Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Thuyết đường

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thuyết đường

    Hồi 1
    Nghe trẻ hát, Tùy Văn Đế truất Đông Cung
    Nhận Đô Đầu, Tần Thúc Bảo tìm ngựa quý

    Truyện nhà Chu.
    Khi đó nhà Chu nước mạnh, dân giàu, Bắc Tề Tây Ngụy khởi nghịch ngoài bờ cõi. Chu chủ sai đại tướng Dương Chung làm Nguyên soái con là Dương Lâm làm Tổng quân, cử sáu mươi vạn binh chinh phạt Bắc Tề, Tây Ngụy.
    Dương Lâm mặt như nhồi phấn, người cao chín thước, quen dùng đôi long bổng nặng ba trăm cân, sức mạnh như sư tử.
    Đại binh nhà Chu đánh dẹp Bắc Tề có trong vòng nửa tháng đã toàn thắng chiếm giữ hết các thành trì. Dương Chung cho yết bảng an dân rồi kéo quân về phục mạng Chu chúa. Chu chúa cả mừng phong cho Dương Chung làm Tùy Công, cai quản nước Tùy để thống nhất giang sơn từ đó, lại phong Quang Lâm làm Đại nguyên soái chỉ huy cả mười vạn quân binh bộ.
    Dương Chung có một con trai là Dương Kiên, mắt sáng như sao bàn tay có ba chữ Nghiễm Thanh vương. Vợ chồng Dương Chung mừng rằng con trai là bậc phi thường. Dương Chung chết. Người con đó là Dương Kiên lên nối tước, là Tùy Công. Chu chủ thấy Dương Kiên tướng mạo khác thường, có ý nghi. Dương Kiên biết vậy, đem ngay con gái gả cho Thái tử để xóa lòng nghi kỵ của Chu chủ.
    Ít lâu sau, Chu chủ băng hà Thái tử thì nhu nhược. Dương Kiên mượn sức chú là Dương Lâm truất bỏ Thái tử đoạt lấy giang sơn nhà Chu, lên ngôi Hoàng đế, cải hiệu là Đại Tùy.
    Dương Kiên tự xưng là Tùy Văn Đế, dựng con trưởng là Dương Dũng làm Thái tử, con thứ làm Tấn Vương, lại phong Quang Lâm làm Cao Sơn vương phong Cô thị làm Hoàng hậu. Tùy Văn Đế hết sức sửa sang việc triều chính, văn thần có Kỳ Đức Lân, Cao Đĩnh, Tô Úy. Võ ban có Dương Tố, Lý Quốc Thiên, Hạ Nhược Bật, Hàn Cầm Hổ, vua tôi cùng mưu tính sự thâu đoạt Nam Trần.
    Đây hãy kể. Trần hậu Chúa thông minh tuyệt bậc. Chỉ vì đa tửu sắc, ngày đêm say đắm hai mỹ nhân là Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Lân. Lại thêm hai kẻ quyền gian là Khổng Mạnh, Giang Thông luôn luôn xiểm nịnh lôi kéo Trần Hậu Chúa vào vòng đọa lạc dâm ô, tiếng xấu đồn đại đi các nước.
    Nhân cơ hội đó, Tùy Đế cùng Dương Tố thương nghị, cử đại binh đánh Trần. Con thứ là Dương Quảng tức Tấn Vương dầu không quen việc chiến trận nhưng cũng cứ muốn lĩnh binh mã đánh Trần là vì thấy Thái tử Dương Dũng nhu nhược nên Quảng có ý đoạt ngôi của anh.
    Quảng tâu :
    - Chúa Trần hoang dâm vô đạo, không đáng giữ giang sơn, con xin đi chinh phạt.
    Vừa lúc ấy có tin báo :
    - La Nghệ đã đem binh đến đánh Ký Châu.
    Nghe tin Tùy Đế sai Dương Lân đem binh đi cứu giữ Ký Châu.
    Đoạn, lại Sai Tấn Vương làm Đô nguyên soái Dương Tố làm Phó nguyên soái, Trương Đĩnh Cao Mã làm trương sử tư mã. Cầm Hổ, Nhược Bật làm tiên phong đem hai mươi vạn binh đi đánh Trần.
    Tần Vương phục mệnh, thống lĩnh tướng sĩ đi như thác.
    Quan trấn ải nước Tần thấy dại binh Tùy kéo đến vội dâng sớ về triều cáo cấp. Nhưng Giang Thông, Khổng Mạnh lại dìm giấu sớ đi, vì vậy binh Tùy thừa thế kéo đến Quảng Nam, qua luôn Thái Thạch.
    Tướng giữ Thái Thạch là Từ Tư Kiện thấy quân mã Tùy uy dũng quá, kinh sợ, bỏ thành mà chạy.
    Khi đó Trần Hậu Chúa đang ôm gái đẹp trong tay, không biết giặc dã như sóng bể tràn ngập cả nội địa rồi. Ba ngày sau nghe tin khẩn cấp, vội giụi mắt ra triều sai hai tướng là Tiêu Mã Kha và Nhân Trung kéo quân ra chống giữ.
    Hai bên dàn trận thế. Tướng Trần là Tiêu Mã Kha thúc ngụa múa đao ra đánh. Tướng Tùy là Hạ Nhược Bật đánh chừng năm mươi hiệp rồi thét to một tiếng đâm Tiêu Mã Kha nhào xuống ngựa chết ngay.
    Quân Trần mất tướng chạy xô nhau mà chết. Nhân Trung biết một mình không đương nổi quân Tùy cũng bỏ chạy về xin chịu tội.
    Trần Hậu Chủ không quở trách nói :
    - Đất nước ta vượng khí đế vương, binh Tùy dẫu dũng mãnh cũng không làm gì ta nổi!
    Rồi lại cho Nhân Trung vàng bạc để lấy lòng rồi sai Trung ra đánh nữa. Trung lo lắng lắm, bất đắc dĩ phải mở cửa thành ra quân. Gặp ngay tướng Tùy là Hàn Cầm kéo đến. Trung sợ sệt, xuống ngựa, ném giáo đầu hàng. Trung muốn lập công, hướng dẫn binh Tùy vào lấy thành.
    Dân chúng thấy giặc vào nhớn nhác, kêu khóc vang trời đất. Vậy mà ngao ngán thay, Trần Hậu Chúa ngồi ôm gái đẹp mà chờ tin thắng trận! Cho tới lúc quân reo ngựa hí vang ầm lên, hôn quân mới cuống cuồng, lật bật quẳng mũ, ôm đầu chạy trốn.
    Quan Bốc sạ là Trương Hiền chạy vào nói :
    - Xin Chúa Công cứ đội mũ, mặc giáp ngồi yên ở trên ngai.
    Trần Chủ hoảng hốt nói :
    - Giặc đông như ong vỡ tổ, sao bảo ta ngồi cho chúng giết?
    Nói rồi hai tay dắt hai mỹ nhân, chạy đến bên giếng Cảnh Dương.
    Thốt nhiên tiếng quân reo lửa cháy rực tròi. Trần Chủ bay hồn hoảng vía dắt người yêu nhảy xuống giếng sâu. May mà tiết đông nước chỉ ngang đầu gối nên chưa đến nỗi xuống suối vàng!
    Binh Tùy tìm kiếm hôn quân, không thấy, bắt cung nhân ra hỏi.
    Chúng chỉ ra giếng Cảnh Dương. Quân Tùy kéo ồ ra bờ giếng nhìn xuống chỉ thấy sâu như địa ngục, chúng gọi không thấy ai thưa bèn hô nhau lấy đá ném xuống.
    Khi đó, Trần mới kêu lạy, và xin dòng thừng xuống cho lên. Chúng cho thừng xuống kéo hôn quân và hai mỹ nữ lên.
    Trần Chúa lên tới mặt đất, sụp xuống lạy tướng sĩ nhà Tùy.
    Hàn Nhược Bật phì cười sai giam Trần Chúa vào một nơi canh giữ rất cẩn mật. Tấn vương tới sau, mừng lắm, truyền chiêu an bách tính.
    Sau đó Tấn vương sai Cao Đức Hoàng đi bắt hai mỹ nhân đem vào nội cung dùng.
    Cao Đĩnh nói :
    - Tấn vương làm Nguyên soái đề binh đi đánh kẻ dâm ô sao bây giờ cũng lại dùng nữ sắc, e rằng lòng dân không phục, lòng quân không kính.
    Đoạn có ý không muốn cho con đi bắt.
    Lý Uyên nói :
    Lệ Hoa, Quý Tần là loài quỷ nữ làm mê đắm vua Trần. Nước mất, ngai đổ, thành tan vì hai đứa ấy, ta nên giết ngay đi.
    Cao Đĩnh khen phải. Con là Cao Đức Hoàng nói :
    - Tấn vương đang cầm binh mã, ta chống cự sẽ bất lợi cho ta chăng?
    Lý Uyên đã quyết, bèn truyền quân sĩ giải hai người con gái đến, chém ngay.
    Tấn vương cự Cao Đức Hoàng :
    - Sao cha con ngươi để cho Lý Uyên giết mỹ nhân?
    Rồi từ đó mang hiềm thù đối với Lý Uyên.
    Đây cần nói qua về Lý Uyên. Khởi dầu, Uyên dấy binh tại Thái Nguyên, tự xưng là Đường Châu. Khi ra trận, bắn bảy mươi hai phát tên chết bảy mươi hai tướng, tiếng tăm vang dậy cả bốn phương.
    Sau khi mất mỹ nhân Tấn vương giận Uyên lắm...
    Uyên truyền chém Khổng Mạnh cho yên lòng dân đoạn kéo binh về triều.
    Thấy Tấn vương toàn thắng ca khúc khải hoàn. Tùy đế cả mừng, phong cho Tấn vương làm Thái úy, phong Dương Tố làm Việt Quốc công, con là Dương Cẩm làm khai phong. Hà Nhược Bật làm Tống công, Cao Đĩnh làm Tề công, Lý Uyên làm Đường công.
    Uy quyền của Tấn vương từ đó mỗi ngày một lớn. Dưới trướng, mưu sĩ kéo nhau đến rất nhiều. Trong số đó, Tấn vương trọng dụng nhất một người là Vũ Văn Thuật, tự là Tiêu Trần Bình. Tấn vương đã nhắc Thuật lên làm thứ sử, cạnh Thuật lại có Trương Hành để ngày đêm bàn mưu tính kế. Sau này con Thuật là Hóa Cập, sẽ cướp ngôi nhà Tùy, xưng là Hứa vương.
    Tấn vương coi mấy kẻ đó là tâm phúc để cùng mưu đoạt lấy Đông Cung, Thuật bàn :
    - Nếu Chúa công muốn mưu việc ấy, tất phải theo ba kế hoạch ngay mới xong.
    Vương vội hỏi :
    - Kế thế nào, túc hạ nói ta nghe.
    Thuật ung dung nói :
    - Điếu thứ nhất: Hoàng hậu không yêu gì Đông Cung. Chúa công nên đùng kế khổ nhục, khi làm cho hoàng hậu động lòng thương xót đến Đông Cung, khi chọc tức cho hoàng hậu giết Đông Cung.
    Điều thứ hai: nên cần một đại thần thân tín nói cho thuận tai hoàng thượng, thỉnh thoảng lại gièm pha thêm vào, trong ngoài cùng đánh ập lại, muôn phần phải thắng.
    Điếu thứ ba: tự nhiên truất bỏ Đông Cung là việc lớn. Có tội mà bỏ mới khỏi nghịch lòng dân, Chúa công sẽ mua chuộc một kẻ thân cận của Đông Cung, xui nó đem chuyện phao ra ngoài mà chỉ ra chứng cớ đương nhiên, khiến Đông Cung không cãi được. Làm được ba điều ấy, lo gì kế không thành? Nhưng Chúa công chớ tiếc bạc vàng mới xong.
    Tấn vương khen kế hay, hứa sẽ cho Thuật cùng hưởng phú quý.
    Vương dùng ngay vàng bạc trong triều mua lũ tham quan, trong điện mua lũ hoạn quan cung nữ. Duy có Đường công, tỏ ra không phục, nói :
    - Thờ chúa trị dân phải nhìn vào việc công chớ không nhận sự tư tình.
    Rồi chối từ không lấy lễ vật của Tấn vương.
    Lại có quan đại lý tư khanh, tên gọi là Dương Ước chơi thân với Vũ Văn Thuật, Thuật đến thăm Uớc dâng lễ vật của Tấn vương. Ước ngắm nhìn lễ vật hỏi :
    - Lễ vật của ai, đại huynh dạy thật cho. Tiểu đệ chưa từng thấy báu vật thế này bao giờ.
    Thuật nói :
    - Đó là của Tấn vương đưa tặng đại huynh, để phiền nhờ một việc mong đại huynh nhận cho.
    Ước nói :
    - Xin cho biết chuyện, rồi bái lĩnh sau.
    Thuật nói :
    - Đại huynh có biết mình đang ngồi trên lửa cháy không?
    Ước giật mình. Thuật nghiêm mặt nói :
    - Đại huynh phải biết rằng Đông Cung không bằng lòng lệnh huynh đã lâu. Mai kia Tấn vương lên ngôi Hoàng đế, liệu đại huynh có yên không? Hiện giờ Đông Cung ăn chơi phóng túng, hoàng thượng có lòng muốn truất bỏ. Nay nhờ đại huynh gièm hoàng thượng một câu, khi Đông Cung bị bỏ, Tấn vương được dựng lên, ơn ấy Tấn vương sẽ ghi lòng tạc dạ, anh em ta sẽ được giàu sang chẳng diễm phúc lắm sao!
    Ước nói :
    - Đại huynh nói phải. Nhưng xin cho một ngày để tôi bàn soạn với anh tôi.
    Từ cáo biệt ra về, hôm sau nữa Dương Ước đến thăm anh là Dương Tố, làm ra phiền não, Tố kinh ngạc hỏi tại sao? Ước nói :
    - Mấy bữa nay, tên hầu Đông Cung là Tô Hiến bảo rằng: Thái tử có ý giận huynh trưởng lắm. Thái tử có nói ra miệng sẽ tìm cách giết anh.
    Tôi lo cho phận anh mà mấy đêm nay bỏ ăn, mất ngủ!
    Tố cười nhạt nói :
    - Ta có làm gì cho Đông Cung mếch lòng đâu. Ta không sợ, kẻ xấu miệng gièm pha đó thôi!
    Uớc nói :
    - Đó là Sự thật. Anh ngồi nhà không nghe thiên hạ đã bàn ran thành. Một mai, Thái tử lên ngôi, tôi lo anh không có chỗ mà đội mũ.
    Tố nói :
    - Ý em muốn ta từ bỏ đi lánh nạn, hay là hùa theo hắn?
    Ước cười :
    - Bỏ chức mà đi là hèn. Theo đứa trẻ con ấy là bất trí. Chi bằng nhổ ngay cái gai ấy đi cho khỏi chướng. Anh nghĩ thế nào?
    Tố vỗ tay cười mà rằng :
    - Em nghĩ ra kế ấy, may cho ta lắm.
    Rồi lại nghiêm mặt nói :
    - Việc ấy phải làm ngay, nếu chậm trễ Thái tử lên ngôi vua, vạ sẽ đến như lửa cháy cả bốn bể, chạy đi dâu cho thoát?
    Tố gật đầu khen phải.
    Từ đó, ngày ngày Dương Tố cố ý theo sát bên Tùy đế, sự tốt của Tấn vương, sự xấu của Đông Cung thái tử. Tùy đế tin yêu Dương Tố, không ngờ một câu nào. Hoàng hậu cho Tấn vương là hiếu lễ, đem lòng ghét Đông Cung. Vì vậy Đông Cung như ngồi trên gai lửa.
    Thuật lại dò biết Thái tử có một tên hầu cận rất thân tín, tên gọi là Cơ Thích, cùng Đoàn Đạt chơi thân với nhau. Thuật bèn dùng vàng nhờ Đoàn Đạt mua chuộc lòng Cơ Thích để rình tội lỗi của Đông Cung. Do đấy mà Thái tử phút chốc trở nên cái bia chịu đạn tên bắn mãi vào không còn cách nào che đỡ nữa.
    Nhắc lại chuyện Cô Sơn vương là Dương Lâm đem năm vạn quân thẳng tới Ký Châu đánh La Nghệ. La Nghệ, hiệu Liêm An là con Doãn Cương Bắc Tề. Doãn Cương phong cho Nghệ trấn giữ Yên Sơn. La Doãn Cương mất sớm, La Nghệ hãy còn ít tuổi nối chức Yên công. Vợ Nghệ là Dậu thị, con gái quan thân quân tên gọi Tần Húc. Vợ chồng lấy nhau đã hai mươi năm mà chưa con.
    Vợ chồng La nghệ được tin Tần Húc bị Dương Lâm vây khốn mà tử trận thì ngày đêm than khóc! Sau đó lại nghe tin Dương Kiên cướp ngôi giết chúa Trần. La Nghệ liền cất đại binh trả oán.
    Mười vạn quân của Nghệ nến vào Hà Bắc và Ký Châu. Tùy Đế sai Dương Lâm cử năm vạn quân mã chống đánh.
    Đại tướng tiên phong của Dương Lâm là Từ Thái Bảo Trương Khai và Thái Thất Bảo Kỷ Tăng, được tin báo quân La Nghệ chặn đường Trương Khai xông ra, thấy La Nghệ mặt tía, râu dài, mắt sáng, biết là La Nghệ, bèn múa sà mâu đánh. Nghệ múa thương đối địch, chừng mười hiệp Nghệ rút chiếc hoa giản đánh trúng lưng Trương Khai. Khai hộc máu tươi nằm rạp trên yên mà chết.
    Kỷ Tăng thúc ngựa cản đánh La Nghệ để Trương Khai chạy. La nghệ chờ Tăng sát tới bèn gò chặt cương thét to một tiếng tức thì ngựa quỳ hai gối trước. Tăng không biết là mắc kế liền giơ búa chém, Nghệ xốc mũi thương lên xuyên qua cổ họng Tăng. Xác Tăng nhào xuống đất máu tuôn lênh láng. Đó là ngón độc thủ của dòng danh tướng họ La, tên gọi là “Hồi mã triết độc thương”.
    La Nghệ đắc thắng quay đuổi giết quân Tùy. Vừa khi đó quân mã Dương Lâm tới, thấy Trương Khai trọng thương, Kỷ Tăng tử trận, Lâm nổi giận, hạ trại dưới chân núi Cửu Long.
    Sớm hôm sau Lâm sai dựng cờ súy, vác đại đao ra trận.
    La Nghệ thấy Dương Lâm đường đường một trang dũng tướng, bèn nói :
    - Dương Lâm kia, mày diệt Bắc Tề, cướp ngôi nhà Chu lòng ác như lang sói ta quyết trừ mày mới hả căm hờn!
    Lâm đáp :
    - Nhà Chu đã mạt, nhà Trần đã suy, nay bằng trời tựa Đại Tùy, nên chỉ một trận quét Bắc Tề, thâu đoạt cả nhà Trần, trời không cho, sao được thế?! Ngày nay cho dẫu tướng quân tài dũng cũng khó bề bại Tùy mà lấy lại Tề, Trần. Chi bằng cắp giáo theo Đại Tùy, lão phu sẽ tâu với Tùy đế để tướng quân trấn thủ Yên sơn nối đời hưởng quyền vị và phú quý, tướng quân nghĩ thế nào?
    La Nghệ suy nghĩ rồi đáp :
    - Muốn nghệ này cắp giáo theo Tùy, phải theo ba điều ước của ta.
    Lâm nói :
    - Xin cho biết.
    Nghệ rằng :
    - Ta dẫu hàng Tùy, nhưng quân mã của ta vẫn do ta sai khiến và Yên Sơn kia phải do ta giữ mãi mãi. Đó là điều thứ nhất.
    Ta dẫu hàng Tùy, nhưng không phải vào chầu, đó là điều thứ hai.
    Ta dẫu hàng Tùy nhưng quyền sinh sát trong ba quân đều do ta quyết định. Đó là điều thứ ba.
    Lâm cười nói :
    - Ba diều ấy rất dễ theo. Tướng quân cứ tin ở Lâm này!
    Rồi đó truyền lui binh mười dặm. Thấy Lâm thành thực, Nghệ cũng lui quân, hôm sau hẹn cùng nhau gặp gỡ.
    La Nghệ cùng Dương Lâm sóng ngựa vào thành Yên Sơn. Đoạn Lâm dâng sớ về Tràng An xin cho La Nghệ trấn thủ Yên Sơn.
    Ba ngày sau, thánh chỉ ban cho La Nghệ trấn thủ Yên Sơn đúng như sớ tấu của Dương Lâm, La nghệ sai đặt tiệc thết sứ thần là Kiến Đức và Dương Lâm. Sau đó Nghệ cùng Lâm cáo biệt. Dương Lâm và Kiến Đức kéo quân về triều. Nửa đường, nghe có giặc bể ở Đăng Châu làm loạn lên bờ cướp phá dân cư.
    Lâm nổi giận bảo Kiến Đức về triều trước dể mình đem quân đánh Đăng Châu. Nhưng Lâm chưa tới giặc bể đã kinh sợ mà chạy hết. Lâm lại đi thẳng về triều phục mệnh.
    Lại nói Tấn vương thấy mọi người đều nhận lễ của mình để cùng mưu hại Đông Cung, mà duy có Lý Uyên không chịu nhận thì có ý thù, tự hẹn, lên ngôi đế thế nào cũng giết Uyên.
    Tùy Đế thấy nhiều người nói xấu Đông Cung đã năm phần tin, sau lại nghe Hoàng hậu cũng ghét Đông Cung nốt, Tùy Đế lại thêm mười phần tin hẳn rằng Đông Cung là du đãng chơi bời.
    Một hôm, hỏi con nữ tỳ của Đông Cung tên là Cơ Thích. Nó đã được ăn vàng bạc của Tấn vương, bèn nói :
    - Bấy nay Thái tử hay đi hỏi thầy tướng số. Thầy tướng số bảo Thánh thượng còn sống lâu lắm, Thái tử xem chừng nóng muốn lên ngôi nên đã giấu sẵn dưới trướng nhiều quân mã ngày đêm luyện tập và tụ họp cùng mưu sĩ mong thoán nghịch.
    Tùy Đế giật mình, sai triệu Thái tử vào. Rồi truất Thái tử làm thường dân đuổi ra ngoài thành, lập Tấn vương làm Đông Cung. Võ Văn Thuật làm hộ vệ Đông Cung. Rồi lại nghe Dương Tố gièm pha mà chém hai kẻ hiền là Đường Linh Thần và Trịnh Văn Thắng.
    Triều thần không dám hé răng. Duy có đại phu là Viên Mâu bước ra tâu :
    - Thánh tượng bỗng dưng mà dứt tình máu mủ, bỏ trưởng lập thứ e không thuận vòi lòng trời. Lấy cớ gì mà buộc Thái tử sinh lòng thoán nghịch, đó chỉ là Dương Tố, Cơ Thích gièm pha. Nay chém nhũng kẻ ăn nói dông dài ấy cho lòng dân khỏi bất bình, thánh tượng xét cho.
    Dương Hiếu Chính cũng nói :
    - Việc dựng Thái tử là việc lớn, việc bỏ Thái tử cũng không dễ như trò trẻ con chơi, xin bệ hạ thương lấy máu mủ của mình, kẻo thiên hạ chê cười lắm.
    Tùy Đế cả giận, truyền tống giam Viên Mân, Hiếu Chính.
    Lý Uyên ở triều về nhà buồn lắm. Nửa đêm đốt nến viết biểu xin tha cho Thái tử.
    Tuỳ đế xem biểu hơi động lòng thương bèn cấp cho Thái tử lương lộc và gọi cho về ở nơi nội uyển. Tấn vương biết vậy càng căm tức Lý Uyên, triệu ngay Văn Thuật, Trương Hành vào bàn kế giết Uyên cho kỳ được.
    Trương Hành nói :
    - Giết Uyên thì dễ!
    Tấn vương vội hỏi :
    - Làm cách nào giết được?
    Hành nói :
    - Hoàng thượng có tính đa nghi. Năm xưa nằm chiêm bao thấy nước lụt ngập kinh thành hoàng thượng lo sợ lắm, sau biết con gái Thành Công là Ly Hồn, tên hiệu Hồng Nhi, hoàng thượng ngờ tên nàng hợp vào giấc mơ hồng thủy bắt thắt cổ chết. Nay ta gièm hoàng thượng chữ Hồng kìa cùng với chư Uyên này cùng thuộc về nạn nước. Hoàng thượng tất giết Uyên.
    Tấn vương khen kế hay. Trương Hành bèn đi đặt bài hát, dạy trẻ hát vang cả trong thành, ngoài chợ. Chúng hát rằng :
    Nhật nguyệt chiêu long chu Hoài hoàng thuỷ nghịch lưu Tảo Tân dương hoa lạc Thiên tử quý vô đầu.
    Có nghĩa là mặt trời mặt trăng thiếu rõi vào thuyền ngự, nước sông Hoài Hoàng chảy ngược dòng, hoa dương rụng tơi bời chỉ sự bỏ vua nhà Tùy đi (vua nhà Tùy họ Dương). Thiên tử quý vô đầu tức là muốn nói Thiên tử khác sẽ là nói họ Lý (chữ Quý không đầy là chữ Lý).
    Bài hát truyền đi khắp chợ khắp thành, vài hôm bay vào trong cung cấm Tấn vương vờ làm ra sợ hãi vào đọc bài hát đó cho Tùy Đế và hoàng hậu nghe. Lại vờ xin ngăn cấm đi kẻo dân tình xôn xao bàn tán.
    Tùy Đế sinh lo sợ, nhưng trong lòng chỉ nghi bọn Lý Hồn chứ không ngờ đến Lý Uyên. Rồi không cần ai can gián, hạ chỉ bắt ngay cả năm mươi hai người nhà Lý Hồn đem ra chợ chém.
    Sau đó bọn Trương Hành lại xiểm vua cho chém hết người nào họ Lý cho tuyệt hoạ. Thừa tướng Cao Tần liền tâu.
    - Nếu vây thì vận mệnh nhà Tùy cũng khó vững. Nay tự nhiên kẻ gian nịnh mọc lên như nấm, mà chúa thượng thì sinh mê hoặc, đa sát, thần lo sợ cho giang sơn này sắp ngả nghiêng. Nếu chúa thượng ghét người người họ Lý thì không cho họ làm quan nữa, để sống cho về là hơn.
    Dương Tố, kẻ có bạn thân ở trong triều là Bồ Sơn công Lý Mật. Bởi vậy Tố bênh Mật mà tán tụng ý kiến đó, vua Tuỳ cũng nghe theo. Ngay đêm hôm ấy Lý Mật bỏ quan trốn đi.
    Họ Lý làm quan đều bị đuổi về. Lý Uyên cũng dâng sớ xin về Thái Nguyên. Tấn vương chưa hả giận nói với Trương Hành.
    - Mưu nhà ngươi giỏi lắm. Nhưng chưa trừ hẳn Lý Uyên ta còn chưa nguôi lòng.
    Văn Thuật xin dâng kế: Điện hạ sai con tôi là Hóa Cập đem quân tâm phúc ra ngoài thành hai mươi dặm phục sẵn ở chân núi Lâm Đồng giả làm quân cường đạo giết cha con hắn đi là xong.
    Vương cười khen diệu kế, tự rót rượu thưởng cho Thuật.
    Thuật nói :
    - Nếu cho việc kết quả mau, điện hạ cũng thân chinh đi với con hạ thần dể cùng động thủ thì càng hay hơn nữa.
    Tấn vương ưng thuận.
    Khi đi Lý Uyên đã sai gia nhân thu xếp hành lý, rồi cùng em họ là Lý Đạo Tôn, con lớn là Lý Kiến Thành, đem năm mươi gia tướng cùng phu nhân và tiểu thư khởi hành về Thái Nguyên.
    Phu nhân đã có mang, nhưng gặp cơn nguy cấp cũng nhắm mắt đi theo chồng lánh nạn.
    Đây thuật chuyện một tay hảo hán đất Sơn Đông huyện Lịch Thành, đó là Tần Thúc Bảo. Bảo người cao, sức mạnh như hùm beo mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quanh năm thích kết nạp với hào kiệt bốn phương, người ta gọi là Tần Tiểu Mạnh Thường, ngày ngày Bảo luyện văn tập võ chỉ mong làm đại sự. Bảo quen dùng chiếc đồng giản nặng ba trăm cân.
    Vợ Bảo là Trương thị, người rất hiền. Thúc Bảo có người bạn rất thân, cũng là tay hào kiệt, tức là quan Bộ khoái đô đầu ở phủ Tế Nam tên là Phàn Hổ, hiệu Kiến Uy sức mạnh mang nổi năm trăm cân. Hai người đã cùng uống máu kết nghĩa, coi nhau như một thịt.
    Lại thêm người nưa cũng là tay hảo hán, võ nghệ phi thường, tính tình cương trực, tướng mạo đường đường, đó là Vương Dũng, tên chữ là Bá Dương.
    Ngoài hai người ấy ra, về sau này Tần Thúc Bảo lại mới thân với hai tay nghĩa sĩ nữa đó là Giả Nhuận Phủ và Liễu Châu Thần, hai người không những võ nghệ cao cường lại có tính như Thúc Bảo, thích kết nạp với người tài trong thiên hạ. Chúng kính phục Thúc Bảo vô cùng.
    Lúc đó, mất mùa giặc nổi như ong. Một hôm Thúc Bảo đang múa võ trong vườn, Phàn Hổ đến nói rằng :
    - Hiện nay trong nước không yên, quan thứ sử có treo bảng cần dũng sĩ cho làm Bộ khoái đi tuần coi cả phủ. Tôi đã tán tụng nhiều về tài vũ dũng của đại ca. Quan phủ hâm mộ lắm nhờ tiểu đệ đến triệu đại ca vào nhận chức, đại ca nghĩ thế nào?
    Thúc Bảo cười nhạt nói :
    - Ta tự xét cũng không đến nỗi yếu hèn. Họ Tần này dòng dõi tướng môn, ta chỉ mong một ngày phất cờ soái, chém đầu giặc, phá thành san núi, tỏ cái trí dũng của trượng phu. Lẽ nào lại an phận làm thằng bộ khoái, đêm đêm cắp gậy đi tuần cho hắn ngủ yên, bắt được giặc hắn nhận công, bắt được đạo tặc hắn tự do phóng xá để lấy vàng bỏ túi, mình rỏ mồ hôi mà làm cho hắn giàu sang, được công với quan thầy thành ra hữu công vô lao, làm thằng tiểu tốt! Chỉ có thằng tầm thường hạ tiện mới làm như thế, ta làm sao được!
    Phàn Hổ đứng dậy ra về.
    Hôm sau quan phủ lại hỏi việc mời Thúc Bảo ra sao.
    Hổ đã trót khoe tài Thúc Bảo với quan, đành phải đi lần nữa. Tới nơi Thúc Bảo đi vắng chỉ có Ninh phu nhân. Hổ vào làm lễ, kể việc Thúc Bảo từ chối không chịu đi làm việc quan cho phu nhân nghe. Phu nhân nói :
    - Con ta ương gàn lắm, để rồi ta bảo nó.
    Vừa lúc ấy, Thúc Bảo về, nói lớn từ ngoài cửa :
    - Mẹ chớ nghe lòi Phàn Hổ. Con dẫu chết cũng không làm việc ấy.
    Bà mẹ nói :
    - Muốn làm lớn phải làm nhỏ đã, xưa kia ông nội con xuất thân là một tên lính giữ cửa thành sau rồi làm đại nguyên nhung. Con phải nghe lòi Phàn đại ca, cần lấy đường xuất thân đã, con không được cố chấp mà làm buồn lòng mẹ đó!
    Thúc Bảo vốn hiếu thuận đành chịu vâng lời.
    Hôm sau Thúc Bảo cùng Phàn Hổ vào phủ chào quan Thứ sử Tế Nam.
    Thứ sử hỏi :
    - Tráng sĩ là Tần Quỳnh đó chăng Bảo nói :
    - Chính thị là tôi đó!
    Thứ sử nói :
    - Đã từ lâu ta nghe nói đến Tần Quỳnh là một tay hào kiệt, vẫn có lòng yêu, nay xin mời giữ chức đô đầu vì nhân dân mà cản giặc giữ sự an toàn cho người hèn yếu, đó là cái việc của nam nhi.
    Thúc Bảo vái lui ra. Phàn Hổ rủ Thúc Bảo đi kiếm chiếc ngựa tốt.
    Bèn cùng nhau đến nhà Nhuận Phủ.
    Nhuận Phủ hớn hở vái Bảo mà rằng :
    - Nghe tin mừng em chưa có lễ vật, đại huynh thứ lỗi cho.
    Bảo cười :
    - Cái chức mọn ấy, sao đã vội mừng. Chẳng qua ta vâng lời mẹ dạy đó thôi. Nay cần chiếc ngựa tốt, bán cho ta.
    Nhuận Phủ chỉ bãi cỏ bên thang có chừng bốn trăm con ngựa mới buôn về nói :
    - Tùy hai đại huynh chọn lọc cho thích ý. Ngựa Giang Đông, chẳng con nào bỏ đâu.
    Phàn Hổ và Thúc Bảo bước tới ngắm từng con. Qua hết bốn trăm rồi mà Bảo cứ lắc đầu. Bỗng có tiếng gầm to như sư tử rống rừng xanh. Bảo trừng mắt nhìn kỹ, thấy đó là chiếc ngựa sắc vàng, đứng cao tám thước lông dài xoắn như mây nhưng mà gầy trơ xương. Bảo hỏi :
    - Có cho nó ăn tử tế không mà gầy thế?
    Nhuận Phủ nói :
    - Nguyên có gã lái buôn ở Quán Tây mới đến dùng nó để tải đồ hàng. Gã không dùng nữa đệ bỏ ra ba mươi lạng mua, vỗ cho ăn mãi mà không thấy béo.
    Thúc Bảo bước đến gần. Lạ thay con ngựa đó bỗng ngẩng đầu, mở to mắt nhìn Bảo trân trân, rồi mắt đỏ hoe như gặp chủ cũ. Bảo xem chân, xét khoáy, biết ngựa hay, bảo Nhuận Phủ rằng :
    - Để tôi mua con ngựa gầy này.
    Hổ bật cười to :
    - Kén ngựa đi đánh giặc, sao lại dùng ngựa ốm?
    Bảo mỉm cười không nói. Nhuận Phủ nói :
    - Tần đại ca thích tất phải là tuấn mã, đệ xin kính biếu, ta chớ nên bàn tán!
    Đoạn sai gia nhân dọn rượu ngoài vườn hoa, dưới gốc cây hòe đại.
    Ba người cùng say. Đến lúc mặt trời lặn, Thúc Bảo trả tiền ngựa, Nhuận Phủ giãy nảy không chịu nhận, nói :
    - Vật mọn đáng giá là bao. Đệ chỉ cầu huynh một ngày kia khi chiếc ngựa này như thiên thần dưới cờ Đại súy, ngồi trên ghế võ ban tột bậc giữa triều đình, thế là cái thằng lái ngựa này được thỏa tấm lòng rồi!
    Bảo cười to :
    - Ta cũng mong được thế, cho thỏa chí bình sinh.
    Rồi, dắt ngựa lên đường. Về nuôi vỗ chừng nửa tháng, con ngựa ấy đã béo tốt, cao lớn, lông vàng óng như mật ong và lông soáy như mây nổi.
    Ai cũng khen Bảo là dòng nhà tướng, sành ngựa lắm.
    Từ ngày làm đô đầu, hễ hôm nào Thúc Bảo cầm đồng giản, nhảy lên yên đi tuần tiễu là đạo tặc, giặc giã không dám thò đầu ra. Sau chúng rủ nhau đi hết. Nhiều tráng sĩ muốn kết thân với Bảo. Suốt Sơn Đông rộng lớn, tiếng tăm Tiểu Mạnh Thường Thúc Bảo vang lừng.
    Một hôm thứ sử xét xong hai vụ án sát nhân, cần giải phạm nhân phát vãng ở phủ Lạc Châu và phủ Bình Dương, nhưng sợ dọc đường tù trốn mất nên sai Thúc Bảo và Phàn Hổ làm việc ấy.
    Phàn Hổ đưa tội nhân đi Bình Dương. Thúc Bảo đi Lạc Châu. Bảo lạy biệt mẹ, đeo hành lý lên vai, giải tội nhân ra đi. Khi đó vào độ thu tàn sang đông. Mây u ám, gió lạnh buốt, lá rừng lác đác trên đường thiên lý. Bảo và Hổ cùng đi một đường, chưa đến chỗ chia tay.
    Một bữa kia đến một trái núi cheo leo tên gọi Lâm Đồng Sơn Trên núi có ngôi đền thờ Ngũ tướng quốc. Thúc Bảo ngậm ngùi nói với Phàn Hổ rằng :
    - Ngũ Tử Tư xưa khi ở Lâm Đồng này, còn làm người dân áo vải sức mang nổi đỉnh ngàn cân. Sau làm tướng, áp chế cả chư hầu. Nay tiện qua dây ta muốn lên núi thắp hương lễ người xưa. Hiền đệ hãy đưa tội nhân ra ngoài ải Lâm Đồng chờ ta.
    Phàn Hổ vâng lời giục tội nhân ra ngoài ải.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:


  • #2
    Hồi 2 - Núi Lâm Đồng, Tần Quỳnh cứu giá

    Hồi 2

    Núi Lâm Đồng, Tần Quỳnh cứu giá
    Trang Nhị Hiền, Hùng Tín nổi danh

    Thúc Bảo theo bực đá thấp cao, dắt ngựa lên đỉnh núi, vào đền, thấy tường xiêu, mái sụp hương khói vắng tanh. Cảm động, Thúc Bảo đặt gói hành lý một bên, sụp lạy.
    Rồi đứng lên nhìn qua bức rèm cũ nát: Pho tượng Ngũ Tử Tư lẫm liêt như đang sống, một đao một ngựa phá thành Ngô. Tự nhiên, Bảo thấy cơn gió lạnh ùa vào rồi mệt mỏi lạ thường, bèn ngồi xuống tựa vào bệ tường ngủ lúc nào không biết.
    Đây thuật tiếp chuyện Lý Uyên từ hôm ra đi nay đã năm ngày giờ đã tới Lâm Đồng sơn, thấy vợ con mỏi mệt, Uyên bảo mọi người dừng lại nghỉ ven chân núi.
    Vừa toan giở lương khô ra ăn, bỗng nghe tiếng hò reo ở phía trước, ở sau lưng. Rồi một bọn cường đạo bôi nhọ mặt, kẻ cầm đao kẻ cầm mác xông ra. Lý Uyên vớ thanh đại đao bảo Lý Đạo Tôn và con là Kiến Thành đứng bảo vệ gia quyến rồi quát lớn :
    - Chúng bây không biết họ Lý ở Lũng Tây à? Sao dám ngăn cản đương đi.
    Quát xong, giặc ở khe núi lại kéo thêm ra vây kín cả hai đầu. Uyên cả giận múa đao cùng với bọn gia tướng chém giết quân giặc cỏ. Chúng bị tử thương nằm ngổn ngang nhưng không chịu chạy.
    Trong khe núi Tấn vương và cha con Võ Văn Thuật thấy Uyên khỏe như hùm, khiến quân sĩ của mình kinh sợ chẳng dám đến gần.
    Tấn vương nghĩ rằng đã cưỡi hổ không thể xuống bèn lấy tấm lụa xanh trùm lên đầu lại cắt râu đi, bôi bùn vào mặt cầm đao xông ra đáng Lý Uyên.
    Thấy vậy cha con Văn Thuật cũng bôi nho mặt, từ phía sau ập tới, vây gia quyến Lý Uyên vô cùng nguy cấp.
    Giữa khi đó, Tần Thúc Bảo đang ngồi trong miếu ngủ, chợt mơ màng thấy hiện ra một con rồng vàng đang giãy giụa, lượn đi lượn lại như có sự gì nguy biến. Và ở phương đông, mây đỏ như máu, có một loài hình thù hung dữ gớm ghê gầm gừ cố nuốt xé rồng vàng. Rồng chống cự, sau lâu dần đuối sức.
    Đang lúc ấy có tiếng người gọi văng vẳng bên tai Thúc Bảo :
    - Không đi cứu giá, còn đợi gì nữa đó, Tần Quỳnh?
    Bảo ngẩng lên thấy ông nội lờ mờ trong sương khói. Đoạn một con kỳ lân phục ở bên mình, đuôi ve vẩy. Thúc Bảo nhảy lên lưng kỳ lân cầm đồng giản đánh quái vật kia.
    Quái vật lăn ra chết, vây đỏ biến ra vàng lóng lánh. Rồng vàng lượn múa trước mặt Thúc Bảo rồi biến vào trong mây. Thúc Bảo giật mình tỉnh dậy, té ra giấc mộng.
    Ngoài cửa đền, ngựa long câu rít lên ba tiếng vang rừng chuyển núi.
    Thúc Bảo kinh lạ đứng lên ra vỗ vào đầu ngựa nói :
    - Có việc gì mà ngươi gầm hí đó?
    Long câu lại nhảy chồm lên, Bảo nói :
    - Nếu có triệu chứng khác thường, ngươi gõ móng ba cái cho ta biết.
    Long câu co chân gõ liền ba cái, rồi lại chồm lên, Thúc Bảo nhảy phăng lên yên nói?
    - Nếu vậy ngươi cứ đem ta đi xem nào!
    Tức thì tuấn mã lao xuống núi như bay. Thúc Bảo bám chặt vào bờm ngựa, hai vế kẹp chặt lấy bụng long câu, nghe tiếng gió vù vù bên tai như ban nãy cưỡi kỳ lân đành ác thú, cứu rồng vàng trong mộng.
    Xuống hết núi, thấy bụi cát bay mù, quân reo vang động. Thúc Bảo dừng ngựa thấy hai ba tướng kẻ thì trùm lụa xanh kín mặt kẻ thì bôi mặt mũi nhọ nhem, rõ là bọn Đại vương với lâu la, đang vây đánh một người mắt sáng, râu ba chòm, tướng mạo đường đường, bên cạnh lại có một vị phu nhân một tiểu thư và mấy đứa trẻ con và hành lý.
    Bảo nổi bất bình thét vang như sấm sét :
    - Quân cường tặc không được hại người lương thiện, có ta đây!
    Bọn Tấn vương, Văn Thuật đang vây khốn Lý Uyên, nghe tiếng quát vang giật nảy mình nhìn lên, thấy có một người thì chúng không lo sợ nữa, Thúc Bảo phi ngựa xuống múa đồng giản đánh chết một lúc sáu bảy tên lâu la. Vòng vây rẽ ra, thiếu niên dũng tướng múa đồng giản lóe hào quang đánh chết luồn hơn mười tên nữa. Tấn vương kinh sợ toan lùi chạy. Thúc Bảo phóng đồng giản đánh tới suýt trúng đầu. Tấn vương số còn được sống nên con ngựa chồm lên, mũi đồng giản chỉ đánh trúng vai, khiến Tấn vương kêu một tiếng mặt tái không còn hột máu phi ngựa chạy. Võ Văn Thuật cũng chạy theo gìn giữ Tấn vương. Lũ quân ôm đầu xô nhau lủi vào rừng núi.
    Thúc Bảo cúi xuống nhấc bổng một tên lên yên ngựa gõ thanh giản vào đầu quát :
    - Chúng mày là giặc xứ nào, dám ra đây ăn cướp?
    Tên ấy run sợ nới :
    - Đông Cung thái tử mới được dựng lên vốn có hiềm thù cũ với Đường công Lý Uyên cho nên giả làm quân lạc thảo chặn đường giết chết Lý Uyên đi. Ngươi vừa mới bị đánh trúng vai chính là Đông Cung thái tử tức Tấn vương trước đó!
    Thúc Bảo toát mồ hôi ném tên ấy xuống đất cho chạy trốn. Bảo nghĩ :
    - Đông Cung thái tử hiềm ghét Đường công Lý Uyên, có can chi đến ta mà ta đã đánh Đông Cung bị trọng thương. Ta phải trốn đi kẻo tai vạ lớn.
    Đoạn phi ngựa chạy như bay. Lý Uyên cũng phóng ngựa đuổi theo để tạ ơn cứu nạn. Thúc Bảo cứ phi ngựa như bay, Uyên cố theo nói to lên rằng :
    - Tráng sĩ hãy đứng lại cho tôi được vái chào.
    Bảo không ngoảnh lại. Uyên càng gọi lớn. Chừng hơn mười dặm, Bảo thấy Uyên cố công theo kỳ được, bèn ngoảnh lại nói :
    - Tôi là Tần Quỳnh đây, xin để tôi đi có việc cần, đừng đuổi nữa.
    Rồi lại thúc ngụa đi như gió qua bao nhiêu rừng núi.
    Uyên thấy ngựa mệt mỏi, đành quay lại, bên tai còn văng vẳng cái tên Tần Quỳnh.
    Đang đi, lại thấy một kỵ sĩ phi ngựa tới. Uyên kinh ngạc tưởng là giặc kia quay lại, bèn giương cung bắn. Người trên ngựa ngã nhào xuống đất. Lại thấy một toán quân kéo đến bụi bay mù, nhìn gần té ra bọn gia tướng của mình.
    Uyên nói với Đạo Tôn :
    - Nhờ có tráng sĩ đó giải nguy, cả nhà ta mới vẹn toàn. Ơn đó ta phải ghi lòng khắc cốt.
    Chợt có kẻ nông phu ở trong thôn trang ra khóc nói :
    - Gia chủ tôi có tội gì mà ông bắn chết thế kia?
    Lý Uyên nói :
    - Nào ta có bắn chết ai đâu?
    Bọn nông phu chỉ tay vào bãi cỏ :
    - Mũi tên ông vừa trúng vào cổ họng gia chủ tôi vừa đi mua hàng cưỡi ngựa đến đây. Sao ông còn cãi!?
    Uyên sực nhớ là khi nãy mình vừa bắn một mũi tên, vì nghi kẻ cưỡi ngựa là giặc, bèn nói :
    - Ta ngộ quân cường đạo nên trót lỡ tay nay xin đưa trăm lạng bạc mà chôn cất. Chẳng hay gia chủ các ngươi tên họ là chi?
    Chúng nói :
    - Chủ nhân chúng tôi là Đơn Thông ở Lạc Châu đi Tràng An buôn hàng hóa trở về bị ông bắn chết. Chúng tôi không cần lấy tiền bạc, mà chỉ cần đi báo cho người chủ thứ hai nữa là ông Đơn Hùng Tín, ông ấy sẽ dùng vũ lực mà nói chuyện với các ông.
    Rồi chúng quay đi mua quan tài mà khâm liệm cho kẻ chết. Lý Uyên lấy làm ăn năn lắm. Quay lại xe thấy vợ kêu đau bụng, tìm nhà trọ để ở thì chung quanh chẳng thấy nhà ai, nhưng có một ngôi chùa ở bên đường.
    Đến xin ngủ trọ, hòa thượng là Ngũ Không sai tiểu tăng ra mời đón vào, phương trượng đoạn sai bưng cơm chay khoản đãi.
    Khi mọi người đã an nghỉ, Lý Uyên ngồi khêu bấc đèn đọc binh thư.
    Bỗng thấy gió lộng ngoài sân trăng thơm ngào ngạt, lưng không tiếng nhạc héo hon theo khúc nghê thường tiên nữ, Uyên kinh ngạc, toan đứng dậy ra xem thì có tên hầu ra bẩm :
    - Phu nhân ở trong ni phòng vừa sinh thế tử.
    Uyên mừng rỡ, trong lúc ấy tiếng nhạc nghê thường đã xa xa lặng ở trên không.
    Trời sáng, Uyên xá các sư mà rằng :
    - Tiện thê sinh nở làm uế tạp cửa từ bi thật là có tội, xin được phép lưu lại vài ngày cho tiện thê cứng cáp rồi xỉn đi. Được vậy chúng tôi mang ơn lắm.
    Ngũ Không vui lòng ưng thuận.
    Một buổi chiều, Lý Uyên buồn bã dạo quanh chùa thấy ngoài bình phong ở ngoài cổng có đôi câu đối. Uyên gật gù khẽ đọc :
    “Bảo tháp lăng vân nhất nhật giang sơn vô biên thanh tĩnh.
    Kim chung đại nguyệt thập phương giới hà đẳng du nhân”.
    Dưới ký tên Phần Dương Sài Thiệu.
    Uyên khen thơ hay chữ tốt, hỏi Ngu Không :
    - Sài Thiệu là người thế nào?
    Ngũ Không nói :
    - Người ấy quê quán ở huyện Phần Dương, trọ học chùa này, hiện đang đọc sách dưới thư phòng.
    Uyên có ý muốn gặp kẻ sĩ ấy, bèn bảo nhà sư đưa đi. Qua mấy hàng tùng bách, Ngũ Không dẫn Uyên đến gõ cửa một căn nhà lợp cỏ rừng.
    Nhà sư bảo kẻ sĩ :
    - Đường công Lý Uyên muốn vào thăm ông.
    - Không ngờ tôn giá đến để ra nghênh đón, xin tha tội cho kẻ hàn sĩ này.
    Uyên vội vàng nâng Thiệu dậy, cùng ngồi trò chuyện. Uyên ngắm nhìn Thiệu lông mày chữ bát, mắt phượng xếch cong tiếng nói sang sảng thì mừng lắm. Uyên hỏi biết Thiệu chưa vợ con, bèn nói :
    - Tôi có đứa con gái, tuổi vừa hai chín, chưa kết duyên với ai, ý muốn dâng hiền sĩ, chẳng biết hiền sĩ có nhận cho không?
    Thiệu sụp lạy mà rằng :
    - Điện hạ đã không chê kẻ áo vải này, lại gả tiểu thư cho, tôi đâu dám từ chối.
    Uyên rất hài lòng cáo biệt về chùa nói chuyện cho phu nhân nghe.
    Rồi đó, nhờ hòa thượng Ngu Không làm chủ chứng kiến ngay cuộc hôn nhân ấy. Ngày đi nhanh chóng nửa tháng sau phu nhân đã lành mạnh, Lý Uyên sửa soạn lên đường.
    Sài Thiệu theo nhạc gia cùng đi Thái nguyên.
    Kể lại Tần Thúc Bảo sợ Lý Uyên đuổi theo cứ ra roi cho ngựa chạy.
    Chừng mười dặm ngoảnh lại không thấy ai theo sau lưng, xuống ngựa ngồi ven rừng nghỉ một lát, rồi lại lên yên trở về quan ải thuật cho Phàn Hổ nghe chuyện nằm mơ cứu rồng đánh thú đến chuyện cứu Đường công đuổi Tấn vương.
    Hôm sau, chia tay ở tửu điếm, mỗi người đeo hành lý dẫn tội nhân đi một ngả.
    Thúc Bảo đi mấy ngày mới tới Lạc Châu, vào huyện trình công văn, giao tội nhân cho viên tiết cấp ngục. Tiết cấp nói :
    - Hiện nay Sài đại nhân bận đi Thái Nguyên mừng Đường công Lý Uyên, phải chờ ngài về đã.
    Thúc Bảo không biết làm sao, đành ra nhà trọ đợi. Chủ trọ là Vương tiểu nhị mới dọn quán, dấn vốn ít, mà Thúc Bảo ăn khỏe, bốn năm bữa một ngày lại còn bắt cung thóc cho con ngựa quý, thành ra có ít ngày Tiểu nhị đã hết vốn. Tiểu nhị rụt rè mãi mới dám nói :
    - Thưa ông, nhà cháu ít vốn, sợ không đủ rượu thịt ông xơi hàng bữa, xin cho vài mươi lạng để mua dần thịt béo rượu ngon quý khách dùng.
    Bảo cười nói :
    - Có thế mà không bảo ta, tưởng chi chứ vài chục lạng bạc đáng bao nhiêu! Đoạn vào phòng mở hành lý, nhưng sực nhớ ra rằng lúc chia hành lý với Phàn Hổ, Bảo đã quên gói bạc của quan phủ đưa cho để ăn đường!
    Sau tìm mãi, thấy mười lạng bạc cửa lão mẫu đưa cho để mua lụa Lạc Châu may áo, bèn đưa cho Tiểu nhị nói :
    - Ta còn mười lạng, ngươi hãy giữ tạm ta sẽ có cách đưa thêm.
    Ba ngày sau, Sái thứ sử trở về. Nha dịch kéo nhau ra đón tiếp. Thúc Bảo cũng chạy ra xin chữ phê vào hồi văn cho.
    Thứ sử ngồi ngủ gật trên kiệu mặc kệ mọi người. Phu kiệu nói :
    - Ai có việc cứ vào trong phủ.
    Rồi chúng khiêng kiệu đi vun vút. Bảo giận lắm, nghĩ :
    - Ta hết tiền ăn trọ nay phải chờ mấy ngày nữa hắn mới ra công đường thì chết đói.
    Nghĩ rồi chạy theo níu kiệu để kêu. Bảo mạnh quá làm chiếc kiêu nghiêng đi, suýt nữa khiến Sài thứ sử đang ngủ gật ngã nhào xuống đất.
    Thứ sử cúi nhìn Bảo, quát lính trói đánh. Thúc Bảo biết lỗi chịu để đánh hai mươi roi. Sáng sau lại vào nha phủ lĩnh hồi văn.
    Khi đó, Thúc Bảo xưng là đô đầu của Lưu tri phủ, Sài thứ sử với Lưu tri phủ là bạn thân nên đổi giận làm vui nói mấy câu an ủi Thúc Bảo, phê ngay hồi văn lại thưởng cho năm lạng bạc.
    Thúc Bảo lạy tạ, nhận hồi văn, về quán trọ. Chủ quán là Vương Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo có tiền liền đòi nợ, Bảo ném ra cả năm lạng bạc, Tiểu nhị không nghe nói :
    - Ông ở nhà tôi cả người cả ngựa ăn như sấm sét, năm lạng không đủ tiền cỏ cho ngựa, nói chi rượu thịt. Xin cho năm lạng nữa.
    Bảo nói :
    - Ta có nhiều tiền gửi ở hành lý bạn ta là Phàn Hổ, hiện giải tù đi Lạc Châu. Mai kia bạn ta rẽ qua đây để cùng ta về Tế Nam ta sẽ trả gấp đôi.
    Tiểu nhị nghĩ thầm :
    - Nếu để hắn chịu, lừa đêm khuya hắn cưỡi ngựa đi mất thì ta dại lắm, chỉ bằng ta phải dùng mẹo này mới được.
    Bèn nói :
    - Ông cứ ở đây đợi bạn ông. Bức hồi văn của ông có dấu quan thứ sử ông bỏ túi e khi nằm ngồi nát mất, xin cứ đưa để tôi bỏ hòm cho sạch sẽ.
    Thúc Bảo ngay thật đưa ngay hồi văn cho hắn. Nắm được rồi tiểu nhị không còn lo Thúc Bảo vỗ nợ mà chạy nữa.
    Thế rồi ngày lại qua ngày, chờ mươi hôm chả thấy Phàn Hổ đến, mà nợ cơm, rượu, cỏ thì ngày nào tên tiểu nhị cũng nằng nặc đòi. Thúc Bảo khất, hắn cho ăn cơm nguội, rau sống, mặc thây cả ngựa khiến tuấn mã kêu hí suốt ngày đêm.
    Bảo có ý buồn chán, ra đường đi tản bộ để ngóng Phàn Hổ tới. Đến tối mới về quán thấy một bọn sáu bảy kẻ đang ngồi giữa phòng mình uống rượu.
    Bảo trừng mắt nhìn. Tiểu nhị nhăn nhở nói :
    - Hàng nhà tôi bấy nay ế ẩm, nay có bọn khách thuê thấy buồng ông rộng rãi nên muốn tạm thuê mấy bữa, ông có một mình nên tôi đã đem đồ hành lý xuống gian phòng nhỏ bên cạnh bếp, ông thứ lỗi cho nhà cháu kiếm ăn.
    Thúc Bảo căm giận lắm, nhưng cũng đành chiu nhịn, xuống phòng dưới thấy vách lủng, phên thưa, gió lạnh thổi vào hun hút. Bảo buồn bực, thở dài, nhịn đói trèo lên chõng ngủ, chưa nhắm mắt, thấy một tên nhòm ngó. Bảo tức quát :
    - Đứa nào dọ thám thế. Ta gửi yên ngựa và hồi văn tay ngươi, còn nghi ngờ chi nữa, quân khốn nạn!
    Người nhòm ngó ấy là Liễu thị vợ Vương chủ quán. Liễu thị ghé đầu bên cửa sổ, khẽ nói rằng :
    - Chồng thiếp là kẻ ngu phu nói năng vô lê, xin ông tha tội chết cho. Thiếp tôi dành dụm được ba trăm quan xin cúi dâng để chi dùng, nay nhân có cơm rau, xin ông ăn cho khỏi mệt.
    Nói rối đưa cơm và tiền qua lỗ vách, rồi nhẹ nhàng quay đi. Thúc Bảo rơm rớm nước mắt nhìn liễn cơm nguội nghĩ thầm :
    - Bát cơm Siếu mẫu của Hàn Tín đất Hoài âm đây, mai sau ta có nên danh phận quyết về đây tìm ân nhân trả nghĩa.
    Đoạn ăn hết liễn cơm, nằm xuống ngủ. Sáng dậy sớm lại ra đường chờ Phàn Hổ.
    Nhưng càng mong càng thấy mất, Thúc Bảo sực nhớ là :
    - Ta còn có đôi kim giản, chi bằng bán tạm đi lấy tiền trả hắn mà về quê nhà. Một mai có tiền ta lại đên chuộc, cũng chẳng can gì!
    Rồi về xách đồng giản đi đến các phố đông quanh chợ, rao bán chẳng ai mua. Có người mách đến một lão già chuyên nghề cầm cố, cho vay lãi cầm tạm. Đến nơi lão nhìn qua đôi kim giản, cười nhạt nói :
    - Thứ binh khí này ai dùng tới, chỉ có thể làm đồng nát.
    Thúc Bảo biết hắn gièm để cầm rẻ, nhưng đang bí lối đành nói :
    - Thì bán làm đồng nát vậy. Lão trả bao nhiêu?
    Lão đáp :
    - Năm lạng bạc.
    Bảo thấy năm lạng cũng không đủ trả, bèn xách kim giản quay về quán. Tên Tiểu nhị thấy Thúc Bảo không bán được binh khí liền giở mặt hầm hầm, một lúc rồi mới nói :
    - Ông xem còn cái gì quý hơn thì bán đi trả cho tôi.
    Tiểu nhi chỏ xuống chuồng ngựa nói :
    - Cái của nợ kìa không bán cũng gầy ốm mà chết thôi, ông bán quách đi.
    Thúc Bảo nói :
    - Biết ai dùng mà bán?
    Tiểu nhị nói :
    - Đất Lạc Châu này người ta quen chơi ngựa, ông cứ cưỡi ra chợ tức khắc có người mua, mà có ra phải từ đầu trống canh năm mới được vì mặt trời mọc, chợ đã tan rồi.
    Đêm ấy, Bảo lại thấy Liễu thị lén chồng đem cơm và rau xuống dâng mời.
    Sáng hôm sau Bảo vào chuồng dắt ngựa ra. Long câu biết ý, nhìn chủ ứa nước mắt, hí mấy tiếng nhỏ như khóc biệt ly. Thúc Bảo cũng không ngăn nồi nước mắt khỏi tuôn rơi. Đoạn nhẩy lên yên đi lững thững ra phía chợ ở tây môn.
    Phiên chợ lừa ngựa đang đông, khách mua toàn phường công tử vương tôn thấy chiếc ngựa gầy, cười khanh khách :
    - Ngựa ốm kia chắc ngày đi ba dặm. Có lẽ hơn Xích Thố của Quan Vân Trường đấy. Ta mà được nhà vua cho làm Đại nguyên soái thì quyết mua ngựa ấy đi phá thành, chúng cười ồ lên. Thúc Bảo cay đắng vuốt đầu ngựa, lại ngắm đến mình hơn một tháng nay áo quần bẩn thỉu chỉ vì thiếu nợ mà hóa ra lam lũ đế thế. Chờ chẳng có ai thèm ngó đén, cho tới lúc chợ tan còn lại trơ mình với ngựa gầy trên bãi vắng, Bảo đành dắt ngựa về.
    Đến cổng thành một bọn đông gánh cành cây mới đẵn ở rừng về phơi làm củi bán. Ngựa của Thúc Bảo đang đói khát thấy lá tươi trên gánh củi của ông lão thì ngoạm ăn ngấu nghiến, ông lão gánh củi ngã lăn ra kêu ầm ĩ. Thúc Bảo vội ôm ông lão tiều phu dậy lạy mà xin lỗi.
    Lão phủi áo quần, nhìn ngắm long câu rồi reo lên :
    - Ngựa đâu mà quý đến thế này? Thật lão xem ngựa đã vạn con chưa từng thấy con nào lại đẹp vó, tốt xoáy mạnh ức, thon bụng như con này đó!
    Thúc Bảo thở dài :
    - Thế mà tôi phải bán đi, nhưng chẳng ai thèm mua cho! Cụ xem có ai sành ngựa bán giúp, xin hậu tạ.
    Lão tiều mừng rỡ nói :
    - Ngoài phố tây môn cách ngót hai mươi dặm, có một thôn trang tên gọi Nhị Hiền trang, chủ nhân là họ Đơn tên Hùng Tín, đứng vào hàng thứ hai nên người ta vẫn gọi là Đơn nhị lang, ông ta hay mua ngựa tốt để làm quà cho các tay hào kiệt bạn bè.
    Thúc Bao nghe nói sực nhớ ra :
    - Bấy lâu nay ta thoáng nghe nói đến tên nghĩa sĩ Đơn Hùng Tín ở miền này, âu là ta đến xem sao.
    Bèn theo lão tiều dắt Long câu tìm đến Đơn gia trang.
    Tới nơi thấy một trang viên lớn, đường đá, cây cổ thụ phủ um tùm.
    Đơn Hùng Tín, nguyên là con rồng xanh trên thiên đình xuống làm ngươi, sau này sẽ dọc ngang trời đất, là anh hùng thứ mười tám ở nhà Tùy đó.
    Hùng Tín mặt xanh xám như chàm tóc đỏ tựa Chu sa, tính nóng như lửa cháy, răng hai bên mép dài như nanh hổ, mở miệng nói như sấm sét sức địch muôn ngàn kẻ, hai cánh tay sắt quen dùng ngọn giáo ba trạc tên gọi Kim trâm tảo dương.
    Tín mở rộng bốn cổng trang đón các tay anh hùng hảo hán, chứa cả tội nhân vượt ngục, dung cả đạo tặc cướp của giết người. Bọn này mỗi khi lấy được bạc vàng về phải trình nộp Tín một nửa, vì thế mà Tín giàu túc tích, bạc vàng châu báu không kể xiết.
    Hôm ấy Tần Thúc Bảo dắt ngựa cùng lão tiều phu đến, bảo trang khách vào báo tin. Tín nghe nói có người đến bán tuấn mã bèn khoác áo bào bước ra cổng đón khách và xem ngựa.
    Thúc Bảo thấy Hùng Tín dữ tợn như thiên thần, áo bào bằng vóc tía, đai lưng dát ngọc sáng ngời, giầy thêu kim tuyến và nạm vàng lóng lánh, nhìn đến thân mình áo bạc quần nhầu, giầy rách, có ý tủi thẹn mà lùi sau một gốc cây.
    Hùng Tín thấy ngựa quý biết ngay. Tín giơ bàn tay hùm beo vỗ mạnh vào lưng Long câu. Sức Tín mạnh như thế mà tuấn mã cứ đứng yên không nhúc nhích.
    Tín vẫy Bảo đến gần nói :
    - Túc hạ bán ngựa đó chăng Xin cho biết giá.
    Bảo nghiêng mình đáp :
    - Trong lúc cùng đường, đành bán ngựa. Xin cho năm mươi lạng.
    Tín nói :
    - Ngựa này, năm mươi lạng không đắt. Song hiềm nỗi gầy ốm quá phải mất nhiều cỏ, thóc, công phu mới nuôi béo được. Túc hạ đã có công dắt đến, tồi xin trả ba mươi lạng.
    Nói rồi, quay ngoắt mình vào trang viện. Thúc Bảo bước theo nói :
    - Tôi đã cùng đường, ông dạy thế nào cũng xin vâng.
    Tín quay lại mời Thúc Bảo vào gia trang. Gia nhân dắt ngựa vào theo. Hai người đứng bên hồ bán nguyệt. Tín vừa xem lại ngựa vừa hỏi :
    - Túc hạ người ở đâu mà lạc lõng tới dây bán ngựa?
    Bảo đáp :
    - Chúng tôi người ở Tế Nam.
    Nghe nói người ở Tế Nam, Tin sai lấy ghế mời ngồi rồi lại hỏi :
    - Tôi thường nghe ở Tế Nam có một vi anh hùng dòng dõi công thần danh tướng, tên gọi Tần Thúc Bảo, túc hạ quen chăng?
    Bảo buột miệng nói :
    - Thưa ngài chính tôi đây!
    Nhưng biết rằng trót hớ, bèn im. Hùng Tín vội đứng lên bước xuống thềm nói :
    - Nếu vậy thì túc hạ tha tội cho Tín này.
    Nhưng Thúc Bảo vội chống chế rằng :
    - Thưa ngài chính tôi đây là bạn đồng sự với Tần Thúc Bảo.
    Tín ngẩn ra, rồi nói :
    - Nếu vây thì túc hạ họ gì?
    Bảo đáp :
    Tôi họ Trương Tín nói :
    - Tôi muốn nhờ túc hạ khi về Tế Nam đưa giúp một phong thư cho Tần Thúc Bảo, có được chăng?
    Bảo nói :
    - Tôn ông có lòng tin mà giao thư, tôi xin bái nhận mà đưa đến nơi đến chốn. Tín cả mừng vào thư phòng viết thư rồi đem ra những sáu mươi lạng bạc, ba tấm lụa, vái Bảo mà rằng :
    - Đây là tiền ngựa, lụa này xin biếu túc hạ. Còn thư này xin đưa tận tay Tần đô đầu và xin nói thêm rằng: Đơn Hùng Tín đất Lạc Châu có lòng ngưỡng mộ đại danh Tần đại huynh lắm lắm. Chỉ vì đường xá xa xôi nên chưa có dịp bái kiến đó thôi.
    Đoạn, sai dọn rượu. Song Thúc Bảo sợ lộ tên tuổi nên vội cáo biệt ra về. Tín cố lưu giữ không được, theo tiễn đến cổng trang. Bảo đi một quãng, thấy ông lão tiều phu đứng đợi. Bảo đưa biếu cụ già năm lạng bạc, rồi lại rảo bước. Đói bụng, vào một khách điếm, gọi rượu và thức nhắm.
    Mới nhắp vài ba chén, nhìn ra thấy hai ngươi mặc áo gấm bước vào, có tiểu đồng theo sau. Nhận ra một kẻ là Vương Bá Dương, Bảo vội lánh quay mặt vào phía trong.
    Nhưng người mới vào kia đã nhận ra Thúc Bảo. Bảo biết ý, ăn uống qua loa, rồi trả tiền, bước thẳng ra, đi ngay về nhà trọ, Vương Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo bán được ngựa thì xoa tay cười nói, nịnh nọt đủ điều. Bảo ném cho hai mươi lạng, đòi lại hồi văn cùng hành lý, rồi ngay đêm ấy ra đi cấp tốc về Sơn Đông.
    Hai người mà Thúc Bảo vừa gặp kia là Vương Bá Dương và Tạ Ứng Đăng, hai người uống rượu xong, tức khắc đến Nhị Hiền trang. Trang khách báo tin, Hùng Tín ra đón bạn, Bá Dương thấy Tín đang sai gia nhân tắm rửa cho con ngựa quý, bèn hỏi :
    - Đại huynh mua ngựa này của ai thế!
    Hùng Tín đáp :
    - Vừa mua được của một anh chàng quê ở Tế Nam.
    Bá Dương hỏi :
    - Hình dung hắn thể nào?
    Tín nói :
    - Mắt to, người lớn, có vẻ một tay khí phách giang hồ. Hắn xưng là họ Trương, ở Tế Nam, có quen Tần Thúc Bảo.
    Bá Dương vỗ vai Tín rằng :
    - Đại huynh chỉ nghĩ tới sự mua ngựa tốt, mà bỏ mất một quý nhân. Đó là một người có đại tài, thiên hạ khó mà theo kịp Tín nói :
    - Tôi cho là một người túng thiếu mà bán ngựa, có lưu ý lắm đâu!
    Bá Dương cười sằng sặc :
    - Tiếc thay, hổ vào nhà, rồng nằm trên mái nhà mà không biết.
    Chính người ấy là Tiểu Mạnh Thường Tần Thúc Bảo đó.
    Hùng Tín vỗ đùi, tiếc ngẩn ra :
    Nếu vậy thì Tín tôi có mắt như mù, thật đắc tội với một tay hào kiệt. Tần Thúc Bảo thấy tôi mặc cả ngựa quý lại tiếp đãi sơ bạc quá tất khinh thằng Đơn ở đất Lạc Châu này mất. Xin cùng đi tìm mà tạ vậy.
    Đại huynh nghĩ sao?
    Bá Dung nói :
    - Đuổi theo may còn kịp. Tôi đã hỏi dò, Thúc Bảo ít lâu nay trọ ở quán Vương Tiểu Nhị ngoài cổng phủ.
    Tín nóng nảy, thét mã phu dắt ngựa ra đi ngay. Nhưng Bá Dương can ngăn :
    - Bây giờ trời tối, cổng thành đóng mất rồi. Sáng mai đi sớm cũng không muộn đâu!
    Tín nghe theo, sai dọn rượu. Uống rồi đi nghỉ. Mờ sáng hôm sau, ba người phi ngựa như bay đến cửa hàng Vương Tiểu Nhị. Gò cương lại, Hùng Tín nói như sấm sét :
    - Bớ chủ quán, Tần đại gia ở Sơn Đông có còn ở đây không?
    Tiểu nhị vái rạp xuống mà thưa :
    - Bẩm đại quan nhân, ông khách ấy bán ngựa xong, về cuốn khăn gói đi ngay từ tối hôm qua rồi!
    Hùng Tín tiếc ngẩn ngơ, đập vào đùi nói :
    - Thế thì ta tự hại ta mất rồi. Người trước mắt không biết, để đi mới mở mắt ra mà đuổi.
    Dứt lời, thấy gia nhân hốt hoảng cưỡi ngựa đến trình :
    - Dám bẩm quan nhân, đại quan nhân nhà ta bị Đường công bắn chết ở cửa rừng Lâm Đồng sơn, hiện linh cữu đã đưa về trang thất.
    Tín nghe nói thét lên một tiềng, ứa nước mắt ra, quay Lại nói với Bá Dương :
    - Tôi có việc tang, tiếc không theo tìm Tần hảo hán được nữa! Nếu đại huynh gặp xin nói hộ rằng thằng Tín không mắt này cúi đầu xin chịu tội.
    Rồi đó, cùng gia nhân phi ngựa về trang viện.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #3
      Hồi 3 - Dãi tuyết đêm, Phàn Hổ tìm bạn quý

      Hồi 3

      Dãi tuyết đêm, Phàn Hổ tìm bạn quý
      Tạ tri âm, Hùng Tín trả long câu

      Đây kể tiếp theo: Tần Thúc Bảo sợ Đơn Hùng Tín theo, nên chạy suốt đêm, qua bao nhiêu rừng núi. Bấy giờ tuyết xuống mù trờ, gió lạnh buốt xương, Thúc Bảo ôm bụng rỗng, tập tễnh chân đau mà đi mãi trong đêm tối, cứ theo đườg cái lớn mà lần. Tới canh ba chân đau thịt nhức, đầu váng mát hoa không đi được nữa. Thấy bên rừng có cái miếu tên gọi Đông Nhạc miếu, bèn bước vào. Vừa toan ngồi xuống, bỗng thấy mắt nổi hào quang đầu nặng, hôn mê, ngã lăn xuống đất. Đôi kim giản nặng ba trăm cân vác trên vai gieo xuống thềm làm vỡ mấy viên gạch lát, kêu vang cả miếu.
      Nghe động, giật mình, đạo nhân ở hậu thất chạy ra thấy một người nằm, cô nâng lên, nhưng tuổi già sức yếu không sao nâng được. Đạo nhân vào gọi chủ sãi. Người ấy họ Ngụy tên Trưng, trước làm tri châu ở Cát An, mới cắt tóc đi tu theo thầy là Từ Hồng Khánh, tức là đạo nhân kia. Thấy thầy gọi, Nguy Trưng vội chay ra, thấy Thúc Bảo nằm thẳng cẳng, mắt nhắm nghiền, liền xem mạch rồi nói :
      - Người này chỉ bị đói khát, lại đi nhiều trong tuyết lạnh, bị cảm đấy thôi.
      Rồi ẵm vào nội thất đặt lên giường, đắp chăn, sắc thuốc lá cho uống, lại đổ cháo vào miệng, Thúc Bảo dần dần tỉnh dậy. Ngụy Trưng hỏi họ tên. Thúc Bảo kể sự tình. Ngụy Tnmg nói :
      - Ông bị ốm, hãy cứ ở dây tĩnh dưỡng dăm hôm, uống thuốc cho lành mạnh hãy về phục lệnh quan cũng kịp.
      Sau đó ngày ngày ngụy Trưng sắc thuốc, nấu cháo trông nom Thúc Bảo rất chu đáo.
      Một hôm trong miếu có lập đàn tụng lệnh, nguyên do, Đơn Hùng Tín từ biệt Bá Dương về trang ôm lấy xác anh mà khóc hồi lâu rồi cho đem mai táng. Lại sai gia nhân đến Đông Nhạc miếu bảo thầy trò Ngụy Trưng lập đàn cúng cho anh ruột không may đã bị Đường công thấy biến bắn nhầm.
      Lúc đó Đơn Hùng Tín mặc đồ tang, cưỡi ngựa đến am làm lễ. Vào thấy gia đinh và các tiểu cãi cọ nhau. Tín quát gia nhân, chúng nói :
      - Các sư ở đây không được thành kính, chúng tôi bảo họ quét dọn cho sạch sẽ để đại quan nhân đến, chúng không nghe cứ để một anh ốm nằm ở hậu đường.
      Hùng Tín gọi Ngụy Trưng ra hỏi. Nguy Trưng nói :
      - Người ấy không phải ngươi thường, cách đây mấy hôm, qua đây bị cảm, chúng tôi phải tận tâm coi sóc đó là lương tâm của kẻ tu hành.
      Tín hỏi :
      - Tên họ người ấy là chi?
      Ngụy đáp :
      - Đó là một nghĩa sĩ đất Sơn Đông, tên gọi Tần Quỳnh, tức là Tần Thúc Bảo.
      Hùng Tín mừng cuống quít vội chạy vào hậu thất vén màn coi :
      chính thức gã bán ngựa bữa vừa rồi. Tín quỳ xuống bên giường nắm tay Thúc Bảo nói :
      - Rõ ràng là Tần đại huynh. Sao lại nỡ giấu Đơn Hùng Tín này như thế.
      Thúc Bảo cố ngồi lên vái lạy :
      - Tần Quỳnh hèn nhát này có tài đức gì mà được tôn ông yêu mến, thực lấy làm thẹn lắm!
      Tín rờ tay vào mặt Thúc Bảo, thấy nóng gay thì ứa nước mắt nói :
      - Bữa nọ trời cho gặp tôn nhan, mà ngu đệ không có mắt, để đại huynh đi. Sau nhờ Bá Dương nói mới biết. Đại huynh thứ tội cho. Có lẽ chỉ vì lánh mặt ngu đệ mà đại huynh dầm tuyết đội gió ra đi mới nên trọng bệnh này. Tín tôi tội lại càng to lắm.
      Thúc Bảo ngậm ngùi nói :
      - Tiểu đệ giữa đường thiếu tiền ăn trọ, bị chủ quán thúc đòi lại giữ cả quần áo không cho thay. Đến bán ngựa, tự xét quần áo lam lũ mà tránh đại huynh, thật không có lòng nào khác.
      Hùng Tín đau lòng nắm tay Thúc Bảo mà an ủi, đoạn sai gia nhân lấy kiệu, Tín cõng Bảo đặt lên, rồi Tín bảo Ngụy Trưng cứ cúng lễ, cưỡi ngựa đi kèm kiệu Thúc Bảo về Nhị Hiền trang.
      Tín lấy quần áo mới đưa Thúc Bảo thay, lại gọi danh y vẫn ở liền trong trang bốc thuốc cho Thúc Bảo uống, chừng mấy ngày Thúc Bảo mạnh như thường.
      Từ dó, Hùng Tín trân trọng tiếp đãi Thúc Bảo đêm ngày. Hùng Tín đem chuyện thân huynh bị Đường công Lý Uyên bắn chết than thở với Thúc Bảo, giờ lâu Bảo tìm lời khuyên giải.
      Lại nói: Phàn Hổ đến Thạch Châu đệ công văn và giao tù xong, nhận hồi văn ngày đêm về Tế Nam vì cứ yên trí rằng Thúc Bảo đã về trước mình rồi. Tới Tế Nam mới biết là Thúc Bảo chưa về phủ.
      Tần mẫu ngày đêm tựa cửa chờ con, thấy Hổ mà không thấy con trai thì lo sợ bỏ ăn bỏ ngủ bèn gọi Hổ đến khóc noi :
      - Con ta xưa nay hiếu để có đi dông dài bao giờ đâu, chắc nó bị bệnh bay bị nạn ở dọc đường, chẳng hay hiền điệt có vì lão mà đi tìm đón nó không?
      Phàn Hổ xin đi. Tần mẫu đưa tiền lộ phí. Hổ không nhận nói :
      - Anh cháu còn gởi cháu nhiều tiền. Xin bá mẫu cứ an lòng. Rồi cầm thư của Tần mẫu bỏ vào tay nải, vào phủ xin phép nghỉ. Hôm sau khởi hành đi Lạc Châu. Hôm ấy Hổ đi chừng mười dặm thì tuyết xuống rất nhiêu. Hổ cứ đội tuyết đi. Ngày rảo bước chịu tuyết sương dầu dãi, đêm vào quán nghỉ, Hổ tận tình tìm bạn. Một hôm, tuyết đọng ngập đường không nhấc được chân lên nữa, Hổ thấy cái am bên rừng ngẩng đọc ba chữ Đông Nhạc miếu, bèn vào nghỉ chân.
      Ngụy Trưng vừa đi hái thuốc về dắt lừa vào chuồng cỏ, bước ra thấy khách lạ, hỏi rằng :
      - Khách bộ hành từ đâu tới?
      Phàn Hổ xá mà đáp :
      - Tôi là Phàn Hổ ở Sơn Đông, đi đến Lại Châu tìm bạn. Đường nhiều tuyết không sao đi được, xin vào quý am nghỉ một đêm nay.
      Nguy Trưng sai dâng trà rồi hỏi :
      - Ông bạn túc hạ tên họ chi?
      Hổ đáp :
      - Đó là nghĩa huynh tôi, làm đô đầu ở Tế Nam, tên gọi Tần Thúc Bảo.
      Ngụy Trung cuờí nói :
      - Thế thì Tần Quỳnh ở ngay trước mắt. Nhị điền trang cách đây hơn mười dặm, trong đó có vị quan nhân là Đơn Hùng Tín đang lưu đãi Tần Thúc Bảo vì ông ta bị ốm.
      Nghe nói xiết bao mừng, Phàn Hổ bèn đứng dây xin đi ngay. Ngụy Trưng cố giữ lại nói rằng :
      - Tuyết đang xuống nhiều, đi đêm sao được, túc hạ hãy nghỉ hết đêm nay, mai đi sớm.
      Phàn Hổ tuy đang đói mệt, cứ xin đi vì nóng lòng gặp bạn. Phàn Hổ ra đi, cứ theo đương lớn thẳng mò mẫm cho tới sáng, nón và áo quần sũng tuyết, Tới nơi, có người chỉ Nhị Hiền trang ngay trước mặt. Hổ nhờ trang khách vào báo :
      - Có bạn Tần Quỳnh là Phàn Hổ đem gia thư đến.
      Trang khách vào nói, Thúc Bảo giật mình kinh hãi, chạy ra, thấy Hổ từ đầu đến chân trắng suốt, dáng điệu mệt mỏi thì ôm ngay lấy nói :
      - Hiền đệ tới tìm ta có việc gì nguy cấp hẳn thôi?
      Hổ nói :
      - Em ở Lạc Châu, tin rằng anh xong việc ở đấy sẽ về thẳng Tế Nam phục lênh, ai ngờ em tới Tế Nam vẫn chẳng thấy anh. Lão mẫu lo sợ đêm ngày, viết thư saí em đi tìm kiếm.
      Bảo đáp :
      - Anh vì chờ thái sử đi Thái Nguyên chào mừng Đường công Lý Uyên lâu quá nên nợ chủ hàng cơm phải bán ngựa lấy tiền về, bị ốm giữa đường, được nhà sư cứu, sau lại gặp Đơn Hùng Tín đại quan nhân đây mời về phục thuốc, nay đã hơi lành mạnh, sắp sửa ra về thì nghe tin em đến.
      Nói rồi dắt tay Phàn Hổ vào trang viện. Hổ móc túi lấy thư ra.
      Thúc Bảo xem thư mẹ, ứa nước mắt muốn về ngay.
      Hùng Tín can ngăn :
      - Đại huynh hãy còn đang yếu, cứ liều ra đi, phong sương ốm lại giữa đường thì uổng mạng, như thế vì hiếu mà thành ra bất hiếu. Chi bằng đại huynh hãy ờ đây ít bữa nữa. Nhờ Phàn đại huynh về trước xin phép quan tri phủ, xin phép lão mẫu, thế là vẹn cả công tư, toàn cả nghĩa mẹ con, cả tình bạn hữu.
      Hùng Tín nói mãi, Thúc Bảo đành ưng thuận. Hùng Tín mừng lắm, sai đặt tiệc lớn, ba người chén tạc chén thù.
      Đêm ấy, Thúc Bảo ngồi đốt nến viết thư gửi mẹ. Và sáng hôm sau, Hùng Tín truyền lấy năm mươi lạng bạc, năm tấm vóc nhiễu đại hồng gửi Tần lão mẫu, lại tặng riêng Phàn Hổ mười lạng bạc và hai súc lụa hoa hạng tốt. Thúc Bảo và Phàn Hổ cùng ân cần cảm tạ. Phàn Hổ đội nón chiến, nai nịt gọn ghẽ, từ biệt Hùng Tín và Thúc Bảo về Tế Nam báo tin cho Tần mẫu.
      Thúc Bảo ở Nhị Hiển trang đã qua mùa xuân. Trong thời gian đó, Đơn Hùng Tín muốn đãi hết lòng tri ngộ với Tần Quỳnh, đã một mặt ngầm sai thợ lấy da cáo trắng và vàng bạc làm thành bộ yên trong lót gấm dày, lại sai lấy năm trăm lạng bạc đánh thành thoi nhỏ bỏ vào túi vóc, một mặt sai mười mã phu ngày đêm nuôi vỗ Long câu cho ăn toàn thóc, đậu trắng và cỏ tốt cho chóng béo.
      Hết tháng giêng, Thúc Bảo nói xin bái biệt.
      Đơn Hùng Tín gọi mã phu dắt long câu ra. Tần Quỳnh giật mình, ngắm con ngựa gầy ốm của mình nay lớn béo khác hẳn, trên lưng mang bộ yên đẹp rực rỡ, nhạc vàng chói lọi bên yên đeo túi bạc thoi nặng trĩu và đôi kim giản gia truyền. Thúc Bảo cảm động, vái Hùng Tín nói :
      - Tiểu đệ tự xét mình vô hạnh, bất tài không hiểu sao lại được đại ca yêu mà tặng ngựa cho yên đẹp thế này?
      Hùng Tín cười khanh khách nói vang như sấm :
      - Tín này trời cho không nghèo, chỉ cầu mong được cái phúc gặp anh hùng hào kiệt bốn phương để dâng ngựa, biếu áo và mài kiếm hầu, ấy là thỏa cái chí bình sinh. Của mọn này có đáng là bao mà đại huynh phải băn khoăn.
      Đoạn sai lấy thêm một gói bạc lẻ đưa Thức Bảo làm lộ phí. Bảo chối không được, đành phải nhận, đoạn sụp hai lạy mà lên yên. Hùng Tín cũng sai gọi lấy ngựa, tiễn Thúc Bảo ba mười dặm, đến một khách điếm kia, mượn làm trướng đình, uống với nhau cạn vò rượu quý rồi mới chịu chia tay.
      Bảo về thẳng Tế Nam, Tín quay về trang viện.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #4
        Hồi 4 - Đày Yên Sơn, Thúc Bảo đánh lôi đài

        Hồi 4

        Đày Yên Sơn, Thúc Bảo đánh lôi đài
        Trong súy phủ, Tần phu nhân nhận cháu

        Tần Thúc Bảo ngồi trên long câu phi như gió, cho tới khi mặt trời ngả non chiều, Thúc Bảo gò cương trước một thôn trang tên gọi Giác Lâm, bên đương có một tửu điếm sau rặng liễu. Bảo xuống ngựa. Tên tửu bảo mắt xếch ngược chạy ra dắt ngựa vào chuồng cho ăn cỏ, đoạn ra xách hành lý của quý khách vào gian phòng sang đẹp nhất.
        Tửu bảo pha trà, dọn ruọu xong, ra nói thầm với chủ quán là Ngô Quảng rằng :
        - Chủ nhân có thấy ông khách có con ngựa đẹp, bộ yên cương và bàn đạp đều bằng vàng bạc, dát trên da cáo trắng không? Đêm nọ ở vùng có đám cướp to lắm, chắc tên này là quân cường đạo chi đây!...
        Ngô Quảng động lòng tham nói :
        - Nếu vậy để ta dò xét xem sao, ngươi nên giữ kín.
        Rồi Ngô Quảng ra cửa phòng nấp trong bóng tối nhòm vào thấy Thúc Bảo ăn cơm xong, ngồi khêu to đèn, mở gói hành lý, lấy một túi bạc rốc ra. Thúc Bảo kinh ngạc ngắm những thoi bạc mới đánh rất xinh, sáng lóe dưới đèn sáng rực. Thúc Bảo tự nghĩ thầm :
        - “Quái lạ sao Hùng Tín tặng ta vàng bạc lại không cho ta biết, bỏ từ lúc nào vào gói hành lý này đây?”
        Đoạn, cứ ngồi ngẩn ra suy tính mãi. Ngô Quảng bấm tên tửu bảo mắt xếch lui ra, đi gọi năm mươi kẻ tuần tráng đến, nói thì thầm với nhau, rồi chúng lấy dây thừng lớn chăng khắp cửa, và gươm giáo mai phục kín hai bên. Sau đó Ngô Quảng vì tham của muốn vào trước chiếm gói bạc, vác đao đẩy cửa xông vào.
        Thấy động, Thúc Bảo nhanh mắt, biết là chủ quán có ý gian, bèn vùng đứng dậy quát to :
        - Ngươi vào làm gì đó?
        Ngô Quảng thảy Thúc Bảo hùng dũng quá, chưa kịp giơ đao hạ thủ đã bị Thúc Bảo phóng chân dá một cái vào giữa bụng, Quảng ngăn lộn vế phía sau, đầu rơi ngay vào miếng đá kê cột gỗ, bị vỡ làm hai mảnh chết tức ngay. Nghe có tiếng xì xào bên ngoài, Thúc Bảo xách đôi kim giản nhảy ra, chẳng ngờ bị chúng giật mạnh dây trong bóng tối, Thúc Bảo ngã nhào xuống đất. Chúng tiện dây, năm mươi kẻ xúm vào đè đầu giữ cẳng trói ngay chàng lại, reo vang cả quán.
        Trói xong, vào phòng thấy Ngô Quảng chỉ còn là cái tử thi. Vợ con Ngô Quảng kêu gào chán rồi viết lá đơn. Sớm hôm sau, chúng dẫn ngựa, hành lý, và Thúc Bảo vào trình tri phủ.
        Tri phủ kìa là Sài Kiến Đức nghe báo bắt được quân đạo tặc, ra ngay công đường. Thấy Tần Thúc Bảo, tri phủ giật mình nói :
        - Rõ ràng ngươi là đô đầu vừa ở Tế Nam giải tù đến đây sao lại đi ăn cướp giết người như vậy?
        Thúc Bảo rập đầu kêu sự tình bị ốm chưa về được, phải ở nhà người bạn, chứ không hề làm việc gian phi đó. Sài tri phủ không tin thét mắng ầm ầm :
        - Nhà ngươi đã có hồi văn không phịu về phục lệnh quan trên, còn lưu đãng ở vùng này, thế là có ý gian giảo đó. Bạn ngươi là ai, nói mau!
        Thúc Bảo sợ liên lụy đến Đơn Hùng Tín, nói tránh đi :
        - Người bạn tôi buôn bán ở Giang Đông, nay đã đi rồi.
        Tri phủ càng dập án :
        - Người nói quanh co, quả là đạo tặc. Trông người béo tốt thế kia, quyết không phải ốm. Nay lại có bạc vàng, ngựa đẹp yên quý đó, thiết tưởng một vị Nguyên soái triều đình cũng không sắm được, huống chi khi người đến trình công văn còn mạc áo cũ, cớ sao ngày nay lại đổi khác như vây được? Còn như việc đánh chết Ngô Quảng, người có chối không?
        Thúc Bảo biết cãi vô ích đành cúi đầu im lặng. Sài tri phủ bắt Thúc Bảo ký tờ cung, rồi sai giam vào ngục chờ ngày phê án trạng.
        Tham quân sảnh tên gọi Mạng Hồng hỏi khẩu cung. Thúc Bảo nhất định không chịu nhân là giặc cướp. Tham quân tức giận sai tra tấn đến nỗi máu chảy thịt dây, rồi truyền tống ngục.
        Việc đô đầu đi ăn cướp, phá quán, giết người ở rừng Giác Lâm bị đồn đại ầm lên, đến tai Đơn Hùng Tín. Tín kinh hãi vào thành nghe ngóng, quả nhiên tin ấy không sai. Tín bèn sai bưng một mâm rượu vào nhà ngục, nói với lính canh cho đem cơm vào. Lính canh không còn ai lạ Tín, vâng lời mở cửa, lại tạm tháo gông cho Thúc Bảo một chốc lát.Tín bước vào thấy Thúc Bảo đầu bù, mặt sưng, áo rách, ứa nước mắt mà kêu lên :
        - Tần đại huynh chỉ vì tôi mà hai lần hoạn nạn. Tín này dẫu chết đi cũng không chuộc được tội lỗi với đại huynh.
        Thúc Bảo cũng sa giọt lệ :
        - Phen này tôi khó mà sống được. Chỉ cầu xin đại huynh có một điều, là tôi còn một mẹ già không ai phụng dưỡng. Xin đại huynh viết vài chữ cho gia mẫu biết, và xin đại huynh giúp đỡ cho. Dẫu xuống suối vàng, cũng không quên được ơn đại huynh.
        Tín nhận lơi và tìm lời an ủi. Hai người cùng ăn cơm. Ăn xong, Tín lấy năm lạng bạc cho tên lính canh. Rồi nói với Thúc Bảo :
        - Để tôi vào phủ nói với thứ sử giảm nhẹ tội đi, đại huynh cứ an tâm tĩnh dưỡng.
        Đoạn vào ngay phủ đường, nói lót với Sài tri phủ và Mạnh Hồng hai người nhận lời giúp, hứa giảm tội cho Thúc Bảo. Hai hôm sau, Mạnh Hồng làm án: Thúc Bảo không phải là cường dạo, chỉ là ngộ sát đấy thôi.
        Việc tư lên tỉnh. Phán quan tỉnh Sơn Tây xem án chuẩn phê, đem phát vãng Thúc Bảo đi Ký Châu thuộc tỉnh Hà Bắc, sung vào làm lính dưới trướng soái phủ. Hai người công sai được lệnh dẫn Thúc Bảo đi cũng là hai kẻ hảo hán, một tên là Kim Giáp, một tên là Đổng Hoàn, vẫn đi lại với Đơn Hùng Tín rất thân.
        Được tin, Hùng Tín đón sẵn ở ngoại thành mời hai công sai và Thúc Bảo vào tửu điếm. Tín nói :
        - Tần đại huynh bị đày ra Yên Sơn, không có gì đáng lo ngại nữa, ở đấy tôi có quen một người tên là Trương Công Cẩn làm quan kỳ bài ở soái phủ, lại quen cả hai anh em Uất Trì Nam và Uất Trì Bắc hiện làm chức quan trung quân soái phủ. Khi đại huynh đến nơi tìm vào Thuận Nghĩa thôn đưa phong thư này của tôi cho Trương Công Cẩn rồi hãy vào đệ công văn.
        Thúc Bảo xiết bao cảm động :
        - Đại huynh đã vì tôi mà tốn bạc vàng, mất ngày giờ săn sóc, ơn ấy thề phải báo.
        Tín nói :
        - Nghĩa bạn bè hoạn nạn phải có nhau. Chỉ vì tôi mà đại huynh bị liên lụy, tôi dù có móc gan lấy óc cũng chưa đủ chuộc tội này. Còn như thân mẫu ở Tế Nam, tiểu đệ xin chu cấp.
        Bảo hai ba lần vái tạ. Tín láy năm mươi lạng bạc đưa Thúc Bảo, lại lấy hai mươi lạng biếu Đổng Hoàn, Kim Giáp, hai người bị ép bất đắc dĩ phải cầm.
        Ba ngươi đi suốt ngày, tối mới vào hàng quán nghỉ. Một hôm gần tới Yên Sơn, trời sụp tối, vào khách điếm, Thúc Bảo hỏi chủ quán rằng :
        - Thôn Thuận Nghĩa ở phía nào?
        Chủ quán đáp :
        - Cách đây năm dặm ở phía Đông.
        Bảo lại hói :
        - Ông có biết ai là Trương Công Cẩn không?
        Nhà hàng đáp :
        - Ông ta làm quan kỳ bài, ai mà chẳng biết. Gần đây, Nguyên soái lại kén một người Trung lãnh quân, tên gọi Sử Đại Nại, Nguyên soái muốn biết Trung lãnh quân có giỏi vũ nghệ không, nên đã sức lập một cái lôi đài trước miếu thổ địa thôn Thuận Nghĩa, hẹn trăm ngày không ai đánh nổi Sử Đại Nại sẽ được lãnh chức. Nếu có người đánh bại hắn, hắn xin nhường xách hành lý đi ngay. Hiện nay đã chín ngày rồi, còn có ngày mai nữa là Sử Đại Nại được lãnh chức anh hùng vô địch.
        Ông Trương Công Cẩn và Bạch Hiển Đạo ngày nào cũng coi sóc lôi đài, các ông muốn tìm, cứ đến dưới lôi đài mà vẫy gọi.
        Thúc Bảo mừng lắm. Sáng hôm sau, ba người ăn cơm cơm, trả tiền trọ, tới thẳng lôi đài. Lôi đài cao chót vót, cờ lọng cắm chung quanh rất uy nghi. Dưới dài, người xem kể có vạn đầu, ồn ào như sóng bể. Một lát có ba người phóng ngựa đến, lính quát người rẽ ra. Sử Đại Nại mặt dữ, vóc to, nhảy vót lên lôi đài, cởi chiếc áo bào đỏ trong mặc bộ áo quần xanh gọn ghẽ, Trương Công Cẩn và Bạch Hiển Đạo ngồi ở trong miếu nhìn ra; uống rượu cùng các thứ quả phẩm, phía sau có lính hầu.
        Tần Thúc Bảo và hai công sai lại gần vào xem cho rõ. Sử Đại Nại múa mấy bài côn quyền rồi nói :
        - Ta vâng lời Nguyên soái lên đài thách anh hùng, thiên hạ có can đảm thì lên đây tỉ thí. Hôm nay hết hạn trăm ngày, nào còn ai dám cùng ta thi sức?
        Hỏi luôn ba lần, khán giả im phàng phắc. Đổng Hoàn ngứa mắt nói :
        - Kẻ vũ phu kia coi thường thiên hạ quá. Tôi xỉn lên đánh nó!
        Kim Giáp và Thúc Bảo chưa nói sao, Đổng Hoàn đã nhảy lên quát lớn :
        - Có ta lên móc mắt mày đây!
        Nói rồi múa quyền xông vào, dùng miếng cao thân mã thế đánh luôn. Sử Đại Nại né mình tránh dễ dàng rồi phóng chân đá vào người Đổng Hoàn. Hoàn toan hắt chân, nhưng Đại Nại khỏe, vững như cột dá.
        Đổng Hoàn bị hắt ngã từ trên đài xuống đất.
        Thấy bạn bi đánh, người xem vỗ tay chế nhạo, Kim Giáp nổi giận hầm hầm, phi mình nhảy lên, chẳng nói năng chi, múa quyền đánh Sử Đại Nại. Họ Sử nghiêng mình đánh dứ một cái rồi xoay mình chạy sang góc đông. Kim Giáp đuổi theo, Đại Nại quay mình lại dùng thế “thoát bào đả thử” tay luồn qua đùi Kim Giáp tung lên.
        Giáp bị ngã ngược đầu xuống ván. Nại thét :
        - Xuống đì!
        Liền đá một cái, cả cái mình nặng nề của Giáp rơi tõm xuống bãi cỏ chân đài. Mọi người cười vạng như sấm.
        Đánh xong hai người, Sử Đại Nại đứng khuỳnh tay, trừng mắt nhìn thiên hạ, coi bộ vô cùng kiêu hãnh.
        Thúc Bảo lửa giận ngùn ngụt cháy, nhảy lên đứng trước mặt Sử Đại Nại, nhẹ như con én: Nại giật nảy mình, chưa kịp lùi giữ thế đã bị Thúc Bảo dùng sa quyền xoắn lấy Nại mà đánh tới tấp như dông bão. Sử Đại Nại hoảng kinh, hoa mắt, rối tay, muốn nhảy né xa nhưng không sao thoát được, phải dùng hết sức bình sinh đón đỡ. Mấy lần Đại Nại suýt ngã, cứ lùi mãi vào góc lôi đài. Người xem la hò như sấm động bốn phương. Sử Đại Nại cứ lùi mãi quanh mà đón đỡ, không trả được miếng đòn nào, mồ hôi vã như tắm, tuột cả áo rơi cả chiếc lụa hồng bịt tóc, và ở mí mắt Đại Nại đã có máu chảy ròng ròng.
        Trương Công Cẩn nói nhỏ với Bách Hiển Đạo :
        - Sử Đại Nại thua đến nơi rồi. hảo hán kia có lẽ là môn phái Sơn Đông. Lối đánh ấy phải là võ thuật gia truyền danh tướng. Sử Đại Nại còn kém lắm, địch làm sao được.
        Hai người càng xem Thúc Bảo tiến lui, dùng đòn rất hiểm, mặt vẫn hồng hào không biến chuyển, tiến thoái vẫn lẹ làng như én liệng, đại bàng bay, không có chi là mệt nhọc. Trái lại, Sử Đại Nại đã hồng hộc thở, chân tay luống cuống, máu ở mắt càng chảy dữ, và ở má đã tím bầm. Công Cẩn hỏi một người xem :
        - Vị hảo hán kia là ai thế?
        Một người đáp :
        - Hảo hán đó cùng đì với hai ngươi kia.
        Trương Công Cẩn gạt người xem tiến đến phía Đổng Hoàn, Kim Giáp, xá mà hỏi :
        - Xin hai ông cho biết vị hảo hán trên đài kia đại danh chi đó?
        Kim Giáp đang vui mùng vì Thúc Bảo đang trả nhục cho mình,bèn nói :
        - Đó là dũng sĩ Tần Thúc Bảo, tiếng tăm đã vang dộng đất Sơn Đông.
        Công Cẩn mừng rỡ ngửa mật lên đài nói lớn :
        - Tần hảo hán hãy dừng tay tha cho Sử Đại Nại được thở đã, có Trương Công Cẩn này muốn thưa câu chuyện.
        Khi đó, Thúc Bảo đã dồn Đại Nại vào góc, đang sắp dùng độc thủ moi mắt Nại thì nghe có tiếng người gọi đích danh mình, lại xưng rõ cái tên mình đang muốn tìm kiếm, bèn trao mình nhảy xuống khỏi đài.
        Đổng Hoàn vội đưa Thúc Bảo đến người lạ mặt. Bảo vái chào :
        Tiểu đệ đang định đến yết kiến tôn nhan, ngờ đâu lại gặp nhau đây.
        Công Cẩn mừng vô kể, dắt tay Thúc Bảo và mời cả Đổng Hoàn, Kim Giáp lên trên miếu, sai dọn tiệc. Yên vị rồi, Thúc Bảo lấy thư của Đơn Hùng Tín đưa Công Cẩn xem.
        Đọc xong, Cẩn vui vẻ nói :
        - Đại ca cứ an tâm, mọi sự an lành xin cứ tin ở Cẩn này hết cả.
        Mỗi người uống vài chén. Công Cẩn sai lính dắt ba con ngựa để bọn Thúc Bảo cưỡi cùng mình về thôn trang truyền bày đại tiệe.
        Tiệc tan, Công Cẩn lại mời bọn Thúc Bảo cưỡi ngựa đến trung quân phủ.
        Tới nơi, Công Cẩn giới thiệu Thúc Bảo với Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, Hàn Thực Chung và Lý Công Đán. Mọi ngươi vội thi lễ nói :
        - Đại danh của Tần huynh bấy nay vẫn từ Sơn Đông vang dội đến cái miền Yên Sơn hẻo lánh này, nay được gặp, thật là đại hạnh.
        - Hảo hán lại tới đây có việc chỉ?
        Công Cẩn móc túi lấy tâm thư của Đơn Hùng Tín đưa bốn người xem, Anh em Uất Trì đọc xong thư đều cúi đầu xuống nghĩ một lát rồi khẽ nói :
        - Đơn Hùng Tín viết thư phó thác Tần đại huynh cho bọn ta, có biết đâu rằng Nguyên soái đây ra kỷ luật quá nghiêm, hễ tội nhân nào đến cũng bị một trăm soái uy côn, trăm tội nhân chết chín chục người.
        Nay đối với Tần hảo hán, ta biết xử cách nào cho ổn.
        Lý Công Đán cũng cúi đầu nghĩ rồi chợt nói.
        - Tiểu đệ có kế này. Nguyên quan Nguyên soái sợ nhất tội nhân có bệnh lao, Hễ ai mắc bệnh đó, được miễn roi lại còn được đưa đi chữa.
        Tần đại huynh da hơi vàng, ta nói dối là có bệnh lao, thế là thoát được.
        Bọn Công Cẩn gật đầu khen phải. Đoạn Uất Trì Nam sai đặt tiệc, cùng nhau say sưa nói chuyện giang hồ, bàn về võ nghệ, rất là tương đắc, tới khuya mới ngủ.
        Sáng hôm sau, cùng đến cửa tổng dinh, ba hồi trống điểm, ba phát súng nổ vang. Trương Công Cẩn vào đứng ở ban kỳ bài. Bách Hiển Đạo về tả lĩnh quân, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc vào trung quân quan, Hàn Thực Chung, Lý Công Đán theo vào ban hữu thống chế, tề tựu theo thứ bậc lên công đường chào Nguyên soái.
        Sau, đến phó tướng, nha tướng, lần lượt kéo vào bái kiến. Sử Đại Nai chưa lĩnh chức, còn đứng chực ở bên ngoài.
        Đổng Hoàn, Kim Giáp giải Thúc Bảo cũng chờ được gọi vào đệ công văn. La nguyên soái đội khăn đỏ, trong mặc giáp sắt ngoài khoác áo bào chẽn hoa vàng ngồi giữa hai hàng binh sĩ, gươm trần, giáo dựng, rất uy nghiêm. La nguyên soái hỏi về việc lập lôi đài.
        Trương Công Cẩn bước ra nói :
        - Hẹn kỳ đã đủ trăm ngày. Không ai dịch nổi Sử Đại Nại, tiểu tướng xin về trình Nguyên soái.
        La nguyên soái đòi Sử Đại Nạt vào. Nại sụp lạy dưới thềm.
        Nguyên soái cho Nại thụ chức hữu lãnh quân.
        Đại Nại tạ ơn về ban đứng. Những công sai các nơi vào trình công văn.
        Kim Giáp Đổng Hoàn được vào trước. Nguyên soái xem xong, gọi Tần Quỳnh vào. Kim Giáp rập đầu nói :
        - Tần Quỳnh người ốm yếu bị ho lao từ trước khi ở Lạc Châu, nay đi đường xa bệnh càng nặng lắm, luôn luôn hộc máu tươi ra. Xin đại quan phát lạc.
        La nguyên soái vốn sợ người ho lao nhưng tính cẩn thận bảo cứ dẩn Tần Quỳnh vào. Tần Quỳnh mới bước tới cửa La nguyên soái thấy vàng vọt xanh xao bèn xua tay bảo dẫn ra, và truyền cho thầy thuốc chữa.
        Sau đó La nguyên soái đứng lên. Ba phát súng nổ vang. Viên môn đóng chặt. Bọn Công Cẩn mừng cho Tần Thúc Bảo, lại rủ nhau về nhà Uất Trì Nam uống rượu mừng.
        Đây nói chuyên La nguyên soái vào tư thất. Công tử là La Thành ra đón. La Thành vốn là sao Bạch Hổ xuống trần. Thành mắt sáng mặt trắng, môi son, năm ấy mới mười bốn tuổi văn hay, võ giỏi, đi đứng ung dung như người lớn. Sau này la Thành sẽ là anh hùng thư bảy đời nhà Tùy. La Thành nắm áo La nguyên soái nói :
        - Mẫu thân con tự nhiên mặt ủ mày chau, lệ sa không dứt, hiện đang ngồi trên lầu ấy.
        La nguyên soái vội lên lầu vấn an phu nhân. Tần phu nhân nói :
        - Chẳng giấu gì phu tướng. Thiếp tôi nghĩ tình máu mủ mà đêm ngày nhớ tiếc. Tần huynh tôi đã vì chúa bỏ mình chiến địa. Nay còn vợ góa, con côi, không biết lưu lạc về đâu? Đêm qua, thấy Tiên huynh tôi hiện về báo mộng rằng Tần điệt nhi mắc nạn phải đày đến đây, hiện ở dưới trướng phu quân. Vậy một lời trân trọng, xin phu quân xét cho một chút máu mủ của thiếp tôi mà rộng ơn che chở cho điệt nhi được no lành, thiếp mang ơn lắm.
        Nói rồi lại khóc. La nguyên soái bùi ngùi, hỏi :
        - Phu nhân có biết lệnh điệt tên gọi là chi không?
        Tần phu nhân nói :
        - Thiếp nhớ thuở xưa, tiên huynh thiếp đặt tên nó là Thái Bình Lang.
        La Công im tăng, rồi nhợt nhớ ra, nói :
        - Sáng nay có một tên tù ở Sơn Đông, huyện Lạc Châu phải đày đến đây. Tên hắn là Tần Quỳnh tuổi còn đang độ trẻ.
        Tần phu nhân giật mình, rú lên :
        - Ôi chao, nếu vậy thì diệt nhi đã chết vì trăm soái uy côn rồi còn gì nữa!
        La nguyên soái nói :
        - Hắn bị ho lao, nên không bi đòn, hiện đã cho chữa thuốc.
        Phu nhân mừng cuống quít bước xuống giọng :
        - Thế thì nhà họ Tần thiếp còn có phúc. Chỉ còn sót lại giọt máu ấy mà thôi.
        Nói rồi lại òa lên khóc, nói rằng :
        - xin phu quân cho thiếp gặp điệt nhi. Nếu quả đúng thì thật tiên huynh thiếp anh linh lắm.
        La nguyên soái nói :
        - Muốn cho cẩn thận thì bây giờ tôi cho gọi hắn vào hậu đường, tra hỏi lại, phu nhân đứng nấp sau rèm mà nhìn mặt xem có đúng không.
        Tần phu nhân vội nghe lời ra ngồi sau sau rèm đợi.
        Tức thì La nguyên soái sai Tần ngạn Tân cầm lệnh tiễn đòi Tần Quỳnh vào hậu đườg ngay. Quan kỳ bài Tần Ngạn Tân phi ngựa tới nhà Uất Trì Nam, khi đó, Tần Thúc Bảo đang cùng bọn Uất Trì uống rượu, thấy kỳ bài đến đòi Thúc Bảo, đều sợ hãi.
        Tần Ngạn Tân nói :
        - Quan Nguyên soái phúc thẩm ở hậu đường, không có gì ngại hết.
        Tần túc hạ cứ vững tâm đi.
        Lát sau tới súy phủ, Ngạn Tân giao Thúc Bảo cho La Xuân dẫn vào.
        Thúc Bảo ngẩng nhìn thấy La nguyên soái ngồi trên ghế trải da hổ, hai bên có gia tướng tuốt gươm hầu. Nguyên soái truyền cho Tần Quỳnh bước tới gần trước ghế. Thúc Bảo quỳ ở dưới thềm. La nguyên soái nói :
        - Tần Quỳnh kìa, cha ông ngươi làm gì, ở đâu. Sao lại bị đày ra đây?
        Thúc Bảo như có thần linh báo, nghi thầm: “Tự nhiên Nguyên soái hỏi tông tích mình chắc định làm ơn gì cho ta đây, Bèn đáp.
        - Chúng tôi quê ở Tế Nam, ông tôi là Tần Húc, cha tôi là Tần Di làm Phục Lỗ tướng quân trước xe loan Tề chúa. Chẳng may đã chết ở chiến trường. Sau đấy, mẹ tôi góa bụa tôi thì bơ vơ mới lên năm tuổi.
        Mẹ con dắt díu nhau sang đất Sơn Đông, Lớn lên quan tri phủ cho tôi làm Bộ đạo đô đầu, sai tôi giải mấy tên tội nhân sang Lạc Châu. Khi trở về, vào một tửu điếm chủ quán là Ngô Quảng đang đêm cầm đao vào những toan giết tôi để đoạt thâu hành lý. Tôi chống cự đá hắn một cái để giữ thân. Không ngờ hắn bị ngã vỡ đầu mà chết. Vì thế phải đày đến đất này.
        La nguyên soái lại hỏi :
        - Mẫu thân ngươi tên họ là chi? Thuở nhỏ ngươi có tên gì khác nữa không?
        Thúc Bảo đáp :
        - Thân mẫu tôi là Ninh thị. Thuở nhỏ, cha tôi đặt cho tôi là Thái Bình Lang.
        La nguyên soái lại hỏi :
        - Ngươi có bà cô nào không?
        Thúc Bảo đáp :
        - Tôi nhớ có một bà cô khi xưa lấy ông quan võ họ La. Cho đến ngày nay đã hai mươi năm rồi, tôi không được biết cô tôi ở nơi nào.
        Từ nãy, Tần phu nhân đã nghe được rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, vội vén rèm bước ra, khóc òa lên :
        - Tần điệt ơi, chính cô của cháu đây!
        Nói rồi cầm tay Thúc Bảo. La nguyên soái cười khanh khách :
        - Nghìn dặm một nhà, việc đời thật do Hóa Công xếp đặt run rủi hết.
        Thúc Bảo ngơ ngác, không hiểu ra sao rụt tay lại mà sụp xuống đất :
        - Dám bẩm phu nhản, tôi là một kẻ tù phạm, biết bao nhiêu tội lỗi.
        Chỉ muốn được quan Nguyên soái tha chết cho là may.
        La nguyên soái đứng lên, cúi nhấc Thúc Bảo dậy ôn tồn nói :
        - Lão phu La Nghệ này là ông quan võ lấy cô ruột cháu đó. Cháu cứ an tâm mà lạy cô cháu đi.
        Thúc Bảo vội sụp lạy Tần phu nhân và La nguyên soái. Sau dó, La Thành chạy vào vái lạy Tần Thúc Bảo. Cả nhà mừng rỡ, như tỉnh giấc chiêm bao. Tần phu nhân sai đun nước cho Tần Thúc Bảo tắm gội lại sai lấy quần áo mới cho thay, đoạn truyền bày tiệc rượu mừng.
        Lúc sau, bọn Trương Công Cẩn nghe biết việc ấy, đều vui vẻ rủ nhau đem lễ vật đến mừng Thúc Bảo.
        Từ đấy, Thúc Bảo ở liền trong soái phủ. La nguyên soái và Tần phu nhân nhận thấy Thúc Bảo mặt mũi phương phi, rõ dòng tướng phiệt, đều mừng rỡ. Một hôm, nhân nói về võ nghệ và binh khí, La nguyên soái nói :
        - Hiền điệt ơi, thân phụ hiền điệt bỏ mình báo chúa, danh còn lưu lại, nhưng chẳng hay đôi Kim giản họ Tần nay lưu lạc phương nào, đã vào tay ai không rõ. Lão phu thường nghĩ đến lấy làm tức lắm.
        Thúc Bảo nói :
        - Khi thân phụ cháu mất đi, cháu lớn lên nhờ lão bộc La Hán truyền dạy giản pháp để ghi lại môn võ họ Tần, ngày nay cháu còn nhớ hết.
        La nguyên soái vội hỏi :
        - Vậy kim giản cháu để đâu?
        Thúc Bảo bèn thuật lại chuyện tri phủ Lạc Châu kết tội tù đạo tặc, đã thu kim giản, ngựa quý, yên đẹp sung vào công khố.
        La nguyên soái nói :
        - Cháu cứ khai mất những gì, ta sẽ sai người cấp tốc đến Lạc Châu đòi lại.
        Thúc Bảo nói :
        - Vây thì may quá. Hiện có hai công sai đẫn cháu chưa về, mai xin giao thư cho họ về trình lại tri phủ thì tiện lắm.
        Nói rồi, chờ tan tiệc Thúc Bảo về phòng viết thư tạ ơn Đơn Hùng Tín, nói nhờ Tín báo cho Tần mẫu biết mình đã gặp Nguyên soái La Nghệ xứ Yên Sơn.
        Sáng hôm sau, La nguyên soái thân viết thư đóng kiềm ấn Nguyên soái, sai Đổng Hoàn, Kim Giáp mang về trình Lạc Châu tri phủ.
        Thúc Bảo cầm thư lên ngụa đến thẳng nhà Uất Trì Nam để giao thư cho Kim Giáp, Đổng Hoàn. Vừa lúc đó hai người đang sửa soạn hành lý ra về, thấy Thúc Bảo đến thì mừng rỡ nắm lấy tay mà chúc tụng. Thúc Bảo nhờ đưa thư, lại kèm thêm hai mươi lạng bạc tặng làm lộ phí.
        Hai người vái lạy, lên đường. Thúc Bảo tiễn ba dặm, rồi quay vào cùng bọn Trương Công Cẩn uống rượu chuyện trò vui vẻ hồi lâu, Bảo mới lên ngựa về La soái phủ. Mấy hôm sau nhân nói về võ nghê, Thúc Bảo ứng dối như nước chảy La nguyên soái, khi về trướng nghỉ, vui mừng nói với phu nhân :
        - Tôi xem Tần điệt, tướng mạo khác thường, võ nghệ, bỉnh pháp tỉnh thông. Tôi muốn cất nhắc cho Tần điệt một chức quan, nhưng hiềm nỗi Tần điệt chưa có công lao, lại đang là một phạm nhân, nhất đán cho quan chức, tất chúng sẽ chê ta tây vị, ý ta cho Tần điệt cùng chúng thi tài võ nghệ, rồi sẽ cho làm quan dưới trướng ta, như vậy lòng người mới phục.
        Tần phu nhân khen phải và cảm tạ. Ngay hôm đó, La nguyên soái nói cho Thúc Bảo biết. Bảo mừng lắm nói :
        - Tiếc rằng đổi giản lại không có ở đây.
        La Thành nói :
        - Biểu huynh dùng giản của em cũng được.
        Nói rồi lấy giản dưa Thúc Bảo. Bảo cầm xem vừa ý lắm.
        Sớm sau, đầu canh năm, La nguyên soái sức truyền tướng sĩ sửa soạn giáo trường luyện võ. Ba tiếng súng nổ vang, cổng soái phủ mở toang. La nguyên soái mặc giáp cầm thương lên ngựa, theo sau có nha tướng đi hầu.
        Tới giáo trường, La nguyên soái lên tướng đài ngồi, ba hồi chiêng trống khua vang. Nguyên soái hạ lệnh ba quân tập trận. Cờ xanh phất, đoàn ky mã bày thành trận thế, sau là bộ binh theo chiến thuật mà dàn, tiến lui đúng phép, người ngựa chuyển hết thế trận này sang thế trận khác, biến hiện thần diệu. Ba phát súng sau, quân nào lại về đội ấy.
        Sau đến cuộc thi tài cung tên. Đích đặt ở phía Nam, các tướng hễ ai băn trúng thì trống nổi ran, ngươi nào bắn sai thì mi phăng phắc.
        Chúng bắn hết lượt rồi, Nguyên soái truyền gọi tội nhân ở Sơn Đông ra. Thúc Bảo nghe loa gọi, dạ to một tiếng dưới tới thềm cúi đầu chờ tướng lệnh.
        La nguyên soái nghiêm mặt nói :
        - Ta muốn kén chọn một Đô lãnh quân, bất luận là quân lính hay tù phạm, ái có tài cung tên, đao kiếm thì cho xung chức. Người có tài cán thì cho thi thố trước ba quân!
        Bảo nói :
        - Chúng tôi quen dùng kim giản, xin cho biểu diễn.
        La nguyên soái truyền mã phu dắt ra một chiếc ngựa cao to. Thúc Bảo nhảy lên yên, không cầm cương, lấy chân thúc ngựa cho phi ra giữa giáo trường. Đó là ngựa riêng của La Nghệ, có ý dành cho Thúc Bảo từ trước. Tuấn mã cất bốn vó phi như gió trên mặt cỏ xanh. Ngựa chạy một vòng. Bảo lấy đùi ghìm ngựa, rút đôi giản múa. Giản pháp dòng họ Tần cũng giống như giản pháp họ La, thật là thần diệu. Một lát người ta chỉ nghe tiếng gió vù vù, và chỉ thấy một vòng hào quang sáng lóe, không thấy người đâu nữa, Bảo vừa múa vừa thúc ngựa phi, thành ra cái vòng hào quang đó bay lơ lửng trên yên ngựa, đẹp như một chiếc cầu vồng sa xuống đất. La Nghệ tấm tắc khen, buột miệng nói to :
        - Thật là cha hùm, con hổ. Dòng danh tướng muôn thuở còn ghì mãi.
        Thúc Bảo biểu diễn đủ 3sáu bài giản, dừng ngựa trước tướng đài, nhảy xuống lạy Nguyên soái chờ tướng lệnh.
        La Nghệ hỏi to :
        - Có ai chê giản pháp của Tần Quỳnh không?
        Bọn Uất Trì Nam Trương Công Cẩn bước ra.
        - Chúng tôi xin bái phục!
        Vừa dứt lời, có người bước ra nói lớn :
        - Sao lại bái phục cái tài mọn đó?
        Thúc Bảo ngửng trông, người ấy mình cao lớn, mắt tròn mặt xám đen, râu tua tủa như thép, mặc giáp dẫm, giày da báo. Đó là Ngữ Khôi, là cháu họ tể tướng Ngữ Kiến Chương triều Tùy khi đó. Tùy văn đế phong cho Ngữ lôi làm tiên phong đã lập nhiều chiến công tốt đẹp.
        La nguyên soái có ý không bàng lòng cau mày nói :
        - Tài đến thế, mà ngươi dám chê bai. Ngươi định làm rối quân pháp ta chăng?
        Khôi né mình lạy mà đáp :
        - Tần Quỳnh là một tên tù tội, chỉ đang quét nhà lao, hầu phân ngựa, sao lại dám sánh ngang hàng đại tướng danh thần của triều đình đã dày công huyết hãn. Còn cái tài giản ấy chưa thể gọi là tài, vì nhận kỹ còn sai nhiều lắm.
        Rồi quay hỏi Thúc Bảo rằng :
        - Ngươi có tài cung tên thì thi thố ra, để làm trò cười nữa cho thiên ha.
        La Nghệ giận lắm nhưng cố nén kẻo quân sĩ biết là thiên vi, bèn nói :
        - Ừ Tần Quỳnh có giỏi cung tên không đó? Thúc Bảo nói :
        - Cung tên cung là cái nghề chơi từ thuở nhỏ của chúng tôi, xin cho phép bắn chim ngang trời.
        Khôi cười khanh khách :
        - Bắn vịt dưới nước chưa chắc trúng, nói gì đến việc bắn chim bay!
        Ngươi nói khoác không sợ chết ư?
        Bảo cười nhạt đáp :
        - Ngươi chớ nên ghen ghét. Có lẽ từ xưa ngươi chỉ là con ếch ngồi đáy giếng chưa mở mắt xem phép giản họ Tần này, cũng chưa được thấy tài bách bộ xuyên dương của ta đây.
        Khôi đỏ mặt nói :
        - Nếu ngươi bắn được chim bay, ta xin quỳ dâng ấn tiên phong ngay lập tức. Nhưng ngươi không bắn dược thì sao?
        Bảo nói :
        - Ta cho ngươi cái đầu của ta!
        La nguyên soái nói :
        - Đã vậy thì hai người làm giấy cam đoan đi đã.
        Hai người cùng ký kết. Rồi đó, Thúc Bảo cầm cung tên ngửa mặt lên trời. May sao thấy đổi chim nhạn từ phương tây đến, đôi nhạn chồng cánh lên nhau mà bay rỡn trên mây cao.
        Thúc Bảo giương cung. Cánh dâu uốn như vành trăng thượng tuần, Bảo nói to :
        - Tôi bắn xuyên qua cổ đôi hồng nhạn trên cao kia đó! Trông này!
        Mũi tên vút lên trời xa thẳm. Đôi hồng nhạn sa ngay xuống giữa giáo trường.
        Quán sĩ và bọn Uất Trì, Công Cẩn, La Thành reo vang như sấm động, mưa rào. Một tên quân được phép chạy ra nhặt đôi nhạn lên dâng La nguyên soái. La Nghệ nhìn kỹ mũi tên xuyên ngang cổ đôi chìm, kinh ngạc mà thầm nghĩ :
        - “Quái, tài giản thì họ Tần vốn giỏi đã đành. Còn nghề thương và cung nỏ, trong thiên hạ tưởng chỉ có họ La, vậy mà Tần điệt cũng có tài thần tiễn như thế này!”.
        Nghĩ rồi khen không ngớt. Đoạn bảo Ngữ lôi :
        - Tài giản, tài cung tên đã thế, ngươi có còn gièm chê nữa chăng?
        Giấy tờ cam đoan đã ký kết, kẻ anh hùng hảo hán nên tự trọng, người khá dâng ấn tiên phong cho Tần Quỳnh, kẻo ta quân lệnh mà trị đó.
        Ngữ Khôi cười :
        - Ấn tiên phong của triều đình ban cho tôi, sao lại nhường cho một tên tù chăn nwja, quét rác kia, không có lý nào lại thế!
        La Nghệ giận lắm quát :
        - Tên này nói năng vô lễ, để cho thất phu sống làm gì nưa.
        Rồi truyền võ sĩ đem ra chém. Lôi kêu lớn :
        - Nguyên soái giết tôi là bất công, hãy để tôi thi võ cùng tên tù tội, tôi giết nó rồi chết cũng vui lòng!
        La nghệ nén giân dữ, cho võ sĩ lui ra, rồi bảo Tần Thúc Bảo :
        - Bản soái cho ngươi cùng Ngữ Khôi đấu võ. Đoạn sai lấy giáp, mã đưa Thúc Bảo. Mặc giáp lên yên, Thúc Bảo phi ngựa ra giữa giáo trường, đường đường là một thiếu niên dũng tướng. Bảo quát to :
        - Ngữ Khôi ra đây chịu chết mau!
        Khôi thúc ngựa múa đao chém Bảo. Đôi giản đón đỡ làm bật đao Khôi lại. Lúc đó Khôi coi bốn bể không ai lọt mắt, thấy Thúc Bảo khỏe lạ lùng lại đỡ luôn ba bốn miếng giản rất hiểm ác. Khôi bắt đầu toát mồ hôi. Cứ thế trong ba mươi hiệp, đao giản lóa lửa vây xoắn lấy nhau, ngựa hí, nhạc reo, trống quanh tướng đài vang rộn. Dần dần, đôi giản của Bảo chỉ còn là đạo ánh sáng và tiếng gió vù vù uốn lượn quanh Khôi. Khôi không còn hồn vía, hai tay rời rã, mắt hoa, đầu nhức, chỉ còn cố nghiến răng đón đỡ, rồi thừa một miếng đòn Thúc Bảo vờ đánh hở, Khôi né mình phi ngựa chạy. Nhưng ngựa chưa kịp cất vó, Khôi đã bị đôi giản kia chập lại đánh nát óc ra mà chết. Xác Khôi rơi xuống, con ngựa lồng chạy mãi.
        La nghệ thầm khen tài cháu nhưng thấy Ngữ Khôi chết thảm quá thì có ý tiếc ngồi ngẩn mặt ra. Bọn Uất Trì Nam, Trương Công Cẩn đứng thì thầm :
        - Tiếng đồn Sơn Đông Tần Thúc Bảo quả không ngoa. Tần huynh sẽ là dũng tướng của triều đình đó!
        La Thành thấy anh thắng trận thì nhảy tót ra nắm cương ngựa Thúc Bảo mà cười khanh khách :
        - Biểu huynh giỏi lắm, để mai đấu võ chơi với La Thành này một bữa nhé!
        Các tướng xúm lại xem, thấy Ngữ Khôi chết hẳn rồi. La nguyên soái truyền khiêng thi thể Khôi ra khâm liệm an táng, đang khi ấy, một người bước ra kêu to lên :
        - Sao Nguyên soái dung túng một tên tù để nó giết người như thế?
        La Nghệ ngoảnh ra. Đó là Ngữ Lạng, em Ngữ Khôi. La Nghệ nổi giận quát.
        - Lại tên thất phu này nữa. Ngươi không trông thấy anh ngươi coi người như cỏ, đã ký kết với Tần Quỳnh, rồi lại nuốt lời thách đấu võ.
        Gươm đao không biết nể ai, kẻ làm tướng chỉ có thắng bại, và sống chết, ngươi còn oán gì ta nữa?
        Đoạn sai kéo Ngữ Lạng ra ngoài. Ngữ Lạng bước ra ôm lấy xác anh khóc rống lên ba tiếng, rồi lủi thủi đi ra ngoài thành đứng bên một gốc cây ngẫm nghĩ :
        - Thù này ta phải trả. Chi bằng ta sang ngay nước Sa Đà xúi giục La Khả Hầu cất đại binh phá nát Yên Sơn, bắt La nghệ, Tần Quỳnh băm nhỏ ra mới hả.
        Nghĩ rồi thẳng sang nước Sa Đà.
        Lại nói, La Nghệ truyền quân si kéo về soái phủ. Bọn Uất Trì Nam đến nắm tay Thúc Bảo mà khen ngợi. Sau đấy, La nguyên soái lên ngựa đi trước, Thúc Bảo từ biệt bọn Uất Trì, cùng La Thành cưỡi ngựa theo sau La nguyên soái.
        Tần phu nhân ra đón, thấy La tướng quân có dáng băn khoăn, kinh ngạc hỏi căn do. La tướng công thuật việc Tần Thúc Bảo đánh chết Ngữ Lôi cho phu nhân nghe. Tần phu nhân cả sợ. Chợt một nha tướng bước vào báo tin Ngữ Lạng căm giận ra khỏi thành không biết trốn đi đâu.
        La Nghệ băn khoăn lắm, đoán thế nào Ngữ Lạng cũng lập mưu làm phản, bèn cho quân đì do thám về báo Ngữ Lạng sang nước Sa Đà xui L Khả Hầu cất quân đánh Yên Sơn.
        La nguyên soái làm biểu cho người về kinh sư dâng hà vua.
        Thúc Bảo một hôm nhớ mẹ già quê nhà tựa cửa bỗng nước mắt ứa ra. Bảo nói với Tần phu nhân và La tướng công xin về Tế Nam thăm lão mẫu. Vợ chồng La Nghệ lưu giữ không được đành đặt tiệc tiễn hành, và ân cần viết thư tiến cử Thúc Bảo với quan trấn thủ Sơn Đông là Đường Bích. Vừa lúc đó có người Lạc Châu do Sài tri phủ sai đem Kim Giản và ngựa quí, yên đẹp đến trả lại Tần Thúc Bảo.
        Bảo mùng rỡ nhận ngựa và Kim Giản, sửa soạn hành lý khởi hành.
        La Thành tiễn năm dặm mới quay về soái phủ. Thúc Bảo đến nhà Uất Trì Nam và Trương Công Cẩn lạy biệt, lại cùng nhau uống rượu, rồi lên đường thẳg tới Lạc Châu.
        Vương tởêu nhị hồi trước đã giữ hành lý và bắt Thúc Bảo bán ngựa trả nợ mình, xa trông thấy Thúc Bảo cưỡi Long câu mặc cẩm bào, thì sợ hãi chạy vào bảo vợ :
        - Cái ông khách thiếu tiền trọ ngày nọ bây giờ sang trọng lắm, tất nhớ thù xưa mà hỏi tội ta.
        Nói rồi lên sửa soạn chạy trốn. Vợ là Liễu thị bước ra sụp lạy đón vó ngựa mà rằng :
        - Ngày nọ phu quân tôi vì ngu dốt, thô lỗ mà cam tội với Đại Gia, xin ngươi mở lượng hải hồ tha cho thì chúng tôi xin ngậm vành kết cỏ đền ơn!
        Thúc Bảo nói :
        - Mời hiền ân nhân đứng dậy. Cái ơn cho cơm nguội không khác chi cái ơn Siêu mẫu, Bảo này dầu có làm nên nghiệp lớn cũng xin khắc để bên lòng. Nay tạm có mười nén vàng, gọi là tạ nghĩa hiền nhân, Nói rồi lấy vàng đưa Liễu thị, Nàng sụp lạy mà tạ ơn.
        Thúc Bảo lại lên yên phóng đến Nhị Hiền trang. Gần tới nơi, trời đổ tối. Bóng trăng rải buồn tênh trên rừng núi quạnh hiu. Người ngựa cùng mệt mỏi, phải qua ba đợt núi, bốn quãng rừng mới tới trang viên bọ Đan.
        Hùng Tín nghe gia nhân nói thấy Thúc Bảo về Lạc châu, nên vui mừng ra rừng đón đợi. Khi đó nghe nhạc ngựa reo vang. Tín hỏi :
        - Ngựa Tần đại huynh đó chăng?
        Nhận được tiếng Hùng Tín, Bảo mừng rỡ lên :
        - Chính tiểu đệ đến tạ ơn trời bể của ân nhân đây.
        Tín so cương kìm ngang ngựa Bảo mà cười :
        - Sao lại nói đến điều tạ ân tạ nghĩa cho mất cái khí phách của trượng phu. Nay được thấy mặt đại huynh là thỏa lòng Tín này rồi.
        Bóng trăng sáng soi ngàn dặm để cố nhân đến vơi bạn xưa, thật là vui sướng biết bao nhiêu.
        Đôi ngựa sóng đầu luồn qua cành cây rừng, dẫm lên cỏ rậm, theo bóng trăng mà vừa đi vừa hàn huyên tâm sự ngày xa cách. Tới trang, tiệc rượu đã sàn bày, trăm nến sáng với đèn đồng rực rỡ. Bảo ngạc nhiên :
        - Tiệc bày sẵn đãi khách nào đây?
        Tín cười :
        - Tiểu đệ biết đại huynh qua thăm, nên lòng thành bày tiệc sẵn.
        Bảo cảm động vô cùng. Tiệc vui nửa chừng, Tín đặt chén nghiêm mặt nói :
        - Tiệc xong đại huynh nên về Tế Nam ngay. Là vì từ ngày đại huynh đi, tiểu đê nhận được hai lá thư do lão mẫu viết Tiểu đệ có trả lời. Gần đây, lại có một phong thư nhưng là chữ của lệnh tẩu viết nói rằng lão mẫu bất an, cầm không được bút. Đại huynh nên ngày đêm rong ruổi cho mẹ già khỏi chờ mong.
        Nghe nói, Thúc Bảo để rời chén rượu xuống đùi, nước mắt ứa ra :
        - Nếu vậy xin cho tiểu đệ đi ngay bây giờ, không còn lòng nào ngồi nữa. Khi thân mẫu bình phục rồi tiểu đệ sẽ lại đến đây cùng nhau trò chuyện cho thỏa tình khao khát bấy lâu nay.
        Tín không lưu giữ. Bảo lên ngụa, phi dưới trăng khuya, như mây bay gió cuốn, không nghỉ một lúc nào.
        Mãi tới chiều hôm sau, tới tỉnh Tế Nam, Bảo về tới sân, thả ngựa ra vườn, gõ cửa lo lắng gọi :
        - Hiền thê ơi, bệnh trạng thân mẫu ra sao?
        Trương thị thảy chồng về, mừng khôn xiết, tay đỡ gói hành lý, miệng khẽ nói :
        - Mẫu thán vừa uống thuốc chợp đi đó, phu quân đi khẽ chứ.
        Bảo cởi bỏ giày, bước chân không đến quỳ dưới đầu giường khóc mà nhìn da mặt mẹ già xanh xao, thân thể gầy mòn như cành củi. Chợt Tần mẫu mở mắt ra, khò khè nói :
        - Con dâu của mẹ có đấy không Trương thị nói :
        - Thưa mẹ, con đây.
        Tần mẫu thờ mệt nhọc nói :
        - Mẹ vừa chợp mắt thấy Tần nhi, mẹ tưởng chồng con đã từ địa ngục hiện về đón mẹ.
        Thúc Bảo ôm lấy mẹ, khóc nấc lên :
        - Mẹ ơi, thằng Thái Bình Lang bất hiếu đã về đây!
        Tần mẫu chỉ vì thương nhớ con mà thành bệnh, nay rõ ràng sờ thấy mặt con bệnh tiêu tan hết, khóc ngồi lên.
        Thúc Bảo dập dầu lạy mẹ. Tần mẫu nói :
        - Con ơi, mẹ nhờ vợ con biết đạo làm dâu thờ mẹ, dâng cơm cháo thuốc thang cho mẹ sống đến ngày nay. Con đừng lạy mẹ, chính phải lạy vợ con mới phải!
        Thúc Bảo vâng lời quay lạy Trương thị. Trương thị vội sụp xuống lạy trả chồng. Tần mẫu nói rằng :
        - Từ ngày con ra đi, lao lung những thế nào nói cho mẹ và vợ con được biết.
        Bảo bèn kể sự mắc án ở Lạc Châu, phải đày đi Yên Sơn rồi gặp cô gia cô mẫu. Tần mẫu tủi tủi, mừng mừng hỏi :
        - Thế cô gia con hiện dang làm gì, đã có mấy con trai?
        Bảo nói :
        - Cô gia con làm Nguyên soái ở Yên Sơn, cô mẫu con đã sinh được một trai tên gọi là La Thành mới mười bốn tuổi.
        Tần mẫu mừng rỡ quá, lại chảy nước mắt ra. Bảo lại kể ơn Đơn Hùng Tín, biết lấy gì báo đáp. Nguy Trưng nghe tin chạy ngay đến ôm lấy Thúc Bảo mà tỏ nỗi vui mừng. Rồi các bạn cùng rủ nhau kéo đến đầy nhà. Trương thị làm tiệc khoản đãi hết mọi người, tiếng cưới nói suốt ngày, khiến Tần mẫu bệnh trăm phần khỏi cả.
        Hôm sau, Thúc Bảo đeo kim giản, mặc võ trang, đem thơ tiến cử của La Nghệ đến soái phủ Đường Bích để trình.
        Nguyên Đường Bích quán Giang Đô, sau khi bình được nước Trần, triều dình phong cho làm Hàng huyện công, dinh phủ to như tòa Tam Tư ở kinh đô, lại kiêm chức trấn thủ Sơn Đông kèm cả chức Tiết độ sứ.
        Hôm ấy, Thúc Bảo vào quỳ dâng thơ La nghệ.
        Đường Bích xem thơ, truyền vời Thúc Bảo vào. Bảo vào quỳ trước thềm đợi lệnh. Đường Bích ngắm nhìn Thúc Bảo lưng đeo kim giản, tướng mạo đường đường, có ý yêu mến ngay. Đường Bích nói :
        - Ta vâng lời La nguyên soái hãy tạm cho ngươi giữ chức kỳ bài quan, mai sau có công trạng sẽ thăng thưởng.
        Bảo lạy tạ, ngay lúc dó, Thúc Bảo được ban quần áo đoạn lui ra, về dinh, đã thấy hai mươi tên quân theo sau vào yết kiến.
        Thúc Bảo từ hôm nhận chức kỳ bài, được Đường Bích trọng dụng như thượng khách, luôn luôn mời vào hậu dinh cùng uống rượu chuyện trò. Thấy vậy quân lính càng kính sợ Bảo lắm.
        Thấm thoắt, Thúc Bảo làm việc đã hơn bốn tháng. Một hôm, Đương Bích vời Bảo vào, tự rói rượu mời rồi nói :
        - Đến rằm tháng giêng năm sau, Việt Quốc Công Quảng đại gia ở kinh sư ăn mừng thượng thọ, ta cần đưa lễ vật vào mừng. Trong thiên hạ giặt cướp như ong, ta muốn cậy ngươi đi giúp. Nhà ngươi có sức mạnh khác thường, vì ta mà đi cho việc ấy thì hay lắm.
        Thúc Bảo xin tuân lệnh. Đường Bích cả mừng sai khiêng đôi hòm lớn ra, trong đựng rất nhiều báu vật như dạ minh châu, đai ngoé nạm rồng vàng, kim cương, bảo gấm, một tờ chúc thọ.
        Đường Bích giao mã bài lịnh tiễn cho Thúc Bảo, lại sai hai tên quân mạnh khỏe biết võ nghệ theo hầu Thúc Bảo ở dọc đường.
        Bảo về lạy mẹ, rồi sửa soạn hành lý. Tần mẫu rơi nước mắt vì thấy con lại ra đi muôn dặm xa xôi. Bảo an ủi mẹ già :
        - Lần này con ra đi chỉ một hai tháng sẽ về, mẹ cứ an lòng.
        Rồi ân cần dặn vợ hầu hạ mẹ khi khuya sớm. Sau đó lên ngựa cùng hai tên quân hầu ra đi.
        Ra khỏi địa phương Sơn Đông Hà Nam, Thúc Bảo cho ngựa đi chậm lại, ngửa mặt nhìn ngọn núi Thiếu Hoa ở huyện Hoài Âm, đường núi quanh co, cây cao cỏ sắc um tùm. Bảo ngờ có quân lạc thảo, thúc ngựa lên đi trướcc, tay cầm giản sẵn. Thốt nhiên có tiếng lâu la và tiếng nhạc reo vang. Một chiếc ngụa đen rẽ lau đè cỏ phi ra, trên yên một đại hán mặc áo đen phanh ngục, đầu đội nón chiến lợp bằng lông quạ, mặt đen, râu cứng, mắt lồi, thét vang đòi mãi lộ.
        Thúc Bảo cười nhạt, múa kim giản đánh. Giản bay như gió cuốn, tướng sơn lâm chỉ kíp đón đỡ được mươi hiệp rồi yếu thế chỉ toan phóng ngựa chạy lên núi trốn.
        Tướn g đó là Tề Quốc Viễn. Lâu la thấy chủ tướng sắp thua, liền lên núi, thở hồng hộc nói với hai ngươi dang ngồi uống rượu.
        - Tề đầu lĩnh gặp một gã trẻ tuổi có long câu rất đẹp, đánh giản giỏi vô cùng. Tề đầu lĩnh không sao địch nổi, chúng tôi phải về cầu cứu nhị vị Đại vương.
        Hai người đó, một là Vương Bá Dương, sau khi từ biệt Thúc Bảo qua núi này gặp Tề Quốc Viễn đòi mãi lộ bèn đánh ba hiệp Viễn đã thua sụp lạy mời Bá Dương lên sơn trại làm đầu lĩnh, và một người nữa là Lý Như Khuê cũng là tay hảo hán có tài sang kiếm.
        Bá Dương và Như Khuê nghe nói bèn cầm binh khí lên ngựa xuống núi, đến nửa chừng Bá Dương trông rõ một hảo hán cầm kim giản, nhận ra người cũ gọi to lên :
        - Tần đại huynh ơi! Có tiểu đệ đây.
        Tần Thúc Bảo nghe tiếng quen gọi đích tên mình, rẽ ngựa sang một bên, ngẩng nhìn lên thấy Bá Dương, mừng khôn xiết. Bá Dương giới thiêu Tần Thúc Bảo với Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê.
        Khuê, Viễn vội vàng xuống ngựa vòng tay xá: Núi thái sơn trước mắt mà không biết, chúng tôi có mắt như mù, xin Tần nghĩa sĩ Sơn đông rộng thứ cho. Bấy nay thường nghe đại danh như sấm, nay gặp tôn nhan, thật vạn hạnh.
        Sau đó ba người mời Thúc Bảo lên sơn trại. Qua Uyển Tử thành cùng vào Tụ Nghĩa sảnh, truyền lâu la soạn tiệc.
        Vương Bá Dương nói :
        - Ngày hôm đó Đơn nhị ca cùng tiểu đệ đến quán Vương tiểu nhị tìm thì đại ca đã đi rồi. Khi đó Đơn nhị ca có việc đang bối rối, phải quay về, còn tiểu đệ đuổi theo nhưng không thấy. Tiểu đệ cùng Tạ Ứng Đăng mỗi người đi mỗi ngả. Sau gặp hai hảo hán đây, tiểu đệ đành tạm lên sơn trại này ẩn náu chờ cơ hội sẽ xuất đầu lộ diện.
        Thúc Bảo cũng đem đầu đuôi trước sau kể cho ba người nghe.
        Bá Dương nói :
        - Tiểu đê ngồi mãi đây đã thấy buồn nay đại ca đến kinh sư, cho tiểu đệ cùng đến xem phong cảnh đất đế đô cho khuây khỏa.
        Thúc Bảo vui mừng :
        - Thế thì hay lắm. Vậy xin sửa soạn hành lý để khởi hành.
        Tề Quốc Viền. Lý Như Khuê, cũng đồng thanh nói :
        - Nếu Vương đại ca đi thì cho hai chúng tôi cùng nối gót.
        Thúc Bảo không trả lời, thầm nghĩ: Vương Bá Dương là một tay hào kiệt, bạn của Đơn Hùng Tín ân nhân ta, văn võ đều đều tinh thông. Còn như hai người này mới biết mặt chứ không biết lòng ra sao, họ ở chỗ lục lâm đã quen thói bạo tàn, đến Tràng An quan quân nhiều, tai mắt lắm, nhỡ xảy ra sự gì thì nguy khốn cho mình.
        Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê thấy Thúc Bảo im lặng thì cười nói :
        - Hẳn là Tần nghĩa sĩ ngại nỗi anh em chúng tôi là kẻ lục lâm cường đạo nên có ý sợ chúng tôi làm điều thô lỗ. Nhưng tuy là kẻ thất phu, chúng tôi được đi hầu hai đại huynh cũng phải giữ tròn lễ nghĩa, dám đâu để liên lụy cho đại huynh.
        Nghe chúng nói tận tình, Thúc Bảo không còn nỡ từ chối nữa, đáp rằng :
        - Nếu hai hiền đệ lấy lễ nghĩa làm trọng, cho khỏi có sự phiền nhiễu cho nhau thì xin cùng đi cả cho vui.
        Hai người mừng lắm, bèn kén năm lâu la mặt mũi khôi ngô, tráng kiện cho đi theo. Còn ba trăm kẻ khác phải ở trên sơn trại cấm tuyệt không cho đi xuống núi cướp bóc.
        Canh hai đêm ấy, sáng trăng suông, cả bọn cùng xuống núi, thẳng tới đất Thiểm Tây.
        Ngày thứ tư, cách kinh sư sáu mươi dặm, thấy một ngôi chùa mới.
        Thúc Bảo nghĩ thầm :
        - Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê, ta không nên dắt chúng ngay vào kinh đô, tất chúng sẽ rượu chè sinh vạ lớn âu là nhân có ngôi chùa mới kia ta vào xin một tăng phòng cho chúng ở, chờ tối hôm nào có cơ hội hãy bảo chúng vào kinh đô, như vậy không còn lo nguy hiểm nữa.
        Nghĩ xong nói rằng :
        - Hai hiền đệ ơi, tôi có một ý này muốn nói ra, chỉ e hai hiền đê không ưng nên chưa dám nói.
        Tề Quốc viễn và Lý Như Khuê vội đáp :
        - Chúng tôi theo hầu hai đại huynh, có lẽ đâu dám trái lời dạy bảo.
        - Ở chốn kính sư ngày hội, thiên hạ bốn phương kéo về đông đúc, các khách điếm chật chội, ăn uống không được như ý thích. Chi bằng nhân có ngôi chùa kia mới dựng xem ra cao ráo cây cối âm u, ta vào trọ tại đấy, tha hồ cưỡi ngựa, bắn cung, rồi hôm nào có hội ta cùng vào dạo chơi, hưởng thú ca lâu tửu điếm, như vậy vừa tiện vừa thích ý hơn, hai hiền đệ nghĩ thế nào?
        Quốc Viễn, Như Khuê vui vẻ nói :
        - Được thế thì hay lắm, chúng tôi đã đến đây nhất nhất xin theo đai huynh xếp đặt.
        Sau đó cả bọn vào chùa. Thật là một ngồi chùa mới dựng, rất là tráng lệ, nguy nga. Bốn bề cây cao bóng mát, bãi cỏ vươn hoa rộng mông mênh. Trước cửa có tượng La hán, trong chùa tượng Phật vàng sơn chói lọi.
        Nguyên do, từ khí Đường công Lý Uyên ở chân núi Lâm Đồng được Tần Thúc Bảo đánh bọn Tấn vương phá vòng vây cứu mình thoát nạn, thì phóng ngựa đuổi theo để hỏi tên họ mong báo đáp, nhưng Thúc Bảo sợ tai vạ phi ngựa chạy.
        Thấy Lý Uyên cố đuổi theo hỏi tên tuổi mãi, bất đắc dĩ phải xưng là Tần Quỳnh, nhưng khi xưng tên, Bảo giơ tay lên! Thành ra Lý Uyên chỉ nghe được chữ “Quỳnh” và thấy Bảo khi nói có xua tay thì đoán là chữ “Ngũ”, nên từ đấy Lý Uyên cứ yên trí là Tần Ngũ.
        Về đến đây, Lý Uyên đêm ngày nhớ công ơn ấy, nên lập ngồi chùa mới này, gian bên hữu có bức hoành phi khắc chữ ân công “Quỳnh Ngũ sinh vị” trên án cao có dựng pho tượng rất lớn giống hệt Tần Thúc Bảo, hai bên có kẻ hầu dắt con long câu, và cầm đôi kim giản.
        Hôm ấy, nhà sư dâng mời cả bọn cơm chay xong, thấy trời còn sớm bèn dắt nhau đi xem phong cảnh. Trước hết lên đại điện, Tần Thúc Bảo và Vương Bá Dương ngẩng đầu nhìn đọc mấy chữ bài vị kia lại nhìn pho tượng giống Thúc Bảo in như đúc, Bá Dương kinh ngạc ghé tai Thúc Bảo hỏi khẽ :
        - “Đại ca có nhận thấy pho tượng kia giống đại ca không?”. Mà sao trên bài vị lại đề Tần Ngũ? Thật là khó hiểu.
        Tần Thúc Bảo tuy cũng nhận ra pho tương đó giống mình đang nghi ngờ kinh hãi thì thấy một hòa thượng già lên thắp đèn nhang. Vị sư xong việc hương đăng, đánh chuông rồi ngồi tụng niệm dưới pho tượng đó.
        Chờ nhà sư đọc xong kinh, Bá Dương bèn hỏi :
        - Dám thưa sư phụ, pho tương kia có lẽ là tượng người đang sống.
        Chẳng hay sự tích thế nào xin sư phụ pho chúng tôi dược biết.
        Hòa thượng bèn mời mọi người lên để phương trượng kể đầu đuôi việc Đường công Lý Uyên nhớ ơn Tần Ngũ cứu toàn gia quyến ở chân núi Lâm Đồng sơn thế nào, nên nay lập chùa tạc tượng thờ để tỏ lòng nhớ ơn Tần ân nhân đó. Nghe hòa thượng kể xong, mấy người bước ra vườn dạo chơi. Bây giờ cuối hạ sang thu, gió hiu hiu mát hoa nở trăm hương sắc. Nhân lúc Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê mải xem tượng ở gian bên, Bá Dương nghĩ đến câu chuyện thờ Phật sống, mà ông Phật ấy đang đi sát cạnh mình Dương bật cười vang lên, cầm tay Bảo nói :
        - Sự đời nghĩ thật loanh quanh, người đang sống đây mà lại có kẻ ngày ngày hương hoa cúng lễ. Thế ông Tần Ngũ của tôi có phù hộ cho người ta việc gì không? Mấy hôm nay ăn cơm chay chán lắm. ông Phật Tần Ngũ có khôn thiêng thì báo mộng cho nhà sư đãi ông một bữa rượu thịt cho chúng tôi nhờ với!
        Thúc Bảo nghe cũng cười vang đáp :
        - Quả thật, đúng như lời nhà sư nói, khi đánh cả đôi giản vào vai Tấn vương, tôi chắc thế nào cũng gãy xương, tôi vội phi ngựa chạy hơn mươi dặm, Đường công còn đuổi theo hỏi bọ tên. Tôi giơ tay xua Đường công trở lại mà xưng tên. Thành ra không hiểu thế nào mà lại đặt tên mình là Tần Ngũ, còn như cái việc rượu thịt thì xin khất tối mai, tiểu đệ vào dâng nộp lễ vật Dương Việt công xong, ta sẽ cùng vui thú vài đêm rồi tiểu đệ phải về Tế Nam phục lệnh, kẻo mẹ già mong đợi.
        Câu chuyện nói đùa bất ngờ có người nấp sau khóm hoa mẫu đơn từ đã nãy nghe rõ, và đã nhận kỹ tướng mạo Tần Thúc Bảo giống như hệt pho tượng lớn kia, thêm đôi giản đeo bên lưng, lại càng không còn ghi ngờ gì nữa.
        Người ấy là Sài Thiệu con rể Đường công Lý Uyên được lệnh Đường công ra trông nom cho thợ làm nốt trăm gian táng phòng nữa, Sài Thiệu chạy ra sụp lạy mà rằng :
        - Dám thưa bồ tát nghĩa sĩ, chính ngài đã cứu toàn gia nhạc phụ tôi, ơn ấy đã lập chùa dựng tượng kỷ niệm đời đời, ngày đêm cúng lễ, nay trời lại run rủi cho gặp bồ tát ân nhân, thật là đại phúc.
        Nói rồi Sài Thiệu mời cả bốn người vào phương trướng uống rượu, cùng tự giới thiệu họ tên.
        Sau dó, Sài Thiệu cho người thân tín phi ngựa ngày đêm về Thái Nguyên báo tin vơi Đường công Lý Uyên.
        Trong khí ấy Thiệu cùng bọn Tần Thúc Bảo ngày ngày tiệc vui, Thiệu một lòng cung kính đối với Tần Thúc Bảo.
        Sắp đến ngày chúc thọ Dương Việt quốc công, Thúc Bảo nói tạm biệt Sài Thiệu vào kinh sư dâng lễ. Sài Thiệu cũng xin theo. Tất cả năm người lên ngựa nhằm Tràng An thẳng tiến.
        Hai ngày sau tới nơi, bọn Thúc Bảo vào trọ tại khách điếm họ Đào.
        Ngủ một đêm, sáng sau Bảo gọi chủ hàng nói :
        - Nhà người biết đường đưa ta đến cửa Mạnh Đức và phủ Dương Việt công, ta đưa lễ mừng xong sẽ tạ công!
        Chủ quán sai Đào Dung, Đào Hoa là gia nhân đi dẫn đạo.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #5
          Hồi 5 - Xem hoa đăng, Quốc Viễn đốt Tràng An

          Hồi 5

          Xem hoa đăng, Quốc Viễn đốt Tràng An
          Mê mỹ nữ, Dương Quảng trừ Văn Đế

          Dương Việt Công thấy các quan tứ xứ cho người đem lễ vật đến nhiều quá, nên giữa canh hai, sai mở cửa thành, hạ lệnh cho quan Tuần thị kiểm soát mới đệ vào trong phủ Việt công.
          Quan Tuần thị là Võ Văn Thành Đô, sức khỏe như sư tử một ngọn lưu kim sang địch được muôn người, thiên hạ xếp đặt Võ Văn Thành Đô là anh hùng thứ hai trong triều Tùy đế. Đó là con trai lớn của Võ Văn Thuật đang ngồi ghế đại thần trong triều.
          Hồi canh năm, bá quan văn võ vào yết kiến Dương Việt công, chúc mừng thượng thọ. Việt công đội mũ thất bảo, ngồi trên ghế cao bọc gấm, tỳ thiếp đứng hầu sau lưng đẹp như tiên nga giáng thế.
          Bên Dương Việt công có một người họ Lý tên Tĩnh, hiệu là Dược Sư, vốn là đồ đệ đức Lâm Thiều Nhiên, có tài hô phong đảo vũ, cưỡi mây đạp gió, đoán biết hết việc trước sau.
          Các quan được Dương Việt Công đãi yến, ca nhạc múa hát vang lừng. Ba trăm mỹ nhân ra chuốc rượu, cuộc vui kéo dài tới sáng. Việt công đã cắt môn hạ mỗi người nhận lễ vật của các quan từng quận một.
          Lý Tịnh nhận lễ vật miền Sơn Đông.
          Tần Thúc Bảo đem lễ vật đệ trình. Lý Tịnh thấy Thúc Bảo tướng mạo anh hùng, biết là một sao Thiên Bồng hạ giới, Lý Tịnh cung kính kéo ghế mời Thúc Bảo ngồi.
          Xem thủ bản biết là Tần Quỳnh, bèn sai đặt tiệc khoản đãi. Giữa tiệc Lý Tịnh buông chén hỏi :
          - Ông đi với mấy người nữa tới đây?
          Thúc Bảo nói trái đi :
          - Chúng tôi thừa lệnh quan trên, chỉ có hai hầu gánh lễ vật mà thôi.
          Lý Tịnh mỉm cười :
          - Tôi ngồi đây nhưng mắt nhìn ngàn dặm, biết rằng ông đi với bốn người bạn nữa. Quân hầu cả thảy mười hai tên.
          Thúc Bảo giật mình đứng dậy vái Lý Tịnh mà rằng :
          - Quả như tiên sinh nói, chúng tôi xin bái phục. Nhưng mong tiên sinh giữ kín cho.
          Lý Tịnh nói :
          - Việc đó không can hệ. Có điều can hệ hơn là ông sắp mắc tai vạ lớn. Đêm nay ông chớ cùng bạn đi xem hội. Sớm mai nên về Sơn Đông là hơn hết.
          Thúc Bảo nói :
          - Nhưng chưa được giấy chứng nhận của Dương đại nhân thì chúng tôi không dám về phục mệnh Lý Tịnh nói :
          - Điều đó do tôi quyết định.
          Bèn viết giấy, thay Dương Việt công, trả lời Đương Bích là Tần Thúc Bảo đã nộp trình đủ lễ vật rồi. Thúc Bảo nhận giấy sụp lạy lui ra.
          Tiễn theo ra tận cửa, Lý Tịnh lại ân cần dặn chớ đi xem hội.
          Thúc Bảo đi được dăm bước, Lý Tịnh lại gọi quay trở lại nói rằng :
          - Hảo hán ra đi tôi vẫn không được yên tâm, vì dầu sao hảo hán cũng khó tránh được tai vạ lớn. Nay vì chút duyên nợ với nhau nên vì ông mà tôi bảo vệ cho qua vận hạn. Đây, ông giữ cái túi này, chờ khi nguy cấp lấy túi mở ra tung lên trời mà niệm chú: “Lý, anh mau giải cứu” bấy giờ sẽ tai qua nạn khỏi.
          Thúc Bảo nhận túi, lại sụp lạy rồi rảo bước đi. Ra đến tửu quán, cho Đào Dung năm lạng bạc, đoạn ngồi ăn cơm uống rượu, Bảo nghĩ thầm :
          - Khi lên sơn trại, vì việc muộn xem hoa đăng Tràng An mà bọn Tề Quốc Viễn theo đi. Nay tới đây bảo họ mà lén lút về, sao gọi là trượng phu, hảo hán. Thà gặp tai nạn rồi sau sẽ liệu, chứ không nên lừa dối bạn mà mang điều thất tín. Cái danh trong sạch của ta sẽ vì thế mà bị chúng coi thường mất!
          Ăn xong, trả tiền chủ quán, Thúc Bảo lên ngựa về chùa, thấy bọn Vương Bá Dương đã sửa soạn áo quần sắp vào thành. Thấy Bảo về, chúng reo mừng nói :
          - Có thế chứ, một lời của Tần nghĩa sĩ nói ra, khác gì dao chém đá.
          Nay đại ca về đón chúng mình đi xem hội đấy, ta cùng đi kẻo muộn.
          Mọi người kéo Thúc Bảo ra, sắp lên ngựa thì Bá Dương nói :
          - Chúng ta đi xem hội sẽ la cà, ca lâu tửu quán cho thỏa thích, nay vướng ngựa thì phiền nhiễu lắm, vậy xem trẩy bộ, các ông nghĩ nên chăng?
          Mọi người bằng lòng. Duy có Thúc Bảo Chợt nhớ tới lời Lý Tịnh thì thế nào mình cũng bị vạ to, nên Bảo nghĩ: “Việc tiên đoán của Lý Tịnh ta nên tin một nửa, ngờ một nửa. Nếu quả đúng thì khi đó đi chân chay sao thoát? Âu là đi ngựa để phòng lúc tháo thân”.
          Vì vậy Bảo nói nên đi ngựa. Bá Dương thì đi chân. Hai ngươi không ai nhường ai cả. Lý Như Khuê nói :
          - Theo ý ngu đệ thì ta cứ cưỡi ngựa tới cổng thành, sẽ giao hành lý và ngựa cho hàng quán, như thế thì không bận bịu gì mà lại đỡ mỏi chân.
          Mọi người đồng lòng theo cách ấy. Năm ngựa phi như gió. Một lát tới cổng thành, tìm một khách điếm rộng nhất mà uống rượu và gửi ngựa. Thúc Bảo phòng bất trắc, đưa thư trả lời của Lý Tịnh cho hai tên theo hầu giữ hộ, và dặn nhỏ :
          - Ngựa của ta cứ để yên cương rồi chờ sẩm tối đem đến sát cổng thành mà chờ ta. Phải nên ghi nhớ đó.
          Rượu xong, Bảo cùng bọn Bá Dương giắt đoản đao vào mình phòng thân, đem hai kẻ thân tín theo hầu, kéo cả vào thành xem hội.
          Tới nơi thấy cửa nhà tráng lệ đèn treo lá kết ngựa xe tấp nập, người chen chúc ngược xuôi như nước, chỗ này tửu quán nam nữ thanh tú nô đùa, chỗ nọ ca lâu tài tử giai nhân đàn hát.
          Bọn Thúc Bảo cười nói vui vẻ lắm, qua cổng đại dinh Tư Mã là Võ Văn Thuật, thấy lâu đài nguy nga, ngoài sân có cỏ rộng thêng thang dựng một nhà chòi lớn trên đề chữ “Thái hài lâu” bất cứ sang nghèo đều được mời lên để đánh cầu.
          Lầu đó được dựng lên do ý của công tử con út của Võ Văn Thuật là Võ Văn Hóa Cập. Hóa Cập xưa nay cậy thế cha chơi bời lêu lổng, quanh hắn có một lũ a dua nịnh hót.
          Hóa Cập ngồi trên đài cao, sau lưng có bọn đầu trâu mặt ngựa. Hóa Cập ra lệnh rằng hễ ai đá được quả cầu ngũ sắc qua cầu đài thì được thưởng bạc năm thoi lụa năm tấm, hễ ai đá cầu qua biển Thái hài môn thì được thưởng ngân bài và vải lụa, kẻ nào đá không trúng thì bị đày tớ của bọn đầu trâu đứng sau Hóa Cập kia múc nước bẩn hắt vào mặt cho công chúng cười vang chế giễu.
          Thấy lạ, năm hảo hán bước vào coi. Trong số năm người, duy có Tề Quốc Viền tự thuở nhỏ đã làm nghề lạc thảo lục lâm nên không biết trò chơi ấy, còn như Lý Như Khuê vốn xưa là tay hào phú phong lưu, Thúc Bảo vốn người từng trải chốn kinh thành. Bá Dương vốn là một võ quan Sà Phò mã thì có mùi chơi gì là chưa nếm. Bốn người không cho lối đá cầu là lạ duy có Quốc Viễn cứ đứng tròn mắt ngẩn ra xem.
          Viễn níu áo giục Sài Thiêu vào chơi thử. Sài Thiệu vốn xưa nay thích đá cầu. Tên lính hầu đứng gần đấy bung quả cầu ngũ sắc ra nói với Sài Thiệu :
          - Xin Phò mã đá cầu tiêu khiển.
          Sài Thiệu hỏi :
          - Bên cạnh công tử kia có hai mỹ nữ, chẳng hay ả đó có biết chơi cầu hay không?
          Tên lính đáp :
          - Công tủ tôi mua hai nàng đó ở xóm nhà hát, mới mang về. Một nàng là Thái Bài Phi, một nàng là Kim Phượng Vũ cả hai cùng giỏi đàn ca, mà nghề đá cầu lại càng giỏi lắm.
          Sài Thiệu cao hứng nói :
          - Ta muốn cùng hai nàng đó dạo chơi một ván cầu ngươi vào hỏi dò xem.
          Tên lính đáp :
          - Điều đó chẳng khó chị, miễn tướng công cho tôi một món tiền uống rượu.
          Sài Thiệu quen thói phong lưu móc túi cho ngay năm lạng. Tên lính híp cả mắt, chạy ngay lên lầu nói to :
          - Có một người coi bộ rất hào hoa muốn xin phép công tử cho hai mỹ nhân xuống dạo cầu mua vui.
          Võ Văn Hóa Cập vui vẻ bảo hai mỹ nhân xuống thi tài. Hai nàng gót sen yểu diệu tiến đến theo sau là hai hầu gái bưng quả cầu ngũ sắc.
          Chào hỏi nhau xong, hai người đứng hai bên, thị nữ tung cầu lên cho hai bên vào cuộc. Hóa Cập cùng thủ hạ đứng tựa lan can nguyệt đài xem đá cầu. Sài Thiệu nhân lúc cao hứng đem hết nghề chơi tài tử ra thi thố đá luôn ba lần quả cầu vượt biển “Thái hài môn”.
          Công tử Hóa Cập sai ném bạc và lụa xuống như mưa. Mấy tên hầu của bọn Thúc Bảo ra công nhặt. Quốc Viễn vốn quê mùa thích quá gào múa ầm lên :
          - Phò mã hay quá, mỹ nữ thua rồi!
          Bên kia, người đẹp không sao đá được trúng đích, đến nỗi mắt mờ, tóc sổ, má hồng thấm ướt mồ hôi, hài thêu lầm bụi, hơi thở rộn ràng cùng thẹn nhìn nhau giữa tiếng cười la ó của người xem.
          Hai mỹ nhân thẹn quá xin thôi. Thúc Bảo toan lấy hai chục lạng bạc và lụa gấm kia tặng lại mỹ nhân, nhưng hai nàng thẹn quá vén xiêm mà chạy lên lầu.
          Bọn Thúc Bảo vào tửu lầu sang trọng nhất, tìm một cái bàn to giáp cửa sổ trông xuống dưới đường, rồi gọi lấy rượu ngon. Rượu đã ngon, thực phẩm tốt, lại quanh lầu réo rắt tiếng đàn ca và bóng xiêm, hương phấn mỹ nhân trước mắt, khiến cùng say sưa. Mãi tới khi trăg mọc, lại cùng nhau la đà cầm tay dắt nhau ra phố xem hoa đăng.
          Đèn sáng như một trời sao đảo ngược, ánh sáng bốc lên như bể lửa, người đi trong ánh sáng đông hàng muôn vạn, toàn là gài lịch, trai thanh.
          Ở cửa dinh quan Tư Mã, nhiều đèn và hoa lá nhất, người xem lóa mắt nhức đầu. Một con kỳ lân to như một con voi kết bằng lụa năm màu và dát kim cương vàng bạc, dưới móng kỳ lân căng tấm lụa thêu mấy chữ “Vạn phúc lai trào”. Trên lầu ánh đèn soi rực rỡ câu đối vàng son :
          “Châu lộ chinh tướng hiển thánh giáng phàm bang hữu đạo.
          Tùy trao hiển thị nhân Quân trị thế thọ vô cương”.
          Tạm dịch nôm là :
          “Đời Chu hiển thánh ra đời nước có đạo.
          Triều Tùy vua nhân thọ khôn cùng”
          Hai bên kỳ lân khổng lồ đó có hai người kết bằng bông nhuộm đủ màu cưỡi hai mãnh thú cũng bằng bông. Lại có câu đối rằng :
          “Tử Đồng đế quân thừa bạch xà, hạ phàm thế,
          Ngọc Thanh lão tử khóa thanh ngưu, tây xuất Dương quan”
          Tạm dịch nôm là :
          “Đế quân tử đồng cưỡi rắn trắng xuống trần gian,
          Lão tử Ngọc Thanh cưỡi trâu xanh ra Dương quan”.
          Bọn hảo hán lại dắt tay nhau ra cửa đông nam, qua phủ Dương Việt công, thấy cổng đại dinh đèn sáng cờ bay, lính gác các nhà trước phủ đều đặt bài vị Thiên tử, đốt trầm, tỏ ý vua tôi cùng vui. Trong phủ thỉnh thoảng lại bắn súng, ngoài nhà thường dân thì cứ súng nổ người ta lại bảo nhau đốt pháo theo. Người đi đường vỗ tay nhau mà hò hét và ca hát.
          Ở cổng lớn bên trong, đèn, đuốc sáng tựa ban ngày. Có hình nhân cỡi điểu thú, và có câu đối chữ như rồng như phượng.
          Tây phương Vương mẫu tọa thanh loan Giao Trì phó yến, Nam cực Thọ tinh kỵ bạch hạc hái ốc thiêm chù”
          Tạm dịch nôm là :
          Vương mẫu Tây phương cưỡi loan xanh Giao Trì phó yến.
          Thọ tinh Nam cực cưỡi hạc trắng phù hộ nhân gian”.
          Bọn Thúc Bảo lại dắt nhau đi. Quốc Viễn quanh năm ở sơn lâm làm giặc giết người lấy của, nay mới thấy đế đô nhộn nhịp hào hoa, thì vui thích ăn nhiều uống khỏe, say túy lúy. Cả bọn vui chân vào thành vua.
          Ở đây thật là một thế giới hoa đăng, phần lịch sự gấp ngàn lần đại phủ Dương Việt công. Bao nhiêu trái gái sắc tài rủ nhau cả vào đây để hẹn hò tình tứ. Ngươi ta vào đây để ghẹo nguyệt trêu hoa, mà người ta vào đây cũng là để chịu một tai vạ lớn. Trong số đó có mụ Vương lão bà cùng con gái là Uyển Nhi đẹp như Hằng nga xuống trần tả không sao xiết. Mẹ con Uyển Nhi đi đến đâu là các công tử bám theo đến đấy như ruồi bâu nhặng đuổi. Lúc đi qua cổng thành, các cậu thừa lúc đông người thi nhau kéo xiêm, níu áo sờ tóc ôm lưng. Mẹ con Uyển Nhi kêu sợ không còn hồn vía.
          Có kẻ đầu trâu thấy có mồi ngon chạy ngay về mách Võ Văn Hóa Cập. Cập ba chân bốn cẳng tới nơi, trông thấy Uyển Nhi thì cứ như là chết đứng, mắt hoa, tay nhũn, chân mềm chỉ toan ngã xuống. Một lát định thần, công tử Hóa Cập chạy tới ôm lấy nàng ẵm lên tay như người ta bẻ một cành dương liễu. Công tử vừa ôm ẵm vừa hôn hít giữa đám đông người, không còn biết giữ danh diện là chi nữa.
          Vương lão bà sợ quá hóa tức, tức dĩ dâm liều, và cũng không biết đó là con chó sói Võ Văn Hóa Cập, bèn nổi giận một tay gỡ con ra, một tay bấu cào, tát đánh nát cả mặt công tử Cập.
          Cập kêu vang như cơn chó bị thương :
          - A con mụ này dám đánh ta! Chúng bay đâu trói đem cả mẹ con nó về ngay phủ. Mẹ con Uyển Nhi gào khóc, cầu mọi người cứu giúp.
          Nhưng thiên hạ còn ai lạ con chó sói, đành rẽ ra xa nhòm lũ đầu trâu trói mẹ con người đàn bà vô tội. Chốc lát, tới phủ, chúng nhốt người mẹ vào một phòng gần cửa, còn Uyển Nhì thì nhốt vào phòng riêng của công tử.
          Cập đuổi liễu hoàn ra, rồi ẵm uyển Nhi lên giường. Nàng vốn còn nguyệt sáng gương trong, hoa phong kín nhụy, chưa hề gần đàn ông, nay thấy Cập công tử sỗ sàng thì run cầm cập, vừa che đỡ vừa gào khóc gọi mẫu thân. Nhưng sức liễu hình hoa, chịu làm sao được bàn tay cường bạo loài lang sói nên chỉ chớp mắt xiêm rách y tơi, cành thiên hương ấy tan tành trong cơn gió bão.
          Thỏa mây mưa rồi, Cập công tử lại sửa soạn mũ áo, giao Uyển Nhi cho liễu hoàn canh giữ, ra phố tìm gái khác.
          Khi hắn đi qua gian phòng ngoài cửa, Vương lão bà thò đầu ra kêu khóc đòi con gái.
          Hắn quát to :
          - Con gái mụ ta đá hưởng tiết trinh rồi, còn đòi làm chi nữa. Muốn sống thì câm miệng.
          Mụ Vương càng gào khóc nói :
          - Tôi đã trót hẹn gả nó cho người ta, xin công tử buông tha nó ra.
          Nếu không tôi đành đập đầu chết ở bức tường này.
          Hóa Cập vốn nhát, bèn quát đầu trâu mặt ngựa kéo mụ ra đường.
          Đoan cùng môn hạ đi tìm gái.
          Mụ Vương bị đẩy ngã giúi xuống, cứ nằm mà kêu khóc gọi con, nghe thật ảo não, thương tâm.
          Vừa hay, bọn Tần Thúc Bảo dắt tay nhau đi tới. Thấy người đàn bà già nua gào khóc, Vương Bá Dương hỏi mấy kẻ đứng xem. Chúng bèn thuật rõ việc công tử Hóa Cập xưa nay vẫn cậy thế cha bắt đàn bà con gái mà hãm hiếp rất nhiều. Lại kể cái cảnh mẹ con Uyển Nhi vừa bị hắn uy hiếp đánh mẹ đuổi ra, bắt con vào làm điều ô trọc.
          Thúc Bảo quên bẵng lời Lý Tịnh, bất bình dẫm chân mà hỏi lớn :
          - Vậy thằng chó chết bây giờ ở chỗ nào?
          Chúng kinh hãi nói :
          - Ông chớ trêu vào con quỷ ấy mà toi mạng đó!
          Thúc Bảo nói lảng đi :
          - Chúng tôi đâu dám sinh sư. Chỉ vì chúng tôi nơi xa đến, muốn biết người ấy ghê gớm đến thế nào để lánh mặt cho khỏi sinh tai vạ đó thôi.
          Chúng nói :
          - Đã vậy thì chúng tôi nói cũng chẳng hề chi. Số là công tư Võ Văn Hóa Cập, nuôi nhiều môn hạ lắm. Mỗi khi ra đường, công tử cưỡi ngựa đi giữa, dọn đường là năm mươi thủ hạ cầm côn, đi trước ngựa là năm mươi võ sĩ, gươm trần giáo dựng, đi sau ngựa là mấy tay vỡ nghệ cao cường lắm. Trong thành này công tử biết ai có võ, sai gọi đến, hễ kẻ ấy quả có võ nghệ tinh thông thì được trọng thưởng, võ nghệ kém thì bị thủ hạ cầm côn lại đập vỡ óc chết tươi ngay. Giết người xong ném xác vào vào một cái hầm trong đó chứa hàng ngàn đầu lâu oan uổng. Các ông ở xa có gặp thì mau tránh kẻo nguy hiểm đó.
          Thúc Bảo mỉm cười, cám ơn rồi cùng nhau hăm hở vén gọn áo quần, tay thủ binh khí, đi tìm công tử Cập.
          Tìm tới cửa tây, thấy tiếng hò hét oai nghiêm, bọn Thúc Bảo rẽ đám đông tiến vào thấy Hóa Cấp cưỡi ngựa lớn mặc áo bào, mặt mũi choắt cheo, môi thâm, mắt xếch, lưng gù, tay vượn, đi trước theo sau chắc đến trăm tên giáo dựng gươm trần, đứa vào cũng vênh váo, đầu sưng, mặt sẹo, nói cười khả ố.
          Bọn Thúc Bảo chỉ chờ cơ hạ thủ. Bỗng tên quân chạy đến báo :
          - Bẩm công tử, có bọn xả hỏa xi diễn võ để xin công tử cho ít tiền uống rượu.
          Hóa Cập gật đầu nói :
          - Hỏi xem chúng nó múa tích gì.
          Tên quân bẩm :
          - Chúng xin múa tích “Lã Bố ở Hổ Lão quan”
          Hóa Cập cười vang :
          - Thế thì được lắm, Tài kích của Lã Bố đâu phải tầm thường mà chúng dám bắt chước, hễ vụng về ta sai đánh chết.
          Tên quân vừa đi khỏi. Thúc Bảo không sao nén được lòng giận ghét tiến lên trước ngựa Hóa Cập mà rằng :
          - Lũ xả hỏa chúng tôi vốn có lòng tôn kính công tử, chờ đợi đã lâu, xin cho diễn trước.
          Cập hài lòng nói :
          - Ta cho phép, giỏi thì ta thưởng, kém thì ta sai đánh chết. Các ngươi diễn tích gì?
          Thúc Bảo nói :
          - Xin hiến tích Ngũ mã phá Tào.
          Đoạn, năm hảo hán xông vào. Thúc Bảo sử dụng kim giản, Bá Dương múa đôi bảo kiếm, Quốc Viễn múa kim chùy, Lý Như Khuê múa đồng tiên, Sài Tử Lượng múa song kiếm.
          Giản, kiếm, chuỳ va chạm nhau kêu xoang xoảng, ánh thép ngời như sao rụng, trăng rơi. Vòng trong bọn công tử Hóa Cập tấm tắc khen, vòng ngoài dân chúng xúm đông hò hét.
          Quốc Viễn vừa múa vừa thầm nghĩ :
          - Chi bằng ta nhân cơ hộ này phóng hỏa lầu hoa kia, thiên hạ đi chữa cháy, ta sẽ giết hắn, khi đó dễ đường tẩu thoát.
          Bèn rình lúc nhiều người xô vào xem, Quốc Viễn thu chùy nhảy lên mái lầu phóng hỏa. Giây phút lửa ngất trời, hàng vạn con người la hò ầm ĩ, xô nhau chạy.
          Thúc Bảo biết trong bọn mình gây hỏa, sự thế không lui được, liền phóng kim giản phi người lên như con én đánh rụng đầu Võ Văn Hóa Cập, cái mình rẫy trên lưng ngựa, máu phun ngược lên trời. Lũ võ sĩ, giáo sư, thét vang lên, rồi kẻ thương, người kiếm xúm vào đành bốn ngươi. Quốc Viễn đốt xong, cũng phi thân nhảy xuống, chân chưa tới đất, đôi chùy đã đánh vỡ luôn hai cái sọ. Bá Dương, Thúc Bảo tả xung hữu đột, ngót trăm kẻ đầu trâu đứa chết, đứa chạy tơi bời như chuột nhắt.
          Quốc Viễn say máu, đánh giết cả nhân dân, xác chất cao, máu chảy lụt, thật là thảm thiết.
          Năm ngươi mở đường ra phía cửa Minh Đức.
          Quan Tuần thi kinh doanh là Võ Văn Thành Đô nghe báo giật mình, thét vang như hổ đói, nhảy lên ngụa ô truy, cầm lưu kim đang, xông ra đuổi bắt bọn Bá Dương.
          Thấy một chàng to như La hán, oai phong lẫm liệt mạnh hơn hùm xám, mắt sáng, râu thép, mặt nửa đen nửa xanh, múa tít vũ khí lao ngựa tới, Thúc Bảo biết không phải tay vừa, vội giơ kim giản đánh. Võ Văn Thành Đô đón đánh. Đôi kim giản của Thúc Bảo lóe lửa kêu choang một tiếng, cánh tay Thúc Bảo bật hẳn lại dại tê, rời rã, đau nhức, Bảo chỉ còn kịp kêu một tiếng “Ôi chao!” rồi quay đầu chạy. Bọn Bá Dương, Sài Thiệu, Quốc Viễn, Như Khuê, bị Võ Văn Thành Đô đánh suýt bị thương. Bá Dương chay trước, theo sau Thúc Bảo.
          Chợt nhớ tới cái túi của Lý Tịnh, mở ra thấy năm hạt đậu đỏ, tung lên trời nói “Lý Tịnh mau cứu chúng tôi”.
          Bỗng văng vẳng trên không có tiếng gọi :
          - Bọn Thúc Bảo mau chạy về phía đông. Có ta che mắt Võ Văn Thành Đô cho mà trốn.
          Bảo nghe lời nhắm phía đông mà chạy. Võ Văn Thành Đô đang đuổi, tự nhiên thấy trước mắt như có mây phủ sương che, mồ hôi toát đẫm áo, phóng thêm quãng nữa, nhìn sau trước chỉ thấy một bãi tha ma, bên tường thành bèn thúc ngựa quay trở lại.
          Trong khi đó, bọn Thúc Bảo đã chạy về phía cửa Mạnh Đức rồi. Tới nơi, thấy lũ thủ hạ đã giữ năm con ngựa yên cương sẵn, năm hảo hán nhảy phắt lên, quay lại dặn :
          - Các ngươi cứ lững thững về sơn trại sau, chúng ta đi trước. Cấm không được tiết lộ tung tích đó.
          Đoạn năm người phi như gió. Đến chùa Bảo Đức, Thúc Bảo nói với Sài Thiệu nên bỏ chùa rồi về ngay Thái Nguyên, rồi bái biệt Sài Thiệu, bốn người phi thẳng về sơn trại Thiếu Hoa Sơn. Tới nơi, Thúc Bảo gò ngựa nói :
          - Nhớ đúng ngày hai mươi ba tháng chín sang năm, là ngày thọ đản bảy mươi của mẹ già tôi, xin mời chư huynh đến Tế Nam uống rượu mừng cho.
          Bọn Vương Bá Dương vái lạy mà nhận lời. Thúc Bảo không lên sơn trại, phòng ngựa đi thẳng về Tế Nam.
          Thành Tràng An ngập xương đầy máu, cửa nhà lầy lụa cháy không biết bao nhiêu mà kể. Võ Văn Thành Đô đuổi năm người không thấy, hầm hầm quay về dinh. Vỡ Văn Thuật thấy con bị đánh chết thì ngất đi hồi lâu mới tỉnh, hỏi đầu đuôi tại sao lại có người hạ sát. Chúng thủ hạ kể việc công tử hãm hiếp ả Uyển Nhi. Võ Văn Thành Đô nổi giận, sai dẫn Uyển Nhi ra, vớ cái côn ném vỡ đôi đầu, thương thay gái hồng nhan nào có làm gì nên tội mà chết thảm như vậy đó! Lại sai bắt cả nhà Vương bà giết hết.
          Sau đó hỏi hình dạng tên đầu thủ. Chúng tả rằng người ấy mình cao, tướng mao đường đường, mặt vuông, mắt sáng cầm dôi kim giản.
          Võ Văn Thuật sai vẽ phỏng hình kẻ phá kinh đô, truyền dán các nơi, truy nã Tần Thúc Bảo ráo riết.
          Đây thuật chuyện Thái tử Dương Quảng tức Tấn vương đã đoạt ngôi Đông Cung của anh là Dương Dũng, lại đã bức Đường công Lý Uyên đi nốt, chỉ còn ngại có bà Độc Cô chánh cung, sau bà Độc Cô tạ thế, Dương Quảng không còn sợ ai nữa, sinh hoang dâm vô độ bỏ vàng bạc kết giao với lũ gian thần làm vây cánh.
          Bấy giờ, Tùy Văn Đế cũng đang say mê hai mỹ nhân, một là Trần phu nhân, một là Sái phu nhân. Văn Đế ngày một yếu già, vì tửu sắc quá độ mà thụ bệnh.
          Trước kia Văn Đế có sai Dương Tố dựng cung nhân thọ, cung đã dựng xong, Văn Đế vào đó nằm dưỡng bệnh. Bệnh một môi ngày thêm nặng. Thượng thư bộc sạ Dương Tố, Lễ bộ Thượng thư Liêu Thuật, Hoàng môn nhị lang là Nguyên Nham, thay nhau chầu chực trong cung sớm tối.
          Thái tử Dương Quảng chầu chực trong đền Thái Bảo.
          Còn bên long sàng thì luôn luôn có Trần và Sái phu nhân. Cách hai ngày, Thái tử lại xin vào thăm bệnh, Thái tử thấy Sái phu nhân đã đẹp lại thấy Trần phu nhân lại dòng dõi vương giả, (nàng là con gái vua Cao Tôn nước Trần) từ thuở bé quen màn the trướng gấm, nên nhan sắc thực sánh ngang với Đắc Kỷ, Tây Thi.
          Thái tử tuổi trẻ lòng xuân, mỗi lần vào, thấy hai người không những không lảng tránh lại còn liếc mắt đong đưa, bỗng đem lòng say đắm.
          Có một buồi chiều, Thái tử vào thăm bệnh Văn Đế. Khi đi ngang qua hành lang vắng vẻ, thấy lẫn trong hoa viên một bóng xiêm trắng bay theo gió. Thái tử rảo bước đuổi theo. Người đàn bà ấy biết có người đuổi theo bèn ung dung bước chậm, rồi rẻ vào một góc vườn vắng, ngồi bên hồ bán nguyệt.
          Thái tử đến, đứng im nhìn say sưa bóng Trần phu nhân in xuống nước lẫn vớt bóng hoa. Như thế một hồi lâu, hai bên cùng ngắm nhau, cười với nhau dưới gương nước hồ trong. Rồi không cầm được lòng xuân, Thái tử cúi xuống, đặt tay lên vai nàng. Trần phu nhân vờ nghiêm mặt nói :
          - Thái tử sao dám đường đột vào cấm viên này. Thế là vô phép đó.
          Thái tử quỳ xuống nói :
          - Tôi biết tội đã nhiều, nhưng chỉ mong được chết dưới bàn tay ngà ngọc của mỹ nhân.
          Trần phu nhân dịu giọng nói :
          - Tôi đã trót gửi thân cho thánh thương. Vây nên giữ lễ quân thần phụ tử, sao lại thế?
          Thái tử biết rằng Trần phu nhân bấy lâu nay đối với mình đã ý gửi tình đưa, đó là lời nói giả vờ bèn ôm chầm lấy mà rằng :
          - Tôi sao lại không biết thế, cho nên muốn chết dưới bàn tay ngà ngọc của mỹ nhân. Phu nhân ơi, có đành lòng để cho kẻ bạc hạnh này phải chết không? Nếu không thì hãy cùng nhau thỏa tình khao khát.
          Nói rồi càng ghì chặt. Thốt nhiên có tiếng giày xào xạc, và có tiếng nói trên hành lang :
          - Thánh thương vời phu nhân, xin đến ngay cho.
          Hai người hoảng hốt bỏ nhau ra, nhìn lên thấy một kẻ cung nữ đang mỉm cười quay gót sen thoăn thoắt. Trần phu nhân vội về ngự phòng, nét mặt còn ngơ ngác, tóc còn xõa rối.
          Văn Đế có lòng ngờ tra hỏi. Bị tra hỏi mãi, Trần phu nhân không dám chối sợ khiên Văn Đế phẫn uất mà bệnh nặng, đành thở dài nói :
          - Thái tử vô lễ lắm!
          Văn Đế đập mạnh tay xuống long sàng :
          - Ta đã biết mà! Thằng súc sinh vờ vào thăm ta, chính là vì việc này, thế nào nó cũng đầu độc ta mất thôi!
          Tức thì truyền gọi Liễu Thuật và Nguyên Nham vào chầu. Khi đó, Thái tử sợ hãi chờ Trần phu nhân đi một lát, cũng men theo chân tường hành lang mà đến cửa cung, nấp một chỗ nghe.
          Nghe trộm thấy Văn Đế nổi giận, sai vời Nguyên Nham, Liễu Thuật chư không vời Dương Tố, biết có cơ nguy, vội lén ra tìm bọn Trương Hành, kể rõ việc Trần phu nhân, và hỏi kế.
          Trương Hành nói :
          - Có kế này, phải làm ngay mới kịp.
          Rồi ghe tai Thái tử nói thầm. Đang lục đó Dương Tố hoảng hốt chạy vào nói :
          - Nguy cấp đến nơi rồi. Không hiểu ai xúi giục mà tự nhên thánh thương vời Liễu Thuật, Nguyên Nham viết chiếu chỉ triệu Thái tử Dương Dũng về. Liễu và Nguyên đã làm xong chiếu chỉ, sắp cho đưa về Tế Ninh. Mai kia Dương Dũng đến, tất Thái tử bị truất mà bọn chúng tôi cũng bị bỏ có khi còn nguy cho tính mạng nữa chứ không chơi!
          Thái tử nói :
          - Ông không lo, đã có kế của Trương Hành rồi.
          Ngay lúc đó, Hành làm giả thánh chỉ sai Võ Văn Thành Đô đem quân đến tòa soạn chiếu bắt Liễu Thuận, Nguyên Nham lấy cớ là Liễu, Nguyên làm việc chậm trái ý Thánh thượng, bắt giam vào ngục Đại lý tự.
          Sau lại truyền cho quân lính gác cửa cung khó nhọc, được tạm ra ngoài nghỉ ngơi. Trương Hành tự đem quân của mình vào giữ, cấm không cho ai ra vào hết. Đoạn nhổ cỏ nhổ cả gốc, làm chiếu giả cho đòi vời Thái tử cũ là Dương Dũng về cung để tìm cách giết đi.
          Lúc đó, Văn Đế đã gần mê man, gọi :
          - Liễu Thuật, Nguyên Nham đã thảo xong chiếu chỉ chưa?
          Trần phu nhân đáp rằng chưa. Chợt có nội thì tâu rằng :
          - Quan Trương Hành xin vào hầu hạ thuốc thang.
          Không cần chờ lệnh, Trương Hành cứ tự tiện dẫn hơn hai mươi tên thân tín vào cung, cho những nội thị cũ ra ngoài.
          Bọn nội thị đã từ lâu hầu hạ đêm hôm, thấy được có người thay cho nghỉ thì vui mừng ra hết.
          Trương Hành vào thấy Văn Đế nằm lim dim, chẳng cần giữ lễ vua tôi chi cả, bảo Sái và Trần phu nhân rằng :
          - Xin hai phu nhân tạm ra ngoài kia cho tôi được tâu xin Thánh thượng.
          Hai nàng thấy Trương Hành dữ tợn, không dám trái ý, rón rén lui ra, nhưng sai cung nhân đứng núp nhìn qua khe cửa nghe ngóng. Chỉ một lát, Trương Hành hốt hoảng chạy ra nói :
          - Thánh thượng băng hà rồi. Xin hãy cứ giữ kín cho, đừng bảo Thái tử biết vội, mà các bà cung tần, cũng đừng khóc lóc vội.
          Trần, Sái phu nhân đều nghi Trương Hành giết chúa, nhưng sợ mà không dám nói ra. Trương Hành lên xe về dinh, cười bảo Thái tử đang ngồi đợi rằng :
          - Tôi xin kính mừng Thái tử. Thái tử mừng lắm, sai ngay em Dương Tố là đề đốc Dương Uớc, giữ chắc mười cửa thành cho nghiêm mật.
          Quách Diễn được phong ngay làm hữu linh vệ đại vệ tướng quân, giữ việc hộ vệ loan giá. Võ Văn Thành Đô thăng chức Vô địch đại tướng quân, chỉ huy hết cả các đề đốc từ kinh sư sang các tỉnh. Trương hành giữ kín việc Văn Đế băng hà. Trong dân gian chưa ai biết!
          Ba ngày hôm sau, Dương Thông, đai tướng quân ở Tế Ninh, phò Thái tử cũ là Dương Dũng vào kinh đô, trước hết hãy đóng dinh ở ngoài thành, Thái tử Dương Quảng bàn mưu với Trương Hành làm chiếu chỉ giả vời cả gia quyến, vợ chồng cha con Thái tử Dương Dũng vào cung, nha tướng không được ai theo cả.
          Thái tử Dương Dũng không ngờ bị mắc mưu. Vào tới nơi Thái tử Dương Quảng uy hiếp bắt cha con Dương Dũng thắt cổ chết, còn vợ là Tiêu Phi có nhan sắc, Quảng bắt làm vợ.
          Sau đó, Thái tử Quảng cùng Dương Tố lại bàn nhau thảo chiếu cho thiên hạ biết việc Văn Đế mất, để cho làm lễ phát tang.
          Quảng gọi văn thần Ngữ Kiến Chương vào bảo làm chiếu. Chương vốn nổi tiếng là cương trực không bao giờ giao du với lũ gian thần, hôm ấy nghe tin Hoàng thượng băng hà, Đông Cung bị gọi về triều cũng chết nốt, bèn khóc rống lên.
          Có nội giám đến vời, Ngữ Kiến Chương vào mặc tang phục, thắp hương cáo tổ tiên, sụp lay mẹ già, từ biệt phu nhân rồi đi bộ vào triều, Thái tử Quảng đưa giấy bút nói :
          - Ông viết chiếu đi, ta sẽ phong cho tước lớn.
          Kiến Chương cầm bút, hạ bút viết rằng :
          “Hoàng thượng băng hà không minh bạch. Thái tử Dương Dũng bị bách mà thắt cổ, việc này trời đất sẽ tru diệt kẻ bất hiếu và bất nghĩa”.
          Viết xong ném bút vào mặt Quảng.
          Quảng nồi giận thét to :
          - Thằng thất phu vô lễ ta phải lấy đầu mày.
          Kiến Chương quát lại :
          - Mày đầu độc cha, thắt cổ anh, hiếp chị dâu, giết cháu nhỏ, tội mày chật ngang trời đất. Tao chết đi sẽ làm quỷ bóp cổ mày.
          Quảng thét tả hữu lôi Kiến Chương ra chém.
          Sau đó, Dương Tố tự làm chiếu giả nói rằng Tùy Văn Đế để ngôi cho Thái tử Dương Quảng, ban cho triều thần thiên hạ biết. Ngay tối ấy, Quảng lại động tình nghĩ đến Trần phu nhân, vào nội cung cùng người đàn bà thỏa tình trăng gió. Cuộc ái ân kéo dài sang tháng tám, bên cái xác Văn Đế còn quàn nơi chính điện.
          Đến ngày làm lễ an táng, Dương Tố phò Thái tử Quảng mặc đồ tang phục, cử ai trước linh cữu Tùy Văn Để. Đoạn mặc các phục: mũ bình thiên, áo long bào, lên ngai vàng. Triều thần phục lạy, tung hô vạn tuế.
          Hết thảy đều được tước lớn, lộc cao.
          Tùy Dạng Đế mới lên ngôi được một hôm đã sai Võ Văn Thành Đô đem quân vây nhà Ngữ Kiến Trương, giết hết trẻ già, tịch thu gia sản.
          Gia quyến Kiến Trương không sót một mạng nào, duy có tên chăn ngựa tên là Ngữ Bảo, mau chân chui qua giậu, ngày đêm về Nam Dương báo cho Ngữ Vân Thiệu biết tin dữ dội này.
          Che đậy muu gian, Dạng Đế lại vờ nhân đức truy phong cho Thái tử Dũng làm Phong Lang vương, lập miếu thờ, thấy thế thiên hạ càng bàn tán.
          Võ Văn Thuật và Dương Tố sợ rằng Ngư Vân Thiệu ở Nam Dương là con Ngũ Kiến Trương (vốn có sức mạnh địch muôn người) biết tin cha bị giết sẽ đem quân về kinh đô hỏi tội. Bèn đem việc ấy tâu với Tùy Dạng Đế.
          Dạng Đế có ý sợ, sai Hàn Cầm Hổ là Trấn nam đại liên soát. Mã Thúc Mưu làm tiên phong. Vô địch tướng quân Võ Văn Thành Đô đi tập hậu, sáu mươi vạn hùng binh khởi hành ngay hôm đó.
          Đây nói Ngữ Vân Thiệu, con kiến Trương, mặt như ngọc tia mắt sáng như sao, tiếng nói sang sảng, sức cử đỉnh ngang Hạng Vũ, vào chỗ muôn quân như chỗ không người, trong tay có muời vạn hùng binh giữ Nam Dương. người ta xếp Ngữ Văn Thiệu vào bậc anh hùng thứ năm thời ấy. Vợ là Đậu Thị, mới sinh được một con trai, còn bé lắm.
          Một hôm, Vân Thiệu cùng mười nha tướng đến Thái hoành sơn săn bắn, quân lính căng lưới, thả chó, sục tìm hươu nai.
          Trên núi có một Đại vương, họ Hùng tên Khoát Hải. Hải là một hảo hán lưng to vai ôm, đầu hổ, mặt beo, tiếng nổi như sấm hai cánh tay mang nổi nghìn cân. Đã từ lâu Khoát Hải xưng vương trên núi, cùng ba nghìn lâu la chuyên giết người lấy của, hành khách sợ hãi Thái Hoành sơn mà phải tìm đường đi tắt.
          Khoát Hải một buổi sáng xuống núi, thấy hai con hổ lớn xông tới, bèn túm lấy cổ đôi hổ ấn xuống rồi hai chân đá hai cái, đôi hổ vỡ óc ra mà chết.
          Khi đó Ngữ Vân Thiệu đang săn ở ngọn núi trên này trông thấy một hảo hán hai tay bóp chết hổ, liền sai gia tướng đến mời lên nói chuyện. Khoát Hải hỏi :
          - Chủ mày là ai?
          Gia tướng đáp :
          - Là Nam Dương Ngữ Hầu Vân Thiệu.
          Nghe tên Khoát Hải thầm nghĩ :
          - Đây là một tay anh hùng danh tiếng, nhân dịp này, ta yết kiến xem sao.
          Một lát tới nơi, Khoát Hải thấy Vân Thiệu tướng oai phong thì vái mà xưng tên tuổi.
          Vân Thiệu nói :
          - Bản soái thấy hảo hán hai chân đá hai hổ có lòng kính yêu, nay muốn mời hảo hán về làm tôi triều đình, đứng trong hàng đại tướng, hảo hán có ưng không?
          Khoát Hải không có ý ở mãi chốn lục lâm, mừng lắm, nói :
          - Được vậy chúng tôi không dám quên ơn Nguyên soái.
          Vân Thiệu lại cùng Khoát Hải kết làm anh em. Thiệu hơn tuổi làm anh. Thiệu nói :
          - Hiền đệ hãy lên núi đợi ít ngày, ta sẽ đưa biểu về triều đình chiêu an đã.
          Khoát Hải vái lạy rồi xuống hai tay xách hai xác hổ lớn lên sơn trại.
          Vân Thiệu về tới hậu dinh, Đậu phu nhân hỏi :
          - Phu tướng đi săn có được gì không?
          Vân Thiệu cười đáp :
          - Ta săn được một tay hào kiệt, có người ấy bên cạnh, còn lo gì nữa.
          Đoạn đem chuyện Khoát Hải đánh hổ, rồi chuyện cùng nhau kết nghĩa, kể cho phu nhân nghe. Đậu phu nhân rất vui mừng.
          Nhắc lại tên mã phu Ngữ Bảo trốn được, đang ngày đêm thẳng tới Nam Dương thì dọc đường lại nghe tin Dạng Đế sai Hàn Cầm Hổ làm Đại nguyên soái đem quân đánh Vân Thiệu, hắn lại càng ra sức, bỏ cả ăn uống để mau chóng tới Nam Dương. Vào đén Nam môn, Ngữ Bảo cầm dùi trống đánh liên chi hồ điệp như trống cướp. Đánh xong, mệt quá ngã lăn ra bất tỉnh.
          Quân canh bắt đem vào trong dinh. Đến khi tỉnh dậy, mở mắt ra nhòm thấy Vân Thiệu, Ngữ Bảo òa lên khóc rồi sụp lạy :
          - Nguyên soái bình tĩnh ngồi đây, có ngờ đâu cả gia quyến họ Ngữ nhà ta đã bị bọn gian thần Dương Tố âm muu giết chúa thượng rồi giết luôn cả dòng dõi họ Ngữ rồi.
          Vân Thiệu cả kinh vội hỏi đầu đuôi. Ngữ Bảo thuật rõ việc Thái tử Dương Quảng lập mưu giết Văn Đế, sau lại ép Ngữ tướng công làm chiếu giả, Ngữ tướng công không nghe nên bị chúng giết nốt, lại đem cả nhà họ Ngữ ra tru diệt.
          Vân Thiệu thét to một tiếng, ngã gục xuống đất. Đậu phu nhân và các tướng xúm lại cứu chữa. Vân Thiêu khóc rống lên. Phu nhân cũng nước mắt chứa chan, hồi lâu mới tìm lời an ủi chồng, Vân Thiệu nghiến răng nói :
          - Dòng dõi họ Ngữ này từ tổ phụ đến ta một lòng gánh giang sơn thờ chúa, không quản gì da ngựa bọc thây, nay hôn quân vô đạo giết phụ thân, lại chém sạch cả nhà, ta nguôi làm sao được!
          Ngữ Bảo nói :
          - Hiện nay, triều đình đã sai Hàn Cầm Hổ đem đại binh sắp đến vây Nam Dương bắt Nguyên soái, xin lão gia định liệu.
          Vân Thiệu lại giận uất thét to lên :
          - Nếu vậy thì chúng bách ta quá lắm. Ta thề cùng chúng không đội trời chung.
          Bèn sai đánh trống, triệu tập ba quân. Ngữ Vân Thiệu mặc tang phục, kéo cờ trắng, bước ra giáo trường nói to rằng :
          “Lão Thái sư ta ở triều làm quan Bộc sạ đã có công đánh đông dẹp bắc, bình định Trung Nguyên. Ngày nay Thái tử Dương Quảng giết cha, giết em để đoạt ngôi, lại giết thân phụ ta và tru diệt toàn gia họ Ngữ, như vậy chưa hả, lại cử đại binh đến dây hòng bắt ta mà giết nốt. Ta tự nghĩ triều đình đã bất công ghét bỏ, ta muốn bỏ Nam Dương trốn đi nơi khác, chư tướng quân nghĩ có nên chăng?”
          Hỏi dứt lời, một dũng tướng tên gọi Tư Mã Siêu, mắt xanh râu đỏ, cầm đại đao bước ra nói :
          - Nguyên soái sao lại trốn. Dương Quảng giết cha cướp ngôi lại hãm hại Thái sư, chúa đã vô đạo kẻ bề tồi có quyền thí bỏ để rửa cái thù huyết mạch. Nay Nguyên soái bỏ đi, tức là nhu nhược mà hương hồn lão Thái sư tất ngậm ngùi nơi chín suối. Xin cho chúng tướng ba quân hết thảy mặc đồ tang, quyết chiến.
          Vân Thiệu nói :
          - Tướng quân có lòng khảng khái, ta rất cám ơn, song còn các tướng nghĩ thế nào?
          Hỏi chưa dút lời, thống chế Tiêu Phương, mặt trắng râu dài, quen sử ngọn trường thương, sức địch muôn người, bước ra nói to :
          - Nuôi quân tướng mười năm mới có một ngày dùng tới. Ngày nay lũ mạt tướng chúng tôi xin cùng Nguyên soái trả thù huyết hận.
          Các tướng khác cũng quả quyết xin ra đánh.
          Ngữ Vân Thiệu hài lòng nói :
          - Đã vậy, sớm mai ra giáo trường luyên tập lại binh mã.
          Hôm sau, một mặt dự bị binh lương cho người ngựa, một mặt lại sai Tiêu Phong cầm lệnh tiễn đi các nơi đốc thúc nộp lương thảo, chở vào thành ngày đêm không ngớt.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #6
            Hồi 6 - Nam Dương ải, Cầm Hổ thị uy thua điệt tướng

            Hồi 6

            Nam Dương ải, Cầm Hổ thị uy thua điệt tướng
            Trương Bình Cương, Thành Đô cậy sức tránh mã nô

            Đây nói, Hàn Cầm Hổ cử đại binh nhằm thẳng Nam Dương kéo đến, quân đi như sương gió phủ tuyết bay, hằng hà sa số, động đất long trời. Hổ sai Mã Thúc Mưu đi trước, còn tự mình đi sau, là vì Hổ vốn có tình bạn thân với cha Vân Thiệu, có ý để Thiệu thấy Mưu đến thì trốn đi nơi khác.
            Mã Thúc Mưu được tiên phong, không nghiêm quân lệnh để cho quân tự do vào các làng hãm hiếp đàn bà con gái, nhân dân ta oán lắm.
            Mưu kéo quân đến ải Kỳ Lân, biết tướng trấn ải đó là Tư Mã Siêu và ngẩng lên thấy lá cờ tang rất lớn viết một dòng chữ bằng máu ngựa :
            “Trung Hiếu vương dữ phụ báo cừu”.
            Thúc Mưu nổi giận sai hạ trại, chờ trung quân của Hàn Cầm Hổ đến. Mưu nói :
            - Ngữ Vân Thiệu đã tỏ ý đánh lại triều đình rồi đó. Xin Nguyên soái quyết đánh cho để trừ đại họa.
            Hàn Cầm Hổ thấy bạn phản lại triều đình tức thì nổi giận, sai tiên phong là Lôi Minh đem quân đến cửa ải khiêu chiến. Lôi Minh lên ngựa đến cửa ải sai quân phá. Trong ải thấy giặc đến, nổi pháo hiệu. Tư Mã Siêu mặc giáp vàng, cời ngựa đỏ, mở cửa thành xông ra. Hai bên xưng tên tuổi rồi trống đánh quân reo, cùng giáp chiến. Mã Siêu huy động ngọn đại đao như giao long cuốn nước hổ dữ vờn trăng, khiến ngọn thương của Lôi Minh mấy lần suýt gẫy. Lôi Minh toan ù té chạy, Mã Siêu đã phóng mạnh lưỡi đao như tia chớp tiện ngang mình Lôi Minh thành hai mảnh, gan ruột lòi ra rất thảm.
            Tàn binh chạy về báo với Hàn Cầm Hổ. Hổ gầm lên :
            - Tiền quân mới ra binh đã mất tướng, ai ra trả thù này.
            Chánh tiên phong là Mã Thúc Mưu xin ra trận. Tư Mã Siêu lên ngựa cự địch. Hai bên đại chiến cát chạy đá bay, hơn năm mươi hiệp mà hai ngựa không nhường. Mã Thúc Mưu giận lắm, nghĩ thầm :
            - Ta là chánh tiên phong mà không lập được công đầu tất Hàn nguyên soái coi thường, quân sĩ không kinh sợ. Chi bằng phải dùng kế giết tên này mới xong.
            Nghĩ vậy, phóng vờ một mũi thương, quay ngựa chạy. Tư Mã Siêu phi ngựa đuổi liền, Thúc Mưu mừng rỡ quay người ném mạnh mũi phi tiêu vừa rút ra, tưởng thế nào cũng bách phát bách trúng như mọi khi, ngờ đâu Siêu chỉ né mình giơ cán đao gạt ngọn phi tiêu rơi xuống đất rồi hồi đao toan sả dọc Thúc Mưu thành hai miếng suốt từ đầu xuống yên ngựa, nhưng số Mưu chưa tận số nên con ngựa của hắn bị vấp vào tảng đá ngã chúi đi, làm Mưu ngã bắn ra xa năm thước. Các tướng Tùy cướp được Thúc Mưu đem về trại Mưu về trại xấu hổ, sụp lạy xin chịu tội, Hàn Cầm Hổ không trách phạt, nói :
            - Ngày mai bản soái ra trận xem chúng sức lực ra sao.
            Sớm hôm sau, Hổ ra trận, đứng rất uy nghi dưới lá cờ đại súy bay phất phới. Mã Siêu thúc ngựa tới né mình một bên xá một xá mà rằng :
            - Thưa Nguyên soái, chúng tôi có tội gì mà triều đình cử đại binh đến thế này? Chúng tôi mặc giáp không xuống làm lễ được, xin Nguyên soái lượng thứ cho.
            Tư Mã Siêu sở dĩ giữ lễ với Hàn Cẩm Hổ như thế là vì trước kia Mã Siêu đã ở dưới trướng Hổ, biết Hổ là tay anh hùng tiếng tăm vang động, thuở bé mới mười ba tuổi đã cầm quân đánh tan mười vạn giặc Phiên, lớn lên làm đại tướng đánh Đông dẹp Bắc, nay bảy mươi tuổi mà muôn người khó địch.
            Hổ thấy Siêu giữ lễ cũng ôn tồn nói :
            - Ta muốn nói một câu, tướng quân có nghe không?
            Siêu nói :
            - Tiểu tướng xin rửa tai nghe lời vàng tiếng ngọc.
            Hổ nói :
            - Nay ta đem sáu mươi vạn hùng binh, mãnh tướng nghìn tên, lương thực ba năm không hết, hậu đội lại có Vô địch anh hùng Võ Văn Thành Đô sắp tới, sức mạnh như thác đổ núi phải tan, thành phải vỡ, tướng quân chẳng qua sức có chừng mà Vân Thiệu lực cũng có hạn mà thôi, trứng chọi sao với đá. Vậy nên bảo nhau sớm liệu cho toàn tính mệnh tướng quân nghĩ thế nào?
            Thực tình thì Hàn Cầm Hổ vẫn nghĩ tình bạn hũu với cha Vân Thiệu nên nói bóng gió xui Mã Siêu về bảo Thiệu tròn đi. Nhưng Siêu không hiểu, nghe xong liền trừng mắt, cho là Hổ đã già nua không còn khác như xưa nữa. Siêu nói :
            - Nguyên soái có lòng tốt, xin đa tạ nhưng tiểu tướng làm tiên phong giữ ải này, thấy giặc đến thì giết, chứ thật không dám biết gì khác cả.
            Nói rồi, múa đại đao chém luôn. Cầm Hổ nổi giận nói :
            - Thất phu không hiểu ý ta, dám vô lễ. Đã vậy, thì số mày hết mất rồi.
            Đoạn múa đao địch lại. Siêu dẫu vũ dũng phi thường nhưng địch sao được lão tướng bách chiến bách thắng kia. Hổ đã dùng miếng độc thủ chém Siêu thành hai đoạn thật dễ dàng như chém một con gà.
            Quân Siêu vỡ chạy. Hổ đứng dưới cờ vẫy ba quân vào chiếm lấy thành trong chớp mắt. Kiểm soát kho tàng và chiêu dụ dân chúng xong, Hàn Cầm Hổ cho binh mã nghỉ ba ngày, rồi kéo đại quân đến Nam Dương cách ngoài mười dặm.
            Thám tử của Ngữ Vân Thiệu được tin ải Kỳ Lân đã vỡ, Mã Siêu đã chết bởi tay Cẩm Hổ, vội phi ngựa về báo, Vân Thiệu thương xót Mã Siêu ứa nước mắt ra. Đoạn thân đi kiểm điểm tướng sĩ, sẵn sàng chờ nghênh chiến. Ngay lúc đó Tiểu Phương đã áp tải mười vạn hộc lương thực trở về. Vân Thiệu mừng lắm, tự rót rượu ban khen Tiểu Phương. Phương vải tạ uống rượu thưởng rồi lui ra.
            Bên kia, Hàn Cầm Hổ lên quân trướng hỏi rằng :
            - Tướng nào ra bắt giặc trước lập công?
            Tổng binh ải Dĩ Thủy là Hà Luận bước ra xin ra trận. Cầm Hổ dặn :
            - Tướng quân phải đề phòng chớ nên khinh địch mà nguy đó.
            Hà Luận nói :
            - Tiểu tướng không bắt được Vân Thiệu thề không về dinh nữa.
            Lập tức cầm búa nhảy phắt lên mình ngựa, xông ra gọi Vân Thiệu mà sỉ mắng.
            Vân Thiệu cả giận múa tít ngọn thương đánh Hà Luận. Luận cũng giơ búa đón đánh rất hăng hái nhưng càng đánh càng thấy ngọn thương của Vân Thiệu quả là thần kinh quỷ khiếp, sinh ra hoảng hốt. Chẳng ngờ Vân Thiệu giật ngựa nhảy sát vào dùng đốc thương đánh Hà Luận tan sọ ra mà chết.
            Quân tướng Tùy xúm lại đánh Thiệu để cướp xác Hà Luận, bị Thiệu quay thương như tuyết rụng hoa rơi đánh cho tan rã ôm đầu chạy hết, để lại máu chảy muôn dòng xác nằm ngang ngổn như gò đống. Quân Vân Thiệu dẫm lên xác máu mà kéo cờ đắc thắng vào thành.
            Hàn Cầm Hổ kinh ngạc, điểm mất ba ngàn quân, chết hơn mười đại tướng. Khí giới tổn hại rất nhiều. Hổ gầm lên :
            - Mai bản soái ra trận rửa cái thù này cho quân tướng.
            Hôm sau, Hổ đang nai nịt trụ giáp, Thúc Mưu bước vào xin ra đánh cam đoan đánh bắt được Vân Thiệu mới nghe.
            Hổ cho ra đánh nhưng dặn cẩn thận. Thúc Mưu vâng lệnh ra điểm bố mãnh tướng đem ba ngàn binh mã đến đồi Trường Bình Cương mai phục hai bên tả hữu lại sai bốn tướng nữa đem ba nghìn quân mai phục cánh thành phía Nam ba dặm và dặn kỹ :
            - Hễ ta nhử được Vân Thiệu đến rồi thì tên nỏ bắn ra. Nếu hắn không mắc mưu thì hai bên cứ ập ra mà chém giết không cho nó chạy vào thành. Ta đã trót cam đoan với quan Nguyên soái là sẽ thắng, vậy các ngươi nên tận lực giúp ta để lấy công to.
            Các tướng tâm phúc vâng lời đem binh mã đi mai phục.
            Thúc Mưu đem quân đến cửa thành khiêu chiến. Vân Thiệu chẳng nói năng gì rồi múa đao chém Thúc Mưu. Mưu chỉ đủ sức cầm cự được mười hợp đã mắt hoa tay nhức không sao đỡ được ngọn đại đao ghê gớm ấy. Mưu luống cuống kêu to :
            - Các tướng mau ra ứng chiến.
            Gọi rồi Mưu lẩn vào đám quân mà chạy. Bốn tướng theo lời Mưu dặn trước xông ra đánh. Vân Thiệu coi bốn tướng như con muỗi cỏ, chỉ một lát hai tướng về địa phủ. Hai tướng kia toan chạy, Thiệu tuốt hồng kiếm hoa lên, ánh thép vừa loè chớp hai đầu rơi xuống như lá rụng. Vân Thiệu tìm Thúc Mưu đuổi đến đồi Bình Cương, nghe một tiếng pháo nổ vang trời, bốn tướng dẫn quân mai phục xông ra tên bắn như mưa.
            Vân Thiệu cả cười múa tít ngọn đao, tên rơi tua tủa xuống đất. Vừa gạt tên vừa quay dao chém ba nhát ba tướng rủ nhau xuống suối vàng.
            Một tướng ôm đầu chạy. Vân Thiệu với tay nắm được dây lưng, ném bổng lên trời, đến khi rơi xuống đất thì óc phòi ra, xương tan thịt nát!
            Quân Tùy càng thêm dày đặt, Hàn Cầm Hổ lại sai hai dũng tướng là Tổng binh Tào châu Ngô Liệt, và Tổng binh Tào châu là Ngô Minh đem năm ngàn binh mã vây kín Thiệu vào giữa Lại thêm hai tướng của Thúc Mưu ở phía Đông cũng đem binh tới. Bốn bề tướng binh Tùy chiêng trống vang trời dậy đất, ồ ạt kéo đến như bão táp. Thiệu thân đơn mã chiếc, vẫn điềm nhiên múa tít ngọn đao, ngựa đến đâu đầu rơi đến đấy. Ngô Liệt bị rơi đầu, Ngô Minh toan chạy bị đao sả chết cả người lẫn ngựa. Hai tướng của Mưu thấy hai tổng binh bỏ mạng, không còn hồn vía. Đang luống cuống lại bị Thiệu dùng đốc đao đánh chết một còn mũi đao lia nhẹ, đầu tướng kia cũng rơi theo nốt. Bốn tướng mai phục phía Tây toan chạy nhưng ngựa vướng muôn quân, đang lúng túng thì ánh đao sáng loáng đã vèo vèo bay tới. Chúng trông thấy Thiệu mình đẫm máu, dữ tợn tựa thiên thần thì không còn hồn vía, trong chớp mắt đã cùng rủ nhau theo tiên tổ hết. Thế là một trận giao tranh, mười hai dũng tướng đã gửi đầu nơi lưỡi đao thẩn họ Ngữ! Duy có Thúc Mưu, như con chuột nhắt đã bỏ ngựa, lẩn vào muôn quân trốn lủi. Nghe nói Vân Thiệu đã chém tướng giết quân như phạt cỏ, Mưu sợ quá cởi giáp, vất mũ, tháo giầy mà chạy. Lát sau, ngơ ngác như chim lọt lưới như cá thoát câu, lảo đảo, nhợt nhạt chạy về đại dinh, sụp xuống lạy xin chịu tội, chân tay run lập cập.
            Hàn nguyên soái cả giận quát :
            - Ngươi nhất định xin ra đánh, trận trước đã thua Mã Siêu trận này lại mất mười hai tướng, thiệt bốn vạn quân, cái tội làm mất nhuệ khí của đại binh Tùy, quyết không tha chết.
            Liền thét đao phủ lôi Mưu ra. Mưu cuống quít van xin. Có quan tham mưu là Bảo Vật bước lên cố nói giúp xin cho Mưu được sống để đái tội lập công.
            Bảo Vật nằn nỉ mãi, Thúc Mưu van lạy đã hết lời, Cầm Hổ mới bằng lòng tha, nhưng lột chức, đánh bốn mươi roi, sau ra hậu dinh làm lính thổi cơm, chăn ngựa.
            Hôm sau Cầm Hổ nhất quyết thân chinh ra trận. Thám tử về báo, Vân Thiệu sai mở cửa thành đem quân ra dàn thành trận thế.
            Hàn Cầm Hổ ngồi trên yên ngựa, tiến ra, Vân Thiệu cúi rạp mình vái mà rằng :
            - Tiểu diệt mình mặc nhung trang không quỳ lạy được, xin lão bá thứ cho.
            Cầm Hổ vuốt râu nói :
            - Hiền diệt sao không nhớ cha ông đều ăn lộc triều đình, sao dám kéo cờ “Trung Hiếu vương” để tỏ lòng bội phản, nay lão phu vâng thánh chỉ đi đánh tuy có thiệt ít nhiều quân tướng, nhưng dưới trướng ta binh mã như rừng, sức ngươi địch làm sao được mãi. Chi bằng hàng đi, ta sẽ xin Thánh thượng xá tội cho, ý hiền diệt nghĩ sao?
            Thiệu nói :
            - Thân phụ tôi hết lòng vì chúa, không có tội lỗi gì cái đó lão bá ở trong triều tất rõ vậy mà nỡ giết đi lại sát hại toàn gia, bây giờ lại đem binh đến hỏi tội tôi, thưa lão bá đó là tội gì xin cho biết? Nếu hỏi tội thì xin lão bá đem quân về mà hỏi tội kẻ giết cha giết anh, loạn dâm, vô đạo. Kẻ có tội đầy trời ngập đất thì ngồi yên trên ngôi cao quý hưởng thú vui tửu sắc, để chỉ tay sai lão bá đem thân già nua trải bao sương tuyết đi hỏi tội người vô tội thì lạ thật. Lão bá đã đầu râu tóc bạc, há lại khom lưng uốn gối thờ một đứa trẻ con hung bạo, thật phí cái danh nghĩa của lão bá đã vang lừng bốn bể, như thế chẳng là hữu dõng vô mưu như kẻ thất phu sao! Lão bá nên quay binh về giết hôn quân, trừ gian nịnh, dựng lại nghiệp để cho hợp lòng trời, thuận lòng dân. Lão bá nên nghĩ lời tiểu điệt mà xá tội cho.
            Hàn Cầm Hổ nghe tuy có lý, song ở cái thế phải đánh chứ không lui được, bèn quát lớn :
            - Thằng này nói năng vô lễ, ta quyết lấy máu mày.
            Nói đoạn giơ đao chém, Vân Thiệu đỡ, lui ngựa lại ba bước mà rằng :
            - Xin lão bá nghĩ lại cái chết oan khuất của thân phụ cháu.
            Cầm Hổ lại tiến lên giơ đao chém.
            Thiệu lại cầm thương đỡ, lại lui ngựa kêu to :
            - Thân phụ cháu là bạn đồng liêu với lão bá, cháu là đạo con cháu xin lùi bước nhường hai đao rồi đó. Lão bá xét lại cho.
            Cầm Hổ lại tiến, giơ đao chém. Thiệu lại lùi ngựa nói :
            - Cháu xin nhường lão bá ba đao. Lão bá xét lại cho.
            Hổ múa đao chém nữa. Thiệu bèn dùng hết thẩn uy múa thương đánh lại. Một trẻ, một già, đao thương xoang xoảng, thật là một trận ác chiến, thần kinh quỷ khiếp.
            Cầm Hổ khen thầm :
            - Thật là cha hùm, con cọp. Cháu ta giỏi lắm, lão già này xin chịu thua rồi!
            Liền thúc ngựa chạy. Đến chỗ vắng, thấy có một mình Vân Thiệu đuổi theo, Hổ dừng ngựa nghiêm mặt nói :
            - Cháu ơi, lão già này sao lại không đau lòng vì lời cháu nói vừa rồi, sao lại không thương cha con cháu, nhưng trong triều gian nịnh như ruồi nhặng, mà xem ra khí số nhà Tùy đã suy nhược lắm rồi, nay mai chân chúa sẽ thay ngôi, khi đó cháu trả thù cha cũng còn chưa muộn. Cháu đang là một thiếu niên anh hùng lo gì chẳng có ngày rửa oán. Nay kéo cờ làm phản, e cháu làm nhơ dòng họ Ngữ vốn trung lương, hậu quân là Võ Vặn Thành Đô sức địch muôn người, cháu tuy giỏi lắm nhưng rồi cũng nguy vì hắn. Chi bằng hãy bỏ Nam Dương đi nơi khác là hơn, cháu nghĩ sao?
            Thiệu đáp :
            - Lão bá dạy cháu xin nghe, nhưng dù Võ Văn Thành Đô có là thần tướng cháu cũng không sợ hãi. Xin mời lão bá trở về an nghỉ.
            Cầm Hổ bèn thúc ngựa phi về, khẽ nói :
            - Cháu cứ đuổi theo kẻo ba quân ngờ vục đó.
            Thiệu đuổi đến cửa núi, các tướng Tùy xô ra cản lại. Thiệu không đuổi nữa, rẽ vào thành, đóng cửa. Phu nhân thấy chồng thắng trận về bèn rót rượu mời.
            Đây nói về Võ Văn Thành Đô đem hậu quân và lương thực gần tới, vào yết kiến Cầm Hổ nguyên soái, hỏi việc quân thắng bại ra sao. Hổ thuật lại hai trận bại của binh Tùy, Đô tức giận, mắt tròn, râu dựng ngược đập tay xuống đùi nói như hổ rống :
            - Ngày mai xin cho Đô này ra xé xác thằng Thiệu để rửa thù cho chúng tướng đã thác oan.
            Nguyên do Võ Văn Thành Đô là vì sao Lôi âm phổ hóa thiên tôn trên trời giáng xuống, ngươi ta xếp là anh hùng thứ hai đời ấy.
            Có một hôm phò giá Văn Đế lên chùa Cam Lộ dâng hương, Văn Đế thấy cái đỉnh từ thời Tần Thủy Hoàng, đỉnh cao một trương, lớn chừng hai ôm, có chữ khắc: nặng sáu ngàn cân. Văn Đế nói :
            - Ta nghe đồn Đô tướng quân có sức anh hùng vô địch, thử nhấc đỉnh này xem.
            Đô vâng lời, chạy xuống sân, cởi áo, nắm lấy hai chân đỉnh, rún mình một cái nhấc bổng ngay đỉnh lên giơ ngang đầu, đi ba vòng quanh cây đại hòe rồi quay về chỗ cũ, nhẹ nhàng đặt đỉnh xuống, nét mặt cứ như thường.
            Mọi người trông thấy sợ toát mồ hôi. Văn Đế bước xuống, khoác áo lên lưng Đô, hết lời khen ngợi. Rồi phong cho làm Vô địch đại tướng quân.
            Hôm sau, Ngữ Vân Thiệu nghe tin Đô đến, cũng có ý lo ngại, nghĩ thầm :
            - Đô khỏe lắm ta khó mà địch nổi, phải phòng giữ cho cẩn mật, kẻo hắn phá thành thì nguy lắm.
            Đoạn sai Ngữ Bảo đem quân vào rừng đẵn nhiều cây để xếp trên mặt thành ngăn giữ. Lại sai Tiêu Phương đem ba ngàn binh mã canh giữ điếu kiều sẵn sàng giương cung tên mà bắn xuống.
            Đô đã đến gầm thét ngoài thành. Thiệu mặc giáp lên yên phi ngựa ra, Đô không nói năng gì, vỗ đầu ngựa Ô truy múa ngọn lưu kim đang nặng ngàn cản đánh Thiệu. Thiệu giơ thương đỡ. Lửa loé ra, ngựa lùi bật lại. Đô lại đánh Thiệu lại đỡ ngọn thương hởi cong và cánh tay Thiệu đã tê đau. Tuy nhiên, Thiệu cũng cố sức bình sinh đánh chừng mười hiệp, liệu không địch nổi đành rẽ ngựa chạy. Đô đuổi gấp Thiệu lại quay thương đánh, chừng mười hiệp, ngọn thương của Thiệu quằn mấy đoạn, cổ khẩu gần như bi toạc rách ra, lại chạy. Đô đuổi sát sau lưng, rất là nguy cấp.
            May sao, lúc đó Ngữ Bảo đang đốc thúc quân sĩ đẵn cây trên ải, thấy rõ ràng chủ tướng bại trận, lại đang lúc tay không, nhìn thấy cây táo bên cạnh, liền nhổ băng cả gốc rễ lên. Bảo ôm cả thân cây táo chạy xuống quát to :
            - Chủ soái không ngại, đã có Ngũ Bảo đây. Nói rồi dùng hết sức bình sinh đánh cả cây táo vào mặt Thành Đô. Bất thình lình, Đô giơ vũ khí gạt ra. Hai người cùng dùng sức mạnh quá đến nỗi khỏe như Thành Đô mà cả người cả ngựa phải bật lùi trở lại. Đô gầm thét múa kim đang đánh. Bảo giơ cây đỡ, cây táo gãy làm hai. Vân Thiệu quay ngựa lại, té ra Ngư Bảo đang dùng cây giao chiến với Đô, liền giương cung nhằm giữa ngục Đô mà bắn. Đô bất ngờ bị một mũi tên vào như gió ngập vào cánh tay trái kêu to một tiếng “ối chao” rồi quay ngựa chạy. Ngữ Bảo toan vác cây đuổi theo, nhưng Vân Thiệu gọi lại. Bảo lại lên ải đẵn cây, Thiệu về thành. Tiêu Phương ra đón. Thiệu có dáng mệt nhọc, xuống ngựa nói rằng :
            - Không có Ngữ Bảo nhổ cây táo cản Đô thì ta tất bị nguy.
            Rồi đó, sai các tướng lo việt canh giữ đóng chặt bốn cửa, ngày đêm khuân đá, chất gỗ lên mặt thành lo Đô phá.
            Cầm Hổ đang ngồi đợi Đô thắng trận về. Bỗng có tin báo :
            - Vô địch tướng quân bị tên chạy về kìa.
            Lại tiếp luôn tín nữa :
            - Tổng binh ải Lâm Đồng là Thượng Tư Đồ và tổng binh ải Hồng Nê là Tần Văn Lễ đã đem binh đến tiếp ứng.
            Cẩm Hổ sai mời tất cả vào. Mọi người đang làm lễ tương kiến.
            Thượng Tư Đồ, Tần Văn Lễ, thấy khỏe đến như Thành Đô mà còn bị thương thì kinh hãi. Đô vừa vạch giáp, tự nhổ tên, vừa cười :
            - Nguyên soái và các tướng cứ an tâm. Đô này xin phá thành bắt Thiệu.
            Cầm Hổ sai Thượng Tư Đồ đem binh mã vây phía cửa Nam, Tần Văn Lễ phá cửa Bắc, Đô đánh cửa Tây, còn mình thì phá cửa Đông.
            Vân Thiệu nghe tin đó, vội cưỡi ngựa đem quân đi tuần tiễu, đốc thúc tướng sĩ lăn gỗ, ném đá, bắn tên thuốc độc xuống như mưa.
            Quân ngoài thành chết lăn như rạ. Đô phải lui quân ba dặm, tức giận lồng lên như cọp dữ.

            _____________________________

            Các bạn muốn xem các phần còn lại xin vào đây Request

            (in reply to duyviet)
            [Send Private Message] *Tell a friend | *StumbleUpon | *Digg This | *del.icio.us | Post #: 7
            RE: THUYẾT ĐƯỜNG - 9/24/2008 947 AM
            duyviet


            Posts: 3596
            Joined: 4/6/2007
            Status: offline
            Hồi 6

            Nam Dương ải, Cầm Hổ thị uy thua điệt tướng
            Trương Bình Cương, Thành Đô cậy sức tránh mã nô

            Đây nói, Hàn Cầm Hổ cử đại binh nhằm thẳng Nam Dương kéo đến, quân đi như sương gió phủ tuyết bay, hằng hà sa số, động đất long trời. Hổ sai Mã Thúc Mưu đi trước, còn tự mình đi sau, là vì Hổ vốn có tình bạn thân với cha Vân Thiệu, có ý để Thiệu thấy Mưu đến thì trốn đi nơi khác.
            Mã Thúc Mưu được tiên phong, không nghiêm quân lệnh để cho quân tự do vào các làng hãm hiếp đàn bà con gái, nhân dân ta oán lắm.
            Mưu kéo quân đến ải Kỳ Lân, biết tướng trấn ải đó là Tư Mã Siêu và ngẩng lên thấy lá cờ tang rất lớn viết một dòng chữ bằng máu ngựa :
            “Trung Hiếu vương dữ phụ báo cừu”.
            Thúc Mưu nổi giận sai hạ trại, chờ trung quân của Hàn Cầm Hổ đến. Mưu nói :
            - Ngữ Vân Thiệu đã tỏ ý đánh lại triều đình rồi đó. Xin Nguyên soái quyết đánh cho để trừ đại họa.
            Hàn Cầm Hổ thấy bạn phản lại triều đình tức thì nổi giận, sai tiên phong là Lôi Minh đem quân đến cửa ải khiêu chiến. Lôi Minh lên ngựa đến cửa ải sai quân phá. Trong ải thấy giặc đến, nổi pháo hiệu. Tư Mã Siêu mặc giáp vàng, cời ngựa đỏ, mở cửa thành xông ra. Hai bên xưng tên tuổi rồi trống đánh quân reo, cùng giáp chiến. Mã Siêu huy động ngọn đại đao như giao long cuốn nước hổ dữ vờn trăng, khiến ngọn thương của Lôi Minh mấy lần suýt gẫy. Lôi Minh toan ù té chạy, Mã Siêu đã phóng mạnh lưỡi đao như tia chớp tiện ngang mình Lôi Minh thành hai mảnh, gan ruột lòi ra rất thảm.
            Tàn binh chạy về báo với Hàn Cầm Hổ. Hổ gầm lên :
            - Tiền quân mới ra binh đã mất tướng, ai ra trả thù này.
            Chánh tiên phong là Mã Thúc Mưu xin ra trận. Tư Mã Siêu lên ngựa cự địch. Hai bên đại chiến cát chạy đá bay, hơn năm mươi hiệp mà hai ngựa không nhường. Mã Thúc Mưu giận lắm, nghĩ thầm :
            - Ta là chánh tiên phong mà không lập được công đầu tất Hàn nguyên soái coi thường, quân sĩ không kinh sợ. Chi bằng phải dùng kế giết tên này mới xong.
            Nghĩ vậy, phóng vờ một mũi thương, quay ngựa chạy. Tư Mã Siêu phi ngựa đuổi liền, Thúc Mưu mừng rỡ quay người ném mạnh mũi phi tiêu vừa rút ra, tưởng thế nào cũng bách phát bách trúng như mọi khi, ngờ đâu Siêu chỉ né mình giơ cán đao gạt ngọn phi tiêu rơi xuống đất rồi hồi đao toan sả dọc Thúc Mưu thành hai miếng suốt từ đầu xuống yên ngựa, nhưng số Mưu chưa tận số nên con ngựa của hắn bị vấp vào tảng đá ngã chúi đi, làm Mưu ngã bắn ra xa năm thước. Các tướng Tùy cướp được Thúc Mưu đem về trại Mưu về trại xấu hổ, sụp lạy xin chịu tội, Hàn Cầm Hổ không trách phạt, nói :
            - Ngày mai bản soái ra trận xem chúng sức lực ra sao.
            Sớm hôm sau, Hổ ra trận, đứng rất uy nghi dưới lá cờ đại súy bay phất phới. Mã Siêu thúc ngựa tới né mình một bên xá một xá mà rằng :
            - Thưa Nguyên soái, chúng tôi có tội gì mà triều đình cử đại binh đến thế này? Chúng tôi mặc giáp không xuống làm lễ được, xin Nguyên soái lượng thứ cho.
            Tư Mã Siêu sở dĩ giữ lễ với Hàn Cẩm Hổ như thế là vì trước kia Mã Siêu đã ở dưới trướng Hổ, biết Hổ là tay anh hùng tiếng tăm vang động, thuở bé mới mười ba tuổi đã cầm quân đánh tan mười vạn giặc Phiên, lớn lên làm đại tướng đánh Đông dẹp Bắc, nay bảy mươi tuổi mà muôn người khó địch.
            Hổ thấy Siêu giữ lễ cũng ôn tồn nói :
            - Ta muốn nói một câu, tướng quân có nghe không?
            Siêu nói :
            - Tiểu tướng xin rửa tai nghe lời vàng tiếng ngọc.
            Hổ nói :
            - Nay ta đem sáu mươi vạn hùng binh, mãnh tướng nghìn tên, lương thực ba năm không hết, hậu đội lại có Vô địch anh hùng Võ Văn Thành Đô sắp tới, sức mạnh như thác đổ núi phải tan, thành phải vỡ, tướng quân chẳng qua sức có chừng mà Vân Thiệu lực cũng có hạn mà thôi, trứng chọi sao với đá. Vậy nên bảo nhau sớm liệu cho toàn tính mệnh tướng quân nghĩ thế nào?
            Thực tình thì Hàn Cầm Hổ vẫn nghĩ tình bạn hũu với cha Vân Thiệu nên nói bóng gió xui Mã Siêu về bảo Thiệu tròn đi. Nhưng Siêu không hiểu, nghe xong liền trừng mắt, cho là Hổ đã già nua không còn khác như xưa nữa. Siêu nói :
            - Nguyên soái có lòng tốt, xin đa tạ nhưng tiểu tướng làm tiên phong giữ ải này, thấy giặc đến thì giết, chứ thật không dám biết gì khác cả.
            Nói rồi, múa đại đao chém luôn. Cầm Hổ nổi giận nói :
            - Thất phu không hiểu ý ta, dám vô lễ. Đã vậy, thì số mày hết mất rồi.
            Đoạn múa đao địch lại. Siêu dẫu vũ dũng phi thường nhưng địch sao được lão tướng bách chiến bách thắng kia. Hổ đã dùng miếng độc thủ chém Siêu thành hai đoạn thật dễ dàng như chém một con gà.
            Quân Siêu vỡ chạy. Hổ đứng dưới cờ vẫy ba quân vào chiếm lấy thành trong chớp mắt. Kiểm soát kho tàng và chiêu dụ dân chúng xong, Hàn Cầm Hổ cho binh mã nghỉ ba ngày, rồi kéo đại quân đến Nam Dương cách ngoài mười dặm.
            Thám tử của Ngữ Vân Thiệu được tin ải Kỳ Lân đã vỡ, Mã Siêu đã chết bởi tay Cẩm Hổ, vội phi ngựa về báo, Vân Thiệu thương xót Mã Siêu ứa nước mắt ra. Đoạn thân đi kiểm điểm tướng sĩ, sẵn sàng chờ nghênh chiến. Ngay lúc đó Tiểu Phương đã áp tải mười vạn hộc lương thực trở về. Vân Thiệu mừng lắm, tự rót rượu ban khen Tiểu Phương. Phương vải tạ uống rượu thưởng rồi lui ra.
            Bên kia, Hàn Cầm Hổ lên quân trướng hỏi rằng :
            - Tướng nào ra bắt giặc trước lập công?
            Tổng binh ải Dĩ Thủy là Hà Luận bước ra xin ra trận. Cầm Hổ dặn :
            - Tướng quân phải đề phòng chớ nên khinh địch mà nguy đó.
            Hà Luận nói :
            - Tiểu tướng không bắt được Vân Thiệu thề không về dinh nữa.
            Lập tức cầm búa nhảy phắt lên mình ngựa, xông ra gọi Vân Thiệu mà sỉ mắng.
            Vân Thiệu cả giận múa tít ngọn thương đánh Hà Luận. Luận cũng giơ búa đón đánh rất hăng hái nhưng càng đánh càng thấy ngọn thương của Vân Thiệu quả là thần kinh quỷ khiếp, sinh ra hoảng hốt. Chẳng ngờ Vân Thiệu giật ngựa nhảy sát vào dùng đốc thương đánh Hà Luận tan sọ ra mà chết.
            Quân tướng Tùy xúm lại đánh Thiệu để cướp xác Hà Luận, bị Thiệu quay thương như tuyết rụng hoa rơi đánh cho tan rã ôm đầu chạy hết, để lại máu chảy muôn dòng xác nằm ngang ngổn như gò đống. Quân Vân Thiệu dẫm lên xác máu mà kéo cờ đắc thắng vào thành.
            Hàn Cầm Hổ kinh ngạc, điểm mất ba ngàn quân, chết hơn mười đại tướng. Khí giới tổn hại rất nhiều. Hổ gầm lên :
            - Mai bản soái ra trận rửa cái thù này cho quân tướng.
            Hôm sau, Hổ đang nai nịt trụ giáp, Thúc Mưu bước vào xin ra đánh cam đoan đánh bắt được Vân Thiệu mới nghe.
            Hổ cho ra đánh nhưng dặn cẩn thận. Thúc Mưu vâng lệnh ra điểm bố mãnh tướng đem ba ngàn binh mã đến đồi Trường Bình Cương mai phục hai bên tả hữu lại sai bốn tướng nữa đem ba nghìn quân mai phục cánh thành phía Nam ba dặm và dặn kỹ :
            - Hễ ta nhử được Vân Thiệu đến rồi thì tên nỏ bắn ra. Nếu hắn không mắc mưu thì hai bên cứ ập ra mà chém giết không cho nó chạy vào thành. Ta đã trót cam đoan với quan Nguyên soái là sẽ thắng, vậy các ngươi nên tận lực giúp ta để lấy công to.
            Các tướng tâm phúc vâng lời đem binh mã đi mai phục.
            Thúc Mưu đem quân đến cửa thành khiêu chiến. Vân Thiệu chẳng nói năng gì rồi múa đao chém Thúc Mưu. Mưu chỉ đủ sức cầm cự được mười hợp đã mắt hoa tay nhức không sao đỡ được ngọn đại đao ghê gớm ấy. Mưu luống cuống kêu to :
            - Các tướng mau ra ứng chiến.
            Gọi rồi Mưu lẩn vào đám quân mà chạy. Bốn tướng theo lời Mưu dặn trước xông ra đánh. Vân Thiệu coi bốn tướng như con muỗi cỏ, chỉ một lát hai tướng về địa phủ. Hai tướng kia toan chạy, Thiệu tuốt hồng kiếm hoa lên, ánh thép vừa loè chớp hai đầu rơi xuống như lá rụng. Vân Thiệu tìm Thúc Mưu đuổi đến đồi Bình Cương, nghe một tiếng pháo nổ vang trời, bốn tướng dẫn quân mai phục xông ra tên bắn như mưa.
            Vân Thiệu cả cười múa tít ngọn đao, tên rơi tua tủa xuống đất. Vừa gạt tên vừa quay dao chém ba nhát ba tướng rủ nhau xuống suối vàng.
            Một tướng ôm đầu chạy. Vân Thiệu với tay nắm được dây lưng, ném bổng lên trời, đến khi rơi xuống đất thì óc phòi ra, xương tan thịt nát!
            Quân Tùy càng thêm dày đặt, Hàn Cầm Hổ lại sai hai dũng tướng là Tổng binh Tào châu Ngô Liệt, và Tổng binh Tào châu là Ngô Minh đem năm ngàn binh mã vây kín Thiệu vào giữa Lại thêm hai tướng của Thúc Mưu ở phía Đông cũng đem binh tới. Bốn bề tướng binh Tùy chiêng trống vang trời dậy đất, ồ ạt kéo đến như bão táp. Thiệu thân đơn mã chiếc, vẫn điềm nhiên múa tít ngọn đao, ngựa đến đâu đầu rơi đến đấy. Ngô Liệt bị rơi đầu, Ngô Minh toan chạy bị đao sả chết cả người lẫn ngựa. Hai tướng của Mưu thấy hai tổng binh bỏ mạng, không còn hồn vía. Đang luống cuống lại bị Thiệu dùng đốc đao đánh chết một còn mũi đao lia nhẹ, đầu tướng kia cũng rơi theo nốt. Bốn tướng mai phục phía Tây toan chạy nhưng ngựa vướng muôn quân, đang lúng túng thì ánh đao sáng loáng đã vèo vèo bay tới. Chúng trông thấy Thiệu mình đẫm máu, dữ tợn tựa thiên thần thì không còn hồn vía, trong chớp mắt đã cùng rủ nhau theo tiên tổ hết. Thế là một trận giao tranh, mười hai dũng tướng đã gửi đầu nơi lưỡi đao thẩn họ Ngữ! Duy có Thúc Mưu, như con chuột nhắt đã bỏ ngựa, lẩn vào muôn quân trốn lủi. Nghe nói Vân Thiệu đã chém tướng giết quân như phạt cỏ, Mưu sợ quá cởi giáp, vất mũ, tháo giầy mà chạy. Lát sau, ngơ ngác như chim lọt lưới như cá thoát câu, lảo đảo, nhợt nhạt chạy về đại dinh, sụp xuống lạy xin chịu tội, chân tay run lập cập.
            Hàn nguyên soái cả giận quát :
            - Ngươi nhất định xin ra đánh, trận trước đã thua Mã Siêu trận này lại mất mười hai tướng, thiệt bốn vạn quân, cái tội làm mất nhuệ khí của đại binh Tùy, quyết không tha chết.
            Liền thét đao phủ lôi Mưu ra. Mưu cuống quít van xin. Có quan tham mưu là Bảo Vật bước lên cố nói giúp xin cho Mưu được sống để đái tội lập công.
            Bảo Vật nằn nỉ mãi, Thúc Mưu van lạy đã hết lời, Cầm Hổ mới bằng lòng tha, nhưng lột chức, đánh bốn mươi roi, sau ra hậu dinh làm lính thổi cơm, chăn ngựa.
            Hôm sau Cầm Hổ nhất quyết thân chinh ra trận. Thám tử về báo, Vân Thiệu sai mở cửa thành đem quân ra dàn thành trận thế.
            Hàn Cầm Hổ ngồi trên yên ngựa, tiến ra, Vân Thiệu cúi rạp mình vái mà rằng :
            - Tiểu diệt mình mặc nhung trang không quỳ lạy được, xin lão bá thứ cho.
            Cầm Hổ vuốt râu nói :
            - Hiền diệt sao không nhớ cha ông đều ăn lộc triều đình, sao dám kéo cờ “Trung Hiếu vương” để tỏ lòng bội phản, nay lão phu vâng thánh chỉ đi đánh tuy có thiệt ít nhiều quân tướng, nhưng dưới trướng ta binh mã như rừng, sức ngươi địch làm sao được mãi. Chi bằng hàng đi, ta sẽ xin Thánh thượng xá tội cho, ý hiền diệt nghĩ sao?
            Thiệu nói :
            - Thân phụ tôi hết lòng vì chúa, không có tội lỗi gì cái đó lão bá ở trong triều tất rõ vậy mà nỡ giết đi lại sát hại toàn gia, bây giờ lại đem binh đến hỏi tội tôi, thưa lão bá đó là tội gì xin cho biết? Nếu hỏi tội thì xin lão bá đem quân về mà hỏi tội kẻ giết cha giết anh, loạn dâm, vô đạo. Kẻ có tội đầy trời ngập đất thì ngồi yên trên ngôi cao quý hưởng thú vui tửu sắc, để chỉ tay sai lão bá đem thân già nua trải bao sương tuyết đi hỏi tội người vô tội thì lạ thật. Lão bá đã đầu râu tóc bạc, há lại khom lưng uốn gối thờ một đứa trẻ con hung bạo, thật phí cái danh nghĩa của lão bá đã vang lừng bốn bể, như thế chẳng là hữu dõng vô mưu như kẻ thất phu sao! Lão bá nên quay binh về giết hôn quân, trừ gian nịnh, dựng lại nghiệp để cho hợp lòng trời, thuận lòng dân. Lão bá nên nghĩ lời tiểu điệt mà xá tội cho.
            Hàn Cầm Hổ nghe tuy có lý, song ở cái thế phải đánh chứ không lui được, bèn quát lớn :
            - Thằng này nói năng vô lễ, ta quyết lấy máu mày.
            Nói đoạn giơ đao chém, Vân Thiệu đỡ, lui ngựa lại ba bước mà rằng :
            - Xin lão bá nghĩ lại cái chết oan khuất của thân phụ cháu.
            Cầm Hổ lại tiến lên giơ đao chém.
            Thiệu lại cầm thương đỡ, lại lui ngựa kêu to :
            - Thân phụ cháu là bạn đồng liêu với lão bá, cháu là đạo con cháu xin lùi bước nhường hai đao rồi đó. Lão bá xét lại cho.
            Cầm Hổ lại tiến, giơ đao chém. Thiệu lại lùi ngựa nói :
            - Cháu xin nhường lão bá ba đao. Lão bá xét lại cho.
            Hổ múa đao chém nữa. Thiệu bèn dùng hết thẩn uy múa thương đánh lại. Một trẻ, một già, đao thương xoang xoảng, thật là một trận ác chiến, thần kinh quỷ khiếp.
            Cầm Hổ khen thầm :
            - Thật là cha hùm, con cọp. Cháu ta giỏi lắm, lão già này xin chịu thua rồi!
            Liền thúc ngựa chạy. Đến chỗ vắng, thấy có một mình Vân Thiệu đuổi theo, Hổ dừng ngựa nghiêm mặt nói :
            - Cháu ơi, lão già này sao lại không đau lòng vì lời cháu nói vừa rồi, sao lại không thương cha con cháu, nhưng trong triều gian nịnh như ruồi nhặng, mà xem ra khí số nhà Tùy đã suy nhược lắm rồi, nay mai chân chúa sẽ thay ngôi, khi đó cháu trả thù cha cũng còn chưa muộn. Cháu đang là một thiếu niên anh hùng lo gì chẳng có ngày rửa oán. Nay kéo cờ làm phản, e cháu làm nhơ dòng họ Ngữ vốn trung lương, hậu quân là Võ Vặn Thành Đô sức địch muôn người, cháu tuy giỏi lắm nhưng rồi cũng nguy vì hắn. Chi bằng hãy bỏ Nam Dương đi nơi khác là hơn, cháu nghĩ sao?
            Thiệu đáp :
            - Lão bá dạy cháu xin nghe, nhưng dù Võ Văn Thành Đô có là thần tướng cháu cũng không sợ hãi. Xin mời lão bá trở về an nghỉ.
            Cầm Hổ bèn thúc ngựa phi về, khẽ nói :
            - Cháu cứ đuổi theo kẻo ba quân ngờ vục đó.
            Thiệu đuổi đến cửa núi, các tướng Tùy xô ra cản lại. Thiệu không đuổi nữa, rẽ vào thành, đóng cửa. Phu nhân thấy chồng thắng trận về bèn rót rượu mời.
            Đây nói về Võ Văn Thành Đô đem hậu quân và lương thực gần tới, vào yết kiến Cầm Hổ nguyên soái, hỏi việc quân thắng bại ra sao. Hổ thuật lại hai trận bại của binh Tùy, Đô tức giận, mắt tròn, râu dựng ngược đập tay xuống đùi nói như hổ rống :
            - Ngày mai xin cho Đô này ra xé xác thằng Thiệu để rửa thù cho chúng tướng đã thác oan.
            Nguyên do Võ Văn Thành Đô là vì sao Lôi âm phổ hóa thiên tôn trên trời giáng xuống, ngươi ta xếp là anh hùng thứ hai đời ấy.
            Có một hôm phò giá Văn Đế lên chùa Cam Lộ dâng hương, Văn Đế thấy cái đỉnh từ thời Tần Thủy Hoàng, đỉnh cao một trương, lớn chừng hai ôm, có chữ khắc: nặng sáu ngàn cân. Văn Đế nói :
            - Ta nghe đồn Đô tướng quân có sức anh hùng vô địch, thử nhấc đỉnh này xem.
            Đô vâng lời, chạy xuống sân, cởi áo, nắm lấy hai chân đỉnh, rún mình một cái nhấc bổng ngay đỉnh lên giơ ngang đầu, đi ba vòng quanh cây đại hòe rồi quay về chỗ cũ, nhẹ nhàng đặt đỉnh xuống, nét mặt cứ như thường.
            Mọi người trông thấy sợ toát mồ hôi. Văn Đế bước xuống, khoác áo lên lưng Đô, hết lời khen ngợi. Rồi phong cho làm Vô địch đại tướng quân.
            Hôm sau, Ngữ Vân Thiệu nghe tin Đô đến, cũng có ý lo ngại, nghĩ thầm :
            - Đô khỏe lắm ta khó mà địch nổi, phải phòng giữ cho cẩn mật, kẻo hắn phá thành thì nguy lắm.
            Đoạn sai Ngữ Bảo đem quân vào rừng đẵn nhiều cây để xếp trên mặt thành ngăn giữ. Lại sai Tiêu Phương đem ba ngàn binh mã canh giữ điếu kiều sẵn sàng giương cung tên mà bắn xuống.
            Đô đã đến gầm thét ngoài thành. Thiệu mặc giáp lên yên phi ngựa ra, Đô không nói năng gì, vỗ đầu ngựa Ô truy múa ngọn lưu kim đang nặng ngàn cản đánh Thiệu. Thiệu giơ thương đỡ. Lửa loé ra, ngựa lùi bật lại. Đô lại đánh Thiệu lại đỡ ngọn thương hởi cong và cánh tay Thiệu đã tê đau. Tuy nhiên, Thiệu cũng cố sức bình sinh đánh chừng mười hiệp, liệu không địch nổi đành rẽ ngựa chạy. Đô đuổi gấp Thiệu lại quay thương đánh, chừng mười hiệp, ngọn thương của Thiệu quằn mấy đoạn, cổ khẩu gần như bi toạc rách ra, lại chạy. Đô đuổi sát sau lưng, rất là nguy cấp.
            May sao, lúc đó Ngữ Bảo đang đốc thúc quân sĩ đẵn cây trên ải, thấy rõ ràng chủ tướng bại trận, lại đang lúc tay không, nhìn thấy cây táo bên cạnh, liền nhổ băng cả gốc rễ lên. Bảo ôm cả thân cây táo chạy xuống quát to :
            - Chủ soái không ngại, đã có Ngũ Bảo đây. Nói rồi dùng hết sức bình sinh đánh cả cây táo vào mặt Thành Đô. Bất thình lình, Đô giơ vũ khí gạt ra. Hai người cùng dùng sức mạnh quá đến nỗi khỏe như Thành Đô mà cả người cả ngựa phải bật lùi trở lại. Đô gầm thét múa kim đang đánh. Bảo giơ cây đỡ, cây táo gãy làm hai. Vân Thiệu quay ngựa lại, té ra Ngư Bảo đang dùng cây giao chiến với Đô, liền giương cung nhằm giữa ngục Đô mà bắn. Đô bất ngờ bị một mũi tên vào như gió ngập vào cánh tay trái kêu to một tiếng “ối chao” rồi quay ngựa chạy. Ngữ Bảo toan vác cây đuổi theo, nhưng Vân Thiệu gọi lại. Bảo lại lên ải đẵn cây, Thiệu về thành. Tiêu Phương ra đón. Thiệu có dáng mệt nhọc, xuống ngựa nói rằng :
            - Không có Ngữ Bảo nhổ cây táo cản Đô thì ta tất bị nguy.
            Rồi đó, sai các tướng lo việt canh giữ đóng chặt bốn cửa, ngày đêm khuân đá, chất gỗ lên mặt thành lo Đô phá.
            Cầm Hổ đang ngồi đợi Đô thắng trận về. Bỗng có tin báo :
            - Vô địch tướng quân bị tên chạy về kìa.
            Lại tiếp luôn tín nữa :
            - Tổng binh ải Lâm Đồng là Thượng Tư Đồ và tổng binh ải Hồng Nê là Tần Văn Lễ đã đem binh đến tiếp ứng.
            Cẩm Hổ sai mời tất cả vào. Mọi người đang làm lễ tương kiến.
            Thượng Tư Đồ, Tần Văn Lễ, thấy khỏe đến như Thành Đô mà còn bị thương thì kinh hãi. Đô vừa vạch giáp, tự nhổ tên, vừa cười :
            - Nguyên soái và các tướng cứ an tâm. Đô này xin phá thành bắt Thiệu.
            Cầm Hổ sai Thượng Tư Đồ đem binh mã vây phía cửa Nam, Tần Văn Lễ phá cửa Bắc, Đô đánh cửa Tây, còn mình thì phá cửa Đông.
            Vân Thiệu nghe tin đó, vội cưỡi ngựa đem quân đi tuần tiễu, đốc thúc tướng sĩ lăn gỗ, ném đá, bắn tên thuốc độc xuống như mưa.
            Quân ngoài thành chết lăn như rạ. Đô phải lui quân ba dặm, tức giận lồng lên như cọp dữ.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #7
              Hồi 7 - Vỡ Nam Dương, Ngữ phu nhân tự ải từ phu tướng

              Hồi 7

              Vỡ Nam Dương, Ngữ phu nhân tự ải từ phu tướng
              Cứu ân công, Trại Châu Sương xuống núi đánh Tư Đồ

              Thấy binh Tùy đã lui, Thiệu mới hơi an tâm, suốt đêm ngày bỏ ăn bỏ ngủ lên trên mặt thành tuần tiễu. Khi đó tuyết xuống mịt mù. Thiệu nghiến răng chịu rét, phủ dụ khuyên dỗ ba quân cố tỉnh táo giữ thành. Tối đến, dưới trại Tùy san sát như bát úp trùng trùng điệp điệp, đèn sáng lờ mờ trong mưa tuyết. Tiêu Phương lúc nào cũng cắp gươm đi sau Thiệu, thấy Thiệu lo lắng thở dài thì nói :
              - Chủ soái nghĩ xem có phải đi cầu viện binh ở đâu chăng? Chúng vây mãi tất quân ta hết lương, chán nản, thành sẽ vỡ như không. Chủ soái mau định liệu.
              Thiệu sực nhớ ra nói :
              - Ta có người em họ tên là Ngữ Thiên Tích, sức khỏe ghê gớm, võ thuật cao cường lắm, hiện nay xưng Đại vương bên Đà La ở Hà Bắc.
              Trên núi có hơn vạn lâu la. Nếu có người cam đoan đến đấy cầu cứu, may ra Tích đương được với sức dũng mãnh của Đô.
              Tiêu Phương nói :
              - Tiểu tướng xin đi.
              Thiệu cả mừng, viết thư đưa Tiêu Phương Phương tạm biệt Vân Thiệu, lên ngựa phi về cửa bắc. Quân Tùy vây đánh, Phương nổi giận đùng đùng múa thương đâm luôn một lúc mấy trăm tên, chúng sợ hãi dãn cả ra. Chúng về báo tổng binh Tân Văn Lễ. Lễ xông ra thì Phương đã phá vỡ ba vòng vây phóng ngựa khá xa rồi, không đuổi nữa.
              Phương đi suốt ngày đêm tới Hà Bắc, chưa biết La Đà sơn trại ở đâu. lúc ấy mặt trời đã lặn, mây lại che kín, tuyết xuống và gió rét căm căm, đoái trông bề rừng rậm non cao chẳng thấy nhà cửa đâu hết. Cứ thúc ngựa đi mãi, bỗng thấy một rặng núi cỏ cao, gió rít ầm ầm, chim kêu vượn hót, suối reo róc rách chợt đâu tiếng thanh la vang động rồi có tiếng nhạc reo. Tiêu Phương cả người cả ngựa rơi xuống hố. Lâu la cho móc sắc câu Tiễu Phương lên trói lại.
              Chúng dắt ngựa vác thương, giải Tiêu Phương qua mấy quả núi, qua một bãi rộng làm trường luyện võ đến một dinh trại gươm giáo sáng loé.
              Chúng dẫn Tiêu Phương vào Tụ nghĩa đường. Chính giữa có một cái ghế cao lót da hổ, dưới chân có chiếc án rải da báo để đặt chân.
              Lâu la trói Tiêu Phương vào cái cột, bỗng nổi ba hồi trống, chúng xếp hàng hai bên. Một Đại vương bước lên ghế ngồi. Tên lâu la già ra quỳ bẩm :
              - Hôm nay chúng tôi xuống núi bắt được con trâu mộng, xin lấy bộ tim gan để Đại vương xơi.
              Tiêu Phương mở mắt ra thấy chúng cầm dao sáng loáng sắp kề vào bụng mình thì thở dài một tiếng kêu lên :
              - Tiêu Phương nầy vì việc quân cơ mà chết ở đây thì thực uổng quá, chỉ ngại cho Ngữ nguyên soái ta bị chúng bao vây lương hết, quân nản, mà ngày đêm mỏi mắt chờ quân cứu viện, đau đơn biết bao nhiêu!
              Đại vương lắng tai nghe thấy câu “Ngữ nguyên soái” thì vội hỏi :
              - Nó nói gì thế bay?
              Chúng đáp :
              - Bẩm Đại vương, con trâu nó than thở đấy.
              Đại vương bảo :
              - Dẫn hắn lại đây, ta hỏi.
              Chúng dẫn Phương đến trước mặt Đại vương. Hảo hán ấy nói rằng :
              - Ngươi vừa than thở chi đó, nói cho ngay kẻo ta mổ bụng.
              Phương đáp :
              - Chủ soái chúng tôi là Ngữ Vân Thiệu trấn thủ Nam Dương. Hiện nay đại binh Tùy có Võ Văn Thành Đô uy dũng lắm đang vây khốn Nam Dương, nên Ngữ chủ soái sai tôi đến La Đà trại đưa thư cầu cứu ông hảo hán Ngữ Thiên Tích là em ruột. Người ấy có thể đối địch với Thành Đô. Nay tôi vào Đại vương, xin Đại vương tha cho tôi để đi cầu viện binh giải vây cho chủ soái tôi.
              Hảo hán kia vùng đứng dậy, nhảy xuống đất hỏi to :
              - Ngươi tên là gì đó?
              Phương ngẩng lên nói :
              - Tới là thống chế Tiêu Phương dưới trướng Ngũ nguyên soái.
              Hảo hán vội mời Phong ngồi lên và nói :
              - Tôi chính là Ngữ Thiên Tích, núi này chính là La Đà sơn, xin tướng quân miễn lỗi.
              Đoạn sai lâu la dâng rượu. Rượu ba tuần, Tích hỏi :
              - Anh tôi làm quan trấn thủ một lòng giữ cõi bờ cho chúa, cớ sao Võ Văn Thành Đô lại cử binh vây khốn, tướng quân cho tôi rõ.
              Phong thuật hết việc Thái tử Dương Quảng giết Văn Đế, hại em là Dương Dũng lại chém Ngữ Kiến Trương, rồi trừ cỏ nhổ gốc, lại đề binh hòng giết Vân Thiệu cho tuyệt dòng họ Ngữ.
              Tích nghe xong gầm lên ba tiếng rồi buông tiếng khóc. Phương an ủi hồi lâu. Tích đập bàn mà nói :
              - Hôn quân vô đạo tru diệt cha mẹ anh em ta. Nay lại uy hiếp anh ta, ta thề không cùng nó đội một trời.
              Phương sục nhớ phong thư, rút bọc lấy ra. Tích đọc xong, lại gầm như hổ dữ. Sớm hôm sau, Thiên Tích mặc đồ tang rong cờ trắng “Báo phục thù”, điểm năm nghìn lâu la, còn một nửa để lại cho các đầu mục giữ sơn trại. Tích lên ngựa xích thố, cùng Phương đem quân xuống núi, ngày đêm đi một mạch tới núi Thái Hành sơn thì trời mưa tuyết, quân đói quá phải hạ trại nấu cơm.
              Trên Thái Hành sơn, có Đại vương Hùng Khoát Hải. Hôm đó Hải đang ngồi trên đại sảnh, lòng mong nhớ nghĩa huynh, băn khoản nghĩ :
              - Từ hôm từ biệt, Ngữ Vân Thiệu đại ca ta nói rằng trở về quan ải Nam Dương, sẽ viết biểu tâu lên triều đình chiêu dụ ta, nay chờ đợi đã mỏi mòn con mắt mà nào có thấy chi đâu. Đại ca ta là một bậc anh hùng có khi nào lại quên lời ước hẹn.
              Khoát Hải càng nghĩ càng buồn bực, rượu say rồi dẫn lâu la xuống núi để săn bắn và ngóng chờ Vân Thiệu. Khoát Hải mãi theo đuổi hưu nai, cho mấy đầu mục đi tìm hành khách.
              Khi ấy có một bọn lái buôn vàng bạc ở Kinh qua đường này. Chúng khôn ngoan bàn nhau trá hình làm hành khất, rách rưới lôi thôi, vừa đi vừa rên rỉ. Đi qua chân núi Thái Hành sơn, chúng ùa té chạy. Mấy đầu mục của Hùng Khoát Hải hò lâu la đuổi.
              Chúng nhanh chân chạy qua mấy đợt lui, thấy trước mặt có dinh trại cắm bên dường, bèn chạy thọt vào, quỳ rạp vào dưới chân Ngữ Thiên Tích Đại vương mà van lạy xin che chở.
              Thấy bọn lái buôn đúng là ăn mày, Tích cho chúng vào dinh và bảo quân si thổi cơm cho chúng ăn. Bọn đầu mục của Khoát Hải Đại vương đuổi đến nơi biết là là lái buôn đã trốn vào trại, thì lên tiếng quát tháo ầm ĩ :
              - Bọn khốn kiếp nào dám hạ trại ở giang sơn chúng tao đây?
              Lâu la của Thiên Tích cười mà đáp :
              - Chúng mày không thấy lá cờ của Ngữ Thiên Tích Đại vương Đà La trại cắm trên cành cây kia à?
              Bọn đầu mục nói :
              - Chúng bay nghe ta nói thì hết vía Chúng ta là đầu mục của Đại vương Hùng Khoát Hải đây. Muốn sống thì trả bọn lái buôn, kẻo Đại vương ta đến thì thầy trò bay ra ma hết.
              Ngay khi ấy, Ngữ Thiên Tích bước ra, nghe bọn đầu mục léo nhéo thì quát to một tiếng, đuổi đi. Bọn đầu mục thấy Đại vương của mình đã to lớn dữ dội mà Đại vương này có vẻ dũng mãnh hơn, liến xô nhau chạy. Chúng về hốt hoảng lên núi tìm Khoát Hải nói rằng :
              - Chúng tôi đuổi một bọn lái buôn vàng chúng nấp vào trại của một Đại vương ở chân núi bên kia Đại vương ấy đánh đuổi chúng tôi và thách Đại vương đến thì hắn xé làm hai mảnh.
              Khoát Hải nổi giận đùng đùng phi ngựa tới, gọi Tích ra mà rằng :
              - Đại huynh nên nghĩ tình đồng đạo mà trả ta bọn lái vàng.
              Tích nói :
              - Chúng là một lũ ăn mày rách rưới, chạy đến xin cơm, có lẽ đại huynh say rượu trông gà hóa cáo đấy thôi.
              Hải quát to :
              - Nếu vậy thì ta không nể ngươi được nữa. Có giỏi hãy cùng ta tử chiến một phen nào!
              Nói rồi múa đôi búa đánh. Tích cả cười giơ cây hỗn kim đang đỡ.
              Hai hảo hán sức cùng ngang như đôi mãnh hổ, không ai nhường ai một bước, đánh nhau dự trăm hiệp vẫn không phân thắng bại. Cho tới lúc một trời đã lặn, mới chịu nghỉ tay, kẻ về trại người tên núi, và hẹn nhau quyết phân sống chết sớm mai.
              Sớm mai, hai mãnh hổ Đãi Vương lại đánh nhau ba trăm hiệp. Lại chưa phân thắng bại.
              Cứ thế không ai chịu thua ai. Ngữ Thiên Tích và Hùng Khoát Hải ngày nào cũng dàn trận thế đánh, thanh la và cồng khua vang rừng núi.
              Ròng rã sáu ngày trời, Tiêu Phương can ngăn nói mãi, Ngữ Thiên Tích nhất định phải đánh bại Hùng Khoát Hải mới chịu nhổ trại cất quân.
              Đây nói Ngữ Vân Thiệu ở Nam Dương ngày đêm mong ngóng Tiêu Phương đi cầu em mang quân đến cứu mà chẳng thấy vân mông. Ngày nào Vân Thiệu cũng lên thành nhìn ra khắp chân trời, chỉ thấy quân Tùy trùng điệp vây đánh thành phá cửa, bắn tên vào.
              Chờ mong chán lại lui bước xuống vào dinh, buồn rầu lo lắng. Phu nhân hỏi :
              - Viện quân không thấy đến, phu tướng nên tìm cách khác, kẻo thiếp e thành vỡ đến nơi rồi.
              Thiện thở dài nói :
              - Hiển thê ôi, ta còn ba điều ấy náy, có chết cũng không nhắm mắt.
              Phu nhân gạn hỏi, Thiên ứa nước mắt đáp rằng :
              - Điều thứ nhất là thù cha chưa báo. Điều thứ hai là hiền thê phận đàn bà yếu ớt sao ra khỏi vòng vây Điều thứ ba là con thơ trứng nước tránh sao được mũi tên hòn đạn của giặc đang dữ như lang sói.
              Vừa dứt lời thấy pháo nổ vang trời, quân hốt hoảng vào trình :
              - Võ Văn Thành Đô đã phá gần vỡ tây môn, xin chủ soái định liệu cho.
              Thiệu biến sắc mặt, nắm tay vợ nói :
              - Nguy biến đến nơi rồi, mau ẵm con lên ngựa, ta trốn đi phương khác sẽ tìm cách báo thù sau.
              Phu nhân nắm lấy tay chồng khóc mà vào phòng riêng. Ngờ đâu, vào mãi chẳng thấy ra, Thiệu chỉ nghe tiếng ấu nhi gào khóc Thiệu vào ẵm con, còn đang ngơ ngác, nghe thấy tiếng quân sĩ kêu ở phía sau :
              - Phu nhân tự ải rồi!
              Thiệu hốt hoảng chạy vào, nhìn xuống giếng sâu thẳm thì thương ơi, đã châu chìm ngọc đắm! Thiệu ôm con khóc bên bờ giếng hồi lâu rồi tiện có bức tường bên giếng, Thiệu đẩy đổ xuống lấp kín giếng sâu, đoạn quỳ xuống khấn :
              - Hiền thê ơi, sống lành chết thảm linh thiêng phù hộ cho ấu nhi thoát khỏi vòng vây để sau này gìn giữ họ Ngữ báo cái thù không đội trời này.
              Khấn rồi chạy ra công đường. Các tướng sĩ chờ tướng lệnh. Vân Thiệu nói :
              - Ngữ Bảo ra của tây đánh với Thành Đô.
              Ngữ Bảo vâng lệnh cầm đôi búa ba trăm cân xông ra cửa tây đôi búa đến đâu quân sĩ chết đến đấy. Bảo chỉ có sức khỏe chứ không biết vũ nghệ cứ gặp người là bổ. Mấy vòng vây thấy Ngữ bảo khỏe vô địch, phải rẽ cả ra. Chợt có nhạc ngựa reo, Thành Đô đã đến. Bảo coi thường giơ búa đánh. Đô giơ lưu kim đang đỡ, sức hai bên cùng mạnh quá, làm bật cây búa lại đập vỡ sọ Bảo chết tươi.
              Vân Thiệu cởi áo bọc ấu nhi đeo trước bụng, phi ngựa ra của nam, gặp Thông Tư Đồ. Đồ phóng thương đâm, Thiệu đối địch rất dũng mãnh Thương Tu Đồ không phải là địch thủ của Vân Thiệu, chịu thua bỏ chạy.
              Thiệu không đuổi theo, chạy về phương nam, Thượng Tư Đồ quay lại đuổi để đánh nữa. Ngựa của Thiệu là giống ngựa tốt đi nghìn dặm nhưng long câu của Thượng Tư Đồ sức bay trên mặt đất như gió cuốn.
              Đó là giống ngựa lạ thường. Mỗi khi Tư Đồ ra trận gặp nguy, hắn chỉ nhổ một chiếc ở cái chùm lông vàng như cước trên đầu tuấn mã tức thì nó gầm lên một tiếng long tròi, ngựa kẻ địch thủ phải chồm lên, rúm vó tướng trên yên phải ngã liền.
              Ngoảnh thấy Tư Đồ đuổi theo ráo riết, Vân Thiệu phải dừng ngựa đánh, được ba hiệp, Tư Đồ luống cuống đuối sức, bèn nhổ một chiếc lông đầu ngựa, tuấn mã gầm lên, mũi thở ra khói đen tanh tưởi khiến ngựa Vân Thiệu hoảng sợ lùi trở lại, làm Vân Thiệu suýt ngã may chống được ngọn thương xuống đất.
              Tư Đồ nhổ chiếc nữa, con ngựa lại gầm lên, phun hai luồng khói vào ngựa Thiệu. Con vật ngã lăn ra, co rúm vó, quật Thiệu ngã nhào xuống đất. Tư Đồ phóng thương đâm.
              Thốt nhiên, một đại hán mắt to lồi, râu chổi sể bao quanh mặt, mặt vừa xanh vừa tím đội khăn xéo đỏ, mặc áo vàng sẫm, tay vác thanh long yến nguyệt đao xông đến gạt thương Tư Đồ hất bổng lên khiến ngọn thương suýt bắn đi. Thượng Tư Đồ ngẩng nhìn, giật bắn mình kêu :
              - Ối chao, Châu Sương giáng thế!
              Kêu rồi, quay ngựa chạy. Đại hán mặt đen vác đại đao đuổi, chân lướt trên mặt đường như gió. Vân Thiệu đã cùng ngựa đứng được lên, gọi lớn :
              - Hảo hán đừng đuổi nữa.
              Người ấy nghe lời, trở lại. Thiệu nghiêng mình xá :
              - Nghĩa sĩ cho Vân Thiệu nầy biết đại danh.
              Người ấy đáp :
              - Chúng tôi họ Chu tên Sáng, ở phía nam thành này.
              Cách đây năm năm, anh tôi bị tội bỏ ngục, lão gia thương mà cứu cho, ơn ấy còn ghi khắc. Ban nãy chúng tôi đẵn củi trên núi, thấy tướng công cùng Tư Đồ giao chiến muốn xuống bắt nó nhưng tay không, bèn vào đền thờ Quan Vân Trường mượn đại đao của Châu Sương xuống đánh.
              Vân Thiệu nói :
              - Đền thờ Quan Công ở đâu Nghĩa sĩ dẫn tôi lên...
              Chu Sáng vâng lời dẫn Thiệu lên núi, Thiệu sụp lạy khấn rằng :
              - Ngữ Vân Thiệu tôi bị hôn quân giết hại cả nhà, nay sang Hà Bắc mượn quân về đánh báo thù, ngài là bậc trung nghĩa đời Hán, xin phù hộ cho tôi được thành công sẽ xin tu sửa đền đài, truyền nối việc hương đăng sùng bái.
              Khấn xong, Thiệu quay lại sụp lạy Chu Sáng nói :
              - Nghĩa sĩ ơi, dòng họ Ngữ còn sót lại giọt máu này, nay trao gửi nghĩa sĩ nương náu rùng sâu núi thẳm cố nuôi cho, sau này ấu nhi được nên người thì ơn này dù sống chết Thiệu tôi không quên được. Ví bằng ấu nhi có mệnh hệ nào, đó là tại lòng trời định. Nghĩa sĩ thương tình cháu nhỏ mồ côi mà thương giúp.
              Chu Sáng vội quỳ đáp lễ :
              - Xin ân tướng cứ tin vào Sáng này.
              Liền ẵm công tử, và hỏi nên đặt tên là chi để mai sau nhận biết.
              Thiệu nói :
              - Hôm nay ta gửi con ở đền này, nên đặt là Ngữ Đăng.
              Chu Sáng trả đao Châu Sương, đoạn bế công tử ra khỏi miếu, cúi lạy Vân Thiệu, ân cần nói :
              - Sau này còn gặp gỡ, xin ân công giữ lấy thân vàng ngọc để trả thù.
              Vân Thiệu đứng ngẩn ra, nhìn theo người nghĩa sĩ ẵm ấu nhi đi khuất vào rừng rậm. Đoạn, lau nước mắt, lên yên phi xuống núi.
              Đi chừng trăm dặm tới Thái Hành sơn, Thiệu đang đói khát có ý tìm hàng quân, bỗng nghe vang động tiếng cồng thanh la. Thúc ngựa tới chân núi thấy có binh mã đang đánh nhau, nhìn kỹ rồi la lớn :
              - Sao lại thế này, anh em một nhà cả đó, không được đánh nhau như thế.
              Hai Đại vương ngẩng lên, nhận ra Vân Thiệu, Thiên Tích gọi :
              - Đại ca mau giúp em, đánh chết thằng tướng giặc này!
              Hùng Khoát Hải cũng kêu to :
              - Đại ca giúp em với không giết được thằng này thì tức lắm.
              Thiệu xông vào giơ thương binh khí hai Đại vương ra, quát :
              - Hai em ta lầm rồi, Mau xuống ngựa bái kiến nhau đi.
              Hai Đại vương vội nhảy xuống đất vái nhau. Vân Thiệu giới thiệu Khoát Hải với Thiên Tích, kể lại chuyện Hải hai chân đá chết Hổ ngày nào vì vậy nên đã cùng nhau kết nghĩa. Hai người đều ôm nhau cả cười.
              Ba người đem lâu la lên núi, vào Tụ Nghĩa sảnh ngồi. Ngữ Vân Thiệu thuật rõ chuyện phụ thân bị hại, cả nhà chết chém, thành trì tan vỡ, vợ tuẫn tiết, con thơ gửi nhờ Chu Sáng nuôi.
              Tiêu Phương ứa nước mắt sụp lay mà rằng :
              - Tiểu tướng vâng lệnh đi cầu cưu Ngữ nhị lang đây, chẳng may giữa đường có chuyện hai hảo hán tranh hùng nên chưa đem quân về phá vòng vây thì đã nên nông nổi ấy. Muôn tội ở như mạt tướng, thật là đáng chết.
              Thiên Tích khốc rống lên rồi chỉ mặt Hùng Khoát Hải :
              - Đáng lẽ ta đến cứu anh ta thì đâu đến nỗi vợ con anh ta tan tác, chỉ tại anh mặt đen này đòi lũ ăn mày kia mà bây giờ hối không còn kịp nữa.
              Khoát Hải cãi :
              - Sao đại huynh không nói là cần kíp đi giải vây Nam Dương, nếu tôi được biết thì cùng nhau đi cứu, nay oán tôi thì quá lắm.
              Ngữ Vân Thiệu dàn hòa :
              - Việc đã lỡ rồi, mọi sự do trời định hết Hai hiền đệ chớ cãi nhau vô ích.
              Rượu đã bày. Ba người cùng nhau cạn chén. Thiệu ngậm đắng nuốt cay, luôn luôn cúi xuống thở dài. Khoát Hải cởi áo ngoài, dẫm chân mà nói :
              - Thù này là thù chung của ba anh em ta. Ngày mai em cùng nhị lang Ngũ Thiên Tích đây giúp đại ca khởi binh chiếm Thành Đô.
              Thiệu nói :
              - Đa tạ nhiệt huyết của hiền đệ, nhưng phải xét lại rằng ta ở thành Nam Dương trong tay có mười vạn quân, trăm mãnh tướng mà còn thất bại. Mai ta sang Hà Bắc tìm người em con cô con cậu với ta là Lý Tử Thông mượn quân để báo thù. Lý Tử Thông chiếm giữ Hà Bắc đã từ lâu, bấy nay kéo riêng hiệu cờ không phục nhà Tùy một mình giữ ngôi vương tung hoành dọc ngang một cõi. Hắn giúp ta thì thù này lo gì không rửa được, nay hiền đệ cứ giữ sơn trại, chiêu quân luyện mã, mai kia ta kéo binh qua đây sẽ vời em xuống núi.
              Khoát Hải buồn rầu hỏi :
              - Đại ca đi như vậy biết bao giờ mới lại thấy mặt nhau?
              Thiệu đáp :
              - Sớm một năm, muộn cũng hai năm ta biết thế nào mà nói trước.
              Sớm sau, Vân Thiệu, Thiên Tích và Tiêu Phương bái biệt Hùng Khoát Hải, cùng nhau xuống núi. Đến chiều tới La Đà trại, lên sơn trại ăn uống no say. Ở đấy một ngày, Vân Thiệu để Tiêu Phương và Thiên Tích ở lại đây chiêu binh tập mã, dự bị lương nhu, đoạn Vân Thiệu một mình cầm thương lên ngựa phi xuống núi, thẳng đường Hà Bắc mà rong ruổi.
              Đây nói về Lý Tử Thông, trấn thủ Thọ Châu cai quản các miền Hà Bắc, có trăm vạn hùng binh, ngàn viên dũng tướng, dọc ngang ngót trăm quan ải. Tùy Văn Đế thấy Thông mạnh quá, sợ một ngày kia làm phản, phải lấy lòng phong chức Thọ Châu Vương. Tử Thông biết vậy tự xưng là Thiên tuế.
              Ngữ Vân Thiệu đến nơi, xin vào triều kiến. Quân giữ ải vào quỳ bẩm :
              - Có một tướng cưỡi ngựa cầm thương, nói là Nam Dương Hầu Ngữ Vân Thiệu xin vào yết kiến.
              Lý Thiên Tuế cả mừng nói :
              - Đó là biểu đệ của ta.
              Bèn sai một quan văn ra đón Thiệu vào. Vào tới nơi, Thiệu sụp lạy nói :
              - Dám bẩm Thiên tuế, mạt tướng là Nam Dương hầu vào triều kiến.
              Lý Thiên tuế sai tả hữu nâng dậy mời ngồi, hỏi :
              - Biểu đệ trấn thủ Nam Dương đến đây có việc chi?
              Vân Thiệu ứa nước mắt thuật rõ việc thái tủ Quảng giết cha, hại anh, chém cả nhà mình, lại sai Thành Đô phá Nam Dương. Lý Thiên tuế cả giận đập án mà rằng :
              - Hôn quân vô đạo, làm điều bất hiếu, lại tàn sát toàn gia em ta, ta sẽ cử binh báo cái thù ghê gớm đó.
              Vân Thiệu siết bao mừng rỡ, lại sụp lạy. Quân sư Cao Đại Tài bước ra tâu :
              - Chúa công đang thiếu một Nguyên soái cầm quân, nay nhân Ngữ nguyên soái đến, ta nên cử vào chức ấy.
              Lý Thiên tuế hài lòng phong ngay Thiều làm đại nguyên nhung thống lĩnh binh lương suốt cả miền Hà Bắc.
              Nhắc lại việc Võ Văn Thành Đô cả phá cổng tây kéo quân vào soái phủ mới biết Vân Thiệu đã trốn đi rồi. Quân sĩ Nam Dương mất chủ soái, mở hết các cửa thành xin hàng hết. Một lát, Thông Tư Đồ đem quân về. Hàn Cầm Hổ nói :
              - Ngươi trấn cửa bắc có bắt được phản thần không?
              Đồ kể việc Châu Sương hiển thánh múa long nguyệt đao của Quan Công chém. Cầm Hổ tin là thật, rồi vào công sảnh tra soát sổ dân đinh, treo bảng chiêu an dân chúng, Thành Đô nói :
              - Bẩm nguyên súy, Mã Thúc Mưu không phải là địch thủ của Vân Thiệu, xin tha cho hồi chúc.
              Hổ nể lời, tha ngay. Mưu đang giữ ngựa, được tin, mừng vào sụp lạy Cầm Hổ, lại quay ra lạy tạ Thành Đô hai ba lượt.
              Đoạn, Cầm Hổ giao cho Tư Đồ giữ ải Lâm Đồng, Tấn Văn Đế giữ ải Hồng Nê. Hai tướng đi khỏi, Cầm Hổ dặn dò quân sĩ không được quấy nhiễu lương dân, rồi cùng quân tướng kéo cờ hát khải hoàn ca, trở về kinh đô phục chỉ.
              Đi mười ngày ròng rã tới kinh sư, Hàn Cầm Hổ đóng quân xa năm dặm, rồi cùng Thành Đô, Mã Thúc Mưu cỡi ngựa vào thành triều kiến.
              Tùy Dạng Đế sai vời vào, Cầm Hổ dâng bản sớ kể rõ việc hạ Nam Dương, Ngữ Vân Thiệu trốn thoát. Dạng Đế mừng rỡ, sai rót rượu ngự ban khen đoạn phong Cầm Hổ làm Bình Nam Vương, Thành Đô làm Bình Nam hầu, Mã Thúc Mua làm Đô tổng quản. Các tướng đều được thăng thưởng hết.
              Dạng Đế sai đặt ngự yến ban cho hết bách quan văn võ. Sau đó lại giáng chỉ ân xá hết các phạm nhân đã thành hay chưa thành án. Lệnh ân xá ban ra ngoài thiên hạ, may nhất cho một anh chàng bán muối, quê ở Ban cửu điếm, phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, họ Trình tên Giảo Kim. Hảo hán ấy mình cao vai rộng, tay dài, mắt xanh, mũi đỏ, mắt biếc, tướng như hùm beo, ai trông cũng sợ. Phụ thân là Trình Hữu Đức mất sớm, mẹ là Cao thái thái, quanh năm khó nhọc để nuôi Trình Giảo Kim chỉ rong ruổi ăn chơi.
              Khi xưa Giảo Kim ở Tế Nam đã cùng Thúc Bảo cùng cắp sách đi học nhưng thiên tính tối tăm, học đến đâu quên đến đấy, rút cục một chữ nhất cũng không biết viết ra sao.
              Rồi sao có một bọn du đãng rủ Kim đi buôn muối lậu. Kim bướng bỉnh, khỏe như con voi, bọn phương buôn kinh hãi lắm, gọi Kim là Trình Lão Hổ. Một ngày kia, có quan tuần bộ đi ra bến sông bắt muôi lậu. Kim cáu tiết đá một tên lính của tuần bộ bắn ra giữa dòng sông chết ngóm. Kim không muốn để luỵ cho người, tự vào phủ nha nhận tội.
              Quan phủ thương Giảo Kim là tay hảo hán tính thẳng lòng ngay, thì cố ý không làm án vội, cứ giữ Kim ở phủ môn sai bảo vặt.
              Đến nay, được nghe chỉ ân xá, các tội nhân khác thì reo mừng kéo nhau vào lạy quan rồi rủ nhau ai về quê hương người ấy. Duy có Giảo Kim là cứ ngồi im không nhúc nhích. Ngục tốt bảo :
              - Người ta đi hết rồi, anh Kim còn không nhúc nhích có lẽ định ở lại ăn cơm của phủ chăng?
              Kim nổi giận quát to một tiếng nắm cổ tên ngục tốt ném ra sân, rồi hoa quyền đánh hết. Chúng sợ hãi tìm lời van lạy Giảo Kim nói :
              - Lão gia sắp đi đây. Nhưng chúng bay lại không biết bảo nhau mua rượu thịt tống tiễn lão gia à? Chính chúng không nhúc nhích sao dám bảo ta?
              Chúng ngục tốt vốn sợ sức khỏe của Kim, bèn góp tiền nhau đi mua thủ lợn, rượu ngon bưng vào khoản đãi. Kim đang thèm thuồng như ma đói, vớ được rượu thịt, ăn như rồng cuốn nước, cọp nuốt dê non, đoạn đứng dậy vươn vai, tự ngắm nghía thân hình rồi nói :
              - Ta đường đường một tay nam tử, nay ở tù ra mặc quần áo rách coi sao được. Chúng bay mau đem quần áo tới đây cho ta mặc. Nếu chậm ta nhất định không đi đâu hết.
              Chúng lo sợ nói :
              - Chúng tôi làm việc lương ít, bổng không, vợ con ở nhà rách rưới, làm gì có quần áo đưa cho ông.
              Kim trừng mắt, toan hoa quyền đánh. Chúng cuống quít mà rằng :
              - Chỉ có chiếc áo tang bằng vải trắng dài rộng, chiếc mũ bằng vải sô, nếu lão gia không dùng thì xin chịu.
              Kim nói :
              - Thôi cũng được, lấy mau cho lão gia xem.
              Một lát chúng mang áo tang đến. Kim đội mũ, mặc áo, ngắm nghía một tí rồi vung tay áo thụng, ra khỏi ngục, chạy một mạch về làng thăm mẹ.
              Một lát tới nhà, Trình mẫu ôm lấy con mà khóc. Trình mẫu nói :
              - Ba năm nay con bị tội tù, mẹ muốn vào thăm nhưng không có tiền đút lót, khi nào chúng cho mẹ vào thăm con. Mẹ bỏ ăn bỏ ngủ, nay tại sao con lại được về?
              Kim nói :
              - Nhà vua tha con về hầu mẹ đấy. Mẹ khá mừng đi.
              Trình mẫu vui vẻ nói :
              - Trong vại còn năm thưng gạo, con có đói thì đi thổi mà ăn.
              Kim đi vét gạo thổi ăn hết cả nồi mới lửng dạ. Trình mẫu vừa mừng đã lo ngại nói :
              - Mẹ thì già, nhà nghèo túng, sức con ăn khỏe thế, lấy gì nuôi con?
              Kim nói :
              - Mẹ còn đồng nào lại đua con đi buôn muối lậu thì lo gì đói.
              Trình mẫu nói :
              - Mẹ làm gì ra tiền mà đưa cho con.
              Kim nói :
              - Có vật gì đưa con đem bán vậy.
              Bà mẹ nói :
              - Mẹ còn độc chiếc quần kia, con đem chợ bán. Đừng đi buôn muối nữa, cứ buôn lấy cây tre về chẻ cho ta đan rồi con đem ra chợ bán mà đong gạo.
              Nói rồi mở hòm đưa quần cho con bán. Giảo Kim ra đến phố, hai bên thiên hạ cùng sợ hãi vội hô nhau đóng cửa. Kim xông vào trong chợ đang đông, thét to :
              - Ai có tiền có bạc hãy gần ta, không thi cút hết!
              Vừa nói vừa đẩy vừa đá, mọi người ngã giúi xuống, kêu ầm ĩ cả lên.
              Kim treo cái quần lên mái chợ, nhảy lên cái tường thấp, ngồi vắt vẻo quát vang :
              - Đứa nào có tiền đến mua quần đẹp này đi, mau mau, kẻo lão gia phóng hỏa thiêu trụi hết hàng hóa hàng quán đó. Mua đi! Mua đi!
              Mọi người run sợ xô nhau chạy. Có một người nhận biết Trình Lão Hổ, rón rén lại gần nói :
              - Không biết đại gia đã về, thật là có lỗi. Chẳng hay vật này đáng giá bao nhiêu xin cho biết.
              Giảo Kim nói :
              - Không là bao nhiêu ta lấy một lạng thôi.
              Người ấy nghĩ :
              - Không mua thì hắn còn quấy nhiễu, chi bằng thí cho hắn một lạng cho xong.
              Đoạn móc túi lấy một lạng, hai tay đưa lên nói :
              - Chúng tôi gọi có lạng bạc để mừng lão gia đã được về. Còn cái quần lão mẫu vốn là vật quý, lão gia xuất thân ở đấy mà ra xin mang về không nên bán.
              Kim thấy tiền thì cả cười, không hiểu nghĩa câu nói ấy, liền nhảy xuống đất nói :
              - Bác này biết lễ nghĩa, ăn nói thông văn tự, lão gia có lời khen.
              Nói rồi thu quần bỏ vào bọc, đút tiền vào túi đi ngay. Giảo Kim đến hàng tre. Gã bán tre trước là Vương tiểu nhị trước có đánh bạc với Giảo Kim đã bị Kim đánh cho một trận, nay thấy Kim ở tù ra thì vội quay vào bảo gia nhân :
              - Mau xếp tre cho gọn ghẽ kẻo người ta ăn cắp đấy!
              Kim sáng tai từ xa đã nghe thấy, tức thì xông đến nắm lưng áo Tiểu nhị ném vào đống tre, mặt mũi sưng vếu lên. Tiểu nhi nói :
              - Ngươi là một tên tù, danh giá gì mà dám bắt nạt ta?
              Kim túm ngực nhấc bổng lên ném tít lên trời, lại giơ tay hứng đỡ như kẻ đá cầu. Tiểu nhị hết hồn bạt vía rối rít van lạy. Mãi Kim quát :
              - Lão gia cần mấy cây tre, mi có biếu không?
              Tiểu nhị xin vâng. Tức thì Kim xuống bờ sông hai tay khuân hai bó tre to tướng, ước độ ba mươi cây, nặng đến ba trăm cân chạy đi vun vút.
              Tiểu nhị và mọi người ngây mặt ra sợ hãi.
              Kim vác hai bó tre về ném giữa sân, lại lấy bạc ra đưa mẹ. Trình mẫu nửa mừng nửa sợ nói :
              - Con lấy đâu ra nhiều tre nhiều bạc thế?
              Kim đáp :
              - Thưa mẹ, con ra chợ có người nhận biết mừng con lạng bạc mà không dám lấy quần. Còn tre kia là người quen cũ tặng con làm vốn.
              Bà mẹ mừng rỡ nói :
              - Con lại đi sắm dao tốt về chẻ tre cho mẹ đan giỏ mai đem ra chợ bán.
              Kim vâng lời đi mua con dao, mấy đấu gạo một vò rượu, một cân thịt, nấu nướng một lát rồi hai mẹ con ngồi ăn uống no nê. Ăn xong Kim chẻ tre để mẹ đan. Kim nói :
              - Mẹ già nua còn làm khó nhọc. Con đâu dám ngủ.
              Rồi ngồi bên mẹ chờ đến canh tư. Trình mẫu đan được đủ mười chiếc giỏ. Kim mới rũ ổ rơm mời mẹ đi nằm, còn mình xuống bếp chui vào thùng trấu ngủ một giấc, ngáy vang như sấm.
              Chợp một lát, Trình mẫu dậy thổi cơm sáng, đánh thức con dậy ăn.
              Cơm xong, Kim hỏi mẹ :
              - Sọt giỏ bán thế nào, mẹ dạy cho con biết.
              Bà mẹ nói :
              - Mỗi cái độ ba phân thôi.
              Kim vâng lời quảy gánh giỏ ra chợ, tới nơi người ta thấy mặt Kim nhốn nháo, thu xếp hàng hóa đi tản mát. Ai cũng tránh mặt, Kim ngồi đến trưa đến chiều chẳng ma nào dám đến gần. Kim điên tiết, lại đói như cào, thầm nghĩ :
              - Ta phải tìm hàng quán ăn uống đã.
              Rồi quảy gánh sọt đi vào phía đông, thấy ngôi hàng rượu. Chủ quan là một cặp vợ chồng già mới ở nơi xa đến, không biết Giảo Kim, thấy khách vội ra mời. Kim đặt gánh vào ngồi vắt vẻo. Lão bà đi làm rượu.
              Lão ông thái thịt luộc rau.
              Kim ăn uống một hồi rồi đứng dậy quảy gánh đi. Lão ông sợ hãi chạy theo nắm áo đòi tiền. Áo bằng vai sô mỏng như giấy, mó vào rách tơi ra ngay. Kim tức giận quay lại tát ông già một cái.
              Lão ông bị đau kêu ầm ĩ. Lảo bà cũng tru tréo. Kim vào đá tung cả bàn ghế, đập vỡ hết nồi niêu. Mọi người càng thấy đôi vợ chồng kêu to càng sợ Giảo Kim nổi nóng nên chạy hết. Vợ chồng già đành níu lấy Kim mà van lạy. Đang lúc đó, một tay đại hán mặt to, mắt sáng như sao, râu mọc thưa thớt, đầu đội khăn tía, mình mặc áo xanh, bước đến can :
              - Hảo hán đừng nóng nảy, tôi xin thưa chuyện đã.
              Người ấy móc túi lấy hai lạng bạc đưa vợ chồng ông lão, rồi xá Giảo Kim mà rằng :
              - Nhà tiểu đệ gần đây, mời đại huynh đến chơi xơi chén rượu.
              Kim cười nói :
              - Đến chơi uống rượu thì tốt lắm Nhưng còn mười chiếc sọt công trình của mẹ tôi đan suốt đêm qua.
              Người ấy nói :
              - Đại huynh cho hàng rượu, cần gì vật mọn.
              Rồi đó hai người vào một trang viện lớn, cách chợ ba bốn dặm, vườn rộng, ao sâu, cỏ hoa rực rỡ. Người ấy sai đem nước, và lấy áo quần mới mời Giảo Kim tắm gội và thay bỏ áo sô rách tả kia đi. Tắm rửa xong, người ấy dắt Kim vào đại sảnh, bắt ghế cao mời Kim ngồi, rồi nói :
              - Chẳng hay hảo hán đại danh chi? Song thân còn hay mất?
              Kim xưng danh rồi tiếp :
              - Tôi vừa ở tù ra, mẹ con túng đói phải đan giỏ bán, còn ông tên gọi là gì, tiếp đãi thằng Kim tôi như thế này nghĩa làm sao?
              Người ấy đáp :
              - Tiểu đệ tên gọi Vưu Thông tự là Tuấn Đạt ở đây đã mười đời, từ thuở nhỏ đã theo cha đi giang hồ buôn đồ châu báu. Mấy năm nay giặc cướp nổi như ong, một mình đi buôn bán lấy làm lo ngại. Thấy đại huynh vũ dũng hơn người có ý rủ về đi buôn châu báu cùng, cho có bạn đường xa, đại huynh nghĩ thế nào?
              Kim liền đứng phắt lên, ré chân chạy. Tuấn Đạt đuổi theo xuống thềm kéo tay hỏi :
              - Tiểu đệ thất thố câu nào mà đại huynh bỏ đi như vậy?
              Kim trừng mắt nói :
              - Ông khinh Kim này nghèo rách nên chế giễu Kim đó chăng? Cái thằng khố trụi áo ôm này làm gì có vàng bạc đầy kho mà bảo rằng đi buôn châu báu với ông.
              Tuấn Đạt nói :
              - Tiểu đệ bỏ vốn mà chỉ phiền đại huynh xuất lực thôi.
              Kim ngơ ngác hỏi :
              - Thế nào là xuất lực, tôi dốt nát, ông đừng nói chữ.
              Đạt nói :
              - Nghĩa là đại huynh cầm binh khí đi bên tiểu đệ, gặp cướp thì đánh, gặp trộm thì bắt, gặp cường đao dọc đường thì chém giết tha hồ, châu báu bán được bao nhiêu lãi sẽ chia đôi sòng phẳng.
              Kim suy nghĩ :
              - Như thế thì thú lắm. Vừa được ăn uống dọc đường, lại được chia vàng bạc! Nhưng hiềm một nỗi mẹ già tôi yếu lắm, chả chắc chịu cho đi.
              Đạt nói :
              - Tiểu đệ xin biếu lão mẫu năm mươi lạng bạc và vải lụa, đại huynh về kể rõ, rồi mai sớm đến đây, chúng ta khỏi hành luôn.
              Giảo Kim mừng lắm. Đang nói chuyện thì gia nhân dọn rượu hai người cùng say sưa tới lúc trăng lên, Giảo Kim mới đứng lên bái biệt.
              Tuấn Đạt đưa hai mươi lạng bạc, bộ áo mới, hái tấm lụa hoa. Kim nhận rồi ra về.
              Tới nhà, Trình mẫu thấy con mặc áo đẹp lại sặc mùi rượu thơm, vội hỏi nguyên do. Giảo Kim thuật rõ. Bà mẹ mừng rỡ, hai mẹ con lại dọn cơm ăn, rồi đi nghỉ.
              Trưa hôm sau, Tuấn Đạt nóng ruột chưa thấy Kim đến bèn cho gia đinh khiêng hai kiệu đến đón cả mẹ con Trình mẫu đến gia trang. Kim đỡ mẹ lên kiệu, mình đi đất. Phu kiệu nhất định mời Giảo Kim lên ngồi. Kim gắt :
              - Người ta thế này mà ngồi kiệu như một ông quan hay một tiểu thư coi sao được. Ta đi đất lại nhanh hơn.
              Lát sau tới trang viện, mẹ con Trình mẫu cùng Tuấn Đạt thi lễ. Đạt cung kính mời Trình mẫu ngồi lên chiếu trên. Gia nhân bày tiệc.
              Rượu vài tuần, Đạt buông chai nói :
              - Ta đi buôn đường sá có phần nguy hiểm. Chẳng hay đại huynh dùng khí giới gì?
              Kim đáp :
              - Tôi quanh năm vào rừng đẵn củi, chỉ quen dùng búa mà thôi ngoài ra chẳng biết dùng khí giới gì khác cả.
              Tuần Đạt sai gia đinh lấy cây búa nặng sáunăm cân tên gọi là Bát quái tuyên hoa phủ. Kim cầm búa múa không ra lối võ gì. Tuấn Đạt nói :
              - Tôi cũng có quen đánh búa, xin dạy đại huynh.
              Hai người cởi áo ra ngoài sân luyện búa. Chẳng ngờ Đạt dạy được bài trước, Kim lại quên bài sau, học bài sau lại quên bài thứ nhất, vì Kim tối dạ quá, Tuấn Đạt không biết làm sao đành bảo thôi hãy vào uống rượu ăn cơm rồi đi ngủ.
              Đêm ấy, Giảo Kim nằm một mình ở gian phòng cạnh vườn hoa, bỗng thấy một cơn gió thơm ngát tạt vào giường rồi hiện ra một cụ già mặt đỏ như táo chín, mắt sáng như sao sa. Cụ nói :
              - Khải thổ tinh quan mau tỉnh dậy, ta vâng lệnh Ngọc hoàng xuống day ngươi nghề đánh búa, sau này phò chân chúa làm nên khanh tướng, ngôi cao tột bực ở trong triều.
              Cụ già nói xong, cúi đầu cầm phất trần phẩy khẽ ba cái vào đầu Giảo Kim rồi lâm râm niệm chú, tức thì Giảo Kim nghe trong mình khoan khoái và đầu óc tưởng chừng như sáng suốt ra. Đoạn, cụ cầm búa múa tít như mây vần gió cuốn, một lúc dạo sáu mươi tư bài. Giảo Kim nhìn đến đâu nhập tâm đến đấy ngay. Dạy xong cụ già nói :
              - Ta dạy thế đủ rồi. Khải thổ tinh quan khế nhớ để mai đây giúp chân chúa dẹp yên thiên hạ. Dứt lời vút lên mây biến mất. Giảo Kim vỗ tay reo :
              - A, giỏi quá!
              Tức thì mở mắt, té ra một giấc nam kha. Kim vui sướng nghĩ :
              - Tiên ông xuống trần dạy ta võ nghệ. Phải luyện lại ngay kẻo rồi quên hết. Nhưng hiềm nỗi không có ngựa. Ngồi trên yên mà múa mới hay.
              Bèn nhìn quanh quẩn, chợt reo to :
              - A có ngựa rồi, ta dùng tấm ván kia làm ngựa, cỡi lên nó mà mua cũng được chứ sao.
              Nghĩ, làm luôn: Kim lấy một sợi thừng buộc vào đầu tấm ván, lại quàng vào cổ giả làm cương, cỡi lên tấm ván, hai tay hai búa chạy quanh nhà mà múa. Sẵn gian buồng đó làm bằng ván hết, nên đang đêm tiếng ngựa gỗ phi làm vang động cả nhà. Tuấn Đạt đang ngủ chập chờn, nghe tiếng động vội vàng trở dậy tìm đến chỗ động xem sao, trông thấy Giảo Kim đang cỡi ván huy động đôi búa nặng như mưa đổ tuyết rơi, thì vui mừng quá buột miệng kêu to :
              - Tuyệt lắm! Tuyệt lắm! Võ nghệ đến thế thì vô địch.
              Kim đang dồn hết tinh thần để ôn lại võ của tiên, bất ngờ nghe tiếng phàm nhân, Kim giật mình quên lú mất, chỉ còn nhớ 3sáu bài thôi.
              Nhờ bóng trăng Tuấn Đạt nhận rõ từ đầu cảm phục mà rằng :
              - Võ nghệ như thế mà ban ngày giấu giếm nhau, tệ thế!
              Giảo Kim cười ha hả :
              - Trong lúc mới gặp nhau, cha lẽ ta thi thố hết tài năng mang tiếng là khoe khoang. Có lẽ đâu ta đây tướng mạo hảo hán đến thế này mà dốt đặc không biết vài mươi miếng búa hay sao, ta nghe nói, người anh hung thì bao giờ cũng phải nhún nhường.
              Đạt kính phục nói :
              - Còn những bài sau, xin cho tiểu đệ xem nốt.
              Thực tình thì Giảo Kim quên lú mất rồi, bèn nói lảng :
              - Muốn xem hết tài ta phải kiếm cho ta con ngựa tốt, võ của ta là lối võ của danh tướng mặc giáp trụ, lên yên múa búa phá thành, chém giặc chứ phải đâu võ nghệ tầm thường như mấy anh đại hán bán thuốc cao ngoài chợ.
              Đạt lại càng kính phục, sai mã nô dắt một chiếc ngựa ra. Con ngựa hý vang lên, co chân đập tung mặt đất. Kim chú ý nhìn quả là loài chiến mã, dài hơn một trượng, bốn chân thon nhỏ đen như mực, lông xoáy trắng như hoa mai. Tuấn mã thấy Giảo Kim vỗ vào đầu càng hí như mừng chủ cũ. Kim mừng nói :
              - Hãy cho nó vào chuồng, chờ canh năm ta sẽ thử xem ngựa có tốt thực không.
              Gia nhân được lệnh dọn đồ nhắm. Tới khi trời sáng rõ, Kim chếnh choáng gọi mã nô lại dắt ngựa ra. Kim nhảy phắt lên yên. Tuấn mã hí vang ba tiếng, sải dài chân phi như gió lướt là là trên mặt đất. Kim mặc cho ngựa chạy bay theo con đường thẳng, cúi rạp xuống ôm bờm ngựa mà cười ha hả. Chạy chừng vài ba mươi dặm đến một trái núi, thấy một con thỏ ra vờn trước ngựa rồi lại lao minh chạy. Giảo Kim thúc ngựa đuổi theo. Thỏ chạy vào một khe sâu biến mất. Con ngựa tự nhiên dừng lại, hí to ba tiếng như sấm động suýt lật Giảo Kim nhào xuống. Thấy lạ, Kim nhảy xuống đất, bước tới cửa hang cho tay vào, sờ thấy một cái bọc bằng gấm vàng, giở ra thấy chiếc mũ bằng thép giát vàng lóng lánh, một cái áo giáp sắt vẩy hoa xanh. Giảo Kim biết là trời cho, bèn đội mũ mặc giáp, tự ngắm lấy làm thú vị lại nhảy lên yên.
              Tuấn mã không chờ giật dây cương lại sải chân phi vun vút về trang viện.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #8
                Hồi 8 - Hai búa mạnh, Giảo Kim chiếm Châu Sa

                Hồi 8

                Hai búa mạnh, Giảo Kim chiếm Châu Sa
                Tìm bạn cũ, Thúc Bảo đi bắt cướp

                Phút chốc, Giảo Kim đã tới cổng trang. Tuấn Đạt thấy Giảo Kim đi mặc áo chẽn về đã nhung phục uy nghi như mãnh tướng ra quân. Giảo Kim thuật rõ việc theo thỏ vào hang đá, thấy mũ giáp thế nào thuật lại, Tuấn Đạt càng kinh hãi, coi Giảo Kim như thiên thần hạ giới. Đạt xin cùng Kim kết nghĩa. Kim vui lòng cùng nhau thề nguyện trước bàn thờ. Tuấn Đạt hơn tuổi làm anh. Đoạn đặt tiệc lớn, cùng nhau uống rượu tới đêm mới đi nghỉ.
                Sớm sau, Giảo Kim giục Tuấn Đạt khởi hành. Đạt nói :
                - Còn sớm, để đến chiều sẽ khởi hành.
                Kim ngạc nhiên hỏi tại sao. Đạt nói :
                - Hiện nay trộm cướp rất nhiều. Ta đi buôn châu báu, đi ban ngày tất chúng nhòm ngó, nguy hiểm lắm. Vậy chờ tối sẽ đi.
                Chờ tối xuống, không trăng không sao, Tuấn Đạt sai gia đinh đem sáu chiếc xe ra, che đậy trên dưới kín như bưng, vội gọi Giảo Kim bảo rằng :
                - Hiền đệ phải ăn bận gọn ghẽ cầm khí giới phòng khi có sự bất trắc xảy ra trong đêm tối.
                Hai anh em nai nịt xong lên ngựa, tháo nhạc, ngậm tăm mà áp tải xe hàng.
                Vào quãng canh hai đến một khu rừng tên gọi là rừng Tràng Điệp, thấy đèn lồng thấp thoáng như sao rơi ở đằng xa, sau dần dần hiện ra hơn trăm người. Giảo Kim thét vang lên :
                - Quân cường đạo dám cản đường để lão gia bổ chết hết cho chúng bay về âm phủ.
                Nhưng bọn trăm người kia nhất loạt quỳ cả xuống rập đầu nói :
                - Chúng tôi đốt đèn chờ Đại vương đã lâu.
                Giảo Kim không hiểu chúng gọi ai là Đại vương. Toan hỏi thì Tuấn Đạt đã cười mà rằng :
                - Chẳng dám giấu gì hiền đệ, bọn này là thủ hạ của ta đấy. Trước kia ngu huynh đã ở trên sơn trại kia cùng chúng làm nghề lạc thảo. Đã lâu ta bỏ nghề, nay nhân gặp được hiền đệ, vậy anh em ta nhập bọn với chúng để đi làm một mẻ lớn cùng nhau ăn tiêu cho Thoả chí bình sinh.
                Nghe nói, Giảo Kim lè lưỡi nói :
                - Thế ra Ngô huynh vốn là quân cường đạo, nay đánh lừa tôi, rủ đi ăn cướp đó à?
                Tuấn Đạt nói :
                - Ở cái thời bạo chúa dâm ô, gian thần ác nghiệt này, tội gì ta không đi ăn cướp. Bao nhiêu hào kiệt trong thiên hạ lúc này đều vào rừng lên núi, triệu họp hảo hán đi ăn cướp hết. Chờ một mai chân chúa ra đời, ta sẽ giúp vua lập nước, hưởng vinh hoa. Hiền đệ nên nghĩ kỹ.
                Giảo Kim cho là phải, gật đầu :
                - Ngô huynh nói thế thì Kim này cũng hay rằng thế. Miễn là có cơm áo phụng dưỡng mẹ già là được.
                Tuấn Đạt mừng lắm, mời Giảo Kim cùng lâu la dong đèn lồng lên sơn trại, vào đại sảnh đường ngồi, lâu la thắp thêm đèn đuốc, đứng hầu hai bên.
                Tuấn Đạt nói :
                - Hiền đệ muốn thảo chướng hay muốn quan phong?
                Giảo Kim chẳng hiểu mấy chữ ấy ra sao, bèn đáp liều :
                - Tôi muốn quan phong.
                Đạt cười :
                - Thế thì hiền đệ mau đem lâu la xuống núi mà ăn cướp.
                Kim kêu lên :
                - Quan phong mà là đi ăn cướp ư?
                Đạt nói :
                - Để ta nói rõ cái hiệu riêng của nghề lạc thảo cho hiền đệ rõ: Khi nào bọn cường đạo xa gần nghe tiếng nhau mà muốn cùng nhau tương kiến thì gọi là tiễn phất, thấy bọn thương khách đi qua sào huyệt gọi là phong lai, ăn cướp được ít gọi là tiểu phong, cướp được nhiều gọi là đại phong, khi chịu thua phải cần quân tiếp ứng gọi là phong khổn. Thảo chướng nghĩa là ở nhà giữ sơn trại; nghề riêng ấy hiền đệ nên học cho thuộc kỹ.
                Kim nói :
                - Nếu vậy thì ta cứ nhất định quan phong. Ta xuống núi không cần nhiều lâu la, chỉ dăm thằng cho ta sai bảo là đủ lắm.
                Nói rồi vác búa xăm xăm xuống núi. Đến ngã tư đường chờ mãi chẳng thấy một người hành khách vãng lai. Kim tức lắm, lại sai lâu la bỏ đường nam sang đường bắc, lại bỏ nẻo bắc tới nẻo đông. Đến hồi canh năm, lâu 1a nói :
                - Hôm nay hẩm vận rồi, mời Đại vương lên sơn trại nghỉ.
                Kim không nghe nói :
                - Ta đi mở hàng một chuyến đầu mà không được khai búa thì xúi quẩy mất, thế nào cũng phải gặp khách hàng, các ngươi chớ chán nản.
                Dứt lời thì trời tảng sáng. Đằng xa trông rõ tinh cờ phất phới có quân lính rất nhiều đẩy xe phủ kín lá cây, đi đầu có hai tướng mặc giáp cưỡi ngựa, cầm thương. Giữa hàng quân một cỗ xe lớn nhất trên cắm lá cờ xanh thêu chữ trắng: “Lễ vật của Cô Sơn vương trấn thủ Đăng Châu”.
                Nguyên do, quan Tỉnh Hải đại nguyên soái Cô Sơn vương trấn thủ Đăng Châu là một vị thân vương với Tùy Dạng Đế, anh em ruột với Văn Đế, tên gọi Dương Lâm, tên chữ Hổ Thần, người ta xếp vào hạng anh hùng thứ tám đời Tùy. Nhân dịp Dạng Đế mới lên ngôi, Dương Lâm sai hai người con mới Nhất Thái Bảo là La Phương, Nhị Thái Bảo là Tiết Lương, đem hai mươi lăm vạn lạng và ba trăm cỗ áo rồng vào kinh sư tiến cống Tùy Dạng Đế.
                Hôm đó, chúng qua rừng Tràng Nhiếp, chẳng ngờ gặp phải con quỷ sống! Giảo Kim tròn xoe hai mắt, vỗ tay cười ha hả :
                - Hay lắm, có đại phong kia, thật không phí công của lão gia.
                Tên lâu la nói :
                - Đại vương không trông thấy lá cờ đó ư? Chớ nên động đến của nhà vua.
                Kim quát :
                - Vua chúa gì thằng ăn mày ấy, ta đây không kiêng nể gì ai cả.
                Thấy của thì lấy, thấy người thì giết cho thoả thích mà thôi.
                Nói rồi quất roi vào mông ngựa. Tuấn mã phi đến bọn quan quân.
                La Phương, Tiết Lương vội thét dàn quân rồi phóng ngựa ra quát :
                - Quân cường đạo nào dám cướp của triều đình. Chúng bay không nghe tiếng Cô Sơn vương ở Đăng Châu sao mà dám ra đây quấy nhiễu?
                Giảo Kim không nghe thấy gì hết, cứ múa búa xông lại đánh. La Phương giơ thương đỡ. Thương chạm vào sức búa mạnh tựa thái sơn, kêu choang một tiếng, gãy làm đôi. La Phương chỉ còn đủ can đảm kêu to một tiếng rồi lao ngựa chạy.
                Tiết Lương thấy La Phương chưa đánh hiệp nào đã chạy, thì tức giận xốc ngựa lên, Giảo Kim thuận tay cho một búa vào đầu, Tiết Lương cúi xuống hai tay cầm ngang cây đại đao giơ lên đỡ. Búa xuống mạnh quá khiến cây đao nảy lửa, hai cánh tay Lương chĩu xuống gãy khuỷu xương và hai bàn tay rách toạc ra, máu chảy ròng ròng.
                Tiết Lương không còn hồn vía, phi ngựa chạy lấy sống. Quân sĩ mất chủ tướng cũng bỏ xe châu báu tìm đường lẩn hết.
                Giảo Kim đang hăng tiết thúc ngựa đuổi theo. Thấy thế nguy Tiết Lương kêu ầm ĩ :
                - Chúng ta đã chịu thua để của lại rồi, còn đuổi theo làm gì nữa.
                Kim quát :
                - Này ta nói đại danh cho mà nhớ: lão gia đây là Trình Giảo Kim còn người nữa là Vưu Tuấn Đạt, chúng ta cho mày sống về mà mách nhau, lão gia sẽ chờ ở đây giết hết.
                La Phương và Tiết Lương đang lúc hoảng sợ, lại nhớ lầm là Trình Đạt, Vưu Kim cứ việc nằm rạp trên yên mà chạy về Đăng Châu ngay hôm đó.
                Giảo Kim đại thắng quay lại thấy trên xe đầy hòm xiểng, giơ búa bổ một hòm, trúng ngay hòm đựng hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng lóng lánh.
                Tuấn Đạt nghe được tin vội sai đẩy sáu cỗ xe đến chất các hòm châu báu lên rồi lại phủ kín cấp tốc đẩy về trang viện. Đạt đào một hầm sâu ở vườn hoa, chôn cả hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng xuống đấy.
                Một mặt sai lâu la phóng hỏa đốt sơn trại, một mặt đặt tiệc lớn ở trang viện khao đại công của Trình Giảo Kim, hai búa đoạt được cả một kho vàng của Cô Sơn vương, dễ dàng nhu bỡn.
                Để che mắt thiên hạ, Tuấn Đạt sai mời hai mươi tư vị hòa thượng đem kinh kệ, chuông trống đến lập đàn tràng làm lễ cho tổ tiên, cha mẹ, anh em gì đó. Suốt mấy ngày đêm lễ bái kinh kệ vang cả một vùng, hàng xóm láng giềng rủ nhau đem hương hoa đến lễ, Tuấn Đạt sai làm cỗ chay rất sang trọng khoản đại hết mọi người. Trong khi ấy, Đạt mở cửa một cái hầm sâu có đường ăn lên núi phía sau trang giấu Trình Giảo Kim vào đó.
                Nói về La Phương và Tiết Lương hoảng hốt về đến Đăng Châu xin vào yết kiến Cô Sơn vương tức Dương Lâm. Nghe tin hai tướng áp tải xe châu báu vừa đi đã trở về, Dương Lâm giật mình đoán có sự chẳng may, cho vời vào tức khắc.
                Phương và Lương quỳ rạp xuống, không dám ngóc đầu lên.
                Cô Sơn vương quát hỏi :
                - Các ngươi đánh mất lễ vật phải không?
                Hai người run sợ đáp :
                - Quả có thế. Quân cường đạo dữ dội quá đã lấy sạch cả rồi.
                Cô Sơn vương thét to :
                - Quân bay đem hai tên này ra chém. Cô gia tin chúng mới giao bấy nhiêu của cải, nay sợ giặc bỏ của cầu lấy sống, lại dám vác đầu về đây còn để cho quân hèn nhát ấy sống làm gì nữa. Áp tải có một cỗ xe cũng không xong, nói gì đến việc phá thành, giết giặc! Bay đâu, chém!
                Hai người lập cập cố kêu :
                - Bẩm vương phụ, lũ chúng đã xưng tên, chúng tôi còn nhớ. Xin cho đi bắt báo thù.
                Vương quát :
                - Chúng xưng là gì?
                Hai người nói :
                - Bẩm, một đưa là Trình Đạt, một đứa là Vưu Kim. Chúng ở rừng Tràng Điệp, tại huyện Lịch thành, phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông.
                Cô Sơn vương tha chết, truyền cởi trói, bảo rằng :
                - Đã biết tung tích giặc thì bắt được. Quân bay phạt đánh bốn mươi trượng thật đau!
                Đoạn, sai phát quân tướng thẳng tới rừng Tràng Điệp đất Sơn Đông bắt kỳ được hai cường đạo Trình Đạt, Vưu Kim, hẹn đúng trăm ngày phải nộp. Quá hạn thì các quan phủ huyện phải tội đầy sung quân sang Lĩnh Nam, và các quan tiết chế võ hành đều bị cắt chức hết.
                Lệnh ấy ban ra, các quan văn võ phủ Tế Nam đều rụng rời sợ hãi.
                Công văn chạy đến huyên Lịch Thành.
                Huyện quan là Từ Hữu Dực ra công đường gọi chức Mã khoái là Phàn Hổ, chức Bộ khoái là Liên Minh vào, kể rõ việc Cô Son vương bị giặc Trình Đạt, Vưu Kim lấy hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng và báu vật khác, rồi nghiêm mặt nói :
                - Quân lệnh không nghiêm sao được việc. Vậy nay ta cũng hẹn cho hai người một tháng phải bắt hai tên giặc ấy, cứ ngày ba, ngày sáu, ngày chín phải về phúc bẩm.
                Hai người vâng lệnh đem một trăm tên công nhân đi tầm nã, nhưng không biết giặc ở đâu mà tìm, cả hai người bị đánh ba mươi roi.
                Bị đòn, hai người hổ thẹn, ra ngoài họp công sai, nói :
                - Lũ giặc này chắc nói tên tuổi giả đó thôi. Ta biết đâu mà tình kiếm. Làm việc quan đến thế này thì cơ cực lắm.
                Nói rồi cùng nhìn nhau mà ứa nước mắt ra. Một lúc, Phần Hổ nói :
                - Đến kỳ phúc bẩm sau, khi bị đòn xong, chúng ta cứ lắm bẹp trước công đường mà không dậy nữa. Quan huyện hỏi tại sao thì chúng ta xin đành chịu chết. Trừ phi Tần Thúc Bảo đại ca đi nã bắt mới xong.
                Liên Minh nói :
                - Tần huynh đang làm chức Kỳ bà bên dinh quan Tiết độ khi nào chịu xuống huyện đi bắt giặc thay ta.
                Phàn Hổ nói :
                - Ta thử làm như thế, xem sao đã.
                Ba hôm sau, bọn Phàn Hổ vào phúc bẩm, khai rằng chẳng thấy vết tích cường đạo ở đâu. Quan huyện cả giận phạt phạt bốn mươi roi.
                Đánh xong, bọn Phàn Hổ không ngóc dậy, kêu rằng :
                - Xin đại nhân cho đánh nốt cả mười kỳ sau rồi rủ lòng thương cho vợ con chúng tôi nhận xác đem về mai táng, chúng tôi đội ơn đại nhân lắm lắm.
                Quan huyện mủi lòng thương, nói :
                - Vây ra bọn cường đạo ấy chịu không bắt được sao?
                Chúng đáp :
                - Hai tên ấy chắc là ở xứ khác do thám biết xe báu vật qua vùng ta nên chúng đón đợi, cướp lấy rồi đi. Nay tìm kiếm thật là mò kim đáy biển, đại nhân xét cho. Nếu muốn bắt chúng phải nhờ tay Tần Quỳnh, vì Tần Quỳnh biết rõ tung tích những kẻ trộm cướp trong thiên hạ.
                Muốn được thành công, xin đại nhân đến dinh quan Tiết độ mà nói, tất quan Tiết độ phải cho Tần Quỳnh đi bắt cướp.
                Quan huyện gật đầu, khen phải. Rồi lên ngựa thẳng tới dinh Đường Bích. Nghe tin báo có quan huyện Lịch Thành đến xin yết kiến, Đường Bích sai mời vào Huyện quan Từ Hữu Đức nói :
                - Cái tin cường đạo cướp lễ vật của Cô Sơn vương, đại nhân đã rõ.
                Chúng tôi sai đi truy nã đạo tặc nhưng không biết chúng ở đâu. Nghe nói viên kỳ bài ở quý phủ tên là Tần Quỳnh trước kia giữ chức đô đầu đi tuần tiễu khắp nơi, đã biết tông tích hết kẻ gian phi, nên ty chức đến đây xin lão gia cho Tần Quỳnh xuống huyện đi bắt cường đạo thì may lắm.
                Đường Bích cả giận :
                - Ông nói nhầm rồi. Chức kỳ bài của bản phủ lẽ nào cho xuống huyện làm đô đầu cho ông sai phái!
                Từ Hữu Đức vội đứng lên vái lạy mà rằng :
                - Đại nhân đã thừa biết rằng Cô Sơn vương ra nghiêm lệnh: quá hạn trăm ngày thì các quan văn võ ở miền Sơn Đông ta đây suốt lượt cao thấp đều bị sung đày sang Lĩnh Nam hoặc cắt chức hết. Khi đó nào có riêng gì kẻ hèn mạt nhỏ bé này bị đeo gông đi biệt xứ đâu! Đại nhân nghĩ kỹ cho kẻ mạt quan này được nhờ.
                Đường Bích tỉnh ngộ, nói :
                - Nếu vậy thì ta cho Tần Quỳnh xuống giúp. Xong việc phải trả lại bản phu ngay.
                Hữu Đức vái tạ ơn nói :
                - Quân sự phải có nghiêm lệnh, việc mới thành. Tiểu chức sẽ dùng nghiêm lệnh đó đối với chức kỳ bài của đại nhân. Vậy xin cho tiểu chức được tự do dùng quyền mới được việc, đại nhân cũng xét lại cho điều ấy nữa.
                Đường Bích nói :
                - Ta đã trao người tất nhiên phải thuận theo điều ấy.
                Đoạn sai vời chức kỳ bài lên sai đi theo huyện quan xuống huyện để truy nã quân giặc cướp.
                Về đến huyện đường, Hữu Đức nghiêm mặt nói :
                - Tần Quỳnh làm chức kỳ bài ở dinh quan tiết độ, bản huyện đâu dám trách phạt gì, nay đã tạm về đây phải theo kỷ luật của bản nha.
                Tần Quỳnh tạm giữ chức mã khoái, nên hết lòng bắt giặc, hẹn ba ngày một phải vào phúc bẩm, nếu sai kỳ hẹn chớ trách bản quan vô tình.
                Thúc Bảo nói :
                - Việc truy nã giặc là một việc khó khăn, phải có ngày giờ đi dò la nghe ngóng, nếu theo hẹn ba ngày thì chưa đi khỏi huyện này đã hết hạn rồi, còn làm được gì nữa. Tần Quỳnh tôi cũng lại xin đại nhân xét kỹ cho.
                Hữu Đức lại khen Thúc Bảo là minh mẫn, nói :
                - Nếu thế thì ta ra hạn là nửa tháng, phải bắt xong cường đạo, ngươi chớ nên chậm trễ.
                Thúc Bảo lĩnh mệnh quay ra. Tới cửa nhà đã thấy Phàn Hổ, Liên Minh đứng đón tiếp. Bảo trách :
                - Anh em nhường cho ta một món quà tốt lắm!
                Hổ xá dài mà rằng :
                - Chúng em biết là bất tài bất lực, nay roi trượng mãi, thịt đã nát đau, lại xấu nhục với sai nha, nên phải trông vào đại huynh cứu giúp.
                Đai huynh lượng xét cho.
                Thúc Bảo đông lòng thương nghĩa bạn, nói rằng :
                - Ta há chẳng biết thế hay sao. Vừa rồi nói đùa mà chơi đó, nay các hiền đệ một mặt chia nhau đi dò hai ngả, còn ta đi sang châu huyện xem xét sao mới được.
                Thúc Bảo dặn xong, vội vã về lạy thân mẫu, giấu việc đi bắt cướp, sợ mẹ lo buồn.
                Lạy mẹ và từ biệt vợ xong, Thúc Bảo đeo đôi kim giản, cỡi ngựa ra đi. Vừa đi vừa nghĩ :
                - “Rừng Tràng Điệp là địa phương Vưu Tuấn Đạt, nhưng đã lâu nay hắn bỏ nghề lạc thảo chắc không phải hắn. Thôi đích là bọn Vương Bá Dương, Tề Quốc Viễn, Ly Như Khuê đây. Ta phải đến hỏi xem sao”.
                Bèn thúc ngựa thẳng tới Tiếu Hoa sơn. Đến tối mịt tới chân núi, gặp lâu la đang săn mồi, Thúc Bảo sai chúng lên báo.
                Bọn Bá Dương nghe tin vội xuống núi nghênh đón. Khi cả bọn lên Tụ Nghĩa sảnh, Thúc Bảo nói :
                - Vì việc một bọn nào chặn đường cướp xe chứa hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng và các đồ báu vật của Cô Sơn vương tiến nhà vua, nên quan huyện Lịch Thành nhờ ta đi bắt hai cường đạo đó. Chúng tên là Trình Đạt, Vưu Kim. Vây các hiền đệ có dúng vào việc ấy không?
                Bá Dương nói :
                - Nếu chúng tôi dúng vào thì cần gì phải sang tận rừng Tràng Điệp, mà cần gì phải xưng tên giả. Thực chúng tôi không được biết.
                Thúc Bảo có ý không tin. Lý Như Khuê nói :
                - Rừng Tràng Điệp ở địa phương Vưu Tuấn Đạt, chắc là hắn mới họp sức với một người nào nữa vớ được chuyến đại phong đó. Có lẽ lũ tướng tá ăn hại kia nghe hắn xưng tên thì vì hoảng sợ quá mà nghe lầm đó thôi.
                Tề Quốc Viễn nói :
                - Lý huynh nói có lý lắm. Tần đại ca thử đến tra vấn Vưu Tuấn Đạt thì sẽ biết.
                Bá Dương sai mổ dê giết lợn làm tiệc. Thúc Bảo nhất định cáo lui, hẹn họp mặt trong dịp làm lễ thọ cho lão mẫu nay mai, đoạn phi ngựa như gió đến trang viện họ Vưu.
                Tới nơi, thấy chuông trống om sòm, hỏi trang khách thì chúng đáp :
                - Chủ nhân chúng tôi trở lập đàn làm lễ trời phật phủ độ chúng sinh, cả thảy bốn mươi chín ngày, bắt đầu từ hai mươi mốt tháng sáu tới nay chưa mãn khoá.
                Thúc Bảo nghĩ thầm :
                - Hắn làm lễ khai kinh ngày hai mươi mốt, việc xảy ra vụ cướp ngày hai mươi hai, như vậy hắn làm gì có thì giờ đi ăn cướp. Vậy thôi ta không cần hỏi nữa.
                Nghĩ vậy lặng lẽ thúc ngựa đi, thẳng đến Đăng Châu, vào ngay trong thành.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #9
                  Hồi 9 - Gặp La Thành, Trình Giảo Kim bị trúng thương

                  Hồi 9

                  Gặp La Thành, Trình Giảo Kim bị trúng thương
                  Dùng mẹo nhỏ, Cô Sơn Vương đi đánh tướng

                  Từ ngày Cô Sơn vương bị mất cướp trong lòng tức bực lắm, dẫu có phái cho các quan nha truy bắt, song cũng sai rất nhiều nha tướng đem quân đi các ngả nã tìm.
                  Một hôm chúng thấy Thúc Bảo tướng mạo đường đường, có vẻ từ xa đến xăm xăm phi ngựa vào thành, lưng đeo đôi giản, chúng sinh nghi bàn tán với nhau :
                  - Ta đang đi bắt cướp. Tên này trông có vẻ Đại vương cường đạo lắm. Hay là đích hắn.
                  Chúng bèn len lén chạy theo.
                  Thúc Bảo ghìm ngựa trước một khách điếm trong phố đông, gọi chủ hàng là Tiểu nhị bảo rằng :
                  - Ta cần một chỗ ngồi tĩnh mịch, và cần rượu ngon nhắm tốt.
                  Tiểu nhị thấy khách lịch sự, vái rạp xuống mà rằng :
                  - Xin mời tướng công lên lầu thượng, gió mát, phòng đẹp rượu ngon và có cả ca nhi đàn hát.
                  Thúc Bảo nói :
                  - Đem ngựa ta vào chuồng, chọn cỏ tốt, thóc nếp cho ăn, ta sẽ trả tiền xứng đáng.
                  Rồi bước nhanh lên thang lầu. Dưới kia bọn công nhân vẫy tiêu nhị ra ngoài đường, sẽ nói :
                  - Người ấy có vẻ khả nghi cường đạo cướp lễ vật của nhà vua. Ngươi nên dò xét ý tình xem.
                  Tiểu nhị gật đầu, vào bưng rượu và thịt nướng, quả phẩm lên. Tiểu nhị rót rượu, đứng chắp tay hầu. Thúc Bảo uống một mình có ý buồn, vừa nhìn xuống phố, vừa nhắm nhót. Ngoảnh lại, vẫn thấy tên Tiêu nhị chắp tay chờ rót rượu hầu. Thúc Bảo hài lòng nói :
                  - Ta nghe đồn việc mất lễ vật của Cô Son vương ngoài rừng Tràng Điệp hiện đang làm chấn động miền này lắm, có phải không?
                  Tiểu nhi mười phần đã ngờ đến một vài, nói :
                  - Vâng, bọn cường đạo nào đó thật là gan voi, mật hổ, dám trêu cả Thiên tử, mới ghê gớm chứ. Thế nào chúng cũng chết xả thịt, xả xương thôi.
                  Thúc Bảo mỉm cười, uống cạn ba hồ rượu, rồi nói :
                  - Người dọn cơm ta ăn, cần phải đi vội lắm.
                  Tiểu nhị chay xuống lầu, thì thầm với lũ nhân công, thuật rõ những lời Thúc Bảo nói. Chúng nhân công gật gù nói :
                  - Thế thì đích cường đạo đó. Nếu vậy thì phen này tiểu nhị với chúng ta sẽ được công to. Nhưng hắn có vẻ oai phong thế, chúng ta bắt làm sao được, phải mau mau đi báo lão cô gia.
                  Nói rồi chúng chạy ra đường, thẳng vào đại dinh Cô Sơn vương Dương Lâm khẩn báo Dương Lâm cả mừng sai mười dũng tướng dẫn một nghìn quân tức tốc kéo ra vây kín cả lử điếm. Việc này làm cho dân thành Đăng Châu hoảng sợ, nhà nào cũng đóng chặt cửa, không dám thò ra.
                  Quân sĩ reo hò :
                  - Bắt lấy giặc rừng Tràng Điệp anh em ơi!
                  Trên lầu, Thúc Bảo nghĩ thầm :
                  - Thế là chúng mắc kế mình rồi, tốt lắm.
                  Đoạn xách đôi giản từ trên cửa sổ lầu phi người xuống chân khẽ chạm đất nhẹ nhàng như chiếc lá. Bảo quát rằng :
                  - Các ngươi muốn yên lành thì chớ chạm đến ta, đôi giản này sẽ không kiêng nể tên nào vô lễ. Ta đang muốn yết kiến Đại vương có đây, dãn ra hai bên để ta đi.
                  Nói rồi ung dung đi trước. Chúng quân sĩ thấy Thúc Bảo ăn nói đàng hoàng, đều chịu đi sau, không dám động chạm gì đến cả.
                  Đến cổng dinh, Dương Lâm sai dẫn vào. Thúc Bảo đi đứng ung dung, rõ ra con nhà đại gia dũng tướng. Dương Lâm có ý khen thầm, nghĩ :
                  - Sao lại có tên cường đạo khôi ngô, tuấn tú thế kia.
                  Tới trước thềm, Thúc Bảo bất đắc dĩ quỳ xuống lạy mà rằng :
                  - Tôi là chức mã khoái ở huyên Lịch Thành, phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông tên gọi là Tần Quỳnh, đang phụng mệnh đi nã bắt cường đạo rừng Tràng Điệp.
                  Nghe nói Dương Lâm ngoảnh xuống quát mắng các tướng :
                  - Chúng bay láo quá, sao dám bắt một chức mã khoái bảo là cường đạo?
                  Chúng tướng hết hồn :
                  - Bẩm, nghe nói hắn tự nhân là cường đạo nên mới bắt nộp Đại vương.
                  Thúc Bảo nói :
                  - Đó là tôi có ý chân thành muốn vào hầu Đại vương, song không làm thế thì sao được vào hầu.
                  Dương Lâm lại ngắm nghía Thúc Bảo, thấy mặt to, mắt sáng, quả chạc là một tay thượng tướng. Bèn hỏi :
                  - Tần Quỳnh bao nhiêu tuổi, cha mẹ là chi?
                  Đáp rằng :
                  - Năm nay mạt tướng hai mươi lăm tuổi, mẹ già là Trọng thị, cha là Tần Lý mất đi từ ngày tôi còn bé.
                  Thúc Bảo sở dĩ không dám khai thực tên thân phụ là vì năm xưa Dương Lâm đánh phủ Tế Nam chính tay hắn bắn chết phụ thân Thúc Bảo, nay mà buột miệng nói ra thì tính mạng Thúc Bao tất không toàn.
                  Dương Lâm hỏi :
                  - Tần Quỳnh sở trường thứ vũ khí gì?
                  Đáp rằng :
                  - Mạt tướng quen dùng đôi kim giản.
                  Dung Lâm nói :
                  - Quân bay, đem đôi giản của Tần Quỳnh vào đây.
                  Chúng hai ba đứa, xúm xít khiêng đôi giản vào. Dương Lâm nói :
                  - Ta xem ra thì ngươi có lẽ là người có đại tài, vậy diễn giản pháp ta xem.
                  Thúc Bảo nói :
                  - Đại vương đã dạy, mạt tướng xin bái lệnh, nhưng xin cho mượn bộ giáp thì diễn võ mới được nghiêm chỉnh. Đại vương thể cho.
                  Dương Lâm truyền tả hữu vào lấy ra bộ giáp quý. Dương Lâm chỉ bộ giáp mà rằng :
                  - Nguyên do năm xưa ta đánh Tế Nam, bắn được một tên giặc tên gọi Tần Di, lột bộ giáp của hắn, lại lấy được một cây thương đầu hổ. Bộ giáp này đánh toàn vàng, ta quý mà cất đi, nay ban cho ngươi.
                  Chao ôi, kẻ vô tình nói nói người hữu ý nghe. Thúc Bảo lòng đau như kim châm dao cắt, muôn sầu nghìn oán thổn thức ở tâm can. Bảo cúi xuống vờ giụi mắt nhưng mà để lau hạt lệ. Bảo tạ ơn rồi đứng sang một bên để mặc giáp, rõ ràng là một thiếu tướng anh hùng. Bảo bước xuống thềm, đứng giữa sân múa đôi giản với tất cả tài tình lỗi lạc của phép võ gia truyền, trước còn như trăng lạnh sao rơi, sau như muôn ánh ngân hà chiếu toả, người ta không còn trông thấy bóng Tần Quỳnh nữa.
                  Múa xong nămsáu bài giản, Bảo nghiêng mình, đứng một bên.
                  Dương Lâm tấm tắc khen thầm, nói :
                  - Tài mà đến thế thì thật lão gia đây đã bạc đầu làm tướng soái chưa hề thấy bao giờ. Ngươi còn giỏi thứ binh khí gì nữa không?
                  Đáp rằng :
                  - Chúng tôi quen dùng cây thương nữa.
                  Dương nói :
                  - Đã quen nghề giản lại giỏi nghề thương, thật là hiếm có. Quân bay vào lấy cây thương đầu hổ ra đây.
                  Chúng lại hai ba đứa khiêng cây trường thương nặng tám mươi cân ra. Thúc Bảo đỡ lấy, ngắm nhìn thấy khắc hàng chữ nhỏ “Vê tướng quân Tần Di chí”. Hỡi ơi, vật cũ còn đây, người xưa đã mất, mà kẻ thù không đội một trời thì đang ngạo nghễ ngồi trên ngôi cao trước mắt, Thúc Bảo thấy gan ruột lại quặn đau, chàng nghiến hãi hàm răng, tiết cả cái uất khí cương cường vào đường thương tuyệt diệu. Thương bay như rồng vàng uốn khúc vẫy vùng trên Nam hải, như hạc trời múa cánh chốn thiên thai, khiến Dương Lâm quên cả tuổi già rối rít ngợi khen, hoa chân múa tay luôn mãi.
                  Múa đủ bảy mươi tám bài thương, lại phụ thêm ba mươi nhăm bài thượng hạ, Thúc Bảo mặt không biến sắc, không một hơi thở mệt, lại nghiêng mình xá, đứng lánh một bên.
                  Dương Lâm nói :
                  - Ta thường nghe trong thiên hạ, nghề thương tất phải nhường cho dòng họ La đất Thái Nguyên cớ sao Tần Quỳnh cũng giỏi?
                  Đáp rằng :
                  - Năm xưa, mạt tướng phải tội đày ra đất Lạc Châu có vài lần cắt cỏ ở giáo trường, nấp một chỗ mà xem trộm La nguyên soái diễn thương nên nhớ lỏm vài đường đem ra làm trò bẩn mắt lão Đại vương đó mà thôi.
                  Dương Lâm vuốt râu cười khanh khách :
                  - Tần Quỳnh nói năng khiêm tốn ta lại càng có lòng yêu.
                  Năm nay lão cô gia đã sáu mươi tuổi thọ rồi, đường tử tức thực là muộn hiếm. Ta có nuôi mười hai vị Thái bảo làm nghĩa tử song xét ra chúng võ nghệ tài đức kém hơn ngươi nhiều. Nay cô gia muốn nhận Tần Quỳnh làm con nuôi đó.
                  Nghe nói, Thúc Bảo càng nghiến răng nén cái căm hờn nghĩ :
                  - Nó là kẻ giết cha ta, giận rằng thằng con bất hiếu này không thể băm nó ra để moi gan tế hương hồn thân phụ, nay còn mặt mũi nào quỳ lạy nhận nó làm nghĩa phụ Bèn đáp :
                  - Mạt tướng tự xẹt mình chỉ đáng đứng sau trướng lão Đại vương hầu ngựa thổi cơm, đâu dám len vào hàng thái bảo, e các vị anh hùng đó chê cười.
                  Dương Lâm trừng mắt nói :
                  - Ta hạ cố nhận ngươi làm thái bảo, không biết nhận cái ân huệ đó sao lại còn từ chối, chả hóa khinh lòng cô gia lắm.
                  Đoạn thét võ sĩ lôi ra chém. Thúc Bảo thở dài mà nói :
                  - Xin Đại vương đã thương thì ban cho mạt tướng một điều rồi xin chịu chết.
                  Dương Lâm giả giận sai chém, thấy vậy lại mừng thầm :
                  - Điều gì Tần Quỳnh khá nói mau. Ta sẽ cố chiều con.
                  Đáp rằng :
                  - Mạt tướng cha chết sớm, còn có mẹ già. Xưa nay vốn không bao giờ khinh xuất ăn bát cơm mà không trình, mặc manh áo mà không bẩm, huống chi cái việc lớn lao này. Vậy Đại vương rộng cho mạt tướng về quê trình lão mẫu rồi tức khắc mẹ con mạt tướng đến phụng mệnh ngay dưới lão Đại vương.
                  Dương Lâm gật đầu khen :
                  - Tần Quỳnh thật là danh gia, danh tướng và cũng là hiếu tử. Cô gia đâu nỡ lấy uy quyền mà ngăn cấm con làm điều hiếu nghĩa. Vậy con về rồi mau trở lại, kẻo ta mong nhớ.
                  Thúc Bảo tạ ơn, nghiến răng lạy đủ tám lễ, lại rằng :
                  - Tâu phụ vương, còn việc này, xin bẩm nốt. Đó là việc truy nã bọn cường đạo, xin trông ơn phụ vương rộng cho các quan địa phương được thêm hạn nữa. Bắt tìm lũ giặc cỏ ở nơi núi hiểm rừng sâu, thật là muôn vạn khó khăn. Mà hạn kia ngắn ngủi sắp hết rồi, e ràng các quan địa phương lo sợ quá mà không làm nên việc. Phụ vương lòng như trời bể, há lại tiếc một kỳ hẹn nữa hay sao.
                  Nghe Tần Quỳnh nói năng chí lý. Cô Sơn vương càng yêu quý bèn gật đầu ưng thuận.
                  Sau đó, dự yến, rồi Thúc Bảo lạy biệt Dương Lâm, đeo giản cầm thương, mặc giáp nhảy phắt lên ngựa phóng như bay qua phố xá, qua cổng thành khiến muôn vạn người chỉ trỏ ngợi khen.
                  Qua ngày nắng tắt, tối đèn, thời giản vun vút, ngoảnh lại đã qua một tháng, Thúc Bảo vẫn chưa đến Đăng Châu. Cô Sơn vương nóng lòng mong đợi, hạ trát cho quan huyện Lịch Thành, thúc Tần Quỳnh mau bắt giặc.
                  Huyện quan Từ Hữu Đức không còn hồn vía, quá kỳ hẹn vẫn chẳng thấy kết quả gì, bèn trách phạt Thúc Bảo rất nặng nề.
                  Nhắc lại chuyện Thiều Hoa Sơn: bọn Bá Dương nhớ lời Thúc Bảo hẹn hò họp mặt uống rượu mừng thọ lão mẫu ngày hai mươi ba tháng chín. Bá Dương tình nguyện đi trước đến trang viện Nhị hiền tỉnh Sơn Tây, rủ Đơn Hùng Tín cùng đi.
                  Đi ròng rã năm ngày, Bá Dương đã tới trang viện họ Đan. Nghe tin báo, Hùng Tín vui mừng ra cửa đón, cùng nắm tay nhau vào đại sảnh, gọi trang khách pha trà, làm tiệc.
                  Bá Dương nói :
                  - Ngày thọ đản của lão mẫu Tần Quỳnh là hai mươi ba tháng chín này, tiểu đệ đến đây rủ đại huynh cùng đi chúc thọ.
                  Hùng Tín nói :
                  - Nếu vậy phải sức giấy thông tin đi các nơi cho anh em biết mà cùng đến.
                  Đoạn lấy ngay chiếc têm, đó là hiệu lệnh riêng trong đám lục lâm, sai vài mươi tên trang khách đi các ngả thông báo cho chúng bạn “đúng hai mươi hai tháng chín thì họp mặt ở phố Đông phủ Tế Nam, nếu ai không đến sẽ bị phạt”.
                  Sau đó, Hùng Tín sai thợ trong trang viện lấy vàng đúc tám vị tiên (bát tiên quá hải) để làm lễ vật.
                  Trong khi đó hảo hán các nơi được hiệu riêng của Đơn Hùng Tín đều khởi hành đi Sơn Đông.
                  Nhắc lại Tần phu nhân một hôm nói với chồng là La Nghệ :
                  - Đến ngày hai mươi tám tháng chín này là ngày ăn mừng thọ đản sáu mươi của gia tẩu thiếp, thiếp đã sắm sửa lễ vật, nay muốn cho ấu nhi đi mừng cửu mẫu thưởng thọ, chẳng hay ý tướng công thế nào?
                  La công nói :
                  - Phu nhân nghĩ phải lắm. Ngày mai ta cho a Thành đi thay đưa lễ vật mừng.
                  Tin ấy đưa ra ngoài bọn Trương Công Cẩn, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, Nam Diên Bình, Bắc Diên Đạo bảy người nghe tin đều muốn đi chúc thọ Tần mẫu. Chúng kéo nhau đến nói với La công tử xin La nguyên soái cho đi.
                  La Thành vào nói với phụ thân. La Nghệ ưng thuận cho đi. La Thành vào lạy từ thân mẫu, rồi cùng bon Uất Trì bảy người mang lễ vật, nhằm Tế Nam thẳng tiến.
                  Nhân tiện, cũng nhắc đến Sài Thiệu sau khi tai nạn ở hội hoa đăng, cùng Tần Thúc Bảo chia tay, nay nhớ lời hẹn, xin với Đường công Lý Uyên sang Tế Nam mừng thượng thọ. Lý Uyên nói :
                  - Năm xưa con gặp Tần ân nhân ở chùa Thừa Phúc, đến khi được tin, cha sai người đến đón thì ân công đã đi rồi. Ơn xưa chưa báo lòng ta còn áy náy. Nay nhân dịp lễ thọ này con nên đi là phải.
                  Đường công sai lấy một nghìn lạng vàng, một trăm lạng bạc, lại viết thư đưa Sài Thiệu đi Tế Nam.
                  Tiện đây lại nhắc cả bọn Quốc Viễn, Như Khuê ở Thiếu Hoa sơn.
                  Được tin của Đơn Hùng Tín hai người đang ngồi bàn biết lấy gì làm lễ vật. Như Khuê nói :
                  - Năm ngoái đại náo hoa đăng, chúng ta có cướp được một chiếc đèn bằng ngọc châu, lấy cái đó làm đồ mừng cũng được. Tình bạn hữu tâm thành là hơn hết.
                  Quốc Viễn bằng lòng Đoạn đem đến gói vào hành lý, cùng khởi hành ngay. Một hôm gần tới Sơn Đông thấy bọn La Thành tám ngựa đang phi tới. Không biết La Thành, Quốc Viễn reo to :
                  - Bọn lái buôn có nhiều hành lý lắm, chắc có nhiều vàng bạc, ta cướp làm lễ vật cũng hay.
                  Nói rồi phóng ngựa múa đao quát lớn :
                  - Chúng bay gặp Đại vương đây, phải để hành lý lại, kẻo ta giết hết.
                  La Thành đang ngứa tay chân, cười khanh khách :
                  - Đã lâu ta chưa được đánh nhau, nay gặp thằng giặc này thật là cơ hội tốt.
                  Rồi phóng ngựa lên đánh. Quốc Viễn giơ búa đỡ xoảng một tiếng, ngọn búa bị bật lại phía sau. La Thành thuận tay rút cây ngân hoa giản sau lưng đánh trúng đầu Quốc Viễn. Bị đau quá, Quốc viễn rẽ ngựa chạy vào rừng.
                  Như Khuê thấy thế múa hai cây lang nha bổng phóng ngựa lại đánh, lại bị La Thành phóng thương đâm trúng vai Khuê. Khuê thấy sức thương của La Thành mạnh quá, cũng rẽ ngựa vào rừng trốn nốt.
                  La Thành gọi Sử Đại Nại bảo nhặt chiếc Châu Đăng cười sằng sặc :
                  - Hai tên này ăn trộm gà không xong lại lỗ vốn đấu thóc.
                  Bọn Quốc Viễn, anh xẻ đầu anh gãy tay, ôm đầu ngựa chạy về con đường nhỏ phương bắc, chừng mươi dặm gặp bọn Đơn Hùng Tín, Bá Dương, Quốc viễn đang đau bỗng reo to :
                  - Đã có cứu tinh kìa, ta phải trả thù thằng ranh con đó.
                  Bèn phi ngựa đến, nhảy xuống vái lạy bọn Đang Hùng Tín rồi kể tình đầu. Hùng Tín nổi giận vẫy cả bọn thúc ngựa đuổi La Thành. Nghe tiếng ngựa hí, người reo, La Thành biết là bọn Quốc Viễn trả thù, bèn dừng ngựa, cầm ngang thương mà đợi đánh. Hùng Tín phóng ngựa đến nói :
                  - Thằng bé con kia sao dám cướp Châu Đăng của hai anh em ta.
                  Muốn sống thì xuống lạy lão gia tha chết.
                  La Thành cười chế nhạo :
                  - Ngươi chưa được nếm ngọn thương này. Hôm nay ta cho biết.
                  Nói đoạn toan phóng thương đâm. Phía sau, Trương Công Cẩn bỗng nói to :
                  - La công tử ngừng tay, còn Đơn nhị ca cũng chớ nên nóng nảy.
                  Hai người đều lùi ngựa lại. Công Cẩn nói với La Thành :
                  - La công tử không nhớ ư? Tần đai ca thường nói đến một vị ân nhân hảo hán, đó là Đơn Hùng Tín. Vậy Đơn nghĩa sĩ đang ở trước mặt La công tử đó.
                  Nghe nói La Thành cùng Hùng Tín xuống ngựa vái lạy nhau. Mọi người cùng làm lễ tương kiến đoạn lấy thuốc kim sang buộc vết thương đầu cho Quốc Viễn và vết thương ở cánh tay cho Lý Như Khuê. Máu cầm lại và cơn đau hết ngay lập tức. Đơn Hùng Tín nói :
                  - Chúng ta hợp cả lại đi Tế Nam một thể cho vui.
                  Nhắc lại, Vưu Tuấn Đạt tiếp được lệnh tiễn của Đơn Hùng Tín, bèn sai gia tướng sửa soạn lễ vật đi mừng thọ. Trình Giảo Kim nói :
                  - Đại huynh đi mừng thọ ai. Thử nói ta nghe xem có quen không?
                  Vưu Tuấn Đạt nói :
                  - Đó là một tay hảo hán đất Sơn Đông họ Tần tên Quỳnh, chữ là Thúc Bảo. Nay mai khao thượng thọ Tần lão mẫu. Hiền đệ không quen ở nhà đợi ta ít bữa.
                  Giảo Kim ngửa mặt cười to :
                  - Tưởng ai, té ra thằng bạn để chỏm của tôi là thằng Thái Bình Lang. Tôi là ân nhân của Tần Quỳnh. Ông thân sinh hắn là Tần Di, trấn thủ Tế Nam bị Dương Lâm bắn chết. Khi đó, Thúc Bảo còn bé tí, mẹ con côi góa ở với mẹ con tôi. Tôi giúp đỡ rất nhiều, sau lớn lên mỗi người đi mỗi ngả, đã lâu lắm không được gặp mặt, nhưng ta nói ra hắn sẽ nhớ ngay.
                  Tuấn Đạt nói :
                  - Nếu vậy thì hiền đệ đi với ta mừng Tần lão mẫu. Nhưng dọc đường giữ mồm giữ miệng chớ để tiết lộ ra mà nguy đấy.
                  Nói xong sửa soạn lễ vật cùng lên yên đi Tế Nam.
                  Giao Kim đã lâu không cưỡi ngựa vừa nhảy lên yên đã ra roi phỗng như bay chạy qua một trái núi trông thấy toán binh mã của La Thành, Đơn Hùng Tín, Giảo Kim reo lớn :
                  - Đã có đại phong kia!
                  Bèn múa búa xông lại quát ầm ĩ. La Thành nói :
                  - Để tôi cho thằng này một mũi thương.
                  Nói xong thúc ngựa lên. Giảo Kim giơ búa bổ liền. La Thành gạt búa ra, rụt cây giản đâm trung cánh tay trái Giảo Kim.
                  Kim kêu lớn :
                  - Phong khổn! phong khổn!
                  Tuấn Đạt ở phía sau chạy đến. Đơn Hùng Tín nhận biết Tuấn Đạt bèn gọi La Thành bảo đừng đánh nữa. Hùng Tín giới thiệu Vưu Tuấn Đạt với La Thành. Đạt cũng giới thiệu Giảo Kim với bọn Đơn Hùng Tín.
                  Mọi người lại lấy thuốc rịt cho Giảo Kim bớt đau ngay lập tức. Cả bọn kéo nhau đến Tế Nam. Tới cách Tế Nam năm dặm, thấy một khách điếm rộng rãi, chúng hảo hán bèn ngẩng nhìn thấy đề ba chữ lớn “Dã liễu điếm”.
                  Hùng Tín bảo mọi người :
                  - Hôm nay chúng ta hãy tạm nghỉ ở đây. Đợi đông đủ hết mặt, chúng ta sẽ vào thành.
                  Bèn đưa cả bọn vào quán. Dã Nhuận Phủ, Liễu Chu Thần là chủ quán sai gia nhân dắt một đoàn ngựa vào vườn cỏ sau thả cho ăn uống.
                  Đoạn mới chư hào kiệt lên lầu. Hùng Tin lại cẩn thận sai trang khách thân tín của mình ra ngả tư đường đón các bạn đi mừng thọ. Trong khi ấy chủ hàng dọn mười thời rượu, cùng nhau ăn uống rất vui.
                  Cách một lúc, tranh khánh đưa lên lầu bọn Kim Giáp, Đổng Hoàn, Lương Sư Đồ và Đinh Thiên Khánh ở Lạc Châu đến. Mọi người làm lễ tương kiến, Chủ quán dọn thêm một bàn nữa.
                  Lát sau trang khách lại đưa lên một bọn nữa Sài Thiệu, Quất Đột Thông, Quất Đột Cái, Trình Ngạn Lư, Hoàng Thiên Hổ, Lý Hàn Long, Hàn Thành Báo, Chương Hiến Lương, Hà Kim Tước, Tạ Ứng Đăng, Bốc Hồi Chung, Phi Quật Hỉ, tất cả rầm rộ chào hỏi nhau, bàn kéo ngang, bàn kéo dọc, chủ hàng sai tửu bảo hầu chu đáo.
                  Thốt nhiên, có hai chiếc kiệu đỗ dưới lầu. Hai vị ung dung bước lên thang.
                  Đó là Từ Thích, tự Từ Mâu Công và Ngụy Trung. Từ Mậu Công đã bấm nhâm độn biết trước là hôm nay các vị sao trên trời đại hội ở đây để sắp sửa làm nghiêng ngửa triều Tùy, và tự biết ngôi sao thủ mệnh của mình cũng ứng với 3sáu vị Kim Tinh kia, nên rủ Ngụy Trung cùng đến họp, mưu đồ đại nghĩa.
                  Mọi người vốn đã biết Từ Mậu Công và Ngụy Trung, nay gặp mặt để cùng đi lễ thọ Tần lão mẫu thì vui sướng đứng cả lên chào lạy, đoạn Hùng Tín kéo hai ghế cao nhất mời họ Từ, họ Ngụy ngồi chủ vị.
                  Dưới lầu, có hai anh em Lỗ Minh Nguyệt, Lỗ Minh Tinh vừa tới.
                  Chúng từng bao năm tung hoành trên mặt bể, ít đi lại với bọn sơn vương, nên trang khách không biết mà mời lên lầu. Chúng ngồi uống rượu đang cao hứng, lắng nghe tiếng cười nói ầm ĩ ở trên lầu, cũng không hỏi han làm chi, cho là bọn lái buôn nào đó thôi.
                  Trong khi ấy, Trình Giảo Kim rượu đã ba tuần, say lảo đảo, ngồi ngẫm nghĩ :
                  - “Khi xưa ta nghèo khổ, cơm chẳng đủ ăn, áo không đủ mặc, ngờ đâu gặp Vưu Tuấn Đạt rủ đi làm nghề lạc thảo, nay được quen các mặt hảo hán trong thiên hạ, thực cũng sướng cho cái thằng Kim quê mùa dốt nát này.”
                  Nghĩ vậy, lòng hớn hở, ngựa mặt cười, chân dẫm mạnh xuống sàn gỗ, làm bụi đổ xuống đầy bình rượu và đầu tóc, em họ Lỗ giặc bể kia.
                  Minh Tinh nóng nảy vùng đứng dậy thét vang :
                  - Thằng nào ở trên vô lễ thế?
                  Trình Giảo kim ngồi ở cai bàn cạnh cầu thang, lại vốn sáng tai, nghe thấy hỏi vậy, bèn hầm hầm nhảy ngay xuống xông tới đánh luôn.
                  Ngờ đâu Lỗ Minh Tinh vôn là hải tặc khỏe lạ lùng, lừa thế luồn lại nắm được cánh tay Giảo Kim, Kim tức giận không giằng ra được lại phóng tay trái đánh. Lỗ Minh Nguyệt đá ghế đứng lên nắm lấy. Đoạn hai tay, anh em họ Lỗ cứ nhằm mặt mũi, lưng bụng Giảo Kim mà đánh. Giảo Kim quen miệng kêu inh ỏi :
                  - Phong khổn! Phong khổn! Anh em ơi!
                  Bọn trên lầu nghe kêu, chạy hết cả xuống. Hùng Tín nhận ra anh em đồng đạo, vội can ngăn. Hai bên bèn xin lỗi, rồi lại cùng nhau kéo cả lên lầu. Hùng Tín thân bắt ghế, mời anh em họ Lỗ cùng ngồi bàn với Giảo Kim. Kim cười nói :
                  - Các chú miền bể giỏi lắm đó. Lão gia có lời khen.
                  Anh em họ Lỗ cùng cười :
                  - Rừng bể không mấy khi gặp nhau, cũng phải đọ sức một tí cho vui chứ.
                  Mọi người cùng cả cười.
                  Lại nói chủ quán Dã Nhuận thấy bọn Hùng Tín từ xa đến người ngựa đều lấm bụi, ai cũng có hành lý nặng, tướng mạo thấy đều hung dữ, trong lòng nghi hoặc lắm.
                  Nhuận Phủ thì thầm với Liễu Châu :
                  - Bọn này tự đâu kéo đến tụ họp tại đây, người nào trông cũng to lớn như giặc cướp. Ta ngờ là bọn cướp lễ vật của Cô Sơn vương mà hiện nay quan quân đang tróc nã. Để ta vào thành báo cho Tần Quỳnh biết.
                  Chớ nên lộ chuyện, ta đi đây.
                  Nhuận Phủ chạy một mạch vào trong huyện, gặp ngay Tần Thúc Bảo. Nhuận Phủ thuật rõ việc ở hàng mình, rồi tiếp :
                  - Mời ông đến ngay cho. Có lẽ có lẫn cả Trình Đạt, Vưu Kim là hai thằng giặc cướp lễ vật chăng.
                  Thúc Bảo gọi Phàn Hổ, cả hai cầm khí giới cùng Nhuận Phủ ra khách điếm. Thúc Bảo đi đầu rón rén bước lên thang, chợt trông thấy Đơn Hùng Tín ngồi thẳng trước mắt, vội quay xuống.
                  Nhưng mắt Hùng Tín nhanh như mắt cáo, trông thấy Thúc Bảo, vội đẩy ghế đứng lên gọi :
                  - Tần đại ca, chúng đệ ở cả đây. Sao lại nỡ lánh các em?
                  Thúc Bảo vạn bất đắc dĩ phải quay lên, cùng Phàn Hổ, chào cả mọi người. Đến trước mặt ai cũng vồn vã hỏi thăm, tới Giảo Kim, Thúc Bảo chỉ vái mà quay sang người khác.
                  Vưu Tuấn Đạt bấm Giảo Kim nói thầm :
                  - Kìa sao bữa nọ hiền đệ khoe là ân nhân của Thúc Bảo. Sao hắn lãnh đạm với hiền đệ thế?
                  Bị khích, Kim điên tiết bước lên nắm áo Thúc Bảo mà rằng :
                  - Mi là đứa tiểu nhân chỉ tôn trọng người phú quý có nhớ đâu ân nghĩa ngày xưa, nên rẻ rúng ta, vậy mà thiên hạ ca tụng ngươi là Tiểu Mạnh Thường thì người ta mù điếc hết.
                  Thúc Bảo nghiêng mình xá mà cười :
                  - Chết nỗi, tiểu đệ nào có tội gì, chỉ hiềm nhất kiến chưa biết nói gì với đại huynh đó thôi, chứ Tần Quỳnh này bao giờ cũng lấy lễ nghĩa làm đầu, đâu dám nghĩ sự nghèo già, kính trọng.
                  Giảo Kim trừng mắt nói :
                  - Thái Bình Lang không còn được nghe Tần bá mẫu ta nói lại cho nghe, ngày ngươi mới lên năm, mẹ con ta đã xẻ cháo nhường rau cho bá mẫu và ngươi ở Bàn cư chấn? Ngày nay ngươi làm nên, nỡ quên ngay thằng Trình Giảo Kim này!
                  Thúc Bảo giật nẩy mình vội sụp xuống lạy mà rằng :
                  - Chết nỗi, Trình đại huynh đó ư? Em ngày đó còn bé dại, lớn lên chỉ nghe thân mẫu nhắc nhủ công ơn mà không biết mặt, nay lòng trời run rủi cho anh em gặp gỡ nhau, em có tội, xin thứ cho em.
                  Nói rồi lại lạy, Giảo Kim khoái chí ôm lấy Thúc Bảo mà ngửa mặt lên cười sằng sặc, rồi quay lại bảo Vưu Tuấn Đạt rằng :
                  - Đó Vưu đại ca ơi, ta có nói khoác đâu. Thật là em ta nhé.
                  Thúc Bảo vui mừng quên cả hiềm nghi, thắc mắc, sai tửu bảo mời cả chủ quán Dã Nhuận Phủ, Liễu Chu Thần lên uống rượu, Thúc Bảo thân đi róc rượu mời khắp lượt anh hùng.
                  Đến chỗ Đơn Hùng Tín, vô ý vấp phải miếng gỗ ở chân bàn. Thúc Bảo kêu lên một tiếng “ối chao” rỗi khuỵu xuống.
                  Hùng Tín và mọi người kinh ngạc đứng lên. Tín cúi ôm Bảo dậy :
                  - Hiền đệ sao lại bị đau đến thế?
                  Phàn Hổ bèn kể rõ việc nhà vua mất cướp, quan nha truy nã cường đạo, quan huyện đây sai Thúc Bảo đi tầm nã, không được, đã dùng hình phạt nặng nề khiến Thúc Bảo bị thương ở khắp đùi và mình mẩy, chạm vào đau ngay, cho nên ngã.
                  Hùng Tín cùng mọi người nổi giận nói :
                  - Trong anh em ta đây ai lấy lễ vật đó, nếu đã là hảo hán thì nói cho nhau biết. Không lẽ được hưởng báu vật để Tần đại ca một mình chịu đau khổ như vậy.
                  Giảo Kim nói to lên :
                  - Để lão Trình này nói!
                  Vưu Tuấn Đạt giật nẩy mình bấm đùi Giảo Kim. Kim quát :
                  - Sao lại bấm đùi ta? Để lão gia nói cho các bạn biết rằng lấy lễ vật đó chính thằng Trình Giảo Kim này và Vưu Tuấn Đạt kia. Đích thật ta Trình Giảo Kim và Vưu Tuấn Đạt, chứ không phải Trình Đạt, Vưu Kim khỉ tiều nào hết!
                  Thúc Bảo nghe nói cả kinh, vội bưng lấy mồm Giảo Kim bảo rằng :
                  - Ân huynh đừng nói câu đó. Người ngoài nghe biết thì chết hết.
                  Giảo Kim đứng dậy cởi phăng áo, nói :
                  - Cái thằng Trình Giảo Kim này xưa kia mình trần khố trụi, bây giờ được cùng các hảo hán kết giao thế là thoả chí bình sinh, dẫu chết tù chết chém cũng không ân hận. Miễn là mẹ già nhờ các đại huynh nuôi giúp cho là được. Nay làm nên tội thì chịu tội. Trốn lẩn là hèn nhát. Các ngươi mau mau trói thằng Kim này lại mà giải quan để Thúc Bảo đỡ khổ vì ta, thế 1à hả lắm. Ta đây đội trời đạp đất, không sợ tù ngục, không sợ tra khảo, không sợ chết. Trói ta, mau!
                  Thúc Bảo nắm chặt tay Giảo Kim, nói :
                  - Cái nghĩa khí hào hùng của Trình đại huynh đã khiến ngu đệ đây cảm kích và tự thẹn rằng nếu không theo kịp chẳng hóa ra tầm thường, giá áo túi cơm sao. Nay đại huynh tự sả thân cứu tiểu đệ, lẽ nào Bảo này lại nhắm mắt làm điều bất nghĩa đó đối với ân huynh. Cái nhục vong ân bội nghĩa, tham miếng cơm manh áo của quan sẽ khiến nghĩa sĩ trong thiên hạ coi Bảo tôi bằng sâu kiến, vậy xin thề cùng anh em cùng sống chết từ phút này.
                  Dút lời thò tay vào bọc lấy chiếc thẻ bài đi bắt cướp bẻ làm đôi vất xuống đất, lấy cả giấy phê văn châm lửa đốt.
                  Bọn Hùng Tin đập bàn ném chén mà reo :
                  - Hay lắm, hay lắm! Thế mới gọi là hảo hán.
                  Từ Mậu Công cạn luôn ba chén rượu, hào hứng nói :
                  - Chư vi anh hùng bốn phương tình cờ gặp mặt buổi hôm nay, thực là không còn dịp khác, Thúc Bảo trưởng huynh và Trình đại ca đã tỏ cái nghĩa khí phi thường như thế, sao không cùng nhau uống máu ăn thề để đồng sinh đồng tử với nhau?
                  Mọi người đồng thanh đáp :
                  - Lời tiên sinh dạy thật vàng ngọc. Chúng tôi xin được ăn thề.
                  Rồi đó, bày hương án, chư hào kiệt viết tên tuổi vào mảnh giấy to, đoạn cùng nhau trích máu tay rỏ cả vào bát rượu lớn đặt trên hương án, đốt trầm nghi ngút, cả thấy ba mươi chín vị anh hùng đều xếp hàng quỳ nguyện :
                  - Chúng tôi ba mươi chín người, trích máu ăn thề, không nguyện sinh cùng ngày, chỉ thề cùng ngày mà chết, sự lành dữ cùng chịu cho nhau, nếu ai ăn ở hai lòng, trời sẽ hại.
                  Khấn xong, mỗi người cho chén vào bát rượu máu, uống một chén đầy, không để sánh ra ngoài một giọt.
                  Đoạn triệt bỏ hương án. Thúc Bảo nói :
                  - Bây giờ trời đổ tối, các đại huynh nghỉ tạm ở đây, mai sớm vào thành dự tiệc mừng cho lão mẫu.
                  Nói xong, lạy biệt mọi người, rồi cùng La Thành về nhà riêng. Thấy cửu mẫu, La Thành sụp lạy. Tần mẫu thấy La điệt tướng mạo khởi ngô, da trắng môi đỏ, mày thanh mắt sáng, dáng đi như hổ, tiếng nói như chuông, thực là dòng dõi họ La, họ Tần có khác thường. Tần mẫu mừng lắm, sai dọn rượu, cùng ngồi với cháu uống rượu cho đến khuya, hỏi han việc cửa nhà sau trước.
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #10
                    Hồi 10 - Dê tìm cọp, Giảo Kim bị bắt

                    Hồi 10

                    Dê tìm cọp, Giảo Kim bị bắt
                    Đánh phụ vương, Thúc Bảo ra tay

                    Mờ sáng hôm sau, Thúc Bảo sai gia nhân dọn dẹp, quét tước miếu thổ địa ở vườn sau thật sạch sẽ bầy bàn ghế ra để chốc nữa chư vị anh hùng ngồi dự tiệc. Vì Thúc Bảo ngại rằng ngồi ở nhà ngoài người xá dòm nom bàn tán nhiễu chuyện chăng.
                    Vào quãng gần ngọ, bọn Đơn Hùng Tín kéo nhau đến dâng lễ vật, bạc vàng gấm vóc, chẳng thiếu gì. Chúng hảo hán nói mời lão bá mẫu ra để lạy mừng, Thúc Bảo vào nói với mẹ. Tần mẫu nhất định không ra, chỉ đứng sau bình phong mà nhìn qua khe hở. Thúc Bảo đứng sau mẹ nói :
                    - Người mặt xanh kia là Đơn viên ngoại. Người mặt xám kia là Trình Giảo Kim. Ông kia là Sài Thiệu, Phò mã Đường công Lý Uyên, còn mọi người là anh em cả, Thân mẫu cứ ra không hề chi.
                    Ở ngoài bọn hảo hán cho đợi mãi Trình Giảo Kim nóng nảy chạy ngay vào, trông thấy Tần mẫu bèn sụp lạy :
                    - Thưa bá mẫu, tiểu điệt là Trình Giảo Kim lạy mừng.
                    Tần mẫu nâng Kim dậy ân cần hỏi :
                    - Cháu ơi, bấy nay xa cách, ngờ đâu ta còn được sống để trông thấy cháu. Lệnh đường có khỏe không?
                    Kim đáp :
                    - Thân mẫu cháu vẫn khỏe, chỉ tội nghèo thôi. Thân mẫu cháu thường nhắc tới bá mẫu luôn. Xin mời bá mẫu ra kẻo anh em cháu ở ngoài đang mong ngóng.
                    Tần mẫu ngần ngại. Giảo Kim nóng nảy ghé lưng cõng Tần mẫu ra đặt lên ghế cao, nói :
                    - Lão Trình đã lạy rồi, các đại huynh lễ đi thôi!
                    Chư anh hùng nhất loạt quỳ cả xuống. Thúc Bảo cũng quỳ lạy đáp lễ tạ ơn các bạn. Sau đó rượu một tuần, Tần mẫu vái tạ ơn Đơn Hùng Tín đã cứu giúp dạo ngày nọ.
                    Hùng Tín vái lại mà rằng :
                    - Bá mẫu nhắc chi chuyện nhỏ. Đó là nghĩa bằng hữu đối với nhau có xá kể gì đâu.
                    Tần mẫu vái lạy cả mọi người, nói :
                    - Tôi tự xét không tài đức gì, mà phiền các ông không quản xa xôi đến cho lễ vật rất nhiều, già này không biết lấy gì báo đáp.
                    Mọi người nói :
                    - Ngày thọ bá mẫu, chúng tiểu diệt phải đến mừng, đó là theo điều lễ nghĩa, bá mẫu nhận cho.
                    Tần mẫu vào phòng riêng, Thúc Bảo mời mọi người vào sau miếu, ở đấy tiệc đã sẵn bày, rượu hoành tửu, bê béo, thịt sơn dương, đủ các vị sơn cầm dã thú do Phàn Hổ cùng một bọn phường săn đi các ngả đường bẫy hoặc bắn được mang về.
                    Rượu bốn tuần, gia đinh vào mời Thúc Bảo ra, có các viên kỳ bài ở dinh quan Tiết độ sứ đến mừng lễ thọ. Thúc Bảo xin lỗi các bạn đứng lên một chốc ra nhà ngoài tiếp khách.
                    Rượu mỗi lúc một thêm hào hứng, tiếng cười tiếng nói vang cả miếu.
                    Kẻ nói chuyện hải hồ, người nói chuyện triều đình vua chúa, người nói chuyện võ thuật, tiếng cười xen tiếng nói vô cùng huyên náo. Giảo Kim no say hết sức, nghĩ bụng rằng :
                    - “Trong đám tiệc này chỉ có Đơn Hùng Tín và La Thành là giỏi, nhân tiệc vui, ta xí cho hai anh tỉ võ một trận làm giã tửu thang cũng thú”.
                    Bèn cầm bình xin phép Thúc Bảo đi mời rượu. Đến chỗ Đơn Hùng Tín, Giảo Kim vừa rót rượu vừa ghé tai thầm thì :
                    - Tiểu đệ bảo cho Đơn huynh biết mà phòng bị, thằng bé con La Thành định đánh đại ca một trân để làm nhục đó. Kim tôi thực thà, phúc hậu nói cho mà biết, kẻo mà trở tay không kịp.
                    Tín giật mình :
                    - Sao lại thế, ta có oán thù riêng gì với họ La ở cách ta những ngàn dặm thành trì, sông núi?
                    Kim rằng :
                    - Thằng bé con bảo rằng đại ca làm trùm trộm cướp, sức yếu tài hèn, cứ ngồi chễm chệ ở nhà chia của với lũ đàn em. Như vậy là làm bẩn cái danh nghĩa anh hùng, hắn không phục, dọa sẽ đánh đại ca một quyền đủ chết.
                    Tín máu sôi, gan cháy, mắt nảy lửa, tay nắm chắc, trừng mắt nhìn La công tử ở tít góc đằng kia.
                    Giảo Kim lại quay mời rượu mọi người, đến chỗ La Thành, Kim rỉ tai nheo mắt, nói :
                    - Này La công tử Kim này trời sinh ra vốn thật thà nhân đức, thấy công tử sắp nguy đến tính mạng, có lẽ nào lại ngảnh mặt, bưng tai.
                    La Thành giật mình, nói :
                    - Có điều gì, Trình lão huynh cho tiểu đệ được biết.
                    Kim nghiêm trang nói :
                    - Đơn Hùng Tín hắn bảo rằng công tử khệnh khạng lối con quan, cậy thế cha đốt nhà lương dân, hiếp gái nhà nghèo, làm nhiều điều phi pháp. Hắn ngứa mắt, sắp sửa bẻ đầu công tử vứt ra vườn cho quạ rỉa, rồi mai kia sẽ một mình một ngựa tới phá thành Yên Sơn, làm cỏ cả muôn dân đó. Công tử nên cẩn thận, kẻo hắn quen giết người như ngoé, lại sức khỏe anh hùng vô địch, hắn chỉ đấm một cái hổ cũng chết nữa là công tử.
                    Nghe nói, La Thành giận sôi sùng sục nhưng mà chỉ cười mà rằng :
                    - Đa tạ Trình lão huynh. Thành này chưa hề biết sợ ai bao giờ cả.
                    Rồi đó, bên này trợn mắt nhìn sang, bên kìa trừng mắt nghiến răng nhìn lại, La Thành và Đơn Hùng Tín chỉ muốn đá ghế, đứng phăng lên để giết nhau. Giảo Kim về ghế ngồi liếc mắt nhìn hai bên, trong bụng thích lắm, thỉnh thoảng lại nháy người này, ra hiệu cho người kia, càng khiến hai người càng thêm giận dữ.
                    Tiệc rượu tạm ngừng. Mọi người đứng dậy ra ngoài vườn cây dạo cảnh. La Thành đi loanh quanh cố ý đón Hùng Tín, vừa hay Tín ở cổng đến bước tới một gốc cây. Hai người chạm mặt trên con đường nhỏ.
                    Không ai chịu tránh ai. La Thành cứ tiến thẳng, lấy vai hích vào Hùng Tín. Thành đang sức trai mạnh như hùm beo xuống núi, khiến Đơn Hùng Tín lạng người đi. Thành tiến lên hích thêm cái nữa. Tín chưa kịp đứng, lại bị chỗ rêu trơn, ngã ngồi xuống cỏ. Tín vùng đứng lên, quát :
                    - Thằng ranh con chưa sạch máu đầu, dám trêu ông nội mi à?
                    La Thành đáp :
                    - Ta đánh thằng mặt xanh nói láo, có giỏi thì thí võ với ta.
                    Tín thét lên mua quyền xông vào đánh ngang mặt La công tử.
                    Thành né mình cúi thấp xuống, rồi đưa hai ngón tay tả lên móc họng, tay hữu đấm vào rốn. Tín lùi lại tránh được tay tả và chưa kịp gạt tay hữu thì La Thành đã tiến lên sát chặt vào mình Hùng Tín mà chập cả hai tay đánh vào ngực theo thế võ sà quyền, “Đồng Tử Hiến Đào”. Tín chỉ kịp vớt lại phía sau, sát ngay lưng vào một gốc cây cổ thụ thì nhanh như con trăn gió quăng mình vút cái La Thành đã phi cả người tới phóng chân đá trung bụng Tín.
                    - Ôi chao! Thằng này giỏi!
                    Hùng Tín ôm bụng lao đao suýt ngã. La Thành tiến lên toan dùng độc thủ moi cả mắt cả ruột Tín ra, nhưng may sao, Thúc Bảo vừa chạy tới gạt tay La Thành ra. Hùng Tín giận sùi bọt mép :
                    - Thằng bé con giỏi lắm, Đơn Hùng Tín này thề không cùng họ La đội một trời.
                    La Thành cười khanh khách :
                    - Bấy nay mày xưng làm Đại vương, đứng trùm lũ trộm gà, cướp của, không ai đánh mày, mày tự cho là anh hùng lắm. Tao ở xa nghe đã rác tai. Nay tới gần mới biết mi là một thằng kẻ cướp yếu hèn.
                    Mọi người nghe La công tử sỉ mắng Đơn Hùng Tín đều có tật giật mình, nhìn nhau khó chịu. Thúc Bảo biết ý, mắng em :
                    - Biểu đệ chớ ngông cuồng nói nhảm!
                    Thấy biểu huynh nỡ bênh kẻ cường đạo mắng nhiếc mình giữa chỗ đông người, La Thành nín lặng, quay mình chạy lên nhà trên lấy hành lý lạy tạ cửu mẫu, rồi ra chuồng ngựa đóng vội yên cương vào ngựa của mình, nhảy lên phi một mạch về Hà Bắc.
                    Bọn Trương Công Cẩn, Uất Trì tìm mãi không thấy La Thành có ý lo ngại lắm. Trong khi ấy, Tần mẫu cũng lật đật sai gọi Thúc Bảo cho biết rằng La điệt đã bỏ ra đi. Thúc Bảo giật mình giẫm chân nói :
                    - Em ta về nói với cô gia, cô mẫu ta, thì còn ra nghĩa lý gì, mà tự nhiên anh em bỗng gây thù oán, ghét bỏ nhau.
                    Trình Giao Kim cứ tưởng là say rượu đùa chơi một tý ai ngờ to chuyện thì hối hận, vội cầm búa nói :
                    - Để tôi xin đi kéo La công tử lại.
                    Đoạn chạy như bay vào chuồng ngựa, lấy một con ngựa tốt phi như gió ra ngoài phố, ra ngoài thành. Trong khi ấy, Thúc Bảo hỏi Đơn Hùng Tín :
                    - Tại sao mà La biểu đệ dám vô lễ với đại ca?
                    Hùng Tín thuật lại lời Giảo Kim trong tiệc rượu. Tuấn Đạt đập tay mà nói :
                    - Thế là cả hai bị lừa rồi. Trình nhất lang vốn có tính bông đùa, trêu cợt để người khác làm trò vui cho hắn được cười, sao Đơn đại ca lại không biết thế đến nỗi sinh ra chuyện lôi thôi.
                    Hùng Tín đứng ngẩn mặt ra. Từ Mâu Công nói :
                    - Nếu thế thì Giảo Kim đuổi theo cũng vô ích. La công tử sẽ không trở lại mà hắn cũng không dám nói thực là mình trót dại bông đùa.
                    Tuấn Đạt nói :
                    - Tiểu đê đuổi theo xem sao.
                    Nói đoạn nhảy ngựa đi ngay. Đây nói, ngựa Trình Giảo Kim từ nay đã qua ba mươi dặm, vượt rừng băng núi, chẳng thấy La Thành, mà chỉ thấy một toán quân mã áp tải ba xe lễ vật.
                    Đó chính là Cô Sơn vương Dương Lâm. Chuyến này tự áp tải ba xe châu báu, quý vật khác vào kinh sư. Sợ cướp mất hai mươi sáu vạn lạng bạc vàng nữa, nên Dương Lâm thân cưỡi ngựa mặc áo giáp đi áp dẫn.
                    Giảo Kim cứ cho là một tướng già, biết đâu Dương Lâm là một tay cái thế anh hùng nên tự đắc reo lên :
                    - Đại phong! Đại phong! Lũ kia mau nộp tiền mải lộ.
                    Ngờ dâu, La Phương đứng sau xe nhận biết mặt Giảo Kim :
                    - Bám bẩm Đại vương, chính nó đã cướp ba xe châu báu trước của rừng Tràng Điệp đấy.
                    Nghe nói, Dương Lâm nổi giận, múa tít đôi tu long bổng phóng ngựa ra quát :
                    - Có phải cường đạo Trình Đạt, Vưu Kim đó?
                    Giảo Kim nói :
                    - Lão gia chính là Trình Giảo Kim, anh em bạn với Vưu Tuấn Đạt.
                    Ngươi đã nghe đại danh ta sao không xuống ngựa mà quỳ lạy?
                    Dương Lâm nói :
                    - Thằng giặc này vô lễ! Để mày sống làm gì nữa.
                    Đoạn xông vào đánh. Dương Lâm chẳng coi súc búa của Giảo Kim vào đâu cả khẽ giơ long tu bổng gạt ra, rồi vươn tay vượn nắm lấy lưng Giảo Kim nhấc cao lên rồi ném xuống đất nhẹ nhàng như bỡn. Bọn La Phương xúm vào trói lại như trói lợn.
                    Vưu Tuấn Đạt ở nhà Thúc Bảo vừa hay phi ngựa tới, thấy Giảo Kim phải trói nằm gô trên mặt đất, bèn múa thoa xông lại đánh lại mới hai hiệp bị Dương Lâm bắt sống nốt. Bắt xong cường đạo, Dương Lâm cả mừng, hạ lệnh đóng trại giữa đường, rồi truyền trát đi vời hết các quan phủ huyện Tế Nam và mã khoái đến hầu.
                    Các quan được lệnh sợ xanh mặt, rủ nhau đến hầu Cô Sơn vương.
                    Trong số đó có quan huyện Lịch Thành Từ Hữu Đức. Đức vào sụp lạy, Dương Lâm đập án hỏi :
                    - Ở huyện ngươi, tên mã khoái Tần Quỳnh có đến chăng?
                    Hữu Đức nói :
                    - Bẩm có, chức mã khoái ấy đang chờ lệnh ngoài dinh.
                    Dương Lâm sai gọi Thúc Bảo. Một lát, Bảo vào quỳ lạy. Dương Lâm trừng mắt :
                    - Ngươi nói xin về đón mẹ, sao dám để cô gia chờ đợi mãi?
                    Thúc Bảo nói :
                    - Chỉ vì thân mẫu con bị ốm nên chậm trễ, Vương phụ tha cho.
                    Dương Lâm nói :
                    -Ngươi đã là con ta thì cha đi đâu, con phải đi đấy. Nay ta vào kinh, cho ngươi được theo hầu. Còn thân mẫu ngươi thì bao giờ trở về sẽ đón.
                    Thúc Bảo nói :
                    - Xin cha cho con về lấy khôi giáp đã.
                    Dương Lâm nói :
                    - Ngươi muốn lấy khôi giáp cứ viết thư ta sẽ sai người về lấy.
                    Không dám cưỡng, Thúc Bảo đành lui ra lấy giấy bút, đến một phiến đá bên đường viết hai phong thư đưa cho tên lính dặn rằng?
                    - Bức thư này ngươi đem đến Dã liễu điếm ở phố Tây môn ngoài thành đưa cho người chủ quán giúp ta. Còn bức này ngươi đem đến mẹ ta rồi lấy khôi giáp, quần áo đến đây. Chớ nên lầm lẫn.
                    Dương Lâm sai dẫn Giảo Kim, Tuấn Đạt vào hỏi :
                    - Hai tên kia, làm giặc cỏ ở đâu?
                    Giảo Kim hăng hái đáp :
                    - Chúng tôi đội giời đạp đất, không sợ chết. Ngươi giết hai anh em ta sẽ có ba mươi vạn hảo hán và quân sĩ trên núi Thái hành sơn đến giết mi để báo thù cho anh em ta đó.
                    Dương Lâm nổi giận sai đem chém. Giảo Kim nói cứng, nhưng thấy võ sĩ xông ra thì lại sợ, nháy mãi Thúc Bảo ra hiệu nhờ xin hộ. Bảo bước ra nói :
                    - Thưa phụ vương cứ giao hai công đạo này cho quan phủ Tế Nam, đợi ngày phụ vương ở Tràng An về sẽ ra tay làm cỏ hết lũ công đạo Thái Hành sơn, khi đó sẽ giết hai tên này phơi đầu giữa chợ để tỏ cái uy của phụ vương, sau để cho quân đạo tặc phải kinh hồn.
                    Dương Lâm khen phải truyền giao giặc cho quan phủ giữ.
                    Sau đó hồi lâu tên lính mang thơ đã đem khôi giáp và quần áo đến cho Thúc Bảo. Dương Lâm truyền kéo binh đến thẳng Tràng An.
                    Đây nói bọn Đơn Hùng Tín được thư Thúc Bảo, biết tin Trình Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt bị Dương Lâm bắt, lại được biết Thúc Bảo phải cưỡng ép theo đi kinh sư, chúng hảo hán đều kinh ngạc, sau cho đi do thám, được biết nữa rằng họ Trình, họ Vưu hiện bị giam giữ trong phủ Tế Nam chờ Dương Lâm về sẽ giết. Mọi người bàn mưu kế để cứu Giảo Kim và Tuấn Đạt.
                    Từ Mậu Công nói :
                    - Muốn cứu hai người ra thoát ngục, tất cả chúng ta phải phá cả đất Sơn Đông này mới được.
                    Đơn Hùng Tín nói :
                    - Chúng ta vừa uống rượu thề chưa ráo chén tất phải cứu bạn ngay dù phải tan xương nát thịt cũng không từ.
                    Từ Mậu Công nói :
                    - Nếu vậy, tôi xin các anh em phải theo tướng lệnh và phải có quân pháp rõ ràng. Bằng không thì lỡ đại sự mà thành ra xuẩn động dắt nhau vào chỗ chết.
                    Đơn Hùng Tín và mọi người đồng thanh nói :
                    - Chúng tôi cùng một lòng tuân theo tướng lệnh của Từ lão huynh.
                    Mậu Công nghiêm mặt nói :
                    - Đó là điều cốt yếu. Chỉ lo không đồng lòng chung sức mà thôi. Đã có kỷ luật lại cùng sinh tử thì việc gì cũng phải thành. Duy ở đây có Sái Phò mã, không nên dính vào việc này e có liên can đến Đường công ở Thái Nguyên. Vậy nên về trước để anh em hành sự.
                    Sài Thiệu nghe theo, tức thì cùng gia tướng bái biệt chư hào kiệt, lên đường về Thái Nguyên ngay. Rồi đó, Mậu công chia công việc :
                    - Đơn Hùng Tín đại ca giả làm lái ngựa, đem tất cả ngựa của anh em vào thành thả sẵn ở vườn cỏ nhà Tần Thúc Bảo, mà ngựa phải sẵn yên cương, mỗi ngựa một tên lính dắt chờ sẵn khi dùng cấp tốc. Còn Dã Nhuận Phủ, Liễu Chu Thần thì lấy mười cái bàn xếp đoản đao, cung tên, khôi giáp của anh em cho gia nhân khiêng vào nhà Tần Thúc Bảo, lại cần sai lấy mấy chục cây tre lớn bỏ khí giới vào trong cũng khiêng đến vườn nhà Thúc Bảo. Còn các hảo hán thì nhân trời tối lẫn với dân chúng đi đốn củi, đánh trâu về mà vào cả trong thành, cũng hội cả ở nhà Thúc Bảo.
                    Các hảo hán nghe lệnh, thi hành răm rắp. Khi đã vào thành thì trời tối mịt. Mậu Công sai mời Tần mẫu ra, nói hết sự tình Thúc Bảo phải theo Dương Lâm, Trình Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt bị cầm tù, đêm nay thế nào cũng phá ngục giết quan quân nên mời Tần mẫu cùng gia quyến tạm lánh ra Tiểu cô sơn.
                    Tần mẫu luống cuống thu thập hành lý đi liền. Mậu Công lại bảo nha tướng quen thân với Phàn Hổ vào trong ngục bảo trước cho bọn Tuấn Đạt, Giảo Kim biết trước, hễ nghe pháo hiệu thì hạ thủ ngay, sẽ có một người tiếp ứng.
                    Xong rồi, Mậu Công sai Đơn Hùng Tín đem quân ra Hoàng Thổ Công mai phục, chờ quan quân đuổi theo thì ngăn đánh.
                    Lại sai Lỗ Minh Tinh, Lỗ Minh Nguyệt, giả làm hành khất theo kế dặn mà làm việc. Bọn đi cướp ngục là Sử Đại Nại, Trương Công Cẩn, kèm sau là bọn Quất Đột Thông, Quất Đột Cái, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, người nào cũng dắt đồ dẫn hỏa.
                    Đánh phá cửa dinh Tiết độ có Bá Dương, Ứng Đăng. Phá cửa phủ cứ Như Khuê Quốc Viễn, Đổng Hoàn, Kim Giáp.
                    Lại sai Ngạn Sư, Thiên Hổ chặt khóa mở cửa tây ra để dọn đường chạy, hết thảy đều theo pháo hiệu mà đánh phá.
                    Mậu Công, Ngụy Trung ngồi ở nhà Thúc Bảo chờ anh em khởi sự thì xông ra. Chờ đến canh hai, cả thành an ngủ lặng như tờ, hai anh em Lỗ Minh Nguyệt giả làm hành khất ngủ ngoài hè phố. Chúng dò dẫm đến cửa đông phủ trèo lên ngọn bảo tháp, lấy pháo ra đốt ném tung lên trời đêm sáng rực cả một phương. Các hảo hán đã sẵn sàng, nghe tiếng pháo đều giở tay một lúc.
                    Phía cửa nam, Đột Thông, Đột Cái phóng hỏa cùng một lúc với Uất Trì Nam, Trì Bắc ở cửa đông.
                    Dân chúng giật mình, biết có giặc phá thành kêu khóc vang trời dậy đất. Giữ việc phá ngục, Trương Công Cẩn, Sử Đại Nại, Phàn Hổ, Liên Minh, nhân lúc rối loạn, rút ngay khí giới giết ngục tốt và cai ngục. Trong kia, Giảo Kim, Tuấn Đạt đập gẫy gông, reo ầm ĩ.
                    - Các phạm nhân oan khổ hay không oan khổ, đã thành án hay chưa thành án khá theo ta phá ngục mà tự giải thoát mau!
                    Chúng tội nhân đều tìm dao, vớ búa, bẻ cánh cửa xông ra hò reo như con ong vỡ tổ, gặp ngay các hảo hán vừa kéo đến. Giảo kim, Tuấn Đạt tiếp được mũ giáp, bèn nai nịt gọn ghẽ nhảy lên ngựa, kẻ múa búa, người tung chùy đánh giết bọn quan quân chết lăn ra như rạ.
                    Trong khi ấy pháo nổ cả bốn mặt thành, tiếng người khóc giặc reo, cả một thành Sơn Đông náo động, bỗng chốc biến ra địa ngục.
                    Chúng anh hùng giẫm lên máu, nhảy lên xác, ngựa phi như dông bão trong khói, lửa cháy ngun ngút trên các mái nhà, thì trời sáng mờ mờ, Tiết độ sứ Đường Bích và tri phủ Mạnh Hồng công đem quân đuổi ầm ầm như sóng bể gió ngàn.
                    Hùng Tín giữ việc cản quan quân. Nhưng chúng đông trùng điệp, một mình Tín không đương nổi. Đang khi nguy cấp, Bá Dương phi ngựa tới, ngựa Bá Dương tới đâu, quan quân rụng đầu đến đấy, chỉ mấy trăm đường đao sáng lóe ngời, Bá Dương đã liên lạc được với Đơn Hùng Tín.
                    Tri phủ Mạnh Hồng cố sức đuổi theo, bị Bá Dương quay mình phát một mũi tên. Mạnh Hồng rơi cả mình xuống đất, ngựa dẫm nát đầu mà chết. Quan quân hoảng hốt xô nhau lui chạy về thành.
                    Ngoảnh lại chỉ còn đường rộng thênh thang, và mặt trời đã mọc, Bá Dương, Hùng Tín vào Tiểu cô sơn phục lệnh. Mậu Công kiểm điểm không thấy mất tướng thiệt quân, mừng lắm. Sau đó lại lập kế cho mọi người về đón gia quyến đến Tiểu cô sơn tụ nghĩa. Ba ngày mở tiệc mừng, lại yết bảng chiêu binh, mãi mã. Đường Bích không đánh được giặc, uất ức lui về nghe tin quân báo rằng bọn công đạo phá Sơn Đông đêm qua đã tụ tập ở nhà Tần Thúc Bảo. Và chính Thúc Bảo đã đem gia quyến đi rồi. Cả kinh, Đường Bích thân cỡi ngựa đến nhà Thúc Bảo khám xét, thấy trên tường ngôi đền cổ sau vườn còn nguyên tấm giấy ghi tên Thúc Bảo và ba mươi tám vị anh hùng nữa đã cùng nhau uống máu ăn thề.
                    Sở dĩ có giấy ăn thể ấy ở nhà Thúc Bảo, là do ý Từ Mậu Công làm kế ly gián không muốn Thúc Bảo trở về thành nữa. Nhưng Mậu Công đã khôn ngoan xóa tên Sài Thiệu và La Thành. Đường công viết biểu, đính tờ kết nghĩa kia vào, rồi sai người về kinh đô dâng lên Dạng Đế.
                    Trong khi ấy, Cô Sơn vương Dương Lâm đã tới kinh sư, tâu Dạng Đế phong Tần Thúc Bảo làm Thái bảo thứ mười ba.
                    Tan chầu về, nha tướng dâng thư của Đông Bích, Dương Lâm xem, thấy Thúc Bảo dính vào sự phản nghịch, phá ngục, phản tù, cướp hết của kho, giết hại hơn vạn dân lẫn ngục tốt và viên chức phủ nha. Dương Lâm giật nảy mình, bèn phát lệnh tiễn đi vời Tần Quỳnh đến. Nha tướng là Trương Nghĩa, xưa bị tội tử tù đã nhờ Thúc Bảo cứu cho khỏi chết lại thả cho đi trốn nên ngày nay còn mang ơn đó. Cho nên Nghĩa tìm Thúc Bảo ghé tai nói thầm :
                    - Mạt tướng trước kia nhờ ân công mới được sống sót, nay biết rằng Đường Bích đã dâng biểu kèm tờ kết nghĩa, kể tội ân công mưu với Đơn Hùng Tín đánh phá Sơn Đông. Hiện Cô Sơn vương sai mạt tướng đi vời ân công đến định tội, xin bỏ nới này mà đi ngay kẻo tính mênh khó toàn vẹn đó.
                    Thúc Bảo cả kinh, đứng lên xá Trương Nghĩa tạ ơn và nói :
                    - Bỏ kinh đô thì dễ, duy qua cửa Đồng quan mới khó. Làm sao bây giờ, ông có kế hay chăng?
                    Trương Nghĩa cúi đầu nghĩ, rồi quả quyết :
                    - Tiểu đệ không nợ thê nhi, không vướng thân quyến, xin bỏ chức theo hầu ân công. Hiện trong mình có lệnh tiễn đây, sẽ có cách lừa tướng giữ Đồng quan mà chạy được.
                    Thúc Bảo cả mừng. Hai người lên ngựa nhắm Đồng quan thẳng tới.
                    Cô Sơn vương ngồi đợi mãi, nóng ruột, sai mấy gia tướng nữa đi đòi, một lát kẻ bộ hạ về trình: hai người đã vượt Đồng quan đi trốn.
                    Dương Lâm thét to một tiếng mặc vội giáp, cầm long tu bổng phóng ngựa đuổi theo. Ngựa long câu của Thúc Bảo chạy như bay, nếu ngựa của Trương Nghĩa cũng là giống ngựa hay nên thì Dương Lâm đuổi sao kịp.
                    Vì thế, đã bốn năm lần, Thúc Bảo phải gò cương chờ Trương Nghĩa. Bất ngờ ngựa của Dương Lâm đã đuổi kịp sát gần Thúc Bảo, gọi rằng :
                    - Tần Quỳnh hãy đợi ta!
                    Biết thế nguy, Thúc Bảo ghé tai Trương Nghĩa :
                    - Ngươi nên khôn khéo lừa mở ải Đồng quan, đợi ta cầm cự với thằng giặc già này, rồi sẽ tới.
                    Trương Nghĩa vừa đi thoát thì Dương Lâm tới :
                    - Sao Tần Quỳnh nỡ phụ lòng ta? Ngươi định trốn đi đâu? Nên trở lại với ta mà hưởng lộc cao tước lớn.
                    Thúc Bảo nói :
                    - Ta với người không tình nghĩa, mà chỉ nặng oán cừu. Nếu muốn thì hãy nếm ngọn thương này.
                    Dương Lâm nổi giận :
                    - Súc sinh vô lễ!
                    Bèn múa long tu bổng đánh như vũ bão Thúc Bảo đem hết sức bình sinh đón đỡ, vì đã biết Dương Lâm là con cọp xám, sức mạnh vô cùng.
                    Đánh chừng ba mươi hiệp, Thúc Bảo muốn giữ sức để đi cho thoát, bèn phi ngựa chạy. Nhưng chừng mười dặm vẫn thấy Trương Nghĩa còn đằng xa chưa tới ải. Thúc Bảo lại phải quay lại cầm cự, cốt chờ cho Trương Nghĩa tới Đồng quan.
                    Đánh chừng hai mươi hiệp nữa dưới ánh trăng lờ mờ, Thúc Bảo dừng thương nói :
                    - Dương Lâm ơi, người chưa biết ta là ai đó nhỉ?
                    Dương Lâm nói :
                    - Bất quá ngươi là tên Mã khoái, chứ là chức tước gì mà dám hỏi rác tai ta.
                    Thúc Bảo nói :
                    - Ta cần nói cho lão già kia biết. Ta đây là con của quan Võ vệ tướng quân tiền triều tên gọi Tần Di đó. Phụ thân ta bị chết bởi tay ngươi, thù ấy ta thề phải báo. Sở dĩ ta nghiến răng nhận ngươi làm nghĩa phụ ấy là dụng ý tìm cơ hội giết ngươi.
                    Dương Lâm không thể nghe nói hết, gầm lên một tiếng, giơ long tu bổng đâm liền, Thúc Bảo lại đối địch chừng mươi hiệp ngảnh lại thấy Trương Nghĩa đã mất hút phía chân trời liền thúc ngựa chạy. Dương Lâm không chịu bỏ, vẫn đuổi theo.
                    Phía sau, tiếng vó ngựa vỗ rầm đường: mười hai vị Thái bảo cũng đuổi theo giúp phụ vương. Khi đó trăng sương mờ mịt, gió lạnh đêm trường, ngựa Thúc Bảo chạy đến cầu Bá Long. Cầu đó vừa cao vừa rộng, nhìn xuống dòng sâu thẳm, bóng trăng soi lờ mờ mặt nước, thuyền bè tuyệt nhiên không có mà cầu lại cụt.
                    Thật là muôn phần nguy kịch. Thúc Bảo ngửa mặt lên trời mà than :
                    - Phụ thân ơi, kẻ thù xưa giết phụ thân nay lại định giết con. Nếu không may con chết nốt về tay nó thì dòng máu họ Tần thật hết!
                    Dứt lời than trăng bỗng sáng lên. Nhờ vậy Thúc Bảo trông thấy rõ Dương Lâm đang phi ngựa tới, chàng bèn rút nên bắn trúng đầu Dương Lâm làm rơi chiếc khăn hồng xuống nước, một mảng tóc cũng băng theo.
                    Dương Lâm giật nảy mình, sợ thần tiễn của Thúc Bảo, ở trên cao bắn xuống đã lợi hại lại thêm nỗi trời mờ mịt khó mà tránh khỏi tên, nếu Thúc Bảo còn bắn nữa. Bởi thế Dương Lâm quay ngựa trở về. Ngay lúc đó, mười hai vị Thái bảo rong ngựa tới. Chúng hỏi :
                    - Sao phụ vương không bắt sống phản thần?
                    Đáp rằng :
                    - Cường đạo ở trên cao lợi thế. Ta lên tất bị nguy.
                    La Phương, Tiết Lương nói :
                    - Phụ vương đứng sau tiếp ứng, để hai con lên bắt nó dễ như chơi.
                    Bất ngờ vừa thúc ngựa tới đầu cầu đã bị Thúc Bảo bắn liền hai mũi tên xuống, La Phương, Tiết Lương rơi xuống ngựa.
                    Dương Lâm sai vực hai con nuôi dậy, nói :
                    - Để cho nó đứng đấy đến mai. Nó mọc cánh cũng không qua được ải Đồng quan.
                    Thế rồi dưới trông lên, trên nhìn xuống, cầm giữ nhau cho tới canh năm, trăng đã tà tà lặn. Thúc Bảo sực nghĩ ra một kế, cởi chín nhạc vàng ở cổ ngựa treo vào lan can cầu. Gió khuya trên sông lạnh thổi vào lòng nhạc reo lên như ngựa chạy. Thúc Bảo khẽ vỗ má ngựa cho đi nhè nhẹ đến đầu cầu bên kia rồi quất mạnh một roi ngụa chồm vó bay vút sang bờ sông, phi như gió vào đêm tối, thẳng tới Đồng quan ải.
                    Nhắc đến Trương Nghĩa tới Đồng quan, nhảy xuống ngựa cầm dùi trống khua ba hồi liền. Tướng giữ ải là Ngụy Văn Thông vội ra nghênh tiếp. Trương Nghĩa giơ lệnh tiễn ra nói rằng :
                    - Cô Sơn vương nghe tin một bọn cường đạo phá Sơn Đông, nên đang đêm sai vị Thập Tam Thái bảo là Tần Quỳnh cùng tôi đi trước, hậu quân đang do Cô Sơn vương cầm đầu đang đến sau kia, mở cửa ải kẻo việc quân chậm trễ, Đại vương đến sẽ nghiêm phạt đó.
                    Ngụy Văn Thông soi lệnh tiễn vào đèn, quả thấy chữ vàng ấn son, liền phát thìa khóa cho mấy tên lính canh mở rộng hai cánh cửa.
                    Vừa may mắn Thúc Bảo phi ngựa tới, cùng Trương Nghĩa vọt qua.
                    Ngồi trên yên, Thúc Bảo quay lại bảo :
                    - Xin lỗi tướng quân, ta vội lắm không xuống được, Đại vương đi sau đấy.
                    Hai ngựa rời khỏi Đồng quan chạy biến vào đêm trường lặng lẽ.
                    Mây đen che kín vầng trăng lạnh. Tiếng cú kêu não ruột trên cánh đồng mù mịt và bóng rừng cây, núi cả chập chờn.
                    Đi được hai mươi dặm, thì trời sáng rõ, Thúc Bảo chia tay đi Sơn Đông, còn Trương Nghĩa đi Tào Châu.
                    Đây nói cha con Cô Sơn vương Dương Lâm đợi đến gần sáng rõ, mới thấy cầu đá vắng tanh chỉ còn chuỗi nhạc buộc lan can, Dương Lâm tức giận, bố con một đoàn đuổi tới Đồng quan ải thấy Nguy Văn Thông đứng bên đường, xuống ngựa mà nghênh đón.
                    Dương Lâm hỏi :
                    - Cường đạo Tần Quỳnh có qua đây không?
                    Nguy Văn Thông đáp :
                    - Bẩm Thập Tam Thất Bảo vừa có lệnh tiễn ra khỏi Đồng quan.
                    Dương Lâm vỗ đùi mà thét :
                    - Thôi thế là tất cả bọn mắc kế Tần cường tặc, ta tức chết mất thôi.
                    Nói rồi, sai Ngụy Văn Thông là tay anh hùng thứ mười bốn đời Tùy.
                    Hắn mặt đỏ tai to, râu dài chấm rốn nên người ta gọi là Thái quan gia.
                    Văn Thông vâng lệnh đem quân đi đuổi, chừng tới sáng rõ, thấy Thúc Bảo đang phi ngựa vượt đèo, Ngụy Văn Thông tế ngựa theo nói to lên :
                    - Cường đạo dám lừa ta, mau xuống ngựa đưa đầu cho ta đem về nộp Đại vương.
                    Thúc Bảo đã đánh nhiều, lại thức suốt đêm trên cầu sương gió lạnh, nên mệt mỏi, mắt hoa đầu váng, sức đã đuối dần. Thúc Bảo bất đắc dĩ phải quay ngựa đánh, chừng mươi hiệp lại phi ngựa chạy. Văn Thông đuổi sát sau lưng, thét vang một tiếng phóng luôn ngọn kích vèo tới gáy Tần Thúc Bảo.
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #11
                      Hồi 11 - Chiếm Ngõa Cương, Giảo Kim ngang dọc chơi ba búa

                      Hồi 11

                      Chiếm Ngõa Cương, Giảo Kim ngang dọc chơi ba búa
                      Đánh Ma Vương, Tư Đồ một ngựa đả chư hùng

                      Bất ngờ, ngựa Văn Thông bị vấp chồn vó lại nên mũi kích không trúng đích. Ngựa Thúc Bảo bỏ cách xa ngựa Văn Thông một quãng. Thúc Bảo mệt vô cùng nằm bẹp trên yên mà thở, tình cảnh thật đáng thương. Ngụy Văn Thông muốn bỏ quay về nhưng lại sợ Dương Lâm hạch tội đã đồng mưu với Thúc Bảo nên mở cửa quan cho trốn, nên cứ bám riết lấy Thúc Bảo mà mong bắt sống.
                      Ngờ đâu gặp một cái cầu gỗ đã gẫy hai ba nhịp. Thúc Bảo biết sức ngựa mình qua được, liền gò chặt cương vụt hai roi. Long câu hí vang lên, cất vó băng mình nhảy.
                      Chẳng may lực người đã kiệt, sức ngựa cũng hết rồi, nên long câu không thể vượt sang bờ được, ngã xuống sông, hai chân chôn chặt xuống mặt bùn lau sậy Ngụy Văn Thông phi đến cả mừng, giơ đao chém với. Số Thúc Bảo chưa tuyệt mệnh. Bỗng đâu từ một gốc cây bên kia sông, một tướng cưỡi ngựa giương cung bắn trúng cánh tay phải Văn Thông. Tướng ấy gọi bảo rằng :
                      - Ta bắn nốt cánh tay trái đây này.
                      Tức thì mũi tên bay vút tới cắm ngập vào tay trái, Văn Thông kêu to một tiếng “Ối chao!”, đang luống cuống chưa kịp nhổ tên ở hai bên tay thì người kia lại nói :
                      - Ta bắn trúng rốn mày đây!
                      Người ấy giương cung, Văn Thông không còn hồn vía quất ngựa chạy xuống cầu trốn mất.
                      Người ấy là ai? Đó là Bá Dương, mà tài cung tên chẳng kém Dương Do Cơ thuở trước! Thúc Bảo đứng trên yên nhảy sang bờ, rồi dắt ngựa lên :
                      - Tại sao hiền đệ ở đây?
                      Bá Dương nói :
                      - Từ đại ca xem độn biết đại huynh mắc nạn ở đây, sai tiểu đệ đứng chờ từ sáng sớm.
                      Thúc Bảo cả mừng, hai người cùng sóng ngựa về. Hai hôm sau, đi tới ải Kim Đê, chợt thấy cát bụi bay mù, tới nơi mới biết là Từ Mậu Công đã cùng các hảo hán tiến đánh ải Kim Đê. Khi đó, Trình Giảo Kim giao chiến với tướng trấn ải là Hoàng Công Nghĩa. Công Nghĩa khỏe lạ lùng. Giảo Kim bị đánh một roi vào cánh tay, kêu đau mà chạy.
                      Thúc Bảo múa thương xông lên đánh, Công Nghĩa đem hết tài năng ra đối địch. Chừng ba mươi hiệp, Công Nghĩa thấy thương pháp của Thúc Bảo giỏi lắm bèn dùng miếng “Đà đao” của Quan Vân Trường nhử Thúc Bảo đuổi theo. Thúc Bảo đã biết miếng độc thủ ấy, thúc ngựa nhảy vót lên giơ thương đánh chặn ngọn đao của Công Nghĩa xuống, tay kia rút giản chập đôi lại đánh vào đầu Công Nghĩa đứt băng đi, cái mình không sọ rơi xuống, miếng đó gọi là “Sát thủ giản!”, nhân miếng “Đà đao” của kẻ địch mà dùng vậy.
                      Quân sĩ mất chủ tướng hò nhau chạy. Cửa thành mở rộng ra xin hàng. Thúc Bảo, Bá Dương vẫy Giảo Kim xông vào chiếm ải. Thúc Bảo vào trong đại dinh thấy mẫu thân bèn quỳ lạy và an ủi. Sau đó Từ Mậu Công cho binh nghỉ ba ngày. Ngày thứ tư sai Dã Nhuận Phủ và Liễu Chu Thần cầm một ngàn quân giữ Kim Đê, còn đại binh dùng tiến đánh Ngõa Cương.
                      Cách Ngoa Công ba dặm, Mậu Công hỏi :
                      - Tướng nào đánh Ngõa Cương lấy công đầu?
                      Giảo Kim xin đi. Mậu công dặn nên cẩn thận. Kim vác búa xông ra giữa trận thét mắng.
                      Tướng trấn ải là Mã Tam Bảo hỏi chư tướng :
                      - Ai ra đuổi giặc cho ta?
                      Em ruột Mã Tam Bảo là Mã Tôn xin ra. Tới trận tiền thấy Giảo Kim vác búa to, mặt mũi như quỷ dạ xoa, có ý kinh hãi lắm. Hai người xưng tên họ rồi Giảo Kim giơ búa bổ liền. Mã Tôn giơ đao đỡ chăng ngờ cánh tay Mã Tôn kêu rắc một tiếng gẫy xương mà chiếc đao bắn đâu mất. Mã Tôn cuống quýt nhảy xuống chui vào bụng ngựa trốn. Giảo Kim giơ búa bổ chết cả người lẫn ngựa.
                      Kim ngửa cổ cười sằng sặc, lại đến cửa ải sỉ mắng. Mã Tam Bảo cả kinh hỏi :
                      - Ai ra trả thù cho em ta?
                      Mã Hữu Chu là em thứ ba khóc mà rằng :
                      - Em xin ra trả thù cho nhị huynh.
                      Bèn lên ngựa, phóng ra, chẳng nói chẳng rằng phóng giáo đâm Giảo Kim. Kim né mình một tay nắm chặt ngọn giáo một tay bổ một nhát, xẻ Hữu Chu làm hai mảnh như chẻ nứa.
                      Tin ấy báo về ải. Mã Tam Bảo đứng lên :
                      - Bản soái quyết cùng giặc sống chết một trận này. Thấy ta thua thì các người nên mau mở cửa sau cho dân chúng thoát.
                      Các tướng khóc mà nghe lời thu thập hành lý gia quyến sắp sẵn ở cửa sau, để trốn lên núi sang bên kia rừng rậm.
                      Tam Bảo ra quát hỏi :
                      - Tên nào là Trình Giảo Kim, mau nộp mạng đền cho hai em ta?
                      Giảo Kim cười sằng sặc :
                      - Tốt lắm, chúng mày những ba anh em. Để lão gia cho đì tìm ông vải cùng một lúc.
                      Dứt lời lưỡi búa sáng lòe lợi hại như tầm sét thiên lôi véo xuống đầu Tam Bảo. Bảo giơ chùy đỡ, chùy bật đi, cả người ngựa Tam Bảo chúi xuống. Bảo kêu to :
                      - Giặc này giỏi thật.
                      Rồi chạy ngoắt lên núi, cung các tướng và gia quyến bỏ ải quan mà trốn chạy.
                      Giảo Kim toan đuổi theo giết, nhưng Từ Mậu Công vội sai đánh trống thu quân. Các hảo hán vào thành xem xét kho lương, yết bảng chiêu dân, mở tiệc khánh hạ và ghi công Giảo Kim vào sổ. Rượu đang vui thì thốt nhiên trời rung đất chuyển, một tiếng nổ làm mọi người tưởng núi vỡ thành tan.
                      Quân vào báo :
                      - Ở góc phía đông giáo trường, đất rung lên rồi nứt ra một cái hang sâu lắm.
                      Từ Mậu Công và các tướng ra xem thấy một cái hang thăm thẳm, tối mịt mù gió rít vọng lên như ma hờn quỷ khóc. Mậu Công sai lấy sợi dây thật dài buộc con chó, con gà thả xuống, nói rằng :
                      - Hễ dưới hang có ma quỷ thì mất gà chó, ví còn nguyên là thần huyệt báo cho ta một điềm hay.
                      Giảo Kim nói :
                      - Tôi chắc là địa ngục Diêm Vương thù ghét chúng ta sắp sai quỷ lên lôi chúng ta xuống mà chôn sống đó.
                      Một lát, kéo dây lên, gà chó còn nguyên, chỉ có cóng vì giá rét. Mậu Công yên trí nói :
                      - Quyết là thần huyệt, có ai dám xuống do thám xem có vật gì khác lạ chăng?
                      Giảo Kim lè luỡỉ :
                      - Ai dại gì xuống đia ngục cho quỷ nó bỏ vào vạc dầu sôi. Đại ca xuống trước xem.
                      Mậu Công nói :
                      - Bây giờ bỏ thăm, viết ba mươi bảy cái dấu niêm phong kín, ba mươi sáu cái có chữ bất khứ, một cái có chữ khứ. Ai gặp phải chữ khứ thì bất luận là trên dưới, già trẻ, cứ việc ngồi vào thúng thả xuống, hễ cãi tất dùng quân luật chém đầu.
                      Mọi người khen phải, xin rút thăm. Ngờ đâu đến lượt Giảo Kim rút thăm sau cùng, phải ngay chữ khứ.Kim ngớ mặt ra, lại nhìn thanh kiếm để sẵn trên bàn, đành chịu phép thở dài sườn sượt, cầm búa ngồi vào thúng. Trước khi thả xuống, Giảo Kim nắm lấy Vưu Tuấn Đạt, nói rằng :
                      - Chỉ tại cái thằng giặc cướp này khéo dụ dỗ ta, thà cứ mặc lão gia bán muối kiếm ăn ngoài chợ lại hóa ra không đến nổi phó thân cho quỷ sứ. Ta còn một mẹ già, ta từ nay xuống suối vàng rồi, ngươi phải nuôi mẹ ta cho chu tất, kẻo ta hiện vế bóp ngươi lè lưỡi đó.
                      Mọi người đều phải phì cười. Kim trừng mắt quát :
                      - Các anh cười gì, ta thì bổ chết hết bây giờ.
                      Không ai nhịn được cười, xúm lại buông dây thả Giảo Kim xuống hố.
                      Trước còn nghe nhạc ở miệng thúng leng keng và tiếng Giảo Kim lảm nhảm, sợi dây càng xuống chỉ còn nghe tiếng gió lạnh xoáy từng cơn bốc mãi lên. Sợi dây dài đã hết vẫn chưa thấy thúng chạm vào lòng đất, chúng phải hò nhau nối dây thêm nữa, giờ lâu mới tới nơi.
                      Giảo Kim nhảy ra ngoài sọt chỉ thấy nước chảy ri rỉ, tiếng gió hun hút như ngàn lau, bãi sậy, sờ mò mãi hai lạch nước buốt cóng, đến một khoảng đất rộng có cây cổ thụ, có hoa, có bướm, có ánh sáng, có cả vết chân người, chân vật, Giảo Kim hoảng sợ cầm chắc đôi búa, theo vạch ánh sáng xanh biếc mà đi theo mấy hàng cây rậm, đến cái cầu đá chênh vênh dưới cầu có đôi rồng xanh uốn khúc trong dòng nước trong thơm ngát. Đầu cầu thấy tảng đá xanh. Trên cầu, ai đặt sẵn một chiếc mũ bình thiên rồng vàng chầu hạt ngọc, một chiếc áo long bào Thiên tử, một chiếc đai ngọc bích và đôi hia thêu ngũ phượng tên gọi là Vô Ưu Lý.
                      Giảo Kim thích chí nghĩ thầm: tự nhiên vỡ đất, tự nhiên gắp thăm đúng tên ta. Thế là trời cho ta hưởng cái lộc này! Mặc chơi để lát nữa lên cho chúng sợ lão Kim này.
                      Đoạn đội mũ, mặc áo, đi hia. Rồi đứng giữa cầu soi xuống dòng nước trong như gương sáng tưởng mình là Thiên tử, Giảo Kim cười vang cả động. Sau đó Kim ngất ngưỡng tìm về cái thúng, cầm chuông rung rối rít lên. Nhưng chợt thấy một con chim vàng bay theo, nhả một phong giấy đỏ vào trong thúng rồi hay mất. Kim không biết chữ, cầm phong giấy giắt kỹ vào trong bọc. Trên hố, nghe tiếng nhạc reo, các hảo hán xúm lại kéo lên. Một lát thúng lên, mọi người tròn mắt nhìn Giảo Kim :
                      mũ Thiên tử đằng trước ra đằng sau, mặc áo Thiên tử đằng sau ra đằng trước. Các hảo hán reo lên ầm ĩ, hỏi sự tình dưới hang sâu vực thẳm.
                      Giảo Kim chưa kịp đáp, thì mặt đất rung chuyển, cái hang liền ngay lại. Giảo Kim lè lưỡi ôm đầu nói.
                      - Ta mà không hiền lành nhân đức như Phật tổ Như Lai thì ắt là bị vùi sâu một nấm rồi! Thực là trời có mắt Chúng hảo hán vòng tay kiệu Giảo Kim vào đại sảnh. Ngồi chễm chệ ngồi trên ghế cao, moi phong giấy đỏ đưa cho Mậu Công xem. Mậu Công vừa đọc vừa suy nghĩ. Một dòng chữ trên bị nước làm nhòe. Còn ba câu dưới :
                      “...Một Đường đi qua một Đường sinh; Bốn cõi tám phương bao nhiêu đế.
                      Trị đời yên nước có hai Tần.”
                      Sau tờ giấy đó, có dòng chữ son lóng lánh :
                      “Ba năm làm đảo điên thiên hạ, Trình Giảo Kim tụ nghĩa binh làm Hỗn Thế Ma Vương”.
                      Mọi người hỏi chữ nghĩa. Từ Mậu Công khẽ đáp :
                      - Việc thiên cơ sẽ ứng dần dần, ta chớ nên tiết lộ.
                      Giảo Kim nhảy như khỉ múa trên ghế chéo :
                      - Trời đã định thế thì lão kim đây tất là con của Ngọc Hoàng. Mau tôn ta làm vua cho bõ lúc đóng khố bán rổ rá trong các chợ.
                      Mậu Công nói :
                      - Đại huynh nhất đán ngồi ngai chúa tể, e các tướng sĩ không phục thì quân lính tất chẳng nghiêm. Bây giờ, xin đem lá cờ soái ra cắm giữa sân, hễ ai khấn vái cho lá cờ đó bay lên thì ngươi ấy dáng vì Thiên tử đó.
                      Tức thì làm ngay. Ai cũng khấn, lá cờ đứng im. Giảo Kim vừa chắp tay vái, bỗng gió thơm lồng lộng thổi, mây vàng kéo đến, chim lạ hót líu lo, mà lá cờ đại súy bay cuồn cuộn như sóng bể tung múa, bay lên coi như phượng múa, rồng bay.
                      Mọi người cả kinh, quỳ cả xuống lạy trời đất báo ứng điềm hay đoạn sụp lạy Trình Giảo Kim, tung hô vạn tuế ngay dưới thanh thiên bạch nhật.
                      Từ đó, Mậu Công đổi đại sảnh là hoàng cung, và xin Giảo Kim đặt cho quốc hiệu. Kim nói :
                      - Trời đã định cho ta làm chúa tể ba năm quấy rối thiên hạ như Hoàng Sào ngày trước, thế thì xưng là Hỗn Thế Ma Vương cho xong quách.
                      Từ Mậu Công và mọi người lại tung hô vạn tuế. Hỗn Thế Ma Vương phong cho Từ Mậu Công và Ngụy Trưng làm tả hữu thừa tướng kiêm chức Hộ quốc quân sư, Tần Quỳnh làm Đại nguyên soái, còn những hảo hán đều phong tướng hết.
                      Mọi người vui vẻ. Hỗn Thế Ma Vương truyền ban ngự yến. Đàn nhạc du dương. Chợt thám tử về phi báo :
                      - Muôn tâu Đại vương, hiện có mười vạn quân của quan tiết độ sứ Đường Bích đóng ở mặt đông, khí thế xem ra mạnh lắm, xin Đại vương định liệu.
                      Lại có thám tử vào báo :
                      - Muôn tâu Đại vương, nay có quan Tổng binh ải Lâm Ứng là Thượng Tư Đồ đem mười vạn đại quân đóng kín mặt Nam trại Ngõa Cương.
                      Lại có tin cấp báo :
                      - Muôn tâu Đại vương có Tổng binh ải Hồng Nê tên là Tần Văn Lê đem năm vạn binh đóng kín cả mặt bắc, đang sửa soạn vây trại Ngõa Cương vào giữa.
                      Một lúc ba đạo binh kếo đến, khiến Hỗn thế Ma vương rụt đầu lè lưỡi tháo mũ bình thiên ném xuống án mà rằng :
                      - Thế này thì số ta làm vua có một giờ, thôi thôi ta lại về đi buôn muối vậy.
                      Các tướng chưa kịp khuyên can, lại có thám tử hốt hoảng vào quỳ báo :
                      - Cô Sơn vương Dương Lâm cử đại hùng binh, gươm giáo lừa ngựa nhiều như kiến, chỉ còn xa Ngõa Cương trăm dặm.
                      Đến tin này thì Giảo Kim cởi phăng áo rồng, thoát bỏ hia phượng ném tót xuống đất mà la lớn :
                      - Ối chao ôi, trời không cho thằng lái muối này hưởng phú quý thật rồi. Ngôi Hoàng đế đã không thành, nay nhất đán chống chọi với bốn mười vạn binh mã thì mấy chục mống ở cái ải bé con này chỉ một đêm là chúng bóp tan ra cám mất. Tốt hơn là mỗi thằng đi một ngả cho xong.
                      Nói rồi cuống quít toan cởi cả quần lụa hoa vàng ném trả. Mọi người xúm lại khuyên can. Mậu Công nói :
                      - Xin chúa công cứ bình tĩnh, làm thế quân sĩ sẽ chê cười, giặc đến thì ta đánh, có sợ chi. Nay chúng thần hãy phò chúa công ra cửa bắc, hạ thần sẽ dùng ba tấc lưỡi thuyết cho Thượng Tư Đồ lui binh. Nếu hắn lui rồi, Tần Văn Lễ không đánh cũng phải về. Con Đường Bích, Dương Lâm, hạ thần sẽ có kế sau Nghe nói vậy, Giảo Kim mới an lòng, sai lấy giáp trụ ra mặc, cầm búa lên ngựa. Các tướng đi hộ vệ chung quanh cờ thêu rồng phượng, lọng vàng tàn tía, mở cửa ải kéo quân ra.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #12
                        Hồi 12 - Ba tấc lưỡi, Từ Mậu Công lui tướng mạnh

                        Hồi 12

                        Ba tấc lưỡi, Từ Mậu Công lui tướng mạnh
                        Thất trận đồ, Cô Sơn Vương bại muôn quân

                        Thượng Tư Đồ trông thấy binh mã Trình Giảo Kim, bèn thúc mười vạn tướng sĩ của mình kéo đến như nước chảy.
                        Thượng Tư Đồ được xếp vào anh hùng thứ mười của đời ấy, năm trước đánh Nam Dương ải vô ý để Ngữ Vân Triệu trốn thoát. Trong lòng lúc nào cũng ăn năn lỗi ấy nay không kịp đợi thánh chỉ hay quan trên sai đã hăng hái đem quân đánh Ngõa Cương để lấy công.
                        Thượng Tư Đồ quả là viên tướng vô cùng lợi hại sức mạnh địch muôn người, lại nhờ mấy thứ bảo bối vô song trong thiên hạ.
                        Khi ra trận đầu đội mũ quý tên gọi Mã danh khôi, trỏm mũ có hạt minh châu, đánh trận trong đêm tối, ánh minh châu chiếu ra ba dặm như đèn đuốc. Mình mặc áo thất lĩnh giáp, đánh toàn bằng vàng ken bảy cái vẩy cá Nam Hải, vốn là Thần ngư của Quan Âm Bồ Tát. Lúc nào có giặc đến đánh úp hay có kẻ thích khách, tự nhiên bảy vảy cá đó dựng lên báo hiệu. Tay cầm đề la thương trong có lỗ hổng. Đi đánh trận mệt nhọc, trong cây thương tiết ra một thứ nước ngọt thơm như nước cam tuyền, uống vài giọt đã có thể tỉnh ra đánh luôn trăm trận, thức đủ trăm đêm. Lại cỡi con ngựa đuôi sư tử, lông như lông hùm báo, trên cái bướu đỉnh đầu có một chòm lông trắng như cước, hễ thua quân địch thì rứt một sợi lông ngựa sẽ gầm lên như sấm sét, khói đen phun ra mù mịt khiến ngựa chung quanh co rúm vó ngã lăn ra sùi bọt mép.
                        Khi đó, Hỗn Thế Ma Vương đứng dưới lọng vàng chỉ búa về phía một Thượng Tư Đồ :
                        - Tướng quân đem binh đến đây để làm gì mà đông thế, chúng ta nào có thù oán gì nhau mà sinh sự cho hao binh tổn tướng, Tướng quân nghĩ lại xem.
                        Tư Đồ thét :
                        - Chúng bay, một lũ đạo tặc, đốt phá Sơn Đông lại chiếm ải này dể nhòm ngó ải ta, không trừ trước thì là nuôi ong tay áo mà ngủ chắc?
                        Giảo Kim cười nhạt :
                        - Sao lại bảo chúng ta làm phản Sơn Đông. Ngày nay, vua thì vô đạo, đánh thuốc độc cho anh, hiếp chị dâu, lấy mẹ ghẻ, làm lắm điều nhơ nhuốc.Vua không hơn loài chó thì những kẻ hào hiệp ngang tàng đội trời đạp đất như chúng ta há lại như lũ chúng bay uốn gối thờ loài chó ấy?
                        Thượng Tư Đồ bị sỉ mắng, múa đề la thương đánh. Bên này, Thúc Bảo cũng giơ thương đối địch. Từ Mậu Công vẫy lá cờ xanh, tức thì hai mươi tướng xúm vào vây chặt Tư Đồ. Mậu Công sợ Đồ núng thế, giật lông bướu ngựa, bèn to tiếng nói :
                        - Chư tướng xuống ngựa mà đánh, lợi hơn.
                        Các tướng nghe lời giao ngựa cho quân, múa hai mươi thứ binh khí khiến Tư Đồ tả xung hữu đột, đỡ trên đỡ dưới, đánh dọc quay ngang.
                        Mậu Công thúc ngựa lên nói :
                        - Các tướng hãy dừng tay cho ta thưa chuyện Thượng lão huynh. Lão huynh có biết rằng tự nhiên cử toàn đại binh đến vây đánh trại Ngõa Cương bé nhỏ này, chưa chắc đã làm được ai mà chính là thất sách vô mưu đó. Không những thế lại tự trói mình vào tội lớn, tôi lấy làm lo ngại cho lão huynh, tai vạ sắp đến mà không tự biết.
                        Tư Đồ lùi ngựa nărn bước, chống thương xuống đất mà rằng :
                        - Ta vì triều đình dẹp loạn an dân, sao gọi là thất mưu, phạm tội?
                        Đáp rằng :
                        - Tôi xin hỏi: Lão huynh khó nhọc đến đây do thánh chỉ hay vì lệnh Cô Sơn vương?
                        Tư Đồ nói :
                        - Giặc quấy đất hại dân, kẻ làm thống soái như ta đây phải đánh sao phải chờ thánh chỉ hay tướng lệnh?
                        Mậu Công ngửa mặt cười :
                        - Tướng quân quên rồi ư? Năm xưa vâng tướng lệnh Bình Nam vương Hàn Cầm Hổ đánh Ngữ Vân Thiệu. Tướng quân giữ mặt Tây để Thiệu đi thoát, suýt thì đầu tướng quân rụng. Đó là nhờ lòng Hàn Cầm Hổ khoan dung chứ Cô Sơn vương đây thật trí mọn, tâm ác sẽ giết bất cứ ai. Nếu tướng quân thắng được Ngõa Cương là hay lắm, nhỡ ra đại bại thì tội này chập với tội xưa thì nguy lắm. Lại thêm cái lỗi khi không rời bỏ ải quan địa hạt của mình, cái đó cũng nguy hiểm lắm. Hiện nay giặc giã như ong, chúng biết tướng quân dốc hết binh mã đến đây, mặt sau lưng chỉ vài trăm quân chúng có thể chiếm phá ải Lâm Đồng, Khi đó tướng quân sẽ bơ vơ, đi mắc tội về sa lưới, biết xử trí cách nào.
                        Chúng tôi đây làm phản Sơn Đông, đó là thuộc địa hạt Đường Bích, Bích đem binh đi đánh Ngõa Cương là phải Còn như tướng quân không thuộc đất Sơn Đông, tự nhiên ngửa tay xin việc, việc chưa thành đã tự rước vạ vào mình. Thắng Ngõa Cương sẽ là công của Đường Bích mà bại ở Ngõa Cương lại mất cả Lâm Đồng, tội lớn sẽ đổ vào đầu tướng quân, chịu chết như thế chẳng là thất sách, hữu dũng vô mưu ư? Kẻ làm soái đâu có sự dại khờ như vây, cho nên tôi lo cho tướng quân lắm đó.
                        Tư Đồ như chợt thoát giấc mơ, nghiêng mình cầm ngang ngọn thương xá Mậu Công :
                        - Bản soái tính nhầm rồi, đa tạ lão huynh chỉ giáo.
                        Đoạn lui binh.
                        Đồ về trại nói với Tần Văn Lễ. Lễ giật nảy mình, vội truyền ba quân nhổ trại, về ải quan suốt đêm hôm ấy.
                        Lại nói Cô Sơn vương Dương Lâm đem binh vây chặt mặt Tây trại Ngõa Cương. Đồng Bích vội vào ra mắt, Dương Lâm hầm hầm đập án mắng rằng :
                        - Ngươi làm đến chức Tiết đô sứ Sơn Đông, quyền binh trong tay, binh nhiều tướng mạnh mà hai tên cường đạo không giữ nổi, còn mong gì ngươi giữ vững một thành trì? Tả hữu đâu, đem tên vô dụng này ra chém.
                        Đường Bích sụp lạy kêu :
                        - Trình lão Đại vương, tội tôi không đáng chết!
                        Dương Lâm quát :
                        - Sao lại không đáng chết?
                        Đáp rằng :
                        - Cường đạo những ba mươi bảy đứa đang đêm đốt nhà phá ngục, giặc lẫn với muôn dân, xương trộn với máu, tôi không phân được giặc với dân mà bắt vì chúng trá hình làm hành khất, tiều phu. Còn như Đại vương và mười hai thái bảo, chỉ một việc với tay nắm tóc Tần Quỳnh mà còn để cho hắn nhảy qua cầu đánh lừa ải Đồng Quan, nhìn theo đuôi ngựa hắn mà đành chịu, giữa lúc ban ngày Đại vương nghĩ kỹ cho tôi được mang ơn hồ hải.
                        Cô Sơn vương chịu thầm là phải, đỏ mặt nạt rằng :
                        - Ta tạm tha cho ngươi, hẹn phải đi bắt sống Tần Quỳnh để lập công đái tội. Bằng không bắt được, ngươi chớ trách ta vô tình.
                        Đường Bích lạy tạ lui ra, về dinh đem tướng sĩ đến cửa thành khiêu chiến. Giảo Kim cho Thúc Bảo ra. Thấy Đường Bích, Thúc Bảo cầm ngang ngọn thương xá mà rằng :
                        - Mạt tướng cúi chào cố chủ. Vì mặc giáp không xuống ngựa làm lễ được cố chủ, thứ tội cho.
                        Đường Bích nói :
                        - Ta chưa hề bạc đãi Tần Quỳnh. Nay ngươi làm nên chuyện kinh thiên động dịa. Dương Lâm sai ta bắt trói nói, nếu không bắt được thì ta mang tội. Nếu còn nghĩ tình nghĩa Tần Quỳnh nên tự trói cho ta khỏi mang tội với Dương Lâm.
                        Thúc Bảo đáp :
                        - Quỳnh tôi rất mong báo ơn cố chủ, vui lòng tự trói, nhưng chỉ hiềm chúng bạn và các hào kiệt trong thiên hạ chê cười là hèn nhát, ngu si. Là vì trong triều, vua thì vô đạo, quan thì hại nước buôn dân, ngươi hiền giỏi thì bỏ đi hết cả. Nay Quỳnh tôi chịu bó tay, chỉ là để luồn cúi cái triều đình thối nát mà thôi. Thưa cố chủ, kẻ biết mình biết người đâu có xử sự như vậy được. Hiện giờ là lúc người tài đức bỏ chỗ tối tìm ra chỗ sáng, nghịch với kẻ ác cho thuận với đạo trời. Sao cố chủ muôn binh vạn mã trong tay lại khom lưng thờ bạo chúa, gian thần.
                        Ngu này nghĩ cố chủ nên đổi niên hiệu lập quốc hiệu, tiến lên khả dĩ nắm ngôi Thiên tử, lui xuống khả dĩ làm Phiên vương; tài đức ấy há cam chịu cho những kẻ không hơn mình sai khiến và khiển trách. Cố chủ xét lại coi.
                        Nghe nói, Đường Bích như tỉnh giấc chiêm bao, khẽ nói :
                        - Đã từ lâu ta thầm mang hoài vọng ấy. Nhưng cứ e ngại Dương Lâm đánh.
                        Thúc Bảo nói :
                        - Nếu Dương lâm đánh, Ngõa Cương chúng tôi xin đem hết binh mã ứng cứu.
                        Đường Bích cả mừng :
                        - Nếu vậy thì ta rút quân về. Khi có hoan nạn, thề phải cứu giúp nhau.
                        Thúc Bảo nhận lời, rồi vái mà cũng quay ngựa về dinh ải.
                        Đường Bích hạ lệnh đổi cờ Đại Tùy, tự xưng Tế Nam vương, đoạn nhổ trại kéo quân về Sơn Đông.
                        Dương Lâm được tin Đường Bích âm mưu với Tần Quỳnh rút quân về Sơn Đông làm phản, Dương Lâm nổi giận đem mười hai vị thái bảo và toàn lực binh mã đuổi theo đánh Đường Bích.
                        Thúc Bảo đứng trên thành thấy binh mã Dương Lâm ồ ạt như sương mờ tuyết phủ, bèn nói với Hỗn Thế Ma vương cử binh theo đánh Dương Lâm.
                        Dương Lâm ngoảnh lại thấy quân trong ải kéo ra, bèn bỏ Đường Bích mà hạ trại chờ đánh quân ở phía sau.
                        Từ Mậu Công mỉm cười, truyền thu quân vào ải không để sót một người nào. Dương Lâm tưởng là nhát lại sai nhổ trại kéo quân đuổi Đường Bích. Khi đó Mậu Công lại khua chiêng trống vang trời, mở cửa ải cho quân hò reo theo đuổi Dương Lâm tức lắm, phải quay lại chờ nghênh chiến. Từ Mậu Công lại hồi trống lùi binh.
                        Dương Lâm bị mắc lỡm mãi, giận đến nỗi dựng râu tròn mắt nhất định dàn quân vây kín Ngõa Cương. Các tướng hỏi Từ quân sư, đó là thế trận gì. Mậu Công đáp :
                        - Như thế là Nhất tự trường xà, đánh đầu thì đuôi tiếp ứng đánh đuôi thì đầu quay lại, đánh khúc giữa thì cả đầu và đuôi cùng áp lại tấn công kẹp chặt vào mà tiêu diệt không một nhân mạng nào thoát chết trừ có phép độn thổ đằng vân.
                        Hỗn Thế Ma Vương hỏi :
                        - Ai địch nổi Dương Lâm?
                        Mậu Công đáp :
                        - Xét ra chỉ có biểu đệ của Tần hiền đệ là La Thành mới có sức đánh nồi Dương Lâm. Xin chúa công sai người đi vời hắn mới mong phá được trận này.
                        Thúc Bảo nói :
                        - Cô gia tôi trấn thủ Yên Sơn, pháp lệnh nghiêm minh, có lẽ đâu lại dung bọn mình làm phản. Như vậy khi nào còn cho La Thành đi giúp?
                        Mậu Công nói :
                        - Tôi đã có kế rồi.
                        Thúc Bảo nói :
                        - Kế của quân sư tất là linh diệu, song tiểu đệ tưởng rằng khi La Thành giáp chiến với Dương Lâm lão Dương kìa xem thương pháp sẽ biết là họ La, như vấy sẽ quan trọng, nguy hiểm cho cô gia tôi lắm.
                        Mậu Công cười đáp :
                        - Hiền đệ lo xa quá. La Thành không phải là người ngu dại, sẽ có cách đối đáp với Dương Lâm. Việc này tất phải nhờ Vương Bá Dương đi giúp.
                        Dương lĩnh ý, bỏ thư vào túi, cầm trường kích phi ngựa ra ngoài ải, xông thẳng vào mặt trận của quân Tùy.
                        Thấy động, Dương Lâm sai vị Thái bảo thứ bảy là Dương Đào Nguyên ra đánh. Đào Nguyên vâng lệnh, cầm giáo lên ngựa, thấy Bá Dương toan đánh. Dương cầm ngang kích nói :
                        - Ta đi với một người là Tần Bảo Ngân đến đây để lấy đầu Dương Lâm. Người đó là em ruột Tần Thúc Bảo, anh hùng vô địch ở đời này.
                        Bảo Ngân thường nói: sẽ bắt thằng cẩu trệ Dương Lâm, khoét mắt rồi nhồi bấc vào trong cái nhỡn đăng mà đọc binh thư. Nay Đại vương nhà ngươi đến, chúng ta quyết đi mời Bảo Ngân đến để lấy mắt Đại vương các ngươi làm đèn. Nếu Đại vương và các ngươi sợ thì để ta quay lại, mà quả là anh hùng thì mở rộng đường cho đi rước Bảo Ngân đến cùng Đại vương ngươi thi xem ai là anh hùng vô địch.
                        Đào Nguyên đỏ mặt tía tai nói :
                        - Đã thế thì ta cho ngươi đi bảo thằng ranh con ấy đến đây cho ta lôi ruột.
                        Bá Dương nói.
                        - Xin tướng quân nên lượng sức mình biết sức người. Tôi nói thật, Tần Bảo Ngân sức mạnh đạp thành san núi, Dương Lâm không địch nổi một hiệp đâu. Bây giờ để ta đi e rằng tướng quân lại hối hận ở suối vàng. Vậy nên vào hỏi Đại vương xem có can đảm để ta đi không đã.
                        Đào Nguyên càng sôi máu tím gan, quát ầm lên :
                        - Ngươi cứ đi lôi thằng Tần Bảo Ngân ấy lại đây, ta xem nó bao nhiêu đầu tay mà vô lễ thế.
                        Nói rồi quát quân giãn cả ra mở thành một con đường nhỏ cho Bá Dương phóng ngựa đi, đoạn về dinh chờ đợi xem Bảo Ngân mặt mũi thế nào mà dám móc mắt phụ vương mình.
                        Bá Dương ra khỏi trận trường xà, phong ngay tới Yên Sơn. Ba ngày ròng rã, tới nơì Bá Dương vào thành tìm quán nghỉ chân, chủ quán dọn rượu và thực phẩm ra. Dương hỏi :
                        - Công tử con La nguyên soái có trong phủ không?
                        Đáp rằng không. Lại hỏi :
                        - La công tử đi chơi đâu?
                        Chủ quán thấp giọng :
                        - Ngoài biên thùy giặc Đột Quyết đem quân cướp ải quan, La nguyên soái sai công tử đem quân đi đánh. Nghe đâu, La công tử đã đánh tan giặc, đang kéo quân về, chỉ mai là tới phủ.
                        Bá Dương có ý mừng đêm ấy ngủ ở khánh điếm. Sáng sớm Dương ăn cơm rồi ra ngoài thành cách xa năm dặm mà mong đợi.
                        Đến quá trưa ở chân trời bụi bốc, ngựa phi, một lúc tới gần, đích là La công tủ. Bá Dương đứng né bên đường, chờ La Thành đến, bươn ra nắm dây cung, La Thành nhận ra bạn cũ, vội nhảy xuống ngựa cùng nhau thi lễ.
                        La Thành kéo Bá Dương ra một bãi cỏ tranh, khẽ hỏi :
                        - Bọn ngươi làm phản Sơn Đông, sao lại đến đây?
                        Bá Dương thuật rõ việc Tần Thúc Bảo ra khỏi Đồng Quan, cướp ải Kim Đê, chiếm Ngõa Cương, và cửu mẫu (mẹ Thúc Bảo, mợ La Thanh) cũng ở Ngõa Cương, hiện đang bị Dương Lâm vây khốn.
                        Nói rồi đưa thư, xem rõ sự tình La Thành nói :
                        - Đại huynh hãy khá vào tửu quán trong thành đợi tiểu đệ đem quân về phục lệnh soái phụ, rồi nếu có thể đi dược sẽ cho người ra báo.
                        Bèn từ biệt Bá Dương lên ngựa đem quân mã vào thành. La nguyên soái mừng rỡ, khao thưởng ba quân. La Thành vào hậu dinh lạy mẹ. Rồi nói :
                        - Thưa mẹ, thực có chuyện nực cười. Tần biểu huynh con tôn Trình Giảo Kim làm vua ở Ngõa Cương, Cửu mẫu cũng ở đấy, hiện nay Ngõa Cương bị Dương Lâm vây đánh nên viết thư nhờ con đến giải vây cho.
                        Nói rồi đọc thư cho mẹ nghe. Tần mẫu ứa nước mắt nói rằng :
                        - Cửu mẫu con chỉ còn có một giọt máu đó thôi. Cậu con đã bị Dương Lâm giết, thù kìa chưa trả nay nếu biểu huynh con gặp nạn thì đáng lo cho dòng dõi họ Tần ta lắm. Con nên đi cứu biểu huynh con cho vui lòng mẹ.
                        La Thành nói :
                        - Nếu cha con biết thì bất tiện. Chốc nữa thân phụ con về thì thân mẫu phải lập kế mà nói rằng. Khi xưa thân mẫu thụ thai con có cầu nguyện ở núi Võ Dương, từ ấy đến ngày nay chưa lên núi dâng hương, đêm qua nằm mơ thấy sơn thần quở trách. Nói như vậy thì phụ thân con sẽ bảo thân mẫu thân đi lễ. Mẫu thân cáo mệt để con đi thay. Thế là cha con không nghi ngờ gì cả.
                        Tần mẫu gật đầu. Quả nhiên La công ưng lời sai La Thành đi dâng hương thay mẹ. La Thành ngầm sai La con ra bảo Vương Bá Dương tìm chổ vắng vẻ ngoài thành mà đợi.
                        Mờ sáng hôm sau, La Thành sắp sửa khôi giáp bảo La con bỏ lẫn vào trong quả vàng hương hoa gánh ra ngoài thành đoạn vào lạy biệt song thân đem La An, La Xuân theo hầu.
                        Ra đến chỗ Bá Dương đợi, La Thành bảo La An, La Xuân tạm lánh vào nhà bạn đợi, rồi mặc khôi giáp cùng Bá Dương gia roi ngựa phóng chưa đầy một ngày đã tơi Ngõa Cương. Tới nơi thấy binh mã đông như kiến cỏ vây bọc thành trì rất nguy cấp. La Thành bảo Bá Dương :
                        - Tiểu đệ đánh phá vòng vây. Còn đại ca nhân lúc rối loạn vào thành báo cho anh em biết.
                        Đoạn múa tít ngọn thương xông vào muôn quân trùng điệp, coi như chỗ không người. Mũi thương như tuyết rụng hoa rơi, quân Tùy ngã chết tơi bời như lá rụng. Cô Sơn vương cả sợ dẫn các tướng ra. Đào Nguyên thấy địch thủ có một minh thì coi thường múa đao chém. La Thành gạt đao quay đốc thương đánh trúng đầu, rồi vươn tay nắm lấy thắc lưng nhấc bổng lên cầm hai chân xé làm hai mảnh vất vào quân địch. Thấy vậy các tướng xô nhau chạy trốn. Quân sĩ nhốn nháo, đè lên nhau mà chết.
                        La Thành đánh đông phá tây, người ngựa tắm trong máu giặc. Một thương đâm suốt ngực La Phương rơi xuống mà giẫy chết. Một chọc trúng mắt Tiết Lương và lại tóm cổ xé làm hai mảnh tung lên như Đào Nguyên ban nãy. Mười hai thái bảo chốc lát mất tám người. Còn bốn vị thái bảo bỏ giấp vất mũ, xuống ngựa, theo loạn quân mà lẩn.
                        Cô Sơn vương vừa sợ vừa tức vác long tu bổng đánh thiếu niên dũng tướng. La Thành dùng hết lực bình sinh khiến cây thương lợi hại và đẹp mắt rồng lấy nước, hổ quần non, đánh chừng trăm hiệp, Dương Lâm có ý mệt, dừng tay nói :
                        - Quái lạ, thương pháp này ta ngờ thương pháp họ La! Có phải vậy chăng?
                        La Thành cười đáp :
                        - Tần Thúc Bảo em ruột ta học được thương pháp họ La. Ta là Tần Bảo Ngân anh ruột hắn có lẽ nào không biết phương pháp ấy?
                        Nói rồi lại trổ thần uy đánh khiến Dương lâm phải khen thầm, chợt ba tiếng pháo nổ vang, các hảo hán trong thành kéo ra vây chặt Dương Lâm mà đánh. Dương Lâm hoảng hốt bị trúng một mũi thương của La Thành vào cánh tay bèn thúc ngựa quay đầu chạy.
                        Quân Tùy chết hơn một nửa, máu chảy lênh láng bãi sa trường, trong đám loạn quân, La Thành gặp Tần Thúc Bảo và Đơn Hùng Tín, anh em gặp mặt xiết bao mừng rỡ.
                        Hùng Tín, La Thành xin lỗi nhau. La Thành xin từ biệt, nói rằng :
                        - Tiểu đệ không dám vào thành lạy Cửu mẫu e lộ chuyện, xin cho về, kẻo song thân mong đợi. Đại ca nói với Cửu mẫu rằng La điệt này có lời kính lạy.
                        Đoạn cúi chào Thúc Bảo, Đơn Hùng Tín; La Thành gia roi cho ngựa chạy mải miết về Yên Sơn, mờ sáng mới về tới phủ.
                        Thấy thắng trận, Trình Giảo Kim cười ha hả :
                        - Thật là nhờ phúc tinh ta đó! Nay Bá Dương vương huynh vì ta đi Kim Châu lấy chuông Cảnh Dương, Tần vương huynh đi Lỗi Châu lấy trống Long Phượng về đây để thiết triều cho long trọng.
                        Hai người vâng lệnh đi ngay.
                        Dương bị đại bại phẫn uất chưa biết tính sao thì có thánh chỉ vời về Đăng Châu trấn thủ vì có tin Lưu Vương ở hồ Ly Thạch ngoài vùng bể cấp quân cướp phá.
                        Dương Lâm đành tiến tướng giữ ải Lâm Đồng quan là Ngụy Văn Thông đem quân đi đánh Ngõa Cương, còn mình thì về Đăng Châu trấn thủ.
                        Tùy Dạng Đế được sớ của Dương Lâm vội sai Ngụy Văn Thông dồn quân đánh Ngõa Cương, và sai đại tướng Dương Lâm ra trấn thủ Đồng Quan.
                        Ngụy Văn Thông cử mười vạn hùng binh đi đánh Ngõa Cương, khí thế rất là hùng dũng. Mậu Công ngầm sai Quốc Viễn, Như Khuê, Kim Giáp, Đổng Hoàn, Lư Đồ, Thiên Khánh đem binh mã đi mai phục các nơi hiểm yếu.
                        Tần Thúc Bảo đi Lôi Châu lấy trống Long Phượng về, xa trông thấy binh mã rợp trời vây Ngõa Cương, bèn sai quân sĩ giấu trống vào bụi kín trong rừng rồi cầm giản phi vào trong muôn quân cả phá. Văn Thông cầm đao lên ngựa, thấy Thúc Bảo quát to lên :
                        - Cường đạo kia, ngày nọ mày chạy thoát ải Đăng Châu, hôm nay để đầu lại, ta cho chạy nữa.
                        Hai bên giáp chiến, trống trận vang trời. Vừa đánh Văn Thông vừa vẫy quân sĩ và các tướng vây chặt Thúc Bảo, quyết bắt cho kỳ được.
                        Thúc Bảo càng đánh, chúng càng đến đông thành ra phải đánh với năm bảy tướng và muôn vạn quân một lúc. Mệt quá mà không phá được vòng vây, Bảo vẫn cố sục tung hoành, giản tới đâu đâu vỡ xương tan đến đấy.
                        Đang khi nguy cấp thì Vương Bá Dương đi lấy chuông về thấy quân sĩ tung hoành loạn chiến bèn phi ngựa lên gò cao nhìn rõ Thúc Bảo đánh một mình một ngựa tả xung hữu đột giữa vòng vây. Bá Dương phóng ngựa tới vừa lúc Thúc Bảo mở đường máu chạy về đông. Văn Thông theo ráo riết. Bá Dương vội giương cung bắn một phát tên vào cổ họng Văn Thông bắn xuống ngựa chết liền. Thúc Bảo quay lại cắt luôn thủ cấp. Mất tướng vạn binh tan vỡ. Bọn Quốc Viễn và phục binh các nơi ra chém giết, quân Tùy xin hàng hết.
                        Thúc Bảo đem đầu Văn Thông vào thành phục mạng. Giảo Kim mừng rỡ, sai giết trâu khao thưởng.
                        Dạng Đế nghe tin Cô Sơn vương bại trận, Văn Thông bị giết, mười vạn quân mất sạch, thì buồn rầu nói :
                        - Nếu thế giặc mạnh thế này thì một mai triều đình vỡ mất, làm sao được!
                        Dương Tố đi trấn thủ Liêu Dương. Toàn quyền về tay Hóa Cập, Cập tâu rằng :
                        - Có quan bộ Bình vương tên gọi Khâu Thụy. Người ấy có thể san phẳng Ngõa Cương, vậy xin bệ hạ cấp cho mười vạn quân cho cầm cờ soái sẽ không lo giặc nữa.
                        Dạng Đế làm theo, cho triệu Khâu Thụy đến, lại hỏi :
                        - Ai dám nhận chức tiên phong?
                        Con thứ hai Võ Văn Hóa Cập là Thành Long xin tình nguyện. Dạng Đế phong ngay cho làm chánh tiên phong.
                        Lui chầu về, Hóa Cập mắng Thành Long:.
                        - Mày tài hèn trí mọn, có võ nghệ cơ mưu gì mà dám lĩnh ấn tiên phong, khéo mà toi mạng.
                        Đoạn sai gia tướng bưng một mâm vàng đến xin Khâu Thụy che chở cho con trai. Khâu Thụy nghiêm nét mặt mà rằng :
                        - Thừa tướng có lời bảo Khâu Thuỳ tôi gìn giữ công tử nơi mặt trận, cái đó xin lĩnh ý. Còn như đem vàng làm lóe mắt tôi thì cái đó xin từ chối. Thừa tướng xá cho.
                        Hóa Cập hai ba lần cảm tạ mà lên xe ra về, trong lòng vẫn áy náy không yên, đem việc ấy nói với phu nhân. Phu nhân rơi lệ lã chã, đêm ngày lo sợ lắm.
                        Hai hôm sau đã tuyển lựa xong. Mười vạn tinh binh, cờ súy phất phới, kéo như mưa rào thác đổ đến Ngõa Cương phá giặc.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #13
                          Hồi 13 - Đánh Ngõa Cương, Khâu Thụy mắc mưu sâu

                          Hồi 13

                          Đánh Ngõa Cương, Khâu Thụy mắc mưu sâu
                          Lấy Kim Đê, Nguyên Khánh khoe thần dũng

                          Đại Bình Khâu nguyên soái đã hạ trại cách Ngõa Cương năm dặm. Hỗn Thế Ma Vương vấn kế Từ Mậu Công. Mậu Công mỉm cười phe phẩy quạt, ung dung nói :
                          - Chúa công cứ yên tâm, hạ thần xin dâng mẹo nhỏ khả dĩ thu cả Khâu Thụy và mười vạn quân về dưới trướng!
                          Vừa dứt lời có tin đại tướng tiên phong là Thành Long đến khiêu chiến. Mậu Công sai Đơn Hùng Tín ra trận, dặn đánh lấy thua chứ không cần được.
                          Tín vâng lời ra ải dàn quân, cùng Thành Long giao chiến. Hùng Tín vừa đánh vừa cười, giá chỉ gạt mạnh một cái cũng đủ khiến Thành Long lăn xuống ngựa. Chừng năm hiệp Hùng Tín rong cương cho ngụa chạy về trong ải.
                          Thành Long tưởng Tín thua thiệt, cả cười mà dẫn quân đắc thắng về bản trại. Khâu Thụy mừng rỡ, viết thư dâng về kinh sư báo tin thắng trận.
                          Hôm sau Thành Long lại đem quân khiêu chiến. Quân sĩ sỉ mắng om sòm. Trong thành im lặng như cánh đồng ma, không thấy bóng cờ, không nghe thấy một tiếng quân reo, ngựa hí.
                          Cứ như thế đúng nửa tháng, ngày thứ mười sáu, Từ Mậu Công sai Tần Thúc Bảo ra trận, và dặn phải bắt sống mang về. Thúc Bảo ra quân vừa đánh ba hiệp đã tay giơ giản gạt bắn cây giáo của Thành Long, một tay nắm đai áo Tùy tướng kéo về mình cắp ngang dưới nách mà thúc ngựa vào thành.
                          Bại quân về báo tin, Khâu Thụy toát mồ hôi, truyền đóng cửa dinh trại không ra đánh nửa. Bên này Từ Mậu Công sai chém Thành đong, bỏ thủ cấp vào cái rọ tre. Rồi đó, Mậu Công sai người theo bức chiến thư của Khâu Thụy mà bắt chước lối chữ, viết một phong thư dưới đóng triện ấn giả của Khâu Thụy vào giỏ đầu lâu. Đoạn sai năm mươi tên quân mang thư và giỏ dầu lâu, do Vương Bá Dương dẫn dẩt đến Tràng An ngay hôm đó.
                          Bá Dương cùng chúng đi ngày đêm, tới Tràng An vào một buổi chiều. Bá Dương dặn chúng đợi rải rác ở cửa Binh bộ Thượng thư, còn mình và một tên quân vào phủ Võ Văn thừa tướng.
                          Tới chòi canh, Bá Dương hỏi :
                          - Quan thừa tướng có trong dinh không đó?
                          Lính canh vội đáp :
                          - Thừa tướng đi chầu chưa về, các ngươi ở phương nào đến đây?
                          Đáp rằng :
                          - Chúng ta đến do việc quân cơ hệ trọng. Khâu nguyên soái Ngõa Cương sai đến dâng thư và trình cái rọ đựng báu vật này. Nay thừa tướng chưa về, ta hãy tạm gửi đây, lát nũa sẽ quay lại vào hầu thừa tướng.
                          Nói rồi đưa thư gửi rọ lại đấy, cùng nhau đi thẳng đến sau dinh quan Binh Bộ. Bá Dương dắt năm mươi tên quân vào một bãi vắng lôi bọc quần áo ngự lâm ra thay, rồi đẩy cái tù xa đi tuồn tuột vào trong dinh Khâu Thụy. Bá Dương quát lớn :
                          - Có thánh chỉ, rnau ra đây cho ta tuyên đọc.
                          Phu nhân và Khâu Phúc vội ra quỳ xuống nghe đọc chiếu, đại khái nói rằng: “Khâu Thụy ỷ thế làm Nguyên soái bắt giết oan Thành Long là tướng tiên phong. Nay bắt cả gia quyến giam vào ngục”.
                          Đọc xong xúm lại trói phu nhân và Khâu công tử vào tù xa. Ra tới cửa phủ dán tờ niêm phong giả vào cổng, đoạn đẩy tù xa đi mải miết chừng hai mươi dặm thì trời tối. Chúng lại thay quần ấo, đẩy suốt đêm tới Ngõa Cương.
                          Võ Văn Hóa Cập ở triều vế thấy gia nhân trình thư và cái giỏ tre.
                          Mở ra xem thấy rõ ràng ấn và chữ của Khâu nguyên soái :
                          “Ta có mấy lời cho Võ Văn Hóa Cập biết rằng con của ngươi là Thành Long ỷ thế cha mà dám hung bạo với quân sĩ, lại vô lễ đối với ta, không coi tướng lệnh ra gì cả. Vì muốn cho nghiêm quân luật ta đã sai chém Thành Long, và gửi thủ cấp về cho ngươi biết rằng Khâu Thụy đây là bậc anh hùng không sợ gì ngươi mà giấu diếm “.
                          Hóa Cập tái mặt, run tay mở rọ, thấy rõ ràng đầu còn đẫm máu.
                          Hóa Cập thét một tiếng ngất đi. Tỉnh dậy nghiến răng nói :
                          - Thằng Khâu Thụy gian ác kia. Ta với mày không thù oán, sao nỡ giết con ta! Ta thề phải báo cái thù này.
                          Nói xong, cầm thư và thủ cấp con, lên xe vào hoàng môn đánh trống, xin vào chầu có việc quân quan trọng. Dạng Đế đang uống rượu với cung phỉ, hất hoảng đội mũ mặc áo ra trỉếu. Hóa Cập khóc mà dâng thư Khâu Thụy và cái giỏ thủ cấp lên ngự lãm.
                          Dạng Đế nổi giận đùng đùng sai Cẩm y vệ đì bắt gia quyến Khâu Thụy tống giam, chờ Khâu Thụy đem quân về sẽ kết tội mà giam nốt.
                          Quân Cẩm y vệ đi một chốc về tâu rằng công phủ Binh bộ đã niêm phong, còn gia quyến đã bị quân hiệu úy ngự lâm quân đến đọc chiếu chỉ, bắt đi rồi.
                          Dạng Đế cả kinh :
                          - Nào trẫm có sai ngự lâm quân làm việc ấy bao giờ?
                          Hóa Cập dẫm chân mà rằng :
                          - Thế thì rõ ràng Khâu Thụy làm phản, cho người về giả thánh chỉ đón vợ con theo giặc Ngõa Cương rồi.
                          Trong khi ấy gia quyến Khâu Thuỵ đã được Từ Mậu Công nghênh đón và sai dọn phòng lịch sự mời ở, cung đốn rất là chu đáo. Rồi sai Tần Thúc Bảo ra ngoài thành khiêu chiến. Khâu Thụy đem quân ra đánh.
                          Thúc Bảo thi lễ nói rằng :
                          - Tiểu tướng mình mặc giáp không thể xuống chào, Nguyên soái tha cho.
                          Khâu Thụy nói :
                          - Ta nghe nói Tần tướng quân là dòng dõi trung thần hiền tướng sao lại đi theo giặc phản triều đình. Chi bằng về với ta sẽ được triều đình ân xá mà làm nên công hầu khanh tướng, có hơn không?
                          Thúc Bảo mỉm cười :
                          - Chim khôn tìm nơi cao mà đậu, ta làm bề tôi sao lại không biết tìm chúa hiền đức mà thờ. Tùy Dạng Đế vô đạo trong thiên hạ oán ngất trời xanh, Nguyên soái há lại không nhận rõ. Âu là về Ngõa Cương cùng chúng hào kiệt anh hùng, hiền sĩ mưu đại nghĩa, một ngày kia giết bỏ hôn quân, lập triều đình, cho thuận với ý trời, lòng dân, Nguyên soái nghĩ sao?
                          Khâu Thụy cau mày mắng :
                          - Thất phu sao dám vô lễ động chạm đến tấm lòng trung dũng của ta!
                          Bèn múa roi xông vào đánh. Thúc Bảo giở giản cự địch. Bốn mươi hiệp không ai được thua. Khâu Thụy thầm khen giản pháp của họ Tần lợi hại, liền dùng độc thủ, chập đôi roi mà đánh ngang đầu. Nhưng ngờ đâu Thúc Bảo vẫn ngồi vững trên yên né đầu tránh được ngọn roi, giơ tay nắm đai giáp Khâu Thụy mà kéo mạnh.
                          Khâu Thụy cả kinh, nhanh ý nhảy ngay xuống đất kéo Thúc Bảo xuống theo rồi nắm chỏm mũ Thúc Bảo mà giật lại. Hai người giằng co nhau mãi đến nỗi đai giáp của Khâu Thụy đứt tung mà chỏm mũ sắt của Thúc Bảo cũng rụng xuống. Hai bên cùng lên ngựa cười mà thu quân về.
                          Vừa thay xong áo, có tin báo gia nhân ở Tràng An là Khâu Thiên Bảo vào hầu. Khâu Thụy cho vào, Thiên Bảo trông thấy òa lên khóc, khiến Khâu Thụy cả kinh. Thiên Bảo lau nước mắt mà thuật chuyện cả nhà bị Ngự lâm quân bắt, lại thuật chuyện lá thư và chiếc đầu lâu.
                          Khâu.Thụy đang hoảng sơ lại có tin báo công tử Khâu Phúc xin vào Phúc vào tới nơi nước mắt rưng rưng. Khâu Thụy hỏi :
                          - Con bị Ngự lâm quân hạ ngục sao lại ở đây?
                          Phúc đáp :
                          - Từ Mậu Công đã dùng mẹo ấy đón thân mẫu và con tới Ngõa Cương, nay Từ Mậu Công lại sai con sang đón phụ thân về sum họp.
                          Khâu Thụy tròn xoe mặt, râu tóc dựng lên, thét to một tiếng, ngất đi. Tỉnh dậy, dẫm chân mà nói :
                          - Thế này thì chúng buộc ta vào tội bất trung đây. Ta thà mất vợ con chứ không để mất lòng trung dũng.
                          Nói dứt lời, có thiên sứ từ Tràng An đến. Khâu Thụy vội ra cổng đón. Thiên sứ đọc thánh chỉ rằng :
                          “Khâu Thụy cậy thế làm Nguyên soái, tự tiện chém tiên phong. Làm tướng không có lương với quân, tất không có trung với chúa.Trẫm hạ lệnh cho Khâu Thụy tự xét tội mình mà tự sát. Khâm thử.” Thiên sứ vừa dứt lời, đầu đã rụng bay xuống dưới thềm bởi lưỡi kiếm của Khâu công tử, chém sứ xong, Khâu Phúc quỳ trước soái phụ xin chịu tội, nói rằng :
                          - Chúa không minh, thần toàn gian tặc. Cha con ta nằm sương ngủ tuyết ôm dạ trung trinh cũng là vô ích, hào kiệt thiên hạ chỉ chê cười là ngu xuẩn. Chi bằng về Ngõa Cương tụ nghĩa là hơn.
                          Khâu Thụy ngửa mặt lên trời mà thở dài :
                          - Hoàng thiên thấu cho lòng Khâu Thuỵ này thực không có minh chúa mà thờ, chứ không phải là bỏ trung theo nghịch.
                          Rồi cho Kháu Phúc về báo tin với Ngõa Cương, Sau đó đem đủ mười lăm vạn binh về hàng phục.
                          Hỗn Thế Ma Vương cùng Từ Mậu Công và các hảo hán ra tận ngoái thành nghênh đón. Tiệc vui mở ba ngày, mừng gia quyến Khâu nguyên soái.
                          Tùy Dạng Đế nghe tin Khâu Thụy chém sứ theo giặc, cả giận triệu tập võ ban, hỏi ai dám đi bình cường đạo Ngõa Cương.
                          Võ Văn Hóa Cập nói :
                          - Hạ thần xin tiến cử quan Tổng binh ải Sơn Mã là Bùi Nhân Cơ. Người ấy có ba con là Nguyên Thiệu, Nguyên Phúc, Nguyên Khánh. Nguyên Khánh mới mười tuổi nhưng sức mạnh tựa thiên thần, địch nổi muôn người, mang nổi chùy đồng nặng nghìn cân to như cái đấu. Thánh thượng cho cha con nhà ấy cầm quân thì Ngõa Cương phải tan ra tro thôi.
                          Dạng Đế mừng lắm, triệu Bùi Nhân Cơ đến phong cho làm Nguyên soái. Ba hôm sau cha con Bùi Nhân Cơ phi ngựa tới nơi, vào cửa ngọ môn hỏi :
                          - Hoàng thượng ở đâu?
                          Hoàng môn quan nói :
                          - Thánh thượng đang đánh cờ với Quốc trượng trên lầu.
                          Bùi Nhân Cơ cùng ba con lên lầu, thấy Dạng Đế đang ngồi đánh cờ với Trương Đại Tân.
                          Ba cha con phủ phục tung hô vạn tuế. Dạng Đế mải nghĩ cờ không nghe thấy. Cha con Nhân Cơ lại tung hô đủ ba lần, nhà vua vẫn chẳng ngẩng lên. Bùi Nguyên Khánh nổi giận bước lên nắm lưng Quốc trượng giơ cao lên. Trương Đại Tân hoảng hốt giẫy giụa cái thân to béo trên bàn tay cậu bé mười tuổi.
                          Dạng Đế hết hồn hỏi :
                          - Ngươi là ai?
                          Nhân Cơ vội phủ phục nói :
                          - Đó là con thứ ba hạ thần tên gọi Bùi Nguyên Khánh, Cha con hạ thần được thánh chỉ vời về triều nhận lệnh đi đánh giặc, tới đây chầu từ ban nãy mà Thánh thượng mải mà đánh thức Quốc trượng ra khỏi cơn mê, xin Thánh thượng tha cho tội chết.
                          Trương Đại Tân to béo bị năm đầu ngón tay của Bùi Nguyên Khánh bấm vào lưng sắc như móng hổ, đau dớn kêu như bò rống :
                          - Xin tướng quân buông tha tôi ra kẻo chết mất Dạng Đế cũng phì cười :
                          - Trẫm biết lỗi rồi, ngươi buông Quốc trượng ra.
                          Khi đó, Bùi Nguyên Khánh mới nguôi giận bỏ Trương Đại Tân xuống.
                          Dạng Đế cả mừng nói :
                          - Cha con hiền khanh anh hùng dũng mãnh thế này thì lo gì giặc không tan vỡ. Trẫm phong cho hiền khanh làm Nguyên soái, con hiền khanh làm tiên phong đánh Ngõa Cương, hẹn ba mươi ngày cho trẫm được ban ngự tửu mừng thắng trận.
                          Rồi lại phán :
                          - Trẫm muốn cử một người làm giám sát hành quân để xem xét quân tướng ở trận tiền. Ai đi cho trẫm bây giờ?
                          Trương Đại Tân nói :
                          - Hạ thần xin chức ấy.
                          Dạng Đế vui mừng, thân rót một chén rượu đưa mời.
                          Đoạn bốn người lui xuống lầu, ra giáo trường điểm tướng lựa quân.
                          Trương Đại Tân sờ chỗ xương sống bị đau như gẫy lại ngẫm nghĩ đến đứa trẻ con dám khinh khi cái chức Quốc trượng của mình mà thánh thưựong không nghiêm phạt bèn sinh lòng thù oán cha con Bùi Nguyên Khánh lắm.
                          Điểm xong mười vạn hùng binh, Trương Đại Tân thúc giục Bùi Nhân Cơ cất quân ngay, thẳng tới ải Kim Đê, hạ ải này rồi tới đánh Ngõa Cương sau.
                          Trương Đại Tân gọi Bùi Nguyên Khánh vào trướng, nghiêm mặt nói :
                          - Ta hẹn cho một ngày phải lấy ải Kim Đê, nếu thua làm mất nhuệ khí ba quân, thì ngươi chớ trách ta vô tình.
                          Nguyên Khánh lui ra, cười thầm :
                          - “Thằng gian thần béo ị này thù ta đây, mày biết điều chớ bằng không cha con ta lấy ruột mày rồi theo Ngõa Cương là xong hết.”
                          Rồi gọi dắt con ngựa lão hổ ra, nhảy lên, tay cầm đôi chùy đồng to gần bằng người, đem quân tới cửa Kim Đê thách ra đánh nhau.
                          Dã Nhuận Phủ, Liều Chu Thần nghe báo cưỡi ngựa ra.
                          Hai tướng thấy Bùi Nguyên Khánh bé loắt choắt, vác chùy to tướng, cưỡi con ngựa thấp lè tè thì bật cười vang :
                          - Thằng bé con nhà ai kia sao lại dại dột ra đây đùa với lão. Mày cầm cái cục gỗ hay đất làm trò trẻ đó.
                          Nguyên Khánh quát vang như sấm :
                          - Rửa tai mà nghe ông cụ ngoại mày xưng tên đây. Ta là con thứ ba quan tổng binh ải Sơn Mã là Bùi Nhân Cơ, tên gọi Bùi Nguyên Khánh.
                          Còn như chùy này bằng gỗ hay bằng đất thì muốn nếm ta cho nếm đây này!
                          Nói rồi múa chùy đánh vèo vèo. Hai tướng kẻ gẫy đao, kẻ bật thương, tay toạc máu, vai dập xương, kêu ối chao rồi nằm bẹp trên yên mà chạy.
                          Hai tướng chạy đến điếu kiều ngoảnh lại thấy chùy đồng của Nguyên Khánh sắp tới lưng sợ quá rẽ ngụa chạy sang lối khác thẳng đến Ngõa Cuơng. Bùi Nguyên Khánh nhảy qua cầu, hai tay giơ cao hai chùy đập bung cánh cửa đá ải Kim Đê, thúc ngựa phi như gió vào đánh giết. Quân sĩ quỳ cả xuống xin hàng. Thế là một trận, tiểu anh hùng đã lấy xong một ải.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #14
                            Hồi 14 - Hàng Ngõa Cương, Bùi Nguyên Khánh bỏ Tùy

                            Hồi 14

                            Hàng Ngõa Cương, Bùi Nguyên Khánh bỏ Tùy
                            Gặp Thúy Vân, Trình Giảo Kim kết nghĩa

                            Đây hãy nói chuyện Ngõa Cương. Một buổi tối, đang cùng nhau thương nghị về quân sự ở giữa sân, thốt nhiên Từ Mậu Công ngẩng nhìn lên các vì tinh tú, kêu to :
                            - Nguy đến nơi rồi, Ngõa Cương sắp tan thành tro bụi!
                            Giảo Kim và các tướng giật mình kinh hãi hỏi tại sao. Mậu Công trỏ mọi người nhìn lên trời rồi nói :
                            - Tôi xem thấy vì sao Tuân Thiên Thiên Bảo Bát Ty Na Tra xuống trần là bậc anh hùng thứ ba đời này. Người sắp đánh Ngõa Cương, trong bọn ta không ai đương nổi.
                            Dứt lời Giảo Kim và các tướng lên trên mặt thành, thấy phía đông khói đen ngun ngút, lờ mờ không ra sương, ra mây, chiếu thẳng xuống Ngõa Cương.
                            Mậu Công thở dài :
                            - Đó là cái điềm sát hại Ngõa Cương ta đó.
                            Mọi người đều có ý lo. Bỗng lại thấy trong đám khí đen có một đám bạch khí tỏa ra làm cho đám khí đen tan mất, hóa ra một đám khí đỏ.
                            Mậu Công tươi cười nói :
                            - May cho chúa công rồi: Vừa ứng hiện một tặc tinh cùng vị tuần thiên thái bảo đôi bên chẳng chịu nhau. Vị Thái bảo ấy sẽ đến tụ nghĩa với chúng ta, nhân thể chúa công sẽ có cả chánh cung hoàng hậu.
                            Sau đó thấy hai tướng Dã Nhuận Phủ, Liễu Chư Thần giáp trụ tả tơi vào trình đã mất ải Kim Đê vì một tên tướng bé con có đôi chùy to lắm. Giảo Kim cả giận :
                            - Để thằng nhãi ấy đến dây, cô gia thân ra trận cho nó một búa chết tươi.
                            Khâu Thụy tâu rằng :
                            - Chúa công không biết Bùi Nguyên Khánh là con thứ ba Bùi Nhân Cơ, mới có mười tuổi, sử đồng chùy nặng nghìn cân, sức mạnh lay thành đạp núi. Người ấy mà đến thì ta phải đề phòng lắm đó.
                            Giảo Kim chỉ mỉm cười, không tin là thằng bé con lại giỏi đến thế.
                            Sáng hôm sau, quân Bùi Nhân Cơ đã hạ trại cách Ngõa Cương năm dặm. Trương Đại Tân lại hẹn Bùi Nguyên Khánh phải hạ Ngõa Cương trong một ngày đêm. Sai hẹn thì xử tử.
                            Nguyên Khánh lẳng lặng lên yên ra trận, sai quân gọi hảo hán Ngõa Cương ra giao chiến. Giảo Kim hỏi :
                            - Ai ra trước bắt thằng bé ấy về đây đánh cho nó mấy roi?
                            Sử Đại Nại xin đi. Nại ra trận nhìn ngắm một tướng tiểu nhi bé choắt ôm đôi chùy to tướng, phì cười hỏi :
                            - Chú bé là con cái nhà ai, không ở nhà bú tí mẹ, ra đây nghịch ngợm lỡ ngựa ta giẫm phải thì chết uổng.
                            Nguyên Khánh cười khanh khách :
                            - Vậy ta cho xem sức khỏe của ông cụ ngoại mi đây này!
                            Dứt lời cả đôi chùy văng ra. Sử Đại Nại giơ đao đỡ, xoảng một tiếng, đao gãy hai ba mảnh, cả thịt xương Nại điếng tê đi, ngồi ngay trên mình ngựa không cựa được Nguyên Khánh không thèm bắt sống chỉ quát một tiếng như đất lở trời long, khiến Đại Nại ngã lăn xuống đất.
                            Khánh cười sằng sặc :
                            - Hèn nhát thế mà dám làm tướng ra trận. Thôi cho về mà bảo nhau mở cửa ra hàng ông cụ ngoại mi đi, đồ chuột nhắt!
                            Đại Nại lóp ngóp bò dậy, bám vào yên ngựa lập cập trèo lên, chạy vào thành, mặt không còn hột máu. Nại run sợ kể lại đôi chùy của Nguyên Khánh cho mọi người nghe.
                            Đơn Hùng Tín nổi giận nói :
                            - Tiểu đệ xin ra xem thằng nhỏ ấy thế nào.
                            Giảo Kim cho đi. Tín phóng ngựa tới trước mặt Nguyên Khánh mà không biết, vì Khánh bé nhỏ quá lẫn vào quân sĩ.
                            Hùng Tín cúi nhìn đứa bé mặt nửa xanh nửa đỏ, mắt sáng như sao, cưỡi con vật không ra ngựa, không ra sư tử, bốn chân thấp ba bốn gang tay, tay cầm đôi chùy to gần bằng eả người và ngựa thì không nín được cười. Hùng Tín chưa kịp nói chi, Nguyên Khánh đã thét :
                            - Không biết cụ ngoại đây à. Có giỏi thì đấu chiến!
                            Tín múa giáo đâm, Khánh né minh tránh rồi tay hữu cầm hai chùy chập một, tay tả nắm chặt giáo Tín. Hoảng sợ, Tín cố sức kéo lại, nhưng không nhúc nhích. Khánh cười sằng sặc :
                            - Ta cho ngươi xuống ngựa mà kéo ta nếu ta ngồi trên ngựa mà hơi rung động cánh tay thì không là Bùi Nguyên Khánh.
                            Tín hầm hè nhảy xuống ngựa, dạng hai chân lấy tấn vận hết nội công mà kéo ngọn giáo, nhưng mồ hôi Tín đã vã ra, hai tay đã tê mỏi mà vẫn chẳng khác gì châu chấu lay cột đá. Khánh cả cười, quát như sét đánh đêm đông :
                            - Đồ chó chết, cút đi!
                            Đồng thời buông tay ra: cả người Tín và ngọn giáo nhào đi ba vòng.
                            Tín vội lóp ngóp bò nhảy lên ngựa chạy vào cửa ải.
                            Giảo Kim sai Thúc Bảo ra. Một lát, Thúc Bảo tới nơi, ngắm Nguyên Khánh nghĩ thầm :
                            - Quái lạ, thằng bé con kia ở trên trời xuống hay ở địa phủ chui lên mà lại ghê gớm thế. Ta thử sức xem nào!
                            Bèn phóng thương đâm. Khánh giơ chùy đỡ. Cây thương cong gập lại, tay Thúc Bảo rớm máu ra, phải quay ngựa chạy. Giảo Kim cáu tiết trợn mắt mà rằng :
                            - Con cái nhà nào mà lạ đến thế nầy. Để ta ra bắt nó!
                            Liền điểm tướng, kéo quân, rầm rộ ra mặt trận. Một tướng chỉ Nguyên Khánh cho Giảo Kim biết. Kim cầm búa bổ liền. Khánh giơ chùy đỡ, lưỡi búa vèo bay vào đám quân đánh một tên vỡ sọ ra mà chết.
                            Kim thấy chết điếng từ đầu đến chân tay, xương thịt đau như bị băm chém, chỉ còn đủ sức kêu :
                            - Các vương huynh, vương đệ mau cứu giá. Phong khổn!Phong khổn! Các anh em ơi!
                            Các hảo hán xúm lại vây bọc Bùi Nguyên Khánh. Khánh ngửa cổ cười, múa đôi chùy vèo vèo như cánh lá quay trong cơn gió lốc, các hảo hán Ngõa Cương dạt cả đi.
                            Bùi Nhân Cơ thấy con đánh cả ngày, vội đánh trống thu quân.
                            Trương Đại Tân, nhân cơ hội trả thù, quát mắng :
                            - Con ngươi sắp lấy được thành sao lại tiếc mấy giọt mồ hôi của đứa con mà coi thường tướng lệnh của ta. Làm tướng như thế có đáng tôi chết chém không? Tả hữu lôi tên này ra xử tử.
                            Quân sĩ tâm phúc của Đại Tân xúm vào, Nguyên Thiệu, Nguyên Phúc kêu to lên :
                            - Tội ấy mà đáng chém ư? Đại nhân xét lại cho.
                            Trương Đại Tân quát to lên :
                            - Hai thằng ranh con này cũng dám coi thường ta nữa, Chém nốt!
                            Tức thì chúng trói ba cha con Nhân Cơ, giải ngay ra cửa dinh.Vừa lúc đó, Bùi Nguyên Khánh đem quân về, thấy cha và hai anh bị trói thì quát vang lên :
                            - Chúng bay dám nghe thằng Trương gian tặc mà xúc phạm đến lão Nguyên soái và hai tiên phong. Muốn sống cởi ra kẻo ta đánh chết hết.
                            Quân sĩ sợ hãi cởi trói rồi bỏ chạy Nguyên Khánh nói :
                            - Vua vô đạo, thần xiểm nịnh, cha con ta sẽ chết uổng mất thôi.
                            Chỉ bằng sang Ngõa Cương mà lưu thân lại, chờ cơ hội sẽ hay Bất đắc dĩ Bùi Nhân Cơ phải nghe con. Đoạn cùng chạy cả sang bên cửa ải Ngõa Cương gọi xin hàng. Giảo Kim và Từ Mậu Công lên thành nhìn xem, nói rằng :
                            - Lão nguyên soái và tam công tử thực biết thời thế lắm. Chúng tôi xin mở rộng cửa thành nghênh đón. Nhưng xin lão Nguyên soái và tam công tử bắt Trương Đại Tân, chiêu dụ cả binh mã lại đây, được vậy thì chúng tôi yên tâm lắm.
                            Bùi Nguyên Khánh quay ngựa về dinh Tùy, tóm ngay được cổ Trương Đại Tân rồi quát quân sĩ :
                            - Tùy đế vô đạo, thằng Trương Đại Tân này vô lễ, ta sang ở Ngõa Cương đây, kẻ nào theo ta thì theo, bằng không cho trở về quê quán.
                            Mười vạn binh xin theo hàng hết. Nguyên Khánh hài lòng, tay xách Trương Đại Tân tay cầm chùy nhảy phắt lên ngựa, dẫn mười vạn binh sang Ngõa Cương.
                            Giảo Kim trông thấy rõ ràng, truyền mở cửa thành đem các tướng ra nghênh đón, một mặt sai giết trâu mổ dê khoản đãi. Giảo Kim hạ lệnh cho Trương Đại Tân thắt cổ chết, đoan thăng Nhân Cơ làm Tiên Đạo vương, Nguyên Khánh làm Nhất Tự vương.
                            Nhân Cơ lại viết thư sai người đón gia quyến đến Ngõa Cương. Mấy hôm sau, gia quyến Nhân Cơ đã đến. Mậu Công biết Bùi Thúy Vân con gái Nhân Cơ có tiền duyên với Giảo Kim bèn đứng lên làm mối. Nhân Cơ ưng thuận. Giảo Kim mừng lắm, cùng Thúy Vân làm lễ thành hôn.
                            Từ đó, Ngõa Cương thêm phồn thịnh, binh hùng tướng mạnh tập luyện đêm ngày.
                            Đây nói về thành Lạc Dương có một thôn tên gọi An Lạc, trong đó có một hào kiệt họ Vương tên Thế Sung, võ nghệ cao cường, thường chỉ lấy thú săn bắn làm vui. Cha mẹ mất sớm, bên mình có một em gái mười lăm tuổi tên gọi Thanh Anh. Thế Sung còn một người anh họ là Minh Đức, đối với Thế Sung rất thân yêu.
                            Mẹ Minh Đức nuôi một con chim yểng trắng nói cười hệt như người.
                            Một hôm nó đứt đây ở chân bay đi mất.
                            Người mẹ già tiếc thương chim mà ốm. Đức hiếu với mẹ gọi Thế Sung đến nhờ đi tìm được chim sẽ tặng trăm lạng bạc.
                            Thế Sung nghe lời đi tìm chim, ba hôm liền mới thấy con yểng trắng đậu trên cành cây cao, trẻ quây dưới gốc mà nhại tiếng với yềng.
                            Yểng thấy Thế Sung quen người quen tiếng sẵn nheo nhéo nói :
                            - Yểng tôi khôn lẽ cất mình bay cao, bởi vì sợi chỉ vàng vướng vào cành. Thế Sung là hảo hán, gỡ dây cho yểng, yểng không bay xa nữa, yểng về với Thế Sung để ăn gạo trắng nước trong.
                            Thế Sung trèo lên gỡ dây ôm yểng xuống, bỏ vào lồng thủng thẳng ra về. Qua một trang viện lớn, có một viên ngoại đang hóng mát. Đó là Thủy Yên. Thấy Sung có con yểng trắng Yên đòi xem và nhất định mua.
                            Tất nhiên, Sung từ chối. Yên vốn tay hùng cường ở xứ này ví giàu ngang với Vương Khải, Thạch Sùng, bèn nạt lớn rồi cầm hai chân yểng trắng xé làm đôi.
                            Thế Sung máu hào hùng sôi nổi, chỉ một quyền thì viên ngoại chết tươi, nhưng lại điềm đạm mỉm cười, cúi xuống nhặt xác chim bỏ vào lồng, cười nhạt mà đi.
                            Về đem sự Thủy Yên xé yểng kể rõ. Mẹ Minh Đức đứng sau rèm nghe thấy, nhìn xác yểng máu me, gục xuống chân rèm mà thoi thóp một lúc rồi chết hẳn, hồn già theo chim quý về cõi âm.
                            Đức ôm mẹ khóc. Sung không cầm được giận, nhảy ba bước ra đường. Một lát đến trang viện Thủy Yên. Thủy Yên đang ngồi uống rượu với hai ba thê thiếp. Sung rút đao chém ba nhát, đầu Yên cùng đầu vợ rơi xuống, máu đỏ thềm hoa.
                            Sung xé vạt áo Thủy Yên dùng máu viết vào tường ghi rõ họ tên mình là thủ phạm.
                            Đề xong lại tìm gia nhân, cha mẹ Thủy Yên giết sạch đoạn lau sạch lưỡi đao, chạy thẳng về nhà, khi đó gà mới gáy trong sáng lạnh. Thanh Anh ra mở cửa, nhìn áo quần anh đẫm máu mà ghê khiếp. Thế Sung thay áo thu xếp gói hành lý lớn dắt em gái ra đường không nói năng gì hết.
                            Cửa thành vừa mở, Thể Sung dắt em vào, nói rõ sự tinh mình đã giết cả nhà Thủy Yên cho Minh Đức nghe, Đức thương Sung, đưa năm trăm lạng bạc :
                            - Em nên bỏ trốn đi ngay. Để hiền muội ở lại dây có anh săn sóc.
                            Sung nhận tiền, vái tạ Đức, biệt em gái ra đi.
                            Có kẻ báo quan Phủ Doãn đến làm biên bản, đọc chữ máu trên tường, một mặt cho mai táng, một mặt truyền truy nã sát nhân. Sau lại có kẻ tố cáo, Phủ Doãn sai lính đến nhà Minh Đức tìm hung thủ, không thấy Phủ Doãn sai trói Minh Đức tống giam Vương Thế Sung đi ròng rã ba đêm ngày tới Dương Châu, vào khách điếm họ Đoàn nằm trọ. Họ Đoàn nhìn ngắm Thế Sung rồi đành liều vái hỏi :
                            - Phải chăng túc hạ họ Vương, tên Thế Sung?
                            Sung nhận phải. Họ Đoàn sụp ngay xuống làm quân thần :
                            - Muôn tâu Thánh thượng hạ thần họ Đoàn vào triều kiến.
                            Sung phì cười nói :
                            - Ông này điên chắc? Nào ai là vua chúa mà làm trò khỉ thế?
                            Đoàn Đạt cứ phủ phục tâu :
                            - Hôm qua có một vị thần vào đây xưng là Chung Quan đạo nhân nói rằng hôm nay đúng giờ Tỵ sẽ có chân minh Thiên tử họ Vương tên Thế Sung lánh nạn tới đây, ngươi khá lưu giữ trong nhà. Sang năm ta sẽ giúp cho ngươi đi Lạc Dương mộ quân, khởi nghĩa. Nói rồi đạo nhân cỡi mây mà đi về phương Bắc.
                            Thế Sung nửa tin nửa ngờ im lặng mà suy nghĩ. Đạt bày tiệc, từ đó lưu Thế Sung ở lại, ngày ngày giữ lễ mà khoản đãi, lại có biết binh thư, đem ra cùng Thế Sung bàn luận rất là tương đắc.
                            Một hôm trong lòng buồn bực, Thế Sung dạo gót đến ngôi chùa con trên núi. Trăng trong gió mát, Sung ghé nằm trên gác tam quan ngủ quên cả đường về. Thổ địa, Sơn thần rủ nhau đến lạy mà rằng :
                            - Mão nhật tinh quân ơi, thời vận đã đến nơi rồi đó. Thượng đế có cho mọc trong ngôi chùa này một đóa hoa rất lạ cho Tùy Dạng Đế hôn quân vô đạo đến xem, thiên hạ vì thế mà loạn lớn. Tinh quân khá trông hoa mà vẻ thành bức họa đến Tràng An dâng cho hôn quân xem, sẽ được làm quan đấy.
                            Thế Sung hỏi hoa đó tên chi. Đáp rằng, hoa đó tên gọi Quỳnh hoa.
                            Hai thần biến đi.
                            Sung ra mở cửa tam quan, thấy trời có tiếng nổ, lửa năm màu loang loáng hoa cả mắt cháy giữa trời đêm. Cả sư tăng, thủ tự chạy ra xem chỗ lửa rơi rớt xuống. Chúng reo lên vì thấy một cái giếng sâu bên giếng vừa mọc một thân cây, và trên ngọn cây nở một bông hoa lạ, năm sắc long lanh tươi mơn mởn, có mười lá và cành hoa lớn dưới có sáu mươi tư cánh hoa nhỏ, hương bay xa mười dặm. Thế Sung ngậm kỹ phóng bút thần vẽ một bức họa to trên lụa trắng, giống hệt hoa quỳnh.
                            Quan địa phương là Dạng Thời coi đó là điềm thịnh vượng, viết ngay sớ dâng kính. Đồng thời Thế Sung cũng giắt bức họa trong tay áo, vào kinh.
                            Dạng Đế đêm trước ngủ trong cung, nằm mơ thấy hoa lạ cao hơn một trượng, hương thơm ngào ngạt cả trong cung đíện. Trên hoa có một người mặt to trán rộng, má như xoa phấn môi tự tô son, đội mũ bình thiên, mặc áo hoàng bào, lại thấy mười tám cánh hoa lớn hóa ra mười tám phản vương, sáu mươi tư cánh hoa nhỏ hóa ra sáu mươi tư sứ giặc giã kéo nhau đến đánh, không phân ai được thua.
                            Dạng Đế tỉnh dậy đoán có sự gì lạ xảy ra trong cung, kể cho thợ họa tấm tranh và cho treo các nơi, hễ ai biết hoa ấy ở xứ nào thì phong quan tước.
                            Tranh treo trước nhất ở Ngọ rnôn. Thế Sung vừa tới, nhìn giống hệt hoa của mình, bèn giật bảng vào, nhờ thái giám đưa vào triều kiến. Tới thềm rồng, Sung dâng bức họa của mình và nói rõ nơi chùa hoa nở, thuật lại cả khi chứng kiến hoa tự trời sa xuống như thế nào.
                            Dạng Đế xem tranh của Thế Sung, giống hệt hoa xem trong mộng, mừng lắm, phong ngay cho Sung làm Quỳnh hoa thái tú, lĩnh tạm nghìn quân đến Dương Châu, đổi chùa Dương Lê quán thành Quỳnh Hoa tự, sắp sẵn nghênh thánh giá.
                            Sung tâu :
                            - Thần có tội, không dám đi làm việc ấy.
                            Rồi kể rõ cái án giết người vì con yểng trắng. Dạng Đế cả cười sai đưa xá thư đến Lạc Dung tha ngay cho Minh Đức.
                            Khi quân của Thế Sung đến Dương Châu, chủ quán Đoàn Đạt và Chung đại nhân ra ngang đường đón. Sung vội vàng xuống ngựa.
                            Đoàn Đạt nói :
                            - Khí thế nhà Tùy mất đến nơi rồi, hạ thần cùng quân sư đây xin đến đất Lạc Dương chờ khởi sự.
                            Sung cả mừng lên ngựa đem quân thẳng tới Dương Châu.
                            Dạng Đế hí hửng việc đi Lạc Dương xem hoa quỳnh bàn cùng Hóa Cập. Hóa Cập nói :
                            - Hoa trời nở là điềm vượng cho Thiên tử. Nay đường bộ xa xôi, Thiên tử đi xem hoa sao cho tiện, chi bằng sai Ngụy quốc công Lý Mật đốc thúc các Tổng quản bắt trăm vạn dân khai con sông từ Tràng An đến Dương Châu. Sông đã có sẵn nhưng còn nhỏ lắm, xin khai cho sâu thêm, xẻ núi san đồi, phá rừng, có rộng sông mới lớn, thuyền rồng đi mới đẹp. Lại bắt Lý Uyên làm một cái cung ở Thái Nguyên, hạn ba tháng làm xong, kèo cột và gạch phải bọc vàng, nếu không làm xong thì khép tội khì quân, chém, mà làm xong thì buộc tội mưu tranh bá đồ vương, cũng giết. Nhân dịp này không trừ cái họa lớn ấy thi chẳng còn bao giờ trừ được nữa.
                            Dạng Đế khen là cao kiến, giáng chỉ ngay.
                            Muôn dân phải kéo nhau đi khai sông, đào núi, lầm than đói rách, kẻ già chết bệnh, kẻ mạnh đau đòn, tiếng kêu oán thấu trời xanh.
                            Khi tới Hà Nam, Lý Mật nghe nói Chu Sán là người giỏi võ lắm cơ mưu, bèn cho mời tới làm Tổng quản. Chu Sán vâng lời, đem cậu con Ngữ Vân Thiệu là Ngữ Đăng khi đó mới sáu tuổi, giao cho anh là Chu Nhiên nuôi, đoạn ra đi coi khai sông xẻ núi.
                            Tổng quản Mã Thúc Mưu bắt dân phu làm suốt đêm ngày, thấy có nhà cửa mồ mả cũng đào đi tất. Mưu lại thích ăn thịt trẻ con, nhiều nhà mất trẻ kêu gào rất thảm. Mưu bắt mỗi người phu phải đem nộp một đứa hài nhi cho hắn luộc xé ra chấm muối ăn. Công văn ấy bay đến Thương Châu. Thứ sử xứ này là Cao Đàm Thánh xem công văn xé nát đi quát lớn :
                            - Nó là ngươi hay hổ báo?
                            Đoạn truyền đánh chết sai quan. Mưu giận lắm, đem quân đến hỏi tội, bắt Cao Đàm Thánh mang đi. Dân chúng ai cũng thương vị quan trung trực thanh liêm ấy.
                            Khi ấy ở Thái Hàng Sơn, Hùng Khoát Hải nghe biết việc ấy đùng đùng nổi giận, bảo dân chúng theo đi bắt Mã Thúc Mưu. Chúng theo Khoát Hải ra ngoài thành, gặp Mưu vừa đi ngựa tới, Khoát Hải múa búa đánh luôn, Mưu giơ đại đao dỡ, hai cánh tay rơi rụng, quay ngựa chạy.
                            Hải một bước đuổi theo nắm đuôi ngựa lôi lại, sức mạnh quá khiến ngựa Thúc Mưu ngã gục xuống, Khoát Hải thuận tay đưa một nhát xẻ Thúc Mưu ra làm hai mảnh. Dân chúng vui mừng đi phá tù xa, lập Cao Đàm Thánh làm vua.
                            Nhân cơ hội đó, Khoát Hải sai về núi gọi lâu la đến Thương Châu đánh phá các nơi, đến đâu dân chúng xin theo đến đấy.
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #15
                              Hồi 15 - Lập Vương cung, Lý Uyên bị tội

                              Hồi 15

                              Lập Vương cung, Lý Uyên bị tội
                              Đánh Thành Đô, Nguyên Bá ra oai

                              Bại binh của Mã Thục Mưu về báo Lý Mật. Lý Mật cả kinh dâng sớ về kinh tâu sự thể, và giục Chu Sán đốc thúc việc khai sông.
                              Cách thành Tào Châu hai mươi dặm, có Tống Nghĩa thôn của một viên ngoao giàu không kém Thạch Sùng, Vương Khải nuôi hàng nghìn gia nhân, đày tớ. Viên ngoại đó tên là Mạnh Hải Công tức là cậu ruột Chương Nghĩa, năm xưa cứu Tần Quỳnh ở Đồng Quan.
                              Mạnh Hải Công nuôi một tiên sinh tên là Bích Thuận trí rộng mưu nhiều đủ tài văn võ, hiểu biết âm dương. Mạnh Hải Công có ba người vợ. Vợ cả là Mã Trại Phi quen dùng hai mươi tư ngọn phi tiêu đao lá liễu. Ngôi thứ hai là Hắc phu nhân. Người thứ ba là Bạch phu nhân đều võ nghệ cao cường. Mạnh Công có ý muốn xưng vương nên vẫn ngầm chiêu binh tập mã, may sẵn khôi giáp, trữ sẵn gươm đao, bao nhiêu đầu trộm đuôi cướp đều nuôi hết.
                              Có người đến báo cho viên ngoại biết người ta khai sông sắp phạm đến ngôi mả tổ Mạnh Công. Công hy vọng vào ngôi mả ấy lắm, vì đã nhiều thầy địa lý bảo Mạnh Công nhờ ngôi mả ấy săp được làm vua.
                              Nay nghe biết tín dữ, Mạnh Công giật nảy mình. Bích Thuận nói :
                              - Chúa công cứ an tâm. Chu Sán đốc thúc việc xẻ sông địa phận này là bạn tôi. Tôi xin bảo hắn chừa chỗ phần mộ ấy ra.
                              Bích Thuận đem ba nghìn lạng bạc đến biếu Chu Sán, cậy nhờ việc ấy. Chu Sán nhận bạc, vâng lời. Mạnh Công yên trí lắm, lại tự viết thư cảm ơn Chu Sán.
                              Cách ba hôm sau, phu đào tới nơi, không biết làm ra sao mà thần báo mộng cho Mạnh Công rằng con rồng ở huyệt đứt một cái móng.
                              Rồng đau quằn quại cựa mình khiến ngôi mả tổ kia đã bật lên. Nước sông kéo vào như thác, ba vạn dân cư vì thế mà chết đuối gần hết. Nước rót vào địa phận Dương Châu hóa thành một dải sông to.
                              Hải Công thấy Chu Sán nhận lễ lại còn đào huyệt tổ mình, giận lắm bèn cùng ba vợ đem gia binh kéo đánh Tào Châu giết quan tri châu, tự xưng là Tống Nghĩa vương, phong Lương Nghĩa làm Nguyên soái, Bích Thuận làm quân sư.
                              Lý Mật đã khai xong sông về triều phục chỉ. Vì thế mà thiên hạ giặc cướp nổi như ong, dân tình đói nheo nhóc, mất nhà mất cửa, oán hận thấu trời. Lại các vương bá phản triều đình tứ phía. Cộng cả thảy mười tám phản vương, và kể thêm cả sáu mươi tư xứ trộm giặc giết dân gian rất thảm.
                              Đây nói chuyện Đường công Lý Uyên nhận được chỉ bắt làm Tấn Dương Cung trong ba tháng phải xong thì phiền muộn lắm. Lý Uyên họp bốn con cùng thương nghị.
                              Con lớn là Kiến Thành, thứ hai là Thế Dân, thứ ba là Nguyên Cát, thứ tư là Nguyên Bá.
                              Lý Nguyên Bá mới mười hai tuổi, đầu nhọn tai rụt, mặt như ma đói, chân tay khô như củi, sức khỏe lay chuyển nổi một thành trì, dùng đôi chùy sắt nặng ngàn cân, cỡi ngựa vạn lý vân thật là thiên hạ không ai dám đọ, kể vào anh hùng bậc nhất đời Tùy đó.
                              Đường công đã nhìn thấu suốt cơ mưu cửa Võ Văn Hóa Cập xúi Tùy Dạng Đế hại mình, bảo các con :
                              - Ta mà làm không xong vương cung thì trái mệnh vua mà làm xong thì Hóa Cập sẽ khép ta vào tội mưu làm phản nên lập sẵn cung điện xưng vương. Đã đến nước này thì thôi đành mang tội bất trung, không làm cho rảnh rồi sẽ liệu.
                              Lý Nguyên Bá tròn xoe mắt nói :
                              - Cha chớ lo phiền. Cứ chừ chúng nó đến đây, con cho mỗi đứa một chùy rồi cha lên làm Hoàng đế.
                              Đường công quát mắng con không được nói năng vô lễ, rồi vào phòng nghỉ. Cách một đêm sau, nghe thiên hạ ồn ào về việc Đường công đã nhờ phép thần tiên dựng có một chớp mắt xong Vương cung trên bãi sông rất nguy nga lộng lẫy. Tin đó đến tai Đuờng công, Công kinh ngạc chưa biết ra sao thì nghe báo có Phủ doãn Viên Thiên La và Huyện doãn Lý Thuần Phong xin vào yết kiến. Đường công ra nghênh tiếp.
                              Hai người ghé tai Đường công nói thầm :
                              - Tấn Dương Cung chúng tôi đã vì chúa công mà hô thần dựng để đền đáp chút ơn tri ngộ.Thôi xin tạm biệt. Mai kia còn gặp gỡ.
                              Nói rồi lui ra ngay. Đường công ngơ ngẩn cả người cùng bốn con ra xem Vương cung, quả là một công trình vĩ đại cao chín tầng chót vót, cột rồng mái phượng vàng son rực rỡ. Cây cổ thụ từ đâu mọc um tùm, chung quanh có suối có hoa, có hạc múa thông reo, có cá ngũ sắc múa lượn trong hồ bán nguyệt, và chim kêu vượn hót vang cả ngàn tùng xanh biếc.
                              Tùy Dạng Đế để con thứ hai là Đại vương Hưu ở lại nắm quyền triều chính, phong Vô địch tướng quân Võ Văn Thành Đô làm Bảo giá tướng quân, đem Tiêu Phi và tam cung lục viện với Hóa Cập và một lũ cận thần lên loan giá đi Thái Nguyên.
                              Tới nơi, thấy Tấn Dương Cung đẹp có bề hơn cả cung điện Tràng An thì xiết bao vui thích. Hóa Cập ghé tai :
                              - Tháng thượng quên mất sự nghĩ bụng rồi à?
                              Dạng Đến gật đầu, trở mặt quát :
                              - Trói Lý Uyên phản thần lại cho trẫm. Sao dám tự tiện lập vương cung mưu phản triều đình, tội ấy đáng bêu đầu.
                              Ngự lâm quân trói Đường công lại, dẫn ra. Vừa lúc đó Thế Dân chạy vào thấy vậy kêu ầm lên. Dạng Đế cúi nhìn thấy người trẻ tuổi đó giống hệt như người mặc áo Thiên tử đứng giữa quỳnh hoa trong giấc chiêm bao, vội hỏi :
                              - Ngươi là ai?
                              Thế Dân tâu :
                              - Hạ thần là con thứ hai Đường công, tên gọi Thế Dân, xin vào yết giá, kính chúc Ngô hoàng vạn tuế.
                              Dạng Đế nói :
                              - Cha ngươi mưu làm phản, tội ấy đáng tru di.
                              Thế Dân ung dung đáp :
                              - Thần trái thánh ý là bất trung, làm theo thánh ý thì mang tội phản. Nay phụ thân hạ thần bị giết thì trong thiên hạ còn ai dám vì bệ hạ mà trung nữa. Nếu bệ hạ nghi ngờ thì sai nhổ một cái đanh ra xem, làm từ tróc thì đanh hoen rỉ, nhược bằng mới làm xong thì đanh còn sáng.
                              Dạng Đế khen phái, truyền thị vệ nhổ đanh. Thị vệ nhổ một chiếc đanh mang trình Ngự lãm. Thấy đanh sáng bóng, Dạng Đế sai tha Lý Uyên. Cha con Uyên vào lạy tạ. Dạng Đế hỏi :
                              - Ngươi có mấy con?
                              Uyên tâu :
                              - Hạ thần có bốn con trai.
                              Rồi kể tên tuổi. Dạng Đế trỏ người thứ hai nói :
                              - Trẫm muốn dùng Thế Dân làm con nuôi, ngươi có thuận không?
                              Uyên lạy tạ, Thế Dân cũng lạy tạ. Dạng Đế phong ngay Thế Dân làm Tần vương. Sau đó, Dạng Đế truyền dâng yến, đãi cả cha con Lý Uyên. Tan tiệc, Uyên tâu :
                              - Bệ hạ đi xem hoa quỳnh chẳng hay người nào bảo giá?
                              Dạng Đế nói :
                              - Có anh hùng vô địch trong thiên hạ là Võ Văn Thành Đô hộ giá.
                              Lý Nguyên Bá ngẩng nhìn Thành Đô rồi cười khanh khách nói :
                              - Ôi chao, thế kia mà dám khoe khoang là vô địch. Có phải ngươi đó chăng?
                              Thành Đô cúi nhìn cậu bé ma đói mới đứng đến bụng mình, trừng mắt quát vang như hổ rống :
                              - Chính ta đây!
                              Nguyên Bá càng cười dòn tan :
                              - Ta thương cho người lắm. Mắt ngươi chỉ nhìn quanh bàn tay của ngươi chứ chưa mở mắt nhìn ra ngoài thiên hạ.
                              Thành Đô cả giận, cúi xuống quát to :
                              - Có ai địch nổi ta, thằng bé con kia bảo tới đây cho ta xé xác.
                              Nguyên Bá cười ngặt nghẹo rồi vỗ ngực :
                              - Còn ai nữa, chính lão gia đây.
                              Thành Đô ngẩn ra một lát, rồi mắt tròn, râu dựng ngược, đập mạnh tay xuống vế đùi.
                              - Thằng nhãi con vô lễ. Muốn sống lui ngay kẻo ta búng một cái thì tan ra cám đó.
                              Lý Nguyên Bá càng ngửa mặt cười :
                              - Con nhặng dám đòi lay đổ núi Thái Sơn! Ta thương ngươi lắm.
                              Muốn sống thì lạy ta tám lạy ta tha cho để thiên hạ khỏi cười rằng anh hùng vô địch mà bị lão gia đây đánh chết.
                              Thành Đô túc giận quát vang như sấm, Tùy Dạng Đế nói :
                              - Nguyên Bá nói vậy tất là có bản lĩnh khác thường. Trẫm cho hai người thi sức.
                              Nguyên Bá tâu :
                              - Hạ thần chỉ cần giơ thẳng một cánh tay này ra, nếu Thành Đô lay cho nhúc nhích được một tý thì mới đáng gọi anh hùng vô địch..
                              Nói rồi giơ thằng cánh tay khẳng kheo như que củi ấy ra.
                              Thành Đô chỉ muốn bóp chết thằng bé con như bóp muỗi, bèn từ ghế cao nhảy xuống, nắm lấy tay Nguyên Bá. Tưởng rằng khẽ bẻ một cái thì gẫy vụn ra, ngờ đâu Thành Đô dùng hết sức bình sinh lấy hết nội công đứng tấn mà lay cũng không sao chuyển chẳng khác gì con muỗi bám cột lâu đài bằng đá.
                              Thấy Thành Đô cứ ỳ ạch mãi, xoay trước, quay sau, lấy tấn lấy đà đánh đu cả cái mình to lớn như voi như cọp vào mà cái cành củi khô kia cứ trơ trơ. Nguyên Bá quát vang một tiếng, hất tay lên. Tức thì Thành Đô bị ném bổng lên cao, dốc ngược đầu xuống đất. Mọi người cười rộ, vỗ tay reo.
                              Thành Đô giận điên cuồng, nói :
                              - Thế chưa là hảo hán. Ngoài cửa ngọ môn có hai con sư tử bằng đồng, mỗi con nặng ba nghìn cân, ngươi nhấc được lên ta mới cho là giỏi.
                              Hai người ra cửa ngọ môn. Các quan hộ giá ra xem hai tướng đua tài. Nguyên Bá cười nói :
                              - Ngươi nhấc thử ta coi.
                              Thành Đô yên trí rằng thằng bé con không nhấc nổi, nên muốn gỡ cái nhục ban nãy bèn một tay vắt sau lưng, một tay nắm chân con sư tử nhấc bổng lên đi vào tới đền, lại đi ra đặt xuống chỗ cũ.
                              Đô bước lên thềm, kiêu hãnh nhìn Nguyên Bá :
                              - Nào thằng bé kìa nhấc ta xem!
                              Nguyên Bá bước xuống, chẳng cần lấy gân lấy sức gì, hai tay nhấc bổng đôi sư tử đá lên, thoăn thoắt bước lên chín bậc thềm đến đứng trước mặt Tùy Dạng đế giơ cao mười lần rồi nhẹ nhàng bước xuống chỗ cũ đặt sư tủ ngay ngắn như trước, sắc mặt không hề thay đổi.
                              Dạng Đế và bá quan tướng sĩ kinh hồn táng đởm. Dạng Đế hoan hỉ nói :
                              - Trẫm chưa từng thấy ai khỏe đến thế bao giờ. Thật là thiên thần xuất thế.
                              Thành Đô tức điếng người :
                              - Sức khỏe đâu phải là anh hùng, còn thập bát ban võ nghệ. Thằng bé con có dám địch với ta không?
                              Nguyên Bá cười khanh khách :
                              - Ta thương cho ngươi lắm, châu chấu đá sao nổi thái sơn. Thôi ta tạm cho về dinh trại, rồi mai lão gia cho về âm phủ.
                              Thành Đô trừng mắt nhìn Nguyên Bá đến rách mi ra, râu dựng ngược, muốn đánh ngay, nhưng lại có ý sợ, đành nín lặng nhìn theo Nguyên Bá theo cha bước ra đường.
                              Hôm sau Hóa Cập bàn với Thành Đô, rồi dặn các tướng tá đem quân vây kín giáo trường, hễ Thành Đô bại thì xô ra giết Nguyên Bá.
                              Bọn gia tướng hăng hái vâng lời.
                              Đoạn Thành Đô mặc giáp đồng, xách lưu kim đang lên ngựa, tới giáo trường đã thấy Lý Nguyên Bá đang nhởn nhơ đùa nghịch trên bãi cỏ.
                              Trên võ đài, Tùy Dạng Đế đã ngồi chứng kiến cuộc tranh hùng của hai mãnh tướng.
                              Ba hồi chiêng trống khua vang, rồi nổ ba tiếng súng. Thành Đô múa vũ khí xông vào đánh trước. Nguyên Bá cả người cả ngựa mới chấm đến bụng Thành Đô. Hàng vạn người xem, từ Dạng Đế trở xuống ai cũng lo cho cậu bé con. Cây kim đang vèo vèo phóng tới, Nguyên Bá ung ung giơ chùy đỡ, một tiếng “choang” nảy lửa cây kim đang quặt sang một bên suýt rơi xuống đất.
                              Thành Đô chột dạ kêu lên :
                              - Ôi chao thằng bé con này giỏi!
                              Lại phóng lưu kim đang dùng hết sức bình sinh đánh, trông chừng thành lở núi tan, vậy mà Nguyên Bá chỉ khẽ đỡ, lửa tóe ra, kim đang gãy làm hai đoạn, tay Thành Đô rời rụng, máu chảy tóe ra.
                              Thành Đô hoảng hốt thúc ngựa tìm đường trốn. Nguyên Bá thét một tiếng xé trời, với cánh tay vượn khẳng khiu nắm đai giáp Thành Đô, nhấc bổng cái mình to lớn ấy lên như nhấc nắm rơm khô, toan xé làm hai mảnh.
                              Võ Văn Hóa Cập run lập cập kêu ầm ĩ.
                              - Thiên tử mau phán cho Nguyên Bá buông tha kẻo con tôi chết mất.
                              Dạng Đế vội truyền cho mấy tương chạy theo xin Nguyên Bá buông tay. Nghe có thánh chỉ, Nguyên Bá sực nhớ năm xưa sư phụ dặn không được hại tính mệnh người cầm lưu kim đang, bèn cười khanh khách tung Thành Đô lên tít trên cao. Thương hại cho Thành Đô sức mạnh như hùm,thân thể như beo dữ, thế mà lúc đó chỉ còn là cái đồ chơi của cậu bé nghịch tinh. Bị ném lên, Thành Đô lộn bốn năm vòng ở giữa trời rồi rơi xuống đầu ngựa Nguyên Bá Bá giơ hai tay hứng lấy nói to :
                              - Con ơi, từ nay trông thấy lão gia ở đâu thì mau lùi lại mà lạy, chớ có ngông nghênh nhé!?
                              Nói rồi xé nát hai lá cờ nhỏ thêu hàng chữ “anh hùng vô địch “ đoạn ném bịch Thành Đô xuống đất, nằm thẳng cẳng.
                              Gia tướng của Hóa Cập thấy thế kinh hồn bạt vía xô nhau lủi hết.
                              Dạng Đế vời Nguyên Bá lên võ đài mừng ba chén ngự tửu, phong cho làm Tây phương triệu trấn thủ Thái nguyên.
                              Hai hôm sau, thuyền rồng đã làm xong. Tùy Dạng Đế cùng tam cung lục viện lưu lại Tấn Dương, giao Thái Nguyên lại cho cha con Nguyên Bá, duy có Thế Dân thì điều đi Giang Đô.
                              Được ngày xuân ấm áp, thuyền rồng bắt đầu rời bến, chiếc đầu có Dạng Đế và mấy cung phi được sủng ái riêng; Chiếc thứ hai có Tần vương Thế Dân. Chiếc thứ ba có Võ Văn Hóa Cập và Bảo giá tướng quân Thành Đô (Thành Đô từ khi bị xé cờ không dám xưng là vô địch nữa); Chiếc thứ tư là bá quan văn võ và quân sĩ. Cánh buồm may bằng gấm vóc, đầu thuyền kết bông nhuộm sặc sỡ thành đầu rồng, thân thuyền bọc lụa ngũ sắc. Hai bên bờ, hàng mấy nghìn thiếu nữ xiêm áo lụa các màu buộc những tấm lụa dài vào thuyền mà kéo, xiêm y lụa mỏng bay trong gió xuân phơ phất như một đám tiên nữ chốn thiên tiên.
                              Dạng Đế vui sướng lắm, rượu la đà, suồng sả ôm các cung phi. Ở đầu khoang, mỹ nữ tấu nhạc vang lừng. Ban ngày thuyền đi đến đâu các cung nữ rắc hoa đến đấy. Buổi tối thì thả đèn ngũ sắc sáng rực cả lòng sông. Dạng Đế say, cười nói ngả nghiêng, mũ rơi áo tuột nằm lẫn vào lòng các cung phi, không còn ra thể thống một vị Thiên tử nữa.Trong hàng văn quan cũng có người thấy cảnh nhơ nhuốc đó, biết rằng vận nhà Tùy chẳng còn được bao lâu thì ngậm ngùi chán ngán chứ không dám nói.
                              Đây nói về Tông Nghĩa vương ở Tào Châu là Mạnh Hải Công nghe tin hôn quân vô đạo đến Giang Đô dự hội tất phải qua Tứ Lãng Sơn, liền viết mười tám bức thư gửi đi các xứ mời cất quân hội nhau ở Lãng sơn bắt hôn quân mà giết.
                              Lý Tử Thông, khi đó xưng Thọ Châu vương từ Hà Bắc nhận được thư vội vời Ngũ Vân Thiệu lên điện nói :
                              - Hôn quân tự dẫn xác đến Giang Đô, đó là một dịp cho Nguyên soái trả thù. Nhân có thư của Mạnh Hải Công mời hội tướng ở Tứ Lãng sơn, vậy ta không nên bò lở cơ hội này.
                              Vân Thiệu cả mừng lĩnh mệnh, cử binh đến Lãng sơn hội tướng.
                              Khi đó, Vân Thiệu đưa thư đến La Đà trại, cử Ngữ Thiên Tính làm tiên phong cùng đến Lãng sơn một chuyến Ở Ngõa Cương Trình Giảo Kim cũng vui mừng điểm năm vạn hùng binh đi hội kiến với phản vương mười tám sứ. Tần Thúc Bảo làm Nguyên soái, Bùi Nguyên Khánh làm Tiên phong, Từ Mậu Công làm Quân sư, Khâu Thụy ở lại giữ thành trì. Các tướng đều đi hết.
                              Hỗn Thế Ma vương đến Lãng sơn trước nhất. Mạnh Hải Công ra tiếp đón. Sau đó, các phản vương lục tục đến dần: Tế Nam vương Đường Bích ở Sơn Đông. Kinh Châu vương ở Hồ Quảng, Đại Lương vương ở Giang Nam Mạnh Hải Công thấy hết thảy mọi người họp mặt tất cả năm chục vạn hùng binh đóng chật đất vang trời thì mừng lắm, sai giết trâu bò khoản đãi.
                              Giữa tiệc, Hải Công đứng dậy cung kính nói :
                              - Hôn quân giết cha, giết anh, lấy dì ghẻ, hoang dâm vô độ, trong triều đầy những gian thần, ngoài cõi đầy giặc dã, trong thành dân chúng lầm than, oán khổ. Nay chúng ta họp sức giết hôn quân đó là làm thuận lòng trời thể đúng ý người. Các vương huynh có điều gì dạy bảo Hải Công này chăng?
                              Mọi người nói :
                              - Mạnh vương huynh nói phải, chúng tôi xin tận sức trừ bạo chúa.
                              Hải Công đề nghị bầu minh chủ điều khiển thiên binh, chúng vương vui vẻ bầu Trình Giảo Kim làm minh chủ.
                              Mậu Công lại nói :
                              - Võ Văn Thành Đô sức địch muôn người, ta bầu một tướng tiên phong đối địch với hắn.Ngữ Vân Thiệu tình nguyện làm tiền bộ tiên phong.
                              Chúng vương thấy Vân Thiệu mặt mũi phương phi, mắt sáng, da trắng nõn, râu ba chòm, mình mặc khôi giáp trắng.
                              Lý Tử Thông đứng lên giới thiệu :
                              - Đây là Nam Dương hầu Ngữ Vân Thiệu con quan Hữu bộc sĩ Ngữ Kiến Chương đã tử trận năm xưa. Nay Vân Thiệu làm tiên phong sẽ không lo ngại nữa.
                              Chúng vương đồng thanh cử Ngữ Vân Thiệu làm tiên phong.Vân Thiệu vừa tạ ơn thì một tướng vai hùm lưng gấu, râu quai nón bước ra xin làm phó tiên phong. Đó là Hùng Khoát Hải Trình Giảo Kim ưng thuận. Sau đó Ngữ Vân Thiệu, Thiên Tích, Khoát Hải đem nhau về trại riêng, cùng trò chuyện trước sau. Thiên Tích nói :
                              - Nay anh em ta có ấn chánh phó tiên phong, mai quyết bắt Thành Đô cho chúng vương biết sức.
                              Rồi lại bày tiệc rượu uống đến khuya mới nghỉ.
                              Ở Đăng Châu, Cô Sơn vương Dương Lâm nghe tín thánh giá sang chơi thành Giang Đô, thì giật mình kinh hãi, Tức khắc mặc giáp lên yên, đem năm nghìn binh mã đuổi theo thuyền rồng bảo giá. Chưa đầy một tháng đã đến Tứ Lãng sơn. Dạng Đế đang vui chơi ở trên sông, có thám tử vào quỳ báo :
                              - Có mười tám phản vương, sáu mươi tư sứ trận giặc kéo quân họp tập ngọn núi trước mặt chặn đường.
                              Dạng Đế sai Võ Văn Thành Đô ra đánh. Thành Đô lĩnh chỉ vác cây lưu kim đang lên ngựa kéo năm nghìn quân ra, quát vang trời :
                              - Những tên nào phản chúa ra đây cho ta hỏi tội!
                              Ngữ Vân Thiệu, Hùng Khoát Hải, Ngữ Thiên Tích cùng kéo quân xuống núi thét to :
                              - Thằng mạt tướng ôm chân nấp bóng đứa hôn quân không biết thế nào là nhục sao còn dám vênh vang thế?
                              Thành Đô nhận ra Ngữ Thiên Tích liền nổi giận :
                              - Thằng phản thần này, bấy lâu nay ta vẫn có ý định giết mày thì hôm nay dẫn đầu đến cho ta lấy.
                              Vân Thiệu không đáp, phóng kích đâm luôn. Thành Đô gạt kích quay lưu kim đang đánh Vân Thiệu trúng hai cánh tay, vì lưu kim đang nặng vô cùng mà sức Thành Đô quả lời đồn không sai, mạnh như hùm.
                              Vân Thiệu cố sức bình sinh đánh Thành Đô, nhưng tay mỗi lúc một tê dại thêm, mồ hôi vã ra như tắm. Đứng ngoài, Thiên Tích không nhịn được, vác hỗn kim đang nhảy vào đánh. Thành Đô thản nhiên tạt kích, chặn hỗn kim đang, chống với hai người không chút sợ hãi. Hùng Khoát Hải thấy hai người không đánh đổ Thành Đô cũng vác búa xông vào trợ chiến. Đô vẫn coi thường. Thiên Tích và Khoát Hải giận lắm cuồng lên như hai con hổ đói. Trống đánh vang trời. Ba người quay tròn Thành Đô vào giữa khiến cát bụi lầm mặt đất.
                              Trận đại chiến từ giờ thìn kéo đến hết giờ ngọ. Cô Sơn vương Dương Lâm thấy Thành Đô bị vây, lại nghĩ rằng Hóa Cập xưa nay vẫn cậy có con uy dũng, tất sẽ mưu phản nghịch, nhân dịp này nhờ người khác giết đi nên cứ sai quân giục trống trợ oai chứ không chịu đánh cồng thu tướng.
                              Thành Đô càng đánh càng hăng, cây kim đang vun vút như cơn bão quấn lấy binh khí ba anh em Vân Thỉệu. Khỏe như Khoát Hải, Thiên Tích mà cũng chồn sức, thở phì phò, ráng hết sức mà đón đỡ không kịp lại mấy lần suýt chết.
                              Khoát Hải biết chừng không đánh nổi đành quay ngựa chạy trước.Vân Thiệu, Thiên Tích cũng chạy theo, nói :
                              - Ngày mai ta sẽ quyết tử chiến một phen.
                              Thành Đô không chịu buông tha, thúc ngựa đuổi đến.
                              Đến sau núi, lại thấy một cậu bé con vác đồng chùy to nặng. Đô dụi mắt trông lầm là Lý Nguyên Bá, nhưng tới gần thì không phải. Tiểu tướng thét như sấm sét :
                              - Thằng giặc nịnh hót này có biết Bùi Nguyên Khánh con Nguyên soái Bùi Nhân Cơ đây không? Hôm nay ta xé xác mày đó.
                              Thành Đô cũng đã nghe tiếng Bùi Nguyên Khánh bé mà khỏe lắm bèn giơ lưu kim đang đánh hết sức binh sinh, tưởng rằng cậu bé tan ra tro bụi. Ngờ đâu, đồng chùy vừa khẽ giơ lên thì Thành Đô bật ngửa người về phía sau.Tiện tay, Nguyên Khánh chập cả đôi chùy đánh, Thành Đô hai tay năm chắc lưu kim đang giơ lên đỡ, cả mình Thành Đô sụm xuống, xương thịt tưởng như gãy vụn ra. Thành Đô kêu lên một tiếng :
                              - Thằng bé này cũng giỏi đến thế cơ à?
                              Rồi nằm rạp trên yên mà trốn, nhìn đến cây lưu kim đang thì cong vút như một chiếc cung. Nguyên Khánh đuổi sát sau lưng, chỉ một với là nắm được.
                              Dương Lâm vẫn sai thúc trống. Hóa Cập mặt tái mét tâu với Dạng Đế rằng :
                              - Con hạ thần giao chiến suốt từ sáng mệt lắm rồi, xin cho con thần được nghỉ.
                              Dạng Đế truyền chỉ thu binh. Dương Lâm được chỉ, thở dài một tiếng đành phải đánh cồng.
                              Thành Đô về đến đầu thuyền rồng, không kịp cởi giáp, ngã nhào xuống chết ngất đi, máu miệng hộc ra.
                              Hóa Cấp buông tiếng khóc. Các tướng xúm lại gọi một hồi lâu mới tỉnh, ôm vào trong khoang thang thuốc.
                              Hóa Cập tâu với Dạng Đế lui thuyền năm mươi dặm, Dạng Đế lo sợ hỏi bá quan :
                              - Thành Đô bị ốm, làm sao lui được chúng phản vương?
                              Đáp rằng :
                              - Muốn đánh tan rã các phản vương, chỉ còn có cách đến Thái Nguyên vời cha con Lý Nguyên Bá mà thôi. Ngoài người ấy ra tất không ai đánh được thiên binh vạn mã ấy.
                              Dạng Đế vội giáng chỉ sai Sài Thiệu đi vời Nguyên Bá cấp tốc đi cứu giá. Đường công tiếp được thánh chỉ ngẫm nghĩ.
                              - Trong các phản vương, có ân nhân ta là Tần Thúc Bảo ta biết xử trí ra sao. Chỉ lo con ta hùng dũng, lỡ tay thì lão phu hối hận cả một đời.
                              Còn đang lưỡng lự, thi sứ thần giục giã. Đường công bất đắc dĩ cho Nguyên Bá đi. Nguyên Bá cúi đầu lạy biệt, rồi vác chùy lên ngựa đi cứu giá.
                              Nguyên Bá vừa đi vài dặm thì có gia tướng đuổi theo mời quay lại.Trở về, thấy bà Độc Cô thái thái đang niệm Phật, gọi cháu đến xoa đầu nói :
                              - Cháu đi cứu giá là một việc phải của đạo thần tử, bà không dám giữ, nhưng có điều quan trọng, nên phải gọi cháu về dặn một câu: ở Tứ Lãng sơn có thiên binh vạn mã, cháu tha hồ tung hoành ngang dọc, duy có binh mã Ngõa Cương thì cháu không nên động đến người nào hết.
                              Nguyên Bá kinh ngạc hỏi :
                              - Thưa bà tại sao lại thế?
                              Lão bà đáp :
                              - Vì có một Nguyên soái là đại ân nhân của nhà ta. Đó là ông Tần Thúc Bảo, Rồi lão bà đem chuyện cả nhà bị Tấn vương mưu hại thế nào, được Thúc Bảo cứu cho toàn gia sống sót thế nào.
                              Kể hết rồi tiếp :
                              - Nếu không có Tần ân nhân thì cả nhà đã làm quỷ không đầu rồi, còn làm gì có cháu ngày nay nữa cháu nên khắc ghi vào lòng mời được, kẻo trái đạo làm người đó cháu.
                              Đoạn Độc cô thái thái trỏ bức tranh treo trên án dưới có bài vị để ngày ngày thờ sống. Nguyên Bá ngắm kỹ thấy tranh vẽ một đại tướg mặt vàng, mắt sáng, râu ba chòm, tay cầm kim giản, dưới đề “Ân Công Tần Thúc Bảo”.
                              Xem xong, Nguyên Bá nói :
                              - Thưa bà, cháu đã nhớ kỹ mặt Tần ân công rồi, cháu xin ghi nhớ lời bà dạy bảo.
                              Rồi quỳ lạy, chạy ra nhảy tót lên yên. Sài Thiệu vẫn đợi ở bên đường. Hai người phi như gió, thấm thoát đã tời Tứ Lãng sơn, Lại nói, Từ Mậu Công đang cùng các tướng thương nghị thì bỗng kêu lên :
                              - Nguy to rồi! Nguy to rồi!
                              Mọi người cả sợ hỏi cớ sao. Mậu Công đáp :
                              - Có đại bằng giáng sinh nay đến cứu Tùy Dạng Đế. Trong chúng ta không ai địch nổi, thế là việc bắt hôn quân hỏng mất rồi.
                              Đoạn gọi Vương Bá Dương ghé tai nói nhỏ. Bá Dương vâng lệnh đi đón đường Nguyên Bá.
                              Sài Thiệu và Nguyên Bá đang phi ngựa thì thấy một bọn đứng chắn đường reo ầm ĩ như điên dại. Sài Thiệu nhận được Bá Dương là bạn cũ, đoán là có ý chi đây, bèn bảo Nguyên Bá rằng :
                              - Hiền đệ đi sau, để ta lên hỏi lũ điên kia làm gì thế.
                              Nói rồi vỗ ngựa tiến lên nghiêng mình chào Bá Dương rồi hỏi nhỏ :
                              - Công tử thứ tư họ Lý đã đến cứu giá. Đại huynh mau về bảo bọn ta ai nấy đeo một lá cờ vàng nhỏ ở sau lưng để giữ toàn tính mạng, kẻo cặp chùy kia giết hết.
                              Bá Dương cảm tạ, dẫn quân đi. Sài Thiệu quay lại, Nguyên Bá hỏi :
                              - Chúng làm gì thế?
                              Thiệu cười nói :
                              - Chúng là bọn cày ruộng ở thôn trang, thấy chúng ta ta đi cứu giá đòi theo làm lính, nhưng cái bọn ma đói ấy làm gì được. Ta đã cho chúng ít tiền chúng về đong gạo ăn rồi!
                              Hai người cùng sóng ngựa rẽ sang con đường tắt qua rừng, Sài Thiệu nói :
                              - Chắc hiền đệ đã xem bức tranh ân công Tần Thúc Bảo ở nhà.
                              Không những nhà ta thờ cúng hàng ngày, mà ở Thái Nguyên bá phụ còn lập đền thờ sống cùng các Phật. Cái đó đủ biết bá phụ coi cái ân nghĩa đó nặng biết bao. Vậy em ra trận chớ nên xâm phạm đến Tần ân công nhé! Bá phụ để em đi, vì trung mà đau ruột bỏ tình riêng, nên không muốn xin em điều đó. Nhưng anh cần phải bảo em kẻo trái đạo trời em đã nhớ chưa.
                              Nguyên Bá nói :
                              - Em đã tạc dạ rồi, tổ mẫu cũng đã gọi em trở lại mà ân cần thêm.
                              Sài Thiệu nói :
                              - Tần ân nhân tuy sức khỏe kém em những giản pháp như thần.
                              Ông ta có nhiều bạn bè lắm, người nào cũng có hiệu riêng là chiếc cờ vàng nhỏ cắm sau lưng. Em thấy cờ vàng thì không nên đánh.
                              Nguyên Bá nhất nhất nghe lời.
                              Một lát tới thuyền rồng. Dạng Đế cả mừng vời Nguyên Bá xuống, ban ngự tửu.
                              Đây nói Bá Dương lên núi, nói lại lời Sài Thiệu dặn. Mậu công bèn khẽ rỉ tai các tướng của Ngõa Cương, ai nấy đều cắm cờ vàng. Duy có Bùi Nguyên Khánh thì cười khanh khách nói :
                              - Tôi đi trận từ năm lên bảy, nay đã mười bốn tuổi, đôi chùy này chưa biết nể ai, đã từng giết thiên binh vạn mã. Cái thằng Lý Nguyên Bá có chịu nổi được một chùy của tôi không mà phải sợ. Thà chết chứ thằng Khánh này không chịu nhục. Nay xin đem binh đi bắt nó về đây cho quân sư biết!
                              Mậu Công khuyên ngăn mải, Khánh không nghe. Mậu công dặn Thúc Bảo :
                              - Nguyên Bá ghê gớm lắm, nhưng tướng quân cũng cứ sức cản để giữ gìn cho binh tướng của ta, có nên lùi tránh.
                              Thúc Bảo vâng lời Hôm sau, mặt trời vừa mọc, Nguyên Bá lên trên bộ, không cần đem theo một tên quân, vác chùy thúc ngựa đến Tứ Lãng sơn.
                              Thúc Bảo đem quân xuống núi, đi đầu các tướng Bảo mặc giáp dày, cầm hổ đầu thương, lưng gài kim giản. Thấy Nguyên Bá, Thúc Bảo hỏi to :
                              - Có phải Chiêu vương Lý Nguyên Bá đó chăng?
                              Nguyên Bá thấy rõ ràng trong tranh thì vái lạy :
                              - Nếu phải Tần ân công thi xin hạ binh lại cháu không dám giao tranh.
                              Nói rồi vác chùy đánh các phản vuông. Thúc Bảo đuổi theo bén gót.
                              Chạy đến phía đông, thấy Trương Công Cẩn, Sử Đại Nại có cờ vàng biết là bạn ân công Nguyên Bá lại rẽ ngựa phía tây, Thúc Bảo giơ thương đánh, Nguyên Bá né mình tránh dễ dàng như bỡn, nói to :
                              - Ân công nên đi chỗ khác, cháu vâng lời tổ mẫu nhường ân công thương đó. Xin ân công biết thế cho.
                              Dứt lời phi ngựa chạy về phía bắc, thấy Tề Quốc Viễn, Lý Như Khuê cũng có cắm cờ vàng, Nguyên Bá chạy về phía nam, lại gặp Bá Dương, Đơn Hùng Tín cũng có cắm cờ vàng Nguyên Bá kêu lên :
                              - Sao ân công ta nhiều bạn thế này, biết đánh ai cho được.
                              Quay trở lại gặp Tần Thúc Bảo. Số là Thúc Bảo theo kế Từ quân sư cứ lẩn quẩn theo sát Nguyên Bá để trong khi ấy các phản vương và quân sĩ của mình rút dần về Ngõa Cương cho thoát.
                              Gặp Tần Thúc Bảo. Nguyên Bá lại rẽ ngựa chạy đi, bất ngờ Nguyên Bá thấy xa xa có đám quân đang rầm rộ chạy, Nguyên Bá toan thúc ngựa duỗi theo để giết, Thúc Bảo lo sợ cho đám quân kia, nên cầm thương đâm Nguyên Bá, khiến Bá không đuổi bọn quân kia nữa. Ngọn thương của Thúc Bảo phóng ra mạnh quá, Nguyên Bá không kịp né mình, bất đắc dĩ phải giơ chùy khẽ gạt. Hai binh khí chạm nhau choang một tiếng. Cây thương nặng tám chục cân bật văng đi, không biết đi đàng nào, mà cánh tay Thúc Bảo sái hẳn đi không cựa được nữa.
                              Lý Nguyên Bá vội nhảy xuống đất, vái mà rằng :
                              - Ân công tha tội cho cháu. Không khi nào cháu dám vô lễ với ân công.
                              Thúc Bảo cũng xuống ngựa đáp lễ Nguyên Bá, rồi đi tìm cây thương, trông thấy bắn xa vài mươi thước, nhặt lên thì đã cong như một cánh cung, Nguyên Bá đỡ lấy kéo thẳng ra, lại dài hơn một tấc, rồi đưa Tần Thúc Bảo.
                              - Xin ân công về ngay Ngõa Cương, đừng ở đây làm gì nữa.
                              Thúc Bảo cảm tạ, rồi rẽ ngựa đi lối khác. Nguyên Bá ngoặc về đường cũ, thấy một tướng lớn tuổi hơn mình một tý, củng cầm chùy nặng, mà trên lưng không có cờ vàng, Nguyên Bá chẳng nói chẳng rằng múa chùy đánh luôn.
                              Nguyên Khánh giơ chùy đỡ, lạng cả người đi. Nguyên Bá đánh luôn chùy nữa, Nguyên Khánh lại đỡ, con ngựa chúi đầu suýt khuỵu, mắt Nguyên Khánh hoa lên, Nguyên Bá lại bồi thêm chùy thứ ba, Nguyên Khánh lần này phải giơ thẳng hai tay cầm ngang chùy sắt nghiến răng mà đón, hai cánh tay buốt nhức, mắt như tóe lửa, mồ hôi ướt đầm áo giáp Nguyên Khánh biết không còn sức chịu thêm chùy thứ tư bèn kêu lớn :
                              - Quả Nguyên Bá là tay lợi hại! Ta chịu nhường ngươi chức anh hùng vô địch ở đời này.
                              Rồi quay ngựa chạy. Nguyên Bá gọi to lên :
                              - Em ơi, thiên hạ chưa từng có một hảo hán nào chịu nổi ba chùy của anh, nay mới có em là một, anh khá khen em đó.
                              Nguyên Bá không đuổi nữa, rẽ sang đường khác.
                              Khi đó Vân Thiệu, Thiên Tích, Khoát Hải, ba con hổ xám thấy nguyên Bá bé tí, khẳng kheo, lại thường nghe đồn là khỏe lắm, liềm xúm vào cùng đánh thử xem.
                              Nguyên Bá thấy ba người cũng cắm cờ, nên chỉ khẽ giơ chùy đỡ. Ba thứ binh khí bạt cả đi, sáu bàn tay toạc hổ khẩu, anh em Vân Thiêu nằm rạp trên yên hô nhau chạy trốn.
                              Nguyên Bá phóng ngựa thẳng đến Tứ Lãng sơn, thấy các phản vương và quân mã đông như kiến cỏ mà chẳng ai cắm cờ vàng. Bá múa tít đồng chùy, đi đến đâu thịt nát xương tan đến dấy. Thương thay, một trận tiểu tướng tung hoành, khiến thây chất như non, máu tuôn như suối.
                              Chúng phản vương mạnh ai nấy chạy, mặt không còn hột máu. Thế là trong chớp mắt, Nguyên Bá dẹp tan mười tám phản vương, hai mươi vạn quân mã bốn phương tụ tập.
                              Bùi Nguyên Khánh vẫn tự cho mình là anh hùng bậc nhất trong thiên hạ, nay chịu khuất phục Lý Nguyên Bá thì buồn rầu lủi thủi đi.
                              Bất đồ thấy Cô Sơn vương Dương Lâm kéo quân ra ngăn cản, Nguyên Khánh đang tức bực xông ngay vào đánh Dương Lâm. Lão tướng cũng vốn coi mình là tay bách chiến, coi thường cậu nhỏ, ngờ đâu vừa giơ cây long tu bổng đỡ thì chỉ kịp kêu một tiếng “ối chao khỏe quá!”
                              cây long tu bổng gãy làm hai đoạn, bàn tay đẫm máu suýt ngã nhào xuống đất.
                              Dương Lâm cố gắng gượng dậy ôm chặt cổ ngựa mầ rền rĩ :
                              - Chiến mã ơi, ngươi đưa ta về Đăng Châu kẻo ta chết mất.
                              Tuấn mã như nghe biết, tìm con đường nhỏ thẳng về phương nam mà phi như gió cuốn mây bay.
                              Các phản vương đã chạy đi hết, chỉ còn xương máu ngập sa trường.
                              Lý Nguyên Bá giết sướng tay, giáp trụ đầy máu đỏ,tính ra đập vỡ sọ tan xương năm mươi viên đại tướng, còn quân sĩ thi không sao kể cho xiết được.
                              Do trận ấy mà đại danh Lý Nguyên Bá vang trong thiên hạ, các phản vương nghe thấy là phách lạc hồn bay.
                              Nguyên Bá về thuyền rồng phục chỉ :
                              - Tâu bệ hạ, gịăc đã lui hết rồi.
                              Dạng Đế mừng rỡ lại sai ba ngàn gái đẹp kéo thuyền đi và lại đàn hát vang sông, tưởng như lúc thiên hạ thái bình thịnh trị.
                              Thấm thoát tới Giang Châu. Dạng Đế truyền Thế Dân vào thành sai người sửa soạn Quỳnh hoa quán để sáng mai thánh giá ngự xem hoa.
                              Tần vương lĩnh chỉ vào thành, trước hết xem dị hoa đó ra sao. Quả nhiên là một loài hoa lạ, to bằng hai cánh tay ôm, cao ba trượng, mùi thơm đi ba mươi dặm, năm sắc huyền ảo lóng lánh như mây, trên đài hoa có tám cánh lớn, phía dưới có sáu mươi tư cánh nhỏ, quay chầu vào mặt Tần vương. Gió xuân rung động, Quỳnh hoa gật hai mươi tư gật lạy chào.
                              Đến đây, ta phải nói rằng dị hoa đã nở hơn ba tháng mà vẫn thắm tươi, bởi vì dị hoa từ thiên cung giáng xuống để chầu Chân chúa. Hoa chờ Chân chúa đến nên cứ giữ sắc hương. Nay Chân chúa đến kia rồi, hoa làm lễ triều kiến, hai mươi tư lạy rồi ngay đêm hôm ấy gió lộng tuyết rơi mù mịt trời đất, khiến quỳnh hoa rào rào rụng cánh, đến khi trời sáng thì cánh hoa lẫn vào với tuyết chất cao chót vót tới mây.
                              Dạng Đế hôm sau vào ngự lãm dị hoa, chỉ còn trơ núi tuyết, thì trong lòng buồn bực, hỏi các quan rằng :
                              - Ở đây có nơi nào thắng cảnh thì đưa trẫm đi du ngoạn.
                              Hóa Cập đề nghị đến Kim Sơn, ở đấy sông núi đẹp như nơi tiên động.
                              Dạng Đế hài lòng lại xuống thuyền tới Kim Sơn. Ngắm xem phong cảnh, thấy núi sông hoa cỏ như gấm vóc, thuyền bè qua lại như lá tre.
                              Dạng Đế lấy lành vui lắm.
                              Đêm ấy, ngủ trong hành cung, vào khoảng canh hai trăng thượng tuần vừa lặn thì Dạng Đế bỗng mở mắt ra thấy phụ vương Văn Đế và Thái tử Dương Dụng. Bộc sạ Ngữ kiến Trương, theo sau hàng vạn oan hồn rên rỉ. Người nào cũng mặt đầy máu, kẻ cụt kẻ què chửi rủa Dạng Đế mà đòi mạng. Dạng Đế đang luống cuống thì có một con chó vàng xổ ra đuổi cắn, quỷ ma tan đi hết.
                              Canh năm, Dạng Đế vời Hóa Cập vào kể mộng. Hóa Cập tâu :
                              - Chó vàng là Kim khuyển ứng vào Lý Mật. Chúa công mau về Giang Đô trừ kẻ ấy đi, kẻo cái vạ tày đình sẽ đến.
                              Hôm sau truyền thuyền ngự về Giang Đô, ba nghìn gái đẹp lại hò hát kéo thuyền. Lý Mật cỡi ngựa đi trên bờ hộ giá. Tiên hậu đang gõ phách ngọc ca cho Dạng Đế nghe, bỗng giở tay vén rèm hoa ngó ra sông nước. Lý Mật thấy Tiên hậu mặt đẹp như hoa tóc như mây, mắt như sóng gợn, thì chú ý nhìn. Tiên hậu nổi giận hỏi rằng :
                              - Người nào cỡi ngựa kia, sao nhìn ta vô lễ thế?
                              Hóa Cập đứng hầu ở ngoài khoang, nhân dịp ấy nghĩ ngay đến oán thù, bèn khom mình đáp :
                              - Tâu quốc mẫu đó là Ngụy quốc công Lý Mật.
                              Dạng Đế nổi giận đùng đùng :
                              - Đó là tội khi quân, phải giết nó mới xong.
                              Rồi để bụng, tới Giang Đô, Dạng Đế sai Đậu Kiến Đức bắt Lý Mật đem xử giảo, mà chẳng kể tội lỗi gì chỉ còn chờ giờ ngọ khai đao.
                              Sắp đến giờ trả nợ dời, Lý Mật ứa nước mắt bảo Kiến Đức rằng :
                              - Tình tôi với lão huynh như ruột thịt, nhìn máu tôi đổ xuống đại huynh chẳng đau ư? Sao không có một lời can xin!
                              Kiến Đức nói :
                              - Đây là mưu của gian thần, nhưng đại huynh không lo, tiểu đệ nỡ nào cắt ruột thịt mình cho thiên hạ cười là bất nghĩa.
                              Kiến Đức nói vậy, vì đã bàn cùng Chu Sán lập mẹo cứu Lý Mật rồi.
                              Khi đó Quỳnh hoa thái thú là Vương Thế Sung vẫn có ý làm phản, nên đã ngầm mộ được mấy ngàn quân. Bấy lâu nay chờ cơ hội khởi sự, nhưng chưa có dịp nào, nay tự nhiên thấy Lý Mật sắp bị chết oan, mà chính mình được làm thôi binh quan, bèn vội cầm cờ nhỏ chạy ra pháp trường.
                              Thế Sung ra hiệu cho Chu Sán cắt dây trói cho Lý Mật, rồi cả bốn người đem gia tướng bỏ Giang Đô phi ngựa chạy.
                              Dạng Đế nghe tin cả giận, sai Nguyên Bá, Sài Thiệu đi đuổi bắt về.
                              Nhưng bọn Lý Mật đã đi xa, Nguyên Bá, Sài Tiệu đành phép trở về không.
                              Lý Mật ngày đêm chạy về Thái nguyên lẩn tránh.
                              Đậu Kiến Đức trốn đến Minh Châu gặp bạn cũ là Lư Hắc Thát, Tô Định Phương, Sài Kiến Phương, Lương Đình Phương, đã sẵn nhiều quân mã, bèn họp lực đang đêm chiếm đoạt Minh Cháu, giết quan trấn thủ là Trương Xứng Kim.
                              Kiến Đức tự xưng là Hạ Minh vương, phong các bạn làm đại tướng.
                              Còn Vương Thế Sung chiếm Lạc Dương. Chủ quản Đoàn Đạt giúp sức. Thế Sung tự xưng là Lạc Dương vương, phong Pháp Tự làm quân sư, Đoàn Đạt làm Nguyên soái, Vương Lâm làm đại tướng.
                              Lại kể đến Chu Sán trốn đến Sở Châu là Cao Sĩ Đạt vô đạo bị bộ hạ giết chưa biết tìm ai lên thay.
                              Nhân một hôm chúng đi săn, thấy Chu Sán ngủ trong vòng hào quang sáng rực, biết là quý nhân, chúng rước ngay về tòa làm Nam Dương vương.
                              Nhắc đến Lý Mật trốn về Thái Nguyên ở một dạo lại bỏ đến Lễ Dương, gặp Việt Quốc công Dương Tố là bạn chí thân. Lý Mật đã ở trong phủ mười hôm mà chẳng thấy Dương Tố bước ra ngoài đại đường.
                              Mật hỏi tại sao Tế nói :
                              - Tôi cứ ngồi là thấy quỷ sứ lôi đầu xé áo, nên sợ mà chẳng dám dò ra nữa.
                              Lý Mật nói :
                              - Hôm nay tôi xin ra đứng sau lưng thiên tuế, hễ có ma quỷ tôi trừ ngay đi chúng sẽ không dám quấy nhiễu.
                              Hai người cùng ra đại đường. Dương Tố ngồi một lát đã thấy gió thổi vù vù ở quanh nhà, rồi quỷ ma xõa tóc nhe răng xúm quanh Dương Tố mà đánh xé...
                              Lý Mật tuốt ngay kiếm nhằm đúng con quỷ mặt xanh chém mạnh.
                              Quỷ chẳng thấy dâu, chỉ thấy Dương Tố chết nằm gục bên văn án. Đó là vì Dương Tố là Ngũ quỷ tinh ra đời, ngày nay tận số nên bi Lý Mật giết.
                              Dương Hiếu Cẩm thấy vậy hô gia đinh mấy trăm kẻ trói Lý Mật bỏ tù xa đem giải kinh đô lập tức.
                              Đây nói chuyên Trình Giảo Kim làm vua đã thấy chán, một hôm ra chầu kêu lên rằng :
                              - Ta làm Hoàng đế mệt lắm rồi, sáng dậy sớm, tới khuya mới nghỉ, lại phải mũ áo lôi thôi lếch thếch. Ta chỉ thèm như ngày xưa cởi trần dẫm đất chạy nhông ngoài chợ, rượu thịt tha hồ, ngứa tay thì đánh nhau chơi, như thế là sướng nhất. Thôi ta không làm vua nữa.
                              Nói rồi bỏ mũ vất áo trả mọi người. Mậu Công biết rằng cái số Giảo Kim chỉ làm vua có ba năm, nay đã hết hạn rồi. Trong quân chưa có người thay, còn đang suy nghĩ bỗng nói to :
                              - Đã có Chân chúa tới Ngõa Cương, mau đi cứu giá.
                              Mọi người kinh ngạc hỏi :
                              - Chân chúa ở đâu mà cứu?
                              Mậu Công đáp :
                              - Chân chúa sắp bị giải qua con đường này, mau ra rước vào đây để lên ngôi báu.
                              Giảo Kim nhảy ngay xuống hăm hở nói :
                              - Nếu vậy thì ta xin đi đón.
                              Tức khắc cầm búa chạy xăm xăm ra cửa, vẫn để cả mũ áo ngổn ngang trên đất, mình chỉ vận chiếc áo cộc đỏ, chân không giày dép gì cả, vừa chạy vừa thét :
                              - Mở cửa mau cho ta đi cứu giá. Ta chán làm vua lắm rồi, phen này đi đánh nhau cho thỏa thích đây.
                              Quân sĩ sợ hãi tưởng là chúa công điên dại, giạt cả sang hai bên đường, buồn cười nhưng cứ phải bưng miệng lại.
                              Mậu Công cũng đem các tướng ra ngoài thành cứu giá.
                              Được một quãng, đã thấy Giảo Kim quát tháo trước một toán công sai và quân sĩ ở bên chân núi. Dương Hiếu Cẩm đứng trước tù xa Lý Mật múa giáo đánh Giảo Kim. Kim giơ búa đỡ thuận tay xả một nhát Hiếu Cẩm đứt làm hai đoạn Kim bổ vỡ tù xa, dắt Lý Mật ra. Bọn Mậu Công cũng vừa kéo đến, mời Lý Mật lên kiệu về quan ải.
                              Tới nơi, mọi người sụp lạy :
                              - Chúa công đã tới nơi, xin lên ngôi báu để chúng tôi phò tá mưu đại sự.
                              Lý Mật ngạc nhiên nói :
                              - Tôi là một kẻ tử tù, được các ông cứu sống, chỉ xin làm một tên lính hầu dưới trướng đã là may, dám đâu vô lễ thế?
                              Mậu Công nói :
                              - Đó là ý thiên đình. Xin Chúa công đừng từ chối nữa.
                              Đoạn lấy mũ bình thiên, áo long bào dâng lên. Lý Mật ngần ngại không muốn mặc. Giảo Kim nóng nảy chạy ngay đến chụp mũ, khoác áo hbo Lý Mật nói ầm lên :
                              - Chúng tôi đã mời thì ông cứ làm vua chơi một chuyến như lão gia đây, cần gì mà khiêm nhường mải. Bao giờ chán lại thôi.
                              Lý Mật đành chịu ngồi lên ghế vua. Mọi người tung hô vạn tuế.
                              Lý Mật đổi hiệu là Tây Ngụy vương, đổi Ngõa Cương trại thành Kim Dung thành, Lý Mật phong Mậu Công làm quân sư, Ngụy Trưng làm thừa tướng, Tần Quỳnh làm Phi hổ tướng quân, Hùng Tín làm Liệt hổ tướng quân, còn các tướng khác đều làm Thất phiến bát mãnh.
                              Yến tiệc linh đình đủ ba ngày Dân chúng mở hội mừng Chân chúa. Quân sĩ hò reo, vang cả chốn ải quan.
                              Ngày thư tư, Lý Mật thiết triều thương nghị việc tiến quân đánh năm ải tới thẳng Giang Đô bắt hôn quân vô đạo phong Thúc Bảo làm binh mã Đại nguyên soái, Giảo Kim làm tiên phong, Mậu Công làm hành quân sư Khâu Thụy, Hùng Tín, Nguyên Khánh làm vận lương quan.
                              Đại binh kéo tới Lâm Dương cách thành năm dặm thì hạ trại.
                              Nghỉ một ngày, Giảo Kim liền đi khiêu chiến. Tướng Lâm Dương là Thượng Tư Đồ nghe báo tức thì vác cây đề la thương, cỡi ngựa hô lôi báo ra đối địch. Thượng Tư Đồ thấy Trình Giảo Kim mắng rằng :
                              - Thằng ngu ngốc kia sao đang làm vua mà lại ra đây chịu chết?
                              Kim đáp :
                              - Ta không thích làm vua nữa, ta đến đây lấy đầu mày thích tay hơn, can chi mày nói lôi thôi, muốn sống xuống ngựa lạy ta thì được sống.
                              Thượng Tư Đồ thúc ngựa đánh liền. Giảo Kim giơ búa bổ. Tư Đồ biết Giảo Kim có ba búa đầu thì vô dụng, nên gạt đỡ xong ba búa, Tư Đồ nắm mớ lông đầu hổ lôi báo giật luôn mấy cái.Lôí báo chồm lên, phun ra khói. Ngựa Giảo Kim ngã lăn quay, hất Giảo Kim xa một trượng. Tư Đồ sai quân sĩ trói Giảo Kim đem vào trong quan ải.
                              Thúc Bảo toan ra tay cứu thì Khâu Thụy vùa đi tải lương về. Khâu Thụy nói :
                              - Tư Đồ vốn là bạn học một thầy với lão, để lão ra lấy lời dụ dỗ cho hắn bỏ hôn quân mà theo ta, xin Nguyên soái cứ bình tâm.
                              Nói rồi xuất trận, Thấy Tư Đồ, Khâu Thụy xá dài trên mình ngựa :
                              - Lão phu mặc giáp không xuống đất lạy chào, xin lão đại huynh miễn tội cho.
                              Tư Đồ thi lễ nói :
                              - Chẳng hay lão huynh vì lẽ gì mà lại làm một kẻ phản thần theo giặc, cái danh trung nghĩa của lão huynh từ thuở trẻ bây giờ mất hết.
                              Lão huynh có tuổi thành ra xử sự lầm lẫn quá, tôi lấy làm thương tiếc lắm.
                              Khâu Thuỵ vuốt chòm râu bạc, mỉm cười :
                              - Chúa thượng vô loài, giết cha hại anh, làm điều vô luân vô đạo, phải đâu là minh chúa để tôi trung dốc lòng thờ, ngày nay thiên hạ bất bình mà nổi loan, giặc cướp nổi như ong. Khí số hôn quân chẳng còn bao nhiêu nữa, đại huynh chẳng biết sao còn trách lão phu, chi bằng bỏ tối tìm nơi sáng, bỏ bá đạo theo vương đạo, về đây với lão phu trọn cái tình bạn cũ, đại huynh nghĩ thế nào?
                              Thượng Tư Đồ nổi giận :
                              - Lão già này loạn óc, đen lòng, theo giặc tội đã đáng giết rồi lại còn đem lời mê hoặc lòng trung can này nữa, càng đáng chết hơn. Tức thì nắm bờm ngựa giật, lôi báo quen lệ thết như hổ rống, phun khói đen ra khiến ngụa Khâu Thụy ngã lăn vật nlgã Khâu Thụy xuống. Tư Đồ phóng thương đâm trúng cổ Khâu Thụy.
                              Thế là lão tướng một phút sa cơ đã bỏ cả một đời trung dũng chốn sa trường.
                              Thúc Bảo được tin nhảy ngay lên ngựa ra trận trả thù cho lão tướng.
                              Thúc Bảo cả giận quát to :
                              - Tư Đồ là một tên hèn hạ, thân làm đại tướng phải dùng võ nghệ thi cao thấp sao lại cứ bám chặt vào mớ lông đầu ngựa mà hại kẻ anh hùng, như thế thì ta khinh ngươi hơn con vật đó.
                              Tư Đồ tức lắm nhưng cũng cười nhạt đáp :
                              - Đã thế thì không dùng ngựa nữa, mũi thương này chỉ ba hiệp lấy đầu ngươi.
                              Bảo nói :
                              - Như thế mới là hảo hán. Ta lại muốn cho quân sĩ lui xa để tránh sự nghi kỵ hại ngầm nhau.
                              Tư Đồ bằng lòng cho binh lui về quan ải. Đoạn Thúc Bảo nói :
                              - Ta ngờ rằng chỉ chừng ba hiệp ngươi không địch nổi ta lại dùng lông ngựa, vậy có thực là tay anh hùng không cần bám vào con vật thì cùng ta xuống ngựa tử chiến một phen.
                              Tư Đồ tức khí nhận lời, sau đó hai ngựa buộc hai nơi Tư Đồ dùng roi sắt, Thúc Bảo múa đôi kim giản như lá rụng mưa rào. Nhưng Thúc Bảo đã dụng cơ mưu, cứ đánh một hiệp lại lùi năm bước dứ cho Tư Đồ đuổi mãi đến chỗ sườn núi che khuất hẳn con ngựa lôi báo kia đi.
                              Từ Mậu Công ghé tai bảo nhỏ Bá Dương.
                              Dương vâng lệnh đến chỗ buộc ngựa, nhảy ngay lên yên lôi báo, nhổ cả cây đề la thương phóng vào trong ải.
                              Thúc Bảo đưa mắt trông rõ lại dứ Tư Đồ về chỗ cũ rồi cười khanh khách :
                              - Ngựa của túc hạ đã mọc cánh bay lên trời rồi!
                              Tư Đồ biết mắc mưu đỏ mặt nói :
                              - Thật là quân cường đạo ăn cắp ngựa ta. Thôi thế đem Giảo Kim ra đổi vậy.
                              Rồi gọi quân sĩ giải Giảo Kim ra.Bên này Bá Dương cũng đem lôi báo và đề la thương trả lại, đón Giảo Kim về.
                              Hai bên cùng thu quân vì trời đã tối. Vào ải, Thúc Bảo dặn nhỏ Bá Dương như thế như thế...
                              Bá Dương lĩnh mệnh đang đêm đem quân ra phía tây sau núi dào một cái hố rất dài. Bá Dương ngồi trong đó, bảo quân sĩ lấy chiếu phủ lên trên, rồi trải cỏ và đất Sớm hôm sau, Thuc Bảo khiêu chiến, đánh năm sáu hiệp rồi chạy về cái hố đào sẵn. Thúc Bảo dừng ngựa nói :
                              - Nếu Tư Đồ vẫn là anh hùng thì chớ nên dùng lông ngựa nhé.
                              Tư Đồ nghiêm mặt nói :
                              - Trượng phu có bao giờ thèm nói dối. Ta chỉ thấy các ngươi lừa ta, chứ khi nào ta cần lừa lại đâu.
                              Thúc Bảo đề nghị lại xuống đất đánh nhau Tư Đồ cười đáp :
                              - Tần Quỳnh muốn ta mắc mưu lần nữa đó chăng?
                              Bảo đáp rằng :
                              - Ở đây quãng trống đồng không, chung quanh hàng mười dặm không có một nóc nhà, một bóng người, còn có ma nào hiện ra ăn cắp ngựa của nhà ngươi nữa.
                              Tư Đồ nhìn quanh rồi xuống đất, lại cắm cây đề la thương xuống, buộc ngựa vào đó.
                              Thúc Bảo lại dùng kim giản, Tư Đồ dùng roi, hai bên đánh nhau vô cùng hăng hái. Thúc Bảo lại vừa đánh vừa lùi mãi. Bá Dương ở dưới hố gần lôi báo thấy Thúc Bảo dử Tư Đồ đã xa bèn chui lên, nhảy lên lưng hổ lôi báo chạy một mạch về quan ải.
                              Lát sau, Tư Đồ về nơi buộc ngựa quát vang lên :
                              - Lại có kẻ cắp ngựa của ta rồi!
                              Thúc Bảo cười đáp :
                              - Cái thằng bạn của tôi lạ quá. Hắn thích con ngựa của túc hạ nên cứ cố lấy cho kỳ được. Thôi kính chào túc hạ. Mai lại quyết một trận thư hùng nữa.
                              Rồi ra roi cho ngựa chạy bay vào ải quan. Tư Đồ đỏ mặt tía tai, hầm hầm đi bộ về bản trại.
                              Thúc Bảo lấy được ngựa quý, mở tiệc ăn mừng. Giảo Kim rượu say vào buồng ngủ trước. Đến canh ba thức dậy chợt nghĩ đến con lôi báo, nhớ lúc ngã chổng kềnh suýt chết thì nổi giận, vùng ngay dậy. Ra tàu ngựa, Kim một tay nắm bờm, một tay đấm luôn lấy cái, khiến lôi báo gầm lên như sấm. Mấy trăm ngựa chung quanh ngã lăn, phòi cả bọt mép ra. Kim giật nảy mình cũng ngã nhào xuống đất. Đứng lên cáu tiết vớ nắm lông mà giựt rồi nhảy lên phóng ra ngoài ải.
                              Con lôi báo càng phóng Kim càng dứt bờm làm cho đám lông thần trụi nhẵn.Lôi báo đau quá đứng ngóc đầu lên,Giảo Kim lăn đi mấy vòng không ngóc lên được nữa Lôi báo thẳng đường về ải Lâm Dương với chủ cũ.
                              Tư Đồ thấy ngựa quý về mừng lắm, xem đến bướu thì thấy mất cả nắm lông. Đồ làm cách nào nó cũng như câm điếc (từ đấy về sau, tới khi Thúc Bảo dành phá Đồng Kỳ nó mới gầm một tiếng.Sau gầm một tiếng ở Dương Châu trong trận cướp Trạng nguyên, trận ở Mỹ Lương châu Uất Trì Cung, Đại chiến lại gầm một tiếng. Khi qua bể Chinh Đông lại gầm một tiếng sau cùng).
                              Thấy mất lôi báo, Thúc Bảo cả giận thét lôi Giảo Kim ra trảm, Giảo Kim la ầm ĩ :
                              - Tần huynh coi ta sao không bằng con vật. Chẳng ra gì ta cũng đã là một ông vua, xưa lại là ân nhân của nhà ngươi. Nay giết ta vì tiếc ngựa, ta chết cũng đành, chỉ lo cho thiên hạ cười chê ngươi là bất nghĩa.
                              Thúc Bảo vội thân cởi trói, vái lạy mà rằng :
                              - Trình đại huynh xá lỗi cho. Đó là vì quân lệnh. Vì tình riêng thì quân pháp bất nghiêm, còn dám dạy ai được nữa. Đại huynh xét kỹ cho.
                              Dứt lời, có tín báo Tư Đồ cỡi lôi báo đến thách đánh nhau, Thúc Bảo sai nổ pháo, đem tướng sĩ ra ngoài ải.
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment

                              Working...
                              X