B a H ồ i K i n h D ị
Tác giả: Thế Lữ
Một truyện ghê gớmTác giả: Thế Lữ
Phải, thực là truyện ghê gớm, truyện dị thường mà ghê gớm nhất là vì có thật, không huyền hồ như những truyện cổ tích yêu quái lạ thường nghe kể lại hay thường đọc thấy trong những tập truyền kỳ.
Ông cụ ngồi tiếp truyện mấy ông khách người làng, ngừng lại để rót thêm nước. Trên khuôn mặt rắn rỏi, đăm đăm một vẻ trang trọng ưu tư. Hút tàn mồi thuốc lào, uống cạn một bát chè tươi, ông hắng giọng rồi lại nói:
- Tôi bình sinh biết đã nhiều truyện kỳ dị mà không hề có thấy kinh lạ sợ hãi, vì mình đã biết trước là những điều hoang đường không đáng tin. Nhưng đến câu truyện này thì lại khác. Chính tôi phải một phen hút chết ở câu truyện này đây. Các ông ạ, mỗi lần một bóng một mình trong lúc đêm khuya mưa gió sùi sụt, mà nghe thấy tiếng ễnh ương nó ỳ oặc, tiếng ếch nhái nó nghiến răng bốn bề, tôi lại nhớ ngay đến truyện trước. Bên tai như vang những tiếng người chết nó cười, nó kéo từng đoàn từng lũ đến đầu giường tôi nằm mà tranh nhau nguyền rủa tôi. Cố tình quên cũng không thể được. Tôi đã trải một bước nguy hiểm quá, phải một phen khiếp sợ thái quá, hầu như lạc mất hồn vía, còn sống lại chỉ như để mà nhớ mãi, tâm trí như cái kho tích chứa bao nhiêu điều quái gở đã qua.
Năm Minh Mệnh thứ sáu, tôi hỏng kỳ thi hội lần thứ ba. Bấy giờ tuy mới hăm hai tuổi, nhưng khí khái càng mạnh thì thất vọng càng sâu, uất cho phận mình lại càng khinh những tài học non nớt mà gặp vận. Ba kỳ thi lạc đệ, nhà lại nghèo thêm, sinh ra chán ghét đường công danh, lấy cớ không đủ lực theo đuổi khóa sau mà coi rẻ việc đèn sách. Nhân vẫn tập tành mấy món võ nghệ, sở đắc về đường quyền kiếm cũng không đến nỗi thiếu kém, nên cái lòng ưa mạo hiểm bốn phương được thể ngày một thêm hào hùng. Tôi bèn quyết chí bỏ làng, viết một bài ca từ gửi cho mấy người trong chỗ thân bằng gọi là đáp lại những lời khuên can, mà cũng là để từ biệt hẳn cái đời văn chương kinh sử.
Rồi "bán kiên hành lý nhất thân khinh", cuộc đời giang hồ kể lắm bước gian truân nhưng cũng đem lại cho mình nhiều cái thú đột ngột.
Hồi đó, mấy khúc trường hành của tôi làm từ ngày còn ham mê đường khoa hoạn, vẫn được cái may là gợi hào hứng những bạn tri kỷ không quen biết ở nhiều nơi. Vì thế mà có được những cuộc gặp gỡ thực bất ngờ, nhân mới nhận ra rằng mỗi bước đường đi lại khiến mình sợ hãi thay cho cái lúc do dự toan ở lại với nơi quê quán. Mỗi bước đường đi, lòng được quyến luyến thêm một cảnh lạ người mới, trí được phong phú thêm những tư tưởng đằm thắm, những kinh nghiệm không thường.
Nay đó mai đây, khi lưu luyến hằng năm ở một miền sơn thôn bình tịch, khi thì ngày ngày lận đận qua những miền thâm u thưa vắng bóng người. Bất cứ ở đâu, dù xa xôi hiểm trở đến đâu cũng mặс, hễ nghe có tiếng bậc ẩn sĩ hay có tay võ nghệ cao siêu, thì thế nào tôi cũng phải tìm gặp. Đó là hữu ý mà đến, những cũng có những phen tình cờ. Một lần, người ta chỉ lầm đường, tôi lạc vào sào huyệt của một bọn cường khấu. Ngót nửa năm trời, mình phải làm một hảo hán bất đắc dĩ, qua được những tai nguy là nhờ có phần quyền thuật đã thêm vững chãi, mà trốn được thoát cuộc đời hung bạo ấy, lại là nhờ ở phần mưu trí nhà nho. Kể cái hồi gian hiểm sống chung với bọn cướp rừng này cũng lắm trặng ly kỳ. Nhưng so với câu truyện dưới đây thì cái tính mệnh của tôi lần trước chỉ như mới vướng phải bụi gai, còn lần sau thực như sa vào cạm ác thú.
Cũng vì cái tai tiếng là đã đi với kẻ cướp mà tôi không ở yên được một chỗ. Người đời đã hay nghi kỵ, lại nhân cái tính tình phóng lãng của mình không hợp với thói lệ thường ngày, ác cảm dễ sinh, rồi do thế, một lời đắc ý ngang tàng hóa thành những lời võng ngạo. Tôi đang ngồi dạy lũ trẻ ở nhà một người riêng có bụng mến mình thì được tin có trát nã gấp. Một ông bạn tâm phúc đến bảo mình rằng những bài ca từ của tôi súc tích những ý phạm thượng, mà cái hình trạng ban nghịch đã lộ rõ ở thái độ của tôi, ở cuộc đời của tôi, nhất là ở hồi gần đây tôi "đã từng giao thông với quan giặc cướp". Tôi biết trước, một án cữu như thế chỉ có mọt hình pháp, mà những người đã kết án, tôi lại biết là một vài người đồng học với tôi trước kia... Tìm cách minh oan tức là làm việc tối vô ích. Tôi chỉ còn một kế là lại đi. Bước giang hồ chỉ như mở rộng thêm, xa thêm. Chỉ khác là cuộc đời lữ thứ của tôi từ đó lại canh cánh một nghĩa nữa là đời phóng trục. Mình tự phóng trục mình, mà đi là không hẹn ngàv về.
Tôi theo đường tắt qua Lạng Giang. Ở Yên Thế ít ngày, rồi đi ngược sâu mãi vào trong cảnh sơn lâm, đổi họ đổi tên, nhưng tính danh dù để nguyên cũng vô hại. Bọn Nùng, Thổ man dã ở các nơi tôi đến trú ngụ là những người chất phác, tôi có đem hết nỗi bất hạnh của mình nói thực ra, họ cũng vẫn quý mình như lúc họ mới biết.
Sống chung với người sơn dã, quen phong tục, thuộc ngôn ngữ, tôi dần dần cũng thấy tâm tư đơn giản như họ, rồi thành yêu chung trọng lẫn, tôi nhiều lúc coi mình là người đường rừng mà vẫn lấy làm vui. Trước còn ở miền dưới cũng thừa thấy yên thân. Nhưng lâu ngày quên cả truyện trước, tính thích xông pha lại đến giục giã, tôi cứ lần hồi đi ngược mãi lên. Mỗi bước như một kích thích thêm lòng hiếu kỳ. Trong cái phong thổ rừng thiêng nước độc, còn chứa chất không biết bao nhiêu sự dị thường lẩn quất ở bóng tối vòm cây, ở giải nước sâu váng xanh, ở những trận gió ồn ào như có rất nhiều thanh âm gở lạ. Tiếng chim kêu cũng phảng phất thành những lời nói. Những tên đất, tên làng là những tên, những tiếng khác tai. Mỗi cảnh vật đều có một sự tích oan khiên, hay khủng khiếp. Tôi từng nghe tiếng ngọn suối ban đêm như than khóc, người thổ nói là tiếng kêu khóc của đôi trai gái bị hại ở lưng bờ. Hang núi, mạch rừng, thác, đèo... mỗi nơi có một tên phát tích ở một truyện thảm khốc hay rùng rợn. Bóng oan khuất như gây ra các sự kinh hoàng, người ta dù cứng bóng vía đến đâu cũng không thể không thấy một thứ ghê rợn lạnh lùng rất khó nói. Đâu đâu cũng toàn là những truyện kinh người hết. Nào truyện ma gà, truyện hùm tinh, truyện lợn biết hát, truyện thần rắn, truyện Mán làm mắm trẻ son... Họ thuật lại cho tôi nghe như những việc hiển nhiên, sự khủng khiếp lộ ra trên nét mặt kính cẩn đạng đột.
° °
°
Chỗ tôi ở lâu nhất là một làng ở phía bắc trấn Lạng Sơn, tên gọi là Bản Khau, hay là Khau Gié. Tiếng là một làng, song chỉ lác đác mươi nóc nhà tranh, hoặc dựng cao trên sàn hoặc lèn đất làm tường. Dân cư, phần lớn là người Nùng, sinh nhai bằng nghề trồng hồi với nghề săn bắn. Người Nùng ở đấy săn rất giỏi, cung nỏ bách phát bách trúng, lại riêng có tài dùng hỏa mai học được chẳng biết ở một người Tàu nào họ truyền dạy cho đã lâu đời. Những cuộc đi săn của họ, họ coi quan trọng lắm: rất nhiều nguy hiểm mà cũng cực kỳ vui. Tôi ở với họ liền ba bốn năm, rất lấy làm vừa lòng, không muốn đi nơi khác nữа. Khi nào săn ở rừng xa, rừng dữ, thì gần hết cả làng cùng đi.
Lần ấy định sẵn ở tận Lũng Sa, Mùng Sáy, gần miền cương giới. Sáng hôm đi, bạn săn dậy thực sớm. Hơn hai chục đàn ông, tay lao tay nỏ, gậy guộc khí giới đủ mọi thứ, cơm nước xong, mọi người đeo theo một nải gạo hoặc lương khô đủ dùng trong mười mấy ngày. Đàn bà con trẻ với những ông cụ già tuổi quá thì sắm sửa giúp những vật dụng lặt vặt. Đầu canh tư thì lên đường. Bọn ở lại ra tận đầu làng tiễn chân. Gặp những dịp này, tôi là người hăm hở bận rộn hơn hết, vì mỗi năm họ mới đi như thế có một lần, vào hồi cuối thu.
Từ canh tư hôm trước, đi không nghỉ. Đường càng gần tối càng gập ghềnh. Phải qua những nguồn suối dềnh lên một mặt bất ngờ, có khi phải chịu ngừng lại lâu, ngồi đợi cho nước rút xuống. Qua canh năm đêm hôm sau thì đã trông thấy Lũng Sa. Sương còn đặc. Giải rừng lớn, hinh bóng còn chập chờn. Tuy mô núi không cao, xem ra chỉ ấp thoai thoải giữa những đồi trụi mống trọc ký khu hơn nhiều, nhưng cứ nhìn cái dáng lù đen của những vòm già lá kết, cũng đủ đoán biết cái tính ác dữ không phải là ngoa truyền. Lũng Sa có tiếng là hoang hiểm. Thực là một cảnh săn tốt đối với con nhà đi săn.
Chúng tôi không ai tưởng đến nghỉ ngơi, thẳng bước vào tìm chỗ làm chòi. Trú ngụ ở đâu khác, cũng làm cho dân làng quanh quất đó kinh nghi. Đi toán đông thì chỉ ăn ngủ ngay trong rừng là tiện.
Tìm được một khoảng vừa ý, từ cửa rừng đi vào không xa lắm, chúng tôi đang chia nhau người đẳn cây, người kéo lá, thì một anh trong bọn bỗng reo lên, gọi tất cả chạy đến một đám cây thắp bùm tum. Phát cành rứt rợ vào хеm, thì ra đấy là một tòa cổ miếu. Chung quanh miếu có tường quây, nhưng tường phần lớn sập đổ gần tới móng. Mái cũng vậy, bẹp chĩu dưới những đợt lá nặng, chỉ ở một góc bên trong còn lại dấu vết mấy chiếc rầm mục với vài ba miếng ngói đen sì. Ánh sáng qua những tán cây soi xuống tha hồ. Trước miếu có một khoảng sân khá rộng, gạch đã nứt vỡ hay bật chồi lên vì rễ cây to, mà hầu hết bị cỏ lá với đất rêu phủ kín khắp mặt. Không còn cảnh nào có vẻ hoang phế hơn nữa. Cả cái bệ chính giữa cũng lở nứt, có chỗ như bị xô, bị húc nhiều lần. Hương khói lạnh lẽo hẳn đã lâu lắm rồi, sự linh thiêng có lẽ không bằng một cái chòi lá đơn sơ dựng ở một quãng nách đèo hay hốc suối. Nhưng tôi vẫn lấy làm nghĩ ngợi mãi, trong lúc bọn người Nùng sạo sục mà chẳng thấy gì thêm. Miếu tuy bỏ vắng, nhưng cũng đã phụng sự một uy quyền nào ở đây, không thì cũng đã yên ủi một vong hồn bị oan khuất. Cái nơi nguy hiểm ghê gớm là cảnh rừng này, một thuở xa xăm nào đó, cùng đã từng có vết chân người. Mấy chữ đá thảo còn sót lại ở những chỗ trước kia là cột viết câu đối. Tôi không thể nào đọc rõ: hằn chữ với màu mực đã mòn lẵn mất hết. Một mảnh đại tự mập mờ không đủ cho mình đoán được là chữ "Hải" hay là chữ "Mai".
Có người bàn nên dùng chỗ này, đắp đất chất gạch cho cao tường thêm, để thay cho cái chỗ ở bằng chòi định làm khi trước. Ý kiến ấy được mọi người khen hay. Chúng tôi liền đem chỗ cây, lá, mây, nứa, đá kiếm được, chất cả lại trước khu miếu. Rồi lèn vách, trồng cột, lợp gồi, đan liếp... không mấy chốc dựng thành cái nhà một gian rộng rãi, có tường dầy, có cửa phên chắc chắn, vừa làm nơi ăn chốn ngủ, vừa có chỗ chứa sấy vật săn được, tiện lợi không đâu bằng. Làm xong nhà thì ống cơm nếp lùi cũng vừa chín, chúng tôi ngả lưng ra ăn uống no nê rồi vun thêm lá khô bên ngoài giải lèn đất mà nghỉ ngơi.
Đi đường xa, lại vừa lợp lát tuy có mệt nhưng tôi cũng không muốn ngủ. Mình là người hay thẩn thơ gặp cảnh lạ, cảnh mới bao giờ cũng thấy lòng bồi hồi náo nức. Tôi ra cửa ngồi đó một mình. Cái khoảng phát quang chạy ngang trước mắt như một con đường, mà bên kia đường chằng chịt, uốn éo chúm rủ cả một phần rừng xanh lúc đó như sấn lại trước mặt. Tôi vui mắt mải xem bầy khỉ đu nhẩy trên những dâv võng cành lá gần đó. Một vài con mễn xuống bám ở những chạc thấp nhất, nhòm nhòm nghé nghé vào gian nhà mới của chúng tôi ra vẻ hết sức ngạc nhiên.
Bỗng có tiếng lạ tai. Tôi giật mình. Cùng một lúc với tiếng sột sạt, lùm cây rậm trước cửa rung động một vẻ khác thường. Hình như có một con vật đang rẽ lá lách cành mà tiến đến. Tôi sửng sốt, đứng phắt dậy, quay vào trong lều. Các bạn săn ngủ ngon giấc quá. Tôi không đánh thức ai vội, vớ lấy một cái nỏ, chĩa vào lùm cây, một hai chỉ đợi bắn. Thì lùm cây lại thấy yên, không còn rung rẩy nữa. Nhưng có tiếng chân rẽ về phía khác. Bước chân mau nhẹ, dẫm lên một lối chừng quang phẳng nhất, mà nghe mỗi lúc một xa dần. Tôi đoán có lẽ không phải là thú dữ, vì nếu phải, tất nó đánh hơi thấy, đã xông ra hại mình rồi. Nghĩ thế nên vững tâm hơn, tôi liền rẽ ngang, chạy theo một lối nhỏ, cây thưa, cứ tiếng chân dẫm lá của con vật làm chừng mà đuổi nó. Tôi hết sức đuổi, сố tình tìm bắn cho bằng được. Được chừng quá trăm bộ đến một chỗ ngoặt, cây chen mau, nhưng lối không dốc, tôi sấn bước nhảy cho chóng tới gần con vật. Thoáng một cái, trong một vùng quang có ánh nắng ló xuống tận cỏ, tôi thấy bóng một người. Không thể trông rõ mặt được: tuy cách nhau chỉ vài chục bước nhưng hắn lẩn nhanh lắm, như biến vào đám cây lá, mà từ lúc ấy, không để lại một tăm hơi nào. Chỉ kịp nhận ra là người ấy to béo, quần áo màu chàm bạc, đầu lại có đuôi sam. Chắc hắn là một người Tàu. Nhưng người Tàu ấy là hạng người nào, ở đâu đến đây, mà đến cái chốn nguy hiểm này làm gì? Bảo là đi săn chăng? Người Tàu họ không săn ở đây. Mà có chăng nữa tất phải đi thàn đoàn, thành bọn; mấy ai dám xông pha vào một mình. Điều kỳ dị hơn nữa là sao hắn lại có vẻ lẩn lút, thấy tôi lại trốn chạy như một kẻ gian đồ? Hay có lẽ hắn quả là một tên cường bạo? Một tội nhân vượt ngục hay một kẻ vong mệnh bị truy tầm tróc nã gì đây chăng?
Tôi vừa quay trở về vừa nghĩ bụng thế, thỉnh thoảng vẫn rờn rợn ngoái lại đằng san. Về nhà, ngồi vẩn vơ mãi cũng không đoán rа người khách ban nãy là người thế nào. Bọn người Nùng ngủ dậy, thấv tôi vẫn tư lự. Tôi đem việc vừa rồi kể lại rành mạch cho họ nghe. Không ai tin. Họ bảo tôi rằng không có gì đâu, không đời nào có người dám táo tợm một mình vào trong nơi ghê sợ này như thế cả. Tôi nói là chính mắt tôi trông thấy người khách, tôi lại cầm chính cái nỏ kia đuổi theo hắn. Họ vẫn một mực không chịu tin. Mà như thế không phải để chọc tức tôi. Họ quả quyết bảo không thể có người nào dám cả gan vào rừng này được. Người nhiều tuổi nhất trong bọn phân giải câu chuyện tôi như thế này: cái người mà tôi trông thấy, không phải là người. Hẳn trước đây có anh khách nào đó, vì không biết mà đi qua rừng một mình rồi bỏ mạng; vong hồn không tiêu tan được, vẫn lẳn quất ở đây, rồi bây giờ làm ma rừng, hiện lên để trèu tôi đó. Rồi mọi người thành thực tin, khăng khăng tin là thế. "Phải, phải, ma khách đấy. Ở trong rừng thì nhiều ma lắm, nhưng đừng sợ nó thì nó sợ mình". Trí nghĩ họ thực đơn giản quá. Tất nhiên tôi không thể cũng tin như họ được, nhưng cũng không сố biện bạch làm gì, dẹp chuyện đó lại cũng như họ thản nhiên gạt hẳn ra ngoài tâm trí. Đến lúc sửa soạn khí giới, bàn tính cuộc săn đêm, thì tôi cũng không còn chút băn khoăn nào nữa.
Chúng tôi ở đó được ba hôm, ngàv thì ngủ, đêm lại đóng cửa kéo nhau khua động vây đón rộn cả mấy khu rừng. Săn có hai đêm mà được cả một cặp hổ, con đực to lớn lạ thường, hai con hoãng, ba con nai, một con hươu nhung. Hổ thì chỉ lột da, dóc cốt. Những con khác mới giữ lấy cả thịt, phần lớn phơi, sấy hoặc ướp; còn thì nướng ăn tại trận cùng với lương thực đem theo từ nhà. Vụ săn xem chừng còn may mắn nhiều; cuộc xông pha càng nguy hiểm càng thấy có hứng thú. Mọi người đều lấy làm vui vẻ sốt sắng, thường cười nói bảo nhau: "Trời giáng thiên tai cho rừng nàv nên sai toán thiên tướng chúng ta xuống sát phạt một mẻ".
Chiều ngày thứ ba, tôi thức dậy trước nhất. Tôi mở cửa vừa bước chân ra khỏi miếu, vụt đã thấy bóng người khách kỳ dị hôm đầu. Lần này thì tôi trông thấy mặt cùng với nửa người phía trên của hắn. Khuôn mặt to phính, nhô rа giữa cụm lá, lặng lẽ mà nham hiểm, lại như vừa ngạc nhièn vừa căm tức. Trong có giây lát mà hình ảnh ấy như in mãi trong tâm trí tôi. Nhất là hai con mắt xếch của hắn tuy nhỏ mà sáng lạ, sắc lạ, long lanh một vẻ độc ác ghê người. Thấv tôi, chừng sững sờ, hắn chưa kịp lủi. Rồi tức khắc, hắn thụt vào mau như kiến. Thoáng cái đã mất hút y như là không có bao giờ! Tự nhiên cơn giận bừng bừng nổi, tôi trở vào, vớ lấy cái cung sắt lớn, miết đuổi theo. Tôi không cần gọi bọn người Nùng, rắp tâm hễ trông thấy thì dù là người khách hay là ma khách tôi cũng bắn chết.
Tôi sấn chạy vào lối hắn lủi, nhẩy những bước rất táo tợn qua những đám gai góc. Đuổi một chặp hết sức khẩn bách, tôi đã trông thấy hắn chỉ còn cách tôi độ năm chục bộ. Sợ hắn sớm lách vào đám rậm mất, tôi không đợi gần đích, vừa chạy vìra giương cung. Khoan bước để hất một cành lá đâm ngang, thì thằng khách đang khom người. Nó tìm cách lẩn đấy! Tôi liền phóng ngay phát tên ra. Rắc, rắc! mấy tiếng cành gẫy cùng với tiếng lá xô. Mười phần chắc bắn trúng cả mười, nhưng trông lên thằng khách đã đâu mất. Rồi, ngay lúс ấy, từ cái phía sột soạt ấy, một vật loáng dài như một thân cây, quẫy cựa trong khoảng vòm tối tranh sáng. Tôi nhận ngay ra là con trăn! Một thứ trăn lớn nhất, khoẻ nhất. Nó lẳng lặng mà tiến thẳng lại trước mặt tôi chậm chạp lừ lừ, lại có vẻ thản nhiên, nhưng quả thực là ghê gớm! Tôi biết cái nguу hại cấp thiết đến bực nào rồi. Phát tên vừa buông đã thành hư vô. Rút bắn phát nữa tôi lại thấy trật đích mà trật một quãng xa như người bắn vụng! Trong lúc đó, con trăn vươn lên một chặng đáng sợ. Tôi vội vã quay đầu chạy. Con trăn lặng lẽ trườn theo. Gần về đến khu miếu, tôi hét rất lớn để kêu gọi bạn săn. Họ đã ngủ dậy cả. Nghe tiếng tôi, một vài người nhanh chân xông ra trước. Con trăn coi như không thấv ai, nó cứ đuổi tôi mãi. Sau, tất cả bọn giáo mác gậy guộc ồ cả ra, kẻ sỉa, người nện, nó mới quẫy ra chạy. Con trăn khoẻ mà lại dai đòn một cách quái lạ. Suýt nữa nó quấn được mấy người lúc nó vượt qua cửa miếu. Tuy bị thương nhiều vết nặng mà nó còn bắt chúng tôi phải đuổi xa đến mấy trăm bộ nữa mới chịu nằm im. Con trăn chết rồi, hai mắt vẫn mở như sống.
Bọn người Nùng hỏi tôi sao đi ra sớm thế, mà đi xa trong rừng sao không gọi ai cùng đi? Tòi thuật chuyện đuổi thằng khách cho họ nghe. Họ cười ồ cả lên. Tôi ngạc nhiên, họ lại càng cười to. Rồi ôn tồn phân giải cho tôi biết rằng: "Nó là ma đấy, thằng khách là ma rừng đấy, sao lại đuổi bắn nó? Bây giờ thì nó đây rồi, con ma ấy đây rồi!".
Vừa nói họ vừa trỏ vào con trăn, vỗ tav lên vai tôi để yên ủi tôi: "Con ma ấy nó nhập vào con này. Bây giờ con này nó chết, con ma nó cũng chết".
Câu nói của họ rất thành thực, có một giọng quả quyết rất chắc chắn. Tôi cũng thấy sờn lòng, thế gian quả có những sự biến ảo hiển nhiên đến thế được sao? Thằng khách kia chỉ là một hình ma! Mà con ma lại hóa ra con trăn bị giết chết? Thực là kỳ quái hơn cả mọi điều kỳ quái! Tôi nhìn xuống. Hai mắt con vật mở, như vẫn nhìn tôi trừng trừng! Tôi rợn người lên một lượt, sợ hãi trà lạnh khắp thịt da. "Có lẽ là ma quái thực cũng nên... Lúc trước rõ ràng phát tên của mình nhắm trúng thằng khách. Thoát được tất phải do một sự may mắn kỳ diệu lắm lắm, không thì tất do một sức huyền bí nào! Vậy mà nó thoát khỏi, nó biến mất, rồi tức thì thấy tiến ra cái quái vật này". Tôi vốn không tin ma quỷ mà lúc đó cũng phải nhận rằng yêu dị chưa hẳn là chuyện hoang đường.
Nhưng dù sao tôi cũng đã qua được lúc nguy rồi. Người khách kia, dù là người hay là giống hung thần nào tôi cũng không cần quan tâm nữa. Người Nùng nói có lý lắm. Đuổi bắt nó làm gì. Tự dưng chúng nó có làm hại được mình bao giờ đâu?
Phải đến ba bốn người mới lôi xác con trăn được dễ dàng. Ai nấy gật gù bảo nó lắm mỡ, lóc ra thắp đèn thì tốt không gì hơn; da nó là thứ bịt chuôi dao rừng vừa bền vừa quý.
Tôi đi đầu đoàn. Đến quãng rẽ trông thấy được cửa miếu, tôi hốt nhiên kêu lớn tiếng kinh ngạc. Tôi thoáng thấy thằng khách! Nó vừa lẻn vào trong lều.
Tôì hét ầm lên bảo cho các bạn săn biết.
Bọn người Nùng vẫn chưa nghe ra, đủng đỉnh hỏi:
- Lại cái gì đấy?
- Thằng khách!
- Thằng khách nào?
- Thằng khách, chứ còn thằng khách nào!
- Nhưng thằng khách làm sao?
- Nó vừa vào trong miếu.
Tôi bảo họ bỏ con trăn đấy, cùng xông về với tôi. Nhưng không một ai vội vàng. Họ lại còn ra ý không tin.
- Không có gì đâu mà, không có gì đâu, anh trông lầm đấv.
Tôi phải nhắc đi nhắc lại:
- Chính nó, tôi trông thấy chính nó! Không thể sai được!
Rồi săm săm tôi chạy về! Chợt chột dạ. Tôi đứng lại giục, họ vẫn chùng chình vừa lắc đầu vừa gàn:
- Đã bảo không có gì mà, sợ gì mới được chứ!
Tôi bực dọc quá phát gắt lên:
- Thì cứ về với tôi хеm nào! Chẳng lẽ tôi lại mờ quáng đến thế?
Mãi lúc ấy họ mới miễn cưỡng mà theo tôi.
Tuy để chậm mất một quãng khá lâu, nhưng trong lúс đó tôi vẫn không rời mắt khỏi cửa miếu. Chiều đã mái bóng, nhưng đến một con chuột ra vào bấy giờ tôi cũng thấy được rõ. Thằng khách chắc chắn vẫn còn trong lều.
Tôi vung thanh đao dựt ở tay một người để xông lên trước, quvết bắt, mà thế nào cũng bắt được thằng khách cho bọn người Nùng hết nói là ma.
Tôi bước vào. Bọn người Nùng cũng đã ồ tới chật cả cửa. Trong lều im phăng phắc. Tôi quay mắt nhìn đến cùng kẽ mọi xó tối. Kỳ dị thật. Không thấy qua bóng vết thằng khách đâu.
Đánh đuốc lên xem nào!
Lửa sáng, soi cũng chẳng thấy gì khác. Cũng không có gì thay đổi, đồ vật mọi chỗ vẫn у nguyên. Trong lều còn một vài chỗ dấp lá khô, nhưng đống thấp, bới tìm chỉ thêm việc. Tường vách làm để phòng ngữ thú rừng, một con mèo không lọt được, mà lúc đó vẫn kín, không một dấu dao khoét nào qua. Vậy thì thằng khách trốn đàng nào? Chỉ có lối сửa thì tôi đã để ý chăm chú lắm rồi, không thể nào nó ra khỏi mà tôi không trông thấy được!
Tôi kinh ngạc hết sức. Nhớ lại thì cái bóng thằng khách lúc lẻn vào vẫn rõ rệt, cái mình áo chàm, cái đuôi sam đen, cả đôi ống quần nịt quấn của nó, nhất nhất tôi thấy rành rẽ. Cả cái vẻ lén lút của nó nữa. Thế mà rồi thành hư ảo, mà sự biến ảo chỉ có tôi trông thấy, hình như chỉ ngạo nạt riêng một mình tôi. Các bạn săn thì không ai ngẫm nghĩ lâu. Họ cứ tin theo ý họ vẫn tin, một mực bảo tôi rằng: "Chỉ là mа đấy thôi, đừng sợ nó. Ma không bao giờ làm chết những người ngay thẳng hiền lành". Tôi không hiểu nên cho thế nào là phải, tâm trí như rối loạn, vừa hoảng sợ ngấm ngầm, vừa tức giận, bó gối ngồi bực dọc một xó; mặc những người kia hì hục lột da con trăn.
Họ thấy tôi chưa từng băn khoăn quá như thế bao giờ. Thấy một người gan dạ vui vẻ như tôi mà bỗng có thái độ đổi khác đến thế, họ cũng phải sinh ngờ vực, cũng phải hiểu rằng những điều tôi trông thấy tất hẳn là những điều phi thường. Sau cùng, người trưởng đoàn đồ là tôi gặp bóng thần rừng, hay chính thần miếu. Vị thần khu cổ miếu nay bị bọn tôi đến quấy rối sự yên tĩnh, hiển hiện lên để tỏ ý giận dữ; đã thế thì chỉ có việc cúng bái là yên ngay. Họ vừa sửng sốt vừa trầm trồ như mới vỡ ra một lẽ tất nhiên không thể nào khác được. Trong bọn có người thường nhật làm thầy "mo" cho cái ý vừa rồi phải đem làm ngay. Hắn liền đốt lửa giữa lều, gõ thanh la, niệm thần chú để tạ ông "thẻng" ông "thần" ở đấy: "Xin ông "thẻng" ông "thần" ở đây cho phép bọn người đi săn ngụ trong miếu này, săn trong rừng này", để người đi săn giết nhiều hổ, nó vẫn làm hại cho con cho cháu người dân người làng, nó vẫn ăn trộm con lợn, con bò của người dân người làng... xin ông đừng giận người đi săn làm chi nữa".
Cầu cúng xong, thế là yên chuyện. Bọn họ lại nói đến cuộc săn, không ai nhắc đến người khách hay ông thèng thần nữa. Gặp phải sự cản trở cho công việc họ, thì họ giết phắt kẻ làm trở ngại kia đi. Nếu lại là thần thánh hay tà ma xui nên thì họ cầu đảo, phù chú. "Đói khát thì ăn thì uống, đau ốm thì thuốc, thì bùa". Sự cầu cúng họ tin có hiệu lực vững vàng như kết quả của mọi sự thiết thực. Phần tôi, tôi không thể dễ dãi yên lòng được như thế. Tuy không lộ vẻ lo ngại nhiều, vì không muốn họ cho mình quá nhút nhát, song tôi thành ra ít nói, lúc nào cũng trầm ngâm cố giải những điều kỳ quặc nọ. Cả những lúc săn bắn trong rừng, tôi cũng không thể quên đi được, mỗi chốc lại tưởng chừng sắp thấy một sự lạ nào xảy ra...
Chiều tối hôm sau, nhân phấn khởi về số vật săn khá nhiều trong đêm vừa qua, lại hăm hở sửa soạn săn vây lớn đêm sắp tới, mọi ngườt ăn uống một bữa ồn ào vui vẻ khác thường. Họ rót cho tôi một gáo rượu đầy, bông đùa mấy câu về những chuyện ma rừng, lại ép tôi uống thực nhiều để thêm vững trí. Tôi không hay rượu, nhưng bữa này lấy vui, rượu cần thơm ngon một hứng vị riêng, tôi cũng sẵn lòng cười nói như thường, tâm trí nhẹ hẳn đi; những việc quái dị, những điều lo ngại không còn gì quan trọng mấy nữa. Mình lại tự nhủ: Ừ, tội gì mà thắc mắc. Mình là người chính trực, không làm hại ai, không có gì tà khuất trong lòng, thế thì dù có những loài yêu quỷ hung bạo thật chăng nữa, chúng nó đã dám làm gì được mình. Chuyện nói bữa đó nhiều câu thực hào hùng, rượu uống cũng hăng hái, lúc sực nhớ đến cái hại quá chén, biết nghĩ đến sự nên ngừng lại để khỏi phải bỏ cuộc săn, thì đã say mất rồi. Tôi đứng lên được, nhưng bước đi cố gắng cũng không giữ nổi thăng bằng, ăn được chút nào thì chỉ chực những nôn hết. Một người bạn săn phải đỡ lấy tôi. Mấy người khác dọn vội lấy một góc kín rồi cùng vực tôi đến, đặt nằm yên đấy. Tôi mơ hồ thấy mấy bộ mặt cười cợt, hiền lành cúi xuống, rồi từng khoảng ánh lửa trong lều đổi chỗ, bước chân của bạn săn nhẹ nhõm, với những tiếng trò chuyện như thấp xuống, như thì thào!
Tôi ngũ một giấc thẳng, không biết được bao lâu. Lúc thức dậy, bàng hoàng, nhưng tỉnh ngay tức khắc. Chừng đã khuya lắm. Trong lều, tối như bưng. Bấy giờ hơi rượu đã tan hết. Sờ quanh mình thì biết là đang đè lên đám lá khô. Trên bụng đắp một manh chiếu cói. Nằm dốn một lúc nhìn đến nhức mắt cũng không biết được là đang ở khoảng nào, cũng không rõ cửa ở phía nào. Bạn săn có lẽ đi đã lâu lắm. Thử cố nghe xem có thấy tiếng tù và hay tiếng thanh la đưa vọng lại không. Tịnh không. Bầu tối nghịt đen. Tiếng rừng đêm cũng như nhỏ xuống mãi. Trong lòng tôi tự nhiên thấy ghê sợ quá, mình như bị bỏ vào một chốn ngục sâu lạnh lẽo kín mít, trong đó đầy những sức âm u quái gở, không mong có ai ngó ngàng cứu vớt mình. Tôi lại nhớ ngay đến thằng khách, nhớ đến con trăn lớn, nhớ hết các việc dị kỳ mấy hôm vừa qua... Nghĩ cứ giận bọn người Nùng sao nỡ để tôi trơ trọi chốn này. Chắc hẳn tôi say quá, họ biết không thể đi săn được, đành để tôi ngủ yên ở nhà. Nhưng họ có ngờ đâu là tôi không thể yên tâm được, đối với những điều xảy rа kia, tôi có dửng dưng được như họ đâu?
Có tiếng động khác tai.
Bên ngoài, những bước chân như đang tiến lại. Tôi lắng nghe. Không thể lầm được. Tiếng chân bước đều, thong thả, mà như quen đi trên đường lối gần đấy... Nhưng khi gần tới chỗ mà tôi đã nhận ra là phía cửa thì bước đi lại ra chiều dè giữ rón rén. Loáng thoáng có ánh lửa đuốc. Vì thế tôi mới nhận được phương hướng cùng với chỗ mình vẫn còn nằm. Bước đi càng thêm nương nhẹ, có vẻ nghe ngóng, lá khô bên ngoài bị xéo dị xuống mà tiếng nghe vẫn êm. Rồi im hẳn. Lửa đuốc như sáng to hơn. Một tiếng cọt- kẹt từ từ mở cửa phên. Một bó đuốc đưa vào cùng một cánh tay áo chàm, rồi cả một người lách vào! Tòi nhận được mặt ngay.
- Chính là thằng khách!
Tôi tái hẳn người đi. Mép chiếu đã kéo lên tới gần mắt, tôi cố thu hình lại, mong cho nó không biết trong này có người. Cũng may, bấy giờ tôi nằm ở một góc miếu phía trong cùng, nơi xếp những lương khô, mình khuất sau mấy nải gạo mà bọn người Nùng kéo ra có lẽ để dọn cho tôi được chỗ kín gió mà sạch sẽ cao ráo nhất. Từ góc đó, tôi có thể trông qua những quãng hở để xem cử động của thằng khách mà nó thì khó thấy được tôi.
Thằng khách giơ bó đuốc nhựa lên nhìn khắp lều một lượt, xem chiều yên trí rằng bọn đi săn thực không còn một ai ở nhà. Tuy vậy, lúc nào nó cũng vẫn có vẻ giữ gìn, đề phòng, hai mắt sắc, nhanh như lửa, liếc đây liếc đó; mà tai thì lúc nào cũng như lóng nghe. Nó bước lên một bước, ngảnh nhìn ra cửa một cái, cúi xuống cắm bó đuốc ở một kẽ gạch, rồi rút ở lưng ra một con dao rừng lớn, nhìn thẳng về phía tôi. Trống ngực tôi đánh mạnh rất dữ. Có lẽ nó nghe tiếng mất. Nó cứ nhìn về phía tôi mãi, nhất định không rời mắt đi đâu. Nó nghĩ ngợi, như còn lưỡng lự nghi ngờ một lát, rồi thong thả bước lại góc miếu, lôi một nải gạo áp tường bê lên rồi vứt lên người tôi. Tôi phải hết sức nhịn mới khỏi kêu. Hai nải gạo nữa lại đè lên tôi, một ở chính giữa bụng, một ở dưới đầu gối. Dễ thường nó giữ cho tôi không dậy được chắc. Tôi vừa nghĩ thế thì nó đã nhặt con dao lên ướm, trỏ cái mũi vừa sắc vừa nhọn vào cạnh sườn tôi. Tôi không còn hồn vía nào. Toan vùng chạy, nhưng chân tay lại bị bó ép trong mảnh chiếu dưới ba nải gạo nặng, thì con dao đã cắm xuống cách đùi tôi chỉ độ một gang. Thằng khách cúi khom người, mặt nó sát gần với mình tôi, đang lúi húi vun những lá khô đất vụn mới rấp lại chỗ ấy. Nó chưa biết có tôi ở đó cũng là một sự lạ. Cái khăn chàm quấn trên đầu tôi tuy sổ ra nhưng búi tóc buột xuống thò ra ngoài mép chiếu khá nhiều. Hay nó biết mà làm như không? Tôi thực khổ sở vì điều ngờ vực ấy. Nhưng có lẽ ánh đuốc xa, nó lại sấp bóng, mà những áo tơi, bao tải thì hỗn độn trong góc miếu, vì thế mà tôi chưa bị lộ diện cũng nên. Tôi nhíp mắt nhìn xuôi xuống xem nó làm gì thì cái chuôi dao đang bị hai tay nó ấn xiêu về phía lòng nó: nó đang bẩy một cái gì ở dưới đất. Tôi không phải chú ý lâu đã thấy chồi lên mội phiến gạch lớn dầy lắm, vuông mà to gấp hai ba chiếc bàn cờ. Tiếng động chạm lúc thằng khách lôi nhích phiến gạch, nghe có âm vang khác lạ. Tôi nhận ra đó là nắp đậy của một cái hầm đào.
Người tôi mỗi lúc một cứng ra như gỗ, hết sức ghìm giữ hơi thở, vì để nó biết thì chỉ một nhát dao kia là uổng đời. Lúc đó, nó còn mải chưa để ý, nhưng lát nữa nó đem bó đuốc lại soi xuống hầm, mà tôi thì nằm sờ sờ ra đấy, dưới ánh sáng rõ, thì thoát sao cho khỏi đôi mắt sáng như hai mũi gươm kia!
Thằng khách tra dao vào vỏ, nâng phiến gạch nặng lớn như thế mà coi ra vẻ rất nhẹ nhàng. Lúc nó kéo hẳn sang một bên miệng hầm thì bỗng thình lình cái nải gạo trên bụng tôi lăn ngay xuống. Cổ tôi tắc lại vì sợ. Lần này thì hẳn nó biết. Nhưng nó vô tình. Nó cho là việc tự nhiên lúc xê dịch phiến gạch vừa rồi, nên lấy chân ấn hai nải gạo còn lại trên người tôi vào quá phía trong. Có lẽ lúc ấy cả người tôi cũng chỉ là một bọc lương hay một bó chiếu gì đó. Nó hắng giọng khạc nhổ một cái rồi vừa lẩm bẩm nói vừa bước ra phía cửa phên. Cửa vẫn chỉ mở hé. Nó mở rộng thêm chút nửa, đến bên toan nhổ bó đuốc, nhưng sau ra khỏi lều tay không. Tôi dè chừng nó còn định mang xuống hầm một vật gì nữa.
Tôi liền hất chiếu vùng dậy. Phải lợi dụng cái khoảnh khắc thằng khách vắng mặt ở đấy. Chưa kịp có mưu kế gì, tôi nhảy một bước đến bên vách, hàng nhấc lấy cung tên treo ở tầm tay. Trông trước trông sau, không có một chỗ nào khả dĩ ẩn được kín đáo, thì tiếng lá khô bên ngoài đã lạo xạo. Túng thế, tôi thấy chỉ còn cách trốn xuống ngay dưới hầm. Cái tiếng nải gạo rơi xuống đó lúc trước, nghe gần lắm, hầm tất cũng chẳng sâu bao nhiêu. Tôi bèn lẹ chân nhảy xuống. Trong trí bấy giờ đã tính sẵn: nếu không tìm được chỗ nào khuất, nếu thằng khách xuống hầm còn có thể vớ được tôi thì thừa lúc anh chàng bất ngờ, cắm ngay cho mấy mũi tên sắt này vào gáy là rảnh chnyện.
Chân tôi chạm tới đất thì vừa vặn ngồi lên nải gạo lăn xuống vừa rồi. Đất dưới chân ẩm, nhưng không mềm nhẽo. Hầm tối như hũ nút. Quờ tay sờ soạng chỉ thấy quãng không đen ngòm. Trông lên, chếch phía trên đầu là cái khung vuông, ánh sáng đỏ mờ mờ; đó là cái miệng hầm nắp mở ra gần hết.
Cứ trông qua cái miệng hầm ấy cũng đoán được hành vi thằng khách trên miếu lúc đó. Bó đuốc chừng nó đã nhổ lên, rồi đi soi mói khắp mọi xó. Khoảng mái lá tôi trông được bên trên, ánh sáng lúc tỏ, lúc mờ, có lúc tối hẳn. Có lẽ thằng khách bấy giờ mới sinh nghi, hoặc vẫn chưa đành tâm về hồi хеm xét sơ qua lúc đầu, nên soi lại để cho thực vững bụng. Xem chừng nó không bỏ sót một chỗ nào. Tôi nghĩ mà hú vía. Giá nó cẩn thận như thế từ lúc trước, lúc tôi còn nằm dí ngay trước tầm dao của nó thì muôn phần không có một phần mong vẹn toàn.
Ánh lửa biến dần, rồi lại sáng lên rất mau. Rồi sau cùng, tôi trông thấy cả ngọn đuốc. Thằng khách đã cắm bó củi nhựa ngay cạnh miệng hầm. Nhờ có sáng, tôi nhận ngay được một cái hõm thụt vào vách đất cách tôi không đầy ba bước, khuất sau một thứ cột cây mà lúc ấy tôi mới thấy hiện ra. Tôi nép ngay vào cái hõm để ẩn. 'Trên kia, thằng khách đưa xuống một cái thang. Một cái thang nhỏ, ngắn, làm sơ sài bằng những gióng cây không thẳng. Nhanh nhẹn như nó mà phải dùng thang mới xuống được đã là một điều bất ngờ. Lúc nó xuống thang, tôi lại thấy nó phải dò dẫm. Chân nó chậm chạp đặt vào từng bậc, như miễn cưỡng bị ai bắt xuống. Thì ra nó mang trên vai một vác lớn, một thứ bọc vải dài, xem chừng khá nặng, lại đèo thêm một gói nhỏ cũng bọc vải, buộc ở một bên. Xuống hết bực, nó đi ngay vào trong bóng tối, có vẻ quen chân lắm. Tôi đoán chừng chứ không trông thấv nó đặt cái vác nặng xuống một chỗ. Một lát, tay không, nó trở ra, leo lên thang lấy bó đuốc xuống, nhân thể đậy lại cái nắp hầm.
Nó đem bó đuốc vào, cắm bên cạnh cái bao đã đặt trước một thứ bệ đất, trên đó có mấy đồ thờ cũ, kiểu lạ, chỉ thấy ở những đình chùa của người Tàu. Chỗ ấy cách tôi chừng hai chục bộ. Nó còn trở lên xem lại chỗ miệng hầm một lần nữa. Biết là nắp hầm đẫ đậy thực kín, nó mới yên tâm xuống, đến bên hai cái bọc, mở cái nhỏ lấy ra vàng, hương xếp lên mặt bệ. Nó thắp hương cây cắm vào hai cái lọ vuông, châm thêm điểm hương vòng rất lớn vẫn treo đó từ trước, rồi đốt bốn ngọn nến sáp cắm sẵn trên bốn cái giá nến bằng đồng hun. Lúc đó, tôi mới đế ý xem xét.
Hầm này không biết có từ đời nào, hầm đào do hạng người nào, mà sâu rộng được đến thế! Chu vi có đến ngót ba miếng, gần theo hình chữ nhật, song không được ngay gọn; bề cao một người trung bình сố nhảy lên mới với được đến trần. Bề đất trần dầy non một thước, có những dầm lớn bắc ngang giữ lấy những bắp tre dài đặt dọc. Bảy tám súc cây để nguyên thân, chỉ đẽo có vỏ ngoài, dựng thành hai hàng cột không thẳng, không đều, xiêu vẹo, cong queo. Từ chỗ bệ thờ, lửa nến, lửa đuốc, chiếu lòe ra những hình đen ngả lên mặt đất, giải lên trên trần, to lạ lùng và dài ngoằng ngoẵng, nhích động như linh hoạt, theo những lúc ánh sáng bập bồng. Bóng tối, lửa đỏ, cảnh tượng chập chờn âm u, tôi khác nào ở giữa một nơi yêu dị kinh hoàng. Không khí trong hầm lại bức nặng. Hơi mục, hơi ẩm, hơi dễ ngái, đất lạnh, bọc thấm tận da thịt mình; mà lẫn với mùi hương nến, mùi khói nhựa ở bó đuốc tàn ngọn, lại thoảng những hơi cá ươn, cóc chết trong đám vẩn rác ruộng hôi. Một thứ sương mờ loe quanh mấy quầng sáng trên bệ đất.
Phía trước chân bệ, một khoảng đá lớn bằng nửa cái chiếu, phẳng liền như chỉ độc một phiến. Thằng khách lom khom quỳ trên đó, bên cạnh cái bao lớn đặt chếch một bên. Vách hầm bên hữu treo hai thanh mác cực lớn, tuy hoen rỉ nhưng vào hạng cổ khí rất tốt. Sát vách bên tả, một bảng gỗ to, cao gấp rưỡi cánh phản, dầy đến ngót nữa gang, dựng đứng như một thứ bia.Trước mặt bảng gỗ lủng lẳng những vòng sắt móc sắt với xích sắt mắc treo tận dầm trần. Dưới chân bảng gỗ cuộn nằm ngổn ngang những sải dây thừng nhỏ có, lớn có. Thoạt tiên, tôi cho chốn này là một thứ sào huyệt của một bọn giặc cướp nào, không thì cũng là một nơi ngục thất bí hiểm đặc biệt, mà những hình cụ đó tất dùng vào một việc tra tấn hành phạt riêng. Từ lúc thấy thằng khách vẫn quỳ gối trước bệ, lầm rầm như khấn khứa, nhân lại thấy nó mang cái bao xuống theo,thì tôi đoán ngay rằng: có lẽ thằng khách đem yểm vàng yểm ngọc chi đó. Cái bao kia tất không đựng cái gì khác một số của vĩ đại phi thường. Sự tình cờ khiến tôi bắt gặp cái công việc mà nó hết sức giữ kín đáo. Tôi nghĩ bụng. Hẳn là thế thực. Có vàng bạc đem chôn giấu tất nhiên phải cẩn mật lắm: những việc rình mò, lẫn trốn của thằng khách mấy hôm trước kia cũng không có gì lạ lùng quá đáng nữa. Thế thì mình chỉ việc đợi cho nó cất xong bao của rồi lên khỏi, là mình sẽ có cách thoát thân. Tôi nghĩ vậy, nên kiên lòng vừa chờ vừa хеm.
Sau khi cầu cúng vị thần mà tôi độ là Tài thần của nó, thẳng khách dậy lôi cái bao vải chàm ra để nằm chính giữa phiến đá, dụi tàn cho cháy to chỗ đuốc còn có một đoạn ngắn, rồi dùng lưỡi dao rạch ngược để mở cái bao ra. Nó rút bỏ một ít mảnh vải lót đi, bên trong còn bọc một lần chăn màu tro. Khi những mối buộc, thắt ở mấy góc đã cởi đến nút sau cùng, thì, kỳ dị quá, tôi thấy lại là một người, một người con gái Tàu, quần áo thường ngày nhưng vào hạng lịch sự khác xa với cách ăn mặc thô dày của thằng khách. Người con gái trạc độ mười tám hai mươi tuổi. Nước da xanh, lúc đó xám mét vẫn không làm kém vẻ đẹp của khuôn mặt nhỏ, nét đều mà thanh. Hai mắt nhắm nghiền dưới ánh đuốc sáng gần đó, cô ta im bặt như chết. Nhìn kỹ mới biết là hơi thở rất nhẹ, như chỉ còn thoi thóp. Thằng khách không ra vẻ để ý đến vội, thong thả kéo cái bọc nhỏ lại, mở lấy ra một cái bầu, bình tĩnh đổ vào miệng người con gái, rồi lặng lẽ ngồi chờ. Tôi thốt nhiên rợn lòng, sực nhớ đến một điều kinh khủng, một công việc ghê gớm trong những truyện yểm vàng của người Tàu.
Comment