whoa, unbelivable, bác Na tìm đâu ra mấy bộ truyện xưa như vậy.............
Thông Báo
Collapse
No announcement yet.
Chung Vô Diệm - Tô Chẩn dịch
Collapse
This topic is closed.
X
X
-
Hồi Thứ Ba Mươi Mốt - Chung hậu một phen đối địch
Chung hậu một phen đối địch
Tôn Tháo hai lượt bị cầm
Còn Yên Đơn Công chúa vây hãm Trâu bình quan đã lâu cứ ngày đêm đốc quân canh thành, mà chưa phá đặng, xảy đâu có quân thám tử về báo rằng :
- Tề Vương phong cho Chung Vô Diệm làm Chinh Yên đại nguyên sóai, thống lãnh hai mươi muôn binh đã tới Trâu bình quan bảo thủ rồi.
Công chúa nghe báo bèn nói với Phò mã rằng:
- Bấy lâu, đã nghe danh Chung xủ phụ là người bản lãnh cao cường, nay nó đã tới đây, thiếp phải ra binh đánh với nó một hai trận cho biết tài cao hạ.
Nói như vậy rồi day lại hỏi chúng tướng rằng:
- Có ai dám ra đối địch với Chung xủ phụ trước chăng?
Tôn Phò mã nói:
- Vậy thì để bổn sóai đi cho.
Nói rồi liền nai nịt hẳn hoi, cầm thương lên ngựa, phát pháo dẫn theo một ngàn quân, thẳng tới dưới thành mà khiêu chiến.
Quân giữ thành vào phi báo cho Chung quốc mẫu hay rằng:
- Có tướng nước Yên tới khiêu chiến.
Quốc mẫu nghe báo tức thì nai nịt và truyền lịnh, phát hai mươi bốn tiếng hiệu pháo, rồi mở cửa thành xông ra trận, Tôn nguyên sóai xem thấy thì hỏi rằng:
- Tướng ra đó tên họ là gì? Hãy xưng danh cho ta biết.
Chung Quốc mẫu đáp rằng:
- Ta nay là Đông Tề Chung quốc mẫu, ngày trước đã khảy đặng cây Ngẫu tư cầm, ngươi chẳng có nghe danh sao còn hỏi? Vậy chớ ngươi tên họ là gì? Mau khá nói cho ta biết.
Tôn nguyên sóai đáp:
- Yên bang Phò mã, danh hiệu Tôn Tháo là ta.
Chung nương nương nói:
- Ta tưởng ngươi là ai, chớ tên ấy thiệt là một đứa vô danh tiểu tốt, có tài cán bao nhiêu, mà dám tới đây khua môi lớn họng.
Tôn Tháo nghe khi mình thì cả giận, liền hươi thương xốc tới đâm đùa, Chung nương nương đưa cây Định Tề đao ra đỡ, hai người đánh với nhau có hơn ba trăm hiệp, một đao, một thương, bên nam, bên nữ hai ngựa xây tròn như phụng lộn, bốn tay ngăn trở tợ rồng bay, sức hãy cầm đồng, chưa phân thắng bại. Chung nương nương có ý khen thầm, liền lui ngựa lại vài bước, lấy ra một phép, kêu là: Thần tiên phách, giơ lên tức thì thì bốn phía sáng ngời, Tôn Tháo ngó chẳng thấy Chung nương nương ở đâu, mà mặt mũi lại lừ đừ, tay chân thêm bải hỏai, muốn đánh mà đánh không được. Chung quốc mẫu liền quày ngựa lại phía sau, liệng lên một sợi dây Tư điêu đái và kêu nói rằng:
- Bớ Tôn Tháo! Sao ngươi không chạy đi, và sao không đánh với ta ít hiệp nữa?
Quốc mẫu nói vừa dứt lời, thì sợi dây Tư điều đã trói Tôn Tháo lại. Chung quốc mẫu bèn giục ngựa tới cầm đao giá trước mặtTôn Tháo mà nói rằng:
- Ta cũng tiếc ngươi là một đứa anh hào lương đống của nước Yên, chớ chi ngươi là người khác, thì ta thưởng cho một đao cho rồi đời, kẻo còn múa mỏ. Bây giờ ngươi đã bị Ai gia bắt rồi, nếu đó bằng lòng kêu ta Chung Quốc mẫu ba lần, thì ta thả cho về, như không thì chớ có mong trông thấy đặng mặt vợ con nữa.
Tôn Tháo nghe bấy nhiêu điều, ngẫm nghĩ hồi lâu, tính thầm trong bụng rằng:
- Làm người có kinh, thì phải có quyền, chớ như ta đã làm đến một vị Nguyên sóai, lại đi sợ chết hay sao? Ngặt vì nó dùng yêu thuật bắt mình, dầu có chết đi thì cũng uổng, chi bằng ta chịu nhục đi một chút, đặng có tính mưu kế khác thì hay hơn.
Nghĩ như vậy, liền cúi đầu kêu Chung Quốc mẫu ba tiếng, Chung nương nương mở trói thả ra tức thì và dặn rằng:
- Nay Ai gia tha cho ngươi vêé trại, mau mau biểu Yên Đơn Công chúa ra trận đối thủ với ta, cho biết tài cao thấp.
Tôn Tháo vưng mạng, liền lên ngựa, lấy làm xấu hổ vô hồi, bèn đi thẳng một nước về đến dinh, không ngó tới ai hết. Công chúa khi ấy thấy chồng mình về, mà mặt mày có sắc thẹn, thì hỏi rằng:
- Chẳng hay sóai gia xuất trận thắng bại lẽ nào mà chẳng bắt con Chung xủ phụ về cho tôi, lại mặt mày sầu thảm như vậy?
Tôn Nguyên nhung nghe hỏi, thở ra và nói rằng:
- Đừng trông sự bắt Chung Vô Diệm mà khó lòng, thôi mau mau thâu hết ba quân trở lại nước nhà, nếu còn lưu luyến tại đây, thì ắt có ngày phải chết.
Công chúa nghe chồng mình nói vậy, thì tức giận mà nói rằng:
- Rất uổng cho quan gia, làm đến một vị đường đường Nguyên sóai, mới ra đánh với đàn bà một trận, lại biểu rút quân về nước, là làm sao vậy? Còn chuyện xuất trận thế nào, xin thuật lại cho thiếp nghe thử.
Phò mã thuật kể hết câu chuyện đầu đuôi đánh với Chung Vô Diệm một hồi thì Công chúa tâm cang hỏa phát, mắng chửi Chung Vô Diệm om sòm, rồi tức thì sửa soạn nai nịt, vừa muốn xuất chinh kế bốn vị lão tướng tới bẩm rằng:
- Chúng tôi tưởng con Chung Vô Diệm không tài phép bao nhiêu, mà phiền tới Công chúa thân chinh cho nhọc sức, vậy xin để chúng tôi ra trận, nguyện bắt cho được con Xủ phụ mà rử hờn cho Nguyên sóai.
Yên Đơn Công chúa khi ấy bớt giận mới nói rằng:
- Bốn tướng đã quyết lòng, thì ta cũng đành dạ, nhưng mà con Xủ phụ hay dùng tà thuật hại người, vậy thì bốn tướng trước phải đề phòng cho lắm mới đặng.
Bốn tướng vưng lịnh, kẻ đao, người thương, phát pháo, dẫn theo năm ngàn binh xuất chiến. Công chúa thấy bốn lão thần đi rồi, liền nói với Tôn Nguyên sóai rằng:
- Bốn tướng quân đó, là tôi, lão thần của Vương phụ, nếu như ra trận có sơ sẩy lẽ nào, thì bọn ta khó liệu lắm! Bây giờ quan gia phải dẫn thêm năm ngàn quân, cung tiễn mai phục hai bên, như bốn tướng có lâm sự nguy cấp thể nào, thì truyền quân bắn ra một lượt mà tiếp cứu.
Phò mã y lời, liền dẫn quân đi mai phục. Khi Chung nương nương đương ngồi bàn luận việc quân, bỗng nghe bên dinh Yên có một tiếng pháo nổ, thì biết có tướng đã xuất trận rồi, liến cầm đao lên ngựa, mở cửa ải xông ra, thấy bốn viên lão tướng Râu bạc phơ phơ, bèn trách thầm rằng:
- Yên Đơn Công chúa thiệt bất nhân, nó sai bốn ông già tới đây mà nạp mạng.
Vừa đương suy nghĩ thì bốn tướng đã xốc tới. Chung nương nương hỏi rằng:
- Ai gia chẳng giết những người vô danh, xin đó hãy xưng họ tên rồi sẽ đánh.
Bốn tướng đồng đáp rằng:
- Chúng ta là: Yên bang đại tướng trấn quốc hầu, Lý Bưu, Trương Hổ, Triệu Cường và Vương Hùng đây, nay chúng ta phụng mạng Nguyên nhung của chúng ta, tới đây mà bắt sống nhà ngươi cho biết mặt.
Chung quốc mẫu cả giận nói rằng:
- Bốn lão già đã tới số, khó trông sống ở đời, đầu muốn về nước nhà, hồn chiêm bao phưởng phất.
Bốn tướng đỏ mặt, kẻ đao người thương giục ngựa tới đánh đùa. Chung quốc mẫu cứ biểu bốn tướng trở về, kêu Công chúa Yên Đơn ra đối địch, mà bốn tướng cũng không nghe, cực chẳng đã Quốc mẫu phải đưa đao ra đỡ: Bốn tướng áp đánh nhầu, một mình Chung nương nương tả xông hữu đột, đánh hơn hai trăm hiệp, mà chưa phân hơn thua, bốn tướng thấy Chung Quốc mẫu đơn đao nhất mã, mà lẫm lẫm oai phong, bèn ráng hết sức bình sanh, tung hoành giũa trận. Lý Bưu múa cây Đồng chùy, Trương Hổ dùng cây Cương đao, Triệu Cường cầm cây Triết Phủ, Vương Hùng hươi cây Trường thương, bốn phía hiệp lực với nhau, đánh nhầu một hồi nữa. Chung Quốc mẫu lui ngựa lại và cười nói rằng:
- Bốn ông già này số mạng đã mãn rồi, không thế chi cứu lại đặng, chớ chẳng phải ta có lòng lang độc mà hại người.
Nói rồi quất ngựa chạy bay, bốn tướng tưởng thiệt, đều muốn lập kỳ công, bèn hè nhau theo đuổi. Quốc mẫu cả mừng, mới lấy một phép, kêu là Âm dương kiếng, cầm nơi tay chói ra đỏ ánh, chiếu vào mặt bốn tướng già, nghe có tiếng kêu rảng rảng, bốn tướng kiền té nhào xuống ngựa, Quốc mẫu xách đao lại, cứa cổ mỗi người một đao, mình đầu phân làm hai đoạn. Tôn Nguyên sóai thấy vậy cả kinh, kíp truyền quân cung tiễn bắn ra một lượt, tên bay như mưA bấc, Quốc mẫu liền niệm thần chú ty tiễn, thì tên vẹt ra hai bên không động vào mình chút nào hết.
Quốc mẫu khi ấy bèn ngó ngóai lại phía sau, thấy Tôn Tháo đương đốc sức bắn mình, bèn nghĩ rằng:
" Tôn Tháo là một người trung thần lương đống của Yên bang, đến sau mà hai nước giao hòa, ắt phải có va mới đặng, nếu ta bây giờ không làm cho nó phục mình, mai sau sẽ khó phân lợi hại ".
Nghĩ rồi liền kêu Tôn Tháo mà mắng rằng:
- Thằng thất phu, mày không sợ chết hay sao? Ta đã tha ngươi một phen rồi, sao còn mang mặt mo ra đây nữa, nếu ta không hại mi thì mi chẳng biết tài lực ra thế nào?
Nói rồi bèn niệm chân ngôn tức thì mây trắng túa ra mịt mù, lục đinh lục giápvà thần binh áp bắt Tôn Tháo mà trói lại. Quốc mẫu liền lấy tay diêu động, tức thì tam quân Tề đồng xông ra một lượt, quân Yên thấy chủ sóai mình đã bị vào tay giặc, đều vỡ tan bỏ chạy, không dè binh Tề chận đàng chém giết chết thôi vô số, kế đó Chung Vô Diệm niệm lầm thầm, khiến lục đinh, lục giáp dẫn Tôn Tháo tới trước mặt mà hỏi rằng:
- Bây giờ ngươi đã biết sức Ai gia chưa và tại vì sao Yên Đơn không xuất chiến?
Tôn Nguyên sóai khi ấy vòng tay mà xưng Chung Quốc mẫu và nói rằng:
- Tôi bị lần này nữa là hai, xin Quốc mẫu ra ơn dung mạng.
Chung Quốc mẫu cười và nói rằng:
- Sao ngươi biết ta không giết, mà xin ơn dung thứ.
Tôn Tháo đáp:
- Làm trai phải đền nợ nước, có chết cũng cam tâm, ngặt vì Quốc mẫu dùng yêu thuật mà bắt người, nên bổn sóai chân tâm bất phục.
Chung quốc mẫu nói:
- Thôi ngươi chớ có nhiều lời, Ai gia cũng tha cho một phen nữa, vậy nhà ngươi, về nói lại với Yên Đơn, hãy ra đây đối thủ với Ai gia, chớ đừng có trốn chui trốn nhủi ở trong nhà mà khoe hay khoe giỏi.
Phò mã nói:
- Xin Quốc mẫu tha tôi ra khỏi thì ngày mai sẽ có Công chúa tới đây.
Chung Vô Diệm liền truyền quân đem thương mã trả lại cho Tôn Tháo biểu đi về, rồi thâu binh trở lại ải.
Lúc này Đơn Yên Công chúa ngồi tại quân trướng mà đợi tin, xảy thấy quân kỳ bài vào báo rằng:
- Sóai gia với bốn vị lão thần đều lâm trận và mấy ngàn binh thảy đều hóa ra ma hết.
Công chúa nghe báo cả kinh! Kế giây phút thấy Tôn Nguyên sóai về tới. Công chúa lật đật hỏi rằng :
- Vì sao mà lang quân mặt mày hơ hãi, xiêm giáp tơi bời, còn bốn vị lão tướng ở đâu, sao chẳng thấy?.
Phò mã liền thuật hết đầu đuôi tự sự cho Công chúa nghe, lại nói:
- Hãy thâu binh trở về và nhượng Tề làm thượng quốc, nếu còn muốn đua tranh với con Xủ phụ, thì e chết hụt có ngày mà thôi.
Công chúa cười và nói rằng:
- Phò mã sao khiêm trọng người cho quá lẽ, mà làm uất hết oai phong mình, vả lại sách có chữ: Trung thần bất húy tử, còn húy tử bất trung thần, như Phò mã có sợ mà không dám gia binh, thôi thời để mặc thiếp lo mưu cự địch, kẻo con Vô Diệm nó theo khiêu khích biểu tôi ra hòai, đánh một trận mới rõ tài, há bó tay chịu nhục hay sao?.
Nói rồi liền trở vào dinh, tắm gội sạch sẽ, thay áo đổi xiêm, thẳng lên tướng đài, đặt bày hương án, đảo cáo với Hoa Vân thánh mẫu đại tiên rằng:
- Nay đệ tử thành tâm khẩn nguyện, xin tôn sư phò hộ giúp công một trận.
Lạy vái rồi xuống đài vào phòng an dưỡng. Rạng ngày Công chúa thăng trướng, các tướng hầu hai bên. Cao Kim Định lúc ấy bước ra thưa rằng:
- Ngày mai Mẫu nương xuất chiến, xin cho nhi túc theo hầu.
Công chúa nói:
- Con hãy lui vào hậu dinh an nghỉ, để mẹ ra đó sẽ có thâm mưu diệu kế.
Nói rồi liền điểm một muôn binh dõng sĩ và đội ngũ đâu đó rõ ràng phát pháo khai dinh kéo thẳng tới trước ải Tề mà khiêu chiến. Quân kỳ bài Tề hay tin ấy, vào báo cho Quốc mẫu hay, Chung quốc mẫu cũng nai nịt lên ngựa, mở cửa thành xông ra, xem thấy Yên Đơn Công chúa tay cầm Định yên đao, mình cởi ngựa sắt vàng, trên vai mang sợi Phi liêm sách (sợi dây ấy hể giáp trận thì nó hớp hồn người ta), bên tả dắt cây Hổ vị thần tiên, nặng hơn sáu chục cân, bên hữu mang cây Thiểm lôi linh chùy (nếu chùy này đánh nhằm ai tức thì phải chết). Chung quốc mẫu thấy Công chúa cốt cách thần tiên thì cứ đứng ngó hoài và nói thầm rằng:
" Ngày trước thày ta có nói: Yên Đơn Công chúa là cốt Đại Lạc địa tiên giáng sanh, nay ta mới rõ ".
Còn Yên Đơn thấy Vô Diệm hình dung kỳ quái, mỏ heo nanh gấu, mặt cọp mày thô, đầu đội mão kim khôi, mình mang thiên vương giáp, bửu cung thần tiễn rất rõ ràng. Công chúa bèn hỏi:
- Tướng đó tên họ là gì?.
Chung Quốc mẫu đáp :
- Tôi ở xứ Thương Sơn, tên là Chung Vô Diệm, lâu nay tôi vẫn nghe đại danh Công chúa văn võ toàn tài, nay gặp nhau đây thiệt tam sanh hữu hạnh. Công chúa không xét, quốc nội đã không lương tướng, trào trung lại có nịnh thần, tôi sợ cho tới khi quốc phá phu vong, thì Công chúa sao cho khỏi mang tiếng bất nhơn, bất hiếu.
Công chúa đáp lại rằng:
- Tôi cũng nghe tiếng Chiêu dương Hoàng hậu giúp Tề vương phụ bỏ nghĩa nhân, cớ sao lại khi dể giao lân, thích chữ nơi mặt sứ thần, nay lại bắt Tôn Phu nhân tôi hai lượt và giết bốn vị lão thần phen này tôi quyết cho rõ mặt Tề quân, mới trả xong oán nọ.
Chung quốc mẩu nói:
- Xin nàng nghe lời ta thâu binh về nước, cho khỏi điêu tàn ngược sanh linh, nếu đó phụ tình, tôi e sau khó phân vàng đá.
Công chúa cả giận, liền kêu Chung Vô Diệm mà nói rằng:
- Nếu như nàng muốn đấu chiến với ta, thì đánh nghề văn hay là dùng phép võ.
Chung Quốc mẫu hỏi:
- Làm sao gọi rằng văn, còn làm sao kêu rằng võ.
Công chúa nói:
- Nếu võ chiến thì hai bên bày khai thế, hươi động tam quân, đánh một trận tưng bừng, cho biếi ai cao thấp; còn văn chiến là chỉ một người một ngựa, không ai đặng giúp ai, có bị thương thì được phép đem về, như chết tại chiến trường thì bỏ.
Chung Quốc mẫu nói:
- Ta bằng lòng văn chiến, mới rõi tài cao thấp.
Nói rồi ra lịnh cấm tam quân, không cho ai được cử động. Chung quốc mẫu thì cầm cây Đinh tề đao, Công chúa thì cây Phi liêm sóc, hai đàng buông ngựa chạy ra, đánh vùi có hơn ba trăm hiệp chưa phân thắng bại. Hai bên quân có mang dây, cặm nữ tướng đánh vùi hơn một trăm hiệp nữa, cây Thần đao có ý mạnh hơn, nên Công chúa mới nghĩ ra một kế, bèn quất ngựa chạy dài, Chung Quốc mẫu cũng giục ngựa đuổi theo. Công chúa liền lấy cây Hồ Lô trút ra, miệng niệm lâm râm, ở trong Hồ lô túa ra năm trăm con Hỏa Long, lửa đỏ rần rần, cháy sáng hơn ngàn dặm. Quốc mẫu cả kinh, lấy ra một vật bửu bối tiên gia, kêu là Trấn hỏa châu mà giữ mình, rồi niệm thần chú đòi Võ thần tới làm mưa. Không dè mưa xuống bao nhiêu lửa cũng không tắt. Quốc mẫu tuy là nhờ có cái Trân hỏa châu thì không xao động tới mình, còn con Long cu chịu nóng không nổi, nên nhảy dựng lên reo hí om sòm, năm trăm con Hỏa Long rượt theo đốt binh Tề, kẻ thì cháy mặt, người thì phỏng mình, chết hằng hà sa số. Khi Quốc mẫu chạy về gần tới ải thì đã cùng đường, vô phương khá đảo. May nhờ bên dinh Yên gióng chiên thâu quân, Công chúa thâu phép lại trở về trại. Phò mã và các tướng đều ra rước và chúc mừng. Công chúa hỏi:
- Vì cớ nào phu tướng khiến thâu binh, không để cho thiếp theo bắt con Xủ phụ cho rồi.
Phò mã nói:
- Bổn quan thấy Công chúa đuổi binh Tề đã rơi vào nơi trọng địa, sợ e con Xủ phụ có yêu thuật mà phu nhơn đề phòng không kịp chăng, nên bổn quan mới minh kim thâu binh. Như ban ngày đốt nó không chết thì chờ đến lúc hoàng hôn, khiến phép Hỏa Long ra một lần nữa mà đốt dinh ải nó, dầu cho nó có tam đầu, lục tý cũng khó chạy đâu cho khỏi.
Công chúa nghe nói phải cả đẹp, bèn truyền lịnh sắp đặt, chờ đến canh khuya hành sự.
Còn Chung quốc mẫu lúc ấy thâu góp tàn binh chạy vào ải, rồi kiểm điểm nhân mã lại thì chết hơn ba muôn người và ngựa, còn bị thương tích chẳng biết bao nhiêu. Quản Thọai Hoa và Điền Thường cũng bị phỏng mình. Quốc mẫu mới lấy ra một hườn liên đơn dùng nước giếng mài điều trị cho tam quân. Khi Chung Quốc mẫu dưỡng an chúng tướng xong rồi, đang ngồi nơi trướng mà lo kế, bỗng thấy quân vào báo rằng:
- Cây Sóai kỳ trước dinh, bị một trận cuồng phong đã gãy rồi.
Chung Quốc mẫu nghe báo lật đật đánh tay thì đã biết, nên kinh hãi và lo sợ vô cùng, lại trách thầm bà Hỏa long thánh mẫu, truyền phép Hỏa long ấy cho Công chúa làm chi, cho đêm nay nó tới đốt dinh trại, và mấy chục muôn nhân mã của Đông Tề, không phép chi mà sống đặng. Nghĩ như vậy, trong lòng lại thêm bối rối, nước mắt tuôn dầm dề, không biết mưu kế chi mà tính nữa. Chúng tướng thấy vậy, đều quỳ lạy, mà xin tỏ nguyên do. Quốc mẫu thuật hết các việc Công chúa sẽ đốt dinh mình cho chư tướng nghe, thì thảy đều rúng động, la khóc vang rền, Điền Năng thấy vậy, vỗ tay mà cười lớn. Quốc mẫu cả giận truyền quân bắt tới hỏi rằng:
- Đồ súc sanh! Mày không sợ chết hay sao?
Điền Năng tâu:
- Loài sâu bọ còn muốn sống thay, lựa huống chi người?
Quốc mẫu hỏi:
- Vậy chớ mày cười Ai gia việc gì đó?
Điền Năng tâu:
- Nước Tề với nước Yên, thế bất lượng lập, nay Quốc mẫu đánh tay, đã biết rõ thế thời, dầu cho tôi có khóc sáng đêm nay đi nữa mà có sống được chăng? Vì vậy cho nên tôi cười. Sau đây tôi xin nhắc lại, vậy chớ ngày trước Quốc mẫu khảy được câu Ngẫu Tư cầm và phục loài yêu quái, thần thông quảng đại, tiên phật phò trì, bây giờ mấy vị đó đi đâu mất hết đi, sao Quốc mẫu không thỉnh các ổng xuống mà cứu độ, đặng phá phép Hỏa Long của Yên Đơn Công chúa?
Quốc mẫu nghe hết mấy lời, thì gật đầu cả đẹp, liền hối Điền Năng với Vương Hữu rằng:
- Hai ngươi hãy mau đem quân ra trước dinh, coi dốc sức đào đất cho đặng chừng ba mẫu tròn, làm như cái hồ rồi lấy đất đó đắp cao lên làm một tướng đài, mà đặt ra bốn mươi chín cái ghế trác tử vào bốn góc đài để bốn hũ nước hoa, cùng lựa lấy tám đứa con trai, tám người con gái cho tinh sạch, mỗi góc bắt trấn bốn đứa, hai trai hai gái, cùng dặn chúng nó, hễ khi nào thấy có lửa Yên cháy sáng, thì nó cầm mỗi đứa một nhành dương liễu, mà hươi động liền liền. Còn trước mặt dinh, thì đặt tám người ở truồng, cùng tám hũ nước cũng theo hàng, chừng thấy Hỏa Long bay tới, thì cứ múc nước trong hũ ấy mà tưới lên.
Hai tướng vâng lịnh, trong giây lát làm rồi, trở về phục chỉ cho Quốc mẫu hay. Chung Quốc mẫu lại sai Điền Thường và Điền Năng dẫn hai mươi muôn binh đi mai phục phía trước dinh Yên, chờ thấy lửa đỏ lên, thì đánh vào Yên dinh, bắt cho đặng Yên Đơn Công chúa, còn Thanh Long dẫn theo một muôn binh mai phục bên tả, Thanh Hổ cũng dẫn theo một muôn binh mai phục bên hữu nơi dinh Yên, hễ thấy lửa đỏ, thì xông vào mà choán dinh Yên cho đặng. Bốn tướng lãnh mạng đi rồi, Quốc mẫu lại sai Vương Hữu và Quản Thọai Hoa dẫn hai muôn binhmai phục trước dinh mình, chờ binh Yên đến, bất cho đặng Tôn Long và Cao Kim Định, Trang Bạo cũng lãnh một muôn binh đi mai phục phía sau núi, chờ cho lửa đỏ lên thì đánh tới hậu dinh Yên, mà cướp lương thảo, còn phần Tống Hinh thì ở thành giữ gìn dinh trại. Phân khiến xong rồi, Quốc mẫu tắm gội xong xuôi mới vẽ ra một lá phù đốt lên, bỗng thấy bốn vị Long Thần ở trên thinhkhông sa xuống, Quốc mẫu chào hỏi và nói rằng:
- Nay có Yên Đơn Công chúa dùng phép Hỏa Long đốt dinh trại ta, xin chư thần dâng nước làm mưa, mà giữ bốn phía thành chớ cho sơ thất.
Bốn vị Long thần lãnh mạng lui ra, Quốc mẫu lại đốt một đạo linh phù khác nữa, đòi hết Nhị thập bát tú, Tứ đại kim cang, Tứ bộ lôi thần và Tứ bộ thiên vương, đều tụ đến tướng đài giúp việc; lại đòi Điếu Khách tinh quân dạy phải làm lõa thể đội một bồn nước, mà trấn tướng đài, chư thần thảy đều nghe lịnh, ai lo theo công việc nấy.
Qua tới canh ba, Yên Đơn Công chúa lên tướng đài, đốt hương vái bà Hỏa Long thánh mẫu, rồi lấy ra một cái Hồ lô, miệng niệm chân ngôn, tức thì 500 con Hỏa Long tủa ra hừng trời, nhắm hướng bay qua hinh Tề đốt phá; chẳng dè bên Tề có bọn chư vị thánh thần đương coi giữ, bỗng thấy Hỏa long bay tới, Long vương thì dâng nước biển lên, Kim cang thì đón đường lại. Lôi thần thì làm sấm nổ vang trời. Phong bá, làm gió sông thổi tới. Võ sư làm mưa xuống, Điếu Khách thì uế trược và ngậm nước phun lên, còn chư vị tinh quân đều cầm bửu kiếm mà đuổi Hỏa long. Hỏa long đã bị mưa gió, lại bị thánh thần đánh đuổi, thế vào dinh Tề không nổi, túng phải quay trở ngược về. Phong Bá lại nổi gió lớn đuổi nà theo, Công chúa thấy Hỏa long trở lại thì cả kinh, lật đật lấy Hồ lô ra, giở nút thâu vào, không dè Hỏa long chưa đốt được ai, nên sức hơi lửa còn mạnh, nên không chịu rút vào hồ lô, lại quay đốt binh Yên, lửa đỏ sáng trời, quân sĩ kêu la dậy đất, Công chúa lật đật niệm thần chú, mới thâu đặng phép vào hồ lô. Khi ấy quân Yên đang xúm nhau chữa lửa, bỗng thấy binh Tề bốn phía hò hét đánh vào. Thanh Long thì đánh với Nguyên Võ, Thanh Hổ thì đánh với Thần Võ, Quản Thọai Hoa , Vương Hữu thì đánh với Cao Kim Định và Tôn Long. Trong lúc hoảng hốt ấy, quân Yên la khóc inh ỏi vang trời, mạnh ai nấy chạy, Tôn nguyên sóai thấy dinh mình đà bị cháy, binh Tề lại đánh vào, bèn thâu góp tàn quân, hiệp với Công chúa, vừa đánh vừa lui. Khi Công chúa lui vừa khỏi vòng vây, lại thấy Chung quốc mẫu dẫn tới một đạo binh chận đánh nữa. Hai đàng bèn hổn chiến, suéc cũng còn hãy cầm đồng. Quốc mẫu lấy ra một món bửu bối anh linh, kêu là Tụ hồn binh, mà liệng lên trên không, xảy thấy khói đen mịt mịt, gió phát ầm ầm, lại có một vừng hắc vân nhắm ngay đầu Công chúa gần sa xuống, không dè Công chúa là một vị địa tiên giáng sanh, có hồng quang hộ thể, nên hắc khí sa xuống không được, cứ xẩn vẩn trên không, rủi đâu Tôn nguyên sóai và Tôn Hổ cũng vừa tới đó, hắc khí thấy có bóng phàm nhân liền sa xuống, thâu hết hồn phách cả hai cha con, té nhào xuống ngựa, Công chúa xem thấy cả kinh, liền chạy lại tiếp cứu, thì đã bị binh Tề bắt mất rồi, Công chúa hết sức tức giận, bèn lấy cây Thiểm lôi chùy mà liệng lên, ( cây chùy này thiệt là lợi hại), Quốc mẫu thấy thần chùy vừa xuống, thì độn thổ trốn đi, thần chùy đánh trúng binh Tề, lớp lớp chết như kiến cỏ; quân Yên thừa thế ấy rượt theo, đuổi ra khỏi dinh mình, rồi cũng trở lại. Trong lúc hỗn loạn ấy, quân Yên bắt được tướng Tề là Điền Thường, Điền Năng với Trang Bạo , thì trời cũng vừa gần sáng, hai đàng cũng thâu binh về nghỉ.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi ba mươi hai - THIỂM LÔI CHÙY, QUỐC MẪU VONG MẠNG
THIỂM LÔI CHÙY, QUỐC MẪU VONG MẠNG
TÚY VÂN SƠN, CÔNG CHÚA BỊ CẦM
Rạng ngày, Công chúa thấy dinh trại bị cháy mất phân nửa, còn chồng con lại bị bắt hết rồi không biết kế chi mà tính. Hồi lâu nghĩ ra một kế, bèn kêu Cao Kim Định tới bảo rằng:
- Con phải dẫn ba viên đại tướng Tề mà trả và nói với Chung quốc mẫu xin đổi cha con ra.
Kim Định lãnh mạng dẫn ba tướng thẳng qua dinh Tề. Còn Chung quốc mẫu khi độn thổ về tới dinh, thấy nội thành không hề phi sơ chi hết, bèn kiểm điểm tướng sĩ thì mất hết ba viên. Chung quốc mẫu còn đang ngồi lo liệu, bỗng thấy quân kỳ bài vào báo:
- Bên dinh Yên sai một viên nữ tướng sang dinh Tề có sự cơ mật.
Quốc mẫu cả mừng bèn truyền lệnh cho vào. Kim Định vô đến dinh ra mắt Chung quốc mẫu rồi tâu rằng:
- Yên Đơn công chúa sai tôi đem ba vị đại thần qua mà xin đổi Tôn phò mã với Tôn Hổ, xin Quốc mẫu định đoạt.
Chung quốc mẫu cả mừng, liền truyền thả Tôn phò mã với Tôn Hổ ra, hai cho con Tôn Tháo liền từ biệt Chung quốc mẫu đi với Kim Định trở về dinh mình. Công chúa nghe tin chồng con đã về, lật đật chạy ra nghinh tiếp.
Qua ngày sau Công chúa đòi Kim Định vào dạy hết mấy câu thần chú rồi đưa cây thần chùy cho và dặn rằng:
- Cây chùy này lợi hại lắm, con hãy đem nó theo mai phục nơi bên rừng, chờ cho mẹ dẫn dụ đặng con Chung Vô Diệm vào thì con hãy liệng cây chùy này lên và đọc thần chú mà hại nó mới xong.
Kim Định lãnh mạng. Công chúa liền nai nịt lên ngựa, phát ba tiếng pháo thẳng tới dinh Tề khiêu chiến. Quân kỳ bài vào cho Chung quốc mẫu hay, Quốc mẫu nhớ lại ngày trước Thánh mẫu có nói ngày nay là ngày tai họa mình tới. Nhưng vậy mà số trời đã định, sống thác có kỳ, chạy đâu cho khỏi. Nói như vậy, song cũng cầm đao lên ngựa nhưng sắc mặt có ý buồn rầu. Chung quốc mẫu khi ấy khiến Quản Thoại Hoa dẫn ba nghìn quân cung tiễn ra lược trận, rồi phát pháo đề binh, mở cửa thành xông ra đối chiến. Yên Đơn công chúa khi thấy Chung quốc mẫu thì chào rằng:
- Quốc mẫu bình an hé, tôi đợi ở đây đã lâu.
Chung quốc mẫu cười và nói rằng:
- Sao công chúa thuận theo lòng trời, đặng cho khỏi tàn hại sinh linh, chớ để cho đến thế đáo đầu rồi công chúa dầu có ăn năn thì đã muộn.
Công chúa nghe bấy nhiều thì cả giận, bèn nói rằng:
- Ta quyết ngày nay ra giao chiến, bắt cho đặng nàng mới đành dạ.
Nói rồi hơi cây kim sóc đâm đầu, Quốc mẫu đưa đao ra đỡ. Hai nàng đánh vùi với nhau có hơn hai trăm hiệp, mà chưa phân thắng bại, công chúa đã sắp đặt mưu kế trước xong rồi, nên đến chừng đó đâm bậy một sóc rồi quày ngựa chạy mù như gió, Quốc mẫu cũng giục ngựa đuổi theo, chạy vừa tới rừng tòng rậm rạp, Cao Kim Định xem thấy lấy cây chùy liệng lên và niệm bảy lần chân ngôn, còn Chung quốc mẫu cũng hở cơ, trước mặt ngó theo Yên Đơn công chúa, sau lưng nào biết có tiểu nhân, đến khi thấy hào quang sáng lòa đã gần đánh xuống thì mới độn thổ, mà không kịp nên bị cân thần chùy đánh trúng sau lưng, té nhào xuống ngựa chết liền. Công chúa liền nhảy ngựa lại,vừa muốn ra tay, thì bị ba ngàn quân cung tiễn của Quản Thoại Hoa bắn ra một lượt nên công chúa lại gần không được, quân Tề áp tới cướp thây Chung quốc mẫu đem về dinh. Khi ấy chúng tướng Tề đều nhóm lại kêu khóc vang trời dậy đất mà cũng không thấy tỉnh lại nằm dài thiêm thiếp thả hồn chơi tiên cảnh, còn xác hãy còn thoi thóp thôi.
Lúc này Lê San Thánh mẫu đang ngồi trong Tử tiêu cung, bỗng thấy trận gió thổi qua liền đánh tay xủ quẻ thì biết Mão đoan tinh đã bị Yên Đơn công chúa đánh nhằm một chùy, hồn gần lìa xác, bèn lật đật kêu sáu vị tiên cô dạy lấy thuốc linh đơn, và các món bửu bối, đằng vân theo với mình xuống Trâu bình quan mà cứu Chung Vô Diệm. Khi Thánh mẫu cưỡi hạc đằng vân vừa tới dinh thì nàng Trần Tam Thơ đã sa mây xuống trước và kêu Tề tướng bảo ra nghênh tiếp. Thánh mẫu và sáu vị tiên cô nhập thành rồi, thẳng vào hậu dinh, xem thấy Chung quốc mẫu còn nằm thiêm thiếp như người chết chưa chôn thì Thánh mẫu rơi lụy mà nói rằng:
- Cuộc đời phù sanh như thế, danh lợi mà chi, nếu không có sư phụ đến đây thì tánh mạng con đâu còn dương thế.
Nói rồi truyền quân lấy nước giếng mài một hườn linh đơn, cạy răng Chung quốc mẫu đổ vào, lại lấy ra một hườn nữa mài mà thoa nơi chỗ bị thương, giây phút Chung quốc mẫu tỉnh hồn, mở mắt ra xem thấy Thánh mẫu và sáu vị tiên cô bèn lật đật trổi dậy, xuống quỳ lạy tạ ơn cứu tử. Thánh mẫu đỡ dậy và nói rằng:
- Đồ đệ hãy bảo trọng thân thể, ấy là tai nạn của con, phải bị như vậy. Ngày mai đây là ngày hai mươi ba, Yên Đơn hãy còn dẫn binh tới đốt dinh của con nữa, vậy thì đồ đệ chia quân ra an dinh chỗ khác một nửa, còn một nửa thì mai phục bốn phía mà thủ thành, còn bao nhiêu dinh trại kia thì bỏ không, để mặc tình cho nó đốt,sư phụ đã có tiên pháp mà thâu phục nó.
Nói rồi liền kêu Trần Tam Thơ dặn rằng:
- Ngày mai ngươi hãy dời bốn tòa thiên sơn này mà vây khốn Yên Đơn lại, còn Hứa Hùynh Tiên giữ cái Tịnh thủy lưu ly, niệm sáu chữ chân ngôn mà thâu phép Hỏa long, Hồng Tiên Nữ cầm cây lão vân tiên đừng cho Yên Đơn đằng vân trốn thoát, Công Tôn Tiên dùng cái Phá hồng kiểng đừng cho Yên Đơn độn thổ mất đi, Hồng Duyên Tiên lấy Khổn tiên thằng mà bắt Yên Đơn cho đặng, còn Vương Thanh Tiêu lãnh cây tru tiên kiếm mà chém Yên Đơn, như chém nó không đứt đầu thì thôi, đừng là hại nó nữa. Các lời ta đã dặn ân cần, chúng bây ở lại mà giúp Đại thơ cho thành công và thâu phục Yên Đơn đặng rồi thì phải mau mau trở về động.
Sáu vị tiên cô vâng lệnh, Thánh mẫu lại dặn Mão đoan tinh rằng:
- Rồi đây, bên Sở dấy động binh đao, Thập sát tinh quân nó có dùng mũi tên độc, đồ đệ hãy ghi vào dạ mà giữ mình đừng quên lời thầy dặn.
Chung quốc mẫu cúi đầu lạy tạ. Thánh mẫu liền cưỡi hạc đằng vân bay về động. Chung quốc mẫu khi ấy sai Điền Năng lên núi Túy Vân, sửa sang lại một chỗ cho thanh tịnh cũng như kiểu Bồng lai rước sau vị tiên cô lên đó mà an trú.
Nói về Yên Đơn công chúa đến ngày hai mươi ba nhóm chúng tướng lại, phân cắt việc giao binh, khi ấy Phò mã với Tôn Hổ lãnh mười muôn kéo qua dinh Tề phía hữa, Tôn Long và Kim Định cũng lãnh mười muôn binh dẫn tới dinh tả, còn công chúa bổn thân cũng dắt một đạo binh kéo tới tiền dinh. Khi ba đạo binh đến nơi, công chúa liền niệm chân ngôn, đưa Hồ lô lên, năm trăm con Hỏa long bay ra, thẳng và dinh Tề đốt tứ phía, lửa dậy hừng trời, khói lên đen ngắt, mà không thấy binh Tề động tịnh chi hết. Công chúa liền giục binh áp tới đánh vào trung dinh cũng không thấy ai, thình lình bỗng nghe súng nổ vang trời, quân reo ỏi đất mà cũng không thấy người đâu, Công chúa bèn cả nghi mà nghĩ rằng: Nếu vậy thì Chung Vô Diệm đã chết rồi nên Tề tướng sợ ta phóng hỏa mới kéo binh lên trốn nơi núi Tùy Vân mà lánh nạn đây; vậy để ta lên đó thử coi, mới tỏ căn do dường cho biết. Nghĩ rồi bèn thâu phép liền giục ngựa thẳng tới núi Túy Vân.
Khi công chúa đi được một đỗi bỗng thấy có tướng Tề ấp ra vây phủ, bên tả thì Điền Thường, bên hữu thì Thanh Hổ, trước mặt thì Vương Hữu, sau lừng thì Quản Thoại Hoa. Công chúa một mình tả xông hữu đột đánh với bốn tướng giây lâu, bốn tướng đều quảy ngựa bỏ chạy, công chúa giục ngựa đuổi theo bỗng thấy trước mặt có hai lá cờ đỏ giăng ngang, thì bốn tướng và hốn túy Vân đều mất hết, công chúa khi ấy vừa muốn quày ngựa tháo lui, lại sau lưng cũng thấy một hòn nui khác, chận bít đường. Công chúa đang khi ngẩn ngơ, giây phút bốn phía núi non muôn trượng bao giăng thế chẳng khác như người sa vào đáy giếng, công chúa lấy làm lạ, chẳng biết núi ở đâu sanh ra muôn trùng cao vót, bèn kín miệng niệm chân ngôn muốn đằng vân mà bay lên thì mình nặng như đeo đá bay lên không nổi, bèn niệm chú độn thổ thì đất cứng tựa sắt không lỗ mà chui vào đâu. Công chúa đứng tư tưởng hồi lâu bèn sa nước mắt kêu chồng mà than khóc rằng:
- Phò mã ôi! Thiếp chẳng dè trong một phút hai ngã rẽ phân, thiếp chẳng thoát đặng chốn này, vậy chàng nếu có bình an xin hay dắt con thơ về nước, mà phò hộ cho cha già, kẻo hiu quạnh.
Than khóc rồi, lại vái cúng trời phật xin phò trì, như phen này dầu có biệt ly nguyện kiếp sau tái ngộ.Chung quốc mẫu khi ấy ở trên đỉnh núi, nghe hết mấy lời của công chúa than thở liền niệm chú hô thần, đòi Thổ địa tới, bảo phải làm như vậy như vậy… Thổ thần vâng lệnh hóa ra một tên mục đồng, chăn giữ một bầy trâu, vừa đi vừa hát nghêu ngao trên đỉnh núi. Công chúa nghe vẳng tiếng người liền kêu xin cứu mạng. Mục đồng đứng trên hòn đá lớn hỏi rằng:
- Ai đó, ai đó? Có phải loài yêu quái muốn bắt trâu ta chăng?
Công chúa đáp:
- Tôi vốn thiệt người lành, chẳng phải yêu quái, tên tôi là Yên Đơn công chúa vì theo giặc Tề, nên lạc nẻo nơi mới tới đây, xin người ra ân cứu tử; chừng tôi mà về nước đặng rồi, tâu cùng vương phụ phong cho đó làm chức Trị điện tướng quân.
Mục đồng nói:
- Không dám đâu, tôi vốn thiệt Tề bang dân thứ, có lẽ nếu đi cứu tử cho cừu nhân, tôi e sau vua Tề hay đặng căn duyên ắt bị tru di tam tộc, ấy là Trị điện tướng quân đâu chưa thấy chức mà tai ương trước mặt đã mạng vong.
Công chúa nói:
- Khuyên đó hãy giúp công chớ đem lòng nghi ngại, nếu chừng ta đặng về quan ải, thì ta cho kẻ đến rước gã về cung, dẫu Tề vương có tai mắt đi chăng nữa cũng không hay không thấy.
Nói về khi mục đồng nghe công chúa Yên Đơn năn nỉ các điều thì đáp rằng:
- Rất tốt! Rất tốt! Nhưng mà xin người bỏ hết thương mã đi và nương lấy mối dây này, mới đặng toàn thân trọng. Vả lạ bốn phía núi cao vọi vọi mà một tôi làm sao cứu đặng cả người cả ngựa.
Công chúa nghe nói thì thương tiếc con ngựa vô hồi, bèn rơi lụy than thở với ngựa rằng:
- Ngựa ôi! Hai mươi năm dư mi vì ta, mà phải lìa mi tại chốn này, mi có biết chăng?
Nói rồi khóc òa với con ngựa! Kế đó mục đồng ở trên thôi thúc nói rằng:
- Nếu người chẳng khứng bỏ con ngựa hay thì ta kíp đi chăn bầy trâu hoang của ta kẻo mất hết.
Công chúa nghe nói cực chẳng đã mới lìa con ngựa ra, mục đồng xem thấy thả dây thòng xuống, công chúa nắm lấy mối dây cột vào lưng rồi mục đồng ra sức rút lên đến nơi, tức thì lại hóa ra một bầy khỉ miệng lớn, con mắt đỏ lông lá dài lượt thượt chạy lại áp cắn sợi dây mà dành xé. Công chúa khi ấy ngó lại thì đã mất mục đồng, còn bầy khỉ ở đâu tựu tới đương nhe răng múa mỏ. Công chúa thấy vậy là tâm thần bải hoải, mặt mày ủ ê, nước mắt ra dầm dề, thoạt đâu Chung quốc mẫu giục con thần cu chạy tới, chào ra hỏi rằng:
- Công chúa mạnh giỏi hé? Vậy chớ công chúa làm gì mà ở chốn non xanh một mình vậy? Công chú có biết ta là ai chăng?
Công chúa nghe hỏi liền lau nước mắt mà ngó lên, thấy Chung Vô Diệm, bèn hỏi lại rằng:
- Chung xủ phụ! Nàng còn sống đó hay sao? Hay là nàng làm ma mà nhát ta vậy?
Chung quốc mẫu đáp:
- Tôi có chết đâu. Nay tôi quyết tới đây lấy đầu nàng, đem về dâng Tề chúa.
Nói rồi kêu Hồng Duyên tiên, khiến liệng sợi dây Khổn thiên thằng lên, bỗng thấy hào quang chiếu rạng tức thì có thần Huỳnh cân lực sĩ áp đến bắt công chúa mà trói lại. Rồi đó mấy tòa thần sơn cũng biến mất, Quản Thoại Hoa bèn lượm lấy thương, ngựa của công chúa, rồi dắt công chúa thẳng đến Lư Bồng sơn hầu lệnh. Lúc ấy sáu vị tiên cô thảy đều mừng tiếp, Chung quốc mẫu nói với công chúa rằng:
- Ta đã bao phen khuyên nàng thâu binh về nước mà nàng không chịu nghe lời, nàng tại tế Hỏa long mà đốt dinh trai ha tai phen, lại dụng thần chùy một lần mà sát tử ta nữa, nay nàng đã vào tay ta rồi quyết chém lấy đầu cho biết mặt.
Chung quốc mẫu nói thì nói vậy, song nháy các tướng biểu dụ công chúa hàng đầu mà công chúa cũng chẳng nghe, cứ nằng nằng mộ thác mà thôi. Chung quốc mẫu nổi giận truyền quân dắt xuống Lư Bồng, giao cây Tru tiên kiếm cho Quản Thoại Hoa xử quyết, Thoại Hoa vâng lệnh dẫn Yên Đơn xuống dưới đất bằng chém ba gươm đầu cũng không văng, lại thấy có một đạo hồng quang hộ thể rất lạ thường, Quản Thoại Hoa thấy vậy, bèn dẫn trở lại về phục chỉ. Khi ấy tiên cô là Trần Tam Thơ bước tới nói với Chung quốc mẫu rằng:
- Vì Yên Đơn lục giáp hoài thai, quả là một vị Đại la tiên giáng thế, sự ấy rất quan hệ, ngày sau thiệt là Tề quốc đồng lương, ít lời tỏ thiệt cho Nương nương hay, hãy ta tính kế lo phương hòa hiệp.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi thứ ba mươi ba - Chung quốc mẫu chỉ bụng làm sui
Chung quốc mẫu chỉ bụng làm sui
Yên Công chúa khóc cha chết giấc
Chung quốc mẫu khi nghe mấy lời Trần Tam Thơ nói, vội vã bước xuống mở trói cho công chúa, rồi rước lên Lư bồng mà xin lỗi. Sáu vị Tiên cô cũng đều tựu lại ra mắt công chúa và khuyên giải giây lâu, công chúa mới chịu, tám người đồng ngồi chuyện vãn với nhua. Chung quốc mẫu hỏi:
- Chẳng hay công chúa hoài thai đã đặng mấy tháng?
Công chúa đáp:
- Kể từ ngày hoài dương đã được bảy năm tròn.
Chung quốc mẫu nghe vậy liền đánh tay bấm quẻ, thì biết rằng trời phò hộ Tề bang ngày sau công chúa sanh được một trai đặt tên là Tôn Tẩn người đã tinh thông pháp lực lại cốt cách thần tiên, giúp Tề vương đồ sộ vững bền, tài thao lược danh vang lục quốc. Bây giờ ta phải tính trước, giao lời hứa về sau mới đặng. Nghĩ rồi bèn nói với công chúa rằng:
- Sự cừu hận đành bỏ biệt, nghĩa chị em gắn chặt keo sơn, ngày sau dầu chị sanh đặng ái kiều, tôi sẽ rước qua Tề làm Chiêu Dương hoàng hậu còn nếu sanh ra công tử cũng phải cho qua tá trợ Tề vương, xin chị hãy bằng lòng đặng cho em vui dạ.
Công chúa nghe mấy lời Chung hậu nói thiết cố liền đứng thưa rằng:
- Nương nương đã có bụng muốn tôi nỡ đâu cãi lời.
Chung hậu cả mừng liền truyền quân đặt bàn hương án ra giữa trời van vái, hai người thề nguyện xong rồi, dắt tay vãn Lư bồng bày tiệc chay ra mà trò chuyện với sau vị Tiên cô. Khi ấy Chung hậu lại có đưa cho công chúa một hột ngọc bạch bích làm tin rồi tám vị ân cần chuyện vãn.
Đây nói về Tôn nguyên soái, to, Tôn Long và Kim Định khi dẫn binh đánh vào dinh Tề, đốt phá tan hoang mà không thấy một ai ở đó, mấy cha con đương đi kiếm địch dáo dác, giây lâu binh Tề ở đâu không biết ào ra dẫy đầy bốn phía, Kim Định liền niệm chú hô phong, cát bay mịt mù, binh Tế thấy vậy thất kinh, mở vây chạy càn, đạp nhau chết thôi liều yếu. Mấy cha con Tôn Tháo thừa thắng rượt theo hơn mấy dặm xa mà không thấy công chúa bèn ngó tới phía trước nữa, thấy có một tòa núi nguy nga hiểm trùng, Tề binh đem nhau chạy lên đó. Tôn nguyên soái rất nghĩ cho công chúa vì một mình một ngựa mà vào nơi hiểm địa, e chắc khó lòng bèn giục ngựa chạy rượt theo lên đến giữa núi thì bị binh Tề đón đánh chẳng cho lên.
Lúc ấy Chung quốc mẫu, Yên Đơn công chúa và sáu vị Tiên cô đương ngồi đàm luận, bỗng có quân kỳ bài lên báo rằng:
- Có một đạo binh Yên dẫn đầu ba viên đại tướng, áp đánh giết binh Tề, đã theo lên đến nửa triền núi rồi, xin Nương nương định đoạt.
Chung hậu nghe báo thì cười và nói rằng:
- Nếu vậy đạo binh này chắc của Tôn nguyên soái đi kiếm Thơ thơ đây, vậy để cho em ra đó nghinh tiếp người vào dinh đàm luận.
Công nghe nói liền đứng dậy đáp rằng:
- Lang quân tôi tánh tình nóng nảy lắm, nếu gặp Nưong nương e sanh sự bất hòa, vậy xin để cho tôi ra rước, đặng phân trần điều hơn sự thiệt đã.
Chung hậu y lời, công chúa lên ngựa xuống núi, cha con Tôn Tháo gặp mặt thì mừng rỡ vô hồi hỏi đâu đuôi tự sự. Công chúa nghe hỏi thì rơi lụy rồi thuật lại hết từ khi đánh vào dinh Tề cho tới lục bị bắt dẫn ra chém làm sao đều thuật hết, rồi phân rằng:
- Nhưng vậy mà may, đã kết nghĩa chị em, tình đồng như cột nhục.
Cha con Tôn Tháo và Cao Kim Định nghe nói cả kinh, muốn một trận tử sanh, đặng trả thù cho công chúa. Công chúa nói:
- Không sao đâu! Ta từ nhỏ tầm sư học đạo, đến mười tám tuổi hạ san, đã từng nhiều trận gian nan mà chưa thấy ai như Chung Vô Diệm, đã thần quảng đại, lại pháp lực cao cường, chúng ta chẳng phải tay địch thủ đâu, đừng làm vơ mà mang họa. Vả lại đã kết nghĩa làm cốt nhục, thề nguyện với đất trời rồi, nếu ai nói sai lời, thời chẳng khỏi tử về đao kiếm.
Tôn Long, Tôn Hổ nghe mẹ nói thì hầm hầm nổi giận, Kim Định cũng dạ bất bình, quyết một trận giao chinh, cho rõ tài cao thấp. Tôn Tháo nói:
- Mấy con đừng khua mõ, đem sự chết tới mình. Cha nghĩ lại. Pháp lực như mẹ con kia mà còn không làm lại huống chi là mấy con. Thần chùy đánh nó không chết. Hỏa long đốt nó trơ trơ, võ nghệ rất đỗi như cha đây cũng bị cầm hai lượt, nay mẹ con cũng bị bắt nữa, lại đã có giao kết với người rồi, phần trong mình mẹ con có thai nghén, sự gái trai cũng chưa hay, đến nay thức thời vụ như vầy mới gọi là hào kiệt. Bây giờ cuộc oán thù đã hòa hiệp làm ái ân, trước là hai nước giao lân, sau lại muôn dân an lạc.
Đang khi bàn luận, bông nghe lạc ngựa xa xa, phút chốc thấy một viên nữ tướng mặc bạch giáp, tay cầm cây Cang đao, mình cưỡi con đào hoa mã, anh em Tôn Long vừa muốn đưa thương ra đánh, Công chúa trợn mắt và nói rằng:
- Chúng không được động thủ, người ấy là một vị tiên phong của Chung quốc mẫu sai ra, tên là Quản Thoại Hoa đó.
- Tôi vâng ý của Chung nương nương tới thỉnh phò mã với công chúa cùng hai vị công tử lên thảo dinh đàm luận.
Tôn nguyên soái y lời, Thoại Hoa trở về phục chỉ. Chung hậu bèn nói với sáu vị tiên rằng:
- Tiên phàm khác tục, vậy xin mời sau vị ra sau Lư bồng an nghỉ.
Sáu vị tiên cô đáp:
- Nay đại sự đã thành rồi, chị em tôi xin phản hồi động, như có gì bất trắc nữa, thì chị em tôi sẽ xuống giúp cho.
Chung hậu cầm lại không đặng, sáu vị Tiên cô đằng vân bay về Lê San điện. Kế đó Chung hậu truyền quân bày khay đội ngũ ra nghinh tiếp Yên binh, Tôn phò mã và công chúa xuống ngựa đáp lễ, rồi đồng vào dinh phân ngôi chủ khách mà ngồi. Chung hậu đỡ công chúa dậy mà rằng:
- Một ngày đã kết nghĩa chị em, sách có câu Thuần xỷ chi hạng, xin chị chớ nghi nan em giúp cho mười muôn binh mà trước để báo thù cho vương bá, sau là phục cực giang san. Yên ban mà vững đặt âu vàng, thời Tề quốc cũng bền chung.
Công chúa cúi đầu từ tạ, Nương nương giải ra về, cha con Tôn phò mã và công chúa cũng đã huề, đưa Quốc mẫu ra khỏi dinh rồi mới trở lại.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi Thứ Ba Mươi Bốn - NƠI TRƯỜNG ĐÌNH, TUYÊN VƯƠNG RƯỚC VỢ
NƠI TRƯỜNG ĐÌNH, TUYÊN VƯƠNG RƯỚC VỢ
TRIỆT LONG SAN, TIẾT CÔN PHẢN VUA
Khi hai vợ chồng phò mã đưa Chung hậu về ải rồi, trở vào dinh, kiểm binh mã, và truyền lệnh quày hiếu cư tang, áo trắng, cờ trắng tướng sĩ một lòng chờ binh Tề qua thì nhổ dinh về nước.
Khi Chung hậu từ biệt hai vợ chồng phò mã trở về dinh, liền tra điểm mươi muôn binh ròng và lựa tam viên tướng giỏi, sai qua giúp cho công chúa. Phò mã bèn kiểm duỵêt họ tên binh tướng của Tề, biên vào sổ sách xong rồi liền truyền lệnh nhổ trại phát pháo thẳng tiến tới Đức Hưng quan, hiệp với Cao Khôi kéo trở về nước.
Nói về Chung hậu nghe bên dinh Yên phát pháo, thì đã biết công chúa hồi binh rồi, bèn truyền chỉ cho tam quân mình, sửa soạn ban sư và giao các việc cho Điền Thường và Điền Năn coi giữ quan ải. Chung hậu sắp đặt sau trước xong rồi, khiến phát pháo khi thành, chỉ thẳng Lâm trí mà trở lại. Lúc này vua Tuyên vương lâm trào, có quan Huỳnh môn vào tâu rằng:
- Nay Chung mẫu hậu đắc thắng, đã ban sư hồi trào, cách vương thành chẳng có xa, xin Thánh hoàng định đoạt.
Tuyên vương nghe tâu có ý buồn, bèn nghĩ thầm rằng: Ta tưởng sai con xủ phụ ra binh chuyến này đã nạp mạng cho hai vợ chồng Tôn Tháo rồi, không dè nay nó lại bình đặng Yên bang, làm cho ta tấc dạ bàng hoàng, chẳng biết kế chi mà toan liệu. Bụng đang suy nghĩ, thấy Yến thừa tướng bước tới tâu rằng:
- Chung quốc mẫu dẹp an Yên tặc, có công lao bình định giang san, xin Thánh hoàng ngự giá thân nghinh nơi Đình dịch, như vậy mới vui lòng kẻ xông tên đục pháo, đặng phò tá Tề bang cho đồ sộ vững bền, xin Thánh thượng đi theo ngu thần sở tấu.
Tuyên vương nghe phải cả đẹp bèn truyền cho văn võ bá quan, sắm sửa long xa phụng tán, phát hai mươi bốn tiếng pháo dẫn nhau ra cửa Tây môn, đi chừng mười dặm, đến nhà trường đình trú lại mà đợi.
Chung hậu nghe tin Tề vương thân nghinh thì nghĩ thầm rằng: Hôn quân này thiệt khéo làm bộ, lúc trước ta suất sư thì đăng đàn bái tướng, ngày nay ban sư lại ngự giá thân nghinh, ngoài mặt thì làm bộ đa tình, mà trong ruột dường như dao cắt. Chung hậu vừa đi vừa nghĩ, chẳng bao lâu tới Dịch đình, khi ấy Tề vương liền truyền cho văn võ, sắp ra hai hàng mà tiếp rước. Chung hậu vừa tới xuống ngựa tâu rằng:
- Thần thiếp giáp trụ nơi mình, không đặng trọn lễ, xin Thánh hoàng tha tội.
Tề vương làm tuồng hơn hở, bước lại cầm tay Chung hậu mà rằng:
- Trẫm với ngự thê cách mặt đã lâu nay gặp nhau đây, thiệt đã thỏa tình hoài vọng.
Nói rồi liền dắt tay vào nhà trạm mà đãi trà, bá quan đều hầu chực hai bên, Tề vương mới hỏi Chung hậu rằng:
- Chẳng biết ngự thê xuất trận binh phục Yên ra thế nào?
Chung hậu bèn tâu hết, từ khi binh mới tới Trâu Bình quan cho đến khi bình định giao hòa và kết hôn nhân cho vua nghe. Tề vương cả mừng nói rằng:
- Trẫm có ngự thê thiệt là giang san rất có phước!
Trò chuyện rồi truyền quan bày tiệc hạ công, yến ẩm xong xuôi mới ngự giá về thành, văn võ triều bái xong rồi, Tề vương bèn truyền chỉ khao thưởng tam quân, cứ theo thứ mà thăng thưởng. Chung hậu lại thuật sự Yên bang, Tấn Anh soáng ngôi. Và có cho Yên Đơn công chúa mượn mười muôn binh, nay lại xin Tuyên vương hạ chỉ cho chủ soái Trâu Bình quan phát thêm mười muôn binh nữa, thẳng qua Dịch châu mà giúp cho công chúa, Tề vương nhậm lời tâu, giáng chỉ sai đi liền, rồi bãi chầu.
Nói về lúc Tề vương lui chầu bèn đi thẳng qua Chiêu Dương cung trò chuyện với Chung hậu, chẳng hay ngày vắn tình dài, bỗng chốc đầy trời sao sáng. Chung hậu khiến cung nga bày yến, dâng rượu cho Tề vương ít chén giải muộn. Tề vương khi ấy ngẫm nghĩ tới đó rất ưu phiền, bụng thì giận mà miệng chẳng dám nói ra, mới nghĩ rằng: Dân gian còn một chồng đôi vợ huống ta không năm thiếp bảy thê, thảm thương thay thứ hậu Cao phi. Còn Chánh hậu thời như yêu quỷ, ngó thấy mặt đà rầu rĩ, có lẽ đâu thân thỉ nài hoài, dầu nó muốn động xuân tình mà ép trước nài mai, thì ta phải dằn hỏa dục một hai từ chối, bây giờ biết tính làm sao cho khỏi, đêm nay e mắc kế con này.
Chung hậu xem mặt Tề vương có sắc buồn cũng đã biết ý, bèn than thầm rằng: Vì Thánh mẫu sai ta bình liệt quốc mà tủi cho thân bạc phận vô duyên, đêm nay thấy Tề vương bụng đã bất yên, chắc có sự ưu phiền chi đó, vậy để ta nói một hai lời chọc nó, coi ý tứ đó thế nào? Nghĩ rồi bèn kêu cung giám mà hỏi rằng:
- Bây giờ canh mấy vậy?
Cung giám tâu:
- Thưa, đã quá canh hai.
Chung hậu bèn truyền nội giám dâng rượu, rồi nói rằng:
- Đêm nay Thiên tử ngủ tại Chiêu Dương, vậy bây hãy sửa sang nệm gối.
Tề vương nghe nói hỡi ôi, mới sanh ra một kế, cười với Chung hậu mà nói rằng:
- Đêm nay trẫm muốn ở lại đây mà bồi bạn với ngự thê, song hiềm vì ngự thê chinh chiến mới về hãy còn mệt mỏi lắm! Vả lại, sự ái ân chồng vợ cho thiếu chi ngày, vậy để hôm nay cho ngự thê an dưỡng tâm thần, rồi sau sẽ vầy duyên cũng chẳng muộn.
Chung hậu nghe nói muốn tức cười và nghĩ thầm rằng:
Lão hôn quân thiệt là nhiều chuyện, trong lòng đã chết điếng mà kiếm điều nói phỉnh cũng hay. Thôi thôi, ta cũng bớt tay, để cho lão đi đâu đi cho rảnh.
Nghĩ rồi liền truyền quân nội thị sửa xoạn xe giá, đưa vua về cung. Tề vương nghe nói hết sức vui mừng thoát đặng khỏi dường như chim khỏi rập. Lúc ấy Tề vương lại giả bộ cầm tay Chung hậu mà dục dặc một cách trìu mến vô hồi! Chung hậu cũng tạ ơn và tâu rằng:
- Xin Thánh thượng chớ có đem lòng lưu luyến, hãy còn nhều ân ái về sau.
Tuyên vương gật đầu, bước lên long xa, đi qua Đông cung mà nghỉ an giấc điệp.
Qua bữa sau Tuyên vương lâm trào, văn võ bá quan triều bái xong rồi, quan Bình bộ thượng thư bèn quỳ tâu rằng:
- Nay có đảng thảo khấu ở núi Triệt Long sơn, tên là Tiết Côn, đánh phá cõi bờ, đòi mượn lương thảo rất nhiều, quan địa phương không cho và ngăn chống chẳng lại, mời cử sở về xin binh cần kíp.
Tuyên vương nghe tâu cả buồn, bèn nghĩ rằng quốc vận nước Tề đã gần suy sụp, cho nên mới sanh ra sự binh đao hoài, mới bình phục đặng Yên bang, nay lại Tiết Công tạo phản. Nó thiệt là thằng hảo hớn, chiếm nũi Triệt Long có mười mấy năm dư, cứ thường năm cho lương thực hoài, hao tổn của triều đình biết bao nhiêu vàng bạc, như vậy mà nó còn đành lòng làm ác, làm cho sĩ tốt chết oan. Nghĩ như vậy bèn hỏi các quan rằng:
- Trong ban võ bá có ai dám lãnh ấn Nguyên nhung đi trừ an giặc cỏ?
Hỏi luôn ba tiếng mà bá quan đều nín thinh, Tuyên vương cả giận phán rằng:
- Lời thánh xưa có câu: Vua xem tôi như thủ túc, tôi vua như phúc tâm, nay trẫm có sự rầu, mà bá quan không ai giùm giúp đặng chút nào hết, như vậy thiệt là bọn túi cơm giá áo, chẳng có ai xích đởm trung tâm, lúc thái bình thời nhờ quốc lộc quân ân, cơn bát loạn thảy đều co đầu rút cổ.
Yến Anh khi ấy bước ra tâu rằng:
- Xin Thánh hoàng bớt oai thạnh nộ, ngu thần tiến cử một người, trừ hung đồ như trở bàn tay, giết thảo khấu không đầy nháy mắt.
Tuyên vương hỏi:
- Vậy chớ tiên sinh tiến cử ai?
Yến Anh tâu:
- Xét trong Tề trào lương tướng ít người sánh kịp Tiết Côn, tôi nghĩ lại đường đường một vị quốc vương đâu há nhịn thua thẳng thảo khấu, nếu chẳng có tay Chung vương hậu, thì ít ai trừ đặng Tiết Kế Nguyên, xin vời vương hậu tới điện tiền đặng lo toan việc nước.
Tuyên vương nghe nói chau mày và nói rằng:
- Trẫm tưởng khanh bảo tấu ai, không dè là Chung Vô Diệm nữa. Mới đây có một chuyện khó nỗi nói ra vì bởi hôm qua trẫm với Chiêu Dương hạ tiệc, thấy Quốc hậu lòng càng tư thiết, nên trẫm phải kiếm việc tháo lui, sợ e lòng gã chẳng vui thời ta khó mở môi nói chuyện. Vả lại nó mới binh phục Yên bang, công lớn ban sư về chưa được mấy ngày dễ đâu nó chịu khó nhọc vậy hoài, sợ uổng tiếng tiên sinh bảo tấu.
Yến Anh lại tâu nữa rằng:
- Vương hậu là một vì tinh tú, chẳng phải như các ả ca nhi, xin Thánh hoàng giáng chỉ, cho hạ thần vào yết kiến Chiêu Dương.
Tuyên vương y tấu, liền viết chiếu giao cho Thừa tướng cầm đi. Khi Yến Anh tới Chiêu Dương cung, nội giám vào tâu cho Chung hậu hay. Chung hậu lật đật bước ra nghinh tiếp thánh chỉ. Rồi đi bộ với Yến Thừa tướng, thẳng tới Kim loan điện, triều bái Thiên tử. Tuyên vương vội vã xuống ngai rước Chung hậu, vợ chồng đồng ngồi nơi kim ỷ, khi ấy Chung hậu tâu rằng:
- Chẳng hay Thánh thượng cho đòi thần hậu có việc chi, hay quốc gia đại sự chi?
Tuyên vương giả cười mà nói rằng:
- Vương hâu ôi! Cô gia tài sơ học thiển, phước bạc ngôi giàu, lại trong triều không có kẻ lương thần mà ngoài nước nhiều tay nghịch đảng, còn ngự thê đã thần thông quảng đại lại thêm võ nghệ cao cường mới đây phục đặng Yên Đơn, bốn biển thảy đều nghe tiếng. Nay cô gia có một chuyện, vì Tiết Côn nó làm phản nơi Triệt Long, dầu ngự thê mà chẳng có tưởng tình xin hãy thương lấy Tề bang lê thứ.
Chung hậu nghe nói cười thầm và nghĩ rằng: lão hôn quân này thiệt nhiều lời! Lúc thái bình chê ta là yêu quỷ, tới khi có việc đòi ra năn nỉ ỷ ôi! Thôi thà để va làm đứa vô tình, đâu có lẽ mình làm thinh mà ngó vậy. Nghĩ rồi bèn tâu rằng:
- Tiết Côn là một thảo khấu, có sá chi mà làm mệt dạ Thánh hoàng, dầu nó có tám cánh bảy đầu, cũng chẳng đủ chi lo sợ.
Tuyên vương thấy chịu cả mừng bèn hỏi:
- Như ngự thê lãnh ấn thì muốn dùng bao nhiêu binh?
Chung hậu tâu:
- Đồ ăn cướp trong rừng, dùng ba ngàn binh là đủ.
Tuyên vương rất đẹp. Chung hậu từ tạ về cung, vua cũng truyền bãi trào ai về dinh nấy.
Rạng ngày, Chung hậu nai nịt lên ngựa, thẳng tới trước giáo trường, kiểm điểm ba ngàn nhơn mã, khiến phát pháo, mở cửa thành kéo binh ra. Tuyên vương cũng ngự giá tống hành và văn võ bá quan thảy đều đón đưa đủ mặt. Tuyên vương lúc ấy cầm tay Chung hậu mà nói rằng:
- Trầm cầu cho ngự thê mau dẹp an giặc cỏ kẻo trẫm ở nhà đêm ngày hòai vọng.
Chung hậu tạ ơn vua rồi tức thì chỉnh khai đội ngũ, thẳng dặm tới đất Ba Châu (thuộc về tỉnh thành Tức Mặc). Khi binh kéo đi chẳng đặng mấy ngày, bỗng đâu gần tới chốn. Quân kỳ bài khi quay trở lại báo rằng:
- Núi Triệt Long trước mặt, cách đây chừng năm dặm, xin Nương nương phát lạc.
Chung hậu nghe báo liền giục ngựa đến xem địa thế, rồi kiếm một hòn núi khác thiệt cao, mà dồn binh ra làm hai đạo, một nửa ở trên núi để coi thế giặc, còn một nửa đóng dưới triền để phòng khi cướp dinh. Đồn trú xong, Chung hậu thăng trướng, binh tướng đứng đều hai bên. Chung hậu nói rằng:
- Có tướng nào dám tới sơn trại mà khiêu chiến chăng?
Điêu Khải ra lãnh mạng. Chung hậu mới dặn rằng:
- Thằng sơn tặc này chẳng phải tay tầm thường, như tướng quân có giao chinh, phải đề phòng cho cẩn thận.
Điêu Khải dạ dạ lui ra, dẫn theo năm trăm binh, tới trước sơn trại xỉ mạ bọn lâu la mà khiêu khích.
Nói về chủ trại núi Triệt Long sơn là Tiết Côn, tự là Kế Nguyên, đang ngồi nơi Tụ nghĩa đường đàm đạo thì thấy quân lâu la vào báo:
- Tề vương sai Chung Vô Diệm tới đánh, xin trại chủ liệu bề, kẻo tướng Tề lờn dể.
Tiết Côn nghe báo nổi giận hết lớn rằng:
- Tề vương cớ sao lỗi hứa thường năm ta mượn lưong tiền, bây giờ làm sao lại ở đảo điên, cất binh mã băng miền xâm phạm? Thề bất dung nghịch tặc, quyết nhất trận thư hùng.
Nói rồi nai nịt cầm thương lên ngựa, bên tả mang cung, bên hữu đai tên, phát pháo mở cửa trại, dắt lâu la xuống núi. Hai đàng xáp trận xưng hỏi họ tên. Tiết Côn nói:
- Làm trai như ta trong liệt quốc anh hùng ai mà chẳng nghe danh, nước Tề khi dễ lắm, hứa mỗi năm đưa nạp kim ngân giờ lai sanh lòng bội bạc, hôm nay ta mà không lấy được đầu ngươi quyết không về sơn trại.
Điêu Khải nghe nói cả giận, mắng rằng:
- Đồ sơn tặc, mầy đừng khoe giỏi mà lầm phải ta, cứ thường năm xâm phạm nước nhà nên Thiên tử sai Nương nương hưng binh vấn tội, chết bêu đầu đã tới, mầy còn khua mỏ nổ gì?
Tiết Côn nghe nói phừng phừng lửa dậy, hươi thương chạy lại đâm nhau. Điêu Khải đưa đao ra đỡ. Đánh hơn ba mươi hiệp, Điêu Khải đuối sức quày ngựa chạy dài. Tiết Côn giục quân đuổi theo đâm trúng Điêu Khải một thương nhào xuống chết tốt. Tiết Côn khi ấy thừa thế đuổi giết binh Tề vỡ chạy tứ tán, bèn thẳng tới dinh Tề nói với quân tuần rằng:
- Bây hãy vào nói với Chung Vô Diệm rằng, có Đại vương ở núi Triệt Long đã tơi, xin mời Quốc mẫu ra nói chuyện, bằng không ta sẽ đốt dinh trại, một tấc cỏ cũng chẳng còn.
Quân Tề đem lời ấy vào tâu cho Chung hậu hay, Chung hậu nổi giận lôi đình, bèn hỏi các tướng.
- Có ai dám ra bắt sơn tặc ấy mà trả thù cho Điêu tướng quân không?
Hỏi vừa dứt lời, có một tướng ứng thính xin đi. Chung hậu xem lại là Vương Bao, chức hàm Hữu tiện tướng quân. Chung hậu nói:
- Vương tướng quân có xuất trận thì phải đề phòng lắm mới được.
Vưong Bao vâng lệnh, phát ba tiếng pháo mở cửa dinh xông ra. Tiết Côn xem thấy tướng Tề mình mặc huỳnh giáp, đầu đội huỳnh khôi, cưỡi ngựa Thanh tòng mã, tay cầm trường thương bèn hét lên một tiếng mà hỏi rằng:
- Tướng Tề tên gọi la gì, hãy nói mau mà chịu chết?
Vưong Bao đáp:
- Tề Tuyên vương giá tiền, Chung nương nương huy hạ, Hữu tiện tướng quân, tên Vưong Bao là ta, nay ta ra trận quyết giết cho đặng người mà trả thù cho Điêu Khải.
Tiết Côn nổi giận hươi thương đâm đùa. Vưong Bao bèn cản đánh, hai tướng giáp trận hơn bốn chục hiệp có dư. Vưong Bao biết ý đề phòng. Tiết Côn đâm bậy một thương rồi quay ngựa mà chạy. Vưong Bao nói:
- Hết khoe tài thần võ, còn đâu khua mỏ anh hùng, mới một trận giao phong đã cong lưng chạy miết.
Vừa nói vừa quất ngựa rượt theo, Tiết Côn trông thấy mừng thầm, bèn lấy ra một phép kêu là Bá luyện thần chùy ném lên trên không mà nói rằng:
- Bớ tướng Tề hãy coi thần chùy của ta đây.
Vưong Bao nghe nói, ngửa mặt lên xem, thấy ngay một đạo hào quang nhắm ngay đầu mình sa xuống. Vưong Bao hồn bất phụ thể, kế bị thần chùy đánh trúng sau lưng ngã nhào xuống ngựa. Tiết Côn lướt tới cắt đầu rồi tới trước dinh Tề mà khiêu chiến nữa. Quân kỳ bài vào tâu cùng Chung hậu rõ. Chung hậu vội vã nai nịt cầm đao lên ngựa và dẫn theo tám viên tướng cạnh cùng năm trăm quân ngựa lâm đồng xông ra trận.
Tiết Côn xem thấy nữ tướng cầm binh, hình dung cổ quái, thì biết là Chung Vô Diệm bèn nói:
- Bớ con nữ tướng kia. Có phải mà là Chung xủ phụ chăng? Như mày vậy có bao âm khí lực mà dám thượng trận thi tài, ta bảo cho hay, hãy mau trở về xách giỏ hái dâu cho an phận, chớ như ta đây mười hai nước thảy đều chạy mặt, khuyên mày đừng kể chắc mà chết chẳng toàn thây.
Chung hậu nghe thấy nổi giận nhưng xem thấy tướng giặc tuổi chừng hai tám, mà sức mạnh muôn người, mặt trắng môi hồng, mày thanh mắt lộ, thì có ý khen thầm, đánh tay bẩm quẻ, mới hay là Đông đẩu tinh quân giáng thế, nên quyết dằn lòng khuyến dụ, về phò tá Tề bang, quả thật là một vị anh hùng lương đống. Nghĩ rồi mới kêu Tiết Côn mà nói rằng:
- Bớ thằng giặc cỏ chớ phạm oai trời, tài lực chi mà mỗi năm theo đòi lương thảo, nhưng nay thiên đình đã đáo, kịp mau phục tội quy hàng, chớ nên ỷ thế dọc ngang thì ta không dung thứ.
Tiết Côn hầm hầm giận dữ, cầm thương giục ngựa tới đâm ngay. Chung hậu cũng lẹ tay đưa đao ra đỡ, hai đàng hổn chiến có dư trăm hiệp ngoài. Chung hậu cứ khen tài, Tiết Côn cũng khen thầm Chung hậu. Hèn chi bốn biển vang danh nay mới rõ tài nữ tướng, vậy quyết ý dụng tình, lập mưu trá bại.
Khi Tiết Côn lập kế xong, đâm bậy một thương giục giục ngựa chạy nai. Chung hậu mới nghĩ rằng: Thằng này tài lực hơn chúng, thương pháp như thần, sao lại chạy ngang, chắc có kế gian, nên dùng mưu trá bại, như ai đây sợ hại chớ ta đây chẳng nao. Nghĩ rồi liền giục ngựa đuổi nhào, chạy theo vừa gần tới, Tiết Côn xem thấy có ý mừng thầm, bèn lấy cây thần chùy liện lên trên không, hào quan túa ra sáng giới. Chung hậu xem thấy cả cười, lấy tay chỉ phép mà nói rằng:
- Thần chùy sao không trở lại mà đánh Tiết Côn?
Khi ấy phép thần chùy liền quay trở lại. Tiết Côn thấy phép mình sao chẳng linh nghiệm, muốn đánh lại mình, tức thì đọc chú thâu chùy vào hồ lô, rồi hươi thương lướt đánh. Chung hậu cũng đưa đao ngăn đỡ, hai đàn đánh vùi một trận nữa, trống gióng vang trời, quân reo dậy đất, đánh hơn ba trăm hiệp dư mà sức cũng cầm đồng. Chung hậu vừa đánh vừa nghĩ thầm rằng: Tiết Côn là tướng tài, nếu dùng sức mà đánh hoài tới năm sau năm cũng chưa bình phục được nó, chi bằng dùng tiên phục mà giết phứt nó đi mớ xong chuyện. Nghĩ như vậy rồi lại nghĩ rằng: Vì nó là một vị tinh tú giáng sanh, đặng làm thượng tướng cho nước Trần, nước Lương và nước Tề mình, nếu nghịch thiên đạo mà giết nó đi thì uổng lắm! Thôi để kiếm kế khác thâu phục hắn mới xong, để ngày sau dùng giúp tay chân cho đỡ.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi thứ ba mươi lăm - Chung hậu khuyên quy thuận
Chung hậu khuyên quy thuận
Tiết Côn túng thế giả hàng
Nghĩ rồi hai tay làm bộ run rẩy, chém bậy một đao, quày ngựa chạy mùa như gió. Tiết Côn tưởng Chung hậu đuối sức chạy thiệt, bèn giục ngựa rượt theo. Nguyên con thần mã của Chung hậu chậy đã hay, mà con Bát ngọc mã của chúng Tiết Côn chạy cũng giỏi. Chung hậu nghe tiếng lạc ngựa gần tới, liền lấy dây Khổn tiên thằng liệng lên trên không và niệm chú lầm thầm, giây phút có mây trắng chớp bủa tứ giăng. Tiết Côn không biết là vật gì, kế chân tay đều bị trói, vật nhào xuống ngựa cả mình đều mê sảng. Chung hậu khi ấy lướt tới cầm đao kề ngang cổ Tiết Côn kêu và hỏi rằng:
- Sơn tặc còn khoe tài ỷ sức nữa thôi?
Giây phút Tiết Côn tỉnh lại mở mắt ra thấy Chung hậu thì nói rằng:
- Bớ con xủ phụ! Kẻ trượng phu ở đời làm cho minh minh bạch bạch, sống cũng không mừng, chết cũng chẳng sợ, nay mày đã dùng yêu thuật mà bắt tao, có giết thì giết đi, chớ để làm gì mà đợi đó.
Chung hậu nói:
- Mạng mi sống chết trong tay ta, nếu mi muốn chết thì một đao đã rồi đời, song ta e người còn oán trách, thôi, ngươi phải cải tà quy chánh theo ta cùng đầu phục vua Tề, trước là ấm tử phong thê, sau lại lưu phương thiên tử, chẳng hơn là ở miền sơn trại, cứ làm ăn cướp cả đời mà tốt gì?
Tiết Côn nghe nói hội ý gật đầu bèn nói rằng:
- Xin thủng thẳng để cho ta còn nghĩ lại rồi phân trần.
Chung hậu khi ấy bèn đứng giang ra một bên, bốn tên đầu mục và bọn lâu la ngó thấy chủ trại mình bị trói thảy đều hoảng kinh áp ra một lượt mà vây đánh Chung hậu. Quân Ngự lâm bên Tề cũng xốc vào trợ lực, hai đàng đương lúc hỗn chiến, quân lâu la thừa thế đến giựt Tiết Côn mà đem về trại. Còn Chung hậu mắc rượt theo bốn tên đầu mục, chừng trở lại thì không thấy Tiết Côn bèn thâu binh về dinh an nghỉ.
Nói về quân lâu la khi khiệng đặt Tiết Côn đem về sơn trại, xúm lấy dao cắt dây trói, cắt cứa giây lâu đâu cũng còn ý đó. Tiết Côn mới nói với bốn tên đầu mục rằng:
- Ta vẫn nghe muốn phá đổ yêu pháp thì phải dùng máu chó mực mới đặng xong.
Quân lâu la vâng lệnh lật đật đi kiếm chó mực cắt cổ lấy máu trâu phết cùng mình, rất đỗi hôi tanh, mà mở cũng không đặng. khi bọn lâu la đã hết phương cứu giải, bèn mắng chửi Chung hậu om sòm, kế thấy trời đã hoàng hôn, quân lâu la dọn bày một tiệc rượu. Tiết Côn mới uống vào đặng vài chén, bống thấy nhức ngứa cùng mình, ngồi đã không yên mà nằm cũng không an chỗ. Tiết Côn đành sanh ra một chước dặn dò đầu mục chờ đến sáng mai, sắp đặt hai ngàn người trong mình giấu những đồ bính khí, kéo xuống dinh Tề năn nỉ cầu xin giải thoát tiên thằng, phải y kế thi hành, chớ có sợ lâu. Còn Chung hậu khi thâu binh về dinh đã được môt đêm, rạng ngày thăng trường, phân cắt tam quân như vầy: Tam viên dõng tướng mỗi người lãnh một ngàn binh, mai phục bốn hướng, chờ có hiệu pháo, áp ra vây đánh cùng cường đồ, lại truyền quân giữ gìn dinh cho nghiêm ngặt, hễ có sơn tặc tới thì chỉ cho một mình Tiết Côn vào ra mắt thôi. Còn như ở ngoài thấy quân giặc động tịnh thế nào, thì phát pháo cho mau và đồng lực trừ loài Tiết khấu.
Các tướng đều vâng lệnh cúi đầu, ai lo theo bổn phận nấy. Xếp đặt sau trước vừa xong, quả thấy Triệt Long tặc kéo xuống một tốp lâu la, tay cầm cờ đầu hàng, lướt tới dinh Tề quỳ mọp. Quân giữ dinh vào tâu lại. Chung nương nương truyền chỉ cho vào. Tiết Côn cả mừng lấy làm đắc kế. Kế đó bốn tên đầu mục đỡ Tiết Côn vào trướng Huỳnh la trường quỳ xuông tâu rằng:
- Sơn tặc là Tiết Côn xin cải tà quy chánh, muôn trông vào Quốc mẫu, xin khoan giải tiên thằng.
Chung hậu đã biết kế trá hàng, thấy mặt Tiết Côn liền cười chúm chím và kêu Tiết Côn nói rằng:
- Nếu mi dốc long quy thuận, phải thế thốt làm sao ta mới tin.
Tiết Côn túng thế phải nói dối rằng:
- Muôn tâu Quốc mẫu như ngày sau tôi có trở lòng phản trắc, thì chạy vào trong tòng lâm lãnh mang tai.
Chung quốc mẫu nghe thì đã rõ lừa dối, nhưng nghĩ mình tinh thông pháp thuật, dầu Tiết Côn có trăm lòng phản nghịch đi chăng nữa thì cũng không nao núng. Nghĩ rồi bèn niệm châm ngôn, mở tiên thằng cho Tiết Côn. Tiết Côn đặng thong thả cả mừng, đứng dậy ngó bốn bên không ai, thì miệng kêu mắng xủ phụ om sòm, còn chân thì bước lìa ra khỏi cửa. Kế sẵn có quân lâu la tiếp ứng, liền cầm thương lên ngựa đánh trước. Chung hậu cũng lên ngựa hươi đao rượt theo, đuổi Tiết Côn ra khỏi cửa dinh, bọn lâu la áp lại phủ vây tứ phía. Chung hậu một mình tả xung hữu đột, thoát ra trùng vây, quân giữ dinh thấy vậy mới hay, phát pháo lên làm lệnh, bốn hướng phục binh áp đánh, giết quân lâu la thây nằm đầy đất, máu chảy đỏ bờ. Tiết Côn liệu thế khó đương cự, bèn đánh phá một huyết lộ mà chạy. Khi Tiết Côn chạy khỏi được chừng mười dặm, day đầu ngó lại, thấy đạo binh mình còn hai trăm lâu la theo sau. Đang lúc than thở bỗng thấy Chung hậu cưỡi ngựa đến đón trước đầu. Tiết Côn thất kinh đánh nhau hơn ba trăm hiệp. Chung hậu bèn trá bại, quất ngựa buông cương, Tiết Côn tưởng thiệt, có lòng mừng, liền giục ngựa rượt theo. Chung hậu thình lình động niệm chân ngôn, hóa ra một rừng tòng rất ư là u nhã, chim kêu vượn hú, gió thổi thông reo. Tiết Côn ngó thấy Chung hậu vào rừng ấy thì cũng rượt theo khi đến chỗ rậm kia Chung hậu liền biến mất, Tiết Côn ngẩn ngơ giữa rừng, bỗng thấy hai bên có hai cây tòng ngã xuống một lượt đè mình chặt cứng.
Tiết Côn khi ấy la ré om sòn, rồi mới nghĩ rằng: Người sanh hết nết trăm thì thì chết hết trăm tật, có nguời chết chém chết đâm, có kẻ chết trói chết bệnh, nhưng cũng được chữ sanh thuận tử an, còn ta nay chết nơi tòng lâm này, thiệt là tức tối lắm! Nghĩ rồi lại khóc, phút đâu trận gió thổi qua, đá bay cây ngã, trong rừng nhảy ra một con cọp, nhăn răng múa vuốt, làm bộ rất dữ dằn, dường như muốn tới ăn thịt Tiết Côn vậy. Khi ấy Tiết Côn nói:
- Bớ con nghiệt xúc, như mạng ta tới số rồi thì tới ăn đi, chẳng nên nhảy nhót làm gì cho ta kinh hãi.
Nói vừa dứt lời xảy nghe nhạc chuông ngựa kêu vang, giấy phút Chung hậu đã đến trước mặt kêu và hỏi rằng:
- Sơn tặc, sao ngươi còn nằm đó, không lên ngựa đánh với ta ít trăm hiệp nữa chơi?
Tiết Côn nghe hỏi đáp rằng:
- Ta nay bị khốn nơi cội tòng, cử động không nổi, như đó chẳng có dung tình, chém giết chi mặc lòng, chớ có nói nhiều lời xóc óc.
Chung hậu cười và nói rằng:
- Cũng bởi mi nói liều nên mạng họa khi không. Mi thề: Như sau này có phản lòng, thời bị cây tòng đè chết, quỷ thần đã phán xét, mi khó lẽ dối trời, như bây giờ mi có nghe lời thì phải chân tâm quy phục.
Tiết Côn nói:
- Muôn ơn Quốc mẫu rộng lượng tha thứ, tôi chẳng dám sai ngoa, quyết một lòng ưng thuận.
Chung hậu nói:
- Không được buông trôi, phải thề chắc lời mới đặng.
Tiết Côn nói:
- Xin quỷ thần chứng giám, cầu trời Phật chứng trị, nếu sau lòng tôi có sai đi, phải bị chết trầm nơi đáy biển.
Chung hậu đã hả dạ, nhưng phải thứ tha bèn biểu Tiết Côn nhắm mắt chớ có mở ra, rồi niệm ít câu chú lầm thầm, lúc thì núi tòng biến mất, Tiết Côn mở mắt ra xem, thấy một khoảng đồng trống đất bằng, không thấy có một cây tòng nào hết, thương mã cũng y nguyên. Tiết Côn bèn nghĩ thêm rằng: Như vậy con xủ phụ dùng yêu thuật mà làm khốn hại mình, chớ chẳng phải tòng lâm, cũng không phải mãnh hổ nào tới đây. Thiệt lòng ta không phục quyết sanh tử một phen này. Nghĩ rồi lại cầm thương múa đánh. Chung hậu nói rằng:
- Phen này là hai lượt, mi thề dối với ta, gớm thay phản phúc lòng tà, giận bây mang lòng phản nghịch.
Chung hậu nói rồi lướt đánh. Tiết Côn đưa thương ngăn trở, dánh hơn hai mươi hiệp, Chung hậu giả thua nữa, giục ngựa chạy vòng ra phía sau núi, Tiết Côn thấy vậy cười ngất nói rằng:
- Nhục huyền hổ khấu, đố chạy đâu cho khỏi tay ta, Triệt Long vốn chỗ núi nhà, xủ phụ hẳn đã tới số.
Tiết Côn lấy làm đắc kế, buông ngựa đuổi theo. Chung hậu liền niệm lục giáp linh thần, tức thì đất bằng hóa ra biển lớn, trước mắt nước dồi sóng dợn, đầy tai đánh bủa ầm ầm, nào hay Chung hậu lập tâm, để cho Tiết Côn đuổi theo. Khi Chung hậu tới nới bãi biển, giả buông lời kêu réo chân trời, Tiết Côn giục ngựa đến nơi, nghe hết mấy lời than của Chung hậu. Chung hậu khi ấy giả liều mình nhảy xuống nước người và ngựa nổi linh đinh, Tiết Côn cũng quyết chẳng dung tình, cũng nhảy ào xuống sông cầm cho đặng, Chung hậu thấy Tiết Côn đã nhào xuông biển, mới nổi lên mặt nước kêu hỏi rằng:
- Bớ thằng sơn tặc mày quyết bắt cho được ta hay sao?
Nói rồi đánh ngựa một roi, chạy lên khỏi mặt biển, miệng thời hô niệm thần chú, đòi Thổ địa ở Triệt Long sơn bảo hóa ra một ông đạo già, chèo thuyền đi câu giữa biển.
Tiết Côn thấy Chung hậu đã mất, thì nổi giận căm gan, ngặt vì hết kế liệu toan nên phải cắn răng mà chịu. Tiết Côn đang lúc nguy cấp, lại bị nước dầm sóng bủa, may đâu xem thấy có ngư ông. Tiết Côn hết sức mừng lòng, cả tiếng kêu xin cứu mạng. Ngư ông nghe kêu bèn chèo thuyền bay tới hỏi rằng:
- Chẳng hay tướng quân tên họ là chi vì làm sao mà bị chìm nổi giữa biển này, xin người hãy bảy tỏ khúc nội, thì tôi mới chịu.
Tiết Côn đáp rằng:
- Chẳng giấu chi lão phu, tôi thiệt là Tiết Côn trại chủ, ở núi Triệt Long vì đánh với Tề quân, lầm tay Chung Vô Diệm, hóa ra sóng biển toan hại tôi, may có ông đi qua đây xin người ra ân cứu giúp, rồi bạc tiền sẽ thù tạ, cho chẳng thiếu chi.
Ngư ông nói:
- Việc cứu này rất dễ, tướng quân chớ lo chi, hiềm vì thuyền nhỏ như mo, chở cả ngựa cả người không đặng, xin đó đừng quản ngại, bỏ ngựa lại mới xong.
Tiết Côn nói:
- Ngựa này trong đời ít có, tên kêu là Bát sơn ngọc, sức đi ngàn dặm trong một giờ, lâu nay trăm trận đều nhờ có nó, như bây giờ mà bỏ lại thì thiệt thương tiếc vô hồi.
Ngư ông nói:
- Nếu tướng quân không chịu bỏ ngựa, ta đâu dễ để hại tới ta sao?
Nói rồi quay thuyền chèo đi, Tiết Côn kêu la lắm, mới trở lại. Tiết Côn khi ấy cực chẳng đã phải để con ngựa lại biển sâu, rồi lội leo lên thuyền ngó chừng con ngựa, thấy nhào lên hụp xuống thì nát ruột héo gan! Còn ngư ông chèo đi một đỗi mới đòi tiền mướn. Tiết Côn đáp răng:
- Tôi chẳng phải khách thương mà sẵn có tiền bỏ túi, để chúng tôi về sơn trại bao nhiêu tôi sẽ đền ơn.
Ngư ông nói:
- Như tướng quân không có tiền bây giờ thì phải thế đồ thế đạc, bằng không điều ấy, ắt phải xuống khỏi thuyền, chứ ngồi một mình cũng không đặng.
Tiết Côn nói:
- Ngư ông sao bức tôi cho thái quá, thiệt trong mình chẳng có vật chi còn những thương giáp bộ tùy đề phòng khi hoạn nạn mà thôi.
Ngư ông cả giận mà nói rằng:
- Mày là đồ nghịch đảng, sao không biết trả ân, bạc tiền chẳng có một phân, thương giáp cũng không chịu thế, thôi xuống phứt cho khỏi thuyền, để thuyền không lão đi kiếm cá.
Tiết Côn thái quá nổi nóng một khi rút gươm ra toan chém. Ngư ông thấy vậy nhảy xuống biển tức thì. Khi ấy Tiết Côn xem ngó tứ bề thấy mênh mông trời biển. Giây lát ngư ông lại nổi lên, mắng chửi Tiết Côn om sòm, rồi hụp lên hụp xuống ba bốn lần, chìm đi mất. Thình lình rời nổi dông tố, sóng dập thuyền hư, Tiết Côn lật đật cỡi đồ xiêm giáp ra mà xảm trét, nhưng mà bị sóng lớn quá, xảm mấy cũng không rồi, nước vô đầy thuyền ngập sạp. Tiết Côn hết sức phải thôi, vịn lấy thuyền mà rồi than thở. Khi ấy Tiết Côn van vái chín phương Trời mươi phương Phật và cầu cùng chư vị thánh thần, xin cho biển lặng sóng êm, thoát khỏi mồm tôm miệng cá, trở về núi làm chay khánh hạ, cùng lập đền đài bái tụng thần ân. Đương khi van vái xa gần, bỗng nghe tiếng đồng la nổi chập. Tiết Côn bèn ngó lại, thấy có chiếc quan thuyền chèo gần tới, có treo cặp lồng đèn vẽ phuợng, rõ ràng một chiếc thuyền rồng, quân gia hầu hạ rất đông, khi tới sắp bày tề chỉnh. Tiết Côn cả mừng, kêu mà nói rằng:
- Bớ thuyền quan gia! Xin tới đây cứu mạng.
Quân thủy thủ nghe kêu bèn chèo thuyền ghé lại cho Tiết Côn bước qua, rồi hỏi rằng:
- Ngươi hà cớ gì lại bị ở đây mà kêu cứu mạng? Bộ thằng này mặt phản hãy quỳ tới gần đây, để ta tâu với nương nương hay, còn ngài dậy lẽ nào cho biết.
Tiết Côn khi đó quỳ lạy trước mũi thuyền, chờ cho quân vào phi báo. Giây phút cung nga hai bên đứng dẹp, bước ra một vị phu nhân kêu hỏi rằng:
- Bớ thằng kia! Làm gì mà cúi đầu như vậy?
Tiết Côn nghe kêu hỏi bèn ngửa mặt ngó lên thấy diện mạo một vị phu nhân dữ dằn, thì đã biết là Chung quốc mẫu, miệng tuy há mà chẳng ra lời, mắt nhìn sững, lặng thinh không nháy. Chung hậu khi ấy kêu và nói rằng:
- Bớ Tiết Kế Nguyên! Mi tới đây có việc gì? Sao không trở về sơn trại?
Tiết Côn nghe nói tức giận ứa gan, mà chẳng dám trổ hình cứ cúi đầu giả lạy lia lại mà thưa rằng:
- Trăm lay Quốc mẫu, xin mở lượng hải hà thứ tha cho tiểu bối, tôi cam chịu tội, muôn thác đã dư.
Chung hậu nói:
- Mày là thằng phản phúc, nếu cứu mày cũng đã uổng công, mày mà ra đặng khỏ vòng thì cứ việc giở theo thói cũ.
Tiết Côn khi ấy thề thốt hết lời.
- Như ngày sau có đổi dời, muôn kiếp trầm luân nơi đáy biển.
Chung hậu cũng biết Tiết Côn còn phản nữa, nhưng vì quan dĩ đắc, nhất tướng nan cầu, nên phải dằn lòng làm cho Tiết Côn tâm phục. Suy nghĩ xong rồi, bèn kêu Tiết Côn mà nói rằng:
- Như mày đã chánh tâm quy thuận thì ta sẽ cứu nể tàn sanh, vậy phải nhắm mắt chờ xem, để ai gia tác pháp.
Tiết Côn vâng mạng nhắm mắt lại rồi. Chung hậu tay cầm cây bửu kiếm niệm châm ngôn liền thấy một khoảng đồng bằng, chẳng có sông biển chi hết. Tiết Côn mở mắt ngó cùng, thấy ngựa còn ăn cỏ trên núi, khôi giáp đều treo bên rừng nhỏng nhảnh, còn mình thì ngồi trong quách nhỏ ở tại nơi gò mã đất. Tiết Côn khi ấy đứng dậy giả cúi đầu lạy tạ ơn, rồi đi lấy thương mà mặc vào xong xuôi, bèn đứng ngậm ngùi suy nghĩ một hồi, rồi nhảy lên ngựa cầm thương giục tới, cả kêu xủ phụ mà hỏi rằng:
- Sao ngươi dùng thuật hại ta?
Chung hậu thậy vậy thì cười và nói:
- Ta biết mày là đổ phản nghịch, tha giết mi đã mấy lần sao mi chẳng biết ăn năn, mà cải tà quy chánh?
Tiết Côn nói:
- Như ngươi muốn ta quy thuận thì chờ kiếp khác sẽ hay, chừng nào vua Thập diện diêm vương biểu ta thời mới chịu, chớ bây giờ ở trên dương thế ta đâu phục Tề bang.
Chung hậu cả giận, hươi đao đâm tới. Tiết Côn cũng múa côn đâm nhầu, lại đánh hơn ba trăm hiệp dư nữa. Chung hậu cũng bỏ chạy. Tiết Côn dừng ngựa lại nghĩ rằng: Con xủ phụ trá bại, toan làm khốn hại mình, chẳng theo nó làm gì, vậy phải trở về lo kế khác.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi Thứ Ba Mươi Sáu - Tiết Kế Nguyên đi chơi địa phủ
Tiết Kế Nguyên đi chơi địa phủ
Chung Vương hậu tấu khải về trào
Nói về Chung hậu trá bại, chạy đặng một đỗi xa, ngó lại không thấy Tiết Côn đuổi theo, mới nghĩ rằng:
- Thằng sơn tặc này nếu mình không làm nhục nó, thì nó không chịu đuổi theo.
Nghĩ vậy bèn quầy ngựa lại kêu rằng:
- Bớ Tiết Côn, mày là một thằng tham sanh quý tử, vậy mà cũng xưng là sơn trại đại vương, ta đây pháp lực cao cường, giết mày như vậy cũng không có tiếng, vậy để ta nói cho mà nghe, lần thứ nhất bị dây tiên trói, lần thứ nhì mắc kẹt trong cội tòng, lần thứ ba chết trôi chết nổi giữa sông, ta cũng đã nhơn lòng cứu tử, đi đang lúc bình thường vô sự, mấy khi xưng bá xưng hùng, mới cùng ta một trận giao phong, mười hai nước đều biết mày là một thằng vô dụng .
Tiết Côn nghe nói phừng phừng nổi giận mắng hét om sòmn chỉ mặt Chung hậu mà nói rằng:
- Bớ con bà chằng, ta chẳng giết được mày, không phải là người hảo hớn.
Nói rồi cầm thương đâm đại. Chung hậu cũng lẹ tay gạt đỡ, hai ngựa giao kề, đánh vùi hơn trăm trận. Chung hậu thấy Tiết Côn mặt giận hầm hầm, nên cứ giả đò thua sút, làm cho Tiết Côn có ý khi dễ mà đuổi theo, bèn đánh cầm chừng đến sáu bảy chục hiệp nữa. Chung hậu giả ngăn đỡ không lại, bèn quất ngựa chạy ro, Tiết Côn quên sự quanh co, cứ giục ngựa đuổi nà theo Chung hậu. Chung hậu xem thấy cả mừng, kịp niệm chân ngôn, hóa ra một tòa cổ miếu, rồi tàng hình di mất, Tiết Côn theo tới đó mà không thấy tăm hơi, đi bốn phía truy tầm, thấy dấu chân ngựa vào trong miếu, Tiết Côn sẵn giận chạy kiếm dáo dác tư bề, thấy cổ miếu hương tàn khói lạnh, vách rả rêu in, ngó vậy giật mình đi qua phía khác, lại thấy tòng xanh bá tốt, đào thắm liễu non, trước có bụi huỳnh sa, sau có cầu bắt qua đi qua bên núi khác, lại có đường đi thẳng rẵng, về sơn trại cũng gần. Tiết Côn bèn giục ngựa đi lần lần, qua khỏi cầu một đỗi, rồi ngó lại cỗ miếu đâu không thấy, trời lại tối như ban đêm, gió thổi một cách lạnh lùng, cả mình đều rởn óc. Thời may đâu lại gặp một người, cao lớn hai trượng dư, mặt giống như thoa vàng, mình mang đồ trắng lốp, hình dung xem rất cổ quái, mặt mày thấy cũng thảm sầu, Tiết Côn mới nghĩ rằng:
- Vì chưng theo Chung Vô Diệm, mới gặp con quỷ vô thường.
Tiết Côn nghĩ như vậy, rồi nhắm mắt đi qua tới ngã ba đứng lại, ngựa đã đi không nổi, té nhủi xuống một khi, quỷ đâu chạy tóe tứ vi, cầm chiên hồn sách đè ra trói cổ. Quỷ vô thường nói: - Mày là thằng ăn cướp, nay số đã mãn rồi, vua Diêm Vương sai ta đi bắt hồn về âm ty trị tội.
Nói rồi nắm dây lôi kéo. Tiết Côn khi ấy cũng mê man, đi dọc đường xem thấy hai bên kẻ lớn người nhỏ, la khóc vang dậy, đều chỉ vào mặt mình nói rằng:
- Thằng này hồi nó ở trên dương thế làm chủ trại Triệt Long, đã hiếp vợ hại chồng, lại đốt nhà lấy của, nay nó đã tới số, mau phải thường mạng cho ta.
Tiết Côn nghe nói thì thất thanh hồn vía, mới nghĩ rằng:
- Mình mới đánh với với con Chung xủ phụ đây, làm sao mà thác xuống âm ty như vậy? Người đời danh lợi cũng chẳng làm gì, uổng một kiiếp anh hùng cái thế, nếu hồi sống biết cơ quan như vầycũng không nên ăn cướp làm gì.
Và vừa đi vừa nghỉ, bỗng đâu lũ quỷ áp ra, kẻ thì cướp thương, người thì giành ngựa, đứa thì xiết giáp, thằng thì lấy khôi. Vô thường lại cầm dây lôi kéo, đánh thôi xơ vơ xửng vửng, dẫn đi hết mấy tầng địa ngục, thấy nhiều chuyện ghê gớm, kẻ thì không áo không quần, người thì bị vạc dầu cưa xẻ, có kẻ bị cầm dao cắt lưỡi, lại có người phải bỏ cối mà xay, thảy đều là những người không thảo không ngay, với mấy bọn lừa thầy phản bạn, ở dương thế tưởng là quấy phá, xuống âm ty không mảy không sai. Lúc này quỷ vô thường lại dẫn lên coi một cái đài cao có hơn trăm trượng và cắt nghĩa rằng:
- Ấy là vọng hương đài, người ta chết được bảy ngày cho lên đó dòm về quê quán.
Kẻ lên người xuống vô số hằng hà. Tiết Côn lên tới từng thứ ba, thấy núi Triệt long như vẽ, cao thấp mấy tòa sơn trại, những là Phân kim đình và Tụ nghĩa đường, còn lâu la qua lại lăng xăng, chỗ đánh bạc, đánh cờ nơi uống trà, uống rượu. Tiết Côn thấy vậy như cầm đao cắt ruột lụy ứa hai hàng, châu rơi lả chả, chua xót trăm bề, không hề mong hiệp mặt tớ thầy, khó nỗi gặp vui vầy bạn tác. Quỷ vô thường khi ấy thấy Tiết Côn khó lóc, lại thêm sỉ nhục nhiều lời, dẫn đi một hơi đã tới Sum la điện. Hai bên những Ngưu đầu mã diện, tay cầm đồ hình ccụ dữ dằn. Vua Diêm vương phân đóan phân minh, đài nghiệp kiếng tỏ soi thiện ác. Khi quỷ dẫn Tiết Côn vào quỳ trước sân rồi, vua Diêm Vương truyền cho phán quan, đem tra sổ bộ, Phán quan vâng lệnh , vội vàng xét hết những điều gian dối rồi tâu lại rằng:
- Tiết Côn vẫn đà đáng tội, đã giết người còn lại đốt nhà, già trẻ cũng không tha, quân dân đều bị giết, thiệt một tay ác nghiệt, tội đáng bỏ vạc dầu.
Diêm Vương nghe tấu gật đầu, liền truyền cho Dạ xoa cứ phép. Quỷ dạ xoa phụng chỉ, nắm tóc Tiết Côn xốc đi, vừa bước ra trước sân chầu , may đâu có Tinh quân đi tới, Diêm Vương xuống ngai tiếp rước. Quỷ Dạ xoa trà nước lăng xăng. Tiết Côn khi ấy xem thấy, không biết Tinh quân ấy là vị nào mà được tiếp rước như vậy, bèn xem kỹ lại, thiệt là Chung nương nương, mới nghĩ thầm rằng:
-" Hồi ta còn ở dương thế, đánh với nó bốn năm phen. Cớ làm sao ta mới chết xuống đây, mà nó cũng chết theo như vậy? Không biết nó là gì mà Diêm Vương làm lễ đãi, còn quỷ tốt cũng sợ hãi lăng xăng".
Khi Tiết Côn đang suy tính, quỷ tốt thấy miệng nói lẩm bẩm mới hỏi:
- Thằng kia mày nói gì đấy, có biết vị Tinh quân đó là ai không?
Tiết Côn đáp:
- Vợ của Tề Tuyên Vương, tên là Chung Vô Diệm, chớ ai mà ta chẳng biết.
Tiết Côn nói chưa dứt tiếng, Quỷ tốt đã vả miệng, rồi nói rằng:
- Đồ Sơn tặc vô tri, sao mày dám kêu xách mé? Ấy là Mão đoan tinh giáng thế, để mà phó tá Tề Vương.
Tiết côn nói:
- Ta có biết Mão đoan tinh là ai đâu, nghe chúng kêu là Chung Vô Diệm.
Quỷ tốt lại vả luôn ba bốn vả nữa, Tiết Côn nổi nóng nói rằng:
- Bọn quỷ tốt này ác thiệt, đại trượng phu ở đời, đáng việc nói thì nói, dầu có chết cũng cam, tao đã bị trói bị giam, bây cứ theo đánh theo vả.
Quỷ tốt nói:
- Tao đánh mày như vậy là làm phước cho mày.
Tiết Côn nói:
- Bây làm phước cái gì mà đánh vả, nếu bây giờ rộng lượng hóa cho ta khỏi chết mới hay.
Quỷ tốt nói:
- Vậy là mày không biết, để tao nói cho mà nghe. Mão đoan tinh sanh trưởng ở Diêu Trì. Đệ tử bà La San thánh mẫu, giáo chủ u minh đều kiêng vị, thần thông pháp lực vô cùng! Như mày muốn thoát khỏi vạc dầu kia, thì phải cầu người cứu giúp. Thiên đường với địa ngục, cách nhau chẳng bao xa, như mày nghe lời ta, họa may mới khỏi bị nấu.
Đương lúc quỷ tốt nói chuyện với Tiết Côn nghe Diêm Vương truyền lệnh đem Tiết Côn ra hành hình. Quỷ tốt vâng chỉ xúm lại khiêng Tiết Côn đem đi, đến nơi thì thấy dầu đương sôi sùng sục, lửa đã hực phừng phừng, Tiết Côn thấy vậy thất vía hồn kinh, cả kêu Chung quốc mẫu nói rằng:
- Xin từ bi hỉ xả, cứu khỏi chết phen này, trông ơn Quốc mẫu ra tay,rồi sẽ có ngày báo đáp.
Chung hậu nghe kêu, truyền quỷ tốt đình lại dẫn vô, ra mắt Diên Vương , Tiết Côn quỳ trước sân chầu, lạy tạ muôn ơn cứu mạng Chung hậu nói:
- Ta đã mấy lần dụ dỗ khuyên mi đầu hàng, trên trời có tam quan, dứới đất có thập điện, mi thề rồi lại phản, nhý vậy đã mấy phen thọ tội âm ty, sao biết ta kêu réo. Bởi vì mày thề dối tới kiếp chết mới hay, mi bây giờ muốn tính lẽ nào có Diêm Vương làm chứng.
Tiết Côn quỳ lạy và thưa rằng:
- Sâu bọ cũng còn muốn sống, huống chi một giống loài người, tôi xin theo Quốc mẫu cầm roi đền ơn thọ, lập công cùng triều đình, bỏ hết sự lỗi lầm ngày trước, nếu có sai ngoa thời muôn kiếp luân hồi, chốn phong đô chẳng được làm người, thân trâu ngựa đời đời kiếp kiếp, xin Diêm Vương soi xét cho cứu tử hồi sanh.
Chung hậu cả mừng, niệm mấy tiếng châm ngôn, Tiết Côn tỉnh hồn trương hai con mắt ra ngó. Sum la đâu mất, Diêm chúa cũng không, một mình quỳ giữa đồng, bốn bề đều là cây cỏ, thương ngựa còn đó. Tiết Côn liền lên ngựa đứng đó ngơ ngẩn và nghĩ rằng:
- Thiệt là pháp lực cao cường, hóa làm Diêm Vương thập điện, thần thông biển hiện, xuất quỷ nhập thần, đầu phục đi cho rồi, kẻo để lâu mang họa.
Nghĩ như vậy liền quỳ xuống lạy tạ xin cải tà quy chánh, bó thân về với triều đình sớm khuya chầu chực minh quân, bỏ các việc cường đồ nghịch đảng. Chung hậu cả mừng. Liền xuống ngựa đỡ dậy và nói rằng:
- Tướng quân miễn lễ , bây giờ phải trở về sơn trại, mà sắp đặt cho xong.
Tiết Côn tạ ơn, rồi lên ngựa đi theo Chung hậu trở về sơn trại. Khi về tới Tụ nghĩa đường, Tiết Côn truyền lệnh cho bốn tên đầu mục dắt bọn lâu la ra triều bái tung hô quốc mẫu, rồi bày yến tiệc, sai lâu la qua dinh Tề rước mời các đại tướng qua dự tiệc. Khi yến ẩm xong xuôi, mở hết mấy kho lương thảo bạc vàng, cấp phát cho bọn lâu la và ra lời dụ rằng:
- Như ai muốn đi theo đầu Tề thì đi, bằng không thì cho lương tiền đem về làm ăn nuôi vợ, con.
Còn dư bao nhiêu lương thảo thì đóng vào xe chở theo. Khi sắp đặt xong xuôi đốt hết sơn trại, kéo lâu la xuống núi, thẳng tới Tề dinh. Chung hậu lại dặn Tiết Côn rằng:
- Tướng quân có về, chừng triều kiến quân vương xong rồi, như người có phong cho quan tước chi, bất kỳ là lớn nhỏ, cũng đừng có tạ ơn, chờ chừng nào ai gia ám hiệu chịu cho, rồi sẽ lạy tạ.
- Tiết Côn vâng mạng tạ ơn. Chung hậu liền truyền lệnh ban sư, tam quân đều bạt trại, kéo binh về kinh thành mừng rỡ.
Đây nói về Tuyền Vương đang lúc lâm trào. Văn võ triều bái rồi xảy có quan Hùynh Văn vào tâu rằng:
- Nay Chung quốc mẫu bình phục đặng Tiết Côn đã thâu binh phản hồi cách hoàng thành chẳng xa, xin Thánh hoàng định đoạt.
Tuyên Vương nghe tâu liền truyền cho văn võ, hộ giá thân nghinh, ra khỏi hoàng thành, tới chỗ trường đình đợi rước. Quân thị vệ vâng lệnh, sắm sửa long xa phụng tán, rồi Tuyên Vương ngự đến Dịch đình tạm nghỉ. Còn Chung Quốc mẫu lúc này kéo binh về gần tới đó, có quân thám tử trở lại báo rằng:
- Có thiên tử ngự giá thân chinh và văn võ bá quan đông lắm, còn đợi ở nơi Dịch đình , nên chúng tôi phải tâu lại cho mẫu hoàng đặng rõ.
Chung hậu nghe bảo thì cười thầm nghĩ rằng:
- Tuyên Vương thiệt có mưu sâu, biết ta vì nước vì dân và lắm công lao khổ , nên cực chẳng đã phải làm bộ như vậy, chớ trong lòng thiệt là không muốn thấy mặt.
Nghĩ rồi truyền quân đi hưỡn hưỡn lại sau, bổn thân cưỡi ngựa về trước, và bảo Tiết Côn hộ giá theo mình. Khi tới Dịch đình, Tuyên Vương bước ra nghinh tiếp, cầm tay Chung hậu nói rằng:
- Ngự thê, chinh Đông, Tây phạt làm cho xã tắc bình an, Trẫm rất đỗi cảm đội ơn vô cùng .
Chung hậu tâu:
- Bởi nhờ Hồng đức của Thiên nhan, chớ thần hậu có tài năng gì đâu, mà dám nhận lời khen nhý vậy?.
Kế đó, Chung hậu đem việc đánh phục Tiết Côn, thuật lại cho Tuyên Vương nghe, rồi kêu Tiết Côn tới trước cẩm đình, mà triều bái Thiên tử, Tiết Côn vâng chỉ, tung hô ba tiếng và lạy hai mươi bốn lạy xong rồi. Tuyên Vương truyền cho bình thân. Tiết Côn tạ ơn đứng lại một bên. Thiên tử mới xem diện mạo Tiết Côn thì thấy mày cọp, mắt rồng, mặt tròn, tai lớn, mình thời ngàn khôi ngân giáp, lẫm lẫm oai phong, bèn khen thầm rằng:
- Nếu được tướng này phó tá giang sõn, rất đáng một vị Tề trào lương đống.
Khen rồi lại hỏi Chung hậu rằng:
- Vậy chớ ngự thê đã phong thưởng cho gã làm chức chi hay chưa?
Chung hậu thưa:
- Việc trào đình tước lộc, phải chờ lệnh bệ hạ phong cho, chớ thần thiếp đâu dám tự chuyên quyền điều ấy.
Tuyên Vương khen phải và nói rằng:
- Như vậy để về trào sẽ hay.
Chung hậu cũng gật đầu liền truyền quân hộ giá thương trình, vua Tuyên Výõng ngồi trong long xa. Chung hậu thì đi phụng kiệu, Tiết Côn cưỡi con Bát sơn ngọc mã, cùng bá quan hộ giá theo sau, thẳng về kinh thành, tới Kim loan điện, hai vợ chồng ngồi trên long đôn, bá quan bái hộ xong rồi, vua truyền chỉ cho Tiết Côn vào mà phong tước. Tiết Côn tới trước Kim loan điện triều bái, Tuyên Vương liền phán rằng:
- Tiết Côn nay đã cải tà quy chánh, quyết lòng phò tá quả nhơn, trẫm phong cho làm chức phó tổng binh, khá tận trung báo quốc.
Tiết Côn liếc thấy Chung hậu chưa ra ám hiệu cứ đứng hoài, chưa chịu tạ ơn; vua Tuyên Vương lại phán:
- Thôi để trẫm phong cho làm Binh mã đại nguyên soái, chờ có công lao với nhà nước rồi trẫm sẽ phong cho dự tước công hầu.
Tiết Côn cũng đứng một hồi lâu, chưa chịu tạ ơn Thiên tử. Tuyên Vương thấy vậy lấy làm lạ mới nói rằng:
- Việc này giao cho ngự thê phân xử, vì trẫm chưa rõ căn do, làm sao đã phong quan to, mà gã còn hiềm chức nhỏ?
Chung hậu nói rằng:
- Vốn thánh thượng chưa rõ, tôi xin phân lại tỏ tường, vì đương khi hội chiến trường, thần hậu đã thâu làm nghĩa tử.
Tuyên Vương nghe rõ mới nói rằng:
- Như vậy trẫm phải phong cho gã làm Đông lộ vương điện hạ, tứ tánh theo họ Điền, truyền Công bộ công quan, kiếm phủ đệ cho Vương nhi cư trú.
Tiết Côn khi ấy liếc thấy Chung hậu đã ra ám hiệu, vội vàng quỳ xuống sân chầu, lạy tạ ơn Thiên tử. Tuyên Vương lại truyền chỉ bày tiệc hạ công , khao thưởng tướng sĩ rồi bãi chầu, ai lui về dinh nấyTài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi Thứ Ba Mươi Bảy - Triệu Long vương lập kế mỹ nữ,
Triệu Long vương lập kế mỹ nữ,
Chung quốc mẫu bị biếm lãnh cung
Nói về vua Long vương nước Triệu, đóng đô tại huyện Hàng Đan, đương lúc thanh nhàn, văn võ vào triều bái tung hô vạn tuế, kế có quan Huỳnh môn vào tâu rằng:
- Nay có xứ Tề qua đòi lễ tấn cống , người hãy còn ở trước ngọ môn đợi chỉ.
Vua Long Vương truyền lệnh cho vào, sứ thần tới trước Kim loan điện triều kiến và dưng tờ quốc thơ. Quan trị điện tiếp lấy dâng lên. Long vương xem hồi lâu nói chẵng ra lời, bèn nghĩ rằng:
- Đông Tề binh cường mã tráng, còn nước ta thì địa tích dân bần, nay vua Tề biểu ta phải mỗi năm triều cống một lần, những ba ngàn lương hướng, nhưng mà ta ba năm chưa tấn cống lần nào, nếu tính gộp gần đầy một muôn chẵn, bây giờ biết phương kế chi cho khỏi Tề hưng binh gia phạt.
Long Vương thấy thơ thì buồn rầu, nghĩ chưa ra chước, bỗng có một vị đại thần bước ra tâu rằng: - Xin Thiên tử chớ lo, cho hao tổn mình rồng.
Vua Long Vương xem lại, thì ra người ấy là Lạn Tương Như, làm chức thừa tướng. Triệu Vưong hỏi:
- Thừa tướng có kế gì lo cho trẫm an nhà lợi nước chăng?
Tương Như bước lên tâu nho nhỏ:
- Tôi có một chước lấy Lâm Tri Tề như trở bàn tay, vì Tuyên Vương là một người mê đắm rượu trà, bây giờ ta phải dùng mỹ nhân kế, trước hại cho được Chung Vô Diệm tiệt rồi, sau nữa Yến Anh với Tiết Côn. Khó chi trừ không dứt mối, chừng đó ta sẽ hưng binh gia phạt, coi có phải dễ như trở bàn tay chăng?
Triệu vương khen kế hay và hỏi rằng:
- Bây giờ thừa tướng muốn lựa mỹ nhân ở đâu cho được tài mạo kiên toàn, mới xiêu lòng Tế chúa đặng.
Tương Như tâu:
- Xin bệ hạ tha tội, ngu thần mới dám tỏ phân, như lựa con dân thì sợ cơ quan tiết lậu. Bệ hạ hãy mưu cùng Vương hậu, đưa Yến Bình công chúa mới xong.
Triệu vương nghe tâu mủi lòng, bèn rưng rưng nước mắt mà nghĩ rằng:
- Nếu đua con mình rất ngặt, bằng không thời dấy động đao binh.
Nghĩ rồi truyền rằng:
- Cho văn võ hồi dinh, trẫm sẽ tới Chiêu dương nghị sự.
Khi tiệu Vương bải chầu rồi, thẳng tới Chiêu Dương cung, nội giám vào tâu cho Qua hậu hay, Qua hậu vội lật đật bái rồi tâu rằng:
- Thần hậu chẳng hay Thiên tử giá lâm, nên thất nghĩa viễn nghinh, mong ơn trên tha thứ. Vậy nay triều đình có việc chi đại sự, mà long nhan có ý sắc buồn rầu?
Triệu Vương nói:
- Bởi Đông Tề có Chung Vô Diệm, thiệt là tay pháp lực cao cường, đã bình định Yên bang, lại thâu phục Tiết Côn sơn tặc. Bây giờ lại ra lời dụ, biểu các nước phải nhượng Tề làm thượng quốc, cứ thường hàng năm phải nạp lương hướng ba ngàn, lại đói dâng mỹ nữ dung nhan, chẳng vậy thời can qua dấy động. Như nước ta đây ba năm đã không tấn công, tính lại gần có một muôn, biết lấy đâu mà nạp cho Tề bang, vì trong nước hung hoang nghèo đói, nay trẫm có một điều muốn nói, chẳng biết ngự thê có bằng lòng chăng?
Qua hậu tâu:
- Quân ân ví tầy non biển, dẫu tử sanh chẳng dám đổi lời, xin thánh thượng tỏ lời kẻo thiếp thân nghi ngại.
Triệu Vương khi ấy sa nước mắt nói chẳng nên lời, hồi lâu mới thở ra mà nói rằng:
- Việc này rất ngặt, vì sợ thế Đông Tề mạnh dữ, còn nước ta thì yếu đuối muôn phần, nay Yến Bình tuồi mới cập kê ( 16), Tuyên Vương cũng thanh xuân nhị lập ( 30), duyên hương lửa muốn bén dây cầm sắc, đem giang san mà phú thác cho nữ lưu, chờ khi ứng hiệp cơ mưu, quyết kiếm thế hại cho rồi con xủ phụ, ấy là kế tướng thần bảo tấu, trẫm suy đi tính lại, cũng đã bằng lòng, không biết chánh cung có thuận lòng chăng?
Hoàng hậu tâu:
- Công chúa nâng niu như vàng như ngọc, bấy lâu phụ ấp rồng nuôi, nay đưa qua nước người thật lòng tôi không nỡ, nhưng mà nếu chẳng vậy thời Tê hưng binh mã, giang sơn ta ắt phải mang tai.
Vợ chồng đàm đạo giọt vắn giọt dài, ấy cũng là điều may rủi mắc trời xui, nên liệu định đã xong xuôi, liền truyền cho nội giám vào đòi Công chúa.
Công chúa nghe tin phụ vương cho đòi, bèn sửa sang xiêm áo, tới trước cung viện khấu đầu. Triệu vương miễn lễ cho ngồi. Công chúa tâu rằng:
- Chẳng hay vương phụ và Vương mẫu cho đòi con có việc chi dạy khiến?
Hoàng hậu nói:
- Nước nhà có một việc con phải ghi vào lòng, vì bên Tề có Vô Diệm chánh cung, người ấy vốn tinh thông pháp thuật, mấy nước cũng ít tay cự địch, nên nay sai sứ đi thâu nạp tiền lương, bởi vậy cho nên Phụ vương muốn đưa con cho Tuyên Vương, niềm ân ái sẽ lo phương ám hại, trừ cho được một con Chung xủ phụ, thời chẳng lo chi không thâu nhập đặng Tề bang, cất binh mã sẽ sang sẽ bình phân thiên hạ.
Công chúa nghe mấy lời mẹ nói, thì mày liễu kém xanh, má đào phai thắm! Khóc mà tâu rằng:
- Vương mẫu ôi! Những tưởng đền rồng khuya sớm, hay đâu dặm liễu cách xa, nếu con bỏ cha mẹ đi sao cho đành đoạn. Phụ vương ơi! Một thuở con qua Tề, ngàn năm không về Triệu, làm con phải lo đền chữ hiếu, miễn cho xã tắc vững bền, chớ xá chi chút phận hồng nhan, thân bao quản hoa tàn nguyệt khuyết, biết cùng ai tỏ điều hơn thiệt, biết nhờ ai cậy việc thần hôn, chốn cung trang phảng phất mộng hồn, thân trâu ngựamong về miền cố quốc. Vương phụ, Vương mẫu ôi! Thảm thiết ngàn năm chim hạc, tối đêm rơi lụy chốn hoa đình.
Vợ chồng Triệu Vương thấy con đau nỗi ly biệt, thì cũng thương tình sùi sụt, giọt vắn giọt dài, than trời trách đất, thiết sĩ tha nha, căm giận thay con xách giỏ hái dâu, quyết bắt sống ăn gan mổ mật. Qua hậu tuy là buồn khóc, nhưng gượng gạo đi sắp đặt những đồ cung trang, đề phòng khi đưa theo cho Công chúa. Lại lựa sáu mươi thê nữ mãnh mai và mười hai tên Thái giám, chờ đặng ngày lành sẽ đưa Công chúa sang tề. Lúc ấy có con cung nữ tên là Hồng Tiêu vào nơi nội cung thưa rằng:
- Tôi là thế nữ, tên Hồng Tiêu xin dâng một kế cho Quốc mẫu cùng Công chúa đặng tường, việc lo xa ấy làm được như chơi, để giao việc ấy cho tôi toan liệu.
Triệu Vương nghe nói thì hỏi rằng:
- Mi có kế gì nói cho ta nghe thử ?
Hồng Tiêu tâu:
- Tề Vương là người say mê tửu sắc, nếu thấy Công chúa mày liễu má đào, thì chắc làm sao người cũng thương mê lắm. Chừng Công chúa qua đến, ra mắt Chung Vô Diệm rồi, chỉ cho bày tiệc yến ăn mừng, chừng đó Công chúa khuyên mời nó ăn uống say sưa, tôi lén bỏ thuốc độc và dùng dịp ca xang mà dâng cho nó, nếu nó nhắm đặng vào một chút, ắt phải chết ngay, còn Yến Anh và Tiết Côn lo chi trừ không dứt.
Triệu Vương nghe phân phải cả mừng, nói rằng:
- Kế đó cũng hay, chờ khi nào mi đặng thành công rồi trở về nước, trẫm sẽ chọn một vị đại thần cho xứng đáng làm hôn phối với mi.
Hồng Tiêu cúi đầu tạ ơn lùi ra. Qua ngày sau Triệu Vương lâm trào, văn võ triều bái xong rồi. Triệu Vương kêu Lạn thừa tướng mà nói rằng:
- Việc Thừa tướng liệu đó. Chánh cung và Công chúa cũng đã hài lòng, chờ lựa ngày lành sẽ định.
Tương như tâu:
- Ngày mai là ngày hỷ thần kiết tinh, xin bệ hạ giáng chỉ lựa người mà đưa Công chúa đi chẳng nên trễ nãi.
Triệu Vương nhận lời bèn hỏi trong ban văn, võ:
- Ai dám lãnh việc nầy?
Khi đó bên võ ban bước ra một vị, quỳ xuống tâu rằng:
- Ngu thân xin lãnh mạng.
Triệu Vương xem lại là Liêm Pha, làm chức binh mã đại nguyên soái. Triệu Vương cả mừng bèn truyền Nội thị dọn tiệc tiễn biệt Liêm Nguyên nhung và dặn dò việc qua Tề phải cho cẩn thận, Liêm Pha cúi đầu vâng dạ mấy lời. Tiệc tan rồi thì bãi trào. Triệu Vương thẳng vào Chiêu dương cung nói lại cho Chánh hậu và Công chúa hay các việc. Chánh hậu khi ấy ban lệnh cho Nội giám bày tiệc tiễn hành, mẹ con than khóc rất nên bi thiết! Quốc mẫu nói rằng:
- Một chén quan hà, ngàn năm ly biệt, sự thương nhớ kể đâu cho biết, tình mẹ con huyết mạch với nhau, hai hàng lai láng hột châu, con với mẹ muôn sầu ngàn thảm!
Tiệc rồi trời đã tối, ngày vắn tình dài, vừa rạng ngày mai. Công chúa sửa soạn xong tới lạy tạ mẹ cha mà từ biệt. Khi Công chúa vừa mới quỳ xuống, vợ chồng Triệu Vương đều khóc ngất một hồi, dầu cho người là sắt đá cũng phải nát gan, nát ruột. Vợ chồng vua Triệu đỡ Công chúa đứng dậy khuyên giải rằng:
- Cũng bởi vì nước yếu dân nghèo, đến đỗi cha con xa cách.
Nói rồi cầm khăn lau nước mắt, chân bước xuống kim giai, kiệu xa đâu đã sẵn sàng, đưa Công chúa an bày xuất giá. Lúc ấy vợ chồng Triệu Vương ruột tầm thắt thẻo, còn Công chúa mày liễu ủ ê, cực chẳng đã vợ chồng Triệu Vương phải phân tay Công chúa trở về, còn Công chúa bứt ruột gan ôm lòng mà thượng lộ.
Nói về Liêm Pha phụng mạng Triệu Vương đưa Công chúa qua nước Tề, vừa lúc tiết Xuân thiên, non xanh nước biếc, liễu múa oanh chào, phong cảnh ba xuân hoa tươi tốt, trường đình mấy dặm gió lao xao. Đêm nghỉ ngày đi, chẳng mấy bữa đã gần tới kinh thành Lâm Tri Tề quốc. Công chúa thấy vậy càng thêm tủi phận mình, chạnh niềm tưởng nhớ gia hương, cảnh vui thế ấy, người buồn biết bao.
Khi đi đến hoàng thành, ở trước ngọ môn đợi lịnh, thời may vào buổi Tuyên Vương đang lâm trào đương phán đoán, kế Huỳnh môn quan tâu rằng:
- Vua Triệu sai Liêm Pha qua dâng Công chúa, xin một điều miễn cống hiến ba năm, người còn đợi trước ngọ môn, nên tôi phải vào tâu cho Thánh hoàng định đoạt.
Tuyên Vương nghe báo cả mừng, liền truyền đòi Liêm Pha và Triệu vương nữ. Liêm Pha vâng chỉ đến trước Kim loan điện, triều bái xong rồi, Tuyên vương cho bình thân và cười hỏi rằng:
- Chúa ngươi sai đem đồ báu gì mà tấn cống cho ta đó?
Liêm Pha tâu:
- Nước tôi đất hẹp dân nghèo, chẳng có vật chi quý báu duy vua tôi có sanh một nàng Công chúa, tuổi vừa đôi tám, sắc tốt mười phần, tuy chẳng dám sánh với tiên nga, song cũng hơn những phường tục nữ, chúa tôi nâng niu như tợ ngọc, yêu dấu chẳng khác hoa, nay sai ngu hạ dâng qua, ngửa trông ơn thánh hoàng thâu dụng.
Yến Anh khi ấy bước ra tâu:
- Tôi đêm xem Thiên tượng, thấy sao Thủy tinh qua khỏi sông Thiên hà, trong nước ắt có dấy động can qua, sanh dân lại càng thêm đồ khổ, bởi vậy xin Thánh thượng chớ dùng Triệu nữ, e có khi rối loạn trong cung, bởi vì lòng khó tin lòng, cơn gian giá biết đâu mà giữ.
Tuyên Vương nói:
- Nàng vốn là người kim chi ngọc diệp, chẳng quảng đường thiên sơ vạn thủy đến đây. Trẫm xét lại Triệu Vương quả thật có lòng ngay, nên đưa ái nữ cho khỏi bề tấn cống, hãy cho nàng vào triều kiến, kẻo tủi phận hồng nhan, để mặc trẫm liệu toan, chứng ấy sẽ cho nàng về cung chẳng muộn.
Nói rồi truyền chỉ cho vvời vào. Quan Trị điện tướng quân bước xuống kim giai, ra ngọ môn vời Công chúa vào. Hai bên thế nữ đưa thẳng Công chúa lên Kim loan điện triều bái Thiên tử, Tuyên Vương thấy Công chúa mặt tợ hoa đào, mày như dương liễu, còn diện mạo chẳng khác tiên quảng hàn giáng thế, thực là người thục nữ hảo kiều, thì lửa dục phừng phừng, nồng chí lòng xuân phơi phới, khi ấy mới nghĩ thầm rằng:
- Ta uổng làm một vị Thiên tử, chẳng có một gái khuynh thành. Chánh hậu thì như quỷ như tinh, còn Tây cung đã bị bầm bị đánh, trẫm quyết cùng Công chúa vầy duyên cang lệ, cho thỏa tình trướng phụng màn loan, dầu chẳng may nghiêng ngửa giang san, vì sách có chữ: Giai nhân nan tái đắc.
Nghĩ rồi liền giáng chỉ cho Công chúa làm Tây cung phi, như ai có gián trở điều chi, thời cứ luật nghịch quân gia trảm. Các quan đều nhìn mặt nhau câm họng, chúng tướng thảy trương mắt hở răng. yến Anh cả gan bước ra tâu nữa rằng:
- Bệ hạ chẳng nạp giận ngu thần, thì dấy động đao binh trong nước ...
Tuyên Vương cả giận mắng rằng:
- Hõai thần là mặt quỷ cứ kiếm chuyện khêu hoài, giả khoe tài toán định âm dương, biết cơ mật việc họa phước,cứ nói dai hoài, nếu trẫm chẳng nghĩ, thì đầu đã rơi xuống đất, nếu còn nói nhiều lời nữa, thì trẫm không dung thứ...
Nói rồi truyền cho nội thị rước Công chúa về Tây cung, văn võ bá quan lui ra về phủ. Khi ấy Yến Anh lấy làm tức tối. Biết ngày sau Chung hậu sẽ bị biếm vào lãnh cung và Tuên Vương bị vây nơi Đàm thành nữa, nghĩ như vậy ngậm ngùi than thở, rồi cũng trở về dinh.
Tuyên Vương khi bãi triều rồi, thẳng tới Túy hoa cung. Công chúa Yến Bình nghe tin Thiên tử tới vội vã ra nghinh tiếp. Tuyên Vương vào ngồi giữa trung điện. Công chúa quỳ xuống làm lễ quân thần. Tuyên Vương nói:
- Cô gia chẳng chảng có tài đức gì, mà phụ vương đem lòng thương tưởng cho Công chúa qua đây bầu bạn với cô gia, như vậy thiệt là cảm độiơn ấy vô hồi, để ngày mai lâm trào quả gia sẽ viết một đạo tạ biểu tha cống lễ ba năm cho Liêm tướng quân về nước.
Công chúa tạ ơn tâu rằng:
- Muôn ơn Thiên tử, mở rộng nhơn từ, thương tới cha thần thiếp là phận hạ bang, thiếp tuy là nữ lưu cũng muôn kiếp ghi xương tạc dạ.
Tuyên Vương nghe mấy lời Công chúa nói, lại thêm trìu mến vô hồi! Liền bày nội giám bày tiệc rượu vui chơi, lại có thể nữ Hồng Tiêu dâng rượu. Tiệc rồi trời tối, Tuyên Vương nghỉ lại Tây cung, biết bao hoa cười ngọc thốt, phụng ấp loan kề, vu sơn giấc mộng đê mê thần nữ nhờ ơn vỡ lộ, trăng gió phỉ tình trăng gió, bướm ong say cuộc bướm ong, dầu cho sắt đá là lòng , ra chẳng khỏi vòng sắc dục. Tuyên Vương thấy Công chúa có thiên tư quốc sắc, lại thêm đức hạnh mỹ miều, càng nhìn càng thấm, càng yêu, càng mê biển dục càng xiêu sóng tình. ( Ấy là nhơn sự thường tình, đố ai thoát khỏi những vòng ái ân). Rạng ngày Tuyên Vương lâm trào, văn võ triều bái xong rồi. Tuyên Vương giáng chỉ sai quan nội các, viết một đạo biểu văn, tạ ơn vua Triệu Vương và tha cống lễ ba năm, rồi dạy lấy ra mười đỉnh vàng ròng, mười mâm lễ vật giao cho Liêm Pha, lại dạy đem vàng về nước Triệu, luôn khi ấy truyền dọn yến tiệc đãi đàng Liêm Pha tướng quân, trào thần thẩy đều dự yến, khi đó Yến Anh với Liêm Pha hai người ngó nhau lườm lườm chẳng nháy mắt không khác như gấu với ó, kình nhau ( Ngày sau hai người đó chắc có sự bất bình). Tiệc rượu xong rồi Liêm Pha tạ ơn Tề Vương, lãnh các đồ lệ vật trở về nước, Thiên tử dạy bãi trào ai về dinh nấy
Khi ấy Tuyên Vương bãi trào rồi thẳng tới Tây cung. Công chúa tiếp rước ân cần, trà nước xong xả. Công chúa hỏi:
- Muôn tâu Thiên tử, chẳng hay Chiêu dương chánh viện ai làm đầu?
Tuyên Vương nói:
- Chung nương nương là người coi hết trong tam cung lục viện ...thiệt là một đấng nưng phò xã tắc, gánh vác giang sơn, ngặt vì diện mạo xấu xa và tánh tình lỗ mãng lắm, nhưng lòng dạ ngay thẳng, nếu ai biết sợ nó thì nó cũng biết thương, bằng ai xúc phạm tới nàng thì nàng cũng chẳng để sống.
Công chúa tâu:
- Thần thiếp cũng đã từng nghe tiếng, mà nay đã ba ngày rồi, tôi xin qua triều kiến Chiêu dương cung, chẳng biết có đặng hay không?
Thiên tử nói:
- Có hề gì, song ái phi muốn qua đó, thì phải cho cẩn thận mới đặng.
Chuyện vãn rồi kế Nội giám sắpbày tiệc rượu, Công chúa hết dạ khuyên mời. Hồng Tiêu lại nhiều bài ca xướng, làm cho Tuyên Vương tê mê tẩn mẩn, chẳng khác chi cá gặp nước, bướm say hoa, phút đà ác đã ngậm gương, thỏ vừa ló bóng, hai người đã dắt tay vào phòng, chung kề gối phụng, êm ấm xuân tình, đêm vắn vui dài, trời đã hừng sáng. Tuyên Vưong vội vã sửa soạn lâm trào. Công chúa nhơn dịp ấy nói với Hồng Tiên rằng:
- Ngày nay chị qua đến đây, Thiên tử đã phong cho làm Tây cung phi, coi chị như châu như báu, cơ hội như vầy phải thừa ngay cơ hội, nếu sai chầy e lậu cơ quan. vậy thì chị em ta tua khá vầy đoàn, qua thăm viếng Đông Trương thị, trước là ra mắt, sau là để coi tình ý thế nào? Nếu Trương Quý nhơn một lòng một dạ, thì hai đàng đồng hiệp lực công quyết hại cho được Chung Vô Diệm.
Hồng Tiêu khen phải, rồi kíp truyền nội thị, sắp bày phụng kiệu, sang qua Đông cung.
Khi qua đến nơi, quan nội giám vào báo cho Trương Túy Văn hay rằng:
- Có Tây cung Triệu quý nhơn tới viếng.
Trương phi nghe báo vội vàng ra mừng, rrước vào giữa trung cung. Triệu phi khi ấy quỳ xuống lạy mừng ra mắt. Trương phi cầm tay đỡ dậy phân ngôi tân chủ mà ngồi, chuyện vãn một hồi kế bày tiệc rượu. Triệu phi tiếp lấy chén rượu nói rằng:
- Xin giữ việc thiệt tình đừng làm lễ nghĩa thái quá cực lòng, tôi chẵng muốn.
Khi đó hai chị em rượu đã nóng cổ. Triệu phi bèn hỏi việc bên chánh cung. Trương phi thuật lại rằng:
- Lúc trước Thiên tử đi săn gặp Chung nương nương hái dâu, bức Thiên tử phong cho làm chánh cung hoàng hậu, hình dung người tuy đen xấu, mà pháp thuật vốn thiệt tinh thông, đã thâu phục Yên Đơn lại mới Triệu bình sơn tặc. Còn ngày trước tây cung là Cao phi, trong lòng độc ác bị nương nương cho hồn xuống suối vàng, người lại có tài hay đoán quẻ âm dương, biết được kiết hung họa phước.
Triệu phi nghe nói lắc đầu mới nghĩ thầm rằng:
- Ta có một kế điệu hổ ly sơn ( là dỗ cọp ra khỏi núi) để thử ý Đông cung coi thế nào cho biết.
Nghĩ rồi mới nói xa nói gần, nói giây lâu lại nói qua việc lo mưu hãm hại Chung quốc mẫu. Trương phi nghe nói cũng tính trong bụng rằng:
- Con này đã tới số, nó muốn chết như Cao phi, nếu ta đồng lõa chi chi chẳng khỏi vương vòng tai họa.
Nói rồi lại nghĩ:
- Ta có một kế cũng hay, kêu là tọa quan hổ đấu ( Ngồi coi cọp đánh nhau, ai sống chết mặc ai). Nghĩ rồi liền nói với Triệu phi rằng:
- Vương muội đã say quá chén nói phó như vậy chẳng nên, khuyên chớ nhiều lời vì rượu, ở đây tai vách mạch rừng, nếu lời này mà thấu tới tai Chánh cung, thì khó nỗi làm người dương thế.
Triệu phi nghe nói hỡi ơi. Tiệc rượu xong rồi từ biệt xin về cung mình an nghỉ.
Khi Triệu phi về tới tây cung nhớ đến việc mình chừng nào, thì lấy làm buồn bực, nằm không an giấc, nghĩ hoài không ra kề, bèn than thở một mình, oán trách lão Tương Như, sẵn có vọng tấu với Phụ vương, đưa ta đến đây đã thiệt mình, mà cũng không làm chi Chung Vô Diệm đặng. Nên chiếu theo lời Trương phi nói, việc này khó nỗi ra tay, còn phụ vương ta cứ trông đêm ngày, lại giận rằng: Ta làm con bất thảo. Ta cũng xét hết lễ. Chung Vô Diệm với mình, vốn không thù không oán, điều khi không lại muốn giết người, tưởng một mìnhkhó nỗi tới lui, bỗng thấy Hồng Tiêu bước tới thưa rằng:
- Xin Vương phi dừng sầu muộn, để việc ấy mặc tiện tỳ âu lo, việc chẳng khó đâu, giết Vô Diệm không đầy nháy mắt.
Triệu phi nói:
- Như em mà có mưu hay kế giỏi, chừng trừ hại được con Chung xủ phụ rồi, thì chị sẽ tâu với phụ vương, nhớ lời giao ngôn thuở nọ.
Hai người chuyện trò còn đang bàn soạn, bỗng thấy Tuyên Vương vào tới. Triệu phi lật đật ra tiếp giá vô Túy hoa cung, trà nước xong rồi. Nội giám liền dọn tiệc rượu, chén thuì chén tạc, tiếng quyển tiếng kèn. Tuyên Vương nghe cũng êm tai, bèn uống đến ngã lui, ngã tới, kế đó trời cũng vừa tối, vua nghỉ lại Tây cung. rạng ngày Tuyên Vương lâm triều còn Triệu phi với Hồng Tiêu cũng sửa sang áo mão vì chủ ý đã định rồi, qua triều Chánh cung hoàng hậu.
Lúc này Chung hậu đang lúc thanh nhàn, ngồi coi sách chơi trong Chiêu dương cung, bỗng có trận gió thổi qua, trong lòng bắt xốn xang bào bọt, bèn đánh tay toán quẻ mới biết rằng: " Vua Triệu vương làm Mỹ nhơn kế, cho mê hoặc Tuyên Vương mà làm hại mình với Yến Anh cùng Điền Côn cho tận tiệt. Sự này lòng trời cũng biết, một là ta bị biếm vào Lãnh cung, hai là vua Tuyên vương bị vây nơi Đàm Thành, ba là chư hầu dấy động đao binh, sanh dân đồ khổ. Vả lại lời thầy ta có nói:
- Lần này bị biếm nữa là lần thứ hai, ta phải vào lãnh cung, còn Yến Bình Công chúa và thế nữ Hồng Tiêu đã tới số chết rồi, không có phương chi cứu đặng. Nói như vầy bèn ngồi suy nghĩ than thở một mình, kế Triệu phi xa giá tới Chiêu dương cung. Nội giám vào tâu lại cho Chung hậu rõ. Chung hậu bèn cho mời vào trong Long phụng các. Triệu phi tới quỳ xuống tâu rằng:
- Tiểu phi đến đây triều kiến, cam tội rất nhiều, ngửa trông Quốc mẫu ngàn năm rộng lượng dung thứ.
Chung hậu lật đật bước xuống đỡ dậy và nói rằng:
- Vương muội chớ làm lễ nghĩa cho quá , bởi vì người là cây ngọc lá vàng, ta đây vốn là con nhà dân thứ... Nay vương muội đã tưởng tình tới thăm viếng, thì cũng đã đủ rồi, tuy trong có phân ngôi chúa tôi, nhưng mà là sự thường tình, xxử thiệt tình nghĩa chị em, khuyên đó hãy ngồi chuyện vãn.
Triệu phi từ chối đôi ba phen. Chung hậu cứ khuyên biểu mãi. Triệu phi tạ ơn rồi ngồi nơi cầm ý thưa rằng:
- Tiểu phi từ khi vâng chỉ qua đây, chưa có sữ hiếu kính với nương nương mà nương nương trọng đãi như vầy, thiệt tôi cảm đội ơn vô hồi.
Khi chị em trà nước xong rồi kế bày tiệc rượu ra, hai người đồng ngồi lại trò chuyện ăn uống rất nên là vui vẻ!
Đương khi ấy Chung hậu giả bộ rơi lụy mà nói rằng:
- Ta có việc gia tinh đắng nghét, cũng như vị thuốc huỳnh liên, từ khi ta đi hái dâu mà gặp Thiên tử hứa hôn đến bây giờđã đặng tám năm mà chẳng khác chi mặt trời với mặt trăng. Thiên tử lại không chút tình hoài ái, tiếng làm Chiêu dương hoàng hậu chẳng khác chi ở góa một mình, không thấy đặng mặt mẹ cha, lại phân tình anh chị. Còn khi trước Tây cung Cao thị, đem rượu độc mà giết ai gia, không dè thiên bất dung nhan, ta bắt đặng bèn đánh chết. Thiên tử cả giận không nghĩ biếm ta vào lãnh cung. May đâu có Yên phò mã xưng hùng, tới Trâu bình quan xâm phạt. Nhờ cớ ấy quân sư bảo tấu, nên ai gia mới kiếm công lập nghiệp với triều đình, từ ấy tới naychẳng biết với ai mà tỏ bày tâm sự, may có Vương muội qua đây, ai gia phân tường chung thỉ. ( Nguyên Chung hậu nói mấy lời đó là muốn cho Triệu phi tỉnh ngộ, đừng đem lòng mong hại tới mình).
Không dè số trời đã định, sống chết không chạy đâu cho khỏi. Khi ấy tiệc rượu vừa được nửa tuần. Triệu phi bèn kêu Hồng Tiêu và v bảo rằng:
- Thế nữ! Mau đem châm rượu ra đây, cho ta kính mừng nương nương một chén nữa.
Hồng Tiêu nghe hiểu ý liền bỏ thuốc độc vào bình rượu, cầm tới rót một ly. Triệu phi hai tay bưng lấy chén rượu, dâng cho Chung hậu mà thưa rằng:
- Lời xưa có nói:
- Trọng Phật kính Tăng, xin Quốc mẫu hãy thương tình tỳ thiếp, dùng chén rượu này, còn sự Thiên tử chẳng chút chung tình với Quốc mẫu, thì Quốc Mẫu buồn cũng phải, nhưng sầu nhơn mặt đôi sầu nhơn thuyết, tỳ thiếp cũng xa lìa cha mẹ tới đây, buồn rầu vô hồi, nay lại nghe Quốc mẫu than thở, vậy xin Quốc mẫu hưu hỉ, đi cùng nhau cho vui vầy, xin đó nhận lời đây, uống chén rượu này cho vui dạ.
Khi Hồng Tiêu châm rượu, Chung hậu liếc qua đã biết ý rồi, nhưng cũng lấy chén rượu của Triệu phi khuyên mời, làm bộ như muốn uống, rồi lại để xuống nói chuyện, làm như vậy tới hai ba lần. Triệu phi và Hồng Tiêu trong bụng mừng khấp khởi, tính chắc Chung hậu sẽ uống. Chẳng dè Chung hậu giả làm rủi tay, đụng rớt ly rượu xuống đất, thì thấy gạch nứt rã ra tứ đường. Chung hậu cả giận mắng Triệu phi rằng:
- Thầy trò bây rõ ràng là đồ súc sanh, nỡ đem rượu độc hại cho đành, ấy là chúng bây gây sự chẳng lành, đừng trách ta sao ở bất nhơn vô đạo.
Hồng Tiêu bị sự đã lộ rồi, liền thoát thân ra vừa muốn chạy thì Chung hậu với tay nắm áo kéo lại nói rằng:
- Mày thiệt là con hữu nhãn vô châu, nhỏ người mà lớn mật, kế này là tại mày bàn trước, như ta vô phước thì đã lầm tay độc thủ của mày rồi.
Nói như vậy liền nắm lấy hai chân Hồng Tiêu , dộng đầu xuống đất, đá một cái văng ra có hơn mười thước, liền sặc máu chết tươi. Triệu phi thấy vậy hoảng hồn, chân chạy lăng xăng, miệng la bài hải, vừa muốn chạy ra cửa cái. Chung hậu nắm tay dắt lại bước lên thềm cung. Triệu phi không chịu đi. Chung hậu nổi nóng một khi, vật sấp Triệu phi xuống đó mạnh quá, rồi bước lên thềm, thấy Triệu phi dẫy tê tê, chẳng khác chi gà bị cắt cổ, giây lát cũng mửa máu ra chết luôn. Chung hậu thấy vậy ăn năn đã không kịp. Lúc này Tuyên Vương đang ngự tại triều. Nội giám bèn đem việc ấy tới báo. Tuyên vương nghe rõ tâm thần bấn loạn bèn xỉu xuống ngai vàng, văn võ bá quan kêu cứu giây lâu mới tỉnh, khi vừa mới mở mắt ra, thì khóc và nói rằng:
- Triệu ái khanh ôi! Ái khanh chẳng tiếc thân ngàn vàng khiến cho cô gia thêm phần khổ não! Những ước trăm năm Tần tấn, hay đâu hai ngã Sâm Thương, vợ chồng đà thiên các nhứt phương, cha mẹ lại dặm trường xa cách, duyên nợ ba ngày duyên nợ, tình chung một tấm tình chung, biết cùng ai tỏ sự đục trong, căm giận bấy gây loàn vì con Chung xủ phụ!
Tuyên Vương than khóc bỗng thấy Chung nương nương quỳ trước sân chầu tung hô ba tiếng khấu đầu. Xin Thiên tử tha tội cho con hái dâu xủ phụ. Tuyên vương đương lúc phẩn nộ, chỉ mặt Chung hậu mà nói rằng:
- Xủ phụ! Xủ phụ! Yến Bình Công chúa có thù oán gì với ngươi, làm sao ra cớ này? Lần nầy nữa là hai, Trước đã giết Cao phi nay lại giết luôn Triệu nữ, nếu chẳng đem ngươi ra xử tử, trẫm quyết chẳng là Đế chủ Đông tề, như Triệu Phi có tội gì, thì cũng phải tâu qua cho trẫm rõ, có lẻ đau ngang quá, quyền sanh sát một tay mày. Quân ngự lâm đâu? Tua ra khá bắt trói con Xủ phụ cho ta hài tội.
Chung hậu lạy mà tâu rằng:
- Mong ơn Thiên tử mở lượng hải hà để thần hậu tâu qua cho rõ bề trong đục. Số là tại Triệu phi đem lòng ác độc, chẳng phải thần hậu có dạ bất lương, thế nữ là Hồng Tiêu bỏ thuốc độc vào ly rượu rồi Triệu phi lấy đưa cho thần thiếp, nài nỉ bảo uống hoài, cơn ấy thần hậu bị rủi tay, làm rớt xuống giữa nền nhà , gạch đều nứt nẻ ra, còn đủ bằng cớ xin giao cho triều thần công xử, kẻo thần hậu chịu oan”.
Tuyên vương cả giận nói rằng:
- Trẫm quyết chẳng dung, ngươi đừng già miệng, lời xưa có nói:
“ Giết người phải thường mạng, thiếu nợ thì phải trả tiền” Quân ngự lâm vốn biết Chung hậu là tay võ nghệ cao cường, nên không ai dám cự đương, cứ đứng lấy mắt nhìn nhau hoài, mà chẳng dám đâm tới. Tuyên vương thấy vậy, càng thêm giận dữ mắng nhiếc om sòm, rồi bước xuống ngai vàng chỉ mặt Chung hậu mà nói rằng:
- Con xủ phụ mày có giỏi thì đánh ta chết luôn một thể.
Nói rồi nắm áo kéo lên Kim loan điện, rồi truyền quân thị vệ trói lại liền. Chung hậu thấy Thiên tử bất lương thì có ý buồn, nghĩ thầm rằng:
- Thánh mẫu có nói: Lần này ta bị biếm vào lãnh cung một lượt nữa, nếu ta không chịu trói thì trái ý trời, chớ lão hôn quân này làm sao bắt ta đặng, ấy là tai nạn của ta phải sao chịu vậydầu cho cường biện lẽ nào cũng không khỏi.
Nghĩ rồi quỳ xuống thưa rằng:
- Khuyên Thánh thượng bớt giận, thần hậu xin cam tâm.
Quân thị vệ vâng lệnh ân cần, bắt Chung hậu trói lại. Rồi đó Thiên tử truyền cho Tam pháp ty dẫn Chung hậu ra xử trảm.
Yến Anh hay đặng chạy đến tâu rằng:
- Chẳng biết Nương nương phạm với triều đình tội chi mà bệ hạ xử nặng như vậy?
Tuyên vương bèn thuật hết chuyện cho Yến Anh nghe. Yến Anh cười và tâu rằng:
- Lệ triều đình đã định, hễ phi thiếp mưu hại chánh viện thì phải tội lăng trì, như nay Quốc mẫu giết chết Triệu phi, so với luật hãy còn nhẹ, xin bệ hạ xét lại. Quốc mẫu thiệt trung tâm vị quốc, tại Triệu Phi gây họa cho mình, ấy là Triệu Phi dùng kế mỹ nhơn, toan chiếm đoạt Tề triều xã tắc. Quốc mẫu vì bệ hạ trừ an mối giặc, lẽ thì nên bày tiệc ăn mừng, có đâu lại đi tội cực hình như vậy? Nếu bệ hạ mà giết Quốc mẫu đi, tôi e có ngày Liêm Pha tới đánh, thời tề quốc giang san chẳng phải rơi vào tay Triệu chúa. Như bệ hạ chẳng nghe trung gián, ngu thần có chết cũng cam tâm.
Tuyên vưong nghe tâu nửa giận nữa kinh, bèn phán rằng:
- Hoải thần còn nhiều chuyện, chẳng khỏi chết bây giờ.
Yến Anh cũng không sợ cứ theo tâu hoài, văn võ triều thần đều lấy mắt ngó nhau, chỉ có Điền Côn là Tiết Côn rơi lụy và nghĩ thầm rằng:
-“ Nếu lệnh trên chẳng nghe lời can gián mà giết giết Chung quốc mẫu rồi thì ta cũng chẳng đầu Tề nữa làm chi, quyết trở về sơn trại. Như ta còn ỏ lại e có ngày mang họa.”
Nghĩ rồi lại ngó Thiên tử lườm lườm nhưng không dám nói. Yến Anh lại tâu rằng:
- Nưong nương nếu có lỗi lầm , xin bệ hạ sét công mà chiết tội, người đã chết rồi làm sao mà sống lại, còn kẻ có công sao nỡ tru di. Muôn tâu bệ hạ xin suy đi nghĩ lại mà coi, chớ Quốc mẫu đã bao phen khó nhọc mới an đặng nước nhà. Như nay bệ hạ giết Quốc mẫu đi, thời Đông Lộ vương gia ( Tiết Côn ) chỉ lo cho chàng ta tạo phản, tới lúc đó Tề bang nguy nan thời không ai gánh vác giang san. Triệu bang cũng đã lăng loàn. Liêm Pha ắt hưng binh gia phạt, tới lúc đó bệ hạ dẫu có lòng hối quá, thì sự việc đã muộn rồi.
Tuyên vương nghe nói tới sự Đông Lộ vương thì thất kinh, mới hỏi Yến Anh rằng:
- Vậy chớ tiên sanh nghĩ làm sao?
Yến anh tâu:
- Xin biếm Quốc mẫu vào Lãnh cung, mới phục tình văn võ.
Tuyên vưong y lời tâu, truyền nội thị mở trói cho Chung nương nương. Chung hậu bèn quỳ xuống kim giai tạ ơn Thiên tử. Tuyên vương nói:
- Xủ phụ! Mi nhờ có quân sư bảo tấu, không thời mười mạng cũng không còn. Cô gia nghĩ chút công nên biếm đó vào Lãnh cung thọ tội, nếu không có tuyên triệu thì chẳng ra khỏi được ngục hình.
Chung hậu tạ ơn Thiên tử, rồi đi thẳng tới Lãnh cung với quân Nội giám. Yến Anh lại tâu với Tuyên vương xin cho đem những đồ vật báu ở trong Chiêu dương cung với bọn Cung nga thể nữ đều tới Lãnh cung mà phục thị Quốc mẫu. Thiên tử cũng nhậm tấu, bá quan thảy đều ngậm ngùi, thương hại cho Quốc mẫu vô cùng! Khi Chung hậu đã tới Lãnh cung , nhớ lại sự trước, bây giờ tính đã tám năm tròn, phong cảnh tiêu điều, cung tường rời rã, bóng mặt trời chẳng thấy, hơi lạnh thấu xương. Chung hậu bèn truyền cho thị nữ sửa sang sạch sẽ, rồi chờ tới canh khuya niệm chú hô thần, bốn vị Công tào đều tới thỉnh lịnh. Chung hậu nói:
- Nay ta cậy chư thần đem hết những đồ: Giường chiếu, ghế , ỷ ở trong Chiêu dương cung tới đây cho ta tạm dụng.
Chư thần đều vâng lịnh, giây lát có đủ đồ. Còn khi Tuyên vương quan dã biếm Chung hậu vào lãnh cung rồi, lại truyền cho quân Nội thần tới Chiêu dương cung tẩn liệm thi hài Triệu Phi với Hồng Tiêu cho tử tế. Nội thần vâng mạng. Tuyên vương bãi triều, rồi về thẳng đông cung. Nội giám vào báo cho Trương phi hay tự sự. Trương phi lật đật ra nghinh tiếp thánh giá vào cung, Tuyên vương buồn rầu, thương tiếc Triệu phi khôn cùng. Trương phi liền kiếm lời khuyên giải, rồi bày tiệc rượu ra, tiêu thiêu nổi chập, thế nữ ca xang, tới canh khuya mới mãn tiệc.
Ngày tháng như thoi đưa, lục thục đã tới tiết Trung thu tháng tám Tuyên vương lâm triều, văn võ tung hô xong rồi. Tuyên vương phán rằng:
- Bửa nay là ngày giai tết, trẫm muốn bày tiệc rượu vui mừng, vua tôi chung hưởng sự thái bình cho phỉ chí .
Yến Anh vâng lịnh, truyền cho quan ngự thiện dọn một tiệc ân cần, và sắp bày có thứ lớp, vua tôi ăn uống vui vầy một bữa, thảy đều say sưa, từ ban mai cho tới quá trưa, mới bãi tiệc, các quan tạ ơn Thiên tử, rồi ai về dinh nấy.
Tuyên vương bãi tiệc rồi, thẳng tới Đông cung , Trương phi đã sắp đặt, những thứ đồ khánh hạ trung thu, sơn trân hải vị, cùng các món hoa quả rất nhiều, bày ra giữa sân chẳng thiếu một vật gì, trong cung thì kết tụi treo bông mùi hương thơm phức. Khi Thiên tử giá lâm, Trương phi tiếp rước xong rồi, hai bên nhạc công, vũ nữ, hát múa tưng bừng, đờn ca inh ỏi, chẳng khác như Diêu trì vương mẫu, đại yến quần tiền. Còn Chung hậu ở trong Lãnh cung, buồn bực biết chừng nào. Cũng đều thưởng nguyệt trung thu, kẻ vui người buồn chia ra hai ngã. Đương lúc một mình buồn bã, sực nhớ lại cửa nhà, bỏ mẹ lìa cha, đã tám thu chẵn, tình thâm lai láng, lụy ứa đôi hàng, thấy trăng thêm động lòng vàng, tủi thân thưong cha, nhớ mẹ, bèn bấm tay làm một quẻ biết Tuyên vương còn đang yến ẩm nơi Đông cung, mới nghĩ thầm rằng:
- Vô đạo hôn quân, va chẳng tưởng tới tình nghĩa vợ chồng, cũng không nghĩ công lao khó nhọc, đem ta đây vào lãnh thất, mà vui sướng một mình, đêm khuya bóng nguyệt hé mành, tủi duyên vợ chồng, rất thương tình mẹ cha?
Nghĩ rồi lại khóc òa. Cung nữ thấy vậy cũng xót xa, khóc theo cả bọn. Chung hậu nói:
- Phận ta buồn sầu là phải, còn các ngươi có việc gì mà cũng buồn theo ta như vậy?
Cung nữ tâu:
- Chị em tôi thấy Quốc mẫu như vậy, vả lại đương tiết Trung thu, người người thảy đều vui vẻ, còn bọn tôi ở trong Lãnh cung này, nếu muốn dùng vật chi, cũng chẳng biết hỏi ai, nên chúng tôi mới buồn là cớ ấy.
Chung hậu nói :
- Việc này dễ lắm, thôi các người hãy đi nghỉ đi, để ai gia kiếm đồ cho mà ăn tiệc.
Cung nữ lui ra, Chung hậu đốt một là phù, niệm bảy lần thần chú, thấy Thần đinh lục giáp, với Huyền cân lực sĩ đều tụ tới nơi bái yết. Chung hậu phán rằng :
- Ta phiền cùng chư vị thánh thần mau tới bên Đông cung lấy hết những đồ yến tiệc mà đem về đây.
Chư thần vâng lịnh trong giây lát đem về đủ các đồ vật, chẳng thiếu món gì. Chung hậu kêu hết cung nữ tới mà nói :
- Đêm nay chơi trăng rằm, cho đặng giải cơn phiền muộn.
Khi rượu vừa ít chén, cung phi mỹ nữ nói nhỏ với nhau rằng :
- Không biết đồ sơn trân hải vị ở đdâu, mà Quốc mẫu kiếm cho sẵn đủ như vậy cũng lạ !
Có đứa biết, thì khen Quốc mẫu pháp lực vô cùng, còn đứa không biết thì nói :
- Hay là Quốc mẫu biểu chị em ta đi nghỉ, rồi đi ăn trộm của ai đem về đây chăng ?
Điều ấy, những lời nói thường, kể đâu cho hết.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi thứ Ba Mươi Tám - Trương phi hiến kế đốt Lãnh cung,
Trương phi hiến kế đốt Lãnh cung,
Chung hậu độn hoả về cố lý
Nói về vua Tuyên vương và Trương phi đang ngồi uống rượu, chơi trăng, bỗng đâu có trận gió thổi tới, làm cho đèn đuốc đều tắt sạch, thị nữ ó lên, chạy đi kiếm lửa, một lát thắp đèn lên được thì thấy bao nhiêu đồ vật, mất hết không còn một món chi, chỉ thấy Tuyên vương và Trương phi ngồi đó trơ trơ, đều thấy làm lạ! Thiên tử lại truyền nội thần bày tiệc rượu khác. Trương phi tâu với Tuyên vương rằng :
- Vợ chồng mình ăn mừng tiết Trung thu, lòng thành cảm động tới trời, nên quỷ thần hưởng hết.
Tuyên vương cả mừng, thị nữ lại châm rượu thêm. Tuyên vương uống tới say vùi. Trương phi cũng còn ép uống, rồi mới sanh ra một kế, thừa cơ hội ấy quyết hại cho được Chung Vô Diệm, mới trừ yên hậu hoạn. Nếu Chung hậu mà khuất bóng, thời khắc chức Chiêu đương ắt ở tay mình, tính rồi liền quỳ xuống mà tâu rằng :
- Mong ơn Thiên tử, xin tha tội cho Chung nương nương.
Tuyên vương nói :
- Vì ta thương Triệu phi, nên mới biếm Chung xủ phụ, ái khanh đừng nói tới tên đó nữa, trẫm lại thêm ghét đắng, ghét cay, ở Lãnh cung cũng bị chết có ngày, trẫm sẻ kiếm mưu hại nó.
Trương phi nghe Thiên tử nói vậy, bụng mừng phơi phới, biết gặp đặng cơ hội rồi, bèn kề tai nói nhỏ phải như vầy …như vầy…Tuyên vương đương say, chẳng biết chi là phải quấy, liền cho cung nữ uống rượu say mèm, tư bề thanh vắng, Trương phi lấy những đồ lưu huỳnh, thuốc pháo, rồi vợ chồng dắt nhau thẳng tới Lãnh cung. Khi đến nơi thấy tường vách đứng khó nổi lên, Tuyên vương mới bảo Trương phi đứng lên vai mình, leo lên vách phóng hỏa. Khi ấy Chung hậu, cung nữ ăn tiệc xong rồi, sửa soạn vào cung an nghỉ, thình lình bắt nháy mắt, lòng dạ rất xốn xang, nằm không an giấc, ngồi dậy bấm tay làm một quẻ, mới biết Tuyên vương và Trương phi âm mưu hãm hại mình, trong quẻ lại thấy sao Thái âm đè trên sao Thanh long, bèn giận máng rằng :
- Vô đạo hôn quân, cứ biết ham mê tửu sắc, không kể tới thân thể mnìh là một vị đế chủ Đông Tề, là cha mẹ muôn dân, có lẻ đâu cho con đàn bà đứng lên vai của mình làm điều vô nghĩa vô lễ như vậy. Rồi đây bốn phương xao động, thì ngươi chẳng khỏi bị vây ở nơi Đàm thành một trăm ngày, cớ ấy cũng tại mình làm ra, chớ đem lòng oán trách.
Nói rồi liền niệm mấy câu linh văn, hóa ra một bày ong, bay tới nơi góc tường, đốt Trương phi té nhào xuống đất, lỗ đầu chảy máu. Tuyên vương bồng lấy Trương phi mà chạy về cung, kế một lát, thấy lửa đỏ rực trời. Cung nữ khóc la dậy đất ! Chung hậu bèn nói rằng :
- Ta có phương pháp cứu đặng chúng bây, mau mau đem đao mã tới đây, níu áo ta đeo chung quanh mình ngựa, mắt thì phải nhắm lại, chẳng nên trể nải mà cháy tiêu.
Hết thảy bọn cung nữ là ba mươi hai người, vâng lịnh ra hậu cung, đem cây Định tề đao và dắt Thần mã tới. Chung hậu nhảy phóc lên ngựa, hai bên cung nữ bu chặt như ong. Chung hậu niệm mấy câu hỏa độn chân ngôn, ngựa vụt bay lên trên không, ra khỏi hầm lửa, đứng trên đám tường vân ngó xuống. Chung hậu lại sợ Tuyên vương sanh dạ nghi nan, liền lấy tay chỉ xuống Lãnh cung bao nhiêu ghế bàn hóa ra như thây cháy, lại niệm hô thần chú, đòi Nam Phương hỏa thần tới, dùng tam muội hỏa, thiêu hủy cho hết Lãnh cung. Lúc đó ở trong tam cung lục viện thấy bên Lãnh cung lửa dậy, la cứu vang trời, quân Nội thần vào Đông cung báo cho Tuyên vương. Tuyên vương lật đật chạy ra khỏi cửa cung, kịp truyền đánh loan phụng cỗ, cảnh dương chung, tề tập bá quan tới cứu hỏa. Trong giây phút kẻ xe người ngựa, chạy đến rần rần, đem hết quân Ngự lâm tới Lãnh cung chửa lửa, kẻ kiếm gáo người xách nước, la réo om xòm, tưới một hồi lâu ngọn lửa mới tắt. Yến Anh khi ấy mới nói :
_ Như Nương nương mà bị cháy, lấy ai mà bảo hộ giang sơn, phò xã tắc.
Điền Côn nghe như vậy thì rơi lụy dầm dề, trong ruột đau như dao cắt, văn thần võ bá thảy đều thương tiếc, không biết lửa ở đâu, ai cũng đem dạ ưu sầu than thở ! Tuyên vương mới biết mình làm điều quấy, Chung hậu ở trên mây xem thấy bắt tức cười, rồi bay tuốt về Thương sơn lánh mặt.
Đây nói về Đông lộ vương là Điền Côn và văn võ triều thần đến đốc quân Ngự lâm tưới tắt hết lửa rồi bèn bới tro ra mà tìm kiếm, thấy thi hài nằm sắp lớp, nhìn chẳng biết ai là ai. Điền Côn giọt ngắn giọt dài, Yến Anh cũng tuôn rơi lụy ngọc ! Xúm nhau lại tâu với Thiên tử, xin minh cớ sự ấy bởi ai, một là lửa hoả tai, hai là ngưiờ ta đốt, có lẽ đâu trong cung cấm mà có gian tế tới đây ? Điền Côn cứ theo kêu nài :
- Xin Phụ vương tra xét, chẳng kể là Vương phi quốc thích, cùng là Nội giám cung nga, xin tra khảo cho ra, con bắt nó thường mạng.
- Tuyên vương nói :
- - Khuyên Vương nhi đừng vội nóng, để thủng thẳng sẽ hay, quân sư chiếm quẻ có tài, coi một quẻ ai làm sẽ biết.
Phán rồi, vua tôi dắt nhau trở về Kim loan điện, truyền nội thị đặt bày hương án, quân sư Yến Anh vâng mạng, quỳ xuống trước bàn đảo cáo với trời đất, rồi cầm tiền xủ quẻ, thấy bổn mạng còn bình an, loạn động lụa hào, nội quầy sách giao, thời đà biết ý, song thiên cơ bất lậu, không dám tả hết cho ai hay, liền viết ra một bài, có mấy câu đoán như vầy :
Người đàn bà đi trước.
Người đàn ông theo sau.
Đem những đổ hỏa thiêu.
Tới Lãnh cung mà đốt.
Vách tường cao chót vót.
Hai chân đạp vai rồng.
Phạm tội với Thiên công ,
Bị bầy ong chích mặt.
Sẩy chân té xuống đất.
Dấu tích còn sờ sờ.
Muốn biết ai bây giờ,
Chẳng phải người đâu tới.
Yến Anh viết xong rồi đưa cho Nội thần dâng lên cho Tuyên vương xem. Thiên tử coi rồi cả kinh, cứ lấy mắt ngó Yến Anh, và mắng thầm rằng:
- Thằng lùn này thiệt giỏi, nó biết các việc của ta, nếu như nó nói ra, ắt triều thần dị nghị.
Vua Tuyên vương lại truyền nội thị, đưa bài đoán ấy xuống cho quan coi. Điền Côn coi rồi khóc ngất một hồi, không biết tính phương kế chi mà minh oan cho Quốc mẫu. Yến Anh nói:
- Xin Điện hạ bớt cơn sầu não, mà lo tẩm niệm nương nương. Điện hạ hãy tâu với Thánh thượng, phải chiếu theo quốc lễ.
Điền Côn tuân lời tâu với Thiên tử, Tuyên vương chuẩn tấu truyền cho quan nội các, sắm sửa đồ tẩm liệm Chung hậu xong rồi đem linh cửu về nơi Bạch hổ điện. Tuyên vương cũng giả làm bộ than khóc Chung nương nương. Điền Côn tuy là con nuôi nhưng cũng như trưởng nam, nên cũng mũ rơm áo bã và văn võ bá quan, thảy đều quảy hiếu cư tang, làm chay bảy thất, cầu cho siêu độ vong hồn.
Trương phi từ khi leo lên phóng hỏa bị bầy ong chích mặt. Thiên tử bồng về Đông cung dưỡng bịnh, còn Thiên tử mắc lo việc tang chế cho Chung hậu ở nơi Bạch hổ điện hoài hoài. Xảy đâu thấy nội giám tới tâu rằng:
- Đông cung nương nương bệnh thế trầm trọng, e sống không nổi.
Tuyên vương nghe báo hồn vía đều bay lên mây, vội vàng trở về ông cung đòi các quan ngự y tới điều trị. Giây phút Yến Anh và văn võ đều tựa tới hầu thăm. Thiên tử cho ngồi chuyện vãn. yến Anh khi ấy tâu rằng:
- Xin bệ hạ chớ khá ưu phiền, mà hao tổn mình rồng, tôi đã biết bệnh chứng của Đông cung phi rồi, chẳng qua là người bị nọc ong, trong vài bửa thì lành căn bịnh.
- Tuyên vương nghe nói liền kiếm chuyện khác nói qua, rồi truyền lệnh cho các quan và ngự y thảy đều về an nghỉ.
- Còn Chung hậu cưỡi mây bay về tới núi Thương sơn là chỗ quê xưa, liền sà xuống và kêu cung nữ bảo mở mắt ra, bèn khiến vào Chung gia trang mà thông báo. Quân gia đinh nghe kêu, lật đật ra mở cửa, thấy một người mặt mũi hung thần ác sát, liền quỳ xuống lạy lia lịa mà thưa rằng:
- Chung viên ngoại tôi giàu lắm, để tôi chỉ cho, xin trại chủ đừng giết tôi tội nghiệp.
- Chung hậu ngồi trên lưng ngựa nghe nổi tức cười và nói lại rằng:
- Mày hãy vào thông báo cho Chung viên ngoại hay nói rằng: Tuyên vương chánh hậu là Chung Vô Diệm về thăm.
Gia đinh nghe nói nửa mừng nửa sợ, lật đật vào báo với viên ngoại hay, vợ chồng vội vã chạy ra mừng rỡ vô cùng! Chung hậu khi ấy xuống ngựa cầm tay mẹ than khóc một hồi, rối dắt nhau vào nhà thư thất. Kế thấy hai người anh là Chung Long, Chung Hổ và hai người chị dâu, đều tới mừng rỡ! Chung phu nhân khi ấy mới hỏi Chung hậu rằng:
- Vì làm sao mà con về đây thăm cha mẹ đặng?
Chung hậu liền thuật hết các việc tai nạn cho cha mẹ nghe , vợ chồng Chung viên ngoại cũng động lòng thương con than thở . Chung hậu từ đấy ở với cha mẹ , ngày thời dạo hoa chơi kiểng , đêm thời xem xét bình thơ, chờ cho tai nạn mãn rồi, ắt có quân sư tới rước.
Đây nhắc lại khi lửa cháy lãnh cung , các quan ngỡ chắc là Chung hậu bị thiêu, chỉ một mình quân sư Yến Anh biết sự Chung hậu đã dùng phép hỏa độn, mà cứu bọn cung nữ bay về Thương Sơn , nhưng chẳng dám nói ra, bởi vậy cho nên vua Tuyên vương và triều thần cứ mỗi thất là 7 ngày, làm chay niệm Phật, cầu cho siêu độ vong hồn, tới nay đã đủ bảy thất rồi, mới sắm sửa phát tang, đưa linh cửu tới Sơn lăng mai tang, khi sắp đạt xong xuôi, phát pháo động quan, Điên Côn thì phò giá triệu, còn Tuyên vương cũng giá ngự đi sau, văn võ Triều thần đều đưa đông đủ. Khi tới Sơn lăng an tang xong rồi, bá quan hộ giá trở về thành . Không dè Điền Côn đã sắp đặt xong xuôi, phát ba tiếng pháo truyền cho tám viên dõng tướng , với ba ngàn binh sĩ, sửa cất dinh trại trước là ở giữ coi mồ mã, sau nửa không chịu tước lộc triều đình, sơn hà một cõi thinh thinh, sức này dễ ai hơn cho đặng. Tuyên vương khi ấy thấy vậy âu sầu mà nghĩ rằng:
- Điền Côn nay đã trở lòng, thời không con ai dám ra địch thủ, còn Chung hậu cũng đã chết rồi, ắt giang san khốn lớn.
- Nghĩ như vậy ngậm ngùi, ngày đêm thêm buồn bực, canh khuya tư tưởng như hồn Đỗ QuyênTài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi thứ Ba Mươi Chín - Yên Bình vào cung báo mộng
Yên Bình vào cung báo mộng
Liêm Pha vâng chỉ phạt tề
Nói về Yên Bình công chúa với cung nữ Hồng Tiêu, từ khi bị hại, linh hồn phảng phát không biết nương dựa vào đâu, cứ bay lửng đửng giữa chừng, rồi trở về tới Hàng Đan, vào trong thâm cung ứng mộng mà bày tỏ cùng cha mẹ. Khi tới nơi thấy lầu xưa nhện bủa, các cửa rêu in, trăm hoa đua nở mùa xuân, chạnh tủi hồng nhan bạc phận, bèn ngâm một bài thơ như vầy:
Vừng ác bay qua chen thỏ bạc
Trời xanh riêng ghét phận má hồng
Xưa nay những kẻ tài hoa bấy
Mang lấy tài hoa khổ tấm lòng.
Đây nhắc lại khi hai vợ chồng Triệu Long vương từ khi đưa công chúa qua Tề rồi, đêm ngày thương nhớ tấc dạ không khuây, có một đêm kia vợ chồng nằm không an giấc, tới canh đã thổn thức bồi hồi, mới nằm nhắm mắt mà lại mê man, bỗng nghe có tiếng người kêu: Mẹ, mẹ ôi! Trong vía vợ Triệu vương là Qua hậu nghe kêu, bèn bước xuống long sàng đi ra mở cửa chẳng dè thấy Yến Bình công chúa và cung nữ Hồng Tiêu, đầu bỏ tóc xỏa mình đầu vấy máu, khóc mà thưa rằng:
- Muôn tâu vương mẫu, con đây chẳng phải la ai? Vì phụ vương nghe lời Tương Như dùng mỹ nhân kế đưa con qua Tề ra mắt Tuyên vương được có ba ngày, người rất yêu dấu, kế con tới thăm chánh cung con toan dùng mưu độc dược, không dè con xủ phụ hay được, nó đánh chết con Hồng Tiêu rất nên oan ức. Vương mẫu ôi, xin nghĩ tình cốt nhục mà rửa sự oán thù, đề binh thẳng tới Lâm Tri bắt cho đặng con Chung Vô Diệm, mổ lấy gan mà tế, mới tiêu đặng oan hồn. Xin vương mẫu hãy nhớ tới lời con, điều hiếu thảo sẽ còn kiếp khác.
Nói rồi cầm gươm nháng qua một cái thức thì biến mất. Qua hậu giật mình thức dậy, mới hay là điềm chiêm bao, bèn suy nghĩ một hồi bán tín bán nghi, liền kêu Triệu Long vương dậy, thuật hết các lời chiêm bao lại. Hai vợ chồng rất lo sợ nằm ngủ không yên, phút đâu trời đà vừa sáng, Triệu Long vương lâm triều, văn võ triều bái xong rồi, Triệu Long vương bèn kêu thừa tướng là Lạn Tương Như thăng điện, thuật hết điềm chiêm bao như vậy và bàn bàn coi kiết hung lẽ nào cho biết. Tương Như ngẫm nghĩ giây lâu tâu rằng:
- Sự mộng mị không chừng nên chẳng biết sự làm sao cho rõ giả chân, xin hãy sai người đi tới Lâm Tri thám thính lại mới tường hư thực.
Triệu vương liền sai quan tham mưu là Trương Hiển đi qua Đông Tề thám thính. Trương Hiển lãnh mạng đi luôn ngày đêm, chẳng bao lâu đã tới thành Lâm Tri giả làm thượng khách, vào hoàng thành thăm dò trước sau. Khi hỏi được tin chắc chắn liền trở về Hàng Đan phục chỉ. Đương lúc lâm trào, Trương Hiển thẳng vào đại điện tâu rằng:
- Ngu thần qua thám thính quả như điềm mộng ấy chẳng sai, bữa công chúa qua triều kiến Tuyên vương rồi đặng phong làm Tây cung thứ hậu, đđ ba ngày qua ra mắt chánh cung hoàng hậu. Chung Vô Diệm truyền cho nội thị dọn bày yến tiệc. Hồng Tiêu lại bỏ thuốc độc dâng lên, bị Vô Diệm thấu đặng sự duyên bèn đánh chết cả Hồng Tiêu và công chúa. Tuyên vương mới nổi giận biếm Vô Diệm vàl lãnh cung. Tới bữa tiết trung thu, tại lãnh cung lửa cháy còn Tiết Côn thời đã phản lạ Tề rồi ở Sơn Lăng mà giữ gìn mồ mả, sự bản thiệt nên ngu thần tâu lại.
Triệu vương nghe tâu, té xỉu xuống ngai, kêu cứu giây lâu mới tỉnh dậy, thì lệ nhỏ chứa chan căm hờn thay con củ phụ bất nhân và trách lây luôn Tuyên vương vô nghĩa. Rồi vọng linh vị đặt bày ra cúng tế, cầu vong hồn công chúa tịnh độ siêu thăng. Triệu vương lúc ấy mới phán rằng:
-Có ai dám lãnh binh mà rửa hờn cho trẫm chăng?
Liêm Pha bước ra tâu rằng:
- Vi thần xin lãnh mạng đề quân tới Tề bang, bắt cho đặng Tuyên vương trả thù cho công chúa.
Triệu vương cả mừng và hỏi rằng:
- Nguyên soái muốn dùng bao nhiêu binh mã?
Liêm Pha tâu:
- Làm tướng phải dùng người mưu mô, chẳng ỷ mình sức mạnh, quân sĩ phải cho tinh luyện, chẳng dụng sự đông nhiều, như nay vì thần đi qua đánh Đông Tề, mười muôn binh cũng đủ, mai là ngày huỳnh đạo, xin truyền hịch hưng sư.
Triệu vương nhậm lời, liền truyền cho nội thị bày tiệc tống hành. Thừa tướng là Tương Như bước ra bưng ba chung ngự tửu, mà chúc mừng cho Liêm Pha rằng:
- Cờ bay thắng trận, ngựa tới nên công.
Liêm Pha tạ ơn rồi lạy thiên tử về phủ, liền khiến bốn người con trai là Liêm Cang, Liêm Trực, Liêm Ấn, Liêm Đạt cầm lịnh tiễn tới thao trường mà thao luyện binh mã. Khi đó các cơ các trại nghe hiệu lệnh thì đều tới tề tựu, điểm lượt xong xuôi, Liêm Pha vào triều phục chỉ. Qua ngày sau, giờ dần Liêm Pha nguyên soái truyền lệnh cho chúng tướng làm lễ tế cờ, rồi phát pháo mở cửa thành chỉ thẳng Bạch Mã quan tấn phát.
Đây nói về Tuyên vương là một người say mê tửu sắc, chẳng tưởng tới việc nhà, chỉ biết thịt cho béo rượu cho ngon, hầu gái năm bảy người, ấy gọi là nhân sanh quí thích chí mà thôi, cò nhiều khi ngậm ngùi Chung hậu, lại hằng ngày ngớ Triệu phi, dầu cho quốc phá thân nguy cám cảnh chữ: Giai nhân nan tái đắc. Đêm nằm ngủ không an giấc, ruột tằm bối rối như tơ, một mình luống những ngẩn ngơ, mới nhắm mắt thì hồn vừa lìa xác thả chơi khắp nơi, thình lình thấy ngoài Ngọ môn ở trên trời sa xuống một vật lớn như cái đấu, hồng quang chói sáng ngời, giây phút lại nổ ra một tiếng vang trời, vất ấy bể ra làm hai miếng, trong ánh sáng một nửa thấy có mộ người đàn ông nhảy ra, mình mặc áo giáp đen, đầu đội khôi đen, tay cầm trường thương, nhảy lên trên bửu điện chờn vờn tới muốn đâm mình, còn một nửa miếng kia thì thấy một bầy ong bay túa ra vô số, ấp tới phủ vây mình. Đang lúc nguy cấp, là réo cứu giá om sòm, cả triều văn võ không thấy một người tới, đã gần hụt hơi. May đâu ở phía tây bắc có một người đàn bà, mình mặc áo đỏ cầm cây đại đao, bay thú chạy vào đánh với người mặc áo đen một trận, nào ông nào người đều tan hết. Tuyên vương hết sức mừng! Bèn giựt mình mơ màng giấc mộng, hồi lâu tỉnh lại kế đâu gà gáy sáng, trời vừa hừng đông, Tuyên vương cho đòi Yến Anh vào đến, quì lạy tung hô xong rồi, Tuyên vương cho ngồi, mới thuật hết điềm chiêm bao lại và cậy bàn giải. Yến Anh ngồi suy nghĩ hồi lâu, đã biết một vật lớn như cái đấu đó là Triệu vương, còn người khôi đen giáp đen là Liêm Pha, bầy ong là quân sĩ, còn người đàn bà là Chung nương nương. Chắc trong chừng nửa tháng đây ắt có Triệu binh tới đánh, thì thiên tử bị khổn nơi Đàm thành chớ chẳng khỏi. Biết như vậy đã chắc, ngặt vì khó tiết lậu thiên cơ, nên không dám nói ra cho hết, liền truyền đem viết mực rồi tả một bài thơ giải như vầy:
Điềm chiêm bao thế ấy, kiết thiểu mà hung đa,
Đạo binh đã dấy động, sĩ tốt chết hàng hà.
Bởi mình gây nên họa, làm hao tổn nước nhà.
Đàm thành vua bị khốn, một trăm ngày mới ra.
Yến Anh viết rồi dâng lên cho vua xem, Tuyên vương cả kinh mới hỏi:
- Như vậy mà quân sư có kế chi cứu quả nhân không?
Yến Anh tâu:
- Vì bệ hạ có tai nạn một trăm ngà, không thể chỉ cứu tinh, nhưng bây giờ bệ hạ phải dời qua Đàm thành, còn triều chánh phải giao cho vương thúc.
Tuyên vương nghe lời liền giáng chỉ cho vời vương thúc là Điền Dưỡng. Khi Điền Dưỡng vào triều, Tuyên vương mời ngồi nơi cẩm đôn, rồi nói rằng:
- Nay cô gia dời qua Đàm thành tị nạn, triều chánh nay nhờ vương thúc âu lo, chờ khi nào hết sự rủi ro, thì cô gia sẽ hồi triều trọng thưởng.
Điền Dưỡng vâng chỉ lui về. Tuyên vương truyền lệnh cho quan ngự lâm, sửa sang những đồ ngự dụng mà đưa qua Đàm thành. Rồi Tuyên vương từ biệt Trương phi và các cung nữ, còn Yến Anh lại viết một bức cẩm nang, giao cho vương thúc mà dặn rằng:
-Chừng nào có sự gấp rút hãy mở ra coi.
Sắp đặt đâu đó hẳn hòi, Yến Anh cùng đi theo hộ giá. Khi ấy quân ngự lâm đi trước, triều thần hộ tống theo sau chỉ dặm liễu băng ngàn, đi đến Đàm thành một nước.
Nói về quan huyện ở Đàm thành là Thạch Tú, khi nghe thiên tử giá lâm, liền truyền quâ mở hết cửa thành rồi cùng văn võ ra nghinh tiếp. Tuyên vương vào ngồi giữa hành cung, văn võ triều bái xong xuôi, vua truyền cho tu bổ trành trì để ngăn ngừa giặc giã. Các việc đã an bài, các quan đều giữ theo bổn phận.
Đây nói về Liêm Pha từ lúc vâng mạg lãnh binh, ngày đi đêm nghỉ chẳng bao lâu đã gần tới địa phận nước Tề, xảy thấy quân kỳ bài trở lại báo rằng:
- Trước mặt là Bạch Mã quan, thành giao giới của nước Tề, xin soái gia định đoạt.
Liêm nguyên soái bèn truyền lệnh cách thành ba mươi dặm hạ trại và chia ra thành năm dinh, canh tuần nghiêm nhặt, cấm người không đặng lìa giáp, ngựa chớ rời yên, thay đổi liền liền phhòng binh Tề cướp trại.
Còn tướng giữ ải Bạch Mã quan tên là Lưu Trinh. Khi nghe nói thiên tử dời qua Đàm thành mà tỵ nạn, đang ngồi suy nghĩ không rõ cớ gì, bỗng thấy quân thám tử vào báo:
- Triệu vương sai Liêm Pha đem mười vạn hùng binh, tới phủ vây quan ải, xin soái gia nghĩ lại tính công thủ lẽ nào?
Lưu Trinh nghe nói cả kinh và oán trách thiên tử bất minh, chẳng nghe lời quân sư can gián, tại nạp lấy Yến Bình công chúa, nên làm ra gây họa cho Tề bang. Liền truyền quân bế thành lại kỹ càng kỹ lưỡng, gác cung tiễn và cây đá lên thành cùng đêm ngày gìn giữ nghiêm nhặt. Còn Liêm Pha hạ trại xong xuôi nghỉ ngơi một đêm, rạng ngày thăng trướng, hai bên chư tướng đứng hầu. Liêm Pha mới hỏi:
- Có tướng nào xuất chiến lập công đầu chăng?
Khi ấy người con đầu là Liêm Cang xin đi. Liêm nguyên soái dặn dò cẩn thận, Liêm Cang cúi đầu vâng lệnh, cầm thương lên ngựa phát phát, kéo năm trăm quân dũng sĩ thẳng tới dưới thành khiêu chiến. Quân Tề xem thấy vào báo lại cho chủ soái hay, Lưu Trinh nghe báo nổi giận mà rằng:
- Tề, TRiệu tuy là hai nước, anh em như thể một nhà, tại dùng mỹ nhân kế đưa qua, nên sự thù oán càng sâu như biển. Nay Chung hậu bị hỏa hoạn, còn Điền Côn lại phản Lâm Tri. Tề bang tới lúc khuynh nguy, thiệt ít kẻ khuôn trì xã tắc, ấy là tại vì bây phản trắc, chớ trách mỗ đảo điên.
Nói rồi cầm đao lên yên, dẫn theo tám viên tướng, phát pháo mở cửa ải xông ra. Liêm Cang thấy tướng Tề hình dung cao lớn, râu bạc phơ phơ thì hỏi rằng:
- Tướng già kia, xin hãy xưng họ tên, vậy chớ ông đi đâu đấy, muốn ra đây lượm cỏ hay sao?
Lưu Trinh nghe hỏi tức cười nói rằng:
- Thằng nhỏ miệng còn hôi sữa, mà dám khi người thái quá. Ta là Tề Tuyên vương giá hạ, vô tư chánh trực lão thần, làm chức Chiêu thảo tam quân, tên là Lưu Trinh nguyên soái, còn mầy là đồ tiểu bối, chớ mầy tên họ là gì?
Liêm Cang đáp rằng:
- Tên ta là Liêm Cang làm tiên phong tiền bộ, cha ta là đại nguyên soái phụng quân mạng đi phạt Tề.
Lưu Trinh nói:
- Như vậy thì cháu phải kêu ta bằng bác, bác đây với cha cháu vốn tình nghĩa anh em, sao cháu thấy bác giả cả lem nhem, cháu lại đem lòng khi dễ.
Liêm Cang đáp:
- Dám thưa bác, cháu cam thất lễ, trên ngựa cung thân, vì Tề vương ăn ở bất nhân để Vô Diệm gây nên thù oán, một ngày giết chết hai mạng. Triệu vương không lẽ làm thinh, nên sai cha cháu lãnh binh, quyết bắt cho đặng con Chung xủ phụ.
Lưu Trinh nói:
- Khuyên cháu hãy bớt giận, dể bác phân giải lại cho cháu nghe. Chung nương nương vốn thiệt người ngay, vì công chúa gây nên tai họa, khi công chúa vào cung đã được ba ngày, mới tới Chiêu Dương mà triều hạ, thì Chung hậu cũng dọn đồ yến tiệc vui mừng, ai ngờ có con thể nữ là Hồng Tiêu đem thuốc độc bỏ vào trong rượu mà hại người, không dè Chung hậu bắt đặng nổi giận đánh chết tươi. Ấy là hại nhân nhân hại. Lại có câu: Thiên bất dung gian, chớ có phải là tại Chung hậu không rộng khoan mà gây ra oán đây.
Liêm Cang nói:
- Thôi bác chớ khá nhiều lời, bảo lão hôn quân đem con xủ phụ ra đây, cháu bắt nó lăn đen mà tế công chúa thì vạn sự giai hữu, bằng không thì quân dân Tề đều làm quỉ không đầu, lại quan ải cũng hóa ra tro bụi nữa.
Lưu TRinh nghe thằng nhỏ nói xấc thì cả giận, xách đao lại chém đùa. Liêm Cang cũng đưa thương ra đánh, kẻ già người trẻ, một đao một thương trong hội chiến trường ai cũng ra tài nỗ lực, đánh có hơn năm mươi hiệp chưa định hơn thua, quân Kỳ bài vào báo lại cho Liêm Pha hay. Liêm Pha kíp liền nai nịt lên ngựa đề thương có dẫn theo một người anh em bạn, tên là Kim Tiền Bâu cùng ba đứa con anh dũng đồng ra lược trận tức thì.
Khi ấy Liêm Cang thấy Lưu Trinh đuối sức, muốn bắt sống để lập công, không dè Lưu Trinh liệu bề chống ngăn không nổi, bèn quay ngựa chạy dài. Liêm Cang quất ngựa rượt theo, muốn rút cây Kim tiêu ra mà đánh, lại bị tám viên chiến tướng của Lưu Trinh, thấy chúa soái mình thua chạy, đồng xông ra một lượt tiếp chiến. Liêm Pha thấy vậy cũng ùa binh ra trợ chiến, hai bên đánh vùi một trận, binh Tề đuối sức chạy vào thành. Liêm Pha huy động tam quân rượt nà theo, trên thành xem thấy lăn cây hạ đá và tên bắn xuống như mưa. Quân Triệu đương lúc thừa thắng nên không run sợ, bốn người con của Liêm Pha chia nhau ra phủ vây bốn cửa, đánh áp vào thành, Lưu Trinh liệu bề không xong bèn mở cửa tây môn phá vòng vây chạy về Lâm Tri chịu tội. Liêm Pha khi ấy nhập thành xuất bảng an dân, bá tánh thảy đều vui đẹp. Rồi đó liền viết một đạp điếu văn, sai quan về Hàng Đan cáo tiệp.
Lúc âý đương khi Triệu vương lâm trào, quan huỳnh môn vào quì dâng bảng tấu của Liêm Pha. Triệu vương xem rồi mừng rỡ vô cùng và khen ngợi Liêm Cang thật là tướng môn xuất tướng, mới gia phong làm chức Thần sát tướng quân, lại sai sứ đưa ra một muôn học lương và hai chục đãi vàng ròng để Liêm Pha khao thưởng quân sĩ.
Đây nhắc lại Tuyên vương dời qua Đàm thành tị nạn, còn việc triều đình thì giao hết cho nhiếp chánh vương là Điền Dưỡng. Lúc này nhiếp chánh vương lâm triều, văn võ bái tụng hô xong, quan huỳnh môn vào tâu rằng:
- Nay có chủ soái ở Bạch Mã quan là Lưu Trinh về triều, còn đang đứng trước Ngọ môn đợi lịnh.
Lão vương truyền chỉ cho vào. Lưu Trinh vô đến quì lạy vừa khóc vừa tâu rằng:
- Cha con Liêm Pha võ nghệ rất cao cường nên mạt tướng dang không nổi, bởi vậy cho nên quan ải đã thất thủ, tội tôi dư muôn thác.
Lão vương nghe tấu làm thinh một hồi rồi trách thầm rằng: Yến Anh bảo tấu cho ta làm nhiếp chánh làm chi, nay vua tôi nó đem nhau đi rồi ra cũng khó bề toan liệu. Trách như vậy rồi liền giáng chỉ tha tôi cho Lưu Trinh và khiến văn võ triều đình phải lo mưu cự địch, việc rồi trời tối bèn bãi triều.
Còn Liêm Pha sau khi chiếm được Bạch Mã quan, an dưỡng binh sĩ ba ngày rồi phát pháo mở cửa thành, kéo binh ra nhắm Lâm Tri thẳng tới. Khi đi được vài ngày, quân kỳ bài trở lại báo rằng:
- Đây đã gần tới kinh thành Lâm Tri, trước mặt là Hỗn Hải quan, xin soái gia hạ lệnh.
Liêm Pha truyền cho ta quân đóng trại, chia ra làm năm dinh và bốn phía đào lũy thả chông, đề phòng dinh Tề cướp phá. Khi đó sanh kỳ rực rỡ, kiếm kích nghiêm trang, cấm thương khách qua lại và cũng chẳng cho ra vào tin tức. Muôn dân thảy đều than khóc, bốn phía thành vây chặt như nêm, qua ngày sau Liêm Pha truyền cho quân cơm nước xong rồi, nai nịt ra trận. Liêm Pha và Liêm Ấn đem binh đi tiền đội, còn Liêm Thuận và Liêm Đạt hậu tập theo sau, đồng lãnh mấy ngàn binh, tới cửa đông khiêu chiến.
Khi nhiếp chánh vương nghe thấy tiếng pháo nổ, dắt bá quan lên trên vọng địch lầu mà xem, thấy binh Triệu oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, bốn hướng tám phương thảy đều vây hãm, lại thấy tướng Triệu đã tới dưới thành thảo chiến, bèn kêu bá quan hỏi rằng:
- Có ai vì cô gia dám ra cự địch không?
Nói vừa dứt tiếng thì có một tướng bước ra tâu rằng:
-Ngu thần lãnh mạng quyết ra bắt cho được Liêm Pha, kẻo nó khi dễ nước ta, nguyện bất dung tha nghịch tặc.
Lão vương xem lại, người ấy tên là Thanh Hổ, chức làm Đề điệu quan, lão vương cho đi và dặng rằng:
- Liêm Pha là người anh dũng, tướng quân phải đề phòng cho lắm, và khá tua vì nước lập công, kẻo để Triệu bang khi dễ.
Thanh Hổ cúi đầu vâng mạng, cầm đao lên ngựa, dẫn theo bốn viên chiến tướng cùng một ngàn binh dũng lực xông ra trận. Liêm Pha khi ấy xem thấy hỏi rằng:
- Tướng ra đó tên họ là gì?
Thanh Hổ đáp:
- Ta là Đề điệu ngũ dinh tên là Thanh Hổ, vậy chớ tướng quân có phải là Liêm Pha chăng?
Liêm Pha đáp phải và nói rằng:
- Lão tướng đã biết danh bổn soái sao không xuống ngựa đầu hàng? Vậy thôi hãy trở về nói và dâng hàng biểu, thì bình an vô sự.
Thanh Hổ nói:
- Nguyên soái chưa rõ để lão phân lại cho nghe. Vốn Chung hậu đã bị cháy thành tro, chớ ví như người còn sống, thời nguyên soái khó nổi tới Lâm Tri vây hãm, còn công chúa là cành vàng lá ngọc, có lẽ đâu đi làm bé nước người, chẳng qua là Triệu vương muốn dùng kế mỹ nhân, nên mới đày con chịu chết.
Liêm Pha nghe Chung hậu chết rồi thì có ý mừng thầm, lại nghe xúc phạm đến chúa mình nên xốc thương đâm tới, Thanh Hổ vội đưa đao ra đỡ. Hai tướng đánh nhầu hơn năm mươi hiệp sức cũng cầm đồng, Liêm Pha có ý khen thầm. Thanh Hổ thì cả giận, bèn hươi thương đâm đùa. Thanh Hổ tuy già mà sức còn mạnh. Liêm Pha bèn sanh một kế, gọi là kế hồi thương. Thanh Hổ chẳng kịp trở đương, bị kế ấy nhào xuống ngựa chết tốt. Liêm Cang và Liêm Ấn giục binh áp tới cắt lấy đầu và đánh loạn đả, binh Tề vỡ tan chạy hết.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi Thứ Bốn Mươi - XEM CẨM NANG, LÃO VƯƠNG THI KẾ
XEM CẨM NANG, LÃO VƯƠNG THI KẾ
TIN NGỌC DỤ, LIÊM SOÁI DỜI BINH
Khi Thanh Hổ tử trận, binh Tề vỡ chạy tứ tán. Lão vương ở trên địch lầu xem thấy, té xỉu xuống ngai, tưởng cũng chết luôn, bá quan xúm lại cứ hồi lâu mới tỉnh, bèn thở ra một tiếng rồi khóc òa, là bởi thương tiếc Thanh Hổ trung lương, còn căm giận Tề vương say mê tửu sắc, mới nghĩ rằng: “Nay Tề vương nó ở Đàm Thành cho vui sướng, để cho ta lo lắng một mình, nếu như Liêm Pha nó đánh phá không tha, chắc lão già này xẻ thịt”. Đương lúc ngồi suy nghĩ chẳng biết tính kế chi, sực nhớ lại Yến Anh ra đi có để lại một phong giản thiếp và dặn khi nào có việc sẽ mở ra coi, nay công việc đã hẹp hòi, truyền nội thần vào bì các lấy giản thiếp đem xem. Nội thần vâng lệnh lấy xem thấy bài thơ như vầy:
Vì ai gây hoạn.
Giang sơn chẳng thái bình.
Thành Lâm Tri bị khốn,
Liêm Pha giỏi dùng binh.
Thanh Hổ đã tới số.
Bá quan chớ hãi kinh.
Thành trì nên cố thủ.
Chẳng cùng nó giao chinh.
Cẩm nang này để lại.
Chữ nghĩa đủ phân minh.
Vua Tề đi tị nạn.
Bá tánh khỏi tai tinh.
Lão vương coi rồi mới nghĩ rằng: Quân sư là người suy đoán âm dương giỏi lắm, nay biểu ta như vầy ta phải theo ý mợi đặng. Nghĩ rồi liền truyền cho văn võ hộ giá ra đứng trên cửa thành, kêu Liêm Pha nguyên soái tới nói chuyện. Liêm Pha nghe tiếng trên thành kêu mình bèn ngửa mặt ngó lên thấy một người đã có tuổi, râu lại năm chòm diện mạo rất phương phi, đầu đội mão kim quang, mình mặc áo cẩm bào oai nghi lẫm lẫm bèn hỏi rằng:
- Người ở trên thành tên gọi là gi, kêu ta có việc chi xin nói?
Lão vương đáp rằng:
- Ta là Vương thúc của Tề vương, quyền coi việc chánh nước, vì Tuyên vương lánh nạn tới Đàm Thành, như Nguyên soái có vây hãm Lâm Tri thì cũng tốn công mệt sức, một lời lão nói chắc, chẳng phải đứa tiểu nhân, khuyên đó hãy dời quân, tới Đàm Thành thì biết.
Liêm Pha nói:
- Như Lão vương nói thiệt, thì bổn soái cũng nghe, nếu tới Đàm Thành không có Tuyên vương bổn soái ắt không phương dung thứ.
Lão vương thề thốt hết lời. Liêm Pha hết lòng mừng rỡ! Hồi sau truyền lệnh triệt binh chỉ Đàm Thành tấn phát. Quân Triệu đi không mấy ngày thì tới Đàm Thành, Liêm Pha truyền lệnh an dinh, rồi sai bốn con mình đi bốn cửa thành vây chặt, chẳng cho một người lọt ra khỏi vòng, nếu ai sơ lậu thì phải xử theo quân lệnh. (Ấy là binh pháp của Liêm Pha nghiêm minh dầu cho cha con cũng không vị tình, nên người ta gọi là: Liêm Pha phụ tử binh). Bởi cớ ấy cho nên quân sĩ nhất tâm, đánh đâu thắng đó. Bốn người con vânh lệnh, chia binh đánh bốn cửa, còn Liêm Pha thì ở trong dinh làm ứng viện.
Lúc ấy Tuyên vương ở nơi hành cung, xảy thấy quan Tổng binh ở Đàm Thành vào tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ, nước Triệu sai Liêm Pha tới đánh Lâm Tri, nay lại dời binh tới đánh Đàm Thành, xin bệ hạ định đoạt.
Tuyên vương nghe tấu cả kinh, liền dắt tay Yến Anh và bá quan lên địch lầu mà xem thế giặc. Thấy binh Triệu nhân cường mã tráng, đội ngũ chỉnh tề, vây chặt Đàm Thành một mảy lông chẳng lọt. Vua tôi đều lo sợ hãi hùng, rồi sau đó liền dẫn nhau xuống địch lầu hết. Qua ngày hôm sau Liêm Pha khiến Liêm Cang dẫm tám viên chiến tướng và năm trăm dũng sĩ tới cửa thành phía Tây mà hạ chiến thơ, Liêm Cang vâng mạng, tới kêu tướng giữ trong thành biểu rằng:
- Phải vào thông báo cho vua Tề hay, mau bó tay chịu trói và đem Chung xủ phụ ra đây, bằng không thì khó toàn tánh mạng.
Tướng giữ thành đem lời ấy vào tâu lại. Tuyên vương lấy làm buồn rầu, không biết sai ai đánh lui binh Triệu, vừa lúc ấy có một tướng bước ra tâu rằng:
- Ngu thân xin ra trận chém tướng lập công.
Tuyên vương coi lại là cháu mình tên Điền Bưu làm chức Đàm Thành Tổng trấn. Tuyên vương bèn dặn rằng:
- Ngự điệt có ra binh, phải đề phòng cho lắm mới đặng.
Điền Bưu cúi đầu vâng mạng, phát pháo mở cửa thành xông ra. Liêm Cang xem thấy rõ hỏi rằng:
- Tướng ra đó tên họ là gì?
Điền Bưu đáp:
- Ta là ngự điệt Tuyên vương làm Tổng trấn tên là Điền Bưu, mày mau xuống ngựa đầu hàng kẻo nhọc công ta ra sức.
Liêm Cang nói:
- Sự chết đã treo sau gót, mà còn múa miệng khua môi, ta quyết chẳng dung tay, đâm mày cho đổ ruột.
Nói rồi hươi đao tới đâm đùa. Điền Bưu cũng đưa thương ra đỡ, đánh hơn năm chục hiệp. Điền Bưu cả thua quày ngựa chạy dài. Liêm Cang giục ngựa chạy theo, đâm Điền Bưu té nhào xuống ngựa chết tốt. Liêm Cang vừa muốn cắt lấy đầu, kế bị quân Tề áp ra một lượt, giật thây Điền Bưu đem về thành phi báo. Liêm Cang thừa thắng giục binh tới khiêu chiến nữa, Tuyên vương khi ấy mới hỏi Yến Anh rằng:
- Nay ngự điệt đã tử trận rồi, còn có ai dám ra cự địch chăng?
Hỏi vừa dứt tiếng, xảy có một viên tướng chiến bước ra lãnh mạng. Tuyên vương xem lại người ấy làm chức Phó đô, tên An Thế Kỳ. Tuyên vương bèn cho đi. Thế Kỳ cúi đầu vâng dạ lui ra, cầm đao lên ngựa, phát pháo mở cửa xông ra trận. Liêm Cang xem thấy tướng Tề đầu đội mão vàng, mình mặc hồng bào kim giáp, râu dài mặt đen, tay cầm đại đao, mới hỏi rằng:
- Tướng kia tên họ là gì, mau xưng ra mà chịu chết.
Thế Kỳ đáp:
- Ta làm chức Phó đô, An Thế Kỳ là tên, mỗ quyết ra đây bắt thằng tiểu súc trả thù cho Điền Bưu.
Liêm Cang cả giận, hươi thương đâm đùa. Thế Kỳ cũng đưa đao ra rước đánh, hơn năm chục hiệp mà chưa định hơn thua, Liêm Cang liền sanh ra một kế, đâm bậy một thương quất ngựa chạy dài, Thế Kỳ tưởng thiệt, cũng giục ngựa đuổi theo, gần tới phía Tây môn trận của binh Triệu, Liêm Cang chỉ lén một cái, ngàn cân hỏa pháo liền bắn ra một lượt như mưa, An Thế Kỳ vừa người vừa ngựa đều tan xác, quân Triệu thừa thế đánh giết binh Tề, đuổi về tới cửa thành. Quân kỳ bài vào phi báo cho vua hay, Tuyên vương khóc lóc một hồi, thương tiếc Thế Kỳ là một người gan đồng dạ sắt, vì nước bỏ mình nơi chốn sa trường, chết một cách thảm thiết như vậy! Đương lúc than vắn thở dài, bỗng thấy một tướng tên Tiêu Bá bước ra tâu rằng:
- Xin chúa thượng đừng sợ, hao tổn mình rồng, tôi tuy bất tài cũng xin liều mình ra đền nợ nước.
Tuyên vương chuẩn tấu. Tiêu Bá tạ ơn cầm kích lên ngựa, dẫn theo một trăm tướng và năm trăm dũng sĩ phát pháo mở cửa thành xông ra. Liêm Cang xem thấy tướng Tề, đầu đội kim khôi, mình mặc lục bào huỳnh giáp, mặt như tô phấn, môi tợ thoa son, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, bèn hỏi lớn rằng:
- Tướng Tề tên họ là chi, nói đi kẻo chết oan mạng?
Tiêu Bá đáp:
- Ta tên Tiêu Bá, làm chức Chưởng quân môn, còn mi sao dám dùng hỏa pháo ám hại tướng ta, quyết giết ngươi phen này mới đành lòng dạ.
Nói rồi liền hươi cây phương thiên kích ra đỡ, hai đàng đánh nhau hơn năm chục hiệp, sức cũng cầm đồng. Liêm Cang liền sanh ra một kế, tay trái thì cầm thương đỡ gật, còn tay mặt rút cây roi sắt ở sau lưng ra, đánh cây kích của Tiêu Bá một cái, gãy làm hai đoạn, Tiêu Bá tay không, chẳng có vật chi mà ngăn đỡ, lại bị Liêm Cang đánh bồi một roi nữa bể đầu, té nhào xuống ngựa chết tốt. Quân kỳ bài chạy vào phi báo, Tuyên vương chết điếng không biết tính làm sao, bèn hỏi chư tướng rằng:
- Chúng khanh có mưu kế chi hay, lui binh Triệu mà bảo hộ giang sơn chăng?
Nói vừa dứt lời có một tướng bước ra tâu rằng:
- Ngu thần xin lãnh mạng, bệ hạ chớ lo âu.
Tuyên vương nói:
- Như tướng nào có giao phong phải cho cẩn thận, chớ thằng nhỏ đó, thiệt là lợi hại vô cùng, dòng dõi của Liêm Hùng vẫn thiệt con nhà tướng.
Triệu Hựu tâu:
- Xin bệ hạ hãy bảo trọng long thể, để ngu thần bắt thằng nhỏ ấy mà báo cừu.
Nói rồi nai nịt, cầm đao lên ngựa dẫn theo năm trăm quân tâm phúc, phát pháo xông ra, hỏi rằng:
- Bớ thằng nhỏ kia! Mày biết ta là ai không? Ta nay làm chức Tổng binh, trấn thủ tại Đàm Thành, tên là Triệu Hựu, dân chúng thảy đều kính, sao ngươi chưa xuống ngựa nạp mình kẻo nhọc ta ra sức.
Liêm Cang thấy tướng Tề, đầu đội kim khôi, mình mặc liên hườn giáp, tay cầm đại đao, rất mạnh mẽ, mới đáp rằng:
- Ngươi đừng có phách để ta đưa về âm phủ cho rồi.
Triệu Hựu cả giận, hươi đao chém đùa, Liêm Cang cũng hươi thương rước đánh hơn một trăm hiệp, chưa định hơn thua. Liêm Cang dùng kế trá bại mà chạy qua phía đông, là chỗ giáo đội của Triệu binh mai phục, Triệu Hựu vô ý cứ theo đuổi hoài, vừa gần tới nơi quân pháo thủ bắn ra một lượt. Triệu Hựu bị đạn mà chết. Liêm Cang bèn quày ngựa trở lại, đánh giết binh Tề, rượt tới dưới thành khiêu chiến nữa. Quân kỳ bài đem việc ấy vào tâu cho vua hay. Tuyên vương thất kinh, té xỉu xuống đất, các quan đỡ dậy kêu cứu một hồi mới tỉnh, bèn thở ra mà rằng:
- Cũng vì trẫm say mê tửu sắc nên làm cho trong nước chẳng an, có ai mà phục đặng Liêm Cang thì trẫm sẽ chia hai bờ cõi.
Điền Năng khi ấy tâu rằng:
- Xin vương thúc hãy yên lòng ngu thần phen này xuất trận.
Tuyên vương nói:
- Như ngự diệt mà có xuất chiến thì trước hết phải đề phòng, như cháu phục nó chẳng xong, thì chú lại thêm lòng phiền muộn.
Điền Năng cúi đầu vâng mạng lui ra, cầm thương lên ngựa xông lướt trận đồ, tới kêu Liêm Cang mà rằng:
- Bớ Liêm Cang! Mày đừng khoe tài giỏi, trận này biết ai dở ai hay, mau xuống ngựa bó tay, nếu nghịch mạng ta phân thây muôn đoạn.
Liêm Cang nổi giận chẳng kịp hỏi tên, liền hươi thương đâm nhầu. Điền Năng cũng đưa thương rước đánh, một rồng một cọp chẳng ai thua ai. Tuyên vương ở trên vọng địch lầu xem thấy, Điền Năng thương pháp chẳng kém gì bèn khiến quân gióng trống mà trợ thế. Khi ấy Điền Năng đang giao trận say máu ngà, bỗng thấy tiếng trống giục trên thành thì đã biết ý, tinh thần càng thêm mạnh mẽ, đánh nhau hơn ba trăm hiệp mà thắng bại chưa phân. Liêm Cang tính kế trá bại, đặng dẫn dụ Điền Năng vào trong pháo đội, cho nên đâm bậy một thương rồi quày ngựa bỏ chạy qua phía tây. Điền Năng giục ngựa đuổi theo. Liêm Cang đã có ý mừng thầm, không dè Điền Năng đuổi được nửa đường sực nhớ bốn tướng trước bị chết, liền lui ngựa trở lại, thâu binh vào thành. Liêm Cang thấy Điền Năng trở vào thành rồi, cũng quày ngựa trở về thuật lai hết các chuyện đánh với tướng Tề năm trận, giết đặng bốn người cho cha nghe. Liêm nguyên soái mười phần vui đẹp, liền truyền dọn tiệc hạ công ăn mừng việc thắng trận.
Tiệc rồi sai Liêm Cang tới thành mà khiêu chiến nữa, quân kỳ bài vào cho vua hay. Tuyên vương nói với bá quan rằng:
- Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu, ấy vì trẫm mê hoa đắm tửu, đức mỏng ngôi cao, cho nên bữa ăn tiết Trung thu lại đem lửa đốt Chánh hậu, nếu như Chiêu Dương còn sống, thời nước Tề không đến nỗi này, còn Tiết Côn nó lại giẫn lẫy về Sơn Lăng mà giữ coi mồ mã, nếu nó đang còn phò tá, thời Liêm Cang đâu dám xưng hùng. Bây giờ phải viết một bức thơ biểu hàng, trói trẫm lại cho Liêm Pha phân xử, như vậy mới khỏi hại cho nội thành dân thứ, chư khanh hãy tính lẽ nào?
Yến Anh tâu rằng:
- Nếu bệ hạ bó tay mà hàng Triệu, thì giang sơn bỏ thác cho ai? Bây giờ phải treo miễn chiến bài, sẽ chờ ngày toan liệu.
Tuyên vương bất đắc dĩ cũng phải nghe theo, liền truyền lệnh cho quan Chánh ty, đem miến chiến bài ra treo ngoài cửa. Liêm Cang ngó thấy, liền trở về thưa cho phụ thân hay. Kế đó Liêm Pha sai quân về Hàng Đan báo tiệp.
Từ khi Tuyên vương treo miễn chiến bài rồi, bèn khiến quân sĩ trí thủ những đồ hỏa pháo, hõa tiễn gìn giữ thành trì, còn Liêm Pha cứ sai tướng tới công phá hoài, phá cũng không nổi.
Ngày tháng thoi đưa, từ bữa dẫn binh tới đánh Tề nay đã bàn ba tháng. Ngày kia vua tôi Tề vương đang ngồi bàn luận, bỗng cơ quan thủ thành vào tấu rằng:
- Nay trong kho lương tiền đã hết, dân hờn quân giận, kẻ khóc người than, quân sĩ đều ngã lòng sợ khi giữ thành không nổi nữa.
Tuyên vương nghe tấu ngửa mặt kêu trời hai hàng lụy ứa và nó chẳng ra lời, kế thấy quân kỳ bài vào báo nữa rằng:
- Liêm Pha đốc quân công thành rất gấp, xin bệ hạ toan định mưu chi đối địch.
Tuyên vương nghe báo ngơ ngẩn, giây lát kêu Yến Anh hỏi rằng:
- Tiên sinh ơi, nay trẫm bị vây tại đây, hầu gần ba tháng lương tiền đã hết, cứu binh cũng không, như vậy quốc phá thân nguy, nhơ danh muôn thuở, thôi chi bằng trẫm tự vẫn cho rồi, còn giang san còn mất phú thác cho trời, sống chịu nhục với người, chẳng hơn chết cho an phận.
Yến Anh tâu:
- Tôi chẳng oán Liêm Pha vây khốn, chỉ trách vì bệ hạ chẳng minh mà thôi, tôi đã can đừng sủng nạp Yến Bình, ắt có việc chiến tranh họa hoạn mà bệ hạ chẳng nghe, nay bệ hạ đòi tự vẫn, nếu vua chết thì tôi sống ở lại thờ ai? Còn bây giờ ngặt vì Trương phi còn ở lại tây cung, tôi e bệ hạ muốn chết mà chết không đặng, cũng bởi gây nên thù oán đem lãnh cung đốt ra tro, nếu như Chánh cung sống đến bây giờ thời bệ hạ cứ say mê tửu sắc.
Tuyên vương nói:
- Tiên sinh ơi, dầu tiên sinh với triều thần chẳng nói gì thì trẫm cũng đã biết rồi, vì trẫm hôn quân thâu công chúa thật tưởng làm vợ chồng, nay biết hối ngộ thì đã chẳng kịp, như tiên sinh có kế gì lương sách, quả nhân cũng phải vâng theo.
Yến Anh tâu:
- Bây giờ xin bệ hạ tha tội, thì ngu thần mới dám tỏ phân, có một vị cứu tinh, cha con Liêm Pha phải sợ, đã huy lui binh Triệu lại thêm tá trợ Tề bang làm cho xã tắc vững an ngàn danh thơm muôn thuở sử sách.
Tuyên vương nghe nói cả mừng, liền đứng dậy cầm tay Yến Anh mà rằng:
- Tiên sinh ôi, người cứu tinh đó tên là gì, bây giờ ở đâu, xin nói cho trẫm biết?
Yến Anh tâu:
- Tôi đêm xem tinh thượng, thấy Chung nuông nương còn sống ở dương trần. Như nuong nương chịu xuất thân, mới hay lui binh Triệu đặng.
Tuyên vương nghe nói lắc đầu mà rằng:
- Có khi tiên sinh sợ cha con Liêm Pha lợi hại nên phát bệnh điên cuồng hay sao? Chớ lúc trước trẫm đốt Chánh cũng đã cháy rụi. Chung hậu và cung nga đều chết hết rồi, có lẽ đâu đã thác mà sống lại bao giờ, thây xác thấy sờ sờ. Điền Công hãy còn giữ mả.
Yến Anh nghe vui nói cười và tâu rằng:
- Số là bệ hạ chưa thấy rõ pháp lực. Chung hậu tá hỏa liền bay về làng Pháp Mã, cung nga đều sống cả, chẳng hề chết một người, còn những thi hài là đồ bàn ghế, thiệt Chung hậu còn sống trên dương thế, như chẳng tin sai quan tới đó sẽ hay trước là cầu cứu người, sau nữa tỏ bày chân giả.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi thừ Bốn Mươi Mốt - GẠT LIÊM PHA, YẾN ANH LÀM KẾ
GẠT LIÊM PHA, YẾN ANH LÀM KẾ
CỨU ĐÀM THÀNH, CHUNG HẬU DỤNG MƯU
Khi Tuyên vương nghe Yến Anh nói chắc chắn, trong bụng mừng khấp khởi, như người tỉnh giấc chiêm bao, bèn hỏi rằng:
- Trong triều thần có ai dám đột xuất trùng vi, tới Pháp mã thôn cầu cứu chăng?
Hỏi luôn ba bốn tiến mà chẳng thấy một ai trả lời. Yến Anh tâu rằng:
- Bây giờ muốn đi cầu cứu Quốc mẫu chỉ có ngu thần đi mới xong, nếu bệ hạ có sai ai thì cũng uổng công vô ích.
Tuyên vương nghe tâu mới nghĩ thầm rằng: Thằng lùn này thiệt gian xảo, chắc nó sợ chết đói trong này nên gạt ta ở lại dây để đi cho có chuyện. Nghĩ rồi bèn nói rằng:
- Tiên sinh ôi! Quả nhân mà có Thừa tướng cũng như người có tay chân, nay tiên sinh đi thì trẫm biết cùng ai lo việc nước?
Yến Anh tâu:
- Ngu thần có lòng phản bội, thời tử vu vạn nhẫn thiên đao, lời thề chừng có thiên cao, bây giờ muốn ra khỏi trùng vây thì phải dùng khổ nhục kế, xin bệ hạ đánh đòn tôi bốn chục, đuổi ra cho khỏi Đàm Thành, để tôi trá hàng Liêm Pha, chừng đó sẽ kiếm cớ nhi động.
Tuyên vương nói:
- Quả nhân thà cam chịu chết, chẳng nỡ nào mà đánh tiên sinh.
Yến Anh tâu:
- Xin bệ hạ đừng chấp nệ như vậy phải dung quyền biến nhứt thời, dầu ngu thần có tan xương nát thịt, cũng chẳng quản chi, miễn cho đặng vững an xã tắc.
Tuyên vương nghe Yến Anh nói hết lời, cực chẳng đã mới sai quân nội thị đè Yến Anh xuống đánh bốn chục hèo, thương hại cho người ngay vì nước, phải liều mình cho thịt nát da bay! Tuyên vương thấy vậy ruột đau từng đoạn, thương trung mắc nạn khi không. Đánh rồi, Yến Anh đứng dậy, máu chảy ròng ròng, Tuyên vương lại truyền cho nội thị đem văn phòng tứ bửu ra, viết một đạo ân chiếu mà giao cho Yến Anh, vua tôi đàm đạo xong rồi tới thẳng tây môn, quân giữ thành đã hay các việc, bèn thả điếu kiều cho Yến Anh xuống. Khi Yến Anh ra khỏi thành, nhắm ngay dinh Triệu mà đi tới, vừa đi vừa than khóc cùng mắng chửi om sòm lại trách Tề vương ăn ở bất nhân, đánh đến nỗi tan da nát thịt, đi chừng nào rên la chừng ấy. Khi đó quân Triệu đi tuần, nghe có tiếng người văng vẳng tới bắt đem về dinh.
Nói về Liêm Pha nguyên soái, từ khi vây hãm Đàm Thành tới nay đã gần ba tháng mà phá cũng chưa nổi. Bữa kia đêm khuya, cha con đang ngồi toan tính kế, xảy thấy quân vào tấu rằng:
- Nay tiểu quân đi tuần, bắt được một người gian tế, muốn làm thích khách, xin soái gia phát lạc.
Liêm Pha truyền lệnh dẫn vào, chúng quân bắt Yến Anh tới quỳ mọp dưới đất bẩm rằng:
- Tôi vốn thiệt là Yến Bình Trọng, làm quân sư cho Tuyên vương, vì vua tôi tửu sắc bất lương nên tôi phải đi đầu nước khác, xin soái gia ra ơn thâu dụng, tài tiểu nhân cảm đức vô cùng.
Liêm Pha nghĩ rằng: Yến Anh là người nhậm độn rất hay, mười hai nước thảy đều nghe tiếng, nay nó thấy Đàm Thành bị khốn nên kiếm chước mà thoát thân, tới đây nói dối với ta, đặng dòm hành quân đây. Nghĩ rồi bèn vỗ án mắng rằng:
- Yến Anh, sao ngươi lớn mật, dám tới đây mà dòm ngó dinh ta, đao phủ quân! Dẫn nó ra chém đầu, bêu trước quân môn làm lệnh.
Quân đao phủ áp lại núm tóc Yến Anh tức thì, Yến Anh lại quỳ mà kêu oan rằng:
- Dám bẩm nguyên soái, lời xưa có câu: Chim lành kiếm cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Lại có câu: Vua chẳng ngay thì tôi đi đầu nước khác, số là nguyên soái chưa rõ, để tiểu nhân phân lại cho tỏ tường. Vốn Tề vương là một đấng hôn quân, đêm này say mê tửu sác, tôi đã gián can năm bảy lượt mà Tề vương chẳng khứng nghe lời tới nay mà bị khốn trong Đàm Thành, tôi một hai tâu với vua, viết hàng biểu đem ra khỏi sự sanh dân đồ thán. Vua lại lấy ân làm oán, đánh tôi bốn chục roi, xin nguyên soái nghiệm lại mà coi, da thịt nát như tương bấy, vì cớ vậy đang lúc đêm hôn tối tăm, tôi leo thành mà trốn tới đây, xin soái gia xét sự gian nguy dẫu tiểu nhân có thác cũng cam nhắm mắt.
Liêm Pha nghe nói bán tín bán nghi, liền nói nhỏ với Liêm Cang rằng:
- Thằng lùn này xảo quyệt lắm, con phải tra xét cho kỹ càng, coi trong mình nó có việc gì cơ mật chăng?
Liêm Cang vâng lệnh lục hết trong quần áo chẳng thấy vật chi. (Nguyên lúc Yến Anh đi, Tuyên vương có viết một đạo ấn chiếu giao cho Yến Anh. Yến Anh là một người diệu toán như thần, trước khi đi đã xé tràng áo mà giấu vào trong, rồi may lại như cũ, nên bây giờ Liêm Cang lục xét khắp cùng mà không thấy vật chi hết). Liêm Cang khi ấy cũng hỏi rằng:
- Yến tiên sinh là một cựu thần lương đống của Tuyên vương, có lẽ nào lại bỏ Tề mà qua đầu Triệu, chắc có cớ gì đó, hãy nói thiệt thì bổn soái sẽ tha cho.
Yến Anh đáp rằng:
- Đạo làm tôi dễ đâu chẳng biết, dầu sống thác cũng giữ một lòng phải lo vì nước hết trung lẽ đâu đi đầu hàng địch quốc, ngặt vì Tuyên vương tham dâm háo sắc, đốt lãnh cung mà giết Chánh hậu, binh đao bốn phía tưng bừng, quân dân thảy đều đem lòng sầu oán, nay Đàm Thành bị nạn tôi khuyên hàng mà lại chẳng chịu nghe. Giang sơn thổ võ Đông Tề chẳng sớm muộn cũng về tay người khác, xin nguyên soái ra lòng thương xót cho tiểu nhân đỡ vọt cầm roi kiếp này.
Yến Anh nói rồi khóc rống lên một hồi. Liêm Pha cũng động lòng tưởng thật mới nói:
- Như vậy Tuyên vương thiệt là vô đạo, làm cho khuất hại tôi ngay, phen này ta quyết ra tay, bắt cho được mới đành lòng dạ.
Nói rồi đứng dậy, xuống đỡ Yến Anh và mời ngồi, Liêm Cang khi ấy can rằng:
- Dám thưa phụ thân, thằng hoải tặc này lắm mưu thần chước quỷ. Nó đi trá hàng chứ chẳng phải chơi, nếu phụ thân tin lời, ắt giang sơn Triệu về tay nó.
Yến Anh nghe nói, mắt ngó lườm lườm và làm bộ ngẩn ngơ như điếc. Liêm Pha trợn mặt nạt con và nói rằng:
- Mày là đồ con nít, dám khi dễ hiền thần.
Mắng rồi liền day lại nói với Yến Anh rằng:
- Xin đại nhân miến chấp, đồ tiểu tử vô tri.
Yến Anh cũng làm bộ cúi đầu cảm tạ, rồi hai người ngồi trò chuyện với nhau kết thành anh em sinh tử, một lòng phò vui Triệu vững bền. Chuyện trò rồi truyền quân đặt bày hương án hai người đều thề nguyện với đất trời như sau có ai sai lời, thời lâm nguy hiểm chết một cách cực khổ (việc này Yến Anh thề dối, nên quỷ thần có biên chép rành rành, rồi sau đến đất Giang Nam bị lời thề ấy mà chết).
Khi hai người trích huyết giao thệ xong rồi. Yến Anh mới nói với Liêm Pha rằng:
- Như ngày nay nguyên soái muốn đánh phá Đàm Thành thì việc dễ như trở bàn tay, ngặt vì trong thành binh mã còn hơn mười vạn, lương thảo đồn trữ còn dùng được một năm, bây giờ tôi có một kế rất hay, không biết nguyên soái có bằng lòng chăng?
Liêm Pha nói:
- Đã làm anh em sinh tử rồi, như có kế nào cao minh, thì tiểu đệ cũng xin thính dụng.
Yến Anh nói:
- Nay lão Vương thúc là Điền Dưỡng, đang làm Nhiếp chính tại Lâm Tri, nếu soái gia để cho tôi đi, nói gạt lão rằng Đàm Thành đã phá, vua tôi đều bị chết rồi, còn một mình tôi trốn khỏi ra đây. Nói như vậy làm cho lão không biết ngõ nào, chừng đó tôi sẽ khuyên hàng Triệu quốc, như Lâm Tri lão đã quy phục, thời Đàm Thành cũng đã ở trong tay, tức là khỏi mệt nhọc tam quân, sau nữa mới tỏ lòng tiểu nhân chân giả.
Liêm Pha cả đẹp! Liền truyền quân lấy ra một lệnh tiễn, đưa cho Yến Anh, lại cho thêm hai chục lạng bạc, để làm tiền lộ phí. Yến Anh tiếp lấy tạ ơn, rồi nói với Liêm Pha rằng:
- Hôm nay tôi bị đòn nên chân không đi nổi, như có con ngựa nào xấu xí xin cho tôi mượn đỡ một con, đặng tôi đi cho mau, kẻo chậm trễ ắt cơ quan tiết lậu.
Liêm Pha hối quân lựa một con ngựa chạy thật giỏi, giao cho Yến Anh rồi hai đàng từ biệt. Yến Anh lên ngựa ra khỏi vòng binh vì có lệnh tiễn cầm tay, nên không ai ngăn trở, chẳng khác chi cáo ra khỏi lưới, chim đặng sổ lòng, đi đặng được một đỗi thì trời đã gần sáng. Khi Yến Anh ra khỏi rồi, trọng bụng mừng rỡ vô cùng. Quyết thẳng tới Sơn Lăng thông tin cho Điền Côn hay các việc.
Chẳng bao lâu đã tới nơi, bèn khiến quân vào nói với Điện hạ rằng:
- Có quân sư Yến Anh tới viếng.
Quân vào bẩm lại cho Điền Côn hay. Điền Côn lật đật chay ra nghinh tiếp, mừng rỡ vô cùng. Điền Côn hỏi rằng:
- Tôi nghe binh Triệu vây khốn Đàm Thành, vậy chớ quân sư tới đây có việc chi cơ mật chăng?
Yến Anh làm bộ khóc lóc mà đáp rằng:
- Đàm Thành bị vây gần ba tháng, không biết chết sống ngày nào, nay thiên tử viết một bức chiếu văn, sai tôi tới cầu cứu Chung quốc mẫu.
Điền Côn nói:
- Chung quốc mẫu đâu còn mà quân sư đi cầu cứu?
- Chung hậu thần thông biến hóa, pháp lực cao cường bữa lửa cháy chánh lãnh cung, thì thây hài đó thảy đều là đồ bàn ghế, còn Chung hậu người làm phép hỏa độn mà đi, bây giờ còn ở Thương Sơn, như điện hạ không tin sai quân mở quan tài thì rõ.
Điền Côn tức mình liền truyền quân bươi hòm lên mà coi lại, thì thấy quả tinh những là tro bụi trong hòm, chẳng có thi hài chi hết. Điền Côn cả mừng, truyền quân mở tiệc thưởng tài quân sư, rồi lại nói rằng:
- Như vương mẫu tôi còn nơi làng Pháp Mã, thì tôi ở đây chờ đợi ít lâu sẽ hưng binh về Đàm Thành mà cứu phụ vương tôi, xin quân sư tua khá hết lòng, kính lời dạy Nữ vương muôn tuổi.
Tiệc rồi, Yến Anh từ giã Điền Côn mà lên ngựa.
Đây nhắc về Chung hậu đương lúc ngồi tại hoa viên, bỗng thấy trận gió thổi tới, thì trong bụng đã xốn xang khó chịu, bèn đánh tay bấm một quẻ, thời đã biết Tuyên vương bị khốn gần ba tháng trời, nay người đã gần mòn hơi, nên sai Yến Anh tới đây cầu khẩn. Biết như vậy rồi liền bước vào trung đường thật hết mọi việc cho cha mẹ nghe, và dặn dò đừng tiếp rước vương sứ, phải làm như vậy... như vậy... Chung viên ngoại và phu nhân gật đầu y kế chờ Yến Anh tới thì sẽ thi hành.
Nói về Liêm Pha khi thả Yến Anh đi rồi, thì ngày đêm trông đợi tin tức Lâm Tri, mà chẳng thấy gì hết. Vừa lúc suy nghĩ xa gần, bỗng thấy quân thám thính vào báo rằng:
- Yến Anh chẳng có về Lâm Tri hổn hải mà cứ thẳng đường tới thông tin với Điền Côn nay lại đi Pháp Mã thôn, cầu cứu Chung Vô Diệm, chúng tôi rõ tin Vô Diệm còn sống, mai danh hương ngụ quê nhà, cúi đầu dưới trướng phân qua, hư thiệt xin soái gia tỏ xét.
Liêm Pha nghe báo hởi ôi! Liêm Cang vỗ ngực kêu trời mà thưa rằng:
- Con đã hết lời can gián mà phụ thân quyết một không nghe, thằng lùn nó dùng khổ nhục kế trá hàng, thoát khỏi trong vòng tên đá, như vậy chẳng khác nào tha hùm về núi, bọn ta e chết có ngày.
Liêm Pha khi ấy mới biết lầm tay giặc, bèn than thở khôn cùng, cha con bàn luận rất hãi hùng rồi truyền quân nỗ lực áp đến Đàm Thành công phá.
Đây nói về Yến Anh từ khi giã biệt Điền Côn, một mình một ngựa đêm nghỉ ngày đi, đã tới làng Pháp Mã mà hỏi thăm nhà Chung viên ngoại dắt ngựa vào cột nơi cội dương, rồi kêu Chung gia đinh mà nói rằng:
- Chúng bay mau vào thông báo với nương nương nói rằng có Tề quốc khâm sai đến, mau mau ra thiếp thánh chỉ, kẻo mang tội với triều đình.
Tráng đinh lật đật vào thuật lại cho vợ chồng Chung viên ngoại hay, vợ chồng có ý khen thầm, thiệt con mình thần thông quảng đại, bèn biểu tráng đinh rằng:
- Hãy mau ra nói lại, ta chẳng biết khâm sai là ai? Hãy biểu nó vào đây nói chuyện.
Tráng đinh vâng lời ra mời. Yến Anh vào giữa trung đường thấy hai vợ chồng viên ngoại đang ngồi bàn luận mà mặt mũi buồn rầu thì không biết cớ chi, bèn bước vào cúi đầu thi lễ ra mắt. Chung viên ngoại nói:
- Lão chào khâm sai, lão không thiếu lương, thiếu thuế, cũng không thiếu nợ nần ai, chẳng hay khâm sai tới có việc chi hãy nói cho lão nghe thử.
Yến Anh đáp rằng:
- Tôi là Tề Tuyên vương Tề phủ, quan nhất phẩm đương triều, vâng thánh chỉ tới đây, thỉnh Quốc mẫu hồi triều nghị sự.
Chung viên ngoại hỏi:
- Tiên sinh có phải là Yến Anh không?
Yến Anh đáp:
- Phải.
Chung viên ngoại nói:
- Lão già không biết, nhất lẽ viễn nghinh, vậy chớ nghe nói con gái lão vua phong cho nó làm Chiêu Dương chánh hâu, làm sao mà nó giàu sang an hưởng một mình, tám chín năm nay chẳng thấy hơi tin và cũng không báo bổ công ơn cha mẹ. Vợ chồng lão đêm ngày trông nhớ không biết nó bình an khương thời thế nào?
Yến Anh đáp rằng:
- Có ân chiếu ở đây xin Quốc trượng coi sẽ biết.
Chung viên ngoại hai tay tiếp lấy mở ra coi thấy lờ mờ bèn nói rằng:
- Lão nay già rồi, nhãn mục hôn hoa, một chữ ngó thành ba không rõ, xin Tề phủ làm ơn chịu khó đọc cho lão nghe tỏ rõ trước sau.
Yến Anh vâng lời tiếp lấy cúi đầu, đọc ân chiếu như vầy:
“Tề Tuyên vương Điền Hằng thủ bút, tả chiếu thư tỏ với ngự thê, vì quả nhân tửu sắc ca mê, đem lửa tới lãnh cung thiêu hóa. Tưởng chồng vợ đã phân đôi ngã, nào hay đoạn giả hồi gia, việc xong rồi mới tỉnh ra, biết sự quấy thì đà chẳng kịp. Nhớ Chánh hậu dạ như kim chích, ngó hoa viên với Bích vân cung, đêm ngày lòng lại giận lòng, bịnh phiền muộn khôn mong điều trị. Yến quân sư mới bày chung thỉ, tới Đàm Thành toan để giải khuây, sự bất kỳ binh Triệu tới vây, Liêm Cang thật là tay lợi hại, tướng Tề chẳng có ai địch lại càng thêm phách lối muôn phần, xin mau mau về cứu quả nhân, kẻo tính mạng hầu gần chín suối, chẳng nghĩ trẫm là người bạc bội, cũng thương vì bối rối dân trời. Yến quân sư thay mặt đổi lời, công đức ấy đời đời ghi tạc”
Khi Yến Anh đọc xong rồi. Chung phu nhân khóc ròng và chỉ mặt Yến Anh mắng rằng:
- Vua tôi bây đã giết con ta rồi, nay lại kiếm chuyện tới đây nói láo. Thằng lùn này! Hèn chi lời tục ngữ có nói: Người không đầy ba thước, bụng có một lưỡi đao, mầy đã giết con tao, còn tới đây múa mỏ. Con ôi là con ôi! Những tưởng vinh phong tông tổ, hay đâu bỏ mẹ lìa cha, thành Lâm Tri phảng phất hồn hoa, làng Pháp Mã bơ vớ phách quế, con ơi!
Chung phu nhân nói rồi cầm gậy đánh lên đầu Yến Anh. Chung viên ngoại liền cầm tay phu nhân lại mà nói rằng:
- Mụ này nóng quá, con mình nó đã chết, như mụ đánh Thừa tướng nó có sống lại được không? Làm vậy hóa mất hết lòng, xin quân sư tha lỗi.
Nói rồi dắt tay Yến Anh lên ghế, phân ngôi chủ khách mà ngồi, rồi kêu gia đồng khiến đem trà nước xong xuôi, đoạn hỏi rằng:
- Dám thưa cùng Thừa tướng, con tôi làm sao mà nó chết, còn bây giờ quân sư tới đây nói thỉnh Quốc mẫu mà lão chẳng biết Quốc mẫu là ai? Xin quân sư nói cho lão rõ.
Yến Anh đáp rằng:
- Dám thưa quốc trượng, giấu thì đặng chớ giấu tôi có đặng đâu. Sso là bữa Thiên tử đốt cháy lãnh cung, Chung nương nương đã tá hỏa bay về quê quán, tôi đã xem thiên tượng. Mão đoan tinh còn hãy sờ sờ. Chung hậu có chết đâu bao giờ, mà quốc trượng vu oan giá họa.
Kẻ nói không người nói có cãi lộn tối ngày, kế gia đinh dọn cơm bưng ra, Chung viên ngoại mời Thừa tướng dùng cơm nước xong rồi mới đưa tới thư phòng an nghỉ. Khi Yến Anh tới thư phòng nằm thổn thức, giấc điệp không an lại nghĩ rằng:
- Ta thuở nay đoán quẻ âm dương hay đà có tiếng, làm sao mà Chung viên ngoại lại nói là Quốc hậu không còn ở trên đời, hay là mình suy toán có sai lầm gì chăng?
Nghĩ hoài không ra cớ bèn bước tới trước sân thiên tượng thì thấy sao tướng tinh của Vô Diệm nửa sáng nửa mờ như có cái gì án lại, mới sanh ra một kế, giả làm bộ đi dạo chơi nơi huê viên, thấy có đường đi tắt ra phía sau, liền nương theo bóng trăng tà, lần qua đường ấy, tới nơi thấy một căn nhà tinh vắng, có quân tỳ nữ qua lại hai người, bèn núp vào bên vách tướng hoa lóng tai nghe nói, thời nghe rõ giọng đàn bà rằng:
- Bữa nay làm gì tối quá, bây giờ bây đem cơm tới đây.
Quân tỳ nữ đáp:
- Dám tâu nương nương, vì có khâm sai đi tới, chúng tôi mới lo cơm nước đãi đằng.
Kế lâu giây, nghe có tiếng hỏi nước, thì tỳ nữ bước ra khép cửa lại rồi thẳng lên nhà trên. Yến Anh ngẫm nghĩ hồi lâu, đánh liều tới gõ cửa, người trong nhà hỏi:
- Ai đó?
Yến Anh thưa:
- Tôi là tỳ nữ dâng trà.
Chung hậu vô tình bước ra, Yến Anh thấy liền quỳ xuống giữa đất tâu rằng:
- Mong ơn nương nương tha tội, tôi đà liều thác tới đây. Từ khi Thiên tử tỉnh say, đã biết mình làm sự quấy ấy, nay Liêm Pha cả dấy binh mã, vây Đàm Thành đã ba tháng rày, năm tướng giao chinh đã chết hết bốn người, sự nguy cấp như gươm đã kề cổ vì vậy nên ngu thần phải làm khổ nhục kế tới Triệu dinh giả chước quy hàng, xuất trùng vây mới tới đặng đây.
Yến Anh tâu rồi khóc òa. Chung hậu lại giả bộ mắng rằng:
- Lão này quỷ quyệt, ta đã ở nơi địa huyết giấu mình, làm sao lão dám tới hoa viên, lại làm bộ nữ tỳ dâng nước.
Yến Anh nghe la mắng chừng lại càng bộ khóc lớn hơn xin tha tội. Chung hậu thấy vậy cũng động lòng vì là biết vị trung thần, mà ra thân thể ấy, mới hỏi:
- Vậy chớ Điền Côn nó làm gì không lui đặng binh Triệu hay sao?
Yến Anh tâu:
- Từ khi lãnh cung bị hỏa, trào thần ai cũng tưởng Quốc mẫu đã về trời, ngu thần không dám hở môi. Điền Côn cũng nghĩ là thiệt, lòng hiếu tử cư tang khắp huyết ở Sơn Lăng gìn giữ một phần, chẳng bằng lòng đầu phục Tề quân, Thiên tử bị vây khốn mà Điền Côn làm bộ không hay.
Chung hậu nói:
- Quân sư ôi! Từ ngày ta làm phép hỏa độn, về tới quê nhà chẳng muốn thấy mặt hôn quân, tình chồng vợ như dòng nước chảy, quân sư hãy an tâm ở lại đây, Ai gia quyết chẳng dời chân đâu.
Yến Anh nghe nói hỡi ơi, bèn tâu rằng:
- Thiên tử lâm cơn hoạn nạn, sai ngu thần đưa án chiếu tới đây, nếu nương nương chẳng khứng ra tay, thời xã tắc Tề triều hư nát. Tuyên vương hồn về chín suối, thời nương nương cũng ngàn thuở nhơ danh, nếu nương nương không chịu cứu Đàm Thành, thì ngu thần ở đây sao đành nhắm mắt?
Yến Anh tâu rồi lại khóc một hồi nữa. Chung hậu thấy vậy cũng châu mày bèn nói rằng:
- Quân sư hãy về phòng an nghỉ, rạng ngày ta sẽ nói lại cho hay.
Yến Anh cúi tạ lui ra. Chung hậu đánh tay làm một quẻ, biết Liêm Pha đã rõ việc Yến Anh trá hàng đi cứu viện, nên cha con lúc này vây hãm thành rất gấp, dùng những đồ hỏa công, hỏa pháo, đánh phá liền đêm ngày, nếu hôm nay ta để trễ chầy, e khi Đàm Thành lâm đại bại. Làm một quẻ rồi liền niệm thần chú hô thần, đòi bốn vị Long vương tới, biều phải làm như vầy… như vầy… Bốn vị Long vương vâng lệnh lui ra. Chung hậu vào phòng an nghỉ.
Nói về bốn vị Long vương, vâng mạng đằng vân giá về tới Đàm Thành, ông thì làm mưa, ông thì làm gió, trước thì mưa tuyết, sau thì mưa đá, dinh trại Triệu đều hư sạch, còn đồ hỏa pháo hỏa tiêu thảy đều bị ướt mê man, quân sĩ thời run lập cập, gió thổi lạnh thấu tới tận xương. Liêm Pha thấy quân mình chịu lạnh không kham đều bỏ đồ binh khí chạy hết, bèn truyền lệnh chư tướng mở vây lui ra khỏi Đàm Thành ba mươi dặm hạ trại, kế đó trời vừa sáng. Liêm Pha tra điểm quân sĩ lại thì chết gần có hơn tám muôn. Liêm Pha thấy vậy cả buồn, viết một đạo biểu răn, sai quân về Hàng Đan xin thêm quân cứu viện.
Còn Yến Anh trở về phòng đêm đó nằm không nhắm mắt, một phần lo cho Tuyên vương đương bị khốn và lương thảo lại chẳng còn, một phần lo vì Chung hậu chẳng chịu phát binh, ắt sớm tối dây cơ nghiệp Tề trào hóa ra tro bụi. Mãi đương toan tính trời đà hừng sáng không hay, Yến Anh vội vàng sửa soạn cân đai, thẳng tới hoa lầu kêu nài nguy cấp. Khi tới nơi liền vào thẳng đã thấy Chung hậu ngồi giữa hoa đình, kêu Yến Anh nói rằng:
- Quân sư chớ sợ, Ai gia đã cậy bốn vị Long vương tới giải cứu Đàm Thành rồi.
Yến Anh liền cúi lạy tạ ơn và khen gợi khôn cùng! Kế đó Chung hậu liền sai cung nữ vào trung đường thỉnh Chung viên ngoại và phu nhân. Cung nữ vâng mạng vào thưa, hai vợ chồng bước tới hoa đình. Chung hậu bèn thuật lại hết các sự Yến Anh đi kiếm cho cha mẹ nghe, rồi thưa rằng:
- Nay quốc sự nóng như lửa đốt, xin song đường ở lại an dưỡng, để cho con đi cứu giá mới xong, nếu trễ nải thì ắt chồng nam vợ bắc.
Thưa rồi lại cho người đi mời Chung Long và Chung Hổ lại dặn rằng:
- Phận em là gái, ơn dưỡng sanh chưa chút vun trồng, mà hai anh xem xét ngoài trong cấp một huyện lương mà thị dưỡng.
Nói rồi liền tả chiếu văn, giao cho quan huyện, cứ thường năm thâu nạp hẳn hoi, lại cho đòi ba mươi hai cung nữ tới dạy rằng:
- Nay ai gia phải đi cứu giá, còn chúng bây ở lại Thương Sơn, phải kiếm nơi phối lương duyên, tiền bạc cấp mõi người ngàn lượng.
Chung hậu dặn dò các việc xong rồi liền tới trước mặt cha mẹ quỳ lạy giã từ, hai vợ chồng Chung viên ngoại cầm tay lấy tay con khóc than ly biệt. Lúc ấy Yến Anh cũng phân từ hai vợ chồng quốc trượng theo bảo giá Chung nương nương. Chung hậu lên ngựa đề thương, vợ chồng Chung lão khóc than chẳng xiết! Chung hậu cũng đau lòng ly biệt, ấy là: Khi không bay tới gươm đao sắc lẻm, chém đứt ân tình rẻ nước non, biết bao giờ hiệp mặt mẹ con, cho nên tình ly biệt ruột gan bối rối. Khi ấy Chung hậu mới chỉ Lâm Tri thẳng ruổi vó cu. Yến Anh quất ngựa sau cùng, đêm nghỉ ngày đi đà mòn mỏi. Sự ấy chưa nói tới, đây nhắc lại việc Điền Côn.
Nói về Điền Côn điện hạ, ừ khi Yến quân sư từ biệt đi tới Thương Sơn thì hằng ngày đợi trông tin tức, bán tín bán nghi, ngày thời săn bắn giải khuây, đêm lại chong đèn trông đợi, đón khách hàng thương qua lại, hỏi có gặp ai dị diện dị hình? Đương ngồi vương phủ thanh minh, luống buồn bã mặt hoa như ủ? Xảy thấy quân thám tử vào báo rằng:
- Nương nương với quân sư đã tới cách Sơn Lăng một đỗi chẳng xa, chúng tôi vội vã về thưa qua, xin vương gia định đoạt.
Điền Côn nghe nói cả mừng, liền truyền quân đem ngựa tới, nhảy phóc lên lưng dẫn theo ít viên phó tướng làm chừng, đi rước Chung nương nương nhập trại. Khi đến nơi gặp mặt, Điền Côn quỳ xuống giữa đường mà bái yết. Chung hậu bèn xuống ngựa, cầm tay đỡ dậy, hai mẹ con thay nhau khóc ngất một hồi, Điền Côn tâu rằng:
- Từ khi lửa dậy lãnh cung, con tưởng không trông thấy mẹ. Lúc ấy nếu có thể chết được, thì con cũng toan xuống huỳnh tuyền cho mẹ con gặp mặt. Vì cớ ấy cực chẳng đã nên con phải làm phản, lên Sơn Lăng coi giữ mả mồ, không ngờ Vương mẫu làm phép độn bay về quê hương, ngày nay con gặp được, chẳng khác cây khô sanh nhành hoa trổ mùa hè, thiệt con vui mừng chẳng sao kể xiết!
Điền Côn tâu rồi, lòng còn tấm tức, Chung hậu thấy vậy cũng buồn dạ than thở nói rằng:
- Vương nhi ôi! Chẳng phải mẹ lòng ở bạc, vì phụ vương con làm việc bất lương, nếu mẹ chẳng có pháp lực cao cường, thì đã hóa ra tro mạt. Tình mẹ cũng rất nên thương xót, biết con hiếu thảo hết lòng, hiềm vì tai nạn còn, nên phải căm gan chịu vậy.
Hai mẹ con than thở một hồi, rồi đồng lên ngựa. Chung hậu đi trước, Yến Anh với Điền Côn theo sau, đi riết chẳng bao lâu về tới Sơn Lăng an nghỉ.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi thứ Bốn Mươi Hai - CHUNG QUỐC MẪU ĐỀ BINH PHẠT TRIỆU
CHUNG QUỐC MẪU ĐỀ BINH PHẠT TRIỆU
TRIỆU LONG VƯƠNG THẤT THẾ HÀNG TRIỀU
Khi ba người về đến Sơn Lăng, Điền Côn truyền cho chư tướng bày khai tiệc rượu. Chung hậu khi ấy nói:
- Bây giờ Đàm thành tuy nguy cấp, song ai gia đã truyền lệnh cho Long vương làm phép lui binh Triệu ra khỏi thành rồi. Nếu hôm nay ta kéo binh về tiếp nữa thì Triệu chúa cũng không phục, chi bằng ta tính kế này hay hơn. Từ đây qua Triệu không cách mấy ngày đường, đem binh tới bắt cho được Triệu vương, như vậy cha con Liêm Pha mới khiếp vía.
Yến Anh khen phải và tâu rằng:
- Nương nương thiết lắm chước quỉ mưu thần, kế ấy rất hiệp lòng ngu hạ.
Kế đó Điền Côn tức thì kiểm điểm binh mã, phát pháo kéo binh đi được năm ngày, quân kỳ bài trở lại báo rằng:
- Đã gần tới kinh thành Hàm Đan, cách chừng năm chục dặm, xin nương nương hạ lệnh.
Chung hậu liền sai Đông lộ vương là Điền Côn đi coi một chỗ địa thế mà an dinh đóng trại.
Đây nói về Triệu Long vương, từ khi cha con Liêm Pha đi đánh Tề thì thường ngày có biểu văn báo tiệp luôn luôn, vua tôi lòng mừng khấp khởi, tưởng chắc là chuyến này làm sao cũng thâu đoạt đặng giang san Tề quốc.
Ngày kia Triệu vương lâm triều, văn võ triều bái xong, có quan tổng binh vào tâu rằng:
- Tề bang Chung Vô Diệm với Đông Lộ vương Điền Côn đem binh mã năm ngàn tới cách thành chẳng bao xa đang hạ trại, nên tôi phải vào tâu lại, xin bệ hạ lo toan.
Triệu vương nghe báo cả kinh, bèn phán rằng:
- Ta vẫn nghe Chung Vô Diệm đã bị chết thiêu rồi, còn Chung Vô Diệm nào sống lại kéo binh đến đây? Hay là nó dùng kế kiêu binh mà nước ta không biết chăng? Bây giờ có ai dám xuất trận bắt Vô Diệm lập đầu công không?
Triệu vương hỏi dứt lời, có một vị công thần bước ra xin đi. Triệu vương xem lại, người ấy tên là Liêm Hùng cha của Liêm Pha, làm tới tước Thân vương. Triệu vương thấy vậy nói rằng:
- Vương huynh tuổi già sức yếu, chẳng phải là tay đối thủ với Điền Côn đâu. Để cô gia sai người khác đi mới an lòng quả nhơn đặng.
Liêm Hùng nghe vua chê mình già yếu thì có ý bất bình bèn tâu rằng:
- Xin thánh hoàng an dạ để cho ngu hạ xuất binh. Tinh thần tôi hãy còn mạnh mẽ, cầm thương lên ngựa đủ tài. Sách có chữ nhân lão tâm bất lão.
Triệu vương thấy Liêm Hùng kêu nài hết sức bèn nói rằng:
- Nếu như vương huynh muốn xuất trận thì cô gia cũng chẳng tiếc chi, nhưng phải đề phòng cẩn thận mới được. Liêm Hùng tạ ơn lui về vương phủ sửa sang khôi giáp cầm cây bát xà mâu, dẫn theo năm trăm dũng sĩ, phát pháo mở cửa thành xông tới trước dinh Tề mà khiêu chiến. Quân kỳ bài Tề vào huỳnh la trướng tâu lại cho Chung Vô Diệm hay. Chung hậu hỏi rằng:
- Có ai dám đánh với tướng Triêu không?
Điền Côn lãnh mạng. Chung hậu cho đi. Điền Côn liền nai nịt cầm thương lên ngựa, dẫn theo năm trăm quân, phát pháo xông ra trận. Hai đàng giáp mặt thì đã biết nhau. Điền Côn liền kêu hỏi rằng:
- Liêm lão soái! Vậy chớ nước Tề cừu hận gì mà nước Triệu lại đem quân tới Đàm thành vây khốn? Nếu lão soái biết thằng chủ trại Triệu long sơn là một tay lợi hại thì phải mau xuống ngựa đầu hàng đi. Như không thì cây ngân thương của nó vô tình lắm, nó sẽ đưa lão về âm phủ.
Liêm Hùng cả giận mắng rằng:
- Đồ tiểu tử! Sao mày dám vô lễ múa miệng khoe tài. Ấy là vì con xủ phụ bất nhân, đánh chết Yên Bình công chúa. Bởi vậy mới gây nên sự, sao mày lại nói không cừu hận à! làm sao?
Nói rồi liền hươi mâu đâm nhầu, Điền Côn cũng đưa thương ra đỡ. Một già một trẻ khí lực cầm đồng. Chung hậu thấy vậy bèn dẫn năm trăm quân ra lược trận, hai bên gióng trống vang tai. Điền Côn khi ấy dùng phép chuyển thương môn, nhảy thốc qua lưng ngựa Liêm Hùngm bắt sống vật nhào xuống đất, tức thì mửa máu chết tươi. Chung hậu thấy vậy hỡi ơi, kêu đà chẳng kịp, mới nói thầm rằng: vương nhi tánh tình nóng nảy quá! Đem ân này mà gây nên thù, vì con của người là Liêm Thoại Hoa là căn số lương duyên của mi. Bởi việc chưa tới nên vương nhi chưa hiểu thấy căn do.
Còn khi Liêm Hùng chế rồi, Điền Côn muốn xuống ngựa cắt đầu, không ngờ binh Triệu ào ra cướp tây mang về phủ. Quân kỳ bải Triệu vào báo cho Triệu vương hua. Triệu vương ngất một hồi, nói rằng:
- Vì vương huynh không nghe lời trẫm nên phải bị hại vào tay quân cường đồ. Biết có ai xuất trận mà rửa hờn cho lão soái?
Triệu vương nói vừa dứt lời, có một người bước ra tâu rằng:
- Mạt tướng xin lãnh mạng xuất trận báo cừu cho lão vương.
Người ấy tên là Lý Tuấn, làm chức phó soái đường thời, là em vợ của Liêm Pha. Triệu vương thấy vậy liền dặn rằng:
- Tướng quân có xuất trận nên cẩn thận đề phòng.
Lý Tuấn vâng mạng cúi đầu bái tạ lui ra, tay cầm cây Cang xoa nặng hơn sáu chục cân, mình cưỡi con huỳnh tung, sức hay đi ngàn dặm dẫn theo năm trăm quân cường tráng, phát pháo xông ra. Vừa gặp Điền Côn liền hỏi rằng:
- Bớ Điền Côn! Mày sao dám cả gan lớn mật mà quật chết vương gia. Nay ta quyết ra đây, trước bắt cho được mày sao nguyện cũng thâu được con Chung xủ phụ.
Điền Côn nghe nói thì cười mà đáp rằng:
- Mày là một thằng vô danh tiểu tốt, dám ra đây múa mỏ khua môi. Liêm Hùng là một vị tướng tài, ta còn đưa ngài về chín suối, huống chi là mày.
Lý Tuấn mặt đỏ phừng phừng, liền hươi cây Cang xoa đâm đại. Điền Côn cũng đưa thương ra đõ, đánh có năm chục hiệp dư, Lý Tuấn hơi đà đuối sức, ngăn đỡ thương chẳng kham, bị Điền Côn đâm ngang trúng một thương nhàu xuống ngựa chết tốt. Quân Triệu bèn ào ra cứu mạng, thấy đổ ruột xúm nhau giựt thây đặng đem về. Điền Côn lại đuổi theo đánh. Quân kỳ bài Triệu đem tin ấy chạy về phi báo, Triệu vương hồn vía lên trời, khóc than kể hết mọi lời, thương hại cho đại tướng liều mình vì nước.
Còn vợ Liêm Hùng lúc này đang ngồi trong vương phủ, xảy thấy gia đinh hơ hải chạy vào thông báo rằng:
- Họa lớn bằng trời, thù sâu tợ biển. Nay có Chung Vô Diệm với thằng sơn tặc Điền Côn đem binh mã ba ngàn, tới Hàng Đan vây phủ. Lão vương gia với Lý Tuấn bỏ mạng chốn sa trường, thi hài đều đều về đặng, nên chúng tôi phải vào phi báo lại cho bà hay.
Lão phu nhân nghe nói bèn té xỉu xuống đất, lạnh cả mình, chúng tì nữ kêu cứu giây lâu, lão phu nhân mới tỉnh dậy. Lý phu nhân (vợ của Liêm Pha) cũng chạy tới, mẹ con đều than khóc dầm dề! Bởi đâu sóng gió tư bề, cơn tai họa thình lình bay đến?Một người thương chồng tuổi cao tác lớn, đến khi lâm chung phải bị vướng mũi đao binh; một người cũng thương cha chồng và lại tiếc em, đầy nhà người chật như nêm, tiếng la khóc nghe vang khắp phủ.
Đây nói về người con gái út của Liêm Hùng tên là Liêm Thoại Hoa, vốn là sao Thiên hỉ tinh giáng thế. Thuở còn thơ ấu, Kim Đao thánh mẫu ở Thùy Châu động, núi Linh Bửu vạn hoa thâu làm đệ tử, truyền đủ thập bát ban võ nghệ, với kỳ môn độn giáp thảy đều làu thông. Đến lúc khôn lớn thánh mẫu mới cho hạ san để phòng khi giúp nước. Lúc này người đang trên hoa lầu xem binh thư đồ trận, bỗng nghe tiếng khóc ó om sòm, bèn vội vàng bước xuống hỏi thăm sau trước, thì thấy mẹ và chị dâu đang than khóc, chúng tì nữ mới thuật hết đầu đuôi, Liêm tiểu thư cũng nhào lăn xuống đất khóc lớn một hồi rồi mắng Điền Côn là loài sơn tặc. Liêm tiểu thư lúc ấy hầm hầm tức giận mới nói với lão phu nhân rằng:
- Dám thưa mẹ, phụ thù bất cộng đái thiên, nữ đạo tu đương ái nhựt, như nay cho con lâm tay cường tặc, con xin xuất trận bắt cho đặng Điền Côn, mổ lấy tim gan tế tiên hồn, trả thù nọ mới an lòng dạ.
Lão phu nhân nói:
- Nữ nhi, con bớt giận, để ta tẩn liệm thi hài, chờ rạng sáng mai con phải nhập trào tấu cùng thánh thượng đã.
Kế đó, Triệu vương sai quan Lễ bộ đưa đồ khâm kiệm tới. Mẹ con nghênh tiếp, lo bề tẩm liệm cho lão vương gia xong, quan Lễ bộ từ tạ lui về phục chỉ.
Qua ngày sau, Liêm tiểu thư sửa soạn nai nịt, đi cùng lão phu nhân vào triều tạ ơn thiên tử. Triệu vương vời lên trên Kim Loan điện. Hai mẹ con làm lễ triều bái xong, Triệu vương cũng than khóc sụt sùi và nói rằng:
- Bây giờ không có ai tài bộ đặng đánh lui thằng sơn tặc và trả thù cha nó cùng đền nợ nước.
Lão phu nhân nghe vua than thở bèn tâu rằng:
- Con gái tôi xin xuất chiến, trả thù cha nó cùng đền nợ nước.
Triệu vương nghe nói, cả mừng mà rằng:
- Nếu vương điệt làm được như lời, thiệt là tài mạo tốt vời, hiếu trung vẹn vẻ, nhưng Điền Côn là một thằng cường tặc, vương điệt tua khá tiểu tâm.
Tiểu thơ cúi đầu vâng lệnh, cầm đao lên ngựa, phát pháo xông ra, còn lão phu nhân thì lên Vọng địch lầu xem trận.
Khi Đông lộ vương còn đang đứng dưới thành khiêu chiến, nghe tiếng pháo vang trời thì biết có tướng Triệu xuất trận, bèn lui ra mười dặm mà đợi. Giây lâu thấy có một viên nữ tướng mang bạch bào kim giáp, cung tiễn đeo hai bên, mặt đẹp tợ tiên nga, miệng cười như hoa nở, mình cưỡi đào hoa mã, tay cầm cây kim đao, vai mang báu kiếm, thần chùy, oai phong lẫm lẫm. Điền Côn xem rồi, gịt ngựa lướt tới hỏi rằng:
- Bớ viên nữ tướng kia, ta là Đông Lộ vương Điền Côn ở đây, đợi nàng đã lâu, mau xưng tên họ rồi sẽ nói chuyện. Liêm tiểu thư đáp rằng:
- Liêm Thoại Hoa là tên mỗ, Liêm Hùng vốn thiệt cha ta, còn anh là Liêm Pha đi đánh Tề làm chức tổng soái. Như sơn tặc biết ta lợi hại, mau xuống ngựa chịu trói rồi, thù phụ thân thề chẳng đội trời chung, nếu trễ nải thì ta mời về với Diêm chúa.
Điền Côn là người tánh nóng, nghe tiểu thư nói vậy liền hươi gươm đâm nhầu, tiểu thư cũng hươi đao rước đánh. Gần một trăm hiệp chưa định hơn thua, tiểu thư mới nghĩ rằng: Thằng sơn tặc giỏi thiệt, ta phải ra tay trước. Nghĩ rồi liền lấy thần chùy liệng lên trên không, hào quang phát ra sáng giới. Điền Côn cả kinh, quất ngựa chạy dài, tiểu thư cũng hươi đao đuổi chém. Điền Côn khi chạy xa một đỗi, thấy thần chùy cũng bay đuổi theo, Điền Côn biết thế hiểm nghèo, ôm lưng ngựa cúi đầu chạy miết. Tiểu thơ cũng hươi đao chém tới, trúng ngay kim khôi của Điền Côn đứt ra làm hai. Thần chùy cũng vừa xuống tới đánh nhằm lưng hộc máu sảy tay, thời may cũng nhờ con ngựa Bát sơn ngọc cũng hay, không thì đầu Điền Côn cũng rơi xuống đất.
Khi ấy Chung hậu ở trong trại xem thấy hào quang sáng chói, biết thần chùy bửu bối Thoại Hoa, kế thấy Điền Côn thua chạy về, Chung hậu đã hiểu Điền Côn bị thương tích, bèn kíp niệm chú hô thần bảo theo phò hộ Điền Côn. Linh thần tức thì đỡ Điền Côn ngồi dậy, lại sau hươi thương giục ngựa tới đánh nhầu với tiểu thư, hai bên gión trống phất cờ, đao thương múa sáng ngời như chớp. Đánh nhau ba trăm hiệp nữa mà không phân thắng bại, tiểu thư cũng có ý mến tài, muốn bắt sống Điền Côn đem về lấy tiếng/ Bèn niệm linh văn thần chú, kế dây Khổn tiên thằng bay lên muôn vạn kim quang. Chung hậu thấy vậy, vội vàng xuất chiến, kêu Điền Côn bảo rằng:
- Vương nhi mau trở lại, kẻo tánh mạng chẳng còn.
Nói rồi liền lấy tay chỉ lên không, thâu tiên sách vào trong túi áo. Tiểu thơ thấy phép mình đã mất liền hươi đao đuổi theo. Lại dùng cây Bá luyện thần chùy, đánh bồi trúng Điền Côn té nhủi. Khi ấy nếu không có thần linh bảo hộ thì tánh mạng Điền Côn chẳng còn. Chung hậu thấy vậy, phi ngựa tới chận đường, đánh với tiểu thư một trận. Tiểu thơ nổi giận, dùng phép phi kiếm bay tới, liềm niệm ít tiếng chân ngôn, thâu phi kiếm vào trong tay áo. Tiểu thơ tức giận, hươi đao tới đánh nhầu với Chung hậu hơn một trăm hiệp, thắng bại chưa phân. Chung hậu bèn niệm chú định thần, Liêm tiểu thư đứng trân như chết. Chung hậu lại dùng Khổn tiên thằng trói lại, rồi thâu phép định thần. Tiểu thơ khi ấy tỉnh hồn mới biết mình bị ngặt. Quân Tề xông tới áp bắt, dẫn tiểu thư về trại tức thì.
Còn lão phu nhân khi ở bên vọng lầu xem trận, thấy tiểu thư đã bị bắt liền dậm chân kêu trời ba tiếng rồi té xỉu ngang, hồn gần thả xuôi nơi suối vàng, buồn vì ái nữ sa tràng bị bắt. Liêm Pha không thấy hay tin, vây Đàm thành chưa rõ kiết hung, cơ hội này đà quốc phá gia vong, có sống cũng hổ với trời đất. Mấy đoạn sầu thảm, da đau như cắt, liền gieo mình xuống lầu, chúng nữ tì chạy tới trước sau, lão phu nhân hồn đã lìa xác.
Còn Chung hậu đã bắt được Thoại hoa thì dẫn về trại, liền nói với Điền Côn rằng:
- Vương nhi hãy đốc quân vào thành chớ có trễ nải.
Điền Côn vâng mạng, Chung hậu liền niệm chú hô thần, đòi Phong bá tới bảo rằng:
- Linh thần chẳng nổi gió, còn đợi chừng nào?
Trong giây phút thiên hôn địa ám, gió thổi mây bay, quân chẳng trông thấy nhau, lo kiếm chỗ sanh phương tẩu thoát, cửa thành đóng chẳng kịp quân Tề đồng loạt xông vào. Chung hậu với Điền Côn theo sau, thẳng tới Kim Loan điện. Triệu vương thấy quì dạ xoa xuất hiện, hồn vía đã lên mây. Chung hậu bắt ngay và xưng rằng:
- Ta là Tề Tuyên vương chánh hậu đây.
Triệu vương tay chân đã rụng rời mà miệng còn kêu cứu, bảo triều thần bắt con xủ phụ cho mau. Chung hậu nổi giận mắng rằng:
- Vô đạo hôn quân, mày chẳng nên dùng mỹ nhân kế mà ám hại ai gia. Như nay đã biết khôn ra, phải nghe lời ta thì khỏi chết.
Triệu vương mình run cầm cập, miệng bài hãi đáp rằng:
- Nay tôi đã thất thế, biểu chi cũng phải vâng lời.
Chung hậu khi ấy bớt giận nói rằng:
- Vậy thì Triệu vương phải bảo triều thần tới đây triều kiến ai gia, xưng ta là Lâm Tri quốc mẫu thì ta mới tha chết.
Triệu vương lụy ứa hai hàng, ruột đau từng đoạn, kêu hết văn thần võ tướng thảy đều triều bái Chung nương nương. Chung hậu lại bảo Điền Côn rằng:
- Vương nhi haỹ đi bắt Qua hoàng hậu, Lạn Tương Như với vợ Liêm Pha là Lý phu nhân tới đây cho đủ mặt.
Điền Côn vâng lệnh, tức thì dẫn theo ít viên dũng tướng, đi giây lâu đem về đủ mặt. Chung hậu lại bảo Điền Côn làm hai cái tù xa, một cái thì cầm Triệu Long vương và Lý phu nhân, còn một cái thì cầm Qua hoàng hậu với Lạn Tương Như. Điền Côn y lệnh, trong một khắc đứng lên. Chung hậu nói:
- Ấy là tại nước ngươi bại thương phong hóa, đem vương cô hầu hạ nước người, làm cho ai gia chẳng được thảnh thơi, nên nay ta làm lại cho vua tôi bây điên đảo.
Lúc đó vua tôi Triệu vương thảy đều than khóc sỉ nhục biết là chừng naò! Đông cung thái tử tới sau, xin thế mạng cho phụ thân khỏi chết. Chung hậu thấy vậy, động lòng mà kêu thái tử nói rằng:
- Vương điệt phải quyền coi quốc chánh, chẳng nên sầu thảm làm chi.
Thái tử tạ ơn lui ra. Chung hậu truyền cho Điền Côn phát pháo khởi hành và dẫn Liêm Thoại Hoa theo dõi. Khi ấy, thái tử và ba quan tựu tới, đưa vợ chồng Triệu vương lên đường, thảy đều rơi lụy phân tình hai ngả. Sanh kỳ giục giã, đêm nghĩ ngày đi, Đàm thành đã thấy xa xa, Chung hậu truyền tam quân hạ trại.
Đây nói về Liêm Pha, từ khi bị chư thần làm mưa đá, hao tổn hết tám muôn binh, viết biểu văn đem về Hàng Đan xin thêm binh cứu viện, nhưng trông hoài chẳng thấy hơi tăm. Đương khi buồn bực biếng nằm, bỗng thấy quân kỳ bài chạy đến bảo rằng:
- Yến Anh đã thỉnh được Chung Vô Diệm và Đông lộ vương Điền Côn rồi, nay dẫn binh tới ước đặng chừng ba ngàn đã an dinh hạ trại, nên chúng tôi phải vào thưa lại, xin nguyên soái lo kế cự đang.
Liêm Pha nghe báo cả kinh. Năm cha cho nai nịt thảy đều cầm thương lên ngựa, thẳng tới Tề dinh mà khiêu chiến. Chung hậu liền sai Điền Côn ra cự địch. Điền Côn liền giục ngựa xông ra. Liêm Pha hươi thương đón lại mà rằng:
- Bớ thằng sơn tặc! Trái mật mày lớn đặng bao mà dám tới đây nạp thịt! Như đó muốn vào Đàm thành thời khó lắm, hãy về bắt con xủ phụ mà dưng cho tao, thời mới được toàn sanh.
Điền Côn nghe nói cả giận lôi đình, hươi thương tới đâm đại. Liêm Pha cũng hươi thương trước đánh, bốn người con cũng xông tới một lượt, một mình Điền Côn tả hữu xung đột, đánh sao lại Liêm ngũ hổ. May đâu Điền Côn cũng chưa tới số, Chung hậu liền giục ngựa chạy ra, truyền tam quân áp dẫn tù xa, kêu Liêm Pha nhướng mắt ra ngó. Cha con Liêm Pha thấy đà tỏ rõ, hai tù xa nhốt lộn lại bốn người. Cha con Liêm Pha thấy vậy liền quỳ xuống, xin chịu tội với Chung nương nương. Chung hậu mới nói rằng:
- Liêm nguyên nhung! Ta cũng tạ tội cho cha con mi đó, nhưng phải theo ta vào Đàm thành, rồi cho vua tôi về nước.
Năm cha con Liêm Pha vưng mạng. Lúc đó Chung hậu đi trước, Điền Côn cưỡi ngựa theo sau, còn Yến Anh thời áp giải hai cái tù xa, lại ngó mặt Liêm Pha cười chúm chím và kêu Liêm Pha nói rằng:
- Liêm hiền điệt ôi! Như ngu huynh chẳng làm kế khổ nhục, làm sao ra khỏi trùng vây. Bây giờ anh em gặp lại nhau đây cũng là Nhân các vị kỳ chúa.
Liêm Pha tức mình căm giận chẳng dám nói ra, đi một đổi xa xa đã tới Đàm thành. Yến Anh bèn tới trước kêu lớn quân giữ thành:
- Quân chánh ty xem mau vào tâu thiên tử rằng ta đi cầu cứu nương nương đã đặng và thâu phục được vua tôi Triệu vương rồi nữa.
Quân chánh tý xem thấy cả mừng vào tâu lại cho Tuyên vương hay. Tuyên vương lòng mừng khấp khởi như người tỉnh giấc chiêm bao, bèn lật đật truyền văn võ bá quan đồng hộ giá ra cửa thành đón tiếp.
Khi đã đi tới nới, Chung hậu quỳ xuống tiếp giá. Tuyên vương cầm tay đỡ dậy và nói rằng:
- Ngư thê ôi! Vì trẫm chẳng nghe lời can gián nên làm cho dấy động đao binh, như ngự thê quyết chẳng thương tình thời cô gia cũng đành nhắm mắt.
Nói rồi rơi lụy dầm dề. Chung hậu thấy hình dung Tuyên vương mình hạc xương mai thì cũng động lòng tâu rằng:
- Xin chúa thượng thứ tha cho thần thiếp. Vì thiếp vô tình không trở về mau mà cứu giá để cho long thể hao mòn, đạo thân nữ đã cam lỗi đạo.
Nói rồi vợ chồng dắt nhau vào thành, thẳng tới Hồi long điện, bá quan cùng Triệu vương lục đục theo sau. Tuyên vương và Chung hậu vào ngồi nơi long tọa, đợi văn võ bá quan triều bái xong, Chung hậu mới thuật lại sự đã tới Hàng Đan, bắt vợ chồng Triệu vương về cho Tuyên vương nghe. Kế đó truyền lệnh Điền Côn dẫn vào hai cái tù xa tới trước sân chầu. Chung hậu chỉ mà nói rằng:
- Xin chúa thượng hãy xem xét lại cho kỹ. Những người ở trong tù xa đó có phải là quốc trượng và nhạc mẫu của chúa thượng hay không.
Tuyên vương cũng biết Chung hậu làm nhục mình, bèn làm thinh không nói. Chung hậu lại truyền quân tháo tù xa cho vua tôi Triệu vương ra, hai vợ chồng Triệu vương, Lạn Tương Như, Lý phu nhân và Liêm Thoại Hoa tới trước long điện quỳ lạy tạ ơn. Chung hậu bước xuống đỡ dậy, bắt tay mời ngồi. Tuyên vương thì ngồi với Triệu vương, Chung hậu ngồi ngang với Qua hậu mà nói chuyện.
Giây lâu tiệc rượu dâng lên, đồng ăn uống vui vầy, Chung hậu khi ấy mới nói rằng:
- Ai gia cam chịu lỗi, làm nhục tới Lưu bang, từ rày hai nước giao hoan Tề với Triệu như con một mẹ.
Triệu vương đáp rằng:
- Hạ bang cam chịu tội. Từ đây hai nước giảng hòa, ba năm tấn cống một lần, xin tôn Tề làm thượng quốc.
Chung hậu lại kêu Liêm Pha mà nói:
-Liêm nguyên nhung! Nay ai gia có một chuyện không biết vợ chồng tướng quân có bằng lòng không?
Nói rồi bèn khiến Điền Côn châm ba chung ngự tửu tới dâng cho Liêm Pha. Lại dâng thêm ba chung nữa dâng cho Lý phu nhân. Hai vợ chồng tiếp lấy tạ ơn rồi cứ ngồi theo ngôi thứ. Chung hậu nói:
- Vì vương nhi là một anh hùng cái thế mà lương duyên chưa định chỗ nào. Ai gia muốn cho Điền Côn với Liêm Thoại Hoa kết tóc trăm năm cang lệ.
Hai vợ chồng Liêm Pha nghe nói đứng dậy tâu rằng:
- Trên quốc mẫu đã có lòng thương tôi, dưới ngu thần đâu dám chối từ. Ấy là: Duyên cát đằng thuận nẻo gió đưa, khiến hai họ xe tơ Tần Tấn.
Lúc đó Điền Côn với Liêm Thoại Hoa ngó nhau mắc cỡ sượng trân nhưng không dám kiếu từ, cực chẳng đã phải ngồi dự tiệc.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
-
Hồi Thứ Bốn Mươi Ba - CHUNG HẬU ĐỔI LỐT TRONG CUNG
CHUNG HẬU ĐỔI LỐT TRONG CUNG
TRƯƠNG PHI VONG THÂN TRƯỚC ĐIỆN
Khi vua tôi hai nước yến ẩm vui say, kế đâu mặt trời đã xế về tây. Yến thừa tướng đánh tay toán quẻ thì biết nương nương với thiên tử có ba đêm an ái, nên bước ra tâu rằng:
- Mặt trời đã gác núi, tiệc rượu cũng đã mãn rồi, chúng tôi phải từ lui, xin thánh hoàng định đoạt.
Tuyên vương nhậm tâu, lại truyền cho Yến Anh rước vợ chồng Triệu vương và văn võ bá quan tới nơi hành dinh yên nghỉ.
Nói về Tuyên vương bị vây trong Đàm thành tới nay đã hơn ba tháng, lửa dục phừng phừng mùi xuân vắng vẻ, cung nga thế nữ chẳng thấy một người, đương lúc rượu say mơ màng giấc điệp. Còn Chung hậu ra sau hoa viên ngoạn kiểng, thấy bóng trăng thêm động lòng, chữ vợ chồng đồng tịch đồng sàng, chín thu chẳng chút tình ân ái. Suy đi nghĩ lại thêm tủi phận mình, nếu không công trận với triều đình thì thiên tử cũng thị mình như hành khách, niềm tâm sự biết cùng ai biện bạch, oán khí xung thấu tới từng mây. Đương khi Lê San thánh mẫu ngồi trên liên đài, thấy oán khí liền đánh tay rõ biết cũng vì Tề vương ác nghiệt, hiềm Chung nương nương diện mạo xấu xí nên vợ chồng loan phụng chẳng hòa, khiến cho gã ưu sầu oán trách. Nghĩ rồi bèn đòi Nguyệt lão thần tới bảo rằng:
- Ta phiền tinh quân đem cái dạ dung xoa này đằng vân tới Đàm thành mà làm như vầy... như vầy...
Nguyệt lão vưng lệnh, đằng vân tới Đàm thành. Vừa khi Chung hậu ngồi dưới bóng trăng xem hoa đua nở, bỗng thấy một đám tường vân chớn chỡ, giữa không trung bay xuống một tờ giản thiếp rõ ràng, Chung nương nương lượm lấy vội vàng thấy có mấy câu thi như vầy:
Ta là thần nguyệt lão, vâng thánh chỉ tới đây,
Đưa bửu xoa cho mượn, múa hát lại vui say.
Ba đêm đều đổi lốt, loan phụng thảo sum vầy,
Long thai trời cho sẵn, mai sau trổ anh tài.
Khi Chung hậu coi hết bài thơ bèn quỳ xuống lạy tạ ơn. Nguyệt lão tức thì sa xuống giữa hoa viên, đưa cho Chung hậu một đôi bông dạ dung với hai cái ly bằng ngọc và dặn rằng:
- Ta vâng lệnh Lê San thánh mẫu đưa tiên bửu xuống cho tinh quân. Đôi bông này ban đêm thì giắt vào trong mái tóc, ban ngày thì cất nó đi, hình dung biến đổi tức thì, chắng khác chi tiên quảng hàn giáng thế. Còn cặp ly này cũng là vật quý, hễ để lên bàn thì đu đồ hải vị sơn trân, lại thêm thế nữ ca xang múa hát, cuộc yên lạc vầy đoàn giai ngẫu.
Chung hậu tiếp lấy tạ ơn rồi nguyệt lão đằng vân bay mất.
Khi đó Chung hậu làm y như phép, bước vào cung, để cặp ly lên trên bàn, bèn thấy tám thế nữ ca xang, hổ tiên nhạc du dương inh ỏi. Tuyên vương giật mình thức dậy, bước vào nơi hậu cung, thấy Chung hậu còn ngồi trên ghế, hình dung tươi tốt, diện mạo khác xưa, mày liễu má đào, hoa nhường nguyệt thẹn, lại có cung nga thế nữ dâng rượu, đàn ca, hai hàng múa hát tưng bừng inh ỏi. Tuyên vương thấy vậy lòng mình phơi phới, hẳn khác như trời đại hạn mà gặp mưa rào, thỏa tình khuya sớm ước ao, ấp mận ôm đào gác nguyệt.
Lúc này Tuyên vương rượu đã xoàng xoàng, bèn nắm tay Chung hậu dắt vào trong loan cung, chúng thể nữ xem thấy đi mất hết. Chung hậu mới tâu rằng:
- Chỗ này chẳng phải Chiêu Dương điện, vợ chồng ân ái không nên, và lại thần thiếp diện mạo xấu xì, sao cho bằng Trương Thúy Vân với Yến Bình công chúa.
Tuyên vương nói:
- Ngự thê đừng chấp nhứt, cô gia đã biết rồi, ngàn vàng không chuộc một lời, thất tịch đã thành giai hội.
Chung hậu cũng không phương từ chối, dắt tay nhau bước tới màn loan. Hải đường mừng đặng mưa xuân, ân vũ lộ đã thỏa tình thần nữ. Vui dài đêm vắn, trời đã hừng đông, Tuyên vương sửa soạn lâm trào còn Chung hậu giấu hết những đồ tiên báu.
Khi Tuyên vương lâm điện, văn võ triều bái xong, Chung hậu cũng ra ngự chánh. Tuyên vương ngó thấy Chung hậu hình dung chẳng khác xưa, mới nghĩ thầm rằng: Ngự thê hồi hôm sao chẳng khác bồng lai tiên nữ, bây giờ như Thập Diện dạ xoa, hay là đương khi mình say rượu ngà ngà, con mắt ngó chớp lòa chẳng thấy. Kế đó vợ chồng Triệu vương, Lạn Tương Như, và Liêm Pha tới triều kiến. Chung hậu phân ngôi tân chủ mời ngồi rồi truyền quan dọn yến tiệc thiết đãi. Rượu đặng vài tuần, Chung hậu nói với Triệu vương rằng:
- Nay ai gia tha cho ba năm tấn cống, trở về sửa sang trị nước nhà. Từ đây Tề, Triệu giao hòa nghĩ thuần xỉ tình sui gia hai nước.
Triệu vuơng cảm tạ. Chung hậu lại kêu Liêm Pha nói rằng:
- Vợ chồng tướng quân phò giá hồi quốc, phải hết lòng ngay mà tá trợ quốc quân, đồ trân châu này ta để làm tin, ấy vật mọn dùng làm sính lễ.
Hai vợ chồng Liêm Pha nhận lấy báu vật giao hết cho gia tướng cắt đặt hẳn hòi. Chung hậu lại kêu Điền Côn dặn rằng:
- Vương nhi phải theo Liêm nguyên soái tới Hàng Đan lựa ngày lành thành thân, dây cát đằng vương cấn tình ân, duyên túc thế Châu, Trần hai họ.
Điền Côn cúi đầu lạy tạ. Tiệc vừa tàn thì cũng đã hoàng hôn, vua tôi Triệu vương từ giã bá quan trở lui về nước. Còn Tuyên vương lui vào Hồi long điện, Chung hậu nhập hậu cung, nhớ lời nguyệt lão tơ hồng cho vợ chồng ba đêm ân ái, mới đem dạ dung xoa gắn lên mái tóc và lấy hai cái ly ngọc để trên bàn, thấy tám thể nữ ca xang cùng đủ mọi đồ yến tiệc. Khi ấy Tuyên vương nghe tiếng đờn ca xuớng hát lại lò mò đi tới hậu cung, thấy nương nương lịch sự vô cùng, cũng chẳng khác tiên bồng giáng thế. Chung hậu xem thấy rước mời nơi long ỷ, bọn cung nga dâng rượu vài tuần. Tuyên vương uống đã say mèm, rồi vợ chồng dắt nhau vào phụng trướng, cuộc hành lạc vẫy vùng phỉ chí, chữ phong lưu một giấc thừa hoan, Tề triều cơ nghiệp giang san, tinh tú đã ứng vào mộng mị.
Đây nói về một ngày nhằm tiết lương thần, chư vị tinh quân về chầu Ngọc Đế. Sau khi triều bái xong, Ngọc Hoàng mới phán rằng:
- Thái Bạch kim tinh! Nay ta sai ngươi xuống hạ giới đầu thai làm con của Mao Đoan tinh, tới Hoài Nam phủ mới sinh, bỏ giữa đất không ai nuôi nấng, người dân dã đem về cấp dưỡng, ngự úy gọi là Điền Đơn, đợi đến hội Tương giang trận thượng cứu nạn, mười hai tuổi mẹ con mới đặng gặp.
Ngọc Đế phán rồi lại sai Thổ địa thần đi dẫn lộ, hai vị đều từ tạ lui ra, đằng vân bay tới Đàm thành trong giây lát.
Khi ấy Chung hậu còn đang giấc điệp mơ màng, bỗng thấy có một người tới nói rằng:
- Ta là Thổ địa thần đưa tinh quân xuống làm thái tử đông cung. Nưong nương tua khác bằng lòng, bổn phận phải về trời phục chỉ.
Nói rồi biến mất, kế nghe trống điểm canh năm. Chung hậu giật mình thức dậy thì trời đã sáng, vội vàng đem giấu đôi bông dạ dung, kêu Tuyên vương dậy lâm trào thị chánh. Kế thấy văn võ bá quan thảy đều đến chầu đủ mặt. Yến Anh liền bước ra tâu rằng:
- Mừng thánh thượng muộn năm khương kiết, nay giang san nối nghiệp có người. Nương nương đã ứng mộng long thai, thái tử tất sanh tài hổ phục.
Tuyên vương nói:
- Hoài thần hay bá láp, khéo kiếm chuyện cười ta, phải đánh chết lão già này, kẻo mà hay sinh sự.
Nói rồi liền truyền bãi chầu, văn võ lui về an nghỉ.
Đây nhắc lại từ khi Chung hậu giải vây đặng nhập thành tới nay đã được ba ngày, bữa nay mới sai quan khao thưởng quân sĩ và dỗ an dân thứ xong thì trời đã tối, Chung hậu lại vâng lời nguyệt lão, làm như vậy cho đủ ba đêm. Ấy là: Sắt kia vào lửa cũng mềm, huống chi kẻ tục người tiên trong đời.
Rạng ngày sau, Chung hậu tâu với Tuyên vương rằng:
- Nay tai nạn của bệ hạ đã hết rồi, vậy xin ngự giá hồi triều, ngõ hầu sửa sang chánh nước.
Tuyên vương nhậm tấu, liền truyền cho Điền Năng sửa sang nghi vệ mà hộ giá trở về Lâm Tri, lại đòi quan huyện ở Đàm thành tới gia thăng tam cấp, còn bá tánh tha thuế một năm, như ai có hư cửa hại nhà, cấp thêm cho tiền bạc. Phân phát xong, bắn ba tiếng pháo, vợ chồng lên xe, bá quan đều theo hộ giá trở về Lâm Tri.
Đây nhắc lại nhiếp chánh lão vương là Điền Dưỡng đương lúc lâm triều có quan huỳnh môn vào tâu rằng:
- Quân sư làm kế khổ nhục, tới Thường Sơn cầu viện Chung nương nương, người hiệp với Đông lộ vương kéo binh về Đàm thành đã thâu phục được Triệu vương. Nay đã ban sư trở về nước, cách Lâm Tri chẳng có bao xa, xin tâu với vương gia ngõ hầu xuất thành nghinh tiếp.
Điền Dưỡng cả mừng, liền truyền cho văn võ triều thân ra khỏi thành tiếp rước. Khi đã tới nơi, Điền Dưỡng quỳ xuống bên đường, Tuyên vương nổi giận mắng rằng:
- Lão già kia! Quả nhân có cừu hận gì với ngươi mà ngươi chỉ cho Liêm Pha đến đánh thành vây khốn? Đao phủ quân đâu? Bắt lão già ra chém đầu cho biết mặt.
Quân đao phủ vâng lệnh áp lại trói Điền Dưỡng mà dẫn đi. Yến Anh lật đật chạy tới tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Sự ấy chẳng phải tự lão vương gia. Vì lúc bệ hạ thấy điềm chiêm bao thì ngu thần đã biết có Triệu binh tới đánh, bởi vậy ngu thần mới tâu bệ hạ tới Đàm thành mà tị nạn trăm ngày. Ngu thần có viết tờ cẩm nang lưu lại, bảo lão vương gia y theo mật kế, ấy là tai nạn của bệ hạ chứ chẳng phải lỗi nơi ai. Khi Triệu vương dẫn công chúa Yên Bình, nhu thần đã đôi ba lần can gián.
Tuyên vương nhớ lại sự mình làm quấy, liền truyền quân mở trói cho lão vương, rồi hai chú cháu trò chuyện với nhau đi thẳng về Lâm Tri báu điện.
Khi vợ chồng Tuyên vương về tới ngự nơi Kim Loan điện, văn võ triều thần và tam cung lục viện, thảy đều tới triều kiến thiên tử cùng Chung nương nương. Tây cung là Trương phi cũng tới triều bái. Khi ấy Chung hậu ngó thấy mặt Trương phi, bụng sôi sục sục, mặt đỏ phừng phừng, đứng dậy níu long bào của Tuyên vương mà nói rằng:
- Thiên tử! Đàm thành bị khốn, ai gia thâu phục Liêm Pha, nay đà an nước an nhà, sự cừu hận bỏ qua không đặng. Muôn tâu thiên tử! Vậy chớ lửa đốt lãnh cung hôm nọ, chủ mưu bởi tại nơi ai? Xin thiên tử tỏ thiệt tên người, giao cho văn võ liệu bài công đoán.
Tuyên vương nghẹn họng, không biết tính lẽ nào, giây lâu mới nói:
- Ngự thê ơi, việc đã lâu ngà, trẫm không còn nhớ.
Chung hậu lại hỏi Yến Anh rằng:
- Quân sư là một người toán quẻ rất hay, vậy có biết ai không xin hãy nói.
Yến Anh quỳ tâu:
- Chuyện phóng hỏa lãnh cung hỏi nơi thiên tử, ngu thần dầu biết cũng không dám tỏ bày.
Chung hậu nổi nóng chỉ mặt Trương phi nói rằng:
- Mày là đồ nghiệt súc! Sao dám mưu toan ám hại ai gia. Đao phủ hãy bắt nó cho ta, mau phân thây thành muôn đoạn.
Yến Anh khi ấy bước lại tâu rằng:
- Xin nương nương bớt giận, sự đó cũng đã lâu rồi, xin nhậm lời ngu thần sở tấu, đánh đòn Trương phi cũng đủ còn sự chém xin dung.
Chung hậu y lời, liền truyền cho quân ngự lâm đè Trương phi xuống giữa sân chầu mà đánh bốn chục roi, máu chảy dầm dề, rên la inh ỏi. Không dè lúc ấy Trương phi đã tới số, thở ra một tiếng mà đi xuôi. Yến Anh lật đật quỳ xuống tâu bày:
- Tây cung hồn đã về chín suối.
Tuyên vương nghe nói té xỉu xuống ngai rồng. Văn võ bá quan kêu cứu giây lâu mới tỉnh, bèn thở ra thở vào lụy tuôn rơi lai láng! Rồi chỉ mặt Chung hậu mà mắng rằng:
- Mày là loài ác nghiệt, dám khi dễ phép triều đình. Nay Tây cung đến triều kiến quả nhân, mày lại đến khiến đánh người bỏ mạng. Trị điện tướng quân đâu? Bắt con xủ phụ trói lại lập tức.
Quân ngự lâm vừa muốn động thủ, Chung hậu cầm Định tề đao hươi lên tâu rằng:
- Thần thiếp chẳng phải đành lòng phi nghĩa, tại Trương phi ở dạ bất nhân, như hôm trung thu đem lửa lại đốt lãnh cung, nếu nhằm người khác sao toàn tánh mạng. Tới nay chúa thượng Đàm thành bị nạn, lấy ai cứu giá về đây? Thánh hoàng chẳng suy xét gian nguy, thần hậu cũng cam lòng phản quốc.
Nói rồi cầm đao đi thẳng ra Ngọ môn. Yến Anh lật đật quỳ xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Xin suy đi xét lại, nếu Chung hậu đem lòng tạo phản thì Tề quốc thuộc về tay người.Thánh hoàng nếu chẳng nghe lời, xin chém ngu thần trước mới đành dạ.
Tuyên vương nói:
- Tiên sinh ôi! Một tay con xủ phụ giết chết ba người, bây giờ trong tam cung lục viện không ai, khiến trẫm những đêm ngày phiền muộn.
Yến Anh nghe vua đòi vợ gấp, túng thế phải tâu bừa rằng:
- Tôi hồi hôm xem thiên tượng thấy Trương phi đã tới ngày tận số. Nay có một sao Thủy tinh sáng ngời, ắt có kẻ hơn người tài sắc. Nay thánh thượng trất lương Chung hậu, rồi sai người đi kén mỹ nhân, ấy là kế vẹn toàn mà an nước lợi nhà.
Tuyên vương cả đẹp, liền hối Yến Anh chạy theo ra Ngọ môn mà thỉnh Chung hậu trở vào. Tuyên vương mới phán rằng:
- Nay cô gia tha tội, phải phạt bổng ngự thê ba năm.
Chung hậu cúi đầu vâng chịu, rồi đi thẳng về Chiêu Dương cung. Kế đó, Tuyên vương sai quan Lễ bộ tẩn liệm thi hài Trương phi liệu bề an táng.Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:
Comment
Comment