Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN (Bản mới) - Tác giả: Lâm Ngữ Đường

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Những hiện tượng ác lai ác báo

    Hình như có một định luật bất di bất dịch trong sinh hoạt loài người là những sự hỗn độn phải trở lại trật tự, những việc khác thường phải trở lại bình thường, cũng như biển cả phải trở lại êm đềm sau cơn bão tố. Sự quân bình của muôn vật phải được duy trỉ trong quy luật thiên nhiên.
    Có một quy luật huyền bí làm luân chuyển bánh xe số mạng, để rồi những kẻ làm ác phải gặp ác và bánh xe công lý cuối cùng phải chiến thắng.
    Lão Tử đã nói: Không có trận bão nào kéo dài mãi. Bệnh dịch không thể giết hết nhân loại. Giàu quá sẽ trở thành khánh tận. Độc tài quá sẽ tự tiêu diệt.
    Đây không phải là triết lý suông, mà là giải thích những sự kiện vay trả sau này, khi các hung thần lần lượt đền tội bởi các thủ đoạn của chúng gây nên.
    Mặc dù đầy mưu thần chước quỷ Thừa Tự và họ Lai luôn luôn bị những đòn cay đắng của các ông Địch Nhân Kiệt, Ngụy Viễn Chung và Hứa Ngọc Cung giáng tới. Ba người này dần dần làm chủ tình thế được các đại thần nhất trí tin tưởng.
    Một vị Phó Đô Ngự Sử thà chết chứ không chịu tuân lệnh Võ Hậu rời Kinh Đô. Một pháp quan khác thà mất chức chớ không chịu nghe lời Võ Hậu tuyển đàn ông vào làm cung phi. Đó là nguyên nhân thúc đẩy quần thần đoàn kết lại để khôi phục lại cơ nghiệp nhà Đường.
    Quyền hành đẻ ra tật xấu, Võ Hậu không thoát khỏi tật xấu này. Khi được uy quyền, Võ Hậu bắt đầu đắm mình trong thú vui xác thịt đến độ bà giữ anh em họ Trương trong khuê phòng để ngày đêm ân ái. Một lần nữa chúng ta thấy dù là người cương quyết siêu phàm, cũng phải chạy theo tiếng gọi của xác thịt.
    Lẽ tự nhiên khi đã đạt được tham vọng, Võ Hậu phải dừng lại để hưởng thụ và bọn tham quan bắt đầu ganh ghét triệt hạ lẫn nhau. Có điều đáng chú ý là lúc tuổi già, cái tuổi mà tham vọng đã vơi đi, Võ Hậu có vài cảm nghĩ hồi tâm. Bà ngưng tàn nhẫn và triệu hồi các hiền thần mà trước đây vì tình thế bà buộc lòng phải bãi chức họ và đày đi nơi xa. Những hành vi này tuy có vẻ hối cải nhưng không thể xóa đi những vết tích mà bà đã gây ra trước kia.
    Hầu hết các chính trị gia nửa mùa đã giúp Võ Hậu lên ngôi đều chết hết, chỉ trừ những người cháu của bà, chẳng hạn như Hạ Phó, người đã dẫn phái đoàn dân chúng tới Hoàng cung yêu cầu thay đổi triều đại, đã bị giết vì tham nhũng, đúng một năm sau khi Võ Hậu lên ngôi.
    Hung thần họ Sở bị ghép vào tội cưỡng đoạt tài sản, bị đem ra xét xử. Gã từng bắt người ta phải cung khai. Khi gã chối tội quan tòa nói:
    - Đúng lắm, ngươi sẽ nếm mùi đai sắt do chính ngươi sáng chế ra.
    Họ Sở lạnh mình nghĩ đến chiếc đai sắt siết vào sọ gã làm chi xương sọ nứt ra, nên lập tức nhận tội và ít lâu thì chết trong tù.
    Họ Châu thì qua cái chết thật buồn cười. Câu chuyện này được dân chúng truyền miệng trong các cuộc vui… Họ Lai rất ganh ghét họ Châu vừa được phong làm Phó Thừa Tướng, Lai cho người bỏ thư vu cáo Châu. Sau đó Lai vào gặp riêng Võ Hậu và được lệnh thanh toán Châu.
    Lai mời châu đến nhà ăn tiệc. Trong lúc Lai ăn uống Lai bỗng hỏi:
    - Tôi đang gặp một vụ rất khó, làm cách nào tội nhân cũng không khai. Gã cứng đầu không biết phải làm sao?
    Châu trả lời ngay:
    - Ngài hãy bỏ tội nhân vào chiếc chum đất rồi đốt lửa xung quanh. Tôi cam đoan với ngài là trước khi tội nhân bị quay chín sẽ năn nỉ ngài không giấu một lời.
    Mắt Lai sáng lên:
    - Ý kiến của ngài hay tuyệt! Tội nhân đang có ở đây. Chúng ta thử xem sao?
    Một chiếc chum được mang ra và lửa được đốt lên. Lai hỏi:
    - Như vậy đã nóng chưa?
    Châu vẫn vô tình đáp:
    - Nóng lắm rồi đó. Cho đem tội nhân bỏ vào đi.
    Vẻ mặt Lai bỗng biến đổi. Gã rút trong tay áo một chiếu chỉ của Võ Hội và đọc cho Châu nghe. Sau đó gã kết luận:
    - Bây giờ mời bạn hãy bước vào chum.
    Châu tái mặt, bủn rủn chân tay, vội quì xuống vập đầu xin tha. Bản thú tội của gã được dâng lên Võ Hậu. Nhưng nghĩ đến công trạng của gã, Võ Hậu không nỡ giết, chỉ đày gã ra phương Nam. Trên đường đi đày, gã bị giết vì tay một người có thân quyến trước đây bị gã giết.
    Sau cái chết của họ Châu, bọn mù chữ được ra làm quan lúc bấy giờ kể như đã bị tiêu diệt, chỉ còn mình họ Lai, dưới sự che chở của Thừa Tự nên gã trở thành một hung thần số một.
    Tuy Võ Hậu đã đạt được mục đích không cần đến gã nữa, nhưng Thừa Tự vẫn phải trông cậy vào sự giúp đỡ của gã.
    Võ Thừa Tự là cháu lớn nhất của Võ Hậu. Hắn thường tin tưởng rằng khi Võ Hậu lên ngôi hắn sẽ là người kế nhiệm. Nhưng thực tế Đán vẫn là Thái tử. Hắn quyết định phải hành động tích cực hơn nữa. Với sự tiếp tay của họ Lai, hắn đã loại trừ được nhiều đại thần không ưu hắn. Giờ đây đối thủ lợi hại nhất của hắn là Địch Nhân Kiệt. Định ý của họ Lai là phải diệt ông này.
    Số phận nhà Đường chấm dứt hay được khôi phục là tùy thuộc vào những tay như Địch Nhân Kiệt. Chính họ Địch cũng biết như vậy nên hành động rất thận trọng. Ông biết lúc nào nên nói và lúc nào nên yên lặng. Trong thời kỳ khủng bố, ông rất phẫn nộ nhưng ông không nói gì. Ông có thừa can đảm để bênh vực những người vô tội, chống lại bọn hung thần, nhưng ông không muốn bị thất cơ và thừa những thời cơ thuận tiện mới có kế hoạch chu đáo.
    Theo nhận xét của Địch Nhân Kiệt muốn đánh đổ triều đại mới khôi phục Nhà Đường cần phải có một nhóm người tài ba, can đảm giữ vững chức vụ chiến lược then chốt. Thêm vào đó phải tạo một bầu không khí chính trị mới để nâng cao tinh thần bá quan văn võ.
    Rốt cuộc, Võ Hậu đã gặp đối thủ lợi hại nhất trong đời bà.
    Nhân Kiệt không hoạt động lẻ loi, bên cạnh ông còn có Trương Giản và các bạn thân khác. Lúc Cao Tôn mới chết, Triết và Đán bị cầm tù, Giản Chi làm Tiết Độ Sứ tại Kinh Châu bên dòng Dương Tử, ông cùng một người bạn là Dương Viễn Yến bơi thuyền ra giữa sông để luận bàn thế sự. Hai người đều tức giận trước hành vi của Võ Hậu. Thế rồi dưới ánh trăng mờ, hai người đã thề nguyền nếu có dịp sẽ đánh đuổi kẻ soán nghịch và lấy lại ngai vàng cho con cháu Thái Tôn. Trong suốt thời kỳ khủng bố họ phải nhắm mắt nuốt hờn, nhưng thâm tâm họ vẫn luôn luôn hướng về lời thề bên sông.
    Nhân Kiệt đã sáu mươi tuổi, trước kia dưới thời Cao Tôn ông đã từng làm pháp quan trong đại lý viện, ông nổi tiếng là một vị quan có tài xử án, thường ăn mặc giả thường dân đi tra xét các vụ án. Người ta kể rằng ông được giao trọng trách xử lại mười bảy ngàn vụ án bí mật nhất, không ai khám phá ra, kết quả ông đã cứu được nhiều người vô tội.
    Nhân Kiệt không thích những trò mê tín dị đoan. Có lần đi thanh tra tại Bộ Công, ông đã cho đóng cửa một ngàn bảy trăm đền thờ tại các tỉnh vì các đền thờ này thiên về tà thuật và các hoạt động vô luân.
    Tháng giêng năm 692, Nhân Kiệt bị bắt cùng với bốn năm Đại thần khác về tội sách động nổi loạn. Người ra lệnh bắt ông là Thừa Tự.
    Là một tay lão luyện trong nghề, Nhân Kiệt quyết dùng trí để chống lại thủ đoạn của họ Lai. Khi bị đem ra tra hỏi, ông nhận tội ngay. Ông là người hiểu Luật hơn ai hết, nên biết nhận tội ngay thì không những tránh được tra tấn mà còn làm cho tội chết của ông không bị nhơ nhuốc về sau.
    Ông nói với họ Lai:
    - Tôi nhận tội. Nhà Đại Chu đã nhận được sự phó thác của trời và triều đại mới đã bắt đầu. Là một thần tử trung thành với Nhà Đường, tôi vui lòng chịu chết.
    Họ Lai rất hài lòng. Mấy người cùng bị bắt với ông đều nói theo ông như vậy, chỉ trừ Ngụy Viễn Chung. Tất cả được đem trở lại trại giam.
    Kết quả, Nhân Kiệt có thời gian và óc sáng suốt để hành động. Ông viết một lá thư cho con trai ông bảo phải trình vụ này lên Võ Hậu và yêu cầu Võ Hậu cho ông được gặp mặt. Sau đó, ông đem giấu bức thư trong túi áo bông, gởi về cho đứa con trai.
    Khi nhận được lá thư, đứa con trai ông lập tức mang vào triều dâng lên Võ Hậu.
    Rất may cho Nhân Kiệt, lúc đó trong cung có một cậu bé con trai của Phó Thượng Thư họ La, ông này bị giết trước đó ba tháng. Khi cha chết cậu bị bắt làm nô lệ. Nhờ sự lanh lẹ, cậu được đem vào giúp việc trong cung. Võ Hậu thấy cậu bé mặt mũi sáng sủa bèn gọi lại hỏi thăm hoàn cảnh. Cậu bé kể hết đầu đuôi câu chuyện cho bà nghe và xin khiếu nại.
    Võ Hậu nói:
    - Hài nhi còn muốn khiếu nại gì nữa. Cha của hài nhi đã được đem ra xét xử, vì có tội nên cha người phải chết.
    Cậu bé hỏi:
    - Muôn tâu lệnh bà: Không phải như vậy. Mọi người đều sợ họ Lai tra tấn. Bất cứ ai rơi vào tay ông ta cũng phải nhắm mắt nhận tội. Cha của hài nhi vô tội.
    Võ Hậu hỏi:
    - Thật vậy sao?
    Cậu bé nói:
    - Tâu lệnh bà, nếu không tin lệnh bà thử chọn một người trong cung một người trung thành nhất đem trao cho họ Lai, để ông ta ghép vào tội phản nghịch. Hài nhi chắc chắn họ Lai sẽ có cách làm cho người ấy có tội.
    Võ Hậu suy nghĩ rất nhiều về lợi nói của cậu bé. Giữa lúc đó con trai của Địch Nhân Kiệt lại vào dâng thư cho cha. Đối với họ Địch, Võ Hậu rất kính nể.
    Bà sai người gọi họ Lai vào cung để hỏi:
    - Khanh đang làm gì vậy? Ta nghe nói khanh hành hạ tù nhân dữ lắm phải không? Địch Nhân Kiệt hiện giờ ra sao?
    Họ Lai đáp:
    - Tâu lệnh bà, họ đã tự ý thú tội và được đối xử tử tế tại nhà giam.
    Võ Hậu hỏi:
    - Tất cả đều tự thú rồi sao?
    Họ Lai đáp:
    - Tâu lệnh bà, tất cả đều tự thú, chỉ trừ Ngụy Viễn Chương.
    Võ Hậu hỏi:
    - Họ là những người công thần. Khanh hãy điều tra lại và xử họ một cách công bằng.
    Việc này làm cho Võ Hậu nghi nghờ họ Lai. Bà cho gọi tất cả các phạm nhân vào triều kiến theo lời yêu cầu của Nhân Kiệt. Khi vào đến nơi họ đều quỳ xuống kêu oan.
    Võ Hậu nói:
    - Nếu oan sao các khanh lại nhận tội?
    Nhân Kiệt trả lời:
    - Tâu lệnh bà, nếu không nhận tội chắc chúng tôi đã bị tra khảo cho đến chết, đâu còn ngày hôm nay vào ra mắt lệnh bà.
    Đáng lẽ nội vụ đến đây chấm dứt, nhưng Thừa Tự quả quyết bọn Nhân Kiệt đang mưu phản, hơn nữa họ là những người nguy hiểm, dù họ vô tội cũng nên bãi chức.
    Võ Hậu nói:
    - Đâu có chứng cớ gì để buộc tội họ.
    Thừa Tự vẫn một mực nài nỉ. Võ Hậu bực mình nói:
    - Nói vậy đủ rồi! Lời ta đã nói ra là không sửa đổi.
    Bọn Nhân Kiệt bị đuổi đi làm quan ở các tỉnh khác. Tuy không đồng ý với Võ Hậu, Thừa Tự cũng hài lòng với kết quả này. Họ Lai cũng không đến nổi bị mất chức, nhờ sự che chở của Thừa Tự.
    Việc thoát chết của Nhân Kiệt không những may mắn cho chính ông mà còn đánh dấu giai đoạn cáo chung của sự bắt bớ, chém giết các đại thần nữa. Vào tháng sáu năm đó, một số trung thần như Nghiêm Sơn Tự, Chu Thanh Sắc, Tu Tiễn và Châu Cửa gởi thư về triều xin vãn hồi thủ tục tố tụng, kiểm điểm hành vi các pháp quan và cách chức những kẻ có thành tích bất hảo, hạn chế tội tử hình như trong bộ Luật dưới thời Vua Thái Tôn. Những biện pháp này nhằm thiết lập một chánh thể nhân đạo hơn để lấy lòng dân.
    Nhân vật kiêu hùng thứ hai sau Nhân Kiệt là Ngụy Viễn Chung. Ông chính là người đứng đầu nhất, hăng hái trung thực và được lòng tất cả mọi người. Ông đã bốn lần suýt chết hoặc bị đi đầy, nhưng lần nào ông cũng tránh khỏi.
    Người ta kể lại rằng trong những lần bị tai nạn vì tánh cứng rắn của ông, đáng tức cười là một tên mù chữ họ Hầu đem ra xử. Hầu là tên bán bánh bao, được Võ Hậu cho làm Pháp quan.
    Khi ông bị đem ra xét xử tự nhiên ông bật cười vì tình trạng khôi hài lúc đó. Một tên mù chữ lại xét xử, hành hạ một đại học gia. Thấy ông há miệng, họ Hầu tưởng ông thú tội, nên hỏi:
    - Người muốn khai?
    Viễn Chung hớm hỉnh trả lời:
    - Ta có cảm tưởng như được một con lừa kéo đi chơi.
    Họ Hầu gầm lên vị tức giận. Gã văng tục đủ thứ, Viễn Chung vẫn thản nhiên nói:
    - Ngôn ngữ của bạn nghe có vẻ nhà quê.
    Họ Hầu hỏi:
    - Ngươi nói sao?
    Viễn Chung nói:
    - Ta nói rằng giọng bạn nghe nhà quê quá. Hơn nữa, bạn lại dùng những chữ thiếu văn vẻ. Đó là vì bạn không đọc sách. Bạn đang làm quan lớn, cần phải dùng ngôn ngữ cao quí thì mọi người mới kính nể. Bạn muốn học không? Ta sẽ giúp bạn thành công trong ít ngày. Chắc bạn không biết rằng được nói chuyện với Ngụy Viễn Chung là một điều rất may mắn.
    Tên mù chữ rất cảm kích. Như các người nhà quê khác, xưa nay gã rất kính trọng các nhà trí thức và gã biết người trước mặt gã là một học giả lão thành.
    Sau một phúc suy nghĩ, gã mở trói cho Viễn Chung và mời ông ngồi. Viễn Chung bắt đầu sửa giọng nói cho gã, ít lâu sau, ông được tha.
    LỜI BÀN
    Trong cuộc sống, mọi việc đều tác động lẫn nhau. Sau một thời gian chạy theo tham vọng hưởng thụ, Võ Hậu đã dùng quyền uy tác động vào nền tảng xã hội về mặt chính trị, gây nhiều biến động đủ mọi mặt. Rồi chính những biến động đó lại tác động ngược chiều, làm cho tâm trạng của Võ Hậu tự nhiên biến đổi theo. Đó cũng là qui luật tự nhiên trong lương tâm và lẽ sống. Bởi vậy, trong lẽ sống có người tự học hành, nghiên cứu để trao dồi bản thân, tìm đến đạo nghĩa làm người, còn có kẻ phải đợi tác động của cuộc sống trong xã hội mới chỉnh đốn được lương tâm, hòa hợp với cuộc sống để cải tiến con người.
    Học trong sách vở và học ngoài đời, cả hai lĩnh vực đều đem lại lợi ích cho mình. Chỉ cần con người có nhận thức được điều hay, lẽ phải hay không mà thôi.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      Sức phản ứng của hậu quả áp bức

      Với sự tiếp tay của họ Lai, Thừa Tự đã mang Địch Nhân Kiệt ra xử tội với mục đích tiêu diệt hết những kẻ chống đối hắn, nhưng Nhân Kiệt đã phá vỡ âm mưu đó và làm lộ âm mưu tàn ác của họ Lai dù vậy chúng cũng không sờn lòng.
      Thừa Tự cảm thấy mình bị bỏ rơi. Võ Hậu, dì của gã, đang là vị Hoàng Đế, còn gã là người đã giúp đỡ Võ Hậu không phải ít. Triều đại này là của họ Võ tại sao gã không được là người thừa kế?
      Thực ra Võ Hậu rất ưu đãi những người cháu của bà. Tất cả đều được giao những nhiệm vụ quan trọng tại Kinh đô và một số có chân trong hội đồng tối cao. Quyền thế của họ nhiều khi vượt quá chức vụ của họ nắm giữ.
      Có điều trong vài năm vừa qua Võ Hậu lơ là trong việc chọn người kế vị, khiến cho một số người như đang ngồi trên đống lửa, không biết số phận của họ sẽ đi về đâu. Thừa Tự đã dùng đủ trăm mưu ngàn kế để được bà chọn. Nhưng biết mình không xứng đáng nên gã đã âm mưu giết những kẻ đã không cùng một tâm ý với gã, vì họ có thể xúi giục Võ Hậu lập người khác.
      Cho đến lúc này Thái tử Đán vẫn là cái gai nhọn mà Thừa Tự muốn nhổ đi. Gã kéo gã hung thần họ Lai về cộng tác với gã vì họ Lai cũng là một kẻ tham vọng, muốn cho Thừa Tự lên ngôi báu để có chỗ nương tựa về sau.
      Theo dự tính của Thừa Tự và họ Lai thì chúng sẽ làm giảm uy tín của Thái tử Đán trước rồi sẽ mưu hại sau.
      Năm 693, chúng xử tử hai vị quan nhỏ vì hai người này vào gặp riêng Thái tử Đán tại hậu cung. Chúng kết tội là hai người ấy âm mưu với Thái tử Đán cướp lại ngôi vua. Thừa Tự cố làm to chuyện này cốt để hạ uy tín Thái tử Đán.
      Ít lâu sau Thừa Tự lại xúi Tâm Nhi là tỳ nữ thân tín của Võ Hậu, nói xấu Đỗ Phi và Lưu Phi là vợ của Thái tử Đán. Tâm Nhi nói với Võ Hậu là nó nghe hai nàng này than phiền và cầu trời cho Võ Hậu chết sớm.
      Ngày hôm sau, Võ Hậu bảo hai nàng cùng bà đi du ngoạn. Đến chiều chỉ có mình Võ Hậu trở về. Chắc hẳn hai nàng này đang dạo chơi nơi chín suối.
      Tối hôm đó, Thái tử Đán được mời đến dùng cơm với Võ Hậu. Trong khi ăn, Võ Hậu luôn để mắt dò xét chàng, có lẽ bà chờ đợi sự phản ứng của Thái tử Đán sẽ chống đối bà như Thái tử Hoằng trước kia. Nhưng trái lại, Thái tử Đán tỏ ra rất ngoan ngoãn, chàng cắm cúi ăn không nói gì. Mọi việc như êm ả không có chuyện gì xảy ra. Hai nàng cung phi bị mất tích thế mà không ai nói đến, cũng không truy cứu hoặc tổ chức đám tang. Một trong hai người này là Đỗ Phi chính là thân mẫu của vua Minh Hoàng sau này. Lúc đó Minh Hoàng lên ngôi mới chín tuổi, muốn chôn cất mẹ theo nghi lễ cùng với thi hài của Đán, nhưng ông không biết xác bà lưu lạc nơi đâu, đành phải chôn bộ quần áo thay cho thi thể.
      Giờ đây, Thừa Tự và họ Lai ra mặt tấn công Thái tử Đán. Chúng lén vào hậu cung bắt hết thị nữ và hoạn quan, những người hầu của Thái tử Đán, rồi mang họ tới một cung điện cách chỗ ở của Võ Hậu chưa đầy một trăm trước và bắt đầu tra tấn. Chúng bắt họ phải khai những mưu toan cướp ngôi của Thái tử Đán.
      Sau những màn tra khảo và đổ dấm vào mũi, các thị nữ và hoạn quan đều mất vía, sẵn sàng nghe theo mọi sắp đặt của họ Lai. Duy có một người đàn ông tên là An Tàng Kim bị bắt chung với đám hoạn quan, bất thình lình la lớn:
      - Các ngươi không được làm như vậy. Các ngươi vu khống! Thái tử vô tội.
      Sao đó, ông giật lấy một con dao tự mổ bụng rồi phanh ruột ra trông rất ghê rợn. Đây là cách tự sát để phản đối.
      Thừa Tự tái mặt. Chuyện này xảy ra ngoài dự kiến của gã.
      Cuộc tra tấn nửa chừng thì các thị nữ la hoảng bỏ chạy vào hậu cung. Võ Hậu hay được việc này lập tức đến tại hiện trường xem xét. Bà không ngờ cháu bà dám lộng hành như vậy, dám làm náo loạn hoàng cung. Bà buông lời trách mắng Thừa Tự thậm tệ và quay sang hỏi bọn tì nữ đầu đuôi sự việc.
      Vào lúc đó quan Thái y chạy tới, thấy thây họ An chưa đến nỗi nguy hiểm, nên băng bó lại và cứu sống.
      Việc xảy ra làm Võ Hậu rất kích động. Bà đến thăm họ An mấy lần và ra lệnh cho Thái y chăm sóc họ An rất tử tế.
      Võ Hậu suy nghĩ rất nhiều về trường hợp họ An. Lần đầu tiên trong đời bà cảm thấy hối hận. Suối mấy ngày bà không nói với Thừa Tự một tiếng. Bà trút hết tội lỗi lên đầu họ Lai.
      Lần này họ Lai bị giáng chức và đổi đi xa. Bà chán ghét Thừa Tự, nhưng vẫn chưa có tín hiệu gì chứng tỏ tình mẫu tử của bà đối với Triết, người con thứ ba đã bị truất ngôi vua, giáng xuống làm Lư Lăng Vương và đổi đi Phong Châu. Tuy nhiên tận đáy lòng bà còn phảng phất một điểm sáng của thiên lương, chỉ chờ có người khơi dậy sẽ bùng cháy mãnh liệt.
      Họ Lai mất chức Phó Đô Ngự Sử, còn Thừa Tự mất tín nhiệm đối với Võ Hậu, nhưng nhà sư Hoài Nghĩa thì vẫn hỗn xược và gây xáo trộn trong cung ngày càng nhiều. Gã không còn trẻ như trước, nhưng vẫn không trầm tĩnh chút nào, luôn luôn ám ảnh những ý tưởng điên cuồng, sở dĩ Võ Hậu ưa chuộng và hùa theo gã chỉ vì “đồng bệnh tương lân”. Trong suối thời gian qua hai người cùng mơ mộng hão huyền, mọi việc đều vui vẻ, tốt đẹp. Bộ mặt thiên thần của Võ Hậu là nhờ công của gã.
      Lúc đó sư Hoài Nghĩa, Thừa Tự và công chúa Thái Bình tìm cách biến các câu chuyện hoang đường về Võ Hậu, bịa ra những từ ngữ thật kêu, có liên quan đến Phật để mê hoặc dân chúng. Nhưng rồi đến một ngày kia, sư Hoài Nghĩa chán Võ Hậu vì tuổi già đến nơi, da thịt đã nhăn nheo, chiếc bụng phệ của bà không còn hấp dẫn nữa, Hoài Nghĩa đã trở nên giàu có và quyền thế. Gã ở miết tại đền Bạch Mã để hưởng các của lạ. Nhiều lần Võ Hậu cho mời gã đến nhưng gã viện cớ từ chối. Rõ ràng gã đã đưa Võ Hậu vào tròng đến nỗi gã muốn làm gì bà cũng không dám nói. Thái độ của gã trở nên úp mở. Hình như gã đang mưu đồ một việc ghê gớm. Gã chiêu nạp hàng mấy trăm tên giang hồ mãi võ, cho cạo đầu ở tu tại đền Bạch Mã.
      Sư Hoài Nghĩa trở nên tự cao, tự đại, coi Võ Hậu là đồ bỏ. Tuy vậy Võ Hậu vẫn phải làm ngơ vì gã là người duy nhất mà bà rất sợ trên thế gian này. Để trả đũa, bà kiếm người yêu mới, một vị Thái y họ Trần. Hoài Nghĩa nổi khùng khi nghe tin này và gã càng trở nên hỗn xược hơn nữa. Gã miễn cưỡng tới lui với Võ Hậu vì bà đã mất hết vẻ quyến rũ. Gã biết rõ bà hơn ai hết. Gã còn biết lợi dụng nhược điểm của Võ Hậu là bà muốn gã kín miệng, Võ Hậu phải để cho gã tự do hành động.
      Quá thất vọng trước một con người như vậy, Võ Hậu muốn tìm cách đẩy gã ra để hủy diệt, nhưng không có cách nào, nên một lần Võ Hậu đã phong sư Hoài Nghĩa làm Nguyên soái cầm quân đi đánh giặc Thổ, nhưng đoàn quân xâm lược này lại rút về, làm cho uy danh của sư Hoài Nghĩa tăng thêm.
      Nhân dịp này, sư Hoài Nghĩa tổ chức một lễ lớn để ăn mừng chiến thắng. Gã hy vọng sẽ được Võ Hậu trọng thưởng bằng cách cho thăng cấp, hoặc tuyên dương công trạng. Nhưng Võ Hậu chỉ chúc mừng lấy lệ.
      Dù vậy, Hoài Nghĩa vẫn tiến hành buổi lễ. Bức chân dung Phật cao gần một trăm thước được chưng phía ngoài Hoàng cung rồi tới ngày rằm, một cuộc rước đèn vĩ đại được tổ chức rền rang, dân chúng khắp Kinh đô tấp nập đi xem. Khu công viên trước Hoàng cung chật ních. Hoài Nghĩa tin tưởng Võ Hậu sẽ xuất hiện như bà từng xuất hiện trong các năm trước. Gã sửa soạn một chương trình dành riêng cho bà sẽ ra mắt quần chúng với tư cách một vị Phật. Gã bảo mọi người hãy chờ đợi vì sự xuất hiện của Võ Hậu sẽ làm cho gã được đẹp mặt vì Võ Hậu đối với gã vẫn còn trọng vọng.
      Nhưng gã chờ đợi mãi vẫn không thấy Võ Hậu tới nên gã nghĩ rằng chắc bà còn bận bịu với người yêu mới. Gã gầm lên vì tức giận.
      Đêm hôm đó, trong lúc điên cuồng, sư Hoài Nghĩa đã nổi lửa đốt điện Thiên Đường. Bức tượng Phật khổng lồ bằng thạch cao bên trong nhồi vỏ cây gai cũng bốc cháy như một cây đuốc vĩ đại. Lửa bốc lên ngất trời.
      Khói và tàn lửa bay tứ tung. Nhờ thuận gió, lửa từ tòa Thiên Đường cháy sang tòa Minh Đường và cả hai ngôi điện hùng vĩ thi nhau đắm mình trong biển lửa. Từ đằng xa những người đi xem hội có dịp chứng kiến một cảnh tượng huy hoàng. Một cột lửa cao hàng mấy trăm thước đỏ rực một góc trời.
      Khi bình minh ló dạng, các cây cột khổng lồ còn âm ỉ cháy, thỉnh thoảng có tiếng lách tách nổ vang lên. Hình chim phượng nạm vàng trên nóc Minh Đường đã bị lửa nung cháy, trông méo mó rất tức cười.
      Sư Hoài Nghĩa đã gây ra đám hỏa hoạn này để cho Võ Hậu một bài học về cái tội dám lơ là với gã. Nhưng liệu Võ Hậu có dám trừng trị gã hay không? Gã biết bà không dám.
      Thật vậy, Võ Hậu chỉ xấu hổ và buồn bực. Bà biết ai đã gây ra vụ này và lý do đưa đến hành động điên rồ đó, nhưng bà lại giải thích với mọi người rằng một vài người thợ đã vô ý gây hỏa hoạn và bà ra lệnh xây lại tòa Minh Đường dưới quyền điều khiển của sư Hoài Nghĩa.
      Tuy bất mãn. Bà không dám đụng đến nhà sư, vì bà biết gã dám đem chuyện xấu xa của bà rêu rao cho mọi người biết. Võ Hậu tự trách mình nhẹ dạ để đến nỗi mắc vào tay một tên lưu manh, đàng điếm và thô bỉ. Bà biết không thể đem Hoài Nghĩa ra xét xử, vì chắc chắn sẽ có nhiều chuyện lem nhem đổ bể, dân chúng biết được, họ sẽ bàn tán khắp nước. Bà sẽ làm trò cười cho thiên hạ như từng xảy ra khi Hà Tường Hiển bỏ chạy trên đường tới pháp trường. So với nhà sư Hoài Nghĩa thì gã còn biết nhiều gấp bội. Một khi gã đem ra kể lại, lập tức bà biến thành một nữ hoàng dâm đãng nhất lịch sử. Vậy cách hay nhất của bà là giết gã.
      Tuy Võ Hậu làm ngơ, mặc dù Chân Cửu đã viết thư cho bà truy tố Hoài Nghĩa về tội kết đảng hàng ngàn giang hồ mãi võ để mưu đồ bất chính, nhưng Võ Hậu có vẻ lưỡng lự.
      Công chúa Thái Bình biết mọi chuyện và đi tìm Võ Hậu để bàn luận. Nàng cũng có ý tưởng giống như mẹ nàng. Hoài Nghĩa sẽ làm lộ chuyện ra ngoài. Nàng cũng có một thời kỳ điên đảo mê ly vì gã và nàng không muốn gã đem bùn trét vào mặt nàng. Nàng nói với Võ Hậu:
      - Sao mẹ lại để tên đầu trọc làm loạn như vậy? Mẹ nên thường xuyên trông chừng nó và bắt nó phải kín miệng.
      Võ Hậu cười gượng:
      - Không đơn giản như con tưởng đâu. Mẹ biết làm gì bây giờ?
      Mặt công chúa bỗng cau lại:
      - Được rồi! Mẹ để nó cho con. Con sẽ lo việc này. Nó đã muốn như vậy thì phải làm như vậy…
      Võ Hậu hiểu ý con và dặn:
      - Được lắm, nhưng phải cẩn mật.
      Công chúa Thái Bình gởi giấy mời sư Hoài Nghĩa, bảo gã vào gặp Võ Hậu để bàn về việc sửa lại tòa Minh Đường. Sau đó, nàng bố trí hơn mười tên thị nữ khỏe mạnh, trang bị gậy gộc và dây thừng để chờ Hoài Nghĩa đến. Mặt khác, nàng nhờ Ngọc Ninh là cháu của Võ Hậu, bí mật bố trí một toán thị vệ để tiếp ứng, phòng khi có trắc trở.
      Đến giờ hẹn, nàng ra đứng trước điện Chiêu Dương để đón. Hoài Nghĩa rất do dự khi nhận được thư của công chúa, nhất là sau việc gã nổi điên đốt hai tòa cung điện. Nhưng cuối cùng gã quyết định vào cung, vì gã tin rằng Võ Hậu không dám chống đối gã.
      Hoài Nghĩa thận trọng cưỡi ngựa vào cung bằng cổng phía Bắc mang theo một số quân hầu, vừa đi vừa trông chừng xung quanh để đề phòng bất trắc.
      Qua khỏi cổng, tới một khu vườn rộng, gã cho ngựa đi vòng qua một vũng ao nhỏ và tiến vào nội cung, qua các tòa nhà thông với nhau bằng những hành lang dày đặc. Gã đưa mắt dò xét thấy không có gì khác lạ, chỉ có mấy con tì nữ đứng gác như mọi khi.
      Công chúa Thái Bình đang đứng dưới mái điện Chiêu Dương, mỉm cười đón gã. Gã buộc ngựa dưới một tàn cây rồi ung dung theo công chúa bước vào.
      Tức thì một đám thị nữ tứ phía trong xông ra tung dây trói gã lại. Gã bị quấn mấy chục vòng bằng dây thừng lớn hết phương cựa quậy. Bọn thị nữ dùng gậy và cán chổi đập vào chiếc đầu trọc lóc của gã đến chết mới thôi. Sau đó, xác gã được đem về hỏa táng tại đền Bạch Mã.
      Tính mạng nhà sư Hoài Nghĩa được giải quyết rất êm ả và khéo léo. Võ Hậu không ngớt khen ngợi bản lĩnh của công chúa Thái Bình.
      Sư Hoài Nghĩa chết thì cuộc phiêu lưu của Võ Hậu vào thế giới Phật giáo cũng chấm dứt. Từ ngày bà ghét sư Hoài Nghĩa bà cảm thấy Phật cũng không có gì hấp dẫn. Giờ đây bà nhận ra Nho giáo hay hơn, bởi vì người yêu mới của bà là đệ tử của Nho giáo.

      LỜI BÀN
      Cái gì có mở đầu thì cũng có cái chấm dứt.
      Nếu mở đầu là do một nguyên nhân gây nên, thì sự chấm dứt lại do kết quả của thời gian hình thành và chất chứa những gì đã nảy sanh do cái đã sanh ra gây nên.
      Võ Hậu đã dùng một cuộc tình ái chinh phục quân vương để chiếm đoạt uy quyền, tác yêu tác quái để hưởng thụ, làm điêu đứng giang sơn sự nghiệp của nhà Đường, thì việc chấm dứt là hậu quả của bà đã gây nên tác động vào để hình thành một sự kiện khác mở đầu cho một giai đoạn kế tiếp.
      Nhân quả nối tiếp nhau để hình thành và hủy diệt. Đó là quan niệm của Phật giáo. Nếu lúc này Võ Hậu chê Phật giáo không có gì hay thì đó chỉ là tham vọng của bà không được toại nguyện vì luật nhân quả đó mà thôi.
      Những kẻ tham vọng chỉ thấy được mục đích tham vọng của mình, làm sao thấy được lẽ cao siêu trong lãnh vực triết học.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        Những bước giác ngộ của con đường tội lỗi

        Một vở bi hài kịch vừa hạ màn, đánh dấu một giai đoạn xấu xa tội lỗi trong cuộc đời riêng tư của Võ Hậu. Nhưng để bù lại, chính sách cai trị các bà mỗi ngày một trở nên nhân đạo hơn. Bè lũ hung bạo, tham lam, dốt nát đã bị tan rã trong chế độ khủng bố không còn nữa. Tên ác ôn duy nhất còn lại là họ Lai nay cũng đổi đi xa. Sau vụ vu khống của Thái tử Đán, Võ Hậu rất chán ghét hắn. Đối với bà, bộ mặt của Thừa Tự chỉ còn là tấm tranh hí họa, tượng trưng cho sự ngốc nghếch, dốt nát. Hắn đã làm cho bà vỡ mộng, chẳng còn hy vọng gì ở một triều đại huy hoàng của nhà họ Võ. Bà bắt đầu chú ý đến một người khác là Võ Tam Tư.
        Năm 696, Võ Hậu đã bảy mươi mốt tuổi, cái tuổi biết nhìn vào dĩ vãng để phân định cuộc đời, không còn những phút bốc đồng như trẻ con nữa. Bà đã ổn định thể xác lẫn tinh thần. Bà cho triệu hồi những hiền thần mà bà vẫn ngấm ngầm khen phục như: Địch Nhân Kiệt, Ngụy Viễn Chung, Hứa Ngọc Cung…
        Trước kia bà để hết tâm trí lo củng cố địa vị, thực hiện tham vọng riêng tư, giờ đây bà quyết định tổ chức lại triều đình. Việc triều chính bà đã trải qua nhiều rồi, bà không muốn bận tâm thêm nữa. Bà sẽ giao việc cai trị cho các hiền thần giàu khả năng và kinh nghiệm. Như vậy còn gì tốt hơn.
        Địch Nhân Kiệt được phong làm Đô Ngự Sử, ông lựa một số người lỗi lạc nhất để cộng tác với ông.
        Hứa Ngọc Cung được chọn làm Phó Đô Ngự Sử. Ông là một vị pháp quan cương trực.
        Riêng Ngụy Viễn Chung là nhân vật kiêu hùng cũng trở về giữ chúc Thị Trung. Nhìn thấy ông người ta liên tưởng đến một cây cổ thụ sống sót sau một trận bão.
        Khi ông vào chầu, Võ Hậu hỏi:
        - Sao khanh gặp hết rắc rối này đến rắc rối như vậy?
        Viễn Chung hóm hỉnh trả lời:
        - Thần là một con nai tơ, họ Lai và họ Châu lại thích món nai hầm, thần biết làm sao bây giờ?
        Với những khuôn mặt như Nhân Kiệt, Viễn Chung, triều đình đã bước qua giai đoạn tối tăm nhất. Võ Hậu quả có cặp mắt tinh đời khi chọn những người này, để Nhân Kiệt làm trụ cột triều đình là điều hợp lý, nhưng bà quên mất một chuyện là Nhân Kiệt thường nói với họ Lai: Là thần tử trung thành của nhà Đường tôi vui lòng chịu chết.
        Cờ đã đến tay Nhân Kiệt, ông có toàn quyền hành động. Thêm vào đó Võ Hậu rất tin cậy ông. Với tài hùng biện và giọng nói dễ nghe ông đưa ra ý kiến gì và tiến cử người nào Võ Hậu đều nghe theo, khoảng hai ba chục triều thần là người của ông, kể cả Tống Cảnh và Diêu Sùng, hai vị quan tuổi trẻ tài cao. Ngự Sử Đài do ông cầm đầu không còn sợ Thừa Tự lợi dụng làm công cụ để qua mặt luật pháp như trước kia nữa.
        Sau một thơì gian bị đổi đi xa, họ Lai vận động và được trở về Kinh Đô, nhưng chỉ giữ một quan chức nhỏ tại đây. Gã và Thừa Tự không còn gắn bó như trước. Gã lại đang kiếm cách ám hại Thừa Tự, với hy vọng phục hồi quyền lợi cũ, nhưng không may cho gã, câu chuyện dính líu đến cả Công chúa Thái Bình.
        Vì bất đắc chí, gã trở nên nông nổi, thiếu thận trọng. Hồi đó Công chúa Thái Bình và Thừa Tự làm vài chuyện lem nhem, khiến thiên hạ đàm tiếu. Chẳng hạn Thừa Tự cướp vợ của người khác, đến nỗi người vợ phải tự tử và người chồng làm thơ khóc vợ. Bài thơ này truyền từ miệng người này đến miệng người khác, cả nước đều biết. Họ Lai hùa theo dân chúng nói xấu Thừa Tự và Công chúa Thái Bình và đây là lỗi lầm lớn trong đời gã.
        Thừa Tự là kẻ hữu dũng vô mưu, nhưng Công chúa Thái Bình không phải là người dễ chọc. Công chúa lập tức sắp đặt để họ Lai một lúc phạm mấy tội nặng: cưỡng đoạt, hối lộ, bất công, cướp vợ người…
        Khi họ Lai bị bắt, toàn thể dân chúng Lạc Dương vui mừng hớn hở. Mọi người đều muốn uống máu, nhai xương gã cho hả dạ. Gã đã giết không biết bao nhiêu người và phá vỡ vô số gia đình vô tội. Hứa Ngọc Cung và các pháp quan khác buộc tội gã dễ dàng. Bản án của gã được gởi lên Võ Hậu để bà phê chuẩn, nhưng đã mấy ngày bà vẫn chưa đả động tới. Toàn thể dân chúng kinh đô đều nôn nóng chờ đợi quyết chờ đợi quyết định của bà. Lúc đó một tên hầu cận của Võ Hậu cũng nóng ruột chờ đợi, vì trước đây gã cũng bị họ Lai hại suýt chết, nên gã căm hận họ Lai từ lâu.
        Một hôm, gã đánh xe cho Võ Hậu dạo chơi, gã lựa lời nhắc khéo:
        - Sao Bệ hạ chưa phê bản án của họ Lai? Dân chúng đang nóng lòng chờ đợi.
        Võ Hậu nói:
        - Gã có công lớn với triều đình. Ta còn đang xét lại.
        Tên đánh xe nói:
        - Nhưng tội của gã chất cao như núi, các oan hồn đang lởn vởn khắp nơi. Tất cả triều thần cũng đang mong đợi sự chấp thuận của bệ hạ.
        Câu nói này làm cho Võ Hậu tỉnh ngộ. Bà phê duyệt ngay sau đó. Thế là họ Lai bị bịt miệng và đem ra pháp trường.
        Từ sáng sớm một biển người đã túc trực quanh pháp trường để chờ đợi giờ hành quyết họ Lai, tên ác ôn chuyên hành hình người khác.
        Khi đầu họ Lai rơi xuống, trong đám đông bỗng rú lên một tiếng đầy căm hờn. Họ thét lên như những người điên, vì vui sướng từ đây họ được ăn ngon ngủ yên không còn nơm nớp lo sợ nữa.
        Tên hung thần cuối cùng đã ra đi. Họ xông vào pháp trường cướp thi thể họ Lai, cấu xé, chà đạp nát vụn cho đến khi chỉ còn một đống xương thịt nhầy nhụa. Có người còn móc mắt, hay nhặt một khúc xương của họ Lai ném xuống sình một cách hả hê.
        Đến bây giờ Võ Hậu mới hiểu rõ thế nào là lòng căm phẫn của dân chúng. Để vỗ về họ, Võ Hậu xuống chiếu tru di cả gia quyến họ Lai.
        Sau cái chết của tên hung thần, bầu không khí trong dân trở nên êm ả khác thường. Võ Hậu rất ngạc nhiên, vì không thấy ai thi nhau báo cáo về các cuộc phản loạn nữa. Thừa Tự cũng hết lộng hành và mọi người đều cảm thấy dễ thở.
        Trong thời kỳ khủng bố, quần thần lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Mỗi buổi sáng khi vào triều, họ thường dặn dò vợ con: Không biết trong triều xảy ra việc gì và chiều nay ta có về được không?
        Dù là quan to, họ có thể bị bắt bất cứ lúc nào vềø tội phản nghịch và một khi bị bắt, chắc chắn họ sẽ ra đi không bao giờ trở lại.
        Thừa Tự lúc này hết nơi bám víu. Bước đầu của Nhân Kiệt là giải quyết việc chọn người kế vị sẽ khỏi tranh giành ám hại lẫn nhau: Thừa Tự chẳng hy vọng gì tranh ngôi Thái tử vì bao nhiêu công trình xếp đặt của hắn trong một phút đã trôi theo dòng nước vì một sự bất cẩn, tự cao tự đại. Họ An đã mổ bụng làm lộ âm mưu vu khống cho Thái tử Đán. Hơn nữa, Nhân Kiệt ý đang vận động cho Thái tử Triết và Đán lần lượt nối ngôi Võ Hậu. Việc này tuy khó, nhưng Nhân Kiệt không phải không làm được.
        Trong khi đó, Võ Hậu vẫn nhận ra tình thế không ổn. Làm thế nào một người đàn bà có thể lập ra một triều đại mà không cần đến con trai là người kế nghiệp? Vấn đề thật nan giải. Con bà họ Lý, còn cháu bà họ Võ. Không lẽ bà truyền ngôi cho cháu mà không truyền ngôi cho con. Tuy bà có gán họ Võ cho Đán, nhưng đó chỉ là giả tạo. Dù sao chàng vẫn thuộc dòng họ Lý và là người của nhà Đường.
        Võ Hậu suy nghĩ rất nhiều. Bà có hơn mười người cháu. Bà muốn truyền ngôi lại cho Thừa Tự hoặc Tam Tư, nhưng cứ mỗi lần bà trông thấy mặt chúng, trái tim bà như chìm hẳn xuống. Điệu bộ của chúng vừa có vẻ bợ đỡ, vừa có vẻ hóm hỉnh, khúm núm với người trên, hống hách với kẻ dưới. Càng kiểu cách bao nhiêu chúng lại làm cho bà chán ghét khinh bỉ bấy nhiêu.
        Trong đám cháu của Võ Hậu chỉ có Tam Tư là hơn cả. Bà muốn lập làm Thái tử và hỏi ý kiến quần thần. Nhân Kiệt cực lực phản đối. Ông đánh đòn tâm lý:
        - Bệ hạ nên chọn một trong các Hoàng tử làm người kế nghiệp. Như vậy sau này bài vị của bệ hạ mới được đặt trong nhà Thái miếu và thờ phụng đúng lễ nghi đời này qua đời khác. Hoàng đế xưa nay chỉ thờ cha mẹ chớ chưa có vị Hoàng đế nào thờ dì tại nhà Thái miếu. Ngoài ra xin Bệ hạ hãy xét lại xem con thân hơn hay cháu thân hơn? Dù con có ngỗ nghịch, nhưng chưa chắc cháu đã nhớ ơn dì mãi mãi.
        Cũng như trăm ngàn người đàn bà khác, Võ Hậu cũng sợ khi chết đi rơi vào cảnh mồ hoang, mả lạnh, quanh năm không ai hương khói, thờ phụng. Bà rất sợ phải làm hồn ma đói khát. Bà rất khâm phục ý kiến xác đáng của Nhân Kiệt, nhưng bà vẫn luỡng lự nói:
        - Đây là việc riêng trong gia đình. Ta sẽ quyết định.
        Nhân Kiệt tỏ ý thêm:
        - Xin Bệ hạ đừng quên tất cả thiên hạ đều thuộc về bệ hạ. Vậy đâu còn chuyện riêng hay chuyện chung nữa. Vấn đề chọn người kế vị ảnh hưởng đến hoàng tộc cũng như trăm họ trong nuớc, nó liên quan đến sự an nguy của xã tắc và phải được giải quyết một cách minh bạch. Hoàng tử Triết và Đán chính do Bệ hạ sinh ra, dĩ nhiên Bệ hạ nên chọn làm người kế nghiệp.
        Đã từ lâu, Võ Hậu lưỡng lự trong vấn đề này, giờ đây bà bắt đầu cảm thấy lời nói của Nhân Kiệt có lý. Bà phải chọn hoặc làm mẹ, hoặc làm dì của vị vua tương lai. Đàng nào an toàn hơn? Rồi một ngày kia bà hỏi Nhân Kiệt:
        - Giữa Triết và Đán nên chọn ai?
        Vẫn một lối lập luận vững chắc, rõ ràng, Nhân Kiệt đáp:
        - Dĩ nhiên nên chọn Triết vì Triết là anh.
        Hoàng tử Triết hiện đang là Lư Lăng Vương, đã xa Võ Hậu mười bốn năm liền. Nhờ lời đề nghị của Nhân Kiệt, Triết và vợ được triệu hồi về Kinh đô, nhưng việc này được giữ bí mật. Mọi người chỉ biết mang máng rằng Triết bị bệnh và phải về Kinh đô để chữa. Riêng Triết là một con chim đã bị tên, thấy cây cung là sợ. Chàng tuân lệnh trong sự sợ hãi và lo âu. Chàng không hiểu lần này về Kinh đô số phận chàng sẽ ra sao?
        Một lần nữa Nhân Kiệt vào cung để nhắc nhở Võ Hậu nên có ý định dứt khoát. Ông hồ nghi không hiểu tại sao Võ Hậu phải giữ bí mật khi triệu hồi Triết về làm Thái tử. Bà còn ẩn ý gì chăng.
        Nhân Kiệt lại dùng đến tài hùng biện để thuyết phục Võ Hậu. Ông khéo léo khơi động tình mẫu tử đang tiềm tàng trong lòng bà. Cuối cùng bà nghe theo lời ông và gọi Triết đến.
        Triết bước ra từ sau một tấm màn. Bà thân mật nói Nhân Kiệt:
        - Ta trả Thái tử cho khanh đó.
        Nhân Kiệt và Triết đều quỳ xuống tạ ơn. Nhân Kiệt không quên chúc mừng bà đã có quyết định sáng suốt. Ông nói:
        - Chuyện này không nên giữ bí mật.
        Võ Hậu hỏi:
        - Khanh có ý kiến gì hay?
        Nhân Kiệt nói:
        - Theo ý kiến thần thì Bệ hạ nên cho dân chúng chứng kiến cuộc trở về của Thái tử. Bệ hạ nên tổ chức một cuộc tiếp đón long trọng để ngôi thái tử được công khai thừa nhận.
        Võ Hậu nhất nhất nghe theo sự sắp xếp của Nhân Kiệt. Cuộc tổ chức tiếp đón Thái tử vào tháng ba năm 693.
        Quá thất vọng vì giấc mộng làm vua, Thừa Tự sinh bệnh và chết vào tháng mười một năm đó. Riêng Đán rất vui mừng thấy ý thức tỉnh ngộ của Võ Hậu.
        Bấy giờ Địch Nhân Kiệt đã già, cuộc đời ông là một chuỗi ngày hy sinh cho xã tắc. Võ Hậu rất kính nể ông và coi ông như người trong Hoàng tộc. Trong tất cả các buổi họp mặt, ông đều được đặc biệt tôn kính. Võ Hậu không gọi ông bằng tên hay bằng chúc vụ mà gọi ông là Quốc lão để tỏ rõ địa vị cao quý của ông.
        Tuy Triết đã được chọn làm người kế vị. Nhân Kiệt thấy rõ sẽ còn xung đột giữa họ Lý và họ Võ, vì quyền hành vẫn do họ Võ nắm giữ. Ông tự hỏi cuộc xung đột sẽ kết thúc ra sao? Nhưng có một điều ông chắc chắn là phải cần đến những người tích cực hoạt động và can đảm mới có thể giải quyết được vấn đề. Võ Hậu triệt để nghe lời tiến cử của ông nên xung quanh có một đám người dám nói dám làm, sẵn sàng đoàn kết để đương đầu với mọi biến cố.
        Còn ai kinh nghiệm và can đảm bằng Ngụy Viễn Chung? Còn ai hăng say với nhiệm vụ bằng Diêu Sùng và Tống Cảnh?
        Nhưng điều khiến cho Nhân Kiệt bận tâm hơn cả là làm thế nào để lật đổ nhà Chu. Ông cần phải có những người tâm phúc. Người đầu tiên ông nghĩ tới là Trương Giản Chi, một bạn thân từ hồi còn nhỏ. Hiện thời Giản Chi đang giữ một chúc quan nhỏ. Nhân Kiệt biết rõ Giản Chi là người trầm lặng, nhưng tài ba xuất chúng. Hai người cùng có một ý định khôi phục nhà Đường.
        Một ngày kia, Võ Hậu bảo Nhân Kiệt tìm một người có khả năng để giữ một nhiệm vụ quan trọng. Nhân Kiệt hỏi:
        - Tâu Bệ hạ, người đó phải như thế nào?
        Võ Hậu nói:
        - Người ấy phải có tài hơn người khác, nghĩa là phải biết nghĩ và hành động trước mọi người khác.
        Nhân Kiệt hỏi:
        - Tâu Bệ hạ, nhiệm vụ của người đó là gì?
        Võ Hậu nói:
        - Phải là văn võ kiêm toàn, vừa có thể điều khiển việc triều chánh vừa có thể làm Nguyên soái nơi trận mạc.
        Nhân Kiệt nói:
        - Vậy thì không ai bằng Giản Chi.
        Không hiểu Võ Hậu nghĩ sao, liền hạ lệnh phong cho Giản Chi giữ chức Trưởng quan tại Kinh Đô. Tuy chức vụ này quan trọng nhưng chưa được như lời. Có lẽ Võ Hậu muốn thử tài Giản Chi trước đã.
        Một ngày khác, Võ Hậu lại bảo Nhân Kiệt tìm người tài giỏi để trọng dụng. Nhân Kiệt nói:
        - Hạ thần đã tiến cử Giản Chi rồi mà?
        Võ Hậu nói:
        - Trẫm đã sử dụng rồi.
        Nhân Kiệt nói:
        - Không phải như vậy. Hạ thần tiến cử người làm Thừa Tướng chứ không phải làm một chức quan nhỏ.
        Võ Hậu liền phong Giản Chi là Phó Thượng Thư bộ Hình. Thế là Giản Chi trở nên một nhân vật quan trọng.
        Nhân Kiệt cảm thấy mình đã già, không còn sống được bao lâu ông sẽ ra đi trong sung sướng vì cuộc cờ chính trị ông đã đi những nước khá cao và đang thắng thế, phần còn lại ông phó mặc cho định mệnh, mà định mệnh lại đang nằm trong tay của những người được ông tiến cử.
        Năm 700, sau khi tâm sự với Giản Chi, Địch Nhân Kiệt nhắm mắt từ trần. Lúc đó ông bảy mươi mốt tuổi. Bộ óc lớn nhất của thời đại không còn nữa.
        Trước khi Địch Nhân Kiệt chết, Võ Hậu bắt đầu dan díu với hai anh em họ Trương, mới ngoài hai mươi tuổi. Dưới mắt Nhân Kiệt chúng chỉ là nàng hầu của Võ Hậu, không đáng kể.
        Hơn nữa, đó là chuyện tình ái của Võ Hậu, ông chẳng cần bận tâm. Đối với ông, chúng có ích hơn là có hại. Ông có thể lợi dụng chúng để xúi giục Võ Hậu làm theo ý ông.
        Ngụy Viễn Chung có lần vào can gián Võ Hậu không nên mê đắm anh em họ Trương và để chúng trong khuê phòng, vì đây là một hành động tội lỗi có thể đưa nhà Chu đến chỗ diệt vong.
        Nhưng Nhân Kiệt không quá bận lòng việc này như vậy. Theo ông nghĩ sự đam mê của Võ Hậu đã giúp ông khôi phục nhà Đường dễ dàng hơn.
        Võ Hậu cảm thấy chưa thỏa mãn với quan Thái y họ Trần. Bà còn phải có hai, ba, bốn hoặc nhiều hơn nữa những người yêu. Các Hoàng Đế có nhiều cung nữ, bà phải cũng có nhiều cung nam. Vả lại bà đã già, bảy mươi ba tuổi, cần phải có những lúc giải trí. Xưa nay các vị vua già vẫn còn thích gái tơ, dù chẳng làm gì được, vậy tại sao bà không được quyền giữ các trai tơ trong khuê phòng?
        Anh em họ Trương rất trẻ, trắng trẻo và đẹp trai. Người anh tên Trương Diệc Phi và người em tên Trương Xương Tôn. Mọi người thường gọi chung là Ngũ Lang, Lục Lang và chúng là con thứ năm và thứ sáu trong gia đình họ Trương. Hai anh em thường đánh phấn, thoa son, đầu tóc láng mượt và ngậm bạc hà cho thơm miệng. Hai anh em luôn túc trực trong cung mặc dù đã được Võ Hậu cấp cho dinh thự, đất đai riêng và vô số kẻ hầu người hạ.
        Chuyện tình của Võ Hậu rất đặc biệt, nhưng chưa ngộ nghĩnh bằng máu ghen của bà, một bà già ngoài bảy mươi tuổi ghen với cô gái trẻ vì tranh nhau một chàng trai.
        Uyển Nhi là cháu nội Thương Quan Nghị, trước kia Thương Quan Nghị đã cùng vua Cao Tôn mưu truất ngôi Võ Hậu nhưng không thành và bị bà giết, cả gia đình bị bắt làm nô lệ. Uyển Nhi may mắn được vào giúp việc trong cung, nhờ văn hay chữ tốt, được Võ Hậu cho giữ việc soạn thảo các chiếu chỉ. Vì có sắc đẹp, nàng được Xương Tôn để ý trong các buổi tiệc tùng hoặc các cuộc vui giải trí. Nhân lúc Xương Tôn quá đắm say tỏ cử chỉ suồng sã với nàng, khiến Võ Hậu bắt gặp. Bà rít lên:
        - Quân này to gan thật.
        Vừa nói bà vừa rút một lưỡi dao bằng vàng đâm vào mặt Uyển Nhi. Nàng vội thụt lùi để tránh nhưng vẫn bị mũi dao sượt vào trán. Cũng may Xương Tôn kịp thời quỳ xuống gánh tội cho nàng nên Võ Hậu mới nguôi giận.
        Do đó, Uyển Nhi căm thù bà. Đến đời vua Trung Tôn (Triết) nàng trở thành một nữ ma đầu, thường cùng Vi Hậu (vợ Triết) tư thông với Võ Tam Tư và gây rất nhiều sóng gió trong triều đình.
        Nhiều người tự hỏi anh em họ Trương giữ chức vụ gì trong cung mà có quyền ở mãi trong nội cung như vậy? Thắc mắc này làm cho Võ Hậu lo lắng. Bà cần phải tránh tai tiếng và hợp thức hóa việc lưu trú anh em họ Trương trong cung, nên đặt cơ quan mới gọi là: Viện chim hạc và cho Diệc Chi làm Viện Trưởng. Sở dĩ bà đặt ra viện này là vì chim hạc tượng trưng cho đạo giáo (do Lão Tử sáng lập) các bậc thiên thần thường cưỡi loại chim này. Theo Võ Hậu, Viện chim hạc có nhiệm vụ nghiên cứu tinh thần, soạn thảo một tuyển tập về Tam Đạo trong đó có ghi chép những lời nói của Khổng Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca, cùng những tư tưởng các bậc thánh nhân khác.
        Thật ra Viện Chim Hạc gồm một bọn người làm ít chơi nhiều, tuy cũng có một vài học giả hùa theo a dua, bợ đỡ Võ Hậu, hoặc tụ tập nhau để rượu chè, cờ bạc… Người ta có cảm giác là Võ Hậu đã tổ chức một động tiên nho nhỏ cho bọn thuộc hạ vui chơi và người ta nhớ đến cảnh trác táng của Hoàng Đế nhà Tùy, đến nỗi mất ngôi vì mê gái.
        Có vài kẻ còn bịa ra rằng Xương Tôn là hiện thân của một đệ tử của Lão Tử. Gã thường mặc áo lông chim, miệng thổi sáo và cưỡi trên lưng một con hạc gỗ trong vườn thượng uyển, để biến giấc mộng thần tiên của Võ Hậu thành sự thực.
        Rốt cuộc, Viện Chim Hạc trở thành nơi quy tụ các gã đẹp trai, trung tâm đồng tình luyến ái nổi tiếng thời bấy giờ.
        Một gã trẻ tuổi tên Vi Hữu Tường huyênh hoang tuyên bố rằng gã có đủ điều kiện để gia nhập vào Viện Chim Hạc vì hạ bộ của gã rất đẹp.
        Khi lời phạm thượng ấy tới tai Chu Thanh Sắc, một vị quan thâm nho, nổi giận lập tức viết một bức thư gởi cho Võ Hậu. Bức thư nói:
        “Thần nghĩ rằng anh em họ Trương đã quá đủ cho Bệ hạ, đâu cần tìm đâu ai khác. Triều đình đã mang tai tiếng quá nhiều. Vừa rồi thần lại nghe Vi Hữu Tường yêu cầu được vào phục thị trong cung vì gã có khả năng bẩn chẩu và xung quanh gã còn nhiều kẻ khác…
        Sau khi xem thư, Võ Hậu gọi Chu nói:
        - Cám ơn khanh đã nhắc nhở. Trẫm thực tình không biết.
        Nhưng họa giả có khí phách của bậc nho sĩ đều lắc đầu trước cảnh phong hóa suy đồi này.
        Sau bức thư của ho Chu, Võ Hậu khám phá ra Viện Chim Hạc của bà nổi tiếng đến mức độ kinh khủng, nên bà vội đổi tên là phủ Nội Thị để khỏi bị chú ý. Có người tính ra rằng ngoài những lúc chè chén say sưa, Võ Hậu dành thì giờ để sống trên giường.
        Thiên hạ đàm tiếu mỗi lúc một nhiều. Hai người con lớn của Triết cũng dại dột nói ra nói vào, không may đến tai Võ Hậu nên bà nổi giận đánh hai người cháu ruột đến chết.
        Tuổi già vẫn không làm thay đổi tánh chút nào.

        LỜI BÀN
        Khi lòng tham vọng con người không còn mãnh liệt nữa thì mọi ý nghĩ và hành động cũng thay đổi theo.
        Võ Hậu trước đây dùng uy quyền chiếm đoạt quyền lợi hưởng thụ nhưng khi đã đạt được một múc độ nào đó bỗng nhiên cảm thấy có nhiều tội lỗi do tham vọng mù quáng mà sinh ra. Do đó Võ Hậu có vẻ hối cải ở cuối đời mình.
        Đó là Võ Hậu đã học được những bài họa của lẽ sống.
        Trường học trong cõi sống có hai nơi. Một là học trong sách vở, kinh nghiệm của người xưa để lại. Hai là học ở trường đời.
        Kẻ học nơi sách vở thì chưa làm đã thấy, kẻ học ở trường đời thì phải hành động thì mới thấy. Vì vậy mà kẻ học được nhưng bài học ở trường đời thường phải trả một giá rất đắt, có khi bằng một cuộc đời, hay một sinh mạng.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #19
          Ngày tàn ngôi báu

          Hành động quá khích của Võ Hậu không bịt miệng được thiên hạ, nó còn làm cho họ đàm tiếu thêm. Nhưng càng đàm tiếu Võ Hậu càng trụy lạc.
          Các triều thần hợp nhau để phản đối việc anh em họ Trương vì bọn bà con của chúng càng ngày càng kiêu ngạo và làm loạn kinh đô. Bọn này ỷ thế anh em họ Trương để tác yêu tác quái, không kể gì đến luật pháp. Nếu anh em họ Trương chỉ ở trong khuê phòng vui thú với Võ Hậu thì các quan có thể nhắm mắt làm ngơ, nhưng chúng và mấy đứa anh em khác cứ đòi xin vào triều chính. Các đại thần tự cho đây là một điều sỉ nhục, không thể bỏ qua.
          Riêng Ngụy Văn Chung không bao giờ tha thứ cho những hành động vô kỷ luật. Có lần ông sai lính đánh bọn thuộc hạ của Xương Tôn một cách công khai, vì bọn này làm náo loạn thành phố. Ngoài ra, Viễn Chung còn viết thư cho Võ Hậu nói:
          - Thần rất thấy làm xấu hổ đã không làm tròn bổn phận và để cho những kẻ vô lại có dịp qua mặt bệ hạ, không kể đến trật tự và kỷ cương.
          Rồi cuộc xung đột bắt đầu, Viễn Chung quyết dùng mọi quyền hạn để quét triều đình, trừ khử mấy gã trai tơ. Ông không thuộc về nhóm người ngấm ngầm hoạt động của Giản Chi, mà khi ông bắt đầu hành động thì Xương Tôn tấn công ông trước. Gã ton hót với Võ Hậu rằng Viễn Chung nói một câu có ý chê Võ Hậu già. Quần thần nên hợp nhau lại để phò Thái tử Triết. Gã đã một đòn rất lợi hại vì đây là điều tối kỵ của Võ Hậu. Trả ngôi cho Triết ư? Không đời nào, trừ khi bà chết.
          Trong triều chia ra làm hai phe rõ rệt. Một bên là anh em họ Trương và một bên là một số đại thần. Triết và Đán cũng có mặt. Viễn Chung sẽ phải ra trước hội nghị để trả lời về câu nói phạm thượng của ông.
          Thấy tình thế gây go, Xương Tôn vội chạy đi tìm một vị quan tên là Duy và xúi ông này vào chầu vu khống cho Viễn Chung để nói câu phạm thượng trên.
          Hồi đó Duy chỉ là một vị quan ngũ phẩm. Xương Tôn hứa sẽ tâu với Võ Hậu thăng chức cho ông thật mau. Duy là người rất khôn ngoan, dường như ông đã nhận lời Xương Tôn.
          Sáng hôm sau, trong khi chờ giờ vào chầu, quan Phó Đô Ngự Sự Tống Cảnh nói với Duy:
          - Tôi rất lấy làm buồn nếu ngài toa rập với kẻ tiểu nhân để vu oan Thị Trung (Ngụy Viễn Chung). Việc gì phải sợ mấy gã con gái đó? Chúng ta phải vì quyền lợi chung mà tranh đấu. Công Luận sẽ ủng hộ ngài và chúng tôi cũng sẽ hết sức bênh vực ngài. Nếu vì chống lại bọn vô lại mà ngài bị bãi chức, hoặc bị đổi đi xa thì đó chính là một vinh dự lớn lao.
          Trong số những người hiện diện, ngoài Tổng Cảnh còn có Lưu Trí Cơ, một sử gia danh tiếng.
          Lưu Trí Cơ nói với Duy:
          - Ngài phải chọn cái chết vinh quang và cái sống nhục nhã.
          Các người khác cũng xúm lại khuyên Duy hãy can đảm chống lại Xương Tôn và Duy có vẻ xiêu lòng.
          Một lát sau, Viễn Chung tới, mặt ông hầm hầm, vừa trông thấy Duy, ông lớn tiếng:
          - Đồ con bò! Người dám hại Ngụy Viễn Chung ư?
          Giọng ông đượm vẻ khôi hài làm cho Duy đỏ mặt:
          - Sao ngài lại nặng lời như vậy? Ngài hãy tin nơi tôi.
          Vừa lúc đó chuông chầu reo. Mọi người ngưng nói chuyện, sắp hàng để vào chầu và một cuộc đấu khẩu rất hào hứng diễn ra giữa một tên học hành dở dang và một học giả uyên bác.
          Mở đầu cuộc hội nghị, Võ Hậu hỏi Duy đã nghe viễn Chung nói những gì. Trong khi Duy đang suy nghĩ để lựa lời, Xương Tôn dùng cùi chỏ thúc vào và nhắc:
          - Nói đi đừng sợ .
          Duy gật đầu và chậm rải nói:
          - Tâu Bệ hạ! Trước mặt Bệ hạ mà Xương Tôn ngang nhiên bắt thần phải nói theo gã, vậy thì Bệ hạ thử tưởng tượng gã sẽ làm gì nếu vắng mặt Bệ hạ. Giờ đây trước mặt Bệ hạ và các vị đại thần, thần xin xác nhận rằng thần không hề nghe quan Thị Trung kêu gọi bá quan giúp Thái tử chống lại Bệ hạ. Xương Tôn đã buộc thần làm chứng gian, nhưng rất tiếc thần phải nói thật sự.
          Sau một phút sửng sờ, Xương Tôn la lên, quên cả sự có mặt của Võ Hậu:
          - Cả Viễn Chung và Trương Duy đều là bọn phản loạn.
          Võ Hậu lên tiếng ngăn cản:
          - Khanh không nên buộc tội họ một cách hồ đồ như vậy. Cần phải có chứng cớ.
          Xương Tôn nói:
          - Thần có chứng cớ.
          Võ Hậu hỏi:
          - Chứng cớ đâu?
          Xương Tôn nói:
          - Có lần thần nghe thấy Duy khuyến khích Viễn Chung nên cố gắng để trở thành Chu Công.
          Các đại thần đều thở phào nhẹ nhõm, có người phải nhịn cười Chu Công chính là bậc thánh hiền, một nhân vật lý tưởng mà Khổng Tử đã thấy trong giấc mơ. Xương Tôn muốn nói với Viễn Chung rắp tâm muốn trở thành một nhân vật tuyệt đỉnh như Chu Công. Thực ra trong lịch sử chưa có bậc trung thần nào cỡ Chu Công. Khi đem so sánh người nào với Chu Công là tâng bốc người đó một cách quá lố.
          Nghe Xương Tôn vu khống, Trương Duy vội cười nói:
          - Tâu Bệ hạ! Đáng lẽ Xương Tôn nên học thuộc những bài sử ký vỡ lòng của gã. Quả thật khi quan Thi Trung được triệu hồi về Kinh, hạ thần có đến chúc mừng ông và tỏ ý hy vọng ông sẽ trở nên một đại thần như Chu Công. Còn ai xứng đáng hơn Chu Công để mọi người noi theo?
          Quần thần đều phá lên cười. Thẹn quá hóa giận, Xương Tôn chạy lại thì thầm mấy câu với Võ Hậu. Không hiểu nghĩ sao, Võ Hậu quay qua quát Duy:
          - Đồ phản phúc!
          Rồi bà ra lệnh đem Duy và Viễn Chung ra ngoài, không cho giải thích gì thêm.
          Ngày hôm sau, Trương Duy được đem ra hỏi lại, nhưng ông vẫn một mực bảo thủ ý kiến cũ. Võ Hậu quyết định lập một phiên Tòa gồm các vương tước và đại thần thuộc Chính sự Đường để xử vụ này. Nghi Tăng, cháu Võ Hậu cũng có mặt trong phiên Toà.
          Mọi người bàn tán xôn xao về vụ Viễn Chung ra Tòa. Các đại thần đều họp nhau để ủng hộ Viễn Chung.
          Trong đời Viễn Chung hầu như không lúc nào ông rời khỏi cái đích để mọi người tấn công, và cũng là thần tượng để mọi người chiêm ngưỡng. Khi Võ Hậu triệu ông về kinh đô mọi người đều khen bà biết dùng người. Giờ nay thấy Viễn Chung lâm nạn, các quan tới tấp viết tờ xin tội cho ông. Họ cam đảm đứng ra lấy tính mạng để bảo đảm cho sự trung thành của Viễn Chung.
          Tuy nhiên, một lời thì thầm bên gối bao giờ cũng có sức mạnh gấp trăm lời biện hộ hùng hồn trước Tòa.
          Võ Hậu luôn luôn quí mến Viễn Chung, nhưng bà không thể để người yêu mất mặt. Có tội hay không Viễn Chung cũng dời kinh đô một lần nữa.
          Trước khi ra đi, Viễn Chung vào từ giã Võ Hậu, và nói một câu rất cảm động:
          - Tâu Lệnh bà! Kẻ hạ thần đã già, chẳng còn sống bao lâu nữa. Lần này ra đi không biết còn có dịp nào gặp mặt Bệ hạ. Sau này sẽ có lần Bệ hạ sẽ nhớ lời hạ thần nói là đúng.
          - Khanh muốn nói lời gì?
          Viễn Chung nói:
          - Hai gã đẹp trai kia sẽ hủy hại cơ nghiệp của Bệ hạ.
          Viễn Chung cúi đầu nói lời từ biệt rồi rời khỏi cung.
          Võ Hậu nhìn theo thở dài:
          - Ta lại mất một bậc hiền thần.
          Viễn Chung ra đi nhưng chuyện đến đây chưa phải là hết. Ông đã mất chức đại thần chỉ vì một tên vô lại. Vậy mà Xương Tôn vẫn chưa hài lòng.
          Theo thông lệ, một người bạn đi xa thì họ họp nhau để đưa tiễn. Viễn Chung và tám người bạn họp nhau tại ngoài thành Lạc Dương để chè chén một bữa say sưa, Xương Tôn vịn vào chuyện này để ám hại ông. Gã giả tạo một bức thư ký tên là Tài Minh và gởi cho Võ Hậu tố cáo Viễn Chung họp mặt với bạn bè ngoài vùng ngoại ô để mưu phản.
          Tám người bạn của Viễn Chung đều là quan nhỏ, nên Võ Hậu chỉ ra lệnh cho một pháp quan tên là Hoài Tô xét xử. Xương Tôn kêu người mang giấy đến bảo Hoài Tô:
          - Đây là một vụ đơn giản, hãy lấy cung rồi báo cáo gấp.
          Nhưng Hoài Tô không nghĩ như vậy, theo ông vụ này có thể đem đến cái chết cho Viễn Chung, người mà ông ngưỡng mộ từ lâu. Ông do dự mãi và cho người điều tra thật kỹ.
          Mấy hôm sau lại có giấy của Võ Hậu gởi tới báo:
          - Các sự kiện đã rõ ràng sao không kết án ngay đi? Ta không thể chờ đợi được nữa.
          Bắt buộc Hoài Tô phải vào gặp thẳng Võ Hậu. Ông không sao tìm ra tên Tài Minh, người đã viết thư tố cáo Viễn Chung, cả địa chỉ và nghề nghiệp của hắn cũng không biết nốt.
          Võ Hậu nói với ông:
          - Chẳng lẽ ta biết gã Tài Minh ở đâu để chỉ cho khanh? Khanh cứ xử đi, có thư tố cáo là đủ rồi.
          Hoài Tô nói:
          - Tâu Bệ hạ! Thần lấy làm tiếc là không thể quyết định dứt khoát nếu không được nói chuyện với người đã viết thư tố cáo.
          Võ Hậu nói:
          - Lời lẽ trong thơ không đủ rõ ràng hay sao? Cần gì phải nói chuyện với người viết thơ?
          Hoài Tô nói:
          - Tâu Bệ hạ! Thần nghĩ rằng lá thư chưa phải là nhân chứng. Không có ai tên Tài Minh viết lá thư đó. Thần không thể xử một việc không có nguyên cáo, mà người chứng cũng không.
          Võ Hậu nói:
          - Khanh nói vậy là để bọn phản nghịch được tự do?
          Hoài Tô nói:
          - Thần đâu dám vậy, nhưng Ngụy Viễn Chung là Thị Trung, do Bệ hạ chỉ định. Các bạn của ông làm tiệc tiễn ông đi xa là một việc rất thường tình. Thần tin rằng không đời nào Ngụy Viễn Chung tạo phản. Bệ hạ có thừa uy quyền để ra lệnh giết ông, nhưng Bệ hạ muốn thần đem ra xét xử thì thần buộc lòng phải chiếu theo pháp luật.
          Võ Hậu nói:
          - Khanh muốn nói luật pháp sẽ giúp chúng bình yên vô sự?
          Hoài Tô nói:
          - Thần là người ngu xuẩn, nhưng thần vẫn thấy những người đó vô tội.
          Mọi chuyện đã rõ ràng đến độ Võ Hậu không thể ngang nhiên trừng phạt Hoài Tô. Bà buộc lòng phải gác bỏ vụ án sang một bên và tìm cách an ủi Xương Tôn.

          LỜI BÀN
          Ái tình là một liều thuốc mê, làm cho con người mất hết nhân cách, nếu không biết giữ gìn giữ phẩm chất của mình.
          Xưa nay, ái tình đã làm cho con người vì nó mà thân bại danh liệt trong nhiều lãnh vực. Nhưng nếu ở vào hoàn cảnh một người dân thường thì mối nguy hại không đáng kể, còn khi nó ở vào một kẻ có quyền uy thì tai hại không lường được.
          Võ Hậu là một vị vua, cai trị thiên hạ, lại vướng vào cạm bẫy của tình yêu, đem uy quyền của mình phục vụ cho cá nhân, không kể đến tánh mạng trung thần và sự suy vong của xã tắc thì thật là một hành động rất bỉ ổi.
          Vì tình yêu mà quên cả bổn phận làm người thì đó là kẻ si tình, đánh mất lý trí.
          Trong cuộc sống nhiều người đã lợi dụng sức mạnh của tình yêu để điều khiển kẻ khác. Đó là những hạng người mê muội nên bị lầm lạc rất đáng thương.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #20
            Nhà Đường phục hưng

            Chuyện Võ Hậu và người yêu toa rập buộc tội Viễn Chung một cách độc đoán làm cho triều thần bất bình và ngớ ngẩn. Các quan lớn nhỏ bỗng dưng đoàn kết nhau hơn. Tình cảm quần chúng trải qua một cơn giao động và ý tưởng nổi loạn bắt đầu nhen nhúm trong lòng họ khác hẳn tình trạng cam chịu dưới bàn tay của bọn hung thần thuở trước.
            Tên tuổi của hai anh em họ Trương bắt đầu bị bôi lọ trên các bờ tường, ngoài đường phố Lạc Dương, hoặc xuất hiện trong những bài ca, bài vè với giọng điệu mỉa mai, nhạo báng. Những lúc trà dư tửu hậu, mọi người đem chuyện vừa tục tiểu vừa hấp dẫn giữa Võ Hậu và nhà sư cách đây ít lâu. Chính Võ Hậu cũng cảm thấy ngột ngạt. Theo bà nghĩ nguyên nhân này xảy ra là do các pháp quan không chịu làm việc.
            Sau khi Viễn Chung đi xa, tên thuộc hạ là anh ruột của Xương Tôn, như thoát khỏi đại họa. Gã tha hồ tung hoành và chẳng bao lâu trở nên giàu có và còn đáng ghét hơn nữa. Gã xây một tòa lâu đài vĩ đại, hiện rõ ra một tên trọc phú. Một người vô danh nào đó thấy ngứa mắt, đêm đêm dùng phấn viết lên cửa nhà trọc phú họ trương câu: “Giàu được bao lâu mà ham”.
            Mỗi buổi sáng, gã trọc phú đều phải sai người lau sạch hàng chữ. Tình trạng này kéo dài, đến một hôm gã chịu hết nổi cũng dùng phấn viết lên cánh cửa để trả lời: “Sướng một ngày là hơn thiên hạ rồi”.
            Lúc này người ta không phân biệt giữa việc tiêu diệt anh em họ Trương và việc nổi dậy bắt Võ Hậu phải thoái vị. Hai việc có cùng một chính nghĩa.
            Khoảng mười lăm người do Giản Chi cầm đầu đang bí mật hoạch định chương trình hành động. Ngoài Giản Chi còn có những nhân vật đầu não khác, cũng do Địch Nhân Kiệt tiến cử trước kia cũng cương quyết tham gia. Họ rất hăng say chống lại anh em họ Trương. Đây là lúc thuận tiện để mọi người họp nhau làm một cuộc cách mạng.
            Mấy năm trước Giản Chi và một người bạn thân là Dương Viễn Yến đã đi trên thuyền cùng nhau thề nguyền sẽ khôi phục nhà Đường. Khi Giản Chi được Nhân Kiệt tiến cử, ông lập tức đưa Viễn Yến vào cung để chỉ huy một toán thị vệ.
            Từ ngày Ngụy Viễn Chung bị đổi đi xa, Võ Hậu đau ốm liên miên. Trong mấy tháng liền bà không bước chân ra khỏi phòng. Xương Tôn và Diệc Chi lo tái người, không biết số phận của chúng sẽ ra sao nếu thần hộ mạng của chúng về chầu trời. Võ Hậu đã bảy mươi tám tuổi, dù thuốc men qúi hóa đâu cũng không thể làm cho bà chậm bước thời gian.
            Anh em họ Trương thấy tình thế nguy cập, vội kết bè kết đảng để củng cố địa vị phòng khi bất trắc.
            Ngoài đường phố người ta bắt đầu thấy những dòng chữ của những người vô danh rêu rao rằng anh em họ Trương đang âm mưu chiếm đoạt ngai vàng.
            Tháng bảy năm 703, các triều thần tìm ra cớ để buộc tội Xương Tôn. Gã cướp đất của một nông dân. Giản Chi khuyên bảo họ làm to chuyện để uy tín anh em họ Trương và gây căm phẫn trong quần chúng. Hơn nữa việc này sẽ làm cho Võ Hậu bối rối thêm và có lợi cho kế hoạch của ông.
            Giản Chi không để lỡ một cơ hội nào. Ông không cần thiết có kết tội được Xương Tôn hay không, hay gã lại qua mặt luật pháp nhưng chắc chắn công luận sẽ phê phán và Võ Hậu sẽ không tránh khỏi tai tiếng.
            Theo án lệ, một vị quan cướp đất của dân phải bị phạt và mất chức. Các pháp quan đều đề nghị tước bỏ hết phẩm trật và chức vụ của Xương Tôn. Võ Hậu linh cảm thấy sự biến chuyển của bầu không khí chính trị, các người yêu của bà không được lòng những người xung quanh, nhưng quần chúng dám tấn công Xương Tôn tức là họ dám thách thức cả chính bà.
            Khi các quan họp để luận tội Xương Tôn, Võ Hậu nói:
            - Trẫm biết các khanh không ưa Xương Tôn, nhưng việc cướp đất là thuộc hạ của gã làm, các khanh nên nghĩ tới công lao của gã đối với trẫm mà châm chước.
            Tống Cảnh nói:
            - Tâu Bệ hạ! Xương Tôn có công gì?
            Võ Hậu quay sang hỏi mấy tên hầu cận. Tên này chuyên môn theo đuôi Xương Tôn, và được mệnh danh là chồn hai chân vì gã rất ranh mãnh.
            Võ Hậu hỏi:
            - Theo khanh Xương Tôn có công gì?
            Tên hầu cận nói:
            - Tâu Bệ hạ, Xương Tôn có công tìm ra những vị thuốc hiếm có nhất để cho Bệ hạ trường sanh bất lão.
            Theo giọng điệu bợ đỡ của gã, Võ Hậu sống lâu là một điều quan trọng lắm, nhưng các quan chỉ cười thầm.
            Võ Hậu thản nhiên nói:
            - Nếu vậy Xương Tôn được phép giữ nguyên chức tước.
            Các quan hết ý kiến.
            Tháng mười hai năm đó, Xương Tôn lại bị truy tố, lần này nặng hơn. Gã dám đi hỏi thầy bói xem gã có thể hy vọng được làm vua hay không. Lão thầy bói gieo quẻ xong cho biết khí dương rất thịnh, chắc phen này Xương Tôn lên ngôi. Người còn khuyên Xương Tôn về lập đền thờ tại Định Châu để cầu phúc.
            Lão thầy bói bị bắt để thẩm vấn, lão thú nhận có đón quẻ cho Xương Tôn. Nội vụ được trình lên Võ Hậu. Trong khi đó Xương Tôn cũng tức tốc viết thư kể rõ đầu đuôi việc xem bói của gã để chứng tỏ gã không có ẩn ý gì. Mặt khác gã bố trí để Võ Hậu chỉ định hai pháp quan đồng đảng của gã xét xử nội vụ.
            Sau khi điều tra, hai tên pháp quan xác nhận Xương Tôn quả có tội, nhưng vì gã đã thẳng thắn trình bày với Võ Hậu và không có ẩn ý gì nên đề nghị tha bỗng.
            Tống Cảnh cực lực phản đối việc này. Theo ông, rõ ràng Xương Tôn có ý phản nghịch và ông đã viết thư cho Võ Hậu giải thích tội trạng của gã. Nếu gã không có gian ý tại sao gã đến khi gã thầy bói bị bắt mới trình bày câu chuyện cho Võ Hậu biết? Ông đề nghị bắt Xương Tôn đem ra Tòa xử công khai.
            Vì muốn che chở người yêu, Võ Hậu ém nhẹm lá thơ của Tống Cảnh, không nhắc nhở gì tới. Nhưng Tống Cảnh chưa chịu thôi, ông viết một lá thư khác, trong đó ông nói rõ dư luận sẽ xôn xao nếu nội vụ không được đưa ra ánh sáng.
            Võ Hậu vẫn tìm kế hoãn binh, vì không nỡ vứt người yêu cho chó gặm. Chúng rất thèm thịt Xương Tôn. Tống Cảnh là một tên cứng đầu không kém Ngụy Viễn Chung. Bà biết không đời nào Tống Cảnh bỏ qua vụ này chỉ trừ khi ông không có mặt tại kinh đô. Bà bèn cử ông đi Dương Châu để điều tra vụ án, nhưng ông từ chối, viện cớ là ông có quá nhiều việc phải giải quyết tại kinh đô.
            Vụ án của Xương Tôn vẫn còn là một thùng thuốc súng nổ chậm. Võ Hậu không chịu giải giao Xương Tôn cho các quan, gã vẫn nhởn nhơ bên cạnh bà. Các đại thần quyết định tập trung lực lượng để tấn công.
            Võ Hậu biết được bèn đòi Tống Cảnh đến thuyết phục. Bà nói:
            - Khanh không thể châm trước cho gã chút nào sao?
            Tống Cảnh nói:
            - Tâu Bệ hạ, thần biết thần đã lớn mật dám trái ý Bệ hạ, nhưng công việc là công việc, thần phải thi hành nhiệm vụ. Nếu Bệ hạ có nổi giận mà giết thần thì thần cũng đành chịu.
            Võ Hậu rất phân vân. Bà không thể bóp méo luật pháp một cách trắng trợn được. Cách duy nhất để cứu Xương Tôn là lập mưu giải thoát như đã cứu Hoài Nghĩa lúc trước.
            Xương Tôn bị giải ra Ngự Sử Đài. Tống Cảnh mừng rỡ tưởng Võ Hậu đã nhường bước. Ông lập tức tiếp hành cuộc thẩm vấn, nhưng khẩu cung chưa lấy xong thì có quan Khâm sai tới đòi Xương Tôn phải về trình diện với Võ Hậu gấp. Thế là Xương Tôn điềm nhiên về cung.
            Tống Cảnh hậm hực nhìn theo Xương Tôn tiếc rẻ:
            - Ta ngu quá! Tại sao không đập tên vô lại chết ngay từ lúc đầu? Nó đi mất rồi biết làm sao bây giờ?
            Một lần nữa Võ Hậu ra mặt công lý. Xương Tôn thoát khỏi bàn tay của luật pháp nhờ sự sắp đặt trơ trẽn của bà lão đa tình. Kẻ tử tội vẫn nhởn nhơ, đùa giỡn với luật pháp.
            Quần thần hết kiên nhẫn nổi, nhất định anh em họ Trương phải trả một giá rất đắt, dùng pháp luật không xong thì dùng thủ đoạn. Giản Chi sẽ ra mặt hành động.

            LỜI BÀN
            Pháp luật trong một nước đặt ra là để bảo vệ sự công bằng cho toàn dân, nếu kẻ cai trị mà không tuân thủ luật pháp thì xã hội sẽ rối loạn, mất trật tự.
            Nhưng phần nhiều trong cuộc sống con người kẻ có quyền thường hay lợi dụng quyền uy của mình để trách né pháp luật, thành ra pháp luật chỉ dùng để trừng trị những kẻ có thế mà thôi.
            Pháp luật đã không được kẻ cai trị tôn trọng thì xã hội bất minh, mà xã hội bất minh thì đi đến rối loạn.
            Võ Hậu chỉ vì người yêu mà xóa bỏ pháp luật, làm cho dân tình căm phẫn thì làm sao không gánh lấy hậu quả được.
            Không bình đẳng trước pháp luật thì không thể tồn tại.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #21
              Những ngày cuối cuộc đời tình ái

              Võ Hậu đau bệnh triền miên suốt tháng chạp năm 704 ngay trong lúc vụ án họ Trương đang tiếp diễn. Những ngày năm cùng tháng tận, trước khi bước qua tuổi tám mươi tình trạng bà trở nên bi đát. Trừ anh em họ Trương túc trực bên giường không ai được phép vào gặp bà kể cả con ruột và các đại thần.
              Giản Chi quyết định hành động. Tiêu diệt anh em họ Trương là chính nghĩa của ông và là mục đích chung của mọi người. Ông đã đưa người bạn của ông là Dương Viễn Yến từ địa vị một đội trưởng lên làm tướng quân chỉ huy một số cận vệ đông đảo trong Hoàng cung.
              Cuộc đảo chính dự định vào ngày hai mươi tháng giêng năm 709 tức là một tháng sau khi Võ Hậu trắng trợn gạt bỏ luật pháp để cứu Xương Tôn. Mọi chi tiết được sắp đặt rất cẩn thận. Nam quân và Bắc quân sẽ đồng thời nổi dậy khắp kinh đô, trong khi các toán Thị vệ chia nhau triệt hạ những vây cánh của Xương Tôn tại kinh đô, và một toán bao vây Hoàng cung để buộc Võ Hậu phải thoái vị.
              Sáng ngày hai mươi hai, cấm vệ tập trung tại Bắc Môn Hoàng cung dưới sự điều khiển của Giản Chi và các thủ lãnh khác có tên trong danh sách đã chọn sẵn. Đặc biệt có sự hiện diện của một người con rể của Thái Tử Triết.
              Ôn Kỳ Tâm và người con rể của Triết tiến vào cung để gặp mặt Triết, sự có mặt Triết rất cần trong cuộc đảo chánh này, vì họ lấy danh nghĩa của Triết để nổi dậy, họ sẽ dành lại ngôi báu của nhà Đường trao lại cho Triết kế vị. Điều đáng nói là Triết không hề hay biết gì dự tính này.
              Thấy bọn Ôn Kỳ tâm vào tìm, Triết rất ngạc nhiên và khi biết rõ ý định của họ, Triết vừa luống cuống vừa sợ sệt, không dám quyết định.
              Kỳ Tâm nóng nảy nói:
              - Hôm nay là ngày lịch sử. Điện hạ phải biết tùy cơ ứng biến. Đã đến lúc khôi phục nhà Đường, dựng lại cơ nghiệp Thái Tôn. Tất cả chúng tôi đã sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đại nghĩa chỉ cần chờ Điện hạ ban mệnh lệnh.
              Triết vẫn do dự:
              - Ta biết anh em họ Trương quả đáng tội, nhưng mẫu thân ta đang bệnh... vả lại việc này bất ngờ quá ta chưa biết tính sao.
              Kỳ Tâm nói:
              - Nếu vậy chỉ cần Điện hạ ra ngoài kia và nói cho quần thần biết Điện hạ không cần tới họ. Việc không thành chúng tôi và gia quyến đành chịu chết.
              Thực ra ý kiến của Triết không thành vấn đề. Nếu ông từ chối, họ sẵn sàng dùng áp lực bắt ông phải lên ngôi. Con rể của Triết thấy tình thế như vậy, vội giục:
              - Nhạc phụ nên quyết định dứt khoác, không thể chần chờ được nữa. Quân cấm vệ đang đợi tại Bắc Môn. Chuyện đã lỡ, nhạc phục muốn rút lui cũng không tránh khỏi tội.
              Hai người đỡ Triết lên ngựa. Ông cử động như cái máy, vẻ sợ sệt lộ ra ngoài mặt. Ông không hiểu con đường trước mặt sẽ dẫn ông đến đâu, lên ngai vàng hay xuống địa ngục.
              Khu tư dinh của Triết ăn thông ra Bắc Môn bằng một khu vườn, Giản Chi trông thấy Triết trong lòng thở phào nhẹ nhõm. Lập tức đoàn người chia ra các ngã để tiến vào Hoàng cung như kế hoạch đã trù liệu trước.
              Riêng Kỳ Tâm dẫn một toán cận vệ tiến thẳng vào tư dinh Võ Hậu. Nghe động, Xương Tôn và Diệp Chi chạy ra. Quân cận vệ đang tràn vào làm cho Xương Tôn và Diệp Chi không còn kịp trốn tránh. Các cận vệ nhào tới và trong nháy mắt hai chiếc đầu lâu điểm phấn thoa son lăn lóc dưới đất. Kỳ Tâm, Giản Chi và một số đại thần vội tiến về phía long sàng, nơi Võ Hậu đang nằm.
              Nghe ồn ào, Võ Hậu nói vọng ra:
              - Cái gì ồn ào vậy?
              Giản Chi cung kính bước đến trả lời:
              - Tâu Bệ hạ, bọn hạ thần đến xin tội vì đã giết anh họ Trương mà không báo trước.
              Võ Hậu đưa mắt nhìn mọi người, rồi nhìn Thái tử Triết nói:
              - Hoàng nhi còn đứng đây là gì? Chúng đã bị giết chắc ngươi hài lòng lắm phải không?
              Kỳ Tâm bước tới đỡ lời:
              - Tâu Bệ hạ, Thái tử sẽ không rời nơi đây nữa. Tiên đế đã ủy thác Thái tử cho Lệnh bà để làm người nối nghiệp. Nay xin Lệnh bà trả lại ngôi cho Thái tử. Lệnh bà hãy vì tình mẫu tử mà chấp thuận.
              Võ Hậu đã nghe rõ nhưng vẫn bình tĩnh như không có gì xảy ra. Bà đưa mắt về phía quần thần nói:
              - Lâu nay ta đối với các ngươi đầy ơn huệ, nay các ngươi nỡ hành động như vậy sao?
              Các quan nói:
              - Bọn hạ thần chúng tôi rất đội ơn Lệnh bà, nhưng công việc chúng tôi làm cũng chỉ vì xã tắc.
              Chưa đầy nửa giờ sau, cuộc biến động chấm dứt, các quan đem theo thủ cấp của anh em họ Trương rời khỏi Hoàng cung, chỉ để lại Lý Cẩn trông chừng Võ Hậu. Lúc đó các bè đảng của Xương Tôn cũng đã bị bắt hết. Các anh em họ hàng của Xương Tôn và Diệp Chi cũng bị đem ra pháp trường hành quyết trước sự chứng kiến của một rừng người.
              Ngày hôm sau, hai mươi ba tháng giêng, Thái tử Triết tạm thời lên làm nhiếp chánh. Ngày hai mươi bốn Võ Hậu chính thức thoái vị. Hoàng tử Đán được phong là Quốc Công, và tất cả con cháu nhà Đường được phục lại phẩm tước như cũ. Những người bị hung thần đày đi xa trước khi cũng được phép trở về quê quán, trừ những người có liên quan đến bọn hung thần.
              Ngày hai mươi sáu, Võ Hậu được đưa đi an trí tại khu vực phía Tây kinh đô. Để tỏ lòng cung kính đối với bà, cứ mười ngày Triết lại đích thân báo cáo công việc triều chính.
              Dù sao Võ Hậu cũng cảm thấy mình là một tội phạm bị giam lỏng. Lần đầu tiên trong đời Võ Hậu cảm thấy mình bất lực, một kẻ chiến bại. Lòng tự ái của bà bị tổn thương trầm trọng. Bà sống cô độc. Người yêu của bà đã chết. Triết thường xuyên báo cáo những cải cách mới khiến bà choáng váng cả mặt mày chẳng khác một vị đại tướng nghe tin thất trận.
              Ngày mồng một tháng hai, nhà Đường được chính thức thiết lập. Quốc kỳ, quốc hiệu và tên các cơ quan chính phủ được lấy lại như dưới thời Cao Tôn. Thành Đô cũng được đổi là Đông Đô – Lạc Dương.
              Tháng mười một năm đó, Võ Hậu đành buông tay chịu thua tử thần. Trước khi chết bà rất quan tâm đến việc thờ phụng linh hồn bà sau này. Bà di ngôn lại rằng bà rất hài lòng được cúng tế như một Hoàng hậu chớ không phải Hoàng Đế. Bà muốn trở lại làm vợ hiền của ông chồng đáng yêu Cao Tôn.
              Phút lâm chung của Võ Hậu được sửa soạn kỹ càng. Triết, con trai bà đã được làm Hoàng Đế, chắc chắn bà sẽ có đủ bốn mùa hương khói, thờ phụng cho trọn tình mẫu tử. Bà cảm thấy lời khuyên của Nhân Kiệt trước đây là đúng. Bà cần phải dọn đường trước để bước đi của bà sang thế giới bên kia được thanh thản.

              HẾT




              ST
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment

              Working...
              X