Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Những huyền nhiệm trên hy mã lạp sơn

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #46
    Giữa lúc bấy giờ bất thần nhìn thấy một vị trưởng lão đứng trên cái bục trông giống như một Kim Tự Tháp đang chỉ huy đám binh sĩ ngoài trận địa. Nhưng, hình ảnh của vị trưởng lão cùng các chiến sĩ ngoài trận địa kia biến thành một cột khói bốc lên cuồn cuộn tỏa ra cùng khắp.
    Bầu trời đang xám xịt chuyển sang màu đỏ rực trông hệt như một biển lửa. Tôi cảm thấy đầu óc choáng váng. Hơi nóng càng lúc càng hực lên như thiêu như đốt. Rõ ràng, trước mắt tôi là cả một đô thị bốc cháy lên dữ dội, Những tiếng nổ long trời lở đất, những nóc nhà nguy nga đồ sộ lần lượt sụp đổ và cuối cùng trở thành bình địa.
    Lúc bấy giờ trời bắt đầu tối sầm lại. Trong cái bóng đêm cùng khắp ấy phát ra các tiếng khóc than, tiếng kều gào, kết hợp với các tiếng rên rỉ tạo nên một điệp khúc u buồn ảm đạm.
    - Trông kìa, nước biển dâng tràn lên.
    Tôi bất giác thét lên như thể chính mình đang bị nằm trong hoàn cảnh hãi hùng đó. Làm sao tôi không hoảng hốt được, khi mà những đợt sóng thần cứ dập dồn phủ lên cuốn trôi tất cả mọi vật trên đất liền.
    Các đợt sóng bủa lên cao và cứ thế cho đến khi cả dãy Hy Mã Lạp Sơn cùng tất cả những cái gì hiện diện trên mặt địa cầu này đều bị cuốn hút xuống tận dưới lòng đáy sâu bể cả. Quả đất chuyển động giật lên từng cơn như thể một con mãnh thú đang rẩy chết!
    Lúc bấy giờ mặt đất hoàn toàn thay đổi. Lục địa biến thành bể cả, và biển cả bao la kia lại trở thành các dãy núi trùng trùng điệp điệp. Cuối cùng bão táp không còn nữa. Bầu trời trở lại trong sáng. Gió yên. Bể lặng. Đó đây trên mặt địa cầu còn lại một số sinh vật may mắn sống sót trong đó có cả con người. Họ là những kẻ được ghi nhận là có phúc phần lớn.
    Nhưng rồi, những cảnh tàn phá trên màn ảnh không còn nữa. Giờ đây đã trở lại cảnh thanh bình. Hoa tuyết từ trên vòm trời bay bay rơi xuống. Những con người có phúc phần sống sót chạy ra ngửa hai lòng hai bàn tay hứng lấy bỏ vào miệng mình và nhắm nghiền mắt lại như thể để trọn hưởng những niềm vui bất tận.
    Tôi thực sự bàng hoàng trước những dụng cụ khoa học phát ra từ trong cái "Ống Thời Gian" chiếu lên bức tường đá trong Cổ Hiền Thạch Động. Như vậy chứng tỏ loài người không phải đợi ngày nay mới có một nền khoa học tân tiến, mà nó đã từng có từ ngàn xưa, trước cả khi nạn đại hồng thủy xảy ra trên mặt đất!
    Cuộc đời lắm cuộc bể dâu. Có đó rồi mất đó. Mới là thềm lục địa đã bỗng trở thành bể cả! Và, ngược lại, mới là bể cả mênh mông sóng gào gió thét, nay lại hóa thành một thềm lục địa xanh tươi, muôn màu muôn sắc.
    Tôi nhìn tận mắt cảnh tượng của một trái núi trông hệt như cả dãy Hy Mã Lạp Sơn bị chẻ làm đôi, một nửa chìm sâu vào giữa lòng bể cả, một nửa còn lại trông hệt như con kình ngư bị lụy trước những cơn sóng cả bão bùng!
    Chính nơi này, người đời sau gọi đó là Địa Trung Hải. Lại một nơi khác, cũng trước kia là một đại dương mênh mông, với màu xanh biếc, bây giờ thì biển cả kia đã hoàn toàn khô cạn, và biến thành một bãi cát trắng lớn đến nỗi tưởng chừng nếu có người lữ khách nào bị lạc lõng nơi đây thật khó lòng thoát ra khỏi được!
    Cảnh tượng sau cơn Đại Hồng Thủy, những người còn cơ may sống sót, họ bắt đầu tìm cách gặp nhau lập thành bộ lạc, rồi trở lại sống kiếp lang thang nay đây mai đó như đàn người du mục ngày nào của một thời cổ đại. Họ trở lại với nếp sống nguyên sơ, đói đi tìm hoa quả hái ăn.
    Khát rủ rê nhau đi tìm dòng suối ngọt để uống. Rồi dần dà tìm ra lửa và từ đó nền văn hóa lửa tái xuất hiện nói lên sự tiến hóa của con người Thế rồi từ hình ảnh này sang hình ảnh nọ, từng giai đoạn theo thời gian tuần tự.
    Có những lúc đoàn người may mắn còn sống này tiếp tục quây quần bên bếp lửa để lắng nghe tiếng nổ lách tách của các đốm lửa phát ra, kể những chuyện ngày xưa, từ tiềm thức họ lóe ra cho nhau nghe. Họ nhắc nhở nạn lụt Đại Hồng Thủy, về châu Atlantis, từng có một nền văn minh cực thịnh, nhưng thời vàng son ấy hiện đang nằm yên giữa lòng sâu bể cả.
    Họ cũng kể cho nhau nghe chuyện khó tin nhưng là sự thật, đó là chuyện cái ngày mặt trời không bao giờ chịu tắt. Những ngày xa xôi ấy không có bóng hoàng hôn, và cũng chẳng nhìn thấy có bóng đêm bao trùm lên vạn nẻo.
    Tất cả chỉ toàn là một màu xanh êm dịu, quanh năm trăm hoa đua nở, bướm lượn ong vờn, với tiếng chim đua nhau líu lo ca hót, cây cối sum suê, lộc mới đơm cành. Đó là hình ảnh của một thời từng có một mùa xuân bất tận. Nhưng rồi chẳng có cái gì tuyệt đối cả. Tôi hỏi điều này: Tại sao lạ vậy?
    Thầy tôi cười đáp:
    - Âu đó là cái lý. Thoạt đầu chỉ có mỗi cái một thì chẳng bao giờ động. Nhưng chẳng lẽ bất động thì làm sao có sự chuyển biến? Theo quy luật của Tạo Hóa, có "tịnh" thì phải có "động".
    Trương Tải bảo rằng cái "khí" mang tính vật chất ấy đó là nguyên lý đầu tiên của vũ trụ. Ông bảo trời đất phải có lý, có khí, đó là cái đạo hình nhi thượng, mà chú nên nhớ rằng đó là cái vốn của sinh vật. Chú hiểu điều này chứ ?
    Tôi lắc đầu biểu lộ là mình chưa thấu đáo được hết nghĩa của thầy tôi vừa giảng giải. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt nhìn tôi trong giây lát, đoạn cất tiếng giảng giải tiếp:
    - Lỗ San nên nhớ rằng cuộc sống của con người và vạn vật phải có cái "lý" ù nhiên hậu mới có tính. Với Chu Hy, người còn liên kết giữa cái "lý" với Thái cực. Điều này ta đã có lần bàn thảo với chú kia mà!
    Tôi sực nhớ ra, gật đầu:
    - Thưa Minh Sư, quả có. Ấy đó là cái gốc vũ trụ của đạo gia. Thưa thầy con hiểu điều này. Tổng hợp cái lý của vạn vật trong trời đất lại thì đó là Thái cực, như Chư tử nói:
    "Tổng thiên địa vạn vật chi lý, tiện thị thái cực". Đó là "Lý nhất phân thù" "vật vô vô đối". Tuy vậy con chưa hiểu thế nào là "cách vật trí tri"?
    - Lỗ San đúng. Cái "Lý nhất" đó là bản nguyên của vũ trụ. Mà bản nguyên của vũ trụ là Thái Cực. Còn "phân thù" là âm dương, ngũ hành, là vạn vật, vạn lý. Là mọi sự vật trong thế định vị không đổi, nó có mặt đối lập với nhau, ấy chính đó mới phát sinh ra "cái động".
    Như chú thấy vũ trụ đã hoàn toàn thành hình, nó không có một mà có hai. Một và hai đó chính là động tĩnh. Chú phải tìm kiếm cái nguyên lý của sự vật đó mới thấu đáo được cái cùng của nó. Đó là "cách vật trí tri " mà chú vừa nêu ra hỏi đó.
    Đến đây, Minh Sư ngừng lại mỉm cười:
    - Tạm đủ rồi, bây giờ thì chúng ta phải nghỉ ngơi ăn uống cái đã! Ngày mai thức dậy hãy tiếp tục xem thử còn những gì trong Cổ Hiền Thạch Động này để được tìm hiểu thêm chăng!
    Chúng tôi ăn uống thật no nê và ngủ một giấc ngay trong lòng Cổ Hiền Thạch Động! Đêm ngủ này chúng tôi cảm thấy vô cùng thoải mái!
    Sáng dậy, chúng tôi lại được lệnh của Minh Sư khuân ít thùng có chất dẻo bước ra khỏi lòng Thạch Động, cùng nhau đẩy tảng đá bít kín cửa hang lại.
    - Hãy để cho Cổ Hiền Thạch Động yên lòng nằm ngủ! Biết đâu, có một ngày đẹp trời nào đó, sẽ lại có những người có cơ duyên đến viếng thăm chiêm ngưỡng! Rồi họ cũng như các chú, sẽ được nhìn tận mắt những gì chúng ta đã nhìn thấy!
    Chúng tôi ra khỏi lòng hang động, nhìn cảnh tượng đổ nát bên ngoài động mà lòng không khỏi bồi hồi!
    Trên đường về phải qua một cây cầu treo vỏn vẹn chỉ có hai sợi dây, một sợi dùng để đặt bàn chân lên bước đi và một sợi khác ngang tầm tay, để vịn cho khỏi ngã. Nhìn xuống bên dưới một con sông nước chảy xiết, nghĩ dại nếu vạn nhất sẩy chân thì mạng sống khó lòng an toàn.
    Nhờ đã vào thu nên trời mát dịu. Ánh nắng vàng trải mình lên vạn vật. Dăm ba con công đang xòe đuôi đủ màu sắc ra múa lượn, như tuồng chúng muốn phô trương cái đẹp của mình trước những loài hoa dại ở ven rừng.
    Nhờ khí trời mát dịu nên chúng tôi quên cả sự mệt mỏi, quên luôn cả nghỉ ngơi. Mãi đến khi sương mù từ khí đá núi xông lên tỏa ra khắp làm mờ mịt cả núi rừng mới giật mình bảo nhau đêm sắp về đến nơi rồi! Bóng hoàng hôn phủ khắp sơn khê và mặt nhật đã thật sự lặn xuống dưới chân đồi.
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment


    • #47
      PHẦN HAI

      Buổi lễ sáng vừa chấm dứt, chúng tôi đã ùn ùn tranh nhau chạy vào lớp. Bọn chúng tôi vừa chen lấn vừa nghịch ngợm hò reo ầm ĩ, tranh nhau choán chỗ trước để tránh các cây gậy của ông giáo giáng xuống đối với bất cứ chú tiểu nào chậm chân không vào lớp kịp giờ. Chẳng có ngày nào là không có vài ba chú bị thầy giáo giáng vào mông mấy cái cảnh cáo sự chậm trễ, mà theo tôi thì không đáng trừng phạt như vậy.
      Tôi sực nhớ lại hôm nào đó, một nhà sư trẻ có việc đi ngang qua cửa lớp, nhằm lúc làn sóng của lũ học trò chúng tôi ào ào chạy vào lớp kéo theo luôn nhà sư trẻ đang đi lẫn lộn trong bọn chúng tôi giữa giờ vào lớp. Nhà sư trẻ này không thể cưỡng lại được nên tông mạnh vào ông nhà giáo, khiến ông ta ngã nhào xuống.
      Thế là ông nhà giáo lóp ngóp đứng lên miệng thì la lên tru tréo, tay lại sẵn cây gậy, không chút nương tình giáng ngay vào chiếc đầu nhẵn của vị sư trẻ tuổi kia một gậy nên thân, đến nỗi u lên một cục to bằng quả trứng gà...Thế là sự việc này trở thành lớn chuyện.
      Hai đàng cãi vã nhau to tiếng, khiến cho thiền viện phải can thiệp. Thế là ông giáo kia bị mang đi chấp cung còn nhà sư trẻ thì được đưa đến phòng thầy Minh Dà Đông Đạt dùng thuật thôi miên giúp cho ông ta khỏi bị vết thương nơi đầu hành hạ.
      Vào lớp học chúng tôi bao giờ cũng phải ngồi thật nghiêm chỉnh trên chiếc chiếu hoa trải nơi sàn của lớp học. Chân chúng tôi xếp bằng tròn, đầu ngẩng cao và mắt nhìn thẳng lên tấm bảng đen trước mặt. Theo kỷ luật nhà trường ở đây, chúng tôi phải quay lưng về phía thầy giáo, mục đích là không cho đám học trò của chúng tôi nhìn thấy được sự kiểm soát của thầy giáo!
      Trong lúc tôi đang ngồi nghe thầy giáo giảng giải bài học thì bất thần có chú tiểu bé nhỏ từ bên ngoài hối hả chạy vào. Chú ta đến trước mặt thầy giáo cúi đầu một cách thật cung kính rồi nói :
      - Kính thưa thầy, Ngài Minh Dà Đông Đạt cho con đến.
      Chú tiểu chưa nói hết lời đã bị ông giáo đưa tay chận lại:
      - À, ta biết rồi. Có phải việc của Lỗ San không?
      Rồi cũng không cần đợi chú tiểu này xác nhận, ông ta đã dõng dạc lên tiếng gọi tôi đứng lên và quay mặt về phía ngài:
      - Lỗ San, ta rất vừa lòng có một đứa học trò như chú! Chú hãy theo chú tiểu này về gặp ngay Minh Sư nói với Ngài ta có lời thăm hỏi...
      Sau đó tôi hối hả theo chú tiểu rời khỏi lớp rảo bước về khu của các Lạt Ma, nơi đó Minh Sư đang tạm thời trú ngụ! Khi ngang qua một căn nhà nhỏ nhìn thấy cửa đang mở và từ bên trong hương vị của mùi lạc rang thoang thoảng bay ra!
      Chính mùi vị này quyến rũ tôi, đến độ đôi chân tôi không còn muốn nhấc lên được nữa. Giá mà có lấy vài hạt, vài hạt bé bỏng thôi cũng đủ thỏa mãn cho sự thèm thuồng của tôi trong lúc này.
      Khẻ đưa mắt nhìn vào bên trong, trông thấy một vị sư già đang đăm dăm nhìn xuống dưới sàn như thể đang tìm vật gì, còn miệng thì lẩm bẩm nói tôi không thể nghe rõ, nhưng có điều tiếng nói lẩm bẩm đó của ông ta không phải là những lời cầu kinh!
      Tôi bèn dừng chân lại, nghiêng tai lắng nghe. Tuy không biết là ông ta nói điều gì, song cũng tiến vào để ngỏ ý là mình sẵn sàng giúp đỡ việc gì cho ông ta nếu ông ấy cần. Nghĩ vậy tôi lên tiếng :
      - Kính thưa Đại sư !
      Tôi nhỏ nhẹ nói
      - Tôi vốn là...
      Nghĩ rằng thế nào nhà sư già này cũng sẽ vui vẻ nhờ mình giúp một tay trong việc làm gì đó, nhưng bất ngờ ông ta quay phắt người lại tỏ ra thái độ dữ dằn:
      - Vốn là gì, mặc xác mày! Bá Ngọ! Chúng mày còn muốn cuỗm mấy chai lạc rang của ta nữa đây? Chúng mày mang trả lại cho ta, ta đã gửi nhờ người ta mua tận bên xứ sở Ấn Độ! Trả ngay lại cho ta.
      - Thưa Lạt Ma oan cho con.
      - Còn oan nữa hả! Chính mày thừa lúc tao tham thiền lẻn vào cuỗm mất của ông.
      Bất thần bị làm dữ, tôi vội quay lưng bước vội trở ra lại bên ngoài, miệng lẩm bẩm: "Chỉ có mấy chai đậu phụng mà ăn nói hồ đồ như quỷ Dạ Xoa vậy!
      Nhưng may mắn thay, không hiểu sao nhà sư già này buông ngay tay ra và hết lời xin lỗi là đã xúc phạm tôi:
      - À, thì ra chú là Lỗ San. Ta thành thật xin lỗi chú. Quả thật bọn nào đó đánh cắp hai hũ lạc rang của già này, khiến già này lỡ hiểu lầm chú.
      Tôi chưa kịp đáp lại lời nào thì bỗng thầy tôi xuất hiện cười nói:
      - Chuyện chú bị hàm oan ăn cắp lạc rang không có thì thôi, bỏ qua đi. Hôm nay ta sẽ làm thỏa mãn lòng mong ước của chú.
      Tôi ngạc nhiên ngẩng mặt lên nhìn Minh Sư rồi hỏi lại:
      - Thưa Minh sư thỏa mãn điều gì, con chẳng hiểu tí nào.
      - Thì chú đã bảo ta giảng giải điều này. Bộ chú quên rồi sao?
      Nghe vậy tôi reo lên:
      - Dạ, thưa Minh sư có Thôi miên thật thích thú.
      Tôi theo Minh sư vào tận bên trong góc nhà của vị sư già, ngồi ngay xuống hai chiếc ghế bằng đá cẩm thạch, trên mặt chiếc bàn cùng một loại đá có khay trà pha sẵn cùng hai đĩa bánh Tsampa và luôn cả hũ lạc rang mà tôi ưa thích. Ăn uống xong, thầy tôi bắt đầu giảng giải:
      - Như chú đã biết, mọi vật thể ở thế gian này thảy đều chuyển động. Nhờ sức chuyển động đó mà phát xuất ra từ nguồn điện lực. Thân thể con người chúng ta được cấu tạo bởi nhiều hóa chất dựng nên. Có những hóa chất đặc biệt do huyết quản đưa lên não bộ.
      Các hóa chất Potassium, Maganese, Carbon cùng với một số hóa chất khác hợp thành màng óc. Phản ứng của các hóa chất làm cho các tế bào chuyển động, từ đó phát sinh ra điện năng.
      Khi người ta nghĩ ngợi một điều gì tức là đã đặt ra một hành động dây chuyền tiếp nối với nhau mà kết quả là do điện năng phát sinh ra. Ta gọi đó là "luồng sáng của óc".
      Tôi chăm chú nghe thật song vẫn chưa hiểu được thấu đáo nghĩa của nó. Vì vậy mà nhiều dấu hỏi hiện ra trong trí óc tôi. Điều làm tôi thắc mắc, là nếu điện lực có ngay trong óc thì tại sao ta không cảm thấy mình bị điện giật?
      Rồi bất giác hình ảnh của một đứa bé chơi diều gặp cơn giông tố, cùng lúc với ánh lửa lóe lên rực sáng cả góc trời. Tiếp đến là một tiếng sét nổ vang rền đến đinh tai nhức óc.
      Một vệt sáng xanh lè xẹt lại chạy theo sợi dây ướt từ trên thân diều dẫn thẳng xuống. Đột nhiên ngay lúc đó, thằng bé ngã lăn ngay trên mặt đất. Cả thân hình nó co rúm lại, mặt đen sì như mặt của một pho tượng bằng đồng đen. Toàn thể thân hình nó như một con cá rán.
      - Thưa thầy! Tôi ngẳng đầu lên nhìn thẳng Minh Sư , đoạn lên tiếng hỏi. Làm thế nào mà điện lại ở trong óc ta được?
      - Lỗ San, thế thì chú còn chưa hiểu gì về điện cả. Trữ lượng điện trong óc ta rất hiếm. Các loại máy móc tinh vi có thể đo được làn sóng điện trong óc khi ta đang suy nghĩ một việc gì.
      Chiều nay, chúng ta sang Phổ Đà La, nơi đó Ngài Đạt Lai Đạt Ma sẽ cho phép ta sử dụng chiếc máy giải thích về điện năng, chú sẽ thấu đáo được dễ dàng hơn. Giờ thì chú hãy lo thu xếp hành trang. Đợi đêm đến, chúng ta bắt đầu lên đường thì vừa.
      Vừa ra đến sân ngoài thì đã có sẵn hai chú tiểu dắt sẵn ngựa đợi hai thầy trò chúng tôi từ bao giờ. Thầy tôi ung dung leo lên lưng ngựa, còn tôi thì được một chú tiểu giúp việc này.
      Tôi vừa ngồi ngay ngắn thì bỗng nghe có tiếng vỗ mạnh nơi mông con ngựa từ tay chú tiểu vang lên, tức thì chú ngựa kim nhảy lồng lên, khiến tôi chao đảo, mặc dù đã đề phòng trước ghìm chặt lấy dây cương kéo sát vào người.
      Hai chân trước nó giương cao lên co lại, còn đầu thì chúi xuống, hai chân sau đá bọc hậu sau khi hai chân trước của nó vừa đặt xuống trên mặt đất.
      Tiếp ngay sau đó lưng của chú ngựa kim này gô lại, đầu lắc mạnh và nhảy chồm lên khiến tôi bị tụt xuống ngay cổ nó không còn bám víu vào đâu được nữa, và cuối cùng con ngựa quái ác này dùng cổ hất mạnh một cái khiến tôi rơi xuống nằm sóng soài trên mặt đất.
      Một vài tiếng cười khúc khích từ đám chú tiểu đứng ở hiên chùa vọng lại tỏ vẻ nhạo báng:
      - Trông mặt mày sáng sủa thế mà...ngu!
      Tôi chẳng thèm lưu ý làm gì cái lũ tiểu thứ ba này, lồm cồm ngồi dậy, trong lúc đó thì chú tiểu giúp tôi leo lưng ngựa tát một cái tát nên thân vào mặt con ngựa giở chứng này:
      - Chú có làm sao không? Minh Sư mỉm cười nhỏ nhẹ hỏi.
      Tôi lắc đầu có vẻ e thẹn trả lời:
      - Thưa Minh Sư, không sao cả ạ!
      Giúp tôi trèo lên lưng ngựa lần này trông chú có vẻ ưu tư hơn. Lần này chú dặn tôi đủ điều trước khi đi rồi bồi thêm một cú tát tai nữa đoạn lên tiếng cảnh cáo nó:
      - Mày không được vô lễ.
      Rồi cũng như lần trước, chú tiểu vỗ vào mông nó, nhưng nhẹ nhàng hơn. Con ngựa lần này thật ngoan ngoãn, nó từ từ bước đi theo sau con tuấn mã của thầy tôi đang cưỡi. Quả con ngựa kim tôi đang cưỡi thuộc loại khá tinh quái, biết "coi mặt đặt tên".
      Nó thừa rõ trước cử chỉ lúng túng của tôi ngay từ lúc đầu leo lên lưng nó nên xem thường cho rằng tôi chẳng phải xứng đáng nắm cương chỉ huy nó.
      Trên đường đi con ngựa luôn luôn dọa dẫm tôi bằng cách lao thẳng mình đến những nơi nguy hiểm, không chịu tuân theo lệnh đi nước kiệu của tôi.
      Nhất là khi đến các bờ vực, chú ngựa này dừng lại ngẩng cao đầu lên hí vang, đoạn cúi xuống khiến tôi trụt thẳng lên ngay đầu nó, còn nó thì dùng hai vó sau đá lên túi bụi.
      Hành động này khiến tôi hoảng hốt phải nằm rạp mình xuống ôm ghì lấy cổ nó để khỏi bị rơi xuống dưới miệng hố sâu thăm thẳm cạnh đó.
      Những lúc như vậy tôi có cảm tưởng là nó đang hét vào tai tôi rằng: "Mày liệu hồn mà giữ lấy thân, nếu không tao sẽ cho chú mày xuống cái hố kia để bầy rắn độc bên dưới đó xâu xé cho tan xác đó nha!".
      Trải qua nhiều lần như vậy, riết rồi, tôi cũng thừa kinh nghiệm để chống lại trò chơi khăm của con ngựa chứng này. Cứ mỗi lần sắp qua mấy bờ vực cao tôi lại ghìm chặt cương lại, rồi leo xuống nắm chặt lấy dây cương lôi đi, bắt buộc nó phải theo chân tôi, thỉnh thoảng lại còn dùng roi da phang vào mông nó.
      Nhờ vậy nó bắt đầu khép mình tuân phục mệnh lệnh của tôi, nhưng dù sao thì tôi cũng đề phòng khi nhác thấy sắp đi đến những chỗ có những hố sâu nào đó. Thà chịu cực một chút mà an toàn hơn để nó thừa cơ trả đũa.
      Lên ghềnh xuống thác mãi cho đến lúc mặt trời ngả bóng, chúng tôi đã xuống đến chân núi Thiết Lĩnh. Và, từ đó vào thẳng làng So mới dừng lại tạm nghỉ.
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • #48
        Tại đây, tôi được xem là một thượng khách đặc biệt như Minh Sư Minh Dà Đông Đạt, được hưởng chế độ ăn uống chẳng khác nào của thầy tôi. Bữa ăn tối của tôi cũng có trà thơm xứ Ấn, có bánh Tsampa cùng lạc rang Calcutta thơm phưng phức.
        Thơ thẩn một mình trên sân thượng, vọng mắt nhìn xuống bên dưới ngắm cảnh rộn rịp của thành Lạt Sa. Phong cảnh nơi này quả thật danh bất hư truyền.
        Các hàng dương liễu tươi xanh mọc quanh bờ hồ, phản chiếu trên mặt nước phẳng lì như tấm kiếng, trông chẳng khác nào như một bức tranh mạc họa được người họa sĩ tài hoa vẽ lại cảnh chiều hôm nơi ngôi chùa có một lịch sử kiêu hùng của xứ sở Tây Tạng này.
        Dưới đêm trăng thanh gió mát, dòng sông Du Khang gợn lên những lượn sóng nhỏ nối đuôi nhau nhấp nhô như những con rắn bạc. Từng đoàn người lũ lượt đi lại dưới chân núi Cẩm Sơn. Cuộc hành hương của họ nhằm mục đích được chiêm ngưỡng tận mắt Đức Đạt Lai Lạt Ma mà họ hiếm hoi được trông thấy dung nhan Ngài.
        Có lần trong lần giảng giải Minh Sư Minh Dà Đông Đạt có đề cập đến danh tước Dalai Lama xuất hiện từ đời nhà Minh (1368-1644) . Trong thời kỳ này mới thành lập một tông phái Phật Giáo mới lấy tên Gelugpa thường gọi Yellow Sect tức Hoàng tông. Sở dĩ có tên gọi là Hoàng tông vì các nhà sư của tông phái này mặc áo mão toàn màu vàng.
        Và không bao lâu sau đó người lãnh đạo tông phái áo vàng được triều đình nhà Minh cho mang danh tước Đạt Lai Lạt Ma. Tưởng cũng nên biết xứ sở Tây Tạng hình thành vào khoảng năm 127 Tr.CN. Bộ lạc Tubo lên nắm quyền sau khi toàn thắng trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa các bộ lạc của vùng đất có dãy Hy Mã Lạp Sơn này. Tôn giáo chính của của bộ lạc Tubo là đạo Bon, một tôn giáo nặng về phần thần linh và pháp thuật.
        Xứ sở Tây Tạng bị xé ra từng mảnh nhỏ cho mãi đến thế kỷ thứ 7 sau CN dưới thời đại của Hoàng Đế Songtsan Gambo mới thống nhất được. Đây là thời kỳ huy hoàng nhất của người Tây Tạng, như Hoàng đế Gambo được nhà vua Trung Hoa gả công chúa Wencheng và cũng cùng thời gian này vua xứ Nepal gả công chúa Khridzun, nàng công chúa sắc nước hương trời, dưới thế gian này khó lòng có ai sánh tày được.
        Hai nàng công chúa khi về đến Tây Tạng mang theo đạo Phật, tuy lúc đầu đạo Phật không mấy ảnh hưởng trong quần chúng, nhưng đến đời cháu của Gambo là Tride Zhotsan Phật giáo mới thật sự phát triển mạnh tại xứ sở này.
        Tôi đề cập đến nhiều về danh tước Đại Lai Lạt Ma, được Minh Sư cho biết kể từ thế kỷ thứ 17 vai trò của các vị Lat Ma mới thật sự được xem là quan trọng. Sở dĩ có điều này vì các triều đình Trung Quốc hoàn toàn giao cho họ quyền cai trị cả hai phương diện tinh thần lẫn chính trị.
        Danh từ Dala Lama gồm hai từ Dalai là tiếng Mông Cổ, nó có nghĩa là đại dương. Còn Lama là tiếng của xứ sở Tây Tạng có nghĩa là đại sư. Đạt Lai Lạt Ma là vị giáo chủ của Phật giáo Tây Tạng lãnh đạo Lạt Ma Giáo Lamaism.
        Giáo phái này phối hợp với triết thuyết về giáo lý Đại Thừa của Mật Tông kể cả Mông Cổ nữa. Các vị Lạt Ma uyên thâm nổi tiếng được Lạt Ma Giáo phong cho tước hiệu Rinpoche, nó có nghĩa là phi thường và quí báu.
        Tôi cũng không khỏi ngạc nhiên khi nghe Minh Sư giảng giải về các tu viện Phật giáo hiện nay gồm có nhiều vị Tulku, nó có nghĩa là Phật Hóa Thân, Phật Tái Sinh cũng còn gọi là Vị Phật Sống. Tại Tây Tạng hiện giờ có đến những 500 vị Tulku của Quan Thế Âm Bồ Tát.
        Đặc biệt "Đệ Ngũ Đại Nhân" được vua nhà Thanh lúc bấy giờ thừa nhận chẳng khác nào quốc vương thế tục của Tây Tạng. Vị Đệ Ngũ Đại Nhân này đăng quang với danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma.
        - Và tôi nói giả dụ thôi như chú đó, sau này khi buông tay nhắm mắt thì phải hóa thân để thừa kế bản thân mình. Đây không phải là một chuyện giản dị, mà nó đòi hỏi có cuộc họp của một hội đồng tu sĩ để đoán xem vị Đạt Lai Đạt Ma vừa qua đời đó muốn để lại những chỉ dẫn gì?
        Sau khi đã đoán biết được những lời chỉ dẫn rồi thì hội đồng dựa vào những phán truyền mà đi tìm những đứa trẻ có những dấu hiệu đặc biệt khác thường đưa ra tuyển chọn.
        Đứa trẻ được tuyển chọn phải mang đi ngay tách hẳn sự liên hệ với cha mẹ và được các tu sĩ nuôi nấng dạy dỗ hầu đưa lên địa vị của Đức Đạt Lai Lạt Ma thay cho người tiền nhiệm vừa qua đời.
        Từ trên sân thượng nhìn xuống bên dưới, tôi nhận thấy trong đám khách hành hương có cả những kẻ bán hàng rong, họ nối đuôi nhau rao hàng. Giọng họ rỗng rảng vang vọng lên, đến nỗi tại ngay sân thượng tôi còn có thể nghe thấy rõ ràng được.
        Các thương khách dắt lừa, ngựa hoặc cả lạc đà, trên lưng được chất cả hàng hóa cao nghệu lắc lư đi vòng theo con lộ Bát Ngộ Khả Linh.
        Chúng tôi ở lại nơi đây đã mấy ngày liên tiếp, tôi chẳng phải làm một công việc gì, duy chỉ có thầy tôi thì trông có vẻ bận vùi đầu. Ngài bận việc gì chẳng biết, nhưng tôi thì hoàn toàn rảnh rỗi. May mắn thay! Đây là điều bấy lâu nay vẫn hằng mong được có những quãng thời gian như vậy.
        Tôi đang mê mải dõi mắt theo cảnh ngựa xe như nước bên dưới, thì bỗng có tiếng chân đi thật nhẹ nhàng tiến lại về phía tôi đang đứng. Lúc quay đầu lại thì ra, đó là thầy tôi vừa tươi cười vừa lên tiếng hỏi han tôi:
        - Chú đang thoải mái lắm phải không? Liên tiếp mấy ngày hôm nay vì bận họp bàn các việc tối quan trọng nên không được chuyện trò cùng chú. Giờ thì đâu đó đã xong xuôi. Chúng ta đi uống trà rồi tiếp tục thảo luận bất cứ đề tài gì chú muốn.
        Chúng tôi quay gót trở về phòng đã trông thấy ngay một mâm cỗ toàn bánh Tsampa cùng trái cây tươi. Các thức ăn này hoàn toàn khác hơn các thức ăn từ trước tôi thường được dùng đến.
        Trà và bánh ở đây được nhập cảng từ Ấn Độ. Đây đúng là một bữa ăn thật ngon lành đối với tôi. Từ trước đến giờ tôi chưa được thưởng thức các món ăn lạ miệng và thơm ngon như thế này.
        Ăn uống xong, chúng tôi đến xem các phòng chứa các máy móc mà Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã mang từ các quốc gia xa xôi về. Tôi được Minh Sư giảng giải cùng chỉ vẽ cách sử dụng các máy móc mà lâu nay tôi chưa hề được nhìn thấy. Một lát sau, thầy tôi bắt đầu quay lại nhìn tôi bảo:
        - Lỗ San! Chú hãy nhìn đây!
        Tôi liền phóng mắt nhìn theo tay Minh sư chỉ đến. Đó là một bình thủy tinh, bên trong có hai sợi chỉ nhỏ màu xám đen. Mỗi đầu sợi có một hạt nhỏ như tấm trông như cái bấc ở thân cây liễu.
        - Chú nhận thấy đó có phải cây bấc không?
        Chắc chắn là chú nghĩ vậy. Khi chú nghĩ đến điện là chú đã liên tưởng ngay đến cái gì làm cho chú bị giật cả người lên. Và, có một thứ ta có thể giải thích bằng hành động, vậy chú hãy nhìn đây, đừng có phân tâm điều mà ta đã một lần giảng giải cho chú về dòng "tĩnh điện" này.
        Thầy tôi đưa tay lấy cây gậy đen được đánh bóng để trên mặt bàn trước mặt. Đúng hơn thì cây gậy này chỉ là một cái côn có chiều dài độ ba hay bốn tấc rưỡi cỡ đó. Ngài cầm cây côn này chà xát thật mạnh vào cái áo đang mặc trong người, mãi một lúc lâu có thể là mười hay mười lăm phút, rồi áp sát cây côn đen này vào bình thủy tinh.
        Lạ lùng thay, tôi thú thật, không khỏi sửng sốt nhìn hai cục bấc tròn nhỏ bên trong bình dần dần tách xa nhau ra. Và cứ thế tách xa mãi cho đến khi không còn có thể tách thêm ra được nữa.
        Thầy tôi gật gù nói:
        - Cứ trông vào đó đi! Chú đã trông thấy những gì đã xảy ra chưa?
        Tôi im lặng, chăm chú mắt nhìn. Và, chỉ trong vòng vài ba phút sau hai cục bấc đã tách ra đó lại từ từ khép lại, cuối cùng trở về vị trí cũ của nó.
        - Hãy thử thực hành đi! Thầy tôi vừa trao cây côn vừa bảo tôi.
        Tôi ngần ngại không dám đưa tay tiếp lấy cây côn từ tay thầy tôi đang trao cho. Nhìn thấy tôi có vẻ e sợ, Minh Sư cười rộ lên:
        - Cứ thử xem! Ta chưa bao giờ đùa với chú. Đừng nghi ngờ gì cả.
        Vừa nói, Người vừa dúi cây côn vào tận tay tôi. Dù muốn hay không tôi vẫn nhận lấy cây côn này và cũng như cách thầy tôi đã làm là xát mạnh vào chiếc áo vải của tôi đang vận trong người, xong áp chiếc côn đang nóng bỏng này vào chiếc bình thủy tinh mà lúc bấy giờ tôi cho là mầu nhiệm.
        Quả nhiên như thầy tôi đã làm, hai cục bấc tròn trong bình thủy tinh lại từ từ giãn xa ra chẳng khác nào như thầy tôi đã làm trước đó,
        - Lỗ San, như chú thấy, đó là điện lực. Nhưng chú có cảm thấy nó có giật không?
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment


        • #49
          Tôi lắc đầu. Thầy tôi nói tiếp:
          - Điện ở ngay trong óc con người chúng ta cũng thế đó.
          Nói đến đây Minh Sư ra lệnh tôi hãy cùng Người đến một cái bàn kế bên, nơi đó có đặt một loại dụng cụ khác hơn. Loại dụng cụ này trông hệt như cái bánh xe bề mặt có nhiều mảnh kim khí. Đặc biệt có hai thỏi kim khí gắn vào đầu nhiều sợi dây thép nhỏ tua tủa chĩa ra.
          Mỗi đầu dây hơi chạm vào hai miếng kim khí. Trên đầu thỏi có dây nối liền với hai hình tròn cùng một loại. Tôi có ý nghĩ đó là một loại dụng cụ dùng làm trò ma thuật để lừa bịp mọi người.

          Hành động kế tiếp của Minh sư là người nắm lấy cái tay quay nơi đàng sau của chiếc bánh xe đoạn quay thật mạnh, tức thì bánh xe quay với tốc độ thật nhanh phát ra những tiếng hú inh ỏi đến nỗi tôi cảm thấy hai tai nhức nhối không thể nào chịu nổi.
          Từ trong cái bánh xe đang vùn vụt quay này bắn ra nhiều tia lửa lóe chớp liên hồi tung ra bốn phía.
          Lạ lùng hơn nơi hai cái bầu tròn kim khí bất chợt lóe lên một luồng điện dài hệt như cái lưỡi của một con mãng xà đỏ choét. Một mùi khét lẹt từ trong máy phát ra làm tôi có cảm tưởng có cái gì đó bị bốc cháy quanh đâu đó.
          Trông thấy vẻ sợ hãi của tôi, Minh Sư cười bảo:
          - Lỗ San! Đây là cái máy cổ lỗ được cất nơi đây, ít người được đưa đến để chiêm ngưỡng. Chú là một trong hàng Đạt Lai Lạt Ma đặc biệt được ta mang đến để chú quan sát hầu tránh phải bỡ ngỡ khi được nhìn thấy nó trong một tương lai không xa lắm. Hiện nay khắp các quốc gia trên thế giới có quá nhiều loại máy uyn sược (Winshurst) này dùng dễ giảng dạy về điện năng.
          Ngừng& nbsp;lại nơi đây, Minh Sư nắm lấy hai sợi dây trong máy và bảo tôi đến giúp cầm cái tay quay, quay thật mạnh để Người thử nghiệm cho tôi xem:
          - Cứ quay mạnh hơn nữa đi. Càng mạnh, càng nhanh, càng tốt. Đừng sợ hãi gì cả. Chẳng có gì làm cho ta đau đớn đâu!
          Vừa nói người vừa nắm mỗi tay một sợi dây ra hiệu cho tăng thêm tốc độ. Thật không có gì làm cho tôi ngạc nhiên bằng. Ánh sáng màu tím chỗ đậm, chỗ nhạt chạy ngang qua mặt và tay thầy tôi mà người chẳng bị hề hấn gì. Tôi hơi nhíu mày khi nghe thấy có mùi khét tỏa ra cả gian phòng này.
          - Đó là mùi Ozone, chẳng có gì hại cả.
          Để ; cho tinh thần tôi khỏi bị căng thẳng trước khi Minh Sư giảng giải những dụng cụ máy móc lạ lùng khác, Người đưa tôi đến một bể nước bên trong phòng kế cận. Bể nước này có chiều dài hơn ba thước và chiều ngang hai thước.
          - Lỗ San, chú nhìn thấy những gì bên trong bể nước này?
          - Kim Tự Tháp thưa Minh sư!
          - Đúng. Đó là những Kim Tự Tháp nhỏ trông hệt như những Kim Tự Tháp ở Ai Cập. Nhưng vị tất chỉ có ở Ai Cập mới có các ngôi Kim Tự Tháp mà khắp năm châu bốn bể cũng có những công trình kỳ diệu như vậy. Ngay tại Tây Tạng này cũng có những ngôi Kim Tự Tháp thu nhỏ lại nằm bên trong lòng Hy Mã Lạp Sơn.
          Tiếc thay ta không có đủ thì giờ để đưa chú đến chiêm ngưỡng. Như ta đã từng giảng giải cho chú nghe, là cuộc đời luôn luôn biến ảo, nay là biển xanh mà ngày mai đã thành ruộng dâu rồi thánh nhân thường bảo "như tang điền thương hải"
          Cuộc đời này chẳng có gì gọi là tuyệt đối cả. Nay vầy mai khác. Có những cái mà xưa nay ta đinh ninh là cổ kính nhất, nhưng rồi, lại có những cái cổ kính khác xuất hiện tiếp theo. Như các hình ảnh trong bể nước đang ở ngay trước mắt đó, các công trình cùng dạng với các Kim Tự Tháp Ai Cập mà lâu nay được mọi người cho rằng đó là công trình cổ xưa nhất vị tất đã đúng như vậy.
          (Theo các nhà khảo cổ gần đây đã tìm thấy trên thềm lục địa Bắc Mỹ những công trình được xây dựng từ thời Băng Hà cuối cùng có đến 12.000 năm về trước. Đó là điều đáng cho ta chú ý là chúng ta vẫn còn chưa hay biết về một nền văn minh lâu đời có được mức độ tổ chức cao độ đến như vậy.
          Hồ Rock tại tiểu bang Wisconsin ở Hoa Kỳ, khoảng 35 cây số về phía Đông, có chiều dài đến 8 cây số ngàn và chiều rộng khoảng 4 cây số. Vào năm 1836 người ta tìm thấy một kim tự tháp y hệt hình dạng của kim tự tháp của xứ sở Ai Cập bằng đá nhỏ có phần đỉnh dẹt và đặt tên là Aztalan.
          Ông Natanial Heyer đã tình cờ phát hiện được và tức thời được các nhà khảo cổ nghiên cứu đưa ra giả thuyết nó được xây dựng có đến hơn nghìn năm. Trước đó, thổ dân của lục địa này cũng đã cho xây nhiều kim tự tháp dùng để thờ cúng các bậc tiên linh hay thần thánh.
          Vào năm 1862 trên một số tạp chí nêu ra vấn đề các kim tự tháp này, cho rằng kim tự tháp tại hồ Rock thì Aztalan còn ra đời sớm hơn bất kỳ kim tự tháp nào trên thế giới. Có nghĩa là kim tự tháp Ai Cập vẫn là hậu sinh đối với kim tự tháp ở thềm lục địa Bắc Mỹ. Vấn đề này đã làm dư luận lúc bấy giờ xôn xao không ít.
          Và cũng từ đây người ta mới nêu ra những điều thắc mắc là nếu như kim tự tháp này đã từng được người da đỏ dựng nên thì cớ làm sao nó lại nằm ở dưới đáy một hồ nước lớn vốn đã có từ hơn 1000 năm về trước?
          Cũng từ các cuộc tranh luận đó người ta đều cùng một quan điểm những kim tự tháp tại hồ Rock đã được những bộ lạc da đỏ đầu tiên tại xứ sở Bắc Mỹ này xây cất từ lâu rồi!
          Sự phát hiện những điều bí mật dưới đáy hồ Rock, tọa lạc tại Madison City, thuộc tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ đã làm cho các các nhà khảo cổ phải sửng sốt! Mùa Xuân năm 1936, ông Victor S.Taylor, tuyên bố mình đã phát hiện có đến bốn Kim Tự Tháp được xây cất dưới đáy hồ, mà các nhà khảo cổ nghi ngờ kỳ công này của người Aztec.
          Nguồn tin đặc biệt này đến tai một nhà xuất bản sách chuyên hướng dẫn du lịch nước Mỹ do tiến sĩ Sonders làm giám đốc quan tâm đến, và ngay sau đó ông đã tổ chức nhiều chuyến khảo sát những công trình cổ xưa đầy bí ẩn này.
          Ông tính toán tỉ mỉ về khả năng có thể tìm thấy tại các ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ sâu này những dòng chữ nào đó giúp ông xác định được nguồn gốc và thời gian xây dựng của các kim tự tháp này.
          Tiếp theo đó là lời tuyên bố vừa khám phá ra được các kim tự tháp của ông Taylor tỏ ra nghi ngờ về các kim tự tháp cho là do người Aztec xây cất lên hoàn toàn không đúng.
          Theo ông Taylor thì người Aztec thời cổ đại sống tại Mễ Tây Cơ, mà xứ sở này nằm khá xa so với tiểu bang Wisconsin của Mỹ.
          Mặc&nb sp;dù nghe những dư luận như vậy,tiến sĩ Sonders vẫn cho quảng bá để mọi người được biết là mình sẽ thực hiện chuyến thám hiểm dưới đáy hồ Rock này. Nhưng dù ông Sonders quảng cáo ầm ĩ về chuyến thám hiểm đi tìm kim tự tháp dưới đáy hồ Rock đến đâu đi nữa cũng chẳng ai tài trợ kinh phí cho ông để thực hiện kế hoạch do chính ông tự vạch ra.
          Cho mãi đến một thời gian sau, nhà Địa Chất Học, giáo sư F.Been cùng với tiến sĩ lịch sử Charles F. Braun, nhân vào dịp thời tiết thích hợp đã tìm cách khảo sát những bí ẩn đang bị chôn vùi dưới lòng sâu của hồ Rock. Họ cùng nhau cặm cụi quyết tâm khám phá, nhưng vì hồ nước quá sâu họ không thể xuống tận dưới đáy lòng hồ này được!
          M̕ 7;t chuyên gia từng giữ kỷ lục về tài nghệ lặn sâu, ông Mark Jean Noul cũng quan tâm không ít về những bí ẩn tại hồ Rock này. Ông đã ngồi trên chiếc thuyền nhỏ kéo theo một sợi dây cáp có buộc một thỏi kim loại nặng và chính nhờ thỏi kim loại này đụng nhằm vật thể ở bên dưới đáy hồ cho ông biết đó là sự thật. Thế là, ông tự lặn xuống nhiều lần để xem các vật thể đó là gì.
          Khi ông vừa trồi lên khỏi mặt nước tuyên bố ngay rằng, vật thể ông nhìn thấy đó là một kim tự tháp. Trong cuốn nhật ký, ông Noul đã mô tả Công trình có hình dạng kim tự tháp cụt. Có nghĩa là phần trên của nó là một bình diện hình vuông có cạnh lối 1,4m.
          Còn phần đế của nó có cạnh dài 5.43m X 8.83. Ngôi kim tự tháp này được xây cất từ những hòn đá phẳng, kết lại bằng một chất kết dính nào đó. Đặc biệt, đá xây ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ đước bao phủ bởi một lớp dày màu xanh (liệu có phải là rêu chăng?), muốn cạo sạch không khó khăn gì lắm để được nhìn thấy màu xám ở mặt bên trong của nó.
          Ngày 30-7-1967, một nhóm người gồm có bảy thợ lặn nổi tiếng do Lambard, một chuyên gia nghề lặn, đứng đầu, tổ chức chuyến khảo sát mới tại hồ Rock. Vốn là một tay lặn thiện nghệ đầy kinh nghiệm, lại có tài lặn sâu nhất của nhóm, xuống tận ngôi kim tự tháp để quan sát lối cấu trúc như thế nào để xét nghiệm làm sao "những ai đó" đã thực hiện được!
          Nhưng trước mắt ông vẫn chưa nhìn thấy gì, cho đến khi phát giác ra được bề mặt có diện tích khoảng 6cm x 12cm và nhô lên khỏi đáy hồ chừng 1.5m thì số oxy dự trữ trong bình mang theo của ông đã cạn. Tuy nhiên trước khi vội vã nhô lên khỏi mặt nước, ông Lambard đã lấy được một số mẫu đá theo để khảo nghiệm.
          Tuy nhiên, có điều khi được các nhà khảo cổ hỏi ông có gì chứng minh được đó chính là những mẫu đá lấy được từ các ngôi kim tự tháp dưới đáy hồ sâu đó, thì ông ta chẳng biết phải giải thích thế nào làm cho người ta có thể tin là thực. Do đó mà ông Lambard mang tiếng là kẻ lừa đảo.
          Nhiều luận cứ trái ngược nhau về kim tự tháp dưới đáy hồ Rock. Có nhiều chuyên gia của nghề lặn bảo rằng họ đã lặn xuống tìm kỹ song chẳng trông thấy gì cả, tuy nhiên cũng không ít người thợ lặn chuyên nghiệp lại
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • #50
            CHƯƠNG TÁM
            HUYỀN THÔNG PHÁP THUẬT

            Tiếp đến là một cuộc thí nghiệm khác. Minh Sư tôi lấy ra một số vật dụng bằng thủy tinh đựng trong một cái hộp bạc, cột từng cái bóng vào sợi dây điện, đoạn dùng cả hai tay quay mạnh, có tiếng động cơ phát ra và lạ thay tất cả các bóng đèn thủy tinh kia thảy đều rực sáng. Sự kiện này làm cho tôi ngạc nhiên không ít.
            - Với cái máy này đối với bất cứ ai dù không có nhãn thông cũng có thể nhìn thấy "nhân thể quang" của nó. Chú có gì thắc mắc không? Nhưng bây giờ thì chúng ta hãy trở ngay về phòng chuẩn bị đi dự khóa lễ buổi tối. Sau khi lễ tất, nghỉ ngơi ăn uống xong, thầy tôi lại bắt đầu giảng giải thêm vấn đề buổi chiều còn bỏ dở:
            - Bây giờ chúng ta bắt đầu thực sự đi vào vấn đề mấu chốt, điều cần thiết là chú hãy chuẩn bị tư tưởng đừng để bị phân trí. Ta sẽ nói với chú về vấn đề "thôi miên", nó là một hiện tượng của một dòng điện xuất phát từ trong não bộ mỗi khi ta nghĩ ngợi đến điều gì! Hiện tượng này được phát hiện trên một họa đồ do từ dụng cụ y khoa ghi nhận.
            Tôi sực nhớ lại lúc còn ở Thiền Viện, trong khóa tu luyện phương pháp tập trung tư tưởng đã có thể làm quay được một cái ống loa nhỏ làm bằng giấy mỏng có đục lỗ bắc vào một cái trục và tôi đã dùng hai luồng nhãn quan điều khiển cho nó quay tròn như chiếc chong chóng nhỏ.
            Lúc bấy giờ tôi mới biết sự tập trung tư tưởng là một vấn đề quan trọng bởi đó là luồng điện năng có thể làm di động được mọi thứ tùy theo khả năng của mình cũng như trọng lượng của đối tượng.
            - Chú nghĩ đúng. Bộ óc phát ra điện năng làm luân chuyển các hóa chất trong não bộ truyền lệnh cho gân cốt hành động.
            Nói đến đây Minh Sư lấy xâu chuỗi hạt treo nơi cái móc trên tường rồi người nhìn tôi nói tiếp:
            - Chú có thể di chuyển chuỗi hạt này đi nơi khác khi mà chú có một luồng điện năng đủ mạnh trong não bộ. Đối với tất cả mọi người nếu được tu luyện đều có thể thực hiện một cách dễ dàng. Nhưng chú sẽ gặp trở ngại nếu không nói là bị thất bại khi một kẻ nào đó có luồng điện năng mạnh hơn chú, họ có thể chế ngự chú và làm cho ý thức của chú hoàn toàn bị chế ngự.
            Chú Sĩ Cát có lần trong cuộc mạn đàm đã giảng giải cho tôi điều này. Chú thực hành ngay trong ngày lễ Phật bên ngoài thiền viện với những trò chơi nhỏ dành cho các chú tiểu mua vui trong chốc lát bằng thuật thôi miên. Tuy nhiên lúc bây giờ tôi vẫn chưa tin hẳn, cho đó chỉ là một xảo thuật.
            - Lỗ San! Những sự kiện mà chú đang suy tư đó đều là sự thật. Có nghĩa là chú Sĩ Cát hay các ông Hà Mịch, Lâm Trần từng thực hiện trong những trò chơi giải trí đều là sự thực phát xuất từ luồng điện trong não bộ điều khiển. Các sóng điện ở não bộ mà ta đã trình bày với chú ngày nay do các nhà khoa học Tây phương đã thu được bằng máy ghi lại trên họa đồ.
            Như chú biết não bộ phát ra điện năng, còn điện năng phát ra sóng điện và chính sóng điện chi phối cho gân cốt ta hành động. Ví như, chú muốn nhắc cánh tay lên thì óc chú phát ra điện tức thì dòng điện ấy truyền mệnh lệnh cho gân cốt chú thực hiện điều gì chú muốn. Tuy nhiên, nếu lúc bấy giờ có kẻ nào có luồng điện mạnh hơn đang hiện diện muốn phủ định mệnh lệnh đó của chú, thì chú không tài nào có thể thực hiện được.
            Tôi bắt đầu biết thế nào là thay đổi "điện cực" của luồng điện để làm cho nó chạy ngược chiều, nhưng vẫn còn chưa hiểu làm thế nào có thể đưa luồng điện vào trong não bộ được. Tôi nêu thắc mắc này ra, được Minh Sư giải thích:
            - Ta không cần phải mở cái não bộ của chú ra để nhét các luồng sóng điện vào trong ấy, mà ta chỉ dùng bằng ý thức để khuyên hoặc chỉ dẫn chú tùy theo trường hợp!
            - Có khi nào Minh Sư thôi miên một người nào đó mà không được họ đồng thuận hay không?
            - Không. Điều này tuyệt đối không bao giờ có. Không nên làm như vậy. Ta không thể và những người biết thuật thôi miên cũng đều như vậy. Ngoại trừ trường hợp bắt buộc đối với người bệnh trong lúc họ mất tự chủ hoặc mê man nếu không cưỡng bách họ sẽ không thể nào tồn tại được! Ta sẽ hướng dẫn chú thực hiện điều này.
            Tôi vô cùng sung sướng khi nghe Minh Sư sẽ truyền đạt cho thuật thôi miên, điều mà tôi hằng mơ ước. Tôi reo lên:
            - Con thành thật đội ơn Minh Sư.
            Thầy tôi cười:
            - Thường thì ta nhận thấy chú có một điều tỏ ra không mấy thích thú. Vậy hôm nay ta muốn chú làm công việc mà chú không ưa thích này. Vậy chú có nhớ điều gì đó không?
            Tôi cố lục lọi trong đầu mình xem điều mà Minh Sư bảo đó là điều gì, đành lên tiếng yêu cầu Minh Sư nhắc lại:
            - Quả tình con không còn nhớ nữa, Minh Sư có thể nhắc lại hộ cho con không?
            - Điều mà chú không mấy thích thú đó là phần thứ năm trong pho kinh Lăng Nghiêm. Ta không có gì trách cứ Lỗ San điều này. Chính cái phần năm đó có ý nghĩa quá cao siêu đã làm cho đầu óc chú mệt mỏi không ít. Ta biết vậy nên chẳng có gì phiền hà chú cả.
            Đúng như lời Minh Sư đã nói, đây là sự thật mà trong bao nhiêu lâu nay tôi ấp ủ trong lòng không bao giờ tiết lộ.
            Nhìn tôi giây lâu, Minh Sư đưa tay chỉ về phía cửa sổ đối diện:
            - Chú hãy mang quyển kinh Lăng Nghiêm lại đây, và tìm cái phần mà chú không mấy thích thú đó để chúng ta cùng thảo luận.
            Tôi miễn cưỡng vâng lời, đến lấy pho kinh Lăng Nghiêm Lăng Nghiêm mang lại đặt trên mặt bàn ngay trước mặt Minh Sư. Tại Tây Tạng có nhiều kinh sách nhưng pho kinh được xem là vĩ đại nhất phải nói là pho kinh Lăng Nghiêm! Tôi loay hoay tìm kiếm không phải vì chẳng biết đoạn ấy ở nơi nào nhưng vì muốn kéo dài thời gian.. để tránh đọc những dòng kinh mà tôi cho là khúc triết và tối nghĩa nhất.
            Nhưng, lạ lùng thay, ngài Lạt Ma đưa mắt nhìn tôi đoạn thì thầm bảo:
            "Chú hãy đọc thử xem, ta nghĩ rằng chẳng có gì khó khăn đối với chú cả!"
            Lạ lùng thay! Quả đúng như lời Minh Sư bảo, tôi đọc một cách trôi chảy và am tường được tất cả ý nghĩa của đoạn kinh này một cách thật thích thú!
            - Lỗ San! Bây giờ thì chú cảm thấy sảng khoái lắm phải không?
            Tôi im lặng mỉm cười và cúi đầu xuống im lặng.
            - Chú đã nhận được luồng cảm xạ của ta và não bộ chú đã làm theo những gì ta muốn. Lúc bấy giờ dung dịch bọc chất chuyển động trong não bộ của chú và đem lại kết quả mỹ mãn này. Đó là "thôi miên"! Chú hiểu chứ? Lỗ San! Ta đã truyền đạt cho chú sự sáng suốt ấy qua khoa thôi miên mà chú hằng mong muốn được học hỏi.
            - Ta nghĩ rằng chú thừa hiểu thôi miên như thế nào rồi! Chỉ còn lại là phần luyện tập làm thế nào cho nhanh để kịp thời ứng phó trước những trường hợp cấp thiết! Điều này chú sẽ còn được huấn luyện thêm nữa.
            Thôi miên là một trong những các chi tiết nhỏ trong nền văn minh nhân loại. Loài người đã phát hiện ra các qui luật của tự nhiên, phát sinh ra từ nhu cầu của xã hội và tư duy của con người sống giữa hành tinh này. Chú Sĩ Cát cũng đã từng giảng giải cho tôi điều này.
            - Lỗ San có biết đâu thế giới chung quanh ta, trong xã hội loài người, và ngay luôn cả trong bản thể của con người còn chứa biết bao nhiều điều bí ẩn, nhân loại vẫn chưa tìm hiểu và khai thác hết được. Những người theo đường hướng tu luyện để có được một dòng điện mạnh tất nhiên là không phải dễ dàng gì.
            Phương pháp tu tập này đòi hỏi từ sự ăn uống đến các nhu cầu cần thiết về ý tưởng. Người tu luyện thôi miên chẳng khác gì người tham Thiền. Các Thiền sư chỉ vì muốn chối bỏ tất cả cái "có" đang hiện hữu để trở thành cái không không.
            Vì vậy mà các bậc Thiền sư lúc nào cũng để cho cái "Trí" được hoàn hoàn thanh tịnh! Người tu luyện phép thôi miên cũng vậy. Nếu không có sự tu luyện thì lòng tà vạy sẽ dấy lên và tất nhiên không tránh khỏi có những hành động độc ác.
            Có lẽ Minh Sư tôn trọng sự suy tư của tôi trong giờ phút này, nên người chỉ im lặng đưa mắt nhìn mà chẳng nói năng thêm lời nào nữa vì sợ làm tôi kinh động! Mãi trong giây lâu sau người mới tiếp tục giảng giải tiếp:
            - Có điều làm sao cho "cảm xạ lực" của chú phải được tăng trưởng nhiều hơn, bởi đó là nhu cầu cần thiết trong tương lai của chú.
            - Thưa Minh Sư, con vẫn chưa rõ được tương lai của con như thế nào?
            - Hiện bây giờ thì chú chưa cần phải quan tâm đến điều này. Nhưng vấn đề cấp thiết trước mắt là chú phải được huấn luyện thêm hơn nữa về vấn đề ta đang truyền đạt cho chú, vì nhu cầu của đất nước.
            - Của đất nước? Tôi sửng sốt hỏi lại.
            - Phải! Của đất nước. Ngoài vấn đề giải thoát cho linh hồn chúng ta còn có bổn phận bảo vệ xứ sở, bảo vệ dân tộc rồi đến một thời gian nào đó chú sẽ biết về sự cần thiết này.
            Tôi im lặng đưa mắt nhìn Minh Sư chờ đợi những gì sau đó Người sẽ nói ra. Và quả thật, Minh Sư tôi nghiêm sắc mặt nhìn tôi:
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • #51
              - Chú sẽ được đưa đi nhiều nước ngoài xứ sở Tây Tạng này. Một khi chú thực hành nhiệm vụ mà Đức Lạt Ma Tối Cao sẽ giao phó cho chú, lúc ấy chú sẽ thấy mọi sự thông tin liên lạc là điều không thể thiếu sót được. Ngoài vấn đề sử dụng thuật thôi miên, chú còn phải đạt đến sự rành rẽ cả vấn đề thần giao cách cảm nữa.
              Nghe Minh sư nói vậy, tôi cảm thấy càng lúc tôi càng không còn thời giờ dành riêng cho cá nhân mình. Mỗi ngày thêm mỗi việc, chẳng bớt đi chút nào.
              - Thưa Minh Sư, con muốn biết rõ hơn về thần giao cách cảm.
              - Như chú đã biết dù mới chỉ ở trình độ sơ đẳng, nó chỉ là một thuật rất giản dị. Thần giao cách cảm là sự truyền đạt ý nghĩ của mình mà không cần phải phát ra bằng tiếng nói dù ở tận một nơi nào xa xăm đến một đối tượng nào đó, và ngược lại.
              Ta chỉ cần điều khiển làn sóng điện là có thể thực hiện được điều này. Có nghĩa là chú nghĩ một điều gì tức thì óc của chú sẽ phát ra luồng sóng điện đó. Như vậy có nghĩa là mệnh lệnh chú chỉ âm thầm đưa ra và chỉ trong chớp nhoáng nó đến ngay với đối tượng nào đó theo ý của mình chỉ định.
              Đó là phương pháp dùng điện năng của ý thức phát đi tùy trường hợp gần hay xa và khắp cả mọi nơi. Có điều muốn có luồng sóng điện mạnh cần phải áp dụng thêm lối tập trung tư tưởng vào ý nghĩ của mình định phóng đi tất nhiên là với điện năng như vậy công suất của nó sẽ tăng gấp bội phần khỏi phải sợ sẽ bị một luồng sóng điện nào mạnh hơn áp đảo.
              Tôi bỗng sự nhớ ra có lần trên đỉnh núi Potala, Minh Sư thắp lên một ngọn nến nhỏ trong một căn phòng tối đen như mực, ánh sáng leo lét chiếu ra chung quanh, nhưng khi thầy tôi đặt ống kính phóng đại phía trước ngọn nến, tôi nhận thấy ngọn nến này được phản chiếu trên tường với hình ảnh một cây nến đang rực sáng một cách lạ lùng.
              Sau đó, Minh Sư lấy thêm một cái kiếng đặt phía sau của ngọn nến này khiến ánh sáng được tập trung lại và chiếu lên mặt tường hình ảnh của một cây nến lớn hơn và rực rỡ hơn nhiều.
              Như biết là tôi đang nghĩ điều gì, Minh Sư gật đầu mỉm cười:
              - Trí nhớ của chú rất tốt. Ta cần như vậy. Chỉ làm sao cho tư tưởng tập trung là có thể phóng đi đến đích một nơi mà ta đã định trước. Số năng lực căn bản của con người đều do một âm ba nhất định. Nếu ta biết rõ tốc độ âm ba nơi não bộ của kẻ khác phát ra, chúng ta chỉ cần điều khiển cho hai tốc độ âm ba của hai tầng làn sóng đó hợp lại thì sự truyền tin bằng "thần giao cách cảm" hoặc "cảm xạ tuyến" chẳng có gì khó khăn cả.
              Nói đến đây, Người rót thêm trà vào hai chung bạc :
              - Nào chúng ta thưởng thức chung trà này đi, rồi chú hãy thực nghiệm pháp thuật "thần giao cách cảm" đến bất cứ người nào, như chú Sĩ Cát chẳng hạn.
              Tôi thật sự vui mừng. Như vậy là tôi có dịp chuyện trò với chú Sĩ Cát để hỏi han sức khỏe cũng như để được biết chú hiện ở nơi nào?!
              Tôi bắt đầu chuyển những ý nghĩ của mình bằng thần giao cách cảm đến chú Sĩ cát hiện đang ở tại một trong ba xứ ở bán đảo Đông Dương! Đúng theo như ý, chú Sĩ Cát nhận được luồng điện của tôi truyền đạt đến một cách thật nhanh chóng.
              Chú cho biết là dì tôi đã vắn số qua đời và chính điều này đã làm cho tôi xúc động mạnh khiến không còn tập trung được tư tưởng nữa. Dòng điện bỗng dưng bị đứt đoạn. Mồ hôi tôi vã ra khắp cả châu thân, hơi thở dồn dập và ngay khi đó có giọng nói của Minh Sư khuyến cáo:
              - Lỗ San! Chú đã bị xao lãng khiến dòng điện tập trung bị đứt đoạn. Đây là điều tối kỵ đối với sự truyền đạt ý nghĩ của mình bằng phương pháp "thần giao cách cảm". Chú nên nhớ rằng trong khi thực hiện phương pháp truyền đạt ý nghĩ của mình, tuyệt đối không nên để tâm của mình bị xao động! Điều tiên quyết là chú phải giữ cho mình có một tâm hồn cứng cỏi khi đứng trước bất cứ một cảnh ngộ nào kể cả cái chết trước mắt. Chú nhớ chứ?! Bây giờ chú có thể bắt đầu thực hiện trở lại!
              Khi tôi vừa tập trung tư tưởng phóng đi luồng điện trở lại, tức thời nhận ngay được lời khuyên bảo của chú Sĩ Cát:
              - Lỗ San! Đừng nên buồn làm tổn thương đến sức khỏe. Mọi người trên thế gian này không ai thoát khỏi con đường này. Ta gửi lời chúc mừng chú đã thành công được việc áp dụng "thần giao cách cảm". Đây là một điều vô cùng quan trọng, dù có cách xa nhau nghìn trùng con người vẫn có thể truyền đạt cho nhau ý tưởng của mình. Chẳng có gì khó khăn cả, chỉ sợ mình thiếu sự quyết tâm tu luyện!
              Tôi vô cùng thích thú học được môn "thần giao cách cảm", điều mà tôi hằng ước vọng! Từ nay tôi sẽ được chuyện vãn cùng các đạo hữu ở các ngôi chùa khác, như Sera hay ở bất kỳ nơi nào trên thế gian này.
              Có điều, sự vui mừng của tôi hôm nay cũng chính là bước đầu đưa đẩy tôi đi vào con đường đầy truân chuyên gian khổ. Mọi cố gắng tôi thu thập được qua sự học hỏi không ngoài đầu tư cho mình một số vốn cho tương lai để ứng phó với mọi nhu cầu của đất nước mà tôi sau này sẽ được Đức Đạt La Lạt Ma Tối Cao giao phó.
              Anh Hà Mịch đã có lần giảng giải đời người sẽ không phải mãi mãi như mặt nước hồ thu mà sẽ có những giai đoạn đầy gian nan đau khổ!
              - Lỗ San! Mỗi người đều có một định mệnh an bài. Ta đoán chừng chú sẽ phải trải qua bao nhiêu cảnh cam go trong cuộc đời sau này của mình. Hãy chấp nhận và xem đó là nhiệm vụ của chú phải trả lại các nghiệp chướng mà chú đã làm từ bao nhiêu kiếp trước.
              Màn đêm buông xuống dày đặc. Trời càng khuya gió càng lộng. Tôi không làm sao ngủ được đến tựa bên cửa sổ phòng nhìn ra bên ngoài. Xa xa ánh đèn thành phố Lạt Sa nhấp nháy như muôn ngàn hạt kim cương lấp lánh giữa màn trời. Vài ánh chớp lóe lên và tắt ngấm ngay sau đó! Thỉnh thoảng dăm ba cánh dơi đập mạnh vào bờ tường tạo nên những tiếng động khô khan chát chúa.
              Lại có tiếng luân xa kẽo kẹt cùng với tiếng cầu kinh từ xa vọng lại. Tiếng côn trùng hòa lẫn với tiếng chim cú tạo thành một điệp khúc u buồn. Và, cứ như thế, điệp khúc này hòa lẫn với tiếng vi vu của gió rừng vọng đến rên rỉ, nhịp nhàng và bất tận!
              Gió lạnh buốt thấu xương từ các đỉnh núi cao thổi xuống. Những cơn lốc bất thần xảy đến chẳng ai có thể đoán biết trước được cuốn theo cả sỏi đá bay rợp cả bầu trời. Tiếp tục hết cơn lốc này đến cơn lốc khác cứ nhằm theo nơi chúng tôi đang hiện diện lao thẳng đến.
              Đợi các cơn lốc không còn nữa, đoàn chúng tôi đi vòng qua con lộ Cung Đắc Linh (Kunder Ring), rẽ về hướng Nam của đường phố Lã Khang (Lhakhang) Và cứ như thế chúng tôi cắm đầu lầm lũi đi để cố tránh các cơn lốc khác rất có thể tái diễn. Và, quả đúng như vậy, chúng tôi không kịp trốn tránh thì một cơn gió xoáy cực mạnh kéo ngay đến!
              Cơn lốc này còn mạnh gấp mấy lần hơn những cơn lốc trước. Nó thốc thẳng vào một người bạn đồng hành trong chúng tôi, đến độ bứng cả người anh ta lên trên cao xoay tròn như một con vụ! Cả bọn chúng tôi lúc bấy giờ đều kinh hồn bạt vía đứng tụm vào nhau giương mắt ra nhìn.
              Thân hình người bạn này lơ lửng trên cao, cách mặt đất khoảng lối chừng mươi thước. Chiếc áo màu nâu của anh đang mặc phình ra chẳng khác nào thân hình của ông Hộ Pháp!
              Nhưng may mắn, không bao lâu cơn lốc xoáy tan hẳn, thân hình người bạn này rơi xuống. Tôi có cảm tưởng như một tảng đá rơi xuống trên dòng sông tại khu phố Khả Linh Chi.
              - Yulgye !
              Tên của người bạn gặp rủi ro này, đang đứng trơ ra như phỗng đá, nước không quá đầu gối
              - Có hề hấn gì không hả Yulgye?
              Hắn lắc đầu mặt nhăn nhó:
              - Chỉ thấy hơi ê ẩm không thôi.
              Chúng tôi lại tiếp tục đi trên con đường Lã Nhan Lộ. Cơn lốc không còn, song gió lớn từ phía sau lưng chúng tôi vẫn tiếp tục đổ đến. Lúc bấy giờ chúng tôi chỉ cần giữ thế đứng cho thân hình được cân đối là vị chi có thể đi vun vút như bay.
              Khi vào đến Tung Sho, nơi đây chúng tôi bắt gặp các bà đứng tuổi đeo mặt nạ bằng loại da bò. Điều mà chúng tôi có thể đoán mò có thể nói không bao giờ sai chạy được.
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • #52
                Sở dĩ tôi dám nói một cách chắc chắn như vậy vì khi nhìn thấy người nào mang mặt nạ có vẽ hình một cô gái trẻ thì biết ngay người mang hình vẽ đó chính là các "cụ bà" hay những phụ nữ đã bắt đầu hết thời xuân sắc!
                Tây Tạng vốn là một xứ sở được xem có khí hậu nóng bức đến độ có thể nói là dữ dằn nhất. Hình như bất cứ mùa nào tại xứ sở này cũng có tiếng gió hú, có bão cát và có cả những trận cuồng phong mang đầy sỏi đá thổi từ các đỉnh núi xuống.
                Sở dĩ các ông hay các bà phải đeo mặt nạ mục đích chống lại những cơn gió bão bất thần xảy đến. Như trên đã nói, mặt nạ được làm bằng da bò, khoét hai lỗ ở mắt để có thể nhìn thấy cũng như một lỗ tròn vừa đủ để mũi hít thở không khí. Ngoài ra, toàn bộ mặt nạ được vẽ các màu sắc sặc sỡ tùy theo sở thích của từng người.
                Gió vẫn tiếp tục rít lên từng hồi. Tôi cùng hai thằng bạn Yulgye và Đề Mộng choàng tay trên vai nhau để đủ sức chống trả lại với những cơn gió mạnh bất thần thổi lại rất có thể bốc lên giữa không trung! Đi được nửa tiếng chúng tôi quay nhìn lại về phía sau không còn trông thấy ngọn Thiết Lĩnh Sơn và dinh Potala nữa, cho biết là chúng tôi đã đi qua hẳn khu vực này.
                Thiết Lĩnh Sơn cũng như Potala đã chìm vào đám mây đen kịt, xen lẫn với cát sỏi từ dãy Hy Mã Lạp Sơn bay lên mù mịt, trông hệt như một bức tranh được hoàn toàn sơn phết bằng chất nhựa trải đường.
                Đây là một màn mây đầy nguy hiểm mà chúng tôi luôn luôn được nhắc nhở phải lo tránh trước mối hiểm họa có thể gây sự hiểm nguy cho tính mạng, vì vậy chúng tôi hối hả nhau chạy thật nhanh để khỏi bị đám mây này phủ chụp lên đầu.
                Cũng như khi ngang qua cầu Đá Xanh, đến khu Kim Ốc phía ngoài thành Thánh Địa, nhìn sang bên kia khu nhà thờ lớn Du Khang (Zo Kang) nơi này lại càng cẩn thận hơn trong khi di chuyển. Đây là chốn dễ dàng đem đến cho chúng ta lắm sự hiểm nguy dẫy đầy bất trắc.
                Đang liên miên suy nghĩ thì bất thần có tiếng hú nổi lên đâu đó, càng lúc càng gần.
                - Chết đến nơi rồi!
                Thằng bạn Yulgie kêu lên
                - Nhanh lên không khéo chết cả lũ bây giờ.
                Đúng như vậy, cơn bão tiến sát đến phía chúng tôi mang theo cát cùng sỏi nhỏ thổi tới tấp vào đầu và mặt mày khiến chúng tôi cảm thấy như mình bị hàng trăm ngàn mũi kim đâm vào.
                Bất thình lình thằng Đề Mộng sơ ý buông tay khỏi tôi và tức thì hắn bị ngọn cuồng phong thốc đến kéo cả chiếc áo đang mặc lên tận đầu cất thẳng lên giữa khoảng không trung và quay như một con vụ.
                Đá và cành cây khô bị gió thổi lăn lóc đầy đường phố, có lắm lúc đập mạnh vào chân chúng tôi làm tím bầm hoặc có nơi xây xát mãi khi về đến nơi trú ngụ mới hay biết. Đi thêm một quãng đường nữa, chúng tôi đoán biết là đã đến gần ngôi chùa.
                Trời tối đen như mực nên chúng tôi cố tìm lối vào trong cổng. Khi vào được bên trong, lúc bấy giờ chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy an toàn thật sự.
                Qua ngày hôm sau chúng tôi mới quan sát ngôi chùa đã từng có một lịch sử lâu đời trên một nghìn ba trăm năm trải qua bao cảnh biến thiên lịch sử. Khách thập phương từng đến đây để dâng hương cầu nguyện.
                Tôi quan sát từ sân chùa, mái chùa cho đến cột chùa và luôn cả từng bức tường, tôi có cảm tưởng đâu đâu cũng tỏa ra ánh thiền quang ngời sáng. Ngay cả đến cái sân đá nơi đại sảnh cũng bị xoi mòn lồi lõm xuống theo thời gian vì bao nhiêu triệu triệu bàn chân đã giẫm xuống từ đời này sang đời khác.
                Lúc bây giờ không khí trong các ngôi chùa cũng đang nhộn nhịp hẳn lên. Mùi trầm hương xông lên ngào ngạt, tỏa ra mù mịt cả chính điện, khiến mọi người khi đặt chân đến đây cảm thấy như có một Đấng huyền nhiệm đang hiện diện tại ngôi đại tự thiêng liêng này.
                Những cột chùa đen bóng phần trên đầu được sơn son thếp vàng, sừng sững đứng chung quanh trong chánh điện. Những ngọn đèn dầu bơ cùng những ngọn nến chập chờn chiếu lên các bờ tường những hình ảnh trông hệt như các bức tranh mạc họa to tướng, kết hợp với hình bóng của các tượng thần trông như thể đang nhảy múa quanh tượng của các "nữ thần" không phút giây ngừng nghỉ.
                Bất thần nhìn thấy những tia sáng lấp lánh phát ra từ hàng rào sắt nơi một căn phòng gần đó khiến tôi tò mò đến quan sát, thì ra đó là những tia sáng đầy muôn màu phát ra từ những hạt kim cương và những viên hồng ngọc. Thì ra nơi này trưng bày các hạt trân châu quí báu chẳng thiếu sót một món nào, mỗi loại phát ra một màu khác nhau, không màu nào giống với màu nào.
                Chung quanh khu trưng bày có hàng rào và cửa ra vào bằng sắt, kẻ gian khó lòng lẻn vào chộm cướp được. Sở dĩ nhà chùa rào giậu cẩn thận khu này mục đích là làm giảm bớt lòng tham khi nhìn thấy các của quý vô giá này có thể làm dấy lên lòng tà vạy của họ.
                Điều làm tôi càng tò mò hơn nữa, là thỉnh thoảng thấy bên trong kho tàng này hiện lên những cặp mắt thần đỏ rực lên như hai miếng huyết gà... tuồng như các cặp mắt này đang thị uy đối với những người đứng bên ngoài song sắt chiêm ngưỡng.
                Khi nhìn kỹ thì ra đó chính là những cặp mắt của các con "Thần Miêu" được nhà chùa huấn luyện để canh chừng khu "Bảo Thạch Điện" này. Những con thần miêu này không bao giờ xao lãng việc canh giữ mà chúng được giao phó.
                Các bậc chân tu có nhiệm vụ cai quản kho tàng nhờ vậy ít lo sợ có kẻ gian nào dám lẻn vào bên trong để thực hiện ý đồ chiếm hữu các châu báu này được.
                Trường hợp không có chuyện gì xảy ra, thì nơi móng vuốt của những con thần miêu này như được bọc nhung. Người ta có thể nhìn nó với hình ảnh của một con mèo dễ thương hiền hòa, lúc nào cũng chứng tỏ chúng là bạn tốt của con người.
                Nhưng trái lại, khi hữu sự, ví như có một kẻ gian nào đó có ý đồ lấy trộm châu báu trong kho tàng này, thì móng vuốt nó sẽ trở thành những mũi gươm sắt bén và lúc bấy giờ nó không còn là con thần miêu hiền hòa nữa mà là con ác quỉ, không dung thứ với bất cứ ai nếu ai thật sự thực hiện hành động đen tối này.
                Trong việc canh chừng kho tàng, thần miêu lúc nào cũng hợp tác nhịp nhàng thi hành nhiệm vụ. Khi một con nhảy xổ đến bám vào cổ kẻ gian tức thì con thứ hai cùng lúc nhảy xổ vào cắn chặt lấy bàn tay nào của kẻ gian phi đang cầm lấy món đồ trên tay mình.
                Khi chúng tôi đã được một vị cao tăng đưa đến chiêm ngưỡng thì có thể cầm lên viên bảo thạch đó xem xét chẳng có việc gì xảy ra, tuy nhiên nếu mang ra khỏi khu vực này, kể cả người cao tăng có nhiệm vụ cai quản cũng vậy, tức thì y như có chuyện.
                Những con thần miêu này có bộ lông đen mượt và đôi mắt xanh biếc. Nhưng khi có ánh đèn rọi vào thì đôi mắt xanh biếc đó sẽ trở thành ra màu đỏ như máu. Nói chung về các loại mèo của Tây Tạng khác xa với các giống mèo của các nước khác. Giống mèo Tây Tạng toàn màu đen mun.
                (Gần đây các nhà khảo cổ phát hiện về một bộ xương mèo cổ ở Cyprus, các nhà khoa học cho rằng con người đã thuần hóa được loài mèo cách đây 5.000 năm so với người ta thường nghĩ trước đây.
                Nằm trong một cái mộ không sâu, nó được chôn cách một người khoảng 30 tuổi, chừng 40 cm, con mèo tám tháng tuổi này có thể là một thành viên trong một gia đình danh giá thuộc thời kỳ đồ đá.
                Cho đến nay người ta cho rằng loài mèo đầu tiên được con người thuần hóa là ở Ai Cập cổ đại, vào khoảng năm 1.900 trước Công nguyên.
                Phần mộ của người được chôn có chứa nhiều đồ vật giá trị và nhiều đồ có thể là dùng để dâng tiến như là hoàng thổ, đá quý, đồ đánh lửa Không có dấu hiệu con vật này bị giết để làm thức ăn vì xác và xương của nó nằm rải rác quanh đó.
                Có thể con mèo này bị giết để chôn cùng lúc với chủ nhân của nó đã qua đời. Các nhà khoa học cũng phát hiện ra ở Neolithic, những vùng ở Trung Đông, Turkey và Do Thái cũng có mộ của người chết chôn chung với các loại đá, các tượng mèo nhỏ bằng đất sét.
                Từ đó các nhà khoa học cho rằng loài mèo có một địa vị đặc biệt với người cổ đại, mặc dù cho đến bây giờ chưa có bằng chứng nào chứng tỏ rằng chúng được thuần chủng và là vật kiểng vào thời đó. Có thể loài mèo được thuần hóa từ một loài mèo hoang vào giai đoạn rất sớm "như loài thần miêu Tây Tạng.
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • #53
                  THẦN GIAO CÁCH CẢM
                  Chuyện con thần miêu giữ kho tàng lưu trữ các châu báu vô giá của xứ sở Tây Tạng được xem là an toàn nhất. Vì vậy mà các chú thần miêu này được chăm nom săn sóc đặc biệt như cung cách đối xử với các bậc "Đại Tăng" về chế độ ăn uống.
                  Các thần miêu này được tuyển chọn cẩn thận, nhất là với điều kiện khỏe mạnh, hình dạng trông có vẻ bề thế, oai phong lẫm liệt như chúa sơn lâm, được giao cho các chuyên viên dạy dỗ các giống thú vật rèn luyện và giao sứ mệnh canh gác kho tàng báu vật vô giá của xứ sở Tây Tạng này.
                  Tuy nhiên, sau khi được hoàn tất một khóa huấn luyện, chúng được chuyển sang nhà khảo sát lần cuối về đức tính lanh lẹ, sự tài ba và lòng dũng cảm để được chuyển sang một nơi huấn luyện khác chuyên về "thần giao cách cảm".
                  (Gần đây, các nhà khoa học nêu ra sự cần thiết của những cuộc thí nghiệm để đo lường về "Thần Giao Cách Cảm" giữa con người và bất cứ loài động vật nào. Đặc biệt đối với loại mèo là một giống vật có đôi mắt chẳng khác nào như hai luồng điện cực mạnh, chúng thường dùng làm vũ khí bắt chuột.
                  Các nhà nghiên cứu biểu lộ sự tiếc rẻ là công cuộc tìm hiểu cặn kẽ này đã không được tiếp tục để có thể chứng minh, hay bác bỏ nếu xét là không thể có được về mối liên hệ về thần giao cách cảm của loài động vật. Có điều là trong mỗi người chúng ta đều có thể tự mình thử nghiệm lấy để biết " liệu có thực như vậy hay không).
                  Để chứng minh khả năng thần giao cách cảm giữa con người và động vật một số chuyên gia đã khuyên ta nên thử tiến hành một cuộc thí nghiệm như sau:
                  Nếu như trong gia đình bạn có một Con Mèo, bạn cần phải tập trung tinh thần trong vòng 15 đến 20 phút, cố gắng hình dung về việc có một con chó nào đâu đó đến ngồi bất động ở một góc phòng. Khi thử nghiệm nhớ là phải giữ chung quanh mình thật yên tĩnh, tránh làm cho sự tập trung tư tưởng của ta bị xao lãng bởi thiếu sự chú tâm.
                  Con mèo trước đó vẫn ngồi bình thản tại chỗ của mình, sẽ bắt đầu cảm thấy sự xuất hiện của một "con chó ảo" (do chính bạn tưởng tượng) và nó bắt đầu tỏ ra dấu hiệu không mấy hài lòng và lo sợ (chú chó ảo tưởng kia).
                  Thử nghiệm vừa nói thật đơn giản và bất cứ người nào cũng có thể tự làm để kiểm tra về sự thật "có hay không thần giao cách cảm giữa con người và động vật?" Tuy nhiên, cũng đôi khi có người không thể thực hiện theo như ý muốn, bởi khả năng trên còn phải phụ thuộc về nhiều yếu tố khác nhau nữa.
                  Những năm đầu của thế kỷ 21 này, các nhà khoa học đã tìm ra được các loài vật có Thần Giao Cách Cảm. Chuyện khó tin song đó là sự thật. Một bản tin được đăng tải trong mục Khoa Học & Đời Sống nói về vấn đề này, mà từ ngàn xưa người Tây Tạng đã biết sử dụng nơi các loại mèo và được gọi đó là Thần Miêu canh gác kho tàng quý báu của họ tại đất Phật Sống này.
                  Câu chuyện chú chó đã chạy bộ đến những 4.000 cây số dọc theo nước Mỹ suốt 8 tháng trường, khiến người chủ chẳng biết nó đã bị lạc nơi nào. Sau một thời gian tìm kiếm, người chủ đã phải bỏ rơi nó khi chuyển đến một nơi ở mới.
                  Nhưng sau đó không bao lâu ông ta lại tìm ra được chú chó thích ngao du này tại một nơi thật xa xăm nhờ nó đã dùng "thần giao cách cảm" báo tin cho chủ biết nó đang chờ ông ta tại nơi nào đó, hãy đến mang nó trở về.
                  Có nhiều trường hợp lạ lùng khác nữa, như chuyện chú chó Bonica, theo người chủ nuôi nó thuật lại rằng: Khi con chó bị lâm trọng bệnh họ đưa nó đến bệnh viện của một bác sĩ thú y để khám bệnh. Trong thời gian nằm ở phòng bác sĩ thú y, chú cho này được chạy chữa đúng mức song nó cũng không thể nào qua khỏi.
                  Nó đã chết. Đúng vào lúc 12 giờ kém 15 hôm ấy nó qua đời. Cũng vào thời gian này người chủ nó, một phụ nữ, đang ở nhà bỗng nghe có tiếng rên rỉ ai oán của con Bonica văng vẳng bên tai mình. Tiếng rên rỉ của con Bonica kéo dài một thời gian đủ để bà ngạc nhiên vì biết chắc chắn là đôi tai mình không thể bị nghe lầm lẫn được. Nó, chính là tiếng của con Boniaca, không thể nào sai được!
                  Thật ra, nhân loại từ lâu đã chú ý đến quan hệ thần giao cách cảm giữa con người và động vật. Ví như những cuộc thí nghiệm khá thú vị từng được ông V.L.Durov, một chuyên gia người Nga tiến hành với chú chó Mars của chính ông ta nuôi nấng nó.
                  Nguyên là, một vị giáo sư tại trường Đại học tổng hợp Mạc Tư Khoa, ông G.A. Kosevnikov đã giao cho Durov nhiệm vụ phải sai khiến sao cho con chó làm được những hành động khá phức tạp như: từ phòng khách đi ra phòng bên ngoài, đến chiếc bàn nhỏ, nơi có đặt điện thoại đồng thời dùng răng lấy cuốn sổ danh bạ mang trở lại phòng khách theo đúng như lệnh truyền.
                  Sau khi nhận nhiệm vụ, Durov dùng tay nắm lấy mõm con chó, chăm chú nhìn vào mắt nó trong vòng 30 giây và sau đó trong vòng 30 giây, ông ta thả con Mars ra, nó chạy ngay ra phòng bên ngoài.
                  Tại đây, con Mars chạy khắp các xó của căn phòng đánh hơi rồi cuối cùng nó tiến sát tới chiếc bàn nhỏ, nơi có đặt máy điện thoại, dùng hai chân sau đứng lên, mõm nó ngoạm lấy quyển danh bạ mang trở về phòng khách.
                  Khoa thần giao cách cảm không phải chỉ huấn luyện được loài chó mà có thể với tất cả các loài động vật nào, miễn rằng con vật đó có chút thông minh là được.
                  Một trường hợp thú vị khác về chuyện nhà văn cũng là nhà tự nhiên học, ông M.Zxerev đã thuật lại một trường hợp kỳ lạ như sau: Vào năm 1966, một ngư dân mang đi bán một con lợn con mới ra đời tròn một tháng cho một khách hàng.
                  Người chủ mới vừa mua này nhét nó vào trong một bao tải, bỏ xuống bên dưới lòng thuyền đưa nó về nhà. Căn nhà của ông nằm ở tận bên kia sông, cách chỗ ở của người ngư dân kia khoảng 4 cây số. Sau khi cẩn thận thả chú lợn con này vào trong chuồng, nhìn nó trong giây lát, đoạn ông ta leo lên giường ngủ thẳng một giấc ngon lành.
                  Sáng hôm sau, ông ra chuồng xem thử chú lợn con này để thăm dò sức khỏe nó, nhưng ông không khỏi ngạc nhiên thấy cái chuồng mà ông đã bỏ nó vào đêm rồi hiện chỉ còn là cái chuồng trống trơn, chẳng thấy bóng vía chú lợn bé bỏng kia nữa! Thì ra, trong suốt đêm hôm đó con lợn bé bỏng này một mình bơi qua sông và chạy thẳng về nhà người chủ cũ, nơi nó ra chào đời một tháng trước đây.
                  Trước sự kiện lạ lùng này, ông ta tiến hành một cuộc thử nghiệm đặc biệt là chở nó đến một nơi thật xa lạ, sau đó tháo bỏ nó ra khỏi bao tải, cẩn thận bỏ vào trong chuồng. Đợi sáng hôm sau, ra lại chuồng xem thử tình hình của nó có trùng hợp như đêm rồi không?
                  Thật lạ lùng thay, người ta không nhìn thấy tăm dạng nó ở đâu nữa. Có nghĩa là nó trốn thoát trong lúc mọi người đang an giấc. Nhưng, nó chẳng đi đâu lạc cả, mà trở về lại nơi chôn nhau cắt rốn của nó, tức nơi nó đã được sinh hạ.
                  Cũng vẫn câu chuyện về Thần Giao Cách Cảm mà nhà văn Mỹ có tên Dennis Barden mô tả trong một quyển sách của mình nói về những Nhà Thần Giao Cách Cảm Động Vật như sau: Một phụ nữ đứng tuổi tên là Flinn Rachel đi dạo dọc bờ biển rủi ro bị trượt chân ngã từ một sườn dốc cao và bị thương nặng.
                  Một lúc sau, bên cạnh người phụ nữ đang nằm đau đớn và tuyệt vọng này xuất hiện một con chim hải âu, con hải âu mà thường nhật bà Flinn hay lấy bánh mì cho nó ăn. Vào lối một phút sau khi đứng nhìn người bạn người tốt bụng này, con hải âu tung cánh lên cao và bay thẳng đến nhà của Rachel, đậu lên bệ cửa sổ và cố ra sức dùng mỏ mổ mạnh vào cửa kính.
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • #54
                    Hành vi bất thường của chú chim này đã gây được sự chú ý cho người nhà bà Flinn. Người phụ nữ trong nhà này lờ mờ hiểu rằng con hải âu muốn dẫn bà đi đến một nơi nào đó, nên không còn chần chờ nữa, bà ta mặc vội áo quần chạy theo hải âu đến thẳng nơi xảy ra tai nạn."
                    Trong khả năng thần giao cách cảm của động vật, Mèo là động vật thường được nhắc tới nhiều nhất. Trong giới nghiên cứu mãi đến ngày nay vẫn còn nhắc tới một trường hợp điển hình.
                    Đó là câu chuyện khi một Bộ Trưởng Thương Mại Pháp, Moris Kokanovski bị chết trong một tai nạn máy bay vào đầu tháng 9 năm 1928, thì cũng đúng là lúc con mèo yêu quý của ông tại Paris nhằm thời điểm ông bị nạn nổi lên những cơn đau đớn vật vã, co giật rồi tru lên một hồi dài tợ như tiếng khóc than trước khi tắt thở.
                    Sau đó người ta đem con mèo này đến nhà thương thú y nhờ giải phẫu để tìm ra nguyên cớ đã đưa đến cái chết tức tưởi cho nó. Nhưng sau cuộc phẫu thuật vị bác sĩ thú y tuyên bố chẳng thấy gì cả, chú mèo xấu số này đã chết một cách bình thường. Có nghĩa là con mèo không bị nhiễm độc, không bị mắc phải bất cứ bệnh trạng gì có thể gây nên cái chết tức tưởi cho nó cả.
                    Nhưng, sau khi được tin chủ nó, vị bộ trưởng Thương Mại Pháp, bị chết bởi tai nạn máy bay cũng trùng hợp vào giờ giấc nó lăn lộn trên nền nhà trước thở hơi cuối cùng. Lúc bấy giờ mọi người xác nhận là nó đã chết theo cái chết của chủ nó.
                    Có những cuộc thử nghiệm về thần giao cách cảm cấp thấp, như con ốc sên chẳng hạn. Con vật bé bỏng này cũng có thể tự nó áp dụng khả năng thần giao cách cảm. Sau khi những con ốc sên xếp thành một chuỗi sao cho chúng có thể chạm vào nhau, người thử nghiệm tác động một dòng điện lên một trong các con sên xếp hàng này.
                    Ngay khi đó, ông ta nhìn thấy con sên cuối cùng cũng có phản ứng tương tự như chính nó đã bị điện giật. Tuy nhiên điều thú vị nhất chính ở chỗ, nếu như các con ốc sên này sau đó được tách ra và mang sang những phòng khác nhau, phản ứng tương tự của một cá thể khi một con khác bị kích thích bằng điện vẫn được duy trì như trước.
                    Cuộc thí nghiệm này tiến hành bởi Gugo Zaimann. Ông bảo rằng đem các loài vật được xem là chậm chạp nhất làm một công việc như người chạy tin hỏa tốc nhanh nhất, không gì hơn là truyền cho nó bằng phương pháp "thần giao cách cảm".
                    Về sau các nhà nghiên cứu như Allex và Beno của Pháp thực hiện như ông Gugo Zaimann đã làm. Họ lựa ra hai nhóm ốc sên, mỗi nhóm đều có số lượng bằng với số chữ cái có trong bảng chữ cái của Pháp có nghĩa với mỗi một chữ cái sẽ có một cặp ốc sên tương tự. Mỗi cặp này được cho tiếp xúc với nhau, nhờ đó mà chúng có khả năng sao chép nhau về mọi phản ứng.
                    Sau đó hai nhóm này được tách riêng ra, một nhóm ở lại Paris còn nhóm kia thì được chuyển sang bên kia bờ đại dương tức Nữu Ước. Khi cuộc thử nghiệm bắt đầu, người ta chọn ra một con ốc sên ở Paris tương ứng với một chữ cái nào đó và kích thích vào nó một dòng điện.
                    Theo tác giả công trình con ốc sên thứ hai tại Nữu Ước, mang chữ cái tương tự, cũng có phản ứng như bị điện giật. Bằng cách này, các nhà nghiên cứu có thể gửi các bức điện cho nhau bằng cách chọn ra những con ốc sên có chữ cái như nhau, từ các chữ cái có thể xác định được một câu hoàn chỉnh.
                    Ngày dì tôi qua đời, chú Sĩ Cát đã nghĩ ngay đến tôi và biết rằng tôi đang bị một nỗi buồn vô duyên cớ hành hạ. Và quả đúng như vậy, lần gặp gỡ sau cùng với tôi chú đã nói ngay về vấn đề thần giao cách cảm này cho tôi biết:
                    "Ta đã nhìn thấy chú qua ý tưởng. Ta biết một cách thật rõ ràng là lúc bấy giờ chú đang ngồi trên một mỏm đá ven sườn núi. Mặt mày chú ủ rũ. Trên tay chú cầm một con bướm hoa. Và chú đã thì thầm với con bướm xinh xắn ấy với lời lẽ đầy nỗi thống thiết. Rằng là:
                    "Bướm hoa ơi! Sao hôm nay lòng ta tràn ngập cả nỗi buồn man mác như thế! Ta nhớ dì ta. Ta đang hình dung bà đang âu yếm nhìn ta. Bướm hoa ơi! Mày có những phút giây tràn ngập nỗi buồn thế này như tao không? Mày có người dì nào để hình dung tưởng nhớ như tao không? Hở bướm!"
                    Tôi giật mình nhìn chú sửng sốt.
                    - Đừng ngạc nhiên gì cả. Đó là "thần giao cách cảm".
                    Hôm ấy, thằng Đề Mộng đòi chúng tôi theo nó ra phố dạo xem các cửa hàng. Thằng Yulgie cho hắn là một kẻ điên rồ :
                    - Ra phố giờ này? Cửa hàng đều đóng cả rồi biết không?
                    - Chúng bay cãi nhau cái gì? Im ngay. Giọng một ông giám thị đâu đó quát lên.
                    Chỉ trong chốc lát, ông giám thị này từ trong bóng tối lò dò đi ra, tiến thẳng đến thằng Đề Mộng đang đứng quạt cho một đấm ngã lăn quay ra giữa sàn. Chúng tôi quá sợ hãi, đứng trân người ra. Thì ra đó là một ông giám thị khổng lồ!
                    Ông ta có một thân hình đẫy đà cao gần xấp hai lần chúng tôi. Trước mặt ông, tôi có cảm tưởng như mình đang đứng trước một quả núi. Mắt ông trợn trừng hệt như hai cái ốc bươu trắng dã, quát tháo lên ầm ĩ bằng những lời dọa nạt:
                    - Tụi bây, đứa nào còn ngo ngoe là tao vứt cho con thần miêu kia nó xé xác ra. Nghe không?
                    Nói xong mặt ông hằm hằm cau lại, đưa mắt nhìn chúng tôi lần cuối rồi biến mất dạng vào con đường nhỏ phía trước.
                    Thế là chúng tôi không bảo nhau cúi xuống cởi bỏ cả dép đi chân không, se sẽ rút lui ra khỏi nơi đang đứng, đến độ không để gây ra một tiếng động nhỏ nào. Bên ngoài, tiếng gầm thét của gió bão đổ xuống tới tấp.
                    Chúng tôi đứng bên khung cửa sổ kính nhìn ra ngoài trời. Xa xa là những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa trông tựa như cánh buồm trắng phất phơ theo gió. Lưng trời màn mây đen bao phủ. Gió vẫn ào ạt thổi đến mang theo cả cát sỏi vung vãi vào các bờ tường và các cửa kính tạo nên những âm thanh đến đinh tai nhức óc.
                    Những cơn lốc bụi cuồn cuộn đổ lên con đường Thánh Lộ dẫn vào thành phố. Tiếng gió gào thét nghe như tiếng gắt gỏng của bầy quỷ sứ đang điên cuồng phát ra những điệu nhạc thác loạn khắp cả núi rừng. Những ánh chớp lóe lên rực sáng cả những lùm cây thấp lè tè ven lộ trông hệt như những bóng ma đang áng ngữ ven đường.
                    Chúng tôi đang dí mũi nhìn xem cảnh tượng bên ngoài, đếm những lằn chớp ngoằn ngoèo, những mảnh sao đổi ngôi trên nền trời đêm, tuy đã từng nhìn thấy, song cũng không khỏi khiếp hãi khi mỗi lần nghe tiếng giông kéo đến từng chuỗi dài gần như bất tận, tiếp theo đó là tiếng sét giáng xuống như trời long đất lở, cơ hồ làm rung chuyển cả ngôi Thiền Viện, nơi chúng tôi đang ở.
                    Đột nhiên, một sự kiện khá lạ lùng xảy ra trước mắt chúng tôi. Đó là một bầy thú xanh lè đang kéo nhau chạy trên con đường Thánh Lộ. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau và tiếp tục theo dõi từng bước đi của chúng. Phải chăng đó là một đàn bò ma? Nếu không thì làm sao tự nó phát ra ánh sáng ma quái như vậy?
                    (Gần đây trên một bản tin nói về việc tạo sinh heo và gà phát sáng. Các nhà khoa học cho biết họ vừa cải thiện được về kỹ thuật chuyển gene ở động vật. Các nhà khoa học Anh đã tạo ra heo và gà phát sáng trong bóng tối. Sở dĩ họ đã tạo ra được nhờ biết bổ sung gene phát sáng của sứa biển.
                    Hiện nay việc chuyển đổi gene động vật vẫn rất tốn kém nhưng cũng chỉ một trong 70 phôi thai được tiêm vật liệu di truyền là có thể tạo ra một động vật chuyển đổi gene. Kỹ thuật được cải tiến của các nhà khoa học tại viện Roslin (Tô Cách Lan,Anh Quốc) vay mượn liệu pháp gene ở con người.
                    Trong một cuộc thử nghiệm mới đây, phương pháp mới mẻ này đã tạo ra được 32 con heo phát sáng từ 42 phôi thai. Theo tiến sĩ Bruce Whitelaw và tiến sĩ Helen Sang thì tỷ lệ thành công 90% này có thể tạo ra một cuộc cách mạng trong việc ứng dụng chuyển đổi gene ở vật nuôi.
                    Heo và gà phát sáng được tạo ra ở Roslin bằng cách sử dụng lentivirus để mang gene protein huỳnh quang xanh (GFP) một gene được tìm thấy ở sứa. Có thể dò thấy cả ở gà và heo mang gene này trong ánh sáng bình thường do chúng có màu hơi xanh lục. Tuy nhiên, khi nhìn chúng trong ánh sáng xanh, tất cả mọi khu vực không có lông của chúng đều một loạt phát sáng như vậy cùng một lúc.
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • #55
                      Chân và đầu gà phát sáng trong khi tai mũi, tinh hoàn và chân heo cũng cùng phát sáng như vậy. Một công trình nghiên cứu này đang tiếp tục tiến hành.Tiến sĩ Sang hiện đã sẵn sàng thử nghiệm tạo ra những con gà mái mang nhiều protein dược phẩm trong trứng của chúng.)
                      Minh Sư Minh Dà Đông Đạt nhắc nhở tôi không được xao nhãng khi bắt đầu áp dụng thần giao cách cảm:
                      - Đó là điều kiện duy nhất để thu đạt được kết quả theo như ý muốn. Chú nên nhớ rằng: "Theo các nhà tư tưởng Ấn Độ nói về đại thể thì Vũ Trụ này được cấu tạo bởi hai yếu tố căn bản. Đó là Akaska một hình thái nguyên thủy hay nói đúng hơn là cội nguồn của chất liệu phổ biến. Thế có nghĩa tất cả mọi vật thể của Vũ Trụ đều do sản phẩm từ Akaska hình thành.
                      Trước lời giảng giải này, thú thật tôi cảm thấy chưa được thấu đáo được cặn kẽ, nên nêu ra thắc mắc:
                      - Thưa Minh sư, nói như vậy chẳng lẽ cả Mặt Trời lẫn Mặt Trăng đều do Akaska cấu tạo cả hay sao?
                      - Đúng vậy, chẳng những chỉ có hai vầng nhật nguyệt không thôi mà luôn cả vòm trời này, trong đó có cả các vì tinh tú, dù là những vì sao giăng mắc khắp cả vòm trời cũng đều từ Akaska hình thành cả. Những cái gì hữu hình như con người chúng ta, các động, thực vật, các khoáng chất từ thể đặc đến thể lỏng, về hơi khí dưới mọi hình thức và các dạng của nó.
                      Có nghĩa ta muốn nói đến vô cơ hay hữu cơ, vô sinh hay hữu sinh đều có cùng một quy luật của Tạo Hóa. Akaska là tất cả hay tất cả đều từ Akaska mà ra. Nó hiện hữu và tràn ngập khắp bầu trời thế giới, bao trùm cả vũ trụ bao la, ta nhìn không hết, biết không trọn.
                      Nó vô cùng mà ta chắc chắn với bộ óc nhỏ bé của con người không bao giờ có thể khám phá ra được.
                      - Thế, thưa Minh sư, phải chăng Akaska là mối đầu của sự chuyển hóa ra Vũ trụ?
                      - Hả?! Thầy tôi ngạc nhiên hỏi lại. Chú biết? Ai bảo chú thế?
                      - Chẳng biết vì sao con hiểu nữa. Có thể là sự tình cờ từ trong tri thức đưa ra.
                      - Không phải chỉ mỗi một mình Akaska sinh ra Vũ trụ, mà là như chú vừa nói nó chỉ là mối đầu của chuyển hóa, mà cần phải có yếu tố thứ hai, đó chính là Prana. Nó không chỉ có chuyển động cơ học hay ở các dòng điện từ hoặc trường hấp dẫn như chúng ta nghĩ mà ngay cả trong các cơ bắp hoạt động thần kinh nữa.
                      Nói tóm lại tất cả tinh thần hay vật lý đều có chung một bản thể. Điều này có dịp ta sẽ cùng chú bàn thảo đến những yếu tố quan trọng khác. Kinh Vệ Đà đã ghi: "Cái gì nhờ biết nó, ta biết tất cả". Ta biết cái "nhất dĩ quán tri" đã khái quát hóa vũ trụ trong cái "Tồn Tại Tuyệt Đối Duy Nhất".
                      Chính nhờ lý thuyết này mà các nhà tư tưởng Yoga lấy đó điều khiển cái Prana có nghĩa điều khiển mọi thứ trong Vũ trụ này. Nếu chú biết sử dụng cái "nhất dĩ quán tri" ắt chú sẽ có một sức mạnh phi thường, sẽ điều khiển được mọi vật hiện hữu ngay trước mắt chú, mặc dù chú chỉ là một hạt cát bé nhỏ đối với cái vô cùng của vũ trụ.

                      Đến đây Minh Sư im lặng như để suy nghĩ điều gì, sau đó người nói tiếp:
                      - Ta chỉ là một con sóng bé nhỏ, yếu ớt ở giữa lòng đại dương mênh mông của Prana vũ trụ. Những người luyện Yoga cũng chẳng khác nào luyện thần giao cách cảm mà chế ngự được ngay trong bản thân, được xem là toàn hảo, toàn năng và toàn trí.
                      Những nhà thôi miên, các nhà thông thiên học có thể dùng tư tưởng và ý chí mình điều động được bất cứ người nào dù ờ cách xa ngàn vạn dặm. Chú phải thực hiện điều này, đây là niềm hoài vọng chẳng những của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tối Cao mà là của toàn thể nhân dân xứ sở Tây Tạng.
                      Tôi bất giác bàng hoàng trước sự tiết lộ đột ngột của Minh Sư, định lên tiếng thoái thác vì tự cảm thấy mình không thể nào thực hiện được điều này, nhưng thầy tôi chặn ngay lại:
                      - Không. Chú đừng thoái thác. Đây là một chỉ thị. Chú phải học tập và phải thực hiện cho kỳ được. Tuy nhiên ngay bây giờ thì chú chưa vội phải ưu tư, hãy bình tĩnh. Việc gì cũng phải đi từ bước một.
                      Đến đây Minh sư nhìn trân trối vào mặt tôi trong chốc lát sau đó người thuật lại về kiếp trước của tôi:
                      - Chú có một tiền kiếp được Đức Tối Cao Đạt Lai Lạt Ma xác nhận. Chú có tin có tiền kiếp không?
                      - Tôi gật đầu:
                      - Điều này thì con tin!
                      - Vậy thì là chú đã nhận lấy nhiệm vụ cao cả do Đức Tối Cao Đạt Lai Lạt Ma giao phó. Tiền kiếp có thật. Ta tuyệt đối tin tưởng như chú đã tin tưởng. Theo sách Táng Thư của Quách Phác, có câu nhận định, nguyên văn như sau:
                      "Khí cảm nhi ứng, quỉ phúc cập nhân", hàm ý bảo rằng những vật đồng khí đồng chất với nhau có quan hệ cảm ứng lẫn nhau. Từ "quỉ" ở đây, sách Táng Thư muốn chỉ về
                      Về các đấng sinh thành, tổ tiên sau khi đã quá cố. Theo cổ tự cũng có nghĩa là "qui" tức về, như ta thường bảo về nơi Cửa Phật, với Non Bồng Nước Nhược hay nói cách khác là về với quê thật của mình. Theo thuyết "Phong Thủy" thì chết là về với đất, với "Đại Mẫu" để sửa soạn cho kiếp tái sinh.
                      Bên Tây Tạng người ta tôn kính các vị Lạt Ma vì tin tưởng rằng đây là người đã được những vị Lạt Ma qua đời báo mộng cho biết ai sẽ là hậu thân của mình.
                      Câu chuyện luân hồi trước kia chỉ có người Đông phương tin tưởng, nhưng ngày nay thì trên thế giới kể cả về lĩnh vực khoa học cũng không thể bác bỏ hoặc cho đó là huyền hoặc, mê tín nữa.
                      Ngay ở thế kỷ 21 này, trường hợp một người phụ nữ giải phẫu đầu cho biết, tuy bị nằm thiêm thiếp trên bàn mổ, nhưng trong trạng thái tâm linh, nhận thấy khi phần trên chiếc sọ của mình mở ra, đã nhìn thấy một người nào đó từ bên trong đầu mình nhảy ra.
                      Bà thuật lại như vậy với các Bác sĩ sau khi tỉnh lại. Vậy thì con người nào đó từ trong đầu của người đàn bà này nhảy ra bên ngoài khi phần trên chiếc sọ được mở ra đó phải chăng là linh hồn?! Câu chuyện tiền kiếp cũng xảy ra cũng tại Tây phương gần đây về một cậu bé thuật lại như sau: Cậu bé tên James 6 tuổi, rất say mê máy bay.
                      Nhưng khi cậu bắt đầu nói về chiếc hàng không mẫu hạm mà cậu đã phục vụ trên đó trong trận chiến với Nhật Bản cùng những người bạn trong thủy thủ đoàn, hiện là những ông già gần đất xa trời, đã khiến cho cha mẹ cậu sửng sốt đến cực độ.
                      Gần 60 năm trước, một phi công chiến đấu Hải quân 21 tuổi bị pháo binh Nhật Bản bắn rơi khi đang thi hành nhiệm vụ ngang qua Thái Bình Dương. Có lẽ tên anh bị rơi vào quên lãng nếu không vì cậu, James Leininger, vừa lên 6 tuổi nói lên sự kiện này.
                      Một số khá nhiều người kể cả những người từng quen biết viên phi công chiến đấu, đều nghĩ rằng James chính là viên phi công kia, nay đã đầu thai lại.
                      Cha mẹ của James là Andrea và Bruce cho rằng họ có lẽ là những người ít mong đợi một tình huống như vậy, nhất là xảy ra trong cuộc sống của mình. Họ, ông bà Andrea và Bruce thuộc về giới có trình độ học vấn cao, không muốn tin tưởng những chuyện có tính phản khoa học như vậy.
                      Nhưng cuối cùng họ bắt đầu tin đó là sự thật, có thể con trai của họ đã từng có một kiếp trước nào đó. Theo lời cha mẹ cậu James kể lại, ngay từ tuổi bé thơ James đã không chơi thứ gì khác ngoài máy bay. Khi mới lên 2 tuổi, những chiếc máy bay chơi mà cậu bé yêu thích lại đem đến cho cậu những cơn ác mộng liên tục.
                      "Tôi đánh thức nó dậy và nó kêu thét lên." ông Andrea nói với phóng viên báo chí như vậy. Khi hỏi cậu bé James đã mơ thấy gì thì được ông cho biết nó đã bảo máy bay của nó đang thi hành nhiệm vụ phát nổ, lúc bấy giờ nó đang tìm cách thoát ra.
                      James kể lại cho cha mẹ cậu ta biết là mình đã lái chiếc Corsair và nó đã nói: Trước kia lúc nào người ta cũng dùng cái lóp bẹp. Quả đúng như vậy các sử gia và phi công đều đồng ý rằng vỏ bánh xe máy bay thường chịu áp lực rất lớn khi hạ cánh.
                      Andrea còn kể cả tên của chiếc hàng không mẫu hạm nơi mà chiếc phi cơ của cậu cất cánh Natoma cùng tên của viên phi công bạn Jack Larson cùng bay chuyến bay định mệnh này.
                      Sau khi nghe con nói về tên của chiếc hàng không mẫu hạm và tên của người phi công bạn nó trong cùng chuyến bay, Bruce phát giác ra rằng Natoma lẫn Jack Larson đều có thật. Riêng Larson bạn của đứa con mình hiện còn sống tại Arkansas. Ôi! Chúa con! Bruce thảng thốt kêu lên Thật họa là có mà đi lộn ngược đầu xuống đất cũng không thể nào tin được.
                      Kể từ đó, Bruce bị ám ảnh, ông ta sục sạo Internet, rà soát các hồ sơ quân sự và hỏi thăm những người đã từng phục vụ trên hàng không mẫu hạm Natoma Bay. Anh cho biết James kể là cậu đã bị bắn tại Iowa Jima. Từ đây Bruce tìm ra sự thật tên người phi công bị tử trận là James M. Huston Jr. Bruce cũng nói James cho biết là chiếc máy bay của nó đã bị bắn một phát trúng ngay động cơ.
                      Bruce cho biết giờ thì ông tin rằng kiếp trước của con trai mình chính là James M. Huston Jr. "Anh ấy (tức đứa con mình) đã quay lại vì chưa hoàn thành một việc gì đó.")
                      Minh sư Minh Dà Đông Đạt khẽ gật đầu nói vừa đủ cho tôi nghe:
                      - Lỗ San! Chú đã có một tiền kiếp như những vị Đạt La Lạt Ma Tối Cao từ trước. Chú phải làm tròn trách vụ mà trước kia chú còn dang dở.
                      Trong lúc đó bầu trời bỗng dưng bị mây đen bao phủ. Nhờ các ánh chớp lóe lên nên có thể trông thấy các bụi rậm ven đường chẳng khác nào hình ảnh của những hồn ma hiện về từ lòng địa ngục. Tôi sực nhớ đến một đêm nào đó một ngôi sao chổi có cái đuôi dài lê thê tạo thành một vệt sáng hằn lên nền trời đen tối, đồng thời những thanh kiếm lửa xuất hiện giữa màn trời đêm.
                      Ánh chớp thi nhau rực sáng lên và cũng thi nhau tắt ngấm, mọi người nhìn thấy đều có cảm tưởng đó là những hình ảnh ma quái, đầu bỏ tóc xõa đang lang thang bước đi miệng đọc vang lên những lời sám hối. Cũng có lúc người ta còn trông thấy hình ảnh ấy y như những chiếc quan tài với hàng đống xác chết nằm la liệt khắp cả các lối đi.
                      Nhưng rồi các bóng đen mờ ảo đó lại biến đi thay vì là những hình ảnh của hằng hà sa số các bóng đen chen chúc nhau phía dưới chân đồi, trên tay họ cầm những bó đuốc, và đọc lên những lời kinh sám hối. Lúc bấy giờ tiếng gió rền rĩ đổ đến, nghe như tiếng kêu khóc của những oan hồn uổng tử.
                      Chúng tôi dán mũi vào cửa kính, phóng mắt nhìn ra bên ngoài hình ảnh các bóng đen vẫn tiếp tục chập chờn lướt ngang qua trước mắt, bỗng thằng Đề Mộng kêu lên thất thanh:
                      - Kìa, chúng đang tiến về phía chúng ta đang đứng. Chạy nhanh lên kẻo chết cả bọn bây giờ.
                      Hắn vừa nói vừa bỏ chạy vào bên trong, bất giác bị bàn tay ai nắm lấy cổ hắn nhấc bổng lên cao đoạn ném xuống trên mặt sàn gỗ. Chúng tôi quay lại nhìn gặp ngay ông Giám thị vừa rồi đã giáng cho hắn một đòn trí mạng, khiến hắn lăn lộn rên lên ư ử:
                      - Tôi làm gì mà ông nhẫn tâm đánh đập tôi mãi như vậy?!
                      - Mày liệu mà giữ lấy thân, còn làm ồn ào tao sẽ bỏ xuống hầm để xem mấy con rắn hoa bên dưới thử gan dạ mày đến bậc nào.
                      Ông ta vừa nói vừa bỏ đi vào bên trong. Chúng tôi nhìn theo lão Giám thị khổng lồ này với ánh mắt bất bình, nhưng chỉ đành thở dài cúi xuống đỡ hắn lên an ủi:
                      - Cũng tại cái miệng của mày.
                      Tuy hắn bị đau đến điếng cả người như vậy song vẫn cố gân cổ lên cãi lại:
                      - Tao có làm sao đâu ?
                      - Nhưng mày la lên tru tréo làm mất cả sự thanh tịnh nơi thờ phượng, không phải lỗi à?
                      Thằng Đề Mộng không đáp lại lời tôi nói, lần này hắn thốt ra lời nguyền rủa lão Giám thị khổng lồ vừa quật ngã hắn trên mặt sàn:
                      - Đồ ác ôn! Tao muốn "bỏ ngải" cho hắn chết đi cho rồi đời.
                      Đoạn quay lại phía chúng tôi lên tiếng:
                      - Tưởng tụi bây cũng nên "bỏ ngải" cái lão có bảng mặt "hà mô" ấy cho rảnh của nợ Chúng ta chịu tuân phục những kẻ hiền hòa chứ cái bản mặt tợ như con cóc chết như lão thì chuyện gì phải cả nể!
                      Hắn hích mặt lên nhìn tôi nói sang sảng:
                      - Tao nghĩ Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt của mày có thể bỏ ngải được hắn đấy, Lỗ San à! Mày làm sao thưa với thầy Lạt Ma mày "thư" cho hắn hóa ra con heo được không?
                      Nghe hắn nói vậy, cả bọn chúng tôi đều phá lên cười, nhưng vội ngưng ngay lại vì sợ lão Giám thị vẫn còn đâu đó nghe được quay lại thì chỉ còn có nước nhận lấy một trận đòn nên thân. Quy luật của Cửa Thiền quá nghiêm khắc, chỉ cần chú tiểu nào làm kinh động mất sự thanh tịnh thì thế nào cũng lãnh bản án như thằng Đề Mộng cả!
                      - Mày bảo "thư" ai? Tôi hỏi lại.
                      - Thì còn ai nữa? "Thư " cái thằng Giám thị ấy chứ còn ai vào đó nữa! Nhưng mày nhớ bảo là thầy mày phải thư làm sao cho hắn hóa ra anh chàng Trư Bát Giới mới được!
                      Rồi hắn hạ thấp giọng nói làm cho ra vẻ quan trọng:
                      - Lỗ San à! Nhưng mày nhớ là "thư " ra con "lợn lòi" mới được đó nha!
                      Thằng Yulgie chen vào:
                      - Theo tao thì muốn phải cho hắn hóa ra con cóc.
                      Nghe vậy, thằng Đề Mộng lại cười lên rũ rượi như tuồng ông Giám thị khổng lồ kia đã bị hóa thân thành Cậu Ông Trời rồi, hắn ngâm nga lên :
                      - "Con cóc trong hang. Con cóc nhảy ra. Con cóc nhảy ra. Con cóc đứng đó.
                      Thằng Yulgie vốn hay tếu bằng phụ họa với thằng Đề Mộng:
                      - Con cóc đứng đó. Con cóc nhảy đi. Con cóc nhảy đi. Rồi gì nữa hả Đề Mộng?
                      - Thì...Con cóc nhảy đi..."
                      Nghe hai đứa chúng nó đọc bài thơ "con cóc" tôi không thể nhịn nổi cũng phải cười theo, rồi lắc đầu đáp lại lời yêu câu của hắn:
                      - Tao chắc là thầy tao không làm như lời yêu cầu của mày đâu? Ngài chẳng bao giờ làm hại ai cả. Ngay cả các con vật bé tí ti như con kiến, Ngài cũng chẳng bao giờ động đến.
                      Thằng Đề Mộng bị hai trận đòn đau điếng cả châu thân, không chịu buông tha, song lần này hắn đề nghị trừng phạt lão nhẹ hơn:
                      - Nếu không thì mày xin Ngài biến lão Giám thị bất nhân ấy ra chiếc chiếu bông để bọn mình ngồi đè lên cho lão biết thân, hết lên mặt bắt nạt chúng mình.
                      Nghe hắn nói vậy chúng tôi cùng nhau ôm bụng cười quên cả qui luật của Cửa Thiền và quên luôn cả tiếng gió bên ngoài trời thốc lên từng cơn khiến cho các cánh cửa kiếng rung chuyển lên từng hồi.
                      Nhưng rồi, bão tố ngoài trời chấm dứt. Đám mây cuối cùng tan biến mất. Các vì sao lại xuất hiện lấp lánh trên nền trời xanh thẳm.
                      Chúng tôi bừng mắt dậy đã nhìn thấy ngoài trời đã sáng hẳn. Ánh Thái Dương xuyên qua cửa sổ trải mình lên nơi chúng tôi đang nằm trên mấy tấm ghế hoa cương. Rửa ráy mặt mày xong chúng tôi chạy ngay ra để xem cảnh trí bên ngoài sau đêm bão táp đã gây nên hậu quả như thế nào.
                      Tôi nghiệp cho ngôi nhà bà Paks (Phát Thị) bị thiệt hại nặng nề nhất. Các cánh cửa sổ đều bị thổi bật lên, có cánh treo lủng lẳng, có cánh nằm sóng soài trên mặt đất. Xứ Tây Tạng đa phần các cửa sổ đều dùng loại giấy dầu dán vào các khung thay vì các tấm kính. Giấy dầu màu vàng trong suốt, trong nhà lúc nào cũng có vẻ sáng sủa.
                      Trên đường đi đến Potala, quả như lời chú Sĩ Cát từng nói, nơi đây cảnh trí hữu tình. Gió mát. Trời xanh. Núi non trùng điệp. Xa xa rừng phong linh uốn mình theo chiều gió,từ xa trông đến tưởng chừng như sóng biển chập chùng khi thấp, khi cao. Thằng Đề Mộng bỗng lên tiếng hỏi:
                      - Tụi bây ơi! Các nhà buôn giờ này đã mở cửa hàng chưa? Tưởng bọn mình cũng nên đến đó xem một chút cho đỡ thèm.
                      Thoạt nghe, tôi và Yulgie còn tỏ ra ngần ngại, song cuối cùng cũng tò mò muốn biết thử xem họ bán những vật gì nơi ngôi chợ ấy, bèn đi theo chân hắn. Vào cửa hàng chúng tôi lóa cả mắt. Thật tha hồ mà ngắm nghía đủ các thứ hàng lạ mắt. Các loại trà thơm phưng phức được bày bán ngay trước quày hàng.
                      Các loại trà này đa phần từ xứ sở Ấn Độ, hoặc từ Trung Hoa du nhập vào. Mùi trà thoảng bay lên thơm phức. Đủ các thứ nhang trầm từ các quốc gia láng giềng do các nhà tơ lụa mang sang. Đó là chưa kể các món nữ trang đẹp đẽ được bày bán trong các thùng kiếng nơi các hàng tạp hóa, nhập cảng từ Đức, từ Anh, từ Pháp đưa sang.
                      Có điều chúng tôi không biết chúng có được các bà, các cô đoái hoài đến không, vì ít khi được trông thấy mấy món trang sức sang trọng này trên tay các bà, các cô mang trên cổ hoặc trên tay khi đến Cửa Thiền lạy Phật!
                      Chúng tôi cùng đi vào cửa hàng bánh kẹo. Cửa hàng này toàn chưng bày kẹo bánh ngoại trông vừa đẹp, vừa ngon lành, hấp dẫn rồi lẩm nhẩm bảo nhau tên các loại bánh! Chúng tôi thuộc vanh vách tên các loại bánh như bánh "Bông Lan", bánh kem, bánh nướng bọc đường, đủ màu đủ sắc, bánh sâm nhung, trông mà thèm rỏ dãi.
                      Sự thèm thuồng của chúng tôi thuộc thành phần kinh niên, chẳng có gì là lạ cả, vì bọn tu hành chúng tôi có tiền đâu để được thưởng thức các thức ăn khoái khẩu ấy!
                      Thằng Yulgie cười bảo:
                      - Thôi thì mình đành ăn bằng con mắt vậy!
                      - Lỗ San này!
                      Yulgie bỗng đưa tay chỉ vào người đang đứng bên kia quày. Có phải anh chàng béo kia là Du không ? Hình như người đó từng chăm nom săn sóc mày.
                      Đưa mắt nhìn theo hướng hắn chỉ, tôi bật lên tiếng:
                      - Đúng, đúng... Anh ấy là anh Du của tao đấy.
                      Đáp xong lại lời của hắn, tôi đã lên tiếng gọi ngay:
                      - Anh Du đấy phải không ? Tôi là..
                      Trước kia mỗi lần nghe thấy tiếng tôi, anh ấy lộ vẻ vui mừng, nhưng lần này thì anh nhìn xuống các gói kẹo gói bằng loại giấy hoa xinh xắn, đoạn nói với người Ấn Độ đứng cạnh điều gì tôi không nghe thấy rõ, đoạn ngẩng mặt lên cau có nhìn tôi quát lớn lên:
                      - Đi chỗ khác chơi! Đừng đến đây quấy phá người người ta, nghe chưa!
                      Vừa nói dứt lời anh ta đã quay phắt người lại rảo bước ra lối khác.
                      Tôi cảm thấy bị chạm tự ái, mặt mày đỏ bừng cả lên. Mắt tôi rưng rưng lệ, nhưng kịp thời cầm lại không để cho nước mắt tuôn trào ra. Tôi không thể dùng nước mắt một cách hoang phí như vậy. Có thể anh ta nhất thời không nhận ra được tôi. Nhưng mà chẳng lẽ anh ấy chóng quên như tế sao?
                      Trong đám người thân, anh Du là một trong vài người bạn gần gũi nhiều nhất, có thể nói còn hơn hẳn chú Sĩ Cát, anh Hà Mịch hay chú Lâm Trần nữa là đàng khác. Anh Du đã dạy kèm tôi từ thuở mới lớn lên khi còn chưa được đưa vào Thiền Viện. Anh dạy tôi cưỡi con ngựa Kim (Nakkim) vàng ửng.
                      Sau này vào Thiền Viện anh cũng dạy tôi các môn đô vật, kể cho tôi nghe nhiều chuyện cổ tích, nhiều dã sử, chuyện thần tiên. Tôi cũng vừa mới gặp anh ấy cách đây nửa năm mà nửa năm nào có phải lâu la gì cho lắm, tại sao anh ấy không thể nhìn ra tôi?!
                      Vừa suy nghĩ vừa cảm thấy xót xa thương hại cho thân phận mình, nếu quả thật anh ấy bạc bẽo với mình! Hai thằng Đề Mộng và Yulgie đứng cạnh tôi cũng ngẩn người ra im lặng. Chúng cũng cảm thấy ngượng ngùng thay cho tôi nên lên tiếng khuyên nhủ:
                      - Không phải chỉ mình mày bị sỉ nhục không thôi, bọn tôi cũng thấy bị xấu hổ lây với mày nữa. Thằng Đề Mộng rỉ vào tận bờ tai tao thủ thỉ như vậy.
                      Trong lúc đó bất giác tôi nhận thấy người Ấn Độ đứng tuổi trông hao hao như chú Sĩ Cát, lúc nãy anh Du đã thì thầm gì với ông ta, từ từ tiến về phía chúng tôi đang đứng.
                      - Này, người bạn trẻ yêu quý của ta!..- Giọng nói của ông ta như người Tây Tạng thuộc vùng biên giới hơi nặng khó nghe. Tất cả những gì đã diễn ra ta đều trông thấy. Nhưng thôi! Hãy quên đi như chẳng có việc gì xảy đến.
                      Và, ông ta nhìn bọn thằng Đề Mộng và Yulgie chỉ vào các món kẹo bánh bày bán trên ngăn tủ trước mặt.
                      - Cả các chú bé này nữa. Bây giờ tất cả các chú có quyền chọn lựa bất cứ món nào mình vừa ý.
                      Tuy thật vui mừng khi nghe ông ta cho phép, song cũng không tránh khỏi sự bẽn lẽn, nên mỗi đứa một món duy nhất, đoạn cúi đầu lí nhí cảm ơn trong miệng.
                      - Cám ơn ngài rất nhiều.
                      - Không! Chẳng có gì cám ơn cả. Một gói không đủ, các em cứ lấy thêm một món nữa mới được! Ta chỉ là người tuân theo lệnh của ông Du chẳng có gì phải để cho các em phải cám ơn cả..
                      Không khách khí, chúng tôi ngoan ngoãn làm theo. Xong xuôi người Ấn Độ này móc ví ra trả tiền cho người chủ tiệm đoạn gật đầu từ biệt chúng tôi rồi lặng lẽ bỏ ra bên ngoài biến mất theo dòng người đang ngang qua cửa tiệm.
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • #56
                        CHƯƠNG CHÍN
                        TỪ DU HỒN ĐẾN XUẤT HỒN


                        Ra khỏi cửa tiệm bán bánh kẹo, chúng tôi mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng tư của mình. Chẳng ai nói với ai câu nào nữa. Thằng Đề Mộng cũng như Yulgie, mặt mày đứa nào trông cũng lầm lì. Khi đến cuối phố bỗng thằng Yulgie lên tiếng phá tan bầu không khí nặng nề ấy bằng những lời lẽ chê trách về thói đời đen bạc.
                        - Lỗ San ơi! Mày đừng có buồn làm gì về cung cách của anh Du đối xử với mày như thế nữa. Tưởng mày cũng nên biết những kẻ lớn thường xem thường bọn nhỏ như chúng mình. Mày cứ tin lời tao đừng có buồn làm gì nữa.
                        Rồi một ngày kia mày sẽ thấy, tất cả đều đổi khác khi mà chúng mình trở thành Lạt Ma được giao phó giữ một trọng trách nào đó, sẽ thấy các anh "đầu đen" này thay đổi thái độ ngay. Họ sẽ cầu cạnh, nhờ vả hết chuyện này đến chuyện nọ! Không biết mày với thằng Đề Mộng thế nào, chứ tao lúc ấy bọn "đầu đen" đó đừng hòng được tao ngó mắt chiếu cố đến.
                        Thường tại Tây Tạng, người cư sĩ thì được gọi là "đầu đen" còn giữ nguyên vẹn mái tóc trên đầu, các tăng sĩ xuất gia tu hành thì đầu nhẵn láng không còn lấy một sợi tóc.
                        - Bây giờ thì mày nghĩ như vậy, song khi lớn lên, mày trở thành ông Lạt Ma rồi thì nhất định là mày cũng chẳng nhớ làm gì về cái chuyện của thời thơ ấu ấy nữa.
                        Đêm hôm ấy vì đã trải qua một ngày vất vả chúng tôi ngủ một giấc ngon lành! Nếu không nhờ thằng Đề Mộng đánh thức thì tôi có thể bị trễ mất khóa lễ sáng tại thiền viện. Ăn điểm tâm xong tôi ra khỏi phòng tìm gặp Minh Sư.
                        Vừa mới ra đến bên ngoài thì đã gặp ngay một nhà sư ú na ú nần lại lùn tịt, ước chừng đầu đuôi không hơn một thước, ăn vận quần áo xốc xếch túm lấy cổ tôi bóp chặt bảo:
                        - A ha! Chú mày đây rồi. Tao đi kiếm chú mày từ tờ mờ sáng đến giờ. Hà, mày định trốn chạy đi đâu hả? Đừng hòng, con ơi!
                        Nhà sư lùn tịt này lôi cổ tôi đến nhà bếp của thiền đường, đẩy mạnh tôi đến phía trái cạnh ảng nước, đoạn lớn tiếng ra lệnh:
                        - Việc làm đầu tiên của chú mày là phải quét dọn mọi nơi ở nhà bếp này rồi sau đó tao sẽ chỉ cho công việc khác.
                        Tôi vội trần tình về công việc tôi sắp phải làm buổi sáng hôm nay:
                        - Thưa đại sư.
                        - Chẳng thưa với thốt gì cả. Bắt tay làm công việc tao giao phó đó ngay bây giờ.
                        - Nhưng mà.
                        Lão sư lùn này trợn tròn mắt lên lớn tiếng :
                        - Hả? mày muốn cưỡng lại lời tao hả?
                        - Thưa.
                        - Thưa với thốt gì nữa? Tao đã bảo làm là phải làm ngay. Biết chưa?
                        - Thưa, tôi phải làm việc với Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt ngay bây giờ. Không thể làm bất cứ công việc nào khác nữa. Xin Đại sư lượng tình.
                        Tôi vừa nói vừa lách mình sang một bên định bụng bỏ chạy trốn ra khỏi khu nhà bếp, nhưng cánh tay hộ pháp của lão còn nhặm lẹ hơn. Lão tóm ngay cổ tôi lôi đến chiếc cối đá to tướng bên cạnh bờ giếng:
                        - Không được. Tao đã bảo không được là không được. Tao cóc cần biết mày sắp phải gặp bất cứ người nào. Bây giờ đây tao là tất cả. Mày biết không hỡi thằng nhóc con?
                        - Ông ta vừa nói vừa vặn trái cánh tay tôi đau đến đứt ruột đứt gan. Sự đau đớn chạy thẳng lên đến đỉnh đầu và cuối cùng biết không thể nào cưỡng được mệnh lệnh lão nên tôi đành ngoan ngoãn xin buông tha cho để thực hiện công việc của lão giao phó.
                        Tại Tây Tạng chúng tôi bắt buộc làm công việc nặng nhọc hoặc khuân vác, hoặc hầu hạ tạp dịch, hoặc rửa chén bát, quét dọn nhà chùa.. gọi đó là "học khổ hạnh". Mục đích của qui điều "khổ hạnh" này là để rèn luyện cho cả cơ thể con người cho quen đi sự khổ cực và đồng thời tu tập cho tinh thần được lành mạnh. Nhờ vậy mà giới trẻ chúng tôi tại xứ sở Tây Tạng thoát ra khỏi sự ngạo mạn tự cao, tự đại dễ bị sa vào vòng cạm bẫy!
                        Sau khi quét dọn đâu đó xong xuôi, tôi theo chân nhà sư lùn tịt này xuống hành lang, qua hai cây cầu mà các bậc thang là từng khúc gỗ tròn không lớn không nhỏ, buộc từng khúc vào hai thanh gỗ lớn hơn ép hai bên, dẫn thẳng xuống đến nhà bếp. Vừa xuống đến nơi tôi sực nhớ lại chính tại nơi này đã có lần tôi bị bỏng cả hai bàn chân đến nỗi suýt chút nữa trở thành kẻ tàn tật suốt đời!
                        Nhà sư này đẩy tôi đến cái cối đá to tướng đoạn dõng dọc lớn tiếng truyền lệnh:
                        - Đấy! Công việc của mày ngay trước mắt là phải cọ rửa cho thật sạch cái cối đá xanh này rồi sau đó sẽ nhận lãnh công việc khác, nghe rõ chưa? Hả?!
                        Tôi cầm lấy cái dùi nhọn cũng bằng đá, trèo vào bên trong lòng cái cối đá to tướng cạy ra từng mảng bột bị khớm bên trong các kẽ đá. Còn nhà sư này vừa đứng cầm cây tăm xỉa răng vừa chăm chú nhìn công việc tôi đang làm.
                        Trong lúc tôi đang cặm cụi làm, bỗng nghe có tiếng của một chú tiểu bên ngoài vọng vào hỏi:
                        - Lâm Bá ơi! Lỗ San có ở nhà bếp không? Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt muốn gặp hắn đấy.
                        Nghe thấy có người gọi tôi vội đứng ngay lên nói lớn cho kẻ nào đó tìm kiếm tôi nghe thấy:
                        - Có! Có, có tôi đây! Ai gọi đó?
                        Vừa nói vừa leo ra khỏi khỏi lòng chiếc cối đá tôi đang cọ rửa, định bụng bỏ chạy ra tìm người vừa gọi mình, bất thần bị một quả đấm thôi sơn trí mạng của lão Sư khổng lồ này vào ngay đỉnh đầu! Mặt mày tôi tối sầm hẳn lại và ngã lăn quay ngay trên mặt đất.
                        Vẫn chẳng buông tha, ông ta còn cúi xuống nắm lấy cổ tôi kéo dậy, nhấc bổng lên thảy mạnh vào ngay trong lòng chiếc cối đá bên cạnh, như tuồng ném một con gà choai choai vậy. Đầu tôi đập mạnh vào ngay cạnh của chiếc cối đá, nghe đánh "bụp" một tiếng, máu me đổ ra lênh láng! Trước mắt tôi lúc bây giờ thấy bừng lên muôn ngàn vì sao loáng thoáng rực sáng rồi từ từ tất cả tắt ngấm đi, thay vào đó là một thế giới đen ngòm trống rỗng.
                        Lạ lùng thay! Lúc bấy giờ tôi có cảm giác cả châu thân như bềnh bồng trôi nổi giữa khoảng không gian. Thoạt đầu hình như thân tôi nằm dài theo chiều ngang rồi bất thần đứng thẳng dậy. Văng vẳng bên tai từ đâu đó có tiếng vi vu như tiếng nhạc thoảng lại, và kết hợp với tiếng cồng vang lên rền rĩ kéo dài mãi ra, rồi cuối cùng chìm vào khoảng trống bao la mênh mông bất tận.
                        Vừa dứt tiếng nhạc như từ cõi u minh vọng đến thì một làn điện xẹt lên xanh rờn ngoằn ngoèo như con thanh xà chui ngay vào đầu tôi. Tức thời sau đó cả bầu trời trở nên sáng sủa, hiện lên loại ánh sáng vàng vọt không như màu váng sữa, mà là loại ánh sáng có thể nhìn thấy mọi vật thể nhỏ hơn thường lệ.
                        - Ôi chao ôi! Tôi lẩm bẩm phải chăng đó là linh hồn ta đã thoát ra khỏi bên ngoài thể xác? Mọi vật thể chung quanh ta sao mà lạ lùng như thế này?
                        Tôi bỗng nghĩ đến lời thầy tôi trong một dịp nào đó về sự "chọn lựa" cho mình một đời sống thực vĩnh viễn và trong lành như dòng nước suối chưa hề bị vẩn đục!
                        Tôi miên man suy nghĩ. Ta đang sống hay đang say vùi trong giấc ngủ? Không! Sự sống của ta bất thần bị nhà sư kia tước đoạt mất rồi! Thế có nghĩa ta đang đi vào "Cõi Chết"! Giờ phút này tôi đang đứng trước cảnh tượng bị các hình ảnh ma quái vây quanh bách hại.
                        Có điều trong sự nhút nhát tôi còn một chút can đảm là không hề biết sợ "Thần Chết" và cũng không hề nao núng trước cái "lưỡi hái" của ông ta đang cầm trong tay. Có điều thú thật là tôi đang ưu tư về việc đi đầu thai vào một kiếp khác đầy cả sự ân oán trái ngang! Sự kiện này tôi không thể nào tiên liệu được.
                        - Lỗ San! Lỗ San! Chú có làm sao không?
                        Ai gọi ta đó? Còn làm sao gì nữa? Tôi đang bay đây. Thật nhẹ nhàng chẳng khác nào chiếc bong bóng đong đưa theo chiều gió. Nhưng mà ừ, nhưng mà tại sao tôi không nhìn thấy có không gian. Trước mắt giờ phút này cả cái khoảng không gian mênh mông vô cùng đó toàn một vũng đen như mực.
                        Thân hình tôi bay bổng lơ lửng khắp nơi, thỉnh thoảng cũng có lúc gặp những vũng sáng rực lên từ những ánh hào quang rực rỡ. Chung quang vũng sáng này tôi chẳng còn trông thấy gì cả. Tất cả đều trống rỗng và chính những hình ảnh này khiến tôi cảm thấy mình đang bị cô đơn bơ vơ, lạc lõng.
                        Phải chăng ta đang chết? Đã biết mình đang chết thì rõ ràng là mình đang hiện hữu, còn gắn liền với đời sống. Tôi đang nhờ một ống dây dẫn thức. Thỉnh thoảng tôi còn nhận biết một cách mơ hồ là tuồng như có rất đông đảo người lố nhố đang vây chặt quanh tôi.
                        Phải chăng đó là bóng ma? Nhất định không phải rồi. Bởi trong đám đông người lố nhố đó, tôi thấy cả thầy tôi, trông vẻ mặt người lộ vẻ đau buồn ảm đạm. Tôi thấy cả anh Du, nhìn rõ cả thằng Đề Mộng, thằng Yulgie đang khóc sướt mướt bên ngoài cửa ra vào nhà bếp.
                        Chẳng lẽ tôi chết thật ư?! Thầy tôi bảo không có hình ảnh của cái chết mà chỉ có sự gặp gỡ cái chết. Đã không có hình ảnh thì làm sao có sự gặp gỡ được? Thầy tôi còn lập luận về tuổi thọ của con người, với người tuổi thọ không giới hạn, có nghĩa là con người có thể trường sinh bất lão nếu họ biết đến với chân lý một cách chân thành.
                        Chú Sĩ Cát có lần cũng đã từng nói về "cái chết" với lập luận "Cái chết" thực sự an nghỉ và nó chẳng hề quấy rầy ai. Nếu có sự khuấy động "cái chết" thì âu đó chỉ do sự quấy phá của người sống đối với "nó".
                        Họ gào khóc lên bảo là nó "chết". Họ bỏ nó vào áo quan. Họ chôn cất nó thật trịnh trọng và cho đó là nó đã đi vào thiên cổ, không còn ràng buộc "nó" với sự sống hiện hữu nữa. Nhưng thật ra họ quên rằng nó vẫn sống bằng một hình thức khác mà chính nó, nó cũng không hay biết nữa.
                        Không hiểu tại sao tôi cảm thấy mình nhẹ nhõm hẳn lên, phiêu diêu đây đó. Tôi không còn phải cực nhọc lê người bằng đôi chân mà thay vì bằng ý nghĩ! Như trường hợp vừa nghĩ đến chú Sĩ Cát, tôi đã bắt gặp ngay chú ấy.
                        Có điều tôi gọi chú, nhưng tuồng như chú chẳng nghe thấy. Tôi lại nghĩ đến thân mẫu tôi, và cũng như chú Sĩ Cát, bà chẳng thèm đoái hoài gì đến sự hiện diện của tôi cả! Lâu ngày xa cách, giờ trông mẹ tôi đầu tóc bạc phơ, đang nấu bữa ăn chiều.
                        Tức thì tôi lao người đến, chỉ trong nháy mắt, tôi đã quì ngay dưới chân người ôm chầm lấy khóc lên nức nở.
                        - Mẹ, mẹ ơi! Con đã về đây với mẹ.
                        Nhưng, như trên tôi đã nói lên sự kiện tôi gặp chú Sĩ Cát, mẹ tôi chẳng thèm để ý chút nào đến sự hiện diện của tôi. Mẹ tôi hết lảng đi nơi này lại đến nơi khác, tiếp tục làm công việc bếp núc, còn tôi thì bà chẳng hề lưu ý đến. Tại sao?
                        Phải chăng mẹ tôi đã buồn vì tôi trong bao nhiêu năm xa cách chưa có lần nào về thăm viếng! Nhưng làm sao được tôi đã được chính tay phụ thân tôi mang đến Thiền Viện phó thác cho các đức Lạt Ma trọn đời. Tôi không quyền được quay trở về cho dù cha mẹ tôi có mệnh hệ thế nào chăng nữa.
                        Có thể là tôi đã chết! Tôi đinh ninh như vậy! Chính nhà sư "hộ pháp" quật ngã tôi ngay vào cái cối đá to tướng bên cạnh. Lúc bấy giờ tôi có cảm giác tê rần cả châu thân nhưng tuyệt đối không có lấy cảm giác đau đớn nữa! Toàn thân tôi tê dại và đầu cổ tôi máu me dầm dề chảy khắp cả người.
                        Thoạt đầu chung quanh tôi chỉ toàn là một vũng đen phủ kín. Nhưng dần dà sau đó ánh sáng lờ mờ hiện ra, và tôi phiêu diêu bay đi đây đó. Tôi nhìn thấy ngay tử thi của mình đang nằm sóng soài bên trên tấm thớt của chiếc cối đá mà chính tôi đã kỳ rửa sạch sẽ.
                        Rõ ràng là tôi chết thật. Nhưng tại sao, tôi không trông thấy có "sinh vật ánh sáng" như Minh sư tôi đã nói. Có thể là tôi chưa chết chăng?
                        Trước đây, tôi đã có nhiều kinh nghiệm về du hồn trong tinh thể cảnh giới (Astral Travelling) mà thầy tôi đã truyền đạt. Tôi đã bay xa ra ngoài trái đất trong một cuộc thử nghiệm chìm sâu trong giấc ngủ và cũng đã từng đến viếng thăm các đô thị lớn. Nhưng đó chưa phải đúng nghĩa của sự "xuất hồn" ra khỏi xác thân.
                        Như tôi đã nói, trước đây tôi đã có nhiều kinh nghiệm về "Du Hồn" trong Tinh Thể Cảnh Giới. Tôi đã bay xa hơn ra ngoài trái đất, chu du trên cả các hành tinh lớn. Nhưng với trường hợp này, đây là lần đầu tiên mới được biết đến chuyện "xuất hồn" ra khỏi xác thân là thế nào?
                        Từ trên cao tôi đã nhìn thấy xác thân mình đang nằm co quắp trong chiếc cối đá, mặt mày bê bết cả máu. Tôi có cảm giác là mình đã thật sự không còn sống nữa, nhưng làm sao mà linh thể của tôi vẫn còn nối liền với cái xác thân bất động này?!
                        Tôi đứng sững sờ nhìn vết thương vỡ ra khá lớn ở thái dương, máu từ bên trong chảy ra lênh láng tợ như vòi nước đang phọt ra bên ngoài, chẳng những làm bê bết cả mặt mày, mà còn luôn cả đầu cổ, làm ướt đẫm tấm áo màu xám đậm và luôn cả cái cối xay mà tôi vừa mới hì hục rửa ráy kỳ cọ cho nó.
                        Chung quanh tôi lúc bấy giờ có nhiều người bao quanh lại. Tiếng huyên náo mỗi lúc một nhiều hơn. Rõ ràng là mọi người lúc bấy giờ đều tỏ ra tuyệt vọng. Tất cả đều có cùng ý nghĩ là tôi đã thật sự đã chết.
                        Nhưng bỗng dưng đám người này bỗng reo lên vui mừng khi nhìn thấy Minh Sư tôi đang từ ngoài vội vã đi vào. Khi đến trước xác thân tôi, Ngài quì ngay xuống, mặt mày tái xanh hẳn lại bởi một phần vì xúc động, và cũng một phần vì sự giận dữ kẻ đã gây ra cảnh này cho tôi.
                        Sau đó, Người đứng ngay dậy đi thẳng đến trước nhà sư bất nhân này nhìn trân trối vào mặt lão nhưng trong nhất thời chẳng thốt ra một lời nào thống trách!
                        Lúc bây giờ quang cảnh chung quanh tôi đều im lặng. Sự im lặng như thể đóng băng lại. Chuyện gì sẽ ra cho nhà sư hung bạo ấy? Mọi người hiện diện nơi đây đều cùng có ý nghĩ như vậy. Đôi mắt sáng quắc của Người phóng đến ngay nhà sư này một luồng điện cực mạnh như thể muốn đốt cháy và biến lão thành đống tro bụi.
                        Trông lão lúc bấy giờ thật thảm não! Lão đang run sợ. Toàn thân lão run lên như cầy sấy. Mọi người nghe cả tiếng thở dài não nuột của lão. Thật sự lão đang run sợ. Rồi sau đó như quả bóng xì hơi, lão ngã lăn xuống mặt đất! Mắt lão trợn trừng, miệng lão sùi cả bọt mép. Chẳng ai màng để ý đến lão chỉ vây quanh lại bên tôi và đặt tất cả hy vọng vào sự cứu chữa của Minh Sư tôi.
                        Ở ngay trên cao nhìn xuống cái "tứ đại cốt nhục" của chính mình, thú thật đây là một điều mới mẻ đem cho tôi một khoái cảm lạ lùng.
                        Giờ phút này tôi đang lơ lửng bay ngay bên trên đỉnh đầu của mọi người. Tôi nhìn thấy rõ ràng thằng Yulgie đang ôm mặt khóc lên rưng rức. Tôi thấy cả thằng Đề Mộng nó vừa khóc vừa rủa sả "bá ngọ" cái lão sư lùn tịt, vừa kêu gọi thầy tôi "bỏ ngải" cho lão già lùn tịt đó bỏ đời này luôn.
                        Thật tội nghiệp cho bọn nó! Tôi cảm thấy thương chúng nó vô hạn. Tôi sà xuống ngay nơi bọn chúng đang vây quanh tôi ôm chầm lấy, thế mà chúng vẫn trơ trơ ra kêu khóc luôn mồm, không thèm ngó ngàng gì đến tôi!
                        Tôi sực nghĩ đến anh Hà Mịch, bởi trong các lần gặp gỡ. Anh ta thường khi thảo luận về trạng thái của cái chết. Anh bảo những kẻ khuất mặt không ở xa với các người nơi cõi phàm này. Họ luôn luôn ở bên cạnh ta, như tôi trong tình huống này chẳng hạn. Anh Hà Mịch không sai! Chính người sống mới có quan niệm là có sự cách biệt hoàn toàn giữa cái sống và cái chết.
                        Có điều, anh Hà Mịch không lý giải được là thực sự người sống xa dần người chết. Tuy nhiên người chết thì chẳng bao giờ xa rời họ. Trong giờ phút này tôi đã nhìn thấy được điều này. Không ai nhìn thấy linh hồn ta nhưng ta thì dễ dàng trông thấy họ bất kỳ ở tình huống nào!
                        Không ai trao đổi với ta lời nào! Họ hoàn toàn im lặng để khóc và để thương. Trong lúc đó ta hoàn toàn chia xẻ niềm đau của họ. Bí mật của tạo hóa đã không cho họ phương tiện để nhận biết được những cái gì thiêng liêng nhất.
                        Còn ta, trong giờ phút chưa thoát hẳn khỏi cõi ta bà này, muốn bảo cho họ biết là chính mình đang đứng bên cạnh họ, đang chia xẻ với họ những gì mà họ đang đau khổ, nhưng không thể nào vượt thoát ra khỏi sự huyền nhiệm của tạo hóa được.
                        - Thế nào, thưa Đại Đức? Lỗ San có hy vọng cứu được không?
                        Tôi không buồn nghe đến câu trả lời của vị Đại Đức Y sĩ đó, mà vẫn tiếp tục nghĩ đến những điều anh Hà Mịch trước đã nói gì về cái chết. Anh Hà Mịch đúng. Anh bảo người khuất mặt ở bên cạnh ta. Như tôi bây giờ đang ở bên cạnh mọi người.
                        Theo lời giải thích của anh Hà Mịch "Hơï những người trần mắt thịt không thể thấy ta đặng vì linh hồn kẻ chết không phải là một thể đặc từ các tế bào kết tụ lại."
                        Thế có nghĩa là, anh Hà Mịch giải thích linh hồn của ta ở trong cái "vía", mà cái vía được cấu tạo bằng chất thanh khí khác hẳn với xác thân bằng xương bằng thịt. Hồn hay vía đều không kích thích được nhãn quan của ta thì làm sao người phàm mặt thịt có thể trông thấy được?
                        Vậy thì cái thân xác của mọi người đến một giai đoạn nào đó cũng bị mục nát để rồi trở về với cát bụi, trong lúc cái phần linh thiêng tức cái phần hồn thì vĩnh viễn tồn tại với không gian và thời gian.
                        Nghĩ đến đây tôi muốn hiện hình lên trước mắt mọi người, để chứng minh là sự sống của tất cả mọi người đều tồn tại, mà không bao giờ bị hủy diệt! Nhưng ý định của tôi đã bị một bàn tay vô hình chặn lại. Hình như có một mệnh lệnh từ một cõi xa xăm nào đó, đưa ra ngăn cản không cho phép tôi làm một điều sai trái như vậy!
                        Một giọng nói thật ngọt ngào văng vẳng bên tai tôi: "Rồi tất cả mọi người tức khắc phải biết điều ấy". Tôi vừa bay, vừa liên miên suy nghĩ. Tôi bay xuyên qua mái bếp và bỗng dưng tôi kêu lên ngạc nhiên khi đứng trước cảnh tượng lạ lùng hiện lên trước mắt.
                        - Hả?
                        Tôi giương mắt ra nhìn trân trối. Tôi nhìn thấy các vị Lạt Ma đang ngồi thiền định trước quả địa cầu tròn trĩnh khá lớn. Tôi nhìn rõ ràng từng thềm lục địa và các đại dương mênh mông rộng lớn.
                        Tôi không dừng lại nơi đây vì không muốn quấy rầy quý vị này đang cần sự yên tĩnh để ôn lại các bài học. Tôi cứ xuyên qua trần nhà, hết trần phòng này sang trần phòng khác. Khi đến lăng Tẩm Cung thì, thì tôi không còn bay đi đâu nữa. Chung quanh nơi đây là một bức tường lớn được sơn phết toàn vàng óng ánh. Phòng tại đây rất rộng, trưng bày các kim thân của các Đạt Lai Lạt Ma đã có từ bao nhiêu thế kỷ.
                        Tôi lặng lẽ đến chắp tay trước các pho kim thân này để tỏ lòng tôn kính. Được một lát tôi thả hồn thoát khỏi căn phòng này để lần lượt tiến sang các gian phòng khác kế cận. Khi bay lên khỏi nóc của viện Thiền Định, tôi nhìn thấy rõ ràng dinh Phổ Đà La vô cùng tráng lệ.
                        Mái ngói toàn thếp cả vàng ròng, long lanh dưới ánh mặt trời tỏa ra màu vàng rực trông chẳng khác nào ánh trăng lung linh trên dòng sông Kỳ Chu vào những đêm trăng tròn trên nền trời trong sáng. Các cột sơn son màu đỏ chói xen lẫn màu hồng diệp cùng với các bức tường trắng xóa và những thành đá được dựng lên thẳng tắp sừng sững trước cảnh núi non hùng vĩ.
                        Không biết nghĩ sao, tôi bỗng phóng mạnh lên giữa không trung, để nhìn xem những gì bên trên của cái vô cùng của trời đất. Chỉ thoáng trong chốc lát tôi chứng kiến cảnh đẹp của bên trên không gian vô cùng của vũ trụ. Tôi sực nhớ lại lời Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã có lần giảng giải cho tôi nghe về biển sao bên trên không gian, còn nhiều hơn cả cát của các sa mạc trên mặt địa cầu này gộp lại.
                        - Lỗ San!
                        Thầy tôi bắt đầu giảng giải. Con người cho dù giỏi đến đâu đi nữa vẫn cảm thấy mình bất lực trước cái vô cùng của vũ trụ. Ngoài dải Ngân Hà chúng ta đang ở còn có hằng hà sa số các dải Ngân Hà khác.
                        Đừng tự hào là trong vũ trụ này duy chỉ có chúng ta là vật linh thiêng nhất trong muôn loài, mà còn có cả hàng bao nhiêu đời sống khác, còn thông minh hơn loài người trên trái đất này hàng triệu triệu lần như vậy.
                        Ngày xa xưa, các bậc tổ tiên của chúng ta từng khám phá bằng trí tuệ và ngay cả bằng tuệ nhãn rằng là: họ đã từng biết qua tri thức và kiến thức của mình, là ngoài đời sống của chúng ta còn có các đời sống khác.
                        Họ ở rất xa với chúng ta, khó lòng giao dịch được với những con người hành tinh đó, nếu chúng ta cứ theo con đường mòn bằng vào các cơ khí để lần ra lối đi đến với họ.
                        Trước kia, tổ tiên chúng ta, đã biết được các nàng tiên bay lượn trên bầu trời hay các vị thần trên thượng tầng không khí biến hóa khôn lường. Các nàng tiên nữ tổ tiên ta bằng vào khả năng tri thức và kiến thức đưa ra, được các họa sĩ ngày xa xưa ban cho thêm đôi cánh.
                        Với người đời nay, cho đó là sự tưởng tượng thái quá, nếu không nói là chuyện thơ mộng của con người dưới cõi trần gian này. Tuy nhiên quan niệm này của người xưa nó là một sự thực bởi họ nhìn thấy được các bà tiên xinh đẹp đó, các vị linh thần đó bằng tri thức và kiến thức mà không thể nào giải thích.


                        Ngay cả thế kỷ 21 này, nền văn minh của con người đang đạt gần đến cực đỉnh, song vẫn cảm thấy mình chẳng làm sao thấu rõ sự bí mật của tạo hóa Càng khám phá càng thấy mình chẳng biết gì cả. Nhưng oái oăm thay, càng chẳng biết lại càng chối bỏ sự thiếu hiểu biết của mình.
                        Các nhà khoa học ấp a ấp úng bằng những lời lẽ vừa bác bỏ thuyết có đời sống bên ngoài hành tinh của chúng ta vừa bảo là mình đang lần mò tìm kiếm, liệu chuyện ấy có thật hay không?
                        Gần đây, theo Đài VOA một khám phá đã được thực hiện trong vụ quan sát một vùng tập trung các vì sao đang thành hình ở cách địa cầu chúng ta lối 14.000 năm ánh sáng.
                        Viễn vọng kính Spitzer quan sát sự ra đời của trên 300 vì tinh tú, trong số này có hai vì tinh tú có những vòng đai bụi tạo ra hành tinh bao quanh, đây cũng là các loại bụi đang kết lại trở thành các vì sao mới.
                        Theo nhà thiên văn Ed Churchwell của trường Đại học Wisconsin của Hoa Kỳ cho là Những phát hiện này vượt quá sự tưởng tượng của chúng tôi về số lượng các sao đang thành hình trong một khu vực riêng lẻ. Điều này thật vô cùng quan trọng. Vì rằng, việc tạo hóa thành lập các vì sao cũng giống như mạch máu của một thiên hà.
                        Nếu không có như vậy thì các thiên hà được dựng lên sẽ bị tàn lụi dần và cuối cùng chúng ta không còn trông thấy chúng nữa". Công trình hình thành các thiên thể cũng phải mất đến hàng triệu năm, chứ không là một sớm một chiều.
                        Nhờ các khám phá mới mẻ này mới biết "Sự Sống Khởi Đầu Trên Trái Đất Này như thế nào. Ông Dan Watson, nhà thiên văn học Đại Học Rochester - New York, nói rằng điều này có thể giúp giải thích nguồn gốc các thiên thể băng giá như các sao chổi và thiên thạch chẳng hạn. Ông nói:
                        "Quý vị nên nhớ chúng ta thường tin rằng các thiên thạch và sao chổi trong thái dương hệ của chúng ta đã mang nước và các chất liệu kiến tạo sự sống khác xuống Trái Đất như chúng ta có hiện nay, và lấp đầy đại dương."
                        Nhà thiên văn Alan Boss thuộc viện Carnegie, ba phát hiện mới mẻ của Viễn vọng kính không gian Spitzer có ý nghĩa sâu sắc đối với lý thuyết cho rằng có thể có nhiều hành tinh khác giống thái dương hệ của chúng ta.
                        Thế có nghĩa là các thái dương hệ đó có đời sống. Các đời sống đó có thể còn văn minh hơn nhiều so với nền văn minh của hành tinh chúng ta đang sinh sống.
                        Tôi đang bay lơ lửng háo hức với hiện tượng lạ lùng trên thượng tầng không khí, thì bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng ai đó vọng lại. Tôi hạ thấp dần xuống và khẽ đưa mắt nhìn về phía tay phải, nhìn thấy làng So nằm sau lưng thành Lạt Sa tuyệt vời. Và xa xa hơn nữa là dãy núi xanh mờ ảo. Tôi lướt nhẹ hết nơi này đến nơi khác mới nhận thấy xứ sở Tây Tạng thật sự đẹp đẽ vô ngần và mênh mông vô tận.
                        Tại làng So có lần tôi ngẫu nhiên nhìn thấy pho kinh tối cổ, pho kinh mà có lần thầy tôi giảng giải nó ẩn chứa một năng lực mầu nhiệm phi thường. Dường như pho kinh này chỉ được truyền thụ cho các tín đồ Mật Tông, các hành giả sau khi thụ huấn qua tám phép Bát Định hay Bát Thiền Định mới được xem là thoát khỏi vòng "dục giới".
                        Trong lúc suy tư mà hồn tôi cứ phiêu diêu đây đó đến nỗi tôi không còn nhớ mình là ai nữa và đang làm gì nữa. Bất thần ngay lúc ấy tôi bị một sức hút vô hình giữ tôi lại. Tôi cố vùng vẫy nhưng vẫn không thể nào thoát ra khỏi trường hợp lạ lùng này.
                        Thế rồi, hồn tôi không còn cưỡng lại được nữa, cứ từ từ tụt xuống mãi, xuyên qua Phổ Đà La, qua luôn tất cả các phòng, luôn cả cái sàn ván trên gác, rồi đến nhà bếp nơi có xác thân tôi đang nằm mê man bất tỉnh!

                        Tôi bỗng nhận thấy hình ảnh thầy tôi, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đang nhẹ nhàng dùng khăn ướt lau nơi màng tai trái của tôi, và lấy ra mấy mảnh xương nhỏ trắng hêu hếu từ bên trong vết thương ra. Nhìn thấy vậy tôi lẩm bẩm tự nhủ:
                        - Làm sao thế này? Chẳng lẽ đầu tôi cứng đến nỗi đập vỡ cả mảng đá trắng của chiếc cối đá đó hay sao?
                        Tôi lặng người đứng trân ra nhìn xác của chính mình, nhuộm đỏ cả máu từ vết thương trên đầu tuôn ra xối xả! Linh thể tôi chăm chú theo dõi cảnh mọi người vây quanh thi thể tôi đang nằm yên bất động.
                        Ngài Minh Dà Đông Đạt đặt vào vết thương trên đầu tôi một miếng thuốc cao chính người đã làm bằng loại dược thảo Chingwa, đúng theo công thức chỉ dẫn trong một bộ kinh Tây Tạng. Minh sư đã có lần giảng giải về tính dược của loại cỏ Chingwa này, mà theo lời người nó có thể cải tử hoàn sinh được.
                        Ngài loay hoay băng bó cho tôi, xong xuôi ra lệnh cho hai vị sư đứng cạnh, dùng cái cáng nhẹ nhàng khiêng tôi theo ngài về phòng riêng để tiện việc chữa trị.
                        Nhưng bất thần quang cảnh quanh tôi bỗng dưng tối sầm lại. Tất cả mọi vật như bị chìm trong bóng đêm dày đặc. Tôi bâng khuâng tự hỏi đang vào đúng giữa trưa mà ánh sáng làm sao tắt biến ngay được, khi mà cả bầu trời còn đang trong sáng!
                        Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh hào quang từ trong cơ thể của chính mình phát ra một màu xanh êm dịu! Đang lơ mơ chiêm ngưỡng ánh hào quang của mình, tự nhiên tôi như bị một sức hút kéo mạnh xuống đến nỗi không thể nào cưỡng lại được.
                        Lúc bấy giờ văng vẳng bên tai tôi có nhiều tiếng reo lên, mặc dù tôi đang mệt mỏi xen lẫn sự nhức nhối đau đớn thi nhau hoành hành đến cực độ:
                        - Cậu ấy sống lại rồi!
                        - Im đi. Đừng làm ồn ào hãy để chờ xem.
                        Không như lúc linh thể còn nhẹ nhàng bay lơ lửng trên trần nhà, mà giờ đây toàn thân tôi bị ê ẩm đến độ không thể nào cử động được nữa. Sự cần thiết của tôi lúc bấy giờ là cố tìm lấy giấc ngủ, nhưng làm sao được khi mà châu thân tôi càng lúc càng đau đớn thêm hơn lên! Nhưng rồi cuối cùng, tôi từ từ rơi vào trạng thái hôn mê và thật sự không còn hay biết gì nữa!
                        Chẳng biết phải mất trong bao lâu nằm mê man bất tỉnh như vậy, chỉ biết khi giật mình tỉnh dậy thì mặt trời đã lên quá chặng con sào. Lúc ấy, tôi cảm thấy đầu cổ mình đau như búa bổ. Toàn thể châu thân tôi nóng rát ê ẩm.
                        Tôi chưa phân biệt được các hình ảnh cũng như màu sắc vây quanh mình, nơi nào tôi cũng nhìn thấy đủ các màu sắc lẫn lộn! Sự đau đớn lại bắt đầu kéo đến dằn vặt càng lúc càng thêm lên đến nỗi làm tôi muốn phát điên lên.
                        Trong lúc cơn đau đớn kéo đến hành hạ, tôi bỗng nghe có tiếng rầm trầm nhỏ nhẹ bảo khẽ bên bờ tai tôi:
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment


                        • #57
                          - Đã qua cơn nguy hiểm rồi Lỗ San à! Chú cứ nằm yên thêm chốc lát nữa thì sẽ không còn đau đớn nữa.
                          Và, thật như vậy. Được một chốc tôi cảm thấy toàn thể châu thân mình không còn đau đớn nữa. Đầu của tôi như thể gối trên một chiếc gối được nhồi lông con thiên nga. Chiếc gối như quấn chặt lấy đầu cổ tôi, cho tôi hơi ấm và một cảm giác cực kỳ êm ái.
                          Đôi mắt tôi hấp háy mở ra, nhưng vội nhắm nghiền lại bởi ánh sáng bến ngoài chiếu vào. Nhưng dù chỉ nhìn thoáng qua cũng đã nhận thấy ngay thầy tôi đang ngồi bên cạnh! Tay người nắm lấy tay tôi.
                          Hơi ấm của người chuyền vào từng mạch máu và dẫn thẳng vào tận tim tôi. Những lúc như thế này tôi bỗng nhớ đến mẹ tôi kinh khủng! Giá gì trong những lúc này có mẹ tôi ngồi một bên, hỏi han chăm sóc cho tôi thì còn gì sung sướng hơn nữa!
                          Lần này tôi cố hết sức mình hé mở mắt ra và khẽ mỉm cười với người và Minh sư cũng vậy. Thầy tôi trao cho tôi ly nước có mùi thơm thơm rồi bảo:
                          - Uống đi! Đây là loại nước cam lồ, chú sẽ cảm thấy tỉnh táo hẳn ra ngay.
                          Rõ ràng uống xong ly nước cam lồ, tự nhiên sức sống mới tràn đầy trong cơ thể tôi. Việc đầu tiên là tôi thử nhấc cái đầu còn băng cả vải trắng lên, nhưng đã vội để rơi xuống gối ngay vì cảm thấy như tuồng bị cái chày đá nện xuống ngay nơi vết thương thêm lần nữa. Mắt tôi lại hoa lên trông như thể cả đàn đom đóm bay tỏa ra trước mặt mình.
                          - Không nên vội Lỗ San à! Đâu có phải là thuốc tiên khiến chú được lành lặn ngay được! Chú cần phải nghỉ ngơi thêm năm ba ngày nữa.
                          Nói đến đây, thầy tôi đứng lên khi nghe có tiếng cồng từ ngôi thiền viện vọng lại, nhìn tôi bảo:
                          - Giờ ta phải về thiền viện. Ngài Tối Cao truyền gọi ta gặp Ngài. Đừng lo sợ gì, ta cho thằng Đề Mộng cùng Yulgie canh chừng chú khi ta vắng mặt.
                          Nói đến đây, người siết nhẹ tay tôi rồi ra khỏi phòng. Đợi bóng Người vừa khuất sau cánh cửa, hai thằng bạn thiết cốt của tôi đã sà ngay đến cạnh giường rối rít bảo:
                          - Lỗ San! Tao mừng cho mày! Thằng Đề Mộng nói. Mày sống lại, tao mừng đến phát điên lên được. Nghe đâu thằng cha nhà sư đầu bếp quỉ sứ đó bị đuổi ra khỏi thiền viện đây rồi.
                          Yulgie cũng chen vào:
                          - Quả vậy! Nó đã bị tống cổ ra khỏi chùa ngay sau đó. Ôi cái thằng nhà sư lùn tịt ấy to đầu mà ngu xuẩn đến độ như vậy. Lúc ấy giá gì tao có phép "thư " ngay cho nó một ngải, hóa thân cho hắn thành con ngáo ộp đời đời kiếp kiếp sống mãi dưới tầng địa ngục.
                          Đề Mộng nắm lấy tay tôi:
                          - Tao tưởng mày chết rồi chứ! Máu mày chảy ra lênh láng như con bò bị chọc tiết.
                          Rồi hắn hạ thấp giọng khẽ hỏi:
                          - Này! Mày thử cho bọn tao biết lúc mày chết đó mày có gặp quỉ sứ không? Nó có nanh nhiều không? Tay nó có vuốt nhọn không? Ôi! Nếu sau này mà tao chết ắt là tao sợ lắm.
                          Tôi bật phì cười. Giọng nói của chúng chứa đựng cả sự thành thật tôi nhìn chúng với cả lòng thương cảm.
                          - Ngày còn sống tao có nghe đến khi chết ắt có tử thần cầm lưỡi hái đến kéo cổ mình đi.
                          - Ờ, tao cũng nghe như mày nói vậy! Thằng Yulgie cướp lời tôi nói.
                          Tao cũng nghe như Yulgie bảo vậy! Còn mày thì được nhìn tận mặt, trông nó như thế nào? Chắc là hệt như quỉ sứ, phải không?
                          - Nhưng mà, tao chưa chết thì làm sao trông thấy mặt con quỉ ấy được?
                          - Mày không chết là sau khi được thầy mày chữa trị, còn lúc mày nằm thẳng cẳng nín thở ấy là lúc mày đã xuống dưới cõi Âm Ty rồi. Thế nào mày cũng được nhìn thấy.
                          - Tao không nhìn thấy thần chết nào cả. Có lẽ là tao chưa đến số chết. Tuy nhiên trong khi cái thân xác tao nằm bất động thì linh thể tao được chu du đến bất cứ nơi nào tao muốn. Có lúc không hiểu sao tao muốn đến các vì tinh tú tận giữa bầu trời xa xăm kia.
                          - Và mày đã đến được?
                          - Tất nhiên. Ngay cả tao bay thẳng vào khoảng không gian tối tăm và lạnh lẽo nhất, nơi ấy tao nhìn thấy một vì sao nhỏ xinh xắn. Tao là là bay vào bên trong, đứng trong ngôi sao bé nhỏ này nhìn ra bên ngoài chỉ thấy toàn một màn đen nghịt bao bọc chug quanh, thỉnh thoảng mới nhìn thấy một vài tia cực tím loằng ngoằng hiện ra rồi tắt lịm ngay sau đó.
                          (Có thể hành tinh bé nhỏ này vừa được phát hiện theo như thông báo chính thức của Cơ Quan Không Gian Quốc Gia (NASA) của Hoa Kỳ vào hôm thứ Hai ngày 15-3 năm 2003.
                          Theo thông báo cho biết thiên thể vừa mới tìm thấy rất tối tăm và băng giá nhất trong Thái Dương Hệ. Nó nhỏ hơn Thiên Vương Tinh, chỉ vỏn vẹn 2.500 km.
                          Tiểu hành tinh vừa mới được khám phá này được đặt tên là Sedna, theo tên nữ thần Inuit, Người đã tạo ra các sinh vật trên Bắc Băng Dương ở cách Mặt Trời hơn 13 tỷ km và nhiệt độ của nó chưa bao giờ vượt quá 240 độ C.)
                          - Rồi mày có đi dạo quanh ngôi sao tí hon ấy để tìm các con người trên ấy chuyện trò không? Yulgie chòm lên hỏi tôi một cách gấp rút.
                          Tôi phì cười:
                          - Tao chẳng thấy có người nào cả.
                          - Nhưng mà mày ắt biết là nơi ngôi sao ấy có sinh vật hay không chứ.
                          - Tao thú thật là chẳng tìm thấy mống nào cả. Nhưng theo lời giảng giải của Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt, thì sự sống không phải chỉ những sinh vật ở địa cầu này giữ độc quyền. Có nghĩa là rất có thể là có đời sống ở những hành tinh xa xôi đó, song vì kỹ thuật khoa học của con người còn ấu trĩ so với cái vô cùng của Vũ Trụ nên chưa thể tìm thấy được mà thôi.
                          (Gần đây, theo nguồn tin từ Wellington ở Tân Tây Lan được đăng tải trên tờ New Scientist , thì cứ 10 vì sao trong dải Ngân Hà của chúng ta thì một có thể cung cấp những điều kiện sống cần thiết cho sinh vật bậc cao tồn tại.
                          Các nhà nghiên cứu Úc Đại Lợi cũng kết luận như vậy. Và hầu hết các vì sao này trung bình già hơn mặt trời một tỷ năm, trên lý thuyết đã quá đủ để bất cứ dạng sống nào tiến hóa.
                          Khái niệm vùng di trú thiên hà (GHZ) trong Milky Way lần đầu tiên được đưa ra vào năm 2001. Nay Charles Lineweaver thuộc Đại Học New Wales và cộng sự đã tìm ra một vùng GHZ thân thiện với sự sống, khi dùng mô hình tiến hóa của Milky Way để lập bản đồ sự phân bố trong không gian và thời gian của bốn nhân tố chính được xem là cần thiết cho dạng sống bậc cao.
                          Nhân tố đầu tiên là sự xuất hiện của các ngôi sao chủ trong một thái dương hệ. Tiếp đó là sự xuất hiện của các nguyên tố nặng đủ để hình thành nên các hành tinh đất đá. Nhân tố thứ ba là vùng này phải có một khoảng cách an toàn đối với những vụ nổ siêu tân tinh.
                          Và cuối cùng là phải có đủ thời gian để sự sống tiến hóa. Nhóm nghiên cứu đã xác định con số tối thiểu cho nhân tố thứ tư là 4 tỷ năm (đây là thời gian để các dạng sống phức tạp xuất hiện trên Trái Đất.)
                          Các phân tích cho ra kết quả là vùng GHZ có dạng đĩa, hình thành khoảng tám tỷ năm trước, nằm cách tâm Milky Way khoảng 25.000 năm ánh sáng. Nó mở rộng chậm chạp, chứa các ngôi sao có tuổi đến khoảng 4 tỷ năm trước, tức gần 10% tất cả các ngôi sao từng được sinh ra trong thiên hà này.
                          Nhưng theo một số nhà nghiên cứu khác, hiện chúng ta còn biết quá ít về những điều kiện cần cho sự sống (như nguồn gốc sự sống) và do đó rất khó để nói về vùng mà các dạng sống có thể cư trú.
                          Linewe aver nhấn mạnh nhóm của ông ngụ ý rằng các dạng sống phức tạp ngoài trái đất là có thể, hoặc tồn tại trong vùng GHZ, mà chỉ cho biết vùng này có tiềm năng nhất để hình thành các sinh vật sống bậc cao).
                          Nói đến đây, tôi chăm chú nhìn mặt chúng mỉm miệng cười lộ vẻ sung sướng đang dâng lên rào rạt trong tâm tư. Một lúc sau tôi lại cảm thấy quá mệt mỏi và lại một lần nữa tôi bị rơi vào giấc ngủ từ bao giờ cũng chẳng hay biết.
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment


                          • #58
                            Liên miên nằm trên giường bệnh trong suốt cả tuần lễ như vậy và được Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt tận tay săn sóc. Thật là may mắn cho tôi, nếu không có Minh Sư chữa trị thì chắc chắn tôi không thể nào thoát khỏi tay thần chết.
                            Tôi vô cùng cảm kích lòng nhân từ của Minh Sư, người yêu thương tôi như con cái mình. Bất giác tôi liên tưởng đến công việc trọng đại mà mình sắp phải đảm nhiệm!
                            Không phải chỉ thuần túy Người cố giữ lấy mạng sống cho tôi, mà còn một lý do khác nữa. Đó là lý do Người phải dốc toàn sức lực của mình để cho "tôi phải sống" hầu chu toàn lấy sứ mạng đặc biệt do đất nước giao phó mà Đức Đại Lạt Ma Tối Cao đã truyền mệnh lệnh cho Người
                            Có hôm, tôi vừa ăn xong cháo buổi sáng, thằng Yulgie tò mò hỏi :
                            - Này, Lỗ San à! Có lần tao nghe lỏm được mầy là hiện thân của một Đức Đại Lạt Ma nào đó tái sinh. Có phải hay không?
                            - Ờ, tao cũng nghe như thằng Yulgie vừa bảo như vậy! Thế mày có thể tiết lộ cho bọn tao nghe thử được không?
                            Tôi đưa mắt nhìn chúng trong giây lát đoạn cất tiếng hỏi lại:
                            - Vậy chúng mày có tin điều đó hay không?
                            Chúng chỉ giương mắt trân trối nhìn tôi, mà chẳng có đứa nào đáp lại.
                            Tôi gật đầu:
                            - Có. Tao có một kiếp trước, từng là một nhân vật cao cấp trong hàng lãnh đạo của Tây Tạng. Thầy tao bảo như vậy. Các nhà Chiêm Tinh cũng bảo vậy. Kiếp trước của tao là ai, Minh sư của tao chưa tiết lộ.
                            - Nhưng mày có tin hay không?
                            - Tất nhiên là tao tin, bởi có những sự kiện của tiền kiếp, tao đều nhớ gần như nằm lòng. Tao đã đáp lại đúng những yêu cầu của chẳng những thầy tao mà còn luôn cả các vị Đại sư có bổn phận theo dõi và tìm hiểu kiếp trước của tao nữa.
                            (Gần đây có vị Đại Lão Lạt Ma Tái Sanh Lobsang Tenzing Rinpoche thuộc tu viện nổi tiếng Ganden Shartse tại Ấn Độ. Ngay từ thời còn ấu thơ, ngài đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 công nhận là nhân vật tái sinh từ một vị thầy tôn kính quý báu nhất của dòng truyền thừa này.
                            Đó chính là ngài Lobsang Tenzing Rinpoche, cựu Viện Trưởng Tu Viện Ganden Shartse tại Tây Tạng. Ngài có những ấn chứng thần bí và khả năng siêu phàm như tiên đoán chính xác được các sự kiện sẽ xảy ra, chữa được các bệnh tật ngặt nghèo và thông suốt tự nhiên về các giáo lý nhà Phật.
                            Ngài đã được các vị thầy giỏi nhất thời bấy giờ giáo huấn như Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 13, Pabongka Rinpoche, Ling Rinpoche, Trijan Rinpoche.
                            Ngài cũng thông suốt sâu xa các rừng kinh điển đại thừa đến các nghi thức cùng những mật pháp bí truyền và vì thế đã được cấp cả hai bằng Tiến Sĩ Phật Học (Lharampa) tại Lhasha và Tiến Sĩ Thần Học (Ngarampa) tại Đại Học Mật Tông Giuto thuộc Phật giáo Tây Tạng vào năm 1948 với điểm tối ưu hạng.
                            Năm 1963 ngài rời quê hương đến định cư tại Ấn Độ. Ngài là một tu sĩ thường xuyên nhập thất tịnh tu liên tục trong nhiều năm và hết lòng đào luyện tăng tài không ngưng nghỉ sau khi nhận nhiều chức vụ trọng đại do Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14 bổ nhiệm).
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


                            • #59
                              CHƯƠNG CHÍN
                              ĐẦU TƯ KIẾN THỨC

                              Thời gian không bao lâu cuối cùng tôi hoàn toàn bình phục, bắt đầu trở lại với công việc tu hành. Thầy tôi đưa ra nhiều vấn đề thảo luận. Các vấn đề Người đưa ra không như nhau, có số thông thường và có số không phải thuộc loại thông thường.
                              Có lần nói về sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai của mình:
                              - Thưa Minh Sư, trong các nghề nghiệp con thích nhất không gì bằng nghề Quản Thủ Thư Viện.
                              - Tại sao chú lại thích công việc này? Thầy tôi hỏi lại.
                              - Vì đó là một kho tàng vô giá về tri thức và kiến thức của con người. Con sẽ được miên viễn học hỏi không bao giờ hết được.
                              Minh Sư mỉm cười nhìn tôi nói:
                              - Châm ngôn của Trung Hoa có câu: "Riêng mỗi một bức họa cũng giá trị bằng hàng ngàn câu nói" huống hồ là cả một kho tàng sách vở. Tuy nhiên với ta thì dù có đọc bao nhiêu sách hay chiêm ngưỡng bao nhiêu tranh đi nữa mà không biết phân biệt được cái đúng và cái sai để đầu tư cho sở học của mình thì cầm bằng như không vậy.
                              Đầu tư kiến thức cho mình là một điều cần thiết, nhưng sự thận trọng để khỏi phải bị sách vở đầu độc lại là một điều quan trọng hơn. Nếu không có ngày chú sẽ hóa thành một kẻ điên vì chữ nghĩa mất.
                              Lời nói này của Minh sư, làm tôi sực nhớ đến nhà sư Nhật Bản Kenji Tellenchi gần 70 tuổi, đã đọc qua biết bao nhiêu sách mà cuối cùng chẳng thực hành được gì mà còn trở thành một kẻ mất trí! Tôi có cảm tưởng nhà đại sư già này đã bị bội thực các tư tưởng trong các kho tàng sách vở mà ông đã ngấu nghiến trong suốt cả cuộc đời.
                              Đọc được ý nghĩ của tôi Minh Sư Minh Dà Đông Đạt gật đầu nói:
                              - Đúng là như vậy. Ông ta đâu có bị bệnh thần kinh?! Chỉ vì ông ta luôn luôn dồn nén các mớ tư tưởng trong sách vở khiến trí óc ông bị bội thực như chú nghĩ. Điều này đã khiến cho thần kinh ông bị tổn thương, lúc nào cũng xem mình là một vĩ nhân và tự phong là nhà siêu trí thức.
                              Có thể chú đã nhận thấy điều này qua những cuộc tiếp xúc với nhà sư già nua ấy! Ông đã tự thần thánh hóa và phô trương từng câu nói, từng lối viết lách, lúc nào cũng muốn mọi người phải tuân phục mình, coi như thế gian này chỉ có mỗi mình mình.
                              Thật tội nghiệp, ông ấy cứ mãi đinh ninh mình là cái rốn của vũ trụ. Nhưng thật ra nhà sư Kenji Tellenchi già nua này chẳng đánh lừa được ai, ngoài ông ta.
                              Nói đến đây, người đưa mắt nhìn các chiếc lá vàng rơi rụng đang lay bay theo gió ngoài song cửa sổ. Giây lát sau người đưa mắt nhìn tôi nói tiếp:
                              - Nhà sư già này bị vỡ nợ tinh thần. Tất cả những gì ông ta đã cố vơ vét dồn nén hết trong các kinh điển sách vở nơi các thư viện đã làm cho ông bị bệnh hoạn.
                              Ta có thể nói là nhà sư Kenji Tellenchi nghiến ngấu các kinh điển đến nỗi khiến đầu óc ông ta không còn chỗ để chứa nữa. Hiện nay đầu óc ông chẳng khác nào như kho thuốc súng không còn nện vào đâu được nữa và sẵn sàng nổ tung ra thành từng mảnh vụn.
                              - Thưa Minh Sư, đọc nhiều hữu ích nhiều, sao lại như vậy?
                              - Đúng. Nếu ông ta biết chọn sách mà đọc. Trái lại, tất cả các sách vở, cuốn nào vớ được ông đều nghiến ngấu đọc, không cần chọn lọc nữa. Ông ấy không cần biết, miễn sao có sách đọc là được, không cần biết thực, hư, hay, dở thế nào!
                              Ông đã đánh mất không biết bao nhiêu thời gian để đi nghiên cứu một mớ chữ nghĩa điên loạn đến độ khiến chính ông ta bị chữ nghĩa làm điên loạn đầu óc mình! Tai hại thay! Sở dĩ vì vậy đã tạo cho ông ta có những cao vọng hão huyền. Ông ta đọc được nhiều giáo lý của nhiều tôn giáo rồi vỗ ngực tự cho mình là một siêu nhân có một trí tuệ vô cùng vô tận.
                              - Thưa Minh Sư, vậy thì làm thế nào để phân loại được sách, sách nào nên và sách nào không nên đọc đến?
                              - Lỗ San! Không nên để cho sách vở làm cho trí óc ta bị mù quáng đánh mất đi sự phán đoán của mình. Đọc sách bao giờ cũng giúp cho trí óc ta mở mang, nhưng tuyệt đối tránh đừng để làm nô lệ nó. Sách vở kinh điển, dĩ nhiên là không thể thiếu được. Nó là một nhu cầu cần thiết như các thức ăn bồi dưỡng cho tinh thần.
                              Các thư viện trên khắp thế giới đều chứa đựng những kiến thức tối ưu của nhân loại trong các pho kinh điển vĩ đại cùng sách vở từ ngàn xưa lưu lại.
                              Nói đến đây Minh Sư ngưng lại trong chốc lát, đoạn tiếp tục giảng giải:
                              - Tất nhiên là chúng ta không làm sao học được khắp tất cả các danh sư trên thế gian này. Nhưng chúng ta nhờ phương tiện sách vở in ấn khắp mọi nơi giúp cho chúng ta có thể tìm đọc để mở rộng thêm tầm kiến thức.
                              Ta có quyền nhặt nhạnh những ý tưởng đẹp để đầu tư thêm cho kiến thức mình và có quyền vứt bỏ lại những gì ta cảm thấy không thích hợp với cuộc sống thánh thiện. Chú đừng ngại việc loại bỏ có thể làm xúc phạm đến tác giả của nó.
                              Chẳng có danh sư, tác giả nào bắt buộc chú phải tin những gì họ viết! Không! Chú có toàn quyền theo ý tưởng của mình. Ta muốn khuyến cáo chú là nên dùng trí phán đoán về bất cứ luồng tư tưởng nào mà chú đang nghiền ngẫm.
                              Minh Sư nhìn tôi và từ từ nâng chung trà thơm lên nhấm nháp.
                              - Có một điều ta khuyên Lỗ San là đừng nên vượt quá cái nghiệp quả thấp kém của mình để cố chạy đến cái đích cao cả ngoài tầm tay với. Làm như vậy chẳng khác nào rước lấy họa vào thân như ông bạn đại sư già Nhật Bản kia. Chú hiểu chứ! Lỗ San.
                              Đến giờ ăn, thầy tôi rung cái chuông bạc, liền sau đó chú tiểu mang thức ăn trưa bằng bánh Tsampa cùng bình trà thơm đến đặt ngay giữa bàn thầy trò chúng tôi đang ngồi đối diện nhau. Chúng tôi vừa ăn uống vừa thảo luận các vấn đề linh tinh, xem nhau như tân khách.
                              - Lỗ San! Chú còn nhớ có lần chú nhìn thấy một hành tinh nào đó thật xa xôi nơi màn ảnh trong Cổ Hiền Thạch Động đó không?
                              Tôi nhíu mày suy nghĩ và bỗng nhớ ra hình ảnh của những dải hành tinh xa xôi ở tận ngoài không gian mờ mịt.
                              - Vâng thưa Minh Sư. Có! Con nhớ là có. Con thấy rõ có đến gần cả trăm ngôi sao bé li ti quay quanh một ngôi sao sáng rực. Càng nhìn càng thấy trông giống như các trái đất quay chung quanh vầng Thái Dương vậy.
                              - Và chú hỏi ta điều gì đó, chú có nhớ chăng?
                              Tôi mỉm cười:
                              - Hôm ấy con hỏi Minh Sư do sự tò mò của mình là liệu trên các hành tinh nhỏ bé xa xôi ấy có sự sống như chúng ta chăng?
                              - Ừ, chú có hỏi ta điều ấy. Và chính ta đã khẳng định với chú là phải có sự sống, chứ chẳng lẽ chỉ mỗi mình trái đất ta có đặc quyền ấy không sao? Theo ta, vẫn còn giữ nguyên quan điểm là rất có thể trên các hành tinh này có sự sống hiện hữu như chúng ta. Có điều, các dạng sống xa lạ này khác nhiều so với dạng sống của chúng ta trên mặt địa cầu này.
                              - Hình dạng của chúng có khác với chúng ta không? Tôi hỏi.
                              - Ta không thể khẳng định điều này, tuy nhiên chắc chắn chúng là những sinh vật thông minh, có tay chân, đi đứng giống như loài người trên trái đất chúng ta và bằng cách nào đó trong cơ thể, họ nhận được thông tin về môi trường chung quanh họ. Biết đâu, họ cũng hít thở, cảm xúc chẳng khác nào như chúng ta vậy.
                              (Gần đây, các nhà khoa học nghiên cứu điều này, nếu có sinh vật ngoài hành tinh đặt ra nghi vấn biết đâu chúng cũng thở bằng Oxy hoặc một vài loại không khí khác?! Các nhà nghiên cứu sẽ áp dụng những điều mà họ đã khám phá về cuộc sống trên trái đất để làm cơ sở nghiên cứu về cuộc sống bên ngoài hành tinh của chúng ta.)
                              - Lỗ San, chú hiểu ý ta nói chứ ?
                              - Vâng. Con hiểu. Tuy nhiên, những điều mà thầy giảng giải dựa vào cơ sở nào? Con thật tình muốn biết điều này !
                              - Muốn tìm hiểu cuộc sống của các sinh vật xa lạ, người ta phải vận dụng kiến thức của bộ môn Sinh Vật Học Vũ Trụ. Chắc chú thừa hiểu đó là một ngành khoa học chuyên môn nghiên cứu về các dạng sống trong không gian.
                              (Lời giải này phù hợp với giới khoa học gần đây đã đưa ra là các các nhà Sinh Vật học tìm hiểu những nguyên tắc cơ bản về sự sống trên trái đất. Cuộc sống xuất hiện và tiến hóa trên trái đất như thế nào?
                              Điều gì ảnh hưởng, chi phối, xếp đặt trật tự cuộc sống này? Và quan trọng nhất, điều gì đã khiến trái đất trở thành nơi mà sự sống có thể duy trì được? Từ đó, họ suy ra một số nguyên tắc cơ bản mà các sinh vật xa lạ, nếu tồn tại, phải bắt buộc tuân thủ.)
                              - Thuyết này áp dụng cho tất cả?
                              - Cho tất cả. Các sinh vật của bất kỳ thế giới nào nếu có cũng sẽ phải tuân thủ như thế cả. Có nghĩa là tuân thủ theo những nguyên tắc vật lý hóa học.
                              Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt đã đưa ra đúng theo như lời giải thích của các khoa học gia ngày nay rằng là: Phải có chất hòa tan để duy trì sự sống. Trên trái đất, chất để hòa tan thường là dạng "nước". Một số hóa chất khác cũng có thể cần cho sự sống như Ammoniac, Methane, Hydro Sulfide Phải có nhiệt độ và áp suất thích hợp để các chất hòa tan tồn tại ở thể lỏng.
                              - Ngoài ra, nó còn có nhu cầu gì nữa không, thưa Minh Sư?
                              - Có chứ. Ngoài ra sự sống của những sinh vật lạ trong Vũ trụ cũng cần có sự tiến hóa và phải thích nghi với các điều kiện môi trường, chẳng hạn như nhiệt độ, cũng như độ ẩm và trọng lực của nó.
                              (Khoa học ngày nay cũng từng lý giải về điều kiện vận chuyển của sinh vật Vũ trụ này, như một vài phương cách để vận chuyển các chất rắn, chất lỏng và các loại khí trong cơ thể bài tiết các chất thải, vận chuyển các chất dinh dưỡng, đồng thời cũng phải có khả năng tiếp thu môi trường chung quanh nữa.)
                              - Chúng có cần trông thấy, nghe ngóng không
                              - Sao lại không? Chúng cũng phải có giác quan chứ! Dù ở dạng khác lạ với chúng ta, chúng cũng phải có mắt để nhìn, có tai để nghe, có mũi để thở.. chứ! Chúng cần phải tiếp xúc với nhau, để thu thập thông tin từ môi trường. Có một điều có khả năng khác với ta là có thể họ có một loại não bộ khác hoặc một hệ thần kinh không giống với ta, đi vào bằng những cửa ngỏ khác trên cơ thể.
                              - Thưa Minh Sư, con muốn tìm hiểu điều này nữa, nhưng có thể là hơi tò mò thái quá.
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


                              • #60
                                - Thì chú cứ đưa ra. Điều gì giải thích được, ta giải thích cho chú. Đừng ngại.
                                Chúng có sinh sản hay không? Xin thầy thứ lỗi cho câu hỏi hơi vô duyên này.
                                Thầy tôi cười xòa.
                                - Sao gọi là vô duyên? Tất cả đều có duyên cả. Nếu không có duyên thì chú với ta ngày nay đâu có gặp nhau ở trên cõi đời này? Phải không?
                                Tôi e thẹn gật đầu.
                                - Thưa thầy quả như vậy.
                                - Đã là sinh vật, dù là sinh vật trên trái đất này hay sinh vật không gian cũng đều phải sinh sản cả. Sự sống của sinh vật dù như chúng ta hay trên vũ trụ phải có nhiệm vụ truyền giống để tồn tại và phát triển, dù theo giới tính hoặc vô tính.
                                Sự sống của sinh vật vũ trụ cũng chẳng khác gì ta đều phải dùng những dạng thức ăn bằng môi trường tự nhiên.
                                (Lời giải này trùng hợp với các nhà khoa học ngày nay là "Bất kỳ hình thức sống nào cũng bị ràng buộc chặt chẽ với môi trường của nó. Vì thế những đặc tính của hành tinh nơi chúng sinh sống sẽ cực kỳ quan trọng trong việc hình dung ra chúng")
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X