Mạo họ tên, cậu bé cầu danh;
Nhớ thân thích, ông già mắc bệnh. Ngưu Phố Lang đến am Cam Lộ đọc sách, hòa thượng hỏi họ tên là gì, y liền vái chào mà rằng:
- Thưa lão sư phụ, con họ Ngưu, ở phố đằng trước mặt đây. Vì con sinh trưởng ở nhà bà ngoại ở Phố Khẩu, cho nên người ta gọi là Phố Lang. Không may cha mẹ qua đời. Con chỉ còn ông nội năm nay đã ngoài bảy mươi, mở một hiệu buôn hương nến nhỏ để sinh sống. Mỗi ngày, ông con giao cho con cái sổ nợ này đi đòi nợ. Con đi ngang qua trường học, nghe tiếng người ta đọc sách vui tai cho nên con cũng ăn trộm một ít tiền trong hiệu để mua sách đọc. Con thấy con làm phiền sư phụ quả thật là không phải.
- Ta vẫn thường nói có người mất tiền đón thầy cho con cái học mà con cái cũng không chịu học! Bây giờ thì anh trộm tiền mua sách mà đọc, thật là một việc đáng khen! Nhưng con ngồi ở dưới đất thì lạnh, đèn lưu ly lại không sáng. Ta có cái bàn ở trong điện, có cả ngọn đèn treo ở đấy. Con vào đó mà đọc thì tốt hơn.
Phố Lang cảm tạ hòa thượng và bước vào. Quả nhiên có một cái bàn vuông ở trên treo một ngọn đèn dầu. Phòng rất là yên tĩnh. Phố Lang từ đấy thường đến am đọc sách. Hòa thượng ngồi tĩnh tọa ở phòng bên, đêm nào y cũng đọc cho đến canh ba.
Một hôm nghe y ngâm thơ, hòa thượng đến hỏi:
- Này con! Ta tưởng rằng con học để đi thi cho nên mua sách văn chương để mà đọc. Không ngờ hôm nay nghe con đọc thì lại là thơ. Thơ thì đọc để làm gì?
- Đi buôn như con thì mơ việc thi cử làm sao được? Chỉ đọc vài ba câu thơ cho nó thanh cao nhuần nhã con người thôi.
Hòa thượng thấy y ăn nói khác người thường bèn hỏi:
- Con đọc thơ vậy có hiểu được không?
- Nhiều chỗ con không hiểu. Nhưng hễ hiểu được một hai câu thì trong lòng thấy hứng thú.
- Con đã thích thơ như thế, thì hôm nào ta sẽ cho con xem hai tập thơ. Chắc chắn con sẽ càng thích thú nữa.
- Sư phụ nói thơ ở đâu? Cho con xem với!
Hòa thượng cười mà rằng:
- Khoan đã! Đợi vài hôm nữa hẵng xem.
Qua một thời gian, hòa thượng xuống làng để tụng kinh, đi luôn mấy ngày không về. Hòa thượng khóa cửa phòng lại và nhờ Phố Lang giữ hộ điện thờ. Phố Lang trong lòng nghi hoặc:
- Sư phụ có những bài thơ gì mà không chịu cho ta xem làm ta nóng cả ruột?
Phố Lang cứ nghĩ mãi, và nói: - Ba xin không bằng một trộm. Chiều hôm ấy nhân lúc hòa thượng không ở nhà, y mở cửa lẻn vào phòng. Thấy ở trên bàn có một cái lư hương, một đĩa đèn dầu, một chuỗi tràng hạt. Trên bàn lại có mấy quyển kinh đã nhàu nát. Xem một lượt không thấy thơ đâu cả. Phố Lang ngờ vực nói:
- Lẽ nào sư phụ dối ta?
Y lại tìm ở đầu giường thì thấy một cái hòm khóa bằng một cái khóa đồng. Phố Lang mở khóa ra thấy có hai quyển bìa gấm gói rất cẩn thận trên đề: “Ngưu Bố Y thi cảo”.(#1) Phố Lang mừng rỡ, nói:
- Đây rồi!
Y vội vàng lấy sách ra, khóa hòm lại, chạy ra khỏi phòng và đóng cửa phòng lại như cũ. Ngưu cầm hai quyển thơ đem đến dưới ánh đèn xem một lượt, bỗng nhiên mặt mày tươi tắn, đứng dậy hoa tay múa chân. Vì sao? Thì ra hàng ngày đọc thơ Đường, nghĩa thơ sâu sắc y không hiểu lắm. Còn đây là thơ của người đương thời xem ra thì mười phần hiểu được năm, sáu cho nên rất đỗi vui mừng. Lại thấy thơ có những đề mục như: “Trình tướng quốc mỗ đại nhân”, “Nhớ đốc học Chu đại nhân”, “Đi chơi hồ Oanh Đậu với Lâu công tử đồng tặng Thông Chính”, “Từ biệt Lỗ Thái Sư”, “Tặng Vương Quan Sát”,, ngoài ra có những bài thơ tặng các quan thái thú, tư mã, tri phủ, thiếu doãn
v.v... Phố Lang nghĩ bụng:
- Tướng quốc, đốc học, thái sư, thông chính rồi đến thái thú, tư mã, tri phủ đều là tên gọi những chức quan đời nay. Thế ra chỉ cần biết làm dăm câu thơ không cần phải học hỏi đỗ đạt cũng có thể tới lui các nhà quan! Thật là vinh hạnh!
Lại nghĩ:
- Ông ta họ Ngưu, ta cũng họ Ngưu. Thơ ông chỉ viết độc có Ngưu Bố Y không có tên thật. Bây giờ ta cứ cho tên ta vào, lấy hiệu của ông ta. Ta cho thợ khắc hai con dấu đóng lên trên thế là sách này đã thành của ta rồi! Từ nay ta lấy hiệu là Ngưu Bố Y.
Đêm ấy y về nhà tính toán xong mừng quá không ngủ được.
Hôm sau, y lại lấy trộm thêm ít tiền ở hiệu, chạy đến hiệu khắc của Quách Thiết Bút ở cửa chùa Cát Tường. Y vái chào Quách Thiết Bút và ngồi xuống:
- Nhờ ông khắc cho tôi hai con dấu vuông.
Quách Thiết Bút đưa ra một tờ giấy:
- Xin ông viết tên và hiệu.
Phố Lang bỏ tên của mình là “Lang” viết một con dấu khắc chìm “Ngưu Phố Chi ấn”, một con dấu khắc nổi hai chữ “Bố Y”.
Quách Thiết Bút cầm tờ giấy lên nhìn Phố Lang một lượt và nói:
- Ông là ông Ngưu Bố Y?
- Bố Y là tên tự của tôi.
Quách Thiết Bút hoảng hốt chạy ra khỏi quầy hàng vái chào một lần nữa, mời ngồi, rót nước mời uống và nói:
- Tôi lâu nay nghe nói có ông Ngưu Bố Y trú tại am Cam Lộ, ông ta không thiết tiếp khách, bạn bè đều là những vị tai to mặt lớn. Xin lỗi thất lễ, xin lỗi! Tôi xin khắc dấu biếu ông, và không dám lấy tiền. Ở đây có mấy người bạn của tôi cũng ngưỡng mộ ông, hôm nào chúng tôi đến hầu thăm.
Phố Lang sợ ông ta đến am sẽ biết rõ tông tích nên phải đáp:
- Được tiên sinh yêu quí như thế tôi rất cảm ơn. Nhưng độ rày tôi có một ông bạn làm quan ở huyện bên hẹn tôi đến để làm thơ. Tôi phải vắng mặt một ít hôm. Đến mai phải đi sớm. Tiên sinh đừng đến làm gì. Khi nào trở về, chúng ta sẽ nói chuyện. Còn cái dấu thì để sáng mai tôi cũng xin lấy luôn.
Quách Thiết Bút vâng lời. Hôm sau Phố Lang lấy được con dấu đóng vào sách và đem cất kỹ. Mỗi buổi tối lại đem sách ra đọc ở trong am.
Một buổi chiều người ông của Phố Lang là cụ Ngưu đang ngồi rảnh trong làng, thấy cụ Bốc chủ hiệu buôn gạo ở sát tường qua chơi nói chuyện. Cụ Ngưu có sẵn rượu thuốc ở trong hiệu, bèn đi hâm một hồ. Cụ lấy ra hai miếng đậu phụ, một ít măng khô, dưa muối đặt lên quầy hàng và bắt đầu nói chuyện.
Cụ Bốc nói:
- Cụ thế mà khá đấy, buôn bán năm nay phát tài. Cái thằng cháu lớn lại lanh lợi. Cụ có người nối dõi như thế thì thật là có phúc sau này.
- Cụ nói gì thế! Tôi nay không may con trai và dâu thì chết cả, chỉ còn để lại một thằng cháu quái quỷ ấy vợ con chưa có, năm nay đã mười tám tuổi đầu rồi! Ngày nào tôi cũng bảo nó đi đòi nợ mà nó thì mãi đến khuya cũng chưa chịu về. Nói ra cụ không tin, việc này đã nhiều lần lắm rồi! Bây giờ nó đã khôn lớn rồi, thôi tha hồ mà đi theo bọn du đãng hư thân mất nết. Nó cứ chơi bời lêu lổng hỏng cả một đời, như thế thì sau này còn ai lo chôn cất cái thân già này nữa?
Nói xong, cụ Ngưu có vẻ rất buồn. Cụ Bốc nói:
- Chuyện đó không khó khăn gì! Nếu như ông lo ngại cậu ta chưa có vợ thì sao không cưới cho cậu ta một cô vợ để lo liệu cửa nhà? Vả chăng việc đó thì sớm muộn thế nào cũng phải lo!
- Ông ơi! Cái nghề buôn của tôi nuôi miệng ăn chưa đủ, kiếm đâu ra tiền mà lo cho nó?
Cụ Bốc trầm ngâm, nói:
- Bây giờ có một nơi, không biết ông có ưng ý không. Nếu ông ưng thuận thì không mất một đồng tiền nào hết.
- Làm gì có cái việc như thế?
- Tôi trước đây có một gái út gả cho nhà họ Giả làm việc chuyển vận thóc lúa. Không may nó mắc bệnh mất. Thằng rể của tôi lo buôn bán ở xa để lại một cháu gái ngoại cho tôi nuôi, năm nay mười chín, lớn hơn cháu trai cụ một tuổi. Nếu cụ không nghĩ gì, thì tôi gả cháu gái tôi cho cháu cụ. Tôi với cụ là chỗ láng giềng với nhau, yêu con ngon của. Tôi cũng không đòi lễ vật, tiền bạc gì, cụ cũng không đòi tôi của hồi môn làm gì, chỉ cần mấy bộ áo quần vải to là đủ. Nhà chúng ta ở sát vách nhau, chúng ta chỉ phải mở một cái cửa là đưa cháu sang. Mọi tiền cưới xin đều có thể bỏ đi được.
Cụ Ngưu nghe vậy mừng rỡ nói:
- Thật thì cụ tốt quá. Ngày mai tôi sẽ đưa người mối lái sang nhà cụ.
- Cái đó cũng không cần! Nó không phải cháu nội tôi, tôi với cụ khách sáo với nhau làm gì! Bây giờ người làm chủ là tôi, người làm mối cũng là tôi. Cụ chỉ phải mua hai cái thiếp. Tôi sẽ đem thiếp đề ngày sinh tháng đẻ của cháu, cụ nhờ một người xem ngày tốt. Như thế là công việc xong.
Cụ Ngưu nghe vậy liền rót một chén rượu đưa cho cụ Bốc và bước ra khỏi ghế vái một vái. Ngay đó, công việc bàn xong. Cụ Bốc trở về nhà.
Buổi tối hôm ấy, Phố Lang về nhà. Cụ Ngưu đem việc này nói lại với y một lượt. Ngưu Phố không dám trái lời. Sáng hôm sau y viết hai cái thiếp đỏ, một cái mời cụ Bốc làm mối, một cái để xin cô con gái ở nhà họ Giả. Khi nhà gái nhận được thiếp, bèn đưa lá số sang. Cụ Ngưu nhờ thầy bói họ Từ chọn ngày hai mươi bảy là ngày tốt để làm ngày cưới. Cụ Ngưu bán mấy đấu gạo bấy lâu còn giữ lại để mua một cái áo vải ngắn màu lục lót bông, một cái quần vải đỏ, một cái áo ngoài vải xanh, một cái quần vải tím, tất cả bốn cái đều bằng vải. Lại sắm bốn cái đồ trang sức cài đầu đưa sang ba ngày trước hôm cưới.
Ngày hai mươi bảy, cụ Ngưu dậy từ sáng sớm, đem chăn nệm đặt lên quầy hàng vì từ nay giường cụ là ở đấy. Trong nhà chỉ có một gian một chái, chái để quầy hàng còn lại một gian thì nửa ngoài là chỗ tiếp khách và phía trong là buồng cô dâu. Sau khi đã nhường cái giường của mình cho cháu, cụ Ngưu giúp chú rể sửa soạn chăn, màn, đệm. Cụ lại còn khiêng một cái bàn nhỏ đến đặt ở dưới mái sau nhà, có ánh sáng cửa sổ rọi vào để cho cô dâu đặt gương soi mà chải đầu.
Sau khi dọn dẹp trong buồng đâu vào đấy rồi, cụ bèn dựng một cái mái bằng chiếu ở sân trong làm nhà bếp. Bận rộn mất một buổi sáng. Sau đó đưa tiền cho Ngưu Phố đi mua các đồ vật. Cụ Bốc đã sắm sửa gương, giá đèn, bình trà, chậu rửa mặt, hai cái gối, bảo con cả là Bốc Thành gánh đến. Bốc Thành đến ngoài cửa vái chào cụ Ngưu. Cụ Ngưu trong lòng áy náy, mời ngồi, vội vàng lấy ở sau quầy hàng ra một cái hộp đem ra hai miếng mứt cam và một ít kẹo, rót một chén trà cầm hai tay đưa cho Bốc Thành và nói:
- Như thế này thật là làm phiền anh quá, lòng tôi áy náy hết sức!
- Bác không nên nói thế. Việc này là việc của cháu.
Nói xong, ngồi xuống uống trà.
Bỗng thấy Ngưu Phố đầu đội mũ hình miếng ngói mới, mình mặc áo xanh mới may, đi đôi giày mới ở ngoài bước vào. Đằng sau có một người nữa tay cầm mấy miếng thịt tướng, hai con gà, một con cá to, một ít măng khô, rau. Ngưu Phố thì tay bưng mỡ, muối và các đồ gia vị. Cụ Ngưu nói:
- Đây là cậu của cháu! Cháu lại mà chào cậu đi.
Ngưu Phố đặt đồ đạc xuống, cúi chào Bốc Thành, rồi đứng dậy cho người gánh đồ mấy đồng tiền. Còn mình mang các thức ăn xuống bếp.
Vừa lúc ấy Bốc Tín, con thứ hai của cụ Bốc bưng một cái hòm sang. Ở trong ấy có đủ kim, chỉ, mặt hài của cô dâu. Lại đem đến một cái khay lớn. Trên khay có mười cái chén đựng kẹo bọc hoa giấy để ngày mai làm lễ cúng tổ tiên. Cụ Ngưu giữ lại uống trà. Ngưu Phố cũng ra chào. Bốc Thành và em ngồi một lúc rồi từ tạ về. Cụ Ngưu xuống nhà bếp chuẩn bị dọn tiệc, bận rộn suốt một ngày.
Đến tối, cụ Ngưu thắp hai cây sáp đỏ cao, mỗi cây sáp trang điểm thêm mấy bông hoa giấy và mời hai bà già hàng xóm đưa cô dâu vào lạy trước đuốc hoa. Cụ Ngưu lại bày một bữa tiệc cho họ ở trong buồng cô dâu để họ cùng cô dâu ngồi ăn. Sau đó, cụ lại đặt một cái bàn ở trong phòng khách, thắp một ngọn nến, bày bát đũa ra mời ba cha con cụ Bốc ngồi. Cụ Ngưu trước tiên rót một chén rượu để cảm tạ trời đất, rồi rót một chén nữa đưa cho cụ Bốc, mời cụ Bốc ngồi lên ghế trên nói:
- Việc kết hôn này trăm sự nhờ cụ có lòng yêu. Tôi cảm kích khôn xiết. Nhưng chúng ta đều là người nghèo cả không làm sao dọn một bữa tiệc cho nó kha khá. Cho nên chỉ có một chén rượu nhạt. Tôi lại làm phiền cả hai cậu đến đây. Có việc gì xin thứ lỗi cho.Cụ Ngưu nói xong đứng vái dài. Cụ Bốc cũng đáp lễ lại. Cụ Ngưu lại mời Bốc Thành, Bốc Tín ngồi vào bàn. Hai người hai ba lần từ chối mới chịu ngồi xuống.
Cụ Ngưu nói:
- Thực ra thì thế này không phải là bữa tiệc, nhưng là chỗ thân thiết chắc các vị cũng không cười. Nhà chúng tôi không có gì khác ngoài lá chè và than. Cho nên hôm nay chúng tôi có nấu một ấm chè để giữ các vị cùng ở lại nói chuyện đến canh năm, cho đến khi hai cháu ra lạy chào. Tôi chỉ biết làm thế để tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Cụ Bốc nói: - Này ông! Cháu tôi nó trẻ người chưa biết gì là lễ phép. Cha nó lại không ở đây, của hồi môn thành ra cũng không có. Tôi xấu hổ chết đi được! Nếu nói chuyện đến sáng thì tôi cũng xin vâng, về mà làm gì?
Tiệc xong, Bốc Thành và Bốc Tín đều trở về. Cụ Bốc ở lại đến canh năm. Hai vợ chồng ăn mặc xong ra, mời cụ Ngưu ngồi ở trên để cùng lạy. Cụ Ngưu nói:
- Này cháu! Ông nuôi cháu đến ngày nay không phải là việc dễ. Nay may nhờ có ông ngoại cháu giúp ông lo việc trăm năm cho cháu nên cháu đã nên vợ nên chồng. Từ nay trở đi, tất cả mọi việc trong cửa hàng, ông đều giao cho cháu lo liệu hết. Tất cả mọi việc mua bán, lãi lỗ cho vay cháu đều phải tự mình lo liệu lấy. Ông thì già mệt rồi, chỉ có thể ngồi xem xét, giúp đỡ cháu trông hàng. Cháu xem ông như người già giúp việc vậy. Cháu được một người vợ tốt. Ông mong hai vợ chồng cháu sẽ bách niên giai lão, đông con nhiều cháu.
Lạy cụ Ngưu xong, hai vợ chồng mời cụ Bốc ngồi lên để nhận lễ. Hai người lại cúi đầu lạy.
Cụ Bốc nói:
- Nếu cháu ngoại của tôi có làm điều gì trái, xin anh chỉ bày cho. Cháu phải kính trọng người trên, chớ có trái lời cha, lời chồng. Cháu là người đàn bà duy nhất trong nhà. Phàm việc gì cũng phải chăm chỉ, chu đáo, chớ để cho ông cháu phải lo.
Nói xong cụ Bốc đỡ hai người dậy. Cụ Ngưu giữ ông thông gia lại ăn sáng. Cụ Bốc cáo từ ra về. Từ đấy nhà cụ Ngưu có tất cả ba người, sống qua ngày qua tháng.
Sau khi lấy vợ, trong một thời gian, Ngưu không đến am. Một hôm nhân việc đi đòi nợ, Ngưu thuận đường đi ngang qua am. Vừa tới cửa Phù Kiều, trông thấy ở ngoài cửa am có năm sáu con ngựa, trên ngựa đều có hành lý, có người coi ngựa. Đến gần thì thấy ở phía tây điện Vi Đà có ba bốn người ngồi trên ghế dài, đầu đội mũ lông chiên rộng, mình mặc áo lụa. Tay phải thì vuốt râu, tay trái ve vẩy cái roi ngựa, họ ngồi vắt chân cho nên thấy cả cái giày đầu đen đế trắng. Ngưu Phố không dám vào, nhưng hòa thượng đã nhìn thấy, vội vàng vẫy tay:
- Này con! Sao mấy lâu nay không thấy con đến chơi! Ta đang đợi con đến nói câu chuyện đây. Mau mau vào đây!
Ngưu Phố thấy hòa thượng gọi, đánh bạo bước vào. Thấy hòa thượng đã thu xếp hành lý chỉnh tề như sắp đi đâu Ngưu Phố bèn kinh ngạc hỏi:
- Sư phụ! Sư phụ mang hành lý định đi đâu7?
- Mấy người đợi ở ngoài là do cụ lớn Tề làm đề đốc ở kinh sai đến. Cụ lớn Tề trước đây là môn đệ của ta, lúc ta còn ở kinh. Nay cụ đã làm quan to, nên đặc biệt cho người mời ta về kinh để coi chùa Bảo Quốc. Ta vốn không muốn đi, nhưng vì trước đây có một người bạn của ta chết ở chùa này, ông ta có một người bạn lên kinh thi hội. Ta muốn nhân cơ hội này lên kinh để nói với người kia đem quan tài người này về nhà mà chôn. Như thế cũng là thỏa điều mong ước của ta. Hôm trước ta nói có hai quyển thơ muốn cho con, đó là thơ của người chết này. Hiện nay để ở trong hòm. Ta cũng không có thì giờ mở ra xem. Con cứ mở hòm ra lấy xem. Lại có cái nệm lót giường và mấy cái đồ vặt vãnh ta không mang đi được, con giữ hộ, đợi khi ta về.
Ngưu Phố muốn hỏi thì mấy người kia vào nói:
- Hôm nay trời còn sớm cần phải đi vài mươi dặm. Xin mời sư phụ mau mau lên ngựa để cho chúng con đi kẻo trễ.
Nói xong, mang hành lý, đỡ hòa thượng lên ngựa và mấy người này cũng đều nhảy lên ngựa đi theo. Ngưu Phố tiễn ra ngoài, chỉ nói được một câu: “Chúc sư phụ lên đường bình an”, thì đoàn ngựa đã phi như bay.
Ngưu Phố nhìn không thấy hòa thượng mới quay vào, thân hành xem lại các đồ vật, lấy cái khóa ở cửa phòng của hòa thượng đem ra khóa cửa am rồi về nhà nghỉ.
Hôm sau y lại đến am, nghĩ bụng:
- Hòa thượng đi rồi, không còn ai biết nữa. Tại sao ta không nhận phắt là Ngưu Bố Y?
Bèn lấy một tờ giấy viết năm chữ lớn: “Ngưu Bố Y ở đây”. Và từ đấy, ngày nào cũng đến am.
Một tháng qua, cụ Ngưu ngồi trong hiệu không có việc gì làm, mới đem sổ sách ra xem thì thấy số người mắc nợ mình không còn lại bao nhiêu. Mỗi ngày bán được vài chục đồng tiền chỉ dùng vào tiền gạo, tiền củi là hết nhẵn. Sau khi tính toán thấy số tiền vốn mười phần đã mất đi bảy phần, cửa hàng này sắp đến ngày đóng cửa, cụ giận lắm chỉ trợn mắt không nói một lời. Đến tối Ngưu Phố về nhà, cụ đem việc này hỏi y. Ngưu Phố trả lời ấp úng, trong miệng chỉ thấy “chi, hồ, giả, dã”(#2) không đâu vào đâu hết.
Cụ Ngưu tức quá sinh ốm. Người đã già bảy mươi tuổi, nguyên khí suy nhược, lại không có thuốc thang tẩm bổ, bệnh chỉ trong mười ngày là tận số quy tiên.
Hai vợ chồng Ngưu Phố khóc, la ầm ĩ. Cụ Bốc nghe vậy vội vàng chạy sang thấy xác cụ Ngưu đặt ở ngoài cửa liền gọi:
- Anh!
Và hai dòng nước mắt chảy như mưa. Nhìn thấy Ngưu Phố đứng bên cạnh khóc nức nở không nói ra tiếng, cụ Bốc nói:
- Việc đã như thế này không phải là lúc khóc than. Cháu hãy bảo vợ cháu giữ gìn ông cháu, còn cháu thì cùng ta lo liệu việc khâm liệm.
Ngưu Phố gạt lệ cảm tạ cụ Bốc. Hai người cùng đi tới một cái hiệu cụ Bốc quen, mua chịu một cái quan tài, lại mua mấy thước vải nhờ thợ may cắt áo quần. Đến buổi chiều thì khâm liệm. Hôm sau thuê tám người khiêng quan tài đi đến chỗ phần mộ của tổ tiên để an táng. Cụ Bốc lại mời một người thầy bói là ông Từ. Cụ cỡi con lừa, cùng đi với ông Từ đến huyệt. Nhìn người thân hạ huyệt, cụ khóc một hồi rồi cùng thầy bói trở về, để lại Ngưu Phố trông coi phần mộ ba ngày.
Cụ Bốc vừa về đến nhà thì người đủ mọi lớp đến đòi tiền. Cụ Bốc đều hứa trả cho họ. Nhưng khi Ngưu Phố về, nhặt nhạnh trong nhà chỉ còn đủ năm lạng để trả tiền áo quan. Ngoài ra tiền vải, tiền thợ may, tiền người khiêng đều không biết lấy đâu ra. Không biết làm thế nào, Ngưu đành đem cầm cái nhà mình ở cho người giữ đập nước ở cầu Phù Kiều lấy mười lăm lạng bạc. Sau khi trả mọi thứ nợ, Ngưu Phố còn lại hơn bốn lạng. Cụ Bốc bảo giữ lại để đến tiết thanh minh sang năm đắp mộ cho cụ Ngưu. Thấy Ngưu Phố và vợ không có nơi ở, cụ Bốc dọn một gian nhà của mình cho hai người đến ở để giao nhà lại cho người kia. Hôm dọn nhà, cụ Bốc soạn một bữa cơm để đón hai người về và ngồi với họ một lát. Nhưng nghĩ đến người thân đã chết thì cụ lại nức nở, nghẹn ngào.
Thấm thoắt đến ngày ba mươi tết. Cụ Bốc sửa soạn ăn mừng năm mới. Dâu, con trong phòng chuẩn bị rượu, đồ ăn và một lò than. Cụ Bốc đưa mấy cân than cho Ngưu Phố bảo Ngưu Phố đốt than ở trong phòng. Lại đưa vào một bàn rượu thịt bảo y lập bài vị mà cúng ông nội. Ngày mồng một đầu năm, lại bảo y đi ra mộ đốt vàng giấy. Cụ vừa nói vừa khóc:
- Anh ra ngoài mộ, thưa với cụ rằng tôi tuổi già, năm nay trời lạnh, tôi không thể ra chúc cụ năm mới được.
Ngưu Phố vâng dạ, đi ra.
Đến mãi ngày mồng ba, cụ Bốc mới đi mừng lại các nhà khác. Sau khi uống vài chén rượu, ăn vài miếng ở nhà bạn, cụ đi qua cầu Phù Kiều. Nhìn thấy nhà người giữ đập nước dán đôi câu đối mừng xuân đỏ chói, cụ không sao cầm được nỗi lòng, khóc hoài khóc mãi. Đang định trở về thì bỗng gặp người cháu rể nắm lấy tay cụ mời vào nhà. Người cháu gái mặc quần áo đẹp ra chúc mừng năm mới. Chào xong, họ giữ cụ lại uống rượu, ăn bánh nếp. Cụ ăn được hai cái thì thôi. Đứa cháu gái mời mãi, cụ mới lại ăn thêm hai cái nữa. Lúc trở về nhà thì gặp phải cơn gió độc, cụ biết mình mắc bệnh. Đến tối nhức đầu sốt nóng và phải đi nằm. Mời thầy thuốc đến, nói là cụ lo lắng nhiều nên sinh chứng đờm. Người thì bảo phải dùng thuốc phát tán.
Người bảo phải dùng thuốc ôn trung. Người lại cho là tuổi già phải dùng thuốc bổ, không ai giống ai. Bốc Thành, Bốc Tín hoảng hốt, cả ngày ở bên cạnh. Ngưu Phố sáng chiều vào phòng hỏi thăm.
Hôm ấy trời tối, cụ Bốc nằm trên giường thấy có hai người trèo qua cửa sổ đến trước giường tay cầm một tờ giấy đưa cho cụ xem. Nhưng lúc cụ hỏi mọi người, thì tất cả đều trả lời rằng không thấy ai cả. Cụ Bốc cầm tờ giấy trong tay, nhìn ra là một danh sách tên người viết bằng chữ son, có tất cả ba mươi bốn, ba mươi lăm tên, tên đầu là Ngưu Tương, tên người thông gia của cụ, tên chót là Bốc Sùng Lễ chính là tên của cụ. Cụ lại định hỏi người mang giấy đến nhưng chợp mắt một cái, cả người lẫn giấy đều không thấy ở đâu.
Nhân phen này làm cho
cửa quan giao kết nên chi thân thích khôn nương,
đường hoạn ngao du, may được họ hàng khá cậy.
Muốn biết cụ Bốc tính mạng ra sao hãy xem hồi sau phân giải.
Chú thích:
(1-) Bản thảo tập thơ của Ngưu Bố Y.
(2-) Chi, hồ, giả, dã là bốn trợ từ thường dùng trong văn ngôn nên nói văn ngôn thường gọi là “chi, hồ, giả, dã”.
Nhận ông cháu, Ngọc Phố tìm tông;
Ưa giao du, Tuyết Trai lưu khách. Cụ Bốc nằm ngủ thấy có giấy ở dưới âm phủ gọi về, biết rằng số mình đã hết, liền gọi hai con trai và con dâu đến bên cạnh, trối trăng mấy lời, kể lại điều mình vừa thấy. Cụ nói:
- Mau mau đem áo quần lại cho cha mặc! Cha sắp đi đây.
Hai người con khóc lóc, vội vàng lấy áo quần ra mặc cho cụ. Mặc xong cụ nói:
- Ta vui mừng, vì thấy cùng ở chung một danh sách với ông thông gia của ta. Ông ta đứng đầu, ta ở cuối. Ông ta đã đi trước ta xa lắm, ta phải theo kịp.
Nói xong, người duỗi ra, đầu ngả xuống gối. Hai con lạy không được. Nhìn ra, thì cụ đã tắt thở. Việc chôn cất đã sẵn sàng, lại còn phải lo việc ma chay, cúng thất(#1), báo tang, làm rạp cho người ta đến điếu. Ngưu Phố lo việc tiếp khách.
Ngưu Phố cũng có mấy người nhà nho là bạn quen biết. Nhân lúc tang gia bối rối, họ cũng lăn vào ăn uống. Lúc đầu, nhà họ Bốc cũng vui vui vì có thêm những người mới quen biết. Nhưng sau thấy họ đến đông, nhà mình lại là nhà buôn bán, miệng họ cứ nói “chi, hồ, giả, dã” đâu đâu nghe không chịu được. Cho nên nhà họ Bốc cảm thấy chán cứ than phiền luôn.
Một hôm, Ngưu Phố đi đến am, cửa am đóng. Mở ra thì thấy một tờ danh thiếp đút qua khe cửa rơi ở dưới đất. Ngưu cầm lên xem. Trên tờ danh thiếp viết:
- “Tiểu đệ là Đổng Anh. Khi lên kinh thi hội, đến nhà ông Phùng Trác Am, tiểu đệ có được đọc những bài thơ của ngài trong lòng khao khát, mong sao được gặp. Tiểu đệ đi đến đây để tìm ngài, nhưng không được gặp, rất lấy làm ân hận. Sáng mai mong ngài lưu lại một lát để cho tiểu đệ được thỉnh giáo. Rất hân hạnh.”
Ngưu Phố xem xong biết rằng người kia đến tìm Ngưu Bố Y. Nhưng thấy trong danh thiếp nói: “Lòng khao khát mong sao được gặp”, Ngưu Phố đoán biết ông này chưa gặp Ngưu Bố Y bao giờ, nghĩ bụng:
- Tại sao ta không cứ nhận mình là Ngưu Bố Y để tiếp ông ta? Rồi lại nghĩ:
- Ông ta nói rằng ông ta lên kinh thi hội, vậy chắc chắn là một ông quan to. Ta phải bảo ông ta đến nhà họ Bốc để gặp ta. Như thế ta sẽ làm cho anh em họ Bốc khiếp sợ một mẻ chơi.
Chủ ý đã định, Ngưu Phố vào am lấy giấy bút viết một cái thiếp đề:
“Ngưu Bố Y gần đây ở nhà người bà con họ Bốc. Ai đến thăm xin mời đến hiệu buôn gạo họ Bốc ở đầu đường phía nam cầu Phù Kiều”.
Viết xong, Ngưu Phố đi ra, khóa cửa lại, dán tờ giấy ở ngoài cửa. Y về nói với Bốc Thành, Bốc Tín rằng:
- Ngày mai có một ông họ Đổng đến thăm tôi. Ông ta sắp làm quan, chúng ta không nên khinh thường. Nhờ cậu cả sáng mai quét cái nhà khách cho sạch sẽ. Nhờ cậu hai bưng cho chúng tôi hai chén trà. Việc ông ta đến thăm sẽ làm cho tất cả mọi người mở mày mở mặt. Hai cậu giúp cho một chút.
Anh em họ Bốc nghe nói có quan đến thăm, mừng rỡ vô cùng, vui lòng nhận ngay.
Sáng hôm sau, từ tinh mơ, Bốc thành đã dậy quét nhà khách và dọn những thùng đựng gạo ra ngoài mái hiên sau cửa sổ. Y lấy sáu cái ghế đặt đối diện nhau, bảo vợ quạt than để pha một ấm trà, tìm một cái khay, hai chén trà, hai cái thìa lại bóc bốn hạt nhãn. Mỗi chén bỏ hai hạt: Mọi việc chuẩn bị sẵn sàng. Øn cơm sáng xong một người mặc áo xanh, tay cầm tờ danh thiếp đỏ đi vào hỏi:
- Ở đây có ông Ngưu không? Ông Đổng muốn vào thăm. Bốc Thành nói:
- Ông ta ở đây.
Bốc Thành nhận tờ thiếp, chạy vào báo. Ngưu Phố ra đón, thấy kiệu đỗ ở ngoài cửa. Đổng hiếu liêm(#2) xuống kiệu, đầu đội mũ sa, mình mặc áo lam cổ tròn, chân đi giày đen đế trắng. Người râu ba chòm, da trắng, trạc độ ba mươi tuổi. Thi lễ xong, hai người phân ngôi chủ khách cùng ngồi. Đổng hiếu liêm nói ngay:
- Tôi đã lâu nghe đại danh của ông, lại được đọc những bài thơ hay của ông, trong lòng vô cùng hâm mộ. Tôi nghĩ rằng ông là bậc túc nho nhiều tuổi, không ngờ nay thấy ông là một trang thanh niên, lại càng thêm kính phục.
- Vãn sinh là người ở chốn quê mùa, viết lăng nhăng mấy câu thơ, được ông Phùng Trác Am quá khen thật là rất thẹn.
Đổng nói:
- Không dám!
Bốc Thành bưng ra hai chén trà, đi từ phía trước mặt đến đưa cho Đổng. Đổng cầm lấy chén trà, Ngưu cũng cầm một chén, Bốc Tín đứng sừng sững trước mặt Đổng ở giữa nhà. Ngưu Phố vội vái Đồng hiếu liêm và nói:
- Người nhà của tôi là người quê mùa, không biết lễ nghĩa xin tiên sinh chớ cười.
Đổng cười và nói:
- Tiên sinh là một vị cao sĩ, khác tục, tôi dám đâu nghĩ thế!
Bốc Tín nghe nói vậy cúi đầu lẩm bẩm bước ra mang theo khay trà, mặt đỏ gay. Ngưu Phố lại hỏi:
- Lần này tiên sinh đi đâu?
- Tiểu đệ đã được bổ làm tri huyện. Nay đến phủ Ứng Thiên đợi nhậm chức. Tất cả hành lý còn ở dưới thuyền. Vì khao khát muốn được gặp ông, cho nên tôi hai lần đến tìm. Nay may mắn được thỉnh giáo, chiều nay sẽ đáp thuyền đi Tô Châu.
- Vãn sinh may mắn được lọt vào mắt xanh của ngài nhưng chỉ mới gặp nhau một ngày chưa làm hết nghĩa vụ của người chủ tiếp khách, tại sao ngài đã vội vàng đi ngay như thế?
- Chúng ta là những khách văn chương chỗ thanh khí quen nhau cần gì phải theo thế tục! Khi nào nhậm chức xong, tôi sẽ mời tiên sinh đến nhà tôi để được thỉnh giáo.
Đổng nói xong, đứng dậy ra đi. Ngưu Phố giữ lại không được nói:
- Vãn sinh xin xuống thuyền tiễn tiên sinh.
- Không dám bận đến tiên sinh, tôi xuống thuyền là đi ngay, sợ không có thì giờ nói chuyện với tiên sinh được.
Hai người chào nhau rồi từ biệt. Ngưu Phố tiễn ra ngoài cửa. Đổng lên kiệu đi.
Ngưu Phố trở về, thấy Bốc Tín giận dữ, hai má đỏ gay đón y ở ngoài cửa và mắng:
- Này anh Ngưu! Tôi vụng về như thế nào thì cũng vẫn là người cậu của anh, vẫn là bậc lớn hơn anh. Thế mà anh lại gọi tôi bưng trà lên. Cái đó thì không nói gì, cũng được đi. Nhưng tại sao anh lại xỉa xói tôi trước mặt cụ Đổng, như thế để làm gì?
- Này câu, phàm quan đến thăm thì theo lễ phép là phải rót trà ba lượt. Cậu chỉ rót có một lượt. Tôi đã không trách cậu thì thôi nay cậu lại còn nói tôi như thế! Thật là buồn cười!
Bốc Thành nói:
- Này anh! Anh không nên nói như thế. Mặc dầu cậu hai có bưng trà từ đằng trước đi lại thì anh cũng không được đem việc ấy ra nói với ông Đổng để cho ông ấy cười!
Ngưu Phố nói:
- Ông Đổng thấy hai cậu lẩm cà lẩm cẩm như thế là ông ta đã cười rồi, chẳng cần cho đến lúc bưng trà lên không đúng phép tắc nữa.
Bốc Tín nói:
- Chúng tôi là con nhà buôn không cần các quan thăm hỏi. Đến chẳng được ân huệ gì hết lại để cho họ cười.
Ngưu Phố nói:
- Tôi không dám nói cái này, nhưng thật ra nếu tôi không ở nhà hai cậu thì dù đến một, hai trăm năm cũng không có ông quan nào đến nhà này đâu.
Bốc Thành nói:
- Đừng có nói láo! Anh có bạn làm quan thật đấy nhưng anh có phải là quan cách gì đâu!
- Cậu cứ hỏi bất kỳ ai xem. Ngồi với các ông quan vái chào nhau tiếp chuyện nhau là hơn, hay là bưng trà mời họ lại làm sai bét để họ cười cho là hơn?
Bốc Tín nói:
- Anh không được ăn nói hỗn xược như thế! Nhà chúng tôi không quý trọng gì những ông quan như thế đâu!
Ngưu Phố nói:
- Ngày mai tôi sẽ viết giấy đưa cho ông Đổng, ông ta sẽ đưa giấy đến huyện Vũ Hồ để người ta đánh cho các cậu một trận mới được.
Hai người kia tru tréo lên: - Loạn thực! Loạn thực! Cháu rể ngoại mà lại muốn làm cho các cậu bị đánh à? Chúng ta nuôi mày trong nhà suốt cả năm nay thật là toi cơm. Mày cứ đến huyện nói xem đứa nào bị đánh.
- Tôi sợ các cậu sao! Nào cùng đi nào!
Hai người kia kéo Ngưu Phố đến trước cửa huyện. Bấy giờ mõ mới đánh hai lần quan huyện chưa ra công đường. Ba người đứng chờ ở ngoài bình phong. Bỗng nhiên thấy Quách Thiết Bút đi qua. Quách Thiết Bút hỏi có việc gì, Bốc Thành nói:
- Ông Quách! Từ xưa đã có câu “một đấu gạo làm thành một ân nhân, mười đấu gạo làm thành một kẻ thù”. Chúng tôi nuôi cái thằng này mấy lâu nay thật là như vậy!
Quách Thiết Bút cũng trách Ngưu Phố:
- Từ xưa đến nay đã có kẻ trên người dưới, kẻ già người trẻ. Ông nói như thế là không được. Thân thích với nhau cả mà kéo nhau lên quan là việc không hay chút nào.
Quách Thiết Bút bèn kéo họ vào tiệm trà. Quách bảo Ngưu Phố rót trà mời hai cậu. Bốc Thành nói:
- Anh Ngưu! Tôi có điều này muốn nói với anh. Ngày nay, cha chúng tôi trăm tuổi rồi, trong nhà miệng ăn thì đông. Anh em chúng tôi lo lắng không nổi. Nhân có ông Quách ở đây chúng tôi cũng đem câu chuyện này ra nói nốt. Chúng tôi đành phải nuôi cháu gái của chúng tôi, nhưng còn anh Ngưu thì anh phải kiếm lấy việc mà làm, nếu anh chỉ lo nhờ vả chúng tôi thì không được.
- Các cậu muốn như thế à? Tốt lắm! Cái đó thì dễ, hôm nay tôi sẽ mang hành lý đi để tự kiếm kế sinh nhai, không cần nhờ vả đến hai cậu nữa.
Uống trà xong, việc chửi lộn cũng xong nốt. Ba người cám ơn Quách Thiết Bút. Quách Thiết Bút cũng từ biệt mà về.
Bốc Thành, Bốc Tín trở về nhà. Ngưu Phố hầm hầm về nhà lấy chăn nệm mang đến am ở. Không có gì ăn, y đem cầm tất cả thanh la, não bạt của hòa thượng. Ngồi rảnh không có việc gì, y đi đến nhà Quách Thiết Bút. Thiết Bút không ở hiệu. Ở quầy hàng, có một quyển ghi danh sách những người làm quan, Ngưu Phố giở ra xem thấy Đổng Anh tự là Ngạn Phương, người phủ Nhân Hòa, tỉnh Chiết Giang hiện mới bổ làm tri huyện ở huyện An Đông phủ Hoài An, bèn nói:
- Được rồi! Tại sao ta không đi tìm ông ta?
Bèn vội vàng về am xếp chăn lại, đem lư hương và khánh đá của hòa thượng đi cầm, được tất cả hai lạng bạc. Y không về nhà họ Bốc mà đáp thuyền đi ngay. Gặp được lúc xuôi gió một ngày một đêm đã đến mỏm Yến Tử ở Nam Kinh. Y định đáp thuyền đi Dương Châu. Khi vào một hàng cơm, người chủ hàng nói:
- Hôm nay thuyền đều đi cả rồi! Phải nghỉ lại một đêm chiều mai sẽ đi.
Ngưu Phố đặt hành lý xuống, bước ra cửa hàng thấy ở bờ sông buộc một chiếc thuyền lớn. Y gọi người chủ quán hỏi:
- Thuyền này bao giờ đi?
Chủ quán cười mà rằng:
- Ông không đi thuyền ấy được đâu! Thuyền ấy đang chờ một ông quan to mới đi.
Ngưu Phố lại bước vào hàng. Người hầu bàn đem đến một đôi đũa, hai đĩa rau, một đĩa thịt lợn, một đĩa đậu phụ rán, một bát canh, một bát tô cơm tướng. Ngưu Phố hỏi:
- Đĩa rau và bát cơm bao nhiêu?
Người hầu bàn nói:
- Cơm thì hai ly một bát, thịt một phân một đĩa, rau nửa phân một đĩa.
Ngưu Phố ăn hết cả rau và cơm rồi bước ra cửa. Y thấy ở bên sông có một cái kiệu đang chờ ở đấy, có ba gánh hành lý và bốn người tùy tùng. Ở trong kiệu bước ra một người đầu đội mũ vuông, mình mặc áo lụa màu gỗ trầm hương, chân đi giày đen đế trắng, tay cầm một cái quạt giấy trắng. Y đầu bạc hoa râm, trạc tuổi trên năm mươi, đôi mắt như con nhím, hai gò má cao. Người này bước xuống kiệu thì bảo chủ thuyền:
- Ta muốn đến thăm quan coi sở muối ở Dương Châu, anh phải lo lắng cẩn thận, khi đến Dương Châu ta sẽ thưởng cho. Nếu anh sơ suất ta sẽ viết giấy cho quan huyện Giang Đô bắt anh trị tội đấy.
Chủ thuyền vâng dạ luôn miệng, dắt y xuống thuyền. Chủ thuyền cũng mang giúp hành lý xuống thuyền.
Chính đang lúc bận rộn, người chủ quán nói với Ngưu Phố:
- Ông mau mau xuống thuyền đi!
Ngưu Phố mang hành lý lên vai, chạy ra đằng đuôi thuyền. Chủ thuyền nắm lấy tay y lôi xuống thuyền, giơ tay ra hiệu bảo y không được nói năng gì và đưa y vào ngồi ở bếp.
Khi tất cả hành lý đều mang xuống thuyền, Ngưu Phố thấy người tùy tùng đem ra cái đèn lồng có đề mấy chữ: “Việc công ở Lưỡng Hoài” treo ở cửa thuyền, lão chủ thuyền đem cái lò ra đốt một ít lửa để nấu trà đưa vào khoang. Bấy giờ trời còn tối, bốn người tùy tùng đều ngồi ở đằng sau thuyền sửa soạn các món ăn. Họ hâm rượu, sắp sẵn đâu vào đấy rồi đưa vào khoang, đốt một ngọn sáp đỏ. Ngưu Phố liếc mắt nhìn trộm qua khe hở thấy người kia ngồi trước ngọn nến, trên bàn bày bốn đĩa ăn, tay trái cầm chén rượu, tay phải cầm một quyển sách xem chăm chú, vừa xem vừa gật đầu, xem một lúc rồi ăn cơm. Một lát sau thổi tắt ngọn đèn đi ngủ. Ngưu Phố cũng thiu thiu ngủ. Đêm ấy, gió đông bắc thổi mạnh. Đến canh ba, mưa bắt đầu rơi lách tách. Cái chiếu che sau bếp bị dột nước chảy lộp bộp, Ngưu Phố trằn trọc trở mình không ngủ được. Đến canh năm nghe tiếng trong khoang nói:
- Ông lái! Tại sao không cho thuyền đi?
Người chủ thuyền nói:
- Gió rất mạnh, đằng trước là vịnh Hoàng Thiên Đãg. Tối hôm qua mười mấy chiếc thuyền phải dừng lại ở đây, không có cái nào dám đi hết!
Một lát sau, trời sáng rõ. Người chủ thuyền nấu nước rửa mặt mang vào khoang. Những người tùy tùng ra rửa mặt ở sau thuyền. Đợi cho họ rửa mặt xong hết cả, người chủ thuyền mới đưa một chậu nước cho Ngưu Phố rửa. Ngưu thấy hai người tùy tùng cầm dù lên bờ. Một người khác đang rửa một cái chân giò ở bên cạnh thuyền. Một lát sau hai người tùy tùng kia về mang một con cá, một con vịt quay, một miếng thịt, măng tươi, rau cần đem lên thuyền. Chủ thuyền lấy gạo thổi cơm. Mấy người tùy tùng đều quay lại lo việc nấu ăn. Khi tất cả mọi việc đều xong, họ dọn lên bốn đĩa to tướng, lại có một bầu rượu và bày tất cả vào khoang để người kia ăn sáng. Bốn người tùy tùng mang những thức ăn còn lại ra sau thuyền cùng ăn. Øn xong, họ lau ván thuyền sạch sẽ. Lúc đó, chủ thuyền mới lấy ở bếp ra một đĩa củ cải và một bát cơm cho Ngưu Phố ăn. Ngưu Phố cũng ăn.
Mưa đã ngớt, gió vẫn còn mạnh. Lúc gần trưa, người ở trong khoang mở miếng ván ở sau thuyền và nhìn thấy Ngưu Phố, bèn hỏi:
- Người kia là ai?
Chủ thuyền nhăn nhở nói:
- Đó là một người tôi chở thêm để kiếm ít tiền mua rượu.
- Như thế tại sao không đưa anh ta vào trong khoang?
Ngưu Phố chỉ chờ có thế. Y vội vàng từ phía sau bước ra vái chào và quỳ xuống. Người kia giơ tay ra nói:
- Trên thuyền chật chội không phải làm lễ! Anh cứ ngồi!
Ngưu Phố hỏi:
- Không dám, xin tiên sinh cho biết quý danh.
Người kia nói:
- Anh hỏi tôi sao? Tôi họ Ngưu tên là Giao, tự là Ngọc Phố. Tôi vốn là người ở Huy Châu. Anh ở đâu?
Ngưu Phố nói:
- Con cũng họ Ngưu, tổ tiên con ở Tân An.
Ngưu Ngọc Phố không đợi y nói hết, liền nói ngay:
- Nếu như anh họ Ngưu thì năm trăm năm trước đây anh cũng là người một nhà với ta, cũng cùng chung một tổ tiên cả. Ta ở Huy Châu, như thế ta là ông mà anh là cháu, từ nay anh phải gọi ta bằng ông nhé.
Ngưu Phố nghe vậy rất lấy làm ngạc nhiên, nhưng người kia xem ra rất oai vệ, cho nên không dám từ chối bèn nói:
- Thưa ông, lần này ông đi Dương Châu có việc gì?
Ngưu Ngọc Phố nói:
- Chẳng giấu gì cháu, ta quen nhiều người bạn làm quan, to ai cũng muốn mời ta vào làm việc ở nha môn họ, nhưng tính ta lười không muốn ra khỏi cửa. Hiện nay ta đang đi đến nhà ông Vạn Tuyết Trai. Ông ta không phải là một người quan trọng lắm, nhưng ông ta mời ta vì ta quen biết các quan và có thanh thế. Ta ở đây, mỗi năm ông ta đưa cho mấy trăm lạng bạc gọi là tiền giấy mực. Nói rằng tiền giấy mực, chẳng qua là lấy danh nghĩa mà thôi. Ta cũng không muốn đến nhà ông ta vì đó là một nơi thế tục, cho nên đến ở cung Tý Ngọ. Nay anh đã biết ta thì ta có cách giúp anh.
Và y nói ngay với chủ thuyền:
- Ông đưa hành lý của anh ấy vào đây! Tôi sẽ trả tiền đò cho anh ấy.
Chủ thuyền nói:
- Ông lại nhận ra bà con! Như thế thì phải thêm tiền thưởng để chúng tôi uống rượu chứ!
Hôm đó Ngưu Phố ăn cơm chiều với Ngưu Ngọc Phố. Đến đêm lặng gió, trời lại tạnh. Canh năm, thuyền đã đến Nghi Trưng đỗ ở bến Hoàng Nê. Ngưu Ngọc Phố rửa mặt xong, dắt tay Ngưu lên bờ và nói:
- Øn cơm ở dưới thuyền mất thì giờ. Ở đây có tiệm “Đại quan lâu” nấu ăn rất ngon. Chúng ta đi đến đó, ăn một bữa đi!
Và quay lại bảo người lái thuyền:
- Các anh cứ ăn cơm đi! Chúng tôi đến “Đại quan lâu” ăn không cần phải người đi theo nữa.
Hai người đi đến “Đại quan lâu” và cùng lên gác. Ở trên lầu thấy một người đội mũ vuông. Khi nhận thấy Ngưu Ngọc Phố người kia giật nẩy mình kêu lên:
- Thế nào! Lại gặp “ông anh” ở đây!
Ngưu Ngọc Phố nói:
- À, thế ra anh cũng ở đây sao!
Hai người vái chào nhau. Người kia hỏi:
- Ông này là ai?
Ngưu Ngọc Phố nói:
- Đây là thằng cháu của tôi.
Và nói với Ngưu Phố:
- Anh chào ông ta mau đi! Ông ta là người “bạn thân thiết” với ta đã hai mươi năm nay, tên là Vương Nghĩa An, trước thường cùng làm việc ở “nha môn”(#3) với ta.
Ngưu Phố vái chào. Phân ngôi chủ khách cùng ngồi, Ngưu Phố ngồi một bên. Người hầu bàn đem cơm lên: một bát mì xào, một đĩa nem, ba người cùng ăn. Ngưu Ngọc Phố nói:
- Từ khi chúng ta từ biệt nhau ở nha môn cụ Tề đến nay, giờ mới lại gặp nhau.
Vương Nghĩa An nói:
- Cụ Tề nào?
- Cụ Tề làm Cửu môn đề đốc ấy mà!
- Cụ Tề đối đãi với hai chúng ta thật là không chê trách vào đâu được.
Đang nói chuyện thân mật thì ở dưới lầu bước lên hai người tú tài đội mũ vuông. Người đi trước mặc áo lụa trừu ở trước áo có một vết dầu. Người đi sau mặc áo màu tro, hai ống tay áo rách tả tơi. Hai người vừa tới thấy Vương Nghĩa An thì người mặc áo lụa hỏi:
- Đó có phải là cái thằng cha Vương Nghĩa An kiếm gái cho các nhà thổ ở đường Phong Gia Hạng không?
Người mặc áo màu tro nói:
- Hắn chứ còn ai nữa.
- Hắn làm thế nào lại dám đội mũ vuông vác mặt đến đây?
Hai người kia liền chạy đến, giằng lấy cái mũ vuông(#4) của Vương Nghĩa An tát một cái rất mạnh vào má. Vương ta ngã lăn quay ra đất, dập đầu lạy như tế sao. Hai người kia lại càng nổi giận. Ngưu Ngọc Phố đến can thì bị mắng một trận:
- Ông là người áo mũ nhà nho tại sao lại còn ngồi ăn cơm một bàn với cái thằng kiếm gái cho nhà thổ. Ông đã không biết thì thôi, ông lại còn đến xin xỏ cho nó. Như thế thì cả ông nữa cũng đáng chết. Nếu ông không đi ngay, chúng tôi cũng không nể mặt đâu.
Ngưu Ngọc Phố thấy việc chẳng lành vội vàng kéo Ngưu Phố đi xuống lầu trả tiền cơm về thuyền.
Hai người tú tài kia định cho tên kiếm gái một trận nhừ tử. Mặc dù chủ quán đến xin hộ, và cả Vương Nghĩa An xin lỗi, hai người tú tài vẫn không chịu thôi lại còn dọa đem y lên quan. Tên kiếm gái bị đánh đau sợ hãi, phải sờ lấy ở lưng ra ba lạng bảy mươi đồng đưa cho hai người để làm lễ ra mắt, họ mới tha cho y đi.
Ngưu Ngọc Phố và Ngưu Phố xuống thuyền đi Hàng Châu. Thuyền đỗ ở cung Tý Ngọ. Đạo sĩ ra tiếp. Hai người xếp đặt hành lý xong đâu đấy rồi đi ngủ. Sáng hôm sau, Ngưu Ngọc Phố đưa ra một cái mũ vuông cũ và một cái áo lam cho Ngưu Phố và nói:
- Hôm nay tôi cùng anh đi đến nhà ông Vạn Tuyết Trai. Anh mặc áo đội mũ và cùng đi với tôi.
Hai người gọi hai cái kiệu đến, bảo hai người đầy tớ đi theo mang bọc chăn áo. Họ đi thẳng đến bến sông thấy một cái cửa lầu cao lớn, có bảy, tám người đang ngồi trên ghế nói chuyện với một vú em. Kiệu dừng trước cửa. Hai người xuống kiệu, đi vào. Đầy tớ Vạn Tuyết Trai nhận ra và nói:
- Ông Ngưu đã về! Mời ông vào thư phòng!
Hai người đi qua một cái cổng có đắp hai con hổ. Đi qua một cái sân trong lát gạch phẳng phiu, rồi đến phòng khách. Ở giữa sảnh treo một cái biển lớn có ba chữ vàng: “Thân tư đường”. Ở bên cạnh có một hàng chữ: “Tuân Mai, là Diêm vụ sử ở Lưỡng Hoài viết”. Hai bên là một đôi câu đối chữ vàng:"Độc thư hảo, canh điền hảo, học hảo tiện hảo"; “Sáng nghiệp nan, thủ thành nan, trị nan bất nan.(#1) Ở dưới treo một bức họa của Nghê Vân Lâm. Ở án thư bày một hòn ngọc lớn chưa giũa. Trong nhà có mười hai cái ghế gỗ hoa lê. Ở bên trái là một cái gương soi độ cao sáu thước. Luồn qua phía sau cái gương là một cái cửa, hai cánh mở toang, dưới sân lát toàn đá cuội. Họ đi men theo bờ ao có dãy lan can sơn đỏ. Vào sâu nữa một cái sảnh gồm ba gian. Ở gian giữa treo một cái rèm trúc, có hai tiểu đồng vội vàng kéo rèm và mời vào. Đưa mắt nhìn thấy những đồ đạc đều bằng gỗ quí đánh bóng loáng. Ở giữa treo một cái biển dán giấy trắng viết chữ đen ”Xem hoa, làm thơ".
Hai người ngồi uống trà. Chủ nhân là Vạn Tuyết Trai ở trong nhà bước ra, đầu đội mũ vuông, tay phe phẩy cái quạt lụa màu vàng, mình mặc áo lụa, chân đi giày đỏ. Y đi ra vái chào Ngưu Ngọc Phố. Ngưu Ngọc Phố bảo Ngưu Phố ra chào và nói:
- Đây là cháu của tôi đến chào tiên sinh.
Ba người phân ngôi chủ khách cùng ngồi. Ngưu Phố ngồi ở dưới. Khi trà bưng lên, Vạn Tuyết Trai nói:
- Ông làm gì ở Nam Kinh mãi thế?
Ngọc Phố nói:
- Chỉ vì danh tiếng tôi to quá! Tôi vừa đến Nam Kinh ở tại chùa Thừa Ân thì đã có bao nhiêu người đến thăm. Người mang giấy, kẻ mang quạt, mang sách đến. Ai cũng muốn xin tôi vài chữ hay một bài thơ. Có người, tôi đã ra đề văn, đề thơ cho làm cũng đến tìm tòi hỏi ý kiến và xin chỉ giáo. Thật cả ngày cả đêm không lúc nào rảnh. Đến khi rảnh thì cậu hai con Từ quốc công không biết tại sao, biết tôi đến, nên lại năm lần bảy lượt cho người đến mời. Quản gia nhà công tử đều là hạng chỉ huy bọn Cẩm y vệ, chức từ ngũ phẩm trở lên. Họ đến mời tôi nhiều lần thành ra tôi cũng phải đến nhà công tử chơi mấy hôm.
Tôi xin đi hai ba lần không được. Sau tôi phải nói ông Tuyết Trai muốn gặp tôi có việc gấp, lúc đó họ mới để tôi đi. Cậu hai rất hâm mộ thơ ông, và tự tay chấm những bài thơ của ông.
Ngọc Phố nói xong, lấy trong ống tay áo ra hai tập thơ đưa cho Vạn Tuyết Trai. Vạn cầm lấy và hỏi:
- Tôi chưa hề gặp người cháu của ông bao giờ! Năm nay bao nhiêu tuổi? Hiệu là gì?
Ngưu Phố nói không ra lời, Ngọc Phố nói: - Nó năm nay hai mươi tuổi, còn trẻ nên chưa có hiệu.
Vạn Tuyết Trai đang xem tập thơ thì thấy người đầy tớ chạy vào bẩm:
- Có ông Tống xin vào!
Vạn Tuyết Trai đứng dậy nói:
- Tôi muốn tiếp ông nhưng người thiếp thứ bảy của tôi ốm, tôi có mời ông Tống đến xem bệnh nên phải vào tiếp ông ta một lát. Tôi xin lỗi. Ông cứ tự nhiên, dùng cơm xong xin cứ ở lại đến chiều.
Vạn nói xong đi vào.
Người quản gia bưng ra bốn đĩa đồ ăn, hai bát, hai đôi đũa và khiêng một cái bàn để hai người ngồi ăn cơm. Ngọc Phố nói với Ngưu Phố: Họ mới xếp đặt chén bát, còn một lát nữa mới có cơm. Ta ra ngoài chơi một lát. Ở đây có mấy cái phòng đẹp lắm!
Y dẫn Ngưu Phố qua một cái cầu nhỏ và đi men theo bờ ao. Nhìn xa xa, thấy có nhiều lầu, cái cao, cái thấp. Bờ ao hẹp, trồng liễu. Ngọc Phố quay lại nói với Ngưu Phố:
- Tại sao lúc nãy ông Vạn hỏi anh, anh lại không trả lời?
Ngưu Phố nhìn Ngọc Phố trừng trừng, không ngờ trượt chân rơi tõm xuống ao. Ngọc Phố vội vàng chạy đến kéo lên. Cũng may, ở đấy có mấy cây liễu, Ngưu bám lấy mà lên được. Giày và áo ướt sũng. Ngọc Phố bực bội nghiêm sắc mặt nói:
- Anh không biết nói năng, cư xử trước mọi người như thế nào hết.
Bèn gọi đầy tớ lấy một bộ áo quần ra cho y thay và bảo y về nhà trước. Nhân việc đó thành ra:
Người bên nói chuyện, vạch toang tông tích chủ nhân;
con trẻ ác tâm, nên nỗi người ta cụt hứng.
Muốn biết sự việc thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
Chú thích:
(1-) Đọc sách là việc tốt, cày là việc tốt, học hai điều ấy tốt là tốt. Khai sáng cơ nghiệp là điều khó, giữ gìn nó là điều khó, nhưng nếu biết điều đó là khó thì không còn khó nữa.
Nhớ thân thích, ông già mắc bệnh. Ngưu Phố Lang đến am Cam Lộ đọc sách, hòa thượng hỏi họ tên là gì, y liền vái chào mà rằng:
- Thưa lão sư phụ, con họ Ngưu, ở phố đằng trước mặt đây. Vì con sinh trưởng ở nhà bà ngoại ở Phố Khẩu, cho nên người ta gọi là Phố Lang. Không may cha mẹ qua đời. Con chỉ còn ông nội năm nay đã ngoài bảy mươi, mở một hiệu buôn hương nến nhỏ để sinh sống. Mỗi ngày, ông con giao cho con cái sổ nợ này đi đòi nợ. Con đi ngang qua trường học, nghe tiếng người ta đọc sách vui tai cho nên con cũng ăn trộm một ít tiền trong hiệu để mua sách đọc. Con thấy con làm phiền sư phụ quả thật là không phải.
- Ta vẫn thường nói có người mất tiền đón thầy cho con cái học mà con cái cũng không chịu học! Bây giờ thì anh trộm tiền mua sách mà đọc, thật là một việc đáng khen! Nhưng con ngồi ở dưới đất thì lạnh, đèn lưu ly lại không sáng. Ta có cái bàn ở trong điện, có cả ngọn đèn treo ở đấy. Con vào đó mà đọc thì tốt hơn.
Phố Lang cảm tạ hòa thượng và bước vào. Quả nhiên có một cái bàn vuông ở trên treo một ngọn đèn dầu. Phòng rất là yên tĩnh. Phố Lang từ đấy thường đến am đọc sách. Hòa thượng ngồi tĩnh tọa ở phòng bên, đêm nào y cũng đọc cho đến canh ba.
Một hôm nghe y ngâm thơ, hòa thượng đến hỏi:
- Này con! Ta tưởng rằng con học để đi thi cho nên mua sách văn chương để mà đọc. Không ngờ hôm nay nghe con đọc thì lại là thơ. Thơ thì đọc để làm gì?
- Đi buôn như con thì mơ việc thi cử làm sao được? Chỉ đọc vài ba câu thơ cho nó thanh cao nhuần nhã con người thôi.
Hòa thượng thấy y ăn nói khác người thường bèn hỏi:
- Con đọc thơ vậy có hiểu được không?
- Nhiều chỗ con không hiểu. Nhưng hễ hiểu được một hai câu thì trong lòng thấy hứng thú.
- Con đã thích thơ như thế, thì hôm nào ta sẽ cho con xem hai tập thơ. Chắc chắn con sẽ càng thích thú nữa.
- Sư phụ nói thơ ở đâu? Cho con xem với!
Hòa thượng cười mà rằng:
- Khoan đã! Đợi vài hôm nữa hẵng xem.
Qua một thời gian, hòa thượng xuống làng để tụng kinh, đi luôn mấy ngày không về. Hòa thượng khóa cửa phòng lại và nhờ Phố Lang giữ hộ điện thờ. Phố Lang trong lòng nghi hoặc:
- Sư phụ có những bài thơ gì mà không chịu cho ta xem làm ta nóng cả ruột?
Phố Lang cứ nghĩ mãi, và nói: - Ba xin không bằng một trộm. Chiều hôm ấy nhân lúc hòa thượng không ở nhà, y mở cửa lẻn vào phòng. Thấy ở trên bàn có một cái lư hương, một đĩa đèn dầu, một chuỗi tràng hạt. Trên bàn lại có mấy quyển kinh đã nhàu nát. Xem một lượt không thấy thơ đâu cả. Phố Lang ngờ vực nói:
- Lẽ nào sư phụ dối ta?
Y lại tìm ở đầu giường thì thấy một cái hòm khóa bằng một cái khóa đồng. Phố Lang mở khóa ra thấy có hai quyển bìa gấm gói rất cẩn thận trên đề: “Ngưu Bố Y thi cảo”.(#1) Phố Lang mừng rỡ, nói:
- Đây rồi!
Y vội vàng lấy sách ra, khóa hòm lại, chạy ra khỏi phòng và đóng cửa phòng lại như cũ. Ngưu cầm hai quyển thơ đem đến dưới ánh đèn xem một lượt, bỗng nhiên mặt mày tươi tắn, đứng dậy hoa tay múa chân. Vì sao? Thì ra hàng ngày đọc thơ Đường, nghĩa thơ sâu sắc y không hiểu lắm. Còn đây là thơ của người đương thời xem ra thì mười phần hiểu được năm, sáu cho nên rất đỗi vui mừng. Lại thấy thơ có những đề mục như: “Trình tướng quốc mỗ đại nhân”, “Nhớ đốc học Chu đại nhân”, “Đi chơi hồ Oanh Đậu với Lâu công tử đồng tặng Thông Chính”, “Từ biệt Lỗ Thái Sư”, “Tặng Vương Quan Sát”,, ngoài ra có những bài thơ tặng các quan thái thú, tư mã, tri phủ, thiếu doãn
v.v... Phố Lang nghĩ bụng:
- Tướng quốc, đốc học, thái sư, thông chính rồi đến thái thú, tư mã, tri phủ đều là tên gọi những chức quan đời nay. Thế ra chỉ cần biết làm dăm câu thơ không cần phải học hỏi đỗ đạt cũng có thể tới lui các nhà quan! Thật là vinh hạnh!
Lại nghĩ:
- Ông ta họ Ngưu, ta cũng họ Ngưu. Thơ ông chỉ viết độc có Ngưu Bố Y không có tên thật. Bây giờ ta cứ cho tên ta vào, lấy hiệu của ông ta. Ta cho thợ khắc hai con dấu đóng lên trên thế là sách này đã thành của ta rồi! Từ nay ta lấy hiệu là Ngưu Bố Y.
Đêm ấy y về nhà tính toán xong mừng quá không ngủ được.
Hôm sau, y lại lấy trộm thêm ít tiền ở hiệu, chạy đến hiệu khắc của Quách Thiết Bút ở cửa chùa Cát Tường. Y vái chào Quách Thiết Bút và ngồi xuống:
- Nhờ ông khắc cho tôi hai con dấu vuông.
Quách Thiết Bút đưa ra một tờ giấy:
- Xin ông viết tên và hiệu.
Phố Lang bỏ tên của mình là “Lang” viết một con dấu khắc chìm “Ngưu Phố Chi ấn”, một con dấu khắc nổi hai chữ “Bố Y”.
Quách Thiết Bút cầm tờ giấy lên nhìn Phố Lang một lượt và nói:
- Ông là ông Ngưu Bố Y?
- Bố Y là tên tự của tôi.
Quách Thiết Bút hoảng hốt chạy ra khỏi quầy hàng vái chào một lần nữa, mời ngồi, rót nước mời uống và nói:
- Tôi lâu nay nghe nói có ông Ngưu Bố Y trú tại am Cam Lộ, ông ta không thiết tiếp khách, bạn bè đều là những vị tai to mặt lớn. Xin lỗi thất lễ, xin lỗi! Tôi xin khắc dấu biếu ông, và không dám lấy tiền. Ở đây có mấy người bạn của tôi cũng ngưỡng mộ ông, hôm nào chúng tôi đến hầu thăm.
Phố Lang sợ ông ta đến am sẽ biết rõ tông tích nên phải đáp:
- Được tiên sinh yêu quí như thế tôi rất cảm ơn. Nhưng độ rày tôi có một ông bạn làm quan ở huyện bên hẹn tôi đến để làm thơ. Tôi phải vắng mặt một ít hôm. Đến mai phải đi sớm. Tiên sinh đừng đến làm gì. Khi nào trở về, chúng ta sẽ nói chuyện. Còn cái dấu thì để sáng mai tôi cũng xin lấy luôn.
Quách Thiết Bút vâng lời. Hôm sau Phố Lang lấy được con dấu đóng vào sách và đem cất kỹ. Mỗi buổi tối lại đem sách ra đọc ở trong am.
Một buổi chiều người ông của Phố Lang là cụ Ngưu đang ngồi rảnh trong làng, thấy cụ Bốc chủ hiệu buôn gạo ở sát tường qua chơi nói chuyện. Cụ Ngưu có sẵn rượu thuốc ở trong hiệu, bèn đi hâm một hồ. Cụ lấy ra hai miếng đậu phụ, một ít măng khô, dưa muối đặt lên quầy hàng và bắt đầu nói chuyện.
Cụ Bốc nói:
- Cụ thế mà khá đấy, buôn bán năm nay phát tài. Cái thằng cháu lớn lại lanh lợi. Cụ có người nối dõi như thế thì thật là có phúc sau này.
- Cụ nói gì thế! Tôi nay không may con trai và dâu thì chết cả, chỉ còn để lại một thằng cháu quái quỷ ấy vợ con chưa có, năm nay đã mười tám tuổi đầu rồi! Ngày nào tôi cũng bảo nó đi đòi nợ mà nó thì mãi đến khuya cũng chưa chịu về. Nói ra cụ không tin, việc này đã nhiều lần lắm rồi! Bây giờ nó đã khôn lớn rồi, thôi tha hồ mà đi theo bọn du đãng hư thân mất nết. Nó cứ chơi bời lêu lổng hỏng cả một đời, như thế thì sau này còn ai lo chôn cất cái thân già này nữa?
Nói xong, cụ Ngưu có vẻ rất buồn. Cụ Bốc nói:
- Chuyện đó không khó khăn gì! Nếu như ông lo ngại cậu ta chưa có vợ thì sao không cưới cho cậu ta một cô vợ để lo liệu cửa nhà? Vả chăng việc đó thì sớm muộn thế nào cũng phải lo!
- Ông ơi! Cái nghề buôn của tôi nuôi miệng ăn chưa đủ, kiếm đâu ra tiền mà lo cho nó?
Cụ Bốc trầm ngâm, nói:
- Bây giờ có một nơi, không biết ông có ưng ý không. Nếu ông ưng thuận thì không mất một đồng tiền nào hết.
- Làm gì có cái việc như thế?
- Tôi trước đây có một gái út gả cho nhà họ Giả làm việc chuyển vận thóc lúa. Không may nó mắc bệnh mất. Thằng rể của tôi lo buôn bán ở xa để lại một cháu gái ngoại cho tôi nuôi, năm nay mười chín, lớn hơn cháu trai cụ một tuổi. Nếu cụ không nghĩ gì, thì tôi gả cháu gái tôi cho cháu cụ. Tôi với cụ là chỗ láng giềng với nhau, yêu con ngon của. Tôi cũng không đòi lễ vật, tiền bạc gì, cụ cũng không đòi tôi của hồi môn làm gì, chỉ cần mấy bộ áo quần vải to là đủ. Nhà chúng ta ở sát vách nhau, chúng ta chỉ phải mở một cái cửa là đưa cháu sang. Mọi tiền cưới xin đều có thể bỏ đi được.
Cụ Ngưu nghe vậy mừng rỡ nói:
- Thật thì cụ tốt quá. Ngày mai tôi sẽ đưa người mối lái sang nhà cụ.
- Cái đó cũng không cần! Nó không phải cháu nội tôi, tôi với cụ khách sáo với nhau làm gì! Bây giờ người làm chủ là tôi, người làm mối cũng là tôi. Cụ chỉ phải mua hai cái thiếp. Tôi sẽ đem thiếp đề ngày sinh tháng đẻ của cháu, cụ nhờ một người xem ngày tốt. Như thế là công việc xong.
Cụ Ngưu nghe vậy liền rót một chén rượu đưa cho cụ Bốc và bước ra khỏi ghế vái một vái. Ngay đó, công việc bàn xong. Cụ Bốc trở về nhà.
Buổi tối hôm ấy, Phố Lang về nhà. Cụ Ngưu đem việc này nói lại với y một lượt. Ngưu Phố không dám trái lời. Sáng hôm sau y viết hai cái thiếp đỏ, một cái mời cụ Bốc làm mối, một cái để xin cô con gái ở nhà họ Giả. Khi nhà gái nhận được thiếp, bèn đưa lá số sang. Cụ Ngưu nhờ thầy bói họ Từ chọn ngày hai mươi bảy là ngày tốt để làm ngày cưới. Cụ Ngưu bán mấy đấu gạo bấy lâu còn giữ lại để mua một cái áo vải ngắn màu lục lót bông, một cái quần vải đỏ, một cái áo ngoài vải xanh, một cái quần vải tím, tất cả bốn cái đều bằng vải. Lại sắm bốn cái đồ trang sức cài đầu đưa sang ba ngày trước hôm cưới.
Ngày hai mươi bảy, cụ Ngưu dậy từ sáng sớm, đem chăn nệm đặt lên quầy hàng vì từ nay giường cụ là ở đấy. Trong nhà chỉ có một gian một chái, chái để quầy hàng còn lại một gian thì nửa ngoài là chỗ tiếp khách và phía trong là buồng cô dâu. Sau khi đã nhường cái giường của mình cho cháu, cụ Ngưu giúp chú rể sửa soạn chăn, màn, đệm. Cụ lại còn khiêng một cái bàn nhỏ đến đặt ở dưới mái sau nhà, có ánh sáng cửa sổ rọi vào để cho cô dâu đặt gương soi mà chải đầu.
Sau khi dọn dẹp trong buồng đâu vào đấy rồi, cụ bèn dựng một cái mái bằng chiếu ở sân trong làm nhà bếp. Bận rộn mất một buổi sáng. Sau đó đưa tiền cho Ngưu Phố đi mua các đồ vật. Cụ Bốc đã sắm sửa gương, giá đèn, bình trà, chậu rửa mặt, hai cái gối, bảo con cả là Bốc Thành gánh đến. Bốc Thành đến ngoài cửa vái chào cụ Ngưu. Cụ Ngưu trong lòng áy náy, mời ngồi, vội vàng lấy ở sau quầy hàng ra một cái hộp đem ra hai miếng mứt cam và một ít kẹo, rót một chén trà cầm hai tay đưa cho Bốc Thành và nói:
- Như thế này thật là làm phiền anh quá, lòng tôi áy náy hết sức!
- Bác không nên nói thế. Việc này là việc của cháu.
Nói xong, ngồi xuống uống trà.
Bỗng thấy Ngưu Phố đầu đội mũ hình miếng ngói mới, mình mặc áo xanh mới may, đi đôi giày mới ở ngoài bước vào. Đằng sau có một người nữa tay cầm mấy miếng thịt tướng, hai con gà, một con cá to, một ít măng khô, rau. Ngưu Phố thì tay bưng mỡ, muối và các đồ gia vị. Cụ Ngưu nói:
- Đây là cậu của cháu! Cháu lại mà chào cậu đi.
Ngưu Phố đặt đồ đạc xuống, cúi chào Bốc Thành, rồi đứng dậy cho người gánh đồ mấy đồng tiền. Còn mình mang các thức ăn xuống bếp.
Vừa lúc ấy Bốc Tín, con thứ hai của cụ Bốc bưng một cái hòm sang. Ở trong ấy có đủ kim, chỉ, mặt hài của cô dâu. Lại đem đến một cái khay lớn. Trên khay có mười cái chén đựng kẹo bọc hoa giấy để ngày mai làm lễ cúng tổ tiên. Cụ Ngưu giữ lại uống trà. Ngưu Phố cũng ra chào. Bốc Thành và em ngồi một lúc rồi từ tạ về. Cụ Ngưu xuống nhà bếp chuẩn bị dọn tiệc, bận rộn suốt một ngày.
Đến tối, cụ Ngưu thắp hai cây sáp đỏ cao, mỗi cây sáp trang điểm thêm mấy bông hoa giấy và mời hai bà già hàng xóm đưa cô dâu vào lạy trước đuốc hoa. Cụ Ngưu lại bày một bữa tiệc cho họ ở trong buồng cô dâu để họ cùng cô dâu ngồi ăn. Sau đó, cụ lại đặt một cái bàn ở trong phòng khách, thắp một ngọn nến, bày bát đũa ra mời ba cha con cụ Bốc ngồi. Cụ Ngưu trước tiên rót một chén rượu để cảm tạ trời đất, rồi rót một chén nữa đưa cho cụ Bốc, mời cụ Bốc ngồi lên ghế trên nói:
- Việc kết hôn này trăm sự nhờ cụ có lòng yêu. Tôi cảm kích khôn xiết. Nhưng chúng ta đều là người nghèo cả không làm sao dọn một bữa tiệc cho nó kha khá. Cho nên chỉ có một chén rượu nhạt. Tôi lại làm phiền cả hai cậu đến đây. Có việc gì xin thứ lỗi cho.Cụ Ngưu nói xong đứng vái dài. Cụ Bốc cũng đáp lễ lại. Cụ Ngưu lại mời Bốc Thành, Bốc Tín ngồi vào bàn. Hai người hai ba lần từ chối mới chịu ngồi xuống.
Cụ Ngưu nói:
- Thực ra thì thế này không phải là bữa tiệc, nhưng là chỗ thân thiết chắc các vị cũng không cười. Nhà chúng tôi không có gì khác ngoài lá chè và than. Cho nên hôm nay chúng tôi có nấu một ấm chè để giữ các vị cùng ở lại nói chuyện đến canh năm, cho đến khi hai cháu ra lạy chào. Tôi chỉ biết làm thế để tỏ lòng biết ơn sâu sắc.
Cụ Bốc nói: - Này ông! Cháu tôi nó trẻ người chưa biết gì là lễ phép. Cha nó lại không ở đây, của hồi môn thành ra cũng không có. Tôi xấu hổ chết đi được! Nếu nói chuyện đến sáng thì tôi cũng xin vâng, về mà làm gì?
Tiệc xong, Bốc Thành và Bốc Tín đều trở về. Cụ Bốc ở lại đến canh năm. Hai vợ chồng ăn mặc xong ra, mời cụ Ngưu ngồi ở trên để cùng lạy. Cụ Ngưu nói:
- Này cháu! Ông nuôi cháu đến ngày nay không phải là việc dễ. Nay may nhờ có ông ngoại cháu giúp ông lo việc trăm năm cho cháu nên cháu đã nên vợ nên chồng. Từ nay trở đi, tất cả mọi việc trong cửa hàng, ông đều giao cho cháu lo liệu hết. Tất cả mọi việc mua bán, lãi lỗ cho vay cháu đều phải tự mình lo liệu lấy. Ông thì già mệt rồi, chỉ có thể ngồi xem xét, giúp đỡ cháu trông hàng. Cháu xem ông như người già giúp việc vậy. Cháu được một người vợ tốt. Ông mong hai vợ chồng cháu sẽ bách niên giai lão, đông con nhiều cháu.
Lạy cụ Ngưu xong, hai vợ chồng mời cụ Bốc ngồi lên để nhận lễ. Hai người lại cúi đầu lạy.
Cụ Bốc nói:
- Nếu cháu ngoại của tôi có làm điều gì trái, xin anh chỉ bày cho. Cháu phải kính trọng người trên, chớ có trái lời cha, lời chồng. Cháu là người đàn bà duy nhất trong nhà. Phàm việc gì cũng phải chăm chỉ, chu đáo, chớ để cho ông cháu phải lo.
Nói xong cụ Bốc đỡ hai người dậy. Cụ Ngưu giữ ông thông gia lại ăn sáng. Cụ Bốc cáo từ ra về. Từ đấy nhà cụ Ngưu có tất cả ba người, sống qua ngày qua tháng.
Sau khi lấy vợ, trong một thời gian, Ngưu không đến am. Một hôm nhân việc đi đòi nợ, Ngưu thuận đường đi ngang qua am. Vừa tới cửa Phù Kiều, trông thấy ở ngoài cửa am có năm sáu con ngựa, trên ngựa đều có hành lý, có người coi ngựa. Đến gần thì thấy ở phía tây điện Vi Đà có ba bốn người ngồi trên ghế dài, đầu đội mũ lông chiên rộng, mình mặc áo lụa. Tay phải thì vuốt râu, tay trái ve vẩy cái roi ngựa, họ ngồi vắt chân cho nên thấy cả cái giày đầu đen đế trắng. Ngưu Phố không dám vào, nhưng hòa thượng đã nhìn thấy, vội vàng vẫy tay:
- Này con! Sao mấy lâu nay không thấy con đến chơi! Ta đang đợi con đến nói câu chuyện đây. Mau mau vào đây!
Ngưu Phố thấy hòa thượng gọi, đánh bạo bước vào. Thấy hòa thượng đã thu xếp hành lý chỉnh tề như sắp đi đâu Ngưu Phố bèn kinh ngạc hỏi:
- Sư phụ! Sư phụ mang hành lý định đi đâu7?
- Mấy người đợi ở ngoài là do cụ lớn Tề làm đề đốc ở kinh sai đến. Cụ lớn Tề trước đây là môn đệ của ta, lúc ta còn ở kinh. Nay cụ đã làm quan to, nên đặc biệt cho người mời ta về kinh để coi chùa Bảo Quốc. Ta vốn không muốn đi, nhưng vì trước đây có một người bạn của ta chết ở chùa này, ông ta có một người bạn lên kinh thi hội. Ta muốn nhân cơ hội này lên kinh để nói với người kia đem quan tài người này về nhà mà chôn. Như thế cũng là thỏa điều mong ước của ta. Hôm trước ta nói có hai quyển thơ muốn cho con, đó là thơ của người chết này. Hiện nay để ở trong hòm. Ta cũng không có thì giờ mở ra xem. Con cứ mở hòm ra lấy xem. Lại có cái nệm lót giường và mấy cái đồ vặt vãnh ta không mang đi được, con giữ hộ, đợi khi ta về.
Ngưu Phố muốn hỏi thì mấy người kia vào nói:
- Hôm nay trời còn sớm cần phải đi vài mươi dặm. Xin mời sư phụ mau mau lên ngựa để cho chúng con đi kẻo trễ.
Nói xong, mang hành lý, đỡ hòa thượng lên ngựa và mấy người này cũng đều nhảy lên ngựa đi theo. Ngưu Phố tiễn ra ngoài, chỉ nói được một câu: “Chúc sư phụ lên đường bình an”, thì đoàn ngựa đã phi như bay.
Ngưu Phố nhìn không thấy hòa thượng mới quay vào, thân hành xem lại các đồ vật, lấy cái khóa ở cửa phòng của hòa thượng đem ra khóa cửa am rồi về nhà nghỉ.
Hôm sau y lại đến am, nghĩ bụng:
- Hòa thượng đi rồi, không còn ai biết nữa. Tại sao ta không nhận phắt là Ngưu Bố Y?
Bèn lấy một tờ giấy viết năm chữ lớn: “Ngưu Bố Y ở đây”. Và từ đấy, ngày nào cũng đến am.
Một tháng qua, cụ Ngưu ngồi trong hiệu không có việc gì làm, mới đem sổ sách ra xem thì thấy số người mắc nợ mình không còn lại bao nhiêu. Mỗi ngày bán được vài chục đồng tiền chỉ dùng vào tiền gạo, tiền củi là hết nhẵn. Sau khi tính toán thấy số tiền vốn mười phần đã mất đi bảy phần, cửa hàng này sắp đến ngày đóng cửa, cụ giận lắm chỉ trợn mắt không nói một lời. Đến tối Ngưu Phố về nhà, cụ đem việc này hỏi y. Ngưu Phố trả lời ấp úng, trong miệng chỉ thấy “chi, hồ, giả, dã”(#2) không đâu vào đâu hết.
Cụ Ngưu tức quá sinh ốm. Người đã già bảy mươi tuổi, nguyên khí suy nhược, lại không có thuốc thang tẩm bổ, bệnh chỉ trong mười ngày là tận số quy tiên.
Hai vợ chồng Ngưu Phố khóc, la ầm ĩ. Cụ Bốc nghe vậy vội vàng chạy sang thấy xác cụ Ngưu đặt ở ngoài cửa liền gọi:
- Anh!
Và hai dòng nước mắt chảy như mưa. Nhìn thấy Ngưu Phố đứng bên cạnh khóc nức nở không nói ra tiếng, cụ Bốc nói:
- Việc đã như thế này không phải là lúc khóc than. Cháu hãy bảo vợ cháu giữ gìn ông cháu, còn cháu thì cùng ta lo liệu việc khâm liệm.
Ngưu Phố gạt lệ cảm tạ cụ Bốc. Hai người cùng đi tới một cái hiệu cụ Bốc quen, mua chịu một cái quan tài, lại mua mấy thước vải nhờ thợ may cắt áo quần. Đến buổi chiều thì khâm liệm. Hôm sau thuê tám người khiêng quan tài đi đến chỗ phần mộ của tổ tiên để an táng. Cụ Bốc lại mời một người thầy bói là ông Từ. Cụ cỡi con lừa, cùng đi với ông Từ đến huyệt. Nhìn người thân hạ huyệt, cụ khóc một hồi rồi cùng thầy bói trở về, để lại Ngưu Phố trông coi phần mộ ba ngày.
Cụ Bốc vừa về đến nhà thì người đủ mọi lớp đến đòi tiền. Cụ Bốc đều hứa trả cho họ. Nhưng khi Ngưu Phố về, nhặt nhạnh trong nhà chỉ còn đủ năm lạng để trả tiền áo quan. Ngoài ra tiền vải, tiền thợ may, tiền người khiêng đều không biết lấy đâu ra. Không biết làm thế nào, Ngưu đành đem cầm cái nhà mình ở cho người giữ đập nước ở cầu Phù Kiều lấy mười lăm lạng bạc. Sau khi trả mọi thứ nợ, Ngưu Phố còn lại hơn bốn lạng. Cụ Bốc bảo giữ lại để đến tiết thanh minh sang năm đắp mộ cho cụ Ngưu. Thấy Ngưu Phố và vợ không có nơi ở, cụ Bốc dọn một gian nhà của mình cho hai người đến ở để giao nhà lại cho người kia. Hôm dọn nhà, cụ Bốc soạn một bữa cơm để đón hai người về và ngồi với họ một lát. Nhưng nghĩ đến người thân đã chết thì cụ lại nức nở, nghẹn ngào.
Thấm thoắt đến ngày ba mươi tết. Cụ Bốc sửa soạn ăn mừng năm mới. Dâu, con trong phòng chuẩn bị rượu, đồ ăn và một lò than. Cụ Bốc đưa mấy cân than cho Ngưu Phố bảo Ngưu Phố đốt than ở trong phòng. Lại đưa vào một bàn rượu thịt bảo y lập bài vị mà cúng ông nội. Ngày mồng một đầu năm, lại bảo y đi ra mộ đốt vàng giấy. Cụ vừa nói vừa khóc:
- Anh ra ngoài mộ, thưa với cụ rằng tôi tuổi già, năm nay trời lạnh, tôi không thể ra chúc cụ năm mới được.
Ngưu Phố vâng dạ, đi ra.
Đến mãi ngày mồng ba, cụ Bốc mới đi mừng lại các nhà khác. Sau khi uống vài chén rượu, ăn vài miếng ở nhà bạn, cụ đi qua cầu Phù Kiều. Nhìn thấy nhà người giữ đập nước dán đôi câu đối mừng xuân đỏ chói, cụ không sao cầm được nỗi lòng, khóc hoài khóc mãi. Đang định trở về thì bỗng gặp người cháu rể nắm lấy tay cụ mời vào nhà. Người cháu gái mặc quần áo đẹp ra chúc mừng năm mới. Chào xong, họ giữ cụ lại uống rượu, ăn bánh nếp. Cụ ăn được hai cái thì thôi. Đứa cháu gái mời mãi, cụ mới lại ăn thêm hai cái nữa. Lúc trở về nhà thì gặp phải cơn gió độc, cụ biết mình mắc bệnh. Đến tối nhức đầu sốt nóng và phải đi nằm. Mời thầy thuốc đến, nói là cụ lo lắng nhiều nên sinh chứng đờm. Người thì bảo phải dùng thuốc phát tán.
Người bảo phải dùng thuốc ôn trung. Người lại cho là tuổi già phải dùng thuốc bổ, không ai giống ai. Bốc Thành, Bốc Tín hoảng hốt, cả ngày ở bên cạnh. Ngưu Phố sáng chiều vào phòng hỏi thăm.
Hôm ấy trời tối, cụ Bốc nằm trên giường thấy có hai người trèo qua cửa sổ đến trước giường tay cầm một tờ giấy đưa cho cụ xem. Nhưng lúc cụ hỏi mọi người, thì tất cả đều trả lời rằng không thấy ai cả. Cụ Bốc cầm tờ giấy trong tay, nhìn ra là một danh sách tên người viết bằng chữ son, có tất cả ba mươi bốn, ba mươi lăm tên, tên đầu là Ngưu Tương, tên người thông gia của cụ, tên chót là Bốc Sùng Lễ chính là tên của cụ. Cụ lại định hỏi người mang giấy đến nhưng chợp mắt một cái, cả người lẫn giấy đều không thấy ở đâu.
Nhân phen này làm cho
cửa quan giao kết nên chi thân thích khôn nương,
đường hoạn ngao du, may được họ hàng khá cậy.
Muốn biết cụ Bốc tính mạng ra sao hãy xem hồi sau phân giải.
Chú thích:
(1-) Bản thảo tập thơ của Ngưu Bố Y.
(2-) Chi, hồ, giả, dã là bốn trợ từ thường dùng trong văn ngôn nên nói văn ngôn thường gọi là “chi, hồ, giả, dã”.
Nhận ông cháu, Ngọc Phố tìm tông;
Ưa giao du, Tuyết Trai lưu khách. Cụ Bốc nằm ngủ thấy có giấy ở dưới âm phủ gọi về, biết rằng số mình đã hết, liền gọi hai con trai và con dâu đến bên cạnh, trối trăng mấy lời, kể lại điều mình vừa thấy. Cụ nói:
- Mau mau đem áo quần lại cho cha mặc! Cha sắp đi đây.
Hai người con khóc lóc, vội vàng lấy áo quần ra mặc cho cụ. Mặc xong cụ nói:
- Ta vui mừng, vì thấy cùng ở chung một danh sách với ông thông gia của ta. Ông ta đứng đầu, ta ở cuối. Ông ta đã đi trước ta xa lắm, ta phải theo kịp.
Nói xong, người duỗi ra, đầu ngả xuống gối. Hai con lạy không được. Nhìn ra, thì cụ đã tắt thở. Việc chôn cất đã sẵn sàng, lại còn phải lo việc ma chay, cúng thất(#1), báo tang, làm rạp cho người ta đến điếu. Ngưu Phố lo việc tiếp khách.
Ngưu Phố cũng có mấy người nhà nho là bạn quen biết. Nhân lúc tang gia bối rối, họ cũng lăn vào ăn uống. Lúc đầu, nhà họ Bốc cũng vui vui vì có thêm những người mới quen biết. Nhưng sau thấy họ đến đông, nhà mình lại là nhà buôn bán, miệng họ cứ nói “chi, hồ, giả, dã” đâu đâu nghe không chịu được. Cho nên nhà họ Bốc cảm thấy chán cứ than phiền luôn.
Một hôm, Ngưu Phố đi đến am, cửa am đóng. Mở ra thì thấy một tờ danh thiếp đút qua khe cửa rơi ở dưới đất. Ngưu cầm lên xem. Trên tờ danh thiếp viết:
- “Tiểu đệ là Đổng Anh. Khi lên kinh thi hội, đến nhà ông Phùng Trác Am, tiểu đệ có được đọc những bài thơ của ngài trong lòng khao khát, mong sao được gặp. Tiểu đệ đi đến đây để tìm ngài, nhưng không được gặp, rất lấy làm ân hận. Sáng mai mong ngài lưu lại một lát để cho tiểu đệ được thỉnh giáo. Rất hân hạnh.”
Ngưu Phố xem xong biết rằng người kia đến tìm Ngưu Bố Y. Nhưng thấy trong danh thiếp nói: “Lòng khao khát mong sao được gặp”, Ngưu Phố đoán biết ông này chưa gặp Ngưu Bố Y bao giờ, nghĩ bụng:
- Tại sao ta không cứ nhận mình là Ngưu Bố Y để tiếp ông ta? Rồi lại nghĩ:
- Ông ta nói rằng ông ta lên kinh thi hội, vậy chắc chắn là một ông quan to. Ta phải bảo ông ta đến nhà họ Bốc để gặp ta. Như thế ta sẽ làm cho anh em họ Bốc khiếp sợ một mẻ chơi.
Chủ ý đã định, Ngưu Phố vào am lấy giấy bút viết một cái thiếp đề:
“Ngưu Bố Y gần đây ở nhà người bà con họ Bốc. Ai đến thăm xin mời đến hiệu buôn gạo họ Bốc ở đầu đường phía nam cầu Phù Kiều”.
Viết xong, Ngưu Phố đi ra, khóa cửa lại, dán tờ giấy ở ngoài cửa. Y về nói với Bốc Thành, Bốc Tín rằng:
- Ngày mai có một ông họ Đổng đến thăm tôi. Ông ta sắp làm quan, chúng ta không nên khinh thường. Nhờ cậu cả sáng mai quét cái nhà khách cho sạch sẽ. Nhờ cậu hai bưng cho chúng tôi hai chén trà. Việc ông ta đến thăm sẽ làm cho tất cả mọi người mở mày mở mặt. Hai cậu giúp cho một chút.
Anh em họ Bốc nghe nói có quan đến thăm, mừng rỡ vô cùng, vui lòng nhận ngay.
Sáng hôm sau, từ tinh mơ, Bốc thành đã dậy quét nhà khách và dọn những thùng đựng gạo ra ngoài mái hiên sau cửa sổ. Y lấy sáu cái ghế đặt đối diện nhau, bảo vợ quạt than để pha một ấm trà, tìm một cái khay, hai chén trà, hai cái thìa lại bóc bốn hạt nhãn. Mỗi chén bỏ hai hạt: Mọi việc chuẩn bị sẵn sàng. Øn cơm sáng xong một người mặc áo xanh, tay cầm tờ danh thiếp đỏ đi vào hỏi:
- Ở đây có ông Ngưu không? Ông Đổng muốn vào thăm. Bốc Thành nói:
- Ông ta ở đây.
Bốc Thành nhận tờ thiếp, chạy vào báo. Ngưu Phố ra đón, thấy kiệu đỗ ở ngoài cửa. Đổng hiếu liêm(#2) xuống kiệu, đầu đội mũ sa, mình mặc áo lam cổ tròn, chân đi giày đen đế trắng. Người râu ba chòm, da trắng, trạc độ ba mươi tuổi. Thi lễ xong, hai người phân ngôi chủ khách cùng ngồi. Đổng hiếu liêm nói ngay:
- Tôi đã lâu nghe đại danh của ông, lại được đọc những bài thơ hay của ông, trong lòng vô cùng hâm mộ. Tôi nghĩ rằng ông là bậc túc nho nhiều tuổi, không ngờ nay thấy ông là một trang thanh niên, lại càng thêm kính phục.
- Vãn sinh là người ở chốn quê mùa, viết lăng nhăng mấy câu thơ, được ông Phùng Trác Am quá khen thật là rất thẹn.
Đổng nói:
- Không dám!
Bốc Thành bưng ra hai chén trà, đi từ phía trước mặt đến đưa cho Đổng. Đổng cầm lấy chén trà, Ngưu cũng cầm một chén, Bốc Tín đứng sừng sững trước mặt Đổng ở giữa nhà. Ngưu Phố vội vái Đồng hiếu liêm và nói:
- Người nhà của tôi là người quê mùa, không biết lễ nghĩa xin tiên sinh chớ cười.
Đổng cười và nói:
- Tiên sinh là một vị cao sĩ, khác tục, tôi dám đâu nghĩ thế!
Bốc Tín nghe nói vậy cúi đầu lẩm bẩm bước ra mang theo khay trà, mặt đỏ gay. Ngưu Phố lại hỏi:
- Lần này tiên sinh đi đâu?
- Tiểu đệ đã được bổ làm tri huyện. Nay đến phủ Ứng Thiên đợi nhậm chức. Tất cả hành lý còn ở dưới thuyền. Vì khao khát muốn được gặp ông, cho nên tôi hai lần đến tìm. Nay may mắn được thỉnh giáo, chiều nay sẽ đáp thuyền đi Tô Châu.
- Vãn sinh may mắn được lọt vào mắt xanh của ngài nhưng chỉ mới gặp nhau một ngày chưa làm hết nghĩa vụ của người chủ tiếp khách, tại sao ngài đã vội vàng đi ngay như thế?
- Chúng ta là những khách văn chương chỗ thanh khí quen nhau cần gì phải theo thế tục! Khi nào nhậm chức xong, tôi sẽ mời tiên sinh đến nhà tôi để được thỉnh giáo.
Đổng nói xong, đứng dậy ra đi. Ngưu Phố giữ lại không được nói:
- Vãn sinh xin xuống thuyền tiễn tiên sinh.
- Không dám bận đến tiên sinh, tôi xuống thuyền là đi ngay, sợ không có thì giờ nói chuyện với tiên sinh được.
Hai người chào nhau rồi từ biệt. Ngưu Phố tiễn ra ngoài cửa. Đổng lên kiệu đi.
Ngưu Phố trở về, thấy Bốc Tín giận dữ, hai má đỏ gay đón y ở ngoài cửa và mắng:
- Này anh Ngưu! Tôi vụng về như thế nào thì cũng vẫn là người cậu của anh, vẫn là bậc lớn hơn anh. Thế mà anh lại gọi tôi bưng trà lên. Cái đó thì không nói gì, cũng được đi. Nhưng tại sao anh lại xỉa xói tôi trước mặt cụ Đổng, như thế để làm gì?
- Này câu, phàm quan đến thăm thì theo lễ phép là phải rót trà ba lượt. Cậu chỉ rót có một lượt. Tôi đã không trách cậu thì thôi nay cậu lại còn nói tôi như thế! Thật là buồn cười!
Bốc Thành nói:
- Này anh! Anh không nên nói như thế. Mặc dầu cậu hai có bưng trà từ đằng trước đi lại thì anh cũng không được đem việc ấy ra nói với ông Đổng để cho ông ấy cười!
Ngưu Phố nói:
- Ông Đổng thấy hai cậu lẩm cà lẩm cẩm như thế là ông ta đã cười rồi, chẳng cần cho đến lúc bưng trà lên không đúng phép tắc nữa.
Bốc Tín nói:
- Chúng tôi là con nhà buôn không cần các quan thăm hỏi. Đến chẳng được ân huệ gì hết lại để cho họ cười.
Ngưu Phố nói:
- Tôi không dám nói cái này, nhưng thật ra nếu tôi không ở nhà hai cậu thì dù đến một, hai trăm năm cũng không có ông quan nào đến nhà này đâu.
Bốc Thành nói:
- Đừng có nói láo! Anh có bạn làm quan thật đấy nhưng anh có phải là quan cách gì đâu!
- Cậu cứ hỏi bất kỳ ai xem. Ngồi với các ông quan vái chào nhau tiếp chuyện nhau là hơn, hay là bưng trà mời họ lại làm sai bét để họ cười cho là hơn?
Bốc Tín nói:
- Anh không được ăn nói hỗn xược như thế! Nhà chúng tôi không quý trọng gì những ông quan như thế đâu!
Ngưu Phố nói:
- Ngày mai tôi sẽ viết giấy đưa cho ông Đổng, ông ta sẽ đưa giấy đến huyện Vũ Hồ để người ta đánh cho các cậu một trận mới được.
Hai người kia tru tréo lên: - Loạn thực! Loạn thực! Cháu rể ngoại mà lại muốn làm cho các cậu bị đánh à? Chúng ta nuôi mày trong nhà suốt cả năm nay thật là toi cơm. Mày cứ đến huyện nói xem đứa nào bị đánh.
- Tôi sợ các cậu sao! Nào cùng đi nào!
Hai người kia kéo Ngưu Phố đến trước cửa huyện. Bấy giờ mõ mới đánh hai lần quan huyện chưa ra công đường. Ba người đứng chờ ở ngoài bình phong. Bỗng nhiên thấy Quách Thiết Bút đi qua. Quách Thiết Bút hỏi có việc gì, Bốc Thành nói:
- Ông Quách! Từ xưa đã có câu “một đấu gạo làm thành một ân nhân, mười đấu gạo làm thành một kẻ thù”. Chúng tôi nuôi cái thằng này mấy lâu nay thật là như vậy!
Quách Thiết Bút cũng trách Ngưu Phố:
- Từ xưa đến nay đã có kẻ trên người dưới, kẻ già người trẻ. Ông nói như thế là không được. Thân thích với nhau cả mà kéo nhau lên quan là việc không hay chút nào.
Quách Thiết Bút bèn kéo họ vào tiệm trà. Quách bảo Ngưu Phố rót trà mời hai cậu. Bốc Thành nói:
- Anh Ngưu! Tôi có điều này muốn nói với anh. Ngày nay, cha chúng tôi trăm tuổi rồi, trong nhà miệng ăn thì đông. Anh em chúng tôi lo lắng không nổi. Nhân có ông Quách ở đây chúng tôi cũng đem câu chuyện này ra nói nốt. Chúng tôi đành phải nuôi cháu gái của chúng tôi, nhưng còn anh Ngưu thì anh phải kiếm lấy việc mà làm, nếu anh chỉ lo nhờ vả chúng tôi thì không được.
- Các cậu muốn như thế à? Tốt lắm! Cái đó thì dễ, hôm nay tôi sẽ mang hành lý đi để tự kiếm kế sinh nhai, không cần nhờ vả đến hai cậu nữa.
Uống trà xong, việc chửi lộn cũng xong nốt. Ba người cám ơn Quách Thiết Bút. Quách Thiết Bút cũng từ biệt mà về.
Bốc Thành, Bốc Tín trở về nhà. Ngưu Phố hầm hầm về nhà lấy chăn nệm mang đến am ở. Không có gì ăn, y đem cầm tất cả thanh la, não bạt của hòa thượng. Ngồi rảnh không có việc gì, y đi đến nhà Quách Thiết Bút. Thiết Bút không ở hiệu. Ở quầy hàng, có một quyển ghi danh sách những người làm quan, Ngưu Phố giở ra xem thấy Đổng Anh tự là Ngạn Phương, người phủ Nhân Hòa, tỉnh Chiết Giang hiện mới bổ làm tri huyện ở huyện An Đông phủ Hoài An, bèn nói:
- Được rồi! Tại sao ta không đi tìm ông ta?
Bèn vội vàng về am xếp chăn lại, đem lư hương và khánh đá của hòa thượng đi cầm, được tất cả hai lạng bạc. Y không về nhà họ Bốc mà đáp thuyền đi ngay. Gặp được lúc xuôi gió một ngày một đêm đã đến mỏm Yến Tử ở Nam Kinh. Y định đáp thuyền đi Dương Châu. Khi vào một hàng cơm, người chủ hàng nói:
- Hôm nay thuyền đều đi cả rồi! Phải nghỉ lại một đêm chiều mai sẽ đi.
Ngưu Phố đặt hành lý xuống, bước ra cửa hàng thấy ở bờ sông buộc một chiếc thuyền lớn. Y gọi người chủ quán hỏi:
- Thuyền này bao giờ đi?
Chủ quán cười mà rằng:
- Ông không đi thuyền ấy được đâu! Thuyền ấy đang chờ một ông quan to mới đi.
Ngưu Phố lại bước vào hàng. Người hầu bàn đem đến một đôi đũa, hai đĩa rau, một đĩa thịt lợn, một đĩa đậu phụ rán, một bát canh, một bát tô cơm tướng. Ngưu Phố hỏi:
- Đĩa rau và bát cơm bao nhiêu?
Người hầu bàn nói:
- Cơm thì hai ly một bát, thịt một phân một đĩa, rau nửa phân một đĩa.
Ngưu Phố ăn hết cả rau và cơm rồi bước ra cửa. Y thấy ở bên sông có một cái kiệu đang chờ ở đấy, có ba gánh hành lý và bốn người tùy tùng. Ở trong kiệu bước ra một người đầu đội mũ vuông, mình mặc áo lụa màu gỗ trầm hương, chân đi giày đen đế trắng, tay cầm một cái quạt giấy trắng. Y đầu bạc hoa râm, trạc tuổi trên năm mươi, đôi mắt như con nhím, hai gò má cao. Người này bước xuống kiệu thì bảo chủ thuyền:
- Ta muốn đến thăm quan coi sở muối ở Dương Châu, anh phải lo lắng cẩn thận, khi đến Dương Châu ta sẽ thưởng cho. Nếu anh sơ suất ta sẽ viết giấy cho quan huyện Giang Đô bắt anh trị tội đấy.
Chủ thuyền vâng dạ luôn miệng, dắt y xuống thuyền. Chủ thuyền cũng mang giúp hành lý xuống thuyền.
Chính đang lúc bận rộn, người chủ quán nói với Ngưu Phố:
- Ông mau mau xuống thuyền đi!
Ngưu Phố mang hành lý lên vai, chạy ra đằng đuôi thuyền. Chủ thuyền nắm lấy tay y lôi xuống thuyền, giơ tay ra hiệu bảo y không được nói năng gì và đưa y vào ngồi ở bếp.
Khi tất cả hành lý đều mang xuống thuyền, Ngưu Phố thấy người tùy tùng đem ra cái đèn lồng có đề mấy chữ: “Việc công ở Lưỡng Hoài” treo ở cửa thuyền, lão chủ thuyền đem cái lò ra đốt một ít lửa để nấu trà đưa vào khoang. Bấy giờ trời còn tối, bốn người tùy tùng đều ngồi ở đằng sau thuyền sửa soạn các món ăn. Họ hâm rượu, sắp sẵn đâu vào đấy rồi đưa vào khoang, đốt một ngọn sáp đỏ. Ngưu Phố liếc mắt nhìn trộm qua khe hở thấy người kia ngồi trước ngọn nến, trên bàn bày bốn đĩa ăn, tay trái cầm chén rượu, tay phải cầm một quyển sách xem chăm chú, vừa xem vừa gật đầu, xem một lúc rồi ăn cơm. Một lát sau thổi tắt ngọn đèn đi ngủ. Ngưu Phố cũng thiu thiu ngủ. Đêm ấy, gió đông bắc thổi mạnh. Đến canh ba, mưa bắt đầu rơi lách tách. Cái chiếu che sau bếp bị dột nước chảy lộp bộp, Ngưu Phố trằn trọc trở mình không ngủ được. Đến canh năm nghe tiếng trong khoang nói:
- Ông lái! Tại sao không cho thuyền đi?
Người chủ thuyền nói:
- Gió rất mạnh, đằng trước là vịnh Hoàng Thiên Đãg. Tối hôm qua mười mấy chiếc thuyền phải dừng lại ở đây, không có cái nào dám đi hết!
Một lát sau, trời sáng rõ. Người chủ thuyền nấu nước rửa mặt mang vào khoang. Những người tùy tùng ra rửa mặt ở sau thuyền. Đợi cho họ rửa mặt xong hết cả, người chủ thuyền mới đưa một chậu nước cho Ngưu Phố rửa. Ngưu thấy hai người tùy tùng cầm dù lên bờ. Một người khác đang rửa một cái chân giò ở bên cạnh thuyền. Một lát sau hai người tùy tùng kia về mang một con cá, một con vịt quay, một miếng thịt, măng tươi, rau cần đem lên thuyền. Chủ thuyền lấy gạo thổi cơm. Mấy người tùy tùng đều quay lại lo việc nấu ăn. Khi tất cả mọi việc đều xong, họ dọn lên bốn đĩa to tướng, lại có một bầu rượu và bày tất cả vào khoang để người kia ăn sáng. Bốn người tùy tùng mang những thức ăn còn lại ra sau thuyền cùng ăn. Øn xong, họ lau ván thuyền sạch sẽ. Lúc đó, chủ thuyền mới lấy ở bếp ra một đĩa củ cải và một bát cơm cho Ngưu Phố ăn. Ngưu Phố cũng ăn.
Mưa đã ngớt, gió vẫn còn mạnh. Lúc gần trưa, người ở trong khoang mở miếng ván ở sau thuyền và nhìn thấy Ngưu Phố, bèn hỏi:
- Người kia là ai?
Chủ thuyền nhăn nhở nói:
- Đó là một người tôi chở thêm để kiếm ít tiền mua rượu.
- Như thế tại sao không đưa anh ta vào trong khoang?
Ngưu Phố chỉ chờ có thế. Y vội vàng từ phía sau bước ra vái chào và quỳ xuống. Người kia giơ tay ra nói:
- Trên thuyền chật chội không phải làm lễ! Anh cứ ngồi!
Ngưu Phố hỏi:
- Không dám, xin tiên sinh cho biết quý danh.
Người kia nói:
- Anh hỏi tôi sao? Tôi họ Ngưu tên là Giao, tự là Ngọc Phố. Tôi vốn là người ở Huy Châu. Anh ở đâu?
Ngưu Phố nói:
- Con cũng họ Ngưu, tổ tiên con ở Tân An.
Ngưu Ngọc Phố không đợi y nói hết, liền nói ngay:
- Nếu như anh họ Ngưu thì năm trăm năm trước đây anh cũng là người một nhà với ta, cũng cùng chung một tổ tiên cả. Ta ở Huy Châu, như thế ta là ông mà anh là cháu, từ nay anh phải gọi ta bằng ông nhé.
Ngưu Phố nghe vậy rất lấy làm ngạc nhiên, nhưng người kia xem ra rất oai vệ, cho nên không dám từ chối bèn nói:
- Thưa ông, lần này ông đi Dương Châu có việc gì?
Ngưu Ngọc Phố nói:
- Chẳng giấu gì cháu, ta quen nhiều người bạn làm quan, to ai cũng muốn mời ta vào làm việc ở nha môn họ, nhưng tính ta lười không muốn ra khỏi cửa. Hiện nay ta đang đi đến nhà ông Vạn Tuyết Trai. Ông ta không phải là một người quan trọng lắm, nhưng ông ta mời ta vì ta quen biết các quan và có thanh thế. Ta ở đây, mỗi năm ông ta đưa cho mấy trăm lạng bạc gọi là tiền giấy mực. Nói rằng tiền giấy mực, chẳng qua là lấy danh nghĩa mà thôi. Ta cũng không muốn đến nhà ông ta vì đó là một nơi thế tục, cho nên đến ở cung Tý Ngọ. Nay anh đã biết ta thì ta có cách giúp anh.
Và y nói ngay với chủ thuyền:
- Ông đưa hành lý của anh ấy vào đây! Tôi sẽ trả tiền đò cho anh ấy.
Chủ thuyền nói:
- Ông lại nhận ra bà con! Như thế thì phải thêm tiền thưởng để chúng tôi uống rượu chứ!
Hôm đó Ngưu Phố ăn cơm chiều với Ngưu Ngọc Phố. Đến đêm lặng gió, trời lại tạnh. Canh năm, thuyền đã đến Nghi Trưng đỗ ở bến Hoàng Nê. Ngưu Ngọc Phố rửa mặt xong, dắt tay Ngưu lên bờ và nói:
- Øn cơm ở dưới thuyền mất thì giờ. Ở đây có tiệm “Đại quan lâu” nấu ăn rất ngon. Chúng ta đi đến đó, ăn một bữa đi!
Và quay lại bảo người lái thuyền:
- Các anh cứ ăn cơm đi! Chúng tôi đến “Đại quan lâu” ăn không cần phải người đi theo nữa.
Hai người đi đến “Đại quan lâu” và cùng lên gác. Ở trên lầu thấy một người đội mũ vuông. Khi nhận thấy Ngưu Ngọc Phố người kia giật nẩy mình kêu lên:
- Thế nào! Lại gặp “ông anh” ở đây!
Ngưu Ngọc Phố nói:
- À, thế ra anh cũng ở đây sao!
Hai người vái chào nhau. Người kia hỏi:
- Ông này là ai?
Ngưu Ngọc Phố nói:
- Đây là thằng cháu của tôi.
Và nói với Ngưu Phố:
- Anh chào ông ta mau đi! Ông ta là người “bạn thân thiết” với ta đã hai mươi năm nay, tên là Vương Nghĩa An, trước thường cùng làm việc ở “nha môn”(#3) với ta.
Ngưu Phố vái chào. Phân ngôi chủ khách cùng ngồi, Ngưu Phố ngồi một bên. Người hầu bàn đem cơm lên: một bát mì xào, một đĩa nem, ba người cùng ăn. Ngưu Ngọc Phố nói:
- Từ khi chúng ta từ biệt nhau ở nha môn cụ Tề đến nay, giờ mới lại gặp nhau.
Vương Nghĩa An nói:
- Cụ Tề nào?
- Cụ Tề làm Cửu môn đề đốc ấy mà!
- Cụ Tề đối đãi với hai chúng ta thật là không chê trách vào đâu được.
Đang nói chuyện thân mật thì ở dưới lầu bước lên hai người tú tài đội mũ vuông. Người đi trước mặc áo lụa trừu ở trước áo có một vết dầu. Người đi sau mặc áo màu tro, hai ống tay áo rách tả tơi. Hai người vừa tới thấy Vương Nghĩa An thì người mặc áo lụa hỏi:
- Đó có phải là cái thằng cha Vương Nghĩa An kiếm gái cho các nhà thổ ở đường Phong Gia Hạng không?
Người mặc áo màu tro nói:
- Hắn chứ còn ai nữa.
- Hắn làm thế nào lại dám đội mũ vuông vác mặt đến đây?
Hai người kia liền chạy đến, giằng lấy cái mũ vuông(#4) của Vương Nghĩa An tát một cái rất mạnh vào má. Vương ta ngã lăn quay ra đất, dập đầu lạy như tế sao. Hai người kia lại càng nổi giận. Ngưu Ngọc Phố đến can thì bị mắng một trận:
- Ông là người áo mũ nhà nho tại sao lại còn ngồi ăn cơm một bàn với cái thằng kiếm gái cho nhà thổ. Ông đã không biết thì thôi, ông lại còn đến xin xỏ cho nó. Như thế thì cả ông nữa cũng đáng chết. Nếu ông không đi ngay, chúng tôi cũng không nể mặt đâu.
Ngưu Ngọc Phố thấy việc chẳng lành vội vàng kéo Ngưu Phố đi xuống lầu trả tiền cơm về thuyền.
Hai người tú tài kia định cho tên kiếm gái một trận nhừ tử. Mặc dù chủ quán đến xin hộ, và cả Vương Nghĩa An xin lỗi, hai người tú tài vẫn không chịu thôi lại còn dọa đem y lên quan. Tên kiếm gái bị đánh đau sợ hãi, phải sờ lấy ở lưng ra ba lạng bảy mươi đồng đưa cho hai người để làm lễ ra mắt, họ mới tha cho y đi.
Ngưu Ngọc Phố và Ngưu Phố xuống thuyền đi Hàng Châu. Thuyền đỗ ở cung Tý Ngọ. Đạo sĩ ra tiếp. Hai người xếp đặt hành lý xong đâu đấy rồi đi ngủ. Sáng hôm sau, Ngưu Ngọc Phố đưa ra một cái mũ vuông cũ và một cái áo lam cho Ngưu Phố và nói:
- Hôm nay tôi cùng anh đi đến nhà ông Vạn Tuyết Trai. Anh mặc áo đội mũ và cùng đi với tôi.
Hai người gọi hai cái kiệu đến, bảo hai người đầy tớ đi theo mang bọc chăn áo. Họ đi thẳng đến bến sông thấy một cái cửa lầu cao lớn, có bảy, tám người đang ngồi trên ghế nói chuyện với một vú em. Kiệu dừng trước cửa. Hai người xuống kiệu, đi vào. Đầy tớ Vạn Tuyết Trai nhận ra và nói:
- Ông Ngưu đã về! Mời ông vào thư phòng!
Hai người đi qua một cái cổng có đắp hai con hổ. Đi qua một cái sân trong lát gạch phẳng phiu, rồi đến phòng khách. Ở giữa sảnh treo một cái biển lớn có ba chữ vàng: “Thân tư đường”. Ở bên cạnh có một hàng chữ: “Tuân Mai, là Diêm vụ sử ở Lưỡng Hoài viết”. Hai bên là một đôi câu đối chữ vàng:"Độc thư hảo, canh điền hảo, học hảo tiện hảo"; “Sáng nghiệp nan, thủ thành nan, trị nan bất nan.(#1) Ở dưới treo một bức họa của Nghê Vân Lâm. Ở án thư bày một hòn ngọc lớn chưa giũa. Trong nhà có mười hai cái ghế gỗ hoa lê. Ở bên trái là một cái gương soi độ cao sáu thước. Luồn qua phía sau cái gương là một cái cửa, hai cánh mở toang, dưới sân lát toàn đá cuội. Họ đi men theo bờ ao có dãy lan can sơn đỏ. Vào sâu nữa một cái sảnh gồm ba gian. Ở gian giữa treo một cái rèm trúc, có hai tiểu đồng vội vàng kéo rèm và mời vào. Đưa mắt nhìn thấy những đồ đạc đều bằng gỗ quí đánh bóng loáng. Ở giữa treo một cái biển dán giấy trắng viết chữ đen ”Xem hoa, làm thơ".
Hai người ngồi uống trà. Chủ nhân là Vạn Tuyết Trai ở trong nhà bước ra, đầu đội mũ vuông, tay phe phẩy cái quạt lụa màu vàng, mình mặc áo lụa, chân đi giày đỏ. Y đi ra vái chào Ngưu Ngọc Phố. Ngưu Ngọc Phố bảo Ngưu Phố ra chào và nói:
- Đây là cháu của tôi đến chào tiên sinh.
Ba người phân ngôi chủ khách cùng ngồi. Ngưu Phố ngồi ở dưới. Khi trà bưng lên, Vạn Tuyết Trai nói:
- Ông làm gì ở Nam Kinh mãi thế?
Ngọc Phố nói:
- Chỉ vì danh tiếng tôi to quá! Tôi vừa đến Nam Kinh ở tại chùa Thừa Ân thì đã có bao nhiêu người đến thăm. Người mang giấy, kẻ mang quạt, mang sách đến. Ai cũng muốn xin tôi vài chữ hay một bài thơ. Có người, tôi đã ra đề văn, đề thơ cho làm cũng đến tìm tòi hỏi ý kiến và xin chỉ giáo. Thật cả ngày cả đêm không lúc nào rảnh. Đến khi rảnh thì cậu hai con Từ quốc công không biết tại sao, biết tôi đến, nên lại năm lần bảy lượt cho người đến mời. Quản gia nhà công tử đều là hạng chỉ huy bọn Cẩm y vệ, chức từ ngũ phẩm trở lên. Họ đến mời tôi nhiều lần thành ra tôi cũng phải đến nhà công tử chơi mấy hôm.
Tôi xin đi hai ba lần không được. Sau tôi phải nói ông Tuyết Trai muốn gặp tôi có việc gấp, lúc đó họ mới để tôi đi. Cậu hai rất hâm mộ thơ ông, và tự tay chấm những bài thơ của ông.
Ngọc Phố nói xong, lấy trong ống tay áo ra hai tập thơ đưa cho Vạn Tuyết Trai. Vạn cầm lấy và hỏi:
- Tôi chưa hề gặp người cháu của ông bao giờ! Năm nay bao nhiêu tuổi? Hiệu là gì?
Ngưu Phố nói không ra lời, Ngọc Phố nói: - Nó năm nay hai mươi tuổi, còn trẻ nên chưa có hiệu.
Vạn Tuyết Trai đang xem tập thơ thì thấy người đầy tớ chạy vào bẩm:
- Có ông Tống xin vào!
Vạn Tuyết Trai đứng dậy nói:
- Tôi muốn tiếp ông nhưng người thiếp thứ bảy của tôi ốm, tôi có mời ông Tống đến xem bệnh nên phải vào tiếp ông ta một lát. Tôi xin lỗi. Ông cứ tự nhiên, dùng cơm xong xin cứ ở lại đến chiều.
Vạn nói xong đi vào.
Người quản gia bưng ra bốn đĩa đồ ăn, hai bát, hai đôi đũa và khiêng một cái bàn để hai người ngồi ăn cơm. Ngọc Phố nói với Ngưu Phố: Họ mới xếp đặt chén bát, còn một lát nữa mới có cơm. Ta ra ngoài chơi một lát. Ở đây có mấy cái phòng đẹp lắm!
Y dẫn Ngưu Phố qua một cái cầu nhỏ và đi men theo bờ ao. Nhìn xa xa, thấy có nhiều lầu, cái cao, cái thấp. Bờ ao hẹp, trồng liễu. Ngọc Phố quay lại nói với Ngưu Phố:
- Tại sao lúc nãy ông Vạn hỏi anh, anh lại không trả lời?
Ngưu Phố nhìn Ngọc Phố trừng trừng, không ngờ trượt chân rơi tõm xuống ao. Ngọc Phố vội vàng chạy đến kéo lên. Cũng may, ở đấy có mấy cây liễu, Ngưu bám lấy mà lên được. Giày và áo ướt sũng. Ngọc Phố bực bội nghiêm sắc mặt nói:
- Anh không biết nói năng, cư xử trước mọi người như thế nào hết.
Bèn gọi đầy tớ lấy một bộ áo quần ra cho y thay và bảo y về nhà trước. Nhân việc đó thành ra:
Người bên nói chuyện, vạch toang tông tích chủ nhân;
con trẻ ác tâm, nên nỗi người ta cụt hứng.
Muốn biết sự việc thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
Chú thích:
(1-) Đọc sách là việc tốt, cày là việc tốt, học hai điều ấy tốt là tốt. Khai sáng cơ nghiệp là điều khó, giữ gìn nó là điều khó, nhưng nếu biết điều đó là khó thì không còn khó nữa.
Comment