Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Xuân thu oanh liệt

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Xuân thu oanh liệt

    Hồi 1


    Thành Đồng Quan, Bạch Khởi Cướp Dinh Trấn Châu Tiên,
    Tôn Bàng Kết Nghĩa


    Bởi vì nhà Châu suy vi, nên quần hùng bèn nổi lên gây loạn. Ai cũng muốn cầm quyền bá chủ, ai cũng mong mạnh nước lấn ranh. Cả thảy có bảy nước là: Tần, Sở, Triệu, Ngụy, Yên, Hàng, Tề, mỗi nước chiếm một góc, sừng sỏ với nhau. Trong bảy nước đó có nước Tần là mạnh hơn hết.
    Còn Sở, Triệu, Ngụy, Yên, Hàng, Tề thường bị Tần áp chế.
    Đây xin nói qua vua nước Yên lúc bấy giờ, có một nàng công chúa tên gọi Yên Đơn, chọn được Tôn Tháo làm phò mã. Tôn Tháo là con của Tôn Võ, vốn dòng nhà tướng, lúc nhỏ tập rèn cung kiếm, lớn lên chuyên học lượt thao, nên rõ là một kẻ anh tài, đúng trang lương tướng. Hai vợ chồng kết nghĩa với nhau sanh được ba trai tên Tôn Long, Tôn Hổ và Tôn Tẩn.
    Lúc Yên Đơn công chúa mang nghén Tôn Tẩn, hằng ngày thấy mây đỏ bao phủ trên nóc nhà: Sau sanh Tôn Tẩn thì mặt mày tươi tốt, tướng mạo khôi ngô. Tôn Tháo thường nói với công chúa rằng: "Thằng này lớn lên ắt nắm trọn quyền trong thiên hạ. Thật là con quý của nhà ta vậy". Nghe vậy công chúa càng mến yêu thêm.
    Lúc bấy giờ là vua Hiếu Công kế vị nhà Tần, có sai quan tới nước Yên thôi thúc việc tấn công. Vua nước Yên bèn mời Tôn Tháo mà bàn rằng:
    - Lúc bấy giờ bảy nước chỉ có nước Tần là mạnh. Nếu ta không kiêng nể nó thì ắt phải bị nguy hại.
    Tôn Tháo nói:
    - Tần tuy mạnh, song Yên ta lại yếu gì. Nếu phụ vương sợ Tần gây sự, thì nên cử binh trước đi. Đó là kế hay nhất. Vua Yên nói:
    - Lời khanh nói thật phải. Nhưng bây giờ ai có thể cầm binh đánh Tần?
    Tôn Tháo nói:
    - Tôi tuy bất tài, song cũng xin cầm năm mươi binh để phá bạo Tần cho.
    Vua Yên nói:
    - Trẫm nghe bên Tần có nhiều tướng tài, biết khanh có đủ sức chống cự hay không?
    Tôn Tháo nói:
    - Xin bệ hạ chớ quá lo. Tôi có hai đứa con là Long, Hổ sức mạnh hơn ngưới. Tôi đem hai đứa nó theo thời chỉ đánh một trận là bọn Tần tan rã ngay. Vua Yên nghe nói cả mừng, ban cho Tôn Tháo ba chung ngự tửu và ba đóa kim hoa.
    Xong rồi, Tôn Tháo bèn lui ra, cùng hai con là Tôn Long, Tôn Hổ tới giáo trường điểm binh xuất mã rồi nội ngày ấy kéo ra đi. Binh mã chật đường, cờ xí rợp đất, đao thương nhoáng mắt, pháo nổ rền trời, chẳng mấy ngày đã tới thành Đồng Quan, Tôn Tháo bèn hạ lịnh đồn binh bên ngoài.
    Trong triều Tần, vua Hiếu Công đương ngồi bàn việc với các quan, bỗng thấy tin ngoài Đồng Quan cho hay rằng:
    Phò mã nước Yên là Tôn Tháo cùng hai con đem mấy muôn binh tới xâm lấn, hiện còn đồn binh ngoài ải Đồng Quan.
    Hiếu Công nghe tin cười lạt rằng:
    - Vua nước Yên thật là đứa chẳng biết thời thế. Cô gia sai quân ra thúc nó tấn công, nó lại đem binh vào xúc phạm thiên oai à!
    Nói rồi hạ lịnh cho Võ an quân Bạch Khởi làm đại tướng, Cam Long, Đỗ Hồi làm phó tướng lãnh ba muôn binh ra ngoài ải đón giặc. Bạch Khởi vâng mạng lập tức đem binh ra Đồng Quan. Tôn Tháo nghe tướng Tần đem quân tới bèn dặn con là Tôn Long, Tôn Hổ giữ gìn dinh môn rồi tự đái lãnh đội binh xông ra trước trận. Bạch Khởi vừa trông thấy liền hét rằng:
    - Thằng nào to gan dám hét trước trận đó?
    Tôn Tháo đáp:
    - Ta là phò mã nước Yên tên Tôn Tháo, còn mi tên họ là chi?
    Bạch Khởi xưng tên rồi giục ngựa nghinh địch. Cả hai đánh với nhau hơn sáu mươi hiệp chưa định hơn thua. Bạch Khởi hươi thương đón đao Tôn Tháo lại. Tôn Tháo hỏi:
    - Mi đã mệt rồi à?
    Bạch Khởi nói:
    - Không mệt, nhưng trời đã tối rồi đánh nhau bất tiện. Vậy hai ta lui binh đợi hôm sau sẽ tranh cao thấp.
    Tôn Tháo nói:
    - Ừ, ta cũng dung cho mi sống thêm một đêm, tới sáng sẽ đem đao đến lấy đầu.
    Dứt lời, cả hai kéo binh lui về.
    Tôn Tháo về tới dinh, hai con là Long, Hổ chạy ra đón vào cùng ngồi.
    Tôn Long hỏi:
    - Hôm nay cha ra trận hơn thua thế nào?
    Tôn Tháo đáp:
    - Thật Võ an quân Bạch Khởi là kẻ có tài, tiếng đồn không sai. Cha đánh cùng nó hơn sáu mươi hiệp mà không phân hơn thua. Vì trời đã tối nên lui binh, hẹn nhau hôm sau sẽ tử chiến. Nói rồi, sai quân bày tiệc trong trướng, ba cha con cùng ăn uống.
    Có thơ rằng:
    Cả phá Đồng Quan cuộc chưa xong, Trừ Tần còn chất chứa trong lòng, Đêm dài tiệc rượu rằng tiêu khiển, Sao chẳng phòng lo giặc tấn công?
    Nhắc lại, Bạch Khởi về dinh bàn luận với Cam Long, Đỗ Hồi rằng:
    - Thằng Tôn Tháo không giỏi hơn ta bao nhiêu, nhưng ta cũng khó thắng nó. Vậy trừ sự bất bằng sức, ta phải tính cách hại bằng mưu. Bây giờ nên thừa lúc đêm khuya canh vắng, chúng ta đem binh xông tới cướp dinh nó thình lình chắc là được việc.
    Cam, Đỗ khen kế ấy hay, bèn ra lịnh cho tướng sĩ sắp đặt cuộc cướp dinh. Bạch Khởi tự cầm trung quân, Cam Long đi tả dực, Đỗ Hồi đi hữu dực. Tới canh hai, tướng sĩ đều ngậm thẻ, ngựa thảy bỏ lạc, lén đến dinh Yên, phát một tiếng pháo rồi kéo ùn vào.
    Lúc bấy giờ, Tôn Tháo đã say. Tôn Long, Tôn Hổ đều ngà ngà. Ba cha con không đề phòng việc cướp trại. Đương lúc mê ngủ, bỗng nghe tiếng hét cướp dinh, ba cha con kinh hãi vô cùng, chỉ kiếm ngựa chạy đi trốn chớ chẳng lòng nào tưởng cứu binh sĩ.
    Bạch Khởi đưa binh Tần vào dinh Yên giết hại thong thả lắm. Tội nghiệp, ba muôn binh Yên bị một trận đều chết sạch, thây chất ngổn ngang thành gò, máu chảy cuồn cuộn như suối. Binh Tần đắc thắng gióng trống khải hoàn về triều. Vua Hiếu Công cả mừng nói:
    - Cô gia nghe nói Tôn Tháo là người trí dõng kim toàn, sao khanh lại thủ thắng dễ dàng như vậy?
    Bạch Khởi liền đem đầu đuôi việc cướp dinh thuật lại cho Hiếu Công nghe. Vua cả khen rồi ban cho một ngàn nén vàng ròng, một trăm tấm vóc. Còn các tướng sĩ khác cũng đều được ban thưởng.
    Nói về Tôn Tháo thì đem hai con chạy về tới nước Yên liền tự trói mình vào ra mắt vua. Vua thất kinh hỏi rằng:
    - Thế nào mà khanh thua quân Tần?
    Tôn Tháo đem việc chinh chiến ra mà tâu lại rồi xin chịu tội. Yên vương cả giận mắng rằng:
    - Khanh cầm quân chinh chiến đã lâu mà không hay phòng việc cướp trại thì còn dùng vào đâu được. Đáng lẽ thất trận to, hại nhiều tướng sĩ như vầy thì cha con khanh đều bị chánh pháp. Song ta thương lòng công chúa mà ân xá cho khỏi chết chớ cũng phải trị tội để làm gương. Vậy khanh phải giao cả binh quyền ấn tín lại, rồi đương lại trách vụ tuần môn thôi.
    Tôn Tháo từ tạ lui về phủ vẻ mặt rất âu sầu. Con út là Tôn Tẩn trông thấy bèn hỏi:
    - Hôm nay cha đi đánh Tần về vì cớ nào mà không vui như vậy?
    Tôn Tháo nói:
    - Vui buồn mặc cha, con còn nhỏ biết chi mà hỏi.
    Tôn Tẩn nói:
    - Con tuy nhỏ, song cũng biết ít nhiều việc đời. Vậy dám hỏi cha rằng buồn đó là vì việc nước hay là vì việc nhà?
    Tôn Tháo nói:
    - Việc nước là sao mà việc nhà là sao?
    Tôn Tẩn nói:
    - Nếu nói rằng buồn vì việc nhà thì nhà đã có hai anh em con võ nghệ cao cường có thể thay cha mà lo được các việc vinh phục thì còn buồn nỗi gì? Nếu nói vì việc nước mà buồn, thì có lẽ bị nước ngoài xâm lấn, triều đình không kẻ lương tài để trợ hiểm phò nguy?
    Tôn Tháo cười nói:
    - Phải, cha đương lo buồn vì cớ đó đa! Bởi vì nước Tần ỷ mạnh sai người thôi thúc nước Yên ta tấn công, thánh thượng sai cha đem binh chinh phạt, chẳng may cha bị tay Bạch Khởi thất trận hao binh, nên đã bị thâu hết binh quyền ấn tín, bắt tuần thủ thành môn. Vậy nên cha lo buồn lắm con.
    Tôn Tẩn nói:
    - Xin cha hãy bớt cơn sầu muộn. Con có một ý hay đây: Nếu mà thiệt được thành công, thì con sẽ xây non, thâu trời vào tay để chia vui cùng vương đế đó.
    Tôn Tháo hỏi:
    - Con có mưu mẹo gì hay mà dám khoe khoang quá như vậy?
    Tôn Tẩn thưa:
    - Thưa cha, con có nghe ở động thủy Liêm, núi Vân Mộng thuộc châu Nhữ bên Hà Nam có ông tiên tên Quỷ Cốc thông rành thao lượt binh thơ, rất giỏi mưu mô kế sách. Con muốn qua đó tôn người làm thầy để học võ nghệ, pháp thuật. Khi nào thành tài thì trở về giúp nước Yên mà rửa nhục. Tuy có muộn, song cũng là việc hay.
    Tôn Tháo nói:
    - Con có chí như vậy cha khen đó. Song cha chẳng rõ con đi học bao lâu thì trở về?
    Tôn Tẩn đáp:
    - Lâu thì ba năm, mau thì hai mươi bốn tháng.
    Tôn Tháo nói:
    - Đi thì được, song sợ mẹ con yêu mến con quá không nỡ cho con đi thì sao?
    Tôn Tẩn nói:
    - Làm con trai trong đời phải lo kiến công lập nghiệp, rèn chí ở bốn phương, chớ lẽ nào ôm ấp góc nhà mà chờ giá, đợi chết. Xin cha vì con mà an ủi mẹ con.
    Tôn Tháo nghe Tôn Tẩn nói có lý bèn nắm tay cùng đi vào hậu đường ra mắt công chúa Yên Đơn rồi nói rằng:
    - Con quý nhà ta vào đây để bái biệt công chúa mà qua núi Vân Mộng thọ giáo với Quỷ Cốc tiên sinh đây.
    Công chúa nói:
    - Con còn nhỏ nên ở lại nhà mà học tập chớ đi xa xôi làm gì?
    Tôn Tẩn thưa:
    - Nếu ở nhà mà học thì bao giờ mới nên tài. Vả lại, lúc này là lúc trong triều thiếu bậc hiền, không học hỏi cho giỏi tập cho hay còn đợi tới lúc nào nữa!
    Công chúa nghe con nói quả quyết quá, ráng sức cản ngăn đôi ba lần không được nên cắn răng dằn lòng mà dặn rằng:
    - Con có đi thì nên dè dặt bước đường, đi mau về sớm, đừng để cha mẹ dựa cửa ngóng trông chờ!
    Tôn Tẩn cúi đầu chào mẹ rồi lui ra.
    Hôm sau, Tôn Tẩn sắp xong hành lý, lạy từ cha mẹ và hai anh rồi ra khỏi thành U Châu mà đi.
    Nói về vua nước Ngụy là Huệ Vương có một quan Thừa tướng là Trịnh An Bình. Ngày nọ nhằm lúc mùa đông, tuyết ở đường đóng thành băng, quan Trịnh An Bình đi chầu về, vô ý để ngựa đạp phải tảng băng trượt mạnh một cái suýt ném An Bình xuống đất, may nhờ kẻ tả hữu đỡ kịp không thì đã lấm áo quần, trặc tay chân. Vì vậy An Bình cả giận cho đòi hết dân chúng ở hai bên đường tới bắt quỳ trước đầu ngựa rồi thét rằng:
    - Sao chúng bây đổ nước ra đường để làm cản trở sự đi lại của quan như vầy?
    Chúng dân đồng bẩm rằng:
    - Lạy quan lớn, đó chẳng phải tại chúng tôi. Ấy là do anh thợ nhuộm tên là Bàng Hoành. Anh ấy hay hắt nước ra đường, chúng tôi có nói nhiều lần mà anh không nghe.
    An Bình liền hạ lịnh bắt Bàng Hoành tới đánh hai chục côn rồi tha đi.
    Con của Bàng Hoành là Bàng Quyên có tánh hung tợn, thấy cha bị đánh thì tức quá, không làm sao được chỉ hươi gậy đập mấy cái chum nhuộm để hả tức. Mẹ của Quyên thấy vậy ráng sức khuyên con rằng:
    - Chum ấy dùng để làm nghề mà nuôi sống, nó can phạm gì mà con đập bể cả đi?
    Bàng Quyên nói:
    - Cha con bị Trịnh An Bình đánh là vì nghề nhuộm mà ra. Nay đập cả chum nhuộm thì còn đâu mà nhuộm, như vậy thì không hắt nước ra đường khỏi bị đòn, và có lẽ hưỡn được để lo cách báo thù.
    Mẹ Quyên tiếc của quá cứ rầy mắng mãi. Chàng uất ức bèn tom góp y phục rồi thưa cho mẹ hay rằng địinh qua Vân Mộng Sơn theo học với Quỷ Cốc tiên sinh, cầu được tài thuật để về báo thù. Lúc ra đi lại còn khuyên mẹ nhắc cha đừng làm nghề thợ nhuộm nữa. Căn dặn xong Bàng Quyên bèn quảy gói hành lý lên vai, ra khỏi thành Nghi Lương mà đi.
    Bàng Quyên đi một đỗi, tới chỗ bên đường có cội cây to vừa muốn ghé lại nghỉ thì thấy một người ngồi bẹp đó mà nghỉ trước rồi. Chàng nghĩ rằng:
    "Người này tuổi ước một hạng với ta, đi đâu đây, có lẽ cũng đi học như ta chăng? ".
    Nghỉ đoạn Quyên bước tới hỏi lớn rằng:
    - Anh ơi, anh định đi đâu vậy?
    Người đương ngủ nghe kêu mở mắt ra thấy Bàng Quyên, bèn đứng lên thi lể.
    Bàng Quyên hỏi:
    - ChaÜn rõ tên họ anh là chi, xin cho biết?
    Người nọ đáp:
    - Tui là con út của phò mã nước Yên tên Tôn Tẩn.
    Bàng Quyên nói:
    - Tôi không biết nên thất lể, xin hãy tha cho. Vậy anh đi đâu đây?
    Tôn Tẩn đáp:
    - Tui định qua núi Vân Mộng học tập với Quỷ Cốc Tiên sinh. Còn anh tên họ là chi, và định đi đâu đây?
    Bàng Quyên nghe hỏi, xưng tên họ rồi tỏ việc hành trình của mình.
    Tôn Tẩn cả mừng nói:
    - Có như vậy thì chúng ta nên kết bạn sanh tử với nhau.
    Bàng Quyên nói:
    - Anh là con nhà Phiệt Duyệt, tôi là con kẻ thất phu, nào dám chịu cười là đĩa đeo chân hạt.
    Tôn Tẩn cười rằng:
    - Anh chớ quá khiêm tốn như vậy đại trượng phu kết giao hà tất kể sang hèn.
    Bàng Quyên đáp:
    - Nếu anh nghĩ như vậy thì may cho tui lắm.
    Nói rồi cả hai đi với nhau tới trấn Châu Tiên mua vàng hương, đèn rượu bày ra giửa trời cùng quỳ mà khấn nguyện.
    Tôn Tẩn nguyện trước rằng:
    - Trên có thần kỳ chứng chiếu. Tôi là người nước Yên tên Tôn Tẩn, nhân đi qua Vân Mộng Sơn học đạo, dọc đường gặp người họ Bàng tên Quyên xin kết làm bạn sanh tử, có sách cùng đọc, có nghề cùng học. Nếu ngày sau sinh lòng phản phúc, xin đất trời giam sát, bắt làm súc loại muôn đời.
    Bàng Quyên nghe Tôn Tẩn nguyện như vậy, vừa ý lắm, tới phiên chàng, chàng cũng nguyện rằng:
    - Tôi là Bàng Quyên người nước Ngụy, nhân đi qua Vân Mộng Sơn học đạo, gặp được người họ Tôn tên Tẩn xin kết làm bạn sinh tử, có sách cùng đọc có nghề cùng học. Nếu ngày sau có phản phúc xin có thần kỳ chiếu dám cho chết giữa đám rừng tên Tại Mã Lăng đạo và bị bảy nước phân thây.
    Thề nguyền xong, cả hai lạy nhau tám lạy. Tôn Tẩn làm anh, Bàng Quyên làm em. Xong rồi sắp ra đi, Bàng Quyên nói:
    - Bây giờ chúng ta đã làm anh em với nhau thì nên góp hành lý lại là một để quãy cho dể.
    Tôn Tẩn chân thật nghe theo, trao gói hành lý cho Bàng Quyên quãy.
    Quãy đi được một đỗi, Bàng Quyên nghỉ ra một kế bèn vờ vấp té quaÜn gói hành lý ra xa rồi nói với Tôn Tẩn rằng:
    - Em không quen việc gánh vác nên đau quá!
    Tôn Tẩn tưởng thiệt nói:
    - Nếu em quãy không được thì anh quẫy cho. Đi đường tìm có nhà trọ, chúng ta sẽ cùng nghỉ ngơi.
    Dứt lời quẫy lấy gói mà dắt Bàng Quyên đi, Bàng Quyên mừng thầm, tự cho là đắc sách.
    Hai người đi chaÜn bao lâu tới một tòa núi cao, cây cối chằn chịt, rậm rịt không dấu người. Bàng Quyên nghỉ chắc là núi có nhiều cọp, beo, e đi sau có điều xãy ra bất tiện, nên lại sanh ra một kế nói với Tôn Tẩn rằng:
    - Đường xá rậm rạp thật là khó đi. Vậy để em đi trước dọn rộng cho Anh đi.
    Dứt lời lướt tới đi trước. Đi được một đổi bổng thấy một con Cọp Gấm trong bụi nhảy ra trương nanh múa vuốt lướt tới. Bàng Quyên thất kinh kêu cứu liền miệng. Tôn Tẩn thấy vậy lưới tới để gói đồ xuống rồi nói với Cọp rằng:
    - Hùm kia ơi! Chúng ta là Tôn Tẩn với Bàng Quyên đồng qua núi Vân Sơn học đạo cùng Quỷ Cốc tiên. Vậy mi nên nhường đường cho ta đi.
    Cọp nghe nói gật đầu xong cứ ngó Bàng Quyên muốn làm dữ. Bàng Quyên thất kinh leo tót lên cây. Cọp chòm theo như muốn phân thây xé thịt. Tôn Tẩn cả sợ kêu rằng:
    - Hùm ơi! Nó đó là em ta, hãy để nó xuống đi với ta cho có bạn.
    Lạ thay, lời Tôn Tẩn vừa dứt thì Cọp nọ liền quất đuôi cuối đầu đi ríu ríu vào rừng. Bàng Quyên yên dạ leo xuống mà đi.
    Nguyên Cọp ấy chaÜng phải cọp thường, chính là Cọp thần của Quỹ Cốc tiên sinh. Cọp vâng lệnh Quỹ Cốc tới đón đường thử tâm chí của Tôn Tẩn và Bàng Quyên vậy.
    Khỏi nạn cọp, Bàng Tôn bèn bàn nhau, đi đổ xuống núi. Đi một đổi có chổ có cái suối, nước lên lai láng mà chỉ bắt ngang qua có một khúc cây thôi Bàng Quyên hỏi Tôn Tẩn rằng:
    - Cầu như vậy chúng ta làm sao đi qua cho được?
    Tôn Tẩn chưa biết nghĩ sao, bổng thấy một gã tiểu đồng gánh gánh đi tới, Tôn Tẩn để hành lý xuống, bước tới kêu rằng:
    - Anh ơi! Dừng lại cho tôi hỏi một việc.
    Tiểu đồng hỏi:
    - Anh muốn hỏi gì?
    Tôn Tẩn nói:
    - Chúng tôi muối tới Vân Mộng sơn tìm thầy Quỷ Cốc, vậy chẳng rõ trừ đường nầy còn đường nào khác không?
    Tiểu đồng nói:
    - Qua núi Vân Mộng chỉ có đường nầy mà thôi. Đây là suối ưu sầu, đó là cầu Độc Mộc. Hai người không qua được thì cho tui tiền tui gánh dùm qua.
    Tôn Tẩn cả mừng lấy hai mươi đồng tiền trao cho đạo đồng.
    Đạo Đồng hỏi:
    - Hai người ai là anh mà ai là em?
    Tôn Tẩn nói:
    - Tôi là anh.
    Bàng Quyên nói:
    - Đã có tiền mướn thì cứ việc gánh còn hỏi ai anh ai em làm gì?
    Đạo Đồng nói:
    - Có cớ tôi mới hỏi chớ. Hể ai là anh thì ngồi ở đầu gánh trước, còn ai là em thì ngồi ở đầu gánh sau.
    Bàng Quyên nghe nói vậy nghĩ rằng: "Ngồi đầu trước tiện hơn, vì hể gánh thì ai cũng tóm ở quay gánh trước, như vậy có rũi trật quai cũng khó té, mà có té cũng dễ cứu hơn là ngồi ở đầu sau". Nghĩ đoạn, bèn nói với Đạo Đồng rằng:
    - Anh ơi, tôi nhác gan, lưng mật lắm để tôi ngồi đầu trước tiện hơn mà.
    Đạo Đồng cười và y lời để Tôn Tẩn ngồi vào đầu sau, còn Bàng Quyên ngồi ở đầu trước. Hai người ngồi trong gánh rồi, đạo Đồng liền biểu phải nhắm mắt lại cho Y gánh qua cầu.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:


  • #2
    Hồi 2 - Bạch Lộc Tiên dùng tuyết đánh Bàng Quyên

    Hồi 2

    Bạch Lộc Tiên dùng tuyết đánh Bàng Quyên

    Quỷ Cốc từ giả sách trao Tôn Tẩn
    Đạo đồng gánh Bàng Quyên và Tôn Tẩn ra tới giữa cầu giả đò như trật vai vài cái.
    Tôn Tẩn chẳng e sợ gì, chỉ có Bàng Quyên thì kinh hoảng kêu to rằng:
    - Anh ơi, gánh êm êm một chút, đừng làm vậy tôi sợ lắm.
    Miệng thì nói mà tay thì níu chặt vào vành giỏ. Đạo đồng cười mà rằng:
    - Đừng lo, không sao đâu, hãy nhắm kín mắt lại, mở ra té chết ráng chịu đa.
    Bàng Quyên nghe dặn, nhắm mắt lại rất kín mà bụng hồi hộp lắm, trí lại nghĩ: "Thằng này phách lối quá, để qua cầu rồi ta đánh cho một mẻ mới hả giận".
    Chẳng bao lâu, qua khỏi cầu đạo đồng để gánh giỏ xuống, kêu hai người mở mắt ra. Bàng Quyên, Tôn Tẩn mở mắt bước ra ngoài giỏ thì đạo đồng đâu chẳng thấy. Cả hai nghĩ là tiên tới tế độ, nên ngó mông trên không mà lạy tạ. Đó thực là tiên đồng, người thắp hương của Quỷ Cốc, vâng lệnh Quỷ Cốc đi đón đường thử tâm dạ của Bàng Quyên và Tôn Tẩn vậy.
    Cả hai qua khỏi Độc Mộc cầu rồi bèn dò lần đi tới. Đi được mấy ngày trời mới tới núi Vân Mộng. Chốn ấy rõ ràng là nơi danh thắng, lắm thứ kỳ hoa dị thảo, nhiều loại thoái thạch thác tiên, trên nhành công múa, hạc kêu, dưới suối cá trừng, sen mọc, thật là phong cảnh tiêu diêu, bồng lai thanh tịnh.
    Bàng Quyên và Tôn Tẩn đi tới trước động, thấy cửa động đóng kín, trên cửa động có một tấm bảng đá khắc sáu chữ: "Núi Vân Mộng, động Thủy Liêm". Hai người còn đương bồi hồi suy nghĩ, bỗng thấy một kẻ tiều phu đi thoáng qua ngang cửa động. Tôn Tẩn bèn đón lại hỏi rằng:
    - Thưa đại huynh. Đây có phải là nơi của Quỷ Cốc tiên sinh ở hay không?
    Tiều phu đáp:
    - Phải, vậy chẳng rõ hai người hỏi thăm ông có việc chi?
    Tôn Tẩn nói:
    - Chúng tôi là người nước khác, vì nghe ông là người tài giỏi nên tìm đến mà học đạo.
    Tiều phu nói:
    - Nếu muốn gặp ông thì hãy lạy cho cửa rộng mở, còn chẳng thành tâm thì dầu lạy một năm đi nữa cũng vô ích.
    Tiều phu nói rồi vòng tay đi mất.
    Tôn Tẩn ngó Bàng Quyên nói:
    - Chúng ta chẳng ngại đường xa ngàn dặm mà tới đây, lẽ nào lại chẳng thành tâm.
    Nói rồi cúi đầu lạy Bàng Quyên chỉ lạy một lạy rồi bước lảng ra, đứng suy nghĩ rằng: "Hễ ảnh lạy cho cửa mở ra, thì ta cùng vào mà gặp thầy được, hà tất phải lạy cho mệt".
    Tôn Tẩn lạy một hồi, trông lại sau thấy Bàng Quyên không lạy bèn nói:
    - Em chớ nên nguôi lòng đạo như vậy. Hãy bước tới lạy với anh đây.
    Bàng Quyên nghe mấy lời, phải miễn cưỡng bước tới lạy. Cả hai lạy tới giờ Ngọ ba khắc thì cửa động mở, trong cửa có một tên đạo đồng bước ra hỏi rằng:
    - Hai vị ở đâu tới đây?
    Tôn Tẩn đáp:
    - Tôi là người nước Yên tên Tôn Tẩn, người này là người nước Ngụy tên Bàng Quyên, cả hai tới xin học đạo với Quỷ Cốc tiên sinh, phiền anh vào trong thông báo.
    Đạo đồng nghe dứt quày lưng đi vào trong.
    Quỷ Cốc tiên sinh vốn là người nước Tần, thời vua Bình Công, họ Cang tên Lợi, ở tại Thanh Khê hay vào núi hái thuốc, tu luyện được phép trường sanh, nên xưng hiệu là Quỷ Cốc. Lúc bấy giờ Quỷ Cốc nghe báo bèn sai đạo đồng nhắc ghế đay ra để ngoài cửa động, rồi ra ngồi gọi rằng:
    - Ai là người đi học đạo, hãy lại đây.
    Tôn Tẩn và Bàng Quyên bước tới lạy ra mắt. Quỷ Cốc hỏi:
    - Hai người tên họ là gì, quê ở nước nào?
    Tôn Tẩn đáp:
    - Đệ tử họTôn tên Tẩn người nước Yên, còn người này là bậu bạn vừa giao kết giữa đường tên Bàng Quyên người nước Ngụy. Chúng tôi xin tôn sư thâu nhận mà dạy cho mối đạo nhiệm màu.
    Quỷ Cốc cười, nhắm tướng cả hai thì thấy Tôn Tẩn lưng gấu tay cọp, cốt đạo Lang tiên, có vẻ người mến nghĩa trọng nhân, còn Bàng Quyên thì đầu qủy mắt rắn, sọ lòi ra sau, lộ vẻ kẻ quên ơn phụ nghĩa, ghét lành ganh giỏi, không sao tròn được kiếp đời. Vì vậy Quỷ Cốc bèn nói:
    - Tôn Tẩn có thể học được, còn Bàng Quyên học không được, thôi hãy về đi!
    Tôn Tẩn nghe mấy lời, lật đật năn nỉ với Quỷ Cốc rằng:
    - Lạy thầy, người ta đi đường gặp nhau làm quen mà còn quyến luyến, huống chi chúng tôi làm bạn giao kết tử sanh. Nếu nay kẻ ở người về, lòng nào lại nỡ, xin thầy thâu nhận cả hai.
    Quỷ Cốc nói:
    - Ừ, cũng được. Nhưng hãy thử trí tuệ đã. Đứa nào có trí thì ở học, đứa nào ngu thì hãy trở về. Vậy cả hai nghĩ mưu kế làm sao cho ta dời ra khỏi động thử coi!
    Bàng Quyên nghe dứt, suy nghĩ giây lát rồi thưa rằng:
    - Bẩm thầy, trên mây có hai con rồng đương giao chiến nhau, xin thầy bước ra xem.
    Quỷ Cốc cười nói:
    - Lúc này là lúc mùa đông, dễ lại có rồng giao chiến à?
    Bàng Quyên nói tiếp:
    - Á, Lý lão quân ở Nam thiên môn tới thăm thầy kìa!
    Quỷ Cốc nói:
    - Lý lão quân mới cáo biệt ta mà ra về, lý nào còn trở lại.
    Bàng Quyên nói bừa rằng:
    - Không gạt được thầy, thì đệ tử lấy lửa đốt sau chỗ ngồi, thầy sợ nóng ắt phải dời ra ngoài động.
    Quỷ Cốc cười nói:
    - Ừ, thôi ta cũng cho mi định mưu như vậy là giỏi đa!
    Nói rồi hỏi tới Tôn Tẩn, Tôn Tẩn nói:
    - Đệ tử ngu si, có mưu mô gì mà dời được thầy ra động. Nếu như thầy đem ghế ngồi ngoài kia rồi đệ tử nghĩ cách dời trở lại thì họa may. Chớ thầy ngồi đây dầu đệ tử có nghĩ tới cả đời cũng không sao dời ra được.
    Quỷ Cốc gật đầu sai đạo đồng nhắc ghế dời ra khỏi cửa động. Tôn Tẩn thấy vậy cả mừng nói:
    - Bẩm thầy! Như vậy là con đã mời được thầy rồi!
    Quỷ Cốc cười nói:
    - À thôi, ta chịu là bị mi lừa rồi.
    Nói dứt lời cho lạy tượng tổ sư rồi bảo ra sau yên nghỉ, sáng ngày sẽ học tập.
    Hôm sau Quỷ Cốc kêu Tôn Tẩn và Bàng Quyên tới mà dạy rằng:
    Tục có nói: Học trò phải chịu nhọc với thầy. Vậy thì từ nay trở đi mỗi ngày một đứa học, còn một đứa đi đốn củi, như nay Tôn Tẩn học thời Bàng Quyên đi, rồi ngày sau đi thay phiên, Bàng Quyên học, Tôn Tẩn phải đi.
    Bàng, Tôn nghe dạy cúi đầu dạ dạ vâng mạng. Quì Cốc nói tiếp:
    - Tôn Tẩn là anh, thời hôm nay Tôn Tẩn học trước, Bàng Quyên đi đốn củi.
    Bàng Quyên dạ lập tức ra đi. Bấy giờ Quỷ Cốc bèn trao cho Tôn Tẩn một quyển sách và dặn rằng:
    - Mi hãy đọc kỹ sách này mà không nên cho ai xem.
    Tôn Tẩn dạ dạ, lãnh sách đem về phòng đọc rất kỹ.
    Bàng Quyên là kẻ lanh xảo, đốn củi rất hối hả, nên về được sớm, ra mắt Quỷ Cốc trước rồi vào phòng hỏi Tôn Tẩn rằng:
    - Hôm nay thầy đưa sách gì cho anh đọc, thử trao lại em xem nào?
    Tôn Tẩn nói:
    - Ừ, anh em ta là sanh tử chi giao, lúc ở Châu tiên trấn đã có thề, có sách cùng đọc, có nghề cùng học, anh nào giấu được sách quý vơiù em.
    Nói đoạn trao sách cho Bàng Quyên xem, Bàng Quyên đọc đi đọc lại mấy lượt là đã thuộc rồi.
    Tới bữa thứ hai, đổi phiên. Tôn Tẩn đi đốn củi, Quỷ Cốc giao sách cho Bàng Quyên học. Khi Tôn Tẩn đi đốn củi về, hỏi Bàng Quyên rằng:
    - Hôm nay thầy dạy em học chi chi đâu, đưa cho anh xem với?
    Bàng Quyên nói:
    - Ối, bữa nay anh em bạn của thầy tới chơi đông quá, nào lo cơm, vất vả tối ngày có học gì được đâu!
    Tôn Tẩn tưởng thiệt, tin lời. Cứ mãi như vậy, hễ phiên Tôn Tẫn học thì Tôn Tẩn cho Bàng Quyên coi mà phiên Bàng Quyên học thì Bàng Quyên lại kiếm cớ không cho Tôn Tẫn coi. Tôn Tẩn bị thua thiệt luôn.
    Trăng trên trời lặn, lật bật mà cả hai học đạo đã được một năm rồi.
    Hôm no, Bàng Quyên nói với Tôn Tẩn rằng:
    - Anh ạ, chúng ta học đạo đã lâu rồi, cũng biết ít nhiều thuật pháp nhưng chưa rõ có dùng được gì chưa. Vậy ngày mai, hai anh em ta xin phép xuống núi đốn củi rồi dợt thử coi.
    Tôn Tẩn khen phải, ngày sau cả hai xin Quỷ Cốc ra đi. Xuống núi Tôn Tẩn bèn lượm sắp thành một trận rồi bảo Bàng Quyên xem là gì?
    Bàng Quyên xem qua bèn nói:
    Đó là trận Thanh Long xuất thủy chớ trận gì? Cứ đánh từ phương Đông dẫn ra phương Tây thì trận tan tành ngay.
    Tôn Tẩn khen rằng:
    - Em thông minh lắm. Đâu em thử lập một trận anh xem?
    Bàng Quyên gật đầu lượm đá sắp thành trận. Tôn Tẩn xem không rõ là trận gì bèn hỏi:
    - Em lập trận gì lạ vậy?
    Bàng Quyên nói:
    - Em lập theo trận Thanh Long xuất thủy của anh đó chớ trận gì? Á!
    Tại em lập sai nên anh xem không ra thôi.
    Tuy miệng thì nói vậy mà bụng lại nghĩ khác rằng: "Được rồi, ta đã học giỏi hơn ảnh rồi. Ảnh lập trận gì thì ta biết liền, còn ta lập trận ảnh xem không ra. Thôi còn ai ăn qua ta được". Trọn ngày ấy Bàng Quyên cứ kiếm cớ thế lừa gạt Tôn Tẩn như mọi lần. Mãi tới tối cả hai gánh củi về động.
    Một ngày khác, Quỷ Cốc nói với Tôn Tẩn, Bàng Quyên rằng:
    - Nay thầy phải qua núi Chung Nam dự hội Tòng hoa, bốn mươi chín ngày mới trở về. Vậy đúng ngày ấy hai người xuống núi mà rước thầy.
    Dặn xong cưỡi một chòm mây mà bay đi.
    Đúng bốn mươi chín ngày, Bàng Quyên và Tôn Tẩn y lời dặn đem đào tiên, rượu tiên xuống núi đón.Khi cả hai tới nơi, bày đào rượu trên một hòn đá vừa xong, thì có một con nai lông trắng như tuyết đi tới gần đứng nhìn vào như muốn xin ăn. Tôn Tẩn lấy làm lạ, rót một chén rượu đưa gần con nai: Con nai liền uống cạn. Rót một chén khác, nai cũng uống luôn. Bàng Quyên trông thấy, nói rằng:
    - Nai là thú rừng, cho nó uống rượu làm chi?
    Tôn Tẩn nói:
    - Anh xem con nai này có vẻ lạ như là của tiên nuôi vậy.
    Bàng Quyên cả giận nói:
    - À, nai của tiên! Đâu ta thử xáng cho một tảng đá cho chết đặng ta sẽ thịt uống rượu chơi. Nè, nai tiên!
    Tôn Tẩn lật đật can rằng:
    - Nhỏ hay lớn cũng là tánh mạng, giết nó làm gì, lòng nào lại nỡ?
    Bàng Quyên không nghe lời, hốt một nắm đá chọi đùa vào con nai.
    Con nai bỏ chạy. Bàng Quyên rượt theo vài dặm đường thì không thấy nai đâu, bỗng một trận gió thổi đến, rồi băng tuyết sa xuống làm cho anh ta xể mặt, bầm mình té nằm dài dưới đất. Tôn Tẩn thấy băng tuyết xuống bèn đi tìm Bàng Quyên, thấy Bàng Quyên nằm dưới đất bèn dìu dắt về động nằm yên rồi trở ra chổ hòn đá mà đón thầy. Tôn Tẩn vừa tới chỗ cũ bỗng thấy con nai khi nãy trở lại nói tiếng người rằng:
    - Ta là Bạch Lộc đại tiên, bạn thân của Quỷ Cốc thầy mi. Vì thằng Bàng Quyên muốn hại ta, nên ta đánh nó một trận. Lát nữa thầy mi về, ổng có quyển thiên thơ, trong đó có bát môn độn pháp, lục giáp linh văn, vậy mi nên yêu cầu ông ta truyền thọ cho.
    Bạch Lộc tiên nói dứt, hóa ra một luồng gió mà đi. Giây lát trên không nổi đám mây mù, Quỷ Cốc ngồi trên hổ xa sa xuống. Tôn Tẩn lạy ra mắt rồi dâng đào và rượu lên, Quỷ Cốc ăn uống xong bèn hỏi tại sao Bàng Quyên chẳng tới. Tôn Tẩn thưa rằng:
    - Nó cũng có đi xuống đón thầy, xong gặp băng tuyết rơi xuống trúng nên bị thương đã về động nằm rồi.
    Quỷ Cốc cười nói:
    - Tại nó muốn ăn thịt nai nên phải mang họa!
    Dứt lời hai thầy trò dắt nhau về. Khi tới động Thủy Liêm, Tôn Tẩn quỳ trước mặt Quỷ Cốc mà thưa rằng:
    - Nghe người nói rằng thầy có ba cuốn thiên thơ gồm đủ bát môn độn pháp, lục giáp linh văn, vậy cầu thầy truyền cho đệ tử.
    Quỷ Cốc nói:
    - Sách đó là sách bí truyền, người không đáng, thì không bao giờ cho đọc.
    Nói dứt sai đạo đồng mở rương lấy sách thiên thư giao cho Tôn Tẩn rồi dặn thêm rằng:
    - Con hãy giữ kỹ đừng giao cho ai!
    Tôn Tẩn dạ dạ lãnh sách đem về phòng đốt đèn đọc. Bàng Quyên nghe Tôn Tẩn đọc thì giả đò ngủ, giây lát chỗi dậy nói với Tôn Tẩn rằng:
    - Hồi ở Châu Tiên trấn thề nguyền làm sao, mà bây giờ anh đọc sách một mình không cho tôi đọc?
    Nói rồi giựt sách mà xem. Xem mãi không hiểu gì hết, tức quá Bàng Quyên vụt đại xuống đất nói:
    - Thiên thơ mà khó quá vậy?
    Nói đoạn nằm xuống ngủ. Tôn Tẩn cười, lượm sách lên cất rồi cũng ngủ theo.
    Chờ Tôn Tẩn ngủ mê, Bàng Quyên bèn chổi dậy lấy thiên thơ châm vào đèn đốt quách đi. Lửa vừa cháy Bàng Quyên làm bộ hoảng hốt kêu ầm lên rằng:
    - Hoa đèn rớt cháy thiên thơ rồi, mau dậy chữa.
    Tôn Tẩn nghe la lật đật chổi dậy thì lửa đã đốt thiên thơ ra tro, chàng rầu buồn vô cùng. Sáng sớm Tôn Tẩn tới bên giường Quỷ Cốc lạy xin lỗi vì vô ý làm cháy mất thiên thơ. Quỷ Cốc rầy la một hồi, chàng xụ mày cúi mặt đi ra.
    Cách mấy bữa tới trung tuần tháng tám lúc sập tối, Quỷ Cốc sai đạo đồng kêu Tôn Tẩn, Bàng Quyên tới rồi dắt ra khỏi động. Tới trước một cái hồ nước trong leo lẽo, họ cùng leo lên một nền đá phẳng sạch. Mặt trăng như cái bánh xe chiếu xuống nước chói màu vàng cháy. Quỷ Cốc nói với hai trò rằng:
    - Từ ngày hai trò học với ta tới nay vẫn chưa biết rõ tâm chí. Vậy nay nhân đêm trăng tỏ cảm tịnh, hai trò nói cho ta nghe.
    Tôn Tẩn bẩm rằng:
    - Chí của đệ tử muốn sao trong nước có vua minh, chánh thiện, tai khỏi nghe trống giặt, mắt khỏi thấy máu đào, vui chơi trong cảnh thái bình, trời thanh cảnh tịnh là đủ.
    Quỷ Cốc giả cười nói:
    - Lời nói hủ quá, sao đứng được ở cõi đời này?
    Đoạn day qua hỏi Bàng Quyên. Bàng Quyên đáp:
    - Chí của con muốn làm sao trở thành một người cầm quân trăm vạn đánh đâu thắng đó, phá đâu tan đó, làm cho các nước chư hầu trong thiên hạ thảy quy phục.
    Quỷ Cốc nói:
    - Ừ, cứ như lời, trong thời chiến quốc không có Bàng Quyên thì khó nên nghiệp cả.
    Dứt lời, Bàng Quyên, Tôn Tẩn đều quỳ trước mặt Quỷ Cốc mà thưa rằng:
    - Chúng con theo thầy học đạo đã ba năm rồi, nay bỗng nhớ tới cha mẹ cố hương, cúi xin thầy cho phép ngày mai chúng con về thăm viếng.
    Quỷ Cốc nói:
    - Bàng Quyên khôn lanh hơn, học hay mau giỏi thì nên về. Chớ Tôn Tẩn ngu độn quá, học chưa ra gì, về sao cho tiện?
    Tôn Tẩn năn nỉ rằng:
    - Con và Bàng Quyên đã kết bạn sanh tử cùng nhau đi tới, ắt cùng nhau lui về, có trước phải có sau ấy mới tròn tình nghĩa. Cúi xin thầy rộng lòng cho chúng con về chung với nhau.
    Quỷ Cốc nói:
    Ngươi đã quyết lòng về, ta còn cầm lại làm chi nữa. Thôi có về thì mai hãy về.
    Câu chuyện chỉ có chừng đó rồi ba thầy trò cùng nhau quày về động.
    Sáng ngày mai, Bàng Quyên, Tôn Tẩn từ tạ Quỷ Cốc mà xuống núi.
    Đi được một đỗi xa, thấy có bà già dùng dúi to mài vào hòn đá, Tôn Tẩn hỏi:
    - Bà mài chi vậy?
    Bà già đáp:
    - Chủ tôi làm mất kim thuê, kiếm đâu cũng không được, nên sai tôi mài dùi này cho nhỏ lại mà dùng.
    Tôn Tẩn nói:
    - Dúi to như thế mà mài cho nên kim?
    Bà già nói:
    - Cậu há chẳng nghe câu tục ngữ "Chí công mài sắt có ngày nên kim". hay sao?
    Tôn Tẩn nghe câu ấy biết có ý tứ cao xa, cho lời thầy chê mình còn khờ dạy là đúng sự thiệt, nên cố ý phải học hành thêm, muốn quay trở lại núi.
    Đi một đỗi nữa thấy có người to lớn cầm đục, đục núi. Tôn Tẩn hỏi:
    - Anh đục làm chi vậy?
    Người to lớn đáp:
    - Đục lủng núi cho được thộn ra biển.
    Tôn Tẩn nói:
    - Núi như thế này mà đục sao cho lủng?
    Người to lớn nói:
    - Anh há chẳng nghe câu tục ngữ "Đục núi thông qua biển, chí bền đá phải mòn". hay sao?
    Tôn Tẩn thấy hai việc lạ như vậy, tự hối hận rằng mình còn dở mà vội việc công danh, nên chí quyết trở lại núi học tập ít lâu nữa. Vậy bèn nói với Bàng Quyên rằng:
    - Em đã thành tài thì nên về trước, còn anh tự biết dở phải trở lại học thêm. Vậy phiền em cầm thơ về U Châu trao cho cha anh, rồi ở đó, chờ cha anh tiến cử vào làm quan. Khi nào anh về, sẽ cùng nhau lo việc triều chánh.
    Nói dứt lời, mở gói lấy viết giấy, viết thư trao cho Bàng Quyên. Bàng Quyên lãnh thơ, cả hai từ giã nhau.
    Tôn Tẩn trở lại núi lạy ra mắt Quỷ Cốc. Quỷ Cốc hỏi:
    - Mi đã về sao còn trở lại?
    Tôn Tẩn thưa:
    - Con xuống núi thấy bà già mài kim, người to lớn đục núi nên tỉnh ngộ. Vâng theo lời vàng ngọc của thầy, nay trở lại quyết học thêm cho thành đạo.
    Quỷ Cốc nói:
    Hai người đó là ngưới thần ta sai ra điểm hóa cho mi tỉnh ngộ, ta thật có ba quyển thiên thơ gồm bát môn độn pháp, lục giáp linh văn. Song khi trước ta biết Bàng Quyên hay đố hiềm, tất nhiên thế nào nó cũng phá hủy thiên thơ, nên ta chưa truyền thiệt cho mi, ta trao thiên thơ giả để cho Bàng Quyên đốt được nó yên trí mà trở về. Còn mi ta sai người thần điểm hóa cho mi trở lại đặng truyền thiên thơ thiệt mà tế thế an ban. Vậy ta sửa hiệu mi lại là Thủ Ngu chớ có xưng là Bá Linh nữa.
    Tôn Tẩn cả mừng cúi đầu lạy tạ.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #3
      Hồi 3 - Giữ Châu Tỵ Trần, Ngụy Vương lập kế.

      Hồi 3

      Giữ Châu Tỵ Trần, Ngụy Vương lập kế.
      Đánh đạo Nghi Lương, Bàng Quyên trổ tài


      Bàng Quyên từ biệt Tôn Tẩn đem thơ về U Châu, vào ra mắt Tôn
      Tháo tỏ rõ lai lịch rồi đứng lên. Tôn Tháo nghe qua mừng rỡ vô hạn, dạy
      bày tiệc hoãn đãi, bảo Tôn Long, Tôn Hổ ngồi chuyện vãng, rồi tự mình
      đem thơ vào nhà trong cùng vợ là Yên Đơn công chúa mở ra xem. Thơ
      rằng:
      "Cách lời nghiêm quấn, phúc đã ba năm, văn vui thiếu phận,
      tội biết bao lăm.
      Thưa cha mẹ! Tuy con ở núi Vân Mộng song trí luôn nghĩ
      về nước Yên. Nay có bạn con là Bàng Quyên, người đủ trí
      mưu, tài gồm thao lược, ra trận chém tướng cướp cờ, trông
      tướng vẻ phù biến phép. Vậy cha nên lưu trong phủ, để giúp
      cho Yên thì sẽ được công lớn.
      Phận con tài còn kém, nhắm có vế cũng vô ích nên ở lại
      núi học thêm ít lâu. Thế nào cũng sẽ cùng Bàng Quyên chung
      thờ minh chúa. Xin cha mẹ yên lòng chớ lo buồn vì con.
      Con bất hiếu Tôn Tẩn kính bái".
      Vợ chồng Tôn Tháo đọc thơ thấy con chưa về thì không vui. Bây giờ
      có gia đồng vào bẩm bái là tiệc đã dọn xong. Tôn Tháo bèn quày ra hiệp
      với hai con ngồi cầm đãi Bàng Quyên. Lúc uống được ba tuần rượu, Tôn
      Tháo hỏi ý Bàng Quyên có muốn làm quan ở Yên không? Bàng Quyên
      tỏ ý muốn.
      Hôm sau Tôn Tháo vào triều chầu, đem việc Bàng Quyên mà tâu hết
      cho Yên vương nghe, rồi xin tiến cử. Yên vương dạy cho mời Bàng
      Quyên vào. Bàng Quyên vào lạy và tung hô. Yên vương thấy Bàng
      Quyên đầu qủy, mắt rắn biết là người hay phản phúc nên không muốn
      dùng. Vua lấy cớ là không hề thâu nhận một viên quan nào là người
      nước khác, rồi bảo Tôn Tháo đuổi Bàng Quyên ra khỏi nước Yên. Vua
      làm như thế là sợ Bàng Quyên ở lâu trong nước sẽ có chuyện lôi thôi.
      Bàng Quyên không được thâu dụng nên oán hận vua Yên lắm. Liền đó
      chàng quày về phủ Tôn Tháo xách hành lý từ giã ra đi. Đi hơn mười dặm
      gặp một cội cây to chàng bèn rút dao vạt da cây một lát lớn rồi đề một
      bài thơ rằng:
      Non tiên từng học đủ binh thơ,
      Bảy nước một ta, có ai ngờ.
      Tuy gọi trời trăng song chẳng sáng,
      Đã rằng vua chúa vẫn còn khờ,
      Tay hươi bảo kiếm trời nghiêng ngả
      Trí đặc thâm mưu chúng ngẩn ngơ.
      Ví đặng binh quyền trong một lúc,
      Nước Yên còn những đất trơ trơ
      Đề thơ rồi, Bàng Quyên bèn đi qua Tề. Lúc này thái sư Tề là Trâu
      Kỵ đương chiêu hiền mộ sĩ, thế mà khi Bàng Quyên vào giáo trường ra
      mắt xin ứng dụng, thì Trâu Kỵ xem tướng chê là kẻ phản phúc mà không
      dùng. Bàng Quyên tức quá định vào ra mắt Tề vương, nếu đặng thâu
      nhận sẽ kiếm cách trả thù Trâu kỵ. Chàng chạy ra khỏi giáo trường la hét
      nhiều câu vô lễ để chửi Trâu Kỵ rồi tới Tây hoa môn mà vào nội.
      Tới trước mặt Tề vương, Bàng Quyên tỏ hết lai lịch mình rồi khoe tài
      mách trí. Tề vương xem tướng một hồi, cũng chê Bàng Quyên là kẻ hủ
      thỉ vô chung, không muốn dùng, nhưnh còn kiếm lời dò hỏi chơi. Bàng
      Quyên đối đáp một cách rất vô lễ, lẩn quẩn lại nói phạm tên kiêng của
      nhà vua. Tề vương cả giận, sai võ sĩ kéo ra ngoài chém đầu. Quan
      Thượng đại phu là Bốc Thương lật đật quỳ tâu xin vua chớ chém Bàng
      Quyên mà phải mang tiếng là tru hiền lục sĩ với cả nước. Tề vương cho
      lời Bốc Thương là phải, tha Bàng Quyên và lập tức đuổi ra.
      Bàng Quyên căm giận lại định đi nước khác. Đi vừa đến cầu Tân
      Lương, bỗng gặp một đoàn binh mã khua chiêng gióng trống đi tới. Bàng
      Quyên lật đật núp dưới cầu xem, thì ra vua Ngụy đi giá sang Tề.
      Nguyên lệ nhà Châu bấy giờ, mỗi ba năm chư hầu phải vào chầu
      thiên tử một lần. Nay tới lệ, vua Ngụy sang Tề đặng cùng đi với Tề
      vương.
      Khi vua Ngụy đi đến cầu Tân Lương ngưạ mã bỗng dừng lại, thúc thế
      nào cũng chẳng đi. Vua Ngụy hỏi rằng:
      - Vì sao mà ngựa chẳng chịu qua cầu?
      Tả hộ giá là Từ Giáp, hữu hộ giá là Trịnh An Bình tâu rằng:
      - Ắt dưới cầu có điều gì?
      Vua Ngụy khen phải, sai quân sĩ xuống cầu lục soát. Quân sĩ gặp
      Bàng Quyên bèn dắt tới trước mặt vua. Vua Ngụy hét rằng:
      - Mi là kẻ gian tế ở nước ngoài à?
      Bàng Quyên tâu:
      - Thần dân là người nước Ngụy, quê ở Nghi Lương tên là Bàng
      Quyên, nhân đi học đạo dưới Quỷ Cốc đã thành tài, nay định về nước
      phò vua giúp nước, bất đồ lại gặp thánh giá dọc đường, xin hoàng thượng
      thứ tội.
      Vua Ngụy hỏi:
      - Muốn ra mắt trẫm sao lại núp dưới gầm cầu?
      Bàng Quyên tâu:
      - Vì hạ thần mang hành lý bên mình khó ra bái kiến, nên chi phải
      lánh mặt.
      Trịnh An Bình tâu rằng:
      - Muôn tâu bệ hạ, người này vốn là con của tên Bàng Hoành, thợ
      nhuộm ở Ngưu Đầu Nhai. Ba năm trước tên Hoành tát nước ra lộ đọng
      thành vũng, làm cho ngựa của hạ thần trợn, hạ thần giận có trách phạt
      nó. Vì vậy, người này là con y căm giận cố ý đi học đạo về gây loạn
      trong nước, xin bệ hạ thẩm xét. Ngụy vương suy nghĩ giây lát, cho lời An
      Bình là phải vì xét rõ Bàng Quyên có ý dối, chớ ở Vân Mộng sơn về
      Ngụy chẳng phải đi đường này. Có lẽ nó đi đầu nước khác để lo đánh
      Ngụy, nay thình lình gặp gỡ, nên nói dối mà thôi. Nên Ngụy vương bèn
      sai quân ngự lâm áp giải Bàng Quyên về nước giam ở Nam lao, chờ khi
      ngự giá về nước sẽ xử trí.
      Xong việc, Ngụy vương vào Tề cùng vua Tề khởi giá vào chầu Châu
      thiên tử. Triều cẩn xong, hai vua trở về Tề, vua Tề đặt tiệc ở vườn Vạn
      Quỷ tiễn biệt vua Ngụy. Lúc bấy giờ là lúc xuân quang trời thanh khí
      mát, trăm hoa đua nở, hai vua xem hoa thưởng cảnh giây lâu bèn vào
      tiệc ăn uống. Đương lúc ăn uống bỗng có một trận gió to thổi tới, bụi cát
      bay lên mù mịt, ở trên bàn tiệc chỗ vua Tề ngồi bụi đóng một lớp dày,
      còn ở chỗ vua Ngụy thì không đóng một hột. Vua Tề lấy làm lạ hỏi vua
      Ngụy:
      - Tại sao chỗ quả nhân ngồi có đóng bụi, còn chỗ vương huynh lại
      không vậy?
      Ngụy vương đáp:
      - Vì tôi có đeo trong mình một viên Tỵ trần châu nên bụi bậm không
      tới gần được.
      Tề vương nói:
      - Nghe đồn châu ấy là món báo vô song, cảm phiền vương cho quả
      nhân xem thử.
      Ngụy vương bèn móc trong đãi gấm lấy ra một hột châu, trao cho thịi
      vệ. Thị vệ tiếp lấy để lên mâm vàng bưng sang bàn của vua Tề để cho
      ngài xem. Vua Tề tiếp lấy coi thì hột châu cứ quay mãi, ngài lấy làm lạ
      hỏi:
      - Nếu như vầy thì xem làm sao được?
      Ngụy vương nói:
      - Đó là nó muốn xin tiền của đại vương vậy.
      Tề vương cười rằng:
      - Thôi, châu quý hãy dừng lại đi. Ta sẽ cho mi một trăm lượng bạc và
      mười tấm vóc vậy.
      Nói dứt lời, hột châu khua to một tiếng rồi dừng lại. Vua Tề khen
      ngợi liền miệng, bụng lấy làm thích lắm, nói với Ngụy vương rằng:
      - Thiệt là một vật báo trên đời ít có. Phải chi vương huynh nhường
      cho quả nhân thì quả nhân sẽ tạ lại cho hai tòa thành.
      Ngụy vương nghĩ giây lát sanh một kế, nói rằng:
      - Thưa đại vương, châu này vốn có hai hột, một trống một mái. Hột
      mái ở trong rương tại bên Ngụy cung. Nếu hai hột lìa nhau ắt phải khô
      khan mà chết. Vậy đại vương để tôi mang về. Rồi đại vương tắm gội
      sạch sẽ trai giới ba ngày, khi ấy tôi sẽ đưa sang cả hai.
      Tề vương nghe dứt, dạy thị vệ đem trả Tỵ trần châu cho vua Ngụy.
      Mãn tiệc, vua Ngụy trở ra quán Kim đình, cho dòi Trịnh An Bình,
      Châu Hợi, Từ Giáp, Hầu Anh tới bàn mưu từ chối với Tề vương không
      đổi Tỵ trần châu. Trịnh An Bình nghe dứt đuôi đầu bèn tâu:
      -Tâu bệ hạ, thần nghe dân là nước, gốc vững nước yên. Gốc vững tức
      là dân no, dân no nhờ đất rộng. Nay châu Tỵ trần tuy báu song không
      giúp cho dân no được. Vậy tốt hơn lấy nó mà đổi hai thành, một là mở
      rộng đất đai, hai là chuộc lời hứa với Tề chúa. Chớ như bệ hạ quý châu
      lỗi ước thì người trong thiên hạ còn coi ra gì? Lại cũng vì đó mà Ngụy Tề
      xích mích chăng?
      Ngụy vương nói:
      - Khanh biết một chớ mà rõ lại hai. Vả lại, thành trì dễ đoạt chứ châu
      ngọc khó tìm. Nguyên châu Tỵ trần này gốc ở nước Tam Hùng vốn là vật
      quý vô giá. Lại quả nhân có nghe người quân tử chẳng đoạt cái thích của
      người khác. Vậy mà vua Tề trông thấy châu là muốn ngay, ấy thật vô lễ.
      Với kẻ vô lễ, quả nhân có thất tín cũng vô hại.
      Châu Hợi thấy lòng vua Ngụy khư khư như vậy thì sợ ở lâu bên Tề e
      có hại, nên tâu rằng.
      - Theo ý hạ thần thì nội đêm nay chúng ta trở về Ngụy rồi sẽ liệu
      định.
      Ngụy vương khen rằng:
      - Phải, khanh biết lo xa vậy là tốt lắm.
      Lập tức hạ lịnh tới canh hai khởi giá về Ngụy một cách êm ái không
      ai hay.
      Sáng ngày vua Tề nghe tin chúa tôi nhà Ngụy về lẻn thì cả giận hạ
      lịnh cho Lỗ vương Điền Kỵ, đem binh sang phạt, kể tội rằng: Ăn yến
      không tạ, lui về không từ, nói đổi châu mà không đổi. Nếu chịu dâng
      châu thì yên mọi việc, bằng chẳng phải đạp nước Ngụy ra đất bằng.
      Vua Ngụy về tới nước nhà, nghe tin Điền Kỵ kéo binh sang bèn sai
      Tư Giáp, Hầu Anh đem binh đón đánh. Hai đạo binh gặp nhau, Điền Kỵ
      sải ngựa ra trước trận hét rằng:
      - Chú tôi nhà Ngụy mi đã biết tội hay chưa?
      Tư Giáp hỏi:
      - Có tội gì? Ngươi hãy nói mau rồi chịu chết.
      Điền Kỵ nói:
      - Ăn yến không tạ ơn, nói đổi châu rồi không đổi, lén về không từ
      giã, há không tội à? Nay binh ta tới đây hãy mau đem châu Tỵ trần ra
      dâng cho mau, bằng không ta sẽ phá tan bờ cõi.
      Từ Giáp, Hồ Anh nghe mấy lời giận quá hươi đao tới chém. Điền Kỵ
      rút thương giao chiến. Đánh hơn ba mươi hiệp, Từ Giáp, Hồ Anh cự
      không lại bỏ chạy. Điền Kỵ úa binh tới giết binh Ngụy rất nhiều rồi
      gióng chiêng thâu binh về dinh.
      Từ Giáp, Hồ Anh chạy về Nghi Lương báo tin bại trận cho Ngụy
      vương hay, Ngụy vương cả kinh. Trịnh An Bình nhân dịp xin đem binh ra
      trận. Bên Tề anh em tiên phong Tu Văn Long, Tu Văn Hổ cũng lãnh binh
      đối địch. Một mình An Bình không sao cự nổi hai anh em họ Tu cho nên
      binh Ngụy lại thua một trận to nữa.
      Thua luôn hai trận, Ngụy vương lo sợ vô cùng. Sau một lúc bàn bạc
      với các cận thần, vua bèn hạ lịnh ra bảng chiêu hiền, treo khắp trong
      nước. Ai đánh lui được quân Tề thì thưởng ngàn vàng, phong chức Vạn
      hộ hầu, thâu làm phò mã đồng chia hưởng vinh hoa.
      Bàng Quyên ở trong Nam lao, nghe tin ấy, bèn hỏi ngục tốt có quả
      vậy chăng? Ngục tốt mắng rằng:
      - Làm thân thằng tù chết nay sống mai mà chưa biết, lại còn ngóng
      chuyện thiên hạ.
      Bàng Quyên nói:
      - Dẫu phải chết đi tôi cũng an tâm. Song còn sống ngày nào là lo việc
      thiên hạ ngày ấy. Tôi là học trò Quỷ Cốc, phép tắc lão thông, há chẳng
      cứu được nước Ngụy à? Cứu được mà bỏ qua sao nỡ.
      Ngục tốt nghe mấy lời lập tức báo cho ngucï quan. Ngục quan vào tâu
      cho vua Ngụy hay. Vua Ngụy cho đòi Bàng Quyên vào hỏi rằng:
      - Ngươi chắc có thể đuổi được binh Tề à?
      Bàng Quyên tâu:
      - Tội thần không dám khoe tài, chớ thật sự có dư đuổi binh Điền Kỵ
      vậy.
      Vua Ngụy nói:
      - Nếu ngươi làm được như vậy thì quả nhân gả công chúa cho.
      Nói dứt lời tả hữu lấy áo mão ban cho Bàng Quyên. Bàng Quyên nai
      nịt hẳn hòi, cầm binh khí lên ngựa đem binh ra trận.
      Điền Kỵ nghe tin có tướng Ngụy bèn đem anh em Tu Văn Long, Tu
      Văn Hổ ra trận. Bàng Quyên chỉ vào binh Tề kêu hỏi rằng:
      - Điền Kỵ là đứa nào hãy ra mà chịu chết?
      Điền Kỵ sải ngựa tới nạt rằng:
      - Đừng vô lễ, hãy xưng tên ra mau!
      Bàng Quyên đáp:
      - Ta là anh hùng cái thế, tên gọi là Bàng Quyên đây.
      Dứt lời hai bên liền xáp lại đánh nhau.
      Đánh vùi từ trưa tới tối chưa phân thắng bại.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #4
        Hồi 4 - Điền Kỵ cắt râu trở về nước

        Hồi 4

        Điền Kỵ cắt râu trở về nước
        Vương Ngao búa đẻo bài đai ngôn



        Bàng Quyên đánh vùi với Điền Kỵ, Tu Văn Long, Tu Văn Hổ tới tối
        mà không phân thắng bại. Vì vậy chàng liền nghĩ ra kế đà đao, vụt quày
        ngựa bỏ chạy. Điền Kỵ không biết, sải ngựa rượt theo.
        Bàng Quyên chờ Điền Kỵ nhào xuống ngựa rồi bắt đem về cho vua
        Ngụy. Vua Ngụy cả mừng sai giam Điền Kỵ vào Nam lao chờ khi nào
        vua Tề có hàng thơ gởi sang sẽ tha cho về.
        Tướng Tề là Tu Văn Long, Tu Van Hổ thấy Điền Kỵ bị bắt nhắm
        mìnnh không thể cự nổi bèn kéo binh lén về nước váo ra mắt Tề vương
        tâu rõ đầu đuôi việc chiến đấu. Tề vương nghe qua lập tức nhóm các
        quan bàn mưu nghĩ kế để cứu Điền Kỵ ra khỏi Nam lao. Quan thượng đại
        phu Bốc Thương dâng kế rằng:
        - Nay bệ hạ viết hàng thơ và bày cống lễ, hạ thần sẽ sang Ngụy để
        cưư Lỗ vương về.
        Tề vương nhận lời. Hàng thơ cống lễ sắp đặt an bài. Bốc Thương liền
        mang qua nước Ngụy vào ra mắt vua Ngụy tâu rằng:
        - Hạ thần là Bốc Thương ở nước Tề, nhơn vì Điền Lỗ vương mạo
        phạm oai trời, nên hạ thần sang dâng hàng thơ và cống lễ cầu đại vương
        mở lượng nhân từ tha cho Lỗ vương về nước. Tự hậu nước Tề chúng tôi
        xin tấn cống mãi không dám sai lời.
        Vua Ngụy nghe dứt cầm hàng thơ lê xem ý muốn buông tha Điền Kỵ.
        Bàng Quyên lật đật tâu rằng:
        - Điền Kỵ là vương tử nước Tề, nếu tha hắn về bất phục. Chi bằng
        hãy cắt râu bôi phấn vào mặt hắn để thị oai, ấy gọi là tha tội chết mà
        phải trừng mặt. Làm cho hắn tởn không dám gây gổ nữa. Lại chư hầu
        trong thiên hạ cũng ghê bệ hạ là lẫm liệt.
        Vua Ngụy nghe theo lời Bàng Quyên, sai người vào Nam lao cạo râu
        và bôi phấn vào mặt Điền Kỵ rồi đem ra giao trả cho Bốc Thương.
        Đây lại nói vua Ngụy có nàng công húa tên Thoại Liên, tuổi vừa hai
        tám, nhan sắc tuyệt vời. Vua bèn lựa ngày tốt gả cho Bàng Quyên, phong
        Bàng Quyên làm phò mã, tước Võ âm quân, kiêm chức Trấn Ngụy Phi
        Hổ Đại nguyên soái, ban cho ngự đái và bảo kiếm nữa. Đó là vua Ngụy
        đã giữ trọn lời hứa.
        Một hôm vua Ngụy cho vời Bàng Quyên tới trước điện dạy rằng:
        - Quả nhơn nhờ khanh phò tá thế mạnh như non cao có cọp to. Nay
        quả nhơn muốn thừa cơ hội thâu cả sáu nước về Ngụy. Vậy ý khanh nghĩ
        như thế nào?
        Bàng Quyên tâu rằng:
        -Xin bệ ạ chớ vội. Nay tuy thắng được Tề, chớ Tần, Yên, Triệu, Sở,
        Hàng vẫn chưa thuần phục. Nếu khinh động e họa hổ bất thàng. Theo ý
        hạ thần thì nên lập bài Đại ngôn để trấn áp sáu nước, hẹn ba năm phải
        vào cống, bằng không chừng ấy sẽ cư binh cũng chảng muộn.
        Ngụy vương khen phải, lập tức sai quan lo dựng bài Đại ngôn, Bàng
        Quyên thủ bút đề rằng:
        Phò mã nước Ngụy Võ âm quân,
        Thiên hạ ai ai đều rõ danh.
        Muốn kéo binh ra thâu sáu nước,
        Trước tay thử phá đám Tề quân.
        Nước Ngụy mới ra một tướng tái,
        Danh rền các nước thảy kiên oai.
        Thử hươi bửu kiếm trời vang rúng,
        Thiên hạ quyền hành nắm một tay.
        Báng Quyên nước Ngụy thật tài danh.
        Nghe tiếng ai ai cũng thất kinh.
        Các nước biết thân mau tấn cống.
        Họa may mới khỏi hại quân binh.
        Đề bài Đại ngôn rồi, Bàng Quyên để năm sáu tên quân ở giữ, dặn khi
        nào gặp người nước ngòai đi ngang thì bắt phải sao một bổn đem về nước
        rội ba năm phải sang tấn cống.
        Bây giờ trong nước Ngụy có một vị hiền sĩ vốn học trò giỏi của Quỷ
        Cốc, tên là Huất Liêu. Người này hay về quê bói số xem quẻ, cũng ành
        binh pháp, nhưng cùng học trò là Vương Ngao vẫn ở ẩn trong Di Sơn mà
        thôi. Nay nghe Bàng Quyên lập bài Đại ngôn, Hất Liêu bèn nói với
        Vương Ngao rằng: "Tài của Bàng Quyên không bằng Tôn Tẩn, thế mà
        dám ỷ sức khi người. Ta lo là khi Tôn Tẩn xuống trần giúp cho một nước
        nào thì nước Ngụy phải nguy. Vậy mi nên xuống đó phá bài Đại ngôn để
        trừ hậu họa và tiến cử Tôn Tẩn cho chúa Ngụy". Vương ngao vâng lời
        xách búa đồng đi thẳng vào kinh thành đẽo bỏ bài Đại ngôn. Quân giữ
        bài liền bắt Vương Ngao giải vào dinh phò mã. Bàng Quyên trông thấy
        Vương Ngao thì cả giận nạt rằng:
        - Mi là ai mà dám phá bài Đại ngôn của ta?
        Vương Ngao đáp:
        - Không cần biết ta là ai, ta là người ghét kẻ tiểu tử lam phách nên tới
        phá mà thôi.
        Bàng Quyên cả giận sai người kéo Vương Ngao ra chém. Vương
        Ngao cười rằng:
        - Khoan đã có việc gì mà chém ta. Ta vẫn nghe kẻ có danh ít bền
        vững, kẻ phách lối phải bị tai. Nay ngươi mới tới Ngụy, may mà thắng
        được Tề, đã vội lên mặt chớ ngươi có biết trong thiên hạ còn biết bao kẻ
        anh hùng không?
        Bàng Quyên nói:
        - Mi biết ai là anh hùng hãy kể cho ta nghe!
        Vương Ngao nói:
        - Tần có Bach Khởi, Sở có Vương Tiểng, Triệu có Liêm Pha, Hàng có
        Trương Xa, Yên có Tôn Tháo, Tề có Điền Văn, Điền Kỵ. Nếu sáu nước
        hiệp binh tới đánh Ngụy thì ngươi phỏng có kế gì thắng được hay không
        mà sớm dám khoe tài ỷ thế?
        Bàng Quyên nghe mấy lời, hối hận vô cùng, lật đật xin lỗi và mời
        Vương Ngao lên ngồi rồi hỏi rằng:
        - Tiên sinh tên họ là chi?
        Vương Ngao nói:
        - Tôi họ Vương tên Ngao, học trò của Huất Liêu. Thầy tôi với túc hạ
        là bạn học, môn đồ của Quỷ Cốc tiên sinh. Vì tình hữu nghị, tôi dâng
        mấy lời cho túc hạ rõ.
        Bàng Quyên hỏi:
        - Tiên sinh vân du thiên hạ có biết ai là kẻ hiền tài chăng?
        Vương Ngao nói:
        - Chỉ có bạn học của túc hạ là Tôn Tẩn thôi. Vì từ lúc túc hạ xuống
        núi tới nay.Tôn Tẩn được Quỷ Cốc truyền thọ binh tho, đồ trận, dị pháp
        kỳ mưu đủ cả. Néu được người đó giúp sức với túc hạ mà lo việc Nguy
        thì lợi vô ngần, chư hầu không ai là chẳng thuần phục.
        Vương Ngao nói dứt kiếu từ về Di Sơn.
        Vương Ngao đi rồi, Bàng Quyên suy nghĩ giây lâu mới quyết định
        phải cầu Tôn Tẩn giúp sức để lo việc lớn cho nước Ngụy. Vậy hôm sau
        Bàng Quyên liền vào chầu vua Ngụy mà tâu rõ việc Vương Ngao phá
        bài Đại ngôn và tiến cử Tôn Tẩn. Ngụy vương cả mừng, lập tức sai Từ
        Giáp lên núi Vân Mộng rước Tôn Tẩn.
        Nhắc lại Tôn Tẩn nán ở trong động Thủy Liêm mà học thêm phép
        với Quỷ Cốc. Ngày nọ Tôn Tẩn hỏi Quỷ Cốc rằng:
        - Làm sao mà biết trước vận nước thịnh suy được?
        Quỷ Cốc nói:
        - Cứ xem ở tinh tượng. Sao Châu bá là thoại tinh của nước, sao Thiên
        bao là tai tinh của nước. Nước mà thịnh vượng thì sao châu bá sáng rực,
        nước mà suy rồi thì sao Thiên bao mờ tối.
        Quỷ Cốc đáp dứt lời lại bảo Tôn Tẩn rằng:
        - Sau động có cây đào tiên, cứ mười năm là nở hoa đơm trái một lần,
        đơm trái rồi tới bốn mươi chín ngày thì trái chín, ăn được trái ấy thì khỏi
        bệnh, thêm tuổi, thật là đào quý của nhà tiên. Hôm thầy đi hái thuốc trở
        về thấy đào đã có trái gần chín. Vậy con nên ra đó thăm chừng kẻo bị
        chúng hái trộm thì uổng lắm.
        Tôn Tẩn vâng lời thầy đi ra sau núi tới dưới cội đào xem. Thấy đào
        mơn mởn tốt thì thích lắm, đếm thử chỉ có bốn mươi tám trái thoi. Tôn
        Tẩn lấy làm lạ song không đem việc mất đào mà nói cho thầy hay. Qua
        ngày sau Tôn Tẩn lại tới thăm nữa, đếm lại chỉ còn bốn mươi bảy trái.
        Chàng nghĩ là có kẻ trộm, định chí đẽm ấy rình bắt kẻ gian trừng trị cho
        hả giận.
        Tối đến, Tôn Tẩn tới gần cội đào tìm chỗ kín ẩn mình mà rình. Rình
        tới canh hai, bỗng nghe trên ngọn đào có tiếng động. Tôn Tẩn dòm lên
        thấy một con vượn trắng lông mượt như tuyết thì cả ận, vụt gậy đánh lên
        rất mạnh. Con vượn bị đánh té nhào xuống đất, nói tiếng người rằng:
        - Lạy thầy xin tha mạng cho tôi.
        Tôn Tẩn hỏi:
        - Mi là nghiệt súc ở đâu mà biết nói tiếng người?
        Vượn trắng đáp:
        - Nhà tôi ở mé bắc động Thủy Liêm, ông tôi là Ba tây hầu, cha là
        Quyên Công, mẹ là Sơn Hoa công chúa. Ba đời tu luyện nên biết nói
        tiếng người.
        Tôn Tẩn hỏi:
        - Sao mi dám hái trộm đào tiên của thầy ta?
        Vượn trắng thưa:
        - Chẳng giấu chi thầy, vì mẹ tôi đau nặng, nói rằng thèm đào, vì lòng
        thương mẹ nên tôi đánh liều tới hái trộm một trái đào cho mẹ ăn. Mẹ ăn
        xong thấy trong mình khỏe khoắn nen lại sai tôi đi hái thêm. Thiệt tình
        tôi đã hái trộm của thầy hết hai trái rồi. Tới hôm nay chưa kị hái trái thứ
        ba thì đã bị thầy bắt được. Moou6n lạy thấy, tôi hái r6ọm đào, dầu thầy
        giết chết cũng chẳng hại, song tội nghiệp mẹ toi già cả đau ốm không
        biết nhờ ai nâng đỡ lo lắng. Vậy xin thầy rộng lòng tha cho mẹ con tôi
        một khi!
        Tôn Tẩn nghe dứt, hái một trái đào trao cho con vượn trắng mà nói:
        - Mi là con thảo, ta chẳng nỡ giết. Ta cho một trái đào này, mi đem
        về cho mẹ mi, nhưng tự hậu không được trôm cắp nữa.
        Vượn trắng được đào, vô cùng bội phục nói:
        - Thầy đã tha tội lại còn cho đào, ơn nặng biết lấy chi đền. Nay chỉ có
        ba quyển thiên thơ, thầy hãy đợi tôi lấy đem dâng, gọi là ơ đền nghĩa trả.
        Tôn Tẩn nghe dứt lấy làm lạ hỏi rằng:
        - Thiên thơ gì ở đâu mà mi có?
        Vượn trắng đáp:
        - Thật tôi không có. Thiên thơ đó là của thầy Quỷ Cốc cất trong hộp
        đá ở động Trù Kim. Thầy đứng đây một lát tôi đi lấy đem lại cho.
        Vượn trắng nói rồi nhảy đi.
        Chẳng bao lâu, Tôn Tẩn nghe trên không có tiếng kêu: "Thầy ơi! Đón
        thiên thơ đây". Liền thấy trên không thấy ba quyển sách nhỏ. Tôn Tẩn
        tiếp lấy thì thấy trên có đề bốn câu thơ rằng:
        Tại sao người lại lậu cơ trời
        Gây họa to rồi há phải chơi.
        Tôn Tẩn may nhờ truyền phép lạ.
        Trả ơn vượn trắng tặng thiên thơ.
        Tôn Tẩn được thiên thơ, ca củm đem về phòng thắp đèn mà đọc. Lúc
        ấy thình lình gió lạnh thổi đến, mây kéo mịt mù, trên không nổi sám rền
        vang. Quỷ Cốc đương ngồi trên bồ đoàn nghe sấùm bèn đứng dậy đi tuần
        quanh động. Đi tới phòng của Tôn Tẩn nghe tiếng đọc thiên thơ, Quỷ
        Cốc thất kinh xô của bước vào nói:
        - Thiên thơ ta cất ở hộp đựng đá bên động Trù Kim, vì mi chưa tới số
        phận nên ta chưa truyền, thế mà sao mi lai có mà học?
        Tôn Tẩn bèn đem chuyện con vượn trắng mà thuật lại. Quỷ Côùc nói:
        - Phải rồi, con yêu đó nó trộm mà cho ngươi. Ta không tiếc gì. Song
        ta lo vì lúc mi tiếp chiêu thơ không tắm gội, để ô uế phạm tới thiên thần,
        e về sau không khỏi nạn một trăm ngày.
        Tôn Tẩn biến sắc hỏi:
        - Vậy mà thầy có phương chi cứu con không?
        Quỷ Cốc nói:
        - Thầy có phép trấn áp, nếu con tuân theo thì sẽ cứu được. Này, sau
        núi về mé Nam có ngôi mộ đá bỏ trống, con nên chun đầu vô đó mà
        nằm, day đầu về Nam trở chân lại Bắc, nằm bốn mươi chín ngày thì khỏi
        nạn. Thầy cho con bốn mươi chín hột gạo ngậm trong miệng, đừng nuốt,
        thì khỏi đói.
        Tôn Tẩn vâng lệnh làm y theo lời. Quỷ Cốc dựng một tấm đá trên mả
        đề chữ:
        "Yên quốc Tôn Tẩn ký táng chi mộ"
        (Mộ chôn nhờ của người nước Yên tên Tôn Tẩn).
        Nói về Từ Giáp lên tới núi Vân Mộng, bèn thẳng tới động Thủy
        Liêm. Vừa tới cửa động bỗng gặp một tên đạo đồng hỏi rằng:
        - Ông là sứ thần của nước Ngụy à?
        Từ Giáp thất kinh đáp phải, rồi cậy đạo đồng dắt vào ra mắt Quỷ Cốc
        tiên sinh. Đạo đồng dắt vào trước bồ đòan, Quỷ Cốc hỏi lai lịch. Từ Giáp
        bèn đem ý chỉ của mình mà tỏ ra. Quỷ Cốc thở dài mà rằng:
        - Tiên sinh lặn lội xa xôi thành ra vô ích, học trò tôi là Tôn Tẩn đã
        chết lâu rồi.
        từ Giáp hỏi:
        - Lịnh đồ chết vì bịnh hả?
        Quỷ Cốc nói:
        - Bởi bản chất nó ngu độn, học đạo sáu năm trời mà không thông
        hiểu binh thơ chiến pháp chi, nên nó rầu rĩ uất khí mà chết.
        Từ Giáp nói:
        - Tôn lịnh đồ vô phước như vậy, chính là tôi chúa nhà Ngụy vô phước
        đó.
        Nói rồi từ tạ Quỷ Cốc trở về nước Ngụy tâu rõ đầu đuôi cho Ngụy
        vương hay. Ngụy vuương nữa tin mà lại nữa ngờ.
        Lúc bấy giờ, có Bàng Quyên ngồi bên cạnh, nghe câu chuyện như
        vậy bèn tâu rằng:
        - Tâu bệ hạ đó là kế của thầy tôi cầm T6n Tẩn ở lại núi chớ thật sự
        thì ảnh chưa chết.
        Ngụy vương nói:
        - Lấy cớ gì mà khanh dám chắc như vậy?
        Bàng Quyên nói:
        - Phàm người nào chết thì sao chơn mạng của người ấy phải xẹt mất.
        Hồi hôm thần xem tinh tượng thấy sao của Tôn Tẩn còn thế mà gọi chết
        la chết làm sao?
        Ngụy vương khen phải, day qua hỏi Từ Giáp:
        - Khanh nghe nói Tôn Tẩn chết mà chính mắt có thấy mả chôn ở đâu
        không?
        Từ Giáp tâu:
        - Chỉ nghe theo lời Quỷ Cốc nói chớ chưa xem tường mả chôn.
        Ngụy vương nói:
        - Thế thì khanh lầm. Vậy bây giờ phải đi cầu Tôn Tẩn một lần nữa.
        Từ Gia vâng mạng ra đi.
        Tới động Thủy Liêm, Từ Giáp vào ra mắt Quỷ Cốc và nói:
        - Cứ theo lời sư cụ, tôi về tâu với vua tôi, vua tôi không tin, nói rằng
        nếu lịnh đồ quả chết ắt đã có mộ phần. Vậy phiền sư cụ cho tôi tới viếng
        mộ phần của lịnh đồ một phen.
        Quỷ Cốc cười, dắt tay Từ Giáp ra phía sau núi chỉ ngôi mả đá cho
        xem. Từ Giáp thấy trên mà quả có một bia đề rõ ràngnhư vậy nên tin
        thiệt, từ tạ Quỷ Cốc trở về nước tâu lại cho Ngụy vương hay. Ngụy vương
        không còn nghi ngờ gì nữa. Duy Bàng Quyên thì không tin, bước ra tâu
        rằng:
        - Thần xem sao luôn mấy đêm, quả Tôn Tẩn chưa chết. Cầu không
        được Tôn Tẩn là tại Từ Giáp quá dở mà thôi. Bây giờ bệ hạ phải định tội
        treo Từ Giáp, rồi khiến y đi một lần nữa rồi mới xong.
        Ngụy vương suy nghĩ giây lâu rồi hỏi:
        - Bay giờ khanh định treo tội Từ Giáp thế nào?
        Bàng Quyên tâu:
        - Nên sai quân bắt hết người nhà của Từ Giáp giam vào Nam lao rồi
        sai y đi lên núi Vân Mộng. Như cầu được Tôn Tẩn xuống núi thì tha tội
        cho, lại gia thăng ba cấp. Bằng cầu không được thì tru di cả nhà và lăng
        trì Từ Giáp. Có làm như vậy mới cầu được hiền tài. Nếu lôi thôi để Tôn
        Tẩn giúp nước khác thì nước Ngụy bị họa to.
        Nghe lời bàng Quyên nói có lý, Ngụy vương bèn sai quan đem binh
        tới bao nhà Từ Giáp bắt hơn một trăm quyến thuộc, đem giam vào Nam
        lao rồi sai Từ Giáp lên núi Vân Mộng lần nữa.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #5
          Hồi 5 - Điện Kim Loan, Tôn Tẩn tới chầu

          Hồi 5

          Điện Kim Loan, Tôn Tẩn tới chầu
          Trường diễn võ, Bàng Quyên thua trận


          Từ Giáp lên núi Vân Mộng vào động Thủy Liêm ra mắt Quỷ Cốc,
          Quỷ Cốc hỏi rằng:
          - Tiên sinh lên làm chi nữa há chẳng tin lời tôi à?
          Từ Giáp bèn đem việc mình ở dưới Ngụy triều bị treo tội, gia thuộc bị
          bắt giam vào Nam lao mà thuật lại một lượt cho Quỷ Cốc nghe. Thuật rồi
          nói tiếp:
          - Sư cụ ôi! Người chết khó sống, biết làm sao mà cầu được? Ngày
          nay tôi cầu không được Tôn Tiên sinh ắt cả nhà bị tội chết. Tôi không
          còn mặt nào trở lại Ngụy triều xem gia thuộc bị phanh thây rồi tự mình
          cũng bị lăng trì. Bây giờ tôi xin tới trước mộ phần của Tôn Tiên sinh
          dùng cơm canh trí tế một lễ rồi tự vẫn cho yên thân. Ấy chẳng phụ lòng
          cầu hiền tuân mạng vậy.
          Quỷ Cốc nghe mấy lời cũng thương, song cơ trời đâu dám trái. Vậy
          bèn sai đạo đồng bưng cơm canh đi trước với Từ Giáp ra phần mộ của
          Tôn Tẩn rồi mình cũng lọm khọm đi theo sau.
          Từ Giáp ra tới mộ phần sắp cơm canh, thắp nén hương, khấn vái âm
          linh Tôn Tẩn, rồi kể lể nỗi khổ sở của mình, cầu hiền ba lượt, bị treo tội
          thế nào, gia thuộc bị giam làm sao, đầu đuôi kể lại không sót, vừa kể lể
          vừa khóc, Tôn Tẩn nằm trong mà nghe rõ sự tình như vậy cầm lòng
          không được, nghĩ thầm rằng: "Dầu ta xuống núi ra mắt vua Ngụy có bị tai
          nạn gì cũng không đến nỗi to như cả nhà Tứ Giáp hơn một trăm người vô
          cớ mà chết oan". Nghĩ đoạn, Tôn Tẩn đạp vách mà ngã nhào rồi chui ra
          nói với Từ Giáp rằng:
          - Tôi là Tôn Tẩn đây, vì thương gia thuộc túc hạ sẽ vô cớ chịu chết
          oan nên chịu xuống núi giải cứu.
          Từ Giáp nghe mấy lời vừa sợ vừa mừng, sợ là sợ người chết sao còn
          sống lại, mừng là mừng tánh mạng gia thuộc mình sẽ khỏi bị tru di.
          Liền lúc ấy Quỷ Cốc đi tới, thấy Tôn Tẫn không vâng lời mình đã
          chường mặt với Từ Giáp thì kêu lại và nói:
          - Sao ngươi không giữ phép trấn áp của ta? Cái khổ một trăm ngày
          nhịn chịu không được để gây thêm cái họa một ngàn ngày. Ngươi đi
          chuyến này sẽ bị chập chơn.
          Tôn Tẩn nghe nói cả kinh thưa rằng:
          - Xin thầy dạy cứu cho con. Quỷ Cốc nói:
          Đó là mạng trời ta không còn cách gì cứu được. Nay ta chỉ có một
          vuông kiếm trần trao cho ngươi, hãy cất kỹ vào mình, khi nào trong tay
          có saÜn binh quyền ra trận cướp thành sẽ dùng nó mà hóa binh hiển tướng.
          Này, thầy cũng cho ngươi thêm một cái hộp, hãy giữ lấy, khi nào bị hoạn
          nạn thì giở nó ra, tức khắc sẽ ccó cách cứu gỡ. Tuy bây giờ ngươi xuống
          núi bị tai to họa lớn, song về sau sẽ được bá tước phong hầu.
          Tôn Tẩn nghe dứt lời thầy tiếp lấy hai món bửu bối giắt vào trong
          lưng rồi cùng Từ Giáp lạy tạ Quỷ Cốc mà xuống núi.
          Tôn Tẩn theo Từ Giáp về triều yết kiến Ngụy vương. Ngụy vương cả
          mừng nói:
          - Đã lâu quả nhân nghe danh tiên sinh có lòng ước vọng, cớ sao ba
          lần tiên sinh mới chịu đi?
          Tôn Tẩn tâu:
          - Nhơn vị hạ thần có ách số, thầy của hạ thần trấn yểm trong mã một
          lúc cho tiêu tai, nên chẳng hay có chỉ của đại vương tới triệu. Ấy thật
          đáng tội. Ngày sau bởi nghe Từ Giáp tế mộ, kêu khóc thảm thương, hạ
          thần quên mình không màng tai họa chun ra theo Từ Giáp tới yết kiến
          Đại vương, xin đại vương thứ tội. Ngụy vương gật đầu cả cười. Bây giờ
          Bàng Quyên bước ra chào Tôn Tẩn bày tỏ tình bầu bạn ước vọng bấy
          lâu. Ngụy vương cũng hạ lịnh tha gia thuộc Từ Giáp trở về nhà và gia
          thăng Từ Giáp ba cấp: Liền ấy lại hỏi Bàng Quyên coi phải phong cho
          Tôn Tẩn làm chức gì?
          Bàng Quyên tâu:
          - Tôn Tẩn mới vào nước Ngụy, chưa lập công gì, nếu phong quan e
          hạ quan bất phục. Vậy nhân lúc ba muôn Ngự lâm quân chưa thông cung
          tên võ nghệ, bệ hạ nên phong Tôn Tẩn làm chức Đoàn luyện xứ để diển
          tập chúng nó. Khi nào diển tập xong sẽ phong chức cũng chaÜn muộn.
          Ngụy Vương khen phải bèn phong Tôn Tẩn làm chức Đoàn luyện xứ
          để diển tập Ngự lâm quân. Tôn Tẩn tạ ơn lui ra. Các quan văn võ cùng
          tau chầu.
          Ra khỏi triều, bọn từ giáp, Trịnh An Bình, Châu Hợi, Hầu Anh xầm xì
          với nhau về việc Vua phong chức cho Tôn Tẩn không xứng. Ai nấy đều
          nghỉ cách để khen Vua. Đợi tới buổi chầu ngày sau, khi bái yết xong, cả
          bọn bèn quỳ xuống tâu rằng:
          - Muôn tâu Bệ hạ Tôn Tẩn là bậc anh tài trong thiên hạ, ba lần cầu
          thỉnh mới chịu xuống núi. Vậy đáng lẽ Bệ hạ phong cho chức trọng để
          khuyến lệ anh hùng trong thiên hạ. Chớ như phong cho Y Đoàn Luyện xứ
          e hẹp lòng Y, mà thiên hạ cũng chê Bệ hạ là không biết thâu tài thượng
          sĩ. Nay chúng hạ thần có một cách hay rất tiện: Là ngự giá tái diển võ
          tràng, hạ chỉ cho Bàng, Tôn hai người thử tài đối trận, nếu ai hơn thì được
          ngôi cao hơn cả, ai kém thì truất cấp tước bổng để giúp quân nhu. Như
          vậy kẻ chịu truất không buồn, ngoài thiên hạ khỏi trách. Xin bệ hạ minh
          xét. Ngụy Vương nghe qua khen phải và nhậm tâu.
          Ngụy Vương liền hạ lệnh các quan hộ giá ra diển võ trường. Tới nơi,
          cho vời Tôn Tẩn tới trước mặt mà phán rằng:
          - Quả nhân nghe khanh là người kỳ tài, vậy hôm nay hãy lựa một trận
          linh huợt lập thử cho quả nhân xem.
          Tôn Tẩn vâng mạng lui ra, lên ngựa tới giữa võ trường phất cờ ra
          lệnh. ChaÜn bao lâu binh đội đã dan ra đúng hàng phải ngủ thành một trận
          to.
          Ngụy Vương thấy trận đã thành, bèn gọi Bàng Quyên tới bảo đi xem
          trận. Bàng Quyên lên ngựa đi xem một hồi, không hiểu là trận gì, bèn
          hỏi Tôn Tẩn rằng:
          - Anh lập trận gì mà tiểu đệ xem không ra vậy hở Anh?
          Tôn Tẩn đáp:
          - Hiền đệ à! đó là trận ngủ hổ cáo sơn.
          Bàng Quyên cả mừng sãi ngựa trở lại trước mặt Ngụy Vương tâu
          rằng:
          - Muôn tâu bệ hạ, trận nầy là một trận rất dể, hạ thần thường có bài
          chơi. Nó tên Ngủ hổ cáo sơn trận.Ngụy Vương nghe dứt gật đầu, cho vời
          Tôn Tẩn tới biểu bày trận khác. Tôn Tẩn lãnh mạng ra giữa võ trường
          phất cờ ra lệnh, chaÜn bao lâu trận ngủ hổ cáo sơn biến thành một trật
          khác. Ngụy Vương lại sai Bàng Quyên đi xem. Bàng Quyên xem giây
          lâu, cũng chaÜn rõ là trận gì, lật đật tìm tới Tôn Tẩn mà hỏi:
          - Anh à, trận nầy là trận gì mà tiểu đệ xem chaÜn ra?
          Tôn Tẩn đáp:
          - Có khó gì đâu hiền đệ, nói là trận nhất tự trường xà!
          Bàng Quyên nghe xong chạy thọt lại tâu với Ngụy Vương rằng:
          - Trận đó con nít nhà tui thường bày, tên nó là nhất tự trường xà, có
          khó gì mà Tôn Tẩn lại lập cho bệ hạ xem.
          Ngụy Vương nghe vậy tưởng Tôn Tẩn khinh mình nên không vui, liền
          sai Hầu Anh tới bảo Tôn Tẩn hãy lập trận khác. Hầu Anh vâng lệnh,
          chạy ra võ trường nói cho Tôn Tẩn hay rằng:
          - Bệ hạ bảo ông lập trận khác, chớ trận Ngủ hổ cáo sơn thì Bàng
          Quyên nói ông ta lập thường không lạ, còn trận Nhật tự thường xà thì
          Bàng Quyên nói con nít nhà ông cũng lập được, dể lắm.
          Tôn Tẩn nghe mấy lời, buồn lắm, trách thầm Bàng Quyên rằng: "Sao
          nó lại vô lể như vậy. Nếu trận dể nó bày thường, con nít nhà nó lập chơi
          thường, sao nó còn hỏi ra.Thôi để ta lập trận khác coi nó có biết hay
          không? ". Ý đã định, Tôn Tẩn bèn phất cờ ra lệnh biến cải đội ngủ, bày
          lại một trận khác.
          Ngụy Vương thấy trận bày xong, hạ lệnh Bàng Quyên đi xem. Bàng
          Quyên xem không hiểu trận gì, lăn xăn tới hỏi Tôn Tẩn rằng:
          - Anh lập trận gì nói cho em biết với! Tôn Tẩn cười rằng:
          - Em khéo hỏi khó anh thì thôi. Trận nầy em lập thường mà!
          Bàng Quyên nói:
          - Đâu có, em chaÜn biết thì làm sao mà lập được.
          Tôn Tẩn nói:
          - Em không lập thì trẻ nhỏ nhà em nó lập nó chơi.
          Bàng Quyên nghe mấy lời mặt thẹn đỏ bừng, nghỉ thầm rằng: "Mấy
          lời ta nói lén với Ngụy chúa, có đứa mách thót cho anh nầy hay! Lạ
          quá!". Nghỉ đoạn quầy ngựa trở lại tâu với Ngụy chúa rằng:
          - Tâu bệ hạ, trận nầy tên là bại gia vong quốc trận.
          Ngụy Vương cả giận nói:
          - Sao lại lập trận bất lợi như vậy? Thật hắn khi qủa nhân lắm rồi!
          Nói dứt lời, Ngụy Vương cho vời Tôn Tẩn tới mà quở rằng:
          - Sao khanh khi dể trẩm mà lập trận bại gia vong quốc như vậy?
          Tôn Tẩn tâu:
          - Hạ thần học binh thơ từ nhỏ, chưa từng thấy trận nào tên bại gia
          vong quốc cả. Nếu người nào đặt tên trận quái như vậy thì phá thữ xem
          sao. Nếu phá được thì hạ thần sẽ nhận là thì tên trận bại gia phong quốc
          và chịu tội chết.
          Bàng Quyên nghe mấy lời, bước tới nói:
          - Anh hãy chờ coi em phá trận đây!
          Tôn Tẩn nói:
          - Không được, em phá trận nầy thì tình nghĩa bầu bạn chúng ta khi
          xưa còn gì?
          Bàng Quyên nói:
          - Không hại! Nếu em không phá thì ai phá được. Em quyết lòng phá!
          Tôn Tẩn nói:
          - Em quyết lòng phá thì anh không cản song anh dặn cho, khi em
          đánh qua cửa đông gặp hai người đội mão vàng, mặc giáp vàng kêu tên
          thì đừng thưa. Như vậy may mới khỏi hại.
          Bàng Quyên không tin lời, tưởng là Tôn Tẩn phỉnh mình nên lập tức
          nai nịt lên ngựa xông vào giữa trận.
          Tôn Tẩn thấy Bàng Quyên vào trận bèn đọc linh văn. Giây lát trong
          trận có sa mù, Bàng Quyênthất kinh không biết đường ra, chỉ đứng một
          chổ mà đánh cầm chừng thôi. Đánh một hồi, nghe bên hướng đông có
          tiếng kêu:
          - Bàng Quyên phò mã, hãy qua đây ta cứu cho.
          Bàng Quyên dòm lên thấy hai người đội mão vàng mặc áo giáp vàng
          bèn ứng tiếng rồi chạy theo. Bàng Quyên chạy tới đâu cũng nghe tiếng
          reo hò dậy đất rền trời. Tôn Tẩn thấy Bàng Quyên chạy tới gần mình bèn
          móc dây Hồng cẩm quăng ra, Bàng Quyên bị dây ấy giựt té xuống đất.
          Các quan tướng và quân sĩ tại võ trường thấy vậy đều cất tiếng cười xòa.
          Ngụy Vương cũng chẳng nín được cười. Bàng Quyên bị đánh té, mắc cỡ
          vô hạn.
          Ngụy Vương cho vời Bàng Quyên tới hỏi rằng:
          - Khanh tự xưng kỳ tài, lập bài Đại ngôn thách thiên hạ, sao hôm nay
          phá trận lại bị Tôn Tẩn đánh té như vậy?
          Bàng Quyên không lấy lời gì đáp, cúi đầu lui ra. Ngụy Vương lại cho
          vời Tôn Tẩn tới phán rằng:
          - Nghe danh khanh đã lâu, nay mới thấy tận mặt là kẻ có tài cao phép
          lạ. Trẫm muốn phong khanh chức Đại phu, song hôm nay trời đã tối vậy
          hãy tạm hoãn lại ngày hôm sau.
          Tôn Tẩn dạ dạ rồi bái tạ lui ra. Ngụy Vương cũng hạ lịnh cho bá quan
          hộ giá về triều.
          Chiều ngày ấy Bàng Quyên không vui về phủ mà lòng vẫn căm giận
          Tôn Tẩn. Thoại Liên công chúa hỏi gì cũng không đáp, cứ đi thẳng vào
          thơ phòng mà ngồi. Đương lúc nghỉ ngợi, Bàng Quyên bổng đánh tay
          xem lại, biết đêm ấy lối canh ba điểm, có hỏa tinh giáng phàm, ắt hoàn
          thành có lửa cháy, vậy bèn nghỉ ra một kế, cho vời bộ tướng là Hà Mậu
          Tài tới mà dạy rằng:
          - Ngươi nên cải trang là quan Cẩm y thị vệ của vua, tới ra mắt Tôn
          Tẩn nói rằng: Quan coi đài thiên văn cho hay trong đêm nay, lối canh ba,
          có hỏa tinh giáng thế. Vậy vua cho mời Tôn Tẩn tới trấn yểm hoàn thành
          chớ nên chậm trễ. Ngươi làm xong việc này ta sẽ trọng thưởng. Điều cần
          nhứt chớ cho Tôn Tẩn biết ta sai mi đi!
          Mậu Tài vâng lời lập tứcgỉa dạng tới ra mắt Tôn Tẩn mà nói như lời
          Bàng Quyên dạy rồi quay về.
          Sau khi Mậu Tài cáo từ, Tôn Tẩn xủ quẻ biết thiệt có hỏa tinh giáng
          thế, bèn lập tức điểm ba ngàn quân ngự lâm chia một nửa cầm trống và
          chiêng, một nửa cầm nhánh đào bát nước, rồi kéo thẳng vào hòan thành.
          Tôn Tẩn bỏ tóc xả, cầm bảo kiếm niệm chú, rồi hạ lịnh ba quân đánh
          trống khua chiêng và nhúng nhánh đào vào bát nước rải khắp các cửa
          vừa làm vừa reo hò, cố ý làm cho hỏa tinh phải lánh nơi khác.
          Đêm ấy, Ngụy Vương ở trong nội, nghe tiếng vang động bèn hỏi nội
          quan. Nội quan tâu:
          - Nếu có việc gì biến loạn thì đã có tin báo. Nay không tin báo ắt vô
          sự.
          Ngụy vương an lòng. Đến sáng ra triều, đủ mặt các quan. Ngụy
          vương bèn phán hỏi chuyện ban đêm. Bàng Quyên bước ra tâu:
          - Muôn tâu bệ hạ, đêm hôm Tôn Tẩn mưu lòng phản phúc, kéo mấy
          ngàn ngự lâm quân tới phá cửa Nam. Thần hay sớm nên chỉ dùng một kế
          đã lui được rồi. Ấy thật là hồng phúc của bệ hạ vậy.
          Ngụy vương nghe qua cả giận, hạ lịnh bắt Tôn Tẩn giam vào Nam lao
          và tru lục cả đoàn ngự lâm. Bàng Quyên lại tâu rằng:
          - Tôn Tẩn tạo phản, tội không thể dung. Chớ như muôn quân ngự lâm
          chưa chắc là vây cánh của nó hết. Nếu nhất luận giết sạch e có điều oan
          uổng.Xin bệ hạ rộng suy. Còn Tôn Tẩn, vừa tới nước Ngụy đã ỷ thế đánh
          ngã hạ thần, cố ý khi dễ nước Ngụy không người lượng tưởng, kế đó lại
          thâu phục quân ngự lâm để tạo phản. Cha mẹ của nó ở bên nước Yên lại
          là thân thần của Yên, trách gì chẳng mong thâu nước Ngụy cho Yên. Đó
          thật là mối họa bên vách của nước Ngụy ta vậy. Xin bệ hạ sớm lo kẻo
          rồi trở tay không kịp.
          Ngụy vương nghe dứt mối giận càng thêm, liền hạ lịnh cho Bàng
          Quyên đem năm ngàn binh đao phủ đến đánh bắt tôn Tẩn đem ra giữa
          chợ Vân Dương mà chém đầu răn chúng. Bàng Quyên vâng chỉ, đem
          binh tới bao vây phủ Đoàn luyện. Tôn Tẩn không rõ chuyên gì, cứ ra tiếp
          Bàng Quyên như thường, Bàng Quyên nói:
          - Trời làm nghiệt còn có thể trái, tự mình làm nghiệt khó mà sống.
          Hồi hôm anh đã làm một việc khá to chớ?
          Tôn Tẩn nói:
          - Có chuyện gì đâu, chẳng qua anh phụng mạng trấn yểm hoàn thành
          ngừa mạng họa tinh mà thôi.
          Bàng Quyên nói:
          - Anh vâng lịnh trận yểm thì đi một mình sao lại đem quân binh khua
          chiêng gióng trống la hét có ý tạo phản. Vì anh làm rối kinh động thánh
          giá ngài bắt tội tới em, rằng chúng ta hẹn nhau xuống núi mưu đồ cướp
          non sông nước Ngụy. Em hết sức phân trần may được khỏi vạ, nhưng
          Ngụy vương lại sai em đem binh sang bắt anh đem ra chợ Vân Dương
          chém đầu răn chúng. Vậy anh hãy chịu trói đi!
          Tôn Tẩn nghe nói hoảng kinh chưa biết nói sao, thì Bàng Quyên đã
          hạ lịnh binh đao phủ áp bắt trói Tôn Tẩn rồi địu luôn ra chợ Vân Dương.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #6
            Hồi 6 - Cam đoạn nghĩa, quyết chặt ngón chân,

            Hồi 6

            Cam đoạn nghĩa, quyết chặt ngón chân,
            Muốn lánh thân phải giả đứa điên


            Tôn Tẩn bị Bàng Quyên hối thúc quân sĩ áp giải tới chợ Vân Dương.
            Lúc này, trời mù đất tối, coi vẻ buồn bã vô cùng. Có lẽ tạo vật cũng cảm
            thương cho người ngay mắc nạn. Nơi pháp trường, đau phủ sắp hàng đôi,
            coi vẻ ghê gớm tề chỉnh. Bàng Quyên hỏi:
            - Bây giờ là chừng nào?
            Đao phủ thủ đáp:
            - Còn ba điểm nữa là tới giờ Ngọ.
            Tôn Tẩn nghe lời nói, biết giờ hành hình sắp tới thời đau lòng xót dạ
            lắm, năn nỉ với Bàng Quyên rằng:
            Bàng phò mã ơi! Xin tưởng tình kết bạn năm xưa, dung cho chậm
            chết một lát để bày tỏ nỗi khổ trong lòng cùng hoàng thiên hậu thổ, rồi
            dầu có chết cũng không đến nỗi biến thành con ma oan uổng.
            Bàng Quyên nhận lời xin để cho Tôn Tẩn kêu than chi cho biết, nên
            truyền quân đao phủ hãy thông thả. Tôn Tẩn vội ngước mặt lên trời than
            rằng:
            - Trời ơi! Tôn Tẩn này lìa cha mẹ, cách anh em, lên non tiên học đạo.
            Tưởng là học thông binh pháp, thuộc lào thiên thư, giỏi bát môn độn
            pháp, lục giáp linh vân mà làm gì, ai dè tới cái chết của mình mà không
            cứu được. Ôi! Khổ tâm biết mấy!.
            Bàng Quyên nghe Tôn Tẩn nhắc tới thiên thơ, thời nghĩ thầm rằng:
            "Các sách binh pháp ta điều đọc qua. Duy thiên thơ ta chưa đọc tới. Nếu
            nay dỗ anh này để mà học được thời anh hùng trong sáu nước có ai hơn
            ta được". Ý định đã định, Bàng Quyên bèn bứơc tới gân Tôn Tẩn mà nói
            rằng:
            - Anh ơi! Em nghe mấy lời anh than, bỗng nhớ tới lúc thề nguyền ở
            chợ Châu Tiên, em đau lòng lắm. Anh ơi, phen này em quyết liều thân
            để cưu anh. Bay giờ em tới mặt Ngụy chúa tâu nỗi nữa coi sao. Như được
            là may, không thì thôi, xin anh chớ trách.
            Tôn Tẩn nói:
            - Nếu em còn thương anh, anh cảm tạ vô hạn. Như được Nguỵ chúa
            ân xá thì ân em ngàn năm anh không quên. Còn như không ân xá thì em
            nên vì anh sắm một cái hàn để tẩn liệm thi hài, rồi gởi thơ về Yên quốc
            cho cha mẹ anh chị của anh hay.Được vậy anh cảm ơn em lắm!
            Bàng Quyên nói:
            - Anh chớ nên mở lời trối như vậy!
            Nói dứt, sải ngựa vào triều, ra mắt chúa Ngụy và tâu rằng:
            - Muôn tâu bệ hạ, hạ thần vừa nghĩ được một điều. Vì Tôn Tẩn là
            người nước Yên, cha là phò mã Tôn Tháo, mẹ là công chúa Yên Đơn,
            anh là Tôn Long, Tôn Hổ, nếu nay y bị ta giết, tin đồn về Yên, ắt nước
            Yên sẽ cử binh phạt ta thời muôn dân đồ thán, chi bằng lưu Tôn Tẩn lại,
            chờ khi nào nước Yên gởi hàng thơ qua rồi sẽ hay.
            Vua Nguỵ nói:
            - Nếu sợ vậy thì nên chặt mười ngón chân y. Y trở nên người bỏ, thời
            muốn làm gì cũng chẳng được.
            Nguỵ vương y lời tâu, Bàng Quyên bèn bay ra chợ Vân Dương nói
            với Tôn Tẩn rằng:
            - Em đã hết sức rỗi xin cho anh rồi. Song vua nói rằng tha thì tha tội
            chết, chớ không thể không trừng trị. Vậy ngài định phải chặt hai bàn chân
            anh.
            Tôn Tẩn nói:
            - Không tiện! Anh thà cam tâm chịu chết, chớ không muốn sống mà
            trở nên người vô dụng ở đời.
            Bàng Quyên nói:
            - Luật pháp triều đình đâu tiện tâu đi rỗi lại. Em không thể cưu anh
            được nữa.
            Nói dứt, hạ lệnh quân sĩ khai đao. Quân sĩ đem Tôn Tẩn buộc vào
            một cái trụ, kềm hai chân trên cái áp đồng, rồi hươi đao chặt một cái,
            mưới ngón chân của Tôn Tẩn rụng liền, máu ra lênh láng. Ai thấy cũng
            ghê hồn hoảng vía. Còn Tôn Tẩn thì chết ngất đi.
            Giây lâu Tôn Tẩn tỉnh lại, Bàng Quyên nói:
            - Thiệt phép nước đổi vô tình!
            Dứt lòi sai tả hữu khiêng Tôn Tẩn về phủ mình, lo thuốc men săn sóc
            cho anh bạn. Tôn Tẩn cảm ơn Bàng Quyên lắm.
            Sau khi đem Tôn Tẩn về phủ rồi. Bàng Quyên bèn tới ra mắt Ngụy
            vương, Ngụy vương hỏi:
            - Bây giờ để Tôn Tẩn ở đâu?
            Bàng Quyên tâu:
            - Thần sợ thả nó ra lúc nó hết đau ắt đi nước khác nên thân để nuôi
            tại nhà.
            Tâu xong, Bàng Quyên trở về phủ sai gia đình dọn dẹp một thơ phòng
            cho Tôn Tẩn ở, rồi kêu một người đầu bếp tới cắt phân nuôi dưỡng Tôn
            Tẩn. Đó thật là lòng dạ của Bàng Quyên rất sâu độc, cố ý bưng mắt Tôn
            Tẩn vậy!
            Một hôm Bàng Quyên tới thăm Tôn Tẩn, hỏi rằng:
            - Thế nào hôm nay chân anh đã bớt đau chưa?
            Tôn Tẩn đáp:
            - Mấy ngày rày nước vàng và máu ra nhiều, đau nhức quá!
            Báng Quyên nói:
            - Tội nghiệp quá, vậy để em bảo người làm cho anh hai cây gậy trầm
            hương để chống mà đi cho tiện.
            Nói dứt day qua dạy tả hửu bày tiệc rồi mời Tôn Tẩn gương ngồi ăn
            uống.
            Rượu được vài tuần, Bàng Quyên hỏi Tôn Tẩn rằng:
            - Em có nghe anh được thầy truyền thọ thiên thơ, nên thông bát môn
            độn pháp, lục giáp linh văn. Quả có vậy không?
            Tôn Tẩn nói:
            - Đối với em là bạn kết nghĩa sanh tử, anh không giấu. Quả anh có
            học và nhớ hẳn hoi. Bàng Quyên nói:
            Có như vậy thì anh nên thương em mà dạy lại cho.
            Tôn Tẩn nói:
            - Chúng ta không phải ruột thịt, song đã kết nghĩa cầm kỳ, dạy thì dạy
            có hại chi?
            Bàng Quyên nói:
            - Đa tạ ơn anh. Vậy tới ngày mai em sẽ thết tiệc cùng nhau ăn uống
            rồi anh sao chép lại cho em một pho thiên thơ.
            Tôn Tẩn nói:
            - Cần chi phải đợi đến mai, nếu em cần lắm thì anh sẽ viết cho anh
            bây giờ.
            Bàng Quyên cả mừng, sai tả hữu đem bút mực và giấy ra.Tôn Tẩn an
            sơ ít miếng nữa, rồi bảo tả hữu dọn bàn dẹp tiệc, đặng mình sao thiên
            thơ.
            Tôn Tẩn viết được ít hàng, thì Bàng Quyên ngăn lại mà rằng:
            - Trời đã tối rồi, anh hãy nghĩ cho khoẻ, đợi sáng sẽ biết, nếu vội quá
            em sợ có sơ sót.
            Dứt lời từ tạTôn Tẩn mà về phủ. Từ đó ngày nàoTôn Tẩn cũng lo
            viết thiên thơ cho Bàng Quyên, song chân có đau nên không viết liên
            tiếp được, thành ra đã mấy ngày mà cũng chưa rồi. Thỉnh thoảng, Bàng
            Quyên cũng tới giả bộ thăm Tôn Tẩn đặng thúc giục viết cho mau.
            Ngày nọ Bàng Quyên vào nhà trong, Thoại Liên công chúa hỏi rằng:
            - Thế nào? Tôn Tẩn đã viết xong thiên thơ chưa?
            Bàng Quyên đáp:
            - Nó viết vừa được ba phần mười rồi.
            Thoại Liên nói:
            - Sao mà lâu vậy?
            Bàng Quyên cười rằng:
            - Lâu mau cũng không nệ, hễ nó viết xong ngày nào ta định cách giết
            nó ngày ấy.
            Mấy lời vợ chồng Bàng Quyên nói với nhau chẳng may lọt vào tai
            của tên đầu bếp trong lúc nó vào lấy gạo nấu cơm trưa cho Tôn Tẩn. Tên
            đầu bếp nghe vậy thì thầm trách Bàng Quyên sao ở bac với Tôn Tẩn là
            người trung hậu.
            Tới bữa cơm trưa, đầu bếp đem vào phòng cho Tôn Tẩn ăn lại gặp
            lúc Bàng Quyên có mặt tại đó. Bàng Quyên làm bộ nếm thử đồ ăn rồi
            giả bộ đôn hậu với bạn, đè đầu tên đầu bếp xuống đánh cho ba mươi hèo
            và mắng rằng:
            - Bạn thân của ta đau ốm, ta giao phó cho mi cung dưỡng, thế mà mi
            nấu ăn như vậy thì ăn làm sao cho được? Mi khinh bạn ta, tức là khinh
            lờn ta. Ta chẳng trị mi thì tình bầu bạn ta còn gì!
            Đánh mắng xong, Bàng Quyên quầy quả vào nhà trong.
            Thấy Bàng Quyên đi rồi, tên đầu bếp liền ôm bụng mà khóc rống
            lên. Tôn Tẩn lấy làm lạ hỏi rằng:
            Lúc đương đánh sao mi không khóc, bây giờ mới khóc là lý gì?
            Tên đầu bếp đáp:
            - Tôi khóc đây là khóc thế cho ông chớ phải vì bị đánh mà khóc đâu!
            Tôn Tẩn hỏi:
            - Sao mi lại khóc thế cho ta?
            Tên đầu bếp đáp:
            - Vì thấy ông đôn hậu mà gặp phải bạn bạc nghĩa vô tình.
            Dứt lời, nó kề miệng vào tai Tôn Tẩn mà thuật rõ những lời vợ chồng
            Bàng quyên vừa nói.Tôn Tẩn nghe qua buồn rầu lắm song cũng dằn
            lòng, ăn cơm trưa xong, bảo đầu bếp dọn cất, rồi rửa tay ngồi lại vào viết
            thiên thơ.
            Tôn Tẩn vừa chấm mực kéo bút ra khỏi nghiên thì có mấy con ruồi
            bu đeo ngòi bút. Đuổi thế nào cũng vậy hễ bay ra rồi lại đáp vào. Tôn
            Tẩn lấy làm lạ không hiểu có điều gì. Về sau, Tôn Tẩn cố kê bút lên
            giấy định viết, đặng cho ruồi nọ không còn đeo được, nhưng lạ thay, ruồi
            nọ bay quần quần theo ngòi bút, bệt mực xuống giấy, thàng ra ba chữ:
            "Nên giả điên".
            Tôn Tẩn chẳng rõ ba chữ ấy là gì, đương còn suy nghĩ, bỗng con a
            đầu ở nhà trong aÜm con của Bàng Quyên là Bàng Anh ra thơ phòng chơi.
            Tới trước mặt Tôn Tẩn, chẳng rõ có quỷthần sai khiến hay không mà
            Bàng Anh bỗng nói rằng:
            - Tôn Tẩn ơi, ngươi hãy viết thiên thơ cho mau đi, kẻo cha ta chờ
            không được sẽ viết người đa!
            A đầu nghe nói kì, aÜm Bàng Anh đi tuốt, Tôn Tẩn gật đầu nghĩ thầm
            rằng:
            "Quả Bàng Quyên muốn giết ta mà!Lời trẻ con bao giờ cũng là thật,
            ta phải tin. Bây giờ đương mắc nạn to, còn đợi chi nữa mà chưa mở hộp
            của thầy ta cho lúc xuống núi để tìm cách gỡ nạn."
            Nghĩ đoạn, Tôn Tẩn bèn lần lưng móc hộp ra, giở nắp lên thấy bên
            trong có một phong giấy, trên phong giấy có hai bài thơ như vầy:
            "Vân Mộng có ông Quỷ Cốc tiên
            Dạy trò Tôn Tẩn với Bàng Quyên
            Vô nghì đến nỗi đổi chặt chân bạn
            Ba quyển thiên thơ mãi chờ truyền.
            Trong hộp đựng cho mấy khúc ca,
            Hãy xem cho kỹ rồi suy ra.
            Muốn đi cho khỏi nhà người nghịch
            Phải giả điên cuồng tai nạn qua".
            Tôn Tẩn xem thơ nói thầm rằng:
            - Té ra thầy ta dạy ta giả điên đặng lánh họa đây chi?
            Nói rồi mở phong giấy ra, thấy trong đó là thuốc tán, trong thuốc tán
            có miếng giấy đề chữ "Thuốc thoa chân". Tôn Tẩn cả mừng bôi thuốc
            vào vết chân, chẳng bao lâu các vết đều lành, hết đau nhức. Bây giờ Tôn
            Tẩn khởi đầu giả điên, đốt hết những tờ giấy đã viết thiên thơ mà xé ráo,
            thồn vào họng nhai nhỏ nuốt xuống bụng, kế đến xé áo xé quần, rồi đập
            phá đồ đạc trong thơ phòng vừa phá vừa la, vừa cười vừa khóc.
            Trẻ nhỏ ở hầu Tôn Tẩn thấy vậy lật đật chạy cho Bàng Quyên hay.
            Bàng Quyên đi vào thơ phòng kêu rằng:
            - Anh làm gì vậy?
            Tôn Tẩn chẳng nói xách ghế đánh vào mặt Bàng Quyên. Bàng
            Quyên né khỏi rồi hỏi:
            - Anh không biết tôi à! Đừng làm như vậy chớ!
            Tôn Tẩn nói:
            - Biết, ta biết mày là thần lục đinh, lục giáp. Ta vâng lịnh trời đánh
            mày.
            Nói dứt lại chụp ghế đánh nữa. Bàng Quyên né khỏi rồi sai gia đồng
            đi lấy chén cơm và xúc một chén phân để thử coi Tôn Tẩn ăn thứ nào để
            xem là điên giả hay điên thật.
            Gia đồng vâng lịnh đi một lát, trở lại, đem chén cơm và chén phân để
            trước mặt Tôn Tẩn. Tôn Tẩn đem cả hai chén trộn lại rồi vãi ra tứ tung.
            Bàng Quyên nói:
            - À, anh này điên thật, hồi trước ảnh thề với ta, hễ ai phụ nghĩa thì
            trời phạt làm cầm thú. Nay chắc ảnh có làm điềiu chi bội nghĩa nên trời
            phạt đấy.
            Nói dứt sai gia đinh bắt Tôn Tẩn đem xiềng ngoài vườn hoa sau nhà
            để xem bịnh tình ra thế nào.
            Tôn Tẩn bị xiềng ở hoa viên, thanh tịnh vô ngần, buồn rầu đáo để,
            may nhờ có tên đầu bếp mọi khi lén lui tới cho cơm canh ăn, nên cũng
            được an thân. Thấm thoát mà mùa đông đã tới. Một hôm trăng tỏ, trời
            thanh vì cảm hoài. Tôn Tẩn chỉ tay vào cội tòng trong vườn mà đọc một
            bài tứ tuyệt như vầy:
            Trước mắt tòng cội trăm thước cao,
            Họ Bàng coi rẻ biết là bao,
            Có khi ngọn thọc mây xanh đó
            Làm cội chống trời ai biết đâu!
            Tôn Tẩn ngâm dứt bỗng trên không có tiếng nói:
            - Tôn tiên sinh ngâm thật hay!
            Tiếng vừa dứt thì có người mặt giòi phấn, mắt sáng như sao, mình
            mặc áo trắng, đầu đội khăn be, cưỡi mây sa xuống trước mặt Tôn Tẩn
            mà nói:
            - Tôi là học trò của Huất Liêu, tên Vương Ngao, nhân thấy tiên sinh
            bị nạn nên tới an ủi. Vì tiên sinh có nạn một ngàn ngày, phải ráng dằn
            lòng mà chịu, chớ tôi đi vân du sáu nước, khuyên dụ các hầu vương, ai có
            cách rước tiên sinh ra khỏi Nghi Lương, sẽ được tiên sinh giúp đỡ mà lo
            nghiệp cả.
            Nói dứt lời Vương Ngao liền cưỡi mây bay đi.
            Cách ít lâu, tới ngày sinh của Thoại Liên công chúa. Bàng Quyên mở
            tiệc mời các quan và các phu nhân, tiểu thư tới dự yến. Nhà trước thì
            Bàng Quyên thết đãi các quan, nhà sau công chúa lo đãi các phu nhân,
            tiểu thư. Phu nhân và tiểu thư nào đi dự tiệc cũng có đem a hoàng theo.
            Lúc các bà, các cô ăn uống, a hoàng rãnh rang bèn rủ nhau ra vườn hoa
            chơi. Ai dè khi tới cửa vườn thì thấy cửa đóng khóa kỹ lưỡng. Đứa a
            hoàng nào trong mình cũng có đeo sâu chìa khóa của chủ. Khi thấy cửa
            vườn khóa chúng bèn hè nhau mở thử. Đứa này mở không được đứa khác
            mở. May mắn mở được, chúng nó kéo nhau đi vào. Hôm ấy Tôn Tẩn chỉ
            bị nhốt trong vườn chớ không bị xiềng như mọi khi. Nhờ dịp đó, Tôn Tẩn
            nép mình ra khỏi cửa rồi vừa đi vừa la hét ầm lên.
            Các quan ở nhà ngoài nghe có tiếng la không hiểu việc gì bèn hỏi
            thăm Bàng Quyên, Bàng Quyên đáp:
            - Đó là tiếng la gào của Tôn Tẩn, vì từ ngày y bị chặt chân tới nay thì
            điên luôn.
            Các quan nói:
            - Y đã điên thì thả cho y đi cầm nhốt làm chi cho thêm rộn?
            Bàng Quyên nói:
            - Tôi cũng muốn thả, song sợ y giả đặng đặng thoát thân.
            Nếu y không điên, và ra khỏi nơi này thời nước Nguỵ sẽ có hoạ.
            Các quan nói:
            - Vậy phiền phò mã cho người dắt Tôn Tẩn tới đây chúng tôi xem
            điên giả hay điên thật.
            Bàng Quyên khen phải sai tả hữu bắt Tôn Tẩn tới. Chẳng biết Tôn
            Tẩn tìm đâu được một miếng giấy đỏ giả làm lá cờ, cầm tay phất qua quơ
            lại, vừa phơ phất vừa la hét mà theo chân tả hữu đi tới trước tiệc. Các
            quan nhìn thấy bộ tướng Tôn Tẩn xanh xao, đầu tóc bù xù, áo quần rách
            rưới, miệng nói làm xàm, thì nói với Bàng Quyên rằng:
            - Quả là điên thật, nếu nói Tôn Tẩn giả điên thì sao hình dáng lại tiều
            tụy đến thế ấy. Thôi, phò mã nên thả cho nó đi đâu thì đi cho xong.
            Bàng Quyên nghe theo lời.
            Các quan sai tả hữu kéo Tôn Tẩn ra khỏi phủ. Tôn Tẩn bị chúng đẩy
            ra, lại cố chạy vào, mãi như vậy nhiều lần kẻ tả hữu đuổi ra khỏi ngõ và
            đóng cửa lại. Tôn Tẩn ra khỏi ngõ còn kiếm hai hòn đá to, đập vào cửa
            rầm rầm, bảo phải mở chpo mình trở vào vườn hoa mà chơi. Kêu réo thế
            nào cũng chẳng được. Tôn Tẩn bèn đi rảo ra đường, kêu gào lý hát, vởn
            vơ tối ngày, rồi kiếm chái hè của dân chúng nằm mà ngủ. Cứ mãi như
            vậy, ngày thì đi nghêu ngao ngoài đường chơi giỡn với con nít, tối vào
            quán đình mà ngủ. Bàng Quyên thấy vậy cũng hơi yên lòng.
            Thường ngày Tôn Tẩn ở ngoài đường, hễ gặp các quan đi qua là mốc
            đất hốt bùn chọi vãi vào bất kể mình người ngựa. Các quan cũng cho là
            đứa diên thằng dại, chỉ bỏ qua và lánh mặt mà thôi. Một hôm Tôn Tẩn
            gặp Bàng Quyên đi chầu, bèn hốt phân người vãi nhầm mình. Bàng
            Quyên sải ngựa tránh ngã khác rồi sai tả hữu đuổi Tôn Tẩn đi cho xa.
            Khi tan chầu, các quan thấy Bàng Quyên buồn thì hỏi thăm duyên cớ.
            Bàng Quyên tỏ việc bị Tôn Tẩn ném phân trúng mình cho các quan chức
            nghe. Các quan nghe vậy điều khuyên Bàng Quyên nên đuổi Tôn Tẩn ra
            khỏi nước Ngụy hầu tránh khỏi các việc lôi thôi.Bàng Quyên không nghe
            định sẽ giam Tôn Tẩn vào một nơi khác.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #7
              Hồi 7 Tên oan nghiệt vào vườn bá hoa,

              Hồi 7

              Tên oan nghiệt vào vườn bá hoa,
              Lửa vô tình đốt viện Ty Điện


              Bàng Quyên bực mình vì Tôn Tẩn nên về phủ nghĩ ra một kế, cho
              đòi bọn ăn mày ở viện Tỵ Điền tới giao chúng nó phải giữ gìn Tôn Tẩn
              cho kỹ, nếu sơ thất sẽ trị tội cả bọn. Từ đó Tôn Tẩn bị bọn ăn mày ở viện
              Tỵ Điền đem về thay nhau mà giữ rất nghiêm nhặt.
              Nói về nước Tần, ngày nọ vua Hiếu Công ra triều có quan Huỳnh
              môn vào tâu rằng:
              - Ngoài ngỏ có một đạo nhân khóc ba tiếng, cười ba tiếng rồi xin vào
              ra mắt thánh thượng.
              Hiếu Công cho mời đạo nhân vào hỏi rằng:
              - Đạo sĩ ở núi nào, tên chi, vì cớ sao mà khóc rồi cười?
              Đạo sĩ tâu:
              - Bần đạo họ Vương tên Ngao, học trò của Huất Liêu ở Di Sơn. Bần
              đạo khóc ba tiếng là khóc thương cho người họ Tôn tên Tẩn ở nước Yên
              vì người ấy lên núi Vân Mộng học đạo với Quỷ Cốc được thông thiên
              thơ, giỏi bát môn độn pháp, lục giáp linh văn, kêu gió thét mưa, khiến đá
              làm binh, tưởng đâu có lúc rồng nọ gặp mây, ai dè bị anh em bạn là
              Bàng Quyên, phò mã nước Ngụy, sợ Tôn Tẩn giúp nước nào khác thì có
              hại cho mình, nên ba lần sai người lên non rước Tôn Tẫn về Ngụy rồi
              kiếm cách chận chân và giam cầm ở Tỵ Điền viện. Còn bần đạo cười là
              cười các nước chư hầu không nước nào biết dùng kẻ anh tuấn. Nếu nước
              nào sai người vào Ngụy lén đem Tôn Tẩn về phò tá thì non sông yên ổn,
              xã tắc bền vững. Nay bần đạo tới Tần cũng bởi ý ấy. Hiếu Công nghe
              Vương Ngao nói dứt bèn phán:
              - Trẫm đâu có dè bậc anh tài đương mai một ở nước Ngụy, nếu không
              có tiên sinh chỉ cho thì đã bỏ qua một cuộc may ít có.
              Phân dứt lời, một mặt truyền Quang Lộc đại phu lo khoản đãi Vương
              Ngao, một mặt hỏi các quan coi có ai dám lãnh mạng sang Ngụy trộm
              Tôn Tẩn về. Hỏi đến Võ An Quân là Bạch Khởi thì Khởi xin đi. Hiếu
              Công hỏi:
              - Khanh làm sao đi được?
              Bach Khởi tâu:
              - Lúc này Bàng Quyên đương ỷ tài hống hách muốn bắt các nước
              cung thần nên lập bài Đại Ngôn. Vậy bệ hạ nên viết tờ hàng biểu, thần
              đem theo mình mượn tiếng là đi xin hàng phục, thì khắc vào được trong
              nước Ngụy.
              hiếu Công khen phải, viết hàng biểu và ra lịnh cho Bạch Khởi sang
              Ngụy.
              Nói về Bạch Khởi đem ít tên tùng nhân đi sang nước Ngụy vào yết
              kiến Ngụy vương rồi dâng hàng biểu lên và tâu rằng:
              - Nước chúng tôi nghèo thiếu lắm muốn đem cống lễ sang nạp song
              không lấy đâu cho có, vậy nay xin xưng thần còn cống lễ thì hẹn về sau.
              Ngụy vương nhận tâu rồi truyền quan khoản đãi Bạch Khởi.
              Sau khi tạ từ vua Ngụy ra ngoài, Bạch Khởi liền cải dạng làm anh tú
              tài lên tới huyện Tỵ Điền để tìm Tôn Tẩn. Tới nơi thấy ăn mày đông có
              trên ngàn đứa, không biết đứa nào là Tôn Tẩn, Bạch Khởi chưa kịp hỏi,
              thì ở chỗ thềm thấp kia có người chống hai cây gậy cuối mặt ca rằng:
              Nhờ non sông nảy sinh anh tuấn,
              Cha con mấy người thảy oai chấn
              Bỏ cha mẹ đi tìm thầy tiên,
              Học đạo bấy năm núi Vân Mộng
              Thông hiểu thiên thơ và linh văn,
              Có tài hươi gươm trời đất động,
              Kêu mưa, hú gió việc thường chơi,
              Quăng đâu làm binh ai dám chống.
              Nào rõ mạng vận sao đảo điên,
              Sa vào thiên la rồi địa võng.
              Ai tưởng ta điên, ừ điên ngay,
              Ấy ta giả bộ người lêu lỏng.
              Một ngày ta xem như một năm,
              Nằm gai nếm mật mãi mong ngóng.
              Mong ngóng người nào tới cứu ta,
              Ta nguyện thắp hương tạ ơn trọng.
              Bạch Khởi chờ người ca dứt, bước lại gần kêu nhỏ rằng:
              - Tôn tiên sinh đó à?
              Tôn Tẩn ngó lên cười rằng:
              - Bạch đại nhân nghe ca mới nhìn được tôi, không thì tìm cả kiếp
              cũng chẳng được!
              Bạch Khởi nói:
              - Lạ thay, tôi chưa tỏ tên họ sao tiên sinh lại biết, hay là tiên sinh biết
              rõ việc đã qua và việc chưa tới? Vậy tiên sinh biết làm gì hay không?
              Tôn Tẩn nói:
              - Đại nhân vâng lời Tần chúa tới trộm tôi ra khởi nước Ngụy!
              Bạch Khởi đáp:
              - Tiên sinh biết trước như vậy thật là bậc tiên tri. Tôi tới đây chỉ vì ý
              đó!
              Tôn Tẩn nói:
              - Uổng công đại nhân lặn lội tới đây vô ích. Tôi vốn có nạn một ngàn
              ngày, nay nạn chưa khỏi hạn, khó mà đi được. Đại nhân chớ ở đây lâu
              mà bị hại, lát nữa sẽ có người của Bàng Quyên tới rình chúng ta. Đại
              nhân hãy về nước. Sau này tôi sẽ có dịp giúp đại nhân một tay.
              Bạch Khởi nghe Tôn Tẩn nói quả quyết như vậy không trả lời được
              nữa bèn cáo từ lui ra, rồi trở về nước tâu lại cho vua Trần hay.
              Lại nói qua Vương Ngao sang nước Sở hiểu dụ cho vua Sở cứu Tôn
              Tẩn về mà dùng. Vua Sở nhận lời sai Huỳnh Hiệp giả vào Ngụy nộp
              cống lễ để trộm Tôn Tẩn. Huỳnh Hiệp đi vào Nguỵ trộm cũng không
              được. Vương Ngao lại sang hiểu dụ ở nước Hàng và nước Triệu. Hàng
              vương sai Trương Xa, Triệu vương sai Liêm Pha, đều giả vào nộp cống
              để trộm Tôn Tẩn, song cũng không trộm được. Vương Ngao đi giáp bốn
              nước mà vẫn chưa xong việc Tôn Tẩn thì nghĩ thầm rằng: "Có lẽ bốn
              nước đó chẳng có duyên với bậc đại tài vậy!".
              Bây giờ nói về Bàng Quyên đã nhiều phen bày mưu với Châu Hợi để
              tìm cách giết Tôn Tẩn. Mỗi lần bàn là mỗi lần bị Châu Hợi bác đi. Ngày
              nọ Châu Hợi đi vào viện Tỵ Điền thăm Tôn Tẩn. Vào tới nơi thấy Tôn
              Tẩn nằm trên thềm đá vỗ tay vào đá mà ngâm rằng:
              Cội tòng trăm thước cao rườm rà.
              Ngọn quét mây chiều đón gió qua,
              Nhánh tủa sum xuê mà kể số!
              Lá che rậm rạp biết bao xa.
              Khi đưa chim phụng về Nam hải,
              Lúc đón vua rồng lại Bắc a.
              Nếu gặp xuân về thêm tốt rợp,
              Có khi rường cột chống muôn tòa.
              Tội thấy chú tiều không tai mắt.
              Xách búa hăm hở đi trẩy qua,
              Dòm ngó dáo dát cây tòng tốt.
              Rồi hươi búa chặt nhánh vài ba.
              Ừ ừ lúc khóc lúc cười ca.
              Như thể cá ở trong rọ mà,
              Ai dám buông tha ra biển cả.
              Thành rồng ngày ấy chẳng bao xa.
              Châu Hợi nghe dứt bước tới hỏi rằng:
              - Tiên sinh giả điên à?
              Tôn Tẩn không đáp. Châu Hợi lại nói:
              - Tiên sinh chớ nghi tôi, Bàng Quyên định kế hại tiên sinh, song mấy
              lần bàn với tôi, tôi điều bác cả.
              Tôn Tẩn nói:
              - Ông đã mách cho tôi hay thì tôi cũng mách cho ông biết. Ông sẽ có
              cái nạn một trăm ngày.
              Châu Hợi thất kinh nói:
              - Tiên sinh cứu tôi được chăng?
              Tôn Tẩn nói:
              - Ông nên lánh đi một trăm ngày là được.
              Châu Hợi nghe dứt, trở về phủ tỏ lại cho phu nhân hay. Lưu phu nhân
              nói:
              - Tôn Tẩn là học trò của Quỷ Cốc biết việc quá khứ vị lai, vậy ông
              nên nghe theo lời y mà tránh đi một trăm ngày cho xong, mai này tôi vào
              triều tâu rằng ông đau, nên nghỉ chầu ở nhà dưỡng bịnh. Chừng nào qua
              khỏi tai nạn sẽ ra mặt.
              Châu Hợi khen phải. Hôm sau Lưu phu nhân vào triều xin phép cho
              chồng nghỉ chầu.
              Châu Hợi lánh mặt mãi như vậy vừa được chín mươi chín ngày, tới
              ngày chót buồn lòng ra sau vườn chơi. Vừa đi tới vườn bỗng thấy có một
              con quạ đậu trên vách ngó mình mà kêu rất thê thảm. Châu Hợi giận quá
              lấy cung tên ra nhắm nó mà bắn. Tên bay ra không trúng quạ, lại xẹt qua
              vườn nhà bên cạnh.
              Nguyên vườn bên cạnh là vườn hoa của quan thừa tướng Trịnh An
              Bình. An Bình có một nàng con gái tên là Ái Liên năm nay tuổi lên bảy,
              sắc đẹp vô song, nên An Bình cưng lắm. Ngày ấy, Ai Liên cùng các thị tì
              ra sau vườn hoa chơi giỡn. Ái Liên vừa leo lên cây đu để xích, chẳng dè
              có một mũi tên từ bên kia bay qua găm vào giữa ngực, nàng liền nhào
              xuống đất chết liền. Các thị tì lớp đỡ Ái Liên lớp la ré lên. Cả thảy
              không ai biết tên từ đâu bắn lại. Đương lúc ngơ ngẩn ấy, một đứa gia
              đồng của Châu Hợi bắc thang leo lên đầu vách kêu bọn thị tì hỏi rằng:
              - Lão gia tôi vừa bắn lạc một mũi tên qua đây các cô nương có gặp
              chăng?
              Các thị tỳ la rập lên rằng:
              - À, vậy thời chủ mày đã bắn chết tiểu thơ ta rồi. Ở láng giềng mà
              như vậy để rồi coi!
              Chúng nó la dứt liền cầm mũi tên đem vào trong phủ báo rõ đầu đuôi
              cho Trịnh An Bình hay.
              An Bình nghe báo có họa, lật đật ra vườn hoa thấy con nằm dưới giá
              đu thì khóc rống lên rằng:
              - Châu Hợi ơi, mi ác lắm. Mi giả bịnh đặng ở nhà diễn tập cung mà
              hầu có tạo phản nên mới bắn nhầm con ta chết oan như vậy!
              Khóc rồi quày ra lên ngựa chạy thẳng vào triều kêu oan. Ngụy vương
              nghe kêu oan, liền cho đòi An Bình vào hỏi. An Bình một mực tâu là
              Châu Hợi âm mưu làm phản diễn tập cung mã nên bắn lạc chết con
              mình. Ngụy vương không biết thiệt giả, lập tức sai quan quân đi bắt Châu
              Hợi tới tra hỏi. Châu Hợi cứ thiệt khai rằng:
              - Vì đau vừa bớt ra dạo vườn hoa, gặp con quạ ngó mình kêu thảm
              nên giận bắn quạ.
              Ngụy vương không tin muốn tra tấn song vì mắc đi cầu mưa ở miễu
              Thiên Tề rất gấp nên dạy giam Châu Hợi vào Nam lao chờ ngày xét hỏi.
              Vợ Châu Hợi là Lưu phu nhân thấy chồng mắc họa bèn giả cớ đi vào
              Tỵ Điền viện thí tiền, để tìm Tôn Tẩn mà cầu cứu. Tôn Tẩn thấy Lưu phu
              nhân tới bèn nói:
              - Chồng bà không nghe lời tôi nên gây ra họa lớn như vậy!
              Lưu phu nhân khóc lóc năn nỉ xin Tôn Tẩn cứu chồng. Tôn Tẩn bảo:
              - Thôi bà hãy về, để chuyện đó mặt tôi.
              Lưu phu nhân gạt lệ ra về. Đêm hôm ấy, đúng canh ba Tôn Tẩn vẽ
              phù, niệm thiên la địa văn, rồi giũ tay áo một cái tức thì trên trời sa
              xuống một hanh tinh đỏ lòm to như cái bánh xe và một định tinh trắng
              như bạc cũng to như cái chậu. Tôn Tẩn liền thâu hết cả hai vào tay áo.
              Hôm sau, vua Ngụy lâm triều rồi mà trời vẫn tối mờ. Vua phán hỏi
              quan Tư thiên vì cớ gì? Quan Tư thiên tâu:
              - Chẳng rõ cớ chi mà đã tới giờ Thìn mặt trời vẫn không mọc, chẳng
              những trong triều mà thôi, cho đến ngoài thành cũng như vậy.
              Vua Ngụy suy nghĩ giây lâu, nghi là trong Nam lao có người bị án
              oan nên trời u ám. Vì vậy vua bèn hạ lịnh ân xá tất cả tù phạm trong lao
              ra bất kỳ tội nặng nhẹ.
              Tôn Tẩn hay tin tù phạm ở Nam lao đã được ân xá bèn làm phép, rồi
              giũ tay áo, thả hai vầng tinh tú ấy ra. Hai vầng tinh tú ấy chính là Kim ô
              Bạch thố nghĩa là thể phách của mặt trời, mặt trăng. Cả hai được buông
              ra liền trở về ngôi cũ. Trời bèn sáng tỏ như thường.
              Châu Hợi được tha ra hoàn chức cũ thì mừng rỡ hối hả về phủ. Lưu
              phu nhân nói:
              - Tại ông không tin lời Tôn Tẩn nên gây họa như vậy. Nếu không có
              Tôn Tẩn gỡ cứu cho ắt ông đã bỏ thây nơi Nam lao rồi.
              Châu Hợi nghe nói ngơ ngẩn giây lâu. Lưu phu nhân đem nguyên do
              mà thuật rõ lại. Châu Hợi nghe dứt cám ơn Tôn Tẩn vô cùng, Lưu phu
              nhân nói:
              - Nếu ông muốn đền ơn Tôn tiên sinh thì phải đem Tôn tiên sinh về
              phủ nuôi dưỡng chớ không chi hơn nữa.
              Châu Hợi nói:
              - Muốn vậy nhưng làm thế nào được?
              Phu nhân nói:
              - Thiếp có một kế là ngày mai chúng ta lo nấu vài thạch cơm, rồi sai
              người khiêng theo thiếp vào viện Tỵ Điền giả nói rằng lúc ông đau thiếp
              có cầu nguyện, nếu lành mạnh sẽ bố thí cho người nghèo. Nay ông qua
              khỏi bịnh, thoát khỏi họa nên thiếp đem cơm đi trả lễ. Hễ thiếp vào được
              trong viện Tỵ Điền, thì sẽ năn nỉ Tôn tiên sinh về phủ nuôi dưỡng mà
              đáp ơn.
              Châu Hợi nghe vợ nói khen ngợi vô cùng. Ngày hôm sau sắp sửa cơm
              canh xong. Lưu phu nhân bảo gia nhân khiêng thạch cơm theo mình vào
              viện Tỵ Điền phân phát cho đám ăn mày. Phân phát xong, phu nhân bèn
              tới ra mắt Tôn Tẩn tỏ hết ý của vợ chồng mình. Tôn Tẩn nghe dứt nói
              rằng:
              - Không được! Hôm nay tôi chưa lìa bỏ chỗ này mà đi đâu cả. Nếu
              Châu đại nhân có lòng tốt, thì tới ngày Mậu Ngọ tháng sau tới tại miễu
              Ngô Khởi mà đón tôi, nhưng cũng phải giữ kín miệng đừng cho ai hay mà
              mắc họa. Tới ngày ấy, Bàng Quyên sẽ đốt Tỵ Điền viện mà giết tôi. Tôi
              chờ y đốt viện rồi tôi mới đi thì được yên sự, vì nó ngỡ là tôi chết cháy,
              ắt không tìm hỏi đâu nữa. Thôi, lời tôi dặn đã cặn kẽ, phu nhân hãy nhớ
              và giữ kín giùm!
              Lưu phu nhân nghe dứt, gật đầu từ tạ Tôn Tẩn rồi trở về phủ nói rõ
              lại cho Châu Hợi hay.
              Ngày giờ mau như thoi đưa, lật bật mà đã đến ngày Mậu Ngọ. Châu
              Hợi y hẹn đem gia đồng lén tới miễu Ngô Khởi mà chờ. Tôn Tẩn ở trong
              viện Tỵ Điền làm phép mù trời tối đất rồi chống gậy trầm hương ra miễu
              ấy. Châu Hợi thấy Tôn Tẩn tới bèn hối đi với mình về phủ. Tôn Tẩn nói:
              - Chưa đi vội được. Hãy chờ một lát nữa Bàng Quyên phóng lửa đốt
              viện rồi sẽ đi.
              Thật như lời, tới canh hai, Bàng Quyên và lũ bộ hạ mang cỏ khô, củi,
              bổi và dầu tới. Chúng nó đóng cửa viện lại, chất các món nhạy giáp vòng
              rồi đánh lửa lên đốt. Ôi, trong giây lát tòa viện Tỵ Điền trở nên đống
              than đỏ, hơn ngàn kẻ ăn mày đã thành ra ma! Tôn Tẩn thấy lửa cháy rồi,
              bèn cùng bọn Châu Hợi đi về phủ. Bàng Quyên kể chắc Tôn Tẩn đã chết
              thiêu nên cũng yên lòng.
              Sáng ngày vua Ngụy ra triều, các quan đem việc cháy việc Tỵ Điền
              mà tâu. Vua thở ra rồi hỏi:
              - Vì sao trong viện Tỵ Điền lại có cuộc lửa cháy hại nhiều sanh linh
              như vậy?
              Bàng Quyên tâu:
              - Ấy là mưu của Tôn Tẩn. Y muốn trốn ra khỏi nước Ngụy nên đốt
              viện giả là mình đã chết cháy cho khỏi bị tập nã. Nay không nên lầm
              mưu của y. Bệ hạ nên hạ lịnh họa đồ hình Tôn Tẩn treo khắp các cửa
              thành để xét bắt cho kỳ được.
              Ngụy vương nghe tâu khen phải, lập tức hạ lịnh họa đồ hình Tôn Tẩn
              sai đi tầm nã.
              Nói lại Vương Ngao đi hiểu dụ bốn nước rồi đều không ai cứu được
              Tôn Tẩn. Bây giờ ông ta lại sang nước Yên. Bữa nọ, nhầm buổi chầu,
              Vương Ngao tới trước cửa triều nước Yên khóc ba tiếng, rồi cười ba
              tiếng, các quan lấy làm lạ vào tâu cho vua Yên hay. Vua Yên cho vời
              vào hỏi. Vương Ngao tâu rằng:
              - Bần đạo khóc là khóc người công tử thứ ba của phò mã Tôn Tháo,
              tên là Tôn Tẩn. Người này có công lên núi Vân Mộng học đạo với Quỷ
              Cốc đã thông thiên thơ biết độn pháp, giỏi linh văn. Ngụy chúa nghe
              danh, sai sứ lên rước ba phen mới được. Chẳng dè Tôn Tẩn xuống giúp
              Ngụy bị người bạn bất lương là Bàng Quyên sàm tấu đến nỗi bị chặt hết
              mười ngón chân, nay còn đương bị giam ở Ngụy. Còn bần đạo cười là
              cười các nước chư hầu không ai biết trang anh tuấn để lo phương cứu về
              giúp xã tắc, định giang san, và thống nhất thiên hạ.
              Vua Yên nghe dứt cả mừng phán:
              - Nếu không có tiên sinh chỉ bảo thì quả nhân đâu rõ ở đời có bậc ký
              tài ấy.
              Phán rồi dạy thị thần mời Vương Ngao ra Quan lại Tư thết đãi. Đoạn
              hỏi các quan coi ai dám qua Ngụy rước Tôn Tẩn về. Vua hỏi vừa dứt thì
              có một vị đại quan bước ra trước điện xin đi.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #8
                Hồi 8 - Phá quân Ngụy, Tôn Tháo dùng mưu

                Hồi 8

                Phá quân Ngụy, Tôn Tháo dùng mưu
                Lui binh Yên, Châu Hợi thừa dịp

                Vị đại quan ấy chính Tôn Tháo phò mã. Tôn Tháo tâu rằng:
                - Tôn Tẩn là con của hạ thần, neuá nay nó bị nạn thì hạ thần và Long,
                Hổ hai anh nó phải đem binh đánh Ngụy đê đòi về. Ấy là thuận theo
                thiên luân vậy.
                Yên vương nói:
                - Nếu đem binh sang đòi mà vua Ngụy nghe lời Bàng Quyên, không
                thảTôn Tẩn về thì sao?
                Tôn Tháo nói:
                - Nếu không chịu thả về thì thần xin lấy đầu Bàng Quyên để trừ loạn
                cho nước Ngụy.
                Yên vương chuẩn tấu. Tôn Tháo lập tức lui về điểm ba muôn binh và
                đem hai con kéo ra khỏi U Câu thẳng tới Nghi Lương.
                Khi đai binh tới Ngụy, đóng dinh xong, Tôn Tháo bèn bảo Tôn Long
                lãnh một muôn binh giả kéo cờ nước Tần mai phục một nơi, Tôn Hổ lãnh
                một muôn binh giả kéo cờ nước Sở đem mai phục một nơi, chờ khi nào
                mình đại chiến với Bàng Quyên đánh ụp vào cướp dinh, hễ binh Ngụy
                loạn ắt binh Yên cả thắng. Dặn xong, Tôn Long, Tôn Hổ lãnh mạng đi
                tồi, Tôn Tháo bèn đem một muôn binh thẳng tới cửa thành Nghi Lương
                thị oai và hạ lệnh cho chúng kêu to rằng:
                Quân Ngụy phải đem công tử thứ Ba của nước Yên là Tôn Tẩn ra mà
                thả thì vô sự, nếu cãi một lời sẽ bị đập nát thành trì.
                Quân giữ thành thấy có giặc tới bèn vào triều tâu với Ngụy vương.
                Ngụy vương hỏi Bàng Quyên:
                - Bây giờ binh Tôn Tháo tới đòi trả Tôn Tẩn thì khanh tính làm sao?
                Bàng Quyên tâu:
                - Tôn Tháo là kẻ thất phu, hạ thần đem ba muôn binh ra đánh thì lui
                được ngay.
                Tâu dứt kiếu từ Ngụy vương lui về, điểm ba muôn binh ra trận. Tôn
                Tháo thấy Bàng Quyên đem binh ra trận bèn kêu nói rằng:
                - Ta đem binh tới đây chẳng phải tranh thành đoạt đất chi. Chủ ý là ta
                đòi cho được Tôn Tẩn con ta về mà thôi. Vậy ngươi nên giao trả cho ta,
                hầu khỏi sự xích mích của hai nước. Bàng Quyên nói:
                - Ta không trả Tôn Tẩn lại thì sao?
                Tôn Tháo giận nói:
                - Thì ta chém đầu ngươi.
                Bàng Quyên cả giận hươi đau chém đùa. Hai đàn vừa xáp chiến,
                bỗng bên tả có một đạo binh kéo tới cờ đề chữ Đại Tần Bạch Khởi và
                bên hữu một đạo binh kéo tới cờ đề chữ Đại Sở Huỳnh Hiệp. Bàng
                Quyên thấy có binh Yên, Tần, Sở, tự liệu không đánh xuể, bèn lui binh
                chạy về thành. Cha con Tôn Tháo lùa binh rượt theo giết thẳng tay một
                trận.
                Bàng Quyên thua trận về triều bị Nguỵ vương mắng trách thậm tệ.
                Đương lúc vua tôi còn bàn luận mưu kế lui binh Yên, bỗng có thám mã
                vào báo rõ việc Tôn Tháo dùng kế hư trương thanh thế, sai con giả làm
                binh Sở, quân Tần... Bàng Quyên nghe dứt căm giận Tôn Tháo nên xin
                với Ngụy vương, hôm sau sẽ đánh một trận mà trả thù. Ngụy vương ưng
                tấu, rồi hạ lêng bãi chầu. Các quan ra về, riêng Châu Hợi về phủ đem
                việc Yên Ngụy đánh nhau mà thuật kỹ lại cho Tôn Tẩn nghe.
                Sánh hôm sau, Bàng Quyên điểm binh ra trận giao chiến với Tôn
                Tháo. Tôn Tẩn ở trong vườn hoa của Châu Hợi ngó lên thấy sát khí bên
                Ngụy sung vượng, còn sát khí bên Yên thì suy nhược, thì biết thế của cha
                và anh mình cự không lại Bàng Quyên, nên niệm linh văn thâu thần binh
                âm tướng tới dạy phải ráng sức làm mưa đá sét đánh để giúp binh Yên.
                Bởi đó nên lúc binh Yên và binh Nguỵ đánh nhau, trên trời bỗng nổi mây
                mù rồi sa mưa đá, nổi chớp sét, binh Ngụy bị mưa sa, sét đánh chết hại
                rất nhiều, còn binh Yên thì vô hại. Bàng Quyên cũng bị thương chút ít,
                nhắm thế cự không lại, nên kéo binh chạy vào thành. Ngụy vương thấy
                Bàng Quyên thua luôn hai trận thì trách mắng thậm tệ. Châu Hợi biết tin
                ấy, lại trở về phủ mách cho Tôn Tẩn hay rồi sai gia đông bày rựơu thịt
                cùng nhau ăn uống. Lúc rượu vài tuần, Châu Hợi hoiû Tôn Tẩn rằng:
                - Yên, Ngụy cứ đánh nhau, ắt phải hao binh tổn tướng nhiều. Vậy
                tiên sinh có biết tới khi nào mới hòa hay không?
                Tôn Tẩn nói:
                - Hòa được hay không là tại nơi đại nhân đó!
                Châu Hợi nói:
                Tôi là kẻ bất tài, võ không biết một đường tấn, nhất thời lui đâu dược
                binh Yên mà mong thiết hòa!
                Tôn Tẩn nói:
                - Nếu đại nhân chịu đi thì không cần một tên sĩ tố nào. Chỉ càn một
                phong thơ, Đại nhân cầm ra giao cho cha tôi tức thì cha tôi lui binh.
                Nhưng đại nhân muốn được ra trận thì phải làm như vậy... Như vầy...!
                Châu Hợi nghe Tôn Tẩn nói dứt lời cả cười gật đầu lia lịa.
                Ngày sau, vua Ngụy ra triều hỏi các quan có ai lui được binh Yên hay
                không? Châu Hợi cứ theo kế của Tôn Tẩn bước ra quỳ tâu:
                - Hạ thần xin lãnh mạng lui binh Tôn Tháo.
                Ngụy vương phán rằng:
                - Khanh không biết võ nghệ thì làm sao lui được binh Yên?
                Châu Hợi tâu:
                - Hạ thần không dùng võ được thì dùng văn, lấy lý mà lui binh Tôn
                Tháo thì dễ như chơi. Ngụy vương hỏi:
                - Khanh lấy lý gì cho binh Yên lui được?
                Châu Hợi tâu:
                - Hạ thần nói với Tôn Tháo rằng: "Tôn Tẩn là học trò tiên, rõ thông
                ngũ độn, nên khó mà dò được tích ở đâu, dầu bây giờ có ở trong nước
                Ngụy cũng không thể kiếm được liền. Vậy xin binh Yên hãy lui về đợi
                một năm, để cho mình kiếm Tôn Tẩn, chừng đúng hẹn mà không giao trả
                thì sẽ sang đánh".
                Ngụy vương phán rằng:
                - Nếu khanh nói lui được binh Yên, trẫm sẽ gia tăng tước lộc.
                Bàng Quyên nghe Châu Hợi dâng kế như vậy thì cười ha hả mà rằng:
                - Tôn Tháo là kẻ sảo trá dị thường, dễ nào đem lời dối trá như vậy
                mà gạt y được?
                Châu Hợi nói:
                - Nếu tôi lui không được binh Tôn Tháo, thì tôi xin dâng đầu! Còn
                như lui binh được thì phò mã nghĩ sao?
                Bàng Quyên nói:
                - Nếu ông lui được thì tôi xin chịu thua một trăm nén vàng rồng.
                Châu Hợi gật đầu rồi tâu với Ngụy vương cầu xin đảm bảo. Ngụy
                vương chuẩn tấu, khiến thừa tướng Trịnh An Bình làm chứng. Trịnh An
                Bình tuân lịnh bắt Bàng Quyên và Châu Hợi bắt mỗi người làm một tờ
                quân lịnh trạng cho mình cầm.
                Thách đố xong, Châu Hợi lui về phủ cất thơ Tôn Tẩn vào mình rồi
                đem vài tên quân đi thẳng qua dinh Yên. Quân Yên trông thấy tưởng là
                kẻ gian tế nên bă1t giải vào trước đại trướng. Tôn Tháo hỏi Châu Hợi
                rằng:
                - Mi lên tới đây có ý làm việc gì?
                Châu Hợi thưa:
                - Tôi là Châu Hợi, thừa tướng nước Ngụy, vâng lịnh Ngụy vương sang
                thuyết hòa với đại nhân. Nghĩ vì tam công tử là bậc thần thông rành độn
                pháp, không ai rõ tông tích ở đâu, công tử thấy được người, chớ người
                khó thấy công tử. Nếu đại nhân đòi liền, chúng tôi tìm đâu cho ra. Vậy
                đại nhân hoãn lại một năm, chúng tôi kiếm công tử đem giao trả cho,
                nhưng không được chừng đó đại nhân sẽ sang đánh.
                Tôn Táo nghe xong lắc đầu nói:
                - Ông khéo gạt tôi à!
                Châu Hợi nói:
                - Tôi không gạt đại nhân. Tôi nói có bằng cớ. Đại nhân hãy lui kẻ tả
                hữu ra, tôi sẽ trưng dẫn cho mà xem.
                Tôn Tháo nhận lời đuổi tả hữu ra ngoài. Châu Hợi bèn móc lưng lấy
                phong thơ trao ra cho Tôn Tháo mà rằng:
                - Đây là thơ của công tử gởi cho đại nhân. Xin đại nhân xem kỹ.
                Tôn Tháo tiếp lấy thơ, xé ra xem, thơ đại khái như vầy:
                "Thưa cha,
                Cha đem binh sang Ngụy quyết ý cứu con, song con đã nhờ châu Hợi
                cứu và giấu trong nhà rồi. Bàng tặc vẫn tìm cách gia hại nên con chưa
                tiện ra mặt. Vậy cầu cha hãy lui binh. Chẳng sớm thì muộn cha con ta sẽ
                gặp nhau nơi cao đường.
                Con là Tôn Tẩn kính thơ".
                Tôn Tháo xem thơ xong, thấy rõ là nét bút của con nên tin thiệt, tỏ lời
                cám ơn Châu Hợi rồi hạ lịnh lui binh. Châu Hợi chờ binh Yên kéo đi rồi
                liền cưỡi ngựa về triều ra mắt Ngụy vương tâu rằng:
                - Nhờ hồng phúc của bệ hạ, hạ thần đã lui được binh Yên rồi.
                Ngụy vương cả mừng truyền ban thưởng lụa, gấm, vàng, bạc, kim
                hoa, ngự tửu cho Châu Hợi. Trịnh An Bình nhân đó day qua nói với Bàng
                quyên rằng:
                - Thôi, phò mã cứ theo quân lịnh trạng mà tính cho xong đi.
                Bàng Quyên mắc cỡ đỏ mặt, không biết nói sao, phải về phủ lấy một
                trăm nén vàng mà giao cho châu Hợi.
                Bãi chầu, Bàng Quyên về phủ, nghĩ lại tức giận vô cùng. Tới tối rảo
                ra vườn hoa, ngước mặt xem thiên văn. Bàng Quyên thấy sao bổn mạng
                của Tôn Tẩn chiếu ngay phù Châu Hợi thì cười rằng:
                "Phải rồi, Châu Hợi giấu Tôn Tẩn trong nhà, nên nhờ đó mà lui được
                binh Yên, tư thông nước ngoài lo phá nước Ngụy. Vậy ngày mai ta vào
                triều tâu với thánh thượng xin binh vây nhà Châu Hợi thì chẳng những
                tôn Tẩn không khỏi chết mà gia thuộc của Châu Hợi cũng không thoát
                được tội".
                Giữa lúc Bàng Quyên lập tâm như vậy, thì bên phủ nọ, Châu Hợi
                đang ăn uống ngon, chợt nhảy mũi một cái. Tôn Tẩn lần tay tính quẻ rồi
                nói:
                - Cái sặc đó là điềm chẳng hay. Ngày mai Bàng Quyên sẽ tâu với
                vua xin đem binh tới vây quý phủ đặng tìm bắt tôi đó.
                Châu Hợi cả kinh nói:
                - Vậy thì chúng ta tính sao cho khỏi nạn?
                Tôn Tẩn nói:
                - Đại nhân cứ yên lòng và dặn người trong nhà đến lúc binh Bàng
                Quyên tới chớ nên bối rối xôn xao.Tôi có cách ẩn mặt rồi không sao đâu
                mà ngại!
                Châu Hợi nghe theo nhưng lòng vẫn không yên.
                Sáng ngày, Ngụy vương ra triều. Bàng Quyên tâu rằng:
                - Đêm hôm thần xem thiên tượng thấy sao bổn mạng của Tôn Tẩn
                chiếu tại phủ Châu Hợi. Thần đoán chắc là Châu Hợi giấu Tôn Tẩn trong
                nhà để tư thông với nước Yên. Vậy xin bệ hạ cho thần đem binh bao vây
                phủ Châu Hợi mà bắt Tôn Tẩn.
                Ngụy vương nói:
                - Nếu quả như lời khanh nói, bắt được Tôn Tẩn trong phủ Châu Hợi
                thì tội Châu Hợi đã đành. Còn như xét không có thì lại sanh mích lòng
                mới sao?
                Bàng Quyên tâu:
                - Thần đã đoán kỹ, thế nào cũng tìm được Tôn Tẩn trong nhà Châu
                Hợi chẳng sai!
                Ngụy vương nghe Bàng Quyên nói chắc bèn chuẩn tấu. Bàng Quyên
                được lịnh, lập tức đem binh tới bao vây bốn phía phủ Châu Hợi, rồi
                xuống ngựa đi vào trong.
                Châu Hợi thấy Bàng Quyên tới, bèn ra tiếp và hỏi rằng:
                - Phò mã tới đây chơi hay có việc chi?
                Bàng Quyên làm mặt giận nói:
                - Ông giám mạng phép triều đình, giấu Tôn Tẩn trong nhà, tư thông
                với nước Yên làm bộ lui binh Tôn Tháo đặng ăn gian ta một trăm nén
                vàng. Nay ta vâng lệnh thánh thượng tới đây tra xét.
                Châu Hợi nói:
                - Nếu quả có, tôi chịu tội đã đành, còn như không có thì Phò mã tính
                sao?
                Bàng Quyên không đáp lời chi, cứ hạ lịnh sai quân lục lạo khắp nơi
                trong nhà mà xét, nào phòng the, rương tủ, vườn tược chỗ nào cũng tìm
                xốc mà không gặp. Lục xét cả ngay không được, Bàng Quyên buồn trí
                đem quân trở về ra mắt Ngụy vương mà tâu lại. Ngụy vương trách mắng
                Bàng Quyên sao nói giam tâu dối như vậy. Bàng Quyên không đáp, chỉ
                cuối đầu làm thinh rồi tạ từ lui về phủ.
                Sau khi Bàng Quyên trở về, Châu Hợi vào nhà trong nói với Lưu phu
                nhân rằng:
                - Chẳng rõ lúc phò mã xét nhà, Tôn tiên sinh núp ở đâu mà chúng nó
                tìm không được?
                Lưu phu nhân chưa kịp đáp thì nghe tiếng Tôn Tẩn cười nói rằng:
                - Tôi ở đây chớ có núp trốn ở đâu?
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #9
                  Hồi 9 - Tôn Tẩn lập kế trốn vào tủ,

                  Hồi 9

                  Tôn Tẩn lập kế trốn vào tủ,
                  Bàng Quyên bị ép mặt áo gai.


                  Châu Hợi nghe tiếng bèn day lại xem thì thấy Tôn Tẩn đứng sau
                  lưng, lấy làm lạ hỏi rằng:
                  - Tiên sinh trốn ở đâu mới chui ra đó?
                  Tôn Tẩn nói:
                  - Tôi trốn ở dưới đít tủ kia!
                  Châu Hợi nói:
                  - Khi nãy chúng nó có lật đít tủ lên mà sao không thấy tiên sinh?
                  Tôn Tẩn nói:
                  - Tôi có phép ngũ độn: Dầu trong nước, lửa, đất, vàng, cây chỗ nào
                  cũng trốn được thì chúng nó tìm đâu ra?
                  Châu Hợi khen rằng:
                  - Thật tiên sinh là người tiên! Dứt lời, sai gia đồng bày tiệc rượu. Cả
                  hai ngồi lại ăn uống.
                  Bàng Quyên xét kiếm không được Tôn Tẩn và bị Ngụy vương quở
                  trách thì tức giận lắm, nên tối đêm ấy lại ra hoa viên xem thiên tượng
                  nữa, thấy sao bổn mạng của Tôn Tẩn vẫn còn chiếu ngay nhà Châu Hợi,
                  Bàng Quyên lập tâm đợi đến sáng ngày đem gia tướng tới xét bắt chớ
                  không tâu cho Ngụy vương hay.
                  Bên phủ Châu Hợi, Tôn Tẩn cũng đánh tay biết rõ như vậy, nên liền
                  định một kế bảo Châu Hợi sắp đặt saÜn để đánh lừa Bàng Quyên chơi.
                  Thật như chủ định, sáng ngày quả có Bàng Quyên đem hơn một trăm
                  gia tướng tới xét nhà Châu Hợi. Hôm nay Bàng Quyên đốc xuất bộ hạ
                  xét tìm kỹ lưỡng lắm. Xét từ trước ra sau không thấy Tôn Tẩn đâu, đến
                  khi vào trung đường thấy bên nọ có một cái phòng nọ cửa khóa chắc
                  chắn, Bàng Quyên bèn hỏi:
                  - Phòng này dùng làm gì mà khóa kỹ như vậy?
                  Châu Hợi nói:
                  - Ấy là khố phòng, chỗ tôi cất vàng bạc lụa là, cho tới một trăm nén
                  vàng, ăn cuộc với ngài cũng cất trong đó.
                  Bàng Quyên nói:
                  - Tôi chắc ông giấu Tôn Tẩn trong phòng này. Vậy phiền ông mở ra
                  cho tôi xem.
                  Châu Hợi vâng lời kêu mụ quản gia già còm đem chìa khóa ra mở.
                  Mụ quản gia xách chìa khóa lại vừa đi vừa lẩm bẩm rằng:
                  - Các người sao mà vô duyên quá, phòng người ta cất tiền mà cũng
                  đòi mở cho được!
                  Bàng Quyên nghe mấy lời cả giận, bắt mụ già quản gia lại đánh đập
                  một chập nặng rồi mới tha. Mụ quản gia không dám nói nữa, ríu ríu đi
                  mở cửa phòng.
                  Lúc mụ quản gia sắp sửa mở cửa, thì trong phòng có tiếng Tôn Tẩn
                  kêu rằng:
                  - Bà ơi, chậm chậm một chút, chớ mở vội mà tôi phải chết oan!
                  Bàng Quyên nghe tiếng, cả mừng, nói với Châu Hợi rằng:
                  - Đó, Tôn Tẩn ở trong đó, ông tránh sao cho khỏi tội?
                  Dứt lời, hối mụ quản gia mở cho mau, rồi lách mình xông vào. Vào
                  trong phòng, thấy có một cái tủ cây, Bàng Quyên bảo Châu Hợi mở cho
                  mình xem. Châu Hợi nói tủ đó chứa vàng bạc của cải nhiều lắm, quyết
                  không mở cho ai xem. Châu Hợi nói chưa dứt lời, bỗng có tiếng Tôn Tẩn
                  ở trong tủ kêu rằng:
                  - Châu đại nhân đừng mở, hãy để cho tôi sống ít ngày!
                  Nghe vậy Bàng Quyên quyết chắc Tôn Tẩn ở trong tủ nên hạ lịnh gia
                  tướng áp vào khiêng tủ mau đem vào triều.
                  Bàng Quyên vừa hạ lịnh gia tướng khiêng tủ thì Châu Hợi lập tức lên
                  ngựa chạy vào triều tâu trước với Ngụy chúa rằng Bàng Quyên giả cách
                  xét nhà để cướp tủ vàng bạc của mình mà khiêng đi. Ngụy vương chưa rõ
                  thật hư thế nào, bảo Châu Hợi hãy chờ Bàng Quyên tới đặng đối chứng.
                  Bàng Quyên đốc xuất gia tướng khiêng cái tủ cây nặng nề kia vào
                  triều. Đi dọc đường, trong tủ có tiếng Tôn Tẩn năn nỉ rằng:
                  - Phò mã ơi! Dẫu thế nào chúng ta cũng là bầu bạn với nhau, sao phò
                  mã lại nhẫn tâm hại tôi như vầy?
                  Bàng Quyên nói:
                  - Đã là anh em mà mi còn gạt ta mấy lần. Thôi, thế nào hôm nay
                  cũng phải vào triều ra mắt thánh thượng một phen.
                  Trong tủ vẫn có tiếng Tôn Tẩn năn nỉ ỉ ôi mãi tới khi khiêng tới cửa
                  triều.
                  Bây giờ Bàng Quyên dạy gia tướng để tủ xuống rồi đi vào ra mắt
                  Ngụy vương. Ngụy vương thấy Bàng Quyên tới bèn hỏi:
                  - Sao khanh giả tiếng xét bắt Tôn Tẩn rồi cướp tủ vàng bạc của Châu
                  Hợi mà khiêng đi?
                  Bàng Quyên tâu:
                  - Tâu bệ hạ, Châu Hợi giấu Tôn Tẩn vào tủ ấy nên hạ thần phải sai
                  khiêng vào triều làm bằng cớ. Đi dọc đường vẫn còn nghe tiếng Tôn Tẩn
                  năn nỉ hạ thần trong tủ vọng ra. Sự thật như vậy chớ hạ thần nào có dám
                  làm điều gì phi pháp?
                  Ngụy vương nghe tâu chẳng rõ trắng đen như thế nào, truyền lịnh
                  khiêng tủ vào trước kim loan điện đặng mở ra xem.
                  Quân sĩ vâng lịnh khiêng tủ vào, rồi giở nắp lên. Trong tủ không có
                  Tôn Tẩn, chỉ gạch bể ngói miếng mà thôi. Liền khi ấy, Châu Hợi giậm
                  chân đánh ngực kêu rằng:
                  - Phò mã tham lam quá! Khiêng tủ đi lấy hết vàng bạc trong ấy rồi lại
                  bỏ gạch ngói thế vào. Làm như vậy còn kể phép vua luật nước là gì?
                  Bàng Quyên mắc cỡ đứng chết trân. Các quan đồng nói:
                  - Bàng phò mã làm như vậy thật trái lẽ. Bây giờ chẳng những một tủ,
                  dầu cho mười tủ cũng phải thường lại cho đủ số.
                  Ngụy vương cũng giận phán rằng:
                  - Phò mã gian tham quá như vậy, bây giờ đáng tội hay không?
                  Bàng Quyên tâu:
                  - Thần sai gia tướng khiêng tủ từ Châu phủ lại đây chớ có đem về
                  nhà khi nào mà nói là tráo đá lấy vàng?
                  Ngụy vương phán rằng:
                  - Khanh không được chối cãi, phải trả vàng bạc lại cho Châu Hợi!
                  Bàng Quyên không còn kêu nài gì được, đành lui về nhà vét mót hết
                  châu báu vàng bạc bỏ đầy vào tủ bồi thường. Châu Hợi vô cớ được nhiều
                  tiền cũng mừng rỡ lắm, trở về nhà tạ ơn Tôn Tẩn rồi bày tiệc cùng nhau
                  ăn uống.
                  Bàng Quyên thua một lần nữa, tức giận quá, tối đêm ấy lại ra hoa
                  viên xem thiên tượng thấy sao bổn mạng của Tôn Tẩn còn chiếu ngay
                  phủ Châu Hợi thì nhủ rằng: "Ta phải xét nhà Châu Hợi nữa, tìm cho ra
                  Tôn Tẩn mới thôi".
                  Bàng Quyên lập tâm như vậy, thì Tôn Tẩn đã đoán biết liền nói rõ lại
                  cho Châu Hợi nghe. Kế đó có tin báo với Châu Hợi rằng mụ quản gia bị
                  Bàng Quyên đánh hồi ban mai đương vật mình sắp chết. Tôn Tẩn nghe
                  báo nói rằng:
                  - Được, ta nên thừa cơ mà gạt Bàng Quyên nữa chơi. Bây giờ đại
                  nhân đem mụ quản gia sắp chết ấy vào một căn phòng sạch sẽ giả làm
                  như vầy... Như vầy...
                  Châu Hợi cả cười, liền khiến tả hữu làm y theo.
                  Sáng hôm sau, trời vừa hửng sáng, Bàng Quyên đã đem gia tướng tới
                  Châu phủ, Châu Hợi làm bộ biến sắc nói:
                  - Bàng phò mã ơi! Ông đã xét phủ tôi hai lần rồi, ông đã lấy vàng
                  bạc nhà tôi lại còn làm kinh động, đến nỗi mẹ tôi sợ mà mang bịnh. Nay
                  ông tới đây thật là mai. Bàng Quyên cả giận nói:
                  - Châu Hợi! Hôm qua ông đã gạt tôi mà đoạt của, lại còn mắng tôi.
                  Hôm nay tôi quyết tới đây tìm cho được Tôn Tẩn mới nghe. Ông đừng
                  lấy nhân mạng mà dọa tôi.
                  Nói dứt, sai gia tướng đi lục soát. Chúng lục soát các nơi không thấy
                  Tôn Tẩn đâu, sau xét tới chái mé đông, thấy có căn phòng, cửa nửa khép
                  nửa mở. Bàng Quyên bèn hỏi:
                  - Phòng gì đó?
                  Châu Họi nói:
                  - Phòng ngủ của mẹ tôi bả đương nằm dưỡng bịnh trong đó!
                  Bàng Quyên xâm xâm đi vào. Châu Hợi ngăn lại mà rằng:
                  - Mẹ tôi đau nặng chẳng biết chết hay sống mai gì. Ông chớ làm kinh
                  động e bả chết liền.
                  Bàng Quyên nghe cản, càng ngờ Châu Hợi giấu Tôn Tẩn trong ấy
                  nên đạp cửa càn vào. A hoàn thấy vậy áp nhau lại chận, năn nỉ xin chớ
                  làm động lão thái thái sợ mà chết đi. Bàng Quyên không nghe, cứ xốc tới
                  giường toang giở mền lên xem. Châu Hợi thấy vậy nắm tay Bàng Quyên
                  lại, Bàng Quyên thấy cử chỉ lạ càng nghi quyết là Tôn Tẩn nằm trên
                  giường nên co chân đá cái giường đổ lỏng chỏng. Châu Hợi vội vàng một
                  tay nắm cứng Bàng Quyên, một tay giở mền lên thấy mụ quản gia chết
                  thiệt, bèn la to rằng:
                  - Bàng phò mã đã làm động mẹ tôi chết rồi, phải đền mạng mau lên.
                  Các a hoàn nghe nói khóc ồ lên, Châu Hợi cứ la mãi như vậy, vứa la
                  vừ kéo xểnh Bàng Quyên bảo phải vào triều đối nại. Bàng Quyên bất
                  đắc dĩ phải đi theo.
                  Lúc bấy giờ chưa tan chầu, Ngụy chúa còn ngồi trên điện, thấy Châu
                  Hợi, Bàng Quyên kéo nhau tới bèn phán hỏi:
                  - Hai khanh làm gì lôi kéo nhau như vậy?
                  Châu Hợi khóc lóc tâu rằng:
                  - Bàng phò mã đem quân xét phủ hai lần làm cho mẹ của hạ thần
                  kinh sợ mà mang bịnh. Đến nay lại đem gia tướng tới xét nữa, rồi lại
                  đánh chết mẹ của hạ thần đi. Vì sự oan ức xin thánh thượng minh giải.
                  Ngụy vương nghe tâu cả giân phán rằng:
                  - Chuyên gì quả nhân cũng bỏ qua rồi. Nay tới chuyện giết người thì
                  phải đền mạng chớ không kêu oan gọi uổng chi nữa.
                  Bàng Quyên lật đật tâu:
                  - Muôn tâu bệ hạ!
                  Mẹ của Châu Hợi mang bệnh đã lâu, nay chịu không nỗi thì chết, chớ
                  hạ thần không có giết. Xin bệ hạ dạy ông ta hãy buông hạ thần ra. Châu
                  Hợi nói:
                  - Buông sao cho được ông giết mẹ tôi lại chối à!
                  Bàng Quyên nói:
                  - Tôi thật không nhẫn tâm nào mà giết bà già vô tội như vậy!
                  Châu Hợi nói:
                  - Nếu ông chối thì tôi sẽ làm cho ra lẽ. Còn như ông lỡ lầm lỗi, bây
                  giờ ông chịu thì dầu tôi có bắt thường mạng, mẹ tôi cũng đã chết rồi. Vậy
                  như ông ăn năn bằng lòng mặc đồ tang, chốnggậy tang thay cho tôi để
                  đưa xác mẹ tôi tới mộ phần thì tôi cũng vị tình đồng liêu mà tha thứ cho.
                  Ngụy vương nghe vậy bèn xen vào phán:
                  - Ừ, việc ấy dễ lắm, Bàng phò mã hãy chịu đi!
                  Bàng Quyên vâng lời ưng chịu, Châu Hợi liền buông ra tạ từ Ngụy
                  chúa, rồi lui về phủ lo việc tang ma.
                  Châu Hợi về phủ thuật hết việc vừa rồi ở chùa cho Tôn Tẩn nghe và
                  nói:
                  - Theo ý tôi thì tiên sinh ở mãi trong bổn phủ ắt không có việc thoát
                  thân về nước Yên được. Vậy nhân có việc nầy, tôi muốn làm cái hòm hai
                  đáy, Tiên sinh nằm ở dưới, liệm thây mụ quản gia ở trên, rồi khiêng ra
                  ngoài thành để cho Tiên sinh dể bề thoát thân.
                  Tôn Tẩn nói:
                  - Làm như vậy, nếu Bàng Quyên nó biết thì nguy to.
                  Châu Hợi nói:
                  - Dẩu nó có biết cũng không dám mở hòm mà xét thây đâu.
                  Tôn Tẩn nói:
                  - Nếu vậy thì có thể được.
                  Châu Hợi liền y kế, sai người tin cậy đóng hòm hai đáy liệm Tôn Tẩn
                  và thây mụ quản gia vào, rồi bày cuộc ma tang, cả nhà thảy mặc tế phục.
                  Bây giờ chỉ chờ Bàng Quyên tới là động quan đi chôn.
                  Bàng Quyên thua luôn mấy cuộc, nghỉ tức mình, định chắc là quả có
                  Tôn Tẩn bày mưu cho Châu Hợi nên bấm tay đoán quẻ, biết bửa đưa
                  đám ma sẻ có Tôn Tẩn nằm trong hòm trốn ra thành đặng về nước, nên
                  tìm cách trả thù.
                  Sáng ngày, Bàng Quyên mặc đồ tang chống gậy tang tới phủ Châu
                  Hợi đưa đám ma. Khi khiên hòm ra tới mộ, Bàng Quyên truyền quân
                  phải hạ nguyệt ngay. Châu Hợi sợ nếu chôn vội e nguy tới tính mạng Tôn
                  Tẩn, nên xin quàn lại đến ngày mai nhập thổ. Bàng Quyên nhất quyết
                  không chịu, Châu Hợi phải tuân theo mà lòng lo sợ cho Tôn Tẩn.
                  Chôn đắp xong, Châu Hợi buồn bả trở về phủ. Khi vào tới thơ phòng
                  thấy Tôn Tẩn ngồi sờ sờ ở đó, Châu Hợi cả mừng hỏi rằng:
                  - Sao Tiên sinh nằm trong hòm lại trốn về đây được?
                  Tôn Tẩn đáp:
                  - Tôi biết thế nào Bàng Quyên cũng bắt chôn vội để hại tôi, nên tôi
                  phải độn trước đặng thoát thân.
                  Châu Hợi cười nói:
                  - Tiên sinh thật giỏi, nhưng tôi không dè, thành ra lo sợ quá.
                  Dứt lời sai gia đồng bày tiệc ra cùng nhau ăn uống.
                  Nhắc lại, khi Vương Ngao thấy mình khuyến dụ nước Yên cứu Tôn
                  Tẩn thì liền sang Tề. Vương Ngao cũng đứng trước cửa triều khóc ba
                  tiếng, cười ba tiếng. Quân giữ cửa vào tâu với Tề Oai Vương. Oai Vương
                  cho mời vào. Vương Ngao vào ra mắt vua Tề rồi củng tâu những lời đã
                  nói với mấy vua trước. Tề Vương cả mừng sai người đem Vương Ngao ra
                  điện quan lộc thết đãi, rồi phán hội triều thần có ai dám sang Ngụy trộm
                  Tôn Tẩn. Thượng đại phu Bốc Thương đứng ra xin đi. Tề Vương hỏi:
                  - Khanh làm sao sang Ngụy trộm Tôn Tẩn được?
                  Bốc Thương tâu:
                  - Thần sắm năm chục cổ xe trà, mược tiếng vào tấn cống cho Ngụy
                  chúa rồi thừa dịp đem Tôn Tẩn về.
                  Tề Vương phán rằng:
                  - Giã tiếng tấn cống mà vào Ngụy thì được, xong đem Tôn Tẩn về là
                  một việc khó!
                  Bốc Thương tâu:
                  - Dưới xe chở trà, hạ thần đã nghỉ làm saÜn một cái rương, hể mời
                  được Tôn Tẩn vào nằm được trong đó thì đêm về dể dàng lắm!
                  Tề Vương khen phải, dạy Bốc Thương sắp đặt năm chục xe trà cho
                  mau.
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #10
                    Hồi 10 - Bong Người Giấy, Dùng Mưu "Ve Vàng Lột Vỏ".

                    Hồi 10

                    Bong Người Giấy, Dùng Mưu "Ve Vàng Lột Vỏ".
                    Khiêng Khối Đá, Quyết Lòng Đem Thịt Nạp Hùm

                    Chuẩn bị cống lễ xong, Bốc Thương liền khởi hành từ Lâm Tri Sang
                    nước Ngụy. Khi tới Ngụy Triều, Bốc Thương vào yết kiến vua Ngụy tâu
                    việc triều cống. Vua Ngụy cả đẹp, sai người nhận lễ rồi khiến Quan Lộc
                    tư thết yến nơi nhà trạm Kim Đình, phái thừa tướng Châu Hợi tiếp đãi.
                    Lúc ăn uống, Bốc Thương hỏi Châu Hợi rằng:
                    - Chẳng rõ vì cớ chi mà Tôn Tháo lại đem binh quấy rối quý quốc
                    như vậy? Châu Hợi nói:
                    - Vì con của Tôn Tháo là Tôn Tẩn ở trong nước Ngụy, nên ông ta
                    đem binh sang đòi!
                    Bốc Thương hỏi:
                    - Vậy mà quý quốc có giao trả cho ông ta chưa?
                    Châu Hợi đáp
                    - Chúng tôi hẹn trong một năm sẽ kiếm được và đưa về Yên, nếu mãn
                    mà không y lời thì sẽ chịu tội!
                    Bốc Thương nói:
                    - Đã bao lâu rồi mà quý phủ có dò được tin tức Tôn Tẩn ở đâu
                    không?
                    Châu Hợi đáp:
                    - Không rõ Tôn Tẩn ẩn ở nơi nào, chúng tôi vẫn chưa tìm gặp.
                    Câu chuyện tới chừng ấy thì tiệc tan.
                    Châu Hợi trở vè phủ đem hết biệc Bốc Thương tấn công mà thuật lại
                    cho Tôn Tẩn nghe. Tôn Tẩn nói:
                    - Bốc Tử hạ giả dạng sang cống lễ để đem tôi về Tề. Nay tôi nên nhờ
                    dịp này mà thoát thân. Vậy sáng ngày đại nhân chịu phiền cầm bức thơ
                    của tôi sang nhà trạm Kim đình trao cho Bốc Tử hạ.
                    Châu Hợi gật đầu.
                    Sáng ngày Châu Hợi đem cho Bốc Thương. Trong thơ có mấy dòng:
                    "Kích mời Bốc đại nhân sang Châu phủ cùng hạ sĩ bàn việc. Khác
                    nên dè dặt. Tôn Tẩn bái thơ"
                    Đem thơ rồi, Châu Hợi trở về phủ bàn chuyện cách thoát thân với
                    Tôn Tẩn. Tôn Tẩn nói:
                    - Bây giờ phiền đại nhân lo cho tôi năm người nộm bằng giấy và một
                    thăng gạo trắng.
                    Châu Hợi nhận lời lo sắp đặt đâu đó chu tất.
                    Hôm sau, Bốc Thương vào triều từ tạ vua Ngụy về nước, rồi sang
                    Châu Phủ để hội với Tôn Tẩn. Khi vào tới thơ phòng. Châu Hợi cho tả
                    hữu lui ra ngoài hết, bấy giờ Tôn Tẩn bèn xá một xá, nói rằng:
                    - Chúa tôi nước Tề nghe danh tiên sinh đã lâu, nay phái tôi sang tiếp
                    rước.
                    Tôn Tẩn nói:
                    - Tiểu đạo hèn dở mà được quý quốc rộng ơn như vậy thật là may
                    lắm.
                    Nói đoạn tỏ lời cảm ơn Châu Hợi và tạ từ. Châu Hợi có ý lưu luyến,
                    song cũng dằn lòng để cho Tôn Tẩn theo Bốc Thương đặng thoát nạn.
                    Bây giờ Tôn Tẩn mới bày Bốc Thương cách giấu mình vào xe trà và
                    cách ngừa quân sĩ của Bàng Quyên. Bốc Thương tuân lời. Tôn Tẩn bèn
                    đem bốn người nộm bằng giấy để lên bốn xe, làm phép biến thành bốn vị
                    Tôn Tẩn, rồi hối quân đẩy bốn xe có Tôn Tẩn giả ấy đi ra bốn cửa thành
                    xe. Xe ra thành, quân giữ cửa trông thấy có chở Tôn Tẩn bèn đón lại bắt
                    và giải Tôn Tẩn về phủ Phò mã. Bàng Quyên thấy bắt được Tôn Tẩn thì
                    mừng, lập tức sai quân kéo ra pháp trường chém đầu. Lạ thay, Tôn Tẩn
                    bị chém liền hóa ta hình người bằng giấy! Vừa chém Tôn Tẩn Xong, lại
                    có quân giải Tôn Tẩn khác tới. Chém mãi, chém mãim chém ba lần nữa.
                    Tôn Tẩn cũng hóa ra người giấy. Bàng Quyên biết mắc kế "Ve vàng lột
                    xác", liền bấm tay đoán quẻ. Thấy quẻ ứng rằng Tôn Tẩn đã thoát ra cửa
                    Đông rồi, Bàng Quyên liền đem binh hỏa tốc rượt theo.
                    Tôn Tẩn ở trên xe biết Bàng Quyên đuổi theo mình, bèn nói cho Bốc
                    Thương hay, rồi đem theo một thăng gạo và một người giấy, từ tạ đi rẽ
                    đường khác hẹn sẽ gặp ở cầu Tân Lương.
                    Tôn Tẩn chống gậy đi được một đỗi, thấy trước cổng nhà nọ có người
                    đàn bà đứng khóc bèn ghé lại hỏi. Người đàn bà đáp:
                    - Chồng tôi đi làm ngoài đồng, ở nhà mẹ già đau nặng sắp chết không
                    biết làm sao?
                    Tôn Tẩn gật đầu bỏ đi luôn. Đi một đỗi xa, tới cánh đồng thấy có
                    người đàn ông đang cuốc đất dưới ruộng. Tôn Tẩn liền tới gần nói rằng:
                    - Mẹ chú ở nhà đau bụng gần chết đó!
                    Người đàn ông thất kinh, dợm chạy về, Tôn Tẩn móc túi lấy ra một
                    hườn thuốc đưa cho người đàn ông và nói:
                    - Chú để nón áo và cuốc lại đây tôi giữ cho, hãy đem hường thuốc
                    này về cho mẹ chú uống thì tỉnh lại liền!
                    Người đàn ông nghe theo lời, bỏ nón và cuốc lại, rồi lấy hườn thuốc
                    chạy riết về.
                    Bây giờ Tôn Tẩn mới mặc áo tơi, đội nón tre, cầm cuốc lội xuống
                    ruộng giả làm nông phu. Lai đi một đỗi xa lấy hình giấy ra bỏ xuống đìa,
                    hóa làm thây Tôn Tẩn chết, rồi lấy gạo rải ra biến thành vô số giòi đeo
                    bám vào thây. Làm phép xong Tôn Tẩn trởi lại chỗ cũ đứng cuốc đất.
                    Còn Bàng Quyên đem binh ra cửa thành Đông rượt theo Bốc Thương.
                    Khi gặp nhau, Bàng Quyên buộc Bốc Thương phải dừng xe lại để mình
                    xét kiếm Tôn Tẩn. Bốc Thương vâng lời. Bàng Quyên đốc sức quân sĩ
                    xét khắp năm cỗ xe mà chẳng thấy Tôn Tẩn đâu, bèn kêu binh đi tẻ
                    đường khác tìm.
                    Bàng Quyên và quân sĩ một đỗi, gặp người cuốc đất dưới ruộng bèn
                    kêu hỏi rằng:
                    - Chú ơi, chú có thấy người đạo sĩ áo vàng chống hai cây gậy đi đâu
                    không?
                    Tôn Tẩn nghe hỏi không ngước lên mà cũng chẳng trả lời, cứ lấy tay
                    chỉ qua hướng Bắc. Quân sĩ tưởng người cuốc đất câm nên kéo nhau đi
                    theo hướng Bắc. Đi một đỗi thấy cái đìa có thây người đạo sĩ áo vàng
                    chính là Tôn Tẩn, thì chúng bèn dừng lại báo với Bàng Quyên. Bàng
                    Quyên quất ngựa tới, xem thấy Tôn Tẩn đã chết thì cười rằng:
                    - Ngươi vô phước quá. Phải ngươi chết trong thành Nghi Lương thì ta
                    cũng cho một cái hòm, rồi kiếm chỗ chôn tử tế. Nay ngươi chết dọc
                    đường như vầy thì ta chỉ để cho mấy con giòi lo cho ngươi thôi! Nói dứt
                    lờ kéo quân sĩ quay về thành.
                    Tôn Tẩn thầy Bàng Quyên về rồi lật đật cởi áo tới, lột nón bỏ cuốc
                    lại bờ ruộng cho người nông phu kia rồi chống gậy lách mình ra đi. Tôn
                    Tẩn đi mãi tới tối bỗng gặp một tòa nhà trong cụm rừng, bèn tới gõ cửa
                    xin ngủ nhờ. Gia bộc thấy có người tới bèn vào báo với Viên Ngoại.
                    Viên ngoại cho mời vào nhà trong đãi trà rồi hỏi lai lịch. Tôn Tẩn đáp:
                    - Tiểu đạo tên là Tôn Tẩn, bấy lâu nay ở trong thành Nghi Lương,
                    nay định sao Tề, vì trời tối nên tới làm rộn quý phủ.
                    Viên ngoại hỏi:
                    - Tiên sinh ở trong thành Nghi Lương mà có biết Trịnh An Bình hay
                    không?
                    Tôn Tẩn đáp:
                    - Tiểu đạo và Trịnh thừa tướng là bạn thân, vậy chẳng rõ viên ngọi là
                    chi của thừa tướng?
                    Viên ngoại đáp:
                    - Nó là con của tôi. Nay tiên sinh là bạn của nó thì cũng là quen với
                    nhà tôi.
                    Nói dứt lời sai gia đồng làm cơm đãi Tôn Tẩn và dọn phòng saÜn để
                    cho nghỉ.
                    Sáng ngày Tôn Tẩn kếu từ viên ngoại mà đi và nói rằng sẽ tới cầu
                    Tân Lương hội ngộ với quan đại phu nước Tề là Bốc Thương. Trịnh viên
                    ngoại nghe mấy lời lật tức sai hai tên gia bộc là Trịnh Thiên, Trịnh Thất
                    khiêng một cái kiệu đưa Tôn Tẩn ra cầu Tân Lương.
                    Trịnh Thiên, Trịnh Thất vâng lệnh chủ khiêng kiệu đưa Tôn Tẩn đi.
                    Tới ngã ba cả hai để kiệu xuống nghỉ. Trịnh Thất bèn bàn lén với Trịnh
                    Thiên rằng:
                    - Chúng ta khiêng người này ra tới cầu Tân Lương mệt thì có, chớ lợi
                    thì không. Vậy ta nên giả lạc đường Khiêng quách hắn vào thành Nghi
                    Lương nạp cho Bàng phò mã ắt được thưởng to". Triệnh Thiên khen phải,
                    làm y theo lời.
                    Tôn Tẩn ngồi trên kiệu dòm ra thấy chúng khiêng mình trở lại hướng
                    Tây biết là có điều lạ, bèn lần tay đoán quẻ. Khi hiểu rõ mưu của hai tên
                    gia bộc nọ, Tôn Tẩn liền niện chân ngôn làm phép sa mù, tỏa bít đường
                    lối. Trịnh Thiên, Trịnh Thất vô ý khiêng đi loanh quang một hồi thì lạc
                    qua đường khác. Chúng nó khiêng đi hơn một buổi, bèn để kiệu xuống
                    mà nghỉ. Cả hai ngồi bàn luận lén với nhau rằng:
                    - Quái lạ, đường bề thành Nghi Lương có đâu xa như vầy? Ngó tới thì
                    thấy rõ là đường về Nghi Lương, sao đi hoài mà chẳng tới? Có lẽ thằng
                    đạo sĩ này giỏi phù phép nên lừa gạt chúng ta chăng?
                    Trịnh Thiên, Trịnh Thất vừa nói tới đó bỗng nghe trên núi có tiếng
                    đóng, rồi một tốp lâu la ào xuống đón đường bảo nạp tiền mãi lộ. Trịnh
                    Thiên, Trịnh Thất cả kinh run lập cập nói rằng:
                    - Chúng tôi khiêng kiệu mướn cho người ta tiền đâu có mà nạp. Các
                    ông muốn thâu tiền hãy hỏi người ngồi trong kiệu, ông ta sẽ nạp cho.
                    Bọn lâu la khen phải, áp lại chung quanh kiệu giở màn lên xem. Lạ
                    thay, trong kiệu chỉ có một khối đá to chớ chẳng có ai cả. Trịnh Thiên,
                    Trịnh Thất thấy vậy lấy làm lạ kêu to rằng:
                    - Ông đạo sĩ làm phép gạt chúng ta đó, các ông chớ mắc mưu.
                    Bọn lâu la không thèm nghe theo lời chúng nó nữa, áp lai bắt Trịnh
                    Thiên, Trịnh Thất định giải lên núi.
                    Đương khi chúng làm ồn ào, bỗng nghe trong kiệu có tiếng nói rằng:
                    - Có tôi ngồi trong này, các anh không thây sao?
                    Lâu la nghe kêu, lại giở màn kiệu lên xem, thì hòn đá đâu mất mà có
                    một người đạo sĩ ngồi sờ sờ trong đó. Chúng biết người đạo sĩ có phép tà,
                    phải giải lên núi cho chúa trại liệu định, liền bắt cả ba mà điệu đi.
                    - Đạo sĩ ở đâu mà tới, định đi qua đây làm gì?
                    Tôn Tẩn đáp:
                    - Tiểu đạo là học trò của Quỷ Cốc ở núi Vân Mộng tên Tôn Tẩn. Bấy
                    lâu ở bên Nghụy nay định sang Tề.
                    Hai đại vương nghe dứt, lật đật quỳ xuống đất thưa rằng:
                    - Chúng tôi có mắt không tròng, không thấy cao nhân, cúi xin thầy tha
                    tội.
                    Tôn Tẩn nói:
                    - Tôi vẫn chưa biết hai ông, vậy xin cho tôi rõ tôn danh quý tánh?
                    Hai đại vương đồng đáp:
                    - Chúng tôi là Ngô Giải và Mã Thăng làm chức hộ vệ trong triều
                    Ngụy. Nhân Ngụy vương nghe lời Bàng Quyên sàm tấu, đánh chúng tôi
                    năm chục hèo và cách chức, nên chúng tôi lên núi Bàn Đà này quy tập
                    lâu la mà xưng vương.
                    Lát sau lâu la lại giải Trịnh Thiên, Trịnh Thất vào tới. Tôn Tẩn bèn
                    chỉ chúng nó mà nói với Ngô Giải, Mã Thăng rằng:
                    - Hai tên này là gia tộc của cha ông Trịnh An Bình. Khi hôm tôi ngủ
                    tại nhà ông ấy, nhờ ông ấy đối đãi tử tế, và cho chúng khiêng kiệu đưa
                    tôi qua cầu Tân Lương. Chẳng dè chúng nó sanh lòng tà, định đem tôi
                    vào Nghi Long thành nạp cho Bàng Quyên. Bởi mạng tôi chưa cùng nên
                    chúng nó khiêng lạc tới đây. Vậy hai ông chớ giết chúng nó, hãy tha nó
                    về mà phục lệnh Trịnh viên ngoại.
                    Ngô Giải, Mã Thăng vâng lời, truyền lâu la tha Trịnh Thiên, Trịnh
                    Thất xuống núi và bày tiệc đãi Tôn Tẩn.
                    Lúc ăn uống, Ngô Giải, Mã Thăng nói với Tôn Tẩn rằng:
                    - Nay thầy sang giúp Tề xin cho anh em tôi theo để lập chút công
                    danh.
                    Tôn Tẩn nói:
                    - Nếu có hai ông cùng đi với tôi thì tốt lằm. Song chưa biết Tề chúa
                    có thật chuộng hiền mến sĩ hay không? Vậy hai ông hãy nán lại đây. Tôi
                    tới trước thăm dò, như được thì sẽ cho mời hai ông tới đặng cùng nhau
                    hưởng vinh hoa.
                    Anh em Ngô Giải vâng lời. Hôm sau thì Tôn Tẩn xuống núi.
                    Tôn Tẩn đi chẳng bao lâu đã tới cầu Tân Lương, quả gặp xe của Bốc
                    Thương chờ tại đó. Tôn Tẩn lên xe cùng đi. Khi xe gần tới Lâm Tri, Tôn
                    Tẩn nói với Bốc Thương rằng:
                    - Tôi chưa biết Tề vương có thiệt là người yêu hiền mến sĩ hay
                    không, và co kẻ sàm thần tâu ra tâu vào chi không? Trong lúc này tôi
                    chưa có công chi với nước Tề, e vào triều có điều bất tiện. Vậy xin đại
                    nhân nên tìm chỗ tử tế, biết chuộng sĩ yêu tài gởi tôi ít lâu, rồi dối tâu
                    với Tề vương rằng khi ra khỏi thành Nghi Lương, vì sợ Bàng Quyên theo
                    bắt nên tôi đi tẻ lạc mất rồi. Làm như vậy tới khi nào tôi lập được chút
                    công tôi sẽ ra mắt.
                    Bốc Thương nghe nói có lý nên tuân theo, đem Tôn Tẩn gởi tại phủ
                    của Lỗ vương Điền Kỵ. Điền Kỵ vẫn nghe danh Tôn Tẩn nên khoản đãi
                    rất hậu.
                    Gởi gấm xong, Bốc Thương vào ra mắt Tề chúa bảo y như lời Tôn
                    Tẩn dặn, lại tâu rằng:
                    - Lúc Tôn Tiên sinh chia tay có đọc bốn câu thơ:
                    "Lòng son gìn mãi mãi,
                    Nét đá giữ đời đời,
                    Đã mang ơn nặng của Tề chúa,
                    Phải có công chí đáp mới hay".
                    Cứ theo ý thơ thì hạ thần chắc Tôn Tiên sinh không phải là người phụ
                    nghĩa, sớm muộn cũng sẽ vào yết kiến bệ hạ!
                    Tề vương nghe tâu chưa phán sao, bỗng có sứ nước Sở vào chầu và
                    tâu rằng:
                    - Hạ thần vâng lệnh Sở chúa đem một cặp cá quý sang Tề, cầu quốc
                    vương đoán cho biết cá ấy tên chi. Như quốc vương đoán được thì Sở
                    chúa chịu nạp cống lễ đời đời, bằng quốc vương chẳng đoán được thì
                    quốc vương phải gởi hàng thơ, chịu thần phục nước Sở.
                    Tề vương nghe tấu, dạy đem cá vào coi. Sứ nước Sở đem cá vào, Tề
                    vương xem qua thấy nó dài hơn một thước, mình đen, vảy nhỏ, miệng
                    rộng nhưng chẳng hiểu là cá chi, liền truyền bảo các quan xem. Các quan
                    xúm lại xem, xem rồi cũng chẳng biết là các gì. Tề vương sợ không nói
                    được thì phải nạp hàng thơ nên buồn lắm. Các quan thấy vậy tâu rằng:
                    - Xin bệ hạ chớ buồn, hãy cho mời Lỗ vương là người tinh thông cổ
                    kim tới hỏi, chắc ngài sẽ hiểu.
                    Tề vương khen phải, lập tức sai quan tới Lỗ vương phủ mời Điền Kỵ.
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #11
                      Hồi 11 - Lỗ Vương Hai Phen Nhận Cá Hia

                      Hồi 11

                      Lỗ Vương Hai Phen Nhận Cá Hia
                      Viên Đạt Một Lần Sa Bẫy Rập


                      Lỗ vương Điền Kỵ vào triều ra mắt Tề chúa. Ngài dạy đem cá rồi
                      gọi tên. Điền Kỵ xem một hồi liền tâu:
                      - Muôn tâu bê hạ, hạ thần không rõ cá này tên là chi!
                      Tề vương nghe tâu buồn lắm phán rằng:
                      - Cả triều thần không ai biết hết. Thôi thì sứ Sở hãy lưu lại một đêm,
                      ngày hôm sau quả nhơn sẽ liệu định.
                      Dứt lời truyền tan chầu, các quan an lui về phủ nấy.
                      Điền Kỵ trở về phủ đem việc cá thuật lại cho Tôn Tẩn. Tôn Tẩn hỏi
                      hình dạng cá ấy rồi bảo rằng:
                      - Cá ấy vốn là giống ở sông Nhược Thủy tên nó là Hia ngư. Cách bắt
                      cá ấy lạ lắm: Lưới không được, câu không ăn, chỉ tới mé sông vỗ tay ba
                      cái rồi kêu lên ba tiếng tức khắc nó nhảy lên. Vậy ngày mai điện hạ vào
                      triều nói tên nó, rồi lại gần bên cái bung vỗ tay kêu cho nó nhảy ra ắt
                      được trọng thưởng.
                      Điền Kỵ nói:
                      - Nếu kêu mà nó không ra thì còn gì thể diện.
                      Tôn Tẩn nói:
                      - Hạ thần quyết thế nào nó cũng nhảy, xin điện hạ chớ ngại. Song
                      đến khi Thánh thượng ban thưởng chi, điện hạ cũng chớ lạnh, chỉ xin cho
                      được cá để hạ thần có chỗng dùng.
                      Điền Kỵ cả mừng nhận lời liền.
                      Tới buổi chầu hôm sau, Điền Kỵ vào triều tâu với Tề vương rằng:
                      - Hồi hôm thần nằm suy nghĩ lại thì nhớ rằng cá của sứ Sở đem qua
                      đó là cá Hia, giống sang ở sông Nhược Thủy.
                      Sứ nước Sở nghe Điền Kỵ tâu thì hoảng sợ nói rằng:
                      - Biết tên cũng chưa đủ, xin hãy nói luôn chỗ huyền diệu của nó.
                      Điền Kỵ nói:
                      - Cá này có tánh lạ, hễ nghe vỗ tay ba tiếng, kêu tên ba tiếng thì tức
                      khắc nhảy lên. Nè, hãy xem ta thử đây.
                      Điền Kỵ nói dứt bước lại bên cái bung, vỗ tay ba cái, kêu ba tiếng.
                      Thật như lời: Cá ở trong bung liền nhảy vọt ra ngoài đết. Thấy vậy, Tề
                      vương mừng lắm, các quan ngẩn ngơ, duy chỉ có sứ nước Sở thì đứng trân
                      như hình gỗ.
                      Bây giờ Điền Kỵ, liền bèn dạy thị thần bắt cá bỏ trở vào trong bung,
                      nào dè đôi các ấy chỉ còn sống một con, còn một con thì chết ngay lúc
                      nhảy ra. Vua Tề thấy vậy không vui. Điền Kỵ liền quỳ xuống tâu rằng:
                      - Bây giờ bệ hạ nên truyền cho sứ nước Sở trở về tâu với vua Sở phải
                      y hẹn mỗi năm tới tấn công. Nếu nuốt lời, ắt không khỏi bị binh Tề sang
                      phạt.
                      Tề vương y tấu, lui sứ Sở trở về rồi dạy thị thần đem vàng vua Sở
                      phải y hẹn mỗi năm tới tần công. Nếu nuốt lời, ắt không khỏi bị binh Tề
                      sang phạt/
                      Tề vương y tấu, lui sứ Sở trở về rồi dạy thị thần đem vàng ròng ngàn
                      nén, lụa tốt trăm cây để thưởng Điền Kỵ. Điền Kỵ từ của thưởng chỉ xin
                      cặp Hia đó mà thôi.
                      Tề vương phán rằng:
                      - Trẫm định đem cá ấy nuôi ở ao Kim Liên mà chơi. Nếu khanh có
                      chỗ dùng thì nên bắt con cá chết đó!
                      Điền Kỵ tạ ơn thị thần đem con sống tới ao Kim Liên mà nuôi, còn
                      con chết thì đưa sang phủ mình.
                      Bãi triều, Điền Kỵ về phủ thuật lại việc thử cá và khen Tôn Tẩn là
                      bực kỳ tài. Tôn Tẩn được cá Hia bèn xin Điền Kỵ dạy thợ làm cho mình
                      một đôi hia để mang vào chơn, vì từ lúc bị Bàng Quyên chặt mất mười
                      ngón tới nay thì đi đứng rất là khổ sở.
                      Một hôm nọ, Tôn Tẩn thấy vẻ mặt Điền Kỵ rất buồn và lo nghĩ bèn
                      hỏi rằng:
                      - Chẳng rõ điện hạ có điều chi lo buồn, xin dạy cho hạ thần được
                      biết?
                      Điền Kỵ nói:
                      - Chẳng giấu chi tiên sinh, vì nay gần tới ngày tôi phải chịu nhục nên
                      khôngthể không lo buồn. Số là ở nước Tề, thánh thượng có lệ tới ngày
                      Đoan dương thì tôi và quan Thái sư tên Trâu Kỵ. Phải thi bắn, hễ ai bắn
                      trúng hồng tâm thời được thưởng hai đóa kim hoa, ba chung ngự tửu và
                      lụa là gấm vóc, còn ai bắn trật thì bị phạt uống ba chén to nước lã. Năm
                      nào tôi cũng thua lệ. Vậy nên hôm nay gần ngày thì phải lo buồn.
                      Tôn tẩn nói:
                      - Xin điện hạ chớ lo, hạ thần sẽ giúp điện hạ khỏi phục.
                      Từ đó về sau, ngày nào Tôn Tẩn cũng dạy Điền Kỵ bắn tên, chẳng
                      bao lâu nghề bắn của Điền Kỵ thần xảo vô song.
                      Tới ngày Đoan dương, Tề vương ngự giá ra diễn võ trường chứng
                      giám cuộc thi bắn. Tôn Tẩn xin Điền Kỵ cho mình trà trộn trong đám gia
                      tướng được vào sân thi. Tới giờ thi, Lỗ vương Điền Kỵ bắn trước, Thái sư
                      Trâu Kỵ bắn sau, luân phiên mỗi người một phát. Lỗ vương bắn ba quận
                      đều trúng hồng tâm. Thái sư ba quận, bị Tôn Tẩn làm phép thổi tiễn nên
                      đều trật tuốt. Tề vương cả mừng khen ngợi Lỗ vương và dạy thị thần đem
                      kim hoa ngự tiễn ra thưởng. Thái sư Trâu Kỵ là người bắn giỏi, trăm phát
                      trăm trúng, thế mà hôm nay thua Lỗ vương nên lấy làm tức nên sai người
                      dò xét nguyên do, rồi tâu với Tề vương rằng:
                      - Tâu bệ hạ, thần phải uống ba chén nước lã thật là ức quá, vì trong
                      đám gia tướng của Lỗ vương có một người dị nhân đã làm phép phá, nên
                      ba mũi tên của hạ thần không trúng hồng tâm được. Xin bệ hạ cao minh
                      thẩm xét giùm.
                      Tềvương phán rằng:
                      - Lại có chuyện như vậy hay sao?
                      Phán dứt lời, liền cho đòi Điền Kỵ tới hỏi có quả vậy chăng? Điền Kỵ
                      không dám giấu, bèn đem hết đầu đuôi sự mà tâu, nào là Tôn Tẩn ngại
                      vì chưa lậpo chút công nên chưa dám triều kiến, nào là nhờ Tôn Tẩn mà
                      biết tên cá Hia nên đảo áp được nước Sở, nào là nhờ Tôn Tẩn dạy bắn
                      và giúp phép mới không thua Trâu Kỵ, vân vân...
                      Tề vương nghe sâu, mừng rỡ lắm, dạy Lỗ vương đem Tôn Tẩn tới
                      diện kiến. Tôn Tẩn được chỉ triệu, bèn bước tới ra mặt Tề vương, Tề
                      vương phán rằng:
                      - Quả nhân nghe danh tiên sinh đã lâu, hằng có lòng hoài vọng, sao
                      tiên sinh tới Tề quốc mà chưa tới hội kiến với quả nhơn?
                      Tôn Tẩn tâu:
                      - Vì hạ thần tới đây chưa lập được chút công chi, nên hổ thẹn mà
                      chưa dám tới kiến xa giá.
                      Tề vương phán:
                      - Bực cao nhơn lập công có khác hơn kẻ tầm thường, tiên sinh bất tất
                      e ngại như vậy. Quả nhân rất trọng dụng tiên sinh, song chỗ này chẳng
                      phải nơi kinh hiền lề sĩ, vậy hẹn lại ngày mai, tiên sinh vào triều cùng
                      quả nhân bàn luận.
                      Phán dứt lời, Tề vương phản giá hồi cung.
                      Sáng hôm sau, Tề vương ra triều. Tôn Tẩn vào bái kiến. Tề vương
                      chưa kịp phong quan chức cho Tôn Tẩn, bỗng có quan Huỳnh môn vào
                      tâu rằng:
                      - Muôn tâu bệ hạ, nay có người của Giả Long Viên Đạt ở động Thích
                      Lịch núi Cửu Diệu tới xin vay hai ngàn thạch lúa. Xin bệ hạ thẩm địch.
                      Tề vương nghe tâu phán rằng:
                      - Nước Tề mất mùa luôn mấy năm, dân chúng tôi kém lắm, lúa thóc
                      đâu có mà cho vay. Vậy khanh hãy bảo người đi vay ấy qua hỏi ở nước
                      khác.
                      Quan Huỳnh môn vâng lịnh trở về, Tề vương bèn phán với các quan
                      rằng:
                      - Viên Đạt là thằng ăn cướp hung tợn. Cả thảy bảy nước đều ghê sợ
                      nó, nên nó tự phụ hay tới vay hỏi luôn. Nay nói tới vay lúa, lúc nước Tề
                      ta không có mà cho, ắt nó lại cử binh tới khuấy phá biên cương. Vậy các
                      khanh nghĩ coi có cách chi tiện lợi chăng?
                      Thái sư Trâu Kỵ nghe hỏi bèn bước ra tâu rằng:
                      - Dám tâu bệ hạ, nay Tôn tiên sinh vừa tới nước Tề, chưa lập công
                      lao chi, nếu nhứt thời phong quan tước e không vừa ý quần liêu. Vậy xin
                      bệ hạ nhơn dịp này sai Tôn tiên sinh đem binh dẹp lũ cướp ở núi Cửu
                      Diệu rồi sẽ phong thưởng.
                      Tề vương chuẩn tấu, hạ lịnh sai Tôn Tẩn giúp Lỗ vương đem một
                      muôn binh ra dẹp bọn Viên Đạt: Lại phái Tu Văn Long, Tu Văn Hổ lãnh
                      ấn tiên phong.
                      Lỗ vương và Tôn Tẩn lãnh chỉ lập tức đem anh em họ Tu tới giáo
                      trường điểm một muôn quân mã rồi kép ra núi Cửu Diệu.
                      Khi đại quân tới núi Bàn Đà, anh em Ngô Giải, Mã Thăng chiếu lệ
                      kéo lâu la xuống thâu tiền mãi lộ. Tôn Tẩn một mặt tiến cửa hai tưởng
                      cho Lỗ vương Điền Kỵ dùng, một mặt sai Tu Văn Long, Tu Văn Hổ ra
                      thuyết hàng. Ngô Giải, Mã Thăng gặp Tôn Tẩn thì vui mừng lắm, chịu
                      đem lâu la theo giúp, Lỗ vương Điền Kỵ liền phong cho hai tướng mới
                      lãnh chức tiên phong, còn anh em họ Tu thì lưu lại làm tả hữu giám quân.
                      Sắp đặt xong, Lỗ vương hạ lịnh khéo binh đi. Đại binh kéo gần tới núi
                      Cửu Diệu, Lỗ Vương truyền ba quân dừng lại tìm chỗ bằng phẳng lập
                      dinh trại. Dinh trại lập xong Tôn Tẩn bèn sai Ngô Giải, Mã Thăng kéo
                      một đội binh tới trước núi Cửu Diệu khiêu chiến và giả thua, dụ bọn Viên
                      Đạt. Ngô, Mã lãnh ngạng đi rồi. Tôn Tẩn lại sai anh em họ Tu cầm cờ tụ
                      thần ra đứng trước dinh chờ, hễ thấy Ngô Giải, Mã Thăng kéo binh chạy
                      về tới thì phất cờ ra hiệu cho mình biết mà làm phép. Anh em họ Tu lãnh
                      mạng cầm cờ lui ra.
                      Nói về chủ trại núi Cửu Diệu là Viên đạt nghe đâu mục về báo vua
                      Tề không chịu cho vay lúa thì cả giận, định sẽ đem lâu la tới phá bờ cõi.
                      Sắp đặt công việc chưa xông, hôm nọ Viên Đạt nghe lâu la báo cho quân
                      Tề kép tới khiêu chiến, lập tức để Độc Cô Trần và Lý Mục ở lại giữ sơn
                      trại rồi xách búa lên ngựa kéo lâu la chạy xuống núi.
                      Viên Đạt lao ra trước trận, hét to rằng:
                      - Bọn vô danh tiểu tốt nào dám tới đây làm rộn đó?
                      Ngô Giải, Mã Thăng đáp:
                      - Chúng ta là tiên phong của Lỗ vương nước Tề tên Ngô Giải, Mã
                      Thăng vâng lịnh Tôn Tẩn quân sư tới giết bọn cướp núi Cửu Diệu đây
                      chớ ai?
                      Viên Đạt nghe nói giận quá hươi búa đánh liền. Ngô Giải, Mã Thăng
                      đưa thương đón đánh. Hai đàng đánh nhau hơn ba mươi hiệp. Ngô Giải,
                      Mã Thăng liền quất ngựa bỏ chạy. Viên Đạt vội vàng đuổi theo, kẻ chạy
                      người rượt phút chốc đã tới cửa dinh Tề. Anh em họ Tu trông thấy liền
                      phất cờ Tụ thần làm hiệu. Tôn Tẩn ở trong dinh lập tức đọc thần chú làm
                      phép. Trời đương trong sáng bỗng nổi cơn sấm gió rồi tối đen. Viên đạt,
                      định tới canh be đên ấy, thừa lúc binh Tề vừa thắng không phòng bị, kéo
                      lâu la tới cướp trại ắt được đại thắng. Viên Đạt nghe theo, cả ba liền sắp
                      đạt lâu la chuẩn bị.
                      Bên dinh Tề, Tôn Tẩn đã đón quẻ biết rõ mưu của bọn Viên đạt nên
                      dạy Tu Văn Long coi đốc quân sĩ đào một cái hầm tại cửa trung quân, bề
                      ngang mười trượng, bề sâu năm trượng, trên lát cây, rải cỏ, lấp đất saÜn
                      sàng. Tới tối, Tôn Tẩn truyền bãi hết quân canh tuần ngoài dinh, trong
                      dinh chỉ đốt đèn sơ sài thôi, còn bao nhiêu quân sĩ thì ra mai phục chung
                      quanh hầm để chờ bọn Viên Đạt tới.
                      Tới canh ba đêm ấy, Viên đạt đem một đội binh đi trước, Độc Cô
                      Trần và Lý Mục kéo hại đại hội theo sau, đồng áp tới cướp dinh Tề.
                      Vừa kéo tới cửa trung quân, Viên đạt và một ít quân sĩ đi trước đều
                      sụp nhào xuống hầm. Lúc ấy bốn phía có tiếng binh Tề reo dậy, Độc Cô
                      Trần và Lý Mục hoảng kinh kéo lâu la chạy tháo lui. Binh Tề ùa ra như
                      kiến, la rập nhau rằng:
                      - Đùa đết xuống, chôn sống thằng Viên Đạt chơi. Quân sư có dặn rồi!
                      Viên Đạt nghe la sợ hãi quá kêu to rằng:
                      - Khoan đã, khoan lấp đất đã, ta có chuyện nói với Tôn quân sư, hãy
                      đem ta lên.
                      Quân sĩ nghe kêu, liền dùng câu móc Viên Đạt lên trói lại rồi giải
                      vào trong dinh.
                      Tôn Tẩn thấy mặt Viên Đạt thì cười mà rằng:
                      - Ngươi đã bị bắt hai lần rồi đã chịu quy thuận hay chưa?
                      Viên Đạt nói:
                      - Mi giỏi thì bắt ta tại trận chớ lập mưu mà bắt thì có giỏi gì?
                      Tôn Tẩn cười rằng:
                      - Ừ, ngươi chưa chịu quy thuận thì ta tha cho về. Sau này ta chẳng
                      thèm bắt tại trận mà ta lại bắt ở nửa lừng trời cho mi biết tay ta là lợi hại.
                      Tôn Tẩn nói dứt lời, truyề quân sĩ mở trói tha Viên Viên đạt về sơn
                      trại. Viên Đạt được tha về, lo sắp đặt lâu la định kéo tới đánh nữa.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #12
                        Hồi 12 - Núi Cửa Diệu, giả long quy thuận,

                        Hồi 12

                        Núi Cửa Diệu, giả long quy thuận,
                        Phủ thừa tướng, Ngô Anh từ hôn

                        Sáng ngày sau, Tôn Tẩn hạ lệnh cho Mã Thăng, Ngô Giải đem binh
                        lên núi Cửa Diệu khiêu chiến, và lại dặn phải trá bại mà chạy về. Ngô,
                        Mã hai tướng kéo binh đi rồi, Tôn Tẩn lại dạy anh em họ Tu cầm cờ tụ
                        thần đứng trước cửa dinh xem trận như trước.
                        Viên Đạt ở trên núi thấy binh Tề tới bèn đem lâu la xuống xáp trận
                        với Mã Thăng, Ngô Giải. Đánh nhau được hơn mười hiệp, Ngô, Mã hai
                        tướng bèn trá bại chạy về dinh, Viên Đạt quất ngựa rượt theo. Anh em họ
                        Tu thấy Viên Đạt chạy gần tới bèn phất cờ tụ thần. Tôn Tẩn ở trong dinh
                        thấy cờ phất bèn niệm chú làm phép. Trong nháy mắt cảnh trời tối đen,
                        sa mù mờ đất. Viên Đạt sợ bị phép tà nên liền quất ngựa chạy. Chạy
                        chẳng xa, thấy trước mặt có đường lên núi, Viên Đạt liền thúc ngựa sải
                        lên. Lên một đỗi dòm lại không có đường trở xuống thì Viên Đạt sợ hãi
                        vô cùng.
                        Đương lúc bối rối, bỗng nghe có tiếng đốn cây. Viên Đạt dòm lên
                        thấy có một chú tiểu ở mé trên đương đứng đốn củi, bèn kêu rằng:
                        - Chú ơi, làm phước đưa tui ra khỏi núi này!
                        tiều phu ngưng búa dòm xuống hỏi:
                        - Ngươi là ai, đi dâu mà mượn đưa rước đó?
                        Viên Đạt đáp:
                        - Tôi là Giả Long tự Viên Đạt ở động Thích Lịch núi Cửu Diệu kia.
                        Tiều phu nói:
                        - Tưởng là ai chớ mi là con cọp dữ, đã hại nhiều mạng rồi, nay tới chỗ
                        này chết là đáng số!
                        Viên Đạt nghe mắng nghĩ thầm rằng:
                        "Không cứu ta thôi sao lại mắng ta? Nhưng không sao. Ta năn nỉ nó
                        cứu ta xong rồi sẽ xử trí với nó"!
                        Nghĩ đoạn năn nỉ với tiều phu rằng:
                        - Tội nghiệp tôi, chú ráng cứu giúp mạng tôi, tôi sẽ đền ơn trọng hậu
                        cho!
                        Tiều phu nói:
                        - Cứu mi thì được, nhưng chỗ ta đứng với chỗ mi đứng cách nhau một
                        cái hố làm sao đưa mi qua đây mà dẫn đường được?
                        Viên Đạt nói:
                        - Thì chú chịu khó kiếm ngõ đi vòng xuống đây rước tôi.
                        Tiều phu nói:
                        - Bên kia cọp beo nhiều lắm, đi vòng qua sợ bị chúng ăn thịt! Thôi,
                        saÜn có cái thúng đây, ta buộc dây vào ba nhánh cây, thòng xuống dưới,
                        mi cởi khỏi giáp bỏ vào cho ta kéo lên!
                        Viên Đạt nói:
                        - Nếu chú định cứu thì kéo một lượt cũng được mà!
                        Tiều phu nói:
                        - Ừ, cũng được.
                        Dứt lời, bứt dây buộc thúng thòng xuống chỗ Viên Đạt ngồi. Viên
                        Đạt lập tức leo vào trong. Tiều phu bảo nhắm mắt lại rồi kéo lên nửa
                        chừng bèn ngừng tay nói rằng:
                        - Mi nặng qúa, kéo mệt lắm, để ta buộc lại ở đây về ăn cơm đã!
                        Viên Đạt nghe nói thất kinh, năn nỉ liền miệng. Nhưng năn nỉ thế nào
                        người tiều phu cũng không nghe. Viên Đạt tức giận mở mắt ra xem,
                        không thấy tiều phu đâu, chỉ thấy mình bị treo trên ngọn cây, còn dưới
                        đất có Tôn Tẩn đứng ngó lên mà cười rằng:
                        - Viên Đạt ơi! Nay ngươi bị ta treo nửa chừng như vầy đã sợ mà chịu
                        quy thuận chưa?
                        Viên Đạt đáp:
                        - Thầy là bực thần thông quảng đại, tôi xin chịu thua và quy thuận.
                        Tôn Tẩn cười rồi bảo Viên Đạt nhắm mắt lại, độc chú giải phép.
                        Viên Đạt mở mắt ra thấy mình ngồi trên đất bằng, bèn cúi đầu lạy tạ Tôn
                        Tẩn, Tôn Tẩn đỡ Viên Đạt dậy đưa vào trung quân cho yết kiến Lổ
                        vương. Tôn tẩn tâu với Lỗ vương rằng:
                        - Viên Đạt là anh hùng cái thế, bảy nước nghe tên đều sợ, nay hắn
                        quy thuận nước Tề, ắt không nước nào dám chống. Vậy xin điện hạ rộng
                        lòng thâu nạp để sử dụng nó về sau.
                        Lỗ vương khen phải bèn nhận lời.
                        Độc Cô Trần và Lý Mục nghe Viên Đạt bị bắt liền dắt hết lâu la
                        trong trại đâu được vài ngàn kéo xuống núi định giải cứu chủ tướng. Tôn
                        Tẩn được tin ấy bèn sai Ngô Giải, Mã Thăng đi gia chiến và dụ về trước
                        dinh. Ngô Giải, Mã Thăng vâng lịnh ra đánh với Độc Cô Trần và Lý Mục
                        đâu được mưới hiệp bèn quày ngựa chạy. Hai tướng rượt theo vừa tới
                        dinh Tề bỗng thấy trời đất tối tăm, rồi xét nổ hai tiếng. Dứt hai tiếng nổ,
                        Độc Cô Trần và Lý Mục té luôn người và ngựa xuống hầm sâu, bên trên
                        có tiếng Tôn Tẩn đốc sức ba quân lấp đất xuống. Độc Cô Trần và Lý
                        Mục thấy vậy cả kinh kêu to rằng:
                        - Xin tôn sư phụ tha mạng cho chúng tôi. Chúng tôi thiệt lòng quy
                        thuận!
                        Tôn Tẩn nghe kêu hạ lệnh ba quân lui ra, rồi biểu Lý Độc hai người
                        nhắm mắt lại, Tôn Tẩn bèn đọc chú giải phép. Hai tướng mở mắt ra thấy
                        mình ngồi ở giữa trận thì bèn cúi lạy Tôn Tẩn. Tôn Tẩn cười, đỡ hai
                        tướng dậy rồi đưa vào trung quân bái kiến Lỗ Vương. Lỗ Vương cả mừng
                        hạ lịnh thâu góp lương thảo và chiêu dụ lâu la trên động Thích Lịch về
                        dinh Tề, rồi kéo binh ban sư, hồi trào.
                        Binh đi không bao lâu đã về tới thành Lâm Tri, Lỗ Vươngvà Tôn Tẩn
                        đem các tướng vừa cũ vừa mới vào triều bái kiến Tề vương và tâu rõ
                        việc chinh chiến. Tề vương nghe tâu cả mừng liền hạ chỉ phong chức cho
                        Tôn Tẩn làm Đô Đốc quân sư Đại nguyên soái Nam Bình quận vương,
                        xây cho phủ Nam Bình, lại ban cho một lưỡi gươm báu, tự ý điều dụng và
                        ngàn nén vàng, trăm cây lụa. Còn Viên Đạt thì phong Trấn quốc tướng
                        quân, Độc Cô Trần và Lý Mục thì được giữ chức Tử hữu giám quân. Ngô
                        Giải, Mã Thăng cũng dược giữ chức tiên phong. Đến như Lỗ vương và Tu
                        Văn Long, Tu Văn Hổ đều dược ban thưởng vàng bảc lụa là. Phong
                        thưởng xong, Tề vương lại dạy Lỗ vương đem Tôn Tẩn dạo chơi trong
                        thành ba ngày.
                        Sau cuộc dạo chơi ít hôm, nhơn lúc rảnh việc, Lỗ Vương cùng đi với
                        Tôn Tẩn tới phủ quan hữu Thứa tướng là Tô Đại. Gặp lúc Tô Đại đi
                        vắng, lão phu nhân là mẹ Tô Đại ra tiếp hai vị khách quý vào thính
                        đường khoản đãi. Khi uống trà, lão phu nhân bèn hỏi Lỗ vương rằng:
                        - Phiền điện hạ cho tôi được biết vị này là ai?
                        Lỗ vương đáp:
                        - Ông này là học trò của Quỷ Cốc Tử ở nuý Vân Mộng, nay vừa dẹp
                        được giặc ở núi Cửu Diệu nên thánh thượng phong chức Nguyên Soái,
                        tước Nam Bình quận vương. Nhơn rảnh việc tới viếng lão phu nhân và
                        thừa tướng vậy!
                        Lão phu nhân nói:
                        - Té ra là Tôn tiên sinh đây. Bấy lâu con tôi hằng tỏ ý hâm mộ, nay
                        tới chơi lại không có nó ở nhà thật rủi quá!
                        Lỗ vương nói:
                        - Tới thăm cũng có mà vì việc khác cũng có. Vả chăng tôi có nghe
                        lịnh ái tiểu thơ chưa nơi cặp kê, nên tôi tới xin đứng làm mai dong.
                        Lão phu nhơn nói:
                        - Điện hạ định làm mai cho ai?
                        Lỗ vương đáp:
                        - Không ai xa lạ! Nam Bình quận vương đây chưa có người nội trợ,
                        nên tôi muốn đứng giữa tác hợp cho Tôn tiên sinh nên nghĩa sắt cầm!
                        Lão phu nhân nói:
                        - Con tôi xấu xa hèn dở, biết Quận Vương có chịu hay chăng?
                        Lỗ Vương nói:
                        - Lão phu nhân chớ quá khiêm nhượng!
                        Lão phu nhân cười.
                        Câu chuyện lơ là một hồi rồi dứt, Lỗ vương và Tôn Tẩn kiếu từ lui
                        về. Hôm sau Lỗ vương sai người đem sính lễ qua Tô phủ. Lỗ phu nhân và
                        Tô Đại vui lòn thâu nhận.
                        Nói về Thái sư Trâu Kỵ, có người con thứ là Trâu Giãn chưa vợ, nghe
                        nói Tô Đại còn một cô em hiền thục lắm, nên liền kêu thái uý Ngô Anh
                        tới tỏ ý mình rồi cậy Ngô Anh đem sính lễ qua Tô phủ làm mai giùm.
                        Ngô Anh vâng lời, thẳng qua Tô phủ nói chuyện đó cho Lão phu nhân và
                        Tô Đại nghe. Lão phu nhân bèn đem việc Lỗ vương làm mai Nam Bình
                        quận vương mà đưa sính lễ rồi, và mình đã hứa nhận. Ngô Anh nghe nói
                        như vậy không biết nghĩ sao bèn năn nỉ Tô Đại xin Để sính lễ lại đó,
                        đuổi gia bộc nhà họ Trâu về, rồi sang Nam Bình phủ ra mắt Tôn Tẩn mà
                        thuật chuyện đó và xin một chước để đối phó với Trâu Kỵ cho khỏi mích
                        lòng.
                        Lúc này có Lỗ vương Điền Kỵ ở tại phủ Nam Bình, khi nghe Trâu Kỵ
                        cầu hôn vô lý như vậy cười rằng:
                        - Lão phu nhân đã hứa gả tiểu thơ cho Nam Bình quận vương rồi,
                        Trâu Kỵ cũng hay biết, thế mà sao lại sai người sang nói nữa. Ấy thật là
                        chướng!
                        Tôn Tẩn nói:
                        - Người ta muốn quá như vậy, thôi thì mình hãy nhường lại cho người
                        ta!
                        Lỗ vương nói:
                        - Trâu Kỵ bất qúa là một chức thái sư sao lại dám khinh mạng quân
                        vương như vậy? Ông nên nghĩ cách chọc dạy nó bài học, chứ mình chịu
                        sút chi cho nó lừng thế!
                        Tôn Tẩn cười rồi kê miệng vào tai Ngô Anh nói nhỏ ít câu. Ngô Anh
                        gật đầu, đứng dậy từ tạ trở qua Tô phủ. Tới Tô phủ, Ngô Anh đem kế của
                        Tôn Tẩn mà dặn Lão phu nhân và Tô Đại rồi lập tức trở về báo tin cho
                        Trâu Kỵ hay rằng mình đã làm mai xong rồi. Trâu Kỵ cả mừng làm tiệc
                        đãi Ngô Anh và thưởng thêm một trăm lạng bạc.
                        Hai tháng sau, Ngô Anh tới ra mắt Trâu Kỵ rồi bẩm:
                        - Tô lão nhơn sai tôi tới đây thưa cùng thái sư rằng: Chẳng rõ Tô tiểu
                        thư vô duyên xấu phước làm sao mà chưa kịp về làm dâu Trâu phủ, thì
                        đã mang bệnh trầm trọng hơn tháng nay, thuốc men săn sóc rất kỹ mà
                        vẫn không thuyên giảm. Nay bịnh tình rất nguy không biết có sống được
                        hay không? Lão phu nhân nghĩ rằng: Trước sau cũng là dâu Trâu phủ,
                        vậy thế nào cũng nhờ ơn thái sư, nên sai tôi qua đây cho thái sư hay trước
                        đặng lão phu nhân đưa tiểu thư qua đây thành thân với nhị quốc cựu. Như
                        về bên này may mà tiểu thư sống thì làm dâu nhà họ Trâu, rủi tiểu thơ
                        chết thì cũng là người nhà nhà họ Trâu. Ấy vậy xin thái sư định đoạt.
                        Trâu Kỵ nghe nói suy nghĩ giây lâu rồi đáp:
                        - Hồi tiểu thơ đau ít sao lão phu nhân không cho tôi hay, tìm thầy
                        chạy thuốc cho, đợi đến khi đau thập tử nhất sinh rồi đòi đưa về cho tôi
                        à? Ai đời người đau sắp chết mà thành thân nỗi gì?
                        Trâu Giãn ngồi cạnh nói:
                        - Sính lễ nhiều quá ai lại dại gì đem bỏ mà cưới người bịnh gần chết
                        như vậy! Ối, sống thì cưới, chết thì thôi, tội gì mà lại đem về mà nuôi!
                        Ngô Anh nói:
                        - Lão phu nhân tánh nóng như lửa, nếu Thái sư không chịu cho đưa
                        tiểu thơ qua, ắt phu nhân giận mà từ hôn liền!
                        Trâu Giãn nói:
                        - Từ thì từ chớ!
                        Trâu Kỵ nói:
                        - Nếu Lão phu nhân giận mà từ thì mình mất sính lễ. Thôi, Thái uý vì
                        tôi qua xin Lão phu nhân từ trước thử coi lão phu nhân có chịu hồi lại
                        sính lễ hay không?
                        Ngô Anh nói:
                        - Lão phu nhân là người liêm khiết, lẽ nào thôi hôn mà chẳng thôi lễ?
                        Song nói tới cũng là tôi, bây giờ nói lui cũng là tôi thì thật tôi không
                        miệng nào nói được!
                        Trần Kỵ nói:
                        - Phiền thái uý nói giùm cho xong chuyện này nữa thôi.
                        Ngô Anh gật đầu từ tạ ra đi,và xin Trâu Kỵ cho theo ít tên gia đồng
                        sang tô phủ đem sính lễ về.
                        Ngô Anh dắt bọn gia đồng tới Tô phủ vào ra mắt lão phu nhân vàTô
                        Đại.
                        Lão phu nhân vừa thấy mặt liền hỏi:
                        - thế nào, Thái sư có chịu cho tôi đưa con nhỏ qua không?
                        Ngô Anh đáp:
                        - Chẳng những ngài đã không chịu mà lại cậy sang từ hôn nữa! Lão
                        phu nhân làm mặt giận hét rằng:
                        - Con gái người ta có phải là vật mua bán đâu mà muốn nói thì nói
                        muớn thôi thì thôi. Ta không cần nữa! Thôi, của sính lễ ta trả lại cho!
                        Nói dứt, sai người đem sính lễ của Ngô Anh đem tới khi trước, vụt đổ
                        thác ra cả. Ngô Anh giả dạng hổ thẹn sai bọn gia đồng của Trâu Kỵ lượm
                        góp bưng theo mình trở về, Trâu Kỵ thấy Ngô Anh đòi được sính lễ cả
                        mừng, sai người bày tiệc khoản đãi.
                        Sau khi Trâu Kỵ từ hôn hai tháng, Tôn Tẩn lựa được ngày lành bèn
                        định hôn lễ, chờ trời tối rước dâu. Buổi chiều ngày ấy Lỗ vương vào
                        triều, tâu lên cho Tề vương, Tề Vương cả mừng ban cho Tô Tẩn những
                        cẩm bào kim hoa và ngự tửu. Trâu Kỵ hay tin trở về bàn luận với con là
                        Trâu Cang và Trâu Giãn. Cha con suy nghĩ luận bàn với nhau giây lâu
                        liền biết là mình mắc mưu Tôn Tẩn nên căm tức lắm, định cách báo thù.
                        Cha con bèn nghĩ tới tối hôm ấy Trâu Cang và Trâu Giãn đem gia tướng
                        núp đón ở ngã ba đường, chờ khi đám cưới đi ngang sẽ nhảy đánh giựt
                        kiệu cô dâu mà khiêng luôn về phủ.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #13
                          Hồi 13 - Cô dâu giả giữa thính tường đổi mặt,

                          Hồi 13


                          Cô dâu giả giữa thính tường đổi mặt,
                          Tiểu thơ thiệt vào soát chủ kết hôn










                          Chiều ngày ấy, lúc sắp sửa đi rước dâu, Tôn Tẩn nghĩ cha con Trâu
                          Kỵ sẽ trả oán, nên lần tay đoán quẻ. Khi hiểu rõ âm mưu cướp cô dâu
                          của Trâu Kỵ thì Tôn Tẩn liền tỏ cho Lỗ vương biết. Lỗ vương thất kinh
                          hỏi:
                          - Nếu chúng nó làm ngang như vậ thì Quận vương nên lập một kế
                          đánh lừa nó chơi!
                          Tôn Tẩn gật đầu suy nghĩ một lát rồi kê miệng vào tai Lỗ vương nói
                          nhỏ ít câu. Lỗ vương cả cười. Tôn Tẩn lại cho mời Viên Đạt tới cũng nói
                          ít câu.
                          Trời sẩm tối, giờ rước dâu đã tới. Lỗ vương và Viên Đạt đốc quân sĩ
                          sắp đặt mấy cỗ kiệu rồi cùng bọn tài tử trổ tấu quản huyền mà sang tô
                          phủ. Lão phu nhơn và Tô thừa tướng thấy đàn trai tới, bèn ra tiếp vào, Lỗ
                          vương vào trong đem việc Tôn Tẩn đoán quẻ biết Trâu Kỵ cho người
                          đoạt kiệu bắt cô dâu mà thuật lại. Lão phu nhơn cả kinh hỏi rằng:
                          - Như vậy bây giờ tính làm sao?
                          Lỗ vương nói:
                          - Tôn tiên sinh đã có kế rồi. Bây giờ nên sắp một cô dâu giả ngồi
                          kiệu đi trước, để bọn Trâu Kỵ đoạt đem về phủ, rồi sau sẽ sắp việc đưa
                          dâu thiệt.
                          Lão phu nhơn nói:
                          - Bây giờ có ai giả như vậy được?
                          Lỗ vương nói:
                          - Tôn tiên sinh đã dự bị saÜn rồi.
                          Nói dứt lời chỉ Viên Đạt và giới thiệu cho lão phu nhơn. Lão phu
                          nhơn nói:
                          - Con tôi ốm yếu mảnh khảnh, còn người này to lớn kịch cợm giả làm
                          sao cho giống?
                          Lỗ vương nói:
                          - Không cấn giống, miễn có người ngồi trong kiệu hoa làm cô dâu
                          cho bọn Trâu Kỵ đoạt về là xong!
                          Lão phu nhơn gật đầu, vào trong sai a hườn sắp đặt kiệu hoa xong
                          xuôi, rồi bảo Viên Đạt ngồi vào, đoạn phủ rèm khiêng đưa đi.
                          Kiệu hoa đưa đi trước, kế đó là kiệu của Lỗ vương, sau có vài cỗ kiệu
                          khác rồi tới bọn tài tử đánh đờn, thổi sáo, thổi kèn, đánh trống đi tiếp
                          theo. Tuy là cuộc rước dâu giả song cũng huy hoàng, nghiêm chỉnh lắm.
                          Đám rước dâu trẫy ngang chỗ ngã ba nọ, thình lình có một đám người
                          xua ra đón đường. Trong bọn có Trâu Cang và Trâu Giãn. Hai anh em la
                          lối hỏi Lỗ vương rằng:
                          - Tô tiểu thơ vẫn vẫn là dâu của Trâu phủ, tại sao điện hạ lại đứng
                          chủ hôn rước về Nam bình Quận vương?
                          Lỗ vương nói:
                          - Thì Trâu phủ đã từ hôn rồi!
                          Trâu Cang nói:
                          - Đó là mưu gian của Tôn Quận vương gạt cha con tôi. Bây giờ chúng
                          tôi quyết rước Tô tiểu thơ về làm dâu nhà họ Trâu mà thôi!
                          Lỗ vương cười nói:
                          - Nếu đủ lý thì tự tiện mà làm.
                          Trâu Giãn không đợi nói nhiều lời, truyền gia tướng áp vào giựt kiệu
                          hoa mà khiêng về Trâu phủ.
                          Không rõ cô dâu mập ốm thế nào, mà bọn gia tướng họ Trâu khiêng
                          không bao xa đã đổ mồ hôi như tắm và mệt rồi nói:
                          - Nhơn duyên là việc trọng, ai mà cắt cho đứt, rứt cho rời cái dây tơ
                          hồng của con ta với Tô tiểu thư. Nghe nói Tôn Tẩn mưu cao trí dày, nay
                          gặp việc như vầy, thử làm sao cho ta xem?
                          Viên Đạt ngồi trong kiệu hoa nghe Trâu Đạt nói vậy thì cưoì thầm
                          rằng: "Ừ, hãy chờ một lát nữa coi thử ra làm sao? "
                          Bây giờ chưa tới giờ hiệp cẩn, cô dâu phải ở trong kiệu mà chờ. Trâu
                          Kỵ sợ đợi lâu, cô dâu xót ruột chăng, nên liền kêu mụ quản gia vâng lời
                          bưng một mâm bánh bao, hé rèm kiệu đưa vào. Viên Đạt ngồi trong thò
                          tay bưng mâm ba ùnh ăn một lúc sạch bách rồi đưa mâm ra trả. Mụ quản
                          gia lấy mâm đi cất mà miệng lầm bầm rằng:
                          - Quái lạ, một vị tiểu thơ niên ấu mà sao ăn mạnh quá vậy? Một lát,
                          Trâu Kỵ hỏi quan Âm Dương (quan chuyên nghề coi ngày chọn giờ)
                          rằng:
                          - Ông định đến giờ nào mới rước cô dâu ra kiệu?
                          Quan Âm Dương thưa:
                          - Tới giờ Trâu Dê ra chuồng mới được!
                          Trâu Dê ra chuồng nghiã là ngưu dương xuất quyện, ấy chỉ giờ Sửu
                          giờ mùi, thế mà Viên Đạt không hiểu, tưởng là Quan Âm dương nói mình
                          là trâu dê ra chuồng nên nổi giận hét lên một tiếng nhảy tót ra khỏi kiệu,
                          rồi hươi tay khoa chân, đụng ai đánh nấy, đụng móm gì đập phá món
                          nấy.
                          cha con con Trâu Kỵ thấy hình thù Viên Đạt dữ tợn, vóc vạc mạnh
                          mẽ thì cả kinh hè nhau chạy vào nhà sau mà trốn. Viên Đạt đập phá tan
                          nát ở thính đường rồi lần tới trung đường, bắt bọn a hườn bộc phụ, đánh u
                          đầu sặc mũi. Bọn quân khiêng kiệu ở ngoài nghe trong phủ có tiếng ồn
                          ào, chạy vào xem cũng bị thương mỗi đứa mấy cùi chỏ vào ngực.
                          Viên Đạt đánh phá đã nư giận liền bỏ chạy tuốt về phủ Nam Bình
                          vương. Bây giờ cha con Trâu Kỵ mới dám ló đầu ra xúm nhau đám ngực
                          bứt đầu kêu oan la tức.
                          Trâu Giãn nói:
                          - Phải đè đến nông nỗi này, thà nhịn thua nó còn hơn.
                          Trâu Cang nói:
                          - Nhịn thua cái gì, ở đời phải có sướng có cực chớ, chú mầy nếu
                          không được nếm đào tiên bị đòn là phải. Chớ tao chưa được lợi ích gì mà
                          cũng bầm mình!
                          Trâu Giãn nói:
                          - Cha mắc mưu Tôn Tẩn, tức giận muốn chết mà anh cứ giễu hoài!
                          Trâu Cang nói:
                          - Thật vậy, nhưng muốn trả thù này chúng ta không làm gì được nữa.
                          Chỉ có đợi tới ngày mai cha vào triều tâu cùng Thánh thượng xin trị tội
                          Tôn Tẩn mà thô.
                          Trâu Kỵgật đầu nuốt giận, chờ đến ngày mai vào triều kêu oan.
                          Nói lại lúc bọn Trâu Gãn, Trâu Cang cướp kiệu hoa đi rồi, Lỗ vương
                          đi riết về Nam Bình vương phủ nói lại cho Tôn Tẩn hay, Tôn Tẩn mời
                          Bạch khởi phu nhơn, Mạnh thường quân phu nhơn. Bốc Thương phu nhơn
                          ngồi kiệu sang qua Tô phủ rước dâu thiệt về.
                          Lúc bấy giờ, hai họ một nhà, quản huyền rập trỗi, yến tiệc linh đình.
                          Đến khi đưa dâu, tình mẹ con phải cơn phân cách, nghĩa anh em gặp lúc
                          chia phôi, ai cũng sầu cảm. Lại khi kiệu hoa về tới Nam Bình vương phủ,
                          gái thuyền quyên gặp trai anh hùng, rồi cùng nhau uống chén rượu hợp
                          cẩn, đô mắt một lòng, kẻ thẹn thuồng người bợ ngợ, nhưng ai cũng vui vẻ
                          vì được thỏa lòng sánh phụng đẹp duêy cỡi rồng: Cái cảnh hoan lạc làm
                          sao!
                          Cho nên:
                          Khéo tay bắn sẽ lựa châu.
                          Trao tơ phải lửa đeo cầu xứng đôi.
                          Đêm hôm ấy các quan ăn uống tại phủ Nam Bình cho tới hừng đông
                          mới về sửa soạn đi chầu luôn.
                          Khi Tề vương đăng điện, quan Thái sư là Trâu Kỵ ra quỳ kêu oan
                          rằng con mình là Trâu Giãn đã hứa hôn với Tô tiểu thơ, thế mà Tôn Tẩn
                          lại ỷ thế định cắt đoạt người nên lập mưu xúi tô lão phu nhơn hồi hôn.
                          Nay tới ngày Tôn Tẩncưỡng bách Tô Tiểu thơ mà rước, nên ức lòng phải
                          sai con đoạt kiệu hoa. Chẳng dè Tôn Tẩn lại lập mưu Viên Đạt giả làm
                          cô dâu về đánh phá tan tành nhà cửa của binh gia mình... Tề vương
                          không rõ đen trắng thế nào bèn cho gọi Lỗ vương Điền Kỵ tới hỏi. Lỗ
                          vương bèn đem đầu đuôi sự thiệt mà tâu rõ lại. Tề vương nghe dứt cười
                          thầm, nhưng lại giận sao Trâu kỵ ỷ thế hoành hành như vậy, nên liền
                          phán rằng:
                          - Trâu thái sư ỷ thế sanh sự, thật đáng trị tội, song nghĩ tình quốc thích
                          mà tha cho, về sau phải sửa mình. Còn Viên Đạt lỗ mãng, phá rối Trâu
                          phủ và đánh gia nhân của Thái sư, nên giảm lương ba tháng. Phân xử
                          xong, Tề vương hạ lịnh bãi triều, các quan ai về dinh nấy.
                          Trâu Kỵ trở về phủ lòng giận khó dằn, bèn kêu con là Trâu Cang tới
                          dạy rằng:
                          - Cái thù nhà ta với Tôn Tẩn không thể nào quên được. Vậy con nên
                          sắp saÜn năm trăm lượng vàng, một trăm tấm lụa, một cái mão bát khuê,
                          và một sợi đai ngọc, làm của lễ, lẻn qua nước Ngụy vào dâng cho phò
                          mã Bàng Nguyên, rồi nói rằng hiện nay Tôn Tẩn theo BốcThương sang
                          Tề lập được công trừ loạn Cửu Diệu, được phong chức Tổng binh
                          Nguyên soái tước Nam bình quận vương nên ỷ thế lăng nhục triều thần,
                          cha con tôi không chịu được nên tới đây cầu phò mã đem binh sang đánh
                          Tề, cha con tôi sẽ làm nội ứng bắt Tôn Tẩn tựu hình để trừ họa cho Tề
                          quốc.
                          Trâu Cang vâng lời cha, cụ bị tứ lễ rồi lén qua khỏi thành Lâm Tri
                          riết qua thành Nghi Lương thẳng tới phủ phò mã.
                          Ngày nọ Bàng Quyên đang ngồi trong phủ nghe báo có Đại Quốc
                          Cựu ở Tề sang, bèn ra rước vào rồi hỏi rằng:
                          - Ta đem binh đi đây chẳng những phạt tề mà thôi, lại còn áp Triệu
                          trừ Yên nữa.
                          Nói đoạn hạ lịnh kéo binh theo đường tiến tới nước Yên.
                          binh đi một đỗi xa thì tới một cánh rừng tên gọi Cỗ Hàm. Giữa cánh
                          rừng ấy có một toà nhà lớn, rất tốt đẹp. Khi binh kéo tới tòa nhà ấy,
                          Bàng quyên bèn hạ chỉ nói với bộ tướng rằng:
                          - Ấy là gốc oan gia của ta đó!
                          Nói dứt lời truyền quân sĩ bủa ra vây phủ.
                          Last edited by nahoku; 25-10-2008, 02:23 AM.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #14
                            Hồi 14 - Tại ải Bá Linh, Liêm Cang bỏ mạng,

                            Hồi 14

                            Tại ải Bá Linh, Liêm Cang bỏ mạng,
                            Giữa sông Giang Hà, Bàng Quyên bị chìm


                            Nguyên tòa nhà ấy là biệt thự của Tôn Tháo cất để dưỡng nhàn.
                            Bàng Quyên thù oán họ Tôn thế nào mà vừa gặp liền hạ lịnh vây phủ xét
                            bắt giết sạch già trẻ trai gái trong nhà, lại đốt nhà ra tro rồi mới chịu kéo
                            binh đi.
                            Binh đi chẳng được bao lâu đã tới nước Yên, liền hạ trại trước cửa
                            thành U Châu. Quan giữ thành thấy binh Ngụy kéo tới bèn vào triều báo
                            tin. Yên vương nghe báo sợ quá hỏi các quan rằng:
                            - Nay binh Ngụy tới thình lình như vậy, ta làm sao lui chúng nó cho
                            nổi?
                            Tôn Tháo và hai con Long, Hổ đồng quỳ tâu rằng:
                            - Ba cha con hạ thần xin đem quân ra đánh đuổi Bàng Quyên. Nhưng
                            trước khi đi, bệ hạ nên viết cho một tờ biểu chương để con hạ thần là Tôn
                            Long cất saÜn trong mình, nếu ra trận thắng được binh Ngụy thì thôi, bằng
                            không thắng sẽ thừa dịp ấy nó chạy sang Tề cầu binh Tề tiếp cứu.
                            Yên vương nghe tâu bèn viết biểu chương giao cho Tôn Tháo, Tôn
                            Tháo giao cho Tôn Long cất giữ vào mình rồi cha con đồng lui ra võ
                            trường điểm một đội nhơn mã kéo ra thành nghinh địch. Bàng Quyên
                            thấy binh Yên kéo ra cũng đem toán quân ra trận. Tôn Tháo trông thấy
                            Bàng Quyên bèn nạt rằng:
                            - Tướng Ngụy kia, vì sao vô cớ mà chúng bây giám đem binh xâm lấn
                            bờ cõi ta?
                            Bàng Quyên đáp:
                            - Ta sang đây bảo bọn mi tận nạp hàng biểu. Nếu cãi lời ta sẽ phá tan
                            thành trì.
                            Tôn Tháo nghe nói cả giận, hợp sức với hai con vây đánh Bàng
                            Quyên. Hai đàng đánh nhau được hơn bốn mươi hiệp, Tôn Tháo nhắm
                            sức cự không lại, bèn đem con là Tôn Hổ chạy vào thành. Còn Tôn Long
                            quất ngựa chạy riết qua Lâm Tri.
                            Tôn Tháovà Tôn Hổ vào trong thành sai binh cố thủ bốn cửa rồi vào
                            triều báo lại với Yên vương.
                            Tôn Long một mình một ngựa, đi bất kể ngày đêm riết tới Lâm Tri.
                            Khi vào trong thành rồi, Tôn Long bèn thẳng tới cửa triều xin vào bái
                            kiến. Huỳnh môn quan tâu lại, Tề vương cho triệu Tôn Long vào. Tôn
                            Long tới trước điện tung hô vạn tuế rồi trao biểu chương lên và trao thêm
                            nguyện ủy. Tề vương xem biểu xong cho mời Nam bình quận vương Tôn
                            Tẩn tới phán rằng:
                            - Nay có anh khanh là Tôn Long đem biểu chương sang cầu cứu, vì
                            Bàng Quyên thống lãnh đại binh sang xâm lấn Yên quốc. Vậy khanh nên
                            sớm đem quân sang giúp.
                            Tôn Tẩn nghe phán liền tâu rằng:
                            - Nước Yên là tổ quốc của hạ thần vô cớ mà bị Ngụy xâm chiếm, bệ
                            hạ sai sang cứu, tất nhiên hạ thần phải tuân. Song nay binh Bàng Quyên
                            đóng tại U Châu, mà binh Tề sang nữa thì sao khỏi giày đạp biên giới
                            nước Yên? Vậy theo ý hạ thần, xin bệ hạ cho hạ thần đem binh sang
                            đánh Ngụy. Ngụy không người cự địch ắt phải triệu Bàng Quyên về, khi
                            ấy nạn chiến tranh sẽ xảy ra tại biên giới của Ngụy.
                            Tề vương nghe tâu khen ngợi lắm, lập tức hạ lệnh Lỗ vương và chư
                            tướng đồng giúp sức Tôn Tẩn sang phạt Ngụy.
                            Tôn Tẩn được lịnh, lui ra, trước hội ngộ với anh là Tôn Long, khuyên
                            Tôn Long hãy về nước trước rồi sau mới cùng Lỗ vương Điền Kỵ đem
                            Viên Đạt, Độc Cô Trần, Lý Mục, TuVăn Long, Tu Văn Hổ, Mã Thăng
                            và Ngô Giải kéo ba môn binh thẳng tới nước Ngụy. Khi binh tới Nghi
                            Lương, Tôn Tẩn liền truyền lệnh dồn binh lại, lập thành năm trại, bốn
                            phương, bốn trại để các tướng ở. Lập trại xong Tôn Tẩn truyền ba quân
                            vây thành và nổi trống khua chiêng hò hét thị oai.
                            Quân giữ thành thấy binh Tề tới bèn vào báo ngay cho Ngụy chúa
                            hay. Ngụy vương thất kinh hỏi bá quan tới phán rằng:
                            - Bàng phò mã đem binh phạt Tề, lại ỷ thị dùng ách chỉ Tề áp Tiệu
                            phạt Yên, thành ra hôm nay Tề quân còn rảnh tay nên mới đem binh tới
                            đây xâm lấn bờ cõi. Bây giờ không có phò mã tại triều, các khanh có ai
                            lui được binh Tề hay không?
                            Các quan văn võ nghe hỏi bèn rập tâu rằng:
                            - Nghe đâu tướng Tề là Tôn Tẩn, học trò của Quỷ Cốc, người có thần
                            thông và mưu trí, trừ Bàng phò mã chắc chúng tôi không ai đánh lui nổi.
                            Vậy xin bệ cho sứ Yên triệu phò mã về đây để giải vây cho thành Nghi
                            Lương mới được.
                            Ngụy chúa nghe tâu có lý như vậy bèn viết chiếu thơ sai Từ Giáp qua
                            U Châu dời Bàng Quyên về. Từ Giáp lãnh mạng cầm chiều thơ rồi lên
                            ngựa chạy ra thành.
                            Viên Đạt đứng thôn thúc ba quân công phá bên ngoài, thấy trong
                            thành có người sải ngựa ra bèn hươi búa đón lại. Từ giáp không có khí
                            giới để chống cự nên liền xuống ngựa năn nỉ rằng:
                            - Tôi là sứ thần, vâng lệnh Ngụy chúa sang Yên triệu binh Bàng phò
                            mã về. Xin tướng quân tha mạng cho tôi!
                            Viên Đạt cười rằng:
                            - Ừ, tưởng đi đâu chứ đi kêu Bàng Quyên về chịu chết thì ta tha cho
                            mà đi!
                            Nói dứt dạy ba quân mở đường cho Từ Giáp đi.
                            Từø Giáp sải ngựa đêm ngày riết tới U Châu thẳng vào trung quân ra
                            mắt Bàng Quyên rồi đưa chiếu thơ ra, Bàng Quyên xem xong hỏi lại Từ
                            Giáp rằng:
                            - Binh Tôn Tẩn vây thành Nghi Lương rồi vậy mà các quaqn không ai
                            dám ra đánh với nó sao?
                            Từ Giáp nói:
                            - Nghe Tô Tẩn là học trò của Quỷ Cốc, thuật pháp đa đoan, mưu kế
                            quảng bát, ai cũng lạnh lòng tởn mặt, có ai dám ra đối thủ với y. Vả lại ai
                            cũng nói tai họa đó tại phò mã gây ra, thì để phò mã lo liệu lấy!
                            Bàng Quyên hỏi:
                            - Ta gây họa làm sao?
                            Từ Giáp nói:
                            - Các quan nói phò mã đánh tề không quyết lòng đánh, lại còn dùng
                            cách gì đó mà chỉ Tề áp Triệu phạt Yên, nên Tề mới có dịp mà gây họa.
                            Bàng Quyên cả giận nói:
                            - Ừ, tại ta, để ta đem binh về dẹp xong quân Tề rồi các thằng quan
                            "Aên lương khống". đó nó suy tình viện lý nào với ta cho biết?
                            Bàng Quyên nói dứt lời hạ lịnh quân bạt trại kéo riết về Nghi Lương
                            Thành.
                            Quân lýnh được lịnh cứ việc bạt trại rồi theo đường cũ mà trở về. Đi
                            được vài ngày đã đến thành Bá linh, quân vào báo cho Bàng Quyên hay,
                            Bàng Quyên nói rằng:
                            - Tới thành cứ biểu quân Triệu mở cửa cho đi qua, báo ta làm gì?
                            Từ Giáp nói:
                            - Xin phò mã chó làm như vậy mà kinh động đến trăm họ nước Tiệu,
                            hãy đo đường khác mà về có lẽ gần hơn mà lại khỏi mích lòng Triệu
                            chúa!
                            Bàng Quyên nói:
                            - Hễ đi ngã nào thì về ngã nấy, chớ bây giờ tìm đường khác mà về e
                            nước Triệu cừơi ta là bại trận rồi trốn ngã khác!
                            Bác lời Từ Giáp rồi Bàng Quyêncứ một mực sai quân tới dưới thành
                            Bá Linh kêu bảo mở cửa cho binh Ngụy kéo qua.
                            Quân giữ thành Bá Linh thấy quân Ngụytrở lại đòi mở thành lần nữa
                            liền vào báo với Lạng Tương Như hay. Tương Như giận quá cho vời
                            Liêm Cang tới bàn mưu. Liêm Cang nói:
                            - Theo ý chúng ta đã định khi trước, hễ Bàng Quyên thua Yên mà trở
                            lại đây thì phải đón mà đánh nó cho đừng còn manh giáp. Nay nó tới nạp
                            mạng không đánh bại còn chờ chừng nào?
                            Lạng Tương Như khen lời Liêm Cang là phải. Liêm Cang bèn đem
                            một toán quân ra cửa thành đón quân Ngụy không cho kéo qua. Bèn
                            Quyên hay tin ấy bèn dạy ba quân lui lại đóng quân ở mé sông Tần Hà
                            rồi tự mình kéo một đội binh tới trước thành kêu lớn rằng:
                            - Tướng trong thành mau mau sai quân mở cửa cho ta qua, bằng
                            không ta sẽ phá tan thành trì thành bình địa.
                            Liêm Cang cả giận xốc ngựa ra trận nạt rằng:
                            - Bàng Quyên, ta đã thua mạng mi một lần rồi đáng lẽ ngày nay mi
                            tìm ngã khác mà đi, sao lại còn tới đây nữa? Ta nói thiệt, nếu mi cãi lời
                            ta, ta sẽ giết hết cả lũ!
                            Bàng Quyên nghe mấy lời bèn hươi đao xốc tới chém Liêm Cang.
                            Liêm Cang đưa thương ra đỡ. Đánh nhau được vài mươi hiệp. Liêm Cang
                            kém thế bỏ chạy. Bàng Quyên rượt theo kịp, chém cho một đao đứt
                            ngang lưng, Rồi xua binh chém giết quân triệu.
                            Bàng Quyên cả thắng đem quân về dinh. Từ Giáp khuyên rằng:
                            - Đã dược trận thắng thì cứ việc đánh tới để về nước mau mau mà
                            giải vây, chớ sao lại lui?
                            Bàng Quyên nói:
                            - Không vội gì, ta ở lại một ngày thế triệu nguy một ngày. Hãy đợi tới
                            mai sẽ phá thành Bá Linh cũng chẳng muộn.
                            Từ Giáp khen phải. Đêm đó Bàng Quyên dạy quân sĩ mở tiệc ăn
                            uống, rồi cùng Từ Giáp đánh chén tới say mèm mới đi ngủ.
                            Đêm hôm ấy, dinh Ngụy canh tuần sơ sài lắm, chúa tướng và ba quân
                            mạnh ai nấy lo ngủ. Thình lình tới canh hai, ba cha con Tôn Tháo kéo
                            một đội binh từ nước Yên sang cướp trại. Binh Ngụy đương ngủ nghe
                            tiếng chiêng trống la ó thì kinh hãi bỏ chạy tán loạn nên binh Yên giết
                            rất nhiều. Bàng Quyên và Từ Giáp đương mê ngủ nghe loạn liền lên
                            ngựa bỏ chạy. Cha con Tôn Tháo thừa lúc rắn không đầu nên xua binh
                            chém giết rất dễ, chém giết đến khi trong dinh Ngụy không còn người
                            nào mới rút binh lui về.
                            Tới sáng, Bàng quyên quày trở về dinh điểm binh sĩ chỉ còn có phân
                            nửa thì buồn lắm, đấm ngực bứt đầu, tha trời trách đất và rủa chửi Tôn
                            Tháo đánh lén như vậy! Bây giờ không tiện đem binh về ra mắt ngụy
                            chúa, Bàng Quyên bèn hạ lịnh tạm đình tại mé sông Tân Hà ít hôm. Trọn
                            ngày hôm ấy, bàng Quyên cứ ngồi trong dinh mà mặt buồn dàu dàu.
                            Trong lúc tâm sự đa đoan, bỗng nghe xa xa có tiếng đờn réo rắt theo gió
                            mà tớ, lắng nghe thật là:
                            Giây tơ khéo gợi giấc du sơn.
                            Nổi sóng sông Tương bởi tiếng đờn.
                            Ngọc trắng vàng ròng đương đợi giá.
                            Cũng buồn sao muộn khách tao nhơn.
                            Bàng Quyên nghe một lúc liền sai quân sĩ đi tìm coi ai khảy đờn như
                            vậy. Quân sĩ đi giây lâu trở về bẩm rằng:
                            - Đó là một vị tiên sinh áo xanh khăn đen, đương thả thuyền trên
                            dòng sông Tân Hà cho trôi xuống. Trong thuyền có một bàn sơn nhỏ, trên
                            bàn có lư hương, một cây đờn và một quyển sách.
                            Bàng Quyên nghe dứt bèn ra khỏi dinh đi tới mé sông đứng xem.
                            Giây lát thuyền nọ cập bến, vị tiên sinh buộc thuyền, cầm quyển sách
                            bước lên bờ. Bàng Quyên bèn bước tới gần thì lễ rồi rước vào quân
                            trướng mời ngồi. Bây giờ Bàng Quyên mới hỏi vị tiên sinh rằng:
                            - Chẳng rõ tiên sinh quý đại danh là gì?
                            Vị tiên sinh đáp:
                            - Tôi họ Tiêu tên Cổ Đạt, học trò của thầy Quỷ Cốc ở núi Vân Mộng.
                            Bàng quyên hỏi:
                            - Tôi cũng học trò Quỷ Cốc sao không biết tiên sinh?
                            Tiêu Cổ Đạt nói:
                            - Tôi học trước, ông học sau làm sao mà biết được?
                            Bàng Quyên nói:
                            - Qủa vậy chúng ta là bạn học một thầy nên xưng hô bằng anh em
                            cho dễ.
                            Tiêu Cổ Đạt nói:
                            - Phải, xưng hô như vậy tiện hơn.
                            Bàng Quyên nói:
                            - Bây giờ nem hỏi anh quyển sách anh cầm đó là sách chi?
                            Tiêu Cổ Đạt đáp:
                            - Đây là sách "Thất tiễn đinh đầu". quý lắm, anh sợ rủi mất nên đi
                            đâu đều cầm theo.
                            Bàng Quyên hỏi:
                            - Trong ấy nói những gì?
                            Cổ Đạt dáp:
                            - Phép ếm rấ lợi hại, người thường không dùng được!
                            Bàng Quyên nói:
                            - Xin anh cho em mượn xem.
                            Cổ Đạt bèn đưa cho xem, Bàng quyên xem ít đoạn, thấy sách quý
                            lòng tham nổi lên, bèn bỏ phóc vào tay áo.
                            Hai người lại nói chuyện khác một hồi rồi Cổ Đạt từ biệt ra đi. Bàng
                            Quyên theo đưa tới mé sông Tân Hà. Cổ Đạt bèn nói:
                            - Khi nãy anh có đưa cho em mượn quyển sách "Thất tiễn đinh đầu".
                            bây giờ giã từ nhau, em nên trao lại cho anh.
                            Bàng Quyên nói:
                            - Anh hãy cho em mượn đọc qua một lượt rồi sẽ trả cho!
                            Cổ Đạt nói:
                            - Anh đi vân du thiên hạ rày đây mai đó làm sao tìm được mà trả?
                            Bàng Quyên nói:
                            - Như vậy ít lâu anh trở vào nước Ngụy em sẽ trả cho!
                            Cổ Đạt nói:
                            - Có của cho mượn mà phải chịu khổ cực như vậy à!
                            Bàng Quyên nói:
                            - Không chịu cực thì thôi tôi không trả!
                            Cổ Đạt giận nói:
                            - Nghe người đồn mi là kẻ giảo hoạt tham lam, nay gặp mặt mới rõ là
                            người lòng beo dạ sói!
                            Bàng Quyên nghe Cổ Đạt mắng, tức quá, xốc tới chụp Cổ Đạt định
                            xô xuống sông. Cổ Đạt nhỏ thó mà có tài, lẹ mắt thấy vậy bèn né ra khỏi
                            rồi lòn ra sau lưng Bàng Quyên chụp ngang hông luôn tiện dìm xuống
                            sông Tân Hà mà nhận nước, nhận một hồi lâu lại xốc lên, nhận xuống
                            năm bảy lần như vậy. Bàng Quyên đã uống nhiều nước bất tỉnh nhơn sự.
                            Bây giờ Cổ Đạt mới bỏ Bàng Quyên nằm dài trên bờ sông mời mở
                            thuyền chèo đi.
                            Giây lâu Bàng Quyên tỉnh giậy thấy quần áo ướt loi ngoi thì giận
                            Tiêu Cổ Đạt lắm, vội vàng chạy kiếm báo thù, nhưng người và thuyền đã
                            mất dạng tự hồi nào. Không làm sao được Bàng Quyên bèn trở về định
                            báo quân sĩ xốc nước cho mình, ói hơn hai chậu, rồi móc tay áo lấy
                            quyển sách "Thất tiễn đinh đầu". ra xem. Thấy quyển sách ướt mem dính
                            nhẹp không mở ra được, Bàng Quyên bèn sai quân phơi. Phơi khô quyển
                            sách thì hạ lịnh nhổ trại kéo binh đi ngả khác về nước.
                            Binh đi không mấy ngày đã gần tới thành Nghi Lương. Tôn Tẩn hay
                            tin Bàng Quyên về bèn làm phép tàng ẩn, các quân trại sờ sờ đó mà
                            người đứng xa không hề trông thấy. Bàng Quyên kéo binh về tới thành
                            không thấy quânTề bèn hỏi Từ Giáp rằng:
                            - Nói quân Tôn Tẩn vây thànhmà sao tôi không thấy chi hết như vậy?
                            Từ Giáp nhìn bốn mặt thấy trống lổng thì không biết đáp sao.
                            Bàng Quyên cười rằng:
                            - Hay là thằng Tôn Tẩn nghe đại binh tôi về, nhắm thế cự không lại
                            nên rút quân về nước rồi?
                            Từ Giáp nói:
                            - Phò mã nói có lý!
                            Dứt lời cả hai thôi thúc ra quân kéo váo thành ra mắt Ngụy chúa.
                            Ngụy chúa trông thấy Bàng Quyên bèn hỏi:
                            - Khanh lãnh binh phạt Tề, sao không lo, lại tính cách chỉ tề áp Triệu
                            phạt Yên làm chi cho đến nỗi binh Tề sangvây thành đó! Bây giờ phải
                            làm cách nào cho chúng nó lui?
                            Bàng Quyên tâu:
                            - Binh Tề nghe hạ thần về đã lén kéo lui rồi, bây giờ ngoài thành
                            không có mũi tên lựa là quân sĩ.
                            Bàng Quyên tâu vừa dứt bỗng có quân giữ thành vào báo rằng:
                            - Hôm nay binh Tề lại phá thành gắt hơn khi trước!
                            Ngụy chúa nghe báo phán hỏi Bàng Quyên rằng:
                            - Khanh vừa nói binh Tề lui rồi nay còn binh nào phá thành nữa đó?
                            Bàng Quyên tâu:
                            - Xin chúa thượng chớ giận.Đó có khi là kế của Tôn Tẩn, vậy để hạ
                            thần dụng mưu "Giả đồ diệt quách". tức thì lui được binh Tề.
                            Tâu dứt lời, từ tạ lui về phủ.
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #15
                              Hồi 15 - Gạt binh Tề, Mã An bỏ mạng

                              Hồi 15

                              Gạt binh Tề, Mã An bỏ mạng
                              Cầm Tướng hàng, Viên Đạt về dinh

                              Bàng Quyên vốn có tên bộ hạ là Mã An diện mạo trông giống y như
                              đúc. Hôm nay Bàng Quyên ở triều về bèn kêu Mã An ra nói rằng:
                              - Nay ta cần dùng mi đi một chuyện có được không?
                              Mã An đáp:
                              - nuôi binh ba năm để dùng một giờ. Nay phò mã sai chi, tiểu tử lại
                              chẳng vâng lời.
                              Bàng Quyên gật đầu nói:
                              - Vậy thì để ta cho mi uống rượu chơi vài chén rồi sẽ đi. Mã An là
                              con sâu men, nghe nói cho uống rượu thì mừng lắm. Bàng Quyên nói dứt
                              đi vào phòng lấy rượu đem ra trao cho Mã An. Mã An tiếp lấy kê vào
                              miệng nốc một hơi khô bầu. Nuốt rượu vừa khỏi cổ, Mã An liền ngã
                              xuống giãy tê tê, cửu khiếu ra máu rồi chết liền. Bàng Quyên cả mừng
                              rút gươm chặt đầu Mã An, đoạn kêu tên bộ hạ tâm phúc tới trao đầu đó
                              cho nó và dặn dò mưu kế.
                              Tên bộ hạ đem đầu Mã An ra cửa thành dùng giáo bêu lên rồi kêu
                              binh Tề mà nói rằng:
                              - Quân sĩ nước Tề hãy xem cho kỹ cái đầu này rồi vào bẩm cho Lỗ
                              vương và Tôn nguyên soái hay rằng Bàng phò mã đã nghịch mạng Ngụy
                              chúa dấy động can qua, dùng mưu chỉ Tề áp Triệu phạt Yên để gây tai
                              hạo, nên ngài đã xử chém để tạ tộ với Tề. Vậy xin binh Tề hãy lui về để
                              khỏi hại bá tánh.
                              Quân Tề nghe mấy lời, dòm lên thấy rõ đầu của Bàng Quyên, bèn
                              mau mau vào báo với Tôn Tẩn. Tôn Tẩn nghe báo cười nói với Lỗ vương
                              rằng:
                              - Tôi thù với Bàng Quyên là thù vì nó chặt mười ngón chân tôi chớ có
                              thù hại mạng đâu. Sao Ngụy chúa không chặt mười ngón chân của nó để
                              tạ tội với Tề cà!
                              Nói dứt lời hạ lịnh ba quân lui về nước.
                              Bàng Quyên ở trong thành nghe binh Tề lui rồi, bèn vào tâu với ngụy
                              vương rằng:
                              - Hạ thần dùng kế "Giả đồ diệt quách". đã lui được binh Tề, vậy nhân
                              lúc chúng nó lui về không phòng bị, thần đem một đội binh theo cướp trại
                              ắt được đại thắng.
                              Ngụy chúa chuẩn tấu. Bàng Quyên liền điểm binh rượt theo.
                              Tôn Tẩn đem binh lui về một đỗi xa thì trời tối bèn ra lịnh hạ trại an
                              nghỉ. Trại đóng xong, Tôn Tẩn bèn truyền các đội đều kéo ra ngoài kiếm
                              chỗ mai phục, đó là dùng kế không dinh, vì Tôn Tẩn đã sớm biết mưu
                              "Giả đồ diệt quách". của Bàng Quyên rồi.
                              Đến canh hai đêm ấy, Bàng Quyên kéo binh theo kịp, liền hạ lịnh ba
                              quân áp vào cướp dinh Tề. Khi xông vào trong dinh không thấy có ai,
                              Bàng Quyên biết mình trúng kế, vội vàng hạ lịnh cho ba quân lui ra. Binh
                              Ngụy vừa lui bỗng nghe bốn phía pháo nổ ầm ầm, trống chiên dậy núi,
                              binh tề túa ra như ong, vây chặt quân ngụy mà giết. Quân Ngụy kinh
                              hoảng, mạnh ai nấy lo chạy chớ chẳng tính việc đối địch nên bị binh tề
                              giết hại lần lần tới hết. Một mình Bàng Quyên thóat khỏi, chạy về thành
                              ra mắt Ngụy chúa mà xin tội. Ngụy chúa cả giận nạt rằng:
                              - Ngươi tự ý làm càn đến gây họa cho nước Ngụy, nay còn nói dối
                              làm lanh, báo hại hao binh tổn tướng. Ta không vì công chúa thì bằm
                              thây mi muôn mảnh để hả giận. Thôi, mi hãy lui ra cho khỏi gai mắt ta!
                              Bàng Quyên buồn bã lui ra. Liền ấy có quân giữ thành vào báo rằng:
                              - Binh Tề kéo trở lại và công phá gắt hơn trước, xin thánh chúa liệu
                              định.
                              Các quan nghe báo đồng quỳ tâu rằng:
                              - Binh tề dũng cảm, Tôn Tẩn nhiều mưu thoạt tới thoạt lui, khó mà
                              liệu được. Nước Ngụy ta có một phò mã, mà phò mã đã không đánh nổi
                              thì có ai giám chống. Vậy bệ hạ cho sứ sang mượn binh của nước Tần và
                              nước Hàng mà về giải vây.
                              Ngụy chúa khen phải, lập tức viết hai bức thư cầu cứu rồi sai Từ Giáp
                              sang Tần, Hầu Anh sang Hàng dâng thơ xin binh cứu viện. Hai quan được
                              lịnh lập tức ra đi.
                              Từ Giáp và Hầu Anh ra khỏi thành liền bị tướng Tề là Lý Mục cản
                              lại nạt rằng:
                              - Hai ngươi đi đâu phải nói cho mau!
                              Từ Giáp và Hầu Anh đồng nói:
                              - Chúng tôi vâng lịnh Ngụy chúa sang Tần và Hàng mượn binh. Nếu
                              Tề quân thật là anh hùng dũng cảm thì hãy để thong thả cho chúng tôi đi,
                              còn có nhát thì giết chúng tôi cũng được.
                              Lý Mục nói:
                              - Chúng ta có sợ chi nước Tần vá nước Hàng mà chẳng để cho bọn mi
                              đi cầu cứu!
                              Nói dứt truyền ba quân mở đường cho Hầu Anh và Từ Giáp đi.
                              Từ giáp tới nước Tần vào ra mắt vua Tần, dâng thơ lên và tâu việc
                              cầu cứu. Vua Tần xem thơ xông bèn hạ lịnh cho Võ quan quân Bạch
                              Khởi đem binh cứu Ngụy. Bạch Khởi phụng mạng điểm binh theo Từ
                              Giáp kéo về Nghi Lương Thành. Tôn Tẩn được tin binh Tần sang giúp
                              Ngụy, hôm nay đi gần tới thành bèn làm phép tàng ẩn không cho ai trông
                              thấy dinh trại và quân sĩ Tề.
                              Khi quân Ngụy kéo nhau tới ngoài thành Nghi Lương, Bạch Khởi
                              xem chẳng thấy động tịnh gì bèn hỏi Từ Giáp rằng:
                              - Ông sang Tần nói binh Tề vây Ngụy gắt lắm, sao hôm nay chẳng có
                              một tên nào lai vãng như vầy?
                              Từ Giáp nói:
                              - Nếu chẳng có việc tại Ngụy chúng tôi đâu dám làm phiền quý
                              quốc! Đây có lẽ Tôn Tẩn muốn lập mưa kế gì nữa chớ chẳng không.
                              Bạch Khởi khen phải bèn kéo binh thẳng vào trong thành đồ tại võ
                              trường rồi vào triều ra mắt Ngụy vương và tâu rằng:
                              - Thần là Võ an quân Bạch Khởi phụng mạng Tần vương sang giúp
                              Ngụy quốc. Nay binh tới ngoài thành không trông thấy một tên quân Tề,
                              thần không rõ duyên cớ làm sao, xin đại vương dạy cho biết!
                              Ngụy chúa cười rằng:
                              - Đó có khi là mưu của Tôn Tẩn, vậy phiền Võ an quân hãy tạm đình
                              lại tại Kim đình dịch xá ít ngày coi thử quân Tề có trở lại hay không?
                              Bạch Khởi y lời. Ngụy chúa liền sai Từ Giáp mời Bạch Khởi ra Kim
                              đình dịch xá mà khoản đãi.
                              Bạch Khởi và binh Tần ở trong thành Nghi Lương, tốn kém bao nhiêu
                              về binh nhu đều do nước Ngụy chịu, thế mà hơn một tháng rồi không
                              thấy binh Tề trở lại. Bởi cớ đó nên Bạch Khởi buồn trí bèn vào từ giã
                              Ngụy chúa rồi kéo binh trở về nước.
                              Tôn Tẩn chờ binh Tần đi đã xa bèn giải phép và hạ lịnh ba quân áp
                              tới phá thành. Quân giữ thành thất kinh chạy vào báo cho Ngụy chúa
                              hay. Ngụy chúa bèn sai Từ Giáp hỏa tốc theo mời Bạch Khởi trở lại.
                              Bạch Khởi kéo binh trở lại thành Nghi Lươngcũng bị Tôn Tẩn làm
                              phép tàng ẩn nữa nên không trông thấy binh Tề ở đâu, tức lắm lại sai
                              tướng mã đi giò xét khắp nơi mà cũng chẳng thấy. Bạch Khởi không nghĩ
                              sao được phải kéo binh vào thành đóng tại diễn võ trường rồi vào ra mắt
                              Ngụy chúa và tâu rằng:
                              - Vì cớ không gặp binh Tề nên hạ thần phải kép binh về nước. Vây
                              hôm nay bệ hạ sai Từ đại nhơn theo triệu trở lại chẳng rõ có dạy bảo
                              điều chi chăng?
                              Ngụy chúa phán rằng:
                              - Bởi chùng lúc Võ anh quân rút binh về một đỗi xa thì binh Tề lại
                              kéo tới phát thành nên quả nhơn sai Từ Giáp theo mời trở lại cứu cấp.
                              Bạch Khởi tâu:
                              - Hạ thẩn vừa ở ngoài thành vào đây, không trông thấy tên quân nào
                              hết, thế mà sao lại có chuyện quân Tề phá thành?
                              Ngụy chúa nghe tâu lấy làm lạ, sauy nghĩ giây lâu rồi phán rằng:
                              - Có khi Tôn Tẩn làm phép tà để gạt chúng ta. Vậy Võ an quân tạn
                              đình tại dịch quán ít lâu nữa thử xem tình thế ra sao?
                              Bạch Khởi y liệnh lui ra ở tại Kim đình dịch quán mà chờ.
                              Lúc bấy giờ Tôn Tẩn bèn cho dời Viên Đạt, Độc Cô Trần và Lý Mục
                              vào quân trường mà trao kế rồi dạy tức tốc kéo binh ra đi.
                              Ngày giờ như thoi đưa, lật đật mà Bạch Khởi đồn binh ở Ngụy có hơn
                              một tháng nữa. Trông ngóng đã mõi lòng mà không thấy binh Tề tới,
                              Bạch Khởi bèn vào triều từ giả vua Ngụy mà về. Vua Ngụy tỏ lời cám
                              ơn và truyền quan chưởng khố mở kho lấy lụa gấm, vàng bạc rất nhiều
                              ban cho Bạch Khởi. Bàng Quyên có mặt tại triều, thấy vậy bèn nói nhỏ
                              với quan đứng gần rằng:
                              - Đi tời kéo về hoài, phá lươnghướng của nước ngụy rất nhiều, đã
                              không giúp ích việc gì, lại còn ban cho của cải nữa.
                              Mấy lời ấy chẳng may lọt vào tai Bạch Khởi, Bạch Khởi giận lắm, lui
                              ra khỏi triều để kéo binh về mà trong trí vẫn đinh ninh rằng: "Ta về
                              chuyến này nếu có binh Tề tới, chúa tôi nhà Ngụy lạy tạ, ta cũng chẳng
                              thàm trở lại".
                              Binh Tần kéo đi rồi, Tôn Tẩn liền thâu phép và hạ lịnh ba quân tới
                              phá thành, lại dặn các tướng chớ cho nguời trong thành chạy lọt ra. Quân
                              sĩ được lịnh nổi trống khua chiêng reo hò áp tới. Binh giữ thành thấy binh
                              Tề tới nữa, bèn vào báo với Ngụy chúa. Ngụy chúa lật đật sai Từ Giáp
                              mời Bạch Khởi trở lại. Từ Giáp lãnh mạng lên ngựa ra thành liền bị quân
                              Tề đón lại. Từ Giáp ra không được phải trở vào tâu với Ngụy chúa. Ngụy
                              chúa hạ lịnh thêm binh bốn cửa cố thủ rất cẩn thận.
                              Nói về Bạch Khởi kéo binh về tới núi Hắc Phong thình linh nghe có
                              tiếng chiêng gióng binh reo rồi một viên tướng núi kéo lâu la xông ra đón
                              đường nạt to rằng:
                              - Ai đí đó? Phải nạp tiền mãi lộ.
                              Bạch Khởi lướt tới đáp rằng:
                              - Ta là Võ anh quân nước Tần tên Bạch Khởi, có phải ai đâu mà mi
                              đòi tiền mãi lộ. Mi há chẳng nghe danh ta à? Tướng núi cười rằng:
                              - Bất luận là ai hễ đi qua đây đều phải nạp tiền cho ta cả.
                              Bạch Khởi chưa kịp nói sao, bỗng nghe mé sau có tiếng chiêng và
                              binh reo, ngoái đầu dòm lại thì thấy có hai viên tướng núi khác kéo lâu la
                              chạy tới, vây phủ binh Tần đánh giựt hết các vật của vua Ngụy vừa cho.
                              Bạch Khởi chỉ có một mình không sao đương cự nói bèn quất ngựa bỏ
                              chạy. Ba viên tướng đồng ó rập rằng:
                              - Bạch Tướng quân chớ chạy, chúng tôi không phải ăn chớp đâu,
                              chúng tôi chúng là tướng Tề tên Viên Đạt, Độc Cô Trần và Lý Mục,
                              vâng lịnh Tôn quân sư đón đường nói cho tướng quân hay rằng, Tôn quân
                              sư rất cám ơn tướng quân đã hết lòng giúp đỡ vào Ngụy mà rước ngài,
                              song le lúc ấy ngài chưa khỏi nạn nên chẳng chịu đi. Nay ngài đã hết nạn
                              rồi và đã theo xa trà Bốc Thương về giúp Tề. Vậy tướng quân chớ lấy
                              làm lạ!
                              Bạch Khởi nghe dứt cười lớn ít tiếng rồi điềm binh kéo về Tần.
                              Bọng Viên đạt, Độc Cô Trần, Lý Mục cũng kéo binh đem các vật
                              cướp được về ra mắt Tôn Tẩn. Tôn Tẩn cả mừng phân các vật ấy ra
                              thưởng cho các tướng sĩ đã có công, rồi mở tiệc ăn uống.
                              Đương lúc cùng nhau ăn uống, bỗng có quân thám mã về báo rằng:
                              - Thưa quân sư, chúng tôi giọ được tin rằng chánh cung nước Hàng là
                              Ngụy Dương công chúa, em của vua Ngụy đã đem quân sang cứu anh,
                              nay đã kéo tới hạ trại ở mé Bắc thành thánh Nghi Long cách dinh ta sáu
                              dặm.
                              Tôn Tẩn nghe báo hạ lịnh Lý Mụcđem binh khiêu chiến. Lý mục tuân
                              lịnh điểm binh ra đi. Hàng Đậu nghe quân báo có tướng Tề bèn sai
                              Trương Xa ra đối địch. Trương Xa phụng mạng ra trận, hai tướng thôn
                              gdanh tánh rồi sáp lại đánh nhau. Đánh được mươi hiệp, Trương Xa cự
                              không lại bèn chạy tuốt về dinh. Lý mục cũng thâu binh về. Hàng hậu
                              thấy Trương Xa bại trận thì buồn lắm. Tới hôm sau Hàng Hậu bèn lên
                              ngựa kéo binh tới trước trận khiêu chiến. Tôn Tẩn nghe quân báo bènkêu
                              Viên Đạt tới dặn nhỏ ít câu.Viên Đạt dạ dạ rồi kiểm binh kéo đi.
                              Viên Đạt ra tới trận, không hỏi họ tên chi cả, cứ việc sắp tới hươi búa
                              mà bửa. Đánh nhau chừng mười hiệp. Viên Đạt liền giả bộ gạt Hoàng
                              Hậu xô ngựa tới gần bên, liền trở thế nhảy qua ôm ngang hông vác chạy
                              bộ đem vào dinh. Tôn Tẩn nghe báo Viên Đạt đã bắt được Hàng Hậu
                              bèn ra cửa truy quân tiếp đón rằng:
                              - Chào nương nương, hạ thần không hay nương nương tới nên chậm
                              tiếp nghinh, xin nương nương xa tội. Đoạt day lại nạt Viên Đạt rằng:
                              - Sao ngươi vô lễ phạm tới Hàng Hậu nương nương như vậy. Tội nặng
                              khó tha, ngươi chưa liệu thân lui đi còn đợi chừng nào nữa?
                              Viên Đạt tỏ sắc sợ sệt, để Hàng Hậu xuống đất rồi thui thủi đi ra.
                              Tôn Tẩn khiêm nhường rước Hàng Hậu vào trung quân mời ngồi rồi hỏi:
                              - Chẳng rõ nương nương là chi của Ngụy chúa mà lại đem binh cứu
                              viện như vầy?
                              Hàng Hậu đáp:
                              - Tôi với Ngụy chúa có tình thân, nay nghe nước Ngụy bị vây ngặt
                              lắm, lại sai sứ sang cầu cứu, lẽ nào tôi ngồi mà ngó cho đành, vậy nên
                              phải tới đây mạo phạm với quý quốc!
                              Tôn Tẩn nói:
                              - Hạ thần với Ngụy chúa không thù oán gì. Chỉ giận có thằng Bàng
                              Quyên lòng lang dạ thú đã lập mưu chặt mười ngón chân của hạ thần nên
                              hạ thần tới đây thề bắt được nó để trả thù. Nếu chúa Ngụy muốn khỏi
                              hại sanh linh xin hãy bắt Bàng Quyên giao cho hạ thần, hạ thần tự khắc
                              lui binh.
                              Hàng Hậu nói:
                              - Như qủa vậy thì quân sư hãy án binh, để chờ tôi tâu với Ngụy chúa,
                              ắt ngài sẽ y như lời xin cầu gỡ nạn binh đao cho bá tánh.
                              Hàng Hậu nói dứt kiếu từ mà lui ra.
                              - Hàng Hậu ra khỏi dinh Tề, lên ngựa riết vào thành Nghi Lương, ra
                              mắt Ngụy chúa, tâu rõ mấy lời Tôn Tẩn vừa nói, và xin Ngụy chúa hãy
                              giải nạp Bàng Quyên cho Tôn Tẩn để cầu hòa. Ngụy chúa nghe tâu chưa
                              kịp phán sao, Bàng Quyên bèn quỳ xuống tâu rằng:
                              - Hàng Hậu nương nương là ngự muội của bệ hạ, nay đem binh cứu
                              Ngụy không được, lại bị tướng giặc bắt, đáng lẽ phải liều chết để qở
                              nhục cho quân vương. Chớ có lý đâu nương nương mến đức yêu tài Tôn
                              Tẩn nghe lòi nó dụ dỗ trở về tâu những lời hại mạng giết người như vầy
                              thì thanh thế nước Ngụy còn gì? Ấy là nương nương bỏ Ngụy theo Tề rồi.
                              Xin bệ hạ thẩm xét.
                              Ngụy vương nghe Bàng Quyên tâu dứt bèn vỗ long án quát mắng
                              Hàng Hậu thậm tệ. Hàng Hậu không nói sao được chỉ nhỏ nước mắt mà
                              chịu, rồi từ giã lui ra ngoài thành thẳng tới Tề dinh đem câu chuyện
                              Ngụy chúa nghe lời sàm tấu của Bàng Quyên mà.
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment

                              Working...
                              X