Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Thập Vạn Đại Sơn Vương - Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thập Vạn Đại Sơn Vương - Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh

    Hồi 1

    Vượt Cỏ Phân Mao

    Mặt trời từ từ hạ xuống thấp, cách ngọn núi Tây chừng nửa con sào. Sương mờ đã bắt đâu dâng lên, xoá dần những vùng nắng chiều loang lổ trên ngọn cây đỉnh dốc. Cả một miền biên giới hoang sơ quạnh vắng chìm mau trong ánh hoe vàng và vùng không gian cô tịch thỉnh thoảng lại dao động vì những tiếng gà rừng eo óc, buồn tênh. Đột nhiên, giữa cảnh im lìm của núi đồi biên giới, chợt bật lên nhưng tiếng động gấp gấp. Tiếng vó ngựa khua mạnh trên đường mòn sạo gợn, khô cằn, chuyển nhanh về nẻo biên giới Việt... chợt nổi, chợt chìm giữa hẻm núi. Thoáng cái trên đỉnh đèo cao ở phía biên giới, vụt nhô ra hai bóng người cưỡi ngựa, in vào nền trời úa hai hình thể lắc lư, sừng sững, trong nắng chiều.
    Xuống tới chân đèo, hai người lại mải miết cưỡi ngang qua một giải thung lũng hẹp, vượt lên một ngọn đồi đất mới ngừng lại cách nhau chừng nửa đầu ngựa. Người trước là một ông già Việt, chừng ngót sáu mươi, mặt quắc thước, mắt sáng, râu năm chòm, khổ người béo lẳn ẩn sau bộ quần áo chàm xanh. Chân lão đi giày tàu vải, súng lục đeo ở hai bên sườn, bên trái giắt thềm một con dao thổ rừng bao khảm. Người cạnh sau là một người gốc Hoa tuổi khoảng bốn mươi, mắt diều hâu râu quai nón, mặt mũi coi có vẻ dữ tợn, nhất là có một vết sẹo chạy dài từ thái dương tới quai hàm trái, hằn lên như chiếc đũa, trắng bóng trên nền da sạm nắng. Người này cao lớn vạm vỡ, cũng mặc quần áo chàm xanh, đeo bên sườn một khẩu pạc hoọc lớn, vai lại còn khoác chéo một băng đạn và ngay bên yên ngựa còn giắt thêm một khẩu súng trận, ngoài ra còn hai cái sắc khá to buộc trên lưng ngựa ô. Cả hai người yên lặng trên yên, đảo mắt nhìn khắp vùng biên giới đầy bất trắc. Lát sau ông già Việt quay bảo người gốc Hoa:
    - A Voòng à!
    Đang mải nhìn về phía sau lưng, nghe bảo, hắn vội quay lại:
    - Dạ đại vương...
    Hắn chợt dừng phắt lại, chớp mắt nhìn ông già có dáng e sợ vì lỡ lời. Nhưng ông già chỉ hơi đưa mắt một cái đoạn chỉ tay về phía thung lũng trước đầu ngựa.
    - Hình như đã tới vùng cỏ phân mao rồi thì phải? A Voòng Lầu!
    Voòng nhìn theo, nói luôn:
    - Dạ phải!
    Ông già khẽ gật đầu, đoạn im lặng nhìn về nẻo đất Việt, đôi mắt trở nên bâng khuâng, sâu thẳm. Không thấy ông già nhúc nhích, Voòng Lầu cũng ngồi im nhưng thỉnh thoảng lại đảo mắt nhìn quanh mình, có vẻ nóng ruột... bồn chồn... Hắn khẽ lên tiếng:
    - Thầy à! Ta vượt thôi, khỏi chờ tối.
    Ông già quay nhìn người thuộc hạ, rồi lại quay về nẻo cũ, đứng im.
    - Thầy à... Đây là đất nhiều giặc cỏ lắm. Ta không nên ở lâu...
    Ông già chưa kịp trả lời thì đột nhiên, một tiếng súng từ phía trước mặt nổi lên, tiếp theo là từng loạt súng dồn dập tới. Hai người vội nheo mắt, lắng tai nghe:
    - Tiếng súng từ bên kia biên giới. Nhiều tiếng pạc hoọc lắm. Có lẽ tụi giặc Thoòng...
    Vừa nói, Voòng Lầu vừa nhích ngựa lên cạnh ông già. Hắn rút phắt trong sắc ra một cái ống nhòm nhỏ, trao cho ông già Việt. Lão hướng về phía súng nổ chát chúa quan sát, đoạn trao ống nhòm cho Voòng:
    - Đánh nhau lớn. Có quân tuần chạm súng với thổ phỉ!
    Tiếng súng vọng về mỗi phút một thêm nhiều, quật vào những vách đá, vang truyền đi, náo động. Ông già đảo mắt nhìn địa thế, đoạn xốc nhanh lại bao súng, chuyển tay cương:
    - Để ta xuống xem sao?
    Nhưng người thuộc hạ vội giơ tay cản:
    - Để tôi! Thầy cứ đứng đây!
    Dứt lời, hắn đánh ngựa xuống đường mòn, phóng về nẻo thung lũng có tiếng súng nổ. Trên ngọn đồi, ông già cho ngựa nhích khuất sau một cành lá um tùm và nhìn về phía thung lũng, đợi chờ, khuôn mặt như không có vẻ xúc cảm. Chỉ mươi phút sau, Voòng Lầu đã phóng ngựa về nói nhanh:
    - Thầy ạ! Bọn giặc Thoòng. Bên kia hình như không phải lính tuần. Tôi nghe tiếng quát toàn tiếng Việt.
    Ông già khẽ hất hàm:
    - Bên nào bị đánh?
    - Có lẽ bọn nào đó bị giặc Thoòng phục đánh. Bọn chúng đông lắm, phải đến hàng trăm.
    Hai thầy trò lại im nghe. Tiếng súng dội lên và đột nhiên thưa dần. Ông già mím chặt vành môi, mắt thoáng như bốc cháy.
    - Một bên tháo chạy rồi. Súng nổ đuổi về nội địa Việt, có lẽ Thoòng...
    Đang nói, lão ngừng phắt và nói gọn:
    - Xuống cả!
    Như đã quen đoán những quyết định trong óc chủ, Voòng rút phắt súng trận cầm tay và thúc mạnh gót chân vào hông ngựa, cùng lúc, hai con vật chồm lên, và Voòng lao đi trước. Vó câu khua động rừng chiều, gấp gấp, vượt qua đường mòn liến về phía biên giới. Vào sâu nội địa Việt Nam, hai người cho ngựa băng rừng, vào một đường mòn vắt qua một hẻm núi đá dựng như thành. Vừa lúc đó, tiếng súng phía trước chợt thưa dần rồi im bặt. Đang đi, Voòng Lầu dừng phắt ngựa lại, ngoảnh mặt lại phía sau. Đánh ngựa lên sát bên Voòng, ông già Việt vội ghìm cương, lắng tai nghe đoạn đưa mắt nhìn quanh. Rừng chiều đã trở lại cảnh im lặng mênh mông và hoàng hôn đang đổ mau xuống vùng biên giới. Voòng chỉ tay xuống đường mòn đầy dấu chân ngựa giẫm nhầu cỏ dại:
    - Quân Thoòng vừa kéo qua đây, a thầy! Chúng phục đánh ngay bên kia hẻm núi!
    Ông già lặng lẽ cúi nhìn vùng cỏ nát dưới chân ngựa, đoạn ngoảnh mặt về phía trước:
    - Súng im hẳn, chắc bọn chúng đang rút về nẻo khác rồi.
    Người thuộc hạ vội trỏ hướng Tây Bắc chếch, đầu gật luôn mấy cái:
    - Da.... da..... Lối đó có đường xuyên núi về Tàu gần lắm a thầy!
    Ông già hơi gật đầu không đáp, liền giật mạnh tay cương cho ngựa tiến qua hẻm núi. Tới chỗ hai bên mở ra thoai thoải, ôm lấy một vùng cỏ nhàu nát loang lổ máu tươi, ông già quay bảo người bộ hạ:
    - Đám bị phục đánh có lẽ bị tử thương nhiều, a Voòng!
    Người bộ hạ đưa mắt nhìn những vung máu loang trên cỏ, chưa kịp nói, thì ông già đã tiếp luôn:
    - Đón đường rút của bọn giặc Thoòng xem sao?
    Hình như đã quen với những quyết định chớp nhoáng của người trên, Voòng vội đảo mắt một vòng quan sát nhanh địa thế đoạn thúc ngựa vượt lên trước, ra ngoài hẻm, phóng thẳng lên một ngọn đồi khá cao, ngay phía trước. Hai người ghé sát bên nhau, Voòng đưa tay chỉ trỏ về nẻo Tây Bắc, mấy khắc sau, hai con ngựa bỏ đường mòn, tắt qua thung lũng, quay đuôi lại hướng Nam, băng rừng xuyên sơn. Khi hai người đảo sâu vào nội địa chừng hai cây số, thì mặt trời đã gục hẳn xuống bên kia ngọn núi Tây từ lúc nào và những tia nắng tàn cũng tắt hẳn trên đỉnh dốc. Sương lam lên dày đặc và không gian đả bôi nhọ mặt người. Tới một vùng núi đồi trùng điệp, dựa lưng vào một thung lũng hẹp, Voòng Lầu dừng ngựa bảo ông già:
    - Trước mặt đây là con đường về sào huyệt bọn Thoòng. Chắc chúng sẽ qua đây.
    Ông già quan sát quanh mình, đoạn gật đầu bảo thuộc hạ:
    - Chỗ này đắc địa lắm? Đường cách bao xa?
    - Dạ, chỉ vài mươi thước thôi. Nếu ra nấp sườn hẻm có thể nhìn chúng qua trước mặt.
    Ông già nhảy phắt xuống đất:
    - Dắt ngựa buộc sau chỗ khuất. Nếu cần ta có thể luồn rừng, phục đánh chúng.
    Voòng Lầu ngó chủ, hơi ngạc nhiên về ý định của ông già nhưng vẫn lanh lẹ xuống ngựa, tìm chỗ buộc, đoạn theo sau lão, súng trận cầm tay. Tới sườn núi thấp, hai người tìm chố hốc đá ẩn kín, ngay khúc ngoặt, cách đường trước mặt chỉ độ mươi thước. Bốn bề im lặng sâu thẳm. Sương bốc mau căng bóng đêm. Con đường mòn trước mặt chỉ còn là một vệt mờ ẩn hiện trong cảnh tranh tối tranh sáng. Và bóng tối sụp xuống, trùm hết núi rừng. Không có tiếng động nào khác ngoài tiếng lá rì rào lẫn tiếng trùng đêm rên rỉ. Ông già có vẻ nóng ruột:
    - Sao lâu thế? Hay chúng không về đường này?
    - Thầy khỏi lo. Tôi thuộc khắp miền, nó sẽ đi qua đây mà. Ta đi tắt, tới trước hàng nửa giờ đó, a thầy.
    Ông già toan nói, chợt im. Như đáp lời Voòng, vừa khi đó, phía trước bỗng nổi lên tiếng vó câu khua rầm rập. Và không lâu, ánh lửa hắt lên sườn cây, rừng rực. Voòng Lầu thấp giọng:
    - Giặc Thoòng! Hình như đông lắm!
    Ông già không đáp, vẫn chăm chú nhìn về phía ánh lửa. Chỉ thoáng sau ánh lửa đuốc sáng rực đá ra khỏi bóng cây và hai thầy trò ông già đã trông thấy đám đông người ngựa lố nhố đi dưới ánh đuốc đỏ khè, tiến dần về phía hai người. Bọn giặc tới thật gần, cười nói líu lo, khi chúng tiến sát đến gần chỗ hai người nấp, thốt nhiên tên đi đầu giơ tay làm hiệu về phía sau, cho cả bọn dừng lại. Đoạn, tên đó chiếu đèn bấm loáng loáng khắp hai bên sườn núi, rồi mới ra hiệu cho đồng bọn tiến lên. Mấy chục tên thổ phỉ cưỡi ngựa đi trước chậm chạp tiến qua họng súng. Ông già ghé sát vào tai Voòng Lầu thì thầm hỏi:
    - Chủ tướng chúng là tên nào? Có phải tên cưỡi ngựa đen không?
    - Dạ không phải đâu! Chắc Thoòng đi phía sau.
    Đang nói, chợt Voòng Lầu khẽ giật tay ông già:
    - Thầy coi kìa!
    Lúc đó, ông già mới nhận ra, có mấy tên dắt ngựa, trên yên có mấy người bị trói ngồi chặt. Mấy người đàn ông kẻ mặc âu phục, người quần áo thổ, thảy đều bị thương, mặt mũi lem lước Và sau tốp đàn ông, là một cô gái quần áo tả tơi, môi mím chặt, mắt sắc như dao, vẻ mặt khinh khi giận dữ. Thoạt nhìn, đã nhận thấy ngay cô gái có một vẻ đẹp lạ lùng. Tuy bị bắt trói ngồi trên lưng ngựa, cô gái không hề lộ vẻ gì sợ sệt và những nét kiêu hãnh bướng bỉnh vẫn toát ra từ khuôn mặt, dáng dấp khác thường. Ngay xế sau lưng thiếu nữ là một gã xạ phang râu xồm, mặt mũi trông dữ tợn ngang tàng, hai tay luôn luôn tung bắt hai khẩu pạc hoọc trông rất thiện nghệ. Sau gã, là đoàn ngựa thồ những bọc hàng lớn, kế là toán quân hậu tập. Cả bọn rầm rập tiến qua.
    Tới giữa hẻm núi, gã xạ phang râu xồm tiến ngựa lên phía trên cô gái bị bắt, nói một tràng tiếng Quan Hỏa và đột nhiên xả luôn mấy phát đạn về phía hai bên sườn núi. Nấp sau gốc đá, Voòng Lầu khẽ bảo ông già Việt:
    - Giặc Thoòng đó, a thầy!
    Ông già hơi cười chậm rãi:
    - Coi bộ thằng tướng thổ phỉ này đa nghi như Tào Tháo và kiêu ngạo về tay súng lắm!
    - Dạ. Bọn lạc thảo khắp vùng này đều gọi nó là “Đại Vương Pạc Hoọc” mà!
    - À ra thế!
    Ông già Việt vừa buông lời, Voòng Lầu chỉ kịp thấy một cánh tay lão thoáng khoa lên trong bóng tối, ngọn súng đã lóc như chớp giật, nhìn ra đã thấy khẩu súng của tướng thổ phỉ vừa tung lên đã bị hắt rơi xuống chân ngựa, còn bàn tay hắn đang xòe ra bắt... không khí.
    Tiếng súng từ hẻm núi bật lên, cả bọn giặc còn đang giật mình, đứng sững, chưa hiểu đầu đuôi, thì viên tướng rừng xanh đã vùng chột dạ, vừa thẹn, vừa tức, hắn đảo mắt nhìn lên và chỉa phắt tay súng trái toan xả vào chỗ phát ra tiếng súng. Nhưng tay hắn vừa vung lên, thì từ hang núi, một tia chớp lại lóe lên và bàn tay trái Thoòng bị đau dội thình lình như bị dùi đâm, khẩu pạc hoọc rụng luôn xuống đất.
    Biết gặp địch thủ, tướng Thoòng vội lẩn xuống nấp sau sườn ngựa, miệng quát lớn:
    - Có quân phục! Tắt đuốc đi!
    Nhưng từ vách núi, từng loạt đạn đã xả xuống đám quân Thoòng, khiến mấy tên nghã gục luôn.
    - Tắt đuốc mau!
    Tiếng tướng Thoòng quát lớn, qua mấy giây bàng hoàng những ánh đuốc mới tắt phụt, bọn thổ phỉ bắt đầu phản ứng luôn, bắn xối xả vào chỗ hai người nấp.
    - Vắt đầu, vắt đuôi lên sườn núi! Chúng bây! Quân phục không nhiều đâu! Mau lên!
    Trong bóng tối giữa tiếng súng nổ đạn reo, tiếng viên tướng thổ phỉ khẽ rít lên truyền lệnh cho bộ hạ, gấp gấp. Nhưng sau hốc đá, tiếng súng đã im bặt. Và khi đám quân Thoòng từ các ngả đánh thốc lên, chỉ còn gặp hốc đá vắng không.
    Ánh đuốc lại bật lên sáng rực cả một vùng. Tướng Thoòng ôm bàn tay bị đạn, nhìn những vỏ đạn rơi vãi khắp hốc núi, mắt giận muốn nảy lửa, răng nghiến chặt vào nhau:
    - Chỉ có mấy đứa! Hừ chúng đã rút mất rồi! Tụi nào lớn gan thật!
    Hắn đưa mắt vọ trừng nhìn đám bộ hạ xúm quanh và bất giác ngó về phía bọn người bị bắt. Vẫn ngồi trên lưng ngựa, thiếu nữ thấy bộ điệu của “Pạc Hoọc Đại Vương” chợt phá lên cười chế nhạo.
    Thoòng giận sôi lên, toan rút súng ra, nhưng nghi thế nào, hắn lại cố nén, quay đi khoát tay ra lệnh cho bộ hạ lên đường. Cả toán lại noi theo lối đường mòn, len lỏi giữa rừng sâu, tay súng lăm lăm, mặt mũi lầm lì dưới ánh đuốc. Trong đêm rừng hoang vắng chỉ có tiếng vó ngựa khua trên mặt đá dăm. Thoòng đi giữa đám bộ hạ, mắt luôn đảo nhìn khắp vùng, tới chỗ hơi khả nghi là vội cho quân tiến trước dò xét cẩn thận rồi mới tiến. Cứ tới đoạn nào có vẻ hiểm địa một chút là Thoòng lại ra lệnh dập đuốc, cho bộ hạ bỏ đường mòn, băng rừng đi một quãng xa, rồi mới lại bắt vào đường. Đám giặc Thoòng mỗi lúc càng tiến sâu vào miền núi hiểm, không một bóng nhà sàn của thổ dân.
    Khoảng ba giờ sau, bọn chúng tới một dãy núi đá. Khu đường mòn thắt lại như cổ chày, phía trước mở ra một thung lũng chạy khá dài, đưa vào một dãy núi điệp trùng, cao ngất dựng ngang suốt chân trời.
    Có lẽ tới địa đầu sào huyệt rồi, nên tướng Thoòng cho bật đuốc thêm sáng rực, đoạn phóng ngựa ra phía cửa núi, hướng về nẻo núi dựng sau thung lũng, bắn luôn năm phát súng pạc hoọc. Từ phía xa, chợt nổi lên năm phát súng vang vọng trong đêm. Thoòng quay lại, hạ lệnh cho bộ hạ bịt mắt những người bị bắt lại. Bịt kín mắt đám người bị bắt xong, viên tướng thổ phỉ truyền bộ hạ lấy một cuộn thừng dài, buộc ngang lưng người nọ với người kia thành một hàng dọc, cách nhau chỉ vừa đầu ngựa. Xong, hắn mới ra lệnh tiến vào thung lũng, quân chia làm ba cánh, hai toán áp hai bên, còn Thoòng dẫn đầu toán giữa áp tải những người Việt bị bắt cùng tụi quân vừa bị thương.
    Đám giặc cỏ cứ thế băng rừng, tiến sâu vào thung lũng. Ánh lửa bập bùng thiêu cháy từng vòng bóng tối. Mặt mủi thổ phỉ trở nên lầm lì, không một tiếng nói cười giữa rừng sâu quạnh vắng, chỉ còn nổi lên những tiếng vó câu rầm rập khua không đều trên mặt đất gồ ghề.
    Thoòng ngồi yên trên ngựa, thânhình lực lưỡng lắc lư theo nhịp vó câu từng bước một, mắt lim dim ngủ gà ngủ vịt, có vẻ yên tâm đã có hai cánh quân tiến áp hai bên sườn cách đó không xa. Nhưng đột nhiên một tiếng súng nhỏ chợt nổ vang ngay phía cánh quân bên tả, tiếp theo đó liền nổ luôn mấy phát nữa. Viên tướng thổ phỉ mở choàng mắt ra, rút phắt súng cầm tay, đảo nhìn về chỗ súng nổ. Có tiếng quát tháo nổi lên và qua mấy khắc, từng loạt súng bật theo, loạn xạ. Thoòng chớp chớp mắt, chưa biết tính sao, thì mộl viên đạn đã réo xẹt mang tai, tiếng nổ ngay lên phía hữu cách đó chỉ chừng mười thước. Viên tướng thổ phỉ chỉ còn kip lăn xuống chân ngựa thì tiếng súng đã nổi lên. Đạn xoáy tới tấp vào đám quân áp tải, khiến hai ba tên chưa kịp xuống ngựa đã thét lên ngã dụi trên yên. Tướng thổ phỉ định thần nhận thấy ngay tiếng súng phát ra từ mấy cây cổ thụ um tùm gần đấy. Hắn vừa bắn xả về phía đó, vừa truyền bộ hạ ứng chiến, tìm chỗ nấp, đánh gọng kìm kẹp lại, và lửa đuốc lần này không cho tắt vì viên tướng giặc quen nghề xung trận, nghe tiếng súng, đoán rõ đó chỉ là một số ít tay súng gan dạ đánh luồn giữa mấy cánh quân hắn thôi. Trong lúc biến, mấy tên quân áp giải người bị bắt cũng tìm chỗ ẩn, những vẫn chĩa súng về bọn họ đề phòng. Cô gái và đồng bọn vẫn ngồi trên yên không nhúc nhích, lắng nghe đạn réo quanh mình.
    Bị trói xâu vào một chuỗi, cô gái còn đang suy tính ngược xuôi, chợt cảm thấy nhẹ bỗng hẳn trước sau. Nàng vội kín đáo xoay trở mình mới biết dây thừng buộc xâu đã đứt, không còn bị ràng buộc với trước sau nữa, chỉ còn hai tay bị trói chặt, mắt bịt bưng không rõ địa hình. Cô gái nghiêng đầu lắng nghe và cố lấy dáng bình thản của người ngoài cuộc. Có lẽ nàng dự đoán vẫn có những họng súng của giặc chĩa vào mình. Nhân lúc súng nổ loạn xạ, cô gái vùng kêu rú lên, rướn người lên một cái và lảo đảo ngã xuống bờm ngựa. Rồi chậm chạp đổ của người xuống đất quằn quại... theo hơi đuốc nóng rất gần đấy lăn tới. Tiếng súng vẫn nổ dồn, tiếng giặc quát tháo nghe đã hơi xa, khoảng đến hai mươi bước. Cô gái lăn thêm một vòng, cảm thấy đỉnh đầu nóng ran vì hơi lửa đuốc.
    Nhưng vừa nằm sấp, nàng vội ngưng cử động, vì một viên đạn đã réo sát bên mang tai, tiếp theo đó có tiếng xạ phang quát theo từ bụi rậm gần đấy:
    - Nằm im! Không vỡ sọ!
    Cô gái vội rên thêm to, và quằn mình, đưa dần hai cổ tay bị trói ra phía trước. Lửa cháy nóng bỏng, cô gái vẫn nằm im, trong cái dáng của người bị thương kiệt lực, riêng hai cổ tay nàng vẫn lựa hơ vào lửa, miệng mím chặt chịu đau rát, tai vẫn lắng nghe động tĩnh.
    - Cô gái đang bị lửa đốt!
    - Bị đạn lạc vào, hình như không nặng lắm!
    - Vào lôi ra mau, không chết cháy mất!
    Tiếng bộ hạ tụi Thoòng lao xao bàn tán gần đó đưa tới. Nhưng có lẽ sợ bị đạn, chưa tên nào dám rời chỗ nấp. Cô gái vẫn nằm im. Và hình như cách đó không xa, cặp mắt vô hình nào đó đã thấu suốt, nến tiếp tục bắn rát vào tụi giặc, như hỗ trợ cho cô gái.
    Bựt! Dây trói đứt tung, Cô gái quằn mình, xoay lưng lại lũ giặc, kín đáo giật khăn che mặt xuống. Khung cảnh rừng khuya bừng lên, thoáng cái, cô gái đã lượng được địa hình. Xuất kỳ bất ý, sau khi đã lăn vào bụi cây có con ngựa che cản họng súng giặc, cô gái chồm lên như một cái cần bật, lao mình vào thân cây.
    - Nó chạy kìa! Đứng lại!
    Tiếng quát và tiếng súng đuổi theo tới tấp, náo loạn. Nấp sau thân cây, cô gái chờ xong một loạt đạn đầu, và lao mình thẳng về tiếng súng đang bắn ngược lại phía quân Thoòng.
    - Nằm xuống!
    Vừa lao vừa chạy được mấy bước, chợt nghe có tiếng người kêu phía trước, thiếu nữ vội đâm sấp xoài trên mặt cỏ, trong lúc viên đạn réo ngay trên đầu, ngó lại sau vừa kịp thấy một tên thổ phỉ đuổi theo đang chới với buông rơi khẩu súng pạc hoọc, dúi vào một bụi cây cạnh đó. Và sau hàng chân ngựa thấp thoáng mấy bóng giặc Thoòng nhấp nhô trong đám lá thấp.
    Thiếu nữ đảo mắt một vòng, không chậm một giây, lăn mình sau một thân cây mé tay mặt.
    - Đây, lối này!
    Tiếng người lạ chợt cất lên, khiến thiếu nữ ngồi phắt dậy, ấp lưng vào thân cây, định thần tìm kiếm. Nhờ ánh lửa bập bùng từ chỗ bọn thổ phỉ hắt tới, nàng ngó thấy một tay súng vừa khoa lên trong cảnh tranh tối tranh sáng, ngay sau một thân cây lớn, có cành lá dây leo chằng chịt, cách chỗ nàng chừng mười lăm bước. Thiếu nữ lao mình qua từng thân cây để tránh đạn thoăn thoắt, thoáng cái, đã phóng tới chỗ người lạ. Thấy cô gái chạy tới quá đà, người lạ liền giơ một cánh tay ra cản ngang và kéo mạnh cô gái vào chỗ nấp. Sức chạy của thiếu nữ đang mạnh, gặp sức kéo bất thình lình, khiến thiếu nữ ngã ngồi ngay vào lòng người lạ, thở hào hển. Ngẩng mặt nhìn lên, trong vùng sáng tối lẫn lộn, nàng nhận ra ngay người lạ là một ông già quắc thước, hai tay cầm hai khẩu súng, và dáng dấp cũng thoáng vẻ lúng túng.
    Cô gái toan chống tay ngồi dậy, thì ông già đã bước chéo nửa vòng sang một bên và gắn luôn vào tay cô gái một khẩu súng:
    - Hãy giữ lấy tùy thân. Cô cứ rút trước về sau, tôi bắn cản chúng rồi sẽ rút theo.
    Đỡ lấy súng, thiếu nữ ngó về phía thổ phỉ, đoạn quay nhìn ông già lạ:
    - Xin cho tôi được cự giặc Thoòng đã!
    Ông già chỉ hơi nhíu mày một chút, đoạn chĩa súng về phía địch.
    Hai người bắn rát, không cho tên nào thoát ra.
    Tự nhiên về phía quân địch, tiếng súng thưa dần. Cả tiếng súng về nẻo cánh quân đàng kia nữa. Ông già nói nhanh:
    -Ta rút thôi, gọng kìm nó sắp kẹp lại rồi.
    Dứt lời, ông già khoát tay là hiệu và lập tức, thiếu nữ rút về phía sau len lỏi qua những bụi rậm chông gai, giữa bóng tối mịt mù. Đã có vẻ quen sống ở rừng sâu núi thẳm, nhưng lạ rừng, thiếu nữ không thể nào đi nhanh được. Thỉnh thoảng lại vấp dây leo, ngã dúi. Ông già luôn phải giơ tay dắt, Cứ thế hai người băng rừng, lần đi trong bóng tối đi được chứng hai mươi phút thì phía sau, tiếng súng nổi lên dồn dập. Ông già đứng ngó lại khắp nơi và bảo thiếu nữ:
    - Chúng ta đã kịp tới chỗ ẩn nấp ban nãy rồi. Giờ chỉ còn phần tránh quân phía trước.
    Thiếu nữ ngạc nhiên:
    - Thế rạ..?
    - Ta vừa luồn vừa đánh giữa hai cánh quân giặc Thoòng!
    Hình như thấu rõ sức táo bạo và sự nguy hiểm của cuộc đánh luồn, thiếu nữ khẽ hỏi:
    - Nhưng chắc phải còn...
    - Một tay súng nữa đánh cầm chân cánh quân sườn.
    Ông già thản nhiên tiếp lời và buông gọn:
    - Ta đi mau đến chỗ buộc ngựa.
    Và không để cô gái kịp hỏi chi nữa, lão bước vụt đi ngay, dẫn cô gái đi quanh co mãi trong bóng tối, cô gái phải hết sức định thần để theo sát. Mãi mười phút sau mới ra tới một chỗ khá quang đãng thấy một con ngựa đang đứng quẫy đuôi đuổi muỗi trong đêm mờ ánh sao thưa.
    Lanh lẹ, ông già đỡ thiếu nữ lên mình ngựa, và nhảy lên theo, cầm cương, thúc chạy luôn... Đường hoang vắng và vó ngựa chuyển mau, từ bước một tới kiệu băm. Nhưng thình lình, ông già ghìm phắt tay cương, nghiêng đầu nghe ngóng. Đâu đây, có tiếng chân người, ngựa, dẫm xào xạc trên lá khô. Ông già lập tức cho ngựa lui vào chỗ khuất. Tiếng động chợt im bặt. Đứng đợi mấy khắc, không thấy động tĩnh gì, ông già liền khum hai bàn tay, đưa lên miệng, rúc mấy tiếng cú mèo. Gần đấy, có tiếng cú rúc theo. Ông già quay lại khẽ bảo thiếu nữ:
    - Voòng Lầu thuộc hạ đó.
    Thiếu nữ chưa kịp hỏi thêm thì nghe có tiếng động ở phía tả, thoáng cái đã thấy một bóng người cao lớn từ trong bóng tối nhô ra, tay dắt theo một con ngựa tiến đến trước đầu ngựa ông già và nhảy phắt lên yên rồi giật luôn cương tiến đi trước. Hai con vật lùi lũi đi trong đêm tối, chậm chạp luồn hết đồi nọ núi kia, tiến dần về hướng nam. Tới gần một dãy núi đá, ngựa chợt dừng lại.
    - Đây đã ra khỏi địa phận sào huyệt giặc Thoòng rồi! Gần đây có đường mòn của thổ dân... chạy suốt qua biên giới.
    - Chừng bao lâu nữa?
    - Cũng phải hai giờ nữa, a thầy!
    Suy nghĩ mấy khắc, ông già buông gọn:
    - Bắt vào đường mòn.
    Voòng Lầu tiến lên, giật tay cương. Nhưng người thuộc hạ chợt ngừng luôn, ngoái đầu lại, tần ngần:
    - Đường này phẳng, nhưng thổ phỉ và quan quân cũng thường đi.
    Băng rừng chậm, nhưng...
    Hắn ngưng nói, nhìn ông già như chờ lệnh. Dưới ánh sáo thưa, đôi mắt lão sáng quắc trên khuôn mặt mờ mờ trong bóng tối.
    - Thôi được!
    Tiếng vó câu lại khua nhẹ trên mặt đất gồ, thoáng cái đã bắt tới đường mòn. Ngừng lại để quan sát một chút, đoạn, hai người tế ngựa luôn, đường mòn có vẻ đỡ gập ghềnh, chật hẹp, vì đêm tuy mờ tối, hai con ngựa vẫn chuyển sang chạy nước kiệu băm đều. Hết vượt đồi lại xuống núi, thỉnh thoảng lại lội qua một con suối, nghỉ qua loa, rồi hai con vật lại tung vó mang ba người dần về nẻo biên giới Việt. Tới một chỗ ngoặt, con đường vắt qua một hẻm núi, ngựa phóng thêm nhanh.
    Nhưng giữa lúc hai con ngựa đang sải bước lớn phóng qua hẻm núi, thì hai người vụt có cảm tưởng rõ mình đang lao đầu vào một bức tường người ngựa sừng sững lù lù chắn ngay trước mặt. Hai người đàn ông giang hồ vừa kịp ghìm vội tay cương, thì thình lình giữa đêm mờ, một ánh hồng vùng bật lên, sáng rực như ban ngày. Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng ngồi lừ lừ trên lưng ngựa, phía sau lưng lố nhố hàng hai, ba chục tên thủ hạ lầm lì tay súng.
    - Biết điều đó! Chúng tao mất công đợi đã khá lâu rồi! Hừ, ta đoán không lầm mấy. Có hai đứa mà dám phục đánh hàng trăm tay súng.
    Ông già Việt và Voòng Lầu đưa mắt nhìn nhau, cả hai bất giác đảo một vòng quan sát địa vật. Cô gái bị bắt hình như xúc động quá nhanh, ngồi im như tượng sau lưng ông già lạ.
    Trong lúc hiểm nghèo, thình lình bị đứng trước những họng súng tua tủa, hai người đàn ông bẫn không tỏ vẻ rối trí, cả hai vẫn bình tĩnh có vẻ thường trải qua nhiều phút nguy nan.
    Thấy mấy người vẫn ngồi im trên lưng ngựa, tướng Thoòng tiến ngựa lên cách chừng năm sáu thước, đứng lại, mắt trừng nhìn thẳng vào địch thủ, giọng khô khan ra lệnh:
    - Vứt cả súng ống về phía sau và xuống ngựa bước lên phía trước!
    Mấy người vẫn ngồi im. Thoòng hơi nheo mắt, ngó nghiêng địch thủ, như muốn đoán xem trong óc đang toan tính cánh nào giữa thập phần thất thế. Và tia mắt Thoòng như xói vào những cặp súng đeo trễ bên sườn, thứ súng đã từng bắn Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng như bỡn.
    Vụt cái, tướng thổ phỉ đánh tay vào bá súng bên sườn.
    Rất lẹ, ông già và Voòng Lầu cũng đặt phắt tay vào chó lửa cạnh hông. Có lẽ sợ kẻ địch đánh liều, Thòng lại để tay nguyên trên mép bao. Hai người cũng vậy.
    Tướng thổ phỉ cười gằn, lặp lại:
    - Vứt cả súng ống về phía sau!
    Dứt lời, hắn hơi quay nghiêng về phía sau, toan ra lệnh cho thủ hạ tiến lên. Biết đã tới khắc quyết liệt, ông già đưa mắt cho Voòng Lầu. Voòng Lầu cũng đưa mắt nhìn ông già. Những mũi súng của đám bộ hạ giặc Thoòng vẫn chĩa thẳng vào ba người và tướng thổ phỉ vẫn lừ lừ nhìn ba kẻ thất thế không chớp mắt.
    Ông già cùng Voòng Lầu lúc đó ngồi trên ngựa, sóng hàng cách nhau chừng ba bốn thước. Cả hai đều lắc đầu thất vọng, dáng điệu chán nản, cùng chậm chạp rút súng ra ném xuống đất. Nhưng trong khi tướng Thoòng nhếch miệng cười đắc chí, và lũ bộ hạ sửa soạn hạ dần tay súng vì thấy dịch thủ ném súng đi, thì nhanh như chớp, đáng lẽ ném xuống đất, hai người đàn ông giang hồ đã ném chéo súng về phía nhau và giơ tay đón bắt. Hành động của hai người thật là nhanh nhẹn và bất ngờ, khiến đám bộ hạ của Thoòng không sao tưởng kịp.
    Nhưng hai người đã nhanh, tướng giặc cũng nhanh không kém.
    Thấy súng ném về phía nhau, viên tướng đã chợt hiểu ngay và lẹ làng rút phắt súng ra. Chỉ nghe hai tiếng đoàn đoàng vụt nổ, khẩu súng của thầy trò ông già Việt vừa được ném tới khoảng giữa hai con ngựa đã bị bật tung xuống đất. Và tiến về phía trước mấy bước, Pạc Hoọc Đại Vương hai tay súng chĩa thẳng về phía hai người, mặt hơi hếch lên, hai đuôi mép hơi kéo chếch xuống trong một nụ cười khan dữ dội.
    Bị phản công quá lẹ, thầy trò ông già Việt chớp mắt luôn mấy cái, cùng liếc súng rụng xuống trên bãi cỏ, và cũng không ai bảo ai, cùng đưa mắt liếc tướng Thoòng, hình như lúc đó mới lượng được tài nghệ danh bất hư truyền của Pạc Hoọc Đại Vương. Nhưng... giữa lúc hai người cảm rõ cái nguy cơ của kẻ bị tước mất khí giới, thất thế hoàn toàn, và giữa khi tướng Thòng đang đắc chí vì thắng thế rõ ràng, thì ông già Việt chợt nghe cô gái ngồi sau lưng khẽ nói nhanh bên tai:
    - Cứ ngồi im!
    Và vừa kịp thấy động mạnh phía lưng thì tay súng cô gái đã vươn về phía tướng Thoòng.
    - Chà! Thần xạ.
    Ông già sững sờ bật kêu lên khẽ. Ngay phía trước, hai khẩu Pạc Hoọc của Thoòng đã bị rớt từ lúc nào và Đại Vương thổ phỉ đang ôm tay nhăn nhó trong lúc con ngựa cất cả hai chân trước lên, hí mạnh vì hoảng sợ. Vốn từng quen ứng biến, ông già Việt và Voòng Lầu không để phí một khắc. Trong lúc bọn bộ hạ Thoòng còn đang hoang mang chưa biết tính sao, thì ông già đã cất mình khỏi yên ngựa lao chụp lấy tướng thổ phỉ và khóa hai tay gã lại trong một thế võ chân truyền nửa ta, nửa Nhật.
    Còn Voòng Lầu đã kịp rút phắt một trái lựu đạn ra, lao mình xuống theo. Tiến sát lại bên Thoòng. Voòng giật phắt kíp lựu đạn giơ lên cao, hướng về phía thủ hạ Thoòng, quát lớn:
    - Đứng im! Không chết cả!
    Mọi việc diễn ra nhanh quá, khiến đám thổ phỉ không kịp đối phó, qua mấy khắc sững sờ, cả bọn mới kịp ùa lên, định giải thoát cho chủ tướng.
    - Bắn đi!
    - Bắn!
    Có mấy tên vừa thốt lời, thì Voòng Lầu đã khoa trái lựu đạn và dí vào sườn Thoòng tướng, quát như sấm:
    - Chúng tao ngã thì chủ tướng mày cũng nát thây. Biết điều đứng im! Hạ súng xuống!
    Nghe quát, đám thổ phỉ nhìn nhau, ồn ào bàn tán, nửa muốn tiến nửa không dám. Sợ có đứa không biết, bắn liều, ông già Việt vội ghì xoay mặt tướng Thoòng về phía bộ hạ. Cố vùng vẫy không thoát khỏi hai tay kìm chặt của ông già, thêm trái lựu đạn mở kíp sẵn bên sườn Pạc Hoọc Đại Vương lượng ngay cảnh thất thế nguy hiểm của mình vội hất hàm đưa mắt ra lệnh cho thủ hạ đừng động thủ vội.
    Thấy bọn giặc không dám tiến lên, ông già liền đưa mắt cho Voòng Lầu đoạn hai người kéo Thoòng về phía ngựa, thiếu nữ cũng nhảy xuống nhặt mấy khẩu súng rơi, toan nắm lấy dây cương ngựa của tướng giặc, thì Voòng Lầu đã vội lắc đầu bảo khẽ:
    - Nên để lại! Ngựa dó quen nghe hiệu chủ, không nên cưỡi lúc này.
    Vừa nói, Voòng vừa nắm dây cương ngựa mình, ra hiệu cho thiếu nữ dắt ngựa đi trước, đoạn tay cương tay vẫn ghì lựu đạn vào sườn tướng giặc. Voòng theo một bên hắn, bước giật lùi, trong khi ông già vẫn kẹp chặt tướng giặc, biến hắn thành cái mộc che thân trước những họng súng thổ phỉ vẫn chỉa theo. Cứ thế, ba người dắt ngựa, kéo Thoòng lùi bước dưới ánh lửa bập bùng.
    Thoòng vẫn vùng vẫy tìm kế thoát, nhưng phần vì tay bị thương, máu ra nhiều, phần địch thủ có đôi tay cứng như thép nguội khóa hắn bằng một thế võ hiểm, nên Thoòng đành miễn cưỡng bước theo, nín thinh cố nén uất giận. Nhưng, đám giặc vẫn tiến theo từng bước, súng vẫn chĩa về phía ba người.
    Một tên có lẽ là đầu mục cận tướng của Thoòng đã tiến lên trên đám thổ phỉ khoảng một bước, chĩa súng về phía ba người và chỉ buy bộ hạ dàn hàng chầm chậm bám chặt theo, súng ống tua tủa chỉ chờ một cơ hội thuận lợi là khạc đạn. Cứ thế, ba người phía trên đi giật lùi từng bước, đám giặc phía sau cứ tiến theo, cách nhau chỉ chừng mươi bước. Hễ người trước bước chậm lại, đám sau cũng chậm, bước nhanh hơn. Chúng cũng theo nhanh không kém và cũng không hơn, lúc nào cũng vừa vừa tầm súng.
    Giữa cánh rừng sâu thẳm, im lặng vô cùng, ngoài tiếng gió thổi rào ngọn lá, chỉ còn nghe rõ tiếng chân người, ngựa bước thậm thịch trên mặt đất rất chậm, đều nặng trịch và hồi hộp như tiếng đập của của mọi trái tim.
    Dưới ánh lửa vật vờ, khuôn mặt thầy trò ông già Việt cùng cô gái đanh lại như đá tạc, mắt sáng quắc nhìn đám thổ phỉ, còn thổ phỉ trông càng nham nhở dữ tợn dưới ánh đuốc bập bùng, những cặp mắt cú mèo như sắp bốc cháy. Không khí nặng nề... ngột ngạt. Mười bước rồi hai mươi, ba mươi, sáu, bảy mươi... Tình thế nghiêm trọng, không thể khéo dài hơn nữa, ông già đưa mắt một vòng. Cách đó không xa là dãy núi chập chùng, gần đó, nhờ ánh lửa hắt tới, lão nhận được con đường mòn ăn quẹo sau một trái núi thấp, cách chỗ mấy người chỉ đồ ba bốn mươi bước. Lão vội đưa mắt ra hiệu cho Voòng Lầu và thiếu nữ. Hai người lấy mắt nháy lại.
    Thình lình đang hết sức vùng vẫy, tướng Thoòng chợt rướn mình lên một cái, chỉ kịp kêu được một tiếng đã nghẹn họng và mềm hẳn người ra, toàn thân như tê liệt vì một ngón tay của ông già đã kín đáo ấn vào huyệt nơi nách. Lập tức, Voòng Lầu cùng thiếu nữ nhảy phắt lên ngựa, đồng thời ông già Việt xốc phăng tướng Thoòng leo lên yên, trong khi vẫn dùng hắn làm một cái mộc che cho cả ba người, khi lên lưng ngựa.
    Thấy chủ tướng bị đưa lên ngựa đám bộ hạ vội quát tháo om sòm, có tên định xông lên, có tên giương súng toan bắn theo, nhưng Voòng Lầu vẫn khôn khéo kề bên tướng giặc, thấy thế tụi thổ phỉ tưởng ba người định bắt chủ tướng chúng đi. Voòng Lầu vội lên tiếng:
    - Muốn chủ mày toàn mạng hãy để chúng tao đi, chúng tao sẽ thả chủ mày ra ngay chỗ này. Làm ngặt nữa, chủ tướng sẽ chết trong tay chúng ta!
    Voòng dứt lời, liền đánh ngựa cùng ông già Việt tiến chậm về phía hẻm núi ngay trước mặt. Ngó lại thấy thổ phỉ vẫn tiến theo, biết chúng nhất định bám sát chủ tướng, ông già liền ra hiệu cho Voòng Lầu đoạn hai người thúc mạnh gót chân vào hông ngựa. Tới chỗ đường mòn bắt quẹo vào hẻm núi, Voòng Lầu liền bất thần tung luôn trái lựu đạn về phía quân Thoòng, cùng lúc ông già Việt hất mạnh viên tướng thổ phỉ xuống bên đường. Quân Thoòng còn đang luống cuống xoay trở, thì phía sau hai con ngựa đã quặt vào hẻm núi. Bên tai mấy người, còn nghe rõ tiếng lựu đạn nổ giòn tan, lẫn tiếng quát tháo của thổ phỉ, theo hơi gió hắt lên.
    Không để lỡ cơ hội, thầy trò ông già liền thúc ngựa chồm gấp, lẩn mau vào bóng tối. Được chừng non trăm thước ngoảnh lại phía sau, mấy người đã thấy ánh đuốc nhấp nhô. Và tiếng súng cũng tới tấp đuổi theo vang vọng cả rừng khuya, khiến chim đêm giật mình bay xào xạc. Thầy trò ông già vẫn theo lối mòn, đi ngựa cho dễ. Bóng tối dày đặc. Nhờ ánh sao nhạt, thêm Voòng Lầu đã thuộc đường, hai người cứ phóng nước đại, đầu cúi rạp xuống bờm ngựa. Thỉnh thoảng, một vài viên đạn lại xé rách không gian ngay bên tai mấy người.
    Phóng một quãng xa, nhìn lại, vẫn thấy những ánh hồng nhấp nhô cuốn theo, chỉ cách chừng non trăm thước, Voòng Lầu vội cao giọng:
    - Thầy ạ! Chúng đuổi riết, ta băng rừng thôi! Bên tay trái, có thung lũng ạ.
    - Nẻo đó dễ đi không?
    - Có thể chạy kiệu băm được một quãng dài!
    Vừa nói, Voòng vừa cho ngựa chạy chậm lại một chút, cho sánh ngang ngựa ông già.
    - Thầy cho cô đây đổi sang bên đó và cứ rẽ ngang đi! Để tôi đánh lạc hướng chúng rồi sẽ bắt theo!
    Ông già im lặng đưa tay ra nắm lấy tay cô gái. Cô gái nhảy phắt sang ngồi gọn ở sau lưng. Đoạn ông già rẽ luôn tay cương cho ngựa rời đường mòn chạy về nẻo thung lũng, trong khi Voòng Lầu tiếp tục cho ngựa chạy thẳng theo đường mòn.
    Bỏ đường mòn, ngoắt vào rừng cây được chừng bảy tám mươi thước, ông già Việt liền dừng ngựa đứng lẩn vào một lùm cây rậm rạp, ngoái nhìn ra lối cũ. Đêm tối mù. Súng vấn nổ đuổi theo, vang động rừng khuya. Không lâu, từ phía đường mòn, những ngọn lửa hồng nhấp nhô đã ra khỏi bóng cây, cuộn tới. Đứng đàng xa, hai người cũng trông thấy rõ bóng thổ phỉ cưỡi ngựa thấp thoáng ẩn hiện sau cây lá, dưới ánh lửa sáng rực. Tới chỗ hai người vừa vẽ, đám thổ phỉ phóng thẳng theo hướng Voòng Lầu, nhưng qua chỗ đó chừng mươi thước; chợt bảy tám tên đi sau thình lình dừng lại, tản ra quanh lối mòn, tên nào cụng cúi nhìn xuống mặt cỏ. Những tia đèn bấm quét lia lịa không gian và một vệt sáng xanh lè chiếu thẳng về phía hai người, rê từ thấp lên cao, đảo một vòng rộng và thu hẹp lại, cuối cùng phụt tắt.
    Đứng sau lùm cây rậm, hai người thấy rõ bóng tướng Thoòng ngồi trên ngựa, giơ tay trỏ về phía đó và mấy tên khác đánh ngựa xúm quanh chủ tướng. Ông già Việt bảo thiếu nữ:
    - Thằng tướng thổ phỉ này đã thấy dấu khả nghi rồi! Có lẽ nó sẽ chia thủ hạ lùng duổ:i về nẻo này!
    Thiếu nữ chăm chú nhìn về phía thổ phỉ:
    - Chắc nó thấy vết cỏ nát? Thằng Thoòng này quỉ quái đấy!
    Ông già im lặng theo dõi cử động của địch, miệng lẩm bẩm:
    - Lối xuyên sơn này có vẻ khó đi ngựa, hay là...
    Đang nói, lão chợt ngừng vì bọn thổ phỉ đã chĩa súng về phía hai người ẩn, đạn réo là là ngay trên đầu ngựa. Và chúng chia nhau theo hàng ngang tiến lên, vừa tiến vừa cúi soi lửa xuống mặt cỏ, dõi theo vết chân ngựa. Cứ thế, chúng tiến ngựa tới gần chỗ hai người. Ông già Việt vẫn ngồi im không nhúc nhích, chăm chú ngó bọn thổ phỉ. Hình như, chúng đã tìm được dấu ngựa rõ ràng nên Thoòng mất hẳn vẻ dò dẫm, hắn ngoắc tay một cái, cả mấy tên thủ hạ liến đánh ngựa vọt lên, luôn tay súng nhả đạn tứ tung.
    Rắc! Rắc! Liền hai cành cây trước đầu ngựa bị đạn xoáy đứt. Mấy chiếc lá vàng rơi lả tả xuống vai áo hai người. Thiếu nữ khẽ nới nhỏ bên tai ông già:
    - Cụ tính sao! Ta đi, hay là...
    Như đoán được ý nghĩ của thiếu nữ, ông già ngoái cổ lại:
    - Không lên! Đi khỏi là hơn!
    Dứt lời, lão rẽ phắt tay cương, cho ngựa tiến vào đêm tối. Quả như lời Voòng Lầu, chỗ này không mấy rậm rạp, chỉ có những cây lớn với những bụi cỏ hoang thấp và mặt đất khá phẳng. Nhìn lại phía sau, hai người vẫn thấy thoáng ánh lửa, đốm gần đốm xa, theo hình cánh cung nhấp nhô dồn theo.
    Len lỏi giữa những thân cây, vượt qua những lùm cỏ hoang thấp nhờ ánh sao thưa lờ mờ chảy qua cành lá, hai người phân biệt được hướng trống băng đi, càng lúc càng nhanh. Có lẽ bọn thổ phỉ đã nhận rõ, nên chúng vẫn tiếp tục đuổi theo, và tiếng đạn vẫn réo nên tai hai người. Nhưng vừa tới một chỗ khá quang, đột nhiiên thiếu nữ khẽ kêu lên và ông già thấy rõ tay nàng như sắp rời khỏi sườn mình. Lão vội ngoái tay đỡ lấy thiếu nữ.
    - Sao thế?
    - Da..... Có lẽ... vào bả vai trái.
    Giọng người con gái phào bên tai ông lão giang hồ, tiếp theo hơi thớ không đều. Đỡ chắc lấy ngang hông nàng, ông già ghé sát miệng xuống hỏi:
    - Có thể... ngồi được không?
    - Da.....
    Chưa kịp nói, chợt thiếu nữ giật mình, như bị điện giật. Bàn tay ông già vừa rời khỏi lưng nàng và con ngựa đang phóng nhanh, lại trở về nước nhỏ, vì tay cương đã thình lình bị buông lỏng.
    - Trời! Cụ làm sao thế?
    Miệng hỏi, thiếu nữ cố gắng nhịn đau, vươn cánh tay đỡ lấy ông già, đồng thời bàn tay quờ nắm lấy dây cương, ghìm ngựa lại. Qua mấy khắc đau nhói, ông già đã gượng lại được ngay:
    - Không sao. Chỉ sượt vào tay trái thôi.
    Vừa nói lão vừa đỡ lấy tay cương, ngoảnh lại nhìn ánh lửa vẫn ẩn hiện sau cành lá, có vẻ vẫn chiếu thẳng về phía hai người, lão nói nhanh:
    - Cố bám cho chặt! Mình phải đi kiệu đại đó!
    Đoạn lão thúc ngựa lướt lên và bất ngờ rút súng bắn lại phía sau luôn mấy phát. Phía thổ phỉ sợ bị phục đánh nên vội tản cánh thêm cách nhau, không bảo nhau, đều hãm mau sức ngựa phi. Nhưng chỉ giây khắc, chúng lại tiếp tục đuổi theo và bắn thêm rát.
    Ngựa trước đã cách ngựa su trên trăm thước. Con vật tỏ ra là một chiến mã đã quen băng rừng trong đêm tối, nên càng lúc càng lao đi nhanh, không vấp lẫn. Ông già cứ đành giữ yên tay cương, cho ngựa mặc sức chạy, chỉ còn thấy loang loáng những thân cây bụi rậm đen ngòm tụ lại phía sau. Đã cách đến gần hai trăm thước. Nhưng những ngọn lửa vẫn cuốn theo, vẫn đúng hướng ngựa trước. Cứ thế khá lâu, không sao đánh lạc chúng được. Còn đang toan tính, hai người thấy phía trước chợt sáng dần, định thần, nghe rõ có tiếng nước chảy thao thức trong đêm. Rồi loáng cái, ngựa đã tới bờ suối. Ông già lập tức cho ngựa xuống nước. Nước chảy xiết. Con vật phải lấy sức chống với luồng nước tiến qua từng bước một. Nước bắn tung tóe cả lên rnình hai người, mát lạnh. May suối chỉ sâu vừa tới bụng ngựa. Tới bờ bên kia, ông già liền cho ngựa vượt lên, phóng thẳng. Tưởng gấp quá hóa quên, thiếu nữ chợt khẽ hỏi:
    - Sao ta không lộn lại theo dòng nước có hơn không? Ngựa mình sũng nước, chúng dễ dàng...
    Có lẽ đoán được ý thiếu nữ, ông già thản nhiên:
    - Thằng Thoòng đã nghi chắc không chiu đuổi theo vết nước trên cỏ đâu. Mình đi ngay lối có vết nước là hơn.
    Thiếu nữ lặng im, ngoái lại phía sau lưng. Không thấy ánh lửa, những luồng đạn vẫn chạy rào rào qua cành lá. Ngựa phóng được một lát chỉ nghệ liếng súng vọng phía sau đã khá xa, rồi im bặt. Rừng khuya sâu thẳm.
    - Chúng qua ngõ khác sục sạo rồi!
    Thiếu nữ khẽ nói bên tai ông già, trong khi lão đánh ngựa chạy rẽ về phía Tây.
    - Chúng bị lạc hướng rồi!
    Vừa cố tình cô gái giơ cánh tay ra, thấy đau nhói mới vùng nhớ ra, hỏi ông già:
    - Vết thương... cụ thế nào?
    Không thấy đáp, nàng vội ghé sát về phía trước, mới biết lão ta đang thở dồn, và hơi thở lẫn tiếng nghiến răng khe khẽ. Lạ lùng, nàng vội động mạnh cánh tay không bị đau vào sườn lão. Cánh tay lạnh lạnh... Tưởng nước suối ban nãy, cô gái liền cúi xuống, thì một mùi tanh nồng đã theo hơi gió phả vào mũi. Giật mình, nàng khẽ kêu lên:
    - Trời! Hình như cụ bị đạn bên sườn thì phải?
    Nàng vừa nói vừa lần tay vào tìm và khẽ nói:
    - Máu ra đẫm cả áo rồi! Thắng ngựa lại đã cụ.
    Lúc đó, hình như đã chiu đựng lâu quá ông già giang hò mới khẽ cất tiếng không đều:
    - Vâng, bị Ở sườn... lúc nãy... Không sao đâu.
    Thiếu nữ toan đỡ lấy tay cương thì lão đã gạt đi.
    - Phải đi thêm quãng nữa! Cũng sắp tới biên giới Việt rồi. Tay cô thì thế nào?
    Thiếu nữ không đáp. Nàng nắm lấy cương ngựa ghìm phắt lại, vừa lúc con vật quay đầu về hướng Nam. Thiếu nữ lần rút mũi dao rừng bên mình ông già, nghĩ một khắc, đoạn cắt phăng vạt áo mình, nhanh nhẹn quấn chặt lấy chỗ bị đạn ngang sườn. Ông già cắn răng chịu đau, lặng lẽ quay nhìn cô gái lạ lúi húi băng bó. Xong, cô gái mới buộc vết thương ở tay mình.
    Hai người lại phóng miết trong đêm, vượt núi bang rừng, theo hướng Nam, cho tới lúc ngựa ngừng bên một con suối rộng, nước chảy như thác. Người và vật đều mệt lả. Như cái máy ông già cho ngựa vượt luôn. Tới giữa dòng, đang lội bì bõm chợt con vật thở mạnh, bước loạng choạng và giẫm phải thạch bàn ngầm trượt ngã khuỵu, hất hai người xuống giữa dòng suối cuộn... Tuy mệt lả vì máu ra nhiều, ông già Việt đã chợt định thần khi ngựa loạng choạng sắp khuỵu, chắc đã lượng rõ mức nguy hiểm của nước cuốn... đá ngầm, lão vùng giật giọng:
    - Nhảy xuống mau!
    Nhưng, đã muộn. Người và vật đã kiệt lực, hai người chưa kịp cử động thêm thì con vật đã đổ quỵ xuống rồi. Và dòng suối lũ lồng lộn giữa rừng hoang, cuốn phăng người, vật... xuôi dòng vào sâu trong đêm tối mênh mông.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:


  • #2
    Hồi 2 - Ông Già Kỳ Lạ Là Ai?

    Người thiếu nữ cảm thấy cái lạnh của nước suối. Trong đêm tối dày đặc, thiếu nữ mê lịm đi, không còn biết gì nữa, thân xác vật vờ chìm nổi giữa dòng nước vô tình... Cho đến khi thiếu nữ chợt tỉnh dậy, thì bên tai không còn tiếng nước vỗ ào ào nữa. Chung quanh chim kêu ríu rít tưng bừng và từ xa xa, có tiếng vượn vượn hú véo von theo gió đưa về.
    Cô gái mở choàng mắt ra. Ánh sáng bình minh ùa vào rực sáng khiến nàng chớp mắt luôn mấy cái, vùng nhớ lại việc đên qua và tưởng mình đang mê ngủ. Nàng vội đưa mắt nhìn quanh. thấy mình đang nằm vắt trên đám dây leo thang chịt bên bờ suối ngay khúc nước đổ theo hình thước thợ. Dưới chân, nước rút từ lâu, chỉ còn lập lờ trong vắt nhìn rõ cả đá cuội dưới lòng suối cát vàng.
    Thiếu nữ khẽ cựa mình chợt thấy đau bại hẳn một bên hông. Cô gái vội nhìn xuồng, thấy một vết tím bầm, mới rõ bị nước cuốn đập vào đá ngầm. Bỗng nhớ tới ông già lạ đã liều chết cứu mình, thiếu nữ vội đảo mắt ngó quanh, và liền nhẹ bám dây leo đu hẳn lên bờ. Thiếu nữ chực rùng mình luôn mấy cái, lúc đó nàng mới cảm thấy rõ cái lạnh của nước suối, sương đêm ngấm vào cơ thể. Nhưng có lẽ bị hắt lên dây leo ngay lúc bị chạm đá ngầm, nên thiếu nữ không bị uống nhiều nước. Và nhờ thiếp ngủ được một giấc khá lâu, nàng thấy đã hơi lại sức. Ouần áo còn ẩm nước và máu. Vết thương tay đã bầm tím cả lại. Thiếu nữ hít mạnh một hơi cho không khí ban mai vào đầy phổi. Nàng đưa mắt nhìn quang cảnh bình minh, nhưng vẫn không xua đuổi được những ý nghĩa nặng nề trong đầu óc. Cô kiếm một thân cây nhỏ làm gậy chống và tập tễnh men theo bờ suối tìm kiếm.
    Đang lên lách giữa đám dây leo chằng chịt, chợt cô gái nghe có tiếng thở phì rên rỉ phía trước. Nàng giật mình vội men ngược dòng chừng mấy chục bước chợt đứng sững lại, nín thở, mắt chớp luôn mấy cái. Bên kia bờ, ngay dưới bụi rậm mọc vươn cả ra bờ nước, một con ngựa hồng đang nằm dụi thở phì phò, trên lưng không còn yên đóng.
    Thiếu nữ liền bước tới, vén cao ống quần, lội qua suối cạn, đến bên con vật.
    Vừa ngó qua, cô gái bất giác đưa mắt nhìn ra những tảng đá giữa suối, vẻ mặt hiện rõ nét xót thương. Bị cuốn vào đá ngầm sắc thân thể con vật rách như bị dao chém, có một vết ở bụng dài đến hai gang, lòi cả ruột gan ra ngoài. Liên tưởng tới chủ ngựa, thiếu nữ vùng thở mạnh, vội sờ bên sườn như muốn lấy súng để kết liễu cho sớm đời con vật khốn nạn cho đỡ phải kéo dài phút hấp hối đau đớn, nhưng súng đã bị rớt từ lúc nào rồi. Nàng đành quay đi, men ngược theo dòng đưa mắt tim kiếm. Nhưng bốn bề, chỉ có chim kêu, vượn hót, dưới nước trong, chỉ có một vài chiếc lá khô vàng sớm theo gió thổi nhẹ lướt theo dòng... Men ngược mãi, không thấy chi, cô gái lại lần qua chỗ mình nằm ban nãy.
    Đang chăm chú tìm kiếm, chợt như nghĩ ra điều gì, thiếu nữ liền dừng bước, khum vòng hai bàn tay quanh miệng, hú lên mấy tiếng.
    Tiếng hú gọi của thiếu nữ ngân dài trong nắng sớm vang vọng khắp rừng sâu. Hú xong tràng thứ nhứt, thiếu nữ toan hú nữa, nhưng vừa lấy hơi, đã ngừng ngay vì chợt nghe có tiếng người hú từ phía trước mặt vọng tới. Rồi đến tiếng hú phía tay mặt. Thiếu nữ nhíu mày, đưa mắt ngó về phía có tiếng hú đáp lại, vẻ mặt vừa thoáng mừng vừa e ngại. Nàng vội hú một tràng nữa, và tìm một chỗ kín ẩn luôn, chờ đợi. Chỉ nửa phút sau, đã nghe rõ nhiều tiếng chân người dẫm sào sạo trên lá rụng, từ hai, ba ngả tiến đến.
    Nấp trong bụi rậm, thiếu nữ hồi hộp chờ đợi, nghe nhiều tiếng chân người giẫm trên lá khô tiến dần tới, bất giác nàng quay nhìn về phía sau lưng như tính trước đường rút.
    - Chẳng lẽ tụi giặc Thoòng?...
    Thiếu nữ còn đang nghi hoặc thì những tiếng chân người tới vùng suối chợt im bặt khá lâu. Thiếu nữ vội áp sát mang tai xuống mặt đất, nghe ngóng. Đến mấy phút sau, mới nghe vọng có tiếng chân bước rón rén từ phía bụi rậm trước mặt. Rồi mấy đầu người nhô ra khỏi bụi, mắt đảo nhìn quanh, và vụt ra khỏi chỗ khuất, mấy người đàn ông lực lưỡng đeo đao rừng tay chĩa ngọn súng về phía trước.
    Nấp trong bụi nhìn ra, thấy bóng mấy người đàn ông, bất ngờ, thiếu nữ thở phào một cái và đứng phắt lên, vừa phủi quần áo vừa bước khỏi chỗ ẩn.
    Thấy dáng người thình lình xuất biện, bọn đàn ông đồng loạt chĩa ngọn súng cả vào, nhưng khi thiếu nữ đã ra hẳn chỗ trống, thì cả mấy người đều đồng thanh reo lên, nửa sửng sốt, nửa mừng rỡ:
    - Kìa cô Ba!
    Thiếu nữ nhoẻn miệng cười, bước thẳng tới chỗ mấy người. Một người đứng tuổi trong bọn, ngó y phục rách mướp của thiếu nữ, giọng kính cẩn:
    - Chiều qua, chúng nó về báo cô bị tụi thổ phỉ phục đánh, bắt đi rồi, anh em tôi vội lấy ngựa đi luôn, nhưng không rõ sào huyệt thổ phỉ ở đâu, cứ quanh quẩn vùng biên giới cả đêm. Mãi sau hỏi được một bọn xạ phang cho biết bên hiên giới, súng nổ gắt lắm, anh em tôi chưa hiểu đầu đuôi, bàn tính nhau...
    Đang nói, chợt người đó ngưng lời, hỏi thiếu nữ:
    - Thế cô Ba có bị bắt thật không? Sao...
    Thiếu nữ gật đầu:
    - Chúng phục đánh bất ngờ và đông đến hàng trăm. Bên ta bị thiệt hại nhiều. Chính thằng Thoòng trực tiếp chỉ huy trận đánh.
    Cô gái chợt quắc mắt, giận dữ.
    - Hừ! Làm thế nào chúng biết rõ lối ta đi để chặn cướp? Nếu không may được người giải cứu...
    Nghe đến đó, cả bọn nhao nhao, toan hỏi, nhưng thiếu nữ đã vùng nhớ ra, vội khoát tay:
    - À! Hãy tìm kiểm quanh đây xem đã!
    Thấy vẻ ngơ ngác trên mặt mấy người, thiếu nữ liền buông gọn:
    - Hai thầy trò một ông già lạ đã cứu ta, về tới khúc suối này, người và ta đây cùng bị thương, mệt lả, con ngựa đuối sức bị nước vật ngã hất cả xuống suối - Nàng chỉ tay ra chỗ con ngựa nằm hấp hối - Đêm qua suối lũ chảy như thác! Con ngựa bị đá ngầm xẻ bụng, ta may được dây leo quấn chặt lấy nên thoát... Đi! Thử kiểm dọc suối xem! À mà có bao nhiêu tay súng đi theo đây?
    Người đứng tuổi liền hú lên một tràng và quay bảo thiếu nữ:
    - Bẩm... năm mươi!
    Thiếu nữ hơi nhíu mày, đoạn khẽ hất hàm:
    - Thôi được! Cứ chia nhau tìm ông già đã! Chắc cũng bị cuốn... đâu đây!
    Vừa lúc từng tốp người từ mấy phía kéo lại, trông thấy thiếu nữ đều tỏ vẻ vui mừng, kính cẩn.
    Người đàn ông đứng tuổi vội sai đem lương thực và y phục đến cho thiếu nữ. Đoạn cả bọn chia nhau lần tìm theo dòng suối, chỉ để lại hai người săn sóc vết thương cho thiếu nữ.
    Trong lúc đám thuộc hạ chia nhau tìm dọc theo dòng suối, thiếu nữ ngồi dựa lưng vào một thân cây nghỉ sức, mắt lim dim chỉ muốn nhắm lại, có vẻ còn mệt nhọc nhiều. Chỉ chừng hai mươi phút sau chợt thiếu nữ nghe có tiếng người bật réo to to, nhau cách đó chừng non năm thước. Thiếu nữ vội choàng mắt, nghiêng đâu nghe ngóng, đoạn quay bảo thuộc hạ:
    - Đến xem đàng kia có gì lạ mà họ gọi nhau dữ vậy?
    - Dạ.
    Một thuộc hạ tiến về phía trước, chỉ thoáng cái đã thấy hắn trở lại, có người đàn ông đứng tuổi đi theo. Tới trước thiếu nữ, người đàn ông nói nhanh:
    - Thưa cô, đàng kia thấy một xác người!
    Như bị điện giật, thiếu nữ đứng phắt lên:
    - Sao? Xác người? Như thế nào?
    Người đứng tuổi giơ tay lau mấy giọt nước trên trán, gật đầu:
    - Dạ. Xác người nằm trên một tấm thạch bàn ngay giữa dòng, nhưng không phải là ông già đã cứu cô Ba!
    Thiếu nữ mở to mắt, đoạn nhíu mày:
    - Sao? Không phải người già?
    Nói xong, cô gái vừa vẫy tay, vừa bước rảo về phía đó.
    - Hay người nào khác? À mà ban này ta đã đi xuôi theo dòng sao lại không thấy?
    - Dạ! Phiến đá bị cành lá mọc che kín, thoạt trông không ai ngờ...
    Thiếu nữ xăm xăm theo thuộc hạ, vạch cành lá, tiến mau, thoáng cái, đã tới đoạn suối có xác người. Đám thuộc hạ đang xúm quanh, chỉ (rỏ bàn tán. Cô gái liền tới bờ suối, lội nhanh xuống dòng, tiến đến bên xác lạ. Thấy thiếu nữ tới, đám thuộc hạ vội đứng tản ra, nhường chỗ.
    Thạch bàn từ bờ suối mọc tới giữa dòng, rộng như một tấm phản, chỗ bên bờ cao, có một hốc lớn ăn trũng vào nền đá dựng, chỗ giữa dòng thoai thoải khá bằng phẳng. Một cây si mọc bên bờ nghiêng soi bóng nước, có một thân phụ tủa rễ xuống chấm mặt thạch bàn. Và một cành cây gãy khá to, nhiều nhánh lá um tùm từ thượng nguồn trôi đạt xuống, mọc cứng phủ một phần lớn ngọn “Tiểu thủy sơn”.
    Xác người đàn ông nằm trên mặt đá, hai tay còn như quờ níu chặt lấy nhánh cây, một ống cẳng bị rễ si quấn treo ngược, một chân buông thõng xuống mặt nước, mặt úp sấp.
    Thiếu nữ vừa tới bê xác người lạ, đã giật mình suýt kêu lên một tiếng kinh ngạc, vì nhận ngay ra mảnh băng lụa chính nàng đã xé tay áo buộc vết thương cho ông già lạ đêm qua. Cố nén xúc động, cô gái vội luồn bàn tay vào cổ nâng mặt nạn nhân lên, đồng thời gạt mấy nhánh lá rủ quanh. Khuôn mặt người lạ vừa lộ rõ dưới ánh nắng ban mai, cô gái giật mình, ngẩng phắt đầu lên không nén được một tiếng kêu khẽ đầy sửng sốt:
    - Trời!
    Và nàng cúi nhìn lại mặt nạn nhân, lẩm bẩm như nói một mình:
    - Sao lạ thế này? Rõ ràng đêm quạ..
    Thấy nữ chủ có dáng kinh ngạc, đám thuộc hạ tuy không hiểu chuyện chi, cũng đưa mắt nhìn cả về nạn nhân. Đó là khuôn mặt đàn ông không một chòm râu bạc, rõ khuôn mặt một người trai trẻ, tuy nằm bằn bặt, mắt nhắm nghiền, da dẻ tái xám hẳn đi vì ngâm nước nhiều, nhưng vẫn còn rõ những nét duyên dáng hào hoa và cương nghị phong trần. Quần áo tả tơi, có chỗ rách toạc, để hở cả bắp thịt rắn đanh và dây súng lục vẫn còn thắt ngang lưng. Qua giây khắc xúc động bất ngờ, cô gái như đã vùng chợt đoán ra. Nàng nín thớ, cúi xuống áp tai vào ngực nạn nhân, nghe ngóng hồi lâu. Đoạn ngẩng lên, đôi mắt thoáng lóe sáng tia hy vọng, nàng vẫy tay liền mấy cái:
    - Còn thoi thóp thở. Mau khênh lên bở để la cứu chữa người. Mấy chú đi nhóm lửa cho nhanh!
    Trong lúc mấy người thuộc hạ lực lưỡng xúm lại đỡ nạn nhân, thiếu nữ chợt quay hỏi người đứng tuổi đầu lãnh cả bọn:
    - À mà có đưa theo đủ dụng cụ thuốc men cứu cấp không? Mau ra chỗ buộc ngựa lấy đem tới đây, không muộn mất!
    oo Ông già Việt vùng tỉnh giấc, lúc tiếng chim họa mi hót thánh thót ngoài hiên. Dư âm véo von trong vắt của tiếng chim báo sớm còn vương vấn bên tai, ông già giang hồ vẫn chưa phân định hẳn cảm giác hư thực của mình. Rất nhanh, lão nhớ lại “Chuyện vừa qua”, tới lúc kiệt sức người bị cuốn theo dòng suối lũ.
    Lão vội giụi mắt luôn mấy cái, chống tay toan ngồi dậy, chợt thấy đau bên sườn, nên lại nằm nguyên, tần ngần đưa tay khẽ sờ vào chỗ đau. Sợi băng trắng tinh quấn quanh sườn khiến lão bất giác đưa mắt nhìn quanh mình, cảm tưởng mang mang mơ hồ như lúc hôn mệ..
    Lão đang nằm trên chiếc giường Tây có trái nệm trắng tinh, người đặp chăn len nhẹ, màn tuyn trắng muốt lay động trong gió sớm, trong một gian phòng bài trí theo lối mới có vẻ như ở miền kinh đô.
    Ánh nắng chiếu qua cửa sổ vào phòng kéo những vệt dài tới tận cửa màn buông. Giường, nệm, gối, chăn, không gian thoáng mùi thơm mát nhe..... Không hiểu sao, đột nhiên ông già giang hồ vùng sờ tay lên cằm và mấy ngón tay thốt nằm chết dí trên làn da nhẵn nhụi. Bộ râu năm chòm cấy từ lâu, đã biến mất. Hơi giật mình, lão tung chăn, trở mình ngồi lên vén màn, xỏ chân vào đôi dép, vừa đưa mắt ngó quanh.
    Cạnh đầu giường là cái tủ gương, cánh khép hờ. Lão bước mau tới, nhìn vào mặt kính tráng thủy hồi lâu và tự nhiên khẽ chép miệng thở dài. Trong gương không còn là ông già sáu mươi quắc thước, râu năm chòm nữa, mà chỉ còn khuôn mặt chàng trai trẻ chưa tới ba mươi với những nét sớm phong trần rắn rỏi, đôi mắt aáng vừa trở nên xa vắng... bâng khuâng. Chàng hơi nhíu mày, cười không thành tiếng như chế giễu mình, đoạn hơi nhún vai, quay ra.
    Tình cờ cánh tủ khép hờ bị gió thổi hé rộng tờ từ. Chàng trai trẻ ngoẳnh nhìn và không khỏi ngạc nhiên thấy trong số ngăn đựng y phục cùng các thứ lặt vặt nhật dụng, có một ngăn xếp bộ quần áo Chàm của mình đã được giặt sạch sẽ, gấp gọn, trên đặt bao súng, dây đạn, cả chiếc dao thổ bao khảm của mình vẫn thường dùng. Chàng liền rút súng, thấy đã được lau chùi, nòng đã “xoi” cẩn thận, đạn thay mới kín đáo. Dao rừng cũng vậy. Chàng cầm khẩu súng tần ngần quay một vòng và cho vào bao đặt nguyên chỗ cũ.
    Mặt có vẻ suy nghĩ đắn đo, chàng tuổi trẻ bước thẳng ra khỏi cửa phòng. Chìa khóa vẫn tra sẵn vào ổ. Chàng xoay một vòng và nhẹ nhàng mở rộng cánh cửa. Cửa phòng vừa mớ, chàng tuổi trẻ suýt bật lên một tiếng kêu sửng sốt. Ngay trước mắt chàng là một thung lũng rộng, chan hòa nắng sớm, và bên kia thung lũng là những rặng núi đá điệp trùng theo hình cánh cung vắt ôm lấy những quả đồi xanh mướt thấp thoáng những mái nhà sàn, của dân sơn cước. Tò mò chàng trai trẻ bước hẳn ra ngoài đưa mắt nhìn quanh, thấy mình đang ở trong một khu dinh cơ lớn, đủ nhà dọc, nhà ngang, cái bằng gạch, cái lá, đường đi lối lại thênh thang trông chẳng khác một doanh trại, và chỗ chàng đứng là mội dải hành lang của một tòa biệt thự nằm dựa vào sườn đồi, dưới chân lại có dòng suối trong uốn khúc lững lờ.
    - Chà! Trang trại thật đẹp mắt!
    Chàng tuổi trẻ chắp tay sau hông, lững thững bước một theo hàng hiên. Dừng lại ngắm con chim họa mi đang hót trên cành xòa trước mặt, rồi lại bước về phía cuối nhà, dáng dấp ung dung như một khách nhàn tân. Quanh mình, vắng vẻ hoàn toàn, chỉ thấy bóng người đi lại phía dưới đường trang. Nhưng vừa tới hồi nhà, chàng chợt gặp một gã đàn ông mặc quần áo Thổ vác súng dài đi đi lại lại bên hồi. Thấy chàng, gã vội đứng phắt lại, kính cẩn chào theo lối nhà binh. Chàng mỉm cười hơi gật đầu, và tiến tới gần hơn:
    - Đứng canh ở đây sao?
    Gã đàn ông nhìn chàng, mép hơi nhếch, có vẻ ngơ ngác không hiểu. Tưởng gã không biết tiếng Việt, chàng liền hỏi bằng tiếng Thổ.
    Nhưng thấy gã vẫn như không hiểu, chàng thôi ngay, khẽ nhún vai, lững thững bước đi.
    Nhưng mới bước vài bước, nghe tiếng chân người phía sau, chàng quay lại đã thấy gã đàn ông lực lưỡng bước theo. Chàng dừng, hắn cũng dừng, chàng thử rảo bước, hắn cùng rảo nhanh theo, không chịu rời. Tuy có vẻ canh chừng riết, nhưng dáng điệu vẫn tỏ ra kính cẩn lắm. Cuối cùng chàng tặc lưỡi, mặc hắn theo, không buồn lưu ý nữa.
    Chàng xuống đồi, lần ra bờ suối, rồi men theo đường đất đỏ, đi về nẻo nhà gạch phía dưới. Nhưng mới đi được chừng mấy chục bước, đã thấy một người khác từ chỗ khuất nhô ra, tiến thẳng đến trước mặt mặt chàng, cúi đầu rất kính cẩn:
    - Thưa quí khách, xin mời quí khách về nghỉ cho lại sức. Chủ nhân chúng tôi có ra lệnh chúng ti không được để cho quí khách đi lại vội, vì còn mệt.
    Chàng trai trẻ chăm chú nhìn hắn và mỉm cười:
    - Ta đã lại sức rồi mà. Nhưng chủ nhân các người là... ai chứ?
    Hắn không đáp, chỉ lễ phép:
    - Dạ. Xin quí khách về nghỉ kẻo mệt. Chúng tôi được lệnh...
    Chàng tuổi trẻ liền nheo mắt, có vẻ hơi bực, toan hỏi nữa nhưng nghĩ thế nào, lại thôi. Chàng lẳng lặng quay về chỗ cũ; đi được mươi thước chợt có tiếng động phía sau lưng, quay lại, thấy có người chạy tới. Hắn có vẻ tần ngần:
    - Xin quí khách miễn lỗi cho, chủ nhân của tôi cũng sắp về... À, qúi khách muốn cần chi cứ gọi, lúc nào cũng có người túc trực sẵn bên ngoài. Nếu quí khách muốn giải khuây, xin lấy sách vở ở trong tủ.
    - Bao giờ mới về?
    Hắn lắc đầu, hơi nhếch miệng cười:
    - Dạ. Chúng tôi chỉ được biết đại lược như thế thôi, thường chủ nhân đi chừng một tuần, còn từ hôm đưa quí khách về ít bữa rồi đi, cũng đến năm, sáu hôm rồi...
    Nghe hắn nói, chàng nhíu mày, ngạc nhiên:
    - Thế ra, ta ở đây đã hàng tuần rồi sao?
    - Dạ. Qúi khách mê man bất tỉnh lâu lắm. Chủ nhân phải ra lận tỉnh lỵ đưa bác sĩ về chữa, mãi mới gắp được viên đạn mắc trong người quí khách.
    Thấy hắn vui vẻ thổ lộ, chàng không bỏ lỡ cơ hội tốt.
    - Thế...
    Nhưng ngay khi đó, hấn đã cúi đầu chào khách, đoạn lui luôn.
    Hình như quen hoạt động ngược xuôi, tuy vết thương chưa lành, chàng trai trẻ giang hồ vẫn tỏ vẻ bứt rứt về nhưng phút giây tù túng. Nhất là việc riêng còn ngổn ngang và Voòng Lầu, thuộc hạ thân tín không hiểu sống chết, thất lạc nơi nào.
    Hai hôm sau, một đêm chàng đang ngủ chập chờn chợt nghe có nhiều tiếng vó ngựa khua rầm rập, trong đêm tối, ngay phía dưới chân đồi. Rồi lại có nhiều tiếng người nói ồn ào. Ngạc nhiên, chàng ttai trẻ giang hồ liền ngồi dậy ra mở hé cửa sổ nhìn về phía trung tâm trang trại. Đèn đuốc sáng rực một vùng. Có một đàn người ngựa đang vượt qua cổng tiền, tiến vào khu sân rộng giữa mấy dãy dinh cơ.
    Đám người ngựa lố nhố tới năm sáu mươi, súng đeo, dao giắt, quần áo sộc sệch tả tơi, trông biết ngay là vừa vượt đường xa đến.
    Tới khu sân trại, cả bọn xuống ngựa mở những bao lớn thồ trên yên xuống. Giữa đám đông, chàng tuổi trẻ giang hồ trông thấy một dáng người quen, nhỏ nhắn, cách chỗ chàng đứng khá xa, nên không nhận ra được.
    Người nhỏ nhắn xuống ngựa, vất dây cương cho một mã phu, giơ tay chỉ trỏ mấy cái, đoạn bước thẳng về phía nhà gạch ngang, và không thấy ra nữa. Ngồi sau khung cửa sổ, chàng tuổi trẻ quan sát cho tới khi bòn người dưới sân dắt ngựa về phía sau trang trại, mới vào giường nằm, suy nghĩ miên man.
    Sớm mai, vừa rửa mặt xong, chợt nghe tiếng động bên ngoài, nhìn ra, thấy một người đứng tuổi, đẩy nhẹ cửa, bước vào. Chàng chưa kịp hỏi, hắn đã cúi đầu chào rất lễ phép.
    - Chủ nhân mới về. Mời ông xuống... điểm tâm.
    Chàng hơi gật đầu và theo hắn bước ra. Qua dãy hàng hiên, hắn đưa chàng thẳng xuống đồi, tới một con đường lớn, chạy về phía trung tâm trang trại. Kẻ qua người lại tấp nập, thoạt nhìn chàng có cảm tưởng mình đang đi giữa một đồn điền lớn, vì quanh mình hoàn toàn là sinh hoạt của ấp trại miền núi, với vẻ nhộn nhịp bình thản thông thường.
    Người đứng tuổi đưa chàng trai trẻ giang hồ qua sân, tiến thẳng tới trước một căn nhà lớn. Tới cửa chính, hắn dừng lại, gõ mấy tiếng.
    Cánh cửa mở rộng. Từ trong một cô gái cúi đầu chào và đưa chàng vào thẳng phòng khách, còn người dẫn đường đã lẳng lặng lui ra.
    - Xin rước ông ngồi chơi! Cô Ba cháu ra ngay!
    Đoạn người tớ gái thoăn thoắt vào trong.
    Chàng trai giang hồ ngồi đưa mắt qua mấy chiếc ghế bọc da báo gấm đốm vàng và ngồi xoay sườn về phía cửa chính. Còn đang thắc mắc về hai tiếng “Cô Ba” lạ tai, thì chiếc rèm trúc bên cửa ngang đã lay động và nữ chủ vén rèn uyển chuyển bước ra. Trong khoảnh khắc chàng tuổi trẻ giang hồ thấy gian phòng như rực rỡ hẳn lên vì nhan sắc của thiếu nữ. Vừa thoạt nhìn, chàng đã thận ra ngay, vừa toan đứng lên chào,thì thiếu nữ đã hơi cúi dầu, nhoẻn miệng cười và thoăn thoắt bước đến, khẽ giơ tay làm hiệu cản lại, đoạn ngồi xuống đối diện chàng, dáng điệu rất dịu dàng, tự nhiên.
    - Em vừa ở Tàu về tối qua, được người nhà cho biết ông đã khá mạnh. Mấy hôm không săn sóc vết thương của ông, em vẫn không yên tâm. Hiện ông thấy thế nào?
    Chàng trai trẻ khẽ vặn mình, nhếch miếng cười:
    - Dạ, cũng đã khá! Chỉ vài hôm nữa, có thế cưỡi ngựa được rồi.
    Thế cô cũng vừa...
    Thiếu nữ khẽ chớp hàng mi cong, mặt thoáng khác, nhưng vội nhoẻn cười:
    - Trông ông còn... chưa lại sức hẳn, vả lại vết thương chưa liền, cần tĩnh dưỡng nhiều đã.
    Chàng trẻ tuổi cũng mỉm cười:
    - Còn cô vết thương cũng chưa khỏi, sao đã hoạt động vội?
    Thiếu nữ lắc đầu:
    - Em chỉ bị thương xoàng ở tay, bó chóng lành lắm.
    Như vùng nhớ ra, nàng nghiêm mặt:
    - Em đã cho đi kiếm Voòng Lầu, nhưng chưa có tin gì cả. Chỉ biết chắc chắn là Voòng Lầu không mắc tay giặc Thoòng đêm đó.
    Đang nói, chợt cặp một thiếu nữ long lanh có vẻ tinh nghịch, nàng mỉm cười:
    - À! Em đã cho người về Hà Nội mua các đồ hoá trang cho ông rồi...
    Chàng trai trẻ nghĩ ngay tới bộ diện giả và đột nhìn đỏ cả tai. Tự nhiên, chàng trẻ buổi giang hồ nhìn thẳng vào đôi mắt long lanh của thiếu nữ, trong khi thiếu nữ cũng tinh nghịch ngó chàng. Hình như hai người đều muốn soi thấu những ý nghĩ bí ẩn thường giấu kín sau vẻ người hào hoa, bình dị của nhau. Nhưng cả hai đều tôn trọng sự bí mật riêng của nhau, nhất là thiếu nữ. Vì chàng tuổi trẻ từng đội lốt ông già, lại là ân nhân của nàng trong những giờ phút gian lao nhất.
    Vẻ nghịch ngợm biến nhanh trên khuôn mặt đẹp đẽ của cô gái.
    Cô chớp khẽ hàng mi cong, giọng nghiêm thân mật:
    - Ông có việc riêng ra đi, nếu... có cần chi xin ông đừng ngại. Em ở đây có gần hai trăm tay súng đóng rải rác mấy nơi, ước có dịp để rỏ máu đền đáp ơn sâu.
    Chàng buổi trẻ mỉm cười:
    - Người cưỡi ngựa, mang súng ở miền biến giới, giúp nhau khi thất thế là thường, sao còn nhắc tới làm gì? À, không biết những người bị bắt cùng với cộ..
    Thiếu nữ ngắt lời, giọng thản nhiên:
    - Em đã sang đánh cứu họ về rồi. Chật vật lắm! Phải đánh vào tận sào huyệt Thoòng Mềnh. May những thứ bị cướp còn nguyên. Bọn thuộc hạ có bắt mấy tên thân thiết của Thoòng thồ về cả tối qua.
    Như chợt nhớ ra, nàng hỏi:
    - À, em chưa được biết...
    Đang nói, chợt thiếu nữ ngưng lại có dáng ngại ngần. Nhưng người tuổi trẻ giang hồ đã dăm đăm nhìn thiếu nữ, đoạn trầm giọng:
    - Từ lâu, người ta gọi là Hồng Lĩnh...
    - Còn em là Phượng Kiều...
    Chàng tuổi trẻ hơi gật đầu, toan nói gì lại thôi. Vừa lúc đó, người tớ gái bưng trà nước cùng các món điểm tâm ra. Phượng Kiều mời Hồng Lĩnh ăn, cô gái chuyện trò rất thân mật, dáng điệu tự nhiên, cởi mở. Nhưng tuyệt nhiên, không ai đi sâu thêm vào những bí ẩn riêng của nhau. Điểm tâm xong, chàng tuổi trẻ giang hồ cáo lui về phòng riêng.
    Buổi chiều và luôn ngày hôm sau, chàng trai trẻ đã mấy lần đi dạo xuống khu trung tâm trang trại, không khỏi ngạc nhiên vì chẳng thấy bóng dáng thuộc hạ của Phượng Kiều đâu, cả cô gái nữa. Nhưng chỉ có mấy tên đeo súng lầm lì quanh quẩn trong trang và bốn tên hộ vệ chàng vẫn không rời một bước.
    Đêm sau, đang yên giấc, chợt Hồng Lĩnh vùng tỉnh vì súng nổ chát chúa gần đây. Chàng vội tung chăn, bước đến cánh cửa gỗ, hé nhìn ra.
    Phía trung tâm, đèn đuốc sáng rực như ban ngày, lố nhố thấp thoáng những bóng người cầm súng nấp khằp nơi, bắn xả cả ra tứ phía. Bên ngoài hình như có khá đông tay súng, vì ánh lửa, vụt lóe vụt tắt luôn luôn trong đêm tối vì những tiếng reo hò vang dội cả một vùng, lắng tai nghe toàn tiếng Quan Hỏa.
    Ngoài khu trang, phía xa xa cách chừng mấy cây, hình như tận phía rặng núi bên kia thung lũng, lại cũng có tiếng nổ ròn tan, tới tấp.
    Hồng Lĩnh đứng bên cửa quan sát trận chiến, trong đầu óc nổi lên nhiều nghi vấn. Còn đang ngạc nhiên chưa hiểu chuyện chi, thì chợt tiếng gõ cửa rất gấp. Người trẻ tuổi bước vụt tới bên tủ gương, khẽ mở cánh, quơ nhanh dây súng đeo vào sườn, với tay súng, tay dao, chàng men từng bước đến bên cửa ra vào:
    - Ai?
    Tiếng đập cửa ngưng ngay. Có tiếng đàn ông lạ rít lên:
    - Mời ông đi ngay! Cô Ba muốn gặp!
    Hồng Lĩnh nhíu mày, im một khắc.
    - Ông à ! Cô Ba cho người tới đón đó!
    Nghe rõ tiếng gã gác biệt thự, Hồng Lĩnh liền với tay mở khóa, đoạn cẩn thận đứng né sát vào tường.
    - Cửa mở đấy!
    Chàng vừa dứt, cánh cửa lập tức bị đẩy tung ra, một bóng người ập vào, tay cầm súng lăm lăm. Gian phòng mờ tối, hắn đảo mắt nhìn quanh. Hồng Lĩnh đứng chếch sau lưng, điềm tĩnh lên tiếng:
    - Có chuyện chi đó?
    Hắn hơi giật mình, quay phắt lại:
    - Mời ông đi ngay! Cô Ba muốn nhờ ông chút việc, sai tôi đến đưa đi.
    Với tay vặn to ngọn đèn dầu hoả, Hồng Lĩnh thấy người đó quần áo tả tơi, trán rớm máu, có lẽ vừa bị đạn hớt qua. Và gã gác nhà cũng dừng ngay bên khung cửa. Chàng trai trẻ giang hồ nheo mắt:
    - Đi xa không? Thế không phải... dưới kia sao?
    Bên ngoài tiếng súng vẫn vang dồn. Hồng Lĩnh hơi hất đầu làm hiệu. Gã gác biệt thự né sang bên, nhường lối cho người mới tới.
    Chàng trẻ tuổi giang hồ bước theo, một tay khép cửa lại. Đêm tối mịt mùng. Ngoài trang, những tia lửa vẫn lập loè giữa đêm khuya, tiếp liền tiếng súng nổ giòn tan. Đạn réo ngay trên đầu hai người. Gã dẫn đường đưa Hồng Lĩnh xuống chân đồi. Hai ngời:
    phải khom mình tránh đạn từ phía ngoài xa bắn vung vãi cả vào sườn đồi, nóc nhà, tung cả cành cây, mái ngói.
    Men thẳng đến bên dòng suối ven đồi, gã dẫn đường cùng Hồng Lĩnh ngược theo chiều suối, len lỏi giữa đêm tối. Được độ mấy chục thước, người dẫn đường chợt dừng bên một gốc cây.
    Trong bóng tối, Hồng Lĩnh thấy bóng hai con ngựa đen ngòm đứng dưới cây.
    - Lối này chúng chưa vào được vì là khu đất giáp với khu sau. Mời ông! Ta cần đi gấp, không chậm mất!
    Miệng nói, tay hắn tháo dây cương, trao cho Hồng Lĩnh và chờ chàng lên yên xong, hán cũng nhẩy phắt lên con ngựa bên, đoạn đánh đi bước. Bóng tối như loãng dần theo bước chân ngựa.
    Hồng Lĩnh theo gã đẫn đường phóng kiệu băm trên đường mòn lượn giữa những quả đồi trọc, thoáng cái đã bắt vào một con đường khá rộng. Nhưng mới đi chừng trăm thước, hắn đã quẹo về tay hữu, băng qua thung lũng và Hồng Lĩnh thấy con ngựa đang phóng về phía rặng núi đá sừng sững ngay trước mặt. Càng đi, càng xa tiếng súng phía trại, nhưng càng gần tiếng nổ phía trước. Thoáng cái đã tới chân núi, súng nổ chát chúa. Đạn xé không gian ngay trên đầu. Đưa mắt nhìn, Hồng Lĩnh thấy mình đã vào rìa khu núi đá và tiếng súng nổ từ ba nẻo phía tả bắn chếch ngay vào núi.
    Người dẫn đường đưa chàng len vào hẻm bên hữu, luồn về phía sau tiếng súng. Chàng cùng hắn vừa xuống ngựa thì từng loạt đạn đã từ ngoài bẵn xối xả tới. Đêm tối mù, chàng còn chưa nhận rõ mọi vật quanh mình, thì chợt có bóng người nhỏ nhắn từ đâu tiến nhanh đến bên chàng.
    - Chúng nó đông lắm! Chúng em có ít tay súng đi vắng, thành thử phải phiền ông...
    Nhận ra Phượng Kiều, chàng trẻ tuổi giang hồ mỉm cười, hỏi:
    - Bọn nào mà lại chia quân đánh cả trong, ngoài vậy?
    - Thoòng Mềnh! Nó mượn cả quân thổ phỉ khác nữa!
    Hồng Lĩnh nghe rõ tiếng thở mạnh của Phượng Kiều:
    - Hừ! Có nội ứng nên nó mới biết rõ đường ngang ngõ tắt vùng này? Nó có vẻ quyết đánh đến cùng lắm!
    Đạn bắn xối vào chỗ mấy người. Phượng Kiều thấp giọng:
    - Nếu bây giờ có tay gan dạ chỉ huy một tốp người đánh bọc hậu chúng, chắc có thể chuyển thế trận được.
    Hồng Lĩnh cười thản nhiên:
    - Nhưng cần định rõ địa hình!
    Phượng Kiều quay bảo gã bên cạnh:
    - Giữ trận cho ta mấy phút! Mời ông vào đây.
    Phượng Kiều quay ngoắt, đưa Hồng Lĩnh đi vài chục bước, vào một cái hang khá rộng, đèn đuốc sáng trưng. Cô gái trải một tấm bản đồ trước mặt Hồng Lĩnh, lấy tay chỉ trỏ căn dặn, đoạn gấp lại. Nàng quay bảo một gã đàn ông túc trực sẵn:
    - Ra bảo toán ba tập trung lại, theo ông Hồng Lĩnh.
    Dứt lời, thiếu nữ mỉm cười rút khẩu súng bên mình trao cho người tuổi trẻ:
    - Đền ông khẩu súng trước! Ông đùng cho đủ bộ đôi!
    Hồng Lĩnh cầm lấy súng, hơi nhếch miệng cười, đoạn cùng Phượng Kiều bước nhanh ra khỏi hang. Hai người chia tay nhau, băng đi trong đêm mờ.
    Tiếng súng phía ngoài vẫn bắn xả vào, những tiếng quát tháo vẫn nổi lên. Lúc sau, chợt quân Thoòng rối loạn vì bị đánh thốc phía sau lưng. Tiếng quát tháo càng nổi lên, náo động giữa hàng loạt đạn bắn rát. Súng từ chân núi phản công, trong, ngoài bọc lấy kẹp chặt. Có nhiều tiếng rú thét trong đêm, rồi tiếng rên rỉ. Phía xa, nẻo trang trại, chợt tiếng nổ cũng trội hẳn lên một lát rồi im bặt, lát sau như kéo dần tới phía đằng này. Thế chiến chuyển hẳn. Súng thưa dần, rồi có những tiếng chân ngựa khua rầm rập... như đuổi nhau gấp gáp.
    Đèn đuốc bật lên, sáng cả một góc núi. Phượng Kiều chạy lại bên Hồng Lĩnh.
    - Không được ông giúp, thật đêm naỵ.. nguy với quân giặc.
    Hồng Lĩnh đưa mắt nhìn quanh, bảo Phượng Kiều:
    - Có một toán quân nào đánh đuổi thổ phỉ tại phía trang trại, rồi đánh thọc bên sườn cánh quân Thoòng Mềnh ở đây, nên thế trận chuyển mau hẳn đi.
    Phượng Kiều như cũng chợt nhớ ra:
    - À vâng, em có nghe tiếng súng khác thường chuyển dần về hướng này... hay là...
    Đang nói, thiếu nữ vội ngừng ngay, cùng mọi người nhìn ra phía thung lũng trước mặt. Từ các ngả, bọn quản gia giữ các vị trí ngoài, đang lục tục kéo về mạn cửa hang, và bọn đang dìu dắt quân bị thương đi lên con đường thung lũng chợt đứng rẽ cả ra hai bên, nhường lối cho một bọn người cỡi ngựa từ ngoài thung lung phóng vào.
    Như đã quen đường lối, bọn này tiến thẳng tới cửa hang, chỗ Hồng Lĩnh, Phượng Kiều cùng mấy gã đầu lĩnh đứng. Hồng Lĩnh còn đang ngạc nhiên nhìn mấy người lạ đi đầu, tới chỗ nào bọn quân gia cúng cúi đầu chào kính cẩn, thì một người đứng tuổi đã vượt ngựa tới trước Phượng Kiều. Và thiếu nữ đã reo lên:
    - Kìa! Thầy! Lại tưởng...
    Nguròi đứng tuổi nén dây cương cho một gia nhân, vừa xoa tay, vừa cười:
    - Sao? Bên ta có bị thiệt hại gì không? Thầy vào trại thấy bị đánh, phải cho chúng nó đánh thốc ra ngay, rồi mới mở ường về phía này. Chỉ ngại bọn giặc vào được cơ sở trong này...
    Người đứng tuổi chợt ngừng, vì vừa nhận ra khuôn mặt người lạ trong bọn. Ông đưa mắt nhìn Hồng Lĩnh có vẻ ngạc nhiên xúc động bất thần. Phượng Kiều liền mỉm cười:
    - Quên! Con chưa kịp giới thiệu. Đây là ông Hồng Lĩnh, người đã cứu con khỏi tay bọn Thoòng! Còn đây thầy em...
    Người cha Phượng Kiều đã lấy lại vẻ thản nhiên, ông giơ tay ra, miệng hơi nhếch cười, và nhã nhặn:
    - Trần Tắc...
    Hồng Lĩnh bằt tay ông và từ tốn:
    - Cụ về vừa kịp! Nếu không, bọn thổ phỉ cũng chưa chịu tháo lui!
    Trần Tắc cười, thân mật:
    - Tôi mằc ở xa, nhưng có được con Phượng cho biết về tài bắn của ông. Ơn ông giải cứu thật...
    Nói đến đó, chợt ông quay bảo mấy gã đầu lĩnh đứng quanh:
    - Liệu đôn đốc cho nó quét dọn sạch sẽ cả khu đi ngay! Nhớ để ý những xác nằm ở hốc đá, bụi rậm, nghe!
    Đoạn ông khoát tay bảo Phượng Kiều, Hồng Lĩnh:
    - Thôi! Ta vào trong nói chuyện, đứng ngoài sương khuya làm gì!
    Cả ba cùng vào hang. Hang rất sâu có nhiều hốc hai bên. Chỗ nào cũng có đèn đuốc thắp sáng, thỉnh thoảng lại thấy thấp thoáng bóng quân canh.
    Hồng Lĩnh đã từng ở hang sâu nhiều, cũng phải khen thầm vi trí hang sâu này, đặc biệt là thêm lối kiến trúc dựa vào hình thể thiên tạo để biến thành một nơi cư trú rất thuận tiện. Càng vào trong, chàng càng có cảm tưởng rõ rệt mình đang đi sâu vào một nguồn bí mật lạ lùng, và càng thấy chủ nhân là người mưu trí khác thường.
    Hai cha con Phượng Kiều đưa Hồng Lĩnh qua nhiều ngách hang, cuối cùng tới một căn nhà rộng. Ba người đàm luận một lát, đoạn Phượng Kiều truyền gia nhân dọn chỗ cho khách ngả lưng, rồi hai cha con cáo thoái lộn lại phía hang.
    Cảm thấy mệt mỏi, người tuổi trẻ nằm xuống, cố dẹp những ý nghĩ vẩn vơ, và nhắm mắt ngủ luôn. Sớm sau, chàng trẻ tuổi tỉnh giấc lúc ánh nắng đã chiếu vào tận giường nằm. Tung chăn dậy, bước xuống đất đã thấy chậu nước và khăn bông đặt sẵn trên giá gỗ, chàng rửa mặt qua loa rồi đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài trời. Lúc đó mới rõ căn nhà này nằm dựa ngay vào vách đá, nép vào một hốc rộng, mái nhà có dây leo phủ kín rủ cả xuống cửa sổ. Chỗ chàng đứng ở trên cao, nhìn xuống thung lũng thấy ngọn cây xanh rờn và con đường vắt qua nhỏ như con rằn uốn khúc. Lạ nhất là suốt khu thung lũng, không một mái nhà thổ dân, trông hoàn toàn hoang dã, không ai ngờ bên trong chứa một sự sống... sát máu bí ẩn.
    Đang nghĩ liên miên, chợt có gia nhân vào mời, đưa chàng lộn lại nẻo hang đêm qua, lúc đó mới rõ căn nhà chàng ngủ, trông đường xuống phía trước, chỉ độc đạo qua hang.
    Hai cha con Phượng Kiều đang ngồi chờ khách cùng dùng điểm tâm qua loa rồi lên ngựa về trang trại. Phượng Kiều thường sánh ngựa với Hồng Lĩnh, chuyện trò vui vẻ, chỉ riêng người cha có vẻ khác lạ. Ông luôn ngó người tuổi trẻ, mặt thỉnh thoảng lại loé lên một tia nóng bỏng. Nhưng mỗi khi nói chuyện, ông vẫn lấy vẻ tươi cười vồn vã. Thái độ khác lạ của Trần Tắc, tuy rất kín đáo, cũng không qua cặp mắt của chàng tuổi trẻ giang hồ. Riêng Phượng Kiều vẫn vô tình không hề lưu ý tới vẻ khác thường của cha. Nàng vẫn đánh ngựa sóng hàng với Hồng Lĩnh và chuyện trò thân mật tự nhiên. Thấy thế, người tuổi trẻ giang hồ thường giữ ý, cho ngựa tiến lên hoặc lùi lại sau nàng. Và lấy làm lạ về thái độ của Trần Tắc, chàng luôn đi cặp ngựa bên, gợi chuyện để dò ý tứ ông già ra sao. Nhưng mỗi khi nói chuyện với chàng, người cha Phượng Kiều lại tỏ ra vui vẻ, không có gì khác lạ cả.
    Ánh nắng đã chan hòa thung lũng. Sương trắng mắc ngang rặng núi đá cũng đã tan hẳn. Mấy con ngựa thủng thẳng bước một trên đường. Tới bên dòng suối có cành lá um tùm, đột nhiên, Trần Tắc đừng ngựa, đảo mắt nhìn quanh. Ngoảnh lại thấy cha đang quan sát, nghe ngóng, Phượng Kiều vội lùi ngựa, khẽ hỏi:
    - Có gì đó, thầy? Trần Tắc khẽ giơ tay làm hiệu miệng lầm bẩm như nói một mình, cặp mắt vẫn nhìn xói vào bờ bụi:
    - Cha vừa nghe có tiếng động khác thường...
    Dứt lời đột nhiên ông già rút phắt súng bắn vãi luôn mấy phát về phía trước. Lúc đó, Hồng Lĩnh đã vào khúc quẹo, chợt nghe súng nổ phía sau, vừa quay đầu lại, đã thấy một luồng đạn réo sạt bên tai.
    Nhanh như cắt, chàng lăn luôn xuống chân ngựa. Nhưng súng đã im bặt và ngay lúc đó hai cha con Trần Tắc đã phóng ngựa lên. Thấy chàng tuổi trẻ đang chống tay đứng lên, thiếu nữ cười hồn nhiên:
    - Trời! Ông Hồng Lĩnh tưởng có quân phục sao?
    Người tuổi trẻ giang hồ phủi quần áo và đưa mắt nhìn Trần Tắc, lúc đó đang cắm súng vào bao, chàng mỉm cười điềm nhiên:
    - Vâng, tưởng bị phục thật! Vì... đạn bắn ngay bên mang tai...
    Phượng Kiều nghe nói, vội nhìn cha có dáng trách móc, đoạn bảo Hồng Lĩnh:
    - Cha em nghe có tiếng động lạ đâu đây nên bắn dè chừng về nẻo đó, không ngờ ngựa trước đã vào khúc quẹo.
    Trần Tắc nghiên mặt chỉ tay về phía hữu:
    - Có tiếng động rất nhẹ, tôi ngờ có kẻ lạ lẩn quất quanh mình.
    Hồng Lĩnh đưa mắt ngó qua về phía ông ta trỏ, đoạn nhảy lên ngựa, mỉm cười:
    - Có lẽ con vật nhỏ nào chạy trên lá khô đó. Thôi! Chúng ta đi.
    Mấy con ngựa lại tiếp tục bước, nhưng từ đấy chàng tuổi trẻ đi sát bên Trần Tắc không rời một bước và chuyện trò vui vẻ tự nhiên như thường.
    Tới trang trại, hai cha con Phượng Kiều đưa Hồng Lĩnh về nhà riêng trên sườn đồi, rồi xuống khu trung tâm. Mặt trời khuất mau dưới rặng núi Tây và bóng tối đổ xuống rừng sâu, trùm lấy vùng trang trại bí mật.
    Trong căn phòng rộng ở dãy nhà chính giữa, Trần Tắc ngồi bên bàn, đăm dăm nhìn ngọn lửa vật vờ theo hơi gió. Dưới vùng ánh sáng đỏ khè, khuôn mặt ông rắn lại như đá tạc, giữa khuôn mặt tối mờ vì nham nhở ánh nến, hai con mắt người đàn ông đứng tuổi quắc sáng, trông thư tráng màu... chết chóc.
    Ông ngồi im như pho tượng, thỉnh thoảng mới đưa mắt nhìn xa bóng tối, nghĩ ngợi triền miên như đang tính toán cân nhắc một quyết định gớm ghê.
    Ngoài đêm, tiếng chim cú mèo chợt rúc lên, tiếp liền mấy tiếng chim lợn quái gở bay qua để rớt xuống trang trại... Một hơi gió lọt qua khung cửa, thổi ngọn lửa nến rạp xuống. Người đàn ông đứng tuổi ngẩng phắt mặt lên. Cánh cửa hé mở từ từ, Phượng Kiều lách mình vào, nhẹ bước tới trước bàn, lạ lùng hỏi:
    - Thầy bảo gì con?
    Trần Tắc nhìn con một khắc và thình lình trầm giọng:
    - Con có biết kẻ đó là ai không? Kẻ đã tình cờ cứu con?
    Phượng Kiều mở to đôi mắt, như ngạc nhiên chờ đợi. Người cha chậm rãi:
    - Ngay từ lúc thoạt nhìn, cha đã ngờ ngợ, sau thấy rõ dấu vết riêng của hắn mới giật mình, tin chắc.
    Trần Tắc ngừng lại, nhìn thẳng vào đôi mắt mở to của Phượng Kiều. Thiếu nữ chớp hàng mi cong, khẽ hỏi, giọng cố làm cho tự nhiên:
    - Thầy bảo người đó...
    Trần Tắc buông từng tiếng một:
    - Là một con người rất nguy hiểm!
    Và không để cho con gái có một phản ứng, họ Trần giáng tiếp luôn mấy nhát búa.
    - Hắn chính là tên tướng giặc khét tiếng miền Thập Vạn Đại Sơn, hắn là tay súng đã hạ rất nhiều người...
    Ngạc nhiên, Phượng Kiều khẽ kều lên:
    - À! Thế rạ..
    Trần Tắc cười không ra tiếng, tiếp lời:
    - Chính hắn! Dân bản địa đã gọi hắn là “Thần Xạ Đại Sơn Vương”... và ba năm nay, hắn hùng cứ một miền Thập Vạn Đại Sơn, thu phục được khá nhiều bộ hạ.
    Phượng Kiều hơi nhíu mày có dáng nghĩ ngợi, đầu gật gật nhẹ và lẩm bẩm như nói một mình:
    - Thảo nào... chỉ hai thầy trò mà dám phục đánh hàng trăm quân Thoòng!
    Như không để ý tới lời con, Trần Tắc tiếp:
    - Hắn xuống biên giới phải có mưu định gì? Hừ! Thoòng Mềnh chưa thanh toán xong, đã đến kẻ khác nguy hiểm gấp trăm! Rồi đây...
    Tưởng cha băn khoăn về sự có mặt của Hồng Lĩnh. Phượng Kiều tiến sát lại, miệng hơi nhếch cười:
    - Nhưng... Ông ta là ân nhân của con, và cha cũng rõ ông ở đây chỉ là tình cờ...
    Trần Tắc dăm đăm nhìn con gái. Mấy lần, ông định nói gì lại thôi. Cuối cùng họ Trần nhìn trừng vào ngọn lửa nến vật vờ, mặt mày nỗi khắc càng thêm rắn lại. Thấy cha im lặng, Phượng Kiều cũng im lặng. Hai cha con, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng tư. Một lúc khá lâu, Trần Tắc mới ngẩng đầu lên, khẽ bảo con:
    - Thôi! Đêm đã khuya, con đi nghỉ, chuyện đó để... thầy liệu định!
    - Nhưng...
    - Được! Cha đã có ý định... rồi con sẽ rõ!
    Phượng Kiều muốn nói gì, lại thôi, cô gái có vẻ tần ngần mấy khắc, đoạn lui ra. Trần Tắc đưa mắt nhìn bóng con gái khuất sau khung cửa tối, cặp mày ông nhíu lại, vành môi mím chặt. Chờ cho cô gái ra khá lâu, người đàn ông đứng tuổi chậm chạp đứng lên, bước ra ngoài hiên và đi vào đêm tối. Đêm về khuya, khí núi bốc lên lành lạnh.
    Trong căn nhà ven đồi, chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh nằm thao thức, không sao nhằm mắt nổi. Chàng duỗi thẳng chân, nằm ngửi nhìn lên đỉnh màn tranh tối tranh sáng, tai nghe hơi gió đêm lùa qua khẽ hở rì rào. Tiếng động ban đêm sắp chìm hẳn, và mí mắt người tuổi trẻ vừa khép lại, sắp thiu thiu ngủ, chợt chàng hơi giật mình chớp mắt luôn mấy cái để chống với giấc ngủ đang chậm đến.
    Bên ngoài, rõ ràng có tiếng động thật nhẹ nổi lên, một thứ tiếng động mà người giang hồ từng trải đã quen nghe. Tiếng một vật rắn chạm vào một vật, nổi lên và chìm luôn trong làn gió.
    Chàng nhỏm phắt dậy, lẹ làng lăn xuống đất, ẩn mau vào bóng đêm, ngay sau ánh đèn dầu chỉ còn bằng hột dỗ, xanh lè. Ngoài hiên, im bặt, tuyệt không tiếng động của gã canh biệt thự. Chỉ có tiếng côn trùng rên rỉ trong gió thoảng. Khá lâu sau, mới có tiếng chìa khóa tra vào ổ, lắng nghe thật kỹ mới rõ. Rồi cánh cửa từ từ hé ra, cho một bóng người lách vụt vào, nhanh và êm như một cái bóng.
    Hắn lách ngồi, vào trong rồi, mới đứng phắt lên cao lớn, sừng sững. Một vệt sáng xanh lè từ tay người lạ bật lên, quay lia một vòng.
    Người lạ bước thẳng tới bến giường.
    - Thầy ạ! Thầy!
    Người lạ sờ thấy giường không vội quay phắt lại lia đèn bấm về phía ngọn đèn dầu.
    - Thầy ạ?
    Từ trong bóng tối, Hồng Lĩnh đã bước vụt ra.
    - Trời ! Voòng Lầu! Sao...
    Người lạ tiến nhanh đến bên Hồng Lĩnh, thấp giọng:
    - Thầy! May quá! Tôi phải lên qua mấy chặng canh của chúng, suýt đụng phải tên chủ. Ta đi thôi.
    Hơi ngạc nhiên, Hồng Lĩnh hỏi thuộc hạ:
    - Sao... gấp thế? Mà từ hôm đó Voòng Lầu phiêu bạt chỗ nào?
    - Chuyện dài lắm a thầy! Giờ phải đi ngay! Thầy đang nằm trong hang hổ dữ.
    - Nhưng... sao?
    Voòng Lầu vội ghé tai chủ, thì thầm to nhỏ mấy tiếng gì không rõ khiến Hồng Lĩnh tỏ vẻ kinh ngạc hết sức. Người tuổi trẻ đặt tay lên vai thuộc hạ:
    - Vậy! Ta rời ngay chỗ này. Hừ! Thật không ngờ...
    Voòng Lầu nhìn ra phía cửa, bảo Hồng Lĩnh:
    - Thầy thu xếp mau lên! Chỉ hai mươi phút nữa, tên gác có thể tình lại.
    Dứt lời, Voòng bước vụt ra ngoài. Hồng Lĩnh đến bên tủ gương thay quần áo, thoáng cái, chàng đã đến bên đèn, gọn ghẽ trong bộ y phục màu chàm. Quàng dây đạn quanh sườn xong, chàng xốc lại bao súng, v~ bước ra phía cửa. Tay đã đặt vào cánh cửa, chàng tuổi trẻ còn quay lại đưa mắt nhìn quanh phòng, rồi mới lách ra.
    - Xong chưa, thầy?
    - Rồi! Ta đi chứ! Tên gác sao?
    - Dạ. Tôi đã nhét giẻ vào miệng và trói lại cẩn thận rồi.
    Hai người bước vụt đi trong đêm tối. Về khuya, gió thổi hơi mạnh.
    Trên nền trời tối nhạt, thấp thoáng ẩn hiện lờ mờ mấy vì sao thưa...
    Trung tâm trang trại, nằm im bặt như đã thiếp trong giấc ngủ, chỉ có một, hai ánh đèn le lói lọt qua khe cửa dãy nhà ngang, hắt ra. Hai người đàn ông giang hồ tới đầu hiên quan sát thận trọng đoạn xuống phía chân đồi, bên suối.
    - Quanh đây chỗ nào cũng đều có vọng gác ngầm. Ta nên băng ngang qua suối đi một đoạh rồi hãy ngược rìa địa khu.
    - Được! Cố tránh chạm trán với chúng, nhất là chạm súng. Ta muốn ra khỏi nơi đây đã.
    - Dạ!
    Hai bóng người mất dạng bên suối rừng, trong đêm chỉ nghe tiếng nước chảy tha thiết... mơ hồ...
    Hai người đi được chừng nửa giờ, thì phía trong trang trại tự nhiên có vệt sáng đèn bấm loé lên, rồi phụt tắt. Hai bóng người, một cao, một thấp, vụt qua sân có dáng vội vã, khuất mau sau phía nhà kho, lát sau, thấy đã đứng sững ngay trên sườn đồi cạnh biệt thự của Hồng Lĩnh ở. Tia đèn bấm lại lóe lên. Từ mấy ngả, có bốn, năm bóng người nữa đổ tới. Thì thầm bàn tán xong, cả bọn chia hai phía, tiến đến bên biệt thự.
    Bóng người cao lúc đầu rón rén đến đầu hàng hiên lắng tai nghe ngóng. Bên trong, không một tiếng động. Hắn vội áp tai vào bên cửa sổ rồi nghển cổ, nhìn vào trong. Mấy khắc sau, hắn giơ tay vẫy nhẹ về phía sau. Từ chỗ tối, bóng người thấp nhô ra, tiến lại. Hai bóng người ghé sát vào nhau, đang thì thầm bàn tán gì, chợt cùng áp lưng vào tường, nhớn nhác. Đâu đây, hình như về phía hữu, có tiếng người ú ớ như bị bóp cổ. Như chợt hiểu, cả hai bước vòng luôn ra lối hiên trước. Bóng cao vấp phải một vật, mất đà, suýt ngã. Ánh đèn bấm từ tay người đi sau vội lóe lên. Và cả hai cùng khẽ bật kêu, kinh ngạc:
    - Kìa! Thằng gác!
    Đoạn, cùng lúc, tiến nhanh lại khung cửa đẩy mạnh. Cửa mở tung cho gió đêm lùa vào căn phòng trống. Giơ tay vặn cao ngọn đèn dầu, người thấp nghiến răng:
    - Hừ! Chậm ra tay, nó đã thoát trước mất rồi!
    Ánh đèn dầu hắt trên khuôn mặt người đàn ông đứng tuổi những vùng sáng vật vờ, soi rõ những nét dữ dội vụt hiện trong ánh mắt Trần Tắc. Trần Tắc bước đến lên giường, lia đèn bấm luôn mấy vòng.
    Gã cao lớn đứng bên nghe rõ tiếng nghiến răng của chủ, lùi lại chút:
    - Nó gớm thật! Giá chủ nhân quyết đinh hạ ngay đêm trước...
    Trần Tắc quay lại, cười không thành tiếng:
    - Ta đã một lần ra tay! Nhưng... nó đã kịp tránh khỏi luồng đạn.
    Chớp mắt luôn mấy cái, Trần Tắc chợt thấy tên gác đứng bên khung cửa, vội trừng mắt, dằn giọng hỏi:
    - Mày bị từ bao giờ, nhớ không?
    Gã gác sợ:
    - Bẩm... chắc mới đây. Nó thình lình đánh vào đầu, nhưng...
    không phải Hồng Lĩnh.
    Ngạc nhiên, Trần Tắc hỏi dồn:
    - Sao? Sao biết được ?
    - Da..... Vì ngay lúc con đang nhìn về phía cửa chính khóa chặt, thì... bị đánh từ phía sau lưng...
    Trần Tắc nhíu mày ngó quanh, lẩm bẩm:
    - Vậy có lẽ có đồng bọn tới. Mà chắc cũng không lâu đâu.
    Đoạn quay phắt, vẫy tay ra lệnh:
    - Chúng nó chưa ra khỏi nơi này, mau huy động đủ người chia các ngả sục tìm! Mà nhớ huy động cho êm ả, nghe!
    oOo Nằm trằn trọc mãi mới ngủ được, vừa thiếp đi, Phượng Kiều đã chợt tỉnh giấc. Còn đang lắng nghe tiếng chim rừng kêu ríu rít bên ngoài, thì cửa phòng đã hé mở, con hầu gái rón rén bước vào.
    - Cô Ba à! Lạ lắm!
    Ngạc nhiên, Phượng Kiều vội chống tay ngồi lên, xỏ chân vội vào dép:
    - Sao? Có gì đó?
    Con hầu gái thấp giọng:
    - Tối qua con thấy dưới nhà ngang rộn rịp lắm, vừa giờ con, đi qua, thấy vắng hẳn đi. Hình như họ theo lệnh cụ đi đâu đó.
    Phượng Kiều hơi nhíu mày, có dáng suy nghĩ. Đoạn nàng khoát tay, bảo người hầu gái:
    - Sửa soạn các thứ mau! Để ta ra xem!
    - Dạ ! Mọi thứ con đã sắp sẵn rồi. Mời cô sang phòng tằm.
    Con hầu gái vừa bước ra, Phượng Kiều đã gọi giật lại:
    - À này! Nhớ ra bảo thắng ngựa sẵn, có khi ta cần đến ngay đó!
    Nói xong thiếu nữ sang phòng bên, rửa mặt và trang điểm qua loa, đoạn thay y phục đi rừng, bước nhanh ra bên ngoài. Cô gái đưa mắt nhìn quanh thấy vắng người thốt nhiên tần ngần ngó về phía biệt thự Hồng Lĩnh. Linh tính như báo trước sự gì khác thường, nàng vội rảo bước qua sân, đi thẳng về nẻo đó Tới hiên, nàng tiến thẳng đến khung cửa, thấy cánh khép hờ, liền đẩy mạnh, bước vụt vào.
    Trong mấy giây, thiếu nữ đứng sững như lặng đi vì sự trống không của căn phòng. Nàng cắn chặt vành môi, đưa mắt nhìn những đồ vật vẫn nguyên chỗ, chỉ có tủ quần áo là bị lục tung, có cái rơi cả xuống đất.
    - Thôi đúng rồi!
    Thiếu nữ vùng nhớ tới thái độ của cha và không nén được hơi thở mạnh. Nàng bước nhanh ra khỏi phòng, lộn lại khu trung tâm. Tới sân, gặp người hầu gái, thiếu nữ vội khoát tay:
    - Bảo dắt ngựa ra đây! Và vào lấy súng ngay!
    Người hầu gái vừa quay đi, Phượng Kiều không kịp đợi, liền bước về phía tàu ngựa. Vừa trông thấy mã phu đang lúi húi nịt dây yên, thiếu nữ hỏi luôn:
    - Xong chưa...? Sao lâu thế?
    Mã phu vội vàng ngẩng đầu lên:
    - Dạ xong rồi đây cô Ba!
    Phượng Kiều tiến đến sát, hỏi:
    - À! Chú có biết sớm nay cả nhà đi đâu không?
    Gã gia thân hấp háy mắt:
    - Thưa, hình người có việc gấp lắm! Ngay hồi đêm, cụ đã truyền đóng ngựa đến mấy chục con đó!
    - Ngay từ đêm?
    - Vâng.
    Gã gia nhân nịt xong nút cuối, đứng lên, và trao tay cương cho nữ chủ, vừa tiếp:
    - Cụ đi có vẻ gấp lắm! Hình như cũng đi gần thôi vì không ai mang theo lương thực.
    Phượng Kiều đỡ lấy cương, dắt ngựa ra vừa tới ngoài, đã thấy người hầu gái chạy ra đưa dây súng. Thiếu nữ coi qua, quàng vào lưng, đoạn nhảy phắt lên yên, tế thẳng ra lối cổng tiền. Đi được chừng trăm thước, còn đang đưa mắt định hướng, đã thấy một người cưỡi ngựa phi kiệu đại phía rừng trước băng ngang. Nhận ra gã đầu lãnh thuộc hạ. Phượng Kiều vừa giơ tay vẫy, vừa đánh ngựa rẽ tới. Hai đầu ngựa đối nhau, Phượng Kiều hất hàm:
    - Chú đi đâu về mà có vẻ hớt hải thế?
    Gã đầu lĩnh thở hổn hển, nhìn nữ chủ, mặt thoáng biến đổi.
    Phượng Kiều tinh mắt, thấy ngay. Thiếu nữ nhìn thẳng vào mắt hắn, cặp mày nhíu lại:
    - Đi đâu về mà hỏi lại lúng túng thế?
    Gã chớp mắt luôn mấy cái, nhớn nhác ngó về phía sau, ấp úng:
    - Da..... thưa cô Bạ..
    Thấy vẻ khác lạ của gã đầu lĩnh vẫn từng quen tuân lệnh mình, thiếu nữ chợt đoán ngay, liền chặn luôn, mắt nàng quắc lên dữ dội:
    - Cụ dặn phải giấu ta, phải không? Hừ!
    Nàng dằn giọng, nói như truyền lệnh:
    - Không được giấu. Phải nói cho thực. Có chuyện gì?
    - Da..... thưa... Cụ sai về huy động thêm người. Mà không được để cô biết.
    Thiếu nữ vẫn không rời mắt hắn. Thấy hắn chợt ngưng, cô gái dịu giọng:
    - Sao? Cứ nói! Ta không để cụ rõ đâu!
    Mặt thoáng vẻ mừng, hắn cho ngựa nhích lại gần thêm một chút, thấp giọng:
    - Cô Ba!.... Đã vây được ông khách hôm qua trốn đi rồi! Hiện ông ta không có đường ra, rút vào một hẻm núi, các tay súng ta đã bao vây bốn mặt, kín lắm.
    Thiếu nữ mím chặt vành môi, cố lấy vẻ bình tĩnh, lặp lại:
    - Vây kín bốn mặt?
    Nàng lẩm bẩm:
    - Nhưng để làm gì? Mà tại sao... lại thế?
    Tưởng nữ chủ hỏi mình, gã thuộc hạ nhanh miệng:
    - Không hiểu sao... cụ cho lệnh cứ gặp là bắn ngay, ai hạ được sẽ có thưởng.
    Phượng Kiều nhìn về phía xa, có vẻ suy nghĩ. Đoạn, như có chủ đích, cô gái bảo gã gia nhân:
    - Thôi! Ta cho về nghỉ, không phải huy động thêm nữa. Cụ có hỏi đã có ta nói cho. À, hiện mọi người ở chỗ nào.
    - Bẩm, ở ngang hẻm núi năm ngoái cô hạ được con báo gấm đó.
    - Thế à!
    - Vâng... Cô Ba đi tắt chỉ độ mười lăm cây thôi. Nhưng... nếu cu.....
    Thiếu nữ giật mạnh tay cương cho con ngựa phóng đi, được mấy bước, nàng còn quay lại vẫy tay, cao giọng:
    - Cứ về trại nghỉ! Để ta đến gặp cụ.
    Và cô gái thúc mạnh gót chân vào hông ngựa cúi rạp xuống. Con ngựa băng qua dải thung lũng bước về rặng núi phía tay tả. Mặt trời nhô lên cao dần, chiếu sáng những giọt sương đêm còn đọng trên lá cây, ngọn cỏ. Chim rừng thánh thót, véo von. Nhưng thiếu nữ không lưu ý tới cảnh đẹp bình minh, cứ mải miết ra roi cho ngựa băng rừng vượt suối. Tới cách quèn “Súa” chừng non cây số, chợt nàng nghe tiếng súng nổ vang phía trước và chim rừng sợ hãi vỗ cánh bay loạn xạ. Đến khi cô gái tới khu hẻm thì tiếng súng đã thưa dần, chỉ còn lẹt đẹt một hai phía. Nàng vội cho ngựa vào đường mòn vắt qua một ngọn đồi trúc thấp. Phi ngựa lên đỉnh, thiếu nữ ghìm cương đảo mắt nhìn quanh, thấý lố nhố nhiều bóng người thấp thoáng ngay bên chân rặng núi đá chếch phía hữu. Chỗ Phượng Kiều dừng ngựa cách chân núi đá cũng đến trên hai trăm thước, nên định thần nhìn mãi, không nhận nổi hình dáng cha ở chỗ nào. Lắng tai nghe, lại thấy tiếng súng nổ ở cả phía lên kia hẻm núi Quèn “Súa” này, nàng đã có lần sang săn bắn, nên khá rõ địa thế. Còn đường mòn chỗ nàng đứng chạy xuống dưới thung lũng hẹp và vắt qua quèn, ngay trong hẻm này có nhiều chỗ ẩn trú có thể tránh được luồng đạn từ khắp phía bắn tới.
    Thiếu nữ đứng, quan sát, suy nghĩ mấy phút, chợt cặp mắt vụt sáng lên, nàng giật mạnh tay cương, đánh ngựa xuống thẳng phía chân núi đá. Vừa băng qua thung lũng, nàng đã trông thấy ngựa buộc rải rác bên những gốc cây. Nàng liền cho ngựa vượt lên, tiến thẳng đến chân núi.
    Nghe tiếng vó câu khua dồn, đám thuộc hạ vội quay cả lại. Mấy tên khác reo lên:
    - Kìa cô Ba!
    Đưa mắt nhìn, không thấy cha, thiếu nữ mừng thầm, lấy vẻ bình thản hỏi:
    - Sao? Họ vẫn ở trong hẻm? Đông không?
    Một gã đầu bọn chỉ huy tốp thuộc hạ đó, vội rời hẳn chỗ nấp, tiến đến, vừa thay đạn vừa nhếch miệng cười:
    - Ra sao được, cô Ba? Hai tay súng khó thoát nổi mấy chục người.
    Sớm muộn sẽ hết đạn thôi.
    Phượng Kiều nhìn gã thuộc hạ mấy khắc, đoạn nghiêm giọng:
    - Này Hai Cao! Chú nghĩ thế nào? Ông ấy là ân nhân, làm sao cụ lại...
    Hình như cảm thông nỗi khó xử của cô chủ, Hai Cao chép miệng:
    - Cụ hạ lệnh sao, bọn tôi phải làm thế. Cụ có vẻ quyết liệt lắm.
    Chỉ phiền cái, ông ta lại là kẻ đã cứu cô.
    Thiếu nữ đưa mắt về phía hẻm núi ngay trước mặt có dáng suy nghĩ, và vùng bảo Hai Cao:
    - Để ta vào, sẽ liệu. Chính ta cũng muốn biết tại sao cụ lại quyết hạ Ông ấy!
    Dứt lời nàng nhảy phắt xuống ngựa, buộc cương vào gốc cây, đoạn xăm xăm bước về phía hẻm. Bọn thuộc hạ đưa mắt nhìn nhau. Hai Cao có vẻ khó nghĩ, đoạn hắn xách súng chạy tới giọng khẩn cầu:
    - Cô Bạ.. thưa, vào đó nguy hiểm lắm. Cụ đã dặn kỹ...
    Phượng Kiều cười thản nhiên:
    - Không sao. Ông ta là kẻ đã cứu ta mà!
    - Nhưng bây giờ khác. Dầu sao cô Ba chớ nên quên người đó là Thần Xạ Đại Sơn Vương. Và cụ đã...
    Thiếu nữ vụt cau mày liễu, quắc mắt:
    - Đã bảo... mặc ta. Dễ ta không biết tùy cơ ứng biến chắc?
    Thấy cô chủ nổi giận, bọn thuộc hạ không dám khuyên ngăn, còn Hai Cao hình như bị đưa vào thế khó xử quá, hết đưa mắt nhìn cô chủ, lại nhớn nhác ngó về tả, hữu như chỉ mong Trần chủ nhân chợt tới.
    Có lẽ đã thừa đoán được tâm trạng của bọn thuộc hạ, Phượng Kiều làm mặt giận, rảo bước thẳng, mặc cả bọn vò đầu bứt tai sau lưng. Và nhả luôn hai phát đạn một lúc. Hành động của thiếu nữ bất ngờ, nhanh như cắt, khiến Hồng Lĩnh chưa kịp đối phó, đã nghe đạn réo xẹt bên mang tai, rồi tiếng Voòng Lầu nấp ở vách núi trên kia, vùng bật lên:
    - Hảo lớ! Hảo lớ!
    Nhìn ra đã thấy Phượng Kiều đang cắm súng vào bao ngoảnh lại, còn thấy một bóng lớn đổ xác từ lưng chừng vách đá xuống đường mòn, khẩu súng cũng đang văng theo xác đổ.
    Phượng Kiều vẫn đứng nguyên:
    - Nó leo qua núi, chĩa súng bắn vào lưng ông...
    Nàng chép miệng, giọng đượm buồn:
    - Vội quá không làm hơn được!
    Chàng tuổi trẻ giang hồ chợt cảm lòng thành thực của Phượng Kiều. Chàng lặng lẽ bước ra, đăm đăm nhìn thiếu nữ, chậm rãi:
    - Thôi! Giờ cô nên ra khỏi hẻm này, để mặc tôi đối phó...
    Phượng Kiều đăm đăm nhìn Hồng Lĩnh. Thiếu nữ bất giác khẽ thở dài:
    - Nhưng quanh hẻm, hiện có nhiều tay súng bao vây chặt, làm thế nào có thể...
    Hồng Lĩnh đưa mắt nhìn quanh, đoạn nhếch miệng cười chua chát:
    - Cô cứ yên tâm ra ngoài. Tuy lâm tử địa, nhưng chưa đến nỗi tuyệt vọng đâu?
    Thiếu nữ đưa mắt ngắm địa thế. Trong mấy khắc, hình ảnh đêm trước đây vụt hiện lên trong đầu óc, từ lúc sa cơ bị giặc Thoòng đánh bắt, đến phút hai người đàn ông giang hồ không quen xả thân giải cứu rồi suýt lại bị sa tay giặc Thoòng, cả... bị suối lũ lại cuốn dị..
    Những hình ảnh gian nan linh động bất ngờ, nổi lên rõ rệt như một cuốn phim rực rỡ, trong đó hình dáng ông già quắc thước với hai tay súng thần xạ nổi bật lên như tô bằng ánh điện sáng ngời.
    - Nhưng... tình thế...
    Thiếu nữ vừa cất lời, chợt tiếng súng từ bốn phía lại nổ ran, đạn réo ngay trên đầu. Cô gái chau mày, đảo mắt nhìn quanh hẻm. Vừa lúc đó, phía sau, có tiếng gụi lớn, vọng truyền vào hẻm:
    - Phượng Kiều... iều... Ra mau...au...
    Nghiêng đầu lắng nghe, thiếu nữ nhận ra ngay tiếng cha gọi.
    Nàng còn đang tần ngần chưa biết tính sao, thì Hồng Lĩnh đã giục:
    - Thôi! Cô nên ra!.... Và tôi thành thực khuyên cô nên về ngay trại là hơn.
    - Như ông làm sao thoát khỏi chỗ tử địa này?
    - Chúng tôi chờ bên ngoài xông vào!
    Tự nhiên, Phượng Kiều buột miệng:
    - Thế thì ông chưa biết thầy tôi. Người từng quen chạm súng nơi địa hiểm, biết ông là Thần Xạ Đại Sơn Vương, đời nào lại còn cho quân ló đầu vào tấn công. Chắc chắn, bên ngoài chỉ vây chặt và chờ bên trong ló mặt ra thôi!
    Lời nói của thiếu nữ khiến Hồng Lĩnh bất giác đưa mắt nhìn Voòng Lầu, như trao đổi và thông cảm về một mối lo đã dự tính.
    Tiếng Trần Tắc lại gọi phía sau, lần này gần lắm. Như có sẵn chủ định, Hồng Lĩnh vội vẫy tay bảo Phượng Kiều:
    - Cô nên ra mau! Đứng đây e bất tiện, lỡ lạc đạn có khị..
    Thiếu nữ dùng dằng, không muốn rời chỗ đứng. Nàng cũng không lên tiếng đáp lại giọng cha gọi. Chợt mắt nàng thoáng rực lên một tia sáng quyết định. Nàng bước thẳng tới trước Hồng Lĩnh, giọng nhanh và thấp:
    - Tình thế này, chỉ còn một cách, ông lấy tôi làm mộc, thoát nơi tử địa! Ngay bên ngoài có sẵn ngựa buộc. Đám quân đó không dám xả súng vào tôi đâu.
    Hồng Lĩnh thản nhiên, lắc đầu:
    - Cô chưa đánh giá được mạng tôi trước ông thân đâu. Nếu cần, ông sẵn lòng mua xác tôi với giá cả người thân thiết nhất của ông.
    Câu nói của người tuổi trẻ giang hồ vụt gieo vào lòng cô gái họ Trần một sự ngạc nhiên ghê gớm, liền với sự chán nản nặng nề. Như linh cảm rõ được tầm nghiêm trọng sâu sắc của mối ẩn thù giữa hai người đàn ông, cô gái thông minh đăm đắm nhìn. người trai trẻ, đoạn chậm chạp quay mặt đi, không nén được một tiếng thở dài buồn mênh mang. Đưa mắt trông theo thiếu nữ cho đến lúc khuất bóng ngoài đường hẻm, Hồng Lĩnh lẳng lặng rời mỏ đá, bước về cạnh Voòng Lầu.
    Khuôn mặt Thần Xạ Đại Sơn Vương trở nên xa xôi, bên tiếng súng thỉnh thoảng lại nổi lên loạn xạ rồi vụt chìm mau trong gió luồng hêm núi. Rất lâu không thấy chủ nói gì, người thuộc hạ khẽ lên tiếng:
    - Thầy à! Chúng nó chỉ bắn canh chừng, có lẽ chúng nhất định chờ thì thôi.
    Hồng Lĩnh ngước mắt nhìn lên cao.
    - Mặt trời sắp đứng bóng. Phải chờ đêm tối mới liệu cách được.
    Hừ! Hắn kiên gan lắm, nhất định không chịu ló mặt đối diện ta.
    Người bộ hạ trung thành, đảo mắt quan sát và lầm bầm, bực tức:
    - Hừ! Sắp ra khỏi hang hùm, còn bị nó vây hãm... chỉ đành chờ đêm tối.
    Vừa nói, Voòng vừa trao bình nước cho chủ:
    - Chỉ còn một ít. Thầy liệu dùng kéo dài đến đêm cho đỡ mệt.
    Đỡ lấy bình nước, Hồng Lĩnh khẽ lắc lắc, đoạn nhấp giọng qua loa. Và hai thầy trò Đại Sơn Vương lẳng lặng ngồi dựa vào hông vách đá, mắt lim dim như thả tâm trí về miền Thập Vạn Đại Sơn để tưởng đến những tay súng ngang tàng cách xa chỗ chủ tướng hàng ngàn cánh rừng trùng điệp.
    Thời gian lặng nề trôi qua, từng phút, từng phút... hồi hộp... rình nấp... giữa những tiếng súng nổ dập dờn như hú tim.
    Mặt trời chậm chạp gục xuống bên kia hẻm núi. Bóng tối bôi nhọ rừng hoang. Nằm lọt giữa những vách núi đá dựng, vùng hãm địa bị bóng tối lẫn bóng núi đổ xuống, trông đen ngòm như than Tàu. Hai người đàn ông giang hồ ngửa mặt nhìn lên vòm trời nham nhở bên ngoài vách núi, rất lâu, không ai nói một lời. Chợt Vòng Lầu khẽ bảo Hồng Lĩnh:
    - Thầy à! Không thấy chúng bật đuốc. Giờ có lẽ tới mười giờ đêm rồi còn gì?
    Hồng Lĩnh có dáng suy nghĩ, người đàn ông giang hồ đưa mắt ngó ngọn núi đem ngòm khắc vào nền trời mờ tối, lẩm bẩm:
    - Hẻm này hẹp lắm! Hắn có thể đủ thời giờ kiếm mìn phá núi và lựu đạn thả xuống lắm!
    Hình như người thuộc hạ cũng đã nghĩ tới điều đó, Voòng nối lời:
    - Quèn núi không cao mấy, từ sáng đến giờ, chúng nó có thể leo lên ngọn từ lâu, túc trực sẵn... a thầy! Bực quá, đây chỉ có đá, không có cây cối để chế ngay mộc che, dựa lưng mà đánh thốc ra!
    Hai thầy trò im lặng, suy nghĩ. Bên ngoài tuyệt không tiếng động. Sự im bặt tiếng súng càng dìm vùng hãm địa vào sự im lìm...
    chờn chợn... đây bất trắc. Mười phút sau, Hồng Lĩnh chợt hỏi Voòng Lầu:
    - Còn hai lựu đạn, phải không?
    - Vâng... mà thầy...
    - Lương khô?
    Voòng Lầu có vẻ tần ngần:
    - Còn đủ một bữa cho hai người!
    Hồng Lĩnh có vẻ ngạc nhiên:
    - Sao... từ sớm đến giờ, Voòng Lầu không lấy ăn? Đem ra đây, chúng ta ăn ngay lấy sức còn ra!
    Voòng Lầu lúi húi lục sắc trong bóng tối, đoạn giúi nắm cơm vào tay Hồng Lĩnh, miệng hỏi:
    - Thế... thầy định đánh ra?
    - Ừ! Không thể chờ lâu nữa! Phải thoát nội đêm nay, để chậm, có thể sinh biến khác. Hắn có đủ thời gian tính độc kế.
    - Vâng nhưng nó có nhiều tay súng vây ngoài, chực sẵn, chỉ chờ trong ra là...
    - Được rồi! Voòng cứ ăn đi cho khỏe đã!
    Trong bóng tối chỉ còn nghe tiếng động khẽ của... bữa Sán mò.
    Chợt đang nhai, Hồng Lĩnh ngừng lại, hỏi người bộ hạ:
    - Kìa! Voòng không ăn đi?
    Người bộ hạ ấp úng:
    - Da..... Vẫn ăn mà...
    Nhưng Hồng Lĩnh đã quơ tay về phía Voòng và bất giác khẽ bật cười, tay đưa khúc cơm:
    - Nhai... mồm không, lấy sức đâu thoát vây?
    Voòng Lầu ấp úng:
    - Thầy... dùng cho khỏe đi! Tôi... không đói mà!
    Hồng Lĩnh ấn miếng cơm vô tay thuộc hạ, giọng trở nên khô khan, nhưng vẫn dịu:
    - Voòng ăn mau, còn ra chứ!
    Hai cặp mắt thầy trò chạm nhau trong bóng tối đen mờ. Mấy phút sau Hồng Lĩnh đứng vụt lên, ném bi đông nước vào lòng Voòng Lầu.
    - Còn ít, uống hết đi! Nào ta phá vây!
    Miệng nói, hai tay xốc lại bao súng, người tuổi trẻ giang hồ quay ngẩng nhìn lên ngọn núi, với dáng vóc ngang tàng điềm tĩnh cố hữu của Đại Sơn Vương thần xạ. Người thuộc hạ uống vội mấy ngụm nước cuối cùng, đoạn khoác sắc đứng phắt lên theo.
    Mấy khẩu súng rút xoạt ra khỏi vỏ. Hồng Lĩnh, Voòng Lầu dựa lưng vào nhau, liền men theo vách đá, ngọn súng Đại Sơn Vương chĩa về phía trước, súng của Voòng thủ túc chĩa về phía sau.
    Đêm tối mịt mờ, sương dầy đặc, khí đá bốc ra lạnh ngắt. Gió từ vùng ngoài lùa vào hãm địa, xoáy vào hốc đá vi vu. Hai người đàn ông dựa theo vách đá, từ từ bước mặt, chân giẫm trên đá vụn, không tiếng động và trong cảnh im lìm, cả hai như nghe thấy tiếng đập của trái tim. Bất thình lình, phía ngoài, tiếng súng vùng nổi lên loạn xa..... Hai thầy trò Đại Sơn Vương vội đứng phắt lại, áp lưng vào vách đá, nghiêng đầu lắng tai nghe. Súng nổ khắp bốn phía, có cả tiếng súng trường, súng ngắn. Đạn xé không gian, có luồng réo ngay giữa hai vách núi từ hai cửa hẻm xói vào. Đá vụn rơi rào xuống cả chỗ hai người đứng. Rất nhanh, Hồng Lĩnh khẽ bảo Voòng Lầu:
    - Có cuộc chạm súng phía ngoài!
    Voòng cũng thấp giọng:
    - Không phải đạn quân Trần Tắc bắn vào đây, a thầy! Luồng đạn đi hơi cao, chắc từ xa bằn tới!
    Hồng Lĩnh gật đầu:
    - Ừ! Đúng đạn quân nào tấn công quân phục vây quanh hẻm. Đạn bắn vào quân chân núi, lạc vào đây.
    - Thầy tính sao?
    Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh không đáp, vẫn đứng im nghe ngóng quan sát. Bên ngoài, súng nổ giòn tan, cuộc chạm súng có vẻ mỗi khắc thêm gay go, lắng nghe, có nhiều tiếng quát tháo, khắp mấy phía.
    - Quái lạ? Không biết quân nào lại chạm với quân Trần Tắc chỗ này?
    - Vô tình gặp đánh? Hay cố ý giải vây?
    Hồng Lĩnh lẩm bẩm như nói với Voòng Lầu:
    - Súng nổ cả bốn phía, chắc có chuyện gì đây?
    Hồng Lĩnh im lặng, nghe ngóng, hình như đang suy nghĩ lợi hại gấp. Mấy khắc sau, Đại Sơn Vương vùng bảo bộ hạ Voòng:
    - Ta cứ thẳng tiến ra phía trước, chỗ nhiều tiếng súng nhất!
    Giọng Voòng có vẻ thắc mắc:
    - Nhưng bên ngoài tối mù, lại đang chạm súng, khó phân biệt lắm, a thầy!
    Hồng Lĩnh thấp giọng:
    - Phải nhân lúc quân vây đang lo chống cự phía trước mặt, ta tiến ra nếu cần đánh thúc ngay sau lưng chúng và ít nhất phải luồn chuyển sang thế quay ngọn súng về hãm địa này, nghe Voòng!
    - Ạ.. Vâng.
    Trong đêm tối hai thầy trò Đại Sơn Vương lại dựa lưng vào nhau men theo vách đá, thận trọng từng bước một. Bóng tối như lùi lại phía sau.
    Mười phút qua, hai người đã ra khỏi lòng núi, tới chỗ mờ. Trên vòm trời, đầu hẻm, lấp lánh vài vì sao nhạt. Rời cửa hẻm. Như hai cái máy, thầy trò Đại Sơn Vương nằm phục xuống dưới chân vách núi, chỗ mở ra chạy cách đường mòn đến sáu, bảy thước. Yên trí về mặt sau, Voòng Lầu quay đầu về phía trước, và hai thầy trò áp tai xuống mặt đất, nghe ngóng. Hồng Lĩnh ghé sát miệng vào tai bộ hạ:
    - Có tiếng chân bước gần đây.
    - Vâng. Nghe êm lắm!
    Hồng Lĩnh vội nhìn ngước lên. Lúc đó, súng vẫn nổ vang dội tứ phía. Tiếng chân quân Trần Tắc chạy qua chạy lại rầm rập và có tiếng quát gọi truyền nhau thỉnh thoảng vẫn bật lên, cách chỗ hai người nằm chỉ chừng hai mươi thước. Hồng Lĩnh vẫn nhìn lên, chờ đợi. Không lâu, quả nhiên từ chỗ mô đá chơ vơ trước mặt, cách vách đá độ hai, ba thước có một bóng người nhô ra, tay xách súng, hình như đang đảo mắt nhìn quanh, có vẻ một gã canh chừng hãm địa, không lo đánh nhau với quân tấn công. Tới cách chỗ hai người nằm độ ba thước, cái bóng đứng dừng lại, hình thù cao lớn đen ngòm, rõ trên nền trời tối nhạt.
    - Triệt.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #3
      Hồi 3 - Ông Già Kỳ Lạ Là Ai? ( tiếp theo)

      Khuỷu tay Đại sơn Vương khẽ chạm vào Voòng Lầu, người bộ hạ nhào lên, thân hình cao lớn trườn sát bên vách đá không gây một tiếng động nhẹ. Tên canh cầm súng đứng ngang, lưng xoay về phía vách đá. Trên nền trời tối mờ, thoáng cái, đã thấy một bóng cáo lớn, từ vách đá nhô ra, và dính chặt vào bóng tên canh hẻm, phút sau, cả hai lặng lẽ đổ xuống mặt đất, không tiếng động, êm như hai cái bóng trong một cuốn phim câm.
      Đại Sơn Vương trườn vụt lên, như một con rắn. Nhưng hai thầy trò vừa kéo xác tên canh vào được chỗ tối thì thình lình, một vệt sáng xanh đèn bấm từ vách núi bên kia đường mòn chợt loé lên lia thẳng vào chỗ hai người. Luồng sáng dừng phắt trên mình hai thầy trò Hồng Lĩnh, tiếp liền tiếng quát giật giọng của một kẻ giật mình vì chợt thấy bóng người:
      - Ai? Đứng im!
      Đang cúi mình kéo xác tên canh, thình lình bị tia đèn bấm chiếu thẳng vào người, hai thầy trò Hồng Lĩnh lăn mình trên mặt đá lởm chởm và theo đà lăn, Đại Sơn Vương Thần Xạ đã vẩy ngọn súng ngược theo luồng sáng, nhanh đến độ kẻ đứng bên kia đường mòn vừa lên tiếng quát, tay đặt vào cò súng chưa kịp có ý định bắn đã bị một viện đạn xuyên qua người, ngã xuống không kịp kêu một tiếng. Tiếng súng nổ khua động vùng cửa hẻm. Biết có thể lộ vì tiếng nổ ở vòng trong, ngay sau lưng đám quân phục, không thể lẫn với tiếng súng vòng ngoài, Hồng Lĩnh bảo Voòng Lầu:
      - Hãy lui lại đã!
      Hai thầy trò vừa kịp lùi lại chỗ vách đá khuất cửa hẻm, quả nhiên đã nghe thấy nhiều tiếng chân chạy rầm rập đến chỗ trước rồi đèn bấm loé lên luôn mấy vệt, lia quét trước hẻm.
      - Sao? Có chuyện gì đó?
      - Hai đứa bị hạ!
      Im lặng mấy khắc. Rồi có tiếng quát khẽ:
      - Cẩn thận! Chúng còn quanh quẩn đâu đây!
      Những tia đèn bấm lại quét lia khắp đường mòn vách núi rồi tắt phụt. Nằm sau hốc đá, hai thầy trò Hồng Lĩnh áp má xuống đất, khẽ nhìn ngước lên, thấy rõ mấy bóng người lố nhố in vào nền trời mờ tối.
      Biết địch đang tìm, không để mất cơ hội tốt, Hồng Lĩnh khẽ ghé vào tai Voòng Lầu:
      - Hạ chúng thôi!
      - Vâng.
      Hai thầy trò nằm xuống cùng lúc, vung cánh tay. Liền mấy tiếng nổ xé không gian và ngoài cửa hẻm, liền mấy bóng người ngã xuống, không kịp biết hướng đạn đi.
      - Nằm cả xuống!
      Dứt tiếng quát, từ phía ngoài, sau mấy khằc nhốn nháo vì bị tấn công bất ngờ, đám quân phục vây đã kịp trấn tĩnh tinh thần, chĩa súng bắn rát vào chỗ hai người, đạn xối vào vách tung đá mịt mờ.
      Nhìn ra không thấy bóng người, hai thầy trò chỉ thấy một vài cái đầu nhô ra thụt vào loáng thoáng trên nền trời, và cứ theo tiếng nổ, bắn vào chỗ phát ra. Bên vòng ngoài, hình như đám quân nào đó đánh Trần Tắc đã nghe thấy tiếng súng nổ vòng trong, nên tiếng súng dội hẳn lên, có vẻ như muốn phối hợp rõ rệt cố dồn mau quân Trần Tắc vào thế bị trong đánh ra ngoài đánh vào cho thật nhanh. Nhất là ở hai phía đầu hẻm, súng nổ rộn ràng mỗi phút thêm gần. Vừa bắn, vừa nghe ngóng, hai thầy trò Hồng Lĩnh thấy rõ tiếng quân Trần Tắc quát gọi nhau, như sắp loạn động.
      Nhưng mấy lần định tiến ra, hai thầy trò lại phải tạm ngưng ý định mạo hiểm, vì vẫn thấy súng từ phía sau các mô đá cửa hẻm bắn vào không ngớt, lại rất gần, ló ra là thành mục tiêu bất lợi ngay.
      Thêm nữa, trời lại tối, khó biết địch nấp đâu để quét, nên Thần Xạ phải thận trọng đứng nguyên vị trí sau mô đá chắn, để liệu thế tỉa dần địch thủ. Chợt Voòng Lầu ghé tai Hồng Lĩnh khẽ bảo:
      - Thầy à! Ta phải đề phòng phía sau trống lắm! Nó có thể...
      Hồng Lĩnh vừa ngó lại nẻo sau, chưa kịp cất tiếng, đã vội cùng Voòng Lầu nghiêng đầu lắng nghe. Vì phía cửa hẻm trước mặt, súng nổ tới tấp, rõ ràng từ bên vòng ngoài ập lại và quân Trần Tắc đã bắt đầu loạn động, gọi nhau không còn phép tắc chi nữa. Nhưng phía hẻm sau lưng, đạn cũng nổ dồn dập, luồng đạn đi xối cả vào vách đá, và...
      như có bước chân rầm rập chạy tới. Đại Sơn Vương vội áp tai xuống mặt đất nghe và ngẩng phắt lên, nhanh giọng:
      - Có tiếng chân ngựa chạy tới!
      Hai thầy trò ý thức ngay thế nguy hiểm sau lưng không có vật chắn. Hai cặp mắt giang hồ đảo mau trong đêm tối và hai người rời vội mô đá, chạy vụt sang bên kia đường mòn, chỗ có một hốc đá nhỏ đã lọt mắt từ lúc rút vào hẻm, buổi sáng. Hai thầy trò Đại Sơn Vương vừa kịp dựa lưng vào vách núi, đã nghe tiếng chân ngựa phóng tới, rầm rập và hình như khá nhiều. Hai người vội chĩa súng về phía có tiếng chân ngựa, chờ đợi. Rồi tiếng chân ngựa lại nổi lên, tiến dọc theo đường mòn, thẳng về phía hai thầy trò Đại Sơn Vương thần xạ.
      Hai thầy trò Đại Sơn Vương ngồi phục xuống, mím môi đợi chờ, mắt nhìn ra đường mòn như sắp nảy lửa.
      Vó ngựa ập tới và dừng ngay chỗ tay hữu, lạo xạo, loạt soạt. Bóng núi đổ xuống đường mòn nên hai thầy trò Đại Sơn Vương nhìn ra, chỉ thấy lố nhố từng vùng đen ngòm di động trong bóng tối. Còn đang hồi hộp, chưa biết đối phó cách nào cho tiện, thì một vệt đèn bấm đã lóe ra, lia quét khắp đường mòn, vách núi, đồng thời, một giọng thanh thanh đã cất lên:
      - Đại Sơn Vương đâu rồi? Đại Sơn Vương. Chúng tôi đến đưa ông ra khỏi hãm địa đây.
      Tiếng nói trầm nhưng cũng đủ vang âm giữa lòng núi. Hai người đàn ông giang hồ ngạc nhiên, chưa làm kịp một cử động gì trước sự việc xảy ra quá nhanh, thì vệt sáng đèn bấm đã rê ngay tới chỗ hai người nấp, và lần này, một giọng nói ồ ồ bật lên:
      - Hình nhự.. kia rồi... bên vách dá!
      Đường sáng xanh dừng phắt, hơi di động trên nửa thân ngoài của Voòng Lầu, và rời ngay, quay phắt về phía đường mòn, từ từ rê đám bóng đen lố nhố. Nấp bên vách, hai thầy trò Đại Sơn Vương nhận ra có đến mười mấy người cao lớn cỡi ngựa, mặt mũi đều hóa trang, tay lăm lăm súng dài, đều ngồi im trên yên, nhìn cả về phía hai người.
      Giọng thanh thanh từ sau vệt đèn bấm lại cất lên:
      - Ông Hồng Lĩnh!
      Đại Sơn Vương cùng bộ hạ đứng vụt lên, không còn đủ thời giờ để đoán bọn lạ mặt đó là ai nữa, hai thầy trò lao thẳng ra đường mòn.
      - May quá ! Vừa kịp. Đây! Ông lên đây!
      Người cầm đèn bấm khẽ vẫy Hồng Lĩnh và người tuổi trẻ giang hồ, thoáng cái, đã ngồi gọn sau lưng người lạ cầm đèn, trong khi Voòng Lầu lên yên ngựa của người khác. Chờ cho ngựa trước khuất hẳn, hai con ngựa đưa theo Hồng Lĩnh, Voòng Lầu mới cất bước.
      Đại Sơn Vương không khỏi ngạc nhiên vì người đàn ông ngồi phía trước mình. Tuy giữa đêm tối, nhưng cũng rõ dáng nhỏ nhắn khác hẳn đồng bọn. Người đó không nói thầm một lời, chỉ cầm cương ngồi im, nghe ngóng phía trước. Bên ngoài, súng vẫn nổ vang, dồn dập ngay phía cửa quèn. Ngựa ra còn cách cửa hẻm chừng mấy thước, chợt thấy một bóng ngựa từ ngoài phóng vào, cùng lúc, một tia đèn thấm lóe lên, lập loè giữa bóng tối, rồi ngựa lại lộn ra luôn. Người nhỏ nhắn khẽ bật lên, nhanh giọng:
      - Ra được rồi! Chúng đã đánh dạt quân vây khỏi cửa quèn.
      Dứt lời người đó giật mạnh tay cương, chân thúc mạnh vào hông ngựa. Con vật như cất hẳn thân lên, phóng nước đại ra phía cửa quèn dẫn cả đám người ngựa sau, lướt nhanh trên đường mòn. Người lạ cùng Hồng Lĩnh cúi rạp mình xuống, ra roi mạnh, con vật lao đi, vụt cái đã thấy trời đất như sáng hẳn ra. Biết đã tới chỗ nguy hiểm nhất, người lạ giật mạnh tay cương cho con vật cất mình nhảy vọt lên. Và khi chân ngựa vừa chấm đất, thì đã thấy lố nhố những bóng người ngựa từ hai bên vách núi lướt tới, cuốn theo thành hai hàng tả hữu, để con ngựa của người nhỏ nhắn, Hồng Lĩnh, cùng đám trong hãm địa ra, lọt ra giữa, cứ thế, phóng đi, ngựa vừa phóng, súng vừa xả về hai bên, ào ạt.
      Ngồi trên yên, Hồng Lĩnh nghe đạn réo veo véo bên tai, hiểu ngay sức liều mạng giải cứu của đám người lạ, và cũng không khỏi thầm khen phục tài điều khiển của người nhỏ nhắn, cùng sự gan dạ của đám tùy tùng. Rất nhanh, ngựa vọt khỏi hẻm núi, thoát ra thung lũng băng đi trong sương mờ. Phía sau, đám quân Trần Tắc vẫn xả súng bắn theo, và hình như đã kịp thời lên ngựa đuổi, vì đã vượt khỏi thung lũng, Hồng Lĩnh vẫn nghe súng nổ ngay sau lưng, không cách xa là mấy.
      Có vẻ đã dự định trước, vừa qua thung lũng, thì hai con ngựa mang thầy trò Đại Sơn Vương vọt hẳn lên, rồi ngoắt ngay xuyên vào cánh rừng phía tả. Đi được mấy phút, đã nghe phía sau súng nổ rộn rã vang khắp một miền rừng núi âm u. Hai con ngựa dừng lại, sát nhau. Người nhỏ nhắn cùng thuộc hạ nghiêng tai về phía sau, nghe ngóng. Ngồi sau ngựa, Hồng Lĩnh và Voòng Lầu cũng nghiêng theo.
      Tiếng súng dội hẳn lên giây lát rồi thưa dần, và như đang cuốn về phía khác. Người thuộc hạ thấp giọng:
      - May ra đánh lạc hướng được rồi...
      Người nhỏ nhắn không đáp, vẫn lặng lẽ nghe ngóng, và chợt lẩm lẩm như nói một mình:
      - Chỉ ngại có kẻ nào bị bắt...
      Người thuộc hạ thấy chủ tướng ngồi im mãi, vội khẽ giục:
      - Ta nên đi khỏi đây đã... rồi sẽ liệu!
      Người nhỏ nhắn không đáp, chỉ giật mạnh tay cương, cho ngựa tiến lên. Càng vào rừng, càng tối vì cây cối um tùm che kín cả vòm trời. Nhưng hai con ngựa có vẻ đã quen đường lối, cứ phóng kiệu băm đều trong rừng, len lỏi qua những gai góc, bờ bụi. Gã thuộc hạ khi vượt lên trước, lúc lùi lại sau, cẩn trọng dè chừng bất trằc. Hình như chú ý vào đường đi, nước bước của con vật và mãi lo phòng hờ mọi chuyện bất ngờ, nên hai thầy trò người nhỏ nhắn đều ngậm miệng rất lâu, không ai nói nửa lời.
      Ngồi sau lưng hai thầy trò Đại Sơn Vương thấy thế cũng làm thinh theo. Từ lúc được đám người lạ mặt đưa ra khỏi hãm địa, Hồng Lĩnh không khỏi ngạc nhiên về sự việc xảy đến bất ngờ, giữa lúc tình thế thập phần gay go, nguy hiểm. Tuy đã trải qua nhiều biến đổi, bất kỳ, người tuổi trẻ giang hồ không khỏi xúc động trước, sự phá vây giải cứu của đám người lạ mặt. Nhất là người chỉ huy. Đánh phá, đương đầu với hàng bao nhiêu tay súng của Trần Tắc, mở một con đường máu vào hãm địa, đích thân đánh ngựa dẫn đầu, rồi lại mở một sinh lộ đưa kẻ bị vây ra. Giữa những họng súng khạc đạn không ngừng...
      tất cả sự việc diễn ra rất nhanh, khiến Hồng Lĩnh thấy rõ sức xả thân của... người chỉ huy lạ mặt. Lạ mặt? Sự hóa trang và bóng tối đã trùm lên người lạ, nhưng dáng dấp nhỏ nhắn cùng giọng nói thanh thanh, khiến Hồng Lĩnh ngờ ngợ ngay từ lúc lên yên.
      Đã mấy lần, người đàn ông giang hồ định cất tiếng hỏi kẻ cứu mình, mong vén màn bí mật ngay nhưng lại thôi, ngồi im lặng mặc người đó đánh ngựa qua vùng đồi lạ, rồi hãy hay. Trong đêm khuya rừng rú, chi còn nghe tiếng vó ngựa khua trên mặt đất ẩm sương, và một vài tiếng chim giật mình vỗ cánh loạn bay.
      Đang lim dim mắt, Hồng Lĩnh mở choàng ra, thấy bóng đêm lùi lại phía sau, vì ngựa đã bằt vào con đường mòn đang vắt qua một ngọn đồi. Tới đỉnh, ngựa dừng bước, thở phì phò. Trước mặt, một vùng tráng địa, lọt giữa những ngọn đồi nằm theo hình cánh cung, chạy chếch về phía xa, mờ tối. Người nhỏ nhắn đang cùng Hồng Lĩnh đưa mắt nhìn quanh, chợt Voòng Lầu ngồi ngựa cạnh, nhanh giọng:
      - Dưới kia có người chạy tới!
      Mọi người vội nhìn theo tay Voòng trỏ, thấy ngay ở đầu khu đất trống dưới chân đồi, có nhiều tiếng chim hoảng bay vỗ cánh xào xạc.
      - Có người thật! Chắc ngựa phóng... kìa rõ ràng động tới đâu chim chỗ đó giật mình bay lên.
      Người nhỏ nhắn nhìn về phía thuộc hạ, lẩm lẩm:
      - Chẳng lẽ... đi khá lâu đã mất hướng, họ lại còn tới được đây sao?
      Hai thầy trò Đại Sơn Vương cùng nhìn nhau, và đảo mắt nhìn tứ phía. Hồng Lĩnh khẽ bảo người nhỏ nhắn:
      - Ta nên cho ngựa tạm lánh vào chỗ khuất xem sao? Rất có thể, ngựa dưới sẽ ngược lên đường mòn này...
      Người lạ mặt lặng rẽ cương cho ngựa tạt khuất sau những lùm cây gần đấy. Người tùy tùng cũng lẳng lặng rẽ theo. Hai ngựa đứng kề nhau bốn người ngồi im, cành lá rũ xuống che khuất cả người ngựa.
      Vạch lá ra, vẫn nhìn xuống khu tráng địa được. Dưới thung, chim vẫn loạn bay và vật động đó chuyển mau về phía chân đồi. Chỉ hơn phút sau, tiếng vó ngựa đã khua rộn đêm rừng từ cuối chân đồi, chuyển dần lên đỉnh. Tới chỗ mấy người vừa đứng, ngựa đừng lại ẩn giữa đám cành lá um tùm, Hồng Lĩnh, Voòng Lầu nhìn thấy cả mấy ngọn súng đen, nhô lên khỏi vai đám người đó, nhưng không nhận được hình dáng quen thuộc nào.
      Hai thầy trò Đại Sơn Vương nghiêng về phía hai thầy trò người nhỏ nhắn, thầm hỏi. Nhưng hai người cũng vẫn ngồi yên, nhìn qua kẽ lá, như muốn tìm một dáng người quen trong bọn cỡi ngựa. Không thấy người nhỏ nhắn nói gì, Hồng Lĩnh ghé sát xuống phía trước thì thầm:
      - Hình nhự.. không phải quân Trần Tắc!....
      - Không phải? Bọn này có vẻ la.....
      Mấy người cùng nín thở, nhìn ra. Thoáng sau, đã nghe rõ tiếng chân ngựa từ dưới đồi ngược lên. tới chỗ bọn đang đợi. Rồi một giọng lạ cất lên, nghe ồ ồ không rõ. Rất nhanh, người nhỏ nhắn bảo Hồng Lĩnh:
      - Quân tuần!
      Hồng Lĩnh khẽ gật đầu, toan nói, lại chợt thôi ngay, vì từ đám ngoài đường mòn, tiếng người Pháp vừa cất lên tiếp liền là tiếng người nào khác, giọng hơi cao:
      - Chắc chúng không đi ngã này! Quan đồn à!
      Giọng nói quen quen, vừa nghe, bất giác thầy trò Đại Sơn Vương đưa nhanh mắt nhìn nhau, và Hồng Lĩnh ghé sát về phía trước khẽ bảo:
      - Trần Tằc!
      Người nhỏ nhắn có lẽ cũng đã nhận ra tiếng Trần Tắc, nhưng vẫn ngồi im và chỉ đưa mắt chăm chú nhìn ra. Bên ngoài hai người cỡi ngựa từ dưới lên, đã tiến tới. Bóng một thằng Tây cao lớn cùng bóng Trần Tắc hiện rõ lên nền trời, mỗi người tay đều cầm roi ngựa, Trần Tắc quật nhanh roi vào cành lá bên đường, giọng bực tức:
      - Hừ! Không biết bọn nào dám lộng hành thế! Mà nó trốn lối nào?
      Viên Tây Đồn đảo nhìn xuống thung và chợt ghé sát ngựa lại bảo Trần Tắc những gì không rõ. Chỉ thấy Trần Tắc ngồi im trên ngựa có dáng suy nghĩ, rồi viên Tây Đồn khoát tay ra lịnh cho đám quân tuần tiến thẳng. Đám quân tuần, nối ngựa nhau, đi qua chỗ bốn người nấp, Trần Tắc và viên chỉ huy quân tuần đi kế bên nhau bàn luận. Đứng sau lùm cây rậm, mấy người) chỉ nghe rõ mấy tiếng “Về thẳng trại...
      đã”.
      Chờ cho đám người ngựa đi khỏi mấy người mới lách ra. Người nhỏ nhắn có dáng vội vã vừa tới đường mòn, đã đánh ngựa xuống chân đồi, và cứ thế, noi theo đường mòn vượt qua khu tráng địa, nhắm thẳng về phía núi đá trước mặt. Đi được một khoảng khá xa, chạy qua một con suối khí rộng, người nhỏ nhắn chợt dừng ngựa, hơi quay về phía sau, bảo Hồng Lĩnh:
      - Chỗ này đã khá xa hiểm địa. Chúng ta có thể chia tay được rồi.
      Dứt lời không chờ Hồng Lĩnh đáp, người nhỏ nhắn nhảy phắt xuống ngựa, trao tay cương cho Hồng Lĩnh.
      - Trên ngựa đã có ăn mọi thứ cần dùng, hai thầy trò cứ thẳng đường, nếu muốn tới tỉnh lỵ Cao Bằng...
      Người thuộc hạ cùng đã cho ngựa đến bên Voòng Lầu nhảy phắt xuống tiến đến cạnh ngựa Hồng lĩnh. Nhưng Đại Sơn Vương đã nhảy xuống, đến trước mặt người nhỏ nhắn. Qua ánh sao thưa, người tuổi trẻ giang hồ đăm đăm nhìn thẳng vào mặt người vừa cứu mình.
      Không hiểu sao, người đó quay mặt đi, và toan chuyển bước tới bên ngựa thuộc hạ. Đại Sơn Vương chợt mất hết vẻ nghi hoặc. Chàng tiến thêm một bước, giọng trầm trầm, đượm nhiều cảm động pha xót xa.
      - Sao người ân đã vội chia tay, không để Hồng Lĩnh này kịp nói lời thông cảm. Đường đời rồi đây còn bao nhiêu uẩn khúc, tình cờ. Cô Phượng Kiều!
      Đang nghe chợt thấy Hồng Lĩnh thình lình hạ tiếng Phượng Kiều, người nhỏ nhắn hơi giật mình chưa kịp có phản ứng thì Đại Sơn Vương đã tiếp luôn, giọng trầm đều.
      - Cô! Tôi đã biết ngay từ lúc lên yên.
      Nhưng người tuổi trẻ vội im ngay vì người nhỏ nhắn, đã quay phắt đi có vẻ xúc động lúng túng:
      - Không... Không... Ông lầm rồi... tôi...
      Và như bị một ám ảnh gì, người nhỏ nhắn vùng nhảy lên ngựa thuộc hạ giật cương phóng nhanh trong đêm tối.
      - Cô Phượng Kiều!
      Đại Sơn Vương gọi với theo nhưng ngựa đã băng qua suối. Chàng tuổi trẻ giang hồ đứng im nhìn theo hướng ngựa. Trong bóng tối chỉ nghe tiếng chân ngựa bước vội vàng, rồi những tiếng vó câu khua rập xa mau, trong đêm tối. Chàng đứng khá lâu. không nhúc nhích. Người thuộc hạ thấy chủ im lặng, cũng im theo. Đến mười phút sau mới nghe một hơi thở dài, th )ảng nhẹ như hơi gió phào trên mặt lá rừng khuya. Voòng khẽ lên tiếng:
      -Thầy a! Ta đi chớ!
      Đại Sơn Vương chậm chạp quay lại, đăm đăm nhìn người thuộc hạ đứng tuổi, giọng chàng trầm hẳn di:
      - Ừ! Mình đi thôi!
      Đoạn hai thầy trò nhảy lên ngựa, Hồng Lĩnh giật tay cương cho ngựa tiến thẳng về phía rặng núi đá vẫn khắc ngọn lên nền trời.
      - Thầy à! Ta đi đâu?
      - Về thị trấn Cao Bằng?
      Chàng tuổi trẻ chợt quay hỏi Voòng Lầu:
      - Voòng nghĩ sao về hành động của Phượng Kiều?
      Voòng không đáp ngay. Hình như trong đầu hắn đã bắt đầu cảm thấy chuyện riêng của chủ trở nên rắc rối nhiều. Hắn chép miệng:
      - Không ngờ cô ta liều mình đến như thế.
      - Và đã xử sự khiến trượng phu phải khâm phục. Nhưng tình thế này càng khó cho ta.
      Hai người lại ngồi im. Con ngựa vẫn chồm trong đêm tối. Vó câu khua trên đường vọng vào tai hai người đàn ông những tiếng động...
      đơn điệu, khô cằn. Lá rụng bị ngựa giẫm xào xạc, thỉnh thoảng, vài con chim giật mình bay vụt. Đại Sơn Vương quay bảo thuộc hạ:
      - Voòng à! Thị trấn còn mấy giờ ngựa nữa?
      - Ít nhất cũng vài ba giờ, nếu phải xuyên rừng hiểm trở!
      - Giờ vào khoảng mấy giờ rồi nhỉ?
      Voòng thủ túc vội ngước mắt nhìn lên trời đã nhạt hẳn sao thưa, lầm bầm như nói một mình:
      - Có lẽ đến giờ đêm rồi.
      Tay cương buông thõng, con vật thu mau về nước nhỏ và bước một, thở mạnh. Người ngựa đều thấm mệt. Trời đêm lạnh lạnh. Hồng Lĩnh nghe tiếng ngựa thở, vội sờ tay vào cổ ngựa. Bờm ngựa ẩm hơi sương và mình con vật đã loáng mồ hôi.
      - Chỗ này quang đãng có bản nào không?
      Voòng Lầu nhìn về phía núi đá sừng sững đen ngòm trước mặt, và gật đầu:
      - May ra, mình đã ra khỏi rừng hoang lâu rồi mà?
      - Hãy tìm chỗ tạm nghỉ đã!
      - Dạ!
      Voòng Lầu chỉ tay về phía núi đá dựng:
      - Thầy à! Hay ta cố đi tới chân núi kia, tìm một hang nào có lẽ tiện hơn.
      Hồng Lĩnh suy nghĩ mấy khắc, đoạn gật đầu, đánh ngựa đi. Con vật đã thấm mệt vì mang nặng và phải quần thảo khá lâu, nên bước một cũng đã hơi loạng choạng. Trong đêm rừng, chỉ còn tiếng vó ngựa khua mặt đường mòn sương ẩm. Hai người đàn ông giang hồ ngồi trên lưng ngựa, mỗi người theo một ý nghĩ riêng tây, mắt lim dim ngủ gật, mặc con vật chậm bước. Lát sau, Voòng Lầu khẽ đập vào lưng chủ:
      - Thầy à! Đến núi rồi, bản thổ dân ở phía trước.
      Hồng Lĩnh hé mắt nhìn quanh và lẳng lặng rẽ cương cho ngựa bỏ đường mòn, vòng qua bản, men rừng, tiến đến chân núi.
      Bản thổ thiếp sâu trong giấc ngủ. Trong đêm mờ, những mái nhà sàn lô nhô giữa cây lá, xa trong le lói ánh lửa bếp hắt qua phên nứa.
      Ngựa đi qua bản, rẽ vào cạnh những nương ngô vắng lặng. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng rím “Đon” chạy rào trên lá rụng và bên kia thung, một vài tiếng chim khảm khắc bâng khuâng rã rời. Tới cuối một nương ngô, núi đá dựng lù lù ngay trước đầu ngựa. Hai thầy trò xuống yên, đưa mắt nhìn quanh, thấy có chòi canh ngô của thổ dân ngay sát chân núi. Voòng Lầu bước tới, sục quanh, thoáng cái đã quay ra gọi Hồng Lĩnh:
      - Trong này, có cái hang rất rộng, a thầy!
      Hồng Lĩnh dằt ngựa tới, Voòng đỡ lấy cương dắt ngựa lách qua cành lá ngay sau chòi độ mấy thước. Voòng đánh lửa soi tìm trong sắc mang theo lấy ra một thoi nhựa trám, kiếm một hốc nhỏ, thắp nhựa cắm vào. Ánh lửa đỏ khè hắt khắp lòng hang. Hồng Lĩnh nhận thấy hang khá sâu, rộng, có nhiều thạch nhũ rủ xuống. Nền hang khá bằng phảng. Bên vách còn vất bừa bãi những tàu lá chuối đã úa nhầu. Cạnh đấy, có những thanh nứa khô nằm bên mấy hòn đá bắc làm bếp, chắc của thổ dân trong bản. Voòng Lầu vừa buộc ngựa bên vách đá, đang tháo yên cương, sắc, chợt gọi:
      - Thầy à! Sắc của họ để lại cho sao nặng thế?
      Chàng tuổi trẻ đến bên, vỗ mạnh vào sắc mấy cái đoạn, bảo thuộc hạ:
      - Mở ra xem!
      Voòng nhanh nhẹn ôm đến dưới ánh lửa và tháo khóa, thọc tay vào, miệng nói như reo:
      - Nhiều thứ lắm, a thầy? Thầy xem này...
      Vừa nói, Voòng vừa ra lôi từng thứ ở trong ra, đặt lên mấy tàu lá úa sẵn dó:
      chăn màn, vải dầy thay chiếu, nến, diêm quẹt... đủ mọi thứ thường dụng không thiếu.
      Rồi tới lương khô, thịt ướp, đường muồi, thuốc lá, thuốc lào, chanh... đủ thứ, cả bi đông nước... Hết hai lượt trên, vừa thọc tay xuống đáy sắc, Voòng Lầu đã lôi ra mấy gói khá lớn, miệng lẩm bẩm:
      - Quái! Còn gì nữa đây?
      Giở mấy gói đầu ra thấy toàn đạn súng lục còn nguyên hộp, và hai khẩu súng. Tới gói cuối, là một bó bạc khá lớn, vừa tiền giấy đủ loại, vừa vàng lá, bạc. Đếm ra, đến vạn bạc.
      - Thầy a, sao nhiều thế này?
      Voòng Lầu nhìn chủ vẻ mặt lộ rõ nét ngạc nhiên. Hồng Lĩnh đứng im đưa mắt nhìn các món nằm la liệt trên mặt đất, cặp mày của Đại Sơn Vương hơi nhíu lại có dáng suy nghĩ rất nhiều. Đoạn, chàng hơi nhếch miệng cười, bảo Voòng:
      - Cô ta chu đáo quá! Nhưng lộ phí nhiều thế, tiêu chi hết. Voòng gói vào, ta sẽ tìm dịp hoàn lại!
      Nhưng người thuộc hạ vừa lôi trong bó giấy bạc ra mấy tờ bìa nhỏ đưa mắt ngó qua, đoạn nhanh giọng:
      - Thầy này! Còn có mấy thứ này nữa. Thày xem cái gì đó?
      Hồng Lĩnh vội đỡ lấy, vừa liếc mắt xem đã không giấu được vẻ ngạc nhiên. Đó là hai tấm giấy “Thông hành” đương thời, một cái mang tên Hồng Lĩnh, một cái Voòng Lầu. Chỉ hơi khác là:
      Trên hai chữ Hồng Lĩnh, có thêm chữ Trần, còn Voòng Lầu, phiên âm ra Vương Lâu, gốc người Nùng Mống Cái.
      - Cô ta chu đáo quá! Lo cho chúng ta từ việc thông hành.
      Nhưng... quá lo xạ..
      Vừa nói, người tuổi trẻ giang hồ vừa thản nhiên cho mấy tấm giấy vào ngọn lửa, và nhìn giấy cháy, nhếch miệng cười chua chát, ngang tàng:
      - Khi nào ta chịu mang giấy đội lốt họ Trần Tắc, nhờ chữ ký của Trần để tùy thân!
      Chàng quay nhìn thuộc hạ:
      - Voòng nghĩ sao?
      Người thuộc bạ nhìn chủ, bộ mặt phong trần trông càng gan lì dưới ánh lửa đỏ khè trong hang đá.
      - Thầy tính phải làm! Mà đó là giấy của Trần Tắc, kẻ thù?...
      Hồng Lĩnh lắc đầu:
      - Không hẳn thế? Cô ta đã lấy giấy ký sẵn của cha, điền tên ta vào, họ Trần!
      Người thuộc hạ nhếch miệng cười, khiến vết sẹo trắng hằn rõ trên gò má rám nâu:
      - Trần Tắc thù mình mà? Nó thấy mặt thầy là hạ độc thủ luôn, thầy trò mình phải...
      Voòng trở nên thờ thẫn, nhìn chủ vừa bâng khuâng vừa lo lắng, trầm giọng:
      - Nhưng... cô Phượng Kiều...
      Hồng Lĩnh nhìn thuộc hạ, có lẽ cảm thông sự băn khoăn của Voòng, chàng đưa mắt nhìn ra đêm tối. Thấy chủ đứng im suy nghĩ, Voòng Lầu cũng không dám lên tiếng nữa, cứ lẳng lặng sửa soạn chỗ nằm, xong rót một ly nước đưa cho chàng.
      - Thầy đi ngủ cho đỡ mệt đã! Mai còn lên đường...
      Hồng Lĩnh đỡ lấy nước uống, đoạn vào màn nằm luôn.
      - Voòng à ! Ngả lưng đi chớ! Thức làm gì cho mệt!
      - Dạ!
      Voòng Lầu vội ghé miệng thổi tắt đốm lửa, đoạn nhanh nhẹn vào theo. Qúa mệt mỏi, Đại Sơn Vương vừa nằm đã ngủ thiếp luôn. Mi mắt Voòng cũng khép lại, nhưng người thuộc hạ trung thành cố chống với giấc ngủ. Vốn quen với dọc ngang gian hiểm bất thần, Voòng thận trọng, cố thức canh cho thầy ngủ. Voòng vờ vào màn cho Đại Sơn Vương bằng lòng nhưng khi Sơn Vương ngủ rồi, Voòng lặng lẽ nhỏm dậy, rón rén ra ngoài cửa hang. Đêm đã về khuya, trời tối nhạt, không đen sẫm như trước nữa.
      Gió thổi rào lá cây. Bên ngoài, tiếng trùng đêm cũng lịm đi trong lòng đất. Voòng Lầu ra ngoài quan sát một lượt, rồi mới trở vào, đưa lưng vào vách đá, cho đỡ mỏi. Ngồi được mấy phút, muỗi nhiều quá, thêm khí đá vách hang toát ra buốt lưng, Voòng Lầu phải vào lấy chiếc chăn dạ khoác, rồi lại dựa vào vách nghĩ vẩn vơ. Bên tai, chỉ còn thoảng hơi gió lùa khuya và tiếng muỗi vo ve đơn điệu. Gần đấy, tiếng Đại Sơn Vương thở đều đều và tiếng đuôi ngựa khẽ quật đuổi muỗi. Người đàn ông giang hồ ngồi chống với giấc ngủ được một lúc, rồi mệt quá, mắt lim dim khép dần lại. Đang thiu thiu ngủ gà ngủ vịt, chợt Voòng giật mình mở choàng mắt ra. Con ngựa vừa hí lên một tiếng, rồi im bặt trong đêm tối.
      Vốn từng trải giang hồ, thuộc làu tính ngựa, Voòng ngồi thẳng người lên, hếch mũi, nghiêng đầu nghe ngóng. Ngoài cửa hang, hơi gió thoảng vào, và lẫn vào hơi gió, rõ ràng có tiếng động khác thường.
      Tiếng động nổi lên, rào ngọn lá, rồi thoảng chìm ngay. lm lặng mênh mông. Con ngựa chợt lại vùng giật dây cương, chân giậm thình thịch có vẻ kinh hoảng, nhưng không hí nổi nữa. Và một mùi kỳ dị theo hơi gió thốc vào ruột hang tanh khẳm, khai khai, hôi hám... rất khó phân biệt. Lẫn cả mùi khẳm hùm, mùi khai rím, mùi cầy hôi, khiến kẻ vốn sinh trưởng tại miền núi rừng như Voòng Lầu cũng không thể đoán nổi mùi của giống gì nữa. Voòng áp vội tai xuống mặt đất, và thoảng cái, tiếng động nhẹ đã thoảng truyền vào tai lành nghề, nhưng rõ là mãi ngoài cửa hang. Người đàn ông giang hồ tung chăn, đứng phắt lên, nhanh như cắt không tiếng động. Voòng Lầu quơ tay lên mặt sắc vớ thanh dao rừng, và dựa lưng vào vách đá, quắc mắt nhìn ra đêm tối. lm lặng vẫn thẳm sâu.
      Con ngựa lại hoảng hốt giật cương, chân giẫm lạch bạch. Voòng thọc vội tay vào sắc sờ tìm một nhánh tỏi, bỏ vào miệng nhai giập giập vội vã, và men đến bên ngựa, một tay vuốt nhẹ lên bờm, một tay xát tỏi vào mũi con vật. Xong, tay lăm lăm thanh dao rừng, người đàn ông giang hồ nép vào vách sau sườn ngựa. Không một tiếng động lạ và con ngựa đã đứng im vẫy đuôi nhẹ đuổi muỗi rất bình thản. Mùi tỏi sực mũi đã đánh bạt cả hơi vật lạ nào đó. Đứng độ non nửa phút, không thấy gì khác, Voòng liền rón rén men vách ra cửa hang. Nhưng vừa ra tới cửa, gặp ngay luồng gió tạt vào, đưa theo mùi lạ lúc nãy, Voòng đứng phắt lại, hếch mũi đánh hơi một vòng. Mùi lạ rất gần nhưng trước mặt Voòng là cành lá lòa xòa, tuy bên ngoài trời không đến nỗi tối om. Voòng cũng không nhìn thấy chi cả. Hắn trừng ngó ra, như muốn rách mắt. Thốt nhiên, lá cây loạt soạt khẽ, ngay phía trước. Vòng vội ngồi thụp xuống, nín thở, nhìn ngước lên nền trời.
      Cành lá vẫn lay động. Voòng mím chặt môi cố quan sát. Trái tim như muốn ngừng đập. Cành lá vừa từ từ rẽ hai bên, và nửa thân trên vật lạ nhô hẳn ra hình thể cao lớn dị thường lắc lư trên nền trời tối nhạt, cao vượt cã cành cây cao. Thoáng cái, Voòng đã ước lượng được hình thể đó phải cao tới hai thước rưỡi... hay hai thước bảy. Và hình thù ra khỏi lùm cây, đen ngòm, sừng sững in vào nền trời, một hình thù phi thú phi nhân. Hình thù dị thường đứng nhìn về phía cửa hang mấy khắc, và từ từ tiến vào. Chỉ hai bước, hình thù đó đã đứng ngay trước mặt Voòng Lầu. Ngồi nhìn ngược lên, Voòng càng thấy cao ngất ngư, nửa thân trên hình thù vượt khỏi miệng hang trong đêm mờ, lúc đó mới giống một người khổng lồ. Trong mấy khắc, Voòng lúng túng chưa biết xử trí sao, thì hình thù đã khom mình, đưa phần trên vào miệng hang tối, phần dưới bất động, như nó đứng quan sát ruột hang. Ngồi dưới chân, Voòng phải nín hơi vì mùi khẳm khai tanh lộn mửa theo hơi thở “vật” phì ra.
      Hình như, vì gần quá, con ngựa đã thấy, nên lại lồng lên, hí ú ớ không thành tiếng nữa. Và như có định kiến, hình thù to lớn có chân, bước vào hang tối, một ống cẳng đưa qua mặt Voòng. Không dám chậm trễ, Voòng đứng vụt lên, chuyển mạnh tay dao, chém xả vào hình thù kỳ dị một nhát. Dao vừa hạ xuống, đã bật lên, Voòng có cảm tưởng như vừa chém vào một cây khô. Vừa bật ra, Voòng đã lăn vèo trên nền hang, đồng thời, lia dao vào cẳng hình thù quái dị. Phập.
      Bị liền hai nhát thình lình, hình thù giật mình đứng thẳng người lên, đầu đội phải nóc hang đến bịch một cái, và hình như có mắt thấu nhìn qua bóng tối, vật lạ quật một tay vào đúng chỗ Voòng Lầu, sượt qua tai, khiến Voòng nghe hơi gió phải rùng mình.
      Nhanh nhẹn, Voòng lại lăn chếch một cái nữa, lia luôn nhát dao rừng cách mặt đất chừng ba bốn mươi phân. Phập. Vòng vừa kịp cảm thấy mồ hôi muốn toát ra, thì đã thấy có bàn tay nào quờ nắm ngay được lưỡi dao giật mạnh, và dao rời khỏi tay Voòng, tiếp theo là một tràng keng ngay trên nóc hang. Bị mất dao, Voòng đủ bình tĩnh nhoài tới vách hang, miệng quát một tiếng lớn, vừa muốn đánh thức Đại Sơn Vương dậy.
      - Thầy a!
      Nghe tiếng quát tháo, hình thù cao lớn ngoảnh phắt lại phía cửa hang. Và trong lúc Voòng còn dang dựa vách lần ra ngoài, thì từ trong lòng hang, có tiếng Hồng Lĩnh bật lên:
      - Voòng đứng sát vào vách đó!
      Tiếp theo, là tiếng rú của hình thù, có vẻ đau đớn. Biết Đại Sơn Vương đã kịp thời tỉnh giấc đối phó, Voòng Lầu rút phăng súng ra, nhưng tiếng Hồng Lĩnh lại cất lên:
      - Đừng làm kinh động dân bản! Dụ nó ra!
      - Mất dao rồi, thầy!
      Voòng vừa dứt lời đã thấy mấy tiếng keng keng ngay vách đá, sờ vội trên nền hang, hắn tìm dược mấy lưỡi dao lá liễu, lúc đó mới rõ Đại Sơn Vương dùng dao nhỏ đánh “đòn gió” quái vật. Hang tối mò, định thần nhìn kỹ, chỉ thấy một khối đen ngòm hơi động đậy, Voòng Lầu liền lần vách men ra cửa hang. Con ngựa lần này hoảng sợ quá, đã chúi đầu vào vách, đá hậu lung tung.
      Hình thù phi thú phi nhân hình như dưng dửng nhìn trước nhìn sau, chưa định xông về phía nào. Lạ nhất là bị luôn mấy nhát dao nhưng vật lạ không lồng lộn lên như các loài thú dữ, và vẫn có vẻ bình tĩnh lắm. Ra tới cửa hang, Voòng Lầu vội thét lớn dụ quái vật.
      Nhưng Voòng vừa cất được mấy tiếng, vội im bặt ngay, vì trong hang, đột nhiên có tiếng ngựa hí hoảng hồn, rồi có nhiều tiếng thình thịch, xô xát. Voòng còn đang đứng nhìn vào hang, thì chợt thoáng thấy một khối đen xì từ trong lao ra, Vòng nhanh mắt, né khuất ngay về một bên vách cửa.
      Khối đen vụt qua sát mặt Vòng, lao thẳng vào lùm cây cạnh đấy, giãy đành đạch mấy khắc rồi im luôn. Voòng còn đang ngạc nhiên đã thấy cái bóng quái vật cao ngất đen ngòm lừ lừ từ trong hang tiến ra.
      Không chặm một khắc, Voòng lập tức lao mình ra nẻo chòi canh ngô, đồng thời ngoắt người, phóng lại một lưỡi dao đúng lúc quái vật ra tới khung cửa hang. Quái vật bị trúng “đòn gió” ngay háng, rú lên một tiếng kỳ dị và tiến thẳng ra phía Voòng. Nó vừa ra khỏi hang, đã thấy bóng Đại Sơn Vương từ trong vụt ra theo, và tiến bước sau lưng quái vật. Phía trước, Voòng cố dụ nó ra chỗ rộng cho dễ xoay. Ra tới nương ngô, Voòng nấp ngay sau chòi canh, áni thở, lắng tai, mắt trừng về phía hang. Đột nhiên, Voòng nghe rõ tiếng rú lạ của quái vật, tiếp theo là tiếng chân giẫm nặng nề trên cành khô răng rắc.
      Đoán chắc Hồng Lĩnh đã ra thoát hang, đánh quái vật, Voòng liền ngồi thụp xuống, lấy mắt lượng chiều và phóng ngược lên một lưỡi dao về phía có tiếng động mạnh.
      Trong đêm tối mờ, Voòng nghe rõ tiếng thở hồng hộc của quái vật chuyển nhanh tới chòi lá. Voòng vừa lẩn vào nương ngô, đã nghe tiếng rắc mạnh, rồi tiếng chòi lá đổ rầm vào bụi rậm. Đoán quái vật bị đau làm dữ, Voòng thận trọng rút vào thêm mấy thước nữa. Chỉ thoáng qua đã nghe rõ tiếng thở hồng hộc của quái vật, ngay bên chân núi sát nương, tiếng thở như xa dần, rồi im hẳn...
      - A Voòng!
      A Voòng đứng phắt lên:
      - Thầy à!
      Vừa nói. Voòng vừa rẽ những lá ngô, tiến về phía có tiếng Hồng Lĩnh khẽ gọi. Gặp Hồng Lĩnh đứng ngay trước cửa hang, Voòng Lầu hỏi luôn:
      - Nó đi rồi, a thầy?
      - Nó bị mấy lưỡi dao, máu ra nhiều lắm!
      Ánh đèn bấm loé lên. chiếu rõ một vùng cỏ nát cành gẫy, chòi tung ngửa cột lên trời, và xác con ngựa nằm chỏng trơ trên bụi thân thể giập nát.
      Theo ánh đèn bấm, hai thầy trò Đại Sơn Vương thấy từng vũng máu đọng trên cỏ, lần theo dấu máu mới biết quái vật bỏ đi dọc theo chân núi.
      - Thầy à! Tôi đi rừng nhiều, chưa gặp giống này? Chưa thấy giống nào khỏe như thế! Và lạ nhất là khi lồng lộn, chạy nhanh, cả lúc gặp địch thủ. Nếu nó nhanh nhẹn, chắc còn nguy hiểm nữa. Đó là giống dã nhân.
      Đại Sơn Vương khẽ gật đầu và nhìn về lối dã nhân đi, có vẽ suy nghĩ. Mười khắc sau, mới lẩm bẩm:
      - Quái lạ! Chẳng lẽ...
      Voòng chưa kịp hỏi, nhìn về phía bản đã thấy bóng thổ dân trong bản cầm đuốc nứa sáng rực tiến thẳng ra. Nhìn kỹ, thấy chân núi mấy chục người, toàn đàn ông, kẻ xách súng hỏa mai, người mang cung nỏ, dao rừng... vừa đi vừa quan sát tứ phía như dò tìm cái gì.
      Voòng Lầu nhanh giọng hỏi Hồng Lĩnh:
      - Thầy tính sao?
      Đại Sơn Vương nhìn về phía thổ dân, chậm rãi:
      - Chắc họ thấy liếng động lạ ngoài này, nên ra đó. Ta vào hang.
      Hai thầy trò vào tới nơi, Đại Sơn Vương truyền Voòng Lầu nhóm lửa và hai thầy trò thản nhiên ngồi bên lửa, uống nước. Chỉ mấy phút sau, đã nghe lòng chân người giẫm trên lá rụng, rồi tiếng người cất lên có vẻ sửng sốt ngay ngoài cửa hang.
      - Coi kìa!
      Tiếp theo nhiều tiếng bàn tán, và có tiếng chân người bước vào hang. Hai thầy trò Hồng Lĩnh ngẩng nhìn ra, thấy ánh đuốc hắt vào, rồi một đầu người ló ngoài cửa hang và giật lùi ra ngay:
      - Có người trong hang!
      Tiếng người đàn ông bản thổ kêu lên có vẻ ngạc nhiên. khiến Hồng Lĩnh và Voòng Lầu cùng đưa mắt cho nhau, cả hai lấy dáng điệu bình thản, Voòng cời lửa cho cháy to thêm... chờ đợi.
      Thấy bên ngoài vẫn im lặng, Hồng Lĩnh ngoảnh nhìn ra thấy nhiều thổ dân lố nhố ngoài khung cửa, đang nấp nhìn vào thấy có người nhìn ra, liền lùi giạt cả ra hai bên, chĩa súng hỏa mai vào, như muốn đề phòng bất trắc. Biết bọn thổ dân ngạc nhiên, e ngại, Hồng Lĩnh liền nói vọng ra mấy tiếng bản thổ cho họ yên lòng. Quả nhiên, sau mấy khắc do dự thì thào bàn tán, cả bọn đều đeo ngược hỏa mai, bước vào chỗ hai người ngồi. Một người đứng tuổi, dáng là chức dịch trong bản chắp tay vái hai thầy trò Đại Sơn Vương rất cung kính, giọng vẫn có vẻ ngạc nhiên:
      - Con ngựa bị vặn chết ngoài kia, chắc của hai cái quan!
      Hồng Lĩnh mỉm cười, khẽ gật đầu. Bọn thổ dân đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc, giương mắt tò mò ngó hai khách miền Kinh. Người chức dịch giọng càng ngạc nhiên:
      - Sao hai cái quan không việc gì? Dã nhân nó... đâu rồi.
      Vừa nói người thổ dân vừa đưa mắt nhìn súng ống, dao rừng cùng các vật dụng sang trọng quanh hai người lạ. Hồng Lĩnh mỉm cười kể qua loa lại chuyện vừa xảy ra đoạn bảo đám thổ dân:
      - Chúng tôi không muốn bắn súng, sợ làm kinh động bản dân ban đêm. Nhưng dã nhân bị thương cũng nặng...
      Đám thổ dân nhìn nhau và ngó trân trối hai khách Kinh, sự kính phục hiện rõ trên những khuôn mặt ngây ngô chất phác. Một chàng trai đứng sau người chức việc rụt rè lên tiếng:
      - Bẩm... dọc chân núi có nhiều vết máu, hèn chi, lúc nãy tiếng dã nhân rú vang vọng về tới bản...
      Mỗi người góp một đôi câu. Người chức dịch phải xua tay bảo họ đứng im và kể qua về chuyện dã nhân đến bản cho thầy trò Hồng Lĩnh nghe. Thì ra ít bữa nay, dã nhân không biết từ đâu về, thỉnh thoảng lại xuất hiện, lần vào bản kiếm thịt ăn. Nhiều thổ dân gặp bất ngờ đã bỏ mạng vì quái vật. Nạn dã nhân làm suốt vùng kinh sợ, chưa ai chống cự nổi, vì thường nó đi lại rất êm, xuất hiện thình lình, chợt gặp một vài người mới làm dữ. Có trông thấy hình thù nó, dân vùng đã thất đảm, nhất là có người tình cờ đã trông thấy dã nhân xé xác một con hổ xám lớn, phải kinh sợ vì sức khỏc phi thường của quái vật. Lần đầu thấy có người đánh đuổi quái vật bằng dao rừng, thổ dân không khỏi lạ lùng, không dám tưởng ai có tài nghệ đến thế. Xong, người bản địa khẩn khoản mời hai vị khách Kinh ân nhân về bản. Từ chối không được, thầy trò Đại Sơn Vương phải thu xếp mọi thứ, rời hang đá, theo thổ dân về bản. Lúc đó đã hai giờ sáng.
      Rửa mặt mũi tay chân, dùng qua loa chén xôi với gà luộc tại nhà người chức dịch xong, hai người đàn ông giang hồ vừa ngả mình nằm, gà trong bản đã lên tiếng gáy.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #4
        Hồi 4 - Thượng Khách Của Vua H Mông

        Tướng Thập Vạn Đại Sơn mở mắt ra, lúc ánh nắng chan hòa trong căn nhà sàn mênh mông. Nhìn bên cạnh không thấy Voòng thuộc hạ, người tướng lạc thảo trẻ tuổi đưa mắt ngó qua bức màn thổ cẩm và chống tay ngồi dậy. Nhà sàn vắng vẻ không một bóng người. Chàng vén màn, bước xuống sàn nứa:
        - A Voòng! A Voòng!
        Có tiếng chân bước nhanh lên thang gác và Voòng Lầu ló dạng:
        - Thầy đã thức.
        Hồng Lĩnh hỏi:
        - Sao nhà vắng thế? Chủ nhân đâu?
        - Dạ, ông ta đi sắm ngựa. Tôi đã nhờ ông lúc sớm như lời thầy dặn.
        Hồng Lĩnh hơi gật đầu, đoạn đưa mắt nhìn ánh nắng ngoài khung cửa:
        - Mấy giờ rồi nhỉ?
        Voòng Lầu nhìn ra bóng nắng:
        - Có lẽ đã tới mười giờ.
        Vừa nói, Voòng vừa lấy trong túi ngực ra chiếc đồng hồ quả quít cũ liếc mắt qua, tiếp luôn:
        - Đúng mười giờ kém ba phút thôi!
        Hồng Lĩnh đưa cao mày.
        - Thế ra ta đã ngủ một giấc dài quá nhỉ? Bao giờ có ngựa?
        - Cũng ngay bây giờ thôi, thầy? Tôi đã dặn kỹ lắm.
        Miệng nói, chân bước đến bên giường, Voòng nhanh nhẹn lục sắc, lấy khăn mặt, xà phòng, bàn chải đánh răng mang ra đặt bên thau nước đã múc sẵn. Hồng Lĩnh rửa mặt, thay y phục, lát sau đã gọn ghẽ trong bộ quần áo Chàm sẫm, đầu chít khăn chữ “nhân” trông hệt một chàng trai quý tộc Thổ.
        - À này Voòng! Từ nay nên buộc súng đạn dưới yên ngựa. Chỉ giữ trong mình mỗi người một khẩu. Ta sẻ xuôi qua nhiều phố phường để về được Hà Nội.
        Voòng mở to mắt, có vẻ ngạc nhiên khẽ hỏi:
        - Bẩm thế còn...
        Như đã thấu cả ý nghĩ Voòng, Đại Sơn Vương nói:
        - Được! Việc Trần Tắc ta đã tính cả rồi. Voòng hãy đi lo ngựa, chúng ta còn lên đường.
        - Dạ, ngay bây giờ?
        Đại Sơn Vương khẽ gật đâu, nhìn ra xa, mặt trở nên bâng khuâng, lẩm bẩm một câu gần như vô nghĩa. Voòng Lầu đã bước đi, nghe chủ lẩm bẩm nhắc đến dã nhân có vẻ bí ẩn lạ lùng. Voòng đứng lại, ngoảnh nhìn chủ, nét ngạc nhiên hiện rõ trên khuôn mặt người đàn ông đứng tuổi. Voòng định hỏi chủ nhưng có lẽ đã quen thuộc với những việc bất thường khác lạ của Đại Sơn Vương nên lại lẳng lặng quay đi.
        Voòng vừa xuống cầu thang sàn, đã thấy chủ nhà cùng hai gã gia nhân từ ngoài cưỡi ngựa về. Thấy Voòng, chủ - người chức địch tối qua - xuống yên, chỉ vào hai con ngựa gia nhân cưỡi về, nói luôn:
        - Cái quan đã dậy chưa? Để mời cái quan ra xem ngựa!
        Voòng tiến đến bên cặp ngựa, vỗ mạnh lên mông và vừa vuốt bờm vừa ngắm nghía, đoạn quay bảo người chức dịch Thổ:
        - Ngựa khá đó! Nước Hai hả?
        Chủ nhà nhìn khách có vẻ hơi ngạc nhiên:
        - Dạ dạ, cặp ngựa nước hai đó! Sao cái thầy tinh mắt thế?
        Voòng hơi nhếch cười khô khan, lạnh lùng:
        - Cao Bằng có tiếng ngựa nước hai mà!
        Đoạn Voòng chỉ tay về phía gốc cây rợp nắng, bảo hai gã gia nhân kia:
        - Buộc tạm vào đó!
        Và như đã thông thạo nhân tâm. Voòng liền móc túi lấy bạc xòe đưa biếu thêm tớ thầy người chức dịch xong lên nhà. Chỉ mấy phút sau, hai thầy trò Đại Sơn Vương đã từ giã bản Thổ, bằng ngựa nước hai trên đường mòn đi về thị trấn Cao Bằng.
        Quá trưa, vó câu đã đặt trên đường thị trấn. Gặp đúng ngày phiên chợ tỉnh, nên thổ dân khắp các bản gần xa đổ về mua bán rất đông, ngựa thồ đi từng đoàn tấp nập. Hai thầy trò tướng Thập Vạn Đại Sơn đi giữa đám thổ dân, ngồi trên yên chỉ trỏ chuyện trò, trông đúng là một cặp tớ thầy của chàng trai Thổ giòng quí tộc.
        Nhưng hình như vẻ mặt quắc thước đẹp ngang tàng của Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh đi tới đâu cũng nổi bật hẳn lên giữa những bộ mặt thổ dân chất phác, nên thường bị kẻ qua người lại lưu ý ngắm nhìn.
        Nhất là các cô sơn nữ. Nhiều nàng ngồi trên lưng ngựa thồ liếc mắt ngây nhìn :chàng trai Thổ” chít khăn chữ nhân duyên dáng nghiêm trang, đến nỗi quên cả tay cương. Không những các cô sơn nữ, Cả tới cáC cô người Kinh buôn bán dọc phố cũng vậy. Ngựa thầy trò Hồng Lĩnh cao lớn,vạm vỡ khiến các cô nàng phải chú ý ngay, không thể ngờ lại có chàng thổ dân đẹp trai xuất sắc đến thế.
        Cử chỉ của các cô khiến Voòng bực bội lắm. Trước Voòng còn làm lơ cứ nghiêm mặt nhìn thẳng, sau thấy lắm cô ngó sát sạt chủ mình, Voòng nhiều lần phải lừ lừ mắt nhìn thẳng vào các cô cho đỡ bực.
        Thấy cặp mắt diều hâu của Voòng, các cô cũng chẳng coi ra gì cứ tiếp tục ngó như thường khiến Voòng đành phải quay mặt đi. Nhân lúc ngựa đi kề, Voòng liền bảo Hồng Lĩnh:
        - Thầy à! Phố phường hôm nay đông lắm, nhưng thầy trò ta vẫn bị chú ý nhiều, phiền nhất là các ả...
        Hồng Lĩnh mỉm cười:
        - Các nàng hả? Ờ! Mặc họ chứ? Ở tỉnh nhỏ, họ chú ý tới khách lạ là thường mà...
        Voòng đưa mắt nhìn quanh, và chợt bảo Hồng Lĩnh:
        - Thầy đã thấy đói chưa, kia có quán ăn coi sạch sẽ lắm.
        - Ờ! Trông được đó? Voòng đói chưa? - Chàng cười - Uống rượu chớ?
        Voòng lắc đầu:
        - Dạ đâu dám...
        Đại Sơn Vương gật đầu:
        - Ta cùng uống cho vui mà! Voòng nhịn đã lâu rồi?
        Miệng nói, tay rẽ phắt cương, Hồng Lĩnh đưa Voòng thẳng tới trước một quán rượu ngay kế chợ. Buộc ngựa vào gốc cây gian đó, hai thầy trò Đại Sơn Vương vào thẳng quán. Ngước mắt ngó qua quán, Hồng Lĩnh bảo Voòng Lầu:
        - Đây có lẽ khá? Quán Khách trú, a Voòng! Chắc phải có rượu ngon.
        Hai thầy trò ung dung bước vào, dừng lại bên cửa, đưa mắtnhìn qua bên trong, kiếm chỗ ngồi. Quán rượu đông người, thực khách ngồi chật phòng, ăn uống truyện trò ồn ào. Hai thầy trò còn đang tìm chỗ, đã thấy một chú tửu bảo chạy ra, lễ phép:
        - Mời hai ông vàọ.. Đây còn bàn tốt.
        Nhìn theo ngón tay trỏ của tửu bảo, hai thầy trò Hồng Lĩnh thấy tại góc phòng bên mặt, còn hai bàn trống, khuất sau mấy dãy bàn thực khách. Hồng Lĩnh tần ngần đưa mắt ngó về phía thang lầu khẽ hất làm hỏi tửu quán:
        - Trên gác sao?
        Tửu bảo cười, ấp úng:
        - Dạ dạ.... còn rộng nhưng...
        Tửu bảo không muốn để “khách rừng” lên thượng lầu, Voòng hơi trừng mắt:
        - Sao? Còn chỗ mà chúng ta không được lên sao.
        Tửu bảo ngó cặp mắt diều hâu của Voòng, có vẻ sợ hãi:
        - Dạ.... Vì hiện có khách dữ lắm! Nhà hàng không dám để khách nào lên...
        Hai thầy trò Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn nhau. Hồng Lĩnh khẽ hất đầu, đoạn hai thầy trò ung dung tiến thẳng về phía cầu thang, lên gác. Gã tửu bảo muốn chạy theo gọi lại, nhưng có lẽ thấy dáng diệu điềm nhiên của hai “khách rừng”, nhất là thân hình to lớn của Voòng Lầu, nên lại thôi ngay, chạy vội đi tìm chủ quán.
        Hai thầy trò Đại Sơn Vương lên tới gác trên và không cần nhìn trước, cứ bước thẳng vào phòng. Phòng tuy rộng, nhưng chỉ chừng mười lăm thực khách đang ăn uống quanh hai cái bàn tròn. Hai thầy trò nhìn thoáng qua, thấy lố nhố vừa quần áo Tây, Ta, lẫn lộn, song không lưu ý mấy, cứ khoan thai tiến thẳng về góc phòng một bàn trống kế bên cửa sổ. Thấy có tiếng chân người bước vào, mấy người đàn ông đang ăn vội ngẩng nhìn lên và khẽ bảo đồng bọn. Lúc thầy trò Hồng Lĩnh kéo ghế ngồi thì cả hai bàn thực khách đều đưa mắt nhìn hai người có vẻ bực tức vì có người lạ lên ngồi lẫn cùng phòng.
        Lúc thực khách nhìn, hai thầy trò Đại Sơn Vương còn đang lúi húi kéo ghế, và hình như cũng muốn nhìn qua để biết mặt đám “khách dữ” thế nào mà nhà hàng sợ không muốn để ai lên, nên hai thầy trò có ý ngồi nghiêng đối diện nhau và cùng đưa mắt về phía bọn khách dữ, đúng lúc bọn khách dữ ngừng đũa, trừng nhìn hai người, hình như cả hai phía đều như bị điện giật. Đám khách dữ vừa ngó hai thầy trò Hồng Lĩnh, đã thấy mấy người mặc quần áo xạ phang đưa mắt cho nhau rất nhanh, qua mấy khắc sửng sốt, cả bọn lại quay xuống ăn uống tự nhiên như không có chuyện chi lạ. Và Voòng Lầu giọng nhanh, thấp, bảo Hồng Lĩnh:
        - Thầy à! Bọn Thoòng Mềnh!
        Đại Sơn Vương thản nhiên:
        - Ta đã thấy! Thoòng Mềnh cùng bộ hạ ngồi với mấy người chắc viên chức chi ở hạt này! Thoòng ngồi quay mặt về phía này.
        Tửu bảo đã chạy lên, có dáng hốt hoảng, nhưng thấy hai đám vẫn ngồi nguyên bình thản, hắn ta mừng ra mặt, tiến thẳng tới chỗ đám khách dữ, kính cẩn:
        - Bẩm... Quí ngài có cần chi nữa để...
        Nhưng hắn vội lấm lét chớp mắt luôn mấy cái, vì một người râu xồm, dữ tợn nhất bọn đã lừ mắt một cái, lẩm bẩm trong miệng, chỉ có đồng bọn cùng tửu bảo là nghe rõ, vì giọng lơ lớ khó nghe:
        - Cần cái đầu của mi!
        Gã tửu bảo thấy rợn gáy cuống lên, đành tiến đến trước hai ông khách rừng:
        - Bẩm quí khách dùng chi xin...
        Đang nói hắn ngưng ngay, hoảng lên vì Voòng Lầu đã quắc mắt diều hâu nhìn tửu bảo, giọng trầm như không ra khỏi họng:
        - Chỉ sợ bọn kia thôi hả?
        Và như muốn trút hết cái bực tức, đồng thời cũng muốn lên tiếng trước, Voòng Lầu đấm mạnh tay xuống mặt bàn:
        - Đem rượu và thịt nướng lên mau! Chúng tao đói rồi!
        Tiếng Voòng quát giọng Quan Hỏa nghe vang âm như tiếng chuông, khiến không gian như đảo lộn lên, tửu bảo giật nẩy mình, vừa định thần ngó, chỉ thấy bàn tay ông khách rừng thu về, để lại trên mặt bàn, một lỗ hổng như cái bát! Lạ nữa là cái bàn ăn chỉ khẽ động đậy khiến gã tửu bảo phải xanh mặt vì sức nội công ghê gớm của ông khách rừng. Hắn nhớn nhác nhìn hai người và chạy biến xuống dưới nhà, thoáng cái đã đem rượu thịt lên.
        Từ nãy giờ, chàng tướng trẻ miền Thập Vạn Đại Sơn chỉ ngồi mỉm cười, thản nhiên như không lưu ý tới quanh mình, nhưng người tướng lạc thảo giang hồ đã quan sát địa hình địa vật kỹ càng. Chỗ ngồi rất thuận, trông qua song sắt, thấy cả cặp ngựa buộc dưới cây bên kia đường. Chỉ ba thước là tới cửa, thông ra hàng hiên thượng lầu, cách mặt đất chỉ bốn năm thước Tây. Nên khi rượu thịt lên, chàng ung dung ăn uống cùng Voòng Lầu, thỉnh thoảng đưa mắt về phía bọn Thoòng vẫn thì thầm lo nhỏ với mấy người kia, lát sau thấy một tên cao lớn trong bọn Thoòng đứng lên, cùng một người mặc âu phục. Cả hai điềm nhiên xuống lầu, Đại Sơn Vương đưa mắt cho Voòng:
        - Nội bất xuất, ngoại bất nhập! Để ta ăn xong đã!
        Vừa dứt lời, Voòng Lầu buông phắt đũa, đứng lên, như đã quá hiểu ngầm ý chủ. Người đàn ông giang hồ đưa mắt một vòng qua dãy bàn ăn Thoòng Mềnh và bước theo hai người xuống trước, nhanh và êm như lướt sàn. Thấy Voòng Lầu xuống theo, cả bọn cũng đưa mắt nhìn Thoòng Mềnh cùng người đàn ông mặc âu phục. Pạc Hoọc Đại Vương vẫn ngồi khoanh tay trên bàn, lừ mắt nhìn theo Vòng và chậm chạp quay nhìn sang bàn Hồng Lĩnh, cặp mắt cú vọ không hề chớp, khuôn mặt của viên tướng thổ phỉ rắn lại, sau mấy giây suy nghĩ.
        Thấy Thoòng tướng ngồi im, cả bọn cũng ngồi không nhúc nhích, đợi chờ, và có vẻ tin tưởng lắm. Nhất là Thoòng, vị tướng thổ phỉ đã hiểu hơn ai hết về tài lực của hai viên cận tướng vừa xuống thang.
        Một Voòng dầu thiện nghệ cũng không sánh được cặp thủ hạ dũng mãnh đó, dầu Thoòng đã thấy tài sức Voòng đã giải cứu thiếu nữ Phượng Kiều. Hơi đưa mắt thấy bọn Thoòng Mềnh bất động ngồi im, Hồng Lĩnh thản nhiên cầm ly rượu đầy đưa lên miệng, nhấm nháp từng ngụm nhỏ, phong thái vẫn ung dung như một khách bàng quang vô sự. Chàng tuổi trẻ ngồi nghiêng sườn về phía Thoòng, thỉnh thoảng hơi liếc mắt bâng khuâng nhìn xuống đường như ngắm cảnh phố rừng tấp nập.
        Tuy ngồi im, nhưng bọn Thoòng Mềnh vẫn không ngừng quan sát Hồng Lĩnh, thỉnh thoảng lại rì rầm bàn nhỏ với nhau, hình như muốn tìm hiểu xem chàng trai Thổ trẻ tuổi có dáng thư sinh đó là ai? Riêng Thoảng Mình có vẻ thắc mắc nhiều, hình như đang tưởng nhớ đến ông già bí mật có dị tài đã cùng Voòng Lầu phục đánh hàng trăm quân hắn đêm nào. Hắn chỉ nhận rõ được Voòng và vẫn còn ngờ ngợ về Hồng Lĩnh. Thấy chàng ngồi ung dung uống rượu, Thoòng tướng có vẻ bực bội, nhưng dè dặt, cố nén. Sự im lặng của hai bên, khiến căn phòng trở nên ngột ngạt, căng thẳng. Năm phút đợi chờ kéo dàị..
        nặng trịch... Thình lình, từ ngoài đường vọng lên những tiếng dân gian kêu la hỗn độn, lẫn tiếng chân người chạy ngược xuôi nhốn nháo.
        Thập Vạn Đại Sơn Vương hơi nhếch miệng cười và điềm nhiên nâng ly rượu lên môi. Đám thủ hạ Thoòng Mềnh dáo dác nhìn xuống đường, có một hai tên nhổm mông toan đứng dậy, nhưng Pạc Hoọc Đại Vương đã mím chặt vành môi hở mắt nhìn thủ hạ và cả bọn lại theo chủ tướng ngồi im, cũng đảo mắt về phía Hồng Lĩnh. Chàng trai trẻ vẫn ngồi nhắp từng ngụm rượu một, dáng ung dung như không biết có chuyện xảy ra dưới đường. Ở nhà dưới, có tiếng khách khứa nổi lên, ồn ào, tiếng chủ quán vọng lên, nghe rõ mồm một:
        - Piết trước mà! Khổ tui! Khổ tui!
        Giọng người khách trí hoảng than lên tiếng Việt lơ lớ khiến Hồng Lĩnh bất giác nhếch miệng cười. Riêng Pạc Hoọc Đại Vương, chẳng hiểu sao, cũng chợt mỉm cười, tay giơ vuốt chòm râu quai nón. Tiếng ồn ào chuyển mau về phía cầu thang, rồi có nhiều tiếng chân bước thình thịch lên cầu thang. Và Voòng Lầu hiện ra chậm chạp, sừng sững ngay ngoài khung cửa thượng phòng, mỗi tay nắm một ngực áo hai đầu mục lực lưỡng của Thoòng Mềnh, lôi sềnh sệch, theo sau lố nhố nhiều người. Voòng quẳng mạnh hai thân hình to lớn nằm sóng xoài bên bàn bọn Thoòng Mềnh, giọng thản nhiên:
        - Không biết bảo chúng nó à! Xuống định trộm ngựa, lại còn định giết người. Hà ! Mỗi thằng một dao một súng này!
        Dứt lời, Vương rút ném xuống sàn, cặp dao, súng lăn xoảng vào ngay chân Thoòng Mềnh. Cả bọn biến sắc mặt, chưa biết tính sao thì Pạc Hoọc Đại Vương đã đứng vụt lên đá tung cả dao súng về một góc phòng, thuận chân xúc luôn một gã đầu mụt. nam dưới sàn, hất bổng thẳng về phía Voòng Lầu, và thình lình, rút phắt súng ra, vẩy theo.
        Đoàng... Đoàng...
        Liền hai tiếng nổ dội lên, Voòng Lầu vừa kịp vật mình xoài bên khung cửa, mọi người chỉ kịp chớp mắt một cái nhìn ra đã thấy khẩu súng trên tay Thoòng Mềnh rơi bắn xuống sàn, tay Pạc Hoặc Đại Vương còn xòe ra chưa kịp thu vào, và chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh đang quay khẩu súng trên ngón tay vẫn ngồi trên gác, mỉm cười, giọng trầm trầm, chậm rãi:
        - Sức chúng địch sao nổi sức Voòng Lầu Đa Sát Hải Sơn Vương Bắc Hải.
        Không hiểu sao, lời Hồng Lĩnh vừa buông ra, cả bọn Thoòng đều nhìn dồn cả về phía Voòng Lầu, và Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng từ từ tiến tới trước Voòng, hàm răng viên tướng thổ phỉ cắn chặt vào nhau quai hàm bạnh ra, khiến bộ râu quai nón khẽ rung rung theo hơi gió quạt trần.
        Voòng đã đứng dậy, thấy Thoòng Mềnh tiến đến, người đàn ông giang hồ vẫn đứng im như pho tượng, chỉ cặp mắt diều hâu trừng nhìn Thoòng, như chờ đợi một hành động rửa hận của viên tướng thổ phỉ dữ tợn. Mọi người cũng nín thở ngó theo. Nhưng bất ngờ, Thoòng Mềnh đã giơ bàn tay hộ pháp vỗ mạnh lên vai Voòng Lầu một cái, và nhìn Voòng không chớp, giọng Thoòng đượm ngạc nhiên:
        - Đa Sát Hải Sơn Vương miền Nam Hải Quảng Tây dó ư? Chính Voòng?
        Voòng hơi nhếch miệng:
        - Vậy Thoòng muốn chi?
        Pạc Hoọc Đại Vương gật gù:
        - Thảo nào tài sức khác người, đấm thủng gỗ mà không sụp bàn?
        Nhưng còn...
        Viên tướng thổ phỉ ngừng lại chút, hơi đưa mắt về phía chàng tuổi trẻ Hồng Lĩnh như muốn hỏi.
        Voòng hơi nheo mắt, đoạn lạnh lùng:
        - Thầy ta đó!
        Trong lúc Pạc Hoọc Đại Vương đưa cao lông mày đầy vẻ ngạc nhiên, Đa Sát Hải Sơn Vương, Thoòng điềm nhiên:
        - Thần Xạ Đại Sơn Vương! Thoòng chưa nhận ra hùm thiêng.
        Thập Vạn Đại Sơn, thầy ta, thầy các tướng giặc cỏ đó sao?
        Thoòng Mềnh quay phắt về phía Hồng Lĩnh, vẻ mặt không giấu được nét kinh ngạc:
        - Trách nào bắn rơi nổi súng ta!
        Thoòng lim dim mắt, dáng suy nghĩ và khẽ đưa cao mày ra hiệu cho bộ hạ, đoạn viên tướng thổ phỉ tiến đến trước Hồng Lĩnh. Viên tướng thổ phỉ chậm bước, thân hình vạm vỡ dồn xuống bước chân, khiến sàn gỗ khẽ rung, không khí phòng ăn trở nên nặng trịch thêm, và mọi người ngồi im, ngó theo hồi hộp chưa biết Thoòng tướng xử trí ra sao? Cả Voòng Lầu cũng đứng im ngoài khung cửa, lừ cặp mắt diều hâu nhìn theo Thoòng địch tướng đang đến trước Hồng Lĩnh. Tướng thổ phỉ đến cách Hồng Lĩnh chừng một với tay dừng lại, mắt vọ nhìn thảng vào chàng tuổi trẻ, hai đầu mép hơi cúp xuống chòm râu rung khẽ theo hai cánh mũi phập phồng. Chàng tuổi trẻ vẫn ngồi yên, mấy ngón tay lơ đãng quay khẩu súng, thấy Thoòng Mềnh tới, từ từ nhìn chếch lên, cặp mắt sáng quắc hơi nheo lại.
        - Thần Xạ Đại Sơn Vương! Lâu nay vẫn nghe tiếng tiên sinh ngang dọc một miền Thập Vạn Đại Sơn, dưới tướng có nhiều thuộc hạ!
        Lại đã thu phục được cả Đa Sát miền Bắc Hảị..
        Hồng Lĩnh hơi ngạc nhiên vì câu nói có vẻ văn hoa lễ độ của viên tướng vốn nổi danh dữ tợn nghịch xược, nhất là giọng Thoòng, vừa đủ nghe, chàng đang chú ý tới điểm khác thường đó, thì Thoòng đã tiếp tuôn một câu bất ngờ, tuy giọng vẫn đều đều:
        - Nhưng... hùm dữ đã lìa rừng!
        Vừa dứt câu,trong lúc mọi người chưa kịp nghĩ thì bất thình lình Thoòng Mềnh đã quát lên hai tiếng:
        - Hây a!
        Nghe vang âm thập phần dữ dội, đồng thời chuyển mình, tay trái khua ngang mặt Hồng Lĩnh, và tay phải xòe ra chém mạnh xuống ngang cần cổ chàng tuổi trẻ Việt một nhát, với tất cả sức vận công của tay thượng võ điểm truyền và cái nhanh vút của cái tài nghệ mấy chục năm giang hồ chém giết dồn lại. Nhát đòn tấn công bất kỳ xuất ý của Pạc Hoọc Đại Vương nhanh đến nỗi chính đám thủ hạ thổ phỉ cũng không ngờ được, chỉ còn ngồi im kịp chớp mắt một cái và hầu hết đều thoáng nghĩ ngay tới sự gục ngã của chàng trai. Nhưng người tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im, thân thể như đã dính vào ghế, khi bàn tay dịch thủ chém xuống, chỉ thấy cánh tay chàng vụt hất lên nhanh như một cần máy. Cả bọn định thần nhìn, đã thấy cánh tay Thoòng Mềnh bật ngược lại, và thân hình cao lớn cũng theo đà bật lảo đảo về sau vì sức mạnh của cái hất tay.
        - Chà! Cao cường quá!
        - Cao cường quá!
        Liền mấy miệng người bật kêu lên sửng sốt, trong lúc Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng bị hất đòn, đã lấy ngay lại thế, và chuyển hết sức, lao mình vào Hồng Lĩnh. Nhưng chưa kịp lao tới Thoòng Đại Vương đã dừng phắt lại, vì chợt có một bàn tay người đặt mạnh vào vài, phía sau, và ghìm lại như một kìm sắt nguội. Đại Vương Thoòng phải hụp vội người xuống, đồng thời nhảy xả một bước quay phắt lại. Voòng Lầu đã đứng đó, nhếch miệng cười khan dằn giọng:
        - Thoòng Mềnhl Hãy thử gặp Đa Sát Hải Sơn Vương đã, sao vội hỗn với thầy ta!
        Giọng khinh ngạo của Voòng khiến tướng thổ phỉ bừng giận, quắc mắt nhìn Voòng như sắp bốc cháy. Mấy khắc im lặng, nặng nề...
        Thoòng Đại Vương đưa mắt nhìn Hồng Lĩnh, và thừa biết Voòng không khi nào chịu để thầy bị tấn công, nên Thoòng Đại Vương từ từ tiến nhích lại trước Voòng rất chậm. Voòng vẫn đứng im như pho tượng, tay trái chống nạnh bên sườn, tay phải nhè nhẹ vuốt hàm râu quai nón xồm xoàm, mắt hơi nheo lại nhìn Thoòng Thoòng chậm bước, một tay buông thõng, bàn tay xòe ra, một tay cũng khẽ mân mê bộ râu quai nón, mắt cũng nheo lại. Cả hai viên tướng như muốn quan sát cân lượng tài lực nhau, và chỉ nhìn qua hai người đàn ông vạm võ gân guốc gan lì, cũng râu xồm, mắt diều hâu, sẹo mặt, mọi người cũng đã đoán ngay được đôi bên địch thủ kỳ phùng. Đám bộ hạ Thoòng nín thở, mấy người mặc âu phục nhíu mày lại, còn đám thực khách đều thụt lùi lại, ló đầu ngó vào sợ sệt như đã đoán được trận chiến nẩy lửa sắp diễn ra. Sát khí như trùm khắp gian phòng. Vụt cái, đúng lúc Thoòng tiến đến cách Voòng non thước Tây, hai người đàn ông thình lình cùng quát lên một tiếng nghe vang âm rờn rợn như muốn đoạt khí nhau và cùng lúc chuyển mình, lao vào nhau như hai con mãnh hổ vồ mồi. Hai tiếng quát khởi thế công của hai viên tướng giặc khiến hầu hết thực khách giật nẩy mình, khách vừa định thần đã thấy đôi bên địch thủ, lộn đầu xuống, lăn mình trên sàn như hai quả cầu, cách nhau đến hai, ba thước chẳng ai đánh trúng ai. Mọi người đứng ngây nhìn, không hiểu sao, chỉ thấy chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn chợt bật lên một lời khen khá lớn:
        - Khá lắm!
        Thì ra, cùng một khắc, hai người đàn ông đã khởi tiến công, nhưng đến khắc thứ hai, cả hai tay lão luyện đều chuyển thế, vờn lộn sang một bén để lợi dụng sức trượt đòn, đá tung lại, nếu một trong hai người vẫn theo thế tấn công hụt, thì sẽ bị miếng đá chân truyền đó, nhưng cả hai đều chuyển thế, nên đều đá vào không khí và lăn tròn trên sàn. Chỉ có tay thượng võ mới hiểu ngay được sức chuyển thế công lão luyện của Thoòng, Voòng.
        Hai người đã đứng vọt lên, lừ mắy nhìn nhau, như bắt đầu lượng rõ tài sức nhau sau miếng đòn giống nhau đó. Cả hai tiến lại trước mặt nhau, cách non thước. Thoòng giậm mạnh một chân xuống sàn, miệng lại quát lên một tiếng “Hầy”, mình chuyển tấn công nhưng lại thôi ngay. Nhưng hình như Voòng đã đoán được, nên Thoòng vừa chuyển mình đánh dữ, thì Voòng cũng quát lên một tiếng, giậm chân nhảy chéo sang bên sườn địch thủ, đồng thời phát ngang bàn tay trái vào cổ Thoòng, chân phải vừa chấm sàn đã giậm luôn một cái, bật người lại, tay phải quật vòng lại. Thoòng thụp rút đầu xuống tránh cái phạt trái, vừa xong, đã thấy tay mặt địch thủ quật vòng lại. Thoòng hất mạnh tay trái lên, thuận đà xoáy nửa vòng len vào bụng Voòng, đánh ngược lên một cùi tay. Nhưng Voòng đã kịp thời gập thót bụng lại, tay trái hất ngược lên ngang nách Thoòng. Thoòng giật mạnh cúi xuống, và nhảy lui lại tránh luôn một đòn tay phải của Vòng. Thấy Thoòng lui lại, Vòng cũng thu ngay về thế “Đồng tử bồng ngân bình” chờ đợi.
        Thấy địch thủ trổ thế võ “Quý Châu”, Thoòng cũng thủ thế, đợi chờ, không xông ngay, Voòng thấy thế, xông tới luôn, và hai địch thủ xoắn vào nhau trổ hết thế võ chân truyền, phóng ra những đòn dữ nhất, từ Hầu Quyền, Hạc Quyền, tới Thái Cực, võ Thổ, vố Mường...
        của mấy mươi năm lăn lộn giang hồ. Kẻ trúng đòn nọ kẻ trả lại đòn kia ngay, đôi bên kỳ phùng địch thủ đánh chỉ trúng nhau những đòn thường, không sao hạ nổi nhau, đến mười mấy hiệp vẫn tỏ ra ngang sức. Đám bộ hạ của Thoòng cùng thực khách, tửu bảo trước còn đứng im, sau cũng múa chân, múa tay, reo hò vang dội, như đang xem một cuộc lôi dài. Thay đã kéo dài khá lâu, Thoòng, Voòng đều nóng ruột càng dồn hết tài lực mong kết liễu trận đánh cho mau. Thoòng nghiến răng:
        - Ta không hạ ngươi, quyết không về cố quận.
        Voòng trợn mắt:
        - Ta không quật ngã ngươi, quyết không nhìn núi đồi !
        Hai người lao mình vào nhau, lần này không dụng võ đánh, mà khóa tay nhau bằng võ Nhật. Nhưng đúng lúc Pạc Hoọc Đại Vương và Đa Sát Hải Sơn Vương vừa khóa lấy nhau thì có tiếng quát thình lình:
        - Thôi! Được rồi!
        Và hai viên tướng giặc thấy một người nhảy vụt vào, hai tay gạt hai người ra, khiến cả hai đều cảm rõ như vừa chạm phải cánh tay thép nguội lùi giật ra hai bên:
        Thần Xạ Đại Sơn Vương. Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn nhìn hai người, miệng mỉm cười:
        - Quả là một cặp địch thủ kỳ phùng. Đấu nữa chỉ thêm mệt sức!
        Và chàng bảo Thòng:
        - Sẽ có nhiều phen gặp gỡ! Giờ ta có chút việc bận, xin cáo biệt...
        Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng.
        Dứt lời, Thần Xạ Đại Sơn Vương, khẽ hất hàm ra hiệu cho Đa Sát Hải Sơn Vương, đoạn hai thầy trò tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn từ tốn nghiêng mình chào Thoòng Mềnh cùng đồng bọn và ung dung bước về phía cầu thang. Bỗng Thoòng hét lớn:
        - Thần Xạ! Đa Sát!
        Hai thầy trò Hồng Lĩnh đã tới cầu thang, bỗng xoay lại bọn Thoòng. Đang bước khoan thai thình lình, thầy trò quay phắt lại, đúng lúc đó, Thoòng Đại Vương chĩa hai ngọn pạc hoọc vào hai người, và bóp cò. Đoàng! Đoàng! Hai tiếng nổ chát chúa, vang cả thượng lầu.
        Đồng bọn Thoòng Mềnh đưa mắt ngó ra, đã thấy hai thầy trò tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn đứng như hai pho tượng tháp bên nhau, một người một tay súng chĩa vào Thoòng Mềnh và Pạc Hoặc Đại Vương đang xòe hai tay chới với giữa không gian, hai khẩu Pạc Hoọc bách chiến đã tung qua vai, nằm quay trên sàn. Tưởng chủ tướng bị hạ, đồng bọn Thoòng lập lức thọc tay vào ngực áo, rút phắt súng ra.
        Nhưng qua mấy khắc ngơ ngác, Thoòng Đại Vương đã cử động, hai tay tê chồn và kịp thời nhận ra chủ ý của hai địch thủ ngang tàng, độ lượng. Hai viên đạn chỉ xói vào ngọn pạc hoọc còn tay Thoòng chỉ bị tê thôi. Địch thủ nếu có ác ý thì hai viên đạn nổ trước khi Thoòng bóp cò nửa khắc, đã đủ thời giờ hạ Thoòng vào tim, vào trán... hay nhẹ ra cũng phải xói vào bàn tay để tước súng đi.
        Vừa lúc đồng bọn rút súng ra, Thoòng Mềnh đã khoát tay, đưa mắt cản và từ từ tiến lại trước hai thầy trò Hồng Lĩnh. Nhìn thẳng vào mặt địch thủ, tướng thổ phỉ trầm giọng có vẻ bình tĩnh lạ lùng:
        - Không ngờ còn hai kẻ rút súng nhanh hơn Thoòng Mềnh! Danh lớn Pạc Hoọc Đại Vương đã hai phen lu mờ vì rút súng chậm hơn nửa khắc! Mối nhục này ta nguyện rửa và cái ơn không hạ độc thủ ta bữa nay, sẽ có phen ta đền đáp! Thần Xạ, Đa Sát hãy ra khỏi nơi này!
        Thoòng nói một hơi, chậm rãi, giọng đều đều, cặp mắt đầy lửa hận, đượm vẻ ngang tàng. Hai thầy trò đứng im, nhìn vào mặt Thoòng, và hơi đưa mắt nhìn nhau, miệng Thần Xạ Đại Sơn Vương hơi nhếch cười, đoạn hai thầy trò lẳng lặng cho súng vào ngực áo, bước xuống thẳng cầu thang. Voòng rút ví lấy tiền ném cho chủ quán, và hai thầy trò tướng lạc thảo bước ra, trước những cặp mắt khiếp phục của mấy hàng thực khách.
        Ra tới cửa, Voòng Lầu chợt kéo tay chủ tướng đứng lại. Người thuộc hạ giang hồ từng trải, hé cửa nhìn sang bên kia đường chỗ buộc ngựa, và ngửa mặt nhìn lên hàng hiên thượng lầu:
        - Thầy à! Dầu sao nên cẩn thận là hơn! Thằng Thoòng hiểm lắm, nhất là thủ hạ nó giờ lại đông, có mấy viên chức bản hạt này hỗ trợ!
        Hồng Lĩnh hơi gật đầu, đảo mắt quan sát một vòng ngoài, đoạn nhìn lại phía cầu thang. Vừa dứt lời, không để Hồng Lĩnh kịp nói chi, Voòng cởi phắt áo ngoài, ngoái lại quơ một chiếc ghế, khoác áo vào, và nhanh nhẹn đểy tung cửa, ném mạnh “ghế trùm áo” ra ngoài đường mé bên trái, đồng thời, lao mình vụt ra, về phía tay phải, được mấy bước, mới nhào mình xuống đường, lăn vèo mấy vòng như quả cầu.
        Đoàng... Đoàng... Đoàng...
        Từ trên thượng lầu liền mấy tiếng súng phát ra thình lình, ngay lúc “ghế áo” từ trong vụt ra. Và lúc ngọn súng nã áo ghế bên trái, kịp thời quay chĩa về bên mặt nhả đạn, thì Voòng Lầu đã lăn vèo qua đường, nhỏm phắt dậy ẩn sau một trụ đèn xi măng. Khách bộ hành tới đó, chợt nghe tiếng súng, chẳng hiểu chuyện chi, nhớn nhác nhìn quanh, thấy ghế áo, người lên, họ kinh hoảng chạy tứ tán như vỡ chợ.
        Thần Xạ Đại Sơn Vương đứng trong cửa tửu quán nhìn theo Voòng, thấy Voòng đã thoát, nấp sau trụ đèn, Thấn Xạ liền quay bảo thực khách:
        - Cứ ngồi nguyên trong này! Chạy ra chết uổng đó!
        Dứt lời chàng hất rộng cửa, toan phóng mình ra, chợt đứng ngay lại, vì Voòng đã khoa tay làm hiệu và đang vẩy ngọn súng lên trên lầu. Liền hai ba người từ trên đổ xuống giãy đành đạch trên đường, ngay trước mặt Hồng Lĩnh. Lẫn với tiếng đóng cửa rầm rầm, tiếng thét gọi nhau hốt hoảng của dân hàng quanh tửu lầu, chàng nghe rõ có tiếng quát tháo trên lầu thượng, tiếng Pạc Hoọc Đại Vương quát mắng thủ hạ. Tiếng súng chợt im bặt. Rồi có tiếng Thoòng Mềnh vọng xuống:
        - Thần Xạ cứ ra, ta đã trị bọn thủ hạ làm liều rồi đó!
        Hồng Lĩnh nheo mắt nhìn sang bên kia đường. Voòng Lầu vẫn đứng sau trụ đèn xi măng, ngọn súng chĩa lên thượng lầu. một tay giơ lên làm hiệu cản thầy. Trên lầu thượng, tiếng Thoòng Mềnh lại vọng xuống, lần này lớn hơn:
        - Thần Xạ! Hãy ra khỏi đây ngay! Tiếng súng đã khua động thị trấn, quân tuần có thể tới ngay.
        Nghe Thoòng nhắc tới quân tuần, Thần Xạ nhíu mày, vụt nhớ tới “đạo quan binh”, chàng đảo mắt nhìn theo dọc hai bên đường phố, phút chốc đã vắng teo. Còn đang tính toán, chợt bên kia trụ đèn, Voòng Lầu vẫy nhẹ liền mấy cái. Hồng Lĩnh không chậm một giây, tung cửa chạy vụt qua đường. Quả nhiên, không một tiếng súng bắn theo. Nấp sau trụ đèn, Hồng Lĩnh nhìn lên lầu thượng vẫn thấy Thoòng cùng đồng bọn đứng im cả ngoài hiên, nhìn hai thầy trò địch thủ.
        - Tôi chỉ hạ có hai đứa. Chắc Thoòng giết một. Nhưng... vẫn phải cẩn thận, vì nó có thể thí một tên bộ hạ thường.
        Voòng vừa dứt lời, Đại Sơn Vương Thần Xạ chợt hất đầu:
        - Thôi ta đi!
        Và rời trụ đèn, tiến thẳng tới chỗ buộc ngựa. Voòng cũng bước theo nhưng không chịu rời tay súng dè chừng bất trắc. Trên hiên thượng lầu, bọn Thoòng vẫn đứng nhìn theo không một cử động khác thường. Hai thầy trò đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy một vài con ngựa thồ thạp bé của thổ dân, tuyệt không thấy bóng ngựa trận của bọn Thoòng.
        - Quái! Chẳng lẽ chúng đi bộ tới quán?
        - Chúng về Cao Bằng làm chi? Trông có vẻ ung dung lắm, chắc mấy tên âu phục đi bên, có thể chúng ở đây lắm?
        Thầy trò Hồng Lĩnh tháo dây cương buộc, nhảy phắt lên lưng ngựa. Nhưng hai thầy trò chưa kịp giật tay cương, đã nghe thấy tiếng vó câu phóng rầm rập trên mặt đường nhựa từ phía chợ chuyển nhanh tới. Hai thầy trò đảo mắt về phía có tiếng ngựa, vừa lúc có tiếng Thoòng Mềnh lừ trên thượng lầu hắt xuống:
        - Quân tuần thị trấn! Mau chạy về phía tả? Đã có ta cản đường cho!
        Hai thầy trò đưa nhanh mắt nhìn nhau, không giấu được vẻ ngạc nhiên nghi kỵ, nhưng tiếng chân ngựa đã tới gần, và có tiếng dân phố reo lên:
        - Quân tuần! Quân tuần!
        Rất nhanh, bốn gót chân giang hồ thúc mạnh hông ngựa và tay cương giật gấp. Hai con vật chồm lên, lao thẳng. Nhưng sau lưng lố nhố đầu ngựa đã vụt tới. Dọc phố lúc đó vắng teo, dân làng đã nấp giạt vào hai bên hè. Hình như phía sau đoàn kỵ mã trông rõ hút ngựa phía trước, vì hai thầy trò Hồng Lĩh chợt nghe tiếng súng nổ phía sau lưng. Thầy trò Đại Sơn Vương cúi rạp xuống bờm ngựa, tay vỗ vào hông ngựa chạy như máy. Vừa may tới ngã tư, ngựa quặt luôn. Hai bên hàng phố ló đầu ngó ra nhìn theo hai người, chỉ trỏ bàn tán, cả các cô nàng đều nhận ra ngay hai thầy trò chàng trai Thổ vừa đi qua.
        Ngựa quặt được chừng mấy chục thước, chợt phía sau, nhiều tiếng súng nổ dội hẳn trong gió thoảng, còn phân biệt rõ cả tiếng Pạc Hoọc quen tai của vùng lạc thảo biên thùy. Voòng Lầu đánh ngựa sát bên Hồng Lĩnh:
        - Thầy à! Không phải tiếng súng bên đuổi ta!
        - Bọn Thoòng Mềnh dám đứng trên lầu thượng chạm súng với quân tuần ư?
        Hai thầy trò không bảo nhau, đều cùng dừng phắt ngựa lại. Ngoái lại phía sau, quả nhiên không thấy bóng quân tuần đuổi theo. Hai thầy trò đánh sát ngựa vào bên đường, cho bước một dưới bóng cây.
        - Thầy à! Bọn Thoòng mười mấy tên ở trong một cái túi dám cản quân tuần ngay bên “đạo quân binh”! Lạ thật! Bị quân đông tiếp viện tới, chúng rút sao thoát được?
        Hồng Lĩnh có dáng suy nghĩ, cặp chân mày hơi nhíu lại.
        - Chính ta cũng thấy lạ!
        Chàng đưa mắt nhìn quanh, có dáng nghĩ ngợi. Phía tửu lầu, súng vẫn nổ giòn tan, kinh động cả thị trấn. Thiên hạ chạy giạt tứ tán, như có tai biến, thấy hai thầy trò ngồi trên lưng ngựa, đều len lén lánh xa.
        Ngựa tới một ngã ba, có một con đường nhỏ đâm ra. Hồng Lĩnh, Vòng Lầu rẽ phắt tay cương, cho ngựa vào đường nhỏ. Tiếng súng nghe thật gần, lẫn cả tiếng quát tháo đốc chiến vọng tới. Hồng Lĩnh ngửa mặt quan sát địa thế mới rõ con đường nhỏ chạy sóng hàng với con đường trước tửu lầu cách nhau mấy lớp nhà ngói. Ngựa vào ngang tiếng súng, đưa mắt nhìn quanh. Hồng Lĩnh chợt bật Lên:
        - Có thế chứ! Coi kìa, Voòng?
        Ngay đó, sau một cánh cổng mở vào vườn hậu một ngôi nhà gạch, dưới gốc cây, mười mấy con ngựa lực lưỡng đã yên cương đứng vẫy đuôi, thở phì. Hai thầy trò dừng hẳn ngựa, đưa mắt nhìn khu vườn hậu, thấy một gã xạ phang ngồi dựa một gốc cây khuất sau ngựa, đang lim dim ngủ gật, thỉnh thoảng lại choàng mắt ngơ ngác nhìn quanh mỗi khi có tiếng súng dội tới.
        - Thầy à! Chắc bọn Thoòng cũng rút ra lối này đây! Hèn chi chúng dám chạm súng với quân tuần phía trước.
        Hai thầy trò ngồi im, nghiêng đầu nghe ngóng. Phía tửu lầu, tiếng súng nổ giòn tan. Chàng tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn hơi cau mày, lẩm bẩm như nói một mình:
        - Quái! Cũng đến hàng mấy phút lrồi, sao chúng chưa rút hậu?
        Định chờ quân binh đổ tới vây gọn chắc?
        Vòng cũng nheo mắt, hướng về tiếng súng:
        - Thoòng vốn thiện chiến, khi nào dám kéo dài trận chiến giữa một thị trấn đầy quan binh? Hay có chuyện chi đây?
        Đại Sơn Vương nghe tiếng súng vang dội, đảo mắt nhìn quanh mình một vòng, và chợt bảo thuộc hạ:
        - Voòng à! Để ta theo lối hậu này, tới xem sao.
        Dứt lời chàng nhảy phắt xuống ngựa. Voòng Lầu nhanh giọng:
        - Thầy à? Ta nên...
        Nhưng Đại Sơn Vương đã đoán được ý nghĩ thuộc hạ chàng ném mạnh tay cương cho Voòng:
        - Thoòng Mềnh dám cản đường quân tuần cho ta rút. Thầy trò ta hãy trở lại ngay! Đây là dịp tốt nhất!
        Nói xong, chàng rảo bước tới cổng trống, lao mình vào vườn cây, thoáng cái, đã khuất dạng. Đã quá quen với tính chủ, người thuộc hạ chỉ ngó theo đoạn tắc lưỡi một cái, dắt ngựa chủ đến bên dưới bóng cây, chờ đợi.
        Vào vườn hậu, Thần Xạ Đại Sơn Vương băng qua vườn cây, tới cuối vườn gặp một tường gạch dựng đứng cao tới hai thước có cổng đóng chặt. Chàng đảo nhìn địa thế, và nhảy vọt lên nắm lấy một cành cây rủ bên tường nhà, hai tay thoăn thoắt lần ngược lên cao tung mạnh thân qua ngọn tường, lá cây chỉ khẽ rào một cái, hai chân người đàn ông giang hồ đã đặt trên một mái ngói thấp. Quan sát một lượt nữa và chuyền qua mái hết lớp nhà nọ tới nhà kia, chỉ trong nháy mắt đã lần tới căn nhà trông thẳng sang tửu lầu.
        Vừa tung mình lên một sân thượng có cành lá rủ um tùm, Hồng Lĩnh vội ẩn mình ngay, vì chợt thấy lố nhố những bóng người hai bên tả hữu phía trước. Định thần nhìn kỹ, mới biết là bóng quân binh đã leo mái chặn hậu, kẹp lấy khu tửu lâu. Ngó về hậu tửu lầu chỉ có một cửa gác hẹp trông xuống một sân thượng, thành thử ngọn súng quan binh hai bên chĩa cả vào đó, cứ thấy ai ló dạng là bắn luôn. Phía trước tửu lầu, tiếng súng trường vẫn nổ dồn, có vẻ như quân binh cố đánh thốc vào. Vừa ngó qua, Hồng Lĩnh đã hiểu ngay, nếu tình thế kéo dài thêm chỉ mười lăm hai mươi phút, quân lính thị trấn tiếp viện tới vây, bọn Thoòng Mềnh sẽ như cá bị dồn vào giỏ. Đại Sơn Vương Thần Xạ rút phắt ra một chiếc “mùi xoa” huyết dụ, ló đầu về phía cửa hậu tửu lầu gọi lớn:
        - Pạc Hoọc Đại vương Thoòng!
        - Pạc Hoọc Thoòng!
        Vừa gọi, chàng vừa phất nhẹ “mùi xoa”. Phía cửa hậu, liền mấy đầu người ló ra thụt vào, rồi khuôn mặt tướng thổ phỉ râu xồm hiện ra. Súng quan binh bắn thốc vào luôn khiến khuôn mặt Thoòng ẩn vội, còn hơi hé một phần nhỏ. Hồng Lĩnh nấp sau tường, cây rậm, phất mạnh khăn lớn tiếng:
        - Rút ngay, không bị vây chết đó! Cứ ta phất khăn là phải phóng xuống sân thượng từng người một!
        - Đoàng!
        Từ phía quan binh một viên đạn bay vèo tới, réo trên đầu Hồng Lĩnh. Chỗ chàng đứng rất thuận lợi, có thể quan sát cả ba bề bốn bên, lại có cây và một bờ tường khá cao chắn trước. Một bóng lính nhô lên nóc nhà bên tả. Thần Xạ liền nhô lên, vẫy ngọn súng sang. Bóng lính đổ xuống. Lại một bóng trên nóc nhà hữu, cánh tay viên tướng lạc thảo lại vẫy súng. Thêm một bóng người tung lộn như trái cầu. Khăn huyết dụ phất mạnh. Từ cửa hậu, một bóng giặc phóng xuống sân thượng. Cứ thế đến mấy lần. Trước còn tay bắn tay vẫy, sau Hồng Lĩnh buộc luôn khăn đỏ vào cổ tay, cứ thế đảo mắt vẫy tay mấy phía nhanh như chày máy đến nỗi quan binh thấy luôn mấy lính bị hạ vì tay súng chỗ lùm cây rậm, nhưng động nhô lên, vừa chĩa súng vào đã thấy cánh tay đỏ khoa lên giữa hàng lá xanh, và một viên đạn xối vào giữa trán, nên đám còn lại phát kinh sợ, không dám khinh thường.
        Đám quân binh phục hai bên sườn hậu tửu lầu cả loạn, nhanh theo hai cánh tay Thần Xạ hoạt động. Nhưng phía trước tửu lầu, tiếng súng trường của quân binh vẫn nổ giòn, dầu áp lực hai bên sườn đã rút hẳn. Còn tiếng súng ngắn thưa hẳn, thỉnh thoảng mới nghe một vài tiếng pạc hoọc bật lên. Đạt Sơn Vương Thần Xạ rung mạnh cánh tay buộc khăn đỏ, hô lớn:
        - Thoát mau! Chậm trễ phía trước, quân binh sẽ ập vào!
        Tiếng hô vừa dứt, đã thấy từ cửa hữu tửu lầu, liên tiếp những bóng quân Thoòng phóng ra nhanh vun vút. Sau cùng, về phía trước vừa dứt tiếng pạc hoọc, cửa sau xuất hiện dáng dấp cao lớn của Pạc Hoọc Đại Vương, hai cánh tay vẫy ra tả hữu liền mấy phát trước khi phóng xuống sân thượng. Nhìn qua kẽ lá thấy lố nhố bóng giặc Thoòng chạy thoăn thoắt trên nóc nhà, ngọn tường, rút về nẻo vườn buộc ngựa, Hồng Lĩnh liền bắn luôn mấy phát nữa và cũng băng mình khỏi chỗ nấp, thỉnh thoảng bắn lại mấy phát.
        Dư biết đã đến lúc thập phần nguy hiểm vì quân binh có thể luồn đón đường rút, Hồng Lĩnh vượt tường lướt mãi nhanh như mèo, thoáng cái, đã bíu cành cây tung mình xuống vườn buộc ngựa, vừa lúc Pạc Hoọc Đại Vương cũng kịp tháo tới. Thần Xạ Đại Sơn Vương giơ cánh tay còn buộc khăn đỏ:
        - Nên dẫn thủ hạ thoát mau, không, bị cản đường. Thôi ta có lời chào Thoòng, sẽ có ngày hội ngộ.
        Miệng dứt lời, chân đã phóng qua cửa, không để Thoòng Mềnh kịp cất lời. Vòng Lầu đang ngồi trên ngựa, tay nắm sẵn cương chờ đợi, băn khoăn... Chợt thấy bóng chủ phóng ra. Voòng tươi hẳn mặt, đánh ngựa vọt tới, nắm luôn cương cho chủ. Thần Xạ Đại Sơn Vương đỡ luôn cương thót lên lưng ngựa, nhanh giọng:
        - Ta đi thôi! A Voòng! Quan binh sắp đuổi tới rồi.
        Hai con ngựa nước hai chồm lên, vọt đi. Ngoảnh nhìn ra ngã ba đã thấy đầu ngựa quan binh lấp ló, vừa lúc Thoòng Mềnh cũng phóng ngựa trong vườn ra. Ngựa hai thầy trò phi tới đầu đường, Hồng Lĩnh ngó lại thấy Thoòng Mềnh đang cùng mấy thủ hạ bắn cản quân binh, còn đám sau tiếp tục thoát ra. Chàng tuổi trẻ hất hàm bảo Voòng:
        - Quân binh thận trọng dừng bước ngựa. Pạc Hoọc Thoòng chắc đủ sức còn cho bộ hạ thoát. Mình đi thôi!
        Hai con ngựa lao đi, phóng trên đường vắng ngắt, xa mau vùng súng nổ. Qua hết phố nọ tới phố kia, chỉ loáng mắt, tám vó câu kiêu đại đã đặt tới khu bìa thị trấn. Phía sau, vẫn còn thưa thớt tiếng súng, trước đầu ngựa đã là đồi núi điệp trùng. Hai thầy trò tế ngựa nhắm thẳng rặng núi trước mắt, bỏ đường lớn, băng ngang, đi theo đường mòn, đi được mười lăm phút, nhìn lại không còn thấy mái nhà thị trấn, và chợt thấy bóng ngựa nhấp nhô trong nắng loé. Nhìn kỹ nhận ra quân Thoòng. Không hiểu Thoòng theo ngựa thầy trò hay tình cờ, Đại Sơn Vương nhíu mày bảo người thuộc hạ:
        - A Voòng! Bọn Thoòng chạy cùng đường với ta? Phải đánh lạc hướng chúng.
        - Dạ! Tất quan binh đang đuổi theo chúng?
        Hai thầy trò ngó thấy bên tả có rừng rậm, liền phóng tới, chạy một đỗi đến một thung lũng, vừa chớm ló ngựa ra đường mòn đã vội rẽ phắt ra phía hữu. Trước đầu ngựa, thình lình một toán người ngựa vụt nhô ra, ngay trên đường mòn, ập tới. Thoạt nhìn đã nhận ra ngay người cỡi ngựa đầu là Trần Tắc, kế tới Hai Cao, tay khoa súng theo đà phi ngựa. Họ Trần cũng đã nhận ra viên tướng lạc thảo miền Thập Vạn Đại Sơn, tay trái giơ lên làm hiệu, tay phải nã luôn một phát súng về phía Hồng Lĩnh, miệng Trần hô lớn, tay ngoắt cương, cho thuộc hạ tiến lên.
        - Hắn kia! Bắn!
        Đám thuộc hạ, và gia nhân vừa lính dõng phóng ngựa lên tay súng bóp cò luôn một loạt. Nhưng hai thầy trò Hồng Lĩnh đã kịp băng ngang. Đạn vèo bên tai, hai thầy trò cúi rạp xuống bờm ngựa. Chàng tướng lạc thảo ngang tàng đây kinh nghiệm không nao núng trước sự việc quá bất ngờ. Óc lóe lên cơ mưu, ĐạI Sơn Vương thấp giọng bảo thuộc hạ:
        - Phóng ngược lại, dẫn bọn này tới đầu ngựa quân Thòng, rồi rẽ ngang.
        Hai con ngựa chạy ngoằn ngoèo giữa những tàng cây, không xa bọn quân Trần Tắc vì Hồng Lĩnh có ý để cho quân địch đuổi theo. Cứ vài mươi thước hai thầy trò mới bắn lại một phát, hai phát, dụ địch.
        Mãi tới khi thấy loáng thoáng bóng ngựa Thoòng phóng lại, Hồng Lĩnh mới cùng Voòng Lầu rẽ cương ngang, phi đại vào khu rừng bên phải.
        Quả nhiên trên đường mòn, đám quân Trần Tắc chạm trán với quân Thoòng, vì hai thầy trò Đại Sơn Vương rẽ ngang chừng hơn trăm thước, đã thấy tiếng súng nổ lên loạn xạ lẫn tiếng ngựa hí, người hò. Đại Sơn Vương ngó lại phía sau, trên khuôn mặt rắn đanh, thoáng nở một nụ cười nửa miệng:
        - Tội cho Thoòng, nó bi kẹp giữa hai cánh quân đông! Nhưng chắc nó đã mưu thoát hiểm!
        Voòng ngồi trên yên chỉ ngoái lại sau, và theo thầy thúc mạnh gót giày vào hông ngựa. Hai thầy trò xa dần tiếng súng và cứ thẳng trước mặt tiến tới. Thấy đã khá xa, hai thầy trò ngoái lại sau, tuyệt không thấy bóng ngựa theo, liền hạ nước phóng đại xuống kiệu băm.
        Phía trước, rừng thưa dần, thung tráng địa mở rộng, theo bước ngựa đi. Chợt gió mát phía trước thoảng tới. Đại Sơn Vương liền cho ngựa đi bước một, mặt nhìn lên cao, hít một hơi dài, đoạn bảo thuộc hạ:
        - Quái a Voòng! Trong gió thoảng có hơi nước mát! Sắp mưa chăng?
        Người thuộc hạ cũng ngửa mặt nhìn trời, mũi hơi nghiêng trước ngọn gió. Hai thầy trò còn đang thắc mắc, thì ngựa đã vượt khỏi lùm cây rậm và đột nhiên gió mát hẳn lên, phần phật thổi vào quần áo.
        Và trước mặt hai thầy trò Đại Sơn Vương, dòng sông rộng chợt hiện ra, loáng bạc như dải lụa loang nắng uốn mình giữa núi đồi xanh ngắt.
        - Bằng Giang!
        Chàng tuổi trẻ khẽ bật lên mấy tiếng và quay bảo thuộc hạ:
        - Sông rộng chắn đường rồi! A Voòng!
        Hai thầy trò nhổm lên nhìn suốt vùng Bằng Giang quạnh vắng, không một bóng thuyền bè. Tít phía chân trời, khắc vào nền mây xanh úa, một vài mái nhà gạch ẩn hiện giữa những vùng cây trên những ngọn đồi cao quanh thị trấn. Gió từ dưới sông lên, phả vào mặt mũi hai người đàn ông giang hồ một thứ hơi lành lạnh của nước nguồn.
        Hai người rút khăn lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt phong trần, và cùng ngồi im trên lưng ngựa nghe tiếng súng vẫn nổ đì đẹt phía sau, cặp mắt sáng quắc vụt trở nên âm u, bâng khuâng như vừa ám hơi sương chiều, khói nước đang chầm chậm dâng lên kéo giăng mỏng manh trên mặt Bằng Giang. Một túc khá lâu, Voòng Lầu với tay về phía sau yên lấy bình nước đưa cho Hồng Lĩnh, giọng Voòng rất thấp như không dám khua động bầu không khí im lặng bao tỏa quanh mình chủ tướng:
        - Thầy a! Ta đi dọc bờ sông... may có thuyền sang ngang. Đứng đây mãi ẹ.. bất lợi!
        Đại Sơn Vương lặng lẽ đỡ lấy bình nước, ngửa cổ uống mấy ngụm, đoạn trao lại cho Voòng và lặng lẽ giật tay cương... Hai con ngựa chậm bước men ngược dòng sông đi mãi. Một quãng khá xa vẫn không một bóng thuyền bè. Hình như tuồng súng nổ thình lình tại thị trấn đã đuổi giạt thuyền bè vào bờ, neo lại nghe ngóng động tĩnh, không thuyền nào dám đi vội khi chưa rõ biến động ra sao.
        Đến một chỗ có dãy đồi trọc chạy ra sát bờ nước, hai thầy trò Đại Sơn Vương liền cho ngựa lên một ngọn đồi khá cao, quan sát khắp vùng sông nước. Chợt thấy một con thuyền buôn, đậu khuất giữa lùm cây rậm bên kia bờ, Voòng Lầu khẽ reo lên.
        - Kìa có thuyền.
        Dứt lời, Voòng vội khum hai bàn tay gọi vọng sang bên kia sông và giơ tay vẫy lia lịa. Mãi mới thấy có bóng người từ trong khoang ló ra và thu ngay vào mất dạng, gọi vẫy mấy, thuyền đó vẫn im lìm. Có lẽ nhìn sang thấy bóng người ngựa, lại có tiếng súng nổ về phía đó, nên người trên thuyền hoảng sợ, cứ tảng lờ như không hay biết chi cả. Voòng Lầu cau mày:
        - Hừ! Vừa có đứa ló dạng lại không chịu ra mặt nữa. Đa Sát Hải Sơn Vương giận dữ rút phắt súng ra, vùng vằng quay một vòng trên ngón tay, rồi nghĩ sao, lại cố nét bực dằn mạnh vào bao.
        - Thầy à! Đành phải đánh ngựa qua sông thôi! Ướt hết vậy!
        Hồng Lĩnh chưa kịp cất tiếng, chợt giơ tay làm hiệu cho Voòng Lầu và nghiêng đầu lắng nghe. Từ phía thượng lưu, vừa có tiếng cất lên, giọng hò trong vắt theo hơi gió vọng về:
        Ai lên ngọn nước Bằng Giang, Mà xem giặc cỏ dọc ngang vẫy vùng.
        Ai lên biên giới điệp trùng Mà xem giặc cỏ xưng hùng một phương.
        Người tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn quay phắt nhìn Voòng thủ hạ, vừa lúc Đa Sát Hải Sơn Vương đưa nhanh mắt ngó chủ tướng, mấy ngón tay gân guốc sờ vội lên bộ râu quai nón xồm xoàm như muốn giật tung. Theo hơi gió, tiếng ngừng mấy khắc, lại cất lên lần này nghe càng gần, như chạy lướt trên mặt nước:
        Cao Bằng nát cỏ biên cương, Đố ai biết Đại Sơn Vương vượt nhầu.
        Chọc trời quấy nước mặc dầu, Hùm thiêng thất thế mất đầu như chơi.
        Tiếng hò bốc lên cao vòi vọi, như thấu mây xanh, rồi lả lướt đổ xuống mặt Bằng Giang, truyền đi, trong vắt, và vụt tắt bất ngờ trên khói nước, dư âm bí ẩn còn ngân dài mãi trong tai hai thầy trò Đại Sơn Vương như muốn xoáy vào tận ruột gan.
        Hồng Lĩnh, Voòng Lầu vội nhổm hẳn lên nhìn về phía có tiếng hò lạ lùng, chưa kịp trao đổi với nhau lời nào, đã thấy một con thuyền độc mộc từ sau một lùm cây rậm ven sông nhô ra lướt vùn vụt trên nguồn nước, trên thuyền có hai dáng người thanh nhỏ đang ngồi khua nhẹ mái chèo. Con thuyền độc mộc nhọn như thoi lướt đi về phía hai người, cứ thẳng giữa dòng, như không trông thấy hai người đàn ông phong trần đang ngồi im trên ngựa, bên bờ:
        Sau lưng quân kỵ tới rồi Bằng Giang ngăn lối hết đời Đại Vương...
        Giọng hát lạ lùng cất lên, như bỡn cợt nghe rõ tiếng gái Kinh, tiếng vừa tắt, thì tiếp sau đáp lời câu hò giễu cợt, tiếng súng thình lình nổ dội hẳn lên, và như sắp ập tới sau lưng hai người. Nhìn kỹ, thấy hai người trên thuyền độc mộc là hai thiếu nữ, mặc y phục miền sơn cước sặc sỡ, tuy cách đến mấy chục thước, vẫn nhận được dáng dấp thanh trẻ khác thường.
        Hai thầy trò Đại Sơn Vương khẽ đưa mắt nhìn nhau, Hồng Lĩnh vừa khum tay quanh miệng, định lên tiếng gọi, chợt ngừng ngay, vì từ phía thuyền thiếu nữ, giọng hò lại cất lên, lờ lững vô tình...
        Hai viên tướng lạc thảo giang hồ cùng quay phắt nhìn lại phía sau. Chỉ thấy rừng cây, đồi cỏ, lớp lớp điệp trùng... nhưng rõ ràng tiếng súng đang chuyển về phía hai người. Voòng Lầu không chậm một giây, liền vỗ ngựa xuống chân đồi, thoáng cái đã thấy ngựa vọt lên một ngọn đồi cao hơn, đứng ngó về nơi súng nổ mấy khắc, đoạn giơ tay vẫy Hồng Lĩnh. Đại Sơn Vương đánh ngựa lên theo, đớ lấy ống nhòm quan sát. Quả nhiên, cách mấy dải đồi, thấy nhiều bóng ngựa lố nhố sải vó về phía hai người, mãi xa xa lại thấp thoáng môt tốp quặt về tay hữu, theo hình cánh cung. Không bão nhau, hai thầy trò đều nhìn mặt sông. Thuyền thiếu nữ sơn cước vẫn lướt trên dòng đã tới ngang chỗ hai người.
        - Sau lưng quân kỵ tới rồị..
        Tiếng hát lại cất lên và con thuyền độc mộc chợt quay ngang lơ lửng giữa dòng, vì hai cô gái đã bỏ tay chèo. Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, trao đổi một mối nghi hoặc khó hiểu.
        - Men ngược thượng lưu hay sang sông?
        - Sang sông?
        Voòng Lầu giơ tay vẫy gọi hai cô gái trên thuyền. Nhưng thuyền vẫn lặng lẽ trôi. Phía sau tiếng súng thêm gần. Voòng Lầu trừng mắt nhìn con thuyền giữa dòng, thốt nhiên cười nhạt một mình:
        - Hừ! Bằng Giang đâu rộng bằng Bắc Hải! Rồi sẽ biết tay Hải Sơn Vương! Vượt thôi thầy!
        Hồng Lĩnh nheo mắt, nghĩ một khắc và tặc lưỡi:
        - Đành vượt thôi!
        Hai thầy trò vỗ ngựa chạy thẳng xuống đồi ra bờ sông. Lúc này hai thiếu nữ trên thuyền đã quay nhìn lên bờ, thấy một người đàn ông đã tiến ngựa sát mé sông, chợt hai nàng chỉ trỏ và cất tiếng cười vang như càng trêu chọc. Không ngần ngừ, hai thầy trò đánh luôn ngựa xuống nước. Hai con vật trù trừ mấy khắc đoạn bước xuống dòng ra xa dần. Gần hết thân ngựa chìm xuống mặt nước, chỉ có đầu cất lên, khiến thầy trò Hồng Lĩnh phải đứng khom mình trên yên cho khỏi ướt. Tiếng cười của hai cô gái càng vang lên, khiến Voòng Lầu bực tức cho ngựa bơi thẳng tới chỗ hai nàng. Nhưng hai nàng vẫn nhởn nhơ trên thuyền hình như muốn trêu chọc, nên cứ lượn thuyền phía trước.
        Tới giữa dòng, chợt một cô nàng cất tiếng cười khanh khách:
        - Ta vẫn nghe danh hai thầy trò tướng giặc Thập Vạn Đại Sơn giờ mới gặp! Có cần lên thuyền chạy cho nhanh, dể ta giúp một tay.
        Voòng Lầu, Hồng Lĩnh càng ngạc nhiên, không ngờ có người lại thiết rõ mình đến thế? Còn đang lạ lùng đã thấy thuyền lướt tới gần, chỉ cách độ vài sải tay, và thiếu nữ trẻ hơn lại cất tiếng, tay trỏ vào Voòng Lầu:
        - Người râu xồm dữ tợn này là Đại Sơn Vương ư?
        Vừa nói, nàng vừa chống chèo bơi đến ngó hai thầy trò, cười tinh nghịch. Đa Sát Hai Sơn Vương thình lình vung mạnh tay về phía thiếu nữ. Chỉ thấy loáng một vệt sáng vụt sang. Phập Nhìn ra, một lưỡi dao lá liễu đã cắm phập ngang cán chèo.
        Cô nương ngơ ngác nhìn dao và nhìn hai người đàn ông rồi cười ngất, mặt đỏ ửng. Cô nàng rút phắt ngay lưỡi dao, ném vụt về phía Voòng. Phập! Lưỡi dao cắm ngay vào mép yên, ngay trước chân Voòng.
        - Khá đó? Cô em quả chẳng tay vừa!
        Hồng Lĩnh bất giác bật lên khen, còn đang để ý nhìn thiếu nữ xinh đẹp lạ lùng trong lớp xiêm y miền núi, thì thuyền độc mộc đã lao tới, và bất thần cô gái đứng vụt lên nhún mình nhảy vọt sang đầu ngựa Voòng Lầu. Voòng vừa ngạc nhiên trước sự việc xảy ra đột ngột.
        thì bóng thanh nhỏ của cô gái đã áp tới, một cánh tay gạt mạnh tay cương đồng thời bàn chân lia ngang ống cẳng Voòng nhanh như chớp.
        Nhưng tuy bị đánh thật bất ngờ, Voòng đã không hổ danh Hải Sơn Vương, tay cương đã khoa nửa vòng, hai chân xuống Trảo mã tấn thật nhẹ trên yên, đỡ ngọn cước quyết liệt của thiếu nữ, thuận đà tay trái gạt luôn chân nàng. Nhưng cô gái đã kịp thời giậm chân đó xuống lưng ngựa còn chân kia đá bách ra. Bị giậm lưng, con ngựa đau vùng hí lên, chùn gân, trầm luôn cả mình và hất luôn hai người tung xuống nước.
        Hồng Lĩnh đứng nhìn qua, đã lường được ngay tài võ của thiếu nữ lạ, hiểu ngay dụng ý của cô nàng, định kéo “Sơn Vương” xuống nước để thủy chiến cho dễ, chắc không biết “vua núi” lại còn là vua biển Bắc. Vì vừa rơi xuống nước, Hải Sơn Vương Voòng Lầu vụt trở lại phong độ thời xưa, chằng khác cá kình gặp nước lớn. Voòng lập tức vùng vẫy, dốc luôn ra kinh nghiệm gần hai mươi năm vẫy vòng trên biển cả.
        Vừa tung mình xuống nước, Hải Sơn Vương đã lao thẳng tới chỗ thiếu nữ, vươn cả hai cánh lay lực lưỡng vồ lấy địch thủ, nhanh như một con rái cá.
        Lĩnh đứng trên lưng ngựa, không khỏi ngạc nhiên, vì trước sức vươn tay tấn công của người thủ hạ vốn đã khét tiếng, cô gái sơn cước không tránh đòn mà lại nhào phăng vào, dùng một cánh tay trái gạt ngang tay địch thủ, tay phải vùng đánh mạnh xuống đầu Voòng, khiến Voòng phải hụp luôn xuống nước tránh đòn và trồi lên bên sườn cô gái. Vừa thấy Voòng nhô lên, cô gái đã lướt xoài tới đánh luôn. Hai địch thủ, một cao lớn lực lưỡng, một nhỏ nhắn mảnh mai xoắn lấy nhau. Hồng Lĩnh đứng ngoài chỉ thấy nước tung trắng xóa, hai hình dạng nửa người trồi lên hụp xuống, khiến từng đợt sóng dờn nổi lên chạy tới cả bên ngựa. Chàng hết đưa mắt quan sát trận thủy chiến tay đôi lại nhìn sang con thuyền độc mộc và khóng khỏi ngạc nhiên, vì cô gái thứ hai trên thuyền vẫn ngồi mỉm cười xem trận, không tỏ vẻ chi lo ngại cho cô gái dưới nước. Đột nhiên, cô gái sơn cước lặn mất trên mặt sông, chỉ còn Hải Sơn Vương đang vừa bơi vừa đảo mắt tìm kiếm. Chợt Voòng vùng nhô hơn nửa mình lên và đạp mạnh xuống, thoáng cái không hiểu sao, cả thân hình Hải Sơn Vương đã hụp luôn xuống, mất tăm. Trên mặt sông, trước còn thấy sóng dờn tỏ ra đang có sự giao đấu ngầm dưới nước, sau trở nên phẳng lặng như không.
        Hồng Lĩnh đứng trên ngựa, tay cầm chặt cả cương ngựa Voòng Lầu, cho bơi cầm chừng, thấy hai người mất tăm khá lâu, chàng không giấu được vẻ ngạc nhiên, e ngại vội đưa mắt nhìn sang cô gái trên thuyền. Con thuyền độc mộc vẫn quay ngang lững lờ trên mặt nước, và cô gái vẫn ngồi nhìn xuống nước có vẻ bình thản, không chút lo ngại, hình như đã tin tưởng chắc chắn về tài thủy chiến của cô đồng thuyền.
        Hồng Lĩnh còn đang nheo mắt suy nghĩ, đã thấy từ dưới nước một bóng người vọt lên, như cất hẳn mình lên khỏi mặt nước. Nhìn ra, cô gái miền núi. Vừa vọt lên, cô gái kỳ lạ đã xoài mình lướt trên mặt nước như một con thoi, lướt thẳng tới bên thuyền độc mộc, bíu leo lên.
        Hồng Lĩnh thốt giật mình đảo mắt tìm khắp mặt sông, còn đang lo lắng vì không thấy tăm dạng Voòng Lầu thì đã thấy nước động ngay sau ngựa. Ngoái lại, thấy Hải Sơn Vương vừa từ dưới nước nhô lên, vừa thở mạnh, tay vừa vuốt mặt:
        - Con nữ quái lợi hại! Không ngờ... Tay khác, đã bị nó cho uống nước dưới lòng sông rồi!
        Không giấu được kinh ngạc, Hồng Lĩnh vùng đưa mắt nhìn sang thuyền hai cô gái lạ. Cô nàng vuốt tóc xòa xuống trán, cất tiếng cười khanh khách:
        - Như thế đủ rồi! Xin có lời chào Đại Sơn Vương. Danh Sơn Vương quả bất hư truyền?
        Dứt lời, cô nàng vỗ mạnh tay lên vai cô đồng hành và khoa một bàn tay làm hiệu cho thuyền đi. Biết cô nàng lầm Voòng Lầu là Đại Sơn Vương, Hồng Lĩnh quay sang người thủ hạ lúc đó đã leo lên hông ngựa. Thấy Voòng ướt như chuột, mặt vẫn còn hầm hầm. Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn bất giác phải thầm khen tài cô gái lạ. Chàng mỉm cười:
        Hôm nay không ngờ lại có tay địch thủ xứng đáng tranh tài dưới nước với Hải Vương Biển Bắc! Vòng đưa mắt trứng then cun thuyền độc mộc đang xuôi dòng lướt đi, trên thuyền, cô gái vừa giao đấu nói vọng lại:
        - Cứ vào bờ, sẽ có người trợ giúp! Hãy nhìn lại phía sau!
        Giọng cô gái lanh lảnh vang trên sông rộng khiến hai thầy trò bất giác ngoảnh nhìn lại sau lưng, Giữa nắng vàng bên bờ nước trên ngọn đồi trọc, nhiều bóng kỵ sĩ vừa hiện ra, vó ngựa còn cất chồm về phía hai người. Lúc đó, ngựa hai thầy trò Đại Sơn Vương đã vào gần bờ bên này và con thuyền độc mộc đã lướt xuôi dòng cách ngựa đến bảy mươi sải tay. Đại Sơn Vương bảo thuộc hạ:
        - Thôi để mặc hai cô gái dó! Còn phải đối phó với đám quân kia đã!
        Voòng Lầu che tay ngang trán, nhìn lại toán quân trên bờ tuy cách sông nhưng cũng đoán được hình dạng quân tuần đang chỉ trỏ sang phía bên này sông. Vừa lúc đó có một toán người ngựa khác từ cánh rừng ngang phi tới bờ sông. Nhận ngay được hình dạng Trần Tắc, Hai Cao đứng yên trên một ngọn đồi trọc Voòng vội bảo chủ :
        - Thầy a! Ta lên cho ngựa nhanh vào bờ! Có cả quân Trần Tắc mới tới!
        Đại Sơn Vương nhìn lại, nhếch mép cười nửa miệng:
        - Thằng Thoòng gớm thật! Nó lại dụ địch đến gặp mình, để thoát thân rồi!
        Hai thầy trò đánh ngựa, cho bơi mau vào bờ. Còn cách độ mấy sải, chợt Voòng khẽ kêu lên:
        - Nằm xuống, thầy! Nó bắn đấy!
        Hai thầy trò vừa phục xuống lưng ngựa, đã nghe đạn réo trên đầu. Quan sát phía trước rẽ tay phải có bờ thoai thoải, hai thầy trò thúc ngựa rẽ nước theo hình chữ chi, vừa tránh đạn, vừa tiến vào, kịp khi vó câu chồm được trên bờ cỏ, ngoảnh lại sau thấy quân tuần cùng quân Trần Tắc đánh ngựa ùa cả xuống nước.
        - Chúng vượt sông định đuổi ta đến cùng chắc?
        Đại Sơn Vương thốt cả giận lẩm bẩm, và rút phắt súng ra, vẫy ngược lại phía sau liền hai cái. Voòng chỉ kịp thấy cánh tay chủ tướng rung lên, ngoái lại, đã thấy hai tên xông ngựa ra trước nhất, lộn trên yên và đổ liền xuống mặt sông Bằng như hai cây chuối ngã. Voòng Lầu vội đánh ngựa tới bên chủ nắm lấy tay súng:
        - Thầy ạ, Ta còn nhiều dịp gặp nó. Giờ không nên nán lại nữa!
        Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn lừ mắt về phía sau lưng, ấn mạnh súng vào bao và vùng giựt mạnh tay cương cho ngựa vọt lên. Đợi cho chủ tướng lên hẳn, Voòng mới vọt theo. Hai thầy trò nằm rạp trên lưng ngựa, phía sau, đạn vẫn vãi theo, loạn xạ. Bên tay trái có cánh rừng rậm, rất gần, hai con ngựa băng lên mặt cỏ, lướt thẳng tới.
        Nhưng hai thầy trò vừa tới vùng cây rậm, thình lình thấy từ trước, một toán người ngựa trong rừng chợt hiện ra, vó câu sải thẳng về phía hai thầy trò. Vì đã bắt đầu tới chỗ nhiều cây cỏ, và chỉ lưu ý tới sau lưng nên khi toán trước nhô ra, hai thầy trò vừa kịp đưa mắt làm hiệu cho nhau, thì toán trước đó đã ập trước đầu ngựa. Nhìn ra toàn người lạ mặt, mặc quần áo miền núi, đeo tên, nỏ, dao, súng loang loáng, thân hình cao lớn, khẽ dập dờn theo nhịp vó câu.
        Dẫn đầu, là hai cô gái, trang phục như hai cô trên thuyền độc mộc vừa nay, và đâu có vẻ đẹp hoang dại lạ lùng. Vừa ập tới, một cô nàng khoa tay dao rừng lên, cất tiếng lanh lảnh:
        - Hai ông cứ thẳng ngựa tới khu rừng trước mặt, sẽ có người đón!
        Bọn đuổi theo sau lưng để mặc bọn tôi!
        Lời vừa dứt, hai thiếu nữ đã vượt qua, rồi có thể đến mười lăm người nữa cứ vùn vụt đi, khiến hai thầy trò Đại Sơn Vương chỉ kịp tránh ngựa sang một bên, và đưa mắt ngó theo cho mãi tới khi đoàn ngựa lạ mất hút về nẻo Bằng Giang. Chỉ mấy phút sau đã nghe súng nổ dội hẳn lên mạn bờ sông. Đại Sơn Vương ngồi lắng tai nghe và quay nói với Voòng Lầu:
        - Đi về phía nào Voòng?
        Voòng nhìn chủ tướng, khuôn mặt đen sạm phong trần hiện rõ nét đăm chiêu:
        - Thầy a! Hung cát khó lường, nhưng dầu sao có quân cản hậu, ta cứ thoát về nẻo có rừng rậm núi cao là hơn cả!
        Đại Sơn Vương nheo mắt, có dáng nghĩ ngợi, đoạn hất đầu, buông thõng:
        - Về nẻo rừng đó!
        Tới cửa rừng, thấy một con đường mòn vắt ngang trước mặt, hai thầy trò liền dừng ngựa quan sát tứ phía. Xa xa, hai bên tả, hữu trên những ngọn đồi, thấp thoáng nhiều mái nhà sàn của dân sơn cước, sau lưng tuyệt không bóng người, chỉ nghe tiếng súng vẫn nổ vang rền. Phía trước, bờ bụi ngổn ngang, dây leo dã bắt đầu chằng chịt trên cả mặt cỏ.
        - Bắt vào đường mòn.
        Chàng tướng núi đánh ngựa rẽ ngang, cứ thế cùng thủ hạ cho ngựa tiến lên, để lại phía sau tiếng súng nổ. Con đường mòn uốn khúc giữa cánh đồng có vẻ hoang dã dần theo vó ngựa phi, vắt cả lên những đỉnh đồi cao, hai thầy trò cứ mải miết đi cho đến khi tới một vùng núi đồi cao lớn nằm bên rặng núi đá ngất mây, thì tiếng súng đã chìm hẳn nẻo sông Bằng và mặt trời sắp gục xuống bên kia đỉnh núi.
        Hai viên tướng buông lỏng tay cương, đưa mắt nhìn theo những đám mây trắng xốp, nắng chiều đang lững thững trôi về nẻo trời xa. Trong cánh rừng chiều, những tiếng vó câu khua bước một trên đường mòn, đưa hai người đàn ông giang hồ, một nhịp buồn khô, quen thuộc.
        Voòng Lầu nhìn sang chủ tướng, vì thấy khuôn mặt chủ phảng phất như đang ảm sương chiều nắng quái, người thuộc hạ đứng tuổi giơ tay gãi trán liền mấy cái, vùng lấy hình nước đưa cho chủ:
        - Thầy dùng cho đỡ mệt !
        Lời nói của thuộc hạ khiến Đại Sơn Vương lúc đó mới thấy miệng đã khát khô, vội đỡ lấy bình nước ngửa cổ uống một hơi dài, đoạn tay lau miệng, tay trao bình cho thuộc hạ.
        - A Voòng! Vùng này, có vẻ quạnh vắng lắm. Không biết chân núi đá đằng kia có bản nào gần không!
        Voòng nhìn xuống đường mòn, và ngẩng lên đưa mắt về phía trước.
        - May ra có bản gần đây, a thầy! Đây đã xa thị trấn lắm, có thể tìm chỗ nghỉ đêm cho lại sức, thầy!
        Đại Sơn Vương chưa kịp nói, chợt nghiêng phắt đầu, lắng nghe mấy khắc và ghìm luôn tay cương lại.
        - Voòng à! Có nghe thấy gì không?
        Voòng Lầu cũng ghìm cương, nghe ngóng và chợt nhếch miệng cười:
        - Trước mặt có suối, a thầy! Tiếng nước đổ thạch bàn nghe rõ lắm.
        Chắc bản thổ cũng không xa?
        Đang nói, chợt Voòng im bặt, nheo mắt, nghiêng tai, đoạn lẩm bẩm như nói một mình:
        - Có tiếng người phía suối. Tiếng lanh lảnh vọng đến!
        - Nghe nghẹ..
        Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, Đại Sơn Vương nhẹ hất đầu, và hai thầy trò lại tiến ngựa thẳng đường mòn phía trước. Càng đi càng nghe rõ tiếng người nói lanh lảnh, hai người xuống đến chân đồi quả nhiên đã thấy một dòng suối rộng trong vắt, chạy ngang trước đường mòn. Đại Sơn Vương cho ngựa tới bên bờ nước, ngựa Voòng cách nửa thân. Tiếng cười nói từ dưới suối vẫn hắt lên, nghe rõ tiếng đàn bà con gái, thanh thanh líu lo như chim hót. Voòng thuộc hạ vừa cho ngựa tiến lên sát chủ, hai thầy trò vừa ló đầu ra khỏi một bụi cây bên đường, thình lình Voòng thấy chủ tướng như bị điện giật, vùng ghìm cương quay lại, giơ tay làm hiệu cản, mặt viên tướng lạc thảo miền Thập Vạn Đại Sơn bừng sắc đỏ.
        Nhưng không kịp nữa. Voòng thủ hạ vừa giật ghìm cương, thì ngựa đã ló ra khỏi bụi rậm, và viên tướng miền Bắc Hải cũng chợt giật mình như bị kiến đốt thình lình, quay vội sang bên chủ tướng.
        Vì, dưới suối trong veo, bên tay tả, một đám thiếu nữ đang vùng vẫy đùa nghịch hắt nước lên nhau và cười khanh khách, có cô đứng hẳn bên bờ, tất cả đều tắm theo lối dân miền núi, xuất hiện thình lình đã đập mạnh vào mắt hai viên tướng. Trong mấy khắc chàng tướng ngang tàng và mơ mộng chợt tưởng tới những nàng tiên tuyệt sắc, thân hình thanh khiết giữa làn nước Ngọc Tuyền. Nhưng chẳng hiểu sao, viên tướng trẻ tuổi lẳng lặng quặt luôn tay cương cho ngựa quay đầu lại và liếc mắt nhìn Voòng. Voòng vẫn ngồi thẳng trên lưng ngựa, mặt hướng về phía các “tiên nữ” nguyên trong dáng điệu khi ngựa vừa nhô khỏi bụi rậm. Nhưng... riêng cặp mắt đã nhắm nghiền lại từ lúc nào rồi, khiến Voòng giống hệt một hình tượng đang tham thiền nhập định.
        - Quay ngựa lại thôi chớ! Ngồi tham thiền mãi các cô nàng tưởng... mở mắt nhìn trộm đó!
        Người thuộc hạ đứng tuổi nghe chủ nói, vùng giật tay cương khiến con ngựa hơi giật mình, quay đầu lại. Hai vật vừa khuất sau bụi chợt, hai thầy trò nghe dưới suối có tiếng cô gái cất lên:
        - Quái! Nghe như vừa có tiếng chân ngựa đâu đây! Có ai nghe thấy không?
        Tiếng cười đùa, té nước chợt im hẳn. Rồi có tiếng lao xao:
        - Có ai đâu ! Bẩm... chắc tiếng hươu nai đấy!
        Tiếng cười lanh lảnh của một cô gái chợt bật lên:
        - Giờ này chắc chưa tới đây được! Hôm nay anh chàng Đại Sơn Vương chạy ngựa chắc không khát nước nhỉ!
        Lời chưa dứt, tiếng các cô lại phá lên cười, và lại tiếp tục đùa nghịch. Hai thầy trò Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn nhau, Hồng Lĩnh khẽ bảo Voòng Lầu:
        - Quái! Ta nghe sao đám thiếu nữ này lại biết vụ giao đấu ban nãy ở Bằng Giang? Hẳn cũng đồng bọn đây!
        - Dạ.... nhưng saọ..
        Hai thầy trò nhìn nhau có vẻ ngạc nhiên, suy nghĩ nhiều về mấy cô gái đẹp cùng bọn thủ hạ có hành tung bí mật nhự.. rừng thẳm biên thùy. Nhất là hai cô gái miền núi đẹp hoang dã như hoa ngàn, ngôn ngữ, cử chỉ lại có vẻ thông minh tinh nghịch duyên dáng hệt gái Kinh thượng lưu, bản lĩnh lại tỏ ra không kém điêu luyện, cao cường, tuổi đôi mươi dám tranh chiến với tướng hải khấu gần ba mươi năm vùng vẫy miền biển Bắc.
        - Thầy tính sao? Chẳng lẽ nào đợi đám con gái tắm xong?
        Đại Sơn Vương ngửa mặt nhìn lên cao. Mây trắng đã úa vàng, từng vùng nối nhau, lững thững trôi về nẻo cuối trời nắng nhạt. Một tiếng gà rừng chợt cất lên đâu đây, eo éo buồn tênh...
        - Ta phải đến chân núi đá dựng, trước khi mặt trời lặn!
        Voòng Lầu khẽ đưa mắt về phía suối. Hồng Lĩnh giật nhẹ tay cương:
        - Vòng nẻo khác vậy!
        Hai con ngựa nhẹ bước một, quay lưng lại dòng nước “Ngọc Tuyền”. Mới được mươi thước lại nghe tiếng cười khanh khách từ dưới suối đuổi theo, chẳng biết vô tình hay cố ý, có vẻ tinh quái lạ. Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn nhìn sang Voòng, và khẽ nhún vai:
        - Nếu các cô nàng là gái Kinh, tinh quái dám giễu cợt cũng đáng trị bằng cách giấu xiêm y cho bõ ghệt. Tiếc thay các cô lại sơn nữ.
        Thấy chủ tướng nói đùa, Voòng cũng lây vui nhẹ, quên cả bực bội, cũng nhếch mép cười. Lùi đã khá xa suối, hai thầy trò mới tìm lối đánh ngựa vùng qua cuối dòng suối, và tiến về phía núi đá dựng trước mặt. Qua dãy đồi cao, ngựa vừa xuống tới chân dốc, chợt Voòng Lầu đi phía sau, bật kêu lên:
        - Thầy a!
        Đang ngồi lim dim nhìn cảnh rừng chiều, thình lình nghe thủ hạ kêu lên, Hồng Lĩnh liền phục luôn xuống bờm ngựa. Một mũi tên cánh lớn từ phía lùm cây bên tả thình lình bay vụt tới chỗ Hồng Lĩnh.
        Nhưng tên chỉ vút cao trên đầu và cắm phập vào một thân cây bên hữu, ngay trước đầu ngựa chàng tướng lạc thảo. Hồng Lĩnh ngẩng phắt lên, đảo mắt nhìn về phía phát ra mũi tên.
        Vút!
        Lại mũi thứ hai bay qua mặt, cắm phập vào một thân cây kế cây trước. Voòng Lầu đã rút luôn súng ra, chĩa vào bụi rậm gần đấy, toan lảy cò. Nhưng Hồng Lĩnh đã giơ tay cản kịp, đoạn chàng đánh ngựa đến trước thân cây, ngẩng nhìn mũi lên cắm, còn đang lay động, lại thấy một phát tên thứ ba vút tới, cắm phập vào thân cây phía trước nữa. Hai thầy trò nghển cổ nhìn theo, thì thấy một bóng người thanh nhỏ cưỡi ngựa vọt thẳng về nẻo núi đá dựng. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương bảo Voòng Lầu:
        - “Họ” đã sai người đón chúng ta! Nào theo sát, Voòng!
        Hai con ngựa nước hai sải vó gấp gấp theo hút ngựa lạ trước, hết lên dốc xuống đồi, qua suối. Lúc thầy trò Hồng Lĩnh vừa băng qua thung, chợt thấy ngựa trước mất hút sau giữa vùng núi đá điệp trùng.
        Hai thầy trò vội ngừng nước phóng cho ngựa đi bước một, và đưa mắt nhìn quanh. Cả một vùng núi rừng quạnh quẽ nằm im lặng dưới nắng chiều. Tứ phía không một bóng nhà thổ dân, khiến hai thầy trò có cảm giác như mình đang tới một vùng hoang vắng như sa mạc. Vó ngựa vẫn bước một thẳng về chân núi. Hai người đàn ông giang hồ lắc lư trên lưng ngựa, mất quan sát quanh mình, cố tìm một bóng nhà sàn, nhưng hoàn toàn thất vọng. Mé tay trái chỉ có một con suối chảy qua mấy cánh rừng, và có một đoạn khá dài uốn khúc dọc chân núi.
        Hai thầy trò lại cho ngựa tới khúc suối, tìm chỗ quang đãng men đến bến bờ nước. Suối chảy khá mạnh, có chỗ nước xói vào ghềnh đá, nghe ào ào như thác reo.
        - Quái! Chẳng lẽ ngựa trước tới chân núi, lại biến mất ư?
        Đại Sơn Vương lầm bẩm, nhìn quanh trong lúc Hải Sơn Vương cúi mặt đăm đăm nhìn nước đổ. Đoạn ngẩng lên bảo chủ tướng:
        - Tôi đã có lần tới một nơi như chốn này. Chưa biết chừng...
        Voòng chợt ngừng, và như có sẵn chủ định rồi, Voòng bảo Hồng Lĩnh:
        - Thầy à! Ta cứ men dọc theo suối xem sao.
        Đại Sơn Vương gật đầu:
        - Ta thường nghe miền Cao Bằng có lắm cảnh lạ! Có lẽ đây đó Voòng?
        Hai thầy trò nhìn nhau cười như đã hiểu rõ dự đoán của nhau. Bờ suối có chỗ nhiều bụi rậm dây leo, hai người phải len ngựa khá chật vật mới qua được. Tới một chỗ khá quang, chợt Voòng ngừng phắt ngựa, chỉ tay xuống mặt đất, hào Hồng Lĩnh.
        - Thầy coi này!
        Đại Sơn Vương nhìn theo tay Voòng trỏ thấy một vùng cỏ bị giẫm nhầu, có chỗ cỏ vẫn còn ướt. Chàng tướng giặc giang hồ ngẩng lên, nhìn ra suối nước, chưa kịp quan sát thêm thì Voòng đã trỏ khúc suối ăn vòng vào chân núi khá rộng.
        - Thầy coi chỗ đó nước dỗ xoáy rồi mới chảy xuôi. Chắc có ngách hang ngầm. Để tôi xuống xem.
        Miệng nói, chân nhảy phắt xuống đất, rơi luôn xuống nước. Bên kia, chỗ sát chân núi có những cành lá dây leo rủ xuống sát mặt nước trông khá kín. Suối không sâu, tuy chảy khá xiết, Voòng dè dặt lội qua, Đại Sơn Vương nhìn sang, thấy Voòng vừa khuất vào bụi rậm chân núi chưa đầy mươi khắc, đã reo lên khá to:
        - Đây rồi! Có thế chớ!
        Và Voòng ló ra lách bụi, trở lại nhanh bên này suối.
        - Thầy a! Có hang ngách ăn vào chân núi. Có cả dấu người mới qua. Chắc lối thông ngầm!
        Đại Sơn Vương nheo mắt nhìn sang bên kia bờ, bâng khuâng trông rừng già đang ngả nhanh sang màu vàng úa. Và viên tướng trẻ đánh ngựa xuống suối, Voòng theo sau, hai thầy trò bì bõm lội qua nước xiết, tới bên kia bờ. Nước chảy không xiết lắm, nên ngựa qua không khó khăn. Tới sát chân núi, Voòng Lầu tiến ngựa lên trước, vén dây leo cho ngựa chủ tướng lách vào, xong, lại buông dây leo rủ xuống như cũ. Vừa lách qua cành rũ dây leo, Hồng Lĩnh đã khẽ bật lên:
        - Có thế chứ! Đúng đường ngầm rồi!
        Ngay chân núi có một hốc đá hình cánh cung uốn trên mặt nước, trông như một cửa tò vò. Hốc đá ăn vào lòng núi, miệng bằng nửa cái nia, từ trần tới mặt nước, khoảng gần một thước Tây.
        - Thầy a! Chỗ này còn nguy hiểm hơn độc đạo Hoa Dung, lành, dữ chưa tường, e ...
        Đại Sơn Vương ngó xem địa hình, đầu gật gật có dáng do dự. Phía sau lưng mặt trời đã gục hẳn xuống bên kia đỉnh núi Tây, cánh rừng quạnh vằng đang chìm trong ánh hoàng hôn và vùng không gian quanh cửa tò vò bắt đầu mờ sương đục. Đại Sơn Vương cúi sát mặt nước nhìn vào hang ngầm hun hút, cặp mắt lóe nhanh một quyết định. Chàng khẽ hất đầu bảo người thuộc hạ.
        - Chắc bóng ngựa trước đã vào hang này! Và ta không nên để lỡ dịp quan sát một vùng cấm địa kỳ dị của Cao Bằng! Dứt lời, viên tướng lạc thảo thúc luôn ngựa, cho tiến mở lối vào cửa hang, Voòng theo sau. Nước ngập quá bụng ngựa, đầu hai người vừa chạm trần hang. Vào độ năm sáu thước, hang rẽ ngang phía trước tối om, phía sau chỉ thấy mờ mờ, rồi cũng tối hẳn. Hai người phải lấy roi ngựa khua quanh mình, lần lối, càng váo, hang ngầm như càng thắt lại, có chỗ phải nằm rạp trên lưng ngựa cho khỏi đụng trần. Hai thầy trò Đại Sơn Vương đi một lúc khá lâu, vẫn thấy tối om, ruột hang càng thắt lại, vách đá như muốn kẹp lấy người và ngựa, khiến có lúc hai thầy trò cảm thấy mình đang tiến dần vào đường cụt và không còn tin cả dự đoán của mình nữa. Dưới chân, nước vẫn chảy róc rách.
        Đang khó thở vì bị kẹp giữa hai vách đá, chợt Hồng Lĩnh thấy nhẹ hẳn người, vội khua roi quanh mình, mới biết hang ngầm đã nở phình ra. Hồng Lĩnh nghe phía trước như có gió lùa, trừng mắt nhìn, thấy như đã bớt tối, chàng liền dừng ngựa, chợt ngạc nhiên vì không thấy tiếng chân ngựa sau lưng.
        - A Voòng?
        Không thấy tiếng đáp, Đại Sơn Vương vội quay lại gọi lớn:
        - A Voòng!
        Tiếng nước đổ khá mạnh, như muốn dìm cả tiếng người đi. Gọi mấy tiếng mới nghe tiếng thưa của Voòng nhưng ở cách sau lưng, khá xa. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương đánh ngựa quay lại ngay, trong hang tối, hai thầy trò lần tìm nhau. Kịp khi Hồng Lĩnh tới được bên Voòng Lầu, thì viên tướng giang hồ không khỏi lạ lùng vì chỗ đó nước chì ngập tới móng ngựa, chưa đầy nửa gang tay.
        - A Voòng! Sao không lên tiếng!
        Trong bóng tối, Voòng thở mạnh, giọng rất thấp:
        - Đáng lẽ tôi chưa lên tiếng vội! Thầy! Đây có lẽ nhiều lối đi, tôi vừa lạc vào một hẻm, hình như vừa chạm phải cái gì...
        - Đánh lửa lên xem! Mà đèn bấm đâu, nãy giờ cũng quên khuấy.
        - Có chớ, nhưng hình như rơi ban chiều mất rồi. Để tìm xem, may còn diêm.
        Voòng lần khắp hành lý, loay hoay mãi mới lục được bao diêm, lại bị ẩm, đánh mãi mới lên lửa.
        Lửa vừa bùng lên, hai viên tướng giặc ngang tàng vừa đảo mắt được nửa vòng, đã vội đưa mắt nhìn nhau. Vì, chỗ đó ruột hang ăn sâu vào thành một khu rộng đến mấy chục thước vuông, có lối ăn rẽ ra mấy ngã, trần hang khá caọ.. Từ trên trên rũ xuống nhiều thạch nhũ dị dạng. Lẫn với thạch nhũ, lủng lẳng mấy bộ xương người ôm một tấm gỗ khá rộng. Dưới nền hang trong hốc đá, lại có đến mười mấy bộ xương người lẫn ngựa, chó. Không bảo nhau, hai thầy trò Đại Sơn Vương cũng tiến ngựa đến trước tấm bằng gỗ, soi lửa coi. Trên bảng có nét dao khắc sơ sài, một hình hang đá, có nét sóng dập dờn, mỗi đoạn bên cạnh ghi một số. Cạnh có con số năm sáu, bảy, và nét sóng gạch tới sát nóc. Vừa ngó tới đó, Đại Sơn Vương thốt nhiên quay hỏi Vòng Lầu:
        - Xem mấy giờ rồi!
        Voòng ngạc nhiên, lẩm bẩm:
        - Có lẽ tới sáu giờ rồi. Lúc vào cửa hang, mặt trời đã lặn. Miệng nói, tay Vòng lần rút chiếc đồng hồ quả quít ra xem.
        - Gì đó thầy?
        Đại Sơn Vương đảo mắt khắp ruột hang, và quay bảo Voòng, giọng chậm rãi:
        - Hang này có thể ngập nước từ năm tới bảy giờ tối. Giờ đổ mưa nước lũ dồn xuống. Nếu bên ngoài đổ mưạ..
        Chàng ngừng, chỉ vào tấm gỗ:
        - Đây có ghi rõ cả!
        Voòng Lầu vội đưa mắt nhìn quanh, ý thức ngay có nguy cơ thình lình mưa đổ. Người đàn ông giang hồ nghiêng tai nghe gió lùa, chưa kịp cất tiếng giục đã nghe bốn bề ầm ầm chuyển động, gió thốc ruột hang hun hút như tù và đêm đông âm u, rờn rợn và trên nóc hang như có sấm động chớp lòẹ.. Cùng lúc hai viên tướng già kinh nghiệm, khẽ bật lên như lời than dài tuyệt vọng:
        - Mưa nguồn rồị..
        Đại Sơn Vương mím chặt vành môi:
        - Trời đang trút nước vào hang ngầm?
        Voòng Lầu bất giác liếc nhanh những bộ xương chết rũ, nhanh giọng:
        - Ta mau thoát đi thôi, thầy!
        Đại Sơn Vương soi lửa xem bờ nước và ngẩng lên bảo Voòng:
        - Mưa lũ lớn lắm! Thoáng cái nước đã lên mấy phân. Chỉ mươi lăm phút là tới nóc.
        - Lùi hay tiến, a thầy!
        - Đều không kịp. Phía sau, lui phải gần một giờ, lối trước hình nhự.. là lối cụt. Đi vào sẽ đụng vách núi.
        Giọng viên tướng Thạp Vạn Đại Sơn trầm tĩnh lạ lùng, khiến người thuộc hạ phải mín chặt vành môi để nén xúc động quá bất ngờ.
        Voòng ngó bờ nuớc, đánh ngựa ngược theo lối chủ tướng vừa đi. Chỉ mấy phút sau Voòng đã quay lại.
        - Suối có thông, nhưng thạch nhũ lấp hết lối. Một con vịt mới có thể lách qua.
        Bờ nước đã dâng ngập tới đầu gối ngựa và dưới ánh lửa úa vàng, nước lũ trông chẳng khác con thú dữ đang lồng lộn, độc hành. Đại Sơn Vương vẫn ngồi im trên lưng ngựa. Con vật có vẻ đã phát hoảng, phải ghim chặt mới chịu đứng nguyên. Trong phút nguy nan, hai thầy trò Đại Sơn Vương trở nên bình tĩnh khác thường. Hai người đánh ngựa vòng qua mấy lối hẻm, nhưng lối nào cũng tuyệt lộ, hốc chỉ ăn vào một vài thước là tới đá dựng như bưng. Đại Sơn Vương tần ngần đến trước bảng gỗ, lơ đãng xem lại nhưng nét khắc nguệch ngoạc.
        Chợt cặp mắt quắc sáng.
        - A Voòng! Tìm ra lối rồi!
        Người thủ hạ tiến ngay lại, ngó vào bảng gỗ. Chẳng rõ có chi, đến nửa phút sau, hai người mới ngó về lối hẻm kín mít, và đưa mắt cho nhau. Nước đã lên đến đùi ngựa. Bên ngoài, hình như vẫn chớp loè sấm động. Hai con ngựa kinh hoàng hí mạnh hình như cũng biết đang ở trong lình thế thập phần nguy hiểm. Dưới vùng lửa bập bùng đỏ khè, khuôn mặt hai người đàn ông rắn lại như đá tạc.
        Đưa mắt quan sát lại khắp các ngách hang như suy tính kỹ càng, Hồng Lĩnh khẽ hất đầu ra hiệu cho Voòng Lầu, đoạn hai thầy trò tiến ngựa tới ngách hang đầu gần nhất. Đến sát vách dựng, hai người quan sát khắp trên dưới thấy một vạch rêu phong ngay góc thành. Hồng Lĩnh thấy khả nghi, liền gõ tay vào đó, cảm thấy gõ gõ vào một viên đá rời. Chàng bèn lấy sức ấn mạnh, quả nhiên viên đá lùi ngay vào vách đá, để hở một lỗ hổng, có một vòng sắt tròn nằm ngay mép.
        Hồng Lĩnh cả mừng nắm luôn lấy chiếc vòng, giật mạnh. Giật tới đâu thấy tường đá lấp ngách hang từ từ nâng lên lới đó, rất nhẹ nhàng, để lộ một ngách dài thăm thẳm. Hai người vội tháo nước ùa vào.
        Nhưng nước chỉ thốc vào chừng hơn thước lại giật ra, nhìn kỹ thấy nền hang ngách chạy cao hơn hang ngoài. Càng đi vào sâu, lòng hang càng rộng, nóc càng cao. Chợt một mùi hôi khắm kỳ dị thốc vào mũi hai người. Và lập tức hai con ngựa hí lên, chồm vó trước không chịu tiến nữa. Voòng Lầu soi ngọn lửa về phía trước, chợt giật thót mình, khẽ bật lên:
        - Lui lại, thầy! Quái vật!
        Đại Sơn Vương nhoài mình hẳn về phía đầu ngựa và mím chặt vành môi. Cách đầu ngựa chừng ba thước, trước một hốc rộng một hình thù phi nhân phi thú đứng sừng sững chạm nóc hang, cặp mắt lồi đỏ ngầu nhìn thẳng về phía hai người.
        - Dã nhân đêm nọ!
        Voòng Lầu rút phắt súng ra. Nhưng Hồng Lĩnh vội cản:
        - Không nên giết dã nhân, bất lợi cho ta sau này.
        Dứt lời chàng rút trong mình ra mấy lưỡi dao lá liễu, ném cho Voòng Lầu. Hai thầy trò ghìm ngựa, khoa dao lá liễu trước ánh lửa, đợi chờ. Nhưng dã nhân vẫn đứng im, không nhúc nhích. Chẳng hiểu vì nhận ra ánh dao đã từng cắm vào thân thể đêm nọ, hay vì lẽ khác, quái vật có vẻ chờ đợi. Bên ngoài, vẫn chuyển sấm ầm ầm. Không thể kéo dài thời gian, Đại Sơn Vương liền nhích ngựa lên trước mặt quái vật. Con ngựa hí mạnh, vùng vẫy, muốn hất người xuống đất. Phải ghì chặt, thúc hông mãi, nó mới chịu bước, đầu vẫn lắc mạnh, chỉ muốn phá lộn lại sau. Cách chừng hai thước, chợt dã nhân từ từ tiến ra, đứng sững chắn lối. Thân hình cao lớn của quái vật như muốn chụp xuống vồ cả người lẫn ngựa. Lượng địa thế quá chật hẹp, khó xoay trở với dã nhân, hai thầy trò Hồng Lĩnh đưa mắt cho nhau đánh ngựa giật lùi ra. Dã nhân chỉ đứng nhìn theo không làm dữ. Giật mạnh vòng sắt cho cửa đá sập xuống, Hồng Lĩnh bảo thuộc hạ:
        - Thể xác giống này kỳ dị lắm. Năm trước ở mạn Lao Kay - Lai Châu, có nhóm thổ săn gặp một dã nhân. Nã súng tới tấp, nhưng nó lè lưỡi liếm lành ngay vết thương. Sau phải hạ nó bằng từng loạt tiểu liên.
        Nghe chủ tướng nói, Voòng Lầu cúi nhìn mực nước và lẳng lặng lôi ngựa tới ngách bên. Nhưng lại thấy sừng sững hình thù phi nhân phi thú đứng trước chắn lối. Cho tới ngách thứ ba cũng vậy. Trong đó nước đã dâng tới bụng ngựa, và sắp chấm nóc hang đường ngoài. Tình thế vạn nan không thể kéo dài hơn nữa, Hồng Lĩnh vội ra lệnh:
        - Mở cả mấy cửa ngách ra. Ngách này ăn thông nhau như tổ ong, quái vật đều trấn giữ. Không thể tránh nó được nữa.
        Nhanh nhẹn, Voòng Lầu giật tất cả cửa lên. Đại Sơn Vương ngắm ngạch thứ ba rung hơn cả, lập tức, hất đầu, giọng quyết liệt:
        - Vào thôi! Nếu cần, hãy làm cho nó không thấy ngoại vật nữa.
        Hai thầy trò Đại Sơn Vương khề sát nhau tiến ngựa thẳng vào ngách. Còn cách Dã nhân chừng ba thước, Voòng Lầu khoa ánh lửa như chong chóng, khiến quái vật phải đảo mắt ngó theo. Và bất kỳ xuất ý, hai người cùng lúc, phóng vụt hai lưỡi dao về phía dã nhân.
        Vút! Vút! Hai lưỡi dao lá liễu loáng giữa vùng sáng úa và quái vật vùng rú lên, hai tay ôm lấy mặt. Cặp dao của hai người đã cắm phập vào mắt dã nhân. Đại Sơn Vương quát lớn:
        - Lui mau!
        Và không chậm một khắc, hai thầy trò đánh ngựa giật mạnh lui ra hang ngoài. Tiếng rú kinh khủng của dã nhân vang khắp lòng đá, và lúc hai thầy trò Đại Sơn Vương vừa tới cửa ngách, thì dã nhân đã vùng đuổi theo sau lưng. Nhanh như cắt, hai con ngựa chồm vào ruột hang. Hồng Lĩnh giật mạnh vòng sắt cho sập cửa lại, trong khi Voòng Lầu luồn sang đóng ngách khác. Bên ngoài quái vật gầm rú, phá cửa đá rầm rầm.
        - Thoát mau thôi! Sức nó có thể nâng được một tảng đá ngàn cân!
        Hai thầy trò đánh ngựa, noi theo ruột hang ngách lần ra. May, hang càng ra càng rộng, nên ngựa có thể chạy kiệu băm nhiều giai đoạn. Đi khỏi cửa ngách chừng trăm thước, hai người nghe phía sau có tiếng chuyển động như núi lở.
        - Có lẽ nó phá được cửa rồi!
        Tám vó câu chồm gấp gấp trên nền hang gập ghềnh, ngựa càng phóng, gió phía trước càng thổi vào thêm mạnh và lối đi càng mở rộng ra. Phía sau, là tiếng rú.
        - Sắp đến cửa rồi! Nhanh lên thầy Hai con ngựa lao đầu giữa hai vách đá dựng, chuyển thình lình sang kiệu đại và bất ngờ vọt mạnh về phía trước. Ngựa đã vọt ra ngoài trời. Hai thầy trò Đại Sơn Vương cứ giữ tay cương cho ngựa phóng mình trong đêm mờ, sấm động. Ngựa băng qua cánh rừng thưa, một thung lũng rộng hiện ra trong đêm chớp. Hai thầy trò còn chưa kịp định phương hướng, chợt chớp mắt luôn mấy cái, cả hai vội co tay vuốt những giọt mưa chảy dòng trên mặt, mắt trừng nhìn phía trước.
        Trong đêm rừng mưa gió, trước đầu hai người, thình lình hiện ra những ngọn lửa chập chờn.
        - Thầy a! Có bọn cưỡi ngựa!
        Đánh ngựa sát bên Voòng Lầu, Đại Sơn Vương nhanh giọng:
        - Đến nước này cứ tiến thẳng và dè chừng bất trắc.
        Hai con ngựa chồm đều. Voòng khoa đuốc lia lịa mở lối cho chủ tướng. Thoáng một cái, toán người ngựa phía trước đã ập tới trước hai viên tướng và dừng phắt lại. Hai viên tướng cũng ghìm luôn tay cương đưa mắt nhìn thẳng bọn người trước mặt. Những khuôn mặt lầm lì dàn hai bên, theo hình cung. Dẫn đầu là một cặp thiếu nữ tuyệt đẹp, vừa nhìn thấy, hai thầy trò Đại Sơn Vương đã không giấu được nét ngạc nhiên. Chính hai cô gái ngồi trên thuyền độc mộc tại Bằng Giang. Dừng ngựa, ngồi im, đưa mắt quan sát hai thầy trò Đại Sơn Vương, đoạn hai cô gái miền núi tiến ngựa lên sát đầu ngựa hai người.
        Cô gái giao đấu với Voòng Lầu trước, nhoẻn miệng cười rất tươi:
        - Chị em tôi có lời mừng hai ông đã vào được đây và thoát nạn lũ cuốn.
        Ngừng một chút, cô gái hướng về phía Hồng Lĩnh:
        - Đại Sơn Vương Thần Xạ đây, mà ban chiều tôi đã nhận lầm.
        Nếu không có kẻ giữ hang thông báọ..
        Sơn Vương đưa mắt nhìn Voòng Lầu. Chưa kịp nói gì, cô gái thứ hai đã tiếp:
        - Vâng, lúc nào cũng có kẻ giữ hang, nhưng không được ra mặt, vì theo tục lệ ở động này.
        Cô gái thứ nhất nghiêng đầu rất lễ độ:
        - Từ phút này, hai ông là thượng khách của vua H Mông! Chúng tôi được lệnh về Cao Bằng đón Đại Sơn Vương, nhưng...chuyện còn nhiều ẩn khúc, đêm nay, thượng khách cần phải nghỉ ngơi.
        Đoạn không đợi thượng khách nói nửa lời, cô gái tiếp:
        - Ngoài này mưa to gió lớn, ta về động thôi!
        Dứt tiếng truyền, mấy chục vó câu rừng cùng chuyển bước, và ngựa tùy tùng tránh dạt sang hai bên, nhường lối cho hai cô chỉ dẫn hai thượng khách qua, rồi mới lục đục theo sau. Hai thầy trò Đại Sơn Vương nhìn nhau, thở một hơi dài như muốn đuổi hết không khí gian hiểm của một ngày phong trần còn đọng trong lồng ngực. Đại Sơn Vương đi sát cạnh thuộc hạ, mấy lần Voòng có vẻ ngạc nhiên thắc mắc định lên tiếng hỏi chủ tướng nhưng thấy Hồng Lĩnh vẫn thản nhiên lại thôi. Thỉnh thoảng Vòng lại đưa mắt ngó hai thiếu nữ, lại nhìn chủ tướng. Dưới trời mưa tầm tã, đoàn người ngựa vẫn chạy kiệu băm đều, từ đó, hai cô gái đi kế bên hai thầy trò, nhưng không nói câu nào nữa.
        Mưa vẫn đổ hồi. Thỉnh thoảng ánh chớp lóe lên, soi vội cảnh xung quanh, lá rừng bay tơi tả như bướm giữa những vệt mưa đan sáng loáng. Hai viên tướng nghồ im trên lưng ngựa. quan sát cảnh thung lung rừng lạ phía trước. Đi được chừng hai mươi phút, hai người đã thấy những nương ngô, sắn, rồi những dải ruộng hiện ra bên những dãy đồi rậm rạp. Vượt khỏi con đường mòn vắt qua đồi, ngựa hai cô gái Thổ hạ nước đi, thầy trò Đại Sơn Vương cũng buông lỏng tay khấu, đưa mắt nhìn quanh.
        Ánh chớp soi tỏ một con suối khá rộng chảy mạnh dưới chân đồi, và dựa vào dãy đồi trước, từng lớp nhà sàn nối nhau, chạy dài, trông khá sầm uất. Cô gái lên tiếng bảo Đại Sơn Vương:
        - Sắp tới rồi! Chỉ còn một dải đồng nữa.
        Ngựa băng qua suối lũ, vượt lên giữa lớp sàn. Tự nhiên tiếng cồng chợt nổi lên, đổ mồ hôi gấp gấp, dư âm vương vấn mãi bên tai hai người đàn ông giang hồ. Hai người nhin suốt mấy dãy sàn, chỉ thấy thấp thoáng ánh lửa le lói sau phên nứa, tuyệt không có bóng người.
        Ngựa vẫn bước đầu, cuối cùng leo ngược đường mòn vào tận đỉnh một đồi cao. Hai thiếu nữ giơ tay làm hiệu cho cả bọn dừng lại.
        Từ phía sau lưng Đại Sơn Vương, ba người đàn ông sơn cước tiến ngựa vòng lên, tới trước hai thiếu nữ, người nào cũng còn cầm đuốc nhựa, có vỏ bịt như lồng đèn.
        - Giờ các ngươi đưa quí khách về nhà riêng an nghỉ Chúng ta sẽ đến sau.
        Cô gái thứ nhất quay sang hai thầy trò Đại Sơn Vương:
        - Hai ông cứ theo họ về thay y phục còn dùng cơm, chắc cà ngày, cũng đói rồi?
        Dứt lời cô nàng vẫy cô đi bên, đoạn cả hai cùng đám tùy tùng tế ngựa đi thẳng về nẻo rừng phía tả. Còn ba gã tùy tùng dẫn luôn hai thầy trò Đại Sơn Vương về phía phải. Đi độ non trăm thước đã tới một khu quang đãng có nhiều căn nhà thấp lè tè dựa ngay vào ngọn đồi. Họ dẫn Hồng Lĩnh, Voòng Lầu vào một căn nhà khá rộng, Voòng tháo yên cương, và đồ dùng ra, một gã đỡ lấy yên ngựa ném cho hai gã kia dắt đi đoạn đưa khách vào thẳng bên bếp lửa:
        - Xin quý khách nghỉ ngơi thay y phục, chúng tôi đi lo cơm nước.
        Hai thầy trò gật đầu cùng bước đến buồng, lần lượt thay y phục, đoạn ra ngồi bên bếp lửa. Lúc bấy giờ, cả hai mới thấy thấm mệt.
        Voòng Lầu lục sắc lấy thuốc lá đưa cho chủ tướng. Lúc đó viên tướng mới chợt nhớ từ trưa chưa được thưởng thức hương vị khói thơm. Voòng biết chủ tướng đang có điều suy tính quan hệ trong lòng.
        Mấy lần, Voòng định lên tiếng hỏi, lại thôi. Lát sau xôi đồ, gà luộc, thịt rừng... dọn lên cùng chai rượu cẩm ngâm mật gấu pha mật ong.
        Hai thầy trò dùng xong, Đại Sơn Vương truyền Voòng Lầu cùng đi ngủ luôn. Người thủ hạ thấy chủ tướng vừa đặt lưng xuống sập đã ngủ thiếp ngay như một người vô tư lự.
        Sớm mai, hai thầy trò vừa thức đã thấy người lên mời Đại Sơn Vương tới gặp hai thiếu nữ sơn cước hôm qua. Để Voòng Lầu lại nhà khách, Đại Sơn Vương theo người thổ dân xuống thang, đi sang bên kia sườn ngọn núi. Gần trưa, Voòng nhìn ra, đã thấy chủ tướng trở lại cùng người đàn ông trước. Hồng Lĩnh cười chỉ hắn, bảo Voòng:
        - Đây! Voòng Sềnh! Cận tướng của vua Hoàng Su Phì! Đoạn chỉ Voòng, bảo hắn:
        - Và Voòng Lầu, vốn có danh Hải Sơn Vương Bắc Hải đó!
        Hai người đàn ông cùng tỏ vẻ ngạc nhiên, cúi đầu chào nhau, xong, đều có vẻ nghĩ ngợi điều chi. Đại Sơn Vương mỉm cười vỗ vai hai người:
        - Cả hai cùng họ, một Hoàng Su Phì, một Bắc Hải, có thể thân thuộc nhau không? A Voòng! Chúng ta sẽ lên Hoàng Su Phì?
        Có Voòng Sềnh dẫn lộ!
        Voòng Lầu ngạc nhiên:
        - Dạ.... thế thầy. Không xuôi Hà Nội?
        - Có chớ! Ngày hẹn Hoàng Su Phì còn gần tuần lễ. Xuôi Hà Nội, rồi ngược đường Hà Giang!
        Đại Sơn Vương quay bảo Voòng Sềnh:
        - Hãy sửa soạn, còn lên đường.
        Người đàn ông H Mông cúi đầu, lui ra để hai thầy trò Đại Sơn Vương lên thang. Thấy chủ tướng có dáng vui, Voòng Lầu thấp giọng:
        - Thầy a! Còn... công việc kia, thầy định...
        Không để thuộc hạ nói dứt lời, Hồng Lĩnh ngắt luôn:
        - Hãy để đó đã. Ta cần đi Hoàng Su Phì, một công đôi ba việc.
        Không nên bỏ lỡ dịp tới đất vua Mèo.
        Chàng trầm giọng ghé sát tai người thủ túc đến nửa phút. Voòng nghe, mắt sáng lên, đầu gật lia lịa. Xong, có dáng suy nghĩ, người thuộc hạ bảo chủ tướng:
        - Vậy tới Hà Nội tiện đường, tôi sẽ xuống Phòng, truyền cho bọn Bắc Hải biết lệnh thầy. Nhưng sao không thanh toán việc kia ngay?
        Tôi ẹ..
        Hồng Lĩnh đặt bàn tay lên vai thuộc hạ:
        - Ta đã suy tính kỹ. Nên ngược Hoàng Su Phì đã! Giờ hãy sửa soạn, tối còn dự tiệc cùng nữ chúa Voòng Chí Plan!
        - Dạ....
        Voòng không dám hỏi thêm, vội lo thu xếp mọi thứ trong khi viên chủ tướng ngang tàng và... mơ mộng lần ra bờ suối ngoạn cảnh như một khách nhàn du.
        Xẩm tối, Voòng Sềnh cận tướng vua Mèo đã tới đón hai thầy trò Đại Sơn Vương. Đoạn ba người lên lưng ngựa, hành trang chuẩn bị đầy đủ thồ sau yên, rời nhà sàn khách, tiến sang bên kia đỉnh núi, tới căn nhà nữ chúa Voòng Chí PLan. Tới trước một căn nhà sàn vô cùng rộng rẫi, trông đúng dinh thự của các tù trưởng sơn cước, ba người dừng ngựa nhìn vào, đã thấy đèn đuốc sáng rực, kẻ qua người lại đông như hội, ngựa buộc rải rác khắp sân trước vườn sau.
        Voòng Sềnh đưa hai thầy trò Đại Sơn Vương qua sân, thẳng tới cầu thang. Ném cương cho mã phu túc trực sẵn, ba người lên thang.
        Từ cuối sàn, Voòng Chí PLan cùng cô em tiến ra, cúi chào khách Đại Sơn Vương và đưa vào an tọa trên chiếc ghế tay ngai, ngay giữa hai chị em Voòng Chí PLan.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #5
          Cảm ơn Huynh Na nhiều , truyện này TS đã xem lâu lắm rồi ( hơn 20 năm rồi đó ) rất hay.
          ** Đừng khi nào cười kẻ đau khổ và đôi khi nên đau khổ với kẻ đã cười.

          ** Khi người ta nói xấu bạn , nếu đúng bạn hãy sửa mình. Nếu sai bạn hãy mỉm cười.

          ** Khi thất bại nên soi gương để đừng nhăn nhó. Khi thành công càng nên soi gương để thấy bản mặt hợm hĩnh.

          Comment


          • #6
            Nguyên Văn Bài Viết Của DNTS View Post
            Cảm ơn Huynh Na nhiều , truyện này TS đã xem lâu lắm rồi ( hơn 20 năm rồi đó ) rất hay.

            Hihi....Truyện này nổi tiếng trước 1975 đó TS , mình cũng mê lắm.


            Thân,
            Nahoku
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #7
              Hồi 5 Thượng Khách Của Vua HMông (tiếp theo)

              Hai chị em Voòng Chí Plan đều mặc váy lính thuỷ, tra kim tuyến óng ánh. Tuy trong lớp xiêm y rực rỡ, Voòng Lầu thoạt trông đã nhận ngay chính hai thiếu nữ trên thuyền độc mộc.
              Suốt bữa tiệc Đại Sơn Vương cứ ngồi vui vẻ uống rượu, đàm đạo với mọi người, rất nồng hậu, và không kém duyên dáng. Voòng thủ túc hơi ngạc nhiên thầm về tửu lượng chủ tướng, nhất là tài nói chuyện, cư xử. Chỉ thoáng cái, không khí trang trọng như lắng xuống, nhường cho bầu không khí thân mật bao phủ khắp mấy căn nhà sàn rộng mênh mông. Khắp hang động đều tỏ lòng yêu kính chàng trai trẻ giang hồ lịch lãm. Các cô gái luôn nhoẻn miệng cười, và nữ chúa Voòng Chí Plan cứ chuốc hết chén nọ chén kia cho chàng tướng lạc thảo biên thuỳ, khiến Voòng Lầu cứ ngồi thầm lo cho chủ tướng, chỉ e quá chén sinh điều bất lợi. Nhưng Đại Sơn Vương càng uống càng trở nên duyên dáng, chuyện trò vui vẻ.
              Voòng Chí Plan càng đượm nồng thêm ánh mắt, cô cháu ruột vua H Mông Hoàng Su Phì luôn luôn nhìn viên tướng Thập Vạn Đại Sơn sâu thăm thẳm, vừa vào tiệc, Voòng đã thầm lo ánh mắt cô chị, tiệc nửa chừng lại thêm lo vì ánh mắt cô em Voòng Chí Sliên. Hai cặp mắt đẹp hoang vu nhiều lần kín đáo nhìn hút lấy viên tướng núi biên thuỳ, khiến Voòng có cảm tưởng ánh mắt đó có ma lực ghìm chặt vó câu nơi sơn động và chủ tướng mình có thể thình lình truyền tháo yên cương, hoãn hành trình lại một thời gian vô hạn định.
              Tiệc vui say, không ai lưu ý, chỉ có Voòng Lầu vì quen với nhiệm vụ quan sát canh chừng chủ tướng bất cứ lúc nào, nên nhận ra ngay.
              Nhất là Hải Sơn Vương, khi chưa làm cận tướng Hồng Lĩnh đã có một thời suýt táng mạng vì ánh mắt giai nhân Bắc Hải. Liếc nhìn chủ, vẫn thấy vui cười như không còn nhớ tới ngựa nước hai vẫn đóng yên cương chờ sẵn, Voòng Lầu càng lo ngại.
              Nhưng giữa lúc tiệc đang vui, Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh chợt đứng lên, nhìn hai chị em họ Voòng, cùng thổ dân hang động, giọng vẫn đầm ấm lạ lùng:
              - Xin ghi nhớ thịnh tình của nữ chúa động cùng khắp hàng dân động. Đường đời còn nhiều lúc tái ngộ. Giờ đã khuya, xin lên đường.
              Cả sơn động H Mông đều tỏ vẻ lưu luyến, nhất là hai chị em Voòng Chí Plan. Hai cô nàng tuy không nói nửa lời lưu khách, nhưng cả hai đều có vẻ bịn rịn khác thường. Voòng Chí Plan truyền bãi tiệc, đoạn cùng thuộc hạ lên ngựa đưa hai thầy trò Đại Sơn Vương một đỗi xa, mới trở lại, để Voòng Sềnh theo dẫn đường. Ra tới cửa hang, Sềnh đưa hai thầy trò Đại Sơn Vương vào một căn nhà nhỏ ngay trước hang. Đoạn Sềnh vào trong hang, một lát ra, bảo Voòng Lầu tạm tháo yên cương, ba người nghỉ qua đêm chờ lũ rút, sớm tinh sương mới thắng yên vượt hang, ra thung ngoài. Lúc qua ngách hang vẫn thấy dã nhân đứng sững bên vách nhưng tỏ vẻ rất hiền lành, khi Sềnh hú lên một tràng dài.
              Thấy cặp mắt dã nhân mở trừng trừng, Voòng hết sức kinh ngạc, chưa kịp hỏi thì Sềnh đã điềm nhiên.
              - Nó bị hai lưỡi dao bên mắt, nhưng bản động thuốc đắp khỏi ngay rồi. Xác thịt giống này rất lạ.
              Đóng sập cửa đá, Voòng Sềnh quay bảo hai người:
              - Từ ngày đưa dã nhân về trấn hang ngầm, chưa kẻ nào vượt nổi, trừ hai quí khách. Nhất là, vượt qua mà không hạ dã nhân, vì chúa chúng tôi đã có lệnh:
              Kẻ nào hạ nó, sẽ bị coi nhự.. cừu địch! Cho nên hang động Dao càng thêm kính mến quí khách.
              Voòng Lầu vội đưa mắt nhìn chủ tướng. Hồng Lĩnh chỉ hơi nhếch miệng cười, và lẳng lặng đánh ngựa xuống đường ngầm. Chỉ lát sau, cả ba đã ra khỏi hang, băng suối, tiến qua thung và cứ thế, Voòng Sềnh dẫn hai người xuyên sơn, xuống Bắc Cạn. Tới thị trấn, hôm sau ba người lại lên ngựa, cứ đường lớn, thẳng về Thái Nguyên đoạn trao ngựa cho Voòng Sềnh đánh đi túc trực một nơi, còn hai thầy trò Đại Sơn Vương đáp xe hàng về thẳng Hà Nội, trong lốt một cặp thầy trò khách trú trung lưu.
              Tới nơi, hai thầy trò tìm một khách sạn trung bình ở ngay phố Ga Hàng Cỏ, thuê một buồng trên lầu, có ban công trông thẳng xuống đường. Suốt mấy ngày liền, Hồng Lĩnh cùng Voòng Lầu cứ y phục chỉnh tề thuê xe đi khắp phố phường. Nhiều đêm, chàng tướng trẻ một mình đi tới khuya mời về, tuy bề ngoài có dáng ung dung như một khách nhàn du nhưng vẻ mặt hiện nhiều nét suy nghĩ. Một buổi, Hồng Lĩnh đi bách bộ bên hồ Hoàn Kiếm, chợt thấy thoáng khuôn mặt quen quen trong một chiếc xe mui trần vụt qua. Chàng vội ngoái cổ trông theo còn nhận rõ nửa thân sau một thiếu nữ tầm thước, ngồi lái xe một mình.
              - Hình như Phượng Kiều!
              Hồng Lĩnh lẩm bẩm khẽ, còn nheo mắt bán tín bán nghi, thì một chiếc xe nữa vọt qua, có vẻ như săn đuổi cái trước, trên xe, có ba bốn người đàn ông dữ tợn mím môi, quắc mắt, trông đầy sát khí.
              Trong óc vụt nẩy một quyết định, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn bước nhanh ra bên đường, đảo mắt một vòng. Vừa may một người Pháp cao lớn từ đâu đến, đậu xe sát lề bên kia.
              Chàng vội vàng qua đường, tiến sát tới bên xe nghiêng mình, bảo chủ xe.
              - Phiền ngài cho mượn xe chốc lát! Tôi cần đuổi theo hai xe trước, có việc... riêng!
              Người Pháp ngạc nhiên nhíu mày, ngó chàng công tử Việt, có vẻ khó chịu về lối mượn lạ lùng, vừa toan lên tiếng thì Hồng Lĩnh đã nắm lấy quả đấm xe, mở ra, miệng hơi nghệch cười:
              - Việc gấp, sau sẽ giải thích ngài rõ! Ngài tha lỗi!
              Lời vừa dứt, một cánh tay đã vung lên giáng xuống đầu người Pháp một quả đấm thôi sơn, nhanh và công hiệu đến nỗi người này chỉ kịp chớp mắt một cái, và ngất lịm ngay. Hồng Lĩnh nhảy phắt lên, đẩy chủ nhân sang bên, đoạn rú vọt xe đi, khiến khách bộ hành chỉ còn kịp đứng sững ngó theo, miệng há to, như vừa xem một pha cướp xe trên màn ảnh.
              Xe phóng tới ngã ba Hàng Đào, đã trông thấy xe trước, Hồng Lĩnh xả hết tốc lực, lao đi như tên bắn, khiến các xe qua lại phải dạt cả sang nhường lối, thoáng cái xe đã bắt kịp xe trước. Cách đuôi xe trước chừng mười thước chàng đã thấy xe thiếu nữ tới gần chợ Đồng Xuân, hình như cố ý phóng vào phố đông. Đang đuổi, thấy phía sau có xe phóng nhanh, mấy người đàn ông xe trước có lẽ sinh nghi, ngoái lại xem chừng.
              Chàng tướng núi thấy xe trước đã vào phố chợ, lập lực rẽ sang ngã khác, và mở tốc lực vòng theo bờ sông, để đỗ ngược xuống đầu phố Hàng Than. Quả nhiên, gặp phố đông, cả hai xe kia đều chậm nước phóng, xe Hồng Lĩnh vừa từ bờ sông quặt xuống đa gặp ngay thiếu nữ. Thấy bóng xe trước thình lình ập tới, thiếu nữ thoáng nhíu mày liễu, toan tìm lối ngoặt ngang, chợt giật mình kinh ngạc chớp vội hàng mi khi nhận ra kẻ lái xe là chàng tướng trẻ biên thuỳ. Xe sát đầu nhau, cùng lúc hai người bật khẽ:
              - Ông Hồng Lĩnh.
              - Kìa! Cô Phượng Kiều!
              Hai xe hãm luôn tốc lực, Hồng Lĩnh nhanh giọng:
              - Cô bị xe sau đuổi?
              Vẫn còn sững sờ vì xúc động. Phượng Kiều gật đầu chưa kịp lên tiếng, thì Hồng Lĩnh đã nói luôn:
              - Vậy cô cứ phóng thẳng. Để tôi cản chúng cho!
              Chẳng hiểu sao, Phượng Kiều vụt hiện rõ vẻ ngần ngừ lúng túng:
              - Nhưng... Ông...
              Thấy xe sau đã đuổi tới gần, Hồng Lĩnh cứ vòng lên không nói nửa lời. Phượng Kiều ngoái lại thấy xe Hồng Lĩnh đã vọt đi rồi, tần ngần mấy khắc, đoạn tặc lưỡi phóng xe đi thẳng ra nẻo bờ sông Hồng.
              Nhìn lại thấy thiếu nữ đã đi khỏi, chàng cứ cho xe mình lao thẳng tới, đón đầu xe mấy người đàn ông và gặp nhau ngay giữa Hàng Than.
              Làm như vô tình chàng lập tức cho xe quay ngang lối. Phố đông, xe chắn mất đường khiến xe kia lao tới, thấy thế, phải dừng phắt lại, cách xe Hồng Lĩnh trên mười thước. Người lái xe quát lớn:
              - Chú kia! Sao dám cho xe nằm ngang? Tránh mau không chết!
              Thấy Hồng Lĩnh vẫn lúi húi rú ga, như không nghe tiếng, gã lái xe đảo mắt nhìn quanh, đoạn rồ máy, toan cho xe vòng lên hè. Hồng Lĩnh quan sát thấy xe bọn đó có thể vượt lên được liền mở phắt cửa xe, xốc phăng người Tây vạm vỡ đặt luôn xuống mặt hè, lấp cả lối và xua tay lia lịa, bảo khách qua đường:
              - Này! Các ông bà nào có dầu xoa, người bạn tôi bị gió độc!
              Chẳng hiểu sao khách qua lại chỉ len lén tránh xa, còn đám đàn ông biết kẻ trước cố ý cản đường, bốn người đàn ông dữ tợn mở cửa xe bước vụt ra, hầm hầm tiến lại phía Hồng Lĩnh.
              Nhưng chợt thấy chiếc xe, và khuôn mặt, hình thù người Tây bị nằm ngất, cả bọn hơi giật mình dừng phắt lại.
              - Ngươi là ai?
              Hồng Lĩnh đang ngạc nhiên thấy thái độ khách bộ hành, nghe tiếng quát, liền chậm chạp quay về phía đám đàn ông lạ, định kiếm lời kéo dài tình thế cho Phượng Kiều kịp phóng mất hút hẳn. Nhưng, vừa nhìn rõ khuôn mặt bốn người kia, viên tướng núi như vừa chạm phải một luồng điện, hơi giật mình đứng sững, cặp mắt long lanh sáng, vùng thoáng màu mây xám, rồi lại vụt nhanh như bốc cháy. Đại Sơn Vương tiến thêm một bước, nheo mắt nhìn, quan sát kỹ vẻ mặt của bốn người kia, đoạn trầm giọng như nói để mình nghe:
              - Oan gia! Đường xa ngàn dặm về đây tìm oan gia đã ngót tuần rồi... Không ngờ lại gặp!
              Cả bọn cau mày, ngạc nhiên nhìn chàng phong lưu công tử, và chợt rợn người vì ánh mắt u uẩn lạnh lẽo nhìn thẳng vào mình.
              - Một bọn lừa thầy phản bạn! Hai mươi năm rồi còn gì! Chưa nhận được ta sao?
              Dứt lời, chàng từ từ vén tay áo lên, để ló một chiếc vòng ngọc thạch xanh kỳ dị, sáng như lân tinh. Vừa trông thấy chiếc vòng một người nhiều tuổi nhất trong bọn chợt bật thốt lên:
              - À! Cái vòng xanh nhà họ Cao!
              - Và danh sách bọn phản bạn trong đó! Rút súng ra!
              Qua phút ngạc nhiên bất thần, bốn ngươi đàn ông dữ tợn đã trấn tĩnh tinh thần, trước kẻ địch thủ đơn độc. Một người cười gằn, hất hàm ngạo nghễ:
              - Nhưng ngươi phải chăng là...
              Không để gã nói hết lời. Hồng Lĩnh chậm rãi giục:
              - Rút súng ra! Ta nhường cho một may mắn cuối cùng và cho một vinh dự được chết dưới ngọn súng của Đại Sơn Vương Thần Xạ!
              Lời vừa dứt, gã đứng tuổi đã nhắc lại, giọng bàng hoàng:
              - Thần Xa Đại Sơn Vương? Thế rạ..
              Người này vừa nói tới đó, chợt im bặt, vì lợi dụng Hồng Lĩnh đang kéo tay áo đắp lấy cái vòng, và không thấy kẻ địch đeo súng ống chi, cùng lúc cả ba gã đồng bọn đã xuất kỳ bất ý rút phắt súng ra, chĩa vào Hồng Lĩnh, trong cái thế “tiên hạ thủ vi cường” của những tay thạo chiến. Nhưng Hồng Lĩnh quả không hổ danh thần xạ, súng của bên địch vừa kịp rút ra giơ lên, thì hai bàn tay chàng đã đánh vụt xuống hai bên sườn như hai cần máy, cùng lúc gạt hai thân áo ngoài về phía sau và đánh dính luôn vào hai báng súng dắt hai bên sườn.
              - Đoàng... Đoàng... Đoàng...
              Liền ba phát súng nổ ran nhanh như lửa loé, nhìn lại đã thấy ba người dữ tợn giật nẩy mình lên, buông rời tay súng, mắt trợn trừng, xác ngã lăn xuống mặt đường nhựa. Cuộc chiến xảy ra quá nhanh khiến khách bộ hành chỉ kịp ngó xác người gục xuống và vừa chạy giạt ra vừa ngoái cổ lại ngó chàng trai trẻ ngang tàng, đứng dạng chân, hai tay cặp súng như trò đùa.
              Người đàn ông nhiều tuổi đã ý thức được sức mạnh ghê gớm của cánh tay bách phát bách trúng đối diện, nên nhớn nhác nhìn quanh chực tìm lối thoát, không còn dám tưởng tới việc đấu chiến nữa.
              - Rút súng ra mau!....
              Lời Đại Sơn Vương vừa quát, chẳng hiểu vì nhát hay vì khôn ngoan, người còn sót vùng quay ngay lưng lại chạy sang bên kia hè.
              Viên tướng lạc thảo ngang tàng vốn từ xưa, chưa bắn vào lưng kẻ nào, thấy thế liền nổi giận, quát lớn:
              - Quân hèn nhát, định mưu thoát quỷ quyệt.
              Dứt tiếng, chàng cũng quay phắt lưng lại và bắn ngược lại sau luôn hai phát. Mọi người đứng quanh đấy vừa nghe đạn nổ, nhìn theo, đã thấy kẻ kia lảo đảo dụi vào một cửa hàng.
              Đại Sơn Vương hé miệng thổi phù nòng súng, dắt vào mình, đoạn tiến đến bên mấy xác, chợt lấy chân lật ngửa, nhìn vào vết chàm tròn trên trán, nhếch cười nửa miệng và lặng lặng quay về chỗ xe đậu.
              Chẳng biết người Tây cao lớn đã tỉnh từ lúc nào đang đứng nhìn Hồng Lĩnh. Gần đấy thấp thoáng mấy bóng đội sếp cũng đang nhớn nhác ngó thủ phạm. Hồng Lĩnh lừ mắt về phía mấy thầy đội thấy người Tây đứng gần đấy, chàng liền dịu giọng:
              - Bất đắc dĩ phải mượn xe ngài... mong thứ lỗi. Nếu cần, ngài cứ khai với nhà chức trách:
              Đại Sơn Vương đã trừ bọn phản thầy! Giờ xin hoàn lại xe ngài!
              Dứt lời, chàng leo lên xe bọn kia, rồ máy bỏ đi thẳng để lại phía sau những nét mặt kinh hoàng ngạc nhiên của mọi người. Chàng cho xe chạy quanh mấy phố, đoạn bỏ xe hơi rồi thuê xe hàng về khách sạn. Vừa thấy chủ tướng, Voòng đã nói luôn:
              - Thầy đã hạ được mấy đứa?
              Hồng Lĩnh hởi ngạc nhiên:
              - Sao Voòng đã biết?
              - Làng phố bàn tán xôn xao, tin đến phố này đã tới mười lăm phút.
              Voòng thấp giọng:
              - Ngày mai báo chí sẽ loan tin. Thầy nên nguỵ trang cho tiện!
              Hiện kẻ thù đầy rẫy quanh mình, chúng có thể mượn tay quan binh để trừ ta.
              Đại Sơn Vương thuật qua chuyện xảy ra cho Voòng nghe:
              - Phượng Kiều có mặt tại Hà Nội, bị bọn kia truy sát. Ta tưởng chuyện này có uẩn khúc chi đây.
              Đưa mắt nhìn tấm lịch treo trên tường, Đại Sơn Vương lẩm bẩm:
              - Ngày gặp vua H Mông Hoàng Su Phì sắp tới...Việc dưới này thanh toán chưa xong...
              Chợt chàng quay sang Voòng Lầu:
              - Đã tới lúc Voòng phải có mặt tại Đồ Sơn. Hãy xuống gặp ngay và truyền chúng chuẩn bị đâu vào đấy, khi ta ở Hoàng Su Phì về. Tàu Ô Bắc Hải đã túc trực tại Vịnh Hạ Long rồi! Xong, Voòng về Hà Nội luôn, ta đợi để lên mạn ngược!
              - Dạ!
              Hai thầy trò ngồi uống trà bàn bạc một lát, Hồng Lĩnh lại ra phố.
              Ngay đêm đó Voòng đáp tàu hỏa xuống Phòng. Hôm sau chưa thấy về.
              Trong khi đó, quả nhiên báo chí Hà Nội đều đăng tin “Tướng lạc thảo Đại Sơn Vương Thần Xạ đã bí mật về Hà Nội và đã hạ một lúc ba người”. Có báo còn nói rõ tướng lạc thảo phi thường này đã “mượn” xe của chính viên thanh tra mật thám. Đoạn cuối các báo đều đặt những dấu hỏi lớn về hành tung của Đại Sơn Vương. Và cũng không quên loan báo:
              “Nhà chức trách hiện đã giăng lưới khắp nơi, dè chừng hành động của viên tướng lạc thảo khét tiếng lợi hại này”.
              Đại Sơn Vương lơ đãng liếc mắt qua những hàng chữ chạy dài trên báo, có dáng suy tư. Đoạn chàng ngả mình trên ghế bành, bâng khuâng nhìn lên trần nhà, cặp mắt mơ hồ như dõi theo hình ảnh những đợt thủy triều vỗ triền miên vào bãi vắng Đồ Sơn, xóa mau những vết chân của Voòng, trong đêm tối mịt mùng.
              Hôm sau nữa cũng không thấy Voòng Lầu về. Hẹn kỳ lên ngược đã tới, Hồng Lĩnh thỉnh thoảng hết nhìn xuống đường, lại ngó lên tấm lịch treo tường. Đêm đó, vừa đi phố về, thay quần áo, lên giường nằm chợt nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Hồng Lĩnh tung mình dậy, quơ vội khẩu súng tiến đến bên cửa.
              - Tiên sinh à! Tiên sinh còn thức không?
              Chàng hơi nhíu mày lại, rõ tiếng viên quản lý khách sạn. Chàng chưa kịp lên tiếng, đã nghe tiếp:
              - Tiên sinh ! Có người quen dưới cảng muốn gặp.
              Linh lính như báo trước có việc hệ trọng, Hồng Lĩnh vội mở phắt cửa ra. Dưới ánh đèn điện ngầu vàng, một người lạ mặt sạm đen, cao lớn, đựng bên viên quản lý khách sạn cúi đầu kính cẩn chào. Thấy cặp mắt người đó khẽ đưa đẩy, Hồng Lĩnh liền reo lên:
              - Chà! Tưởng ai... hóa chú. Vào đây!
              Vừa nói, chàng vừa đặt tay lên người lạ đẩy nhẹ vào, miệng vừa bảo viên quản lý:
              - Cám ơn chú Sầu! Thôi chú xuống nhà nghỉ đi.
              Chàng dắt người lạ vào, đóng cửa lại. Vừa vào, người lạ đã nhanh giọng nói luôn:
              - Bẩm chủ tướng. Voòng Lầu bị bắt rồi!
              Đại Sơn Vương đặt phắt tay lên vai hắn.
              - Voòng bị bắt?
              - Dạ, trên bãi biển. Vừa ngoài Tàu Ô chèo xuồng về, bị chúng chực sẵn. Đám bọn quan binh, đến hai mươi tay súng. Chúng tôi từ Phòng ra đón, mới tới đã thấy động phải nấp đi.
              - Voòng đi có một mình?
              - Dạ. Chúng tôi đã toan liều mạng đánh tháo nhưng lúc đó chỉ có mấy tay súng ngắn, còn quan binh có vẻ đã bố trí cẩn mật, hình như đã biết trước cả.
              Đại Sơn Vương nheo mắt nhìn ra ngoài phố vắng, dáng suy tính.
              Đoạn quay hỏi người lạ:
              - Hiện chúng giam Voòng ở đâu?
              - Bẩm... đã đưa ngay về Hà Nội. Hiện giữ tại Sở Mật thám để lấy khẩu cung, chưa đưa sang Hoa? Lò.
              Đại Sơn Vương xem đồng hồ, quay bảo người thuộc hạ:
              - Đến đây mấy người?
              - Dạ, hai. Anh kia lảng vảng bên kia đường.
              Đại Sơn Vương hơi gật đầu, lẩm bẩm một mình:
              - Lạ thật! Sao chúng biết rõ hành tung của Voòng Lầu? Hừ!
              Chàng đi đi lại lại khắp phòng, miệng mím chặt, cặp mắt như bốc cháy!
              - Đi giải cứu ngay Voòng Lầu, chú xuống trước chờ ta.
              Gã thuộc hạ, có vẻ ngạc nhiên về quyết định chớp nhoáng của chủ tướng, mấp máy môi toan nói gì, thấy chủ đã quay mặt đi, gã bên lặng lẽ mở cửa, xuống đường. Mấy phút sau, Hồng Lĩnh tắt đèn, lách mình ra ban công, đứng im mấy khắc, nhìn xuống đường. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn mặc y phục màu đen tới, đi giày vải nhẹ, mũ kéo sụp xuống trán, lưng thắt dây đạn, cặp súng bên sườn nằm khuất sau áo choàng mưa rộng.
              Đại Sơn Vương dẫn cả hai thủ hạ thẳng tới trước Sở Mật Thám, đảo một vòng, quan sát. Khu sở được canh phòng cẩn mật, cổng kín, tường cao, ngoài vọng gác tiền lờ mờ hiện bóng lính canh đôi, lưỡi lê cắm ngọn súng sáng bạc dưới vùng sáng điện gần đấy hắt vào. Bên trong im lặng như tờ. Thỉnh thoảng một vài cơn gió thổi rào cành lá sấu, bàng, rụng lộp bộp xuống mặt đường và lăn lông lốc trên những vũng nước nham nhở.
              Đại Sơn Vương đi khuất dưới bóng cây, xem xét một lượt đoạn dẫn thủ hạ vòng về phía sau Sở Mật Thám, vụt vào ngõ Liên Trì.
              Hàng phố đều đã ngủ vùi từ lâu, cửa đều đóng kín mít. Đại Sơn Vương dẫn thủ hạ leo lên nóc nhà, len lỏi lần tới bên tường hậu. Nhưng vừa tới nơi, Đại Sơn Vương đã vội kéo thủ hạ nấp vào bóng tối, trừng mắt nhìn vào phía trong, hết sức ngạc nhiên. Vì gia cảnh vắng lặng, phía trong vừa thấp thoáng bóng người từ trên cây đu mình xuống đất, chập chờn vút vào nẻo trung tâm mất dạng. Một bóng rất nhanh, có vẻ từ bên ngoài vượt vào. Đại Sơn Vương chú ý quan sát thấy một cành cây xõa cách ngọn tường không xa. Chàng truyền thủ hạ canh chừng, đoạn rút trong mình ra một đoạn dây thừng nhỏ, tung quấn vào cành, rồi nhẹ nhàng đu mình vào phía trong, êm như lá bay.
              Không chậm trễ, chàng cuộn vội thừng giắt lưng, đoạn rảo bước theo bóng người kia.
              Men theo đêm tối, thấy có bóng lính canh đứng sững trong vọng gác, chàng lần êm tới sát sau lưng toan ghì lấy, chợt định thần nhìn kỹ lại, nhờ ánh điện vật vờ, mới rõ tên lính canh đã bị trói chặt cứng đứng im như pho tượng, mồm nhét đây giẻ. Ngạc nhiên, chàng đưa mắt về dãy nhà tạm giam và băng mình len lỏi tới. Tới phòng giam Voòng Lầu, chàng ngạc nhiên vì khoá đã mở, cánh cửa chỉ khép hờ.
              Hé nhìn vào, thấy tối om, chợt từ trong, một tia đèn bấm lóc lên từ từ một vòng suốt căn xà lim trống rỗng, tiếp theo, có tiếng người lẩm bẩm một mình nghe thấy băn khoăn... bực bội:
              - Quái lạ! Hắn đâu rồi? Chẳng lẽ...
              Vừa nghe tiếng xong. Đại Sơn Vương đã nhận ngay ra, chàng liền lách vụt vào không chờ thêm một khắc. Thấy có kẻ lách vào theo gió lùa, bóng người đứng bên trong giật mình, vùng chiếu phắt đèn bấm vào, và lập tức khẽ bật lên:
              - Kìa... Ông Hồng Lĩnh!
              - Cô Phượng Kiều...
              Đại Sơn Vương nhếch miệng cười, tiếp luôn:
              - Cô cũng tới đây? Phải chăng...
              viên tướng chợt ngừng lời chua chát, vì thiếu nữ run giọng:
              - Ông...xin ông hiểu cho. Tôi đến đây định cứu Voòng Lầu...
              Không ngờ...
              Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn quanh phòng giam, có dáng suy nghĩ, chợt hỏi Phượng Kiều:
              - Cô đã trói tên lính canh bên ngoài?
              Thiếu nữ lắc đầu đoạn tiếp luôn:
              - Tôi mới được tin cách đây mấy tiếng không rõ ông đang ở đâu, nên tính vào cứu Voòng đã...
              - Thế... Ông thân cô?
              Thiếu nữ buồn rầu:
              - Thầy tôi trên Cao Bằng. Tôi về đây có một mình cùng đứa ở gái...
              Giọng cô gái đượm nhiều xót xa trách móc, khiến Hồng Lĩnh đứng im mấy khắc, rồi khẽ nói:
              - Ta nên ra thôi! Đứng đây lâu bất lợi.
              Không thấy Phượng Kiều đáp, chàng nhắc lại:
              - Ta ra thôi! Cộ..
              Thiếu nữ vẫn không nhúc nhích và tự nhiên chiếc đèn bấm trên tay nàng rơi phịch xuống sàn xi măng. Ngạc nhiên, Hồng Lĩnh vội cúi nhặt, trao lại nàng, chàng thấy thiếu nữ đang cúi đầu cắn chặt vành môi, ngực rung rung hình như thổn thức nghẹn ngào, cố nén. Chàng ngơ ngác mấy khắc, chẳng biết nói sao, lại nhắc:
              - Đứng đây lâu bất lợi. Quân lính có thể...
              Hình như cảm xúc chất chứa mãi, không nén được, thiếu nữ vùng bật lên, nghẹn ngào:
              - Em không chịu được nữa, sống cũng bằng vô ích. Dây oan nghiệt mong chi cởi được...
              Tự nhiên Hồng Lĩnh thấy lòng nao nao, nghe lời thổn thức của Phượng Kiều, chàng đành dìu thiếu nữ ra ngoài. Nhưng tới lúc ánh điện màu vàng hắt vào khuôn mặt não nùng tơi tả như đóa hoa phù dung trong mưa gió, chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn mới hiểu rõ, trực giác vùng lóe lên một tia sáng thần kỳ như soi thấu tới chiều sâu bí mật của linh hồn. Chàng bất giác hoang mang lạ lùng, từ đáy lòng ngang dọc khô khan như vừa thoảng về một chứ gì điu hiu như hơi gió sông chiều...
              Chính giữa giờ phút đó dĩ vãng chợt hiện về... hình ảnh một ngươi đàn ông, đầu tóc rũ rượi bị xích tay, lê chân xiềng lảo đảo giữa những hàng lưỡi lê trần, đi tới đoạn đầu đài, một buổi sớm còn đục ngầu bóng tối một người đàn bà ngất đi về bên kia thế giới, bên đứa con trai độc nhất sơ sinh... chỉ vì bị phản bội, hình ảnh gia đình chàng cách đây gần ba mươi năm... Cùng với hình ảnh Trần Tắc, những kẻ chủ mưu lừa thấy phản bạn... tất cả hình ảnh dĩ vãng nổi lên... chập chờn, rung rung, u uẩn, như những hình ảnh của oan khiên muôn đời...
              - Anh ơi!..... Tiếng người con gái bật lên, rung rung, thiết tha đau xót, thoảng bên tai chàng tuổi trẻ.
              - Em đã cố gắng. Nhưng không làm thế nào được nữa. Dẫu sao...
              từ nay em sẽ chỉ còn biết giữ lấy hình ảnh anh và sống với hình ảnh... suốt đời...
              Giọng nàng nói... mê man như trong ảo mộng, khiến chàng bất giác rùng mình, đưa mắt nhìn khuôn mặt hoa đầm đìa nước mắt, chàng cũng không sao nén nổi xúc động.
              - Em ơi!
              Phập. Vừa lúc viên tướng run giọng bật lời, thì một lưỡi dao đã từ bóng tối bay vút ngày trước mặt hai người, và cắm mạnh vào một thân cây bên cạnh. Đại Sơn Vương vội dìu Phượng Kiều vào chỗ khuất gần đấy và đảo mắ nhìn quanh. Bốn bề im lặng như thường, cành lá vẫn lay động rạt rào dưới ánh điện, vàng úa, đẫm mưa. Lưỡi dao còn rung, nhìn kỹ thấy có buộc kèm mảnh giấy. Đại Sơn Vương vừa định bước ra, thì Phụng Kiều đã ấn nhẹ chàng đứng nguyên chỗ, nói nhanh:
              - Anh ra có thể làm mục tiêu cho chúng bắn! Để em.
              Miệng nói dứt chân bước tới bên cây đứng ẩn phía sau, với tay về phía trước, rút lưỡi dao ra. Dao cắm rất sâu, tỏ ra kẻ phóng có sức mạnh lạ lùng. Phượng Kiều phải dùng hết sức lay hai, ba cái mới giật ra được. Nàng bước về chỗ cũ. Hồng Lĩnh gỡ mảnh giấy ra, liếc mắt xem qua, chợt cau mày “Hừ” một tiếng có vẻ giận dữ, ném mạnh lưỡi dao về phía trước miệng lẩm bẩm:
              - Chọc giận đến thế là cùng!....
              Thấy chàng bực tức khác thường, Phượng Kiều khẽ hỏi, giọng lo lắng:
              - Có chi đấy... anh?
              Hồng Lĩnh vẫn còn bực, lẳng lặng đưa mảnh giấy nhỏ cho Phượng Kiều. Trên giấy có nhưng hàng chữ viết nguệch ngoạc hằn bút chì:
              “Đại Sơn Vương Thần Xạ. Voòng thủ túc đã được đưa lên miền núi. Nếu muốn giải cứu Voòng hãy vào chơi địa khu ta, giữa rừng Yên Báy, Tuyên Quang, động Cầu Mây vùng Thác Bà, Thác Ông. Sẽ có người tiếp đón.
              Khách Giang Hồ” - Khách Giang Hồ!
              - Khách Gang Hồ!
              Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn gằn giọng, quai hàm bạnh ra, cặp mắt quắc trừng nhìn vào đêm tối.
              - Nó là ai, dám ngạo nghễ cả với ta? Hừ! Dám lén vào bắt cóc cánh tay mặt của ta đem đi! Rồi! Biết tay ta! Nhưng... nó là ai?
              Thấy vẻ mặt Phượng Kiều đầy lo âu chàng chợt nhanh giọng:
              - Kìa em! Làm sao thế?
              Thiếu nữ ngả đầu vào ngực chàng tuổi trẻ như muốn ghì lấy một hình dáng muôn đời:
              - Anh không... nên tới hang hùm! Khách Giang Hồ... Em có nghe tiếng từ hơn năm nay. Hắn là kẻ thần xuất quỷ nhập, nay đây mai đó, không ai biết rõ hành tung và thủ hạ dưới tay hình như rải rác khắp Trung Nam Bắc, chuyên mưu những chuyện vá trời. Nhà chức trách phải kinh tâm. Anh! Anh nên...
              Thiếu nữ nói một hơi dài, chợt ngừng bặt vì cặp mắt Hồng Lĩnh vụt sáng hẳn lên.
              - Thật thế ư? Có thật...
              - Dạ! Hắn là con người vô cùng bí mật, không hiểu già hay trẻ xuất hiện dưới nhiều khuôn mặt, không ai rõ mặt bao giơ. Người ta đồn hắn là kẻ kỳ tài...
              Đại Sơn Vương nghe tới đó, chợt đổi sắc mặt, miệng nhếch cười có dáng hài lòng:
              - Nếu quả vậy, càng hay. Bấy lâu ta hằng ao ước một kẻ địch thủ kỳ phùng. Lần này...
              Phượng Kiều biết ý chàng đã quyết độc thân tới hang hùm, nàng cả lo, khẽ nắm lấy tay chàng, giọng van lơn:
              - Anh! Nếu có đi, cho em theo cùng... Em sẽ huy động thêm...
              Nhưng Đại Sơn Vương đã lắc đầu:
              - Không nên! Hắn đã ngạo mạn anh nhất định một mình vào tận sào huyệt xem hắn giở trò gì!....
              - Anh... Nhưng...
              - Em cứ yên lòng! Để anh đối phó, không khi nào để hắn chạm tới oai danh.
              Vừa lúc đó, phía hậu sở, giọng cú rúc mơ hồ nổi lên. Đại Sơn Vương nhanh giọng:
              - Thủ hạ báo có người tới. Ta ra thôi!
              Hai người băng qua mấy dãy nhà, đu mình qua tường, ra hẳn ngoài phố.
              - Ta chia tay chỗ này. Em về nghỉ... đường đời rồi còn có buổi gặp nhau...
              - Thôi! Em về nghỉ...Và chớ theo ngầm lên đó!
              Đoạn chàng buông Phượng Kiều ra.
              - Anh...
              Cô gái mấp máy môi, định nói thêm điều gì, nhưng chẳng hiểu sao nghẹn họng, chỉ đứng nhìn theo bóng thần Xạ Đại Sơn Vương cùng với đám thủ hạ khuất mau vào đêm mờ, về Hàng Trống.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #8
                Hồi 6 - Khách Giang Hồ Bí Mật

                Hôm sau Hồng Lĩnh sai thủ hạ về Phòng, và chàng thu xếp hành trang. Rời khách sạn đang ở, tới thuê phòng tại một lữ điếm khác cận đầu cầu Dốc Gạch. Chàng đóng cửa nằm ngủ dưỡng sức suốt ngày, tối mới đáp chuyến tàu đêm ngược Yên Báy, trong lớp một phong lưu công tử nhàn du.
                Yên trí đã đánh lạc dấu mọi cặp mắt tò mò rồi, chàng mới lên toa hạng nhất ngồi, xem sách. Toa nhất chỉ có hai cặp vợ chồng người Pháp, chuyện trò một lúc là quay ra ngủ. Vốn ưa thay đổi, chàng liền xách hành lý, xuống toa hạng ba cuối, cạnh hạng tư, thấy còn rộng, chàng bước vào tìm chỗ bên cửa sổ ngồi ngắm cảnh.
                Trong toa có đến mươi người vừa đàn ông đàn bà đứng tuổi, mấy thanh niên, vài ba cô gái đi với cha mẹ, và một thiếu nữ xinh đẹp đi một mình. Vừa thoạt bước vào, chàng đã chú ý ngay tới thiếu nữ, vì ngay lúc đầu, thiếu nữ đã có vẻ lưu ý tới anh chàng lịch thiệp, bảnh trai rồi.
                Nàng đẹp sắc sảo, mũi dọc dừa, mắt sáng, mày hơi xếch, trông càng tinh nghịch, khổ người dỏng cao có vẻ béo lẳn, khỏe mạnh. Ngồi đối diện Hồng Lĩnh, nàng lúc ngắm cảnh, lúc xem sách và thường mỉm cười một mình, hay liếc trộm chàng, chẳng hiểu vì lẽ gì. Thấy nàng có vẻ nhí nhảnh, tinh nghịch, Hồng Lĩnh bất giác so sánh thiếu nữ lạ với Phượng Kiều và không thể định được ai đẹp duyên dáng hơn ai. Ngồi mãi tới ga Đông Anh, Hồng Lĩnh quay vào, thấy thiếu nữ có vẻ vui tính, chàng cũng mỉm cười gợi chuyện cho đỡ buồn. Hình như cũng mong có bạn đồng hành lịch thiệp trò chuyện cho quên thời gian vô dụng, người đẹp bắt chuyện luôn. Thế là suốt Đông Anh tới Phúc Yên, Vĩnh Yên, hai người vui vẻ đàm dạo đủ thứ chuyện và thiếu nữ tỏ ra có kiến thức rất rộng, và hết sức bặt thiệp. Nhiều vấn đề từ văn chương nghệ thuật Đông Tây kim cổ, tới xã hội, tâm lý, học thuật, nàng ta đều thông suốt. Hồng Lĩnh càng ngạc nhiên khi nàng lại gợi cả chuyện võ thuật, cả binh pháp... và bàn luận với chàng chàng khác một tay có nghề võ chân truyền. Chàng không khỏi thầm khen phục cô nàng không kém Phượng Kiều chút nào.
                Tò mò hỏi căn do, nàng mỉm cười cho biết đã học lỏm được của người anh ruột hiện đang du học bên Pháp. Tàu tới Phúc Yên, có hai người đàn ông lên toa hạng ba, tới Vĩnh Yên lại thêm ba người, cứ thế cho tới Thạch Thác, Việt Trì. Cứ qua vài ga có thêm khách lên, chiếm dần hết chỗ khiến thiếu nữ phải sang ngồi bên Hồng Lĩnh, các khách lên tàu thường câm nín, vào chỗ ngồi lầm lì như tượng, mặt mày coi có vẻ dữ tợn. Từ Việt Trì đi, mấy người này che mũ ngủ gục cả.
                Nhìn qua đã sinh nghi ngay, nhưng chàng cứ lẳng lặng như không. Còn thiếu nữ không hề lưu ý. Chàng vẫn điềm nhiên, đưa mắt nhìn thiếu nữ. Thiếu nữ lạ cũng vẫn ngồi im, đưa mắt nhìn Hồng Lĩnh, miệng hoa khẽ nhoẻn cười. Thấy thiếu nữ vẫn thản nhiên, khi đã biết sắp có biến trên tàu, Hồng Lĩnh sinh nghi, quay về phía mấy người đàn ông dữ tợn như muốn tìm hiểu mối dây liên lạc bí mật trong tia mắt bọn này. Nhưng chỉ thấy mắt cả bọn lừ lừ nhìn thiếu nữ lạ cùng mọi người, vẻ chờ đợi trong từng khắc một. Bên ngoài, một hồi còi tàu rúc lên the thé, chợt tốc lực giảm dần. Trên nóc toa, tiếng chân vẫn chạy thình thịch, từ phía cuối lên nẻo toa đầu máy. Và, thình lình một hồi còi lạ rúc lên. phía toa cuối, hành khách nhốn nháo, kêu gọi nhau ơi ới, phía toa đầu, vẳng có tiếng quát vọng tới, rồi có tiếng kêu lên thảng thốt gần đấy:
                - Cướp tàu! Quân gian cướp tàu!
                Trong toa hạng ba, hành khách vùng tỉnh giấc, giụi mắt, ngơ ngác nhìn nhau. Vụt cái, mấy người đàn ông đã rút dao sáng loáng chĩa cả về phía hành khách, miệng quát:
                - Ngồi im cả! Động đậy chết ngay!
                Hai tên tiến đến trước ghế Hồng Lĩnh, một tên chĩa ngọn súng vào mọi người.
                - Tiền bạc, nữ trang đâu đưa ra mau!
                Hành khách xanh mặt, riu ríu làm theo. Nãy giờ Đại Sơn Vương vẫn không nhúc nhích. Mãi tới khi quân gian truyền nộp bạc tiền và định khám cả vali hành khách, chàng tướng núi biết không thể ngồi im để chúng vuốt râu hùm nữa, nên chàng chậm chạp tiến lên.
                Nhưng, thiếu nữ lạ đã đặt nhẹ tay lên vai chàng ấn nhẹ xuống thỏ thẻ:
                - Để tôi nộp giúp! Ông khỏi nhọc lòng!....
                Lời vừa dứt Đại Sơn Vương chưa kịp nói gì, thì thiếu nữ đã đứng phắt lên, cánh tay ngọc vỗ mạnh vào vai gã đàn ông cầm súng, giọng dịu dàng:
                - Này! Bỏ súng xuống thôi chứ! Cầm chi cho thêm nặng, chú mày!
                Hành khách chỉ thấy gã ta chợt rúm người lại, mặt tái nhợt, tay súng rời rã, để rớt luôn cục thép xuống sàn tàu. Gã này còn đang lảo đảo thì chân ngọc đã lia ngang vào ống cẳng gã kế bên, chỉ thấy loáng ống quần sa tanh trắng của người đẹp, gã này đã lộn nhào, đầu dụi xuống sàn, dao tung vào góc toa.
                Chỉ hai đòn nhẹ, Đại Sơn Vương đã biết ngay nghệ thuật điểm huyệt của thiếu nữ và định luôn được thắng bại rồi, nên cứ khoanh tay ngồi xem. Quả nhiên chỉ trong nháy mắt, mấy tên còn lại đã nằm sóng soài trên sàn. Hành khách hết sức kinh ngạc về tài võ của thiếu nữ, chưa kịp cất lời khen thì thiếu nữ đã vụt ra lối cửa toa, đu mình lên nóc nhanh như con sóc. Nửa phút sau, đã nghe nhiều tiếng quát tháo, kêu gọi ồn ào phía dãy toa cuối lẫn cả phía toa đầu, chợt giữa những tiếng động xô xát, có tiếng súng nổi lên.
                Mọi người nhìn ra ngoài, thấy nhiều bóng quân gian bị ném xuống đường. Lại một tràng súng nữa nổi lên. Thần Xạ Đại Sơn Vương lắng nghe và không nén được nữa, liền đứng phắt lên, đu mình qua cửa sổ lên nóc toa. Con tàu đã giảm tốc, sắp chạy qua vùng núi, xe uốn vòng cung. Nằm rạp xuống, nhìn ngược lên thấy mấy bóng người đang vật lộn trên nóc toa gần đấy, chàng phóng mình tới. Trong đêm mờ, chàng nhận được hai người đội cát kết đang bị ba tên gian dồn đánh, sắp nguy. Đoán chắc nhân viên Hỏa Xa, Đại Sơn Vương liền xông vào, giáng luôn mấy trái thôi sơn, tung bổng mấy gã xuống đường. Đoạn, chàng đu mình xuống dưới toa máy. Nhưng vừa tới, chàng đã phải hụp mình tránh một bóng cao lớn từ trong lao rạ..
                thẳng xuống đất. Ngẩng nhìn lên, đã thấy người thiếu nữ lạ bước ra.
                Ngó theo cái bóng cao lớn kia, chợt trông thấy Hồng Lĩnh, người đẹp mỉm cười.
                - Ông... vừa đến! Chà! Thằng này nặng quá, đến tám mươi cân chắc, phải dùng cả hai tay mới quăng nó ra được.
                Hồng Lĩnh nhìn quanh, thấy người lái tàu nằm dụi một bên tay lái, chàng vội tiến đến. Nắm lấy tay lái, định hãm lại, thì thiếu nữ đã ngăn lại:
                - Có lẽ nên chạy thẳng! Bọn cướp này tồi quá! Tưởng bọn đầu đàn phải khá hơn, chắc thấy hỏng việc, sẽ ra tiếp cứu!
                Thiếu nữ vừa dứt lời, chợt ngó ra ngoài, và quay bảo Hồng Lĩnh:
                - Kìa! ông coi...
                Quả nhiên từ bên rừng cây, chợt nhiều thoi lửa vừa hiện ra, cuốn mau lại bên tàu. Đến gần, nhận thấy một bọn người lực lưỡng cưỡi ngựa, tay súng, tay dao khoa loang loáng. Cả bọn phóng thẳng đến bên tàu, và cứ thế, cách nhau mấy thước, phi ngựa bọn sườn tàu, có ý bám nhảy lên. Hai ba tên đi đầu lao vụt đến bên toa máy.
                Ánh đuốc nhấp nhô, hắt từng vùng ánh sáng. Thấy ngựa bám sát vào sườn toa. Đại Sơn Vương bảo thiếu nữ lạ:
                - Để chúng lên chăng?
                Thiếu nữ mỉm cười:
                - Xin ông nhường tôi mấy tên đầu!
                Dứt lời thiếu nữ ra hiệu cho người phụ máy vào trong tiếp tục cho tàu chạy mau thêm, và rút phăng trong mình ra một khẩu súng nhỏ xinh xắn dựa vào bên cửa, định nổ vào quân gian. Nhưng Đại Sơn Vương đã đưa tay nhẹ cản, đoạn vung tay ngược về phía đầu ngựa quân gian. Tay vừa vung ra, thiếu nữ lạ đã thấy tên cỡi ngựa đầu vùng buông rơi súng, lảo đảo ôm ngực và dụi luôn trên lưng ngựa rồi đổ xuống bên đường sắt theo ngọn đuốc lăn tròn. Đại Sơn Vương, quay nhìn thiếu nữ, tay đưa cho nàng mấy mũi dao găm. Thiếu nữ cất súng, lằng lặng đỡ lấy dao, vung tay phóng ngược lại một lưỡi. Phía sau, một tên gian vừa tiến ngựa lên, ôm ngực lảo đảo đổ luôn xuống đất.
                Hình như biết có kẻ lợi hại lại toa đầu máy, nên ngựa quân gian lùi lại dần, không tiến lên nữa. Và bọn chúng bắt đầu bắn từng loạt vào các toa tàu.
                Nhìn về phía cuối tàu đã thấy một vài tên nhảy được lên dãy toa chở hàng. Phía toa giữa mấy tên bám đu dính vào chỗ lên xuống rồi.
                Thiếu nữ lạ vội bảo Hồng Lĩnh:
                - Cả tàu có lẽ không còn ai chống lại chúng nữa. Chúng có thể sát hại hành khách lầm!
                Đại Sơn Vương chưa kịp đáp, chợt hai người nghe vẳng liền mấy tiếng súng nổ, và phía toa giữa có mấy tên ngã lộn luôn xuống đường.
                Thấy đồng bọn bị hạ, đám cỡi ngựa sau bắn xả cả vị trí giữa, một bọn tiếp tục nhảy lên, một bọn lui ngựa lại, nhảy lên mấy toa hàng. Thiếu nữ nhanh giọng:
                - Trên kia, có tay thiện xạ đánh chúng rồi. Ông trấn giùm đây để tôi lên tiếp họ.
                Nói xong thiếu nữ leo luôn lên nóc toa, chuyển về phía giữa tàu.
                Viên tướng ngang tàng chỉ còn biết đứng lắc đầu trông theo thiếu nữ lạ, và dựa cửa toa chờ đợi. Chàng chợt nhìn thấy một bóng nhỏ nhắn chạy tới cuối toa chở hàng, liền nhảy luôn xuống một toa không mui cuối cùng, định lao mình xuống. Nhưng hình như muốn chờ cho tàu di một quãng khá xa nữa, cho đúng hẳn chỗ quân gian vừa tháo xuống nên cái bóng đứng dừng lại, đưa mắt nhìn quanh.
                Đại Sơn Vương đã lần tới sát bóng nhỏ nhắn, và bất thình lình, viên tướng ôm chặt lấy bóng lạ, ghì chặt xuống. Bất thần bị Ôm gọn trong hai cánh tay đàn ông rắn chắc, cái bóng thiếu nữ thanh nhỏ, giật nảy mình, cố sức vừng vẫy nhưng không sao thoát được hai gọng kìm thép nguội.
                - Mi là ai? Buông ra!
                Cái bóng thiếu nữ bị Ôm chặt, vùng bật kêu lên, thở hổn hển hình như vì hoảng thẹn hơn là hoảng sợ. Giọng vừa bật lên, một luồng gió đêm tạt ngược lại phà vào mũi Đại Sơn Vương một thứ hương thơm kỳ dị của giai nhân lẫn mùi nước hoa thượng hạng, quen quen, khiến chàng tuổi trẻ vùng buông tay, sửng sốt:
                - Phượng Kiều!
                Bóng thiếu nữ thở mạnh, nhận ra được tiếng Hồng Lĩnh:
                - Anh... gớm! Em lại tưởng kẻ nào.
                Rồi không đợi Hồng Lĩnh lên tiếng, thiếu nữ nói tiếp:
                - Anh giận em phải chịu. Nhưng... cũng không thể nào yên dạ để anh một mình lới hang hó. Trước còn có Voòng Lầu...
                Thiếu nữ ngừng lời, thấy Đại Sơn Vương vẫn không nói gì cho là chàng giận mình trái lời, nàng hoảng sợ, vùng nghẹn ngào:
                - Em không dám để anh cùng cô bạn đồng hành rõ... nên định lánh đị..
                Vừa nói đến đây, Phượng Kiều chuyển mình, lao xuống đường...
                Nhưng Đại Sơn Vương kịp tay nắm được Phượng Kiều.
                - Phượng em.
                Giọng nghiêm nghiêm của Hồng Lĩnh khiến thiếu nữ đang thở mạnh, chợt im bặt, ngẩng lên lo lắng nhìn người yêu:
                - Da..... anh bảo...
                Chàng đăm dăm nhìn sâu vào đôi mắt phảng phất ánh sao thưa, giọng trách móc:
                - Anh đã dặn, mà em cũng chẳng nghe. Giờ lại định bỏ đi lủi thủi một mình trong đêm tối rừng hoang thế nào được.
                - Da..... nhưng anh...
                Hồng Lĩnh im lặng mấy khắc, có dáng suy nghĩ, đoạn dịu dàng vuốt tóc Phượng Kiều:
                - Thôi đành để em đi cùng vậy!
                Nghe nói, thiếu nữ mừng rỡ, hỏi dồn:
                - Anh ! Anh để em cùng đi sao? Em không phải trở về một mình nữa?
                Thấy người yêu mừng rỡ như con trẻ được theo mẹ, Hồng Lĩnh bất giác mỉm cười:
                - Không đổi ý thế nào được với em! Nào! Ta vào thôi, chứ đứng ngoài này khuya sương xuống không tốt. Để anh giới thiệu với cô bạn đồng hành!
                - Dạ.
                Phượng Kiều sung sướng, nhanh nhẹn theo người yêu, băng về toa ba. Nhưng tới nơi không còn thấy thiếu nữ lạ, hỏi không ai rõ, thấy hành lý thiếu nữ cũng đâu mất, con chim xanh đã bay bổng nơi nào rồi. Đại Sơn Vương tần ngần ngó quanh, kéo Phượng Kiều vào chỗ trống bên mình. Hai người còn đang ngạc nhiên về hành động của cô gái lạ, chợt Hồng Lĩnh tình cờ đưa mắt nhìn vào chỗ để hành lý, thấy có mảnh giấy nhỏ gài vào mép sắc vội với tay gỡ ra. Chỉ là một tấm danh thiếp, tuyệt khônng một chữ viết trên, ngoài ba chữ in nhỏ trên đầu góc:
                "Khách giang hồ". Cùng lúc, Hồng Lĩnh, Phượng Kiều đưa mắt nhìn nhau.
                - Khách Giang Hồ? Hắn có thể là một cô gái... thế ư?
                - Hừ? Chẳng lẽ hắn làm mặt giả tuyệt kỹ đến thế? Thảo nào cô ta có bản lĩnh khác người!
                Phượng Kiều lẩm bẩm khẽ, chẳng hiểu sao, vùng bảo Hồng Lĩnh:
                - Tiếc quá! Ban nãy em đã định giao đấu thử với cô ta! Nếu đó là Khách Giang Hồ, thì...
                Hồng Lĩnh thấy người yêu có vẻ... khác, hỏi lại:
                - Thì sao em?
                Nàng lúng túng mấy khắc, đoạn nhìn chàng:
                - Thì em lại lo thêm khi anh vào hang hùm... Anh! thế nào cũng cho em thử sức với cô ta nhé!
                Hồng Lĩnh mỉm cười ghé sát vào nàng:
                - Được nhưng em không phải quá bận tâm. Ngay từ lúc mới gặp, anh đã thấy "hắn" thua em rồi.
                Phượng Kiều cả thẹn, nép vào người yêu, mặt đỏ bừng thỏ thẻ:
                - Anh... chỉ trêu em thôi!
                Từ đó, hai người ngồi bên nhau thủ thỉ tâm sự hết chuyện nọ tới chuyện kia, không có đầu đuôi chi cả cho đến lúc tàu đến Yên Báy.
                Tiếng còi rúc dài khiến hai người mới chợt ngừng tâm sự, nhìn rat ngoài. Trời vẫn tối mờ. Tàu dang tốc lực. Rừng khuya thưa dần, trông ra đã thấy lờ mờ bóng nhà cửa bên đường. Hồng Lĩnh bảo Phượng Kiều:
                - Không nên để nhà chức trách hỏi lôi thôi mất thì giờ về vụ cướp tàu. Ta nên xuống trước - Dạ, em cũng nghĩ thế!
                Hai người nhanh nhẹn xách hành lý ra cửa toa. Quan sát một lượt, thấy đến chỗ khá bằng phẳng, nhà cửa thưa thớt, Hồng Lĩnh bảo Phượng Kiều:
                - Em nhảy trước đi!
                Thiếu nữ nhoẻn cười, trao hành lý cho Hồng Lĩnh, đoạn tung chân nhảy phắt xuống. Đứng trên, thấy nàng lăn tròn mấy vòng đã đứng phắt lên, giơ tay ra hiệu ném hành lý xuống. Hồng Lĩnh lẳng lặng, hai tay xách hành lý, chàng nhún mình, cất bổng người lên cao, về phía tàu chạy, một chân chấm đất và lăn mình một vòng đứng phắt lên, êm như không. Phượng Kiều chạy lên chỗ Hồng Lĩnh, đỡ lấy hành lý. Hai người đứng khuất vào chỗ tối chờ đoàn tàu qua hẳn, mới dắt nhau vòng đường về Yên Báy. Đường phố khuya khoắt, thỉnh thoảng mới có chiếc xe lướt dưới ánh điện vàng úa. Đại Sơn Vương mấy chục năm ở xứ lạ chưa hề tới miền này, nhất nhất đều mặc Phượng Kiều định liệu, thiếu nữ dẫn Hồng Lĩnh tới một quán án đêm gần khu chợ, ăn uống xong hai người tìm khách sạn thuê phòng nghỉ qua đêm. Thấy viên quản lý cứ gọi là "ông bà", Phượng Kiều thẹn đỏ mặt, mãi mới lên tiếng bảo quản lý khách sạn dọn hai phòng cạnh nhau. Viên quản lý không giấu được vẻ ngạc nhiên.
                - Sao lại lấy hai phòng? Mình có hai người, một phòng là rộng lắm rồi, lại tiện nhiều thứ nữa!....
                Hồng Lĩnh ngạc nhiên hỏi. Thấy người yêu nói thế, Phượng Kiều không khỏi ngạc nhiên, đưa mắt nhìn, thấy vẻ mặt người đàn ông vẫn như thường, nàng lặng im, không nói chi cả, tuy trong dạ bối rối chẳng biết xử trí ra sao.
                Nhưng tới lúc viên quản lý đưa hai người lên nhận phòng rồi bỏ xuống, để hai "ông bà" trong một căn phòng gác vắng vẻ thì Phượng Kiều càng bội phần bối rối, trống ngực đập mạnh, hoang mang hết sức. Lúc Hồng Lĩnh đỡ lấy hành lý, vô tình chạm phải tay nàng, khiến nàng luống cuống, không hiểu sao run bắn cả người lên. Thấy thế, Hồng Lĩnh vội ném hành lý vào góc phòng, nắm lấy hai cánh tay trêu nàng:
                - Em! Em làm sao thế? Bị cảm gió sao?
                - Không... em có sao đâu!
                Nói xong nàng đưa mắt kín đáo nhìn Hồng Lĩnh, thấy chỉ có mỗi cái giường và chiếc bàn đèn có đèn chao xanh, người nàng run bắn hẳn lên. Hồng Lĩnh đóng cửa lại, quay nhìn nàng, thấy mặt nàng biến sắc, liền ôm lấy dìu lại bên giường:
                - Em khó ở sao? Hay tại đi ngoài sương nhiều! Em hãy nằm xuống nghỉ đã, để anh tìm lọ dầu.
                Phượng Kiều vội xua tay:
                - Không, không, em đâu có sao đâu, chỉ hơi choáng váng chút thôi!
                Hồng Lĩnh ấn luôn nàng nằm xuống, và cúi xuống cởi giầy cho Phượng Kiều, miệng bảo:
                - Chắc em dùng quá sức! Nằm nghỉ sẽ đỡ ngay!
                Thiếu nữ thấy thế, nhỏm dậy, cố nén bối rối:
                - Anh để mặc em!
                Hồng Lĩnh nhìn người yêu, giọng hơi bực:
                - Đã bảo cứ nằm nghỉ cho lại sức. Người như lên cơn sốt thế này!
                Em rắn đầu thế?
                Cố lấy hết sức mạnh dạn, Phượng Kiều lấy giọng tự nhiên:
                - Thế anh nằm ở đâu?
                Nghe nói, Đại Sơn Vương ngạc nhiên:
                - Anh? Ờ! Anh phải thức canh cho em nghỉ chứ! Anh ngồi đây!
                Vừa nói, chàng vừa chỉ vào chiếc ghế giữa phòng. Phượng Kiều như vừa trút được gánh nặng ngàn cân. Nàng thở một hơi dài, cảm động nắm lấy tay người yêu:
                - Em không ngủ đâu! Em ngủ, anh thức sao được Anh ngủ, em canh cho.
                - Đã bảo...
                - Hay em thức nói chuyện với anh!
                - Đã bảo ngủ cho lại sức. Anh quen rồi, và đã ngủ trước từ Hà Nội rồi.
                Cuối cùng, Phượng Kiều đành ngả lưng xuống giường và mệt quá, thiếp lúc nào không biết. Khi nàng tỉnh dậy thì ánh nắng đã dội qua cửa sổ, chiếu từng vệt vào phòng. Đại Sơn Vương ngồi gục mặt xuống bàn, có dáng mệt nhọc quá, cũng đã chợt thiếp từ lúc nào rồi. Phượng Kiều rón rén xuống bên người yêu, lặng lẽ đứng nhìn người đàn ông giang hồ, lòng càng...
                Thấy Hồng Lĩnh vẫn mặc sơ mi, quần dài, hai bên túi quần vẫn giắt cặp súng, trong ống tay vẫn ngầm đeo một túi dao lá liễu, Phượng Kiều đứng ái ngại nhìn, suy nghĩ mấy khắc, đoạn nhè nhẹ rút súng, dao ra, đặt dưới đệm. Hơi gió sớm lùa qua khe cửa khiến Phượng Kiều chợt thấy lành lạnh. Nàng vội lấy chiếc khăn dạ, choàng lên lưng Hồng Lĩnh và rồi, ghé vai ôm xốc chàng lên, đặt nằm trên giường, và đắp chăn cẩn thận. Đại Sơn Vương ngủ mệt vẫn không hay biết gì cả. Phượng Kiều âu yếm vuốt nhẹ tóc người yêu, rón rén ra đứng bên cửa sổ. Lòng thiếu nữ phơi phới nao nao, chì muốn bật lên mấy câu hát, nhưng sợ Hồng Lĩnh mất giấc ngủ ngon. Nhìn cảnh phố sớm mãi, quay ngó đồng hồ thấy dã gần mười giờ, mà Hồng Lĩnh vẫn ngủ đều. Phượng Kiều liền đi rửa mặt, thay y phục đi rừng, trang điểm qua loa, rồi vào sửa soạn trà nước. Lửa đèn cồn vừa réo, thì Đại Sơn Vương chợt tỉnh. Chàng mở mắt ra thấy mình nằm trên giường, ngạc nhiên, vội tung chăn nhổm dậy. Phượng Kiều đang lúi húi bơm đèn, thấy động ngẩng lên, nhoẻn miệng cười:
                - Anh đã dậy! Vừa kịp nước sôi.
                Hồng Lĩnh xuống giường, nhún vai mấy cái, bước đến bên Phượng Kiều.
                - Em thức lâu rồi à ! Sao không gọi anh? Mà sao...
                Phượng Kiều hơi thẹn, giọng âu yếm:
                - Em mệt quá! Ngủ chả biết trời đất gì cả, tỉnh dậy thấy anh đang ngủ gục bên bàn, em phải xốc anh lên giường đấy!
                Đại Sơn Vương mỉm cười:
                - Không ngờ lại mệt đến thế. Thật đúng là ngủ đến nỗi khiêng đi không biết!
                Phượng Kiều trách:
                - Ai lại đêm lạnh, đầy muỗi rừng mà cứ ngủ ngồi được! Này! Anh coi nước sôi giùm, em bận một chút!
                Hồng Lĩnh thấy hay hay, ngồi phắt xuống:
                - Nào đâu? Bơm đèn hả? Được, để đấy anh! Em làm gì cứ làm đi!
                Phượng Kiều đứng lên:
                - Không có gì đâu! Để em xuống bảo họ đem đồ điểm tâm lên!
                Dứt lời, nàng quay ra, bưng thau nước, khăn tay, bàn chải, xà phòng... vào...
                - Anh rửa mặt thay y phục đi nhé !
                Hồng Lĩnh nhìn theo dáng người yêu thoăn thoắt bước đi, lòng tràn ngập thương cảm. Đã lâu lầm rồi, chàng trai phong trần lăn lộn, mới cao hứng, ngâm nhẹ một bài thơ Đường cảm khái lâng lâng, quên hết mọi ưu tư oan trái. Phượng Kiều lên, thấy người yêu vừa cài khuy sơ mi vừa ngâm thơ, có vẻ vui vẻ lắm, nàng đứng lại giữa cửa, chờ chàng ngâm dứt, mới vào:
                - Giọng anh ngâm ấm lắm! Lần đầu tiên em mới được nghe! Thật em không ngờ anh lại có tâm hồn thi sĩ sâu sắc đến thế!
                Đại Sơn Vương mỉm cười:
                - Thôi đi! Anh hát em khen cũng như chuyện! Đứng nghe trộm lúc nào đấy!
                Phượng Kiều ngồi xuống bên đèn cồn:
                - Gớm! Nước trào cả rồi, ông tướng!
                Vừa nói, nàng vừa nhấc chiếc ấm "Cò bay" lúi húi sửa soạn trà nước.
                - Anh à!
                - Gì đó? À, súng dao đâu nhỉ?
                - Không biết! Anh hãy lại uống trà đã. Xem em pha có ngon không?
                Đang tìm súng, thấy Phượng Kiều gọi, giảng đàn bà trách móc, khiến Hồng Lĩnh vội đến bên bàn, vừa đỡ lấy ly nước vội khen:
                - Chà! Ngon quá!
                Thấy nàng lườm, chàng vội chống chế.
                - Ngửi qua hương đã biết vị. Hình như có ướp hoa sói thì phải!
                - Thì anh hãy uống xem đã! Chưa chi đã vội khen...
                Phượng Kiều vừa mừng vừa lo. Ăn xong, lúc hai người sắp rời lữ điếm, trong lúc Hồng Lĩnh đang quay lưng cài buộc khuy sắc, thì bất thình lình Phượng Kiều vụt quát lớn:
                - Rút súng ra! Đến giờ ta bắn đây.
                Đang cúi mặt, chợt thấy tiếng Phượng Kiều quát sau lưng, Hồng Lĩnh giật mình, phản ứng tự nhiên, xoay vụt người lại, hơi xoạc cẳng, hai tay đánh vút xuống bên sườn. Phượng Kiều vừa rút súng ra chĩa Vào Hồng Lĩnh thì hai tay chàng đã nắm gọn hai khẩu súng trong cái thế phản ứng nhanh như điện của Thần Xạ Đại Sơn Vương cố hữu.
                Nhưng... chàng không bắn. chỉ ngơ ngác nhìn Phượng Kiều. Thiếu nữ thấy thế vùng đút súng vào túi quần, cất tiếng cười khanh khách, chạy vụt lại ôm chầm lấy người yêu. Hồng Lĩnh ngạc nhiên, buông thõng súng, giọng hơi gắt:
                - Em... sao lại...
                Không để chàng nói hết lời, Phượng Kiều đã thỏ thẻ:
                - Ông thầy dạy em thường bảo:
                Khi xúc động về... tình yêu, phản ứng thình lình thường chậm. Em... thử anh xem sao!
                Hồng Lĩnh chợt hiểu nghiêm mặt:
                - Nhưng sao lại thử em... nguy hiểm thế. Lỡ anh phản ứng tự nhiên bấm cò thì sao?
                - Em biết trước là không khi nào anh bắn mà!
                Thấy chàng vẫn có vẻ giận trách, Phượng Kiều cười hóm hỉnh:
                - Kìa! Anh giận em đấy à! Vả lại... súng có đạn thật đâu mà anh mắng em!
                Hồng Lĩnh vội lật súng xem quả nhiên toàn đạn đầu giấy, lúc nãy vội không biết. Chàng liền ném súng xuống mặt bàn:
                - Hừ! Tinh quái đến thế thì thôi! Thế... phản ứng của anh có đến nỗi chậm quá không?
                - Chậm lắm!
                Nàng cười ngặt nghẽo, nhí nhảnh và không hiểu sao chợt đẩy nhẹ chàng ra, đôi mắt Phượng nhìn thẳng vào mắt chàng... sâu thăm thẳm.
                Chàng tuổi trẻ nhìn vào mắt nàng, dạ nao hẳn lên, và không hiểu sao, nhẹ kẻo nàng vào bên mình. Thiếu nữ nép hẳn vào người yêu, mấp máy cặp môi tươi thắm như cánh hồng nhung, khuôn mặt bừng đỏ như hoa phù dung... đợi chờ. Lần đầu tiên từ khi gặp gở, hai người tuổi trẻ trao cho nhau chiếc hôn đầu tha thiết, mang ý nghĩ gắn bó đời đời. Khá lâu, hai người mới rời nhau, lao đao như vừa cạn chén quỳnh tương.
                - Anh ơi!
                - Em!
                Phượng Kiều nghẹn ngào, nhìn Hồng Lĩnh, mãi mới thổn thức:
                - Thương em... Anh cho em theo hầu mãi nhé! Đừng vì lẽ gì để em xa anh phút nào... em không chịu nổi nữa đâu!
                Chẳng hiểu sao Đại Sơn Vương chợt rùng mình vì lời nói trao trọn cuộc đời của người con gái yêu kiều mà chàng linh cảm rõ là mới yêu lần đầu và chỉ với chàng thôi... một đời người.
                - Kìa... Anh sao thế?
                Nghe nàng hỏi lo lắng, qua hơi thở thơm tho kỳ dị, Hồng Lĩnh vội nắm lấy cổ tay nàng:
                - Không... Anh đang nghĩ đến mối tình đời đời của chúng ta đấy chứ! Nhưng...
                - ...?
                - Chỉ sợ có em, anh phản ứng chậm thì sao? Nhất là mỗi lần em khóc?
                Vừa nói chàng vừa nhẹ lau nước mắt cho nàng. Hai người vui vẻ xách hành lý xuống thang rời lữ điếm. Phượng Kiều tung tăng đi bên Hồng Lĩnh, đẹp đôi đến nỗi qua phố nào, cũng bị thiên hạ nhìn chòng chọc, đinh ninh một cặp vợ chồng sang trọng dưới xuôi đi hưởng tuần trăng mật miền núi. Hai người lưng thững đeo sắc ra bến xe. Vừa may, kịp chuyến. Xe rộng, chỉ có mấy thổ dân, vài người Kinh đứng tuổi, hầu hết là khách thường. Hồng Lĩnh, Phượng Kiều lên ngồi cuối xe, Phượng Kiều săn sóc từng ly từng tý cho người yêu. Hồng Lĩnh phó mặc mọi việc cho nàng. Hai người ngồi sát nhau, vừa ngắm cảnh, vừa thì thầm tâm sự. Đại Sơn Vương vui vẻ, như khách nhàn du, mỗi lúc xe tạm ngừng, chỗ có suối ven đường, hai người lại dắt nhau xuống chơi, hoặc vào quán lá gần đấy uống bát chè tươi nóng còn thơm mùi đồi núi. Lắm lúc mải vui, Phượng Kiều quên bẵng cả mọi sự, tưởng đang cùng người yêu đi du ngoạn lâm tuyền. Qua khỏi Hòa Đa, xe ngựa cứ bon bon chạy trên đường đá lởm chởm, đi sâu mãi vào vùng đồi núi điệp trùng. Phượng Kiều càng có vẻ lo lắng cho người yêu, tuy ngồi đó, những cặp mắt vẫn quan sát tứ phía phòng hờ tai biến bất kỳ.
                Bánh xe nghiến xào xạo trên đất vụn, đưa lên tai khách một điệu đều đều. Mọi người đã đua nhau ngủ gà ngủ vịt theo nhịp xe đưa.
                Càng đi, Phượng Kiều càng có cảm tưởng ở vào sâu địa khu nguy hiểm, nhích gần tới những bất trắc đang chờ người yêu! Tự nhiên Phượng Kiều tiếc hận đã không ngầm cho huy động thuộc hạ đi yểm trợ người yêu, vì càng vào, nàng càng ý thức rõ sức liều lĩnh đến kỳ lạ của chàng, nhất là cô độc dấn thân vào sào huyệt của Khách Giang Hồ.
                Đại Sơn Vương nhoẻn miệng cười:
                - Tôi đã được gặp hắn một lần trên tàu ngược, một cô gái xinh đẹp có bản lĩnh phi thường. Nhưng hình nhự..
                Thiếu nữ gật đầu:
                - Đó chỉ là một lốt trong bao nhiêu lốt. Thực ra, cũng chưa mấy ai rõ hắn là trai hay gái, già hay trẻ...? Nhưng chắc chắn là hắn có nhiều tài thuật, lắm mưu sâu và nhiều thuộc hạ.
                - Cô nương đã biết hắn?
                Voòng Chí Plan lắc đầu:
                - Suốt vùng núi Bắc, nhiều người đã biết danh, và chính Nhà nước nhờ thúc phụ tới điều đình mật ước, nhưng đến nay, vẫn không thành!
                Lời Voòng Chí Plan hình như vô tình chạm tới lòng tự ái sôi sục của viên tướng Thập Vạn Đại Sơn ngang tàng. Chàng nhếch miệng cười, dằn giọng:
                - Hắn ba đầu sáu tay hay sao mà vùng núi Bắc này có vẻ khiếp sợ đến thế. Tiếc thay lâu nay, Đại Sơn Vương còn mải oai trấn ở phương xa, giờ mới được dịp qua thăm!
                Thấy chàng vẫn không đổi ý định, Voòng Chí Plan liền đưa mắt cho Phượng Kiều. Nhưng Phượng Kiều đã biết rõ tính người yêu, không dám nói, chỉ làm hiệu cho Voòng Chí Plan. Cô gái H mông liền đứng lên, ra truyền thắng ngựa cho mọi người đi. Phượng Kiều liền ra theo. Chẳng hiểu hai cô gái bàn định chi với nhau, mấy phút sau, kéo vào, Voòng Chí Plan cười bảo Hồng Lĩnh:
                - Ý ông đã quyết, vậy để chúng tôi đưa đường tới mạn Cầu Mây.
                Ngựa đã sẵn sàng!
                Nói xong, chẳng chờ chàng cất lời, Voòng Chí Plan cùng Phượng Kiều nhảy luôn lên ngựa. Đại Sơn Vương chẳng biết xử gì hơn, đành cũng lên yên, theo mọi người xuống núi. Thấy Phượng Kiều và Voòng Chí Plan có vẻ tương đắc lắm, chàng lấy làm mừng, vì đang băn khoăn, khi tới địa khu thử lửa, chưa biết để nhờ ai săn sóc Phượng Kiều, may tình cờ lại có Voòng Chí Plan làm bạn.
                Tới đường đá đi Lục Yên Châu, Voòng Chí Plan dẫn mọi người ngược một quãng dài, tới chỗ có đường mòn từ rừng sâu chạy ra, Voòng Chí Plan dừng ngựa bảo Phượng Kiều:
                - Đây có đường tắt xuyên sơn, tới mạn Cầu Mây có thể rút ngắn được nhiều cây số. Cô nương đã đi lần nào chưa?
                Phượng Kiều ngắm nghía mấy khắc, gật đầu:
                - Tôi chưa đi, nhưng có nghe nói lối mòn này hình nhớ cũng dễ đi.
                Voòng Sềnh tiến ngựa lên, ngạc nhiên định nói điều chi, chợt nữ chúa khẽ đưa mắt làm hiệu, vội im luôn. Voòng Chí Plan bảo Hồng Lĩnh:
                - Có lẽ ta nên đi lối đường mòn này chóng hơn!
                Miệng nói, tay giật cương, cho ngựa vào trước, dẫn mọi người len lỏi giữa rừng hoang. Lên đồi, xuống núi, quẩn quanh mãi tới xế chiều mới tới Lục Yên Châu.
                - Đây sắp tới địa khu Khách Giang Hồ ! Hãy nghỉ ngơi cho lại sức, mai một mình ông Hồng Lĩnh có thể lên đường vào đó!
                Đại Sơn Vương nóng cứu Voòng thủ túc, muốn đi ngay, nhưng phần vì ngựa đã thấm mệt, trời đã hoàng hôn, phần vì Phượng Kiều, Voòng Chí Plan khuyên mãi đành phải cùng mọi người kiếm chỗ trú chân tạm qua đêm.
                Thiếu nữ đang ngồi lặng lẽ, nhìn trăng rừng, không biết có chàng tới. Đại Sơn Vương toan đặt tay lên vai nàng, chợt thôi ngay, vì dưới ánh trang mờ soi chếch, chàng thấy rõ cặp mắt nàng long lanh ngấn lệ. Chàng ngạc nhiên không rõ duyên cớ sao, nhẹ ngồi xuồng một bên.
                - Kìa anh!
                - Em...
                Chàng nắm lấy cổ tay nàng, khẽ hỏi:
                - Khuya rồi em chưa đi nghỉ?
                Phượng Kiều ôm chầm lấy chàng, nước mắt ứa rạ.. nghẹn ngào...
                mãi mới nói nên lời.
                - Anh ơi...
                - Kìa... em sao thế? Đã bảo từ Yên Báy là cấm khóc. Sao dạo này em... lạ thế, sinh ngay ra cái bệnh mau nước mắt, trước có thế đâu!
                Thấy chàng gắt xong, thở dài, Phượng Kiều vội cười thẹn thùng, nói như tạ lỗi:
                - Thì cũng... tại anh đấy! Trước kia em có thế đâu, chỉ từ khị.. biết anh đến giờ. Anh... không thương em... Chả bao giờ chịu nghe em cả ! Em lo rồi đây...
                Nàng chợt ngừng bặt, vẻ mặt cũng ngơ ngác, hàng mi chớp vội như xua đuổi nhưng ám ảnh đen tối chợt kéo về, đoạn nàng ghì chặt lấy người yêu như chỉ sợ chàng là một ảo ảnh yêu đương lúc nào cũng có thể tan biến trong thực tế.
                - Anh ơi! Sao lúc nào em cũng sơ..... mất anh thôi!
                Nghe giọng tha thiết ngớ ngẩn của người con gái vốn thông minh quả cảm, Đại Sơn Vương bất giác thương cảm, bật cười:
                - Sao em lẩn thẩn thế? Làm như anh là sương khói không bằng.
                Thiếu nữ ngửa mặt nhìn người yêu, hơi ngạc nhiên vì không ngờ chàng nói đúng như mình nghĩ.
                - Nhưng... Em chỉ sợ tình ta như hương khói, khó hợp dễ tan. Mai sau chẳng biết anh có bảo bọc em mãi hay không?
                Hồng Lĩnh gắt:
                - Đã bảo đừng nghĩ vẩn vơ nữa! Cô em họ gì mà khó bảo thế!
                Phượng Kiều nhoẻn miệng cười:
                - Vậy thôi, em không nghĩ nữa. Nhưng...- ngập ngừng giây lát rồi nàng lại tiếp - Anh ơi! Nếu em có dối anh điều gì, anh cũng đừng giận em anh nhé! Em chỉ ao ước được gánh chịu gian hiểm chết chóc thay người em yêu...
                Thiếu nữ nói như mê sảng, khiến Hồng Lĩnh ngạc nhiên buông nàng ra, chưa kịp nói gì thì nàng đã đứng phắt lên bảo chàng vào chỗ nằm, và không quên dặn dò:
                - Anh cố nghỉ đi, mai còn dậy sớm lên đường cho khoẻ!
                - Nhưng...
                Thiếu nữ nhoẻn cười, rảo bước về phía Voòng Chí Plan không để chàng nói hết lời... Sáng mai, lúc Đại Sơn Vương tỉnh giấc... thì ánh mặt trời đã đầy tràn. Chàng liền tung chăn phóng tay ngồi lên, ngạc nhiên thấy trong người còn mệt, gân cốt mỏi nhừ. Lấy hết sức, chàng vung tay mấy cái cho tỉnh hẳn, và đưa mắt nhìn quanh. Nhà sàn không một bóng người. Ngạc nhiên, chàng liền đảo quanh nhà, cũng không thấy bóng dáng Phượng Kiều, Voòng Chí Plan, Voòng Sềnh đầu cả. Một cơn gió lùa vào căn nhà trống phà vào mũi chàng một mùi thơm thoảng như trầm lẫn một thứ hương là lạ. Một ý nghĩ thoáng qua óc, Đại Sơn Vương quay phằt lại bên bếp lửa. Lửa hầm đêm đã tắt, than còn đỏ lực, những thân cây củi đã cháy gần hết. Chàng vội ngồi xuống, lôi những than củi hầm ra, xem xét mấy khắc, chợt khẽ bật lên:
                - Thôi đúng rồi!
                Củi hầm vùng Yên Báy Lục Yên Châu thường dùng bằng thân cây "Gù hương" rất thơm. Nhưng trong bếp chỉ có một vài thân "Gù hương" còn toàn cành "Ngoã" một loại cây rừng có quả lớn như "Sung". Dưới xuôi, cách đây gần mười năm, đã có lần nằm bên bếp lửa mạn Vân Nam, chù nhà vô tình cho mấy thân "Ngoã" vào hầm sưởi đêm, khiến cả nhà ngủ thiếp đi.
                - Hừ! Thì ra nàng đã mưu tính cùng Voòng Chí Plan! Trách nào tối quạ..
                Chàng tướng núi Thập Vạn Đại Sơn lẩm bẩm khẽ, đoạn ném mạnh thanh củi trên tay xuống bếp than.
                - Đi đã lâu rồi khéo giờ này...
                Mắt sáng lên, chàng tướng núi vùng rảo bước ra máng nước, úp mặt xuống cho tỉnh hẳn, đoạn xách sằc nhảy ba bước xuống đất.
                Chàng ra tàu ngựa, nhưng tới nơi, chỉ thấy tàu không, ngựa chàng đã biến đâu mất. Còn đứng suy nghĩ chưa biết tính kế nào, chợt thấy một gã thổ dân thập thò ngoài nương ngó về nẻo tàu ngựa. Vừa thấy Đại Sơn Vương nhìn ra, hắn thụt ngay đầu vào bụi cây lẩn mất.
                Không chậm trễ, Đại Sơn Vương băng mình đuổi theo. Nhưng tới được đầu nương, thì hắn đã chạy tới giữa nương sắp khuất vào bụi rậm rì.
                - Đứng lại, ta hỏi! Không chết ngay!
                Mặc, hắn vẫn băng mình đi. Đoàng..... đoàng... Đại Sơn Vương đã rút súng ra, lảy cò, tung chiếc khăn trên đầu gã thổ dân. Hắn ta kinh hoàng, sờ lên đầu, và đứng ngay lại, quay mặt lấm lét nhìn Đại Sơn Vương. Chẳng xa lạ, chính gã chủ nhà.
                - Ngựa ta đâu? Dắt ra ngay, không chớ trách!
                Đại Sơn Vương trừng mắt hỏi, súng vẫn chĩa vào hắn. Anh chàng H mông luống cuống:
                - Bẩm... bẩm... Nữ chúa và cô nương có truyền phải dẫn đi, nếu để cái quan có ngựa đi, nữ chúa sẽ trị tội tôi. Nhưng...
                - Sao?
                - Bẩm...
                Nóng ruột quá, Đại Sơn Vương nắm luôn cánh tay hắn lôi đi:
                - Đâu? Dẫn la đến chỗ giấu ngựa!
                Thấy chàng có vẻ dữ dội, anh chàng sợ hãi, không dám dối, phải líu ríu dẫn đi. Qua hết nương ngô đã thấy con ngựa đang gặm cỏ dưới gốc cây gần đấy. Nhanh như cắt. Đại Sơn Vương lao mình tới, nhảy vọt lên lưng ngựa không yên cương, thúc gót giầy vào hông, tế nước đại băng rừng xuống núi, thẳng nẻo Thác Bà, Thác Ông.
                Đại Sơn Vương vội xuống ngựa, cúi ngửi cỏ nhầu thấy còn thoảng mùi thơm hăng hắc, đoán ngay ngựa ai cũng vừa qua đây.
                - Chẳng biết đấy có phải Thác Bà, Thác Ông không?
                Đại Sơn Vương thầm nghĩ và còn đang phân vân chưa biết vượt cách nào, đã thấy xa xa một bóng thuyền độc mộc vụt hiện ra nhấp nhô trên ngọn thác từ phía thượng lưu.
                Trên thuyền, có một bóng người, tuy cách khá xa, đã nhận ra dáng đàn bà. Đại Sơn Vương thấy con thuyền vắt xoài trên ngọn thác đã chúc hẳn đầu lao xuống như tên, khiến chàng không khỏi hồi hộp thay cho người đàn bà trên thuyền, tuy đã từng vượt thác, chàng không còn lạ chi cảnh lên thác xuống ghềnh thập phần nguy hiềm, nhất là khi thuyền đổ thác. Nhưng người đàn bà có vẻ thiện nghệ lắm, chỉ trong nháy mắt đã thấy con thuyền rời xa ngọn thác đến mấy chục thước, và êm ả theo dòng lướt thẳng về phía chàng đứng.
                "Có tiền thì ở lầu ngà, Không tiền thời xuống Thác Bà, Thác Ông..." Tiếng người đàn bà vừa cất lên, trong vắt ngân dài giữa tiếng nước triền miên. Tới gần thì ra một thiếu nữ Kinh xinh xắn mặc quần áo đi rừng, bó sát lấy người, trông thon thon. Đại Sơn Vương hơi ngạc nhiên vì giữa vùng hoang dã lại thấy một cô gái Việt ăn mặc lối gái thành đô nhà sang. Thiếu nữ mỉm cười rất tự nhiên:
                - Này! Ông khách qua thác chứ? Có đi, để tôi ghé vào?
                Cả mừng, Đại Sơn Vương giơ tay vẫy:
                - Vâng... vâng... Cô làm ơn cho qua nhờ! May quá đang lo chưa biết sang thế nào...?
                Con thuyền từ từ áp bờ. Khuôn mặt hồng hào, mắt long lanh, miệng cười duyên dáng, cô gái bảo chàng:
                - Không thể chở ngựa qua được đâu! Lúc đổ thác nó hoảng loạn lồng lên, thì vỡ tan thuyền đó!
                Hồng Lĩnh tần ngần mấy khắc, đoạn khẩn khoản:
                - Tôi cần phải đi nữa, cần có ngựa đỡ chân cho nhanh. Thôi cô cố chở giùm, tôi xin ghì cho nó khói lồng!
                Thiếu nữ mỉm cười, nhìn con ngựa cao lực lưỡng:
                - Ông dám cam đoan ghì nổi nó?
                Hồng Lĩnh gật đầu, thản nhiên:
                - Vâng... đã có lúc hai tay tôi kìm hai ngựa. Cô cứ an tâm!
                Thiếu nữ tinh nghịch khen:
                - Chà! Sức ông khỏe nhỉ? Chắc làm giặc thì tốt lắm! Thôi! Mời ông!
                Hồng Lĩnh lẳng lặng dắt ngựa xuống thuyền. Ra tới giữa dòng, thiếu nữ bảo chàng:
                - Phải trói chặt chân vào cọc khi đổ thác. Nếu không sẽ bị bắn ra ngoài thuyền. Ngọn thác đàng kia còn cao và xiết hơn thác trên nhiều.
                Hồng Lĩnh đưa mắt kín đáo ngó cô gái lạ, khẽ hỏi:
                - Thưa cô, đây có phải Thác Bà, Thác Ông?
                Tay vẫn khua mái chèo, cô gái điềm nhiên.
                - Không! Thác đó lối gần Lục Yên Châu. Đây vào sâu nữa rồi. Cò thể gọi là... thác Cầu Mây.
                Nghe nói, Đại Sơn Vương tò mò ngắm thiếu nữ, nhưng thấy nàng ta vẫn thường, chàng cũng lấy giọng thản nhiên:
                - Thác Cầu Mây? Vậy đây chính là miền Cầu Mây?
                - Vâng.
                Cô gái ngước mắt lên, cười... bí mật:
                - Ông muốn tới Cầu Mây? Vậy chúng ta cùng đi cũng tiện. Tôi cũng xuôi Cầu Mây đây!
                Đại Sơn Vương ngạc nhiên tò mò nhìn cô gái lạ, nghi nghi hoặc hoặc, toan hỏi, thì cô gái đã điềm nhiên trỏ về phía trước bảo:
                - Sắp tới thác Cầu Mây rồi!
                Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn theo ngón tay cô gái trỏ, thấy một ngọn thác nhô cao hẳn trên mặt nước, chắn ngang hạ lưu. Một dãy đến ba bốn ngọn ngước vắt ngược lên, trắng xóa. Ngọn chính giữa cao ngất hơi bằng đầu, nằm ngang. Còn mấy ngọn đều nhọn hoắt, bên sườn lởm chởm đá tai mèo ẩn hiện sau làn nước tung mờ bụi trắng xóa.
                - Phải vượt ngọn cao nhất.
                - Sao không vượt ngọn bên cạnh, hay cho thuyền vào kẽ, có hơn không?
                Thiếu nữ mỉm cười:
                - Mỗi năm thác này đã cuốn nát rất nhiều thuyền mảng vì không lái nổi lên ngọn cao nhất đó.
                Đại Sơn Vương đã từng vượt nhiều thác hiểm, nghe thiếu nữ nói, ý thức ngay được hết cái nguy hiểm của ngọn thác trước mặt. Thấy cô gái thản nhiên như không, chàng tướng lạc thảo bất giác buột miệng khen:
                - Có lẽ cô quen nhẵn thác này rồi nhỉ? Nghe cô tả rành mạch mà rợn cả gáy!
                Con thuyền độc mộc trôi thẳng tới dãy thác, cách chi chừng non trăm thước, thiếu nữ vẫn bình thản chèo cho thuyền vào luồng nước giữa. Càng tới gần thác càng sừng sững cao như bức trường thành trắng xóa, đổ ầm ầm càng ghê rợn. Con ngựa bắt đầu kinh hoảng, chỉ chực cất vó lên khiến Đại Sơn Vương phải nắm dây cổ, ghìm lại.
                Thiếu nữ chăm chú nhìn ngọn thác, chợt quay lại bảo Đại Sơn Vương:
                - Trói chặt chân cả vào cọc đi thôi! Sắp lướt vào luồng rồi.
                Dứt lời, nàng ta lấy chân ghì bơi chèo, và cúi xuống thòng dây thừng thắt cổ chó, xích chặt hai ống cẳng vào cọc. Chàng tướng núi còn đang tần ngần, thì thiếu nữ giục:
                - Nhanh lên! Trói chân ngựa trước đã rồi hãy trói chân người! Và cứ để mặc tôi đổ thác!
                Đại Sơn Vương lưỡng lự:
                - Tôi ghìm được mà...
                Cô gái lắc đầu, mỉm cười:
                - Nhưng ông quên đang đứng trên chiếc thuyền mỏng manh và nó sẽ đảo như lên đồng trên ngọn thác! Thôi! Chịu khó cho chân vào tròng một chút! Có phải trói nộp mình cho ai mà ngại!
                Đại Sơn Vương hơi cau mày, nhìn cô gái lạ, nhưng thấy đã gần tới thác đổ mạnh đành lẳng lặng cúi xuống trói chân ngựa và chân mình vào cọc. Thiếu nữ thấy thế, reo lên có vẻ thích thú:
                - Có thế chứ! Nào ! Vào luồng! Ông cứ đứng cho vững nhé!
                Con thuyền độc mộc lao vụt vào luồng nước xiết, trôi đi băng băng. Chớp mắt đã tới chân thác. Vì con thuyền sẽ quay ngang, nhất định vào nguồn nước kẻ. Nhưng thiếu nữ đã nhanh như cắt, chân kìm bơi chèo, cùng lúc, cúi xuống, hai tay nắm hai cuộn thừng đầu có móc sắt lớn, khoa vòng, ném vút sang hai bên sườn. Chỉ thấy thoáng cái, hai tay cô gái đã giữ chặt hai sợi thừng, căng thẳng, đầu móc sắt đã ngậm phắt lấy mép đá ngầm hai bên, ghim vững con thuyền ở giữa luồng, vừa lúc thuyền như dừng lại, sắp quay ngang để trôi vào nguồn kẻ. Đại Sơn Vương đã vượt lắm thác, nhưng chỉ được thấy lái đò dùng con sào có móc kéo thuyền lên thác, chứ chưa được thấy ai dùng dây móc lạ lùng và tài tình đến thế. Vừa ngó qua hai sợi thừng căng hai bên, chàng đã bật lên mấy tiếng khen:
                - Chà! Tuyệt kỹ!
                Thiếu nữ mỉm cười, nhẹ hất đầu cho những sợi tóc lòa xòa trên trán bay ngược lên, và đứng yên, bảo Đại Sơn Vương:
                - Nào! Ta lên chứ!
                Chàng tướng núi cười, cao giọng cho tiếng khỏi bị ghìm giữa tiếng thác chuyển ầm ầm:
                - Còn chờ gì nữa! Lên thôi!
                Thuyền lên tới ngọn thác, lúc đó, cổ tay nàng đã cuộn gần hết dây thừng, và nàng đã ngồi hẳn xuống, hai cổ tay buông thấp ra hai bên mạn thuyền. Đại Sơn Vương nhìn xuống chân thác bên kia, thấy sâu thẳm, nước đổ như tuôn, dưới cùng có một tảng đá lớn chắn ngang, bắt quẹo luồng nước sang một bên. Nếu đổ quang, không nhanh lái, thuyền ngoặt sang, sẽ đâm vào đá tan tành. Thiếu nữ quay nhìn Đại Sơn Vương:
                - Ông thấy thế nào? Thác đổ cao thế, liệu không trói mình chặt vào thuyền, có thể bị hất tung ra ngoài không?
                Đại Sơn Vương cười, gật gù:
                - Thác này... hiểm thật! Phải tay thạo lắm mới qua được, nếu không...
                Chợt nhớ tới Phượng Kiều, Voòng Chí Lan, chàng vùng hỏi:
                - Thế vào Cầu Mây, chỉ có lối này sao?
                - Còn lối khác nữa chứ. Nhưng... Ông hỏi làm gì?
                Đại Sơn Vương đăm đăm nhìn thiếu nữ:
                - Từ sớm giờ, có ai qua lối này chưa?
                Thiếu nữ lơ đãng nhìn xuống chân thác, chợt quay lại, giọng có vẻ ỡm ờ:
                - Này ông! Bây giờ muốn xuống chỉ việc thả dần dây ra!
                Dễ lắm! Nhưng trước khi xuống, tôi có điều muốn hỏi. Hồng Lĩnh ngạc nhiên nhìn nàng không chớp mắt chưa kịp nói, thì cô gái đã vùng thay đổi nét mặt, nhếch miệng cười... quái gở:
                - Này! Đại Sơn Vương! Đơn thân dám tới Cầu Mây, chưa biết đã bị bắt sống, trói sống mình trên ngọn thác này sao? Câu nói bất ngờ của cô gái lạ, khiến chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn Vương bất giác giật mình, chớp mắt định thần nhìn cô gái. Lúc đó, nước dàn khắp thuyền. Cô gái cúi mặt xuống bả vai, và từ từ ngẩng lên, cặp mắt lạnh lùng chiếu thẳng vào Đại Sơn Vương.
                - Khách Giang Hồ!(?) Chàng tướng núi Thập Vạn Đại Sơn khẽ bật lên tiếng sửng sốt, vì cô gái lạ trên thuyền độc mộc, trong khoảnh khắc, đã thay đổi hẳn nét mặt, một khuôn mặt khác đã lộ ra, khuôn mặt người thiếu nữ trên tàu Hà Nội - Yên Báy.
                Thiếu nữ giơ tay vuốt nhẹ mấy giọt nước lau nốt nét hóa trang cuối cùng lên mặt, cặp mắt sắc như dao cau:
                - Đại Sơn Vương! Ta bắt sống ngươi từ phút này! Hãy theo ta vào gặp Voòng Lầu và đồng bọn lần cuối cùng trước khi đem nộp ngươi cho chính phủ bảo hộ Đông Dương!
                Dứt lời, thiếu nữ quay nhìn về phía tả ngọn thác, tay khua như làm hiệu cho thủ hạ phục trên bờ sẵn bơi ra áp dẫn. Chợt nàng quay phắt lại, hơi cau mày liễu. Chàng tuổi trẻ đã cho tay vào áo nhanh như cắt, cặp súng đã nằm gọn trên tay Thần Xạ. Đại Sơn Vương chĩa ngọn súng vào thiếu nữ, miệng nhếch cười gằn:
                - Hừ? Cô nàng tưởng lừa bắt ta dễ vậy sao? Ngồi im! Và theo lệnh tạ.. nếu không...
                Thiếu nữ nheo mắt ngó Đại Sơn Vương và vùng cất tiếng cười khanh khách:
                - Nếu không... thì ngươi sẽ bắn ta, để thuyền không người lái lao xuống thác đập vào đá ngầm chứ gì? Thôi! Phí đạn làm chi? Để ta buông thừng cho tiện!
                Dứt lời, thiếu nữ làm điệu định nới tay ghìm thừng. Hồng Lĩnh bất giác đưa mắt ngó xuốngg chân thác hiểm nghèo. Thiếu nữ thản nhiên, giọng chế giễu:
                - Sao? Vui lòng chứ? Đại Sơn Vương ngang tàng mà! Coi cái chết như trò chơi nhưng chết đi để... Phượng Kiều cho ai? Lại còn Voòng Lầu...?
                - Im ngay!
                Hồng Lĩnh giận dữ, quát lớn, khiến thiếu nữ lại phá lên cười lanh lảnh:
                - Chà! Oai quá! Nhưng này... Phượng Kiều đang chờ đó! Trại giam hang đá thác Cầu Mây, cũng gần đây thôi!
                Nghe nói tới ngươi yêu, Đại Sơn Vương giật mình hỏi nhanh:
                - Ngươi bảo Phượng Kiều...
                - Vào địa khu và bị bắt từ hồi sớm. Vào cùng Voòng Chí Plan. Hai cô nàng dám vượt thác này đấy. Chính người cho đi trước mở đường?
                Viên tướng ngang tàng không nén được một tiếng thở dài, chậm chạp cho súng vào người, chàng tướng núi khẽ lắc đầu:
                - Ta đã quyết một mình lên đây cứu Voòng Lầu. Nhưng cô bạn dó đã xông củi mê giữ ta lại Lục Yên Châu, để lẻn vào đây trước.
                Thiếu nữ thấy Đại Sơn Vương hạ súng, dáng buồn buồn khi nghe tin hai thiếu nữ bị nguy, bất giác mỉm cười, tinh quái:
                - Được, biết điều đó! Vậy khá ghìm chân cho chắc để ta đổ thác nào!
                Dứt lời, cô gái lạ lùng từ từ nới thừng cuộn quanh cổ tay ra. Mỗi cái giở tay con thuyền độc mộc lại trườn đi, chúc mũi xuống hướng chân thác. Lúc này mới thập phần nguy hiểm và Đại Sơn Vương mới thêm phục tài vượt thác của thiếu nữ.
                - Cẩn thận! Lao đấy!
                Vừa quát dứt tiếng, giữa cơn thác đổ ầm ầm, thiếu nữ khoa mạnh vòng tay cho móc sát rời mép đá, giật mạnh thừng về dòng thuyền, trong khi chân cẳng vẫn ghìm thật chắc. Hai dãy núi thành chạy dần ra xa bờ. Thuyền xuôi độ mấy trăm bộ nữa, bắt đầu trôi vào một nguồn nước trong veo, lặng lờ, nhìn xuống thấy cát, sỏi vàng lớp lớp rải khắp lòng thác, từng đoàn cá chầy hình thoi bơi lượn tung tăng.
                Hai bên bờ hoa thơm cỏ lạ mọc từng khóm lớn, sắc thắm muôn màu nổi rực lên giữa lá xanh phủ đầy ánh nắng.
                - Chà ! Cảnh đẹp thật!
                Đại Sơn Vương khẽ bật lời khen, và say sưa ngắm phong cảnh Cầu Mây như một khách nhàn du hái thuốc tưởng mình lạc vào dòng suối Ngọc Tuyền. Mải ngắm cảnh đẹp, chừng giật mình nhớ lại thì người thiếu nữ chèo thuyền đã không còn thấy tung tích đâu nữa. Suy tính mấy khắc, chàng liền áp thuyền sát bờ, buộc vào bụi cây đoạn dắt ngựa rời thuyền. Lối mòn uốn quanh, đưa dần tới Cầu Mây, ngựa lên dốc cao, đến sát đầu cầu đứng phắt lại.
                Cầu kết toàn bằng mây, treo vắt qua thác nước. Đứng im trên đầu cầu, quan sát khắp vùng, tuyệt nhiên không một bóng người. Suy tính mấy giây, Đại Sơn Vương định hãy cứ vượt cầu, tiến đến chỗ có mấy mái ngói xem sao. Quài tay giật mạnh cầu mây, thấy khá chắc chắn, chàng liền giật cương thừng cho ngựa qua cầu. Dưới sức nặng của người ngựa, chiếc cầu treo mỏng manh như đưa võng. Ngựa tới giữa cầu chênh vênh, thình lình chàng tướng trẻ dừng phắt lại, nghiêng đầu nheo mắt lắng tai nghe. Từ phía trước chợt có tiếng cồng vụt nổi lên, rền rĩ vang âm khắp lòng rừng núi. Rồi phía tả, phía hữu, sau lưng tiếng cồng đua nhau nổi theo, rền rĩ, rồi cùng đổ hồi ngừng bặt, dư âm u uẩn ngân dài trong buổi trưa hè u tịch. Đại Sơn Vương còn đang ngạc nhiên, chợt nghe tiếng động sau lưng, quay nhìn lại thấy mươi lăm bóng kỵ sĩ từ đâu đổ tới và dừng lại đầu cầu bên này, dàn thành hàng hai, ghìm cương chờ đợi. Phía đầu cầu bên kia cũng có toán kỵ sĩ dàn hàng như vậy.
                Cả hai toán kỵ sĩ kẹp hai đầu cầu, đứng im không nhúc nhích, không nới một lời, toán sau lưng vì mặt hướng về phía Đại Sơn Vương nên chàng nhìn rõ mặt kẻ nào cũng gân guốc đanh thép, nửa như lạnh lùng nửa nhự.. không có cảm xúc gì cả. Cả bọn đều đeo dao từng, cung, nỏ, súng ống. Đại Sơn Vương nhìn qua đã biết ngay toàn những kẻ thiện chiến, gan góc và có kỷ luật khác thường. Chàng không thể đoán được dữ lành, bị kẹt giữa lưng cầu, đành ngồi im trên ngựa xem bọn này làm trò gì. Nhưng không lâu... một hồi cồng lại rền rĩ nổi lên. Và tiếng đổ hồi vừa dứt thì phía trước, một kỵ sĩ đã phất tay một cái, hai hàng ngựa trước bước một tiến đi. Đại Sơn Vương còn đang tần ngần thì phía sau, đoàn kỵ sĩ cũng rục rịch tiến ngựa lên cầu.
                Không do dự nữa, Đại Sơn Vương giật phắt cương thừng, cho ngựa qua cầu. Cầu treo vắt vẻo, đưa võng nhịp nhàng, đổ bóng người ngựa xuống mặt nước rung rung. Khỏi cầu mây, Đại Sơn Vương cứ theo toán lạ mặt trước, noi theo đường mòn, liến về phía có những mái ngói ẩn hiện giữa cành lá. Thỉnh thoảng, toán trước lại thình lình bỏ đường vòng một đoạn khá xa ngoài rừng cây rồi lại bắt vào lối cũ. Đại Sơn Vương đi qua, đoán ngay những khúc phải rẽ vòng, hẳn là hầm hố cạm bẫy. Quanh mình tuy không một bóng người qua lại, nhưng Đại Sơn Vương thỉnh thoảng đưa mắt nhìn lên cây, thấy khả nghi, biết là trên ngọn cây vẫn có quân canh ngụy trang màu lá, bí mật kiểm soát khắp vùng.
                Biết mình đã chính thức tiến sâu dần vào địa khu của Khách Giang Hồ, Đại Sơn Vương không khỏi khâm phục sự tổ chức khéo léo của kẻ địch đã biến địa khu thành tử địa của kẻ ngoài vào mà vẫn giữ trọn vẹn được cảnh sắc thiên nhiên bình thản ngoài mặt. Trong óc có sẵn chủ định, viên tướng lạc thảo ngang tàng vẫn điềm nhiên ngồi trên lưng ngựa, theo quân lạ tiến vào mãi. Tới gần khu nhà gạch sườn hồi, toán tới trước không tiến thẳng vào nhưng lại vòng đôi ra sau núi. Chợt một hồi cồng lại rền rĩ nổi lên, lần này dồn dập, đủ mọi nhịp lạ lùng thôi thúc. Đại Sơn Vương nghe vừa dứt hồi cồng, đã thấy hai toán kỵ sĩ sau, trước vùng quất ngựa nhạy tản bốn bề, thoáng cái đã biến mất, để trơ viên tướng núi đứng bên cánh rừng thưa. Còn đang ngạc nhiên đã thấy, từ phía núi đá một bóng người cao lớn cởi trần trùng trục vỗ ngựa chồm tới, như gió lốc. Đại Sơn Vương ghìm ngựa đứng im, nheo mắt nhìn người cao lớn, khi hắn xông tới gần, chàng phải lấy làm lạ vì thân hình cao lớn vạm vỡ, khác thường của hắn. Bắp thịt khắp mình nổi như thừng chão, tay khoa thanh dao rừng to bản sáng quắc, vừa vỗ ngựa lướt tới, người cao lớn, mặt mũi dữ tợn, chẳng nói chẳng rằng, chém xả luôn xuống đầu Đại Sơn Vương.
                Chàng vừa né tránh, thì một đường dao thứ hai đã lia ngang cổ, chàng vội hụp đầu xuống nhanh như cắt, lưỡi dao phạt lia sát đầu, hơi gió lạnh toát tạt xuống khiến Đại Sơn Vương lượng ngay được sức khỏe dị thường của người lạ. Thấy chàng tránh luôn hai đường dao vũ bão, người cao lớn hình như nổi giận, mín môi múa tít thanh đao rộng, thúc ngựa sát vào chém tới tấp luôn mấy đường rất hiểm, chỉ chực xả đôi địch thủ. Đại Sơn Vương vùng nổi giận trước sự ỷ khoẻ của hắn ta.
                Tránh xong mấy nhát dao. Viên tướng núi xung huyết hình như muốn trổ thần oai cho địch thủ phải nể sợ, nên chàng giở luôn ngón tài tình, vỗ ngựa chồm tới bên sườn địch, cho con vật dựng đứng hẳn lên, hai đầu gối chàng kẹp chặt lấy hông con vật, người vươn ngã hẳn vào bụng địch, chặt ngược lên một nhát tay vào đúng tay dao vừa hạ xuống. Thế võ giang hồ tuyệt xảo của viên tướng lạc thảo khét tiếng khiến người dữ tợn không còn biết xoay trở sao kịp nữa, bị cánh tay thép nguội hất ngược mạnh không ngờ khiến thanh dao rừng tung bổng lên cao.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #9
                  Hồi 7 - Khách Giang Hồ Bí Mật (tiếp theo)

                  Khi ngựa Đại Sơn Vương giậm chân trước xuống đất thì chàng tướng núi đã ngồi ngay ngắn trên lưng, lướt ra xa, giơ tay đón bắt thanh dao từ cao rơi lộn xuống. Trước sự tài tình của chàng, người dữ tợn có vẻ không ngờ. mở to mắt nhìn, chưa biết xử trí ra sao thì Đại Sơn Vương đã thúc ngựa tới chém luôn vào vùng không khí trước mặt hắn mấy nhát dao nhẹ, miệng nhếch cười.
                  - Ngươi là ai? Phỏng tránh nổi một đường dao của ta không? Mau về gọi Khách Giang Hồ ra đây thử sức. Ta đơn thân tới dây chỉ muốn bắt sống Khách Giang Hồ thôi!
                  Dứt lời chàng vút mạnh lưỡi dao về phía rừng bên. Dao bay đi cắm phập vào một cây sau ngựa người cao lớn mấy thước. Hắn vùng nổi giận, lủi luôn ngựa lại bên thân cây lấy sức nhổ dao ra, khoa luôn mấy vòng trên đầu miệng quát lớn:
                  - Quân cung nỏ đâu! Bắn chết nó cho ta!
                  Tiếng quát ồm ồm vang truyền, vừa dứt, đã thấy từ phía trước, một tên người phóng ngựa ra, vai đều đeo mộc mây đan, tay lăm lăm kẻ cung người nỏ đến mười mấy người. Ngựa phóng tới cách chỗ Đại Sơn Vương chừng hai mươi thước, một tên đi đầu giương phắt cung bắn vụt ra một mũi tên vào Đại Sơn Vương. Trước phút hiểm nghèo, viên tướng trẻ vừa kịp đảo mắt quan sát đia thế, chợt thấy tên vút tới liền hụp đầu tránh khỏi, và lập lức đánh ngựa vào rừng cây cạnh đấy luồn ngay sau lưng người dữ tợn, định khóa sống hắn làm mộc che thân. Nhưng có lẽ hắn tinh quái đã biết ý của Đại Sơn Vương, nên ngựa chưa phóng tới, hắn đã cho ngựa chạy thẳng về phía quân cung nỏ. Thấy chàng tránh thoát mũi tên, cả mấy gã đồng loạt lướt lên, nhả luôn mấy phát tiếp. Đại Sơn Vương vừa kịp ẩn sau một thân cây, thì phía rừng sau, đã thấy một toán cung nỏ nữa lướt tới.
                  Trong lúc Đại Sơn Vương bị lọt giữa hai phía quân cung nỏ, trên một sườn đồi cao, ẩn sau một cành cây rủ, thiếu nữ lái thuyền độc mộc và đám thủ hạ khá đông đã chú ý theo dõi.
                  - Chà! Quả không hổ danh Đại Sơn Vương! Nhưng kiêu hãnh quá!
                  Không thèm hạ địch thủ! Không ngờ tài sức như Nùng Siu Khoằn mà bị hạ nhục dễ dàng thế.
                  Người đàn ông trong đám thưộc hạ nói. Người đó vừa dứt lời, chợt thiếu nữ khẽ kêu lên:
                  - Thôi nguy rồi! Siu Khoằn nổi giận hạ độc thủ rồi, Đại Sơn Vương bị loạn tiễn tiếp đến nơi rồi.
                  Dứt lời, thiếu nữ quay phắt lại, nhanh giọng:
                  - Nổi cồng mau!
                  Nhưng người đàn ông đã mỉm cười, khoan thai:
                  - Khoan đã! Để xem hắn đối phó cách nào! Ta nghe nói hắn từng xông pha nhiều trận, chưa hề bị thương nhẹ, chả lẽ lại bị loạn tiễn dễ đến thế ư? Em hãy đứng yên!
                  Quả nhiên dưới rừng, lọt giữa hai cánh quân cung, Đại Sơn Vương lúc đó mới tỏ gan dạ tài nghệ phi thường. Trong khi hai đám quân ập tới, thấy quân sau còn xa hơn, chàng nhanh tay lập tức vỗ ngựa tiến thẳng tới ngựa quân phía trước mặt.
                  Mấy tên đi đầu đã kịp thời giương cung nỏ, ngắm thẳng vào ngực Đại Sơn Vương cùng loạt buông dây. Ai cũng đinh ninh phen này tài giỏi đến mấy cũng bị loạt tên trúng ngực. Nhưng Đại Sơn Vương đã lộn phắt xuống hông ngựa, tay chân quặp dính lấy bụng con vật, khiến loạt tên vút trên lưng ngựa, mất tăm. Trong lúc bọn cung thủ còn đang lúng túng ngơ ngác, chưa kịp cử động tiếp, thì ngựa đã xốc tới. Đại Sơn Vương vươn tay kéo mạnh tên đi đầu xuống chân ngựa theo mình. Bị kéo quá mau, hắn không còn kịp tránh đỡ, thân hình vừa lăn xuống, đã bị luôn một quả thôi sơn, nằm quay ra, và Đại Sơn Vương giật ngay lấy mộc, dao. Vừa khi cả bọn kịp thời giương cung hướng cả vào Đại Sơn Vương, và bọn sau cung vừa ập tới. Một loạt tên vút ra, như gió, nhưng Đại Sơn Vương đã lăn tròn luôn mấy vòng ra xa và hé mắt quan sát địa thế. Quân địch đã dồn tụ cả về một phía và thấy chàng lăn khiên, che kín phía trước, mấy tên liền phóng ngựa vòng ra phía sau lưng.
                  Võ thuật cổ truyền tuyệt diệu của Việt Nam đã được viên tướng lạc theo biểu diễn hết sức tuyệt kỹ. Địch vừa thấy hé bóng thì đã thấy khuất, cứ thế như ẩn mình giữa "hai cái vỏ sò thép". Bao nhiêu tên bắn ra chỉ cắm vào mặt khiên hết, cung nỏ chưa kịp bắn tiếp thì Đại Sơn Vương đã tiến tới chân ngựa mất rồi.
                  Cả bọn thấy tài lăn khiên của Đại Sơn Vương ghê gớm quá, chưa kịp ngó bên này, chàng đã vút sang bên kia, cứ lăn bên chân ngựa, chém nhầu thành thử chỉ còn biết quẩn quanh, vướng cản nhau thôi.
                  Từ nãy đến giờ, người cao lớn dữ tợn Nùng Siu Khoằn vẫn ngồi xem trận thế vô cùng bất lợi cho quân kỵ, liềm bụm tay lên miệng, hét lớn:
                  - Xuống ngựa cả! Vứt cung nỏ đi!
                  Bọn kỵ binh vội nhảy cả xuống đất, tay mộc tay đao, nhào cả lại vây Đại Sơn Vương vào giữa. Siu Khoằn cũng đã lướt tới, tay cầm dao bản rộng, vừa đánh vừa đốc trận, quyết hạ. Nhưng Đại Sơn Vương đã cất tiếng cười ngạo nghễ:
                  - Được rồi! Biết điều xuống ngựa đó! Coi đây! Miệng nói, tay đao đã múa tít, khiên vành vùn vụt, người ẩn sau khiên, thoáng hiện, thoáng ẩn, đánh Đông, đỡ Tây, lia Nam, phạt Bắc, chỉ mấy phút đã thấy mấy tên ngã ngay, ôm tay dao, nhăn nhó, và vòng vây dãn dần về một phía trước tài nghệ điêu luyện của Đại Sơn Vương.
                  Giữa lúc đó, thình lình từng loạt súng trận nổi lên, rộn rã, náo động cả một góc rừng. Cả bọn đang lùi, chợt ngưng cả lại, nhìn về phía súng nổ, có vẻ ngơ ngác. Đại Sơn Vương vội dừng tay nghiêng tai nghe súng và liếc mắt về phía địch. Nét mặt ngạc nhiên của cả bọn càng khiến chàng ngạc nhiên thêm, không rõ chuyện. Từ phía súng nổ, một người phóng ngựa tới, tay khua ngọn súng, miệng hô to:
                  - Có quân H mông tiến đánh địa khu! Lịnh truyền phải chặn lại ngay!
                  Người đó vừa hò dứt tiếng, Nùng Siu Khoằn lừ mắt về phía Đại Sơn Vương, đoạn quát lớn:
                  - Lên ngựa! Tiến lên chặn đánh quân H mông!
                  Cả bọn lập tức giắt dao, lên yên, khua súng ngang đầu, theo Siu Khoằn phóng thẳng về mạn có tiếng súng. Còn lại một mình, Đại Sơn Vương cau mày đứng trông theo mãi tới lúc người ngựa khuất hắn về phía đồi có mái ngói. Tiếng súng dội lẫn lén và thình lình im bặt rồi tiếng cồng lại nổi lên, vang khắp núi rừng.
                  - Quân H mông! Hay là...
                  Đại Sơn Vương lẩm bẩm một minh, sực nbớ tới nữ chúa Voòng Chí Plan, không chậm trễ, lập tức nhẩy phắt lên lưng ngựa, phóng đến vùng súng nổ.
                  Lướt ngang qua rặng đồi có mái ngói, đã nghe gần đấy có nhiều tiếng reo hò, Đại Sơn Vương lần theo tiếng động, vượt nửa cánh rừng nữa, tới một ngọn suối rộng chạy giữa một thung lũng hẹp ngăn hai lớp rồi cây thưa. Chàng cho ngựa bước chậm, chợt nhìn lên thượng lưu, mạn Tây Bắc thấy lố nhố nhiều bóng người ngựa bên sườn đồi.
                  Đại Sơn Vương lập tức men bờ suối ngược thẳng tới. Còn cách chừng hơn trăm thước, chàng liền dừng ngựa khuất dưới một càng cây rủ bên suối, rút ống nhòm quan sát. Vừa lùi qua, Đại Sơn Vương đã rõ ngay hai bên dang sửa soạn giáp chiến. Quân địa khu đóng bên này suối đang bố trí phân công, người ngựa chạy ngang chạy dọc ẩn hiện dưới sự điều khiển của thiếu nữ đã lái thuyền độc mộc đưa Đại Sơn Vương vào địa khu. Quân trong thấp thoáng bên sườn đồi củng cố hàng trăm quân kỵ, còn quân bộ ẩn chỗ nào chưa thấy.
                  Quân bên ngoài vào đã dừng lại bên kia bờ suối, cũng đang sửa soạn vượt suối đánh sâu vào địa khu. Đại Sơn Vương không khỏi ngạc nhiên vì nhìn qua y phục, thấy nhiều loại khác nhau. Toán thì mặc quần áo chàm H mông, toán toàn người Dao Cao Lan, Sơn Đầu, Mán Cóc, lại tháp thoáng cả bóng lính dõng, tất cả đều cưỡi ngựa trận.
                  Ngoài ra lại còn khá đông thổ dân cỡi ngựa thồ thấp, trông đầy vẻ ô hợp. nhưng nhìn ký, thấy đội nào vào đội đó, súng ống cung nỏ đao gươm tua tủa, không kể thổ dân lớp sau phỏng chừng cũng hơn trăm quân kỵ, trông cũng có vẻ thiện chiến không kém quân địa khu. Đại Sơn Vương nhìn mãi, nhưng chưa thấy người điều khiển toàn quân.
                  Chợt từ phía trong một hồi cồng lại nổi lên, vừa dứt, đã thấy thiếu nữ lái thuyền độc mộc trước phóng ngựa lên sát bờ suối, theo sau có Nùng Siu Khoằn cùng một gã cao lớn nữa. Ngay lúc đó từ giữa đám quân ngoài, sau lùm cây um tùm một bóng ngựa cũng phóng lên, theo sau có hai người cao lớn. Cả ba đều mặc quần áo sơn cước, tới gần bờ suối dừng lại.
                  - Voòng Chí Plan kìa! Cả Voòng Sềnh nữa!
                  Đại Sơn Vương bật kêu khẽ, lập tức cất ống nhòm, kín đáo len lỏi cho ngựa tiến gần "khu chiến". Đằng kia, Voòng Chí Plan vừa phóng ngựa lên, thiếu nữ lái thuyền độc mộc đã chỉ tay sang, cao giọng:
                  - Tướng quân nào, hóa ra lại chính cô nàng! Vừa thoát chạy đã kịp họp quân tới đây! Sao, cô nàng còn muốn chi nữa?
                  Giọng đượm giễu cợt của thiếu nữ, khiến Voòng Chí Plan bừng sắc giận, cau mày, chỉ tay lớn tiếng:
                  - Ta không ngờ Khách Giang Hồ, lại hèn nhát đến thế, ỷ mạnh xó rừng này, dụ hai người đơn thân! Biết điều hãy trao trả Phượng Kiều, Voòng Lầu ngay, nếu không ta quyết đánh vào tận sào huyệt!
                  Thiếu nữ cười khanh khách:
                  - Cô nàng dữ quá nhỉ! Nhưng xin hỏi việc riêng giữa chúng ta với Đại Sơn Vương có quan hệ gì tới nàng, mà nàng hăng hái thế? Mỗi bên một cõi núi, chúng ta chưa hề động chạm tới đất nàng mà!
                  Thấy cô gái có vẻ nói móc, Voòng Chí Plan sẵng tiếng:
                  - Không nhiều lời vô ích! Hãy trả hai người của ta đây!
                  - Của nàng? Nàng điên sao? Của anh chàng Đại Sơn Vương chứ!
                  Thiếu nữ quí tộc H mông đỏ mặt giận, chưa kịp quắc mắt mắng, thì thiếu nữ địa khu đã mỉm cười, ỡm ờ, tiếp:
                  - Mà sao lại bảo nhiều lời vô ích? Ích lắm chứ! Cô nàng biết đâu Đại Sơn Vương bị các nàng xông củi mê, đã tỉnh và đã lên đường vào thăm... Phượng Kiều rồi! Anh chàng gan thật! Dám tới cho chúng ta bắt nộp cho chính phủ Đông Dương lấy thưởng!
                  Voòng Chí Plan buột miệng:
                  - Đã tới đây?
                  - Thì ta phải lừa bắt sống trên ngọn thác mà. Nếu để anh chàng lên cạn, kể cũng còn vất vả mới bắt được.
                  Thiếu nữ thản nhiên nói giọng đều đều, chợt phá lên cười có vẻ thích chí:
                  - Thế mới biết hùm thiêng đến lúc sa cơ, chẳng hơn nai ngố!
                  Trước khi bị bắt, còn định trổ tài thần xạ nữa. Nếu không bảo ngay có hai nàng vừa vào trước đã bị bắt rồi, nhất định anh chàng bắn chết kẻ lái thuyền cho thuyền lao vào ghềnh đá cùng chết cả!
                  - Im ngay! Trời! Thế ra các người đã mưu bắt Đại Sơn Vương rồi ư? Lũ hèn nhát!
                  Voòng Chí Plan vùng quát lớn, giọng run hẳn lên như phát điên vì tức giận, lo lắng. Mắt quắc lên như bốc cháy, người con gái quen sống mãnh liệt với thác gầm bão chuyển ngàn thiêng, quay phắt lại bảo Voòng Sềnh cận tướng, giọng trầm, nghe đầy vẻ chết chóc:
                  - Truyền quân chia ba mặt tấn công! Hai người đánh kẹp gọng kìm hai bên sườn lại, ta sẽ đánh thốc vào trung tâm. Gặp nhau tại hang đá giam người.
                  - Dạ.
                  Hai viên cận tướng cúi đầu, và nhanh nhẹn, rẽ phắt tay cương, quay về đám quân sau.
                  - Hãy khoan đã!
                  Tiếng người thình lình cất sang sảng, bay vụt tới theo tiếng vó câu rầm rập. Hai viên cận tướng H mông cũng buông thõng tay cương và hai nàng cũng quay phắt sang bên.
                  - Đại Sơn Vương!
                  Voòng Chí Plan bật khẽ kêu lên, như một lời reo, mặt thoáng ửng hồng. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn từ chỗ khuất hiện ra, bay ngựa tới giữa trận. Chàng tướng núi đánh ngựa xuống giữa dòng, ghìm mau lại, giữa hai thiếu nữ.
                  - Tưởng quân nào, hóa ra Voòng Chí Plan nữ chúa.
                  Chàng đưa mắt nhìn hai khuôn mặt hoa còn hừng lửa giận. mỉm cười bảo:
                  - Cô nương bất tất nhọc lòng! Xin hãy lui quân! Tôi đã quyết vào địa khu này, lẽ nào chịu để người khinh mạng. Vả chăng, hai bên xung đột, tránh sao được máu chảy đầu rơi... vô ích.
                  Và không đợi Voòng Chí Plan lên tiếng, Đại Sơn Vương quay sang phía thiếu nữ, nhếch miệng cười từ tốn ngang tàng:
                  - Khách Giang Hồ! Tên nghe có vẻ đàn ông, không ngờ lại là cô gái... đào tơ! Từ lúc lên đường tới Lục Yên Châu, ta đã được thừa tiếp mấy lần, xin có lời khen nàng và thủ hạ, quả tiếng đồn không sai. Giờ ta muốn gặp Phượng Kiều cùng Voòng Lầu, được chăng?
                  Chẳng hiểu sao, nghe Đại Sơn Vương nói giọng mỉa mai, "Khách Giang Hồ" chỉ mỉm cười, không tỏ vẻ chi giận dữ.
                  - Khá lắm! Địa khu ta sắn sàng đón tiếp. Đây tới hang đá Cầu Mây giam Phượng Kiều, Voòng Lầu chẳng còn xa, nếu tới được đó ta sẽ giao trả cho.
                  Thiếu nữ Kinh vừa dứt lời, nữ chúa H mông đã đánh ngựa lên sát bờ suối:
                  - Không được! Nhân tâm nan trắc, Đại Sơn Vương một mình một ngựa vào sâu sào huyệt, nếu không có những cuộc đấu chiến đường đường?
                  "Khách Giang Hồ" chợt cau mày liễu, quắt mắt nhìn nữ chúa H mông:
                  - Cô nàng không tin sự thẳng thắn của ta chăng? Nếu chủ mưu ám toán và lấy đông hạ địch, chắc giờ phút này Đại Sơn Vương đã nằm trong hang đá...
                  - Hay bị loạn tiễn thác bên thung rồi!
                  Đại Sơn Vương mỉm cười, tiếp lời khen. Khách Giang Hồ chợt đỏ mặt, có vẻ lúng túng mấy khắc, mới buộc miệng...
                  - Trận loạn tiễn đã vượt qua thượng lệnh! Chính ta cũng...
                  Nữ chúa Voòng Chí Plan thấy hai người nhắc tới trận loạn tiễn, thông minh hiểu ngay, vội nắm lấy ngay cơ hội.
                  - Đại Sơn Vương! Ông nên thận trọng... Dầu cô ta giữ lời, nhưng...
                  thuộc hạ rất có thể ám hại sau lưng!
                  Đại Sơn Vương thản nhiên:
                  - Cô nương cứ vững dạ lui binh! Ý tôi đã quyết, dầu có gặp hiểm nghèo, hai cánh tay này chẳng để ô danh.
                  Dứt lời, chàng tướng núi bướng bỉnh, vẫy tay bảo "Khách Giang Hồ":
                  - Ta đã sẵn sàng.
                  - Không thể được! Nếu ông tiến ngựa, tôi quyết cho lệnh chúng đánh thẳng vào địa khu!
                  Giọng nói cương quyết của Voòng Chí Plan khiến chàng tướng núi bất giác quay phắt lại, mặt thoáng nét ngơ ngác. Qua mấy khắc, vừa nhíu mày định lên tiếng, thì Voòng Chí Plan đã giọng điềm nhiên đến độ cả quyết không gì lay chuyển nổi:
                  - Nhưng... Nếu Khách Giang Hồ hạ nổi Chí Plan tại chỗ này, mới hòng tiếp Đại Sơn Vương một mình một ngựa!
                  - Được lắm! Nhưng bằng gì?
                  - Tùy ngươi lựa chọn!
                  - Ta để quyền ngươi!
                  Thái độ quyết liệt của hai thiếu nữ khiến chàng tướng núi vội đành nhượng bộ, bàn góp:
                  - Dao rừng! Hai bên phải cho quân lui hai trăm thước. Cấm dùng súng!
                  Không lưỡng lự, hai thiếu nữ rút phắt dao rừng khoa tay cho quân lui cả lại sau lưng.
                  - Khách Giang Hồ! Hãy coi đây!
                  Voòng Chí Plan vỗ ngựa phăng xuống suối cùng lúc "Khách Giang Hồ" cũng giục ngựa tiến lên. Trận đấu ngay khắc đầu đã thập phần ác liệt. Hai cô gái trổ luôn những thế võ chân truyền, dao khoa loang loáng, đánh nhau từ lòng suối lên bờ, quần đảo xoắn lấy nhau như hình vớt bóng. Đại Sơn Vương đứng ngoài phải thầm khen cặp kỳ phùng địch thủ, tài đánh dao thật hiếm có trên đời.
                  Đại Sơn Vương nheo mắt theo dõi:
                  chợt hai cô gái lướt ngựa qua nhau mấy thước và cùng lúc lộn phắt lại, lao vào nhau như hai mũi tên, theo đà ngựa phạt dao ngang mình. Keng ! Hai thanh dao quất mạnh vào nhau, cùng lúc tung lên cao, rơi phịch xuống mặt cỏ, ngựa vẫn theo đà lướt đi. Hai thiếu nữ say máu chiến, ghìm phắt ngựa lại như mê man, cả hai rút phăng súng ra, chỉ thẳng vào nhau.
                  Đoàng... đoàng...
                  Liền hai tiếng súng nổ chát chúa, hai con ngựa giật mình cất tiếng hí, trên lưng ngựa, cả Khách Giang Hồ lẫn Voòng Chí Plan cùng chớp mát, bàn tay cầm súng còn xóc trên đầu ngựa. ngơ ngác nhìn nhau... tay không và cùng dáo dác ngó sang bên. Đại Sơn Vương ngồi im trên lưng ngựa, hai tay quay hai khẩu đúng, cắm nhẹ vào bao, đoạn cúi tỳ hai cánh tay lên có ngựa giọng vẫn như thường:
                  - Cấm dùng súng! Mới đánh một lát đã phá luật đấu chiến rồi!
                  Lần sau, sẽ phải phạt!
                  Hai thiếu nữ vùng tỉnh cơn hăng say, mặt đỏ ửng hình như vừa thẹn thò, vừa cảm động vì tài hớt súng và đức giữ hoà khí của Đại Sơn Vương. Hai nàng còn đang lúng túng, thì chàng tướng núi đã phóng ngựa tới chỗ súng rơi, cúi nhặt, ném về phía hai nàng, giọng dịu dàng:
                  - May rút súng giữa lúc ngựa đứng hai bên, nếu không, khéo cả hai đều vong mạng, vì cả hai có lẽ thứ chi cũng địch thủ kỳ phùng!
                  Tần ngần cho súng vào bao, Khách Giang Hồ nhoẻn miệng cười nhìn Voòng Chí Plan, đoạn tiến ngựa tới trước Hồng Lĩnh, vẻ giận dữ đã biến hẳn, nhường cho vẻ tinh nghịch.
                  - Xin ông chớ cho anh tôi biết, khổ cho tôi đó! Đùa thử ông như thế đã quá lệch người rồi. Giờ xin mời Đại Sơn Vương vào gặp Khách Giang Hồ. Có lẽ người đang nóng lòng chờ đợi!
                  Câu nói bất ngờ của thiếu nữ, khiến Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan không giấu vẻ ngạc nhiên:
                  - Thế rạ..
                  - Cô nương không phải "Khách Giang Hồ"?
                  Thiếu nữ hơi đỏ mặt:
                  - Anh tôi sai đi đón dẫn ông vào địa khu. Tôi là Nguyệt Tú...
                  - À ra thế!
                  - Anh tôi rất hâm mộ danh tài Đại Sơn Vương Thập Vạn Đại Sơn, ao ước được hội kiến cùng ông từ lâu lắm.
                  Hướng về Voòng Chí Plan, Nguyệt Tú nhoẻn miệng cười:
                  - Xin cô nương thứ cho tội làm cô nương cùng quân gia nhọc sức.
                  Tiện đây xin mời cô nương quá bộ qua căn cứ cho vui.
                  Voòng Chí Plan đăm đăm nhìn vào mắt Nguyệt Tú:
                  - Cô nương có lòng yêu, tiếc còn đám quân ngoài...
                  Nguyệt Tú khẳng khái:
                  - Không sao! Nếu không chi trở ngại, xin tự tiện đưa quân vào cả trong nghỉ ngơi, càng vui.
                  Nguyệt Tú vừa dứt lời, Voòng Chí Plan đưa mắt cho Đại Sơn Vương như thầm hỏi ý kiến. Đại Sơn Vương chưa kịp cất tiếng thì Voòng Sềnh cận tướng đã tiến ngựa lên sát Nữ Chúa, thấp giọng:
                  - Bẩm, lỡ có nương cho quân vào có nhiều bất biến. Tướng trên đã vậy, thần e quân dưới đóng sát nhau, lỡ sinh điều va chạm. Xin Nữ Chúa cho quân đóng ngay tại đồi này, từ trên xuống dưới suối, nếu cần, xin mở ngay một đường liên lạc từ chỗ đóng quân tới chỗ Nữ Chúa.
                  Voòng Chí Plan gật đầu khen phải, liền bàn với Đại Sơn Vương cho quân đóng ngoài, chỉ riêng hai người vào địa khu. Đại Sơn Vương không biết sao hơn, đành để Nữ Chúa H mông cùng vào. Nguyệt Tú quay người lại, truyền tản binh, đoạn ra đón Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan. Ba người đánh ngựa ngang hàng, hai cô gái hai bên, Đại Sơn Vương đi giữa, chuyện trò rất vui vẻ. Đại Sơn Vương nóng gặp Phượng Kiều cùng Voòng Lầu, tuy ngoài mặt vẫn vui vẻ, nhưng trong lòng nhu lửa đốt, không lẽ nói ra, đành cứ làm vẻ thản nhiên, cười nói như thường. Đại Sơn Vương bất giác đưa mắt cho Voòng Chí Plan:
                  - Địa khu này sẽ là mồ chôn quân địch. Kỳ công thật!
                  Nữ Chúa H mông không khỏi rùng mình, lẩm bẩm:
                  - Trách nào dám xưng hùng một cõi, quan binh chưa dám đột nhập, xâm phạm địa khu này! Ban sớm, chính tôi thoát qua lối này...
                  Nếu họ chủ tâm hạ độc thủ, có lẽ...
                  Voòng Chí Plan vừa nói tới đó, thì Nguyệt Tú đã phi ngựa tới bên miệng cười:
                  - Để tôi tiến trước, ông và Nữ Chúa theo sát sau, cẩn thận kẻo lỡ bước, vì còn có địa lôi tự động ngầm nữa đấy!
                  Dứt lời, Nguyệt Tú đánh ngựa đi trước dẫn đường cho Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan. Len lỏi, dọc ngang mãi mới tới dãy đồi có nhà gạch san sát như một trang trại khẩn hoang thường có trong vùng Yên Báy, Tuyên Quang. Kẻ qua người lại tấp nập, ai vào việc đó, rất có trật tự. Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan nhìn qua không khỏi khâm phục óc tổ chức của Khách Giang Hồ.
                  Nguyệt Tú dẫn hai người lên lưng chừng đồi, tiến đến một căn nhà lớn. Ném cương cho mã phu, hai người theo Nguyệt Tú vào trong nhà. Để hai người ngồi tại phòng khách dùng trà, Nguyệt Tú cáo lui ra ngoài. Hai người chờ mãi vẫn không thấy bóng thiếu nữ địa khu.
                  Đưa mắt nhìn qua cửa sổ, nhìn nắng chiều phai dần bên kia đồi, hai người càng lấy làm lạ.
                  - Ông Hồng Lĩnh! Có lẽ chúng định lừa ta vào cạm bẫy chăng?
                  Voòng Chí Plan sốt ruột, khẽ hỏi Đại Sơn Vương. Viên tướng ngang tàng cũng đã bắt đầu nóng ruột, bứt rứt, đi đi lại lại khằp phòng, có dáng suy nghĩ, không trả lời ngay. Mãi sau mới vùng giơ tay gạt bộ đồ trà trên bàn xuống nền gạch, cười gằn:
                  - Hừ! Khách Giang Hồ dám kiêu ngạo tiếp khách thế này sao? Cô nương! Chúng ta đi tìm hắn cho hắn biết cái vùng cứ điểm này chưa bằng một rặng núi nhỏ miền Thập Vạn Đại Sơn!
                  Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn giận dữ, bước phắt ra, nắm quả đấm cửa giật toang, định xông ra. Nhưng Voòng Chí Plan đã chạy theo, nhanh tiếng gọi:
                  - Ông Hồng Lĩnh!
                  Một chân đã bước ra ngoài ngưỡng cửa, Đại Sơn Vương đứng lại, mặt vẫn hướng về phía trước. Nữ Chúa H mông đứng sau lưng chàng, nhỏ nhẹ:
                  - Ông hãy bớt giận! Để xem họ xử thế nào đã! Ra khỏi đây, e bất lợi, vì phạm địa hình nguy hiểm. Tôi chắc họ có dụng ý chi đây!
                  Chàng tướng núi tướng bỉnh nghe giọng nói khẩn thiết của cô gái H mông, mắt chàng vẫn nhìn thẳng ra phía núi đồi trùng điệp không nói chi, hình như đang cố nén tâm. Không thấy Hồng Lĩnh đáp, thiếu nữ H mông lại dịu dàng nói khẽ:
                  - Ông nên dằn lòng đã! Tôi chắc cô Phượng Kiều, Voòng Lầu cũng chưa đến nỗi nguy nào. Ta hãy gắng chờ, rồi sẽ liệu đối phó...
                  Đại Sơn Vương thở một hơi dài, chậm chạp quay vào, ngồi phịch xuống ghế, cặp mày nhíu hẳn lại. Voòng Chí Plan cũng theo vào ngồi đối diện Đại Sơn Vương. Hoàng hôn đổ xuống địa khu bí mật chậm chạp, khắc khoải.
                  Lúc bóng đêm đã bôi nhọ rặng núi trước nhà, thì có hai người, một trai, một gái từ dưới đồi xách đèn bão lên mời Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan đi. Hai người dẫn Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan vòng sang bên kia đồi, đưa vào một tòa nhà khá rộng. Đến nơi, đã thấy cơm nước sẵn sàng, gia nhân ra đón vào bàn. Bữa cơm rất thịnh soạn, toàn sơn hào, nhưng chỉ có hai đôi đũa.
                  - Đảng trưởng tôi xin mời quý khách dùng tạm bữa cơm nóng, và nghỉ ngơi cho đỡ mệt...
                  Vừa nghe gã dẫn đường nói tới đó, Đại Sơn Vương đã quắc mắt, giơ tay toan hất đổ bàn ăn luôn, nhưng Voòng Chí Plan đã lanh mắt trông thấy, liền bước lên chắn lấy Đại Sơn Vương, và bảo gã kia:
                  - Ta có lời ước hẹn cùng cô nương Nguyệt Tú, vậy để Voòng Sềnh cận tướng vào cho ta truyền.
                  Như đã có chủ định sẵn, gã kia cúi đầu rất lễ phép:
                  - Bẩm... xin Nữ Chúa cứ an tâm. Ban binh lương địa khu đã lo tiếp tế đầy đủ cho quân gia Nữ Chúa rồi. Nếu Nữ Chúa muốn gặp Voòng cận tướng, chúng tôi xin chuyển lời ngay! Và nếu Nữ Chúa muốn trở lại chỗ đóng quân. chúng tôi xin sẵn sàng dẫn lộ. Nhưng...
                  xin quý khách hãy dùng cơm đã!
                  Thấy gã ta ăn nói có lễ độ, hoạt bát, Voòng Chí Plan quay sang đưa mắt nhìn Đại Sơn Voòng, và hai người vào bàn. Đám gia nhân vừa trai, vừa gái, mấy người chia nhau rót rượu, hầu cơm, Đại Sơn Vương vẫn còn sắc giận, Voòng Chí Plan phải khuyên mãi, mới chịu cầm đũa. Ăn xong, quả nhiên gã dẫn lộ dẫn Voòng Sềnh tới. Nhè lúc vắng, viên cận tướng H mông khẽ bảo Nữ Chúa:
                  - Thưa, Sềnh này coi địa khu này có lắm cái bí hiểm lắm, sự đối xử khó có thể lượng rõ giả chân. Xin Nữ Chúa kịp ra ngay chỗ đóng quân.
                  Chí Plan giơ tay làm hiệu ngắt lời, và thiếu nữ nheo mắt có dáng suy nghĩ đắn đo, đoạn bảo Voòng Sềnh:
                  - Ta không muốn để Đại Sơn Vương đơn thân trong này. Vậy nhà ngươi cứ trở ra túc trực sẵn. Ta có mang hỏa pháo trong mình, đêm nay xảy chuyện dữ, lành, ta sẽ báo cho Voòng rõ. À, cứ theo kế hoạch ta đã dặn trước!
                  Viên cận tướng tần ngần, chưa kịp lên tiếng thì Đại Sơn Vương đã đoán biết, tiến lại bảo Nữ Chúa:
                  - Cô nương nên ra chỗ trú quân là phải. Thái độ địa khu này có nhiều chỗ hơi... khó hiểu. Thượng sách cô nương hãy tạm lui rạ..
                  - Ông yên tâm, tôi đã dự phòng cả rồi. Tôi ở lại để cho địa khu này, nhất là cho Nguyệt Tú rõ Chí Plan Hoàng Su Phì có ngại chi hang hùm, ổ rắn!
                  Nghe giọng nói của Chí Plan, Đại Sơn Vương bất giác nhìn nàng.
                  Không hiểu sao cô gái rừng xanh chớp chớp hàng mi cong vút, mắt thoáng nét khác thường khẽ nói tiếp:
                  - Vả chăng... tôi không thể để ông một mình giữa đất nghịch...
                  nếu chẳng may có biến...
                  Thiếu nữ ngừng lại, hình như chưa tìm được câu nói tiếp, ngần ngừ mấy khắc, đoạn quay nhẹ hất tay, cao giọng bảo Voòng Sềnh:
                  - Thôi nhà ngươi hãy ra cùng quân sĩ và kíp hội các sắc binh trưởng truyền lời ta đã dặn!
                  Viên cận tướng vẫn có dáng băn khoăn, liền đưa mắt nhìn Đại Sơn Vương. Chàng tướng trẻ chỉ còn biết nhún vai nhẹ một cái như phân trần sự bướng bỉnh của Nữ Chúa Hoàng Su Phì, khiến viên cận tướng đành cúi đầu lui ra. Đại Sơn Vương đốt một điếu thuốc lá, ngồi hút phì phèo. Voòng Chí Plan thấy mặt chàng đã đổi khác, vẻ bực bội đã tan biến, lấy làm ngạc nhiên. Hai người đàm luận một lát, thì có gã thanh niên cùng thiếu nữ tiến vào, mời sang phòng nghỉ.
                  Gian phòng của Voòng Chí Plan bên tả, còn của Đại Sơn Vương, bên hữu, trông cả ra phòng khách.
                  Nữ Chúa H mông nằm nghĩ mông lung mãi không nhắm mắt được. Thốt nhiên, như sực nhớ tới việc gì, Nữ Chúa Hoàng Su Phì tung phắt chăn đơn, nhỏm dậy, xốc lại xiêm y, bước nhanh tới cửa.
                  Nhẹ tay xoay ổ khóa, Chí Plan từ từ hé cửa, lách ra. Phòng khách tối om. Nhìn về phía buồng Đại Sơn Vương, thấy ánh đèn đêm yếu ớt hắt qua khe hở. Suy nghĩ mấy khắc, Chí Plan rón rén bước qua gian phòng khách, tiến thẳng tới cửa buồng. Cầm quả nắm sứ xoay khẽ, biết cửa khóa kỹ, thiếu nữ cúi xuống, hé mắt nhìn qua khe hở. Khe nhỏ quá, chỉ nhìn thấy bên trong mờ tối. Áp tai vào khe, bên trong tuyệt không tiếng động. Có lẽ Hồng Lĩnh đã ngủ kỹ. Thình lĩnh, thiếu nữ H mông vội ngồi thụp xuống nghiêng tai về phía cửa phòng khách thông ra bên ngoài. Vừa có tiếng động khô khan chợt nổi lên, rồi chìm mau trong hơi gió rào cành. Thứ tiếng động bất thường không thể lẫn được qua cặp tai thính của cô gái có bản lĩnh. Rất nhanh, nàng men tường, bước ra lối cửa. Bên ngoài, rõ ràng có tiếng sền sệt như ai kéo vật gì trên nền gạch. Rồi im bặt. Mấy khắc sau, có tiếng khóa tra vào ổ, lách cách. Không chậm trễ, thiếu nữ rời cửa, nấp sau cái chậu lớn có cây cành rậm lá gần đấy, mắt nhìn về phía cửa chính.
                  Cánh cửa từ từ hé ra, để lọt ánh sao thưa mờ tối. Rồi một bóng người cao lớn dị thường, lách vụt vào, đứng bên cửa, thành một khối đen ngòm sừng sững khắc vào bóng tối mờ mờ. Ánh đèn dầu từ hai phía buồng bên bật ra, soi sáng một ánh thép trắng dài, trên tay bóng lớn.
                  - Nùng Siu Khoằn! Hắn làm gì đây?
                  Ý nghĩ loé lên trong óc Voòng Chí Plan, thiếu nữ phục hẳn xuống, nín thở, nhìn lên. Hình như Siu Khoằn đang đảo mắt nhìn quanh.
                  Mấy khắc sau, hình thù cao lớn từ từ di động trên nền tường mờ tối, lướt thẳng về phía cửa buồng Đại Sơn Vương. Nghe ngóng khá lâu, Siu Khoằn lấy ra chùm chìa khoá, tra một cái vào ổ. Hắn vặn khóa êm đến nỗi Chí Plan nấp gần đấy cũng không nghe rõ tiếng động.
                  Nghển cổ hẳn lên, thiếu nữ nhìn qua bóng tối, hồi hộp lạ. Cánh cửa từ từ hé ra êm như không. Tim Voòng Chí Plan như ngừng đập mấy khắc. Và thiếu nữ đứng phắt lên, suýt nữa, không kìm được một tràng quát, vì Siu Khoằn đã lách vụt vào trong mang theo cả ánh thép loang loáng. Cố nén xúc động bước vút theo, hé mắt nhìn vào.
                  Chưa trông thấy rõ bóng Siu Khoằn đứng đâu, đã... Phập!
                  Từ phía giường Đại Sơn Vương, vụt bật lên một tiếng động khô cằn, tiếng dao lớn chém bổ xuống một vật gì mềm, ngọt xớt, và mạnh tưởng có thể xả đôi cả nệm giường ra. Đứng ngoài cửa, Nữ Chúa H mông như vùng nghẹt thở vì tiếng dao chém quá nhanh. Thiếu nữ rùng mình, mím chặt vành môi lại, vừa cho tay vào sườn rút phắt được con dao lá liễu, toan phóng về phía Siu Khoằm, thì liền mấy tiếng sột soạt mạnh nổi lên, tiếp đến tiếng Siu Khoằn nghiến răng kèn kẹt, lẩm bẩm:
                  - Chà! Thằng này gớm thật!
                  Chí Plan còn đang ngạc nhiên dừng tay phóng, thì ánh đèn đêm đã chợt vặn to lên, soi rõ cái bóng Siu Khoằn đứng sững tay cầm ngang thanh dao lớn, mắt quắc nhìn quanh, bên chiếc giường rách tung màn và như sắp sụp gãy đôi.
                  - Hừ! Không ngờ nó nhanh chân hơn mình! Thằng này gớm thật!
                  Siu Khoằn vừa ngó quanh gian phòng trống, vừa rít khẽ lên, khiến Voòng Chí Plan hiểu ngay Đại Sơn Vương đã rời khỏi phòng từ lúc nào rồi. Thiếu nữ cả mừng như vừa giũ được gánh nặng ngàn cân, nhưng lập tức hơi nhíu mày lo ngại:
                  - Đi đâu giờ này? Mà đi lối nào?
                  Thiếu nữ toan ẩn hẳn sau cửa, thì Siu Khoằn đã xoay lưng lại cầm đèn soi lên tường và dừng lại khung cửa sổ. Chấn song sắt đã bị bẻ cong veo, ngả về hai bên mép, để một khoảng trống lớn trông thấy cả mấy vì sao nhạt ngoài trời.
                  - À ra thế.
                  Chí Plan lẩm bẩm một mình, và vội lui hẳn ra, vì Siu Khoằn đã hầm hầm đặt phịch đèn xuống, vùng quay phắt ra lối cửa, vừa đi vừa hằn học:
                  - Nếu thế cả Chí Plan, khéo cũng thoát rồi!
                  - Hừ!
                  Hắn xăm xăm đi nhanh quá, khiến Chí Plan chỉ kịp dựa lưng vào tường, ngay bên bếp cửa, thủ thế. Nhưng Siu Khoằn vô tình cứ đi thẳng qua phòng khách bước luôn tới cửa phòng Chí Plan. Vừa nắm quả nắm sứ, thấy cửa mở, hắn đứng sững lại mấy khắc, mới tiến hẳn vào, thoáng cái đã lui ra. Thiếu nữ nhanh trí đã lách luôn vào phòng Đại Sơn Vương hé mắt nhìn xa, Siu Khoằn đứng im có vẻ suy nghĩ ra điều gì cần kíp.
                  Không chậm trễ, Voòng Chí Plan lách mình ra theo bén gót Siu Khoằn. Nùng Siu Khuằn cứ lùi lũi bước nhanh trong đêm tối, tiến dần vè phía rặng núi cao khắc hình thù sừng sững trên nền trời. Thỉnh thoảng, Khoằn lại nằm phục xuống, áp tai xuống đất nghc ngóng, hình như sợ chạm trán với người địa khu. Chí Plan càng sinh nghi về hành động của tên đầu lĩnh, thiếu nữ càng thận trọng bám sát. Tới chỗ hẻm núi thắt cổ chày, thốt nhiên Siu Khoằn rúc lên mấy tiếng cú mèo. Lập tức, có mấy tiếng cú khác rúc từ hẻm vọng ra. Chí Plan liền ẩn sau một bụi rậm bên đường, có tiếng vó ngựa phóng tới, thoáng cái đã ập tới chỗ Siu Khoằn.
                  - Sao?
                  - Thưa hắn đi thoát trước khi tôi tới. Cửa vẫn khóa, tôi vào chém đứt cả nệm giường, mới biết!
                  Im lặng mấy khắc, lại có tiếng người vừa cưỡi ngựa tới:
                  - Hừ! Không khéo bại lộ mất. Ngày mai, anh em Khách Giang Hồ đến, chỉ nhìn giường, đã đoán ngay được kẻ nào thích khách rồi. Mà tên tướng giặc đó đi đâu?
                  - Thưa phó đảng... hay nó tới chỗ giữ Voòng Lầu?
                  Chí Plan hơi giật mình, vì tiếng xưng hô của gã đầu lĩnh địa khu.
                  Nàng vùi áp má xuống đất, nhìn ngược lên. Chỗ nàng nấp chỉ cách có mấy thước, nhưng trời mờ tối, lạt bên hẻm, nên chỉ thấy mờ mờ một hình dáng đàn ông lực lưỡng như Siu Khoằn cưỡi một con ngựa ô cao lênh khênh.
                  - Ta đã tới chỗ giam Voòng Lầu cùng chỗ Phượng Kiều nhưng không thấy hắn? Không lẽ hắn đã trốn ra chỗ quân H mông đóng?
                  Cả hai lại im lặng có vẻ suy nghĩ. Chợt người cỡi ngựa ô bật lên:
                  - Hay anh em Khách Giang Hồ đã ngầm đón hắn tới hội kiến? Ta ngờ lắm! Nếu vậy anh em Khách Giang Hồ đã nghi ngờ ta chăng?
                  - Phó đảng đừng nên bận tâm quá.
                  - Nhưng nếu chúng kịp thời hội kiến với nhau! Siu Khoằn phải hành động gấp! Suốt Thái Bình Dương này ta chỉ gờm có tay súng của Thần Xạ, còn Khách Giang Hồ bất quá chỉ như ta.
                  Nửa phút sau, viên phó đảng cùng gã đầu lĩnh mới chia tay nhau, mỗi người đi một ngả. Nữ Chúa chợt hiểu một phần lớn nội tình của địa khu. Còn đang phân vân chưa biết theo hút người nào, chợt một bàn tay ai đã vỗ nhẹ lên vai. Chí Plan giật nẩy mình quay phắt lại, chưa kịp nhận ra kẻ lạ đứng đâu thì có tiếng quen thuộc khẽ nói bên tai:
                  - Cô nương bất tất phải nhọc công? Voòng Lầu đây rồi!
                  Lời vừa dứt, hai bóng người từ sau thân cây cạnh đó hiện ra, dưới ánh sao mờ tối, Voòng Chí Plan cũng nhận ra hình dáng hai thầy trò Đại Sơn Vương. Suýt nữa, cô gái đã bật lên tiếng reo mừng, may kìm hãm được, chỉ cất lời sửng sốt khẽ:
                  - Kìa! Ông đứng đây từ lúc nào, làm tôi lại tưởng...
                  Đại Sơn Vương mỉm cười:
                  - Vừa tới đây thì thấy bóng cô nương. Vừa toan lên tiếng, thì tên phó đảng trong hẻm tới.
                  Chàng tướng núi chuyển giọng:
                  - Giờ đây tới lúc phải tới chỗ Phượng Kiều. Rất có thể chúng liều khởi sự ngay đêm nay.
                  - Thế Khách Giang Hồ?
                  - Chắc hắn đủ tài đối phó với thuộc hạ. Dầu sao, tôi cũng phải "đáp lễ" hắn tối nay.
                  Chí Plan chưa rõ Đại Sơn Vương có ý gì, thì viên tướng núi đã nhanh giọng:
                  - Ta đi thôi.
                  - Nhưng... còn địa hình?
                  - Đã tra quân tuần biết được vài đoạn hẻm. Cứ đi rồi liệu dần...
                  Vừa nói, Đại Sơn Vương vừa bước vụt đi trong đêm tối. Chí Plan, Voòng Lầu theo sát gót. Được chừng trăm thước, qua hẻm, ba người phải dừng lại, quan sát địa hình. Một vùng mờ tối tối thêm vì bóng núi, định thần nhìn mãi mới nhận rõ cảnh vật trong đêm mờ.
                  Đại Sơn Vương muốn tiến bừa theo hướng Siu Khoằn vừa đi, nhưng vẫn còn nghi hoặc về địa hình nguy hiểm, còn đang phân vân, thì "Phập" một cái, một lưỡi dao sáng bạch từ đâu đã bay vèo qua tai Đại Sơn Vương, cắm vào thân cây ngay đấy.
                  Ba người vừa ngồi thụp xuống, đã thấy trước mặt một bóng trắng loát từ bên rừng tối lướt ra, chập chờn thư một bóng u hồn. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương cùng Chí Plan, Voòng Lầu vụt đuổi theo. Cái bóng lướt ngang, vòng dọc, chập chờn. Ba người cứ theo đường bóng trước chạy mà lướt qua, cứ nhanh, thì cái bóng lạ cũng nhanh, chậm, bóng trước cũng chậm, đúng vẻ muốn đưa đường cho ba người. Chỉ mươi phút sau đã tới chân núi hướng Tây Bắc chếch, và bóng lạ cũng biến đâu mất.
                  Đại Sơn Vương cùng hai người len lỏi tiến thêm mấy chục thước nữa, đã thấy ánh đèn le lói phía trước. Lần tới gần, thấy phía đó có một dãy nhà ngói thấp dựa lưng vào chân núi, chỉ có một cái chính giữa còn sáng đèn. Ngoài cửa thấp thoáng bóng hai tên quân canh, xách súng đi đi lại lại, mỗi gã khuất một chỗ. Từ chỗ quân canh tới chỗ ba người nấp, có nhiều hàng cây cành lá rủ, lòa xòa rậm rạp.
                  Ngoài bóng quân canh, bốn bề vắng tanh, im lặng như đang thiếp sâu trong giấc ngủ đêm rừng. Còn đang băn khăn chưa biết có phải dãy giam Phượng Kiều không, chợt ngó lên cửa sổ gác căn nhà chính giữa, thấy thấp thoáng có bóng đàn bà sau làn khói mờ. Nhìn kỹ, không phải Phượng Kiều.
                  - Thầy à! Chắc cũng ở đâu đây thôi! Để tôi vòng về nẻo sau nhà lên xem!
                  - Đó cũng có quân canh! Để triệt tên gác phía trước còn hơn! Cô nương cứ đợi đây!
                  Đại Sơn Vương khẽ hất đầu lam hiệu cho Voòng Lầu cùng nương bóng tối vượt lên mấy hàng cây, đến trước hai tên quân canh. Hai thầy trò chia tay nhau mỗi người mỗi phía. Cứ tên này nhìn về hướng Bắc, tên kia lại hướng Nam, kiểm soát phía sau lưng cho nhau. Nấp hai đầu nhà chỉ cách quân canh hai thước, là hết hàng cây, không thể tiến thêm nữa. Chờ mấy khắc Voòng Lầu nóng ruột, liền cúi nhặt hòn sỏi ném mạnh vào hiên nhà, sau lưng một tên quân. Nghẹ tiếng động thình lình, hắn phản ứng quay lại luôn không kịp tính toán. Nhanh như cắt, Voòng lao ra như một vùng tối chụp lấy hắn. Tên quân canh đàng kia trông thấy, liền chạy tới cứu, vừa lên cò súng.
                  - Đứng im!
                  Đại Sơn Vương nhảy vội theo sau quài cánh tay trái ghì lấy cổ hắn, ngón tay phải ấn nhẹ vào huyệt nách. Cùng lúc, hai lên quân mềm nhũn người ra như tàu lá héo, giương mắt thao láo nhìn hai kẻ lạ, miệng chưa kịp ú ớ, đâ bị nhét đầy giẻ, và bị lôi ném vào bóng cây.
                  Hai thầy trò tướng lạc thảo làm thiện nghệ quá, khiến Voòng Chí Plan chỉ còn kịp chớp mất mắt cái, đã thấy hai thầy trò ném quân canh vào xó tối, và vụt thẳng tới căn nhà chính giữa, tay cầm xâu chìa khóa vừa lấy của quân canh, Voòng Lầu tra luôn một chiếc vào ổ, mở cửa lách vào trước. Yên chí đã có Voòng Chí Plan đứng ẩn ngoài, Đại Sơn Vương vào tiếp tuôn. Voòng Chí Plan vừa toan leo lên ngọn cây quan sát cho tiện, chợt hơi giật mình vì thấy hai người lực lưỡng từ nẻo hồi nhà tối hiện ra, rảo bước tới cửa chính và lách vào theo.
                  Chí Plan chờ thêm mấy khằc nữa, không thấy khác, lập tức cũng rời chỗ nấp, theo hút luôn hai người lạ. Phòng dưới tối mò. Vốn thừa kinh nghiệm của kẻ đi đêm, Voòng thọc tay vào túi, vơ một nắm cát dự trữ sẵn, nhẹ ném về phía trước, như rây bột, kiểm soái vị trí đồ đạc trong phòng, đoạn đưa thầy lên thẳng cầu thang. Ánh đèn vàng úa từ trong hắt ra, nham nhở một vùng đầu cầu thang trước cửa. Voòng Lầu tiến đến bên cửa. Cửa khép hờ. Từ trong bóng tối, Đại Sơn Vương vượt lên, lách vào trước. Một thiếu nữ đang đứng bên giường, hình như đang sửa soạn đi nằm, lưng xoay vẻ phía Đại Sơn Vương. Căn phòng trang trí rất đẹp, nhưng chỉ có một giường. Tần ngần mấy khắc, đoạn Đại Sơn Vương quay ra khẽ đưa mắt cho Voòng Lầu. Voòng lặng lặng nhón gót đến sau lưng cô gái, nhanh như cắt, quài tay bịt chặt lấy miệng, tay khác kìm chặt lấy hai tay.
                  - Đứng im! Nếu làm ồn chết ngay!
                  Voòng làm nhanh quá khiến cô gái cố vùng không nổi, đành đứng im.
                  - Tôi không hại cô đâu! Đừng sợ?
                  Vừa nói, Voòng vừa từ từ buông thiếu nữ ra. Thiếu nữ quay phắt lại, mắt quắc giận thoáng dịu ngay khi trông thấy Đại Sơn Vương.
                  - Tưởng ai Hóa ra chú Voòng! Đã trốn thoát đến đây sao?
                  - A kia cô! Không ngờ gặp lại ở đây.
                  - Thầy à! Cô đây thường đem rượu thịt tới chỗ giam Voòng! Cô tốt lắm, dưới quyền Nguyệt Tú.
                  Cô gái nghe Voòng nói, đăm đăm ngó Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi vội hỏi lên:
                  - Cô Phượng Kiều bị giam chỗ nào? Đây có phải...
                  Cô gái mỉm cười, lắc đầu:
                  - Vâng, đây là phòng cô Phượng Kiều và Nguyệt Tú buồng kia.
                  Nhưng đã dời tới căn nhà đầu dãy hướng Nam rồi!
                  Voòng khẽ cau mày:
                  - Đúng chứ?
                  Cô gái lườm Voòng:
                  - Không đúng dễ nói dối chú đấy chắc!
                  Thấy nàng tỏ vẻ thân mật trước mặt chủ, Voòng vội quay phắt về phía cửa buồng gần đấy, nghĩ mấy khắc, đoạn rảo bước tới đẩy nhẹ cửa, nhìn vào, rồi quay ra ngay.
                  - Không có ai, thầy!
                  Đại Sơn Vương, nhìn cô gái, như dò xét, mấy khắc, nhanh giọng bảo thuộc hạ:
                  - Xuống thôi! Nhanh lên khéo không kịp!
                  Dứt lời, Đại Sơn Vương bước thẳng tới bên cửa sổ, dẫn Voòng Lầu ra ban công, đu mình xuống đất khiến thiếu nữ chỉ còn kịp chạy ra, nhìn theo hai thầy trò khuất mau về nẻo cuối dãy. Hai thầy trò nương bóng tối vừa tới hồi nhà, chợt nghe bên trên có những tiếng động khác thường, như có cuộc xô xát, ngó lên, thấy ánh đến đã bật từ lúc nào.
                  - Lên mau. Không vào cửa chính. Leo trụ tường, ống máng!
                  Miệng nói, chân bước vụt tới bên tường, thoăn thoắt leo lên trước.
                  Trên gác, Phượng Kiều trằn trọc mãi chưa ngủ được. Từ khi bị bắt, thiếu nữ không còn sao đoán nổi bụng dạ của mấy kẻ đứng đầu địa khu. Tuy chưa gặp Khách Giang Hồ, nhưng cô em gái Nguyệt Tú tuy tinh quái cũng đủ khiến Phượng Kiều lo ngại cho người yêu. Ngay từ lúc bị bắt, Nguyệt Tú thường ở bên cạnh nàng chuyện trò vui vẻ, có vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Nhưng tuyệt nhiên không hề nhắc chi đến Đại Sơn Vương. Riêng thái độ của Siu Khoằn đầu lĩnh đã khiến nàng lạ lùng nhất. Người đàn ông cao lớn, khác thường, ngay từ lúc mới gặp, đã nhìn nàng bằng cặp mắt khiến người con gái đẹp nào cũng phải...
                  rùng mình. Hồi xế trưa, súng nổ dồn, lúc bị dời từ khu nhà trên đồi ngoài vào dây, tình cờ hắn lại đi ngược đường, dẫn quần ra, cởi trần trùng trục nhìn nàng. Càng có vẻ khác thường thiếu nữ đoán ngay là Đại Sơn Vương đã vào địa khu rồi và cạm bẫy đang chờ người yêu nàng từng bước một. Vào nữa trong núi, suốt chiều không nghe tiếng súng, càng sinh lạ, lo lắng, chợt lại được dời đến gian cuối, nàng càng sinh nghi và chợt nỗi lo sợ cho người yêu cũng vơi đi đôi chút, vì sự tiếp tục đề phòng của địa khu. Nhiều lúc nàng muốn thoát ra, nhưng biết ra khỏi căn nhà là sa vào địa hình vạn hiểm, nên lại tạm ngưng ý định.
                  Đêm khuya khó ngủ, ngổn ngang trăm mối lo âu, Phượng Kiều liền vén màn lên, ghé vào ánh đèn đêm xem mấy trang sách cho khuây khỏa. Đang chăm chú đọc, chợt nghe có tiếng động ngoài cửa thang gác, Phượng Kiều liền buông sách, nhỏm dậy. Cho chân vào dôi dép rừng, nàng vừa đứng lên, đã thấy cánh cửa từ từ mở, một bóng đàn ông bước vụt vào, nhìn nàng chòng chọc, răng nhe cười trắng nhởn.
                  - Đêm hôm khuya khoắt vào đây làm gì?
                  Phượng Kiều cau mày vừa buông tiếng hỏi đã "Vút" từ phía sau lưng một sợi dây thòng lọng ném vào thắt chặt cả hai tay, bó lấy thân hình nàng. Phượng Kiều vùng quay phắt lại. Một hình thù cao lớn khác thường đứng lù lù ngay giữa khung cửa thông ra ban công, nhe răng cười trắng nhởn, tay gò chặt sợi dây thừng nhìn Nùng Siu Khoằn.
                  Thiếu nữ giật mình, vội lấy hết sức giãy mạnh, nhưng càng giãy, vòng thừng mềm dai như tơ càng nết người lại.
                  - Buông dây mau! Sao dám vào phòng ta, tên khốn này!
                  Siu Khoằn vẫn đứng im, để cho nàng vùng giật dây trói và quát liền mấy tiếng, mới từ từ tiến vào thêm mấy bước, cặp mắt hau háu nhìn dáng hình cô gái tuyệt sắc trong bộ quần áo ngủ bằng lụa ngà trần tay. Linh tính đàn bà báo trước chuyện chẳng lành, Phượng Kiều quay phắt nhìn lại phía sau. Gã đàn ông vào trước đã biến từ lúc nào sau cánh cửa đóng chặt. Phòng khuya chỉ còn lại mìnn nàng và thân hình cao lớn dữ tợn của Siu Khoằn. Cô gái vụt hiểu rõ hết mối nguy trong cảnh sa cơ thình lình, hai tai bị trói chặt trước gã đàn ông và hắn nhìn nàng bằng đôi mắt cuồng bạo như bốc lửa.
                  - Nàng thét to, vô ích! Quân canh đều dưới quyền ta! Cố kêu mỏi cổ, giờ này chỉ có mình Khoằn này nghe thôi... Nàng... Khoằn không làm hại nàng đâu!
                  Giọng nói của gã đàn ông miền núi đã bắt đầu run run, khiến thiếu nữ tự nhiên thấy rùng mình, nhớn nhác nhìn quanh. Siu Khoằn lừ lừ bước đến bên nàng, vừa bước, hắn vừa cuốn thừng lại, cho tới lúc sợi dây chỉ còn cách một cái với tay.
                  - Nàng... nàng...
                  Hơi thở hồng hộc của gã đàn ông cuồng bạo khiến Phượng Kiều cảm thấy rõ mình là con chuột bị trói chặt trước con mèo đói. Trong khắc nguy nan, nàng sực nhớ tới lời Đại Sơn Vương.
                  - Phàm lúc lâm nguy, hãy đứng im, lấy lại bình tĩnh và tính kế!
                  Thiếu nữ cắn chặt hàm răng, lùi lại, mắt vẵn chăm chú nhìn Siu Khoằn. Hắn quấn thêm vòng thừng, rút chặt thêm, nhe răng cười ngây dại tiến lên, nhưng vẫn nghiêng người thủ thế. Thình lình, hắn quài một cánh tay hộ pháp choàng lấy Phượng Kiều. Nàng kinh hoảng định vùng tránh, nhưng lại lấy bình tĩnh, chỉ hơi xoay nghiêng mình một chút và nhoẻn miệng cười như lo sợ, thẹn thùng. Miệng cười của mỹ nhân cùng sự phản ứng có vẻ chiếu lệ của nàng khiến Siu Khoằn ngạc nhiên, có lẽ vì thấy khác hẳn điệu hắn dự tính. Hắn nhẹ tay lại, vừa thoáng vẻ hoài nghi thì Phượng Kiều đã xuất kỳ bất ý, thúc mạnh đầu gối lên. Chì nghe đánh "hự" một cái đã thấy hình thù cao lớn bật ngửa về phía sau, hai tay chới với giữa không gian. Không chậm trễ, Phượng Kiều lăn phắt mình về góc phòng, giật hẳn sợi dây trên tay hắn, và vội hất hai cánh tay cởi nút ra. Nhưng Siu Khoằn có sức hơn người, bị miếng đòn nặng, chỉ loạng choạng lùi mấy bước lại, gượng được ngay. Hắn xông lại vừa lúc Phượng Kiều đã thoát khỏi nút thừng.
                  - Hừ! Con bé này quỷ quyệt! Nhưng thoát sao nổi tay ta!
                  Thiếu nữ cười khinh bỉ, không chờ một khắc, cũng tiến lên vung quyền đánh luôn. Phòng chật, địch cao lớn, nàng phải xoay trở luôn, mới được vài đòn, đã bị sợi thừng từ phía sau chụp lấy. Chưa kịp gỡ, lại bị luôn một mối nữa. Đưa mắt nhìn, thấy hai tên bộ hạ Siu Khoằn đã lẻn vào từ lúc nào rồi, xích chặt mối, hai tên liền bước tới trao thừng cho Siu Khoằn, và lui ra ngay. Khoằn cười nhạt:
                  - Đã bảo biết điều đừng chống cự! Lần này, sẽ biết ta!
                  Dứt lời, hắn cúi nhặt sợi thừng trên sàn, tung quấn lấy mình thiếu nữ, đoạn siết thật chặt ba mối dây ghì cứng lấy cổ, bụng, chân nàng, như bó giò. Tình thế lần này càng thập phần nguy hiểm, vì Phượng Kiều bị ba mối dây trói cứng, đã thế Siu Khoằn lại cẩn thận, buộc chặt ba đầu dây vào hai bên thành giường, neo siết thân nàng như đóng đinh. Thiếu nữ hoảng kinh muốn chạy, nhưng tứ chi bất động mất rồi, đành đứng bên giường, hoang mang cực độ. Đắc thắng, Siu Khoằn nhe răng cười, lừ lừ tiến lại trước cô gái có vẻ đẹp như cánh phù dung trong mưa gió. Chỉ còn cách mấy tấc, Khoằn dang cánh tay phàm, cặp mắt đục ngầu như trâu điên nhìn nàng. Ghê sợ quá, thiếu nữ vùng tưởng tới người yêu, hoảng thét:
                  - Anh ơi!
                  Và nhắm nghiền mắt, muốn ngất xỉu đi. Hai vòng tay đanh thép đỡ lấy dáng hình nàng, khiến cô gái run bắn lên như bị điện giật, vùng mở choàng mắt ra và... kinh ngạc vô cùng, tưởng rằng sống trong mộng ảo, vì người đàn ông đứng trước mặt nàng đang cúi nhìn nàng bằng cặp mắt chứa đựng cả một trời thanh cao âu yếm:
                  Thần Xạ Đại Sơn Vương Hồng Lĩnh!
                  - Phượng Kiều! Anh đến chậm làm em phải mấy giây sợ hãi...
                  Anh đây!
                  - Trời... anh...
                  Thiếu nữ mừng mừng tủi tủi, ứa nước mắt, nhoẻn miệng cười, nép đầu vào Đại Sơn Vương, không nói nên lời. Sau lưng, Voòng Lầu cúi đầu kính cẩn chào "cô chủ", tay đẩy thân xác thô phàm của Siu Khoằn nằm sóng soài trên sàn gác. Hai thầy trò đang xúm lại cởi trói cho Phượng Kiều, thì hai tên thủ hạ của Siu Khoằn đã xông vào, vung dao chém xuống lưng hai người.
                  - Anh!
                  Phượng Kiều vừa kịp kêu lên, thì hai thầy trò Đại Sơn Voòng đã nghiêng mình né tránh, đồng thời, quật ngược lại miếng đòn chí tử.
                  Hai tên vạm vỡ bật lên như quả cầu, và gục xuống, máu miệng hộc ra.
                  Liền lúc đó, hai lên khác xuất hiện ngoài khung cửa đầu cầu thang, chĩa hai họng súng đen ngòm vào hai người. Phượng Kiều vừa bật lên một tiếng "Anh" đã thấy hai khẩu súng rơi xuống mặt sàn, và thân xác hai cây thịt từ từ đổ xuống êm như không. Ba người còn đang ngạc nhiên, thì từ sau khung cửa tối, Nữ Chúa Hoàng Su Phì đã hiện ra, hai bàn tay còn xòe mở, miệng cười như hoa nở, nụ cười tươi tắn:
                  - Tôi từ ngoài thấy chúng theo gót ông vào nhà, e có chuyện ám toán sau lưng...
                  Vừa nói, nàng vừa rảo bước tới nắm lấy cổ tay Phượng Kiều, giọng thân mật:
                  - May quá đến vừa kịp! Tôi chỉ lo có việc chẳng lành, nên thoát khỏi, vội đi huy động quân bản thổ quanh vùng tiến đánh địa khu ngay. Nhưng ông Hồng Lĩnh lại cản, thành thử...
                  Phượng Kiều cũng mỉm cười, đưa mắt ngó thân xác cao lớn của Siu Khoằn nằm trên sàn.
                  - Hắn chết rồi sao?
                  Voòng Lầu lắc lắc đầu:
                  - Nó chỉ bị ngất mươi phút thôi! Một báng súng vào đỉnh đầu, chưa thấm vào đâu với sức lực nó.
                  Phượng Kiều đưa mắt nhìn Đại Sơn Vương, chàng tướng núi hiểu ý ngay, mỉm cười:
                  - Kể ra tội hỗn láo cũng đáng chết lắm! Nhưng nó chết đêm nay ẹ.. bất lợi cho Khách Giang Hồ. À! Nguyệt Tú đâu?
                  Phượng Kiều trỏ sang buồng bên:
                  - Cô ta ở đó. Nhưng đã đi đâu từ lúc chập tối rồi!
                  Voòng Chí Plan lơ đãng nhìn về phía cửa trông sang phòng bên và lững thững bước tới, nhẹ đẩy ra.
                  - Kìa! Ai như Nguyệt Tú?
                  Ba người rảo bước sang quả nhiên thấy một thiếu nữ đang ngủ có vẻ ngon lành lắm. Tới gần, nhận ra chính Nguyệt Tú!
                  - Quái lạ! Về lúc nào mà ngủ kỹ thế này! Ầm ầm ngay phòng bên cũng không biết gì! Mà về lúc nào mới được chứ?
                  Phượng Kiều lẩm bẩm khẽ và đưa mắt nhìn quanh phòng, chỉ có hai khung cửa sổ còn nguyên chấn song sắt thẳng vút. Đại Sơn Vương quay về phía Phượng Kiều, Voòng Chí Plan.
                  - Thôi! Hãy mời cô ta cùng đi mau! Chúng sắp tràn tới bây giờ!
                  Phượng Kiều đưa mắt nhìn Nguyệt Tú đang thiêm thiếp ngủ và quay nhìn Đại Sơn Vương, có dáng chưa hiểu:
                  - Nhưng...
                  Đại Sơn Vương khẽ vẫy tay làm hiệu, ngắt lời:
                  - Rồi em sẽ rõ. Giờ hãy bắt đi theo mau!
                  Voòng Chí Plan đến bên giường, quay hỏi Đại Sơn Vương:
                  - Lại đánh thức chăng!
                  - Không cần! Cô nương chịu khó vác một chút ra khỏi vùng này đã!
                  Nhanh nhẹn, Voòng Chí Plan đã dang rộng chiếc chăn đơn toan trùm lấy Nguyệt Tú, thì thiếu nữ địa khu đã nhổm bật dậy, chớp mắt luôn mấy cái, hơi cau mày:
                  - Các ngươi giỏi thật! Đang đêm định vào đây làm gì?
                  Voòng Chí Plan chưa biết tính sao, vội đưa mắt nhìn Đại Sơn Vương. Viên tướng núi điềm nhiên nhìn Nguyệt Tú.
                  - Đêm nay y hẹn, tôi tới đưa Voòng Lầu, Phượng Kiều về và tiện thể, xin mời cô quá bộ đưa chúng tôi ra khỏi địa khu, cũng như cô đã có nhã ý đưa vào.
                  Nguyệt Tú nghe giọng nói hơi mỉa mai của chàng trai ngang tàng, thiếu nữ không có vẻ chi nao núng, nheo mắt ngó mấy người gật gù:
                  - A! Xin có lời mừng Phượng Kiều, Voòng Lầu đó! Nhưng nếu tôi muốn mời mọi người ở chơi đây ít lâu nữa, có được không nhỉ?
                  Nàng vừa dứl lời, thình lình tiếng cồng vùng nổi lên rộn rã bốn phía, tiếp theo là tiếng quân reo hò vang lừng khắp đêm tối. Voòng Lầu liền rảo ra đứng bên cửa sổ hé mắt nhìn ra, và nhanh giọng:
                  - Đông lằm! Chúng kéo tới đấy!
                  Nguyệt Tú cười khanh khách và điềm nhiên cũng ra đứng bên cửa sổ, ngó ra. Phía dưới, đám quân địa khu đã tràn tới, đèn đuốc sáng rực một góc rừng. Hàng mấy chục người vừa cưỡi ngựa, vừa chạy bộ, từ mấy ngả ào tới chia nhau bủa vây quanh dãy nhà, súng ống chĩa vào tua tủa. Vừa nhìn thấy người cưỡi ngựa dẫn đầu, Voòng Chí Plan đã bật lên:
                  - Chính hắn! Tên phó đảng!
                  Đại Sơn Vương nheo mắt nhìn "hắn" người cao lớn cưỡi ngựa ô mạnh mẽ, mắt sắc như dao dưới ánh lửa bập bùng, nghĩ mấy khắc, đoạn quay bảo Voòng Lầu:
                  - Ra trói Siu Khoằn lại và nhớ chận cầu thang!
                  - Dạ!
                  Voòng vừa xông ra, vừa lúc Siu Khoằn sực tỉnh, chạy bổ xuống cầu thang, Voòng liền rút phắt súng ra toan bắn theo, thì một cánh tay đã nắm lại.
                  - Hãy khoan!
                  Nhin lại thấy Nguyệt Tú, Voòng chưa kịp có phản ứng, thì thiếu nữ địa khu đã tiếp luôn:
                  - Xin vì tôi, dung mạng hắn nốt đêm này.
                  Hướng về Đại Sơn Vương, nàng mỉm cười:
                  - Để đáp lại, tôi sẽ đưa mấy người ra khỏi vòng vây! Giờ hãy theo tôi!
                  Vừa nói, thiếu nữ vừa tiến đến, mở toang cửa kính, cửa chớp ló đầu ra ngoài. Nhanh trí, Voòng Chí Plan, Phượng Kiều, rút súng chĩa cả vào Nguyệt Tú, còn Đại Sơn Vương cũng ló đầu ra trong khi Voòng trấn cửa cầu thang:
                  - Các ngươi vọng động, ta hạ Nguyệt Tú ngay lập tức! Biết điều giải vây mau!
                  Gã phó đảng đang đốc thúc thủ hạ bố trí, nhìn lên thấy thế, vội giơ tay làm hiệu cho quân đứng yên, nhưng súng vẫn chĩa cả lên. Hắn bắt tay gọi vọng lên:
                  - Cô Nguyệt Tú!
                  Nhưng thiếu nữ địa khu đã lui vào, vẫy tay bảo:
                  - Tất cả hãy theo tôi! Đứng lâu bất lợi!
                  Dứt lời, cô gái lật giường lấy đèn bấm và dẫn mọi người tới bên góc tường sau. Mọi người còn đang ngạc nhiên, thì thiếu nữ đã giơ tay vén bức cổ họa lớn, để lộ một cánh cửa nhỏ. Mở cửa nhìn vào, là một cửa hầm vừa người lách. Nàng đi trước dẫn lối, Voòng Lầu đoạn hậu, cả mấy người lần lượt len vào hầm tối om. Hầm chật, mấy người thấy rõ lối đi đổi từ cao xuống thấp. Thiếu nữ dừng lại hạ đèn bấm một vòng, nói vọng lại:
                  - Đã tới hang chính, dễ đi dó!
                  Phượng Kiều bước sát Nguyệt Tú, vội cất tiếng hỏi:
                  - Liệu chúng có biết đường hầm này không?
                  - Không biết. Nhưng đề phòng, có thể tìm ra.
                  - Thế đâu hang đàng kia?
                  - Thông ra một căn nhà khác!
                  Nguyệt Tú cao giọng, nói vọng lên:
                  - Cẩn thận! Chỗ này đếm bước, dưới có mìn phá núi đó!
                  Đi được một quãng, thiếu nữ bắt đầu đếm, qua đoạn đếm, lại soi đèn về phía sau cho bốn người bước theo. Độ mười lăm phút sau, quả nhiên tới một cánh cửa, đẩy ra là một phòng vắng. Vượt qua phòng, ra ngoài, đã thấy rừng cây trước mặt, nhìn lên nền trời, sương mờ khí đá đã xóa hẳn ánh sao thưa. Nguyệt Tú dẫn bốn người đi ngược, men vòng chừng mươi phút nữa, chợt nghe phía trước có tiếng vó ngựa khua trên lá khô xào xạc. Mọi người vừa nấp sau bụi rậm, đã thấy tiếng ngựa phóng đến gần. Rồi có tiếng người lao xao:
                  - Rõ ràng vừa thấy bóng người đã mất hút!
                  - Hay ngươi trông lầm? Bật đuốc lên xem nào!
                  Trong nháy mắt, ánn lửa rực lên, nấp sau bụi, mọi người đã thắy Siu Khoằn dẫn đầu một tốp chừng mười lăm, mười sáu quân kỵ lố nhố sau lưng.
                  - Lục soát bờ bụi xem!
                  Siu Khoằn vừa dứt lời, Voòng Chí Plan khẽ hỏi Đại Sơn Vương:
                  - Tình thế này, lui hay đánh?
                  Đại Sơn Vương chưa kịp trả lời Voòng Chí Plan, đã thấy quân Siu Khoằn chia nhau rọi lửa tìm khắp các bụi rậm. Đại Sơn Vương đảo mắt nhìn quanh cánh rừng thưa, liền quay bảo khẽ Nguyệt Tú:
                  - Phiền cô tiến trước, dẫn đường!
                  Hiểu ý, thiếu nữ khẽ khoát tay, đoạn băng mình đi trước. Chạy được khoảng mấy chục thước lại chực thấy từ phía trước mắt hiện ra nhiều bóng người, ngựa, từ cánh rừng phía đó xuất hiện, phi thẳng tới chỗ mấy người, hình như muốn tới cánh quân Siu Khoằn. Mọi người liến dừng lại, còn đang chăm chú quan sát, đã thấy Nguyệt Tú liền bật tiếng ngạc nhiên:
                  - Không phải quân địa khu! Kìa! Quân nào mà lại phóng vào địa hình thế kia?
                  Voòng Chí Plan chột dạ, đinh thần nhìn kỹ, vội lẩm bẩm:
                  - Ai như Voòng Sềnh?
                  Ngựa phi nhanh tới, dưới ánh đuốc, quả nhiên Voòng Sềnh cận tướng H mông đang dẫn một toán đến ba bốn chục quân mã lướt tới, tay súng, đao loang loáng!
                  - Nguy rồi! Sắp phạm địa hình rồi!
                  Nguyệt Tú vừa thốt lên, mọi người, kể cả Đại Sơn Vương chưa kịp có phản ứng, thì Voòng Chí Plan đã lừ chỗ nấp phóng ra, vừa đưa tay ra hiệu, vừa hét:
                  - Coi chừng... Voòng Sềnh... coi chừng... dừng lại... dừng lại... nguy địa hình...
                  Tiếng Voòng Chi Plan còn âm vang chưa dứt, thì một loạt đạn từ phía cánh quân Siu Khoằn bắn xối xả, hướng cả vào Voòng Chí Plan.
                  Từ chỗ nấp, Phượng Kiều, Nguyệt Tú cùng rú lên hốt hoảng, khi thấy Voòng Chí Plan ngã chúi xuống. Hai cô gái tưởng đâu Voòng Chí Plan đã trúng đạn. Chừng nhìn lại thấy Voòng Chí Plan đang rời khỏi Voòng Lầu, tay phủi phủi quần áo, hai cô gái mới an tâm. Thì ra trong lúc hốt hoảng muốn cứu Voòng Sềnh và đám quân H mông, Chí Plan đã quên cả nguy hiểm do cánh quân Siu Khoằn mang lại, cô rời chỗ nấp, ra hiệu cho Voòng Sềnh cận tướng, suýt làm mục tiêu cho cánh quân Siu Khoằn. Rất may, Voòng Lầu đã nhanh như mũi tên bắn, từ chỗ nấp bay ra, ôm lấy Voòng Chí Plan, đẩy cô Công Chúa H mông ngã sấp xuống, tránh được cái chết trong dường tơ kẽ tóc.
                  Nhờ tiếng hét của Voòng Chí Plan, Voòng Sềnh cận tướng và đám quân H mông dừng lại kịp, không bị phạm địa hình. Nếu không, hậu quả sẽ khôn lường. Voòng Sềnh, vội dẫn đám quân H mông rẽ vòng đến chỗ bụi rậm có Voòng Chí Plan, Phượng Kiều nấp. Voòng Sềnh xuống ngựa, chào hỏi mọi người, đoạn bảo bọn thuộc hạ trao ngựa cho mọi người. Voòng Chí Plan, Phượng Kiều, cùng phóng lên ngựa, dẫn đầu đoàn quân H mông, đối đầu cùng cánh quân Siu Khoằn. Lẫn với tiếng súng, tiếng quân cả hai bên cùng reo hò, trợ Oai cho phe mình, và cũng muốn áp đảo đối phương. Thấy Phượng Kiều và Voòng Chí Plan dẫn quân xung trận, Nguyệt Tú cũng định thúc ngựa cùng hai cô gái Chí Plan, Phượng Kiều ra trận, nhưng Đại Sơn Vương đã cản lại, ghé tai nới nhỏ câu gì đó, nên Nguyệt Tú ngừng lại, không theo Phượng Kiều, Voòng Chí Plan nữa. Bên kia suối, tiếng quân của Siu Khoằn hò càng nổi lên ầm ĩ, vì trông thấy mấy nữ tướng đã ra trận.
                  Viên phó đảng cùng Siu Khoằn liền ngừng bắn, tra đạn thêm, đoạn giơ tay vẫy mấy tên đầu lĩnh khác tới, và cùng tiến ngựa lên. Cách suối mấy chục thước, cả bọn dừng lại. Một mình Siu Khoằn cho ngựa từ từ bước lên sát bờ suối, quát vọng sang:
                  - Đại Sơn Vương đâu? Chúng ta chờ đợi đã lâu ròi. Khôn hồn đưa trả Nguyệt Tú đây, chậm trễ, hối không kịp đó! Có gan hãy ra đây cho ta khai súng!
                  Mấy thiếu nữ cùng cau mày liễu, chưa ai kịp lên tiếng thì Voòng Lầu lẩm bẩm như nói một mình:
                  - Chà thằng Khoằn này tài cán chi mà được đọ súng với thầy ta.
                  Thầy a? Thầy cho phép...
                  Voòng chưa nói hết câu, Đại Sơn Vương đã nhẹ phất tay làm hiệu:
                  - Cho nó câm miệng lại. Nhưng hãy để nó sống còn có việc cần đến.
                  - Dạ.
                  Nhanh nhẹn, Voòng giật khẽ tay cương, cho ngựa tiến lên, hùng dũng ngang tàng trong dáng dấp Hải Sơn Vương Bắc Hải. Từng bước một, vó câu khua chậm ở mặt đất có đá dăm, sạo gợm, khô cằn, thân hình lực lưỡng của Voòng lắc lư theo nhịp ngựa bước. Còn cách Siu Khoằn khoảng mấy chục thước, Voòng Lầu dừng ngựa trỏ tay sang gã đầu lĩnh to lớn dị thường, mắng lớn:
                  - Ngươi được bao tài sức dám lộng ngôn vô lễ, có trò gì khá giở ra, để ta cho biết tài Đa Sát!
                  Siu Khoằn trợn mắt, giọng trịch thượng:
                  - Hãy về gọi Đại Sơn Vương ra đây! Mi bất quá là một tên quân hầu tướng giặc, khá lui mau!
                  Voòng cười nhạt:
                  - Thằng phản thầy! Để ta cho coi tài lính hầu của Đại Sơn Vương.
                  Dứt lời, Hải Sơn Vương lấy trong túi ra một đồng xu, tay trái giơ lên, quát lớn:
                  - Quân tướng địa khu hãy coi đây!
                  Tiếng quát vừa dứt, viên tướng giặc miền bể Bắc thúc ngựa tế đại vòng tròn, và thình lình văng mạnh đồng xu lên cao về phía trước, rồi theo đà ngựa phi xốc tới, rút súng bắn theo, nhanh như chớp. Ba quân vừa thấy tiền đồng loang loáng từ cao rơi xuống, vụt lại cất lên, vừa lúc ngựa Voòng vượt qua, Voòng hơi ngoái mình lại, bắn về phía sau, hất bổng đồng tiền vừa rơi xuống. Ba quân còn đang trố mắt ngó tiền rơi, thì Voòng đã lại lộn phắt ngựa bắn luôn phát thứ ba, lần này đồng tiền vọt lên cao tới mấy trượng, xoay sáng như chớp, trong khi ngựa lướt qua, vòng một đường cung, để đảo lại, vừa kịp đón đồng tiền rơi xuống đầu ngựa. Ba quân chỉ chớp mắt một cái, đã thấy Voòng cắp đồng tiền vào hai ngón tay, giơ cao trong nắng sáng, miệng nhếch cười tươi tắn. Tiếng reo hò nổi lên, vang dậy khắp trận địa, súng mũ thi nhau nhảy lên không trung, quân sĩ đôi bên thích chí quá, quên bẵng đang bố trận, tất cả đều vỗ tay khen ngợi nhiệt tình như đang thưởng thức một cuộc biểu diễn nghệ thuật xạ kích tuyệt vời tại diễn võ trường.
                  - Tài quá anh em ơi!
                  - Giỏi lớ! Giỏi lớ! Say ô!
                  - Nùng đầu lĩnh? Đến phiên đầu lĩnh trổ tài!
                  - Đầu lĩnh! Đầu lĩnh!
                  Từ trong hàng quân địa khu, nhiều tiếng hò la thúc giục Siu Khoằn. Voòng Lầu vẫn giơ cao đồng tiền, đánh ngựa lướt dọc bờ suối, đoạn ghìm cương, hướng sang Siu Khoằn đứng, lớn tiếng:
                  - A Khoằn! Ngươi có giỏi hãy bắn thử xem tài nghệ là bao mà dám định đấu súng cùng bực thầy Thập Vạn Đại Sơn!
                  Từ khi thấy Voòng Lầu trổ tài bắn tiền, Siu Khoằn mới giật mình biết kẻ địch vô cùng lợi hại, lúc quân đôi bên hò reo tán thưởng, Khoằn đã giận tái mặt, vừa thấy Voòng Lầu phóng ngựa dừng sát bờ nước, mắt Khoằn vụt lóe lên một tia chớp cơ mưu, Voòng vừa dứt lời, viên đầu lĩnh đã vọt ngựa lên, giữa tiếng reo hò của quân sĩ - A Khoằn!
                  Dứt liếng, Voòng Lầu quẳng mạnh đồng tiền qua dòng suối và điềm nhiên khoanh tay, ngửa mặt nhìn theo. Đồng tiền bay lên cao, lao lại phía Siu Khoằn. Đoàng! Nhanh như cắt, viên đầu lĩnh đã rút súng bắn tung đồng tiền lên cao, và thúc ngựa tới, chờ cho tiền xuống, lại bắn luôn phát nữa. Đứng bên này, cùng Voòng Chí Plan, Phượng Kiều, Ngyệt Tú... Chàng tướng lạc thảo giang hồ nãy giờ vẫn ngồi im lên lưng ngựa, chỉ hơi gật đầu tỏ vẻ hài lòng khi Voòng thủ túc trổ tài. Lúc Khoằn bắn liền hai phía đều đẩy tiền bay lên phía bờ suối tự nhiên đang ngửa mặt nhìn trời, chàng vụt ngó xuống dưới. Thấy Siu Khoằn đã thúc ngựa thẳng tới trước Voòng Lầu, tay súng phải chĩa lên cao, nổ phát thứ ba, trong lúc Voòng Lầu vẫn khoanh tay ngửa mặt nhìn lên đồng tiền.
                  - Voòng! Voòng!
                  Bất thình lình, Đại Sơn Vương vùng thét lớn như tiếng sấm vang âm, khiến mấy thiếu nữ ngạc nhiên nhìn xuống chỗ Voòng đứng, lúc đó mới giật mình chợt hiểu Voòng đang kề thần chết mà không hay.
                  Và giữa lúc, tay phải nổ súng bắn tiền thì tay trái Siu Khoằn xuất kỳ bất ý dã đánh xuống sườn bên trái, và khi mấy thiếu nữ vừa kịp nghe dứt tiếng quát của Đại Sơn Vương, đã thấy ngọn súng tay trái của Khoằn chĩa thẳng sang ngực Voòng Lầu lúc Voòng vẫn ngửa mặt nhìn đồng tiền trên cao.
                  Đoàng... Đoàng... Đoàng...
                  - Thôi, chết Voòng rồi!
                  Sự việc diễn ra nhanh trong chớp mắt, Phượng Kiều vừa bậl lên mấy tiếng kêu thảng thốt não nề, mọi người định thần nhìn lên, đã thấy Voòng Lầu toàn thân như gập gẫy trên yên, đầu chúi về phía trước mặt úp xuống bờm ngựa. Nhìn sang bên kia suối, Siu Khoằn vẫn ngồi vững trên lưng ngựa, hai tay hai súng còn chĩa sang phía Voòng trong cái thế "hùng dũng" của kẻ tiểu nhân đắc thế vì bắn trộm. Đến lúc đó, qua khắc ngạc nhiên, quân sĩ đôi bên mới kịp lưu ý tới. Voòng Chí Plan, Phượng Kiều, Nguyệt Tú phải mím chặt vành môi để nén xúc động và cùng lúc lúc cô gái cùng chuyển cánh tay, định giật cương, tế ngựa lên chỗ Voòng Lầu.
                  Nhưng chợt có tiếng cười lớn của Đại Sơn Vương, ba cô gái vội đưa mằt nhìn chàng tướng núi, và kinh ngạc hướng cả về nẻo suối trước, chớp mắt liền mấy cái. Vì... trên lưng ngựa, đột nhiên, hai khẩu súng đã chậm chạp rời khỏi bàn tay Siu Khoằn và tay hắn đã buông thõng bất ngờ, lôi cả thân xác to lớn của viên đầu lĩnh địa khu như muốn từ từ rụng xuống theo.
                  Và bên này suối, Voòng Lầu đã từ từ ngóc đầu lên, thân hình ngay ngắn trên yên, hai tay súng, oai phong lạnh lùng trong dáng dấp của Hải Sơn Vương vùng bể Bắc. Lúc đó, mọi người mới kịp thở phào, như trút được ngàn cân vừa đè lên ngực. Thì ra, cựu tướng Bắc Hải dày kinh nghiệm, đã kịp nghe tiếng quát của Đại Sơn Vương, đưa mắt nhìn xuống thấy địch thủ đã chĩa súng sang lập tức gục luôn xuống tránh viên đạn hiểm độc, đồng thời rút phắt súng ra, nã trúng bả vai địch thủ.
                  - Siu Khoằn? Thằng khiếp nhược! Dám bắn trộm, tưởng hạ độc thủ ta được sao? Nếu không có lời thầy ta dặn, đạn đã trúng tim mi rồi!
                  Dứt lời, Voòng Lầu tung luôn cặp súng lên can, bắt quay mấy vòng, và giữa lúc chúng quân còn ngơ ngác, Voòng đã lạnh lùng vẫy cặp súng sang Siu Khoằn. Hai viên đạn xói vào đầu gối Khoằn, tiếng nổ vừa dứt, viên đầu lĩnh đã đổ mình xuống chân ngựa. Đoạn, Voòng nhếch mép cười điềm nhiên quay ngựa lại. Sau ngựa Siu Khoằn, nhiều tiếng lao xao, bàn tán nổi lên, mấy tên đầu lĩnh toan xông ngựa lên, thì viên phó đảng đã giơ tay cản lại.
                  - Các ngươi không phải là địch thủ nó đâu! Để ta hạ nó cho.
                  Dứt lời, phó đảng thúc ngựa lên luôn. Tỏ ra là kẻ có bản lĩnh khác thường, đã từng dự nhiều trận chiến nguy hiểm, viên phó đảng cho ngựa tiến lên rất chậm, từng bước một, không hề đưa mắt nhìn gã đầu lĩnh thủ túc đang nằm xóng xoài rên rỉ trên mặt đất, và không tỏ vẻ chi vội vàng, mặt không hề biến sắc. Voòng Lầu đã cắm súng vào bao, ngồi im trên ngựa, mắt nhìn thẳng vào địch thủ, tay Voòng buông thõng bên sườn, chờ đợi.
                  - Voòng Lầu khá đó! Hạ nổi Siu Khoằn của ta! Ta có nghe Voòng còn có danh Hải Sơn Vương Đa Sát Bắc Hải từng làm tướng giặc bể Hải Nam, sao lại đem thân hầu một tên tướng cướp, tuổi chỉ đáng làm em út cho Voòng?
                  Nghe địch thủ nói ngọt, kháy khích, Voòng Lầu biết hắn muốn đánh đòn phân tâm trước khi nhập cuộc, liền cười nhạt, lạnh lùng:
                  - Điều đó có can dự chi tới nhà ngươi? Ta cũng nghe nhà ngươi đã ỷ tài bắn súng, đang tính chuyện lừa thầy phản bạn, đúng chăng?
                  Bị nói trúng tim đen, viên phó đảng thoáng cau mày, nheo mắt nhìn Voòng, như tính điều chi, đoạn cười nhạt bảo:
                  - Voòng Lầu! Tài súng của ngươi không địch nổi với ta đâu! Nếu bị ta tước súng, có dám theo ta không?
                  Dứt lời, hắn quay phắt lại, khoa tay làm hiệu về phía quân sĩ.
                  Voòng Lầu còn chưa hiểu hắn làm trò gì, đã thấy từ trong hàng quân hai kỵ sĩ phóng ngựa ra, chạy một vòng sát bờ suối và chia nhau mỗi ngựa phóng một bên, cứ tới giữa bãi, lại chạy gặp nhau, nhưng cách nửa bãi ngang. Đứng bên này, Nguyệt Tú bảo mọi người:
                  - Hắn! Hắn lại giở trò bắn ly trên đầu ngựa chạy! Trông kìa!
                  Ngựa chạy vòng tới sát bờ nước, mọi người nheo mắt nhìn kỹ, mới thấy trên đầu ngựa, có thuộc một hàng chén quýt nhỏ chỉ bằng ngón tay cái. Viên phó đảng quát lớn:
                  - Trông đây! Ta bắn mục tiêu động cho coi!
                  Đoạn vỗ ngựa, lướt ra giữa bãi, chạy như bay. Cặp ngựa, con ngược con xuôi, chạy đã tới chỗ sánh ngang nhau, vừa lúc ngựa viên phó đảng lách vào giữa. Đoàng đoàng, đoành đoành...
                  Viên phó đảng đã rút phắt súng ra, vẩy bên mặt, bên trái liền mấy phát theo nhịp ngựa phi. Sau tiếng súng cặp ngựa vẫn phóng đều, mọi người định thần nhìn, đã thấy chén trên đầu ngựa vỡ tan.
                  Viên phó đảng vẫn phi đều, súng đã cắm vào bao, chờ cho cặp ngựa sánh ngang, hắn lại vọt vào giữa, rút súng bắn, nhưng lần này lại bắn chéo, tay trái vẩy sang đầu ngựa bên phải, tay phải vẩy sang đầu ngựa bên trái.
                  - Voòng kia! Tài súng đó liệu ngươi có dám đọ chăng? Sửa soạn rút súng mau!
                  Đa Sát Hải Sơn Vương giục ngựa tiến lên, trong khi ngựa viên phó đảng tiến tới, bước một. Hai hàng quân sĩ đã im tiếng hò reo.
                  Phượng Kiều, Chí Plan vụt đưa mắt nhìn Nguyệt Tú, như thầm dọ ý.
                  Hình như Nguyện Tú cũng khó lượng nổi tài súng của hai bên địch thủ, nên chỉ lặng lặng nhìn hai người, đoạn cả ba cùng nhìn sang Đại Sơn Vương. Viên tướng lạc thảo lừng danh thần xạ vẫn ngồi im trên lưng ngựa mặt không để lộ cảm xúc khác lạ, mắt vẫn nhìn lên đầu trận. Chợt chàng quay nhìn ba thiếu nữ, lay nhẹ, xốc lại cặp súng lớn bên sườn, đoạn khẽ giật tay cương, cho ngựa tiến lên.
                  - A Voòng! Hãy dừng ngựa, lui về. Để hắn đó cho ta!
                  Đang tiến ngựa, chợt nghe tiếng "thầy" truyền sau lưng, Hải Sơn Vương Voòng ngưng ngay ngựa, mặt thoáng biến đổi, có vẻ lưỡng lự mấy khắc, như muốn tiến lên, lại ngồi im, không nhúc nhích.
                  Vùng trận địa chợt chìm trong cảnh im lìm sâu thẳm đến rợn người. Tiếng vó câu dằn bước trên mặt đá dăm, sạo gợn, khô cằn.
                  Khắp hai hàng quân sĩ đều tin thở, khắc khoải lạnh lùng, giương mắt ngó hai thân hình rắn đanh hơi lắc lư trên mình ngựa, tiến thẳng lại trước mặt nhau, với những ánh mắt lạnh biếc màu thép súng.
                  Chẳng hiểu sao, cùng lúc Phượng Kiều, Voòng Chí Lan vùng nắm lay lay nhau, khuôn mặt đẹp của hai cô gái đầy bản lĩnh, trong mấy khắc, như ngây dại ra vì... e ngại.
                  - Đại Sơn Vương! Ta chờ phút này đã lâu rồi!
                  - Phản tặc! Mi hết thời rồi nên mới gặp ta! Tiếc thay! Mi có tài bắn mục tiêu động trên đầu ngựa chạy, trước khi mất mạng, chưa được xem ta bắn tắt đom đóm bay trong đêm tối! Cho ngươi rút súng trước!
                  Tiếng quát dõng dạc như chuông đồng vang âm khắp hai bên trận tuyến, khiến viên phó đảng sực chột dạ, khi nghe mấy tiếng cuối cùng. Hai ngựa lừ lừ tiến thẳng, Đại Sơn Vương đã vượt qua chỗ Voòng Lầu đứng ngựa. Bên kia suối, viên phó đảng cũng đang tiến lên. Hai người chỉ còn cách nhau vài thước nữa là vừa tầm súng.
                  Sau lưng phó đảng, mấy viên đầu lĩnh thình lình tế ngựa lướt trước hàng quân, căn dặn chi không rõ, chỉ thấy cả đám quân địa khu đang cầm súng chỉ địa, lập tức chĩa cả lên phía suối hướng vào cả Đại Sơn Vương. Voòng Lầu vừa liếc qua đã thấy ngay tình thế vạn nan, tầm súng dài có thể vươn tới chỗ thầy mình bất cứ lúc nào. Voòng chưa kịp có phản ứng, đã thấy sau lưng nổi lên nhiều tiếng vó câu, quay lại, đã thấy Nữ Chúa Hoàng Su Phì, Phượng Kiều cùng Nguyệt Tú vọt tới. Thiếu nữ địa khu ghìm cương, hướng về phía quân sĩ, cất tiếng lanh lảnh:
                  - Các đầu lĩnh, cùng toàn quân! Không được theo phó đảng lộng hành, trái lệnh Khách Giang Hồ. Cuộc đấu chiến phải ngay thẳng!
                  Thắng bại, thực hư sau sẽ rõ. Anh em hạ súng xuống!
                  Quân sĩ hầu hết có vẻ trọng Nguyệt Tú, vừa nghe lời, đã từ từ hạ súng luôn.
                  - Quân tướng địa khu! Có những kẻ âm mưu nổi loạn, đưa quân sĩ vào vòng nồi da nấu thịt, phản bạn lừa thầy! Coi đây! Ta trừ tên loạn tướng!
                  Tiếng quát của Đại Sơn Vương vừa dứt, quân địa khu chợt nhao nhao bàn tán ào ào, mỗi người một phách. Biết tình thế không thể nào mập mờ được nữa, viên phó đảng dừng phắt ngựa quay nhìn về phía quân mã, hô lớn:
                  - Anh em! Địa khu này theo Khách Giang Hồ sớm muộn sẽ bị quan binh triệt hạ. Ta se đưa anh em vào sinh lô....
                  Viên phó đảng vừa nói tới đó, chợt ngưng lại, nhớn nhác nhìn quanh. Và... thình lình, tiếng cồng từ đâu nổi lên ầm ầm, tiếp tới tiếng người hô như trời long đất lở khắp tứ phía, và tràn tới trận địa.
                  Mọi người đều ngạc nhiên đưa mắt nhìn quanh chưa hiểu chuyện chi, đã nghe tiếng ầm ầm chuyển tới như gió cuốn, rồi trên những ngọn đồi bao quanh chiến địa, vụt xuất hiện rất nhiều nhân, mã, lớp lớp vây chặt lấy hai đoàn quân dưới như một vòng đai thép. Cả đôi bên quân tướng đều kinh ngạc, bồi hồi trước đám nhân mã phủ vây đông tới hàng ngàn, súng gươm tua tủa ngất trời... Còn đang ngạc nhiên đưa mằt ngó nhau, thì từ trên một ngọn đồi cận đấy, hai bóng người đã tách hàng quân, thẳng tới chỗ suối ngắn thung lũng:
                  - Khách Giang Hồ!
                  Nguyệt Tú bật khẽ lên như một lời reo, khiến mấy thiếu nữ nhìn kỹ ra, thấy một người đàn ông khoảng hơn ba mươi tuổi, khổ người trầm thước, dáng dấp uy nghi, đang vọt ngựa tới, theo sau là một người trung niên tướng tá dữ tợn có vẻ thổ dân. Cách phó đảng độ vài chục thước, Khách Giang Hồ dừng phắt lại, giữa những tiếng quân reo.
                  Lúc này, Đại Sơn Vương cùng mọi người mới nhìn rõ khuôn mặt của người đàn ông bí mật, và không khỏi ngạc nhiên, vì khuôn mặt đó lại xanh như tàu lá, nếu không có cặp mắt sáng như điện, người nhìn có thể tưởng chỉ là một khuôn mặt tượng, mặt xanh của một thứ Đơn Hùng Tín thuở xưa. Vừa trông qua, Đại Sơn Vương đã hiểu ngay Khách Giang Hồ là một kẻ vừa có bản lĩnh, đởm lược, lại lắm mưu nhiều kế khác thường:
                  Con người toát ra một thứ gì có thể chế phục được kẻ nhìn, ngay những khắc đầu tiên.
                  - Đại Sơn Vương! Hãy lui ra, chờ đấu súng cùng ta. Tên tướng loạn này, thuộc địa khu, để ta trừng trị.
                  Vừa nghe lời Khách Giang Hồ, viên phó đảng không hề nao núng, thoáng một cơ mưu, liền nhếch mép cười bảo:
                  - Khách Giang Hồ! Từ khi gặp gỡ, tôi vẫn chưa phục tài bắn súng của ông. Trước mặt chúng quân, ông có giỏi cùng tôi đấu súng!
                  Khách Giang Hồ chưa kịp lên tiếng, thì chàng tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn đã nhìn mặt:
                  - Khách Giang Hồ! Ông hãy đứng im! Những tên phản tướng này để cho Đại Sơn Vương khai súng!
                  Quay sang viên phó đảng, chàng thản nhiên nhẹ vẫy tay làm hiệu cho hắn tiến lên. Nét nhất định hiện rõ trên khuôn mặt rắn đanh của Hồng Lĩnh, khiến Khách Giang Hồ đành nhượng hộ, đứng im.
                  Tám vó ngựa bước một, nghiến trên đá dăm, sạo gợn, viên phó đảng, Đại Sơn Vương cùng tiếnn ngựa lên, rất chậm, đột nhiên cả hai khuôn mặt đều trơ ra như đá tạc. Lạ thay! Chưa ai đánh tay vào báng cúng. Đạn Sơn Vương vẫn khua nhẹ ngón tay, toàn thân như cứng đờ ra. Ngựa vẫn tiến. Hình như Đại Sơn Vương muốn nhường địch rút csng trước. Nhưng viên phó đảng vẫn bất động, như đợi chờ, có lẽ hắn dầy kinh nghiệm để dư hiểu là đối với những tay súng lão luyện, khoảng ngăn cách giữa đôi bên địch thủ không còn quan hệ nữa, xa gần chẳng nghĩa lý chi mà chỉ có sự rút súng nhanh chậm hơn nhau một phần trăm khắc cũng đủ định thành bại rồi. Và nếu cần phải nói, thì còn có một sự may rủi nguy hiểm vô cùng gần như thuộc về số mệnh, là phát súng đầu tiên có thể không nổ vì đạn thối. Đó là mối lo kinh khủng nhất của những tay thiện xạ trên đời, dẫu là Đại Sơn Vương Thần Xạ. Thình lình, giữa cảnh im lặng thẳm sâu, có tiếng vó câu nghiến trên sỏi vụn, viên tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn quát lớn:
                  - Rút súng ra!
                  Hình như chỉ chờ có thế, Đại Sơn Vương vừa cất lời, là viên phó đảng lập tức đánh vụt tay xuống báng súng nhanh như cắt. Cả khách Giang Hồ, Voòng Lầu, Phượng Kiều, Chí Plan, Nguyệt Tú... đều thấy rõ hình hai bàn tay của viên phó đảng động đậy, đánh vào báng súng rồi, mà Đại Sơn Vương vẫn chưa kịp động thủ.
                  Đoàng! Đoàng.. Liền mấy phát súng nổi lên, loạn xạ chỉ trong một cái chớp mắt, mọi người đã thấy hai họng súng chĩa vào nhau, nhả đạn. Sau mấy phát nổ, bốn ngọn súng lại im bặt, trả mau cảnh im lìm cho trận tuyến. Trăm ngàn cặp mắt định thần nhìn vào, thấy cả hai con ngựa đứng tại chỗ, vẫy đuôi, trên yên, viên phó đảng và Đại Sơn Vương vẫn giương hai họng súng về phía trước, thân hình bất động như tượng, cặp mắt vẫn lạnh lẽo nhìn nhau.
                  Đứng sau Đại Sơn Vương, Phượng Kiều chỉ thấy mặt viên phó đảng, thấy cặp mắt hắn vẫn lừ lừ nhìn sang Đại Sơn Vương. Phượng Kiều, Chí Plan vùng cảm rõ như trời cao muốn sụp vì khắc giây mộng ác, định tế ngựa lên chỗ Đại Sơn Vương, thì Voòng Lầu đã giơ hai cánh tay cản lại, miệng Hải Sơn Vương Đa Sát khẽ nhếch cười kiêu hãnh, cặp mắt diều hâu nhìn hại cô gái, và hướng về viên phó đảng.
                  Hai cô gái chưa kịp lạ lùng lâu về thái độ điềm nhiên của người thủ túc của Đại Sơn Vương, vì... qua mấy khắc bất động, cặp mắt phó đảng như vụt xuất tinh lạc, đang ngồi thẳng, chợt như rùng mình một cái, đường gân thớ thịt như chùng hẳn lại, hai khẩu súng như từ từ chúc ngọn, rụng xuống đất. Và hai bàn tay rã rời co quắp buông thõng bên sườn, rồi thân hình lực lưỡng của viên phó đảng dụi luôn xuống bờm ngựa, nặng nề... Mãi tới lúc đó, hai cánh tay viên tướng Thập Vạn Đại Sơn mới cử động, chầm chậm cắm súng vào bao.
                  Qua mấy khắc ngơ ngác, mấy viên đầu lĩnh vùng tế ngựa lên đỡ lấy thân hình viên phó đảng, đặt xuống nệm cỏ và xúm lại vạch xem vết thương. Phó đảng chỉ còn kịp thở ra một cái là nghẹn cổ, mềm nhũn người ra, hồn lìa khỏi xác, không kịp trối thêm một lời.
                  Phượng Kiều, Chí Plan, Nguyệt Tú, Voòng Lầu cả mừng liền cho ngựa lên chỗ Đại Sơn Vương, vừa nở miệng cười đã vội tắt ngay. Vì từ nãy đến giờ, Khách Giang Hồ vẫn ngồi im trên lưng ngựa, thình lình nhảy phắt xuống đất, ném cương vào đầu ngựa, quát lớn:
                  - Đại Sơn Vương! Ta có lời khen đó! Sửa soạn rút súng khỏi bao!
                  Dứt lời, viên thủ lĩnh tối cao của địa khu Cầu Mây tiến lên như đếm từng bước một, đường hoàng. Tiếng quát của Khách Giang Hồ khiến mọi người giật mình ngơ ngác, không ai bảo ai cũng nhìn cả vào Đại Sơn Vương.
                  Thần Xạ vẫn ngồi im trên ngựa, nheo mắt nhìn Khách Giang Hồ đang bước tới. Và miệng nhếch cười khan ngạo nghễ, viên tướng thần xạ núi cao chậm chạp xuống yên, ném cương lên cổ ngựa, và lạnh lùng tiến lên oai nghiêm. Nhìn mấy bao súng lắc lư nhếch tới gần nhau, mấy thiếu nữ cùng Voòng Lầu vội nhớn nhác ngó nhau, ngầm thúc giục ngăn càn bước đi của tử thần. Không chậm trễ, Nguyệt Tú vọt ngựa qua suối chắn lấy người anh, còn Phượng Kiều, Chí Plan cũng tiến lên chắn lấy Đại Sơn Vương.
                  - Nguyệt Tú! Em hãy đứng sang bên! Đừng can vô ích! Trước hàng quân tướng, Đại Sơn Vương phải khuất phục Khách Giang Hồ!
                  Khách Giang Hồ giơ tay gạt em gái ra, dáng cả quyết lạ lùng, khiến Nguyệt Tú phải liều nắm lấy tay anh:
                  - Anh! Nhưng... nguy hiểm lắm! Cuộc thử thách này sẽ một mất một còn, dầu anh hay Hồng Lĩnh bị chết, đều uổng mạng cả! Em van anh!
                  - Lui ra em! Ta đã có cách và ta cần biết rõ Đại Sơn Vương.
                  Khách Giang Hồ gạt phắt em sang bên, tiến vụt lên. Bên này suối, Phượng Kiều, Chí Plan cùng bị Đại Sơn Vương gạt ngựa sang, điềm nhiên:
                  - Bao công phu lặn lội, chỉ có phút này thôi. Đại Sơn Vương phải gặp hắn, xem hắn có đúng với danh hiệu xưa nay không? Xin cứ yên lòng! Không khi nào chịu thất danh Thần Xạ đâu!
                  Dứt lời, chàng tướng lạc thảo đường bệ tiến lên, cương quyết không sức nào ngăn nổi.
                  - Đại Sơn Vương! Biết điều đứng lại! Tiến lên nữa, sẽ uổng đời Thần Xạ! Lần này ta quyết chẳng dung tha.
                  - Khách Giang Hồ! Ta đơn thân vào vùng cứ hiểm? Bắt Voòng Lầu, ta đã đáp lễ lại rồi. Ơn đính chính không dùng ám khí, ta đã loại giùm tay súng phản lợi hại, vậy đã trả ơn rồi. Biết điều nên dừng bước! Tiến nữa, uổng mạng Hai người đàn ông sắt đá vẫn điềm nhiên tiến thẳng tới ngọn súng của nhau. Mỗi bước đi, một bước sát tử thần. Giữa cảnh im lìm, chỉ còn tiếng chân giày mài đá sỏi và tiếng đập của trái tim những kẻ thân yêu. Hai khối thép chỉ còn cách nhau hơn mười trước. Hai người đàn ông giang hồ đăm đăm nhìn nhau, không chớp mắt. Và... bất thình lình, bốn bàn tay cùng đánh vụt xuống bên sườn, nhanh như vệt sáng, cùng một lúc. Rồi bốn ngọn súng chĩa vào nhau nhả đạn liên hồi.
                  Phượng Kiều, Chí Plan cảm xúc quá, quay phắt mặt đi, tay che lấy mặt. Còn Voòng thủ túc vội cúi đầu nhìn ánh nắng sớm vừa tắt trên bờm ngựa vì đám mây lớn vừa kéo qua nền trời. Cảnh vật sa sầm lại, phàng phất bóng tử thần... Mấy khắc sau, mọi người đau đớn nhìn ra, vẫn thấy bốn ngọn súng chĩa thẳng vào nhau. Lại mấy khắc nữa, vẫn không ai đổ ngã. Lạ thay! Chợt cả bốn cánh tay đều cử động khoan thai, cùng lúc, ném mấy cây súng sang phía sau. Và trước hàng ngàn cặp mắt kinh ngạc, Khách Giang Hồ, Đại Sơn Vương tay bắt lấy súng của nhau, từ từ cắm vào bao. Tự nhiên, hai người đàn ông cùng cất tiếng cười lớn, giọng cười vang trên bờ suối, xao động cả vùng không khí còn lởn vởn bóng tử thần. Rồi hai người lội phăng xuống suối, vùng nắm lấy tay nhau, vững mạnh và có vẻ lưu luyến trong cái dáng tha thiết hội ngộ cố tri thật bất ngờ. Phượng Kiều, Chí Plan, Nguyệt Tú, Voòng Lầu hết sức kinh ngạc, nên giục ngựa tới, xúm quanh hai người. Lúc đó mới vỡ lẽ ra:
                  Cả bốn khẩu súng đều tra đạn giấy và cả hai người đàn ông giang hồ thượng võ đều ngầm dành sẵn cho nhau, bên mấy viên đạn thật, cũng không ai cần biết địch thủ định ra sao nữa. Xem kỹ lại hai vai Khách Giang Hồ còn hai vết phẩm in tròn trên mặt vải, còn hai vai Đại Sơn Vương chỉ hơi có vệt chạy như đường chỉ may trên làn áo bên mép vải. Thì ra Đại Sơn Vương đã rút súng nhanh hơn Khách Giang Hồ chừng một chút, nên đạn đã xói vai địch thủ giữa lúc địch thủ bóp cò, làm lạc đường đạn đi mất.
                  Đến nửa phút sau, hai người đàn ông giang bồ mới buông nhau ra.
                  Cả hai có vẻ cảm động sâu sắc, muốn nói rất nhiều, nhưng chỉ nhìn nhau không chớp, hai khuôn mặt phong trần như đá tạc tươi sáng hẳn lên vì phút giây kỳ ngộ muôn đời. Trước cảnh thắm thiết bất ngờ của hai người đàn ông, phút trước còn nói chuyện với nhau bằng súng thép, mấy thiếu nữ cùng Voòng Lầu chỉ còn biết đưa mắt nhìn nhau cảm động không kém. Đại Sơn Vương mỉm cười bảo Khách Giang Hồ, Voòng Chí Plan:
                  - Giờ có lẽ trận tuyến không cần nữa. Quân đôi bên có thể qui hồi.
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #10
                    Hồi 8 - Đại hội Biên Thùy

                    Tiệc vui hội ngộ kéo dài đến mấy tiếng. Đại Sơn Vương mấy lần đứng lên cáo biệt lên đường, nhưng Khách Giang Hồ cố lưu lại, nên chàng tướng lạc thảo đành phải nán lại địa khu cho hết buổi. Voòng Chí Plan truyền các quân bản bộ đâu về đấy, và cùng Voòng Sềnh cận tướng ở lại chờ dẫn lộ Đại Sơn Vương. Suốt buổi, Khách Giang Hồ chỉ đàm đạo chuyện gặp gỡ tri kỷ, thản nhiên không đá động tới việc gì khác. Đến đêm, lúc mọi người đã yên giấc, chợt có tay thủ túc của Khách Giang Hồ tới mời Đại Sơn Vương tới hội kiến với thủ lĩnh địa khụ Qúa nửa đêm, chàng tướng núi mới trở về phòng riêng, có dáng nghĩ ngợi. Voòng Lầu thấy chủ tướng lặng lẽ đi nằm, cũng không dám hỏi.
                    Sớm mai, chàng tướng núi cáo biệt lên đường đi Tây Bắc, lúc sương mờ còn giăng khắp lưng đèo. Khách Giang Hồ cùng Nguyệt Tú dẫn thuộc hạ thân tín, theo tiễn Đại Sơn Vương cùng mọi người ra khỏi địa khu và để một hướng đạo người bản địa, đưa theo đường bí mật xuyên lên tới Tuyên Quang. Để mọi người nghỉ tạm tại một nhà thổ dân trong một ngọn đèo cách thị trấn mấy dặm chim baỵ Voòng Sềnh tiến ngựa tới thị trấn trước thăm dò đường đất đã. Thấy Voòng Chí Plan có vẻ nhận trọng, Phượng Kiều khẽ hỏi :
                    - Ngày hẹn đã tới, tưởng ta có thể ngược Hà Giang bằng xe hơi mới kịp?
                    Chí Plan cười :
                    - Cô nương đã quên sao? Năm nào dịp này, thúc phụ tôi thường mời khách đến bản địa. Trong hàng có nhiều người sống ngoài vòng pháp luật, mà chính phủ Đông Dương luôn tìm cơ hội chăng lưới bắt Như... Ông Hồng Lĩnh đây chẳng hạn. Tuy hành trình bí mật đấy, nhưng có thể nhà chức trách đã chăng lưới khắp các ngả đường lên mạn Hoàng Su Phì rồi. Mà thúc phụ tôi, theo hòa ước với chính phủ Đông Dương, cũng chỉ bảo vệ mọi hàng quí khách, trong phạm vi bản địa mà thôi! Mai kia, cô nương sẽ rõ. Bởi vậy, giờ cứ đề phòng là hơn.
                    Tự nhiên, Phượng Kiều buột miệng nói :
                    - Nhưng phải lo bảo vệ mọi cuộc hành trình, e mất nhiều công phu... ?
                    Chả hiểu sao Nữ Chúa H mông chợt ửng hồng đôi má, và hơi lúng túng lắc đầu :
                    - À không! Qúi khách nào cũng tự liệu cuộc hành trình, xứ tôi sẽ tiếp rước từ biên giới riêng. Còn... như ông Hồng Lĩnh, đó lại là... khác chứ!
                    Biết mình vụng hỏi lỡ lời, Phượng Kiều chưa kịp lảng chuyện, thì Nữ Chúa H mông đã nhân đó, gợi toàn chuyện về Đại Sơn Vương để hỏi “cô em” chàng tướng núi hào hùng. Từ chuyện cha mẹ anh em tới chuyện vợ con... Phượng Kiều chỉ ừ ào bịa đặt cho xuôi, thấy mắt Chí Plan sáng hẳn lên khi nghe nói chàng chưa có ý trung nhân nào, lúc này Phượng Kiều mới cảm rõ cái lo lắng và “nguy hiểm” trong vai trò cô em gái... hờ trót nhận. Khó xử nữa là Nữ Chúa H mông tuy đầy bản lĩnh nhưng lại ngây thơ về đường tình, cứ xoắn lấy “cô em”, say sưa nghe từng lời nói bịa, không chút hoài nghi, khiến Phượng Kiều càng hối, khi biết ró người thiếu nữ sơn cước đã yêu, có thể sống thác với tình như chơi được.
                    - Nếu Chí Plan biết mình là kẻ đến sau?
                    Phượng Kiều càng nghĩ càng ái ngại, đã toan đánh liều nói hở cho nàng hay chàng đã có ý trung nhân rồi, nhưng cứ thấy vẻ tha thiết gớm ghê trên cặp mái long, lanh của người bạn gái lần đầu biết yêu, Phượng Kiều lại hành im lặng “Để đến đâu hay đến đó vậy”. Mọi người nghỉ ngơi được một lúc, đã thấy viên cận tướng H mông trở lại.
                    - Thị trấn vẫn như thường, nhưng có nhiều kẻ lạ mặt lảng vảng khắp ngả đường có vẻ khác ý lằm, nên theo nẻo xuyên sơn cho tiện.
                    Tới đâu nghỉ đó là hơn.
                    Mọi người lại nịt ngựa, lên đường. Voòng Sềnh dẫn đầu. Voòng Lầu đoạn hậu, cả bọn len lỏi vượt hết cánh rừng nọ tới thung lũng kia, noi theo những đường mòn của thổ dân, có khi đi cả buổi mới gặp một, hai người dân bản địa lùi lũi, câm nín như rừng thẳm. Voòng Chí Plan trỏ ngọn núi xa mờ mờ trong sương chiều.
                    - Phía đó là rặng Si Công Linh. Chúng ta đã tới miền thị trấn Hà Giang. Nghỉ hết đêm nay, sớm mai chúng ta thẳng đường lên Hoàng Su Phì.
                    - May quá! Vừa kịp ngày mở lễ. Đã tưởng chậm trễ mất một vài ngày...
                    - Đây tới thị trấn không còn xa mấy nữa. Nếu đi, chỉ xẫm tối là đến.
                    - Có lẽ nghỉ tạm đây tiện hơn. Để lại xin lệnh trên đá!
                    Hai người quay ngựa lại, cũng vừa gặp Đại Sơn Vương tiến lên.
                    Đưa mắt quan sát qua loa, chàng tướng núi hướng về ngọn Tây Côn Lĩnh có dáng suy nghĩ, đoạn quay ngựa lại.
                    - Ta dựng lều nghỉ đêm nay tại cánh đồi bên tả, gần suối. Bốn giờ sớm mai, lên đường Hoàng Su Phì.
                    Mọi người đánh ngựa xuống thung, rẽ sang trái, băng qua suối tới khu đồi rậm. Hai viên cận tướng họ Voòng đỡ lấy ngựa định tháo yên cương, Đại Sơn Vương vội xua tay :
                    - Tháo dây nịt thôi! Chừng nửa đêm sẽ bỏ hẳn cương yên. Nhưng thay phiên nhau từng cặp một. Đây không xa thị trấn. hữu sự, có ngựa cho cô nương dùng.
                    Chí Plan thấy Đại Sơn Vương, thận trọng lo cho hai thiếu nữ, liền mỉm cười bảo :
                    - Ông Hồng Lĩnh. Có lẽ cứ tháo cả cho chúng ăn, nghỉ cho tiện.
                    Nếu chẳng may có việc phải động dụng, chắc chị em chúng tôi cưỡi ngựa không yên được!
                    Voòng Lầu, Voòng Sềnh chọn chỗ dựng lều vải trong khi Chí Plan, Phượng Kiều, Đại Sơn Vương tháo yên cương. Chợt Voòng Lầu tiến đến bên chủ :
                    - Bẩm, lương thực người, ngựa chỉ đủ một bữa nữa, sớm mai...
                    Đại Sơn Vương chưa kịp trả lời, thì Chí Plan đã vọng sang phía viên cận tướng H mông :
                    - Lát nữa Voòng Sềnh về thị trấn kiếm lương thực và thăm dò tình hình có chi lạ.
                    - Dạ.
                    Dựng lều tắm rửa, ăn uống xong trời vừa tối. Trăng thượng tuần lơ lửng trên trời. Voòng Sềnh lập tức lên đường. Còn Voòng Lầu canh cho mọi người nghỉ. Nhưng Phượng Kiều, Chí Plan rủ nhau ra ngồi suối, ngắm trăng. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng tây. Lát sau, mới trở vào lều, ngạc nhiên nhìn sang lều đàn ông, không thấy bóng dáng Voòng Lầu đâu, hai người lấy làm lạ, đưa mắt nhìn nhau đoạn bước cả tới. Nhưng vào lều không thấy ai.
                    - Quái! Đi đâu cả rồi?
                    - Hay hai thầy trò cũng ra suối?
                    Hai thiếu nữ len lỏi lộn lại, quả nhiên thấy bóng hai thầy trò Hồng Lĩnh bên bờ nước. Chí Plan, Phượng Kiều bước tới, Chí Plan định lên tiếng, chợt Phượng Kiều khẽ giơ tay ra hiệu, đoạn cả hai cô gái tịnh nghịch rón rén bước tới, định làm hai thầy trò giựt mình chơi. Nhưng, đến cách độ mấy bước, chắng hiểu sao, Phượng Kiều vội giữ Chí Plan lại, định kéo đi, nhưng...
                    Đại Sơn Vương ngồi trên một phiến đá trông ra dòng nước loang lổ ánh băng. Voòng đứng phía sau. Chẳng rõ hai thầy trò đã nói gì với nhau, lúc đó người thủ túc Đại Sơn Vương mất hết vẻ lễ độ bình nhật.
                    Voòng đứng sững sau chủ, hỏi như căn vặn, tiếng hơi to :
                    - Nhưng sao thầy không cho tôi biết? Trời! Thật không ngờ... tôi đoán có sai đâu...
                    Vẫn không thấy chủ nói gì, Voòng tiến lại thêm gần, giọng nghẹn ngào đau đớn.
                    - Thầy lại tự buộc thêm dây oan nghiệt vào mình! Mối thù mấy mươi năm thôi... thế là hết. Bao nhiêu năm nung nấu, không ngờ ngày nay cụ cũng vẫn phải ngậm hờn chín suối, nghìn đời còn trông vào ai nữa? Chì vì một người đàn bà đẹp...
                    Vẫn ngồi nhìn ra ngọn nước, Đại Sơn Vương nói rất thấp, chậm, hình như quá xúc động :
                    - Thôi, Voòng đừng nói nữa! Để ta lo liệu...
                    Người thủ hạ cười nhạt :
                    - Còn liệu thế nào được nữa? Yêu con, giết cha sao cho phải đạo làm người. Mà bỏ con, thì bây giờ thầy sao còn nghị lực đâu mà làm nổi nữa.
                    Như một cái máy, thình lình Đại Sơn Vương bật người lên quay phắt lại, rút súng ra chĩa vào Voòng Lầu, giọng run hẳn lên, thét lớn :
                    - Im ngay! Không ta bắn chết bây giờ! Lui mau đi! Để mặc ta...
                    Người thủ hạ vẫn đứng yên cười gằn :
                    - Thầy cứ bằn Voòng đi! Voòng giờ chỉ muốn chết đi thôi! ít nhất cũng được chết vì thầy, còn hơn phải chết về kẻ thù thầy. Thầy bắn đi! Bắn Voòng đi cho Voòng khỏi phải...
                    Voòng nói đến đó, chợt dừng phắt lại, vì dưới ánh trăng thượng tuần trắng bệch, Đại Sơn Vương đã vùng tái nhạt hẳn đi, toàn thân viên tướng Thập Vạn Đại Sơn run lên bần bật, mắt mở to nhìn thủ hạ, nhưng không tinh lạc, miệng lắp bắp :
                    - A Voòng! Voòng...
                    Ngọn súng rung chĩa vào thủ hạ, đang từ từ quay ngọn lại, Đại Sơn Vương bóp mạnh tay cò, như điên. Chí Plan, Phượng Kiều vừa kịp thấy, chưa kịp kêu lên, thì Voòng Lầu đã nhanh mắt vung tay đánh mạnh vào ngọn súng. Đoàng. Viên đạn nổ ròn đêm quạnh, xói rào cành lá bên mình. Khẩu súng rơi xuống đất, và Đại Sơn Vương lảo đảo, ngồi phịch xuống, ôm đầu, dáng cực kỳ đau đớn, giận cuồng.
                    Voòng Lầu phục xuống, ôm lấy hai vai thầy :
                    - Thầy... tha tội cho Voòng quá lời mạn thượng... thầy.
                    - Không... Voòng có sao đâu? Ta... ta...
                    - Kìa... thầy làm sao thế này? Trời...
                    Chỉ gan được đến thế, Phượng Kiều nghẹn ngào :
                    - Anh... anh ơi!
                    Rồi chạy vụt ra, theo sau là Chí Plan ngơ ngác :
                    - Trời! Anh làm sao thế này? Cõng về lều ngay xem.
                    Mọi người xúm lại, đỡ Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi nhắm nghiền hai mắt, thân thể mềm hẳn đi, tứ chi rời rã lạnh toát, thở dốc rồi... lịm dần như chết. Voòng Lầu vội ghé vai cõng, còn hai thiếu nữ đỡ phía sau, đưa chàng vào lều. Đặt nằm trên ghế vải, Phượng Kiều, Chí Plan xúm lại bắt mạch nghe tim, hơn phút sau, Phượng Kiều buồn rầu :
                    - Bị nhiễm gió độc vì liền mấy hôm xông pha sương gió, hoạt động nhiều, lại vừa bị xúc động quá... Phải có thuốc chữa ngay mới được.
                    Chí Plan nghĩ mấy khắc :
                    - Để tôi đi hái lá!
                    Phượng Kiều lắc đầu :
                    - Muốn chóng kiến hiệu, phải tiêm vào mạch máu. Thuốc uống phải nhiều tiếng mới ngấm kịp. A Voòng nên đun nước sôi sẵn. Để tôi về thị trấn kiếm thuốc...
                    Không để hai người lên tiếng, Phượng Kiều băng mình ra ngoài, lên ngựa, phóng như bay.
                    Đang mải miết phi, thấy có người chặn đường, Voòng Sềnh dừng phắt lại :
                    - Kìa! Phượng Kiều cô nương!
                    - Chú Voòng! Sao lâu thế?
                    - Mua xong lương thực, tôi còn đi quanh thị trấn xem tình hình.
                    Hà Giang nhiều kẻ lạ lắm.
                    Viện cận tướng H mông nhìn Phượng Kiều, dáng hơi ngạc nhiên :
                    - Cô nương đi đâu coi sắc diện khác thường vậy?
                    Phượng Kiều buồn rầu :
                    - Đại Sơn Voòng thình lình ngộ cảm, mê man, bất tỉnh. Tôi về thị trấn kiếm thuốc.
                    Dứt lời, thiếu nữ định thúc ngựa đi luôn. Voòng Sềnh vội cản lại bảo :
                    - Giờ này, hàng phố đều đóng cửa, tìm đâu ra hiệu thuốc. Cô nương có cần chi, để Voòng theo giúp cũng được. Lương thực này sớm mai mới cần tới.
                    Phượng Kiều suy nghĩ mấy khắc :
                    - Chú thuộc miền này, cho tôi biết thầy thuốc nào thạo nhất. Tây, Ta cũng được. Tôi đã có cách!
                    - Cô nên tới khu chợ. Đấy có đủ dụng cụ, thầy thuốc. Nhưng...
                    Vừa nghe nói tới đó, Phượng Kiều đã hấp tấp vọt ngựa đi luôn, nói với lại :
                    - Thôi chú cứ về trước đi! Tôi sẽ về ngay đấy!
                    Rạp mình trên ngựa, thiếu nữ mải miết tế theo đường mòn, lát sau vó ngựa đã khua trên đường nhựa lởm chởm đá dăm.
                    Tới thị xã đã hơn mười giờ đêm. Phượng Kiều rẽ ra khu chợ.
                    Nhìn qua, thấy có nhà còn mở cửa, nàng liền đi thẳng tới, hỏi thăm địa chỉ hiệu thuốc Tây cùng thầy thuốc. Đoạn dằt ngựa lần dọc theo mặt phố, tìm kiếm. Nhưng hiệu thuốc đóng cửa, thầy thuốc đều vắng nhà cả. Đến lúc đó, mới chợt nhớ ra, là đêm thứ bảy. Phượng Kiều thất vọng, đành dắt ngựa lang thang, tính cách “cưỡng đoạt” thôi.
                    Chấp kinh phải công quyền.
                    Phượng Kiều toan thi hành ý định, chợt nhìn vào một tòa biệt thự bên sườn đồi, thấy ánh đèn điện sáng xanh, thiếu nữ đoán chắc trong đang có cuộc vui, hẳn các tay quí phái thị trấn phải có mặt.
                    Nàng suy nghĩ mấy khắc đoạn dắt ngựa lên đồi, tiến thẳng tới khu biệt thự. Ánh đèn từ trong hắt ra, soi rõ khuôn mặt người kia.
                    - Kìa... Hai Cao!
                    - Trời... cô Ba!
                    Người đàn ông cao lênh khênh mở to mắt nhìn nữ chủ, ngạc nhiên cực độ, mãi mới lên tiếng tiếp :
                    - Cô Ba đi đâu từ ngày đó vậy? Làm cụ nhà tưởng cô đã bị chúng bắt cóc ở Hà Nội, cụ cho người tìm kiếm khắp nơi không thấy. May quá! Để tôi vào báo cụ.
                    Phượng Kiều vội giữ Hai Cao lại, gọi hắn ra chỗ khuất, khẽ bảo :
                    - Đừng cho cụ biết bây giờ. Đêm nay ta còn việc hệ trọng phải làm nốt đã.
                    - Nhưng...
                    - Chú Hai! Hãy nghe lời tôi. Nếu chú báo cụ biết tôi có mặt ở đây, sẽ... hỏng hết việc.
                    Hai Cao đăm đăm nhìn cô chủ, nét ngạc nhiên, khó xử hiện rõ trên mặt gã thủ túc của họ Trần.
                    - Bẩm... thế cô Ba đến đây có việc gì đó. Tôi tưởng cô Ba đã biết...
                    Phượng Kiều ngạc nhiên vì lời nói úp mở của Hai Cao, nhưng vội quá không có thì giờ lưu ý nữa. Nàng vội hỏi :
                    - Này chú? Trong kia có ông thầy thuốc gì đó, chú có biết không?
                    Hai Cao nghĩ một chút, đoạn gật đầu :
                    - Da... Có tên bác sĩ Robert và...
                    - Thế à! Thôi được! Chú vào mời kín ông Robert ra cho tôi! Nhớ phải thật kín đó!
                    Hai Cao tần ngần :
                    - Nhưng...
                    Biết hắn vẫn do dự, Phượng Kiều liền nghiêm sắc mặt lại, giọng hơi sẵng :
                    - Chú vào mời cho tôi! Có việc hệ trọng. Mai tôi sẽ ra mắt cụ nhà.
                    Hai Cao vốn nể quý Phượng Kiều. Nhưng hình như đã có lệnh Trần Tắc, nên hắn vẫn nhăn mặt :
                    - Chỉ sợ cụ nhà. Hay cô Ba cứ gặp rồi sẽ hay.
                    Đang nói thấy Phượng Kiều cau mày liễu, mặt thoáng sắc giận, Hai Cao vội vào trong nhà luôn không dám chậm trễ nữa. Quả nhiên, không đầy nửa phút, đã thấy một người Pháp có tuổi, theo Hai Cao ra, ngơ ngác nhìn quanh. Phượng Kiều liền tiến lên, lễ phép nói con bệnh cần cấp cứu, muốn mời bác sĩ đi ngaỵ Đang dở cuộc vui viên thầy thuốc có ý ngại ngùng, muốn cáo thoái, Phượng Kiều phải kín đáo chĩa ngọn súng ra từ tốn :
                    - Xin bác sĩ đi ngay chọ Chỉ một lát, sẽ về dự tiếp cuộc vui! Bệnh trầm trọng, buộc chúng tôi phải thất lễ, nếu...
                    Viên thầy thuốc già thấy cô gái đẹp muốn làm dữ, vội gật đầu lia lịa :
                    - Không sao! Lười một chút thôi. Nếu bệnh gấp, già này vẫn đi được. Nào ta cùng ra xe! Dụng cụ bao giờ cũng sẵn đây.
                    - Tôi có ngựa sẵn, vào rừng mới tiện.
                    Nàng quay bảo Hai Cao :
                    - Cám ơn chú! Nhớ lời tôi đặn. Mai sẽ gặp.
                    Đoạn nàng cùng bác sĩ ra xe lấy vali dụng cụ thuốc men, và lập tức đưa bác sĩ lên ngựa, rời tòa thiệt thự Hà Giang, tế luôn vào rừng thẳm. Đi được nửa đường, thình lình Phượng Kiều dừng ngựa. Tay bác sĩ già nhìn quanh khu rừng hoang vắng.
                    - Tới rồi sao, cô?
                    - Còn một quãng nữa thôi. Giờ xin mạn phép bác sĩ, cho tôi được...
                    Vừa nói, Phượng Kiều vừa rút mùi xoa trong túi ra. Hiểu ý, viên thầy thuốc mỉm cười xua tay :
                    - Không cần đâu! Tôi chỉ ngại đi đêm chút thôi, chứ không thiếu lương tâm nghề nghiệp đâu? Bất tất phải bịt mắt mà...
                    Phượng Kiều nhìn viên bác sĩ già, rồi lẳng lặng bỏ khăn vào túi quất ngựa đi luôn. Tới suối, ngựa dừng. Bác sĩ ngó quanh không thấy nhà cửa chi, có vẻ ngơ ngác muốn hỏi, lại thôi. Phượng Kiều đánh ngựa qua suối, tới trước lều. Voòng Lầu vội chạy ra.
                    - Sao? Chú Voòng?
                    - Bẩm mê man, thỉnh thoảng mới hơi tỉnh.
                    Người tùy tòng đỡ vội viên thầy thuốc xuống, xách giúp “vali” dụng cụ vào lều. Vào tới nơi, viên thầy thuốc nhanh nhẹn lấy dụng cụ khám bệnh ngaỵ Phượng Kiều có học qua nghề thuốc. Thấy vẻ nghiêm trọng hiện rõ trên khuôn mặt bác sĩ nên càng lo lắng nín thở đợi chờ, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nhau.
                    Tiêm liền mấy mũi thuốc, Đại Sơn Vương có vẻ tỉnh táo, đưa mắt ngó quanh mình, thấy viên thầy thuốc Pháp hình như đã đoán ra, định nhỏm dậy. Bác sĩ vội nhẹ tay ấn xuống, quay nhìn mọi người khá lâu. Đoạn ôn tồn :
                    - Bệnh nhân bị cảm khá nặng, thần kinh lại bị chấn động quá!
                    Phải tĩnh dưỡng một vài hôm, không nên di chuyển. Xin cứ yên lòng săn sóc bệnh nhân.
                    Quay sang Phượng Kiều, viên thầy thuốc mỉm cười :
                    - Cô có biết qua nghề thuốc. Vậy tôi để ít dụng cụ thuốc men lại, ngày ngày cô điều trị thêm vào, là khỏi đó. Nhưng, nên nhớ, nếu bị xúc động quá, lần sau có thể... thổ huyết được. Đã xong nhiệm vụ. Giờ lão có thể về thị trấn dự tiếp cuộc vui được chứ?
                    Phượng Kiều nhìn Chí Plan, nghĩ mấy khắc :
                    - Xin cám ơn bác sĩ.
                    Suốt đêm, hai viên cận tướng họ Voòng thay phiên canh ngoài lều. Còn Phượng Kiều, Chí Plan không ai chịu ngủ, cả hai đều ngồi bên giường săn sóc Đại Sơn Vương. Phượng Kiều chạy lại kéo chăn đắp cho người yêu và nhẹ đặt tay lên trán, reo khẽ.
                    - Đã mát lắm rồi. Gớm đêm qua anh ngủ thiếp mà người có lúc nóng ran, làm em lo quá. Anh chịu khó nằm yên tĩnh dưỡng mới được...
                    Đại Sơn Vương đăm đăm nhìn Phượng Kiều, đoạn tự nhiên chàng thở dài mệt mỏi hỏi :
                    - Em không ngủ sao? Voòng Lầu đâu?
                    - Chú ấy gác ngoài lều. Anh có cần bảo chi, để em ra gọi.
                    Đại Sơn Vương khẽ lắc đầu :
                    - Thôi chưa cần gì. Mà ai nấy phải đi ngủ cho đỡ mệt chứ? Chí Plan, Voòng Sềnh đâu?
                    - Chí Plan thức suốt đêm, em vừa bắt đi nghỉ rồi. Voòng Sềnh hình như đi tuần quanh đây lúc nãy.
                    Đại Sơn Vương nhìn Phượng Kiều khá lâu, đoạn đưa mắt lờ đờ làm hiệu. Phượng Kiều vội ngồi xuống bên giường vải.
                    - Em Phượng... Đừng buồn Voòng Lầu nhé! Hắn quý em lắm , nhưng... lúc nào cũng nghĩ tới việc thầy đó thôi.
                    Phượng Kiều ứa nước mắt :
                    - Không... Em chỉ buồn cho chúng ta thôi.
                    Động đến niềm riêng này, nàng nghẹn ngào thổn thức :
                    - Anh lại yếu dọc dường... em lo sợ lắm...
                    Đại Sơn Vương cũng xúc động, nắm lấy cổ tay Phượng Kiều, viên tướng núi ngang tàng quay mặt vào trong buồn rầu. Phượng Kiều vùng nhớ tới lời khuyên của thầy thuốc, vội lau nước mắt, chớp hàng mi, đặt nhẹ tay người yêu xuống giường.
                    - Em ngu quá, lại làm anh suy nghĩ cho thêm mệt. Để em tiêm thuốc ngay mới dược.
                    Đoạn thiếu nữ đến bên đèn, lúi húi pha thuốc, vừa tiêm xong, chợt nghe có tiếng động bên ngoài. Ngẩng vội lên, thấy Voòng Sềnh hấp tấp xuống ngựa ngay ngoài cửa lều, có Voòng Lầu rảo bước sau.
                    - Cô nương...
                    Thấy hai viên cận tướng có dáng khác thường, Phượng Kiều vội xua tay, chặn lời, trỏ vào Đại Sơn Vương, đoạn bước nhanh ra, khẽ hỏi :
                    - Sao, có chuyện gì đó?
                    Voòng Sềnh liếc nhìn về phía Đại Sơn Vương nằm, thấp giọng :
                    - Có toán người ngựa từ nẻo thị trấn Hà Giang tiến tới đây. Hình như có lẫn cả quan binh, có lẽ lính khố xanh thì phải.
                    Phượng Kiều cau mày, nghĩ mấy khắc, và vẫy tay, nhanh giọng :
                    - Chú Sềnh mau ra quan sát lại. Có gì khá làm nghi binh cản họ chậm lại. Còn chú Lầu hãy ở cận thầy để tôi đi đánh thức Nữ Chúa.
                    Dứt lời, Phượng Kiều chạy sang lều Chí Plan. Nữ Chúa Hoàng Su Phì đang ngủ mệt chợt nghe tiếng gọi, tung chăn dậy, thấy Phượng Kiều, hỏi luôn :
                    - Gì đó, cô nương?
                    - Có đoàn người ngựa đang tiến phía ta, Voòng Sềnh thấy có dáng quan binh.
                    Chí Plan quơ vội khăn lau mặt, xốc lại xiêm y.
                    - Đến gần chưa?
                    - Hình như cũng gần thì phải. Tôi lo không phải tình cờ...
                    - Ta hãy ra coi đã, rồi sẽ liệu.
                    Hai thiếu nữ băng mình ra, nhìn qua suối, quả nhiên thấy một toán quân đang lướt tới, đến mấy chục người ngựa. Và Voòng Sềnh phi lại, nói nhanh :
                    - Xin Nữ Chúa cùng cô nương liệu định. Có lẽ quân kia chủ định tới đây.
                    - Không thể để quan binh thấy Đại Sơn Vương được! Sềnh khá ra trấn trước suối. Chúng ta dời lên ngọn núi!
                    Hai thiếu nữ băng mình về lều, Chí Plan bảo Voòng Lầu :
                    - Phải dời ngay lên nút, tìm nơi ẩn trốn. Không nên để Đại Sơn Vương biết có biến!
                    - Chú Voòng hãy cõng thầy. Bỏ các vật dụng lại. Chỉ cần ngựa thôi.
                    - Dạ.
                    Voòng Lầu vừa quay vào, định cúi xuống bên giường nhưng... đã muộn! Liền mấy phát súng bên ngoài đã xé rách sương sớm, tiếp theo nhiều tiếng vó ngựa ập tới, gần kề mạn suối. Mấy người nhìn ra, đã thấy lố nhố bóng người ngựa dừng lại bên kia bờ suối, cách lều vừa đúng tầm súng trường. Bên này suối, viên cận tướng H mông ngồi im lên lưng ngựa, tay súng chĩa thẳng về phía bước cản đường. Phượng Kiều vừa trông thấy bóng người đứng tuổi, đã biến sắc mặt, run giọng lẩm bẩm :
                    - Trời... thầy ta! Hừ! Tên bác sĩ khốn khiếp đã theo vết ngựa vào rừng, báo cho người rồi...
                    Voòng Lầu cũng đã nhận ra. Người đàn ông mím chặt môi, trừng mắt nhìn sang suối và chậm chạp quay nhìn Phượng Kiều, giọng u uất não nùng lẩm bẩm một mình :
                    - Lại họ Trần! Theo đuổi hạ thầy ta đến cùng... Thầy đang ốm, bây giờ biết tính làm sao?
                    Chí Plan thấy đám người ngựa dừng lại trước ngọn súng Voòng Sềnh, vùng thoáng cơ mưu, liền bảo Phượng Kiều, Voòng Lầu :
                    - Lên ngựa sẵn, túc trực bên mình Đại Sơn Vương nếu có xung đột, phải đưa về phía sau núi ngaỵ Để tôi ra cố tìm cách lui binh.
                    Dứt lời Chí Plan lấy ngựa, phóng thẳng về phía Voòng Sềnh :
                    - Xin có lời chào các ông! Các ông muốn điều chi cứ dạy. Đây là chỗ đựng trại của Hoàng Su Phì.
                    Voòng Sềnh cũng nghiêm mặt, nói luôn :
                    - Đây! Nữ Chúa biên thùy xuôi Hà Giang có việc cho vua xứ tôi.
                    Các ông không được tới bên lều.
                    Hình như viên sĩ quan khố xanh Hà Giang nhận ngay được Nữ Chúa Voòng Chí Pan. Qua khắc ngạc nhiên. viên sĩ quan quay lại nói khẽ gì với Trần Tắc, đoạn nghiêng mình lễ độ, nói vọng sang.
                    - Kính chào Nữ Chúa! Quan binh chỉ muốn gặp viên tướng giặc sát nhân. Không biết Nữ Chúa có biết người đồng hành, là chính hắn đó chăng?
                    Chí Plan cười lanh lảnh :
                    - Ông là nhà binh còn lạ chi nữa. Kẻ cầm súng, cỡi ngựa ai chẳng là kẻ sát nhân!
                    Thấy viên võ quan đưa mắt nhìn Trần Tắc, Voòng Chí Plan liền nghiêm mặt, giọng ôn tồn nhưng cương quyết vô cùng :
                    - Vả lại, người đó là thượng khách xứ tôi. Cả xứ phải hết lòng bảo vệ khi thượng khách đi với người H mông, nhất là đi cùng tôi. Mong ông thể tình lui binh, chờ cơ hội khác, sẽ liệu, xứ tôi không can dự tới.
                    Còn bây giờ, nếu ông không thể tình, chỉ còn cách giẫm qua xác tôi cùng tướng H mông để vào bắt khách của xứ tôi.
                    - Và như thế, là ông sẽ lĩnh trách nhiệm, nếu có chuyện bất hòa nghiêm trọng với chúa tướng Hoàng Su Phì!
                    Lời nói của hai chức sắc lớn người H mông khiến viên sĩ quan khố xanh bị dồn vào tình thế thật khó xử. Ông ta không còn lạ chi việc chính quyền bảo hộ Đông Dương phải cắt đất phong vương cho vua H mông một cõi biên thùy tung hoành với chính sách “Tạm hòa”, và cả đến Thống Sứ, Toàn Quyền cũng còn phải nể vì, vuốt ve cho yên mặt biên giới. Mà đây lại là cháu gái ruột.
                    Thấy viên sĩ quan có vẻ nao núng, Trần Tắc vội lên tiếng :
                    - Ngài chớ ngại. Tôi đã có cách, không cần động chạm tới người H mông. Ngài cứ truyền lính đứng đây, thi hành, để mặc tôi liệu cách.
                    Dứt lời, Trần Tắc hô lớn :
                    - Đại Sơn Vương! Có giỏi ló mặt ra đây!
                    - Đại Sơn Vương khiếp nhược!
                    Đám quân gia Trần Tắc nhất loạt reo hò vang một góc rừng. Nằm trong lều, chàng tướng núi chợt thức giấc, thấy bóng thủ hạ, gượng hỏi :
                    - A Voòng! Ngoài kia... hình như có tiếng ai gọi tên ta... ?
                    Voòng Lầu lo lắng nhìn chủ tướng, lại quay nhìn Phượng Kiều.
                    Phượng Kiều đứng ngoài cửa lều, rón rén bước vào, lo lắng hỏi người yêu :
                    - Anh thấy trong người thế nào?
                    - Chân tay còn mỏi lắm. Mà có tiếng gì hò reo ngoài xa, hình như gọi đến lên anh, phải không? Có chuyện gì đấy?
                    Phượng Kiều, Voòng Lầu đã nghe rõ tiếng quát mắng khích tướng bên ngoài. Hai người chỉ e Đại Sơn Vương rõ chuyện, uất lên, tật bệnh lại bạo phát nguy thêm, Phượng Kiều đành nói lảng :
                    - Không... có gì đâu! Chắc anh còn choáng váng ù tai đó. Chỉ có tiếng... Chí Plan hát bên ngoài đó thôi.
                    Nàng vừa dứt lời, chợt biến sắc, vì ngoài xa tiếng quát gọI lại nổi lên, rõ tiếng cha mình.
                    - Đại Sơn Vương! Tên khiếp nhược nấp mãi xó nào? Ra đây đấu súng!
                    Hai người nhớn nhác nhìn nhau. Tiếng quát lần này rõ quá, có lẽ Đại Sơn Vương nghe rõ, nên chàng quắc mắt nhìn Voòng Lầu :
                    - Hừ! Có kẻ nào đang nhục mạ ta, sao dám giấu? Súng đâu?
                    Mấy tiếng sau, chàng thét lên, xúc động thần kinh. vừa nhỏm dậy đã xìu xuống, thở hổn hển.
                    - Súng... súng đâu?
                    Phượng Kiều hốt hoảng, vội kéo chăn đắp cho người yêu, quay bảo Voòng Lầu :
                    - Chú khá giữ gìn lấy! Để tôi ra mới được!
                    Đoạn thiếu nữ chạy vụt ra, lên ngựa, phóng tới chỗ Chí Plan. Vừa lúc Chí Plan nổi giận vì lời khích mắng của Trần Tắc, thì Phượng Kiều kịp đến bên, chắn lấy Chí Plan, đưa mắt buồn rầu nhín sang cha.
                    - Kìa cô Ba!
                    Đám quân gia chợt thấy nữ chủ, liền chỉ trỏ, xôn xao. Trần Tắc cũng có dáng xúc động.
                    - Phượng Kiều! Sang đây cha có chuyện cần. Đi đâu... mà chẳng về căn cứ?
                    - Con bị bọn Voòng Xanh theo hại, may lại được Đại Sơn Vương giải cứu. Ân nhân còn hiện đang bạo bệnh, xin cha vì tình con, giải vây người. Nếu không... con thề một chết để... đền ân sâu người.
                    Hình như Trần Tắc đã hiểu rõ ẩn tình, lại thấy vẻ liều chết hiện rõ trên nét mặt con gái, nên người cha đầy cơ mưu liền giơ tay làm hiệu truyền quân gia hạ ngọn súng, giọng nhanh, khẽ bảo mọi người :
                    - Phải làm con ta về bên này, rồi mới hạ thủ thầy trò hắn được.
                    Hướng sang phía Phượng Kiều, Trần Tắc nghiêm nét mặt :
                    - Vì con tha cho hắn lần này. Vậy khá sang đây, theo về thị trấn, còn nhiều việc phải bàn định cùng con.
                    - Xin cha hãy cho lui quân ngay, con mới về. Cha lui chừng nào, con sẽ tiến ngựa theo chừng đó!
                    Thấy con gái thông minh, họ Trần nhăn mặt :
                    - Hừ! Con bé... láo quá? Vẫn phòng cha lừa thế!
                    Trần Tắc gật đầu, ngỏ ý cùng viên quan tháp, đoạn hô lớn :
                    - Lui binh!
                    Người ngựa quay đầu về nẻo Hà Giang, từ từ bước nước mã hồi.
                    Bên kia suối, Phượng Kiều nhìn Chí Plan mấy khắc, đoạn ngậm ngùi :
                    - Đành xin tạm biệt, xin bảo vệ Đại Sơn Vương. Chúng ta sẽ có này tái ngộ.
                    Dứt lời, thiếu nữ cảm động quay ngựa đi mấy bước, còn ngoái lại, nghẹn ngào :
                    - Xin gửi lời cô nương tạ tội giùm thầy trò Đại Sơn Vương... và dặn chàng khá giữ gìn cho chóng mạnh.
                    Dứt lời, Phượng Kiều quay ngựa đi luôn, nhưng Chí Plan, Voòng Sềnh đã thoáng nhìn thấy lệ rơi trên gò má nàng. Tuy chưa biết rõ, nhưng Nữ Chúa H mông đã hiểu mang máng mối ẩn tình cay đắng giữa nàng thiếu nữ Kinh cùng Đại Sơn Vương. Chẳng rõ ngậm ngùi cho cô bạn mới hay cho chính mình, Nữ Chúa Hoàng Su Phì lặng lẽ nhìn theo bóng Phượng Kiều khuất sau hàng cây rừng, cô gái sơn cước chầm chậm thở dài. Voòng đã ra từ lúc nào. Tấm lòng gỗ đá vì dầy dạn gió sương của Voòng Lầu thốt nhiên thoảng buồn man mác. Mấy khắc qua, người đàn ông chợt nghĩ tới thầy, vội đánh ngựa tới sát Chí Plan :
                    - Cô cương! Ta nên rời khỏi nơi này ngay thôi!
                    Cả ba phóng ngựa trở lại lều, thu xếp vội vã lên đường. Tới trước một con suối hẹp uốn khúc giữa thung lũng, chợt Voòng Sềnh thấy bụi rậm bên kia bờ khẽ lay động, đưa mắt ngó lên cây thấy cành lá im phắc vì khuất gió, viên cận tướng chột dạ, lập tức dừng phắt ngựa lại, toan rút súng bắn vào bụi thăm dò, nhưng vội ngừng ngay, vì cành lá bên bờ đã từ từ di động rạp cả sang một phía, để lộ những ngọn súng đan hàng chĩa cả vào ngực Voòng và sau súng, lố nhố nhiều bóng người ngựa ngụy trang cành lá kín mình. Viên cận tướng H mông vội giơ tay làm hiệu động cho phía sau và lấy vẻ điềm nhiên, dõng dạc hỏi :
                    - Quân nào phía trước đó?
                    Vẫn im lìm câm nín, Voòng cất cao giọng thêm :
                    - Quân nào khá ra mặt. Ta là cận tướng chúa H mông đây!
                    Vẫn không tiếng đáp. Voòng Sềnh liền cho ngựa từ từ lùi bước một, thì những ngọn súng phía trước cũng từ từ tiến lên. Tới bờ suối, cành lá ngụy trang rơi nhất loạt, và trước mắt Voòng Sềnh, hiện ra hình dạng quan binh toàn lính khố xanh. Voòng vừa kịp ngạc nhiên, thì hai bên tả hữu, bờ bụi cũng di động. Rồi từng tốp người ngựa khác xuất hiện theo ngọn súng trường kẹp lại như gọn kìm, quân gia bọn Trần Tắc ban sớm! Phía sau, Voòng Lầu đã chiếu viễn kính, thấy rõ địch quân. Trao ống nhòm cho Chí Plan, Voòng thở mạnh :
                    - Vòng vây đã xiết chặt ba mặt, lần này chúng ta hoàn toàn bị sa cơ, tiến thoái không kịp mất rồi.
                    Nữ chúa H mông đảo mắt nhìn quanh, hiểu ngay tình thế thập phần nguy khốn, vùng nhìn sang chỗ Đại Sơn Vương. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn nằm trên cáng ngựa, cũng vừa tỉnh, đưa mắt lờ đờ ngó hai người, giọng mệt nhọc :
                    - Đã tới đâu rồi?
                    Voòng Lầu, Chí Plan nhảy xuống ngựa, tiến đến bên Đại Sơn Vương. Nhìn thấy chủ mệt như chết giữa cảnh sa cơ thình lình, Voòng thủ túc tưởng tới những trận chiến dọc ngang khuấy đảo xưa nay của “thầy”, bất giác ngậm ngùi, nói như một lời than trường hận :
                    - Thầy ơi, ta bị vây kín, súng địch đang nhích vừa tầm, bây giờ tướng ốm, quân đơn, Voòng biết làm sao đưa thầy ra khỏi chốn hiểm nghèo...
                    Đại Sơn Vương giật mình vì giọng tuyệt vọng của người thuộc hạ bách chiến, vội lắp bắp hỏi :
                    - Quân nào?
                    Không dám giấu, Voòng Lầu hơi đưa mắt nhìn Chí Plan, đoạn cúi đầu, thở dài :
                    - Bẩm... Quan binh cùng Trần Tắc!
                    Vừa nghe dứt tiếng, viên tướng lạc thảo vùng thét lớn :
                    - Lại Trần Tắc! Kẻ oan gia!
                    Chàng tướng núi uất ức muốn trào máu họng, lẩy bẩy cố sức nhỏm lên, nhưng ngã dụi xuống luôn, thở hổn hển, hai tay sờ soạng lấy ngực, mắt nhắm nghiền... Voòng Lầu nhìn ra đã thấy mấy phía súng tiến lại thêm gần, còn Voòng Sềnh cũng đã lùi ngựa về, chỉ còn cách vài chục thước.
                    - Đại Sơn Vương! Biết điều để ta bắt trói, kháng cự chết ngay!
                    Lần này đừng hòng thoát lưới! Đứng im cả!
                    Chí Plan thấy nguy, lập tức rút súng đứng chắn lấy Đại Sơn Vương. Voòng Lầu cũng vội làm theo. Đại Sơn Vương nghe tiếng kẻ thù quát, mở mắt ra, bảo Voòng Lầu :
                    - Khoác súng vào sườn cho ta!
                    Vừa nói, vừa lấy hết sức thừa, chống tay nhỏm dậy, nhưng tứ chi rời rã, hơi nhỏm đã phục xuống luôn, không sao ngóc lên nổi. Đau đớn, chàng tướng lạc thảo nghiến răng ken két :
                    - Không ngờ bị nhục tử với kẻ thù tại xó rừng này... Tần Quỳnh xưa nhuốm bệnh còn lên nổi lưng ngựa tử chiến, mà ta... Chàng nghẹn uất, lặng đi mấy khắc, đoạn phều phào :
                    - Cô nương... Voòng... mau mở đường máu thoát thân! Chớ đứng cả đây... chịu nhục. Mau...
                    - Thầy yên dạ! Voòng có chết, chúng mới phạm nổi tới mình thầy!
                    - Ông Hồng Lĩnh! Nó phải giẫm lên xác tôi mới tới được bên giường bệnh ông!
                    - Nữ Chúa Hoàng Su Phì hãy tránh ra xa! Chớ để uổng mạng vì viên đạn vô tình. Việc này không can dự chi đến Nữ Chúa! Khá tránh mau. Hai Cao, cho tiến đến bắt sống tướng giặc. Kẻ nào động thủ, hạ liền!
                    Mấy hàng súng từ từ nhích tới, kẹp chặt lại, họng súng đen ngòm chĩa cả vào mấy người. Im lặng đến... ngạt thở. Chỉ còn tiếng vó ngựa khua khô trên mặt đáy thung rừng. Khoảng cách càng gần hơn! Nữ Chúa H mông quắc mắt nhìn viên quan võ cùng Trần Tắc, quát lớn :
                    - Đứng cả lại! Tiến nữa, ta hạ liền!
                    Ngựa vẫn nhích, nặng nề lạnh lẽo như bước chân tử thần. Nắm chắc phần trắng trong tay, Trần Tắc vẫn hờm súng sẵn, mắt như nảy lửa, cùng quân gia tiến thẳng tới họng súng. Trong vùng không gian sâu thẳm im lặng, một con chim lợn từ đâu bay tới vội vã để rớt xuống mấy tiếng kêu quái gở. Bất thình lình, giữa cảnh thập tử, chợt từ phía ngoài, từng loạt cồng rền rĩ nổi lên, rồi luôn mấy tràng súng nổ bật lên giòn tan, vang vọng khắp lòng núi thẳm. Quan binh cùng đám quân Trần Tắc nhất loạt, dừng phắt lại, ngạc nhiên, liếc mắt bốn bề.
                    Dư âm cồng đổ vừa kịp ngấm vào khe đá, thì về phía Nam, sau lưng Đại Sơn Vương, vụt xuất hiện từng tốp người ngựa, nhô lên khỏi ngọn đèo lao xuống như tên. Rồi lại phía Tây bắc chếch, lại một lớp kỵ sĩ nữa, vọt qua suối, lướt tới, trong chớp mắt đã chia nhau trấn bốn góc thung và hạ nước phóng xiết lại, đánh một vòng đai sau lưng quan binh, quân Trần Tắc, vừa tầm súng. Quan binh đột nhiên bị kẹp giữa hai hàng súng chĩa. Quan binh còn đang kinh ngạc, thì cùng lúc, hàng loạt tên, theo nhịp ngựa phi, bay vút tới phía quan binh, nhưng chỉ phớt qua tai rồi cắm cả vào những thân cây quanh đó.
                    Đoàn quân thần tốc ào đến bất ngờ nhanh như gió cuốn. Quân lính chưa phân biệt nổi bạn, thù, còn ngạc nhiên giương mắt nhìn xem. Mãi đến lúc tên bay vèo tới, quan binh mới hoảng nhiên chột dạ.
                    Viên quan võ bàng hoàng tuốt kiếm giơ cao, miệng chưa kịp hô quân, thì... Phập! Một mũi tên đã cắm trúng tay kiếm, tiệp theo một giọng hô nghiêm trầm, nghe như kề sát bên tai :
                    - Đứng im! Động đậy chết ngay! Hạ súng cả xuống.
                    Viên võ quan đau nhói, buông rơi đốc kiếm, ôm tay, kinh ngạc, chớp mắt nhìn lại. Quân thần tốc đã bay ngựa tới sát quan binh, mặt tiền, mặt hậu, tả dực hữu biên, lớp lớp, dừng phắt lại, cung tên, súng ống chĩa vào tua tủa. Toàn sắc phục chàm xanh đậm. Cánh quân hữu, nam binh dẫn đầu là một viên tướng oai phong như pho tượng thép, mặt xanh như tàu lá, cánh quân hữu, toàn nữ binh, dẫn đầu là một tướng nữ đẹp như đóa hoa sơn dã, trong xiêm y miền núi.
                    - Khách Giang Hồ!
                    - Nguyệt Tú! Trời!...
                    Chí Plan, Voòng, cùng bật lên như một lời reo, bàng hoàng, mừng tủi. Khách Giang Hồ, Nguyệt Tú tiến ngựa lên mấy bước, nhỏm mình hẳn lên, nhìn vào phía trong trận. Qua hàng quan binh lố nhố, thấp thoáng chỉ thấy dáng Chí Plan, Voòng. Hai anh em Khách Giang Hồ đưa mắt nhìn nhau, ngạc nhiên vì không thấy Đại Sơn Vương, Phượng Kiều.
                    - Khách Giang Hồ!
                    Nữ Chúa H mông vội cất tiếng gọi vọng ra, lời vừa thốt viên quan võ, Trần Tắc cùng đám quân gia đột nhiên giật nảy mình như bị điện giật. Không nén được ngạc nhiên, viên quan võ vùng ngó viên thủ lĩnh địa khu Cầu Mây, đoạn ngó Trần Tắc. Cả hai cùng bật kêu lên :
                    - Khách Giang Hồ? Chính... Ông?
                    Khách Giang Hồ hơi nhếch miệng cười :
                    - Các ông cũng biết tiếng kẻ tầm thường miền thác lũ này ư?
                    Chợt nghiêm mặt lại, viên thủ lĩnh Cầu Mây dằn giọng :
                    - Sao dám chặn đường làm ngặt bạn tả Ỷ quân đông bức kẻ độc mã đăng trình? Biết điều khá rút quân về thị trấn! Chậm trễ, ta đổi ý, làm cỏ không còn một mống! Ném súng xuống! Lui mau!
                    Viên quan võ đưa mắt nhìn Trần Tấc. Biết đã hoàn toàn thất thế, xuẩn động sẽ mất mạng vô ích, Trần Tắc đứng nghiến răng nén giận, chậm chạp ném súng đạn xuống chân ngựa, đoạn khẽ hất hàm cho lệnh quân gia. Viên võ quan không biết làm gì hơn, cũng đành làm theo Trần Tắc. Khách Giang Hồ phất tay làm hiệu cho quân sĩ mở ra một lối hẹp, thẳng hướng Hà Giang. Và đám quan binh ôm hận, nuốt nhục, nối nhau rút giữa hàng súng chĩa đen ngòm sẵn sàng nhả đạn.
                    - Anh em! Thu lấy khí giới!
                    Chờ cho quan binh ra hết, anh em Khách Giang hồ liền phóng tới chỗ Chí Plan, Voòng.
                    - Đại Sơn Vương! Đại Sơn Vương đâu rồi?
                    Khách Giang Hồ nhảy phắt xuống tiến lên trước mấy bước. Chí Plan, Voòng Lầu, Voòng Sềnh cùng trỏ phía sau cây cổ thụ, giọng Chí Plan đượm buồn :
                    - Đại Sơn Vương thình lình nhuốm bệnh trạng đêm qua! Chập chờn lúc tỉnh lúc mê...
                    Khách Giang Hồ, Nguyệt Tú bước vụt tới bên giường vải, thủ lĩnh địa khu Cầu Mây thấy tướng núi Thập Vạn Đại Sơn nằm lịm, vẻ mặt phờ phạc, da vàng hẳn đi, bất giác thương cảm bồi hồi, quỳ xuống, đặt nhẹ tay lên trán người bạn phong trần.
                    - Trời! Mới cách biệt một, hai ngày mà bạn ta đã... thế này sao?
                    May tình cờ đến kịp, nếu không, còn gì một trang tuấn kiệt dọc ngang. Đại Sơn Vương, Sơn Vương bạn!
                    Khách khẽ lay gọi, mãi mới thấy tướng Thập Vạn Đại Sơn hơi cựa mình, mi mắt hé mở nhìn Khách Giang Hồ, thình lình trợn trừng, cặp môi khô vẫn mím chặt mấp máy mở theo... rồi bất ngờ nghệch cổ sang bên, thở dốc. Khách Giang Hồ cùng mọi người vùng bật lên một tiếng “Trời” hoảng hốt. Từ lúc nào, uất khí đã dồn máu lên họng, và hộc ra đỏ lòm.
                    - Nguyệt Tú! Sửa soạn ống tiêm mau!
                    - Thầy! Thầy Mọi người xúm lại lay gọi săn sóc, Khách Giang Hồ tự tay tiêm liền mấy phát, mới thấy Đại Sơn Vương mở mắt ra, miệng lắp bắp như mê sảng :
                    - Trần Tắc! Oan gia... Phượng Kiều...
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #11
                      Hồi 9 - Đại hội Biên Thùy (tiếp theo)

                      Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn bừng tỉnh, mở choàng mắt ra, như vừa trải cơn ác mộng. Bên tai chàng tiếng cồng rền rĩ đổ hồi, ngừng bặt, dư âm u uẩn ngân dài trong buổi bình minh.
                      Từ từ chống tay cố nhỏm lên, chàng tướng giặc ngồi dựa lưng vào thành giường, thở mạnh, thấy trong mình đã tỉnh táo lạ lùng, chỉ còn hơi mệt. Cúi nhìn tấm chăn gấm, và chiếc nệm giường phủ da báo gấm, hếch mũi lên thấy phảng phất như có hương trầm thơm nhẹ, chàng tướng núi nhớ nhanh tới những căn nhà của các dòng quí tộc sơn cước, bất giác giơ tay vịn tấm màn thổ cẩm, nhích ra ngồi bên thành giường, cặp mắt bâng khuâng, lơ đãng nhìn khắp mấy gian sàn rộng.
                      - Phải chúng mình đã tới giang sơn Chúa Dao?
                      Sàn ghép gỗ quý bóng loáng, cột hàng người ôm chạm trổ tinh vi làm tủ đứng ghép gương, vách nhiều cửa sổ trông ra đồi núi điệp trùng, căn sàn trần thiết cực kỳ sang trọng với tất cả vẻ đẹp vương giả miền núi vừa lộng lẫy đài các, lại vừa huyền bí, uy nghi pha lẫn vẻ cổ kính Đông phương với vẻ phóng khoáng Tây phương... tổng hợp thật tài tình, trông rất lạ mắt. Tiếng cồng đột nhiên lại nổi lên, dồn dập, tiếp đến tiếng reo hò man dại, xa xa giữa muôn nghìn tiếng động chuyển như thác gầm, trong hơi gió sớm hiu hiu thoáng lạnh, chàng tướng giặc nghe như có tiếng “khèn” lau chìm nổi đâu đây, thanh âm nguyên thủy uốn éo giữa không gian, chờn vờn... mơ hồ lạ.
                      Chàng còn đang nheo mắt nghiêng đầu, lắng tai, đột nhiên, nghe tiếng báo gầm, rờn rợn ngay dưới cầu thang. Rồi có tiếng sột soạt như tiếng móng nhọn cào vào phên nứa, gai góc. Ngạc nhiên, chàng tuổi trẻ vội đặt chân xuống sàn, men theo thành giường, lần tới bên vách tiến ra lối cầu thang. Tiếng móng nhọn cào sột soạt nhanh thêm, rồi có bước chân giẫm thình thịch trên mặt sàn.
                      Chàng tướng núi vội đứng phắt lại, thở dốc. Hình thú rừng rú thình lình xuất hiện ngay giữa khung cửa trông ra cầu thang, lông lá xồm xoàm to lớn khác thường. Một con hổ xám thọt chân ngồi chống hai chân trước, không nhúc nhích, cặp mắt đỏ lừ nhìn chàng tướng núi chòng chọc trong cái thế mãnh thú rình mồi. Chàng tướng núi vùng đưa mắt nhìn quanh mình. Không một tấc sắt phòng thân. Vận hết gân cốt, chàng từ từ nắm chặt hai bàn tay lại, nhưng bàn tay chưa nắm đã buông rời, vì sứcc lực chưa hồi phục sau cơn bệnh trọng.
                      Không biết làm sao hơn, chàng dành đứng im, trừng nhìn hổ xám, khắc khoải đợi chờ một nhát quật đuôi. Nhưng con vật vẫn ngồi chồm chổm ngó chàng, và chẳng hiểu sao, đầu gật gật luôn mấy cái. Giữ lúc đó, chợt có tiếng vó ngựa từ ngoài phóng tới bên nhà, rồi có tiếng chân bước lên cầu thang liền với giọng nói quen thuộc trong trẻo :
                      - Quái! Nghiệt súc đâu rồi?
                      - Có lẽ nó chạy đâu đây?
                      Rồi bóng người xuất hiện ngay sau lưng hổ xám, tiếp theo tiếng cười khanh khách hồn nhiên của đóa hoa rừng xinh đẹp :
                      - Nghiệt súc! Mi ngồi đây định vồ khách quý của ta sao? Đại Sơn Vương! Ông thấy trong mình thế nào?
                      Chàng tướng núi thở phào, nhếnh miệng cười... hơi sửng sốt vì sự xuất hiện bất thần. Trước mắt chàng, Nữ Chúa Voòng Chí Plan đang nhẹ xoa đầu hổ xám, bên cạnh là thủ túc Voòng :
                      - Thầy... đã đỡ mệt chưa?
                      - Nghiệt súc! Hãy xuống mau! Phận sự mi phải trấn dưới cầu thang không cho kẻ lạ lên đây làm rộn, sao dám lên đây?
                      Chí Plan nhẹ vỗ vào đầu hổ, cho con vật trở xuống, đoạn cười bảo Đại Sơn Vương :
                      - Nó gật đầu có ý mới ông vào giường nghỉ đó. Tuy không nói được, nhưng nó linh cảm được tiếng người.
                      Hai người bước đến bên Đại Sơn Vương, dìu chàng ngồi xuống ghế. Chí Plan tha thướt trong bộ xiêm y miền núi. “Phá” lĩnh dài quét sàn, mặt tươi như hoa nở bên suối, miệng luôn mỉm cười, trong dáng dấp, y phục rực rỡ của thiếu nữ của dòng vua sơn cước, thoạt nhìn không ai lường tượng nổi là một cô gái bản lĩnh khác thường, từng xông pha giữa chốn ba quân với tất cả cái gan dạ, nhanh nhẹn cả quyết sắc đanh của một nữ tướng biên thùy.
                      - Ông còn mệt, chưa nên đi lại cử động nhiều. Chịu khó uống mấy thang thuốc nữa cho lại sức đã!
                      - Đêm đó, bệnh bạo phát, thầy mê đi không còn biết gì nữa, làm ai cũng lo lắng quá. May đưa thầy về Hoàng Su Phì không gặp cản trở gì, nếu không, có lẽ...
                      - Ông mê man đã gần hai ngày đêm. Thầy mo thấy ông sảng trí, phải cho ông uống thuốc lá mới ngủ yên được. Thầy Mo này giỏi thuốc lắm, là thầy chữa riêng cho gia tộc chúng tôi đó! Ông nên vào giường nằm tĩnh dưỡng! A Voòng! Chú sắc thang này cho thầy dùng ngay đi.
                      - Dạ. Để tôi đi ngay.
                      - Không... tôi thấy tinh thần đã khá lắm. Chỉ còn mệt, tay còn run run thôi. Để ngồi cho quen đi! Thật cảm ơn cô... không biết lấy gì đền đáp nổi...
                      Chàng ngậm ngùi :
                      - Vì tôi mà bao nhiêu bạn phải gian nan, táng mệnh. Cô nương!
                      Thế Khách Giang Hồ cùng...
                      - À! Mọi người vẫn mạnh cả. Quân mã đóng ngoài biên, còn Khách Giang Hồ, cùng Nguyệt Tú cô nương hiện cũng ở đây ngoài bản!
                      Ngoài xa, tiếng cồng lại nổi lên, vang âm giữa vùng rừng núi thâm u, tiếp đến tiếng reo hò dậy đất. Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn Nữ Chúa H mông như thầm hỏi. Cô gái quí tộc H mông mỉm cười :
                      - Quân bản địa đang dự hội đó. Hội mở từ hôm qua rồi. Vì đường đi hiểm trở, nên khách thương xa đến chưa đủ mặt. Vì đã tới ngày nên phải mở hội cho người bản địa các miền từ trước vậy.
                      Chợt nhớ ra, Nữ Chúa H mông thân mật :
                      - Thúc phụ tôi có tới thăm ông ngay khi quân mã Khách Giang Hồ đưa ông tới Hoàng Su Phì này. Chính thúc phụ tôi đã truyền đưa ông tới căn nhà hơi xa khuất này để phục thuốc, cho tĩnh mịch, đỡ hẳn những tiếng ồn àa ngày mở hội. Người có dặn chờ lúc nào ông khỏe hẳn, sẽ cho cận tướng đón ông vào hội kiến. Người rất tiếc... Ông thình lình lâm bệnh, nên những nghi lễ liếp rước phải bỏ cả, e làm khách thêm mệt mỏi.
                      Đại Sơn Vương nghiêng đầu, từ tốn :
                      - Xin cô nương cho tôi gửi lời kính chúc Voòng Chúa, và xin ghi tạc lượng rộng của người. Mong người thứ cho tôi đem thân bệnh tới quí đia, và cô nương nhớ nói giùm kẻ tầm thường miền Thập Vạn Đại Sơn này rất nóng lòng được vào yết kiến Chúa Tể Hoàng Su Phì để nghe lời dạy bảo.
                      - Dạ. Tôi xin chuyển lời ngaỵ Nhưng giờ ông hãy chịu khó tĩnh dưỡng cho lại sức... Tôi có việc phải về bản đô ngaỵ Chú Voòng hãy ở luôn bên săn sóc thầy, lát nữa sẽ có thầy Mo tới.
                      - Dạ.
                      Voòng Chí Plan nghiêng mình chào Đại Sơn Vương, rồi thoăn thoắt bước ra. Đại Sơn Vương chợt khẽ gọi :
                      - Cô nương!... Chà! Đẹp quá!
                      Và cặp mắt sáng hẳn lên, tâm hồn phóng khoáng mấy hôm khép chặt vì ngọa bệnh, vụt mở toang ra trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ của miền đất biên cương cheo leo lên đỉnh núi. Rạo rực, chàng tướng núi liền bước sang khung cửa sổ phía Đông Nam. Xa xa ẩn sau rừng lá, dựa lưng vào rừng, những rặng đồi tươi, thấp thoáng nhiều mái tranh nằm như bát úp, tuy đứng xa, vẫn lượng được cả sức rộng lớn uy nghi của mấy dãy trung tâm. Nhiều đường từ các ngả đổ tới, trên đường có nhiều bóng người di dộng, xa trông như những hình bóng đất nặn nhỏ bé trên ngọn dã sơn.Tù nẻo đó, chợt tiếng cồng nổi lên dồn dập, rồi đến tiếng âm đồng văng vẳng trong gió chiều, tiếng kèn Tây, trống Tây trang trọng nhịp nhàng hình như đang nổi khúc quân hành... Rồi... từng tràng súng nổ rền, vang âm khắp một vùng đồi núi đá, đã nghe cồng nổi vang động khắp rừng, tiếng hò dậy đất. Viên Tướng Thập Vạn Đại Sơn mắt long lanh nhìn về phía đang vang động thanh âm, vành môi mím lại, vẻ bâng khuâng chợt biến hằn, giữa vùng cảm xúc đột khởi thất thường.
                      - A Voòng!
                      Đang lúi húi sắc thuốc bên bếp lửa, người thủ túc nghe chủ gọi vội quay lại.
                      - Bẩm... thầy truyền?
                      Vẫn hướng về phía trước, tướng lạc thảo khẽ bảo :
                      - Thay y phục! Sửa soạn ngựa mau lên!
                      Tưởng mình nghe lầm, Voòng Lầu tiến ra đứng sau chủ tướng, khẽ hỏi lại :
                      - Bẩm... thầy truyền?
                      - Sửa soạn ngựa và thay y phục chỉnh tề! Mau lên!
                      Không nén được kinh ngạc vì lời truyền quá đột ngột của chủ tướng, Voòng bật kêu lên :
                      - Thắng ngựa sao? Kìa! Thầy đã mạnh đâu mà...
                      Người thủ hạ vội ngừng bặt vì chủ tướng thình lình quay phắt lại, cặp mày, nét mắt sắc hơi nhíu lại, giọng hơi xẵng :
                      - Ta đã khỏi rồi! Mau sửa soạn theo ta có việc!
                      Nói xong, vẫn thấy cắp mắt thủ hạ mở to kinh ngạc, Đại Sơn Vương dịu giọng trỏ về phía xa :
                      - Voòng có nghe thấy gì không?
                      Không để thủ hạ kịp lên tiếng, chàng tướng giặc tiếp luôn :
                      - Hoàng Su Phì đang nghênh đón thượng khách? Hừ! Trong khi ta nằm bệnh tại có rừng này! Đến im lìm không ai biết, mai đây ra mắt... im lìm, giữa đám giặc cỏ biên thùy cùng những quan tướng Tây, Tàu ngạo mạn tới, không kèn trống, lén lút gặp vua H mông... Còn uy thế của Thập Vạn Đại Sơn Voòng của thầy trò ta! A Voòng! Mau lấy ngựa, sửa soạn các thứ theo ta!
                      Người thủ hạ hiểu ý chủ tướng lo lắng, vẫn đứng nguyên lưỡng lự suy nghĩ, mấy khắc, chợt tính kế trì hoãn :
                      - Bẩm... thế thầy hãy dùng nốt thang thuốc kia cho mạnh hẳn đã rồi hãy đi!
                      Đại Sơn Vương quay nhìn thủ hạ nói như quát :
                      - Lấy ngựa đây! Đă bảo ta khỏi rồi! Khỏi rồi!
                      Vừa nói lớn, viên tướng núi đã thở dồn, mồ hôi toát ra đầm đìa, tay run run vịn vào thành cột. Thấy chủ tướng vùng nổi giận, và đã thuộc nhẵn tính chủ, Voòng thủ túc đành vâng dạ rối rít, đi lấy y phục cho chủ thay, đoạn xuống dưới cầu thang thắng ngựa luôn.
                      Thoáng cái, hai thầy trò đã gọn gẽ trong bộ quần áo chàm xanh đậm, đầu chít khăn chữ “nhân”. Chân đi giày vải, đeo súng, giắt dao rừng, xuống thang. Voòng Lầu không quên đem theo sắc vật dụng thân thiết, theo thói quen “vật bất ly thân” của các tay giang hồ ngang dọc.
                      Xuống dưới thang, đã thấy đám người H mông phục kích từ nhà ngang lên, đứng nhìn tỏ vẻ ngạc nhiên và hổ xám phục sẵn nhìn chòng chọc, Voòng Lầu phải nói qua loa cho yên lòng họ, đoạn hai thầy trò lập tức nhảy lên lưng ngựa.
                      Thấy chủ tướng phải để chân vào bàn đạp trèo lên, Voòng Lầu lo lắng khẽ hỏi :
                      - Thầy có mệt lắm không - Không sao! Ta tỉnh táo lắm! Có lẽ nhờ thuốc hay? Vận động càng chóng lại sức!
                      Ngựa đi nước kiệu băm, xuống đồi. Đi được một quãng, chợt nghe có tiếng chân bước ngay sau lưng, hai thầy trò ngoảnh lại nhìn, mới hay con hùm xám thọt chân đang tập tễnh chạy vọt theo không rời nửa bước.
                      - Đuổi nó về đi!
                      - Nó được lệnh bảo vệ thầy, nên không dám rời đâu. Cho nó theo vậy thầy!
                      Hai thầy trò vượt khỏi một thung hẹp, cứ theo hướng kèn trống bập bùng phóng đi. Chỉ một hai phút sau, con đường rnòn đã chạy vào giữa khu có nhà cửa san sát khắp núi đồi, càng vào càng có vẻ sầm uất. Tiến ngựa lên một ngọn đồi thưa, đã trông thấy phía trước cờ xí rợp trời, người ngựa lố nhố đông như kiến, quần áo đủ màu sắc rực rỡ trong nắng chiều. Dưới đường, dân H mông, đứng chật ních một khu, mắt nhìn cả vào con đường chính dẫn tới đại sảnh. Hai bên đường quân H mông mặc đồng phục, dàn thành hai hàng dài kẹp lấy lối đi.
                      Giữa lối, có một toán nhân mã chừng trung đội đeo súng hộ tống mấy lên quan Tây, cạnh có mấy quan Ta tuy cỡi ngựa nhưng có mấy người mặc áo gấm, khăn xếp, ngực đeo bài ngà trịnh trọng. Mở đường có toán quân H mông cưỡi ngựa, phía sau là mấy con ngựa thồ trên lưng mấy chiếc rương lớn. Hai bên đường, đội lính kèn, cùng đội nhạc H mông thay nhau hòa tấu nhịp nhàng. Chợt Voòng Lầu định thần nhìn, trỏ xuống phía dưới, khẽ giật giọng :
                      - Thầy kìa, ai như bóng cô nương...
                      Đại Sơn Vương vội đưa viễn kín lên mắt và thốt giật mình, bồi hồi xúc động bất ngờ, run giọng. Vừa định thốt lời, chợt chàng buông thõng cánh tay cầm viễn kính, mắt vẫn trừng nhìn xuống chỗ quan binh, thở như nghẹn họng, mặt biến sắc khác thường. Voòng Lầu lấy làm lạ, vội đỡ lấy ống nhòm trong tay chủ tướng, chĩa xuống và thốt nhiên cũng buông viễn kính, kín đáo ngó sang chủ.
                      Dưới đồi, ngay bên cạnh ngựa Phượng Kiều, có một gã trẻ tuổi vận âu phục sang trọng, khổ người cao lớn béo tốt, kề ngựa sát người đẹp ra chiều thân mật “khác thường”. Và phía trên chút, sau mấy tên quan Tây, là một người đàn ông đứng tuổi, râu cá chốt, đeo bài ngớt, sánh bước bên cạnh Trần Tắc oan gia!
                      - Trần Tắc! Chỗ nào cũng hắn! Đang trị nhậm mạn Cao Bằng, sao hắn lại tới mãi miền Hà Giang này?
                      - Hôm qua thầy mệt, tôi có gặp Voòng Sềnh cùng một vài quan chức xứ H mông, được biết hình như hắn được Chính phủ Bảo Hộ Đông Dương mới trao thêm chức tri phủ miền biên giới và hình như...
                      Đang nói, người thủ túc chợt ngừng lại. Đại Sơn Vương thấy khác ý, hơi nhíu mày lại.
                      - A Voòng! Sao nữa?
                      - Bẩm...
                      Voòng thủ túc, mấy lần định nói, vẫn lưỡng lự, mãi mới hạ giọng, nói như chỉ để mình nghe :
                      - Hình như hắn sắp thông gia cùng viên quần phủ Hà Giang...
                      Chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn như bị điện giật, quắc mắt dữ dội, vươn tay nắm lấy bả vai người thủ túc giật giọng :
                      - Sao? Hắn thông giả Nói rõ cho ta nghe! Sao?
                      Người thủ hạ đứng tuổi thấy mắt chủ tướng như bốc hỏa, giọng run hẳn lên, biết mũi tên đã bắn ra không thể thu về được liền chậm chậm đưa tay lên nắm lấy cổ tay chủ tướng, như muốn truyền sang chủ cả nỗi niềm ái ngại sâu xạ Mấy khắc sau, mới khẽ thở dài, giọng càng chìm hẳn đi :
                      - Người con trai tuần phủ Hà Giang vừa ở Tây về. Cha con hắn rất nhiều thủ đoạn, là chỗ chân tình với Trần Tắc. Tên đó có quen Phượng Kiều khi du học bên Tây.
                      Chàng tướng núi mín chặt vành môi, mãi mới thở một hơi dài, buông vai thủ hạ, nhìn xuống dưới đường, không nhúc nhích. Đám văn quan võ tướng Tây, Ta đã đi qua cổng chào, tiến tới gần đại sảnh.
                      Bất thần, Đại Sơn Vương hét lên :
                      - Xuống đồi cùng la!
                      Voòng Lầu chưa kịp động tay cương, thì Đại Sơn Vương đã giơ tay làm hiệu ngừng lại. Và ngay lúc đó, chợt có một đoàn kỵ sĩ H mông từ phía xa phi ngựa tới hàng rào quân lính, hô lớn :
                      - Hãy đứng nguyên chỗ! Các sơn vương quí khách từ đất Tàu đã tới!
                      Hô xong, đoàn ky sĩ lại phóng ngược lại, thoáng cái, đã dẫn một toán người ngựa nữa đến, chạy như bay tới gần đám đông mới hạ nước phóng, cho ngựa bước một. Thoạt nhìn tốp quân sau, thấy vẻ ngang tàng, dữ tợn quen thuộc của những đám thổ phỉ giết người như ngoé.
                      Có đến năm bảy tốp, mỗi tốp chừng bảy tám tên, cứ một viên tướng lại có mấy thủ hạ vừa đầu lĩnh, vừa vệ binh, súng gươm tua tủa, đặc biệt là lên nào cũng kè kè “pạc hoọc” bên mình, ngoài một vài món khí giới khác. Vừa nhác thấy viên tướng râu xồm, mắt diều hâu đi đầu, cựu tướng Bắc Hải đã bật lên khẽ :
                      - Giặc Thoòng! A thầy!
                      Đại Sơn Vương đỡ lấy ống nhòm, chiếu xem và gật đầu, mép hơi nhếch cười :
                      - Chà! Ra thằng Thoòng Mềnh này ngày nọ đã thoát tay quan binh Cao Bằng! Khá lắm!
                      Dưới kia, “Pạc Hoọc Đại Vương” ngồi lắc lư trên lưng ngựa ô, mắt diều hâu nhìn thẳng về phía trước, thỉnh thoảng giơ bàn tay lông lá vuốt bộ râu quai nón xồm xoàm, nhếch miệng cười rúm ró vì vết sẹo mới dài nhếch mép hằn lên, trắng bóng trên nước da đen sạm, trông càng thêm dữ dội. Tới giữa hàng lính dàn chào, cồng nổi đổ hồi vừa dứt, quân H mông bắn chỉ thiên vang rền, quân thổ phỉ cũng rút súng bắn lộp độp, đáp lại. Thoòng Mềnh qua ngang chỗ Đại Sơn Vương, cách cổng chào chừng mấy chục thước, Pạc Hoọc Đại Vương chợt rút cặp pạc hoọc tung lên trước đầu ngựa, và thúc ngựa chồm lên theo, tới tầm súng rơi, ngựa cất hẳn hai chán trước lên, vừa lúc tay Thoòng với lên bắt súng, và quàng lấy cổ ngựa, nã chéo lên mấy phát. Liền mấy cánh hoa rừng rụng xuống, giữa lúc ngựa khuỵu chân trước, giúi hẳn Thoòng xuống sát đất, như muốn hất tung qua đầu ngựa.
                      Nhưng mấy phát lại nổ rền, mấy đóa hoa tan tác rơi tả xuống đường đi, nhìn ra, tướng thổ phỉ đã ngồi ngay trên yên ngựa, tung súng lên, bắt cắm vào bao. Tiếng reo hò nổi dậy một vùng.
                      - Chà! Mới cách đó ít ngày mà thằng Thoòng bắn đã tiến bộ lắm!
                      Chắc nó muốn lấy lại tiếng vua Pạc Hoọc biên thùy đây!
                      Đại Sơn Vương vừa bật lời khen, chợt ngừng ngay, trỏ tay xuống, hỏi thủ hạ :
                      - Voòng có biết tên thổ phỉ kia không? Hình như nó là Lừng Đại Vương thì phải?
                      - À! Thằng Lừng đó, thầy. Nó chính là vua thòng lọng, trước đã làm đốc bàn miền Quảng Tây đó! Hay đi hái hoa trộm lắm, can án sát phu hiếp phụ nhiều, sợ Trần Tế Đường giết, nó đưa quân bản bộ vào núi làm giặc cỏ. Nó lợi hại lắm, đã hạ nhiều tay giặc dữ, nhờ sợi dây có quả gai sắt kia, quả sắt tẩm thuốc độc, thường có thể dùng như trùy dây, khi cần nó tung trói địch nhanh như cắt. Hồi ở Bắc Hải, chính tôi đã có lần bị nó quấn trúng cổ tay, nhờ sức ghìm được nếu không đã bị nguy về tay nó.
                      Sau tốp Lừng Đại Vương, tới một gã khác hẳn, từ y phục tới vẻ người. Tướng xạ phang này cưỡi một con ngựa khoang, dáng gầy trong chiếc áo hường xám lùng thùng, dài thượt, mặt choắt cheo, môi thâm, da xanh mướt, trạc gần bốn mươi. Gã này không thấy đeo khí giới chi bên mình. Ngay sau lưng là một gã cận tướng cũng gầy xanh thồ một cái rương lớn.
                      - Ta nghe miền giáp Lào Cai có thằng giặc cỏ lừng danh hút hàng ngàn điếu thuốc phiện không say, có đến mấy chục vợ, nhưng chỉ để đấm bóp thay phiên tiêm thuốc phiện, phải thằng này chăng?
                      - Dạ. Lầm Đại Vương đó. Giết người cũng như ngóe, tới Hồng Kông ưa chơi Nhất Dạ Vương Tần Thủy Hoàng, Kiệt, Trụ. Xưa nó làm bộ tướng Long Vân. Nó còn có tính lạ thích được gọi là Lầm Sáng. Nó đến đâu vừa làm giặc vừa làm thổ quan, nhưng nếu ai gặp nó đến lần thứ hai mà lỡ gọi nó là Lầm Đại Vương hay Lầm Tu Quang là bị cắt tai xẻo mép. Nó đi đâu cũng có một hộp tai, mép, ướp chơi như vỏ sò!
                      Bọn lục lâm sợ nó như rắn độc, vì nó rất mưu trí, lại có tài phóng ám khí như chớp, vào lúc bất ngờ nhất.
                      Voòng Lầu đưa mắt nhìn chàng chủ tướng trẻ.
                      - Nó thích nhất ai gọi mình là Dưỡng Do Cợ Vì... nó bắn cung rất nhanh, trăm phát như một.
                      - Còn những lên kia?
                      - Bọn đó chắc ở phương xa, coi lạ mắt!
                      Đám thổ phỉ đã đến gần sảnh đường. Ngó phía sau, không còn bóng ngựa, Đại Sơn Vương liền phất tay, bảo thuộc hạ :
                      - Xuống đồi! Vào đại sảnh!
                      Voòng Lầu lập tức rút phăng trong túi ra một cây cờ hiệu nhỏ tế ngựa thẳng xuống đường. Đội quân H mông cùng dân bản địa đang chạy về nẻo sảnh đường, chợt thấy một người cưỡi ngựa như bay tới, vội đứng giạt ra hai bên. Cựu tướng Bắc Hải tay phất cờ lia lịa, miệng hô to như sấm động :
                      - Thập Vạn Đại Sơn Vương đã tới!
                      Tới gần cổng chào, Voòng liếc mắt nhìn lên, vừa may thấy một đàn chim bay ngang, liền rút súng bắn chỉ thiên luôn mấy phát, đoạn dừng phắt ngựa lại. Liền có mấy con chim rừng xoè cánh rơi xuống, quân dân H mông reo hò ầm ầm, bắn rền đồi núi, cồng khua, kèn thúc vang lừng, khiến đám giặc cỏ đều ngoái cổ lại nhìn, không rõ chuyện chi.
                      Đại Sơn Vương Thần Xạ bay ngựa lên giữa tiếng reo hò như thác chuyển.
                      - Đại Sơn Vương!
                      - Thần Xạ!
                      Lời reo chưa dứt, ngựa truy phong đã tới bên thềm. Thầy trò chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn ngang tàng dừng phắt ngay giữa khung cửa, sau lưng vang động tiếng reo hò. Sảnh đường rộng mênh mông, đầy quan khách. Có quân cung thủ canh gác bốn bề, thêm từng hàng lính mang súng, dựa lưng vào vách đứng như tượng sắt.
                      Quan khách đã an tọa, chợt nghe tiếng reo hò náo nhiệt, liền nhìn cả ra ngoài, thảy đều hơi ngạc nhiên vì thấy hai người ngồi sững trên lưng ngựa, nhìn vào, sau lưng thoáng hình thù hùm xám. Đại Sơn Vương, Voòng Lầu xuống ngựa, ném cương cho mã phu chực sẵn bên thềm. Viên quan H mông coi nghi lễ vừa tiến ra, chưa kịp ngỏ lời, đã thấy Voòng Chí Plan rời hàng ghế cuối sảnh chạy ra.
                      - Kìa! Đại Sơn Vương!
                      - Cô nương.
                      - Ông còn mệt, vội gượng dậy làm gì, lỡ yếu thì khốn! Thúc phụ tôi nóng lòng muốn gặp ông lắm. Nhưng... Ông còn mệt mà...
                      - Không sao! Tôi thấy tỉnh táo lắm!
                      Chí Plan đưa chàng qua mấy dãy quan khách vào thẳng cuối sảnh, chỗ có hàng ghế tay ngai kê theo hình cung. Nhiều tiếng lào xào nổi lên. Quan khách cùng đưa mắt nhìn chàng. Từng đám một ghé tai nhau thì thầm bàn tán. Đại Sơn Vương vẫn điềm nhiên bước đều, mắt nhìn thẳng. Gian hàng ghế cánh cung phủ da hổ, chợt một người đứng tuổi, quắc thước đứng phắt lên, tiến đến trước Đại Sơn Vương. Chí Plan khẽ bảo.
                      - Thúc phụ tôi đó!
                      Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn liền nghiêng mình, từ tốn :
                      - Kẻ tầm thường miền Đại Sơn xin có lời chào chúa tướng Hoàng Su Phì, kính chúc ngài mạnh giỏi.
                      Chúa tể Su Phì cũng nghiêng mình mỉm cười, nắm lấy bàn tay Đại Sơn Vương khiêm tốn :
                      - Không ngờ miền biên cương hẻo lánh này lại được tiếp đón tướng quân tuấn kiệt Vân Nam. Bấy lâu, vẫn thường được nghe danh Thần Xạ dọc ngang lừng lẫy. Voòng Chí Sinh này vẫn hằng mong ước được diện kiến tướng quân. Mời tướng quân an tọa.
                      Vừa nói, vua H mông vừa đưa tay mời Đại Sơn Vương ngồi vào ghế, và vui vẻ giới thiệu chàng cùng hàng quan khách. Voòng Lầu nhất định từ chối ngồi, chỉ đứng hầu sau chủ tướng theo đúng lễ thầy trò. Con hùm xám thọt chân lúc phục dưới bàn Đại Sơn Vương, lúc sang chỗ Chí Lan, vua H mông, chòng chọc nhìn quan khách như dõi theo từng cử chỉ một.
                      Tình cờ, Đại Sơn Vương ngồi lọt ngay vào giữa Voòng Chí Plan, Nguyệt Tú, cùng phía tay hữu vua H mông với viên tướng Tây già, Khách Giang Hồ... đối diện chênh chếch với Phượng Kiều. Cạnh Phượng Kiều là người con trai tuần phủ Hà Giang, ăn mặt rất bảnh bao, ngồi cùng dãy với cha, viên đại tá Tây, Trần Tắc, thanh tra mật thám Mai Trung cùng một số viên chức Tây, Kinh, H mông nữa. Còn đám tướng thổ phỉ Thoòng, Lầm, Lừng... ngồi xen lẫn với mấy người con trai vua H mông. Người con trai tuần phủ luôn luôn ghé sát vào Phượng Kiều chuyện trò to nhỏ, và Phượng Kiều cũng cười nói vui vẻ như không hề biết Đại Sơn Vương tại đây. Thái độ của Phượng Kiều khiến Chí Plan, Nguyệt Tú không khỏi kinh ngạc, luôn đưa mắt kín đáo nhìn Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi cứ điềm nhiên nói chuyện, không ai rõ được cảm xúc trong lòng chàng ra sao. Riêng Khách Giang Hồ thỉnh thoảng mỉm cười bâng quơ, mỗi khi thấy mặt Trần Tắc sáng lên đầy đắc chí lúc nhìn thấy con gái cười nói vui vẻ với Robert Lợi, con trai tuần phủ.
                      Bên ngoài, hoàng hôn đã đổ xuống núi rừng, vùng sảnh đường lên đèn sáng rực như ban ngày. Nhã nhạc nổ vang lừng, dạ yến bày lên.
                      Vua H mông, Voòng Chí Sinh đứng lên, ngỏ lời cảm tạ quan khách và mời vào tiệc. Quan khách cũng đứng lên, lần lượt chúc tướng vua H mông. Rồi... các hàng quan khách, văn quan võ tướng Tây, Tàu, Kinh, các thủ lĩnh đảng phái, cùng các tướng lạc thảo ngang tàng sống ngoài vòng pháp luật, mấy phe thù nghịch cùng vua H mông nâng chén “Tam hòa”, bắt đầu vào dự tiệc biên thùy giữa tiếng nhã nhạc tưng bừng, trầm bổng... Mấy phe thù nghịch ngoài mặt vẫn cười cười nói nói, nhưng đều chứa cơ mưu, dạ tiệc chẳng khác một mặt biển sóng ngầm cuồn cuộn.
                      Giữa đám văn quan võ tướng nhà nước cùng đám lục lâm tứ chiếng suốt mấy dải biên thùy đổ lại, với những cánh quân bản bộ đóng sẵn ngoài bìa xứ H mông, chàng tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn chỉ vỏn vẹn có hai thầy trò, trước hàng ngàn địch thủ lợi hại.
                      Nếu không phải H mông Chúa Voòng Chí Sinh làm chủ đất, và mới thêm bạn mới Voòng Chí Plan, Chí Pliên, Khách Giang Hồ, Nguyệt Tú, thầy trò có thể tưởng đang hội ẩm Hồng Môn, hay Vân Trường đơn gia phó hội Giang Đông! Nhất là chàng đang yếu, mắt hoa, thân mỏi, tay còn run run, làm ly rượu sóng sánh muốn tràn.
                      - Đang yếu?
                      Ý nghĩ chua chát chợt dâng trong tâm tưởng. Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn sang Phượng Kiều, thấy nàng vẫn vui vẻ truyện trò với Robert Lợi, chàng tướng núi liền nhếch miệng cười khan, ngửa cổ uống cạn ly rượu cay sè.
                      Tiệc tan, đến tuần rượu cần nhảy múa, quan khách vừa đứng lên, Voòng Chí Plan liền chạy đến trước Phượng Kiều khẽ trách :
                      - Cô nương! Sao lại... thế?
                      Vẫn tươi cười, Phượng Kiều đưa cao mày :
                      - Cô nương dạy sao? Tôi đã thất thố điều chi nhỉ?
                      Thấy thái độ Phượng Kiều khác hẳn, Chí Plan ngạc nhiên, im lặng mấy giây, thấp giọng :
                      - Cô nương làm như không biết gì tới Đại Sơn Vương! Hai người đã...
                      Thiếu nữ H mông ngưng nói, vì Robert Lợi đã tấn tới. Nhưng...
                      Phượng Kiều chợt cười khanh khách :
                      - À... Vâng, tôi đã tưởng yêu được chàng mãi. Nhưng xét ra, không còn gì nữa. Xin... cô nương hãy săn sóc cho chàng!
                      Dứt lời, nàng quay nhìn Robert Lợi cười vang. Trước lời nói, tiếng cười quái gở của người bạn mới hai ba hôm trước còn xả thân lăn vào tên đạn, sống thác với tình, cô gái miền núi mở to mắt kinh ngạc vô cùng :
                      - Kìa... cô nương.
                      Robert Lợi cười đắc chí, định góp vào mấy tiếng thì Phượng Kiều đã nghiêng mình lễ phép :
                      - Khi khác sẽ hầu chuyện cô nương, giờ xin mạn phép!
                      Nói xong, cùng Robert Lợi tiến về phía văn quan võ tướng nhà nước. Thiếu nữ H mông giận sôi lên, đứng sững ngó theo nghẹn họng :
                      - Hừ! Thay đổi chóng đến thế ư?
                      - Không sao! Cô nương! Chỉ phiền Đại Sơn Vương chưa khỏi hẳn thôi.
                      Chí Plan hơi giật mình ngoảnh lại. Khách Giang Hồ cùng Nguyệt Tú đứng sau lưng, cũng đang trông theo Phượng Kiều, Robert Lợi.
                      Nguyệt Tú hơi nhíu mày, trách anh :
                      - Đại Sơn Voòng chịu sao nổi chuyện này, mà anh lại bảo không sao? Nãy giờ anh có biết ông ấy uống bao nhiêu rượu không?
                      Khách Giang Hồ mỉm cười bí mật :
                      - Ai đếm mà biết được. Nhưng... mỗi ly rượu là một phát súng đó!
                      Chí Plan buột miệng :
                      - Mười lăm ly tất cả!
                      - Đúng! Nhưng... sao cô nương đếm kỹ thế?
                      Chí Plan đỏ bừng mặt, chớp hàng mi, như thẹn thùa chột dạ, còn đang lúng túng thì viên thủ lĩnh Cầu Mây đã nghiêm mặt, khẽ bảo :
                      - Cô nương mau gọi Voòng Sềnh nhớ theo sát đám tướng xạ phang cùng bọn Trần Tắc! Chúng đang mưu kế ngầm hại Đại Sơn Vương giữa lúc chàng còn mệt run tay súng đó!
                      - Tôi cũng đã nghĩ thế và đã căn dặn Voòng Sềnh.
                      - Nhưng... Còn Voòng Chúa? Chúng cũng không nể sao?
                      - Chúng sẽ tìm nhiều cách khiến Voòng Chúa, không thể phản đối được chứ!
                      - Như?
                      - Ám toán, thách dắu chiến ngay thẳng chẳng hạn...
                      - Vậy phải làm sao giữ chân được Đại Sơn Vương?
                      Mấy người đang bàn luận, chợt thấy Voòng Sềnh từ ngoài rảo bước vào.
                      - Bẩm... Voòng Chúa tôi muốn gặp rừng Khách Giang Hồ cùng Đại Sơn Vương! Chúa tôi hiện nằm đợi tại mật thất...
                      Khách Giang Hồ đưa mắt nhìn không thấy thầy trò Đại Sơn Vương đâu. Để ý trong đám quan khách đang say sưa nhảy múa với các sơn nữ, thấy vắng bóng Lầm, Lừng Đại Vương cùng Trần Tắc, tướng Tây... thủ lĩnh Cầu Mây hơi giật mình quay phắt lại thì Voòng Sềnh đã từ tốn :
                      - Quan khách mấy vị cũng vừa được mời sang “tạm nghỉ” nhà bên.
                      Dạ hội còn tiếp tục tới sáng.
                      Khách Giang Hồ theo Voòng Sềnh ra ngoài, còn Chí Plan, Nguyệt Tú hai nàng cùng dắt nhau lững thững vào đám đông... Thủ lĩnh Cầu Mây đưa mắt tìm kiếm Đại Sơn Vương ngoài nhà đại sảnh không thấy, hỏi vệ binh quanh đấy mới biết chàng đã ra ngoài suối. Hai người tới, quả nhiên thấy Đại Sơn Vương đang ngồi cúi đầu nhìn nước trôi, sau lưng có thủ túc Voòng Lầu cùng hùm thọt.
                      - Đại Sơn Vương! Bạn còn mệt, ngồi sương, e nhiễm độc khi núi về đêm! Ta vào thôi, Voòng Chúa đang chờ!
                      Viên tướng núi uể oải đứng lên, bước hơi lảo đảo vì say rượu, lặng lẽ theo mọi người, đi về phía sau căn nhà sảnh. Tới khu nhà lớn, đèn thắp sáng trưng, vệ binh lại canh phòng cẩn mật, mấy người nhìn lên thấy khu nhà kiến trúc rất lạ mắt, thoạt trông đã đoán ngay được chỗ ở của vua H mông. Khu dinh cơ chiếm cả một khoảng núi đồi rừng suối khá rộng, dựng theo thế liên thành.
                      Chính phủ nào cũng phải vuốt ve chiều chuộng vì từ thiên cổ người H mông ở miền đất thiên hiểm không kém Trùng Khánh (Ba Thhục), dân H mông xưa nay chỉ phục chúa H mông, hòa được chúa H mông là yên một cõi biên cương, nên các triều xưa vẫn chỉ mong dân H mông an phận tự trị núi cao, và Chính phủ Pháp ở Đông Dương cũng phải làm ngơ cho chính sách của chúa H mông.
                      Cận tướng Voòng Sềnh đưa ba người tiến tới cổng tiền, vượt lên cầu vòng hào dinh, qua vùng cây cỏ tốt tươi, đến thẳng căn nhà chính giữa. Một viên quan già y phục chỉnh tề bước ra cúi đầu chào, đưa mấy người vào phòng khách. Khung cảnh vụt trở nên âm u, huyền hoặc. Giữa vùng ánh sáng xanh mờ, le lói nhiều tia đỏ chập chờn biến hiện, mấy người đàn ông giang hồ có cảm giác như vừa vào một động phủ dệt bằng xà cừ vân sắc. Những cây cột khổng lồ đựng thẳng vút, các đồ vật quanh phòng rực lên những nét chạm trổ tinh vi, dưới những tia sáng xà cừ. Lại thêm, không gian mờ mờ như hương khói, từng bóng người câm nín rón rén qua lại như trôi lên mặt sàn, khiến khung cảnh càng thêm huyền hoặc. Liếc mắt nhìn lên vách, thấy nhiều gươm súng treo la liệt, mấy người liền lặng lặng tháo dây súng đặt trên mặt bàn. Viên quan già cung kính :
                      - Xin rước nhị quan khách vào trong này, chúa tôi đang đợi.
                      - Còn bạn Voòng Lầu đi cùng tôi sang bên này. Chúng ta cùng ngả lưng trong khi chờ đợi.
                      Đại Sơn Vương, Khách Giang Hồ tháo viên quan già vào thẳm sâu: qua mấy buồng nữa. Càng vào, ánh sáng càng mơ hồ, không khí phòng phết một thứ hương thơm kỳ dị, thoáng như tràm, lẫn hoa ngàn, quyện mùi thuốc phiện.
                      Dừng lại trước một gian phòng lớn, viên quan hầu già vừa đặt tay vào, đã thấy cánh cửa hé mở, rèm loa lay động rồi một khuôn mặt liền ló ra, vừa thấy hai chàng tướng núi, thiếu nữ đã cúi đầu chào cung kính :
                      - Xin mời nhị vị tướng quân...
                      Vừa nói, vừa mở rộng cửa ra, đứng nép một bên. Viên quan già cũng cáo lui, để hai chàng vào. Hai chàng tướng núi đưa mắt nhìn nhau, nhẹ bước qua rèm. Cánh cửa vừa khép lại phía sau, hai chàng vụt thấy mình bước vào một thế giới lạ lùng cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài: Thế giới riêng của Chúa H mông.
                      Hai chàng cùng chung một ý nghĩ, dừng lại mấy khắc, bỡ ngỡ ban đầu. Khí lạnh miền núi cao Hoàng Su Phì đã bị đẩy lui, hai chàng thấy ấm hẳn người lên, đưa mắt một vòng. Ánh sáng mờ mờ hư ảo chập chờn, vách căng da hổ vàng rực, khói thuốc phiện thơm sực cả phòng. Bốn ngọn đèn dầu lạc thắp bốn góc phòng, mỗi bên một ngọn đèn, một nàng sơn nữ đang nằm tiêm thuốc, nàng nào cũng đẹp hư ảo và lặng lẽ như ngọn đèn dầu. Chính giữa lại một ngọn đèn, Vua H mông nằm một bên, bên kia có một sơn nữ bồi thuốc. Từ phía đèn, dây chuyền vàng chạy xéo hình chữ X, tới trên ngọn chính giữa. Bốn cô nàng vẫn thoăn thoắt tiêm, cánh tay cầm dọc, đều có móc vàng đỡ cho khỏi mỏi, điếu thuốc vừa chín, tay dọc lập tức đẩy nhẹ một cái, dọc tẩu chạy trên dây vàng vừa tới giữa, đã có một cô túc trực bắt lấy, đặt nhẹ một đầu dọc vào miệng Chúa H mông. Gian phòng im lặng, đều đều nổi lên những tiếng vo vo đơn điệu, nhịp nhàng và tiếng dọc chạy trên dây chuyền kêu lách cách. Hết điệu, cô gái bồi thuốc lại đẩy tẩu trả về đèn cũ, bắt dọc khác, cứ thế, vua H mông nằm lim dim kéo hết điếu nọ tới điếu kia, không ngừng. Quanh mình lại còn mấy sơn nữ khác phục dịch việc vặt khác.
                      Cô gái hơi đưa mắt làm hiệu, mời vào. Hai chàng tướng núi tháo giày bên cửa, tiến vào. Các cô sơn nữ thấy khách, vẫn tiếp tục lăn thuốc trên nhĩ tẩu, chỉ hơi ngóc đầu lên chào. Hai chàng lặng lẽ đến thẳng bên bàn đèn. Ông vua thuốc phiện vẫn nhắm mắt kéo thuốc, trên mình đắp hờ một chiếc chăn gấm. Mấy cô gái hầu xúm lại mời ngồi, kẻ cởi áo ngoài, người tháo tất, pha trà, dâng rượu khai vị cùng hoa quả, lặng lẽ như những cái bóng. Hai chàng tướng núi chỉ còn biết đưa mắt nhìn nhau, nằm xuống một bên đèn, mặc các nàng săn sóc.
                      Thần Xạ Đại Sơn Vương tuy là tay giang hồ khét tiếng miền Hoa Nam, nhưng bản tính khác hẳn đám tướng lục lâm đương thời, thường sống giản dị, nên chưa hề từng trải lối ăn chơi xa hoa kiểu cách khác đời của các bực chúa tể rừng xanh. Thấy các cô nàng xúm lại săn sóc, chàng thấy ngượng ngập lúng túng, bứt rứt như mất hết tự do, nếu không có Khách Giang Hồ mấy lần đưa mắt làm hiệu, chàng đã gạt mấy nàng ra, không cho vuốt ve hầu hạ rồi. Thấy người bạn mới cứ điềm nhiên cho các nàng săn sóc, chàng cũng đành nằm im chịu trận, chợt thấy nhạt miệng, chàng liền hơi nhỏm dậy, vừa vỗ vào túi áo định tìm gói thuốc “sừng bò” thì một nàng tinh ý cầm bao thuốc Ăng Lê cung kính “dâng” trước mặt, rồi nàng khác đánh diêm thắp hầu.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #12
                        Hồi 10 - Đại hội Biên Thùy (tiếp theo)

                        Đêm về khuya dần. Đại Sơn Vương tỉnh hẳn rượu. Bệnh não như tiêu tan, nỗi lòng u uất ban chiều lắng xuống, tinh thần tỉnh táo hẳn lên, như vừa được dùng một hoàn linh dược.
                        Vẻ lờ đờ nửa tỉnh nửa thức đã biến sạch, khuôn mặt họ Voòng đã lấy lại cái vẻ quắc thước đường hoàng của vị chúa tể núi cao.
                        – Nhị vị tiên sinh! Chính phủ bảo hộ Đông Dương muốn mua đầu của nhị vị, mỗi cái trị giá một hòm bạc “xoè”, năm cân vàng nén, và mười xe muối. Nếu hàng giao sống, giá trị sẽ gấp đôi!
                        Hai người đàn ông sống ngoài vòng pháp luật thốt chột dạ, nhìn Chúa H mông... khó hiểu. Voòng Chúa vẫn điềm nhiên như không, chậm chạp chống tay ngồi dậy. Một cô nàng túc trực gần sập, vội sà xuống ngồi sau vua H mông làm đệm cho ông ngả lưng. Giơ tay nhẹ vuốt chòm ria mép, Chúa H mông chậm rãi tiếp lời, giọng đều đều như không cảm xúc:
                        – Vàng bạc đã tải đến ban chiều. Muối còn nằm chỗ trú quân ngoài biên giới Su Phì. Tướng Roux và đại tá Gilbert vốn là chỗ quen biết với họ Voòng.
                        Dứt lời, thình lình Chúa H mông quài tay về phía sau, giật nhẹ mấy cái dõng dạc:
                        – Bay đâu!
                        Khách Giang Hồ, Đại Sơn Vương cùng lúc đưa mắt nhìn nhau.
                        Cửa mở. Năm sáu vệ binh lực lưỡng từ ngoài bước vào, nhanh như trận gió lùa.
                        – Mang các thứ vào đây.
                        – Dạ!
                        Đám vệ binh cúi đầu lui ra, thoáng cái đã khệ nệ khiêng vào hai cái rương lớn, hai cái hộp nhỏ có đai thép mấy vòng. Đặt mấy chiếc rương bên sập, toán vệ binh đứng lui về hai bên, chắp tay kính cẩn đợi chờ. Mắt Chúa H mông chợt sáng lên ánh thép.
                        – Gươm đâu!
                        Một sơn nữ chạy tới bên vách, nhấc bao gươm chạm trổ tuyệt xảo nâng hai tay, cúi đầu dâng lên ngang mày. Chúa H mông cầm lấy bao, đặt tay vào đốc gươm, rút phắt ra. “Xoạt” một cái, ánh thép xanh biếc loáng dưới ánh đèn, phả hơi lạnh toát vào đa mặt hai ngươi đàn ông giang hồ. Chúa H mông liếc nhanh hai chàng và chuyển mình quai tay chém vút xuống liền mấy nhát.
                        Lưỡi gươm lạnh bén bay trên đầu hai chàng hạ xuống mặt rương.
                        Hai người đàn ông ngang tàng vẫn ngồi im không nhúc nhích. Liếc nhìn xuống, mấy vòng đai thép đã bị chặt tung.
                        Chúa H mông dí gươm vào mép rương, hất mạnh. Ánh vàng, bạc lóa đang lấp lánh dưới ánh đèn khuya, đầy hai rương bạc, hai hộp vàng. Chúa H mông lấy rnũi gươm đảo những đồng bạc “xòe” đoạn khẽ phất mũi gươm mấy cái. Mấy vệ binh cúi đầu lui khỏi phòng.
                        Chúa H mông gõ nhẹ lưỡi gươm vào mép rương, nhìn hai chàng tuổi trẻ:
                        – Nhị vị thấy thế nào? Liệu đã phải giá chưa?
                        Hai chàng “loạn tướng” đưa mắt nhìn nhau. Khách Giang Hồ mỉm cười:
                        – Kể cũng hơi cao giá đó! Chính phủ Bảo hộ Đông Dương cũng...
                        biết điều lắm...
                        – Và cũng biết lợi dụng tình thế, chọn mặt gửi vàng rất... nhằm nơi, thưa ngài!
                        Vẫn điềm nhiên trước giọng mỉa mai chua chát của “loạn tướng”.
                        Voòng Chí Sinh lấy gươm tra vào vỏ, gật gù, khó hiểu:
                        – Nhị vị tiên sinh khiêm tốn lắm, thực ra, thủ cấp nhị vị tiên sinh còn đáng giá gấp trăm lần như thế. Nếu vào địa vị nhà nước Voòng sẽ đánh giá cao bằng cả nguồn lợi dải đất Hoàng Su Phì này e cũng còn chưa xứng vậy.
                        Hai chàng loạn tướng vẫn dè dặt về lời nói úp mở của vị Chúa Núi biên Thùy, thì họ Voòng đã nhẹ vuốt chòm râu mép, cười kiêu hãnh:
                        – Nhưng... Chính phủ bảo hộ Đông Dương đã lầm lớn, tới ngày nay vẫn chưa hiểu óc Voòng. Voòng này đâu vì chút vật mọn, để tự sát dễ dàng, vít hết sinh lộ trên mảnh đất này. Nhất là lại mua đầu kẻ mà Voòng ái mộ! Hà hà!
                        Chúa H mông cất tiếng cười vang, đoạn quay về nẻo góc phòng, lớn tiếng:
                        – Thuốc bay!
                        Nhìn hai chàng, chúa H mông nghiêm hẳn mặt, hạ giọng:
                        – Nhưng... thượng sách là dùng kế hoãn binh. Tôi sẽ kéo dài kỳ hạn, đến lúc nhị vị tiên sinh “bí mật” rời Hoàng Su Phì!
                        Thấy nét thành thực hiện rõ trên mặt ông vua núi, Đại Sơn Vương từ tốn:
                        – Xin thâm cảm tình tri ngộ, ngài đã tính kế vẹn toàn chọ..
                        – Nếu không được ngài rộng lượng, để Chí Plan cô nương đem quân giải vây đêm nào tại lưng đèo tuyệt lộ, chúng tôi đã lâm thế cùng nơi hãm địa rồi, ân tri ngộ biết lấy gì đền đáp?
                        Vua H mông lắc đầu:
                        – Có chi đâu! Tôi chỉ muốn giữ tròn đạo nghĩa “Tam hoà” không thể để quý khách nào lâm nguy vì xuất đầu lộ diện nơi dải đất hẻo lánh này!
                        Dọc tẩu lại bắt đầu chạy tới. Hai chàng tuổi trẻ lại nằm đối diện vua H mông nghe tiếng thuốc phiện Su Phì réo trong lọ sành tinh luyện. Chợt từ xa nghe vẳng tiếng reo hò, lớp lớp. Họ Voòng hơi nheo mắt lắng tai, rồi lại tiếp tục kéo.
                        Những tiếng reo hò lại nổi lên vang dội, lần này nghe gần hẳn, tiếp theo, nhiều tiếng súng đì đẹt canh khuya. Chúa H mông liền giật luôn sợi dây sau lưng. Vệ binh hiện ra ngay.
                        – Ngoài kia sao huyên náo thế?
                        – Bẩm Chúạ.. đã tới giờ thi bắn! Mỗi cánh quân đóng ngoài biên, đều gửi vào một tiểu đội!
                        – À nhỉ! Ta cũng quên khuấy mất! Thôi cho lui!
                        Chúa H mông lại đỡ lấy dọc tẩu kéo liên hồi. Hai chàng “loạn tướng” nằm im nghe thuốc reo. Ngoài kia gió đêm vẫn chạy rào cành lá vòng dinh, mang tới phòng khuya những tiếng súng mơ hồ, lúc lúc lại đột khởi giữa tiếng nước đổ triền miên đơn điệu, chìm nổi trong đêm rừng.
                        Khói “moóc phin” thượng hạng Hoàng Su Phì đã hoàn toàn thấm vào não tủy, chàng tướng Thập Vạn Đại Sơn lim dim mắt, nằm nghĩ vẩn vơ, đang tưởng tới đám thủ hạ miền hùng cứ Hoa Nam, lại sực nghĩ tới thái độ quá bất ngờ của Phượng Kiềụ.. ý nghĩ nhảy lung tung... chập chờn, không mạch lạc.
                        Giữa lúc cảm thấy hình hài như đang tan vụn ra, bềnh bồng quyện vào khói thuốc, chợt cửa phòng hé mở. Voòng Sềnh bước vào, tiến đến bên sập cung kính cúi đầu:
                        – Bẩm... Chúa Ba thỉnh Chúa ra xem võ trường, tướng khách biên thùy đã bắt đầu biểu diễn, so tài!
                        Vua H mông hơi cau mày:
                        – Sao? Khách tướng so tài? Mà ai đã khởi xướng việc đó?
                        – Bẩm, đệ tam công tử!
                        Vua, H mông dướn cao lông mày và sụp xuống, mắt nheo lại:
                        – Voòng Sám. À! Thế còn Voòng Dắt, Voòng Nhì đâu không bảo nó! Ta đã truyền, lần này quan khách xa gần lới dự hội đông, cấm chúng xướng xuất việc tướng khách đua tài mà!
                        – Bẩm, nhất, nhị công tử lúc đó còn bận việc quân chưa ra. Vả lại các tướng nhà nước vừa tiếp lời Tam công tử, thì phần đông tướng khách đã đồng thanh hưởng ứng rồi.
                        Chúa H mông, như chợt hiểu, đưa mắt nhìn Khách Giang hồ, Đại Sơn Vương, gật gù cười nửa miệng:
                        – Hừ! Bọn tướng Roux hiểm lắm! Định dùng quan khách loại nhau đây. Nhưng sao các khách sơn vương cũng mắc mưu dễ dàng thế?
                        Voòng Sềnh đưa mắt nhìn Chúa H mông, Khách Giang Hồ, và kín đáo liếc sang Đại Sơn Vương, như muốn nói gì, nhưng ngại sự có mặt của tướng Thập Vạn Đại Sơn, nên lưỡng lự mãị..
                        Chúa H mông nghiêm mặt bảo viên cận tướng:
                        – Ta không muốn có sự đổ máu trong ngày vui lễ của Hoàng Su Phì! Sềnh, ngươi ra cho các công tử rõ! Ta sẽ ra sau.
                        Nhưng Voòng Sềnh vẫn chưa lui. Khách Giang Hồ liền khẽ đưa mắt cho Sềnh, đoạn theo ra.
                        – Thưa, quan tướng nhà nước xem chừng muốn bầy trò diễn võ để mưu hại Đại Sơn Vương đường đường. Nhiều kẻ đang lớn tiếng khiêu khích, có lẽ họ đã rõ Đại Sơn Vương chưa khỏi bệnh, tay chân còn rã rời, yếu mệt, nên nhất định lợi dụng cơ hội đến cùng. Nữ Chúa Chí Plan tôi cùng Nguyệt Tú cô nương có dặn tướng quân cố cầm Đại Sơn Vương lại, chớ để người ra, chắc không nhịn được trước lời khiêu khích ngạo mạn của bọn họ. Nhị vị cô nương ở ngoài đó sẽ tùy cơ liệu định, tướng quân cứ an tâm!
                        Thấy người bạn ngang tàng đã chìm mình trong vòng cảm giác “moóc phin”, Khách Giang Hồ liền lẳng lặng đứng lên, vẫy mấy cô thôn nữ đến góc phòng, khẽ căn dặn cẩn thận, đoạn bước ra ngoài khóa trái cửa lại. Gặp viên tướng vệ binh tại phòng bên, chàng lại ghé tai nói nhỏ mấy câu rồi mới ra thẳng phòng khách lấy súng. Tìm Voòng Lầu không thấy đâu, chàng định giấu cả súng bạn đi, nhưng tần ngần mấy khắc, lại thôi, ra ngoài, theo viên quan hầu già hướng dẫn tới cổng tiền lúc nãy.
                        Rời khỏi vùng dinh, thấy quanh mình vắng tanh, thỉnh thoảng mới có bóng quân H mông đi lại, Khách Giang Hồ tiến về phía sảnh đường, có tiếng súng nổ, người hô đột khởi trong đêm tối.
                        Võ trường nằm ngay bên nhà sảnh không xa. Đứng tại sân sảnh đã thấy lửa võ trường sáng rực, lố nhố người đứng đông như kiến.
                        Rảo bước tới, chàng lách giữa đám đông nhìn vào. Võ trường rất rộng, cỏ xanh mướt lóng lánh những giọt sương khuya trông như dát thuỷ soạn. Quanh võ trường, ngựa đứng, ngựa chạy rầm rập.
                        Khách Giang Hồ ghé vào giữa lúc mấy ky sĩ vừa từ giữa bãi chạy tới trước hàng ghế quan khách, giơ khí giới lên trời chào, rồi tế ngựa vào phía tả khuất.
                        Một chàng trai H mông y phục sang trọng, cưỡi ngựa phủ mảnh thổ cẩm sặc sỡ từ trong tế ngựa ra, hô lớn:
                        – Quý khách biên thùy vừa diễn tài đánh ngựa, nhào hông chém tướng, giờ vị nào xin cho được ngưỡng mộ tài riêng?
                        Lời vừa dứt đã thấy một người cởi trần, lông ngực xồm xoàm như râu tóc, hình thù cao lớn, bắp thịt nổi như thừng chão, mặt mũi dữ tợn, đầu chít khăn chữ nhân, chân quấn xà cạp vằn có vẻ tướng sơn cước Quí Châu, vọt ngựa ra, tay khoa cặp câu liêm to bản, bay ngựa vòng võ trường, khí thế thập phần hùng dũng.
                        Vừa thấy tướng sơn cước khác thường ra, đám đông đã reo hò náo động cả võ trường. Dưới ánh lửa cặp câu liêm bay vụt khỏi tay như hai ánh chớp khiến ai cũng phải giật mình chột dạ, tưởng câu liêm bay thẳng tới tiện xoắn cổ mình! Nhưng lạ thay! Câu liêm chỉ bay khỏi tay viên tướng kỳ dị kia chừng một thước, ánh hào quang chợt uốn vòng cung. Mọi người vừa chớp mắt, đã thấy câu liêm nằm gọn trong tay tướng lạ. Rồi cứ thế, hắn ném liền mấy lần, đoạn giơ thẳng một tay ra, tay khác ném ngang, câu liêm ném mạnh ra, nhưng lại chạy vòng tròn quanh cánh tay hắn. Xong, hắn lại ném câu liêm chạy vòng cổ ngựa, chẳng khác một vòng tròn hào quang loang loáng. Tiếng reo hò nổi lên vang dội. Quan khách nhiều người thích mắt nhổm hẳn lên xem. Tướng lạ liền thúc ngựa quanh võ trường biểu diễn, đoạn đứng giữa võ trường la lớn, tiếng ồ ồ như sấm gầm hang núi:
                        – Vũ Di Sơn đường xa, tới chậm, từng nghe miền biên cương lắm bực tài giỏi, muốn giáp mặt, nên chăng?
                        Võ trường im phăng phắc, vì câu thách đố ngạo nghễ của viên tướng giặc Vũ Di Sơn. Tướng giặc dứt lời chưa thấy ai lên tiếng, liền tế ngựa tới trước hàng quan khách, đưa mắt liếc một lượt, đoạn bất ngờ phóng chiếc câu liêm ra. Câu liêm xoẹt trước mặt đám tướng xạ phang, rồi lại về tay tướng ngạn mạn. Cùng lúc mấy tướng thổ phỉ biên giới đứng vụt lên. Nhưng... tướng giặc Vũ Di Sơn đã quay sang bên tả, thoáng thấy mấy khuôn mặt hoa, liền ném vụt câu liêm ra, còn đang nhếch mép cười nghạo nghễ, chợt tắt ngay, vì một bàn tay đã quài theo câu liêm, nhanh như chớp, bắt dính vào chuôi như có nhựa êm không. Thiếu phụ đứng lên, đẹp yêu ma, phong tình.
                        – Liễu Nương!
                        – Hảo Liễu Nương!
                        Đám tướng thổ phỉ có mấy gã reo lên khen phục, và cả bọn ngồi xuống. Thiếu phụ ném vụt chiếc câu liêm ra, tướng ngạo vội quài tay bắt lấy, nhưng nhìn xuống, bờm ngựa đã bị hớt xoẹt một mảng rồi.
                        – Trò câu liêm bất quá của bọn bán thuốc dạo Quí Châu, sao dám đưa ra ngạo quan khách? Muốn học thêm mấy miếng phòng thân, để Liễu Nương này truyền cho!
                        Tuớng dị dạng Vũ Di Sơn thoáng vẻ ngạc nhiên, không ngờ định khích đám khách đàn ông lại bị đàn bà ra mặt, nhưng tướng lạ chỉ hơi nheo mắt ngắm thiếu phụ lẳng đẹp, cười nửa miệng:
                        – Liễu Nương trại Võ Tắc Thiên đó ư? Lâu nay vẫn được nghe tiếng, không ngờ được gặp! Xin chào Trại Võ Hậu!
                        Thình lình bị tướng lạ gọi sống sượng hỗn danh ngay trường làng quan khách, Liễu Nương vùng cả thẹn bước phắt ra, quát lớn:
                        – Ngựa đâu? Để cho mi nếm mấy đòn của bản cô nương!
                        Mã phu dẫn ngựa lại, vừa lúc người trai H mông cũng tiến đến bên, mới nghiêng mình chưa kịp nói gì, thì Chúa H mông Voòng Chí Sinh đã gọi:
                        – Voòng Sám!
                        Sám vội xuống ngựa chạy tới trước mặt cha, họ Voòng chưa kịp truyền thì viên lão tướng nhà nước ngồi bên đã mỉm cười:
                        – Thưạ.. Ngài hãy yên lòng; để khách tướng đua tài! Có ngài dự lãnh, chắc ai cũng phải cầm chừng. Nếu không họ cũng gặp nhau chỗ khác, khi không có ngài ngài, có lẽ còn đổ máu nhiều hơn!
                        Chúa H mông nhìn viên tướng bảo hộ già đời, đoạn quay bảo con:
                        – Khá nhớ lời ta dặn, không được để nơi đây thành bãi chiến trường!
                        – Dạ.
                        Người con thứ ba của vua H mông cúi rạp mình trên ngựa đoạn quay ra, đưa mắt kín đáo nhìn viên tướng nhà nước, miệng hơi nhếch cườị.. bí hiểm.
                        Liễu Nương đã nhảy lên lưng ngựa, cùng tướng giặc Vũ Di Sơn phóng ra giữa bãi. Thiếu phụ rút phăng thanh trường kiếm bên sườn, trỏ mặt tướng giặc lông xồm, quát lớn:
                        – Cho ngươi vào trước đó!
                        Tướng lạ cười to:
                        – Ta đây thách đấu, khác chi chủ cuộc, nàng hãy vào trước đi!
                        Liễu Nương vọt ngựa lại, ngay khắc đầu đã vũ lộng thanh kiếm dài chém luôn mấy nhát xuống địch thủ. Tướng dị rạp mình tránh luôn hai đường, đến phát thứ ba mới quật câu liêm lại. Câu liêm đánh trúng kiếm, tóe lửa. Liễu Nương thấy tê chồn cả tay, biết sức địch mạnh hơn mình nhiều, nên tung hết tài nghề đánh, tránh, không dùng sức chọi nữa. Một người đàn ông to lớn. Một bà nhỏ nhắn, xoắn lấy nhau, binh khí bay vun vút, cả hai đều tỏ ra lợi hại, đứng ngoài không thể đoán được hơn thua. Giữa lúc mọi người đang chăm chú theo dõi cuộc chiến. Thình lình, thấy ánh hào quang vụt tắt, tiếp theo tiếng đàn ông quát như sấm:
                        – Coi đây!
                        Mọi người nhìn kỹ đã thấy hai con ngựa sát vào nhau, cặp câu liêm của tướng giặc Vũ Di Sơn đã kẹp chặt lấy thanh kiếm của Liễu Nương, như kìm thép. Liễu Nương đỏ mặt, dùng hết sức giật kiếm ra nhưng không thể được, còn đang lúng túng thì tướng dị kia đã khoa mạnh tay câu liêm một cái, thanh kiếm đã bị xoắn rời tay Liễu Nương, bay bổng lên cao. Tướng giặc chém gió một nhát trước mặt Liễu Nương, đoạn đánh ngựa sang bên, cười ngạo nghễ. Thiếu phụ cả thẹn, rút luôn bên ngựa ra một ngọn đinh ba, nghiến răng:
                        – Chớ vội xược ta! Coi đây!
                        Vừa nói, vừa vỗ ngựa tới, khoa ngọn đinh ba phóng vào địch thủ.
                        Tướng dị điềm nhiên coi thường, tiến đánh. Được mấy khắc, thình lình thiếu phụ chuyển tay phải gạt luôn mấy cái và đâm thốc ngọn đinh ba vào bụng địch. Tướng dị vừa hạ câu liêm xuống gạt thì “soạt” một cái, Vũ Di Sơn tướng ngạo tưởng mây đen vừa sụp xuống, chớp mắt, đã bị lưới gai chụp kín cả thân hình, lúng túng như hùm dữ sa rọ.
                        Liễu Nương giật mạnh tay lưới gai, hầu như tơ trời xiết chặt lại, quàng từ đầu tới ngang hông, bó cả tay câu liêm, không hòng cựa quậy. Biết thế nguy, vì khinh xuất, người đàn ông dị tướng quát lớn, vung tay cựa mình... nhưng vô ích! Lưới đã bó chặt, vô phương. Liễu Nương cười the thé:
                        – Số mi đã tận mới dám trêu vào tay Liễu Nương này! Coi đây!
                        Tướng Vũ Di Sơn đang nhắm mắt chờ chết, chợt nghe tiếng nổ, mở mắt ra thấy tấm lưới đã đứt lìa, liền hất mạnh tay, thoát mình khỏi lưới. Và cũng như quan khách, đôi bên nam, nữ địch thủ đều ngơ ngác nhìn quanh, vẻ kinh ngạc nhiên rõ trên mặt vì tài bắn súng, ném dao cắt lưới ghê gớm của kẻ bí mật nào đó.
                        Liễu Nương còn đang bàng hoàng, đã thấy một bóng kỵ sĩ từ đám đông vọt ngựa ra, tới gần, là một thiếu phụ, đen đủi dữ tợn, cao lớn như đàn ông, phóng lên nước ngựa tướng giặc Vũ Di Sơn, trỏ mặt Liễu Nương mắng lớn:
                        – Nơi đây là chốn đua tài, sao mi dám dùng lưới gai, toan hạ độc thủ chồng ta? Có giỏi hãy cùng ta đường đường giao đấu?
                        Liễu Nương cau mày liễu, chòng chọc nhìn người đàn bà mới ra, khẽ hất hàm:
                        – Quỷ Dạ Xoa! Thế ra chính mi chặt lưới quí của ta ư?
                        Người đàn bà thoáng ngơ ngác, đoạn cười gằn:
                        – Bất tất nhiều lời! Để ta trói mi cho biết tay Mẫu Dạ Xoa núi Vũ Di đã!
                        Dứt lời, thiếu phụ giật phắt dải thắt lưng màu hồ thủy, tung vụt ra trước ngựa. Chiếc thắt lưng lụa mềm vươn thẳng vút như chiếc gậy, khiến quan khách phải trầm trồ khen ngợi và Liễu Nương không khỏi giật mình, vì vốn là tay gái lục lâm lăn lộn trong nghề võ, Trại Võ Hậu đã thừa rõ đánh dây lụa là một nghệ thuật tuyệt khó, phải tay cao cường, có sức lực hơn người mới dùng nổi.
                        Mẫu Dạ Xoa đã giật dây lưng lại, khoa nhẹ quanh mình. Liễu Nương chẳng nói chẳng rằng, cũng rút luôn cây thiết lĩnh quấn quanh người. Thấy địch thủ cũng dùng đồ mềm, không sử dụng đồ cứng, Mẫu Dạ Xoa biết Trại Võ Hậu chẳng phải tay vừa, liền vũ lộng dải lụa xanh nhạt nhanh thêm, chờ đợi. Liễu Nương xốc tới, nhưng chỉ cho ngựa vòng quanh, lựa thế. Dải lụa phất phới, uốn quanh người ngựa như con rắn xanh, vòng từ trên xuống, chẳng khác mấy vòng đai, dải lụa hay vù vù, đánh gió thốc ra tứ phía, mạnh mẽ lạ lùng.
                        Đám đông reo hò ầm ĩ, như được xem một trò xiếc lạ. Liễu Nương vẫn lượn quanh.
                        Hình như muốn tỏ sức lợi hại của dải lụa trên tay vợ, viên tướng Vũ Di Sơn liền đánh ngựa tới trước đám vệ binh cầm giáo canh quanh bãi vẫy mấy người, ra hiệu, đồng thời, đỡ lấy một cây giáo, tiến tới, phóng vào Mẫu Dạ Xoa. Sức mạnh vô cùng, giáo đi vun vút.
                        Rắc! Cây giáo vừa lao vào vòng đai lụa, chỉ thấy Dạ Xoa nhẹ hất tay một cái, cây giáo đã gãy làm đôi, quay đảo một vòng rồi bắn lên cao.
                        Đám đông khoái mắt reo hò. Voòng Sám tế ngựa đến, ngoắc tay làm hiệu, vệ binh liền nhất loạt xông tới lao giáo vào Mẫu Dạ Xoa. Giáo gãy liền. Liễu Nương thấy thế cũng múa tít thiết lĩnh, xông lên chận đường giáo, xoắn gãy luôn mấy cái và vỗ ngựa đánh vào vòng đai Mẫu Dạ Xoa. Đứng ngoài, chỉ thấy ngày dải hào quang xanh xanh trắng trắng quấn lấy nhau, vù vù xoàn xoạt như tiếng gió lùa, vải xé.
                        Cuộc giao đấu giữa Mẫu Dạ Xoa và Võ Hậu đang gay go, thình lình như ngừng hẳn. Hai nữ tặc gò mình trên lưng ngựa, kéo miết. Thì ra, hai món khí giới đã xoắn dính lấy nhau không gỡ ra nổi nữa, cặp kỳ phùng địch thủ chỉ còn biết lấy sức giật nhau cho ngã ngựa. Đám đông lại reo hò inh ỏi.
                        Sốt ruột, Liễu Nương ghìm một tay, còn tay kia rút đinh ba, đâm sang. Nhưng Mẫu Dạ Xoa cũng tinh mắt rút gươm ra, đánh lại. Thấy cuộc giằng co kéo dài, Chúa H Mông toan ra hiệu cho Voòng Sám ngăn lại, thì từ chỗ quan khách một thiếu nữ đẹp như hoa tế ngựa ra chỗ hai nữ tặc, dáng hình uyển chuyển dưới ánh lửa bập bùng.
                        – Nguyệt Tú!
                        Khách Giang Hồ nãy giờ vẫn đứng xem, chợt hơi cau mày, lẩm bẩm khi thấy cô em gái vọt ra võ trường.
                        – Hừ! Con bé làm gì đây? Định bắt chước bọn giặc cái khoe tài chắc?
                        Ngoài bãi, Nguyệt Tú đã tế ngựa tới chỗ hai nữ tặc, nghiêng mình, nhoẻn miệng cười tươi:
                        – Nhị cô nương hãy ngừng tay. Thế đã đủ danh tài nữ tướng rồi.
                        Vừa nói, nàng vừa dịu dàng nắm hai cổ tay cặp nữ tặc kéo ra.
                        Liễu Nương mặt vẫn còn hầm hầm như định nuốt sống Dạ Xoa. Còn Dạ Xoa mặt vẫn đầy sát khí không kém.
                        – Xin mời nhị cô nương hãy vào nghỉ tay! Chị em ta còn trò chuyện!
                        Hai nữ tặc vẫn còn gầm ghè nhau, nhưng có lẽ đã lượng được sức kỳ phùng, lại thêm được người khuyên giải dịu ngọt, đành quay ngựa đi. Nhận thấy không có ai ở gần, Nguyệt Tú liền khẽ bảo bai vợ chồng Mẫu Dạ Xoa:
                        – Hội còn mấy buổi, không lo thiếu dịp đua tài. Nhưng hãy thận trọng đừng để mắc mưu thâm độc. Tướng nhà nước Đông Dương định dùng khách tướng ganh tài sát hại lẫn nhau đó!
                        Đám văn quan võ tướng nhà nước bảo hộ thấy thế, liền đưa mắt nhìn nhau. Viên lão tướng có vẻ nóng ruột, vội láy mắt làm liệu cho bọn Lừng, Lầm.
                        Lầm vua ám khí vừa nhỏm lên, thì Đại Vương Lừng đã đứng lên, ấn Lầm ngồi xuống, đoạn Lừng đảo mắt một vòng, hình như muốn tìm Đại Sơn Vương, Khách Giang Hồ. Vẫn không thấy, viên tướng xạ phang hơi cau mày, và như có dự định, vua thòng lọng tiến ra, cúi đầu trước Chúa H mông, quan khách, và nhảy phóc lên lưng ngựa chực sẵn. Vừa lúc Nguyệt Tú quay ngựa vào.
                        – Khoan đã cô nương! Chẳng hay Đại Sơn Vương đâu chẳng thấy ló mặt ra? Chắc cô nương có biết?
                        Nghe giọng khiêu khích ngạo mạn của tướng xạ phang, Nguyệt Tú không nén được giận, quắc luôn mày phượng:
                        – Chú ở khoảnh rừng nào, muốn chiêm bái người ư?
                        – Ngộ chỉ muốn mượn lại tiếng Thần Xạ của hắn thôi?
                        Thấy hắn nhìn sống sượng, nói ngạo, Nguyệt Tú cười nhạt:
                        – May cho chú, Đại Sơn Vương lại có việc bận tối nay, nhưng nếu không thể đợi được, tôi có thể tạm thay người giúp chú bất cứ món nào.
                        Lừng Đại Vương biết kẻ khích đã thành, nhưng hơi ngạc nhiên vì câu thách của người đẹp.
                        – Hầy! Con gái sức nào chịu nổi một quả đấm của Lừng! Hãy đi gọi thằng Đại Sơn Vương thôi! Còn cô em chớ dại, uổng xuân! Ngộ có thể chìa cổ cho cô em chém ba nhát chỉ xin lại một nhát, được không?
                        Cả Nguyệt Tú lẫn quan khách đều tưởng tướng xạ phang đùa cợt người đẹp. Riêng Voòng Lầu nãy giờ vẫn ngồi im, chợt quay bảo khẽ Chí Plan:
                        – Nữ chúa hãy tìm cách ngăn cán cuộc thách thức mau! Thằng Lừng có phép “gồng” lợi hại lắm, đao kiếm chém không nổi đâu!
                        Chí Plan ngạc nhiên, chưa biết tính sao, thì Nguyệt Tú đã nghiêm mặt:
                        – Chớ lộng ngôn trước đông đủ quan khách:
                        Có gan hãy cùng tạ..
                        đấu súng!
                        Lừng cười lớn:
                        – Cô em chớ vội thoái thác! Ngày lễ vui mừng. Hãy khoan dùng súng. Ta để cô em chém trước mà!
                        Nguyệt Tú nghiêm mặt:
                        – Nơi đây đủ mặt khách tướng bốn phương, nhà ngươi không được lộng ngôn! Nếu không muốn đấu súng, hãy cùng bản cô nương đấu quyền cước, xạ tên, hoặc đấu gươm, tùy ý!
                        Lừng Đại Vương vuốt râu cười ngạo nghễ:
                        – Đấu gươm, tên, quyền cước ư? Rồi được thua, cũng đến chém đầu thôi. Đấu chi cho hoài công, nhăm mắt người coi. Sao bằng ngộ vươn cổ cho cô nương chém truớc? Nhưng ngộ bảo thực! Chớ nhận mà uổng mạng! Cổ cô nương chịu sao nổi một nhát gươm đưa.
                        Nói xong, Lừng đưa mắt nhìn quan khách, lớn tiếng:
                        – Đây có Chúa Tể Hoàng Su Phì, cùng khắp hàng quan khách chứng kiến, chẳng những cô nương, mà với tất cả các sơn tướng, võ tướng, Lừng này nhắc lại lời thách chém, và sẵn sàng để người chém trước ba nhát, chỉ xin đổi một nhát phần Lừng!
                        Tiếng viên tướng xạ phang kiêu ngạo vang khắp một vùng võ trường, như những nhát búa giáng vào đầu óc đám giang hồ tứ chiếng. Các văn quan võ tướng nhà nước lập tức vỗ tay cổ súy, tiếp liền tiếng reo hò của đám thổ phỉ phe Lừng như đổ thêm dầu vào những ngọn lửa tức khí xung thiên.
                        Qua giây khắc ngạc nhiên, Chúa H Mông cùng khách tướng chợt hiểu ngay viên tướng xạ phang vốn khét tiếng dâm bạo, thâm hiểm chắc phải có thuật lạ gì, mới dám ngang nhiên lớn tiếng ngạo khắp hàng dũng sĩ. Và hiểu ngay, bẫy độc đã giương lên. Chúa H mông bất giác đưa mắt nhìn mấy viên chức nhà nước, và tự nhiên hơi liếc nhìn cô cháu gái Chí Plan. Hiểu ý thúc phụ, Chí Plan đứng ngay lên.
                        Nhưng đã muộn, ngoài kia Nguyệt Tú đã long mắt phượng nhận lời thách thức, và Lừng Đại Vương vừa cởi phắt áo ngoài. Ném mảnh áo cho kẻ tùy tòng, tướng xạ phang ngửa mặt hà một hơi dài, và ngồi ngay ngắn như tượng gỗ. Hai cánh tay từ từ đưa lên ngang vai, bắp thịt theo đà tay nổi cuộn hẳn lên như thừng chảo xoắn. Miệng lẩm bẩm như khấn hứa, mắt nhắm nghiền, Lừng Đại Vương từ từ vươn cổ lên thình lình thét lớn:
                        – Chém!
                        Tướng giặc vừa dứt tiếng, Nguyệt Tú đã rút phắt thanh gươm trường, tế ngựa vụt về phía sau, chừng mười thước, đoạn khoa tít gươm quát:
                        – Coi đây!
                        Và theo nhịp ngựa phi, tới ngang ngựa Lừng, thanh gươm sáng loáng phạt luôn một đường nhanh, mạnh như vũ bão vào giữa cần cổ tướng giặc. Bịch! Lưỡi gươm vừa chém vào gáy đã bị bật dội hất về phía sau, Nguyệt Tú có cảm giác vừa chém vào một bánh xe hơi cao su, tay chồn hẳn đi. Con ngựa đang phi bị cản thình lình, chồm hai vó trước hí mạnh. Bàng hoàng, nàng kịp nhìn vào gáy Lừng còn thấy rõ vệt gươm đỏ ăn sâu xuống đang vụt nổi lên, cần cổ vẫn như thường sau nhát gươm vũ bão! Quan khách có nhiều người đứng lên rướn mình nhìn ra, và bầu không khí kinh dị như trùm khắp võ trường.
                        – Nguy cho cô nương rồi! Thằng Lừng đang có phép gồng ghê gớm mà!
                        – Không phép phá, phạm sao nổi vào da thịt nó! Phen nàỵ.. mắc bẫy tướng gồng rồị..
                        Thoòng Mềnh nay giờ vẫn ngồi im, chợt khẽ lên tiếng, tiếp lời Voòng Lầu, khiến Chí Plan vội tiến đến bên người thủ hạ giang hồ của Đại Sơn Vương, lo lắng hỏi khẽ:
                        – Làm sao bây giờ?
                        – Chém!
                        Ngoài bãi “yêu tướng” lại thét lớn, giọng nghe rờn rợn hẳn lên.
                        Nguyệt Tú đỏ bừng mặt vì tiếng reo hò cổ súy của đám đông, giật phăng tay cương, tế ngựa thẳng lên phía trước, lấy đà. Thiếu nữ phải cắn chặt hàm răng cho tay cương khỏi run lên vì hoang mang... giận uất... chân thúc luôn vào hông ngựa. Nhưng lạ thay, con ngựa như bị dính chặt chân xuống đất. Ngạc nhiên ngoảnh lại, thiếu nữ vừa mừng vừa sợ khẽ kêu lên:
                        – Trờị.. anh?
                        Khách Giang Hồ đã đứng sừng sững bên hông sau ngựa, buông tay nắm dây đai, nghiêm trang:
                        – Xuống ngay! Để anh đối phó với yêu tặc!
                        – Nhưng...
                        – Xuống! Không nguy đến tính mệnh bây giờ! Sao vội vàng nông nổi nhận lời thách với thằng giặc có tà thuật? Không biết phép phá, chém nó chi như chém vào cao su thôi! Xuống em!
                        Khách Giang Hồ lạnh lùng, hơi vẫy tay ra hiệu. Nguyệt Tú tần ngần xuống ngựa. nhìn anh. Cả võ trường đều đồ dồn mắt về phía Nguyệt Tú. Viên tướng xạ phang Lừng hô xong mãi không thấy chém, mở mắt ra thấy cô gái đã xuống ngựa trao cương cho người đàn ông, liền cất tiếng cười chế giễu:
                        – Sao? Cô em không chém nữa ư? Hãy đền ta nhát gươm vừa rồi đi!
                        Khách Giang Hồ nhảy phóc lên lưng ngựa cất tiếng sang sảng:
                        – Tướng kia! Có ta tới trả nợ đây!
                        – Không! Chúng nó chỉ muốn thủ cấp Đại Sơn Vương, để nợ đó cho tôi trả chúng!
                        Anh em Khách Giang Hồ giật mình quay lại, tướng Thập Vạn Đại Sơn vừa từ đám đông lách ngựa vào, khuôn mặt bệnh vẫn còn phảng phất dư ảnh... năm ngọn đèn dầu lạc trong mật thất chúa Mèo.
                        – Kìa! Bạn còn lảo đảo, sao lại ra trường diễn võ? Thế vệ binh...
                        – Còn nằm ngất tại tư dinh! Không sao? Có lẽ giờ đã tỉnh rồi?
                        Chàng tướng núi ngang tàng nhếch miệng cười, dợm ngựa đi, mắt chợt nghiêm hẳn:
                        – Phép gồng của thằng Lừng ghê gớm không vừa! Làm sao chém thường được nó, mà bạn định liều ra?
                        Dứt lời, Đại Sơn Vương tế ngựa thẳng tới trước Đại Vương Lừng giữa trăm ngàn tiếng reo hò nồng nhiệt. Quan khách đứng cả lên, trước sự xuất hiện thình lình của viên tướng bệnh. Trần Tắc sáng mắt bảo Phượng Kiều, Robert Lợi:
                        – Kìa! Trông hắn rạ.. nộp thủ cấp cho ta? Ngồi ngựa còn lảo đảo!
                        Một tay Lừng là đủ xong việc rồi !
                        Phượng Kiều vẫn lạnh lùng nhìn ra phía Đại Sơn Vương, khuôn mặt như không còn cảm xúc. Tướng trẻ non cao hướng về quan khách, lớn tiếng:
                        – Đại Sơn Vương tới chậm, xin có lời chào! Đâu, vị nào muốn lấy thủ cấp của kẻ tầm thường này, hãy quá bộ ra đây mà nhận?
                        Chưa ai lên tiếng, thì chàng tướng bệnh đã quay phắt sang Lừng Đại Vương:
                        – Gươm đao đâu? Khá rút mau để ta biếu cho chúng mày cái đầu đem lĩnh thưởng!
                        Lừng tưởng chàng thách đấu, còn đang ngơ ngác thì chàng tướng núi đã vươn cổ, thét lớn:
                        – Đầu ta đây! Cứ chém đi!
                        Lời chàng tướng bệnh vừa vang lên, võ trường như có trận gió kinh ngạc chạy khắp hàng quan khách. Khách Giang Hồ, Nguyệt Tú giật mình xô cả lại chỗ Chúa H Mông, Chí Plan. Họ Voòng Chí cũng lạ lùng không kém, cùng mọi người đưa mắt ngó người thủ túc của Đại Sơn Vương, như dò hỏi, trong lúc đám Trần Tắc, tướng Tây, thổ phỉ cùng mở to mắt vì sự việc xảy ra quá bất ngờ nhanh hơn cả mưu định. Nhưng chính Voòng Lầu cũng kinh ngạc không kém mọi người.
                        Lúc đó Đại Sơn Vương cùng Lừng Đại Vương đứng không xa chỗ quan khách, nên mọi người thấy rõ từng cử chỉ nhỏ của hai bên. Thấy Đại Sơn Vương vươn cổ, Lừng tưởng gặp kẻ điên khùng, vì là kẻ có gồng ngải, hắn hiểu hơn ai hết cái nguy hiểm của bí thuật này.
                        – Chém!
                        Đại Vương Lừng lập tức rút phắt thanh mã tấu sắc như nước, lia cặp mắt hiểm độc về phía hướng Tây, Ta, miệng nhếch cười khan, tướng gồng múa thanh mã tấu như đao phủ giỡn tội phạm trên đoạn đầu đài.
                        Ngựa cứ theo nhịp tiến đến, qua hông ngựa địch gần thước, bất thình lình Lừng rạp ngửa mình, phạt lưỡi mã tấu về phía sau nhanh như chớp, trúng gáy Đại Sơn Vương rất “ngọt! “. Đường mã tấu của bạo tướng xạ phang đi vút mạnh hiểm. Từ chúa H Mông tới Khách Giang Hồ, Chí Plan, Voòng Lầu muốn sởn da thịt, nhắm mắt lại.
                        Nhưng... Bịch! Thanh mã tấu bật ra, như bị một bàn tay vô hình hất lại, định thần ngó lên, Đại Sơn Vương vẫn ngồi yên trên mình ngựa, như thường, và viên tướng gồng dũng mãnh đang mất đà, lảo đảo vì bị hất văng mã tấu lại. Qua giây khắc bàng hoàng, đám đông vùng reo hò như sấm, khách tướng nhiều kẻ thở phào, yên dạ, bên những vẻ mặt sững sờ ngơ ngác của hàng địch thủ Đại Sơn Vương. Chợt có tiếng quát lớn, giọng xạ phang:
                        – Chém phá mới được!
                        Chàng tướng núi ngang tàng vẫn không nhúc nhích. Và mọi người đều không khỏi ngạc nhiên khi thấy chàng chỉ nhếch mép cười khinh, không tỏ vẻ chi lo ngại về phép phá của địch thủ. Bất thình lình, Lừng thét to mấy tiếng nghe rất dữ dội, tay khoa thanh mã tấu, chém luôn hai nhát vào cuống họng Đại Sơn Vương. Tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn trơ trơ trên ngựa như bức tường đồng, thanh mã tấu sắc như nước lại bật trở lại như vừa chém vào lốp xe hơi dày đặc, dị kỳ.
                        Tiếng reo hò lại nổi lên như thác chuyện.
                        Lừng Đại Vương chồn hẳn cánh tay, mặt biến hẳn sắc, trố mắt nhìn địch thủ, như ngó... yêu ma. Có lẽ tướng xạ phang kinh ngạc vì phép đọc chú phá gồng vẫn hiệu nghiệm xưa nay, không làm gì nổi tướng gồng? Lừng mất hẳn vẻ hùng hổ ngạo mạn, giật luôn tay cương định tế ngựa “chẩu”.
                        – Khoan đã! Chú còn nợ lại hai nhát! Định vỗ nợ sao? Đứng lại!
                        Đi đâu vội!
                        Thấy chàng quắc mắt, Lừng Đại Vương túng thế phải dừng cương. Đại Sơn Vương cười khinh bỉ:
                        – Chú tưởng chỉ có chú là biết yêu thuật chắc, dám lợi dụng định nhục hại người. Ngồi im để ta dạy cho cách phá gồng! Chú đã quen mỗi thứ gồng phải có một lối phá? Thuật của chú chỉ đủ làm trò cho đàn bà con gái xem thôi!
                        Nói xong chân tướng núi quay về phía sau gọi lớn:
                        – Nguyệt Tú cô nương!
                        Nguyệt Tú nghe gọi, chưa kịp lên tiếng, thì ngoài bãi, Lừng Đại Vương hình như đã đoán được ý định của Đại Sơn Vương, nhân lúc chàng quay đi, nhanh như cắt tướng xạ phang đã vung luôn cánh tay trái về phía địch.
                        – Thầy!
                        Voòng Lầu đã kịp thét lớn, khi mọi người vừa thấy vua thòng lọng vung tay ra. Nhưng hình như Đại Sơn Vương đã kịp nghe hơi gió vút, vừa dứt tiếng gọi Nguyệt Tú, đã hất mạnh cánh tay trái lên khỏi đỉnh đầu, đồng thời quay lại. Đại Sơn Vương phản ứng rất nhanh, đúng lúc sợi dây thòng lọng từ trên chụp xuống, nhờ cái hất tay, nên tròng dây chỉ chụp được cổ tay chàng thắt lại. Lập tức, Lừng giật mạnh tay thòng lọng định kéo Đại Sơn Vương ngã ngựa.
                        Trước tình thế hiểm nghèo, chàng tướng núi vẫn bình tĩnh vươn ngay người về phía trước, nắm lấy đoạn dây trên ghìm lại. Lừng vận sức bình sinh giật kéo, nhưng Đại Sơn Vương đã thúc ngựa lên, tay phải nắm lấy đoạn trên, tay trái giật nút ra. Chàng làm nhanh đến nỗi Lừng vừa khoa mã tấu chém xuống thì chàng đã thoát gút, bắt luôn tay mã tấu của Lừng, bẻ mạnh, còn một tay điểm luôn vào nách hắn. Toàn thân viên tướng xạ phang vùng rũ liệt vì ngón đòn điểm huyệt tuyệt kỹ của Đại Sơn Vương.
                        – Biết điều ngồi yên! Để ta lấy lại ba nhát dao còn nợ.
                        Và dứt lời, dao rừng đã rút soạt ra khỏi vỏ. Chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn khoa dao một vòng đầu, khí thế như vũ bão. Ai cũng tưởng chàng sẽ chém rụng đầu Lừng. Nhưng thình lình, vừa lúc đao hạ xuống gần cổ hắn chợt dừng, xén luôn một mảng tóc sau gáy hắn, ném xuống đất. Và chàng tướng núi ngang tàng đánh ngựa tới bên Lừng Đại Vương, vỗ mạnh tay vào hông ngựa, đoạn cất tiếng cười vang. Con ngựa Lừng hướng thẳng về phía quan khách, trên yên, tướng xạ phang ngồi như một hình nhân, thân xác to lớn chỉ chực đổ xuống vì rũ liệt. Đợi cho ngựa Lừng tới trước quan khách, Đại Sơn Vương mới cho ngựa lững thững bước theo. Quan khách thấy Lừng ngồi trên ngựa như cái xác không hồn, thảy đều kinh ngạc, đứng cả lên, giương mắt nhìn. Đại Sơn Vương tiến đến bên Lừng, nhẹ nhàng vuốt tay trên lưng hắn. Tay vừa vuốt khẽ, huyệt giải rồi, Lừng Đại Vương chớp mắt, cử động như thường, liếc nhìn Đại Sơn Vương, đoạn lẳng lặng rẽ ngựa lẩn vào đám đông giữa những tiếng reo hò vang dội. Chúa H mông thích chí quá, vừa toan cất lời thì chàng tướng núi ngang tàng đã nhìn thẳng vào đám văn quan, võ tướng nhà nước, cùng bọn tướng phản nghịch, tia mắt như bốc cháy, khi thoáng nhìn Phượng Kiều ngồi giữa đám Robert Lợi, Trần Tắc.
                        – Còn quí khách nào muốn cần thủ cấp Đại Sơn Vương?
                        Nãy giờ Phượng Kiều vẫn lạnh lùng theo dõi mọi biến chuyển.
                        Thấy Lầm Đại Vương toan ra, bị Thoònh Mềnh giữ lại, nàng liền ghé sát vào tai Robert Lợi:
                        – Còn đợi gì nữa! Cơ hội thuận tiện đến rồi. Nhưng chỉ đấu súng thôi. Và nhớ để hắn xoay lưng lại phía này!
                        Giọng thỏ thẻ của người đẹp khiến Robert Lợi sáng hẳn mắt lên.
                        Nhưng vẫn có ý chờn chợn vì vừa mục kích tướng bệnh hạ Lừng.
                        Phượng Kiều hiểu ý liền khẽ giục:
                        – Anh từng chiếm giải nhất về tài bắn súng, không hạ hắn sao được? Chính anh phải nhổ cái gai đó, vì...
                        Cô gái ngừng lại, không nói tiếp, vì Robert Lợi đã đứng lên xốc lại cặp súng bên sườn, lớn tiếng:
                        – Đại Sơn Vương!
                        Mọi người nhìn cả về phía con trai tuần phủ Hà Giang. Thoòng Mềnh cười nhạt bảo Lầm:
                        – Có đứa thế mạng kia rồi! Hãy ngồi xuống coi tài Thần Xạ.
                        Thằng đó vô địch bắn súng bên Pháp về đấy!
                        Viên tuần phủ Hà Giang lúc đó đang ghé tai nghe lão tướng Roux cùng Trần Tắc bàn tán điều gì, chợt ngẩng mặt lên, thấy thằng con trai đang xô ghế bước ra, viên quan Nam triều giựt nảy mình đứng phắt dậy, giật giọng:
                        – Kìạ..
                        Nhưng không đợi cha chạy ra, Roberl Lợi đã đường hoàng tiến lại, đưa mắt nhìn vị quan Tây già cùng “nhạc phụ tương lai”, mỉm cười:
                        – Thầy quên là con đã từng chiếm hai giải nhất về bắn súng tại Âu Châu sao? Và... xin hãy coị..
                        Tướng núi Thập Vạn Đại Sơn chỉ hơi nheo mắt nhìn Robert Lợi, đoạn lẳng lặng ngoặt ngựa đi ra. Quá vài chục bộ, tướng núi mới quay ngựa lại buông cương bước một nhìn chàng con trai tuần phủ Hà Giang, cặp mắt Đại Sơn Vương lạnh lẽo như ánh thép. Hai con ngựa tiến thẳng tới nhau. Chợt Robert Lợi rẽ tay cương quay sang, Đại Sơn Vương lập tức dừng ngựa, từ từ nhìn theo. Cho mãi tới khi hắn đã vòng hẳn lại phía sau lưng, tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im trên ngựa như pho tượng, không thèm quay lại. Và Robert Lợi vẫn tiến đến sau lưng, vừa tìm súng:
                        – Đại Sơn Vương! Quay lại!
                        Tướng núi vẫn không nhúc nhích, cặp mắt vẫn nhìn hàng quan khách và đăm đăm chiếu thẳng vào mắt Phượng Kiều. Thái độ của viên tướng núi khiến từ Nữ Chúa H Mông tới Khách Giang Hồ, quan khách lục lâm đều lấy làm lạ. Phượng Kiều chớp chớp hàng mi, vẻ lạnh lùng chợt biến mất, nét hoảng kinh vụt hiện trong cặp mắt phượng âm thầm trước vẻ điên rồ chán chường của Đại Sơn Vương.
                        Vừa xoay lưng lại địch thủ, đúng tầm súng, đã hoàn toàn thất thế, nhất là trước tay súng từng vô địch trời Tây, dầu nhanh đến mấy, một cái xoay lưng trên ngựa đã đủ giây khắc cho địch thủ khạc đạn kịp rồi.
                        – Đại Sơn Vương!
                        Giữa cảnh lặng yên phăng phắc, tiếng hô của Robert Lợi vang lên như tiếng gọi của tử thần. Mọi người nín thở, chờ một cái xoay mạnh của Đại Sơn Vương. Nhưng tướng lạc thảo vẫn buông thõng hai tay bất động nhìn Phượng Kiều không chớp mắt. Thiếu nữ càng hoảng khi vụt đoán chàng đang ngồi chờ địch thủ... nhả đạn vào lưng. Thiếu nữ không biết làm sao vội cả sợ đưa mắt ngó Khách Giang Hồ, Nguyệt Tú, Voòng Lầụ.. cầu khẩn. Viên thủ lĩnh Cầu Mây biết tình thế thập phần nguy hiểm, đã bước vụt ra, chiếu tướng tầm mắt vào Robert Lợi, hai tay thõng xuống bên sườn chờ Robert động thủ là xuống tay. Nhưng... muộn rồi. Vừa quát dứt tiếng, Robert Lợi đã đánh luôn tay xuống sườn.
                        Phượng Kiều kịp thấy cặp súng của Lợi rút ra khỏi bao, giữa lúc Đại Sơn Vương vẫn nhìn về phía quan khách, súng Lợi vừa lóe hình dưới ánh lửa rừng rực, thiếu nữ vội nhắm mắt lại, tâm hồn như đảo lộn hẳn trong khắc xúc động gớm ghê! Đoàng, đoàng... Hai nhát nổ xé không gian, như xoáy vào tận tim người. Tiếp theo, liền mấy tiếng kêu “Trời” kinh dị.
                        Phượng Kiều nghẹt thở, mở choàng mắt ra, hàng mi cong chớp chớp liên hồi, tưởng chừng mê ngủ, định thần. Nhìn ra thấy sau lưng Đại Sơn Vương, chàng vô địch trời Tây lảo đảo trên mình ngựa, súng rụng đâu mất, hai tay còn chới với bên sườn, rũ liệt, và chàng tướng lạc thảo miền Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi trên yên vững như bức thành đồng, hai bàn tay còn khuynh bên sườn, chĩa ngược ngọn súng về phía sau lưng, cặp mắt vẫn nhìn nàng sâu thẳm.
                        Kinh ngạc trùm khắp võ trường. Qua giây khắc ngột ngạt, tiếng reo hò nổi lên như thác chuyển. Từ quan dân xứ H mông tới đám lính nhà nước, lục lâm, nghịch đảng đều không ngăn nổi cảm giác khoái trá đột khởi trước tài Thần Xạ gớm ghê. Đám võ quan nhà nước chỉ còn biết ngơ ngác nhìn nhau, viên tuần phủ Hà Giang hoảng hốt giật luôn lấy khẩu súng chĩa thẳng vào Đại Sơn Vương. Vút! Súng vừa chĩa ra thì một ngọn roi ngựa từ bên đã đánh trúng đầu thép, rụng ngay xuống đất, tuần phủ giật mình nhìn sang, thấy Chúa H mông Voòng Chí Sinh vừa thu roi da lại, cặp mắt sáng quắc nhìn viên quan Triều, nghiêm nghị từ tốn:
                        – Xin ngài chớ vọng động cho loạn phép võ trường, chúng nhân nổi giận! Cuộc đấu súng tay đôi đã vượt khỏi sự ngay thẳng, Đại Sơn Vương đã nhượng công tử nhà lắm rồi đó!
                        Chúa H mông vừa dứt lời, thì Đại Sơn Vương nhếch miệng cười, cắm súng vào bao, hơi cúi đầu lễ phép bảo viên tuần phủ:
                        – Không dám quá thất lễ với các thượng quan, nên lôi chỉ dám bắn què tay quí công tử thôi! Xin ra vực vào băng bó cho cầm máu lại! Và... còn vị nào?
                        Vừa nói, chàng vừa đưa mắt suốt hàng thực khách. Thình lình, Voòng Lầu gọi giật giọng:
                        – Thầy!
                        Mọi người chưa ai hiểu chuyện gì, thì Đại Sơn Vương đã lộn xuống bụng ngựa nhanh như một con sóc, cùng lúc người còn đeo dính dưới bụng ngựa, cánh tay trái đã dính luôn vào sườn như chày máy.
                        Đoàng... Đoàng... Sau tiếng nổ, chàng tướng núi lộn ngồi lên như cũ, phất nhẹ ngọn súng, giọng lạnh lùng:
                        – A Voòng! Điệu hắn vào dây.
                        Người thủ hạ băng mình đi, dắt cả người lẫn ngựa Robert Lợi vào. Kéo sát ngựa tới trước hàng quan khách, Voòng lật luôn mảnh vải phủ thân ngựa lên, miệng cười nhạt, lừ mắt nhìn đám nghịch tướng. Lúc đó, quan khách mới chợt rõ. Mỗi bên sườn ngựa Robert Lợi đều buộc một cây súng trường, ngọn chĩa chênh chếch lên phía trước, chỗ cò súng buộc một sợi dây xích nhỏ như sợi chỉ, một đầu nhô lên chỗ mép yên, khi cần, chỉ việc nắm đầu dây xích giật khẽ là đạn nhả vào đối phương phía trước rồi.
                        Ngay từ lúc xoay lưng lại địch thủ, tuy Đại Sơn Vương nhìn về phía trước, nhưng Voòng Lầu đã quan sát nẻo sau lưng “Thầy”, thấy địch động thủ là ra ám hiệu. Lúc Robert Lợi đã bị đạn hai tay, Voòng thấy hắn cố sờ soạng bên mép yên, đã nghi hắn có ám khí, nên khi hắn vừa chuyển vai “khác thường” Voòng đã báo kịp cho thầy, nên viên đạn chỉ xẹt trên mình Đại Sơn Vương và xói trúng khăn viên tuần phủ. Tuần phủ cùng một vài người nữa định chạy ra đỡ Robert Lợi, nhưng Đại Sơn Vương đã quắc mắt, phất ngọn súng cản lại, giọng khinh giận:
                        – Ta đã có ý thương hại kẻ không xứng tài đối thủ, chưa biết lượng sức mình, nên vẫn có ý không nỡ xuống tay. Thằng Lừng, ta đã tha mạng, tên Lợi này, ta đã nhường đến thế, chỉ bắn ngược sau lưng cho què. Nhưng thì ra có nhiều kẻ mưu hạ độc thủ ta trong cơn bệnh trọng, đến đất Hoang Su Phì làm khách dự lễ, vẫn không chịu để ta yên bệnh! A Voòng!
                        Lời quát vừa dứt, Voòng thẳng tay quất roi vào hông ngựa Robert Lợi. Còn vật lồng phăng ra ngoài bãi. Lúc đó, Lợi bị thương nơi tay, lại một phát đạn ở vai, đau quá, dụi trên yên, ôm lấy cổ ngựa cho khỏi rơi. Chờ cho ngựa hắn chạy xa chừng mấy chục thước, Đại Sơn Vương liền quay ngoắt mình, bắn luôn hai phát, đoạn cắm súng vào bao. Ngựa Lợi lồng ngoài bãi rồi phóng vòng về chỗ quan khách, Robert vẫn dụi trên bờm ngựa sắp “rụng”. Định thần nhìn kỹ, cánn tay vô địch trời Tây đã bị.... cụt mất một rồi.
                        Tuần phủ Hà Giang kinh sợ vùng ôm lấy gã con trai. Đám võ tướng Tây, Ta cùng bọn lục lâm thù nghịch thình lình rút phắt súng ra. Nhưng, nhanh như chớp:
                        Voòng Lầu, Khách Giang Hồ, Chí Plan, Chí Pliên, vợ chồng tướng giặc Vũ Di Sơn, đám thảo khấu lạ....
                        Thoòng Mềnh đã đánh tay cả xuống báng súng, chĩa những họng đen ngòm vào đám nghịch thù Đại Sơn Vương nhanh hơn nửa khắc.
                        Khách Giang Hồ nghiêm nghị:
                        – Lỗi tự các ông khiêu khích, mưu hại người trong cơn bệnh trọng. Robert Lợi tự chuốc họa vào thân, may chỉ cụt tay là phúc nhà họ Lã! Các ông hãy biết điều để súng nằm trong, bao.
                        – Cuộc đấu chiến đường đường, con quan tuần phủ dám mưu dùng ám khí, Đại Sơn Vương đã rộng dung mấy lượt. Hiềm riêng không cần biết, chúng tôi vốn là địch thủ của Đại Sơn Vương, nhưng sẽ nổ súng hạ kẻ nào làm loạn phép dấu đường hoàng! Hạ súng xuống!
                        Nhìn kỹ lại chính Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng, tướng thổ phỉ râu xồm đã nhiều lần ôm hận vì tay Thần Xạ Thập Vạn Đại Sơn.
                        Đám võ tướng nhà nước, lục lâm, còn đang ngạc nhiên, trù trừ ngó Thoòng Mềnh cùng đám thảo khấu phương xa, thì lão tướng Tây quỉ quyệt đã đưa mắt nhìn Chúa H mông như dò phản ứng. Nhưng họ Voòng vẫn điềm nhiên như không, chỉ nhếch miệng cười tươi, giọng ôn tồn, đanh thép:
                        – Xin quí khách hãy an tọa. Xứ H mông cheo leo tự trị không phải là chiến trường để giải quyết nghịch thù. Cuộc đấu chiến tay đôi thắng bại là thường, sao quí khách lại quá bận tâm làm mất hòa khí võ trường, khi chúng ta đều thấy cuộc đấu đã quá đường hoàng, hợp lý.
                        Sau khi súng ống đám võ tướng nhà nước, lục lâm chậm chạp vào bao. Đại Sơn Vương liền nhảy xuống ngựa, đến trước Voòng Chí Sinh nói gì không rõ. Chỉ biết khi chàng lui ra, Chúa H mông liền nói lớn:
                        – Xin quý khách cứ ngồi nguyên chỗ! Và hãy bình tâm, Voòng Sám, Voòng Sềnh dâu! Truyền quân tắt lửa đi.
                        Hai người họ Voòng lập tức vọt ngựa đi, và giữa lúc quan khách còn ngạc nhiên chưa rõ chuyện gì thì đèn lửa thình lình phụt tắt.
                        Trong khoảnh khắc, khắp vùng võ trường vụt chìm trong tăm tối, im lìm. Đứng gần nhau mới thấy hình người mờ mờ, đứng ngồi như hình tượng. Nhìn lên vòm trời, chỉ còn mờ nhạt ánh sao thưa ẩn hiện sau hương khói. Và chập chờn khắp bãi, chỉ còn le lói ánh đom đóm nhấp nháy giữa đêm thâu.
                        Võ trường vừa im bặt, tiếng chim khảm khắc muôn đời đã theo gió đưa về, bâng khuâng. Rồi giữa đêm tối, chợt có tiếng vó ngựa nổi lên, rầm rập phóng như bay suốt bãi. Lúc lướt qua chỗ Chúa H mông ngồi, quan khách mới nhận ra chính Đại Sơn Vương. Tướng núi phóng khắp võ trường, quan khách chưa hiểu chàng làm gì, chỉ nghe tiếng roi vụt không khí vun vút và đom đóm thấy động chạy dồn cả về phía quan khách, Đại Sơn Vương vẫn vừa phóng vừa vụt roi. Đom đóm tản mát dần ra ngoài bãi, chỉ còn mươi con chập chờn lơ lửng tắt hiện ngay trước mặt quan khách, cao thấp không đều. Chợt từ ngoài xa có tiếng Đại Sơn Vương nói lớn:
                        – Đám trước mặt còn mười hai con đom đóm. Xin coi đây.
                        Đoàng phụt... Đoàng phụt. Cứ mỗi phát súng canh thâu, lại một ánh lân tinh tắt phụt trong bóng tối. Nhanh, đều, đến nỗi tưởng như giống súng liên thanh, cứ thế vang rền giữa tiếng ngựa phi.
                        Tới lúc tiếng súng im bặt, thì ánh lân tinh cũng đã tắt ngấm trong đêm, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa từ ngoài ập tới, vọt qua mặt quan khách, rồi như gió cuốn về nẻo xa, xa dần.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #13
                          Hồi 11 - Sứ mạng bí ẩn của Đại Sơn Vương

                          Hai con ngựa sải kiệu đại, xuyên sơn ngược mãi lên Bắc. Cặp ngựa dừng phắt trên ngọn đèo cao, khắc rõ trên nền trời, hình thù người ngựa đứng im như dính chặt vào mây úa muôn đời.
                          Trên yên hai kỵ sĩ ghìm tay cương, đảo mắt nhìn suối vùng núi rừng quạnh vắng nằm bàn bặt dưới vùng ánh sáng úa vàng.
                          – Đây đã tới biên giới! Giờ chia tay!
                          Vẫn nhìn về phía trước, người tướng Thập Vạn Đại Sơn khẽ lên tiếng, giọng như chìm hẳn đi. Xế sau lưng, Voòng Lầu hơi nhúc nhích, định nói điều gì, lại ngập ngừng thôi, mãi tới lúc thấy chủ tướng dợm phóng ngựa đi, mới tiến lên, khẽ giọng:
                          – Thầỵ..
                          – Đoàn lữ hành đã cắm trại sẵn đợi Voòng tại chân tháp Phai Phia! Hãy thay ta, làm xong việc... đáp lễ Chúa H lnông cùng Khách Giang Hồ! Trao “hàng” xong, mua hết võ khí, lấy thêm phần súng đạn ta trữ lại hang sâu, và lập tức chở sang xứ H mông. Voòng Sềnh, Chu Bột sẽ cùng đi với Voòng. Nếu Thập Vạn Đại Sơn không cần gấp. Voòng khá cùng sang với đoàn hộ tống gặp ta có việc trọng, chờ Voòng.
                          Đang nói trầm đều, chợt Đại Sơn Vương quay mặt nhìn đăm đăm thủ hạ, cặp mắt viên tướng núi trẻ tuổi lóe lên như ánh thép tử thần:
                          – Giờ ta đi báo thù nhà!
                          Dứt lời, viên tướng núi giật tay cương, quay ngoắt ngựa, xuống đèo. Voòng Lầu đứng ngó theo chủ, tần ngần mấy khắc, chợt đánh ngựa theo.
                          – Thầy à!
                          Voòng Lầu nhìn hồi lâu mặt chủ tướng, muốn nói gì lại ngập ngừng không thốt nên lời. Mãi sau mới khẽ bảo:
                          – Thầy đi cho mạnh giỏi.
                          Đại Sơn Vương đặt nhẹ tay lên vai thuộc hạ:
                          – Voòng hãy đưa đoàn lữ hành về Thập Vạn Đại Sơn cho được nhanh chóng! Và khá chớ quên lời ta dặn, nghĩ tới việc ta trao, chớ băn khoăn về việc ta làm bên này!
                          – Nhưng...
                          – Ta đã rõ! Và ta đã mừng là từ ngày theo ta, Voòng đã chẳng phụ lòng ta! Tất cả tài nghề, bí thuật một tuần nay ta đã truyền hết cho Voòng. Giờ Voòng có thể thay ta đảm đang mọi việc, và ta có thể an lòng một mình đi báo thù riêng!
                          Dứt lời, viên tướng núi dợm phóng ngựa đi, hình như không muốn kéo dài khắc chia tay. Voòng Lầu vội nắm lấy cương ngựa chủ tướng:
                          – Nhưng... thầy lại một mình, một ngựa, tôi đi sao an dạ được!
                          Hay thầỵ.. hãy chờ ít bữa chúng tôi sang.
                          Đại Sơn Vương nhếch miệng cười:
                          – Còn nhiều chuyện gấp. Ta phải làm xong chuyện riêng trước.
                          – Nhưng... kẻ thù vẫn bặt tăm? Còn Trần Tắc...
                          Voòng dừng lại nhìn chủ tướng có vẻ ái ngại. Đại Sơn Vương nhìn thủ hạ, đoạn chầm chậm cúi nhìn xuống bờm ngựa. Cùng lúc hai thầy trò nghĩ tới Phượng Kiều – Như muốn cắt ngang ý tưởng, Đại Sơn Vương vùng giật tay cương, cho ngựa xuống đèo. Voòng Lầu đứng ngó theo người ngựa thầy lao xuống như tên, còn đang tần ngần, chợt Voòng vội cau mày ngạc nhiên, vì dưới thung lũng, ngay trước đầu ngựa Đại Sơn Vương, vừa xuất hiện một đoàn người ngựa đang phóng vùn vụt dưới trăng, hình thù nhấp nhô di động giữa nền cây lá xanh vàng. Sinh nghi, Voòng không cần nghĩ thêm, lập tức tế phăng ngựa theo thầy.
                          Đại Sơn Vương xuống vừa tới chân đèo thì đoàn ky sĩ đã ập tới.
                          Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vừa định rẽ ngựa vào bụi khuất đã thấy mấy bóng kỵ sĩ đi trước dưới ánh trăng, nhận ngay được kẻ dẫn đầu chính Voòng Chí Plan Nữ Chúa. Thiếu nữ dừng ngựa nhoẻn miệng cười:
                          – Đại Sơn Vương! Xin hãy chầm chậm! Thúc phụ tôi sắp tới.
                          Lời nàng vừa dứt, ngựa đã kề đầu, sau lưng có cả Chí Pliên cùng mấy viên tùy tướng.
                          – Kìạ.. Nhị cô nương!
                          – Ông... tệ đến thế thì thôi! Ra đi không một lời cáo biệt. Nếu không có quân báo, còn biết đường nào theo nữa!
                          Nghe giọng trách móc nhẹ của thiếu nữ, viên tướng lạc thảo vội nghiêng mình từ tốn:
                          – Ra đi đột ngột, thật cam thất lễ, nhưng cũng dám xin cô nương thứ cho, vì... có việc gấp...
                          Nói đến đó, tướng núi vội ghé sát lại:
                          – Đệ tam công tử nhà vẫn có ý định muốn bắt nộp thầy trò tôi cho chánh phủ bảo hộ Đông Dương, mà dầu sao thầy trò tôi cũng không dám để máu họ Voòng lại chảy trên đất Su Phì... Nhị cô nương đã thừa rõ...
                          Hai cô gái họ Voòng im lặng mấy khắc, mặt thoáng buồn. Riêng Chí Plan cứ nhìn đăm đăm vào đôi mắt Đại Sơn Vương như dò xét và đột ngột dịu dàng hói:
                          – Một mình Voòng Lầu về là đủ, còn ông?
                          Chàng tướng núi còn đang lúng túng vì câu hỏi của cô gái thông minh, thì Voòng Lầu đã phóng ngựa tới, vừa lúc đám người ngựa sau Chí Plan cũng vọt đến. Dưới ánh trăng chúa tể Hoàng Su Phì ngồi trên lưng bạch mã, dẫn đầu, uy nghi như lão tướng thời cổ.
                          Hai cô cháu gái vội nhích sang bên, nhường lối cho thúc phụ tiến lên. Thầy trò Đại Sơn Vương nghiêng mình chào. Tướng núi vừa định cất lời tạ lỗi, thì chúa H mông đã cất tiếng sang sảng:
                          – Tướng quân! Đường đi muôn dặm gian lao. Vương đã đặt tiệc tiễn hành, tiếc thay không dược cùng tướng quân thù tạc. Tướng quân gấp việc, Vương chẳng dám cố lưu, theo tiễn tới biên thùy là mãn nguyện cho Voòng rồi. Mã phu đâu?
                          Thầy trò Đại Sơn Vương còn đang ngạc nhiên, thì từ sau Chúa H mông, hai tên phu ngựa đã dắt lên một con ngựa lông xù như hùm xám, tầm thước, khác hẳn ngựa thường, trên lưng đã thắng sẵn yên cương. Chúa H mông trỏ con kỳ mã, bảo Đại Sơn Vương:
                          – Con Hắc Phong Câu này vốn nòi ngựa rừng, bắt được tại vùng biên giới, sức chạy như gió cuốn, đáng mặt ngựa hay. Tướng quân xông pha đây đó, cần có ngựa tốt đỡ chân. Xin tặng vật mọn gọi là kỷ niệm mối tình tri ngộ.
                          Dứt lời Voòng Chí Sinh nhảy xuống cầm cương ngựa thân mật trao tay Đại Sơn Vương. Viên tướng núi hai ba lần cố chối từ không được, phải đỡ lấy tay cương.
                          – Để đại nhân đêm khuya phải nhọc lòng, kẻ mọn này đã cam đắc tội, dám đâu nhận thâu ngựa quí nữạ..
                          Chí Sinh vỗ nhẹ vào đầu ngựa, nghiêm mặt bảo:
                          – Quí vật tìm quí nhân. Con này vốn bất kham hung dữ khó trị, phải tay hào kiệt, mới cưỡi được lên mình nó.
                          Đại Sơn Vương tiến đến trước ngựa, đưa mắt xem, biết ngay vật quí, cả mừng, liền giơ tay vuốt nhẹ lông bờm. Con vật cứ trừng trừng ngó tướng núi. Đại Sơn Vương nghiêng mình trước Chúa H mông, đoạn nhảy vọt lên lưng “Hắc Phong Câu” thúc chạy vụt đi. Lạ thay!
                          Con vật hung tợn chỉ vùng vằng một chút rồi hí mạnh, tế vào rừng thẳm như gió cuốn, thoáng cái dã mất hút.
                          Con Hắc Phong Câu này chạy thanh như gió, luồn rừng vượt núi, chạy đất bằng, đường lõm đều hay, đặc biệt khi nó phóng kiệu băm (Vốn là nước chạy xốc nhất) ngồi trên lưng cầm bát nước đầy không tràn. Ngoài ra, nó lại có tài lội nước, vượt đường thủy nhanh hết sức, ngồi trên, không bị nước bắn ướt mình. Vốn tính hùng hổ, nó nghe tiếng súng đạn, người hò, không hề giật hoảng, thật là một con ngựa trận, quí hóa cho người phiêu bạt, dọc ngang.
                          Đại Sơn Vương đánh con Hắc Phong Câu xuyên mấy cánh nrng, vượt suối băng đèo, lướt bụi, hết nước kiệu đại đến kiệu băm, quần thả một lúc mới tế ngựa về. Chàng tướng núi say sưa rạp hẳn xuống, vô vào đầu tuấn mã:
                          – Hắc Phong Câu! Từ nay mi sẽ cùng ta dọc ngang đây đó! Làm bạn với gió núi trăng rừng. Hãy giúp ta làm tròn sứ mạng!
                          Con vật nghe như hiểu tiếng người, lập tức hí vang như mừng chủ mới, bốn vó nuốt rừng hoang gấp gấp. Chúa H mông Voòng Chí Sinh đang đứng nói chuyện với cháu gái cùng Voòng Lầu, nhìn ra đã thấy bóng người ngựa chạy như gió cuốn dưới ánh trăng sương, thoáng cái, đã về tới. Trên yên, ĐạI Sơn Vương mặt rạng rỡ hẳn ra, còn say sưa với nước mã hồi. Tuấn mã còn hí thêm mấy tiếng như chưa đã cơn lồng. Đại Sơn Vương nhảy xuống. nghiêng mình bái tạ chúa H mông và xin phép lên đường ngay.
                          – Ân tri ngộ kẻ hèn xin ghi tạc. Mong đến độ lập thu, sẽ kịp tới tái kiến đại nhân.
                          Đại Sơn Vương vừa đỡ lấy chiếc “sắc” trên tay Voòng Lầu, chuyền từ lưng ngựa cũ sang, thì Chí Plan, Chí Pliên đã cùng liền lại.
                          – Hãy khoan đã! Chị em tôi có vật mọn tặng người!
                          Vừa nói Chí Plan vừa đưa ra một cặp súng, trao Đại Sơn Vương.
                          Cặp súng báng đều dát vàng óng ánh, có khắc mấy hàng chữ Hán “Trân tặng” khắc ngay trên sống bản, chỗ cuối báng, lại ghi thêm mấy chữ “Chí Plan, Chí Pliên cùng ngày khai hội biên thùy”. Chàng tướng núi chỉ còn biết cảm kích nhận vật, đoạn đưa mắt cho Voòng Lầu, và hai thầy trò nhẩy lên lưng ngựa, lên đèo để qua biên giới.
                          Tới lúc sang hẳn đất Tàu, Đại Sơn Vương mới chia tay thủ hạ, cho ngựa chạy dọc biên giới một lúc lâu, rồi lại lộn sang đất Việt.
                          Đêm sau, chàng tướng núi đã đặt vó câu trên đường dẫn về thị trấn Hà Giang, trong hình dạng một ông già miền núi. Tới thị trấn, chàng nhận thấy ngay vẻ khác thường, vì đường vào thị trấn đều có cây cản ngang, thấp thoáng bóng quan binh đi lại chặn xét hỏi giấy tờ và khám xét tất cả kẻ ra người vào. Sinh nghi, chàng liền lẳng lặng quay ngựa lại, tìm một nhà ngoài thị trấn nghỉ chân, đoạn gửi ngựa, tìm đường tắt vào phố. Lúc đó mới khoảng chín giờ đêm, nhưng hàng phố nhiều nhà đóng cửa. Chàng liền đi dọc mấy nơi quan sát, đoạn lần tới khu chợ, kiếm một tửu quán khách trú ăn uống qua loa, chờ khuya hẳn liền ung dung tiến tới dinh viên tuần phủ.
                          Vùng dinh sáng tối nham nhở. Nhìn qua hàng rào, thấy ngoài hoa viên, thấp thoáng lính canh đi lại. Trong dinh phòng tối phòng sáng, lâu lâu có bóng gia nhân từ dãy nhà dưới lên hàng hiên bên tả, có thân cây lớn, cành lá um tùm, liền tiến sát dậu định thần nhìn lên nhưng cành lá tối om không thấy suốt được Vốn lão luyện việc dạ hành, chàng tướng núi nghi có kẻ nấp trên cây nên cứ ẩn bóng tối đợi mãi. Tự nhiên từ đâu một con chim đêm bất ngờ bay vụt tới ngọn cây, vừa đậu xuống, lại bay vọt lên, đậu sang cây khác. Càng sinh nghi, chàng liền lấy trong tay áo ra một lưỡi dao nhỏ, phóng vút lên. Chỉ thấy “rào” nhẹ rồi im bặt. Biết dao cắm vào cành, chàng liền xoay hướng khác, phóng lưỡi thứ hai vào chỗ cành lá um tùm ngang ban công biệt thự. Lập tức trên cây có tiếng rào như gió thổi, tiếp theo thấy cành nặng trĩu hẳn xuống rồi một bóng người “rụng” xuống gốc cây, rồi một bóng nữa.
                          Ẩn ngoài dậu, chàng thấy rõ hai bóng người vừa rụng xuống đã lăn tròn mấy vòng vào bóng dậu gần đấy, rồi mới đứng lên. Một bóng ôm tay có vẻ đau đớn. Cả hai nhớn nhác đảo mắt nhìn quanh tìm tòi kẻ ném dao. Một cơn gió nhẹ thổi khiến cành cây phía cổng lay động ánh điện vụt hắt tới khu hồi chiếu tia giữa thân hình hai bóng lạ.
                          Đại Sơn Vương nhổm hẳn lên, ngạc nhiên vì hai dáng hình nhỏ nhắn vừa xuất hiện, cùng với vẻ mặt thoáng một vẻ đẹp yêu ma. Hai thiếu nữ tỏ ra có bàn lãnh không vừa. Tuy bất ngờ bị thương, nhưng rơi mình êm như chiếc lá, khiến cặp lính canh cổng trước, tuyệt không nghe thấy tiếng động nhỏ.
                          – Có kẻ phóng ám khí nấp đâu đây! Ra thôi!
                          Bên kia dậu, tiếng đàn bà thì thào vừa dứt, Đại Sơn Vương đã thấy hai bóng đen ngòm tung vọt qua dậu găng như hai trái cầu, ngay trên đầu chàng.
                          May lúc đó, chàng đã ẩn sát vào chân dậu, có cành găng rậm rũ che kín. Bóng hai người đàn bà vừa cất mình ra, đã lao nhanh vào bóng tối khuất xa. Đại Sơn Vương toan bám theo, nhưng lại thôi, chàng liền nhặt một hòn sỏi ném về phía cổng tiền, trước mặt cặp lính canh vừa ngoảnh về phía sỏi rơi, thì chàng tướng núi đã tung mình vào hoa viên như con cắt, truyền luồn lên ngọn cây. Chàng vừa định đu vào “ban công”, chợt nghe phía cổng ngoài, có nhiều tiếng chân ngựa khua động. Ngó ra, thấy một tốp năm, sáu người phóng ngựa thẳng tới, lách vội vã qua cánh cổng sắt hé mở vào thẳng trong, buộc cả ngựa ngay bờ dậu găng. Một bóng cao lênh khênh giơ tay làm hiệu cho may người khác đứng lại cả ngoài hoa viên, rồi bóng cao vào thẳng tòa biệt thự. Ánh đèn ngay cửa chính soi rõ mặt người đó, khiến Đại Sơn Vương nhận ngay được chính Hai Cao. Chừng hai mươi phút sau, đã thấy Hai Cao ra, vẫy đồng bọn cùng lên ngựa, rời vùng dinh phóng về nẻo trung tâm thị trấn.
                          Một gã cao lớn xách súng đang đi tới. Chỉ một cái với tay, tướng núi đã ghì chặt lấy cổ hắn, một tay điểm huyệt nách. Nhét giẻ vào miệng, Đại Sơn Vương quắc mắt khẽ hỏi:
                          – Phòng Trần Tắc đâu?
                          Hắn chỉ nhìn trừng trừng, căm tức. Ấn ngón tay vào huyệt, tướng núi hất hàm:
                          – Ta không hại ngươi đâu! Cưỡng uổng mạng!
                          Hằn ú ớ, nhăn nhó, trỏ tay về phía sau.
                          – Phòng nào? Tả hay hữu? Tả sao? Thôi! Chịu nằm ngất một lúc!
                          Vừa nói, chàng vừa lôi hắn vào xó tối chém một nhát tay vào gáy, đoạn bước vụt ra “ban công” trước. Đẩy cánh cửa khép hờ, tướng lạc thảo lách vào. Bên trong không tiếng động. Tướng núi phục xuống áp tai nghe, rồi nhoài vào như con rắn. Không một bóng người. Màn còn vắt cao, trên mắc, chỉ thấy chiếc mũ, cái ba toong quen thuộc của Trần Tắc.
                          Đứng vụt lên, tướng núi lách ra ngay, tiến đến trước căn phòng tay phải. Cửa khóa trái. Không tiếng động nhẹ. Nghĩ mấy khắc, chàng lấy trong mình ra một chùm chìa khóa, lần tra vào lỗ, nhẹ vặn quả sứ. Hé nhìn vào, thấy màn nhung buông kín, trên chiếc màn đêm kê đầu giường, ngọn đè phủ chao xanh hắt vùng ánh sáng dịu dàng lên mọi vật. Một mùi hương thoảng bay ra, quen quen. Trái tim tướng núi chợt đập rộn lên, trên chiếc ghế vải gần cửa sổ một chiếc áo lót đàn bà vắt rủ buông lơi. tướng núi đứng im như pho tượng bán phần, và chậm chạp bước vào theo đà, kéo ập cửa lại. Chẳng hiểu sao viên tướng ngang tàng khẽ thở dài nhẹ như hơi gió lùa vào phóng the, mắt đăm đăm ngó về phía giường hoa. Mấy khắc sau, chàng mới khẽ cúi đầu, trở bước ra.
                          – Giơ tay lên! Không nát óc!
                          Bất thình lình, có tiếng quát trầm phía sau lưng, tuy gay gắt nhưng rõ tiếng đàn bà. Tướng núi hơi giật mình, nhưng vẫn đứng im.
                          – Quay mặt lại! Giơ lay lên!
                          Giọng oanh vừa thốt, tướng núi không phản ứng chỉ chậm chậm, quay lại, tay vẫn buông xuôi. Sau tủ gương, một ngọn súng từ từ nhô ra, rồi một dáng hình thiếu nữ đẹp não nùng trong bộ quần áo ngủ.
                          Phượng Kiều. Tay vẫn chĩa súng. Cặp mắt phượng long lanh đang quắc sáng, chợt thoáng nét ngạc nhiên, khi thấy ông già lạ cứ đứng trân trân ngó mình. Ngó từ đầu đến chân ông già, chợt thiếu nữ giật mình khi nhận ra bao súng bên sườn lão.
                          – Đại Sơn Vương!
                          Phượng Kiều bật kêu khẽ, xúc động bất thần. Tướng núi vẫn nhìn nàng, bối rối mãi mới khẽ cất tiếng:
                          – Em !
                          Trong khoảnh khắc, khuôn mặt cô gái thoáng nhiều nét biến đổi, rồi tự nhiên giọng vụt trở nên lạnh lùng:
                          – Đại Sơn Vương! Như thế còn chưa đủ sao? Ông còn tới đây làm chi?
                          – Kìạ.. em!
                          – Giờ ông với tôị.. còn chi nữa! Ông biết báo thù chạ.. cha tôi chết, dầu saọ..
                          – Phượng em! Em nói sao? Cha em chết ?
                          – Ông hãy bắn nốt tôi đi! Thà chết bởi tay ông.
                          – Cha em mất rồi sao? Trời! Bao giờ?
                          Cô gái mở to mắt ngạc nhiên vì vẻ mặt sửng sốt của tướng Thập Vạn Đại Sơn. Mãi, nàng mới khẽ hỏi:
                          – Kìa thực... anh không biết sao? Đêm kia có kẻ bí mật đến tận đây bắt cha em đi mất tích. Đến sáng mới rõ, tới phòng chỉ còn nhặt được con dao lá liễu đẫm máụ.. khắc hai chữ “phục thù”. Em lại tưởng...
                          Nghe người yêu nói, Đại Sơn Vương nheo mắt nhìn ra ngoài cửa sổ đứng suy nghĩ giây lát, đoạn kể qua loa việc vừa xảy ra cho Phượng Kiều rõ. Cô gái vừa mừng, vừa hối hận, vội lau nước mắt khẽ nói:
                          – Anh tha tội cho em...
                          Đang đứng nghĩ ngợi, chợt viên tướng núi vội giơ ngón tay bên miệng suỵt khẽ, và kéo Phượng Kiều vào góc phòng. Ánh đèn đêm phụt tắt.
                          – Có kẻ đột nhập vùng dinh!
                          Trong bóng tối thiếu nữ nghiêng đầu lắng tai nghe. Nhưng bên ngoài, chỉ có tiếng gió đêm thổi vào cành lá.
                          – Chắc “chúng” lộn lại! Em cứ ẩn trong này!
                          Dứt lời Đại Sơn Vương lách vụt ra ngoài. Đứng trong “ban công” lầu nhìn ra, vẫn thấy cặp lính gác đi lại bên cổng tiền. Trên ngọn cây, cành lá đen ngòm hơi lay động khác thường. Chợt từ nhà dưới, có bóng người đàn ông tiến ra ngó khắp hoa viên. Nhờ ánh đèn loang lổ, Đại Sơn Vương nhận rõ hình dáng “on trai viên tuần phủ Hà Giang. Robert Lợi tiến vào bóng tối. hình như cố ý tránh cặp mắt lính canh. Từ trên cây rậm, một bóng người cao lớn rơi xuống nhẹ nhàng, ngay trước mặt Lợi. Hai bóng người ghé sát vào nhau, thì thầm gần nửa phút.
                          Đại Sơn Vương còn đang ngạc nhiên về hành động của Robert Lợi, chợt nghe trên cây cao có tiếng cú rúc. Con trai tuần phủ vội chạy ẩn luôn vào bóng tối, còn bóng đen kia cũng lướt về phía đậu.
                          im lặng một lúc lâu. Chợt ngoài dậu, cái bóng vừa gặp Lợi lùi ra vùng ánh sáng, tay thủ một lưỡi dao găm. Rồi cái bóng cao lênh khênh cũng hiện ra, tay chĩa ngọn súng, quát dằn giọng:
                          – Biết điều đứng lại ! Không tao bắn vỡ sọ? Tao chờ chúng mày đã mấy tối rồi!
                          Bóng kia vẫn lùi quanh. Bóng cao vẫn tiến theo, sát tới. Thình lình từ bóng tối, cánh tay ban nãy lại vươn ra, chém vào gáy bóng cao. Nhưng bóng này đã hụp xuống tránh thoát, vừa lúc địch thủ ném mạnh lưỡi dao chí tử. Cái bóng cao tỏ ra có bản lĩnh không vừa, lập tức lăn mình một vòng, vảy luôn ngọn súng vào địch thủ, gục luôn.
                          Ngọn súng vừa chĩa về phía tả, chợt có tiếng quát:
                          – Hai Cao! Không có mắt sao?
                          Bóng cao vội dừng tay ngạc nhiên, mở to mắt ngó con trai tuần phủ vừa từ bóng tối hiện ra, một bàn tay còn bị ngọn dao cắm ngập, rung rinh.
                          – Ra cậu! Saọ..
                          Hai Cao vừa nói tới đây, thì từ trên cây, một bóng đàn ông chụp xuống, ôm chặt lấy Hai Cao vật lộn. Hai Cao đang quần thảo, chợt có tiếng hô lớn:
                          – Anh em vào bắt sống thằng kia.
                          Rồi năm, sáu bóng người từ ngoài ập vào, đổ dồn về chỗ Hai Cao cùng bóng lạ. Biết thế nguy, bóng lạ lập tức gỡ thế, xoay mình chạy ra phía dậu. Hai Cao cùng đồng bọn lao mình đuổi theo.
                          – Cố bắt sống lên đó! Anh em!
                          Từ trên lầu, có tiếng Phượng Kiều quát lanh lảnh. Ngoài vùng dinh đêm tối mờ. Định thần nhìn kỹ, thấy loáng thoáng bóng người chạy thẳng về vùng ngoại trấn, Đại Sơn Vương liền lướt theo hình cung, chạy đón đường bóng lạ. Quả nhiên, chỉ mấy phút sau, đã thấy có bóng người cắm đầu chạy dưới ánh sao thưa, nhắm thẳng khu rừng rậm. Tới chỗ khuất, bóng lạ đứng lại, ngó về phía sau và thốt nhiên cất tiếng rúc mấy tiếng cú mèo. Biết hắn làm hiệu cho đồng bọn, Đại Sơn Vương không để chậm một khắc, liền luồn cây, tới bên, bất thình lình chụp lấy. Chàng tấn công nhanh đến nỗi bóng lạ chỉ kịp thấy một khối đen ập xuống là đã thấy tứ chi rũ liệt, huyệt độc bị điểm rồi. Nhanh nhẹn, Đại Sơn Vương liền vác luôn bóng lạ trên vai, lao mình chạy chếch sang phía tả cánh rừng. Đặt kẻ lạ dựa vào gốc cây, tướng núi giải huyệt, xong ghì chặt như kìm cặp, cúi xuống hỏi:
                          – Ngươi tới bắt Phượng Kiều?
                          Bóng lạ ngó Đại sơn Vương, cố ngạc nhiên, nhăn nhó gật đầu.
                          – Các ngươi giam Trần Tắc ở dâu?
                          – Ở... ở...
                          Hắn dừng lại, lấm lét ngó váo bóng tối sợ sệt.
                          – Cứ nói! Ngươi sợ đồng đảng sao? Giam ở đâu? Nói!
                          Im mấy khắc, hình như biết không cưỡng nổi ý muốn của kẻ vô danh quá lợi hại, bóng lạ ấp úng:
                          – Ở trên Phản Tây Phàn...
                          Đang chăm chú nghe, chợt Đại Sơn Vương vội hụp đầu xuống, vì tiếng gió lạ sau gáỵ.. Một lưỡi dao từ bóng tối bay vèo ra, xoẹt qua đầu chàng cắm đúng ngay vào trái tim bóng lạ. Nhanh như chớp, viên tướng núi liền phóng mạnh tay về phía sau. Chỉ nghe rõ có tiếng vật nặng đổ vào bờ bụi. Sau nhát dao thần tốc, Đại Sơn Vương liền tung mình về phía đó, được mươi bước dừng phắt lại. Mót bóng đàn ông vừa đổ xuống bụi cây, còn đang quằn quại, dưới đốm sao thưa, trong tay còn một lưỡi dao nhọn. Nắm ngực áo lôi lên, bóng lạ đã thở hắt ra, lịm đị.. vì mũi dao trúng huyệt. Đang tần ngần, viên tướng núi thoáng thấy trong bụi cây gần đấy một bọn đang trên yên ngựa ẩn mình, và phía sau một dáng thon nhỏ ngồi trên lưng ngựa như đang theo dõi nhóm kia.
                          Sực nhớ tới bóng đàn bà trong dinh tuần phủ ban nãy, viên tướng núi liền rút súng lia theo luôn vào chân sau bóng ngựa. Con vật bị đạn sượt vào khoeo chân, hoảng chồm lên, hất luôn bóng người trên yên xuống. Nhanh như cắt, Đại Sơn Vương lao mình tới, vừa lúc bóng người tung mình đứng lên. Dưới ánh sao thưa nhạt, chàng nhận ngay được khuôn mặt đẹp của em gái thủ lĩnh thác Cầu Mây.
                          – Kìa ! Cô Nguyệt Tú !
                          Thiếu nữ vừa khoa tay định đánh xuống địch thủ, chợt nghe giọng quát quen quen, dừng phắt lại, ngơ ngác ngó ông già lạ, tay vẫn thủ thế. Đại Sơn Vương liền giật bộ râu rậm khỏi cằm, giọng vẫn chưa hết ngạc nhiên:
                          – Cô nương tới đây làm gì? May tôi cốt bắt sống nên chỉ nhắm chân ngựa thôi!
                          Nguyệt Tú nhận ra Đại Sơn Vương, vội nắm lấy cương ngựa, đưa mắt nhìn theo bóng cặp ngựa trước chạy mất hút vào đêm mờ.
                          – Tiếc quá ! Mất bao công phu theo dõi tung tích. Ông tới đây bao giờ? Tưởng ông cùng Voòng Lầu về Thập Vạn Đại Sơn? Chào ông nhé!
                          Miệng nói, chân thúc ngựa vọt đi để mặc Đại Sơn Vương đứng ngạc nhiên trông theo, quên cả tiếng chân người ập đến. Mãi tới lúc thấy phía tả lố nhố bóng người, biết là Phượng Kiều dẫn bọn Hai Cao đuổi theo quân gian, chàng vội luồn rừng, lộn về nhà trọ.
                          Thị trấn biên giới đã bắt đầu hoạt động nhộn nhịp, kẻ qua người lại khá đông, viên tướng núi đi lần vào đám đông, cho ngựa quanh mấy phố, đoạn tìm tới quan khách trú đêm qua, dùng điểm tâm. Theo thói quen của những tay giang hồ tứ chiếng, chàng thường chọn những quán có lầu, ban công, ngồi trông rõ cả mặt tiền, mặt hậu.
                          Khách đến ăn sáng rất đông. Chàng chọn bàn bên cửa sổ tiền.
                          Vừa nâng chén trà thơm lên, chàng tướng núi đã đặt xuống, vì dưới đường có một người đàn ông cười ngựa tới, đưa mắt nhìn quanh, đoạn lộn lại. Nửa phút sau, đã thấy hai người đàn bà mặc xiêm y Thái sang trọng đi ngựa tới, theo sau là gã đàn ông vừa giờ, có vẻ hầu cận. Hai thiếu nữ cũng đưa mắt nhìn những con ngựa buộc trước quán, như quan sát thứ chi, rồi mới ném cương cho người đàn ông, vào quán. Mươi phút sau, đã thấy hai người theo tửu bảo lên thang lầu, ngồi vào bàn đối diện Đại Sơn Vương ngay cửa sổ bên.
                          Tới lúc tửu bảo đem trà nước lên, một nàng nâng ly uống, viên tướng mới mới giật mình vì thấy bàn tay có buộc băng thương che bằng chiếc khăn thêu cầm tay.
                          – Cô gái đêm qua!
                          Hai thiếu nữ ấy có vẻ đẹp sắc sảo, mắt liếc như dao cau, nhìn qua cũng biết là người có bản lĩnh khác thường. Chợt người đàn ông theo hầu từ dưới lên, cúi đầu nói nhỏ điều gì, chỉ thấy hai hai cô gái cùng nhìn cả xuống đường. Đại Sơn Vương cũng kín đáo ngó theo, chân mày thoáng hơi cau lại, vì dưới đường, Phượng Kiều đang đi ngựa tới, theo sau có Hai Cao. Bên kia bàn, hai cô gái cùng đưa mắt cho tên hầu cận. Gã đàn ông vội rút luôn xuống phòng dưới, đã thấy Phượng Kiều, Hai Cao bước lên. Phượng Kiều đứng lại mấy khắc ngoài khung cửa, đưa mắt nhìn khắp phòng ăn, đoạn nhanh nhẹn tìm bàn trống, ngồi lơ đãng, dáng buồn buồn như mải nghĩ chuyện đâu đâu. Còn Hai Cao vẫn đứng thủ lễ, nữ chủ mời mãi, sau mới kéo ghế ngồi ghé Vào.
                          Ăn uống qua loa mấy cái bánh, Phượng Kiều cùng Hai Cao lại xuống lầu, đi ngay. Đằng bàn kia, hai cô gái lạ cũng lập tức xuống theo. Chờ cho mấy người ra hẳn đường, Đại Sơn Vương mới lững thững ra sau.
                          Nhìn theo, thấy Phượng Kiều, Hai Cao vẫn lững thững đi trước còn hai cô gái lạ và gã đàn ông cưỡi ngựa theo sau cách chừng vài chục bước. Thấy cô gái lạ trở về nẻo trước, rồi lại đảo mắt nhìn quanh, Đại Sơn Vương thấy khác lạ, biết ngay bọn này định theo bắt Phượng Kiều, chàng liền xé ngay mảnh giấy nhỏ viết vội mấy chữ, đoạn nhân thấy có đám thổ dân từ ngoài đi vào, chàng liền cho ngựa chạy kiệu băm vượt qua bọn gái lạ, tiến thẳng tới bên Phượng Kiều, kín đáo phóng luôn mộl lưỡi dao nhỏ vào mép yên trước. Viên tướng núi ném nhanh gọn đến nỗi Hai Cao đi bên Phượng Kiều cũng chỉ thoáng thấy một vệt loáng bay như tia nắng sớm, qua chỗ nữ chủ, còn bọn gái lạ đi dưới tuyệt không hay.
                          Bọn lạ đã thúc ngựa tiến lên theo hình cánh quạt. hai người đàn ông bỏ đường, vòng chặn lối. Còn cặp gái lạ phi lên, cùng lúc rút súng ra chĩa vào Phượng Kiều, Hai Cao:
                          – Đứng im! Ta theo đã lâu rồi!
                          Phượng Kiều, Hai Cao vẫn tế ngựa thẳng về hướng trang trại.
                          Cặp gái lạ vừa vọt theo được mấy chục thước, chợt Phượng Kiều quay phắt đầu ngựa, cất tiếng cười khanh khách. Hai cô gái lạ giật mình nhìn quanh chột dạ, định dừng ngựa, nhưng không kịp nữa. Từ khắp bụi cây lùm cỏ, những ngọn súng đã từ từ nhô lên, chia quanh mình bọn lạ, rồi từng bụi lá xanh di động, xiết mau.
                          – Biết điều đứng im tất cả! Quân đâu! Trói chúng lại cho ta!
                          Biết đã sa cơ, bọn con gái buộc băng tay đành thúc thủ, buông thõng tay cương. Nhưng một gã đàn ông đi ngoài cùng đã vùng thúc ngựa xé vây chạy mất.
                          – Bắt lấy tên kia.
                          Hai Cao vừa kịp quát lên, thì hắn đã đánh ngựa ngoắt sau bụi rậm nhanh như biến, tránh luôn được hàng loạt đạn bắn vãi theo.
                          Nấp gần đấy, Đại Sơn Vương không bỏ lỡ cơ hội, liền băng mình về chỗ buộc ngựa, vừa nhảy phóc lên chỉ thấy hút hắn khá xa. Rạp trên bờm, viên tướng núi vỗ Hắc Phong Câu đuổi theo, chỉ chớp mắt, con ngựa báu đã tới sát ngựa trước. Gã đàn ông thấy có kẻ đuổi gấp tới gần, liền quài tay lại định nã súng, nhưng đã bị bắn tung vũ khí, còn đang kinh sợ, Hắc Phong Câu đã tới kề bên. Tướng Thập Vại Đại Sơn Vương nhảy bay sang ôm ghì lấy kẻ lạ, lộn xuống đất. Người đàn ông lạ chưa kịp phản ứng đã bị tướng núi thọc ngay vào huyệt, bủn rủn cả chân tay.
                          Đại Sơn Vương vừa buông hắn ra, đã nghe tiếng vó ngựa rầm rập phía sau, biết quân Trần Tắc đã tới, liền chém luôn vào đầu cho hắn xỉu đi, đoạn vác xác nhảy lên Hắc Phong Câu bắt theo cả ngựa lạ đánh chạy vào rừng. Lát sau, chàng dừng bên suối giải huyệt cho kẻ lạ, đoạn ấn đầu xuống nước cho tỉnh hẳn. Kéo lên đặt hắn ngồi dựa lưng vào gốc cây cổ thụ, Đại Sơn Vương đứng tựa thân cây trước mặt lạnh lùng chờ đợi. Mười khắc sau, tự nhiên hắn mở choàng mắt ra ngơ ngác ngó quanh. Như sực nhớ tới việc vừa qua hắn vùng lên chạy. Nhưng Đại Sơn Vương đã nhảy tới nắm vai hắn ấn xuống giọng khô khan:
                          – Hãy bình tĩnh ngồi yên, ta có điều muốn hỏi. Kẻ lạ đưa mắt gườm gườm nhìn Hồng Lĩnh mấy khắc, đoạn lắc đầu, cười gằn:
                          – Vô ích! Đã bắt được ta, cứ giết đi! Đừng hòng ta khai!
                          Giọng nói cương quyết của kẻ lạ khiến lại Sơn Vương biết ngay hắn là tay lợi hại không vừa, chàng toan giơ tay thọc huyệt cho hắn mất ý chí luôn, nhưng chợt thôi ngay, chăm chú nhìn từ mặt cho tới chân hắn, óc tướng lạc thảo loé lên một mưu định vô cùng táo bạo.
                          Rút trong mình ra một sợi dây thừng nhỏ, chàng trói chặt kẻ lạ, đoạn ghé vai xốc phăng hắn lên, vỗ luôn cặp cương ngựa, và tiến thẳng đến chân núi đá gần đấy. Đảo mắt quan sát một lượt, chàng hướng vào chân núi, hú lên mấy tiếng khô cằn. Tiếng hú đập vào chân núi, vang truyền, lập tức phía tả có tiếng hú dội lại. Biết chắc chỗ đó có hang khuất, Đại Sơn Vương lập tức dắt ngựa vác kẻ lạ, xăm xăm vạch cành lá tiến thẳng tới. Quả nhiên ngang chân núi, có miệng hang đen ngòm nbư cái nong ẩn sau bụi rậm trong mờ tối.
                          Bước vào thấy lòng hang khá rộng, viên tướng núi cả mừng liền ném kẻ lạ xuống, mắt nhìn thấy ánh sáng trắng lờ màu nước biển, chàng bèn lần “sắc” lấy ra một cặp hồng lạp, thắp soi khắp lòng hang, vào sâu thêm mấy chục bước thấy đã tới lòng hang, chàng mới trở ra, đặt kẻ lạ ngồi dựa vách đá, và cắm hai ngọn nến trước mặt hắn.
                          Kẻ lạ vẫn đưa mắt tò mò nhìn Đại Sơn Vương. Tướng núi từ từ quỳ một chân xuống nền hang, đối diện hắn. Soạt một cái, một lưỡi dao lá liễu sắc như nước đã nằm gọn trong tay. Kẻ lạ thoáng rùng mình. Dưới vùng ánh sáng đỏ khè chập chờn, khuôn mặt tướng núi vụt trở nên dữ tợn lạ lùng, cặp mắt chòng chọc nhìn kẻ lạ, nhu muốn soi mói tận chiều sâu tư tưởng hắn. Kẻ lạ mím chặt miệng, thu hết sức lực nhìn lại, như sẵn sàng nhận mọi nỗi gớm ghê. Nhưng chỉ được mươi giây, hắn đã chớp vội hàng mi, bàng hoàng, vì cặp mắt Đại Sơn Vương đã thành hai tia lửa nóng bỏng dị kỳ như đang đốt cháy hết sinh lực trong mình hắn. Tự nhiên, thân thể hắn rung lên bần bật, cố gắng chống đỡ vẫn cảm rõ mình đang rơi vào một thế giới dị kỳ, hắn vừa há miệng định thét lên, thì Đại Sơn Vương đã từ từ đưa mũi dao khoa trước mặt hắn rồi bịt tai hắn, một giọng nói trầm trầm chợt nổi lên đều đều mơ hồ như tiếng nói từ một thế giới xa xôi vừa theo ngọn gió hanh lùa về:
                          – Ý chí, ngươi hãy lắng xuống chiều sâu cho linh hồn lâng lâng sống với những hình ảnh trong tiềm thức. Hãy kể ta nghe tất cả những gì chứa dựng trong trí nhớ ngươi, cuộc đời kỷ niệm, thói quen, bệnh tật... kể ta nghe những việc đang làm...
                          Tiếng nói nhỏ dần, nhỏ dần như ngấm vào lòng đá, mơ hồ. Đại Sơn Vương vẫn khoa nhẹ tay dao, thình lình cắm phập ngay xuống đất, hai bàn tay bắt chặt vào nhau, cặp mắt lóe lên như bốc cháy.
                          – Bắt đầu kể từ ngàỵ..
                          ... Cho tới khi rừng sâu biên giới về chiều phía chân núi đá khẽ vang lên những tiếng vó câu dồn dập, một bóng đàn ông cưỡi trên lưng con Hắc Phong Câu vọt đi dưới ánh nắng hoe vàng.
                          Kẻ Lạ.
                          Tế ngựa lên một ngọn đồi, kẻ lạ dừng cương, nhìn về phía xa, nhếch nụ cười bí ẩn.
                          – Đại Sơn Vương! Ngươi hãy nằm yên trong hang tối để Vô đầu lĩnh này đi giải cứu Nhị Nương.
                          Hắn đứng mãi trên đồi, chờ cho ánh nắng tắt hẳn, bóng tối bôi nhọ đường mòn, mới đánh ngựa về khu trại Phượng Kiều. Võ Long đảo một vòng trại rộng, đoạn lộn lại phía cổng tiền, leo lên ngọn cây rậm đu mình chuyển cành rũ, ngồi đợi. Phía dãy nhà chính giữa nhà ngang, vẫn le lói ánh đèn. Một lúc lâu mới thoáng thấy bóng người cầm súng qua lại. Áp vào má nhìn ngược lên, thấy một bóng người lực lưỡng xách súng từ đầu mái nhà kia đi tới, hình như cũng định xuống sân thượng.
                          – Chà! Cô nàng tinh quái lắm! Cho quân canh cả trên cao! Suýt nữạ..
                          Võ Long vừa nghĩ vừa lựa địa thế, lập tức tuột xuống sân trước như con thạch sùng. Gã quân canh vừa đu xuống đã bị hai gọng kìm thép ghì chặt, không tiếng động, rồi ném tên đó vào góc sân. Võ Long nhanh nhẹn chuyền hết thành tường này tới thành tường kia, tiến đến chỗ có ánh đèn le lói. Nhìn qua khung cửa sổ trông thấy Phượng Kiều thỉnh thoảng lại cau màu liễu như có gì buồn bực. Chợt nàng ngẩng đầu ngó ra phía cửa hông. Một người đàn ông cao lớn bước vào, cúi đầu chào kính cẩn, đoạn tiến đến gần nữ chủ.
                          – Hai Cao! Có gì lạ không?
                          – Thưa không. Hình như chúng đã ngủ, vì tôi vừa đi tuần qua nhìn vào thấy nằm yên lắm.
                          Người thuộc hạ đăm đăm ngó nữ chủ, đoạn thấp giọng thêm:
                          – Chúng gan lắm! Cô Ba ! Nhất định không hé răng, dọa nạt mấy cũng vậy. Chỉ có cực hình mới xong!
                          Phượng Kiều nhíu mày ngẫm nghĩ mấy khắc, đoạn bảo thuộc hạ:
                          – Thôi được! Để sớm mai tôi sẽ liệu tra hỏi cho ra chỗ chúng giam cụ. Tôi đã có cách. Giờ cứ cho canh giữ cẩn thận! Với bọn này, dùng đến tra khảo cũng không hơn gì, vả lại tôị..
                          Nàng ngừng lại, chép miệng.
                          – Tôi thấỵ.. tàn nhẫn thế nào ấy! Dầu sao họ cũng là... đàn bà...
                          Hai Cao lẳng lặng chào, lui ra rồi cùng một người nữa, chiếu đèn bấm loang loáng, tiến thẳng xuống dãy nhà ngang. Biết được chỗ giam hai thiếu nữ, Võ Long lập lức lần ngay tới. Hai Cao vào căn nhà ngói, một lúc quay lên phía nhà trên. Võ Long liền men bóng đêm lần tới, tìm cách đột nhập, chàng chợt giật mình áp lưng vào góc tường tối. Một bóng thanh thanh thình lình vọt qua trước mặt, dừng lại cách Võ chỉ chừng vài bước, nhìn quanh như tìm kiếm gì, mặt hướng về phía dãy chính giữa, nghĩ ngợi, đoạn băng mình về phía, lướt qua chỗ Võ Long ẩn. Ánh sao thưa nhạt cũng đủ soi mời khuôn mặt lạ.
                          – Nguyệt Tú? Quái! Em gái thủ lĩnh Cầu Mây cũng tới đây làm gì?
                          Võ trông theo, hết sức ngạc nhiên vì sự xuất hiện đột ngột của Nguyệt Tú, đầu óc Võ đảo lộn nhiều ý nghĩ phức tạp. Khẽ tặc lưỡi một cái. Võ men sát tới cạnh tên quân, nhặt viên sỏi ném nhẹ vào bụi cây gần đấy. Trong nháy mắt, tên quân đã bị điểm huyệt, đặt dựa lưng ngồi ngay bên cửa, để Võ Long điềm nhiên lách vào. Phòng mờ tối. Từ trong cũng có ánh đèn hắt ra, định thần mới rõ phía cuối đó là một căn buồng hẹp, có song sắt như một thứ buồng kho, ngoài có hai tên quân canh ngồi lẫn vào bóng tối. Cạnh chiếc bàn có để mấy thứ lặt vặt. Võ Long rón rén bước vào. Ánh đèn dầu vàng vọt hắt vào phòng trong, soi mờ mờ hai hình thù đàn bà nằm trên phản, bất động. Từ chỗ Võ Long nấp tới cặp quân canh, còn cách đến hai thước, không thể tiến sát hơn nữa. Võ móc túi lấy đồng xu ném về phía sau lưng tên còn thức. Hắn vừa giật mình quay nhìn lại thì Võ đã lao ra, ghì chặt lấy, còn mọt tay thì phạt luôn vào gáy. Tên lính ngủ gật choàng tỉnh, chưa kịp cử động đã bị chụp liền. Chùm chìa khoá bất ngờ rơi mạnh xuống nền gạch, khiến phía trong, hai người đàn bà cùng lúc ngồi phắt dậy nhìn cả ra. Đúng lúc Võ Long buông hai tên quân canh vừa bị ngất xỉu cúi nhìn chùm chìa khóa, đứng phắt lên trước ánh đèn.
                          – Võ đầu lĩnh!
                          Người đàn ông lẳng lặng tiến đến bên cửa, nhanh nhẹn tra chìa vào ổ khoá, mở cửa bước vào, mở tung xích chân cho cặp thiếu nữ, nhanh giọng:
                          – Nhị cô nương! Thoát mau thôi! Còn thằng Tư đâu?
                          – Cắn lưỡi chết rồi!
                          Như cặp hùm cái sổ cũi, hai người đàn bà tung mình ra khỏi bục gỗ, theo Võ lao ra khỏi phòng giam.
                          – Cẩn thận, có người vào!
                          Vừa nói, Võ vừa giúi vào tay mỗi nàng một khẩu súng lục, kéo ẩn cả vào bóng tối bên cửa ngoài. Cánh cửa khép hờ kêu kèn kẹt. Một bóng người theo hơi gió vụt vào, dừng ngay trước mặt bọn Võ Long.
                          Bóng lạ đứng nhìn sững vào trong, mắt long lanh dưới ánh đèn dầu.
                          – Nguyệt Tú.
                          Thiếu nữ bước vào thềm, ngó quanh cảnh trống rỗng, bực bội, thất vọng, quay ra ngay. Nấp bên cửa, thình lình cô gái vung tay định đánh mạnh báng súng xuống đầu Nguyệt Tú. Võ Long nhanh mắt nắm vội lấy cánh tay nàng. Chờ cho Nguyệt Tú ra hẳn, Võ mới buông tay, điềm nhiên:
                          – Không nên khua động! Trại này có nhiều tay súng! Phải thoát mau!
                          Cả ba lách ra ngoài, vọt vào hoa viên tối. Võ Long dẫn hai cô gái thẳng ra dậu, nhưng một nàng đã nắm lại:
                          – Võ đầu lĩnh! Cơ hội thuận lợi, ta phải bắt Phượng Kiều. Đầu lĩnh nghĩ sao?
                          Người đàn ông nhìn quanh như suy tính lợi hại, đoạn khẻ gật gù:
                          – Trại im lặng, giờ này có lẽ cô nàng đã đi nằm. Cơ hội thuận lắm! Chỉ ngại có kẻ... nào phá đám. Nhưng ai bắt được? Nhị cô hay Tam cô?
                          Hai cô gái đưa mắt nhìn nhau, đoạn Nhị cô – cô gái bị thương tay đêm trước – cười bảo Võ Long:
                          – Con bé xinh đẹp lợi hại đó xin để phần đầu lĩnh! May ra bắt trị được nó!
                          Người đàn ông cười lạnh lùng, đoạn lẳng lặng bước vụt đi, thoáng cái đã mất dạng về căn nhà chính giữa. Không đầy mười phút sau đã thấy bóng đàn ông xuất hiện trong phòng Phượng Kiều. Màn the đã buông kín. Trong phòng, cô gái họ Trần vừa vừa chợp mắt. Võ Long tiến đến bên giường nhẹ nhàng giơ tay vén màn nhìn vào. Khuôn mặt hoa lồ lộ dưới vùng ánh sáng dịu xanh, dáng hình thanh tú của mỹ nhân nổi bật trên nền đệm trắng... Chàng chép miệng – Tội nghiệp! Lại một phen gian hiểm. Nhưng không theo chân hùm sao vào được hang dữ Tây Phàn!
                          Nhị cô, Tam cô ở sau lùm cây rậm chạy ra:
                          – Phượng Kiều đó sao? Chà không ngờ Võ đầu lĩnh tài đến thế!
                          Nháy mắt đã bắt được cô gái tinh quái này! Thật không ngờ?
                          – Phải, thật không ngờ!
                          Nhị cô vừa buông lời khen, thình lình có tiếng người nhắc lại trong bóng tối tiếp theo một chuỗi cười khanh khách. Cả ba giật mình, còn đang ngơ ngác nhìn quanh, đã thấy một thiếu nữ từ trên cao nhảy vụt xuống, nghiêm giọng:
                          – Để bọc đó lại cho ta! Giơ cả tay lên!
                          Ngọn súng chĩa thẳng vào ba người trong đêm mờ, hiện ra khuôn mặt cô gái thác Cầu Mây. Thấy địch thủ chỉ có một mình, Nhị Cô cười nhạt:
                          – Việc riêng của chúng ta, can dự chi tới Cầu Mây! Biết điều hãy lui ra!
                          Lời vừa dứt, đã nghe tiếng động sau lưng, cả ba ngoảnh lại đã thấy một bóng đàn ông sừng sững khoanh tay, trong vùng mờ tối.
                          – Để bọc đó lại! Và giơ cả tay lên! Kháng cự uổng mạng.
                          Võ Long nghe giọng nói, bật kêu khẽ:
                          – Khách Giang Hồ!
                          Người đàn ông lạnh lùng:
                          – Phải chính ta! Mấy phen lùng kiếm. Giờ mới gặp bọn ngươi đây!
                          Bọn Võ Long bị chặn hai phía chưa biết tính sao, chợt nghe vút một cái, từ trên cao một ngọn roi đánh xuống, quấn ngay lấy ngọn súng trên tay Nguyệt Tú giật bắn đi. Nhanh như cắt, cùng lúc Nhị cô, Tam cô lao phăng vào thiếu nữ Cầu Mây, đồng thời Võ Long cũng ôm bọc lộn nhào xuống mặt cỏ, lăn tới chỗ Khách Giang Hồ. Bị phản ứng bất ngờ, viên thủ lĩnh Cầu Mây không dám lảy cò, vì họ Võ khôn ngoan đã ẩn kín sau cái “bọc quí”.
                          Thủ lĩnh Cầu Mây vừa cất mình nhảy vọt lên thì Võ Long cũng đã đứng phắt dậy, phục luôn sau một thân cây. Không ngờ định thủ lại thiện nghệ đến thế, Khách Giang Hồ cả giận giắt luôn súng vào mình, định xông tới, đã nghe liền mấy phát súng nổ vang rền, cùng tiếng quát lanh lảnh. Cả hai bên còn đang ngơ ngác, chợt lại nghe tiếng quát tiếp ngay gần đấy:
                          – Khách Giang Hồ! Nguyệt Tú! Coi ta bắn bay khăn bịt đầu này!
                          Lời vừa dứt, làn đạn cứ nhè anh em thủ lĩnh Cầu Mây xối tới, khiến cả hai phải lăn mình ẩn vội. Biết kẻ bí mật ám trợ mình, Võ Long lập tức ôm bọc cùng hai cô gái băng mình ra dậu. Khách Giang Hồ, Nguyệt Tú bị ngọn súng vô hình bắn kìm chân, không sao bám sát được bọn Võ Long. Lại thêm bọn Hai Cao đã vùng thức, vác súng xông ra, bấm đèn lia lịa, nên hai người đành bực tức tung mình ra khỏi vùng trại. Nguyệt Tú bực tức định phóng mình theo, Khách Giang Hồ đã ngăn lại. Thủ lĩnh thác Cầu Mây đứng sững nhìn theo hút bọn Võ Long, có dáng suy nghĩ đoạn quay bảo em gái:
                          – Từ mười mấy năm nay ngang dọc, ta mới gặp tài nghệ ghê gớm nhất là Đại Sơn Vương. Lạ thật! Sao bọn này lại có người kỳ tài đến thế! Hắn ôm cả bọc người lăn vào chân ta nhanh như gió cuốn làm ta không kịp trở tay! Chẳng lẽ trên đời lại có nhiều kẻ tài nghệ như Đại Sơn Vương?
                          Nguyệt Tú như chợt nhớ ra điều gì, vùng bảo anh:
                          – Nhưng Đại Sơn Vương đã cùng đoàn lữ hành về sào huyệt rồi mà!
                          – Lại còn cô gái bí mật nào theo ám trợ bọn này. Ta xem bản lĩnh không thường! Thôi được! Ta đã có kế đối phó!
                          Khách Giáng Hồ ghé tai em gái căn dặn giây lát, đoạn đến chỗ buộc ngựa, nhảy lên, xuyên rừng về thẳng nẻo Hà Giang. Không ngờ bọn Võ Long vượt qua dậu, chưa đi ngay, chạy được vài chục thước, ngoảnh lại thấy nhiều tia đèn đổ dồn cả ra ngoài. Võ Long liền cùng hai cô gái vòng lộn lại khu hậu trại, vào tàu lấy thêm ngựa rồi mới ung dung mở cổng hậu rút thẳng vào cánh rừng sau trại. Đi độ lúc lâu, tới căn nhà chênh vênh lưng đồi, bọn Võ Long, Nhị cô mới dừng ngựa. Một gã thổ dân khoẻ mạnh cầm đuốc ra đón, đưa mấy người vào trong. Ném cương cho hắn, Võ Long vác luôn “bọc người” lên thang cùng Nhị cô. Mấy gã đàn ông vừa thức giấc, chạy sồ ra, kính cẩn chào đầu lĩnh. Võ Long đặt phịch bọc trên sàn, hất hàm bảo trống không.
                          – Nhóm lửa to lên! Và sửa soạn thêm chỗ nằm cho một nữ tù!
                          Vừa nói, Võ vừa cởi bọc chăn thoăn thoắt. Trong nháy mắt, nữ tù đã hiện ra dưới ánh lửa bập bùng, đẹp như cánh phù dung sau giông bão. Tay vừa được cởi, nữ tù đã giật phắt chiếc mùi xoa trong miệng ra quắc mắt nhìn kẻ địch. Thấy toài tụi đầu trâu mặt ngựa dữ tợn, cô gái chột dạ, biết ngay thân liễu bồ đã sa tay cường đạo, bất giác cắn chặt hàm răng lại, quay nhìn về phía bếp lửa không nói nửa lời.
                          Ngay lúc đó Nhị cô, Tam cô cũng vừa lên tới, tiến thẳng tới trước Phượng Kiều.
                          – Cô em mạnh giỏi chứ!
                          Cả hai sỗ sàng ngó thẳng vào mặt Phượng Kiều, cất tiếng cười the thé, hiến cô gái họ Trần bất giác rùng mình cho cảnh sa cơ nguy hiểm. Võ Long phất tay bảo thủ hạ:
                          – Giam cô bé này cạnh buồng ta! Cấm đứa nào được vào phòng!
                          Cơm nước đưa chuyền vào! Và phải thay phiên canh gác cẩn mật!
                          Mất tù các chú sẽ mất đầu nghe!
                          Chờ cho thủ hạ dẫn Phượng Kiều đi, Võ Long quay hỏi Nhị, Tam cô:
                          – Sớm mai ta có thể lên đường?
                          Nhị cô vùng nhanh giọng:
                          – Đầu lĩnh giải nó đi trước vậy! Xong việc, chị em tôi sẽ ngược theo luôn!
                          – Thế cũng được!
                          Tỉnh giấc vì tiếng vượn hú, họ Võ liền thắng ngựa lên đường, lúc Nhị, Tam cô còn ngủ kỹ. Hai con ngựa bước đều trong ánh bình minh.
                          Lòng Phượng Kiều ngổn ngang trăm mối, càng vào rừng sâu càng vắng. Mặt trời đã lên cao. Thình lình Võ Long quất cho ngựa Phượng Kiều bỏ đường mòn, chạy vào một cánh rừng rậm bên đồi. Ngựa đang xuyên rừng, tới một bờ suối, chợt Võ Long vượt ngựa lên, nắm lấy cương ngựa Phượng Kiều.
                          – Nghỉ một lát chỗ này! – Cả hai xuống ngựa – Em... chưa nhận được ra anh ư? – Vừa nói, Võ Long vừa khẽ nắm lấy tay Phượng Kiều.
                          Phượng Kiều giật phắt tay ra, đỏ mặt, vừa toan trừng mắt mắng, đã thấy Võ Long cất tiếng cười vang.
                          – Trời? Đến em cũng chưa nhận được. Thế này thì bọn chúng phải chết với anh.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #14
                            Hồi 12 - Sứ mạng bí ẩn của Đại Sơn Vương (tiếp theo)

                            Câu thứ hai, Võ Long nói khác hẳn giọng, khiến Phượng Kiều vùng kêu lên sửng sốt:
                            – Trời! Thế rạ.. anh đó sao?
                            Người đàn ông cả cười, bước tới bờ suối, rửa sạch nét hóa trang.
                            Phượng Kiều cũng bước theo. Khi những nét giả tạo đã biến sạch, để lộ ra khuôn mặt tươi tắn cương nghị của chàng tướng trẻ Thập Vạn Đại Sơn, Phượng Kiều cất tiếng cười khanh khách, ôm chầm lấy người yêu, mừng rỡ không nói nên lời. Đại Sơn Vương kể lại mấy việc vừa qua, đoạn bảo nàng:
                            – Giờ ta đã biết được sào huyệt chúng, phải gấp lên đường.
                            Phượng Kiều nhìn nước trôi, suy nghĩ:
                            – Thường xưa nay, mọi việc, em cùng thầy em điều khiển. Nhưng từ buổi ông kêu em trở về, có nhiều điều ông muốn giấu hẳn. Em cảm thấy có sự bí ẩn, nguy hiểm, đang cố tìm hiểu. Thì thình lình ông bị mất tích. Trước đó mấy giờ vừa đi về, ông cho gọi em đến phòng riêng, căn dặn phải thận trọng đề phòng nguy biến, rồi truyền Hai Cao canh gác cẩn mật, xong đi nằm, sáng ra đã bị rồi. Theo lời Hai Cao, hôm đó cùng thầy em đi có việc, có gặp một ông già lạ giữa đường cách Hà Giang độ vài chục cây số, hai người nói chuyện có vẻ gay gắt lắm.
                            – Một ông già lạ?
                            – Vâng... vì Hai Cao ở với ba em đã mười mấy năm.
                            Đại Sơn Vương đăm đăm nhìn vào cặp mắt Phượng Kiều. Mấy phút sau bảo nàng:
                            – Tính mạng thầy em chưa nguy mấy, ít ra cũng tới ngày chúng bắt được em!
                            – Anh cho vì thù chăng?
                            Đại Sơn Vương hơi nhếch cười khó hiểu:
                            – Còn nguy hiểm hơn cả thù riêng. Rồi em sẽ rõ! Thôi! Giờ ta tiếp tục lên đường!
                            Phượng Kiều vẫn còn băn khoăn nhiều, bỗng không dám hỏi thêm, ngoan ngoãn cùng người yêu trở lại chỗ buộc ngựa.
                            Đại Sơn Vương trút hẳn lốt Võ Long trên mình, đoạn cùng Phượng Kiều lên yên, thẳng đường Tây Bắc chếch, xuyên sơn. Thấy ngựa cứ ngược lên phương Bắc mãi, Phượng Kiều ngạc nhiên hỏi Đại Sơn Vương:
                            – Đường đi khúc khuỷu cheo leo thế này, phải mấy ngày mới tới anh?
                            Viên tướng núi vẫn nhìn về phía trước:
                            – Đây lên trên núi Phản Tây Phản ít nhất cũng mất vài hôm, đường xuyên sơn hiểm trở, nhưng có nhiều đoạn ta có thể bắt vào đường mòn, nhanh hơn.
                            Phượng Kiều thấy nói lên Tây Phản, càng ngạc nhiên, tiến ngựa lại sát, khẽ bảo:
                            – Nếu thế sao không xuôi về hướng Tuyên Quang Yên Bái rồi đáp tàu lên Lào Cai có nhanh hơn không?
                            Đại Sơn Vương điềm nhiên gật đầu:
                            – Đi ngả đó tiện lắm. Nhưng lần này chúng ta phải dùng đường xuyên sơn của bọn giang hồ tứ chiếng mới được. Chỉ hơi tiếc là ngựa em không phải ngựa nòi, vượt đèo chắc kém, để dọc đường anh sẽ kiếm thay ngựa khác!
                            Đi bên Đại Sơn Vương, Phượng Kiều không còn tưởng gì tới đường xa dặm thẳm, tâm hồn phơi phới tưởng như đang đi giữa ngọn gió xuân. Nàng cố xua đuổi những ám ảnh nặng nề để sống trọn những ngày giờ đằm thắm cạnh người yêu, và cũng như ngày nàng vào thác Cầu Mây Lục Yên Châu, nàng chỉ muốn cuộc hành trình kéo dài vô tận, tuy trong lòng, không khắc nào không lo lắng cho vận mạng cha già trong tay quân hiểm. Nàng luôn luôn cười nói, những lúc nghỉ ngơi, thường chạy tắm suối, hái những đóa hoa ngàn tươi mát. Nhiều lúc gặp cảnh đẹp thiên nhiên lại cất tiếng hát véo von.
                            Chàng tướng núi thấy người yêu hớn hở như một cô gái vô tư lự, cũng cố xua đuổi những ý nghĩ u uất, cười nói cùng nàng cho khuây khỏa.
                            Ngày ngồi trên lưng ngựa, đêm dựng lều vải lưng đèo, hai người tuy gần gũi không rời nửa bước, âu yếm thiết tha nhưng vẫn giữ được tình yêu thanh khiết.
                            Một buổi, đang đi dọc biên giới, vừa bắt vào một con đường mòn, chợt Đại Sơn Vương dừng phắt tay cương, chăm chú nhìn xuống đường mòn. Rất nhiều vết chân ngựa in rõ trên mặt đất:
                            – Có đám quân nào vừa qua đây không đầy nửa tiếng, cỏ dại bị giẫm nát còn thơm mùi!
                            Phượng Kiều cũng xuống yên, chăm chú nhin những dấu chân ngựa, lẩm bẩm:
                            – Không biết quan binh haỵ.. lạc thảo? Dấu mờ quá không phân biệt được.
                            Đại Sơn Vương không nói gì, lẳng lặng cho ngựa tiến ngược đường mòn, dõi theo dấu ngựa, chợt quay bảo Phượng Kiều:
                            – Không phải chỉ một đám quân! Dấu ngựa, chắc phải mấy thứ ngựa khác nhau!
                            Hai người tiến lên, tới đỉnh núi dừng lại.
                            – Kìa có bóng người ngựa!
                            Đại Sơn Vương lấy tay che ngang mày, ngó theo ngón tay nàng trỏ, quả nhiên thấy một bóng kỵ sĩ di động trên nền cỏ biếc, từ phía Nam chạy lên phía Đông Bắc.
                            Chăm chú ngó, bất giác chàng tướng lạc thảo bật khen:
                            – Chà! Con ngựa chạy hay quá! Lên xuống nhẹ như tên, chắc phải nòi thiên lý mã!
                            Phượng Kiều ngó kỹ, vừa toan mở miệng khen, chợt Đại Sơn Vương đã quay phắt lại, mắt sáng quắc:
                            – Phải đổi con ngựa đó mới được! Em hãy đứng khuất sau cây, lúc nào thấy anh đã bắt xong ngựa hãy chạy xuống!
                            Dứt lời, không đợi Phượng Kiều lên tiếng, tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn lập tức tế luôn ngựa xuống chân đèo, bỏ đường mòn, băng thung lũng tiến thẳng tới nẻo đầu ngựa lạ đang phi. Thoáng cái, Hắc Phong Câu đã lướt đầu thung. Đại Sơn Vương dừng lại sau bụi cây, ngay bên con đường mòn vắt ngang, chỉ còn cách non trăm thước. Trên yên, kỵ sĩ mải miết ra roi, đầu rạp hẳn xuống bờm ngựa, có vẻ vội vã khác thường. Đó là một người đàn ông đã đứng tuổi, gầy đét như que củi, da tái như rêu đá, mặt trông gian ác vô cùng. Nhìn qua thân hình, cặp mắt, cách cầm cương, cặp súng trễ qua sườn...
                            cũng đã rõ đó là kẻ có bản lĩnh không thường, với hành động không kém bề bí hiểm. Đại Sơn Vương vừa trông thấy người đó, đã giật mình vì sự gặp gỡ bất ngờ, còn đang đứng xem hắn định làm gì nữa, chợt thấy từ phía trước, cùng lúc ba con ngựa, trên yên, ba người đàn ông y phục quân binh chĩa súng thẳng vào gã đàn ông gầy, từ từ hiện ra. Gã đàn ông gầy đét vừa thấy bóng quân binh, lập tức đánh tay xuốngg sườn, nhưng mấy người dáng sĩ quan đã dợm nhẹ ngọn súng tiểu liên trên tay, hô lớn:
                            – Đứng im! Động đậy chết ngay! Hãy ném khí giới, xuống ngựa!
                            Ta được lênh bắt ngươi!
                            Người gầy đét đành buông tay, tiến ngựa lên từng bước.
                            – Ném súng xuống!
                            Mặc, hắn vẫn tiến lên, rất điềm nhiên, mắt nhìn chòng chọc vào quân binh. Đại Sơn Vương ngó qua đã biết ngay dụng ý của gă gian hiểm cố trì hoãn chờ cho vừa tầm súng. Hình như đã đoán được mưu địch thủ, viên sĩ quan hô lớn:
                            “Bắn”! Miệng hô, tay lảy cò. Nhưng đã muộn. Hai bàn tay gã gian hiểm đã đánh xuống sườn. Đồng thời, thân hìnhl hắn lộn gục bên cổ ngựa. Liền mấy tiếng tiểu liên, nổ loạn xạ. Trông ra, viên sĩ quan đã nhăn nhó ôm tay bị đạn, cạnh bên, hai tùy tùng cũng đang chới với. Và gã gầy đét đã ngồi ngay trên lưng ngựa, cười gằn, cắm súng vào bao.
                            – Ta tha cho toàn mạng đó! Khá về bảo với quan trên:
                            Việc ai nấy làm! Đừng hòng bội ước! Lui mau!
                            Quan binh cả ba vừa vừa đau vừa giận, biết gặp tay lợi hại, đành nuốt nhục, tính nước mã hồi. Đại Sơn Vương nghe mấy người đối đáp sinh nghi, kịp thấy ba quan binh thảm bại, viên tướng Thập Vạn Đại Sơn chợt nảy ra một ý, liền giật cương cho ngựa tiến ra. Thình lình thấy một người từ sau bụi cây xuất hiện, cả bốn đều giật mình ngạc nhiên, chưa rõ bạn hay thù? Người đàn ông gầy đét vừa vỗ tay xuống sườn, thì cặp súng đã nằm gọn trên tay Thần Xạ. Đại Sơn Vương nghiêm giọng:
                            – Ta khá khen tài bắn súng của ngươi đó! Nhưng ta muốn hỏi:
                            Ngươi mang vật gì trong mình, hãy đưa đây!
                            Gã gầy đét nheo mắt nhìn chàng tuổi trẻ, chột dạ vì tài rút súng nhanh như chớp, nhưng trấn tĩnh, quắc mắt hỏi:
                            – Ngươi là ai mà dám xen vào chuyện riêng của chúng ta? Hãy coi gương ba tên quân nhà nước!
                            Viên tướng núi cắm súng vào bao, điềm nhiên tiến ngựa đến gần:
                            – Ta chỉ muốn xem qua vật mang trong mình ngươi và mượn con ngựa cho bạn ta đỡ chân, mấy hôm sẽ trả!
                            Chỉ còn cách mươi thước. Gã gầy đét chợt đánh tay xuống lần thứ hai. Nhưng lần thứ hai, cánh tay Thần Xạ cũng rút súng ra như chớp. Kẻ lạ đành buông tay, biết đã gặp người quá lợi hại. Hắn uất ức nhìn chàng tuổi trẻ, chực như vừa nghĩ tới điều chi, hắn vùng hỏi:
                            – Ngươị.. phải chăng ngươi là Đại Sơn Vương?
                            Tướng núi nhếch miệng cười nhẹ:
                            – Ngươi đã nhận ra ta đó sao? Khá lắm! Vậy biết chớ trái lời!
                            Hãy bỏ khăn bịt đầu ta coi!
                            Kẻ lạ vẫn nhìn trân trân, nhớn nhác. Nhanh như điện, Đại Sơn Vương liền rút súng bắn tung khăn bịt đầu hắn xuống. Khăn vừa bay, tướng núi đã bật lên:
                            – Chính mi! Mi là quân phản bạn! Ta từ Tàu sang đây rửa hận, chỉ còn mấy đứa! Không ngờ lại gặp mi chốn này. Sửa soạn rút súng mau!
                            Lửa thù ngụt giọng, viên tướng núi quắc mắt nhìn dữ dội, thoáng qua, mặt đã lạnh như màu thép nguội. Gã gầy đét vẫn đứng trơ, hình như đã lượng nổi tài thần xạ vô địch của tướng Thập Vạn Đại Sơn, và lời nguyền sắt đá của tướng núi ngang tàng, hắn lặng lẽ nhìn cừu địch, thình lình giật cường quay phắt ngựa. Thấy địch thủ xoay lưng lại, Đại Sơn Vương khinh bỉ quát lớn:
                            – Quân khiếp nhược! Không dám khai chiến đường đường! Đứng lại!
                            Ngựa trước vẫn bước một, mấy bước, rồi chuyển luôn lên nước đại, có vẻ biết chắc không thể bị bắn sau lưng. Đại Sơn Vương cả giận vỗ ngựa đuổi theo. Được chừng hơn trăm bộ, thình lình, phía trước hàng loạt súng nổ vang dồn, có vẻ mở đầu trận chiến lớn. Gã gầy đét vẫn phi thẳng về phía súng nổ. Thấy tình thế kéo dài bất lợi, Đại Sơn Vương vội thúc ngựa nuốt thung rừng gấp gáp, nháy mắt Hắc Phong Câu đã sát quân thù. Ngay lúc đó, hai bóng kỵ sĩ chợt từ sau rừng cây sườn thung vọt tới, nã súng luôn vào Đại Sơn Vương.
                            Tướng núi vội rút súng bắn cả hai lộn nhào xuống ngựa, quay lại, vừa kịp thấy gã gầy đét thừa thế chĩa súng vào chàng sắp lảy cò. Cánh tay Thần Xạ vẫy luôn ngọn súng cướp thời gian. Súng vừa khạc đạn, tên kia đã lộn nhào theo. Vừa ngã xuống, hắn đã ôm vai định lăn vào bờ bụi. Nhưng Hắc Phong Câu đã vọt tới, Đại Sơn Vương lao từ trên ngựa xuống, ghìm chặt lấy hắn.
                            – Đồng bọn mi đâu? Nói mau!
                            Hắn vẫn trừng trừng nhì tướng núi, và bất ngờ, đưa ngón tay lên miệng. Tướng núi vội hất tay ra, nhưng hàm răng hắn đã kịp thời nghiến đứt ngón tay út, nuối chửng chỉ trong chớp mắt. Máu trong miệng hắn đã ứa ra, mắt mờ tinh lạc. Đại Sơn Vương bực tức, vừa buông hắn ra, chợt nghe có tiếng nổ sau lưng, quay lại, vừa thấy một hình thù vạm vỡ rời tay súng nhào xuống đất, phía sau, bóng ngựa Phượng Kiều vọt ra.
                            – Em đứng trên đồi nghe tiếng súng, vội đánh ngựa xuống. May quá, vừa kịp thấy nó chĩa súng vào lưng anh sắp bắn! Sao? Bọn nào đó, anh?
                            Vừa nói, Phượng Kiều vừa nhảy xuống đất, bước đến bên Đại Sơn Vương. Tướng núi mỉm cười nhìn nàng, đoạn cúi lật ngửa xác chết.
                            – Hừ! Bọn này gan lắm! Chịu chết để khỏi khai chỗ ở của đồng đảng! Sơ ý một chút để nó kịp cắn ngón tay thuốc độc mất.
                            Vừa nói, chàng vừa lục soát khắp người kẻ thù, không thấy vật gì lạ cả, đã toan đứng lên. Chợt tình cờ động tới cổ áo, thấy hơi dầy cộm khả nghi, chàng liền rút dao cắt luôn khoanh bí, soi lên ánh nắng, thấy bên trong in đậm hình một miếng giấy nhỏ, cả mừng, lấy dao rạch ngay, quả nhiên là một mảnh giấy gấp nhỏ thật khéo léo.
                            – Gì đấy anh?
                            – Chắc là một tờ thư.
                            Miệng nói, tay nhẹ nhàng lật trải từng nếp một, nếp vừa lật ra, chợt Đại Sơn Vương thoáng biến sắc mặt, giở gấp gấp, cặp mắt sáng hẳn lên như dính chặt vào mặt giấy chỉ bằng nửa bàn tay.
                            – Trời! Thực bất ngờ! Phải chăng linh hồn tiền nhân run rủi giữa đường?
                            Viên tướng núi lẩm bẩm khẽ, giọng run hẳn lên vì xúc động khác thường. Ngạc nhiên, Phượng Kiều cúi xuống chăm chú vào tờ giấy hình tam giác. Càng lấy làm lạ vì thái độ của Đại Sơn Vương trước mảnh giấy nhầu vô nghĩa lý, cô gái toan cất tiếng hỏi người yêu, chợt tướng lạc thảo đã lật mặt sau, gỡ ra một mảnh giấy đính hờ nữa, vừa liếc qua đã ngẩng phắt lên nhìn Phượng Kiều, vẻ mặt người đàn ông ngang tàng, bí mật vụt biến đổi khác thường, cặp mắt sắc như dao như muốn chiếu vào tận tâm can cô gái. Và lẳng lặng trao mảnh giấy sau cho nàng.
                            Gởi Hồ Ba Bể Thủy Vương.
                            Hãy khảo sát ngay! Cần rõ thực hư bản của Trần Tắc này, và tới ngay thạch động mật đàm.
                            Phản Tây Phàn Động Chủ.
                            Xem qua mấy dòng chữ thảo, Phượng Kiều ngẩng vội lên nhìn Đại Sơn Vương. Cặp mắt mở to đầy ngạc nhiên đượm lo lắng của cô gái khiến tướng núi bất giác đưa mắt liếc lại mảnh giấy chữ Hán, và quay hỏi khẽ nàng:
                            – Thế rạ.. em cũng không biết gì sao?
                            Thiếu nữ ngó xác kẻ lạ, lắc đầu, lo lắng:
                            – Chuyện chi đó anh? Sao lại bản giấy của thầy em? Có điều chi nghiêm trọng mà coi anh...
                            Đại Sơn Vương gấp cả hai mảnh giấy bỏ vào túi trong, đoạn đứng phắt lên, túm lấy cương ngựa của kẻ lạ:
                            – Em thay ngựa này nhanh! Chúng ta phải ra khỏi thung ngay!
                            Vừa đến lưng đèo, đã nghe tiếng súng nổ, quân reo ập tới đầu thung. Ngoảnh lại vẫn chưa thấy gì, hai người thúc ngựa vượt hẳn lên đỉnh dốc, đầu khuất sau cành lá rủ, nhìn xuống phía thung dưới.
                            Ngọn đèo cao trội hẳn lên, đứng trên trông được cả ba mặt. Đại Sơn Vương rút ống nhòm ra chiếu xem, chợt đưa cho Phượng Kiều.
                            – Quái! Hình như có bóng dáng Nguyệt Tú thì phải. Em xem!
                            Phượng Kiều đỡ lấy ống nhòm, vừa ngó coi đã bật nói:
                            – Đúng rồi! Nguyệt Tú cùng nữ binh!
                            – Có lẽ đang bị quân nào truy kích!
                            Dưới kia, toán nữa binh vừa vọt ra chừng trăm thước, đã thấy một toán khác đến mấy chục người ngựa vọt theo bắn riết. Nữ binh vừa chạy vừa bắn trả lại.
                            Trong ống viễn kính, Đại Sơn Vương nhận ngay được bóng dáng Khách Giang Hồ. Thủ lĩnh Cầu Mây phóng ngựa đoạn hậu chầm chậm, hình như chặn cho quân gia thồ ngựa đi trước. Thỉnh thoảng lại dừng phắt, bắn về phía sau, cách không đầy trăm thước, một toán địch quân đông gấp bội lần đuổi riết. Lúc cánh đầu quân Khách Giang Hồ vừa nhập vào toán nữ binh Nguyệt Tú, thình lình từ nẻo Đông Bắc, lại xuất hiện một toán nữa, đông đến hàng trăm, nhắm thẳng quân Cầu Mây kẹp lại. Nhìn kỹ, cánh quân Đông Bắc mặc đồng phục quan binh, còn cánh Tây Bắc dùng y phục dân miền núi lẫn lộn.
                            – Bạn ta bị lọt vào gọng kìm! Không mau sẽ bị vây giữa thung trống mất!
                            Đại Sơn Vương nhanh giọng:
                            – Xuống mau! Hãy đi sát bên anh!
                            Cặp ngựa chồm phăng xuống chân đèo, rất gấp. Phía dưới, bất ngờ tới quan binh chặn đầu, Khách Giang Hồ đã vọt lên, nhìn thấy dãy núi đá chân đèo, vội lướt ngựa lên quát lớn:
                            – Rút cả về phía núi đá! Chiếm điểm tựa đó mau!
                            Quát xong, vừa toan lộn lại chặn hậu cho quân rút, chợt nhìn về phía đèo ngang, thấy có cặp ngựa phi thẳng tới, còn đang ngạc nhiên, thì Đại Sơn Vương đã cùng Phượng Kiều xốc tới như gió cuốn.
                            – Mau dẫn quân chiếm núi đá! Để tôi bắn cản chúng cho! Phượng Kiều hãy tới giúp Nguyệt Tú mở đường đánh chặn quan binh!
                            Khách Giang Hồ rất ngạc nhiên vì sự xuất hiện bất ngờ của Đại Sơn Vương, toan cất tiếng hỏi thì tướng Thập Vạn Đại Sơn đã nói nhanh:
                            – Trước sau tiến thoái lưỡng nan! Bạn phải mau chiếm lấy điểm tựa, không quan binh đoạt trước mất!
                            Khách Giang Hồ nhìn lại, thấy quả nhiên quan binh đang phóng chếch về hướng núi đá, không tiến thẳng tới đầu ngựa toán nữa binh nữa. Đại Sơn Vương một mình một ngựa vọt tới chận đường cánh quân trước, còn cánh không đầy trăm thước, liền nằm rạp lên lưng ngựa, hai cánh tay Thần Xạ vẩy lia lịa ngọn súng nhanh như chầy máy. Liền năm sáu lên quân đi đầu nhào luôn xuống đất, ngựa không người cất vó, hoảng chồm. Đấm quân lạ truy kích Cầy Mây, thình lình thấy một kỵ sĩ tay không súng dài lao tới, đều không khỏi ngạc nhiên. Viên tướng lạc thảo liền cất mình, quỳ hẳn trên lưng ngựa, trỏ ngọn súng về phía trước, quát vang như chuông đồng:
                            – Chúng mày là quân nào, dám ỷ đông bức bạn ta? Có Đại Sơn Vương thần xạ tới đây!
                            Hình như đám quân lạ đều hơi giật mình khi nghe danh Thần Xạ, sức ngựa đang phi, chợt hạ luôn lập tức. Nhưng ngay lúc đó, từ phía sau có tiếng quát vọng lên:
                            – Tiến thẳng! Bắn tập trung! Chớ cho nó kịp thay đạn!
                            Hàng loạt đạn theo tiếng quát, lia tới, nhắm cả vào Đại Sơn Vương. Nhưng viên tướng núi đã thình lình quay ngựa chạy chếch chữ chi, lúc ngồi hẳn lên, lúc đã lộn ôm cổ ngựa nhanh như con cóc, vừa tránh đạn, vừa bắn lại có ý dụ địch theo mình. Quà nhiên, thấy Đại Sơn Vương vừa lộn vừa bắn như trò đùa, viên tướng địch cả giận, thét vang:
                            – Đuổi cho cùng! Chia quân hai ngả! Tiến sát lại không để nó có thì giờ tra đạn!
                            Đại Sơn Vương đang phi ngựa, thoáng nghe tiếng tướng địch truyền lệnh tiến lên, biết ngay là hắn là một tay lão luyện chiến trận không vừa. Vì cặp súng chỉ đủ mười hai viên đạn, cho dù mang thêm cũng chỉ một hai khẩu nữa, bắn khoảng hai mươi phát là phải thay đạn mới, với đà ngựa bay khoảng cách không đầy trăm thước, đám quân đông sẽ đoạt thời khắc dễ dàng, đạn chưa thay, địch đã thừa thế tấn công ào ạt không kịp trở tay. Thêm nữa, địch lại chia hai ngả, cánh đuổi Cầy Mây, cánh theo Đại Sơn Vương, gặp dịp cũng có thể kẹp gọng kìm lại như chơi. Hiểu thâm ý địch, Đại Sơn Vương liền lộn ngựa sang phía hữu, chạy chếch dọc sườn đèo, không để lọt vào giữa hai cánh quân, đảo mắt quan sát, thấy gần đấy có mấy bụi rậm, bên mấy cây cổ thụ, chàng tiến ngay ngựa vào trong, nhảy phắt xuống quàng vội cương sau một cây lớn, và phục liền bên, bắn lên.
                            Phía sau lưng, quân Cầu Mây đã gặp đầu quân nhà nước, hai bên đang nổ súng dành dãy núi đá, chưa bên nào chịu nhường. Nẻo trước, tướng lạ thấy Đại Sơn Vương chạy ẩn sau cây cổ thụ, liền truyền quân cứ nhào thẳng tới, và hình như hắn đang đếm từng phát súng của Đại Sơn Vương. Vừa đúng mười tám phát, thấy ngừng, hắn đoán là tướng núi vừa hết ba cối đạn, lập tức bay ngựa lên, hô lớn:
                            – Súng nó hết đạn rồi Chớ để nó kịp thay! Tiến mau!
                            Ẩn sau ngọn cây ba khẩu súng của Đại Sơn Vương quả vừa hết đạn. Nhưng tay Thần Xạ có thừa kinh nghiệm tác chiến đơn thân.
                            Đạn vừa hết, chỉ một cái lắc, vỗ đạn đã rớt, tay kia thọc túi quần, lấy ra một ống đạn rất kỳ khôi. Ống đạn chính do chàng chế lấy, trong ống có sáu ống nhỏ nữa, ống nào cũng nhồi sẵn đạn, rất vừa khớp. Chỉ việc đặt ống lớn vào miệng súng là sáu viên đạn từ sáu ống nhỏ đã “rót” luôn, và chỉ một cái lắc là tay thần xạ đã có thể gửi viên đạn vào đầu địch thủ.
                            Tính theo tốc độ ngựa phi chỉ được mấy bước, Đại Sơn Vương đã tra được năm viên đạn. Mặc địch phi tới, chàng cứ điềm nhiên tra nốt cặp nữa, đợi chờ. Cùng lúc, năm sáu tên hung hăng bay ngựa tới.
                            Để cho chúng tới cách chỉ năm mười thước, chàng mới vẩy hai ngọn súng từ sau thân cây ra một loạt. Năm phát nổ, năm kẻ lộn nhào. Từ giữa đám quân, viên tướng địch đã xông ngựa lên, tay phất ngọn súng làm hiệu. Lập tức, hai toán vòng ngựa sang hai bên, còn một toán xuống ngựa chạy ẩn sau các thân cây, tiến dần lên.
                            Đại Sơn Vương thấy viên tướng hình dáng quái dị, giọng quát lơ lớ như người miền núi, chàng liền chĩa súng định hạ luôn, nhưng hắn đứng quá xa tầm súng lục, truyền lệnh xong là đánh ngựa vào sau gốc cây lớn, nhảy xuống đất ngay, do đó Đại Sơn Vương cứ phục nguyên, bất động, đợi địch tiến vừa tầm súng mới bắn.
                            Đại Sơn Vương biết kéo dài tình thế, sẽ bị rơi vào thế tam diện thụ địch, hai bên sườn lại thiếu vật che chở, liền nhảy phắt lên lưng Hắc Phong Câu, bay về phía trận Cầu Mây. Viên tướng lạ cũng nhảy luôn lên ngựa, vẫy tay súng hô binh đuổi theo liền. Hai cánh quân tả bữu reo hò đánh thốc lại, khí thế vô cùng mạnh mẽ. Viên tướng lạ thấy địch tướng chạy giữa trận mưa đạn như không, cả giận, thét lớn, và cùng mấy tên cận tướng thúc ngựa vượt lên trước hàng quân, vừa bắn vừa quát vang:
                            – Đại Sơn Vương, ngươi có giỏi hãy ghìm cương đối địch. Sao chạy riết như loài cầy cáo?
                            Đang rạp mình trên ngựa, nghe tiếng quát, tướng Thập Vạn Đại Sơn quay lại, nhìn mới biết Hắc Phong Câu đã bỏ xa quân địch trên trăm thước. Chàng liền giật phắt cương vòng ngựa lại. Tướng lạ cả mừng vẫy tay làm hiệu cho tùy lướng, cả mấy tên xốc tới. Đại Sơn Vương đã vòng ngựa lại, chầm chậm có ý chờ địch tới. Tướng lạ thấy chàng táo bạo quá, lập tức cùng cận tướng nhất loạt nổ luôn mấy phát rà ngang mình. Chỉ chờ có thế, cùng lúc mấy cánh tay địch vung lên, Đại Sơn Vương đã ôm cổ ngựa nhào dính sát bụng con vật, một bàn chân rê trên mặt cỏ, và theo đà ngựa phi, tay phải đồng thời đã vẩy luôn mấy phát nhanh như máy. Tướng lạ cùng hai, ha tên nữa nhào ngay xuống chân ngựa. Nhìn lên, Đại Sơn Vương lại đưa mình ngồi ngay ngắn trên ngựa, xoay lưng lại, nã luôn hai phát nữa. Mấy tên còn lại hoảng kinh giật cương dừng ngựa vô tình đỡ đạn thay cho người. Toán sau cùng vừa tiến lên, được chứng kiến tài nghệ ghê gớm thần tình như ảo thuật của Đại Sơn Vương liền vội hạ nước phóng, chỉ hò reo bắn với theo. Viên tướng lạ cùng một tên cận tướng may chỉ bị trúng đạn vào vai, lồm cồm bò dậy, thì Đại Sơn Vương đã vọt ngựa ra xa, đang nhắm hướng trận trước xông tới. Tướng lạ vừa bực vừa kinh hãi, cố nhịn đau, xé vải buộc vai, một mặt truyền quân đuổi gấp.
                            Lúc đó, phía đầu thung kia, Khách Giang Hồ đã cùng Phượng Kiều, Nguyệt Tú đánh giạt đám quân binh, cho quân gia tiến lên chiếm dãy núi đã gần xong. Tốp nữ binh Nguyệt Tú cùng một số nam binh đã phục sau những mô đá dựng, bắn yểm hộ cho quân dưới và Khách Giang Hồ đang cùng ít quân hậu tập tiến sau những hàng cây cổ thụ tới bên núi, chỉ còn cách một khoảng trống chừng vài chục thước. Đại Sơn Vương bay ngựa tới cạnh Khách Giang Hồ nói vừa để bạn nghe:
                            – Quân sau đuổi đã gần tớt rồi. Bạn mau cùng quân sĩ rút gấp lên sườn núi, để tôi bắn cản cho. Sửa soạn đánh ngựa ra.
                            Vừa nói, Đại Sơn Vương vừa vẩy súng lia lịa về phía quan binh, liền mấy tên vừa nhô ra chưa kịp bắn đã gục chết tươi. Khách Giang Hồ đã cùng quân gia xuống ngựa. Sau loạt đạn, Đại Sơn Vương liền quát lên một tiếng như sấm động, cùng mọi người nhất tề quất ngựa vọt ra. Trên núi cũng nhất loạt bắn xả xuống yểm trợ. Quân binh nghe tiếng quát còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện chi, thình lình thấy ngựa vọt ra, bọn hàng đầu nấp sau cây gần đấy nhanh mắt, liền nhô ra bắn theo liền. Nhưng tên nào vừa nhô ra đã bị đạn thần xạ xói trúng đầu, trúng tay. Những tên khác kịp bắn tiếp thì ngựa đã bay qua khoảng trống ngược dưới luồng đạn từ lên núi bắn xuống, thành ra quân bắn theo ngựa lại bị đạn sói thẳng vào, bị chết, bị thương la liệt.
                            Đại Sơn Vương bắn hết đạn, liền rút súng khác, định bắn tiếp thì phía sau, bóng ngựa địch đã xuất hiện, nhìn ra, thấy quân Cầu Mây đã chạy qua khoảng trống, bóng Khách Giang Hồ đang lấp ló sau một mô đá vẫy tay làm hiệu. Đại Sơn Vương mới lên ngựa.
                            Khách Giang Hồ lập tức truyền quân gia bắn xả về phía quan binh.
                            Quân binh vừa kịp trố mắt ngạc nhiên trước trò quỷ thuật lạ lùng, thì Hắc Phong Câu đã vọt qua đến hai phần ba khoảng trống, kịp lúc đạn quân binh bắn loạn thì Đại Sơn Vương đã nhào xuống, lăn veo veo trên mặt cỏ, chớp mắt đã cuộn vào sau một mô đá, nhắm lên, bắn trả lại như máy. Vừa lúc đó, cánh quân Tây Bắc cũng ập tới.
                            Nhưng ngựa đã xua cả lên núi khuất, quân tướng đã ẩn kín sau những mô đá ven sườn núi bắn ra.
                            Chiếm được nơi thiên hiểm làm điểm tựa, quân Cầu Mây đoạt được ưu thế chiến trường, một tay súng có thể đương cự được mười quân địch. Lượng rõ tình thế, quân dưới núi không dám xông liều.
                            Đám quân mặc lối thổ dân dành cùng quan binh xuống cả ngựa chia nhau kiếm chỗ nấp bắn lên, thỉnh thoảng lại reo hò ầm ĩ. Sau một hồi cầm cự, quân dưới bị hạ đến hơn tiểu đội. Viên tướng lạ nóng ruột, hai ba lần hô quân gia liều mạng xông lên. Nhưng cả mấy lần đều bị đánh lui, đành khiêng xác đồng bọn rút về chỗ cũ.
                            Trên núi, Đại Sơn Vương đứng trấn ngay phía dưới, cứ tên nào nhô ra là bắn. Khách Giang Hồ thấy bạn bắn đã lâu liền truyền người thay giữ, đoạn cùng Đại Sơn Vương rút vào sau một hốc đá tạm nghỉ tạm. Phượng Kiều, Nguyệt Tú trấn hai bên tả hữu cũng lui vào.
                            Thấy đám quân thổ dân lạ có vẻ quyết liệt muốn giải quyết chiến trường ngay, Đại Sơn Vương lấy làm lạ, hỏi bạn:
                            – Tình thế này rất chênh vênh, tạm bợ cho ta. Nhưng quân chúng nó có thể án binh tính thế trường cửu thủ thắng, sao có vẻ quyết liệt gấp thế? Quân nào đó?
                            Khách Giang Hồ đăm đăm nhìn bạn:
                            – Cánh quân trên Phản Tây Phàn! Chúng vẫn có hiềm với Cầu Mây vì tôi đã mấy lần chặn đánh chúng. Bọn đó vừa buôn lậu, vừa làm giặc, và thường có lúc hòa với quan binh, trong những trường hợp có lợi cho cả đôi bên.
                            Nghe bạn nói quân Tây Phàn, Đại Sơn Vương gật gù suy nghĩ, đoạn mỉm cười hỏi bạn:
                            – Như trận này chẳng hạn, xem chừng cả hai bên đều muốn tranh thắng cả. Bạn bị phục đánh vì...
                            – Chúng muốn đoạt súng của tôi thồ đi tiếp cho chi đoàn Đông Bắc! Tôi đang bắt đầu mở rộng khu vực, lập thêm cứ điểm phải chia binh ngầm đóng nhiều nơi, luyện thêm tay súng. Chỉ chờ súng ống từ Thập Vạn Đại Sơn chuyển về, là có đủ người sử dụng. Tôi tưởng bạn cùng đi với đoàn lữ hành rồi?
                            Đại Sơn Vương nhìn Phượng Kiều, nhớ tới chuyện đêm nào tại trại nàng, nên nói thác:
                            – Có việc phải lộn lại. Ban sớm đang xuyên sơn, thấy có năm, sáu tên áp giải một cô gái, đứng xa tưởng bọn xạ phang chuyên bắt người đem đi bán, tôi xuống đánh giải cứu, không ngờ lại là Phượng Kiều.
                            Khách Giang Hồ, Nguyệt Tú chòng chọc nhìn Đại Sơn Vương, muốn nói gì lại thôi, Nguyệt Tú quay lại Phượng Kiều:
                            – Phụ thân chị bị kẻ thù bắt đi, em có được tin. Chị đã biết được sào huyệt chúng chưa?
                            Phượng Kiều nhìn người yêu, chưa kịp nói, thì Đại Sơn Vương đã điềm nhiên:
                            – Bọn gian trên Phản Tây Phàn! Chính tôi đưa Phượng Kiều lên đó giải cứu cha nàng. Bạn có biết tên đầu đảng?
                            Khách Giang Hồ hơi nhíu mày:
                            – Bạn định đơn thân lên Phản Tây Phàn? Nhưng bạn có biết Động Chủ Tây Phàn vô cùng lợi hại ác hiểm khó lường, lại có mấy tên thủ hại rất lão luyện, tinh quái?
                            Đại Sơn Vương buột miệng nối lời:
                            – Chẳng hạn như tên gầy đét như que củi có tài bắn súng như Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng?
                            Khách Giang Hồ giật mình hỏi nhanh:
                            – Bạn có biết tên đó sao? Hắn...
                            Đại Sơn Vương điềm nhiên nhìn Phượng Kiều, mỉm cười và thuật lại chuyện chàng vừa hạ tên “gầy đét”.
                            Nguyệt Tú xen vào:
                            – Hay tên đó đị.. liên lạc với quan binh? Lúc trước còn thấy hắn đi với toán tiền phong Tây Phàn mà?
                            Khách Giang Hồ nhìn xuống núi ngẫm nghĩ, chợt ngước mắt lên đỉnh núi lẩm bẩm:
                            – Tình thế không thể kéo dài, phải đánh thốc xuống mới được!
                            Đại Sơn Vương lắc đầu:
                            – Liều mạng vô ích. Quân địch đông gấp bội. Quân ta thưa thớt quá. Rời điểm tựa này là lao xuống vực thẳm đó! Đành chờ tối vậy.
                            Đại Sơn Vương vừa dứt lời, chợt nghe phía dưới núi có tiếng kèn trống dập dình, chiếu ống nhòm thấy từ nẻo Đông Bắc có một toán chừng vài chục người đi ngựa tới, quan binh một số đã xếp hàng chào. Đám người mới tới dừng lại ngay sát hậu tuyến, đoạn rẽ vào chỗ khuất mất. Chừng mười phút sau lại thấy năm, sáu người cưỡi ngựa từ sau quân tiến lên trước trận, dừng lại chỉ trỏ lên núi. Trong ống viễn kính hiện rõ cả khuôn mặt từng người, với đủ vạch kim tuyến trên vai. Đứng giữa là một viên tướng Pháp già, cao lớn, vạm vỡ râu xồm. Đại tá Gilbert!
                            Khách Giang Hồ nhận được mặt viên tướng già trước nhất. Đại Sơn Vương vẫn nhìn vào ống nhòm, chậm rãi:
                            – Chà! Viên quan năm chỉ huy quân đoàn lưu động biên giới tới đây, chắc đại quân cũng đóng cách đây không xa mấy! Nếu vậy tướng Roux vẫn còn lẩn quẩn vùng này!
                            – Ngay từ buổi tan hội Su Phì, quân chúng đã chia nhiều toán phục khắp yếu lộ, cố chặn tiêu diệt các cánh quân nghịch từ xứ H mông ra. Nhưng tôi đã cho quân phân tán thành nhiều toán nhỏ!
                            Lần này hắn biết có chúng ta, lại đơn quân, thế nào sớm muộn cũng điều động quân tới nữa! Tình thế này, kéo dài thêm nguy hiểm!
                            Phượng Kiều, Nguyệt Tú đồng thanh:
                            – Phải mở đường máu gấp!
                            Đại Sơn Vương buông ống nhòm, điềm nhiên:
                            – Chúng sắp tới càng hay! Ta còn thừa thì giở nghỉ ngơi. Hãy cho quân gia ăn uống kỹ, ngựa cho tháo dây nịt, thôi túc trực. Chúng ta sẽ đánh quan binh trước khi quân tiếp viện tới!
                            Như hiểu ý bạn, Khách Giang Hồ có vẻ tán đồng điều đó. Đại Sơn Vương gật đầu quay lại phía hai cô gái:
                            – Kìa! Nhị vị nữ tướng còn đứng đó sao? Cho chúng tôi uống gì chứ? Khát cháy cổ rồi?
                            Nguyệt Tú mỉm cười:
                            – Haị.. anh dùng cà phê chứ?
                            – Còn phải nói! Ngồi uống cà phê hút thuốc lá trên trên sườn núi, mà đợi xem địch rút lui, còn gì bằng nữa! Bất chiến tự nhiên thành... một nửa mà! – Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn hơi nhíu mày, rút ống nhòm quan sát, chợt quay bảo Nguyệt Tú:
                            – Cánh quân Tây Phàn sửa soạn rút đi! Cô nương... truyền quân mình bắn cầm chừng, chớ hoang phí đạn dược.
                            Nguyệt Tú, Phượng Kiều chiếu viễn kính xem, thấy quả nhiên chỉ có cánh quân Tây Phàn hoạt động, mở đầu cuộc tấn công đơn phương, còn quân binh vẫn án binh bất động. Trên sườn núi, quân Cầu Mây thấy địch bắn loạn xạ, vẫn bình tĩnh trấn các mỏm đá, bắn lại rất ít, mỗi phát súng là một địch quân gục bên cây cổ thụ.
                            Đại Sơn Vương nghe tiếng súng phản công, gật bảo Nguyệt Tú:
                            – Cô nương bất tất phải ra lệnh! Lệnh huynh đã thừa biết chủ ý địch rồi! Chúng ta cứ việc đứng đây xem chúng rút lui bây giờ!
                            Đại Sơn Vương vừa dứt lời, đã thấy Khách Giang Hồ từ phía tả núi chạy tới.
                            – Đại Sơn Vương, bạn tính sao? Ta nên nương đà rút lui đánh thốc xuống chứ? Kìa, chúng sắp sửa lên ngựa rồi.
                            Mọi người im lặng trông xuống, thấy quân Tây Phàn đang đánh bộ, chợt lùi cả về phía sau, thoáng cái, đã thấy bóng người ngựa xuất hiện lố nhố.
                            – Đánh thẳng lên sườn núi!
                            Tiếng quát như sấm từ hậu trận vừa vang lên, đã thấy quân Tây Phàn nhất loạt hò reo, xông lên.
                            Khách Giang Hồ như đã cầm chắc sự rút quân của Tây Phàn, vụt quay lại, mắt sáng lên tia quyết định:
                            – Phải cho anh em lên ngựa gấp mới kịp!
                            Vừa nói, vừa dợm quay đi. Nhưng Đại Sơn Vương đã giơ tay cản lại.
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #15
                              Hồi 13 - Động Chủ Phản Tây Phàn

                              Fan Si Pan! Đỉnh núi quanh năm mây trùm tuyết đọng, mù mịt giá băng, dân bản địa ít khi đuợc trông thấy ngọn. Thường, chỉ về mùa hạ cũng chỉ thấy độ cao hai ngàn mét trở xuống. Mấy năm trước khách du lịch còn lắm kẻ tò mò rủ nhau leo lên sườn núi chơi, chừng hơn năm nay, mấy người đi không trở lại, sau tìm thấy xác đều bị mãnh thú xé nát, từ đó không mấy người dám lên nữa.
                              Khách Sa Pa chỉ tới chân núi là phải lộn về vì nhà chức trách địa phương đã dựng biển, biến nhiều chỗ thành cấm địa. Thổ dân đồn rằng trên núi Fan Si Pan có một con hổ xám thành tinh cai quản một bầy hổ tới mấy chục con, thường sục sạo khắp vùng Lào Cai Sa Pa bắt người tới số.
                              Cho tới hôm viên quan Châu Thổ già, từ mạn Phòng Tô Bát Sát, một mình một ngựa vào miền cấm địa hơn hai hôm sau không thấy ra. Ai cũng đinh ninh quan Châu Thổ già đã chết về tay cọp tinh, thì chợt chiều ngày thứ ba, ông cưỡi ngựa ra, bắt theo một hổ mộng màu xám, như dắt chó con. Từ đó cả miền đều khiếp oai quan Châu Thổ Phòng Tô như một vị thần. Và cứ ít lâu ông ta lại tới bắt hổ đem ra.
                              Nhưng nạn hổ tinh chưa dứt, lại tới nạn cướp rừng giặc cỏ. Giặc cướp hoành hành khắp miền Lào Cai, Sa Pa, lan khắp biên giới, đánh phá kháp các bản, các đồn khố xanh không sao trừ nổi. Giặc dữ còn hơn hổ báo, đến đâu vét sạch, đốt hết, bắt đàn bà, con gái, trẻ con đem đi bán. Có điều lạ là có rất nhiều giặc không biết từ đâu tới. Nhưng phá đâu đều để một mũi tên cánh trĩ khắc năm chữ “Động chủ Phản Tây Phàn”. Nhưng giữa cơn nhiễu loạn gớm ghê, một đêm giặc Tây Phàn đến phá vùng kia, viên quan Châu Thổ liền đem lính dõng gia đinh tới chặn đánh tan tành. Cho nên từ người Thổ đến người Kinh, ai cũng kính phục quan Châu Thổ họ Cầm. Kính mến quan Châu Thổ bao nhiêu, càng thù ghét “Động chủ Phản Tây Phàn” giặc dữ bấy nhiêu.
                              Và cũng không ai ngờ trên ngọn núi Fan Si Pan lạnh lẽo, hoang vu đầy hùm tinh, ma quái, đêm naỵ.. trong lòng hang thẳm cách mặt đất trên hai nghìn thước cao, động chủ Phản Tây Phàn đang ngồi đăm đăm nhìn ngọn lửa nhựa trám, mặt đục ngầu sát khí, trên mặt bàn còn vất nguyên chiếc bài ngà quan Châu Thổ họ Cầm!
                              Quan Châu Cầm động chủ Phản Tây Phàn! Ngồi không nhúc nhích, hai bàn tay bấu chặt mép bàn, mắt sắc như dao nhìn lửa trám trừng trừng, mặt quả dưa, râu ba chòm dài thưa, vành môi mỏng hơi mím lại, động chủ trông lạnh lẽo như một hình thạch nhũ khắc trong hang đá lâu đời. Thoạt trông phảng phất như một bậc quân sư thời cổ, khiến kẻ gặp mặt phải nể vì ngay, nhưng chỉ hơi nhúc nhích mày, đưa mắt vẻ hiểm độc gian hùng vụt phát lộ, kẻ tinh mắt ngó thấy lạnh mình, biết ngay đang đối diện một kẻ đầy ma thuật, có thể vừa cười vừa chôn sống kẻ địch.
                              Chợt có tiếng động nhẹ phía trước. Động chủ ngẩng đầu lên. Một viên tùy tướng lách vào theo hơi gió:
                              – Bẩm động chủ, cánh quân đi Đông Bắc vừa về muốn trình động chủ!
                              Viên động chủ hơi cau mày:
                              – Cánh quân Đông Bắc, cánh lên Hồ Ba Bể?
                              – Dạ.
                              Giật nẩy mình, động chủ đứng phắt lên, nhanh giọng:
                              – Saọ.. về sớm thế? Hay đã có chuyện gì?
                              Tùy tướng lấm lét:
                              – Bẩm hình như có biến. Chỉ còn phó tướng cùng tàn quân trở về!
                              – Gọi hắn vào đây!
                              Tùy tướng ra, thoáng cái đã thấy một gã cao lớn bị thương băng bó tập tễnh bước vào cúi chào động chủ. Động chủ lừ lừ ngó viên tướng bại ngồi xuống, mãi mới nén giận lên tiếng:
                              – Bị thất trận phải không? Hừ! Thế còn Nguyễn Lâm?
                              Viên bại tướng e dè nhìn động chủ, khẽ nói:
                              – Bẩm, được nửa đường, gặp bọn anh em Khách Giang Hồ chặn đánh. Vừa lúc đó, binh đại tá Gilbelt ập tới, anh em hắn ít quân tháo chạy. Chúng tôi sắp bắt thì... gặp tên tướng Thập Vạn Đại Sơn!
                              Như chiếc lò xo, viên động chủ bật lên, nhắc lại:
                              – Đại Sơn Vương?
                              – Dạ! Hắn một mình một ngựa, cản lối quân ta cứu thoát bọn Cầu Mây. Tôi đã liều chết xông lên nhiều lần không nổi. Hai tay súng hắn nhạy như thần.
                              Ngừng một chút viên bại tướng đăm đăm nhìn động chủ, đoạn tiếp, giọng tiếc hận:
                              – Tôi đã rút quân đi phục yếu lộ. Thình lình gặp quân Ba Bể, quá mừng bèn cùng nhau lộn lại đánh tập hập, không ngờ lại chạm quân tiếp viện Cầu Mây! Mặt trước lại có quân Xạ Phang đến cứu chúng, trận đang quyết liệt, thình lình trời lại đổ mưa to gió lớn, quân gia thất tán lạc rừng.
                              Động chủ cau mày nhìn ngọn lửa, chợt quay hỏi, giọng lo ngại:
                              – Còn Nguyễn Lâm?
                              – Bẩm đã vọt đi ngay khi chạm súng!
                              Động chủ thở phào như cất được gánh nặng, mặt dịu đi đôi chút:
                              – Thôi được. Cho lui về nghỉ. Sớm mai vào ta bảo.
                              Bại tướng vừa quay ra, động chủ tiến đến bên vách đá, đang giơ tay lên giá gỗ lấy cuốn sách thì bên ngoài có tiếng động. Động chủ quay ra, viên tùy tướng bước vào nhanh giọng:
                              – Võ đầu lĩnh đã bắt được con gái Trần Tắc đem về, muốn vào trình động chủ!
                              Lời tùy tướng vừa dứt, mắt động chủ lóe lên như đang bốc cháy:
                              – Bắt được con gái Trần Tắc? Bảo Võ đầu lĩnh vào ngay!
                              Tùy tướng cúi đầu lui ra. Động chủ ngồi xuống ghế, nhìn ra cửa, nửa phút sau, vẫn chưa thấy người vào, hắn liền bước ra ngoài hang, đi đi lại lại, như mãnh thú chực mồi.
                              – Thưa động chủ! Xin nộp người đứa con gái Trần Tắc! Nhị cô, Tam cô còn có việc ở lại Hà Giang, chắc cũng sắp về tới đây!
                              Võ Long cúi đầu kính cẩn chào động chủ, tay trỏ Phượng Kiều trói đứng bên. Lão động chủ khẽ gật đầu tỏ vẻ hài lòng và nheo mắt nhìn thiếu nữ. Không hề sợ hãi, Phượng Kiều cũng quắc mắt nhìn kẻ địch. Dưới ánh lửa trám chập chờn, khuôn mặt kiều mị của cô gái khiến lão động chủ bất giác gật gù, nhếch mép cười ghê gớm:
                              – Con gái họ Trần chóng lớn đến thế ư? Hà? Gặp ngoài đường có lẽ ta không nhận ra nó! Đẹp thế này chịu sao nổi Hủi Cụt tay cai ngục!
                              Lão ngả lưng vào thành ghế, giơ ngón tay nhẹ vẫy Phượng Kiều lại, miệng vẫn cười như không. Cô gái không thèm nhúc nhích. Lão động chủ ngồi phắt ngay ngắn vùng nghiêm sắc mặt lạnh lẽo:
                              – Vào tới đây khôn hồn ngoan ngoãn! Chọc giận ta cho vào Hủi Cụt tay liền!
                              Trong lốt Võ Long, Đại Sơn Vương vừa nghe mấy tiếng “Hủi Cụt tay” đã muốn dựng tóc gáy, bất giác đưa mắt nhìn Phượng Kiều. Vì đêm qua, tới gần nhà giam Trần Tắc, chàng đã được trông thấy viên cai ngục mang tên ghê tởm Hủi Cụt tay đó! Hắn chừng bốn mươi tuổi, cao lênh khênh, thân thể xám xịt, lở loét vì vi trùng hủi kinh niên, mấy ngón tay trái đã bị đứt cụt lủn, mắt trắng dã, môi chìa, trông chẳng khác loài yêu quỷ. Viên tướng núi liền tiến ngay đến trước động chủ:
                              – Người con gái này vốn tay nữ tặc trên Cao Bằng, đã lập mưu bắt sống Nhị, Tarn cô. Tôi phải chật vật lắm mới bắt nổi. Con bé này bướng bỉnh lắm, nhưng...
                              Chàng buông lửng câu, không nói tiếp, nhưng viên động chủ thoáng nhìn vẻ mặt đã đoán hiểu gã đầu lĩnh định nói gì. Lão gật gù ngó “Võ Long”, Phượng Kiều, đoạn giơ tay vuốt ve chòm râu mép:
                              – Chà! Con gái Trần Tắc bản lĩnh đến thế ư? Hay lắm! Nhưng đầu lĩnh chắc không phải mất công dụ dỗ. Để ta coi con bé này có tài chịu nổi “Hủi Cụt tay” không?
                              Dứt lời, lão động chủ đứng lên, ngắm suốt thân hình thanh tú của Phượng Kiều và khẽ cười khẩy.
                              – Một đêm với Hủi Cụt có lẽ hơi dài với nàng lắm đó! Bay đâu?
                              Tùy tướng bước vội vào. Phất nhẹ tay, lão động chủ dằn từng tiếng một:
                              – Dẫn con bé này tới cho Hủi Cụt! Bảo nó ta chọ.. trọn đêm nay và sớm mai phải có đủ những lời khai của cha con Trần Tắc! Trói chặt chân tay lại, điệu đi ngay!
                              – Xin y lệnh!
                              Tên tùy tướng rút phắt trong mình ra một sợi dây nhỏ như cước, thoăn thoắt trói thêm mấy vòng tay Phượng Kiều, đoạn cúi xuống định quàng vào chân nàng, Phượng Kiều không nhịn nổi nữa, bất thần tung chân đá thốc một cái vào ngực tên tùy tướng. Đại Sơn Vương đứng gần đấy thoáng thấy nàng chuyển mình, vội nhảy vút lại dịnh giơ tay cản, nhưng không kịp nữa. Chân nàng đã giáng trúng ngực, viên tùy tướng bật ngửa về phía sau như trái cầu. Đại Sơn Vương đinh ninh hắn sẽ giập ngực vì ngọn cước điêu luyện dó, nhưng lạ thay hắn đã nhỏm ngay dậy, hùng hổ nhào tới Phượng Kiều.
                              Bị cản, tên tùy tướng định vùng ra nhưng không nổi, ngay lúc đó, lão động chủ đã tiến lại, xoè một tay định đánh vào Phượng Kiều, thì Đại Sơn Vương chận luôn trước mặt nàng, trừng mắt mắng:
                              – Cô bé này sao dám hỗn! Vào tới đây rồi sức liễu yếu chống cự được bao nhiêu? Biết điều hãy đứng im.
                              Miệng nói, tay giật ngay lấy dây quàng luôn vào chân người yêu, nhân lúc không ai để ý, chàng liền cấu nhẹ vào chân nàng một cái làm hiệu. Phượng Kiều hiểu ý chỉ vùng vùng chiếu lệ để chàng trói hờ, nhưng trong lòng hoang mang vì mấy tiếng “Hủi Cụt tay” vô cùng. Viên động chủ thấy đã trói xong, liền lạnh lùng phất tay một cái. Tên tùy tướng sấn lại, đẩy Phượng Kiều đi ngay. Làm vẻ điềm nhiên, Đại Sơn Vương cũng theo gót nàng luôn, nhưng gã động chủ đã gọi giật lại:
                              – Đầu lĩnh hãy ở lại, ta hỏi đã!
                              Đã ra gần cửa, Đại Sơn Vương đành quay lại:
                              – Thưa động chủ truyền!
                              – Đầu lĩnh xuống Hà Giang, có gặp Đại Sơn Vương?
                              Chàng tướng núi điềm nhiên gật đầu:
                              – Hằn là kẻ thù không đội trời chung của Trần Tắc!
                              – Và là người tình của con gái họ Trần!
                              Lão động chủ ngưng lại, ngó viên đầu lĩnh vẻ cân nhắc điều chi.
                              – Thắng giặc Đại Sơn Vương vừa mới chạm trán với quân Nguyễn Lâm tại biên giới!
                              Chợt thấy lão nhắc tới Nguyễn Lâm, chàng tướng núi sực nghĩ tới mảnh họa đồ bí mật trong mình tên tướng Tây Phàn, vội nói nhanh:
                              – Quên! Động chủ nói đến, mới nhớ ra. Nãy giờ bận việc con gái Trần Tắc, chưa kịp trình động chủ.
                              Chàng hạ giọng buồn rầu:
                              – Nguyễn Lâm đã chết dọc đường rồi. Chắc động chủ chưa hay!
                              Động chủ thoáng biến sắc mặt, mấy khắc sau, cau mày giận dữ:
                              – Sao tên phó đầu lĩnh không hay? Bọn này phải trừng lại nặng mới được.
                              Không đợi lão nói hết câu, Đại Sơn Vương lấy trong mình ra mảnh họa đồ lẳng lặng trao tay lão. Động chủ cầm lấy xem qua, mặt tươi hẳn lên, vỗ vai chàng, có vẻ hài lòng.
                              – Võ Long, không ngờ ngươi đi một việc, được hai. Không có ngươi, bọn chúng làm hỏng việc ta rồi còn gì...
                              Không bỏ lỡ dịp, Đại Sơn Vương nói luôn:
                              – Bản này thực giả chưa rõ. Chỉ con gái Trần Tắc có thể biết được thôi! Con bé chết đi, chắc khó tra xét!
                              Động chủ mân mê mảnh giấy, suy nghĩ mấy khắc:
                              – Đầu lĩnh cho là con bé sẽ chịu chết để thoát khỏi tay Hủi Cụt?
                              – Nhất định thế! Tôi phải giải con bé đi mấy ngày đêm đã rõ.
                              Nếu động chủ cho phép, tôi có kế mọn, chỉ hai mươi bốn tiếng là nhiều, sẽ biết được mọi điều động chủ muốn. Nhưng có lẽ... muộn rồi.
                              Lão động chủ nheo mắt ngó Đại Sơn Vương:
                              – Đầu lĩnh nói sao?
                              Chàng tướng núi mỉm cười, thản nhiên:
                              – Con bé đó đã gặp Hủi Cụt, khi nào chịu sống thêm một khắc?
                              Bí mật đồ bản chắc đã mang xuống tuyền đài còn đâu!
                              Lão động chủ vội cúi xem đồng hồ và vẫy tay, nhanh giọng:
                              – Mau cùng ta xuống ngục! May còn kịp đó!
                              Đại Sơn Vương nãy giờ tuy làm bộ điềm nhiên, nhưng trong lòng đã như lửa đốt, vội cùng lão động chủ bước nhanh ra khỏi hang. Đêm mờ lạnh lẽo sườn non. Lối đi toàn vắt qua những đợt núi tai mèo nhọn hoắt, nhấp nhô. Đại Sơn Vương thấy lão động chủ như người đi ngoạn cảnh. Chàng không khỏi giật mình lấy làm lạ vì lão đi vẫn có vẻ ung dung nhưng thân thể lướt vùn vụt dưới trăng mờ, đủ rõ thuật phi hành của lão đã tới mức kỳ diệu rồi. Đi được chừng non phút, chợt thấy từ phía trước có bóng người xăm xăm đi tới, lại gần, nhận ra chính viên tùy tướng vừa giải Phượng Kiều đến ngục.
                              – Sao? Con bé?
                              – Bẩm, đã trao cho Hủi Cụt tay rồi! Chắc hắn đang... vào việc?
                              Lão động chủ thoáng cau mày, lẳng lặng vẫy tay một cái. Hai người vụt đi, lần này không theo lối khe nữa, toàn băng tắt qua chỗ lượn khúc, có chỗ phi nhảy xa hàng mấy thước trên chỏm tai mèo.
                              Đại Sơn Vương liếc mắt nhìn quanh thấy rất nhiều vọng gác bí mật, trông tinh mắt mới thấy bóng người cầm súng ẩn sau những mô đá lùm cây. Tới một nơi vách dựng như thành, lão động chủ liền cất mình bám dây leo đu vọt. Đại Sơn Vương còn đang bỡ ngỡ vì thấy khác hẳn lối đi trước, đã thấy lão ném dây leo lại. Vít dây đu lên, đặt chân xuống mới biết phía trên núi ăn vùng vào khá lớn lao mạnh theo chiều dốc, mới rõ đã vào tới một chiếc hang lộ thiên nhân tạo.
                              Vừa đặt chân xuống, đã thấy mấy tên quân xuất hiện, cúi rạp đầu chào động chủ.
                              – Hủi Cụt tay hiện ở ngách nào?
                              – Bẩm, đang ở buồng riêng, bên chỗ giam Trần Tắc. Cai ngục đem cô gái tới đó đã mấy phút rồị..
                              – Trời! Muộn quá mất rồị.. Giờ nàỵ..
                              Giọng chàng tướng núi run hẳn lên kinh hoảng khôn cùng, mắt muốn hoa lên, chạy bay theo động chủ đến buồng riêng con quỷ Tây Phàn...
                              Ra khỏi hang động viên tùy tướng đẩy Phượng Kiều đi luôn. Viên tùy tướng thấy nàng đứng lại, liền giơ tay toan đẩy, nhưng Phượng Kiều đã quắc mắt mắng lớn:
                              – Mi đã quên cái đá vừa rồi sao? Để ta đi tử tế, nếu không giờ hồn đó!
                              Viên tùy tướng cả giận vung tay định đánh nhưng nghĩ thế nào lại thôi, chỉ cười nhạt:
                              – Giỏi lắm! Nhưng thôi hãy để sức mà chống với Hủi Cụt! Xen cô em có đủ sức hay không!
                              Mấy tiếng Hủi Cụt kéo Phượng Kiều về thực cảnh, Phượng Kiều bất giác buột miệng hỏi:
                              – Sắp tới chưa? Sao lâu thế... Chú?
                              Thấy giọng cô gái bướng bỉnh đã dịu hẳn, viên tùy tướng bớt giận ngạc nhiên hỏi:
                              – Cô em muốn chóng gặp Hủi Cụt sao? Chà! To gan nhỉ?
                              Thiếu nữ liền làm mặt tươi hỏi:
                              – Hủi Cụt chắc cũng như chú, có gì mà sợ!
                              Khóe mắt người đẹp dưới trăng đêm và giọng thanh ấm như rót vào tai khiến viên tùy tướng vụt bối rối, cười gằn:
                              – Hừ! Sợ hay không mấy phút nữa sẽ biết!
                              Nhưng hắn đã vượt lên, chắn hẳn lấy lối đi, nhìn như muốn nuốt chửng cô gái đẹp. Phượng Kiều bèn khẽ hỏi:
                              – Sắp tới chỗ Hủi Cụt chưa? Có cần phải tới ngay không?
                              Câu nói úp mở của nàng khiến viên tùy tướng như mê hẳn đi, chới với tay toan nắm lấy Phượng Kiều, chợt buông thõng tay như lại điện giật, vẫy Phượng Kiều đi luôn. Nhìn ra, đã thấy hai, ba bóng người từ phía tả rảo bước thẳng về phía hai người. Phượng Kiều bực tức đành bước theo viên tùy tướng, đi được đoạn xa, ngó lại vẫn thấy mấy bóng người kia theo sau.
                              – Ai đó?
                              – Quân quần núi!
                              Phượng Kiều thất vọng, lo lắng khẽ bảo viên tùy tướng:
                              – Tìm lối khác có... tiện?
                              Hắn lắc đầu bực bội:
                              – Chúng đã biết đưa tù tới ngục.
                              – Ngục đá Hủi Cụt!
                              Cô gái biết tình thế đã mười phần nguy hiểm không thể nấn ná được nữa, liền xoay phắt lưng vào vách đá, ngửa mặt nhìn viên tùy tướng.
                              – Chú... đành đưa tôi nộp cho con quỷ sống thật sao? Chú... tôị..
                              Nàng buông lửng, tình tứ, thẹn thùng, ánh lửa từ trong hắt ra lung linh trên khuôn mặt đẹp não nùng, khiến viên tùy tướng ngẩn ra như lạc mất hồn vía, cũng đứng phắt lại, ngây người như tượng gỗ.
                              Mấy khắc, chợt gã dáo dác nhìn trước nhìn sau thấy không có bóng người, liền sấn phăng lại, dang rộng cánh tay ôm chầm lấy nàng.
                              Phượng Kiều liền né nhẹ qua một bên, đồng thời đưa cả hai tay trỏ lên đỡ lấy tay hắn, nói thật khẽ như trách móc:
                              – Kìạ.. làm gì vội thế! Hủi Cụi nó ra bây giờ!
                              Dứt lời, nàng liếc mắt nhìn quanh, thấy có chỗ khá tối ngay sát cửa, liền giật nhẹ luôn hắn, đoạn lẳng lặng bước luôn tới xó tối. Như con hùm dữ đói mồi, viên tỳ tướng chồm theo như muốn nuốt ngay thiếu nữ. Nhưng Phượng Kiều đã ngả lưng giơ luôn cổ tay bị trói lên, thì thầm giục giã:
                              – Phải cởi dây ra chứ! Nhanh lên...
                              Giọng người đẹp thốt ra, thêm mùi hương kỳ dị thoáng phào, khiến người đàn ông tặc đảng mê đi, như bị thôi miên liền run tay vội vã lần cởi dây trói. Nhưng xúc động quá, luống cuống mãi vừa cởi được múi dây, chưa kịp giật ra, thì từ trong hang, thình lình hiện ra hai, ba tên cầm dao, súng bước ra. Gã tùy tướng giật mình vừa buông tay, thì mấy tên kia đã ập tới.
                              – Ai? Giơ tay lên?
                              Một tên quát lớn, chĩa súng, xông lại. Phượng Kiều lúc đó đứng khuất sau thân hình to lớn của tên tùy tướng, liền nhanh tay giật luôn được khẩu súng hên sườn hắn, chĩa về phía trước, miệng khẽ bảo:
                              – Hạ chúng đi còn đợi gì nữa!
                              Nhưng hắn vẫn đứng im, do dự. Cả mấy tên từ từ tiến lại.
                              Phượng Kiều tay còn bị trói, cố giật ra, nhưng dây mới cởi mối, còn quấn quanh tay chằng chịt. Định nổ súng, nhưng lại e quân địch đổ đến, còn đang lưỡng lự, chợt một bàn tay lạ từ sau lưng nàng đánh vụt lên, khiến khẩu súng trên tay rơi luôn xuống nền hang. Giật mình quay lại, Phượng Kiều suýt rú lên, vì một thân hình lêu nghêu đã đứng sững đó từ lúc nào, vùng cất tiếng cười the thé. Trong vùng sáng tối nham nhở, cái mặt hắn lắc lư, loang lổ, như yêu ma, hai tay cụt ngón còn ngay sát nàng. Cô gái lùi phắt lại, đúng lúc, viên tùy tướng cũng quay lại, ngơ ngác nhặt khẩu súng dưới chân.
                              – Hủi Cụt!
                              Tỳ tướng vừa khẽ bật lên, Hủi Cụt đã nhe răng cười, tiến lên, chòng chọc ngó Phượng Kiều, như con quái vật nhìn mồi. Lúc đó, Hủi Cụt đã hiện giữa vệt ánh sáng từ trong hang chiếu ra, khiến Phượng Kiều rùng mình, lạnh toát sống lưng, vội đưa mắt ngó viên tuỳ tướng.
                              Tùy tướng chưa kịp mở miệng, thì sau lưng Hủi Cụt đã thấy lố nhố mấy bóng người, đành nuốt hận, quay bảo Hủi Cụt:
                              – Cám ơn chú đã kịp giúp ta. Động chủ truyền ta dẫn cô gái này tới ngục... Cho chú đó!
                              Hình như đã quá quen nhiệm vụ, Hủi Cụt lại cười nhe răng sấn ngay tới quờ tay cụt nắm lấy Phượng Kiều. Thất thế hoàn toàn, Phượng Kiều dành để bọn chúng lôi đi. Hủi Cụt tập tễnh đi sát sau nàng. Hang sâu thẳm, nhiều ngách, càng vào càng rộng. Đến hơn hai trăm bước, đi qua một phòng có chấn song sắt, Phượng Kiều thoáng thấy bên trong có ánh lửa, liền đưa mắt ngó vào, chợt giật nảy mình khi thấy cha bị xích góc phòng, râu tóc rối bù, hốc hác như ma.
                              – Trời ơi! Thầỵ..
                              Trần Tắc nghe tiếng ngẩng mặt lên, vừa kịp thoáng thấy bóng con gái, thì Hủi Cụt cùng bộ hạ đã lôi phắt nàng đi. Phượng Kiều lòng đau như cắt, cố ngoái cổ lại, nhưng chỉ còn tưởng thấy chấn song sắt vô tình.
                              – Thôi! Cho chúng mày về, để đấy mặc tao!
                              Hủi Cụt đẩy mạnh nàng vào, đóng sập cửa lại. Phòng sáng trưng, ánh lửa trám leo lét góc phòng. Sự vắng vẻ của gian nhà đá khiến Phượng Kiều bất giác rởn tóc gáy, hoang mang cực độ. Thoáng thấy phòng trống trơn, chỉ có chiếc giường gỗ góc phòng, trái tim nàng muốn ngừng đập vì sự im lặng mênh mông của gian phòng đá. Một mùi tanh phà vào mũi, và có tiếng cười the thé sau lưng. Phượng Kiều lấy hết nghị lực, quay mắt lại. Hủi Cụt tay đứng giữa vùng sáng đỏ khè, mặt mũi tay chân lở loét gớm ghê. Đôi mắt Hủi Cụt chợt mở to hí ngó rõ mặt mũi thân hình cô gái đẹp. Có lẽ gã đàn ông không ngờ lại có người nhan sắc đến thế, nên hắn chớp mắt, ngây người ra ngắm, đến mươi khắc sau, mới cất giọng cười hềnh hệch, tiến lại quờ tay định nắm lấy cô tiên. Lần thứ hai bản năng tự vệ lại vùng dậy, Phượng Kiều thấy tay chân đã bị trói chặt, liền giả vờ thẹn, lui lại ngó hắn như van lơn, khẩn cầu.
                              – Cô em... không sợ mà...
                              Vừa nói hắn vừa xông lại. Phượng Kiều lựa thế vòng ra cửa, nhưng chân bị trói chỉ bước được những bước rất ngắn, nên tới được cửa thì hắn cũng đã đến sát chỉ cách chừng nửa thước. Hắn giơ chiếc chìa khóa lên trước mặt cho nàng coi và ném mạnh lên một hốc đá trần hang.
                              – Đừng hòng chạm tới! Tôi liều chết cho coi!
                              Vừa nói nàng vừa nghiêng đầu, mắt nhìn thẳng vào Hủi Cụt. Con quỷ sống vội ngừng ngay lại, mặt thoáng vẻ ngơ ngác. Biết hắn đã sợ mất mồi ngon, Phượng Kiều liền dịu nét mặt, hỏi trống không:
                              – Thế... Có biết động chủ gửi tôi lại đây làm gì không?
                              Hủi Cụt nhe răng cười, không nói gì. Nàng buồn rầu nói khẽ:
                              – Tôi bị động chủ bắt phải làm vợ chú. Nếu anh cưỡng bước thì tôi thà chết.
                              Hủi Cụt tai nghe nói động chủ bắt nàng làm vợ mình, đứng ngẩn ra ngó người đẹp, không ngờ lại được diễm phúc suốt cả đời kề tiên nữ, vì hắn đinh ninh động chủ chỉ trao để làm nhiệm vụ quỷ sống lấy tài liệu trong chốc lát như lệ thường thôi.
                              Đọc rõ vẻ sung sướng pha lẫn hoài nghi trên cái mặt sần sùi đỏ loét, Phượng Kiều liền vờ ngó quanh hỏi:
                              – Tôi đói quá, cả ngày chưa được ăn gì, chú có gì cho tôi ăn uống không?
                              – Đói rồi ăn, giờ...
                              Thừa biết quỷ đói khao khát muốn vồ mồi ngay, Phượng Kiều lại nhích ra xa, lắc đầu:
                              – Không... Tôi còn biến đâu khỏi cái nhà đá này mà chú cứ cuống lên như ăn cướp thế!
                              Như chợt nhớ ra, nàng hạ giọng trách móc như hứa hẹn:
                              – Vậy cởi dây mau đi. Chú tệ lắm! Ai lại để trói thế này mãi.
                              Cũng như tên tùy tướng, Hủi Cụt đã bị người đẹp làm lạc cả hồn vía trong nháy mắt, nên lật đật cởi dây trói tay cho nàng, nhưng con quỷ sống vẫn ngó chừng nàng như chỉ sợ cởi dây là con chim xanh bay mất. Phượng Kiều được Hủi Cụt cởi trói nhưng đã đề phòng, liền khéo léo gạt tay Hủi Cụt khi hắn định đưa tay sờ nắn mình, nhanh giọng giục:
                              – Kìạ.. Còn chân nữa! Mau lên đã!
                              Nhưng Hủi Cụt như không có sức chờ đợi được nữa, cặp mắt con quỷ sống đã đục ngầu. Phượng Kiều biết không thể trì hoãn được nữa, liền vờ thẹn thùng ngoan ngoãn lui đến góc phòng trong, ngồi phịch xuống thành giường, ngả người vào vách đá, hai tay khoanh sau gáy, miệng nhoẻn cười, tay kín đáo lần khẩu súng giắtt trong mớ tóc mây. Con quỷ sống thấy người đẹp ngoan ngoãn, mừng run lên, hấp tấp tiến đến, dang tay vồ lấy, môi mấp máy phều phào:
                              – Nàng... nàng...
                              Phượng Kiều co hai chân trói lên, ngửa hẳn người ra chờ đợi, thân hình quỷ sống vừa cúi xuống, hai bàn tay vừa vồ lấy vai người đẹp, bất thình lình, trong khắc thập phần nguy hiểm, hai chân Phượng Kiều đạp thốc lên giữa bụng dưới quỷ sống mạnh, nhanh như vũ bão. Hủi Cụt bật hẳn người ra phía sau như trái cầu, theo đà chân đạp, cô gái họ Trần đã tung mình ngồi lên, khẩu súng nhỏ xíu đã nằm gọn trong bàn tay trái chĩa vào Hủi Cụt, tay phải thoăn thoắt lần lần cởi dây trói.
                              Bị cái đạp trời giáng, Hủi Cụt đã gượng ngay dậy được, ngó thấy “mồi đẹp” đang cởi dây. Hủi Cụt rút luôn trong mình ra một khẩu súng Mauser ,” nhỏ, chĩa vào nàng, gầm lên:
                              – Giỏi lắm! Mày dám lừa tao! Ngồi im!
                              Bộp. Nhanh như cắt, Phượng Kiều đã lảy cò, viên đạn bắn vào giữa ngực Hủi Cụt. Nhưng lạ thay, Hủi Cụt vẫn trơ trơ, hắn định bóp cò, nhưng nghĩ sao, liền lùi lại bên vách đá. Sợi dây trói chân cũng vừa bị giật ra, Phượng Kiều đứng phắt dậy, biết ngực hắn có thép bọc, định bắn phát nữa vào đầu, nhưng nhớ lại người yêu dặn tầm súng, nàng toan tiến lên, chợt thấy nền hang dưới chân chuyển động, vội cất chân nhảy vọt lên. Nhưng từ nóc hang, một tấm lưới đã chụp xuống đầu, cùng lúc, nền hang tụt hẳn xuống, cả lưới lẫn người vừa hạ, rơi luôn xuống hầm tối. Phượng Kiều thấy thân hình như rơi vào một khoảng không vô tận, bên tai chỉ toàn tiếng vù vù như gió thổi, đoán mình đang lao xuống vực thẳm, thiếu nữ nhắm nghiền mắt lại, ruột gan như đảo lộn quay cuồng. Chợt thấy thân hình chạm nhẹ vào một vật nhẹ bềnh bồng, rồi bên tai không còn tiếng vù vù nữa, nàng vội mở choàng mắt ra, ngạc nhiên thấy mình nằm trên một tấm lưới căng, giữa một vùng tối tăm mù mịt. Cố lấy lại thăng bằng, lắng nghe, dưới chân có tiếng nước chảy róc rách đều đều. Rồi như có vật gì lội bì bõm dưới nước, đến ngay phía dưới. Nàng vội hếch mũi lên, ngửi rõ mùi tanh lợm giọng lên. Ngạc nhiên, nàng vội lấy sức lăn mình luôn mấy vòng, thì thấy thân thể chạm phải vách đá mốc rêu, cố vùng vẫy mãi không thoát được tấm lưới chụp. Còn đang lúng túng chợt thấy phía trước đêm tối như loãng dần, có ánh sáng chập chờn ẩn hiện. Nàng định thần nhìn kỹ, thấy một đốm sáng như ma trơi lửng lơ tiến đến, cách nàng chừng mươi thước dừng lại lắc lư.
                              Còn đang kinh tởm, chợt nghe tiếng phì, nhìn sang thấy cặp trăn lớn nhoài trên vách đá tiến đến, nàng vội lăn mình sang bên kia, lại nghe có tiếng gầm gừ, chú ý nhìn, thấy một con hổ mộng đứng ngay bên bờ nước nhòm lên. Biết mình rơi xuống hầm độc, Phượng Kiều luồn tay sờ tìm khẩu súng, nhưng súng đã rơi mất, còn đang lúng túng trong lưới, chợt lại thấy trong bóng tối một hình thù cao thình hình từ từ tiến đến. Cách chỗ nàng độ vài thước, hình thù dừng lại hú lên mấy tiếng dị kỳ! Thoáng cái, thuồng luồng, trăn, hổ biến mất, hình thù cao lớn liền tiến đến sát tấm lưới căng, cười the thé. Lúc đó, nàng mới nhận rõ nó là một dã nhân lớn như người khổng lổ, toàn thân lông lá xồm xoàm. Dã nhân giương mắt thao láo ngó người nằm trong lưới, khi nhận ra chính là một cô gái tuyệt sắc, dã nhân vùng rống lên, quài tay kéo mạnh mép lưới. Phượng Kiều giật mình kinh sợ khi thấy hình thù phi nhân phi thú đã kề mình, trong khắc hoảng hốt, nàng định lăn ra xa, nhưng tấm lưới như chùn hẳn lại, nháy mắt, hai cánh tay khổng lồ đã quài ra, ôm bổng cả nàng lẫn lưới nhẹ nhàng như bắt con cá nhỏ. Phượng Kiều vùng vẫy tuyệt vọng giữa gọng kìm thép. Nếu không có tấm lưới bọc quanh mình, nàng có thể ghê tởm đến ngất đi trên cánh tay dã nhân đầy lông lá. Con vật bồng nàng đi tới đâu, đốm sáng lửng lơ theo tới đó, nàng phải nín thở vì hơi tanh khẳm sặc sụa phà vào mũi. Xoạt. Năm ngón tay quái vật đã xé rách xiêm y. Vùng hiểu rõ, Phượng Kiều cả kinh vung tay chống cự. Phượng Kiều kinh hoàng nhìn xuống thấy xiêm áo đã rách mấy đường lớn, và cặp mắt con vật tinh quái đục ngầu đang chòng chọc ngó như muốn nuốt sống tấm da thịt mịn màng, nàng vội thét lên, vừa thẹn sợ vừa giận dữ, vùng tận lực bình sinh, đá một ngọn cước trúng huyệt nách dã nhân. Bị trúng hiểm huyệt, con quái vật tê buốt nửa thân, buông rơi miếng mồi ngon. Hai chân vừa chạm đất, cô gái liền nhảy luôn vào góc hang, hai tay khép đường xiêm rách, mắt đảo quanh tìm một nhũ đá tai mèo. Trong khắc nguy nan, vô phương tự vệ trước dã nhân khổng lồ, nàng vụt tính tới chuyện quyên sinh bảo toàn trinh tiết. Dã nhân từ từ tiến lại, trong vùng ánh sáng nham nhở, hình thù đầy lông lá lắc lư như bóng quỉ nhập tràng. Hai tay dã nhân dang rộng, chỉ một cái với tay là nắm được mỹ nhân.
                              Phượng Kiều mím môi, nghiêng đầu định lao vào nhũ đá.
                              – Người rừng!
                              Hủi Cụt đứng sừng sững giữa cửa, dao súng giắt ngang sườn, mắt trợn trừng nhìn dã nhân.
                              – Sao không đem lên phòng tao ngay? Lại đem vào hang mày làm chi! Ra ngay!
                              Dã nhân lừ mắt nhìn Hủi Cụt. Thấy quái vật cũng không nhúc nhích, Hủi Cụt tiến thêm vào một bước, phất tay cho con vật lui ra.
                              Nhưng có lẽ bị mất miếng mồi ngon kề tận miệng, quái vật đã nổi tính rừng, liền từ từ tiến lại trước Hủi Cụt, vung tay đánh xuống. Bị kháng lệnh, Hủi Cụt rút phắt dao quắm ra, nghiến răng ken két:
                              – Chà! Con vật này đã đến ngày tận số, dám trái lời ta!
                              Dứt lời, Hủi Cụt ra cửa, hú lên mấy tiếng dị kỳ. Dứt tiếng hú, Phượng Kiều thấy mấy con hùm xám, báo ở đâu nhảy vút vào đánh con dã nhân. Thế là cả mấy con vật hùng hổ quần nhau trong lòng hang chật, tay chân đầu đuôi quất vun vút, mấy lần suýt đánh vào cô gái. Nàng vội lựa thế vừa tránh lần ra cửa hang, nhưng vừa tới, đã bị Hủi Cụt nhanh tay nắm lấy. Ngay lúc đó, hùm xám bị đánh tung ra ngoài, chân quờ cả vào nàng. Phượng Kiều chưa kịp gỡ thoát, thình lình từ xó tối, một bong người lao vút tới, chỉ thấy loáng một cái, đã thấy Hủi Cụt nhăn nhó ôm tay. Ngạc nhiên, cô gái họ Trần suýt nữa không cầm xúc động bật gọi tên chàng, nếu không thoáng thấy lão động chủ Phản Tây Phàn đứng sau.
                              – Chúng bay hãy ngừng tay. Có động chủ tới!
                              Đại Sơn Vương nghiêm giọng quát, tiếp theo, lão động chủ tiến lại cửa hang, phất tay làm hiệu. Bầy thú dữ vội ngừng giao đấu, máu me loang lổ trên mình. Lão động chủ ngó Phượng Kiều, đuôi mắt thoáng nheo lại khi thấy xiêm y cô gái bị xé toạc. Lúc đó, Phượng Kiều mới sực nhớ ra, vừa giận vừa thẹn, lấy tay khép áo lại. Đại Sơn Vương cố nén lo sợ, đưa mắt nhìn nàng. Thiếu nữ chớp mắt, kín đáo nhếch miệng hoa cười gượng, mừng mừng tủi tủi, không dám nói nên lời. Lão động chủ nhếch cười nửa miệng, tay vuốt nhẹ chòm râu mép, quay bảo Đại Sơn Vương:
                              – Đầu lĩnh! Ta trao cô gái họ Trần cho, đầu lĩnh làm sao nên việc. Quá thời hạn không xong phải trao nàng cho Hủi Cụt!
                              Dứt lời, lão ngó Phượng Kiều, đoạn cười khì, tiếp:
                              – Nhưng đầu lĩnh phải coi chừng. Nhan sắc con gái họ Trần đã làm bầy thú dữ của ta cũng phải động lòng rồị..
                              Ngoắt tay một cái, lão động chủ quay ra liền. Không chậm trễ, Đại Sơn Vương liền tiến tới bên Phượng Kiều, tuốt dao chém tung dây trói, kéo luôn nàng đi theo động chủ.
                              – May cho nàng, động chủ đến kịp đó! Thương nàng phận gái, động chủ ta không nỡ để bọn quỷ sống giày vò ngay, nên trao nàng cho ta dẫn dụ. Biết điều hãy ngoan ngoãn theo ta!
                              Chàng tướng núi nói hơi to, cốt để lão động chủ nghe tiếng, đi được một quãng, ngoảnh lại không thấy ai, liền ghé sát vào Phượng Kiều, khẽ hỏi:
                              – Anh đã tưởng không kịp! Em phải một phen kinh hãi! Có sao không?
                              Vừa nói, chàng vừa khoác áo choàng lên vai nàng. Phượng Kiều mừng mừng tủi tủi:
                              – Không ngờ bọn nàỵ.. ghê gớm quá! Em không dùng mỹ nhân kế hoãn binh khéo chết rồi! Mấy lần định đập đầu vào vách đá...
                              Lão động chủ chỉ hơi gật đầu đáp lại khi thấy đầu lĩnh cúi chào, khi dẫn Phượng Kiều tiến lại gần, đứng im như chờ lệnh. Gã nói với Đại Sơn Vương trước khi bước thẳng ra ngoài:
                              – Khuya rồi, ta cho đầu lĩnh đem cô gái họ Trần về phòng riêng đó! Nhớ lời ta dặn nghe!
                              – Dạ. Xin động chủ an tâm. Võ này sẽ có phúc trình ngay!
                              Chờ cho lão đi khuất hẳn, Đại Sơn Vương mới quay bảo Phượng Kiều:
                              – Cô em đã nghe rõ chứ? Vậy nên theo ta về phòng riêng cho ngoan ngoãn, đừng để Võ Long này phải phiền lòng... ! Nếu bướng bỉnh, chớ trách ta độc ác.
                              Về tới phòng riêng hang ngách, Đại Sơn Vương truyền quân hầu nhóm lửa sưởi, rồi đuổi hết chúng ra, đóng cửa lại, giục Phượng Kiều thay xiêm áo.
                              – Anh ơi! Còn nằm trong sào huyệt sài lang này phút nào, lòng em vẫn như lửa đốt! Anh thương em, hãy giải cứu cha em khỏi cảnh ghê gớm này. Thoát khỏi, em sẽ về Cao Bằng đem quân gia lên làm cỏ bọn này mới nghe!
                              Đại Sơn Vương nhẹ vuốt tóc nàng:
                              – Coi em mệt lắm, phải ăn uống, nghỉ ngơi cho lại sức đã! Mọi việc để anh liệu.
                              Phượng Kiều gật đầu nhoẻn miệng cười thẹn, gần Đại Sơn Vương, nàng chỉ là một thiếu nữ đào tơ liễu yếu phó thác vận mạng cả cho chàng tướng núi ngang tàng. Ăn uống xong, Đại Sơn Vương liền dìu nàng vào giường nghỉ cho lại sức, chính tay chàng kéo chăn đắp lên ngực nàng và cũng như thường lệ, chàng ngồi bên lửa canh cho nàng ngù, gần sáng mới ngả lưng lên bếp lửa chợp mắt cho đỡ mệt.
                              Tỉnh dậy đã nghe vượn hú sườn non. Đại Sơn Vương nhìn lên thấy Phượng Kiều đã ngồi bên để đầu chàng gối lên đùi nàng từ lúc nào rồi.
                              – Anh... đã dậy!
                              Đại Sơn Vương nhìn quanh thấy ấm nước trên bếp, cạnh có để chiếc chậu nhỏ, chàng ngạc nhiên hỏi:
                              – Em lấy nước ở đâu đấy?
                              Phượng Kiều trỏ ra ngoài:
                              – Mạch nước gần đây! Em... hỏi bọn quân canh!
                              Đại Sơn Vương hơi cau mày gắt nhẹ:
                              – Đã bảo không nên ra ngoài mà! Làm vậy lỡ xảy ra chuyện gì thì sao? Em làm như ở nhà vậy!
                              Phượng Kiều cười tạ lỗi, im mấy giây nói khẽ:
                              – Hình như chúng không biết rõ, anh ạ. Có mấy đứa tưởng em là... vợ đầu lĩnh, chúng lễ phép lắm, tranh nhau lấy nước cho em.
                              Vừa nói, nàng vừa nhanh nhẹn sửa soạn nước ấm cho chàng rửa mặt, và lục “sắc” lấy “phin” pha cà phê, dáng dấp âu yếm như người vợ mới cưới hầu hạ chồng thời trăng mật nhàn du vậy.
                              Tướng Thập Vạn Đại Sơn vội liếc qua vào mảnh gương trên tay Phượng Kiều, xem qua nét ngụy trang, đoạn khẽ vẫy tay bảo nàng ra mở cửa, còn mình vẫn ngồi uống cà phê.
                              – Ai đó?
                              Miệng hỏi, tay kéo then sắt, Phượng Kiều hé cửa nhìn ra. Một khuôn mặt đàn bà hiện ngoài khung cửa, cặp mắt quắc nhìn trừng vào cô gái họ Trần.
                              – Võ đầu lĩnh đã thức chưa?
                              Người đàn bà khẽ hất hàm, giọng lạnh như băng. Phượng Kiều cau mày định cự, Đại Sơn Vương reo:
                              – Kìa Cầm cô nương!
                              Cô gái lạ vẫn đứng im, mặt hầm hầm nhìn Phượng Kiều, Đại Sơn Vương nhớ tới lời Võ Long khai, sực hiểu ngay, vì cô gái yêu của động chủ vốn có tình ý thầm với đầu lĩnh Võ Long, làm vẻ thản nhiên, chàng trỏ cô gái bảo Phượng Kiều:
                              – Đây Cầm cô nương chính là ái nữ động chủ! Còn đâỵ.. Cô gái họ Trần.
                              Cô gái động chủ bước vào, đưa mắt ngó khắp gian nhà, chăn màn ly tách ngổn ngang, đoạn nhếch miệng cười khẩy một tràng:
                              – Động chủ muốn gặp đầu lĩnh! Đêm qua, chắc đầu lĩnh đã làm xong nhiệm vụ, vì xem chừng... Cô nàng có vẻ ngoan với đầu lĩnh lắm!
                              Mấy câu sau, cô gái họ Cầm nhìn sang Phượng Kiều, khinh bỉ.
                              Thiếu nữ họ Trần giận nóng mặt, nhưng chợt nhớ lời người yêu, đành làm mặt thẹn thùa ngó Đại Sơn Vương. Không ngờ vẻ thẹn thùng càng làm cô gái họ Cầm ghen uất lên, vùng bước ra luôn. Đại Sơn Vương vội bảo người yêu:
                              – Em đóng cửa lại, chờ anh! Nhớ không cho ai vào, trừ động chủ.
                              Anh sẽ trở về ngay!
                              Dứt lời, chàng rảo bước theo luôn cô gái họ Cầm.
                              – Tiểu thư!
                              – Đầu lĩnh về tận Hà Giang bắt con gái Trần Tắc lên, sao không để Hủi Cụt bắt nó cung khai?
                              Thừa biết cô nàng ghen với Phượng Kiều, Đại Sơn Vương nghiêm trang lắc đầu:
                              – Với cô bé này đâu có được! Chính động chủ đã ra lệnh cho tôi dùng “nam nhân kế” dụ nàng ta!
                              Cô gái họ Cầm nhếch miệng cười mỉa mai, hờn dỗi:
                              – Nam nhân kế? Sao cha tôi tính việc ngược đời thế?
                              Nhưng cô gái họ Cầm đã hạ luôn nhát búa:
                              – Không thể được! Tôi phải nói với cha tôi ngay!
                              Chàng tướng núi biết cô gái đã sợ sắc đẹp của Phượng Kiều, liền ghé sát bên nàng, hạ thấp giọng trách móc thân mật:
                              – Việc quan trọng lắm, phải khổ công lắm mới bắt được cha con Trần Tắc. Sơ ý một chút, chúng có thể chết ngay, đem theo điều bí ẩn! Bất đắc dĩ, phải dùng kế dụ mềm cho nên việcc, chứ lòng Võ này đã...
                              Chàng ngừng lại, buông lửng, mải nhìn nàng tha thiết, buồn buồn, khiến con gái động chủ phải xúc động tâm can, vợi ngay lòng ghen tức.
                              – Nhưng... phải mất bao lâu?
                              – Nay mai là cùng, tôi sẽ biết được mọi điều cần thiết.
                              Xem chừng nàng ta đã xiêu lòng nhiều rồị.. Hai người đến một chỗ khuất, có cành lá rườm rà. Chợt cô gái dừng ngay lại ngang đường. Đại Sơn Vương đang rảo bước cũng vội dừng theo, còn đang ngạc nhiên thì cô gái đã nắm luôn lấy tay, ngả luôn đầu vào ngực chàng, lả lơi:
                              – Võ lang! Mấy ngày nay nhớ anh mất ăn mất ngủ, lời anh bên suối Phòng Tô vẫn còn văng vẳng bên taị.. Em không chờ được nữa đâụ..
                              Đại Sơn Vương bị du vào tình thế thập phần khó xử, tuy không rõ chi tiết mối tình câm của viên đầu lĩnh với cô gái họ Cầm, nhưng cùng đoán được vài phần, chàng còn đang luống cuống, may thay giữa lúc đó, phía trước thoảng có bóng người đi lại, liền nhanh giọng bảo cô nàng:
                              – Có người tới! Tiểu thự..
                              Cô gái vội buông Đại Sơn Vương ra thì người kia cũng đến nơi, cả hai nhận ra chính là tên tuỳ tướng.
                              – Động chủ muốn gặp đầu lĩnh ngay có việc! May quá, lại có cả tiểu thư!
                              Con gái động chủ cau mày vẫn còn bực bội:
                              – Việc gì đó? Chú cứ về trước đi! Ta cùng đầu lĩnh tới ngay!
                              Chợt thấy một viên tướng từ trong động bước ra, vừa trông thấy chàng, hắn vội tiến ngay lại nắm lấy tay, vồn vã:
                              – Võ Long! Chà! Tức quá, bọn đệ vừa bị thất điên bát đảo với thằng Đại Sơn Vương! Không gặp nó, bọn đệ đã bắt được anh em Khách Giang Hồ rồi!
                              Đại Sơn Vương nhếch miệng cười, gật đầu:
                              – Tôi có về qua chỗ đánh nhau. Để gặp động chủ ra, ta sẽ nói chuyện!
                              Miệng nói, chân bước luôn, nhưng viên tướng ngó theo Đại Sơn Vương mấy khắc định nói gì lại thôi. Chàng tướng núi cứ làm vẻ điềm nhiên cùng con gái động chủ thẳng vào trong. Qua mấy ngách, mới tới một căn rộng dùng làm đại sảnh. Chàng vừa đặt chân vào nền sảnh, đã thấy mấy lên võ sĩ rạp mình chào, lấp loáng bốn bên, gươm giáo tuốt trần, liếc mắt qua, chàng tướng núi cảm thấy như sát khí đã đục ngầu đại sảnh.
                              Nhưng cô nàng nhìn vào phía trong, chợt quay bảo chàng:
                              – Cha em có khách! Ai như Thủy Vương Ba Bể thì phải.
                              Thấy hai người bước tới, cả bọn quay cả ra. Toàn bọn lục lâm nữ tặc. Trại Võ Hậu Liễu Nương, ngồi bên tả động chủ, cạnh hai, ba cô gái Tàu. Bên phải lão, là một thiếu nữ Kinh lai Thổ, đẹp tựa yêu ma.
                              – Nữ Thủy Vương Ba Bể!
                              Con gái động chủ vừa quay bảo Đại Sơn Vương, chàng chưa kịp ngạc nhiên thì lão động chủ đã trỏ ngay một chiếc ghế ngoài, khẽ hất hàm bảo ngồi luôn.
                              – Võ Long đầu lĩnh.
                              Lão động chủ vừa trỏ chàng giới thiệu với cả bọn, chợt Trại Võ Hậu chòng chọc ngó chàng, cặp chân mày nhíu hẳn lại, bật lên ngạc nhiên:
                              – Chà! Đầu lĩnh đã xuống Hà Giang bắt sống được người tình của Đại Sơn Vương sao?
                              Chàng tướng núi chưa kịp lên tiếng, thì nữ Thủy Vương Ba Bể đã nhếch miệng cười bảo Liễu Nương:
                              – Cô nương lạ lắm ư? Tưởng bắt ngay Đại Sơn Vương cũng không lạ, huống chi người tình của hắn?
                              Vẫn không hết ngạc nhiên, Trại Võ Hậu đăm đăm nhìn Đại Sơn Vương, như suy nghĩ điều gì, đoạn quay sang động chủ nghiêm mặt, chậm rãi:
                              – Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn hiện có mặt miền này rồi! Động chủ phải thận trọng, có khi hắn đã lọt vào đây để giải thoát cho Phượng Kiều đó!
                              Lão động chủ nhếch mép cười nham hiểm, tay vuốt nhẹ chòm ria thưa:
                              – Cô nương yên tâm! Bẫy Tây Phàn đã giương sắn, chờ hổ đói!
                              Đêm kia, có lẽ tên tướng giặc đó đột nhập, nhưng bị quân canh phục bắn trúng mũi độc vào cánh tay rồi. Nếu thoát chết, sớm muộn hắn cũng tìm tới đây!
                              Nữ Thủy Vương Ba Bể long lanh mắt, dằn giọng:
                              – Đại Sơn Vương nó ba đầu sáu tay sao thúc phụ và cô nương phải quá bận tâm! Tiếc thay chưa lần nào hắn dám tới miền Hồ Ba Bể!
                              Nghe giọng kiêu ngạo của Nữ Thủy Vương, Trại Võ Hậu chỉ nhếch miệng cười, chưa kịp lên tiếng, chợt quân hầu chạy vào rạp đầu trước động chủ:
                              – Bẩm, có Lầm, Lừng nhị vị đại vương vừa đến.
                              Động chủ cả mừng, liền cùng mọi người bước ra đón, được mấy bước, vội quay bảo Đại Sơn Vương:
                              – Đầu lĩnh khá theo Nữ Thủy Vương sang căn bên, có việc cần yếu!
                              Chàng tướng núi nhìn sang bên, thấy Nữ Thủy Vương đang đứng đợi cạnh con gái động chủ, liền bước trở vào, theo hai nàng qua cửa ngách, sang một căn hẹp, trên tường treo đầy những bản đồ núi rừng biên giới. Đại Sơn Vương lẳng lặng theo hai cô gái, ngồi xuống chiếc ghế cạnh. Cô con gái động chủ lấy trong mình ra hai tấm giấy trải trước mặt, đoạn lấy ra ít dụng cụ khảo cổ lúi húi làm việc. Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn thấy một tấm giấy chính là mảnh họa đồ chàng lấy trong mình tên tướng Tây Phàn đưa cho động chủ.
                              Không đầy mươi phút, đã thấy cô gái ngừng tay, gạt cả hai mảnh giấy sang một bên, ngẩng nhìn Đại Sơn Vương, cười gằn hậm hực:
                              – Mảnh họa đồ này giả! Không phải thứ giấy bồi vẫn dùng hồi Tây mới sang hạ thành Huế! Lão Trần Tắc này gan thật. Phải cho hai cha con nó biết tay mới được.
                              Đại Sơn Vương đưa mắt nhìn về phía tả, thấy còn một ngách thông ra ngoài hang, vội bước luôn ra, nhân lúc lộn xộn, nhanh như cắt, chàng phóng luôn hai ngọn dao vụt qua cửa sổ trước đại sảnh, và lộn lại cửa ngách luôn. Chàng hành động nhanh đến nỗi vừa lộn vào cửa ngách đã kịp thấy hai viên tướng thổ phỉ đứng sững như tượng gỗ, mỗi tên một ngọn dao con ghim sát cổ họng, rung rung mũi dao cắm vào giá gỗ bên vách. Hai ngọn dao bất ngờ cắm phập khiến cả bọn đứng sờ như điện giật lúc quay nhìn ra ngoài, thì Đại Sơn Vương đã ung dung từ ngách cửa bước vào.
                              – Có thích khách?
                              Mấy viên tỳ tướng cùng lúc bật lên giật giọng, nhốn nháo chạy cả ra cửa sảnh. Liễu Nương Trại Võ Hậu đứng gần động chủ đã nhanh nhẹn tiến đến rút ngọn dao ra, liếc nhìn qua và trao cho động chủ. Lão tặc Phản Tây Phàn mở mắt trừng trừng nhìn năm chữ “Đại Sơn Vương Thần Xạ” mặt giận tái như chàm đổ. Nữ Thuỷ Vương, con gái họ Cầm vừa xúm lại thì bất thình lình lão đã quắc mắt nhìn ra cửa sổ, tay vung mạnh lưỡi dao, quát lớn:
                              – Quân khốn khiếp!
                              Mọi người vừa ngó ra, vừa lúc một thân hình cao lêu nghêu vụt đổ ngoài khung cửa sổ. Ra coi, chính là tên đốc gác vùng đại sảnh.
                              Vua ám khí họ Lầm vẫn chưa hết kinh tâm, thấy lão động chủ nổi giận, làm vẻ điềm tĩnh bước đến bên, cười bảo:
                              – Lão gia chớ khá bận lòng! Đại Sơn Vương vốn tay thiện nghệ, đám tướng thường sao ngăn nổi việc nó làm?
                              Lão động chủ nén giận mời khách Tàu an toạ, chuyện trò. Đại Sơn Vương ngồi một bên thấy Lầm, Lừng và hai tướng thổ phỉ thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn Liễu Nương rồi lo liếc trộm mình, đến hơn phút sau, mới ghé tai hỏi nhỏ lão động chủ câu gì không biết. Chỉ thấy động chủ hơi nhíu mày, rồi lại điềm nhiên như không, tiếp tục nói chuyện, chàng đâm chột dạ, làm mặt thản nhiên đưa mắt cho con gái động chủ cùng Nữ Thủy Vương ngầm nhắc chuyện bản đồ để đánh lạc hướng đi, nhưng hai cô gái chưa kịp nói chi, lão động chủ đã vẫy tay cho đám tùy tướng lui ra hết, trong đại sảnh chỉ còn lại mấy người. Chàng tướng núi chưa hiểu chuyện chi, thì Lầm Đại Vương đã liếc cặp mắt sắc như dao nhìn mọi người, thấp giọng nói từng tiếng một:
                              – Tôi phải vượt biên giới sang đây gấp để báo lão gia rõ:
                              Bức họa đồ Trần Tắc đã trao cho con gái hắn, còn... mảnh của lão gia bí mật dể trong hốc đá hiện đã vào tay người bí mật rồi!
                              Lời viên tướng thổ phỉ vừa buông, khiến Đại Sơn Vương suýt giật nẩy mình vì kinh ngạc.
                              – Sếnh sáng nói chi ta chưa nghe rõ. Mảnh họa đồ nàọ..
                              Như đoán rõ cả ý động chủ, tướng thổ phỉ lạnh lùng ngắt lời luôn:
                              – Lão gia chớ nghi ngại. Chúng tôi muốn hợp cùng lão gia. Xin hãy cứ tới nơi cất giấu.
                              Lão động chủ ngồi im, nhìn như xói vào ruột gan tướng thổ phỉ, mấy khắc sau, có lẽ như đã có chủ định, liền đưa mắt cho con gái. Cô gái Thổ vội đứng lên ra khỏi tòa sảnh.
                              Lão động chủ đứng vụt lên khi thấy cô gái quay lại, vẻ mặt khác thường, nhanh giọng:
                              – Cầm Lình! Saọ..?
                              Cô gái bước vào, mặt biến sắc, đưa mắt nhìn mọi người chưa kịp trả lời thì Lầm Đại Vương đã điềm nhiên liếc nhìn động chủ:
                              – Lầm đâu dám nói sai! Lão gia hãy bình tĩnh, tôi đã có kế hay giúp lão gia đoạt lại!
                              Động chủ chậm chạp gieo mình xuống ghế, da mặt tái hẳn đi, đến mươi khắc sau mới nghiến răng uất hận:
                              – Kẻ bí mật? Nó có tài chi đoạt nổi báu vật ta mất nửa đời mới kiếm được? Phải chăng tướng giặc Thập Vạn Đại Sơn?
                              Lầm lắc đầu:
                              – Không phải hắn. Nhưng nếu không lầm, người bí mật chỉ là kẻ... trói gà không nổi.
                              Tướng Xạ Phang ngừng mấy giây, điềm nhiên nhìn những cặp chân mày nhíu hẳn lại vì ngạc nhiên, bất thần tiếp lời:
                              – Việc đó sau sẽ liệu. Giờ xin bàn ngay tới bức họa đồ trong tay cô gái họ Trần. Chúng tôi muốn mua lạị.. Cô gái đó.
                              Mấy cha con động chủ không giấu vẻ lạ lùng. Động chủ nghiêm mặt, hơi khó chịu:
                              – Sếnh sáng cần lấy mảnh họa đồ?
                              Tướng Xạ Phang lắc đầu:
                              – Tôi không có nhiều tham vọng. Chỉ mua món hàng sống đó chọ.. kẻ khác, và cũng không cần biết người đó định làm gì!
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment

                              Working...
                              X