Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Quán trọ hoang thôn

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    16. Ngày thứ mười sáu




    Hôm nay là ngày thứ mười sáu của câu chuyện, bắt đầu từ ngày hôm nay bạn sẽ phát hiện ra câu chuyện này đã tiến vào một mê cung mới.
    Trời càng ngày càng nóng, hôm qua từ bệnh viện tâm thần chạy tới hiệu sách trong ga tàu điện ngầm rồi lại chạy tới trường học đã khiến cơ thể tôi mướt mát mồ hôi nên phải thay hết cả quần áo. Bỗng nhiên, tôi sờ được một vật cứng trong túi áo, trong lòng chẳng hiểu sao bỗng run rẩy, tôi vội vàng thò tay vào túi thì mò thấy chiếc nhẫn ngọc màu xanh đó.

    Đây là nhẫn ngọc dưới mật thất dưới lòng đất tại Hoang thôn, nó rút cuộc nên đeo vào ngón tay ai?

    Hôm qua tại bệnh viện tâm thần, tại sao Xuân Vũ lại đeo nó trên cổ? Tôi vốn không muốn đem nó đi, nhưng hiện nay nó đã nằm trong tay tôi, có lẽ đây chính là số mệnh của nó.

    Tôi tỉ mẩn nhìn chiếc nhẫn ngọc, vết đỏ đun trên một mặt nhẫn cảm giác giống như một dấu ấn nào đó khám trong ngọc thách xanh. Tôi đột nhiên sững sờ, dường như chiếc nhẫn này đã hút hết thân nhiệt của tôi. Tôi lập tức đặt chiếc nhẫn vào một chiếc hộp nhỏ, rồi cất vào trong ngăn kéo.

    Hôm qua thật sự quá mệt, từ trường học đi ra lúc hoàng hôn, tôi liền cáo từ Tiểu Sảnh, tự mình gọi tắc xi về nhà. Về tới nhà còn chưa kịp thở tôi đã gọi ngay điện thoại cho Diệp Tiêu, kể cho anh ấy nghe về những chuyện đã xảy ra trong ngày, đặc biệt là nghi vấn cuối cùng.
    Lúc này, bức ảnh đang kẹp trong cuốn sổ của tôi, tôi thẫn thờ nhìn chằm chằm vào mấy người trong ảnh, cảm giác đó thật khó có thể hình dung bằng lời.

    Chuông điện thoại bỗng vang lên. Tôi lập tức nghe máy, là giọng của Diệp Tiêu.
    “Anh tìm thấy quán trọ Hoang thôn rồi”.
    Lúc đầu tôi vẫn chưa kịp phản ứng lại, nhưng vài phút sau bốn chữ “quán trọ Hoang thôn” đó giống như những viên đạn bắn vào tim tôi. Tôi lớn tiếng nói: “Anh làm thế nào mà tìm được?”
    “Tối hôm qua, cậu nói là quán trọ Hoang thôn chắc là kiểu nhà tay được xây dựng trước năm 1949. Sáng nay, tôi thông qua hồ sơ nội bộ của sở công an tìm kiếm được tất cả tài liệu về địa danh cũ của Thượng Hải, cuối cùng đã tìm ra cái tên quán trọ Hoang thôn đó”.
    Tôi hấp tấp truy hỏi: “Ở đâu?”
    “Số 13 đường An Tức”.
    Diệp Tiêu chậm rãi nhả ra từng chỡ một, tôi bất giác sững cả người ra, đường An Tức, Thượng Hải có con đường này sao? Tôi vội vàng hỏi: “Số 13 đường An Tức? Tôi không nghe lầm chứ, tôi chưa từng bao giờ nghe thấy con đường này”.
    “Không sai, chính là chỗ đó, còn nhớ hồi còn nhỏ, chúng ta thường tới phía sau con đường đó chơi không?”
    “Lúc nhỏ?” Kí ức lập tức ùa về, một con đường nhỏ râm mát đang mờ ảo hiện lên trước mắt tôi, “Đúng, tôi nhớ ra rồi, con đường nhỏ không biết tên phía sau nhà em ngày xưa”.
    “con đường đó gọi là đường An Tức”.
    “Cám ơn anh, Diệp Tiêu”.
    Diệp Tiêu hình như còn muốn dặn dò tôi điều gì đó, nhưng tôi đã hấp tấp gác máy rồi.
    Bởi vì tôi còn phải gọi điện cho một người khác… Nhiếp Tiểu Sảnh.
    Trong cuộc điện thoại sau đó, tôi kể cho cô ấy nghe về thông tin mình vưa nghe được. Tiểu Sảnh cũng vô cùng hưng phấn, lập tức đòi tới quán trọ Hoang thôn xem xem. Tôi đồng ý và hẹn luôn nửa tiếng sau sẽ gặp nhau tại trước cửa nhà số 13 đường An Tức.
    Đem theo bức ảnh cũ này, tôi vội vàng lao tới đường An Tức.
    Cuộc điện thoại ban nãy của Diệp Tiêu khiến tôi hồi tưởng lại thời niên thiếu, đó chính là ngôi nhà cũ của gia đình tôi, trước sau đều là một con đường nhỏ, kín mít những ngôi nhà kiểu dáng cũ kĩ. Nhưng, kể từ năm tôi lên mười tuổi gia đình tôi đã dọn nhà đi, tôi đã chưa từng quay lại đó, những ký ức còn sót lại cũng dần dần biến mất.
    Nửa tiếng sau, tôi đã tới ngôi nhà mười mấy năm trước của mình, thật không ngờ ở đây đã thành công trường xây dựng, căn nhà trước đây đã bị tháo dỡ từ lâu. Nhìn đống đổ nát trên công trường xây dựng, lòng tôi bỗng dưng chát đắng, đây chính là năm tháng đã trôi đi sao?
    Không kịp cảm khái nữa, tôi bước nhanh qua đường để tới con đường nhỏ phía sau. Quả nhiên, tôi nhìn thấy tấm biển ghi tên đường, “Đường An Tức”.
    Chính là chỗ này. Nhìn con đường nhỏ yên tĩnh, ký ức tuổi thơ của tôi giống như từng thước phim đang được chiếu lại, dìu tôi chầm chậm tiến về phía trước. Tôi tự nhiên nhớ lại lúc còn nhỏ, Diệp Tiêu thường đưa tôi tới đây chơi, lúc đó hai bên đường đều là từng dãy nhà cổ kính, ẩn náu trong những tán cây xanh um tùm, khiến những đứa trẻ chúng tôi vừa có chút hiếu kỳ vừa có chút sợ hãi. Ở đây hình như không có xe ô tô chạy qua, đến cả người đi bộ cũng thưa thớt, con đường chật hẹp bé nhỏ quanh co có thể tùy ý xuyên qua, có lúc yên tĩnh tới mức khiến người ta phát sợ. Dường như chỉ cách có một con đường mà đã là một thế giới khác.
    Vậy là, hiện nay tất cả đều đã cái biến rồi, mắt tôi nhức nhối, những căn nhà bên đường đều bị dỡ sạch, có những căn nhà chỉ còn là một đống gạch ngói hoang phế, có căn nhà chỉ còn lại bức tường đổ nát. Vài xe ủi đất đang làm việc trên bãi dất hoang tàn, một vài công nhân xây dựng đang dựng lên những căn buồng ở tạm, đường An Tức biến thành một công trường lớn.
    Tim tôi bắt đầu treo ngược lên, quán trọ Hoang thôn không biết có biến thành đống hoang phế này không nữa? Nếu như đúng như vậy thì khác gì công sức của tôi đã tan thành mây khói? Trong lòng tôi âm thầm cầu nguyện, bước theo con đường nhỏ, hai mắt không ngừng quét dọc hai bên đường.
    Sắc trời càng lúc càng âm u, đột nhiên có vài giọt mưa rơi xuống khiến lòng tôi càng trở nên bất an.
    Khi tôi đang chạy tới cuối đường An Tức bỗng nhiên phát hiện ra giữa một đống đổ nát sừng sững một ngôi nhà màu xanh lá cây.
    Đây là một căn nhà ba tầng kiểu dáng của Anh quốc, trên tường phủ kín những dây leo mày xanh lá cây bao trọn lấy cả ngôi nhà. Mưa càng lúc càng to, dưới bầu trời u ám, căn nhà màu xanh này đứng sừng sững cô độc, xung quanh toàn là những bức tường đổ nát. Tôi cảm thấy cảnh tượng này thật sành điệu, giống hệt như di chỉ cổ đại trên thảo nguyên hoang tàn nước Anh khiến người ta tim đập thình thịch từng hồi.
    Nước mưa càng lúc càng dày đặc quất vào mặt tôi, tôi đành phải dẫm lên đống gạch ngói hoang phế, chạy về phía ngôi nhà màu xanh.
    Bỗng nhiên, tôi phát hiện một phụ nữ trẻ đứng dưới lầu đang ngước mắt lên nhìn đỉnh ngôi nhà, cô ta mặc một chiếc váy trắng nhưng không che ô, nước mưa dần dần làm ướt cô ta khiến chiếc váy bó sát cơ thể, nhìn từ đằng sau dáng dấp của cô ta thật sự vô cùng hấp dẫn.
    Tôi rút cuộc đã lao tới nơi, lập tức thốt lên tên của cô ta: “Tiểu Sảnh”.
    Sắc mặt của cô ấy hình như kon63, thẫn thờ quay đầu lại nói: “Anh tới muộn rồi”.
    “Xin lỗi, sao cô lại đứng đây, cẩn thận ướt mưa bị lạnh đấy”. Trong lúc nói chuyện, tôi cũng phát hiện ra mình cũng đã bị ướt hết cả người từ lúc nào rồi, điệu bộ còn lếch thếch hơn cả cô ta.
    Tiểu Sảnh không buồn để ý tới lời tôi nói, cô ta vẫn đứng nhìn chằm chằm vào ngôi nhà nói: “Đây chính là quán trọ Hoang thôn”.
    “quán trọ Hoang thôn?”
    Bốn chữ này khiên tôi chột dạ, lúc này tôi mới phát hiện ra tấm biển số nhà treo dưới tầng trệt “Số 13 đường An Tức”.
    Không sai, nơi Diệp Tiêu nói chính là chỗ này, tôi không sao kìm chế được sự kích động trong lòng, nắm lấy tay Tiểu Sảnh xông vào ngôi nhà.
    Giây phút nắm lấy tay cô ấy, lòng tôi bỗng ấm áp, làn da cô ấy trơn mịn và mát rượi, còn ướt cả những hạt mưa, cảm giác vừa trơn vừa mịn khiến tôi bất giác cũng cảm thấy ngại ngùng.
    Nhưng cô ấy dằng tay lại nói: “Đừng, tôi cảm giác ngôi nhà này rất kỳ quái, chúng ta đừng tự ý xông vào”.
    “Cô muốn thành gà mắc tóc dưới mưa sao?”
    Tôi nắm chặt tay cô ấy, lao nhanh về phía cửa ra vào, hiên nhà giúp chúng tôi chắn mưa, tôi ra sức gõ cửa, nhưng đằng sau cánh cửa không chút phản ứng. Tôi lại nhoài lên cửa sổ để nhìn vào bên trong, nhưng trong đó quả thật rất tối.
    Trong lúc vội vã, chúng tôi vòng ra phía sau ngôi nhà thì phát hiện ra một cửa sau không hề bắt mắt, hình như chỉ là che đậy qua quýt. Tôi thử nhẹ nhàng đẩy cửa, không ngờ rằng cánh cửa liền mở ra. Tôi lập tức kéo Tiểu Sảnh đi vào trong.
    Tôi đã bước vào quán trọ Hoang thôn.
    Bước vào cửa là một dãy hành lang, chất đống linh tinh những đồ gia dụng cũ kĩ và rác rưởi, ánh sáng tối tăm khiến mắt của chúng tôi không thích ứng lắm, lớp bụi tung bay theo từng bước chân của chúng tôi tiến vào, tôi vội vàng dùng tay che miệng và mũi.
    Mãi đến lúc này, bàn tay của Tiểu Sảnh mới giảy ra khỏi tay tôi, cô ấy xoa xao cổ tay nói: “Đây là do anh muốn xông vào đấy nhé”.
    Lớp bụi đã dần dần bay đi, tôi thở dài nói: “Ban nãy trong điện thoại, không phải cô nói rất muốn xem quán trọ Hoang thôn sao? Sao bây giờ lại thấy sợ rồi?”
    “Tôi cũng không hiểu tại sao?” Tiểu Sảnh lấy tay lau lau mái tóc ướt mưa để lộ ra ánh mắt hoảng hốt, “khi tôi đứng dưới ngôi nhà, lúc ngước lên nhìn cửa sổ tầng ba trong lòng bỗng có cảm giác kỳ quái, tôi không thể diễn tả bằng lời nhưng thực sự tôi cảm thấy rất khủng khiếp, khủng khiếp vì ngôi nhà này”.
    Nghe giọng nói u sầu của cô ấy khiến lòng tôi cũng có chút sợ hãi nhưng tôi vẫn cứ an ủi cô ấy: “Không, đấy chỉ là tác động tâm lý của cô mà thôi”.
    Nhưng cô ấy vẫn lắc đầu quầy quậy, bàn tay lại bắt đầu lau váy đang bị ướt mưa.
    Tôi có chút bối rối hỏi: “Cô bị ướt hết rồi, có sao không? Có cần tôi đưa cô về không?”
    “Không sao đâu, dù sao cũng đã vào đây rồi, chúng ta xem thế nào trước đã”.
    Tiểu Sảnh rút cuộc đã ngẩng đầu lên, người cô ấy đã lau khô được chút ít, ánh mắt thẫn thờ nhìn về phía cuối hành lang, ở đó chìm đắm trong bóng tôi đặc quánh.
    Tôi rón rén đi trước, mỗi bước chân đều khiến bụi tung bay, tôi không ngừng dùng tay phẩy bụi, cảm giác giống như đang đi trong một đường hầm khiến tôi nhớ lại địa cung Hoang thôn mà Tô Thiên Bình từng kể lại.
    Đột nhiên, bên cạnh hành lang xuất hiện một căn phòng, trong ánh sáng tù mù có thể phân biệt mang máng, đây là một cửa tối om để tiến vào, cánh cửa ban nãy tôi gõ chính là cánh cửa này.
    Sau cánh cửa là căn phòng trống hươ trống hoắc, tôi ngẩng đầu tỉ mỉ quan sát tường và sàn nhà, xem ra thiết kế của căn phòng này không đến nỗi tệ, mang phong cách Anh quốc. Chỉ là trên tường phủ kín bụi, còn có cả những vết bẩn tích lũy qua bao năm tháng, rất nhiều chỗ trên sàn nhà đều đã bong tróc, cảm giác loang lổ này khiến người ta nhụt chí.
    Bên trong còn có một phòng khách, mắt tôi giờ đã thích ứng với bóng tối, phát hiện ra phòng khách này rất rộng rãi, nếu có tới vài chục người khiêu vũ ở đây chắc vẫn chứa đủ. Bên cạnh phòng khách còn có một chiếc cầu thang hình xoắn ốc, tôi tới bên cầu tahng ngẩng đầu lên nhìn, đắn đo một lúc lâu nhưng vẫn không dám đi lên đó. Có lẽ do bị đóng cửa quá lâu nên căn phòng này tỏa ra một mùi ẩm mốc khiến những người bước vào cảm thấy tức thở.
    Sau đó, Tiểu Sảnh đi vào căn phòng bên cạnh, tôi vội vàng đi theo cô ấy. Đó cũng là một căn phòng rộng rãi, ánh sáng có vẻ khá hơn căn phòng ban nãy một chút. Nhưng khiến chúng tôi ngạc nhiên ở chỗ, căn phòng này có đặt một chiếc đàn dương cầm màu đen.
    Tiểu Sảnh lập tức lao tới, tuy trên mặt đàn phủ rất nhiều bụi nhưng cô ấy vẫn mở ắp đàn ra. Một dãy những phím đàn đen trắng so le nhau lộ ra, cô ấy lấy tay nhấn lên những phím đàn. Tuy nhiên tiếng nhạc diệu kỳ đã không vang lên như tưởng tượng, chiếc đàn này giống như một người câm, cho dù Tiểu Sảnh ấn thế nào đi chăng nữa nó đều không phát ra bất cứ âm thanh gì.
    Tôi cẩn thận nhìn mác gắn trên mặt đàn, nó được sản xuất tại Anh quốc, vào năm 1947. Tôi lắc đầu nói: “Đã bao nhiêu năm qua, chiếc đàn dương cầm này chắc hỏng từ lâu rồi. Nếu như mà chưa hỏng thì chiếc đàn dương cầm quý giá đáng tiền này chắc đã bị người ta dọn đi từ lâu rồi”.
    Sau đó, tôi lại ra phía sau đàn xem xem, quả nhiên như vậy, linh kiện bên trong đều đã bị đổ gãy, giống như một chiếc máy rách nát chỉ còn lại sắt thép rỉ sét.
    Tiểu Sảnh cũng gật gật đầu, cô ấy thất vọng đậy nắp đàn lại: “Anh nói không sai, nếu không thì nó đã không còn ở đây”.
    Lúc này, tôi quay đầu lại để xem bức tường bên cạnh, rồi lại nhìn chiếc đàn, đột nhiên kêu lên: “Chính là chỗ này rồi”.
    “Anh nói cái gì?”
    “Giống hệt như trong ảnh!”
    Tôi lập tức lấy bức ảnh từ trong cặp ra, vốn là bức ảnh gia đình Âu Dương, tôi chỉ vào bức tường trước mặt, Tiểu Sảnh cũng lập tức gật đầu: “Đúng, đàn dương cầm và bếp lò”.
    Hóa ra, trên bức tường này có khảm nạm một chiếc bếp lò to, trên góc tường còn có vài chiếc đèn phong cách phương tây, cộng thêm cả chiếc đàn dương cầm thì hoàn toàn giống với bối cảnh trong bức ảnh cũ này. Chúng tôi lại cẩn thận đối chiếu thêm một chút, cầm bức ảnh tới một góc khác trong phòng, đây có lẽ là vị trí mà người thợ chụp ảnh đứng, đứng tại chỗ này nhìn ra thì quả thật giống hệt với góc độ nhìn thấy trong ảnh. Bối cảnh đằng sau hình như không có chút biến đổi nào, dường như thời gian đã ngưng đọng trong căn phòng này.
    “Chính là chụp tại căn phòng này”. Tôi sững người ra nhìn tấm ảnh cũ kĩ này: “Không sai, nơi đây chính là quán trọ Hoang thôn. Đã hơn năm mươi năm qua đi, nhưng chúng ta đứng tại đây, nhìn những người trong ảnh mà dường như họ vẫn đang ở trong căn phòng này”.
    “Đừng nói linh tinh”. Tiểu Sảnh lập tức ngắt lời tôi, giống như tôi đã phạm phải một điều tối kị nào đó. Cô ấy lại quay đầu lại nhìn ra ngoài cửa sổ, bên ngoài mưa như trút nước, màn mưa dày đặc hòa cùng sắc trời ủy mị, trộn với cả không khí ẩm ướt cùng mùi ẩm mốc cũ kĩ của căn phòng này đều khiến người ta cảm thay61kho1 thở.
    “Bên ngoài mưa to thế, không thể tạnh ngay được, chúng ta đi xem ngôi nhà này trước đã”.
    Vừa nói tôi vừa bước ra khỏi căn phòng này, lại xuống đi một vòng khắp tầng một. Bên cạnh phòng khách hình như là một nhà bếp, nhưng không thấy bất cứ đồ gia dụng nào, mạng nhện giăng kín trên bếp lò. Ngoài ra còn có vài căn phòng nhỏ, hình như là để cho những người giúp việc ở.
    Tôi lại tới chỗ lên cầu thang, cẩn thận rón rén bước lên, chiếc cầu thang xoắn ốc này vẫn còn khá kiên cố, chỉ có lan can là phủ kín bụi. Bước một vòng theo cầu thang, rút cục tôi đã tới tầng hai của quán trọ Hoang thôn. Trước mặt là một dãy hành lang dài nhưng không nhìn thấy dù chỉ là một tia ánh sáng đã khiến tôi không dám cả gan tùy tiện bước vào. Trên tường có một chiếc công tắc đèn, tôi thử ấn một cái, không ngờ đèn đã bật sáng, hóa ra ở đây từ trước tới nay vẫn chưa ngắt điện.
    Bỗng nhiên, tiếng bước chân lanh lảnh của Tiểu Sảnh theo lên, căn phòng trống rỗng vọng lại những âm thanh kỳ quái, tôi mỉm cười với cô ấy: “Có lẽ ở đây vẫn có thể ở được”.
    Nhưng vẻ mặt cô ấy vẫn giữ nguyên vẻ nghiêm túc: “Nhưng tại sao bao lâu nay lại chẳng có ai ở? Xem ra ít nhất cũng đóng cửa để không vài năm nay rồi”.
    Tôi tiến thẳng về phía hành lang, ánh đèn trên trần rất tối chiếu lên một khoảng không đầy bụi, cảm giác như một đám khói đặc quánh. Tôi ra sức khua tay tán đám bụi đi, lấy hết dũng khí đi vào cánh cửa bên cạnh.
    Căn phòng rộng khoảng mười mấy mét vuông này, bên trong cũng trống hươ trống hoắc, bức tường bị ẩm đều đã bong tróc hết cả. Tôi chậm rãi bước tới trước cửa sổ, ven cửa sổ giăng kín những dây leo xanh mướt, dường như muốn che kín cả một nửa cửa sổ. Nhìn qua những kẽ lá che lấp cửa sổ là cả một công trường hoang phế và đổ nát, phía xa xa là những công trình cao ốc đã được dựng nên. Mưa to vẫn đang trút xuống ngoài cửa sổ,vài giọt mưa bắn vào qua ô cửa kính bị vỡ, tôi hít một hơi thật sâu, đến cả không khí cũng ẩm ướt, căn phòng này giống như được ngâm trong nước.
    Tôi quay đầu lại, nhìn thấy Tiểu Sảnh đứng ngoài cửa, sắc mặt cô ấy trắng bệch dị thường, mái tóc ẩm ướt dính từng búi trên trán, ánh mắt cũng toát lên vẻ mệt mỏi. Tôi tới bên cô ấy nói: “Có phải bị lạnh rồi không?”
    “Không, tôi chỉ cảm thấy không khí của căn phòng này có chút quái dị”.
    “Nhà cổ đều có mùi này, bình thường thôi”.
    Sau đó, tôi tới cửa cầu thang trên hành lang, ngó nghiêng lên phía tầng ba. Trên lầu lộ ra vài tia sáng yếu ớt, tôi vịn lan can đắn đo một hồi lâu, tim đập nhanh một cách vô cớ.
    Khi chân tôi vừa đặt lên sàn nhà, Tiểu Sảnh đột nhiên kéo tôi lại, cô ta rầu rĩ nói: “Đừng lên đó”.
    “Tại sao?”
    Mắt cô ấy sững lại nhìn xoáy vào mắt tôi: “Không biết, nhưng anh đứng lên”.
    Tôi và cô ấy bốn mắt nhìn nhau vài phút, nhưng rút cuộc tôi đã từ bỏ: “Được, chúng ta rời khỏi đây thôi”.
    Đi xuống cầu thang xoắn ốc, chúng tôi trở lại tầng trệt, cửa trước hình như bị khóa chết rồi, đành phải đi ra từ hành lang như lúc tới. Bên hành lang chất đống những đồ đạc linh tinh, tôi phát hiện trong đó có một chiếc ô, đúng kiểu ô đen cán sắt thời những thập kỷ 80, tôi thử căng chiếc ô lên, xem ra vẫn có thể sử dụng.
    Vậy là, tôi và Tiểu Sảnh dùng chung một chiếc ô, ra khỏi quán trọ Hoang thôn bằng cửa sau.
    Ra khỏi ngôi nhà cổ ức chế này, chúng tôi đều tham lam hít thở không khí trong mưa, mưa to không ngừng rơi đập xuống ô. May mà chiếc ô này che được rất rộng, vừa vặn có thể dung nạp hai chúng tôi, còn Tiểu Sảnh có vẻ như ý tứ giữ khoảng cách với tôi, cố gắng hết sức không chạm vào người tôi.
    Cả đoạn đường toàn là gạch ngó đổ nát ngổn ngang, giống như đang đi trên một di chỉ cổ đại. Tôi chốc chốc lại ngoái đầu nhìn, quán trọ Hoang thôn sừng sững giữa đống hoang tàn, khắp thân mình nó đều bị những dây leo quấn chặt. Tôi tưởng tượng ra mưa to sẽ khiến những thực vật này phát triển mạnh mẽ, lá xanh sẽ vươn tới từng ngóc ngách của ngôi nhà cổ, đây có lẽ là niềm vui cuống nhiệt cuối cùng của chúng.
    Chúng tôi đi lại trong mưa thật khó khăn, vất vả lắm mới đi khỏi đống hoang tàn này, tôi đột nhiên nhớ ra gì đó: “Đợi đã, tôi còn muốn tới một nơi nữa”
    Mưa to hình như đã khiến Tiểu Sảnh có chút bực bội khó chịu: “Đi đâu?”
    “Công ty bất động sản, chỉ có ở đấy mới hỏi ra được nhiều hơn tình hình liên quan tới ngôi nhà”.
    Tiểu Sảnh do dự một lúc nói: “Được thôi, chúng ta đi”.
    Ngày mưa gió quả thật chẳng gặp được mấy người, chúng tôi vất vả lắm mới hỏi thăm được địa chỉ của công ty bất động sản, chính là chỗ cách nơi này hai con phố. Vậy là tôi và Tiểu Sảnh cùng chung chiếc ô, vội vàng tìm tới công ty bất động sản.
    Tôi vờ xưng mình là phóng viên muốn làm một phóng sự điều tra về ngôi nhà cổ để hỏi thăm công ty bất động sản về ngôi nhà số 3 trên đường An Tức.
    “Số 13 đường An Tức?” người phụ trách của công ty bất động sản hít một hơi lạnh toát, anh ta ngạc nhiên hỏi: “Các bạn sao lại hỏi về ngôi nhà đó?”
    “Có gì không bình thường sao?”
    “Ngôi nhà cổ đó mười hôm nữa là đập rồi”.
    Bỗng dưng trong lòng tôi như bị một nắm đấm, vội vàng lắc đầu nói: “Không thể được, sao lại phải đập nó đi chứ?”
    “Các bạn không nhìn thấy sao? Cả đường An Tức đều đã tháo dỡ sạch rồi, bây giờ chỉ còn sót lại mỗi ngôi nhà cổ đó. Theo như kế hoạch thi công của đội di dời, số 13 đường An Tức sẽ là ngôi nhà cuối cùng được đập đi”.
    “Tại sao phải đập nó đi?”
    “Dải đất hai bên đường An Tức dều đã được phê chuẩn cho thuê, chuẩn bị xây cao ốc”.
    Tôi phút chốc bỗng trở nên bó tay: “Thế bây giờ ngôi nhà đó thuộc về ai?”
    “Ngôi nhà đó vốn dĩ của nhà nước, cũng là sở hữu của công ty bất động sản chúng tôi, vài năm trước đã đóng cửa để không rồi, từ lâu đã không có người ở”.
    “Ngôi nhà to nhu thế, sao lại không có người ở? Lẽ nào cũng không cho thuê được?”
    “Đương nhiên muốn cho thuê đi rồi, cũng có rất nhiều người đến xem nhà, chuẩn bị bỏ ra cả đống tiền thuê lại. Nhưng người ta vừa bước vào nhà liền cảm thấy âm khí quá nặng, không may mắn. Bây giờ thuê nhà người ta coi trọng phong thủy, đặc biệt là những ông chủ có tiền, ai ai cũng đều rất mê tín, vừa thấy phong thủy không tốt một cái là nói thế nào cũng không dám thuê nữa”.
    “Thế ông có biết tình hình của ngôi nhà nay trước giải phóng không?”
    Ông ta lắc lắc đầu nói: “Thực sự lâu quá rồi, chúng tôi cũng không rõ nữa”.
    Tôi hiểu rằng có hỏi thêm cũng chẳng được kết quả gì nên liền cảm ơn ông ta rồi vội vàng rời khỏi công ty bất động sản.
    Mưa đã ngớt dần, ánh mắt của Tiểu Sảnh cứ có chút thẫn thờ, tôi đột nhiên chạm vào cô ấy nói: “Cô sao thế? Vừa nãy ở công ty bất động sản, cô chẳng nói câu nào”.
    “Tôi có thể nói được gì?”
    Cô ấy lạnh lùng trả lời, khẩu ngữ này khiến tôi nản chí.
    Tôi cảm thấy vài phần tuyệt vọng, ngẩng đầu nói: “Thôi được rồi, Tiểu Sảnh, việc này vốn dĩ không liên quan gì tới cô, cô không cần tới nữa, quên hết tất cả đi”.
    Tiểu Sảnh lắc lắc đầu nói: “Không, tôi cũng muốn biết bí mật của Hoang thôn”.

    Tôi không biết phải nói thế nào với cô ấy, thực ra thì lòng tôi cũng đang rối bời. Tôi đưa chiếc ô vào tay cô ấy nói: “Tôi đi đây, tạm biệt… Không, không cần gặp lại nữa đâu”.

    Sau đó, đến đầu cũng không ngoái lại, tôi lao vào màn mưa, chặn một chiếc tắc xi về nhà.

    Ngồi hàng ghế sau trên tắc xi, tôi quay đầy lại nhìn Tiểu Sảnh bên đường, thân hình mảnh dẻ cùng cả chiếc ô đen giống như một bức tượng điêu khắc diễm lệ.
    ***************

    Comment


    • #17
      17. Ngày thứ mười bảy





      Kể từ ngày hôm nay, tôi chỉ còn lại có mười ngày.
      Bởi vì mười ngày sau, quán trọ Hoang thôn số 13 đường An Tức sẽ bị xe ủi đất san bằng. Và ngôi nhà cổ mà gia tộc Âu Dương đã từng ở này chính là hy vọng duy nhất để tôi mở ra bí mật Hoang thôn.
      Tối hôm qua, tôi trở mình liên tục nghĩ ngợi cả đêm, cuối cùng đã hạ quyết tâm, bất luận trả giá thế nào chăng nữa, tôi cũng phải bóc gợ được bí mật của Hoang thôn. Bởi vậy, tôi bắt buộc phải bóc gỡ được bí mật của Hoang thôn. Bởi vậy, tôi bắt buộc phải đuổi kịp trước khi quán trọ Hoang thôn bị hủy diệt, hết mức tìm hiểu ngôi nhà cổ nay để đào bí mật được chôn giữ trong đó lên. Trong vòng thời gian mười ngày ngắn ngủi, trù khi đích thân tôi sống trong quán trọ Hoang thôn ra thì cũng chẳng còn cách nào khác.
      Vậy là, trước tiên tôi tới công ty bất động sản sở hữu quán trọ Hoang thôn, nói với họ rằng tôi là một nhà văn, đang viết một quyển sách về kiến trúc cũ của Thượng Hải thập niên 40, đặc biệt nhắm trúng ngôi nhà cổ quán trọ Hoang thôn này. Nhưng nghe nói ngôi nhà sắp bị tháo dỡ, thế nên muốn tận dụng thời gian sống trong đó vài ngày, công ty bất động sản rất vui vẻ đồng ý lời đề nghị của tôi.
      Sau đó tôi ở nhà chuẩn bị một chút, ví dụ như: nồi cơm điện, lò vi sóng… cùng những vật dụng sinh hoạt thường nhật khác, còn có cả một chiếc giường gấp đơn giản. Còn những thứ to như ti vi, tủ lạnh, tôi nghĩ ở đó chắc không dùng tới.
      Tôi thuê một chiếc xe chở hàng và nhân viên chuyển nhà để đem những thứ này lên xe, đích đến chính là quán trọ Hoang thôn. Nửa tiếng sau, đội hình dọn nhà này đã đặt chân tới đường An Tức.
      Lúc tôi xuống dỡ đồ, nhìn ngôi nhà cổ số 13 đường An Tức tim bỗng đập thình thịch. Nhân viên chuyển nhà khiêng đồ của tôi qua bãi nhà cửa đổ nát, ánh mắt của những người này nói cho tôi biết, họ đều cho rằng tôi bị điên rồi, sao lại dọn tới nơi này làm gì.
      Vẫn là đi vào từ cừa sau của quán trọ Hoang thôn, xuyên qua dãy hành lang phủ kín bụi, nhân viên chuyển nhà đều chau mày, có lẽ từ trước tới nay họ chưa từng nhận việc nào thế này. Tôi dọn tất cả đồ đạc lên cầu thang, đặt trong một căn phòng rộng rãi sáng sủa trên tầng hai.
      Sau khi mấy nhân viên này ra về, tôi lại mất đúng hai tiếng đồng hồ quét dọn căn phòng một lượt, lau đi lớp bụi không biết là đã tích tụ bao năm, phải chăng giờ thì đã có thể được. Tôi làm một chiếc tủ đơn giản, bên trong có để sách và quần áo, chiếc giường xếp cũng được bỏ ra, phủ khăn trải giường lên cũng rất thoải mái. Tôi cũng thử lại nguồn điện trong phòng, hoàn toàn có thể sử dụng nồi cơm điện và lò vi sóng.
      ở nhà mình tôi còn chưa bao giờ dọn dẹp thế này, tôi nhoài lên cửa sổ thở hổn hển nhưng trong lòng cũng có chút cảm giác thành quả. Bây giờ đây đã là phòng của tôi, cho dù chỉ có thời gian mười ngày ngắn ngủi.
      tiếp theo, tôi xem từng căn phòng trên tầng hai, tầng lầu này có tất cả sáu phòng, phòng nào cũng na ná nhau, bên trong không đặt bất cứ đồ gia dụng nào, sàn nhà phủ kín bụi. Tôi thực sự chẳng có sức mà quét dọn từng phòng một, chỉ có thể cẩn thận kiểm tra một chút xem xem trong phòng có cất thứ gì không, nhưng tôi chẳng thu hoạch được gì cả.
      Ở cuối dãy hành lang lầu hai, tôi còn phát hiện ra một nhà vệ sinh, rất rộng rãi, ít nhất cũng phải tới mười mét vuông, trên tường và sàn nhà đều lát gạch men trắng, bồn cầu giật nước vẫn còn dùng được. Bên trong nhà vệ sinh thậm chí còn có một chiếc bồn tắm bằng inoc, chỉ là tích đầy bụi bẩn. Phía sau máng nước còn có một tấm gương, do mặt gương bị bụi phủ kín nên hình bóng tôi trong gương mông mông lung lung, giống như đang soi vào chiếc gương đồng thời xưa. Tôi vặn vòi nước, bên trong chảy ra nước trắng đục, vài phút sau mới dần dần trong trở lại. Tôi hất nước lên tấm gương, nước như thác từ mặt gương chảy xuống gột đi lớp bụi tích lũy qua bao năm tháng, nước chảy xuống đôi mắt tôi dần dần lộ ra. Tôi nhìn vào đôi mắt mình sau làn nước, bỗng nhiên có chút không còn nhận ra mình nữa. Tôi vội vàng lắc đầu, lấy giẻ lau lại mặt gương, rút cuộc đã nhận ra khuôn mặt mình.
      Tôi nhìn tấm gương bằng ánh nhìn từ góc mắt, chầm chậm lùi khỏi nhà vệ sinh. Kỳ lạ, ban nãy lúc nhìn vào gương, tôi dường như nhìn thấy một người khác trong đó? Tôi không muốn nghĩ ngợi thêm điều gì nữa liền vội vàng đi xuống lầu.
      Phòng khách ở tầng trệt quả thực rất rộng, tôi đành phải đeo khẩu trang lên, vảy rất nhiều nước lên sàn nhà, sau đó dùng chổi lau nhà lau một lượt. Rồi tôi tới dãy hành lang thông với cửa sau, bật chiếc đèn tù mù lên, đồng hồ linh tinh chất hai bên hành lang lập tức tỏa khói mịt mùng. May mà tôi đã đeo khẩu trang, trong đồng hồ gia dụng cũ kĩ, loạn xạ tìm kiếm manh mối biết đâu hữu dụng.
      Những đồ gia dụng này cũ kĩ tới mức thảm hại, nhìn không ra là từ năm nào, chắc là cái nào hơi đáng giá chút đều đạ bị bê đi hết. Bên trong còn có vài thứ nồi niêu bát đĩa đã bị vỡ, có những thứ mà đến đống nát chắc cũng chẳng cần. Tới kho tôi mồ hôi mướt mát mệt phờ, bỗng nhiên nhìn thấy một vật giống như là chiếc kèn dưới một đáy tủ cũ nát.
      Tôi vội vàng dọn đồ đạc ra thì phát hiện đây chính là một chiếc máy phát nhạc thời cổ. Chiếc loa như bông hoa nở ra, bên dưới là hộp máy hình vuông, chắc là đồ cổ đây. Tôi vội vàng bê chiếc máy phát nhạc lên phòng khách, đặt lên một chiếc tủ cũ. Nhìn lại phòng khách rộng rãi, còn cả sàn nhà bằng gỗ dưới chân, tôi bỗng chốc hiểu ra rồi, năm đó chiếc máy phát nhạc đặt ở đây, bởi vì gia đình Âu Dương hay tổ chức vũ hội gia đình. Sau đó, tôi bất giác tiến tới chính giữa phòng khách, trung tâm sàn nhà có treo một thanh sắt trống trơn, hồi trước ở đây nhất định là có treo một chiếc đèn hoa lệ. Tôi lại nhìn ngó khắp căn phòng một lượt, tưởng tượng ra cảnh vũ hội náo nhiệt năm nào, và máy phát nhạc thì vang lên điệu valse?
      Trời đã dần tối đen, quán trọ Hoang thôn trong màn đêm thật cô đơn, tôi một mình đứng giữa phòng khách trống trải, dường như đang đấu mắt với một người nào đó. Rút cuộc, tôi lặng lẽ rời khỏi phòng khách, khi tôi bước lên cầu thang xoắn ốc, cả ngôi nhà cổ đều vang lên tiếng bước chân nhẹ nhàng.
      Trở lại căn phòng trên tầng hai, tôi đã chuẩn bị sẵn bữa tối trong lò vi sóng. Nghĩ lại đúng thật là có chút buồn cười, tôi đang ở trong quán trọ Hoang thôn cổ kính và sống cuộc sống của thời đại lò vi sóng.
      Ăn xong bữa tối ngoạn mục này, tôi lại nhoài ra cửa sổ lần nữa, một vài nhành dây leo dường như đã trườn vào trong phòng, tôi lấy mũi ngửi ngửi, chắc đây là mùi của lá cây dây leo Chi trinh đằng? Mùi thực vật cổ quái này hòa quyện cùng mùi ẩm mốc cũ kĩ của ngôi nhà không biết có phát sinh ra phản ứng hóa học rồi chế tạo ra một nguyên tố hóa học mới nào không nữa? Tôi thò đầu ra ngoài cửa sổ hít một hơi thật sâu, không, cái mùi đáng ghét này còn quấn lấy tôi mười ngày nữa.
      Bên ngoài cửa sổ, Thượng Hải đã đèn hoa giăng mắc, tối nay lại là một buổi tối không đêm. Mấy chục cao ốc phía sau hai con đường bên ngoài đã che khuất tầm mắt của tôi, nhưng tôi vẫn nhìn thấy đường Lục Gia Chủy trên khu Phố Đông, đinh chóp của những tòa nhà chọc trời sừng sững phía xa xa. So với tối không đêm của Thượng Hải thì quán trọ Hoang thôn quả là một thế giới khác, nhìn những bức tường đổ nát bên ngoài tôi cảm giác bản thân mình như đang bị vây giữ trên một hòn đảo hoang.
      Bỗng nhiên,điện thoại của tôi vang lên.
      Trong điện thoại vọng ra giọng nói gấp gáp: “Cậu ở đâu thế? Vừa nãy anh tới nhà tìm cậu, hàng xóm nói cậu dọn đi rồi”.
      “Em có dọn nhà đâu, chỉ ở tạm bên ngoài vài ngày thôi”. Tôi đắn đo một lúc, rút cuộc nói ra sự thật: “Được rồi, em nói cho anh biết, em đang ở quán trọ Hoang thôn”.
      “Cậu tìm được rồi?”
      “Không những tìm được rồi, hơn nữa còn sống ở đây rồi”.
      “Cậu đã ở trong quán trọ Hoang thôn rồi?”, rõ ràng Diệp Tiêu bị tôi làm cho kinh ngạc, tôi rất hiếm khi nghe thấy anh ấy lo lắng trong điện thoại đến vậy, “Cậu điên rồi sao?”
      “Em không điên, đây là một ngôi nhà cổ ba tầng,đã đóng cửa rất nhiều năm rồi. Hiện nay nhà cửa trên đường An Tức đều đã sỡ sạch rồi, chỉ còn lại duy nhất quán trọ Hoang thôn, mười ngày sau ngôi nhà này cũng bị đập đi rồi. Em không còn cách nào khác, chỉ còn cách tự mình tới đây sống, tranh thủ trong mười ngày khai phá bí mật của Hoang thôn và gia đình Âu Dương”.
      Giọng nói của Diệp Tiêu trở nên nghiêm trọng: “Cuộc sống và tiểu thuyết không giống nhau, cậu đừng cho rằng mình giống như những nhân vật trong truyện. Cậu không thể, mỗi người trong số chúng ta đều không thể, hiểu không? Chúng ta đều không thể đối diện với sự khủng khiếp của cuộc sống”.
      “Việc của cá nhân em, em biết cách tự xử lý”.
      Diệp Tiêu cười đau khổ: “Không, cậu nhìn cậu vẫn đang ở dưới bóng cái chết của Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong đi. Nghe anh nói, bất luận là ác mộng hay là nhồi máu cơ tim, họ đều chết một cách tự nhiên chứ không phải bị người khác giết hại và đều chỉ có thể coi là chết ngoài ý muốn”.
      “Ngoài ý muốn? Nhưng bất luận thế nào, em cũng đã từng tới Hoang thôn, cũng thuộc về ‘người từ nơi khác tới’ mà”.
      “Em lo cho an nguy của mình?” Diệp Tiêu chững lại một lúc, “Không thể, em không thể để xảy ra chuyện gì cả”.
      “Ai biết được? Diệp Tiêu, bây giờ anh có thể giúp em kiểm tra xem tình hình của quán trọ Hoang thôn trước đây, em tin rằng ở đây đã từng xảy ra rất nhiều chuyện”.
      “Được rồi, anh đồng ý với em. Nhưng em cũng phải đồng ý với anh, nhanh chóng rời khỏi cái chỗ quái quỷ đó”.
      “Em sẽ rời khỏi đây, chỉ cần em phát hiện ra điều bí mật đó”.
      Trước sự cố chấp của tôi, Diệp Tiêu thực sự chẳng còn gì để nói, chúng tôi kết thúc cuộc nói chuyện.
      Rời khỏi cửa sổ, bóng đèn trên đỉnh đầu chiếu rọi vào khuôn mặt trắng bệch của tôi, tôi lẩm nhẩm đọc tên của những sinh viên đó: Hoắc Cường, Hàn Tiểu Phong, Tô Thiên Bình, Xuân Vũ. Hiện nay hai trong số bốn người họ đã chết, một người bị điên, còn lại một người không rõ sống chết ra sao. Vào ngày đầu tiên của câu chuyện này, họ tới trước mặt tôi, nói với tôi về kế hoạch thám hiểm Hoang thôn, có nằm mơ tôi cũng không thể ngờ tới kết cục như ngày hôm nay.
      Họ rút cục đã phạm phải điều gì ở Hoang thôn?
      Mệt mỏi rã rời nằm trên giường, toàn thân kiệt quệ sức lực, không khí của căn phòng này khiến người ta chìm dần vào giấc ngủ. Nhưng hôm nay quét dọn căn phòng ra bao nhiêu là mồ hôi, tôi vẫn cứ đấu tranh bò dậy, một mình mò mẫm trong dãy hành lang tối om, bật đèn trong phòng vệ sinh lên.
      Ánh đèn tù mù soi rọi vào gương, sau đó tôi đổ rất nhiều nước rửa bát vào trong bồn tắm, mất nửa tiếng đồng hồ mới cợ rựa bát vào trong bồn tắm, mất nửa tiếng đồng hồ mới cọ rửa được nó sạch sẽ. May mà bây giờ trời nóng, tôi tự mình lấy chiếc vòi hoa sen, dùng nước lạnh tưới lên cơ thể.
      Cả người tôi ướt sũng trở về phòng, tắt đèn rồi đổ lên chiếc giường xếp.
      Trong bóng đêm của căn phòng, mùi Chi trinh đằng lan tỏa bay tới mũi tôi, xâm chiếm cơ thể tôi như nước thủy triều khiến tôi từ từ chìm đắm, cho tới tận đêm sâu.
      Không biết bao lâu sau, từ dưới đêm sâu tôi nổi dần lên, mơ hồ cảm thấy sàn nhà dưới chiếc giường xếp có chút động đậy nhẹ. Đột nhiên, tôi mở to mắt, lồm cồm bò dậy trong đêm đặc quánh, tôi lần theo tường đi ra cửa, nín thở dỏng tai lắng nghe.
      “Cộc… cộc… cộc…”
      Đúng vậy, tôi đã nghe thấy âm thanh này, giống như tiếng bước chân u hồn lúc nửa đêm, hình như đang gõ lên sàn nhà dưới phòng khách tầng trệt, dần dần bay tỏa khắp ngôi nhà cổ. Tôi khẽ khàng bụm miệng lại để tự mình không sợ hãi tới múc hét lên.
      Nhưng âm thanh đó vẫn tiếp tục, hình như còn mang cả tiết tấu kỳ dị, môi tôi khẽ run rẩy, miệng lẩm bẩm: “Vụ hội bắt đầu rồi?”
      Một lúc sau, tiếng bước chân dường như bay lên đỉnh đầu, âm thanh dường như cũng bắt đầu xoay vòng theo bậc cầu thang. Tôi đứng trong bóng tối hành lang, không nhìn thấy gì phía trước.
      Đột nhiên, một bóng trắng toát lướt qua mắt tôi.
      “Ai?”
      Tôi lớn tiếng hỏi, lao như bay về phía trước, cái bóng đó hình như lại lui xuống cầu thang, trong bóng tối của cầu thang tôi thực sự không nhìn rõ, đành phải lần theo tiếng bước chân của đối phương chạy theo xuống bậc cầu thang xoắn ốc.
      Không kịp bật lên, mượn ánh sáng yếu ớt ngoài cửa sổ, trong phòng khách dưới tầng trệt, tôi từ từ nhìn rõ một bóng người mảnh dẻ. Tôi hình như đã đuổi kịp cái bóng đó, nó nhanh như chớp trốn thoát vào phòng bên cạnh phòng khách, tôi tiếp tục đuổi theo, rút cuộc đã thò tay tóm được đối phương.
      Tôi cảm giác mình đang tóm lấy cánh tay của một cô gái.
      “Bỏ tôi ra!”
      Là giọng nói của Tiểu Sảnh? Tôi bất giác sững người ra, trong bóng tối tôi không nhìn rõ mặt cô ấy chỉ có nắm chặt lấy tay cô ta.
      Bật chiếc đèn trên tường lên, tôi rút cuộc đã nhìn rõ đôi mắt của Tiểu Sảnh, ánh mắt cô ta thật hoảng hốt và đáng thương, giống như con nai mẹ bị thợ săn tóm được.
      Nhìn vào mắt cô ấy, tôi không nói một lời, chỉ tiếp tục giữ chặt lấy cô ta. Và cô ấy cũng dần dần bình tĩnh lại, nhìn chằm chằm vào mắt tôi, dường như đấu mắt với tôi.
      Cuối cùng, tôi đã nói bên tai cô ấy: “Tiểu Sảnh, sao cô lại tới đây?”
      “Tôi cũng muốn hỏi anh câu này”. Cô ấy thở dài, “Ban nãy, tôi còn tưởng rằng một u hồn khác đuổi theo tôi, hóa ra là anh à”.
      “U hồn? Cô nói, trong ngôi nhà này thực sự có u hồn?” Cô ngẩng đầu nhìn căn phòng to lớn này, trên tường có khoét một lò sưởi, chính là nơi mà gia đình Âu Dương chụp ảnh năm đó.
      “Không biết, nhưng cầu cho không có”.
      Tôi kéo tay cô ấy ra khỏi căn phòng này: “Chúng ta lên lầu thôi”.
      Tiểu Sảnh mặc một chiếc váy trắng, khi cô ấy đi xuyên qua phòng khách giống hệt một bóng trắng đang thướt tha khiêu vũ.
      Bước lên cầu thang xoắn ốc, tôi dẫn cô ấy về phòng mình, cô ấy kinh ngạc nói: “Anh dọn tới đây sống rồi?”
      “Ừ, thời gian còn lại cho tôi chỉ có mười ngày, tôi buộc phải tìm ra bí mật của Hoang thôn trước khi ngôi nhà này bị tháo dỡ”.
      “Không tiếc bất cứ sự trả giá nào?”
      “Đúng, không tiếc bất cứ sự trả giá nào”. Tôi chắc như đinh đóng cột trả lời cô ấy. Sau đó, tôi nhìn đồng hồ, bây giờ là bốn giờ sáng, “Tiểu Sảnh, thế còn cô, sao nửa đêm xuất hiện ở đây?”
      Cô ấy lảng tránh ánh mắt tôi nói: “Tôi mơ thấy ác mộng”.
      “Ác mộng?” nửa đêm nói ra cái từ này khiến tôi sợ hãi, “Cô mơ thấy ai?”
      “Tôi mơ thấy anh”.
      Tiểu Sảnh sững sờ nhìn vào mắt tôi khiến tôi sợ hãi lùi lại một bước, lập cập nói: “Cô nói sao, tôi xuất hiện trong cơn ác mộng của cô?”
      “Không sai”.
      Trong lòng tôi âm thầm nhạo báng, nói: “Thế tôi không phải thành quái thù rồi sao?”
      Cô ấy mỉm cười gật đầu, tiếp tục nói: “Tôi mơ thấy anh nửa đêm mộng du… một mình đi trên đường… trong đêm tối bước đi bước đi… đi mãi tới tận đường An Tức hoang tàn này… Anh lặng lẽ đi vào quán trọ Hoang thôn… đối diện với một tấm gương…”
      Bỗng nhiên, lời của cô ta đột nhiên ngắt quãng, tôi sợ hãi toàn thân toát mồ hôi, thúc giục hỏi: “Sau đó thì sao?”
      “Sau đó… tôi tỉnh rồi”. Cô ấy không ngừng thở dồn dập, lồng ngực phập phồng, lưng dựa vào tường nói: “Tôi thực sự không yên tâm nổi, ngũ mãi mà không được nên liền chạy tới đây”.
      “Cô cũng to gan thật đấy, một cô gái trẻ, nửa đêm chạy tới chỗ này, ngộ nhỡ gặp phải kẻ xấu thì sao? Người nhà cô nhất định sẽ lo lắng chết đi được”.
      Tiểu Sảnh mím mím môi, lạnh lùng đáp: “Tôi không có người thân”.
      Tôi lắc đầu cười, “Lẽ nào cô đúng là Nhiếp Tiểu Sảnh trong Liêu trai?”
      “Đúng thì có làm sao?”
      “Thôi đừng cáu nữa, tôi đưa cô về nhà nhé”.
      “Tôi không có nhà”. Giọng nói của Tiểu Sảnh rút cuộc đã dịu dàng trở lại, trong đó còn có cả chút u buồn, rầu rĩ lẩm bẩm: “Tôi không có nhà… tôi không có nhà…”
      Biểu hiện của cô ấy càng lúc càng mệt mỏi, từ từ nhắm mắt lại nói: “Tôi mệt quá!”
      Nhưng trong căn phòng này tới ghế cũng chẳng có, tôi đành phải dìu cô ấy ngồi xuống chiếc giường xếp. Cơ thể cô ấy phút chốc mềm nhũn ra, tôi nghĩ cô ấy nhất định mệt mỏi đến đỉnh điểm rồi, dù gì thì cũng đã quá nửa đêm mà vẫn chưa ngủ, ai cũng không tránh nổi.
      Tôi đặt Tiểu Sảnh nằm ra giường, còn đắp cho cô ấy một chiếc chăn mỏng, nhìn cô ấy sắp ngủ say tới nơi rồi, vẻ mặt lại trở lại vẻ an nhàn, vài sợi tóc dính trên tránh giống như người đẹp ngủ trong rừng trong truyện cổ tích vậy.
      Ngủ ngon, tôi tắt đèn, nhẹ nhàng rời khỏi phòng, đóng cửa lại. Sau đó tôi đi xuống cầu thang xoắn ốc, từ cửa sau ra khỏi quán trọ Hoang thôn.
      Cho dù tôi cũng buồn ngủ cao độ nhưng những cơn gió lạnh thổi qua đã làm tiêu tan cảm giác buồn ngủ của con người. Tôi đi một vòng quanh công trường đổ nát, đi thẳng tới đường An Tức. Từ đây quay đầu lại nhìn quán trọ Hoang thôn, căn nhà cổ cô độc bị bóng oti61 bao phủ giống hệt như lâu đìa của Dracula trên vùng Trasylvania hoang dã.
      Bây giờ là bốn giờ hai phút sáng, ngày thứ mười tám của câu chuyện này.
      ***************

      Comment


      • #18
        18. Ngày thứ mười tám




        Hai tiếng đồng hồ trước khi trời sáng, tôi đi loanh quanh trong vài con phố trên đường An Tức. Tôi tới trước căn nhà hồi nhỏ ở trước đây. Không, bây giờ chỉ có thể tính là di chỉ thôi, tôi bước lên đống gạch ngói đổ nát, định kiếm tìm gì đó trong đống gạch vỡ còn sót lại, là đồ chơi lúc còn nhỏ hay là những bức ảnh bị quên lãng? Hoặc chỉ là ký ức.
        Sáu giờ sáng, ánh nắng đã soi rọi vào người tôi, tôi trở lại số 13 đường An Tức, xuyên qua đống hoang tàn đổ nát, bước vào quán trọ Hoang thôn trong ánh bình minh.

        Tôi nghĩ Tiểu Sảnh nhất định vẫn đang ngủ say, rón ra ròn rén bước lên cầu thang, nhẹ nhàng đẩy cửa. Nhưng căn phòng lại trống hươ trống hoắc, chiếc chăn đã gấp gọn gàng trên giường. Tôi ngây ra vài phút, sau đó nhanh như cắt chạy ra khỏi phòng, trước cửa cầu thang lớn tiếng gọi Tiểu Sảnh nhưng không thấy cô ấy trả lời. Xem ra cô ấy đã đi khỏi quán trọ Hoang thôn rồi.

        Nhoài ra ngoài cửa sổ, tôi hít một hơi thật sâu, cảm giác, trong căn phòng này hình như vẫn còn ngưng đọng hơi thở của cô ấy. Sau đó, một cơn buồn ngủ kéo lên mắt, tổi ngả ngay lên chiếc giường gấp, mặt úp xuống mắt nhắm lại, tham lam hít lấy mùi hương trên giường.

        Những tàn hương của Tiểu Sảnh để lại xâm chiếm cơ thể tôi, lập tức khiến tôi choáng váng, dường như có một bàn tay chụp lấy đôi mắt khiến tôi dần dần chìm sâu vào bóng tối.

        Mãi tới trưa tôi mới dần dần tỉnh lại, sau khi đánh răng rửa mặt và ăn sáng xong, tôi ngồi xuống dọn dẹp những thứ mình mang tới, ngoài vào quyển sách và mấy bộ quần áo ra, còn có một chiếc hòm lớn.

        Tôi cẩn thận tỉ mỉ mở chiếc hòm ra, bên trong có nhét rất nhiều cuộn báo cũ, tôi chậm rãi thò tay vào bên trong, vớ lấy một miếng ngọc hình chiếc đĩa tròn. Ánh nắng êm dịu ngoài cửa sổ chiếu vào khiến miếng ngọc này tỏa ra một ánh sáng trắng kỳ dị. Tôi lại mò ra một đồ ngọc thứ hai, xem ra giống một chiếc rìu, đồ ngọc thứ ba giống như một ống bút, đồ ngọc thứ tư giống một con rùa nhỏ, đồ ngọc thứ năm lại giống một con dao găm.

        Những đồ ngọc thần bí này tới từ Hoang thôn, là do Tô Thiên Bình lấy trộm từ địa cung trong Tiến Sỹ Đệ lên và đã trao lại cho tôi trước hôm cậu ấy mất tích.

        Không biết những thứ này là thật hay rởm, và cũng không biết chúng thuộc niên đại nào, tôi thậm chí còn không biết tác dụng của chúng. Nhưng chúng đã đến từ địa cung thần bí, rất có khả năng có mối quan hệ đặc biệt nào đó với bí mật của Hoang thôn. Bởi vậy, tôi bắt buộc phải làm rõ những đồ bằng ngọc này.

        Sau đó, tôi nghĩ ngya tới một người bạn, anh ấy tên là Tôn Tử Sở.

        Tôi cất tất cả những đồ ngọc vào lại trong hòm, sau đó xách chiếc hòm rời khỏi quán trọ Hoang thôn.

        Lúc còn nhỏ, tôi đã từng một lần tới trường học của hội Hoắc Cường, trong vài tuần gần đây, tôi đã lại tới đây vài lần, gần như đã thuộc đường thuộc lối rồi. Chẳng mấy chốc tôi đã tới giảng đường của khoa lịch sử, tìm đến văn phòng của Tôn Tử Sở.

        Tôn Tử Sở là giáo viên của khoa lịch sử trường này, anh ấy chỉ lớn hơn tôi ba tuổi, dưới cằm có để chòm râu ngắn màu đen. Thầy giáo trẻ bao giờ cũng thu hút những nữ sinh, lúc tôi bước vào phòng anh ấy, vài nữ sinh đang vây quanh anh trò chuyện. Nhưng khi anh ấy bỗng nhiên phát hiện ra tôi đang đứng ngoài cửa liền lập tức hồi phục trạng thái đứng đắn, đứng dậy tiễn những nữ sinh này ra cửa.

        Trong phòng không còn người khác, biểu hiện của anh ấy lại trở nên khoa trương: “Ồ, máy tháng không gặp rồi, tôi đã đọc ‘Hoang thôn’ đăng vào tháng tư của cậu rồi, fan của cậu quả là không ít, dạo này đang bận bịu gì thế?”

        Tôi thực lòng là không gượng cười nổi, vẫn còn nhớ ngày thứ hai của câu chuyện này, bốn người hội Hoắc Cường đến tìm tôi, tôi hỏi họ làm thế nào mà biết được địa chỉ của tôi, Hoắc Cường nói ra một cái tên, cái tên này chính là Tôn Tử Sở.
        “Fan mà anh nói chắc là Hoắc Cường hả? Còn cả Hàn Tiểu Phong, Tô Thiên Bình và Xuân Vũ”.
        “Cái này à…” biểu hiện của Tôn Tử Sở bỗng có chút bối rối, “Không phải cậu vì chuyện đó mà tới tìm tôi chứ?”
        “Không chỉ có việc đó”.

        Anh ấy chán nản lắc lắc đầu: “Được rồi, tôi thừa nhận, là tôi nói cho họ biết địa chỉ của cậu. Tôi vốn dĩ cũng không muốn nói ra, nhưng họ thực sự cứ bám riết lấy tôi, tôi là bị ép buộc đấy chứ”.
        “Là không qua nổi ải mỹ nhân chứ gì?”

        Tôn Tử Sở bật cười: “Cậu đừng nói linh tinh chứ, dù thế nào chăng nữa thì tôi cũng là thầy giáo đại học. Hơn nữa, nữ sinh tươi trẻ người ta muốn đến hỏi thăm cậu thì cũng là một việc tốt mà”.
        Nói xong, anh ấy lại cười hi hi. Lần này tôi không thể nhịn được nữa rồi: “Anh thật sự không biết hay là cố tình giả ngây giả ngô thế? Trong số bốn sinh viên đó, đã có hai người chết rồi, một người bị điên, còn một người không rõ tung tích”.
        Lúc này anh ta không cười nổi nữa rồi, thẫn thờ hỏi: “Cậu không đùa chứ?”
        “Đương nhiên không đùa”.
        Sau đó, tôi bỏ qua những chi tiết bốn sinh viên ở Hoang thôn, chỉ nói về chuyện họ trở lại Thượng Hải, về cái chết của Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong. Đến khi tôi nói xong, trên trán Tôn Tử Sở cũng toát mồ hôi hột, anh lập cập nói: “Tôi chỉ nghe nói mấy hôm trước, có hai sinh viên chết tại phòng mình, nhưng không nghĩ là hội Hoắc Cường. Họ vốn không phải là học của tôi, chỉ là từng nghe tôi giảng mà thôi, thế nên tôi không hề biết”.
        “Thôi được rồi”. Tôi lắc đầu, thở một hơi dài, “Thực ra, hôm nay tôi tới tìm anh không chỉ vì chuyện này mà là nhờ anh xem giúp tôi một số thứ”.
        Nói xong, tôi mở chiếc hòm ra, lấy từ trong gói báo ra năm vật bằng ngọc, cẩn thận tỉ mỉ đặt trước mặt Tôn Tử Sở.
        Nhìn những đồ ngọc tới từ Hoang thôn này, Tôn Tử Sở vô cùng kinh ngạc, anh ấy vội vàng nhấc một chiếc lên tỉ mẩn quan sát. Mười mấy giây sau, mặt anh bỗng biến sắc, tay cầm vật bằng ngọc run bần bật. Anh ấy vội vàng cầm chiếc kính lúp lên, cẩn thận soi vào những hoa văn trên đó và ánh mắt của anh cũng càng lúc càng quái dị.
        Đột nhiên, Tôn Tử Sở đặt đồ ngọc xuống, rầu rĩ nói: “Những thứ này từ đâu tới?”
        Nhưng tôi không muốn nói cho anh ấy biết sự thật, tôi sợ rằng bí mật của Hoang thôn sẽ có thêm nhiều người biết, tôi đành phải trả lời lạnh nhạt: “Cái này anh đừng hỏi nhiều, phải chăng chúng đều lấy từ dưới đất lên”.
        Tôn Tử Sở lại xem thêm những thứ khác, gật gù nói: “Cậu có biết những đồ bằng ngọc này lâu đời đến mức nào không?”
        Từ trước tới nay tôi vốn không dám đoán mò, chỉ có thể lắc lắc đầu.
        Anh ấy lạnh lùng nói ra một con số: “Năm nghìn năm”.
        Cái gì? Tim tôi như bị va đập, miệng lẩm bẩm thốt ra: “Năm nghìn năm?”
        Tôi vội vàng lắc lắc đầu nói: “Không thể được, anh không xem nhằm chứ, sao lại lâu đời đến như vậy? Lịch sử Trung Quốc còn chưa tơi năm nghìn năm nữa là”.
        Nhưng biểu hiện của Tôn Tử Sở lại chuyển sang trấn tĩnh lạ thường: “Cậu đã từng nghe nói về văn minh Lương Chử chưa?”
        “Văn minh Lương Chử? Tôi có đọc qua một số tin tức, văn minh Lương Chử của Giang Nam thần bí và lâu đời, đúng không?”
        “Không sai, văn minh Lương Chử hay còn gọi là văn hóa Lương Chử, được đặt tên vào năm 1936, lần đầu được phát hiện tại thị trấn Lương Chử, Dư Hàng, Chiết Giang là văn minh tiền sử quan trọng nhất trong hạ lưu Trường Giang, Trung Quốc, đồng thời cũng là một trong những nguồn cội chủ yếu của văn minh Đông Á thời kỳ đầu. Căn cứ vào phương pháp cacbon 14 trong khảo cổ học trắc định, niên đại đó cách ngày nay khoảng 5300 tới 4000 năm. Di chỉ văn hóa Lương Chử ngày nay phát hiện ra, đa số rải rác khắp dải Giang Nam, di chỉ Phúc Tuyền Sơn tại khu Thành Phố vùng ngoại ô Thượng Hải cũng thuộc về văn hóa Lương Chử”.
        “Vậy thì liên quan gì tới những đồ ngọc này?”
        “Đặc sắc nhất của văn minh Lương Chủ chính là đồ làm bằng ngọc. Cho dù lịch sử văn minh Lương Chử cách đây năm nghìn năm, nhưng họ đã sáng tạo ra văn minh đồ ngọc phát triển đỉnh điểm, chiếm giữ vị trí quan trọng trong văn minh thời kỳ đầu của nhân loại”.
        Tôi bỗng sững sờ hỏi: “Văn minh đồ ngọc?”
        “Đúng, đặc trưng quan trọng của văn minh Trung Quốc chính là văn minh đồ ngọc, có lịch sử dài tới bảy tám nghìn năm, đồng thời cũng dẫn đầu, bỏ xa những dân tộc khác có nền văn minh đồ ngọc, ví dụ như người châu Mỹ cổ đại và người Maori ở Châu Đại Dương. Đối với người Trung Quốc cổ đại mà nói, đồ ngọc có địa vị vô cùng cao cả, thậm chí còn cho rằng đồ ngọc chứa đựng sức mạnh thần bí vượt qua cả tự nhiên. Bất luận là thánh hiền trước đời Tân hay là đế vương của Hán Đường đều chỉ độc yêu thích mỗi đồ ngọc”.
        "Thế còn chúng thì sao?” Tôi chỉ năm vật bằng ngọc hỏi.
        Tôn Tử Sở cầm lấy chiếc đĩa ngọc nói: “Vật này gọi là ngọc bích. Cậu nhìn nó xem có phải tròn giống hình chiếc bánh không? Ở giữa còn có một lỗ hổng. Giới học thuật phân những vật có bề ngang rộng gấp hai lần đường kính trở lên gọi là ngọc bích. Ngọc bích của văn hóa Lương Chữ thông thường đều to, đại đa số đều được chôn theo một khi mai táng, có người thậm chí còn cho rằng ngọc bích Lương Chử là một loại tiền tệ nguyên sử, cậu xem hình dạng của nó có phải rất giống tiền đồng phóng to không?”
        Tôi gật gật đầu, lỗ hổng bên trong của miếng ngọc bích này hình vuông, tương ứng với tiền đồng thời cổ của triết học Trung Hoa cổ đại.
        Tôn Tử Sở lại chỉ vào vật có hình giống chiếc rìu nói: “Vật này gọi là búa ngọc”.
        “Tôi hiểu rồi, rìu và búa là vũ khí cùng loại”.
        “Nhưng búa ngọc của văn hóa Lương Chử là một loại lễ khí phi thực dụng, thông thường tượng trưng cho vũ lực và quyền lực của chủ nhân”. Sau đó, Tôn Tử Sở lại cầm vật giống ống bút lên nói: “Cái này là nổi tiếng nhất, tên là ngọc cẩm thạch”.
        “Ngọc cẩm thạch? Tôi hình như đã từng nhìn thấy trong viện bảo tàng”.
        “Đúng, ngọc cẩm thạch có thể trọng lớn nhất trong những đồ ngọc Lương Chử, chế tạo cũng tinh xảo nhất. Hình dạng của ngọc cẩm thạch đa số là bên ngoài hình vuông, bên trong hình tròn, trên to dưới nhỏ, có cái còn phân tầng phân đoạn. Tất cả những ngọc cẩm thạch Lương Chử khai quật được đều có điêu khác và hoa văn trang trí phức tạp, còn chủ đề đa số là một thú và tượng thần nhân.
        Tôi lập tức nhìn chăm chú vào miếng ngọc cẩm thạch trên tay, quả nhiên có rất nhiều hoa văn tinh xảo, giống như miệng một cai quái vật đầy máu nào đó đang ngoác ra, tôi sờ ngọc cẩm thạch hỏi: “Thế nó dùng để làm gì?”
        “Ngọc cẩm thạch có nguồn gốc từ tôn giáo thầy mo của văn minh Lương Chử, là tượng trưng của thần quyền trên trời. Phàm là những ngọc cẩm thạch ở trong mộ mai táng đã khai quật, chủ nhân của ngôi mộ đó đều là đại nhân vật nắm giữ thần quyền trong tay, có thể là quốc vương, cũng có hte63 là thầy mo. Có thể nói ngọc cẩm thạch đã quyết định sự hưng thịnh của nước cổ Lương Chử, giống nhu điện thần Thái Dương của Ai Cập cổ”.
        “Thật sự huyền bí vậy sao?”
        Nói tới chuyên ngành sử học của Tôn Tử Sở, anh ấy càng nói càng say sưa: “Có một số đều đã được giới học thuật công nhận là sự thật, tuyệt đối không phải là lời của riêng mình tôi. Còn về hai vật nho nhỏ còn lại, đều là ngọc trang sức đeo trên người của người Lương Chử thời đó”.
        Tôi nhìn rùa ngọc và dao găm ngọc, chỉ có thể gật gật đầu nói: “Anh có thể xác định năm vật bằng ngọc Lương Chử này đều là thật không?”
        "Bây giờ, tôi chỉ có thể nói về hình dạn chế tác của năm thứ này cùng loại với những đồ ngọc Lương Chử đã khai quật, bất luận là từ chất liệu hay là điêu khắc đều có những đặc điểm nổi bật của đồ ngọc Lương Chử”. Nhưng anh ấy lại trầm ngâm mội hồi, giọng trùng xuống: “Nhưng đồ ngọc Lương Chử đều thuộc báu vật cổ khai quật lên, để giám định thì vô cùng phức tạp. Chủ yếu một là xem lớp đất bọc bên ngoài, hai là xem sắc ngọc, ba là xem đặc trưng hình thể và chế tác của vật, cuối cùng mới cần phải xác định niên đại. Tôi chủ yếu nghiên cứu lịch sử, về việc giám định ngọc đá thì không am hiểu lắm”.
        “Nói mãi, bản thân anh cũng không thể xác định sao?”
        Tôn Tử Sở chau mày nghẫm nghĩ nói: “Nếu như cậu tin vào người bạn như tôi thì hãy để những thứ này lại đây, tôi sẽ mời chuyên gia giám định cổ vật giỏi nhất để giám định những đồ ngọc này là thật hay giả và niên đại của chúng cho anh”.
        Đề nghị của anh ấy khiến tôi bắt đầu do dự, dù gì thì những vật này kiếm được cũng không dễ dáng chút nào, là Tô Thiên Bình dùng cả mang sống của mình đổi lấy. Tôi nắm con dao găm bằng ngọc, cúi đầu trầm ngâm một hồi lâu, rút cuộc tôi gật gật đầu nói: “Được thôi, tạm thời để ở đây, nhưng anh nhất định không được làm mất chúng”.
        “Yên tâm đi, bản thân tôi làm nghề này, sao lại có thể làm hỏng được?”
        Vừa nói, Tôn Tử Sở vừa bắt đầu cẩn thận thu dọn những vật bằng ngọc này lại, tôi vỗ vai anh ấy nói: “Nếu như biết được kết quả thì anh phải trả ngay đồ cho tôi đấy”.
        “Đương nhiên rồi, những đồ ngọc này đều là bảo bối của anh mà”.
        Tôi bất giác cười đau khộ: “Được, tôi đi đây, anh làm việc của anh đi”.
        Rời khỏi văn phòng của Tôn Tử Sở, tôi đi như chạy khỏi ngôi trường này, có lẽ tôi không bao giờ muốn quay lại đây nữa.
        Tại sao lại phải giao những đồ ngọc cho Tôn Tử Sở? Bởi vì, nếu như những đồ ngọc thần bí đến từ Hoang thôn này thật sự là những cổ ngọc Lương Chử năm nghìn năm lịch sử thì Hoang thôn nhất định có quan hệ với văn hóa Lương Chử. Hoặc là, văn hóa Lương Chử cổ xưa thần bí cũng là một chiếc chìa khóa để mở ra bí mật Hoang thôn? Tuy nhiên đây chỉ là suy đoán của tôi, nhưng tôi tình nguyện thử xem.
        Khi tôi trở về quán trọ Hoang thôn, màn đêm đã bao trùm lấy Thượng Hải, tôi dò dẫm trong bóng tối vào ngôi nhà cổ từ cửa sau, trở lại căn phòng trên tầng hai.
        Lúc này bụng tôi đã đói không thể chịu nổi, vội vàng dùng lò vi sóng giải quyết bữa tối.
        Ăn tối xong tôi lại ra đứng bên cửa sổ, mùi Chi trinh đằng xộc lên mũi nhưng trong lòng tôi vẫn không ngừng nghĩ ngợi về những đồ ngọc kia, chúng đều đến từ lòng đất của Hoang thôn, có lẽ đã có hơn năm nghìn năm lịch sử, ngọc bích, búa ngọc, ngọc cẩm thạch…
        Đột nhiên, tôi nhớ ra mình đã để sót mất một vật… nhẫn ngọc!
        Chính là chiếc nhẫn trong mật thất dưới lóng đất ở Hoang thôn, chiếc nhẫn bị Xuân Vũ lấy trộm. Tôi vội vàng mở tủ, cuối cùng cũng đã tìm ra chiếc nhẫn.
        Tôi cẩn thận rón rén bưng chiếc nhẫn ngọc, dưới ánh sáng mờ ảo trong ngôi nhà cổ, màu xanh ngọc tỏa ra ánh sáng trong suốt, giống như một con ngươi màu xanh ngọc bích.
        Nhưng ở một bên mặt chiếc nhẫn lại có một vết màu đỏ đun khắc sâu, đặc biệt bắt mắt trên nền ngọc bích trong xanh. Tôi đưa chiếc nhẫn lên mũi, hít thật mạnh, một mùi tanh tanh bay qua mũi bất giác khiến người ta cảm thấy buồn nôn.
        Nhịp tim lại bắt đầu tăng tốc, tôi từ từ đưa chiếc nhẫn lên đỉnh đầu, đưa chuẩn nó về hướng đèn. Ánh đèn dịu êm xuyên qua ngọc thể trong suốt, bên trong chiếc nhẫn hình như có một ít hoa văn kỳ dị, uốn như rắn lượn trong ánh sáng trong veo. Chỉ có phần vệt đỏ đun, ánh sáng mới không thể xuyên thấu qua nó, bí mật bên trong được che đậy lại.
        Cuối cùng, tôi bỏ chiếc nhẫn xuống, trong lòng âm thầm nghĩ: Nó cũng là nhẫn ngọc của văn minh Lương Chử sao? Nếu như đúng là vậy, vậy thì ở thời địa lịch sử năm nghìn năm trước chiếc nhẫn ngọc này rút cuộc đeo trên ngón tay ai đây?
        Có lẽ là do tiềm thức, tôi giơ ngón tay trỏ của mình ra. Tôi nhìn ngón tay mình rồi căn chiếc nhẫn, trong lòng bỗng có cảm giác manh động kì lạ. Đột nhiên tôi chỉ thấy đầu óc trống rỗng, tay phải dường như không thể khống chế nổi, bất giác cầm lấy chiếc nhẫn. Không, tôi đã không làm chủ được mình, nhìn trân trân vào chiếc nhẫn đang từ từ đeo vào ngón trỏ.
        Nhưng tôi không ngờ được rằng chiếc nhẫn lại chặt tới như vậy, khi nó đeo vào đốt ngón tay đầu tiên của tôi, một luồng cảm giác lạnh toát xuyên thấu ngón tay rồi lan tỏa khắp cơ thể, đốt và móng tay đều bắt đầu nóng ran đau nhức. Nhưng chiếc nhẫn ngọc đã chui xuống đốt ngón tay thứ hai rất nhanh, xương ngón tay thứ hai của tôi cảm thấy một áp lực kỳ lạ. Cuối cùng, khi chiếc nhẫn chui xuống đốt ngón tay thứ ba, cũng chính là phần cuối cùng của ngón tay thì cảm giác đau nhức và áp lực đó bỗng tan biến.
        Tôi đã deo chiếc nhẫn ngọc.
        Chính giây phút này, dường như tôi nghe thấy âm thanh u u đang thì thào kêu tên mình. Tôi lập tức hoảng sợ quay đầu lại, lớn tiếng hét: “Ngươi là ai?”
        Nhưng căn phòng chỉ có mình tôi, quán trọ Hoang thôn rộng thênh thang vang lên tiếng tôi vọng lại lanh lảnh.
        Nhìn chiếc nhẫn ngọc đeo trên ngón tay, bỗng chốc mặt tôi biến sắc, lẽ nào âm thanh ban nãy vọng ra từ chiếc nhẫn ngọc?
        Không, không thể, đây chỉ là ảo giác của tôi mà thôi. Cho dù tôi liên tục lắc đầu nhưng ngón tay trỏ trên tay trái vẫn lạnh toát, đến cả những sợi lông trên bàn tay cũng dựng đứng cả lên. Tôi vội vàng giơ tay trái lên mắt nhìn, chiếc nhẫn ngọc bó chặt lấy ngón tay của tôi giống như một đốt ngón tay màu xanh lá cây. Vết đó đun trên nhẫn lúc này lại đặc biệt nổi bật, vừa vặn hướng vào chính diện lòng bàn tay tôi, giống như trên nhẫn có nạm một viên đá hồng ngọc vậy.
        Tôi lại giơ bàn tay ra xa, trong lòng càng lúc càng khó chịu, giống như đang đeo một thứ đánh dấu kỳ quá gì đấy. Không biết là do nguyên nhân tâm lý hay là khí lạnh của chiếc nhẫn ngọc cổ quá nặng, tôi cảm thấy mình đang không ngừng đổ mồ hôi lạnh toát.
        Không được, tôi không thể đeo chiếc nhẫn ngọc này, trên mình nó có một luồng tà khí kỳ quái khiến khắp người tôi khó chịu.
        Tôi vội vàng lấy tay phải ra tháo chiếc nhẫn trên ngón tay ra. Đột nhiên, chiếc nhẫn dính chặt vào ngón tay tôi, bất luận tôi dùng lực thế nào rút nó ra, nó cũng nhất quyết không động đậy.
        Càng chết tiệt ở chỗ, khi tôi dùng lực rút chiếc nhẫn ra, tôi liền cảm thấy ngón tay trỏ bên trái bị một sức mạnh nào đó âm thầm đè nén, chiếc nhẫn ngọc đeo trên ngón tay càng rút càng chặt, dần dần hằn cả vào trong thịt. Tôi lập tức cảm thấy ngón tay tê liệt, chiếc nhẫn ngọc cổ này dường như đã biến thành một vật có sức sống, thò ống hút ra hút chặt lấy da tôi, dường như muốn nuốt chửng cả ngón tay trỏ của tôi.
        Mất dứt nửa tiếng đồng hồ, tôi dùng sức mạnh toàn thân nhưng cũng không thể rút chiếc nhẫn ngọc ra được. Vệt đỏ đun trên chiếc nhẫn đang ngạo mạn nhìn tôi, sống chết quấn chặt lấy ngón tay tôi, hình như đã mọc rễ trên da thịt tôi.
        Rút cục tôi thở phì phò buông thõng bàn tay ướt sũng mồ hôi ra, nhìn chiếc nhẫn đang ở trên ngón trỏ của mình, bây giờ làm thế nào cũng không thể tháo ra được, tôi bất giác không lạnh mà lại rùng mình.
        Tay trái của tôi không ngừng run rẩy, nhưng cảm giác đau đớn đã dần dần tiêu tan. Sau đó, khi tôi lại giơ tay định rút chiếc nhẫn ngọc ra lần nữa, ngay tức khắc nó lại thắt chặt, chết cứng trên đốt ngón tay tôi, giống như có thể tự động co giãn vậy.
        Đột nhiên, tôi nhớ đến cách mà mẹ tôi đã từng dạy: khi nhẫn hay vòng mà không thể tháo ra được, có thể bôi một chút dầu lên đó là sẽ tháo được nó ra.
        Vậy là tôi tìm mấy chai dầu đem tới, đổ dầu lên ngón tay, chẳng mấy chốc dầu đã thầm ướt ngón tay và chiếc nhẫn ngọc. Tôi nghĩ chiếc nhẫn ngọc đã bị dầu bôi trơn rồi nên liền dùng tay phải nắm lấy một miếng giẻ, tóm chặt lấy chiếc nhẫn, sau đó ra sức rút ra ngoài.
        Nhưng dường như chiếc nhẫn đã bị dầu kích thích, càng thắt chặt hơn nữa, hằn lên ngón tay tôi, tôi càng dùng sức rút, ngón tay tôi càng cảm thấy đau đớn thấu tận xương tủy giống như đang rút xương cốt của chính mình vậy. Cuối cùng, dày vò mười phút đồng hồ, đổ cả nửa chai dầu, chiếc nhẫn ngọc vẫn bám chặt trên ngón tay tôi, vệt đỏ đun trên thân nó như đang nhìn tôi cười chế nhạo.
        Bây giờ phải làm thế nào đây? Tôi gần như tuyệt vọng rồi, vung tay trái bước qua bước lại trong phòng. Tôi thực sự vô cùng hối hận, tại sao lúc nãy như bị trúng ta, không kiểm soát nổi mình đã đeo chiếc nhẫn ngọc này vào. Đây không còn là một phút manh động, mà chính là một sức mạnh niệm chú kỳ lạ nào đó điều khiển tôi. Nhưng có ai nghĩ được rằng, vừa mới đeo chiếc nhẫn ngọc thần bí này lên một cái thì sẽ không còn cách nào để rút nó ra, giống như rễ “mọc” trong ngón tay tôi.
        Sau khi đã sức cùng lực kiệt, bất lực đổ người ra giường, tôi cũng không còn cảm thấy đau đớn nữa, chỉ thấy hình như trên ngón tay mọc ra một miếng thịt thừa. Hiện tai, tôi đã không dám rút nó ra nữa, chỉ hy vọng sáng hôm sau tỉnh dậy, chiếc nhẫn ngọc sẽ tự động tuột khỏi ngón tay tôi.
        Thẫn thờ ngồi trên giường một hồi lâu, tôi đã díu cả mắt lại, nhìn tay mình đầy dầu, cả người đầy mồ hôi, tôi nghĩ mình nên đi tắm. Vậy là tôi đành phải đeo cả chiếc nhẫn bước ra khỏi phòng, bước vào phòng vệ sinh.
        Tôi sững sờ nhìn mình trong gương, chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay nổi bật lạ thường, tôi thấy dáng vẻ mình đeo nhẫn giống như đến từ một không gian cổ đại nào đó.
        Nhưng đôi tay vào bồn tắm, tôi mở vòi nước ra, nước chảy xuống không ngừng gột rửa bàn tay tôi và cũng gột rửa cả bề mặt chiếc nhẫn ngọc, ngọc trong nước phát ra một loại ánh sáng khúc xạ, cảm giác của tôi cũng dễ chịu hơn chút ít. Rút cuộc, số dầu bóng nhẫy đều đã được rửa sạch, sau khi được gột rửa bằng dầu và nước, chiếc nhẫn ngọc càng trở nên long lanh, màu xanh non trên thân nhẫn càng trở nên óng ánh trong suốt, vòn vệt đỏ đun cũng càng trở nên sẫm màu hơn, giống như một cái bớt xấu xí.
        Sau đó, tôi dùng ấm đun nước trong phòng vệ sinh, tiện thể dùng vòi hoa sen tắm qua. Sau khi nước sọi, tôi lại nhúng đầu vào bồn nước, dùng nước nóng gội đầu, chiếc nhẫn ngọc hình như cũng không sợ nước nóng, cảm giác khó chịu trên ngón tay gần như tan biến hết. Cuối cùng cũng đã tắm gội sạch sẽ thân thể sau một ngày mồ hôi mồ kê. Tôi đứng trước gương lau đầu, hơi nước nóng mịt mù khắp phòng tắm khiến cả tấm gương cũng phủ một làn hơi nước.
        Tôi nhìn tấm gương mờ ảo, bên trong chỉ thấy bóng mình lờ mờ. Đột nhiên, tôi phát hiện cái bóng trong gương đứng im, trong khi tôi đang lắc lư qua lại lau người.
        Người trong gương là tôi sao?
        Tức khắc, phía sau tôi dựng hết cả tóc gáy. Tôi lùi lại mấy bước, lại lắc lư sang trái sang phải nhưng bóng người trong gương vẫn không động đậy.
        Cổ vô thức giật lại phía sau, tôi run rẩy nhìn chằm chằm vào gương, làn hơi nước phủ trên mặt gương khiến tôi không tài nào nhìn rõ khuôn mặt trong đó.
        Đột nhiên, tôi bật vòi nước, té rất nhiều nước lạnh lên mặt gương. Nước như thác chảy xuống, gột sạch lớp hơi nước trên mặt gương, dần dần lộ ra vài khe hở… trong gương là bóng của một phụ nữ.
        Tôi sợ ãi tới nỗi ú ớ. Không sai, đó là bóng của một thiếu nữ, trong gương hiện rõ lên một mái tóc đen nhánh, còn cả bờ vai nhỏ nhắn và vòng eo thon…
        Nhưng tôi không nhìn rõ mặt cô ta, trên mặt gương còn một vệt hơi nước chưa bay đi, vừa vặn che lấp đúng đôi mắt của cô ta.
        Khủng khiếp tới đỉnh điểm sẽ khiến người ta quên mất hoảng loạn. Tôi vội vàng nín thở, lại tiếp tục té rất nhiều nước lên mặt gương, nước gạt đi sương khói, rút cuộc tôi đã nhìn rõ tấm gương.
        Nhưng thiếu nữ đó đột nhiên biến mất, trên gương lại là khuôn mặt tôi.
        Tôi khủng hoảng nhìn ngó tứ phía, xác định trong phòng vệ sinh không có ai khác. Sau đó tôi sờ lên mặt mình, trong gương rõ ràng tôi đang lặp lại hành động của tôi.
        Ban nãy là sao vậy? Tôi nhìn tấm gương trong quán trọ Hoang thôn nhưng không tài nào giải thích nổi, lẽ nào lại là ảo giác? Tôi lắc lắc đầu, đành phải tự mình mỉa mai nói: “Thảo nào gương trong đêm tối toàn là nguyên tố bắt buộc phải có trong tất cả những phim kinh dị”.
        Bỗng nhiên, tôi lạ nhớ tới mấy chục năm trước, những người sống trong quán trọ Hoang thôn, bao gồm cả đàn ông dàn bà của gia đình Âu Dương, nghĩ tới chắc chắn họ đã từng đứng trước tấm gương này, lưu lại hình dáng và khuôn mặt của mình, lưu lại hạnh phúc và khổ đâu…
        Lúc này, tôi giơ tay trái của mình lên, chiếc nhẫn ngọc đang tỏa ra ánh sáng yếu ớt.

        Tôi hấp tấp rời khỏi phòng vệ sinh, trở lại phòng mình. Đeo chiếc nhẫn ngọc đến từ Hoang thôn trên tay, chẳng khác gì đang deo chiếc còng tay, tôi cảm thấy mình không dám làm bất cứ điều gì nữa.

        Sau đó, tôi tắt đèn, nằm trên chiếc giường bị bóng tối bao phủ, nhè nhẹ vuốt chiếc nhẫn ngọc đang đeo trên ngón trỏ, nó dường như cũng đang thở cùng tôi, từ từ chìm vào giấc mộng khủng khiếp….
        ***************

        Comment


        • #19
          19. Ngày thứ mười chín



          Buổi sáng tỉnh dậy, chiếc nhẫn ngọc vẫn đeo y nguyên trên ngón tay tôi, tôi nhẹ nhàng vuốt vuốt nó, vẫn giống hệt hôm qua, giống như đã mọc vào da thịt tôi không chút động đậy.
          Bên ngoài cửa sổ vọng lại tiếng máy móc, tôi không động vào chiếc nhẫn nữa, bước tới bên cửa sổ phủ đầy dây leo thì chỉ nhìn thấy một bãi đổ nát, vài chiếc máy ủi đất đang thanh lý nốt những bức tường hoang phế, bụi và đất đá bay mù mịt khắp nơi, giống như một trận bom nổ, tôi vội vàng đóng cửa sổ lại.
          Sau khi ăn sáng trong phòng xong xuôi, tôi tới cửa cầu thang, đột nhiên ngẩng đầu nhìn lên trên. Ô, tôi thực sự ngây người ra, sống trong quán trọ Hoang thôn ngày thứ ba rồi nhưng tôi từ trước tới nay vẫn chưa lên lầu ba. Đỉnh cầu thang xoắn ốc tối om om, phả ra hơi thở êm dịu, tôi tựa vào lan can một hồi lâu, rút cuộc cũng chậm rãi bước lên.
          Tôi đeo một chiếc khẩu trang to, bởi vì mỗi bước chân đều khiến bụi bay mù mịt. Tôi cẩn thận rón rén đi lên cầu thang tới cửa hành lang của lầu ba. Tôi mò mẫm mãi trên tường, khó khăn lắm mới bật được đèn, dưới ánh đèn vàng vọt một dãy hành lang tối sâu thẵng tắp phía trước, cảm giác hơi giống với đường đi dưới lòng đất.
          Qua một hồi lâu bụi bặm mới lặng ngắt trở lại, tôi vô thức sờ lên chiếc nhẫn ngọc rồi xông về phía hàng lang. Tôi mở cánh cửa phòng đầu tiên, giống hệt như phòng trên lầu hai, bên trong trống hươ trống hoắc chẳng có gì cả, duy nhất khác ở chỗ Chi trinh đằng rậm rạp hơn lầu hai, những dây leo màu xanh từ cửa sổ bò vào trong phòng, vô số những ành lá lay động trên một bên tường kề cửa sổ, rễ của những thực vật này thậm chí đã đâm sâu vào trong tường, mặt tường và sàn nhà đều có rất nhiều những vết rạn, xem ra ngôi nhà này đang cận kề cái chết tới nơi rồi.
          Những căn phòng khác trên lầu ba cũng na ná, tôi mở từng phòng từng phòng một, trong những căn phòng có đủ ánh sáng soi rọi, Chi trinh đằng thậm chí còn mọc cả trên sàn nhà. Tôi nghĩ không một lỗ hổng nào chúng không đâm rễ vào, nhất định cũng đã phủ kính sàn nhà các phòng dưới lầu. Nhưng ngôi nhà này bao năm nay không có người ở, bởi vậy bị những thực vật này xâm chiếm cũng là lẽ tự nhiên thôi.
          Tôi mở cửa căn phòng cuối cùng trên lầu ba, cũng chẳng có bất cứ thứ gì. Đúng lúc tôi chuẩn bị bỏ đi thì lại phát hiện dưới chân có rất nhiều bột đá và ván gỗ vỡ. Tôi từ từ ngẩng đầu lên mới phát hiện trần nhà rơi xuống một miếng to, lộ ra một lỗ hổng rất lớn, bên trong còn có rất nhiều tia sáng xuyên thấu. Tôi hiếu kỳ đi dưới lỗ hổng đó, kiễng chân nhìn lên bên trên, phát hiện trên trần nhà còn có một không gian rộng, hình như là gác xép.
          Phát hiện bất ngờ này lập tức khiến tôi tưởng tượng rất nhiều, tôi lao khỏi phòng, chạy xuống tầng trệt. Tôi còn nhớ cửa hậu trong hành lang hình như vẫn còn một chiếc cầu thang tre. Quả nhiên, tôi phát hiện ra chiếc cầu thang tre trong đống đồ đạc linh tinh.
          Tôi xách chiếc cầu thang tre, thở phì phò trở lại căn phòng trên lầu ba. Tôi gỡ chiếc khẩu trang dày cộm ra, gác cầu thang dưới lỗ hổng trên trần nhà, sau đó cẩn thận rón rén leo lên trên.
          Khi thò đầu ra khỏi trần nhà, tôi nhìn thấy mái nhà chêch chếch, chính giữa xà nhà còn có hai dãy cửa sổ. Rút cuộc, tôi đã vất vả leo lên tren, quả nhiên là một căn gác xép, ít nhất cũng hơn ba mươi mét vuông.
          Ánh nắng xuyên qua cửa sổ chiếu vào, do bị những dây leo chằng chịt che lấp nên căn gác xép chỉ chiếu vào vài tia ánh sáng thưa thớt. Lúc còn nhỏ trong ngôi nhà cổ của gia đình tôi cũng có kiểu cửa sổ này. Tôi nhoài ra ngoài cửa sổ, nhìn xuống bãi công trường phía dưới, dưới cửa sổ là từng hàng gạch ngói màu đen, bên trên cũng phủ kín những dây leo màu xanh, tôi nghĩ Chi trinh đằng chắc cũng đã phủ kín cả mái nhà. May mà những cửa sổ ở đây đều đóng chặt, trên cửa kính toàn là những lá cây Chi trinh đằng, nhìn những tia nắng xuyên qua kẽ lá, cảm giác giống như trong rừng rậm tối đen.
          Rời khỏi cửa sổ, tôi tỉ mỉ nhìn khắp một vòng căn gác, rõ ràng ở đây đã đóng cửa rất nhiều năm rồi, cảm giác giống như mộ cổ vừa được mở ra. Trong một góc gác xép, tôi phát hiện một tủ quần áo kiểu dáng cổ. Tuy phủ một lớp bụi dày, nhưng có thể nhìn ra chiếc tủ này được làm bằng loại gỗ thượng hạng, vào thời đó cũng được coi là đồ nội thất cao cấp.
          Tôi nhẹ nhàng mở cửa tủ ra, một mùi ẩm mốc đậm đặc xộc lên mũi. Tôi quay đầu đi đợi chừng vài phút, mùi này mới dần dần nhạt đi.
          Sau đó, tôi dụi mắt nhìn vào trong tủ, hóa ra trong tủ quần áo treo lủng lẳng mấy xác chết khô.
          Tôi lập tức ngã ra sau, mồ hôi lạnh toát đầm đìa trên trán, suýt nữa là hét toáng lên. Tôi lại nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay, vệt đỏ đun càng lúc càng bắt mắt.
          Nhưng khi tôi đứng dậy mới phát hiện ra trong tủ không hề có người chết, chỉ có quần áo treo kín trong tủ mà thôi. Tạ ơn trời đất, tôi thở một hơi dài, hóa ra ban nãy tôi nhìn nhầm. Những chiếc quần áo cũ đó treo trong tủ quần áo, nhìn thoáng qua dưới ánh sáng mờ ảo giống hệt những xác chết đang treo lơ lửng.
          Trong tủ có cả quần áo nam và quần áo nữ, comple màu đen và màu trắng, bên dưới còn liền cả quần tây, sườn xám màu đỏ và màu xanh, vài chiếc áo khoác bằng da màu đen, một tủ quần áo gia đình hơn năm mươi năm trước bỗng hiện lên trước mắt tôi. Tôi dơ tay sờ vào quần áo, tất cả đều đã giòn tan, mùi ẩm mốc lại sộc lên, có chiếc áo vest còn bị mối đục cả một lỗ to dưới vạt áo.
          Tôi vội vàng bịt mũi lùi lại một bước, đóng ngay cửa tủ lại. Đó là những quần áo mà gia đình Âu Dương đã từng mặc sao? Nghĩ tới đây tôi đột nhiên có chút buồn nôn liền chạy ngay tới góc khác trên gác xép.
          Lúc này, tôi mới phát hiện trên sàn nhà chỗ này cũng có một cánh cửa tối, chỉ là dưới đáy trống trơn mà thôi, trước kia ở đâyc hắc là có một cầu thang vịn. Nhưng dủ như vậy thì đem cả chiếc tủ quần áo to thề này lên đây cũng chẳng dễ dàng gì.
          Góc này trên gác còn có một bàn trang điểm, nhưng tấm gương trên bàn đã vỡ vụn từ lâu, chỉ còn sót lại một khoang gỗ hình bầu dục, lộ ra ván gỗ đã ngã vàng. Tôi nghĩ tới nữ chủ nhân của quán trọ Hoang thôn thời đó chắc là ngồi chải tóc tang điểm trước tấm gương này.
          Sau đó, tôi kéo ngăn kéo đầu tiên dưới bàn trang điểm ra mới phát hiện bên trong chất đống rất nhiều ảnh cũ. Ngửi thấy mùi ẩm móc của những bức ảnh này, mắt tôi sáng ra, lập tức lấy hết chúng lên mặt bàn.
          Hơn chục phút sau đó, tôi cố gắng nín thở, lặng lẽ xem những bức ảnh này. Lần theo những hình ảnh đen trắng mấy chục năm trước đây, những người đã từng sống trong ngôi nhà này dường như lại hiện lên sinh động như đang sống.
          Bức ảnh đầu tiên là một thiếu nữ, người cô gái dựa vào cửa sổ, hình như đang ngóng trông về phía bầu trời bên ngoài. Cô ấy mặc một chiếc áo len, mái tóc gợn xoăn xõa hai bên mang tai, khuôn mặt thanh thoát và xinh xắn cộng thêm sự mờ ảo của ảnh đen trắng, dường như đây chính là mỹ nhân Thượng Hải nổi tiếng những năm 40.
          Nhưng càng khiến tôi say đắm chính là đôi mắt của cô ấy, ánh mắt mới dịu dàng làm sao, đó là ánh mắt phảng phất chút u buồn đang hướng về bầu trời u ám mịt mùng ngoài cửa sổ. Nhìn dáng cô ấy tựa vào cửa trong bức ảnh, cảm giác giống như một con rùa nhỏ bị nhốt giữ, khát vọng bầu trời tự do ngoài cửa sổ. Tôi vẫn nhớ khuôn mặt của cô ấy trong bức ảnh của gia đình Âu Dương.
          Bức ảnh thứ hai là ảnh cưới của một đôi vợ chồng trẻ, cô dâu là thiếu nữ ban nãy, còn chú rể cũng đã từng nhìn thấy trong bức ảnh gia đình Âu Dương. Nhìn vào bức ảnh này, trông họ thật đẹp đôi, chú rể mặc một bộ comple, đứng thẳng người. Cô dâu mặc một chiếc váy cưới trắng tinh khôi, chiếc váy kéo dài trên đất, một tay cô được chú rể nâng lên, miệng cô mỉm cười, đó là do hạnh phúc của một cô dâu hay là sự lưu luyến thời khắc đẹp nhất của chính mình? Phải chăng tôi cũng không thể hỏi cô ấy được.
          Bức ảnh thứ ba là cô gái này đang cúi đầu đọc sách, dương như đang chìm đắm suy tư gì đó. Bối cảnh của bức ảnh là chiếc bàn trang điểm này, trên chiếc gương hình bầu dục phía sau có thể nhìn thấy bóng dáng cô ấy. Nhưng kỳ lạ ở chỗ,t rong gương hình như còn có chiếu một người khác, nhưng ánh sáng trong ảnh không đủ, tôi không nhìn rõ người đó, nhưng có thể xác định góc độ mà người đó đang đứng tuyệt đối không phải là người chụp ảnh.
          Phía dưới còn có mười mấy bức ảnh khác, tất cả đều là những cảnh sinh hoạt thường nhật trong ngôi nhà này, nhân vật xuất hiện cũng chỉ có đôi vợ chồng trẻ đó. Chỉ có bức ảnh cuối cùng, là bức ảnh cả gia đình Âu Dương chụp tại quán trọ Hoang thôn, và nó giống hệt với bức ảnh mà Hàn Tiểu Phong lấy về từ Hoang thôn, chắc là được rủa ra từ cùng một tấm phim. Chỉ kỳ lạ ở chỗ, họ không hề có một bức ảnh nào chụp ngoài trời, tất cả đều là chụp trong phòng. Vẻ mặt của họ đa số đều rất trầm mặc, cực hiếm thấy bức ảnh nào có mặt cười, còn người vợ trẻ đó còn nhiều hơn nữa những ánh mắt u buồn.
          Sau khi xem hết toàn bộ số ảnh, tôi cất chúng vào lại trong ngăn kéo. Sau đó, tôi mở ngăn kéo thứ hai ra thì phát hiện bên trong có hai quyển sách cũ. Tôi lấy hai quyển sách này ra xem, trước tiên là để ý cái tên: Trương Ái Linh.
          Hóa ra là sách của Trương Ái Linh, một cuốn “Truyền kỳ”, còn một cuốn là “Lưu ngôn”, xuất bản lần lượt vào năm 1944 và 1945. “Truyền kỳ” là tiểu thuyết nhiều tập của Trương Ái Linh. Không ngờ rằng trong quán trọ Hoang thôn đã từng có một “mê sách”, tôi nghĩ rằng hai cuốn sách này là của người vợ trẻ mua trước khi lấy chồng. Tôi tiện tay lật cuốn “Truyền kỳ” ra, lại là mùi ẩm mốc xông lên mũi. Đột nhiên, tôi lật tới một tấm đánh dấu trang, thực ra là một tấm thiếp nhỏ, bên trên có mấy chữ viết bằng bút mực: “Cuộc sống là một chiếc áo choàng lộng lẫy, bên trên bò đầy rận”.
          Dòng chữ này mềm mại thanh tú, nhìn cái là biết ngay do con gái viết, bên dưới còn có một hàng tái bút: “Nhược Vân – Ghi ngày mùng 1 tháng 4 năm Dân quốc 37”.
          Bây giờ rút cuộc đã biết rồi, cô ấy tên là Nhược Vân.
          Còn về câu “Cuộc sống là một chiếc áo choàng lộng lẫy, bên trên bò đầy rận”, chính là câu mà Trương Ái Linh đã từng nói, nhất định là Nhược Vân rất có cảm xúc với câu nói này nên ghi nó lại trên tấm đánh dấu trang.
          Và tấm đánh dấu trang này vừa vặn kẹp vào trang cuối cùng của truyện ngắn “Kim tỏa ký”.
          Tại sao phải kẹp trong “Kim tỏa ký” chứ? Tôi nhẹ nhàng đỡ trang sách ngẫm nghĩ hồi lâu, có lẽ Nhược Vân đang lo lắng cho số phận của mình không biết có lại trở thành một Tào Thất Xảo? Giống như trong “Kim tỏa ký” viết, thiếu nữ thanh xuân Tào Thất Xảo được gả cho một gia đình giàu có nhưng giống như con rùa nhỏ bị nhốt trong lồng, kể từ đó về sau số trời định đoạt cô ta phải lãng phí cả một đời trong đó.
          Thôi vậy, tâm tư của phụ nữ không thể đoán biết được, đứng nói là Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước. Tôi thở dài, đặt hai cuốn sách trở lại ngăn kéo.
          Dưới đày bàn trang điểm còn có một ngăn kéo nhỏ, tôi mở ra xem thì phát hiện bên trong là một số đồ mỹ phẩm, có son môi, phấn lót, nước hoa và còn một số thứ tôi không biết là thứ gì. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hình dạng son môi của hơn năm mươi năm trước, chẳng qua là bên trong đã khô từ lâu rồi. Nhưng chỉ cần tưởng tượng tới thứ này đã từng quệt trên môi của Nhược Vân, trong lòng tôi lại có cảm giác rất đặc biệt, là hoài cổ hay là thương cảm?
          Cuối cùng, tôi vẫn cứ đóng ngăn kéo lại, sau khi đảo mắt một vòng quanh căn gác, tôi bước xuống cầu thang đi xuống dưới.
          Trở lại căn phòng trên lầu ba, tôi vẫn để thang tre dưới sàn nhà, sau đó vội vàng đi xuống cầu thang.
          Bữa trưa vẫn là thức ăn của lò vi sóng, ăn xong tôi nằm trên chiếc giường xếp dở mấy quyển sách mà mình mang theo. Thời tiết sau buổi trưa oi bức lạ thường, trong phòng không một chút gió, tôi chỉ cảm thấy mí mắt nặng trĩu, khắp cơ thể không còn chút sức lực nào.
          Nhìn chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay mình giống như mọc thêm một cục u, tim tôi bất giác đập thình thịch. Không biết nó sẽ ở trên tay tôi bao lâu nữa? Lẽ nào đeo lên một cái là vĩnh viễn không tháo ra được sao? Nghĩ tới đây tôi nhắm mắt lại, run rẩy nằm trên giường, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi.
          Sáu giờ chiều tôi mới mơ màng tỉnh dậy, tùy ý làm chút bữa tối giải quyết cơn đói, sau đó ngồi thẫn thờ trong phòng. Cho tới ngày hôm nay, cả ba tầng lầu của quán trọ Hoang thôn tôi đều đã xem qua, tôi không biết mình còn có thể khám phá thêm điều gì ở đây. Có lẽ suy đoán ban đầu của tôi đã hoàn toàn sai, ngôi nhà cổ này không có bất cứ quan hệ gì tới bí mật Hoang thôn? Nhưng tôi không có lý do gì lại phải thêm một thứ phiền toái trên ngón tay.
          Đang suy nghĩ mông lung, đột nhiên nghe thấy dưới lầu có tiếng động nhẹ vang lên, xuyên qua ván sàn của cả tòa nhà vang vọng. Bỗng chốc, tim tôi lại đập thình thịch, chỉ nghe thấy tiếng “cộc… cộc… cộc” dưới lầu vọng lên. Tôi cẩn thận rón rén bước ra ngoài, xuyên qua hành lang đang bị bóng tối bao trùm, dừng lại trước cửa cầu thang nhìn xuống dưới.
          Có một bóng đen đang theo cầu thang xoắn ốc đi lên.
          Tôi lập tức nín thở, đợi tới khi tiếng bước chân đó đến bên cạnh mình, tôi một tay tóm ngay lấy đối phương.
          “Là tôi!”
          Giọng con gái vang lên bên tai tôi, tôi vội vàng buông cô ta ra, bật đèn cạnh tường lên.
          Quả nhiên là Tiểu Sảnh, cô ấy mặc một chiếc váy ngắn màu đen, chau mày dựa vào tường, rõ ràng ban nãy cô ấy bị hoảng sợ. Cô không ngừng thở dốc, lồng ngực phập phồng, trên tay còn xách một chiếc cặp màu đen.
          Tôi thở dài nói: “Sao cô lại đến đây?”
          “Xin lỗi, tôi đã làm anh hoảng sợ đúng không?”
          Miệng Tiểu Sảnh lẩm bẩm nói, dáng vẻ thật tội nghiệp, lập tức khiến sự khó chịu của tôi tan thành mây khói.
          “Vào ngồi lúc đã”.
          Nói xong, tôi giúp cô ấy xách chiếc cặp đen, đưa cô ấy tới phòng mình.
          Vừa bước vào phòng, đôi mắt trong veo của cô không ngừng ngó nghiêng tứ phía, muốn nói điều gì đó nhưng không nói ra được. Tôi cảm thấy có chút kỳ quái. Thử thăm dò hỏi: “Tiểu Sảnh, xảy ra chuyện gì sao?”
          Cô từ từ ngẩng đầu lên, đôi mắt xoáy sâu vào mắt tôi, cuối cùng cũng thốt nên lời: “Xin lỗi, tôi có thể sống ở đây không?”
          “Cô nói sao? Sống ở đây?” Câu hỏi của cô ấy khiến tôi thực sự kinh ngạc, càng khiến tôi cảm thấy bối rối.
          “Xin anh nhất định không được hiểu lầm”. Tiểu Sảnh cũng thực sự ngại ngùng, cô ấy cúi đầu nói: “Coi nưh giúp đỡ tôi một lần, tôi cảm thấy mình không còn nơi nào để đi nữa, chỗ duy nhất có thể ở chỉ có mỗi quán trọ Hoang thôn này”.
          Khẩn cầu của Tiểu Sảnh càng khiến tôi khó hiểu, dáng vẻ của cô ấy lúc này bỗng nhiên khiến tôi nhớ tới tên một bộ phim… “Không chốn nương thân”.
          Tôi bất giác nắm vào vai cô ấy hỏi:”Nói cho tôi biết, rút cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
          “Anh không cần hỏi bất cứ điều gì cả, bản thân tôi cũng không biết xảy ra chuyện gì, chỉ là trong lòng có cảm giác…” lời của cô ấy hình như chạm vào cái gì đó, lại bị cô nuốt chửng lại.
          “Hay là cãi nhau với người thân? Cô thật là ương bướng quá, mau về với cha mẹ đi”.
          Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hét lên thất thanh: “Không, tôi đã nói tôi không có người thân rồi mà, tôi cũng không có cha mẹ, tôi là một người không có gia đình”.
          “Không có gia đình? Thế thì khác nào cô hồn dã quỷ?”
          Câu nói này vừa thốt ra, tôi cũng có chút hối hận. Nhưng tôi không ngờ rằng Tiểu Sảnh đã trả lời tôi thế này: “Lẽ nào anh không biết tôi là ai sao? Tôi là Nhiếp Tiểu Sảnh mà”.
          “Ma nữ xinh đẹp trong Liêu trai?” Tôi ra sức lắc đầu nói: “Tiểu Sảnh, có phải cô từ trước tới nay luôn sống trong thế giới nội tâm của mình không? Có lẽ tất cả những thứ này đều chỉ là hoang tưởng của cô mà thôi”.
          “Anh không cần hỏi nữa đâu, tối nay tôi nhất định ở đây, tôi đã quyết định rồi”.
          Vừa nói, cô vừa mở chiếc cặp, lấy từ bên trong ra một số đồ dùng sinh hoạt thường ngày, còn có cả mấy gói thực phẩm ăn nhanh khá to, một túi gạo nhỏ, thậm chí còn có cả một đống đồ ăn vặt, xem ra cô ấy thực sự định “nằm vùng” ở đây rồi.
          Lúc này coi như tôi đã thực sự đầu hàng, phải chăng ngôi nhà này vốn không phải của tôi. Thế nên tôi cũng không có quyền đuổi cô ấy đi, tôi chỉ còn cách lắc đầu nói: “Được rồi, tùy cô. Nhưng ngôi nhà này mấy hôm nữa là bị tháo dỡ rồi”.
          Tiểu Sảnh vừa sắp xếp đồ đạc vừa trả lời dứt khoát: “Tôi biết”.
          Nhìn điệu bộ cô ấy lúc này giống như bỗng chốc biến thành chủ nhà, tôi ngốc ngếch đứng bên cạnh, không biết nên nói gì cho phải đạo.
          Đột nhiên, cô ấy ngẩng đầu lên mỉm cười với tôi: “Xin lỗi, tối nay anh có thể ngủ trên tầng trên không?”
          “Tầng trên?”
          Tôi ngớ người ra, sau đó bất giác gật gật đầu, cảm giác trong lòng thật khó diễn tả thành lời.
          Khóe miệng Tiểu Sảnh cong cong lên: “Cám ơn anh, tôi biết anh là một người tốt”.
          Nhưng trong lòng tôi lại âm thầm nói: Tự nhiên đuổi người ta lên gác, để tôi ngủ cùng với đống dây Chi trinh đằng, đêm nay thảm rồi.
          Cô ấy bước mấy bước trong phòng nói: “Kể từ tối hôm nay, chúng ta sẽ là hàng xóm tầng trên tầng dưới”.
          Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hình như phát hiện ra gì đó, cô ấy nhìn vào tay trái tôi nói: “Cái gì trên ngón tay anh thế?”
          Tôi hơi hoảng, biết rằng mình trốn không thoát, đành phải ngoan ngoãn giơ tay về phía cô ấy. Cô ấy nhìn chằm chằm vào ngón tay tôi một lúc, sững sờ hỏi: “Tôi chưa từng thấy anh đeo nhẫn bao giờ”.
          “Đây là một chiếc nhẫn ngọc”, giọng tôi trở nên ủ ê, “Nó đến từ Hoang thôn”.
          “Nhẫn ngọc của Hoang thôn? Sao lại đeo trên ngón tay anh?”
          “Một lời không nói hết được”.
          Sau đó, tôi kể hết cho cô ấy nghe về lai lịch của chiếc nhẫn ngọc này, còn cả sự phiền toái khi tôi đeo nó lên thì làm thế nào cũng không tháo ra được.
          Tiểu Sảnh cảm thấy có chút khó hiểu, cô tóm lấy tay trái của tôi, vuốt lên chiếc nhẫn ngọc đeo trên ngón trỏ. Sau đó, cô ấy thử rút nó ra, nhưng nhẫn ngọc lập tức co lại khiến tôi đau đớn hét lên. Tiểu Sảnh thực sự hốt hoảng, vội vàng buông tay tôi ra.
          “Có lẽ bí mật nằm trong chiếc nhẫn này?”
          “Nhưng tôi biết làm thế nào? Đeo nó vĩnh viễn sao?” Tôi buồn bực đi đi lại lại mấy vòng trong phòng, cuối cùng tựa lên cửa nói: “Thôi vậy, cứ đeo mấy ngày rồi sau tính tiếp”.
          Sau đó, tôi lôi từ góc tường ra một chiếc chiếu cói và gối đầu, vác chúng ra ngoài.
          Tiểu Sảnh vội vàng chạy theo sau tôi hỏi: “Anh đi đâu đấy?”
          “Không phải cô bảo tôi lên tầng trên ngủ sao?” Đi được một nửa, tôi lại quay đầu lại nói, “Tối nay, cô ngủ trên giường xếp đi, phòng vệ sinh ở cuối hành lang, nước trong vòi có thể rửa mặt, nhưng mà không có nước nóng”.
          Điệu bộ của cô ấy lại có chút bối rối, cúi đầu nói: “Cảm ơn anh”.
          “Ngủ ngon nhé, đừng mơ thấy ác mộng nữa, tôi không chịu được sự dày vò của tôi đâu”. Tôi rút cuộc cũng lộ ra chút tươi cười, “Ngủ ngon nhé”.
          Đang nói tôi đã vác chiếc chiếu và gối đi lên cầu thang rồi.
          Bước vào bóng tối trên lầu ba, tôi đẩy cửa căn phòng đầu tiên, may mà đèn trên trần nhà vẫn có thể bật sáng. Căn phòng này nồng nặc mùi thực vật kỳ quái, bức tường kề cửa sổ phủ kín rễ và cành lá Chi trinh đằng, gió đêm lành lạnh thổi từ cửa sổ vào. Tôi mất bao nhiêu sức lực mới đóng chặt được cửa sổ lại. Sau đó, tôi lại mất nửa tiếng đồng hồ quét dọn căn phòng này, quét ra một đống lá rụng và bụi bẩn. cuối cùng, tôi mới trải chiếu lên sàn nhà.
          Lúc này tôi nhớ tới Tiểu Sảnh đang ở tầng dưới, phải chăng không dám xuống đấy nữa. Đêm sâu yên tĩnh, tốt nhất không nên nghĩ ngợi mông lung. Tôi dứt khoát tắt đèn, nằm lên chiếu ngủ.
          Trong căn phòng nồng nặc mùi thực vật này, dưới người là chiếc chiếu lạnh toát thật giống như đang ngủ trên bãi cỏ. Tuy nhắm mắt nhưng tôi vẫn có thể cảm giác những cảnh Chi trinh đằng chằng chịt đang âm thầm sinh trưởng, thoăn thoắt cắm rễ vào sàn nhà giống như một cánh tay đang trườn bò dãy dụa.
          Chi trinh đằng trong đêm không ngừng nhả ra khó các bon, trên chiếu ngủ tôi dần dần chìm vào hư vô…
          Không biết bao lâu sau, vài tia sáng rọi vào mắt rồi trốn dưới mí mắt làm con ngươi cũng dần thức tỉnh khiến tôi chầm chậm mở mắt.
          Có lẽ do hoang mang khi vừa tỉnh dậy, tôi thở từng hơi hổn hển, phát hiện mình đang nằm trên chiếu cói, căn phòng vẫn đang bị bóng đêm bao phủ. Còn những tia sáng rọi vào mặt tôi là từ cửa ngoài hành lang chiếu vào.
          Tôi vùng vằng ngồi dậy, tia sáng trắng từ trong cửa rọi vào có chút chói mắt, còn người tôi vẫn đang trong bóng tối. Tôi ra sức dụi mắt mới thích ứng được tia sáng nhỏ hẹp đó, nhìn thấy hình như có một bóng đen đang đứng ngoài cửa.
          Tim đột nhiên đập thình thịch, nhưng tôi lập tức để mình trấn tĩnh lại, có khi nào lại là Tiểu Sảnh mơ thấy ác mộng? Tôi cẩn thận rón rén đứng dậy, cố gắng hết sức không phát ra bất cứ tiếng động nào, lặng lẽ thò đầu ra khỏi cửa.
          Ngoài hành lang lóe lên một vùng ánh sáng êm dịu, tôi phát hiện một bóng lưng thiếu nữ đang đứng đợn độc chính giữa hành lang. Quần áo cô ta mặc thật kỳ quái, từ trước tới nay tôi chưa từng nhìn thấy, nhưng tôi vẫn nhẹ nhàng gọi một tiếng: “Tiểu Sảnh?”
          Gần như cùng lúc, cô ta từ từ quay đàu lại, ánh sáng phút chốc quá chói lóa khiến tôi không nhìn rõ mặt cô ấy. Cô ta đi về phía tôi, tôi bất chợt cảm thấy căng thẳng, dùng tay che chắn ánh đèn trên đỉnh đầu, rút cuộc cũng nhìn rõ đôi mắt cô ta.
          Cô ta không phải là Tiểu Sảnh.
          Tức khắc, tôi gần như hét toáng lên, nhưng cô ta hình như nhìn thấy mà cố tình lờ tôi đi, sững sờ đi về phía đầu hành lang bên này. Lúc này tôi đã nhìn rõ quần áo cô ấy mặc, hóa ra là một chiếc áo choàng vừa dày vừa dài, tôi từ trước tới nay chưa từng nhìn thấy kiểu áo này, xem ra quả thực rất nặng, giữa mùa này mà mặc nó e rằng nóng chết khiếp. Khuôn mặt cô ta trắng bệch thanh thoát, đôi mắt diễm lệ nhìn thẳng phía trước, nếu như không xuất hiện ở đây và trong thời khắc này, cô ta chắc chắn là một cô gái vô cùng hấp dẫn.
          Tôi run rẩy nhẹ nhàng hỏi: “Cô là ai?”
          Nhưng cô ta không có bất cứ phản ứng gì, mặt vô cảm đi qua người tôi, dường như tôi không hề tồn tại. Giây phút tôi và cô ấy lướt qua nhau, tôi đột nhiên nhớ lại, tôi đã từng nhìn thấy mặt cô ta, buổi sáng trên căn gác xép, tôi phát hiện ra rất nhiều ảnh cũ, hình như mỗi một tấm ảnh đều có mặt cô ấy.
          Tên của cô ấy là Nhược Vân.
          Lúc này tôi kinh ngạc ngây cả người ra, sững sờ nhìn cô ta chầm chậm đi về phía cửa cầu thang, ánh sáng êm dịu như thác nước bao trùm cô ấy, còn bức tường phía sau lưng cô vẫn chìm trong bóng tối.
          Sao lại có thể như vậy được? Từ tận năm 1948 xa lắc xa lơ, cô ta đã từng sống trong ngôi nhà cổ này. Vào một đêm hơn năm mươi năm sau, cô ta lại xuất hiện trong hành lang trên tầng ba của quán trọ Hoang thôn, vẫn tươi trẻ như năm nào, vẫn hấp dẫn như năm nào, không khác gì so với cô ấy trong ảnh trước đây.
          Tôi rút cuộc nhìn thấy gì?
          Cô ấy đi xuống cầu thang, quầng ánh sáng soi rọi theo cô ấy, còn xung quanh vẫn toàn là bóng tối. Cô ấy thật giống một minh tinh trên sân khấu,toàn thân được bao trùm bởi đèn hội tụ ánh sáng trắng, còn tất cả những người khác đều đứng trong bóng tối nhìn cô ấy.
          Không thể kìm chế được nữa, tôi bật đèn lên, khi ánh đèn chiếu sáng đôi mắt tôi, cô ấy đột nhiên biến mất. Tôi hoảng hốt nhìn khắp tứ phía, nhưng không thấy bất cứ tình hình khác thường nào. Tôi lại chạy xuống cầu thang xoắn ốc, cũng không phát hiện ra bất cứ dấu tích có người nào cả.
          Cô ấy đi đâu rồi?
          Đi tới cửa cầu thang tầng hai, nhìn cửa phòng mà Tiểu Sảnh ngủ bên trong đang đóng im ỉm, tôi nghĩ tôi không nên làm phiền giấc ngủ của cô ấy. Tôi để mình thoải mái trở lại, sau đó trở lại căn phòng trên lầu ba.
          Tôi đứng ngoài cửa một hồi lâu, nhìn ánh đèn vàng vọt trên tường, hoàn toàn khác với ánh sáng kỳ dị ban nãy. Vậy thì ánh sáng chiếu lên người Nhược Vân là ở đâu ra? Tôi làm thế nào cũng không nghĩ ra được, đành phải tắt đèn, lại nằm ra chiếu.
          Tự véo vào đùi mình một cái, dường như đau tới mức hét lên. Lúc này tôi có thể khẳng định rồi, ban nãy tuyệt đối không phải là nằm mơ, tôi thực sự tận mắt nhìn thấy Nhược Vân, người phụ nữ sống ở đây hơn năm mươi năm trước.
          Nhưng tại sao tôi lại nhìn thấy cô ấy? Cho dù Nhược Vân xinh đẹp năm nào, hôm nay vẫn sống giữa cõi đời này thì cũng phải là bà lão tám mươi tuổi mới đúng. Không nghi ngờ gì nữa, tôi chính mắt nhìn thấy ban nãy chính là Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước, còn cả bộ quần áo cô ta mặc nữa, cũng chỉ có thời đó mới có, lẽ nào tôi nhìn thấy hồn ma?
          Nghĩ tới đây, tôi lại sởn hết cả tóc gáy, vội vàng nhắm mắt lại, trong lòng âm thầm cầu nguyện: “Đêm tối ơi, mau mau để tao ngủ thôi”.
          ***************

          Comment


          • #20
            20. Ngày thứ hai mươi



            Có lẽ do “cuộc gặp gỡ kỳ dị” tối qua, mãi tới tận mười giờ sáng tôi mới ngủ dậy, mơ mơ màng màng mở mắt, ánh mắt đầu tiên là thấy đôi mắt của Tiểu Sảnh, hóa ra cô ấy đánh thức tôi dậy.

            Tôi theo phản xã nhảy khỏi chiếu, nhìn ôc ấy chằm chằm một lúc mới tỉnh táo lại, sau đó cười gượng gạo nói: “Trông tôi lúc nãy chắc là ngốc lắm nhỉ?”

            Tiểu Sảnh cũng mỉm cười nói: “Không, dáng anh ngủ trông rất hay”.
            Thật là mất mặt quá, ban nãy nhất định cô ta đứng cạnh tôi, nhìn dáng tôi ngủ một lúc lâu. Tôi ngại quá không nói gì được nữa bèn cúi đầu chạy ra ngoài.

            Tôi vội vàng lao vào nhà vệ sinh dưới lầu hai, hỏa tốc đánh răng rửa mặt. Khi tôi trở lại căn phòng trên lầu hai mới phát hiện ra Tiểu Sảnh đã chuẩn bị xong bữa sáng, có bánh quẩy và cả sữa đậu nành.
            Cô ấy nhẹ nhàng nói: “Đây là buổi sáng tôi ra ngoài mua, không biết anh có thích ăn không?”
            “Đương nhiên thích rồi”. Tôi lập tức vớ lấy một chiếc quẩy: “Hồi nhỏ tôi thường ăn sáng thế này, nhưng khi lớn lên thì ít ăn hơn, tôi thực sự rất nhớ mùi vị của quẩy đấy”.
            Chưa tới vài phút, bữa sáng đã được tôi giải quyết sạch sẽ, tôi không buồn để ý tay đang đầy dầu mỡ, quệt miệng nói: “Tiểu Sảnh, thật là không ngờ rằng, cô lại mua đồ ăn sáng cho tôi. Thật là cảm ơn cô”.
            “Mấy hôm nay, có phải anh ngày nào cũng ăn cơm trong lò vi sóng không?”

            Tôi gãi gãi đầu đáp: “Phải chăng, phải chăng chỉ có mấy hôm thôi mà”.
            “Ngày nào cũng ăn những thứ đó không tốt cho sức khỏe đâu, nên ăn cơm nhiều chút”.
            “Được, tôi hiểu rồi”.
            Lúc này, tôi đột nhiên nhớ lại nửa đêm hôm qua nhìn thấy người phụ nữ hơn năm mươi năm trước. Nhưng tôi nên nói thế nào với Tiểu Sảnh đây? Cô ấy có tin lời tôi không? Nếu như tin tô thì có nghĩa là cô ấy sẽ bị ngôi nhà này dọa cho chết khiếp sao? Đắn đo một lúc, tôi vẫn không nói ra.
            “Anh đang nghĩ gì thế?”
            “Không, không nghĩ gì cả”. Tôi đành ấp úng nói, “Tôi đang nghĩ, thực ra… cô cũng rất biết cách quan tâm người khác”.
            Tiểu Sảnh bỗng nhiên cười nói: “Trước đây không phải anh cho rằng tôi chỉ là một độc giả vô vị đến quấy nhiễu anh sao?”
            “Không, cô là Nhiếp Tiểu Sảnh trong Liêu trai mà”.
            “Không sai”. Cô ấy ngược lại rất tự nhiên gật đầu nói, “Được rồi, tôi bây giờ phải ra ngoài đây, anh ở đây một mình cẩn thận chút”.
            “Ra ngoài? Cô đến cửa hàng kem làn chứ gì?”
            Cô ấy không nói có cũng chẳng bảo không nhìn vào mắt tôi, sau đó nhỏ nhẹ nói: “Tạm biệt, tối tôi về”.

            Nhưng tôi vẫn bám theo sau, nhìn bóng cô ấy rời khỏi ngôi nhà.
            Trở lại căn phòng trên lầu hai, tôi không dám xem nhiều đồ đạc của cô ấy để lại đây, cứ nghĩ tới tối qua cô ấy ngủ trong căn phòng này, trong lòng tôi lại sợ hãi kỳ lạ.
            Không hiểu sao, những lời Tiểu Sảnh nói tôi đều ghi nhớ rất kĩ, buổi trưa tôi không ăn đồ ăn trong lò vi sóng nữa mà ra ngoài tiệm cơm ăn một bữa.
            Buổi chiều, tôi không ở ngoài lâu mà vội vàng trở về quán trọ Hoang thôn. Lúc tôi vừa tới căn phòng trên lầu hai, bỗng nhiên nghe thấy tiếng gõ cửa dưới lầu vọng lên.

            Cửa chính tầng trệt bị gõ ầm ầm, dường như cả ngôi nhà đều lắc lư sắp sập tới nơi. Tôi vội vàng ôm lấy trái tim đang nhảy nhót loạn xạ, thò đầu ra ngoài cửa sổ, phát hiện một thanh niên đứng dưới lầu đang ra sức gõ vào cửa chính.
            Bỗng nhien, người thanh niên này ngẩng đầu lên tôi mới nhìn rõ mặt anh ta. Là Diệp Tiêu.
            Tôi giật bắn mình, vội vàng lớn tiếng gọi anh ấy.
            Diệp Tiêu cũng đã nhìn thấy tôi, anh ấy đứng dưới nói: “Nhanh nhanh mở cửa cho anh”.
            “Cửa trước đóng chết rồi, anh vào từ cửa sau đi”.

            Nói xong, tôi lập tức lao khỏi phòng, chạy xuống tầng trệt mở cửa cho anh ấy. Quả nhiên, tôi gặp Diệp Tiêu ở cửa sau, anh ấy rõ ràng không yên tâm lắm về ngôi nhà cổ này, cẩn thận rón rén bước vào hành lang, điệu bộ mà chỉ cảnh sát mới có, giống như bất cứ lúc nào cũng đều có người tấn công anh ấy vậy.

            Tôi dẫn anh đi vào tầng một, chỉ vào phòng khách rộng rãi nói: “Diệp Tiêu, em đưa anh đi tham quan. Anh xem, đây là nơi khiêu vũ của gia đình Âu Dương trước đây”.
            Diệp Tiêu lạnh lùng đảo mắt một vòng, mặt vô cảm đáp: “Âm khí ở đây nặng quá”.
            “Tại sao mọi người đều nói như vậy nhỉ? Em nghĩ, có thể là do căn phòng này ẩm ướt quá thôi”.
            “Đợi đã, trên tay em là cái gì thế?”

            Anh ấy đã phát hiện ra chiếc nhẫn ngọc trên tay tôi, tim tôi “thình thịch” một cái, từ từ nhấc tay trái lên nói: “À cái này á? Mấy hôm trước, em thấy nó ở mấy sạp hàng rong ven đường, thấy rất hay nên đã bỏ ra mười tệ mua”.
            Nhưng Diệp Tiêu vẫn nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn ngọc, sau đó lạnh lùng nói: “Cái này thật sự không hợp đeo trên ngón tay em”.
            “Ha ha”. Tôi cười ngốc ngếch với Diệp Tiêu, sau đó đưa anh ấy lượn một vòng dưới tầng trệt.

            Chúng tôi đi lên cầu thang xoắn ốc, vào căn phòng trên lầu hai. Diệp Tiêu nhìn chiếc giường xếp và lò vi sóng, nói nhỏ: “Thực ra anh lo lắng cho em mới đến thăm em. Một mình em ở chỗ quái quỷ này, anh làm sao mà yên tâm được”.
            “Anh vẫn coi em là trẻ con sao? Em có thể tự lo cho mình”.
            Đột nhiên, Diệp Tiêu phát hiện dưới giường có một đôi dép con gái, mặt anh ta tức khắc đanh lại, chỉ vào đôi dép hỏi: “Thế này là thế nào?”
            Lòng tôi trùng xuống, chết rồi, tôi nên sớm dự phòng tới việc Tiểu Sảnh để lại dấu vết trong căn phòng này, làm sao có thể qua được mắt cảnh sát chứ? Tôi có chút bối rối đáp: “Diệp Tiêu, cái này mà… cái này…”
            “Cô gái này là ai?” Diệp Tiêu thẳng thừng hỏi.
            Không, tôi không thể nói ra Tiểu Sảnh, tôi đành phải nói nhỏ: “Xin đừng hỏi nữa, đây là việc của cá nhân em”.
            “Anh không thể can thiệp vào việc riêng của em. Nhưng anh nhắc nhỏ em, ở đây là quán trọ Hoang thôn, không phải là nơi em muốn làm gì thì làm”.
            Tiêu rồi, anh ấy cho rằng tôi ở đây… Không thể, tôi vội vàng giải thích: “Diệp Tiêu, anh hiểu lầm rồi, em chẳng làm gì ở đây cả”.
            Anh nhướn long mày cười nói: “Thôi được rồi, không hỏi nữa”.
            Bỗng nhiên, tôi nhớ tới một người đến nay vẫn chưa rõ sống chết ra sao: “Đúng rồi, có tin tức gì của Tô Thiên Bình không?”
            “Không, đến giờ trường học vẫn đang đi tìm cậu ta khắp nơi, nhưng cậu ta giống như biến mất trên trời, bất luận chỗ nào cũng không tìm thấy đâu cả”.
            “Có khi đã thành một xác chết từ lâu rồi cũng nên. Không, em không nên nói thế, những lời nói này hình như quá tàn nhẫn”.
            “Đừng nghĩ nhiều tới Tô Thiên Bình nữa”. Diệp Tiêu tới bên cửa sổ, nhìn bầu trời bên ngoài nói, “Thực ra anh hôm nay đến tìm em, vẫn còn một nguyên nhân nữa”.
            Tôi phút chốc trở nên căng thẳng: “Nguyên nhân gì?”
            “Lần trước trong điện thoại, không phải em nhờ anh tìm xem, tình hình cụ thể của quán trọ Hoang thôn trước đây sao?”
            “Đúng, anh tìm thấy chưa?”
            Diệp Tiêu gật đầu nói: “Không sai, mấy hôm nay anh đã tìm rất nhiều hồ sơ trước đây, chủ yếu là tài liệu đăng kí nhà cửa của khu này trước năm 1949. Tối hôm qua, anh rút cuộc đã tìm thấy ngôi nhà này, hồ sơ của nhà số 13 đường An Tức khu phố tây tại hội đồng thành phố”.
            “Nó xya6 dựng vào năm nào?”
            “Năm 1930, thời đó đường An Tức là khu dân cư phố tây cao cấp danh tiếng của Thượng Hải, hai bên đường xây rất nhiều nhà tây ba tầng, ngôi nhà này là do một công ty bất động sản của Pháp xây dựng, ban đầu không gọi là quán trọ Hoang thôn, mà gọi là biệt thự Caroline”.
            “Biệt thự Caroline? Cái tên này hay thật”.
            “Đúng thế, lúc đó có một gia đình quốc tịch Pháp sống ở đây, sau khi chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, người Nhật khống chế khu phố tây Thượng Hải, hộ người Pháp này bị hạn chế tự do, bị giam lỏng trong ngôi nhà này, không hiểu lý do tại sao cả gia đình này đều tự sát hết, treo cổ chết trong chính căn phòng trên tầng hai ngôi nhà”.
            “Cái gì?” Tôi ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, lẽ nào gia đình người Pháp treo cổ trong chính căn phòng này?
            Diệp Tiêu cũng nhìn căn phòng bằng ánh mắt xa xăm nói: “Trong hồ sơ vụ án này viết như vậy. Sau khi kháng chiến thắng lợi, phố tây cũng không còn tồn tại nữa, quyền sở hữu ngôi nhà này được một gia đình Trung Quốc mua lại. Trong hồ sơ ghi rõ người chủ gia đình này tên là Âu Dương, là thương nhân tại một địa phương tỉnh Chiết Giang”.
            “Đương nhiên là gia đình Âu Dương ở Hoang thôn rồi, thời đóhọ buôn lậu kiếm được rất nhiều tiền, nghĩ rằng nhất định phải làm ăn lớn tại Thượng Hải, bởi vậy mới mua ngôi nhà này ở đây”.
            “Đúng, gia đình Âu Dương sau khi mua can8 biệt thự Caroline này liền đổi tên thành quán trọ Hoang thôn rồi đăng kí tên với cơ quan hữu quan. Từ bản sao chứng từ của quán trọ Hoang thôn cho thấy, thời gian gia đình Âu Dương sống tại đây tổng cộng hơn ba năm. Tới đầu năm 1949, gia đình Âu Dương lại bán lại ngôi nhà này cho một thương nhân giàu có. Nhưng thương nhân giàu có này vẫn chưa kịp dọn vào sống trong quán trọ Hoang thôn thì đã tự mình bạo bệnh mà chết”.
            Tôi sốt ruột hỏi: “Từ đó trở đi, ngôi nhà này đều đóng cửa để không đúng không?”
            “Sau đó, anh lại tra thêm một số tài liệu vụ án sau giải phóng mới biết được vào thập niên 60, những người dân cạnh đây đã từng dọn vào sống trong ngôi nhà. Lúc này một dãy nhà tây trên đường An Tức hầu như không có người ở, rất nhiều nhà đã bị dân gần đó chiếm dụng như thế. Nhưng chỉ có duy nhất ngôi nhà này xảy ra một số chuyện kỳ quái”. Diệp Tiêu bỗng nhiên rùng mình, chau mày nói: “Hồ sơ vụ án thời đó ghi chép không đầy đủ lắm, nghe nói trong ngôi nhà này xảy ra án mạng, cũng không tìm ra rút cục là chuyện gì. Đến thập niên 80, những người dân sống trong đó đều đã dọn hết ra ngoài, từ đó trở đi không còn ai dám sống trong này nữa”.
            Bỗng nhiên tôi nhớ lại cuộc gặp gỡ kỳ dị đêm qua, bất giác tự mình lẩm bẩm: “Có lẽ trong quán trọ Hoang thôn từ trước tới nay có truyền thuyết ma quỷ quấy rối khiến những người gần đây sợ quá nên mới đóng cửa để không mãi thế này”.
            “Em nói cái gì? Ma quỷ quấy rối?”
            Tôi vội vàng cúi đầu nói: “Không có gì cả, chỉ là suy đoán bừa thôi mà”.
            “Đừng có suy nghĩ mông lung nữa”. Diệp Tiêu đi đi lại lại nói, sau đó nhìn ra cửa sổ bảo: “Có lẽ là do không khí trong ngôi nhà này quá ẩm ướt, hơn nữa còn mọc bao nhiêu là Chi trinh đằng thế này, anh nghe nói loại thực vật này không tốt lắm cho cơ thể con người”.
            “Không sao, em nghĩ mấy hôm nay em quen rồi”.
            “Thế tiếp theo em định làm gì?”
            “Em không biết, có lẽ vẫn phải sống ở đây mấy hôm nữa, cho tới kho nó bị tháo dỡ”.
            Diệp Tiêu thất vọng lắc đầu: “Anh biết anh không thay đổi nổi quyết định của em, nhưng em phải tự lo cho mình ổn thỏa, anh đi đây”.
            Nói xong, anh ấy vỗ vỗ vai tôi rồi bước nhanh ra khỏi phòng. Tôi tiễn anh ra tận cửa sau dưới tầng trệt, Diệp Tiêu vẫy vẫy tay với tôi nói: “Có việc gì thì gọi điện cho anh, anh lúc nào cũng có thể đến giúp em”.
            Sau khi nhìn Diệp Tiêu ra về, tôi quay lại căn phòng trên lầu. Cả buổi chiều, tôi chẳng làm gì cả, trong lòng toàn nghĩ tới những lời Diệp Tiêu nói với mình.
            Ví dụ, lúc quán trọ Hoang thôn vẫn còn gọi là biệt thự Caroline, cả nhà người Pháp sống ở đây đều treo cổ chết trên tầng hai. Nghĩ tới đây, tôi lại tưởng tượng ra những sợi dây thừng đó đang lắc lư dao động. Còn cả thập niên 60, 70 rất nhiều người sống trong ngôi nhà này nhưng lại từng xảy ra một số án mạng li kỳ, rút cuộc là thế nào?
            Lẽ nào đây thực sự là một “hung trạch”? Còn tôi là người cuối cùng sống ở đây, có lẽ còn thêm cả Tiểu Sảnh nữa.
            Trong giây phút vô thức, sắc đêm đã vội vàng kéo đến. Tôi vẫn ra ngoài ăn bữa tối, tới hơn tám giờ tối mới trở về quán trọ Hoang thôn.
            Cả ngôi nhà đều chìm trong bóng tối, trải qua mấy ngày sớm tối sống cùng ngôi nhà, dù có nhắm mắt tôi cũng có thể nhận biết được đường đi. Tôi cố ý không bật đèn, dò dẫm trong căn phòng tối om, chả mấy chốc đã leo lên cầu thang xoắn ốc.
            Khi tôi vừa tới cửa cầu thang trên lầu hai, bỗng nhiên nghe thấy tiếng nhạc bật to, giống như những làn sóng đập vào màng nhĩ. Âm thanh đó từ tầng dưới vọng lên, tiết tấu chấn động ván sàn dưới chân tôi, hình như dưới nhà đang mở đại nhạc hội.
            Những âm thanh này từ đâu tới? Tim tôi lập tức treo ngược lên, lại từ từ bước xuống cầu thang xoắn ốc.
            Rút cuộc, tôi đã nhìn thấy họ rồi.
            Vụ hội đã bắt đầu.
            Không, tôi không dám tin vào mắt mình, nhưng tôi thực sự nhìn thấy cảnh tượng này… Trong phòng khách dưới tầng trệt của quán trọ Hoang thôn, bỗng nhiên đèn đóm sáng trưng, mười mấy đôi nam nữ lúc ẩn lúc hiện đang lướt nhảy trong phòng khiêu vũ sáng sủa rộng rãi. Đàn ông hầu hết mặc những bộ âu phục đủ màu sắc, cũng có vài người mặc áo sơ mi, đàn bà thì đa số mặc sườn xám diễm lệ hoặc là đầm thời trang.
            Tiếng nhạc dìu họ nhảy được phát ra từ chiếc máy phát nhạc cạnh tường, tôi thậm chí còn nghe rõ cả lời bài hát trong đó: “Biết bao năm tháng, tâm trạng của ánh trăng, sự thông minh của băng tuyết, cuộc sống tươi đẹp, gia quyến đa tình…”
            Tôi nghe ra rồi, đây là bài hát: “Biết bao năm tháng” của hơn sáu mươi năm trước, thậm chí còn là giọng hát của ca sỹ đầu tiên hát bài bày, giọng hát mang đậm đặc trưng của thời đại đó. Tôi ra sức dụi mắt, nhưng phía trước dường như có che một tấm voan ngả vàng, vài ánh sáng trắng chớp lên chớp xuống, giống như đang xem một thước phim bao nhiêu năm trước, có cả những vết mốc kèm theo, thông qua máy chiếu phim từ từ phản chiếu lên màn ảnh.
            Bỗng nhiên, một gương mặt lướt qua trong vũ hội lập tức khiến tôi trợn tròn mắt, tôi lại nhìn thấy cô ấy.
            “Nhược Vân?”
            Tôi khẽ kêu lên, người phụ nữ của hơn năm mươi năm trước đang hiện hữu ở đây, lại một lần nữa xuất hiện trước mặt tôi.
            Cô ấy đang ở chính giữa phòng nhảy, nơi thu hút mọi ánh nhìn và đang ôm một người đàn ông, bước những bước nhảy nhẹ nhàng, thanh thoát. Đúng, tôi đã nhìn thấy người đàn ông này trong bức ảnh cũ, anh ta chính là ông chủ trẻ của quán trọ Hoang thôn, người thừa kế của gia tộc Âu Dương, chồng của Nhược Vân.
            Chỉ có họ mới là trung tâm và tiêu điểm của vũ hội, tất cả những khách nhảy đều vây quanh họ. Đôi bạn trẻ mới tới này rực rỡ chói lóa, nhảy hết điệu này tới điệu khác, chùm đèn sáng nhất hình như mãi mãi chỉ chiếu vào hai người họ.
            Đột nhiên, tiếng bước chân dồn dập phá vỡ mọi thứ ở đây, tiếng nhạc du dương đột ngột ngắt quãng, ánh đèn chói lóa lập tức tắt ngóm, phòng khách trở nên trống trải, tất cả những quan khách đều biến mất như một làn khói trong không trung, một không gian ảo giác tiêu tan.
            Vũ hội kết thúc.
            Mắt tôi vẫn chưa thích ứng với mọi thứ ở đây, phòng khách đã yên tĩnh trở lại, chỉ có ánh đèn vàng vọt soi rọi. Bên cạnh công tắc đèn trên tường, Tiểu Sảnh đang đứng đó với nét mặt đầy nghi hoặc.
            “Tiểu Sảnh, vừa xong cô có nhìn thấy không?”
            Cô ấy xem ra có chút mệt mỏi, lắc đầu nói: “Nhìn thấy gì? Tôi vừa vào từ cửa sau, thấy phòng khách tối om om nên tôi đã bật đèn lên”.
            Tôi kinh ngạc lắc đầu hỏi: “Cô không nhìn thấy? Thế cô có nghe thấy không?”
            “Anh đang nói cái gì thế? Vừa nãy ở đây tối om om, lặng ngắt như nghĩa địa, tôi chẳng nhìn thấy gì cả, cũng chẳng nghe thấy gì cả. Lúc tôi vừa mới bật đèn thì thấy anh đứng đờ đẫn ở đây như con gà gỗ, giống như đang mộng du vậy”.
            Lúc này, trong lòng tôi cũng rất tỉnh táo, ban nãy tuyệt đối không phải là nằm mơ, đích thực là tận mắt tôi nhìn thấy, tận tai tôi nghe thấy. Tôi chắc chắn mình đã nhìn thấy một vũ hội ở quán trọ Hoang thôn hơn năm mươi năm trước, hơn nữa còn có hoàng hậu trong vũ hội: Nhược Vân con dâu nhà Âu Dương.
            Tiểu Sảnh bước đến bên cạnh, hươ hươ tay trước mắt tôi nói: “Anh nhìn thấy ở đâu? Sao giống nhìn thấy ma vậy?”
            “Không, đó không phải là ma. Giống như chúng ta đang xem phim cũ ngày xưa vậy, chúng ta không nhìn thấy ma mà đấy chỉ là hình ảnh của diễn viên mà thôi”. Tôi bước tới chính giữa phòng, nơi mà ban nãy Nhược Vân khiêu vũ, lớn tiếng nói: “Tất cả những cảnh tượng xuất hiện trong phòng khách này, giống như những hình ảnh trên màn ảnh vậy, cô có hiểu không?”
            “Vậy thì máy chiếu phim đâu? Phim và phiên bản đâu?” Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh nắm lấy tay tôi, “Tôi không hiểu tất cả những gì anh nói, nhưng tôi biết anh cần phải nghỉ ngơi, ngôi nhà này khiến anh cảm thấy khủng hoảng nên đã khiến anh sinh ra ảo giác. Nghe lời tôi, chỉ cần anh nghỉ ngơi tốt là sẽ không có việc gì cả”.
            Điệu bộ cô ta vừa nói thật giống một bà mẹ, tôi chỉ có thể cười đau khổ. Sau đó, tôi bước tới bên chiếc máy phát nhạc, nó được tôi tìm thấy trong đống đồ linh tinh chất đống ngoài hành lang. Tôi tỉ mẩn nhìn chiếc máy phát nhạc, chiếc mày này đã là đồ cổ rồi, đúng ra hỏng từ lâu rồi sao lại có thể phát ra tiếng nhạc được chứ?
            Rút cuộc, tôi ngán ngẫm lắc đầu rồi theo Tiểu Sảnh lên lầu.
            Trong căn phòng trên lầu hai, Tiểu Sảnh rót cho tôi cốc nước, cô ấy dịu dàng hỏi tôi: “Mấy hôm nay có phải anh căng thẳng quá không?”
            “Có lẽ vậy”. Tôi run rẩy bưng cốc nước, tóc của cô ấy xõa cả vào mặt tôi,những sợi tóc mềm mượt tỏa ra hương thơm dịu mát chọc vào khiến tim tôi ngứa ngáy. Tôi bất giác ngẩng đầu lên, sững sờ nhìn vào mắt cô ấy, giống như một vật bằng ngọc thần bí.
            Cô ấy ý thực được mình quá gần gũi tôi nên lùi lại đằng sau nói: “Anh biết không? Trông điệu bộ của anh lúc này thật giống trẻ con”.
            “Thế nên cô mới chăm sóc tôi?”
            Câu hỏi bạo dạn của tôi khiến Tiểu Sảnh có chút bối rối, cô ấy không đồng ý cũng không phản đối cười nói: “Anh mệt rồi, nghỉ sớm đi”.
            Tôi gật gật đầu, đứng ở cửa chào cô ta một câu: “Ngủ ngon”.
            Có lẽ do bị “vũ hội” thần kỳ ban nãy kích thích, tôi thực sự cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tắm rửa trong nhà vệ sinh xong, tôi lên ngay tầng ba đi ngủ.

            Bước vào căn phòng trên tầng ba, lại là cái mùi Chi trinh đằng. Nhưng ngay cả đèn tôi cũng không bật, lao ngay xuống chiếu ngủ.
            Đêm nay, tôi thực sự chìm đắm vào bóng tối của quán trọ Hoang thôn.
            ***************

            Comment


            • #21
              21. Ngày thứ hai mươi mốt





              Buổi sáng, lúc tôi tỉnh lại, mặt trời đã soi thẳng vào trán. Tôi mơ màng bò dậy, chỉnh lại mái tóc rối bù, xuống dưới nhà tìm Tiểu Sảnh.
              Nhưng cô ấy không ở trong phòng, tôi ra hành lang gọi vang tìm cô ấy nhưng chẳng có bất cứ hồi âm nào. Quay đầu lại tôi mới phát hiện ra trên tủ có một tờ giấy, cô ấy nói cô ấy đi làm rồi, trong lò vi sóng có bữa sáng chuẩn bị cho tôi.
              Mở lò vi sóng ra, vẫn giống hệt như bữa điểm tâm hôm qua. Ăn sáng xong, tôi ngồi đọc sách trong phòng một lúc, bỗng nhiên điện thoại đổ chuông.
              Không ngờ đấy lại là điện thoại của Tôn Tử Sở, anh ấy nói đang đứng trước cửa nhà tôi, đến để trả những đồ ngọc nhưng tôi không có nhà. Tôi đành phải nói với anh ấy, mấy hôm nay tôi sống ở ngoài, địa chỉ là số 13 đường An Tức.
              Hai mươi phút sau, chuông cửa dưới nhà vang lên, quả nhiên là Tôn Tử Sở đứng ngoài cửa, xách trên tay chiếc cặp trả tôi. Tôi vội vàng chạy ra ngoài dẫn anh ấy lên phòng.
              Tôn Tử Sở cẩn trọng nhìn căn phòng, miệng không ngừng than vãn: “Cậu tìm chỗ giỏi quá đấy, kiểu nhà này chắc chắn là môi trường tốt nhất để viết truyện kinh dị nhỉ”.
              Tôi thực sự không có tâm trí nào mà đùa với anh ấy, dẫn anh ta lên phòng trên tầng hai. May mà tôi đã chuẩn bị sẵn, tất cả những thứ liên quan tới Tiểu Sảnh đều đã bị tôi giấu trong tủ rồi.
              Anh ấy lại đảo mắt một lượt khắp phòng, nói với giọng ngưỡng mộ: “Sau này tôi cũng được ở chỗ nào như thế này viết luận văn tốt quá”.
              Sau đó, Tôn Tử Sở mở chiếc cặp, vẫn là những bọc báo cũ cuộn lại, anh ấy còn thêm cả rất nhiều bọt xốp, cẩn thận rón rén lấy năm thứ ngọc khí ra nói: “Cậu cẩn thận xem lại, xem có vấn đề gì thì báo”.
              Năm vật bằng ngọc đến từ lòng đất Hoang thôn giờ đang chỉnh tề bày trước mặt tôi, tôi cầm chúng lên tỉ mỉ xem xét, không phát hiện bất cứ vết sứt mẻ hay rạn nứt nào. Tôi gật đầu: “Không vấn đề gì cả, cảm ơn. Vậy kế quả giám định thì thế nào?”
              “Tôi nói rồi, tôi sẽ mời chuyên gia giám định đồ ngọc giỏi nhất, kết quả giám định của họ về năm vật bằng ngọc này là… đồ siêu thật”.
              Tim tôi bỗng chốc rung động: “Chúng đúng thật là ngọc cổ Lương Chử?”
              “Không sai, họ xác nhận chúng đích thực là đồ ngọc Lương Chử năm nghìn năm trước, bất luận là chất liệu hay là hình dạng, hoa văn và kỹ nghệ điêu khắc ra sao đều phù hợp với đặc trưng của đồ ngọc Lương Chử đã được khai quật. Những thứ đều đã qua giám định của chuyên gia thì cậu cứ yên tâm đi”.
              “Có thể nói cụ thể hơn không?”
              “Được thôi, từ góc độ khoáng vật học nhìn nhận, ngọc có thể phân thành hai loại, ngọc cứng và ngọc mềm. Ngọc cứng chính là phỉ thúy thường nói, chủ yếu ở Miến Điện, còn ngọc mềm là một chuỗi cấu trúc của nước với can xi và magiê silicat, nó là một khoáng vật đặc biệt được tạo thành bởi khoáng vật tạo đá chủ đạo thuộc nhóm Amphibole, Tremolite và Actinolite”.
              Tôn Tử Sở nói một tràng toàn những thuật ngữ chuyên ngành, xem ra anh ấy đã học được rất nhiều từ những chuyên gia đồ ngọc. Tôi không muốn lãng phí thời gian, thẳng thừng nói: “Vậy thì văn minh Lương Chử dùng ngọc gì?”
              “Văn minh Lương Chử là cội nguồn của văn minh đồ ngọc Trung Quốc, đồ ngọc Trung Quốc truyền thống chủ yếu dùng ngọc mềm, nổi tiếng nhất là ngọc Hòa Điền của Tân Cương, ngọc Nam Dương và ngọc Lam Điền của Trung Nguyên. Số lượng đồ ngọc văn minh Lương Chử khai quật không nhiều, tạo hình đẹp tinh xảo hiếm thấy trên thế giới, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả khắp nơi trên thế giới, thậm chí có người còn đề ra quan điểm thời đại đồ ngọc”.
              “Tôi chỉ biết có thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt, lấy đâu ra thời đại đồ ngọc?”
              “Trong văn hóa cổ xưa của Trung Quốc thần bí, sau khi thời đại đồ đá kết thúc, trước khi mở ra văn hóa đồ đồng còn tồn tại một ‘thời đại đồ ngọc’, nhân loại trong thời đại đó cho rằng đồ ngọc có sức mạnh thần bí, ai thâu tóm được đồ ngọc thì người đó thâu tóm được văn minh. Còn về văn minh Lương Chử, do số lượng chất liệu ngọc được sử dụng quá lớn nên khẳng định là phải có rất nhiều mỏ ngọc dưới lòng đất để cung ứng”.
              “Mỏ ngọc?” Tôi đột nhiên nhớ tới kho báu dưới lòng đất.
              “Vấn đề nằm ở chỗ đó. Trong khai quật khảo cổ phạm vi văn hóa Lương Chử, từ trước tới nay chưa từng phát hiện ra di chỉ mỏ ngọc cổ đại. Cũng có người cho rằng chất liệu ngọc là từ Liêu Ninh hoặc Tân Cương chuyển tới, nhưng giao thông thời đó vô cùng bất tiện, khả năng vận chuyển một số lượng ngọc lớn như vậy từ nơi xa xôi nghìn dặm gần như bằng không”.
              “Nhưng ngọc không thể từ trên trời rơi xuống”.
              “Không sai, bởi vậy tôi cho rằng trong khu vực văn hóa Lương Chử hoặc là trong những dãy núi lân cận, nhất định tồn tại một mỏ ngọc cổ đại nào đó bị lãng quên. Văn minh cổ xưa có thể tiêu vong một cách thần bí, nhưng kho báu dưới lòng đất thì vĩnh viễn tồn tại”.
              Tôi liên tiếp gật đầu: “Hàng vạn sự bí hiểm cổ xưa của văn minh Lương Chử… chính là kho báu dưới lòng đất?”
              “Không, những bí ẩn mà văn minh Lương Chử để lại cho chúng ta vô cùng nhiều, bí ẩn về kho ngọc chỉ là một trong vô số những điều bí ẩn đó”.
              “Ý của anh là: bản thân văn hóa Lương Chử chính là một điều bí ẩn?”
              “Sự nổi lên của văn minh Lương Chử tương đối thần bí, khi nó vừa sản sinh ra, trình độ văn minh của những vùng lân cận vốn không cao, văn minh Tam Tinh Đôi nóng hổi gần đây muộn hơn nó một nghìn năm. Trước đây năm nghìn năm, tại Phương Đông, văn minh Lương Chử đã đạt đỉnh cao, đủ để sánh vai với văn minh Ai Cập cùng thời đại và văn minh Lưỡng Hà cổ đại”.
              “Cái này nhất định phải có nguyên nhân đặc biệt nào đó”.
              Tôn Tử Sở gật đầu: “Đúng vậy, trên ngọc cẩm thạch Lương Chử khai quật lên thường thấy xuất hiện một hình vẽ kỳ lạ được gọi là ‘tượng thần vi’, phần trên có khắc một mặt thần hình bậc thang, hai con mắt tròn, răng lộ ra ngoài, trên đầu đội vương miện cắm đầy lông, đôi tay tóm lấy đầu quái thú phía dưới. Trong văn minh Maya và Inca cổ đại cũng có hình vẽ vương miện lông vũ tương tự. Chúng đều giống với văn minh Lương Chử, lưu lại rất nhiều phong cách kỳ dị của đồ ngọc và di tích, nhanh chóng nổi lên và cũng nhanh chóng suy tàn”.
              “Anh cho rằng văn minh Lương Chử và văn minh Maya liên quan với nhau?”
              “Đây chỉ là quan điểm của cá nhân tôi”.
              “Vậy thì văn minh Lương Chử rút cuộc đến trình độ nào?”
              "Một nền văn minh có cả cung điện, lăng mộ vua chúa và kim tự tháp, cậu nói xem nó đến trình độ nào? Di chỉ Mạc Giác Sơn của Dư Hàng đủ để bất cứ ai cũng đều phải thốt lên kinh ngạc. Nó là trung tâm chính trị, kinh tế và tôn giáo của văn hóa Lương Chử, phát hiện ‘quảng trường cung điện’ có quy mô rộng lớn, nền kiến trúc hơn một vạn mét vuông được mệnh danh là Tử Cấm Thành của 5000 năm trước. Lại còn có cả số lượng lớn mồ mả cao cấp, trong những quan tài lớn có những đồ ngọc tinh xảo. Ai Cập bảo tồn hơn một trăm ngôi kim tự tháp, còn văn minh Lương Chử cũng có hơn một trăm ngôi cao đài được giới khảo cổ mệnh danh là kim tự tháp bằng đất”.
              Tôi hít một hơi thật sâu: “Dù đã đạt tới trình độ huy hoàng như vậy, sao lại đột nhiên suy vong chứ?”
              “Đây lại là một điều bí ẩn”. Tôn Tử Sở tỏ ý thở dài: “Cách giải thích nhiều nhất chính là hiểm họa tự nhiên: hơn bốn nghìn năm trước, bế mặt nước biển dâng cao trên toàn trái đất, đa số đất đai Giang Nam bị nhấn chìm, văn minh Lương Chử gặp phải ‘họa trong đỉnh diệt vong’. Nhưng vẫn còn một cách nói khac1l văn minh Lương Chử vô cùng si mê đồ ngọc, họ đem hết thời gian và tinh thần đổ vào việc khai thác và chế tác đồ ngọc. Ở bất cứ thời đại nào đồ ngọc đều vật xa xỉ, bởi vậy văn hóa Lương Chử rơi vào xu thế xa xỉ đó”.
              “Vong quốc xa xỉ?”
              “Không sai, nhưng bất luận là ‘họa trong đỉnh diệt vong’ hay là ‘vong quốc xa xỉ’ đều không có chứng cứ khẳng định. Có lẽ, văn minh Lương Chử thực sự giống với người Maya, vô hình và đi mất tích”.
              Cứ như vậy hai tiếng đồng hồ qua đi, Tôn Tử Sở giống như người dẫn chương trình của kênh Discovery, thao thao bất tuyệt tường thuật lại sự thần bí của cổ quốc Lương Chử.
              Nghe hết bài diễn văn của anh ấy, trong lòng tôi bất giác nảy sinh một cảm giác kỳ lạ, nền văn minh thần bí của vùng đất năm nghìn năm trước này rút cuộc có liên quan gì tới Hoang thôn đây? Nhưng tôi thực sự không hiểu nổi, Hoang thôn nằm ở vùng ven biển phía đông Chiết Giang, vốn không nằm ở trung tâm văn minh Lương Chử thuộc lưu vực Thái HỒ, hơn nữa văn minh Lương Chử cách ngày nay thực sự quá xa, những đồ ngọc phát hiện ở Hoang thôn có lẽ nào là văn vật khai quật được ở chỗ khác?
              Tôi chỉ biết lắc đầu, trong đầu rối tung thành một khối. Nhìn thấy năm vật bằng ngọc này, trong lòng lại như bị vật gì đó đâm chích. Tôn Tử Sở giúp tôi cất những vật này đi, anh ấy dặn dò tôi nhất định phải rất thận trọng, phải để ở một nơi an toàn, những vật này đều là báu vật cấp quốc gia.
              “Nhưng nơi quỷ quái này cũng chẳng có ai tới cả, phải chăng tôi cũng chỉ ở đây vài ngày thôi”.
              Buổi chiều, tôi cùng Tôn Tử Sở ra ngoài ăn cơm tối, hôm nay đương nhiên là tôi mời tồi. Trong quán cơm tôi chẳng nói gì mấy, có một số chuyện tôi không dám nói với anh ấy,do tính cách của anh ấy, cộng thêm thói quen nghề nghiệp nhất định sẽ dò hỏi đến tận cùng. Như vậy sẽ lại thêm một người lằng nhằng với việc này, như thế thà để một mình mình làm còn hơn.
              Tôn Tử Sở uống rất nhiều rượu, còn tôi không dính đến một giọt. Trong bữa ăn anh ấy đã ngà ngà say, nói năng lung tung, cuối cùng tôi dìu anh ấy ra khỏi quán cơm, nhét anh ấy vào trong tắc xi đưa về nhà.
              Sau khi trở lại quán trọ Hoang thôn, tôi lập tức lên tầng hai, xách chiếc cặp đựng đồ ngọc cất trong căn phòng cuối cùng trên tầng ba. Ở đó vừa vặn đặt một chiếc thang thông lên gác xép trên trần nhà. Tôi cẩn thận rón rén leo lên cầu thang, cất chiếc cặp trong góc gác xwp1, như thế này chắc là an toàn rồi.
              Đêm xuống, tôi ăn bữa tối từ sớm, giờ thì không dám tắt đèn nữa rồi. Theo như kinh nghiệm hai hôm trước, chỉ cần là trong bóng tối mắt tôi sẽ nhìn thấy những cảnh tượng kỳ lạ, người phụ nữ Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước, những người đã từng sống trong ngôi nhà này. Sau đó, chỉ cần bật đèn, họ sẽ lập tức biến mất trước mắt tôi.
              Đi khắp một lượt từ trên gác xuống dưới nhà trong quán trọ Hoang thôn, chỉ cần bóng điện không bóng, đèn trong tất cả các phòng đều được tôi bật lên. Tuy ánh sáng phát ra từ những chiếc đèn cũ này chẳng khác gì ánh nến mù mịt, nhưng tôi nghĩ, nếu từ bên ngoài nhìn vào quán trọ Hoang thôn nhất định sẽ có cảm giác rất kỳ lạ, dường như mỗi ô cửa sổ đều lộ ra vài tia ánh sáng u ám, cả ngôi nhà giống như đang trở về những năm 30, hệt như tên của một bộ phim tình cảm: “Thời gian quay trở lại năm 70”.
              Nhưng nếu như những công nhân tháo dỡ bên ngoài bỗng nhiên nhìn thấy ngôi nhà cổ đóng cửa để không bao năm nay bỗng nhiên sáng lên rất nhiều ánh đèn, chắc là sẽ sợ chết khiếp cũng nên? Có lẽ người ta sẽ cho rằng ma quỷ mấy chục năm trước đều chạy hết cả ra để mở một dạ hội ma chỉ có ở quán trọ Hoang thôn.
              Đáng tiếc, hôm nay không phải là ngày lễ Halloween.
              Nghĩ tới đây, tôi bất giác bật cười, bản thân tôi cũng cảm thấy kỳ quái, đã tới nước này mà vẫn còn cười được.
              10 giờ tối, Tiểu Sảnh trở về, mái tóc đen nhánh phản chiếu ánh sáng lấp lánh, xem ra cô ấy đã tắm gội ở ngoài rồi. Mắt của phụ nữ vốn luôn nhạy bén, cô ấy lập tức phát hiện thấy gì đó trên mặt tôi: “Hôm nay xảy ra chuyện gì thế?”
              “Chẳng chuyện gì cả. Hôm nay tôi nằm cả ngày trên tầng ba”.
              Nhưng cô ấy mở tủ ra xem rồi nói: “Sao ai lại giấu hết đồ của tôi vào đây? Có phải hôm nay có người kên phòng không?”
              Ái chà, lại bị cô ta phát hiện rồi, tôi bối rối cười vu vơ, đành phải thật thà kể lại cho cô ấy nghe chuyện Tôn Tử Sở tới đây. Nhân tiện đó tôi giới thiệu qua cho cô ấy về văn minh Lương Chử thần bí của năm nghìn năm trước.
              Sau khi nghe xong tất cả những gì tôi kể, Tiểu Sảnh lạnh lùng nói: “Ý anh là những đồ ngọc thần bí đó có liên quan tới văn minh Lương Chử và Hoang thôn?”
              “Đúng, hoặc đây chính là cánh cửa mở ra đường vào bí mật Hoang thôn?”
              Ánh mắt sắc bén của Tiểu Sảnh nhìn thẳng vào tay trái của tôi: “Thế thứ trên tay anh thì sao? Nó cũng là đồ ngọc thần bí năm nghìn năm?”
              Tim tôi lại “thình thịch”, nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay,nó giống như một ký sinh trùng “mọc” trên ngón tay tôi, dường như đã hòa cùng với tôi làm một. Tôi lấy tay phải che chiếc nhẫn ngọc lại, rầu rĩ nói: “Tôi thì đã làm sao? Giống một thằng ngốc co rúm lại, nhìn bốn người lần lượt chết mà không làm gì được, bây giờ trên tay lại bị đeo lên cái thứ như bị phép thuật nguyền rủa này, mắt thì chỉ nhìn thấy toàn mặt ma mặt quỷ. Tôi rút cục sao đây?”
              “Đây không phải là lỗi của anh”. Tiểu Sảnh bỗng nhiên lại gần tôi, cô ấy đổi giọng hết sức nhẹ nhàng, “Đừng lo lắng, có tôi bên cạnh anh, anh sẽ không có chuyện gì đâu”.
              Cuối cùng tôi đã không kìm chế nổi bản thân, đem tất cả những bực bội của mấy ngày hôm nay phát tiết ra hết: “Có cô bên cạnh tôi? Cô nghĩ cô là ai? Nhiếp Tiểu Sảnh trong Liêu trai hay là thầy mo Lương Chử của năm nghìn năm trước?”
              Cô ấy im lặng nghe tôi nói hết, biểu hiện vô cùng bình tĩnh, không nói lấy một câu và cứ nhìn vào mắt tôi như thế.
              Lúc này tôi mới ý thước được sự thất lễ của mình nên cúi đầu xin lỗi: “Xin lỗi, tôi không nên cáu giận với cô, cô biết rồi đấy, từ trước tới nay tôi có bao giờ tức giận đâu, nhưng tình cảnh hiện nay khiến tôi quá tuyệt võng rồi”.
              Tiểu Sảnh vẫn nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nhẹ nhàng nói: “Không sao cả”.
              “Thật không sao chứ? Vừa nãy không phải tôi làm cô sợ sao?”
              “Không, anh không bao giờ có thể làm tôi sợ được”.
              Đột nhiên, cô ấy lấy tay vuốt nhẹ lên má tôi, mỉm cười nói: “Nghỉ sớm đi nhé, ngủ rồi sẽ không hoảng sợ nữa”.
              Tôi gật gật đầu, nhưng bước đến cửa lại quay đầu lại nói: ”Nhưng ngủ vẫn mơ thấy ác mộng thì sao?”
              Tiểu Sảnh vẫn mỉm cười nói: “Ngủ ngon”.
              Tắm gội trong phòng vệ sinh xong, tôi liền về lại căn phòng trên tầng ba. Đêm nay tất cả bóng đèn đều sáng trưng, thực ra tôi vốn rất không quen ngủ trong phòng bật đèn, nhưng cũng đành phải cắn răng, nhắm mắt ngủ trên chiếu.
              Ánh đèn mờ ảo cứ chọc vào mí mắt tôi, tôi quay ngang quay dọc mãi mới thiếp đi được… Không biết mấy tiếng sau, bỗng nhiên có âm thanh đập vào màng nhĩ khiến tôi từ từ tỉnh dậy.
              Tim tôi lại nhảy nhót, âm thanh đó có một giai điệu đặc biệt, thôi thúc tôi mở to mắt. Ánh đèn trên tầng ba vẫn sáng, âm thanh đó hình như vọng lên từ tầng trệt. Tôi hấp ta hấp tấp chạy ra ngoài, rút cuộc cũng nghe ra là tiếng đàn dương cầm.
              Trong quán trọ Hoang thôn sao lại có tiếng đàn dương cầm? Tôi dỏng tai nghe một lúc, cảm giác giai điệu này hơi quen thuộc. Đúng, là bản dương cầm “Cho tới tận mãi mãi” của Franz Liszt, đây cũng là bản nhạc mà tôi vô cùng thích.
              Lần theo giai điệu của nhà soạn nhạc Hungary, tôi lập cà lập cập bước xuống cầu thang xoắn ốc. Phòng khách tầng trệt tối om, kỳ lạ thật, tôi nhớ đèn ở đây sáng cơ mà. Nhưng tiếng dương cầm như suối chảy và quyến rũ như thiếu nữ vô cùng hấp dẫn khiến tôi phút chốc quên đi sự khủng hoảng.
              Lúc này, trong bóng tói của quán trọ Hoang thôn, tiếng dương cầm vang lên giai điệu của Liszt, tôi cảm giác mình đang ở giữa thế kỷ mười chín, trong rừng rậm tối đen của Hungary, lắng nghe tiếng đàn dương cầm cùng giọng ca của thiếu nữ trong tòa lâu đài. Tôi không thể hình dung bằng lời nhiều hơn nữa.
              Tiếng dương cầm kỳ diệu đó, cộng thêm cả giai điệu của Liszt, giống như một đôi tình nhân trời sinh đang ở bên nhau, thì thầm to nhỏ, tình cảm dịu dàng như nước, thật giống với tên giai điệu “Cho tới tận mãi mãi” này.
              Tiếng dương cầm tuôn chảy trong ngôi nhà cổ, dẫn dắt tôi phát hiện ra tia ánh sáng, đó là căn phòng cạnh phòng khách, tiếng dương cầm từ đó bay ra. Đó là căn phòng mà gia tộc Âu Dương đã chụp ảnh cả gia đình, sát cạnh tường có chiếc đàn dương cầm nổi tiếng và quý hiếm, nhưng phía trong nó đã hỏng từ lâu rồi mà, không thể phát ra âm thanh như thế.
              Tôi lặng lẽ bước tới cửa phòng, một vùng ánh sáng êm dịu kỳ lạ khiến mắt tôi lóe sáng, tôi nhìn thấy rồi.
              Trong căn phòng rộng rãi này, chiếc đàn dương cầm mới tinh rực rỡ đang mở nắp, mười ngón tay như những búp ngà đang nhảy múa trên những phím đàn, tiếng nhạc tuôn chảy theo từng ngón tay của cô ta vang vọng khắp quán trọ Hoang thôn.
              Ánh mắt tôi đưa theo đôi bàn tay trắng nõn đó, từ từ di chuyển lên cánh tay và cổ cô ta, không biết ánh sáng âm u từ đâu tới như nước tỏa hắt lên làn da, phản chiếu thành những đốm sáng, bắn thẳng vào con ngươi của tôi.
              Không sai, vẫn là cô ấy… Nhược Vân.
              Tôi giống như đang nằm mơ, nhìn người phụ nữ xinh đẹp của hơn năm mươi năm trước. Cô ta mặc một chiếc vảy dài, chân váy trắng phủ kín đôi chân, tóc đen nhánh xõa sau lưng. Cô ta tập trung hết tâm trí vào những phím đàn, đôi mắt giống như khép hờ, mười đầu ngón tay chỉ cần chạm nhẹ vào phím đàn là đã vang lên nốt nhạc, cô ta ngây ngất đắm say như vậy, dường như đang lĩnh hội linh hồn của giai điệu này, một tình yêu đau buồn vĩnh hằng.
              Đúng lúc tôi gần như không thể kìm chế được nữa, tiếng dương cầm đột ngột ngắt quãng, đôi tay của Nhược Vân khựng lại trên không trung, những ngón tay run run. Sau đó, cô ấy từ từ quay đầu lại, ánh mắt nhìn thẳng về phía sau lưng.
              Lúc này tôi mới phát hiện ra còn có một người đang đứng trong phòng, một thanh niên trẻ tuổi phong độ, mặc trang phục màu đen, đứng thẳng cạnh cửa sổ, ánh sáng soi rọi lên khuôn mặt anh ta trắng bệch ra.
              Anh ta chính là chồng của Nhược Vân, người kế thừa của gia đình Âu Dương.
              Trong phòng lặng ngắt như tờ, ánh sáng đung đưa trên gương mặt người đàn ông, anh ta từ từ đến bên cạnh Nhược Vân, đặt tay lên vai cô ấy…
              Tim tôi bất giác treo ngược lên, không biết mình nên làm gì? Lúc này tôi mới cảm thấy ngón tay mình đau âm ỉ, hóa ra sự đau đớn này duy trì từ lâu rồi, tôi run rẩy nhìn tay trái, ánh sáng êm dịu chiếu lên chiếc nhẫn ngọc, vệt đỏ đun dường như càng lúc càng rực rỡ.
              “Không!”
              Tôi hét lên trong sự khủng hoảng lên tới đỉnh điểm, vùng ánh sáng trắng tức khắc biến mất, căn phòng lại chìm vào bóng tối, không còn nhìn thấy những gì trước mắt, tôi hoảng loạn tìm công tắc đèn trên tường, nhưng mãi mà vẫn chưa sờ thấy đâu.
              Đột nhiên, một bàn tay đặt trên vai, tôi run rẩy quay đầu lại, liền ngửi thấy ngay một mùi hương dịu mát, vài sợi tóc chọc vào mặt tôi.
              Đèn trong phòng sáng lên, một khuôn mặt quen thuộc hiện ra trước mắt tôi, hóa ra là Tiểu Sảnh. Cô ấy đang tròn xoe mắt đứng trước mặt tôi, chỉ cách tôi có vài cen ti mét, tôi thậm chí còn có thể cảm nhận hơi thở của cô ấy phả lên mặt mình.
              Chúng tôi cứ như vậy bốn mắt nhìn nhau, mấy giây sau Tiểu Sảnh liền lùi lại mấy bước, hai mà đỏ ửng nói: “Sao anh lại ở đây?”
              “Tôi cũng đang muốn hỏi cô như thế đấy”.
              Tiểu Sảnh mặc một bộ quần áo ngủ mỏng tang, hai tay cô ấy ôm lấy bờ vai nói: “Ban nãy tôi nằm mơ”.
              “Ác mộng?” tôi liên tục lắc đầu, “ác mộng” đã trở thành từ xuất hiện với tần suất nhiều nhất trong câu chuyện này.
              “Không phải ác mộng”. Cô ấy thấp thỏm bất an bước tới trước cây đàn dương cầm nói: “Tôi mơ thấy tiếng đàn dương cầm, bản dương cầm đó rất tuyệt, hình như là…”
              “Giai điệu ‘Cho tới tận mãi mãi’ của nhà đại soạn nhạc dương cầm Hungary – Liszt”.
              Tiểu Sảnh cúi đầu nói: “Khúc dương cầm trong cơ đó khiến tôi nảy sinh một cảm giác kỳ lạ. Vậy là tôi bước ra khỏi phòng, lúc tới cửa cầu thang thì bỗng nghe thấy tiếng hét của anh, tôi lập tức đi tới đây thì nhìn thấy một bóng đen đứng ngoài cửa”.
              “Sau đó cô đã bật đèn?”
              Vừa nói tôi cũng vừa bước tới cạnh chiếc đàn dương cầm, nhìn chiếc đàn rách nát thảm hại, thật không thể tưởng tượng nổi nó lại có thể cất lên những âm thanh tuyệt vời như vậy. Tôi mở nắp đàn lên, thò tay ấn lên những phím đàn, vẫn chẳng có âm thanh nào phát ra.
              Vậy thì tiếng đàn ban nãy tôi nghe thấy phát ra kiểu gì đây? Lẽ nào đấy cũng là tiếng đàn dương cầm của hơn năm mươi năm trước? Nhưng tại sao tiếng đàn này lại bay vào cả trong giấc mơ của Tiểu Sảnh?”
              Tiểu Sảnh lấy tay chọc chọc tôi nói: “Anh đang thẫn thờ gì đó?”
              Tôi cười đau khổ: “Tôi đang nghĩ tới những gì ban nãy nghe thấy và cả nhìn thấy nữa”.
              “Anh rút cuộc nghe thấy gì? Nhìn thấy gì? Thôi được rồi, tôi bây giờ đã tin lời anh nói”.
              Nhìn đôi mắt cuốn hút của cô ấy, tôi bất giác gật gật đầu, kể lại hết tất cả những cảnh tượng ly kỳ vừa nhìn thấy ban nãy cho Tiểu Sảnh nghe.
              Nhưng sau khi nghe xong, cô ấy vẫn bán tín bán nghi hỏi: “Anh thực sự nhìn thấy người của hơn năm mươi năm trước?”
              “Đúng vậy, tôi đã nhìn thấy Nhược Vân”. Tôi thì thào thốt ra cái tên đó, đồng thời ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, giống như đang nói cho một u hồn nào đó nghe, sau đó nói như đọc thơ: “Tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thấy, tuyệt phi mộng cảnh”.
              Tôi đảo mắt khắp phòng một lượt, lắc lắc đầu nói: “Nửa đêm không nên đứng ở đây, chúng ta lên lầu đi”.
              Tiểu Sảnh hình như đã tin lời tôi nói, cô ấy vội vàng chạy ra khỏi phòng.
              Trở lại tầng hai, tôi cảm thấy toàn thân vô cùng mệt mỏi, khẽ nói với Tiểu Sảnh: “Ngủ ngon nhé”.
              Sau đó tôi chạy lên tầng ba, ngả người ra chiếu. Lúc này tôi mới phát hiện ngón tay mình không còn đau nữa, chiếc nhẫn ngọc cũng không còn cảm giác dị thương, nhìn vào vệt đỏ đun, tôi bỗng nhiên cảm thấy điều gì đó…
              Lẽ nào là do chiếc nhẫn ngọc này? Không, tôi vội vàng nhắm mắt lại.
              Bên ngoài cửa sổ, đêm dài đang chầm chậm trôi….
              ***************

              Comment


              • #22
                22. Ngày thứ hai mươi hai





                Sớm tinh mơ, gió lạnh thổi vào từ cửa sổ tầng ba, mùi Chi trinh đằng cũng bớt nồng. Tôi nằm trên chiếc chiếu cói lạnh cóng, từ từ mở mắt, một bóng trắng lay động trên đầu tôi, suối tóc đen đổ xuống tấm áo trắng, tôi biết chính là cô ấy.

                Mắt tôi từ từ nhìn rõ, Tiểu Sảnh mặc một chiếc váy ngủ màu trắng, tóc xõa trước ngực, cúi đầu nhìn tôi. Ánh mắt cô ấy thật kỳ lạ, tôi giống như bị điện giật lăn qua khắp người khiến toàn thân khó chịu làm sao. Tôi nhìn ra cửa sổ, ánh nắng vẫn chưa chiếu vào phòng, chắc mới chỉ tầm 6 giờ sáng. Tôi mơ mơ màng màng bò dậy hỏi: “Sao lại đến đây? Bây giờ vẫn còn sớm mà”.

                Sắc mặt Tiểu Sảnh trắng bệch, trên trán vẫn còn lấm tấm mồ hôi, vài sợi tóc dính trên khuôn mặt. Lại là dáng vẻ đáng thương, cô ấy rầu rĩ đáp: “Vừa nãy, tôi nằm mơ thấy ác mộng”.

                “Lại là ác mộng?” Giọng cô ấy nặng nề khiến tôi hoảng sợ, từ trước tới nay chưa từng nghe thấy giọng cô ấy khàn đặc thế này, nhớ lại cảnh tượng đêm qua, tôi lắc đầu hỏi: “Cô mơ thấy tiếng đàn dương cầm à?”
                “Không, tôi mơ thấy một đôi nam nữ”.
                “Đôi nam nữ nào? Ý cô là Nhược Vân và chồng cô ta?”
                “Đúng vậy, cuối cùng tôi đã biết rồi…”
                Nhưng cô ấy đột nhiên dừng lại, quay đầu sang bên cạnh, tôi vội vàng hỏi: “Biết gì?”

                Tiểu Sảnh vẫn quay lưng lại phía tôi, giọng run rẩy: “Người đàn ông đó chính là con trai của vợ thế”.
                “Con trai của vợ thế?”
                Phút chốc, trước mắt tôi lại hiện lên sân sau của Tiến Sỹ Đệ, miệng giếng cổ cô độc cạnh cây hoa mai, nơi thẳm sâu, u tối đã mai táng thể xác và linh hồn của vợ thế.
                Tôi tới bên cửa sổ hít một hơi thật sâu, gật đầu nói: “Không sai, nếu như câu chuyện về vợ thế là thật, thì người con trai mà bà ta sinh cho nhà Âu Dương đến năm 1948 cũng đã trưởng thành rồi, đã đến tuổi lấy vợ sinh con. Tính taon1 về mặt thời gian thì hoàn toàn phù hợp, hơn nữa lão gia Âu Dương cũng chỉ có mỗi người con trai này, đương nhiên là con của vợ thế sinh ra”.
                Tiểu Sảnh bước tới cạnh tôi, tựa lưng vào bức tường mọc đầy Chi trinh đằng, không nói thêm một câu nào. Tôi nhìn vào mắt cô ấy truy hỏi: “Sao cô lại biết? Trong mơ có người nói với cô sao?”
                “Không, anh đừng hỏi nữa”. Cô ấy cúi đầu, không muốn trả lời câu hỏi của tôi.
                “Được thôi, tôi không hỏi nữa”.
                Tôi thở dài rồi đi ra khỏi phòng. Tiểu Sảnh bám theo sau hỏi: “Anh đi đâu?”
                “Đ đánh răng rửa mặt. Sáng sớm ngày ra cô đã đánh thức tôi dậy, tôi làm sao mà ngủ tiếp được?”
                Sau khi xuống nhà đánh răng rửa mặt xong, Tiểu Sảnh kéo tôi vào căn phòng ở tầng hai. Hóa ra, tối qua cô ấy mang rất nhiều thứ về, bây giờ trở thành bữa sáng để cùng tôi thưởng thức.
                Ăn xong bữa điểm tâm thịnh soạn này, tinh thần cô ấy xem ra khá hơn rất nhiều, rút cuộc cũng đã hé cười. Cô ấy kéo tôi ngồi xuống nói: “Anh biết không, ban nãy lúc anh bước ra khỏi phòng, trong lòng tôi vô cùng sợ hãi”.
                “Sợ cái gì?”
                Tiểu Sảnh đắn đo hồi lâu, rút cuộc rầu rĩ nói: “Tôi sợ anh đột nhiên bỏ đi, để lại tôi ở đây một mình”.
                “Cô nghĩ linh tinh gì thế?”
                “Không, xin anh hãy hứa với tôi, đừng để tôi một mình ở trong ngôi nhà này, bởi vì bây giờ tôi không còn chỗ nào để đi cả, được không?”
                “Không chỗ nào để đi? Nghe cứ như là tội phạm bị truy nã”. Tôi sững sờ nhìn vào mắt cô ấy, đôi mắt chỉ có trong truyện Liêu trai đó hình như đang đọng lại những tình thế lòng ươn ướt khiến tim tôi rúm ró, “Hôm nay cô sao thế? Từ trước tới nay tôi chưa từng thấy cô thế này?”
                Nhưng cô ấy vẫn cố chấp truy hỏi: “Hứa với tôi đi, nhanh hứa với tôi đi”.
                “Được, tôi hứa với cô, không để cô một mình ở đây? Trừ phi…”
                Thấy tôi dừng lại, cô ấy lại có chút lo lắng: “Trừ phigi2?”
                “Trừ phi… ngôi nhà này không còn tồn tại nữa”.
                Nhưng Tiểu Sảnh lắc đầu, lạnh lùng nói: “Không, trừ phi tôi chết”.
                “Đừng nói thế…”
                Nhưng tôi cũng không nói tiếp được nữa, chỉ biết lặng lẽ nhìn cô ấy. Còn cô ấy cũng giữ sự im lặng, hình như đang nói chuyện với tôi bằng ánh mắt.
                Sau khoảng mấy chục giây miễn cưỡng, tôi rút cuộc lên tiếng: “Tiểu Sảnh, chúng ta nói chuyện khác đi”.
                “Được thôi, nói gì?”
                “Tại sao cô nhất định phải ở đây? Có phải vì tôi không?” Rút cuộc tôi cũng cả gan thốt ra những gì cất giấu trong lòng bấy lâu nay.
                Tai Tiểu Sảnh đỏ lựng lên, cô ấy quay đầu đi nói nhỏ: “Anh đang nói gì thế? Tôi nghe không hiểu”.
                “Tại sao cứ phải đi theo tôi làm gì? Tôi tới đâu, cô cũng tới đó, tôi làm gì cô cũng giúp tôi làm đó, cô giống như cái bóng của tôi vậy…”
                Nói tới đây, tôi cũng có chút bối rối nên dừng lại.
                “Anh ghét tôi rồi?”
                “Không, tuyệt đối không phải ý đấy. Tuy nhiên, hồi đầu tôi thấy cô quấy rối tôi, nhưng kể từ sau lần đầu tiên gặp cô, cảm giác đó hoàn toàn thay đổi rồi. Mấy ngày gần đây, trong tiềm thức của tôi luôn mong cô xuất hiện trước mặt tôi, giống như lúc này, rất gần, rất gần tôi…”
                Rút cuộc Tiểu Sảnh cũng mỉm cười, ánh mắt lóe lên điều gì đó khiến tim tôi lại loạn nhịp, cô ấy buồn bã nói: “Nhưng tôi là Nhiếp Tiểu Sảnh, anh không sợ sao?”
                “Không, tôi thấy Nhiếp Tiểu Sảnh rất đáng yêu, vô cùng đáng yêu”. Không biết dũng khí từ đâu ra, tôi đột nhiên nói rất to: “Tôi tình nguyện mình Ninh Thái Thần, tôi thấy anh ta là người đàn ông hạnh phúc nhất trên thế gian này”.
                Môi cô ấy hơi cong lên: “Vậy thì Nhiếp Tiểu Sảnh cũng là người đàn bà hạnh phúc nhất thế gian này”.
                Lúc này, tôi không biết nên nói gì tiếp, chỉ ngây ra nhìn cô ấy, nhìn đôi mắt mê hồn chỉ có trong Liêu trai. Tôi nhẹ nhàng đưa tay ra, vuốt mái tóc cô ấy, mái tóc mềm mượt dưới nắng mai tỏa ra ánh sáng phản quang như suối núi, tay tôi lướt qua làn nước đó, thật mát mẻ và trong vắt. Tôi bất giác hít một hơi thật sâu nói: “Cảm ơn em, Tiểu Sảnh. Anh rút cuộc đã cảm nhận được hạnh phúc của người đàn ông nhân vật chính trong truyện Liêu trai”.
                Cô ấy bỗng lặng lẽ không nói một lời, mí mắt đồ xuống dưới, một mùi hương dịu mát âm thầm thấm vào gan ruột tôi. Nhưng không ngờ bỗng nhiên cô ấy đứng phắt dậy, cúi đầu nói: “Tôi chút nữa quên mất, hôm nay phải đến cửa hàng kem sớm”.
                Phút chốc, tôi bỗng tỉnh táo trở lại, lặng lẽ ra khỏi phòng. Xuống dưới phòng khách ở tầng trệt, tôi giơ tay trái của mình lên ngắm chiếc nhẫn ngọc trên ngón trỏ, cảm giác trong lòng thật khó nói thành lời.
                Một lúc sau, Tiểu Sảnh thay quần áo đi xuống dưới nhà, trước khi ra khỏi cửa còn có ý quan tâm dặn tôi buổi chiều đừng ra ngoài.
                Sau khi Tiểu Sảnh đi, tôi một mình đi đi lại lại trong phòng khách, bất giác đi sang phòng bên cạnh. Ánh nắng đã chiếu rọi lên chiếc đàn dương cầm cũ kỹ, tôi nhẹ nhàng mở nắp đàn lên, lấy tay chạm vào những phím đàn đen trắng, đây là những phím đàn mà hơn năm mươi năm trước Nhược Vân đã từng đánh, những ngón tay của cô ấy thoăn thoắt nhẹ nhàng nhấn lên đây, trong cơ thể chiếc đàn cộng hưởng giai điệu của Liszt, nhẹ nhàng lan tỏa khắp quán trọ Hoang thôn.
                Nhưng, lúc này tôi không nhìn thấy cô ấy. Tôi lắc lắc đầu, bước nhanh rời khỏi căn phòng này.
                Cả ngày, tôi nghe theo lời dặn dò của Tiểu Sảnh, ngồi trong phòng đọc sách, bữa trưa cũng giải quyết trong phòng. Tôi giống như lão nông ôm cây đợi thỏ, trốn trong ngôi nhà cổ chờ đợi điều bí mật hay kỳ tích nào đó xuất hiện.
                Điều làm tôi bất ngờ chính là hôm nay Tiểu Sảnh về sớm hơn. Hoàng hôn mới lấp ló ngoài cửa sổ, cô ấy đã xách một túi đồ to bước vào phòng, tất cả đều là thức ăn dành cho bữa tối mà cô ấy mua ở siêu thị, còn có cả vài cân gạo.
                Tiểu Sảnh tận tay vo gạo, lấy nồi cơm điện thổi cơm, làm nóng lại đồ ăn sẵn bằng lò vi sóng. Kể từ ngày bước chân vào ngôi nhà này tới nay, tôi chưa từng được ăn một bữa tối đúng nghĩa.
                Ăn cơm Tiểu Sảnh nấu cho mình, trong lòng đương nhiên phải khác rồi, đến cả mùi vị của hạt cơm cũng đặc biệt hơn hẳn. Tuy không phải là thức ăn được xào nấu bằng dầu mỡ, nhưng ở nơi quái quỷ như trong quán trọ Hoang thôn này, được ăn nhiều thức ăn thế này cũng là quá đủ rồi. Chẳng bao lâu sau, tôi đã ăn hết vèo hai bát cơm, hầu hết thức ăn cũng chui vào bụng tôi hết.
                Còn Tiểu Sảnh hầu như không đụng đũa. Tuy con gái bây giờ đa số đều chú ý ăn uống để giữ gìn vóc dáng, nhưng vóc dáng của Tiểu Sảnh vốn dĩ đã rất đẹp rồi, đâu cần phải tự làm khổ mình như vậy. Tôi thử thăm dò nói ra nghi ngờ của mình, nhưng cô ấy mỉm cười nói: “Anh không đọc Liêu trai sao? Nhiếp Tiểu Sảnh vốn khác với người thường mà”.
                “Khác với người thường? Thế thì không phải là thần tiên thì cũng là yêu quái”.
                Cô ấy nhẹ nhàng đáp: “Thế thì anh cứ coi em là nữ yêu quái đi”. Rút cuộc cô ấy thân mật với tôi hơn.
                “Đúng thế, Nhiếp Tiểu Sảnh vốn dĩ không phải là người mà”. Tôi đáp trả cô ấy kèm lời trêu chọc. Nhưng phong thái tỏa ra từ khắp cơ thể cô ấy, thực sự có mui và khác với người thường, bất cứ ai nhìn thấy cũng đều sẽ tưởng tượng xa xôi.
                Bỗng nhiên, tiếng sấm nặng nề vang lên trong không trung khiến Tiểu Sảnh sợ hãi co rúm lại, tim tôi suýt chút nữa cũng nhảy khỏi lồng ngực. Tôi lập tức chạy ra cửa sổ nhìn, dường như vô số mây đen đang cuồn cuộn trong không trung tối đen, tiếng sấm đang lăn chuyển hành nghìn bước chân trên trời cao, chớp mắt cái là mưa to tới nơi. Gió mang theo hơi nước ẩm ướt ngập tràn căn phòng, bên tai chỉ nghe thấy tiếng mưa rào rào, những dây chi trinh đằng trước cửa sổ chẳng mấy chốc bị mưa tưới ướt.
                Tôi quay đầu lại nhìn Tiểu Sảnh, hình như cô ấy rất sợ sấm sét, nhắm nghiền mắt lại. Tôi vội vàng đóng cửa sổ, ngồi cạnh cô ấy hỏi: “Cả người em run bắn lên, sao thế?”
                “Từ nhỏ em đã rất sợ sấm sét”.
                “Trong truyện Liêu trai, chỉ có hồ ly xinh đẹp mới sợ sấm sét”. Không hiểu tại sao, tôi bỗng nhớ tới Liêu trai, nhưng tôi an ủi ngay: “Đừng sợ, có anh ở bên em rồi, em sẽ không sợ gì nữa”.
                Đang lúc tôi nhìn vào mắt cô ấy, thấy tâm trạng cô ấy đang bình tĩnh trở lại thì đèn đột nhiên tắt ngóm, cả căn phòng chìm trong bóng tối.
                Trong bóng tối của căn phòng, tôi không nhìn thấy khuôn mặt của Tiểu Sảnh, chỉ cảm nhận thấy cơ thể cô ấy đang run rẩy, miệng cô ấy lập cập lẩm bẩm gì đó nhưng một từ tôi cũng không tài nào nghe rõ. Giây phút này căn phòng giống như một ngôi mộ, chỉ có sấm sét bên ngoài cửa sổ vẫn đang tiếp tục tung hoành.
                Tôi vội vàng chạy ra khỏi phòng, nhưng đèn ngoài hành lang cũng không bật được, cả quán trọ Hoang thôn chìm trong bóng tối. Tôi lập tức quay lại với Tiểu Sảnh, cô ấy nắm lấy tay tôi hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế?”
                “Tất cả đèn đều không bật được, chắc là mất điện rồi”.
                “Sao lại mất điện được chứ?”
                "Quán trọ Hoang thôn mấy hôm nữa là đập đi rồi, chắc chắn là những công nhân tháo dỡ đã cắt điện của chúng ta”. Tôi chán nản lắc đầu nói: “Chắc họ không biết chúng ta ở đây. Nhưng mà biết cũng chẳng để làm gì, phải chăng chúng ta cũng không phải là cư dân ở đây”.
                Nói xong, tôi dò dẫm trong bóng tối mở tủ, mò mãi trong chiếc túi mình mang tới cũng ra được vài cây nến trắng. Khó khăn lắm mới thắp sáng được nến, ánh nến âm u chập chờn nhảy nhót, tờ mờ soi sáng mặt tôi và Tiểu Sảnh.
                Dưới ánh nến trắng không ngừng lắc lư, khuôn mặt Tiểu Sảnh càng trở nên trắng bệch, cô ấy thấp thỏm nhìn ra ngoài cửa sổ, nước mưa đang dày đặc đập vào cửa kính, phát ra âm thanh giống như tiếng thủy triều bên bờ biển. Tôi nhìn chăm chú căn phòng dưới ánh nến, lắng nghe tiếng gió mưa bên ngoài, bỗng nhiên có cảm giác như trở lại Hoang thôn. Đúng vậy, trên căn gác nhỏ của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, tôi cũng đã sống trong khủng hoảng như thế này mấy đêm trời dưới ánh đèn dầu.
                Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh lí nhí nói: “Nhìn ánh nến này cảm giác dường như đang trờ về thời cổ đại”.
                “Đúng thế, chắc là cổ nhân cũng tay trái châm nến, tay phải dắt người đẹp qua đêm tối thế này”. Tôi không kìm chế được pha trò, nhưng trông cô ấy chẳng mấy phản ứng lại nên liền liên tưởng xa xôi, “Trong Liêu trai chí dị thường có thư sinh đi trong đêm, tới trú mưa trong miếu cổ hoang thôn rồi gặp được giai nhân xinh đẹp, bèn đốt nến đọc sách, ngâm thơ cho người đẹp nghe nhưng không ngờ rằng giai nhân đó hóa ra là hồn ma hoặc hồ ly tinh”.
                “Nhưng bất luận là người hay là ma, có thể gặp gỡ nhau thì cũng là duyên phận của họ, đúng không?”
                “Đúng, duyên phận”. Tôi gật gật đầu, câu nói vừa nãy của cô ấy thực sự rất có lý. Nhìn ánh nến trước mặt, nghe tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ, tôi bất giác ngâm lên một câu thơ: “Bao giờ chung bóng song tây, còn bao nhiêu chuyện núi này mưa đêm”.
                “Anh cũng thích thơ của Lý Thương Ân sao?”
                “Vô cùng thích, đặc biệt là mấy bài Vô đề”.
                Cô ấy khẽ gật đầu: “Em cũng giống anh”.
                Vậy là chúng tôi cùng im lặng, không ai muốn phá vỡ bầu không khí này. Cứ như vậy, chúng tôi lặng lẽ ngồi bên nhau, nhìn ánh nến soi sáng khuôn mặt nhau, nghe tiếng mưa rơi xuống khung cửa lạnh giá.
                Mười phút qua đi, ánh nến âm u trước mắt bỗng nhiên nhảy nhót, phút chốc khiến tôi nhớ tới điều gì đó, tim tôi lại đập loạn xạ.
                Tôi cả gan nói: “Tiểu Sảnh, em tin không? Chỉ cần chúng ta dập tắt hết ánh sáng, trong đêm đen tối om, những cảnh tượng của hơn năm mươi năm trước sẽ hiện lên trước mắt anh”.
                “Làm gì có chuyện đó? Giống như lần trước dưới phòng khách? Nhưng sao em không nhìn thấy?”
                Tôi chầm chậm đưa tay trái ra nói: “Có lẽ, bởi vì cái này…”
                “Nhẫn ngọc?”
                “Đúng, mãi tới tận đêm qua anh mới cảm nhận thấy, lúc anh nhìn thấy Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước, chiếc nhẫn ngọc này càng lúc càng chặt, bó chặt làm đau ngón tay anh. Nhưng chỉ cần cảnh tượng đó biến mất, ngón tay sẽ không cảm thấy đau nữa”.
                Tiểu Sảnh cầm lấy ngón tay tôi, tỉ mẩn ngắm nghía chiếc nhẫn ngọc nói: “Em hiểu rồi, tại sao mắt anh có thể nhìn thấy những ảo ảnh đó còn em thì chẳng nhìn thấy gì cả, bởi vì chỉ có anh mới đeo chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay”.
                “Có lẽ, đây chính là ma lực của chiếc nhẫn ngọc này, chỉ cần ai đeo nó lên là sẽ nhìn thấy những cảnh tượng mà người khác không thể nhìn thấy được”.
                Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh reo lên khe khẽ: “Chiếc nhẫn ngọc khiến anh có thể nhìn xuyên thấu thời gian?”
                “Bởi vậy, không phải anh nhìn thấy ma, mà là anh nhìn thấy quá khứ. Thời gian quay ngược lại hơn năm mươi năm trước ngay trước mắt anh, khiến anh nhìn thấy những người từng sống trong ngôi nhà này năm đó”.
                “Giống như bật cho anh xem một bộ phim cũ?”
                Lúc này, sấm sét ngoài cửa sổ lại vang lên, ánh nến khiến căn phòng này càng trở nên kỳ dị, tôi nhìn vào mắt cô ấy nói: “Không sai, lúc đó anh cảm thấy hình ảnh trước mắt giống như một bộ phim câm của thập niên 20, những gì anh nhìn thấy không phải là căn phòng thật mà chỉ là một màn ảnh mà thôi, những tia sáng không biết từ đâu tới chính là ánh sáng phát ra từ chiếc máy chiếu trong rạp chiếu phim”.
                “Có lẽ còn có một khả năng khác, khi anh đeo chiếc nhẫn ngọc này lên, lúc đối diện với căn phòng tối tăm, thời gian trong không trung được chỉ định đặc biệt này bị bẻ cong, phản xạ lại vào trong mắt anh ở hiện tại”.
                “Thời gian bị bẻ cong?” Tôi sờ lên chiếc nhẫn ngọc trên tay nói, “Cũng có thể như vậy. Hoặc đây chính là nguyên tố thần bí ẩn chứa trong chiếc nhẫn ngọc này”.
                “Vậy thì nếu như em tiếp xúc với chiếc nhẫn ngọc này, không biết có thể nhìn thấy những cảnh tượng của quá khứ không nhỉ?”
                Câu hỏi của Tiểu Sảnh khiến tôi hơi run, tôi không tự chủ được đưa tay lên trước mặt cô ấy, đắn đo một lúc nói: “Anh không biết, chắc là có thể thử xem sao”.
                Tiểu Sảnh lập tức tóm lấy tay trái của tôi, nắm chặt ngón tay tôi trong lòng bàn tay cô ấy. Cảm giác này thật sự rất kỳ lạ, chiếc nhẫn ngọc thắt chặt vào ngón tay tôi, còn tay của Tiểu Sảnh thắt chặt vào chiếc nhẫn ngọc, ngón tay cái của tôi bị kẹp tận trong cùng.
                “Nhẫn ngọc này lạnh thật đấy”. Tiểu Sảnh thì thầm, tiếp tục nắm chặt lấy ngón tay tôi, “Lúc này em có thể cảm nhận được sự phản kháng của nó, nó dính chặt vào lòng bàn tay em, giống như có sự sống vậy, ngón tay anh đau không?”
                “Không, tạm thời vẫn chưa đau”.
                “Vậy chúng ta tắt nến đi nhé, thử xem trong căn phòng tối om này có thể nhìn thấy cảnh tượng của hơn năm mươi năm trước không?”
                Tôi bỗng chốc ngớ người ra, không ngờ cô ấy lại to gan như vậy: “Em thật sự muốn thử sao?” “Đúng vậy, em cũng muốn tận mắt nhìn thấy màn kịch sống động của hơn năm mươi năm trước”.
                “Được thôi, bây giờ đành phải thử xem, chưa hẳn là hiệu nghiệm, hơn nữa cho dù anh nhìn thấy, chưa chắc là em đã nhìn thấy được”.
                Cô ấy lại nắm chặt chiếc nhẫn nói: “Nhanh lên, em tin vào phán đoán của mình”.
                Sau giây phút đắn đo, tôi thổi tắt nến, ánh nến lay động dữ dội rồi tắt ngóm.
                Lúc này, cả quán trọ Hoang thôn đều đang ngủ say trong bóng tối, chỉ còn lại mưa như trút nước cùng sấm chớp bên ngoài cửa sổ. Trong căn phòng đặc quánh bóng đêm, chúng tôi dựa sát vào nhau, ngón tay tôi bị cô ấy nắm đau âm ỉ, đành phải nhẫn nhịn để không phát ra tiếng ke6i. Tôi có thể cảm nhận người cô ấy đang run rẩy, tuy không nhìn thấy gì trước mặt nhưng chúng tôi vẫn nhìn chằm chằm về bóng tối phía trước, giống như thợ săn đang rình dã thú trong rừng sâu.
                Không, tôi cảm thấy chiếc nhẫn ngọc bắt đầu thắt chặt lại, cảm giác đau buốt bắt đầu từ ngón tay lan tỏa ra khắp cơ thể tôi.
                Bỗng nhiên, một đường ánh sáng mờ ảo lướt qua bóng tối trong hành lang.
                Tiểu Sảnh càng nắm chặt tay tôi, tôi thậm chí còn cảm nhận được cả nhịp tim của cô ấy. Chúng tôi nhìn chằm chằm vào ánh sáng êm dịu ngoài cửa, giống như một tấm phim gốc bị lộ sáng nhấp nháy.
                Sau vài giây, một bóng người nhỏ dài xuất hiện trước cửa phòng. Tia sáng vừa vặn chiếu rọi lên khuôn mặt người đó, tôi gần như hét lên thất thanh: Nhược Vân.
                Đúng, chính là cô ấy. Ánh sáng êm dịu theo gót cô ấy bước vào phòng hình như là của chiếc đèn chùm trên sàn nhảy, nhưng chỉ chiếu sáng một khoảnh nhỏ bên cạnh cô ấy, còn tôi và Tiểu Sảnh vẫn ở trong bóng tối. Tôi quay đầu nhìn Tiểu Sảnh, cô ấy gật đầu với tôi, đúng vậy, Tiểu Sảnh cũng nhìn thấy Nhược Vân rồi.
                Ánh sáng trước mặt hơi dao động, giống như chuyển cảnh trong phim ảnh, nhưng biểu cảm của Nhược Vân đã biến đổi, ánh mắt cô ấy chứa đựng sự khủng hoảng, hình như còn ầng ậc nước.
                Tiểu Sảnh liền nắm chặt lấy tay tôi, tôi gần như bị cô ấy kẹp đứt cả ngón tay.
                Chớp mắt, vệt sáng mờ ảo đó lại nhảy lên, hình ảnh bị “cắt” sang một cảnh khác.
                Không biết từ lúc nào, tay của Nhược Vân có thêm một con dao găm lạnh toát sáng choang, vẻ mặt lại trở lại bình tĩnh dị thường, con dao trên tay đang nhắm thẳng vào tôi.
                Chính trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc này, “ống kính” bỗng bị mờ đi giống như bị đậy lên một lớp kính lọc. Bỗng nhiên, một vũng máu đỏ tươi xuất hiện trên “ống kính”, từ từ loang ra…
                Tiểu Sảnh hét toáng lên, tôi vội vàng lấy tay phải bịt mồm cô ấy lại. Lúc này trên không trung bỗng vang lên tiếng sấm, lóe lên một vệt sét trắng, chiếu vào căn phòng giống như đêm trắng vậy.
                Tức khác, “ống kính” và “hình ảnh” trước mắt vụt biến mất, giống như bị tiếng sét nuốt chửng.
                Tiếng sét qua đi, bóng đêm lại trở lại căn phòng, ngoài cửa sổ vẫn mưa như trút nước. Tôi cảm giác chiếc nhẫn ngọc cũng không còn thắt chặt nữa, sự đau đớn trên ngón tay cũng dần tiêu tan.
                Tiểu Sảnh run rẩy nói: “Sao chẳng còn nhìn thấy gì cả?”
                Ngồi trong bóng tối, tôi rút cuộc thở dài: “Họ vốn dĩ không tồn tại, chỉ là ảo ảnh của năm tháng mà thôi”.
                “Ánh sáng lóe lên ngoài cửa sổ phân tán bớt bóng tối trong phòng, giống như mở cửa phòng tối trong rạp chiếu phim”.
                “So sánh của em rất hay”, nhưng tôi nắm tay cô ấy nói: “Tiểu Sảnh, bây giờ em buông tay anh ra được rồi chứ?”
                “Vâng”, Tiểu Sảnh lập tức buông tay tôi ra, tuy trong bóng tối không nhìn rõ mặt, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được sự bối rối của cô ấy.
                Tôi xoa ngón tay mình nói: “Ngón tay của anh suýt nữa bị em cấu đứt rồi”.
                “Xin lỗi”.
                Sau đó, tôi mò tìm bật lửa, châm nến ben nãy bị thổi tắt.
                Ánh nến mờ ảo lại soi rọi căn phòng, đồng thời soi lên mặt tôi và Tiểu Sảnh, tôi phát hiện trên má cô ấy lấm tấm mồ hôi bèn lấy khăn tay lau mồ hôi cho Tiểu Sảnh.
                Tiểu Sảnh vẫn còn sợ hãi nói: “Thật không thể tin được, ban nãy trong căn phòng này, em tận mắt nhìn thấy người và việc xảy ra của hơn năm mươi năm trước”.
                Tôi bước mấy bước trong phòng, ánh nến khiến bóng tối chiếu lên tường, cái bóng đen đen dài dài xem ra thật đáng sợ. Đáng tiếc, ngôi nhà này mấy hô nữa là tháo dỡ rồi, nếu không thì bao nhiêu năm nữa, khi mọi người bước vào ngôi nhà này thám hiểm có lẽ cũng sẽ phát hiện ra dáng dấp khuôn mặt của tôi và Tiểu Sảnh trên tường cũng nên?
                “Xem ra nhẫn ngọc trên tay anh thực sự có một công dụng thần kỳ nào đó”. Tiểu Sảnh cũng bước tới cạnh, thì thầm bên tai tôi.
                “Đúng, chiếc nhẫn ngọc này đến từ tầng hầm ở Hoang thôn. Bởi vậy, tất cả những gì chúng ta nhìn thấy đêm nay chắc hẳn đền liên quan tới bí mật của Hoang thôn”.
                Lúc này, tâm trạng của Tiểu Sảnh đã bình tĩnh hơn rất nhiều, cô ấy gật đầu nói: “Vậy thì cảnh tượng chúng ta nhìn thấy ban nãy rút cuộc là gì chứ?”
                “Anh nghĩ, chùng ta đã phát hiện ra cảnh đẫm máu nhất trong quán trọ Hoang thôn hơn năm mươi năm trước”.
                “Ý anh là con dao găm đó, còn cả máu nữa…” Nói tới đây, Tiểu Sảnh đột nhiên khựng lại, hình như chữ “máu” khiến cô ấy vô cùng sợ hãi. Tôi khẽ gật đầu, lại nghĩ tới những sự việc mà Diệp Tiêu đã kề với mình, tôi bất giác lẩm bẩm: “Thảo nào họ nói quán trọ Hoang thôn là một hung trạch”.
                “Hung trạch?”
                “Không… không có gì”.
                Tôi lắc lắc tay, cố rặn ra vài nụ cười, thực ra tôi không muốn để cô ấy quá căng thẳng. Tôi lại tới bên cửa sổ, nhìn mưa gió sấm chớp liên miên bên ngoài, những cao ốc phía xa vẫn đang lộng lẫy sắc cầu vòng. Thượng Hải lại một đêm không ngủ.
                Tiểu Sảnh đứng sau lưng tôi nói: “Bây giờ tới điện cũng chẳng có, qua đêm nay thế nào đây?”
                “Không phải sợ, ngôi nhà này vốn không có ma, đừng thần hồn nát thần tính. Nhược Vân và chồng cô ấy mà chúng ta nhìn thấy chỉ là ảo ảnh của hơn năm mươi năm trước mà thôi, ảo ảnh không thể hại người được”. Sau đó, tôi lôi trong tủ ra một chiếc đèn pin, bật lên rồi đặt trước đầu giường: “Em nắm lấy nó mà đi ngủ, ánh đèn pin sẽ theo em vào giấc ngủ ngon”.
                Cô ấy bán tính bán nghi cầm lấy chiếc đèn, lại chỉ vào nến hỏi: “Còn nó thì sao?”
                “Đốt nến khi ngủ rất nguy hiểm, rất dễ gây nên hỏa hoạn”.
                Nói xong, tôi cúi đầu thổi tắt nến.
                Trong phòng chỉ còn lại chiếc đèn pin trên tay Tiểu Sảnh, tôi nhìn cô ấy trong ánh đèn pin tù mù, thì thào: “Xin lỗi, Tiểu Sảnh, anh biết hôm nay em rất sợ hãi, nhưng anh bắt buộc phải lên tầng trên”.
                “Không, anh đừng đi”. Cô ấy lập tức níu chặt lấy cổ tay tôi, “Xin anh đừng để em một mình ở đây”.
                “Nhưng… chúng ta…” Giây phút này, tôi cũng không nghĩ ra nổi lý do gì để rời xa cô ấy.
                Nước mắt cô ấy từ từ rơi xuống, miệng lẩm bẩm nói: “Ở lại đi, em sợ ở một mình”.
                Không, tôi không thể nhẫn tâm từ chối cô ấy nữa, đành phải ngồi cạnh cô ấy. Mí mắt Tiểu Sảnh đầu khép xuống, từ từ ngả ra giường, xem ra cô ấy đã bị những ảo ảnh ban nãy làm cho quá hoảng sợ, toàn thân mệt mỏi rã rời.
                Tôi lặng lẽ nhìn Tiểu Sảnh, tay cô vẫn nắm khư khư chiếc đèn pin, ánh sáng mờ ảo soi rọi lên mặt cô ấy. Tiếng mưa to ngoài cửa sổ vẫn rì rào, hơn nữa căn phòng bị bóng tối bao phủ, đến cả tôi cũng ngồi trong góc tối.
                Mười mấy phút trôi qua, tôi nghĩ Tiểu Sảnh chắc là ngủ say rồi. Tôi đắp cho cô ấy chiếc khăn dạ, kiểm tra lại cửa sổ xem đã đóng chặt chưa. Sau đó, tôi lấy chiếc đèn pin thứ hai trong tủ ra, rón rén ra khỏi phòng.
                Rút cuộc ra được ngoài rồi, tôi thở một hơi dài, nhớ lại dáng vẻ của Tiểu Sảnh lúc níu kéo mình, giây phút đó tôi thực sự có chút không kìm chế được bản thân. Đúng vậy, tôi thật lòng thích cô ấy từ lâu rồi,và chắc trong lòng cô ấy cũng tỏ tường. VỪa nghĩ tới đây, tôi bỗng mỉm cười khi đang đi trong dãy hành lang tối.

                Đúng, bất luận xảy ra chuyện khủng khiếp gì đi chăng nữa, đều không thể ngăn cản tôi và Tiểu Sảnh. Tôi cảm thấy toàn thân thư thái, sự khủng hoảng ban nãy đã sớm tan thành mây khói. Vậy là tôi bật đèn pin, bước nhanh trên cầu thang tối om.
                Trở lại căn phòng trên tầng ba, tôi ôm đèn pin ngả người ra chiếu, bỗng nhiên cảm thấy bản thân mình vẫn được coi là hạnh phúc.
                Ngoài cửa sổ, mưa đang to như trút nước.
                ***************

                Comment


                • #23
                  23. Ngày thư hai ba





                  Buổi sáng tỉnh dậy đã khá muộn, cơn mưa to đêm qua đã tạnh từ lâu, nhưng những nhánh chi trinh đằng leo ngoài cửa sổ vẫn còn đọng những hạt nước. Sau một đêm được nước mưa tưới tắn, chúng càng trở nên dồi dào sức sống. Đáng tiếc, những nhành Chi trinh đằng không biết được rằng, qua mấy hôm nữa, sinh mệnh của chúng sẽ kết thúc cùng với ngôi nhà cổ này.

                  Xuống dưới tầng hai tôi mới phát hiện ra Tiểu Sảnh đã đi làm rồi, nhưng cô ấy vẫn để cho tôi một phần điểm tâm. Ăn xong bữa sáng, tôi lượn một vòng từ tầng trên xuống tầng dưới, tuy điện đã cắt rồi nhưng nước vẫn chưa bị cắt, mấy ngày cuối chắc là vẫn có thể gắng trụ được.

                  Do không có điện, bữa trưa của tôi đành phải ra ngoài ăn. Nhưng so với bữa cơm tối qua Tiểu Sảnh nấu, bữa trưa này quả thực còn khó ăn hơn thức ăn của heo.

                  Buổi chiều không có việc gì làm, tôi đọc sách trong phòng một lúc, nhưng chỉ cần nhớ tới những cảnh tượng xảy ra trong căn phòng này tối qua, tôi thực sự chẳng có tâm trí đâu mà đọc nữa. Mãi tới sẩm tối, trong lúc tôi đang chuẩn bị ra ngoài ăn tối thì Tiểu Sảnh lại về sớm.

                  Tiểu Sảnh mặc một chiếc váy ngắn, tóc hơi ươn ướt, trên người tỏa ra mùi nước gội đầu thơm mát. Nhưng càng hấp dẫn tôi hơn chính là đồ ăn nhanh Kentucky, cô ấy xách trên tay. Cho dù từ trước tới nay tôi vốn rất ghét ăn đồ ăn nhanh kiểu tây, nhưng trong thời khắc đặc biệt n ày, được ăn Kentucky quả là khá ổn.

                  Khi trời đã tối hẳn, chúng tôi thắp nến, tôi bất giác tự chọc ghẹo: “Cùng nhau ăn cơm dưới ánh nến, cái này chỉ được phục vụ trong nhà hàng cao cấp thôi đấy”.

                  Khi tôi coi như bên cạnh chẳng có ai ăn hết sạch phần đùi gà của mình, thì Tiểu Sảnh hầu như không động gì đến. Tôi quệt dầu trên miệng nói: “Tiểu Sảnh, em có thể ăn chút không, Bồ Tùng Linh tiên sinh đâu có viết về chuyện Nhiếp Tiểu Sảnh nhịn ăn giảm béo đâu”.
                  Nhưng cô ấy lạnh nhạt đáp: “Bởi vì Nhiếp Tiểu Sảnh vốn dĩ không giống người thường mà”.

                  Sau khi thu dọn bữa tối sạch sẽ, Tiểu Sảnh bỗng hỏi nhỏ tôi: “Đêm qua… tại sao anh không ở lại?”
                  “Cái này à…” Tôi cười bối rối nói: “Anh thấy em đã ngủ say rồi, tất nhiên không cần người bên cạnh nữa”.

                  Tiểu Sảnh không nói gì, chỉ hít một hơi thật sâu, ánh mắt cô ấy dường như còn giấu điều gì đó nhưng lại lảng tránh ánh mắt tôi.
                  Trầm ngâm dưới ánh nến hồi lâu, cô ấy đột nhiên lại nói chuyện: “Lần trước anh từng nói, anh lấy từ chỗ mấy sinh viên tới Hoang thôn kia rất nhiều đồ ngọc cổ đại”.
                  “Hỏi cái này làm gì?” Tôi có chút thấp thỏm bất an trả lời, “Những đồ ngọc đó lấy từ lòng đất Hoang thôn lên, giống như chiếc nhẫn đang trên tay anh”.
                  “Chúng thật sự có năm nghìn năm lịch sử sao?”
                  “Chuyên gia đều giám định qua rồi, chắc là vậy”.
                  “Có thể cho em xem không?” Cô ấy bước tới trước mặt tôi, nhìn vào mắt tôi nói, “Chỉ là xem thôi mà, không động gì đến đồ của anh đâu”.
                  Không, tôi làm sao có thể từ chối yêu cầu nhỏ nhoi đó của cô ấy chứ? Tôi gật đầu: “Được, chỉ cần lúc xem cẩn thận chút, nhất định không được làm hỏng những bảo bối này, càng không được để lộ tin tức về chúng ra ngoài”.
                  “Cái này em đương nhiên biết rồi. Hơn nữa, trừ anh ra, em cũng không có bạn nào khác”.
                  Tôi gật đầu, cầm lấy hai chiếc đèn pin, tôi và Tiểu Sảnh mỗi người một chiếc rồi đi lên tầng ba.
                  Bước lên cầu thang xoắn ốc tối om, Tiểu Sảnh theo sau bám chặt lấy tôi, ánh đèn pin của tôi mở đường, chúng tôi tới căn phòng cuối cùng trong hành lang trên tầng ba.
                  Tôi đã để lại đây một chiếc cầu thang, vừa vặn gác vào lỗ hổng trên trần nhà. Tôi dùng đèn pin doi lên trên nói: “Phải từ đây leo lên, em có sợ không?”
                  Gan cô ấy to hơn tối qua nhiều: “Không sợ”.

                  Tôi gật đầu, một tay nắm lấy đènpin, một tay vịn cầu thang, khó khăn lắm mới chui được vào căn gác xép. Sau đó, Tiểu Sảnh cũng theo sau leo lên trên đó, tôi nắm chặt tay cô ấy, tiện thể kéo luôn cô ấy lên.
                  Căn gác tối tăm ngập tràn không khí đáng sợ, cửa sổ đã bị Chi trinh đằng che kín, một ánh trăng cũng không lọt được vào. Tôi chỉ còn cách dùng đèn pin quét một vòng, mãi lâu sau mới tìm thấy chiếc cặp đựng đồ ngọc, cảm giác thật khó hiểu, giống như đang đào trộm mộ vậy.
                  Trong phạm vi ánh đèn thu hẹp lại, tôi vất vả mở chiếc cặp ra, cẩn thận rón rén lấy ra từng đồ ngọc trong đó: ngọc hổ phách, ngọc bích, búa ngọc, rùa ngọc và dao găm ngọc. Ánh đèn pin rọi vào những bảo bối này, bề mặt đồ ngọc tỏa ra ánh sáng phản quang kỳ dị, Tiểu Sảnh vuốt nhẹ lên ngọc hổ phách, tay cô ấy bắt đầu run rẩy.
                  Tôi nhìn lại xung quanh đang tối đen như trong địa cung, bỗng nhiên nhớ tới bốn sinh viên hoặc là đã chết, hoặc là mất tích, hoặc là thần kinh. Khi họ vào địa cung thần bí trong lòng đất tại Hoang thôn, lúc đối diện với những đồ ngọc này, chắc là cũng có cảm giác tương tự.
                  Tiểu Sảnh bỗng thở dài nói: “Bây giờ em tin rồi, chúng thực sự là đồ ngọc của năm nghìn năm trước”.
                  “Tại sao?”
                  “Bởi vì cảm giác trên tay em”. Cô ấy chuyển đồ ngọc sang tay bên kia, lùi lại một bước nói, “Đúng, khi tay em chạm vào những đồ ngọc này, em thực sự cảm nhận được tuổi của chúng”.
                  “Đây chính là giác quan thứ sáu của phụ nữ?”
                  "Có lẽ vậy, anh nhanh cất chúng đi, bảo bối năm nghìn năm trước, em không dám chạm vào nữa đâu”.
                  Tôi gật đầu, lại lấy báo cũ và bọt xốp bọc chúng lại, cất những đồ ngọc này vào trong cặp.
                  Sau đó, tôi kéo tay Tiểu Sảnh nói: “Đợi đã, anh còn cho em xem mấy thứ nữa".
                  Dưới ánh sáng đèn pin, tôi tìm thấy chiếc bàn trang điểm, thì thầm nói: “Đây là bàn trang điểm trước đây của Nhược Vân”.
                  “Sao không có gương?”, cô ấy không nhìn rõ khung gương trong bóng tối.
                  “Bị vỡ lâu rồi.”
                  Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hiểu ý nói: “Giống như đêm qua, cô ấy và chồng”.
                  “Đúng, một tấm gương bị vỡ, sao có thể liền lại được?”
                  Nói xong, tôi mở hai ngăn kéo phía dưới, lấy ra những bức ảnh cũ của Nhược Vân và gia đình Âu Dương cùng với hai quyển sách của Trương Ái Linh. Dưới ánh đèn pin mù mờ, Tiểu Sảnh từ từ lật những tấm ảnh và trang sách, nhìn khuôn mặt cua Nhược Vân trong ảnh, cô ấy buồn bã nói: “Cám ơn anh, cám ơn anh đã cho em thấy những thứ này, dường như em có thể hít thở hương trên người cô ấy rồi”.
                  “Đúng thế, anh cũng có cảm giác như vậy”.
                  “Không, cảm giác của anh và của em không giống nhau. Bởi vì em là phụ nữ, chỉ có phụ nữ mới cảm nhận được nỗi đâu của Nhược Vân… Trước khi cô ấy gả cho nhà Âu Dương, nhất định là một cô gái có rất nhiều hoài bão, cô ấy vì tình yêu sâu đậm với chàng trai Âu Dương khôi ngô tuấn tú mới hy sinh bản thân gả vào chiếc cũi nhốt tù này”.
                  “Em bảo quán trọ Hoang thôn là cũi nhốt tù?”
                  “Lẽ nào không phải sao? Gia đình Âu Dương bảo thủ và khép kín nhường vậy, cho dù là họ dọn tới Thượng Hải đi chăng nữa cũng không dọn theo cả ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ ở Hoang thôn. Đúng, ngôi nhà này đã biến thành Tiến Sỹ Đệ, bởi vậy mới lấy tên là quán trọ Hoang thôn, chẳng qua là dựng lại một Hoang thôn thu nhỏ trên đất Thượng Hải mà thôi”.
                  Cô ấy thực sự nói rất có lý, tôi cũng gật đầu nói: “Gả vào nhà Âu Dương cũng đồng nghĩa với việc mất đi tự do, bị giam cầm trong Hoang thôn thu nhỏ?”
                  “Đúng, sau khi Nhược Vân gả vào quán trọ Hoang thôn, nhất định đã trải qua rất nhiều đau khổ, nhưng cô ấy không muốn biểu hiện ra ngoài, đành phải thông qua ánh mắt hướng ra ngoài cửa sổ, thông qua những trang sách của Trương Ái Linh”.
                  Tiểu Sảnh lại thở dài, sau đó đem tất cả số ánh cũ này cùng sách để lại vào ngăn kéo.
                  “Được rồi, chúng ta đi thôi”. Tôi nhẹ nhàng kéo cô ấy đi tới đầu bên kia của căn gác, bỗng nhiên ánh đèn soi vào một bóng đen cao to.
                  “Đó là cái gì?” Tiểu Sảnh lập tức vồ lấy tay tôi.
                  Tôi cẩn thận nhìn xem mới thốt lên được nói: “Không có gì, là cái tủ quần áo”.
                  “Tủ quần áo? Bên trong có quần áo của Nhược Vân?”
                  Có lẽ, do phụ nữ bẩm sinh đã trung thành với tủ quần áo, cô ấy lập tức chạy tới bên chiếc tủ. Dưới ánh sáng đèn pin, cô ấy từ từ mở cánh tủ ra, mùi ẩm mốc khiến chúng tôi đều quay đầu đi.
                  Một lúc sau, ánh đèn soi vào bên trong tủ, Tiểu Sảnh đột nhiên hét lên thất thanh: “Có người chết!”
                  Tôi lập tức nắm chặt lấy tay cô ấy nói: “Không, bên trong treo quần áo”.
                  “Cái gì?” Tiểu Sảnh rút cuộc cũng đã định thần lại, cẩn thận nhìn vào trong tủ, dưới ánh đèn pin mờ ảo, vài chiếc áo khoác đen trông thật giống người chết treo.
                  Tiểu Sảnh cẩn thận rón rén thò tay vào trong, sờ vào một chiếc sườn xám bắt mắt, lụa tơ tằm đều đã giòn tan rơi rụng, cô ấy đành phải bỏ xuống. Cô ấy lại sờ chiếc áo bên cạnh, là một chiếc áo khoác len màu đen kiểu dáng nữ. Xem ra chất liệu và đường kim mũi chỉ đều rất tốt, vào thời đó chắc hẳn là một thứ xa xỉ.
                  Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hình như sờ thấy gì đó trên áo, tay cô ấy dừng lại trước túi áo, bên trong hình như có cất giấu vật gì. Cô ấy lập tức thò tay vào trong túi, chiếc túi xem ra rất to, hình như nuốt chửng nửa cánh tay của cô ấy.
                  Cô ấy lôi một cuốn sổ tay trong túi áo ra.
                  Ánh đèn pin soi lên cuốn sổ, Tiểu Sảnh cẩn thận rón rén bưng nó lên, rõ ràng rất phấn khích, cô ấy hào hứng nói: “Anh xem, đây là cái gì?”
                  “Cuốn sổ tay giấu trong túi áo?”
                  Đây là một cuốn sổ bìa da cứng màu đen, chắc là sản phẩm của hơn năm mươi năm trước. Tôi nhẹ nhàng mở cuốn sổ ra, trên chương đầu tiên xuất hiện chữ viết bằng tay duyên dáng.
                  Nhật ký quán trọ Hoang thôn.
                  Dưới dòng chữ này còn có cả chữ ký: Nhược Vân.
                  “Trời ơi! Đây chính là nhật ký của Nhược Vân năm đó để lại”. Tiểu Sảnh thất thanh kêu lên, cô ấy thò tay ra vuốt ve trang sách, chạm vào chữ viết bằng bút mực đen của Nhược Vân ghi lại, “Hóa ra cô ấy giấu nhật ký trong tủ quần áo, thật là khó tin”.
                  “Có thể vốn dĩ không phải do cô ấy giấu”. Lúc này tôi gập cuốn sổ lại, tôi bắt đầu hơi lo lắng nói: “Ở trên gác thực sự bất tiện, chúng ta xuống phòng dưới tầng hai từ từ xem nhé”.
                  Tiểu Sảnh cũng gật đầu, vậy là chúng tôi đem theo cuốn sổ nhật ký leo xuống cầu thang rời khỏi căn gác xép.
                  Chúng tôi vội vàng trở lại căn phòng dưới tầng hai, dùng đèn pin thực sự rất khó chịu, tôi thắp một ngọn nến mới. Khi ánh nến soi sáng lại căn phòng, tôi và Tiểu Sảnh đều thở một hơi dài, dường như vừa được quay lại nhân gian.
                  Sau đó, chúng tôi cùng nhau mở cuốn “Nhật ký quán trọ Hoang thôn” này của Nhược Vân ra thì phát hiện bên trong thiếu sót và bị hư tổn rất nhiều, có lẽ nhiều trang đã bị xé đi cả cụm, bởi vậy đã làm cho cuốn nhật ký bị tàn phế không còn nguyên vẹn. Tôi đếm số lượng trang có chữ còn sót lại, tổng cộng có hai mươi mấy trang.
                  Nhưng trang đầu tiên của cuốn nhật ký lại được bảo lưu hoàn toàn nguyên vẹn, trên đầu trang viết ngày tháng: ngày 20 tháng 10 năm Dân quốc 35. Nhật ký viết chiều thẳng dọc từ phải sang trái theo thói quen thời đó, từng chữ Hán đẹp đẽ hiện lên trước mắt tôi.
                  Trong đêm tối của quán trọ Hoang thôn này, ánh nến lắc lư chiếu đỏ những trang giấy vàng ố, tôi và Tiểu Sảnh đều nín thở, dường như thực sự đang nghe thấy Nhược Vân nói chuyện rồi chúng tôi cùng nhau đọc thầm ngày đầu tiên của “Nhật ký quán trọ Hoang thôn”.
                  Nắng, ngày 20 tháng 10 năm Dân quốc 35.
                  Hôm nay, đây là ngày đầu tiên của cuốn nhật ký này, cũng là ngày thứ hai mình gả vào quán trọ Hoang thôn.
                  Đúng, hôm qua là ngày kết hôn của mình.
                  Mình nghĩ mãi vẫn không hiểu nổi, tại sao người ta luôn nói rằng phụ nữ đẹp nhất trong ngày cưới, hôm qua lúc mình khoác chiếc váy cưới trắng tinh khôi lên người, nhìn mình trong gương, mình thấy hình như đó là một người xa lạ. Đúng vậy, cô ấy trong gương trẻ trung nhường vậy, thuần khiết nhường vậy, váy cưới như tuyết trắng phủ lên người cô ấy, vậy mà cô ấy lại là mình sao? Mình lắc lắc đầu, cô ấy trong gương cũng lắc lắc đầu, mình khẽ nói, cô ấy trong gương cũng mấp máy môi. Mình không dám tưởng tượng kể từ ngày hôm nay mình đã biến thành cô ấy rồi, một người đàn bà hoàn toàn xa lạ.
                  Xe hơi của gia đình Âu Dương đợi mình dưới nhà, mẹ đưa mình xuống nhà, mấy cô gái giúp mình đỡ váy cưới, đưa mình vào trong xe hơi. Xe hơi tới quán trọ Hoang thôn, chỉ nghe thấy tiếng pháo nổ không dứt, rất nhiều người vây lấy mình bước vào quán trọ Hoang thôn, mình cúi gằm mặt xuống, thậm chí còn không nhìn rõ ngôi nhà này ra làm sao. Trong phòng khách tất cả đã bố trí xong xuôi, Thanh Viễn mặc một bộ comple thẳng tắp, đang mỉm cười chờ mình. Anh ấy xem ra dáng vẻ tuấn tù ngời ngời, ánh mắt mỉm cười toát lên vẻ tự tin, bởi vì kể từ ngày hôm nay anh ấy sẽ trở thành chồng mình.
                  Cha mẹ Thanh Viễn đang ngồi uy nghiêm chính giữa, tuy họ đã thẩm tra qua người con dâu này từ trước, nhưng vẫn cẩn thận chăm chú nhìn mình. Mình giống như một thứ đồ chơi xinh đẹp, làm theo tất cả những bước dặn dò từ trước, hoàn thành tất cả nghi thức hôn lễ. Rất nhiều người ở bàn rượu tiến đến, tiếng cười nói ồn áo khiến mình không nghe rõ gì cả, giống như mơ thấy một giấc mơ. Cứ như vậy ầm ĩ cho tới tận khuya, Thanh Viễn mới kéo mình lên căn phòng trên tầng ba, cả ngày mệt mỏi rã rời, mình ngả người ra giường cái là ngủ ngay.
                  Đó chính là hôn lễ của mình. Ngày thứ hai, Thanh Viên kéo mình đi thỉnh an bố mẹ chồng, sau đó ở bên mình cả ngày. Lúc này, nhân lúc anh ấy xuống nhè, mình trốn trong phòng viết trang nhật ký này.
                  Kể từ ngày hôm nay, mình sẽ ghi lại mỗi ngày của mình trong quán trọ Hoang thôn vào cuốn nhật ký này. Nó là người bạn giấu kín trong lòng mình, trừ bản thân mình ra, bất cứ ai cũng không được nhìn thấy nó.
                  Âm u, ngày 29 tháng 10 năm Dân quốc 35
                  Hôm nay, là ngày thứ mười mình được gả vào quán trọ Hoang thôn.
                  Cha mẹ của Thanh Viễn sống ở tầng hai, mỗi buổi sáng Thanh Viễn đều đưa mình tới thỉnh an họ, anh ấy nói rằng đây là phép tắc của nhà Âu Dương từ trước tới nay. Cha mẹ chồng đều đã rất lớn tuổi rồi,còn Thanh Viễn lại là con trai duy nhất của họ, và cũng là người thừa kế duy nhất của gia tộc Âu Dương. Mình nghĩ rằng bố mẹ chồng đều rất cao tuổi mới có con, nhất định rất yêu con trai của mình, bởi vậy họ cũng nhất định sẽ rất yêu mình.
                  Kể từ hôm nay Thanh Viễn sẽ trở lại công ty làm việc, nhà Âu Dương mở một công ty mậu dịch tại Thượng Hải, chuyên nhập khẩu thương phẩm đắt giá từ Mỹ về. Bố mẹ chống đều lớn tuổi rồi, việc làm ăn buôn bán của công ty hoàn toàn một mình Thanh Viễn quản lý, vì thế anh luôn bận tối mắt tối mũi. Bây giờ đã là chín giờ tối, anh ấy vẫn chưa về nhà, mình ngồi một mình trong phòng đọc sách, thẫn thờ viết nhật ký. Thanh Viễn đã từng hứa với mình, sua khi kết hôn mình vẫn có thể đến ngân hàng làm việc, nhưng bây giờ bố mẹ chồng đều không đồng ý, họ nói con dâu nhà Âu Dương bắt buộc phải ở nhà, Thanh Viễn không thể làm trái lời cha mẹ, cuối cùng đã làm tiêu tan ý định đi làm của mình.
                  Tuy mới chỉ qua mười ngày, nhưng cảm giấc giống như mấy năm trôi qua vậy. Đây chính là mùi vị của tân hôn sao? Cả đời cũng không hổi tưởng hết? Có phải là do ngôi nhà này không nhỉ? Có lúc bước lên cầu hàng của quán trọ Hoang thôn, trong lòng liền nảy sinh cảm giác rất kỳ lạ, hình như có thể nghe thấy âm thanh gì đó, dừng lại dỏng tai nghe ngóng thì lại không nghe thấy gì cả. Ôi, có phải là các cô dâu mới đều đa nghi nhiều như vậy không nhỉ?
                  Đúng thế, nói thực lòng mình có chút sợ bố chồng, quần áo ông mặc và giọng nói chuyện đều khiến mình âm thầm sợ hãi. Thanh Viễn toàn là an ủi mình nói rằng nhà Âu Dương tới từ một nơi hẻo lánh, đương nhiên có những phong tục cổ hủ. Thôi vậy, chỉ lúc nào đối diện với Thanh Viễn mình mới cảm thấy yên tâm, nhưng đêm nay lúc nào thì anh ấy mới về chứ?
                  Âm u, ngày 24 tháng 12 năm Dân quốc 35
                  Đêm nay là đem bình an.
                  Buổi sáng, hiếm hoi lắm mình mới được ra khỏi cửa, những ngôi nhà tây bên đường An Tức hầu hết đều đã chăng đèn màu, hóa ra ngày mai là lễ Giáng sinh. Đương nhiên, những nhà treo đèn đều là người nước ngoài, nhà Âu Dương tuyệt đối không bao giờ tổ chức ngày lễ của người tây. Nhưng Thanh Viễn đã hứa với mình rồi, tối nay anh ấy sẽ về nhà sớm cùng mình ăn bữa tối.
                  Nhưng Thanh Viễn lại một lần nữa thất hứa rồi, mình cùng ăn tối với bố mẹ chồng, lúc họ ăn cơm không nói lấy một câu, mình gần như chẳng ăn gì cả, liền chạy sang phòng cạnh phòng khách đàn dương cầm. Đúng rồi, chiếc đàn dương cầm này có thể coi là của hồi môn của mình, mỗi khi mình buồn chán là sẽ ngồi trước cây đàn chơi những bản nhạc của Liszt. Đàn dương cầm ngân lên ngân lên, nước mắt mình lặng lẽ rơi xuống, mình đành phải dừng lại lau nước mắt. Không, anh ấy không thể quên ngày hôm nay, bởi vì hôm nay là tròn một năm ngày chúng mình gặp nhau.
                  Đúng thế, đúng tròn một năm trước, mình vẫn đang làm thư ký văn phòng của ngân hàng Trung Quốc. Đêm bình an năm ngoái, những đồng nghiệp nữ đều lần lượt về nhà sớm, chỉ còn mình là vẫn đánh nốt một phần văn bản. Bỗng nhiên, mình phát hiện ra có một đôi mắt đang nhìn mình chằm chằm, từ từ ngẩng đầu lên thì thấy một gương mặt khôi ngôi tuấn tú. Anh ấy chính là Thanh Viễn của mình. Hóa ra anh ấy đã nhìn mình như thế từ lâu rồi, mình hỏi anh ấy có việc gì, anh ấy lại gãi đầu hỏi phòng giám đốc ở đâu. Từ đó trở đi, chiều nào anh ấy cũng tới văn phòng ngân hàng, chắc là những việc của tài vụ đều do anh ấy tự làm, bởi vì chỉ có như vậy anh ấy mới có cơ hội nói chuyện với mình. Mỗi lần anh ấy nói chuyện với mình đều lái sang rất nhiều chuyện khác, cứ nói chuyện trong văn phòng là nói nửa ngày giời, còn mình thì cũng ngại đuổi anh ấy đi. Sau đó, anh ấy mời mình ra ngoài nói chuyện, trước tiên là ở quán cà phê, quán cơm, sau đó là rạp chiếu phim, công viên. Mọi người chẳng mấy chốc đã phát hiện ra bí mật này: công từ nhà Âu Dương đang theo đuổi mình, những đồng nghiệp nữ nhìn mình bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Còn lòng mình thì thấp thỏm bất an, không biết làm thế nào để đối diện với Thanh Viễn, người đàn ông này xuất sắc nhường vậy, phong độ đĩnh đạc, điềm đạm nho nhã, càng quan trọng hơn là gia đình anh ấy rất giàu có, sở hữu một ngôi nhà tây ba tầng trên đường An Tức. Mình biết có rất nhiều cô gái âm thầm đấu tranh tranh giành anh ấy, nhưng anh ấy lại chẳng ưng một ai, chỉ yêu mỗi mình mình. Cho đến lúc này mình cũng không thể hiểu được, tại sao anh ấy lại chung thủy với mỗi mình mình, có lẽ là do đôi mắt của mình, anh ấy từng nói trong đôi mắt mình có vẻ đẹp xuyên thấu thời gian.
                  Cuối cùng, mình bị Thanh Viễn chinh phục rồi. Trước tình yêu nồng cháy của anh ấy, mình nghĩ anh ấy chính là nửa còn lại của cuộc đời mình. Mọi người trong gia đình đều mừng cho mình, những đồng nghiệp nữ trong ngân hàng đều âm thầm đố kị với mình. Vậy là, vào một đêm mát mẻ tháng bảy, trong sự ngạc nhiên tròn xoe mắt của tất cả mọi người có mặt trong quán ăn La Tống, mình đã nhận lời cầu hôn của anh ấy.
                  Đây chính là quá trình gặp gỡ yêu đương của chúng mình, sau đó là hôn nhân của hai đứa. Trong tròn một năm đó, mình từ một cô gái biến thành một người đàn bà, nhưng mình cũng không rõ rút cuộc bản thân mình đã biến đổi điều gì, có lẽ giống như một con chim, chỉ là từ một chiếc lồng này đổi sang một chiếc lồng khác.
                  Đánh đàn xong, mình trở về căn phòng trên gác, thẫn thờ đọc “Truyền kỳ” của Trương Ái Linh. Cuốn sách này mình đã đọc hai mươi lần rồi, có lẽ còn cần phải đọc thêm hai mươi lần nữa.
                  Ban nãy, mình nghe cuộc điện thoại của Thanh Viễn gọi về, anh ấy nói tối nay có tiệc mời quan trọng, ngày mai mới trở về nhà. Mình không đáp một câu, nhẹ nhàng gác máy, tiếp tục viết nhật ký của mình.
                  Giáng sinh vui vẻ, các bạn thân yêu của mình
                  Mưa nhỏ, ngày 1 tháng 4 năm Dân quốc 36
                  Còn nhớ lúc làm việc tại ngân hàng trước đây, trong văn phòng có một viên chức người nước ngoài, vào ngày 1 tháng 4 hàng năm đều bày ra rất nhiều trò đùa ác, không bảo là đồng nghiệp nào đó hôm nay trúng độc đắc thì sẽ lại nói chiến tranh thế giới lần thứ ba nổ ra vào tối qua rồi, hóa ra ngày 1 tháng 4 là ngày nói dối của người nước ngoài.
                  Hôm nay chính là ngày 1 tháng 4.
                  Bác sỹ chiều nay tới, bố mẹ chồng đều rất lo lắng, Thanh Viễn cũng về nhà sớm hiếm thấy. Sau khi khám xét cẩn thận, bác sỹ vô cùng trịnh trọng nói với mình, mình đã có thai rồi.
                  Nghe thấy tin này, mình bỗng chốc ngây cả người ra, nửa ngày vẫn chưa phản ứng lại. Đột nhiên, mình hỏi nhỏ: “Đúng rồi, hôm nay là mùng 1 tháng 4, ông đang đùa tôi ngày lễ nói dối đúngko?”
                  Bác sỹ ngóc nghếch đáp: “Xin lỗi, thưa bà, ngày nói dối là cái gì?”
                  Mình bối rối cười cười rồi không nói thêm gì nữa. Nhưng tại sao lại nói với mình vào hôm nay, lẽ nào tất cả những thứ này đều là số phận đùa cợt mình?
                  Không, mình biết thế nào là có thai, và cũng biết mình sắp làm mẹ rồi, nhưng… mình không nói rõ được, chỉ là trong giây phút đó, tim vô cớ đập quá nhanh.
                  Thanh Viễn không hề để ý tới biểu hiện của mình, còn cha mẹ chồng cũng đều vô cùng vui mừng, bà nội rút cuộc cũng đã lộ ra nét mặt tươi cười, nắm lấy tay mình nói mãi không thôi. Khuôn mặt kín những nếp nhăn của bà giống như ngôi mộ cổ của hơn một nghìn năm trước, miệng bà lẩm bẩm phương ngữ vùng miền đông Chiết Giang, đến một từ mình nghe cũng không hiểu, cảm giác giống như đang niệm thần chú với mình vậy.
                  Họ dày vò mình cả một ngày, cho mãi tới tận nửa đêm mình mới được thảnh thơi ngồi trong phòng sách viết nhật ký. Mình nghĩ bây giờ có một hạt giống nho nhỏ ẩn trong bụng mình đang đâm chồi nảy lộc, nó sẽ dần dần lớn lên, sau đó tách khỏi cơ thể mẹ, nó sẽ giống ai nhỉ? Giống mình hay giống Thanh Viễn?
                  Mình nhẹ nhàng xoa bụng, thôi dừng bút tại đây vậy.
                  Nắng, ngày 3 tháng 4 năm Dân quốc 36
                  Hôm nay, lần đầu tiên quán trọ Hoang thôn tổ chức vũ hội.
                  Sau hai hôm biết tin mình có thai, Thanh Viễn quyết định phải ăn mừng linh đình, anh ấy mời tất cả những bạn bè trong giới làm ăn, tổ chức một vũ hội trong quán trọ Hoang thôn.
                  Đêm xuống, mọi khách quý đều đã tới, tất cả người giúp việc trong quán trọ Hoang thôn đều trở nên bận rộn, trang trí phòng khách cao sang diễm lệ. Thanh Viễn kéo mình tới trung tâm phòng khách, tuyên bố với mọi người tin vui mình sắp làm cha, trong tiếng vỗ tay hoặc là ngưỡng mộ hoặc là đố kị của mọi người, máy phát nhạc vang lên, vũ hội bắt đầu rồi.
                  Thanh Viễn từ trước tới nay vốn là cao thủ trên sàn nhảy, nghe nói là dáng nhảy của anh ấy đã làm say lòng không biết bao nhiêu thiếu nữ. Mình vốn không biết nhảy lắm, sau khi quen Thanh Viễn, anh ấy thương xuyên đưa mình tới Bách Lạc Môn, Thất Trùng Thiên, dưới sự dẫn dắt tỉ mỉ của anh ấy, kỹ năng nhảy của mình cũng khá lên nhanh chóng. Nhưng sau khi gả vào nhà Âu Dương, mình cũng không còn cơ hội khiêu vũ nữa, thậm chí Thanh Viễn bên ngoài có khiêu vũ cùng người phụ nữ khác hay không, mình cũng chẳng biết được.
                  Theo giai điệu “Biết bao năm tháng” vang lên, Thanh Viễn ôm lấy mình nhẹ nhàng khiêu vũ, âm nhạc dặt dìu dẫn bước, nhặt lại những tiết tấu đã lãng quên từ thủa nào. Trời ơi, mình lâu lắm rồi không có cảm giác thế này, chúng mình dính chặt vào nhau, cánh tay khỏe mạnh của anh ấy ôm lấy eo mình, mình nhẹ nhàng áp đầu lên vai anh ấy, cảm giác giống một chiếc thuyền nhỏ cập vào cảng.
                  Những người khiêu vũ xung quanh đều nhìn chúng mình không chớp mắt, chúng mình đã trở thành trung tâm của vũ hội. Tuy vậy, nhưng mình chẳng muốn làm hoàng hậu vũ hội gì đó, mình chỉ muốn là người đàn bà duy nhất mà Thanh Viễn yêu thương, mình lại ngẩng đầu lên nhìn vào mắt anh ấy, trong ánh mắt dịu dàng của anh ấy rõ ràng là có sự áy náy và báo đền. Đúng vậy, nửa năm nay mình đối với anh ấy đầy oán hận, đêm anh ấy không về, anh ấy không một lời hỏi thăm, trên người anh ấy có vết son phấn bên ngoài, bây giờ đều đã tan thành mây khói. Thanh Viễn, anh chắc chắn đã từng nghe những lời tâm sự của em, bất luận anh đã từng làm gì, em đều đã tha thứ cho anh rồi.
                  Đúng thế, chúng mình sẽ trở thành một đôi vợ chồng hạnh phúc, chúng mình sẽ sinh rất nhiều đứa con, quán trọ Hoang thôn cũng không còn cô đơn thanh vắng nữa, mà sẽ trở nên sống động tươi vui.
                  Âm u, ngày 25 tháng 5 năm Dân quốc 36
                  Mấy ngày trước mình đã từng nói trong nhật ký, cha mẹ chồng về quê một chuyến, đó là một nơi gọi là Hoang thôn, nghe nói là ở đó còn có một ngôi nhà cổ tên là Tiến Sỹ Đệ. Hôm qua lúc sẩm tối, cha mẹ chồng rút cuộc đã tức tốc về, hình như đem thứ gì đó quan trọng từ quê lên, để trong một chiếc cặp da to. Biểu hiện của họ nhìn mình rất kỳ quái, mình không biết xảy ra chuyện gì, chỉ biết xoa xao bụng theo phản xạ. Vóc dáng mình bắt đầu sưng phù lên, nhưng trong lòng mình vẫn rất vui, bởi vì con mình càng ngày càng lớn rồi.
                  Cha mẹ chồng và Thanh Viễn cứ thầm thì to nhỏ, giống như đang dấu mình thương lượng việc gì đó quan trọng, mình âm thầm có chút dự cảm đáng sợ. Cả ngày đều trốn trong phòng không ra ngoài, gần mười hai giờ đêm mình vẫn chưa dám ngủ. Lúc này, Thanh Viễn lại lôi minh ra, đưa mình tới một căn phòng trống. Cha mẹ chồng cũng đợi mình ở đây, họ đóng chặt cửa lại, bảo mình nằm lên bàn ở giữa phòng. Mình rất sợ không khí này, thực sự không dám nằm ra đấy, mẹ chồng liền tới trách mắng răn dạy mình vài câu. Cuối cùng, dưới sự khẩn cầu của Thanh Viễn,mình đành phải nằm ngửa lên bàn, giống như thai phụ sắp sinh đẻ.
                  Bố chồng mở chiếc cặp da đem từ dưới quê lên, lấy ra một chiếc rương hình như được làm bằng ngọc. Sau đó, Thanh Viễn cẩn thận rón rén mở chiếc rương, thò tay bưng ra một vật hình tròn. Thanh Viễn toàn thân run rẩy nói: “Đây là nhẫn ngọc sao?”
                  Mẹ chồng gật đầu nói: “Nhanh tiến hành đi, dù sao thì cũng phải tới bước này”.
                  Thanh Viễn từ từ đến bên cạnh mình, cầm lấy tay trái mình, chiếc nhẫn ngọc hiện ra trước mắt mình rõ mồn một, nó bằng ngọc màu xanh non, bên cạnh có một vệt đỏ đun bắt mắt, phát ra một thứ ánh sáng phản quang kỳ dị dưới ánh đèn. Mình lập tức dãy dụa ra, nhưng bị Thanh Viễn giữ chặt lại, hình như anh ấy nước mắt lưng tròng, anh nói nhỏ: “Nhược Vân, yên tâm đi, em không có chuyện gì đâu, giống như đeo một chiếc nhẫn vậy”.
                  Mắt mình nhìn vào ngón trỏ trên tay mình đang bị Thanh Viễn tóm chặt lấy không sao cử động nổi. Sau đó, anh ấy từ từ deo chiếc nhẫn lên ngón tay mình. Chiếc nhẫn ngọc lạnh toát, lập tức giống như một chiếc đai thắt chặt ngón trỏ của mình, một cảm giác kỳ lạ lập tức lan tỏa khắp người mình. Phút chốc, mình cảm nhận được thai nhi trong bụng kêu lên một tiếng, vậy là mình cũng khóc lóc hét lên. Nhưng Thanh Viễn vẫn sống chết giữ mình lại, cảm giác trên ngón tay khiến mình toàn thân kiệt quệ, không thể nào phản kháng lại được nữa.
                  Dưới ánh đèn mờ ảo, mình chỉ nhìn thấy bố chồng hài lòng gật đầu, khuôn mặt già nua giống như xác ướp của ông lắc lư trước mắt mình. Sau đó, mình nghe thấy những câu nói kỳ lạ phát ra từ mồm ông, đó rõ ràng không phải là tiếng nói của loài người, giống như đang niệm câu thần chú gì đó, liên tục không dứt vào tai mình. Âm thanh này có tiết tấu rất đặc biệt, giống như một loại ca dao cổ xưa, mình lập tức nhớ tới một quyển sách từng nói về một số vu ca tại nơi nào đó khi thi hành phép thuật. Không, âm thanh đáng sợ cổ xưa này rõ ràng muốn cướp đi giãy giụa, nhưng trong người không còn chút sức lực nào cả, mình chỉ biết khóc hu hu, nước mắt giàn giụa.
                  Trong ánh sáng lắc lư, mình nhìn thấy rõ Thanh Viễn và mẹ chồng vây quanh mình, họ vòng hết vòng này tới vòng khác, miệng lầm rầm niệm chú. Mọi vật trước mắt đều trở nên mờ ảo mông lung, mình dần dần không nhìn thấy rõ gì cả, không nghe thấy gì cả… Mình cảm giác bản thân giống như bị bắt tới một bộ lạc nào đó, bị trói chặt đem cống lễ trên bàn, những dã nhân này vây quanh mình hát hò nhảy múa, còn mình và con trở thành tế phẩm đáng thương.
                  Mình mất đi tri giác, sau đó xảy ra những gì, mình không biết được nữa.
                  Đợi tới khi mình tỉnh lại, đã là sáng hôm sau rồi, mình phát giác bản thân đang nằm trong phòng ngủ, Thanh Viễn lo lắng nhìn mình. Mình dụi mắt hỏi: “Tối hôm qua, em nằm mơ thấy mọi người đặt em lên bàn, vây quanh em hát hò nhảy múa…”
                  Thanh Viễn đành phải bối rối nói: “Vậy sao? Vì chỉ là một giấc mơ nên không cần lo lắng quá”.
                  Nhưng mình lập tức cảm thấy có vật gì đó trên ngón tay, mình giơ tay trái lên xem, chiếc nhẫn ngọc đó nghiễm nhiên đeo trên ngón trỏ của mình. Mình hét lên thất thanh: “Đây là cái gì? Tại sao nhẫn ngọc trong mơ lại đeo trên ngón tay em?”
                  Lúc này Thanh Viễn đã không còn gì để nói nữa rồi. Mình muốn rút chiếc nhẫn ra, nhưng bất luận mình dùng bao nhiêu sức, nhẫn ngọc vẫn kiên quyết dính chặt vào ngón tay mình, thậm chí còn càng lúc càng chặt, khiến ngón tay mình đau đớn khôn cùng. Cả một ngày, mình tìm đủ mọi cách để tháo chiếc nhẫn ngọc ra, nhưng nó giống như có sức sống vậy, không tài nào rút ra được.
                  Mình đau khổ truy vấn Thanh Viễn, còn anh ấy cười đau khổ không muốn trả lời. Mình lại cả gan đi hỏi cha mẹ chồng, họ mỉm cười, không ngừng an ủi mình, nói tối qua chỉ là tập tục của nhà Âu Dương mà thôi, là để cầu chúc bình an cho mẹ tròn con vuông. Còn về chiếc nhẫn ngọc thần kỳ, họ lại không nói nguyên nhân cho mình.
                  Lúc này, mình trốn trong phòng viết nhật ký này, mình chiếc nhẫn ngọc những chuyện xảy ra đêm hôm qua đều là thật, mình không hề nằm mơ thấy ác mộng. Không, nó còn đáng sợ hơn cả ác mộng, họ vây quanh mình hát hò nhảy múa vu ca(1) cổ xưa, còn cho mình đeo một chiếc nhẫn ngọc, và khi đeo nó lên thì sẽ không thể tháo nó ra được. Trời ơi, chồng mình và bố mẹ chồng rút cuộc đang làm gì? Nhà Âu Dương rút cuộc là người thế nào? Đến tận bây giờ, khi mình vuốt ve đứa con trong bụng bỗng cảm thấy đây là một sai lầm, kể từ ngày mình gả vào nhà Âu Dương trở đi đã là một sai lầm to lớn.
                  Không, mình phải làm sao bây giờ?
                  Nhiều mây, ngày 18 tháng 6 năm Dân quốc 36
                  Mình nhìn thấy ma.
                  Hôm qua, Thanh Viễn tối lại không về, bố mẹ chống cũng về quê, một mình mình ngủ trên tầng ba. Đến nửa đêm bỗng cảm thấy ngón tay đau nhức, hóa ra chiếc nhẫn ngọc thắt vào trong da thịt mình. Mình vuốt chặt ngón tay trỏ thì phát hiện ngoài hành lang sáng đèn. Mình nhịn đau bước ra khỏi phòng thì thấy không phải là ánh đèn, mà là một thứ ánh sáng trắng kỳ quái đang chiếu sáng một bóng đen tại cửa cầu thang.
                  Mình khẽ kêu lên một tiếng: “Thanh Viễn”.
                  Nhưng cái bóng đó không hề có chút phản ứng, mình lo lắng chạy lại, nhưng cái bóng đó đi xuống cầu thang. Kỳ lạ ở chỗ, ánh sáng trắng bước sau đều soi vào cái bóng đó, còn xung quanh đều là một vùng tối đen. Mình chầm chậm đi theo bóng đen xuống tầng hai thì mới nhìn rõ đó là một người đàn ông cao to, hình như không phải là Thanh Viễn. Người đàn ông đó lộ ra một bàn tay trắng toát đẩy cửa phòng. Mình cũng đi theo đến cửa thì nhìn thấy trong phòng có vài người treo cổ chết!
                  Mình sợ đến nỗi suýt nữa hét toáng lên, nhưng miệng lại không thốt ra được câu nào, hoảng sợ khiến mình gần như quên mất sự đau đớn trên ngón tay. Lúc này, mình rút cuộc đã nhìn rõ hơn người đàn ông đó, hóa ra là một ông tây, da dẻ trắng bợt, tóc màu hạt dẻ, mắt màu nâu, xem ra khoảng ngoài bốn mươi tuổi. Càng khiến mình sợ hãi ở chỗ, người chết treo cổ trong phòng cũng là người nước ngoài, một người đàn bà và ba đứa trẻ nhỏ, thân hình mềm oặt của họ treo trên không trung lắc lư qua lại, tóc dài xõa xượi xuống che lấp nửa khuôn mặt, bàn chân trần duỗi thẳng ra, xem ra họ đều đã ngừng thở rồi.
                  Ông tây nhìn cảnh tượng trước mắt cũng tuyệt vọng hét lên, nhưng kỳ lạ ở chỗ mình không nghe thấy bất cứ âm thanh nào, chỉ nhìn thấy chiếc miệng ngoác ra còn không biết đang kêu lên cái gì. Có lẽ, những người treo cp63 chết chính là vợ con ông ấy? Mình nghĩ bất cứ ai đến bước đường này cũng sẽ đều phát điên, mình không biết bản thân nên làm gì, chỉ còn cách hét to lên, nhưng người đàn ông đó không có bất cứ phản ứng gì. Mình trợn mắt nhìn ông ta đứng lên chiếc ghế, sau đó thòng một sợi dây đang treo trên không vào cổ.
                  Lập tức, ánh sáng trắng rọi sáng khuôn mặt ông ấy, vả biểu cảm đó thật kỳ lạ, miệng thậm chí còn mỉm cười, dường như là một sự giải thoát của số phận. Sau đó, ông ấy đạp chiếc ghế xuống, chiếc dây treo thắt chặt vào cổ ông ấy, cả thân hình đều treo trên không trung. Đột nhiên, đôi chân ông ấy giãy đạp loạn xạ, dáng vẻ vô cùng đau khổ, đôi tay lắc lư yếu ớt, lẽ nào ông ấy đang hối hận vì đã treo cổ?
                  Đúng lúc này, một vùng ánh sáng chói mắt bắt đầu lóe lên trên đỉnh đầu lập tức khiến mình nhắm nghiền mắt lại. Đợi tới lúc mình mở mắt ra, mọi thứ trước mắt đều đã biến đổi rồi. Mấy người tây treo cổ chết đều biến mất, căn phòng thu dọn rất gọn gàng sạch sẽ, mấy nữ giúp việc chạy tới, họ đang hoảng loạn vây lấy mình.
                  Mình không dám tin vào mắt mình nhưng trong phòng thực sự không có người nước ngoài nào cả, mấy sợi dây treo cổ cũng không tồn tại nữa, chỉ có một chiếc xà nhà vắt xuyên qua. Những nữ giúp việc nói ban nãy họ nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của mình nên liền chạy lên bật đèn, phát hiện mình đang vô cùng hoảng sợ đứng ở đây.
                  Nhưng mình vẫn không thể tin được, kể cho họ nghe về cảnh tượng khủng khiếp vừa nhìn thấy ban nãy, những nữ giúp việc đều lắc đầu, nhìn từ biểu hiện của họ cho thấy, chắc là nghĩ mình bị điên rồi?
                  Lúc này, một chị giúp việc lớn tuổi nhớ ra, chị ấy từng nghe kể mấy năm trước, có một gia đình người Pháp sống trong ngôi nhà này. Sau khi quân đội Nhật chiếm lĩnh khu phố tây của Thượng Hải, muốn đưa hết người Âu Châu vào trại tập trung, vài quân Nhật xông vào căn nhà đã làm nhục vợ của chủ hộ người Pháp. Vậy là gia đình này đã không chịu nổi sự ô nhục đó nên đã cùng nhau treo cổ tự tử trên căn phòng tầng hai.
                  Trời ơi, mình đã nhìn thấy ma?
                  Đúng, ban nãy mình đã nhìn thấy gia đình người Pháp này, nhìn thấy cảnh tượng họ treo cổ tự tử, nhưng tại sao chỉ có mỗi mình mình nhìn thấy? Bỗng nhiên mình nghĩ tới chiếc nhẫn ngọc, nghĩ tới nghi thức đáng sợ đó, nghĩ tới khuôn mặt như xác ướp của cha mẹ chồng…
                  Không, mình không dám nghĩ tiếp nữa, có lẽ quán trọ Hoang thôn vốn dĩ là một ngôi nhà ma?
                  Nhật ký hôm nay viết tới đây thôi.
                  Mưa to, ngày 19 tháng 6 năm Dân quốc 36
                  Đang mưa to như trút nước ngoài cửa sổ.
                  Hôm nay mình không thể chịu đựng được nữa, mình hạ quyết tâm nhất định phải hỏi rõ nguyên nhân, nếu không thì mình sẽ phát điên mất. Tạ ơn trời đất, hôm nay rút cuộc Thanh Viễn đã về nhà sớm, nhân cơ hội bố mẹ chồng không ở nhà, mình kéo anh ấy vào trong phòng ngủ. Mưa to ngoài cửa sổ khiến Thanh Viễn cảm thấy sốt ruột, anh ấy đi đi lại lại giống như một phạm nhân đang bị thẩm vấn.
                  Mình run rẩy hỏi: “Anh có còn yêu em không?”
                  “Hỏi cái này làm gì?” Anh ấy quay người lại, nhìn ra phía cửa sổ đang ướt mưa.
                  “Tại sao đeo nhẫn ngọc lên tay em, tại sao lại hát vu ca với em, tại sao em lại nhìn thấy ma?”
                  “Bởi vì em là con dâu nhà Âu Dương”. Thanh Viễn quay đầu lại, biểu hiện của anh ấy thật kỳ lạ, giống như đang đứng giữa sự phải trái. Mình suy nghĩ sâu xa vài phút, anh ấy rút cuộc cũng thốt ra một câu: “Thực ra, việc này sớm muộn gì anh cũng phải nói với em, chỉ lo em cảm thấy sợ hãi nên mới không dám nói ra”.
                  “Rút cuộc là việc gì? Chúng ta là vợ chồng, còn có gì không thể nói sao?”
                  Thanh Viễn ngập ngừng hồi lâu, chậm rãi nói: “Bí mật của Hoang thôn”.
                  “Bí mật? Hoang thôn có bí mật gì?”
                  “Em có biết lịch sử của gia tộc Âu Dương chúng ta không?” Thanh Viễn hít một hơi thật sâu, ánh mắt cũng trở nên dị dạng, “Lịch sử toàn là bỡn cợt con người, nhà sử học luôn nói rằng Trung Quốc có năm nghìn năm lịch sử, khởi nguồn từ mặt đất trung nguyên cổ xưa. Nhưng nhà sử học vốn không biết, ở vùng quê hương sông nước Giang Nam cách đây năm nghìn năm, vẫn còn tồn tại một vương quốc cổ kính”.
                  “Anh không phải là nhà sử học, làm sao anh biết được?”
                  Thanh Viễn lạnh lùng cười: “Anh đương nhiên biết, em nghe anh nói trước đã. Giang Nam hơn năm nghìn năm trước, vốn là vùng ao hồ thuộc thời nguyên thủy mộng mị. Chính trong thời kỳ hoang dã trước bình minh này, bỗng nhiên xuất hiện những thiên thần trong truyền thuyết, họ đến từ đại dương mênh mông, điều khiển những chiếc thuyền độc mộc to lớn, đổ bộ lên bờ biển tại một vùng hoang dã, nơi đó chính là Hoang thôn ngày nay”.
                  “Em hiểu rồi, Hoang thôn chính là nơi các thiên thần đổ bộ lên bờ biển?”
                  “Đúng, nhưng đây không phải là thần thoại, mà là sự thật lịch sử. Những thiên thần đến từ một nơi vô cùng xa xôi, nôi xa xôi đó vô cùng thần bí đến nỗi từ trước tới nay chưa từng có người nào đặt chân tới. Nhưng những thiên thần và nhân loại giống nhau về hình dạng, họ nhanh chóng phát hiện ra mảnh đất này rất phù hợp với mình nên định cư lại trên bờ biển hoang sơ này”. Thanh Viễn lại im lặng hồi lâu, có chút đau khổ nói: “Nhưng điều quan trọng hơn, họ đã phát hiện ra một thứ vô cùng quan trọng tại gần bờ biển hoang sơ này”.
                  “Thứ gì vô cùng quan trọng?”
                  “Cái này anh cũng không rõ, bởi vì bí mật này quá quan trọng, chỉ có một mình cha anh biết. Cha đã từng nói, chỉ khi nào ông hấp hối thì mới nói cho anh biết bí mật này”.
                  Mình bỗng nhiên cảm thấy lành lạnh, ôm lấy vai nói: “Thế thì nói về những thiên thần đó vậy”.
                  “Được, các thiên thần sống ở vùng đất hoang sơ bên bờ biển một thời gian thì vượt qua những dãy núi trùng điệp khởi hành về hướng bắc, họ phát hiện ra một vùng đất màu mỡ, đây chính là đồng bằng Giang Nam cổ xưa. Vậy là, các thiên thần đã chinh phục các cư dân địa phương, kiến lập lên một vương quốc hùng mạnh và thịnh vượng, vương quốc này tên là Cổ Ngọc Quốc.”
                  “Cổ Ngọc Quốc?”
                  “Đúng, bởi vì họ rất thích dùng đồ ngọc, bất luận là trong cuộc sống thường nhật hay là trong tôn giáo thờ cúng, đồ ngọc đều là thức không thể thiếu. Nhưng vương tộc của Cổ Ngọc Quốc, cũng chính là hậu duệ của những thiên thần, không những nắm bắt được kỹ thuật chế tác đồ ngọc, mà còn có thể tận dụng sức mạnh thần bí của ngọc để sáng tạo những kỳ tích mà trong thời đó không thể có”.
                  “Sức mạnh thần bí của ngọc? Em không hiểu”.
                  “Nhìn xem chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay em là sẽ hiểu".
                  Mình cúi đầu nhìn chiếc nhẫn ngọc, lập tức hiểu ra thế nào là “sức mạnh thần bí”, đúng vậy, nó giống như sinh mệnh của mình vậy, có thể bám chặt cứng vào ngón tay mình, có lẽ nó vẫn còn có nhiều sức mạnh hơn nữa.
                  Thanh Viễn tiếp tục nói: “Bởi vì vương tộc của Cổ Ngọc Quốc có thể nắm vững và tận dụng sức mạnh của đồ ngọc, khiến đất nước của họ nhanh chóng phát triển hùng mạnh và thịnh vượng, sáng tạo ra văn minh cổ đại huy hoàng xung quanh khu vực Thái hồ. Họ thậm chí còn xây dựng lên một thành phố, có cung điện khí chất hùng vĩ, tế đàn và điện thần khổng lồ, còn có cả lăng mộ vua chúa sâu trong lòng đất. Thứ quan trọng nhất trong Cổ Ngọc Quốc chính là ngọc, một lượng lớn đồ bằng ngọc được chế tác tinh xảo, còn hậu duệ của những thiên thần – vương tộc lại nắm vững những bí mật cáo nhất của ngọc”.
                  “Bí mật cao nhất của ngọc là gì?”
                  "Cái này anh cũng không biết rõ, nhưng bí mật cao nhất đó thực sự tồn tại. Được rồi, bây giờ nói tiếp về vương tộc đó. Cổ Ngọc Quốc là vương quốc được thống trị bởi một nữ vương. Rất kỳ lạ đúng không? Càng kỳ lạ hơn nữa, nữ vương vốn không phải là do cha truyền con nối mà là một thiếu nữ được chọn ra trong vương tộc để kế tục ngôi báu nữ vương. Nữ vương này chiếm giữ quyền tôn giáo, cũng chính là đại tế lễ của Cổ Ngọc Quốc”.
                  “Người phụ nữ như thế thật sự khiến người ta ngưỡng mộ”.
                  Nhưng Thanh Viễn lắc đầu nói: “Không, nữ vương vốn không có quyền lực thực sự, các vương tộc mới là khống chế toàn bộ, còn nữ vương bắt buộc phải giữ gìn trinh tiết cả đời, nếu không thì sẽ phải tự sát tạ tội”.
                  “Nữ vương bắt buộc cả đời là trinh nữ? Quy định này hoang đường làm sao?”
                  "Đúng là có chút hoang đường, nhưng đối với Cổ Ngọc Quốc thời đó mà nói, sứ mệnh đầu tiên của nữ vương là tế tự, bởi vậy bắt buộc phải là một người con gái thuần khiết, nếu không thì sẽ xúc phạm tới thiên thần tổ tiên”.
                  “Cô ấy thật đáng thương”.
                  “Sự phồn vinh của Cổ Ngọc Quốc kéo dài khoảng một nghìn năm. Nhưng sức mạnh thần kỳ nào đi chăng nữa cũng không thể ngăn chặn sự suy vong của nó, bởi vì đây là một quy luật tự nhiên, bất cứ nền văn minh nào đột nhiên phát triển cũng đều đột nhiên tiêu vong. Cổ Ngọc Quốc cũng không ngoại lệ, nó bị quấy rối bởi thù trong giặc ngoài, thù trong là lũ lụt kéo dài hàng trăm năm, nước Thái hồ dâng trào thành tiên tai, nhấn chìm ruộng đất và thành thị. Giặc ngoài lại là sự xạm lược của những bộ lạc lân cận, họ tuy lạc hậu nhưng dũng cảm và thiện chiến, vương tộc của Cổ Ngọc Quốc đã bị cuộc sống xa hoa làm cho thối nát từ lâu, tuy có sức mạnh thần bí của ngọc khí nhưng cũng không thể kháng cự được giặc ngoài”.
                  Mình gật đầu, cướp lời hỏi: “Cổ Ngọc Quốc đã diệt vong như vậy sao?”
                  "Không, Cổ Ngọc Quốc diệt vong do một người đàn bà. Vào khoảng bốn nghìn năm trước, Cổ Ngọc Quốc có một nữ vương tuyệt sắc giai nhân, tuy cô ấy biết rõ mình phải giữ gìn trinh tiết suốt đời nhưng vẫn yêu một nô lệ trẻ”. Tình yêu của nữ vương và nô lệ?”
                  “Bây giờ xem ra rất lãng mạn đúng không? Nhưng với Cổ Ngọc Quốc thời đó lại là một hành động đại nghịch bất hiếu xâm phạm tổ tiên. Nhưng nữ vương kiên quyết giữ lấy tình yêu của mình và đã phát sinh quan hệ với người đàn ông mình yêu. Sau đó, quan hệ của họ bị vương tộc phát hiện, căn cứ vào quy tắc của tổ tiên, nữ vương bắt buộc phải tự sát để gột rửa tội ác.”
                  Mình chỉ cảm thấy trong lòng đau nhói: “Cô ấy có chết không?”
                  “Đúng, nữ vương xinh đẹp đã tự tử vì tình, dùng một con dao găm cắt cổ họng. Lời tiên đoán của cô ấy trước khi chết: Cổ Ngọc Quốc sẽ diệt vong một năm sau đó. Lúc cô ấy chết, trên tay có đeo một chiếc nhẫn ngọc, máu đỏ tươi đã nhuộm lên mặt nhẫn, lau thế nào cũng không sạch. Các vương tộc đều bị cái chết của nữ vương làm cho chấn động, họ cảm thấy án náy và cắn rứt nên đã đem chiếc nhẫn ngọc có dính máu tươi của nữ vương thành dị vật cao nhất dâng tế lên vương tộc. Bởi vậy, nỗi ai oán về cái chết của nữ vương đã được gửi gắm trong chiếc nhẫn ngọc, chứa đựng một sức mạnh thần kỳ”.
                  Nghe tới đây, mình lập tức giơ tay trái lên, chiếc nhẫn ngọc đó đang phát ra ánh sáng quái dị. Đúng vậy, vệt đỏ đun trên chiếc nhẫn không phải là máu tươi của nữ vương bi thảm sao?
                  Thanh Viễn nắm lấy tay mình, tiếp tục nói: “Quả nhiên, một năm sau khi nữ vương tự sát, Cổ Ngọc Quốc đã bị nước khác lớn mạnh hơn chiếm lĩnh, giết sạch hầu hết cư dân, phóng hỏa hủy diệt thành thị và cung điện, văn minh Cổ Ngọc Quốc bị hủy diệt triệt để, thậm chí còn không để lại bất cứ vết tích nào trong sử sách. Nhưng có một số vương tộc sống sót lại, họ mang chiếc nhẫn ngọc của nữ vương tháo chạy tới bờ biển hoang vu mà trước đây tổ tiên đổ bộ lên bờ”.
                  “Cũng chính là Hoang thôn ngày nay?”
                  "Đúng, những người này chạy tới Hoang thôn ngày nay, trên lãnh thổ mà tổ tiên trước đây đổ bộ lên, sống cuộc sống ẩn dật. Họ tiếp tục duy trì phương thức sống cổ xưa, hết đời này qua đời khác sống bên bờ biển hoang vu phong kín đó. Sau triều Nam Bắc, họ liền lấy họ là Âu Dương, trở thành đại tộc của vùng đất đó, nhưng vẫn không giao tiếp với thế giới bên ngoài. Mãi tới tận đời Minh mới có một vị đỗ tiến sỹ, sau đó được ngự giá phong tặng tấm bia tiết hạnh”. Cuối cùng, Thanh Viễn thở phào như trút hết được gánh nặng trong người, buồn bã nói: “Bây giờ em chắc là đã hiểu lịch sử của gia tộc Âu Dương chúng ta rồi chứ?”
                  Lúc này, mưa ngoài cửa sổ đã ngớt dần, mình nhìn vào mắt Thanh Viễn, run rẩy hỏi: “Anh nói là… gia tộc Âu Dương là hậu duệ của vương tộc cổ đại?”
                  “Không sai, gia tộc của anh là hậu duệ của vương tộc Cổ Ngọc Quốc năm nghìn năm trước. Những người trong gia tộc anh từ khi sinh ra đã không giống với người khác, những việc này không được để cho người ngoài biết, nếu ai tiết lộ bí mật của gia tộc thì nhất định sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc nhất”.
                  “Đây chính là bí mật của Hoang thôn? Vậy còn chiếc nhẫn ngọc thì sao? Tại sao phải đeo nó lên tay em?”
                  “Bởi vì đây là quy tắc của gia tộc nhà anh, mấy nghìn năm nay đều như vậy. Chiếc nhẫn ngọc này đã nhuốm máu của nữ vương cuối cùng, máu cũng đại diện cho sinh mệnh của nữ vương, bởi vậy chiếc nhẫn ngọc chứa đựng sức mạnh thần bí, nó có thể cho em nhìn thấy những thứ mà người khác không thể nhìn thấy được, và cũng có thể phù hộ bình yên cho em. Vì thế, khi con dâu nhà Âu Dương có thai thì sẽ bắt buộc phải đeo chiếc nhẫn ngọc này lên, đây là thánh vật của gia tộc, ẩn giấu bí mật của nguyên cổ, và sẽ khiến đứa trẻ trong bụng em khác với những người thường. Khi đeo chiếc nhẫn ngọc này lên, đồng thời những thành viên trong tộc còn phải cử hành những nghi lễ đặc biệt cho thai phụ, hát những bài vu ca từ thời xa xưa lưu truyền lại, đó cũng là để phù hộ bình an cho mẹ con em”.
                  “Nhưng, chiếc nhẫn ngọc đeo lên tay là không thể tháo ra được nữa”.
                  Thanh Viễn mỉm cười nói: “Không việc gì đâu, đợi em sinh con ra, chiếc nhẫn ngọc sẽ tự động tháo ra. Sau đó, gia đình anh sẽ mang nhẫn ngọc về Hoang thôn, cất giấu tại một nơi bí mật trong ngôi nhà cổ của gia đình anh. Nhược Vân, xin em nhất định phải ghi nhớ, chiếc nhẫn ngọc này là thánh vật quan trọng nhất của gia tộc anh, tuyệt đối không được làm mất, không được nói cho người khác biết bí mật này”.
                  “Vì thế anh mới không dám nói những chuyện này cho em biết, đúng không?”
                  “Đúng, nhưng làm con dâu của nhà Âu Dương, em cũng nên biết những bí mật này. Bây giờ, anh đã kể hết rồi, cũng coi như là hoàn thành tâm nguyện của mình”. Thanh Viễn đột nhiên xoa bụng mình nói, “Nhược Vân, em gả vào nhà Âu Dương, cũng là một thành viên của gia tộc anh. Bất luận thế nào, em bắt buộc phải tuân thủ quy tắc của gia tộc, nếu không thì sẽ xảy ra bi kịch”.
                  Tim mình lập tức đập thình thịch: “Bi kịch?”
                  Thanh Viễn hình như nói tới điều gì đó cấm kị, biểu hiện rất bối rối nói: “Đừng sợ, bây giờ có chiếc nhẫn ngọc phù hộ cho em, nó sẽ giúp em sinh con ra bình an, anh tin rằng mọi việc sẽ đều rất viên mãn”.
                  Tiếp đó, anh ấy nói rất nhiều câu an ủi mình, nhưng lòng mình rối như tơ vò, không thốt nên được lời nào.
                  Đợi sau khi Thanh Viễn ngủ rồi, mình lặng lẽ vào phòng khách, mở nhật ký của mình ra. Mưa rơi ngoài cửa sổ khiến mình cảm thấy tâm trạng rối bời, giờ đây mình cũng là thành viên của gia tộc cổ xưa này? Nhưng đây là sự lựa chọn của bản thân mình sao? Sinh ra là đàn bà thì nhất định sẽ như vậy sao?
                  Có lẽ không có ai tin nổi những gì mình và Thanh Viễn nói ban nãy, mình đều nhớ rõ từng từ một, lúc này mình đã ghi chúng lại không sai lấy một từ, chắc đây cũng là trang nhật ký dài nhất của mình.
                  Âm u, ngày 2 tháng 12 năm Dân quốc 36
                  Trải qua hơn chín tháng sau, mai là ngày dự định sinh con của mình. Thanh Viễn mời bác sỹ giỏi nhất Thượng Hải cho mình, sáng mai sẽ tới nhà để trông mình, bố chồng nói chỉ cần có chiếc nhẫn ngọc ở đây, đứa bé sẽ sinh hạ thuận lợi.
                  Lúc này, mình nằm một mình trong phòng ngủ, Thanh Viễn ngủ phòng bên cạnh, anh ấy nói hễ có động tĩnh là sẽ chạy sang ngó mình. Nhân lúc rãnh rỗi này, mình lấy ngay cuốn nhật ký ra, vác bụng bầu viết nhật ký thật là chẳng dễ dàng chút nào. Nhưng mình vẫn phải viết ra đây, bởi vì ngày mai con của mình ra đời rồi, mình sẽ trở thành một người mẹ đúng nghĩa. Thế nên, mình muốn ghi lại tâm trạng bản thân trong thời khắc này.
                  Nhưng, cảm giác trong lòng mình lúc này thực sự rất kỳ lạ, không hề có bất cứ niềm vui nào của người sắp làm mẹ. Tuy mình cũng đã từng nghe nói, phụ nữ đẻ con so trước khi sinh đều căng thẳng, nhưng mình không cảm thấy vậy. Mình từ trước tới nay đều không lo lắng quá trình sinh con, mình chỉ lo lắng cho tương lai của mình và con. Nhớ lại bí mật của nhà Âu Dương, còn cả cha mẹ chồng, tim mình bất giác đập nhanh một cách vô cớ, mình không biết cảm giác này sẽ còn duy trì bao lâu nữa, biết đâu sẽ là cả đời.
                  Đêm qua, mình nằm mơ thấy ác mộng, mơ thấy mình sinh ra không phải là đứa trẻ mà là một viên ngọc đá màu xanh được tạc thành hình dạng thai nhi. Khi tỉnh dậy trong cơn ác mộng, mình cảm thấy toàn thân mướt mồ hôi, mình biết điều đó sẽ không thể trở thành hiện thực, nhưng đây đã là cơn ác mộng thứ chín trong nửa tháng nay của mình.
                  Viết tới đây, mình giơ tay trái lên, vệt đỏ đun trên nhẫn ngọc đang phát ra ánh sáng mờ ảo, đó là máu của nữ vương hơn bốn nghìn năm trước, cô ấy cũng đang nhìn mình sao?
                  Nắng, ngày 10 tháng 12 năm Dân quốc 36
                  Bảy ngày trước, con trai mình chào đời.
                  Thật khó mà hình dung được sự đau đớn lúc trở dạ, phải chăng mình đã sinh được một bé trai khỏe mạnh, thằng bé rất giống Thanh Viễn, xem ra nó thừa hưởng rất nhiều gien di truyến của gia tộc Âu Dương. Thanh Viễn đặt tên cho con trai là Gia Minh, hy vọng nó có thể phát huy truyền thống của nhà Âu Dương.
                  Lúc mình ôm Gia Minh, nhìn khuôn mặt xinh xắn của nó, nước mắt mình đã rơi xuống. Nhìn xem, nó chẳng mấy chốc là biết ăn sữa, mình nhẹ nhàng hôn con, mong rằng nó sẽ trưởng thành thuận lợi, hạnh phúc viên mãn như những đứa trẻ khác, đây đều là mong muốn chung của tất cả những bà mẹ.
                  Ngày thứ hai sau khi sinh Gia Minh thì phát hiện ra chiếc nhẫn ngọc đã tuột khỏi tay mình, xem ra Thanh Viễn nói kosai, nó đã hoàn thành xong sứ mệnh của mình. Thanh Viễn lấy đi chiếc nhẫn ngọc, nói là giao lại cho bố mẹ chồng, họ sẽ đem nhẫn ngọc trở lại nhà ở Hoang thôn.
                  Mình đã bảy ngày không viết nhật ký rồi, nhân cơ hội này trong phòng không có ai, mình lặng lẽ lấy cuốn nhật ký ra, nằm trên giường ghi lại cảm giác của mình sau khi làm mẹ.
                  Mưa nhỏ, ngày 5 tháng 4 năm Dân quốc 37
                  “Thanh minh lất phát mưa phùn. Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa”.
                  Lúc này, ngoài cửa sổ đang mưa nhỏ làm mình nhớ lại bài thơ này.
                  Hôm nay là tiết Thanh minh, vốn là phải về quê tảo mộ, nhưng do Gia Minh mới sinh được vài tháng, thế nên trong nhà không tiến hành nghi thức tế lễ. Thanh Viễn nhân cơ hội bố mẹ có nhà, mời nhiếp ảnh gia tới chụp một bức ảnh cả gia đình.
                  Địa điểm chụp ảnh chọn dưới tầng trệt, trong căn phòng đặt chiếc đàn dương cầm, sau khi bố trí xong đèn, mình và Thanh Viễn, cha mẹ chồng đều sắp xếp xong xuôi vị trí. Gia Minh được ôm trong lòng mình. Nhiếp ảnh gia muốn khuôn mặt chúng mình tươi cười, nhưng chúng mình đều không tài nào làm ông ấy hài lòng được, cuối cùng, ông ấy đành phải chụp một bức ảnh gia đình toàn vẻ mặt nghiêm nghị.
                  Lúc đối diện với ống kính máy ảnh, mình chỉ cảm thấy khủng hoảng và sợ hãi, con trai trong lòng cũng bật khóc, giống như bị lấy mất linh hồn vậy. Mình biết đây là ảo giác của bản thân, nhưng gần đây ảo giác của mình càng lúc càng mãnh liệt, mình thường thấy những cảnh tượng đáng sợ trong giấc mơ, mình mơ thấy con của mình biến thành dơi hút máu, treo lộn ngược trên xà nhà: mình mơ thấy chồng mình, miệng mọc ra răng nanh nhỏ máu, bò lên hút máu trên cổ mình; mình mơ thấy bố chồng biến thành một xác ướp đời nhà Thanh, giơ đôi tay ra nhảy nhảy từng bướ; mình mơ thấy mẹ chồng lộ ra bộ xương trắng toát, bò ra từ trong quan tài.
                  Đúng, những cơn ác mộng mấy tháng nay không ngừng đeo bám mình, khiến mình không còn bất cứ niềm vui mới làm mẹ nào, chỉ có duy nhất sự hoảng sợ vả tuyệt vọng.
                  Âm u, ngày 6 tháng 4 năm Dân quốc 37
                  Sáng sớm hôm nay, cha mẹ chồng về quê rồi. Thanh Viễn cũng đến công ty, mãi tới tận tối vẫn chưa về nhà. Đợi sau khi Gia Minh ngủ, một mình mình xuống tầng trệt, mở chiếc đàn dương cầm của mình ra.
                  Lâu lắm rồi không đánh đàn dương cầm, lúc mình chạm vào những phím đàn đã không kìm được nước mắt. Vẫn là giai điệu “Cho tới tận mãi mãi” của Liszt, bây giờ giai điệu này đối với mình càng quan trọng hơn nữa, mình chỉ có thể nói là đàn dương cầm chính là thứ duy nhất để mình trút bầu tâm sự. Đúng vậy, chỉ trước cây đàn, trong giai điệu của Liszt, mình mới cảm thấy vui vẻ, mới cảm thấy chính mình, mình là một người đàn bà tên là Nhược Vân, chứ không phải chỉ là con dâu của nhà Âu Dương.
                  Đúng lúc mình đang chìm đắm trong tiếng dương cầm thì bỗng phát hiện ra Thanh Viễn đã đứng sau lưng mình từ lâu. Sắc mặt anh ấy xem ra rất không ổn,hình như có uống chút rượu, anh ấy bảo mình đừng đánh đàn nữa, vĩnh viễn không được đánh, bởi vì anh ấy ghét dáng vẻ của mình khi đánh đàn. Cuối cùng, mình đã không thể nào chịu đựng được nữa, mình nói trừ khi mình chết đi nếu không thì mình sẽ không bao giờ từ ỏ đàn dương cầm. Nhưng mình không ngờ rằng, anh ấy lại tát mình một bạt tai.
                  Mình sờ lên má vừa bị Thanh Viễn tát, nước mắt không kìm nén được lã chã rơi. Kết hôn với anh ấy hơn một năm, tuy anh ấy lạnh nhạt với mình, nhưng từ trước tới nay chưa từng đánh mình, cảm giác nhục nhã lúc này khiến mình nghĩ tới cái chết. Thanh Viễn hình như cũng đã tỉnh táo lại, anh ấy sợ hãi ôm lấy mình, nhỏ nhẹ xin lỗi mình, nhưng mình chỉ đáp lại anh ấy bằng sự im lặng.
                  Sau đó, Thanh Viễn cũng bắt đầu thút thít khóc, anh ấy hình như đang chìm đắm trong thế giới của chính mình, tự mình lẩm bẩm nói: “Em đừng khóc nữa, thực sự lòng anh còn đau đớn hơn em. Em không biết, anh là con trai của vợ thế”.
                  Mình rút cuộc đã lên tiếng: “Vợ thế là gì?”
                  Vậy là Thanh Viễn đã kể hết lại cho mình, hóa ra “vợ thế” là một phong tục của miền đông Chiết Giang, những nhà khá giả không có con trai, bỏ tiền “thuê” vợ nhà người nghèo để sinh con. Năm đó, cha của Thanh Viễn tới trung niên mà vẫn chưa có con nên đã bỏ tiền mời một vợ thế đến nhà, sau đó sinh hạ được Thanh Viễn. Vợ thế luôn nhớ nhung người chồng và người con của mình, trong một lần bỏ trốn khỏi Hoang thôn đã bị bắt giữ lại rồi bị trừng phạt bằng cách dìm xuống giếng, tức là bị quẳng xuống giếng chết ngạt. Thực ra, hồi đó gia đình Âu Dương giết chết mẹ của anh ấy là do lo sợ bà sau khi trốn thoát khỏi Hoang thôn sẽ tiết lộ bí mật của gia tộc Âu Dương ra ngoài, thế nên mới dìm bà xuống giếng, thực tế là giết người diệt khẩu.
                  Thực ra trong lòng Thanh Viễn rất hận cha anh ấy, bởi vì cha đã giết mẹ để của anh. Nhưng tất cả những điều này đều vì bí mật của gia tộc Âu Dương, ai cũng không được phép vi phạm quy tắc của tổ tiên, bất luận đau khổ đến nhường nào cũng bắt buộc phải chịu đựng.
                  Hóa ra Thanh Viễn vốn không phải là con đẻ của mẹ chồng, trong lòng mình cũng cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Trở lại phòng sách trên gác, mình vội vã viết nhật ký ngày hôm nay. Nhà Âu Dương chỉ vì giữ bí mật mà có thể giết chết mẹ của Thanh Viễn, vậy thì không biết có giết chết mình không nữa?
                  Nhiều mây, ngày 10 tháng 4 năm Dân quốc 37
                  Hôm nay, tinh thần của mình xấu tới đỉnh điểm bởi vì đàn dương cầm của mình không thể đánh được nữa rồi. Mình mở chiếc đàn ra kiểm tra mới phát hiện ra có bộ phận trong đó đã bị đập nát, nhìn bộ phận đập nát thảm hại này, lòng mình đau đớn vô cùng. Chiếc đàn này là quà tặng mà mẹ mua tặng mình, là của hồi môn của nhà mẹ đẻ cho mình, nó thậm chí còn quan trọng hơn cả sinh mệnh.
                  Buổi tối, mình ép Thanh Viễn vào căn phòng trên tầng hai, anh ấy thừa nhận là anh ấy đập vỡ đàn dương cầm để mình không còn vương vấn gì tới nhà mẹ đẻ. Nhưng mình vẫn không sao tin nổi, người chồng mà mình đã từng yêu sâu đậm đã đập vỡ món quà quan trọng nhất của cuộc đời mình, tim mình bị anh ấy đập vỡ vụn rồi. Từ ngày vào quán trọ Hoang thôn tới nay, mình đã nhẫn nại quá lâu nhưng mình không thể tha thứ cho Thanh Viễn khi anh ấy đã ra tay với chiếc đàn của mình. Vậy là mình phát tiết ra tất cả những đau khổ trong lòng, nước mắt giàn giụa, tim như bị dao đâm.
                  Nhưng Thanh Viễn lại tỏ ra vô cùng bình tĩnh, anh ấy lạnh lùng nói: “Nhược Vân, gả vào nhà Âu Dương chúng ta thì phải sống một cuộc sống khác, hãy quên hết thế giới bên ngoài đi”.
                  “Tại sao những việc người khác có thể làm, các người lại không làm được? Lẽ nào các người không phải con người sao?”
                  Thanh Viễn từ từ gật đầu: “Không sai, bọn anh không phải là con người”.
                  Lời của anh ấy khiến mình kinh ngạc, biểu hiện nghiêm túc của anh ấy cho thất, tuyệt đối không thể là đang đùa cợt, mình run rẩy hỏi: “Không phải người? Thì là gì chứ?”
                  “Nghe anh nói, gia tộc Âu Dương của bọn anh không giống với con người bình thường. Anh đã kể tổ tiên của anh năm nghìn năm trước là vương tộc thống trị Cổ Ngọc Quốc Giang Nam, họ vốn không phải là cư dân của đại lục này mà đến từ một nơi vô cùng xa xôi và thần bí. Tóm lại là, gia tộc của bọn anh là một chủng loại khác, trong huyết mạch của bọn anh, vẫn đang chảy dòng máu của tổ tiên Cổ Quốc Ngọc năm nghìn năm trước, mục đích sinh tồn của bọn anh là để gìn giữ bí mật của gia tộc”.

                  Mình lại ngạc nhiên tới mức sững sờ, lẽ nào chồng mình cũng không phải là người sao? Không, mình nghĩ Thanh Viễn phát điên rồi, mình không thể sống với người điên này. Rút cuộc, mình cả gan nói: “Thanh Viễn, chúng ta li hôn đi”.
                  “Em nói gì?” Thanh Viễn giống như đang nghe lầm vậy.

                  “Em nói em muốn li hôn với anh”. Mình nước mắt lưng tròng nói. “Thanh Viễn, em đã từng nói yêu anh nhưng em không thể tiếp tục sống cùng anh được nữa. Em không thể trở thành vật hy sinh cho gia tộc anh, ngôi nhà này vốn dĩ là một cái lồng, là một địa ngục nuốt chửng linh hồn con người. Hơn nữa, em phải mang theo con trai em đi, bất kể trong huyết mạch của nó đang mang dòng máu của ai, nhưng nó phải được sở hữu nhân sinh và hạnh phúc giống như những đứa trẻ khác. Em yêu con trai Gia Minh của em, em tuyệt đối không thể để nó sống trong bóng tối của gia tộc, nó có quyền được hạnh phúc”.

                  Thanh Viễn lắc đầu, dữ dằn nói: “Em điên rồi sao? Từ trước tới nay, chỉ cần gả vào nhà Âu Dương Hoang thôn là tuyệt đối không được bỏ đi, nếu như con dâu muốn tự mình trốn chạy bỏ đi thì sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc”.
                  “Cái gì gọi là sự trừng phạt nghiêm khắc?”
                  Anh ấy chầm chầm nhả ra một chữ: “Chết”.
                  Nhưng mình đã không còn sợ hãi nữa rồi, lạnh lùng đáp: “Vì tự do, em tình nguyện chết”.
                  Nhật ký của Nhược Vân tới đây là hết, đằng sau toàn là những trang giấy trắng.

                  Chú Thích:
                  1.Vu ca: là điệu dân ca của Trung Quốc được hát bởi các thầy mo trong các lễ tang hoặc lễ cúng người chết.
                  ***************

                  Comment


                  • #24
                    24. Ngày thứ hai mươi bốn




                    Lúc này đã là hơn hai giờ sáng, tôi và Tiểu Sảnh cuối cùng đã xem xong cuốn nhật ký của hơn năm mươi năm trước.
                    Bỗng nhiên anh nến lay động làm chúng tôi phát hiện ra nến sắp cháy hết rồi, tôi vội vàng thay một cây nến mới. Tiểu Sảnh khép cuốn nhật ký của Nhược Vân lại, hít một hơi thật sâu nói: “Trời ơi, đây chính là bí mật của Hoang thôn sao?”

                    Đọc liền một mạch mấy tiếng đồng hồ, tôi chỉ cảm thấy mắt và vai đều đã có chút mỏi mệt, tôi vung tay vung chân một lúc nói: “Cuốn nhật ký này quả là không thể tưởng tượng nổi, nhưng đáng tiếc rất nhiều trang đã bị xé đi, những gì chúng ta đọc được chỉ là một phần nhỏ mà thôi”. Tiểu Sảnh vuốt nhẹ tấm bìa cuốn nhật ký hỏi: “Số phận của Nhược Vân bi thảm quá, nhưng cô ấy là một phụ nữ hiện đại sống trong thế kỷ 20, cô ấy khát vọng tình yêu và tự do tận trong đáy lòng, cô ấy tuyệt đối không can tâm làm con chim bị nhốt trong lồng. Bởi vậy, cô ấy muốn đem con trai rời bỏ nhà Âu Dương, theo đuổi một cuộc sống hoàn toàn mới. Ồ, nhưng không biết cô ấy có thành công không?”

                    Nhưng lúc này, tôi chẳng còn tâm trí đâu để nghĩ tới số phận của Nhược Vân nữa, cái tôi quan tâm hơn chính là bản thân mình. Tôi từ từ giơ tay trái lên, nhín chiếc nhẫn ngọc trên ngón trỏ, cảm giác vệt đỏ đun càng lúc càng chói mắt, bởi vì tôi đã biết nó là máu của ai.

                    Tôi nhìn chiếc nhẫn ngọc nói: “Cổ Ngọc Quốc năm nghìn năm trước mà trong nhật ký nói hiển nhiên là văn minh Lương Chử ngày nay thường nói. Bất luận là thời gian hay niên đại của nền văn minh, còn cả phạm vi khu vực mà nó tồn tại, thậm chí đặc trưng lớn nhất của nó: ngọc khí, đều hoàn toàn phù hợp với văn hóa Lương Chử trong khai quật khảo cổ ngày nay. Trong nhật ký nói Cổ Ngọc Quốc xây dựng thành thị, có cung điện và tế đàn hùng vĩ, những thứ này cũng giống hệt với những gì phát hiện được ở di chỉ Mạc Giác Sơn”.
                    “Nói như vậy thì cuốn nhật ký này đã mở ra cho anh bí mật của tổ quốc Lương Chử?”
                    “Lúc này vẫn chưa thể nói là mở ra, chỉ có thể nói là cung cấp cho anh một chiếc chìa khóa có thể mở cánh cổng của văn minh Lương Chử. Đúng vậy, bí mật của gia toc65 Âu Dương Hoang thôn thực ra là bí mật của văn minh Lương Chử cổ xưa, họ chính là hậu dệu của vương tộc Lương Chử nguyên cổ, sau khi cổ quốc bị diệt vong đã định cư mãi ở Hoang thôn. Bởi vì Hoang thôn là nơi tổ tiên họ đổ bộ lên đại lục Đông Á, thế nên nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với họ”.
                    “Nhưng, trong nhật ký nói tổ tiên của gia tộc Âu Dương là thiên thần, anh tin không?”
                    “Anh không biết, rất nhiều dân tộc đều có những thần thoại tương tự, nói rằng tổ tiên của mình đến từ thế giới thần bí trên trời. Và trong nhật ký thực sự cũng nhắc tới tổ tiên của nhà Âu Dương đến từ một nơi vô cùng xa xôi và thần bí, họ vượt qua đại dương mênh mông mới đến được Hoang thôn. Vậy thì nơi vô cùng xa xôi và thần bí đó ở đâu?”
                    Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh nhớ lại điều gì đó: “Nơi vô cùng xa xôi và thần bí? Có thể là người ngoài trái đất không nhỉ?”
                    "Người ngoài trái đất? Không, đây không phải là ‘Vệ Tư Lý hệ liệt’ của Nghê Khuông, chỉ khi nào trong tiểu thuyết không thể tự biện minh, lập luận mới đem người ngoài hành tinh ra để lấp đầy”.
                    “Vậy thiên thần nghĩa là gì? Tổ tiên của nhà Âu Dương có lẽ từ biển lên, cũng có khả năng từ trên trời xuống. Cổ nhân vốn không biết thế nào là người ngoài hành tinh, trong mắt người xưa vốn lạc hậu và mê tín, người từ trên trời rơi xuống đương nhiên là thiên thần rồi”.
                    Tôi chỉ biết gật đầu nói: “Trên lý thuyết thực sự tồn tại khả năng này. Giống như di chỉ Stonehenge của vương quốc Anh, những đường vẽ kỳ lạ trên hoang mạc Nazca ở Peru, đảo Phục sinh ở Nam Thái Bình Dương, vân vân, những hiện tượng và di tích thần bí này đều không giống do nhân loại trái đất sáng tạo nên”.
                    “Đúng vậy, chồng Nhược Vân trong nhật ký không phải đã nói đấy sao, gia tộc Âu Dương không phải là con người thực thụ, họ là một chủng loại khác”.
                    “Không, những lời trong nhật ký không thể hoàn toàn tin tưởng, nhưng…” Tôi lại dồn ánh mắt về phía chiếc nhẫn ngọc, “Nhưng anh tin giả thuyết về chiếc nhẫn ngọc”. Tiểu Sảnh cũng nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn ngọc, ưu tư nói: “Nó đã từng đeo trên ngón tay của nữ vương cuối cùng Cổ Ngọc Quốc, khi nữ vương vì tình yêu mà chết, máu đã chảy lên chiếc nhẫn ngọc, vĩnh viễn không bao giờ lau được”.

                    Tôi run rẩy sờ lên chiếc nhẫn, vệt đỏ đun, đây chính là máu tươi của nữ vương Lương Chử, đã hơn bốn nghìn năm rồi vậy mà vẫn tươi rói chói mắt. Nó đã ngưng đọng nỗi ai oán và đau khổ của nữ vương, sở hữu một sức mạnh thần bí, ít nhất cũng khiến mắt tôi nhìn xuyên thấu thời gian, nhìn thấy cảnh tượng của mấy chục năm về trước. Hơn năm mươi năm trước khi Nhược Vân mang thai cũng đã từng đeo chiếc nhẫn này, khi cô ấy sinh đứa bé ra thì chiếc nhẫn tự động rơi ra, vậy còn tôi thì sao? Sự việc tới ngày hôm nay, tôi gần như đã tuyệt vọng rồi.

                    “Chiếc nhẫn ngọc này là thánh vật của gia tộc Âu Dương Hoang thôn, nhất định là của thần thánh không thể xâm phạm, giống như xác ướp Pharaông của Ai Cập cổ đại. Em đã từng nghe nói về ‘lời nguyền của Pharaông’ chưa? Vào đầu thế kỷ 20, khi các nhà khảo cổ học khai quật lăng mộ Tatankhamun của Ai Cập cổ đại, sau khi họ tiến vào mộ đạo của Pharaông thì nhìn thấy những văn tự cảnh báo họ, tất cả những ai vào trong lăng mộ đều sẽ phải chịu lời nguyền mà chết. Nhưng những nhà khảo cổ vẫn tiến hành khai quật xác ướp Pharaông, không ai ngờ được rằng chỉ trong vòng vài năm sau đó, tất cả những người tiến hành khai quật hoặc là từng nghiên cứu xác ướp Pharaông Tatankhamun đều đã chết một cách bí hiểm”.

                    Tiểu Sảnh tròn xoe mắt nói: “Ý của anh là, bốn sinh viên tiến vào Hoang thôn lấy trộm đồ ngọc lên, hành vi của họ đã xúc phạm tới những điều cấm kị cổ xưa, thế nên họ đều đã cùng chung số phận khi gặp phải ‘lời nguyền của Pharaông’?”
                    “Đúng, hai người trong đó không phải đã chết vì ác mộng sao? Lấy một ví dụ néh, ác mộng giống như một loại chương trình vi rút máy tính, một khi đã xâm nhập vào địa cung lấy trộm thánh vật rồi, thì sẽ bị lây nhiễm loại vi rút này, mấy hôm sau chương trình vi rút khởi động thì sẽ trở thành ác mộng giết người”.
                    “Thật sự giống tiểu thuyết của anh sao?”

                    Tôi chán nản lắc đầu, sắc mặt tôi dưới ánh nến nhất định là rất đáng sợ: “Nếu như những nội dung trong nhật ký đều là thật, vậy thì Âu Dương tiên sinh và con gái Tiểu Chi của ông ấy cũng chắc chắn đều là hậu duệ của vương tộc Lương Chử cổ xưa. Nhưng hiện giờ họ đều đã chết rồi, gia tộc Âu Dương sẽ không còn hậu duệ nữa, gia tộc cổ xưa kế tục năm nghìn năm này tới đây là kết thúc, không biết đối với chúng ta, đây là họa hay là phúc?”
                    Vậy mà, hình như những lời của tôi đã chạm phải điều gì đó của Tiểu Sảnh, thần sắc của cô ấy biến đổi vô cùng dị thường, dưới ánh nến mờ ảo, dường như có gì đó lướt qua ánh mắt khiến lòng tôi sợ hãi. Nhưng cô ấy lảng tránh ánh mắt tôi, cuối cùng dứt khoát nhắm mắt lại, tôi cảm thấy người cô ấy càng lúc càng mềm nhũn ra, từ từ ngà ra chiếc giường gấp.
                    Đã là ba giờ sáng rồi, tôi từ trước tới nay không có thói quen thức thâu đêm, lúc này cũng không thể trụ được nữa. Tôi muốn bỏ đi lên lầu, nhưng Tiểu Sảnh lại nắm chặt lấy tay tôi, tôi sợ đứng lên sẽ làm cô ấy tỉnh dậy nên đã nhẹ nhàng thổi nến. Tôi bật một chiếc đèn pin, nhắm mắt lại, muốn ngồi bên Tiểu Sảnh nghỉ ngơi một lúc…
                    Nhưng không ngờ tôi ngồi thế này mà cũng ngủ say luôn, mãi tới tận khi ánh nắng buổi sáng rọi vào mí mắt, tôi mới từ từ tỉnh dậy. Đôi mắt mơ màng mở ra thì phát hiện Tiểu Sảnh vẫn đang ngủ say, hóa ra tôi đã ngủ một đêm mà không thay quần áo thế này. Tôi cảm thấy lòng bồn chồn, nếu như để cô ấy nhìn thấy thì sẽ khó ăn nói đây. Tôi nhẹ nhàng đứng dậy, vừa ra tới cửa thì nghe thấy giọng Tiểu Sảnh: “Anh đi đâu?”
                    Tôi bối rối quay đầu lại: “Anh vừa mới vào”.
                    “Không, anh vừa nãy còn nằm cạnh em”. Cô ấy nhìn xoáy vào mắt tôi, khiến tôi không sao giải thích nổi, cô ấy đứng dậy nắm lấy tay tôi hỏi: “Đêm qua anh không rời xa em, em rất cảm ơn anh”.
                    “Xin lỗi, đêm qua anh thực sự quá mệt”.
                    “Em cũng vậy”. Tiểu Sảnh lại nắm tay tôi ngồi xuống hỏi: “Nói cho em biết, anh rất hoảng sợ đúng không?”
                    Tôi cụp mắt xuống, nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay mình nói: “Đúng, bốn sinh viên kia chính vì chiếc nhẫn ngọc này mà xảy ra chuyện, bây giờ nó đang đeo trên tay anh. Nhưng anh không biết vận xui của Hoang thôn rút cuộc có đổ xuống đầu mình không nữa?”
                    “Không, sự hoảng sợ của anh là do nỗi cô đơn của anh, và em cũng giống anh. Chỉ có ở bên nhau, chúng ta mới có thể chiến thắng sự sợ hãi. Vì thế, anh không thể rời xa em”.
                    Đúng, chỉ có những người cô đơn mới cảm thấy hoảng sợ, tôi đột nhiên cảm thấy có chút hy vọng nào đó, tôi nắm lấy tay cô ấy nói: “Tiểu Sảnh, anh mãi mãi sẽ không rời xa em”.
                    Nước mắt cô ấy từ từ rơi xuống.
                    Nửa tiếng sau, Tiểu Sảnh cùng tôi ra ngoài ăn sáng, sau đó cô ấy tới cửa hàng kem làm việc, còn tôi bắt buộc phải đi tìm một người, Diệp Tiêu.
                    Lúc này, chỉ có anh ấy mới có khả năng giúp tôi.
                    Tôi tới thẳng sở công an, tìm thấy anh họ cảnh sát Diệp Tiêu của mình. Anh ấy tỏ ra rất ngạc nhiên trước sự đột ngột ghé thăm của tôi, anh lôi tôi vào một góc khuất. Tôi không vòng vo, nói thẳng mục đích chuyến viếng thăm của mình: “Diệp Tiêu, em muốn tra hồ sơ vụ án của sở cảnh sát Thượng Hải cũ, xem xem có hồ sơ vụ án năm 1948 nào liên quan tới đường An Tức”.
                    Diệp Tiêu nghĩ ngợi một lúc lâu, nói: “được, anh có thể giúp em, hy vọng em sớm thoát thân khỏi đó”.
                    Chúng tôi cùng ăn bữa trưa, sau đó anh ấy đưat ôi tới tòa nhà lưu trữ hồ sơ vụ án, ở đây cất giữ những hồ sơ vụ án hình sự của Thượng Hải cũ. Diệp Tiêu đưat ôi tới phòng đọc hồ sơ, chỉ có kiểm tra mục lục không thôi là đã mất tới hai tiếng đồng hồ. Trải qua bao khó khăn vất vả, cuối cùng cũng đã tìm thấy tất cả hồ sơ vụ án liên quan tới đường An Tức. Chúng tôi lấy từ trong đó ra hồ sơ của năm 1948, năm đó những vụ án xảy ra tại đường An Tức không nhiều, rút cuộc cũng đã tìm ra hồ sơ của nhà số 13 đường An Tức.
                    Năm đó quả nhiên xảy ra vụ án nghiêm trọng, với thói quen nghề nghiệp của cảnh sát, Diệp Tiêu cũng lập tức lấy lại tinh thần. Những hồ sơ này đều viết dày đặc kín mít, dùng mẫu công văn thời đó viết thành, tôi khó mà nhìn cái đã hiểu ngay. Xét duyệt hồ sơ từ trước tới nay vốn là sở trường của Diệp Tiêu, anh ấy thuần thục lật dở hồ sơ, xem từng trang ghi chép hiện trường, bút lục của sở cảnh sát và cả báo cáo vụ án. Tôi dứt khoát không xem hồ sơ nữa, chỉ nhìn sắc mặt Diệp Tiêu, phát hiện thần sắc anh ấy đang dần dần đanh lại.
                    Mấy chục phút sau, Diệp Tiêu đột nhiên đóng hồ sơ lại, lạnh lùng nói: “Có lẽ là sai sót của anh, lúc đầu đáng ra phải kiểm tra hồ sơ vụ án này từ sớm”.
                    Tôi sốt ruột hỏi: “Rút cuộc xảy ra chuyện gì?”
                    “Ngày 1 tháng 10 năm Dân quốc 37, cũng tức là ngày 11 tháng 4 năm 1948, có người báo án với công an, tại nhà số 13 đường An Túc xảy ra một vụ án mạng, An Nhược Vân, con dâu nhà Âu Dương bị giết chết”.
                    "Nhược Vân chết rồi?” Tôi ngạc nhiên tới nỗi suýt chút nữa nhảy khỏi ghế.
                    Diệp Tiêu chậm rãi nói: “Đừng kích động, tối hôm đó cảnh sát đã tới ngay hiện trường xảy ra vụ án, trong căn phòng trên tầng hai số nhà 13 đường An Tức, phát hiện thi thể của An Nhược Vân, cô ấy bị đâm một nhát dao vào ngực, thủng tim chết ngay tại đó. Đứng cạnh xác nạn nhân là chồng của cô ấy, Âu Dương Thanh Viễn, khắp người anh ta đều là máu, trên tay đang ôm một đứa trẻ sơ sinh. Hung khí là một con dao găm sắc nhọn được tìm thấy trên sàn nhà. Lúc đó, bố mẹ chồng của nẹn nhân đều đã về que, những người giúp việc nghe thấy tiếng ồn ào trên gác vọng xuống mới chạy lên thì nhìn thấy vợ của thiếu gia gục trong vũng máu”.
                    “Nhất định Âu Dương Thanh Viễn đã giết chết Nhược Vân”.
                    "Tối đó, cảnh sát đưa Âu Dương Thanh Viễn về sở cảnh sát để hỏi cung, theo như những lời khai anh ta cung cấp cùng với kết quả điều tra tại hiện trường, về cơ bản có thể xác định tình hình lúc xảy ra vụ án. Lúc 9 giờ tối ngày 11 tháng 4, An Nhược Vân chuẩn bị li hôn với Âu Dương Thanh Viễn, cô ấy muốn bé con trai còn đang bọc trong tã rời khỏi nhà Âu Dương. Nhưng Âu Dương Thanh Viễn cản cô ấy lại, định nhốt cô ấy trong căn phòng trên tầng hai. Nhưng Nhược Vân đã hạ quyết tâm, cô ấy lấy một con dao găm ra, yêu cầu Âu Dương Thanh Viễn để đem mẹ con cô ấy bỏ đi. Âu Dương Thanh Viễn không chịu nhương bộ, anh ấy xông lên tước dao của An Nhược Vân, trong lúc hai người dằng co, An Nhược Vân đã bị dao dâm vào tim, chết ngay tại hiện trường”.
                    Nghe xong tường thuật của Diệp Tiêu, tôi ngồi im giống con gà gỗ. Trong cái đêm cắt điện đó, tôi đã cùng Tiểu Sảnh nhìn thấy cảnh tượng này rồi, máu tươi bắn lên đó tôi mãi mãi sẽ không bao giờ có thể quen được.
                    Diệp Tiêu tiếp tục nói: “Không lâu sau, Âu Dương Thanh Viễn với tội danh ngộ sát đã bị tuyên án mười năm tù giam, nhưng sau vài tháng bọ nhốt trong tù thì anh ta đã bạo bệnh mà chết”.
                    "Bạo bệnh mà chết? Cũng có thể coi đó là một kiểu báo ứng?”
                    "Hồ sơ ghe chép tới đây, sau đó do Quốc Dân đảng sắp bị lật đỏ, rất nhiều hồ sơ vụ án bị thất lạc rồi”.
                    Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ nói: “Nhược Vân thật là đáng thương, cô ấy muốn dành lấy tự do, rút cuộc lại chết trong chính tay chồng mình. Nhưng càng đáng thương hơn chính là con trai cô ấy, từ nhỏ đã mất mẹ. Em nghĩ đứa bé đó sau này chắc chắn được ông bà nội đón đi, quán trọ Hoang thôn xảy ra sự việc đáng sợ như thế, nên gia đình Âu Dương cũng không thể sống tiếp ở đó nữa. Họ nhất định rời khỏi Thượng Hải, đưa đứa trẻ về ngôi nhà cổ ở Hoang thôn”.
                    Nghĩ tới đây, lòng tôi bất giác run bắn lên. Nếu như theo những dự đoán đó, con trai Gia Minh của Nhược Vân và Thanh Viễn không phải là Âu Dương tiên sinh mà tôi đã gặp ở Hoang thôn sao? Đúng vậy, Gia Minh sinh tháng 12 năm 1947, tới bây giờ vừa bằng với tuổi tác của Âu Dương tiên sinh. Và sau khi Thanh Viễn chết, Gia Minh chính là người kế tục duy nhất của gia tộc Âu Dương, bởi vậy không thể nào thêm một Âu Dương tiên sinh thứ hai.
                    Lúc rời khỏi nơi lưu trữ hồ sơ, trời đã sầm tối, Diệp Tiêu lại kéo tôi đi ăn tối. Anh ấy còn nói với tôi, Xuân Vũ vẫn bị nhốt trong bệnh viện tâm thần, sác sỹ bảo cô ấy bị thần kinh phân liệt rất nặng, khả năng phải nhốt trong ấy cả đời. Còn về sinh viên mất tích Tô Thiên Bình, đến bây giờ vẫn không có bất cứ tin tức gì, sống chết không rõ, dường như đã biến mất trong không trung của Hoang thôn.
                    Diệp Tiêu khuyên tôi không nên tới quán trọ Hoang thôn lần nữa, thực ra tôi cũng chịu hết nổi rồi, nhưng tôi đã hứa với Tiểu Sảnh, mãi mãi không rời xa cô ấy.
                    Tám giờ tối, tôi vội vàng quay lại đường An Tức. Dưới lầu quán trọ Hoang thôn, tôi nhìn những tia sáng đang leo lắt trong căn phòng trên tầng hai. Tiểu Sảnh đã về rồi, tôi chạy nhanh lên lầu, ánh lửa soi hồng khuôn mặt trắng bệch của cô ấy. Ánh mắt thật kỳ quái của cô ấy khiến tôi sững sờ: “Em sao vậy?”
                    Nhưng cô ấy không hề trả lời, mà giơ một vật trên tay lên.
                    Bỗng chốc, một cái bóng dị dạng lướt qua trước mắt, tôi lập tức cảm thấy tim mình đập loạn xạ. Đúng, tôi rút cuộc đã nhìn rõ rồi, tay cô ấy đang cầm một chiếc sáo.
                    Ánh nến nhỏ bó mù mờ lấp láy, soi sáng chiếc sáo trúc kiểu Trung Quốc. Nó dài khoảng bốn mươi xen ti mét, ống sáo sơn màu nâu vàng, trên miệng sáo có gắn những sợi dây màu tím đỏ, màng lỗ còn dán một lớp màng sáo mỏng như cánh ve.
                    Tôi biết nó từ đâu tới.
                    Tiểu Sảnh mím môi nói: “Ban nãy, lúc em dọn dẹp đồ đạc trong tủ thì phát hiện ra chiếc hộp anh giấu dưới đáy tủ, em tò mò mở chiếc hộp ra xem thì phát hiện ra bên trong là cây sáo này”.
                    Sau đó, cô ấy nhẹ nhàng vuốt ve thanh sáo, đưa nó lên chạm vào má, giống như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Tôi run rẩy hỏi: “Em biết chiếc sáo này?”
                    Nhưng Tiểu Sảnh không trả lời, cô ấy đặt chiếc sáo vào tay tôi.
                    Thanh sáo lạnh toát nhường vậy, một cảm giác lạnh lẽo thấm sâu vào da tôi, dường như tôi lại đang cảm nhận được sự lạnh lẽo của đêm đông Hoang thôn. Tôi nhìn chằm chằm vào ngọn nến, trong ánh nến đang nhảy nhót đó hình như tôi nhìn thấy ánh sáng của ngọn đèn dầu trong Tiến Sỹ Đệ, nhìn thấy khuôn mặt gày gò trắng bệch của Âu Dương tiên sinh. Vậy là, chỉ trong vòng vài giây đồng hồ ngắn ngủi, tôi đã hồi tưởng lại tất cả những thứ đó. Đúng, đây là một đoạn kí ức bỏ sót, là kỷ niệm cuối cùng mà Hoang thôn để lại cho tôi.
                    Được rồi, bây giờ đã là lúc nói ra rồi. Tôi hít một hơi thật sâu nói: “Tiểu Sảnh, chiếc sáo này đến từ Hoang thôn, là đích thân Âu Dương tiên sinh trao lại cho anh”.
                    “Tại sao, tại sao ông ấy lại trao chiếc sáo này cho anh?”
                    “Đó là chuyện đã vài tháng trước, khi anh quyết định phải rời khỏi Hoang thôn, lúc từ biệt Âu Dương tiên sinh tại Tiến Sỹ Đệ. Lúc đó, ông ấy bỗng chốc trở nên rất thương cảm, ông nói ông rất nhớ con gái Tiểu Chi của mình, lúc nào cũng hy vọng con gái trở về bên mình, ông có thể hy sinh mọi thứ vì điều đó. Đột nhiên, Âu Dương tiên sinh lấy từ trong ngăn kéo ra một chiếc sáo, đặt nó vào trong tay anh. Ông ấy nhờ anh mang chiếc sáo này quay về Thượng Hải tìm con gái Tiểu Sảnh của ông. Tiểu Chi chỉ cần nhìn thấy chiếc sáo này là sẽ nhớ tới cha của mình, và sẽ trở về cố hương Hoang thôn”.
                    Nói xong những câu này, tôi thở một hơi thật dài, giống như đã nhả ra tảng đá cuối cùng ẩn giấu trong lòng. Vậy mà, ánh mắt Tiểu Sảnh dưới chính giữa ngọn nến lại hiện ra càng thêm dị dạng: “Anh tìm thấy Tiểu Chi không?”
                    “Hình như anh đã nói với em rồi, anh đã tìm thấy trường đại học của Tiểu Chi, họ nói với anh Tiểu Chi đã chết hơn một năm trước do một tai nạn đường sắt. Anh cảm thấy rất đau lòng nên đã cất giữ lại chiếc sáo này, luôn để nó dưới đáy thùng, không hiểu tại sao lại đem nó tới đây”.
                    Tức khắc, ánh mắt Tiểu Sảnh lóe lên tia sáng lạnh lẽo khiến tôi cảm thấy lạnh rúm, cô ấy lạnh lùng hỏi: “Anh có biết thổi sáo không?”
                    Sau khi chững lại một lúc, tôi hít một hơi thật sâu, ngẫm nghĩ trước trong lòng vài giây rồi đưa chiếc sáo lên môi. Phút chốc, thanh sáo đã cất lên giai điệu: “Ở nơi xa xăm đó”, những nốt nhạc chậm rãi bay bổng bay lượn trong căn phòng nhỏ hẹp, chẳng mấy chốc lan tỏa ngập tràn cả quán trọ Hoang thôn.
                    Tiếng sáo trong đêm tối đã kích động Tiểu Sảnh, đôi mắt mở to của cô ấy không còn lộ ra sự kinh ngạc, mà lại ngập tràn ánh mắt bi thương, hình như tiếng sáo đang thổ lộ hết cho cô ấy nghe về câu chuyện đau lòng nào đó. Tôi nghĩ tiếng sáo này nhất định đang bay lên không trung trong màn đêm, bay qua bãi hoang phế xung quanh đây, vang vọng tới một nơi xa xăm nào đó, không biết Hoang thôn cách đây mấy trăm cây số có thể nghe thấy không nữa?
                    Khi giai điệu kết thúc, tôi đã mệt mỏi rã rời, cả thân xác và linh hồn đều đã chìm trong tiếng sao, mãi lâu sau mới lấy lại tinh thần. Con Tiểu Sảnh cũng nhắm mắt lại, hình như tiếng sáo đã chạm vào sợi dây đàn bí ẩn nhất trong lòng cô ấy.
                    Tôi buông chiếc sáo xuống, nhẹ nhàng vịn lên vai cô ấy nói: “Em sao vậy? Mở mắt ra nào?”
                    Đôi môi Tiểu Sảnh run rẩy, hình như linh hồn đã theo tiếng sao bay khỏi thân xác. Rút cuộc, cô ấy từ từ mở mắt, ánh mắt u sầu nhìn thẳng tôi, dáng vẻ này khiến tim tôi lại loạn nhịp.
                    “Em biết Tiểu Chi”.
                    Cô ấy thốt ra câu này bằng giọng nói từ đáy cổ họng.
                    Phút chốc, tôi giống như bị câu nói này đánh trúng vậy, lập tức lắc đầu nói: “Không thể, em không thể quen Tiểu Chi được, không phải cô ấy đã chết từ lâu rồi sao?”
                    “Không, Tiểu Chi không chết”. Ánh mắt Tiểu Sảnh trở nên vô cùng kinh ngạc, nhưng ngữ khí lại bình tĩnh tới nỗi khiến người ta sợ hãi, “Cô ấy vẫn đang sống, sống trong ga tàu điện ngầm”.
                    "Tiểu Chi sống trong ga tàu điện ngầm? Không, cô ấy chết trong ga tàu điện ngầm”.
                    Ánh nến lại lay động một hồi, sắc mặt Tiểu Sảnh càng trở nên trắng bệch, cộng thêm đôi mắt với ánh nhìn kỳ lạ rõ ràng là đã biến thành một con người khác. Cô ấy nhìn thẳng vào mắt tôi, buồn rầu nói: “Anh vẫn không hiểu sao? Tiểu Chi không thể chết được, cô ấy vẫn sống trong tao tàu điện ngầm, cô ấy mặc một chiếc vày dài màu trắng, để mái tóc xõa ngang vai, những sợi tóc tỏa ra hương thơm dịu mát. Cô ấy có lúc kéo tay vịn, đứng ở chỗ cạnh cửa sổ, khi tàu điện xuyên qua những đường hầm tối đen, ánh sáng êm dịu trong toa tàu vương trên mặt cô ấy, khuôn mặt trắng nõn sẽ in lên cửa sổ toa tàu. Lúc đó, chỉ trừ bản thân Tiểu Chi ra, không có ai chú ý tới sự tồn tại của khuôn mặt đó. Cô ấy chằm chằm nhìn vào khuôn mặt mình, lúc ẩn lúc hiện trên cửa sổ, đôi mắt đó, đôi môi đó đều thật quyến rũ, giống như nhân vật chính trong truyện Liêu Trai bước ra vậy”.
                    Tôi run rẩy nghe những lời nói của Tiểu Sảnh, từng cảnh tượng mà cô ấy miêu tả dường như đang hiện lên trước mắt tôi. Tôi bỗng chốc cảm thấy tất cả những thứ này đều giống nhau đền nhường vậy, hình như tôi cũng đã từng trải qua cái trải nghiệm kỳ lạ đó. Đúng, lúc tôi đứng trong toa tàu điện ngầm. Tiểu Chi đã đứng sau lưng tôi, cô ấy lặng lẽ nhìn khuôn mặt in trên cửa sổ tàu, lúc thì khuôn mặt tôi, lúc lại là khuôn mặt cô ấy, giống như một giấc mộng…
                    “Đừng nói nữa…” Tôi tức khắc ngắt lời cô ấy.
                    “Không, để em nói tiếp”. Tiểu Sảnh dường như mất đi thần trí, hoàn toàn chìm đắm trong trạng thái bị thôi miên, dường như hồi ức đã trở thành ham muốn duy nhất của cô ấy, “Tiểu Chi vẫn luôn ở trong toa tàu điện, đứng thẳng, đi lại, chờ đợi… Cô ấy đang chờ đợi ai? Đúng, có lúc cô ấy phát hiện ra sự tồn tại của người đó, người thanh niên trẻ tuổi đang đứng trước cô ấy, cụp mí mắt nhìn vào bóng mình trên cửa sổ. Anh ấy xem ra có chút mỏi mệt, hoặc là do đêm qua vẫn chưa hoàn thành xong tiểu thuyết khiến anh ấy ưu phiền. Có lúc ánh mắt anh ấy chạm vào ánh mắt Tiểu Chi, nhưng anh ấy không nhìn thấy Tiểu Chi, họ thậm chí mặt đối mặt trong toa tàu rồi, mắt chỉ cách nhau vài mi li mét. Đáng tiếc, anh ấy vẫn không nhìn thấy Tiểu Chi, nhưng Tiểu Chi đã yêu anh ấy từ ánh mắt đó”.
                    "Người đó là ai?” Tôi đã mơ hồ đoán ra rồi nhưng không dám để mình tin vào điều đó.
                    Nhưng Tiểu Sảnh đã không nghe thấy tiếng tôi nữa rồi, cô ấy tự mình lẩm bẩm tiếp tục nói: “Dưới ga tàu điện ngầm tối tăm không có ban ngày, Tiểu Chi luôn luôn đi theo người thanh niên đó, anh ta ngồi tới trạm nào, cô ấy cũng tới trạm đó. Có lúc cô ấy cũng theo anh ta bước ra ngoài toa tàu, đi đi lại lại trên sân ga vắng tanh. Anh ta thích tới một hiệu sách trong nhà ga, và cô ấy cũng bước theo anh ấy vào hiệu sách. Trong hiệu sách có bày những cuốn sách của người thanh niên này viết, anh ta thường tới xem sách của mình bán thế nào. Còn cô ấy cũng sẽ đi dạo giữa những giá sách, trong lúc chung quanh không có ai, âm thầm lật dở sách của anh ấy. Khi đêm tối, sau khi nhà ga ngừng vận hành, hiệu sách đóng cửa, cô ấy sẽ một mình ở lại trước giá sách, thâu đêm đọc tiểu thuyết của anh ấy viết. Bao nhiêu đêm như vậy qua đi, Tiểu Chi đã cảm động vì những câu chữ của anh ấy, có lúc còn âm thầm rơi nước mắt, lưu lại giọt nước mắt đỏ loang trên bìa sách”.
                    Vào đêm mùa hè thê lương này, trong căn phòng run rẩy ánh nến phập phồng, Tiểu Sảnh uyển chuyển thuật lại câu chuyện đau buồn, cô ấy dường như bị linh hồn nào đó chiếm hữu một nữa.
                    Nước mắt lặng lẽ rơi xuống gò má Tiểu Sảnh, dưới ánh nến lấp láy, cô ấy ngậm những giọt lệ nói: “Cho mại tới tận một hôm, trong hiệu sách gần ga tàu điện ngầm, cô ấy nhìn thấy truyện ngắn của anh ấy đăng trên tạp chí ‘Chồi non’, đó là truyện ngắn về Hoang thôn, nam nhân vật chính yêu say đắm u hồn Tiểu Chi. Tuy đó chỉ là một câu chuyện hư cấu nhưng tận đáy lòng Tiểu Chi vẫn cảm thấy đau buồn, dường như cô ấy ngày ngày đều có thể nhìn thấy anh ấy, còn anh thì lại chỉ có thể tìm thấy ảo ảnh của đối phương trong truyện. Không, Tiểu Chi nhất định phải để anh ấy nhìn thấy mình, khiến tình cảm của anh ấy trong câu chuyện hư cấu trở thành tình yêu trong hiện thức”.
                    Giây phút này, Tiểu Sảnh đã khiến tôi cảm động sâu sắc, tôi đã không kìm nén được hỏi: “Anh ta có gặp được Tiểu Chi không?”
                    Tiểu Sảnh bỗng nhiên tròn xoe mắt, cô ấy nhìn tôi nói: “Đường nhìn, anh ấy đương nhiên gặp Tiểu Chi rồi, thậm chí họ còn yêu nhau nữa”.
                    Trầm mặc, tôi chìm đắm trong suy tư dưới ánh nến hồi lâu.
                    Không, tôi không dám tin những gì cô ấy vừa nói, đó rút cuộc là hoang tưởng của Tiểu Sảnh hay thực sự là linh hồn đang kể lại? Tôi từ từ đưa tay ra lau nước mắt trên mặt cô ấy, nước mắt cô ấy ấm nóng nhường vậy, nếu như rớt vào miệng chắc chắn sẽ mặn chát.
                    Tiểu Sảnh rút cuộc nhắm mắt lại, toàn thân giống như co rúm lại đổ ra giương, miệng lẩm bẩm nói: “Xin lỗi… xin lỗi…”

                    Tôi cũng không gắng gượng được nữa ngả ra giường, bên tai vẫn văng vẳng những lời của Tiểu Sảnh. Sau đó, tôi thổi tắt nến, lên tầng ba đi ngủ.

                    Đêm nay, tôi rút cuộc đã mơ thấy Tiểu Chi.
                    ***************

                    Comment


                    • #25
                      25. Mgày thứ hai mươi năm



                      Buổi sáng, tôi dậy rất muộn, phát hiện Tiểu Sảnh đã rời khỏi quán trọ Hoang thôn, chắc là tới cửa hàng kem làm việc rồi.
                      Ăn sáng xong, tôi ngồi một mình một lúc, những lời Tiểu Sảnh nói với tôi đêm qua rút cuộc là gì? Cô ấy nói cô ấy quen Tiểu Chi, có khi nào cô ấy quen Tiểu Chi trước khi Tiểu Chi chết? Hoặc là, Tiểu Sảnh có một khả năng đặc biệt nào đó có thể nhìn thấy sự vật của quá khứ? Không đúng, nếu vậy thì không phải là giống chiếc nhẫn ngọc sao? Tôi còn nhớ lúc mới quen Tiểu Sảnh, cô ấy toàn xuất hiện trong ga tàu điện ngầm, bởi vậy mới cảm nhận được mọi chuyện trong nhà ga để mà miêu ta tường tận vậy cũng nên.
                      Tôi tưởng tượng ra vô số những khả năng nhưng rồi lại tự mình gạt đi. Cuối cùng, tôi quyết định đi điều tra một chút về tình hình của Tiểu Chi.
                      Mấy tháng trước, tôi mới từ Hoang thôn trở lại Thượng Hải đã từng tới trường đại học của Tiểu Chi để tìm cô ấy. Nhưng kết quả là Tiểu Chi đã chết trong một tai nạn đường sắt hơn một năm trước. Nghe nói là lúc tàu điện vào trạm, cô ấy bị rơi xuống thềm ga, không may thiệt mạng. Lần đó do thời gian gấp rút, tôi chỉ hỏi chỗ phòng giáo vụ của nhà trường, còn bây giờ tôi phải đi tìm những bạn học của Tiểu Chi.
                      Buổi chiều, tôi tới trường đại học của Tiểu Chi. Sau vài lần hỏi thăm, tôi đã tìm thấy khu ký túc nữ sinh mà Tiểu Chi ở trước đây. Nhưng bà lão trông cửa phía dưới không để tôi lên, may mà tôi có quen một giáo viên trong trường, dưới sự giúp đỡ của anh ấy, tôi đã tìm thấy phòng ký túc trước đây Tiểu Chi ở.
                      Trong phòng có ba cô gái, một cô tóc dài, một cô tóc ngắn, còn một cô nhuộm tóc vàng. Trước tiên tôi tự giới thiệu với họ, họ lập tức reo lên, hóa ra họ cũng đã từng đọc "Hoang thôn" đăng vào tháng 4 năm nay. Cô gái tóc vàng kêu lên: “Anh thật sự nhìn thấy hồn ma của Tiểu Chi sao?”
                      Tôi ngán ngẩm lắc đầu nói: “Đấy chỉ là tiểu thuyết mà thôi, các bạn đừng coi đó là thật”.
                      Tiếp đó, họ lại hỏi rất nhiều câu hỏi về truyện ngắn "Hoang thôn", tôi đành phải giải thích tất cả đều là hư cấu. Cuối cùng, tôi thực sự không đợi được nữa nên liền ngắt lời họ: “Thôi được rồi, hôm nay tôi tới là muốn hỏi thăm về việc của Tiểu Chi”.
                      Cô gái tóc ngắn hỏi: “Anh thật sự không quen Tiểu Chi sao?”
                      "Tôi đã nói rồi, tôi chỉ biết tên của Tiểu Chi, thậm chí cô ấy trông thế nào tôi cũng không biết”.
                      “Được rồi, Tiểu Chi là bạn học, cũng là bạn cùng phòng của chúng tôi, về cái chết của cô ấy chúng tôi đều rất buồn”, cô gái tóc vàng lên tiếng, cô ấy cúi đầu hồi tưởng lại: “Còn nhớ ba năm trước,năm thứ nhất chúng tôi khai giảng, khi mới tới trường báo danh thì phát hiện có một cô gái rất xinh. Tuy tới từ vùng quê hẻo lánh, nhưng trên người cô ấy không hề có bất cứ vẻ quê mùa nào. Cô ấy nói tên mình là Âu Dương Tiểu Chi, thật là một cái tên khiến người ta phải ngưỡng mộ”.
                      “Có thể nói cụ thể chút không, cô ấy là người thế nào?”
                      Cô gái tóc dài tiếp tục nói: “Có lẽ là do khí chất bẩm sinh của Tiểu Chi khác với mọi người, cô ấy tạo cho người ta cảm giác có thể nhìn nhưng không thể chạm vào được. Rất nhiều nam sinh đều âm thầm thích cô ấy, nói thực lòng điều này khiến chúng tôi đều rất ghen tị, nhưng hình như chưa từng có nam sinh nào được cô ấy để mắt tới. Khi đối diện với nam sinh, cô ấy luôn lạnh lùng, còn nhường cơ hội tốt cho chúng tôi, điều này không phải cô gái nào cũng làm được”.
                      “Vậy thì, bình thường cô ấy giao tiếp với các bạn thế nào?”
                      “Tiểu Chi là một cô gái rất tốt, sự biết đối nhân xử thế của cô ấy khiến tôi cảm thấy hổ thẹn. Chỉ là cô ấy luôn ngẫm nghĩ vấn đề gì đó, nên xem ra rất hướng nội. Thực ra, trong phòng cô ấy cũng cố gắng nói chuyện như chúng tôi, có lúc không thấy cô ấy có gì khác lạ cả, chỉ là ánh mắt của cô ấy thực sự có gì đó khác với người trần tục”.
                      "Khác với người trần tục? Không phải thành Liêu Trai sao?” Tôi bỗng nhiên nhớ tới Tiểu Sảnh.
                      Cô gái tóc ngắn lên tiếng, “Đúng vậy, ánh mắt cô ấy luôn khác người, bất luận cô ấy gần gũi chúng tôi thế nào đi chăng nữa đều không thể gạt đi khí chất trên người cô ấy. Hơn nữa cô ấy rất thích đọc truyện cổ, ví dụ như ‘Liêu Trai’ này, ‘Duyệt vi thảo đường bút kí’ này, ‘Lạc phù thi tập’ này, ‘Sưu thần ký’ này, ‘Hồng lâu mộng’ này, miệng chốc chốc lại thốt ra vài câu thơ trong ‘Hồng lâu mộng’, chúng tôi đều nói cô ấy là sinh viên khoa Trung văn bẩm sinh”.
                      Vừa dứt câu, cô gái tóc vàng cướp lời nói: “Nhưng kỳ lạ hơn ở chỗ, Tiểu Chi thường nói cô ấy luôn mơ thấy những thứ quái dị. Có một lần, phía sau tòa ký túc của chúng tôi thi công cải tạo nhà, cô ấy nói mình mơ thấy một giấc mơ, trong mơ có một đôi nam nữ tự tử vì tình. Quả nhiên, mấy hôm sau dưới đất đào lên được hài cốt của một đôi nam nữ, nghe nói là đã chô cất hơn bảy mươi năm nay rồi. Còn nữa, cô ấy luôn nói mình thường mơ thấy một cô gái trốn trong nhà vệ sinh nữ khóc thút thít, làm chúng tôi sợ tới mức buổi đêm không dám đi vệ sinh. Sau này chúng tôi mới biết, mấy năm trước có một cô gái tự tử trong nhà vệ sinh nữ”.
                      “Có nghĩa là cô ấy có thể mơ thấy hồn ma? Vậy các bạn có sợ không?”
                      “Đương nhiên sợ rồi, nghĩ xem nằm bên cạnh anh là một thầy mo có thể nhìn thấy ma, anh có sợ không? Vì thế, sau này chúng tôi đều lảng tránh cô ấy, mỗi lần đi vệ sinh cô ấy chỉ đi một mình bởi người khác đều không dám đi cạnh cô ấy. Chúng tôi có lúc thậm chí còn không dàm về phòng ngủ, đến cả đồ cô ấy dùng cũng rất kiêng kị. Có lần cô ấy giở cuốn sách của tôi ra, sau đó tôi không dám đọc cuốn sách đó nữa nên liền âm thầm đốt đi. Tiểu Chi sau khi biết việc này đã rất đau lòng, lặng lẽ khóc mấy lần cơ. Ôi, bây giờ nghĩ lại tôi thấy thật có lỗi với cô ấy, nhưng có ân hận cũng chẳng để làm gì cả”.
                      Tôi cũng thở dài, đau buồn thay Tiểu Chi: “Đúng vậy, các bạn tẩy chay cô ấy như vậy, coi cô ấy thành thầy mo quái vật, nhất định sẽ khiến cô ấy rất đau lòng”.
                      Cô gái tóc dài chêm lời: “Chính mấy hôm trước khi cô ấy xảy ra chuyện, cô ấy nói đêm nào cũng mơ thấy đường sắt, mơ thấy cô ấy xuyên suốt qua toa tàu điện ngầm, lao theo đoàn tàu. Thật không ngờ chỉ vài hôm sau, cô ấy thực sự đã xảy ra chuyện ở đó…”
                      Nói tới đây, cô ấy bỗng nghẹn lời. Cô gái tóc ngắn ôm lấy vai cô ấy nói: “Đúng, chúng tôi chưa từng nghĩ rằng rút cuộc cô ấy lại chết, nghĩ tới hồi còn sống cô ấy phải chịu thiệt thòi, chúng tôi lúc đấy đều rất sợ hãi và cũng cảm thấy vô cùng hối hận. Mấy tháng đầu sau khi cô ấy mất, chúng tôi tối nào củng bật đèn ngủ, lo sợ u hồn của cô ấy quay lại tìm chúng tôi trả thù. Dĩ nhiên, không thể có u hồn gì cả, hơn nữa Tiểu Chi cũng không thể là loại người đó. Cô ấy là người lương thiện và ôn hòa, từ trước tới nay không biết hại ai bao giờ… Chỉ trừ bản thân cô ấy?”
                      Thấy dáng vẻ đau buồn của các cô ấy, tôi chỉ còn cách an ủi họ nói: “Các bạn đừng tự trách mình nữa, Tiểu Chi cũng không muốn nhìn thấy những người bạn cùng phòng của mình đau buồn. Có lẽ, tất cả những điều này đều đã được định sẵn, Tiểu Chi không hợp với thế giới này, gốc rễ bi kịch đã sớm được gieo xuống. Đúng rồi, các bạn có ảnh của Tiểu Chi không?”
                      “Tôi vẫn còn vài tấm”.
                      Cô gái nhuộm tóc lấy từ trong túi ra một sấp ảnh, khó khăn lắm mới tìm ra được vài bức. Tôi đón những bức ảnh của Tiểu Chi xem xem, tức khắc ngỡ như bị người ta dáng cho một nắm đấm thật mạnh.
                      Cô ấy rõ ràng là Tiểu Sảnh mà.
                      Tôi lập tức dụi dụi mắt. Không, tôi tuyệt đối không nhìn nhầm, ảnh rất rỏ ràng, Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) mặc một chiếc vày dài màu trắng, thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen láy xõa ra, còn cả đôi mắt u buồn lấp lánh nhìn ưu tư đều không khác bất cứ thứ gì so với Tiểu Sảnh, họ căn bản chính là một người mà!
                      Rút cuộc là chuyện gì đây? Lẽ nào Tiểu Chi có chị em dinh đôi? Không, chị em sinh đôi cũng không thể giống nhau nhường vậy. Tôi nhẹ nhàng vuốt lên bức ảnh của Tiểu Chi (Tiểu Sảnh), đôi tay cũng đang run rẩy, thậm chí chiếc nhẫn ngọc cũng ầm ỉ thắt chặt lại. Ba nữ sinh đều nhìn ra có gì đó không bình thường, họ hỏi tôi: “Sao thế?”
                      Tôi đành phải cười gượng gạo nói: “Không sao cả. Tôi có thể đem bức ảnh này về không?”
                      Cô gái nhuộm tóc nhún nhún vai nói: “Được thôi, không vấn đề gì”.
                      “Cám ơn”.
                      Tôi lập tức nhét bức ảnh vào trong cặp, sau khi cảm ơn các cô ấy liền vội vàng chạy ra ngoài, rời khỏi ngôi trường này.
                      Khi tôi về tới quán trọ Hoang thôn thì bầu trời đã đầy sao. Tôi đi như chạy lên tầng hai, đẩy cửa thật mạnh thì phát hiện Tiểu Sảnh đang đợi tôi rồi.
                      Căn phòng vẫn sáng lên ánh nến âm u, cô ấy quay đầu lại lạnh lùng nhìn tôi, không nói lấy một câu.
                      Và cứ như vậy tôi và cô ấy đối mắt nhìn nhau hồi lâu, sau đó tôi lôi bức ảnh của Tiểu Chi từ trong cặp ra. Tôi đưa bức ảnh vào tay Tiểu Sảnh nói: “Người này là ai?”
                      Cô ấy cúi đầu nhìn bức ảnh, mặt vô cảm đáp: “Người này chính là em”.
                      “Để anh nói với em… Tên cô ấy là Tiểu Chi, đã chết hơn một năm trước do tai nạn đường sắt”. Sau đó, tôi bước lên phía trước một bước, nhìn thẳng vào mắt cô ấy nói: “Vậy em là ai?”
                      Ánh mắt cô ấy rút cuộc cũng dịu lại, nhẹ nhàng nói: “Tên em là Âu Dương Tiểu Chi”.
                      Âu Dương Tiểu Chi? Cho dù đã có chút chuẩn bị tâm lý từ trước, nhưng tôi bất giác vẫn ngây cả người ra, tôi không dám tin khả năng này lại thực sự trở thành hiện thực, tôi cũng không dám tin rằng người con gái trước mắt mình đã ngọc nát xương tan từ lâu.
                      “Không, không nên nói như thế, đây chỉ là hoang tưởng của em mà thôi, tên em là Nhiếp Tiểu Sảnh, em bước ra từ trong Liêu Trai của Bồ Tùng Linh tiên sinh”.
                      Nhưng, cô ấy đau khổ lắc lắc đầu, lộ ra vẻ mặt ăn năn xám hối: “Xin lỗi, ngay từ đầu em đã lừa dối anh, hoặc là nói em lừa dối chính bản thân em. Tên em là Âu Dương Tiểu Chi, nhưng em luôn cố gắng quên đi cái tên của mình, quên đi quá khứ của mình, quên đi cố hương Hoang thôn của em. Em muốn có một cuộc sống hoàn toàn mới, bởi vậy phải có một cái tên hoàn toàn mới, cái tên này chính là Nhiếp Tiểu Sảnh. Em hy vọng mình trở thành Nhiếp Tiểu Sảnh, bởi vì cô ấy đã từng là cô gái bi thảm nhất thế gian này, nhưng kể từ sau khi cô ấy quen Ninh Thái Thần thì đã trở thành một cô gái hạnh phúc, và anh chính là Ninh Thái Thần của em”.
                      “Trở thành Nhiếp Tiểu Sảnh, nếu như anh nhớ không nhầm, Nhiếp Tiểu Sảnh vốn là một cô gái đã chết, sau này nhờ tình êu nên đã có được cơ hội phục sinh”.
                      Cô ấy cuối cùng đã mỉm cười gật đầu: “Đúng vậy, đây chính là ước mộng của em”.
                      “Không, đó chỉ là tiểu thuyết mà thôi, không thể thành hiện thực được”.
                      “Đúng, mãi tới đêm qua em mới hiểu ra, Tiểu Chi chính là Tiểu Chi, Tiểu Chi vĩnh viễn không thể biến tành Tiểu Sảnh”. Nói đến đây, cô ấy lại nghẹn ngào.
                      Bỗng nhiên, môi tôi run rẩy hỏi: “Em… thực sự là Tiểu Chi?”
                      "Đúng, em chính là Âu Dương Tiểu Chi, cha mẹ là Âu Dương Gia Minh, em sinh ra ở một nơi gọi là Hoang thôn. Gia đình em có một ngôi nhà cổ rất to, có rất nhiều quy tắc và truyền thống kỳ quái. Lúc em còn rất nhỏ thì mẹ em đã qua đời rồi. Cha một mình nuôi em khôn lớn, em biết ông rất yêu em, luôn coi em là niềm tự hào của ông. Nhưng, tự đáy lòng em vốn không thích quê hương của mình, Hoang thôn xa cách với thế giới bên ngoài nhường vậy, phong tục thì cổ hủ nhường vậy, sinh sống ở nơi đó không thể có tương lai. Nguyên nhân khiến em từ nhỏ đã lao vào học hành cũng chính là để một ngày nào đó có thể rời bỏ Hoang thôn. Cuối cùng, em thi đỗ vào trường đại học ở Thượng Hải, em quyết tâm sau khi đã đến Thượng Hải thì sẽ không trở lại Hoang thôn nữa, em phải vĩnh viễn thoát khoát bóng tối của Hoang thôn, tự do bay nhảy trong thành phố, tìm kiếm vùng trời của riêng mình”.
                      “Đúng, em hoàn toàn có thể làm được”.
                      Cô ấy hít một hơi thật sâu: “Em đã từng cho rằng tiền đồ của em êm đềm, cho rằng mình có thể trở thành bạn tốt của những bạn học, có thể hoàn toàn hòa nhập với xã hội này. Nhưng chẳng mấy chốc em đã phát hiện ra mình sai rồi, em khác họ từ tận xương tủy, em khác với mọi người như thế, bất luận em cố gắng thay đổi mình thế nào đi chăng nữa, nhưng đều không hòa hợp được với cái thế giới này. Vậy là, em càng ngày càng buồn bã, thường mơ thấy những việc kỳ quái và những việc kỳ quái này lại đều biến thành hiện thực. Các bạn học của em đều nói em có thể nhìn thấy ma, nói em là một thầy mo mê hoặc người khác, họ đều không dám nói chuyện với em, lúc nào cũng lảng tránh em, thường để em ngủ qua đêm một mình trong phòng. Bất luận em biểu hiện thân thiện thế nào, bất luận thành tích học tập của em tốt thế nào, đều không thể cải thiện được ấn tượng của họ đối với em”.
                      “Anh có thể hiểu được, em nhất định rất đau khổ?”
                      “Đương nhiên đau khổ, nhưng em làm được gì chứ? Nhưng em không hận các bạn của em, từ trước tới nay em chưa từng hận bất cứ ai, em chỉ hận chính bản thân mình, tại sao lại sinh ra ở Hoang thôn, tại sao lại sinh ra trong gia đình Âu Dương. Vậy là, em đã đổ hết oán hận lên người cha, cha thường viết thư cho em, nhưng từ trước tới nay em chưa từng trả lời thư. Bất luận cha khẩn cầu thế nào, mỗi năm nghỉ đông nghỉ hè em đều không về Hoang thôn, lòng dạ em sắt đá như vậy, một lòng một dã muốn quên đi Hoang thôn. Cha mấy lần viết thư nhắc tới bí mật Hoang thôn, ông muốn em tới kỳ nghỉ hè về nhà một lần rồi sẽ kể lại hết cho em nghe toàn bộ bí mật đó”.
                      Tôi lập tức vội vàng hỏi: “Ông ấy không nói trong thư với em sao?”
                      “Không, cha nhất định phải đích thân nói với em, nhưng em đã hạ quyết tâm không trở về Hoang thôn nữa, vì thế mãi mà em vẫn không biết bí mật của gia tộc là gì”. Cô ấy đau khổ lắc đầu, đôi mắt sáng lên, “Sau đó, em dần dần phát giác chỉ có trong toa tàu điện ngầm em mới cảm thấy tự do, khi tàu điện lao qua đường hầm tăm tối, em cảm giác tim mình cũng bay theo. Chỉ duy nhất lúc đó em mới tự do thoải mái, không còn những ánh mắt chỉ chỏ, không còn bóng tối của cố hương thê lương, giữa trời đất này chỉ còn lại mình em bay lượn”.
                      “Sau đó xảy ra tai nạn trong ga tàu điện ngầm?”
                      “Em không biết rút cục coi đó là coi đó là gì, chỉ cảm thấy mình không hề đau đớn, mà đã bay lên thật cao, sau đó thì tới một thế giới hoàn toàn tối đen”. Trong ánh nến lấp láy, cô ấy bình tĩnh tường thuật lại, giống như đang kể một câu chuyện đời thường. “Đó chỉ là cảm giác trong tức khắc mà thôi. Sau đó không biết bao lâu sau, em bỗng tỉnh dậy, phát hiện mình đang nằm dưới đường ray tối om. Vậy là em từ từ đứng dậy, cảm giác mình vẫn như trước đây, em đi đi lại lại trong sân ga nhưng không có ai nhìn thấy em. Khi tàu điện vào ga, em theo dòng người bước vào đó, đứng trong toa tàu chật cứng, vẫn không có ai nhìn thấy em. Từ đó về sau, em cứ xuyên suốt qua đường ray, những toa tàu điện mỗi ngày đều mang em đi, đưa qua xuyên qua thế giới trong lòng đất của thành phố này”.
                      “Em đã đi về ngao du dưới lòng đất hơn một năm nay rồi?”
                      “Đúng vậy, sau đó em quen anh, rồi thích truyện của anh. Em vốn dĩ sắp quên mất mình là ai, nhưng sau khi đọc ‘Hoang thôn’ của anh, em dần dần hồi tưởng lại một số thứ. Vậy là, em tìm mọi cách để tìm thấy anh, hơn nữa còn muốn anh nhìn thấy hình dáng em”.
                      “Nhưng làm sao em làm được, tại sao trước đây anh không nhìn thấy em chứ?”
                      “Bởi vì, chỉ cần đáy lòng anh nhớ em, thì anh sẽ nhìn thấy em”.
                      “Anh hiểu rồi, thế nên em mới gửi email cho anh trước, sau đó lại gọi điện quấy rối anh”. Tôi đồng thời cũng hiểu ra, lúc đó tại sao mình lại có cảm giác bị theo dõi trong ga tàu điện ngầm, tại sao vừa nhìn thấy cô ấy liền liên tưởng tới Liêu Ttrai, bởi vì cô ấy đã khiến tôi tận đáy lòng nhớ “Nhiếp Tiểu Sảnh” rồi. “Đúng, em đã làm được rồi, lúc em vẫn tên là Nhiếp Tiểu Sảnh”.
                      "Lúc này, em chỉ có thể nói cảm ơn anh. Cảm ơn anh những ngày qua đã ở bên em, cảm ơn anh đã khiến em cảm nhận thấy những thứ rất đặc biệt”.
                      Tôi bỗng ngốc nghếch hỏi: “Đó là thứ gì?”
                      "Anh vẫn không hiểu sao?”
                      Thực ra, tôi đã hiểu rồi, đó là… tình yêu.
                      "Tiểu Chi…”
                      Tôi rút cuộc thốt ra cái tên này, hai tiếng này tôi đã đắn đo trong cổ họng từ lâu rồi.
                      “Cảm ơn, cảm ơn anh”. Tiểu Chi cũng khẽ gật đầu, nước mắt đã đong đầy mắt cô ấy, “Xin lỗi, bây giờ em đã hồi tưởng lại mọi chuyện, em đã không còn là Nhiếp Tiểu Sảnh của anh nữa, mà là Tiểu Chi, người kế thứa cuối cùng của gia tộc Âu Dương cổ xưa”.
                      “Không, bất luận em là Nhiếp Tiểu Sảnh hay là Âu Dương Tiểu Chi, anh vẫn luôn yêu em. Không phải anh đã từng hứa với em sao? Anh mãi mãi không bao giờ rời xa em, mãi mãi không bao giờ để em thấy cô đơn”.
                      Nước mắt từ từ trào khỏi mi mắt Tiểu Chi: “Đó là lời hứa của Nhiếp Tiểu Sảnh với anh, nhưng Nhiếp Tiểu Sảnh đã không còn tồn tại nữa rồi. Tiểu Chi không cần lời hứa của anh, Tiểu Chi bây giờ đã hiểu ra rồi, em và anh thuộc về hai thế giới khác nhau, anh có không gian sống và tương lai của mình, em cũng có không gia sống và tương lai của em, chúng ta giống hai đường thẳng song song vĩnh viễn không bao giờ gặp nhau tại một điểm trong một ngày nào đó”.
                      “Tiểu Chi, lúc này không phải em đang nói chuyện với anh sao?” Tôi nắm lấy tay cô ấy đang run rẩy. “Em xem đi, không phải em đang thực sự ở đây sao? Em không phải là người của một thế giới khác, chúng ta có thể ở bên nhau”.
                      “Đó chỉ là cảm giác của anh, tất cả những điều này đều không phải là hiện thực, đối với anh đều chỉ là một giấc mơ. Nhiếp Tiểu Sảnh là một giấc mơ, Âu Dương Tiểu Chi cũng chỉ là một giấc mơ, tất cả Hoang thôn cũng đều chỉ là một giấc mơ”.
                      Tức khắc tôi ngây người ra: “Mơ?”
                      “Đúng vậy, hãy coi đó là một giấc mơ về sự khủng khiếp và tình yêu”. Cô ấy từ từ sát đến bên tôi, đặt môi lên tai tôi nói: “Xin lỗi, rất xin lỗi. Em bây giờ đã hiểu rồi, Âu Dương Tiểu Chi không thuộc về nhân gian này, cô ấy thuộc về thế giới Hoang thôn, và người cha yêu thương Tiểu Chi vô bờ bến đang đợi cô ấy trong ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ”.
                      “Đúng, em đừng đi…”
                      Bất giác mắt tôi bỗng ươn ướt.
                      Nhưng giọng điệu cô ấy kiên quyết nhường vậy: “Tiểu Chi phải trở về cố hương rồi, Tiểu Chi phải về đoàn viên với cha mẹ, Tiểu Chi sẽ mãi mãi nhớ tới anh”.
                      Tôi chỉ cảm thấy trời đất xoay chuyển, rồi cô ấy ôm chặt lấy tôi nói một câu: “Vĩnh biệt”.
                      Sau vài giây, cô ấy đột nhiên buông tôi ra, tức tốc quay người hướng ra cửa.
                      Không, tôi vội vàng đi theo sau cô ấy, nhưng trong hành lang tối om không nhìn thấy gì cả, tôi chỉ có thể lớn tiếng gọi cô ấy.
                      Nhưng Tiểu Chi của tôi đã mất tăm bóng dáng.
                      Tôi vội vàng chạy về phòng, lôi đèn pin ra tìm Tiểu Chi. Tôi lao xuống tầng trệt trước tiên xem sao, rồi lại lao ra cửa sau của quán trọ Hoang thôn. Trên công trường hoang phế trống trải bên ngoài, không có lấy một bóng người, chỉ còn mỗi ánh trăng mới nhú như chiếc đinh trên bầu trời.
                      Trên đống hoang tàn tôi gào thét gọi cô ấy, mãi tới tận khi cổ họng khản đặc. Tôi đi một vòng xung quanh, cuối cùng chạy tới đường An Tức, vẫn chẳng nhìn thấy ai. Dằn vặt khoảng mười phút đồng hồ, tôi rút cuộc thẫn thờ đứng bên đường, tuyệt vọng ngẩng đầu lên trời.
                      Không hiểu tại sao, tôi bỗng nhớ tới “Tỳ bà hành” của Lý Thương Ân: “Tình này như khúc niệm buồn. Duy còn lại nỗi đâu thương vĩnh hằng”.
                      Tiểu Chi, anh còn có thể gặp lại em không?
                      ***************

                      Comment


                      • #26
                        26. Ngày thư hai mươi sáu



                        Sau khi Tiểu Chi bỏ đi, tôi vẫn cứ ngồi cạnh đống đồ nát cho mãi tới tận nửa đêm mới quay lại tầng hai quán trọ Hoang thôn ngủ.
                        Buổi sáng, tôi từ từ tỉnh lại, vẫn theo thói quen gọi “Tiểu Sảnh”, mãi tới khi cả ngôi nhà đều vang vọng tiếng của mình, tôi mới nhớ lại tất cả những gì xảy ra đêm qua.
                        Cô ấy thực sự đi rồi sao?

                        Tôi lập tức mở tủ ra, nhưng bên trong đã không còn thấy bất cứ đồ đạc gì của cô ấy, đến cả một vết tích cũng đều không lưu lại. Lúc này, tôi mới phát hiện chiếc sao mang về từ Hoang thôn cũng không thấy đâu, tôi tìm khắp cả tòa nhà đều không thấy, rõ ràng đã bị cô ấy đem đi rồi.

                        Đúng, chính là chiếc sáo đó, khi tôi thổi lên tiếng sáo, cô ấy bỗng chốc nhớ lại mọi chuyện. Có lẽ, đây cũng chính là nguyên nhân mà Âu Dương tiên sinh ngày đêm thương nhớ con gái đã nhờ tôi chuyển chiếc sáo này cho Tiểu Chi. Bởi vì chiếc sáo này đã ẩn chứa tình cảm của Hoang thôn cổ xưa, chỉ có nó mới có thể khiến Tiểu Chi từ trong mộng tỉnh dậy… Hồn về cố hương.
                        Đây chính là thiên mệnh của tdt giao cho tôi.

                        Nhưng bi đát ở chỗ, khi tôi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, cũng là lúc tôi mãi mãi mất đi Tiểu Chi. Là tôi tìm thấy Tiểu Chi giữa biển người hoặc có thể nói là Tiểu Chi giữa biển người đã tìm thấy tôi. Lại là tôi khiến cô ấy từ trong suy nghĩ chủ quan tìm lại kí ức, từ đó sinh ly tử biệt với mình.

                        Điều này thât quá mâu thuẫn, cũng thật quá đáng tiếc.

                        Nhưng, ngay từ đầu đã định sẵn rồi, Tiểu Chi vốn không thuộc về nhân gian chúng ta, chúng tôi thuộc về hai thế giới khác nhau, tuyệt đối không thể bên nhau được. Vì vậy chúng tôi chỉ có thể phân li, không thể có kết cục khác, đây chính là khoảng cách giữa người và ma, bi thương vạn cổ không thể đổi thay.

                        Cả một buổi chiều, tôi chìm đắm mãi trong đau khổ, nhưng không còn bất cứ cách nào có thể cứu vẫn được. Bỗng nhiên, tôi giơ tay trái của mình lên thì phát hiện chiếc nhẫn ngọc vẫn đeo trên ngón tay mình. Tôi lập tức duỗi tay tháo nó ra, nhưng rút mãi mà vẫn không được, tôi lại đau khổ ngồi xuống.

                        Đột nhiên, tôi nhớ ra mình vẫn còn một thiên mệnh thứ hai, đó chính là đem chiếc nhẫn này trả lại Hoang thôn. Nó là thánh vật truyền đời của giac tộc Âu Dương, ai xâm phạm tới nó đều phải chịu sự nguyền rủa. Thế nên, việc duy nhất tôi có thể làm lúc này là đem trả lại nó, vật về nguyên chủ, trở lại mái nhà xưa.

                        Bất luận chiếc nhẫn ngọc có rơi khỏi tay tôi hay không, nhưng tôi nên thử xem, ít nhất là tâm tôi chân thành. Hơn nữa, những đồ ngọc từ Hoang thôn đem về vẫn đang ở trong chiếc cặp trên lầu ba, chúng nên trở về với lòng đất Hoang thôn.

                        Biết đâu… Tôi vẫn có thể gặp lại Tiểu Chi?

                        Đúng lúc tôi đang trầm tư thì đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân rầm rập dưới lầu vọng lên, tôi vội vàng chạy xuống. Trong phòng khách, tôi nhìn thấy hai công nhân đang đội mũ bảo hộ lao động, hóa ra họ là công nhân thi công tháo dỡ, họ nói ngôi nhà này ngày mai đập đi rồi nên bảo tôi nhanh chóng dọn khỏi đây.

                        Đợi những người công nhân bỏ đi, trong lòng tôi càng trở nên trịu nặng, tôi ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, hình như nghe thấy tiếng thở sâu nào đó. Đúng rồi, kiến trúc của ngôi nhà này được xây dựng từ những năm 30, ngày mai nó bị san bằng rồi, những người đã từng sống trong ngôi nhà này, linh hồn của họ dưới đất sâu sẽ không được an nghỉ.

                        Tôi chán nản lắc lắc đầu, chạy lên lầu hai sắp xếp đồ đạc. Sau đó lại lên lầu ba trèo lên gác xép trên trần nhà, lấy chiếc cặp da đừng đồ ngọc xuống, còn cả ảnh và sách mà Nhược Vân năm đó để lại, chúng không đáng bị hủy diệt.

                        Bận rộn mãi tới ba giờ chiều, tôi rút cuộc cũng đóng gói xong tất cả đồ đạc. Tôi lấy điện thoại gọi một chiếc xa tắc xi chở hàng, đem tất cả những đồ này về nhà mình.

                        Lúc tôi rời khỏi quán trọ Hoang thôn, trời bỗng lất phất mưa. Tôi chăm chú nhìn ngôi nhà màu xanh lục này, nó giống như một ông lão sắp vào với quan tài, cô độc dãy dụa trong mưa gió thê lương. Là Chi trinh đằng run rẩy trên tường, không biết chúng có biết số phận ngày mai của mình không nữa?

                        Vĩnh biệt nhé, quán trọ Hoang thôn.
                        ***************

                        Comment


                        • #27
                          27. Ngày thứ hai mươi bảy



                          Hôm qua, tôi trở về nhà mình, chiếc nhẫn ngọc vẫn thắt chặt trên ngón tay, tâm trí tôi vẫn chưa đi khỏi quán trọ Hoang thôn, thậm chí vẫn giữ thói quen bật đèn buổi tối.

                          Sáng sớm tỉnh dậy, tôi đã không bao giờ còn ngửi thấy mùi Chi trinh đằng nữa rồi. Tôi bỗng có chút hoài niệm cái mùi nồng nặc trong không khí đó, có lẽ chúng đã hóa thành cát bụi.

                          Buổi chiều, tôi tới ga tàu điện ngầm, từ từ xuyên qua những đám người bận rộn, đảo mắt trên vô số những khuôn mặt xa lạ, hi vọng có thể xuất hiện kỳ tích. Đúng vậy, trên từng góc sân ga và toa tàu điện ngầm đều đã từng lưu lại dấu chân của cô ấy, từng giá sách tronh hiệu sách dưới hầm cũng đều đã từng lưu lại bóng dáng cô ấy. Vậy mà, lang thang hai tiếng đồng hồ tôi cũng chẳng phát hiện được gì, ngược lại còn thu hút sự chú ý và cảnh giác của bảo vệ nhà ga.

                          Tôi đành phải rời khỏi ga tàu điện ngầm, đi bộ trên đường Thiển Tây Nam thì chợt nhìn thấy cửa hàng kem đó. Đúng, tôi đã từng đứng ở chỗ này, cách một con đường xe chạy như nước chảy nhìn cô ấy chăm chú trong cửa hàng kem. Tôi lập tức chạy qua đường, lao tới trước hàng kem thì thấy một cô gái cao ráo trong quầy. May mà lúc này trước quầy kem không có người, tôi vội vàng nói: “Xin lỗi, ở đây có phải có một cô gái tên là Nhiếp Tiểu Sảnh không?”
                          Cô ấy ngây ra một lúc nói: “Tôi chưa từng nghe thấy người này”.
                          “Có lẽ cô không biết tên cô ấy”. Sau đó, tôi miêu tả tường tận lại cho cô ấy nghe về diện mạo và đặc điểm của Tiểu Chi (Tiểu Sảnh).
                          Cô gái cao ráo vẫn lắc đầu: “Chúng tôi ở đây không có ai như thế”.
                          Lúc này, trong tiệm kem lại đi ra một cô gái tóc nhuộm đỏ, tôi lại hỏi cô ấy câu hỏi giống như vậy.

                          Cô gái tóc đỏ nhún nhún vai trả lời: “Cửa hàng chúng tôi mới khai trương được một tháng, chỉ có hai chúng tôi bán thuê ở đây, không có người thứ ba nào cả đâu”.

                          Sao lại như vậy được? Lẽ nào tôi đã nhận sau cửa hàng rồi, tôi lùi lại mấy bước xem tên cửa hàng, rồi lại nhìn những cửa hàng xung quanh. Không sai, nhất định là cửa hàng này, tôi còn nhớ tôi đã từng mua kem trước quầy này, lúc đó chính Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) đứng ở đây mà.

                          Tôi lại tiếp tục nói ra thắc mắc của mình, nhưng cả hai cô gái trong quầy kem đều liên tục lắc đầu, họ nói tuyệt đối không có người thứ ba bán thuê ở đây, còn Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) mà tôi nói họ cũng chưa từng nhìn thấy. Cuối cùng, họ nói tôi đã làm ảnh hưởng tới việc kinh doanh của cửa hàng, nếu như không chịu đi thì họ sẽ gọi 110.

                          Chán nản, tuyệt vọng, tôi chỉ còn cách rời khỏi cửa hàng kem. Cô độc đi giữa dòng người như đang giăng mắc trên đường, lòng dạ rối bời, hai cô gái ban nãy, thực sự không giống như đang nói dối. Nhưng Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) bán hàng trong quầy kem, cảnh tượng này là chính mắt tôi nhìn thấy… Lẽ nào, những gì tôi nhìn thấy không phải là thật, mà đó chỉ là hình ảnh hư ảo giống trên phim?

                          Không, tôi nhất định phải làm cho rõ ràng, ít nhất còn có một người từng nhìn thấy Tiểu Chi (Tiểu Sảnh), anh ấy chính là anh họ Diệp Tiêu của tôi.

                          Buổi tối, tôi vội vàng tìm tới nhà Diệp Tiêu. Tôi toàn đột ngột ghé thăm,còn anh ấy cũng ngại thái độ với tôi nên đành phải quan tâm nói: “Em dọn khỏi cái chỗ quái quỷ đó rồi à?”
                          “Vâng, bởi ngôi nhà đó hôm nay tháo dỡ rồi, có lẽ bây giờ đã thành đống hoang phế rồi cũng nên”.
                          Diệp Tiêu rút cuộc đã mỉm cười: “Tốt nhất nên đập sớm đi, sao rồi? Cảm giác ổn hơn rồi chứ?”
                          “Không, em thấy còn tồi tệ hơn”.
                          “Lại xảy ra chuyện gì nữa?”
                          Tôi nghĩ đã đến lúc nói ra rồi: “Tiểu Sảnh rời xa em rồi”.
                          “Tiểu Sảnh?” Diệp Tiêu chau mày, hình như đang cố gắng nhớ lại, “Em hình như có nói qua, có một người tự xưng là Nhiếp Tiểu Sảnh thường quấy rối em, nhưng anh từ trước tới nay chưa từng gặp cô ấy”.
                          “Anh quên rồi sao? Anh đã từng gặp cô ấy, lần trước trong ga tàu điện ngầm, em nhờ anh giúp em tóm cái người đã đeo bám em”.
                          Diệp Tiêu trầm ngâm hồi lâu: “Đương nhiên anh không quên, lần đó cậu nói có người theo dõi cậu trong ga tàu điện ngầm, bởi vậy anh giúp cậu đi tóm người đó. Hôm đó anh thực sự đến ga tàu điện ngầm, canh chừng hơn một tiếng đồng hồ nhưng chẳng phát hiện ra bất cứ đối tượng khả nghi nào. Lúc đó anh vẫn còn chút việc cơ quan nên chào cậu ra về trước và không phát hiện ra bất cứ kẻ đeo bám nào”.
                          “Cái gì?” Ngôn từ của tôi cũng có chút biến dạng rồi, miệng há hốc, lưỡi cứng đơ, “Không thể, tuyệt đối không thể. Lúc đó, không phải anh rất nhanh đã phát hiện ra có một cô gái trẻ nhìn em chằm chằm sao? Khi cô ấy đi theo em lên sảnh ga, anh liền xong tới tóm chặt cô ấy, còn cô ấy thì ra sức chạy về phía trước, kết quả là bị em tóm lại”.
                          “Em điên rồi sao? Anh đâu có nhớ là đã xảy ra những chuyện này”. Diệp Tiêu cũng rất ngạc nhiên, anh ấy vỗ vỗ vào vai tôi nói. “Có phải mấy hôm nay căng thẳng quá không, đến nỗi xuất hiện trí nhớ ảo?”.
                          “Trí nhớ ảo?” Tôi bỗng nhiên bụm miệng lại, không dám nghĩ tiếp nữa.
                          “Trí nhớ ảo là cho rằng mình nhìn thấy người đặc biệt nào đó, hoặc là trải qua việc đặc biệt nào đó, nhưng trên thực tế những người và những việc này đều không tồn tại, chỉ là suy nghĩ chủ quan của mình mà thôi”.

                          Tôi đột nhiên giơ tay trái của mình lên, lẽ nào là do chiếc nhẫn ngọc? Không thể thế được, bởi vì lúc đó tôi vẫn chưa đeo nó lên mà. Lẽ nào trí nhớ của tôi có vấn đề, hay là Tiểu Chi vốn chỉ là một ảo ảnh?
                          Tức khắc, bên tai tôi dường như vang lên lời của Tiểu Chi.
                          "Chỉ cần lòng anh nhớ em, thì anh sẽ có thể nhìn thấy em”.

                          Đúng vậy, trước khi tôi tận mắt nhìn thấy Tiểu Chi, tôi đã giao lưu với cô ấy qua email và điện thoại, khiến cái người “ntd” này khắc sâu vào trí não mình. Bởi vậy, khi cô ấy xuất hiện với thân phận “Nhiếp Tiểu Sảnh” thì tôi sẽ có thể nhìn thấy cô ấy do trong lòng tôi nhớ cô ấy. Đồng thời,cũng chỉ có mình tôi nhìn thấy cô ấy, còn với những người khác thì cô ấy chỉ là một làn sương khói không hề tồn tại.
                          Bây giờ, tôi đã hiểu ra mọi chuyện rồi: “Tiểu Chi, chỉ cần lòng anh nhớ em là anh sẽ có thể nhìn thấy em”.

                          Diệp Tiêu không hiểu ý của tôi: “Em đang nói gì vậy?”
                          Tôi cảm thấy mình giống như bủn rủn chạn tay, lắc lắc đầu nói: “Không có gì, cảm ơn anh, Diệp Tiêu”.
                          Sau khi cáo từ Diệp Tiêu, tôi tức tốc trở về nhà, thu dọn chỉnh đốn hành lý.

                          Tức khắc, tôi sờ lên chiếc nhẫn ngọc lạnh toát, hạ quyết tâm… sáng sớm ngày mai sẽ khởi hành đến Hoang thôn, bất luận có gì đó nguy hiểm nhưng cũng phải hoàn thành sứ mệnh của mình.
                          ***************

                          Comment


                          • #28
                            28. Ngày thư hai mươi tám



                            Lần thứ hai tôi bước lên chặng đường tiến về Hoang thôn.

                            Sáng sớm, tôi mang một chiếc va li đựng những đồ quan trọng bước lên chuyến xe khách đường dài hường về thành phố K. Nhìn những thửa ruộng Giang Nam ngày hạ ngoài cửa sổ ô tô, hình như mọi thứ lại trở về điểm xuất phát ban đầu, chỉ là đổi sang mùa khác mà thôi. Nhớ lần đầu tiên tới Hoang thôn, trong lòng thấp thỏm bất an, sự hưng phấn và hiếu kỳ chiếm phần lớn. Nhưng lúc này, sau khi đã trải qua bao nhiêu việc, tâm trạng của tôi cũng trở nên trấn tĩnh dị thường, bởi vì chuyến đi lần này là để làm cái việc mà tôi bắt buộc phải làm.
                            Sau vài tiếng đồng hồ phóng như bay, buổi chiều tôi tới bến xe khách thành phố K. Sau đó, tôi không nghỉ chân mà ngồi ngay lên chiếc xe buýt nhỏ tới thị trấn Tây Lãnh, hai tiếng sau thì tới nơi. Đã hoàng hôn rồi, tôi ăn qua quýt bữa tối tại thị trấn Tây Lãnh, sau đó đi bộ ngay trong đêm để tới thị trấn Hoang thôn.

                            Đường lần trước đi vẫn nhớ rất rõ, hơn nữa tôi cũng đã xác định sẵn tư tưởng, bởi vậy khi đi cũng không quá mệt mỏi. Trên những dãy núi hoang vắng trong đêm mùa hạ này, bốn bề đều lộng gió biển mặn chát. Tôi đi liên tục mấy tiếng đồng hồ, rút cuộc cũng vượt qua ngọn núi cuối cùng. Vùng biển đen trong đêm tối hiện ra trước mắt tôi, dưới dốc núi tọa lạc một ngôi làng tăm tối, tấm bia tiết hạnh trước cổng thôn vẫn nổi bật dưới ánh trăng như thủa nào.

                            Hoang thôn, tôi lại đến đây.

                            Bỗng nhớ lại hơn hai mươi ngày trước, khi bốn sinh viên tới đây, tâm trạng của họ thế nào? Ít nhất cũng không thể ngờ tới vận hạn đen đủi đang đợi họ nhỏ.

                            Để lòng mình bình tĩnh lại cái đã, sau đó tôi sờ lên chiếc nhẫn ngọc, thì thầm: “Mày về nhà rồi”.

                            Đi qua chiếc bia tiết hạnh, tôi dò dẫm trong bóng tối tiến vào Hoang thôn.

                            Tuy đã là mùa hạ, nhưng không khí trong những con đường nhỏ ở Hoang thôn vẫn sát khi nhường vậy, xung quanh không có lấy một hơi người, tôi dựa theo trí nhớ để mò tới trước cổng Tiến Sỹ Đệ. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, ngôi nhà từng oai nghiêm một thời đang lặng lẽ đứng sừng sững, toát ra hơi thở như sắp chết tới nơi. Đúng vậy, từ nay trở về sua, ngôi nhà cổ này sẽ chẳng bao giờ có người sống nào ở đây nữa, nó sẽ trở thành một ngôi nhà chết.

                            Nín thở, tôi nhẹ nhàng đẩy cổng, quả nhiên chỉ là đóng lấy lệ, chắc là bình thường các thôn dân cũng không dám vào đây. Tôi lập cà lập cập bước vào sân đầu tiên trong Tiến Sỹ Đệ, sau đó bật đèn pin.

                            Ánh sáng đèn pin đưa tôi tiến vào phòng khách, soi sáng ba chữ “Nhân Ái Đường” trước tấm biển, bên dưới vẫn là bức chân dung cổ nhân bằng giấy ống quyển. Ở đây vẫn giống như lần trước tôi nhìn thấy, cảm giác khiến người ta nghẹt thở.

                            Tôi tiến vào sân thứ hai trong Tiến Sỹ Đệ, ánh trăng vương vãi trên mảnh sân nhỏ cô đơn, giống như đang trở về một niên đại nào đó. Tôi nhẹ nhàng bước lên ngôi nhà gỗ cạnh đó, mở cửa một căn phòng. Chụm ánh đèn quét qua quét lại giữa những lớp bụi dày đặc, bỗng nhiên quét thấy một chiếc máy vi tính, bên cạnh còn có một chiếc ti vi, nhưng chúng đều tích đầy bụi, xem ra lâu lắm rồi không dùng đến. Cách bài trí của căn phòng này gần giống như ở thành phố, xem ra hình như là quế phòng mà Tiểu Chi từng ở.

                            Tim tôi bỗng nhiên trào dâng một cảm giác đau buồn man mác, tôi khẽ gọi hai tiếng: “Tiểu Chi”.

                            Lặng lẽ đợi vài phút, xung quanh vẫn chẳng có động tĩnh gì, dù biết rằng làm thế chỉ tổ uổng công nhưng trong lòng tôi vẫn hy vọng kỳ tích sẽ xuất hiện.

                            Không, kỳ tích không thể có được nữa.

                            Tôi lặng lẽ đi xuống căn gác nhỏ, rồi tới ngôi nhà phía sau đó. Mùa đông mấy tháng trước, tôi đã từng ở trong căn phòng trên ngôi nhà này. Đẩy tấm cửa quen thuộc ra, bên trong thấy rõ có chút xáo trộn, tôi biết bốn sinh viên đó cũng đã từng ở đây. Dưới ánh đèn pin mù mờ, bốn tấm bình phong sơn mài hiện rõ mồn một, nhìn những bức tranh sống động như thật này, tôi không tránh được tiếng thở dài.

                            Rời khỏi dãy nhà này, tôi lại tới sân sau của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ. Trong vườn hoa cổ hoang dại này, cây hoa mai nổi bật nhất dưới ánh trăng, những nhành cây vươn ra trong đêm tối. Tôi chầm chậm tiến lại miệng giếng, nhìn một lần xuống giếng nhưng chẳng nhìn thấy gì trong bóng tối, chỉ cảm giác một luồng khí lạnh toát đang sộc lên mặt… dưới đáy chính là nơi chôn thân của “vợ thế”.

                            Cô lẽ, đây là một ngôi nhà tội ác.

                            Trở lại sân thứ hai trong Tiến Sỹ Đệ, tôi giơ cao tay trái của mình lên, chiếc nhẫn ngọc phát ra ánh sáng kỳ dị dưới ánh trăng, tôi nghĩ đã đến lúc rồi.

                            Tôi chỉnh đốn một chút túi hành lý, lấy từ trong đó ra một số công cụ cần thiết, ngoài ra còn có chiếc va li kia. Sau đó, tôi mang tất cả những thứ này, mở cửa căn phòng dưới tầng trệt, ánh đèn pin soi sáng một chiếc giường to, đây chắc là phòng của Âu Dương tiên sinh rồi. Tôi vòng tới cuối căn phòng, quả nhiên phát hiện trên tường có một chiếc cửa bí ẩn, xem ra hội Hoắc Cường khi bỏ đi đã chưa kịp lấy gạch bịt lại.
                            Tôi cẩn thận rón rén bước vào mật thất, rồi lại lấy đèn pin soi xuống phía dưới, những bậc cầu thang lập tức hiện ra. Chính là đây rồi, tôi hít một hơi thật sâu, từng bước từng bước đi xuống địa đạo.

                            Có lẽ, do chiếc cửa bí ẩn đã từng được mở ra, đường đi dưới lòng đất cũng ẩm ướt thấy rõ, từ góc độ bảo tồn văn vật cho thấy, đây vòn không phải là một việc tốt. Đi xuống khoảng chục mét, quả nhiên xuất hiện một chiếc cổng đá lớn, nhưng khóa cửa đã bị kẹp đứt rồi. Tôi tìm thấy chiếc khóa trên mặt đất, đó là loại khóa mà tôi thường thấy khi còn nhỏ, tôi nghĩ Âu Dương tiên sinh đã từng ra vào chiếc cổng này, vì thế mới sử dụng chiếc khóa này.

                            Bước vào cánh cổng đá, bên trong là một địa đạo dài, do đã chuẩn bị sẵn tâm lý nên tôi đi rất nhanh, mấy phút sau đã tới phòng khách dưới lòng đất – địa cung Hoang thôn thần bí.

                            Đột nhiên, tôi cảm thấy tay trái của mình nóng rực lên, chắc đó là tác dụng của chiếc nhẫn ngọc. Nhưng tôi gồng sức chịu đựng, dùng đèn pin soi một vòng quanh địa cung trước đã, hình như nhìn một lần cũng không thể thấy tận đáy.

                            Trên mặt đất phía sát tường, tôi phát hiện mười mấy vật bằng ngọc. Đúng, chắc chúng đều là đồ ngọc thời Lương Chử, tôi lập tức mở chiếc va li ra, cẩn thận lấy từ trong đó ra năm vật bằng ngọc.

                            Lúc này, những thứ ngọc hổ phách, ngọc bích và búa ngọc cuối cùng đã cùng nhau đoàn viên, giống như đã trở về cổ quốc Lương Chử năm nghìn năm trước. Chúng có lẽ sẽ vĩnh viễn ở lại trong đất.

                            Ánh sáng đèn pin lại rọi lên chiếc cửa nhỏ trên tường, đây chắc là cửa của mật thất địa cung? Tôi sờ tay lên đó, quả nhiên là được làm bằng chất liệu ngọc. Tôi nhẹ nhàng đẩy cánh cửa ngọc, khom lưng tiến vào gian mật thất này.

                            Mật thất rộng khoảng mười mét vuông, độ cao khiến tôi chỉ có thể cúi đầu, tôi dùng đèn pin quét một vòng, phát hiện trên mặt đất có một chiếc hộp. Tôi lập tức ngồi xổm xuống, dùng đèn pin soi cẩn thận, chiếc hộp này cũng được tạc bằng ngọc, chắc đây chính là chiếc rương ngọc.

                            Trên nắp rương ngọc vốn dĩ có miếng đất niêm phong, nhưng đáng tiếc là đã bị Hoắc Cường đập vỡ. Tôi nghĩ mỗi khi gia tộc Âu Dương mở chiếc rương ngọc này ra, rồi để đồ vào trong đó chắc đều sẽ lưu lại miếng đất niêm phong mới, đánh dấu do người nào đó niêm phong trong tháng trong năm nào đó.

                            Và chiếc nhẫn ngọc trên tay tôi, vốn dĩ phải cất giữ trong chiếc rương ngọc này.

                            Trầm ngâm hồi lâu, tôi cẩn thận tỉ mỉ mở chiếc rương ngọc ra, bên trong nghiễm nhiên là trống hươ trống hoắc.

                            Đối diện với chiếc rương trống trơn, tôi cảm thấy có chút hoảng sợ, đầu óc trống rỗng, không biết bản thân mình còn có thể làm được gì hay là thừa nhận thực tế không thể làm được gì?

                            Đột nhiên, tôi cảm thấy ngón tay trỏ của mình càng lúc càng nóng rẫy, dưới ánh sáng đèn pin soi rọi, chiếc nhẫn ngọc hơi có chút biến đổi, vệt đỏ đun rực rỡ hẳn lên, đây chính là máu của người con gái khát vọng tình yêu hơn bốn nghìn năm trước.

                            Tôi dường như không kiểm soát được mình nữa, bàn tay trái vô thức thò vào trong chiếc rương ngọc. Sau mấy giây, tôi kinh ngạc phát hiện chiếc nhẫn ngọc bắt đầu tuột ra.

                            Trời ơi, nó có thể cử động rồi.

                            Chỉ trong chớp mắt, chiếc nhẫn ngọc tuột khỏi ngón tay tôi, nhẹ nhàng rơi vào vào trong rương ngọc.

                            Tay phải của tôi vẫn nắm lấy đèn pin, sững sờ chứng kiến cảnh tượng này. Chiếc nhẫn ngọc hơn bốn nghìn năm tuổi này đã đeo trên ngón tay tôi mười ngày hôm nay, tôi đã từng tìm đủ mọi cách để tháo nó ra, lúc này thì lại có thể tháo ra nhẹ nhàng đến vậy. Còn tên ngón trỏ tay trái tôi, mọi cảm giác kỳ lạ đều tiêu tan rồi, ngón tay trơn tru lại trở về trạng thái ban đầu.

                            Nhìn chiếc nhẫn ngọc nằm im trong rương, dưới ánh sáng mờ ảo soi rọi của đèn pin trên tay, tôi bỗng nhiên hiểu ra rồi… đây chính là nhà của nhẫn ngọc. Đúng vậy, chiếc nhẫn ngọc đã từng khiến tôi nảy sinh ảo giác, đau khổ và tuyệt vọng. Nhưng tất cả những gì nó làm trên người tôi, đều chỉ vì giây phút trở về này.

                            Đúng vậy, chiếc nhẫn ngọc về nhà rồi.
                            Tôi bỗng thấy lòng mình nhẹ nhõm, dường như tất cả những khủng hoảng của mười ngày qua đều tiêu tan theo sự trôi tuột của chiếc nhẫn ngọc. Sau đó, tôi cẩn thận đóng nắp rương ngọc, đặt nó trở lại vào trong góc mật thất.

                            Tạm biệt nhé, nhẫn ngọc.

                            Tôi cúi đầu lùi khỏi gian mật thất, đóng chiếc cổng ngọc lại. Rút cuộc, tôi thở một hơi dài, tôi biết rằng mình đã hoàn thành sứ mệnh, tất cả những thứ bị lấy đi giờ đây đều đã quay về với nguyên chủ, trở lại mái nhà xưa.

                            Hãy coi như mọi thứ đều chưa từng xảy ra.

                            Trước khi ra khỏi địa cung, tôi lại lấy đèn pin soi rọi, chỉ còn một đám khói đen âm u lạnh lẽo hay lơ lửng. Tôi thử bước vài bước về phía thâm cung, phát hiện không gian dưới lòng đất này thực sự rất rộng, giống như một khu khai thác đá dưới lòng đất vậy.

                            Bỗng nhiên, ánh đèn pin trên tay hiện lên một vùng ánh sáng lạnh lẽo màu xanh, tôi vội vàng bước lên phía trước vài bước. Đó là một khối ngọc thạch khổng lồ, bề mặt lồi lõm mấp mô, có rất nhiều vết tích khai thác của những người thợ, ánh sáng xanh kỳ dị đó được phản xạ từ đây.

                            Tôi cẩn thận giơ đèn pin, nhằm chuẩn vào mảng màu xanh trên ngọc thạch, rồi lại lấy tay tỉ mẩn sờ lên đó, một cảm giác lạnh toát thẩm thấu vào cơ thể. Phút chốc, tôi kinh ngạc tới nỗi không thốt nên lời, tôi đã phát hiện ra thứ gì?

                            Ngọc.

                            Đúng vậy, tôi đã phát hiện ra mỏ ngọc dưới lòng đất, khối thạch bích khổng lồ chính là khoáng thể ngọc thạch, tôi tính toán sơ qua một chút, ít nhất cũng phải dài tới hơn năm mươi mét, trên khoáng thể vẫn còn lại rất nhiều những vết tích bị khai thác. Có lẽ cả cái địa cung rộng lớn này đều đã từng là một phần của mỏ ngọc, do sau bao năm tháng khai thác tích lũy lại mới hình thành nên không gian rộng lớn này.

                            Tuyệt đối không thể nhìn lầm được, bao ngày nay tôi sống ngày sống đêm cùng đồ ngọc nên đã trở thành bán chuyên gia ngọc thạch rồi, mỏ ngọc dưới lòng đất này thật sự khiến người ta trầm trò kinh ngạc.

                            Bỗng nhiên, tôi nhớ tới vấn đề Tôn Tử Sở nói, cũng chính là những chất liệu bằng ngọc mà văn minh Lương Chử năm nghìn năm trước sử dụng rút cuộc từ đâu tới? Đây chính là vấn đề làm đau đầu giới sử học một thời gian dài. Bây giờ, tôi nghĩ rằng tôi đã tìm thấy đáp án rồi, chính là trước mắt tôi.

                            Ngay lập tức tôi đã hiểu ra. Vào năm nghìn năm trước, những nhà sáng lập ra cổ quốc Lương Chử đã đổ bộ lên Hoang thôn ngày nay định cư. Không lâu sau, họ đã phát hiện ra khoáng thể ngọc thạch khổng lồ ngay nơi dưới chân mình. Vậy là, họ đã khai thác một lượng ngọc thạch ở đây, sau đó lợi dụng sức mạnh thần bí của đồ ngọc,t iến vào lưu vực Thái hồ xây dựng nên Cổ Ngọc Quốc, cũng chính là văn minh Lương Chử mà ngày nay thường nhắc tới. Hôm nay, tất cả những đồ ngọc Lương Chử thần bí mà tôi nhìn thấy, vật liệu của chúng đều từ đây khai thác mà ra, tổ tiên của nhà Âu Dương đã lợi dụng nguồn tài nguyên ngọc thạch quý báu này sáng tạo ra thời đại văn minh đồ ngọc phát triển cao độ.

                            Bốn nghìn năm trước, văn minh Lương Chử do nhiều nguyên nhân mà bị hủy diệt, may mà Cổ Ngọc Quốc của họ vẫn sinh tồn, bởi vậy mới tháo chạy tới vùng đất Hoang thôn này vì là do ở đây có chôn giấu kho báu quan trọng nhất của họ - mỏ ngọc.

                            Đúng, đây cũng là nguyên nhân mà gia tộc Âu Dương định cư mãi ở Hoang thôn hàng ngàn năm này, bí mật mà họ muốn cất giữ trên thực tế chính là mỏ ngọc dưới lóng đất này. Chúng được coi là kho báu giàu có mà gia tộc để lại, là vùng đất thánh mà bất cứ ai cũng không được xâm phạm.

                            Đây chính là bí mật cuối cùng của Hoang thôn.

                            Thực sự không thể ngờ tới tôi đã dùng cách đặc biệt này để hòa giải một bí ẩn lịch sử trọng đại. Đã từng có không biết bao nhà sử học, nghiên cứu cả đời đều không thể làm sáng tỏ vấn đề này, hóa ra lại được tôi phát hiện ra. Nhưng sự trả giá cho điều bí mật này cũng quá lớn.

                            Đối diện với kho báu mỏ ngọc của cổ nhân đã khai thác năm nghìn năm trước,tôi thành tâm khom mình bày tỏ lòng thành kính, bởi vì mỏ ngọc cổ xưa này chính là bước đầu tiên mà nhân loại chinh phục tự nhiên bước vào nền văn minh.

                            Tôi lại nhớ tới những truyền thuyết của văn minh Lương Chử, và cả lai lịch thần bí của tổ tiên gia tộc Âu Dương, biết đâu họ thực sự không phải là loài người? Biết đâu tất cả những điều này đều liên quan tới ngọc thạch dưới lòng đất? Cũng giống như chiếc nhẫn ngọc có thể giúp tôi nhìn thấy quá khứ.

                            Lẽ nào mỏ ngọc ở đây có chôn giấu nguyên tố tự nhiên thần bí nào đó?

                            Nghĩ tới đây, tôi liền nhặt ngay vài mảnh ngọc thạch vụn trên đất,có thể đem chúng về Thượng Hải làm xét nghiệm khoa học, biết đâu lại là phát hiện trọng đại làm chấn động thế giới?

                            Nhưng sau vài chục giây do dự, tôi lại để những mảnh ngọc vỡ trở về chỗ cũ. Không, tôi không có quyền gì đem chúng đi, hãy để chúng được bí mật chôn vùi dưới lòng đất, vĩnh viên không được quấy nhiễu chúng.

                            Tôi không cầm đi bất cứ thứ gì và vội vã rời khỏi nơi đây. Theo ánh đèn pin dẫn đường, tôi bước ra khỏi địa cung to lớn, trở lại đường đi dưới lòng đất. Khi đi qua cánh cổng đá, tôi đã đóng cửa lại, cố gắng hết sức không để không khí lọt vào bên trong.

                            Bước lên những bậc cầu thang đá dựng đứng,tôi rút cuộc đã trở lại mặt đất. Sau khi bước ra khỏi mật thất trong phòng, tôi nhặt những viên gạch dưới đất lên, biết lại cửa mật thất. Sau đó, tôi kê lại chiếc giường vào trước cánh cửa bí mật, hoàn toàn che nó lại, và mong rằng sẽ không còn ai phát hiện ra sự tồn tại của nó nữa.

                            Trở lại sân, tôi hít lấy hít để không khí bên ngoài, ánh trăng vương vãi trên người tôi, hãy để ngôi mộ này vĩnh viễn đóng lại nhé.

                            Lúc này đã là mười hai giờ đêm, xem ra tối nay không về được nữa. Tôi đi tới căn gác nhỏ phía sau, trở lại căn phòng trước đây mình đã từng ở. Đem cuối cùng ở trong Hoang thôn, tôi đã vội vàng lau chiếc giường gỗ rồi trải chiếc thảm lên trên. Trong căn phòng tối tăm cổ kính này, mãi mà tôi vẫn chưa ngủ được, hy vọng rằng lúc nào đó trong đêm, Tiểu Chi sẽ xuất hiện trước mắt tôi.
                            Tiểu Chi, em có đến không?
                            ***************

                            Comment


                            • #29
                              29. Ngày thư hai mươi chín




                              Tiểu Chi đã không xuất hiện.

                              Tôi thức trắng cả đêm, lặng lẽ chờ đợi kỳ tích xuất hiện. Tôi đã từng sợ hãi ảo ảnh và ác mộng nhường vậy, nhưng thời khắc này sao lại khát vọng chúng đến nhường vậy, chỉ để gặp được Tiểu Chi một lần. Vậy mà, cả Tiến Sỹ Đệ chết lặng giống như ngôi mộ, khi bên ngoài văng vẳng tiếng gà gáy, tôi hiểu rằng cô ấy sẽ không tới nữa rồi.

                              Sớm tinh mơ, tôi sắp xếp lại hành lý, quyết tâm không lấy đi bất cứ thứ gì ở đây. Sau đó, tôi lặng lẽ từ biệt Tiến Sỹ Đệ, khi tôi bước ra khỏi ngôi nhà cổ, trong lòng âm thầm thốt lên hai tiếng tạm biệt.

                              Gia tộc lâu đời kéo dài mấy nghìn năm này tới đây đã triệt để đoạn tuyệt rồi, mọi yêu, hận và tội ác đều đã khép lại trong ngôi nhà cổ này, không còn xâm nhập vào cuộc sống của người khác nữa.

                              Tôi khoác hành lý rời khỏi Hoang thôn, hình như không có ai phát hiện ra tôi, khi đi qua tấm bia tiết hạnh, những cơn sóng hung tợn phía xa xô bờ, lòng bỗng nảy sinh cảm giác kỳ lạ.

                              Bờ biển sớm tinh mơ mịt mờ sương khói, giống như khói mây đang lan tỏa trong những bức tranh Trung Quốc, mùa đông đến nơi đây, thật chưa từng thấy qua cảnh sắc này. Vậy là, tôi vô thức tiến tới bờ biển, leo lên những phiến đá lởm chởm, phát hiện dưới gốc núi là những ngôi mộ la liệt. Vô số những ngôi mộ dựng đứng dưới chân tôi, lặng lẽ nghe tiếng sóng biển.

                              Khi tôi ngước nhìn xung quanh, bỗng nhiên phát hiện trên vách núi cách đó vài trăm mét, hình như có bóng dáng một cô gái áo trắng. Dưới vách núi cheo leo là biển lớn, cô ấy đứng một mình cô độc hướng về phía biển, gió biển thổi tung sắc váy trắng cùng mái tóc dài đen tuyền của cô ấy, trông thật giống một bức tranh thủy mặc. Tuy khoảng cách khá xa, qua làn sương khói bên bờ biển chỉ có thể nhìn thấy chiếc bóng mờ ảo nhưng thân hình mảnh dẻ và mái tóc đen xõa ra đó lập tức khiến tôi nghĩ tới một người.

                              “Tiểu Chi?”
                              Giống như đang lê bước trên sa mạc xa xăm, đột nhiên phát hiện thấy một giếng nước ngọ, tôi không thể kìm nén được sự kích động, lập tức lao chạy về phía vách núi. Nhưng vách núi do thực sự quá cao, cả đường đi khúc khuỷu dựng đứng, tôi đành phải dùng cả tay để leo lên đó.

                              Mấy phút sau, tôi rút cuộc cũng đã bò lên được vách núi một cách khó khăn, nhưng lại chẳng thấy gì trước mắt. Tôi lo lắng nhìn một vòng xung quanh, trên vách núi to nhường vậy, ngoài tôi ra chẳng có lấy một bóng dáng ai khác.

                              Tôi tuyệt vọng xông lên đỉnh dóc núi, tiến thêm một bước nữa đã là vực thẳm rồi. Độ cao từ vách núi tới mặt biển ít nhất cũng phải năm mươi mét, chỉ nhìn thấy bọt tung lên trời trắng xóa dưới chân phát ra những âm thanh đinh tai nhức óc. Một vùng khói ẩm ướt bao trùm lấy tôi, giống như bước ra từ trong mây.

                              “Tiểu Chi…”
                              Tôi hướng về phía mặt biển gọi to, tôi biết cô ấy có thể nghe thấy tiếng gọi của mình, tôi biết cô ấy luôn ở bên cạnh tôi.
                              Tiểu Chi đã từng nói với tôi một câu, đến tận bây giờ tôi vẫn khắc sâu trong lòng…
                              “Chỉ cần lòng anh nhớ em, anh sẽ nhìn thấy em”.
                              Tôi tin câu nói này là thật. Lúc này lòng anh nhớ đến em, nhưng tại sao anh không nhìn thấy em chứ?

                              Có lẽ, chắc là do em không nhẫn tâm để anh nhìn thấy em phải không?
                              Trên vách núi cheo leo dựng đứng này, tôi chờ đợi rất lâu, mãi cho tới tận khi ánh nắng đuổi sương khói đi, mặt trời chói chang trên mặt tôi. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, gió trên mặt biển cũng dần lặng lại, đại dương vốn đang cuộn trào giây phút này đây lại giống như một mặt gương tĩnh lặng. Nhiệt độ cũng bắt đầu nóng lên dưới mặt trời chói chang, tôi cảm thấy toàn thân mình đổ mồ hôi, giống như đang từ bờ biển chuyển tới sa mạc vậy.

                              Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy phía chân trời giao thoa với biển, dần dần hiện lên một khuôn mặt phụ nữ, giống như đang xem phim ngoài trời vậy, tôi lập tức nín thở, đó chắc chắn không phải là do ảo giác của tôi, đại dương dường như cong thành một màn hình, mặt trời biến thành máy chiếu phim, ánh nắng chiếu lên màn hình khổng lồ này khiến tôi từ từ nhìn rõ khuôn mặt đó – Tiểu Chi.

                              Đúng vậy, ở phía chân trời cô ấy đang mỉm cười, khuôn mặt bao trùm trong ánh sáng lung linh, giống như hình bóng Nhiếp Tiểu Sảnh dưới ánh nến. Mắt của cô ấy, lông mày và chiếc mũi đều dường như đang trùm lên một lớp voan mỏng, lại giống như bóng dáng được in lên mặt nước xanh biếc.

                              Tiểu Chi đang xa tận chân trời nhưng lại gần ngay trước mắt, dường như tôi giơ tay ra là có thể chạm vào cô ấy. Đột nhiên, khuôn mặt Tiểu Chi bỗng từ từ nhạt nhòa dần, tan biến trên không trung giống như nước chảy.

                              Tôi dụi dụi lại mắt, nhưng nhìn thấy biển trời đã trở lại như trước, vẫn là bầu trời xanh đó, biển đen đó, chỉ còn đường giao thoa giữa biển nơi cuối tầm mắt.

                              Mãi tới giờ phút này tôi mới hiểu ra, cảnh tượng kỳ dị vừa nhìn thấy ban nãy chẳng qua là “sự khúc xạ ánh sáng”.
                              “Khúc xạ ánh sáng” là một hiện tượng quang học, có thể truyền những cảnh tượng không cùng một thời điểm tới mắt người, thường xảy ra trên sa mạc hoặc trên biển.

                              Nhưng tại sao Tiểu Chi lại có thể xuất hiện trong “khúc xạ ánh sáng” chứ? Tôi không thể giải thích nổi hiện tượng này, có lẽ đây chỉ là sự thương cảm của ông trời dành cho tôi chăng.

                              Tôi nhớ mình đã từng xem qua một bộ phim, nam diễn viên chính đi qua sa mạc nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của một cô gái hiện lên trong “khúc xạ ánh sáng” và đã yêu cô gái chưa từng gặp mặt ấy.
                              Nhưng tôi và Tiểu Chi hoàn toàn trái ngược.

                              Vậy là, tôi hít thật sâu không khí trên vách núi, rời khỏi nơi kỳ lạ này.
                              Đường xuống núi vẫn khó khăn nhường vậy, vất vả lắm mới tìm thấy đường tới Hoang thôn. Sau đó, tôi đi nhanh về phía thị trấn Tây Lãnh, trong lòng lại lẩm bẩm: “Vĩnh biệt nhé, Hoang thôn”.
                              Buổi trưa, tôi mệt mỏi rã rời về tới thị trấn Tây Lãnh, vội vàng ăn bữa trưa, sau đó ngồi xe buýt để kịp tới bên xa khách đường trường hướng về phía thành phố K, rút cuộc cũng kịp chuyến xe cuối cùng trở về Thượng Hải.

                              Khi xe khách về tới Thượng Hải, bầu trời đã đầy sao. Tôi đeo hành lí bước ra khỏi bến xe, nhớ lại ngày đầu tiên của câu chuyện này lúc bốn sinh viên tìm đến nhà tôi hỏi thăm, trong lòng bỗng trào lên cảm giác buồn bã vô cùng.

                              Vậy là, tôi ngửa đầu nhìn lên bầu trời đầy sao bí ẩn, nhẹ nhàng thở dài: “Để mọi việc kết thúc đi nhé”.
                              ***************

                              Comment


                              • #30
                                30. Ngày thứ ba mươi




                                Hôm nay la ngày thứ ba mươi của câu chuyện này, cũng là ngày cuối cùng.

                                Không biết có nên viết ngày cuối cùng vào trong cuốn truyện này không nữa, trong vòng đúng ba mươi ngày, tôi đã trải qua những chuyện mà cả cuộc đời của rất nhiều người cũng không sao có thể trải nghiệm được. Đúng vậy, ba mươi ngày đêm khủng khiếp này, xuyên suốt cả truyền thuyết năm nghìn năm, còn cả tình yêu và thù hận khắc cốt ghi tâm đều đã được tôi thành thật gfhi chép lại, viết thành cuốn tiểu thuyết tặng cho người bạn thân yêu của mình – bạn dang đọc cuốn truyện này.

                                Ba giờ chiều, chuông cửa bỗng vang lên, giống như tiếng chuông của ngày đầu tiên trong câu chuyện, lòng tôi bắt đầu hoài nghi. Đắn đo mở cửa nhà thì bỗng nhìn thấy ngoài cửa là một gương mặt trẻ.

                                Phút chốc tôi sững người ra, đây là một người mà tôi hoàn toàn không ngờ tới – Tô Thiên Bình.

                                Đúng vậy, vẫn gương mặt đó, chẳng qua là gày gò trắng bệch hơn, tóc tai dài thườn thượt rối bù, bộ dạng giống như vừa ngủ dậy.
                                Đôi mắt sâu thẳm của cậu ấy nhìn xoáy vào tôi, chậm rãi nói: “Xin lỗi, tôi có thể vào trong không?”

                                Sau vài giây, tôi mới kịp phản ứng lại, vội vàng để Tô Thiên Bình bước vào rồi rót cho cậu ấy một cốc nước nóng. Cậu ấy bưng cốc ngẩng đầu lên, lộ ra nụ cười kỳ dị: “Anh cho rằng tôi chết từ lâu rồi phải không?”

                                Câu hỏi của cậu ấy khiến tôi chẳng biết trả lời làm sao, bởi vì tôi thực sự cho rằng cậu ấy đã chết từ lâu rồi, giống như Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong chết vì ác mộng, hoặc là trở thành bệnh nhân tâm thần giống như Xuân Vũ.

                                Không đợi tôi trả lời, Tô Thiên Bình tự hỏi tự trả lời: “Thực ra, ngay đến bản thân tôi cũng cho rằng mình chết từ lâu rồi”.
                                Tôi rút cuộc cũng tự mình trấn tĩnh lại: “Những ngày đó cậu đi đâu vậy? Nhà trường tìm cậu khắp mọi nơi đấy”.
                                “Còn nhớ hôm đó không? Trong quán cà phê trước cổng trường, tôi đã hẹn anh nói chuyện cả một buổi chiều”.
                                “Dĩ nhiên nhớ rồi, kể từ đó anh đã bặt vô âm tín”.
                                “Chính trong tối hôm đó, tôi đã vào quán net lên mạng thâu đêm, do tôi thực sự không dám ngủ, sợ mình cũng giống như Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong, bị ác mộng Hoang thôn dọa cho tới chết. Tôi đã cưỡng ép mình ở trong quán net như vậy, chơi điện tử thâu đêm suốt sáng, chat với bạn bè ở khắp nơi, tất cả chỉ để trốn chạy giấc ngủ”.
                                “Cậu đã chịu đựng được bao lâu?”

                                Vẻ mặt của Tô Thiên Bình trở nên đâu khổ: “Không nhớ rõ nữa, có lẽ hơn ba mươi tiếng đồng hồ cũng nên, tôi cứ ngâm mình trong quán nét như thế. Bây giờ tôi mới hiểu ra, thức đêm còn đau khổ hơn cả cái chết, tôi gắng gượng hết sức trước màn hình máy tính, mãi tới khi đầu óc phình ra, hai mắt thâm đen, ngón tay không thể cử động được thì đột nhiên mất hết tri giác”.
                                “Coi như không bị ác mộng dọa chết, cậu cũng bị đột từ do lên mạng quá lâu”.
                                “Tôi mất đi tất cả tri giác, những việc sau đó tôi đều không rõ nữa. Đợi tới khi tôi tỉnh dậy từ cơn hôn mê, thì đã thấy mình đang nằm trên giường bệnh, thời gian là vào lúc sáu giờ sáng hôm qua”.
                                “Sáng sớm hôm qua?” Tôi lập tức nhẩm tính trong lòng, “Cậu đã hôn mê tới gần nữa tháng”.
                                “Đúng vậy, tôi vừa tỉnh lại đã hỏi ngay bác sỵ. Họ nói nửa tháng trước, do tôi bị kiệt sức nên ngất trong quán net và lập tức được đưa tới bệnh viện cấp cứu. Lúc đó, tình hình của tôi vô cùng nguy hiểm, bác sỹ cấp cứu cho tôi cả đêm mới cướp tôi trở lại khỏi miệng tử thần. Nhưng tôi vẫn trong cơn hôn mê, bất luận chữa trị thế nào cũng không thể tỉnh lại, bác sỹ nói tôi lúc đó có khả năng trở thành người thực vật”.
                                “Bệnh viện không thông báo cho trường cậu sao?”
                                Tô Thiên Bình vẫn lắc đầu: “Lúc đó trên người tôi không có bất cứ giấy tờ gì cả, không ai biết tôi là ai, bác sỹ gần như từ bỏ luôn việc chữa trị”.
                                “Thế cậu tự mình tỉnh lại?”
                                "Đúng thế, bác sỹ cũng không biết tại sao, họ cho rằng sự thức tỉnh của tôi có khả năng là một kỳ tích của sinh mệnh”. Tô Thiên Bình tự cười nhạo báng, “Bác sỹ lập tức tiến hành kiểm tra toàn bộ cơ thể tôi, phát hiện tôi đã cơ bản hồi phục mà không hề để lại bất cứ di chứng nào. Chẳng qua là hôn mê tới nửa tháng cơ thể tôi hơi có chúy suy nhược mà thôi”.
                                “Những người hôn mê sâu sẽ không thể nằm mơ, có lẽ cậu nhờ vậy mà thoát được mất mạng”.
                                “Tôi không biết, nhưng tôi đã lượn một vòng trên môi tử thần rồi, bây giờ bất luận là ác mộng tới mức nào cũng không thể dạo được tôi nữa rồi. Tôi đã không còn sợ hãi bất cứ điều gì cả”. Ánh mắt Tô Thiên Bình dần dần sáng lên và có thần sắc trở lại, ngữ khí cũng tràn đầy tự tin, “Buổi sáng, tôi thông báo cho gia đình và nhà trường, họ nhanh chóng chi trả tiền viện phí cho tôi. Tôi cũng hỏi nhà trường về tình hình Xuân Vũ thì mới biết cô ấy đã bị đưa tới bệnh viện tâm thần từ lâu rồi. Tuy bác sỹ vẫn muốn tôi ở lại viện vài ngày để theo dõi, nhưng tôi vẫn tự mình ra ngoài, bởi vì người tôi thấp thỏm nhớ mong chính là Xuân Vũ”.
                                “Cậu đã tới bệnh viện tâm thần tìm cô ấy rồi?”
                                "Sáng nay, tôi đã gặp Xuân Vũ trong bệnh viện tâm thần, cô ấy vừa nhìn cái đã nhận ngay ra tôi, ôm chầm lấy tôi khóc. Thần kinh của cô ấy rất tỉnh táo, tư duy và ý thức rất bình thường, không hề có vẻ gì là bị tâm thần. Hôm qua, bác sỹ làm giám định bệnh tâm thần cho cô ấy, kết quả chứng minh cô ấy đã hoàn toàn bình thường. Xuân Vũ còn nói, sớm hôm qua cô ấy mơ thấy một giấc mơ rất kỳ lạ, mơ thấy cánh cổng của địa cung Hoang thôn đóng lại rồi”.
                                “Cổng địa cung đóng lại rồi?”

                                Tôi lập tức nhớ lại tất cả những gì mình đã làm dưới địa cung ở Hoang thôn thần bí nửa đêm hôm trước. Đúng vậy, tôi đã làm đúng.
                                “Đúng, sau khi mơ thấy giấc mơ đó, Xuân Vũ đã tỉnh lại, cô ấy nói cảm giác đầu óc mình vô cùng tỉnh táo, toàn thân đều hồi phục lại trạng thái như trước khi tới Hoang thôn. Đúng vậy, sáng hôm qua khi tỉnh dậy, tôi cũng có cảm giác như cô ây, giống như được sống lại lần nữa”.
                                “Sống lại lần nữa? Đúng, trải qua những khảo nghiệm giữa sự sống và cái chết ở Hoang thôn, có thể may mắn tồn tại chính là sống lại lần nữa”.
                                Tô Thiên Bình bỗng lại gần tôi, nhìn vào mắt tôi hỏi: “Nói cho tôi biết, tất cả đều đã kết thúc rồi chứ?”
                                Nhưng tôi im lặng hồi lâu, trong đầu không ngừng lóe lên những kí ức về từng cảnh tượng đã chứng kiến trong những ngày qua. Đúng, giống như kết cục cuối cùng trong “Hồ thiên nga”, tất cả những lời nguyền đều đã được hóa giải, mọi thứ đã trở lại yên bình như lúc ban đầu.
                                “Đúng vậy, tất cả đã kết thúc rồi”.
                                Tôi gật gật đầu, chầm chậm trả lời.
                                Nước mắt Tô Thiên Bình bỗng rơi xuống, cậu ta nghẹn ngào nói: “Hôm nay tôi tới tìm anh, điềukỳ vọng chính là câu hỏi này, nhưng nguyện cầu cho Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong cũng có thể nghe thấy”.
                                Nói xong, cậu ấy cúi đầu quệt nước mắt nói: “Xin lỗi, ba mươi ngày trước đây, chúng tôi không nên đến làm phiền anh, hãy để mọi thứ yên ắng trở lại”.
                                Tô Thiên Bình rút cuộc cáo từ tôi ra về. Nhìn cậu ấy vội vàng bước đi, tôi không biết nên nói gì, trải qua những đêm ngày hồn xiêu phách lạc đó, cậu ấy và Xuân Vũ có thể đi cùng nhau không?
                                Vậy là, tôi lặng lẽ nhủ thầm một câu: “Chỉ nguyện người trường cứu, ngàn dặm dưới trăng thâu”.
                                Hoàng hôn buông xuống, tôi trở lại đường An Tức lần nữa.
                                Dưới ánh hoàng hôn rực rỡ bao trùm, tôi tới công trường xây dựng bên đường An Tức. Nơi quán trọ Hoang thôn từng đứng sừng sững, giờ đây đã biến thành một đống gạch vỡ, chỉ còn lại vài đoạn tường đổ nát vẫn đang ngoan cường tồn tại giữa bãi hoang phế. Trong đống hoang phế vẫn còn rất nhiều những nhành lá xanh, đó chính là thi thể của những nhành Chi trinh đằng, chẳng mấy chốc chúng sẽ phân hủy trong mùa mưa gió này.
                                Đây có thể coi là tưởng niệm di tích không? Ít nhất, tôi cũng đã từng sống mười ngày trong ngôi nhà cổ kính đó.
                                Những oan hồn trong ngôi nhà số 13 đường An Tức đều đã yên nghỉ cùng con đường này, họ cũng sẽ không bao giờ có cơ hội để bị ai phát hiện ra nữa.
                                Màn đêm đã buống xuống, tôi rởi khỏi đường An Tức, ngôi tàu điện ngầm về nhà.
                                Trên sân ga lạnh lẽo, biết bao người bận rộn đang chờ đợi, tôi đứng cô đơn giữa biển người. Khi tàu điện vang lên hồi còi tiến vào ga, mọi người đều nhanh như gió chui vào trong. Tôi bị họ đẩy vào giữa, vất vả lắm mới tìm thấy một vị trí đối diện cửa sổ, hít thở có chút khó khăn.
                                Đoàn tàu xuyên qua đường hầm tối tăm, trong toa tàu lắc lư, chen chúc, tôi ngửi thấy rất nhiều mùi kỳ lạ, lúc này luôn khiến người ta mơ màng buồn ngủ. Bỗng nhiên, tôi ngước mắt nhìn lên cửa sổ trước mặt, khuôn mặt tôi lờ mờ hiện lên. Trong bóng tối của đường hầm, khuôn mặt tôi lúc ẩn lúc hiện chính giữa cửa kính, giống như đang soi vào một tấm gương trong đêm tối. Sau khi trải qua sinh li tử biệt, tôi phát hiện ra mính tiều tụy thế này đây, mặc cho đoàn tàu đưa tôi lao đi.
                                Bỗng nhiên, hình như trên chính giữa cửa sổ đã hiện lên một khuôn mặt khác. Giữa ánh đèn trắng trong toa tàu và bóng tối của đường hầm, khuôn mặt đó từ từ hiện lên, mái tóc dài đen mượt của cô ấy vẫn xõa sau vai, đôi mắt ánh lên vẻ u buồn man mác, ánh mắt đó chỉ duy nhất “Nhiếp Tiểu Sảnh” mới có được.
                                Đoàn tàu tiếp tục lao đi trong đường hầm, dường như hầu hết mọi người trong toa đều đã ngủ thiếp đi, chỉ có duy nhất tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt cô ấy trên chính giữa cửa sổ. Vậy là, tôi không thể quay đầu đi, chỉ có thể nhìn vào cửa kính trước mặt, tôi biết cô ấy đang đứng sau lưng mình, giống như hai người đang cùng soi vào một tấm gương. Trong toa tàu chật chội dưới lòng đất, chúng tôi cùng nhìn vào mắt nhau, đây là bí mật chỉ thuộc về hai chúng tôi mà thôi.
                                Chỉ cần lòng anh nhớ em, anh nhất định sẽ nhìn thấy em.

                                Phút chốc, tôi cảm nhận cả thành phố này đang trở nên yên tĩnh, chỉ trong sâu thẳm dưới lòng đất này, vẫn còn có hai anh1mat81 yêu thương sâu nặng, cùng nhau xuyên qua không gian u buồn, gặp lại nhau trên cùng một tấm kính đang vút bay.

                                Hết.
                                ***************

                                Comment

                                Working...
                                X