B ả n Đ à n M a
Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma,
Bao phen dặm cát bụi hồng, tất cả khêu cười cho lũ quỷ
Tỉnh Long Hồ có Vũ Sinh chơi đàn nổi tiếng tài hoa, vốn dòng dõi nho gia thanh bạch. Sinh từ nhỏ đã say mê nghiệp cầm ca, thích chơi đàn cò hay đàn gáo nhưng đặc biệt nhất là đánh đàn độc huyền. Chàng tính tình nhã nhặn, được cha cho theo học với một ông đồ nhưng Sinh hay xao lãng việc đèn sách, ngày ngày chỉ đam mê cung đàn tiếng nhạc vì vậy cha vẫn rầy mắng luôn. Tuy nhiên Sinh chứng nào tật nấy không thể bỏ được, riết rồi cha chàng cũng bỏ mặc kệ cho. Nơi nào có những cầm sư nổi tiếng là chàng cũngcố tìm đến, mong học hỏi cho được tuyệt nghệ, đạt đến mức tuyệt đỉnh của tiếng đàn. Gần nhà chàng có một bến đò trên sông lớn, khách thập phương thường hay qua lại nên có một người nghệ sĩ già, mủ cả đôi mắt hay ngồi gãy độc huyền cầm làm phương tiện kiếm ăn. Sinh thường hay lén cha đến bến đò để ngồi nghe hàng giờ tiếng đàn của người nhạc sĩ, nhiều khi quên cả bữa cơm chiều. Tiếng độc huyền cầm lanh lảnh, ai oán tài hoa dường như đã đến chỗ tột cùng, đôi khi kèm theo vài câu vọng cổ mùi rệu thê lương của người nghệ sĩ mù đã làm cho Sinh say mê như điếu đổ. Riết rồi người nghệ sĩ mù cũng biết tật đam mê của chàng mà dần dà đem lòng thương mến kẻ đồng điệu nên không ngần ngại truyền lại cho Sinh kỹ thuật đánh đàn độc đáo dị thường của ông ta. Dần dần chàng đạt được đến chỗ sở trường và nổi tiếng đàn hay nhất trong vùng, ít người sánh kịp. Các bạn hữu thường hay tụ họp tại nhà chàng để nghe Sinh đánh đàn, đàm đạo phóng túng quên hẳn việc học hành nên có vài người trách chàng phóng túng quá độ, trở thành kẻ phóng đãng đam mê nghệ thuật cầm ca. Sinh chỉ cười mà không giận. Chỉ có một lần, nhân khi cao hứng chàng mới cảm khái bảo các bạn thân:
- Phàm là người trần tục thì ít ai được phẩm cách thanh cao tột cùng toàn thiện toàn mỹ mà luôn luôn phải có một cái gì tạm gọi là đam mê phóng túng, nên cổ nhân vẫn thường nói: Nhân vô thập toàn là vậy. Nếu tiểu đệ giả sử chẳng may đam mê rượu chè be bét, ngày say lướt khướt tối đến lè nhè, chả biết trời đất là gì thì chẳng những thân tàn ma dại, tàn phá sức khỏe mà tránh sao cho khỏi bạn hữu cười chê? Giả như tiểu đệ lại đam mê hút xách, nằm dài kéo ro ro ngao nầy đến ngao khác, đi mây về gió, sớm tối làm bạn với tiên nữ Phù Dung, gia nhập vào hàng công dân làng bẹp, xem đời như giấc mơ dài thật là mất hết cả khí phách của đấng nam nhi vậy. Lại nữa, nếu sanh tật muốn hít bạch phiến, tự phá hoại cuộc đời, chỉ mê vào thế giới ảo tưởng, mơ mơ màng màng cảm thấy bay bổng phiêu diêu,. Chẳng có việc gì xấu xa mà chẳng dám làm, miễn sao có tiền để mua cho đủ thuốc dù phải bán vợ đợ con bỏ bê cha mẹ già yếu, làm chồng bất nghĩa, làm con bất hiếu, thật đáng hổ thẹn cho một kiếp người.
Ngừng lại một lát để nhìn các bạn hữu, chàng lại tiếp:
- Giả sử tiểu đệ lại sanh chứng đam mê cờ bạc đỏ đen, ngày tối máu mê chỉ nghĩ đến quân bài đồng phỉnh, vận số may rủi phó mặc cho thần tài. Rồi thì nhà cửa bán dần, vợ con đói rách, quỵt tiền quỵt nợ, trăm ngày đổ đi một lúc phủi tay trắng cả cuộc đời. Có được đồng nào cũng đem nướng sạch mà tật vẫn không chừa rõ đúng là phường đê tiện ngu si.
Đó là chưa nói đến nếu tiểu đệ lại lở đam mê sắc dục, chìm đắm lăn lóc trong vòng trụy lạc, dâm dục đến mức tột cùng. Thật chẳng khác gì giống súc vật chỉ mong thỏa mãn được dục tính bất kể hình thức sa đọa hay tội ác nhớp nhơ, ngày tối chỉ mong gần kề nữ sắc thì hố sâu tội lỗi biết kiếp nào mới hết được.
Nay tiểu đệ không đam mê các thứ trên để bỏ phí cả đời người mà chỉ đam mê lời ca tiếng nhạc, âm điệu réo rắt du dương, khi trầm khi bổng như đưa tiểu đệ vào một thế giới thanh tao huyền ảo kỳ diệu của âm giai. Trời đất sinh ra, tiểu đệ không thể là ngoại lệ được, nên từ nhỏ đã say mê âm nhạc gần như dòng máu đã mang sẵn âm điệu mang mang của tiếng nhạc rồi. Tiểu đệ chỉ mong ngày tháng tiêu dao với cung đàn tiếng nhạc, mượn tiếng cầm ca để cho tâm hồn mình rung cảm thênh thang, lòng mình sảng khoái lâng lâng quên hết các việc phiền toái của thế gian trần tục.
Tuy phóng túng thì thật là phóng túng, đam mê thì thật đam mê nhưng chẳng qua cũng chỉ là một thú vui tao nhã trong sạch, không dối hại ai, không lường gạt kẻ khác hay làm một việc bất nhân bất nghĩa nào. Tiểu đệ vui lòng với cuộc sống đạm bạc, tự nghĩ mình vẫn giữ được tinh thần của một kẻ sĩ, không điên đảo đảo điên, lấy đen làm trắng, lộng giả thành chân mất hết cả thiện tâm. Cho nên nghĩ lại dù nay có phải đam mê cái nghiệp cầm ca đi nữa thì như vậy cũng vẫn là may cho tiểu đệ lắm rồi, thật không dám mong muốn gì hơn nữa.
Các bạn Sinh cũng đành chịu, không biết phải nói làm sao?
Một hôm cao hứng đi thăm người bạn thân ở xa. Mải mê trò chuyện gần như quên về. Bạn cố giữ lại qua đêm nhưng Sinh cao hứng bảo là trăng sáng, chàng lại quen đường, sẵn dịp đi dạo dưới ánh trăng ngang qua khu rừng thưa cũng là một điều thích thú nên thơ vậy. Trăng treo vằng vặc trên đỉnh đầu, tỏa rộng xuống khu rừng thưa hoang vắng, soi rõ con đường sõi đất ngoằn ngoèo tĩnh mịch như một dải lụa vàng. Ánh trăng ngà mờ ảo mông lung, tràn ngập một bầu ánh sáng huyền diệu như đưa con người vào một thế giới liêu trai huyền ảo xa xâm nào. Chợt đâu có tiếng độc huyền cầm áo não bi ai, ma quái vang lên trong đêm vắng, nửa xa nửa gần khi thì như đứt đoạn dường như có một mãnh lực vô hình nào thu hút chàng vậy. Sinh vốn bản tính gan lì, không biết sợ là gì lại vốn có tật si mê tiếng đàn cung nhạc nên không ngần ngại tìm đến nơi phát ra tiếng đàn kỳ diệu mà chàng mới nghe được lần đầu. Từ xa ánh đèn le lói dường như từ một ngôi nhà cổ của một vị quan hồi hưu đã quá cố, có lẽ bỏ hoang trên năm chục năm rồi mặc cho giậu đổ bìm leo, tường xiêu vách ngã. Tiếng đàn vẫn mang mang bất tận quái đản mê hồn dìu dặt đưa đến. Sinh vội bước nhanh đến gần để chợt nhìn thấy dưới ánh đèn vàng leo lét một thiếu nữ mảnh mai xinh đẹp lạ lùng, mái tóc đen xõa dài, đang ngồi đánh đàn độc huyền. Chàng mê mẩn đứng lặng yên nghe bản đàn kỳ bí, âm điệu lạ kỳ dường như không có ở chốn trần gian. Tiếng đàn chợt ngưng bặt rồi một giọng lạnh lẽo liêu trai bảo chàng:
- Ngươi là ai mà dám đến chỗ hoang vắng nầy, không sợ ma thiêng quỷ dữ làm hại ngươi à?
Sinh lật đật giãi bày:
- Cô nương, xin đừng hiểu lầm. Tại hạ tuy là một lãng tử nhưng cũng siêng đọc sách thánh hiền, biết điều lễ nghĩa, giữ mình ngay thẳng theo đúng gia phong, quyết không có lòng tà vạy hay dám có một cử chỉ khinh bạc nào đối với cô nương đâu. Chẳng qua vì tôi cầm lòng không được trước tiếng đàn nỉ non ai oán tuyệt vời của cô nương nên không câu nệ tìm đến để nghe, vô tình phá rối sự yên tĩnh của cô, xin cô nương tha lỗi cho.
Thiếu nữ nở một nụ cười quái đản nhìn chàng rồi dịu giọng bảo:
- Ngươi cũng biết đàn độc huyền à? Vậy cũng là một kẻ tri âm đồng điệu. Từ lâu ta không có bạn hữu, đâu ngươi hãy đánh cho ta nghe một bản xem sao?
Sinh không dám chối từ, lại cũng muốn làm quen với thiếu nữ nên xin phép ngồi xuống bên cạnh để cho tâm hồn lắng đọng lại rồi bắt đầu dạo một bản đàn độc huyền đắc ý nhất của chàng. Tiếng đàn trầm bổng du dương lanh lảnh vang lên giữa đêm trường vắng lặng. Thiếu nữ trầm ngâm thích thú lắng tai nghe rồi mỉm cười bảo chàng:
- Kể ra ngươi cũng là một kẻ tài danh trên dương thế, ít người theo kịp. Tuy nhiên vẫn chưa phải là bực kỳ tài điêu luyện đạt đến chỗ mê hoặc được lòng người.
Sinh ấp úng nhìn thiếu nữ như cầu khẩn:
- Tại hạ vẫn biết mình chưa thấu triệt đến chỗ tinh vi, nghệ thuật vẫn còn kém cỏi, tiếng đàn phát ra chưa xuất thần để đưa con người vào thế giới mộng ảo của âm giai. Nay gặp cơ hội hiếm có này, mong sao cô nương không chê tại hạ là kẻ ngu đần mà chỉ điểm cho thì thật là duyên phần may mắn của tại hạ vậy.
Thiếu nữ nhìn chàng với nhiều thiện cảm rồi điềm đạm bảo:
- Bản nhạc ngươi lén nghe hồi nãy vốn là một tuyệt tác hiếm có của cõi âm, đã thất truyền từ lâu nên âm điệu thật là réo rắt, bi ai mang mang bất tận đâu dễ gì cho người dương thế có dịp nghe được. Tuy nhiên vì là một vật u linh của cõi vô hình nên mang âm khí nặng nề, u hồn uất ức. Người dương thế không nên nghe, làm tổn mất tuổi thọ. Ta vì thấy ngươi là một hàn sĩ nho phong lại có lòng dạ ngay thẳng đồng thời cũng là một tri âm biết thưởng thức tiếng đàn, chớ đâu có tiếc gì mà chẳng truyền lại cho ngươi đâu?
Thiếu nữ nhìn Sinh, mỉm cười bảo:
- Ngươi thật là một kẻ đam mê ngông cuồng. Thôi được, ta sẽ truyền lại cho ngươi bản đàn bất hủ nầy để cho nó khỏi mai một, nhưng ngươi nhớ là sau nầy không được hối tiếc oán hận ta nhé. Đó là nghiệp số của ngươi. Cũng may, ngươi là người có thiện lương, trồng nhiều căn lành từ kiếp trước nên sau nầy ngươi sẽ gặp được một duyên may hóa giải cái tai ách cho ngươi vậy.
Sinh mừng rỡ thốt lời cám ơn rối rít, chỉ mong sao mình học được bản đàn ma tuyệt không chút gì lo nghĩ đến cảnh kẻ dương thế người âm cung khác biệt. Vì là người thông minh dĩnh ngộ, có thiên tư về nhạc khí, lại vốn sở truyền về môn độc huyền cầm, đồng thời cũng nhờ thiếu nữ tận tình chỉ dạy cho nên chàng lãnh hội được nhanh chóng. Sinh mê mẩn cố sức tập dợt quên cả mệt nhọc nên dần dà hiểu được nhịp nhàng, có chỗ nào sai thì thiếu nữ lại nắn sửa cho, chỉ mong cố học cho hết bản đàn kỳ diệu, sẽ không có dịp may lần thứ hai nữa. Đêm trường qua nhanh chóng. Từ thôn xóm xa xa vẳng lại tiếng gà gáy sắp sáng. Thiếu nữ nhìn chàng cười bảo:
- Nay ngươi đã đạt được gần đến chỗ điêu luyện tuyệt kỹ của môn độc huyền cầm, khó có người bì kịp ở chốn trần gian. Chỉ cần ngươi chịu khó tiếp tục trau dồi luyện tập là có thể xem như người độc nhất ở thế gian đánh được bản đàn tuyệt tích nầy đến chỗ độc đáo tột cùng. Tiếng đàn của ngươi đã đến mức phát ra được âm khí vô hình, ta không còn gì để chỉ dạy thêm cho ngươi nữa, xem như duyên phần gặp gỡ đến đây là chấm dứt. Tuy nhiên để kỷ niệm cuộc tao ngộ, ta tặng ngươi cây đàn độc huyền cổ nầy, nó là một linh vật đã theo ta từ lâu năm lắm rồi.
Sinh bịn rịn xá dài người thiếu nữ, ấp úng nói không ra lời từ biệt.
Từ đó chàng nổi tiếng là một nhạc sĩ tài hoa nức tiếng trong vùng, đặc biệt là đàn độc huyền, không có một cầm sư nào có thể qua mặt chàng được. Tuy nhiên chỉ có vào những đêm trăng rằm vằng vặc mông lung, người ta mới chợt nghe vẳng lên từ căn nhà lá của chàng một bản nhạc kỳ bí lạ lùng, mơ hồ huyền ảo tuyệt vời. Tiếng đàn réo rắt ai oán nhưng lại dường như toát ra một cái gì âm u quái đản, lãnh khí rợn người lôi cuốn người nghe vào một thế giới vô hình, u minh vọng động. Không ai biết bản đàn ấy xuất xứ từ đâu và làm sao Sinh lại có được. Có hỏi chàng, Sinh cũng chỉ đáp ậm ừ nên thiên hạ đồn đãi là chàng đã được một bản đàn ma.
Ngày tháng trôi qua, Sinh vẫn sống đạm bạc tương chao rau cải qua ngày, vui với cảnh bần hàn thanh bạch không mơ ước cầu mong một điều gì nhưng chàng vẫn chứng nào tật nấy không bỏ được tật đam mê cung đàn tiếng nhạc. Tuy nhiên gần đây sức khỏe chàng càng ngày càng thấy yếu kém, người xanh xao tâm thần đôi khi hoảng hốt dật dờ như người mắc phải bịnh âm tà dù cho có nhờ các thầy lang mát tay điều trị cũng vẫn không hết được. Một hôm rảnh rỗi vắng người, chàng đang ngồi thưởng thức một ấm trà xanh, đột nhiên cảm thấy cao hứng nên mang chiếc đàn độc huyền cổ ra dạo chơi vài khúc. Lần hồi tâm thần mê mẩn, Sinh lại đánh đến bản đàn ma mà chàng đã thuộc nằm lòng. Tiếng đàn ai oán, liêu trai kỳ bí mơ hồ đưa Sinh dần dần vào một cõi u minh của những hồn ma bóng quế. Chợt đâu có tiếng niệm Phật hiệu vang lên trước cổng nhà. Sinh chợ tỉnh, vội vã chạy ra để kịp nhìn thấy một vị đầu đà hành cước tăng đứng chờ khất thực. Vị lão sư, tăng bào rách nát dép cỏ te tua nhưng vẫn không mất vẻ tiên phong đạo cốt của một nhà tu hành giác ngộ. Vốn là một Phật tử thuần thành, luôn luôn kính trọng các vị tăng ni nên Sinh trịnh trọng lễ phép mời vị lão tăng vào nhà.
- Đại sư chắc từ phương xa đến, có lẽ mệt lắm. Vậy có thể tạm nghỉ chân để tiểu sinh được dâng chén trà xanh và một ít trái cây của vườn nhà cho Đại sư đỡ lòng, có được chăng?
Vị Sư nhìn chàng hồi lâu rồi vui vẻ nhận lời. Cảnh nhà thanh bạch không có gì quý giá, vài pho sách cũ trên kệ, nhưng đặc biệt có nhiều nhạc khí, nhất là một cây độc huyền cầm chắc đã cổ xưa lắm rồi nên trổ vân tuyệt đẹp, lên nước bóng láng lạ kỳ. Sinh trịnh trọng rót trà, bưng trái cây ra mời vị lão tăng rồi lễ phép đứng hầu một bên. Vị lão tăng chợt hỏi:
- A Di Đà Phật. Chắc thí chủ là người tài hoa, sành âm điệu nên sử dụng được nhiều nhạc khí và khi nãy bần tăng đã vô tình được nghe qua tài nghệ tuyệt học của thí chủ.
Sinh khiêm tốn đáp lời:
- Tiểu sinh thật đáng trách, suốt đời lỡ đam mê nghệ thuật cầm ca đặc biệt là thích chơi đàn độc huyền. Thật là bê bết phóng túng đáng chê trách, nói ra chỉ e Đại sư cười cho. Các bạn hữu vẫn thường chê nhạo nhưng tiểu sinh vẫn không thể bỏ được, đành phải chịu vậy.
Nhà sư nở một nụ cười từ bi nhìn chàng:
- A Di Đà Phật. Bần tăng muốn có đôi lời khuyên giải, không biết thí chủ có tùy duyên chấp nhận chăng?
Sinh vội vã đáp:
- Được nghe lời giáo huấn của Đại sư là cái phước phần của tiểu sinh rồi. Mong sao Đại sư từ bi hỉ xả mà chỉ rõ chỗ u mê ngu tối cho tiểu sinh được nhờ.
- A Di Đà Phật, thật là thiện tai. Thí chủ, đam mê một cái gì dù cho đẹp đẽ thanh nhã đến đâu cũng vẫn là một đam mê, một hình thức trói buộc. Nay thí chủ vẫn còn đắm say trong vòng âm sắc, tuy có tao nhã thanh khiết nhưng cũng vẫn là đắm say thế tục. Tâm vẫn còn vọng niệm khát khao dính mắc vào lời ca tiếng nhạc, vào thế giới huyền ảo của âm thanh nên vẫn là một trói buộc lôi cuốn vào vòng lẩn quẩn của sinh tử luân hồi.
Khẻ nhắm cặp mắt lại một lúc, nhà sư chậm rãi tiếp:
- Bản đàn mà thí chủ mới đánh hồi nãy, tuy hiếm có ở cõi trần, thật là một tuyệt khúc vô giá, nhưng bần tăng nhận thấy nó mang nhiều âm khí nặng nề, u hồn quấn quýt vốn không phải thuộc chốn trần gian nên người dương thế giữ nó chỉ e có hại đến tính mạng thôi. Lão tăng đã nhận thấy ra trên ấn đường của thí chủ ẩn hiện nhiều âm khí.
Sinh không dám giấu giếm nhà sư nên đem chuyện kỳ ngộ ngày trước thuật lại. Vị sư già trầm ngâm chốc lát rồi bảo chàng:
- A Di Đà Phật, thật ra người ấy không có lòng muốn hại thí chủ, nhưng dù sao bản đàn ma ấy vẫn là một vật bất tường, chỉ có người ở chốn u minh mới dùng được. Bần tăng với thí chủ có chút duyên phần gặp gỡ, thấy người mắc nạn không cứu thì trái với đức từ bi của nhà Phật. Thí chủ hãy nghe lời lão tăng mà đốt cây đàn cổ ấy đi, dù cho nó là một bảo vật hiếm có nhưng vốn là một vật u linh của âm giới, giữ nó chỉ có hại cho thí chủ. Vậy nên trả nó về cho người khuất mặt nơi cõi u minh.
Sinh kính cẩn vâng lời. Nhà sư lại tiếp:
- Bần tăng còn có vật mọn xin tặng thí chủ, có thể giải trừ tai ách được.
Nói xong, vị lão tăng lấy từ trong túi ra một viên thuốc màu vàng nhạt và đưa cho chàng. Sinh trịnh trọng đón nhận rồi bịn rịn tiễn vị lão sư lên đường. Từ ngày uống viên thuốc của nhà sư cho, Sinh dường như tỉnh giấc mộng dài. Chàng không còn thấy lưu luyến đam mê bản đàn ma nữa và nhớ lại lời của nhà sư, chàng khấn vái rồi đem đốt cây độc huyền cầm cổ quái. Tinh thần chàng trở nên minh mẫn sáng suốt, sức khỏe cũng dần dần bình phục dường như không còn chịu ảnh hưởng của cõi vô hình nữa. Cho đến tiếng đàn điêu luyện tài hoa, ngọt ngào thánh thót của chàng cũng mất hẳn đi cái âm điệu quái đản âm u rờn rợn khó giải thích được của ngày trước. Thời gian sau, không còn ai nghe được bản đàn ma kỳ bí nữa, có hỏi thì Sinh bảo là đã thật quên hết và đã trả nó về vĩnh viễn cho cõi vô hình u minh huyền bí, không còn để lại một dư âm gì ở chốn trần gian nữa.
HÀ NGỌC BÍCH