Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Thập Vạn Đại Sơn Vương - Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Hồi 14 - Động Chủ Phản Tây Phàn (tiếp theo)

    Lão động chủ nhếch mép cười nhạt, định chối phắt, nhưng cô gái Cầm Lình đã ghé tai cha nói nhỏ gì, đoạn quay sang cười bảo Lầm Đại Vương:
    – Sếnh sáng có đủ mười cân vàng nén mua hàng không?
    Lầm nhíu mày, nghiêm mặt:
    – Cô nương nói đùa sao? Kẻ nhờ tôi đã cho giá rõ, ngã giá có thể tới gấp đôi số đó mà!
    Mấy cha con động chủ không ngờ tướng Xạ Phang dám trả giá cao đến thế. Lão động chủ nhìn nhanh Đại Sơn Vương, gật đầu, bảo Lầm:
    – Ngày mai sẽ trao hàng! Còn vàng?
    Lầm lạnh lùng:
    – Hàng xuống tới chân núi, sẽ có người đem vàng tới ngay.
    Nhưng phải ngay hôm nay, lát nữa! Đến mai người đó không cần nữa!
    Đại Sơn Vương thấy lão động chủ làm vẻ thuận bán Phượng Kiều, đoán ngay lão đã tính quỷ kế, tiền quay sang phía chủ bảo.
    – Chưa chắc cô bé đó đã giữ mảnh họa đồ! Nếu không nán được tới ngày mai, động chủ có thể trao hàng ngày cho nhị tiên sinh cùng cô Liễu Nương được! Hai mươi cân vàng một cô gái đẹp cũng phái giá rồị..
    Vừa nói, chàng vừa ra ám hiệu, động chủ hiểu ý, liền bảo tướng Xạ Phang ngay:
    – Thôi được! Xin nhường cho Sếnh sáng món hàng quý đó!
    Bọn tướng thổ phỉ cả mừng liền đứng lên ngỏ lời cám ơn.
    Đoạn Lầm bước ra ngoài, đứng nhìn về nẻo Tây Bắc, lấy hỏa pháo bắn vọt lên trời, khói trắng kéo thành một vệt dài lê thê đặc sệt trong mây sớm.
    Nữ Thủy Vương Ba Bể thấy thế, khẽ bảo lão động chủ:
    – Tướng thổ phỉ chẳng phải tay vừa. Nó báo hiệu sẵn cho đồng bọn dự phòng. Thúc phụ nên cẩn thận!
    Lão vuốt ria cười, truyền quân hầu đưa khách sang phòng riêng tạm nghỉ, đoạn truyền Đại Sơn Vương vào mật thất bàn chuyện trao hàng. Năm phút sau, chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn rời mật thất động chủ, trở về phòng riêng. Phượng Kiều nghe tiếng, vội chạy ra mở cửa, nắm lấy tay chàng mừng rỡ:
    – Gớm! Em nóng ruột quá ! Chỉ sợ xảy ra chuyện gì...
    Chàng tướng núi không nói gì, đăm đăm nhìn người yêu như muốn tìm đọc những ý nghĩ thẳm sâu phát hiện trên đôi mắt Phượng Kiều. Thấy chàng ngó mình khác thường, Phượng Kiều ngạc nhiên lo lắng khẽ hỏi:
    – Anh... Có chuyện gì thế? Sao anh... làm em...
    Đại Sơn Vương lặng lẽ đóng cửa, đoạn ngó nàng khẽ hỏi :
    – Em có điều gì cần giấu anh phải không?
    Giọng hơi lạnh lùng của người yêu, khiến Phượng Kiều sợ hãi vùng nắm lấy tay chàng ngạc nhiên:
    – Kìạ.. anh bảo sao? Không! Em có điều gì dám giấu anh đâu?
    – Bức họa đồ bí mật! Từ lâu nay, như em không hề biết đến, cả lúc tìm thấy mảnh giấy giả trên mình tên giặc Tây Phàn.
    Phượng Kiều đứng ngây ra mấy giây, tự nhiên ứa nước mắt:
    – Từ buổi gặp anh, em... Chẳng còn gì là quan hệ cả! Bức hoạ đồ bí mật nào em có biết gì đâụ.. Thầy em...
    Cô gái tấm tức nghẹn họng, mãi mới ngửa mặt, não nùng:
    – Anh... Có chuyện gì xảy ra thế?
    Đại Sơn Vương vội an ủi nàng, và kể sơ việc vừa qua. Phượng Kiều suy nghĩ giây lát, khẽ bảo:
    – Bọn nào đó gớm lắm! Chúng định dùng em làm mồi nhử tất cả những kẻ đang theo đuổi bản đồ bí mật đó! Mua được em, chúng chỉ việc ẩn một nơi, giương bẫy đợi chờ! Bản đồ vô giá kia đã cắt theo hình dải quạt. Kẻ nào có một tấc phải tìm hai. Như Đại Sơn Vương chẳng hạn.
    Chàng tướng núi mỉm cười khen:
    – Em thông minh lắm. Anh đoán ý động chủ muốn tương kế tựu kế, nên lão mới sai bán em cho bọn Xạ Phang. Hàng sẽ trao trưa nay, em làm sao biết được chỗ thầy em để mảnh họa đồ?
    Phượng Kiều nghĩ mấy giây:
    – Anh làm sao cho em gặp thầy em, em sẽ lựa lời hỏi ông. Nhưng em vẫn thắc mắc chưa hiểu sao anh lại quá lưu tâm tới vật... vô tri đó?
    Đại Sơn Vương bâng khuâng nhìn ra cửa sổ, mắt dõi theo những dải mây sớm bay nhẹ ngoài sườn non, giọng nói chìm hẳn đi:
    – Chính anh cũng chưa biết rõ vật đó sẽ đưa người tới đâu? Anh từ Tàu về đây, chỉ làm theo lời người đã khuất! Nó còn quan hệ hơn cả sinh mạng anh. Vì nó có thể đưa cả muôn dân ra khỏi vòng khốn khổ, Anh đã phát lời thề...
    Đám sơn tặc ăn uống xong, mặt trời vừa đứng bóng. Lầm Đại Vương đứng lên, nói lớn:
    – Giờ hẹn đã đến. Xin cho hàng xuống núi!
    Đợi bọn thổ phỉ ra cả ngoài, lão động chủ mới hất hàm ra hiệu cho Đại Sơn Vương. Viên tướng núi lẳng lặng đứng lên, bước vụt ra bên cửa ngách đứng trông theo bọn tướng thổ phỉ cùng hai nữ tặc Tây Phàn đưa Phượng Kiều xuống núi. Chờ cho cả bọn đã khuất hẳn sườn non, Đại Sơn Vương mới băng mình về phía hữu; tới lối riêng sau đại sảnh. Tùy tướng lâu la đã chờ sẵn, đoàn quân tinh nhuệ, đến ngót trăm tên. Đại Sơn Vương không khỏi ngạc nhiên, vì tưởng sào huyệt trên lưng chừng Fan Si Pan chỉ vài chục tên là nhiều, không ngờ động dụng, cả trăm quân đã tụ ngay dưới cờ trong chốc lát. Kiểm điểm căn dặn xong, chàng liền phất tay cho đám sơn tặc xuống núi.
    Chỉ mươi phút sau đã thấp thoáng bóng người, ngựa phía chân núi Nam tiến đến. Qua ống viễn kính, Đại Sơn Vương thấy rõ bóng Lừng tướng Xạ Phang đi trước rồi đến Liễu Nương kèm sát Phượng Kiều, ngay hông ngựa là hai nữ tặc họ Cầm, phía sau lố nhố những tên đầu mục. Đến cách chỗ mai phục chừng non ba trăm thước, đám thổ phỉ dừng ngựa lại, nhìn cả về phía trước. Chợt có tiếng vó ngựa nẻo Tây Bắc, Đại Sơn Vương vừa quay lại đã thấy quân dọ thám Tây Phàn bay ngựa tới, vừa ẩn sau lùm cây rậm, đã thấy nẻo sau những bóng ngựa chậm bước tới, kèm một con lừa thồ một rương nhỏ trên lưng. Đám người ngựa đi qua chỗ quân phục. Đại Sơn Vương không khỏi ngạc nhiên, khi nhận rõ có một khuôn mặt Tây râu xồm, đi lẫn giữa đám người Thổ, Kinh toàn mặc quần áo miền núi. Gặp đám thổ phỉ, hai bọn kề đầu ngựa nhau mấy khắc, rồi quay ngựa trở lạt lối cũ.
    Qua ống nhòm, thấy hai cô gái họ Cầm đã áp tải lừa thồ rương về, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn liền phất tay ra hiệu cho đám sơn tặc.
    Cả bọn lập tức kéo khăn che gần hết mặt, đợi chờ. Tiếng vó câu ập tới, gấp gấp chiếu ống nhòm, thấy đám thổ phỉ quay quanh Phượng Kiều, đánh ngựa đi vùn vụt, Đại Sơn Vương liền đánh ngựa xuống cạnh lối mòn, giơ tay súng lên, chờ cho chúng lọt vòng sẽ bắn hiệu khai hỏa! Chợt chàng tướng núi cau mày, trừng mắt ngó về nẻo cực Bắc.
    – Đạo quân lưu động biên thùy!
    Vụt hiểu ngay chính đám tướng nhà nước chủ động vụ mua Phượng Kiều. Đại Sơn Vương vẩy luôn ngọn súng vào viên quan đi đầu. Viên quan Tây nhào xuống ngựa, tiếp liền hàng trăm ngọn súng sơn tặc nhất loạt khạc lửa liên hồi. Bị tấn công thình lình, quan binh dừng phắt lại, nhốn nháo mươi giây, vừa bắn vừa lui, khỏi vòng quân phục. Phía trước, đám thổ phỉ áp giải Phượng Kiều đã dừng cả lại.
    Lầm, Lừng hai viên tướng Xạ Phang bèn vẫy mấy lên tùy tướng vọt ngựa lên, còn Liễu Nương cùng hai tên nữa chĩa súng luôn vào Phượng Kiều, thúc ngựa rẽ ngang định vòng lên phía hậu trận quan binh. Đại Sơn Vương không chậm một giây, lập tức vẫy tiểu đội sơn tặc tinh nhuệ nhất luồn rừng ngược lại chận đường bắn Lầm, Lừng để viên phó tướng áp trận đánh quan binh. Lầm, Lừng vừa vọt ngựa lên được hơn trăm bộ, thấy có quân đổ tới, lập tức cùng tùy tướng xuống ngựa, nấp sau những thân cây, bắn cự địch.
    Đại Sơn Vương phất tay làm hiệu, cho tiểu đội tinh nhuệ dàn chắn ngang đầu ngựa thổ phỉ, bắn nhầu. Phía lộ phục, theo chiến thuật Đại Sơn Vương đã định sẵn, viên phó tướng cho quân đánh cắt quan binh thành nhiều mảnh, quay đánh không cho tập trung phản công kịp. Sau mấy loạt súng đầu, Lầm Đại Vương thấy trận phía trước vẫn dằng dai, đã có vẻ sốt ruột, lại thấy quân ngăn lối chỉ chừng hơn tiểu đội, hèn nhảy phóc lên lưng ngựa, bay xuyên ngang, và hai tay hai “pạc hoọc” bắn thốc vào sườn quân địch. Thấy viên tướng Xạ Phang táo tợn xông ngựa vào ngọn súng sơn tặc, Đại Sơn Vương liền vỗ ngựa vọt lên, trỏ mũi súng lên, quát lớn:
    – Thằng giặc kia! Coi đây, tao lấy cặp súng mày!
    Đang bắn, Lừng chưa kịp bắn luôn phát nữa đã thấy từ sau cổ ngựa địch một cánh tay khoa lên, khẩu súng “pạc hoọc” trên tay Lừng đã bị bắn tung, tay kia vừa kịp hạ xuống, đã thấy nhói buốt, rụng nốt khẩu súng nữa, tướng Xạ Phang bật lên giật giọng:
    – Đại Sơn Vương?
    Nã xong hai phát súng, viên tướng núi phóng ngựa lên trước hàng quân, đưa mắt nhìn tứ phía, chợt thấy phía ngang trận thoáng có bóng ngựa phi đại sau cây lá, chàng liền bay ngựa xuyên ngang, cách non trăm bộ., ngạc nhiên, khi thấy chỉ là một bóng người lạ đang tế ngựa đón đầu một tốp ba, bốn người chạy về phía cực Bắc.
    Tới gần mới nhận rõ kẻ trên ngựa mặt cũng bịt khăn kín, dáng nho sinh lảnh khảnh như con gái. Đến cách đầu ngựa đám trước chừng sáu, bảy mươi thước, người có dáng nho sinh liền vọt ngựa lên chắn hẳn lối đi. Đám trước liền dừng ngựa lại, rút súng bắn kẻ chặn đường. Đại Sơn Vương cả mừng khi nhận rỗ chính bọn trại Võ Hậu, Liễu Nương đang áp giải Phượng Kiều. Ngạc nhiên chưa rõ kẻ lạ định làm gì đã thấy người đó tế ngựa lên, hai tay hai súng bắn luôn mấy phát nhào luôn Liễu Nương xuống ngựa. Một tên tùy tướng khác vừa xông lên, lại bị bắn ngã luôn. Còn một tên, thấy Phượng Kiều, liền áp ngựa sau lưng nàng, chĩa súng lên. Đại Sơn Vương trông qua đã biết kẻ lạ bắn súng như thần, còn đang gật khen ngợi, chợt thấy tên tùy tướng Xạ Phang dùng Phượng Kiều làm mộc, cả kinh, vỗ ngựa xuyên ngang, đã thấy kẻ lạ thình lình ngã nhào luôn xuống đất, theo đà ngựa phi, lăn ngang lông lốc như trái cầu.
    – Thổ phỉ chết rồi!
    Đại Sơn Vương vừa trông thấy kẻ lạ ngã lộn như bị đạn, biết ngay định lừa thế bắn ngang, quả nhiên, tên tùy tướng thấy địch ngã nhào liền nhổm hẳn lên chĩa súng chưa kịp bắn, đã bị kẻ lạ vừa lăn vừa vẩy ngọn súng lên nhanh như chớp. Viên đạn bay qua sườn Phượng Kiều trúng giữa ngực tên thổ phỉ.
    Phượng Kiều ngoái nhìn lại, thấy tên giặc cuối cùng ngã lộn, ngạc nhiên đưa mắt nhìn kẻ lạ, chưa rõ kẻ kia định làm gì, thì kẻ lạ đã điềm nhiên nhảy lên lưng ngựa tiến đến trước Phượng Kiều, cúi đầu rất từ tốn:
    – Xin phiền cô nương hãy theo tôi!
    Miệng nói, tay cho súng vào bao, Phượng Kiều thoáng cảm điều bất lợi liền nhân lúc kẻ lạ đang sơ ý, liền giật cương quay ngựa phi luôn. Kẻ lạ lướt theo cách chừng mấy thước liền ném luôn một sợi dây thòng lọng lên trói nghiến Phượng Kiều lại. Và cứ thế, kẻ lạ nắm đầu dây, kèm ngựa sau lưng chừng mấy thước cuốn đi như gió.
    Đại Sơn Vương đương quan sát từ đầu chí cuối, thấy tài lợi hại của kẻ lạ, liền vỗ ngựa đuổi theo không chậm trễ. Kẻ lạ ngoảnh lại, thấy có tiếng người đuổi theo, liền ra roi đánh ngựa nhanh như gió cuốn. Đại Sơn Vương cả giận, rạp mình trên bờm, xả hết sức ngựa vọt lên, qua mấy cánh rừng vẫn không đuổi kịp. Đang đánh ngựa đuổi, chợt Đại Sơn Vương cả mừng, khi chợt thấy con Hắc Phong Câu từ trong rừng hiện ra. Nhanh như con vượn chuyền cành, tướng Thập Vạn Đại Sơn nhẩy phắt sang lưng con thiên lý mã, vỗ mạnh vào hông, lớn tiếng:
    – Hắc Phong Câu! Mi tới đúng lúc lắm! Hãy trổ tài cuốn gió, bắt kịp ngựa trước cho ta cứu nữ chủ !
    Kẻ lạ quay lạ thấy ngựa sau sắp bắt kịp, liền hú lên một tràng dài. Tiếng hú vừa dứt, đã thấy từ phía trước, xuất hiện sáu bảy người lực lưỡng cưỡi ngựa nhất loạt phi ngược chiều lại, chĩa súng bắn xả vào Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi cả giận. Thình lình từ sau bụi rậm, một bóng người thanh thanh bịt mặt lao ngựa ra, vừa vẫy súng hạ quân cản, vừa trỏ về phía trước ra hiệu cho chàng cứ tiến lên. Biết người thanh nhỏ có ý giúp mình, lại e kẻ lạ mặt giải Phượng Kiều đi mất hút, Đại Sơn Vương vội lặng lẽ vòng ngựa theo hình cung đuổi theo gấp, để người đó cản bọn kia. Đang chạy, thấy Đại Sơn Vương đã bắt kịp đang đâm ngay tới, kẻ lạ liền cuốn luôn vòng dây trên tay lại. Biết hắn định áp bên Phượng Kiều lấy nàng làm mộc không cho mình bắn, Đại Sơn Vương vội nhả đạn luôn.
    Phựt, dây thừng đứt đôi, vừa lúc kẻ lạ cuốn chỉ còn cách Phượng Kiều gần hai thước. Nhanh như chớp, Phượng Kiều nằm rạp xuống bờm ngựa, cho chạy luồn sau những cây cổ thụ, vừa chạy vừa giật mối dây thừng. Kẻ lạ mắc ngọn súng Đại Sơn Vương bên sườn, không dám vội đuổi, cũng phi ngựa ẩn sau cây lớn gần đấy. Nhưng Đại Sơn Vương cũng đã chiếm ngay điểm tựa sau phát súng bắn đứt dây thừng.
    – Gã kia! Mi là ai dám mưu đoạt món hàng của chúng ta? Biết điều lui mau, không chớ trách ta tàn nhẫn!
    Không nao núng, kẻ lạ mặt cất tiếng cười ngạo nghễ:
    – Đại Sơn Vương! Chớ khá lấy vải thưa che mắt thánh! Giấu sao nổi mắt ta!
    Chàng tướng núi chột dạ, cau mày suy nghĩ mấy khắc, nhìn trước sau không thấy bóng người, vừa toan đánh ngựa ra, chợt nghe tiếng vó ngựa phóng tới, nhìn ra toàn bóng sơn tặc Tây Phàn, dẫn đầu là hai cô gái họ Cầm, chàng liền phất tay làm hiệu cho Phượng Kiều ẩn sau bụi rậm, và lập tức thúc ngựa bay ngang lựa thế bắn kẻ lạ.
    Nhưng kẻ lạ thấy địch quân tràn tới, đã vọt ngựa đi khỏi, ném lại sau mấy tiếng thách đố ngân dài:
    – Thôi! Ta nhường lần này. Nếu có giỏi, đến gặp ta bên suối Bạc Đầu!
    Lão động chủ vỗ vai Đại Sơn Vương cười ngất, sau khi nghe Đại Sơn Vương thuật chuyện, chận đánh đám thổ phỉ:
    – Võ Long quả không phụ lòng ta tin cậy. Phen này đám thổ phỉ phải kinh tâm. Hãy cho quân gia nghỉ ngơi, tối dự tiệc khải hoàn. Cô gái này trao cho đầu lĩnh!
    Đại Sơn Vương làm mặt cung kính, cúi chào lão tặc và dẫn ngay Phượng Kiều về phòng riêng cuối núi.
    – Sào huyệt này không còn gì để ta lưu lại nữa! Đêm nay chắc phải thức nhiều, em hãy nghỉ ngơi cho mạnh sức.
    Miệng nói, tay tháo tay súng bên sườn, ném xuống giường, Phượng Kiều vội đỡ lấy, đặt lên giá gỗ, khẽ hỏi:
    – Anh nghĩ thế nào về kẻ lạ mặt định bắt em đi!
    Chàng tướng núi trầm ngâm, chậm rãi:
    – Hắn trông dáng nho sinh, nếu không lầm, chính là tên trói gà không nổi, tướng phỉ vừa kể đó! Một mình đội nhập sào huyệt Si Pan, lấy nổi bản đồ bí mật của lão động chủ, xem hắn chẳng phải tay vừa!
    Đại Sơn Vương ngủ một giấc đến xẩm tối mới choàng dậy.
    Phượng Kiều ngồi bên thoi nhựa trám, nhoẻn miệng cười:
    – Lão động chủ vừa cho người tới gọi anh tới dự tiệc khao quân!
    Thấy anh ngủ ngon, em không dám đánh thức.
    Đại Sơn Vương vươn vai, với vội dây súng choàng lưng vừa định bảo gì Phượng Kiều nhưng chợt đứng im lắng tai nghe. Trong hơi gió, vẳng có tiếng nhạc rừng đưa lại, chơi vơi man dại .Chàng tướng núi nắm lấy bờ vai Phượng Kiều, mắt sáng hẳn lên:
    – Đêm nay dạ tiệc, có “Xoè”, bọn giặc sẽ say sưa mê mải, việc giải thoát thầy em thêm dễ. Em khá đóng chặt cửa nằm nhà đợi anh, bất cứ kẻ nào vào, lẩn ngay! Chừng chín giờ, anh sẽ lộn về đón em!
    – Trận thắng vừa qua nhờ tài đầu lĩnh. Đêm nay đầu lĩnh phải cùng toàn động vui say. Bay đâu? Rót rượu!
    Lão động chủ vừa dứt lời, đám sơn nữ hầu bàn dạ ran, nhất loạt tiến cả lại. Rượu mật ong chảy đầy ly, tách. Con gái lão động chủ nâng ly đầu tiên, uyển chuyển tiến đến trước mặt Đại Sơn Vương nghiênn mình liếc mắt tình tứ, thỏ thẻ:
    – Xin đầu lĩnh cạn ly rượu danh dự, cho toàn động được vuị..
    Chàng tướng nút chột dạ, làm mặt thản nhiên, đỡ lấy ly rượu trên tay Cầm Lình. Chàng vừa thoáng thấy cô gái nhúng đầu ngón tay vào ly, nhanh, kín đến nỗi khắp bàn tiệc chỉ riêng chàng nhìn kịp. Biết ngay bọn giặc đã sinh nghi vì tài cầm quân bắn súng khác thường của “Đầu lĩnh Võ Long”, Đại Sơn Vương liền nâng ly rượu, nói ly lời khiêm tốn rồi thản nhiên uống cạn. Không một kẻ nào kịp trông thấy Đại Sơn Vương đổ ly rượu, vì chàng đổ rất nghệ thuật, trong mình lại mặc áo len nên rượu thấrn hết không ố chút nào ra ngoài.
    Dạ tiệc kéo dài hơn tiếng đồng hồ. Cả bọn đều chếnh choáng hơi men. Đại Sơn Vương vốn ít uống rượu, nhưng khi uống thì cả lít vẫn không say. Nhưng chàng vẫn làm vẻ lảo đảo ngả nghiêng vừa “Xoè” cùng bầy sơn nữ. Nữ Thủy Vương Hồ Ba Bể, Cầm Lình thay nhau ép chàng xòe cặp, liên miên. Một lát sau, chàng liền cáo mệt ra ngoài, mặc bọn gian nhảy múa cuồng loạn. Ngoài hang không thấy bóng người. Quân canh mấy đứa đã châu đầu xem nhảy trong nhà sành.
    Đã đến giờ hành động. Đại Sơn Vương định lộn về đón Phượng Kiều nhưng nghĩ thế nào, lại cứ lững thững bước về phía nơi giam Trần Tắc.
    Qua hẳn vùng hang sảnh, tới chỗ vách dựng như thành, nhìn tứ phía, không thấy bóng quân canh, chàng liền dùng thuật phi hành, chạy bay lên ngọn đá tai mèo. Được hơn trăm thước, chợt thoáng thấy có bóng người bên vách núi, chàng liền ẩn luôn vào bụi rậm, lần tới gần mới rõ đó là một viên đầu mục lạ mặt đeo súng đi đi lại lại trước vách đá. Còn đang ngạc nhiên không rõ hắn đứng đó làm gì, chợt thấy bụi cây nhỏ sau lưng hắn động dậy, rồi từ từ chạy sang bên, để lộ một cửa hang tối om. Từ trong, một bóng người bước ra vẫy tay làm hiệu cho tên đầu mục đứng ngoài. Tên đầu mục tiến lại cửa hang, hai tên nói gì với nhau, rồi cả hai cùng bước vào. Cửa hang khép lại. Tò mò, Đại Sơn Vương liền lần tới, đưa mắt quan sát bụi cây, tay vạch từng cành lá. Vừa gạt phải một thân cây, chợt thấy bụi rậm lại chuyển động, rồi chạy sang bên. Nhìn vào hang tối, chàng tướng lạc thảo ngẫm nghĩ mấy giây, đoạn tặc lưỡi bước vào. Vừa vào chừng một bộ, đã thấy bụi ngoài chuyển động, cửa hang đóng ập lại.
    Hơi giật mình, chàng vội đưa tay sờ khắp vách hang, không sao tìm thấy chỗ mở nữa. Chàng liền dựa lưng vào vách đá, định thần trông vào phía trong, thấy tối đen như mực. Áp xuống nền đá, nghe không một tiếng bước chân. Chàng bèn men vách lần vào. Hang rất phẳng, đúng là một hang nhân tạo. Đoán chắc là núi bí mật khác thường, chàng cứ vào mãi, được chừng vài chục bước, thấy nẻo trước mờ mờ sáng, về phía tả mới biết hang ăn vào núi theo hình thước thợ.
    Đi chừng mấy chục thước nữa, chợt thấy dưới chân lồi lõm khúc khuỷu, chàng đứng lại quan sát. Chợt thoáng thấy phía trước có bóng người đi tới, chàng vội áp sát lưng vào vách núi, nín thở đợi. Bóng trước đi rất nhanh có vẻ đã quá quen đường lối. Nhờ ánh mờ từ sau lưng hắn hắt ra, chàng nhận ra chính tên đâu mục lạ mặt vừa vào.
    Chỉ còn cách ba thước. Rồi hai thước. Tên đầu mục chợt dừng phắt lại, lúc đó mới chợt thấy bóng người đứng lù lù bên vách.
    – Ai đó?
    – Ta đây mà!
    Lời vừa dứt, lợi dụng ngay lúc tên đầu mục còn bỡ ngỡ chưa dám định bạn thù, Đại Sơn Vương liền xuất kỳ bất ý, chém ngay bàn tay vào đúng cổ tên gian. Nhát chém tay nhanh như gió, khiến hắn không kịp trở mình, Đại Sơn Vương đã nhẹ nhàng hạ được tên cao lớn không có tiếng động. Càng vào. hang càng đỡ tối. Đi thêm năm, sáu chục bước nữa, chợt tới một ngã ba, trên vách có treo một ngọn đèn đất hắt từng vùng sáng nham nhở khắp lòng hang. Ngay gõ tay mặt có một ngăn ngách có bóng quân canh ngồi dựa vách đá, bên trong có tiếng người thì thào to nhỏ. Đại Sơn Vương lần theo ngách ngõ tối đi, thấy vắng ngắt, thám thính mới rõ chỉ là nơi chứa lương thực. Chàng bèn lộn lại, men vách đến gần lên quân canh, tính băng qua, nhưng phía trước lòng hang sáng quá, biết khó qua mắt hắn.
    Chàng tướng lạc thảo liền ngửa bàn tay trước miệng, vận khí phản phong, thổi lướt theo lòng bàn tay một hơi thật dài, cho ngọn lửa rạp xuống rồi dồn hơi vụt một cái. Ngọn lửa tắt phụt. Lập tức tên quân đứng bật dậy, lẩm bẩm giọng Thổ:
    – Quái! Không thấy gió lùa, đèn lại tắt, hết dầu chắc?
    – Ngoài đó sao tối om thế? Tắt đèn à? Đất vừa đổ mà?
    Chàng tướng núi bước hẳn vào cửa ngách, thấy sáu, bảy tên đang châu đầu đánh bài, một tên dáng đốc gác, đang ngồi uống rượu khan.
    Chàng tuổi trẻ vụt có cảm giác đang bước sâu vào miền địa ngục dị kỳ. Men vách lần vào, đụng phải một hàng chấn song sắt bít hẳn lối đi. Bên trong, có bóng một nữ binh đeo súng đi đi lại lại. Ánh sáng tứ những căn hốc hắt ra loang lổ. Chàng ngồi thụp xuống, sờ tìm nút mở nhưng không thấy. Chờ cho nữ binh tiến lại, nhưng cô gái chỉ đến cách hơn thước lại quay đi, Nghĩ mãi không được cách vào, chàng liền đứng phắt lên, chờ cho cô gái tới gần, thình lình gọi giật giọng khẽ bằng tiếng Thổ:
    – Này cô em! Có việc cần!
    – Gì đó, chú?
    Nhanh như con mèo vồ con chuột chàng tướng lạc thảo luồn tay qua chấn song, bịt lấy miệng ghì ngay lấy nữ binh sát vào, một tay điểm luôn huyệt nách. Cớ gái mềm nhũn người ra, mở to mắt kinh ngạc nhìn chàng.
    – Mở cửa mau! Kháng cự chết ngay!
    Thấy cô gái vẻ ngần ngừ, chàng tướng núi gằn giọng:
    – Chỉ ta chỗ mở chấn song. Nói lớn, mất mạng!
    Vừa nói, chàng vừa giải huyệt cho cô gái.
    Được giải huyệt, cô gái giương mắt nhìn chàng, lẳng lặng giậm chân xuống nền hang. Chàng tướng núi thấy cô gái vừa giậm chân, dưới chân đã chuyển động nhẹ, vụt sinh nghi, liền ghì chặt lấy cô gái. Quả nhiên, sau cái giậm chân thứ ba, hàng trăm ống sắt rút vụt lên cao, đưa luôn cả hai người lên sát trần hang. Nếu không nhanh trí, xà ngang chấn song sẽ hất bắn cả cánh tay chàng lên và cô gái sẽ thoát hiểm.
    – Con bé này gớm lắm!
    Miệng nói, tay điểm mạnh huyệt, cho cô gái thiếp hẳn đi, và chàng từ từ buông mình xuống, đặt cô gái xuống nền hang. Giậm ba cái, cửa sát hạ xuống như cũ. Ném cô gái vào xó tối, chàng tướng núi bước thẳng vào phía trong, đến trước một căn khá rộng, có cửa đóng, trong có ánh lửa. Lấy mũi dao lùa đẩy then ngang, chàng vừa lách vào, đã sững sờ vì quang cảnh bên trong. Bàn ghế, giường màn tủ gương đủ cả, trên tường treo la liệt tranh màu, xiêm y đàn bà vất ngổn ngang trên thành giường mép ghế. Không một bóng người.
    Trước mặt, là một bức rèm hoa. Sau rèm, chợt có tiếng người khúc khích nhỏ to. Ngạc nhiên, chàng tướng núi nhẹ bước thẳng tới, vén cánh rèm hoa. Suýt nữa, người tuổi trẻ đã bật lên một tiếng kêu, vì...
    rèm vừa vén lên, cảnh bất ngờ bên trong đã đập mạnh vào nhỡn quang người tướng trẻ, khiến chàng vụt có cảm giác, mình lạc bước tới phòng kín của dâm thần, bạo chúa.
    Bên kia khay đèn, một hình thù đàn ông nằm nghiêng, mắt nhìn ngọn đèn dầu lạc, trông chênh chếch ra chỗ phía mấy cô gái đang múa trần. Khuôn mặt người đàn ông lấp ló sau thân hình cô gái ngồi bóp chân. Tự nhiên, Đại Sơn Vương tò mò muốn nhìn rõ mặt gã đàn ông trong gian phòng quái ác. Lặng lẽ như cái bóng, tướng núi lách qua rèm. Bọn gái khỏa thân vẫn uyển chuyển lướt trên thềm, câm nín. Tướng núi phục xuống, nương sau đồ vật.
    Vừa trông rõ khuôn mặt dâm thần, chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn giật bắn người lên, như bị điện xẹt. Khuôn mặt đàn ông lồ lộ lên ngọn đèn dầu vàng sệt, rõ từ chân tơ kẽ tóc, khuôn mặt lão động chủ Phản Tây Phàn. Cũng râu thưa mấy chùm, mắt sắc, thoảng coi phảng phất như mặt các quân sư thời cổ, nhưng là một lão động chủ khác.
    Tuy giống lão động chủ chàng vẫn gặp như đúc, nhưng thoạt nhìn, chàng đã nhận ra ngay vì có điểm riêng trên trán, sát chân tóc, người thường không phân biệt nổi. Một lão động chủ lạnh lùng hiểm độc hơn, trong bóng tối Phản Tây Phàn, lão động chủ thực giữa lòng hang quái ác. Điểm riêng chân tóc, vết tích lưu truyền, đã bao năm, Đại Sơn Vương tốn công phu tìm kiếm khắp rừng thẳm khe sâu, phố phường cát bụi, để rửa mối hận lưu truyền! Kẻ đại thù!
    Đứng trong xó tối, tướng Thập Vạn Đại Sơn thấy lão ta úp mặt vào ngực cô gái, chàng cau mày định quay mặt đi trước cảnh khó coi, chợt thấy toàn thân cô gái run hẳn lên, và những tiếng nấc không biết cười hay khóc, trong khi hai tay lão động chủ bấu chặt vào chiếc lưng thon như muốn móc cả đầu ngón tay vào da thịt. Chàng tướng núi thoáng thấy mặt tất cả đám con gái quanh đấy tái hẳn đi vì kinh sợ. Hình như chưa quen với sự giày vò quái ác, cô gái trong vòng tay lão động chủ run lên bần bật, kinh sợ quá, mềm nhũn người như bún dụi xuống giữa cánh tay thép của lão tặc, muốn ngất đi. Đau đớn quá, cô gái vùng rú lên. Quên cả sợ hãi, nắm ngay lấy cổ lão tặc phản đối.
    Lão tặc vùng nổi giận, mắt đục ngầu:
    – À, con này dám cưỡng lại ta! Đem nó cho Hủi Cụt một đêm, mai ném xuống hầm rắn độc! Đem đi ngay!
    Đám con gái sợ hãi, tiến lại ái ngại nắm lấy cô gái khốn nạn dẫn đi! Máu bốc lên mặt, Đại Sơn Vương rút ra một ngọn dao lá liễu, định phóng ra kết liễu đời dâm tặc, nhưng chợt nghĩ đến mảnh họa đồ và lời nguyền võ thuật, chàng lại cho con dao vào tay áo, đảo mắt nhìn theo cô gái xấu số. Ngay lúc đó cô gái đang bóp chân cho lão tặc vội đưa mắt cho đám áp điệu cô gái kia đứng lại. Chỉ non phút sau, đã thấy rèm sau lay động, rồi cô gái thoát y bước vào, dẫn theo đến mấy thiếu nữ.
    Thoạt trông, Đại Sơn Vương đã đoán đám đàn bà con gái có sắc đẹp mặn mà có vẻ con nhà khá giả cả. Người mặc quần áo Thái, người mặc lối Kinh, Tàu, đủ loại, mặt còn khắc rõ dấu kinh sợ, não nùng.
    – Không ngờ tại dải đất này lại có thằng giặc già sống như bạo chúa thế ư?
    Ngay lúc đó, lão tặc ngồi phắt lên, dựa lưng vào đệm thịt, mắt trừng trừng nhìn khắp lượt, đám đàn bà mới đến. Tia mắt lão tặc nóng bỏng như tia lửa, khiến đám đàn bà nhớn nhác trông nhau, chỉ muốn khóc.
    Lão tặc khẽ hất hàm ra hiệu. Cô gái thoát y thấy đám đàn bà này vẫn ngơ ngác đứng trân trân, liền tiến đến vừa lấy tay ra hiệu, vừa ái ngại bảo khẽ:
    – Kìa! Động chủ truyền bỏ xiêm y, mau lên, không có lại ném hầm rắn độc bây giờ. Vào đến đâỵ.. Còn gì nữa. Mau lên!
    Đám đàn bà mới bị bắt chưa quen với tục lệ nơi mật thất giặc già, vẫn còn cả thẹn, len lén ngó nhau. Một người chắc đã có chồng, biết chậm trễ sẽ chết uổng, liền đưa mắt cho đồng bọn và đánh bạo thoát y. Cả bọn noi gương làm theo. Đứng trong bóng tối, đã mấy lần chàng tướng núi rút dao ra, lại phải cố nén, lần này không nhịn được nữa, phải quay mặt đi. Thình lình có tiếng roi rít phía sập rồi những tiếng rên rỉ xuýt xoa nổi lên. Ngạc nhiên chàng tuổi trẻ quay mặt lại.
    Đám đàn bà con gái vừa thoát y đang quằn quại dưới ngọn roi da. Có kẻ nằm lăn lên trên mặt sàn, không dám chạy, kêu, chỉ sợ hãi, oằn mình đỡ. Mắt đỏ ngầu, lão động chủ mím miệng quất ngọn roi da vun vút xuống những thân hình đẹp đẽ không tiếc tay. Như điên dại, vừa quất, vừa rít lên những tiếng lạ lùng, giọng như từ chốn diêm la thập điện vẳng về.
    Không cầm lòng trước cảnh liễu yếu tay mềm quằn quại tả tơi dưới ngọn roi ma quái, chàng tướng Thập Vận Đại Sơn rút phắt ngọn dao lá liễu, vừa toan vung tay phóng về phía lão tặc Tây Phàn, chợt tay dao dừng phắt trên cao, vì lão tặc đã thình lình rít lên kỳ dị:
    – Bay đâu! Lấy cặp roi da khác, lớn dẻo! Một đứa ra truyền cận vệ đi bắt ngay con gái Trần Tắc đến cho ta! Con gái họ Trần! Trờị..
    mới xứng đáng cặp roi quý... Đi ngay!
    Đại Sơn Vương giật mình, biết tình thế mười phần nguy ngập vì giờ này Phượng Kiều đang chờ đợi tại phòng riêng, chàng tướng núi dợm mình bước ra hạ kẻ đại thù dâm ác, nhưng bất ngờ nghe một tiếng “vút” bên tai, một vật loáng sáng như vệt chớp từ phía sau bay thẳng vào ngực lão động chủ. Keng. Vật sáng ngẫu nhiên bị roi da quật trúng, rơi mạnh trên sập. Lão tặc dừng phắt tay roi, vừa đưa mắt ngó ngọn dao nằm trên sập, thì một ánh chớp nữa đã bay tới.
    Đại Sơn Vương thấy rõ vệt sáng đã bay tới cách ngực lão chỉ cách độ một gang tay, chợt thấy lão ta khua nhẹ tay một cái, dưới ánh sáng mầu vàng, ngọn dao đã nằm gọn trong bàn tay xương xẩu. “Vút”, lưỡi dao lập tức bay ngược theo hướng trước.
    Đại Sơn Vương quay ra, thấy rõ một bóng người móc chân lên, dốc ngược đầu xuống như con mối rụng ngay xuống sàn, tay đã thu gọn lưỡi dao về từ lúc nào rồi. Bóng lạ đứng khoanh tay ngay giữa khung cửa, dõng dạc:
    – Dâm tặc! Ta tìm mi đã mấy năm rồi! Tội ác đã chất đầy, chạy đâu cho thoát!
    Dứt lời, bóng lạ nhảy vọt luôn vao trong, thân hình lướt qua sườn Đại Sơn Vương, phả cả hương thơm vào mũi chàng. Trông theo, đã thấy bóng lạ đứng giữa vùng ánh sáng lung linh, hiện ra một có gái đẹp tuyệt trần, dáng hình thanh nhỏ như Phượng Kiều, môi đỏ như son, da trắng hồng, mắt phượng, mày ngài, trông đúng là một cô tiểu thư khuê các, không có vẻ gì là gái xông pha. Sự xuất hiện thình lình của người lạ khiến đám con gái khỏa thân vội len lén rút cả vào một góc phòng, vừa sợ vừa mừng nhìn cô gái. Qua phút tức giận, lão dâm thần trố mắt lặng lẽ nhìn nhìn trân trân địch thủ như đã bị mê hồn vì sắc đẹp mỹ nhân.
    – Cô em vào đúng lúc lắm!
    Thiếu nữ cả giận quắc mắt phụng, đặt tay mạnh vào sườn. Xoạt, một vùng sáng biếc lóe lên, tay búp măng đã cầm gọn một thanh trường kiếm, mỏng như giấy. Chém gió nhẹ một cái, lưỡi gươm đã thẳng cứng ra. Lão động chủ vừa trông thấy thanh gươm báu đã chột dạ, lùi lại một bước, vì lưỡi kiếm uốn quanh sườn cổ kim vẫn là loại bảo kiếm, loại lưu đầu của võ sĩ đạo Phù Tang cũng không sánh kịp.
    Vì loại kiếm biếc đời nay không phải là cổ khi lưu truyền, chém sắt như bùn, chỉ chạm nhẹ vào người đứt như xả nước.
    Thiếu nữ khoa kiếm, rún mình nhảy tới lia luôn mấy đường nhanh như chớp. Lão tặc hụp đầu tránh khỏi, chờ cho đường kiếm chém phạt, liền uốn mình lộn xa một vòng, đồng thời đánh mạnh roi da vào tay thiếu nữ. Nhưng người đẹp chẳng phải tay vừa, chỉ phạt đứt nửa chửng đã dừng luôn, đảo nhẹ tay tránh đường roi và bồi chặn luôn một nhát đứt cụt ngay ngọn roi da. Đứng ngoài, Đại Sơn Vương không khỏi thầm khen tài đánh kiếm của thiếu nữ lạ. Chợt thấy lão động chủ lùi dần, thiếu nữ vẫn tiến theo, ngại nàng sa lầm quỷ kế, thình lình có tiếng người quát khẽ đâu đây:
    – Coi chừng!
    Tiếng quát chưa dứt đã thấy lão tặc giậm mạnh chân xuống sàn.
    Thì bất ngờ sàn tụt hẳn xuống một mảng lớn hơn mấy thước vuông, để lộ một hầm sâu thăm thẳm. Đang đà hạ xuống, thiếu nữ thấy sàn đá tụt xuống thành hang, chỉ còn cách đánh mạnh hai chân vào không khí, đồng thời vắt ngã mình sang ngang, nhưng không kịp nữa. Hốc hang quá rộng, chân gần sàn quá rồi.
    Đại Sơn Vương thấy thế nhưng đứng mãi một góc phòng xa vô kế khả thi, may thay, giữa lúc vạn nan, chợt từ trên bức rèm gần đấy, một bóng người lao vụt xuống, thuận đà ôm luôn nàng lăn mấy vòng, mới đứng phắt lên, nhẹ buông cô gái lạ ra.
    – Khách Giang Hồ!
    Lão tặc bật kêu lên bực tức, giữa lúc có tiếng chuông réo inh ỏi khắp mật thất. Thiếu nữ nhận ra kẻ cứu mình vọt khỏi miệng hầm là một chàng trai mặt xanh như Đơn Hùng Tín, thẹn thùng chưa kịp lên tiếng, chợt thấy lão tặc đã vừa quài tay với khẩu súng sau lưng. nàng vội vươn tay chém xả tới một nhát trúng ngay ngọn súng văng luôn ra xa.
    Tách tách tách... thình lình từ sau rèm, hàng loạt tên bắn ra như mưa đạn. Khách Giang Hồ, cô gái lạ đã kịp cất mình nhảy vụt đi, nhưng ngay lúc đó chợt một mạng lưới thép từ trên chụp xuống, kín phòng, úp luôn cả hai trong nháy mắt. Trước cảnh hiểm nghèo, thiếu nữ lạ không hề nao núng, vung tròn tay kiếm chém xả vào lưới thép.
    Màng lưới đứt tung hình khoanh bi. Cô gái lạ cùng Khách Giang Hồ nhảy vọt ra ngoài.
    Thấy hai người thoát lưới. Đại Sơn Vương liền nhảy luôn ra cửa, ẩn luôn vào bóng tối:
    – Cứ thẳng đường thoát ra cửa hầm gần đấy! Nán lại thêm chúng vít cửa hầm nguy đó!
    Cô gái lạ và Khách Giang Hồ còn đang đưa mắt tìm quanh, chợt từ phía trước, lố nhố những tên cận vệ xách súng chạy tới. Hàng loạt đạn từ trong bóng tối xả ra, mấy tên đi đầu nhào luôn, vật mình vào vách đá. Mấy tên đi sau cả kinh dừng phắt lại, chạy giạt sang hai bên, tìm chỗ nấp. Khách Giang Hồ nhanh nhẹn cùng thiếu nữ xông lên, mỗi người nắm luôn một xác cận vệ làm mộc chắn, vừa bắn vừa tiến qua cửa sắt.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      Hồi 15 - Động Chủ Phản Tây Phàn (tiếp theo)

      Đại Sơn Vương lập lức lộn vào mật thất, thấy đám con gái đã chạy đâu cả, đảo mắt nhìn quanh thấy sau cánh rèm hữu có tiếng động, bèn bước đến, vén trông vào, thấy đám con gái nấp cả vào đó, chàng liền lách luôn vào. Đám con gái thoát y vừa thẹn vừa sợ lùi sát vào tường, Cô gái có vẻ đàn chị hơn cả, chắp tay vái lia lịa:
      – Trăm lạy đại vương tha tội, chúng em đều bị....
      Đại Sơn Vương thấy đám con gái sợ hãi, ái ngại giơ tay làm hiệu ngắt lời, đoạn cắm súng vào bao, nghiêm nghị bảo:
      – Các nàng đừng sợ. Ta đã biết các nàng đều bị lão tặc Tây Phàn cưỡng hiếp. Ta tới đây để trừ con quỷ sống. Nó chạy trốn đâu rồi?
      Đám con gái ngơ ngác nhìn nhau. Cô có vẻ đàn chị trỏ sang phía tả, khẽ nói:
      – Bên đó có nhiều nơi bí hiểm, có đường riêng chạy đi các ngả.
      Em ở đây đã hàng năm nhưng cũng không được biết.
      Đại Sơn Vương vội quay hỏi cô gái đàn chị:
      – Đây còn lối thông ra?
      Cô gái gật đầu lễ phép:
      – Dạ.... em có biết một lối, nhưng không kịp nữa rồi!
      – Sao?
      – Vách hang sẽ mở ra và chúng... sẽ tới ngay.
      Đại Sơn Vương trông ra. Quả nhiên đã thấy bóng lũ sơn tặc in rõ trên rèm, chĩa súng dò tìm từng bước. Tiến thoái lưỡng nan, không còn cách gì hơn, chàng đành chĩa súng ra quyết tử. Nhưng bất ngờ, cô gái đàn chị đã xông tới nắm phăng lấy cánh tay chàng tuổi, khẽ nhanh giọng:
      – Chúng đông lắm... Chớ bắn!
      Dứt lời, cô gái nhanh nhẹn kéo luôn chàng vô nẻo sau và đẩy luôn chàng vào giữa đám con gái thoát y! Chàng tuổi trẻ toan vùng ra, thì ngoài kia, liền mấy bàn tay đã vén cánh rèm và đám con gái đã nhanh trí đứng vây cả lấy chàng kín như bưng. Trong nháy mắt, chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn đã lọt vào giữa những pho tượng thần Vệ Nữ chật như nêm cối. Biết chàng tướng núi khó chịu muốn thoát ra, một cô gái đứng phía sau khẽ thỏ thẻ:
      – Đại Vương chịu khó đứng chút thôi! Chúng vào đó!
      Lời vừa dứt, đã nghe có tiếng đàn ông giật mình bật kêu sửng sốt:
      – Uý trời! kìa!
      – Ấy chết!
      Đại Sơn Vương hé mắt trông ra, thấy mấy cái đầu giặc vừa thò vào vội giật ra như bị điện giật. Cô gái đàn chị vờ làm vẻ thẹn, cự luôn:
      – Kìa! Các chú... sao lại vào đây? Có ra ngay không?
      Một tên dáng đội trưởng nhe răng cười:
      – Anh em chúng tôi tìm thích khách! Phiền các cô nương chút...
      Cả đám con gái nhất loạt xua tay, nhao nhao cả lên. Cô gái đàn chị phất vải lụa vội vàng:
      – Đây làm gì có ai. Buồng chỉ có chị em chúng tôi chúng tôi mà.
      Thích khách thoát lưới nó chạy cả ra lối đó rồi mà!
      Miệng nói, tay quơ xiên y ném tung vào đám con gái. Mấy gian tặc đưa mắt ngó khắp gian phòng trống trải, trước khi quay ra, tên đội trưởng còn vờ lần chần hỏi đùa:
      – Thật nó không có đây à? Hay các cô nương lại giữ nó làm của riêng đó?
      Dứt lờt, hắn nhe răng cười, tiếc rẻ vẫy đồng bọn đi ra. Đám con gái lập tức đứng giạt ra. Chàng tướng núi thở phào, xẵng giọng:
      – Đâu tướng hầu đâu?
      Cô gái đã chỉnh tề xiêm áo, nói như tạ lỗi:
      – Thật vạn bất đắc dĩ. Chị em tôi thật thất lẽ với Đại Vương. Giờ xin đưa người ra!
      Đại Sơn Vương bước theo, cô gái vừa toan giật mối, cho vách liền lại, chợt có tiếng đồng bọn nói vọng vào gấp gấp:
      – Lão động chủ sắp vào!
      Cô gái giật mình, quay nhìn Đại Sơn Vương:
      – Thân chúng em có thác cũng không còn gì luyến tiếc, chỉ e nó vào thấy, sẽ... nguy cho Đại Vương...
      Đại sơn Vương vội bảo:
      – Nàng có thể trở ra. Nhưng đường nàỵ..
      – Sẽ đưa thẳng tới ngục Hủi Cụt, nếu cứ tay phải mà đi, và phải men sát vào vách trái, tới ngã ba phải nhảy qua mới được! Và Đại Vương phải đề phòng quân canh!
      Thấy nói đường đưa tới ngục, Đại Sơn Vương cả mừng liền phất nhẹ tay, dịu dàng:
      – Nàng khá trở gót. Xong việc, ta sẽ trở lại đưa các nàng ra khỏi địa ngục Si Pan!
      Chàng tướng núi tiếp tục men vách đi, cứ dăm chục bước, lại gấp ngã ba, cứ thế đi chừng mấy phút, chợt thấy nẻo trước có ánh lửa le lói thận trọng lần tới, thấy một bóng người cầm súng đứng trấn ngã ba, lưng dựa vào vách. Lượng không thể qua êm được, chàng tướng núi liền rút dao phóng trúng yết hầu tên giặc. Lạ thay, hắn vẫn đứng trơ trơ, ngạc nhiên tới gần mới biết, hắn đã chết từ lúc nào rồi, bị trói vào thạch nhũ. Chợt thấy đường quen quen, định thần quan sát mới hay đã tới khu nhà giam. Đại Sơn Vương cả mừng liền phóng thẳng tới phòng Hủi Cụt, thấy cửa hé mở, nhìn vào không thấy hắn đâu, vừa toan tiến lên đã thấy hình thù cao lêu nghêu của con quỷ sống xuất hiện ngay trước cửa, đang tấp tểnh xách súng đi lại, sau lưng có hai tên nữa. Không chỗ rút, bí quá chàng tướng núi liền lách luôn vào phòng Hủi Cụt, ẩn bên cửa. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần. Hủi Cụt hiện ngay giữa khung cửa. Vụt. Cánh tay tướng núi đánh ra, bàn tay xoè chém trúng cổ con quỷ. Con quỷ không kịp trở, trước cú thần tốc, gục xuống. Hai tên đi sau đã kịp thấy tay vung sau cửa, liền đứng phắt lại, quay ngọn súng. Nhưng tướng núi đã xông ra, nắm hai cây súng dìm xuống, đồng thời tung luôn hai ngọn cước vào hạ bộ. Hai thân hình đạo tặc dụi luôn không kịp kêu một tiếng. Cúi xuống lần chùm chìa khoá trong mình Hủi Cụt, người tướng núi tới phòng giam.
      Dưới ánh lửa chập chờn, Trần Tắc dựa lưng vào vách, đầu cúi gục, tay chân xiềng xích, cổ gông, như bóng u hồn trong hỏa ngục.
      Đại Sơn Vương lẳng lặng tiến lại bên Trần Tắc, mở xích, đỡ họ Trần dậy. Bị hành hạ đầy ải gớm ghê, Trần Tắc hom hem lảo đảo, cuồng cẳng mãi không đứng vững.
      – Ông cố gượng đi được chăng?
      Trần Tắc giường mắt lờ đờ nhìn kẻ lạ, run giọng:
      – Ông định cứu Trần này ra khỏi đây sao?
      Đại Sơn Vương khẽ giục:
      – Thôi ta đi thôi, ở đây thêm bất lợị..
      Trần Tắc cố gượng bước đi nhưng được mấy bước, đuối sức quá, bước không nổi, dụi xuống. Biết họ Trần đã kiệt sức vì bị tra tấn, Đại Sơn Vương liền cúi xuống xốc phăng Trần Tắc lên vai, nhanh nhẹn bước ra khỏi nhà ngục. Vừa đặt chân tới ngoài, chàng tướng núi đã nghiêng đầu lắng tai nghe phía đại sảnh, hình như vẫn vẳng tiếng khèn lau nổi chìm trong thanh vắng mơ hồ, như không hề biết chuyện gì vừa xảy ra giữa ruột núi, ngay lòng dinh động chúa Si Pan.
      Nhớ tới Phượng Kiều, chàng tuổi trẻ vội dùng thuật dạ hành, băng mình trong đêm tối, cố lẩn tránh những cặp mắt soi mói của quân giặc. Qua chỗ cửa hầm trước, chàng lấy làm lạ vì cảnh vật im lặng, như không, cửa hầm vẫn đóng, bốn bề tuyệt không thấy bóng người. Đoán có lẽ Khách Giang Hồ cùng thiếu nữ lạ đã ra ngoài, và lão động chủ không muốn khuấy động phía quân ngoài, chàng liền vác Trần Tắc vòng xuống sườn ngang, đi miết. Tới vùng đại sảnh, vẫn nghe có tiếng khèn vọng ra, lẫn tiếng cười đùa, chàng càng lấy làm lạ, linh lính như báo có sự chẳng lành xảy đến cho người yêu, chàng vội dung thuật phi hành băng về chỗ Phượng Kiều.
      Tới cửa hang, nhìn vào, vẫn thấy ánh lửa hắt hiu, áp má xuống đất nghe không có gì lạ, chàng liền đặt Trần Tắc ngồi dựa vào một mô đá khuất, đoạn tiến đến trước cửa.
      Cửa khép hờ. Một hơi gió đêm thoảng lùa, cánh cửa mở toang ra kêu két két.
      – Phượng Kiều! Em!
      Chàng tướng núi lách vào đứng sững, bàng hoàng giữa căn phòng trống. Người đẹp Phượng Kiều đã vắng bóng, đồ vật trong phòng bị ngổn ngang, ngay bên cửa, còn nằm vật hai xác người lực lưỡng. Lật lên coi, thấy dấu hiệu giặc Tây Phàn. “Xắc” hành lý dầu giường cũng không còn nữa!
      – Chậm quá rồi? Chúng đã kịp tới bắt nàng giam đâu?
      Đại Sơn Vương trừng mắt nhìn thoi nhựa trám lắt lay, đoạn quay phắt ra ngoài, xốc Trần Tắc lên vai, lộn lại khu sảnh.
      – Ông mệt hãy ngồi đây, tôi còn chút việc bận, mấy phút sẽ quay lại đón!
      Đặt Trần Tắc vào bụi khuất, chàng nương bóng tối, lần vào. Bên trong, ánh sáng ảo huyền, bọn sơn tặc đang quay cuồng xoè múa. Để ý trông, không thấy bóng lão động chủ cùng hai cô gái đâu cả. Còn đang suy tính, chợt thấy một gã tùy tướng tập tễnh từ căn bên ra, vừa đi vừa buộc băng, theo sau có một sơn nữ, dáng điệu vội vã. Tới gần chỗ Đại Sơn Vương, tên tuỳ tướng bảo sơn nữ:
      – Lát nữa, anh sẽ về ngay. Giờ phải dẫn quân đi gấp đã.
      Dứt lời, hắn tập tễnh đi luôn. Lần theo, thấy hắn men ra lối sườn hang, đã có hơn hai mươi kẻ túc trực ở đó, nửa đàn ông, nửa đàn bà.
      – Nhanh lên! Nhị cô nương đang chờ. Chậm, khéo nó thoát mất!
      Miệng nói, tay vẫy đám kia, chạy xuống núi. Vừa nghe tiếng, Đại Sơn Vương nghĩ ngay tới Phượng Kiều, toan băng mình theo, nhưng nghĩ tới Trần Tắc, chàng liền quay lại bụi rậm. Trần Tắc cả mừng đứng lên, thấy chàng định cúi xốc lên vai, vội nói:
      – Tôi đã thấy hơi hồi sức! Ân nhân cứ để tôi đi cũng được!
      Họ Trần lảo đảo bước, được mấy thước, thấy hắn còn yếu chậm quá, chàng tuổi trẻ liền xốc phăng Trần Tắc lên vai, băng theo đám sơn tặc. Xuống tới chân núi đã nghe tiếng súng đì đẹt, thấp thoáng trong đêm mờ, có bóng ngựa sơn tặc bao quanh một khoảng rừng rậm, hình như đang lựa thế bắt người bên trong.
      Thấy sắp chạm mặt hai nữ tặc họ Cầm, Đại Sơn Vương liền lặng lẽ rẽ ngựa, ẩn vào chỗ khuất. Nữ Thủy Vương Hồ Ba Bể chỉ huy một toán nữ binh ngay chân núi, thấy viện binh sơn tặc tới liền hô lớn:
      – Nương thân cây xiết chặt vòng vây vào. Tới gần, xuống ngựa, cố bắt sống nó cho ta! Phía bên kia đã có Cầm Lình cô nương rồi!
      Sơn tặc dạ ran, nhất tề xông tới. Bên trong rừng rậm, trông không thấy bóng người. Muốn liên lạc với bên trong, lại vướng vòng vây sơn tặc, muốn đánh thốc vào lại chưa biết chắc có thực Phượng Kiều không? Chợt nẩy ra ý định táo bạo, chàng bèn kiếm chỗ kín ngoài vòng giấu Trần Tắc kỹ, rồi tiến ngựa lên tới gần vòng vây, xuống ngựa, tìm thế luồn rừng lách vào.
      Vòng vây sơn tặc mỗi lúc thêm thắt chặt. Đám sơn tặc nhất tề nổ súng. Lợi dụng lúc loạn xạ, chàng tướng núi liền khum tay lên miệng, hú lên mấy tiếng. Tiếng hú vừa dứt, đã nghe có tiếng đáp lại, rõ ràng tiếng thanh quen thuộc của Phượng Kiều. Chàng liền hú lại thử, nhưng lần này tuyệt không tiếng đáp. Còn đang ngẫm nghĩ, thình lình phía sau sơn tặc, có từng loạt súng nổi lên. Tiếp theo nhiều tiếng vó ngựa khua mạnh trên lá rụng. Đám sơn tặc đang tiến ngừng cả lại.
      – Hãy đề phòng có địch đang tập hậu!
      Tiếng quát của Nữ Thủy Vương vừa bật lên, Đại Sơn Vương đã thấy nhiều bóng ngựa trong đêm mờ lướt tới sau lưng sơn tặc. Biết bọn kia đã đưa kẻ bị vây ra, Đại Sơn Vương chạy vụt tới, cố định thần nhìn kỹ, chỉ thấy loáng thoáng bọn đàn ông vọt đi rất nhanh giữa đám mờ. Nhanh nhẹn, chàng liền ẩn sau một thân cây, chiếu vội đèn bấm lê luồng sáng trên mình đám người lạ, chợt suýt bật kêu lên vừa mừng vừa giận, vì thoáng thấy bóng dáng Phượng Kiều ngồi trên lưng ngựa cùng một người đàn ông lạ.
      Đoàn người ngựa vọt đi như gió, một vài kẻ bị đạn ngã nhào.
      Đám sơn tặc nhất tề lên ngựa đuổi theo. Đại Sơn Vương cũng nhân lộn xộn, nhảy phắt lên một con ngựa vô chủ, phóng theo. Đám lạ vừa chạy vừa bắn ngược lại, sơn tặc vừa đuổi vừa bắn vãi lên.
      Biết sức ngựa thường khó bắt kịp, chàng sực nghĩ tới Hắc Phong Câu, liền hú lên một tràng lớn. Vẫn không thấy gì. Chàng cứ rạp mình, vừa chạy ngựa vừa hú liên hồi, vang vọng đêm khuya. Ngựa trên mỗi khắc thêm xa. Rồi mất hút nẻo rừng phía trước, chỉ còn thấy bóng sơn tặc Phản Tây Phàn.
      Giữa lúc Đại Sơn Vương thất vọng, thình lình nghe bên tai có tiếng ngựa hí vang lừng. Nháy mắt, đã thấy dáng Hắc Phong Câu tung bờm bay tới, kèm ngay một bên, dáng hí hửng mừng chủ tướng.
      Đại Sơn Vương cả mừng, nhảy phắt sang lưng linh vật, vỗ luôn mấy cái:
      – Hắc Phong Câu mi thính tai lắm! Mau đưa ta đi cứu nữ chủ lần nữa!
      Con vật khôn ngoan cất tiếng hí như đáp lời, chồm vó lao đi như tên, thoáng cái, đã bắt kịp hậu quân sơn tặc. Đại Sơn Vương đang cho ngựa tiến thẳng, chợt thấy đám sơn tặc dừng cả lại, giữa những tiếng nổ chát chúa. Biết sơn tặc bị đánh bên hông, Đại Sơn Vương liền rẽ ngựa chạy theo hình cánh cung vòng ra ngoài khu chiến.
      Đi được một quãng, quả nhiên đã thấy nhiều bóng người ngựa lố nhố giữa cây lạ, đám quân lạ phục đánh thốc vào sườn giặc Phản Tây Phàn, cố ý cản bước tiến của địch. Chàng liền bỏ mặc, thúc ngựa vọt lên, được một quãng khá xa, nhìn nẻo trước không thấy bóng người, còn đang định thần tìm kiếm, chợt thấy phía hữu có một bóng ngựa xiên ngang, chàng cả mừng, vội thúc ngựa bay lên. Cách mấy chục thước, chàng liền hú lên mấy tiếng báo hiệu, không thấy tiếng đáp lại, chàng liền thúc ngựa sải vó thêm gấp gấp.
      – Kẻ nào đi trước, dừng lại, không ta bắn nát óc!
      Tiếng quát theo gió bay lên, chợt thấy ngựa trước quay ngang, ẩn luôn sau một thân cây. Dưới đêm mờ, chàng thoáng thấy trên lưng ngựa chỉ có một bóng người. Ngạc nhiên, chàng cứ thốc lên. Đoàng!
      Một phát đạn từ sau thân xẹt sát mang tai Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi cả giận lao vọt ngựa sang, vẩy luôn ngọn súng thần xạ.
      Bóng người nhào luôn xuống ngựa. Xốc lên, chiếu đèn thấy chỉ là một tên hoàn toàn lạ mặt. Bực tức, chàng đành lên ngựa, vọt đi. Được hơn trăm thước, Đại Sơn Vương thấy rõ có hai bóng người ngồi trên ngựa, đoán có lẽ có cả Phượng Kiều nữa, bèn vỗ Hắc Phong Câu quát lớn:
      – Biết điều dừng lại! Có Đại Sơn Vương tới đây!
      Đoàng... đoàng... liền hai phát đạn bắn ngược lại. Nếu không nhanh trí, lòn xuống hông ngựa, đạn đã xói trúng ngực rồi. Biết kẻ lạ là tay súng giỏi, Đại Sơn Vương bèn rạp mình, cứ thế vượt lên, bóng ngựa trước vọt đi ngay. Chạy tới chỗ ngựa trước dừng, chàng tướng núi nghe có tiếng ầm ầm như sấm chuyển, tiến thêm đoạn nữa đã thấy thấp thoáng bóng con thác đổ trắng xóa. Bị thác chắn đường, ngựa trước lại quay ngang, tần ngần mấy giây, mới chạy dọc theo con thác. Đại Sơn Vương cả mừng xả hết lốc lực đuổi riết. Đạn từ trước vẫn bắn xả lại sau. Chàng tướng núi cho ngựa chạy chữ chi, tránh đạn, muốn bắn lên, e phạm phải Phượng Kiều, đành cứ vừa tránh vừa xông lên thật gần.
      Vừa vặn, bóng trước quài tay bắn lại sau, chàng tướng lạc thảo liền đánh tay xuống sườn nhanh như máy. “Đoàng”. Chàng thấy rõ cánh tay bóng trước chới tới giữa đêm mờ. Vẩy luôn phát nữa, một bóng nhào từ lưng ngựa xuống đất, lăn như trái cầu. Hắc Phong Câu chồm lên, lia đèn quét đất. Đại Sơn Vương còn thấy rõ bóng người lăn tòm xuống dòng thác cuộn, nước ầm ầm lồng lộn cuốn chìm nghỉm mất tăm.
      – Em... may quá! Suýt nữa không kịp...
      Đại Sơn Vương áp ngựa lại, quài tay ôm bồng Phượng Kiều sang lưng Hắc Phong Câu, giật chiếc khăn bịt miệng nàng ra.
      – Anh... trời!....
      Thiếu nữ ôm chầm lấy người yêu.
      – Em làm anh vất vả quá. Nó rơi xuống thác rồi sao?
      Đại Sơn Vương lia đèn xuống mặt thác cuộn, âu yếm nói như tạ lỗi:
      – Anh trở lại hơi chậm, suýt lỡ cả! Bọn nào đây?
      – Lạ lắm anh ạ! Chúng đến giữa lúc mấy con nữ tặc Tây Phàn lại bắt em. Tưởng chúng giúp, em cùng chiến đấu hạ Tây Phàn, chạy ra khỏi, thình lình chúng quay ra bắt em. Em nghi kẻ cầm đầu là tên có dáng nho sĩ hồi chiều. Thằng kèm em cũng có bản lãnh lắm, nhiều phen định hạ, không được.
      Chợt nhớ ra, Phượng Kiều khẽ hỏi:
      – Thế... thầy em ra sao?
      Đại Sơn Vương trỏ tay về phía chân núi Fan Si Pan.
      – Anh đã cứu ra để chỗ khuất để đi tìm em. Giờ có thể lộn lại.
      Tới nơi, không thấy bóng Trấn Tắc đâu, cả hai ngạc nhiên sục tìm, mãi mới thấy xa xa có bóng người thất thểu đi về cánh rừng hương Sa Pa, lại gần cả mừng. Nguyên Trần Tắc nghe tiếng súng gần quá, thấy kẻ cứu đi mãi không trở lại, vừa sốt ruột, vừa sợ, không đợi được, lại thấy trong mình đã khá, liền lần tránh xa vùng súng nổ.
      Phượng Kiều nhảy từ lưng ngựa xuống, ôm chầm lấy cha, nức nở:
      – Thầỵ.. trời ơi! Thầy biến đổi đến thế này ư? Giặc Tây Phàn hành hạ thầy đến thế này ư? Thầỵ..
      Gặp mặt con quá bất ngờ, Trần Tắc cảm động quá, mãi mới nói nên lời:
      – Con... Con đây sao? Thầy mê hay tỉnh thế này?
      – Con đâỵ.. Thầỵ..
      Hai cha con xúc động nghẹn ngào. Cảnh phụ tử tương phùng khiến Thập Vạn Đại Sơn bất giác cảm động lây, chậm chạp quay mặt đi, tự nhiên khẽ thở dài. Qua giây phút xúc động, chợt Trần Tắc vùng nhớ ra:
      – Ân nhân đâu? Người là ai mà...
      Phượng Kiều dìu cha tới trước Đại Sơn Vương. Lúc đó chàng tướng núi vẫn đội lốt Võ Long, vội đưa mắt cho Phượng Kiều, khẽ giục:
      – Đây vẫn trong vòng giặc dữ Tây Phàn. Cô nương nên dìu thân phụ lên ngựa, đi khỏi ngay cho tiện!
      Biết người yêu muốn giấu, Phượng Kiều nghĩ mấy khắc, định xốc cha lên yên. Đại Sơn Vương đi trước mở dường, cứ thẳng hướng Sa Pa tế ngựa. Đi gần tới thị trấn, chợt thấy bóng ngựa quan binh, chàng vội đưa cha con Phượng Kiều ẩn vào cánh rừng bên. Trông ra, thấy đám tiền đạo quan binh đi vừa khỏi, đã thấy quan binh trùng trùng lớp lớp kéo tới, vừa bộ vừa ngựa đông có tới hơn ngàn. Nhờ ánh mờ, chàng nhận rõ được cả tướng Roux cùng đại tá Gilbert đi lẫn giữa hàng quân. Qua khỏi chỗ Đại Sơn Vương, đoàn quan binh chia làm mấy cánh tiến thẳng về phía chân núi Fan Si Pan. Ngó qua đã rõ ngay là một cuộc hành binh tác chiến. Trần Tắc vừa trông thấy bóng tướng Roux, Gilbert, đã bật lên:
      – Quan binh đến đánh Tây Phàn! Ta lộn lại cùng quan binh...
      Đại Sơn Vương đứng cạnh vội đưa mắt cho Phượng Kiều gạt đi:
      – Thấy còn mệt lắm. Hãy về tìm nơi nghỉ cho lại sức đã... sau sẽ liệu.
      Dứt lời, nàng giật cương theo Đại Sơn Vương đi liền. Chẳng mấy chốc đã tới Sa Pa. Miền thị trấn cao nguyên đang đắm chìm trong giấc ngủ. Thiếu nữ chạy lại bên Đại Sơn Vương khẽ bảo.
      – Đêm đã khuya rồị.. Anh hãy vào nghỉ kẻọ.. sương lạnh...
      Đại Sơn Vương đăm đăm nhìn người yêu, đoạn ngó lên trời:
      – Em hãy săn sóc thầy em. Nơi này gần sào huyệt giặc, nán lại e không tiện. Mai khá đưa ngay thầy em về Lào Cai, xuôi về Hà Nội thuốc thang. Chuyện gì sau sẽ liệu. Anh phải đi đây!
      Phượng Kiều mở lo mắt ngạc nhiên chưa kịp lên tiếng thì Trần Tắc đã nói:
      – Ân nhân hãy nán lại cho Trần này hầu chuyện... Kìa saọ..
      Đang nói, chợt thấy vẻ khác thường giữa con gái với ân nhân, Trần Tắc ngây ra nhìn, chợt như vùng nghĩ ra, Trần Tắc bật kêu lên:
      – Trờị.. Đại Sơn Vương...
      Phượng Kiều đứng im nhìn hai người, không biết nói sao. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn quay mặt đi, khẽ thở dài. Đoạn khẽ bảo Phượng Kiều:
      – Em khá nhớ lới anh dặn, bảo trọng lấy thân. Chớ nóng nảy lần lên sào huyệt. Rồi đâỵ..
      Như nghẹn lời, chàng tuổi trẻ quay phắt ngựa đị. – Kìạ.. nhưng anh đi đâu bây giờ...
      Lời Phượng Kiều chưa dứt, bóng Hắc Phong Câu đã lao đầu vào đêm mờ, gió lạnh. Không ai ngờ rằng ngay lúc bỏ đi chàng tướng núi phóng ngựa thẳng về mạn Phòng Tô Bát Sát, tìm nhà thổ dân tạm nghỉ, sớm mới thay lốt vào thẳng châu lỵ. Tới nơi mới hay lão Châu Cầm chỉ là lão Châu giả ngồi tại công đường, còn Châu thật vẫn nằm lại lưng chừng Fan Si Pan cự địch với quan binh. Chàng tướng núi phân vân mãi, sau quyết định lộn lại sào huyệt con quỷ sống. Tới chân núi đã thấy quan binh lục tục kéo đi, tiếng súng đã ngừng bặt sau một ngày đánh phá. Tần ngần mấy khắc, chàng tướng núi lần tới một vùng khá rộng nữa, chỗ nào đêm trước có cửa hang, nay đều bị đá đổ lấp hết, trông hoàn toàn hoang phế như một miền xưa nay không dấu chân người.
      – Hừ! Giặc già gớm thật! Giờ này chúng đã kéo đi nơi khác hay lấp hang rút vào ruột núi.
      Suy nghĩ giây lâu chàng trẻ tuổi lên tiến về phía nhà giam Trần Tắc. Qua cửa hang bí mật thẳng vào ruột núi, chàng cả mừng thấy quang cảnh vẫn như xưa, liền xăm xăm bước tới. Cách vách núi chừng mấy thước chợt nghe có tiếng gió lạ sau gáy, chàng tướng núi thụp vội đầu xuống. Phập. Một mũi tên bay vù qua đầu, cắm mạnh vào thân cây trước mặt. Quay lưng chiếu thẳng hướng tên bay, nhìn lại chỉ thấy một vùng núi non quạnh vắng, vướng vất sương mờ, tuyệt không bụi rậm. Đại Sơn Vương bèn với tay nhổ mũi tên, soi bóng mờ, thấy tên cánh trĩ có buộc mảnh giãy nhỏ. Đưa mắt nhìn chỉ thấy hai chữ Hán “Địa Lôi” nét thảo sắc như cắt. Bẻ mũi tên ném vào bụi rậm, chàng đưa mắt trông lên vách đá cheo leo, nghĩ mấy giây, đoạn cúi mình nhấc một phiến đá lên bằng viên gạch hoa, dùng tận lực ném mạnh vào cửa hang ngầm. Chỉ thấy “rầm” một cái, tảng đá đập vào vách núi, bụi cây, rơi rào rào, rồi im bặt. Chàng tặc lưỡi tiến lên.
      Được hai bước, chợt dừng lại, nhấc một viên đá nữa, tung lên cao cho rơi ngay phía mặt đá trước gần cửa hang. “Rầm”. Tảng đá vừa rơi xuống, chàng chợt thấy dưới chân khe chuyển rung, chột dạ, vội cất nhảy vọt ra xa. Chân vừa cất khỏi mặt đá, đã thấy dưới chân, nền núi tụt luôn xuống thành một vực thẳm sâu, tiếp liền một tiếng nổ long trời, vách đá cheo leo trên núi đổ ập xuống. Chàng tướng núi đã kịp thời cất mình nhảy luôn đợt nữa, nằm sau một mô đá khá lớn.
      Vách đá đánh xuống như rung chuyển cả một vùng, cây cối gãy răng rắc, những phiến đá to nhỏ bay tứ phía, nấp sau mô đá, Đại Sơn Vương thấy đá vụn rơi lả tả xuống mình tới tấp, đến mươi giây mới dứt.
      Thì ra ban sớm tướng Roux đã tiến binh lên tận sườn non, định dùng đại quân quét sạch giặc Si Pan, bắt lại cha con Phượng Kiều, sau khi nhờ tướng xạ phang mua thất bại. Nhưng không ngờ lão tặc Si Pan đã dự liệu trước cả, vừa đánh vừa rút vào hang núi và dùng địa lôi lấp tất cả lối vào rồi. Còn đang ngẫm nghĩ, chợt thấy phía dưới thấp thoáng có bóng vật gì bay giữa khoảng không mờ tối như một con chim lớn. Rồi lại hai, ba con nữa, nối nhau từ chỏm núi dưới bay thẳng vào vách núi trên cao ngay phía tay tả chàng, chỉ chừng mấy chục thước.
      Đại Sơn Vương lấy làm lạ, vội men ra sát bờ núi cao. Phục áp hẳn má xuống, bám đá nhìn ngang. Phía trước mây trắng, trông rõ nền trời, chàng tướng núi ngạc nhiên thấy rõ không phải bóng chim núi, mà chính là bóng người bay vèo qua nền trời, nhưng chàng đã định thần ngó, giữa nền trời mờ nhạt, tuyệt không thấy vệt dây nào.
      Lạ nữa là coi hình mấy cái “bóng bay”, rõ ràng không phải trong thế khom mình bám dây đu, mà bóng nào lao đầu đi trước, hai cánh tay dang rộng, chân duỗi thẳng, cong, chẳng khác hình người nhào nước, chỉ khác là bay van vát từ dưới chếch lên, lao thẳng tới vách núi, là mất dạng. Nhờ trới không tối mấy, chàng tướng núi còn phân biệt được, cả bóng đàn ông, lẫn bóng đàn bà.
      Mấy cái bóng lạ bay vào vách núi biến mất dạng khá lâu rồi, chàng còn nằm xem động tĩnh. Chỗ chỏm núi thấp lại tối sẫm, không thấy vật gì, định chiếu đèn lại ngại lộ tung tích, chàng liền đứng lên, ngửa mặt trông lên vách núi, lượng chiều cao, kiếm chỗ ném dây.
      Nhưng vách núi cao quá, phải có pháo hỏa mới bắn dây móc lên được, trong mình lại không có, còn đang suy tính, chợt thấy từ phía chỏm núi thấp có tiếng cú rúc mơ hồ. Rồi ngay chỗ chàng nấp, lại có tiếng cú rúc đáp lại. Vốn quen nghề dạ hành, Đại Sơn Vương phân biệt ngay tiếng cú giả ám hiệu, chàng liền áp lưng dựa vào vách đá, đưa mắt trông ra, chờ đợi.
      Quả nhiên, dứt tiếng cú rúc phía này, lập tức từ chỗ tối núi thấp, có một vật bay vèo chếch lên, giữa nền trời, chàng nhận ra chính một mũi lao dài tới hai thước, phía sau có vật vòng vèo giãy giụa như con rắn.
      Vút. Mũi lao bay qua mặt Đại Sơn Vương, chàng vừa kịp đưa mắt theo đã thấy từ trong bóng tối sau một mô đá gần đấy một dáng người nhỏ nhắn lao ra sát bờ đèo, quài tay bắt ngay lấy mũi lao dính như nhựa. Bóng đó khuất sau cây lá. Chàng tướng núi chỉ thấy thấp thoáng hình con gái thoăn thoắt kéo lần mũi dao, trông ra, mới hay là có buộc dây, thoáng cái, sợi dây đã được căng thẳng từ chỗ thiếu nữ tới phía núi thấp kia, chơi vơi giữa không gian cao vút như sợi dây cáp vắt ngang trời. Tiếng cú hiệu lại nổi lên. Dây thừng rung mạnh, rồi từ phía núi thấp, một bóng người xuất hiện bám dây thừng thoăn thoắt sải sang. Khoảng cách lưng trời đến mấy chục thước xa, hình dáng leo dây giữa đêm mờ khiến Đại Sơn Vương không khỏi thầm lo cho kẻ lạ, chỉ sẩy tay, đuối sức một chút, là rơi từ lưng trời cao xuống lớp vực dưới tan xác. Dây chạy chếch trước mặt, nên chàng thấy rõ dáng người leo cũng là một cô gái, thoáng cái đã kề bờ đá. Cô gái nhanh nhẹn tung mình một cái, buông tay thừng, chớp mắt đã thấy đứng bên thiếu nữ bên đầu dây này.
      – Cô gái đêm qua!
      Vừa thoáng thấy khuôn mặt cô gái mới leo sang, Đại Sơn Vương đã nhận ra ngay cô gái kiều mị thấy trong mật thất lão động chủ với Khách Giang Hồ.
      Cô gái kiều mị khẽ bảo cô kia:
      – Chị đã tìm được lối vào bí mật của chúng rồi! Thằng giặc già quả lợi hại, hắn đã rút vào ruột núi ngay từ lúc quan binh đánh vào sào huyệt! Chị đã hạ tên canh núi rồi. Em khá sang trước, để chị trấn đầu dây bên này cho! Cửa hang chúng mãi lưng chừng vách núi bên này!
      – Chị định vào sào huyệt ngay đêm nay? Hay ta về huy động thêm.
      – Không cần! Vả thù này chị quyết chính tay hạ nó, nếu chậm trễ rất có thể nó không còn trên đời nữa. Chị nghe có viên tướng Thập Vạn Đại Sơn tìm hắn rửa thù nhà. Và người đó là tay thần xạ.
      Thôị.. em hãy sang đi!
      Cô gái kiều mị đưa mắt nhìn quanh, đoạn tiến đến nắm dây đu mình vút đi. Thân hình thanh nhỏ theo bánh xe vừa lướt tới ra khỏi đầu dây mấy thước thì bất ngờ từ xó tối, một bóng sơn tặc phóng ra, vung lưỡi dao rừng sang loáng, cười ghê rợn:
      – Cô nàng! Ta theo lệnh động chủ chờ đây quả không uổng.
      Đã lướt đi, chợt nghe tiếng cười, cô gái kiều mị giật mình ghìm phắt lại, kinh hoàng tiến thoái lưỡng nan. Trong khắc vạn nạn, nàng còn đủ bình tĩnh buông luôn một tay, phóng ngược lại một lưỡi dao trúng luôn bả vai trái sơn tặc. Hắn đau đớn nghiến răng rú lên một tiếng, vung ngay thanh dao rừng, chém mạnh xuống dây thừng. Lưỡi dao loáng lên, giữa lúc cô gái còn lơ lửng lưng trời. Đại Sơn Vương toan đánh liều hạ tay xuống sườn đã nghe một tiếng rú thất thanh, ngọn dao rời tay sơn tặc, từ phía hắn, một bóng đàn ông lao vút tới, vừa vặn gạt thân xác gã sơn tặc xuống vực sâu hun hút. Khách Giang Hồ.
      – Lạị.. thủ lĩnh Cầu Mây! Anh chàng mặt xanh tới sào huyệt Si Pan làm gì đây?
      Đại Sơn Vương dừng tay, hơi cau mày ngó người bạn mới. Khách Giang Hồ đã giơ tay vẫy cô gái lạ. Hình như chưa nhận rõ người nhưng cô gái đã kịp thấy kẻ chặt dây rơi xuống vực nên vội chuyền mình đu mạnh về phía đầu bên kia. Bóng dáng cô nàng vừa khuất, Khách Giang Hồ đã đặt chân lên sợi dây thừng và trước cặp mắt kinh ngạc của Đại Sơn Vương, viên thủ lãnh mặt xanh khoa mạnh hai cánh tay và cứ thế rảo bước trên dây thoăn thoắt, thân hình ngả nghiêng lưng trời mờ tối, dưới chân vực thẳm muôn trùng.
      – Trờị.. bạn ta điên rồi!
      Đại Sơn Vương vẫn bình tĩnh, bất ngờ thấy bạn đi trên dây như con sóc, bất giác lạnh người muốn xông ra giữ lại, nhưng không kịp nữa. Người thủ lãnh Cầu Mây đã ra tới giữa như không. Đại Sơn Vương nín thở đăm đăm trông theo, vừa yên dạ được chút, chợt “vút”, từ phía vách đá bên trái, một mũi tên lửa xé màn đêm, bay thẳng đến mình Khách Giang Hồ. Đại Sơn Vương nghe rõ có tiếng thất thanh bật lên kinh hoảng từ đầu dây bên kia, viên thủ lãnh Cầu Mây đã khoa tay gạt luôn được mũi tên lửa. Vù vù liền mấy mũi nữa đã bay ra. Khách Giang Hồ co một chân lên vừa đá mũi tên, đã thấy liền hai, ba mũi cắm phập vào dây thừng, cách Khách Giang Hồ chừng vài thước, trước sau bắt cháy phừng phừng.
      Sự việc diễn ra quá nhanh, khiến Đại Sơn Vương phải nắm chặt lấy mô đá, muốn cứu bạn, không còn cách cứu, vừa nghe bên vách có tiếng cười khanh khách hắt ra, đã thấy giây thừng đứt phựt, thân hình Khách Giang Hồ nhào giữa không trung và lao vùn vụt xuống vực thẳm muôn trùng như trong cơn ác mộng... Đại Sơn Vương chạy vội ra bám mép đá trợn mắt trông xuống vực sâu ngàn trượng, kinh hoàng chỉ nghe tiếng gió gào, thác rú ghê người, Thân hình người đàn ông phong trần gieo mạnh xuống với tiếng thất thanh hút chìm mau, rồi im bặt...
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        Hồi 16 - Lão già quái dị

        Tới Lào Cai, Phượng Kiều đánh điện về Cao Bằng cho Hai Cao, và đưa cha xuôi tàu về thẳng về Hà Nội. Muốn để cha nằm tại biệt thự riêng gần ga Hàng Cỏ, lại e tai mắt kẻ thù dòm ngó, suy tính mãi, nàng bèn đưa cha về thẳng bệnh viện Đặng Vũ Lạc, chọn buồng khuất mái cuối dãy để cha nằm tĩnh dưỡng.
        Hai hôm sau đã thấy Hai Cao cùng năm, sáu tay súng từ Cao Bằng xuống. Hai Cao nói với cô chủ:
        – Bắt được điện tín, mừng quá định xuôi ngay, nhưng phải cắt đặt mọi việc cho xong mới đi được. Trời ! Mấy hôm cô Ba bị bắt, bọn tôi lo quá, chia nhau tìm kiếm khắp nơi không thấy tung tích. Cụ đâu?
        Phượng Kiều đưa Hai Cao vào phòng khẽ giơ tay làm hiệu.
        – Cụ đang lên cơn sốt vừa ngủ được một lát đó! Các chú ngồi đây, để tôi đi điều đình lấy mấy buồng chung quanh, làm chỗ canh gác kín mới được.
        Hai Cao rón rén lại gần nhìn chủ nhân, vừa thấy mặt đã giật mình bước theo Phượng Kiều:
        – Cô Ba! Trời sao cụ gầy quá thế ? Hay vì...
        Phượng Kiều liếc nhìn cha, khẽ thở dài:
        – Thì bao nhiêu hôm bị chúng hành hạ còn gì ? Nếu không được Đại Sơn Vương cứu thoát, tính mạng khéo nguy mất rồi !
        – Đại Sơn Vương?
        Tiếng Hai Cao ngạc nhiên bật lên hơi to khiến Trần Tắc giật mình, mở choàng mắt ra:
        – Ai như Hai Cao đó hả?
        Bọn Hai Cao cùng tiến lại cúi chào kính cẩn:
        – Bọn tôi vừa tới. Bẩm... Cụ thấy dễ chịu chưa?
        Cặp mắt lờ đờ của họ Trần vụt long lên, Trần định chống tay ngồi dậy, thở hổn hển:
        – Hai Cao, các chú xuống... hay lắm. Ta mong mãi. Sửa soạn đưa ta về Cao Bằng, dẫn quân đi đánh thằng giặc họ Cầm...
        Trần Tắc thở mạnh, máu uất bốc lên muốn nghẹn họng. Mọi người phải xúm vào kiếm lời an ủi mãi mới chịu nằm, nhưng cơn sốt lại lên, họ Trần lảm nhảm mê sảng, luôn miệng mắng lão tặc Si Pan.
        Phượng Kiều căn dặn Hai Cao ở lại trông nom, đoạn ra điều đình lấy mấy căn buồng xung quanh cho bọn Hai Cao.
        Suốt mấy ngày đêm, Phượng Kiều vừa lo cha yếu nặng, vừa nhớ Đại Sơn Vương tưởng tới dây oan hai nhà không đường gỡ, lòng nàng vò xé xót xa, biếng ăn, biếng ngủ, đêm ngày bối rối không yên. Đại Sơn Vương tuy nặng lòng quân tử, nhưng vốn người giàu tâm huyết khi nào quên được thù nhà. Trăm ngàn ý nghĩ giằng co trái ngược đảo lộn trong đầu. Phượng Kiều dồn hết tâm trí vào việc săn sóc cha già mới khuây khỏa được đôi chút. Có khi nhiều ngày liền, nàng không bước chân ra phố, chỉ ở liền trong bệnh viện. Một tối. Phượng Kiều ra phố, tình cờ qua bờ Hồ Hoàn Kiếm, sực nhớ lới ngày bị quân thù theo hại, được Đại sơn Vương cứu thoát, nỗi buồn nhớ chàng lại nổi lên, nàng liền lái xe lên Hàng Buồm, tới ngã ba Hàng Đào, Hàng Bông, chợt thấy một bóng dáng quen quen ngồi trên xe vượt qua.
        Ngạc nhiên, nàng lao vọt xe theo, thấy chiết xe dừng trước một tiệm ăn, người trên xe bước xuống có vẻ vội vàng, vào ngay tiệm, lên lầu.
        Phượng Kiều cũng vội dừng xe vào theo luôn. Lên gác, gặp, mới hay chính Nguyệt Tú.
        – Trời tưởng ai hoá chị ! Chị xuống đây bao giờ?
        Phượng Kiều nắm tay cô em gái thủ lĩnh thác Cầu Mây, mừng rỡ tươi hẳn nét mặt nhưng nàng kinh ngạc khi thấy mặt cô gái phờ phạc, u buồn khác hẳn trước, vội giật nhẹ tay khẽ hỏi luôn.
        – Kìạ.. Chị sao thế?...
        Nguyệt Tú đăm đăm nhìn Phượng Kiều, đoạn buồn rầu trỏ vào mình, cười xót xa:
        – Chị chưa hay tin gì sao? Anh em ngộ nạn bất ngờ...
        Phượng Kiều giật nẩy mình, trố mắt coi, lúc đó mới nhận ra người bạn gái có mang băng tang.
        – Trời! Chị bảo sao? Anh Khách Giang Hồ...
        Nguyệt Tú gật đầu, đau đớn, khẽ thở dài, trầm giọng:
        – Anh ấy ngã từ lưng chừng núi Tây Phàn xuống vực, mất xác!
        Em vừa từ miền ngược về hồm qua, được biết chị đã về Hà Nộị..
        Phượng Kiều thở mạnh, bàng hoàng, mãi mới lẩm bẩm:
        – Thật không ngờ! Nhưng lúc đó, chị có ở đó không?
        – Chính em đã nhìn tận mắt. Nếu không có người giữ lại, em đã nhảy xuống theo. Đêm đó hình như có cả Đại Sơn Vương chứng kiến.
        Thật không ngờ...
        Nguyệt Tú kéo Phượng Kiều vào một phòng ăn nhỏ, kể lại việc qua, Phượng Kiều suy nghĩ giây lát. khẽ hỏi:
        – Chuyện mất xác khả nghi lắm. Dầu sao chị cũng đừng vội phát tang, hãy chờ it lâu đã. À, chị đã gặp... Đại Sơn Vương chưa?
        Nguyệt Tú lắc đầu:
        – Em cũng muốn gặp anh ấy, nhưng không thấy. Sau đêm đó, hình như anh ấy có vào ruột núi kiếm lão động chủ nhưng hắn đã đi đâu mất rồi, chỉ còn tên động chủ giả. Em có việc cần xuôi gấp, không nán ở vùng Sa Pa được!
        Đang nói, nàng chợt ngừng lại, vì có tiếng gõ cửa. Rồi mấy người vừa đàn ông, đàn bà đẩy cửa phòng ăn bước vào, cúi đầu chào.
        Nguyệt Tú khẽ hất hàm:
        – Sao? Cứ nói! Đây chính cô nương Phượng Kiều.
        – Thưa, đã báo cho các căn cứ miền xuôi rồi. Nhưng...ngoài đường có nhiều tên lạ mặt khả nghi lắm! Tôi đã cử anh em canh chừng.
        Nguyệt Tú hơi cau mày liễu:
        – Mật thám à?
        – Chưa rõ hẳn. Trong bọn hình như có đứa miền núi mới về.
        Giầy còn bám cả đất đỏ.
        Ngẫm nghĩ mấy khắc, Nguyệt Tú phất nhẹ tay bảo tùy tướng:
        – Anh chị em xuống cả phòng dưới! Cứ dùng bữa như thường. Có gì lạ báo lên đây!
        Cả bọn cúi chào lui xuống, ăn uống xong, Nguyệt Tú cùng Phượng Kiều dắt tay nhau xuống lầu, ung đung vẫy thuộc hạ ra thẳng ngoài.
        Vừa thoáng thấy mặt bọn lạ, Phượng Kiều đã bảo Nguyệt Tú:
        – Bọn giặc trên Si Pan! Chắc chúng theo em!
        Nguyệt Tú dừng lại đưa mắt nhìn mấy tên lạ mặt mỉm cười:
        – Chị tính sao ? Hạ thủ chứ?
        – Mấy tên đầu mục... Được để chúng cho em liệu. Chắc thế nào cũng có tên trùm còn ẩn mặt. Không khéo lại còn nữ tặc họ Cầm!
        – Chị có cần đi đâu không, lại em chơi!
        – Em có chút việc, xong, tối em sẽ lại. Nhưng chị nên cẩn thận.
        Chúng có thể chặn giữa đường!
        Phượng Kiều mỉm cười, chia tay Nguyệt Tú, đoạn khoan thai bước lên xe, rồ máy đi thẳng. Quả nhiên, phía sau có xe rượt theo liền.
        Nhìn kính chiếu hậu thấy thấp thoáng bốn tên, Phượng Kiều bèn cho xe cháy thật nhanh vòng thẳng ra mạn bờ sông. Nếu về nhà riêng chúng sẽ biết chỗ ở ngay. Nàng muốn đánh lạc hướng nhưng không nổi, nên cứ lao thẳng lối cầu Dốc Gạch. Được một quãng, quay lại, không thay xe theo nữa, còn đang ngạc nhiên đã nghe tiếng còi inh ỏi, rồi một chiếc xe xả hết tốc lực vọt lên, nhìn sang chính Nguyện Tú giơ tay vẫy.
        – Thôi! Chị cứ quay về chỗ ở! Em cho chận lối chúng rồị..
        Phượng Kiều vừa giơ tay, chưa kịp nói thì Nguyệt Tú đã rẽ đường nganh đi mất. Nàng liền rẽ theo, về thẳng nhà riêng. Nhìn lại sau, không thấy kẻ nào khả nghi, nàng liền cho xe vào thẳng Ga ra. Bà quản gia vừa thấy bóng nàng, đã chạy ra khẽ bảo:
        – Cô Ba! Chú Hai Cao vừa cho người đến muốn thưa gì với cô, còn ngồi đợi trên phòng khách đấy!
        Phượng Kiều hơi nhíu mày:
        – Quái! Việc gì nhỉ! Tôi vừa ở bệnh viện mà!
        Nàng nhanh nhẹn bước vào, vừa thấy bóng gia nhân đả hỏi ngay:
        – Có chuyện gì đó, chú?
        Gã gia nhân đứng vội lên:
        – May quá! Tưởng cô ba đi lâu mới về. Bác Hai sai tôi về dặn cô nên lưu ý đề phòng, có nhiều kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cửa bệnnh viện lắm. Và xin cô Ba cho lệnh đối phó với chúng.
        Phượng Kiều nhìn ra ngoài cửa, lẩm lầm:
        – Quái! Bọn chúng vừa theo ta trên Hàng Buồm mà! Chẳng lẽ chúng về đây đông thế?
        Quay phắt lại thiếu nữ buông gọn:
        – Tới bảo Hai Cao lựa thế bắt ngay một hai kẻ lạ mặt cho ta xét xem. Nhớ đừng làm náo động phố xá đấy!
        – Dạ.
        Gia nhân cúi chào, đi ngay. Phượng Kiều lên gác, vào buồng riêng, hé cửa sổ nhìn ra đường. Gã gia nhân đi được mấy phút thì nàng thấy bên kia đường có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng qua lại, nếu sơ ý có thể tưởng là khách bộ hành. Ngay lúc đó, chợt có một lão hành khất áo quần rách rưới chống gậy đi tới, dừng lại ngay trước cửa nhà nàng. Mấy con chó lớn từ trong xồ ra sủa, nhưng lão hành khất như nặng tai không thấy gì cứ đứng ngoài cổng kêu xin. Bà quản gia nghe tiếng chó sủa, chạy ra thấy ông già hành khất, liền vào lấy một đồng xu ra cho. Nhưng lão lắc đầu từ chối, trỏ tay vào miệng. Bà quản gia vốn thương người, vội vào lấy gạo cho. Nhưng lão vẫn lắc đầu, để tay lên miệng, ngửa cổ làm hiệu xin rượu uống. Bà quản gia phát bực, liền đặt cả gạo lẫn tiền cạnh lão, quay vào. Lão hành khất liền tiến đến sát cổng, cổng khóa, nhưng loay hoay thế nào mà lão mở ngay ra được, tập tễnh chống gậy vào thẳng trong.
        Đứng trên gác, Phượng Kiều lấy làm lạ vì thái độ của lão hành khất, nhưng nàng cứ đứng xem lão ta làm gì. Vào được mấy thước, lão đứng lại lật nón, ngồi phệt xuống gốc cây, ngó vào trong. Đàn chó lại xồ ra sủa quanh. Lão vẫn thản nhiên như không thèm lưu ý tới, thò tay vào bị lấy ra một nậm rượu dốc uống. Nhưng rượu chỉ còn dính be, lão cau mày, giơ cao nậm, ú ớ gọi. Lúc đó mới thiết lão ta câm. Phượng Kiều càng sinh nghi, suy nghĩ mấy giây, đoạn bướcxuống nhà dưới, ra phòng khách, coi xem. Vừa trông rõ lão ăn mày, nàng đã chột dạ vì vẻ cổ quái khác thường trên mặt lão. Mặt sần sùi như hủi, có từng nhũ thịt nổi lên, da đen đen đỏ đỏ nham nhở, lông mày sâu róm, đặc biệt cặp mắt sáng như điện.
        Tinh ý Phượng Kiều biết ngay đó chỉ là một lão ăn mày giả hiệu.
        Đàn chó sủa mãi vẫn thấy lão ngồi điềm nhiên như không, một con nổi xung chồm luôn vào mặt lão cắn. Phượng Kiều đứng trong nhìn ra, chỉ kịp chớp mắt một cái, đã thấy lão ăn mày quái dị nắm cổ con chó lớn giơ lên, như giơ một con chó giấy. Con chó kêu ăng ẳng, chân vùng vẫy chới với được mấy cái, chợt mềm nhũn ra, bất động. Lão ăn mày liền đặt con chó xuống, nhìn đàn chó, cười khanh khách. Đàn chó thấy bạn nằm thẳng cẳng cả sợ, vừa lùi vừa sủa ran. Lão giơ tay vỗ nhẹ vào mình con vật mềm nhũn một cái, tự nhiên con vật ngồi ngay dậy, nhớn nhác nhìn lão, rồi cúp đuôi chạy mất. Phượng Kiều giật mình muốn toát mồ hôi, ngay lúc đó, lão từ từ ngửa mặt lên, “phù” một cái, chai rượu lập tức bay bổng lên sát cành cây, cổ chai dốc ngược xuống, vừa lúc lão ta hé miệng ra. Từ trên chai rượu một vòi rượu chảy dòng xuống miệng lão, cho tới lúc cổ chai lao dính vào hai hàm răng lão. Cứ thế mấy lần bay lên rơi xuống, lão đã nốc cạn sạch rượu. Phượng Kiều kinh ngạc trố mắt coi trò uống rượu kỳ dị, thình lình thấy lão liếc mắt nhìn vào chỗ nàng đứng, miệng “phù” một cái. Chai rượu bay vụt ào như bị một sức đẩy thật mạnh. Lão ăn mày chợt cất tiếng cười kỳ dị, rồi lấy gậy chống, tập tễnh tiến vào chỗ Phượng Kiều. Không do dự, nàng vội chĩa súng, nghiêm giọng quát:
        – Đứng lại! Bước nữa ta hạ liền! Lão muốn điều chi?
        Lão hành khất thấy mũi súng từ khe cửa chĩa ra, vẫn điềm nhiên lướt tới, hấp háy mắt ngó vào, bất ngờ, bật giọng:
        – Con gái họ Trần đấy ư?
        Vẫn chĩa súng, Phượng Kiều xẵng giọng:
        – Lão là ai? Tới đây có việc gì?
        – Hà hà! Mở cửa ra chứ? Sợ một lão ăn mày rách rưới sao?
        Dứt lời, lão liền tập tễnh bước lên bậc thềm.
        – Đứng lại! Tiến nữa chớ trách.
        Mặc. Lão ăn mày quái dị cứ bước lên. Đoành... đoành... Liền hai phát đạn bắn ra trúng giữa ngực lão ăn mày kỳ dị. Lạ thay, lão vẫn tiến tới, bất thình lình vung mạnh chiếc gậy trúc nhanh như chớp, hất tung mũi súng, lão đã lách vụt vào, đứng sừng sững trước mặt Phượng Kiều. Cô gái lui lại, tay không khí giới, quắc mắt ngó con người ghê gớm. Nhưng lạ thay, lão vẫn không nhúc nhích, vừa trông thấy Phượng Kiều, lão thoáng cau mày chăm chú nhìn nàng từ đầu tới chân, mấy khắc sau, mới lẩm bẩm như nói một mình:
        – Nhan sắc trên đời hiếm có... trách nào thằng Đại Sơn Vương chẳng sanh lòng quyến luyến. Khó thay bên tình bên hiếu.
        Phượng Kiều nhíu mày chưa kịp nói, chợt nghe phía ngoài có nhiều tiếng chân người rầm rập, lẫn tiếng gọi nhau ồn ào, lão ăn mày giở đầu gậy gạt mở cánh cửa nhìn ra, đoạn quay ngó Phượng Kiều nói như truyền lệnh:
        – Cô bé hãy sửa soạn hành trang cho mau. Đêm nay lão lại đón đó!
        Dứt lời, không chờ nàng kịp nói, lão ăn mày bước ra, tay khép vụt cánh cửa lại. Phượng Kiều cúi nhặt vội khẩu súng, trông theo, đã thấy lão tập tễnh ra gần cổng trước, vừa lúc có bóng mấy người lính cảnh sát từ ngoài hấp tấp chạy vào. Thấy lão, mấy người lúm luôn lấy, chưa kịp hỏi, đã lăn quay mỗi người một góc. Trong khi lão già cứ tập tễnh chống gậy thẳng ra khỏi cổng. Phượng Kiều chạy vụt ra, đã thấy lão đứng bên kia đường, đảo mắt nhìn quanh. Mấy tên lạ mặt vẫn lảng vảng dưới bóng cây, thấy bóng Phượng Kiều trước cổng, liền nhất loạt xông cả tới. Lúc đó mấy người lính cảnh sát đã chạy ra, định cất tiếng hỏi thì nàng đã gạt về sau, nhanh giọng:
        – Nằm cả xuống!
        Miệng nói, chân lùi nấp sau trụ cổng, chĩa súng ra quát lớn.
        – Đứng lại, không ta bọn nát óc!
        Bọn lạ đã nấp sau thân cây. Bỗng có một cô gá xông tới, quát:
        – Tiến cả lên!
        Phượng Kiều đã nhận ra cô gái lạ chính là nữ tặc họ Cầm. Ngọn súng chĩa ra sắp lảy cò, chợt nàng chột dạ ngoảnh lại sau, thấy ngay mấy bóng lạ nhô trên mặt tường sắp ùa tới, nàng liền đóng ập cổng vào, một tay vẫy ngọn súng về phía sau, Nhưng mấy tên đã tụt vội xuống lẩn nhanh vào bóng tối. Trước sau thụ địch, Phượng Kiều vẫn không nao núng. Nàng khẽ bảo mấy tay cảnh sát:
        – Các ông trấn mặt sau! Liệu thế rút vào đi! Quân gian này thạo súng lắm đó!
        Giữa lúc đó, một cánh tay vung lên phía sau, và một ngọn dao phóng trúng vai một tay cảnh sát. Phượng Kiều vừa vẩy ngọn súng về phía đó, ngoái lại đã thấy bóng lạ phía trước lố nhố định xông vào, nàng liền nhả đạn tiếp.
        – Nhào cả tới chân dậu!
        Tiếng nữ tặc họ Cầm vừa dứt đã thấy bọn gian lăn veo veo ập tới, khuất dạng. Vút, từ ngoài, một sợi thòng lọng quăng qua dậu chụp lấy nàng. Phượng Kiều nhanh mắt né kịp, biết còn đứng sau trụ cổng sẽ nguy, liền nhào luôn tới thềm, bắn yểm trợ cho toán cảnh sát rút vào theo. Ngoài cổng, dân phố kinh sợ chạy tán loạn. Chợt nghe có mấy tiếng rú bật lên, rồi có tiếng ngườí xa xa kêu vọng lại:
        – Kìa! Kìa! Chúng chạy cả rồi!
        – Chà! Lão ăn mày giỏi quá! Đứa nào cũng què rồi.
        Ngạc nhiên, Phượng Kiều liền bảo toán cảnh sát trấn phía sau, còn mình mở cửa chạy ra cổng. Để cảnh sát làm biên bản về xong, Phượng Kíều Kiền cùng mấy gia nhân thủ túc, tới bệnh viện. Nàng căn dặn Hai Cao lo việc canh phòng cẩn trọng xong cùng mấy tay súng trở lại biệt thự, suy nghĩ miên man về lão ăn mày quái dị, không sao đoán được manh mối. Rồ ràng lão không cùng bọn giặc Si Pan, nhưng xem tài nghệ quả là gớm ghê trên đời hiếm có tay địch thủ.
        Nửa đêm trời tự nhiên đổ mưa lớn, Phượng Kiều có đặt mấy tay súng phục trong bóng tối trên cây rậm, đoạn yên trí đôi chút, liền lên phòng riêng đóng cửa nằm chờ. Thời gian khắc khoải, nặng nề quay. Nóng ruột, nàng liền lấy sách ra xem. Bên ngoài, lẫn tiếng gió rào cành, vài quả bàng rụng lộp bộp xuống nền nhựa ướt át, tiếng rao hàng buồn tênh lùi dần về nẻo xa xôi. Mi mắt cô gái khép lại từ lúc nào không biết. Bất thần, Phượng Kiều mở choàng mắt ra, quơ tay định nắm lấy khẩu súng để ở đầu giường. Vì một bóng người đã đứng bên giường tử lúc nào rồi giơ tay vội cản nàng. Chớp vội hàng mi, Phượng Kiều cả mừng nhận ra chính Nguyệt Tú. Thiếu nữ Cầu Mây mỉm cười:
        – Chị ngủ mệt thế? Em đã định gọi nhưng lại thôi! Sao chưa thấy tăm hơi sơn tặc?
        Phượng Kiều sửa lại mái tóc, cười hỏi:
        – Chị vào bao giờ đấy? Sao người nhà không báo thức em?
        – Cũng mới mấy phút thôi! Nhưng em vào ngầm, gia nhân đâu có biết. Lối ban công!
        Phượng Kiều giật mình mở to mắt:
        – Chết thật! Canh phòng đến thế thì nguy rồi! Chúng nấp cả trên cây, góc tường. Chị cũng vào êm được huống chi lão tặc!
        Thấy mặt nàng có vẻ lo lắng, Nguyệt Tú vội hỏi:
        – Lão nào? Phải thằng giặc Si Pan?
        Phượng Kiều lắc đầu, kể lại mọi việc vừa qua cho Nguyệt Tú nghe, đoạn chậm rãi:
        – Xem tài nghệ lão này ghê gớm khác thường. Vài tay súng thật không đủ tin cậy. Với bọn Si Pan còn chưa đáng ngại bằng lão đó.
        Nguyệt Tú long lanh mắt có vẻ thích thú:
        – Hay lắm! Vậy em đến chị cũng không thừa. Hiện bên ngoài em đã cho mấy viên tùy tướng phục sẵn rồi. Có gì em ở lại cả đêm với chị để xem lão ta có đủ ba đầu sáu tay không?
        Đêm cũng khuya. Ngoài đường đã có tiếng rao hàng ơi ới. Nguyệt Tú cười bảo Phượng Kiều:
        – Chúng không tới rồi! Sắp sáng còn gì.
        Vẫn chưa yên tâm, Phượng Kiều tần ngần nhìn lên chiếc đồng hồ quả lắc lẩm bẩm:
        – Quái lạ! Lão ta bản lãnh chẳng thường, lẽ nào không dám tới?
        Chị mệt nên ngả lưng một chút!
        Nguyệt Tú mỉm cười:
        – Mấy đêm nay em đã ngủ nhiều rồi. Chị mải săn sóc cụ nhà, nên nghỉ đi. Để mình em thức là được.
        Mỉệng nói, tay kéo Phượng Kiều đến bên giường, ép nằm xuống, đoạn tắt đèn sáng, chỉ để lại ngọn đèn đêm nhỏ. Phượng Kiều nằm, yên trí có bạn rồi, mấy phút sau mệt quá, thiếp ngủ lúc nào không biết. Còn mình Nguyệt Tú, cô gái Cầu Mây ngồi khuất sau ngọn đèn đêm, nhìn ra phía cửa ban công. Nguyệt Tú ngồi buồn với quyển sách xem dở, tự nhiên trên tường tiếng đồng hồ thánh thót ngân nga nhịp đỉệu “đàn chai” trong vắt rồi dõng dạc buông ba tiếng vang âm. Hơi gió lùa qua khe cửa mang theo một mùi hương kỳ dị. Cô gái ngẩng phắt lên, quắc mắt trông phía cửa. Dưới vùng ánh sáng đèn đêm xanh lơ, nàng thấy rõ một luồng trắng xóa như sương khói chảy qu khe cửa chập chờn uốn éo.
        – Mê hồn hương!
        Nguyệt Tú nín thở, nàng nhón gót quay lại phía cửa sổ sau, mở vội cửa kính. Vừa toan mở nốt cửa chớp, chợt nàng lại ngửi thấy mùi hương kỳ dị từ ngoài bay vào và một làn khói trắng tuôn qua khe chớp, chờn vờn. Biết nấn ná sẽ nguy, Nguyệt Tú rút phắt súng ra, tiến đến bên giường lay mạnh Phượng Kiều.
        Nhưng cô gái họ Trần ú ớ mấy tiếng rồi lại nằm ngủ vùi luôn.
        Còn đang lưỡng lự, đã ngửi thấy mùi hương từ phòng bên thốc sang.
        Tứ chi muốn rũ liệt, Nguyệt Tú vội vận hết gân cốt, lách vụt sang căn bên, dựa lưng vào tường, nín thở, định thần trông về phía cầu thang. Đột nhiên nàng dừng phắt lại, lăn tròn mấy vòng, nhả luôn mấy phát súng. Tiếng nổ xé rách không gian. Nguyệt Tú lần tới một góc phòng, thủ thế. Cô gái đã thấy tức thở, cố chớp hàng mi. Rõ ràng có vật gì lù lù đen hơn bóng tối đang tiến lại phía nàng Không do dự, cô gái nhả luôn hai phát nữa. Trong bóng tối, chợt nổi lên mấy tiếng cười khanh khách, rồi có giọng nói vang âm:
        – Con bé này gớm thật! Định chống cự lại cả ta! Ha Ha!
        Ánh đèn bấm lóe lên mấy giấy rồi tắt phụt. Rồi có tiếng càu nhàu:
        – Con em gái thằng Khách Giang Hồ! Hừ!
        Tiếp theo, có tiếng gậy chống lốp cốp mặt sàn. Phượng Kiều choàng thức giấc, gọi khẽ:
        – Chị Nguyệt Tú!
        Thình lình, có tiếng nói nổi lên đâu đây, rờn rợn.
        – Cô bé đã tỉnh hẳn chưa? Đi lấy hành lý theo ta mau! Gần sáng rồi!
        Phượng Kiều đứng phắt lên, đưa mắt nhìn quanh gian phòng tối, lớn tiếng:
        – Ngươi là ai? Phải chăng...
        Giọng nói ngừng nơi cổ nàng, vì từ trong xó tối bất tận, một đốm lửa đỏ rực nổi bật lên, rồi hai đốm lửa, chớp mắt đã từ từ tiến đến trước mặt nàng, rõ ràng là đôi mắt lửa giữa bóng tối, trừng trừng nhìn nàng, tia mắt nóng bỏng như muốn đốt thịt da. Cặp mắt lửa sáng quắc tiến đến cách nàng chừng hai thước, dừng lại. Vừa sực nhớ tới phép thôi miên ghê gớm, Phượng Kiều toan nhún mình nhảy tới đánh nhầụ.. Chợt cặp mắt rực sáng hẳn lên, và có tiếng quát khẽ, vô cùng oai nghiêm như tiếng lệnh truyền:
        – Con gái họ Trần! Đứng im! Sửa soạn theo ta. Thu xếp hành trang mau! Ta đợi!
        Như đứa bé, Phượng Kiều ngoan ngoãn làm theo lời lão, thoáng cái, hành lý đã cầm tay. Lão gật gù có vẻ bằng lòng:
        – Được lắm. Thôi, đi ra!
        Miệng nói, tay ném dây súng cho nàng. Như mất hồn, Phượng Kiều theo lão xuống thang. Xuống dưới, lão dẫn nàng ra lối cổng tiền.
        – Cô chủ chúng mày theo ta có việc! Hãy lên đánh thức cô gái Cầu Mây dậy.
        Như cái máy, Phượng Kiều phất tay cho mấy tay súng lui ra.
        Đám gia tướng ngơ ngác nhìn nhau, chưa biết xử trí ra cao. Có tiếng quát lanh lảnh từ trên lầu hắt xuống:
        – Chớ để hắn dùng tà thuật đưa nữ cbủ các chú đi. Tướng lĩnh Cầu Mây đâu? Bắt lấy! Chớ để hắn thoát!
        Nguyệt Tú đã kịp trấn tĩnh tinh thần, đu mình xuống sân nhặt súng cùng thủ hạ chia nhau chạy vòng các ngả bổ vây. Ngay lúc đó, từ nẻo ga Hàng Cỏ, một chiếc xe hơi mui trần lao vụt tới. Đang chạy giữa đường, bất ngờ chiếc xe xẹt ngay sát vỉa hè, rồi dừng lại, trong nháy mắt Phượng Kiều đã bị đẩy vào trong xe, trước những cặp mắt kinh dị của Nguyệt Tú cùng hai hàng gia tướng. Chiếc xe cứ thế, xả lốc lực vọt nhanh. Trông theo, còn thấy lão tặc đặt Phượng Kiều ngồi giữa, đầu gậy chĩa thẳng lên trời, chớp mắt đã ngoắt đi, mất dạng.
        Nguyệt Tú cùng đám gia tướng chỉ còn biết giậm chân tức giận ngó theo. Giữa lúc đó, Hai Cao cùng hai gia tướng phóng xe từ bệnh viện Đặng Vũ Lạc về, thấy mọi người còn đang ngơ ngác đứng bên hè, Hai Cao toan cất tiếng hỏi, thì Nguyệt Tú đã nhanh giọng:
        – Tên già quái dị vừa bắt Phượng Kiều cô nương đi rồi! Đuổi theo mau!
        Không chậm trễ, Hai Cao vòng xe đuổi theo ngay, sau khi đỡ Nguyệt Tú lên xe. Xe chạy được một quãng tới khúc quẹo, Nguyệt Tú liền leo sang cầm lái, xả hết tốc lực rút ngắn đoạn đường. Chiếc xe, chính xe riêng của Phượng Kiều mới mua thuộc loại tốt, chạy rất nhanh. Khỏi Gia Lâm, gặp một chiếc xe hàng ngược lại, hỏi thăm, biết rõ có xe mui trần vừa chạy qua, Nguyệt Tú liền bắt luôn vào đường số năm phóng miết. Quả nhiên, chỉ lát sau, đã thấy bóng chiếc xe mui trần đang chạy bon bon phía trước.
        Nguyệt Tú vừa cho xe tới gần đầu cầu bên này, vội thắng két xe lại, vì xe trước thình lình dừng phắt ngay đầu cầu bên kia. Một bóng người từ trong xe khoan thai bước xuống tiến lại dừng giữa đầu cầu, hai tay hai súng chĩa thẳng vào Nguyệt Tú.
        – Phượng Kiều!
        – Cô Ba!
        Cả bọn đang ngạc nhiên đã nghe tiếng lão tặc ồ ồ hắt lại:
        – Biết điều lui mau! Ta cho mười giây suy nghĩ đó! Nếu không, ta truvền Phượng Kiều bắn ngay!
        Nguyệt Tú vẫn không rời tay lái. Cô gái đưa mắt cho Hai Cao, lúc đó cùng mấy gia tướng đã phục xuống sàn xe.
        – Rút súng ra! Chỉ cần Hai Cao cùng một chú bên Cầu Mây, thạo súng nhất. Hãy mở cửa, ra nấp bên sườn bắn cặp vỏ sau của chúng.
        Để tôi liệu tước súng Phượng Kiều!
        Hai người vừa hé cửa, chưa kịp lách ra, đã nghe tiếng lão tặc:
        truyền lệnh:
        – Hết mười giây!
        Lệnh quái ác vừa truyền, Phượng kiều vẫy luôn hai tay súng. Hai viên đạn xuyên trúng cửa xe, Nguyệt Tú còn đang lựa thế nghiêng bắn tung súng cô bạn gái cho khỏi phạm người, thì Phượng Kiều đã chĩa luôn mũi súng vào Nguyệt Tú. Nguyệt Tú còn đang lúng túng thì xe trước rồ máy vọt đi, bỏ lại sau một chuỗi cười khanh khách.
        Nguyệt Tú cả giận vẩy luôn ngọn súng lên, nhưng đã muộn, xe trước đã lao đi như một mũi tên. Nàng liền mở máy đuổi theo, nhưng chạy được mấy thước mới rõ hai bánh trước xe mình đã xì hơi, bẹp dí.
        Bỏ được xe Nguyệt Tú, “bọn ăn mày” truyền người tuổi trẻ lái xe thẳng đường ra Đồ Sơn. Phượng Kiều mệt quá, dựa lưng vào nệm xe ngủ lúc nào không biết. Tỉnh dậy, nghe tiếng sóng vỗ triền miên, Phượng Kiều tung mình ngồi lên, ngơ ngác như vừa trải qua cơn mộng ảo lạ lùng. Nàng chỉ còn lờ mờ nhớ lại việc vừa qua, cau mày tập trung ý nghĩ nhưng không thế nào kiểm điểm được rõ rệt hành động mình từ lúc thấy cặp mắt lửa xuất hiện bên giường, cả lúc lên xe ngồi giữa lão ăn mày quái dị và người tuổi trẻ cầm tay lái. Biết chắc mình đã bị sức thôi miên ghê gớm chi phối, Phượng Kiều cau mày đập mạnh tay vào trán. Nghĩ mấy giây, Phượng Kiều bước đến bên cửa ra vào. Cửa đóng chặt phía ngoài. Nàng đưa mắt quan sát kỹ lưỡng, đoạn áp tai vào vách nghe ngóng. Không một tiếng động ngoài tiếng sóng gầm gió lộng.
        Sấm chớp liên hồi, rồi mưa đêm đổ xuống như thác. Nhờ ánh chớp, Phượng Kiều nhận được khá tường tận địa hình địa vật, sờ chấn song thấy bằng tre, cả mừng líền vận gân bẻ gãy luôn. Phượng Kiều yên tâm, lượng chiều không cao mấy, liền lách mình qua khung cửa, đu xuống như con sóc. Chân vừa chạm mặt cát, nàng đã theo đà lăn tròn đi mấy vòng, nằm áp tai nghe ngóng, chỉ thấy tiếng thủy triều cuốn ầm ầm, nàng toan chống tay ngồi dậy, chợt giật nẩy mình chớp mắt luôn mấy cái. Không hiểu sao, nàng có cảm giác như vừa chạm phải điện, lăn luôn mấy vòng nữa và đứng phắt ên. Nhưng một bàn tay đã đặt lên bờ vai nàng, và một giọng nói rợn trầm nổi lên:
        – Sao không nằm yên trong giường lại ra ngoài mưa gió? Định trốn đâu cho thoát tay ta?
        Nhận ra tiếng lão hành khất, Phượng Kiều liền mím chặt môi, thoi luôn một quyền vào bụng lão địch thủ và bị lão thót bụng kẹp dính lấy nắm tay như nam châm hút sắt.
        – Sao dám kháng lệnh ta?
        Tiếng nói vừa buông, Phượng Kiều thấy một chiếc khăn lông đã trùm khắp thân mình, cất bổng lên, như bị kẹp chặt giữa gọng kìm thép. Chừng năm phút sau, có tiếng hỏi xẵng:
        – Sao? Chúng đã tới chưa?
        Có tiếng người trẻ đáp lại có vẻ kính cẩn.
        – Bẩm sư phụ, chưa thấy báo hiệu ngoài khơi! Có lẽ mưa to gió lớn nên chậm chăng? Bẩm, thế còn cô gái đó?
        – Cô nàng nhảy cửa sổ định trốn! Đây! Mi đưa cô nàng vào thay y phục còn ra khơi cho kịp.
        – Dạ.
        Nằm trong chăn, Phượng Kiều thấy thân hình bi tung bổng lên, rồi có cánh tay khác đỡ lấy, vác đi. Giây lát thấy chân chạm đất rồi chăn được kéo ra, Phượng Kiều thấy mình đứng trong một căn nhà chài lụp sụp trước một chàng tuổi trẻ, bảnh trai, thân hình rất tầm thước. Phượng Kiều cau mày, cười lạt hỏi:
        – Các người vô cớ lừa bắt ta, đưa ra vùng Đồ Sơn này làm chi?
        Phải chăng...?
        Nàng ngừng lại, khoé hạnh long lanh, nhưng người tuổi trẻ vẫn tươi cười như không, từ tốn:
        – Tiếc thay không thể cho cô nương biết được. Nhưng dầu sao cô nương hãy chịu khó thay y phục đi rồi sẽ liệu. Hành lý cô nương chúng tôi đã mạn phép mang theo, để đầu giường đó!
        Dứt lời không chờ nàng lên tiếng, người tuổi trẻ nghiêng mình chào, lui ra, chép cửa lại. Phượng Kiều đứng trông theo, đoạn quay gót về phía giường, quả nhiên, thấy chiếc “xắc” quen thuộc của mình nằm đó từ lúc nào rồi. Tần ngần giở ra, thấy đủ các thứ cần thiết lặt vặt trong đó, cả phấn sáp, lược, gương... Chẳng khác chính tay nàng chọn để vào.
        Mưa ướt đầm mình, thấm lạnh, nàng đưa mắt ngó quanh, liền kiếm chỗ khuất thay xiêm y. Vừa xong, chợt có tiếng gõ cửa:
        – Cô nương... đã sẵn sàng chưa?
        – Cứ vào!
        Nàng vừa xẵng giọng nói vọng ra, đã thấy chàng tuổi trẻ đẩy cửa vào.
        – Hải thuyền đã tới đón. Cô nương nên thay y phục đi đường cho tiện.
        Miệng nói, chân hắn bước nhanh ra đường luôn. Nàng vừa lách ra hiên, đã thấy bóng người rảo bước tới. Nhanh như cắt, Phượng Kiều hoành thân, đánh luôn ra một đường quyền tuyệt hiểm. Nhưng bóng người đã hụp mình tránh thoát, vung quyền đánh trả. Trời tối, Phượng Kiều chỉ thấy hình người đen di động trước mặt, nàng cố định thần, vừa đánh vừa quan sát địa thế, kiếm lối thoát. Chợt có tiếng quát truyền lệnh:
        – Dừng tay! Sư phụ tới.
        Bóng đen nghe tiếng thoảng, vụt nhảy ra xa. Một ánh đèn chớp loé lên, Phượng Kiều nhìn rõ chàng thanh niên cầm đèn bão từ phía cuối hiên đi đến. Cách nàng chừng hai thước, hai người dừng lại.
        Phượng Kiều còn đang ngạc nhiên không thấy lão hành khất đâu.
        Thình lình, một chiếc khăn rộng từ phía sau lưng đã quấn chặt lấy thân hình, khiến nàng không kịp trở tay.
        Tỉnh dậy, Phượng Kiều thấy mình nằm trong căn buồng khá rộng, trên chiếc hải thuyền bồng bềnh giữa đại dương. Nhảy xuống sàn, nàng chạy đến bên cửa sổ, giật then ngang, nhìn ra. Biển cả mịt mùng, gió thổi lộng vù, mưa bay đầy vào khung cửa sổ. Cô gái đứng nhìn ra đêm tối bão bùng, mặc cho mưa bay ướt mặt. Lát sau, nàng mới quay vào, quan sát khắp phòng.
        Trên giá có đủ sách vở bút mực, chiếc “xắc” của nàng đã đặt cạnh đó, ngay gần cửa ra vào khóa trái, có để sẵn mâm cơm. Tò mò mở nắp đậy, thấy có rất nhiều món ăn tuy đã nguội, nhưng khá sang.
        Bụng đói nhưng nàng nhất định không ăn. Lên giường nằm nghĩ miên man, không sao hiểu được hành tung thái độ thầy trò lão hành khất. Còn đang suy nghĩ chợt có tiếng mở khóa ngoài lách cách.
        Phượng Kiều vớ luôn bình nước lăm lăm cầm tay, rón rén đến nấp bên cửa. Chỉ mấy giây, cánh cửa hé mở, một bóng người lách vụt vào.
        Nhanh thư chày máy, Phượng Kiều giáng luôn bình nước uống đầu kẻ lạ. Xoảng. Bình nước vỡ tung toé. Bóng lạ khoan thai lột chiếc mũ sắt đội đầu:
        – Đoán có sai đâu! Thế nào cũng bị giáng xuống đầu mà! Sư phụ nói đúng, cô nương quả bướng bỉnh hơn người.
        Phượng Kiều vừa ngượng vừa giận vì đánh lầm phải mũ sắt, liền trừng mắt hỏi:
        – Ngươi muốn gì?
        Thấy cô gái vẫn hùng hổ chủ định tấn công, chàng tuổi trẻ đưa mắt nhìn mâm cơm nghiêm mặt bảo:
        – Hành trình còn dài, cô phải ăn uống cho khỏe sức mới được, nếu không, cô sẽ chết lả vì đói, rồi làm mồi cho cá theo tục đi thuyền trên biển cả. Và nếu được tin đó Đại Sơn Vương Thần Xạ chắc cũng khóc vài hôm rồi vác súng đi tìm thân phụ cô. Tôi khuyên cô ăn uống cho điều hòa.
        Chàng trai nói một tràng dài khiến Phượng Kiều đang bực bội cũng cảm thấy không khí đỡ căng thẳng:
        – Nhưng... tại sao các ngươi lại hành động như phường gian tặc?
        Người trai lạ thoáng cau mày lắc đầu mấy cái, rồi lặng lẽ bước trở ra luôn. Phượng Kiều thấy cửa chỉ khép hờ, lẳng lặng lách ra ngoài, mới hay gian buồng mình ở phía cuối thuyền, có một lối đi hun hút, hai bên còn nhiều buồng nữa. Trên trần đều có treo đèn bão lắc lư theo nhịp thuyền vượt sóng. Thấy không có người, nàng liền cứ thẳng phía trước, đi vừa được mươi thước đã thấy người trẻ tuổi từ đâu hiện ra, ngạc nhiên hỏi.
        – Kìa! Khuya lắm rồi, cô vẫn chưa đi nghỉ, sao lại ra đây?
        Phượng Kiều thầm nghĩ nếu cứ gây sự với hắn, sẽ khó tìm hiểu được hành tung lão hành khất lạ lùng, liền làm mặt tươi cười bảo:
        – Không ngủ được, thấy cửa không khoá trái, tính ra hóng gió!
        Có gì phiền phức cho các... ông không?
        Người trai trẻ ngẫm nghĩ mấy giây, đoạn nhìn quanh hỏi nàng:
        – Giờ này sư phụ tôi còn nghỉ. Tôi có thể để cô nương đi thăm một vài nơi, nhưng cô có thể lấy danh dự cam đoan sẽ không làm chi để sư phụ khiển trách tôi?
        Phượng Kiều nghĩ ngợi giây lát, đoạn gật đầu, rồi nói gọn:
        – Được! Tôi chỉ cần đi lại một chút cho đỡ tù túng chân thôi!
        Chàng trai tươi hẳn mặt lên:
        – Vậy cô nương cứ tự tiện dạo quanh, tôi xin làm hướng đạo.
        – Và đồng thời canh chừng xem tôi có làm điều gì bất lợi không?
        Phượng Kiều nối lời, miệng nhếch cười như đùa mỉa. Chàng tuổi trẻ tảng lờ như không nghe thấy tiếng. Cả hai lên boong. Gió thổi lộng, Phượng Kiều toan bước đi, chợt chàng trai vội bảo:
        – Mưa to gió lớn cẩn thận không gió thổi bay xuống biển đó!
        Nói đoạn, chàng ta đưa Phượng Kiều ngược về cuối thuyền, trên có mui che kỹ. Tới khoang lái, chàng ta dừng lại.
        – Đứng đây tốt hơn! cô có thể xem suốt một vùng biển động.
        Nhưng phải vịn cho chắc, không nguy hiểm đó!
        Phượng Kiều ngó vào khoang, thấy mấy người đàn ông vạm vỡ đang điều khiển hải thuyền, người nào vẻ mặt cũng lầm lì, sạm nắng gió cả. Nhờ ánh sáng đèn bão, nàng thấy chiếc hải thuyền khá lớn, chạy ba buồm, nửa giống tàu ô, nửa lại giống các chiến thuyền cổ xưa.
        Dưới biển, sóng vẫn cuồn cuộn, đưa hải thuyền nhô lên lao xuống, mấy cánh buồm no gió căng phồng đẩy thuyền chạy như bay trên mặt biển động. Đứng ngoài chóng mặt, nàng liền vào khoang lái, bắt chuyện với đám lái thuyền, nhưng hỏi liền mấy thứ tiếng, cả bọn chỉ nhe răng cười ngây ngô như không hiểu gì cả.
        Phượng Kiều tỉnh dậy, giữa lúc ánh nắng đã chiếu tia sáng qua khe cửa sổ. Vừa rửa mặt xong đã nghe tiếng gõ cửa, rồi một cô gái nhỏ, tuổi trạc mười lăm bưng khay đồ ăn bước vào. Phượng Kiều ngạc nhiên, chưa kịp cất tiếng hỏi, thì cô gái đã đặt khay thức ăn, lui ra ngay. Đã định không ăn nhưng nghĩ muốn lựa thế thoát than, lúc nào cũng cần cho khỏe khoắn mới được nàng liền tặc lưỡi, đổi chiến thuật. Lát sau, đã thấy chàng tuổi trẻ hôm trước tới. Thấy khay thức ăn đã với, chàng ta tươi nét mặt ra vẻ bằng lòng:
        – Hay lắm! Cô nương đã tiến bộ hơn nhiều. Có thế mới chịu đựng nổi sóng gió đại dương chứ. Tôi là Vũ Sinh, cô nương cũng nên biết để tiện gọi. Sao? cô nương có thấy trong người khó chịu vì say sóng không ?
        Phượng Kiều lắc đầu:
        – Không sao! Nhưng tù túng chân tay khó chịu lắm. Ngồi mãi một nơi đâu chịu nổi. Tôi quen hoạt động hàng ngày rnà!
        Chàng tuổi trẻ vừa định nói gì , chợt một gã đàn ông vạm vỡ tới nói giọng lơ lớ:
        – Mời ông tới, lão sư truyền gọi!
        Chàng trai vẫy tay cho người thuộc hạ đi trước, đoạn cườI bảo Phượng Kiều:
        – Tôi có việc phải lên boong, nếu cô muốn dạo chơi cho khuây khỏa, thì.. dưới sàn có một lối thông bí mật đó! Nhưng cô nương chớ làm rộn, nếu có gặp sư phụ tôi, thì cứ làm như chính cô nương đã khám phá ra lối đó!
        Nói xong, chàng ta đi thẳng và khóa trái cửa lại, Phượng Kiều nhìn theo gã rồi theo lối bí mật lần ra cầu thang cách mặt sàn chừng một thước, cứ lần từng bước một xuống. Độ mười bậc, sờ không thấy nữa, biết đã hết thang, nàng cứ thẳng nẻo trước, lần đi, được vài chục thước, đã thấy ánh sáng lờ mờ từ đâu hắt tới, và lối đi cứ lên cao dần, đi chút nữa đã tới tầng trên.
        Buổi sớm ngoài đại dương sáng chói. Gió thổi hiu. Hải thuyền lướt êm trên mặt nước như mũi tên lao. Phượng Kiều vừa đi vừa để ý quan sát chiếc hải thuyền kỹ lưỡng, lấy làm ngạc nhiên vì nó không giống những chiếc thuyền đi biển nàng thường thấy. Thẳng ra mũi thuyền, nàng đã trông rõ một đám thuỷ thủ đang tập bắn. Mục tiêu nhỏ như ngón tay treo phía mũi thuyền, thủy thủ đang thay phiên nhau bắn, tên nào cũng nã trúng mục tiêu liền ba phát.
        Chợt có tiếng nói lớn.
        – Sang mục tiêu di động! Để ta bắn cho coi!
        Lời vừa dứt, đã thấy thủy thủ mang ra một hình ngườí gỗ cưỡi ngựa, buộc dính liền vào một bánh xe đầu thuyền. Một gã quay nhẹ bánh xe. Hình người gỗ nhấp nhô, quay lộn theo đà tay giật.
        – Đứng lui cả ra! Và nhìn cho kỹ!
        Tiếng người truyền lệnh vừa ra, đám thủy thủ lập tức giãn xa, lúc đó Phượng Kiều mới trông rõ kế tay phải, có mấy chàng thanh niên, hai ba thiếu nữ ăn mặc lạ mắt, ngồi sau lão hành khất quái dị.
        Hô xong, chàng ta từ từ tiến ra, trỏ vào một nấc thang cột buồm, dõng dạc:
        – Lần này bắn mục tiêu di động! Ta sẽ vừa nhào lộn vừa bắn!
        Nên nhớ kỹ, khi thân hình lộn xuống, tay theo đà vẩy súng luôn, thân tới sẵn, vai đã đỡ lộn rồi!
        Chàng trai cất mình vọt lên đứng co chân như một con đại bàng sắp bay. Mọi người vừa kịp trông rõ hình dáng chàng trai trên thang buồm, đã thấy chàng ta lao vụt đầu xuống, miệng quát:
        – Ta tước khẩu súng tay trái mộc nhân!
        Ngay lúc đó, hình nhân mộc đã được hãm lại, mọi người mở to mắt vì khẩu súng trong tay trái người gỗ đã rụng xuống sàn, gã thuỷ thủ chạy ra nhặt coi qua rồi ném ngay cho đồng bọn.
        Thình lình, từ trên đài viễn vọng có tiếng tù và rúc liên hồi. Vũ Sinh lập tức giơ tay làm hiệu cho thuộc hạ, đoạn rẽ đám đông, leo thoăn thoắt lên đài viễn vọng. Thoáng cái đã thấy chàng ta lộn xuống, tiến đến trước lão hành khất:
        – Bẩm sư phụ, có hai chiếc tàu ô phía trước, thẳng hướng hải thuyền ta. Sư phụ cho lệnh.
        Lão hành khất đỡ lấy ống nhòm, tiến ra phía mũi thuyền, quan sát giây lát, đoạn quay về phía thuộc hạ:
        – HÌnh như tàu ô bị bạt phong đêm qua! Rất có thể là tàu giặc khách từ nẻo Bắc Hải qua! Tất cả ai về chỗ đó, sửa soạn ứng chiến bất ngờ! Vũ Sinh, ra lệnh chạy thẳng về chỗ đó!
        – Dạ.
        Đám đông thuỷ thủ nhanh nhẹn phân tán, thoáng cái, giữa thuyền chỉ còn lại lão hành khất cùng mấy môn đồ thủ túc và Phượng Kiều. Cô gái chưa kịp lẩn tránh, lão hành khất đã trông thấy, nghiêm mặt hỏi:
        – Đứa nào cho con bé ra đây?
        – Không ai đưa cả! Chính tôi đã tìm thấy lối thông ngầm ra ngoài hóng gió! Tôi muốn đứng ngoài này xem cảnh đấu chiến với tàu ô và xin hứa sẽ không làm chi cản trở bọn ông đâu!
        Lão ta dịu nét mặt, lẳng lặng vẫy bọn môn đồ ra đầu thuyền.
        Phượng Kiều cả mừng liền đứng vịn cột trông về phía trước. Chiếc hải thuyền vẫn vùn vụt chạy như tên. Chỉ trong giây lát đã thấy hai chiếc tàu ô phía trước hiện rõ dưới ánh nắng ban mai, và đang rẽ nước lướt thẳng tới phía trước chiếc hải thuyền, Vũ Sinh chiếu ống nhòm xem, đoạn quay sang, hơi nhanh giọng:
        – Hiệu kỳ hải tặc!
        Lão hành khất gật đầu, điềm nhiên:
        – Sẵn sàng nghênh chiến. Vũ Sinh! Mi khá lên viễn vọng đài chỉ huy.
        Nhanh nhẹn, chàng tuổi trẻ băng mình vụt đi, thoăn thoắt leo lên đài cao. Chiếc hải thuyền rẽ về bên phải. Đứng dưới, lão hành khất truyền lệnh:
        – Quân giữ cờ đâu! Ra hiệu cho tàu trước coi!
        Cờ phất lên, nhưng bên kia vẫn không thấy dấu hiệu khác. Trên cột buồm tàu ô, chiếc cờ đầu lâu, ống xương chéo của hải tặc vẫn bay phần phật trước gió đại dương. Thình lình, chiếc tàu đó rẽ luôn về phía trái, như muốn bọc gió chạy thêm nhanh. Phía sau, chiếc tàu thứ hai cũng lướt lên, rẽ theo vun vút, thoáng cái đã tới gần chiếc trước. Rồi tiếng súng nổi lên, rộn rã, liên hồi. Đạn lửa bay vèo giữa không trung. Hai chiếc tàu đều bốc khói, chỉ mấy phút sau đã thấy cánh buồm tàu trước bốc lửa đỏ rực... Và chiếc hải thuyền bọc gió lộn chạy về hướng cặp tàu lạ. Chỉ lát sau, chiếc hải thuyền đã bắt kịp, cách độ nửa hải lý liền chạy theo hình cung, cứ thế cặp ngang cặp tàu trước, vượt lên.
        – Kéo hiệu kỳ mau!
        Đám thủy thủ dạ ran, chỉ trong nháy mắt, Phượng Kiều đã thấy hiệu kỳ bay phất phới trên đỉnh cột buồm chính giữa. Nền cờ đỏ chót gợn sóng, chú ý nhìn thấy có thêu một hình quần sơn trông như phủ tuyết, trên ngọn núi có hình một con đại bàng xòe cánh, mắt đỏ tía, miệng ngậm một chiếc vòng vàng.
        Phượng Kiều đã từng được biết nhiều hiệu cờ của các tay giang hồ hải khấu, nhưng chưa hề nghe ai nói tới hiệu kỳ này, còn đang ngạc nhiên, đã thấy chiếc hải thuyền chạy ngang tới cặp tàu ô trọc và có tiếng thủy thủ đồng reo lớn.
        – Tàu giặc khách hết đạn rồi!
        Rồi tiếng lão hành khất truyền lệnh:
        – Cứ cho thuyền vượt lên! Ra hiệu “Không lên đấu sẽ bị tấn công”. Quay hàng đại pháo vào chiếc tàu sau.
        Lúc đó chiếc hải thuyền đã tới vừa tầm súng tàu sau. Hiệu vừa lên đã thấy trên ngọn cột buồm tàu đó, lá cờ vụt tung bay trước gió.
        Lão hành khất cau mày đưa viễn kính lên quan sát, thấy tàu sau cũng vẫn vừa bắn vừa áp lên gần tàu trước và hiệu kỳ tàu trước đã cháy ra tro cùng một thân buồm lớn nên sức chạy yếu hẳn đi. Phượng Kiều chú y quan sát mãi vẫn chưa nhìn rõ dấu hiệu cây cờ xanh nước biển, chỉ thấy loáng thoáng những nét đỏ khắc như Hán tự. Chợt nàng định thần trông thấy dưới biển, có rất nhiều đốm đen di động, nhìn kỹ mới hay tàu sau đang thả xuồng tiến đánh tàu trước.
        Đằng kia đoàn xuồng đã lướt tới bên tàu hải tặc. Đứng xa, Phượng Kiều thấy lố nhố nhiều bóng người vừa bắn vừa áp xuống sát sườn tàu, quẳng dây lèo lên nhanh như cắt. Tiếng súng dội hẳn lên rồi ngừng bặt. Trên cột buồm tàu giặc, mảnh cờ trắng đã bay phất phơ.
        Thủy thủ trên hải thuyền nhất loạt reo lên:
        – Giặc khách hàng rồi!
        Vũ Sinh đứng trên ca nô phất cây cờ hiệu, chỉ huy đoàn ca nô, dàn hàng, chĩa súng cả lên rồi khoa tay lên miệng hô lớn:
        – Ta muốn gặp thuyền trưởng!
        Lương lự mấy khắc, gã vạm vỡ quay phắt tay cho một chiếc xuồng lui về phía mạn tàu, báo cho chủ soái. Vũ Sinh đứng đợi không lâu, đã thấy một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày dữ tợn, mắt diều hâu, râu quai nón, đầu chít khăn chữ nhân, quần áo chẽn, bước ra, bên cạnh có mấy người cao lớn.
        Vừa trông thấy rõ mặt người đàn ông râu xồm, Vũ Sinh đã ngờ ngợ, vội làm mặt nghiêm trang hỏi:
        – Sếnh sáng là thuyền trưởng?
        Người đàn ông nheo mắt nhìn Vũ Sinh, đoạn nhếch mép cười nhạt, trỏ tay lên nóc cột buồm:
        – Không nhận được hiệu kỳ của Hải Sơn Vương, chắc các người ở phương xa nào chăng?
        Vũ Sinh bật lên:
        – Hải Sơn Vương Đa Sát miền Bắc Hải?
        Biết rõ đích Voòng Lầu rồi, Vũ Sinh liền cất tiếng cười ngất toan quay về, chợt thấy một viên đầu mục của Voòng tiến đến trước chủ tướng, trỏ tay về nẻo tàu giặc trước, nói những gì không rõ. Chỉ thấy Voòng Lầu vùng đảo mắt nhìn bọn Vũ Sinh, có vẻ nghi ngờ, miệng nói lớn:
        – À thì ra chính bọn chuyên bắt cóc đàn bà con gái Việt bán ra nước ngoài. Đưa cả đám đàn bà sang để ta chở họ về bản quán! Và hãy đốt tàu ô ném bọn đó vào đống lửa cho ta!
        Đám thủ hạ Voòng Lầu dạ ran, quay đi, thoáng cái đã đáp tàu ô lại sát mạn tàu hải tặc, dẫn những người đàn bà con gái sang. Vũ Sinh nảy óc tò mò, quay bảo thuộc hạ:
        – Hay lắm! Tình cờ gặp cánh tay mặt của Đại Sơn Vương, ta muốn biết hắn vượt biển làm gì. Các người hay đậu xuống đấy, để ta lên tàu hắn, tiện thể xem tài hắn thế nào dám xưng vương biển Bắc, không thèm đáp hiệu lão sư phụ ta!
        Đoạn chàng phất tay ra hiệu cho thuộc hạ tiến ca nô lên.
        – Dừng lại không ta bắn nát xuồng!
        Viên đầu mục chỉ huy đoàn xuồng chĩa súng vào ca nô quát lớn như sấm, nhưng chàng trai họ Vũ vẫn điềm nhiên như không nghe tiếng, cứ đứng trên mũi ca nô lao thẳng vào giữa đoàn thuyền. Mấy chục tay súng của Voòng nhả đạn. Như chiếc pháo thăng thiên, chàng tuổi trẻ thình lình cất mình vọt lên cao tránh loạt đạn ác liệt, thân hình còn lơ lửng trên mũi ca nô, hai tay súng đã vẫy tứ tung, tới khi chân chạm sàn, chàng đã lăn tròn đi mấy vòng vừa tránh đạn, vừa bắn lên nhanh như chớp. Nháy mắt đã có năm, sáu khẩu súng rời khỏi tay đám thủ hạ Voòng.
        – Hảo lớ!
        Đám thủ hạ khác toan chĩa súng bắn tiếp thì Voòng đã bật lời khen, xua tay quát lớn:
        – Ngừng bắn cả! Gã kia muốn gì?
        Vũ Sinh đã đứng thẳng lên mui. Đám thủ hạ Voòng cắm súng vào bao, nhất tề áp xuồng lại. Mặc, ca nô vẫn rẽ sóng vượt lên, lao vào giữa đoàn xuồng. Mọi người đinh ninh thế nào canô cũng đâm vào nhau tan tành, nhưng ngay khi mũi ca nô cách xuồng hơn thước, bất ngờ rẽ ngang, và chàng tuổi trẻ đã cất mình nhảy vọt sang chiếc xuồng gần, đạp mạnh chân vào mạn, tên đứng đầu chiếc xuồng gần nhất còn đang lảo đảo theo nhịp xuồng chòng chành, đã bị chàng ta lê chân gạt lăn lòm xuống biển. Rồi không chậm một giây, chàng ta lại cất mình vọt sang xuồng khác, đạp mạnh mạn xuồng, gạt mười mấy người xuống biển, rồi lại cất mình vọt lên mũi ca nô cất tiếng cười ròn tan. Voòng Lầu cùng mấy người dáng thủ lãnh vẫn đứng im xem Vũ Sinh tung hoành. Bất giác Vòng giơ tay vuốt làm râu quai nón, cười khan:
        – Chà! Gã này bản lĩnh không thường! Tiếp hắn mấy đường quyền chắc không uổng sức!
        Miệng nói, tay phất mạnh bên sườn một cái, Đa Sát Hải Sơn Vương nhún mình nhảy vụt xuống nóc ca nô, thân hình cao lớn buông nhẹ như chiếc lá rơi. Nhưng, ngay lúc Voòng nhảy xuống, Vũ Sinh đã cất mình nhảy vọt lên tàu, cất tiếng cười khanh khách. Vòng Lầu cũng tung mình nhảy lên, cứ thế chao lên, chao xuống đến mấy lần, khiến mọi người đứng cùng Voòng nổi giận mắng lớn:
        – Gã kia! Tài phi thân bất quá hơn loài đạo chích phi thiềm tẩu bích, sao mải múa may? Coi đây! Ta bắt cho coi!
        Dứt lời, người đó toan nhảy thốc tới, nhưng Voòng Lầu đã xua tay:
        – Bất tất phải động thủ! Để Voòng này trị hắn đủ rồi!
        Nói đoạn, Hải Sơn Vương chậm chạp tiến lại trước Vũ Sinh. Lần này, chàng trai không chạy nữa, cũng đứng yên, chờ Voòng. Hai con mãnh hổ xông vào nhau, quyền cước, tung ra vùn vụt. Chưa đầy một hiệp, thình lình Voòng Lầu nhảy lui lại, đăm đăm nhìn Vũ Sinh. Vũ Sinh chột dạ vì cái nhìn soi mói của tay thủ túc Đại Sơn Vương, liền đảo mắt quan sát địa thế, băng mình về phía cuối tàu, luồn ngay xuống phía dưới. Voòng Lầu lập tức đuổi theo quát lớn:
        – Gã kia sao dám tự tiện xông xáo khắp tàu ta! Khôn hồn đứng lại!
        Không chậm trễ Vũ Sinh nhảy vào khoang tàu tối mờ. Giữa có một lối đi tun hút, hai bên chồng chất toàn những rương lớn sơn đen xám, ngoài có tấm biển “nguy hiểm chết người” bằng chữ Hán. Ngoái lại sau đã thấy Voòng Lầu cùng mấy gã đồng bọn chạy tới, chĩa súng cả vào.
        – Đứng lại!
        Nghe tiếng quát, chàng trai họ Vũ cất tiếng cười khanh khách:
        – Chính các sếnh sáng phải đứng im ngoài đó! Bước thêm bước nữa, ta sẽ cho tàu nổ tung!
        Nói xong, chàng ta ung dung nhấc chiếc đèn bão treo trên trần, soi qua mặt rương gật gù lẩm bẩm:
        – À ra thế! Súng đạn tải ngầm vào cho Đại Sơn Vương! Chà!
        Hồng Lĩnh định về cố quốc dọc ngang lâu dài chắc! Sư phụ mình đoán quả không sai.
        Chàng ta treo đèn vào chỗ cũ, và băng mình theo lối đi giữa khoang trên, một khung cửa hiện ra, tràn đầy ánh nắng. Vũ Sinh nhảy vọt lên khung cửa, đu tung mình lên lao luôn tới cánh cột buồm giữa, thoăn thoắt leo lên. Hàng chục mũi súng lập tức chĩa lên toan nhả đạn, nhưng Voòng Lầu đã giơ tay làrn hiệu.
        – Để xem hắn còn giở trò gì!
        Lời Voòng vừa buông ra, thì Vũ Sinh đã lên tới ngọn cột buồm cao vút.
        – Hải Sơn Vương! Xin giã từ, hẹn có ngày tái ngộ, a Voòng!
        Voòng Lầu cùng đồng bọn còn đang ngạc nhiên chưa rõ chàng ta đi lối nào thì chàng trai trẻ đã vụt quài tay lên trên đầu, giật phăng lá cờ hiệu đang bay phấp phới. Voòng Lầu giật nảy mình, máu giận bốc lên không kìm nổi nữa, liền đánh tay xuống sườn, vẩy phăng ngọn súng lên. Đoàng! Phát đạn thần xạ của Hải Sơn Vương vừa nổ, đã thấy Vũ Sinh ngậm lá cờ hiệu tung mình đi xa mấy thước, bám lơ lửng vào chiếc thang dây cột buồm gần đấy, cất tiếng cười khanh khách. Ngọn súng Vòng Lầu vừa quay sang, chàng ta đã đu mình sang cột buồm khác và bất ngờ, tung vọt đi như mũi tên lao. Và như đã có hiệu sẵn, đoàn xuồng máy cũng lập tức quay mũi rẽ sóng chạy như bay về phía hải thuyền.
        Hải Sơn Vương đứng sững ngó theo. Mười giây sau Voòng mới quay lại.
        – Chuyển mọi thứ sang, đốt tàu giặc và quay mũi cho mau! Ta sang “đáp lễ” bọn trên thuyền!
        Xa xa, đoàn xuồng máy đang chạy chợt một chiếc hãm tốc thình lình, rồi từ dưới biển, một bóng người đu mình lên giữa tiếng hoan hô vang dậy của đoàn thủy thủ.
        – Ta sai mi đi thám thính, sao dám khoe khoang làm lộng, giật cả hiệu kỳ của tàu người? Mi đã biết cờ hiệu của tay chân thằng Đại Sơn Vương, sao còn muốn khích cho nó tới đây để con gái họ Trần nó biết? Mau ra lệnh về Nam!
        Chàng trai cúi đầu vâng lệnh sư phụ, chạy ra truyền cho hải thuyền đi ngay. Nhưng mấy cánh buồm lớn vừa căng phồng, hải thuyền đi mới được mấy trăm sải đã thấy tàu ô Voòng Lầu đang lướt gió tới. Mọi người chiếu viễn kính, thấy họ Voòng đứng trên boong tàu, luôn tay phất làm hiệu cho thủ hạ. Chàng họ Vũ liền bước lại trước Phượng Kiều, mỉm cười:
        – Tàu ô muốn đánh thi tài. Sư khụ không muốn cô nương phải nhọc lòng! Xin lui về phòng yên nghỉ!
        Phượng Kiều hơi cau mày liễu, toan cất lời, thì chàng tuổi trẻ đã rút trong túi ra một chiếc khăn tay thuốc mê chụp luôn vào mặt nàng, chỉ thoáng chốc, cô gái họ Trần mê man không còn kịp chống cự gì nữa. Hai thiếu nữ gần đấy chạy lại, đỡ lấy thân hình nàng, mang đi luôn. Vũ Sinh quay ra phía sư phụ đã thấy tàu Voòng phăng phăng rẽ sóng chạy lới. Thình lình, từ phía tàu Voòng, từng loạt đại pháo gầm lên, rung chuyển cả mặt biển.
        Vũ Sinh nhanh giọng:
        – Tàu nó có cả đại pháo! Chà! Không ngờ thằng họ Vòng dám làm lộng đến thế!
        Liền mấy phát nữa lại nổ vang. Lão hành khất vẫn đứng im không nhúc thích, cặp mắt điện như dán về phía tàu Voòng. Chợt nước tung tóe lên giữa khoảng hai chiếc thuyền biển. Lão chậm chạp quay bảo Vũ Sinh:
        – Không phải đại pháo tàu Vòng bắn lên! Tàu nó bị tấn công.
        Vũ Sinh chiếu viễn kính, quả nhiên thấy Voòng đã đứng xoay lưng lại phía hải thuyền, chỉ trỏ ra lệnh cho thủy thủ có vẻ khác thường. Chàng trai vội chạy lên viễn vọng đài, thoáng cái trở xuống.
        – Bẩm, phía xa có bóng tàu chiến đang chạy tới! Chưa rõ tàu nước nào.
        Lão hành khất lặng lẽ ra hiệu cho hải thuyền vượt lên, đoạn chiếu viễn kính quan sát.
        – Tuần dương hạm của quan binh.
        – Chà! Sao nó lại ra khỏi vịnh Bắc Bộ? Chắc sục sạo chi đây!
        Cho nó biết mùi đại pháo thuyền buồm.
        Mặt bên cuộn sóng, bọt nước bốc lên tung tóe. Súng rền như sấm động biển đông.
        Phượng Kiều tỉnh dậy thấy mình nằm trong phòng cũ, bên tai còn nghe tiếng súng rền vang. Chớp mắt, ngó quanh không thấy ai, ra giật cửa, cửa khoá trái, lần đến lối ngầm, lối cũng khóa nốt, còn đang bực bội, đã thấy cửa ra vào hé mở, Vũ Sinh bước vào, thấy Phượng Kiều đã tỉnh, liền nghiêng mình tạ lỗi luôn:
        – Buộc phải dùng thuốc mê để cô nương đi nghỉ, mong cô nương miễn trách.
        Phượng Kiều cau mày giận dữ:
        – Tôi đã hứa vẫn giữ lời không làm rộn. Giờ lại chính các ông sai lời. Chuyện đánh nhau có chi quan hệ, sao các ông phải lừa đưa tôi vào cho khuất mắt?
        Vũ Sinh lắc đầu, làm mặt thản nhiên:
        – Chẳng có điều chi cả. Nhưng sư phụ không muốn cô nương... ở nơi đó.
        Phượng Kiều vốn thông minh, thoáng ngay vẻ lạnh lùng hoài nghi, nhưng suy nghĩ mãi vẫn không ra. Bên ngoài xa, tiếng súng vẫn đưa vào, có tiếng nổ ngay gần sát mạn hải thuyền.
        Phượng Kiều hơi cau mày, hỏi Vũ Sinh:
        – Hình như đôi bên vẫn giao chiến?
        Vũ Sinh mỉm cười, lắc đầu:
        – Xong rồi! Giờ chúng bắn theo đó!
        – Chiếc tàu ô ban nãy?
        – Tàu chiến quan binh!
        Phượng Kiều ngạc nhiên:
        – Thế còn bọn tàu ô? Mà hải thuyền các ông giao chiến với tàu binh?
        Vũ Sinh thản nhiên:
        – Sư phụ tôi đánh tàu binh để cho tàu ô chạy thoát!
        Phượng Kiều không giấu được vẻ lạ lùng, nàng liền lại bên cửa sổ trông ra thấy mặt biển chói chang ánh nắng, tít xa xa chỉ thấy lờ mờ bóng cột buồm tàu ô đang chìm dần trong biển nắng. Bất thình lình, một phát đại pháo từ phía nào bắn tới, nổ rầm, tung tóe nước bắn cả lên cửa sổ. Phượng Kiều vội lui vào, lau mấy giọt nước trên rán, hỏi Vũ Sinh:
        – Hải thuyền chưa rút khỏi tầm súng?
        Chàng trai gật đầu:
        – Vâng, chúng vừa đuổi vừa bắn riết. Còn khá lâu nữa ta mới ra ngoài tầm, vì chính sư phụ tôi muốn thế.
        Không để nàng ngạc nhiên thêm, chàng ta vui vẻ kể sơ lại chuyện vừa qua, nhưng giấu hẳn chuyện gặp Voòng Lầu, chỉ nói thác đó là tàu của một tay giang hồ đang đuổi tàu giặc buôn đàn bà con gái. Lượng sức tàu đó khó chạy thoái được tàu binh nên sư phụ tôi muốn nhử cho tàu binh quay lại rượt hải thuyền để tàu ô kia thoát đó. Giờ cô cứ ngồi chờ nghe tiếng súng cho đỡ buồn, hay muốn lên lên boong xem tàu binh đuổi bắn, tôi xin đưa lên.
        – Tôi muốn lên boong!
        Chàng trai họ Vũ lập tức đưa Phượng Kiều lên, trao cả ống viễn kính cho nàng. Phượng Kiều đứng quan sát thấy đạn tàu binh bắn theo tung tóe quanh hai thuyền. Thoạt đầu, nàng không khỏi ngạc nhiên, sau mới thấy vững dạ vì thấy chiếc hải thuyền bọc gió chạy vèo vèo theo hình chữ chi tránh đạn như bỡn. Một lát sau, nhìn phía tả thấy cột buồm tàu ô đã biến dạng hẳn, Vũ Sinh liền quay bảo Phượng Kiều:
        – Giờ đã đến lúc rút ra khỏi tầm súng tàu binh rồi!
        Dứt lời, chàng tuổi trẻ tiến về phía cuối tàu. Chỉ lát sau đã thấy chiếc hải thuyền gia tăng tốc lực, rẽ nước chạy mau hẳn lên. Tiếng đại pháo đã lui hẳn về phía sau rồi im bặt. Hình dáng chiếc tàu binh cũng hút chìm hẳn giữa mặt biển nắng chói. Bên tai Phượng Kiều, chỉ còn tiếng gió đại lương thổi vù vù, cô gái họ Trần bất giác ngó về miền đất quê hương khuất xa sau vùng biển gió mông mênh, lòng mỗi lúc càng thêm thất vọng vì đã nhận rõ bản lãnh gớm ghê của thầy trò lão hành khất dị kỳ. Hung cát khó lường, nàng đành tự nhủ lòng, phó thác cho hoàn cảnh xô đẩy, tới đâu sẽ liệu đấy.
        Về phòng nghỉ đêm, nhìn qua khung cửa cổ xem sao biển, Phượng Kiều hết sức ngạc nhiên vì chiếc hải thuyền đang chạy về hướng cực Nam. Lúc vừa ra khỏi vịnh Bắc Bộ, thấy thuyền trực chỉ hướng Đông Bắc, nàng vẫn đinh ninh lão hành khất đưa mình về mạn Bắc Hải, Phúc Kiến gì đó, không ngờ tới chuyện về phương Nam. Xem biển chán, lại vào phòng nằm, như thế suốt mấy đêm ngày, chiếc hải thuyền vẫn bọc gió về phương Nam. Tính sức buồm hải thuyền đã vượt hỏi Nam Kỳ rồi nhưng lạ thay vẫn đi vùn vụt giữa vùng biển khơi, bốn bên tuyệt không thấy dạng đất nền và cũng chẳng thấy hải thuyền ghé tạm bến nào cả. Rồi lại mấy ngày đêm nữa qua, hải thuyền vẫn chạy giữa đại dương lộng gió. Trông sao, Phượng Kiều càng ngạc nhiên vì thuyền đã bỏ hướng Nam, chạy về nẻo Đông Nam. Va cảnh biển khơi như cũng bắt đầu đổi khác, từng đàn hải âu bay lượn quanh hải thuyền, mặt nước cũng như xanh thêm, phẳng như tấm gương phản chiếu mây trời đẹp như hoa gấm.
        Sực nhớ tới những cuốn sách về hải dương học đã đọc qua, Phượng Kiều đi tìm gặp Vũ Sinh, nhưng vẫn không thấy bóng. Một đêm về phòng riêng, vừa lên giường định nằm nghỉ, chợt nghe tiếng gõ cửa, rồi có tiếng Vũ Sinh gọi. Phượng Kiều không lưỡng lự, ra mở cửa luôn. Chàng trai họ Vũ bước vào, nàng hỏi ngay:
        – Hơn tuần nay muốn gặp ông, không gặp. Phải chăng hải thuyền dang tới miền Tân Thế Giới?
        – Chắc cô ngạc nhiên lắm nhỉ? Cô nương muốn nói miền Tân Đảo hay miền quần đảo phía Nam?
        Và không đợi nàng lên tiếng, chàng ta tiếp luôn:
        – Hải thuyền sẽ đi qua vùng đó!
        Phượng Kiều mở to mắt không giấu được nét ngạc nhiên:
        – Qua miền Tân Thế Giới? Các ông định đưa tôi xuống miên quần đảo Salomon?
        Chàng trai trẻ nhìn cô gái giây lâu, có vẻ lưỡng lự, đoạn ôn tồn:
        – Chính ra thì cô không nên biết là hơn, vì cô có thể lại nóng ruột hơn nữa. Chiếc hải thuyền này còn chạy ngoài biển... nửa tuần trăng không chừng!
        – Nửa tuần trăng?
        – Vâng, vì nhiều khi phải đi theo đường riêng, không dùng hải đạo của tàu buôn, tàu chiến, tránh những cuộc chạm súng vô ích, nhất là khi gần những hải phận quần đảo lạ.
        Phượng Kiều nhăn mặt:
        – Nửa tuần trăng? Lâu quá. Nhưng các ông đi tới mãi xứ nào?
        Vũ Sinh mỉm cười:
        – Rồi cô sẽ biết. Giờ cô nương chỉ rõ là thuyền đang vào miền Úc Châu.
        Phượng Kiều còn muốn hỏi nữa, nhưng Vũ Sinh đã nghiêng mình chào, lui ra. Tới cửa, chợt chàng dừng lại, đăm đăm nhìn Phượng Kiều và ôn tồn:
        – Hành trình cũng còn khá lâu, nếu cô nương muốn có bạn thỉnh thoảng trò chuyện cho khuây khỏa, để tôi bảo sư muội tôi tới?
        Phượng Kiều cả mừng, gật đầu vui vẻ:
        – Hay lắm! Chính tôi đã nghĩ tới điều đó, nếu được vậy, còn gì bằng nữa!
        Quả nhiên, sớm sau đang đứng trên boong ngắm cảnh bình minh, Phượng Kiều thấy một thiếu nữ xinh xắn bước đến bên, nhoẻn miệng cười tươi:
        – Em là Yến Phi, nhiều lúc muốn tới thăm chị, nhưng bận chút việc riêng, chưa tới được. Chị thứ lỗi cho.
        Thấy cô gái ân cần lễ độ, Phượng Kiều có cảm tình ngay, cũng cúi chào vui vẻ, làm thân. Hai người vừa ngắm phong cảnh vừa trò truyện, Phượng Kiều thấy cô gái nói tiếng Việt lơ lớ hỏi ra mới rõ nàng ta chính người Việt nhưng xa quê hương từ buổi còn để chỏm, trông qua đã đoán được là người có bản lãnh không thường. Từ đó, Phượng Kiều cũng đỡ buồn, nhờ Yến Phi năng đến chơi trò chuyện.
        Một buổi, nàng đang ngồi trong phòng, thì cô gái tới. Yến Phi nói với Phượng Kiều:
        – Rồi chị sẽ được thấy những miền lạ lùng khó tả! Chưa biết chừng rồi chị sẽ không muốn trở lại đất liền nữa!
        Phượng Kiều nghe nói tới đất liền, chạnh tưởng tới Đại Sơn Vương, tự nhiên thở dài. Yến Phi khẽ hỏi:
        – Chị buồn sao? Cảnh đẹp thế nàỵ..
        Phượng Kiều ngắt lời:
        – Vui sao được! Nếu em biết được tâm sự chị....
        Cô gái cười ròn tan:
        – Chà! Chị nói chẳng khác một thiếu nữ suốt đời chưa bước chân ra khỏi phòng the! Đại Sơn Vương nghe chị nói chắc phải buồn cười!
        – Em cũng biết Đại Sơn Vương?
        Cô gái long lanh mắt, cười khó hiểu:
        – Anh chàng tướng lạc thảo miền Vân Nam, ai mà chả biết!
        Hải thuyền qua vùng san hô, chạy mãi về hướng Nam chếch.
        Có lúc Phượng Kiều chỉ thấy mênh mông một nước một trời, nhưng có khi cũng thấy bóng đất liền mờ nổi phía xa, thỉnh thoảng cũng thấy bóng những thuyền buồm, hoặc tàu chiến sừng sững dưới trời mây, có khi chỉ cách chừng vài hải lý.
        Nhưng tuyệt không có cuộc chạm súng nào cả. Lạ nữa là càng xuống Nam thỉnh thoảng hải thuyền lại áp vào bờ, lão hành khất lại cùng một số thuộc hạ chèo xuồng lên đảo, có khi đến nửa buổi mới về. Lại có lắm khi chợt thấy từng toán xuồng thổ dân chèo ra, reo hò ầm ĩ như chào mừng thượng khách. Càng ngày, màn bí mật càng bao trùm chiếc hải thuyền cùng thầy trò lão hành khất quái dị. Phượng Kiều không thể nào đoán nổi lão là hải tặc hay một thủ lãnh đảng phái bí mật, nhất là không thể nào đoán nổi vì lẽ gì lão đàn ông luống tuổi từ đâu thình lình “hiện” về bắt mình chở tới một nơi xa xôi, cách lục địa Việt Nam hàng bao ngàn hải lý, vượt qua cả miền Đại Dương Châu và như còn đi mãi tới chân trời xa lạ nào nữa. Một đêm Phượng Kiều lần lên boong, ngạc nhiên thấy mặt biển đêm sáng hẳn lên, những hình thù cao ngất như núi chập chờn phía xa, định thần trông kỹ mới hay chính là những tảng băng bềnh bồng trên mặt nước. Phượng Kiều sửng sốt:
        – Nam cực! Trời!
        Nàng rùng mình, cái lạnh đại dương ngấm vào cơ thể.
        – Vâng, thưa cô, hải thuyền đang vào sâu miền Nam Băng Dương, tới tiên cảnh củạ.. Chúng ta!
        Từ lúc nào chàng tuổi trẻ họ Vũ đã đứng bên nàng, lặng lẽ như một cái bóng, cặp mắt long lanh nhìn nàng. Chàng cầm một chiếc áo lông thú trắng như tuyết khoác luôn lên vai nàng.
        – Cô đứng ngoài này không lạnh sao?
        Định nói lời cảm ơn xã giao, chợt bắt gặp ánh mắt người đàn ông dưới trăng mờ, Phượng Kiều thoáng chột dạ, lấy vẻ điềm nhiên hỏi:
        – Ông ra từ lúc nào? Tôi mải ngắm tảng băng nổi phía xa, không biết. Hải thuyền đã tới miền Nam Băng Dương sao?
        Vũ Sinh gật đầu:
        – Ngày mai nó sẽ tới miền tiên cảnh của chúng ta!
        Tiếng “Chúng ta”, chàng nói trầm hẳn xuống, thiết tha. Phượng Kiều cười thản nhiên:
        – Của riêng các ông chứ! Nhưng đất đẹp đến thế nào mà ông gọi là tiên cảnh?
        – Tiên cảnh vì xa cách hẳn giống người trần tục bon chen, vì nhưng rừng đào hoa nở thơm quanh năm, trái ăn thơm ngọt có thể thay thịt cá, tinh thần thêm minh mẫn. Chính sư phụ tôi mấy năm nay chỉ dùng đào thay cơm thịt và chúng tôi nhờ đào quí, đang tập trường chay. Nhưng nếu cô chưa quen ở đó vẫn có đủ mọi thức ăn theo sở thích cô nương. Và miền tiên cảnh đó là của chúng ta, vì cô nương sẽ sống ở đó cùng chúng tôi!
        Phượng Kiều nghe Vũ Sinhh tả miền đất liền sắp đến chẳng khác nơi tiên cảnh, liền đưa mắt nhìn chàng ta xem nói đùa hay thực, thấy vẻ mặt chàng ta vẫn nghiêm chỉnh, bất giác nàng mỉm cười tinh nghịch:
        – Chà! Nghe ông tả, tôi đã tưởng tượng các ông sắp đưa vào đất tu tiên, đủ cả chẳng thiếu chi.
        Vũ Sinh chòng chọc nhìn Phượng Kiều, giọng nói như trong mộng:
        – Không... nơi tiên cảnh đó chưa đủ, còn thiếu một thứ nữa, thiếu ái tình!
        Phượng Kiều choáng váng cả mặt mày vì “nhát búa” của chàng trai hạ xuống bất ngờ. Nhưng cô gái thông minh đã trấn tĩnh ngay được tinh thần, cất tiếng cười:
        – Chắc ông lầm đấy! Chỉ thiếu cà phê và Đại Sơn Vương Thần Xạ về kiếm mới được!
        Dứt lời, nàng chào Vũ Sinh, xuống thẳng boong, tâm thần còn kinh sợ. Cô gái cảm thấy điều lo lắng đã dần thành sự thực.
        Suốt đêm không ngủ, hôm sau nàng vùi đầu trong phòng, lúc thức dậy nhìn qua khung cửa, vô cùng kinh ngạc vì những tảng băng nối đuôi nhau chạy vùn vụt bên ngoài, qua sát mạn hải thuyền như sắp lao vào ép tan tành trong chớp mắt. Gió vẫn thổi vù, từng dãy núi băng bồng bềnh vụt qua khung cửa sổ khiến nàng muốn chóng mặt.
        Lại thêm ánh nắng chiều hôm loang loáng trên mặt băng, chập chờn ma quái, cảnh kỳ dị hiện trước nhãn quan, khiến nàng giụi mắt luôn mấy cái, tưởng mình mê ngủ. Tuy hồi sang du học bên Âu, nàng chưa có dịp tới miền Bắc Băng Dương, nhưng đã xem sách và nghe nhiều kẻ đi miền Bắc kể rõ cảnh nguy hiểm của những tảng băng trôi.
        Phượng Kiều khoác vội áo, lần lên boong xem cho rõ cảnh lạ lùng hiếm có. Vừa lên hết cầu thang, nàng đã có cảm giác như vừa rơi vào một thế giới dị kỳ không còn dính líu gì tới cảnh sống ngũ châu hiện tại nữa. Vì những cơn gió biển đã lui về dĩ vãng rất mau, trên ba thân cột buồm cao chót vót, ba cánh buồm rộng được hạ xuống từ lúc nào rồi, mất dạng, nhưng chiếc hải thuyền cổ quái vẫn trôi đi băng băng như chịu một sức đẩy vô hình kỳ dị nào. Cố lắng tai nghe, không thấy một tiếng động nhỏ của đông cơ. Hết sức ngạc nhiên nàng liền lên hẳn boong, ra mạn thuyền đưa mắt ngó quanh. Băng tảng vẫn trôi quanh thuyền trùng trùng điệp điệp. Và lúc đó nàng mới kịp nhận ra cái lạnh băng giá đã biến dần, trong người vụt thấy ấm dần như đang đi vào giữa gió xuân. Có tiếng kêu lạ tại đâu đây, thứ tiếng chưa bao giờ nàng từng nghe. Đưa mắt tìm quanh thấy trên mấy tảng băng cao, phía tả, từng đàn chim “panh guanh” đứng xoè cánh giương mắt nhìn hải thuyền trông chẳng khác thứ chim làm bằng bông bán trong các tiệm đồ chơi trẻ em. Kế phía dưới băng thấp, một bầy hải cẩu đang đùa giỡn, kêu lên những tiếng lạ lùng.
        Phượng Kiều nghe tiếng động quay sang, thấy Vũ Sinh từ phía cuối tàu tới, cặp mắt vẫn chứa cả một trời âu yếm.
        – Cô nương chắc đang lấy làm lạ cảnh thuyền không buồm, máy chạy giữa biển băng?
        – Ông đọc được cả ý nghĩ trong óc tôi sao?
        – Vâng. Vì đó là sự ngạc nhiên chung của tất cả những người nào lần đầu thấy cảnh đó trên Nam Băng Dương. Cô thử nhìn xuống biển, ngay bên mạn thuyền sẽ rõ.
        Phượng Kiều lẳng lặng cúi xuống, chú ý quan sát mới nhận ra phía dưới có một nguồn nước trôi xiết giữa biển băng và như có một cái gì vô hình ngăn không cho băng tràn vào. Phượng Kiều ngẩng nhìn Vũ Sinh. Chàng trẻ tuổi mỉm cười:
        – Đó là dòng hải lưu kỳ dị nhất Băng Dương. Tàu thuyền nào gặp hải lưu cứ việc trôi theo chiều nước lạ.
        Phượng Kiều đưa mắt ngó khắp cảnh biển băng lớp lớp bồng bềnh trắng xoá như tuyết:
        – Nhưng các nhà hàng hải Đông Tây đi thám hiểm Nam Băng Dương chưa thấy ai nói đã gặp luồng nước kỳ dị này!
        Vũ Sinh mỉm cườt lắc đầu:
        – Nếu ai cũng gặp dòng hải lưu này, miền đất phía cuối hải lưu còn chi là tiên cảnh nữa? Chính sư phụ tôi nhờ duyên trời đưa tới, đắm tàu, người ôm mảnh ván trôi bạt phong, tình cờ vào được nguồn lưu thủy lạ lùng này mới tới được đảo thần tiên, chốn Bồng Lai của những kẻ đã chán miền trần tục!
        – Và của người không may thất thế... bị lưu đầy! Thôi, đứng ngoài này lâu quá, xin phép ông, tôi muốn vào phòng nằm nghỉ một chút, lúc nào tới đảo Thần Tiên xin ông nhớ cho gọi ngay nhé!
        Dứt lời, nàng nghiêng mình chào, quay vào ngay, vì thấy cặp mắt chàng trai họ Vũ đã chứa chan vẻ khác thường. Vào phòng, nàng đóng chặt cửa, nhất định không ra ngoài nữa.
        Nàng tỉnh dậy giữa lúc cồng khua, tù và rúc, người người hò vang dội từ phía trước tràn vào. Hé cửa sổ trông ra, vẫn thấy băng nổi bồng bềnh, nhưng hải thuyền hình như đã ngừng trôi hẳn. Còn đang ngạc nhiên, đã nghe những phát đại pháo nổ vàng đến nhức óc, rồi tiếng người hô, cồng thúc lại nổi lên inh ỏi. Không nén được tò mò, nàng liền mở cửa, ra ngoài, lần lên boong. Trời đã hoàng hôn. Dưới ánh nắng màu vàng diệp, một hòn đảo đã hiện ra lung linh giữa biển băng như một hình ảnh trong cõi mộng. Mấy ngọn núi tuyết trắng xóa nhô lên xa xa, óng ánh như dát vàng. Cô gái lên hẳn boong, đưa mắt nhìn quanh, mới hay hải thuyền đã neo vào một dãy núi, và dòng thủy lưu đã cuốn thẳng vào chân núi, chạy theo hình cánh cung ôm lấy đảo. Từ nội địa, thổ dân đang hớn hở chạy ra. Ngay chỗ thuyền đậu đã có đông dân tụ tập, hò reo, có mấy toán quân nam, nữ dàn hàng rất uy nghi, lạ mắt. Vì đám thổ dân lạ, ăn mặc sặc sỡ muôn màu, không giống bất cứ thổ dân nào. Trông qua, thấy đủ mọi màu da. Cả tiếng reo hò, Phượng Kiều nghe cũng không hiểu họ nói thứ tiếng nước nào nữa.
        Trên hải thuyền, đám thủy thủ của ông già quái dị cũng đã dàn ngang, như chờ đợi một cái gì nghiêm trọng. Phượng Kiều bước tới sau đám đông thủy thủ, đưa mắt ngó quanh, không thấy ông già quái dị đâu. Chợt Yến Phi từ phía bên kia mạn thuyền bước tới, tươi cười:
        – Chị thấy quang cảnh thể nào? Chắc chị lấy làm lạ sao lại có một hòn đảo nổi giữa biển băng lạnh lẽo nhỉ?
        Phượng Kiều chăm chú ngó cô gái, thấy nàng ta chiều nay đã trút bỏ bộ quần áo lục địa, giờ xiêm y cũng sặc sỡ như đám thổ dân tạp chủng dưới kia.
        – Đã tới đảo Thần Tiên đây sao? Cảnh trông lạ mắt thật. Mà lạ nhất sao ở đây có lắm giống người thế?
        Yến Phi ngó về phía thổ dân, và quay bảo Phượng Kiều:
        – Vâng, đây đã tới miền đất của lão sư rồi, nhưng chưa phải là Thần Tiên Đảo! Hải thuyền còn phải xuôi giòng lưu thủy nữa!
        Phượng Kiều ngạc nhiên chưa kịp cất lời hỏi, Yến Phi đã nhanh giọng:
        – Sư phụ đã ra kìa! Thôi chào chị, em phải đi hầu người đây!
        Vừa nói, cô gái vừa chạy ra chỗ đám đông. Phượng Kiều tò mò cũng vội tiến lên theo, đã thấy một toán thanh niên, thiếu nữ y phục sặc sỡ từ tầng dưới lên phò ông già quái dị giữa hàng gươm súng, xuống khỏi hải thuyền. Phượng Kiều chỉ thấy được phía sau, nhưng cũng nhận được dáng Vũ Sinh đi sát một bên sư phụ. Và nàng không khỏi lấy làm lạ vì ông già quái dị không còn hình dáng lão hành khất trên lục địa nữa, mà là một người có dáng dấp uy nghi trong bộ quần áo đỏ tía bằng vóc đại hồng y hệt phẩm phục bực đại quan thời cổ. Lão có còn giống lão hành khất chăng, là trên tay lão vẫn cầm chiếc gậy trúc kỳ khôi Nàng định băng mình theo thì một gã cao lớn vạm vỡ đã lù lù tiến lại, cúi đầu, giơ tay cản lại, một tay trỏ về phía cuối hải thuyền. Nàng cau mày toan buông lời cự, nhưng nghĩ mình là tù nhân, có nói cũng bằng thừa, liền lẳng lặng lộn về phòng.
        Cơm chiều xong, Phượng Kiều định lần lên boong chơi, lạ thay, thấy mi mắt cứ nặng trĩu xuống, buồn ngủ vô cùng. Nàng cố chống cự, nhưng chỉ được mấy phút, thân thể rã rời quá, đành lên giường, kéo chăn đắp và ngủ một giấc ngon lành, không còn biết trời đất gì nữa. Tỉnh dậy, trông ra, ánh nắng chan hòa phòng vắng. Không rõ mình đã ngủ bao lâu, nàng bước tớí bên cửa sổ, mới rõ chiếc hải thuyền lại đang trôi giữa dòng lưu thủy giữa biển băng trắng xóa.
        Cảnh trời nước, đảo khơi êm đềm giữa gió xuân khiến nàng có cảm giác chập chờn như đang lướt dần vào miền non Bồng nước Nhược mộng mơ.
        Trên boong, không một bóng người. Phượng Kiều đi quanh mãi, không gặp ai, lại về phòng nằm. Lúc cô gái hầu nhỏ bưng cơm vào, nàng mới biết đã sáu, bảy giờ tố. Bụng đói cồn cào, ăn xong, nhìn ra cửa sổ vẫn thấy ánh sáng chan hòa, lấy làm lạ. nàng lại lần lên boong, trông về phương Tây, lúc đó mới giật mình vỡ lẽ, trước cảnh lạ trước mắt. Nàng đã tới miền mặt trời không lặn nữa. Hay nói rõ hơn, chỉ sáu tháng mặt trời lặn có một lần, để sáu tháng qua, mới có một buổi rạng đông. Lần đầu tiên đến nơi “ánh sáng vô tận” cô gái miền lục địa không khỏi sững sờ, tuy nàng đã được đọc thấy trong sách đã nhiều.
        – Trời ? Chúng đã đưa ta tới mãi chỏm địa cầu.
        Vũ Sinh từ đâu tiến lại, cười cười nói nói, khoát tay chỉ khắp vùng biển lạ bao la:
        – Kia! Đảo Thần Tiên của chúng ta đã hiện ra rồi!
        Phượng Kiều lặng lẽ chăm chú trông theo ngón tay Vũ Sinh trỏ, quả nhiên thấy dáng đất liền nổi lên phía trước, cuối ngọn hải lưu, chỉ cách vài hải lý. Hải thuyền vẫn êm đềm lướt đi như tên. Gió xuân hây hây thổi mấy sợi tóc mây của nàng lòa xoà xuống trán. Hòn đảo kỳ dị hiện rõ dần, một hải đảo chưa hề được vẽ trên bản đồ hàng hải.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #19
          Hồi 17 - Cuộc sống trên Đảo Thần Tiên

          Phượng Kiều đặt chân lên hải đảo, sững sờ tưởng chừng đang bước vào một thế giới thần tiên. Trước mặt nàng, là cánh rừng chạy sâu mãi vào đất liền, đủ mọi kỳ hoa dị thảo. Xa xa, từng dãy núi sáng chói dưới ánh sáng mặt trời, bốn bề đâu đâu cũng thấy tiếng chim kêu vượn hót véo von như đón chào khách lạ. Đi chừng quãng xa, đã thấy nhà cửa rải rác ven rừng, mái nhà nào cũng nhọn hoắt, làm toàn bằng gỗ quí. Thỉnh thoảng lại gặp một vài thổ dân nam nữ qua lại, cúi đầu chào rất lễ phép. Tiếng đàn sáo dập dìu từ trong những căn nhà đưa ra, trầm bổng êm đềm. Còn đang ngơ ngác ngắm cảnh lạ thường, chợt thấy một chiếc xe thấp lè tè có tám con chó trắng kéo từ phía trước chạy tới, dừng lại bên đường. Vũ Sinh buộc cương, nhanh nhẹn nhảy xuống tươi cười:
          – Mời cô nương và Yến Phi lên xe, chúng ta còn phải đi một đoạn đường khá dài nữa! Sư phụ sai tôi ra đón cô nương!
          Xe chạy êm không. Vào giữa rừng đào, tới một con suối trong veo, có cầu gỗ bắc ngang, họ Vũ cho xe dừng bên cầu, với tay bứt một trái đào từ một cành rủ đưa cho Phượng Kiều.
          – Cô nương dùng thử trái đào đặc biệt của Thần Tiên đảo.
          Phượng Kiều đỡ lấy ngắm nghía, thấy trái đào lớn hơn nắm tay, lông mịn như nhung. Yến Phi cũng bứt luôn mấy trái ăn, giục:
          – Chị cứ dùng thử sẽ biết. Không có đào ở đâu ngon bằng.
          Phượng Kiều nếm thử mấy miếng, quả nhiên thấy ngon mát lạ lùng, ăn xong một trái, thấy trong mình tỉnh táo hẳn lên. Phượng Kiều nhìn xuống suối. Từng đàn cá lượn lững lờ giữa làn nước trong veo như nước Ngọc Tuyền. Và tự nhiên, cô gái lục địa khẽ thở dài, bắt đầu sợ hãi khi nhận ra tất cả sức quyến rũ gớm ghê của Thần Tiên Đảo. Vũ Sinh cho xe qua cầu. Lối mòn thăm thẳm chạy giữa cánh rừng đào đầy ánh sáng lưu ly. Thỉnh thoảng lại gặp thổ dân đang vui vẻ bứt trái đào bỏ lẵng đeo vai, miệng hát véo von như không còn mảy may biết đến niềm đau xót trần tục nữa. Trông nét mặt họ, nhận ra đủ mọi giống, từ da vàng, tới da trắng da đen, không có vẻ gì là dân ở những miền băng giá cả.
          Nàng liền quay hỏi Yến Phi:
          – Sao nơi đây lại có đủ sắc dân?
          Cô gái hải đảo nhìn "sư huynh":
          – Vì đảo này không phải ai cũng tới được. Dân trên đảo hầu hết đều từ khắp bốn phương trời đi tàu biển bị bão tố bạt phong, may trôi vào đúng nguồn lưu thủy mới đặt chân lên mấy ngọn đảo xa xăm này.
          – Những người đó có khi nào trở lại quê hương?
          Vũ Sinh mỉm cười úp mở.
          – Đã tới chốn này, làm gì còn có quê hương khác!
          Phượng Kiều chột dạ, hơi nhíu mày bật hỏi:
          – Không có quê hương? Kể cả...
          Như đoán được tư tưởng nàng, người trai hải đảo điềm nhiên.
          – Cô nương! Vì cô nương đã đặt chân lên đảo và vì sư phụ tôi đã vượt hàng bao nhiên hải lý về đưa cô nương đến đâỵ..
          Buông xong lời úp mở như dọa nạt khéo, chàng trai vụt ra roi, cất tiếng cười lớn:
          – Kìa! Cô hãy trông xem! Nhà riêng cô đã hiện ra rồi. Phía tả rừng đào, ngay bên ngọn suối đó!
          Đi thêm một đoạn nữa, xe như bước vào huê viên, chỗ nào cũng toàn hoa thơm cỏ lạ muôn màu rồi dừng lại trước một ngôi nhà xinh xắn. Cửa khép hờ. Vũ đẩy nhẹ, khoát tay trỏ quanh:
          – Nhà của cô đó! Trong này đã có đủ thứ. cô cứ tự nhiên. Lúc nào buồn, có thể đi tản bộ quanh đây nhưng... không nên nói chuyện cùng ai cả. Và cô nương cũng chớ quên:
          ở đảo Thần Tiên Nam Cực này mặt trời còn lâu mới lặn!
          Dứt lời, mặc Phượng Kiều ngơ ngác đứng giữa nhà, chưa kịp hỏi thăm nửa lời, chàng trai họ Vũ lập tức đưa mắt cho Yến Phi, cả hai chào nàng, bước ra ngay, Phượng Kiều tò mò quan sát quanh gian nhà, thấy đủ tiện nghi như trên đại lục, bàn ghế ly tách, giường trải da gấu trắng, trong chiếc tủ kính góc phòng thấy có cả cà phê, kẹo ngọt. Nhiều thứ lặt vặt có vẻ vừa mua ở đại lục về. Đặc biệt là không có màn và không thấy bóng dáng đèn dầu chi cả. May mắn lại có chiếc đồng hồ báo thức nhỏ ở đầu giường. Phượng Kiều vừa ngồi xuống ghế, đã thấy từ cửa sau một cô gái nhỏ tiến lên cúi đầu chào.
          Nhận ra ngay cô hầu gái vẫn đem thức ăn tới cho mình trên hải thuyền, Phượng Kiều mỉm cười, dùng tiếng Việt hỏi:
          – Em cũng ở đây sao? Lên bao giờ đó?
          Thấy cô hầu có vẻ ngơ ngác, nang hiểu ngay cô ta không biết tiếng Việt, liền thử chuyển sang tiếng Tàu Quan Hỏa:
          – Em cũng ở đây sao?
          Cô hầu tươi ngay nét mặt:
          – Cô nương cũng biết tiếng nước em sao?
          Cả mừng Phượng Kiều đứng lên, đến gần cô ta:
          – Chị thường giao thiệp với người Tàu. Em ở đây từ bao giờ?
          Không lưỡng lự, cô ta nói luôn:
          – Từ ngày mới sinh. Thưa cô nương, cha mẹ em ở đảo gần đây.
          Em được lệnh theo hầu cô nương.
          Thấy hành lý Phượng Kiều còn để giữa nhà, cô ta nhanh nhẩu xách để vào góc phòng, đoạn lễ phép:
          – Cô nương muốn chi cứ dạy. Ở đây, ai cũng chỉ dùng có một buổi trưa, còn hai bữa ăn trái cây. Cô nương mới đến, chưa quen, muốn dùng mấy bữa cũng được. Đây cũng có mấy thứ thịt cá như ở đại lục.
          Đảo chủ Thần Tiên chúng em đang gây giống cho đủ thứ. Vậy cô nương muốn thứ chi, em sẽ nấu cô nương dùng.
          Mấy ngày đầu, vì quen sinh hoạt ăn ngủ trên lục địa Phượng Kiều khó chịu lạ lùng vì ngày dài vô tận, thường ra ngó cảnh mặt trời không lặn, thèm nhớ một màn đêm mịt mùng.
          Nhưng chỉ ít hôm đã quen dần, nàng cứ trông đồng hồ, sinh hoạt, ăn ngủ, xem sách, đánh dàn, dạo chơi. Một buổi cơm nước xong, nàng khoác áo lững thững đi vào rừng đào, nhìn quanh không thấy bóng người, nhân lâu ngày thèm hoạt động, liền cởi bỏ áo ngoài, khoác lên cành đào, dạo mấy đường quyền cước cho khuây khỏa. Dạo xong, người nóng bừng, nhận thấy rừng đào đẹp trĩu quả, cô gái liền đu chuyền cành bứt ăn, vui đùa một lát, thấy nóng nực, bèn chạy thẳng đến bên dòng suối trong, ngồi buông thõng chân xuống nước khua chơi. Chân vừa chạm nước, nàng hết sức ngạc nhiên vì nước ấm lạ. Thích chí, cô gái liền trút bỏ xiêm y, nhảy luôn xuống vùng vẫy, ngụp lặn đuổi cá lượn bên khe. Giữa lúc đó, phía kế rừng bên, một chiếc xe chó kéo chạy băng qua, trên xe, chàng trẻ tuổi Vũ Sinh vai đeo cung tên, mình khoác áo da thú, đang mải miết ra roi. Qua rừng đào, chợt thấy có chiếc áo vắt trên cành. Trái tim chàng trẻ tuổi như ngừng đập. Không hiểu sao chàng tuổi trẻ giật mạnh tay cương, định lui êm. Nhưng dưới suối, Phượng Kiều đã vô tình nhìn lên và giật nẩy mình như chạm phải điện. cô gái luống cuống hơi lùi phắt lại, nhanh tay vịn ngay được một cành hoa rủ che trước mặt. May sao trên bờ, Vũ Sinh đã quay mặt đi. Phượng Kiều nghe tiếng xe chạy đã xa, mới dám rời khỏi cành che, lần lên mặc vội xiêm y, lòng vẫn còn bối rối. Mặc xong xiêm y, nàng đã thấy Vũ Sinh từ rặng đào gần đấy bước ra.
          – Cô nương thứ lỗi, tôi đã vô tình làm cô nương phải một phen luống cuống.
          Nghe giọng nói của chàng trai không có gì lơi lả Phượng Kiều an tâm đôi chút, làm mặt thản nhiên:
          – Không ngờ suối ở đây lại ấm thế! Lâu không được vùng vẫy, nhớ quá. Ông đi đâu mà lại đeo cả cung tên thế?
          Vũ Sinh liếc nhìn cung đeo vai, mỉm cười:
          – À, tôi đi săn hải cẩu. Định rẽ qua thăm cô. Sao, cô ở đó có dễ chịu không?
          Phượng Kiều hơi cau mày:
          – Chắc ông thừa hiểu. Nhưng dầu sao, tôi cũng cần nói để các ông rõ, từ phút thất thế bị sa tay các ông, tôi đã coi đời tôi không còn nữa.
          Giọng phẫn uất của "nữ tù" không khiến Vũ Sinh mất vẻ tươi cười, chàng ta đăm đăm nhìn nàng:
          – Cô vẫn chưa quen sống với hiện tại. À, cô nên đi săn hải cẩu để biết cái thú sông miền Nam cực.
          Phượng Kiều toan chối phắt đi, nhưng chợt thấy ánh mắt chàng trai đắm đuối nhìn mình, "Bản năng nữ tướng chủ động" vụt nổi dậy, nàng nhếch miệng cười, gật đầu luôn:
          – Còn gì hay bằng nữa!
          Trông quanh xe chỉ thấy mấy ngọn lao, nàng vui vẻ hỏi:
          – Sao không có súng?
          Vũ Sinh giật cương cho xe chạy:
          – Săn hải cẩu bằng súng còn thú gì nữa? Tôi nghe cô bắn cung cũng hay lắm mà! Để tôi kiếm thêm cái nữa cô dùng!
          Nghe nói có cung tên cho mình, Phượng Kiều mừng thầm, đưa mắt nhìn họ Vũ, nói như dò ý:
          – Cám ơn ông đã không ngần ngại trao khí giới cho tôi!
          Nhưng chàng trai thản nhiên trao ngay cả cung đeo vai cho nàng.
          – Không sao.
          Xe đi về phía cuối đảo. Qua mấy dãy rừng, họ Vũ ngừng lại trước một căn nhà khá lớn, chạy vào lấy thêm một cây cung, rồi lại tiếp tục đi. Đàn chó chạy nhanh như ngựa, đưa xe xuống mãi hướng Nam cực, chừng hơn giờ sau, đã thấy rừng cây, nhà cửa thưa dần, rồi xe chạy trên một miền băng giá quạnh vắng, chung quanh chỉ toàn tuyết trắng xóa. Vũ Sinh cho xe chạy qua hẻm núi, dừng lại.
          – Đây đã tới vùng dân Eskimo đảo. cô nương đã thấy gì thay đổi chưa?
          Phượng Kiều đưa mắt nhìn quanh, cảm thấy ngay cái lạnh đại dương Nam cực, khác hẳn miền rừng đào.
          – Lạ thật! Cùng một nơi, sao khí hậu như chia hai miền?
          – Nơi rừng đào con có suối Ôn Tuyền, nước ấm quanh năm vì nằm trong phạm vi luồng ôn tuyến thiên nhiên. Còn vùng này nằm ngoài ôn tuyến!
          Chợt có tiếng rúc nổi lên đâu đây, từng tràng rất lạ tai. Vũ Sinh chỉ về phía trước:
          – Hải cẩu đang gọi đàn! Hay lắm! Nào chúng ta bắt đầu săn thôi.
          Miệng nói, tay giật cương cho xe chó tiến thẳng ra gần biển.
          Cạch một quãng xa, Vũ ngừng lại, ra hiệu cho Phượng Kiều cùng xuống. Trên băng nổi, một con hải cẩu ngồi chồm hổm, đang nhìn mấy con nữa vùng vẫy dưới nước. Vũ Sinh khẽ bảo Phượng Kiều:
          – Nhường cô nương phát đầu tiên đó.
          Phượng Kiều giương cung bắn luôn. Con vật nhào trên tảng băng.
          Từ dưới nước mấy con nữa nhảy vọt lên. Nhanh như cắt, Phượng Kiều buông luôn mấy phát tên, hạ luôn mấy con.
          – Chà! Cô nương bắn nhanh như nỏ liên châu!
          Vũ đẩy xe đi, được một quãng thấy mấy con khác ngồi trên băng nổi, Vũ liền rút mấy ngọn lao, cười bảo Phượng Kiều:
          – Bắn hải cẩu phải dùng lao xương cá mới thích!
          Vừa dứt lời, chàng trai hải đảo phóng vụt ra biển liền mấy mũi.
          Chàng ta phóng nhanh đến độ Phượng Kiều chỉ thấy hai cánh tay vung lên như máy, trông ra, lạ thay, vẫn thấy mấy con chó biển ngồi trầm ngâm như cũ. Thì ra, chàng ta đã phóng ghim con nọ vào con kìa, lao cắm như đan chéo thân hình mấy con thú biển.
          – Hay lắm. Ông ném lao có lẽ thạo hơn dân Eskimo đó!
          Chờ cho cặp chó tha xác chúng vào, chất lên xe, hai người lại liếp tục cuộc săn. Chợt Vũ Sinh trỏ tay ra biển. Một con hải cẩu ngồi trên băng lập lờ. Phượng Kiều đã lấy lao, vừa giơ lên, đã thấy con hải cẩu rúc lên một tràng rất lạ tai, lập tức từ dưới biển, một con nữa nhảy lên, hai con quấn quít lấy nhau, rúc rích không còn biết gì đến cái chết đã kề bên. Trước cảnh âu yếm của cặp vợ chồng hải cẩu, bất giác Phượng Kiều quay mặt đi, mặt ửng đỏ, vì bắt gặp ánh mắt Vũ Sinh. Chàng trai nhìn đăm đăm vào đôi mắt nàng, bàn tay Vũ nhẹ nhàng đặt lên vai nàng. Biết chàng ta không nén nổi nữa, Phượng Kiều bất giác liếc nhìn cảnh bãi băng quạnh vắng bản năng tự vệ khôn khéo bừng dậy, thiếu nữ bỗng cất tiếng cười giòn, xoay mình nhẹ cho bàn tay Vũ rơi giữa khoảng không.
          – Bắn hải cẩu mãi chán rồi! Sao chúng ta không đi săn gấu trắng?
          – Nếu cô nương muốn săn gấu trắng, giờ này chúng thường ẩn trong ổ tuyết. Phải mất công tìm mới thấy!
          – Càng hay!
          Miệng nói, chân xăm xăm rảo bước. Vũ đành phải đẩy xe theo.
          Tới chân núi tuyết, Vũ chăm chú nhìn mặt tuyết, thấy nhiều dấu chân thú, bảo Phượng Kiều.
          – Có vật vừa qua đây, để tôi săn kiểu Eskimo cho cô nương xem!
          Đoạn chàng ta để xe thú một chỗ, dẫn Phượng Kiều đi dọc theo chân núi. Tới một khe, chàng ta nhìn quanh, đoạn trở lại xe lấy một con dao dài tẩm đẫm máu hải cẩu, đem tới cắm ngược ngay miệng lỗ tuyết và cùng Phượng Kiều kiếm chỗ nấp gần đấy. cô gái lục địa ngạc nhiên chưa hiểu chàng ta làm gì, đã thấy Vũ ghé lại:
          – Nó sắp ra đấy! Gió đưa hơi máu vào tổ. Nó thính mũi lắm và ưa máu hải cẩu lắm! Cô nương chịu khó chờ một chút!
          Quả nhiên chỉ nửa phút sau đã thấy tuyết động đậy, rồi một hình thù khá lớn đội tuyết, từ lỗ chui lên, lắc lư đầu như đánh hơi, mươi khắc sau, đã lừ đừ tiến thẳng đến bên thanh dao máu. Đứng nấp cuối chiều gió cách mười thước, Phượng Kiều thấy rõ hình thù gấu trắng, giống thú đặc biệt của những miền băng giá chỏm địa cầu. Con thú hếch mũi ngửi lưỡi dao và lập tức lè lưỡi liếm xoèn xoẹt vào lưỡi dao bén máu, liếm cho đến khi lưỡi con vật khát máu bị xẻ nát, ra hết máu trong người kiệt sức ngã khuỵu xuống. Lúc đó, Vũ Sinh mới đến vác về xe. Phượng Kiều thấy lạ mắt liền cầm dao máu, đi tìm ổ gấu trắng, mỗi người đi dọc một phía núi. Phượng Kiều thấy bẫy được một con nên cứ vui chân đi mãi, nhưng vẫn không thấy ổ gấu, đang lưỡng lự muốn xuống phía dưới, chợt nghe có tiếng rú kỳ dị phía trên cao. Ngạc nhiên, nàng ngẩng mặt ngó lên, giật nẩy mình vì một người cao lớn dị thường đứng sừng sững trên đỉnh núi, toàn thân trắng toát như băng. Sự xuất hiện thình lình của "người khổng lồ" khiến nàng kinh ngạc, chớp mắt tưởng mình mê ngủ, đứng im mấy giây, giương mắt nhìn, sau mới định thần, sờ lên vai còn thấy đeo cung tên, liền cắm phập ngọn dao xuống tuyết, giương cung thủ thế.
          Người khổng lồ đã trông thấy cô gái phía dưới. Hắn rú lên những tiếng kỳ dị vang âm, từ từ tiến xuống. Cặp mắt ốc nhồi như đèn pha chiếu thẳng vào nàng. Phượng Kiều biết chạy không kịp, đành cứ đứng im, tay ghìm sẵn tên trên dây và nghĩ ngay đến giống Người Tuyết ở những miền băng giá. Chợt hắn giẫm thụt chân vào một lỗ hổng ngầm.
          Một con gấu trắng đội luyết, nhảy vọt lên. Bàn tay khổng lồ quờ một cái, nắm mình con gấu giơ lên, xé làm đôi như xé con ngóe. Máu tươi rỏ giòng trên mặt tuyết. Phượng Kiều bất giác rùng mình, vì sức khoẻ ghê ghớm của Người Tuyết. Cô gái mím chặt vành môi, buông mạnh dây cung. Phập. Mũi tên cắm luôn vào ngực Người Tuyết, cặp mắt lừ đừ chợt ngó xuống, tay Người Tuyết quơ rút phắt mũi tên, bẻ làm đôi ném đi, và chậm chạp tiến lại. Hình thù phi nhân phi thú chỉ còn cách cô gái mấy chục bực tuyết. Nàng lập tức bắn luôn mấy phát tên nữa, cắm vào Người Tuyết như lông nhím và vùng chạy xuống.
          Phượng Kiều biết nguy cơ đã kề vì tên bắn không cắm sâu được vào da thịt quái vật, nàng liền giương cung nhắm con mắt đèn pha bắn liền. Liền hai mũi cắm trúng mắt quái vật nhưng có lẽ nhờ linh tính, con vật đã chớp mắt kịp thời nên tên chỉ cắm vào làn da mí mắt. Hình như tên xuyên qua da chạm tới con ngươi, quái vật đột nhiên rú lên có vẻ đau đớn vung tay giật phắt tên ra và xông ngay lại. Phượng Kiều khoa luôn mấy đường dao loang loáng, quái vật phải đảo mắt nhìn theo và bất thình lình nhảy vọt lên, chém một nhát thật mạnh vào cầm cổ quái vật. Không ngờ quái vật gạt được thanh dao. Và quài tay nắm ngay được ngang lưng nàng, nhanh như con cắt bắt gà con. Cô gái vận hết sức bình sinh cố vùng vẫy, tay dao chém lia lịa vào mình quái vật. Quái vật giật dao, nhe nanh cắn bẻ cong veo, ném đi luôn và ghì nhặt lấy cổ nàng, rú lên những tiếng kinh khủng, chạy bay lên đỉnh núi tuyết. Phượng Kiều nghe bên tai tiếng gió thổi vù vù cho đến lúc nghẹn thở, thiếp đi.
          Tỉnh dậy, mở choàng mắt, cô gái ngạc nhiên tưởng vừa trải qua ác mộng, vì thấy mình nằm trong căn nhà cũ ven suối, nữ tỳ ngồi bên cạnh. Lắc lắc cổ thấy vẫn còn đau ê ẩm, nàng mở to mắt hỏi nữ tỳ:
          – Em, sao ta lại ở chốn này?
          Cô gái Tàu dịu dàng ấn nhẹ cho nàng nằm nguyên.
          – Cô không thể cử động vội. Để thuốc ngấm hẳn đã! Ông Vũ Sinh có dặn lát nữa sẽ trở lại.
          Phượng Kiều nhíu mày, nhớ lại việc kinh khủng vừa qua.
          – Thế ai đưa ta về đây? Ta đã bị quái vật bắt đi mà?
          Nữ tỳ mỉm cười:
          – Ban nãy thấy ông Vũ Sinh đưa cô nương về, ông chỉ nói sơ là cứu cô nương từ trong hang quái vật về thôi.
          Hai người đang nói chuyện, thì Vũ Sinh và Yến Phi cùng tới.
          Thấy nàng đã tỉnh, Vũ cả mừng tiến đến bên giường, khẽ hỏi:
          – Cô đã dễ chịu chưa?
          Phượng Kiều hơi nhếch miệng cười khẽ gật đầu:
          – Vẫn còn đau ê ẩm. Nhưng...
          Hình như hiểu rõ nỗi thắc mắc trong lòng nàng, Vũ Sinh dịu dàng:
          – Lúc đó, tôi ở phía núi khá xa, chợt nghe có tiếng rú vang âm, liền chạy đến, không thấy gì cả. Nhưng nhìn thấy nhiều dấu chân trần mặt tuyết và những mũi tên gẫy, tôi đoán ngay có chuyện gì đã xảy ra, vội theo dấu vết đi tìm. May thay, tới hang vừa kịp lúc nó đặt cô nương xuống nệm cỏ khô và sắp sửạ..
          Chàng trai ngừng lại, Phượng Kiều bất giác thở phào:
          – Không ngờ nơi hải đảo xa đăm này lại có loài quái vật ghê gớm. Thế... giờ nó đâu?
          – Trốn rồi! Tôi đã nổ liền mấy phát súng vào chỗ phạm nên nó phải bỏ chạy. Sợ nó còn có đàn, tôi phải vội đưa cô nương về chạy chữa đã!
          Phượng Kiều đăm đăm nhìn Vũ Sinh, giọng cảm kích:
          – Không được ông giải cứu kịp, tôi đã nguy rồi! Ơn này xin suốt đời ghi tạc.
          Vũ lắc đầu, nhã nhặn cùng Yến Phi chuyển ngay sang chuyện khác, khuyên Phượng Kiều tĩnh dưỡng ít bữa cho an định tinh thần lại, và ra về. Mấy bữa sau, Vũ lại tới thăm. Vì đã mang thêm cái ơn cứu khỏi tay quái vật, Phượng Kiều đối với Vũ thêm phần thân mật.
          Nhân đứng bên suối, Vũ ngập ngừng giây lát, đoạn thở dài, tỏ rõ cả tấm lòng yêu vụng nhớ thầm nàng từ khi gặp gỡ đến giờ. Phượng Kiều cứ đứng im nghe, mặt bình thản như không, chờ cho Vũ Sinh nói hết, nàng mới ngẩng lên đăm đăm trông thẳng vào cặp mắt chàng trai, nghiêm trang ôn tồn:
          – Cám ơn ông đã có lòng tưởng tới kẻ nữ tù thất thế này. Bấy lâu tôi vẫn thầm phục vì những cử chỉ tao nhã của ông, nhất là từ buổi được ông cứu thoát. Nhưng mong ông xét cho chỗ... khó hiểu của lòng người, suốt đời tôi chỉ còn có Đại Sơn Vương, tôi chỉ một lòng thờ Đại Sơn Vương.
          Giọng nói êm đềm nhưng thập phần cương quyết của Phượng Kiều khiến Vũ đứng im không nhúc nhích, rất lâu mới khẽ hỏi:
          – Nhưng... mối tình của cô nương chỉ là một mối tình tuyệt vọng.
          Vì dây oan hai họ thắt chặt rồị.. Cô nương mong sao sum hiệp cùng chàng?
          Phượng Kiều lắc đầu ái ngại, định nói gì lại thôi. Mươi khắc sau mới dịu dàng trầm giọng:
          – Chuyện tâm hồn tưởng khỏi phải thưa nhiều thêm bận tâm ông. Dầu sao, tôi cũng có bổn phận nói rõ để các ông định liệu. Tôi sẵn sàng chịu đựng số phận của một nữ tù , và sẵn sàng chịu chết để giữ trọn hình ảnh người tôi yêu kính nhất đời. Mong ông lượng thứ cho!
          Nói xong, nàng cúi đầu chào, về thẳng nhà riêng chờ đợi biến cố.
          Nhưng liền mấy bữa trôi qua, vẫn không thấy gì khác lạ. Họ Vũ lại tới thăm, không chút ngã lòng, chàng ta vẫn không ngớt tìm cách đi vào trái tim nàng. Rồi Yến Phi, rồi một số nam nữ thanh niên môn đồ ông già cổ quái khác, tất cả như đều ngầm tìm hết cách làm cho Phượng Kiều ngã lòng. Nhưng cô độc thất thế sa cơ giữa nơi hải đảo, bên đủ mọi thứ quyến rũ gớm ghê, Phượng Kiều vẫn không hề sa ngã. Càng kề nguy hiểm, hồn nàng càng rực lên hình ảnh Đại Sơn Vương.
          Rồi một buổi, Phượng Kiều đã thức giấc, chợt nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Nữ tỳ ra mở, thấy một đám người mặt mày dữ tợn bước vào, súng gươm lạch cạch trừng trừng ngó nàng. Gã cao lớn nhất phất tay ra hiệu cho Phượng Kiều, giọng Quan Hỏa lơ lớ khó nghe:
          – Có lệnh đưa cô đi ngay. Xe đang chờ.
          Đoàn xe chó chạy vùn vụt khỏi rừng đào, đi mãi về mạn cuối đảo.
          Thoáng cái đã đến vùng bảng giá. Xe dừng trước một cửa hang rộng Gã đàn ông ra hiệu cho Phượng Kiều xuống xe, lặng lẽ trỏ tay vào hang. Phượng Kiều không nói nửa lời, tới cửa hang dừng lại mấy giây, đưa mắt nhìn quanh và như sẵn chủ định, Phượng Kiều nhếch cười lạnh lùng, bước thẳng vào miệng hang. Đám đàn ông dữ tợn kèm sát hai bên, tay luôn luôn sờ đốc gươm báng súng.
          Càng vào, hang càng tối. Lòng núi ăn rộng giữa vùng ánh đèn sáng lét, nhiều hình thù đứng sừng sững, cao lớn, lưng trần, tay cầm võ khí dàn quân, chừa một lối đi thăm thẳm, tít phía trong, có một hình thù hộ pháp ngồi trước một chiếc bàn tuyết khối. Trên bàn leo lét ngọn đèn dầu cá vật vờ hắt những cái bóng đen ngòm lên vách hang thành những hình ma quái lắc lư.
          Phượng Kiều đưa mắt nhìn gã đi bên. Hắn chỉ khẽ hất hàm một cái, Phượng Kiều đã xăm xăm tiến luôn giữa hàng gươm súng tuốt trần, đến thẳng trước bàn người lạ mặt.
          – Nàng hãy ngồi xuống, Trước khi ra tay, ta có lời muốn nói.
          Động chủ muốn nàng làm vợ Vũ Sinh! Nếu không...
          Hắn dừng lại, vỗ mạnh tay xuống bàn. Một hình thù đàn ông ghê tởm tập tễnh bước ra, ngó Phượng Kiều nhe răng cười, trắng nhởn:
          – Nếu nàng dại dột không thuận Vũ Sinh thì người chồng trọn kiếp của nàng đứng đó!
          Và như thừa đoán được ý nghĩ cô gái, hắn cười khẩy:
          – Cô nàng nghĩ tới cái chết ư? Không! Chớ lầm ! Động chủ có đủ phép mầu làm nàng không chết nổi, nàng phải sống trọn đời nơi đây, với người chồng xấu xí để hối hận vì đã chối bỏ Vũ Sinh.
          Phượng Kiều tưởng vừa bị dội một gáo nước lạnh vào tâm hồn, nàng vụt nghĩ tới cặp mắt điện thôi miên của lão hành khất quái dị và không khỏi ghê tởm vì cách ép buộc khôn ngoan của đám người lạ.
          Nguy cơ đã kề, tâm trí vụt lóe lên một quyết định, Phượng Kiều đảo mắt nhìn quanh và vùng cất tiếng cười ngạo mạn:
          – Chúng mi nhầm rồi Ta nói thật cho hay, dừng mất công dọa nạt, dụ dỗ. Dầu vật đổi sao dời, lòng ta vẫn không thay đổi, hay chớ hòng phạm tới người ta!
          Dứt lời, có gái họ Trần nhún mình, nhảy phắt tới bên một tên võ sĩ, dùng luôn một thế võ nhựt "Điu Siu" đánh gục, cướp luôn được khẩu súng lục bên sườn, nhả đạn luôn. Nhưng tên ngồi bên bàn đã cất tiếng cười ngất vì súng... không đạn! Biết đã trúng kế, nàng liền ném mạnh khẩu súng vào một tên cầm gươm, và lập tức nhảy vụt tới bên. Hàng loạt súng lên đạn nhất tề chĩa cả vào cô gái.
          – Bắt sống! Không được bắn!
          Tiếng gã bên bàn vừa dứt, cả đám thủ hạ nhất tề xông tới, nhưng Phượng Kiều đã đoạt được một thanh gươm, nhảy phắt vào một góc hang.
          – Khôn hồn đứng nguyên! Đứa nào tiến lại, ta chém rơi đâu!
          Mắt phượng long lanh, cô gái lục địa cầm ngang thanh gươm, dằn giọng:
          – Ta nấn ná từ khi bị bắt là để xem thầy trò chúng mi định giở trò gì? Giờ mới rõ một phường đạo tặc đê hèn! Chỉ tiếc thay ta không gặp lão tặc cùng tên họ Vũ!
          Thấy nàng liều mạng, cả bọn dừng lại, tản quanh hang, lựa thế bao vây. Phượng Kiều trông ra lối cửa hang, thấy có mấy tên trấn giữ chặt, bèn vung gươm đánh thốc ra phía đó. Nhưng cả bọn đã xông vào trợ chiến, nhất định không để hở một lối thoát nhỏ.
          Phượng Kiều cả giận múa tít thanh gươm, đem hết kỹ thuật chân truyền ra vẫn không đánh lui được địch, vì kiếm pháp của chúng đều có vẻ tinh thạo cả. Trong lòng hang mờ sáng, kiếm thép quật vào nhau xoang xoảng, cô gái họ Trần đánh những đường chí tử cố mở vây, không được. Mấy chục địch thủ thay phiên nhau quần thảo, hình như chỉ lựa thế bắt sống con mồi. Biết kéo dài không xong, Phượng Kiều toan đánh quyết tử cho mau, chợt có tiếng quát nổi lên:
          – Lui cả ra Để nàng đó cho ta.
          Cả bọn dừng tay chưa kịp giãn cả ra hai bên, đã thấy Vũ Sinh từ phía ngoài nhảy vọt vào, chân vừa chấm đất đã bắn một phát đạn tung luôn thanh gươm Phượng Kiều. Cô gái lục địa giật mình, dùng chạy đến nhặt gươm thì họ Vũ đã nhanh chân chạy tới chặn luôn chân lên, yên lặng ngó Phượng Kiều. Đột nhiên, ánh lửa mờ phụt tắt.
          Hang núi vụt tối om. Phượng Kiều biết thế nguy, liền nhẹ nhàng ngồi xuống, lui dần về phía vách đá.
          Hình ảnh người yêu hiện lên, đẹp như một bài thơ ai oán. Cô gái cắn chặt hàm răng, lẩm bẩm như trong cơn mê:
          – Đại Sơn Vương... em sẽ gặp anh... kiếp saụ..
          Và vận toàn lực bình sinh, nàng lao mạnh đầu vào vách đá.
          Nhưng... giữa lúc đó ánh sáng bừng lên như ban ngày. Phượng Kiều ngạc nhiên thấy lòng hang không một bóng người, đầu nàng vừa lao vào một... tấm da căng thẳng êm không. Ngay lúc đó, từ ngoài cửa hang hiện ra một ông già râu tóc bạc phơ, chống gậy trúc, mặc áo rộng, khoan thai tiến vào:
          – Phượng Kiều con. Ta có lời khen lòng trung trinh sắt đá của con, ẩn thân giữa nơi hải đảo Thần Tiên, vẫn một lòng son sắt trước những quyến rũ gớm ghê, một thân liễu yếu giữa rừng súng gươm đe doạ vẫn chẳng sờn gan, quyết một chết giữ trọn tình chung thủy với người yêu. Lòng cao khiết của con đã vượt trăm ngàn thử thách, ta khá khen Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh đã khéo chọn được người xứng đáng. Ta không đến nỗi uổng công vượt trăm ngàn hải lý đưa con từ lục địa về đây.
          Ông già ngừng lời bước đến, đặt nhẹ tay lên vai Phượng Kiều.
          – Ngay bây giờ ta cho con được làm lễ tôn sư.
          Cô gái vẫn đứng im, ngơ ngác, bàng hoàng. Giọng nói dịu dàng và cặp mắt dịu dàng của ông già trên phong đạo cốt khiến nàng nghĩ ngay tới lão hành khất quái dị. Phượng Kiều đứng trông như người trong mộng.
          Cô gái đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, không sao đoán nổi hành động của đảo chủ Thần Tiên.
          Mãi tới khi hồi cồng dứt tiếng ngân nga trong thạch động, ông già tiến đến bên bàn thờ, Phượng Kiều mới như cái máy, từ từ quỳ xuống bàng hoàng, nghẹn ngào không nói nên lời.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #20
            Hồi 18-19 Theo Vết Chim Trời

            Ngay sau đêm Khách Giang Hồ rơi xuống vực thẳm muôn trượng, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn tìm không thấy xác bạn, không thấy tăm tích lão tặc Phản Tây Phàn, và cả hai cô gái họ Cầm, chàng tướng núi chợt sinh nghi, liền tạm rời Tây Bắc, về thẳng Hà Nội. Đảo qua mấy bệnh viện lớn, không gặp, chợt nhớ có lần Phượng Kiều nhắc đến nhà riêng tại khu Hàng Cỏ, chàng tìm đến, lân la hỏi thăm những người bán hàng quanh đấy, biết được biệt thự Phượng Kiều, cả mừng cải dạng làm một khách trú lần tới. Đến nơi, thấy mấy viên cảnh sát từ trong nhà bước ra, chàng liền đứng lại bên kia đường chờ bọn người nhà nước bảo hộ đi khỏi mới tiến đến trước cổng. Nhìn vào trong, không thấy ai, chợt nghe tiếng gió sau lưng, viên tướng núi vội hụp luôn, đồng thời, xoáy ngoặt mình lại nhanh như cắt. Một bóng vạm vỡ từ trên cây chụp xuống, bị hụt đà, chưa kịp gượng, đã bị chàng tướng núi quài tay ghì chặt lấy, dằn giọng:
            - Mi là ai? Sao dám đánh lén? Muốn sống nói ngay.
            Gã vạm vỡ toan cất tiếng kêu đã bị chàng điểm huyệt kéo đến bên gốc cây, trừng mắt toan hỏi nữa, chợt nghe gã ú ớ:
            - Cô Ba... cô Ba...
            Chàng vội giải huyệt cau có:
            - Mi là người của cô Ba? Thế cô Ba đâu?
            Người đàn ông ngơ ngác ngó chàng tuổi trẻ trong lốt khách trú, bất ngờ bật lên khẽ:
            - Đại Sơn Vương? Trời... ông về chậm quá... cô Ba vừa bị chúng bắt đi mất rồi.
            Đại Sơn Vương giật mình, lay mạnh vai tên gia nhân:
            - Sao? Cô Ba bị bắt? Bao giờ?
            Tên gia nhân vội kể sơ qua chuyện nữ chủ bị bắt đoạn lễ phép mời chàng vào nhà. Ngay lúc đó, xe Hai Cao vừa về. Thấy viên tướng Thập Vạn Đại Sơn, người tùy tướng của Phượng Kiều đã giậm chân tiếc hận:
            - Trời... ông chỉ về sớm mấy giờ, cô Ba đã không mắc nạn. Bọn chúng đã đưa cô Ba về phía Hải Dương rồi!
            Tướng núi nhếch miệng cười khan rồi ngoắt mình đi ngay. Ra đến ngoài, chàng trai trẻ đến thẳng ga Hàng Cỏ. Còn lâu mới có chuyến tàu. Lòng như lửa đốt, chàng tìm vào một quán nước gần ga, ngồi suy nghĩ. Qua lời Hai Cao kể, chàng không tìm được một tia sáng nhỏ nào rọi vào bức màn bí mật bao trùm vụ bắt cóc. Nghĩ nát óc không thể đoán nổi bọn lạ là ai, chợt một ý tưởng thình lình hiện ra trong óc, chàng liền ra ga. Tới Hải Phòng, phố xá đã lên đèn. Đi quanh thành phố đến nửa đêm, Đại Sơn Vương cho xe ra thẳng Đồ Sơn, tìm đến nhà thủ hạ của Voòng Lầu báo tin cho các bộ hạ dọc duyên hải biển Trung Hoa, xong quay lại Cảng luôn. Ở lại mấy hôm liền không lần ra chút manh mối, chàng liền lên miền sơn cước cưỡi Hắc Phong Câu đi tìm khắp chốn, vẫn tuyệt tăm tích người yêu. Sực nhớ tới gã trẻ tuổi đã bắt cóc Phượng Kiều, chàng tướng núi bèn đi tìm "Suối Bạc Đầu". Một buổi, Đại Sơn Vương tới một thị trấn nhỏ miền biên giới, trời đã sang thu, khí núi lạnh ngắt, bèn tìm vào một quán rượu mua vài ly đổ cho con Hắc Phong Câu, nhân tiện nghỉ chân chốc lất. Chàng vừa ngồi vào bàn đã thấy hai gã lạ mặt dừng ngựa trước quán, bước vào, đập bàn gọi rượu thịt, và ngồi nhỏ to có vẻ khác thường. Chợt nghe thấy người mới vào thoáng nói đến hai tiếng "Bạc Đầu" rồi lại "Si Pan", chàng giật mìmh, cả mừng liền cạn xong ly rượu, đứng lên trả tiền ra ngay, lên Hắc Phong Câu vào chỗ khuất đứng đợi.
            Chừng mười lăm phút sau, chợt thấy mấy tên cưỡi ngựa từ đâu tiến thẳng đến trước quán rượu, rồi có nhiều tiếng súng nổ vọng ra, chớp mắt đã thấy ba tên đến trước từ trong phóng lên mình ngựa chạy. Đại Sơn Vương lập tức phóng ngựa theo. Ngay lúc đó chợt từ phía rừng trước vài bóng người ngựa nữa xuất hiện, cản đường ba gã trước. Thình lình bị vây chặt, ba tên vội rẽ ngang. Đại Sơn Vương liền thúc Hắc Phong Câu vọt lên, nháy mắt đã đụng đầu ngựa ba tên đang chạy. Chàng phất tay, lớn tiếng:
            - Cứ chạy thẳng. Để ta cản lối chúng cho.
            Dứt lời, chàng bay ngựa đến gần mấy tên rượt đuổi, nã súng liên hồi. Thấy ba tên trước đã quất ngựa vào cánh rừng khá rậm. Sợ mất dấu, Đại Sơn Vương liền phóng ngựa ra nhử cho địch rời khỏi chỗ nấp, bắn vãi luôn vài phát nữa, đoạn thúc ngựa Hắc Phong vọt đi. Chớp mắt đã gần kề ngựa trước, chàng tướng núi gọi lớn:
            - Chúng chạy xa rồi! Hãy chậm lại, ta có điều muốn hỏi.
            Không nghe thấy chàng gọi bọn lạ vẫn rạp mình ra roi. Đại Sơn Vương liền quất Hắc Phong Câu vượt lên, quay ngang chắn đầu ngựa ba tên. Cả ba tên đành dừng lại, giương mắt ngạc nhiên ngó chàng. Đại Sơn Vương cắm súng vào bao, mỉm cười:
            - Các chú người Suối Bạc Đầu? Đi đâu lại để giặc Si Pan theo hại?
            Vẻ ngạc nhiên hiện rõ trên mặt ba gã lạ, một tên mở to mắt:
            - Thưa tướng quân... có biết anh em chúng tôi!
            Đại Sơn Vương mừng thầm, gật đầu thân mật:
            - Là ta đoán thế! Ta có việc muốn gặp chúa đảng các chú!
            - Nhưng tướng quân là ai?
            - Đại Sơn Vương.
            Ba tên cùng tái mặt, nhớn nhác ngó nhau:
            - Người... Chính là Chúa Tướng trên Thập Vạn Đại Sơn?
            Đại Sơn Vương phất nhẹ tay, giọng như truyền lệnh:
            - Đưa ta tới suối Bạc Đầu! Và biết điều đừng để súng ta ra khỏi bao.
            Cùng lúc, cả ba tay cương giật mạnh. Ba con ngựa vọt đi. Vó ngựa đã giẫm trên hàng cỏ phân mao. Ngẩng lên, thấy một ngọn núi ngút trời, mây giăng trắng xóa, xa trông, thấy rõ một vệt nước vắt lưng trở như dải lụa bạch căng dưới trời Tây Bắc chếch. Tên đầu bọn trỏ tay lên núi:
            - Thưa... đã tới suối Bạc Đầu, ngọn thác kia đổ xuống miền doanh trại.
            - Đây tới đó còn bao xa?
            - Qua khỏi mấy ngọn đồi, vào chân núi đá là tới trạm đầu tiên.
            Đại Sơn Vương dưa mắt quan sát kắp vùng thấy có vẻ hiểm trở khác thường, suy nghĩ mấy khắc, đoạn phất nhẹ tay:
            - Đưa ta vào thẳng sơn trại!
            Bọn lạ tần ngần, vẫn đứng im. Biết chúng sợ mệnh chúa đảng, chàng cau mày, trừng mắt:
            - Cứ tiến lên. Đến gần, ta sẽ cho về báo trước.
            Bốn con ngựa lại chạy nước kiệu băng quanh co một lát, tới một hẻm núi, thình lình ba con ngựa trước chồm ngoặt ngay sau hẻm. Đại Sơn Vương cả giận vội vỗ Hắc Phong Câu vọt lên, vừa lúc cả ba tên chĩa súng tại. Chàng tướng núi đã nhảy vụt xuống, chân vừa chấm đất, một tay đã vay về phía trước.
            Liền hai tên nhào luôn xuống đất, tay chưa kịp lảy cò. Tên thứ ba vừa kịp nã một phát. Hắc Phong Câu đã kề bên như gió, Đại Sơn Vương xoè tay chặt một nhát ngang cần cổ, gã nhào xuống theo. Chàng tướng núi nắm ngực áo hắn lôi dậy, quắc mắt.
            - Sức chúng bay được bao nhiêu mà dám định lừa hại ta! Ta không nể tình, mạng chúng mi còn đâu?
            Dứt lời, chàng thu hết đạn, bắt cả bọn bị thương lên ngựa trói thành một dây, đoạn quất mạnh cho ngựa lồng lên.
            - Về báo với chúa tướng có Đại Sơn Vương thăm sơn trại.
            Chờ cho ngựa trước đi khá lâu, chàng tướng núi mới cho ngựa tiến lên. Đi được nửa dặm ngàn, hết thung lũng tới con đường mòn chạy vào hẻm, hai bên núi dựng như thành. Còn đang đảo mắt quan sát đã nghe từ trên cao, từng hồi cồng đổ dồn vang truyền khắp vùng núi thẳm, dư âm vang như man dại ngân nga trong buổi chiều tà. Rồi tứ phía, tiếng tù và rúc lên như đáp ứng, nghe âm vang như tiếng gió lùa ống bương đêm đông. Thoáng cái, tiếng cồng, tiếng tù và đã im bặt, trả lại cảnh lắng sâu cho cánh rừng biên giới. Và giữa vùng không gian thăm thẳm, bất ngờ, từ trên ngọn núi chênh vênh, tiếng địch bổng chìm rót xuống, thanh âm theo trận gió chiều thu vút lên cao tít mơ hồ xa xôi, rồi thình lình đổ xuống, chờn vờn quanh bờm ngựa. Chàng tướng trẻ nghiêng đầu lắng tai nghe tiếng địch lộng thổi non cao, như muốn ru hồn khách dọc ngang vào mộng ảo. Chợt tiếng địch lạ lùng chuyển khúc, âm thanh rúc rích như tiếng cười bên tai. Viên tướng lạc thảo cả giận, ngửa mặt nhìn lên núi cao.
            - Tên này ngạo nghễ, dám đón ta bằng tiếng địch trêu ngươi.
            Đoạn tướng núi thúc ngựa tiến vào hẻm núi. Qua hẻm, nghe tiếng nước đổ ầm ầm, một con suối rộng lồng lộn chắn đường, bọt nước tung trắng xóa. Ngay bờ, có cắm tấm bảng đề "độc đạo." Bên kia bờ suối, con đường mòn chạy vòng vèo tới chân núi, ngay đầu đường, đứng sừng sững đến mấy chục kỵ sĩ súng gươm tua tủa dàn thành hàng ngang, sát khí đằng đằng, ẩn hiện sau cây lá, có những chòi canh dựng theo thế liên hành. Hình như cả bọn ky sĩ đứng chờ "khách" qua suối. Tướng núi ghìm cương, lượng chiều rộng suối. Tám thước có dư. Tình cờ, ngó lại sau lưng đã có một đám kỵ sĩ nữa dàn hàng bít cửa hẻm. Chàng tướng lạc thảo nhẹ tay vuốt bờm ngựa quý:
            - Hắc Phong Câu, mi đã giúp ta nuốt bao dặm đường xa tìm nữ chủ! Nay suối độc cản đường, mau trổ lực thần, đưa ta qua thác lũ!
            Dứt lời, chàng tướng núi thúc ngựa chạy dọc theo bờ suối vòng ra xa một chút, trỏ roi lên khúc nguy hiểm nhất vì có một thạch bàn ngầm đội hẳn nước lên, và thúc mạnh gót chân vào hông tuấn mã. Hắc Phong Câu hếch mõm hí một tràng dài, dứt tiếng, tuấn mã sải vó như gió cuốn, đến bờ suối, con vật tung mình hẳn lên cao, lao trên ngọn thạch bàn, đã bay qua suối rộng êm không.
            Hắc Phong Câu vẫn thủng thỉnh bước một, tướng lạc thảo ngồi trên lưng ngựa như pho tượng thép, thân mình hơi lắc lư theo nhịp vó câu và lạnh lùng vào giữa hàng súng chĩa. Cặp mắt Đại Sơn Vương vẫn nhìn thẳng, nhưng nếu tinh ý sẽ thấy tướng núi đã kín đáo đề phòng bất trắc. Nhưng khắp hai hàng kỹ sĩ lạ vẫn ngồi im trên ngựa, bàn tay như đã dính vào súng.
            Ngựa cứ chậm bước vào gần chân núi. Sau lưng Đại Sơn Vương vẫn nghe có tiếng vó ngựa nhẹ khua, biết có kẻ theo sau nhưng cứ thản nhiên như không, vừa tiến vừa đưa mắt quan sát từ bụi cây ngọn cỏ. Đi tới sát chân núi, thấy một điếm canh ngay bên cánh cổng lớn, chàng dừng ngựa, nhìn vào trong, thấy lố nhố dao súng lởm chởm, một gã chạy ra lẳng lặng mở rộng cánh cổng và cúi đầu đứng sang một bên. Viên tướng núi cho ngựa đến trước căn nhà chính giữa. Một hồi cồng nổi lên, vang truyền khắp sườn núi.
            Tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn chậm chạp quay cương đầu yên, nhẹ thúc ngựa tiến thẳng đến trước thềm, hai tay chàng tướng núi buông thõng bên sườn, cặp mắt trông thẳng vào phía trong sẵn sàng chờ. Bên trong, vẫn chưa ai nhúc nhích.
            Chợt từ phía chính giữa, một người đứng lên, cặp súng trễ bên sườn. Đại Sơn Vương vừa trông thấy hắn, đã nhận ra ngay nhưng vẫn ngồi im chờ đợi. Gã tuổi trẻ tiến ra, cách Đại Sơn Vương chừng mươi bước, ngừng lại. Vừa tầm súng, cả hai chòng chọc nhìn nhau. Đại Sơn Vương dõng đạc:
            - Phải chăng ông là Chúa Thác Bạc Đầu?
            Chàng trai trẻ hơi nhếch miệng cười:
            - Ông đến thình lình, chúng tôi không kịp nghênh đón. Dám hỏi ông có điều chi dạy bàn?
            Đại Sơn Vương cau mày, cười lạt:
            - Hồng Lĩnh này dường xa dặm thẳm mới tìm được suối Bạc Đầu, khi nào chịu về không. Xin trao trả Phượng Kiều cho súng khỏi ra bao.
            Chàng trai trẻ nhíu hẳn lông mày, đăm đăm nhìn khuôn mặt ngầu sát khí của Đại Sơn Vương:
            - Chính trước đây tôi đã dụng ý bắt cóc Phượng Kiều để mời ông đến núi thác. Nhưng sau lần bắt hụt, tôi chưa hề hạ sơn. Quả có nghe tin Phượng Kiều bị bắt, nhưng cũng chưa rõ kẻ nào chủ mưu!
            - Lời ông nói, chẳng dám không tin. Vậy xin có lời cáo biệt.
            Đại Sơn Vương đi khỏi vùng đại sảnh đã nghe tiếng cồng chuyển khắp núi rừng và có nhiều tiếng tù và lại rúc lên. Xuống tới chân thác, đi đến bờ suối ngoài vẫn không gặp chi cản trở. Ngồi trên lưng ngựa, viên tướng núi đưa mắt quan sát kỹ càng địa hình địa vật, đoạn cho ngựa vượt qua suối rời sơn trại. Chờ mấy giây, Đại Sơn Vương liền nương sương đêm tiến đến, áp hẳn má xuống mắt nhìn ngược lên, thấy hai bóng đen nhỏ nhắn đang chụm đầu vào nhau, nhỏ to, giây lâu đoạn men theo bờ thác, lên cao, có vẻ đã quen thuộc đường lối lắm. Đại Sơn Vương theo sát, chỉ cách chừng mươi bước. Chợt có tiếng chân giẫm trên lá rụng, nghe rào nhẹ như tiếng chồn cáo đi đêm. Hai bóng đàn ông cao lớn xách súng từ trên đi xuống, bước một thận trọng như người săn đêm, lưng dựa vào nhau súng chĩa hai bên. Thình lình một tia đèn bấm loé lên, rê thẳng vào chỗ hai cái bóng trước ẩn. Đại Sơn Vương vừa thấy ánh đèn dừng lại đã nghe liền hai tiếng bịch khô khan. Ánh đèn tắt phụt. Nhìn ngược lên, chàng đã thấy hai cái bóng nhỏ nhắn đứng kề hai bóng quân tuần núi, nhẹ nhàng đỡ hai bóng lớn vừa đổ xuống như hai cây chuối.
            Đại Sơn Vương lách mình nhận được là hai bóng thiếu nữ mặc toàn đồ đen chẽn, bên mình có giắt đoản đao, súng ngắn. Nhưng trời mờ tối lại thêm khuất bóng núi, nên chàng không trông rõ mặt cặp thiếu nữ. Chợt mọt bóng khẽ thì thào:
            - Đây lên trại còn mấy chặng quân tuần nữa, tính sao cho tiện!
            - Cứ lên thẳng! Hạ chúng hết là hay hơn cả. Một giờ nữa chúng đổi gác mới biết được.
            Nghe giọng nói quen quen nhưng chưa đoán được, Đại Sơn Vương còn lắng tai nghe thì hai thiếu nữ đã thoăn thoắt leo lên. Chàng tướng núi lẳng lặng theo sau. Quả nhiên bản lãnh hai cô gái rất cao, vượt suối từ chân thác tới khu trại trên, hai nàng đã hạ êm thêm ba cặp quân tuần nữa, vô tình mở đường cho chàng tướng núi. Tò mò, Đại Sơn Vương cũng tiến theo sát. Lạ thay, hai cô gái như không chú ý gì đến vùng sảnh trại, cứ vượt qua hẳn mấy dãy nhà, đến một vùng núi ăn vùng vào trong, có vẻ quạnh vắng, hai nàng mới dừng lại, như chờ đợi ai. Khá lâu sau, một nàng thì thào:
            - Sao lâu thế? Mãi chưa có ám hiệu...
            - Hắn sắp ra, chị cứ yên tâm. Thế nào ta cũng ra tay trước Đại Sơn Vương mà!
            Chàng tướng núi nghe rõ hai nàng thì thầm nhắc đến tên mình, không khỏi thêm ngạc nhiên, vừa may hai nàng cùng quay ra.
            - Nữ tặc Phản Tây Phàn! Hai con giặc cái này đột nhập nơi này có việc chi đây? Phải chăng...
            Chợt từ phía sảnh, có bóng người xách súng đi ra, tiến thẳng đến chỗ hai cô gái họ Cầm:
            - Sao? Chủ soái ngươi đêm nay ở đâu?
            - Ở trong hang ngầm. Người vừa rời căn sảnh lúc đầu canh hai. Giờ này chắc đã nghỉ rồi.
            - Trong hang có bao nhiêu người?
            - Bẩm... thường chỉ vài viên cận tướng. Nhưng đêm nay cận tướng ở cả trại ngoài trại trong.
            Đại Sơn Vương đang nấp rình hai nữ tặc xem họ đang làm gì, chợt nghe bọn nữ tặc cất tiếng hú. Còn đang ngạc nhiên không rõ nữ tặc hú hiệu chi, chỉ thoáng chốc đã thấy nhiều bụi cây xao động nhẹ rồi có nhiều bước giẫm trên lá rụng êm như tiếng cáo chạy. Chợt một hơi gió thoảng phào phả vào mũi chàng một mùi tanh khẳm muốn lộn mửa. Rồi từ phía sau núi, hai ba con báo gấm bước ra, lừ lừ tiến thẳng đến trước cặp nữ tặc họ Cầm. Đang mải quan sát mấy con thú dữ, lại nghe sau lưng có tiếng xào xạc tới gần, viên tướng lạc thảo lập tức nương bóng tối lách ra xa chút, đã thấy có mấy con báo nữa hiện ra, đi qua ngay chỗ chàng vừa nấp, đến phục trước Nữ Thủy Thần Hồ Ba Bể. Nữ tặc ghé sát xuống như nói gì với đàn thú dữ. Lập tức, từng con một lui ra trấn mỗi con một góc, chỉ còn một đôi đứng lại. Cặp nữ tặc liền tiến đến bên vách núi, hai con báo theo sau. Có vẻ đã quen biết cơ quan bí mật, hai cô gái họ Cầm tiến đến, trong nháy mắt đã mở được cửa hang ngầm lách vào mất dạng.
            Chàng tướng núi muốn vào theo, lại vướng đàn báo dữ canh ngoài, nếu hạ được, thế nào cũng gây tiếng động mạnh vang về sơn trại, nên đành cứ đứng nguyên định chờ cho hai cô gái trở ra.
            Chợt lại thấy bóng một người đàn ông vừa rón rén bước tới, nghe ngóng giây lát, lại quay ra. Đại Sơn Vương nẩy luôn ý định, liền bước theo gã đàn ông. Đi lên gần khu sơn trại lại thấy một bóng nữa từ trong tiến ra thì thầm:
            - Sao?
            - Thưa, hai nữ tặc đã nhập hang ngầm rồi. Bên ngoài có đàn báo dữ canh phòng.
            - Chà! Nữ tặc Tây Phàn gớm lắm, nhưng địch sao nổi kế chủ tướng ta... Thôi! Chú cứ lảng vảng đây chờ nữ tặc sa hố, ta đi yết kiến chủ tướng ngay mới được.
            Đại Sơn Vương biết nữ tặc Tây Phàn đã mắc mưu viên tướng suối Bạc Đầu, bèn theo sát gót tên đầu mục không chậm một giây. Tên đầu mục lùi lũi đi qua khu sảnh, tiến về phía ngọn thác, noi theo con đường mòn chạy xuống chân núi bắt đầu vào một hầm nút cuốn tò vò đen tối như một đường hầm tàu qua núi. Nhưng dưới chân, mặt đá lại ít gập ghềnh. Đề phòng hẻm núi có quân canh, chàng men sát vào vách đá, thỉnh thoảng lại áp tai nghe ngóng rồi mới tiếp tục lần theo.
            Bóng tối chợt lùi lại phía sau, Đại Sơn Vương chợt thấy mình đứng trước cửa hầm, cách mấy thước vách núi dựng như thành và con đường đột nhiên bị núi cắt cụt hẳn. Đảo mắt tìm kiếm cũng không thấy bóng viên đầu mục đâu nữa. Ngạc nhiên, chàng bước đến sát vách núi ngửa mặt trông lên. Phía trên, ngọn núi như hình hoa sen, chợt có một hình người lơ lửng vắt vẻo như con khỉ thoáng in hình mơ giữa nền trời tối nhạt, kế phía tả vách thành. Đại Sơn Vương chạy lại phía dưới chân, cả mừng nhận ra hình người đang leo dây, đầu dây buông thõng còn giẫy giụa ngay dưới tầm tay chàng, chiếu thẳng xuống vực thẳm.
            Trên đỉnh núi, bóng đen đã khuất dạng. Chờ thêm mấy khắc không thấy chi lạ, Đại Sơn Vương liền nắm đầu dây, dùng thuật kinh thân leo lên vùn vụt như con mối, thoáng cái đã tới ngọn. Buông dây, nhìn quanh, viên tướng núi suýt bật lên một tiếng kêu ngạc nhiên vì một vùng đất khá rộng vừa hiện ra như một cánh thung nhỏ, nhà cửa cây cối nằm bằn bặt dưới ánh trăng khuya. Đại Sơn Vương hướng thẳng về phía có nhà cửa, nhận ngay được hình dáng viên đầu mục vừa lên, tiến thẳng đến trước căn nhà lớn nhất. Không chậm trễ, chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn Vương cũng tiến tới quan sát khắp nơi.
            Trong nhà, nhựa tràm thắp sáng choang. Viên chúa thác Bạc Đầu đang ngồi trầm ngâm thìn thoi lửa trám vật vờ, như đang suy nghĩ điều chi. Hai viên cận tướng đứng tại góc nhà túc trực chờ lệnh. Gã đầu mục từ ngoài vào kính cẩn cúi đầu:
            - Thưa chủ soái, lệnh chủ soái truyền chúng tôi đã thi hành xong. Hai con nữ tặc Si Pan đã lọt hang ngầm và giờ này có lẽ đã sa lưới.
            Viên Chúa Thác Bạc Đầu vẫn đăm đăm nhìn ánh lửa vật vờ:
            - Thế còn... Đại Sơn Vương? Tướng tuần núi vừa trình đội quân canh dọc đường đến thác đều bị hạ ném vào bụi rậm. Có lẽ Đại Sơn Vương đã vào sơn trại.
            Viên đầu mục mỉm cười tự tin:
            - Thưa, khắp nơi sơn trại quân ta vẫn canh phòng cẩn
            mật, Đại Sơn Vương có cánh cũng khó lọt mắt quân canh. Xin chủ soái cho lệnh về... hai nữ tặc Si Pan. Và hiện đội báo gấm của nữ tặc còn đang trấn ngoài cửa.
            Viên tướng Thác Bạc Đầu nheo mắt ngẫm nghĩ và đứng phắt lên, phất nhẹ tay một cái, tiến ra. Hai gã tùy tướng túc trực bên cửa chờ lệnh.
            - Hai ngươi phải canh phòng cẩn mật. Nếu được tông tích Đại Sơn Vương phải phi báo ta ngay. Và nhất là không nên rời mật thất này. Ta đi bắt hai con nữ tặc Si Pan, sẽ trở về ngay. Chúa Thác Bạc Đầu cùng gã đầu mục rời mật thất, đi về phía sườn núi.
            Chờ cho hai thầy trò chúa thác đi chừng mươi lăm phút. Đại Sơn Vương bèn đi một vòng quan sát, rồi trở lại mật thất. Bọn tùy tướng tay dao tay súng kẻ ngồi trấn cửa, người đi tuần sát chung quanh, không rời một khắc. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn phục sau nhà chờ đợi. Hai viên tùy tướng Thác Bạc Đầu vẫn xách súng tuần hành cẩn mật, trong thế hỗ tương.
            Vùng đỉnh núi Hoa Sen càng lúc càng chìm sau trong im lìm. Vài tiếng kêu khắc khoải rã rời. Viên tùy tướng cao lớn đứng lên tiến ra cửa.
            - Khuya lắm rồi sao vẫn không nghe khu sơn trại có tiếng súng nổ? Quái lạ! Chẳng lẽ bắt bọn Si Pan xong rồi sao?
            Viên tùy tướng lùn hơn chống súng, nhìn quanh gật đầu có dáng suy nghĩ, chợt khẽ hỏi đồng bạn:
            - Mà sao cũng chẳng thấy tăm hơi Đại Sơn Vương nữa?
            Chủ soái đoán chắc thế nào hắn cũng lần tới mà?
            Viên tùy tướng cao suỵt một cái, vẻ bí mật:
            - Có gì phải báo ngay mới được.
            Viên tùy tướng lùn xách súng đi về phía dãy nhà bên tả. Chờ cho hắn khuất hẳn, Đại Sơn Vương liền tiến về phía cửa tiền. Viên tùy tướng vẫn cầm súng trấn cửa, rất tỉnh táo, chỉ một tiếng động nhẹ, hắn đã phục luôn vào bóng tối, chĩa súng ra ngay. Đại Sơn Vương chờ mãi không thấy hắn xoay ngang hang, liền rút trong mình ra một sợi dây thừng, đoạn nhặt một hòn sỏi ném vào bụi cây phía tả. Nấp phía hữu, chàng thấy rõ hắn hơi giật mình một cái, nhưng vẫn trông thẳng, nhè nhẹ bước giật lùi lại sát thềm. Biết hắn là tay quen thuật hạ canh, chàng liền nhặt hòn sỏi, ném luôn ngay trước mặt mình. Quả nhiên, lần này gã tùy tướng mắc mưu. Vừa nghe tiếng động bên phải, thay vì quay súng súng nẻo đó như thường tình, hắn chĩa ngay ngọn súng về bên trái, lưng xoay về phía Đại Sơn Vương.
            Vút! Sợi dây thừng bay vút ra như một con trăn gió, nút dây tóm cổ chó chẹn luôn yết hầu hắn, chàng tướng núi giật mạnh tay thừng, kéo cả thân mình vạm vỡ của hắn, êm như kéo một đứa bé. Thình lình bị thừng xiết cổ, hắn chưa kịp kêu một tiếng, đã ngã chúi đi, bị luôn một đòn điểm huyệt bất tỉnh.
            Lột nhanh chiếc áo khoác ngoài mặc lên mình, Đại Sơn Vương nấp hẳn vào xó tối đoạn chụp mũ dạ lên đầu, chàng chống súng đứng đợi. Chỉ mấy phút sau đã thấy gã tùy tướng lùn trở lại, thì bàn tay Đại Sơn Vương đã thúc vụt vào huyệt nách hắn. Gã đầu lĩnh mềm oặt người ra, buông rơi ngọn súng. Rất gọn ghẽ, Đại Sơn Vương vác bổng hắn vào nhà, khép hờ cửa lại. Ném hắn vào ghế, Đại Sơn Vương đảo mắt nhìn quanh, thấy cuối nhà, có căn buồng nhỏ khóa trái, đoán là buồng viên Chúa Thác Bạc Đầu, liền dùng thuật "phản phong" phất tay đánh tắt mấy ngọn đèn lớn, chỉ để một ngọn nhỏ, đoạn cúi xuống giải huyệt cho gã đầu lĩnh.
            - Mi là cận tướng, tất biết nhiều điều. Hãy cho ta hay.
            Gã tùy tướng chớp mắt, thở dốc, ngó chàng tướng lạ, phều phào mệt mỏi:
            - Đại Sơn Vương? Phải ông...
            Chàng tướng núi nghiêm mặt:
            - Vật báu để nơi nào?
            Gã tùy tướng lắc dầu:
            - Cô gái họ Trần làm gì có mặt nơi đây! Chủ soái tôi không giấu ông đâu.
            Đại Sơn Vương nhếch miệng cười nhạt:
            - Thầy trò mi định đánh lạc ta sao? Bộ chúng mi tưởng ta chỉ đi tìm nàng không ư? Vật đó để đâu?
            Cặp mắt gã tùy tướng chợt sáng lên, khuôn mặt thoáng vẻ gan góc lạ. Hắn toan nhếch miệng cười gằn, thì Đại Sơn Vương đã điểm cho một đòn huyệt hiểm, đoạn ghì chặt hai vai hắn, hai mắt viên tướng núi vụt lóe lên như bốc cháy. Toàn thân gã đầu lĩnh run lên bần bật như dây thép bị bão tố.
            - Trời... cặp mắt lửa... lửa... chủ soái ơi! Chủ soái...
            - Vật báu! Hãy tuân mệnh lệnh ta! Chỉ nơi giấu vật báu! Và cạm bẫy bao quanh vùng!
            Tay viên tướng núi "phản phong" đánh tắt nốt ngọn đèn từ xa, trong bóng tối chỉ còn cặp mắt đỏ như hai đốm than hồng và giọng nói yếu ớt của gã đầu lĩnh lạc hồn. Thoáng cái viên tướng núi đã đứng lên, ánh đèn bấm trên tay lóe lên, tiến đến trước cửa buồng. Giơ tay giật mạnh chiếc khóa sắt, cánh cửa vừa hé mở, chàng đã ngồi thụp xuống, chiếu ngược đèn bấm lên. Vút, vút, vút!... Từng loạt tên từ trong bay ra vèo vèo, loang loáng giữa vệt sáng đèn, gió tạt cả xuống đầu. Dứt trận loạn tiễn, tướng lạc thảo đứng lên, mở rộng cánh cửa, lia đèn vào trong quan sát mươi khắc, đoạn bước chân vào. Nhưng chân vừa qua ngưỡng cửa đặt xuống nền, tướng núi đã co nhanh lại đứng ép vào bên cửa ngoài.
            Vù... vù... luồng gió từ trong bay thốc ra như có chong chóng quay, chàng vội chiếu đèn bấm coi, thấy hai vệt sáng quắc chém lia theo hình cánh sẻ, từ hai bên cửa trong phạt chếch dọc từ trên xuống, xả nhanh như máy chém, liền mấy chục nhát mới ngừng. Dưới ánh đèn bấm, hai thanh đao to bản, gác chéo vào nhau, như chỉ lăm lăm chém nữa. Nhìn cặp dao sắc như nước, tướng núi lẩm bẩm:
            - Chà! Tên nho sinh này cũng tinh hiểm lắm Chỉ truyền cho cận tướng một nửa bí mật ở sào huyệt.
            Tướng núi thận trọng bước vào. Phòng chứa toàn khí giới. Dò bước tiến đến bên vách mới hay những tấm thiếp thô sơ, đều có bọc thép cả. Góc ngay đầu giường, có kê một chiếc tủ sắt. Đứng nép vào một góc phòng, chàng rút một ngọn giáo đâm mạnh ổ khóa. Chỉ nghe "tách" một cái, đã thấy những dãy súng, áo giáp, cung nỏ quanh tường vụt chuyển động quay chiều, chĩa cả ngọn chỗ tủ sắt, thành một hàng rào thép kín mít. Nhưng lạ nhất là súng ống, cung tên giương sẵn lại không bắn, chỉ quay vây chặt tủ sắt. Viên tướng núi còn đang ngạc nhiên, đã nghe đánh sịch một cái, cánh cửa tủ gỗ gần đấy mở toang ra, rồi giữa vệt đèn bấm xanh lè, một người cao lớn dị thường mặc giáp sắt từ từ bước ra, hai tay cầm hai quả trùy gai to như trái bí ngô.
            Đại Sơn Vương đứng dán mình vào vách sắt, tay vẫn chiếu đèn, còn tay kia đã đánh vụt xuống sườn, chỉ suýt nữa đã rút súng ra khỏi bao, nếu chưa nhận rõ dáng đi của người cao lớn: Mới biết hắn là người máy. Hắn chập chững bước một tiến đến gần tủ, lập tức vung cặp chùy gai đánh liên hồi vào khoảng không giữa vòng rào thép vù vù. Chừng mười lăm nhát, trùy dừng hẳn, hắn đứng yên không hề nhúc nhích. Chàng bèn tiến đến trước tủ sắt, mở, chiếu đèn coi nhưng lòng tủ sắt... trống rỗng! Lay hoay mãi mới lật được một lần thép và một cuốn sách bìa cứng nhỏ bằng bàn tay hiện ra dưới ánh đèn. Cả mừng, viên tướng núi lật vội ra coi. Nhưng thất vọng ngay, vì bên trong chỉ dán một mảnh giấy gấp tư, loại giấy bản trên có những hàng chữ thảo Hán tự nét sắc như cắt.
            Cái văn: phụ tác tử thừa thử chi vị kê, bất cải ư phụ chi đạo
            khả vị hiếu bĩ.
            Bỉ quốc tặc dụng thiên phương bách kế cưỡng đoạt Việt nam chi bảo vật...
            Bức thư lưu truyền của tôn tộc hắn... Nhưng sao... Đại Sơn Vương cúi đọc vội đoạn dưới, dáng điệu trở nên bâng khuâng.
            Một lát sau, chợt tướng núi đặt lá thư vào chỗ cũ.
            - Quái lạ! Sao không thấy vật đó, chắc hắn chỉ để quanh đây.
            Tình cờ, chàng chiếu đèn xuống chân tủ, chợt nẩy ý nghĩ lạ, vụt xuống trung bình tấn, nắm hai bên thành tủ, nhấc bổng lên, đặt sang bên. Một cửa hang bí mật hiện ra, đen ngòm. Không chậm trễ, viên tướng núi đu mình xuống luôn. Đại Sơn Vương đã phải ngạc nhiên vì từ ánh sáng vàng vọt, thấy hầm có hai lối chạy sang bên và cả hai bên đều có tia sáng rọi tới. Không lưỡng lự, chàng lần ngay theo lối tay mặt đi mãi, chừng hai chục bước, đụng vách đất, trên tường có ngọn đèn dầu leo lét. Lập tức, chàng lộn lại ngay ngách trái. Vào sâu độ mươi thước, chàng dừng phắt lại vì có trận gió mang theo một mùi hôi quen thuộc của thú rừng... Viên tướng núi thận trọng lần từng bước, càng đi càng thấy vách hầm mở rộng ra, cho tới lúc đặt chân tận lòng hang, mùi hôi tanh càng phả vào mũi nồng nặc.
            Dựa vào vách đất, có chiếc bàn độc sơn son kiểu lạ. Trên bàn, hai dĩa dầu Nam leo lét cháy, ánh sáng huyền ảo. Và mùi hôi tanh từ gầm bàn độc xông ra. Đại Sơn Vương tiến lại gần, chiếu luôn đèn bấm vào gầm bàn. Một con hổ vằn nằm như vẽ, cặp mắt tía đỏ ké mở to trừng nhìn như chờ đợi. Rất nhanh, Đại Sơn Vương nã luôn hai phát. Con hổ vẫn nằm yên không nhúc nhích, coi lại mới rõ chỉ là một xác hổ nhồi rất khéo, cặp mắt có nạm hai viên hồng ngọc. Như chợt nghĩ ra, chàng tướng núi thình lình lăn tròn một vòng, một mãnh thú lao xuống toan chụp luôn lấy vai chàng. Đại Sơn Vương kịp thời dựa lưng vào vách, nã luôn một phát giữa tam tinh, con thú chỉ kịp rống lên một tràng, giãy giụa rồi lịm chết. Tướng núi đứng lên đá xác thú sang ben, phủi đất bụi qua loa trên tay áo, đoạn nhanh nhẹn tiến vụt đến trước bàn độc. Một chiếc hộp kẽm nhỏ đặt ngay dưới thoi hồng lạp. Nhếch nụ cười gân guốc, tướng Thập Vạn Đại Sơn vội rút khăn bọc tay cầm chiếc hộp mở ra. Cặp mắt tướng núi sáng quắc dưới ánh hồng lạp chập chờn. Lận vội hộp kẽm vào mình, chàng tuổi trẻ bước nhanh ra, đu lên khỏi hầm, ôm chiếc tủ sắt để nguyên chỗ cũ, đoạn xốc lại cổ áo, chàng ung dung bước khỏi căn phòng mật.
            - Đại Sơn Vương!
            Vừa ló đầu ra khỏi cửa phòng, viên tướng núi chợt đứng phắt lại, vì có tiếng nghiêm trầm bất ngờ nổi lên, ngay phía nhà ngoài. Nhưng phía ngoài vẫn tối om. Còn đang nghe ngóng, chợt tiếng nói lại nổi lên:
            - Ta về hơi chậm để ông giết mất linh vật giữ bàn thờ! Lần cuối cùng ta cho lời tối hậu: Trả ta bảo vật, sẽ được tự do rời mật thất.
            Nghe rõ tiếng viên Chúa Thác Bạc Đầu, Đại Sơn Vương cố định thần, nhưng không đoán được chỗ hắn đứng ở đâu. Đoán chắc quân địch dã vây kín bốn bề, chàng đứng yên, óc đảo cơ mưu. Trong khắc vạn nan, chàng vẫn bình tĩnh không ngại địch bắn nhầu vào, vì chàng biết rõ căn phòng mật đều bọc sắt bốn bên. Nhưng còn lối thoát thân?
            - Đại Sơn Vương! Ta hẹn cho mười phút nữa! Nếu không để bảo vật lại, đi ra, ta sẽ cho quân tướng xung kích vào lập tức. Ông có là tay thần xạ, ta đánh cận chiến cũng chỉ hy sinh đến vài chục mạng là nhiều. Và chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả! Anh em hãy chuẩn bị sau mười phút, giáp chiến.
            Đại Sơn Vương không khỏi phục địch thủ tinh khôn, chàng nẩy ra một kế, liền cất tiếng cười khanh khách:
            - Này chú nho sinh Chúa Thác! Ta sẵn sàng trả báu vật nếu chú đáng mặt giữ vật quí của trăm họ xứ này! Có giỏi hãy cùng ta đấu sức, nếu giữ nổi thế hòa bằng ta, ta sẵn lòng trả ngay báu vật, và cũng không hẹp gì tặng thêm cho một món nữa. Nếu không đêm nay phải nhiều kẻ không hòng thấy ánh mặt trời sớm mai!
            Tiếng chàng tướng núi sang sảng như chuông đồng hắt ra, dụ ngay tướng địch vào chân tường. Mươi khắc sau, thình lình tiếng viên Chúa Thác Bạc Đầu bật lên, gằn giọng:
            - Đại Sơn Vương! Khá khen ngươi đã quỷ quái buộc nổi ta, kẻ thắng thế, phải nhận lời thách đấu cùng ngươi! Anh em tướng sĩ! Bật hồng lên mau! Ta nhận lời thách chiến của Đại Sơn Vương!
            Chúa Thác trẻ tuổi dứt lời, tiếng reo hò đã nổi lên vang động, phút chốc, hồng đuốc bật sáng trưng như ban ngày quanh mật thất.
            - Đại Sơn Vương! Còn đợi chi nữa!
            Nghe tiếng đàn bà quát gọi, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vùng trông ra, thấy tướng sĩ Thác Bạc Đầu trùng trùng điệp điệp có hơn dư trăm, cơ nào đội nấy phủ vây kín mít, súng gươm lởm chởm, trong ánh lửa bập bùng. Thoáng trông qua chàng đã đoán được, đó là đội binh tinh nhuệ, thủ túc của gã nho sinh. Nếu làm loạn chiến, chàng khó lòng ra khỏi vòng vây quân địch, chàng tướng núi nheo mày, suy nghĩ mươi giây đoạn lớn tiếng vọng ra:
            - Nho sinh! Hay lắm! Ta có lời khen các ngươi đó. Nhưng ta cũng có vài điều kiện nhỏ, chẳng hiểu ngươi dám nhận không?
            Điều thứ nhất: Các ngươi hãy tạm triệt vây, đứng cả về một phía lưng dựa vào khu dinh trại. Trường đấu trông ra vực thẳm. Khi đấu, phải có hai người giám trận và tướng sĩ trên dưới phải có bổn phận bảo vệ cho cuộc đấu được ngay thẳng. Thứ hai: Nếu ta thắng, ta sẽ đi tự do, nếu ta hại, nộp cả bảo vật và tính mạng. Và các người chớ quên điều này ta vừa đổ một thứ thuốc riêng vào báu vật, chỉ trong một giờ, vật đó sẽ tan thành bụi nước, nhưng trước một giờ, ta lại có thuốc tẩy riêng. Nếu các ngươi manh tâm, báu vật sẽ tan tành, nếu cuộc đấu chiến ngay thẳng, ta nguyền sẽ trao báu vật nguyên vẹn. Trả lời đi, ta sẽ ra ngay.
            Đám đông Thác Bạc Đầu đứng im, bất động. Từ viên Chúa Thác đến tay thủ túc khôn ngoan đều cảm thấy rõ đã bị Đại Sơn Vương dụ đến một vùng, và cả trăm tay súng chợt thành vô dụng vì báu vật vô giá sẽ tiêu cùng tính mệnh tướng địch? Mà chúa Thác Bạc Đầu cần báu vật hơn cần lấy tính mệnh người mang báu vật. Cả bọn cau mày suy nghĩ, và cùng đưa mắt nhìn viên chủ tướng. Thình lình bị đẩy tới tình thế trớ trêu, chỉ còn một cách "chiến đấu ngay thẳng" mới hy vọng đoạt lại vật báu vô song, chàng nho sinh mím chật vành môi, đảo mắt ngó đám quân gia, cặp mắt quắc lên, muốn nẩy lửa.
            - Tướng sĩ quân gia! Khá giãn vòng vây. Cuộc đấu chiến sẽ hoàn toàn ngay thẳng, ta nhận tất cả điều kiện của Đại Sơn Vương.
            Tinh thần thượng võ vùng nổi dậy, hầu hết quân vây reo hò hoan nghênh chủ soái, rùng rùng tuân lệnh kéo giạt cả về phía sân rộng, đứng quay lưng cả về dãy nhà gần đấy. Chờ cho đám đông đã giải vây hẳn, Đại Sơn Vương mới vác ngọn giáo, tiến ra. Đám đông đứng dàn hàng rất có trật tự, trên cùng, viên Chúa Thác nho sinh đứng bên một cô gái trẻ đẹp và một người đàn ông cao tuổi hơn nho sinh một chút, mặt có vẻ dữ tợn vì một cái sẹo chạy gần mép khá lớn.
            - Nho sinh! Cho ngươi chọn trước, muốn đấu thứ chi tùy ý.
            Chúa Thác Bạc Đầu tiến lên một bước:
            - Hãy khoan! Ta còn điều kiện chưa ra! Một điều thôi!
            Đại Sơn Vương cau mày:
            - Cứ nói.
            - Nếu ta thắng ngươi có sẵn lòng trao ta thêm bảo vật của ngươi? Hai bảo vật cũng giống với bảo vật của ta.
            Đại Sơn Vương hơi chột dạ, đăm đăm nhìn nho sinh, không khỏi ngạc nhiên vì tài thám sát của hắn.
            - Từ Thập Vạn Đại Sơn, ngươi sang đây bí mật tìm báu vật nhưng chớ hòng giấu khỏi mắt ta! Nay đã cùng đường, ta không nỡ lấy đông hiếp ít, tưởng ngươi cũng không xử như phường tiểu tặc. Thuận chăng?
            - Vật bất ly thân! Ta để trong mình, nếu hạ được ta, ngươi cũng đáng tay coi giữ báu vật cho dòng giống Việt Nam! Đấu thứ chi?
            - Đấu súng! Hai phó tướng đứng ra giám sát Đại Sơn Vương!
            Dứt lời, chàng nho sinh tiến vụt lên, bước một, mắt chiếu thẳng vào Đại Sơn Vương.
            Cô gái cùng gã đàn ông sẹo mặt cũng vội đứng giạt ra hai bên giám trận. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn đứng im bên ngọn giáo, khuôn mặt người đàn ông giang hồ lão luyện thoáng vẻ bối rối. Nhưng nho sinh vẫn tiến tới, khuôn mặt chàng trẻ hơi nhấp nhô theo nhịp bước đi. Bước đi đã gần, khắc quyết liệt đã điểm. Không lâu sau, tự nhiên viên tướng núi thấy trong mình xúc động lạ lùng, bàn tay buông thõng bên sườn như muốn dại hẳn đi, hình ảnh chiếc bàn thờ sơn son, rồi những hàng chữ thảo để trong tủ sắt miệng hầm hiện lên, nhảy múa trong óc tướng Thần Xạ:
            Cái văn: phụ tác tử thừa, thử chi vị kế, bất cải ư phụ chi đạo khả vị hiếu hĩ...
            Thường nghe... không đổi đạo cha ấy là hiếu...
            - Cảm động lúc sắp bắn là... chết!
            Lời tôn sư chợt vang lên như lời cảnh tỉnh, Đại Sơn Vương vùng quát lớn:
            - Nho sinh hãy đứng lại! Tiến lên mất mạng bây giờ!
            Quai hàm tướng núi bạnh ra, mắt như nẩy lửa, xúc cảm lạ lùng vụt tiêu tan theo tiếng quát xuất thần, Đại Sơn Vương vẫn đứng im như pho tượng thép lạnh lùng. Mặc Nho Sinh vẫn tiến lên. Vừa tầm súng. Khuôn mặt chàng trai trẻ vẫn dập dờn trước mặt Đại Sơn Vương, và xuất kỳ bất ý giữa lúc tay đang ve vẩy, chàng ta đã đánh vụt vào hai bên sườn.
            Hai tay đánh nhanh đến nỗi mọi người thấy dính vào báng súng rồi mà Đại Sơn Vương vẫn đứng như ngây dại. Nhưng... mọi người cùng chớp mắt kinh ngạc bật lên một tiếng kêu "Trời", vì chỉ thấy bờ vai tướng Thập Vạn Đại Sơn hơi động đậy, cặp súng bên sườn đã ra khỏi vỏ từ lúc nào, mũi súng đen ngòm chĩa thẳng vào nho sinh. Và Chúa Thác Bạc Đầu đã giật nảy mình như bị điện giật, hai tay chết dí trên báng súng vì sức rút quá nhanh của tay Thần Xạ. Nho sinh ngơ ngác, buông tay chờ viên đạn cuối cùng. Nhưng giữa lúc mọi ngườí nghẹn thở, tướng núi đã chậm chạp cắm súng vào bao, cặp mắt nhìn địch thủ thoảng như có mây mờ kéo qua, và nếu ai đứng gần Đại Sơn Vương sẽ thấy rõ những giọt mồ hôi lấm tấm xuất hiện trên vầng trán phong trần của chàng.
            - Nho sinh! Hãy quay về cùng chư tướng! Tài ngươi tuy khá nhưng chưa đủ giữ tròn báu vật vô song!
            - Anh em, chớ để Đại Sơn Vương chạy thoát!
            Tiếng gã phó đảng mặt sẹo vừa bật lên, cô gái giám trận đã trợn tròn khóe hạnh:
            - Không được! Cuộc chiến đã định phải ngay thẳng! Ai phạm luật sẽ bị nghiêm trị!
            Súng nổ liên hồi. Giữa làn mưa đạn, tướng Thập Vạn Đại Sơn thấy còn một phía đèo có cây lớn, liền phục xuống quát lớn.
            - Nho sinh! Nếu còn muốn giao đấu hãy cùng ta đến chỗ cuối đèo kia. Nho sinh lẳng lặng gật đầu, đoạn hai người lao mình tới khu cây rậm. Nho sinh tỏ ra là tay diệu kiếm, đánh những đòn tuyệt kỹ khác thường. Hết kiểu Tàu, Ta lại đến kiếm Thổ, thấy nho sinh đều thông thạo, Đại Sơn Vương liền chuyển sang lối đánh "kendo," thình lình chộp cả hai tay, quát lên một tiếng vang âm, phát tung luôn kiếm nho sinh lên trời. Nho sinh vừa giận vừa thẹn ngửa mặt ngó lên, nhưng lạ thay, thanh kiếm vút lên ngọn cây, mất dạng.
            Còn đang sững sờ đã nghe trên lùm cây cao một chuỗi cườI khanh khách dội xuống.
            - Voòng Chí Plan! Trời! Cô nương!
            Nghiêng mình chào lễ phép, Nữ chúa Hoàng Su Phì nhẹ ném trả thanh kiếm cho nho sinh, chưa kịp lên tiếng đã nghe đạn réo trên đầu, rồi một cánh quân Si Pan ập tới, đuốc bật sáng trưng. Như cái máy, tướng núi băng mình theo Nữ chúa họ Voòng, Chúa Thác Bạc Đầu trừng mắt ngó theo.
            Ra tới bờ vực, Chí Plan dừng lại, trông về phía sau, mỉm cười:
            - Ta hãy đứng đây, xem chúng đánh nhau, lúc cần rút đi không muộn.
            Cách không đầy trăm thước, nho sinh vừa mất dạng, đã nghe có tiếng nổ long trời lở đất, bụi khói bốc mù mịt một vùng lớn, rồi ánh hồng như phụt tắt giữa những tiếng thét ghê hồn. Và trận tuyến bất ngờ ngưng hẳn.
            - Giặc Si Pan đã bị địa lôi phục chạy tán loạn! Ta rút thôi!
            Chí Plan vừa nói vừa trỏ xuống vực thẳm, miệng nhoẻn cười tinh nghịch.
            - Nhưng...
            - Đếm đến ba, cùng nhảy! Nào... một... hai...
            Cô gái Hoàng Su Phì vừa đếm đến ba, lập tức chuyển nhảy vọt ra... khoảng không vô tận. Như cái máy, chàng tướng núi cũng vội nhún chân nhảy vọt theo sát cánh. Giữa khoảng không, Chí Plan khẽ uốn người đã đến bên chàng tướng núi. Nàng nắm tay cùng Đại Sơn Vương cùng nhảy xuống. Thật bất ngờ, phía dưới vực thẳm có một màng lưới rộng căng đợi. Cô gái tháo lưới cuộn lại, mỉm cười trách nhẹ:
            - Ông lên ngọn núi không rõ đường, lại chẳng tính lối rút khi gặp biến. May sao! Tôi lại biết rõ địa thế núi này, mới kịp chăng lưới... chờ ông.
            Đại Sơn Vương đăm đăm ngó Voòng Chí Pan:
            - Nhưng... sao cô nương lại biết tôi đến Thác Bạc Đầu?
            Nữ Chúa H mông nhoẻn miệng cười, bí mật:
            - Không những thế, tôi còn biết ông đã làm những gì từ đêm ông cùng Voòng Lầu vượt biên giới rồi lộn lại, để thiên hạ tưởng ông đã về Thập Vạn Đại Sơn, trong khi...
            - Thì ra Hoàng Su Phì đã theo kẻ ngu này không rời nửa bước. Giờ, bảo vật đã nằm trong hộp kín, và quanh đây súng đã bủa vây rồi?
            Nữ Chúa H mông vẫn mỉm cười tươi tắn gật đầu:
            - Vâng, ông đang đứng giữa vòng vây, và hiện một con kiến cũng khó lòng ra thoát!
            Dứt lời, cô gái rúc lên mấy tiếng chim đêm, lập tức có tiếng loạt soạt quanh đấy, rồi từ khắp bốn phía, từng tốp người vạm vỡ không súng hiện ra, gọn ghẽ trong những bộ quần áo miền núi.
            Tướng núi lên ngựa, khẽ hỏi.
            - Giờ ta đi đâu?
            - Thẳng đường sang mạn Đông Bắc! Thúc phụ tôi đang đợi ông tại Hoàng Su Phì, có việc tối mật.
            Đoàn kỵ sĩ H mông chia thành hai tốp mở đường, đoạn hậu, lặng lẽ đi trong đêm mờ, tiến dọc theo bờ suối. Trên núi cao, súng nổ giòn, quân Thác Bạc Đầu và quân Si Pan vẫn kéo dài cuộc chiến. Rừng khuya thăm thẳm hoang vu đầy bất trắc. Đại Sơn Vương chưa hiểu rõ cát hung, cứ lặng lẽ đi giữa đám quân H mông. Được non nửa dặm đường vòng chân núi chợt như tối hẳn lại, tiếng nước đổ ầm ầm như thác.
            - Đánh ngựa xuống suối! Tới vòng vây rồi!
            Tiếng dịu dàng thì thào ngay bên tai, nhìn sang, thấy Voòng Chí Plan tiến ngựa lại bên, Đại Sơn Vương chưa kịp hỏi, đã thấy bóng người ngựa Chí Plan vượt lên, rẽ luôn xuống dòng nước xiết. Dưới chân, nước chảy mạnh như thác lũ, có chỗ nước ngập tới bụng ngựa. Ngựa đi dưới những lùm cây um tùm cuốn tò vò chẳng khác vào ruột suối ngầm trong núi. Mấy phút, chợt Voòng Chí Plan dừng ngựa kê bên Đại Sơn Vương, khẽ bảo:
            - Đã vào giữa trận tuyến rồi! Mũi súng chỉ cách ngựa ta mỗi bên không đầy dăm thước.
            Viên tướng núi bèn đánh ngựa sát vào bờ, vạch lá trông ra, quả nhiên thấy nhiều bóng người ngựa thấp thoáng giữa đêm mờ, rõ ràng đang án binh chờ đợi hai bên bờ suối.
            - Đại quân binh của tướng Roux đó!
            - Chúng định đánh quét Thác Bạc Đầu!
            - Không hẳn thế! Chính ra chúng định vây bắt... ông. Nếu đêm nay không gặp rạng đông chúng sẽ đánh lên núi. Ta nên đi giữa suối là hơn.
            - Vượt lên bờ! Rút về phía tả!
            Tiếng Voòng Chí Plan bật khẽ lên, giữa lúc hai bên tả hữu vùng nổi lên những tiếng hô quân vang động cùng tiếng chân người chạy tới, liền với tiếng súng lên đạn lách cách. Đại Sơn Vương theo Vuòng Chí Plan lao ngựa vọt lên, vừa tới bờ, đã nghe có tiếng người hô lớn. Chí Plan nhanh giọng:
            - Gần qua chỗ đóng binh rồi! Nhớ theo sát tôi, không lạc rừng!
            Hai con ngựa tiến lên như hai mũi tên. Thoáng hai bên lố nhố bóng người ngựa của quan binh ập tới theo ánh đèn loang. Từng loạt đạn réo bên tai. Tướng lạc thảo rạp mình trên ngựa, vẩy ngọn súng lia lịa sang hai bên. Có lúc tướng lạc thảo quỳ lên trên yên ngựa, kìm phắt HắC Phong Câu lại, nhả đạn liên tục. Voòng Chí Plan nhìn sang không thấy bóng Đại Sơn Vương, cũng ghìm nước phóng, lộn phắt lại, giật giọng:
            - Đại Sơn Vương! Ouân địch đông như kiến cỏ, không nên ham đánh! Rút mau thôi! Trời...
            Đang bắn, chợt nghe tiếng kêu khẽ, lướng lạc thảo quay vội sang, vừa kịp thấy Chí Plan gục trên lưng ngựa, phía sau đã thoáng thấy hai bóng quan hinh phóng ngựa tới chĩa súng bắn theo. Tướng núi cả kinh liền vẩy luôn haì ngọn súng bắn nhào cặp quan binh, và bay ngựa đến bên nàng, nhanh như cắt, quài tay ôm xốc sang ngựa mình:
            - Cô nương có sao không?
            Lời vừa dứt, mấy viên tướng H mông cũng đảo tới, thấy Nữ Chúa bị đạn, cả sợ giục vội:
            - Trời, tướng quân mau đưa Nữ Chúa thoát vòng, Chúng xông đến kia rồi!
            Không chậm trễ, Đại Sơn Vương thúc mạnh Hắc Phong Câu thần mã cuốn vó như bay, vượt rừng xuyên núi băng giữa đêm mờ, lát sau đã xa vùng Thác Bạc Đầu, không còn nghe thấy tiếng súng nữa, Đại Sơn Vương cho ngựa bước một, đoạn cúi xuống lay gọi Voòng Chí Plan:
            - Cô nương bị thương chỗ nào?
            Chí Plan thở dốc, mấy khắc, khẽ cựa mình, chợt mở mắt ra nhỏ nhẹ:
            - Đây đến đâu rồi?
            - Đây đã xa trận địa . Cô nương...
            Chợt thấy vẻ nhăn nhó trên khuôn mặt thiếu nữ, Đại Sơn Vương vội dừng ngựa đỡ nàng xuống, đặt nằm trên mặt cỏ, lo lắng hỏi:
            - Cô nương có đau lắm không? Để tôi coi vết thương!
            Đại Sơn Vương xé vạt áo buộc tạm vết thương, đoạn ôm bổng Chí Plan lên ngựa, lần rừng tìm nơi trú tạm, Chí Plan mệt lả dựa vào ngực viên tướng núi, thở mạnh, mắt nhắm nghiền. Đi khỏi ánh rừng rậm, chợt thấy ánh lửa le lói phía trước, cả mừng bèn cho ngựa thẳng tới mới hay nơi đó có một bản thổ dân ngang núi. Vào thẳng căn nhà sàn đầu bản, đánh thức chủ nhà dậy, mới rõ nhà Xạ Phang. Không kịp tháo yên, Đại Sơn Vương buộc ngựa ngay dưới cầu thang, ôm Vòng Chí Plan lên đặt nàng vào phòng trong. Thiếu nữ vẫn mệt lả vì máu ra khá nhiều, thấy Đại Sơn Vương ngồi trên, liền gắng gượng nhoẻn miệng cười.
            - Tôi chịu được đau... ông không ngại...
            Thấy nàng vẫn chưa hiểu nỗi ngại ngùng của mình, Đại Sơn Vương tần ngần khẽ bảo:
            - Cô nương nên nhắm mắt lại. Tôi có đồ dùng gắp đạn nhưng không có thuốc mê...
            Chí Plan nhoẻn cười nhắm mắt lại. Tướng núi nhanh nhẹn sửa soạn mọi thứ cần thiết, đoạn cởi áo ngoài nàng ra. Rồi áo cánh, mảnh vải buộc tạm. Đến khi chiếc áo lụa lót hiện ra dưới ánh trăng, chợt chàng tuổi trẻ dừng tay, mặt thoáng vẻ bối rối. Trong đời chiến đấu đã nhiều lần chàng phải làm y sĩ tạm, gắp đạn cho bằng hữu, thủ hạ, nhưng đây là lần đầu gắp đạn cho một cô gái, lại bị thương nơi ngực. Nàng nằm ngửa trên sàn, chiếc "phá" lĩnh đen thủy ba sóng gợn bó lấy dáng hình, hơi xốc cao vì mệt mỏi. Khuôn mặt nàng trinh nữ như đóa phù dung, và thân trên chỉ còn mảnh lụa nhỏ quấn ngang, hai bờ vai trần màu ngà lồ lộ, chiếc ngực thanh tao chỉ còn mảnh lụa mong manh. Chợt Chí Plan mở mắt ra và tự nhiên, mặt hoa thoáng ửng hồng, thẹn thùng đặt tay lên bờ vai. Máu vẫn rỉ ra áo lót. Lấy hết can đảm, tướng núi nhẹ cầm mảnh lụa lót kéo xuống, quay mặt đi khẽ nói:
            - Bất đắc dĩ xin cô nương miễn chấp...
            Rất nhanh tướng núi lấy vải lau ngực cho Chí Plan. Ngực căng phồng sức sống, trên nền da trắng hồng đến sáu bảy vết máu đỏ xỉn lại quanh nhũ hoa, có một vết xước qua gò bên trái, chỉ một ly nữa sẽ đâm vào tim. Lòng xót thương trấn áp ngại ngùng, tướng núi hơ mũi kéo trên lửa, khẽ gọi:
            - Đạn ghim nơi ngực huyệt...
            Chí Plan quay nhìn ra, cặp mắt mệt mỏi chợt sáng lên lạ thường, cô gái cố nhếch nụ cười cam chịu. Mũi kéo cắm sâu vào nhũ hoa. Ngực cô gái phập phồng, hai chân như sắp bốc tung, khuôn mặt hiện rõ nét đau đớn khôn cùng. Mũi kéo dừng hẳn lại, tướng núi run giọng hỏi:
            - Cô nương! Sợ không đủ sức...
            Chí Plan thở mạnh, như sắp mê đi:
            - Không... sao!
            Đến lúc mũi kéo lùa trong thịt, kiếm viên đạn chì, thì cô gái vùng bật lên, thổn thức bất ngờ:
            - Anh ơi! Chết bên anh... em mãn nguyện... Anh...
            Vừa lúc đó, mũi kéo ngậm viên chì, rút ra, chàng tuổi trẻ nhíu cặp chân mày, đăm nhìn Chí Plan, nhớ tới thâm tình thầm kín của nàng bấy lâu, chợt óc chàng thoáng một tư tưởng táo bạo. Tướng Thập Vạn Đại Sơn cúi sát xuống, đặt tay lên mớ tóc Nữ Chúa Hoàng Su Phì vuốt nhẹ, giọng trở nên thắm thiết lạ lùng:
            - Chí Plan, em đau đớn... anh không đành lòng đặt mũi kéo vào da thịt, hay cho anh làm bất tỉnh phút giây?
            Cô gái sơn cước mở mắt ra, cặp mắt sâu thẳm bí ẩn như núi rừng chợt long lanh sáng lên vẻ não nùng đắm đuối gan góc lạ. Nàng quờ tay đặt nhẹ lên bàn tay chàng tướng núi giang hồ, giọng run vì xúc động mãnh liệt:
            - Anh... ông.
            Rồi nghẹn nào không nói được nữa. Tướng núi cầm hờ mũi kéo, nhẹ tay nắn ngực nàng, mắt sáng quắc lượng chiều đạn đi thận trọng từng ly, mới lần mũi kéo vào. Toàn thân thiếu nữ như sắp vùng lên vì sức đau nhói của mũi kéo xuyên vào da thịt ngực hoa. Nhưng chỉ thoáng qua, cả thân nàng đã bất động, hai chân duỗi thẳng, cánh tay buông thẳng bên mình, tưởng nàng đau quá ngất đi, Đại Sơn Vương vội liếc trông lên mặt mới biết nàng vẫn tỉnh, cặp mắt đăm đăm nhìn mình, hàm răng cắn chặt vào nhau, chịu đựng ghê gớm, chàng mới an tâm tiếp tục công việc. Nhờ kinh nghiệm, chỉ trong giây lát, chàng đã lấy được viên đạn cuối cùng. Gần sáng, Đại Sơn Vương vừa chợp mắt, nghe tiếng Hắc Phong Câu hí mạnh dưới sàn, tướng núi choàng tỉnh, tung chăn nhỏm dậy. Tiếng ngựa hí bật lên rồi ngừng bặt, tiếp theo có tiếng vó câu giậm thình thịch. Quơ vội dây súng choàng vào mình, chàng rón rén lần ra cầu thang. Chủ nhà đứng bên hai tên xạ phang lạ mặt đang bắt trộm Hắc Phong Câu. Tên chủ nhà vừa trùm một túi vải lớn vào đầu ngựa, còn hai tên xông lại, định lựa thế nhảy lên lưng. Hắc Phong Câu vốn nòi ngựa dữ, đá lung tung, đầu cố vùng thoát túi vải.
            - Mấy tên kia, sao dám trộm ngựa ta?
            Đang quần thảo với ngựa, bất thần nghe tiếng quát, cả ba tên giật mình quay phắt lại. Nhanh như cắt, đồng thời, hai tên xạ phang lạ đã đưa tay ngang sường rút súng ra. Nhưng ngọn súng chưa kịp chĩa lên, đã bị liền hai phát thần xạ bắn què tay luôn. Tên chủ nhà cả kinh, đâm đầu chạy.
            - Đứng lại!
            Quát dứt lời, vẫn thấy hắn lao đầu đi, tướng núi vẫy một phát trúng gót chân khuỵu liền.
            - Chúng mày là thủ hạ ai? Sao biết đến trộm ngựa? Phải tên chủ nhà đã lén phi báo cho không?
            Miệng hỏi, tay lại điểm luôn vào huyệt độc, hai tên rú lên, ú ớ:
            - Ngộ... Đại Vương sai tới, Đại Vương còn...
            - Thằng nào?
            - Lưng... Lừng...!
            - Còn đóng núi ngoài! Chờ trộm ngựa xong...
            Tướng Thập Vạn Đại Sơn vụt nhìn ra ngõ, vung tay cho mỗi tên một báng súng vào đầu, ném cả vào một xó. Và không chậm trễ, chàng nhảy lên thang, vào phòng Voòng Chí Plan đang nằm. Thiếu nữ vẫn thiêm thiếp ngủ, chăn đắp tận cổ, bàn tay đặt trên bụng còn nắm nguyên gói đạn ghém như trẻ thơ nắm món đồ chơi trong giấc ngủ. Chàng tướng núi đăm đăm nhìn cô gái, mấy lần định gọi, lại thôi. Chợt lại có tiếng một đàn chim bay tán loạn qua, kêu ríu rít trên ngọn cây sau nhà. Tiếng chó sủa bật lên, rồi liền mấy tràng súng nổ xé rách không gian phía ngoài xa. Tiếp theo tiếng người trong bản líu lo gọi nhau giật giọng, náo động một vùng. Đại Sơn Vương đắp vội chăn lên ngực Chí Plan và lấy luôn bông đút chặt lỗ tai nàng, nói thác:
            - Cô nương không nên nghe tiếng nổ lúc này. Trận tập chưa chừng khá lâu. Cô nương cứ nằm nghỉ, để tôi ra thăm xã giao Đốc bản xem hắn có giúp gì được không?
            Đoạn vuốt nhẹ mép chăn, chàng tướng lạc thảo quay ngoắt ra luôn. vừa tới thang gác, đã nghe Hắc Phong Câu hí mạnh dưới thềm. Tướng lạc thảo biên thuỳ nhảy phốc lên lưng ngựa, vọt ra ngõ ngoài. Cánh quân từ hẻm núi tiến thẳng về phía bản, toàn quân cỡi ngựa, hết lớp nọ đến lớp kia, ngựa phi đến trước bản, dừng lại. Đi đầu là Đại Vương Lừng, ngựa có cắm ngọn hiệu kỳ nhỏ. Tướng thổ phỉ chiếu ống dòm quan sát mấy giây, tay trỏ thẳng vào căn nhà đầu bản, đoạn phất tay cho quân gia tiến lên theo, bước một. Đại Sơn Vương rời ngọn tiểu sơn, đánh ngựa ra đứng sững giữa đường mòn. Lừng Đại Vương cũng lập tức ghìm cương.
            - Đại Sơn Vương ! Ngươi bị vây rồi, nếu loạn chiến, ngộ sẽ làm cỏ cả bản, đốt cháy luôn cô gái Voòng! Biết điều thất thế, mau xuống ngựa theo ngộ về sơn trại.
            Tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im trên lưng ngựa, quắc mắt mắng tướng xạ phang:
            - Voòng cô nương đang nằm dưỡng bệnh, nên ta chưa thể rời chân. Biết điều hãy lui quân cho tròn hoà khí! Ta trấn ngọn tiểu sơn này, mi có đủ máu rải trên đường tiến quân không?
            Lừng cười lớn:
            - Chớ khá điên rồ! Ngộ nói thiệt! Sau bản đã có quân bọc hậu. Ngươi có tài thần xạ cũng không thoát nổi phen này. Biết điều nên xuống ngựa là hơn. Nếu ngươi kháng cự, ngộ hạ lệnh đốt cháy căn nhà kia ngay!
            - Biết điều mày hãy lui binh! Làm kinh động nơi cô nương Voòng dưỡng bệnh, tao bắn nát óc! Mày chớ lầm tưởng cho quân đánh nhầu lên tao chỉ kịp bắn mười hai phát đạn!
            Dứt lời, chàng tướng núi với tay xuống tận mắt cá, kéo soẹt hai tiếng mạnh. "Phéc-mơ-tuya" vụt mở từ mép quần tới ngang sường, để lộ hai hàng súng buộc dây tua tủa sát ống chân. Đại Vương Lừng chột dạ, đưa mắt trông địa thế và lẳng lặng giật cương quay ngựa tức thì. Lối chừng mấy thước, bất thần, hắn lộn phắt ngựa lại, phất tay về phía Đại Sơn Vương hô lớn:
            - Bắn!
            Lời hô vừa dứt, Đạt Sơn Vương đã đánh tay xuống sườn, bắn luôn hai phát, một gãy phăng lá hiệu kỳ thổ phỉ, một trúng luôn bả vai tướng giặc trước khi từng loạt đạn thổ phỉ bắn lên. Bắn xong, lập tức chàng tướng núi nhào luôn xuống tránh đạn, đồng thời kéo cả Hắc Phong Câu ẩn sau ngọn tiểu sơn. Bị đạn xói vai vì không kịp nghiêng mình, tướng thổ phỉ vừa kinh vừa tức, hô quân nhất loạt đến đánh. Đạn nổ vang trờí. Đội tiền phong của Lừng tướng tốc ngựa lên cách hòn tiểu sơn bảy tám thước, đã bị bắn nhào. Đại Sơn Vương vừa đánh vừa quan sát tứ phía, cố tìm tướng địch bắn hạ cho vỡ cánh quân, nhưng hình như đã biết tài Thần Xạ, Lừng đã ẩn đâu mất, chỉ nghe tiếng hô quân của hắn. Chợt cánh quân thổ phỉ chia hai cánh tiến vòng ra xa, cùng cánh thứ ba nhất tề đánh kẹp vào hòn tiểu sơn.
            Chàng tướng núi vừa bắn nhào được mấy tên nữa, chợt thấy cánh quân phía tả có một đội tách ra, xông thẳng đến căn nhà Chí Plan. Ba bốn bề thụ địch, tiểu sơn chỉ chắn được một hai phía, biết tình thế hiểm nghèo, Đại Sơn Vương liền nhảy phắt lên lưng ngựa, rời hòn tiểu sơn, bay chếch ngang chặn đánh toán quân xông đến căn nhà đầu bản. Đến gần mới nhận ra chính tướng Lừng chỉ huy toán quân đó, chàng liền vỗ ngựa xông thẳng tới, thét lớn, giọng run lên vì căm giận:
            - Thằng thổ phỉ! Coi tao bắn nát óc mày đây!
            Lừng ngoắt sau một thân cây cổ thụ vừa bắn, vừa hô lớn:
            - Đại Sơn Vương, ngươi liều thân vô ích! Hãy ngó lại xem!
            Tướng núi cũng ẩn sau một cây lớn, đảo mắt trông lại, quả nhiên thấy quân thổ phỉ từ mấy ngả đang xốc tới, và có một đám đã đến gần căn nhà Chí Plan. Tướng núi mím chặt vành môi, bay ngựa ra, lộn lại phía sàn, vừa bắn vừa tiến giữa làn mưa đạn. Bọn giặc nhất tề reo hò bắn vãi, nhưng hình như vẫn muốn bắt sống, nên chúng chỉ nhè ngựa bắn què. Chàmg tướng núi xông tới đâu chỗ đó lại giạt ra, rồi lại khép vào. Một tốp đã tới sát căn nhà sàn. Biết tình thế thập phần nguy hiểm, nhất là bệnh tình Chí Plan. Đại Sơn Vương không chút chậm trễ, mở luôn một đường máu tiến về nhà sàn.
            Bất ngờ, phía nhà sàn, rõ ràng có tiếng súng nổ vang, còn đang định thần nhìn kỹ, đã thấy mặt sau thấp thoáng bóng người ngựa hiện ra.
            - Đại Vương Lầm đã tới!
            Đám quân Lừng reo hò vang dội, chưa kịp tiến lên, đã thấy tốp quân đến bên nhà sàn thình lình có mấy tên lộn nhào xuống chân ngựa. Ngạc nhiên Đại Sơn Vương phóng nhanh đến đánh giạt mấy tên còn lại, xốc thẳng đến cầu thang, đã nghe có tiếng Chí Plan hắt ra:
            - Đại Sơn Vương... ông nên rời mau...
            Đang nói, chợt nàng run tay súng bắn luôn hai phát. Đại Sơn Vương nhìn ra thấy hai tên nhào ngay xuống ngựa ngay bên ngoài.
            - Ông thoát mau đi! Cứ để em lại! Chúng chỉ cốt săn ông thôi mà!
            Đại Sơn Vương nhếch miệng cười, dịu dàng giật lấy súng trên tay nàng. Thổ phỉ hô vang, xốc ngựa tới. Đại Sơn Vương giật Hắc Phong Cau nằm xuống, tay súng vẩy liên hồi. Bốn bên chỗ nào cũng có địch xông đến nhất loạt. Nhưng lâm trận mới càng rõ tài vô địch tướng quân, Đại Sơn Vương quay ngược quay xuôi, xông tả, ngoắt hữu, bắn súng như chày máy, mỗi phát nhào một tên, trong chớp mắt đã ngót hai mươi tên quị quanh pháo đài gần nhà sàn.
            - Bắn tên lửa mau.
            Lừng Đại Vương thấy Đại Sơn Vương hung hãn quá, không dám khinh suất, giật luôn một cây cung lớn, đốt lửa, bắn vụt vào căn nhà sàn. Và quân gia hai gã Lâm, Lừng cũng nhất tề thi nhau bắn lửa khắp mái trên, vách dưới. Trong phút chốc, lửa bốc rần rần, căn nhà sàn thành mồi đuốc khổng lồ, tre bùng nổ liên hồi như trống lệnh, khói bốc lên mờ mịt một vùng.
            Voòng Chí Plan cố chống tay ngồi dậy quơ luôn khẩu súng bên mình, nhanh giọng:
            - Nguy đến nơi rồi. Căn nhà sắp sụp, ông phải lên ngựa thoát mau mới kịp!
            Đại Sơn Vương đảo mắt nhìn lửa ngụt khói un, khẽ hỏi:
            - Còn cô nương?
            - Em ở lại! Thôi đành... Nếu bịn rịn, cả hai đều chết vô ích...
            - Kìa... cô nương
            - Ông... phải thoát mau! Mặc em... mới được!
            Chàng tướng trẻ đỡ ngang mình Chí Plan, giọng sầu thảm:
            - Cô nương chớ nói điều bất nhẫn! Tôi quyết bảo vệ cô nương tới cùng. Thử lên ngựa xem! May ra...
            Miệng nói, tay xốc nàng lên, thấy nàng quá kiệt sức, liền ôm phắt thân hình cô gái, nhảy lên lưng Hắc Phong Câu, vọt ra khỏi tử địa. Con vật lập tức cất vó lao mình đi như một mũi tên đen. Đám quân thổ phỉ đang chống súng nhìn cả vào căn nhà đầy khói lửa mịt mùng, không còn nhận được hình thù người vật nữa. Chợt thấy giữa làn khói trắng, nhà sụp, một bóng người ngựa vọt ra, cả bọn chưa kịp động thủ, thì tuấn mã đã bay tới, súng phun đạn nhanh như gió cuốn ập đến sát vòng vây. Cả trăm ngọn súng chĩa theo nổ rền, bất ngờ năm sáu tên thổ phỉ đã nhào xuống ngựa, Hắc Phong Câu cất mình nhảy vọt qua đầu chúng, như một cái cầu, vừa chạm đất đã cuốn gió bay giữa hàng cổ thụ um tùm. Đạn thổ phỉ bắn vãi theo như rắc đậu.
            Đại Sơn Vương ghì chặt lấy Voòng Chí Plan, một tay quay vẩy súng lại sau. Chợt thiếu nữ bật lên một tiếng kêu "Trời" thân hình mềm nhũn ra, hai tay buông rời... Tướng núi cúi xuống đã thấy nàng ngất đi, mặt còn in rõ nét đau đớn khôn cùng, máu từ vết thương đã ứa ra đỏ lòm. Biết vết thương trong đã nứt vỡ vì động quá mạnh, chàng cả kinh, không dám chạy ngựa nữa, vội phóng ngay sau ngọn tiểu sơn ban nãy, bế luôn nàng xuống, đặt nằm êm trên cỏ. Đạn vẫn vãi quanh mình, dội vào tiểu sơn, bốc bụi đá mờ. Vó ngựa thổ phỉ vẫn rầm rập cuốn tới.
            - Chí Plan? Plan!
            Cô gái Hoàng Su Phì vẫn nằm bằn bặt, mặt tái nhợt hẳn đi.
            - Plan cô nương...
            Cô gái mê man, máu ra ướt cả áo ngoài. Sóng gió cuồn cuộn trong lòng tướng lạc thảo giang hồ trước hoạn nạn vạn nan của cô gái đã xả thân cứu chàng. Cắn chặt hàm răng, tướng núi ngang tàng hé mắt trông ra. Vó ngựa thổ phỉ đã phóng nhầu đến cách hòn thổ sơn không đầy chục thước và chợt chia thành mấy cánh bọc lấy hòn tiểu sơn.
            - Thôi đành!
            Và đứng phắt dậy, giơ cao ngọn súng... ngậm ngùi chúc đầu xuống đất. Nhưng...
            - Đại Sơn Vương! Xin hãy yên lòng! Có Thoòng tới đây!
            Đại Sơn Vương vừa nhận ra được tướng lạ, không giấu được ngạc nhiên, khẽ lẩm bẩm:
            - À! Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng! Tình cờ sao lại gặp ngươi đây!
            Lầm, Lừng đã kịp nhận ra tướng thổ phỉ miền giáp Cao Bằng, trỏ mặt Thoòng mắng lớn:
            - Việc sắp thành, một tay mi phá vỡ! Ta nguyền sống chết với mi! Ba quân! Chiến!
            Thổ phỉ nhất loạt xông lên, Thoòng Mềnh cũng phất ngọn súng liền. Hai bên đánh nhau giữa vùng bản rộng, không bên nào xuống ngựa. Đại Sơn Vương kèm Chí Plan rút đi, lát sau đến một vùng núi hiểm trở, đám tùy tướng Thoòng liền hạ võng lễ phép bảo chàng.
            - Bẩm... cô nương mệt thiếp, phải xem lại vết thương mới tiếp tục đi được!
            Tướng Thập Vạn Đại Sơn đảo mắt một vòng núi và quay bảo viên đầu lĩnh:
            - Chú đủ sức chỉ huy quân gia chứ? Ta muốn lộn lại giúp Đại Vương chú một tay!
            Đại Sơn Vương thúc ngựa đi luôn tới cánh quân gần đấy, không thấy bóng Thoòng Mềnh, vừa định phóng đi, chợt thấy phía trước, cả một cánh quân địch xông lên, định chọc thủng trận thế, chàng nóng tiết, quát bảo quản Thoòng:
            - Thấy hiệu ta, các chú tiến thốc lên, đánh kẹp hai đầu lại! Giờ để ta quét trước cho!
            Miệng nói, chân thúc ngựa lướt lên, bay dọc bay ngang sau hàng cây cổ thụ, hai tay nã súng lên như chớp. Thoáng cái đã hàng chục tên nhào xuống ngựa, cánh quân cả sợ vội lùi phắt lại, có tiếng xạ phang quát lớn:
            - Chúng bay khá cẩn thận! Thằng Đại Sơn Vương đã đến đó!
            Chàng tướng núi chẳng nói chẳng ràng, cứ theo nhịp súng, bốc ngựa lên chiếm hết thân cây này tới thân cây kia làm điểm tựa đánh đốn dịch quân, tên nào ló đầu ra, vỡ mặt liền, tay súng chĩa ra chưa kịp bắn đã bị đạn què luôn. Cả cánh quân núng thế lui giạt ra, trước cánh tay thần xạ. Lập tức, Đại Sơn Vương phất tay làm hiệu, quân Thòng nhất tề thốc ngựa lên đánh dập bên sườn quân địch như vũ bão. Rất nhanh, cánh quân đó vỡ thế, vừa bắn vừa tháo chạy đến những cánh quân khác. Đại Sơn Vương đang bay ngựa giữa chiến trường, chợt gặp Thoòng Mềnh. Vừa trông thấy, Thoòng đã bật kêu lên:
            - Quả không sai! Thấy chúng bị tập hậu, đã đoán có tướng quân Thần Xạ!
            - Trận nó đang vỡ. Thằng Lầm, thằng Lừng đâu?
            Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng gò ngựa trông quanh. Giữa vòng trận địa nát nhầu, quân Thoòng thế mạnh đã như suối lũ, đang vây đánh địch quân, lố nhố khắp sơn khê, ngựa chạy dọc ngang rầm rập, súng nổ đì đoành gấp gáp. Chợt Thoòng trỏ tay về phía tả cạch đấy đến ba trăm thước, tít phía đầu trận:
            - Ai như bóng thằng Lừng?
            Miệng nói tay đặt ống nhòm lên mắt, bật lên:
            - Tướng quân coi! Hình như có cả bóng thằng Lầm nữa!
            Đại Sơn Vương cũng chiếu viễn kính, đoạn quay bảo Thoòng.
            - Nên cho một đoàn tinh nhuệ đánh thẳng đến chỗ đó! Dập đầu, cho trận nó tan mau!
            Thoòng Mềnh lập tức khoa súng trên đầu, truyền cánh quân tinh nhuệ nhứt tiến lại, đoạn cùng Đại Sơn Vương bay ngựa trước hàng quân xốc tới.
            Hai tên Lừng, Lầm đang chỉ huy cánh quân quyết chiến với quân Thoòng Mềnh, chúng dẫn đầu một toán quân, nhưng ngựa chúng vừa vào tới hèm núi, thình lình thấy trước mặt một đám người ngựa từ bên kia hẻm núi ập tới. Hai viên tướng thổ phỉ giật mình, ghìm phắt ngựa, trông lên thấy Đại Sơn Vương cùng Đại Vương Thoòng ngồi sững trên lưng ngựa, cả hai kinh sợ vội ngoắt ngựa chạy lộn lại, không chậm một giây. Đại Sơn Vương trỏ ngọn súng lên, quát lớn:
            - Hai thằng tặc tướng kia! Khôn hồn xuống ngựa cho mau!
            Hai viên tướng thổ phỉ cứ phóng bừa như không biết có kẻ đuổi sau lưng. Quả nhiên Hắc Phong Câu đã rút vó vừa tầm súng, nhưng chàng tướng thần xạ thấy địch tướng cứ cúi đầu chạy miết, hai tay thủ kín về phía trước, chỉ còn cặp lưng nhấp nhô theo nhịp ngựa, chàng cả giận vỗ mạnh vào Hắc Phong Câu:
            - Thần lực mi đâu? Đưa ta lên bắt sống chúng nó cho mau!
            Phía trước, ngựa Lầm, Lừng vốn nòi ngựa Ký Châu và Mông Cổ, thoắt cái đã bỏ rơi ngựa tùy tướng. Nhưng Hắc Phong Câu vọt lên như một mũi tên, trên yên chàng Thần Xạ đã vụt xoay mình quay lưng lên phía đầu ngựa, mặt trông về phía sau, cặp mắt sáng quắc nhìn hàng tùy tướng địch, khiến cả bọn càng kinh khiếp len lén ghìm cương, không tên nào dám động thủ. Vọt khỏi khá xa, chàng tướng núi mới tung chân ngồi lại như trước. Phía trên, hai tướng thố phỉ đã ngoắt vào sườn núi, đột nhiên chạy theo hình thước thợ. Đại Sơn Vương phóng tới góc núi, chợt nghe nước chảy ầm ầm, trông ra thấy một ngọn suối khá trong chạy ngang phía trước bên cánh rừng rậm.
            Ngựa vừa ló đầu khỏi góc núi, Đại Sơn Vương đã nhào luôn xuống bên ngựa tránh mấy vệt thép ác liệt bay tới. Chân vừa chấm đất, mắt kịp trông thấy hai viên tướng thổ phỉ chạy dọc bờ suối, cánh tay vua ám khí Lầm đã lợi dụng địa thế, trổ luôn ngọn sở trường điêu luyện. Ám khí Lầm vừa bay qua đầu Đại Sơn Vương, đạn Lừng cũng bay theo như chớp. Nhưng tướng Thần Xạ theo đà ngựa phi, đã vẩy ngọn súng lên, cò vừa láy xong hai phát, cả hai tên đã vùng ôm tay nhăn nhó, suýt nhào xuống ngựa. Và nhìn lên, Đại Sơn Vương đã ngồi ngay trên ngựa vọt theo như gió cuốn. Gượng đau, cả hai vội ngoắt chạy liền. Nhưng Hắc Phong Câu đã nhẩy lên, cách đuôi ngựa trước không đầy hai mươi thước.
            - Chúng mày có chạy đàng trời! Khôn hồn chịu trói cho mau!
            Mặc, hai gã quất ngựa lội nước chạy. Đại Sơn Vương giật phắt sợi thừng bên yên quăng vụt ra. Nghe hơi gió, hai gã cùng né tránh và không biết vô tình hay hữu ý, cả hai địch tướng lộn nhào xuống nước. Đại Sơn Vương giật luôn thừng về, tay quay dây, mắt nhìn dưới dòng nước chảy xiết ngập tới bụng ngựa, thạch bàn tung bọt trắng phau. Chợt thoáng thấy bóng người ẩn hiện lập lờ cách chỗ ngựa đứng chừng hơn thước, chàng liền tung dây chụp luôn, xiết chặt lấy. Nhưng giật mãi không lên, chàng bèn thúc Hắc Phong Câu lội xuống xem, mới biết chỉ là chiếc áo choàng vào mô đá ngầm nhọn hoắt. Chợt nhìn sang chỗ hai con ngựa Lầm, Lừng đứng, chàng cả giận, biết hai tên tướng thổ phỉ đã ẩn dưới bụng ngựa dùng kế "Thoát y" chạy trốn, liền cho Hắc Phong Câu lội xuôi dòng tìm kiếm. Nhìn hai bên thấy cây cối um tùm, núi xanh lởm chởm, quan sát bờ nước tuyệt không thấy vết người lội lên, càng lấy làm lạ, lại cho ngựa lội ngược dòng tìm kiếm, vẫn không thấy. Bực tức, chàng bèn phóng ngựa quanh bờ, chỉ thấy rừng cây quạnh vắng không vết chân người. Còn đang sục sạo chợt nghe tiếng loạt súng nổ phía xa vọng lại, quay đầu định phương hướng, rõ ràng súng nổ từ miền có Voòng Chí Plan nằm vẳng tới, chàng đành bỏ cuộc truy nã tước thổ phỉ, bắt cả cặp ngựa lên bờ.
            Vừa lúc Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng dẫn quân tới, thấy cặp ngựa vô chủ, ngạc nhiên đưa mắt nhìn quanh, hỏi:
            - Còn hai thằng Lầm, Lừng bị hạ rồi chăng?
            Đại Sơn Vương lắc đầu:
            - Dồn chúng đến thế cùng, quăng dây trói, nhưng chúng nhào cả xuống nước lẩn đâu mất? Còn... tiếng súng phía xa?
            Thoòng Mềnh nhìn quanh vòng suối, tặc lưỡi:
            - Thôi hãy để hai thằng giặc đấy! Ta phải lộn về phía súng nổ ngay mới được!
            Đến nơi, mới hay đám quân Thoòng hộ tống Voòng Chí Plan bị một cánh quân lạ tấn công. Quân Thoòng cứ hiểm lưng đèo tuy lợi địa nhưng chỉ có non hai mươi tay súng, nên đang bị đuối thế dần. Cánh quân giữa có một nữ tướng cưỡi ngựa tới chân đèo, đốc thúc quân xung kích có tới non trăm.
            - Trại Võ Liễu Nương!
            - Chà! Hậu nữ dâm tặc sao lại lần tới vùng biên thùy này làm chi?
            Phía chân đèo, cả ba toán quân đang tiến đánh chực dồn cả về một phía, để hở một quãng khá rộng. Thoòng Mềnh cười nhạt:
            - Nữ tặc định lừa quân trên đèo thoát xuống bắt cho dễ. Nhưng khi nào thằng Phần lại mắc lừa! Đưa cung tên đây!
            Quả nhiên, trên đèo, viên đầu lĩnh Phần của Thoòng Mềnh vẫn nhất định cứ hiểm không chịu thoát xuống, có lẽ hắn đã thừa biết quỷ kế địch và không quên chủ tướng còn đánh trận quanh vùng, sớm muộn sẽ tới cứu. Thoòng Mềnh vừa đặt mũi tên lửa vào dây cung, chợt Đại Sơn Vương trỏ tay về phía tả đèo:
            - A! Thoòng tướng! Cánh rừng rậm kia hình như còn có cánh quân nào nữa thì phải!
            Thoòng ngưng bắn, quay ống nhòm nhìn, chau mày, lẩm bẩm:
            - Suốt một dãy rừng xanh di động! Hình như quân ngụy trang rồi! Không Đốc Bàn Vân Nam, thì quân bọn bảo hộ thôi!
            - Tướng quân hãy lấy một nửa quân phá trận nữ tặc nhanh mới kịp!
            - Một phần tư đủ rồi. Binh thần tốc, đông sẽ bất lợi!
            Miệng nói, tay khoa ngọn súng, Đại Sơn Vương bay ngựa dọc hàng quân Thoòng, tách một đội quân tình nguyện, phóng thẳng đến phía sau trận Liễu Nương, xuất kỳ bất ý, ào đánh nhanh như chớp. Bị tập hậu, địch quân giật mình, phải quay mũi súng chống cự vội vàng, không dám xông lên đèo nữa. Đại Sơn Vương chia binh mấy ngản đánh nhầu, lùa địch quân về phía tả và tập trung đánh dồn lại phía sườn. Quân Liễu Nương cả loạn rất mau, thi nhau rút xuống chân núi, tìm ngựa. Nhưng Đại Sơn Vương đã thừa kinh nghiệm, liền bay ngựa Hắc Phong, hô quân mình bắn súng đuổi ngựa địch chạy tán loạn. Thấy quân Liễu đã dồn về một phía, cháng tướng núi lập tực thúc ngựa lên đèo, tới lưng chừng đã thấy đầu lĩnh Phần dẫn quân hộ tống cáng Voòng Chí Plan.
            Cáng Chí Plan buộc giữa hai con ngựa song hành, trên phủ mảnh chăn đơn. Đại Sơn Vương cúi lật mảnh chăn, thấy cô gái vẫn nhắm mắt, nằm bằn bặt, cả lo, quay bảo viên đầu lĩnh:
            - Chú khá đi liền bên cáng, cho đánh ngựa thật êm, chớ để động vết thương nguy hiểm! Đã có ta mở đường!
            Đại Sơn Vương xông ngựa trước mở đường xuống gần chân đèo, thình lình nghe phía tả có tiếng súng nổi lên, biết cánh quân địch phía đó đã xung trận với Thoòng Mềnh, tình thế đã ngặt, liền phóng thật nhanh xuống hô quân đánh gấp, vừa đánh, chàng vừa đảo mắt quan sát khắp nơi, chú ý tìm Trại Võ Hậu trong đám giặc. Đang tìm, chợt tướng lạc thảo ngoái trông lại, thấy bóng Liễu Nương phóng tới, ngược lưng lại đầu ngựa, nã liền mấy phát đạn. Nữ tặc vùng ôm lấy vai, vừa dụi xuống bờm ngựa thì phát đạn thứ hai bay tới, sớt phăng luôn mảnh khăn bịt đầu. Đại Sơn Vương nã luôn một phát nữa trúng đầu ngựa, cả người, vật nhào luôn. Chàng xông lên, định bắt sống nữ tặc, nhưng thủ hạ nữ tặc đã liều mạng ùa lên bắn bừa cứu chủ. Thấy chỗ đó trống trơn, chàng phải quày ngựa ẩn sau một thân cây lớn, bắn ra. Ngay lúc đó, đầu lĩnh Phần đã hộ tống cáng Voòng Chí Plan xuống tới nơi, hàng không dám ham đánh nữa, quay luôn ngựa lại, ra hiệu cho tưóng Phần cứ cáng nàng theo nẻo đầu núi sau, còn mình cùng cánh quân Thoòng đánh cầm chừng đoạn hậu.
            Đại Sơn Vương hộ tống Chí Plan đi được một quãng xa, vẫn nghe tiếng súng đì đẹt sau lưng, không rõ Thoòng Mềnh thắng bại ra sao, bèn truyền thủ hạ Thoòng cáng Chí Plan đi, còn chàng một mình một ngựa lộn lại chiến trường. Nhưng được nửa đường, đã nghe tiếng súng im hẳn, rồi thấy Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng dẫn quân phi ngựa lại, trán băng một mảnh vải, mặt mày đầy máu.
            - Chúng chạy cả rồi! Binh thằng Đốc Bàn Xường. Hình như nó mượn cả toán quân lạ nào nữa! Cáng cô nương đã đi xa chưa, tướng quân?
            - Bệnh trạng Nữ Chúa thế nào? Tướng quân...
            Đại Sơn Vương kéo Thoòng ra xa, giọng lo lắng:
            - Đáng ngại lắm! Phải kiếm nơi để cô nương tĩnh dưỡng mới được.
            - Xin thỉnh tướng quân đưa Nữ Chúa về sơn trại Thoòng! Quanh đây có bản dân nhiều nhưng toàn lọt vào vùng địch quân, e bất tiện.
            Đại Sơn Vương nhìn về phía Chí Plan, tần ngần.
            - Có xa không?
            - Đi chậm cũng chỉ mất ba giờ ngựa là cùng! Xin tướng quân cho Thoòng được hầu tiếp tướng quân cùng Nữ Chúa, Thoòng mới an dạ.
            Cả bọn lại băng ngàn vượt suối, đi sâu vào miền hoang dã. Đến nơi, đã thấy quân Thoòng dàn hàng nghênh đón. Đại Sơn Vương nổ súng đáp lễ xong, vội cho cáng Voòng Chí Plan vào phòng riêng, ngay căn dành tiếp thượng khách, Thoòng đã sai thủ hạ dọn gian bên làm chỗ nghỉ cho Đại Sơn Vương cùng một dãy phòng riêng. Thoòng lại sai hai cô gái thỏ thay phiên hầu hạ Chí lan. Nhưng qua một đêm tĩnh thương, vết thương tuy đã cầm máu nhưng nàng lại lên cơn sốt nặng mê tỉnh, chập chờn không ăn không uống. Thoòng Mềnh phải sai người đi khá xa đón thầy Tàu về tận sơn trại chữa chạy, nhưng vẫn không thuyên giảm. Chờ hết một ngày một đêm nữa vẫn thấy Chí Plan mê man, Đại Sơn Vương lòng như lửa đốt, liền cho mời Thoòng Mềnh tới:
            - Bệnh tình Voòng cô nương cần có thầy hay, đủ đồ nghề mới khỏi nguy. Ta muốn về thị trấn Cao Bằng tìm bác sĩ.
            - Tướng quân khỏi lo điều đó. Nhưng...
            - Nội ngày nay, ta sẽ trở về! Cần nhất là để cô nương tịnh dưỡng...
            Dặn xong, chàng tướng lạc thảo cưỡi Hắc Phong Câu hạ sơn, theo lối tắt, bay thẳng về miền biên giới Việt - Tàu. Quả nhiên, quá trưa đã về cùng một người bác sĩ già, cả hai quần áo đầy cát bụi. Nhưng Đại Sơn Vương ngạc nhiên thấy ngay vẻ nhộn nhịp khác thường bao phủ khắp sơn trại. Hỏi đầu lĩnh Phần, hắn chỉ lễ phép cho biết chỉ là cuộc bố phòng đặc biệt một chút vì có thượng khách ở sơn trại. Chàng lặng thinh đưa viên bác sĩ vào phòng Chí Plan và nghiêm mặt bảo:
            - Nàng bị thương nơi ngực, quanh miền này không có thầy thuốc hay, miễn cưỡng phải qua biên giới "mời" bác sĩ, xin ông miễn trách cho.
            Viên thầy thuốc già nhún vai, cười:
            - Không sao! Từ ngày tôi về Cao Bằng, đây là lần thứ ba, tôi phải vượt biên thùy không giấy không hành! Chính tôi định cám ơn ông đã cho tôi một ngày hồi hộp.
            Vừa nói, người thầy thuốc vừa cúi xuống, lật tấm chăn lên, ngó qua bệnh nhân, chợt ngẩng lên hỏi:
            - Phụ nữ sao? Trông quen mặt quá, hình như...
            Thầy thuốc già gõ gõ ngón tay vào trán, nheo mày cố nhớ:
            - Hình như... đã gặp ở đâu? Biên giới? Hoàng Su Phì! Chà! Phải rồi!
            - Cháu gái Vua H mông Voòng Chí Sinh!
            - Trời! Trách nào được? Tôi đã có dịp chữa bệnh cho nhà họ Voòng.
            Tiêm thuốc, rửa sạch vết thương, băng bó xong, Chí Plan có bề tỉnh táo, hình như nhận được mặt quen chớp mắt muốn gượng chào hỏi. Người thầy thuốc dịu dàng:
            - Nữ chúa Su Phì cứ nằm yên. Chớ bao giờ cử động mạnh mới chóng lành được.
            Đại Sơn Vương ngẫm nghĩ mấy giây, hỏi:
            - Nếu ông có thể lưu lại hai ba hôm, chúng tôi mới yên dạ
            Thầy thuốc già gật gật đầu:
            - Tôi rất mến Nữ Chúa Voòng, nhưng còn nhiều bệnh nhân ở Cao Bằng. Nếu có thể được, tôi để lại thuốc men, cứ thế điều trị được rồi.
            Đại Sơn Vương đưa thầy thuốc ra nhà ngoài, thấy đám thủ hạ Thoòng chạy ngược xuôi, quát gọi líu lo, ngó xuống chân núi, thấy bóng Thoòng Mềnh đi trước, theo sau cả trăm thủ hạ dao súng tua tủa, vó câu rầm rập, trông đầy vẻ hạ sơn tác chiến. Đại Sơn Vương gọi đầu lĩnh Phần đưa thầy thuốc đến trại thương binh chữa cho đám thủ hạ Thoòng và lưu lại nghỉ đêm, sớm mai tặng ngựa tốt, cho thủ hạ Thoòng dẫn về Cao Bằng. Thầy thuốc xuống núi một lát, Thoòng Mềnh dẫn binh về quần áo tơi tả, máu me đầy người, ngót hai mươi thủ hạ bị thương, năm sáu xác thù trên lưng ngựa. Hỏi, Thoòng chỉ cho biết đánh trận ngòai ba mươi dặm vẻ nhưng bị hụt “Món hàng “! Xong Thoòng thay áo xường xám lên vấn an Chí Plan trò chuyện giây lát và cáo lui về phòng riêng luôn.
            Đại Sơn Vương lặng lẽ theo sau tiến đến cửa vờ hỏi quân canh:
            - Chủ tướng đã ngủ chưa?
            - Bẩm còn thức. Nhưng chủ tướng tôi vừa ra ngoài kia..
            Miệng nói, tay trỏ về phía chếch hồi nhà chỗ lùm cây rậm. Đại Sơn Vương lững thững bước ra, ung dung như người vừa ngoạn cảnh đêm. Chợt chàng thấy ánh lửa le lói trong bụi, tiến sâu vào, ngửi rõ mùi hương trầm thoang thoảng trong hơi gió lẫn cả hương hoa nở đêm. Đưa mắt ngó quanh, thấy một túp lều nhỏ trông như miếu sơn thần. Chàng liền nhẹ bước, vạch lá tiến lại. Và 1 cảnh tượng lạ lùng ghê rợn, đập mạnh vào nhãn quang, khiến viên tướng núi đứng phắt lại, xúc động khôn cùng. Trên bệ thờ, khói hương mờ tỏa, ánh nến chập chờn hắt từng vùng ánh sáng hư ảo khắp lòng miếu, rải loang trên một chiếc giá sơn son thiếp vàng có ghép hình 1 cặp vợ chồng Tàu và ba đứa con. Giữa vùng ánh sáng nến, khói hương, hình bóng tướng thổ phỉ quỳ trước bệ mờ mờ như 1 hình tượng nổi, câm nín
            Và ngay trên bệ, xế trước mặt Thoòng, hai hình thù đàn bà khỏa thân bị trói quỳ chặt bên hai cái cột hương, đầu tóc tả tơi, nét kinh sợ khắc rõ trên khuôn mặt đẹp não nề, hỏang hốt. Đầu hai người đàn bà hơi gục xuống, thỉnh thoảng ngẩn lên, nhìn trộm tướng thổ phỉ rồi lại liếc nhìn chiếc roi da đặt bên tướng lục lâm, sợ sệt quay mặt đi. Chợt Pạc Hoọac Đại Vương Thoòng đứng vụt lên chụp luôn lấy ngọn roi da. lừ lừ tiến lại trứơc hai người đàn bà vùng giơ cao ngọn roi da. Hai ngừơi đàn bà rú lên cựa quậy, như rướn hẳn mình lên, vì kinh khiếp.
            - Trăm lạy Đại Vương…
            - Đại Vương đóai thương… Chúng tôi chân yếu tay mềm , làm chi nên tội …
            Lời van thê thảm khiến ngọn roi da ngừng trên cao khá lâu, Thoòng buông roi da, quơ ngọn nến, tiến sát lại trước cặp đàn bà, chòng chọc nhìn, đặt ngọn nến về chỗ cũ và từ từ quỳ trước bệ, ngước mắt trừng nhìn lên tấm ảnh trên giá mờ khói sương. Chợt Thoòng Mềnh vùng ôm mặt khóc, nghẹn ngào như 1 đứa trẻ thơ:
            - Có khôn thiêng phù hộ trả được mối cừu nhà Thoàng. Xin cho tay súng nhanh như ánh chớp, linh nghiệm hơn quân thù.
            Viên tướng xạ phang gục mặt, hai vai rung lên, tâm hồn sắt đá như không còn nữa. Thoòng chìm sâu trong xúc động khôn cùng hình như thường ngày cố nén đã nhiều. Đại Sơn Vương đứng sau lưng tướng xạ phang, bỗng dưng ngậm ngùi, khẽ gọi:
            - Thoòng Mềnh!
            Tứơng xạ phang giật mình quay phắt lại
            - Thoòng bỏ lỗi cho ta, tình cờ đã tới. Phải đêm Thoòng đã tiến quân báo thù nhà nhưng địch thủ lợi hại năm bảy lần xung trận không xong?
            Rất lâu, cặp mắt tướng Xạ Phang nhìn Đại Sơn Vương chòng chọc, chợt Thoòng thở dài, im lặng quay lên nhìn bàn thờ, mãi mới lẩm bẩm:
            - Kẻ đại thù đã giết cả nhà Thoòng.Nó trước làm bộ tướng cho Tướng Tôn Nhân, theo tướng quân phiệt làm nhiều điều tàn nhẫn. Coi nó như bạn vong niên mở lời khuyên can, cha Thoòng lúc đó làm Đốc Bàn, nhân tiệc đông, nó thách đấu sung. Nó bắn giỏi nhất miền Hoa Bắc, Hoa Trung, cha tôi võ giỏi hơn nó nhưng bắn thua. Nó bắn què hai tay, bắn từng bộ phận, cho đến chết, trước bàn tiệc. Rồi nhân đêm, nó kéo quân giả làm thổ phỉ, đến nhà Thoòng bắn chết anh Thoòng, bắt mẹ Thoòng , em gái Thoòng hãm hiếp. Được hung tin, ThoÒng vội ở xa về thì mẹ, em vừa tự tử, để lại phong thư. Đang ma chay thằng giặc đó lại kéo tới thình lình, Thoòng phục sau quan tài, thấy nó bắn vào quan tài, Thoòng sợ nát thây mẹ, chạy ra, bị nó bắn trúng mặt, đem về hành hạ hai hôm liền, sắp giết, may đươợ c người lập mưu cứu thoát. Từ đó, Thoòng phiêu bạt phương xa, luyện nghề võ, đi làm giặc cỏ chờ dịp báo thù. Thoònng đã có đêm một trình lần tận sào huyệt nó.
            Nó bắn súng nhanh như cắt, sức Thoòng mới hạ nổi thằng em nó thôi!
            Đại Sơn Vương đăm đăm nhìn Thoòng Mềnh và tiến lại,
            đặt nhẹ tay lên vai viên tướng thổ phỉ Tàu, dịu dàng:
            - Mai Thoòng khá hạ chiến thư, thách thằng Trụ Vương đấu súng, cho vợ con nó về. Trong chiến thư, nói rõ thù nhà,, chỉ muốn thanh toán tay đôi với nó, vì không muốn quân gia đôi bên chết oan vì thù riêng chủ tướng. Và nếu Thoòng bại tử, sẽ cho không nó cả dãy núi Mã Đầu. Đồng thời, cho bắn tin lên sơn trại nó, để quân gia nó biết.
            Thoòng Mềnh ngạc nhiên, khẽ hỏi:
            - Nhưng nó là một tay súng vô địch Miền Hoa Bắc, Thoòng này tự lượng sức...
            Đại Sơn Vương mỉm cười gật đầu:
            - Chính vì thế nó sẽ vui thích nhận lời thách chiến và Thoòng sẽ tự tay rửa được hận cừu, lại lời thêm hai dãy núi lớn cùng sĩ tốt chúng nó nữa! Ta đã có kế giúp Thoòng rồi.
            Dứt lời, để mặc Pạc Hoọc Đại Vương đứng lại tần ngần ngơ ngác viên tướng Thập Vạn Đại Sơn bước luôn ra ngoài, về thẳng phòng riêng. Đại Sơn Vương thấy Chí Plan tỉnh nhiều, cả mừng, an ủi:
            - Cô nương cứ an lòng nằm nghỉ. Mười lăm ngày cũng chẳng bao lâu.
            Chí Plan đăm đăm suy nghĩ:
            - Phải về Su Phì ngay mới được. Em có học được môn thuốc lá gia truyền đắp thương tích rất mau lành, mà rừng đây cũng có.
            Đại Sơn Vương nhíu chân mày:
            - Phải... thứ thuốc đắp cho ngựa, một đêm có thể ăn da
            non không? Nhưng vết thương nơi hiểm huyệt, cô nương chịu sao nổi sức nóng gớm ghê? Thôi ! Cô nương cứ bình tâm, việc gì cũng hoãn lại.
            Chí Plan lắc đầu:
            - Không! Thứ thuốc dấu toàn bằng rễ cây rừng. Đắp mát
            da mà!
            Giữa lúc đó, Thoòng Mềnh mặc áo xường xám bước vào, tay cầm một bao thơ. Tướng Thoòng cúì chào Chí Plan vấn an xong, cùng Đại Sơn Vương ra ngoài.
            - Y lời tướng quân, Thoòng này đã viết chiến thơ đây! Và
            vợ con Trụ Vương đang chờ tại sảnh đường.
            Đại Sơn Vương bảo Thoòng:
            - Giờ sai quân đi bắn chiến thư, trước khi vợ con nó về đến nơi! Và Thoòng cũng cho luôn người thân tín cáng Voòng cô nương xuống rừng dưới hái thuốc trị vết thương xem sao!
            Trưa hôm sau, quả nhiên như lời Đại Sơn Vương dự tính, anh em Kiệt Trụ sai thủ hạ đưa thơ tới nhận lời thách chiến, thêm khoản đấu cung tên trên ngựa với Trụ, và đánh mã tấu, khiên với Kiệt trước khi đấu súng. Xem thơ, mặt Thoòng thoáng vẻ lo âu.
            - Hai thằng giặc xảo quyệt khôn lường. Chúng biết
            Thoòng không thạo nghề bắn cung đánh khiên, lại muốn quần thảo cho tay dại cứng đi, cho nó dễ hạ độc thủ mà! Năm ngày nữa! Đủ thì giờ để chúng viện thêm quân tức khắc! Tướng quân nghĩ sao?
            - Năm hôm, với kẻ tài nghệ như Thoòng cũng đủ để luyện thêm những bí thuật chân truyền. Cứ viết thơ đáp nhận. Ta sẽ truyền cho Thoòng phép tác xạ đánh khiên!
            Ngay chiều đó, hai người bí rnật xuống rừng dưới, Đại Sơn Vương đem tài thuật truyền luyện cho Thoòng Mềnh Thoòng Mềnh cúi đầu thọ giáo. Suối ba ngày liền rèn tập, đêm tham thiền nhập định. Đại Sơn Vương khổ công dạy bí thuật cho Thoòng, sang ngày thứ tư, dạy thêm thuật bắn cung, đánh khiên lăn cuồn cuộn như con giải xanh trên mặt nước. Buổi tối, về sơn trại, chàng không khỏi ngạc nhiên thấy Voòng Chí Plan đang đi tản bộ ngoài hiên, dáng uyển chuyển như trước.
            Chàng tướng núi cả mừng:
            - Không ngờ thuốc thần diệu đến thế! Nhưng cô nương vẫn phảỉ tĩnh dưỡng như thường.
            Chí Lan nghiêm mặt:
            - Thì giờ gấp lắm phải từ biệt Mã Đầu Sơn, về Hoàng Su Phì ngay mới đượcl Em đã đi ngựa được rồi.
            Đại Sơn Vương thở dài:
            - Ít nhất phải hai ba ngày nữa, còn cái ơn cứu tử của Thoòng Mềnh phải trả trước khi lên đường.
            Nói xong chàng lui ra ngay. Hai hôm sau Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng nhóm hết chúng đầu lĩnh, lâu la làm lễ tế cha mẹ anh em oan thác. Viên tướng thổ phỉ phục trước di ảnh ngườì thân, khóc rất thảm thiết, đọan thay quần áo trận, kéo quân xuống núi khỏi sơn trại hơn năm dặm, đã thấy thám mã về phi báo anh em Kiệt, Trụ cũng đang tiến binh đến đấu trường và suốt một vùng biên giới không có một cánh quân lạ nào. Quân Thoòng cũng chia ra hai cánh, xuống thung lũng dàn hàng đối diện địch quân. Quân đội bèn reo hò ầm ỉ, múa súng như điên. Vừa trông thấy mặt cừu nhân, lông mày Pạc Hoọc Đại Vương đã dựng ngược, mắt trợn trừng như muốn nhảy xuống nuốt tươi. Đại Sơn Vương vội giơ tay cản lại:
            - Thoòng! Buồn vui yêu ghét làm run tay súng, xúc động thình lình làm tê dại ngũ quan, sức phản ứng nhanh mười còn một. Hãy đứng lại cho lòng thôi huyên náo! Dồn thất tình xuống đáy tim đen! Thoòng hãy coi anh em Kiệt, Trụ, từ lúc thấy Thoòng xuất hiện, cả người lẫn ngựa nó đứng im. Hai ngựa đứng kề nhau, rất nhanh vẻ lạnh lùng của viên tướng Việt như truyền sang mặt tướng Tàu. Bên kia đỉnh đồi, bọn Trụ Vương vẫn đứng không nhúc nhích. Đôi bên địch tướng đều biến thành hình đá tạc trơ trơ.
            Đại Sơn Vương trầm giọng:
            - Chúng nó chờ Thoòng đó. Đã tới lúc rửa thù.
            Thoòng Mềnh rút phắt lá cờ hiệu cắm bên yên, phất luôn
            mấy cái. Bên kia, Trụ Vương cũng lập tức phất cờ. Pạc Hoọc Đại Vương xuống đồi vượt giữa hàng quân, tiến ra đấu trường, dừng cách đầu ngựa Trụ Vuơng non trăm thước, Thoòng Mềnh trỏ cừu nhân, quát lớn:
            - Ta với mày thù nhà chẳng đội trời chung, muốn chết tốt, thách máy dám đấu chiến cùng tao.
            Lâu Trụ vuốt râu cười ngất:
            - Khá lắm! Tao cũng muốn tìm họ Thoòng nhổ hết rễ cho dứt hậu họa. Tao đã mời Tắc Sềnh tu quang Ngưu Đầu Sơn làm giám trận, còn mày?
            Lời chưa dứt, viên thổ quan kiêm tướng giặc núi “Đầu Trâu” đã vọt ngựa lên, nghênh ngang, đảo mắt lượn ngó sang phía quân Thoòng. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn cười, cất tiếng sang sảng như chuông đồng?
            - Ta nhận giám trận cho họ Thoòng!
            Rồi Đại Sơn Vương đã lạnh lùng quay ngựa đứng đối đầu Tắc Sềnh.
            - Cuộc chiến bắt đầu! Đúng theo thứ tự thách, đôí bên hãy chuẩn bị xạ tiễn! Muốn bắn mấy phát tùy ý! Cấm dùng tên tẩm thuốc. Kẻ nào thua muốn toàn mạng cứ nhảy xuống hông ngựa!
            Thoòng Mềnh, Lâu Trụ lẳng lặng tiến ngựa lên đối đầu nhau. Đại Sơn Vương phất mạnh cánh tay. Hai con ngựa lập tức ngoắt đầu chạy vào chỗ cũ.
            - Bắn
            Tiếng hô vừa bật, Trụ Vương đã xoay phắt lưng lại, buông luôn một mũi tên nhanh đến nỗi ba quân vừa trông thấy Trụ ngoắt mình, tên đã bay sát Pạc Hoọc Đại Vương. Nhưng Đại Vương Thoòng chỉ lắc mình nhẹ một cái tên đã bay qua khe nách, ngựa vẫn phóng đều đều, không quay lại. Trụ Vương bật luôn phát thứ hai, lần này Trụ hắn thấp hẳn đường tên, rà trên lưng ngựa. Nhưng lần thứ hai ngựa Thoòng đã thình lình rẽ ngang, tránh phát tên xẹt bên đuôi ngựa. Trụ Vương thấy trượt luôn hai phát, lập lức giương cung định bắn luôn phát thứ ba nhưng Thoòng dã quay ngựa, mắng lớn:
            - Thằng Trụ! Tao cho mày bắn hai phát trước, giờ hãy coi tay cung tao!
            Vó ngựa bay theo tiếng quát, lao thẳng đến phía Trụ Vương. Không chậm trể, Trụ gò cương, bắn liền. Mũi tên lướt bên cổ Thoòng. Pạc Hoọc Đại Vương dã tung chân quỳ trên yên ngựa, bật luôn đường nỏ liên châu. Dây cung vừa bật, tay đả giương liền, nhanh như máy khiến Trụ Vương tối tăm mặt mũi, tránh tên lia lịa. Nhưng Thoòng Mềnh chỉ bắn hai phát lại bật dây không, Trụ cứ thấy dây bật là né tránh ba quân cười rộ lên, và Thoòng Mềnh nói lớn:
            - Lâu Trụ tao cho mày xem nghề bắn liên châu rồi giờ gửi mày phát tên báo oán!
            Tiếng quát bay lên, ngựa Thoòng chỉ còn cách Lâu Trụ chừng vài chục bộ Trụ Vương vừa giận vừa thẹn, cũng thúc ngựa chồm lên, Thoòng vẫn không động thủ. Cách đầu ngựa chừng mười thước, Trụ toan bật dây cung thì tên Thoòng đã vụt ra như chớp. Phựt, dây cung Trụ đứt liền, mũi tên cắm phập vào cánh cung, Trụ cả kinh, khoa cung lia lịa, xếp mộng ngồi xuống, chân thúc mạnh vào hông ngựa. Nhưng lạ thay Thoòng vẫn không bắn ngay. Hai con ngựa đối đầu nhau, và lướt bên hông nhau, giữa tiếng quân hò vang dậy. Cả đấu trường còn đang ngạc nhiên thì thình lình, giữa lúc ngựa phi nhanh Thoòng Mềnh đã tung chân kẹp lấy cổ ngựa, ngửa lưng trên yên và bắn ngược lại một phát tên chớp nhoáng.
            - Coi đây!
            Nghe tiếng quát, Trụ Vương vội hụp đầu xuống tránh. Phập! Mũi tên cắm trúng bả vai trái. Trụ đeo tên, chạy thẳng về phía trận Thoòng. Thoòng Mềnh ngồi ngay lại, quày tay định bắn thêm phát nữa thì Trụ Vương đã nhào xuống hông ngựa. Lập tức, Đại Sơn Vương thúc ngựa ra giữa trận phất lá cờ ngưng đấu.
            Ngay lúc đó, Lâu Kiệt đă xốc ngựa lên, thét lớn:
            - Thoòng Mềnh! Mi đã thắng cung, cứ giỏi cùng ta đánh khiên mâu!
            Pạc Hoọc Đại Vương chẳng nói nửa lời, lộn ngựa ra giữa trận. Đại Sơn Vương tiến ngựa đến bên Thoòng nói nhỏ:
            - Anh em thằng Trụ đều mặc giáp ngầm! Lâm chiến, chớ quên huyệt nách, hạ bộ và mặt chúng. Nếu ta không lầm đầu nó cũng đội mũ sắt sau lần khăn bịt đó! Triệt luôn thằng em cho rảnh!
            Đoạn chàng quay ngựa sang bên, ném lá cờ gìám trận cho Tắc Sềnh. Sềnh lập tức ra hiệu cho Lâu Kiệt, Thoòng Mềnh chụm đầu ngựa lại.
            - Ai muốn ngưng thì giơ cả hai tay lên khỏi đầu! Giờ xoay ngựa! Chiến!
            Dứt tiếng hô, cả hai vẫn gò cương, bất động. Thoòng Mềnh đã cao lớn vạm vỡ, Lâu Kiệt khổ người lại lớn hơn, lưng như cánh phản gân cuộn như thừng chảo, khiên thép làm mũ rộng vành đội đầu. Mặt mày hung dữ không khác Trụ Vương. Mười khắc nặng nề qua. Thoòng chầm chậm, xốc lại khiên máy, tay quay nhè nhẹ thanh mã tấu, chân thúc khẽ vào hông ngựa. Lâu Kiệt cũng lật mũ, xốc quai, tiến ngựa. Cách nhau chừng sáu, bảy thước, tám vó câu nhất tề cuộn đất, chồm tới. Ngựa Thoòng lướt bên tay mã tấu Kiệt Vương theo đà xốc tới, ánh thép trên tay Thoòng lia mạnh ngang đầu địch. Choang! Khiên thép đã xòe ra, mã tấu quật vào tóe lửa, tiếp liền, mã tấu Kiệt từ sau khiên bay ra như ánh chớp. ngựa Thoòng đã vọt đi, khiên mây trùm kín sau lưng đỡ đường thép vụt. Chỉ một đường mã tấu, đôi bên đã lượng được sức kỳ phùng.
            “Gặp địch sở trường chơi khiên, Thoòng không nên ham đánh trên lưng ngựa. Đường khiên ta truyền cho đây là đường khiên vô địch của người Việt, tổ tiên ta đã vanh khiên đánh tan kỵ binh bách chiến của người Mông Cổ xưa. Phải đánh bộ mới sử dụng được hết thế tuyệt vời của đường khiên lăn!"
            Lời dặn của Đại Sơn Vương vang Iên trong óc Thoáng, viên tướng vụt nghĩ ra một kế, bèn thúc ngựa bay lại, bất thần, vận hết khí lực, thét lên một tiếng to như sấm, tay chém xả mã tấu, chân đá bách sang bụng ngựa Kiệt Vương một ngọn cước thần tốc. Viên tướng giặc Kê Đầu vừa đỡ được đường thép trên, chưa kịp đánh trả, con ngựa đã rống lên, cất tung vó tiến. Chưa ghìm được ngựa mã tấu Thoòng đã chém xuống một nhát, chạy theo mặt khiên, trúng luôn bả vai Kiệt. Tướng núi Kê Đầu nhào luôn xuống ngựa. Rất nhanh Thoòng phóng luôn ra một ngọn cước nữa, khiến con vật chồm luôn về trước, Kiệt Vương ngã nhào. Chưa lấy lại thế, Thoòng đã thúc tới chém rê một nhát mã tấu nữa. Kiệt lanh mắt đã giơ khiên đỡ được, tung chân đứng dậy phạt vào chân ngựa sau của Thoòng. Nhưng Thoòng đã nhảy luôn xuống đất, lúc dó mới biết chắc địch thủ đã mặc giáp dày nếu không, bị xả làm đôi rồi. Sĩ tốt nín thở, Kiệt Vương nghiến răng, tiến đến, Pạc Hoọc Đại Vương chỉ chờ có thế, cưòi nhạt:
            - Thằng Kiệt! Mày tới số rồi! Coi đây.
            Miệng nói, chân nhảy vụt lại, chém lia lịa, và thình lình Thoòng gieo mình xuống mặt cỏ, gĩưa lúc mã tấu Kiệt chém nhầu.
            - Thằng Thoòng thua đến nơi rồi!
            Tắc Sềnh vừa bật lên, Đại Sơn Vương đã nhếch miệng cười lạnh như băng:
            - Không! Chúng mày mau sắp sẵn chậu đồng mà đựng đầu thằng Kiệt!
            Trên mặt cỏ, Thoòng Mềnh vừa gieo xuống đã nhanh như con giải, quấn lấy quanh mình địch thủ. Kiệt chỉ thấy loang loáng hình thù Thoòng thoáng ẩn thóang hiện sau vành khiên mây, tướng Kê Đầu chém đã nhanh nhưng chỉ vào khiên bồm bộp, mã tấu chưa kịp thu về, thép địch đã tia ra, vừa nhảy đỡ, khiên Thoòng đã xoay chỗ khác, khiến Kiệt đảo người liên miên. Bên ngoài tướng sĩ còn đang thích chí vì lối đánh khiên nhào lộn lạ mắt của họ Thoòng, bất thình lình nghe giữa trận có tiếng thét ghê hồn, toàn thể ngó ra vừa kịp thấy đôi bên địch
            thủ như chấn dưới đất, hai cái khiên ưp chụp lấy hai thân hình bất động. Và một vật tròn tròn, đen đen từ chỗ hai người bay vụt ra, lăn lốc trên mặt cỏ, loang loáng như chiếc bình vôi tới bên chân ngựa Tắc Sềnh. Tướng sĩ đôi bên còn chưa nhậ rõ được vật chi thì con ngựa Sềnh vùng hí mạnh, hoảng chồm, vô tình đá tung vật tròn ra mấy thước nữa. Định thần nhìn lại, thì ra một chiếc đầu lâu. Đầu lâu Kiệt Vương núi Kê Đầu còn nóng hổi, máu phun lênh láng, mắt còn trợn trừng trắng dã răng nhởn nhc ra. như còn muốn đem oai thừa dọa hàng tướng sĩ.
            - Cái đầu Kiệt Vương! Cái đầu...
            Tiếng rú ghê khiếp nổi lên khắp chỗ, Trụ Vương mặt cắt không còn hạt máu, ngơ ngác ngó đầu em. Tắc Sềnh mở to mắt nhìn Đại Sơn Vương, lắp bắp:
            - Không ngờ... nó chém bay đầu...
            Chàng tướng Thần Xạ lắc đầu:
            - Ta đã biết đầu nó rơi từ trước, nhưng không ngờ tay mã tấu họ Thoòng lại ngọt đến thế!
            Đám tướng tá họ Lâu nhốn nháo định xông ra chỗ Kiệt, Thoòng, chàng tướng Việt vội rút phăng cặp súng bên sườn, quát lớn:
            - Cho hai tướng ra khiêng xác Lâu Kiệt vào! Đứa nào động đậy tao bắn liền ! Bên Thoòng ra đỡ chủ tướng cho ta!
            Trụ Vương lừ lừ nhìn Đại Sơn Vương và lẳng lặng tiến đến nhặt đầu Kiệt Vương trao cho thủ hạ.
            - Thoòng Mềnh!
            - Lâu Trụ !
            Hai địch thủ nhìn nhau, nảy lưa. Vó câu thủng thỉnh bước lên. Toàn thân Pạc Hoọc Đại Vương như tê liệt hẳn đi, chỉ còn mười ngón tay ve vẩy bên báng súng. Như cái máy, Pạc Hoọc Đại Vương đánh mạnh tay vào báng súng, với tất cả sức khổ luyện chân truyền. Đoành... Đoành... Đoành... Đoành... Rõ ràng bốn ngọn súng đen ngòm chĩa thẳng vào nhau nhả bốn phát đạn. Rồi ngừng bặt. Cả đấu trường trông ra, thấy đôi bên địch thủ vẫn ngồi sững trên lưng ngựa, súng vẫn giương thẳng. Tinh mắt lắm mới thấy Trụ Vương chợt rùng mình một cái giữa lúc nhả đạn. Rồi hai ngọn súng trên tay Trụ từ từ chúc xuống rụng liền. Và mặt Trụ gan lì vụt tái như chàm đổ. Hai cánh tay bị thương của Trụ như cố với không gian. Cặp Pạc Hoọc trên tay Thoòng đã nhả liền hai phát. Phựt. Hai vành tai cừu địch đã bay vèo. Ha! Ha! Thoòng Mềnh cười như điên dại, tung cặp súng lên bắt, nhả hai phát nữa. Hai ống chân Trụ gãy phăng. Cả thân hình vạm vỡ lộn nhào xuống cỏ. Như điên, Thoòng thúc ngựa bay chếch lên, hai cánh tay vẩy liền hòi. Đạn “Pạc Hoọc” xé không gian. Trụ Vương quằn quại rồi nằm lịm. Nhìn ra, đầu tướng giặc Ô Đầu đã nát như tương. Bỗng nhiên ba bề tiếng súng vang rền, hỏa pháo vọt lên trời tới tấp. Biết quân ngoài bắt đầu đánh viện binh địch, Đại Sơn Vương thét lớn:
            - Kẻ nào thuận theo hãy đứng nguyên chỗ, đứa nào ngu dại muốn đi, tao cho tùy liệu. Quân ta dang chận đánh viện binh giặc đó!
            Nói xong, tướng Thập Vạn Đại Sơn thúc ngựa Hắc Phong bay về phía súng nổ. Vừa thấy bóng chàng, viên đầu lĩnh cả mừng ngừng tay súng:
            - Bẩm, đấu trường sao không tiếng nổ chỉ nghe mấy phát lưa thưa. Phải chăng...
            - Chủ tướng đã chém rụng đầu Kiệt Vương, bắn vỡ đầu thằng Trụ rồi! Cả trăm quân nó đã theo hàng! Đám nào dưới núi đó?
            Viên đầu lĩnh thở mạnh:
            - Bẩm, quân Đốc Bàn Xường! Chúng tôi trấn đèo này, không cho nó tiến về đấu trường, nó nhất định vượt, nên phải đánh liền.
            Quân binh họ Lâu đông gấp ba bốn lần quân Thoòng, thấy dịch xuống núi, cả mừng, vội từ mấy phía núi đổ lại định vây đánh nhầu. Nhưng, vừa đánh tới nơi, viên đầu lĩnh đã phất cờ cho cả cánh quân rút chạy. Đợi quân Thoòng đã chạy được non trăm thước, Đại Sơn Vương mới từ chỗ nấp, xông ra bắn mấy phát vào địch quân, đoạn phóng ngựa chạy bừa. Từ sau quân lính, Đốc Bàn Xường vọt ngựa lên, múa súng, hò quân đuổi riết, Đại Sơn Vương nhào luôn xuống lưng ngựa. Viên Đốc Bàn cả mừng bắn luôn phát nữa. Đứng xa chỉ thấy thân thể chàng tướng núi chợt rướn lên, rồi phục hẳn, dụi mặt xuống bờm, hai tay buông thõng bên bụng ngựa. Cả mừng, viên Đốc Bàn vọt ngựa lên, tay lia lịa phất hiệu cho quân sau. Ngựa quan Đốc Bàn dừng phắt bên Hắc Phong Câu hắn cúi mình, nắm lấy tóc Đại Sơn Vương kéo mạnh lên coi mặt, miệng cười đắc chí:
            - Thầy a! Thằng nào đây mà yếu tướng thế?
            Đầu vừa kéo lên, tự nhiên cặp mắt tử tướng mở trừng, viên Đốc Bàn giật mình đến thót một cái chưa kịp buông ra, thì bàn tay tử tướng đã quơ nắm ghì lấy cổ tay Đốc Bàn đồng thời toàn thân tử tướng vùng bật dậy như chiếc lò xo, miệng cất tiếng cười khanh khách:
            - Tao đây là Đại Sơn Vương chứ còn ai nữa! Phải mày là thằng Đốc Bàn đêm nào môi giới định bán sống tao cho tướng Tây không?
            Đốc Bản cả kinh, vung tay định đánh tháo, nhưng chàng tướng núi đã vươn tay ôm luôn Xường sang lưng ngựa, một ngón tay ấn ngay vào huyệt nách. Xường rú lên, vừa lúc quân của hắn phóng tới nhưng Hắc Phong Câu đã chồm vó bay vào thung lũng, mang theo cả Đốc Bàn. Rồi chàng dẫn Hắc Phong Câu xuyên rừng, chiếm một chỗ cao trông xuống. Quan binh trùng trùng kéo tới thế mạnh như vũ bão.
            - Chà! Tràn qua biên giới, chẳng lẽ, chỉ để đánh trận với thổ phỉ. Từ khi ta về nước, lão tướng Roux, Gilbert không ngớt săn tìm. Chẳng lẽ hắn cũng đeo đuổi vặt kia?... Nếu vậy...
            Đại Sơn Vương bay ngựa tới chỗ Thoòng Mềnh, thấp giọng:
            - Quân tướng Roux mượn đất Đốc Bàn đang tới bao vây, đông lắm. Mã Đầu Sơn bị giặt lén tấn công! Phải rút về Cửu Sơn trại mau!
            Hai người liền phân binh làm ba, vừa bắn vừa vọt lên đồi trông xuống quan binh đã kéo tới chân núi. Đại Sơn Vương trỏ súng xuống hô lớn:
            - Quân Mã Đầu Sơn. Đánh thốc xuốngcho nhanh! Đã tới lúc dùng khiên rồi đó!
            Miệng quát, chân thúc ngựa Hắc Phong, tay trái xòe khiên, tay phải vãi đạn, tướng Thần Xạ bay trước đầu binh, theo sau quân gia lớp xòe khiên, phóng xuống thế như gió cuốn. Chớp mắt đầu ngựa đã đụng quân binh. Lập tức, Đại Sơn Vương dẫn quân lướt thẳng vào, khoa gươm chém xả địch quân. Không ngờ bị lâm cận chiến chớp nhoáng quân binh chưa bắn được bao phát đã thấy địch quân lèn thốc vào biến trận thế thành sôi động, bắn đã không tiện lại lố nhố lẫn lộn e bắn lầm cả đám.
            Chưa xoay trở lắp kịp lưới lê, mã tấu, gươm đao đã bay tới như gió, quân Thoòng nương khiên chắn đà ngựa, chém nhầu, rẽ hẳn quan binh, trong giây khắc đã vọt qua xoay khiêng ra sau ngựa, giắt dao, quay súng bắt vãi bừa. Đại Sơn vương ra khỏi vùng đấu trường rút được chừng hai dặ,. chợt thấy phía trước một đám thổ phỉ chạy tới, vừa chạy vừa bắn lại phía sau. Xốc ngựa tới gần mới biết quân Tắc Sềnh, Liễu Nương bị quân nào đuổi riết. Thoáng thấy bóng Đại Sơn Vương, Tắc, Liễu hoảng kinh chạy rẽ ngang luôn không còn Iòng cự chiến nữa. Đạì Sơn Vương cứ cho quân đi thẳng, không đầy trăm thước thấy một toán quân Thoòng phóng tới, dẫn đầu là một cô gái mặt như hoa, rạp mình lrên ngựa, tung súng bắn lên.
            - Voòng Chí Plan!
            Đại Sơn Vương giật mình, vừa bật kêu khẽ thì Nữ Chúa Hoàng Su Phì đã tế ngựa kề đầu.
            - Trại Võ Hậu đem binh đến cướp sơn trại! Em đánh đuổi nửa chừng lại gặp thổ phỉ nữa! Trời! Sao người ông đầy máu thế kia?
            Chàng tướng núi chòng chọc nhìn Chí Plan, lắc đầu liền mấy cái:
            - Việc cô nương là tĩnh dưỡng cho lành vết thương, sao đã vội xông pha, lỡ ra...
            Cô gái nhoẻn miệng cười tạ lỗi, cố chống chế:
            - Vết thương em đã lành hẳn rồi mà... Vả lại...
            Nàng ngừng nói mấy khắc, thấp giọng:
            - Thà để giặc sợ không thành kế còn hơn. Và mấy cánh quân thổ phỉ đã bị lâm chiến tại đây.
            Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn quanh điềm nhiên:
            - Không, quan binh của tướng Roux đông như kiến đang đuổi phía sau - Và nhìn Chí Plan, nghiêm giọng: - Còn cô nương phải theo về ngay nằm nghỉ, vết thương nguy hiểm, chớ coi thường!
            Và chờ cho ngựa nàng đã khuất hẳn, chàng mới hô binh tiến thẳng đường mòn, phục sẵn, đoạn đánh ngựa ra đón đầu quan binh. Chỉ thoáng cái tiền quân địch đã đuổi tới, thấy bóng ngựa trước liền thúc ngựa theo miết. Đại Sơn Vương nhử địch vào ổ phục kích đánh nhầu đến khi thấy địch vắt đuổi lên núi định đánh dập xuống chàng lại rút chạy. Bị luôn hai trận phục kích, quan binh chia thành hai ba cánh xuyên rừng không dám khinh suất đuổi theo yếu lộ nữa.
            Đại Sơn Vương đang đánh ngựa đi chợt sau lưng có tiếng vó ngựa, chàng quay phắt lại, vừa đặt tay vào báng súng đã thấy Voòng Chí Plan một mình một ngựa chạy tới.
            - Phía tiểu lộ có quân mai phục. Chúng nấp cả trên cây! Hình như khá đông thì phải
            Đại Sơn Vương hơi cau mây:
            - Cớ nương,,, bướng bỉnh làm! Sao không về nghỉ cho khỏe sức đã! Cô nương có biết đám quân nào mai phục kia không?
            Chí Plan chiếu ống nhòm, lắc đầu:
            - chúng ngụy trang kỹ lắm không nhận được hình tích!
            - Quân Cầu Mây.
            Không đợi Chí Plan ngạc nhiêh lâu, viên tướng núi thản nhiên tiếp:
            - Chính Nguyệt Tú chỉ huy. Và cho phục cả trên cây là để chụp bắt Hồng Lĩnh
            - Kìa! Ông nói sao! Nguyệt Tú mà lại... mưu bắt ông? Đâu có lẽ? Chắc...
            Đại Sơn Vương mỉm cười, trỏ tay về phía núi sau.
            - Quan binh đã tới! Chà! Chúng tiến làm mấy ngả qua hiểm địa! Càng tốt! Ta vòng ra sau trận thì vừa!
            Hai người xuống gò,. dẫn quân xuyên rừng, đến sát sau đám quân phục, buộc ngựa chỗ khuất, ngay dưới gốc cây và leo lên nấp trên ngọn cây, mỏm đá, trông xuống yếu lộ. Cách hậu quân Cầu Mây không đầy một trăm thước. Vừa xong thì đội xích hầu quan binh đã lướt tới. Viên tướng Thần xạ rút phắt cây súng dài, rẽ xuống yếu lộ, khai hỏa. Quân Thoòng lập tức nhất loạt bán ào. Quan binh giạt cả vào vách đá, chong súng bắn lên. Phía trước, quân phục cũng bắt đầu bắn xuống. Sau lưng có tiếng vó ngựa khua giòn. Đại Sơn Vương rút một hồi còi ám
            hiệu, và quay nhìnVoòng Chí Plan, buông gọn:
            - Trận đã mở màn, gọng kìm quan binh đang kẹp lại. Ta về thôi !
            Chợt có quân thủ túc của họ Thoòng chạy ngựa về dâng thư:
            Ân công nhã giám.
            Thoòng phá vây quan binh, lại gặp một cánh quân lạ đón đầu, viên tướng lạ là một người trẻ tuổi, mặt đẹp, bắn súng rất hay, tước mất đúng trên tay Thoòng, có ý bắt sống.
            May quân gia kịp đánh nhầu thoát được, thế ngặt phải rút về núi Ô Đầu tạm trú. Hiện nay, một miền biên giới, mấy địch thủ đóng khắp, tưởng ngọn Ô Đầu, Kê Đầu của Trụ Kiệt cũng là nơi ỷ dốc vẹn toàn cho Mã Đầu Sơn, Thoòng chuẩn bị một, hai hôm xong, xin về hầu ân công, có điều hệ trọng muốn thưa. Mong ân công cùng cô nương lưu lại đôi ba ngày. Thoòng này vạn phần nở ruột.
            Vạn Kính
            THOÒNG MỀNH
            Xem xong, Đại Sơn Vương trao cho Voòng Chí Plan. Cô gái suy nghĩ giây lát, đoạn đăm đăm nhìn Đại Sơn Vương:
            - Vết thương em đã lành, có thể lên ngựa được. Ơn họ Thoòng đã trả xong, tưởng ta nên về Hoàng Su Phì cho sớm. Vả chăng địch quân mấy phía kéo tới quyết chẳng rời ông. Lộ tung tích, ta phải mất nhiều công đối phó, sao bằng đấu vùi ngay đi! Chưa biết chừng nội hai mươi lăm giờ, Mã Đầu Sơn này sẽ bị vây hãm. Có mặt ta, Thoòng chỉ thêm mang họa!
            Đại Sơn Vương gật đầu, trầm ngâm:
            - Nhưng chỉ phiền Thoòng vắng mặt, vội bỏ đi, dạ chẳng dính. Vả còn điều lạ là cả quân tướng Roux, Gilbert, lẫn Nguyệt Tú, và tướng lạ mặt nào đó, vì lẽ chi, lại muốn bắt cả Thoòng? Trong thư Thoòng nói muốn gặp có điều quan hệ, tưởng hai, ba ngày nán đợi cũng không thừa!
            Hai người bàn luận, phân vân mãi đành đi tắm rửa, thay y phục đã. Gần chiều, viên phó tướng vào yết kiến Đại Sơn Vương cho biết quân tuần thám báo quân tướng Roux đã rút về biên giới còn đám quân lạ cũng vào rừng sâu mất hút. Đại Sơn Vương cười bảo:
            - Không thể tin được chúng bỏ đi dễ dàng như thế! Chắc phải có mưu định gì đây!
            Chàng tướng núi đưa mắt nhìn quanh, còn đang ngẫm nghĩ đã nghe súng nổ dồn dưới chân núi xa, hỏa pháo, tên lửa vọt trên trời. Biết quân Mã Đầu đã chạm súng với địch, chàng bèn quay về phòng riêng. Sơn trại bừng dậy, cơ nào, đội ấy kéo xuống núi tiếp viện. Chàng sang phòng Voòng Chí Plan, thấy thiếu nữ vẫn nằm yên giấc bèn quay về phòng mình, chiếu đèn quan sát kỹ, mới hay đồ vật có nhiều thứ lộn xộn như có bàn tay bí mật nào lục lọi. Điểm lại không mất thứ gì chàng liền kéo chăn, đi nghỉ, để viên phó tướng Đô Ung đốc chiến theo kế
            hoạch định sẵn.
            Sớm mai, trở dậy, đã thấy Voòng Chí Plan tự tay đang sửa soạn nước sẵn đợi chàng ngoài phòng khách. Nàng nhoẻn miệng cuờì cầm ly trà ướp hoa đưa chàng.
            - Đêm qua ông ngủ ngon quá.
            Chàng ngồi đối diện nàng mỉm cười:
            - Sao cô nương biết tôi ngủ ngon mà... cô nương định cho uống cà phê nửa sao?
            - Ông dùng tạm cà phê xong thì vừa.
            Thiếu nữ tinh nghịch nhìn chàng tiếp
            - Ông ngủ ngon vì dêm qua có kẻ vào định khiêng đi mà không biết - Nàng nghiêm mặt, dáng suy nghĩ: - Ngườí này...lạ lắm! Hình tầm thước, mặt trắng mũi cao vải bịt mặt ngang mày, và tài cao lắm! Lần trước lúc ông vắng mặt, hắn tới đang
            lục lọi, em quăng dây trói, hắn hụp tránh xong, ném lại một ngọn dao, rồi lẩn mất. Lần thứ haì, khoảng canh tư, hắn lại đột nhập phòng riêng Thoòng Mềnh lục soát chi, rồl sang phòng ông. Em định coi hắn làm gì, nhưng thấy ông ngủ mệt, sợ hắn hành thích bất ngờ, nên em phải ra mặt. Vừa chĩa súng bắn,
            hắn giơ tay, thì một bóng nhỏ nhắn chụp phía sau, mải đề phòng, hắn thoát mất! Tiếc quá!
            Chàng tướng núi cười, gật đầu:
            - Tiếc thậtt Chỉ chậm chút là bắt sống được kẻ bí mật, nếu cô nương cứ chịu khó nấp xem thêm mấy khắc nữa thôi! Vì lúc đó trên giường chỉ là cái mũ và cuộn chăn không, tôi đã đứng sẵn trong tủ áo rồi, chỉ chờ nó cúi xuống giường là nhảy ra túm cổ.
            Cả hai cùng cười. Cô gái loay hoay đỗ nước sôi vào "Phin", không thấy chàng tướng trẻ nói gì, vội ngẩng lên, thấy chàng đăm đăm ngó mình châm nước, mặt buồn mênh mông liền cầm “Phin" cà phê đặt nhẹ trước mặt chàng khẽ nói:
            - Ông nên về Hoàng Su Phì ngay, gặp thúc phụ em rồi đi tìm Phượng Kiều... cho sớm. Em sẽ theo ông đến tận chân trời góc biển tìm cho được chị ấy mới thôi! Ông Hồng Lĩnh!
            Đại Sơn Vương quay lại, cảm động ngó cô gái núi biên thùy, đoạn cúi nhìn như đếm từng giọt nước đen rỏ xuống lòng ly. Bên ngoài, sương trắng giăng mờ mờ sơn trại, bóng quân thổ phỉ chạy qua lại vội vàng. Bỗng từng hồi mõ giục dập dồn..rồi từ dưới chân núi tiếng kèn đồng trống trận bất ngờ đưa thẳng lên, từng nhịp tràn thôi thúc. Và mấy tiếng đại pháo vụt nổi lên, vang động khắp vùng đồi núi. Voòng Chí Plan bước vội ra hiên, mươi khắc sau, trở vào, mắt sáng long lanh nhìn Đại Sơn Vương. Viên tướng núi vẫn ngồi nhấm nháp từng cụm cà phê, mặt vẫn không thay đổi.
            - Địch quân tiến đánh sơn trại. Có lẽ là quan binh dùng đại pháo bắn lên tận trên này.
            Đại Sơn Vương đặt ly cà phê xuống, gật đầu:
            - Và chắc lần này chúng không dùng y phục quan binh. Có cả quân pháo thủ dự chiến, địch quân chắc đã phủ vây kín ngọn Mã Đầu Sơn và lần này tướng Roux quyết không để một con kiến thoát khỏi đây! Cô nương hãy theo tôi ra xeml
            Hai người tiến ra gặp ngay phó tướng Lý Đô Ung.
            - Địch quân kéo tới phủ vây đông lắm! Xin tướng quân cho lệnh!
            Chàng tướng núi lẳng lặng vẫy Đô Ung cùng di ra bờ núi cao chiếu viễn kính quan sát. Dưới núi, người ngựa lố nhố khắp núi, từng đại đội trấn quanh một vùng rừng rộng, mũi súng chong lên cả Mã Đầu Sơn. Chờ cho địch đến hẳn chân núi, quân Mã Đầu mới thình lình nổ súng bắn, quăng tạc đạn tới tấp nhắm đúng những bộ phận chỉ huy vãi xuống. Địch quân phải rút ra khá xa, dùng đại pháo bắn phá. Cứ thế liền mấy giờ, cho đến lúc bóng chiếu đổ xuống trận địa mới tạm ngưng. Điểm lại, quân Mã Đầu đã chết hơn trung đội, bị thương cả đại đội.
            Phó tướng Lý Đô Ung lo lắng bảo Đại Sơn Vương.
            - Địch quân vây ngặt đánh dữ, đại pháo quét nhầu, hỏa lực thập phần mạnh mẽ. Không hiểu sao, quan binh biên thuỳ cố ý vây hãm Mã Đầu Sơn, giúp bọn Đốc Bàn kia?
            Tướng núi mỉm cười:
            - Rồi có ngày, Đô Ung sẽ hiểu!
            Quân Thoòng reo hò vang dậy. Một đứa báo cáo:
            - Có đến mười con ngựa đang tiến đến chân núi, hình như muốn nói điều chi.
            Đại Sơn Vương cùng Chí Plan bước ra, quả nhiên thấy một tốp người ngựa đã dừng dưới núi, trông thẳng lên khu cột cờ. Chiếu kính viễn nhận ra bọn Liễu nương, Tắc Sềnh cùng mấy viên phó tướng Lầm, Lừng, cạnh có đại tá Gilbert với tùy viên.
            Đai Sơn Vương, Voòng Chí Plan, Lý Đô Ung, bèn cùng mấy viên đầu lĩnh Phần, Lều Lâu... tiến ngựa xuống sườn non.
            - Đại Sơn Vương! Biết điều nên nộp mình mau. Lần này có cánh cũng không hòng thoát khỏi. Chậm trễ ta sẽ huy động toàn lực phá bằng ngọn núi Mã đầu ngay!
            - Các tướng sĩ Mã Đầu! Đem nộp Đại Sơn Vương vòng vây sẽ rút ngay! Chúng ta chỉ cần bắt sống Đại Sơn Vương!
            Đô Ung:
            - Có sức đông, cứ tiến lên, có đủ thời giờ, cứ vây hãm. Ta không khi nào chịu để các mi làm ngặt, gây điều úy tử đâu!
            Cả bọn lại ngoắt ngựa lên núi, không thèm nói thêm nửa lời. Quả nhiên, từ đó đến nửa đêm, dưới núi im bặt tiếng súng. Nhưng vòng vây vẫn xiết chặt. Sớm sau, lại thấy mấy cánh quan binh tới, có cả đội sơn pháo đi theo. Chí Plan cả kinh bảo Đại Sơn Vương:
            - Không ngờ tướng Roux đã mua hết được cả bọn quan Tàu, thổ phỉ rồi! Ông đã có kế gì chưa? Có lẽ chúng sắp đánh mạnh đến nơi rồi!
            Đại Sơn Vương khẽ nói, cặp mắt sáng quắc:
            - Chí Plan! Tôi sẽ xuống núi… một mình một ngựa. Cô nương giữ bảo vật, ở lại. Tôi có mệnh hệ nào, bảo vật vẫn có thể theo cùng cô nương thoát khỏi tay cường địch!
            Cô gái họ Voòng tiến đến sát chàng tuổi trẻ, lắc đầu ngậm ngùi:
            - Em có thể nhận lời ủy thác, nhưng… không chịu để ông xuống núi một mình đâu vì...
            Chàng tướng núi bước ra, chỉ mười lăm phút đă trở lại:
            - Thoòng Mềnh cũng bị đánh cầm chân tại núi Ô Đầu! Chắc khó lòng về cứu ứng được. Phải xuống núi đêm nay, nếu không núi này sẽ bị đại pháo tàn sát hết! Không ngờ tướng Roux huy động toàn lực chỉ để săn bắt một người! Thì ra đã có sự thỏa thuận ngầm với tướng Long Vân rồi!
            Chí Plan ngồi im lặng, lát sau khẽ bảo:
            - Nếu vạn bất đắc dĩ phải liều thoát vây, em sẽ theo ông cùng... sống thác
            Chàng tướng núi cau mày, định nói gì lại thôi. Nhưng Chí Plan thông minh đã đoán ngay chàng đang thầm tính kế chi, từ phút đó nàng nhất định không rời chàng một bước. Cho đến tối quan binh vẫn chưa mở trận đại tấn công, có lẽ muốn cho tinh thần quân bị vây căng thẳng đến tột độ đã. Và nhất là sợ Đại Sơn Vương loạn chiến, tan cả người lẫn vật như chơi.
            Xẩm tối, đột nhiên có nhiều tiếng súng nổ,quân reo. Đứng trên núi, nhờ ánh hỏa pháo, mọi người thấy cả bóng quan binh cự chiến cùng quân ngoài rất dữ dội. Chợt một mũi tên hỏa lớn như ngọn lao bay vọt cầu vồng rớt xuống sơn trại. Nhặt xem mới hay chính Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng đã liều chết chọc vây Ô Đầu Sơn về cứu ứng. Trận đánh kéo dài, nhưng vòng vây quan binh vẫn như lưới sắt, tường đồng. Tuyệt vọng, tử khí trùm sơn trại. Mõ điểm canh ba. Ngọn nến rạp xuống, cháy xèo sau hơi gió đêm thâu.
            Tướng Thập Vạn Đại Sơn đứng phắt lên, xốc lại bao súng bên sườn, cặp mắt sâu thẳm nhìn Voòng Chí Plan, giọng chìm hẳn đi:
            - Đã đến giờ xuống núi! Lần này thập tử nhất sinh, nhưng... ý Hồng Lĩnh này đã quyết!
            Chí Plan toan ngắt lời thì chàng đã giơ tay làm hiệu tiến lại trước mặt nàng mặt rắn như đá tạc rút trong mìmh ra một chiếc hộp nhỏ đặt vào tay nàng.
            - Cô nương hãy giữ hộp này và làm theo lời trong thư căn dặn. Vạn nhất không còn ngày tái ngộ, cô nương hãy thay tôi, đừng để báu vật vào tay nghịch tặc. Chính tôi cũng chưa rõ báu vật là chi, nhưng đồ bản khai thông cắt chéo hình lục lăng, giờ đã dược ba.
            Tướng lạc thảo ngừng lại, mặt thoáng bâng khuâng, vùng nắm tay tay nữ tướng biên thùy:
            - Mai sau... có gặp Phượng Kiều... - Gịong chàng run hẳn lên....
            Nhưng giữa khung cửa tranh tối tranh sáng, Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng đã đứng sừng sững từ lúc nào, quần áo rách bươm, đẫm máu, cặp súng chĩa bên sườn, thoạt trông hệt một bóng oan hồn tử trận hiện về trong giấc mộng âm u.
            - Trời... Thoòng kìa!
            Cả hai cùng bật khẽ lên kinh ngạc, Đại Sơn Vương cau mày hỏi lớn:
            - Sao Thoòng qua nổi vòng vây trùng điệp? Hay người đã oan thác, chốn trận tiền, u hồn nương mây gió về Mã Đầu Sơn chốn cũ?
            Pạc Hoọc Đại Vương cất tiếng cười giòn tan, tiến vào.
            - Không! Thoòng vừa “Độn thổ” về đây.
            Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan cả mừng vẫn chưa hết ngạc nhiên:
            - Hay lắm! Thoòng một mình vào được, tất có cách ra êm? Ta chưa tính được kế gì, đánh liều xuống núi cho chúng khỏi tàn phá Mã Đầu Sơn.
            Thoòng Mềnh cúi đầu:
            - Lần này không phải chúng chỉ định bắt riêng tướng quân mà cả Thoòng này nữa. Xin hãy an tâm. Đã tới lúc tướng quân cùng Nữ Chúa ra đi.
            Cả ba nhảy phóc lên mình ngựa. Thoòng Mềnh dẫn đầu tiến về phía hậu trại ghìm cương bên ngọn Mã Đầu. Tiếng súng nổi lên, vang động canh khuya, Thoòng ngồi im trên ngựa, mấy phút sau, mới dẫn hai người vòng sau ngọn núi. Ngó xuống chân núi hậu, xa xa vẫn thấy hỏa binh ngùn ngụt, quá chừng một trăm thước là vực thẳm muôn trùng không lối xuống. Ngựa dừng bên vách đá ngọn, Thoòng Mềnh xuống ngựa, lần dọc theo vách dá, quơ trong bụi ra một ngọn thừng và thoăn thoắt leo lên. Nháy mắt, đã thấy bóng dáng viên tướng Tàu sừng sững trên ngọn núi chênh vênh, khắc vào nền trờí mờ tối như một hình thạch tượng trên mõm ngựa khổng lồ. Liền tiếp đó mấy sợi thừng buông xuống, Đại Sơn Vương quàng luôn vào bụng ngựa cho Thoòng kéo lên. Phút chốc cả ba con vật đã chui tọt vào miệng ngựa đá. Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan liền bám dây leo lên, tới ngọn ngạc nhiên hỏi Thoòng:
            - Ngựa đâu cả rồi?
            Thoòng trỏ xuống phía sau:
            - Tướng quân cùng Nữ chúa hãy nhìn đường độn thổ! Thoòng đã cho chúng xuống trước rồi.
            Đại Sơn Vương đảo mắt ngó quanh thấy đang đứng trước mõm ngựa đá, phía trong tối om, lúc đó mới rõ ngọn Mã Đầu trống rỗng, bên trong có một cái hang chạy từ mép núi vào sâu đến hơn hai thước. Thoòng Mềnh đi trước, lần vào "Họng" ngựa đá chiếu đèn bảo hai người:
            - Tướng quân cùng Nữ Chúa chắc không ngờ là ngọn núi này lại có đường độn thổ! Dưới kia, là lối ngầm thông qua một núi đá.
            Phía dưới, sâu thẳm như giếng khơi từ mép xuống đến gần ba mươi thước đá dựng đứng rêu phong thẳm dưới đáy, thấy hình thù ba con ngựa chực sẵn đó. Thoòng Mềnh nhắc mấy phiến đá lớn lấp ngoài mỏm ngựa đá, đoạn dẫn hai người bám dây xuống đáy hang. Tới nơi Thoòng lia đèn bấm dẫn lối, cả ba dắt ngựa đi theo hang thẳm dị thường. Hang ăn thông bên tả, đổ xuống mãi, xuống mãi, gập ghềnh, khúc khuỷu, đá như sát bờm ngựa, vách ép sát hai bên sườn.
            Đến hơn một gìơ sau, mới thấy hang ngầm mở rộng, bên tai nghe có tiếng gió lùa, lẫn tiếng súng đì đoàng kề bên vách.
            Thoòng Mềnh ngửa mặt trông lên khẽ bảo:
            - Tới giữa vòng vây địch rồi. Chúng đóng ngay trên đầu ta đó! Chỉ hơn một trăm thước nữa là tới cửa hang. Phía kia có cái hốc khá rộng, ta nên chờ sáng rõ hãy ra cho chúng trông rõ mặt mới được.
            Ba người lại dắt ngựa đi. Hang chạy ôm chân núi, ngay giữa vòng vây, chừng non một trăm thước, quả thấy một hốc rộng ăn vòng vào núi. Ngửa mặt trông lên thấy nóc hang có chỗ cao vút, gió ngòai trời lùa vào lành lạnh. Tiếng súng vẫn vọng vào, tiếng chân ngựa khua ngay trên đầu.
            Chợt Thoòng Mềnh tiến đến bên vách, chiếu đèn soi khắp nhũ đá. Đại Sơn Vương, Chí Plan còn đang lấy làm lạ vì dáng dấp cẩn trọng của họ Thoòng, thì Thoòng đã lùa tay vào một hốc đá, lấy ra một chiếc hộp đồng nhỏ như bao diêm, tiến lại trước mặt Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi ngạc nhiên cầm
            lấy hộp, tò mò mở ra:
            - Mảnh họa đồ.
            - Vâng, mảnh họa đồ khiến địch quân phải huy động toàn lực biên thùy vây hãm Mã Đầu Sơn. Mảnh này ghép vào mảnh của ân nhân, nó là vật báu vô cùng trong thiên hạ. Họ Thoòng đã tốn xương máu tìm được, nhưng Thoòng tài đức gì
            dám giữ vật báu của nước Nam. Xin ân công rộng tình thu nạp, nếu không Thoòng chết tại hang này.
            Đại Sơn Vương đặt tay lên vai tướng Thoòng, im lặng. Rất lâu, gió đêm thu lùa qua khe đá đưa vào cả tiếng súng nổ ngựa phi.
            Giọng viên tướng Thần xạ chìm hẳn đi:
            - Thôi Thoòng hãy đứng lên. Hình như ngoài kia, trời rạng đông rồi thì phải
            Qủa vậy, ánh sáng bên ngoài lọt vào lờ mờ màu nước hến, nhưng nền hang lại ăn ngược lên cao. Hết một khúc ngoặt, hang chợt thắt lại không đầy một thước rộng. Cửa hang ngầm chỗ đó ăn ra mộ vách núi chênh vênh dựng đứng cách mấy thước tây mới có thạch bàn ở dưới. Qua nhiều bậc đá cheo leo, mới tới rừng dưới, trông qua cũng lượng cao đến mấy chục thước. Trên nóc những phiến đá lớn nhô ra như mái hiên đầy thạch nhũ và con thác đổ từ trên xuống ngay mái hiên ầm ầm, dệt thành một bức bình phong che cửa hang trong nhìn ra được, nhưng ngoài trông vào không thấy lỗ trống, nhờ đó, cửa hang chẳng khác đã ăn dưới lòng thác bạc.
            Đại Sơn Vương chiếu viễn kính mới rõ là đám sĩ quan, hình như tới ăn điểm tâm trước khi khai hỏa Cả bọn vừa ăn vừa trỏ lên núi cười nói, có vẻ đắc chí lắm. Chợt lại có một tốp ba, bốn người bay ngựa tới. Đám sĩ quan vừa giơ tay chào, Voòng Chí Plan đã nói luôn.
            - Kìa ! Chính tướng Roux và đại tá Gilbert. Và hình như có cả Voòng Xám anh em nữa thì phải!
            - Chẳng lẽ anh Voòng lại được thúc phụ em sai đi tìm em! Nếu đi việc này, phải anh Voòng Dắt chứ..Lạ thật.
            Thoòng Mềnh đã lén ra, đứng sau lưng.
            - Hay lắm! Ta phải xuống thung ngay mới đươc.
            Tướng Thập Vạn Đại Sơn lập tức vỗ Hắc Phong Câu lao xuống theo “Mũi tên đen” đang bay trên mỏm đá, phía sau đã vọt ra con ngựa của Đại Vương Thoòng. Cả ba con ngựa nối nhau không đầy bốn, năm thước nhưng Thoòng kìm phắt sau lùm cây rậm cố ý chờ Đại Sơn Vương vượt quá lên, mới phóng theo.
            Ngựa Hắc Phong đang vọt trên thạch bàn, bất thần, chàng tướng nghe sau lưng có tiếng Thoòng quát lớn:
            - Coi chừng!
            Đại Sơn Vương quay phắt lại, thấy hai ngọn súng bên hữu chĩa thẳng vào lưng, giữa lúc người ngựa đang lơ lửng giữa khoảng không, tướng núi kịp thời vẩy luôn hai phát, xác quan binh nhào liền trên mép đá.
            Tiếng nổ làm kinh động cả khu hậu trận. Quan binh trấn gần đấy, nhìn ra thình lình thấy mấy con ngựa như từ trên trời sa xuống, không bảo nhau, đều bật kêu lên nhất loạt, chưa kịp lảy cò thì “Ngựa trời” đã bay kề chân núi mép thung.
            Voòng Chí Plan phóng đầu, theo lời dặn, cứ nơi phía tả chạy, ngoảnh lại đã thấy Hắc Phong Câu theo sát tới ngang thung, cách chỗ lều vãi bọn tướng Roux chừng non trăm thước. Đại Sơn Vương thét lớn:
            - Bọn tốt đen hỏa thực kia! Khôn hồn tránh giạt ra cho tao mượn đường đi, không bỏ mạng bây giờ.
            Miệng thét tay vẩy súng lia lịa khiến đám quân binh kinh hoảng bỏ chạy giạt cả vào lều, tìm súng. Tướng Roux, Gilbert trông rõ mặt Đại Sơn Vương, vội hô lớn:
            - Kỵ binh đâu! Đuổi bắt tướng giặc chớ để thoát!
            Lúc đó, ngựa Đại Sơn Vương chỉ còn cách tướng Roux chừng năm, sáu chục thước. Tứ bề, đạn réo, quân reo bắn vãi theo. Roux thấy ngựa tướng Thần Xạ bay chếch tới, vội giật ngựa ẩn sau lều. Còn đang hô quân tướng ngăn đánh, thì Đại Sơn Vương cùng Chí Plan đã bay ngang tới, chui lọt qua một căn lều trống, xoay phắt lưng lại, cười lớn;
            - Lão tướng biên thùy! Tiếc thay có việc bận, không còn thì giờ tiếp trận với các ông. Xin nhờ Đại Vương Thoòng tiếp giúp!
            Tướng Roux cả giận chĩa súng bắn theo, nhưng Hắc Phong Câu đã vọt qua dãy lều hỏa thực thẳng tuốt vào rừng nhanh như cơn gió lốc. Vượt khỏi vòng vây, Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan cứ rạp trên lưng tuấn mã, mải miết ra roi, đi một đoạn khá xa, tới chỗ có ngã ba yếu lộ thâm u, mới dừng cương chờ Thoòng Mềnh.
            - A Thoòng! Giờ đã đến khắc chia tay, Thoòng ở lại ta đi, sẽ có ngày tái ngộ!
            Tướng thổ phỉ râu xồm ngậm ngùi:
            - Nhưng... từ nay Thoòng sao yên dạ được, tướng quân đi
            - Hãy về cùng thuộc hạ, mai này, sẽ gặp nhau. Kìa! Địch quân đã đuổi tới rồi!
            Thoòng Mềnh lưu luyến chẳng muốn rời, ngoảnh lại thấy bụi bay cuối đèo đánh rạp trên đầu ngựa:
            - Lối mòn bên tả đưa đến cỏ phân mao, Tướng Quân, Nữ Chúa đi cho mạnh giỏi. Thoòng đứng đây nhử lạc hướng quan binh.
            Hai con tuấn mã quay đầu về nẻo biên thùy sải vó để lại phía sau một tướng thổ phỉ râu xồm bâng khuâng trong sương sớm đìu hiu. Lúc đó tám vó câu tuấn mã đã vượt cỏ phân mao, đem tướng Thập Vạn Đại Sơn cùng Nữ Chúa Hoàng Su Phì về đất Việt. Hai người buông lỏng tay cương cho ngựa bước trên một miền cây cỏ hoang sơ, xa xa lác đác mái nhà sàn tựa vách núi. Chí Plan đưa mắt trông khắp núi rừng quạnh quẽ, thở một hơi dài.
            - Thoát hiểm! Giờ này quan binh thổ phỉ còn lẩn quẩn bên Tàu đuổi theo dấu ngựa mơ hồ ... Ta nên tìm chỗ tạm nghỉ đã.
            Đại Sơn Vương gật đầu trỏ về phía đèo cao bên thung:
            - Chỗ kia cây cối um tùm lại có đồi xanh mướt cỏ, có lẽ tiện cả cho ngựa nữa.
            Hai người thong dong băng qua cánh rừng thưa, tới đèo. Tới nơi, hai người tháo hành lý xuống, nới dây nịt ngựa, thả cho ăn cỏ và ngồi dưới lùm cây nghỉ ngơi, ăn uống. Đang uống cà phê chợt có từng loạt súng vọng về từ chốn xa. Viên tướng ngạc nhiên, đứng phắt lên, nheo mắt lắng tai nghe, dạ bồn chồn như lửa đốt.
            - Thôi ta trở lại chỗ cũ còn lấy hành lý chứ!
            Đại Sơn Vương ra mé đồi, trỏ tay về phía xa tít. Chàng vội chiếu viễn kính mới hay có một cánh quân đến dựng trại, khói bốc lên, có vẻ đang nấu nướng chi đó.
            - Đám quân đó vừa đánh nhau với quân Trần Tắc và đã bắt được họ Trần rồi! Một nữ tướng cầm đầu coi dáng quen thuộc lắm. Lúc hai bên đánh nhau, em quan sát, bọn đó chủ ý bắt sống Trần Tắc và có lẽ đã truy kích từ dâu về thì phải.
            Đại Sơn Vương sực nhớ tới mảnh họa đồ bí mật trong tay họ Trần, chàng ngẫm nghĩ mấy khắc, đoạn bảo Chí Plan:
            - Chắc chúng chưa đi ngay? Ta về lấy hành lý cũng vừa!
            Nói xong, hal người lộn về chỗ cũ.
            - Nên hóa trang cho tiện! Cô nương nên cải nam trang. Chúng ta là hai bạn đường thổ dân.
            - Sao không giả làm một cặp vợ chồng có hơn không? Và giấu súng đi như một cặp vợ chồng thường.
            Câu đề nghị táo bạo của cô gái khiến chàng tướng núi không khỏi ngạc nhiên nhưng thấy vẻ hồn nhiên trên khuôn mặt hoa rừng chàng đành lẳng lặng làm theo. Trong giây lát cả hai đã gọn gàng trong bộ
            quần áo thổ dân khá sang, mặt hóa trang khác hẳn, cả hai con ngựa cũng được xoa thuốc ngụy lông, ung dung sóng đôi, phóng thẳng đến chỗ đám quân lạ đang hạ trại.
            Tới đầu thung mới cho ngựa bước một, tiến sát lại. Con đường mòn chạy ngoài bìa thung ăn chếch qua trại quân lạ, cách chỉ chừng trăm thước. Cả cánh quân lạ vội ngó ra, chĩa súng dè chừng bất trắc, tới lúc thấy rõ hai người không mang súng ống mới dựng súng về chỗ cũ. Hai bóng kỵ binh phi ra, hô lớn:
            - Đi đâu? Sao lại bén mảng tới chỗ này! Đứng lại đã!
            Hai người dừng ngựa, trông vào thấy bóng hai nữ binh. Chí Plan lễ phép cất tiếng miền núi hỏi.
            - Vợ chồng tôi đến Cao Bằng! Cái lính đây là gi đấy?
            Nữ binh hỏi mấy câu, đoạn vẫy tay bảo di, đoạn quay vào chân núi. Chí Plan, theo vào luôn, Đại Sơn Vương cất tiếng gọi, rồi cũng vào nốt đuổi thế nào cũng cứ đi, đến gần nhìn rõ mặt mới chịu dừng, nằng nặc hỏi xin thuốc Tây. Đưa mắt nhìn, thấy Trần Tắc cùng mấy thủ hạ bị bắt ngồi dựa thân cây, quân lạ vừa nam lẫn nữ, kẻ đang sửa soạn bữa ăn, người băng bó thương tích. Còn đang tìm coi chủ tướng chợt thấy hai cô gái đẹp đeo súng từ chân núi bước ra. Hai cô gái hao hao giống nhau, khuôn mặt đẹp như hoa, thoáng trông đã đoán ngay hai chị em
            ruột: Nữ tướng họ Cầm, thuộc quân Si Pan. Cặp nữ tướng đang đốc quân phục kín bên yếu lộ giữa hẻm, thoáng cái đã ẩn kỹ và cô êm dặn một toán nữ binh vài chục người lộn lại chỗ vừa hạ trại, xuống ngựa, kẻ nằm người ngồi có vẻ một mỏi lắm, nhiều con ngựa đã tháo cả yên, cho gặm cỏ tự nhiên.
            Đại Sơn Vương vội cùng Chí Plan kiếm chỗ ẩn, chiếm chỗ cao quan sát tỏ tường, thấy thế khẽ bảo nữ tướng Hoàng Su Phì:
            - Hai cô gái này định nhử địch vào cạm bẫy đây! Nhưng không biết bọn nào sắp tới?
            Chí Plan chưa lên tiếng, đã thấy xa xa cát bụi bay, một đoàn quân chĩa mũi dùi phóng tới. Dừng lại cách hơn trăm thước, ngay trên đồi cao bên kia thung, dàn hàng ngang trông sang chân đồi bên này, có vẻ đang quan sát địch tình, Đám nữ binh trông thấy địch, vội vã chạy đi bắt ngựa bố trận. Lập tức, đám quân bên đồi kia nhất tề hò reo như sấm ùa xuống, đánh luôn. Nữ tướng vội thót lên ngựa hô quân vừa bắn, vừa tháo chạy, ngựa chưa kịp thắng yên. Thình lình Nữ tướng dừng phắt ngựa, khoa tay ngang đầu thét lớn:
            - Lùi lại! Quân bay! Có phục binh.
            Lời vừa dứt vó ngựa vừa dừng chưa kịp tháo lui, thì từ hai bên hẻm núi, từng loạt súng nổ rền, đạn bay ra người ngựa Si Pan nhào luôn một lớp hàng chục tên. Đồng thời đám nữ binh cũng lộn ngựa, bắn xả lại như mưa, dìm Si Pan rất mau vào thế tam diện thụ địch hiểm nghèo.
            - Giạt cả sang vách núi! Xuống ngựa!
            Cầm Mi Yến nép sau hông ngựa, dựa lưng vào vách hẻm,vừa vẩy súng lên, vừa hô binh đánh tháo. Trên sườn dá, cứ cái đầu nào ló ra, là bị đạn Mi Yến bắn lộn xuống liền. Nhờ thế, quân Si Pan rút ra gần khỏi yếu lộ rất nhanh. Thình lình có tiếng quát lanh lảnh phía trên cao:
            - Giặc cái Tây Phàn! Hay coi đây!
            Cầm Lình con gái lão động chủ ngửa mặt lên, thấy nữ tướng lộ diện trên mỏm đá, liền nhô khỏi hông ngựa bắn lên, nhưng đạn nữ tướng kia đã ra khỏi nòng, xoi trúng bàn tay nữ tặc. Cầm Lình vùng nhăn nhó ôm tay, Cầm Mi Yến trông thấy liền nghiến răng vẩy luôn ngọn súng lên giữa lúc nữ tướng địch đang nhìn chếch về phía Cầm Lình. Nhưng tự nhiên tay Mi Yến chới với giữa không gian, khẩu súng đã bay đâu mất, còn đang ngửa mặt ngó tìm, thì nữ tướng phía trên đã xoay lưng lại nhả luôn một phát. May Nữ Thủy Vương Hồ Ba Bể đã kịp thời hụp đầu xuống tránh kịp.
            - Tạc đạn đâu thả cho rồi!
            Tiếng lanh lảnh của cô nữ tướng phía trên lại quát lên, khiến Mi Yến giật mình chưa kịp nhảy sang bắn trấn cho Cầm Lình thì liền mấy quả tạc đạn từ trên đã ném xuống. Nữ tặc vội nhào xuống chân ngựa, chỉ thấy liền mấy tiếng nổ vang, nhói một bên mình, rồi cả thân hình con ngựa đổ đè lên trên, giữa vùng khỏi tóa um còn nghe tiếng Cầm Lình gọi lớn:
            - Cầm muội đâu! Cầm muội?
            Nữ tặc thét lớn:
            - Rút mau không khốn cả? Đánh cồng hú gọi đoàn báo tiếp cứu cho mau!
            - Anh chị em! Nhảy xuống đánh giáp lá cà chớ để hai con nữ tặc chạy thoát.
            Tiếng tướng thét, quân hò vẫn nổi lên vang động, khói mù bốc che yếu lộ như sương lam. Không thấy tạc đạn nổ nữa, lại nghe có tiếng người từ trên nhảy xuống. Cầm Mi Yến mới hấtlung xác ngựa phục sát vách đá, định thần quan sát, chỉ thấy lố nhố người ngựa rầm rập ngược xuôi giữa vùng khói tỏa, lại nghe phía đầu hẻm, vẫn còn tiếng súng, liền men vách lần ra. Vừa khỏi vùng khói tỏa, giật mình toan quay ngược thì bốn bề ập lại từng đoàn địch quân, gươm súng chĩa vào tua tủa trông ra không bóng quân gia, yếu lộ đã nghẹt đầy địch thủ. Nữ Thủy
            Vương Hồ Ba Bể đành nghiến răng quay luôn mũi súng vào ngực, lảy cò. Nhưng một bàn tay đã gạt mạnh, đạn nổ lên trời, nữ tướng địch đã từ đâu vọt tới, cười khanh khách:
            - Vội chết sao được! Bản cô nương còn có điều muốn hỏi. Chị em đâu ! Trói nữ tặc lại cho ta! Và truyền nổi hiệu thu quân mau.
            Lúc đó, dưới hẻm, bọn gái lạ đang thu binh, chợt thấy Cầm Lình dẫn quân trở lại. Cầm Lình tay cầm một cây roi có tua ngũ sắc, đứng thẳng trên lưng ngựa vừa khoa lia lịa, vừa hú lên những tiếng man rợ, lạ lùng. Đoạn hô binh tiến lên, tả hữu có Nhị Cô, Tam Cô bay thẳng đến hẻm núi hình như bất chấp cả địa hình.
            Trận đánh vừa mở, chợt ngựa bên phe đôi gái lạ, thi nhau hí vang, hoảng chồn, rồi có tiếng thú gầm ghê rợn. Ngạc nhiên nhìn kỹ, mới biết cánh quân đó bất ngờ bị một đoàn báo gấm từ rừng rậm xông ra tấn công chớp nhoáng vào bên sườn. Nguy nữa, là đám quân này đang bám chặt yếu lộ làm điểm tựa tác chiến, hai bên toàn cay cối, đá tai mèo, đoàn thú dữ cứ vọt ra táp cấu xé, rồi lại lẩn vào chỗ khuất, lại thêm chỗ hẹp người ngựa khó xoay trở, mặt trận đôi gái lạ này cả loạn ngay. Và như đã nắm được yếu tố thủ thắng,Cầm Lình, Nhi Cô, Tam Cô cứ dẫn binh bay ngựa ngang hẻm vừa bắn thốc vào, vừa cố ý không cho địch quân xông ra ngoài thung tráng.
            Đang đốc chiến phía trước, thấy hậu quân biến loạn, cô chị vội hô binh tiến mau ra nhưng đã bị quân Si Pan chận gắt, đành lộn ngựa lại thét lớn:
            - Bật hồng lên đánh xua thu dữ, hậu đổi thành tiền rút qua bên kia hẻm!
            Quân gia lập tức, xuống ngụa, bật lửa, đuổi thú, nhưng thú đã được luyện quen không sợ lửa, cứ tiếp tục chồm táp người ngựa rất hăng. Đang lúng túng mới lui được vài chục thước lại nghe hậu trận nổ vang rền, Rồi một cánh quân Si Pan nữa xốc tới, đánh bừa hai đầu dồn quân nữ tướng vào giữa cho thú dữ cấu xé.
            - Phải cứu hai nàng kia mới được! Ta ở ngoài vòng có thể đánh thốc sau lưng Tây Phàn!
            Đại Sơn Vương đứng phắt lên, Chí Plan đã giơ tay can lại, mỉm cười.
            - Bất tất phải nhọc lòng!Chỉ cần xua lui đoàn thú dữ là xong, hai nàng đó đủ sức đánh quân địch rồi! Ông đã quên em vốn sinh trưởng nơi sơn cước, đã từng nuôi hổ báo thay chó giữ nhà ư?
            Nàng quay bảo nữ binh nãy giờ nằm êm kinh sợ:
            - Mau xuống bảo nữ tướng nhét giẻ vào miệng cô gái Hồ Ba Bể trên này sẽ đuổi thú giúp cho!
            Hai nữ binh ngạc nhiên nhìn “Cô Thổ” nhưng cũng vội vã băng xuống lộ hẻm.
            Tiếng Cầm Mi Yến vụt tắt, trên ngọn đồi,Nữ chúa Hoàng Su Phì liền khum tay miệng, rú lên một tràng tiếng dị kỳ man rợ, lanh lảnh vang khắp chiến trường. Lập tức, đoàn báo gấm ngừng tấn công nhìn cả về nẻo có tiếng hú và dưới hẻm, thoáng cái đã thấy những hình vàng đốm lao vùn vụt giữa nền bụi xanh, bay hẳn lên ngọn đồi. Rồi mùi tanh hôi theo hơi gió thốc vào mũi Đại Sơn Vương, trông ra đã thấy lá cây sào sạc, báo dữ từ các nơi xông tới. Không chậm trễ,Voòng Chí Plan ra hiệu cho Đại Sơn Vương nhảy phắt lên yên ngựa lao xuống bên kia đồi, vừa phi vừa hú dụ đoàn thú băng theo.Ra khỏi vùng trận, Đại Sơn Vương ngoảnh lại thấy từng đợt “Sóng gầm” dập dồn bèn gò cương bảo Chí Plan:
            - Đoàn thú rừng lợi hại vô cùng, cô nương sao không thu phục mà dùng?
            Chí Plan lắc đầu:
            - Muốn thu phục phải dùng ngải riêng.Phải giải ngải của Cầm Mi Yến mới được.Giờ chỉ tạm dùng tiếng hú lùa chúng theo, nếu đến gần, không có ngải quyện chúng sẽ nổi tánh rừng ngay! Thôi! Chỗ này chúng lạc dấu được rồi!
            Nói xong, Chí Plan im bặt tiếng hú, cùng Đại Sơn Vương giục ngựa vào khu rừng rậm gần đấy, chạy thêm một quãng xa, mới lộn lại chiến trường. Còn đang dòm tìm vết chân ngựa, chợt thoáng thấy bóng một kỵ sĩ từ phía biên thùy tế ngựa tới thung. Đại Sơn Vương bèn cùng Chí Plan ẩn luôn vào bụi cây bên hẻm. Ky sĩ chạy đến khu trận, dừng lại, đảo mắt nhìn quanh và cho ngựa bước thẳng đến hẻm, vừa đi chăm chú quan sát từng thân cây, vách đá, mặt cỏ, có vẻ muốn tìm một dấu vết chi. Đang chăm chú ngó quanh, chợt chàng ky sĩ tiến ngựa lại sát vách đá gần đấy, ngửa mặt trông qua vù gật gù lẩm bẩm:
            - Có thế chứ! Không ngờ bắt được cả Trần Tắc lẫn nữ tặc họ Cầm!
            Và đảo mắt một vòng chàng ta giục ngựa đi thẳng qua bên kia hẻm. Đại Sơn Vương, Chí Plan tiến ra, ngó vách đá, thấy có mấy nét mới đục nham nhở có vẻ mật hiệu chi đó, liền cùng nhau theo hút người ky sĩ luôn. Cứ một quãng người đó lại dừng tìm mật hiệu, noi theo Tây Bắc mà đi mãi. Chừng một giờ sau ngựa, người vào một miền hoang vắng, dừng lại. Đứng trên cao nhìn xuống. Đại Sơn vương, Chí Plan thấy lố nhố người ngựa bên rừng, cả mừng nhận ra chính cánh quân của hai cô gái lạ bắt Trần Tắc đem đi ban nãy. Chàng ky sĩ kia vào thẳng giữa
            chỗ trú quân, có vẻ quen thuộc lắm. Qua ống viễn kính, hai người thấy cặp nữ tướng ra đón đưa chàng vào một căn lều xinh xắn dựa vào vách núi ngay dưới lùm cây ven suối. Trần Tắc và Cầm Mi Yến đã được cởi trói ngồi gần đấy có mấy ngọn súng chĩa canh cẩn trọng.
            Chờ mãi đến chiều vẫn không thấy cánh quân đó lên đường, Đại Sơn Vương bàn với Chí Plan toan lần xuống vách núi gần lều, thì vừa kịp thấy người kỵ sĩ lúc nãy lên ngựa đi, mang theo cả Trần Tắc cùng một tiểu đội vệ binh, Cả mừng Đại Sơn Vương, Chí Plan theo sát liền. Đi quanh co một lúc, như muốn phòng hờ đánh lạc dấu người lạ đổi hướng nhiều lần cuối cùng đi về nẻo thị trấn Cao Bằng. Nhưng rồi người lạ xuyên qua bản, đưa Trần Tắc ra ngọn núi cuối bản, có căn nhà dựa vách đá trông ra nương ngô. Đứng xa, thấy lát sau cả bọn đã tháo yên, dắt ngựa vào tàu, Đại Sơn Vương biết rõ bọn lạ đêm nay nghỉ tại đó, nên chàng cùng Chí Plan đi tìm quán trọ trú, chờ đêm sẽ hành động. Cuối canh hai, cả hai tìm đến nơi giam Trần Tắc, buộc ngựa cuối núi, lần đến bên căn nhà sườn núi nghe động tĩnh.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #21
              Hồi 20 - Phù Thủy Thần Thơ Kho Tàng Tôn Thất Thuyết

              Ánh lửa từ trong hắt ra, vàng khè. Ngay trước cầu thang nhà sàn, một gã đàn ông lực lưỡng xách súng đi lại canh phòng. Đảo một vòng quanh rộng, Đại Sơn Vương khẽ bảo Vòng Chí Plan:
              - Cô nương đứng trấn bên ngoài đề toi đột nhập vào trong xem!
              Vừa định băng đi, chợt nghe có tiếng vó câu khua xào xạc trên lá rụng. Phục sát mặt đất, nhìn ngược lên, trong đêm mờ nhạt hai người thấy một kỵ sỹ từ phía bản phóng tới, dừng trước cầu thang, cách chỗ hai người nấp không đầy mười thước.
              - Đảng trưởng đâu?
              - Bẩm, đang xem sách. Cô nương đã về!
              Kỵ sĩ xuống ngựa ném dây cương cho gã đàn ông, và bước vội lên cầu thang. Voòng Chí Plan khẽ thì thầm:
              - Nguyệt Tú!
              Trong nhà, chàng kỵ sĩ hồi sáng ngồi bên chiếc bàn gỗ tạp sơ sài trên có thắp thoi lửa trám. Đối diện là Nguyệt Tú. Hai người đang nhìn ngọn lửa chập chờn, dáng suy tư. Chợt chàng trai đứng lên đi đi lại lại bên bàn, vùng bảo Nguyệt Tú:
              - Phải hành động gấp.
              Nấp bên ngoài, Đại Sơn Vương khẽ bảo Voòng Chí Plan:
              - Không phải người tình Nguyệt Tú! Chà! Nhưng giấu sao nổi mắt ta! Giờ họ lập mưu đánh tháo Trần Tắc rồi theo sát tìm bảo vật. Cô nương tính sao?
              Cô gái biên thùy nhoẻn miệng cười, như đã đoán rõ ý chàng.
              - Còn chờ gì nữa! Nếu muốn tháu tay trên, thì đêm nay chắc cũng không lạc dấu họ Trần đâu! Mai lên thẳng Su Phì cũng được.
              Ca hai cùng cười lặng lẽ nương bóng tối, theo sát Nguyệt Tú. Ra khỏi khu nhà sàn, cô gái thác Cầu Mây cho ngựa khoan thai bước một, cố ý chờ hai tên thủ hạ tiến trước khá xa. Nguyệt Tú theo lối mòn chạy dọc chân núi, đi chừng vài trăm thước đến một nơi rậm rạp dừng lại ẩn kín. Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan vòng nương vượt khỏi chỗ Nguyệt Tú nấp, bám sát hai gã thủ hạ phía trước.
              - Thôi ! Ta đứng đây chờ chúng giải Trần Tắc tới được rồi !
              Quả nhiên lát sau, đã nghe có tiếng vó ngựa bước đều, trông ra thấy hai gã lực lưỡng điệu Trần Tắc tới. Người cha Phượng Kiều bị bịt mắt, trói tay ngồi trên lưng ngựa, hai gã áp kèm trước sau bước một. Mấy cnn ngựa bước chậm qua chỗ Chí Plan, Đại Sơn Vương ẩn.
              Voòng Chí Plan lăn vèo sang bên kia lối mòn. Đại Sơn Vương vẫn bước theo Trần Tắc. Chợt bàn tay viên tướng lạc thảo vừa khoa trên đầu, đã thấy từ trong bụi rậm hai bên một cặp thòng lọng cùng lúc bay vút lên, chụp xiết ngay cổ họng hai gã điệu Trần Tắc, giật phăng xuống chân ngựa. Hai gã thình lình bị “trăn gió” cuốn ngã, chưa kịp trở tay, đã thấy hai bóng đen theo dây vọt lên, đánh luôn vào đỉnh đầu gục ngất, êm không. Một cơn gió thoảng rào cành lá, thình lình hai bóng người từ trên cây nhảy vụt xuống chụp lấy Đại Sơn Vương nhanh như hai con báo chụp mồi. Nhưng Đại Sơn Vương đã hụp xuống bên cổ ngựa cho địch thủ mất đà và quài tay bắt ghì phăng kẻ bên yên ngựa trong một thế võ khóa Nhật tuyệt vời, tướt luôn súng cô nàng và bất thần ôm ném nhẹ nữ thủ lãnh Cầu Mây xuống mặt cỏ.
              Vừa quài tay quất ngựa Trần Tắc phóng đi, chàng tướng núi cùng Voòng Chí Plan vọt ngựa theo như gió cuốn. Được vài chục bước ngoái lại thấy Nguyệt Tú cùng nữ tùy tướng vừa vùng dậy, chàng bèn ném trả lai khẩu súng và khoa tay chào lia lịa. Nguyệt Tú chạy vụt lên bắt lấy khẩu súng vừa thẹn vừa tức giơ lên chưa kịp lẩy cò, đã thấy mất hút ngựa kẻ lạ sau lối mòn, chỉ còn hắt lại phía sau những tiếng vó câu giòn khua giữa những chuỗi cười khanh khách trêu ngươi. Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan kèm Trần Tắc vào rừng, dùng tiếng Thổ từ tốn bảo:
              - Miền này không xa thị trấn Cao Bằng mấy, chắc ông quen rừng có thể về nhà yên ổn. Xin được chia tay!
              Dứt lời, chàng cùng Chí Plan ngoắt luôn tay cương về nẻo khác. Nhưng qua khắc sững sờ,họ Trần đã nắm lấy dây cương, giọng cảm động:
              - Kìa, sao người đã vội… chẳng hay...
              Vừa nói Trần vừa chăm chú ngó hai kẻ lạ mặt, toan gặng hỏi nữa, đã nghe phía bản xa có nhiều tiếng cồng dồn dập rồi ánh hồng bập bùng trong đêm tối cuốn tới đầu thung. Đại Sơn Vương vội giục:
              - Chúng sắp sục tới đây, ông nên chạy ngựa về để mặc chúng tôi đánh lạc hướng bọn chúng cho!
              Lời vừa dứt, tướng núi đã ngoắt ngựa về phía có ánh lửa chập chờn, phóng thẳng. Trần Tắc cũng vội tế ngựa về căn cứ, thoáng cái đã mất hút giữa đêm rừng hoang dã. Phóng gần đến đầu thung, lập tức Đại Sơn Vương lộn vòng đường núi, đuổi theo Trần Tắc:
              - Họ Trần đã mất dạng. Rừng tối thâm u.
              Đại sơn vương mỉm cười:
              - Không sao Tôi đã dự phòng cả rồi
              Miệng nói, tay chiếu đèn bấm, rê nhanh một vòng cỏ rộng, miệng chợt khẽ reo vui:
              - Có thế chứ! Đã tìm được lối ngựa Trần Tắc đi rồi.
              Voòng Chí Plan trông xuống cỏ thấy một đường thóc vãi lấm tấm tít vào rừng sâu, mới biết chàng tướng núi đã buộc ngầm một bì thóc trên lưng ngựa Trần Tắc từ lúc nào rồi giờ cứ việc lần theo vết thóc vãi chẳng khác Trọng Thủy theo vết lông ngỗng Mỵ Châu xưa. Nhưng được chừng vài dặm, chợt thấy vết thóc chạy ngang chạy dọc rơi vãi lung tung lộn bậy, tới bờ một con suối đọng lại thành một chỗ lớn, rồi... mất dấu. Đại Sơn Vương tần ngần nhìn khắp vùng suối rừng suy nghĩ mấy khắc đoạn gật gù bảo Voòng Chí Plan.
              - Trần Tắc tinh khôn lắm, chắc đã đủ thì giờ kiểm soát lại mình ngựa đây! Cho thóc đọng cả chỗ này. Trần Tắc muốn đánh lạc dấu kẻ theo sau. Nhưng che thế nào được mắt ta! Cô nương có nghĩ Trần Tắc noi theo suối nước không?
              Voòng Chí Plan lắc đầu:
              - Lối nghi binh này chỉ lừa được kẻ thấp trí thôi! Chắc Trần Tắc không đi đường suối đâu!
              Đại Sơn Vương điềm nhiên giọng rắn đanh:
              - Để dấu thóc bên bờ, tất Trần Tắc phải theo dòng suối. Họ Trần vốn tinh quyệt, tất dư hiểu kẻ theo bám phải tay túc trí, tính cao, sẽ không chui lần theo dòng suối nên Trần đã chọn nước cờ thấp nhất, Trần noi theo đường suối đó.
              - Cô nương hãy xuôi dòng dò vết, tôi đi ngược nước. Dòng suối chảy về khu cứ địa của họ Trần đấy. Nếu không thấy dấu nước thì hãy ngóng bên bờ, chắc cô nương thừa rõ chỉ còn ngửi mùi cỏ dập nhầu. Sớm mai, gặp nhau tại trấn Cao Bằng!
              Hai người lập tức chia tay theo hai chiều suối đi vào đêm tối.
              Voòng Chí Plan xuôi dòng lội ngựa mãi, vừa đi vừa chiếu đèn bấm quan sát kỹ Iưỡng từng tấc cỏ ven bờ, tuyệt không thấy dấu ngựa lên. Trên mặt cỏ, sương đêm vẫn còn đọng đều, chẳng có chỗ nào có vết giẫm nhầu khác lạ. Tới căn cứ của Trần Tắc, thình lình gặp người tuổi trẻ mặt trắng cùng Nguyệt Tú dẫn đám đông thủ hạ về, nàng vội nấp sau bụi chờ cả bọn đi qua, mới biết Nguyệt Tú vừa thẳng tới đất Trần Tắc dò xét, nhưng không thấy Trần Tắc đâu, đành rút quân tìm lối khác. Nữ chúa Hoàng Su Phì đi ngựa loanh quanh cố tìm một lát nữa vẫn không thấy vết khả nghi đành thẳng đường tới thị trấn, vừa lúc sang canh tư.
              Nghỉ qua cho đỡ mệt, sớm mai nàng đã thắng ngựa, chậm bước ra khu chợ, theo lời dặn, tới một tửu quán khách trú ngồi chờ Đại Sơn Vương. Chín giờ. Rồi mười giờ, vẫn không thấy bóng viên tướng Thập Vạn Đại Sơn. Nữ chúa Hoàng Su Phì vẫn ngồi im bên bàn trông ngóng, ruột gan đã bắt đầu nóng như lửa đốt. Đúng lúc lo âu, chợt thấy một tốp người mặc quần áo H’mông từ xa đi ngựa tới, đến trước quán, dừng lại, đưa mắt nhìn mấy giây rồi cùng xuống ngựa, bước vào. Voòng Chí Plan nửa mừng nửa ngạc nhiên, nhận ra người con trai cả của vua H mông, Voòng Dắt. Cô cháu gái vua H mông đứng phắt lên, vừa lúc Voòng Dắt cùng thuộc hạ xăm xăm bước lên.
              - Kìa Chí Plan eml
              - Anh Voòng!
              Voòng Dắt cả mừng ngó cô em, mặt tươi hẳn lên:
              - Sao em ăn mặt lạ thế này? Không có vòng tai quen với cái miệng hay cười núm đồng tiền anh cũng ngờ ngợ mất!
              Chí Plan nhoẻn cười, kéo ghế cho anh họ ngồi:
              - Anh đến đây bao giờ thế? Thúc phụ chắc mong em lắm,à anh? Em có gặp anh Voòng Xám bên Tàu đi cùng tướng Roux quân đoàn lưu động.
              Người con cả Vua H mông vùng nắm lấy tay con gái, giọng đượm lo âu:
              - Thúc phụ mang bệnh, nóng lòng, lại thấy Voòng Xám đi, nên vội sai anh đi tìm em. Nghe tin em bị thương bên Thác Bạc Đầu mà.
              Chí Plan vội kể qua mọi chuyện đoạn bâng khuâng nhìn ra đường thị trấn:
              - Đại Sơn Vương cùng em thoát khỏi vòng vây quân đoàn biên giới. ông ấy hẹn gặp em nơi này, nhưng sao vẫn không thấy, chắc có chuyện... gì đây?
              Hai anh em họ Voòng còn đang bàn luận, chợt một viện tùy tướng khẽ kêu lên:
              - Kìa... có ai cỡi con ngựa Hắc Phong tới hình như Đại Sơn Vương.
              Chí Plan, Voòng Dắt vội nhìn xuống, quả nhiên thấy một người đi ngựa tới dáng dấp mệt mỏi ủ rủ, quần áo tả tơi thân hình ngồi bất động trên yên, đầu cúi nhìn bờm ngựa, như kẻ bị thương nặng gần kiệt sức.
              - Trời! Đúng Đại Sơn Vương rồi. Sao như người mất hồn thế này?...
              Voòng Chí Plan biến sắc, bật kêu lên, chạy vội xuống cầu thang đến bên ngựa Đại Sơn Vương. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im như pho tượng đất, đầu vẫn cúi tháp, thấy Chí Plan chạy tới, chàng chậm chạp ngẩng mặt lên, cặp mắt trừng trừng nhìn Nữ Chúa Hoàng Su Phì ngơ ngác như mất hồn.
              Càng kinh ngạc, Chí Plan quên cả tỵ hiềm, nắm luôn lấy dây cương, dìu chàng tướng núi xuống yên, hấp tấp lần khắp mình chàng, muốn tìm một vết trọng thương. Nhưng quần áo tuy lấm láp đất cát bụi, ẩm sương đêm nhưng không một dấu đạn xuyên, dao chém.
              - Ông... ông làm sao thế này?
              Đại Sơn Vương vẫn mở to mắt ngơ ngác ngó Nữ Chúa H mông, cặp môi khô mấp máy không thành tiếng, hai bàn tay tần ngần sờ báng súng bên sườn, rút ra lật nghiêng lật ngửa nhìn như một người cuồng trí. Voòng Dắt cũng vừa xuống tới, vội cùng cô em họ dìu tướng núi lên gác. Đại Sơn Vương ngồi phịch xuống ghế nhìn mọi người, chợt khẽ hỏi:
              - Voòng công tử vừa tới?
              Không đợi anh đáp lời, Voòng Chí Plan rót vội chén trà đưa chàng, đỡ lời giọng lo lắng:
              - Vâng anh em vừa tới tìm chúng ta. Nhưng…ông làm sao thế này? Kìa mà sao tay ông lạnh quá vậy? Để em bảo chúng đưa chút rượu lên ông dùng cho ấm nhé?
              Đại Sơn Vương ngồi yên, không nói nửa lời. Tửu bảo mang rượu lên. Voòng Chí Plan đỡ lấy rót cho chàng một ly nhỏ. Uống một hớp cạn, tướng núi liền đặt nhẹ ly rượu, rót luôn mấy ly uống sạch, cạn đến nửa chai, mới đặt xuống bàn mím chặt vành môi, cúi nhìn xuống sàn. Chí Plan đoán chắc có chuyện gì quan hệ xảy ra nên vẫn đứng bên ghế Đại Sơn Vương, ra hiệu cho mọi người im lặng khỏi khuấy động lòng người đàn ông giang hồ bối rối. Mấy phút sau chợt chàng thở dài, ngẩng lên nhìn anh em họ Voòng mắt tối sầm như có mây mờ bao phủ, giọng não nùng vô hạn:
              - Đêm qua... tôi bắn chết Trần Tắc rồi...
              - Bắn chết Trần Tắc? Trời...
              Đại Sơn Vương nhìn chai rượu hồ vơi giọng buồn mênh mông, lẩm bẩm như nói để mình nghe:
              - Hai phát liền, trúng tim, Trần nhào từ trên ngọn núi cao xuống vực sâu muôn trượng. Đến sáng mới tìm được xác Tràn giập nát, đầlu vỡ làm mấy mảnh, thân hình, quần áo rách bươm như bị băm vằm vì nhũ đá tai mèo phanh xé...
              Giọng run hẳn lên, viên tướng bách chiến quơ bàn tay lạnh ngắt nắm lấy chai rượu, thở mạnh, một tay khoa trước mặt như muốn xua đuổi hình ảnh thảm thê. Rắc. Từ lòng bàn tay tướng núi một tiếng sạo gợn phát ra, chàng gục trán xuống bàn mệt mỏi.
              Mọi người đưa mắt nhìn nhau và tình cờ đều nhìn cả xuống mặt bàn. Một giòng máu đỏ thắm từ lòng bàn tay Đại Sơn Vương ứa ra, như chảy tự trái tim rạn nứt. Voòng Chí Plan, Voòng Dắt lật đật nắm lấy tay chàng tướng núi gỡ ra. Nước rượu tràn trề, chai thủy tinh đã bị bóp giập vỡ toang từng mảnh, lòng tay tướng núi đỏ lòm những máu.
              - Trời…ông hãy bình tâm!
              - Ông Hồng Lĩnh...
              Voòng Chí Plan cuống quít rút khăn quấn bàn tay bị mảnh chai xẻ đứt. Viên tướng núi từ từ ngẩng mặt lên, gạt nhẹ tay Chí Plan ra, làm hiệu cho mọi người ngồi xuống, đoạn nén buồn, kể sơ lại mọi việc.
              Lúc đó mới rõ sau khi tạm chia tay Chí Plan, Đại Sơn Vương ngược dòng tìm dấu ngựa Trần Tắc, gần hết canh năm mới gặp. Họ Trần vào một vùng núi non hiểm trở nẻo biên giới, tới một căn cứ bí mật có mười lăm thủ hạ trấn giữ. Đại Sơn Vương lọt vào căn cứ, theo lòng hang thông lên một ngọn núi, gặp Trần Tắc giữa lúc Trần Tắc vừa lấy trong hốc đá ra một chiếc hộp nhỏ. Lúc đó Đại Sơn Vương tới cửa hang thông, cách Trần Tắc chỉ chừng hai mươi thước cao, vô tình giẫm phải một nút bấm ngầm, khắp hang đèn thình lình bật rọi thẳng vào mình giữa tiếng chuông reo.
              Chàng tướng núi giật mình chưa kịp ẩn tránh, đã thấy hai, ba tên thủ hạ Trần Tắc từ sau xốc tới, và Trần Tắc nghe động quay nhìn xuống cửa hang, vừa thấy bóng người là rút súng luôn, ngay lúc Trần Tắc đứng chênh vênh ngọn núi. Trước nguy cơ, hai bàn tay Thần xạ vụt phản ứng như máy đánh vào báng súng và hai ngọn súng thần xạ đã kịp thời khạc đạn vào tim Trần Tắc trước khi súng Trần nhả đạn. Nhìn thân hình Trần Tắc đổ xuống vực sâu chàng tuổi trẻ hoang mang chạy luôn ra bờ vực quên cả thủ hạ Trần Tắc đang xông ra. Mãi trông xuống vực, quay ra đã thấy chúng vây quanh, quát mấy cũng không chịu lui, tôi phải bắn trọn hai băng đạn mới rảnh
              tay tìm lối xuống vực sâu. Chôn xác Trần xong, đi mãi trong rừng... Phượng Kiều! Đang bình tĩnh kể, chợt Đại Sơn Vương vùng bật lên gọi tên người yêu, mặt ngơ ngác như kẻ mất trí. Anh em Voòng Chí Plan phải hết lời an ủi, chàng mới lấy lại bình tĩnh cùng họ Voòng rời Cao Bằng xuyên nẻo Hà Giang, tới gặp Chúa H’mông Hoàng Su Phì.
              Suốt mấy ngày đi đường ít nói, cười, hình như luôn luôn bị cái chết của họ Trần ám ảnh, lại thêm Phượng Kiều mất tích phương xa, chàng tướng núi càng trở nên lầm lỳ, như cảnh chiều bặt gió chờ đợi một cơn dông bão phũ phàng. May nhờ có Voòng Chí Plan luôn luôn bên mình săn sóc, an ủi, nên chàng cùng khuây khỏa đôi chút. Tới gần địa đầu Hoàng Su Phì ba người đang cùng bọn tùy tùng rong ruổi trên đường mòn, chợt Đại Sơn Vương vùng thấy xúc động trong lòng, bèn dừng phắt ngựa lại, đảo mắt nhìn khắp vùng cây cỏ hoang sơ.
              Voòng Chí Plan, Voòng Dắt vội ghìm cương, ngạc nhiên ngó viên tướng núi:
              - Có chuyện gì đó, ông?
              Đại Sơn Vương vẫn nhìn nắng chiều le lói đầu thung lẩm bẩm.
              - Tự nhiên tôi thấy... bồn chồn lạ… Hình như linh tính báo có triệu chứng bất thường?
              Nữ tướng Hoàng Su Phì vội ngoắt luôn ngựa lại, nhìn Đại Sơn Vương. Viên tướng đưa mắt trông khắp miền đồi núi chập chùng đoạn quay phắt ngó Chí Plan:
              - Linh tính chưa khi nào hoảng báo. Trước mặt, khéo có phục binh!
              Chí Plan nhìn theo tay chàng trỏ, trong nắng quái chiếu thu, dăm cánh chim rừng khoan thai bay ngang nẻo đường mòn xa xa.
              - Chim chóc không hề bay loạn, lẽ nào đất Su Phì lại có địch quân?
              Chí Plan lẩm bẩm khẽ, dáng phân vân, chợt ngẩng phắt nhìn Đại Sơn Vương, mắt phượng tròn xoe:
              - Có phục binh nẻo trước! Bất trắc đã gần kề, phải mau theo đường khác mới xong !
              Không chậm nửa giây, Voòng Chí Plan liền ra hiệu cho mọi người bỏ lối mòn, rẽ ngựa luôn vào rừng rậm. Nàng băng ngựa đi luôn, được mấy bước Đại Sơn Vương cũng vọt lên theo. Hai người bay ngựa chếch mấy cánh rừng, rồi mới tiến về nẻo đường mòn lúc nãy, đến cách chừng hơn trăm bộ bèn tiến lên một ngọn đèo cao trông thẳng xuống đường mòn. Vừa chiếu ống nhòm quan sát, Voòng Chí Plan đã giật mình bật khẽ:
              - Quả không sai? Có binh phục bên kia hẻm núi thật! Hẻm núi đó, em thuộc từng 1ùm cây bụi cỏ, làm gì có cây xanh đậm mùa này!
              Đại Sơn Vương cau mày gật đầu:
              - Người ngựa chúng ngụy trang cẩn thận lắm nhưng
              không biết quân nào dám ngang nhiên xâm nhập đất Su Phì? Phải đến gần coi.
              Hai người bèn buộc ngựa nương bờ bụi bên đèo, lần xuống hẻm núi, nấp nhin ra. Cành lá ngụy trang rung rinh, thỉnh thoảng lại di động. Hai người nấp chỉ cách hẻm hơn bốn mươi thước, phía dưới trống trơn, nên không quan sát được nữa. Đang lúc băn khoăn chợt nghe có tiếng vó ngựa từ nẻo Su Phì phóng tới. Cả hai chiếu viễn kính coi, thoáng cái đã thấy một bóng kỵ sĩ hiện trong ống kính. Một người đàn ông mặc quần áo H’mông dáng lực lưỡng mặt bịt vải kín mít, chỉ hở có cặp mắt, khăn chàm chít nếp sát chân mày. Ky sĩ tới giữa vòng quân phục, lập tức, sau một mô đá một người cưỡi ngựa ngụy trang tiến ra, hai đầu ngựa chụm sát vào nhau, cả hai nói gì không hiểu, chỉ thấy luôn luôn trỏ tay ra phía biên khu, chỗ bọn Đại Sơn Vương vừa đi tới. Không đầy nửa phút kỵ sĩ bịt mặl cùng ky sĩ nguy trang sóng hàng nhau tiến lên trước hẻm, vừa lúc có một người ngụy trang nữa bay ngựa tới, chỉ tro, bàn bạc chi rồi cả ba lập tức cùng ẩn sau mô đá.
              Voòng Chí Plan buông viễn kính nhìn Đại Sơn Vương, giọng đượm buồn:
              - Ông có nhận ra người bịt mặt cao lớn không?
              Chàng tướng núi gật gù:
              - Trông quen lắm... Dáng coi giống...
              Chí Plan khẽ thở dài:
              - Thúc phụ em quả tính không sai. Anh họ em vẫn ngầm liên kết với tên tướng Pháp... Ta đi thôi! Ông...
              Hai người lộn ngựa về chỗ Voòng Dắt, đoạn cả bọn xuyên qua vùng quân phục tới sơn đô họ Voòng, lúc hươu nai đã kêu lạc giọng ngoài rừng rậm Anh em Chí Plan đưa Đại Sơn Vương vào thẳng nhà Voòng Dắt, đoạn hai anh em lập tức đến yết kiến Chúa H mông. Tướng núi vừa thay y phục xong thì Voòng Chí Plan trở lại:
              - Sớm mai, thúc phụ em muốn được gặp ông. Giờ ông hãy nghỉ cho lại sức. Em còn phải đi bắt anh Voòng Xám đã, maí sẽ tới thăm ông.
              Nói xong, cô cháu gái Chúa H’mông thót lên ngựa dẫn một tiểu đội binh cận vệ thủ túc, chạy bay vào đêm tối để lại trong lòng viên tướng Kinh nỗi bâng khuâng thắc mắc lạ lùng về thái độ của họ Voòng biên giới.
              Choàng chiếh áo dạ rộng lên mình, tướng Thập Vạn Đại Sơn theo Voòng Dắt xuống sàn. Vùng sơn đô vẫn nằm im lìm trong sương sớm, tiếng gà rừng vọng về, chìm nổi gần xa quyện lấy vài nhịp chày “Loáng” gạo.
              Hoàng Su Phì về mùa thu, buổi sáng lạnh như tiết đông thiên. Bên cạnh viên tướng núi, người con cả vua H’mông cúi đầu bước đều, vẻ băn khoăn khó hiểu hiện rõ trên khuôn mặt gân guốc. Chợt từ một căn nhà lớn, một người tuổi trẻ H’mông xăm xăm bước ra nghiêng mình chào và điềm nhiên đì kèm một bên tướng lạc thảo. Nhận ra ngay Vòng Nhì, Đại Sơn Vương cũng nghiêng mình đáp lễ, càng thầm lấy làm lạ vì thái độ của người con thứ vua H’mông, vẻ mặt cũng khó hiểu như anh. Tới
              gần tư dinh, Đại Sơn Vương kín đáo đưa mắt một vòng rộng, thấy vệ binh trấn quanh có vẻ khác thường liền dừng lại:
              - Công tửl Đêm qua Chí Plan cô nương ra biên khu chưa về?
              Hai người con Chúa H’mông nhìn nhau, Voòng Dắt lưỡng lự mấy khắc, trầm giọng:
              - Chắc có việc chi, chưa về. Tôi đã sai em Chí Plan đi tìm... Mời tướng quân! Thân phụ chúng tôi đang nóng lòng hội kiến.
              Viên tướng núi nhếch miệng cười, bất ngờ buông gịong lạnh khô:
              - Tam công tử đang chờ quanh đây bắt tôi trao cho tướng Roux. Chí Plan tìm ngoài biên khu sao gặp!
              Hai anh em họ Voòng bất giác ngó quanh và cùng quay nhìn viên tướng núi ngạc nhiên chưa kịp lên tiếng hỏi, thì chàng tướng núi đã khép vạt áo choàng, tiến lên vẻ mặt gan lì như sẵn sàng chờ đợi bất trắc. Cả ba qua cổng dinh, tới thẳng khu nhà khách. Tùy tướng thuộc viên rạp mình chào. Anh em Voòng dẫn Đại Sơn Vương vào gian phòng khách rộng, gần chỗ vua H,mông.
              Hồi đại hội biên thùy chàng đã tới đây, gian phòng giờ vẫn như trước, trên vách treo đây gươm súng. Lại vị quan già cùng hai viên tùy tướng, vệ binh bước ra, tướng Thần xạ tháo dây súng ngang sườn đặt lên bàn và theo mọi người vượt qua dãy hành lang thăm thẳm, tới căn phòng cận buồng riêng Chúa H’mông. Ánh sáng bị đẩy lùi ra ngoài, chàng bắt đầu bước vào một thế giớí lung linh hoe vàng, ấm hẳn người lên. Như cái máy, Voòng Dắt nhẹ mở cửa phòng, nghiêng mình làm hiệu.
              Đã quen thuộc, Đại Sơn Vương bước vào luôn sau lưng cánh cửa lập tức khép lại. Giữa vùng ánh sáng ảo huyền quyện đầy khói thuốc những chiếc dọc tẩu đang chạy tanh tách trên dây chuyền vàng, hàng mỹ nữ nằm bên năm ngọn đèn dầu như sao sa, chính giữa sập lót da báo gấm, hình dáng quen thuộc của Chúa Tể xứ H’mông nầm bất động, chăn gấm đắp lên tân gáy, khuôn mặt quắc thước tẩm “Moócphin” và ánh đèn dầu, đã trở nên mơ hồ, linh hồn như đã nương cánh khói bay về tận cõi Phù Dung. Viên tướng người Kinh nhẹ nhàng tiến đến bên sập. Mỹ nữ kíinh cẩn cúi chào, không nóiì nửa lời. Như cáit máy tướng núi treo mũ lên mắc, lẳng lặng ngả luôn lưng xuống bên đèn theo đà tay đỡ của mỹ nhân.
              Và, thuốc phiện thượng hạng réo trong lọ sành chạm ngọc từng hồi. Giữa vùng không gian mờ mờ sương khói Phù Dung, chợt tiếng “Ông Vua thuốc phiện Đông Dương” nổi lên, mơ hồ như từ dĩ vãng “Hiện” về.
              …Đã lâu rồi. Cách đây ngót trăm năm. Một buổi Nam bang trở gió vàng hiu hắt, cbiếm xong Nam Kỳ, Pháp quân đánh kinh thành Huế. Nguyễn Triều tướng mọn binh hèn, vua quan kém cỏi nhân dân chán nản phân ly. Kinh thành thất thủ, phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi ra khỏi kinh thành và... đưa theo cả kho tàng triều Nguyễn theo.
              Nhưng rồi thế địch như hùm, bốn phương thất thủ, Vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Thuyết cùng quân gia chạy ra đất Bắc mấy chục xe vàng tẩu quốc cũng theo vó ngựa bôn đào. Khắp nơi quân địch truy tầm. Tôn cùng bọn gia tướng xuyên sơn ngược lên Tây Bắc, tới giang san xứ Thái, Lai Châu. Lối mòn hiểm trở khó đii.Tôn phải cho thồ vàng lên lưng ngựa, suốt ngày đêm, thường xõa tóc cầm gươm trấn áp tải, đề phòng quân tướng sinh lòng phản trắc đoạt vàng. Tôn vốn nghiêm khắc, đa nghi Thất thế, tải vàng theo quá nhiều, càng đa nghi
              dữ dội. Hành trình bí mật, nhưng không qua khỏi tai mắt các tay sơn tặc và tù trưởng Tây Bắc. Số vàng mang theo là tất cả kho làng triều Nguyễn tích lũy bao năm nên cả Pháp quân lẫn sơn tặc đều tìm cách chiếm đoạt. Tôn thừa biết nên hết sức giữ kín lộ trình, và bố phòng cẩn mật.
              Một đêm, đoàn người tẩu quốc dừng ngựa bên bờ Hắc Giang. Tôn chọn một nơi hiểm trở giữa vùng sông núi đóng trại, cho quân gia nấu cơm nghỉ ngơi lấy sức, mai qua sông và đồng thời cho thám mã tuần sát khắp vùng. Canh hai thám mã về báo thấy nhiều bóng người ngựa khả nghi khắp nẻo. Tôn liền đốc xuất tùy tùng bố trận đề phòng, và xách gươm đi khắp trại quân, kiểm soát “Ngựa vàng”.
              Nửa đêm họ Tôn ngồi xõa tóc trong lều, thanh kiếm Long Tuyền để ngang trước mặt. Chợt một trận gió đêm lùa vào thổi rạp thoi nến đỏ. Tôn ngẩng phắt đầu lên, giật mình đánh thót, quơ tay nắm lấy đốc kiếm Long Tuyền. Một ông già quắc thước, râu bạc, áo rộng, mắt sáng, đứng sững trước cửa lều, tay cầm một chiếc bàn tay sét đánh đen xì. Nhanh như cắt họ Tôn nhảy vọt sang bên, tay lăm lăm thanh kiếm báu, quát lớn:
              - Ngươi là ai? Bay đâu!
              Ông già lạ điềm nhiên tiến vào, khoa nhẹ bàn tay sét đánh trước mặt đại thần triều Nguyễn giọng âm u:
              - Tôn tướng công! Lão có lời muốn nói. Xin hãy bình tâm. Chúng quân đã ngủ kỹ rồi!
              Lạ thay! Bàn tay đen vừa khoa Tô Thất Thuyết đứng ngây như pho tượng giương mắt ngó ông già kỳ dị, tâm thần nửa tỉnh nửa mê.
              - Kho tàng là vận mạng của Nam bang, nay Nguyễn triều suy yếu tướng công bại binh còn định chở kho vàng đi đâu? Nay thiên hạ bao kẻ manh tâm chiếm đoạt sớm mai gươm súng địch sẽ chĩa tới bờ Hắc Giang này, thế như hổ báo tranh mồi, sức quân tàn của tướng công sao chống nổi? Sao không chôn giấu kho tàng, chờ cơ hội, chiêu binh mãi mã?
              Tôn đăm đăm nhìn ông già lạ, chống mũi gươm xuống đất.
              - Bại quan này định sang Tàu, vốn đã có ý đó từ khi đem kho làng lên đường tẩu quốc. Nhưng chỉ e báu vạt sa tay đạo tặc, còn lấy gì chiêu binh phục hận?
              Ông già nghiêm mặt:
              - Vật báu Nam bang phải vào tay kẻ có lòng vị quốc. Lão có lời nguyền, có thể giúp tướng công. Mau theo lão.
              Như mê, Tôn Thất Thuyết xách gươm theo ông già cầm bàn tay sét đánh, lòng rối loạn không rõ ma quái thần nhân hay đạo tặc nữa. Khỏi lều ông già đưa họ Tôn ra thẳng rừng rậm, dọc theo bờ sông Hắc và mất hút giữa vùng đồi núi điệp trùng.
              Cuối canh ba, tự nhiên gió rừng nổi lên đùng đùng, lá cây, cát bụi bay mù, nước sông Hắc đang phẳng lặng, chợt nổi ba đào cuồn cuộn. Trong giông gió ầm ầm, đám quân tướng họ Tôn vùng thức giấc, nghe tiếng ngựa hí vang lừng, kẻ xách gươm, ngườì mang súng chạy tới chỗ buộc “Ngựa vàng”, chỉ thấy đàn ngựa kinh hoảng chồm vó giật dây, trên lưng ngựa… cả kho tàng hàng bao nhiêu xe vàng thoi đã biến mất rồi. Quân tướngkinh sợ nhìn nhau bên tai còn nghe từ xa xôi vọng về một tiếng hú rờn rợn bay lượn vật vờ trong gió lốc, kéo dài lê thê rồi vụt tắt trong đêm. Chớp mắt, gió tạnh, nước yên, trời đất khai quang, Tôn Thất Thuyết xõa tóc, xách gươm trở lại vòng quân, truyền nhổ trại lên đường lập tức. Quân tướng thấy mất kho tàng đều kinh, nhưng sợ phép Tôn, không ai dám hỏi. Vượt Hắc Giang tay không cả bọn lại xuyên sơn ngược mãi lên phía biên thuỳ. Rồi một đêm ông già lạ tới dẫn họ Tôn vào rừng,
              gần sáng mới thấy Tôn trở về, hô quân tướng vượt cỏ phân mao, sang đất Tàu, nương ở Long Châu, chờ ngày phục hận.
              Chính sử chép: Suốt ngày đêm Tôn Thất Thuyết đem gươm Long Tuyền ra mài ngày càng dữ tợn như điên rồi thác nơi đất khách để lại miền Tây Bắc một kho tàng vô gía, cơ nghiệp cả Nguyễn Triều. Sử chỉ chép sơ lúc Tôn tới bờ sông Hắc nghỉ binh và cất giấu kho tàng. Sớm mai qua sông, không thấy đem vàng theo nên thiên hạ đều cho là Tôn đã chôn cất quanh vùng. Chờ ngày về sẽ lấy.
              Từ ngày đó tới nay, các tướng tá, tù trưởng mọi sắc dân, cùng bọn giang hồ thảo khấu luôn luôn sục khắp miền Hắc Giang tìm kho tàng vô giá, không biết bao nhiêu khối vàng nén. Nhưng dấu vết kho tàng vẫn chìm trong hư ảo, đất Tây Bắc đã đầy dấu chân người đua nhau tìm kho tàng vô giá. Cả thiên hạ đều tin chắc họ Tôn đã chôn giấu cạnh bờ sông Hắc. Nhưng đến nay màn bí mật vẫn bao trùm Tây Bắc. Chỉ có mấy dòng họ biết con đường tìm đến kho tàng : Bức họa đồ chỉ lối. Vì sau đêm chôn giấu, ông già kỳ dị kia đã cùng họ Tôn vẽ một bản đồ hình bát quái cắt làm tám mảnh mỗi người giữ bốn chọn mặt trao cho tám dòng họ, phòng khi nào thế sự đổi thay, ông già kỳ lạ cùng họ Tôn hi vọng còn có người sử dụng kho tàng bảo quốc. Quả nhiên cả hai người đều không trở lại và họa đồ tám mảnh phân tán tám phương, ngót trăm năm, đã mấy lần đổi chủ. Thiên hạ đổ máu tìm họa đồ ráp lại, ai cũng chỉ đoán đó là mảnh họa đồ ghi nơi chôn bảo vật vô song. Và suốt trăm năm, chưa kẻ nào cầm nổi lấy nửa phần, chìa khóa bí mật trong tay. Cho mãi tới ngày Thần Xạ Đại Sơn Vương từ miền Thập Vạn Đại Sơn vượt cỏ phân mao về đất Việt...
              ...Đang nhắm nghiền mắt, nằm bất động, kể trầm trầm trong ảo mộng chợt Chúa H’mông Voòng Chí Sinh tung phắt chăn gấm, ngồi nhổm dậy, cặp mắt sáng quắc nhìn viên tướng non cao:
              - Không đầy mấy tháng một mình một ngựa dọc ngang, đã đoạt được nửa hình bát quái, Voòng này có lời khen phục. Và... từ lâu, Voòng muốn nhìn tận mắt cho rõ hình bát quái ra sao?
              Giọng Chúa H’mông cất lên cao, sang sảng chợt đổ chìm, một tay chống thẳng xuống tấm nệm da báo gấm, mắt vẫn nhìn như xói vào tận tâm can người tướng khách. Nãy giờ, Đại Sơn Vương vẫn nằm, bình thản nghe câu chuyện cổ, thình lình bị dụ đến tình thế thậm khó xử, viên tướng trẻ tuổi, chậm chạp chống tay ngồi lên, đỡ lấy chén sâm trên tay mỹ nữ, uống khoan khoái lạ lùng theo thót quen cố hữu mỗi khi... nổi sóng trong lòng. Uống xong. chàng nhẹ nhàng đặt chén, nhìn Chúa H’mông nhếch miệng cười tươi và ung dung lấy trong mình ra một chiếc hộp nhỏ, hơi nhào mình đặt nhẹ trước mặt Chúa H’mông.
              Voòng Chí Sinh liếc nhìn chiếc hộp và quay lên ngay, nhìn chàng tướng núi, tay vuốt chòm ria mép mặt thoáng vẻ khó hiểu. Đoạn cúi xuống mở hộp, cầm mấy mảnh giấy bản soi lên, ánh đèn dầu lạc, lật nghiêng ngửa coi, khuôn mặt quắc thước rạng rỡ dưới ánh vàng chập chờn. Đại Sơn Vương vẫn ngồi im, đăm đăm ngó Chúa H’mông theo dõi từng cử chỉ. Voòng đặt mấy mảnh giấy theo hình dải quạt, chợt ngẩng nhìn lên, hỏi chàng:
              - Tướng quân cũng tin là họa đồ bát quái chỉ nơi chôn giấu kho vàng?
              Tướng núi lắc đầu:
              - Hồng Lĩnh này chỉ biết họa đồ dẫn tới một báu vật giấu nơi Tây Bắc cũng chưa nghĩ hẳn là một kho tàng.
              Chúa H’mông gật đầu, đoạn bâng khuâng trông ngọn đèn dầu lạc:
              - Bản đồ không dẫn tới kho tàng. Màn bí mật vẫn bao trùm đã ngót trăm năm. Chỉ có ông già kỳ lạ, cùng họ Tôn là biết rõ. Và hiện nay, chỉ có Voòng này! Bản đô chỉ dẫn tới thần thơ phù thủy, và thần thơ sẽ đưa tới kho tàng. Cho nên, cả thế kỷ, chân thiên hạ đã giẫm đầy Tây Bắc, có khi đã bước tới kho tàng, nhưng lời nguyền ghê gớm của thầy phù thủy đã bảo vệ kho tàng, che mờ báu vật, để chờ kẻ nào có Phù Thủy Thần Thơ. Vì ông già kỳ dị chính là một thầy phù thuỷ cao tay đêm xưa đã dùng âm binh che giấu kho tàng và chìa khóa mở cửa kho vàng, đã dặn cả trong cuốn thần thơ. Và còn điều quan hệ vô cùng, là cuốn thần thơ đó trong có dạy nhiều thuật gớm ghê, thuật bí truyền của riêng dòng Việt tộc mà chài, ngãi, gồng, bắt ârn binh của ít thầy miền núi còn sót lại, chỉ là thuật thường nhất trong Phù Thủy Thần Thơ. Điều bí ẩn chỉ riêng Voòng biết và cũng do tình cờ run rủi, định mệnh xui nên.
              Nói đến đó Chúa H’mông Hoàng Su Phì quài tay sau vách lấy ra một chiếc hộp nhỏ, đặt trước mặt Đại Sơn Vương. Chiếc hộp giống hệt hộp của chàng, không sai mảy may. Chàng còn đang thầm lấy làm lạ, thì chúa H’mông đã nhẹ tay mở ra. Bên trong đặt một mảnh giấy, cầm coi, hệt mấy mảnh kia không sai ly tấc. Chỉ khác là ngoài mặt vẽ hình thể núi sông, còn một mặt vẽ chi chít những hình quái gở giữa những dòng chữ Hán li ti.
              - Đây chính là một bản trong tám bản, nhưng là bản số một. Và chỉ riêng bản này mới ghi rõ nơi dẫn tới Phù Thuỷ Thần Thơ, cùng lời nguyền khi cho âm binh đi chôn giấu kho tàng. Tướng quân hãy coi qua!
              Đại Sơn Vương cúi đọc khẽ những hàng chữ Hán nhỏ như chân kiến, và chợt ngẩng lên, nhìn Chúa H’mông.
              - Lão phù thủy quả là tay trọng nghĩa! Cứ như lời nguyền ghi trông này cả họ Tôn lẫn lão, không ai độc dụng kho tàng. Phải cả hai cùng tới và phải dùng vào đại nghĩa mới xong.
              - Còn hậu thế, kẻ nào nắm cuốn thần thơ sẽ làm chủ kho tàng vô giá. Nhưng theo Voòng, làm chủ cuốn thần thơ mới là điều tối hệ và kẻ làm chủ nếu là kẻ bất nhân, thiếu đức thì cả xứ H’mông của Voòng nguyền lấy máu đối đầu mới nghe !
              Chí Sinh ngừng lại. Giọng lão Chúa H’mông đanh thép, vang âm khắp một phòng, chập chờn trên ngọn đèn dầu vàng sệt và như xoáy vào tận trí óc viên tướng biên thùy. Chợt có tiếng gõ cửa gấp gáp. Đại Sơn Vương nhìn Chúa H’mông, Voòng Chí Sinh hơi cau mày, trong ra phía cửa hất hàm một cái. Cô gái hầu thuốc tiến ra. Và như cơn gió, Voòng Chí Plan bước vào, cặp mắt phương sáng quắc còn đượm đầy sắc giận:
              - Bẩm thúc phụ, ra tới biên khu, vô tình con bị lọt vào quân phục của anh Voòng Xám, bị cầm chân, mãi mới thoát về đây. Hiện khắp ngả, đều có quân anh chực sẵn, xem ý anh quyết lòng không chịu lệnh thúc phụ !
              Chúa tể non cao nheo mắt, hơi nhếch miệng cười khan:
              - Những đứa nào đã theo thằng Xám? Và... phải nó dám làm loạn đất Hoàng Su Phì chăng?
              Chí Plan hơi nhìn Đại Sơn Vương, đoạn khẽ nói:
              - Bẩm, xem anh đầy ngạo nghễ, tự cho đủ tài đối phó với mọi nguy nan. Nhưng chỉ riêng việc này thôi, việc thúc phụ đã định. Còn quân gla là quân bản bộ của anh, chúng chỉ theo thượng lệnh~ Chính con cũng không ngờ anh quyết cưỡng đến thế nên đêm qua chỉ đem ít quân theo. Xin thúc phụ cho con tùy nghi hành động, phải tìm bắt gĩư anh lại cho đến khi mọi việc xong xuôi!
              Chúa H’mông ngồi ngẫm nghĩ, đầu gật gật:
              - Chắc nó lẩn mặt từ hôm qua rồi. Được, để ta sẽ liệu cho nó. Thằng bất tài ngu dốt! Nó đương nổi sao đại sự, đám tham lam! Thằng Dắt, thằng Nhì đâu ! Bảo chúng cùng đi bắt nó về đây!
              Voòng Chí Plan được lệnh, vừa toan quay ra, thình lình, bên ngoài, có tiếng gõ cửa gấp. Chúa H’mông cau mày giận dữ:
              - Đứa nào dám tới làm rộn? Bay đau!Ra xem có chuyện gì ?
              Lời vừa dứt bên ngoài, tiếng gõ càng mạnh, xen lẫn tiếng quát tháo, giằng co như vật lộn. Ngạc nhiên, Voòng Chí Plan chạy bay ra, tay mở cửa, miệng hỏi lớn:
              - Tùy tướng đâu cả! Sao...
              Tiếng nàng vụt im bặt, bất ngờ. Cả Chúa H’mông lẫn Đại Sơn Vương đều ngạc nhiên ngó ra, thấy Chí Pan đứng sững bên cửa, phía ngoài tiếng động mạng cũng vừa im. Voòng Dắt lách vào, vội vã. Tới gần chỗ Chúa H’mông, người con cả họ Voòng đứng phắt lại, đưa mắt nhìn Đại Sơn Vương và tiến đến bên sập, mặt đầy sắc giận.
              - Bẩm phụ thân! Chú Xám xông vàn vòng dinh, tùy tướng ngăn thế nào cũng không nổi. Hai tay hai súng, Xám hiện đứng ngoài cửa, nhất định vào đây!
              Chúa H’mông liếc ra phía ngoài, quắc mắt:
              - Giờ này nó vào đây làm gì? Ta đã có lệnh nghiêm cấm mà.
              Voòng Dắt ngó Đại Sơn Vương đoạn nhìn cha mấy khắc, khẽ nói:
              - Không hiểu sao đột nhiên nó sinh hung hãn, hình như muốn vào... gặp quý khách đây !
              - Chà thằng này giỏi !
              Chúa H’mông nheo mắt, ngó chàng tướng khách, và liếc trông mấy mảnh họa đồ bát quái ngẫm nghĩ chuyện chi. Chợt ngẩng lên phất tay bảo Voòng Dắt:
              - Đuổi nó ra khỏi vùng dinh. Chờ đó! Còn kháng lệnh ta bắn chết không dung !
              Nãy giờ, tướng núi vẫn ngồi im, chợt giơ tay cản Voòng Dắt lại, từ tốn bảo Chúa H’mông :
              - Tam công tử muốn vào, tưởng đại nhân cũng nên mở lượng, chắc công tử có điều chi muốn dạy Hồng Lĩnh đây !
              Bên ngoài, lại có tiếng giằng co va chạm rồi có tiếng Voòng Xám nói lớn:
              - Đại Sơn Vương khát máu, tài đức chi dám đương việc họ Voòng ! Cứ buông ra cho Xám này vào gặp phụ thân.
              Voòng Chí Plan vội đóng ập cửa lại, bước vào chỗ Chúa H’mông. Chúa Su Phì đanh giọng
              - Ra truyền thằng Xám vào đây. Bảo nó đủ sức đương việc lớn, hãy soát lại cối đạn trước khi bước vào!
              Cả Voòng Dắt lẫn Voòng Chí Plan dều mở to mắt kinh ngạc vì quyết định của Chúa H’mông và đều đưa mắt ngó Đại Sơn Vương không võ khí bên mình. Chàng tướng núi vẫn ngồi bất động. Nhưng với vẻ mặt khó hiểu, Chúa H’mông đã điềm nhiên phất nhẹ tay, lạnh lùng:
              - Ra bảo nó vào đây!
              Voòng Chí Plan đăm đăm nhìn Đại Sơn Vương tay cô gái thốt nhiên sờ bao súng, băn khoăn. Voòng Dắt bước ra, chậm chạp hé mở cánh cửa tư phòng và lách mình ra. Bọn mỹ nữ hầu thuốc định đứng lên, thì Chúa H’mông đã thản nhiên truyền lệnh:
              - Chúng bây đâu cứ nằm yên đó, làm thuốc cho ta! Voòng Xám! Quý khách ngồi trên sập đợi mày đấy. Hãy cho tao thấy tài mày được bao nhiêu !
              Lệnh truyền vừa dứt, tư phòng vụt chìm trong im lặng mênh mông. Thời gian như ngừng đọng. Cánh cửa từ từ mở rộng. Mọi người đổ dồn mắt cả vào Đại Sơn vương. Viên tướng giang hồ đảo mắt một vòng và chầm chậm xoay mặt về phía cửa ra vào, vẫn ngồi xếp chân vòng tròn. Voòng Chí Plan đã đứng lùi sát tường, cách chàng chừng bốn, năm thước. Thấy chàng vẫn ngồi nghiễm nhiên, nàng càng kinh hoảng, giương mắt ngó không chớp.
              Sau lưng chàng tướng núi Chúa H’mông cũng đã cúi dựa vào mỹ nữ, quan sát từng cử động của người đàn ông giang hồ tay không trước họng súng địch. Thấy chàng vẫn không nhúc nhích, Chúa H’mông bất giác giơ tay vuốt râu, đưa mắt về phía cô cháu gái.
              - Đại Sơn Vương !
              Thình lình ngoài cửa có tiếng Voòng Xám bật lên oang oang, kéo dài giữa cảnh lặng sâu. Dư âm còn vang vọng trong căn phòng kín, bất nhân đã thấy một bóng xanh chàm lao vụt vào phòng. Rồi liền hai, ba cái nữa loang loáng giữa khung cửa trống. Nhưng chàng tướng núi vẫn ngồi nghiễm nhiên như không. Chàng tướng giang hồ nhận ra những chiếc áo chàm loạn mắt. Voòng Chí Plan liếc thấy chàng bất động càng kinh hoảng, ngó vội ra cửa giữa lúc một bóng chàm xanh theo bóng áo lao vào, nhảy như một trái cầu. Không chậm trễ, thiếu nữ đánh phắt tay xuống sườn, rút luôn khẩu súng ném phăng lại trước mặt Đại Sơn Vương. Đoành... Đoành...
              Mọi người ngó cả vào, chỉ thấy tay chàng tướng núi quài bắt súng như tay vượn, đã nghe tiếng nổ giòn tan nổi lên, trông ra, cách cửa chừng vài bộ, người con thứ ba của Chúa H’mông cò quỵ một chân hai tay giơ trước mặt bắn, nhưng cặp súng bay đâu mất rồi. Còn Đại Sơn Vương đang quay ngọn súng trên ngón tay, và giữa lúc mọi người còn xúc động, chàng tướng Thần xạ đã ném nhẹ khẩu súng về phía Chí Plan, từ tốn:
              - Cám ơn cô nương
              Chúa H’mông lập tức ngồi nghiêm, trỏ Voòng Xám quát:
              - Mày đã thấy chưa? Nếu tướng quân không rộng tình dung tội, mạng mày đã dứt còn đâu Biết điều lui mau cho khuất mắt !
              Voòng Xám tái mặt như chàm đổ trừng trừng nhìn Đại Sơn Vương đoạn lừ lừ bước khỏi tư phòng. Voòng Dắt, Chí Plan cũng đính lui ra, nhưng Chúa H’mông đã giơ tay lưu lại, đoạn nghiêm mặt bảo Đại Sơn Vương:
              - Cảm ơn tướng quân đã rộng tình tha mạng thằng con ngu dại, Voòng xin tướng quân tha cho nó tội hỗn xược buông lời ngạo mạn!
              Nói xong Chúa H’mông thu tất cả mảnh họa đồ bỏ vào hộp, trao tay chàng.
              Tướng quân đủ tài trí tìm lấy Phù Thủy Thần Thơ cùng kho vàng vô gía. Bấy lâu Voòng phải giữ mảnh họa đồ số một này, vì chưa tìm được mặt trao tay, nay xin gửi cả tướng quân!
              Đại Sơn Vương đăm đăm ngó lại Voòng:
              - Hồng Lĩnh này vì lời nguyền của tổ phụ nên phải kiếm tìm bảo vật, dám đâu tự nhiên nhận báu vật của đại nhân.
              Voòng Chí Sinh mỉm cười:
              - Không, nhân ngày nay, tất có buổi tướng quân phải tới đất Su Phì, vì ý muốn của cha ông. Voòng cùng tướng quân phải thành địch thủ Voòng không tham vọng, chỉ muốn cùng dân riêng sống “Tri hòa ». Nếu kho tàng về người Nam như tướng quân, chắc xứ H’mông cũng được vinh lây.
              Miêng nói, tay Voòng ấn hộp vào tay tướng núi:
              - A Voòng Dắt ! Truyền chúng dọn tiệc tiễn hành tướng quân!Tướng Roux đang đợi ngoài biên !
              Voòng Dắt, Chí Plan cúi chào lui ra. Chúa H’mông mời chàng tướng núi nằm xuống. Dọc tẩu lại chạy tanh tách trên dây chuyền vàng. Tướng Thập Vạn Đại Sơn cùng Voòng Chí Sinh thay nhau kéo hết điếu nọ đến điếu kia. Giữa vùng ánh sáng dầu vàng vọt chập chờn, hai người bắt đầu nói chuyện nhỏ to, tới trưa bữa thuốc mới dứt.
              Theo Chúa H’mông bước ra khỏi tư phòng, Đại Sơn Vương bước lửng lơ như đi trong mộng.



              Hết .


              ST
              Last edited by nahoku; 03-10-2008, 03:07 AM.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #22
                bạn ơi chuyện lửa hận rừng xanh bạn viết thiếu nhiều lắm không biết chuyện này có đủ không

                Comment


                • #23
                  Nguyên Văn Bài Viết Của trungtrung800 View Post
                  bạn ơi chuyện lửa hận rừng xanh bạn viết thiếu nhiều lắm không biết chuyện này có đủ không

                  Chào bạn,
                  Cám ơn bạn đã ghé thăm, những truyện này đều là copy sưu tầm cả...nên mức độ chính xác và thừa thiếu thì người post bài khó có thể biết được, vả lại mình có post tẩt cả những truyện của Hoàng Ly ( mà mình có thể kiếm được) vào đây, những truyện này hình như nối tiếp nhau.....bạn tham khảo thêm truyện này xem sao :




                  Thân,
                  Nahoku
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #24
                    Chuyện này quá hay !!mình mê từ lúc đi học đây !!
                    sigpic Có lúc cần từ bỏ cô gái này để có 1 cô khác

                    Bỗng một ngày em bất chợt nhận ra
                    Trái tim em đã trở nên chật chội
                    Con đường yêu em không còn mở lối
                    Để dành riêng cho duy nhất một người.

                    TN

                    """This is the miracle that happens every time to those who really love: the more they give, the more they possess."""

                    Comment

                    Working...
                    X