng thắp đầy nửa phố, thật là náo nhiệt. Sang ngày thứ ba, họ hàng đến chào. Trong lúc trong nhà đang hát xướng, bày tiệc rượu thì không ngờ ông chủ cũ là Trình Minh Khanh từ sáng sớm đã đi kiệu đến đấy, ngồi ngay ở ngoài nhà khách. Họ Vạn vừa bước ra thấy vậy, liền phải quỳ xuống vái chào ông chũ cũ mấy cái và phải “nhét” cho ông ta đến vạn lạng bạc, mới không bị lộ.

      Đang nói chuyện như vậy, thì hai đạo sĩ ở Mộc Lan Viện đến mời đạo sĩ đi ăn chay. Đạo sĩ cáo từ ra đi.

      Ngưu Phố ở lại uống thêm vài chén trà rồi ra về. Về đến cung Tý Ngọ, đã thấy Ngưu Ngọc Phố ở đấy. Y đang ngồi ở dưới lầu, ở trên bàn có một gói bạc tướng. Cửa lầu vẫn còn khóa. Ngưu Ngọc Phố thấy Ngưu Phố về, liền bảo mau mau mở cửa đem số bạc lên lầu và mắng Ngưu Phố:

      - Ta bảo mày ở nhà trông nhà, sao mày còn lảng vảng ngoài đường?

      - Cháu vừa đứng ở ngoài cửa thì thấy ông phó tri huyện ở huyện cháu. Ông ta thấy cháu liền xuống kiệu nói: Đã lâu không gặp nhau. Ông ta đưa cháu xuống thuyền nói chuyện, cho nên cháu có đi một lúc.

      Ngưu Ngọc Phố thấy y đã gặp quan nên cũng không hỏi nữa, bèn nói:

      - Ông ta tên họ là gì?

      - Ông ta họ Lý, người Bắc Trực. Ông ta cũng biết ông.

      - Nếu ông ta ở trong quan trường thì cố nhiên là biết tiếng ta.

      - Ông ta cũng nói rằng ông ta quen cả ông Vạn Tuyết Trai.

      - Ông Vạn Tuyết Trai giao du khắp cả thiên hạ...

      Ngưu Ngọc Phố bèn chỉ tay vào gói bạc mà nói:

      - Gói bạc này là của ông Vạn Tuyết Trai đưa đến đây! Người “phu nhân” thứ bảy của ông ta mắc bệnh, thầy thuốc bảo “bà” ta mắc chứng hàn, phải dùng một con “ếch tuyết”. Ở Dương Châu, ông ta bỏ ra đến một trăm lạng bạc mà không mua được. Nghe nói ở Tô Châu có thể tìm được, cho nên ông ta lấy ra ba trăm lạng bạc bảo ta đi mua. Ta không có thì giờ, cho nên đã tiến cử anh. Nếu anh đi mua thì anh sẽ kiếm được mấy lạng bạc. Ngưu Phố không dám trái lời. Ngay đêm đó, Ngưu Ngọc Phố mua một con gà và một ít rượu để làm bữa tiệc tiễn hành. Hai người ăn uống trên lầu. Ngưu Phố nói:

      - Cháu muốn nói với ông một câu. Câu ấy là ông Lý ở huyện cho cháu biết.

      - Câu gì thế? - Ông Vạn Tuyết Trai với ông thật là tương đắc, nhưng mới chỉ là bạn bè văn chương, sách vở. Chứ việc tiền nong, việc lớn thì chưa thấy nhờ ông làm. Ông Lý nói: Ông Vạn bình sinh có một người tâm phúc, ông chỉ cần nói rằng ông quen người ấy là bất cứ việc gì ông ta cũng tin. Như thế thì không những ông phát tài mà cả cháu mai đây cũng có phần nhờ cậy.

      - Người bạn tâm phúc của ông ta là ai? - Là ông Trình Minh Khanh, người ở Huy Châu. Ngưu Ngọc Phố cười và nói:

      - Đó là ông bạn “kết nghĩa” của ta đã hai mươi năm nay! Ta không biết sao được!

      Øn uống xong, hai người đi nghỉ. Hôm sau Ngưu Phố mang bạc cáo từ Ngưu Ngọc Phố lên đường, đáp thuyền đi Tô Châu.

      Hôm sau, họ Vạn lại mời Ngưu Ngọc Phố đến uống rượu, Ngưu Ngọc Phố lên kiệu, đến nhà họ Vạn. Ở đấy, đã có hai người buôn muối, một người họ Cố, một người họ Uông. Sau khi vái chào xong, hai người nói rằng mình là thân thích với ông Vạn nên không dám ngồi trước Ngưu, mời Ngưu vào ngồi ghế đầu. Uống trà xong, họ bắt đầu nói đến việc buôn bán. Sau đó, tiệc bày ra, hai người ngồi vào bàn. Rượu bưng lên. Món ăn đầu tiên là món “đông trùng hạ thảo”(#1) Vạn Tuyết Trai mời hai vị ngồi ăn và nói:

      - Cái món này ở xa đến! Ở đây không có, nhưng ở Dương Châu thì có nhiều. Chỉ có cái con “ếch tuyết” thì tuyệt nhiên không tìm ở đâu ra!

      Cố nói:

      - Vẫn chưa tìm ra sao?

      Vạn Tuyết Trai nói:

      - Chưa! Ở Dương Châu không có! Hôm qua đã nhờ ông Ngọc Phố sai người cháu đi Tô Châu tìm.

      Uông nói:

      - Vật khó kiếm này, ở Tô Châu vị tất đã có! Có lẽ phải đến những nhà gia thế ở Huy Châu may ra mới có được.

      Vạn Tuyết Trai nói:

      - Ông nói có lẽ đúng! Bất kì cái gì ở Huy Châu chúng ta cũng tốt hơn.

      Cố nói:

      - Không phải chỉ sản vật mà thôi đâu! Ngay đến nhân vật ở Huy Châu cũng hơn.

      Ngưu Ngọc Phố đột nhiên nhớ ra một việc bèn nói:

      - Ông Tuyết Trai! Ở Huy Châu có ông Trình Minh Khanh, ông ta có phải là bạn thân của ông không?

      Vạn Tuyết Trai nghe vậy, má đỏ gay không đáp. Ngưu Ngọc Phố nói:

      - Ông ta là “bạn kết nghĩa” với tôi đấy! Hôm trước, ông ta có viết thư cho tôi nói rằng chẳng bao lâu nữa sẽ đến Dương Châu. Thế nào ông ta cũng sẽ đến thăm ông Vạn.

      Vạn Tuyết Trai nghe vậy hai tay lạnh ngắt, không nói được một câu. Người buôn muối họ Cố nói:

      - Ông Ngọc Phố! Cổ nhân có câu “Giao du khắp thiên hạ, mấy kẻ biết lòng ta!” Hôm nay, chúng ta hãy uống rượu, hà tất phải nhắc chuyện cũ làm gì!

      Buổi chiều hôm ấy, tiệc tan một cách miễn cưỡng, mọi người trở về nhà. Ngưu Ngọc Phố cũng về nhà. Mấy hôm sau, không thấy có người nhà Vạn đến mời. Hôm ấy, Ngưu ở trên lầu vừa ngủ dậy thì thấy có người đầy tớ mang lên một cái thư nói:

      - Cái thư này của ông Vạn ở dưới sông. Người nhà ông Vạn đang đứng dưới lầu đợi trả lời.

      Ngưu Ngọc Phố mở thư ra xem: “Bà cụ ông Vương Hán Sách ở Nghi Trung làm lễ ăn mừng thất tuần. Muốn nhờ tiên sinh làm một bài văn chúc thọ và viết giùm cho. Mong tiên sinh đến đó ngay!”

      Ngưu Ngọc Phố xem xong bảo đầy tớ gọi một chiếc thuyền nhỏ đi rất nhanh về Nghi Trung. Đêm ấy xuống thuyền, sáng sau đã đến bờ Sửu Bá. Ngọc Phố vào hàng buôn gạo hỏi thăm nhà họ Vương.

      Chủ hiệu buôn gạo nói: - Ông tìm nhà ông Vương Hán Sách ở bên sông phải không? Nhà ông ta là một cái lầu mới làm nhìn ra hướng đông đường Pháp Vân. Ngưu Ngọc Phố đi thẳng đến đó, thấy ba gian nhà khách, trong nhà khách mấy cái ghế để đầy những bài văn chúc thọ viết chữ vàng. Ở bên trái cửa sổ là một cái bàn dài, một người tú tài đang cúi đầu, hí hoáy viết. Thấy Ngưu Ngọc Phố vào, y liền bỏ bút xuống bước ra; Ngọc Phố thấy y mặc áo lụa, trước ngực có một vết dầu to tướng bèn giật mình. Người kia cũng nhận ra Ngưu Ngọc Phố và nói;

      - Ông có phải là người ăn cơm với cái thằng kiếm gái ở “Đại quan lâu” không? Hôm nay ông đến đây có việc gì?

      Ngọc Phố đang định mắng cho hắn một trận thì Vương Hán Sách ở trong nhà đi ra, nói với người tú tài:

      - Ông hãy ngồi xuống! Cái đó không liên quan gì đến ông cả!

      Vị tú tài này mới chịu ngồi xuống. Vương Hán Sách chắp tay chào Ngưu nhưng không vái. Hai người cùng ngồi. Vương nói:

      - Ông có phải là Ngưu Ngọc Phố không? - Chính tôi.

      - Tôi là người đại lý buôn muối của nhà ông Vạn. Hôm qua, ông Vạn có viết thư cho tôi nói rằng ông không phải là người đứng đắn. Ông hay chơi bời với những bọn côn đồ trộm cướp. Từ nay về sau không dám phiền đến ông nữa.

      Y bèn lấy ra một lạng bạc đưa cho Ngưu nói:

      - Tôi cũng không giữ ông. Mời ông đi!

      Ngưu giận lắm, nói:

      - Ta không cần lạng bạc này của anh, ta sẽ về nói với ông Vạn Tuyết Trai.

      Và ném lạng bạc xuống ghế. Vương Hán Sách nói:

      - Ông đã không nhận, tôi đâu dám ép! Tôi khuyên ông không nên về nhà ông Vạn Tuyết Trai nữa, vì ông ta không tiếp ông đâu.

      Ngưu Ngọc Phố vùng vằng bước ra. Vương Hán Sách nói theo:

      - Xin lỗi, không tiễn nữa.

      Y chắp tay chào một cái rồi quay vào.

      Ngưu Ngọc Phố đành đem đầy tớ đến một hàng cơm ở Sửu Bá, miệng lẩm bẩm:

      - Thằng cha Vạn Tuyết Trai thật chó má! Tại sao hắn lại đối đãi với ta như thế?

      Một người hầu bàn đi qua cười mà rằng:

      - Ông Vạn Tuyết Trai rất tốt với tất cả mọi người, trừ khi ông có nói đến ông Trình thì ông ta mới phát cáu.

      Ngưu nghe vậy, bảo đầy tớ đến hỏi, thì người hầu bàn nói:

      - Ông Vạn trước là quản gia ông Trình Minh Khanh. Ông ta rất sợ người ta nói việc ấy. Chắc chắn là ông đã nói, cho nên ông ta nổi giận.

      Người đầy tớ đem việc này nói lại với Ngưu Ngọc Phố. Ngọc Phố tỉnh ngộ nói:

      - Thôi chết rồi! Cái thằng “chó chết” ấy hại ta rồi!

      Ngọc Phố ở lại một đêm, hôm sau gọi thuyền đi Tô Châu tìm Ngưu Phố. Sau khi xuống thuyền, tiền nong đều nhẵn, y bỏ hai người đầy tớ lại, mang theo hai người lực lưỡng đi thẳng đến Tô Châu. Đến hiệu thuốc Hồ Khẩu, thì gặp Ngưu Phố đang ngồi ở đấy. Ngưu Phố thấy Ngọc Phố đến bèn ra mời ngồi:

      - “Ông”đã đến ư?

      Ngọc Phố hỏi:

      - Cháu đã tìm được con “ếch tuyết” chưa? - Dạ, chưa ạ.

      - Gần đây có một nhà ở Trấn Giang có một con, mau mau đem tiền cùng ta đến mua. Thuyền của ta hiện nay ở ngoài cửa Xưởng Môn.

      Ngưu Ngọc Phố lấy lại số tiền và dẫn Ngưu Phố xuống thuyền. Trên đường đi, Ngưu Ngọc Phố không nói năng gì. Đi được mấy ngày, đến đất Long Bào Châu là nơi bốn bề vắng vẻ. Hôm ấy, ăn cơm sáng xong, Ngọc Phố trợn hai con mắt tròn xoe và thét lớn:

      - Mày có biết tao phải đánh mày không?

      Ngưu Phố hoảng hốt, nói:

      - Cháu không hiểu cháu có tội gì! Tại sao ông lại đánh cháu?

      - Đồ chó! Mày chơi tao một vố mày có biết không?

      Và chẳng nói chẳng rằng, Ngọc Phố bảo hai người kia lột trần Ngưu Phố ra, không cho mang giày dép gì hết, đánh cho một trận gần chết, rồi đem lên bờ trói gò ở đấy. Sau đó, mọi người xuống thuyền giương buồm đi mất.

      Ngưu Phố bị vứt đấy, mê mệt không còn biết gì nữa. Họ lại vứt y gần cái hố tiêu, hễ cựa quậy một cái là rơi tõm xuống hố. Y đành phải nằm im, không dám rên la và cũng không dám cựa quậy gì hết. Y đợi đến nửa ngày, thấy một con thuyền giữa dòng sông. Thuyền đến bên bờ đỗ lại, một người khách đến đấy đi ỉa. Ngưu Phố kêu cầu cứu. Người khách hỏi:

      - Ông là ai mà bị lột trần trói gò ở đây?

      Ngưu Phố nói:

      - Thưa ông, tôi là một anh “tú tài” ở huyện Vu Hồ. Cụ tri huyện Đổng mời tôi đến giúp việc. Tôi đi đường bị cướp lột hết quần áo, lấy hết hành lý rồi bỏ đi, may còn sống sót ở đây. Tôi đang gặp nạn, mong ông cứu vớt.

      Người khách nói:

      - Ông đến nha môn quan huyện Đổng ở An Đông phải không? Tôi là người huyện An Đông đây. Để tôi cởi trói cho ông đã.

      Nhìn thấy Ngưu mình trần như nhộng, không còn ra thể thống gì nữa, người kia bèn nói:

      - Ông đứng đợi đấy một lát để tôi xuống thuyền lấy quần áo giày mũ cho ông mặc.

      Rồi y xuống thuyền lấy một bộ quần áo vải, một đôi giày, một cái mũ hình miếng ngói đưa cho Ngưu Phố mặc và nói:

      - Mũ này không phải là mũ nhà nho, nhưng ông cứ đội tạm. Đến thị trấn trước mặt, tôi sẽ mua cho ông một cái mũ vuông.

      Sau khi đã mặc áo quần, Ngưu Phố quỳ xuống cảm tạ ân nhân. Người kia đỡ dậy đưa xuống thuyền. Mọi người trên thuyền nghe nói đến việc vừa xảy ra đều kinh ngạc và hỏi:

      - Ông họ tên là gì?

      - Tôi họ Ngưu.

      Ngưu hỏi lại: - Vị ân nhân tên là gì?

      - Tôi họ Hoàng, người huyện An Đông, vốn làm nghề buôn quần áo phường tuồng. Hôm trước, tôi đi Nam Kinh, mua bảy bộ đồ tuồng cho một ban hát, nhân đi qua đây vô tình lại cứu được ông. Nếu ông muốn đi đến nha môn cụ Đổng thì ông cùng đi với tôi và về nhà tôi, rồi tôi lo liệu áo quần để cho ông đến nha môn.

      Ngưu Phố cảm tạ. Từ đó y cùng ăn cơm với họ Hoàng.

      Hôm ấy trời nắng to, Ngưu Phố bị lột trần phơi nắng nửa ngày, lại bị mùi hôi thối của hố tiêu xông lên, cho nên vừa xuống thuyền thì mắc bệnh lỵ. Bệnh lỵ này lại là bệnh lỵ cấm khẩu, ỉa luôn. Từ sáng đến chiều, cứ phải ngồi lỳ ở đuôi thuyền, hai tay nắm lấy ván thuyền. Được đâu ba bốn ngày như thế, thì người như con ma, lại thêm mình mẩy bị đánh đau nhức nhối, hai đùi gác lên cạnh thuyền làm thành hai cái rãnh. Nghe một người khách trong thuyền nói thì thào:

      - Thằng kia xem ra không sống được đâu! Bây giờ hắn còn sống, ta đưa hắn lên bộ đi, nếu để hắn chết ở đây thì chỉ thêm tốn sức mà thôi!

      Nhưng Hoàng không nghe. Ngưu đau đến ngày thứ năm, đột nhiên mũi ngửi thấy mùi đỗ xanh, bèn nói với hàng thuyền:

      - Tôi muốn ăn cháo đỗ xanh!

      Tất cả thuyền đều không cho. Y lại nói:

      - Tôi muốn ăn lắm! Øn rồi, dù chết cũng không dám oán thán.

      Mọi người không biết làm sao đành phải mang y lên bờ mua một bát cháo đỗ xanh cho ăn. Ngưu Phố ăn xong thấy sôi bụng và ỉa một bãi tướng. Lúc xuống thuyền thì khỏe hẳn. Y bò xuống thuyền cám ơn tất cả mọi người rồi ngủ thẳng một giấc. Được hai ngày thì dần dần bình phục.

      Đến An Đông, việc trước tiên của Ngưu là đến nhà Hoàng, Hoàng mua cho y một cái mũ vuông, cho thêm một bộ áo quần, một đôi giày để đi chào tri huyện Đổng. Đổng tri huyện nghe tin, mừng rỡ, mời ở lại ăn uống, muốn giữ lại ở nha môn. Ngưu Phố nói:

      - Tôi có người thân thích ở đây, tôi muốn ở nhà ông ta cho tiện hơn.

      - Như thế cũng được! Tiên sinh ở nhà người bạn, còn sáng chiều đến đây chơi cho tôi được thỉnh giáo.

      Ngưu cáo từ ra về. Hoàng thấy y quả là bạn bè với quan cho nên hết sức kính trọng. Ngưu Phố hai, ba ngày lại đến nha môn một lần, lấy việc làm thơ để mua danh. Lại nhân đó y nói với quan huyện một số việc, kiếm được ít tiền. Họ Hoàng gả con gái thứ tư cho Ngưu và Ngưu sống ở An Đông những ngày hạnh phúc.

      Không ngờ, Đổng tri huyện thăng chức đi nơi khác. Người đến nhận chức là họ Hướng, cũng người Chiết Giang. Lúc bàn giao, Hướng tri huyện hỏi Đổng tri huyện có việc gì dặn lại. Đổng tri huyện nói:

      - Không có việc gì! Chỉ có một ông bạn thơ của tôi tên là Ngưu Bố Y, hiện nay ở đây tôi rất cám ơn ngài nếu ngài để ý đến ông ta một chút.

      Hướng tri huyện nhận lời. Đổng tri huyện lên Bắc Kinh. Ngưu tiễn ngoài trăm dặm đến ngày thứ ba mới trở về nhà. Vợ nói:

      - Hôm qua có một người đến nói là người cậu của mình ở Vu Hồ, trên đường đi nhân tiện ghé thăm. Tôi giữ ông ta lại đây ăn cơm, ông ta nói đến cuối năm sẽ trở lại.

      Ngưu Phố trong lòng nghi hoặc: “Mình không có ông cậu nào cả. Không biết ông này là ai! Thôi hãy đợi nửa năm nữa xem công việc ra sao!”.

      Đổng tri huyện đi thẳng lên kinh, đến bộ Lại báo tin mình đã đến. Hôm sau Đổng đến để xem được bổ đi đâu. Bấy giờ Phùng Trác Am đã đỗ tiến sĩ làm ở bộ, nhà ở cạnh đấy, cho nên Đổng đến nhà Phùng trước. Phùng mời ngồi. Đang lúc hàn huyên, Đổng tri huyện mới nói được một câu:

      - Người bạn của ông là Ngưu Bố Y ở trong am Cam Lộ huyện Vu Hồ...

      Đổng chưa có thì giờ nói đến việc mình đến thăm Ngưu Bố Y và Ngưu Bố Y đã đến ở huyện An Đông, thì thấy một người đầy tớ chạy vào quỳ bẩm:

      - Cụ lớn đã ra công đường!

      Đổng tri huyện vội vàng từ biệt. Y đến bộ thấy mình được bổ làm tri châu ở Quý Châu, vội vàng sửa soạn hành lý đi Quý Châu, không đến thăm Phùng chủ sự nữa.

      Sau đó mấy hôm, Phùng chủ sự viết một bức thư đưa cho người nhà, lại lấy ra mười lạng bạc nói:

      - Mày có biết nhà ông Ngưu Bố Y không?

      - Dạ có.

      - Vậy mày đem mười lạng bạc đến nhà ông Ngưu Bố Y, nói với bà Ngưu rằng ông Ngưu hiện nay ở am Cam Lộ huyện Vu Hồ. Đưa cái thư này cho bà và nói rằng số tiền này là ta biếu để bà đi đường.

      Người quản gia vâng lời, về nhà gặp bà chủ, thu xếp việc nhà xong, ra đi, đi vào một cái ngõ hẹp, đến một cái nhà rào trúc. Quản gia gõ cửa chỉ thấy một đứa trẻ chạy ra, trong tay cầm một cái rá con đi mua gạo. Quản gia nói rằng mình là người cụ Phùng ở kinh đến. Đứa trẻ đưa người quản gia đến phòng khách. Nó đi vào nhà trong báo rồi ra hỏi:

      - Ông đến đây có việc gì?

      Quản gia hỏi đứa trẻ:

      - Bà Ngưu là người như thế nào của cháu?

      - Là cô của cháu.

      Quản gia lấy ra mười lạng bạc đưa cho nó và nói:

      - Số tiền này là của ông chủ tôi sai đem đến đưa cho bà để làm tiền lộ phí. Nói với bà rằng ông nhà hiện nay ở am Cam Lộ huyện Vu Hồ. Ông chủ tôi có đưa bức thư đến cho bà để bà khỏi lo ngại.

      Đứa trẻ mời y ngồi rồi đem bạc vào. Quản gia thấy trong nhà treo một bức tranh cổ đã rách, dán mấy đôi câu đối. Sáu cái ghế trúc đã hư là tất cả đồ đạc trong nhà. Ở ngoài sân có một cái bồn hoa, vài cái hoa và bên cạnh là hàng rào. Ngồi một lát, thấy đứa trẻ bưng ra một chén trà, tay cầm một cái gói đưa cho quản gia, trong gói có hai đồng cân bạc, và nói:

      - Cô tôi cám ơn ông đã chịu khó, cô tôi có ít tiền để ông uống nước. Nhờ ông về nhà nói với bà chủ và khi nào ông về kinh thì nói với ông chủ rằng cô tôi xin đa tạ. Những điều nói trong thư cô tôi đều nhớ cả.

      Quản gia cảm tạ ra về.

      Bà Ngưu nhận số tiền, trong lòng bồn chồn nói:

      - Ông nhà ta nay đã già rồi! Cứ ở xa nhà lại không có con cái gì làm sao mà sống nổi! Nay ta đem mấy lạng bạc này đến Vu Hồ tìm về.

      Chủ ý đã định, bà liền khóa trái cửa phòng nhờ người hàng xóm trông nhà hộ, còn mình mang đứa cháu gái, đáp thuyền đi huyện Vu Hồ. Khi tìm đến am Cam Lộ ở cửa Phù Kiều, chỉ thấy hai cánh cửa am đóng. Bà đẩy cửa vào, đến trước đền thờ Vi Đà Bồ Tát không thấy lư hương, đèn sáp đâu cả. Lại đi vào thì thấy các cửa đều đã xiêu vẹo hư hỏng. Ở sân trong, một người đạo sĩ già đang ngồi vá áo. Hỏi y thì y chỉ lấy tay làm hiệu. Thì ra, y đã câm lại điếc. Hỏi ở đấy có ai là Ngưu Bố Y không, thì y chỉ ra một cái gian phòng ở đằng trước. Bà Ngưu mang đứa cháu đến nơi thấy ở bên cạnh điện có một gian phòng không có cửa. Đi vào trong thấy một cỗ quan tài lớn. Trước mặt có một cái bàn ba chân nằm nghiêng một bên. Trên quan tài không thấy bài vị chỉ còn một cái gậy. Ở đầu quan tài có chữ nhưng vì nhà không có ngói, mưa dột làm cho chữ mờ hết cả chỉ còn hai chữ “Đại Minh”, chữ thứ ba chỉ còn một nét ngang. Bà Ngưu nhìn thấy bỗng nhiên rùng mình, tóc dựng ngược. Bà lại đi ra hỏi đạo sĩ:

      - Ngưu Bố Y chết rồi chăng? Đạo sĩ hoa tay chỉ ra ngoài cổng. Đứa cháu nói:

      - Ông nói cậu không chết, lại đi đâu rồi!

      Bà Ngưu lại ra ngoài am, đi hỏi các nơi. Mọi người đều nói không nghe nói ông ta chết. Đi đến hiệu của Quách Thiết Bút ở chùa Cát Tường, Quách nói:

      - Ông nhà ấy à! Ông nhà đã đến ở huyện An Đông với cụ Đổng rồi!

      Lần này bà mới thực tin, quyết đến An Đông tìm,

      nhân việc ấy khiến cho:

      đã lầm rồi lại lầm nữa, bỗng dưng gây việc ba đào;

      ngoài người ấy, tìm người kia, cố ý làm nên giao kết.

      Chú thích:

      (1-) Tên một vị thuốc ăn rất bổ.

      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        Ngưu Phố Lang mắc vòng kiện tụng.
        Bão Văn Khanh kiếm kế sinh nhai. Ngưu Phố từ khi lấy con gái họ Hoàng ở An Đông, họ Hoàng cho cả một dãy ba bốn gian nhà ở trước mặt để ở. Trước cửa nhà Ngưu dán một tờ giấy đề mấy chữ: “Ngưu Bố Y, làm thơ làm văn”v.v... Sáng hôm ấy, Ngưu đang ngồi trong phòng thì có người gõ cửa. Ngưu ra mở cửa mời vào. Thì chính là người hàng xóm cũ ở huyện Vu Hồ họ Thạch biệt hiệu là “chuột nhắt”. Hắn nổi tiếng là tên lưu manh, nhưng ngày nay đã già. Ngưu Phố thấy hắn thì giật mình đánh thót một cái, đành phải vái chào mời ngồi, và thân hành rót trà. Người vợ ở sau bình phong nhìn ra, nói với chồng:

        - Ông này chính là người cậu của mình năm ngoái đến đây, bây giờ ông ta lại đến.

        Ngưu nói:

        - Hắn có bà con gì với ta đâu!

        Trà bưng ra, Ngưu mời “chuột nhắt” uống. “Chuột nhắt” nói:

        - Tôi nghe nói “cậu” gặp may lại mới lấy vợ ở đây, thật là khoái!

        - Đã lâu không gặp ông! Lâu nay ông làm ăn có phát tài không?

        - Tôi đi lưu lạc khắp cả Hoài Bắc, Sơn Đông, nhân qua đây, bao nhiêu tiền đi đường đều hết sạch. Tôi đến thăm “cậu” vay “cậu” vài lạng bạc để tiêu. Thế nào “cậu” cũng phải giúp tôi một ít đấy!

        -Tôi với ông tuy trước là láng giềng, nhưng không bao giờ cùng làm ăn với nhau cả. Vả chăng, tôi là người lạ ở đây, sống với cha vợ tôi, tiền của đâu mà cho ông!

        “Chuột nhắt” cười nhạt:

        - Mày là thằng bất nhân lắm! Thế mày không nhớ cái ngày tao tiêu tiền như nước sao? Lúc ấy mày tiêu mất bao nhiêu tiền của tao. Nay tao thấy mày đã lấy được vợ, tao cũng muốn giữ mày giữ mặt cho mày mới không nói toạc ra. Bây giờ mày còn ăn nói như thế à?

        Ngưu Phố bực mình:

        - Ông nói gì vậy? Ông tiêu tiền như nước nhưng tôi thấy tiền của ông mấy lần? Thấy “nước” của ông mấy lần? Già như ông, thì phải lo làm ăn. Đằng này cứ lo suốt đời đi bịp người ta!

        - Ngưu Phố Lang! Mày đừng có mở miệng nói cái câu ấy! Mày không nhớ những việc xấu xa mày đã làm từ lúc còn nhỏ sao? Mày chỉ lừa được người ta chứ không lừa được tao đâu! Đồ bỏ vợ để lấy vợ khác! Trước kia mày lừa con gái họ Bốc nay lại bịp con gái họ Hoàng... như thế thì đáng tội gì? Nếu mày không “xuỳ” ngay ra mấy lạng bạc thì tao sẽ đến báo ngay cho quan huyện An Đông cho mà xem.

        Ngưu Phố chồm dậy:

        - Mầy tưởng tao sợ mày lắm à! Tao với mày cùng lên huyện An Đông nào!

        Hai người kéo nhau ra ngoài cửa nhà họ Hoàng đi thẳng đến huyện, thì gặp hai người lính ở huyện. Nhận ra Ngưu Phố, mấy người lính vội vàng cản lại hỏi có việc gì. “Chuột nhắt” kể lại lúc nhỏ Ngưu Phố là người hư hỏng như thế nào. Sau khi đã lừa cháu gái cụ Bốc, hắn ta đến đây lừa con gái nhà họ Hoàng, lại còn mạo danh làm việc bậy. Ngưu Phố nói:

        - Thằng này nổi tiếng lưu manh ở quê tôi! Người ta đặt tên cho nó là thằng “chuột nhắt”. Đến nay càng già hắn lại càng vô sỉ. Năm ngoái, hắn đến nhà tôi. Không có tôi ở nhà, hắn xưng bừa là cậu tôi để kiếm cơm ăn. Năm nay, hắn lại đến tìm tôi vòi tiền thật là vô lý hết sức!

        Mấy người lính nói:

        - Thôi! Ông Ngưu! Ông ta tuổi tác đã già, tuy không là thân thích nhưng cũng là láng giềng cũ. Bây giờ ông ta không có tiền đi đường. Từ xưa có câu: “Nghèo nhà chưa phải nghèo đâu; ra đường nghèo mới giết nhau phen này”. Nếu ông có tiền chắc ông cũng không muốn cho vay bây giờ đâu. Chúng tôi sẽ đưa ông ta vài trăm đồng giúp ông để cho ông ta đi cho rồi.

        “Chuột nhắt” còn muốn tranh cãi nữa. Mấy người lính nói:

        - Đây không phải nơi ông làm ồn. Ông Ngưu là chỗ thân với quan huyện. Ông đã già cả rồi, không nên làm cái trò xấu xa ấy chỉ mang khổ vào thân mà thôi.

        “Chuột nhắt” nghe vậy không nói nhiều, nhận lấy số tiền, cám ơn mọi người rồi đi.

        Ngưu Phố cũng cảm tạ mọi người rồi về nhà. Vừa đi được mấy bước, bỗng thấy ở ngoài cửa có người hàng xóm chạy ra nói:

        - Ông Ngưu! Ông lại đây tôi nói cho mà nghe.

        Người ấy kéo Ngưu đến một chỗ vắng rồi nói:

        - Bác gái đang ở nhà ngoài to tiếng với người ta.

        - To tiếng với ai?

        - Ông vừa ra cửa thì có một cái kiệu và một người quẩy hành lý đến. Một người đàn bà trên kiệu bước xuống. Bác gái tiếp bà ta, thì người đàn bà kia nói rằng bà ta là vợ trước của ông muốn đến đây nhìn mặt ông. Hiện nay bà ta đang to tiếng với bà vợ họ Hoàng của ông, bác gái nhờ tôi bảo với ông mau mau về nhà.

        Ngưu Phố nghe vậy, như người bị giội một gáo nước lạnh vào sống lưng, nghĩ bụng:

        - Thôi! Cái thằng “chuột nhắt” nó đưa người vợ họ Giả của ta đến đây gây sự để làm phiền ta rồi!

        Không biết làm thế nào, y đành liều mạng bước vào nhà. Đến cửa, y đứng nghe một lát thì không phải tiếng nói của người vợ họ Giả mà là tiếng Chiết Giang. Y bèn đẩy cửa vào. Người đàn bà kia cùng y đối diện, hai người không nhận ra nhau, người vợ họ Hoàng nói:

        - Đấy! Nhà tôi đấy! Bà xem có phải là chồng bà không? Người đàn bà kia nói:

        - Ông này là Ngưu Bố Y sao được?

        Ngưu Phố nói:

        - Tôi không là Ngưu Bố Y thì là ai? Nhưng tôi không biết bà là ai cả.

        Bà Ngưu nói:

        - Tao chính là vợ Ngưu Bố Y. Mày mạo nhận tên chồng tao treo bảng ở đây, rõ ràng là mày đã giết chết chồng tao rồi! Đừng tưởng tao tha cho mày đâu.

        Ngưu Phố nói:

        - Trong thiên hạ, người cùng tên cùng họ cũng nhiều. Tại sao bà lại dám đổ cho tôi giết chồng bà? Sao lại có cái việc quái gở như thế?

        - Chứ lại không à! Tao đến Cam Lộ huyện Vu Hồ, trên đường hỏi ra thì chồng tao ở An Đông. Nay mày mạo tên hiệu chồng tao thì phải trả chồng tao đây!

        Bà vừa nói vừa khóc, bảo đứa cháu lại nắm lấy Ngưu Phố. Bà Ngưu lên kiệu, đi thẳng đến cửa huyện, vừa đi vừa kêu gào. Quan huyện Hướng ra cửa nghe tiếng kêu oan, liền bảo người viết giúp bà một cái đơn. Quan huyện nhận đơn, cho sai nhân gọi mọi người đến, treo biển đợi đến ngày thứ ba sẽ ra công đường xét xử.

        Hôm ấy quan huyện ra công đường xét ba vụ kiện.

        Vụ thứ nhất “Vụ kiện giết cha”. Bên nguyên là một vị hòa thượng. Hòa thượng này đang ở trong núi kiếm củi thì thấy người ta lùa một đàn bò đến. Ở trong đàn, có một con bò thấy hòa thượng thì hai con mắt nhìn trừng trừng. Hòa thượng động tâm chạy đến trước mặt con bò. Thấy hòa thượng, con bò rơi nước mắt. Hòa thượng đến trước mặt quỳ xuống. Bò kia lè lưỡi ra liếm trên đầu. Vừa liếm vừa rơi nước mắt, càng liếm nước mắt càng trào ra. Hòa thượng biết con bò này là cha mình hóa thân, bèn khóc và nói với chủ đưa nó cho mình để mình nuôi. Không ngờ người hàng xóm lấy con bò đi giết mất. Cho nên hòa thượng đến đây kiện, đem theo người chủ bò để làm chứng.

        Hướng tri huyện nghe lời cung của hòa thượng quay sang hỏi người láng giềng. Người này nói:

        - Ba, bốn hôm trước đây, hòa thượng này có đem một con bò đến bán cho con. Con mua xong là giết ngay. Hòa thượng hôm qua lại đến nói với con rằng con bò này là hóa thân của cha ông ta cho nên phải trả thêm hai lạng bạc nữa. Số tiền hôm trước như vậy là không đủ. Con không chịu, ông ta liền mắng con. Con nghe người ta nói: con bò kia không phải hóa thân của cha ông ta đâu! Hòa thượng mấy năm nay thường cạo trọc và bôi muối lên đầu. Thấy bò nhà ai béo nhất là ông ta quỳ xuống để cho nó liếm lên đầu. Bò liếm phải muối, cố nhiên rơi nước mắt. Ông ta bèn nói đó là hóa thân của cha ông ta và khóc xin với người ta. Sau khi nhận bò rồi, ông ta đem bán để lấy tiền. Việc này không phải xảy ra một lần. Xin quan xét cho.

        Hướng tri huyện hỏi người chủ bò:

        - Có phải ông cho hòa thượng con bò mà không lấy tiền không?

        Người kia nói:

        - Thực quả con không, không lấy một đồng!

        Hướng tri huyện nói:

        - Chuyện luân hồi là chuyện hoang đường, làm gì có! Vả chăng, nếu là cha hóa thành bò thì cũng không ai đem bán bò lấy tiền tiêu bao giờ! Lão trọc này chính là một thằng lường gạt!

        Tri huyện bèn ra lệnh đánh hòa thượng hai mươi roi và không xét nữa.

        Vụ hai: “Dùng thuốc độc giết anh”.

        Cáo nhân là Hồ Lại, người bị cáo là thầy thuốc Trần An. Hướng tri huyện hỏi cáo nhân:

        - Ông ta dùng thuốc độc giết anh của ông như thế nào? Hồ Lại nói:

        - Anh con mắc bệnh, mời ông Trần An đến xem. Ông ta cho một đơn thuốc, anh con uống xong thì phát điên lên và nhảy xuống nước chết đuối. Rõ ràng là ông ta cho thuốc giết chết anh con.

        Hướng tri huyện nói: - Thường ngày, hai bên có thù hằn gì nhau không? Hồ Lại nói:

        - Bẩm không.

        Hướng tri huyện hỏi Trần An: - Ông chữa bệnh cho người anh Hồ Lại, dùng thuốc gì? -Trần An nói:

        - Ông ta mắc chứng hàn, con dùng thuốc phát tán. Ở trong các vị thuốc có tám đồng tế tân. Lúc bấy giờ trong nhà ông ta có người bà con. Ông này người lùn, mặt tròn, cứ nói ra nói vào rằng dùng ba đồng cân tế tân thì cũng đủ chết rồi! Sách “Bản thảo” có câu ấy không? Người anh ông ta đến ba bốn ngày sau mới nhảy xuống nước chết thì liên quan gì đến thuốc của con! Quan lớn đèn trời soi xét, xin quan xem lại tất cả dược tính của bốn trăm vị, có vị nào mà uống xong thì phát điên nhảy xuống sông chết không. Thật là vô lý. Còn làm thầy thuốc là làm phúc làm đức, lại bị vu cáo như thế này, xin quan xét cho!

        Hướng tri huyện nói:

        - Thế thì quả là nói láo! Làm thuốc là thương xót yêu quý bệnh nhân! Nhà anh có người mắc bệnh đã không giữ gìn cẩn thận để cho người ta nhảy xuống sông. Cái đó liên quan gì với thầy thuốc? Như thế mà anh cũng đi kiện!

        Liền sai đuổi cả ra.

        Vụ thứ ba là vụ bà Ngưu: “Mưu giết chồng người”

        Hướng tri huyện gọi bà Ngưu hỏi. Bà kể lại mình đi Chiết Giang đến Vu Hồ như thế nào rồi từ Vu Hồ đến An Đông như thế nào và nói:

        - Nay hắn mạo tên chồng tôi. Tôi không hỏi chồng tôi ở hắn thì hỏi ai bây giờ!

        Hướng tri huyện nói:

        - Làm sao lại có việc này?

        Bèn hỏi Ngưu Phố:

        - Ông Ngưu có biết bà này không?

        Ngưu Phố nói:

        - Tôi có biết bà ta bao giờ đâu? Tôi cũng không biết chồng bà ta là ai hết. Bỗng nhiên bà ta đến nhà tôi đòi chồng, thật là một việc ở đâu trên trời rơi xuống, oan uổng cho tôi vô cùng.

        Hướng tri huyện nói với bà Ngưu:

        - Xem ra ông Ngưu này là Ngưu Bố Y. Trong thiên hạ người trùng tên trùng họ cũng nhiều. Cố nhiên ông ta không biết tung tích chồng bà. Bà nên đi nơi khác mà hỏi.

        Bà Ngưu khóc lóc thảm thiết, đòi Hướng tri huyện thân oan cho mình. Tri huyện bực mình nói:

        - Được! Tôi sẽ cho hai người sai nhân đưa bà về Thiệu Hưng, bà cứ về quê mà kiện! Tôi không phải là người lo những việc không đầu không đuôi như thế này. Ông Ngưu! Ông cứ về đi!

        Nói xong tri huyện vào nhà trong.

        Hai người sai nhân đưa bà Ngưu về Thiệu Hưng.

        Việc này đưa lên quan trên. Quan trên cho rằng tri huyện Hướng bạn bè với người văn nhân và bỏ qua việc án mạng không chịu xét đến bèn đòi xét xử lại việc đó. Quan Án sát họ Thôi xét hỏi việc này.

        Hôm ấy quan Án bảo thư kí viết lại vụ kiện, mình ngồi dưới ngọn đèn để xem: “Về việc trừng trị viên tri huyện mờ ám không làm tròn trách nhiệm để nêu cao chức vụ người làm quan...” Ở trong bản án kể nhiều sự việc của tri huyện Hướng Đỉnh ở An Đông. Y một mình đang ngồi xem rồi đọc, đọc rồi xem. Dưới ánh sáng ngọn đèn nến, bỗng thấy một người quỳ ở dưới. Thôi Án sát đưa mắt nhìn, thì ra người đang quỳ ở dưới đất là người hát tuồng tên là Bão Văn Khanh.

        Án sát hỏi:

        - Anh muốn nói gì thì đứng dậy mà nói!

        Bão Văn Khanh nói:

        - Vừa rồi, con nghe cụ lớn muốn xét xử việc của ông huyện Hướng ở An Đông. Con chưa từng gặp mặt ông ta. Nhưng lúc bảy tám tuổi, con đã học tuồng. Thầy con dạy con học những vở tuồng do ông ta làm. Ông ta là một bậc danh sĩ đại tài thế mà lận đận hai mươi năm nay mới làm một chức tri huyện. Kể cũng đáng thương. Vả chăng việc này, ông ta làm cũng vì kính trọng những nhà văn, không biết như thế có được cụ lớn tha thứ cho phần nào chăng?

        Án sát nói:

        - Ai ngờ một người như anh mà cũng biết tiếc người tài! Như anh mà còn biết thương nhà nho sĩ thì ta há lại không nghĩ tới hay sao! Nhưng nếu bây giờ ta miễn việc cách chức ông ta, thì ông ta vẫn không biết chính anh đã cứu ông ta. Bây giờ ta sẽ viết nguyên do trong một bức thư, rồi anh đưa đến cho ông ta, bảo ông ta đem vài trăm lạng ra để tạ ơn cho anh có món tiền làm vốn.

        Bão Văn Khanh dập đầu lạy tạ. Án sát bảo đầy tớ đến nói với thư ký: Việc ông huyện An Đông không xét nữa.

        Mấy hôm sau, quả nhiên có sai nhân cầm thư cùng đi với Bão Văn Khanh đến huyện An Đông. Tri huyện Hướng mở thư ra xem, kinh ngạc, vội vàng bảo mở cửa mời ông Bão vào. Tri huyện Hướng chạy ra đón. Bão Văn Khanh mặc áo xanh, mũ đỏ, bước vào cửa, quỳ xuống lạy chào tri huyện. Tri huyện đưa hai tay đỡ dậy, vái chào Bão. Bão nói:

        - Con là người như thế nào dám bắt quan thi lễ!

        Hướng tri huyện nói:

        - Ông là người ở nhà môn quan trên. Ông đã làm ơn với tôi, tại sao tôi không thi lễ? Ông mau mau đứng dậy để cho tôi lạy tạ.

        Nói hai, ba lần, Bão vẫn không chịu. Tri huyện đẩy Bão ngồi xuống, Bão vẫn không dám ngồi. Tri huyện không biết làm sao, nói:

        - Cụ lớn Thôi đưa ông đến đây. Nếu tôi đãi ông như thế, sợ ngài không bằng lòng!

        Bão Văn Khanh nói:

        - Tuy ngài đối đãi với con một cách khác thường, nhưng việc này quan hệ đến cả tôn ti triều đình, nhất định con không dám nhận.

        Bão đứng dậy, buông thẳng hai tay, trả lời tri huyện rồi bước vào hành lang. Tri huyện bảo người thân thích trong nhà ra tiếp, Bão vẫn không chịu. Sau đành bảo người quản gia ra tiếp. Bão rất mừng rỡ, ngồi trong phòng khách vừa nói vừa cười.

        Hôm sau, tri huyện sửa soạn tiệc rượu bày trong thư phòng, tự mình ngồi tiếp, rót rượu mời Bão. Bão quỳ xuống đất không dám nhận rượu. Tri huyện bảo Bão ngồi, Bão nhất định không chịu ngồi. Tri huyện không biết làm sao đành phải bảo đặt tiệc xuống đất, gọi người quản gia ra cùng ăn. Bấy giờ Bão rất mừng rỡ. Tri huyện viết một bức thư cảm tạ quan Án sát, gói năm trăm lạng bạc đưa cho Bão để cảm ơn. Bão không nhận một ly, nói:

        - Tiền này là tiền bổng lộc triều đình cấp cho ngài, con là người bần tiện, dám đâu dùng bạc triều đình! Nếu con lấy tiền này mà nuôi gia đình thì gia đình con chết mất. Xin quan làm ơn giữ tính mạng cho con!

        Hướng tri huyện thấy Bão nói thế, cũng không dám ép; bèn đem những lời nói này viết lại trong thư bẩm với Án sát. Lại giữ Bão ở lại mấy hôm rồi sai người đưa về.

        Án sát nghe vậy, cho Bão là một thằng ngốc, rồi thôi. Một thời gian sau, Án sát lại thăng lên Đô sát viện nên đem Bão Văn Khanh lên kinh. Không ngờ lên kinh, Án sát mắc bệnh mất, Bão Văn Khanh không còn chỗ nương tựa, lại vốn là người Nam Kinh nên phải thu thập hành lý trở về Nam Kinh.

        Nam Kinh là nơi Minh Thái Tổ đóng đô. Thành trong mười ba cửa, thành ngoài mười tám cửa. Đi xuyên qua dọc bốn mươi dặm, đi vòng quanh một trăm hai mươi dặm. Trong thành có mấy mươi con đường lớn, mấy trăm con đường nhỏ, đều là những nơi phố xá như nêm, lâu đài tráng lệ. Trong thành có một con sông gọi là sông Tần Hoài, từ bến sông phía đông sang bến sông phía tây dài hơn mười dặm. Lúc nước sông đầy, những chiếc thuyền hoa mang theo những người thổi sáo, đánh đàn, ngày đêm không ngớt. Trong thành, ngoài thành, cung điện nguy nga, đền chùa lộng lẫy. Trong thời Lục Triều, có tất cả bốn trăm tám mươi ngôi nhà. Đến nay, ít nhất cũng đến bốn ngàn tám trăm ngôi. Đường lớn, đường nhỏ, có tất cả sáu ngàn bảy trăm quán rượu, và tiệm trà nào cũng đều thấy treo đèn lồng, cắm bó hoa tươi, đun ấm nước mưa trong vắt. Những tiệm trà này bao giờ cũng đông khách. Đến chiều tối, hai bên quán rượu, đèn thắp sáng như ban ngày. Người đi đường không phải mang đèn lồng. Những đêm có trăng trên sông Tần Hoài, càng khuya càng nghe tiếng nhạc, tiếng ca ở các thuyền đưa lại. Thật là thánh thót du dương, làm rung động cả lòng người! Những cô gái ở các nhà hai bên bờ sông, mặc áo quần lụa mỏng, giắt hoa lài trên đầu, cũng đều cuốn rèm lên tựa vào lan can lặng lẽ đứng nghe. Cho nên hễ tiếng trống trong các thuyền vang lên, thì rèm ở các nhà hai bên sông cũng đồng thời cuốn lên và mùi thơm của long diên hương và trầm hương ở các nhà cũng bốc lên ngào ngạt, hòa lẫn với ánh trăng tỏa khắp dòng sông. Nhìn ra xa, như người tiên sống nơi Lạc Uyển, Giao Trì! Lại có những kỹ nữ của nhà nước trên mười sáu cái lầu, áo quần lộng lẫy, đón tiếp khách tứ phương. Thật là : “đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyện tiêu!”

        Bão Văn Khanh ở cửa Thủy Tây. Cửa Thủy Tây ở gần cửa Tụ Bửu. Ngày trước ở Tụ Bửu, mỗi ngày có một trăm con bò, một ngàn con lợn, hàng vạn gánh lương thực đi qua. Bấy giờ thì có đến một ngàn con bò, một vạn con lợn và lương thực thì vô kể! Bão Văn Khanh vào cửa Thủy Tây - về nhà gặp vợ. Nhà Bão vốn mấy đời đóng trò. Nay lại trở về nghề cũ.

        Ở cầu Hoài Thanh, có hai xóm tuồng và một nhà thờ Tổ sư. Ở cửa Thủy Tây cũng có một xóm tuồng và một nhà thờ Tổ sư. Ở xóm tuồng treo bảng danh sách các ban tuồng. Ai muốn diễn thì trước đấy mấy ngày, phải đến ghi tên mình và ngày mình định diễn vào một cái bảng. Tên Bão Văn Khanh ghi ở xóm Thủy Tây. Luật lệ của phường tuồng rất là chặt chẽ! Phàm ai trong ban hát làm một việc gì sai lầm thì tất cả ban đều đến nhà thờ Tổ sư, đốt hương rồi đem việc đó ra bàn, đáng đánh thì đánh, đáng phạt thì phạt. Người lầm lỗi không được cãi lại một lời. Lại có những ban bắt đầu thành lập từ niên hiệu Hồng Vũ, mỗi ban mấy mươi người, dựng một cái bia đá ở đền thờ Tổ sư, cả mười mấy người khắc tên vào một cái bia. Hơn nữa, ai có tên cha ông được khắc vào bia thì con cháu đi học diễn tuồng đều được xem là “con nhà nòi”, mặc dầu ít tuổi cũng được gọi là “bậc đàn anh”. Lúc bàn việc gì chung đều phải nói với các bậc đàn anh trước rồi mới dám làm. Tên của ông nội Bão Văn Khanh ở vào cái bia thứ nhất.

        Bão về nhà. Sau khi lo sắm những việc cơm nước trong nhà, Bão bảo lấy sáo, tiêu, đàn tì bà, đàn tam huyền ra xem. Có cái thủng cả mặt, có cái bụi bặm bám đầy. Bão xem xong, để lại một nơi và đi đến một cái quán trà bên cạnh xóm hát để xem những người bạn hát. Vừa bước vào quán đã thấy một người đang ngồi ở đấy, đầu đội mũ cao, mình mặc áo ngọc thạch, chân đi giày đen đế trắng, đang ngồi một mình uống trà. Bão Văn Khanh đến gần nhìn xem thì ra người cùng ban hát với mình là Tiền Mặt Rỗ. Mặt Rỗ thấy Bão bèn nói:

        - Ông Văn Khanh, ông về từ bao giờ thế? Mời ông vào quán uống trà chơi!

        Bão Văn Khanh nói:

        - Tôi mới ở xa về. Nhìn ông tưởng đâu là ông cụ Hàn Lâm, Học đạo nào bước lầm đến đây uống trà! Té ra ông bạn nối khố ngày nảo ngày nào!

        Bão liền ngồi xuống uống trà. Mặt Rỗ nói:

        - Ông Văn Khanh! Ông ở Kinh Sư thấy quan nhiều rồi. Bây giờ về nhà đem trò Hàn Lâm, Học đạo ra dọa anh em phải không?

        - Này anh! Chỗ anh em với nhau tôi đâu dám thế? Nhưng anh ăn mặc, giày dép thế kia thì chắc chắn là bọn hát tuồng chúng tôi không dám làm. Anh ăn mặc như thế, rồi hạng nhà nho người ta ăn mặc cái gì?

        - Bây giờ khác! Hai mươi năm trước đây quả như thế thực! Nhưng nay bọn hương thân ở Nam Kinh nếu có tiệc mừng thọ hay tiệc vui mà tôi cầm một ngọn đèn sáp đến là họ sẽ giữ tôi lại ngồi ở bàn. Dù họ là ông quan to đến đâu cũng cứ phải ngồi dưới! Còn trong bàn tiệc mà có anh chàng nào mới thi đỗ, thật tôi không có thèm liếc mắt nhìn đâu!

        - Này anh! Anh nói thế là anh không biết an phận. Như thế thì đến kiếp sau anh vẫn còn phải làm anh hát tuồng, rồi còn phải làm lừa, làm ngựa cũng là đáng đời!

        Mặt Rỗ cười vỗ vai Bão một cái. Người hầu bàn mang đồ điểm tâm lên. Øn xong, thấy ở ngoài có một người bước vào, đầu đội một cái mũ cao, mình mặc áo lụa, chân đi giày đen đế trắng, tay chống một gậy trúc đầu rồng.

        Mặt Rỗ nói:

        - Cụ Hoàng! Mời cụ đến đây uống trà!

        Cụ Hoàng nói:

        - Tôi tưởng là ai! Té ra hai ông! Đến trước mặt mới nhận ra. Lạ thật! Năm nay tôi đã tám mươi hai tuổi rồi, mắt cũng kém đi. Ông Văn Khanh! Ông về bao giờ thế?

        - Tôi mới về nhà được vài hôm thôi, chưa đến thăm cụ được. Thật là thì giờ thấm thoắt, cách nhau như thế mà đã mười bốn năm rồi! Nhớ hôm tôi ra đi, tôi thấy cụ diễn tuồng “Người Hầu Trà” ở phủ Từ quốc công. Bây giờ cụ có ở trong ban không?

        Cụ Hoàng hoa tay nói:

        - Đã lâu tôi không đến nữa.

        Mấy người lại ngồi xuống và đem thêm đồ điểm tâm ra ăn. Cụ Hoàng nói với Mặt Rỗ:

        - Hôm trước ông Cử Trương ở ngoài Cửa Nam mời tôi với ông đến chơi cờ, tại sao ông lại không đi?

        Mặt Rỗ nói: - Hôm ấy ban hát tôi có việc. Ngày mai là ngày sinh nhật ông Tiết ở ngoài Cổ Lâu. Ông ta mời ban hát của tôi đến diễn một buổi. Mai chúng tôi phải đến hát mừng ông ta.

        Văn Khanh hỏi: - Ông Tiết là ai?

        Cụ Hoàng nói:

        - Ông ta đã từng làm tri phủ Đinh Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến. Ông ta cùng tuổi với tôi - tám mươi hai tuổi. Triều đình cho ông ta làm tiên chỉ.

        Bão Văn Khanh nói: - Nhìn thấy cụ chống gậy đi bộ ung dung như thế, theo tôi cũng đáng là tiên chỉ đấy?

        Lại nói:

        - Anh em xem cụ Hoàng có thua gì một ông tri phủ không? Ngay đến cả thượng thư và thị lang cũng đến như cụ Hoàng là hết nước!

        Cụ Hoàng không hiểu rằng Bão lấy mình ra đùa, nên lấy làm đắc ý. Mấy người uống trà xong, ra về. Mặc dầu Bão Văn Khanh không thích cách cư xử của họ, Bão vẫn không nói gì. Bão muốn tìm một vài đứa trẻ để lập một ban mới của mình, vì vậy, Bão đi tìm khắp cả phố. Hôm ấy đến Cổ Lâu, gặp một người.

        Nhân việc này:

        Dịp may gặp gỡ, bạn bè kết nghĩa thêm thân;

        phải lúc kết hôn, con em chịu ân càng nặng.

        Muốn biết người Bão Văn Khanh gặp là ai, hãy xem hồi sau phân giải.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #19
          6.

          Đất Nam Kinh, Bão Văn Khanh gặp bạn,
          Phủ An Khánh, Nghê Đình Tỷ thành hôn. Bão Văn Khanh đi đến phía Bắc thành Nam Kinh tìm trẻ con để lập một ban hát. Khi đến dốc Cổ Lâu, Bão vừa lên dốc thì gặp một người ở trên dốc đi xuống. Bão thấy người kia đầu đội mũ lông chiên, mình mặc áo lụa đen đã rách, chân đi đôi giày đỏ cũng rách tươm, đầu bạc hoa râm, trạc độ sáu mươi tuổi. Người kia tay cầm một chiếc đàn cầm đã rách, trên đàn dán một tờ giấy trắng có viết bốn chữ: “Sửa chữa nhạc cụ”. Bão Văn Khanh bước đến mấy bước vái chào hỏi:

          - Cụ biết sửa chữa nhạc cụ phải không?

          - Vâng!

          - Nếu vậy xin mời cụ vào tiệm trà ngồi chơi!

          Hai người cùng bước vào tiệm trà ngồi, gọi đem một ấm trà đến, Bão Văn Khanh hỏi:

          - Cụ họ gì?

          - Tôi họ Nghê.

          - Cụ ở đâu?

          - Tôi ở xa. Nhà tôi ở tại Tam Bài Lâu.

          - Cụ Nghê! Cụ chữa nhạc cụ, vậy cụ có chữa được đàn tam huyền, đàn tỳ bà không?

          - Tôi chữa được tất.

          Bão Văn Khanh nói:

          - Tôi họ Bão, nhà ở cửa Thủy Tây, vốn làm nghề hát tuồng. Trong nhà tôi có mấy nhạc cụ hư hỏng, muốn nhờ cụ chữa cho một chút. Không biết nên phiền cụ đến nhà tôi, hay là tôi đem nhạc cụ đến nhà cụ để cụ chữa thì tốt hơn.

          - Ông có tất cả bao nhiêu nhạc cụ?

          - Tôi chỉ có độ chừng bảy, tám cái thôi.

          - Có bảy, tám cái thì mang đi không tiện, để tôi đến nhà ông mà chữa vậy. Chỉ mất độ hai ngày công thôi! Tôi chỉ phiền ông một bữa cơm sáng, đến chiều thì tôi về nhà!

          - Thế thì tốt lắm! Chỉ sợ trà nước nhà tôi không ra gì; xin cụ chớ nề hà việc đó!

          Lại nói:

          - Bao giờ cụ có thể đến nhà tôi?

          - Ngày mai không rảnh, đến ngày kia tôi sẽ lại.

          Công việc như thế là bàn bạc xong. Vừa lúc ấy, ở ngoài cửa có một người bán bánh mang đến một gánh bánh phục linh. Bão Văn Khanh mua nửa cân cùng ăn với cụ Nghê. Sau đó, hai người chia tay. Bão Văn Khanh nói:

          - Sáng ngày kia tôi sẽ đợi cụ ở nhà!

          Cụ Nghê vâng dạ ra đi. Bão Văn Khanh về nhà nói với vợ đem tất cả nhạc cụ ra lau chùi sạch sẽ, và bày sẵn ở ngoài nhà khách.

          Sáng sớm hôm ấy, cụ Nghê đến. Uống trà, ăn điểm tâm xong, cụ Nghê đem đàn ra chữa. Chữa một lát, hai đứa trẻ học tuồng ở trong nhà bưng ra một mâm cơm thường, Bão Văn khanh ngồi tiếp và cùng ăn với cụ Nghê. Đến chiều, Bão Văn Khanh đi ra cửa, lúc trở về nói với cụ Nghê:

          - Chúng tôi đối với cụ thật là thiếu sót, chỉ có ít cơm rau như thế này thật là vô lễ. Bây giờ tôi mời cụ cùng đi đến quán rượu. Cụ cứ để đồ nhạc cụ ở đây đến mai lại chữa.

          Cụ Nghê nói:

          - Tại sao tôi lại làm phiền ông như thế?

          Hai người cùng đi ra một quán rượu, chọn một chỗ sạch sẽ, vắng vẻ cùng ngồi.

          Người hầu bàn đến hỏi:

          - Còn có khách nào nữa không?

          Cụ Nghê nói:

          - Không có ai nữa. Ở đây có những món gì?

          Người hầu bàn xoè tay ra tính:

          - Có chân giò vịt, cá rán, cá nấu với rượu, nem, thịt gà, thịt lợn rán, thịt nấu kiểu Bắc Kinh, chả rán, cá quả rán, đầu cá nấu, lại có cả thịt tái.

          Cụ Nghê nói với Bão Vãn Khanh:

          - Ông không phải đãi tôi như một người khách.

          Chúng ta ăn một đĩa thường thôi.

          Bão Văn Khanh nói:

          - Một đĩa thường thì không nên!

          Bão bèn bảo người hầu bàn trước tiên đem thịt vịt để nhắm rượu, rồi đem thịt lợn rán để ăn cơm. Người hầu bàn vâng dạ rồi đi. Một lát y đem đến một phần con vịt và hai hồ rượu. Bão Văn Khanh đứng dậy rót cho cụ Nghê một chén rượu rồi ngồi xuống uống rượu. Nhân tiện y hỏi cụ Nghê:

          - Tôi xem cụ ra vẻ con người có học, tại sao cụ lại đi làm nghề sửa chữa nhạc cụ này!

          Cụ Nghê thở dài mà rằng:

          - Thưa ông! Tôi không muốn nói ra làm gì! Tôi đã đỗ tú tài ở huyện năm hai mươi tuổi, đến nay ba mươi bảy năm. Nhưng chẳng may, cái nghề đọc mấy câu sách cổ đã khiến cho tôi thành ra thầy dở thợ dốt nên tôi càng ngày càng sa sút. Con cái lại nhiều, đành phải làm cái nghề này để kiếm cơm nuôi miệng. Thật là không có cách nào khác!

          - Thế ra cụ quả là một con người xuất thân trường Ốc. Tôi hỏi thế này thì đường đột, chẳng hay cụ có bao nhiêu con tất cả, cụ bà ở nhà có mạnh khỏe không?

          - Nhà tôi vẫn còn. Tôi trước đây có sáu đứa con nhưng nay nói đến rất đau lòng!

          - Cụ cho biết vì cớ làm sao?

          Cụ Nghê nói đến đó, không ngờ buồn bã nước mắt tuôn trào. Bão Văn Khanh rót một chén rượu đưa cho cụ mà rằng:

          - Thưa cụ! Nếu cụ có điều gì tâm sự xin cụ đừng ngại! Cụ cứ nói thẳng cho tôi may tôi có thể san sẻ nỗi buồn cùng cụ chút nào chăng.

          - Cái đó đừng nói ra thì hơn. Nói ra thì ông lại cười tôi. - Tôi là hạng người như thế nào mà dám cười cụ? Xin cụ cứ nói đừng ngại!

          - Chẳng dám giấu gì ông, tôi có sáu đứa con. Một đứa đã chết. May chỉ còn đứa thứ sáu ở nhà, còn bốn đứa kia...

          Cụ Nghê nói đến đấy, ngừng lại không nói được nữa. Bão Văn Khanh hỏi:

          - Còn bốn đứa kia như thế nào?

          Cụ Nghê bị hỏi dồn gấp quá phải nói:

          - Thưa ông, ông không phải là người xa lạ, chắc ông không nỡ cười tôi, tôi không dám giấu gì ông, bốn đứa con kia của tôi, vì không có gì ăn cả nên tôi đã đem bán cho người ta ở tỉnh xa.

          Bão Văn Khanh nghe nói đến đó cũng cầm lòng không đậu, nước mắt ròng ròng.

          Bão nói:

          - Như thế thật là đáng thương quá!

          Cụ Nghê rơi nước mắt nói tiếp:

          - Nào phải chỉ bán bốn đứa kia đâu! Nay đến đứa con nhỏ này, tương lai tôi cũng không giữ nó được nữa, rồi cũng phải đem bán nó cho người ta mà thôi.

          Bão Văn Khanh nói:

          - Thưa cụ như thế cụ và cụ bà chịu rời bỏ con sao được.

          - Chỉ vì thiếu ăn, thiếu mặc, giữ nó ở nhà thì nó chết đói! Chi bằng cho nó đi, may gì nó còn sống được!

          Bão Văn Khanh nghe vậy lấy làm cảm động, và nói:

          - Tôi có việc này muốn bàn với cụ. Nhưng không biết nên nói với cụ như thế nào?

          - Ông có điều gì xin cứ nói có ngại gì đâu!

          Bão Văn Khanh định nói, nhưng lại thôi.

          - Tôi không nói còn hơn vì nói ra sợ cụ không bằng lòng...

          - Đâu lại có chuyện như vậy, ông muốn nói gì, thì cứ nói với tôi. Tại sao tôi lại dám giận ông?

          - Tôi cũng xin đánh bạo nói với cụ...

          - Ông cứ nói đi!

          - Thưa cụ! Nếu cụ phải bán cậu con út cho người ta, mà lại phải bán cho người ở châu, ở phủ khác thì không bao giờ còn gặp mặt cậu ấy nữa! Bây giờ tôi đã quá bốn mươi tuổi rồi, sinh bình tôi chỉ có một mụn gái, không có đứa con trai nào! Nếu cụ không cho nghề nghiệp của tôi là nghề bần tiện và cho tôi nuôi cậu bé làm con nuôi thì tôi đưa cho cụ hai mươi lạng bạc, và sẽ hết sức nuôi nấng. Hàng năm đến ngày tết ngày lễ, cậu sẽ về thăm cụ. Sau này cụ làm ăn khá giả tôi sẽ lại đem trả lại cho cụ. Như thế có được không?(#1)

          - Nếu được như thế thì đứa con của tôi có “ân tinh chiếu mạng”, tôi còn đòi hỏi gì mà chẳng bằng lòng? Nhưng để ông nuôi cháu, tức là bắt ông phải nuôi nấng nó, tôi còn lấy tiền làm gì?

          - Nếu được như thế thì đứa con của tôi có “ân tinh chiếu mạng”, tôi còn đòi hỏi gì mà chẳng bằng lòng? Nhưng để ông nuôi cháu, tức là bắt ông phải nuôi nấng nó, tôi còn lấy tiền làm gì?

          - Sao cụ lại nói như vậy! Tôi nhất định đưa cụ hai mươi lạng bạc.

          Hai người ăn xong, trả tiền đi ra cửa hiệu.

          Trời chưa tối. Cụ Nghê về nhà,

          Bão Văn Khanh về nhà đem việc này kể lại với vợ, vợ cũng rất mừng rỡ. Hôm sau, cụ Nghê từ sáng sớm đến chữa nhạc cụ. Gặp Bão Văn Khanh cụ Nghê nói:

          - Câu chuyện bàn hôm qua, tôi đã đem nói lại với nhà tôi. Nhà tôi cũng rất lấy làm cảm kích. Bây giờ một lời đã hứa với nhau, tôi xin chọn một ngày tốt đem cháu lại đây.

          Bão rất mừng rỡ, từ đấy hai người gọi nhau là bà con. Mấy hôm sau nhà Bão dọn một bữa tiệc mời cụ Nghê. Cụ Nghê mang đứa con đến, làm giấy tờ bán con. Bão lấy hai người hàng xóm là Trương Quốc Trọng bán vải và Vương Vũ Thu bán đèn nến làm chứng. Hai người đều đến. Giấy tờ viết như sau:

          Nghê Sương Phong nay đem cho đứa con thứ sáu của mình là Nghê Đình Tỷ tuổi mới mười sáu. Vì thiếu ăn không nuôi được cho nên vợ chồng bàn bạc tình nguyện cho ông Bão Văn Khanh nhận nó làm con nuôi, đổi tên là Bão Đình Tỷ. Về sau này việc nuôi nấng lấy vợ đều do ông Bão Văn Khanh lo liệu. Nó sẽ thừa tự ông Bão. Hai bên đều bằng lòng. Nếu như đứa bé có việc gì bất trắc, cả hai đều vâng theo mệnh trời. Tờ giấy này viết để làm bằng, và được giữ mãi.

          Năm Gia Tĩnh thứ 16 tháng 10 ngày 1.

          Người làm giấy: Nghê Sương Phong.

          Người láng giềng làm chứng: Trương Quốc Trọng, Vương Vũ thu.

          Giấy tờ làm xong, Bão Văn Khanh đưa ra hai mươi lạng bạc cho cụ Nghê và cảm tạ mọi người. Từ đấy hai gia đình luôn luôn đến chơi với nhau.

          Nghê Đình Tỷ đổi tên là Bão Đình Tỷ là một người rất thông minh lanh lợi. Thấy y dòng dõi con nhà, Bão Văn Khanh không cho y học hát ngay. Bão Văn Khanh cho y đi học hai năm trước khi giúp mình coi ban hát. Năm Đình Tỷ lên mười tám tuổi, cụ Nghê mất. Bão Văn Khanh lấy mấy mươi lạng bạc trao cho Đình Tỷ đem về lo việc chôn cất. Còn mình thì thân hành đến khóc mấy lần trước quan tài, lại cho Đình Tỷ đội mũ gai mặc áo tang đi theo quan tài cho đến mộ(#2). Từ đó về sau, Đình Tỷ tỏ ra rất được việc. Người mẹ nuôi vẫn coi y là con của người khác cho nên không yêu bằng con gái, con rể của mình. Trái lại, Bão Văn Khanh cho y là dòng dõi con nhà, cho nên còn yêu hơn con đẻ của mình nữa. Ngày nào đi đến quán trà, quán rượu, Bão cũng mang Đình Tỷ đi theo, khi nào đi kiếm ăn ở ngoài cũng mang y đi, y kiếm tiền thêm mua áo mũ, giày dép. Bão còn nghĩ cưới vợ cho con nuôi nữa. Sáng hôm ấy Bão mang Đình Tỷ ra ngoài. Đến cổng thì gặp một người cưỡi lừa đi lại. Người kia đến cổng xuống lừa bước vào. Bão Văn Khanh nhận ra là người quản gia họ Thiệu của cụ Đỗ ở huyện Thiên Trường(#3) bèn nói:

          - Này ông Thiệu! Ông qua sông đến đây lúc nào đấy? Quản gia Thiệu quay lại nói:

          - Tôi vừa sang sông để tìm ông đây!

          Bão Văn Khanh vái chào, bảo con ra chào và mời ngồi. Bão sai đem nước ra cho người quản gia rửa mặt và pha trà uống. Uống xong, Bão hỏi:

          - Tôi nhớ bà cụ năm nay bảy mươi. Có phải ông đến đây bảo chúng tôi diễn tuồng không? Ông chủ ở phủ vẫn mạnh khỏe chứ?

          - Tôi đến đây chính là việc ấy. Ông chủ tôi có bảo tôi định diễn hai mươi vở. Ông Bão, ông có một ban hát riêng không? Nếu có thì mời ban ông đi giúp cho.

          - Ở nhà tôi hiện nay có một ban nhỏ. Cố nhiên là chúng tôi sẽ cố giúp sức nhưng không biết lúc nào thì cần đến chúng tôi.

          - Cuối tháng này.

          Nói xong quản gia Thiệu bảo người giữ lừa đem hành lý vào và cho dắt lừa về. Y lấy ở hành lý ra một gói bạc đưa cho Bão và nói:

          - Ông tạm cầm lấy năm mươi lạng bạc. Còn bao nhiêu nữa khi ban hát đến, tôi sẽ đưa.

          Bão Văn Khanh nhận bạc. Chiều hôm ấy Bão dọn một tiệc rượu thật to. Bão giữ quản gia ở lại ăn uống đến nửa đêm. Hôm sau, quản gia Thiệu ra phố sắm đồ, sau khi mua sắm bốn năm ngày, y thuê thuyền qua sông về nhà. Bão Văn Khanh cũng thu xếp hành lý mang theo Đình Tỵ và ban hát đến phủ Thiên Trường. Diễn được bốn mươi ngày thì trở về, được tất cả một trăm mấy mươi lạng bạc. Hai cha con trên đường về cứ cảm ơn nhân đức gia đình cụ Đỗ. Bà cụ lại cho thêm mười mấy người trong ban hát mỗi người một cái áo bông và một đôi giày. Khi cha mẹ họ biết thế, họ đều cảm tạ ân đức và cảm ơn Bão Văn Khanh. Sau đó, Bão Văn Khanh lại đem ban hát về Nam Kinh để diễn.

          Hôm ấy, họ đến diễn đêm ở Thượng Hà. Diễn đến canh năm mới tan. Ban tuồng mang rương hòm về thành trước. Hai cha con họ Bão đến một cái nhà tắm, tắm rửa sạch sẽ rồi vào một tiệm trà, uống trà ăn điểm tâm. Sau đó, hai người mới thủng thỉnh trở về. Đến cổng nhà, Bão Văn Khanh nói:

          - Chúng ta không cần về nhà làm gì, ở Nội Kiều có nhà mời chúng ta ngày mai đến diễn, chúng ta hãy đến đấy lấy tiền đã.

          Bão Đình Tỷ theo cha đi đến đầu phố thì thấy một cái tàn vàng có bốn người lính đội mũ đen viền đỏ, một cái lọng và một cái kiệu đi đến phía họ.

          Biết rằng đây là một ông quan to ở phủ khác đi qua, hai cha con đứng dưới mái nhà nhìn ra xem. Tàn và mấy người lính đi qua, trước mặt có chữ đề: “Tri phủ An Khánh”. Bão đang nhìn, thì cái kiệu đi tới. Ông quan trên kiệu nhìn thấy Bão Văn Khanh thì giật mình. Bão Văn Khanh quay lại nhìn thấy vị quan kia chính là tri huyện Hướng ở An Đông nay đã thăng lên tri phủ. Kiệu vừa đi qua, vị quan quay lại bảo người sai nhân mặc áo xanh đi sau mấy câu.

          Người này chạy đến trước mặt Bão Văn Khanh nói: - Cụ lớn hỏi ông có phải là ông Bão không?

          Bão Văn Khanh đáp: - Chính tôi. Có phải cụ lớn là tri huyện An Đông nay mới được thăng quan không?

          - Đúng đấy. Hiện nay cụ lớn ở nhà ông Trương bên bờ sông, cạnh trường thi. Cụ lớn mời ông đến đấy để gặp mặt.

          Nói xong, người kia chạy như bay về kiệu. Cha con Bão Văn Khanh đến một hiệu bán hương sáp gần trường thi mua một cái danh thiếp đề mấy chữ “Môn hạ là Bão Văn Khanh”. Khi đến nhà họ Trương ở bên bờ sông thì Bão biết rằng Hướng tri phủ đã về nơi trọ. Bão liền đưa danh thiếp cho người giữ cửa và nói:

          - Nhờ ông thưa lại tôi là Bão Văn Khanh đến hầu thăm cụ lớn.

          Người giữ cổng cầm thiếp đi vào nói: - Ông hãy đợi một lát.

          Hai cha con Bão Văn Khanh ngồi trên chiếc ghế dài, đợi một lát. Trong nhà có tiếng người đầy tớ nói ra:

          - Này, anh giữ cổng! Cụ lớn hỏi ông Bão Văn Khanh đã đến đây chưa?

          Người giữ cổng nói:

          - Đến rồi. Danh thiếp của ông ta ở đây.

          Y vội vàng đưa danh thiếp vào.Ở trong có người nói:

          - Mau mau mời ông ta vào.

          Bão bảo con đứng đợi ở ngoài, còn mình đi vào với người giữ cổng. Bão đến cái phòng bên bờ sông, Hướng tri phủ đội mũ sa, mặc áo thường ra tiếp, vừa cười, vừa nói:

          - Ông bạn già của tôi đến đây rồi à?

          Bão Văn Khanh quỳ dưới đất hỏi thăm sức khỏe. Hướng tri phủ hai tay đỡ dậy và nói:

          - Nếu ông bạn già còn câu nệ về lễ đối với tôi như thế thì chúng ta khó nói chuyện với nhau lắm.

          Hướng tri phủ hai ba lần đỡ dậy mời ngồi. Bão Văn Khanh vẫn quỳ dưới đất. Mãi sau, Bão mới ngồi trên một cái ghế thấp và nhỏ. Hướng tri phủ cũng ngồi và nói:

          - Ông Văn Khanh, từ khi tôi xa ông đến nay, không ngờ đã hơn mười năm rồi. Nay tôi đã già, ông râu cũng đã bạc đi nhiều.

          Bão Văn Khanh đứng dậy nói:

          - Cụ lớn thăng quan, con không biết mà đến chào!

          - Ông cứ ngồi xuống rồi tôi nói cho mà nghe. Tôi ở An Đông được hai năm thì đổi đến làm tri châu ở Tứ Xuyên rồi làm phó tri phủ, năm nay mới được bổ đến đây. Từ khi cụ Thôi mất, ông trở về nhà, mấy lâu nay ông làm gì?

          - Con vốn làm nghề hát tuồng, về nhà không có việc gì con lại quay trở về nghề cũ, con có dạy một ban hát nhỏ để sinh sống qua ngày.

          - Người trẻ tuổi cùng đi với ông là ai?

          - Đó là đứa con trai của con. Con để nó ở ngoài cổng công quán không dám đưa vào.

          - Tại sao lại không đưa vào? Mau mau ra mời con ông Bão vào đây!

          Hướng tri phủ liền bảo một đứa tiểu đồng ra mời Bão Đình Tỷ vào. Bão Văn Khanh bảo Đình Tỷ lạy chào. Hướng tri phủ thân hành đỡ dậy, hỏi:

          - Năm nay con bao nhiêu tuổi.

          Đình Tỷ đáp:

          - Cháu năm nay mười bảy.

          Hướng tri phủ nói:

          - Mặt mày khôi ngô trông như con nhà dòng dõi.

          Và bảo Đình Tỷ ngồi bên cạnh cha.

          Hướng tri phủ nói:

          - Ông Văn Khanh ông có dạy con ông hát tuồng để kiếm ăn không?

          - Con chưa dạy cho cháu hát tuồng, cháu đã đi học được hai năm nay. Nay cháu đi theo ban hát để biên sổ.

          - Như thế cũng tốt! Hiện nay tôi còn phải đến thăm các quan trên. Ông đừng đi đâu, hãy ở đây ăn cơm đã. Khi nào tôi về, tôi sẽ nói chuyện với ông.

          Nói xong Hướng tri phủ thay quần áo lên kiệu đi. Hai cha con Bão Văn Khanh vào phòng những người quản gia để thăm quản gia họ Vương mà Bão Văn Khanh đã quen từ trước. Hai người chào nhau. Bão Văn Khanh bảo con chào người quản gia. Người con của Vương là Tiểu Vương năm nay đã hơn ba mươi tuổi và đã có râu đầy cả mép. Vương rất mừng rỡ, rất yêu Bão Đình Tỷ, cho Bão Đình Tỷ một cái ví lớn đựng tiền bằng đoạn đỏ có thêu kim tuyến, ở trong có một lạng bạc. Đình Tỷ cảm ơn và mấy người ngồi nói chuyện rồi ăn cơm.

          Đến chiều Hướng tri phủ mới trở về. Hướng thay quần áo, lại vào ngồi trong cái phòng bên bờ sông và bảo hai cha con Bão Văn Khanh vào nói chuyện. Hướng tri phủ nói:

          - Ngày mai tôi phải trở về nha môn không thể ở đây nói chuyện nhiều với ông được nữa.

          Hướng bảo một người đầy tớ mang ra một gói bạc đưa cho Bão Văn Khanh và nói:

          - Ông cầm lấy hai mươi lạng bạc này! Sau khi tôi đi, ông cũng nên thu xếp việc nhà giao ban hát lại cho người khác trông nom, rồi trong vòng nửa tháng thế nào hai cha con ông cũng đến nha môn tôi, tôi sẽ có câu chuyện này nói với ông.

          Bão Văn Khanh nhận số tiền thưởng cảm tạ nói:

          - Trong vòng nửa tháng con sẽ đưa cháu lên thăm cụ.

          Hướng tri phủ giữ Bão ở lại uống rượu. Sau đó hai người về nhà nghỉ. Sáng hôm sau Bão Văn Khanh đến công quán tiễn tri phủ lên đường về nhà. Bão bàn với vợ tạm giao ban hát lại cho người con rể là Quy cùng với một thầy tuồng là Kim Thứ Phúc trông coi. Còn Bão thì thu xếp hành lý mua một ít đồ vặt ở Nam Kinh, như xà phòng, dây tết đầu, để làm quà tặng những người quản gia ở nha môn. Mấy hôm sau, hai người xuống thuyền ở cửa Thủy Tây, đi đến Trì Khẩu. Đến đó, có hai người khách cùng lên thuyền, vào trong khoang. Trong khi nói chuyện Bão Văn Khanh nói mình đến nha môn Hướng tri phủ. Hai người kia làm thư biện ở phủ An Khánh. Họ đối đãi với cha con Bão rất lịch sự, mua rượu thịt mời hai cha con Bão ăn. Đến đêm chờ tất cả mọi người trong thuyền đều ngủ cả, hai người ghé tai Bão Văn Khanh mà bảo thầm:

          - Có một việc chỉ mong cụ lớn phê cho một chữ “chuẩn” là có thể đưa ông hai trăm lạng bạc. Lại có một việc sắp đưa lên chỉ mong cụ lớn bác đi là có thể đưa ông ba trăm lạng! Ông Bão! Ông làm ơn nói với cụ lớn cho tôi một lời.

          Bão Văn Khanh nói:

          - Không giấu gì hai ông, tôi chỉ là một kẻ hát tuồng, con nhà ti tiện, nay được cụ lớn hạ cố gọi đến nha môn. Tôi là hạng người nào mà dám mở miệng ra nói với cụ lớn những việc ấy?

          Hai người thư biện kia nói: - Ông Bão! Ông tưởng chúng tôi lừa ông sao? Miễn ông bằng lòng nói điều đó giúp cho thì lúc lên bờ tôi sẽ đưa ngay cho ông năm trăm lạng bạc.

          Bão Văn Khanh cười mà rằng:

          - Nếu tôi là người ham tiền thì trước đây ở An Đông, khi quan huyện thưởng cho tôi năm trăm lạng bạc, tôi đã nhận rồi. Nhưng tôi không nhận. Tôi biết số tôi vốn nghèo, phải đổ mồ hôi nước mắt mới có cơm ăn. Nay tôi lại lừa dối cụ lớn để lấy thứ tiền ấy như thế để làm gì? Vả chăng nếu họ có lý thì nhất định không đời nào họ lại chịu xuất mấy trăm lạng để đưa cho người khác. Nếu quan lớn nghe lời tôi thế là người khác sẽ bị oan và sau này tôi sẽ mất âm đức. Theo ý tôi, không những tôi không dám lo việc ấy mà hai ông cũng không nên để ý đến nó nữa. Từ xưa đã có câu: “Chốn cửa quan phải lo tu nhân tích đức”. Nay các ông làm việc với quan phủ thì các ông cũng không nên làm mất danh tiếng của quan phủ và phải lo gìn giữ tính mệnh gia đình của mình.

          Mấy câu ấy làm cho hai gã thư biện kia lạnh cả xương sống, nói lảng sang chuyện khác. Sáng hôm sau, hai cha con Bão Văn Khanh đến An Khánh đưa danh thiếp cho người giữ cổng. Hướng tri phủ bảo đưa hành lý hai cha con vào thư phòng để họ ở đấy. Ngày ngày cha con Bão Văn Khanh cùng ăn cơm một mâm với bà con Hướng tri phủ, Hướng tri phủ lại cho hai cha con Bão vải và lụa để may quần áo mặc lút đầu lút cổ.

          Một hôm, Hướng tri phủ vào thư phòng nói:

          - Ông Bão, tôi có việc này nói với ông. Người con của ông đã có dạm hỏi nơi nào chưa?

          - Nhà con nghèo cho nên đến nay vẫn chưa lo việc đó được.

          - Tôi có một chuyện muốn nói với ông chỉ sợ ông giận, nhưng nếu ông ưng thuận thì tôi rất vui lòng.

          - Cụ có điều gì dặn bảo, con dám đâu không tuân theo.

          - Ông Vương, quản gia của tôi có một cô con gái rất là khéo léo, bà nhà tôi rất yêu quý, thường đưa cô ta vào phòng chải đầu bó chân. Cô ta năm nay mười bảy cũng bằng tuổi với con ông. Gia đình họ Vương ở với gia đình tôi ba đời. Tôi đã trả lại giấy mua ông Vương làm đầy tớ và nay không xem ông ta là người quản gia nữa. Tôi đã mua cho người con của ông ta là Tiểu Vương một chức thư biện. Sau năm năm nữa anh ta sẽ làm điển lại. Nếu ông không lấy thế làm ti tiện, đứa con trai của ông có thể lấy con gái ông Vương. Sau này anh ta sẽ có một người anh vợ làm quan. Không biết ông có bằng lòng không?

          - Cụ thật là thương đến chúng con, con không biết lấy gì mà tạ ơn. Nhưng đứa con của con còn dại dột. Không biết ông Vương có chịu nhận nó làm rể không?

          - Tôi đã nói việc ấy với ông ta, ông ta rất yêu quý cậu con ông. Việc này ông không mất gì hết. Ngày mai, ông viết một cái danh thiếp đưa đến ông Vương. Còn tất cả mọi thứ: giường, màn, quần áo, đồ trang sức, ăn uống v.v.

          .. tôi sẽ lo liệu hết, để cho đôi lứa thành vợ thành chồng. Tôi chỉ muốn ông có con dâu mà thôi.

          Bão Văn Khanh quỳ xuống cảm tạ Hướng tri phủ. Hướng tri phủ đỡ dậy mà nói:

          - Có gì đâu! Sau này tôi còn phải tìm cách đền ơn ông xứng đáng hơn.

          Hôm sau, Bão Văn Khanh đưa danh thiếp đến nhà Vương. Vương lại thăm Bão Văn Khanh. Đến tối, vào lúc canh ba, đột nhiên có người do quan tuần vũ sai đến, trong đó có một quan võ, một quan phó tri phủ. Họ đi thẳng đến nha môn mời Hướng tri phủ ra. Tất cả mọi người đều hoảng hốt nói:

          - Có việc gì không hay rồi! Chắc họ đến đây để lấy ấn quan phủ.

          Chỉ nhân phen này, khiến cho:

          Vinh hoa phú quý hưởng thụ chẳng được bao lâu;

          lận đận lôi thôi, rắc rối lại thêm nhiều ít.

          Muốn biết sự việc như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

          Chú thích:

          (1-) Bão Văn Khanh dè dặt vì Bão thuộc tầng lớp “thấp hèn” trong xã hội (nghề hát tuồng) không dám nhận con một nhà nho làm con nuôi.

          (2-) Theo phong tục cũ, làm như vậy tức là Đình Tỷ vẫn là con của Nghê Sương Phong.

          (3-) Tức là cha nuôi của Đỗ Thiếu Khanh (xem hồi 31).
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #20
            Hướng thủ đạo khóc bạn khi thăng chức;
            Bão Đình Tỷ lấy vợ lúc tang cha. Hướng tri phủ thấy có quan đến lấy ấn vội vàng gọi những người thơ lại lo việc hộ và việc hình đến. Hướng đến nói:

            - Các anh phải xem lại tất cả giấy tờ ở trong phòng của mình cho thật kĩ càng, chớ để bỏ sót điều gì!

            Nói xong, Hướng sai mở cửa và chạy ra chào phó tri phủ. Phó tri phủ đưa một tờ giấy, ghé vào tai nói nhỏ mấy câu rồi lên kiệu đi thẳng còn sai nha thì vẫn đứng đợi ở ngoài. Khi Hướng tri phủ bước vào nhà, bà con và Bão Văn Khanh đều đón hỏi xem có việc gì. Tri phủ nói:

            - Chẳng có điều gì hết! Tri phủ Ninh Quốc làm việc hỏng bét, ta được uỷ nhiệm đến đấy lấy ấn của ông ta.

            Ngay lúc đó, người nhà sắp sửa ngựa. Tri phủ đi đến ngay phủ Ninh Quốc trong đêm ấy.

            Ở phủ cho người mua đồ trang sức, may quần áo mới. Chuẩn bị mùng màn, chăn mền, dọn dẹp nhà cửa để lo đám cưới cho con gái Vương quản gia. Việc này bận rộn mất mấy ngày cho đến khi Hướng tri phủ trở về, chọn ngày mười ba tháng mười là ngày lành.

            Hôm đó, ngoài sân đánh trống. Hai người chủ lễ đưa cô dâu vào phòng. Bão Đình Tỷ giắt một cái hoa trên mũ, mặc áo đoạn, mang giày đen đế trắng. Sau khi lạy chào cha, đàn sáo rước Đình Tỷ đến chào cha mẹ vợ. Anh vợ là Vương mặc lễ phục ra tiếp em rể. Uống xong ba tuần trà, người ta đưa Đình Tỷ vào phòng cô dâu cùng làm lễ hợp cẩn. Việc đó không cần phải nói nhiều.

            Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng mới ra chào tri phủ và phu nhân. Phu nhân thưởng cho họ tám đồ trang sức trên đầu và hai bộ áo quần mới. Tiệc rượu mừng kéo dài ba ngày. Tất cả mọi người trong nha môn đều ăn uống khắp lượt.

            Sau đấy một tháng, Vương lên kinh làm quan. Bão Văn Khanh dọn một bữa tiệc tiễn hành. Sau đó, Bão Đình Tỷ thân hành tiễn đến tận thuyền, cùng ngồi thuyền một ngày mới trở về. Từ đấy Đình Tỷ sống trong nha môn một cuộc đời sung sướng.

            Năm mới qua, công việc lại tiếp tục. Thí sinh các huyện lại đến thi ở phủ. Hướng tri phủ nói với cha con Bão Văn Khanh:

            - Tôi phải đi chấm thi, nhưng nếu tôi lấy đầy tớ để kiểm soát thì nhất định là chúng làm gian. Hai cha con ông là người tâm phúc của tôi, có thể giúp tôi trông nom mấy ngày không?

            Vâng lời tri phủ, cha con Bão Văn Khanh đến trường thi xét tất cả các phòng thi. Ở An Khánh có tất cả ba trường thi. Trong các thí sinh có kẻ tìm người viết thay mình chuyền bài cho nhau, hoặc ném giấy cho nhau, giao bài, ném gạch, ra hiệu bằng mắt, ra dấu hiệu cho nhau, làm đủ mọi cách. Khi đến giờ ăn cháo, Bão Đình Tỷ rất bực mình thấy họ xô lại thành đống, chen ngã nhau. Một thí sinh mượn cớ đi ỉa, đến trước cái tường đất dùi một lỗ hổng, thò tay vào lấy bài của một người khác ở ngoài. Y bị Đình Tỷ bắt quả tang, định đưa ngay lên tri phủ nhưng Bão Văn Khanh cản lại nói:

            - Con tôi là một đứa con nít không biết gì, chứ ông là một người đọc kinh đọc sử. Thôi ông đi về chỗ làm bài nếu quan phủ biết việc này, thấy ông ở đây thì thật là bất tiện.

            Bão Văn Khanh vội lấy đất trít lỗ hổng và dẫn thí sinh kia về chỗ.

            Thi xong, treo bảng Quý Hoàn người huyện Hoài Linh đỗ đầu. Người cha của Quý cũng đỗ Tiến sĩ võ cùng một năm với Hướng tri phủ thị văn, hiện nay đang ở nhà chờ bổ đi làm thủ bị. Vài hôm sau, Quý thủ bị đến thăm Hướng tri phủ để cảm ơn. Hướng tri phủ mời ở lại, thết tiệc ở thư phòng, gọi Bão Văn Khanh cùng ra ngồi tiếp.

            Quý thủ bị ngồi ghế đầu, Hướng tri phủ ngồi ghế chủ, Bão Văn Khanh ngồi bên cạnh. Quý thủ bị nói:

            - Cụ chấm thi lần này thật là công minh, tất cả phủ không ai không phục.

            Hướng tri phủ nói:

            - Đã lâu tôi không chấm thi. Tính tôi vốn lơ đễnh, nhưng nhờ có ông bạn của tôi là ông Bão Văn Khanh kiểm soát ở trường thi cho nên lần này không có ai gian dối.

            Bấy giờ Quý thủ bị mới biết tên Bão Văn Khanh, dần dần nghe đến chuyện Bão Văn Khanh là một người hát tuồng nét mặt của Quý thủ bị lộ vẻ kì quái. Hướng tri phủ nói

            - Bây giờ bọn nhân văn có thể nói mỗi ngày một kém. Nếu ta bảo những người đỗ tiến sĩ, làm hàn lâm phải học kinh, truyền đạo thánh hiền, thì họ sẽ cho là viển vông vô ích. Nếu ta bảo họ lo học cho thông kim bác cổ thì họ sẽ bảo ta là một người không đi sâu vào cái gì cả. Còn đến việc trung với vua, tín với bạn bè thì họ không hề để ý đến! Thật họ kém xa ông bạn Bão của tôi đây! Tuy ông ta làm một cái nghề thấp hèn, nhưng việc làm của ông ta chẳng kém gì một người quân tử(#1).

            Nhân tiện, Hướng tri phủ kể lại một vài việc tốt đẹp của Bão. Quý thủ bị nghe vậy rất lấy làm kính phục. Sau bữa tiệc Quý cáo từ ra về.

            Ba bốn ngày sau Quý thủ bị mời Bão Văn Khanh đến nhà ăn cơm uống rượu. Người con là Quý Hoàn vừa mới thi đỗ đầu cũng ra tiếp. Thấy y là một người thiếu niên dung mạo xinh đẹp, Bão Văn Khanh hỏi:

            - Xin ông cho biết hiệu ông là gì?

            Quý thủ bị nói:

            - Hiệu cháu là Vi Tiêu.

            Cơm rượu xong, Bão Văn Khanh trở về. Khi về nha môn, Bão Văn Khanh khen ngợi tướng mạo của Quý Vi Tiêu trước mặt tri phủ và đoán trước Quý Vi Tiêu sau này sẽ rất khá.

            Vài tháng sau, người vợ họ Vương của Bão Đình Tỷ chết trong lúc sinh nở. Bão Văn Khanh và con trai khóc lóc thảm thiết. Hướng tri phủ an ủi hai người:

            - Thôi đừng khóc lóc, thương xót làm gì! Đó chẳng qua là số mệnh của cô ta. Anh còn trẻ, tôi sẽ kiếm cho anh một người vợ khác. Nếu anh cứ khóc mãi, chỉ làm cho phu nhân thêm đau buồn thôi.

            Bão Văn Khanh cũng bảo con thôi không khóc nữa. Nhưng bản thân Văn khanh mắc phải chứng đờm ho suốt đêm thành ra không ngủ được. Bão muốn xin từ biệt Hướng tri phủ để trở về nhà, nhưng không dám nói ra. May sao Hướng tri phủ lại được thăng làm thủ đạo ở đạo Đinh Chương tỉnh Phúc Kiến. Bão Văn Khanh nói với Hướng tri phủ:

            - Chúng tôi chúc mừng cụ thăng quan. Đáng lý, chúng tôi phải theo cụ đến nơi mới bổ nhiệm. Nhưng tôi mỗi ngày một già, lại mắc bệnh, xin để cháu ở lại đây để hầu hạ cụ, còn tôi xin từ biệt trở về Nam Kinh.

            Hướng tri phủ nói:

            - Ông bạn già ơi! Bây giờ đường đi Phúc Kiến xa xôi và khó khăn. Ông lại già, tôi cũng không nỡ mang ông đi, người con của ông thì để nó theo ông hầu hạ chứ tôi mang đi làm gì? Bây giờ tôi phải lên kinh bệ kiến. Vậy tôi hãy đưa ông về Nam Kinh trước, còn tôi sẽ liệu cách.

            Hôm sau tri phủ gói một ngàn lạng bạc và sai đầy tớ mang đến thư phòng. Hướng tri phủ nói:

            - Ông Văn Khanh! Ông đã sống với tôi hơn một năm nay, không bao giờ ông xin tôi một ân huệ gì, dù nhỏ nhặt đến đâu. Tôi rất buồn vì đứa con dâu tôi tìm cho ông nay đã chết. Tôi muốn ông cầm lấy một ngàn lạng bạc này để mua sản nghiệp và kiếm một người vợ khác cho cháu, như thế ông có thể an hưởng tuổi già. Nếu sau này làm quan, lại có dịp đến Nam Kinh thì tôi sẽ lại thăm ông.

            Nhưng Bão Văn Khanh không nhận số bạc.

            Hướng tri phủ nói:

            - Bây giờ không phải như ngày trước nữa. Nay tôi làm chủ một đạo, tôi có thể để dành ông ngàn lạng bạc một cách dễ dàng. Nếu không nhận thì ông cho tôi là người như thế nào?

            Bão Văn Khanh không dám từ chối, cúi đầu cảm tạ. Hướng tri phủ dặn dò, gọi cho Bão một chiếc thuyền lớn, dọn một bữa tiệc tiễn hành và thân hành tiễn ra cửa. Bão Văn Khanh và con cùng quỳ dưới đất ứa nước mắt mà từ biệt. Hướng tri phủ gạt lệ chia tay.

            Hai cha con Bão Văn Khanh mang tiền trở về Nam Kinh. Về nhà, Văn Khanh nói với vợ về ân đức của Hướng tri phủ, cả nhà đều cảm kích. Mặc dầu bệnh hoạn, Bão Văn Khanh cũng đi tìm người đem tiền đi mua một cái nhà, hai bộ đồ tuồng để cho hai ban tuồng thuê. Còn thừa bao nhiêu tiền thì dùng vào việc nhà.

            Vài tháng sau, bệnh của Bão Văn Khanh càng ngày càng nặng, phải nằm liệt giường. Biết mình sắp chết, Bão gọi vợ con, con gái, con rể đến bên giường và nói:

            - Ta muốn cả nhà sống hòa thuận sung sướng. Không nên đợi hết tang mới cưới vợ cho Đình Tỷ. Việc này cần phải làm nhanh.

            Nói xong Văn Khanh nhắm mắt qua đời. Cả nhà khóc lóc, lo việc tống táng. Quan tài để ở giữa phòng mấy ngày. Người hát tuồng ở các nơi cũng đến điếu.

            Bão Đình Tỷ nhờ thầy địa lý tìm đất và chọn ngày tốt để chôn nhưng chưa có người đề minh tinh(#2)dằng chợt thấy một người mặc đồ đen chạy vào hỏi:

            - Đây có phải nhà ông cụ Bão không?

            Đình Tỷ nói:

            - Vâng, ông đến đây có việc gì?

            - Cụ Hướng làm thủ đạo ở Đinh Chương tỉnh Phúc Kiến đã đến. Hiện nay kiệu của cụ đang ở ngoài cửa.

            Đình Tỷ vội vàng cởi đồ tang, mặc một cái áo xanh chạy ra ngoài cửa quỳ xuống tiếp. Hướng thủ đạo xuống kiệu, thấy ở ngoài cửa bọc vải trắng liền hỏi:

            - Ông cụ anh mất rồi à?

            Bão Đình Tỷ khóc và nói:

            - Cha con mất rồi.

            - Mất bao giờ?

            - Đến mai thì được hai mươi bảy ngày.

            - Tôi bệ kiến xong trở về đi ngang qua đây muốn vào thăm ông cụ anh, không ngờ cụ anh nay đã thành người thiên cổ. Anh hãy đưa tôi đến trước quan tài.

            Bão Đình Tỷ quỳ khóc chối từ. Hướng tri phủ không chịu đi thẳng đến trước linh cữu nói:

            - Ông bạn già Văn Khanh ơi!

            Hướng khóc rống một hồi cầm một bó hương vái bốn vái. Mẹ của Bão Đình Tỷ cũng ra lạy tạ. Hướng thủ đạo ra nhà khách hỏi:

            - Ông cụ anh bao giờ thì hạ huyệt?

            - Định vào mồng tám tháng sau.

            - Ai viết minh tinh?

            - Con đã hỏi nhiều người nhưng người ta từ chối, nói viết minh tinh khó lắm.

            - Có gì mà khó! Đem bút giấy ra đây.

            Đình Tỷ liền đem giấy bút tới. Hướng thủ đạo cầm bút viết:

            “Linh cữu của ”Người dân Triều Minh" là Bão Văn Khanh năm nay hưởng thọ 59 tuổi. Người viết là người bạn cũ Hướng Đinh đỗ tiến sĩ, quan tứ phẩm làm thủ đạo ở đạo Đinh Chương tỉnh Phúc Kiến“.

            Viết xong, Hướng đưa cho Đình Tỷ nói:

            - Anh đem cái này cho hiệu làm đồ tang để họ làm cho.

            Rồi lại nói:

            - Sáng mai tôi phải xuống thuyền. Tôi có ít tiền giúp vào việc tang, chiều nay tôi sẽ cho đưa lại.

            Nói xong, Hướng uống một chén trà rồi lên kiệu đi. Bão Đình Tỷ chạy theo đến thuyền vái chào rồi trở về. Buổi chiều, Hướng thủ đạo sai một người quản gia mang một trăm lạng bạc đến cho gia đình Bão. Người quản gia không kịp uống trà, vội vàng chạy ra thuyền.

            Đến ngày mồng tám tháng sau, minh tinh đã làm xong. Kèn cáo, hòa thượng, đạo sĩ và những người hát đám ma tiễn Bão Văn Khanh đến mộ ở ngoài Cửa Nam.

            Tất cả những người hát tuồng đều đi đưa đám. Ở một quán rượu ngoài Cửa Nam có bày mấy mươi bàn chay.

            Những người đưa đám đều vào đấy ăn. Công việc chôn cất như thế là xong.

            Nửa năm sau, một hôm Kim Thứ Phúc đến thăm và muốn nói chuyện với bà Bão. Bão Đình Tỷ mời vào nhà khách ngồi và vào nói với mẹ. Bà Bão ra nói:

            - Đã lâu lắm không gặp ông! Hôm nay cơn gió nào thổi ông đến đây thế?

            - Thật vậy, đã lâu tôi không gặp bà! Xem thì ra bà gặp may. Có phải bà đã cho một ban tuồng khác thuê áo quần rồi không?

            - Phải, vì ban trước chỉ diễn trong thành phố và không kiếm được bao lăm. Vì vậy nên tôi đã đem đồ tuồng cho ban Văn Nguyên thuê. Trong ban này, một nửa là học trò của nhà tôi. Họ đi khắp Vu Thai, Thiên Trường, ở đấy có nhiều người giàu, nhiều thân sĩ, cho nên họ kiếm ra tiền.

            - Thế này thì nay bà lại có dịp phát tài nữa đấy!

            Sau khi uống một chén trà Kim Thứ Phúc nói:

            - Hôm nay tôi đến đây để mách mối một đám cho ông Đình Tỷ. Nếu đám này thành bà lại còn phát tài hơn nhiều kia!

            - Cô ấy con cái nhà ai thế?

            - Con gái họ Hồ ở Nội Kiều. Ông cha làm việc ở nha môn quan Bố chính. Lúc đầu cô ta lấy ông Vương Ba Béo chủ hiệu cầm đồ An Phong. Nhưng không đầy một năm thì ông kia chết. Cô ta hiện nay mới hai mươi mốt tuổi và rất đẹp, thực là đẹp hơn tranh vẽ. Nhưng vì cô ta còn trẻ, lại không có con cho nên gia đình muốn gả cô ta. Ông Vương chết đi để lại cho cô ta một nhà đầy đồ đạc giá hơn một ngàn lạng, một cái giường lớn, một cái giường nằm mùa hạ, bốn cái tủ và bốn cái rương - tủ và rương đều đầy cả quần áo, đút tay không lọt và nhất là cô ta có ba cái xuyến vàng, hai cái mũ xích kim và vô số châu báu đếm không xuể. Cô ta lại có hai người đầy tớ gái. Một người tên là Hà Hoa, một người tên là Thái Liên, đều đến tuổi gả chồng. Nếu cô ta lấy ông Đình Tỷ thì thực là hợp tuổi, xứng đôi vừa lứa.

            Y nói một hơi làm bà Bão rất mừng rỡ. Bà Bão nói:

            - Ông Kim! Cảm ơn ông có lòng tốt. Tôi sẽ nói với con rể tôi để nó hỏi cháu xem. Nếu thực như thế thì nhờ ông làm mối cho.

            - Cái đó chẳng cần hỏi han gì hết. Nhưng thôi, đi hỏi cũng được. Tôi sẽ đợi tin sau.

            Nói xong Kim Thứ Phúc ra về. Bão Đình Tỷ tiễn chân Kim ra cửa.

            Đến chiều, người con rể bà Bão là Quy về, bà Bão nói với con rể tất cả những việc vừa nghe và nhờ Quy hỏi xem.

            Quy xin bà mấy mươi đồng tiền để sáng mai ra tiệm trà.

            Sáng hôm sau Quy đến nhà một người chuyên làm mối là Thẩm Thiên Phù. Vợ Thẩm Thiên Phù là bà Thẩm chân to, một bà mối nhà nghề. Quy kéo Thẩm Thiên Phù đến một tiệm trà để uống trà và đem việc ấy hỏi lại. Thẩm Thiên Phù nói:

            - Thế nào? Anh hỏi về chuyện con mụ yêu tinh ấy chăng? Câu chuyện của nó dài lắm. Anh đi mua vài cái bánh nướng đem lại đây. Tôi ăn rồi kể cho mà nghe.

            Quy chạy sang nhà bên cạnh mua tám cái bánh nướng đem đến tiệm trà rồi cùng ăn với Thẩm. Quy hỏi:

            - Câu chuyện như thế nào?

            - Hãy thủng thẳng! Để tôi ăn xong đã.

            Sau khi ăn xong mấy cái bánh nướng Thẩm hỏi:

            - Anh lại hỏi tôi về cô ấy làm gì? Có phải nhà ông muốn hỏi cô ta không? Cô ấy thì xin phép không lấy được đâu. Rước cái ấy là chuốc nợ vào người đấy!

            - Thế là như thế nào?

            - Cô ta là con lão Hồ bẹt đầu, làm việc với quan Bố chính. Người cha chết, cô ta sống với người anh - anh chàng này chẳng ra gì, cả ngày chỉ lo đánh bạc và uống rượu, rồi đem bán chức của mình ở trong ty Bố chính để lấy tiền. Vì cô ta có ít nhan sắc cho nên năm cô mười tám, người anh bán cho ông Lại ở Cửa Bắc để làm thiếp. Nhưng cô ta không chịu yên thân làm thiếp. Ai gọi cô ta bằng “cô” thì cô ta mắng và bắt phải gọi bằng “bà”. Người vợ cả biết vậy tát cho một trận và đuổi đi. Sau đó, cô ta lấy ông Vương Ba Béo. Ông này đang chờ đợi được bổ đi tri châu. Lần này thì cô ta làm “bà”. Nhưng “bà” này ăn ở quá đáng. Thường đánh mắng người con cả và người dâu cả ông Vương mỗi ngày ba, bốn lần và đánh đập bọn đầy tớ a hoàn suốt ngày. Mọi người đều ghét cô ta như ghét tà. Không ngờ không đầy một năm, ông Vương chết. Người con trai nghi rằng cô ta đã lấy hết cả của cải của ông Vương, cho nên hôm ấy vào phòng để khám. Gia nhân a hoàn cũng vào tìm giúp, để cho hả giận. Nhưng cô ta tinh ranh nên đã bỏ tất cả một tráp kim ngân, châu báu vào cái thùng cứt. Họ tìm khắp nơi trong phòng cũng không ra, lại khám khắp người “bà” cũng không thấy tiền bạc đâu cả. Cô ta mới la lối tru tréo lên đem đơn lên huyện Thượng Nguyên kiện người con cả. Khi xét việc này, quan huyện Thượng Nguyên mắng người con cả một trận và khuyên cô ta: “Cô đã lấy hai đời chồng rồi, thì còn thủ tiết làm gì? Xem cái quang cảnh này thì cô không thể ở với người con cả được đâu! Chi bằng bảo anh ta chia sản nghiệp cho cô, rồi đi ở riêng một nơi. Còn việc thủ tiết hay lấy chồng đó là tùy ở cô”. Sau việc này xảy ra, cô ta đến ở mấy gian nhà ở đường Yên Chi. Cô ta nổi danh đanh đá đến nỗi không có ai dám “rước”. Việc này xảy ra đã bảy tám năm nay. Tuổi cô ta ít nhất cũng hai mươi lăm, hai mươi sáu rồi, nhưng gặp ai cô cũng vẫn nói mình mới hăm mốt.

            - Nghe nói cô ta trong tay có một nghìn lạng bạc phải không?

            - Xem chừng mấy năm nay cô ta tiêu cũng nhiều, nhưng còn vàng bạc, châu báu, đồ đạc, đồ trang sức, quần áo cũng đến năm, sáu trăm lạng bạc. Cái đó thì cô ta có.

            Quy nghĩ bụng: “Nếu cô ta đã có năm, sáu trăm lạng bạc thì bà mẹ vợ ta cũng đã mừng rỡ lắm rồi. Còn cái việc cô ta đanh đá thế nào thì thây kệ thằng con nhà ông Nghê”.

            Cho nên Quy nói với Thẩm Thiên Phù:

            - Này ông. Người con nuôi của cha tôi muốn lấy cô ta đấy. Việc này do ông Kim Thứ Phúc mách mối. Bây giờ chẳng cần cô ta đanh đá hay không. Nếu ông làm cho họ lấy nhau thế là chắc chắn ông được hậu tạ khá nhiều về công làm mối đấy. Tại sao ông lại không làm?

            - Cái đó không khó khăn gì. Để tôi về nhà bảo vợ tôi đến nói với cô ta một tiếng, tôi cam đoan rằng thế nào việc ấy cũng xong thôi. Nhưng ông phải trả tiền cho ông mối đấy!

            - Cái đó đã dĩ nhiên! Bây giờ tôi về, mai kia sẽ lại hỏi ông xem cô ta trả lời như thế nào.

            Quy trả tiền trà, đi ra, mỗi người đi mỗi nơi.

            Thẩm về nhà nói với vợ là bà Thẩm chân to về việc ấy. Bà Thẩm lắc đầu mà rằng:

            - Trời ơi! Cái “bà” ấy thì ai mà chịu được! Hắn muốn lấy một anh chồng giàu đẹp, làm quan, lại không có mẹ chồng, không có cha chồng, không có ông chú, bà cô cơ! Ngày nào hắn cũng ngủ đến trưa mới dậy và không chịu sờ vào cái gì dù chỉ là ngọn cỏ. Mỗi ngày hắn “xơi” đến tám đồng cân bạc thuốc bổ lại không chịu ăn thịt. Hôm nay thì ăn vịt, ngày mai thì ăn cá, ngày kia lại ăn canh măng tươi, nấm hương. Ngồi không chẳng có việc gì lại xơi mứt cam, long nhãn, hạt sen. Hắn lại là một tay tửu lượng khá. Mỗi buổi tối phải uống ba cân “bách hoa tửu”, nhắm với chim sẻ nướng và tôm. Đi ngủ phải có hai người đầy tớ gái thay phiên nhau đấm bóp mãi đến canh tư. Ông vừa nói có một người phường tuồng muốn lấy cô ta phải không? Nhưng cái thứ “bà” ấy thì đời nào chịu lấy phường tuồng.

            - Thì cứ bịa ra một hồi là xong cả!

            - Được! Tôi sẽ giấu cái việc ông ta là người hát tuồng, tôi cũng không nói ông ta cho thuê đồ tuồng. Tôi sẽ nói rằng ông ta đã đỗ cử nhân nay mai sẽ làm quan, còn gia đình làm chủ một hiệu buôn lớn, lại có nhiều đất đai. Nói như thế được chứ?

            - Tốt lắm! Tốt lắm! Cứ nói như thế!

            Bà Thẩm ăn cơm xong đến ngõ Yên Chi gõ cửa.

            Người đầy tớ gái là Hà Hoa ra mở cửa và hỏi:

            - Bà ở đâu đến?

            - Ở đây có phải là nhà “bà” Vương không?

            - Vâng! Bà đến đây có việc gì?

            - Tôi đến đây nói với “bà” Vương một chuyện mừng.

            - Mời bà ngồi ở phòng khách! Bà chủ tôi vừa ngủ dậy chưa trang điểm xong.

            - Tôi ngồi ở phòng khách làm gì? Tôi phải đi vào trong phòng nói chuyện với “bà” chứ!

            Nói xong bà thẩm vén màn bước vào phòng.

            Bà Vương đang ngồi bên cạnh giường bó chân. Thái Liên đang đứng bên cạnh bưng cái hộp phèn chua. Thấy bà Thẩm đến, bà Vương biết bà ta đến làm mối, nên bảo ngồi đợi và sai đem trà cho bà Thẩm uống. Đợi một hồi lâu, bà Vương mới bó xong hai cái chân. Sau đó, lại ung dung chải tóc, rửa mặt và mặc áo. Bà Vương trang điểm chậm đến nỗi mặt trời gần lặn vẫn chưa xong. Khi đã xong đâu đấy rồi, bà Vương hỏi:

            - Tên bà là gì? Bà đến đây có việc gì? - Tôi họ Thẩm. Tôi đến đây vì có người nhờ tôi làm mối để cho tôi được uống rượu mừng bà.

            - Ông ta nhà cửa thế nào? - Ông ta ở Bão phủ trên đường chính, gần cửa Thủy Tây. Người ta thường gọi ông ta là ông cử Bão. Nhà ông ta giàu, ruộng vườn nhiều, lại có một hiệu buôn lớn, gia tài ức, triệu. Năm nay ông ta hai mươi ba tuổi, trên không có cha mẹ, dưới không có anh em chị em. Ông ta muốn lấy một bà vợ hiền để lo cửa lo nhà. Ông ta nói với tôi việc đó đã lâu, nhưng tôi nghĩ không ai xứng đáng bằng bà. Cho nên tôi đánh bạo tới đây.

            - Bà nói người đỗ cử nhân là người nào ở trong nhà ấy?

            - Chính là con người muốn lấy bà đấy! Nhà ấy còn có ông cử thứ hai nào nữa.

            - Cử nhân văn hay cử nhân võ?

            - Ông ta đỗ cử nhân võ. Ông ta có thể giương cái cung nặng một trăm cân, nâng một quả tạ nặng ba trăm cân! Thật là một con người khỏe mạnh.

            - Bà Thẩm! Bà phải biết rằng tôi là người đã sống ở những nơi quyền quý, chứ không phải như người ta đâu đấy! Nhớ cái ngày tôi mới đến Vương phủ được một tháng thì gặp đám cưới người con gái đầu của ông ta. Cô này lấy một người thân sĩ họ Tôn có ba gian nhà khách rất lớn. Trong nhà đốt một trăm cây đèn sáp lớn, làm những ông tiên bằng đường, ăn uống, tiệc tùng thật là linh đình. Phường tuồng thổi sáo đánh đàn rước tôi vào. Ông Tôn đầu đội mũ phượng, mặc áo thêu mời tôi vào chỗ ngồi chính ở bàn cao nhất. Tôi mang trên đầu một cái mạng có những viên ngọc châu to như hạt đỗ che kín cả má. Ở hai bên là hai con nữ tỳ kéo cái mạng ra để cho tôi uống nước trà ngon, nghe hát, uống rượu suốt đêm. Đến ngày hôm sau tôi trở về với bốn người gia nhân. Một người làm một vết bẩn trên cái áo lụa trắng thêu kim tuyến của tôi. Tôi muốn đánh chết tất cả. Mặc dầu cả bốn người đều đến quỳ ở phòng tôi dập đầu xuống đất mà lạy tôi cũng không tha. Bà Thẩm! Bà nói việc này phải mười phần chắc chắn. Có một điều gì không đúng thì bà sẽ biết tay, tôi không nể nang đâu.

            -Cố nhiên là thế! Xưa nay tôi đều nói đúng sự thực, tôi có giống hạng bà mối tầm thường đâu. Nếu ngày mai bà thấy tôi nói một chữ gì sai thì tôi xin vác hai cái má này đến cho bà tha hồ vả.

            - Thật không? Thế thì tốt lắm. Bà cứ nói với người ta rằng tôi bằng lòng. Tôi đang đợi bà báo tin đấy.

            Bà Vương gói mấy chục đồng tiền, mấy quả táo, mấy cái bánh và nói với bà Thẩm mang về cho con. Nhân phen này khiến cho:

            con nhà trung hậu, không may vớ phải ác nhân duyên;

            cốt nhục chia lìa, có dịp gặp được thân huynh đệ.

            Muốn biết đám cưới này có thành hay không hãy xem hồi sau phân giải.

            Chú thích:

            (1-) Nhận xét này là sự đánh giá của tác giả.

            (2-) Minh tinh: miếng lụa dài để viết tên, họ, chức tước người đã chết. Thường thường người ta nhờ một ông quan hay một người có tiếng viết.

            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #21
              Vương thái thái vợ chồng rẫy lộn;
              Nghê Đình Châu anh em gặp nhau. Bà Thẩm đến hỏi bà Vương. Sau khi bà Vương nhận lời, bà Thẩm trở về nói với chồng rằng bà Vương đã bằng lòng. Hôm sau, Quy đến hỏi tin, Thẩm Thiên Phù đem việc ấy nói lại với Quy một lượt:

              - Nhà tôi đã đến nói đầu đuôi câu chuyện với cô ta. Cô ta bằng lòng chết đi rồi! Nhưng chúng tôi nói với cô ta rằng ông ta không còn cha mẹ, cho nên không nên để bà Bão thân hành đem lễ vật đến hỏi. Ngày mai, ông đưa cho nhà tôi bốn cái đồ trang sức trên đầu để đem đến chỗ cô ta. Khi nào chọn được ngày lành tháng tốt là có thể đưa cô dâu về nhà thôi!

              Quy nghe xong, về nhà nói với mẹ vợ:

              - Cô ta trong tay có mấy trăm lạng bạc. Cái đó có thực. Có điều cô ta tính tình không tốt, sợ sau này làm khổ chồng. Nhưng thôi! Đó là việc của hai người, mặc kệ họ.

              Bà Bão cũng bằng lòng nói:

              - Cái thừng ấy cứng đầu cứng cổ lắm. Cần phải có một người vợ cay nghiệt một chút thì mới trị nổi.

              Sau khi bàn định lấy Vương thị xong, bà gọi Đình Tỷ đến bảo đi mời Thẩm Thiên Phù và Kim Thứ Phúc để làm mối. Đình Tỷ nói:

              - Nhà ta là con nhà tầm thường thì chỉ nên lấy con gái nhà nghèo. Đem cái của ấy về nhà rất dễ sinh cãi cọ lôi thôi.

              Bà Bão mắng cho một trận:

              - Đồ ngu, đồ vô phúc! Rõ thật là con nhà nghèo! Cứ mở miệng là nói đến nghèo. Sau này mày cũng đến chết nghèo thôi! Trong nhà nó có bao nhiêu rương hòm. Mày lấy nó về thì trong phòng bày biện cũng đẹp mắt đi chứ! Rõ thật là đồ ngu, không biết cái gì cả!

              Đình Tỷ bị mắng một trận không dám nói năng gì nữa, chỉ còn cách nhờ Quy đưa mình đến nhà ông mối.

              Quy nói:

              - Mẹ đã chịu khó như thế mà anh không mở miệng cám ơn lấy một câu! Nếu còn nói ra nói vào, thì con cũng không hơi đâu mà giúp nữa.

              Bà Bão nói với con rể:

              - Nó có biết cái gì đâu! Mày không nên chấp về việc ấy làm gì!

              Sau đó Quy mới chịu cùng Đình Tỷ đến nhà hai ông mối.

              Hôm sau, họ làm một tiệc rượu mời hai ông mối đến nhà ăn. Vì Bão Đình Tỷ phải đi theo ban tuồng cho nên Quy ở nhà tiếp khách. Bà Bão đưa ra bốn cái đồ trang sức trên đầu bằng vàng và bốn cái bằng bạc của người vợ trước của Bão Đình Tỷ giao cho Thẩm Thiên Phù đem đến cho bà Vương. Thẩm Thiên Phù bỏ bốn cái vào túi còn bốn cái thì giao cho bà Thẩm đưa đến. Sau khi bà Vương đã nhận, ngày đưa dâu định vào ngày mười ba tháng mười. Sáng ngày mười hai, bốn cái hòm, bốn cái tủ, bao nhiêu chậu thau đồ thiếc, hai cái giường lớn được đem đến trước. Hai người đầy tớ gái đi kiệu theo sau. Đến nhà Bão, nhìn thấy bà Bão, họ không hiểu bà ta là ai nhưng không dám hỏi. Sau khi đã bày biện đồ đạc chỉnh tề ở trong phòng, hai người ngồi đợi ở đấy. Hôm sau, vợ Quy đi kiệu đến. Ở đấy đã có vợ Kim Thứ Phúc và vợ Tiền Mặt Rỗ đợi đón cô dâu. Đến chiều, kiệu cô dâu đến với bốn cặp đèn lồng và đuốc. Cô dâu, chú rể vào phòng đọc những lời theo nghi lễ, lại trước đuốc hoa và uống rượu hợp cẩn. Việc đó không cần phải nói nhiều.

              Đến canh năm, lúc phải ra nhà thờ lạy tổ tiên, cô dâu mới biết mình có mẹ chồng và tức giận vô cùng. Cô ta chỉ cúi đầu lạy mấy cái ra vẻ bực tức, chứ không dâng trà, không đưa giày cho mẹ chồng gì hết. Lạy xong, cô liền vào buồng. Hai người đầy tớ gái chốc chốc lại ra xin nước mưa để pha trà cho “bà chủ”, xin than để đốt hương cho “bà chủ”, rồi lại chạy xuống bếp bảo nấu điểm tâm, nấu cháo để đem lên cho “bà chủ”. Họ cứ luôn luôn chạy đi, chạy lại trong nhà, miệng thì cứ “bà chủ thế này”, “bà chủ thế kia”. Bà Bão nghe vậy nói:

              - Ta là bà chủ ở đây! Gọi cô ta bằng bà là không được, phải gọi là cô dâu.

              Hai người đầy tớ chạy vào phòng kể lại điều đó cho “bà chủ”. “Bà chủ” giận chết ngất.

              Sáng ngày thứ ba, gia đình họ Bão mời mấy bà vợ những người hát tuồng đến. Theo tục lệ ở Nam Kinh, ai mới làm dâu thì đến ngày thứ ba cũng phải xuống bếp nấu một món ăn để cầu may. Món ăn này nhất định phải là cá, có ý nghĩa “giàu sang có thừa”(#1). Con cá thì nhà họ Bão đã mua rồi, nồi nước sôi đã sôi ở bếp nhưng khi mời cô dâu xuống bếp nấu thì “bà” Vương nhất định không chịu, cứ ngồi yên như phỗng. Người vợ của Tiền Mặt Rỗ vào phòng nói:

              - Cái đó không được! Nay chị đã về làm dâu nhà người ta thì chị phải theo quy củ nhà người ta chứ!

              “Bà” Vương nén giận, không nói gì, cởi áo gấm, mặc áo làm bếp chạy xuống bếp, cầm con cá trong tay lấy dao cắt ba bốn cái rồi cầm đuôi ném vào trong nồi nước sôi. Vợ Tiền Mặt Rỗ đang ngồi bên cạnh nồi nhìn “bà” Vương làm cá, bị nước sôi bắn vào cả mặt, cái áo đoạn nhị thể thêu kim tuyến ướt đẫm hết. Thị giật nẩy mình kêu lên: “Thế là thế nào!” Và vội vàng lấy khăn tay lau mặt. Bà Vương ném dao xuống, bỏ chạy vào phòng. Đến chiều, khách đến ăn tiệc, cô dâu cũng không chịu ra tiếp.

              Sang ngày thứ tư, Đình Tỷ vào phòng mặc áo quần trước khi đi theo ban hát để diễn đêm. “Bà” Vương thấy chồng mình mấy hôm nay vẫn mang một cái mũ hình miếng ngói chứ không phải là cái mũ sa, trong bụng ngờ chồng mình không phải đỗ cử nhân. Thấy chồng đội mũ đi ra, bà Vương hỏi:

              - Anh đi đâu mà đi đêm hôm như thế?

              Đình Tỷ trả lời:

              - Đi kiếm ăn.

              Và đi ngay. Bà Vương trong lòng càng ngờ vực “ông ta làm nghề gì? Hay là đi tính sổ sách ở hiệu chăng? ” Đến canh năm sáng rõ, Đình Tỷ mới trở về. Bà Vương hỏi:

              - Tối qua anh tính sổ sách gì ở ngoài hiệu mà suốt đêm như thế?

              - Nào có hiệu hiếc gì đâu! Tôi là trùm một ban hát, vừa mới đem ban hát đi diễn đêm về đấy thôi.

              Bà ta không nghe câu ấy thì thôi, chứ đã nghe câu ấy thì khí tức xông lên chẹn cả tim. Bà thét lên một tiếng, ngã lăn ra, nghiến chặt hai hàm răng, bất tỉnh nhân sự. Đình Tỷ hoảng hốt bảo hai người đầy tớ gái đổ nước gừng. Đổ mất nửa ngày bà Vương mới tỉnh dậy, vừa khóc vừa kêu gào, nằm lăn ra đất, đầu bù tóc rối, bứt tóc bứt tai. Rồi lại muốn bò lên đình giường, khóc rống lên và hát những điệu hát tuồng. Thì ra, vì tức giận quá thị đã phát điên. Bà Bão và con gái sợ hãi chạy vào, thấy cơ sự như vậy vừa bực mình lại vừa buồn cười. Đang lúc ồn ào thì bà Thẩm chạy đến, tay cầm hai gói điểm tâm đưa vào phòng để mừng. Nhưng vừa mới bước vào phòng, vợ Đình Tỷ trông thấy liền chạy đến nắm lấy. Thị kéo Thẩm đến trước thùng cứt, mở nắp thùng ra bốc lên một nắm cứt trát ngay lên mặt, lên miệng bà Thẩm. Bà Thẩm mặt mũi bị trát đầy cứt, hôi thối vô cùng. Mọi người kéo hai người ra. Bà Thẩm chạy ra ngoài lại bị bà Bão chỉ vào mặt mắng cho một trận. Bà Thẩm hết sức bực mình, chỉ còn cách đi lấy nước rửa mặt, rồi lủi thủi ra cửa, đi thẳng về nhà.

              Khi mời thầy thuốc đến, thầy thuốc bảo: - Đó là vì có nhiều đờm. Chính khí bị hư, phải dùng nhân sâm, hổ phách.

              Mỗi tễ thuốc tốn năm đồng cân bạc. Từ đó thị đau liên miên suốt hai năm. Bao nhiêu quần áo, đồ trang sức trên đầu đều tiêu hết nhẵn. Hai người đầy tớ gái cũng bán đi nốt.

              Quy bàn với bà Bão và vợ: - Hắn là đồ con nuôi không làm nên công việc gì. Hắn lại sống với cái con điên ấy làm cho cả nhà ầm ĩ. Nếu cứ để thế này mãi thì nhà cửa ruộng vườn của ta cũng không đủ để mua nhân sâm và hổ phách cho nó ăn đâu! Bây giờ làm thế nào? Chi bằng chúng ta đuổi quách hắn đi. Hắn có đi khỏi nhà này, chúng ta mới có thể sống yên tĩnh, kiếm ăn qua ngày được.

              Bà Bão nghe theo lời con gái và con rể đuổi vợ chồng Đình Tỷ phải đi khỏi nhà. Đình Tỷ hoảng hốt nhờ hai người láng giềng là Vương Vũ Thu và Trương Quốc Trọng nói giúp. Trương Quốc Trọng và Vương Vũ Thu chạy sang nói:

              - Thưa cụ! Cụ làm thế không được đâu! Ông cụ nhà ta đã nuôi anh ta làm con nuôi. Hơn nữa, anh ta lại giúp cụ nhà ta trong việc làm ăn đã mấy năm nay. Lẽ nào cụ lại đuổi anh ta đi như thế?

              Bà Bão liền nói đầu đuôi, kể tội Đình Tỷ bất hiếu như thế nào, vợ anh ta không hiền như thế nào và nói:

              - Tôi nhất định không thể nào giữ anh ta ở đây được nữa! Nếu anh ta muốn ở đây thì tôi chỉ còn cách mang con gái, và rể đi để cho anh ta ở một mình!

              Hai người kia thấy không thể can ngăn bà Bão được nữa chỉ còn cách nói:

              - Bà muốn đuổi đi thì cũng phải cho anh ta ít vốn để làm ăn sinh sống chứ! Đuổi đi tay không như thế này thì hai vợ chồng sống làm sao được?

              Bà Bão trả lời:

              - Xưa kia nó đến đây tay không chỉ có con người trần trụi với mấy sợi tóc vàng hoe trên đầu. Tôi nuôi ăn lớn lên như thế, lại cưới cho nó hai người vợ. Ông cha của nó chết đã lấy mất bao nhiêu tiền của tôi. Tôi đã không bắt nó trả tiền thì thôi các ông lại còn bắt tôi đưa tiền cho nó nữa sao?

              Hai người nói:

              - Tuy vậy bà đã “làm ơn thì cũng làm ơn cho chót”. Bà phải thương đến anh ta một chút chứ!

              Họ nói đi nói lại mãi cho đến khi bà ta phải hứa cho người con nuôi hai mươi lạng bạc để hắn đi nơi khác. Đình Tỷ cầm lấy bạc mà khóc, nước mắt chảy ròng ròng. Vài hôm sau, Đình Tỷ đến ở một gian nhà Vương Vũ Thu đã dọn cho mình ở sau tiệm buôn của y. Vì chỉ có hai mươi lạng bạc trong tay, Đình Tỷ không lập được một ban hát, không biết dùng vào việc gì, cho nên dần dần ăn hết nhẵn cả số tiền. Khi tiền đã gần hết thì vợ Đình Tỷ cũng đành phải thôi không dùng nhân sâm và hổ phách nữa. Bệnh cũng không phát, thị chỉ ngồi ở nhà vừa khóc vừa mắng, hết ngày này sang ngày khác.

              Một hôm, Đình Tỷ ở phố về thấy Vương Vũ Thu chạy đến chào hỏi:

              - Anh có người anh nào ở Tô Châu không?

              - Cha tôi chỉ có một mình tôi là con, không có anh em nào nữa.

              - Tôi không hỏi gia đình họ Bão đâu! Tôi muốn hỏi gia đình họ Nghê ở Tam Bài lâu kia!

              - Vâng, tôi có mấy người anh, nhưng cha tôi nói với tôi rằng cha tôi đã đem bán đi tất cả lúc còn nhỏ. Và sau đó thế nào thì tôi không hề biết. Tôi không bao giờ nghe nói có người anh nào ở Tô Châu cả.

              Vừa rồi, có một người đến tìm khắp nơi. Ông ta đến nhà bà Bão ở bên cạnh và nói với bà Bão rằng ông Nghê đi tìm người em thứ sáu của ông. Thấy bà Bão không nói năng gì, ông ta lại đến đây. Tôi nghĩ rằng ông ta tìm anh đấy. Ông có phải người con thứ sáu trong gia đình không?

              - Vâng, tôi là con thứ sáu.

              - Vì không tìm thấy anh, nên ông ta đi đâu đấy một lát, chốc nữa chắc chắn ông ta sẽ trở lại. Tại sao ông không ngồi trong hiệu này đợi một lát?

              Quả nhiên một lát sau người kia đến tìm. Vương Vũ Thu nói:

              - Đây chính là ông Nghê thứ sáu. Ông đến đây có việc gì?

              Người kia lấy ở trong thắt lưng một tờ thiếp đỏ đưa cho Đình Tỷ xem. Đình Tỷ cầm tờ giấy đọc. Tờ giấy viết:

              “Người con nuôi của ông Bão Văn Khanh ở cửa Thủy Tây trước tên là Nghê Đình Tỷ chính là con thứ sáu của ông Nghê Trương Phong phụ thân của tôi. Tôi là Nghê Đình Châu. Nếu tìm thấy em tôi thì đưa ngay đến công quán cho tôi được gặp, rất gấp!”

              Đình Tỷ reo lên:

              - Đúng rồi. Hoàn toàn không sai một ly! Ông là ai?

              - Tôi tên là A Tam làm việc với ông anh của ông.

              - Anh tôi bây giờ ở đâu?

              - Ông cả hiện nay làm việc ở nha môn quan tuần vũ Tô Châu, mỗi năm được một nghìn lạng bạc. Ông cả bây giờ đang ở công quán. Nếu ông là người con thứ sáu thì xin mời đến đấy với tôi để gặp ông cả.

              Đình Tỷ mừng rỡ đi theo A Tam đến công quán ở cầu Hoài Thanh. A Tam nói:

              - Ông Sáu! Mời ông vào tiệm trà ở bờ sông ngồi đợi một lát tôi đi tìm ông cả đến.

              A Tam ra đi, Đình Tỷ ngồi đợi một lát thấy A Tam trở lại với một người lạ, đầu đội mũ vuông, mình mặc áo hoa thâm, chân đi giày đen đế trắng, để râu ba chòm và trạc độ năm mươi. Người này vừa bước vào tiệm trà thì A Tam chỉ Đình Tỷ: “Đây là ông Sáu!” Đình Tỷ vội vàng chạy đến chào. Người kia nắm chặt lấy Đình Tỷ và kêu lên:

              - Người em thứ sáu của tôi đây rồi! Đình Tỷ cũng kêu lên!

              - Anh ơi!

              Hai người ôm nhau khóc nức nở một hồi rồi cùng ngồi xuống. Nghê Đình Châu nói:

              - Em ơi, khi nhà họ Bão nhận em làm con nuôi thì anh ở Bắc Kinh cho nên anh không biết gì về việc ấy cả. Từ khi anh hai mươi tuổi, anh làm mạc khách và làm việc trong các nha môn. Ở tỉnh nào anh cũng tìm các em, nhưng không bao giờ thấy. Năm năm trước đây, khi anh cùng đi với một ông tri huyện đến Quảng Đông nhậm chức, đến Tam Bài Lâu, anh nghe một người láng giềng già ngày trước nói rằng em đã được nhà họ Bão nuôi làm con nuôi và cả cha mẹ chúng ta đều đã mất...

              Nói đến đấy Đình Châu dừng lại khóc. Đình Tỷ nói:

              - Cái việc nhà họ Bão...

              Nghê Đình Châu ngắt lời:

              - Em để anh nói hết đã. Mấy năm nay anh may mắn được cụ Cơ đối đãi thật là tử tế, mỗi năm trả cho ngàn lạng bạc. Mấy năm trước, cụ ở Sơn Đông với anh. Năm nay cụ về làm tuần vũ Tô Châu. Vì Tô Châu là quê hương, cho nên anh vội vàng đến đây tìm em. Anh muốn đem số tiền dành dụm bấy lâu để mua một nhà ở Nam Kinh và đưa chị từ Bắc Kinh về cùng ở. Như thế là anh em ta lại cùng sống chung một nhà. Này em, em đã có vợ chưa?

              - Thưa anh em đã có vợ rồi.

              Đình Tỷ kể lại đầu đuôi từ khi mình được nhận làm con nuôi ông Bão đối đãi tốt như thế nào, người vợ đầu họ Vương mình lấy ở nha môn Hướng tri phủ đã chết và lần thứ hai lấy vợ rồi bị bà Bão đuổi ra khỏi nhà như thế nào. Đình Châu nói:

              - Không hề gì. Hiện nay thím ở đâu?

              - Chúng em thuê một cái phòng của ông láng giềng ở sát vách nhà bà Bão.

              - Anh em ta trở về nhà một tí rồi chúng ta bàn tính công việc.

              Sau khi trả tiền trà, hai người cùng trở về hiệu buôn của Vương Vũ Thu. Vương ra chào. Đình Tỷ mời anh vào nhà sau, vợ Đình Tỷ chạy ra chào bác. Bấy giờ thị ăn mặc như tất cả mọi người đàn bà thường vì bao nhiêu áo quần trang sức đều đã đem đi bán hết. Nghê Đình Châu lấy ở trong túi ra bốn lạng bạc đưa cho Đình Tỷ để làm lễ gặp mặt. Nhìn thấy một ông bác thể diện như thế, vợ Đình Tỷ mất hết cả buồn rầu liền thân hành bưng trà lên. Đình Tỷ cầm chén trà mời anh. Nghê Đình Châu uống xong một chén trà nói:

              - Này em! Bây giờ anh phải trở về công quán một lát rồi sẽ trở lại nói chuyện với em. Em cứ ở nhà đợi anh!

              Đình Châu nói xong đi ra, Đình Tỷ bàn bạc với vợ:

              - Chốc nữa anh lại, chúng ta phải làm một bữa ăn ra trò để mời anh. Bây giờ phải mua một con vịt, mấy cân thịt, một con cá và nhờ ông Vương làm hộ bốn đĩa đồ ăn.

              Vợ nói:

              -Thôi đi! Mình là người không biết gì hết! Mình tưởng một người ở nha môn quan tuần vũ đến đây mà lại nghĩ đến việc ăn thịt vịt với thịt lợn của mình à? Nhất định là ăn cơm xong rồi anh mới đến. Anh không thèm để ý gì đến bữa ăn của ta đâu. Bây giờ cứ cân lấy ba mươi sáu phân bạc đến hiệu bán kẹo mua mười sáu đĩa kẹo thật ngon và đi mua vài chai rượu “Bách hoa”, như thế là được!

              - Phải đấy!

              Bão bèn cân bạc rồi lấy tiền mua kẹo và rượu mang về nhà. Chiều hôm ấy, quả nhiên có một cái kiệu đến trước nhà đi đầu có hai cái đèn lồng đề chữ “Tuần vũ bộ viện”. A Tam đi theo sau. Người anh của Đình Tỷ đã đến. Đình Châu xuống kiệu nói với em:

              - Này em! Anh hiện nay mới đến ở trọ không có gì, chỉ mang theo có bảy mươi lạng bạc.

              Đình Châu sai A Tam lấy ở trong kiệu ra số bạc từng gói một đưa cho Đình Tỷ. Đình Châu nói:

              - Em cứ cầm lấy số tiền này. Đến ngày mai anh phải về Tô Châu với cụ Cơ. Anh muốn em tìm cho anh một cái nhà, tìm càng chóng càng tốt, giá từ hai trăm đến ba trăm lạng trở lại. Sau khi vợ chồng đến ở đấy rồi em phải thu xếp hành lý đi đến nha môn ở Tô Châu. Anh sẽ nói với cụ Cơ đưa cho em tất cả số tiền lương một năm nay của anh là một ngàn lạng bạc. Em sẽ đem số tiền ấy về Nam Kinh làm vốn hoặc mua sản nghiệp để sinh sống.

              Đình Tỷ nhận số tiền và giữ anh ở lại uống rượu. Trong khi uống rượu, hai người kể lại cảnh cha mẹ, anh em tan tác, nói rồi lại khóc, khóc rồi lại nói. Đến canh hai, Đình Châu mới ra về.

              Hôm sau, Đình Tỷ bàn với Vương Vũ Thu gọi một người mối nhà đến để tìm một cái nhà. Từ đó về sau, người xung quanh biết rằng ông Nghê Đình Châu hiện nay làm ở nha môn quan tuần vũ đã đến tìm em, nên đều gọi Bão Đình Tỷ là ông Nghê mà không gọi là ông Bão nữa, và cũng đối đãi với Đình Tỷ một cách kính nể. Còn bà Vương thì chẳng cần phải nói. Độ nửa tháng sau, người mối nhà tìm được một cái nhà có ba phòng và sân xung quanh ở đường họ Thi cầu Hạ Phù. Đó là nhà của Thi ngự sử. Thi ngự sử vắng nhà, muốn cho thuê với giá hai trăm hai mươi lạng bạc. Sau khi đã làm giấy tờ xong, Đình Tỷ trả tiền trước hai mươi lạng và chọn ngày tốt đến ở nhà mới. Hôm ấy bà con đều đem lễ vật đến mừng. Cả Quy cũng đem đồ lễ đến tặng. Bấy giờ Quy trong lòng chỉ lo lắng làm sao nối lại mối tình xưa. Đình Tỷ mời khách khứa uống rượu hai ngày, chuộc lại một số áo quần và đồ trang sức vợ đã đem cầm. Bấy giờ bà Vương lại cảm thấy khó ở. Cứ hai ngày lại mời thầy thuốc đến một lần. Mỗi ngày tiêu mất tám đồng cân tiền thuốc. Cứ thế số tiền bảy mươi lạng bạc kia cũng dần dần tiêu tan hết.

              Đình Tỷ thu thập hành lý đến Tô Châu tìm anh, nhưng vì thuyền đi ngược gió cho nên phải cắm sào ở phía bắc bờ sông. Thuyền đi một đêm đến Nghi Trưng, dừng ở bến Hoàng Nê. Gió lại càng lớn, không thể qua sông được, Đình Tỷ lên bờ uống trà và ăn điểm tâm. Bỗng nhiên gặp một người thiếu niên đầu đội mũ vuông mình mặc áo màu ngọc thạch, chân đi giày đỏ cứ nhìn Đình Tỷ từ đầu đến chân và hỏi:

              - Ông có phải là chú Bão không?

              Đình Tỷ kinh ngạc nói:

              - Tôi là Bão. Tên ông là gì, tại sao ông lại gọi tôi bằng chú?

              - Có phải ông lấy con gái ông Vương ở nha môn Hướng tri phủ ở An Khánh không?

              - Đúng! Tại sao ông biết?

              - Tôi lấy cháu gái gọi ông Vương bằng ông. Như thế không phải ông là chú tôi sao?

              Đình Tỷ mỉm cười nói:

              - Thôi mời ông vào tiệm uống trà với tôi đi!

              Hai người bèn bước vào một tiệm trà bảo pha trà và đưa đến một món thịt Nghi Trưng. Đình Tỷ hỏi:

              - Ông tên là gì?

              - Tôi họ Quý. Chú không nhận được tôi sao? Khi tôi thi tú tài ở phủ, chú làm người đi tuần tra, cho nên tôi biết. Sau đó ông thân của chú có đến ăn cơm ở nhà tôi. Chú quên rồi sao?

              - À! Thế ra ông Quý Vi Tiêu con cụ Quý Thủ Bị. Nhưng tại sao sau đấy ông lại lấy cháu nội ông Vương?

              - Khi cụ Hướng đổi đi nơi khác, ông Vương không đi theo mà ở lại An Khánh. Sau đó, ông nhạc tôi làm điển lại. Những người thân sĩ ở An Khánh đều kính trọng ông nhạc tôi, cho là nhà tu nhân tích đức, vì vậy gia đình tôi hỏi con gái ông ấy cho tôi.

              - Tốt lắm! Thế ông cụ ở nhà vẫn mạnh khỏe chứ?

              - Thầy tôi mất đã ba năm nay.

              - Ông đến đây có việc gì?

              - Nhân có ông Tuân làm Diêm Vận Sứ là bạn đồng khoa với cha tôi, năm ông ta thi văn thì cha tôi thi võ cho nên tôi đến đây thăm ông ta. Còn chú thì đi đâu?

              - Tôi đi Tô Châu thăm một người bà con.

              - Bao giờ chú về?

              - Độ hai ngày nữa.

              - Khi trở về nếu chủ rảnh thì mời chú đến Dương Châu chơi. Chú cứ tìm địa chỉ của cháu trên danh sách học sinh ở cửa trường thì sẽ thấy.

              - Thế nào tôi cũng đến.

              Hai người chia tay. Đình Tỷ thuê thuyền đi Tô Châu, đến cửa Xương Môn vừa lên bờ thì gặp A Tam, người đầy tớ của anh mình.

              Nhân phen này khiến cho:

              Vinh hoa phú quý, rõ ràng một chốc thành không;

              đường sá bôn ba, may mắn bỗng dưng tụ hội.

              Muốn biết A Tam nói gì với Đình Tỷ hãy xem hồi sau phân giải.

              Chú thích:

              (1-) Tiếng Trung Quốc chữ “ngư” là cá và “dư” là thừa đọc giống nhau.

              Đất Dương Châu Quý Vi Tiêu ở rể
              Thành Nam Kinh Tiêu Kim Huyễn chọn văn. Bão Đình Tỷ đến Xương Môn thì gặp ngay người đầy tớ của anh mình là A Tam. A Tam đi trước, đằng sau có người quẩy tam sinh, vàng mã, ngựa giấy. Đình Tỷ hỏi:

              - A Tam! Ông Nghê có ở nha môn không? Anh mang những đồ này đi đâu?

              - Trời ơi, ông Sáu đây rồi! Khi ông chủ tôi ở Nam Kinh về nha môn, thì ông cho ngay người đi Bắc Kinh đưa bà chủ về. Người kia trở về báo tin rằng bà chủ đã mất được một tháng. Ông chủ tôi buồn rầu quá mang bệnh nặng, được vài ngày cũng mất. Quan tài của ông còn để ở ngoài thành. Còn tôi thì hiện nay ở một nhà hàng cơm. Hôm nay được bảy ngày cho nên tôi mang đồ tam sinh và ngựa giấy đến mộ để đốt cho ông.

              Đình Tỷ nghe nói như vậy cặp mắt mở to, nói không ra tiếng, hốt hoảng hỏi:

              - Thế nào? Ông chủ anh đã mất rồi sao?

              - Vâng ông đã mất rồi.

              Đình Tỷ lăn ra đất khóc, A Tam phải vực dậy. Không vào thành nữa, Đình Tỷ bảo đưa đến nơi chôn cất anh mình, đặt đồ lễ vật rót rượu đốt vàng mã rồi khóc:

              - Anh ơi! Anh khôn thiêng xin về chứng giám, em đến đây quá chậm không còn trông thấy mặt anh!

              Đình Tỷ khóc lóc thảm thiết một hồi. A Tam khuyên nhủ đưa Đình Tỷ về hàng cơm để nghỉ. Hôm sau, Đình Tỷ lấy tiền đi đường ra mua lễ vật và vàng mã rồi trở lại mộ của anh. Y ở lại hàng cơm mấy ngày nữa cho đến khi số tiền hết nhẵn và A Tam phải đi ở nơi khác. Sau đó, không còn nghĩ ra kế gì nữa, Đình Tỷ đem cầm cái áo trừu mới may định dùng để vào dinh quan tuần vũ được hai lạng bạc. Đình Tỷ định đi tìm Quý Vi Tiêu, bèn thuê thuyền đi Dương Châu. Tới nơi, vào cửa trường xem danh sách thấy đề “Ở tại chùa Hưng Giáo”. Đình Tỷ vội vàng đến chùa Hưng Giáo. Vị hòa thượng ở đấy bảo:

              - Ông tìm ông Quý sao? Ông ta hôm nay lấy con gái họ Vưu bên cạnh hàng buôn muối ở đường Ngũ Thành. Ông đến đấy mà tìm.

              Đình Tỷ đến thẳng nhà họ Vưu. Đến nơi, thấy ngoài cửa treo vải đỏ. Ba gian nhà chật ních những khách. Ở giữa hai ngọn đèn sáp đỏ đang cháy, trên treo một bức tranh “trăm con”, hai bên dán đôi câu đối:

              Trăng trong gió mát thường như thế;

              Tài tử giai nhân vẫn có đây.

              Quý Vi Tiêu đầu đội mũ vuông mới mình mặc áo trừu đỏ đang tiếp khách. Thấy Bão Đình Tỷ, Quý ngạc nhiên đứng dậy vái chào và mời ngồi. Quý nói:

              - Chú ở Tô Châu về phải không?

              - Phải, nhân nghe tin anh lấy vợ cho nên tôi đến đây uống rượu mừng.

              Những người khách ngồi ở đấy hỏi:

              - Vị này là ai?

              - Đấy là ông Bão lấy cô của nhà tôi tức là chú của tôi.

              Mọi người nói:

              - Thế là chú của ông Quý, thật là hân hạnh! Hân hạnh.

              Bão Đình Tỷ hỏi:

              - Anh làm ơn cho biết quý vị là ai?

              Quý Vi Tiêu chỉ hai người ngồi đầu bàn:

              - Vị này là ông Tân Đông Chi, vị này là ông Kim Ngụ Lưu là hai vị danh sĩ nổi tiếng ở Dương Châu, thơ và chữ viết của hai người thực là tuyệt diệu. Trong thiên hạ không có ai là người thứ ba.

              Nói xong, cơm dọn lên, hai người danh sĩ ngồi ghế khách, Đình Tỷ ngồi bên cạnh. Rồi đến mấy người khách khác đều là họ hàng thân thuộc nhà họ Vưu ngồi vào một bàn. Ăn cơm xong, những người thân thuộc và Quý Vi Tiêu đi vào để chuẩn bị làm lễ. Bão Đình Tỷ nói chuyện với hai người danh sĩ. Tân Đông Chi nói:

              - Bọn buôn muối giàu ở Dương Châu thật là đáng ghét. Đấy cứ xem nhà lão Phùng chủ hiệu Hưng Thịnh ở dưới sông thì biết! Hắn ta có mười mấy vạn lạng bạc. Hắn mời tôi ở Huy Châu đến ở được nửa năm, tôi nói: “Ông muốn tỏ cảm tình với tôi thì ông phải cho tôi hai ba ngàn lạng bạc”. Đằng này hắn ta không muốn mất một cái chân lông. Sau đó tôi lại nói với người ta: “Đáng lý ông Phùng phải đưa tôi số tiền ấy. Sau này ông ta chết đi, số tiền mười mấy vạn lạng bạc cũng không sao mang theo được. Xuống âm phủ thì cũng chỉ là một thằng quỉ đói mà thôi. Trái lại, khi nào Diêm Vương bảo tôi viết cái biển đề bốn chữ ”Sâm la bửu điện“ (#1) thì ít nhất Diêm Vương cũng phải trả cho tôi một vạn lạng bạc. Bấy giờ tôi lại cho ông ta vài ngàn lạng bạc mà tiêu cũng chưa biết chừng! Cứ chi ly làm gì cho khổ!”.

              Tất cả đều cười rộ! Kim Ngụ Lưu nói:

              - Ông nói không sai chút nào! Cách đây không lâu, ông Phương ở dưới sông nhờ tôi viết một đôi câu đối, tất cả hai mươi hai chữ. Ông ta bảo một đứa đầy tớ đem đến tám mươi lạng bạc để cảm tạ. Tôi gọi nó vào nhà và bảo:

              “Mày về nói với ông chủ rằng chữ của ông Kim thì các cung điện, các bậc vương hầu trong kinh đã định giá rồi. Chữ nhỏ một lạng một chữ, chữ lớn mười lạng một chữ. Theo giá ấy, hai mươi hai chữ này giá hai trăm hai mươi lạng. Nếu đưa hai trăm mười chín lạng chín phân cũng không lấy được câu đối về”. Sau khi tên đầy tớ trở về nói lại, thì thằng súc sinh họ Phương kia muốn tỏ rằng mình lắm tiền, liền đi kiệu thẳng đến nhà tôi. Nó đưa cho tôi hai trăm hai mươi lạng bạc. Tôi đưa cho nó đôi câu đối. Không ngờ nó cầm câu đối xé tan. Tôi giận quá ném gói bạc ra ngoài đường cho những người gánh muối và chở phân nhặt. Tôi hỏi các ông, ở đâu có thứ tiểu nhân đáng ghét như thế không!

              Vừa lúc ấy Quý Vi Tiêu đi ra. Người ta đem mì lên. Bốn người ăn, Bão Đình Tỷ nói:

              - Tôi nghe nói trong sở coi về muối có những người giàu khi nào vào hàng mì thì một bát mì tám phân bạc họ chỉ úp một ít nước còn tất cả cho những người khiêng kiệu. Có phải như thế không?

              Tân nói:

              - Thật thế.

              Kim nói:

              - Đó là vì họ ăn không được nữa. Ở nhà họ đã chén cơm no rồi mới đi đến hiệu mì.

              Mọi người nói chuyện và cười mãi đến chiều tối. Ở trong nhà nghe tiếng nhạc. Người ta dẫn Quý Vi Tiêu vào động phòng. Mọi người ngồi vào bàn tiệc. Ăn uống xong mọi người ra về, Đình Tỷ lại trở về hàng cơm gần sở thuế(#2) ngủ một đêm. Hôm sau Đình Tỷ đến chào mừng, xem cô dâu xong ra ngoài phòng khách ngồi. Bão Đình Tỷ hỏi thầm Quý Vi Tiêu:

              - Này ông, người vợ trước của ông không có việc gì kia mà? Tại sao lại có chuyện này?

              Quý Vi Tiêu chỉ đôi câu đối cho Đình Tỷ xem và nói:

              - Chú không thấy “Tài tử giai nhân vẫn có đấy” sao? Tôi là một người phong lưu, cho nên tài tử thì phải gặp giai nhân, một vợ, hai vợ thì có gì là lạ?

              - Đành rồi! Nhưng anh lấy đâu ra tiền mà cưới vợ?

              - Tôi đến Dương Châu thì bác Tuân cho một trăm hai mươi lạng, lại cho tôi làm chức coi thuế muối ở Qua Châu. Tôi có lẽ còn ở đấy vài năm cho nên tôi phải lấy thêm một người vợ nữa. Còn chú thì khi nào chú trở về Nam Kinh?

              - Chẳng giấu gì anh, khi tôi đến Tô Châu tìm người thân thích nhưng không gặp. Hiện nay tôi không còn tiền để trở về Nam Kinh nữa.

              - Như thế thì dễ lắm! Bây giờ tôi sẽ đưa cho chú ít tiền để làm tiền lộ phí trở về Nam Kinh. Tôi nhờ chú mang hộ tôi một bức thư về Nam Kinh nhé!

              Đang lúc nói chuyện thì Tân và Kim cùng với một đạo sĩ và một người nữa vào thăm phòng cô dâu. Quý Vi Tiêu đưa họ vào phòng. Sau khi nhộn nhịp trong phòng cô dâu một lúc, họ lại ra phòng khách ngồi. Tân chỉ hai người và nói với Quý Vi Tiêu:

              - Vị đạo sĩ này là Hai Hà Sĩ, một nhà thơ ở Dương Châu, vị này là ông Quách Thiết Bút ở Vu Hồ rất giỏi nghề khắc dấu. Hôm nay nhân ông có việc vui nên đến đây thăm.

              Quý Vi Tiêu hỏi chỗ ở nhà hai người và hứa sẽ đến thăm.

              Tân và Kim nói: - Hôm trước ông Bão nói ông ở Nam Kinh lại đây. Ông có thể cho biết bao giờ ông sẽ trở về Nam Kinh?

              Quý Vi Tiêu nói:

              - Việc đó chỉ trong một hai ngày mà thôi. Hai người kia nói:

              - Như vậy thì chúng tôi không thể cùng đi với ông được. Ở cái đất tục này người ta không biết kính trọng tài năng cho nên chúng tôi muốn đi Nam Kinh.

              Nói chuyện một hồi, bốn người từ biệt.

              Bão Đình Tỷ hỏi:

              - Này anh! Thư anh gửi đi Nam Kinh là gửi cho ai? - Gửi cho một người bạn tôi ở An Khánh tên là Quý Điềm Dật nhưng không phải cùng họ Quý với tôi. Trước đây anh ta cùng đi Nam Kinh với tôi nhưng nay tôi không thể trở lại đó được. Anh ta là người vô dụng, nên tôi phải gửi mấy chữ để bảo anh ta về nhà.

              - Anh đã viết thư chưa?

              - Chưa viết! Chiều nay tôi sẽ viết, ngày mai chú lấy thư và tiền luôn rồi đến ngày kia chú lên đường.

              Bão Đình Tỷ gật đầu đi ra. Chiều hôm ấy Quý Vi Tiêu viết xong bức thư, gói năm trăm đồng đợi Bão Đình Tỷ đến lấy. Sáng hôm sau một người khách đi kiệu đến đưa vào một cái thiếp đề: “Bạn học Tôn Cơ đến thăm”. Quý Vi Tiêu vội vàng chạy ra đón. Người này mặc một cái áo rộng, đội mũ vuông ra vẻ con người sang trọng. Y vào nhà ngồi xong, Quý Vi Tiêu hỏi:

              - Ông tên tự là gì?

              - Tôi tự là Mục Am người Hồ Quảng. Trước kia tôi ở kinh cùng ông Tạ Mậu Tần dạy học ở nhà Triệu Vương. Hiện nay tôi đang trên đường về nhà, nghe đến đại danh của ông nên lại đây thăm. Tôi có mang theo một bức tranh để xin ông mấy chữ. Mai đây mang bức tranh về đến Nam Kinh, tôi cũng sẽ xin các danh sĩ đề vịnh vào đấy.

              - Đại danh của tiên sinh như sấm động bên tai, tôi dám đâu đánh trống trước cửa nhà sấm để mua cười.

              Hai người nói xong uống trà, Quý Vi Tiêu chào khách, tiễn khách ra cửa thì vừa gặp lúc Bão Đình Tỷ đến lấy thư, tiền và cảm ơn Quý Vi Tiêu. Quý Vi Tiêu nói:

              - Khi nào chú đến Nam Kinh thì thế nào chú cũng phải tìm đến đường Trạng Nguyên khuyên người bạn của tôi là Quý Điềm Dật về nhà. Ở Nam Kinh là nơi rất dễ chết đói không thể nào ở lâu được.

              Nói xong, Quý tiễn Bão ra cửa.

              Bão Đình Tỷ có tiền liền thuê thuyền về Nam Kinh. Y trở về nhà đem nỗi đau khổ này nói với vợ. Lại bị vợ mắng cho một trận. Thi ngự sử lại đến đòi tiền nhà. Bão không có tiền trả, phải giao nhà lại cho Thi ngự sử, lại mất luôn số tiền đặt cọc là hai mươi lạng bạc. Bấy giờ, không biết đi đâu, họ đành đến ở nhờ một cái phòng của họ Hồ, một người bà con bên vợ Đình Tỷ ở Nội Kiều. Ở được một vài ngày, Đình Tỷ tìm đường Trạng Nguyên đem thư đến cho Quý Điềm Dật. Điềm Dật xem thư, mời Bão uống trà rồi nói:

              - Cám ơn ông những lời này tôi đã biết tất cả rồi. Đình Tỷ từ giã ra về.

              Quý Điềm Dật vì không có tiền nên không có chỗ nào ở trọ, mỗi ngày chỉ tiêu tám đồng tiền, mua bốn cái bánh để ăn làm hai bữa. Đến chiều tối nằm ngủ trên quầy hàng một hiệu khắc chữ. Hôm ấy xem thư, biết Quý Vi Tiêu không đến, Điềm Dật lại càng lo. Không có tiền đi đường trở về An Khánh, mỗi ngày ăn bánh xong, Điềm Dật chỉ còn một cách ngồi thừ ở trong hiệu khắc chữ. Một buổi sáng, tiền ăn bánh cũng hết. Vừa lúc ấy, thấy một người ở ngoài đi vào, đầu đội mũ vuông, mặc áo màu xám, cúi đầu vái chào. Quý mời ngồi trên cái ghế dài bên cạnh. Người kia hỏi:

              - Ông cho biết quý tính?

              - Tôi họ Quý.

              - Ông làm ơn cho biết ở đây có danh sĩ nào làm văn tuyển không?

              - Tôi biết nhiều người lắm: Vệ Thể Thiện, Tuỳ Sầm Am, Mã Thuần Thượng, Khuông Siêu Nhân, Cừ Dật Phu, tôi biết tất cả. Lại còn ông bạn trước cùng ở đây với tôi là ông Quý Vi Tiêu, đều là những danh sĩ cả. Ông muốn người nào?

              - Người nào cũng được. Tôi có hai ba trăm lạng bạc muốn tuyển một bộ văn bát cổ. Nhờ ông tìm hộ cho tôi một người để cùng cộng tác.

              - Ông làm ơn cho tôi biết họ và nơi ở để tôi nói với họ.

              - Tôi họ Gia Cát người huyện Vu Thai, nói ra thì ai cũng biết cả. Ông cố tìm cho tôi một người thì tốt lắm!

              Quý mời y ngồi ở đấy còn mình đi ra ngoài phố. Quý nghĩ bụng:

              - Mặc dầu các vị kia hay đến đây, nhưng bây giờ họ ở rải rác các nơi có họa trời mới biết! Không biết tìm đâu ra được bây giờ. Thật tiếc Quý Vi Tiêu không còn ở đây nữa!

              Rồi lại nghĩ: “Cần quái gì! Ta ra cửa Thuỷ Tây vớ một anh nào đó là có một bữa chén rồi!”

              Chủ ý đã định, Quý liền đi đến cửa Thủy Tây. Chỉ thấy một người mang một gói hành lý đang bước vào thành. Nhận ra người ấy là Tiêu Kim Huyễn người huyện An Khánh, y mừng rỡ reo lên:

              - Tốt lắm!

              Và chạy lại nắm lấy tay hỏi:

              - Anh Kim Huyễn! Anh đến đây bao giờ?

              - Anh Điềm! Anh vẫn ở với anh Vi Tiêu kia mà!

              - Anh Vi Tiêu về Dương Châu đã lâu rồi. Tôi hiện nay ở đây. Anh đến đây vừa đúng dịp lắm. Anh đi với tôi, tôi kiếm cho một việc tha hồ mà sống. Nhưng anh phải nhớ đến tôi mới được.

              Tiêu Kim Huyễn hỏi:

              - Việc gì thế?

              - Không cần hỏi. Anh cứ đi với tôi. Tôi đảm bảo với anh là một món rất bở.

              Tiêu Kim Huyễn nghe vậy cùng đi với Quý đến hiệu khắc chữ đường Trạng Nguyên thì thấy Gia Cát đã ngồi đợi mòn cả mắt. Quý gọi to:

              - Ông Gia Cát! Tôi đã tìm cho ông một vị “Đại danh sĩ” đây rồi!

              Gia Cát chạy ra vái chào mời vào hiệu, đem hành lý của Tiêu Kim Huyễn vào hiệu khắc chữ rồi ba người cùng vào một tiệm trà. Sau khi chào nhau, tất cả cùng ngồi. Gia Cát nói:

              - Tôi là Gia Cát Hựu tự là Thiên Thân.

              Tiêu Kim Huyễn nói:

              - Tôi là Tiêu Đình tự là Kim Huyễn.

              Quý Điềm Dật đem câu chuyện Gia Cát Thiên Thân có mấy trăm lạng bạc định soạn một văn tuyển nói lại với Tiêu Kim Huyễn nghe. Gia Cát Thiên Thân nói:

              - Tôi cũng có biết làm văn tuyển chút ít. Nhưng đến nơi đô hội, tôi cần phải có một danh sĩ để tiện theo chân nối gót. Nay gặp được Tiêu tiên sinh thực là như cá gặp nước.

              Tiêu Kim Huyễn nói:

              - Tôi chỉ sợ sức mọn tài hèn không làm nổi việc.

              Quý Điềm Dật nói:

              - Hai ông không cần phải khiêm tốn nữa. Hai ông hâm mộ nhau đã lâu nay được gặp mắt khác nào bạn cũ. Ông Gia Cát phải đãi một bữa tiệc mời ông Tiêu ăn và sau đó ta bàn công việc đâu vào đấy.

              Gia Cát nói:

              - Đúng đấy! Tôi là một người khách ở đây. Tôi xin các ông tạm vào hiệu ăn để nói chuyện.

              Ba người trả tiền xong đi ra, đến một tửu lâu lớn ở đường Tam Sơn. Tiêu Kim Huyễn ngồi ghế đầu. Quý ngồi đối diện. Gia Cát ngồi ghế chủ. Hai người hầu bàn đến hỏi. Quý bảo đem lên giò, thịt vịt, cá nấu với rượu. Trước tiên đem lên thịt vịt và cá để nhắm rượu. Còn để chân giò đấy lại mua thêm ba đồng cân bạc canh để ăn với cơm. Một lát, người hầu bàn đem rượu đến và họ bắt đầu uống. Quý nói:

              - Việc đầu tiên phải bàn là phải tìm một cái phòng rộng rãi yên tĩnh. Sau đó, khi chọn lọc văn chương, các ông có thể bảo người thợ khắc đến và trông nom họ khắc chữ.

              Tiêu Kim Huyễn nói:

              - Chỗ ở vắng vẻ nhất là chùa Báo Ân ở ngoài Cửa Nam. Ở đấy không ồn ào, phòng lại rộng, giá tiền lại rẻ. Ăn cơm xong, chúng ta đến đấy tìm chỗ ở đi.

              Họ nói chuyện, uống cạn hết mấy hồ rượu. Người hầu bàn đem giò lợn và cơm lên. Quý Điềm Dật ăn một bữa no nên. Sau khi đã tính tiền và trở lại hiệu khắc chữ nói với người ở đấy giữ hộ hành lý của Tiêu Kim Huyễn, ba người cùng đi đến Cửa Nam. Cửa Nam là một nơi buôn bán náo nhiệt, xe, ngựa chen nhau như nước chảy. Ba người phải len mãi mới tìm được một lối đi. Xa xa nhìn thấy chùa Báo Ân họ liền đi tới. Quý Điềm Dật nói:

              - Chúng ta hãy thuê một cái phòng gần cổng.

              Tiêu Kim Huyễn nói:

              - Không nên, ta cứ vào ở trong này. Như thế yên tĩnh hơn.

              Họ đi một đoạn qua nhà nghỉ của các hòa thượng, đi đến nhà một vị hòa thượng và gõ cửa. Một chú tiểu ra mở cửa hỏi có việc gì. Khi nghe nói ba người đến thuê nhà, chú tiểu liền mời vào nhà. Một vị hòa thượng già đi ra, mặc áo lụa, đội mũ nâu bằng đoạn, tay cầm tràng hạt. Sau khi chào hỏi, hòa thượng mời ngồi hỏi họ tên và ở đâu đến. Ba người nói đến thuê một gian phòng. Hòa thượng nói:

              - Tôi có nhiều phòng. Các quan khách đều đến đấy ở. Xin ba vị cứ xem muốn chọn phòng nào thì chọn. Ba người vào xem ba phòng. Sau đó họ đi ra, ngồi nói chuyện với hòa thượng và hỏi giá tiền. Hòa thượng đòi ba lạng bạc một tháng. Mặc dù họ nói đến nửa ngày hòa thượng cũng không chịu bớt một đồng tiền nào. Gia Cát xin trả hai lạng bốn mươi đồng, hòa thượng cũng không nghe, lại bắt đầu mắng chú tiểu.

              - Sao không quét nhà đi. Ngày mai Thi ngự sử ở cầu Hạ Phù đến uống rượu ở đây coi sao cho tiện.

              Tiêu bực mình nói với Quý:

              - Phòng thì tốt, nhưng phải cái hơi xa chỗ mua bán.

              Hòa thượng nét mặt ngờ nghệch nói:

              - Khách ở đây nếu chỉ dùng một người đầy tờ để mua bán hay nấu ăn thì không đủ, cần phải có hai người, một người nấu ăn và một người để mang xách, mua đồ.

              Tiêu vừa cười vừa nói:

              - Khi chúng tôi đến ở đây, ngoài một người nấu ăn và một người đầy tớ lại còn một con lừa trọc đầu để cưỡi đi chợ nữa, như thế mới nhanh.

              Hòa thượng trợn mắt nhìn ba người. Ba người đứng dậy nói:

              - Chúng tôi xin chào. Chúng tôi sẽ lại để bàn bạc sau.

              Hòa thượng tiễn họ ra cửa.

              Ba người đi độ nửa dặm nữa thì gõ cửa một nhà tăng. Thầy tăng ra tiếp, mặt mày hớn hở cười mời ba người vào phòng khách ngồi, pha trà mới, đưa ra chín đĩa mứt, có những bánh rất ngon mời ba người ăn. Có cả mứt cam, hạnh đào. Khi nghe ba người nói muốn thuê phòng, thầy tăng cười và nói:

              - Cái đó không khó gì! Ba vị muốn chọn một phòng nào thì tùy ý và cứ chọn ngay cho.

              Họ hỏi giá tiền tháng, vị tăng nói: - Không cần bàn việc này làm gì. Có khi mời cũng chưa chắc các vị đã đến cho. Các vị trả thế nào cũng xin vâng, đủ tiền dầu hương là được. Người tu hành bàn đến việc đó làm gì?

              Tiêu Kim Huyễn thấy thầy tăng nói khác tục bèn nói: - Tôi xin hỏi cụ thế này xin cụ đừng giận. Nếu chúng tôi trả một tháng hai lạng, ý cụ như thế nào?

              Thầy tăng liền nhận ngay. Tiêu và Gia Cát ở lại đó còn Quý thì trở về lấy hành lý. Vị tăng bảo người đạo nhân dọn dẹp quét tước, trải nệm lên giường, bày biện bàn ghế và đem trà đến cùng uống với hai người. Đến chiều hành lý đều đem đến. Thầy tăng cáo từ rút lui. Tiêu Kim Huyền gọi Gia Cát Thiên Thân bảo phải cân trước hai lạng bạc, lấy giấy gói lại, đóng dấu và đưa cho thầy tăng. Thầy tăng lại ra chào và cảm ơn. Sau đó, ba người thắp đèn và bắt đầu bàn đến việc ăn tối. Gia Cát cân một ít bạc đưa cho Quý đi mua rượu và đồ nhắm. Quý đi ra một lát mua về bốn hồ rượu, bốn đĩa nhắm: một đĩa lạp xường, một đĩa tôm muối, một đĩa đùi ếch, một đĩa sứa đặt trên bàn. Gia Cát là người nhà quê, không biết lạp xường là gì nói:

              - Cái này là cái gì đây trông như dái lợn Tiêu Kim Huyễn nói:

              - Ông cứ ăn đi, không cần hỏi.

              Gia Cát ăn rồi nói:

              - Đó là thịt khô.

              Tiêu Kim Huyễn nói:

              - Lại không đúng rồi! Thịt khô đâu lại có da bọc xung quanh. Đó là thịt lợn nhồi vào trong ruột lợn đấy.

              Gia Cát Thiên Thân lại không biết sứa là gì nói:

              - Cái thứ mềm mềm như thế này là cái gì? Ăn ngon tuyệt! Lần sau phải mua thứ này mà ăn mới được.

              Tiêu và Quý hai người ăn một hồi mãi đến tối tiệc rượu mới xong, sau đó tắt đèn đi ngủ. Quý không có hành lý, Tiêu đưa cho y cái chăn của mình để đắp mà ngủ.

              Sáng hôm sau thầy tăng bước vào nói:

              - Hôm qua ba vị hạ cố đến đây. Hôm nay bần tăng có một bữa cơm thường muốn mời ba vị cùng xơi cho vui. Sau đó tôi sẽ dẫn các vị xem cảnh xung quanh chùa.

              Ba người nói:

              - Không dám.

              Thầy tăng mời ba người đến ngồi trong một cái phòng ở dưới lầu. Ở đấy có bốn đĩa đồ ăn to tướng để ăn sáng. Ăn xong thầy tăng cùng ba người bắt đầu đi dạo chơi. Vị tăng nói:

              - Chúng ta phải đi xem Thiền Lâm của Tam Tạng.

              Thầy tăng dẫn họ đến một cái điện, rất cao. Trên điện có một cái biển có sáu chữ vàng “Thiên hạ đệ nhất tổ đình”(#3) họ đi qua hai gian phòng thì đến một cái lan can uốn khúc có từng bậc đưa họ lên trên lầu. Họ tưởng rằng đằng sau không có cái gì nữa. Nhưng vị tăng đã mở cái cửa ở sau lầu và mời họ đi vào. Họ đi đến một nơi đất phẳng, đứng chỗ thật cao có thể nhìn thấy cả bốn phía. Ở giữa là một rừng cây lớn cao tận trời xanh, có hàng vạn cây trúc trước gió thổi rì rào. Ở chính giữa là một cái tháp giữ những di tích của pháp sư Huyền Trang đời Đường.

              Sau khi dạo chơi một lát, thầy tăng lại mời họ trở về nhà. Buổi chiều họ uống rượu có chín đĩa nhắm. Đang lúc uống rượu thì thầy tăng nói:

              - Bần tăng từ khi đến đây chưa hề mời khách. Đến ngày kia trong chùa có lễ và diễn tuồng, mời các vị đến xem. Cố nhiên là không mất tiền. Ba người nói:

              - Chúng tôi thế nào cũng đến mừng.

              Đến khuya bữa tiệc tan. Ngày thứ ba, vị tăng mời khách ở các nơi từ quan phủ doãn Ứng thiên đến các nha môn ở tỉnh và huyện, tất cả độ năm, sáu mươi người. Những người bếp, những người hầu trà đến trước. Những người diễn tuồng cũng đã mang rương hòm đến. Vị tăng đang nói chuyện suông ở trong phòng ba người, đột nhiên có một đạo sĩ chạy vào nói:

              - Thưa thầy thằng ấy lại đến đây rồi!

              Nhân phen này, khiến cho:

              Sóng gió đất bằng, vị thiên nữ trước

              Duy Ma xuất hiện; (#4) nhà không yên họp,

              giữa bầy gà chim bạch hạc nhởn nhơ.

              Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

              Chú thích:

              (1-) Điện quý của Diêm Vương.

              (2-) Nơi kiểm soát thuyền bè qua lại phải nộp tiền, chữ Trung Quốc là sa quan.

              (3-) Người mở đầu một môn phái mà Phật là tổ. Đây chỉ Huyền Trang đời Đường.

              (4-) Trích trong kinh phật, vị thiên nữ sau khi nghe nhà đại cư sĩ Duy Ma Cật thuyết pháp, liền hiện ra nguyên hình, nhưng Duy Ma Cật không bị nó cám dỗ. Đây dùng để ví sau này Long Tam giả dạng con gái đến ghẹo nhà chùa.

              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #22
                Gia Cát hữu tăng phòng gặp bạn
                Đỗ Thận Khanh giang quân cưới hầu Vị tăng đương nói chuyện ở trong phòng của ba người thì một đạo nhân hoảng hốt chạy vào báo:

                - Thằng ấy lại đến đây rồi!

                Vị tăng từ giã ba người, cùng đạo nhân đi ra và hỏi đạo nhân:

                - Có phải cái thằng Long Tam khốn nạn đấy không?

                - Chứ còn ai nữa! Lần này hắn đến đây định giở trò gì còn kỳ lạ hơn trước nữa kia. Thầy ra mà xem!

                Vị tăng xuống lầu, đi qua phòng trà. Những người hầu đang quạt trà ở ngoài cửa. Thầy tăng đến chỉ thấy một người đang ngồi trên ghế: hắn mặt đen, mắt vàng, râu ria xồm xoàm, đầu đội một cái mũ phượng cắt bằng giấy, mình mặc một cái áo đàn bà bằng vải lam, một cái quần vải trắng chân đi một đôi hài rộng thêu hoa. Hai người khiêng kiệu đang đứng ở sân trong đòi tiền. Người lạ mặt này thấy vị tăng liền cười nhăn nhở. Hắn nói:

                - Này mình! Hôm nay mình có việc vui cho nên tôi đến đây thật sớm để giúp đỡ mình. Mình trả tiền người khiêng kiệu cho tôi đi!

                Vị tăng cau mày nói: - Này Long Tam! Mày lại đến đây làm gì thế? Làm cái trò gì thế này?

                Và vội vàng trả tiền cho những người khiêng kiệu để cho họ đi.

                Vị tăng lại nói: - Long Tam! Mày còn chưa cởi thứ áo quần ấy đi à! Mày ăn mặc gì kỳ quặc thế kia?

                Long Tam nói: - Mình ơi! Sao mình lại tệ thế? Bây giờ mình làm quan rồi thế mà mình không cho tôi một cái mũ phượng bằng vàng cho tôi đội, không may cho tôi một bộ áo thêu đỏ để tôi mặc cho ra vẻ một bà quan, đến nỗi tôi phải mang một cái mũ phượng bằng giấy. Người ta cười mặc kệ người ta! Tại sao mình lại bảo tôi cất nó đi?

                - Mình ơi, mình lại nói sai rồi! Vợ chồng với nhau thân thiết, tôi giận mình làm gì?

                - Tao nhận rằng hôm nay tao có lỗi vì tao không mời mày, nhưng mày phải thay áo quần đi rồi vào bàn mà uống rượu. Chứ cứ ăn mặc như cái thằng điên như thế này thì thiên hạ người ta cười cho!

                - Nếu vậy thì tôi có lỗi! Tôi là bà vợ thì phải ngồi ở phòng trong để chuẩn bị các thức ăn, gọt trái cây và lo công việc nhà cho mình chứ! Có lẽ nào lại có đàn bà ngồi ngoài nhà khách như thế này? Người ta mà vào thì người ta cười rằng ở đây đàn ông, đàn bà chẳng có gì phân biệt cả. Vừa nói xong, hắn liền chạy tọt vào phòng. Vị tăng cản không được, chạy vào phòng nói:

                - Long Tam! Cái lối đùa như thế bây giờ không được đâu. Nếu quan trên người ta biết thì cả hai người còn ra thể thống gì nữa.

                - Mình ơi, mình cứ yên tâm! Cổ nhân đã có câu: “Các quan không thể bàn đến việc nhà người khác”.

                Vị tăng giận dữ giẫm chân đành đạch. Long Tam ngồi điềm nhiên trong phòng và gọi người đạo nhân vào bảo:

                - Mày bảo người hầu trà đem trà vào đây cho bà nghe không?

                Vị tăng đi ra, trong lòng bực bội. Ra đến ngưỡng cửa thì gặp ba người là Tiêu, Gia Cát và Quý. Vị tăng không thể cản họ vào. Quý nói:

                - A! Bà này ở đâu đến đây?

                “Bà” kia đứng lên cười và nói:

                - Mời ba vị ngồi.

                Vị tăng tức bực nói không ra lời, ba người khách nhịn cười không được. Vừa lúc ấy, người đạo nhân chạy vào báo:

                - Ông Vưu ở nha môn quan phủ đã đến.

                Vị tăng đành phải ra tiếp khách. Vưu và Quách là hai người thư biện ở nha môn. Họ bước vào vái chào và ngồi uống trà. Nghe tiếng người nói ở phòng bên, họ lại bước vào xem, vị tăng không làm sao cản được. Hai người bước vào trông thấy Long Tam liền giật mình hỏi:

                - Cái gì thế?

                Vừa hỏi vừa nhịn cười không được. Bốn năm người đồng thời cười rộ lên. Vị tăng lại càng tức lồng lộn, không biết làm sao, nói:

                - Thưa các vị, nó là một thằng lường gạt, nó đã nhiều lần lường gạt tôi.

                Vưu cười hỏi:

                - Tên nó là gì?

                - Tên nó là Long Tam.

                Quách hỏi:

                - Này Long Tam! Hôm nay vị tăng của chúng tao có việc vui mừng, mày đến đây làm náo loạn để làm gì. Mau mau cởi quần áo ra và xéo đi ngay.

                - Việc này là việc riêng của chúng tôi không liên quan gì đến các ông.

                Vưu nói:

                - À mày lại còn nói láo à? Mày chẳng qua là muốn lường gạt ông ta. Làm như thế không được đâu!

                Tiêu Kim Huyễn nói:

                - Chúng ta mỗi người cho cái thằng xúc sinh này một ít tiền để nó đi cho rảnh khỏi làm ồn ào ở đây.

                Nhưng Long Tam cũng không chịu.

                Trong lúc mọi người đang bàn bạc thì đạo nhân lại vào báo:

                - Ông Đổng và ông Kim đều đến.

                Đang nói thì Đổng làm thư biện và Kim Đông Nhai đã bước vào phòng. Kim Đông Nhai nhận ra Long Tam liền quát:

                - Mày là thằng Long Tam phải không? Đồ chó chết! Ở kinh đô mày đã cướp của tao mấy mươi lạng bạc rồi bỏ đi. Nay mày lại còn dám đến đây ăn mặc như thế này à! Rõ ràng mày là đồ lường gạt, đồ khả ố!

                Rồi quay ra bảo những người đầy tớ:

                - Giật ngay cái mũ phượng trên đầu nó đi, lột ngay áo quần nó ra, đuổi nó ra ngoài cho tao.

                Long Tam thấy Kim Đông Nhai thì sợ hãi, cất mũ phượng thay quần áo và nói:

                - Tôi đến đây để chờ các ngài thôi.

                Kim Đông Nhai nói:

                - Ai mượn mày đến đây? Mày lại đến lường gạt vị tăng phải không? Rồi đây, ta sẽ nói với ông ta cho mày ít tiền để mày làm vốn kiếm ăn, nhưng nếu còn gây sự như thế thì tao lôi mày đến nha môn cho mày biết tay!

                Long Tam thấy thế không dám làm gì, cúi chào Kim Đông Nhai rồi đi ra. Vị tăng đưa các vị khách xuống lầu lại vái chào, mời ngồi, đặc biệt cảm ơn Kim Đông Nhai. Khi những người hầu trà đã bưng trà lên, Quách nói:

                - Ông Kim, mấy lâu nay ông vẫn ở Kinh, thế ông về Giang Nam bao giờ thế?

                - Gần đây tôi gặp phải nhiều việc rắc rối tốn tiền, nên phải nghĩ đến việc về nhà. Về nhà, đứa con của tôi may mắn thi đỗ tú tài, không ngờ lại gây ra nhiều chuyện bàn tán nọ kia. Mặc dầu cái thực bao giờ cũng không thể giả được nhưng cũng mất mấy lạng bạc. Ở nhà buồn không có việc gì, tôi lên Dương Châu thăm cụ Tuân(#1) là chỗ quen biết cũ ở Kinh. Cụ Tuân có lòng tốt giao cho tôi làm một chức trong sở muối, kiếm được mấy trăm lạng bạc.

                Đồng hỏi:

                - Ông có biết cụ Tuân hiện nay có việc mới xảy ra không?

                - Không, việc gì thế?

                - Ông ta vừa mới bị bắt mấy hôm nay về tội ăn hối lộ. Kim Đông Nhai nói:

                - Thật là họa phúc sớm chiều không ai biết trước được.

                Quách hỏi:

                - Bây giờ ông ở đâu?

                Đồng nói:

                - Ông Kim đã mua được một cái nhà bên bờ sông gần cầu Lợi Thiệp.

                Mọi người nói:

                - Như thế thì hôm nào chúng tôi sẽ đến thăm.

                Kim Đông Nhai bèn hỏi họ tên ba người khách. Ba người này đều nói họ tên của mình. Kim Đông Nhai nói:

                - Thế ra tất cả các vị đều là những danh sĩ cả. Tôi cũng có chú thích “Tứ Thư” “Ngũ Kinh”. Hôm nào tôi sẽ đem đến để xin chỉ giáo.

                Một lát sau, mấy chục người khách đến, cuối cùng là ba người đội mũ vuông và một người đạo sĩ đi vào. Mọi người không biết vị đạo sĩ này là ai. Một trong những người mới đến, đội mũ vuông hỏi:

                - Ở đây có ai là ông Quý Điềm Dật không?

                Quý Điềm Dật nói:

                - Chính tôi! Tiên sinh có việc gì dạy bảo?

                Người kia lấy ở trong ống tay áo một bức thư:

                - Ông bạn của tôi là ông Quý Vi Tiêu gửi lời thăm ông.

                Quý Điềm Dật mở thư cùng đọc với Tiêu và Gia Cát biết rằng bốn người ấy là Tân Đông Chi, Kim Ngụ Lưu, Quách Thiết Bút và Lai Hà Sĩ. Quý nói:

                - Mời các vị vào!

                Bốn người thấy ở đây có việc nên xin cáo từ. Vị tăng giữ họ lại nói:

                - Bốn vị từ xa đến đây, chúng tôi rất hân hạnh được đón tiếp, xin mời các vị ngồi vào bàn.

                Biết là không thể từ chối, bốn người đều ngồi xuống. Kim Đông Nhai bèn hỏi đến việc cụ Tuân xem có đúng hay không. Quách Thiết Bút nói:

                - Ông ta bị bắt đúng hôm tôi xuống thuyền. Họ ăn tiệc, diễn tuồng.

                Đến tối, Tân Đông Chi và Kim Ngụ Lưu trở về thành nghỉ ở am Đồng Hoa Viên. Những người khách khác cũng đều về nhà. Quách Thiết Bút và Lai Hà Sĩ ở lại một đêm với Gia Cát Thiên Thân. Hôm sau, Lai đạo sĩ đến Thần Lạc Quán để tìm một vị đạo sĩ khác. Quách Thiết Bút thuê một cái phòng ở cửa chùa Báo Ân và mở một hiệu khắc dấu ở đấy.

                Quý Điềm Dất và hai người kia bắt đầu ghi sổ ăn chịu tại hiệu Tụ Thăng Lâu ở trước cửa chùa. Mỗi ngày mua cơm, đồ ăn và uống rượu ở đấy, tất cả độ bốn năm mươi đồng tiền. Khi việc làm ăn tuyển đã xong, họ thuê bảy tám người thợ đến khắc mua chịu độ một trăm cuốn giấy và chuẩn bị in. Độ năm tháng sau thì số tiền của Gia Cát không còn lại bao nhiêu nữa. Nhưng họ vẫn tiếp tục ăn chịu như thế. Hôm ấy, Quý Điềm Dật và Tiêu Kim Huyễn cùng nhau dạo chơi quanh chùa. Quý nói:

                - Số tiền của anh Gia Cát đã gần hết, chúng ta đã mắc nợ rồi đấy! Còn sách thì chưa biết bán chạy hay không. Bây giờ làm thế nào mà trả?

                Tiêu nói:

                - Việc này là do ông ta tình nguyện làm, không ai ép buộc cả. Nếu hết tiền thì cố nhiên ông ta phải về nhà mà lấy chứ! Cứ mặc kệ ông ta!

                Đang lúc nói chuyện thì Gia Cát đến. Hai người không nói nữa. Ba người đi dạo chơi một lát rồi cùng về phòng thì thấy một cái kiệu, với hai người mang hành lý tiến về phía họ. Ba người cũng đi theo đoàn người này vào chùa.

                Rèm kiệu vừa mở, trên kiệu là một người thanh niên đội mũ vuông. Gia Cát nhớ mang máng là một người mình quen. Nhưng kiệu chạy như bay. Gia Cát nói:

                - Tôi nhớ tôi có quen người ngồi trong kiệu kia.

                Và chạy theo hỏi người đầy tớ:

                - Các ông ở đâu đấy?

                - Ông chủ chúng tôi là ông Đỗ ở Thiên Trường. Gia Cát quay trở lại. Ba người thấy cái kiệu và những người mang hành lý đến nhà hòa thượng sát vách với cái nhà ba người nghỉ trọ. Gia Cát Thiên Thân nói với hai người - Người vừa đi qua là cháu Đỗ thượng thư ở Thiên Trường. Tôi đã gặp ông ta. Ông ta là một vị danh sĩ ở đất chúng tôi. Không biết ông ta đến đây có việc gì? Ngày mai tôi phải đến gặp mới được!

                Hôm sau, Gia Cát Thiên Thân đến thăm, nhưng Đỗ không ở nhà. Ba hôm sau, Đỗ mới đến đáp lễ. Ba người cùng ra đón. Hôm ấy là một ngày cuối xuân đầu hạ. Trời đã dần dần ấm áp. Đỗ mặc áo sa màu da cam, tay cầm một cái quạt đề thơ, chân đi giày tơ bước vào. Khi Đỗ đến gần, máy người nhận thấy Đỗ mặt trắng như dồi phấn, mắt đen lay láy, dáng người nho nhã, thật là một vị thần tiên giáng thế. Đỗ đẹp trai như Phan An(#2), thơ hay như Tào Tử Kiến(#3), là người danh sĩ nổi tiếng nhất nhì ở đất Giang Nam. Sau khi vái chào, tất cả ngồi xuống. Đỗ hỏi họ tên hai người, và ở đâu đến. Đỗ lại nói: “Tôi là Đỗ Thuyến tự là Thận Khanh” và quay lại phía Gia Cát nói:

                - Anh Thiên Thân, từ khi gặp nhau năm ngoái lúc đi thi, đến nay đã quá nửa năm rồi nhỉ?

                Gia Cát Thiên Thân nói với hai người:

                - Năm ngoái, cụ Thân làm học đài ở phủ tôi có ra đầu đề thơ phú cho danh sĩ hai mươi bảy châu huyện trong khi thi chung ở phủ. Quyển của ông Đỗ đứng đầu.

                Đỗ Thận Khanh cười nói:

                - Đó chẳng qua là việc làm để tặng nhau trong một lúc, kể nó làm gì! Vả chăng hôm đó tôi mệt, phải mang thuốc đến trường; làm qua loa cho xong chuyện thôi.

                Tiêu Kim Huyễn nói:

                - Gia thế ông nổi tiếng phong lưu khắp cả Giang Nam chẳng kém họ Vương họ Tạ(#4) đâu đâu cũng khâm phục.

                Ông lại là bậc tài giỏi nhất ở trong gia đình, hôm nay may mắn được gặp, rất mong được chỉ giáo.

                - Các ngài đều là những bậc danh sĩ một thời, tôi đáng lý phải thỉnh giáo mới phải chứ, nói như thế sao được?

                Mấy người ngồi xuống uống một chén trà rồi vào trong phòng. Nhìn thấy trên bàn đầy cả những bản văn tuyển khắc chữ đỏ, trông loạn cả mắt, Đỗ Thận Khanh nhìn qua rồi để sang một bên. Đột nhiên giở đến một bài thơ của Tiêu Kim Huyễn làm ngày trước nhan đề “Đi thăm đầm Ô long vào mùa xuân”. Đỗ nhìn xong, gật đầu nói:

                - Nếu ông cho phép, tôi cũng xin mạn phép nói liều. Theo tôi thơ lấy khí làm chủ: hai câu này của ông:

                Hoa đào tội gì thắm như vậy

                Dương liễu bông dưng xanh dễ thương

                viết như thế này thì e nó quá công phu và, cố ý. Bây giờ ta thêm một chữ “hỏi” ở câu đầu.

                (Hỏi) hoa đào tội gì thắm như vậy?

                thì thành một câu từ rất hay theo điệu “Hạ Tân Lương” ngay. Bây giờ tiên sinh lại đem viết nó thành thơ và thêm vào đằng sau một câu gò ép thành ra nó phạt.

                Lời phê này làm cho Tiêu Kim Huyễn sợ toát mồ hôi.

                Quý Điềm Dật nói:

                - Ông bàn về thơ như vậy, nếu gặp ông bạn của tôi là ông Vi Tiêu thì chắc chắn là tâm đầu ý hợp!

                Đỗ Thận Khanh nói:

                - Ông Vi Tiêu có phải bà con của ông không? Tôi có được đọc thơ của ông ta. Ông ta cũng có tài.

                Ngồi một lát Thận Khanh xin từ biệt.

                Hôm sau, Đỗ Thận Khanh viết thiếp đề “Ở nhà tôi hoa mẫu đơn nở nhiều. Tôi đã sửa soạn mấy chén trà nhạt mời các vị đến nói chuyện chơi”. Ba người vội vàng mặc áo đến. Thấy một người nữa ngồi với Đỗ. Sau khi vái chào nhau, họ mời người ấy ngồi ghế đầu. Đỗ Thận Khanh nói:

                - Ông Bão đây là người trong nhà chúng tôi. Ông ta không dám ngồi trước các vị.

                Quý Điềm Dật nhận ra người kia là Bão Đình Tỷ đã đưa thư từ Dương Châu đến cho mình. Và nói với hai người:

                - Đây là ông chú của ông Vi Tiêu.

                Bèn hỏi:

                - Ông đến đây có việc gì?

                Bão Đình Tỷ cười và nói:

                - Ông Quý không biết đấy thôi. Gia đình tôi vốn là môn hạ Đỗ Phủ mấy đời nay. Cha tôi và tôi chịu ơn nhà cụ Thượng Đỗ rất nhiều. Nay nghe tin ông Mười bảy ở đây, chúng tôi dám đâu không đến thăm.

                Đỗ Thận Khanh nói:

                - Bất tất phải nói việc đó, thôi bảo người nhà đem rượu ra đây!

                Bão Đình Tỷ và một người đầy tớ mang bàn đến. Đỗ Thận Khanh nói:

                - Hôm nay tôi muốn bỏ hết những món ăn tục. Chúng ta chỉ dùng cá, anh đào và măng Giang Nam để nhắm với rượu. Chúng ta vừa uống rượu vừa nói chuyện suông.

                Lúc bưng lên, quả nhiên chỉ thấy có mấy đĩa sơ sài như thế thôi. Rượu rót đầy chén, toàn là rượu quất thượng hạng ở phố Vĩnh Ninh, Đỗ Thận Khanh là một tay tửu lượng rất khá. Đỗ không ăn gì, sau khi nâng đũa mời khác, Đỗ chỉ gắp mấy miếng măng và vài quả anh đào để nhắm rượu. Cốc rượu cứ cạn lại đầy, uống mãi tới quá trưa. Đỗ gọi mang đồ điểm tâm lên. Bánh nhân thịt, bánh nhân thịt vịt quay, bánh rán mỡ ngỗng; bánh ngọt được mang lên. Sau khi dùng điểm tâm, mỗi người uống một chén trà Lục An pha với nước mưa, riêng Thận Khanh chỉ ăn một cái bánh ngọt và uống một chén trà. Y bảo thu dọn bàn tiệc, lại bảo đem rượu lên uống.

                Tiêu Kim Huyễn nói:

                - Lúc này ngắm hoa nở, gặp bạn hiền, không lẽ không có thơ! Chúng ta hãy chọn vần có được không?

                Đỗ Thận Khanh cười mà rằng:

                - Việc này các thi xã hiện nay vẫn thường làm, nhưng theo ý tôi, cái đó là việc của bọn tục khách để tỏ ra mình phong nhã. Chúng ta thì cứ nói chuyện suông thế này là hơn.

                Nói xong, Đỗ liếc mắt nhìn Bão Đình Tỷ. Bão Đình Tỷ cười và nói:

                - Tôi xin góp vui.

                Bão liền đi vào phòng, lấy một cái sáo ở trong bao gấm ra rồi ngồi ở bàn tiệc bắt đầu thổi. Trong khi đó, một đứa trẻ đứng bên cạnh Bão Đình Tỷ vừa vỗ tay đánh nhịp, vừa hát bài “Thanh bình điệu” của Lý Bạch. Tiếng sáo khi trầm khi bổng, réo rắt như xé trời xanh. Ba người dừng chén ngây ngất lắng nghe. Thận Khanh lại một mình uống luôn mấy chén. Họ uống mãi đến lúc trăng lên, ánh trăng chiếu vào hoa mẫu đơn làm cho sắc đẹp của hoa lại tăng thêm bội phần, cả cái vườn trắng như tuyết. Ba người ngây ngất như muốn đứng dậy nhảy múa. Thận Khanh đã say mềm. Vừa lúc ấy, một vị hòa thượng chậm rãi bước vào, tay cầm một cái hộp bọc gấm. Mở hộp ra, trong ấy có một tràng pháo Kỳ Môn. Hòa thượng nói:

                - Bần tăng đến đây để thức các ngài tỉnh rượu. Bèn đốt pháo ở bàn tiệc, pháo nổ nghe đùng đùng. Đỗ Thận Khanh ngồi dựa vào ghế cười vang. Hòa thượng đi rồi, khói pháo mùi lưu hoàng vẫn còn phảng phất trên bàn tiệc. Ba người khách đã say mềm đứng dậy chân đi không vững, xin cáo từ để về.

                Đỗ cười:

                - Tiểu đệ say rồi; xin lỗi, không thể tiễn các vị được, ông Bão! Ông tiễn ba vị hộ tôi rồi trở về đây nghỉ.

                Đình Tỷ cầm một cây đèn sáp, đưa ba người ra ngoài và đóng cổng lại.

                Ba người về nhà, bàng hoàng như đi trong giấc mộng. Hôm sau, người bán giấy đến đòi tiền. Không có tiền, hắn làm ồn một trận. Rồi đến người chủ quán ở hiệu Tụ Thăng Lâu đến đòi tiền ăn. Gia Cát phải cân hai nắm bạc vụn đưa cho hắn để cho hắn đi. Ba người bàn nhau mời Đỗ Thận Khanh ăn tiệc để đáp lễ. Vì không thể dọn tiệc ở nhà, họ đành phải mời Đỗ Thận Khanh đến quán Tụ Thăng Lâu.

                Hai ngày sau, trời trong gió mát, ba người ăn cơm xong đến nhà Đỗ Thận Khanh. Bước vào cửa đã thấy một bà chân to đang ngồi trên ghế dài nói chuyện với một người gia nhân. Người gia nhân thấy ba người đến, liền đứng dậy. Quý Điềm Dật hỏi người gia nhân: “Bà ấy là ai?”.

                Gia nhân nói:

                - Đó là một bà mối tên là bà Thẩm chân to.

                - Bà đến đây có việc gì?

                - Bà ấy đến đây có việc riêng.

                Ba người đoán biết rằng Đỗ muốn lấy vợ lẽ cho nên không nói nữa. Bước vào nhà, thấy Đỗ đang dạo chơi ngoài hành lang. Thấy ba người đến, Đỗ liền mời vào nhà ngồi và bảo người nhà pha trà.

                Quý nói:

                - Hôm nay đẹp trời, chúng tôi muốn mời ông đi chơi với chúng tôi.

                Đỗ mang một tiểu đồng đi theo. Ba người kéo Đỗ đến quán rượu Tụ Thăng Lâu. Đỗ không từ chối, đành phải ngồi xuống. Quý biết tính Đỗ không thích thịt lợn cho nên bảo dọn thịt vịt, cá, thịt bò tái, nem và rượu. Uống hai chén rượu xong, họ mời Đỗ ăn đồ nhắm. Đỗ Thận Khanh gượng ăn một miếng thịt vịt, nhưng vừa bỏ vào miệng thì đã nôn ra, mọi người cũng không tiện mời. Trời còn sớm, họ không uống nhiều rượu mà ăn cơm ngay. Đỗ đổ một chén trà vào bát cơm rồi cố gắng ăn nhưng không thể ăn hết, liền đưa cho người tiểu đồng ăn. Ba người ăn cơm và uống rượu xong, xuống lầu, trả tiền, đi ra.

                Tiêu Kim Huyễn nói:

                - Anh Thận Khanh, chúng ta cùng đi đến đồi Vũ Hoa Đài đi.

                Đỗ Thận Khanh nói:

                - Vâng, như thế thì thích lắm.

                Mấy người cùng đi lên đồi vào trong đền thờ, thấy bàn thờ Phương Hiếu Nho và Cảnh Thanh(#5) rất là nguy nga. Họ lại trèo lên đỉnh đồi. Xa xa, nhìn thấy khói ở các mái nhà trong thành bốc lên. Con sông Trường Giang trắng xóa như một dải lụa bạch. Những ngọn tháp lợp ngói lưu ly thiếp vàng sáng chói cả mắt. Đỗ Thận Khanh đi đến trước điện nhìn bóng của mình dưới ánh mặt trời, trong lòng bồi hồi khôn xiết. Họ ngồi xuống cỏ. Gia Cát Thiên Thân thấy ở xa có một cái bia nhỏ liền chạy đến xem. Xem xong chạy về ngồi xuống nói:

                - Trên cái bia này khắc mấy chữ “Nơi đây đã giết mười họ”.

                Đỗ nói:

                - Nói rằng mười họ thì không đúng. Đời Hán bị tội nặng thì giết ba họ là họ cha, họ mẹ và họ vợ. Chín họ cùng bị giết với Phương Chính Học là Cao, tằng, tổ, khảo, tử, tôn, tằng, huyền(#6). Đó đều là họ cha cả. Còn họ mẹ, họ vợ đều không bị liên quan. Còn nói việc giết cả học trò là vô lý. Vả chăng, hoàng đế Vĩnh Lạc không tàn nhẫn đến như thế. Triều đại ta, nếu không có vua Vĩnh Lạc chấn chính lại mà cứ để vua Kiến Văn nhu nhược trị vì thì thiên hạ còn lắm chuyện không kém gì thời Nam Bắc Triều(#7)

                Tiêu Kim Huyễn nói:

                - Theo ý ông, Phương Chính Học là người như thế nào? - Theo ý tôi, ông ta là người viển vông không làm nên việc gì. Trong khi thiên hạ còn bao nhiêu việc lớn phải làm, tại sao chỉ lo đến việc truyền ngôi mà thôi. Bị chém giữa chợ trong khi mang triều phục là không oan uổng chút nào!

                Họ ngồi chơi mãi cho đến khi mặt trời xế bóng. Bỗng thấy hai người gánh phân quảy hai thùng không cùng lên núi nghỉ. Một người vỗ vai người kia nói:

                - Này anh, hôm nay công việc xong rồi, chúng mình đi uống một bình nước ở suối Vĩnh Ninh rồi về Vũ Hoa Đài ngắm mặt trời lặn đi.

                Đỗ Thận Khanh cười mà rằng:

                Thật là phong khí Lục Triều(#8) để lại đến nay vẫn không phai chút nào! Những người nấu ăn và những người gánh phân mà cũng thanh lịch như thế!

                Họ xuống đồi về nhà. Đến cửa chùa, Gia Cát nói: - Mời ông vào nhà chúng tôi chơi.

                Đỗ Thận Khanh nói:

                - Cũng được.

                Tất cả đi vào. Vừa bước đến cửa đã thấy Quý Vi Tiêu ngồi ở trong phòng. Quý Điềm Dật mừng rỡ nói:

                - Anh Vi Tiêu! Anh đã đến đấy à!

                Quý Vi Tiêu nói:

                - Anh Điềm Dật! Tôi tìm anh ở hiệu khắc chữ mới biết anh ở đây. Hai vị này là ai?

                Quý Điềm Dật nói:

                - Vị này là Gia Cát Thiên Thân, người ở Vu Thai. Vị này là Tiêu Kim Huyễn đồng hương với chúng ta. Chắc thế nào anh chả biết.

                Quý Vi Tiêu nói:

                - Ông ở cửa Bắc phải không?

                Tiêu Kim Huyễn nói:

                - Vâng.

                - Còn vị này?

                Quý Điềm Dật nói:

                - Vị này mới đến, nghe tên thì anh lại càng thích. Đây là ông Đỗ Huyến, cháu thứ mười bảy của cụ Thượng Đỗ ở Thiên Trường tự là Thận Khanh. Ông biết ông này chứ?

                Quý Vi Tiêu nói:

                - Có phải ông Đỗ đứng đầu kỳ thi năm ngoái trong tất cả hai mươi bảy châu huyện ở phủ này không? Bấy lâu khao khát, nay mới được gặp mặt.

                Vi Tiêu đứng dậy vái chào. Đỗ Thận Khanh cũng cúi đầu đáp lễ. Mọi người thi lễ xong ngồi xuống, vừa lúc ấy một người cười rộ bước vào, nói:

                - Đêm nay các vị có ở lại uống rượu cho vui không?

                Quý Vi Tiêu nhận ra người ấy chính là Bão Đình Tỷ bèn nói ngay:

                - Chú làm sao lại đến đây?

                Bão Đình Tỷ nói:

                - Tôi là người nhà ông Đỗ thứ mười bảy. Tôi là môn hạ nên đến đây là lẽ dĩ nhiên. Anh cũng biết ông Đỗ sao?

                Tiêu Kim Huyễn nói:

                - Chúng ta quả đều là những kẻ “một cười cũng đủ nên tri kỷ, đâu phải thờ ơ khách giữa đường”.

                Quý Vi Tiêu nói:

                - Mặc dầu tiểu đệ ít tuổi, cũng đã đi du lịch giang hồ và được gặp nhiều người. Nhưng chưa bao giờ tiểu đệ thấy một con người sang trọng, xinh đẹp như Đỗ tiên sinh. Thật là một vị tiên trên trời. Ngày nay được gặp mặt tiên sinh thì tiểu đệ cũng là một vị thần tiên vậy.

                Đỗ Thận Khanh nói:

                - Tiểu đệ gặp tiên sinh cũng giống như chuyện Thành Liên chèo thuyền trên biển(#9). Thật là một việc thú vị.

                Chỉ nhân phen này, khiến cho:

                Phong lưu hội cả, Giang Nam lại thấy dấu kỳ;

                Trác lạc tự trời, thiên hạ đều truyền phong nhã

                Muốn biết sự việc như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

                Chú thích:

                (1-) Tức là Tuân Mai nguyên học trò Chu Tiên.

                (2-) Phan An tức là Phan Nhạc người đời Tấn rất đẹp trai, lúc đi ra đường con gái thường ném quả cây vào đầy cả xe cho anh ta.

                (3-) Tào Tử Kiến tức Tào Thực, con Tào Tháo nổi tiếng về thơ.

                (4-) Vương Đạo, Tạ An đời Tấn, những người phong lưu đời Đông Tấn.

                (5-) Phương Hiếu Nho còn gọi là Phương Chính Học và Cảnh Thanh là hai nhà nho có tiếng đời Minh, chống lại Minh thành tố và bị giết. Đoạn này tác giả nói đến, có ý ám chỉ những vụ tàn sát đời Thanh lúc tác giả còn sống.

                (6-) Ông ba đời, ông hai đời, ông, cha, con, cháu, cháu hai đời, cháu ba đời; có thể dịch là ông sơ, ông cố, ông, cha, con, cháu, chắt, chút.

                (7-) Nam Bắc triều (thế kỷ IV - thế kỷ VI) thời gian Trung Quốc bị chia cắt làm hai, ở phía nam Dương Tử có Đông Tấn, Tề, Lương, Trần gọi là Nam triều, về phía Bắc có Nguyên Nguỵ, Chu, Cao Tề gọi là Bắc Triều. Sau nhà Tuỳ thống nhất cả Nam Bắc. Thời gian này chiến tranh liên miên, nhân dân điêu đứng.

                (8-) Lục Triều: Thời Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Tần những thời này đều đóng đô ở Kim Lăng và nổi tiếng Thanh Lịch.

                (9-) Thành Liên người đời Xuân Thu - Bá Nha học đàn cầm với ông, ông đưa đến một hòn núi giữa bể, rồi chèo thuyền đi mất, để cho Bá Nha theo trong cảnh tĩnh mịch tự nhiên, mà hiểu biết cái hay của nhạc.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #23
                  7.

                  Ưa Thiếu Tuấn tìm bạn quán Thần Lạc;
                  Sính phong lưu hội khách hồ Mạc Sầu Đỗ Thận Khanh và Quý Vi Tiêu gặp nhau rất là ý hợp tâm đầu. Chiều ấy, vì Quý Vi Tiêu ở trọ lại chùa Thừa Ân, ở trong thành cho nên thấy trời tối, Vi Tiêu vội vàng trở về thành. Bão Đình Tỷ theo Đỗ Thận Khanh về nhà. Đỗ Thận Khanh mua rượu cho Bão Đình Tỷ uống và hỏi:

                  - Ông Vi Tiêu là người như thế nào? Đình Tỷ kể lại việc ngày trước Quý được Hướng tri phủ lấy đỗ đầu, sau đó Quý lấy cháu gái Vương quản gia tức là cháu của Bão. Năm nay, cụ Tuân làm Diêm vận sứ cho Vi Tiêu mấy trăm lạng bạc. Nhờ thế, Vi Tiêu, vừa mới cưới một cô vợ họ Vưu ở Dương Châu. Bão kể lại từ đầu đến cuối một lượt. Đỗ Thận Khanh nghe vậy mỉm cười và nhớ tất cả. Đỗ giữ Bão ở lại nhà mình nghỉ. Đêm ấy, Bão Đình Tỷ lại kể chuyện Hướng tri phủ đối đãi với mình tốt như thế nào. Đỗ Thận Khanh khôn xiết bùi ngùi. Bão lại nói đến chuyện mình lấy Vương thị vất vả như thế nào. Đỗ Thận Khanh cười vang. Sau đó hai người đi ngủ.

                  Sáng hôm sau, Quý Vi Tiêu và một người họ Tôn trước làm việc ở vương phủ cùng đến thăm. Hai người bước vào, vái chào và ngồi xuống. Tôn kể lại chuyện mình xướng họa ở kinh đô với bảy người danh sĩ họ Vương, họ Lý ở phủ Triệu Vương(#1)

                  Đỗ Thận Khanh nói:

                  - Ông Phụng Châu và ông Vu Lân là chú của tôi.

                  Tôn nhắc đến người thứ ba là Tôn Tử Lương. Đỗ nói:

                  - Ông Tôn là bạn đồng khoa với thầy tôi.

                  Nhưng khi Tôn nói rằng mình là người anh em họ với Tôn Tử Tương thì Đỗ Thận Khanh không đáp. Người nhà bưng trà lên. Uống trà xong, Tôn về trước để Quý Vi Tiêu ở lại nói chuyện. Đỗ Thận Khanh nói:

                  - Anh Vi Tiêu! Tôi rất ghét những người hễ mở miệng ra là nói đến bọn mũ sa(#2). Vừa rồi, cái ông kia nói rằng ông bác tôi là Tôn Tử Tương lại là anh em với ông ta. Tôi chỉ sợ ông bác tôi xấu hổ vì đã có một người anh em hèn hạ như thế!

                  Đang lúc nói chuyện, cơm dọn lên. Hai người ngồi ăn. Người đầy tớ vào bẩm:

                  - Có bà Thẩm đợi ở ngoài.

                  - Gọi bà ta vào. Có ngại gì việc ấy?

                  Người đầy tớ ra đưa bà Thẩm vào. Đỗ Thận Khanh bảo:

                  - Đem một cái ghế dài cho bà ta ngồi.

                  Bà Thẩm hỏi:

                  - Vị này là ai?

                  - Đó là ông Quý ở An Khánh. Việc tôi nhờ bà thế nào rồi?

                  - Tôi đến đây chính vì việc ấy đấy. Sau khi ngài nói việc ấy với tôi, tôi tìm gần khắp thành Nam Kinh cho ngài một người. Bởi vì ngài là một người hết sức lịch sự, sang trọng xem chừng không có cô nào xứng đôi, cho nên tôi không dám đến đây nói. Nay nhờ công phu tìm kiếm, tôi đã tìm được một cô ở Hoa Bài Lâu. Cô này họ Vương, làm nghề dệt lụa, thực là tài mạo tuyệt vời, không ai sánh kịp, năm nay mười lăm tuổi. Còn nói cô ta đẹp như thế nào thì chỉ nhìn người em trai cô ta kém cô ta một tuổi là đủ biết. Nếu anh ta ăn mặc áo quần đẹp, trang điểm vào thì tất cả những người đóng vai con gái ở trong mười ban hát ở cầu Hoài Thanh cũng đều không thấm vào đâu. Anh ta biết hát, biết diễn tuồng. Cô này với ngài thực là xứng đôi vừa lứa. Ngài có đi xem mặt không?

                  Đỗ Thận Khanh nói:

                  - Bà nói với cô ta ngày mai tôi lại.

                  Bà Thẩm vâng dạ đi ra. Quý Vi Tiêu nói:

                  - Tôi có lời mừng anh.

                  Thận Khanh cau mày:

                  - Anh ạ! Đây cũng chỉ vì muốn có con trai nối dõi, không biết làm thế nào. Nếu không tôi lấy hầu làm quái gì!

                  - “Trai tài gái sắc phải vui chơi kịp thời” chứ! Tại sao anh lại nói ngược đời như vậy?

                  - Anh Vi Tiêu! Anh nói thế là chưa hiểu tôi. Thái Tổ Cao hoàng đế chúng ta(#3) nói: “Nếu ta không phải do người đàn bà đẻ ra thì ta đã giết tất cả những người đàn bà trong thiên hạ rồi”. Làm gì có người đàn bà tốt! Tính tình của tôi không chịu họ được. Họ ở cách xa ba gian phòng, tôi đã ngửi thấy mùi hôi thối của họ rồi!

                  Quý Vi Tiêu chưa hỏi tại sao thì người đầy tớ đã đưa một tờ danh thiếp vào và nói:

                  - Ở bên ngoài có ông Quách ở Vu Hồ đến thăm.

                  Đỗ nói:

                  - Tôi không quen ai họ Quách ở Vu Hồ cả.

                  Quý Vi Tiêu cầm tờ thiếp xem và nói:

                  - Ông ta tên là Quách Thiết Bút, chủ một hiệu khắc dấu ở ngoài cửa chùa. Chắc ông ta đã khắc cho hai ông con dấu vuông nên đến chào chứ gì. Cứ gọi ông ta vào!

                  Đỗ Thận Khanh bảo đầy tớ mời Quách Thiết Bút vào. Quách Thiết Bút vào vái chào, nói một tràng dài tỏ lòng ngưỡng mộ:

                  - Gia đình ông “Một nhà ba giáp bảng, bốn đời sáu thượng thư”. Còn học sinh và tôi tớ thì ở khắp cả thiên hạ: Số người làm tổng đốc, tuần vũ, bố chánh, thủ đạo, đếm không hết. Cả những người quản gia, khi ra khỏi nhà cũng được hàm cửu phẩm. Này ông Quý: Khi nhỏ tôi vẫn nghe người ta nói người con cụ Đỗ là bậc thiên tài giỏi nhất trong thiên hạ, thế nào ông ta cũng đỗ trạng nguyên.

                  Quách nói xong, lấy ra một cái hộp bọc gấm, ở trong có hai con dấu vuông, ở ngoài viết hai chữ “Đài Ấn”. Quách cầm hai tay đưa cho Đỗ. Đỗ Thận Khanh nhận lấy. Nói chuyện suông một lát, Quách bước ra. Đỗ tiễn ra rồi quay trở lại nói với Quý Vi Tiêu:

                  - Hắn vừa mới gặp ta đã nói lải nhải khó chịu. Nhưng điều hắn nói kể ra đúng sự thực cả.

                  Quý Vi Tiêu nói:

                  - Chuyện trong quý phủ ai mà chả biết!

                  Đỗ mời Quý ở lại ăn cơm. Rượu bưng lên, hai người ngồi uống rượu nói chuyện tâm sự. Quý Vi Tiêu nói:

                  - Bình sinh anh có thích chơi sơn thủy không?

                  - Sức khỏe tôi kém cho nên trèo núi, chơi trên sông cũng đều miễn cưỡng.

                  - Thế anh có thích âm nhạc không?

                  - Ngẫu nhiên mà nghe thì cũng được. Còn nghe lâu thì thấy nó ầm ĩ inh tai.

                  Hai người lại uống thêm vài chén. Đỗ ngà ngà say bỗng thở dài mà rằng:

                  - Anh Vi Tiêu! Từ xưa đến nay người ta đều bị chữ tình làm luỵ.

                  Quý nói:

                  - Tình con người ta chẳng qua là tình trai gái; nhưng theo anh vừa nói, thì anh không thích đàn bà.

                  - Tại sao anh lại nói tình người ta chẳng qua là tình trai gái? Tình bạn bè chẳng hơn tình trai gái sao? Chẳng cần nói gì chỉ xem chuyện “Chiếc chăn thêu” của Ngạc Quân thì đủ rõ(#4). Cứ như ý tôi trong thiên hạ chỉ có vua Ai Đế nhà Hán nhường ngôi cho Đồng Hiền(#5) là người hiểu tình yêu một cách đúng đắn mà thôi. Nghiêu, Thuấn nhường ngôi cho nhau chẳng qua cũng là như vậy. Đáng tiếc người đời không ai hiểu!

                  - Anh nói như vậy đúng lắm! Thế nhưng bình sinh anh đã gặp ai hiểu lòng mình chưa?

                  - Nếu trong thiên hạ có con người như vậy, sống chết có nhau thì tôi đã không buồn bã, ốm đau như thế này! Vì tôi, duyên ôi, phận hẩm chưa hề gặp được người tri kỷ cho nên nhìn bóng trăng mà ngậm ngùi, nghe tiếng gió mà rơi lệ.

                  - Muốn tìm một người bạn thì phải tìm trong đám con hát.

                  - Anh Vi Tiêu! Anh nói câu ấy lại càng ra ngoài đề nữa. Tìm người bạn trong đám con hát, chẳng khác gì người thích sắc đẹp mà tìm tình yêu trong chốn thanh lâu. Như thế chẳng là sai lầm vô cùng sao? Phải là những người gặp nhau ở trong gan ruột, cảm nhau bên ngoài hình hài, những kẻ cao quý nhất trong thiên hạ thì mới có được cái tình yêu như vậy.

                  Nói xong, Đỗ lại vỗ đùi mà than: - Nhưng trong thiên hạ không có con người như thế. Ông xanh kia bắt Thận Khanh này đành ôm mối sầu dằng dặc, cô độc một mình. Nói xong, sa nước mắt. Quý Vi Tiêu nghĩ bụng:

                  “Lão này xem ra điên rồi. Ta phải chơi cho hắn một mẻ mới được”.

                  Bèn nói:

                  - Anh không nên nói trong thiên hạ không có người nào. Tôi đã được gặp một trang thanh niên, anh ta không phải là con hát, cũng không phải như bọn ta, mà là một đạo sĩ. Con người này phong lưu tao nhã, nhưng không phải là xinh đẹp theo kiểu đàn bà, mà xinh đẹp theo kiểu đàn ông. Hễ tôi nghe ai khen một người đẹp trai mà nói đẹp như đàn bà là bao giờ tôi cũng nổi giận. Thật là buồn cười! Ai thích cái đẹp đàn bà thì cứ việc ngắm đàn bà là đủ rồi. Nhưng trong thiên hạ lại còn có cái đẹp đàn ông mà ít ai nhận thấy.

                  Đỗ đập tay vào bàn nói:

                  - Câu này phải khuyên mấy khuyên. Anh nói ai đấy?

                  - Ông ta là hạng khác thường! Có nhiều người tìm cách làm quen với ông ta, nhưng ông ta không chịu dễ dàng nói cười với ai. Ông ta lại rất quý trọng tài năng, vì tôi hơn ông ta mấy tuổi, nên trước mặt ông ta, tự biết mình xấu xí, tôi không dám mơ đến việc làm quen. Này anh! Anh có muốn đi xem ông ta như thế nào không?

                  - Khi nào anh đưa ông ta đến đây?

                  - Nếu tôi đưa ông ta đến đây thì chẳng có gì lạ hết. Anh phải thân hành đến tìm ông ta chứ.

                  - Ông ta ở đâu?

                  - Ở Thần Lạc Quán.

                  - Tên họ là gì?

                  - Tên họ thì nay chưa thể nói được. Nếu “tiết lộ thiên cơ”, ông ta mà biết thì sẽ trốn ngay mà anh muốn gặp cũng không thể gặp được nữa. Bây giờ tôi viết tên họ ông ta vào một tờ giấy, bỏ vào phong bì dán kỹ đưa cho anh. Khi nào anh đến cửa Thần Lạc Quán mới được phép mở, xem xong, đi tìm ngay thì anh sẽ gặp ông ta một cách dễ dàng.

                  Đỗ vừa nói vừa cười:

                  - Được lắm!

                  Quý Vi Tiêu liền vào trong phòng đóng cửa lại một hồi lâu, viết vào một tờ giấy rồi niêm phong cẩn thận. Trên phong bì lại viết hai chữ “sắc lệnh”, rồi đưa cho Đỗ và nói:

                  - Bây giờ tôi phải đi ngay. Độ đến mai khi anh đã gặp con người kỳ lạ này rồi, tôi sẽ trở lại mừng anh.

                  Nói xong Vi Tiêu ra về.

                  Đỗ Thận Khanh tiễn Vi Tiêu ra cửa rồi vào nhà bảo đầy tớ:

                  - Sáng ngày mai mày đến ngay nhà bà Thẩm nói rằng sáng mai tao không có thì giờ rỗi để đến Hoa Bài Lâu xem mặt cô ấy. Bà hãy đợi đến ngày kia. Ngày mai bảo người khiêng kiệu đưa ta đến Thần Lạc Quán thăm một người bạn.

                  Chiều hôm ấy, không có việc gì xảy ra. Sáng hôm sau, Đỗ lấy xà phòng rửa mặt mày, thay quần áo mới, bôi nước hoa đầy người thơm phức rồi bỏ bức thư của QuýVi Tiêu vào trong ống tay áo, lên kiệu đi thẳng đến Thần Lạc Quán. Kiệu dừng ở ngoài cổng, Đỗ đi bộ vào, lấy bức thư ra xem. Trên bức thư đề “Đi đến đạo viện Quế Hoa ở đầu hành lang phía bắc, hỏi đạo sĩ là Lai Hà Sĩ ở Dương Châu đến”.

                  Đỗ Thận Khanh bảo người khiêng kiệu đợi. Còn mình đi theo một con đường quanh co vào trong chùa. Ở trong chùa nghe có tiếng âm nhạc. Ở trước mặt là một cái lầu. Cửa lầu mở rộng. Ở trong có ba gian phòng. Ở gian giữa có một quan Thái giám lo việc coi sóc lăng tẩm, mặc một cái áo thêu rồng, đang ngồi đó. Ở bên phải có hơn chục người con hát. Bên trái là bảy tám đạo sĩ nhỏ ngồi trên một dãy ghế dài đang hát và chơi nhạc. Đỗ trong lòng nghi hoặc “không biết ông Lai Hà Sĩ có ở đây không!”.

                  Đỗ đưa mắt nhìn tất cả những người đạo sĩ trẻ một lượt nhưng vẫn không thấy ai xuất sắc. Lại quay đầu nhìn tất cả con hát, cũng toàn là những người tầm thường. Đỗ nghĩ bụng: Lai Hà Sĩ đã là người cao thượng, tự trọng, chắc là không thèm chơi với bọn này. Ta đến Quế Hoa Viện hỏi xem. Đỗ đến Quế Hoa Viện gõ cửa. Một đạo sĩ mời vào ngồi. Đỗ Thận Khanh nói:

                  - Tôi đến thăm ông Lai Hà Sĩ mới ở Dương Châu đến đây.

                  - Ông Lai Hà Sĩ ở trên lầu. Ông cứ ngồi đây. Tôi đi mời ông ta xuống.

                  Người đạo sĩ kia đi được một lát thì thấy một vị đạo sĩ béo phị ở trên lầu đi xuống, đầu đội mũ đạo sĩ, mình mặc áo màu gỗ trầm hương, mặt đen láng như dầu, lông mày rậm, mũi to, râu ria xồm xoàm trạc độ năm mươi tuổi. Vị đạo sĩ vái chào hỏi:

                  - Ngài ở đâu đến, quý tính là gì?

                  - Tôi họ Đỗ người ở Thiên Trường. - Chúng tôi có nhận được một số tiền của Đỗ Phủ ở Thiên Trường. Có phải là của quý chủ không?

                  - Vâng. Đạo sĩ vui mừng lộ ra nét mặt cung kính nói: - Tôi không biết ngài ở đây, đáng lý tôi phải đến quý phủ bái kiến, nay lại bắt ngài phải mất công giáng lâm như thế này...

                  Và vội vàng bảo đạo nhân pha trà mời và đem đồ tráng miệng đến. Đỗ Thận Khanh nghĩ bụng: “Đây chắc là người sư phụ của Lai Hà Sĩ”. Bèn hỏi:

                  - Ông Lai Hà Sĩ là học trò hay là cháu ông? Đạo sĩ kia đáp:

                  - Tôi chính là Lai Hà Sĩ.

                  Đỗ Thận Khanh nhìn kinh ngạc nói:

                  - A! Thế ra ông là ông Lai Hà Sĩ sao?

                  Bấy giờ Đỗ không nhịn được, cứ lấy ống tay áo che miệng mà cười. Đạo sĩ không biết việc gì, sai đem các đĩa quả đến pha trà, lại lấy trong ống tay áo ra một tập thơ, yêu cầu chỉ giáo. Thận Khanh không biết làm sao, đành phải gắng gượng xem một lượt. Uống xong hai chén trà, Đỗ liền đứng dậy cáo từ. Đạo sĩ nhất định đòi cầm tay tiễn ra ngoài cửa, đạo sĩ hỏi:

                  - Có phải ông ở chùa Báo Ân không? Ngày mai tôi sẽ đến đấy ở chơi vài hôm với ông.

                  Đạo sĩ tiễn Đỗ ra cửa, chờ cho Đỗ lên kiệu rồi mới trở vào nhà. Đỗ Thận Khanh lên kiệu trên đường nhịn cười không được, nghĩ bụng: lão Quý Vi Tiêu chó má thực, chỉ toàn nói bậy!

                  Đỗ vừa vào nhà, thì người đầy tớ nói:

                  - Có mấy người khách ở trong nhà.

                  Đỗ đi vào thấy Tiêu Kim Huyễn, Tân Đông Chí, Kim Ngụ Lưu và Kim Đông Nhai đến thăm. Tân Đông Chi đưa ra một bức đại tự, Kim Ngụ Lưu đưa ra một đôi câu đối, Kim Đông Nhai đưa ra quyển “Tứ thư giảng chương” do y soạn để nhờ xem hộ. Vái chào xong, mọi người ngồi xuống. Mấy người đều kể lai lịch của mình. Uống trà xong mọi người ra về. Đỗ Thận Khanh khịt mũi một cái, quay vào nói với đầy tớ:

                  - Một anh chàng thư biện lại về nhà lo giảng “Tứ thư”. Sách thánh hiền lại đến hạng này giảng sao!

                  Đang lúc ấy thì có người đầy tớ của Tôn mang đến một phong thư và một bức tranh để nhờ Đỗ đề vài chữ. Đỗ Thận Khanh chán ngán đành phải nhận và viết thư trả lời để cho người đầy tớ mang về nhà. Hôm sau, Đỗ đi xem mặt người thiếp. Viết giấy định ngày, chọn ba ngày sau đưa dâu về, bận rộn về việc dời đến ở cái nhà bên sông để đón người thiếp về ở đấy.

                  Hôm sau, Quý Vi Tiêu đến mừng Đỗ Thận Khanh. Đỗ Thận Khanh ra đón vào. Vi Tiêu nói:

                  - Tôi xin lỗi hôm qua không đến mừng anh được, hôm nay mới đến có hơi chậm, xin thất lễ!

                  - Chiều qua tôi không dọn tiệc nên cũng không dám mời anh.

                  Vi Tiêu cười hỏi: - Hôm trước anh đã thấy con người kỳ lạ ấy chưa? - Anh thực là chó má, tôi muốn đánh cho anh một trận. Nhưng thôi tha cho vì cái vố anh chơi tôi cũng thú vị đấy.

                  - Tại sao anh lại đánh tôi? Tôi nói ông ta đẹp theo lối đàn ông chứ không phải đẹp theo lối đàn bà. Không phải như thế sao?

                  - Chính vì thế nên tôi muốn đánh cho anh một trận. Hai người cười rộ. Vừa lúc ấy, Lai Hà Sĩ và Bão Đình Tỷ cùng bước vào để chúc mừng. Hai người lại càng nhịn cười không được. Đỗ Thận Khanh ra hiệu cho Quý Vi Tiêu không được cười nữa. Bốn người vái chào cùng ngồi. Đỗ Thận Khanh giữ họ lại ăn cơm. Ăn cơm xong, Đỗ kể chuyện hôm đến Thần Lạc Quán thấy một người Thái giám ngồi dưới lầu, ở bên trái hắn ta có những người hát tuồng, ở bên phải có những người đạo sĩ chơi đàn và ca hát. Quý Vi Tiêu nói:

                  - Thú vui kia mà chỉ dành riêng cho bọn ấy chơi sao? Thật là đáng bực!

                  Đỗ Thận Khanh nói: - Anh Vi Tiêu! Tôi có một việc này rất ít có, muốn bàn với anh.

                  - Việc gì vậy?

                  Đỗ Thận Khanh hỏi Bão Đình Tỷ:

                  - Ở cửa Thuỷ Tây và bên cầu có tất cả bao nhiêu gánh hát?

                  - Trên một trăm ba mươi gánh.

                  - Tôi định chọn một ngày nào đó mở một hội vui ở một nơi thật rông rãi, mời tất cả những người đóng vai đàn bà trong số một trăm mấy mươi gánh hát đến. Mỗi người ra đóng một trò. Tôi với anh Vi Tiêu ở bên cạnh nhìn xem vóc dáng người và dáng điệu người diễn. Vài ngày sau, sẽ định thứ bực; rồi viết lên một cái bảng. Ai mà nhan sắc và tài nghệ đều tuyệt thì sẽ được ghi vào bảng và yết ở nơi đông người qua lại. Cố nhiên, ai đến cũng có tiền. Mỗi người được biếu năm mươi đồng, hai cái túi, một cái quạt đề thơ. Chơi như thế có được không?

                  Quý Vi Tiêu mừng rỡ:

                  - Sao anh không nói điều ấy với tôi sớm hơn? Thế tin vui chết đi được.

                  Bão Đình Tỷ cười và nói:

                  - Để tôi đi gọi họ. Mỗi người được năm mươi đồng và sau này khi được các ngài chọn, yết tên vào bảng thì sẽ nổi danh. Tôi không dám nói chứ ai được yết tên vào bảng thì sẽ được đi lại với các quan và sẽ kiếm được nhiều tiền. Họ mà biết thế thì ai mà chả kéo đến đây để diễn tuồng.

                  Lai Hà Sĩ vỗ tay nói:

                  - Tuyệt! Tôi cũng muốn xem lắm! Không biết hôm đó các ngài có cho đạo sĩ này xem không?

                  Đỗ Thận Khanh nói: - Tại sao lại không? Chúng tôi sẽ gửi giấy mời tất cả các bạn hữu đến dự tiệc.

                  Quý Vi Tiêu hỏi: - Bây giờ chúng ta định làm ở đâu? Đình Tỷ nói:

                  - Tôi sống ở cửa Thuỷ Tây biết cửa Thuỷ Tây rất rõ. Tôi xin đi mượn một cái đình ở Mạc Sầu Hồ. Nơi đó rộng rãi và mát mẻ lắm.

                  - Cố nhiên là chú Bão phải đi loan báo các diễn viên. Nhưng chúng ta cũng phải viết một tờ yết thị chứ. Chúng ta chọn ngày nào đây?

                  Lai Hà Sĩ nói: - Hôm nay là ngày 20 tháng 4. Ông Bão còn phải đi loan báo mấy ngày. Loan báo xong, cũng mất độ mười ngày. Như thế thì định vào ngày mồng ba tháng sau là vừa.

                  Đỗ Thận Khanh nói: - Anh Vi Tiêu! Lấy một tờ giấy đỏ ra đây! Tôi đọc cho anh viết.

                  Quý Vi Tiêu cầm bút, Đỗ Thận Khanh đọc: “Quý Vi Tiêu ở An Khánh và Đỗ Thận Khanh ở Thiên Trường chọn ngày mồng 3 tháng năm mở hội ở Mạc Sầu Hồ. Báo cho tất cả các con hát trong các ban hát trong tỉnh, ai muốn đến dự thi thì ghi tên và ngày ấy đến Mạc Sầu Hồ. Mỗi người diễn một tấn tuồng tùy ý mình. Ai diễn cũng được năm mươi đồng, một cái túi, một cái quạt đề thơ, ba cái khăn tay. Nếu nhan sắc và tài nghệ đều khá thì được thưởng thêm. Cuộc thi vẫn tiếp tục không kể mưa gió. Báo cho tất cả mọi người biết”.

                  Vi Tiêu viết xong đưa ngay cho Bão Đình Tỷ. Thận Khanh sai đầy tớ ra phố mua hơn một trăm cái quạt về. Đỗ Thận Khanh, Lai Hà Sĩ và Quý Vi Tiêu mỗi người chia nhau mấy chục cái để đề thơ. Sau đó, họ bàn việc mời khách. Vi Tiêu lấy tờ giấy đỏ ra đặt trước mặt và viết: “Tôn tiên sinh, Tân tiên sinh, Kim Đông Nhai tiên sinh, Kim Ngu Lưu tiên sinh, Tiêu Kim Huyễn sinh, Gia Cát tiên sinh, Quý tiên sinh, Quách Thiết Bút, vị tăng, Lai đạo sĩ, ông Bão và hai chủ nhân nữa tất cả mười ba người. Họ viết mười một thiếp lấy tên hai người để mời.

                  Đang khi chuẩn bị thì Vương Lưu Ca người thiếp của Đỗ Thận Khanh mang lễ vật đến thăm chị: Hai con vịt, một cặp gà con, một miếng thịt, tám thứ bánh và một bình rượu. Đỗ nói:

                  - Em đến đây đúng lúc quá.

                  Vương Lưu Ca vái chào Đỗ Thận Khanh, Đỗ cầm lấy tay và nhìn một lượt. Rõ ràng là một người thiếu niên đẹp trai, có phần đẹp hơn cả chị. Đỗ bảo Vương trở lại sau khi đã thăm chị. Đỗ dặn người nhà làm thịt con gà và con vịt Vương vừa đem đến để nhắm rượu. Khi Vương Lưu Ca trở lại, Đỗ nói đến ý định mình muốn mở hội ở cái đình trên hồ. Lưu Ca reo lên:

                  - Tuyệt quá! Tôi cũng xin diễn một đoạn.

                  Quý Vi Tiêu nói:

                  - Thế thì hôm nay anh hãy hát một bài cho chúng tôi nghe với.

                  Vương Lưu Ca cười. Chiều hôm ấy sau khi đã uống rượu, Bão Đình Tỷ chơi sáo, Lai Hà Sĩ gõ nhịp và Vương Lưu ca hát bài “Tiễn biệt ở Trường Đình” lấy trong Tây Sương Ký. Bài hát rất du dương. Hát xong một lúc, tất cả mọi người đều say khướt và trở về.

                  Đến ngày mồng ba hai hòm đựng áo quần của hai ban tuồng được mang đến Mạc Sầu Hồ. Quý và Đỗ hai người chủ đến trước. Khách khứa cũng lần lượt đến. Bão Bình Tỷ đem đến độ sáu bảy mươi người hát tuồng. Họ đều là những người đã ghi tên vào tờ giấy hôm trước. Họ đến chào Đỗ Thận Khanh, Đỗ bảo họ trước tiên ăn cơm rồi trang sức lần lượt đi ra trước đình để cho các quan khách xem một lượt kỹ rồi mới vào diễn. Mọi người vâng dạ bước ra. Các danh sĩ nhìn Mạc Sầu Đình, thấy cửa bốn phía mở toang, bốn bề là nước hồ bao bọc. Ngọn gió nhẹ làm rung rinh mặt nước, những làn sóng gợn lăn tăn. Trên cái cầu ván ở bên ngoài đình, những người diễn tuồng đã trang sức đẹp đẽ. Họ đều đi qua cầu ấy đi vào. Đỗ bảo đóng cửa giữa lại. Những người diễn tuồng sau khi đi qua cầu, đi vòng qua hành lang một lượt theo cái cửa phía đông vào trong đình rồi đi ra cái cửa phía tây. Như thế, tất cả các quan khách đều có thể thấy rõ điệu bộ và dung nhan của họ.

                  Ăn cơm xong, mọi người trang điểm đẹp đẽ, đội mũ mới, mặc áo mới, lần lượt đi qua cầu vào đình rồi đi ra. Trong khi đó Đỗ và Quý cầm bút trong tay. Lát sau tiệc dọn ra, tiếng trống và tiếng thanh la nổi lên và mỗi người hát tuồng bước lên diễn một vở. Người này diễn vở “Bữa tiệc”, người kia diễn vở “Chàng hát say”. Người nọ diễn đoạn “Giết hổ”, người thì diễn đoạn “Xin uống trà”. Không có đoạn nào trùng nhau. Vương Lưu Ca diễn vở “Nhớ đến cảnh phàm tục”. Đêm đến, mấy trăm ngọn đèn cái cao cái thấp chiếu sáng như ban ngày. Giọng hát réo rắt cao vút trời xanh những người giàu có làm ở các nha môn, các hiệu buôn và những người chủ hiệu buôn ở trong thành nghe nói ở Mạc Sầu Hồ có hội, đều thuê thuyền treo đèn lồng, chèo ra giữa hồ xem. Khi nào cao hứng thì họ đồng thanh leo lên. Chơi mãi đến khi trời sáng, cửa thành đã mở, họ mới trở về thành. Một ngày sau, ở cửa Thuỷ Tây có một cái bảng đề: Thứ nhất Trịnh Khôi Quan ở ban Phương Lân, thứ hai: Cát Lai Quan ở ban Linh Hòa, thứ ba Vương Lưu Ca v.v... Hơn sáu mươi người khác cũng đều được xếp theo thứ tự như vậy. Bão Đình Tỷ đem Trịnh Khôi Quan đến yết kiến Đỗ Thận Khanh. Đỗ Thận Khanh cân ra hai lạng vàng bảo Bão Đình Tỷ đem ra hiệu hàng vàng làm một cái chén vàng trên khắc bốn chữ: “Đẹp hơn anh đào” để tặng riêng cho Trịnh Khôi Quan. Những người khác cũng đều được thưởng túi bạc, khăn tay và quạt thơ. Sau khi xem bảng, các vị quan quen thân với mười người hát tuồng được đứng đầu bảng rất là vui mừng. Có người kéo họ về nhà uống rượu. Có người mua rượu ở ngoài tiệm đem về cùng uống. Tiệc tùng kéo dài ba bốn ngày. Từ đó, tiếng truyền khắp cửa Thuỷ Tây lan đến cầu Hoài Thanh. Danh tiếng của Đỗ Thận Khanh làm náo động cả Giang Nam.

                  Chỉ nhân phen này, khiến cho:

                  Ở ngoài phong lưu tài tử, lại có người kỳ;

                  sau khi hoa rượu vui tình, còn nhiều vận sự.

                  Muốn biết sự việc như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

                  Chú thích:

                  (1-) Bảy danh sĩ niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh: Vương Thế Trinh, tự Phụng Châu, Lý Phan long tự Vu Lân, Tạ Trăn tự Mậu Tần; Tôn Thần tự Tử Tương, Lý Hữu Dự, Từ Trung Hành và Ngô Quốc Luân.

                  (2-) Những người làm quan đội mũ sa; cho nên những người làm quan thường gọi là hạng mũ sa.

                  (3-) Tức là Chu Nguyên Chương.

                  (4-) Trong quyển “Thuyết Uyển” có chuyện ông vua nước Ngạc đi thuyền đem nệm gấm lên trên chèo mà hát những việc của người nước Việt. Sau này người ta dùng việc ấy để tả cảm tình của người con trai đối với nhau".

                  (5-) Đồng Hiền đẹp trai được vua Ai Đế (năm 61 trước công nguyên) yêu, muốn nhường ngôi cho y.

                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #24
                    Huyện Thiên Trường đến thăm người hào kiệt
                    Lầu Tứ Thư say tít nhóm cao bằng Đỗ Thận Khanh mở hội, Bão Đình Tỷ thấy Đỗ tiêu nhiều tiền quá trong lòng kinh ngạc, bèn nghĩ thầm:

                    “Ông ta là người khẳng khái, tại sao ta không nhân đó mượn vài trăm lạng để lập một ban hát kiếm ăn như ngày trước. Chủ ý đã định, Đình Tỷ ngày nào cũng đến nhà bên bờ sông, săn sóc lo lắng đến nỗi Đỗ không ngờ như thế. Một hôm, đêm đã khuya, tất cả tôi tớ trong nhà đều đi ngủ hết, hai người nói chuyện tâm sự với nhau. Đỗ nói:

                    - Ông Bão. Ông hiện nay sinh sống như thế nào? Phải tìm một công việc gì mà làm mới được?

                    Bão Đình Tỷ nghe câu hỏi ấy liền quỳ xuống đất. Đỗ giật mình đỡ y dậy mà rằng:

                    - Anh làm cái gì thế? - Con là môn hạ của ông được ông hỏi như vậy thực ông lượng rộng như trời như biển. Nhưng con xuất thân làm nghề dạy hát tuồng, ngoài cái nghề ấy ra con không biết làm cái nghề nào khác. Xin ông thương con, giúp cho con vài trăm lạng để lập một ban hát như ban hát trước. Khi nào con kiếm ra tiền thế nào con cũng xin đưa lại.

                    - Cái đó thì dễ. Ngồi xuống rồi tôi bàn với ông. Vài trăm lạng bạc thì không đủ để lập một ban hát được. Ít nhất cũng phải mất đến ngàn lạng. Ở đây không có ai ngoài tôi và ông nên tôi cũng không giấu giếm gì ông hết. Nhà tôi tuy có một hai ngàn lạng bạc thật đấy, nhưng hiện nay tôi không muốn tiêu đến. Vì sao? Vì trong một hai năm nữa tôi sẽ thi đỗ và đỗ thì phải tiêu. Cho nên tôi phải giữ tiền để dùng vào việc ấy. Còn về việc ban hát của ông, thì tôi mách một người có thể giúp ông. Làm thế cũng như là tôi giúp ông vậy. Nhưng ông không được cho ông ta biết rằng chính tôi nói với ông điều ấy nhé!

                    - Ngoài ông ra ở đây còn có ai giúp tôi nữa?

                    - Ông đừng lo, hãy nghe tôi nói đã. Họ hàng chúng tôi có tất cả bảy ngành chính. Cụ Thượng thư bộ Lễ thuộc ngành thứ năm. Trước đây hai đời, cụ đứng đầu chi họ ngành thứ bảy thi đỗ trạng nguyên, ông con làm tri phủ phủ Cống Châu ở Giang Tây. Ông ấy là bác tôi và người con của ông là người anh họ thứ hai mươi lăm của tôi tên là Nghi, hiệu là Thiếu Khanh. Ông này kém tôi hai tuổi và đã đỗ tú tài. Bác tôi là một ông quan thanh bạch. Tổ tiên để lại một ít nhà cửa, ruộng vườn. Sau khi bác tôi chết để lại gia tài trên dưới một vạn lạng bạc. Nhưng Thiếu Khanh là người ngốc, tiêu xài như là người có mười mấy vạn lạng. Ông ấy không biết phân biệt bạc tốt hay bạc xấu, thế mà lại rất thích giúp đỡ người khác. Bất kỳ ai đến kể cảnh nghèo khổ của mình cũng được ông ta cho nhiều tiền. Bây giờ ông ở đây giúp tôi ít lâu. Đến mùa thu mát trời, tôi sẽ đưa tiền đi đường cho ông đến nhà ông anh họ tôi. Tôi cam đoan với ông, thế nào ông cũng có một ngàn lạng bạc.

                    - Lúc bấy giờ xin ông viết cho con một bức thư cho con cầm đi.

                    - Không được! Viết thư thì nhất định không được. Ông ta chỉ muốn làm người giúp đỡ duy nhất, người chiếu cố duy nhất đến người khác mà thôi. Ông ta không muốn ai nhúng tay vào việc giúp đỡ ấy. Nếu tôi viết thư thì ông ta cho rằng tôi đã giúp anh rồi, và ông ta sẽ giận nên không giúp anh nữa. Nhưng trước tiên ông phải đến tìm một người.

                    - Tìm ai?

                    - Ông anh họ tôi có một ông quản gia già họ Thiệu. Ông có biết người ấy không?

                    Bão suy nghĩ một lát rồi nói:

                    - Lúc thầy con còn sống thì ông Thiệu có bảo chúng con đến diễn tuồng để mừng sinh nhật bà cụ chủ. Con cũng được thấy cả cụ tri phủ Cống Châu.

                    - Thề thì tuyệt! Ông Thiệu bây giờ đã chết rồi. Người quản gia hiện nay là lão Vương Râu. Hắn là một thằng hết sức hèn hạ nhưng ông anh họ tôi lại hết sức tin cậy. Ông anh họ tôi có một cái bệnh như thế này: Hễ ai mà nói biết đến ông cụ thân sinh anh tôi thì dầu hắn là con chó, anh tôi vẫn kính trọng như thường. Vậy, trước tiên ông phải đến gặp lão Vương Râu. Thằng cha này thích uống rượu. Nếu ông mua rượu cho hắn uống và nhờ hắn nói với chủ rằng: ông là người cụ phủ ngày xưa thích nhất thì ông anh họ tôi sẽ cho ông vô khối tiền tiêu. Ông ta có tính không thích người ta gọi ông là “lão gia” (cụ chủ). Ông cứ gọi ông ta là “thiếu gia” (ông chủ trẻ) ông ta lại có một cái tật như thế này: ông không thích người ta nói chuyện về các quan hay những người giàu trước mặt mình. Chẳng hạn nói với ông ta rằng Hướng tri phủ trước kia rất tốt với ông. Đừng nói với ông ta điều đó. Cứ để ông ta tin rằng ông ta là người duy nhất đã che chở ông, giúp đỡ ông và nếu ông ta hỏi ông có biết tôi không thì cứ trả lời là không biết(#1).

                    Bão nghe vậy trong lòng mừng rỡ, hết sức giúp đỡ việc nhà cho Đỗ. Hai tháng nữa, vào cuối tháng bảy, trời bắt đầu mát. Đình Tỷ xin Thận Khanh hai lạng bạc, thu xếp hành lý để qua sông đi Thiên Trường.

                    Ngày thứ nhất, Bão qua sông đến ngủ ở huyện Lục Hợp, ngày thứ hai, Bão dậy sớm đi độ mười dặm đến một nơi gọi là đồi Tứ Hiệu. Bão vào một cái quán ngồi. Đang định gọi đem nước ra rửa mặt, thì thấy một cái kiệu dừng ở trước cửa. Ở trên kiệu bước xuống một cụ già, đầu đội mũ vuông, mình mặc áo sa trắng, chân đi giày lụa đỏ có cái mũi đỏ của một tay bợm rượu và bộ râu dài, bạc như sợi tơ. Cụ già vừa bước vào hiệu, thì chủ quán vội chạy ra đỡ lấy hành lý.

                    - Cụ Vi thứ tứ đã đến đấy à? Xin mời cụ vào!

                    Cụ Vi bước vào nhà. Đình Tỷ đứng dậy vái chào, cụ Vi đáp lễ. Đình Tỷ mời cụ Vi ngồi ghế trên, mình ngồi ghế dưới và hỏi:

                    - Ngài họ Vi, vậy ngài làm ơn cho biết ngài ở đâu?

                    - Tôi họ Vi, ở trấn Ô Y thuộc Từ Châu. Ông họ là gì và ở đâu?

                    - Tôi họ Bão người Nam Kinh đến phủ trạng nguyên ở Thiên Trường thăm ông Đỗ Thiếu Gia.

                    - Ông Đỗ nào? Đỗ Thận Khanh hay Đỗ Thiếu Khanh?

                    - Đỗ Thiếu Khanh.

                    - Gia đình ông Đỗ có sáu bảy mươi người, nhưng chỉ có hai người này giao du với các tân khách bốn phương, còn những người khác toàn đóng cửa, bo bo giữ lấy ruộng vườn và lo thi cử. Tôi hỏi ông Đỗ nào trong hai người là vì vậy. Cả hai đều là tay nổi tiếng ở khắp miền Trường Giang này. Thận Khanh là người phong nhã, nhưng tôi thấy ông ta có vẻ uỷ mị một chút. Còn Thiếu Khanh là một người hào kiệt. Tôi cũng đến nhà thăm ông ta đây. Chúng ta ăn cơm rồi cùng đi.

                    - Cụ có phải là bà con với Đỗ phủ không?

                    - Tôi là bạn học rất thân với cụ phủ Cống Châu từ khi còn nhỏ.

                    Đình Tỷ nghe vậy lại càng kính trọng. Ăn cơm xong, Vi lên kiệu, bão thuê lừa cưỡi để cùng đi đến cổng thành huyện Thiên Trường. Vi xuống kiệu nói:

                    - Ông Bão! Chúng ta cùng vào Đỗ phủ đi. - Cụ cứ lên kiệu đi trước. Tôi còn đến nhà gặp người quản gia rồi đến gặp thiếu gia cũng được.

                    - Tốt lắm!

                    Cụ Vi lên kiệu đi thẳng vào Đỗ phủ. Người giữ cổng vào báo tin. Thiếu Khanh vội vàng ra mời vào nhà khách. Thiếu Khanh nói:

                    - Đã nửa năm nay xa cách, cháu chưa đến thăm bác và bác gái. Sức khỏe của bác mấy lâu nay như thế nào?

                    - Cám ơn! Đều mạnh khỏe cả. Đầu mùa thu này ở nhà rỗi, tôi nhớ đến vườn hoa trong phủ anh hoa quế chắc chắn nở đầy cho nên tôi đến đây thăm anh rồi cùng uống rượu.

                    - Uống trà xong mời bác vào thư phòng ngồi chơi! Người đầy tớ bưng trà lên, Đỗ Thiếu Khanh dặn: - Mang hành lý của cụ Vi vào thư phòng rồi trả tiền cho người khiêng kiệu để cho họ đi nhé.

                    Thiếu Khanh dẫn cụ Vi theo một con đường nhỏ quanh co ở sau nhà khách đi vào vườn hoa. Trong vườn hoa, có ba gian phòng, cửa nhìn ra hướng đông. Một cái lầu ở bên trái, do Đỗ trạng nguyên ngày xưa làm, gọi là lầu tứ thư. Trước lầu là một cái sân rộng, có một bồn hoa mẫu đơn, một bồn hoa thược dược, và hai câu quế rất lớn, hoa nở thực đẹp. Đối diện với nó là ba gian nhà để nghỉ mát. Có ba gian thư phòng nhìn ra một cái hồ con... Một cái cầu bắc ngang qua hồ đưa người ta đến một cái phòng kín đáo là chỗ Đỗ Thiếu Khanh thường đọc sách một mình. Thiếu Khanh mời cụ Vi vào cái thư phòng nhìn ra hướng Nam. Hai cây hoa quế ở trước cửa sổ. Cụ Vi ngồi xuống và hỏi:

                    - Ông Lâu còn ở đây không? - Bác Lâu gần đây rất yếu. Cháu để bác vào phòng trong nghỉ. Bác vừa ngủ sau khi đã uống thuốc nên không ra chào bác được.

                    - Nếu ông ta đau, tại sao không để ông ta về nhà? - Cháu đã đưa con, cháu bác ấy đến đây để hầu hạ thuốc thang, cháu cũng sớm chiều chăm sóc thêm.

                    - Ông ta đã làm việc với gia đình ông hơn ba mươi năm nay, mà không có của cải gì sao? Ông ta không mua được sản nghiệp nào cả sao?

                    - Sau khi ông cụ cháu được bổ làm tri phủ ở Cống Châu thì cụ cháu giao tất cả nhà cửa, ruộng vườn cho bác ấy coi sóc. Bác Lâu hoàn toàn trong nom việc tiền ra tiền vào, không bao giờ ông cụ cháu hỏi qua một lời. Nhưng ngoài tiền lương một năm bốn mươi lạng bạc ra, thì bác ấy không động đến một đồng tiền nhỏ. Đến lúc thu tô, bác Lâu thân hành về đến nhà tá điền, họ dọn ra hai món ăn thì bác ấy chỉ ăn có một và bảo cất đi một. Con cháu đến thăm, bác ấy chỉ cho ở một hai ngày rồi bảo về không bao giờ cho một đồng, trừ tiền đi ăn đường. Có khi bác ấy khám cả túi chúng để yên trí là chúng không lấy tiền bọn quản gia cho chúng. Khi nào thu tô, thấy thân thích bằng hữu thiếu thốn là bác ấy tìm hết cách giúp đỡ. Cụ tôi biết vậy nhưng không hề hỏi. Có người thiếu tiền không sao trả được thì bác ấy đốt văn tự. Ngày nay, mặc dầu bác ấy đã già với hai đứa con trai và bốn đứa cháu trai, nhưng bác vẫn nghèo xác, nghèo xơ. Cháu rất lấy làm áy náy về việc đó.

                    Cụ Vi thở dài mà rằng:

                    - Thật là con người quân tử đời xưa

                    Và hỏi:

                    - Ông Thận Khanh ở nhà có mạnh khỏe không?

                    - Anh cháu đã đi Nam Kinh.

                    Vừa lúc ấy, quản gia Vương Râu tay cầm một cái thiếp đỏ đứng ngoài cửa sổ không dám đi vào. Thiếu Khanh nhìn thấy hỏi:

                    - Ông Vương có việc gì thế? Ông cầm cái gì thế?

                    Vương Râu liền đến thư phòng đưa danh thiếp vào bẩm:

                    - Có một người họ Bão ở Nam Kinh làm nghề hát tuồng mấy năm nay đi các nơi kiếm ăn, hiện nay vừa về. Anh ta vừa qua sông đến đây hầu thăm thiếu gia.

                    - Nếu anh ta là con hát thì nói trong nhà ta có khách, không thể tiếp anh ta được. Trả tờ thiếp này lại cho anh ta để anh ta đi.

                    - Anh ta nói rằng xưa kia anh ta chịu ơn cụ phủ cho nên muốn đến đây tạ ơn thiếu gia.

                    - Ông cụ ta có giúp đỡ anh ta thật không?

                    - Thưa có ạ. Năm xưa ông Thiệu thuê ban hát ông ta ở bên kia sông, và cụ phủ rất thích anh chàng Bão Đình Tỷ này. Cụ có hứa sẽ giúp đỡ anh ta.

                    - Nếu vậy thì dẫn anh ta vào.

                    Cụ Vi nói:

                    - Tôi gặp anh ta trên đường cái.

                    Vương Râu đi ra đưa Bão Đình Tỷ vào ra vẻ rất khúm núm. Đình Tỷ nhìn thấy vườn hoa bát ngát mênh mông. Vừa đến cửa thư phòng, Bão thấy Đỗ Thiếu Khanh đang ngồi nói chuyện với một người khách. Đỗ đầu đội mũ vuông, mình mặc áo xám đi giày có ngọc châu. Da mặt hơi vàng, đôi mày xếch như lưỡi kiếm giống như bức tranh vẽ lông mày Quan Công. Vương Râu nói:

                    - Thiếu Gia ở đấy anh cứ đi vào.

                    Đình Tỷ vào, quỳ xuống đập đầu. Thiếu Khanh đỡ dậy mà rằng:

                    - Chúng ta là người quen cũ cả mà! Cần gì phải lễ phép thế.

                    Đình Tỷ đứng dậy vái chào Đỗ xong, lại vái chào cụ Vi. Đỗ mời Bão ngồi ở cái ghế thấp. Bão nói:

                    - Con mang ơn cụ phủ thật là sâu nặng, sau này dù thịt nát xương tan cũng khó lòng trả được. Mấy năm nay con làm ăn cùng quẫn, phải đi lưu lạc kiếm ăn không sao trở về hầu thăm Thiếu Gia được. Hôm nay mới về nhà thăm Thiếu Gia, xin Thiếu Gia tha lỗi cho.

                    - Vừa rồi, ông Vương nói ông thân của tôi rất thích anh và có ý muốn giúp đỡ anh. Bây giờ anh đã đến đây thì hãy ở đây để ta xem có thể giúp anh được việc gì không?

                    Vương Râu nói: - Tiệc đã dọn rồi, Thiếu Gia muốn ăn ở đâu? Cụ Vi nói:

                    - Tại sao không ăn ở đây!

                    Đỗ ngần ngừ một lát rồi nói:

                    - Còn mời một người khách nữa.

                    Bèn gọi một người đầy tớ ở trong thư phòng là Gia Tước.

                    - Gia Tước! Mày ra cửa sau mời ông Tương lại đây! Gia Tước vâng dạ đi ra. Một lát sau đưa vào một người mắt to, râu mép vàng hoe, đầu đội một cái mũ hình miếng ngói, mình mặc một cái áo rộng bằng vải, rụt rè khép nép giả dáng văn nhân. Bước vào, y thi lễ, ngồi xuống và hỏi tên cụ Vi. Cụ Vi nói tên họ mình xong quay lại hỏi:

                    - Ông cho biết tên họ?

                    - Tôi họ Trương tên tự là Tuấn Dân, mấy lâu nay là môn hạ của Đỗ Thiếu Gia. Tôi có biết một ít thuốc, Thiếu Gia cho mời tôi đến săn sóc hàng ngày cho ông Lâu. Nhân tiện, Trương Tuân Dân hỏi:

                    - Hôm nay ông Lâu uống thuốc như thế nào?

                    Đỗ Thiếu Khanh sai Gia Tước đi hỏi. Một lát sau, Gia Tước trở vào bẩm:

                    - Ông Lâu uống thuốc xong ngủ được một giấc, bây giờ đã tỉnh và đã thấy khoai khoái hơn một chút.

                    Trương Tuấn Dân lại hỏi:

                    - Vị này là ai?

                    Đỗ Thiếu Khanh nói:

                    - Ông Bão bạn tôi ở Nam Kinh lại.

                    Tiệc bày ra, mọi người ngồi ăn. Cụ Vi ngồi ghế đầu, Trương Tuấn Dân ngồi đối diện, Đỗ Thiếu Khanh ngồi ghế chủ, bão Đình Tỷ ngồi ghế dưới. Rót rượu uống một lượt. Đồ nhắm đều là ở trong nhà làm ra, rất là tinh khiết. Trong các thức nhắm, có thứ giò thui treo đã ba năm nay, những con cua, mỗi con nặng nửa cân đã bóc mai để nấu canh. Mọi người ăn. Cụ Vi hỏi Trương Tuấn Dân:

                    - Chắc trong nghề làm thuốc của ông, ông đã đạt đến chỗ cao minh.

                    - Đọc thuộc sách của Vương Thủ Hoà(#2) cũng không bằng có kinh nghiệm trị bệnh. Không dám nói dối gì, tôi tuy không đọc được nhiều sách, nhưng đã chữa bệnh rất nhiều. Gần đây được Thiếu Gia dạy bảo, tôi mới thấy cần phải đọc sách. Vì vậy đứa con tôi, tôi chưa dạy nó học thuốc vội, hãy đón một ông đồ dạy văn chương cho nó đã. Tôi có đưa những bài văn nó viết cho Thiếu Gia xem, Thiếu Gia cũng có phê vào bài. Tôi về nhà học thuộc những lời phê ấy nên cũng biết đôi chút về văn chương. Sau này, hai năm nữa, tôi sẽ cho con tôi đi thi ở huyện kiếm hai bữa bánh. Khi treo biển nó sẽ đồng thời là một nhà nho kiêm thầy thuốc.

                    Cụ Vi nghe nói vậy, cười khanh khách, Vương Râu lại cầm một tờ danh thiếp vào bẩm:

                    - Ngày mai ông Uông chủ hiệu buôn muối ở cửa Bắc ăn sinh nhật. Ông ta có mời quan huyện đến và mời Thiếu Gia đến để tiếp quan huyện. Ông ta mong mỏi Thiếu Gia thế nào cũng đến cho.

                    Đỗ Thiếu Khanh nói: - Nói với ông ta rằng ta ở nhà có khách không đến dự tiệc được. Cái lão kia thật buồn cười! Nếu hắn muốn làm việc này cho rầm rộ thì cứ việc mời những người đỗ cử nhân, tiến sĩ trong huyện để họ tiếp quan huyện! Ta có thì giờ đâu mà tiếp khách cho hắn.

                    Vương Râu vâng dạ đi ra. Đỗ nói với cụ Vi: - Bác tửu lượng rất cao. Trước đây bác thường ngồi uống rượu với thầy cháu đến nửa đêm. Hôm nay, xin mời bác uống cho thật say.

                    - Phải! Này anh! Tôi có một câu chuyện, không tiện nói ra. Hôm nay các thức nhắm của anh đều ngon cả nhưng rượu này mua ở ngoài chợ nên chỉ ngon một phần thôi. Anh có một vò rượu trong nhà ít nhất đã cất được tám chín năm. Tôi chắc hiện nay đang còn.

                    - Cháu không biết chuyện đó.

                    - Anh không biết được đâu! Năm ông cụ của anh đi làm quan ở Giang Tây, tôi tiễn cụ đến tận thuyền, cụ nói với tôi: “Tôi có chôn một vò rượu ở trong nhà. Khi nào hết hạn làm quan trở về nhà, chúng ta sẽ cùng uống với nhau một trận ra trò”. Vì vậy cho nên tôi nhớ mãi đến nay. Tại sao anh không hỏi người nhà xem.

                    Trương Tuấn Dân cười mà rằng:

                    - Câu chuyện này cố nhiên Thiếu Gia không thể biết được!

                    Đỗ Thiếu Khanh đi vào hỏi người nhà. Cụ Vi nói:

                    - Đỗ Thiếu Khanh tuy còn trẻ nhưng ở trong chúng ta, ông thực là một con người hào kiệt.

                    Trương nói:

                    - Thiếu gia là người hết sức tốt, nhưng có một điều ông ta quá rộng rãi bất kỳ ai xin ông ta, ông ta cũng dốc bạc ra mà cho.

                    Bão Đình Tỷ nói:

                    - Trong đời con, chưa bao giờ con thấy một người rộng rãi hào hiệp như Đỗ Thiếu Gia.

                    Thiếu Khanh đi vào nhà trong hỏi vợ xem có biết gì về vò rượu ấy không. Nhưng người vợ nói không biết. Hỏi tất cả những người đầy tớ trai, đầy tớ gái cũng không ai biết. Cuối cùng, hỏi đến vú già là bà Thiệu thì người vú già nhớ lại và nói:

                    - Quả có một vò rượu như thế thực! Năm cụ nhà ta làm tri phủ, có cất một vò rượu và đem chôn ở cái phòng nhỏ đằng sau cái nhà thứ bảy. Cụ nói là để dành cho cụ Vi uống. Rượu nấu gồm hai đấu bếp, hai mươi cân men lại thêm hai mươi cân tinh rượu. Tuyệt nhiên không có một giọt nước lã nào. Nay đào lên thì vừa đúng chín năm bảy tháng. Rượu này uống say chết người. Nếu lấy ra xin Thiếu Gia đừng uống.

                    Đỗ Thiếu Khanh nói:

                    - Ta biết rồi.

                    Đỗ cùng hai người đầy tớ đi vào bảo người vú già lấy chìa khóa mở cửa. Mấy người đào hũ rượu lên và đem vào thư phòng. Thiếu Khanh gọi:

                    - Bác ơi! Tìm được vò rượu ấy rồi.

                    Cụ Vi và hai người khách chạy lại xem và nói:

                    - Đúng

                    Hũ rượu được mở ra, họ múc ra một chén, thấy rượu đặc như nếp, quánh lên ở trong chén, mùi hương sặc lên mũi. Cụ Vi nói:

                    - Tốt lắm! Rượu này không phải uống như các thứ rượu khác đâu! Anh cho người ra ngoài phố mua mười cân rượu đem về đây trộn lẫn với nó rồi mới uống được. Hôm nay chưa nên uống, hãy để đấy. Đến mai chúng ta sẽ uống suốt một ngày. Hai vị sẽ cùng uống với chúng ta.

                    Trương nói:

                    - Cố nhiên là tôi đến tiếp các vị.

                    Bão Đình Tỷ nói:

                    - Con là người như thế nào mà lại được uống thứ rượu cụ cố để lại! Ngày mai là ngày sung sướng nhất trong đời con!

                    Một lát sau, Gia Tước được lệnh cầm đèn lồng tiễn Trương Tuấn Dân về nhà. Đinh Tỷ ngủ lại ở thư phòng với cụ Vi. Thiếu Khanh đợi cho cụ Vi ngủ say rồi mới đi nghỉ.

                    Sáng hôm sau, Bão dậy sớm đến phòng Vương Râu. Gia Tước cùng ngồi ở đấy với một người đầy tớ nữa. Vương Râu hỏi Gia Tước:

                    - Cụ Vi đã dậy chưa?

                    Gia Tước đáp:

                    - Cụ đã dậy và đang rửa mặt. Vương Râu lại hỏi người đầy tớ kia:

                    - Thiếu Gia đã dậy chưa?

                    - Thiếu Gia đã dậy từ lâu, hiện đang ở trong phòng ông lâu xem sắc thuốc.

                    Vương Râu nói:

                    - Ông chủ của chúng ta thật là một người kỳ quặc! Ông Lâu chẳng qua chỉ là người đày tớ của cụ phủ ngày trước mà thôi. Ông ta đau ốm thì chỉ cần cho vài lạng bạc rồi cho về nhà. Thế là xong! Chứ giữ ông ta ở đây, đối đãi như ông nội, chầu chực từ sáng đến tối như thế để làm gì?

                    - Người đầy tớ nói:

                    - Ông Vương! Tại sao ông nói như vậy? Khi chúng tôi nấu xong cháo hay đồ ăn cho ông Lâu ăn, con cháu ông Lâu xem Thiếu Gia vẫn cho là chưa đủ nên phải thân hành xem, rồi mới đưa cho ông Lâu ăn. Hộp nhân sâm ở trong phòng bà chủ là do bà chủ tự tay bào chế lấy, còn thuốc thì chẳng nói làm gì. Sáng chiều, nếu ông chủ không thân hành mang sâm đến, thì bà chủ lại tự tay mang đến cho ông Lâu. Nếu ông chủ nghe ông nói như vậy thì ông mắng cho một trận đấy!

                    Vừa lúc ấy người giữ cổng bước vào:

                    - Ông Vương! Ông mau mau vào báo rằng ông Tang đã đến, ông ta đang ngồi ở ngoài nhà khách đợi Thiếu Gia.

                    Vương Râu nói với người đầy tớ:

                    - Anh vào mà tìm Thiếu Gia ở trong phòng của ông Lâu. Tôi không vào đó để hỏi thăm sức khỏe ông ta đâu.

                    Đình Tỷ nói:

                    - Như vậy càng tỏ rằng Thiếu Gia là người nhân hậu!

                    Người đày tớ vào mời Thiếu Khanh ra gặp Tang Tang vái chào, ngồi xuống. Thiếu Khanh nói:

                    - Anh Ba! Đã lâu tôi không gặp anh. Hội thơ văn của anh độ này có gì vui không?

                    - Tôi nghe người giữ cổng nói anh có một người khách ở xa lại đây. Thận Khanh ở Nam Kinh vui thú quá quên cả về nhà.

                    - Bác Vi ở Ô Y hiện nay ở đây. Hôm nay tôi đang làm một bữa tiệc để thết đãi bác ấy. Thế nào anh cũng phải ở lại đây với chúng tôi. Chúng ta hãy cùng vào thư phòng đi.

                    - Hãy ngồi xuống đã! Tôi có một việc muốn bàn với anh. Quan phụ mẫu ở huyện là thầy học của tôi. Ông ta nhiều lần nói với tôi rằng ông ta rất cảm phục tài năng của anh. Khi nào anh cùng tôi lên thăm ông ta đi!

                    - Cái trò đi lạy quan huyện làm thầy thì tôi để phần anh. Không cần nói thời ông cố của tôi và thời ông nội của tôi làm gì. Nói ngay thời cha tôi thôi. Biết bao ông huyện đã đến đây. Thật ra, nếu ông ta ngưỡng mộ tài năng của tôi, tại sao ông ta không đến thăm tôi trước, mà lại bắt tôi phải đến thăm ông ta. Vì tôi không may đỗ tú tài nên hễ gặp quan huyện là phải gọi ông ta là thầy phải không? Ông Vương kia là đỗ tiến sĩ hủ lậu, ông ta muốn gọi tôi làm thầy tôi còn chưa chịu nhận nữa là. Bây giờ tôi đến thăm ông ta để làm cái gì? Vì vậy nên hôm nay nhà họ Uông buôn muối cho mời tôi đến tiếp quan huyện thì tôi từ chối ngay.

                    - Chính vì vậy cho nên hôm nay tôi mới đến đây. Hôm qua nhà họ Uông có nói với quan huyện Vương rằng ông ta mời anh đến tiếp cho nên quan huyện mới chịu đến nhà, cốt để gặp anh. Bây giờ nếu anh không đến thì người ta sẽ cụt hứng. Vả chăng, khách khứa hiện nay hãy còn ở đây cả. Anh cứ đi hôm nay, mai về tiếp cũng được chứ sao! Hay là, tôi sẽ tiếp khách thay anh để cho anh đến nhà ông Uông.

                    - Thôi anh Ba! Anh không phải nói làm gì cho mệt. Người thầy của anh không phải là kẻ yêu người hiền tài đâu. Ông ta chỉ muốn có người xin làm học trò để nhận lễ vật mà thôi. Ông ta muốn nhận tôi là học trò ư? Ông ta mê ngủ sao? Dầu sao hôm nay tôi cũng có khách. Tôi đã nấu bảy cân thịt vịt, đã đào được một vò rượu cất chín năm rưỡi nay. Nhà họ Uông không thể có cái gì ngon như thế để đãi tôi đâu! Không nói dài lời, anh và tôi vào thư phòng đi.

                    Đỗ kéo Tang đi vào. Tang nói: - Khoan đã! Làm cái gì mà rối lên thế! Tôi chưa bao giờ gặp ông Vi cả. Để tôi viết một cái danh thiếp chứ.

                    - Tốt lắm! Đỗ bảo đầy tớ mang nghiên bút và một cái thiếp đến. Tang viết: “Bạn học và thân thích của Đỗ Thiếu Khanh, Tang Đồ”. Tang bảo đầy tớ đưa danh thiếp vào trước. Đỗ Thiếu Khanh đi vào. Cụ vi ra ngoài cửa chào hai người. Mọi người ngồi xuống ghế! Cụ Vi hỏi Tang:

                    - Ông cho biết tên tự.

                    Đỗ Thiếu Khanh nói:

                    Anh ấy tự là Liễu Trai, là bạn học của cháu, lại là bạn thân của anh Thận Khanh.

                    Cụ Vi nói:

                    - Tôi đã nghe tiếng ông từ lâu.

                    Tang nói:

                    - Tôi ngưỡng mộ ngài đã lâu nay được gặp thật là may mắn.

                    Tang biết Trương Tuấn Dân, nhưng khi nhìn thấy Bão Đình Tỷ thì hỏi:

                    - Vị này là ai?

                    Bão nói:

                    - Tôi họ Bão. Tôi vừa ở Nam Kinh đến đây.

                    - Ông ở Nam Kinh đến, vậy ông có biết ông Thận Khanh ở phủ này không?

                    - Tôi có được gặp mặt ông Mười Bảy.

                    Ăn cơm xong, cụ Vi gọi mang vò rượu ra, thêm vào đấy mười cân rượu mới mua, bảo người nhà lấy than hồng ra xếp thành chồng ở bên cạnh cây quế, đặt vò rượu lên trên. Một lát sau rượu bắt đầu nóng. Trương Tuấn Dân cùng người nhà tháo sáu cánh cửa sổ ra, đưa cái bàn đặt dưới mái hiên. Mọi người cùng ngồi, lại có đồ nhắm mới mang ra nữa. Thiếu Khanh bảo lấy ra một cái chén bằng vàng và bốn cái chén bằng ngọc rót đầy rượu. Cụ Vi nâng chén vàng lên, cụ uống xong một chén lại khen:

                    - Ngon tuyệt!

                    Họ uống mãi, Vương Râu đưa bốn người vào mang một cái hòm lại. Thiếu Khanh nói:

                    - Cái gì thế.

                    Vương Râu nói:

                    - Đây là cái hòm quần áo của Thiếu Gia, cho phu nhân và cậu cả. Áo quần mùa thu mới may xong, tôi đem đến cho Thiếu Gia xem qua. Tiền may đã trả rồi.

                    Đỗ Thiếu Khanh nói:

                    - Để cái hòm đấy đợi ta còn uống rượu xong đã.

                    Cái hòm vừa đặt xuống đất, thì người thợ may đã đi vào, Vương Râu nói:

                    - Anh Dương là thợ may có lời muốn thưa với Thiếu Gia!

                    - Anh ta muốn gì?

                    Đỗ vừa đứng dậy thì người thợ may bước vào sân trong, quỳ xuống đập đầu rống lên. Đỗ Thiếu Khanh kinh hoảng nói:

                    - Anh Dương! Anh làm cái gì thế?

                    - Con làm việc mấy hôm nay ở trong nhà Thiếu Gia. Sáng nay, con đem tiền công may về nhà, không ngờ mới được một lát thì mẹ con bị bệnh cấp chứng mà chết. Khi con đem tiền công về nhà, con không ngờ xảy ra việc như thế, nên bao nhiêu tiền công đều đã dùng để trả hàng gạo và hàng củi hết. Hiện nay con không có tiền để mua quan tài, áo quần cho mẹ con nữa. Con chỉ còn một cách là đến đây nhờ Thiếu Gia cho con vay hai lạng, sau này con sẽ tính vào tiền công trừ dần.

                    - Anh cần bao nhiêu tiền?

                    - Con nhà nghèo không dám mong nhiều, chỉ từ bốn đến sáu lạng là nhiều lắm. Con sẽ làm để lấy tiền công bù vào.

                    Đỗ buồn rầu nói:

                    - Ta không đòi anh trả lại đâu. Anh tuy làm nghề hèn mọn nhưng cái việc mẹ anh chết là việc lớn không thể làm qua loa được, kẻo sau này hối hận suốt đời. Mấy lạng bạc có là bao nhiêu. Anh phải mua một cái quan tài ít nhất là mười sáu lạng. Lại còn đồ tang phục và tiền tiêu vặt nữa tất cả cũng phải đến hai mươi lạng. Hiện nay trong nhà ta không có đồng nào. Nhưng thôi! Cái hòm áo quần này có thể đem cầm đi lấy hai mươi lạng bạc. Vương Râu! Anh đưa cái hòm ấy cho anh Dương. Đem cầm được bao nhiêu tiền thì cho anh ta.

                    Nhưng lại nói:

                    - Anh Dương, anh không nên nhớ việc này làm gì. Mong anh quên đi cho. Anh có phải lấy tiền của ta đem đi đánh bạc và uống rượu đâu! Việc mẹ mất là việc lớn. Người nào mà chẳng có mẹ, cho nên ta phải giúp anh.

                    Người thợ may họ Dương cùng Vương Râu khiêng hòm áo quần ra, vừa khiêng vừa khóc. Đỗ Thiếu Khanh quay lại ngồi xuống ghế. Cụ Vi nói:

                    - Quả là một việc ít có.

                    Bão Đình Tỷ lè lưỡi nói:

                    - A di đà Phật! Trong thiên hạ lại có con người tốt như thế sao?

                    Họ ăn tiệc uống rượu suốt ngày. Tang tửu lượng kém cho nên uống đến chiều đã nôn, phải vực về nhà. Cụ Vi và những người khác uống mãi đến canh ba, cạn hết cả vò rượu.

                    Chỉ nhân phen này khiến cho:

                    Trọng người nhẹ của, một lòng giúp lắm bạn bè;

                    Đất nguyệt trời hoa, bốn bề lại nghe hào kiệt.

                    Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

                    Chú thích:

                    (1-) Tất cả hồi hai mươi chín đến đây miêu tả Đỗ Thận Khanh, một nhà nho giàu có, có tài, đẹp trai nhưng rất tầm thường. Thận Khanh chịu mất tiền để mua cái danh là hào hoa, chứ không chịu mất tiền để giúp đỡ người khác. Đoạn nhận xét về Thiếu Khanh càng chứng tỏ Thân Khanh là một người tục khách.

                    (2-) Vương Thủ Hòa là một danh y đời Tấn có viết quyển Mạch kinh là sách các thầy thuốc đều phải đọc.

                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #25
                      Đỗ Thiếu Khanh ngày thường hào phóng
                      Lâu Hoán Văn từ biệt dặn lời. Sau khi tan việc, cụ Vi ngủ mãi đến gần trưa hôm sau mới dậy. Cụ từ biệt Thiếu Khanh:

                      - Tôi còn phải đến thăm các chú và anh em họ hàng của anh nữa. Bữa tiệc hôm qua anh đãi tôi thật làm cho tôi vui sướng vô cùng! Tôi nghĩ rằng không ai có thể đãi tôi một bữa tiệc thú vị như thế. Bây giờ tôi phải đi. Tôi cũng không có thì giờ đến thăm ông Tang được. Nhờ anh nói hộ tôi có lời thăm.

                      Thiếu Khanh giữ lại một ngày nữa. Hôm sau, Thiếu Khanh thuê người khiêng kiệu và lấy ra một cái chén ngọc, hai bộ quần áo của cha mình ngày xưa biếu cụ Vi mà rằng:

                      - Các bạn thân của thầy cháu nay chỉ còn có bác, cháu mong bác đến đây luôn và cháu cũng phải năng đến hầu thăm bác. Cháu mong bác cầm cái chén ngọc này để uống rượu. Hai bộ quần áo này là của thầy cháu trước đây bác nhận giúp, để khi nào bác mặc nó, cháu sẽ tưởng như thấy thầy cháu sống lại.

                      Cụ Vi vui vẻ nhận. Bão Đình Tỷ lại ngồi tiếp cùng uống thêm một bình rượu nữa và ăn cơm.

                      Đỗ và Đình Tỷ tiễn cụ Vi ra khỏi thành và cúi đầu chào khi cụ Vi lên kiệu. Hai người trở về, Đỗ đến phòng của ông Lâu xem bệnh tình như thế nào. Ông Lâu nói bệnh đã bớt, muốn cho người cháu trở về, chỉ giữ lại người con để hầu hạ mình mà thôi. Đỗ bằng lòng. Nghĩ đến việc ông Lâu không có tiền, Đỗ sai gọi Vương Râu đến bàn:

                      - Mày đem bán những thửa ruộng của ta ở phía trong để cho thằng ấy đi.

                      - Hắn muốn Thiếu Gia bán rẻ cho hắn. Thiếu Gia đòi một ngàn năm trăm lạng. Hắn chỉ trả một ngàn ba trăm lạng thôi. Vì vậy, con không dám bán.

                      - Một nghìn ba trăm lạng cũng được.

                      - Con muốn thưa để Thiếu Gia rõ việc đó trước khi bán. Kẻo bán rẻ sợ Thiếu Gia mắng.

                      - Ai mắng mày làm gì? Đi bán đi, mau lên. Ta cần tiền ngay để tiêu.

                      - Thưa Thiếu Gia, con muốn bẩm một việc này nữa. Khi Thiếu Gia có tiền trong tay xin Thiếu Gia dùng vào việc có ích. Bán sản nghiệp đi là một việc đáng tiếc. Nhưng Thiếu Gia lại cho người ta hàng trăm hàng ngàn lạng, và cứ cho không như vậy.

                      - Mày thấy tao có bao giờ dùng tiền không được việc gì cả không! Mày muốn kiếm chác một ít phải không? Đừng nói liều! Thôi đi mau cho được việc.

                      - Con chỉ bẩm qua thế thôi!

                      Vương Râu đi ra, nói thầm với Đình Tỷ:

                      - Tốt rồi! Anh có hy vọng kiếm chác rồi đấy. Bây giờ tôi đến để bán ruộng, bán ruộng về tôi sẽ bày kế cho anh.

                      Vương Râu đi. Mấy ngày sau, y đem về một ngàn mấy trăm lạng đựng trong một cái túi và thưa với Thiếu Khanh.

                      - Số bạc này chỉ có từ chín mươi lăm đến chín mươi bảy phần trăm là bạc thực. Vì cân là cân chợ, nên mỗi lạng lại thiếu đi mười ba đồng rưỡi. Hắn lại rút bớt đi hai mươi ba lạng bốn đồng để trả tiền cho người mách mối, hai mươi ba lạng cho người làm chứng. Số tiền ấy nhà ta đều phải chịu cả. Nay số tiền đã đem về đây. Để con đi lấy cân về cho Thiếu Gia cân.

                      - Ai còn hơi sức đâu mà ngồi nghe mày tính toán rắc rối như thế. Nay tiền đã đem về rồi còn cân làm quái gì. Thôi đem cất đi.

                      - Con chỉ muốn thưa rõ.

                      Đỗ nhận được tiền liền gọi người cháu ông Lâu vào thư phòng nói:

                      - Ngày mai anh về nhà phải không?

                      - Thưa vâng, ông cháu bảo cháu về.

                      - Đây ta cho anh một trăm lạng bạc, anh không được nói cho ông anh biết đấy nhé. Anh có mẹ góa phải nuôi vì vậy phải đem số tiền này về nhà để lo làm ăn nuôi mẹ. Nếu như ông anh khỏe, chú anh có thể về được thì ta cũng cho chú anh một trăm lạng bạc nữa mang về.

                      Người cháu ông Lâu mừng rỡ nhận số bạc cảm tạ Thiếu Gia. Hôm sau y vào từ giã ra về. Ông Lâu chỉ cầm cho cháu ba đồng cân để làm tiền đi đường. Khi người cháu đi rồi, Đỗ Thiếu Khanh trở vào, thấy một người nhà quê đang đứng trong phòng khách. Thấy Thiếu Gia đến, hắn liền quỳ ngay xuống và đập đầu lạy. Thiếu Khanh nói:

                      - Anh có phải là Hoàng Đại người trông nom từ đường của tổ tiên chúng ta không? Anh đến đây có việc gì?

                      - Cái nhà của con ở bên từ đường là nhà của cụ phủ mua cho con. Đến nay đã lâu năm nhà hư hỏng cần phải sửa chữa lại. Con liều chết đến lấy mấy cây khô ở lăng về để thay cột kèo. Không ngờ có mấy vị ở trong họ biết chuyện ấy liền bảo con ăn trộm cây, đánh cho con một trận gần chết rồi sai mười người quản gia đến nhà lấy mấy cây kia về. Họ kéo đổ cả những gian nhà còn vững của con. Con không còn biết sống ở đâu, cho nên bây giờ con đến đây cúi xin Thiếu Gia nói với họ hàng một chút để họ cho con ít tiền sửa chữa nhà mà ở.

                      - Anh bảo ta nói với họ hàng ta à? Nói với họ chỉ vô ích mà thôi. Ông cụ ta mua nhà cho anh thì dĩ nhiên phải sửa chữa nhà cho anh. Bây giờ nó hư hỏng anh cần bao nhiêu tiền để làm lại.

                      - Làm một cái nhà mới phải cần một trăm lạng. Nhưng nếu chữa lại thì từ bốn mươi lạng đến năm mươi lạng là đủ.

                      - Thôi hiện nay ta không có tiền. Anh tạm cầm lấy năm mươi lạng. Nếu hết, lại đến đây nói với ta.

                      Đỗ Thiếu Khanh lại lấy năm mươi lạng đưa cho Hoàng Đại. Hoàng Đại cầm số tiền đi ra.

                      Người giữ cổng lại cầm hai tờ danh thiếp đưa vào bẩm:

                      - Ông Tang mời Thiếu Gia ngày mai đến nhà ông ta uống rượu. Thiếp này thì mời ông Bão cùng đi.

                      - Mày nói ta cám ơn ông Ba, đến mai ta sẽ lại.

                      Hôm sau, Đỗ Thiếu Khanh và Bão Đình Tỷ đến nhà Tang. Tang đã dọn một bàn tiệc chỉnh tề và rót rượu. Họ uống rượu và nói chuyện suông. Khi bữa tiệc gần tàn, Tang rót một chén rượu giơ cao lên đi quanh bàn, vái một vái và dâng rượu cho Đỗ Thiếu Khanh rồi quỳ xuống:

                      - Anh ơi! Tôi muốn nhờ anh một điều!

                      Đỗ giật mình, vội vàng đặt chén rượu xuống bàn, cùng quỳ xuống cầm lấy tay Tang:

                      - Anh Ba! Anh điên rồi sao? Làm cái gì thế?

                      - Nếu anh chưa uống hết chén rượu và hứa sẽ giúp tôi thì tôi không đứng dậy.

                      - Tôi không hiểu anh muốn nói cái gì? Anh đứng dậy và nói cho tôi biết.

                      Đình Tỷ cũng đỡ Tang dậy. Tang nói:

                      - Anh có hứa giúp tôi không?

                      - Cố nhiên là giúp. - Vậy thì anh uống chén rượu này đã!

                      - Tôi sẽ uống ngay.

                      - Tôi đợi anh xuống xong đã.

                      Sau đó Tang mới đứng dậy và ngồi vào ghế.

                      Đỗ nói:

                      - Bây giờ anh có gì thì cứ nói đi! - Hiện nay quan giá khảo đang chấm thi ở Lư Châu, nay mai ông sẽ đến huyện ta. Trước đây, tôi có nhờ mua hộ một chức tú tài cho một người và trả cho người làm việc ấy ba trăm lạng bạc. Nhưng sau đó, hắn nói với tôi quan giám khảo năm nay rất nghiêm, tôi không dám bán chức tú tài. Vậy anh khai tên anh để tôi bán cho anh một chức “lẫm sinh”. Tôi mới khai tên tôi và vì vậy năm nay tôi thành một người “lẫm sinh”. Nhưng hiện nay người định mua chức tú tài kia lại đến tôi đòi tiền về. Nếu tôi không trả thì hắn sẽ tố giác việc này ra và sẽ nguy đến gia đình và tính mạng. Anh cho tôi vay ba trăm lạng trong số tiền anh vừa bán ruộng hôm trước để tôi thu xếp việc này. Tôi sẽ trả dần. Anh vừa hứa với tôi là anh giúp đỡ tôi.

                      - Ối chà! Tôi tưởng là cái chuyện gì, hóa ra thứ chuyện vặt ấy. Thế mà anh cũng làm tôi sợ hết hồn, đập đầu lạy lục làm gì! Thôi được! Mai tôi sẽ đưa tiền cho anh.

                      Đình Tỷ vỗ tay:

                      - Khoái quá! Khoái quá! Đem chén rượu tống ra đây uống luôn mấy chén đi.

                      Chén tống đưa ra và họ uống mãi. Thiếu Khanh say mềm hỏi:

                      - Anh Tang! Này tôi hỏi anh, anh mua chức lẫm sinh để làm cái gì thế?

                      - Anh không biết rằng làm lẫm sinh thì có nhiều hy vọng thi đỗ à! Thi đỗ thì được làm quan. Nếu như không đỗ, sau mười mấy năm tôi cũng thành người cống sinh. Rồi nếu thi đỗ ở triều đình thì tôi sẽ được làm tri huyện. Thế rồi, tôi sẽ đi hia thêu cườm, ngồi trên công đường xử kiện, đánh người ta; và nếu những người như anh đến quấy rầy thì tôi có thể khóa cửa lại, cho ăn đậu phụ cầm hơi một tháng đến chết mới thôi!

                      Đỗ cười nói:

                      - Thế thì là kẻ cướp! Thực là hết sức hèn hạ, vô sỉ!

                      Bão Đình Tỷ cười nói:

                      - Hay quá! Hay quá! Hai ông đều đáng bị phạt mỗi người một chén rượu.

                      Tiệc đến đêm mới tan.

                      Sáng hôm sau, Đỗ bảo Vương Râu đưa một hòm bạc đến. Vương Râu lại được sáu lạng bạc thưởng. Khi trở về, hắn vào một hiệu bán cá tươi để ăn một bát mì, thì gặp Trương Tuấn dân đang ăn ở đấy. Trương Tuấn Dân nói:

                      - Cụ Vương! Mời cụ vào đây ngồi với tôi.

                      Vương Râu vào ngồi. Mì đưa lên, hai người bắt đầu ăn. Trương Tuấn Dân nói:

                      - Tôi có một việc muốn nhờ ông giúp cho.

                      - Việc gì? Có phải ông đã chữa ông Lâu nên muốn được lễ tạ đấy không?

                      - Không. Bệnh của ông Lâu không chữa được.

                      - Ông ta còn sống được bao lâu?

                      - Xem chừng khó lòng sống được một trăm ngày nữa. Nhưng ông không nên nói cho ông ta biết đấy nhé.

                      Tôi muốn nhờ ông một việc.

                      - Ông cứ nói đi!

                      - Ông giám khảo sắp về đây. Đứa con của tôi muốn đi thi nhưng vì mạo sổ(#1) người ta không cho thi. Tôi nhờ ông nói hộ việc ấy với Thiếu Gia một chút.

                      Vương Râu lắc đầu. - Cái đó không ăn thua. Thiếu Gia tôi xưa nay không bao giờ chịu nói với những người chấm thi đâu. Thiếu Gia lại không muốn nghe nói đến việc thi cử. Nếu ông nhờ Thiếu Gia việc ấy, Thiếu Gia sẽ khuyên ông đừng cho con đi thi nữa.

                      - Làm sao bây giờ?

                      - Chỉ còn một cách này: Tôi sẽ nói với Thiếu Gia rằng: cậu con trai của ông quả thực không được phép đi thi. Nhưng trường thi ở phủ Phụng Dương lại chính do cụ phủ nhà bỏ tiền ra làm. Nay Thiếu Gia muốn đưa một người vào thi thì còn ai dám không nghe? Nói như vậy mới khích ông ta, và ông ta sẽ giúp ông. Nếu cần đến tiền, ông chủ cũng sẽ sẵn lòng giúp ông tiền.

                      - Ông Vương! Tuỳ ý ông làm thế nào thì làm! Làm xong tôi không dám quên ơn ông đâu.

                      - Tôi cần ông đền ơn làm gì? Con ông tức là cháu tôi. Sau này hắn thi đỗ, đội mũ vuông mới tinh, mặc áo màu lam đập đầu mấy cái lạy chào ông chú, thế là được rồi.

                      Nói xong, Trương Tuấn Dân trả tiền và hai người đi ra.

                      Vương Râu về nhà hỏi người đầy tớ:

                      - Thiếu Gia ở đâu?

                      - Thiếu Gia ở trong thư phòng.

                      Hắn đi thẳng vào thư phòng và gặp Đỗ Thiếu Khanh đang ngồi ở đấy. Vương nói:

                      - Con đã đưa số tiền cho ông Tang rồi. Ông ta hết sức cám ơn Thiếu Gia. Ông ta nói Thiếu Gia đã làm ông tránh khỏi tai tiếng, làm cho ông giữ trọn được công danh. Ngoài Thiếu Gia ra thực không có ai dám làm như thế.

                      - Đó chẳng qua là việc vặt, xong thì thôi.

                      - Con có một việc muốn thưa với Thiếu Gia. Thiếu Gia đã cho ông Tang tiền mua chức lẫm sinh, cho người giữ từ đường tiền để làm nhà. Vài hôm nữa là đến kỳ thi. Người ta lại nhờ Thiếu Gia giúp cho việc sửa chữa trường thi. Cụ nhà ta xuất ra mấy ngàn lạng bạc để làm trường thi này, rõ ràng ích lợi cho tất cả mọi người. Nếu Thiếu Gia đưa một người vào thi thì còn ai dám nói năng gì.

                      - Thí sinh ai muốn thì cứ thi, ta đưa họ vào để làm gì?

                      - Nếu con có một người con mà Thiếu Gia đưa vào thi thì còn ai dám nói nữa.

                      - Chuyện đó cố nhiên không phải bàn nữa. Bọn tú tài kia xem ra cũng là bọn hèn mạt.

                      - Người con trai ông Trương ở cửa sau chịu khó học hành tại sao Thiếu Gia không bảo anh ta đi thi?

                      - Anh ta muốn đi thi sao?

                      - Anh ta là người mạo sổ nên không dám đi thi.

                      - Mày ra nói với anh ta rằng, cứ việc đi thi. Nếu có thí sinh nào nói năng gì mày cứ bảo chính ta đưa đi thi đấy!

                      Vương Râu vâng dạ rồi đi ra.

                      Bệnh của ông Lâu một ngày một nặng. Thiếu Khanh mời một thầy thuốc khác đến thăm. Thiếu Khanh ở trong nhà rất buồn bã.

                      Một hôm Tang chạy đến, nói hốt hoảng:

                      - Anh có nghe chuyện gì không? Ông huyện Vương hỏng to rồi! Hôm qua ông bị lấy ấn tín, và vị quan mới đã đến thay. Ông ta phải ra khỏi nha môn. Người trong huyện nói ông ta là ông quan thối nát nên không ai chịu cho ở. Bây giờ ông ta nguy lắm, chết đến nơi rồi!

                      - Hiện nay ông ta như thế nào rồi?

                      - Tối hôm qua, ông ta còn ở lỳ tại nha môn, nhưng nếu đến ngày mai mà không ra khỏi thì sẽ không còn mặt mũi nào nữa. Chẳng có ai cho ông ta thuê nhà. Có lẽ rồi ông ta phải đến ở cô lão viện(#2) thôi.

                      - Thật không? Đỗ sai người đi tìm Vương Râu và nói với Vương Râu:

                      - Mày đi ngay đến huyện, nói với những người đầy tớ nhờ họ thưa lại ông Vương rằng nếu ông Vương không biết ở đâu thì cứ đến vườn hoa của ta mà ở. Ông ta cần chỗ ở gấp. Mày đi ngay đi.

                      Vương Râu đi, Tang nói: - Hôm trước, anh không chịu gặp ông ta. Tại sao bây giờ anh lại cho ông ta ở trong nhà? Nếu việc này xảy ra thì liên luỵ đến cả anh. Nếu dân họ xông vào làm náo động thì họ sẽ phá cả vườn hoa của anh mất.

                      - Ông cụ tôi có công đức đối với dân ở đây như thế nào, mọi người đều biết hết. Ngay như tôi có giấu một tên ăn cướp trong nhà cũng không có ai vào phá nhà tôi bao giờ. Anh cứ yên tâm. Còn về việc ông Vương kia đã biết ngưỡng mộ tôi, thế là cũng có điểm nào khá đấy. Trước đây tôi không chịu đến thăm ông ta bởi vì ông ta đang làm tri huyện. Nhưng bây giờ ông ta mất chức rồi, lại không có nhà ở, vậy bổn phận của tôi là phải giúp đỡ ông ta. Ông ta nghe vậy nhất định là đến. Anh cứ đứng đợi ở đây mà nói chuyện với ông ta.

                      Đang nói thì người giữ cổng đi vào nói:

                      - Ông Trương đến đây rồi.

                      Trương Tuấn Dân vào quỳ xuống sụp lạy. Đỗ Thiếu Khanh hỏi:

                      - Ông có việc gì thế?

                      - Về việc đứa con trai của tôi đi thi. Tôi rất cảm ơn Thiếu Gia.

                      - Tôi đã nói rồi kia mà.

                      - Khi các lẫm sinh biết là Thiếu Gia nói, họ đều không dám nói năng gì, chỉ đòi tôi đưa ra một trăm hai mươi lạng bạc để sửa cái trường thi. Tôi kiếm đâu ra tiền? Vì vậy lại đến đây cầu cứu với Thiếu Gia.

                      - Một trăm hai mươi lạng bạc thôi chứ? Ngoài ra có cần gì nữa không?

                      - Dạ không dám ạ.

                      - Thế thì dễ lắm. Tôi sẽ xuất tiền hộ ông. Ông chỉ phải viết một cái đơn xin ghi tên con vào danh sách các thí sinh và tình nguyện nộp tiền sửa trường. Anh Tang! Anh đem tiền đến trường cho ông ta. Hiện nay số tiền tôi đang có đây.

                      Tang nói với Trương:

                      - Hôm nay tôi bận, ngày mai sẽ đi với ông.

                      Trương Tuấn Dân cảm ơn đi ra. Vừa gặp Vương Râu chạy vào nói:

                      - Ông Vương đã đến chào, hiện nay ông ta đã xuống kiệu đang ở ngoài cửa.

                      Đỗ và Tang ra đón. Vương tri huyện đầu đội mũ sa, mình mặc áo thường, vái chào, lạy hai lạy nói:

                      - Đã lâu tôi ngưỡng mộ danh tiếng của tiên sinh nhưng tiếc chưa được gặp mặt. Lần này, tôi ở trong tình trạng khốn cùng nhưng nhờ tiên sinh có lòng khẳng khái cho tôi ở nhờ, tôi rất lấy làm hổ thẹn. Vì vậy, trước tiên tôi xin đến tạ ơn rồi sau sẽ xin thỉnh giáo. May quá! Ông Tang cũng ở đây.

                      Đỗ Thiếu Khanh nói:

                      - Cụ nói làm gì cái việc vặt ấy, xin cụ chớ bận tâm. Nhà cửa tôi rộng, mời cụ cứ đến ở.

                      Tang nói:

                      - Con đến đây để rủ anh bạn cùng đến thăm thầy. Không ngờ thầy lại chịu khó đến đây trước.

                      Vương tri huyện nói:

                      - Không dám, không dám.

                      Y cúi chào rồi lên kiệu đi. Đỗ Thiếu Khanh giữ Tang Đồ lại, lấy ra một trăm hai mươi lạng bạc đưa cho Tang bảo thu xếp công việc giúp Trương Tuấn Dân. Tang mang tiền đi. Hôm sau Vương tri huyện đến. Hai hôm sau, Trương Tuấn Dân làm một bữa tiệc đưa đến Đỗ phủ mời Tang Đồ và Đình Tỷ ngồi tiếp. Vương Râu nói thầm với Bão Đình Tỷ:

                      - Bây giờ đến lượt anh phải nói đi thôi! Cứ theo như tôi tính, chẳng bao lâu nữa, ông ta sẽ tiêu hết nhẵn cả số tiền, và nếu có ai đến xin xỏ gì thì anh không có được đồng nào nữa. Chiều nay anh phải nói mới được!

                      Bấy giờ khách khứa đã đến. Bữa tiệc trong thư phòng gần phòng khách. Bốn người cùng ngồi vào bàn tiệc. Trương Tuấn Dân nâng chén cảm tạ Đỗ Thiếu Khanh rồi rót rượu cảm tạ Tang Đồ. Mọi người đều ngồi vào chỗ. Nói chuyện suông một lát, Bão Đình Tỷ nói:

                      - Con ở đây đã nửa năm nay, thấy Thiếu Gia tiêu tiền như nước. Đến anh thợ may cũng được nhiều tiền. Riêng con ở phủ bảy tám tháng nay không được đồng tiền nào, con chỉ được ăn thịt uống rượu mà thôi. Con cảm thấy cứ như thế này mãi thì con ở đây làm gì! Con đành phải gạt nước mắt khóc và xin đi nơi khác. Đến ngày mai con xin từ biệt.

                      Đỗ Thiếu Khanh nói:

                      - Anh nghĩ gì thế? Anh có bao giờ nói gì với tôi đâu. Tôi có hiểu trong lòng anh có việc gì đâu. Anh cần gì thì phải nói ra chứ!

                      Bão Đình Tỷ vội vàng rót một chén rượu đưa cho Thiếu Khanh và nói:

                      - Cha con và con làm nghề dạy các ban hát để kiếm ăn qua ngày. Không may cha con chết, con chẳng làm cho cha được đẹp mày đẹp mặt, lại hết cả tiền vốn. Con có một người mẹ già ở nhà mà không nuôi nổi. Con là người đáng chết nếu Thiếu Gia không cho con ít vốn liếng để đem về phụng dưỡng mẹ già...

                      Đỗ Thiếu Khanh nói:

                      - Anh là người con hát mà lại biết nghĩ đến cha, hiếu với mẹ già như thế thật là đáng kính. Ta phải giúp anh chứ!

                      Đình Tỷ đứng dậy nói:

                      - Con xin đội ơn Thiếu Gia.

                      - Ngồi xuống đây! Anh muốn bao nhiêu tiền? Đình Tỷ liếc mắt nhìn Vương Râu đang đứng ở đấy. Vương Râu bước lên, nói:

                      - Ông Bão ông phải cần nhiều tiền. Muốn sắm sửa cho một ban hát có đủ quần áo, đồ đạc thì phải mất từ năm trăm đến sáu trăm lạng, Thiếu Gia hiện nay không có nhiều tiền. Thiếu Gia chỉ có thể cho anh vài chục lạng để anh qua sông và lấy đó mà lo liệu thôi.

                      Đỗ nói:

                      - Vài chục lạng thì ăn thua vào đâu? Ta sẽ cho anh một trăm lạng để anh đem về dạy một ban hát. Khi nào hết tiền, anh lại đến đây.

                      Bão Đình Tỷ quỳ xuống cảm tạ. Đỗ nói:

                      - Đáng lẽ ra, tôi phải cho anh nhiều hơn nữa. Nhưng hiện nay ông Lâu đau nặng, tôi phải có tiền để lo liệu mọi việc cho ông ta.

                      Tang và Bão đều ca ngợi lòng khẳng khái của Đỗ. Ăn xong mọi người ra về.

                      Từ đấy về sau, bệnh của ông Lâu càng ngày càng nặng. Hôm ấy, Đỗ ngồi bên giường bệnh. Ông Lâu nói:

                      - Thưa ông, trước đây tôi tưởng rằng tôi có thể khỏe được, nhưng xem tình trạng này, bệnh của tôi không thể bớt được. Xin phép ông cho tôi trở về.

                      - Tôi chưa làm được gì để báo đáp mối tình của bác, bác đòi về nhà sao được?

                      - Sao ông lại nói kỳ thế? Tôi có con, có cháu, tôi lại sống xa cửa, xa nhà bây giờ cố nhiên là tôi phải chết ở nhà. Lẽ nào người ta lại trách ông không giữ tôi lại?

                      Thiếu Khanh nước mắt ròng ròng nói:

                      - Nếu đã vậy thì tôi không dám giữ bác lại... Tôi đã sắm sửa hậu sự cho bác cả rồi, bây giờ nếu bác không dùng thì mang đi cũng không tiện. Vậy tôi đưa cho bác mấy mươi lạng để mua áo quan khác. Áo quần chăn nệm tất cả đều có sẵn để bác đem đi.

                      - Tôi xin nhận quan tài và áo quần, nhưng xin ông đừng cho con cháu tôi tiền làm gì. Ba ngày nữa tôi xin về nhà. Vì tôi không ngồi dậy được, nên tôi phải nằm trên giường để cho người ta khiêng. Ngày mai, ông đến nhà thờ cụ cố khấn rằng ông Lâu xin phép cụ để về nhà. Tôi ở với gia đình ông ba mươi năm nay như một người bạn thân nhất nhà. Sau khi ông cụ đã mất đi việc làm của ông quả thực không ai sánh kịp. Về phẩm hạnh và văn chương, ông là người tuyệt vời. Ông lại có một cậu con đặc biệt hơn người(#3). Sau này phải giáo dục cậu thành con người chân chính. Nhưng ông không phải là người biết lo việc nhà, và không biết chọn những người bạn tốt. Như thế, gia tài chẳng bao lâu rồi sẽ khánh kiệt. Tôi thấy ông có lòng khẳng khái giúp người, trong lòng tôi rất vui. Nhưng ông phải hỏi xem ông giúp đỡ những người như thế nào mới được. Chứ cái lối giúp đỡ của ông xem ra thì sẽ bị người ta lừa hết cả nhà mà không được báo đáp gì. Đành rằng, làm ân không cần báo đáp, nhưng mình cũng phải tìm xem mình làm ơn cho ai chứ! Ông Tang Đồ và ông Trương Tuấn Dân mà ông kính trọng đều là những người không có lương tâm. Gần đây, thêm anh chàng Bão Đình Tỷ là một anh hát tuồng có gì tốt đâu, thế mà ông cũng chăm sóc đến anh ta. Còn cái lão Vương Râu của ông thì lại càng tệ nữa. Tiền bạc tuy là việc nhỏ, nhưng sau khi tôi chết đi rồi, hai cha con ông nhất nhất việc gì cũng phải học đức hạnh của cụ cố nhà ta, nếu đức hạnh mà tốt thì dù không có ăn cũng không đáng lo. Người mà bình sinh ông thân nhất là ông Thận Khanh anh em họ của ông. Ông Thận Khanh có tài nhưng cũng không phải là người đạo đức lắm. Ông chỉ nên bắt chước ông cụ thân sinh thì sau này mới khỏi khổ. Ông không nghĩ gì đến việc làm quan, gia sản lại không còn gì nữa. Ở nơi này không phải chỗ ông ở. Nam Kinh là một đô hộ, tài hoa, ông lên đó, hoặc giả có thể tìm được người tri kỷ và làm nên một sự nghiệp gì. Gia tư của ông chẳng còn bao lâu nữa sẽ hết sạch. Ông ơi! xin ông nghe lời tôi, tôi chết mới nhắm mắt được.

                      Đỗ Thiếu Khanh nước mắt giàn giụa nói:

                      - Bác nói những lời đáng quý, tôi xin ghi nhớ. Đỗ liền ra bảo người nhà thuê bốn nhiều khiêng kiệu đưa ông Lâu qua Nam Kinh về Đào Hồng Tuấn. Lại đưa một trăm lạng bạc cho con ông Lâu để lo việc hậu sự.

                      Đến ngày thứ ba, Đỗ tiễn ông Lâu lên đường. Chỉ nhân phen này, khiến cho:

                      Kinh Đô cảnh đẹp, đón người tuấn kiệt lại chơi;

                      Giang Bắc quê nhà, vắng kẻ anh hiền hào phóng.

                      Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

                      Chú thích:

                      (1-) Mạo sổ: giả mạo quê quán, không phải là người địa phương nhưng khai gian là người địa phương.

                      (2-) Một thứ tổ chức từ thiện ngày trước, nhận những người già không nơi nương tựa.

                      (3-) Trong “Nho lâm ngoại sử” không hề nói đến người con Đỗ Thiếu Khanh mà ông Lâu bảo là “đặc biệt hơn người”. Có lẽ đây là tác giả ám chỉ người con của mình: Ngô Lương con của Ngô Kính Tử là một nhà toán học vĩ đại của Trung Quốc. Ông Lâu không gọi Thiếu Khanh bằng “Thiếu Gia” mà gọi bằng ông. Sự đối lập giữa ông Lâu và Vương Râu rất rõ.

                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #26
                        Đỗ Thiếu Khanh chơi núi hai vợ chồng
                        Trì Hành Sơn bàn lễ cùng bầu bạn Thiếu Khanh sau khi đã tiễn ông Lâu về nhà rồi thì không còn ai khuyên răn mình nữa, cho nên lại càng ra sức tiêu tiền phung phí. Khi số tiền kia đã hết, Thiếu Khanh lại bảo Vương Râu bán nốt thửa ruộng khác lấy hơn hai ngàn lạng bạc đem về tiêu. Đỗ Thiếu Khanh lại cho Đình Tỷ một trăm lạng bạc để qua sông Dương Tử trở về nhà. Khi việc của Vương tri huyện đã xong, Vương tri huyện rời Đỗ Phủ trở về nhà. Đỗ ở nhà nửa năm nữa, tiền của không còn lại bao nhiêu, trù tính bán nhà cửa cho người trong họ, còn mình thì lên Nam Kinh. Đỗ đem việc ấy bàn với vợ. Vợ cũng bằng lòng. Mọi người khuyên bảo mấy Đỗ cũng không nghe. Nửa năm sau, nhà cũng bán luôn. Trả xong nợ và chuộc những đồ đem cầm về, Đỗ chỉ còn lại hơn ngàn lạng bạc. Đỗ nói với vợ:

                        - Bây giờ tôi định lên Nam Kinh trước để thăm người cháu ngoại họ Lư. Sau khi tìm được nhà tôi sẽ đưa mình lên ở đấy.

                        Đỗ bèn thu xếp hành lý cùng Vương Râu và Gia Tước qua sông Dương Tử. Vương Râu trên đường đi thấy công việc chẳng hay gì bèn cuỗm hai mươi lạng bạc rồi bỏ đi mất. Thiếu Khanh chỉ cười một tiếng, rồi đem Gia Tước qua sông. Khi đến nhà họ Lư là họ bà ngoại ở đường Thượng Hạng, người cháu là Lư Hoa Sĩ chạy ra mời và đưa vào nhà khách. Đỗ lên lầu lạy bài vị ông bà ngoại, thăm mẹ Lư Hoa Sĩ và bảo Gia Tước mở gói ra lấy giò lợn thui và những sản vật ở quê nhà để tặng. Lư Hoa Sĩ dẫn Đỗ vào thư phòng ăn cơm, mời thầy học đang dạy ở đó cùng ăn để ngồi tiếp. Người thầy học ra chào, Đỗ mời ông ta ngồi ghế đẩu và hỏi tên. Người thầy học nói:

                        - Tôi là Trì Quân tự là Hành Sơn. Tiên sinh họ là gì?

                        Lư Hoa Sĩ nói:

                        - Đây là ông cậu của con, họ Đỗ ở Thiên Trường.

                        - Có phải là ông Thiếu Khanh không? Thực là một người hào kiệt trong thiên hạ, xưa nay chưa từng có. Tôi chỉ nghe danh chưa từng được gặp mặt. Hôm nay may mắn sao được gặp vị hiền nhân ở đây

                        Hành Sơn lại đứng dậy vái chào một lần nữa. Đỗ thấy ông thầy học người gầy, móng tay dài, cặp mắt sáng, lông mày dài. Biết ông ta không phải hạng người tầm thường, cho nên tuy mới gặp mặt nhưng khác nào một người quen cũ. Sau bữa cơm, Đỗ nói mình muốn thuê một cái nhà. Trì Hành Sơn hết sức mừng rỡ, vội vàng nói:

                        - Tại sao tiên sinh không tìm một cái nhà ở bên bờ sông?

                        - Thế thì tốt nhất! Tôi và ông nhân dịp này đi xem song Tần Hoài luôn thể.

                        Trì Hành Sơn bảo Hoa Sĩ ở nhà, còn mình đi với Thiếu Khanh. Đi đến vườn Trạng Nguyên thấy ở ngoài hiệu sách có mấy cái bìa sách mới dán ở ngoài hiệu. Trong đó, có một quyển là: “Lịch khoa trình mặc trì vận” do Mã Thuần Thượng ở Xử Châu và Cừ Dật Phu ở Gia Hưng cùng chọc lọc. Đỗ nói:

                        - Ông Dật Phu là cháu nội cụ Cừ Thái thú ở Nam Xương, ông ta vào hạng anh của tôi đấy! Nếu ông ta ở đây, tôi phải đến thăm ông ta mới được.

                        Đỗ bèn cùng Trì Hành Sơn đi vào. Cừ Dật Phu chạy ra chào. Hai bên thi lễ xong, Mã Thuần Thượng cũng ra chào hỏi:

                        - Xin cho biết quí tính.

                        Cừ Dật Phu nói:

                        - Đây là ông Đỗ Thiếu Khanh con cụ phủ Thiên Trường, và đây là ông Trì Hành Sơn ở Câu Dung, đều là những người bậc nhất trong hàng danh sĩ đất Giang Nam này. Tôi rất tiếc rằng không được gặp sớm hơn.

                        Uống trà xong, Trì Hành Sơn nói:

                        - Anh Thiếu Khanh muốn tìm một cái nhà. Lần này không thể nói chuyện lâu, vậy xin từ biệt.

                        Bốn người bước ra, chợt thấy một người đang cúi xuống xem một quyển thơ ở quầy hàng. Y chỉ vào quyển thơ, nói:

                        - Bài thơ này là của tôi đấy!

                        Bốn người đi lại, thấy người kia để cái quạt giấy đề thơ ở bên cạnh. Cừ Dật Phu cầm cái quạt xem và đọc: “Cảnh Lan Giang”. Cừ cười mà rằng:

                        - Ông là ông Cảnh Lan Giang có phải không? Cảnh Lan Giang ngẩng đầu lên nhìn hai người vái chào và hỏi họ tên. Đỗ Thiếu Khanh kéo Trì Hành Sơn đi mà nói:

                        - Hãy đi tìm nhà đã! Sau này chúng ta gặp họ cũng được. Hai người đến cầu Hoài Thanh. Trì Hành Sơn thuộc đường, tìm người mối nhà chỉ cho hai người mấy cái nhà bên sông, nhưng không cái nào vừa ý. Họ đi đến Đông Thuỷ Quán. Năm ấy là năm thi hương, giá nhà bên bờ sông rất đắt, phải thuê một tháng tám lạng bạc. Đỗ Thiếu Khanh nói:

                        - Thế này cũng được, ta thuê ở đã. Sau này sẽ tính việc mua.

                        Theo tục Nam Kinh muốn thuê phải đặt tiền cọc và đưa trước một tháng tiền nhà.

                        Người mối nhà cùng chủ nhà đến nhà họ Lư ở Thương Hạng và Đỗ viết giấy thuê nhà đưa ra mười tám lạng bạc. Họ Lư mời Đỗ và Trì ở lại uống rượu. Họ nói chuyện mãi đến khuya, Trì Hành Sơn cũng ngủ lại đấy.

                        Hôm sau, họ đang rửa mặt thì có người gọi ở ngoài cửa.

                        - Có ông Đỗ Thiếu Khanh ở đấy không?

                        Đỗ Thiếu Khanh đang định ra thì người kia đã bước vào nói:

                        - Khoan nói tên các ông! Để tôi đoán thử xem.

                        Người ấy nhìn kỹ một lúc rồi nắm lấy Đỗ Thiếu Khanh mà nói:

                        - Ông là ông Đỗ Thiếu Khanh?

                        Đỗ cười mà rằng:

                        - Vâng, tôi là Đỗ Thiếu Khanh. Ông này là ông Trì Hành Sơn và đây là người cháu ngoại của tôi. Ông làm ơn cho biết ông họ gì?

                        Người kia nói:

                        - Ông Thiếu Khanh? Ông thực là một người hào kiệt trong thiên hạ, oai vệ khác thường. Tiểu đệ mới nhìn mà đã mất hồn bở vía. Ông không phải là người trang trọng, lão thành như Trì tiên sinh, cho nên nhìn một cái là tôi nhận ra được. Tôi là Quý Vi Tiêu.

                        Trì Hành Sơn nói:

                        - Ông có phải là ông Quý Vi Tiêu đã chấm thi những người hát tuồng ở đây không? Tôi ngưỡng mộ ông đã lâu, nay mới được gặp mặt.

                        Quý Vi Tiêu ngồi xuống nói với Đỗ Thiếu Khanh:

                        - Người anh họ của ông đã đi Bắc Kinh rồi!

                        - Đi lúc nào?

                        - Mới đi được ba hôm nay thôi. Tôi tiễn ông ta đến cửa Long Giang. Ông ta đã đỗ cống sinh và đang lên kinh để thi hương. Tôi nghe nói ông tiêu tiền như nước. Tại sao ông cứ ở nhà làm gì không đem tiền lên đây để cho chúng tôi tiêu với!.

                        - Hiện nay tôi đến đây thuê một cái nhà bên bờ sông để đưa gia đình lên ở.

                        Quý Vi Tiêu vỗ tay!

                        - Tôi phải thuê hai gian nhà bên bờ sông để làm láng giềng với ông và đưa nhà tôi lên để làm bạn với bà chị. Ông có trả tiền nhà cho chúng tôi không?

                        - Cái đó là dĩ nhiên!

                        Lát sau, nhà họ Lư dọn cơm lên, họ mời Quý Vi tiêu ở lại ăn. Trong lúc ăn cơm, Quý kể lại việc mình đã lừa Thận Khanh bắt Thận Khanh đi thăm đạo sĩ như thế nào, làm cho mọi người cười vỡ bụng phun cả cơm. Ăn cơm xong, Mã Thuần Thượng, Cừ Dật Phu, Cảnh Lan Giang đều đến. Nói chuyện một lúc, họ tiễn mấy người khách ra cửa. Vừa vào nhà thì Tiêu Kim Huyễn, Gia Cát Thiên Thân, Quý Điềm Dật lại đến thăm. Quý Vi Tiêu cũng ngồi tiếp chuyện. Được một lát, Vi Tiêu cùng ba người khách ra về. Thiếu Khanh viết một bức thư, sai người về Thiên Trường đem gia quyến lên.

                        Hôm sau, từ sáng sớm, Đỗ định đến thăm Quý Vi Tiêu và mấy người bạn thì Quách Thiết Bút và Lai Hà Sĩ lại đến thăm. Đỗ ra mời vào. Thấy Lai đạo sĩ, Đỗ nhớ đến câu chuyện hôm qua nhịn cười không được. Đạo sĩ nói chuyện một hồi rồi đưa ra một tập thơ, Quách Thiết Bút đưa ra hai con dấu vuông. Đỗ Thiếu Khanh đều nhận. Uống trà xong, họ đi ra. Đỗ bấy giờ mới đến thăm mấy người bạn. Đỗ ở luôn bảy tám ngày ở nhà họ, cùng Trì Hành Sơn nói chuyện về lễ nhận, tâm đầu ý hợp. Khi gia quyến đến tất cả bốn thuyền, đỗ ở bến bờ sông cạnh nhà, Đỗ từ biệt Lư mang hành lý về nhà mới.

                        Hôm sau, mọi người đến mừng. Bấy giờ, vào khoảng đầu tháng ba, nhà bên sông đẹp lại nghe tiếng tiêu, tiếng sáo. Đỗ dọn một bữa tiệc rượu mời bạn bè đến ngồi tất cả bốn bàn tiệc. Hôm ấy, Quý Vi Tiêu, Mã Thuần Thượng, Cừ Dật Phu, Quý Điềm Dật, Trì Hành Sơn, Lư Hoa Sĩ, Cảnh Lan Giang, Gia Cát Thiên Thân, Tiêu Kim Huyễn, Quách Thiết Bút, Lai Hà Sĩ đều đến dự tiệc. Kim Đông Nhai ở cái nhà bên cạnh cũng đến thăm. Hầu trà và những người bếp đến trước, rồi đến Bão Đình Tỷ mang những đứa trẻ ở trong ban hát “Tam Nguyên” tới vái chào Đỗ Thiếu Gia và phu nhân. Họ được thưởng rất nhiều quà. Tiếp đến chủ nhà đưa bà Diêu bán hoa đến chào, Đỗ phu nhân bảo bà ta ở lại. Đến trưa, khách khứa đến đông đủ, các cánh cửa đều mở toang. Tất cả mọi người ngồi rải rác khắp nơi. Người thì dựa vào lan can ngắm mặt nước, người thì vừa nhấp trà vừa nói chuyện, người giở những quyển sách trên bàn, người thì lại ngồi xổm cho thoải mái. Một cái kiệu ở ngoài cửa đi vào, Bão Đình Tỷ đưa vợ là bà Vương đến thăm phu nhân. Bà Vương xuống kiệu vào nhà. Khi bà ta vừa bước vào, bà Diêu nhịn cười không được, quay lại nói với vợ của Đỗ:

                        - Bà Vương này nổi tiếng ở Nam Kinh, không ai không biết. Bà ta đến đây làm gì thế?

                        Bà Vương thấy Đỗ phu nhân thì hết sức cung kính không dám trái lễ, nên Đỗ phu nhân cũng vui lòng. Khi Thiếu Khanh đến, bà Diêu và bà Vương đều vái chào Thiếu Gia. Bão Đình Tỷ thấy khách khứa đông nên kể chuyện vui, làm rộn rịp một hồi. Khi tiệc dọn lên, Đỗ thiếu Khanh bước ra mời khách lại chỗ ngồi. Tiệc kéo dài mãi đến đêm mới tàn. Bão Đình Tỷ mang đèn lồng, soi cho bà Vương lên kiệu và cùng về nhà luôn.

                        Mấy ngày sau vì bà Đỗ mới đến Nam Kinh lần đầu cho nên cũng muốn đi ra ngoài xem phong cảnh. Đỗ Thiếu Khanh nói:

                        - Cái đó thì dễ!

                        Bèn cho gọi mấy cái kiệu đến và cho mời bà Diêu cùng đi để tiếp, theo sau là kiệu của ba người gia nhân. Người bếp mang theo đồ ăn và rượu đến mượn vườn của họ Diêu ở núi Thanh Lương. Vườn này rất rộng. Đi vào phải qua một cái cổng bằng tre, ở trong, đường rải đá cuội. Ở hai bên là lan can đỏ làm nổi bật những cây liễu xanh. Đi vào ba gian nhà khách là chỗ thường bán rượu nhưng hôm ấy các bàn rượu đều dọn đi hết. Qua nhà khách là một con đường tắt lên núi. Trên đỉnh núi có một cái đình bát giác tiệc bày ở đấy. Bà Đỗ và bà Diêu cùng mấy người nữa đều lên đấy ngồi xem phong cảnh. Một bên là núi Thanh Lương với những khóm trúc, cây cao, cây thấp. Một bên là chùa Linh Ẩn, cây cối xanh um, làm nổi bật những bức tường đỏ trong rất là đẹp mắt. Đỗ Thiếu Khanh một lát sau cũng đi kiệu đến, tay cầm một cái chén vàng. Đỗ đặt chén vàng lên bàn, rót rượu uống. Tay cầm chén rượu, ngây ngất vì khí ấm áp và ánh sáng tươi mát của trời xuân. Đỗ dựa vào lan can uống miết. Đỗ Thiếu Khanh say mềm, một tay dắt vợ đi ra cửa vườn, một tay cầm cái chén vàng vừa đi vừa cười vang. Hai người đi được độ một dặm trên núi Thanh Lương, sau lưng ba bốn người đàn bà đi theo nói cười vui vẻ. Người hai bên nhìn xem sửng sốt, hoa mắt thèm thuồng, không dám ngẩng đầu lên nhìn. Khi Đỗ và vợ đã lên kiệu đi về, bà Diêu và mấy người đàn bà lấy những cành hoa đào bỏ lên kiệu mang về nhà. Đỗ về đến nhà bên bờ sông thì trời đất tối. Đỗ thấy Lư Hoa Sĩ đã ngồi đợi ở đấy. Lư nói:

                        - Cậu Trang ở cầu cửa Bắc nghe tin cậu đến đây, muốn đến thăm cậu. Ngày mai thế nào cậu cũng ở nhà, đừng đi đâu để cho cậu Trang đến thăm.

                        Đỗ Thiếu Khanh nói:

                        - Ông Trang Thiệu Quang là bậc thầy của ta, hôm trước ta không mời ông ta đến vì ông ta không thích chơi với những thi sĩ. Ta đang định đến thăm. Có lẽ nào lại bắt ông ta đến đây? Này cháu! Cháu về nhà ngay và cho người đến nói rằng ngày mai thế nào cậu cũng đến thăm nhé.

                        Hoa Sĩ vâng dạ đi ra. Thiếu Khanh tiễn ra cửa. Cửa vừa mới đóng đã nghe tiếng gõ. Người đầy tớ mở cửa dẫn một người khách vào và báo:

                        - Ông Lâu đã đến. Đỗ Thiếu Khanh nhìn ra thì thấy người cháu của Lâu Hoán Văn mặc áo tang đang lạy dưới đất vừa khóc vừa nói:

                        - Ông cháu đã chết. Cháu đến đây để báo tin. - Chết lúc nào?

                        - Chết ngày hai mươi sáu tháng trước.

                        Đỗ Thiếu Khanh khóc lóc một hồi, vội vàng bảo sắm sửa đồ tế lễ ngay đêm đó. Sáng sớm hôm sau, Đỗ lên kiệu đến Đào Hồng Trấn. Quý Vi Tiêu nghe chuyện Đỗ đi chơi vườn họ Diệu từ sáng sớm đã đến hỏi thăm. Nhưng nghe tin Đỗ đã đi Đào Hồng Trấn nên buồn bực trở về.

                        Đỗ đến Đào Hồng Trấn, đến trước quan tài ông Lâu khóc lóc thảm thiết mấy lần, bỏ tiền thuê hòa thượng đến làm lễ siêu độ cho ông Lâu. Thân thích nhà ông Lâu đến tiếp. Đỗ ở đấy bốn năm ngày liền, khóc rồi lại khóc làm những người ở Đào Hồng Trấn không ai không thán phục “Ông Đỗ ở Thiên Trường thật là con người nhân đức”. Lại có người nói: “Ông Lâu xưa kia phải là người tốt như thế nào nay ông Đỗ mới quý trọng như thế! Làm người phải như ông Lâu mới thực là không thẹn!”. Thiếu Khanh lại lấy mấy mươi lạng bạc đưa cho con cháu ông Lâu để mua đất chôn cất. Cả nhà ông Lâu, con trai con gái đều ra lạy tạ. Thiếu Khanh lại khóc một hồi nữa rồi mới từ biệt.

                        Thiếu Khanh về đến nhà thì vợ nói: - Ông đi được một ngày thì có vị quan được quan tuần vũ phái đến đây tìm ông, cùng đi với một người nha môn Thiên Trường đem một tờ công văn đến cho ông. Tôi bảo họ rằng ông không ở nhà. Hiện nay họ ở ngoài hàng cơm, ngày ngày lại đến hỏi không biết có việc gì vậy.

                        Đỗ nói: - Cái đó cũng lạ thật. Đang lúc phân vân thì người đầy tớ vào báo: - Vị quan phái đến và người ở nha môn Thiên Trường đang đợi ở ngoài.

                        Đỗ ra tiếp. Vị quan được phái đến chào mừng và người báo tin đưa đến một tờ công văn: Đỗ cầm tờ công văn: “Quan tuần vũ họ Lý về việc tiến cử người hiền tài: Vâng theo lệnh của thánh thượng tìm hỏi những người tài giỏi trong thiên hạ, bản hộ đã hỏi ra được ông Đỗ Nghi ở huyện Thiên Trường phẩm hạnh đoan chính, văn chương mẫu mực, vì vậy sức cho quan giáo học mời ông đến ngay tỉnh để xét và tâu lên triều đình bổ dụng. Việc gấp”.

                        Đỗ Thiếu Khanh xem xong nói: - Cụ Lý là học trò của ông nội tôi, tức là bậc chú tôi, cho nên cụ tiến cử tôi. Tôi đâu dám nhận điều đó. Nhưng cụ đã đối đãi với tôi tốt như thế thì tôi phải lập tức đến nha môn để cảm tạ.

                        Đỗ bèn giữ vị quan lại uống rượu, biếu mấy lạng bạc làm tiền lộ phí. Người mang công văn cũng được hai lạng bạc và cho về trước.

                        Trong nhà không có tiền đi đường, Đỗ đem cầm cái chén vàng lấy ba mươi lạng. Đỗ đem theo một người đầy tớ đi thuyền đến An Khánh. Đến An Khánh, không ngờ cụ Lý có việc công đi vắng. Mấy ngày sau, Lý tuần vũ trở về, Đỗ đưa thiếp đến, người nhà mở cửa mời vào thư phòng. Cụ Lý ra. Đỗ Thiếu Khanh vái chào hỏi thăm sức khỏe. Cụ Lý mời Đỗ ngồi và nói:

                        - Từ khi thầy mất đi đến nay, tôi vẫn nhớ đến các anh. Nay nghe nói các anh tài năng, phẩm hạnh hơn người, cho nên khi triều đình bắt chước đời xưa, đón mời người tài đức, tôi liền mượn đại danh của anh. Xin anh đừng từ chối!

                        - Cháu tài hèn, học kém, sợ cụ chỉ thấy cái hư danh, không xứng đáng với lời tiến cử.

                        - Anh không nên khiêm tốn làm gì! Anh cứ để tôi lấy giấy chứng nhận của quan phủ, huyện.

                        - Cháu rất cám ơn cụ đã thương đến, nhưng tính cháu xưa nay quê mùa, sống nơi thảo dã đã quen, gần đây lại lắm bệnh, xin cụ tìm người khác.

                        - Con nhà gia thế tại sao không chịu ra làm quan? Ta hỏi rất đúng nên mới tiến cử.

                        Đỗ không dám nói nữa. Cụ Lý giữ Đỗ lại một đêm, đem ra một số bài thơ để nhờ phê giúp.

                        Hôm sau Đỗ từ biệt ra đi. Tiền đi đường mang đi đã ít, lại ở nhà môn nhiều ngày, phải cho bọn đầy tớ nhiều tiền phong bao, cho nên khi thuê thuyền về Nam Kinh thì Đỗ phải chịu chủ thuyền ba lạng bạc tiền đò. Trên đường đi lại ngược gió bốn năm ngày thuyền mới đến huyện Vu Hồ. Thuyền không đi được nữa, chủ thuyền xin tiền mua gạo để thổi cơm. Đỗ bảo đầy tớ lục lọi xem nhưng chỉ còn lại năm đồng tiền nên phải đem áo quần đi cầm. Trong lòng buồn bã, Đỗ lên bờ đến chùa Cát Tường, vào một cái bàn trà gọi trà uống. Trong bụng đói, Đỗ gọi đem lên ba cái bánh để ăn. Giá tiền tất cả là sáu đồng. Đỗ không có tiền trả thành không ra khỏi tiệm trà. Vừa lúc ấy, một đạo sĩ đi qua, Đỗ không nhận ra là ai; nhưng vị đạo sĩ quay lại nhìn và chạy lại nói:

                        - Ông Đỗ Thiếu Gia! Tại sao ông lại ở đây?

                        - À té ra anh Lai Hà Sĩ! Anh ngồi đây uống trà đã!

                        - Tại sao Thiếu Gia ở đây một mình?

                        - Ông anh đến đây bao giờ?

                        - Sau khi tôi ở nhà ông, ông Trương ở huyện Vu Hồ có viết thư mời tôi đến làm thơ cho nên tôi đến đây... Tôi hiện nay ở đình Thức Chu cảnh rất là đẹp, có thể nhìn ra sông, mời ông đến đó chơi!

                        - Tôi cũng đến An Khánh thăm một người bạn, trở về đây thuyền bị ngược gió. Bây giờ tôi sẽ đến chỗ anh chơi.

                        Lai Hà Sĩ trả tiền trà rồi hai người cùng đến đình Thức Chu. Một người đạo sĩ đi ra hỏi tên họ. Lai Hà Sĩ nói:

                        - Đây là ông Đỗ Thiếu Gia trong trạng nguyên phủ ở phủ Thiên Trường.

                        Vị đạo sĩ nghe vậy liền cung kính mời ngồi uống trà. Đỗ nhìn thấy trên tường treo một bài thơ “Thức Chu đình hoài cổ”(#1) tặng Lai Hà Sĩ do Vi Tư Huyền làm, Đỗ nói:

                        - Bài thơ này có phải là của cụ Vi ở Ô Y Trấn làm không? Cụ đến đây bao giờ?

                        Vị đạo sĩ nói: - Cụ Vi hiện nay ở trên lầu. - Như thế thì tôi phải cùng anh lên lầu thăm cụ. Mấy người lên lầu. Vị đạo sĩ gọi:

                        - Cụ Vi! Ông Thiếu Khanh ở Thiên Trường đến đây. Cụ Vi bước xuống hỏi:

                        - Ai?

                        Đỗ Thiếu Khanh nói:

                        - Thưa bác, cháu đây mà!

                        Cụ Vi hai tay vuốt râu cười khanh khách:

                        - Tôi tưởng là ai, hóa ra anh Thiếu Khanh! Tại sao anh lại đến cái nơi hoang vắng này? Thôi ngồi xuống đây để tôi pha trà cho mà uống, rồi anh nói cho tôi biết anh đến đây để làm gì.

                        Thiếu Khanh đem câu chuyện cụ Lý tiến cử kể lại qua loa rồi nói:

                        - Chuyến này cháu mang ít tiền đi đường. Hiện nay chỉ còn năm đồng tiền. Vừa rồi, ông Lai Hà Sĩ trả tiền trà cho đấy. Giờ cháu không có tiền trả tiền đò cũng không có tiền mua gạo.

                        Cụ Vi cười rộ:

                        - Tốt! Tốt lắm! Thế là “ông chủ” hết thời rồi đấy! Nhưng anh là một người hào kiệt, thôi cần quái gì cái việc này. Ở lại đây ăn một bữa với tôi đã. Tôi nhân có dạy một người học trò ở Vu Hồ, hôm trước anh ta thi đỗ, tôi đến mừng, anh ta tạ ơn tôi hai mươi bốn lạng bạc. Khi nào anh ăn cơm xong, xem gió đổi chiều rồi thì tôi sẽ biếu anh mười lạng.

                        Đỗ Thiếu Khanh ngồi uống rượu với cụ Vi và Lai Hà Sĩ. Đến xế chiều, nhìn những con thuyền ở ngoài sông đi qua trước cửa, thấy những ngọn cờ cắm trên mui đã từ từ chuyển hướng, cụ Vi nói:

                        - Tốt, gió đổi chiều rồi!

                        Mấy người dựa vào cửa sổ nhìn ra sông. Một lát, mặt trời lặn, ánh nước phản chiếu làm cho mấy ngàn cột buồm đều đỏ rực. Đỗ Thiếu Khanh nói:

                        - Trời đã quang, gió đông bắc đã dừng thổi, cháu xin chào bác xuống thuyền.

                        Cụ Vi đưa cho Đỗ Thiếu Khanh mười lạng bạc và cùng Lai Hà Sĩ tiễn Đỗ Thiếu Khanh xuống tận thuyền. Lai Hà Sĩ nhờ gửi lời thăm những người bạn ở Nam Kinh. Sau khi từ biệt, hai người trở về nhà.

                        Thiếu Khanh nghỉ đêm ở trên thuyền. Đến canh năm, quả nhiên gió tây nam thổi nhẹ, người lái đò lại giương buồm lên. Gặp gió thuận, thuyền chỉ đi nửa ngày là đến cửa Bạch Hà. Đỗ đưa tiền cho chủ thuyền rồi mang hành lý lên bờ, lên kiệu về nhà. Vợ ra tiếp, Đỗ kể lại câu chuyện đi đường hết tiền một lượt, vợ cũng cười theo. Hôm sau Đỗ đến cầu cửa Bắc thăm Trang Thiệu Quang. Người ở đấy nói:

                        - Từ tuần vũ ở Chiết Giang mời ông ta đi chơi Tây Hồ, mấy ngày nữa mới về. Đỗ Thiếu Khanh liền đến nhà họ Lư ở đường Thương Hạng. Gia đình họ Lư giữ lại ăn cơm, uống rượu. Trong câu chuyện suông, Trì Hành Sơn nói:

                        - Bây giờ bọn đọc sách chẳng qua chỉ nghĩ đến khoa cử. Làm được mấy câu thơ, mấy câu phú, thế là cho hết sức phong nhã rồi đấy! Còn như lễ, nhạc, binh, nông, kinh, sử, thì họ hoàn toàn không biết cái gì. Thái Tổ triều ta bình định thiên hạ, công lao không kém gì vua Thang vua Vũ nhưng vẫn chưa làm được lễ, nhạc. Anh Thiếu Khanh! Lần này anh được mời ra thì anh phải làm một việc gì cho triều đình để không thẹn với những điều chúng ta đã học.

                        - Tôi đã từ chối việc ấy rồi. Chỉ sợ không làm nên trò trống gì, những vị cao nhân họ cười mình, cho nên tôi cho rằng không ra làm quan là tốt nhất.

                        Trì Hành Sơn lại lấy ở trong phòng ra một cuộn giấy mà nói:

                        - Tôi muốn bàn việc này với anh.

                        - Việc gì thế?

                        - Con người hiền nhất xưa nay ở Nam Kinh là Thái Bá(#2) nước Ngô, nhưng Thái Bá vẫn chưa có một đền thờ nào cả. Còn đền thờ Văn Xương và Đức Thánh Quan thì ở đâu cũng có. Tôi định cùng mấy người bạn mỗi người quyên một ít tiền làm đền thờ Thái Bá. Vào giữa mùa xuân và mùa thu, ta sẽ dùng lễ xưa và nhạc xưa mà tế. Như thế mọi người sẽ biết được lễ nhạc. Sau này có thể tạo nên những nhân tài giúp ích được cho chính giáo(#3). Nhưng muốn làm đền thờ phải có mấy ngàn lạng bạc. Tôi đã lập quyển sổ này, ai góp tiền thì viết vào đây. Anh Thiếu Khanh, anh định góp bao nhiêu?

                        Thiếu Khanh nói:

                        - Cái đó nên làm lắm.

                        Liền đề lên quyển sổ: “Đỗ Nghi ở Thiên Trường quyên ba trăm lạng”

                        Trì Hành Sơn nói:

                        - Thế là nhiều. Tôi cũng lấy số tiền dạy học mấy năm nay dành dụm được là hai trăm lạng để quyên vào đấy.

                        Trì Hành Sơn viết số tiền và nói với Hoa Sĩ:

                        - Anh cũng cố gắng bỏ vào năm mươi lạng. Mọi người viết vào sổ, Trì Hành Sơn cuộn quyển sổ lại. Mọi người ngồi lại nói chuyện suông. Thấy một người đầy tớ nhà Đỗ Thiếu Khanh đến bẩm:

                        - Có người sai nhân ở Thiên Trường đến muốn gặp Thiếu Gia. Mời Thiếu Gia về cho.

                        Đỗ từ biệt Trì Hành Sơn để về nhà.

                        Chỉ nhân phen này khiến cho:

                        Hiền sĩ đương thời, từ tước lộc khỏi bề ràng buộc;

                        Danh lưu hai tỉnh, sửa lễ nhạc theo lối ngày xưa.

                        Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

                        Chú thích:

                        (1-) Ở đình “Thức Chu” nhớ thời xưa.

                        (2-) Thái Bá: con trai Thái Vương thời Tây Chu. Thái Bá nhường ngôi cho em, bỏ trốn về phương Nam, lập ra nước Ngô.

                        (3-) Giúp trong việc cai trị và dạy dỗ dân.

                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #27
                          Bàn lễ nhạc danh lưu hội bạn
                          Đủ nghi văn thiên tử vời hiền Đỗ Thiếu Khanh từ biệt Trì Hành Sơn về hỏi người đầy tớ:

                          - Người sai nhân nói gì vậy? - Anh ta nói có công văn đến. Cụ Lý đã bảo quan huyện mời Thiếu Gia lên kinh làm quan. Quan huyện Đặng hiện nay đang ở chùa Thừa Ân. Sai nhân nói muốn mời Thiếu Gia về nhà để quan huyện Đặng có thể thân hành đến mời.

                          - Nếu đã như thế thì ta không đi vào cửa trước. Mày mau mau gọi một chiếc đò để ta đi dưới sông lên theo lan can mà vào nhà.

                          Người đầy tớ thuê một chiếc thuyền ở cầu Hạ Phù. Đỗ về nhà, vội vàng mặc áo cũ, đội mũ cũ, lấy khăn mặt ướt đắp lên đầu, leo lên giường nằm và gọi đầy tớ đến dặn:

                          - Mày ra ngoài nói với sai nhân rằng ta đang mắc bệnh, cụ Đặng hãy khoan đến thăm. Khi nào khỏi bệnh, ta sẽ đến tạ ơn cụ.

                          Đầy tớ ra nói lại với sai nhân như vậy, sai nhân đi ra. Vợ của Đỗ mỉm cười hỏi:

                          - Triều đình mời ông ra làm quan, tại sao ông lại cáo ốm không đi?

                          - Mình ngốc lắm! Nam Kinh này là nơi vui thú như vậy, ta ở nhà mùa xuân và mùa thu cùng mình xem hoa, uống rượu. Như thế chả hơn sao? Mình bắt ta lên kinh để làm gì? Giả thử ta phải đem cả mình lên Kinh, ở Kinh trời lạnh mình lại yếu, một ngọn gió thổi là đủ chết cóng. Như thế được cái gì, chi bằng không đi là hơn.

                          Người đầy tớ trở về nói:

                          - Cụ Đặng đã đến! Hiện nay, cụ đang ngồi ở ngoài phòng khách. Cụ nhất định thế nào cũng gặp ông cho được.

                          Đỗ bảo hai người đầy tớ vực mình dậy, làm ra vẻ bệnh tình nặng lắm, đi không vững, ra lạy chào quan huyện để lạy tạ. Vừa lạy xuống thì không dậy được nữa. Tri huyện vội vàng đỡ dậy. Hai người cùng ngồi. Tri phủ nói:

                          - Triều đình muốn làm lễ lớn theo ngày xưa, cụ Lý muốn mượn cái danh tiếng của ngài. Không ngờ ngài bệnh nặng như vậy. Không biết bao giờ ngài có thể cố gắng lên đường?

                          - Tôi không may mắc bệnh nặng, việc sống chết chưa thể nói trước, xin cụ từ chối giúp cho...

                          Đỗ lấy trong tay áo ra một cái đơn đưa cho tri huyện. Tri huyện nhìn quang cảnh này, biết rằng ở lâu cũng không tiện bèn nói:

                          - Tôi xin tạm biệt, sợ ở lại làm ông mệt. Tôi sẽ viết công văn bẩm lên quan trên để xem ý kiến.

                          - Rất mong ngài giúp đỡ, tôi mắc bệnh không làm sao tiễn ra cửa được.

                          Tri huyện từ biệt lên kiệu đi. Sau đó viết công văn nói: “Đỗ Thiếu Khanh đau nặng không thể lên đường”. Bấy giờ cụ Lý đã đổi đi làm tuần vũ Phúc Kiến, cho nên việc này cũng thôi. Đỗ thấy cụ Lý đã đi nơi khác, trong lòng rất lấy làm mừng rỡ nói:

                          - Tốt lắm! Thế là chấm dứt cái đời tú tài của ta! Sau này, không đi thi Hương, chỉ vui chơi ngày tháng và lo công việc của mình mà thôi!

                          Vì đã nói với tri huyện mắc bệnh nặng để cáo từ, cho nên một thời gian Đỗ không đi đâu. Hôm ấy, một người hương thân họ Tiết ở đường Cổ Lâu mời Đỗ đến uống rượu, nhưng Đỗ từ chối không đi. Trì Hành Sơn đến trước, rồi Mã Thuần Thượng, Cừ Dật Phu và Quý Vi Tiêu đều đến. Lại có hai vị khách nữa, một người là Tiêu Bá Tuyền ở Dương Châu, một người là Dư Hòa Thanh ở Thái Thạch, là hai người danh sĩ trẻ tuổi. Cả hai mặt mày trắng trẻo, môi đỏ như son, ăn mặc rất diêm dúa, bôi nước hoa thơm nức, cử chỉ phong lưu. Hai người này còn có hai bí danh nữa. Một người là “Dư Mỹ Nhân” một người là “Tiêu Cô Nương” hai người chào mọi người rồi ngồi xuống. Tiết nói:

                          - Hôm nay mời các vị, tôi có một ông bạn họ Tiền ở cầu Hoài Thanh đến tiếp; nhưng ông ta bận việc không đến được.

                          Quý Vi Tiêu nói: - Này bác! Có phải bác nói cái ông Tiền Mặt Rỗ làm nghề hát tuồng không?

                          - Đúng đấy.

                          Trì Hành Sơn nói:

                          - Tôi và các vị danh sĩ đến đây ăn tiệc. Tại sao ông lại để cho người con hát cùng ngồi với chúng tôi!

                          - Tục lệ xưa nay vẫn làm thế! Hôm nay tôi có mời cụ Cao Tính cụ rất thích nói chuyện với những người hát tuồng, cho nên tôi cũng mời ông Tiền đến.

                          Trì Hành Sơn hỏi:

                          - Cụ Cao là ai nhỉ?

                          Quý Vi Tiêu nói:

                          - Cụ người ở Lục Hợp, hiện nay làm thị độc ở viện hàn lâm.

                          Mấy người đang nói chuyện thì người giữ cổng vào báo:

                          - Cụ Cao đã đến!

                          Tiết chạy ra mời vào.

                          Cụ Cao đội mũ sa, mặc áo mãng bào bước vào chào mọi người, rồi ngồi ghế đầu. Nhận ra Quý Vi Tiêu, cụ Cao nói:

                          - Ông Quý! Rất tiếc hôm trước ông đến thăm, tôi không ở nhà để tiếp. Tôi chưa đọc những bài văn ông đưa tôi. Hai vị trẻ tuổi này là ai?

                          “Dư Mỹ Nhân” và “Tiểu Cô Nương” đều nói họ tên của mình. Cụ Cao lại hỏi đến Cừ Dật Phu và Mã Thuần Thượng. Mã Thuần Thượng nói:

                          - Chúng tôi là những người soạn quyển “Lịch khoa trình - mặc trì vận” bán ở các hiệu sách.

                          Dư Mỹ Nhân nói: - Ông Cừ là cháu nội cụ thái thú Nam Xương. Thầy tôi trước cũng làm quan chấm thi ở Nam Xương. Như vậy, tôi với ông Cừ là chỗ anh em.

                          Hỏi xong, lại hỏi đến Trì Hành Sơn. Trì Hành Sơn nói: - Tôi họ Trì tự là Hành Sơn.

                          Quý Vi Tiêu nói: - Ông Trì giỏi về lễ nhạc, là một danh sĩ ở Giang Nam này.

                          Cụ Cao nghe vậy không nói gì nữa. Uống ba tuần trà xong, mấy người cởi áo ngoài và vào thư phòng. Mặc dầu cụ Cao là bậc tiền bối nhưng cụ không hề để ý đến việc đó, mà vẫn vui cười nói chuyện với tất cả mọi người không cần giữ gìn gì. Vừa vào thư phòng, cụ Cao đã hỏi:

                          - Tại sao không thấy ông Tiền đến?

                          Tiết nói:

                          - Hôm nay ông ta chưa về.

                          - Thật là mất thú! Thế là bữa tiệc hôm nay mất vui! Tiết bày ra hai bàn tiệc. Mọi người ngồi vào bàn. Trong lúc ăn tiệc, mọi người nói đến những người danh sĩ ở Chiết Giang, nói đến phong cảnh ở Tây Hồ, nói đến hai anh em họ Lâu kết giao với những người tân khách.

                          Dư Mỹ Nhân nói:

                          - Riêng tôi, tôi không thích những chuyện này, tôi chỉ thích cô Song Hồng trong nhà ông Cừ Dật Phu. Nói đến cái tên cô ta, trong miệng của tôi cũng đã thơm phức lên rồi.

                          Quý Vi Tiêu nói:

                          - Có gì là lạ! Ông là một mỹ nhân thảo nào ông chỉ thích các mỹ nhân thôi.

                          Tiêu Bá Truyền nói:

                          - Riêng tôi, tôi thích nhất là những người ở hàn lâm viện. Tôi tiếc rằng không được gặp Lỗ Biên Tu, nhưng nghe cách nói năng và phong thái ông ta, tôi chắc ông ta là một người quân tử. Nếu được gặp ông ta thì tôi thế nào cũng xin thỉnh giáo. Thật đáng tiếc, nay ông ta đã qua đời.

                          Cừ Dật Phu nói:

                          - Những hành động hào hiệp của nhà cậu Lâu của tôi thật bây giờ không làm gì có nữa.

                          Quý Vi Tiêu nói:

                          - Anh Cừ! Anh nói cái gì vậy? Anh em họ Đỗ ở Thiên Trường sợ còn hào hiệp hơn cậu của anh nhiều.

                          Trì Hành Sơn nói:

                          - Trong hai người này thì Thiếu Khanh lại càng tốt hơn. Cụ Cao hỏi:

                          - Có phải các ông nói đến người con quan tri phủ Cống Châu không?

                          Trì Hành Sơn nói:

                          - Thưa vâng, chắc cụ cũng biết chứ?

                          Cụ Cao nói:

                          - Lục Hợp ở sát vách Thiên Trường tại sao tôi lại không biết? Nhưng nếu các ông cho phép tôi nói thì cái anh Thiếu Khanh kia quả là một tay phá của đệ nhất trong nhà họ Đỗ. Tổ tiên anh ta mấy mười đời làm thuốc, để lại nhiều âm đức, có nhiều tiền, nhiều ruộng. Đến đời người ông thì phát đạt. Nhưng mặc dầu làm quan mấy mươi năm ông ta vẫn không kiếm được bao nhiêu tiền. Người cha của Thiếu Khanh thi đỗ tiến sĩ, làm quan tri phủ, nhưng cũng là một anh ngốc. Lúc làm quan không biết kính trọng quan trên, chỉ lo làm sao cho vừa lòng dân. Suốt ngày chỉ nói toàn những câu ngốc nào là “đôn đốc việc hiếu đễ”, “khuyến khích việc nông nang”, những câu khỉ này chẳng qua là những sáo ngữ để làm đầu đề văn bát cổ mà thôi. Ông ta lại tưởng đó là sự thực! Kết quả là quan trên không thích ông ta, cách chức ông ta. Đến đời anh còn thì lại ngông cuồng quá đỗi! Suốt ngày chỉ lo chơi bời với những người hòa thượng, đạo sĩ, làm thơ, ăn mày, chẳng biết chơi với những người chính quân, quân tử. Trong vòng mười năm nay, anh ta tiêu hết sạch sáu bảy vạn lạng bạc. Anh ta ở phủ Thiên Trường không được nữa, phải lên Nam Kinh, ngày ngày dắt vợ ra quán rượu ăn uống, một tay cầm cái chén rượu bằng đồng giống như một thằng ăn mày ấy. Một cái nhà như thế mà lại đẻ ra một con người như thế! Lúc dạy con cháu học ở nhà, tôi thường bảo chúng lấy ông ta làm gương. Mỗi đứa phải dán trên bàn một tờ giấy viết: “Chớ có bắt chước Đỗ Thiếu Khanh ở Thiên Trường!”.

                          Trì Hành Sơn nghe xong mặt đỏ gay nói:

                          - Gần đây triều đình có mời ông ta ra làm quan ông ta không ra!

                          Cụ Cao cười nhạt:

                          - Ông nói như thế là lầm rồi! Nếu ông ta có học thì ông ta đã thi đỗ rồi!

                          Rồi lại cười mà rằng:

                          - Cái việc mời ra làm quan có phải là con đường chính để xuất thân đâu!

                          Tiêu Bá Tuyền nói:

                          - Cụ Cao nói thế là đúng!

                          Và quay về phía mọi người nói:

                          - Tất cả bọn hậu bối chúng ta nên lấy những lời cụ Cao làm châm ngôn.

                          Họ uống rượu và nói chuyện suông một hồi, tiệc tan. Cụ Cao lên kiệu ra về. Trên đường về, Trì Hành Sơn nói với mọi người:

                          - Vừa rồi cụ Cao nói như thế rõ ràng là mắng Đỗ Thiếu Khanh. Không ngờ rằng chính cụ lại làm cho Đỗ Thiếu Khanh nổi tiếng. Thưa các vị, từ xưa đến nay không có mấy người được như Thiếu Khanh đâu.

                          Mã Thuần Thượng nói:

                          - Tuy vậy lời nói của cụ Cao cũng có chỗ đúng đấy!

                          Quý Vi Tiêu nói:

                          - Dẫu sao cái nhà ở bên bờ sông của ông ta cũng là đẹp tuyệt. Ngày mai chúng ta cùng đến đấy bảo ông ta mua rượu uống đi!

                          Dư Hòa Thanh nói:

                          - Hai chúng tôi cùng sẽ đi thăm.

                          Ngay đó, công việc bàn bạc xong. Hôm sau Đỗ vừa mới dậy đang ngồi trong cái nhà bên bờ sông thì người láng giềng là Kim Đông Nhai đã đưa đến một quyển “Tứ thư giảng chương” của mình làm để nhờ phê giúp. Đỗ đặt nó trên bàn, vừa mới đọc xong mười đoạn, thì Kim Đông Nhai chỉ vào một đoạn mà hỏi:

                          - Này ông, ông nói: “dương táo” là cái gì. Dương táo tức là dái dê. Tục ngữ nói: “chỉ cốt trứng dái dê, chứ không kể đến tính mạng nó”; vì vậy thầy Tăng Tử không ăn(#1).

                          Đỗ Thiếu Khanh cười mà nói:

                          - Người xưa giảng nghĩa các kinh cũng có chỗ giảng sai và xuyên tạc. Ông nói như thế là khác người đấy.

                          Đang lúc nói chuyện, thì Trì Hành Sơn, Mã Thuần Thượng, Cừ Dật Phu, Tiêu Bá Tuyền, Quý Vi Tiêu, Dư Hòa Thanh đều đến, vái chào và cùng ngồi xuống. Thiếu Khanh nói:

                          - Mấy lâu nay tôi không ra khỏi nhà cho nên không có dịp được các vị dạy bảo. Hôm nay tại sao các vị lại đến đây đông đủ như vậy? Xin các vị cho biết họ tên.

                          Tiêu Bá Tuyền và Dư Hòa Thanh tự nói họ tên, Thiếu Khanh hỏi:

                          - Tại sao không thấy ông Cảnh Lan Giang?

                          Cừ Dật Phu nói:

                          - Ông ta hiện nay vừa mở một hiệu buôn mũ ở đường Tam Sơn để kiếm ăn.

                          Đầy tớ bưng trà ra. Quý Vi Tiêu nói:

                          - Chúng tôi đến không cốt uống trà, chúng tôi hôm nay muốn uống rượu cơ.

                          Đỗ Thiếu Khanh nói:

                          - Cái đó là dĩ nhiên, nhưng hãy nói chuyện đã.

                          Trì Hành Sơn nói:

                          - Hôm trước ông đưa cho tôi xem quyển “Thi Thuyết” của ông, tôi rất phục. Ông có thể cho biết một vài điểm về cách chú giải kinh thi của ông không?

                          Tiêu Bá Tuyền hỏi:

                          - Có phải ông nghiên cứu “Kinh Thi” là cốt dùng vào việc thi cử phải không?

                          Mã Thuần Thượng nói:

                          - Tôi chắc ông căn cứ vào quyển “Vĩnh Lạc đại toàn”(#2) mà chú giải.

                          Trì Hành Sơn nói:

                          - Chúng ta hãy nghe ông Thiếu Khanh bàn về kinh thi đã.

                          Thiếu Khanh nói:

                          - Khi Chu Tử chú giải các kinh thì ông lập một học thuyết của riêng mình, cũng muốn để người đời sau so sánh với các nhà nho khác để tham khảo. Nhưng ngày nay, người ta bỏ các lời chú giải của những người khác mà chỉ giữ lời của Chu Tử mà thôi. Đó chẳng qua là cái sai lầm của người sau không có liên quan gì đến Chu Tử. Tôi đã xem tất cả các thuyết của các nhà nho. Tôi cũng thấy có một hai ý kiến muốn bàn với các ông. Chẳng hạn trong thiên “Khải Phong”(#3) chú giải trước kia bảo rằng bài này nói có một người đàn bà bảy con nay muốn tái giá, tôi cho là không đúng. Đàn bà đời xưa hai mươi tuổi mới lấy chồng nuôi được đứa con thứ bảy khôn lớn thành người thì đã năm mươi tuổi rồi còn nghĩ gì đến việc tái giá nữa? Cái câu nói rằng: “Nhà cửa không yên” theo như ý tôi đó là bà nói đến việc ăn mặc không vừa lòng; vì vậy bà đã cãi lộn trong nhà và bảy người con nhận thấy rằng mình làm không phải. Điều này người trước không hề nói đến.

                          Trì Hành Sơn gật đầu nói:

                          - Nói có lý!

                          Lại trong thiên “Gái nói gà gáy” theo ý các ông cắt nghĩa như thế nào?

                          Mã Thuần Thương nói:

                          - Đó là bài thơ trong “Trịnh Phong” nói người đàn bà không dâm loạn chứ còn cách giải thích gì khác nữa!

                          Trì Hành Sơn nói:

                          - Cũng được đấy, nhưng nghe nó vẫn không sâu sắc, thú vị.

                          Đỗ nói:

                          - Không phải thế! Số là những người quân tử sau khi đã làm quan thì kiêu ngạo đối với vợ. Còn các bà vợ thì muốn làm phu nhân nhưng không được thành ra mọi việc đều không vừa lòng nên cãi lộn với chồng. Các anh xem: cặp vợ chồng kia không để ý gì đến công danh phú quý, đánh đàn uống rượu vui mệnh trời, vui đời mình chẳng phải là những con người quân tử biết tu thân, tề gia của thời tam đại(#4) đó không? Việc này người xưa vẫn không thấy nói đến.

                          Cừ Dật Phu nói:

                          - Nói như vậy thì thực là hay! Thiếu Khanh nói:

                          - Ông Cừ xem bài thơ “Trăn vị” chỉ thấy nói hai vợ chồng cùng đi chơi với nhau. Có gì dâm loạn đâu!

                          Quý Vi Tiêu nói:

                          - Thảo nào, hôm trước anh đi chơi với chị ở vườn họ Diêu. Anh đánh đàn, uống rượu, hái hoa lan, tặng hoa thược dược thực là phong lưu!

                          Mọi người nghe vậy đều cười vang. Trì Hành Sơn nói:

                          - Ông Thiếu Khanh nói thật là hay, nghe ông Thiếu Khanh nói chuyện như là uống rượu tiên ấy!

                          Dư Hòa Thanh nói:

                          - Rượu tiên đến đây rồi!

                          Mọi người nhìn ra thì thấy người đầy tớ đã mang rượu đến.

                          Trên bàn bày rượu và đồ nhắm, tám người cùng ngồi. Quý Vi Tiêu uống thêm mấy chén say và nói:

                          - Anh Thiếu Khanh! Anh thực là phong lưu tuyệt trần. Cứ như ý tôi, ngồi ở đây xem hoa, uống rượu với một người đàn bà đã ngoại ba mươi thật là mất hứng. Những người tài danh như anh, lại ở nơi xinh đẹp như thế này, tại sao anh không lấy một người vợ xinh đẹp lại có tài, đa tình để rồi “Tài tử giai nhân vui chơi kịp thời”, như thế chẳng hơn sao?

                          Thiếu Khanh nói:

                          - Anh Vi Tiêu! Anh không nghe Án Tử(#5) nói sao? Khi vợ tôi đã già và xấu thì tôi nhớ lại ngày vợ tôi trẻ và đẹp. Vả chăng cái việc lấy thiếp, tôi không thấy nó hợp với lẽ trời. Trong thiên hạ chẳng qua chỉ có bấy nhiêu người. Nếu một người đàn ông lấy mấy người đàn bà thì trong thiên hạ thế nào cũng có người không có vợ. Tôi muốn triều đình đặt ra phép tắc: ai quá bốn mươi tuổi mà không có con thì mới được lấy vợ lẽ. Nếu người vợ lẽ này cũng không có con nữa, thì họ có quyền lấy người khác. Như thế là những người không có vợ trong thiên hạ sẽ bớt đi. Cũng là một cách bồi bổ nguyên khí của trời đất vậy!

                          Tiêu Bá Tuyền nói:

                          - Quả là một lối trị nước yên dân thực phong lưu!

                          Trì Hành Sơn thở dài nói:

                          - Nếu như những người tể tướng mà lo lắng việc nước như vậy thì thiên hạ sẽ thái bình ngay.

                          Uống rượu xong, mọi người từ biệt ra về.

                          Vài hôm sau, Trì Hành Sơn đến một mình. Thấy Đỗ ở nhà, Trì Hành Sơn nói:

                          - Đền thờ Thái Bá nay đã bắt đầu dựng lên. Tôi đã thảo một bản về lễ nhạc, đến đây cùng bàn với anh để anh châm chước.

                          Thiếu Khanh cầm tờ giấy nói:

                          - Việc này cần bàn với một người nữa.

                          - Ai vậy?

                          - Ông Trang Thiệu Quang.

                          - Hôm trước ông ta đã đi Chiết Giang rồi.

                          - Tôi cũng muốn đi. Tối nay tôi và ông, chúng ta cùng đi Chiết Giang.

                          Hai người cùng thuê một cái thuyền đến cầu cửa Bắc. Lên bờ, họ đến một cái nhà ngoảnh mặt về hướng nam. Trì Thành Sơn nói:

                          - Đây là nhà ông ta.

                          Hai người bước vào nhà. Người nhà chạy vào báo với Trang Thiệu Quang. Thiệu Quang ra tiếp. Trang tên là Thượng Chí, tự là Thiệu Quang là con một nhà dòng dõi. Năm mười một, mười hai tuổi, Thiệu Quang đã biết làm một bài phú dài bảy ngàn chữ. Cả thiên hạ đều biết tiếng. Bây giờ Thiện Quang đã gần bốn mươi tuổi và nổi danh nhưng vẫn đóng cửa viết sách, ít khi giao thiệp với người. Hôm ấy, nghe tin có hai người khách đến, Thiệu Quang ra tiếp. Chỉ thấy một người đầu đội mũ sa tròn, mình mặc áo màu lam, râu thưa, da mặt trắng, Thiệu Quang cung kính chào hai người khách và nói:

                          - Anh Thiếu Khanh! Xa nhau mấy năm nay, tôi nghe tin anh ở sông Tần Hoài làm cho phong cảnh nơi này lại càng đẹp thêm. Hôm trước tôi bận ngao du ở Quán Giang, anh đến rồi đi ngay kể cũng quá vội.

                          - Hôm ấy tôi định đến thăm nhưng gặp lúc có người bạn cũ mất, phải đến đó ít ngày. Đến khi trở về thăm ông thì ông đi Chiết Giang rồi.

                          - Anh Hành Sơn thường vẫn ở nhà, tại sao không hay đến chơi?

                          - Tôi cứ mải lo đến đền thờ Thái Bá, chạy vạy bao nhiêu ngày. Bây giờ đền đã bắt đầu dựng lên. Tôi đã viết bản lễ nhạc, đem nó đến đây để được anh chỉ giáo.

                          Hành Sơn bèn rút trong ống tay áo ra một quyển đưa cho Trang. Trang cầm lấy xem từ đầu đến cuối rất kỹ rồi nói:

                          - Việc này là việc lớn, nghìn năm mới có một lần. Cố nhiên tôi sẽ xin hết sức góp phần. Nhưng hiện nay tôi có việc phải đi, nhiều là ba tháng, ít nhất là hai tháng mới trở về. Bấy giờ tôi sẽ lại cùng bàn bạc với ông.

                          Trì Hành Sơn hỏi:

                          - Ông đi có việc gì vậy?

                          - Ông Từ Mục Hiên làm tuần vũ Chiết Giang hiện nay làm Thiếu Tân Bá có tiến cử tôi lên Kinh, cho nên tôi phải đi.

                          Trì Hành Sơn nói:

                          - Như thế thì không trở về được!

                          - Anh cứ yên tâm, tôi sẽ trở về, không để lỡ việc tế đền Thái Bá đâu.

                          Thiếu Khanh nói:

                          - Việc tế này mà thiếu ông thì không được. Phải về cho sớm đấy!

                          Trì Hành Sơn hỏi xem công văn. Người đầy tớ lấy tờ giấy ra. Hai người cùng xem. Tờ giấy viết: Lễ bộ thị lang Từ về việc tiến cử người hiền tài, phụng thánh chỉ mời Trang Thượng Chí lên kinh bệ kiến. Khâm thử“. Hai người xem xong nói:

                          - Chúng tôi xin chào. Không phải tiễn đưa làm gì! Nói xong Thiệu Quang tiễn hai người ra cửa. Buổi tối, Trang làm bữa tiệc để tạm biệt vợ. Vợ hỏi: - Ông thường không chịu ra làm quan. Bây giờ tại sao có lệnh ông lại ra?

                          - Ta không phải như một người ẩn sĩ ở chốn sơn lâm. Một khi đã có chiếu chỉ ban ra để triệu thì không thể ngạo mạn không theo cái lễ vua tôi. Mình cứ yên tâm, ta sẽ trở về. Nhất định không để cho vợ của Lão Lai Tử(#6) phải cười.

                          Hôm sau, khi các quan ở phủ địa phương là phủ Ứng Thiên đến giục, thì thấy Thiệu Quang đã đi rồi. Thiệu Quang gọi một cái kiệu nhỏ, đêm theo một người đầy tớ quẩy một gánh hành lý theo cửa sau, đi ra cửa Hán tây.

                          Thiệu Quang đi đường thủy qua sông Hoàng Hà và thuê một cái xe ngày đi đêm nghỉ đến Sơn Đông. Khi đi khỏi Duyên Châu bốn mươi dặm đến một nơi gọi là trạm Tân Gia. Thiệu Quang dừng xe ở đấy uống trà. Hôm ấy, trời còn sớm. Thiệu Quang giục đánh xe thêm vài mươi dặm, nhưng chủ quán nói:

                          - Không giấu gì ông, gần đây ở miền này trộm cướp như rươi. Khách bộ hành đều phải đi muộn nghỉ sớm. Mặc dầu ông không phải là một người buôn bán giầu có gì, nhưng cũng nên cẩn thận thì hơn.

                          Trang Thiệu Quang nghe vậy, bảo người đánh xe hãy dừng lại để nghỉ. Người đầy tớ chọn một gian phòng, mang hành lý vào, trải nệm giường để cho Thiệu Quang nghỉ và đem trà đến cho Thiệu Quang uống. Bỗng nghe tiếng nhạc lừa kêu vang ở ngoài, trên một trăm con lừa đi đến, mang theo ống gỗ đựng bạc, có một người mặc áo quần nhà võ áp tải. Cùng đi với ông ta là một người trạc ngoại sáu mươi, râu lốm đốm bạc, đội mũ lông chiên, mặc áo giáp, ở lưng đeo một cái ná, chân đi giày da bò. Hai người nhảy xuống lừa và xách roi cùng vào quán, nói với chủ quán.

                          - Chúng tôi đem tiền thuế từ Tứ Xuyên đến kinh đô. Hôm nay trời đã sắp tối; nghỉ ở đây; ngày mai sẽ đi sớm. Các ông phải hết lòng săn sóc.

                          Chủ quán vâng vâng dạ dạ. Người áp tải dốc suất những người phu đi chân khiêng tiền vào quán. Khi lừa đã vào chuồng cả rồi, y treo roi, bước vào quán với người kia rồi quay lưng lại chào Trang Thiệu Quang. Triệu Quang hỏi:

                          - Các ông đem tiền từ Từ Xuyên về kinh à? Không dám, xin cho biết quý danh.

                          Vị quan áp tải tiền nói:

                          - Tôi họ Tôn làm chức thủ bị. Bạn tôi họ Tiêu, tự là Hạo Hiên người ở phủ Thành Đô.

                          Nhân tiện họ hỏi Thiện Quang lên kinh có việc gì?

                          Thiệu Quang nói họ tên và kể việc mình được mời lên kinh như thế nào.

                          Tiêu Hạo Hiên nói:

                          - Đã lâu tôi nghe nói ở Nam Kinh có ông Trang Thiệu Quang là người danh sĩ. Không ngờ hôm nay đột nhiên được gặp ở đây.

                          Tiêu Hạo Hiên tỏ ra rất kính trọng Trang Thiệu Quang. Thiệu Quang thấy Hạo Hiên dáng người hiên ngang, khác hẳn người thường bèn nói chuyện thân mật. Thiệu Quang nói:

                          - Nước nhà lâu nay thái bình vô sự. Gần đây quan địa phương chẳng qua làm việc qua loa, bọn trộm cướp hoành hành mà họ hoàn toàn không chịu nghĩ đến cách dẹp giặc yên dân. Tôi nghe nói trên đường trước mặt có nhiều cướp cho nên chúng tôi phải ở đây phòng bị.

                          Tiêu Hạo Hiên nói:

                          - Xin ông cứ yên tâm. Tôi bình sinh có chút nghề mọn, ở trong vòng một trăm thước, bọn cướp có đến thì chỉ cần giương ná là bách phát bách trúng, nếu bọn cướp đến, tôi chỉ cần giương ná lên là chúng khôn đường chạy thoát, người người bỏ mạng, chẳng sót một ai.

                          Vị quan áp tải nói:

                          - Nếu ông không tin tài năng của ông bạn chúng tôi thì chúng tôi xin làm để thỉnh giáo.

                          Trang Thiệu Quang nói: - Tôi thích xem lắm, không biết như thế có được không? Tiêu Hạo Hiên nói:

                          - Có hề gì! Tôi xin trổ chút nghề mọn.

                          Bèn cầm lấy ná trong tay bước ra ngoài sân lấy hai viên đạn ở cái túi bên sườn bắn viên thứ nhất rồi bắn viên thứ hai tiếp theo ngay. Hai viên gặp nhau nổ tung trên không. Trang Thiệu Quang thấy thế khen ngợi mãi không thôi. Chủ quán nhìn thấy cũng giật mình kinh sợ. Tiêu Hạo Hiên cất ná rồi bước vào nhà ngồi nói chuyện. Một hồi sau, mọi người ăn cơm và đi ngủ. Hôm sau, trời chưa sáng, Tôn đã dậy giục đánh lừa đi. Những người đi theo chuyển bạc lên lưng lừa, trả tiền trọ rồi đi. Tất cả mọi người đi được mươi dặm, lúc bấy giờ trời chưa sáng, sao mai còn lấp lánh trên không, bỗng thấy ở cánh rừng trước mặt, thấp thoáng có những bóng đen. Những người đánh lừa kêu lên:

                          - Nguy rồi! Trước mặt có cướp.

                          Hơn một trăm con lừa đều được đánh xuống ở một bên đường mé đồi. Tiêu Hạo hiên nghe vậy, vội vàng rút cái ná cầm ở tay, Tôn tuốt kiếm, ngồi yên trên mình ngựa. Bỗng nghe tiếng mũi tên bay vù ra. Mũi tên vừa bay qua thì thấy vô số những người cưỡi ngựa ở trong rừng chạy ra. Tiêu Hạo Hiên thét lên một tiếng, bắn một phát. Không ngờ chỉ nghe một tiếng “phật” dây ná đứt làm hai đoạn. Mấy chục tên cướp cưỡi ngựa reo hò chạy đến trước mặt. Tôn sợ hãi quay ngựa chạy, những người gánh, người dắt lừa đều sợ hãi nằm rạp xuống đất, bọn cướp bắt tất cả một trăm con lừa, lấy hết tiền bạc theo con đường nhỏ đi mất.

                          Trang ngồi ở trong xe một hồi lâu, không nói nửa lời, cũng không hiểu bên ngoài có việc gì. Khi thấy cái dây ná bị đứt, Tiêu Hạo Hiên không trổ tài được, liền quay ngựa chạy lui. Chạy đến một cái quán nhỏ; dừng ngựa ở ngoài quán, chủ quán nhìn thấy, đoán ngay là Tiêu Hạo Hiên đã bị mất cướp. Chủ quán hỏi:

                          - Tối qua ông ngủ ở đâu?

                          Tiêu Hạo Hiên kể lại đầu đuôi.

                          Chủ quán nói:

                          - Thằng chủ quán kia là tay chân của tên tướng cướp Triệu Đại. Chính nó đêm qua đã cắt đứt mấy dây ná của ông đấy!

                          Tiêu Hạo Hiên tỉnh ngộ, hối cũng không kịp nữa. Nhưng trong lúc hoảng hốt thì lại nghĩ ra một kế. Tiêu lấy tóc trên đầu buộc lại dây cung rồi phi ngựa quay lại. Gặp Tôn, Tôn nói quân cướp đã theo con đường nhỏ đi về hướng đông. Bấy giờ trời đã sáng. Tiêu Hạo Hiên phi ngựa như bay. Ngựa chạy được một quãng thì thấy đằng trước bọn cướp đang ra sức dắt những con lừa chở bạc chạy. Tiêu liền phi ngựa như bay về phía trước rồi bắn loạn xạ như mưa vào bọn này. Bọn này bị bắn ôm đầu chạy như chuột, để lại tiền bạc. Tiêu và Tôn lấy lại bạc và lừa rồi cùng ra đường cái lớn. Ở đấy họ gặp Trang, Thiệu Quang. Trang nức nở khen. Họ cùng đi nửa ngày. Trang Thiệu Quang hành lý nhẹ cho nên từ giã hai người rồi đi trước. Đi được mấy ngày thì gần đến Lư Cầu Kiều. Chợt một người cưỡi lừa đi đến. Thấy xe của Trang y liền hỏi:

                          - Xin cho biết vị khách ở trong xe là gì?

                          Người phu xe nói:

                          - Ông Trang.

                          - Có phải ông Trang ở Nam Kinh đến đây không?

                          Vừa nói vừa nhảy xuống lừa. Trang Thiệu Quang định xuống xe, thì người kia đã quỳ lạy ở dưới đất.

                          Chỉ nhân phen này khiến cho:

                          Triều đình có đạo, sửa đại lễ để tôn hiền;

                          Nho giả tiếc mình, từ cáo quan mà chẳng chịu.

                          Muốn biết việc sau thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

                          Chú thích:

                          (1-) Dương táo. Trong “Mạnh Tử” nói ông Tăng Tử không ăn “dương táo” vì người cha thích ăn “dương táo”, lúc ăn thì nhớ đến cha. Trong các sách chú thích “dương táo” là quả dương táo.

                          (2-) Đây chỉ bộ ngũ kinh đại toàn xuất bản đời Vĩnh Lạc nhà Minh, do Hồ Quảng biên soạn. Bộ này là sách học để đi thi.

                          (3-) "Khải Phong" là một bài thơ trong “Kinh Thi” thiên “Gái nói gà gáy”, trăn vị v.v... cũng vậy.

                          (4-) Thời Hạ, Thượng, Chu gọi là thời tam đại.

                          (5-) Án Tử, tên là Anh một nhà chính trị ở nước Tề có tiếng thời Xuân thu.

                          (6-) Đời Xuân Thu, vua Sở cho mời Lão Lai Tử ra làm quan vợ Lão Lai Tử khuyên chồng đừng ra.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #28
                            Cám ơn nhiều.

                            Comment


                            • #29
                              Hồi 35

                              Thánh Thiên Tử cầu hiền hỏi đạo
                              Trang Trưng Quân từ chức về nhà

                              Trang Thiệu Quang thấy người kia xuống lừa và lạy ở dưới đất, liền vội vàng xuống xe đỡ dậy và hỏi:
                              - Ông là ai? Tôi chưa hề được gặp.
                              Người kia đứng dậy nói:
                              - Cách đây ba dặm, có một cái quán. Mời ngài lên xe, tôi sẽ đi theo cùng đến đấy nói chuyện.
                              Thiệu Quang nói: - Tốt lắm! Mời anh lên xe.
                              Người kia cũng cưỡi lừa cùng đi đến quán. Hai người thi lễ xong ngồi xuống. Người kia nói: - Ở kinh tôi đã tính thời gian từ khi chiếu chỉ nhà vua tới Nam Kinh nên đoán lúc này là lúc ngài lên Bắc Kinh cho nên ngay từ khi ra khỏi cửa Chương Nghi thấy cái xe lừa nào, cái kiệu nào là tôi đều hỏi. Quả nhiên tìm được ngài. Thực là may mắn quá!
                              - Ông họ tên là gì, quê quán ở đâu?
                              Tôi họ Lư tên là Đức tự là Tín hầu người Hồ Quảng. Tôi vốn có cái chí muốn sưu tầm tất cả các tập văn của những danh nhân trong triều đại ta. Trong hai mươi năm nay tôi đã tìm được nhiều không còn thiếu mấy nữa. Một trong bốn vị danh sĩ là ông Cao Thanh Khâu, nhưng sau khi ông ta mắc nạn thì không còn ai giữ lại văn chương nữa. Ở kinh chỉ còn một người giữ được. Tôi lên đó để mua quyển sách ấy với một giá rất đắt. Đang lúc định về thì nghe tin triều đình mời ngài. Tôi nghĩ rằng những người xưa đã mất mà mình còn sưu tầm sách của họ để đọc, huống chi ngài là một người danh sĩ trong đời nay, tại sao mình lại bỏ qua không gặp mặt. Vì vậy tôi chờ đợi ở Bắc Kinh đã khá lâu và cứ đi hỏi thăm ở dọc đường.
                              - Tôi nằm dài ở Nam Kinh, trong lòng chẳng nghĩ gì đến việc làm quan. Nhưng nay đội ơn hoàng thượng không dám không đến. Không ngờ lại được gặp ông ở đây thực là một việc thích thú. Chỉ tiếc rằng hai ta vừa mới gặp mặt đã phải chia tay biết lấy gì để tỏ tình thân. Đêm nay, chúng ta tạm ngủ ở đây một đêm. Tôi và ông cùng nằm một giường nói chuyện cho thích.
                              Hai người bàn đến văn chương của các danh nhân. Trang nói với Lư Tín hầu.
                              - Ông đọc nhiều sách, yêu người xưa như vậy thực là một người ham học. Nhưng những sách của ông Thanh Khâu quốc gia vẫn có lệnh cấm, tại sao ông không biết lo tránh đi. Mặc dầu văn chương của ông Thanh Khâu không có những lời phỉ báng triều đình, nhưng Thái Tổ ghét ông ta, sách ông ta hiện nay là sách cấm. Tôi khuyên ông đừng nên đọc sách ấy. Theo như ý tôi, trong việc đọc sách, trước phải đọc từ rộng sau mới đến chuyên. Cốt là để lãnh hội được. Trên đường về, mời ông tạt vào nhà tôi, tôi cũng có viết vài quyển sách mong được ông chỉ giáo.
                              Lư Tín Hầu vâng lời. Hôm sau chia tay, Lư về Nam Kinh trước, đợi Trang ở đấy.
                              Trang Thiệu Quang vào cửa Chương Nghi, trọ tại chùa Hộ Quốc. Từ Thị Lang lập tức cho người nhà đến hầu hạ và thân hành đến chào. Từ Thị Lang hỏi:
                              - Tiên sinh đi đường có mệt không?
                              - Tôi vốn là người nhà quê, tính tình quê mùa, không quen xe cộ, vóc người tôi như “cây bồ liễu gặp tiết thu”. Vì đi đường xa mệt, tôi chưa có dịp đến yết kiến ngài, lại phiền ngài phải đến thăm.
                              - Ông nên thu xếp chong chóng, trong ba bốn ngày nữa thì sẽ được triệu vào.
                              Bấy giờ là ngày mồng một tháng mười năm Gia Tinh thứ 35(1). Sau ba ngày, Từ Thị Lang đưa chiếu chỉ của Nội các đến, chiếu chỉ viết:
                              “Mồng hai tháng mười Nội các vâng lệnh đạo dụ của Hoàng thượng: Nay nhờ hồng phúc của tổ tiên, trẫm ngày đêm cầu hiền để lo việc trị dân. Trẫm nghe nói: ”Ai thờ tôi làm thầy, người ấy sẽ làm Vương" đó là cái lẽ xưa nay. Nay quan thị lang bộ lễ có tiến cử ông Trang Thượng Chí. Ngày mồng sáu cho vào triều bệ kiến để nêu rõ phép tắc của triều đình. Khâm thử."
                              Canh năm ngày mồng sáu, vệ sĩ lâm quân đã chầu chực ở ngoài cửa Ngọ Môn. Các nghi trượng của thiên tử đều được bày biện. Các quan đến chầu chực ở ngoài cửa Ngọ Môn. Trong ánh sáng của một trăm ngọn đuốc, Tể tướng đi vào. Cửa Ngọ Môn mở rộng. Các quan vào theo cửa bên cạnh. Họ đi qua cửa Phụng Thiên, đến điện Phụng Thiên, ở trong nghe tiếng nhạc và nghe tiếng quan Hồng Lô đang xướng “Bài ban!” (Đứng vào hàng).
                              Nghe ba tiếng roi, những người thái giám đi ra từng đoàn, mang những lư hương bằng vàng ở trong đốt long diên hương. Những người cung nữ tay cầm quạt đưa Thiên Tử đi ra ngồi ở ngai vàng. Mọi người tung hô vạn tuế rồi sụp xuống lạy. Trang Thiệu Quang mặc triều phục đứng ở cuối hàng, cũng tung hô, phục xuống lạy chào Thiên Tử. Sau đó tiếng âm nhạc dứt. Bãi triều, hai mươi bốn con voi, mang những cái bình rất quý từ từ đi ra không có người dắt. Rõ thật là:
                              “Hoa đón gươm mang sao mới lặn
                              Liễu khuơ cờ quạt móc chưa khô(2)
                              Trang thấy các quan đi ra, cũng trở về nhà. Cởi triều phục xong, Trang đi đi lại lại thì vừa thấy Từ Thị Lang đến chào. Trang mặc áo thường ra tiếp. Uống trà xong, Từ Thị Lang nói:
                              - Hôm nay Hoàng thượng ra điện thật là một cái lễ lớn ít có. Ông nên ở nhà đợi có lệnh phải triều kiến chăng?
                              Ba ngày sau, có một đạo dụ đưa đến “Ngày mười một, cho Trang Thượng Chí lên điện để triều kiến. Cho cưỡi một con ngựa ở trong chuồng của nhà vua”.
                              Đến ngày mười một, Từ Thị Lang đưa Trang đến cửa Ngọ Môn. Từ Thị Lang đứng ngoài phòng đợi, còn Trang một mình bước vào cửa Ngọ Môn. Chỉ thấy hai người Thái giám dắt một con ngựa của nhà vua, mời Trang cưỡi. Hai người quỳ xuống giữ bàn đạp ngựa đợi Trang đã ngồi yên rồi, hai người kia mới cầm dây cương, dây cương cũng màu vàng! Họ dắt Trang đi chầm chậm qua cửa Cần Chánh. Đi đến ngoài cửa Tuyên Chính Điện, Trang xuống ngựa đứng ở đấy. Lại có hai người Thái Giám khác truyền lệnh cho Trang đi vào điện. Trang nín thở bước vào. Thiên Tử mặc áo thường, ngồi trên ngai vàng. Trang bước đến sụp lạy Thiên Tử nói:
                              - Trẫm làm vua đã ba mươi lăm năm nay, nhờ hồng phúc của trời đất và tổ tiên, bốn bề thái bình, biên cương vô sự. Nhưng trăm họ thì vẫn chưa no ấm cả, các sĩ và đại phu vẫn chưa theo đúng lễ nhạc. Trong việc dạy dỗ và nuôi dân; cái gì phải làm trước? Trẫm mời tiên sinh từ nơi thôn dã đến đây chính là muốn hỏi về việc đó. Mong tiên sinh cứ việc tâu lên, không cần phải giấu giếm gì hết!
                              Trang sắp sửa tâu lên, không ngờ trên đỉnh đầu có một cái gì đốt đau nhói không chịu được, đành phải cúi xuống tâu rằng:
                              - Đội ơn Hoàng thượng hỏi đến việc đó, nhưng thần không thể tâu ngay được. Xin cho thần suy nghĩ kỹ, sau sẽ trình tâu.
                              - Như thế cũng được! Tiên sinh nhớ làm vừa lòng trẫm. Cốt nhất là nói những việc có thể làm được, hợp với thời xưa mà cũng không trái với thời nay.
                              Nói xong đứng dậy về cung. Trang ra khỏi điện Cần Chính. Thái Giám lại đưa ngựa đến để Trang cưỡi đi ra Ngọ Môn. Từ Thị Lang đợi ở ngoài cửa cùng Trang trở về. Từ Thị Lang cáo từ về nhà. Trang về nhà cởi cái mũ ra xem thì thấy ở trong mũ có một con rết. Trang cười mà rằng:
                              - Té ra cái con vật này! Xem ra đủ biết đạo của ta không thể thực hành được!
                              Hôm sau, Trang rửa tay, đốt hương, bói một quẻ thì được quẻ “Thiên Sơn Độn”(3) Trang cười mà rằng:
                              - Đúng rồi!
                              Bèn viết tỉ mỉ mười chính sách dạy dỗ và nuôi dưỡng dân và làm một tờ sớ xin nhà vua cho về nhà thờ quan thông chính tư đưa lên. Từ đấy, tất cả các quan to ở trong triều không ai là không đến thăm. Mặc dầu Trang không chịu nổi sự phiền phức ấy, nhưng cũng đành phải thăm lại tất cả các nha môn. Quan đại học sĩ nói với Tử Thị Lang:
                              - Ông Trang ở Nam Kinh lại. Hoàng Thượng có ý muốn dùng ông ta vào việc lớn, tại sao ông không đưa ông ta đến thăm tôi? Tôi muốn nhận ông ta làm môn hạ.
                              Thị Lang không dám trái lời lại đem việc ấy nói với Trang. Trang nói:
                              - Trong đời này đã không có đức Khổng, tôi không muốn làm học trò ai hết. Hơn nữa, quan Thái Bảo đại học sĩ đã bao nhiêu lần làm chủ khảo các kỳ thi, số học sinh ở trong viện hàn lâm vô số cần gì phải lấy một người quê mùa như tôi làm học trò? Tôi đâu dám lĩnh giáo.
                              Từ Thị Lang đem việc này nói lại với quan Thái Bảo, Thái Bảo không bằng lòng.
                              Mấy hôm sau, thiên tử ở trong điện hỏi Thái Bảo: - Mười chính sách của Trang Thượng Chí trẫm đã xem kỹ thấy học vấn thật là uyên thâm. Con người này có thể dùng làm phụ bật(4) được không?
                              Thái Bảo tâu rằng: - Trang Thượng Chí quả là một người tài năng xuất chúng, được thiên tử đối đãi rất hậu, trăm họ đều mừng rỡ. Nhưng ông ta không xuất thân tiến sĩ(5) mà đã vụt nhảy ngay lên hàng khanh tướng. Trong bản triều ta xưa nay chưa có việc như thế này làm như vậy sợ tăng thêm cái lòng cầu may cho thiên hạ. Cúi mong thánh thượng xét.
                              Nhà vua thở dài một hồi rồi bảo đại học sĩ truyền lệnh:
                              “Trang Thượng Chí được phép về nhà. Lấy năm trăm lạng bạc ở trong kho nhà vua ra cho Trang Thượng Chí và cho Hồ Nguyên Vũ ở Nam Kinh làm nơi viết sách, ca ngợi cái sáng tỏ của triều đình”.
                              Đạo chỉ truyền xuống, Trang đến cửa Ngọ Môn tạ ơn, từ biệt Từ Thị Lang thu xếp hành lý để về Nam Kinh. Các quan trong triều đến tiễn và biếu lễ vật. Trang đều từ chối. Trang lại đi một cái xe ra khỏi cửa Chương Nghi.
                              Hôm ấy trời lạnh, Trang đi thêm mấy dặm nhưng không tìm ra quán trọ, phải rẽ vào một con đường nhỏ đến một cái nhà xin nghỉ trọ. Đó là một cái nhà tranh, ở trong thấy một đĩa đèn dầu. Một cụ già trạc độ sáu bảy mươi tuổi đứng ở ngoài cửa. Trang Thiệu Quang đến vái chào và nói:
                              - Thưa cụ, chúng tôi đi đường không có chỗ trọ xin cụ cho ở nhờ đây một đêm, đến mai tôi xin trả tiền trọ.
                              Cụ già đáp:
                              - Ông khách! Đi đường có ai mang theo nhà đi đâu, ông muốn ở đây cũng không ngại gì. Nhưng nhà tôi chỉ có một gian. Hai vợ chồng tôi đều đã bảy mươi tuổi. Không may sáng nay nhà tôi vừa mất, không có tiền mua quan tài. Thi hài hiện còn ở trong nhà, ông nằm chỗ nào? Hơn nữa, ông lại có cả xe cộ không thể đưa vào nhà được.
                              - Không hề gì, tôi chỉ xin một khoảng đất để trải chiếu ngủ tạm một đêm, còn xe thì để ở ngoài cửa.
                              Cụ già nói: - Nếu vậy thì tôi và ông cùng ngủ một giường. - Tốt lắm!
                              Trang bước vào nhà thấy xác của người đàn bà đang nằm cứng đờ trong một góc phòng, cạnh cái giường đất Trang trải nệm ra bảo đầy tớ và người đánh xe cùng ngủ trong xe, nhường cụ già nằm ngủ ở phía trong, còn mình nằm ngủ ở phía ngoài. Đêm nằm cứ trằn trọc không sao ngủ được. Đến canh ba, thấy cái xác chết cựa quậy. Trang giật nẩy mình nhìn thấy hai tay nó giơ ra như muốn ngồi lên. Trang nói:
                              - Người kia sống lại rồi!
                              Và vội vàng đánh thức cụ già nhưng lay mãi vẫn không thấy cụ tỉnh dậy. Trang nghĩ bụng cụ già nhiều tuổi mà sao ngủ say quá như vậy. Bèn ngồi dậy nhìn kỹ thì ra cụ già không thở nữa và đã chết rồi!
                              Quay lại nhìn Trang thấy người đàn bà kia đã đứng dậy, hai chân đứng thẳng, cặp mắt trắng dã: thì ra, không phải là người đó sống lại, mà chính là xác chết đang đi! Trang hoảng hốt chạy ra cửa bảo người đánh xe đẩy xe chẹn cửa lại không cho cái xác kia đi ra. Trang một mình bồi hồi ở ngoài cửa, trong lòng bùi ngùi: “Trên đời, cái may cái rủi là do ”Động" mà ra. Nếu ta cứ ngồi ở nhà thì làm gì có chuyện này xảy ra để đến nỗi bị một mẻ sợ hết vía!". Nhưng rồi lại nghĩ: “Ở đời sống chết là việc thường. Cái đó chẳng qua vì ta lễ, nghĩa còn kém nên mới như vậy!”.
                              Bèn lấy lại tinh thần, ngồi ở trong xe cho đến khi trời sáng bạch. Bấy giờ, cái xác kia đã ngã. Trong gian phòng trở lại hai cái xác nằm lăn lóc. Trang rất lấy làm thương xót nói:
                              - Cặp vợ chồng già này thực là nghèo khổ vô cùng! Ta tuy chỉ ngủ ở đây một đêm nhưng nếu không chôn họ thì ai sẽ chôn? Bèn bảo người đầy tớ, người đánh xe đến một cái chợ, Trang đưa mấy chục lạng bạc để mua hai chiếc quan tài, thuê người khiêng về khâm liệm cho họ. Trang lại xuất tiền mua một miếng đất của nhà gần đấy và nhờ người mang đi chôn cất. Chôn cất xong, Trang mua đồ tế lễ và vàng giấy, làm một bài điếu văn vừa tế vừa khóc. Tất cả những người trong làng đều vây quanh lấy Trang, quỳ xuống lạy tạ ơn.
                              Trang rời Đài Nhi Trang, thuê một chiếc thuyền nhỏ, trong đó có thể tha hồ xem sách. Trong vài ngày đã đến Dương Châu. Trang ở đấy một ngày chờ sang thuyền về Nam Kinh. Sáng hôm sau, Trang vừa xuống thuyền thì thấy ở trên hai bờ có hai mươi cái kiệu dàn ra hai bên. Những người buôn muối ở Lưỡng Hoài đến đưa danh thiếp để được gặp mặt. Vì thuyền nhỏ, trước tiên Trang chỉ mời mười người xuống thuyền. Trong số này có mấy người bà con. Người thì gọi Trang bằng chú, người thì gọi bằng ông, người thì gọi bằng anh. Tất cả đều chào và ngồi xuống. Người ngồi thứ hai là Tiêu Bá Tuyền. Những người buôn muối nói:
                              - Hoàng thượng trọng dụng ông, ông không chịu làm quan, thật là một con người cao thượng!
                              Tiêu Bá Tuyền nói: - Ta đã biết ý của tiên sinh. Tiên sinh tự phụ tài năng của mình chỉ muốn ra làm quan bằng con đường chính, không cần nhà vua phải mời mình. Sau này tiên sinh nhất định sẽ đỗ trạng nguyên. Hoàng thượng nay đã biết tiếng tiên sinh rồi đây chắc chắn sẽ đứng đầu bảng.
                              Trang cười mà rằng:
                              - Việc nhà vua mời là một cái lễ lớn, sao lại nói không muốn? Còn việc đỗ trạng nguyên trong khoa thi sắp tới thì nhất định là ông, chứ tôi thì chỉ vui thú yên hà để nghe tin mừng của ông thôi.
                              Tiêu Bá Tuyền nói:
                              - Anh có định gặp các vị quan ở đây không?
                              - Tôi rất vội nên chỉ muốn đi ngay.
                              Nói xong cáo từ mười người kia. Lần thứ hai lại mười mấy người nữa xuống. Trang lấy làm bực mình. Sau đó quan coi muối đến, rồi các quan trong sở muối, quan tri phủ Giang Châu, tri huyện Giang Đô đều đến, càng làm cho Trang thêm nóng ruột. Sau khi tiễn các quan lên bờ, Trang liền bảo thuyền đi nhanh. Đến chiều, những người buôn muối góp nhau được sáu trăm lạng bạc đem xuống thuyền biếu Trang để làm tiền lộ phí thì thuyền Trang đã đi xa, theo không kịp nữa. Họ đành phải đem tiền trở về.
                              Thuyền xuôi gió thuận, chẳng bao lâu đến mỏm Yến Tử. Trang vui mừng nghĩ thầm “Hôm nay ta lại được thấy những cảnh đẹp trên sông Dương Tử rồi!”. Bèn thuê một chiếc thuyền nhỏ, mang hành lý đi đến cửa Hán Tây. Trang bảo người khiêng hành lý lên bờ. Còn mình đi bộ về nhà đến trước bàn thờ tổ tiên vái lạy rồi gặp mặt vợ.Trang cười nói:
                              - Ta nói nhiều lắm là ba tháng, ít thì hai tháng là trở về. Hôm nay như thế nào? Ta không nói dối đấy chứ?
                              Vợ cũng cười. Chiều hôm ấy, hai người uống rượu tẩy trần...
                              Sáng hôm sau Trang Thiệu Quang vừa mới dậy rửa mặt thì người đầy tớ đã vào báo:
                              - Có cụ Cao ở Lục Hợp đến thăm.
                              Trang ra tiếp. Vừa tiễn cụ Cao ra cửa xong thì quan bố chính đến, quan tri phủ Ứng Thiên đến, rồi tri huyện ở Thượng Nguyên, Giang Ninh, các vị thân sĩ ở địa phương cũng đến thăm. Trang cứ phải xỏ giày vào rồi cởi giày ra, trong lòng rất bực bội. Trang nói với vợ:
                              - Như thế này thì làm ăn ra thế nào nữa? Triều đình đã cho ta hồ Nguyên Vũ, tại sao ta lại ở đây, ở đây người ta cứ đến quấy rầy. Ta phải mau mau dọn đến hồ Nguyên Vũ mới được.
                              Công việc bàn định xong. Ngay đêm hôm ấy, Trang cùng vợ đáp thuyền đến hồ Nguyên Vũ ở. Hồ này rất rộng rãi. Rộng không kém Tây Hồ ở Hàng Châu mấy. Đứng trên thành ở phía bên trái hồ nhìn thấy chùa kê Minh. Trong hồ mỗi năm có thể có mấy ngàn đấu sen, củ sen, củ ấu. Có tất cả bảy mươi hai thuyền đánh cá, sáng nào cũng mang cá lên bán khắp các ngả trong thành Nam Kinh. Trong hồ có năm cái đảo lớn. Trên bốn cái đảo có phòng đọc sách. Cái đảo ở giữa có một vườn hoa rộng, có một ngôi nhà vài mươi gian do nhà vua cho Trang Thiệu Quang. Trong vườn có nhiều cây cổ thụ to vừa một người ôm, có mai, đào, mận, quế, chuối, cúc nở hoa suốt cả bốn mùa. Lại có một vườn trúc có mấy vạn cây. Nhà của Trang có những cửa sổ lớn nhìn ra bốn phía, non xanh nước biếc trong như cảnh tiên. Ở ngoài cửa buộc một chiếc thuyền. Muốn đi thăm hòn đảo nào thì phải xuống thuyền chèo đi. Nếu cất chiếc thuyền đi thì dù có cánh cũng không bay đến được. Trang Thiệu Quang từ đó sống trong vườn hoa. Một hôm, Trang cùng vợ dựa vào lan can ngắm nước cười mà rằng:
                              - Mình xem kìa, cảnh non xanh nước biếc của hồ này đều là của chúng ta cả! Ngày ngày chúng ta dạo chơi, chẳng bù với Đỗ Thiếu Khanh phải tay cầm hồ rượu, tay dắt vợ đi ngắm hoa ở núi Thanh Lương!
                              Lúc nào nhàn rỗi, Trang lại rót một chén rượu, bảo vợ ngồi bên cạnh đọc cho mình nghe quyển “Thi Thuyết” của Đỗ Thiếu Khanh. Đến chỗ nào thú vị Trang lại uống một chén rượu lớn rồi cả hai cùng cười vang. Trang sống ở hồ thật là nhởn nhơ vui thú.
                              Bỗng một hôm ở bên kia bờ có tiếng gọi đò. Người chèo thuyền vội vàng chèo sang. Trang thân hành ra đón, thấy người kia chính là Lư Tín Hầu. Trang mừng rỡ vô cùng nói:
                              - Từ khi xa nhau đến nay, tôi mong mỏi được gặp anh. Hôm nay anh làm sao mà đến được đấy?
                              - Hôm qua tôi đến nhà ông, hôm nay mới tới đây. Quả thật ông sống như một vị tiên! Lòng tôi xiết bao hâm mộ.
                              - Ở đây cách xa trần thế. Tuy chưa phải là đất Đào Nguyên nhưng cũng không khác mấy. Mong anh ở đây chơi với chúng tôi ít lâu kẻo lần sau sẽ bị lạc lối.
                              Trang sai đem rượu lên, hai người cùng uống mãi đến canh ba. Vừa lúc ấy, một người đầy tớ vội vàng chạy vào báo:
                              - Vương phủ ở Trung Sơn có sai mấy trăm người lính và đến một ngàn bó đuốc. Họ bắt tất cả bảy mươi hai chiếc thuyền đánh cá chở quân lính sang đây bao vây chặt lấy vườn hoa.
                              Trang hoảng sợ. Một người đầy tớ khác vào báo:
                              - Có vị tổng binh đang đợi ở ngoài nhà khách. Trang chạy ra. Vị tổng binh thấy Trang liền cúi đầu vái chào. Trang hỏi:
                              - Không biết trong gia đình tôi có việc gì?
                              - Việc này không liên quan gì đến gia đình ngài.
                              Vị tổng binh ghé vào tai Trang nói thầm:
                              - Vừa rồi có người báo rằng Lư Tín Hầu có giữ tập văn của Cao Thanh Khâu tức là những sách cấm. Ở Kinh người ta báo ông ta có võ nên phải đem quân đến bắt. Hôm nay, được tin ông ta ở trong phủ của ngài cho nên chúng tôi đến đây. Xin ngài đừng để lộ việc này kẻo ông ta trốn mất.
                              - Xin cụ cứ để mặc tôi. Ngày mai tôi sẽ bảo ông ta đem mình đến nộp. Nếu ông ta chạy trốn tôi xin chịu tội.
                              - Nếu ngài đã nói như vậy, tôi xin cáo từ.
                              Trang tiễn ra cửa, Tổng binh ra lệnh một tiếng, quân đều chèo thuyền sang bên kia hồ. Lư Tín Hầu nghe việc này nói:
                              - Tôi vốn không phải người hèn nhát, lẽ nào làm liên luỵ đến anh. Ngày mai tôi sẽ đem mình đến nộp.
                              Trang cười mà rằng:
                              - Anh hãy tạm đến đó ít ngày, chừng độ một tháng. Tôi cam đoan với anh thế nào anh cũng được thả ra, sống nhởn nhơ sung sướng.
                              Sau khi Lư Tín Hầu đem mình đến nộp cửa quan, Trang bí mật viết mười bức thư cho những vị quan to ở Kinh. Sau đấy có công văn ở bộ đưa ra bảo thả Lư Tín Hầu, trái lại hỏi tội người tố giác. Lư Tín Hầu tạ ơn Trang và ở lại vườn hoa. Hai ngày sau lại có người gọi đò sang. Trang ra tiếp. Đó là Trì Hành Sơn và Đỗ Thiếu Khanh. Trang reo lên:
                              - May quá! Đang muốn nói chuyện với anh thì anh lại đến!
                              Trang mời vào ngồi trong một cái đình ở giữa hồ. Trì Hành Sơn kể việc lễ nhạc mình đã xắp đặt ở đền Thái Bá. Trang giữ hai người lại uống rượu ăn cơm một ngày rồi đưa cho Trì Hành Sơn bản lễ nhạc định làm ở đền Thái Bá đã được sửa chữa lại để đem về.
                              Thời gian thấm thoắt, chẳng bao lâu là đến trung tuần tháng hai. Trì Hành Sơn hẹn Mã Thuần Thượng, Cừ Dật Phu, Quý Vi Tiên, Kim Đông Nhai cùng đến nhà Đỗ Thiếu Khanh ở bên bờ sông để bàn về việc tế tự ở đền Thái Bá. Mọi người nói:
                              - Bây giờ lấy ai là người chủ tế?
                              Trì Hành Sơn nói:
                              - Chúng ta tế một vị đại thánh nhân, vậy người chủ tế phải là học trò của thánh hiền thì mới xứng đáng. Bây giờ phải tìm một người như thế.
                              Mọi người nói:
                              - Chúng ta tìm ai?
                              Trì Hành Sơn giơ hai ngón tay nói đến tên người ấy.
                              Chỉ nhân phen này khiến cho:
                              Ngàn dòng, muôn phái, sông Hoàng Hà chính thực là nguồn;
                              Gõ khánh, khua chuông, ống Hoàng Chung cũng đều rập điệu.
                              Muốn biết người kia là ai hãy xem hồi sau phân giải.

                              -----------------------
                              (1) 1556.
                              (2) Một bài thơ đời Đường tả cảnh đi chầu vua buổi sớm. Ý nói trong khi sao mới lặn hoa đón gươm của các quan đeo, trong khi sương mù chưa khô thì lá liễu phất phơ trên hàng cờ quạt của nhà vua.
                              (3) Một quẻ ở trong kinh dịch, chữ “Độn” có nghĩa là trốn.
                              (4) Danh từ chung để chỉ chức quan cao như tể tướng.
                              (5) Đời Minh: tể tướng thường lấy ở trong những người đỗ tiến sĩ hàn lâm.

                              hết: Hồi 35, xem tiếp: Hồi 36
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #30
                                Hồi 36

                                Huyện Thường Thục kẻ chân nho giáng sinh
                                Đền Thái Bá bực danh hiền chủ tế

                                Ở huyện Thường Thục phủ Tô Châu, đất Ứng Thiên có một cái làng nhỏ, gọi là làng Lân Phất. Làng có độ hai trăm nhà đều làm nghề nông. Chỉ có một người họ Ngu trong thời Thành Hóa (1465-1487) có đi học đỗ tú tài đã ba mươi năm nay. Ông ta chỉ dạy học trò ở trong làng. Làng này cách thành phố mười lăm dặm. Ngoài lúc đi thi, Ngu tú tài không hề bước chân đến thành phố bao giờ. Ông ta thọ ngoại tám mươi tuổi. Người con thi hỏng, cũng sống bằng nghề dạy học. Lúc trung niên, vẫn chưa có con nối dõi. Hai vợ chồng đến điện Văn Xương đế quân để cầu tư. Ban đêm nằm mơ thấy Văn Xương tay cầm một tờ giấy đưa cho họ, trên có viết một câu ở Kinh Dịch “Quân tử dĩ quả hạnh dục đức” (Người quân tử nuôi dưỡng cái đức tốt bằng hạnh kiểm đứng đắn).
                                Sau đó, người vợ có mang, đủ mười tháng sinh được một đứa con trai. Người chồng đến tạ ơn và đặt tên cho con là Dục Đức, tự là Quả Hạnh, sau này là Ngu bác sĩ. Ngu Dục Đức lên ba tuổi mồ côi mẹ, người cha mang con theo đến nơi mình dạy học. Năm Dục Đức lên sáu, người cha bắt đầu dạy cho học. Năm Dục Đức lên mười thì người cha được mời dạy học ở một nhà cụ Kỳ trong làng. Thầy học và chủ nhà rất là tương đắc. Dạy học được bốn năm, cha của Dục Đức mắc bệnh mất. Lúc lâm chung có giao Dục Đức bấy giờ mười bốn tuổi cho cụ Kỳ. Cụ Kỳ nói:
                                - Con của ông không giống như con của người khác. Khi ông mất đi, tôi sẽ nuôi anh ấy để dạy con tôi học.
                                Cụ Kỳ liền viết ngay tên của mình là Kỳ Liên vào một cái danh thiếp, vào thư phòng cùng với đứa con lên chín tuổi lạy chào thầy học mới. Từ đấy Ngu Dục Đức dạy học ở nhà cụ Kỳ.
                                Huyện Thường Thục là một nơi có nhiều văn nhân nổi tiếng. Bấy giờ có một người là Vân Tình Xuyên nổi tiếng nhất trong thiên hạ về thơ, từ và cổ văn. Ngu Dục Đức mới mười bảy, mười tám tuổi thường theo Tình Xuyên học thơ văn. Cụ Kỳ nói:
                                - Ông Ngu, ông là học trò nghèo thì học thơ văn làm gì cho vô ích. Ông phải học cái gì để mà kiếm ăn chứ! Lúc nhỏ tôi có học địa lý, có học số tử vi. Tôi sẽ đem dạy lại ông để cho ông dùng khi nào cần.
                                Ngu Dục Đức ra sức học tập. Cụ Kỳ lại nói:
                                - Ông cũng nên mua mấy quyển sách thi cử để đọc. Sau này nếu thi đỗ, việc dạy học lại càng dễ.
                                Nghe lời cụ Kỳ, Ngu Dục Đức cũng lấy sách thi cử ra đọc. Năm hai mươi bốn tuổi, Ngu đi thi đỗ ở huyện. Năm sau, nhà họ Dương ở thôn Dương Gia cách đấy hai mươi dặm mời Ngu đến dạy, mỗi năm ba mươi lạng bạc. Đầu tháng giêng Ngu đến đó dạy học, đến tháng chạp lại trở về nhà cụ Kỳ ăn tết.
                                Được hai năm, cụ Kỳ nói:
                                - Cụ nhà ta khi còn sống đã tìm cho ông một đám ở thôn Hoàng. Nay nên cưới đi.
                                Ngu còn để dành được mười mấy lạng bạc tiền dạy học và mượn thêm mười mấy lạng tiền dạy học sang năm để cưới vợ. Cụ Kỳ cho hai vợ chồng ở nhờ nhà mình. Sau một tháng, Ngu lại đi dạy. Hai năm sau, Ngu dành dụm được hai, ba mươi lạng bạc, thuê một cái nhà bốn gian bên nhà cụ Kỳ để ở, và thuê một người đầy tớ nhỏ. Sau khi Ngu đã đi dạy, người đầy tớ mỗi buổi sáng đi ba dặm đường đến chợ để mua thức ăn, dầu, muối, rau đem về cho bà chủ. Sau khi sinh nở, vợ Ngu Dục Đức mắc bệnh, tiền dạy không đủ thuốc thang, mỗi ngày chỉ ăn ba bữa cháo trắng. Sau đó, sức khỏe dần dần bình phục. Năm ba mươi hai tuổi, Ngu
                                không có nơi nào mời dạy học nữa, người vợ nói:
                                - Năm nay làm gì đây?
                                - Không lo! Từ khi ta đi dạy học đến nay, mỗi năm chỉ được ba mươi lạng. Năm nào, tháng giêng họ chỉ trả hai mươi lạng thôi, thì trong lòng ta buồn rầu. Nhưng đến tháng tư, tháng năm, lại thêm mấy đứa học trò, thêm mấy bài văn để chữa có thêm mấy lạng bạc nữa để bù vào tức là đủ số. Năm nào họ trả thêm mấy lạng thì trong lòng ta vui mừng, nói “Tốt! Năm nay khá đấy”. Nhưng trong nhà lại có việc xảy ra phải tiêu nhẵn số tiền. Cho nên xét cho cùng cái gì cũng có tiền định, không cần lo làm gì.
                                Quả nhiên, qua một thời gian, cụ Kỳ đến nói:
                                - Ở làng xa có cụ Trịnh muốn mời ông đến để cất mả.
                                Ngu Dục Đức mang la bàn cố ý tìm một chỗ đất tốt. Chôn cất xong, họ Trịnh đem mười hai lạng bạc ra tạ ơn. Bấy giờ vào khoảng giữa tháng ba, Ngu gọi một chiếc thuyền để về nhà. Hai bên bờ nào hào, nào liễu, lại có gió thổi nhẹ nhàng, trong lòng Ngu rất khoan khoái. Đến một nơi vắng vẻ, thấy một chiếc thuyền đang đánh cá trên sông, Ngu nằm trong thuyền nhìn ra ngoài cửa bỗng thấy ở bên kia hồ có một người nhảy xuống sông tự tử. Ngu giật mình bảo người lái bơi thuyền đến cứu. Khi lôi lên, thì người kia áo quần ướt sũng. Cũng may bấy giờ tiết trời ấm áp. Ngu bảo cởi quần ướt ra, bảo người chèo thuyền lấy một bộ áo quần khô cho người kia thay rồi mời vào khoang thuyền hỏi tại sao lại liều thân vậy. Người kia nói:
                                - Con vốn làm nghề cày ruộng ở làng này. Con cày ruộng cho người ta, nhưng kiếm được bao nhiêu thì bị chủ ruộng lấy mất hết. Cha mẹ con mắc bệnh chết ở trong nhà, con không có tiền mua quan tài. Con nghĩ rằng làm người đến thế thì sống làm gì nữa không bằng chết đi còn hơn(1)
                                Ngu Dục Đức nói:
                                - Cái đó tỏ rằng ông là người con có hiếu, nhưng ông không nên nghĩ đến việc quyên sinh làm gì. Đây tôi có mười hai lạng bạc là của người ta cho tôi. Tôi không thể đưa cho ông hết vì tôi cần phải giữ một ít để sống vài tháng. Tôi xin đưa ông bốn lạng. Ông về nói với bà con thân thích trong làng giúp đỡ thêm. Như thế ông sẽ có thể chôn cất ông cụ được.
                                Ngu bèn cởi hành lý ra cân lấy bốn lạng bạc đưa cho người kia. Người kia nhận số tiền lạy tạ và nói:
                                - Ân nhân tên họ là gì?
                                - Tôi họ Ngu ở thôn Lân Phất. Chúng ta không nên nói chuyện ân đức làm gì. Anh mau mau lo liệu việc của anh đi.
                                Người kia cảm tạ rồi đi.
                                Ngu về nhà, nửa năm ấy, Ngu lại tìm được chỗ dạy học. Mùa đông, vợ Ngu sinh một đứa con trai. Để nhớ ơn cụ Kỳ đã giúp đỡ mình, Ngu đặt tên cho con là Cảm Kỳ (Cảm ơn đức của Kỳ). Ngu dạy học năm sáu năm nữa cho đến năm bốn mươi mốt tuổi. Năm ấy thi hương, cụ Kỳ tiễn Ngu lên đường và nói:
                                - Năm nay thế nào ông cũng đỗ cao.
                                - Tại sao bác biết?
                                - Bởi vì ông làm nhiều việc có âm đức.
                                - Thưa bác, nào tôi có làm được việc gì có âm đức đâu.
                                - Như việc ông thật lòng thật dạ tìm đất cho người ta. Tôi lại nghe đâu ông cứu người, giúp họ chôn cất cha họ như thế là có âm đức.
                                Ngu cười mà rằng:
                                - Âm đức là phải làm thế nào mà chỉ có người làm ơn biết mà thôi. Nay cụ đã biết việc đó rồi thì còn âm đức ở đâu nữa!
                                - Nhất định là có âm đức. Thế nào ông cũng đỗ.
                                Sau khi thi ở Nam Kinh về, Ngu mắc bệnh phong hàn không dậy được. Ngày treo bảng. Người báo tin đến làng; cụ Kỳ dẫn anh ta đến nhà nói:
                                - Ông Ngu, ông đỗ rồi!
                                Ngu đang ốm nghe tin, bàn với vợ đem cầm áo quần để lấy tiền nhờ cụ Kỳ tạ người báo tin. Mấy ngày sau, bệnh lành, Ngu lên Kinh, cung khai tam đại. Lúc trở về, bạn bè và chủ nhà đều đến mừng. Ngu thu xếp công việc để lên Kinh thi hội nhưng không đỗ tiến sĩ.
                                May mắn sao, ở Trường Thục có một ông quan họ Khang được bổ làm tuần vũ Sơn Đông. Khang hẹn Ngu đi Sơn Đông để làm việc ở nha môn của mình. Hai người đối đãi với nhau tương đắc lắm. Ở nha môn có người đồng sự họ Vưu tên là Tư, tự là Tư Thâm. Thấy Ngu Dục Đức là người văn chương và phẩm hạnh đều giỏi, Vưu liền xin làm học trò, cùng ở một phòng sớm tối học hỏi. Bấy giờ là lúc nhà vua cầu hiền. Khang tuần vũ nghĩ đến việc tiến cử một người. Vưu Tư Thâm nói:
                                - Nay theo phép lớn của triều đình, cứ như ý con thì cụ Khang tiến cử thầy là đúng nhất.
                                Ngu Dục Đức cười mà rằng:
                                - Tôi đâu xứng đáng để nhà vua mời ra. Cụ Khang muốn tiến cử ai thì tùy ý cụ. Nếu tôi lại đến nhờ cụ tiến cử thì còn đâu là phẩm hạnh nữa?
                                - Nếu thần không muốn làm quan thì đợi đến khi nào cụ Khang tiến cử lên hoàng đế, lúc ấy hoặc là thầy bệ kiến, hoặc là thầy không bệ kiến rồi thầy xin từ quan về nhà thì cũng tỏ là người cao thượng.
                                - Ông nói như thế là sai. Nếu tôi nhờ quan tuần vũ tiến cử tôi rồi thì được bệ kiến tôi lại từ quan xin về, thì không phải là thực tâm(2), không thực tâm trong việc cầu tiến cử, cũng như không thực tâm trong việc từ quan. Làm như thế để làm gì?
                                Ngu nói xong cười khanh khách. Ngu ở Sơn Đông hơn hai năm lại lên kinh thi hội, nhưng vẫn không đỗ. Ngu đi thuyền về Giang Nam dạy học như cũ.
                                Ba năm sau, Ngu Dục Đức năm mươi tuổi, nhờ một người họ Nghiêm vốn làm quản gia cho họ Dương cùng đi với mình lên kinh thi hội. Lần này Ngu đỗ tiến sĩ. Thi điện thí lại đỗ đệ nhị giáp. Triều đình định bổ vào hàn lâm. Trong số những người đỗ tiến sĩ cũng có những người năm mươi tuổi, những người sáu mươi tuổi. Nhưng lệ thường khi đi thi ai cũng đều bớt tuổi cả. Chỉ có một mình Ngu là viết đúng tuổi mà thôi. Nhà vua nhìn thấy danh sách bèn nói:
                                - Ngu Dục Đức tuổi đã già vậy cho ông ta làm một chức quan rảnh.
                                Cho nên Ngu Dục Đức được bổ làm bác sĩ trường Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, Ngu mừng rỡ nói:
                                - Nam Kinh là nơi phong cảnh đẹp, nước non thanh tú, lại gần nhà. Lần này đến đấy ta đem vợ con cùng đi. Như thế còn hơn làm một anh hàn lâm xác.
                                Ngu bèn từ biệt các quan chấm thi và các bạn đồng hương của mình. Một người bạn họ Vương làm hàn lâm viện thị độc dặn:
                                - Trong trường Quốc Tử Giám ở Nam Kinh có một người tên là Vũ Thư tự là Chính Tự, là một người con rất có hiếu với mẹ và rất tài hoa. Ông đến đó nên chiếu cố anh ta một chút.
                                Ngu nghe lời, thu xếp hành lý đến Nam Kinh nhậm chức, sai người đến huyện Thường thục đưa gia quyến mình lên. Bấy giờ, cậu con trai là Ngu Cảm Kỳ đã mười tám tuổi cũng theo mẹ lên Nam Kinh. Sau khi đến thăm cụ Lý làm Tế tửu trường Quốc Tử Giám, Ngu bước vào công đường, học trò trường giám đều kéo nhau đến chào. Nhìn trong số danh thiếp thấy có đề tên Vũ Thư, Ngu hỏi:
                                - Ở đây ai là Vũ Thư?
                                Trong đám học trò, có một người thấp bé bước ra nói:
                                - Thưa con là Vũ Thư!
                                - Ở kinh tôi có được nghe nói anh là một người con có hiếu lại rất có tài.
                                Ngu cúi chào Vũ Thư và mời tất cả mọi người ngồi. Ngồi xong Vũ Thư nói:
                                - Tài văn chương của thầy sáng ngời như sao bắc đẩu. Chúng con hôm nay may mắn được học khác nào trời hạn được mưa.
                                Ngu bác sĩ nói:
                                - Tôi lần đầu tiên đến đây, mọi việc mong được chỉ giáo. Anh ở trường Giám mấy năm rồi?
                                Vũ Thư nói:
                                - Không dám giấu gì thầy, con mồ côi cha từ khi còn nhỏ, cứ lo ở làng phụng dưỡng mẫu thân. Vì cô độc một mình, không có anh em bà con, con phải lo liệu tất cả việc ăn mặc. Vì thế lúc mẹ con còn sống, con không có thì giờ học hành và đi thi. Không may mẹ con mất đi, tất cả mọi việc chôn cất đều nhờ ông Đỗ Thiếu Khanh ở Thiên Trường giúp đỡ hết. Con có học làm thơ với ông Đỗ Thiếu Khanh.
                                Ngu bác sĩ nói: - Trước đây tôi có được xem một tập thơ của ông Đỗ Thiếu Khanh ở trên bàn nhà ông Vưu Tư Thâm. Quả thực là một bậc kỳ tài! Ông Thiếu Khanh có ở đây không?
                                - Ông ta ở cái nhà bên bờ sông gần cầu Lợi Thiệp. - Lại còn một vị nữa là ông Trang Thiệu Quang được nhà vua cho hồ Nguyên Vũ. Ông ta có ở trong hồ không?
                                Vũ Thư nói:
                                - Ông ta hiện nay ở hồ Nguyên Vũ rất kén chọn trong việc tiếp khách.
                                Ngu bác sĩ nói:
                                - Ngày mai tôi sẽ đến thăm ông ta.
                                Vũ Thư nói:
                                - Con thật không biết viết văn bát cổ cho nên mấy lâu nay vẫn cứ nghèo khổ, không biết làm thế nào. Đi dạy học cũng không ai mượn. Sau đó con đành phải mua mấy quyển sách để học rồi cũng làm được vài bài. Nhờ vậy đi thi cũng đỗ, được vào trường. Các vị thầy ở đây không hiểu tại sao cho con đỗ đầu, có học bổng. Văn chương của con thực không hay nhưng thi lần nào cũng đỗ đầu. Lần trước đây có một vị tôn sư cho thi học sinh tất cả tám nơi, con cũng đỗ đầu, vì vậy con mới được vào trường này. Tuy vậy, con vẫn thấy văn chương của con còn kém lắm.
                                Ngu bác sĩ nói:
                                - Tôi cũng không chịu khó làm văn bát cổ. Vũ Thư nói:
                                - Vì vậy hôm nay con không đem văn bát cổ đến để thầy xem. Khi nào chép xong những bài thơ phú thường ngày vẫn làm cùng với quyển giải thích về cổ văn và những bài tản văn khác, con sẽ đem đến để nhờ thầy chỉ giáo.
                                - Như vậy đủ thấy ông lắm tài khiến cho người ta kính phục. Nếu có thơ phú và cổ văn lại càng tốt, tôi sẽ xem cẩn thận. À bà cụ nhà ta đã được sắc phong chưa?
                                - Mẹ con đáng lý được sắc phong rồi nhưng nhà con nghèo quá không sao có tiền đưa đến nha môn để lo liệu việc ấy. Cho nên cứ đành phải để chậm mãi đến ngày nay. Cái đó thực là lỗi ở con.
                                Ngu bác sĩ nói:
                                - Việc đó trì hoãn sao được?
                                Bèn bảo người lấy nghiên bút ra, và nói với Vũ Thư:
                                - Anh hãy viết một tờ khai kỹ càng về việc ấy.
                                Sau đó gọi người thư lại đến và dặn:
                                - Anh phải làm ngay một tờ trình về tiết hạnh và lòng hiếu của bà cụ ông Vũ để căn cứ vào đó làm một báo cáo tường tận, còn việc tiền nong cứ mặc tôi lo liệu.
                                Người thư lại vâng dạ rồi đi ra. Vũ Thư cúi đầu lạy tạ. những người khác cũng thay mặt Vũ Thư lạy tạ rồi từ biệt đi ra. Ngu tiễn họ ra cửa mới trở vào.
                                Hôm sau, Ngu đến hồ Nguyên Vũ thăm Trang Thiệu Quang nhưng không gặp được. Ngu lại đến thăm Đỗ Thiếu Khanh ở cái nhà bên bờ sông. Đỗ thân hành ra tiếp. Ngu kể lại rằng ông nội mình là học trò Đỗ trạng nguyên tức cố của Đỗ Thiếu Khanh, Đỗ bèn gọi Ngu bằng chú. Hai người kể lại chuyện cũ. Ngu nhắc đến việc mình đi thăm Trang Thiệu Quang nhưng vô duyên không được gặp mặt. Thiếu Khanh nói:
                                - Ông ta không biết chú là ai! Để cháu đến nhà nói với ông ta.
                                Hôm sau Thiếu Khanh đến hồ Nguyên Vũ gặp Trang Thiệu Quang. Thiếu Khanh hỏi:
                                - Hôm qua Ngu bác sĩ đến thăm anh tại sao lại không tiếp?
                                - Tôi đã đoạn tuyệt với những người áo mũ rồi. Ông ta tuy là quan nhỏ, tôi cũng không muốn gặp.
                                - Ông ta khác hẳn những người khác. Không những ông ta không có vẻ con người bác học, lại không có vẻ của một anh tiến sĩ. Lòng ông ta cao thượng và trong sạch, có thể so sánh với Bá Di, Liễu Hạ Huệ, Đào Uyên Minh(3) Khi nào anh gặp sẽ thấy.
                                Trang Thiệu Quang nghe vậy bèn đến nhà thăm. Hai người mới gặp nhau đã xem nhau như bạn cũ. Ngu kính phục Trang là người điềm đạm, Trang kính phục Ngu là người nho nhã. Họ kết nghĩa làm bạn sống chết với nhau.
                                Nửa năm sau, Ngu cưới vợ cho con mình. Người con lấy cháu gái cụ Kỳ. Người con cụ Kỳ trước kia là học trò của Ngu, sau thành thông gia. Nhờ vậy, Ngu đã đền ơn cụ Kỳ đối với mình. Cụ Kỳ đưa cháu gái đến nhà Ngu bác sĩ để làm lễ cưới, đồng thời có một người a hoàn đi theo. Từ đó về sau, vợ của Ngu mới có một người đầy tớ gái để sai vặt.
                                Việc cưới vừa xong, Ngu lại đem người a hoàn gả cho con trai của người quản gia họ Nghiêm. Người quản gia đem mười lạng bạc đến làm tiền chuộc a hoàn. Ngu nói:
                                - Ông còn phải lo chăn màn giường chiếu chứ! Mười lạng bạc này là của ông. Ông cứ đem tiền về mà sắm sửa.
                                Người quản gia rập đầu lạy tạ đi ra.
                                Thấm thoát đến tháng hai, mùa xuân đã đến. Những cây hồng mai năm ngoái do tay Ngu bác sĩ trồng khi đến nhậm chức, nay đã nở hoa. Ngu bác sĩ mừng rỡ bảo người nhà sửa soạn tiệc rượu mời Đỗ Thiếu Khanh ngồi dưới gốc mai nói chuyện. Ngu nói:
                                - Anh Thiếu Khanh! Mùa xuân đã đến rồi! Không biết dọc bờ sông mấy mươi dặm hoa mai nở như thế nào rồi! Lúc nào tôi với anh mang theo rượu dắt nhau đi xem đi!
                                - Cháu cũng nghĩ như vậy. Phải hẹn với anh Trang Thiệu Quang cùng đi chơi suốt một ngày mới được!
                                Đang nói chuyện thì có hai người khách bước vào. Cả hai đều ở trước cửa trường Quốc Tử Giám và mấy năm nay vẫn học ở đấy, một người là Chư Tín, một người là Y Chiêu. Thấy hai người vào, Ngu bác sĩ vái chào và cùng ngồi. Hai người không dám ngồi trước Đỗ Thiếu Khanh. Rượu đem lên, họ bắt đầu uống. Chư Tín nói:
                                - Vào ngày đầu xuân, thầy cũng nên ăn mừng ngày sinh nhật. Lễ vật thầy nhận được có thể dùng hết cả mùa xuân.
                                Y Chiêu nói:
                                - Chúng con muốn thưa với thầy chúng con sẽ viết giấy để thông báo cho tất cả học trò.
                                Ngu bác sĩ nói: - Tôi sinh vào tháng tám, làm bây giờ để làm gì? Y Chiêu nói:
                                - Cái đó không ngại. Tháng hai làm, tháng tám lại làm nữa.
                                - Sao lại làm thế? Làm thế người ta cười cho! Xin mời hai ông uống rượu.
                                Thiếu Khanh cũng cười, Ngu bác sĩ nói:
                                - Anh Thiếu Khanh! Tôi có một việc muốn bàn với anh. Hôm trước đây trong phủ Trung Sơn Vương có một người liệt nữ, người ta nhờ tôi làm một bài văn bia, họ đưa cho tôi tám mươi lạng bạc hiện nay còn ở đây. Tôi nhờ anh làm hộ việc đó và cầm giúp số tiền này để dùng vào việc mua rượu, xem hoa.
                                - Chú cứ viết văn bia cũng được chứ sao? Chú sai cháu làm việc ấy để làm gì?
                                Ngu cười mà rằng:
                                - Tài của tôi làm sao bằng được tài của anh? Anh cứ làm đi.
                                Bèn lấy trong ống tay áo ra một tờ giấy có ghi sơ lược tất cả đời của người liệt nữ. Ngu đưa tờ giấy cho Đỗ rồi bảo người nhà mang hai gói bạc đến nhà Đỗ. Người nhà mang bạc đi. Lại có người vào báo:
                                - Ông Thang đã đến!
                                Ngu bác sĩ nói:
                                - Mời ông ta vào đây!
                                Ngu nói với những người khách:
                                - Ông Thang là cháu tôi, gọi tôi bằng cậu. Lúc tôi lên Nam Kinh tôi để nhà lại cho ông ta ở, vì vậy ông ta đến đây thăm tôi.
                                Đang nói chuyện thì Thang bước vào chào rồi ngồi xuống. Sau mấy câu chuyện suông, Thang nói:
                                - Thưa cậu, nửa năm nay vì thiếu tiền nên cháu đã bán nhà của cậu rồi.
                                - Cái đó không có gì lạ. Năm nay anh không có cách gì sinh sống, trong nhà lại phải ăn tiêu thì có cái gì mà chẳng bán. Nhưng đường sá xa xôi như thế mà anh đến mãi đây nói với tôi để làm gì.
                                - Thưa cậu! Sau khi bán nhà rồi cháu không biết ở vào đâu cho nên cháu đến đây thưa với cậu mượn cậu ít tiền thuê mấy gian nhà ở.
                                Ngu gật đầu: - Được! Bán đi rồi thì vào ở đâu! May quá hiện nay ta có ba bốn mươi lạng bạc đây, anh cầm lấy để ngày mai thuê một cái nhà mà ở.
                                Thang không nói gì nữa. Bữa tiệc xong, Thiếu Khanh từ biệt ra về. Hai người khách còn ở lai. Ngu bác sĩ ngồi tiếp. Y Chiêu hỏi:
                                - Thầy và ông Đỗ Thiếu Khanh quen nhau như thế nào?
                                - Ông ta là bạn cũ của tôi. Thực là một người tài hoa!
                                Y Chiêu nói:
                                - Theo ý con, con không nghĩ thế. Ở Nam Kinh người ta đều biết ông ta trước kia giàu có, bây giờ sa xút. Ông chỉ chuyên lừa người khác để lấy tiền chứ không có phẩm hạnh gì hết.
                                - Anh bảo ông ta không có phẩm hạnh như thế nào?
                                - Ông ta cứ đem vợ ra ngoài quán uống rượu, ai cũng chê cười.
                                - Cái đó chỉ tỏ rằng ông ta là người nho nhã phong lưu. Những người tục khách biết sao được!
                                Chư tín nói:
                                - Nói như vậy cũng đúng, nhưng lần sau thầy có thơ văn gì viết mà có tiền thì đừng giao cho ông ta. Ông ta không phải là người thi cử, vậy khó lòng viết được cái gì hay, sợ làm mất danh tiếng của thầy. Ở trường Giám có bao nhiêu người học sinh đã thi đỗ. Thầy bảo làm, chúng con sẽ làm, đã hay lại không mất tiền.
                                Ngu bác sĩ nghiêm nét mặt nói:
                                - Nói như vậy không được! Tài danh của ông Đỗ mọi người đều biết, văn thơ ông ta ai mà không phục. Mỗi khi tôi nhờ ông ta viết một cái gì, ông ta chỉ làm cho tôi thêm nổi tiếng. Vả chăng, người ta đưa cho tôi một trăm lạng bạc nhưng tôi còn giữ lại hai mươi lạng để cho người cháu của tôi kia mà(4)
                                Hai người kia không biết ăn nói như thế nào bèn xin cáo từ ra về.
                                Hôm sau, Phủ Ứng Thiên đưa một anh giám sinh đến giao cho Ngu bác sĩ để trừng trị vì phạm tội đánh bạc. Sai nhân để anh ta ngồi trong nhà người giữ cổng rồi vào báo với Ngu bác sĩ.
                                - Thưa ngài! Nên khóa anh ta ở đâu?
                                - Hãy mời anh ta vào đây!
                                Anh giám sinh này họ Đoan người ở nhà quê lên. Anh ta bước vào, nước mắt đầm đìa vội vàng quỳ xuống đất kêu oan. Ngu bác sĩ nói:
                                - Ta biết cả rồi.
                                Ngu bèn giữ y ở lại thư phòng, ngày ngày cùng ăn cơm uống rượu, lại đem chăn đệm của mình trải cho y ngủ. Hôm sau Ngu đến nha môn quan phủ doãn minh oan cho anh ta rồi tha cho về.
                                Anh giám sinh cúi đầu lạy tạ nói:
                                - Dù tan xương nát thịt con cũng không làm sao báo đáp được ơn thầy.
                                - Đó là việc thường! Anh oan uổng thì tôi phải minh oan cho anh chứ có gì đâu!
                                - Minh oan cố nhiên là ơn của thầy. Lúc đầu bị đưa đến đây trong lòng con phân vân không hiểu thầy sẽ xử trí với con như thế nào, người sai nhân sẽ đòi con bao nhiêu tiền hay con sẽ bị giam vào nơi nào. Không ngờ thầy lại đối đãi với con như đối với một người khách quý! Không những con không bị xử phạt gì hết, trái lại con lại được sống hai ngày sung sướng nhất trong đời. Cái ơn sâu ấy con trả bao giờ cho hết!
                                - Anh đã bỏ phí mất bao nhiêu ngày trời vào cái việc này rồi. Thôi mau mau về nhà đừng nói dông dài làm gì nữa.
                                Người giám sinh từ biệt ra về.
                                Vài hôm sau, người giữ cửa đưa vào một tờ danh thiếp lớn màu đỏ ở trên viết: Trì Hành Sơn, Mã Thuần Thượng, Quý Vi Tiêu, Cừ Dật Phu, Vũ Thư, Dư Hòa Thanh và Đỗ Thiếu Khanh cùng đến chào.
                                Ngu hỏi:
                                - Họ đến đây có việc gì?
                                Bèn vội vàng chạy ra tiếp.
                                Chỉ nhân phen này khiến cho:
                                Đền Tiên Thánh được xem đại lễ, một việc vinh quang
                                Quốc Tử Giám làm chủ tư văn, mọi người kính phục
                                Muốn biết những người này đến đây có việc gì hãy xem hồi sau phân giải.
                                -------------------
                                (1) Ngô Kính Tử hay nói đến sinh hoạt hiện thực của dân nghèo như chuyện hai vợ chồng cụ già ở hồi thứ ba mươi lăm; chuyện người nông dân đi tự tử ở hồi thứ ba mươi sáu.
                                (2) Đặc tính căn bản của Ngu là sự thành thực.
                                (3) Bá Di, người cuối đời nhà Thương, không chịu theo nhà Chu, lên núi Thú Dương ở ẩn rồi chết đói. Liễu Hạ Huệ người nước Lỗ thời Xuân Thu làm quan ngay thẳng bị cách chức ba lần vẫn vui vẻ. Đào Uyên Minh; người đời Tấn, từ quan về lấy thơ; rượu làm vui, một thi gia nổi tiếng của Trung Quốc.
                                (4) Cách tả sự chân thật của Ngu thật là đặc sắc.


                                hết: Hồi 36, xem tiếp: Hồi 37


                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X