Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Những huyền nhiệm trên hy mã lạp sơn

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    - Ta học cả Kinh dịch, cả Thái ất Thần kinh, nhưng ta vẫn còn cảm thấy chưa đủ. Thế là ta sang Ấn Độ tìm các môn phái Thiền học tĩnh tọa! Nơi đây ta học Yoga, đó là môn Thiền ra đời từ mấy ngàn năm trước.
    Ta bắt đầu say mê với các môn phái mới mẻ mà ta vừa khám phá được, nó đã đưa con người đạt đến mức thâm sâu nhất của tư tưởng, đạt đến chốn quyền năng thượng thặng.
    Lúc bấy giờ ta mới nhận thấy mình vẫn còn kém cỏi đối với sự hiểu biết của các thánh nhân từ ngàn xưa lưu lại.
    Ta bắt đầu học hỏi nghiên cứu. Thì ra con người có nhân duyên nhân quả, mới mong đạt được đến Bát Thức và Vô Lượng Thức, chỉ đến khi ấy mới hy vọng hòa đồng với Vũ Trụ bao la, và với cả cái Vô Hình Vô Ảnh.
    Khi mà ta đã thông suốt và luyện được các bí quyết thâm sâu đó, thì cơ thể này trở thành nhẹ nhàng như mảnh lông hồng không còn cái gì có thể lôi kéo lại được!
    Đến lúc đó ta có thể thoát khỏi sức hút của trọng lực trái đất, bay thẳng lên cao đúng theo cung cách của các nhà Fakir, điều khiển được muôn vật, muôn hình quanh ta bằng luồng điện trí năng và cả bằng linh giác.
    Nhận thấy tôi còn bán tín bán nghi về những lời ông vừa nói, nhà sư này gật đầu nói lên lời xác quyết:
    - Có thể là chú chẳng mấy tin những lời ta vừa nói. Ta cho chú biết đó là sự thật. Chú hãy xem đây.
    Nói xong, nhà sư Nhật Bản này ngồi với tư thế tĩnh tọa, hai tay chắp ngay trước ngực, mắt nhắm nghiền, mặt nhìn thẳng ra phía trước. Và không bao lâu sau đó thân hình nhà sư từ từ nhấc lên, cao dần, cao dần cho đến khi cách mặt đất nơi tôi ngồi hơn hai thước.
    Tôi vô cùng ngạc nhiên, không dám rỉ hơi nói ra lời nào, sợ làm mất đi không khí tĩnh lặng có thể mang đến sự rủi ro cho ông ta!
    Nhưng, cũng chỉ sau đó không bao lâu, nhà sư Nhật từ từ hạ xuống, mở choàng mắt ra, nhìn tôi, gật đầu chào, như tuồng Người mới đi đâu trở về gặp lại.
    - Đây là một môn thuộc hàng tối cao của nền văn minh cổ đại. Ta tưởng thế giới văn minh ngày nay không thể nào bỏ qua một di sản vô cùng quí báu mà những Thiền giả từ ngàn xưa lưu truyền lại.
    Nó không phải là việc làm vô ích, nếu người sử dụng nó làm điều có ích lợi cho nhân quần xã hội! Từ đó ta lại đi khắp cùng trong thiên hạ, từ lục địa này đến lục địa kia, luôn luôn tìm hiểu các môn học mới. Ngoài sự tìm tòi học hỏi về các môn học thần bí, ta cũng còn nghiên cứu về nghệ thuật siêu nhiên.
    Các nghệ thuật mà ta tìm hiểu, trước tiên là nghệ thuật ban sơ của con người, nó có ý nghĩa gì, nó có mang nhiều chức năng khác như siêu nhiên chẳng hạn! Ta tin một cách tuyệt đối là từ hàng vạn vạn năm về trước, con người đã có một tiềm năng vô địch mà ngày nay khoa học vị tất đã sánh bằng!
    Ta có lần gặp một người tiều phu tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn này nơi giáp ranh với Trung Quốc và cũng luôn cả phần đất Ấn Độ nữa. Người tiều phu này không bàn luận với ta chuyện củi quế trong rừng sâu, mà nói toàn chuyện quyền năng, phép tắc.
    Ông ta cũng không nói về vòng danh lợi của con người mà bàn toàn chuyện những hình ảnh nghệ thuật siêu nhiên tự ngàn xưa lưu lại. Ông ta quả xứng đáng là con người của nghệ thuật vị nghệ thuật.
    Ông ta đưa ta vào từng hang động, chỉ nghe không thôi mà ta đã mường tượng như chính mình đang mò mẫm tìm những điều gì bí mật ở chốn nhân gian này! Nhưng nói đến đây, bất giác ông ta đứng vụt dậy:
    - Tiếc thay, sắp đến giờ riêng tư của ta rồi. Chú không nên chần chờ ở lại đây nữa!
    Không kịp để tôi bái biệt, nhà sư Nhật Bản này đã đẩy tôi ra rồi đóng sầm cửa lại. Điều này khiến tôi băn khoăn không ít! Mãi đến khi về phòng, tôi mang ra hỏi mới biết hàng ngày nhà sư ít nhất có một lần lên cơn như vậy!
    Câu chuyện nhà sư Nhật nói về cuộc gặp gỡ giữa ông ta với người tiều phu nói về nghệ thuật lúc bấy giờ trùng hợp với các hình ảnh chạm trổ của người nguyên thủy tại trong các hang động gần đây như sau:
    Những bức bích họa trong hang có ý nghĩa gì? Chúng chỉ đơn giản là "nghệ thuật vị nghệ thuật" hay còn mang nhiều chức năng khác? Các tiếp cận đa ngành có thể trả lời như sau:
    Tháng 2 năm 1994, Jean Marie Chauvet cùng hai người bạn khác khám phá được các hang động ngay vùng Archède tại nước Pháp. Nơi đây họ hy vọng tìm được những bằng chứng của nên nghệ thuật lúc ban sơ của nhân loại, nhưng chưa thành công.
    Tuy nhiên họ bắt đầu biết đến những hình ảnh được xem là tuyệt vời dưới đất của thời Đồ đá mới (40.000-10.000 năm trước); ngoài ra họ cũng tìm tòi và biết nghệ thuật tại Lascaux, Niaux cùng các địa danh nổi tiếng khác.
    Nhưng cả ba người này đều tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi phát giác ra được trong một hang sâu nằm ngay dưới ngọn đồi bên dòng sông Archède, nơi đó còn hiển hiện dấu ấn của bàn tay con người. Theo họ nhận thấy đây là những bàn tay của những người thuộc thời cổ đại.
    Họ nhìn thấy vô số hình ảnh được vẽ ra, hoặc được chạm trổ khá tinh vi tại các vách đá toàn là hình ảnh sinh động của các chú ngựa đủ cỡ, hoặc sư tử, hoặc bò tót, hay tê giác cũng như ma mút - loại này ngày nay đã tuyệt chủng.
    Nhóm ba người bạn này rọi đèn xuyên qua bóng tối, nhìn thấy rõ các đống xương gấu, các chỗ nhóm lửa sém đen và nhiều hình ảnh khác! Họ cảm thấy như đang chìm sâu vào một thế giới linh thiêng đã mất từ lâu.
    Hai anh Hà Mịch, Lâm Trần cùng chú Sĩ Cát đã ngồi đợi sẵn tại căn phòng khách được thầy Minh Đà Đông Đạt dành riêng cho tôi.
    Đây là một căn phòng không lớn không nhỏ mà tôi là người duy nhất trong hàng ngàn các chú tiểu được hưởng đặc ân này. Không gì vui mừng bằng đã lâu nay mới được gặp mặt lại chú Sĩ Cát cùng hai người bạn vong niên đến viếng thăm mà tôi hằng trông đợi. Đêm ấy chúng tôi bàn đủ mọi thứ chuyện, trong đó có vấn đề liên lạc với các linh hồn ở bên kia thế giới.
    Anh Hà Mịch tỏ ra hăm hở nhất khi nói đến sự chết và đời sống của Thế Giới Bên Kia. Bằng một giọng quả quyết, anh bắt đầu đi vào câu chuyện mà tôi cần muốn biết đến:
    - Tôi quả quyết là có đời sống bên kia cửa tử. Họ không chết. Họ vẫn còn sống như chúng ta đang sống. Sự việc này chẳng có gì là mới mẻ cả. Đã từ bao nhiêu thế kỷ những nhà tâm linh học nhiều lần xác quyết họ đã từng tiếp xúc với các người chết.
    Họ từng được nghe có nhiều linh hồn đã thổ lộ với họ là chẳng gì buồn lòng đối với họ khi nhìn thấy cái nghĩa trang, nơi có nấm mồ mà lòng đất đang ôm ấp cái vỏ mục nát của mình!
    Với họ các vong linh đó cho rằng âu đó chỉ là sự cố tình che dấu sự thật! Thật ra nó chẳng có gì cả, chẳng là gì cả, nó hoàn toàn "trống không", hoang vắng. Với họ cái chết của con người chỉ là sự chuyển tiếp của cuộc sống này qua cuộc sống khác, qua trung gian của cái chết!
    Ngừng trong giây lát, anh Hà Mịch tiếp tục kể:
    - Lỗ San ạ! Khi bước qua bên kia cửa tử, mỗi người chúng ta sẽ gặp lại chính "nhân tính" của mình và đọc lại những trang sách dẫy đầy những kỷ niệm chẳng khác nào tấn tuồng trên sân khấu có đủ cả hỷ, nộ, ái, ố.
    - Tôi có cảm tưởng dường như anh Hà Mịch đã trải qua một lần chết rồi vậy!
    - Đúng như vậy! Anh Hà Mịch gật đầu xác nhận Thật không gì hứng thú bằng! Quả là một thứ hứng thú đặc biệt.
    Nếu trải qua một lần chết rồi mới biết chẳng có gì khủng khiếp cả. Đến đây, anh lại ra chiều đăm chiêu như thể để lục lại ký ức về trường hợp "chết" của mình, rồi bắt đầu thuật lại:
    - Lúc bấy giờ tôi từ xứ sở Tây Tạng này trở về bán đảo Đông Dương, đột nhiên tôi lên cơn sốt nặng, sau đó thì mê man chẳng còn biết gì nữa. Đến nửa đêm bất thần tỉnh lại. Nhưng khi mở mắt ra, tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy có ai đó đang nằm bên cạnh mình.
    Điều làm cho tôi bàng hoàng kinh hãi là càng chăm chú nhìn, càng nhận thấy kẻ đang nằm bên cạnh giống hệt tôi như hai giọt nước, từ mặt mày đến hình dáng và luôn cả lối ăn mặc tôi đang vận trong người.
    Tôi bắt đầu nghi ngờ là như có điều gì bất thường đang diễn ra chung quanh mình. Nhìn đồng hồ quả lắc, kim chỉ đúng 3 giờ 15 phút sáng. Bây giờ đã sắp đến canh năm. Tư bề hoàn toàn tịch mịch. Tôi sờ soạng tìm chiếc đồng hồ quả quít dây vàng 24 kara khi ngủ vẫn còn cẩn thận cài nơi túi áo trên. Nhưng không còn nữa.
    Ai đã đánh cắp mất từ bao giờ rồi. Tôi bèn đến chiếc tủ cất hành lý mà khi mới vào khách sạn người bồi phòng đã mang hộ cất tại đây. Giờ thì hành lý của tôi cũng như chiếc đồng hồ quả quít đã không cánh mà bay. Tôi trở về giường để quan sát lại một lần nữa con người nằm bên cạnh đang say sưa trong giấc ngủ.
    Ông ta vẫn nằm yên bất động. Tôi cố lấy hết sức can đảm cúi xuống để nhận diện kẻ đó là ai? Tại sao lại lên nằm bên cạnh tôi như vậy? Người này có liên quan gì với tôi chăng? Nhưng tôi thật sự hốt hoảng khi nhận ra kẻ ấy không ai xa lạ mà chính là tôi!
    Hóa ra tôi đã chết ? Có thật thế ư ? Tôi khựng lại lẩm bẩm tự hỏi:
    "Mình chết thật rồi ư?".
    - Ừ, thì anh chết thật rồi, Hà Mịch ạ! Một giọng nói hơi quen thuộc đã từng nhiều lần tôi nghe thấy, nhưng bây giờ không còn nhớ nữa, đang văng vẳng bên tai tôi.
    Tôi cũng chẳng khác gì anh, nhưng có điều là tôi chết trước anh lâu lắm rồi. Thôi bây giờ anh theo tôi, ra ngoài kia ngồi ôn lại những việc anh đã làm trong suốt chặng đường anh còn hiện hữu ở thế gian!
    Tôi chỉ nghe tiếng nói mà tuyệt nhiên chẳng nhìn thấy bóng dáng của ai đó đang đeo đẳng bên mình. Tôi lặng lẽ theo âm thanh của kẻ đó dẫn dắt đến nơi mỏm đá trắng rực rỡ những tia sáng lấp lánh như ánh ngọc, và lung linh tợ như ánh kim cương dưới ánh mặt trời.
    Như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đó ấn mạnh vai tôi, thế là tôi từ từ ngồi xuống! Tiếng nói của ai đó lại văng vẳng vọng lên:
    - Anh Hà Mịch! Hãy ôn lại đi cuộc đời của anh từ ấu thơ cho đến khi buông tay nhắm mắt!
    Thế là hình ảnh của cả cuộc đời tôi lần lượt hiện ra trước mắt như một cuộn phim trình chiếu trên màn ảnh. Thật nhanh và thật súc tích. Tôi nhìn thấy cả những việc thiện và những điều tội lỗi mà lúc sinh thời mình đã nhúng tay làm.
    Tất cả đều hiện ra một cách rõ ràng, không sơ sót lấy một tơ hào nào! Một cuộc đời của con người không phải là ngắn ngủi, song với hình ảnh trưng ra các hành động mà trong lúc sinh thời tôi đã tạo nên lần lượt từ trong tiềm thức tôi xuất hiện phơi bày ra trước mắt!
    Xem xong cuộn phim, tôi lại nghe thấy giọng nói ngọt ngào vẳng vọng đến:
    - Hà Mịch! Bây giờ thì tôi đưa anh đi tìm Tình Thương nha!
    - Tình thương?
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment


    • #32
      - Vâng! Đó là một sinh vật "Ánh Sáng".
      Và tôi đã được gặp. Khi nhìn thấy sinh vật Ánh Sáng tôi biết ngay đó là hình ảnh Đấng Quyền Uy Tối Thượng.
      Người Ánh Sáng rực rỡ gấp cả hàng ngàn, hàng vạn lần của vầng thái dương, nhưng lạ lùng thay ánh sáng rực rỡ phi thường của Sinh Vật Ánh Sáng đó không làm cho tôi choáng mắt. Tôi có cảm tưởng nguồn ánh sáng quí báu đó hàm súc cả sự hiểu biết, và ban bố cho tôi một thứ tình yêu vô hạn.
      Câu chuyện chết của anh Hà Mịch kể, làm tôi sực nhớ lại chuyện anh thợ máy Tom chết dưới chính cái xe của mình. Câu chuyện này được ghi lại trong tập Nguồn Suối Đen của Mark Twain, nhà văn hào nước Mỹ. Khi Tom được cứu sống, có một nữ ký giả đến phỏng vấn:
      - Anh có thể kể trường hợp anh được sống lại hay không?
      - Thật tình tôi không thể
      diễn tả lại bằng lời nói.
      - Tại sao lại không?
      - Vì đó là chuyện một cái gì mà trong cõi đời này không biết được và không thể nói hết được.
      - Là thế nào, thưa anh?
      - Bởi nó toàn là Tình Yêu!
      - Tình yêu? Thế là nghĩa làm sao?
      Anh Tom nhắm nghiền mắt lại, như thể để ôn lại và tận hưởng những gì anh đã thu nhận được khi anh chết. Và giây lâu sau mới bắt đầu kể tiếp:
      - Chắc cô cũng thừa rõ, trên đời này chỉ có tình yêu vợ chồng và lòng yêu quý con cái là bao trùm hơn tất cả. Ấy thế mà những thứ ấy nó chẳng thấm tháp vào đâu đối với Tình Yêu Ánh Sáng.
      Đó là một thứ tình yêu mênh mang bao trùm cùng khắp. Tôi cũng đã từng nghe thầy tôi kể lại sau khi người đọc từ những tập sách của các nước Tây phương, cũng không ngoài sự ca tụng vị linh thần Ánh Sáng, có một sinh lực thật đặc biệt, một sức sống vô cùng quý báu. Họ có phép thần thông và nơi họ không bệnh hoạn hay ưu tư sầu muộn.
      Anh Hà Mịch như bị tràn ngập nỗi xúc động, nên lại thêm một lần nữa, giọng anh nghẹn ngào, mãi đến khi tôi, chú Sĩ Cát và anh Lâm Trần thúc giục, lúc ấy anh mới bắt đầu thuật tiếp:
      - Thầy tôi cũng cho biết mặc dù được tiếp xúc với sinh vật Ánh Sáng, linh hồn kẻ chết cũng chưa có thể trở thành một linh hồn toàn thiện, toàn hảo được.
      Nó vẫn còn vướng víu bởi những tội lỗi đã phạm phải lúc sinh thời. Vì vậy, những linh hồn này vẫn còn phải vất vưởng ở chốn thế gian mà người sống không thể nhìn thấy bằng mắt của người phàm được.
      Họ, những vong hồn vất vưởng ấy sống chung đụng với ta, nhưng nào đã có ai biết được? Lúc ấy các vong hồn chẳng may mắn đó chưa biết suy nghĩ, ước muốn điều gì? Có lắm linh hồn khi còn sống thân xác bị vướng phải tật gì, thì khi chết vẫn đa mang tật ấy!
      Vì vậy những người nghiện rượu trác táng, khi chết linh hồn chưa siêu thoát qua Cửa Tử được, mà họ phải cứ lảng vảng đến quán rượu để tiếp tục hưởng thụ kiếp sống thấp hèn như vậy. Do đó, hình ảnh của sinh thể Ánh Sáng cũng phai mờ với họ. Sự đau đớn tự họ đem lại còn cao hơn sự quằn quại của những cơn bệnh trầm kha ở thế gian.
      - Có cách nào để thoát được không? Người nữ ký giả này hỏi.
      - Nếu dốc lòng chừa cải, và nếu còn luyến tiếc trần gian thì họ có thể được tái sinh để đền bù tội lỗi!
      Đến đây, tôi bất thần hỏi:
      - Anh tin là có sự tái sinh sao?
      - Có! Tôi tín là có. Chắc chắn chú Sĩ Cát và luôn cả anh Lâm Trần cũng đều tin như vậy. Thật khó lòng mà giải thích tỉ mỉ được, bởi nó vô cùng phức tạp.
      Nhiều khi có những linh hồn chưa đi đầu thai được thì sống chung đụng với chúng ta đêm cũng như ngày. Lỗ San nên nhớ rằng linh hồn thuộc về chiều đo thứ tư. Luồng sóng điện của họ khác hẳn với sóng điện của chúng ta.
      - Khi anh chết, anh có nhìn thấy ma không?
      - Không phải đợi đến khi chết mới nhìn thấy mà ngay cả lúc sống, trong điều kiện nào đó chúng ta đều có thể nhìn thấy người chết. Có người nhạy vía còn thấy ma hiện lên hay bị ma hành!
      Đạo thờ quỷ thần ở Phi Châu, đừng tưởng đó là dị đoan, vô căn cứ, phản khoa học, mà là một chứng minh cho sự kiện có người chết đang sống giữa chúng ta.
      Họ là những linh hồn không siêu thoát, họ bị đày đọa giữa trần gian, nơi họ phạm lắm điều tội lỗi. Những vong hồn này luôn luôn cầu nguyện xin được "Sinh Thể Ánh Sáng" cho họ được chuộc tội!
      Chú Sĩ Cát bỗng nhìn chú Lâm Trần mỉm cười hỏi:
      - Hình như anh Lâm Trần cũng đã...
      Không đợi chú Sĩ Cát nói hết câu, anh Lâm Trần gật đầu đáp lại:
      - Đúng vậy. Tôi cũng đã trải qua một lần lìa bỏ thế gian này!
      - Vâng. Tôi cũng đã từng một lần chết. Nhưng cái chết của tôi có phần khác hơn anh Hà Mịch. Tôi cũng gặp được Linh Thần Ánh Sáng và tiếp nhận lòng nhân từ mà tôi cảm thấy không còn danh từ nào diễn tả hết được!
      Ánh sáng của Linh Thần bừng sáng lên như một vầng hào quang rực rỡ. Tôi có thể nói rằng nếu Linh Thần có thể chấp nhận cho tôi được sống vĩnh viễn bên cạnh Người, thì chính đây là bước đầu tiên tôi xin được ơn che chở đó.
      Nhưng mà không bao lâu sau đó, vầng hào quang rực rỡ của vị Linh Thần Ánh Sáng mờ nhạt dần đi, và cuối cùng là những bóng ma chập chờn hiện ra trước mắt! Hình ảnh của những bóng ma này lúc thì như những chiếc đầu lâu trắng hếu, khi thì hình ảnh của các dạng hình người đầu thú.
      Lại có cả những bóng đen dị hợm, vây chung quanh tôi như sẵn sàng quẳng tôi vào đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Bên tai tôi như thể có những âm thanh rền rĩ, kéo dài như một điệp khúc của bản nhạc trầm buồn tiễn đưa kẻ chết đến chốn an nghỉ cuối cùng!
      Tiếng nhạc cứ thế vang lên và biến mất giữa khoảng không gian mênh mang vô tận. Bất giác, tôi có cảm giác như mình biến thành như con vụ đang bị một sức mạnh vô hình quay tít đến độ tôi nhận thấy tất cả cảnh vật chung quanh đều biến mất, chỉ còn là một điểm đen nhỏ mút bằng đầu ngòi bút viết xoáy mạnh vào mắt tôi.
      Và cứ như thế hết vòng xoáy này đến vòng xoáy khác, tôi phải hét lớn lên vì đau đớn. Thế rồi bất thần tiếp theo sau đó, toàn thân tôi như bị bàn tay vô hình nào đó xốc mạnh lên và vứt cả xác thân tôi xuống tận đáy một hố sâu thăm thẳm, bên dưới lúc nhúc từng đàn rắn rít.
      Chúng chỉ đợi khi xác thân tôi rơi xuống là đổ xô đến bám lấy tôi cùng khắp, quấn vào chân tôi, tay tôi, cổ tôi và lè dài chiếc lưỡi đỏ như lửa ra liếm khắp mặt mày tôi từ tai, mắt, mũi và luôn cả miệng, mồm tôi không bỏ sót một chỗ nào.
      Thú thật, tôi sợ đến lạnh điếng cả người. Đàn rắn làm cho tôi kinh hồn khiếp vía đã đành, lại còn bị hàng trăm con rít đầu vàng chui vào trong người tôi, tranh nhau với cả hàng đàn bò cạp đen sì sì không biết cơ man nào mà kể, len lỏi cùng khắp ở châu thân tôi.
      Chỉ cần một cái chích nhẹ truyền nọc độc vào cũng đủ làm cho cả thân hình tôi sưng vù lên như cái thây ma chết sình trôi lềnh bềnh trên mặt nước. Trước cảnh tượng này tôi run lên cầm cập, muốn hét lớn lên cầu cứu, nhưng miệng mồm tôi như khớp hẳn lại.
      Giữa lúc đó, thì bỗng có tiếng ai văng vẳng bên tai:
      " Lâm Trần, ý thức giống như cả một lòng đại dương mênh mông, trong đó có những sinh vật khác nhau sống với các mực nước khác nhau.
      Đó là hình ảnh hàng ngày cho ta thấy những gì đã xảy ra trong cuộc sống, sẽ được sàng lọc và đọng lại trong ý thức, tiềm thức và luôn cả trong vô thức nữa!
      Lâm Trần, hiểu rồi chứ? Với những kẻ thiếu lòng nhân, cái chết như một cơn ác mộng. Bây giờ thì hãy quay về đi, bởi cái kiếp của ngươi vẫn còn chưa trả hết. "
      - Và, chú ..
      Tôi chưa kịp hết lời chú mỉm cười cầm lấy tay tôi chua chát nói:
      - Vâng! Tôi sống lại sau lời nói ấy từ vị linh thần Ánh Sáng phát ra. Và ta quyết sẽ làm lại cuộc đời tôi không cần giải thích, ắt Lỗ San cũng thừa rõ.
      Chú Sĩ Cát trầm ngâm trong giây lâu, đoạn cất tiếng nói:
      - Tiềm thức có khi giải quyết được những vấn đề mà ý thức không làm nỗi. Nó có thể cho ta các ý tưởng mới. Nhưng với chú Lâm Trần thì khác, bởi chú không muốn phải trải qua thêm một lần nữa sống trong cơn ác mộng.!
      Giấc mơ có nhiều ý nghĩa khác nhau. Tùy theo trường hợp. Có người vì bị ám ảnh của những biến cố xảy ra trong cuộc đời của họ. Cũng có những giấc mơ dự báo cho tương lai.
      Ví như vài tuần trước khi cố Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln bị ám sát, ông đã nằm mơ thấy người ta đang khóc sụt sùi. Và sau đó ông mơ thấy xuống dưới tầng trệt trông thấy có cỗ quan tài đã đóng kín nắp để ở gian phía đông.
      Ông quay lại hỏi người lính đứng gần:"Ai trong cỗ áo quan thế?" Người lính này đáp lại: "Thưa, đó là Tổng Thống! Ông ta đã bị ám sát." Và quả nhiên, sau đó thì biến cố đã diễn ra cho ông.
      Với chú Lâm Trần thì không phải như vậy. Có thể chú là một trong những người được nhìn thấy cảnh địa ngục. Nhưng may mắn thay chú vẫn còn nặng nợ với đời, và vị Linh Thần Ánh Sáng ở tận cõi Siêu Nhiên kia cho chú một cơ hội để ăn năn hối cải, nếu chú tự xét mình đã phạm phải lỗi lầm.
      Tashilunpo là một tu viện đẹp nhất của xứ sở Tây Tạng. Tôi đã từng có một lần vào buổi sáng bình minh cùng Minh Sư đưa nhau đến ngọn đồi đối diện để chiêm ngưỡng công trình mỹ thuật này. Ánh sáng trải lên các mái ngói đỏ làm nổi bật giữa nền bóng đen của ngọn núi Thương Tích.
      Hình ảnh này làm tăng thêm vẻ huyền bí của tu viện! Được biết tu viện được xây tại ngay thủ đô Xigaze của Tây Tạng mà hiện nay là thành phố lớn vào bậc thứ hai của xứ sở này chỉ đứng sau có Lhasa.
      Tu viện Tashilunpo chính là nơi đức Panchen trú ngụ, xây từ năm 1447, trải qua nhiều thế kỷ phát triển dần lên. Hiện tu viện có một diện tích 18.5 ha với hơn 50 giảng đường được chạm khắc tinh vi, gồm 3.600 phòng, tất cả đều dành riêng cho các vị Lạt Ma.
      Theo lời Đức Phật sống Chiazha Qamba Chili cho biết thì tu viện này trước kia có đến 3.800 vị Lạt Ma, nhưng ngày nay thì số Lạt Ma còn ít hơn, chỉ 780 vị mà thôi.
      Và Ngài cũng cho biết vị tu viện trưởng vào giữa thế kỷ 20 này là hiện thân của Đức Phật sống - là cấp lãnh đạo tối cao xuất xứ từ một trong các Lạt Ma qua nhiều thử thách cam go và được sự tín nhiệm tuyệt đối.
      Mỗi khi có một Lạt Ma được xem là thuộc hàng đạo cao đức dày viên tịch, người ta tin là ngài sẽ đi đầu thai thành một đứa bé khác.
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • #33
        Nơi ăn ở tu niệm hàng ngày của Chiaza là một căn nhà có hai phòng xây bằng gạch, các cây cột dựng lên thuộc loại quí mộc, đủ sức chịu đựng trọng lượng của tầng nhì đúc bằng đất nung bóng loáng.
        Tuy sống nơi tu viện, đức Chiaza vẫn biết cách sử dụng những máy móc cần thiết như máy đánh chữ Tây Tạng, hiện nay là loại máy Flying Fish, Ngài còn vận áo veston hay thắt cà vạt vào những trường hợp cần thiết khi giao dịch với bên ngoài đúng theo nghi lễ ngoại giao.
        Ngài là một Lạt Ma sùng tín tiêu biểu nhất điều hành Tashilunpo trong nhiệm vụ tôn giáo. Trách nhiệm được xem là nặng nề nhất của đức Chiaza là phải tìm cho được đứa bé hóa thân của đức Panchen thứ 10 đã viên tịch vào năm 1989 vì bệnh tim.
        Tưởng cũng nên biết, không phải ai cũng có thể vào tu viện được, mà phải trải qua một cuộc tuyển chọn gắt gao qua các cuộc sát hạch khắp các nơi như Tây Tạng, Nội Mông, luôn cả các tỉnh Vân Nam, Quí Châu và Sơn Đông.
        Đời sống tại tu viện, rất khắc khổ, phải dậy từ lúc 6 giờ sáng, dọn mình và tụ họp tại nguyện đường đề đọc kinh sáng Sutra, sau đó thì ăn sáng. Nghỉ ngơi được một lúc, đến đúng 9 giờ 30 kéo nhau đi làm công quả cho tu viện hay đến lớp học giáo lý.. Buổi chiều đọc kinh Sutra, ăn cháo chứ không ăn cơm vào thời điểm này.
        Các thức ăn không có gì là cầu kỳ. Họ ăn thật đơn giản chỉ có bánh Tsamba và uống trà beurre Yak cùng một ít muối. Hai điều cấm kỵ của các Lạt Ma là tuyệt đối kiêng rượu và thuốc lá.
        Tính số thu nhập của tu viện hàng năm chỉ vào khoảng hơn một triệu rưỡi đồng Yuan tức vào khoảng 540.800 dollars Mỹ. Số lương hướng tùy theo địa vị quan trọng, người cũ hay mới, do hội đồng tối cao Tây Tạng định đoạt.
        Có thể nói cả tu viện là một mê cung gồm nhiều phòng, nhưng phòng nào cũng âm u đen tối. Hành lang dẫn đi đến các phòng thì chật hẹp còn các sân lại đầy cả bóng râm. Ở các nguyện đường có đặt nhiều tượng Phật. Tại góc phía Đông Bắc có xây một bức tường bằng gạch cao đến 32 mét và bề rộng đến 42m.
        Tại nơi đây, hàng năm cứ vào tháng 6, các khách hành hương tấp nập đổ về. Các Lạt Ma vẽ hình các đức Phật trương lên, mỗi ngày một bức từ Phật Quá Khứ, Phật Hiện Tại đến Phật Vị Lai tại ngay bức tường cao này.
        Nếu đi về hướng Tây Bắc ắt sẽ nhìn thấy một tòa nhà đỏ thắm. Bên trong là một pho tượng Phật Quán Âm bằng đồng lớn, có thể được xem là một pho tượng thuộc hàng bậc nhất của hành tinh này. Pho tượng có chiều cao đến 26 thước vuông, nặng 115 tấn.
        Và một pho tượng khác cũng vĩ đại không kém. Đó là pho tượng được trang hoàng toàn bằng ngọc trai, mã não, san hô và luôn cả vàng lẫn bạc. Được biết pho tượng này do 110 tay thợ tài ba nhất nước làm việc suốt bốn năm trường mới tạo nên được bức tượng quí giá này.
        Nhìn lên phía bên trên các bức tượng này còn treo la liệt các bức tranh vẽ có niên đại từ nhiều thế kỷ. Hình ảnh của các bức tranh vẽ đó ghi lại sự tích của Đức Thích Ca Mâu Ni và Giáo chủ Zongkaba vị Giáo chủ (1358-1419) đã sáng lập nên Phật giáo Tây Tạng, mà ngày nay được nhiều người sùng tín.
        Sau đó, tôi được Minh Sư cho nghỉ ngơi thêm một thời gian nữa trước khi chuẩn bị đi làm nhiệm vụ mới. Nhân đó tôi được gặp gỡ nhà thiền sư Nhật Bản mà nhiều người cho là bị tẩu hỏa nhập ma. Tuy vậy, riêng tôi, thì đây chính là một vị chân tu có nhiều kiến thức, cần phải học hỏi.
        Thế là, tôi lại tìm đến. Chỉ sau ba tiếng gõ nhẹ vào cửa, và tức thời cánh cửa được mở toang ra với giọng cười hiền hòa, nhà thiền sư ẩn tu tại thạch cốc trước kia đã đứng đợi sẵn lên tiếng:
        - Ta đoán chẳng sai. Thế nào rồi hôm nay chú cũng lại đến viếng thăm ta.
        - Vâng, thưa thiền sư, con cũng biết thế nào thiền sư cũng vui lòng cho phép con đến bái hầu thiền sư thêm lần nữa.
        Lại một tràng cười phá lên, làm mất đi sự yên tĩnh vốn dĩ của căn phòng mà tôi được biết chẳng ai được phép khuấy động.
        - Ta biết. Nếu Lỗ San không biết phép thần giao cách cảm thì chắc chắn là chẳng có giờ phút tái hội hôm nay.
        Nói đến đây thì bên trong, một chú tiểu bưng ra cái khay bạc đặt ra giữa bàn, lễ phép cúi đầu và bước lùi lại theo đúng phong cách thân phận của một chú tiểu.
        Chúng tôi bắt đầu vào chuyện sau vài tuần trà thơm sực mùi hương xứ Ấn. Ngài chậm rãi nói:
        - Lỗ San, chắc chú nhớ câu chuyện tương truyền về đức Đạt Ma Thiền Sư vị thủy tổ của chùa Thiếu Lâm, mà ta đã suốt bảy năm trường học theo cung cách diện bích tham thiền trong một thạch động thiên nhiên trên đỉnh Ngũ Nhũ, và đức Đạt Ma này đã đốn ngộ được.
        Tức thời Người đã truyền rao cho các đệ tử được biết. "Khi mà thanh tâm tĩnh trí, vạn niệm đều không thì đầu óc vị chi minh triết. Đã vậy còn thấu suốt mọi lẽ tình, mọi sự vật được khắc ghi trong trí nhớ, khác nào như dao chém đá vậy." Chú biết điều này chứ ?
        Tôi gật đầu:
        - Nhờ Thiền sư nhắc nhở, con đã nhớ lại điều này.
        - Thế cháu biết Thiền định như thế nào không ?
        - Thưa, sẽ đưa đến trí tuệ sinh!
        - Vậy thì Tĩnh tọa có khác gì chăng?
        - Không mà có. Bởi Tĩnh tọa được xem là một trong những phương pháp đạt được "Huệ".
        Nó là một cảnh giới Thượng thừa của Phật gia. Còn Đạo gia thì nói nhằm vào "hư tĩnh", vào "vô vi".
        Nho gia thì nói đến Trai tâm, Tọa vong, nhưng theo con thì đặc biệt chỉ có môn Yoga, là có thể giúp cho ta phong phú hơn lên về mọi nhu cầu cần thiết trong đời sống.
        Nhà Thiền sư mù lòa giương đôi mắt trắng nhợt ra như cố thu cả hình ảnh của tôi vào trong tiềm thức người sau khi nghe tôi đưa ra sự nhận xét như trên.
        - Lỗ San, ta không ngờ ngươi lại có một ý tưởng sắc bén được như thế! Đúng vậy. Nói đến Yoga phải kể đến Dhyana, Samadhi. Chính nó là chiếc chìa khóa khai mở tiềm năng trí tuệ của con người.
        - Thưa Thiền sư, có thể cho con biết các bậc hiền triết Đông phương quan niệm điều này như thế nào chăng?
        - Các bậc cùng một lập luận trong một quan niệm như nhau: Con người là một tiểu vũ trụ, được cấu tạo theo đúng mô hình của đại Vũ trụ. Chú hiểu chứ?
        - Thưa, con chưa được sáng tỏ lắm!
        - Chú chưa sáng tỏ, tức chú đã hiểu. Chú hiểu một cách mù mờ. Vậy ta khai thông hộ chú điểm này. Tất cả những gì trong Vũ trụ này đều có mục tiêu cuối cùng của nó.
        Vậy mục tiêu cuối cùng của cuộc đời là sự "đắc Đạo". Có nghĩa là hòa nhập được với Đại Vũ trụ, không còn có sự cách biệt với nhau nữa, nó sẽ hòa tan vào thực thể bao la vô cùng vô tận.
        - Cái gì gọi là hợp, thưa Thiền Sư.
        Một là Hợp Đức với Hợp Trời, hai là Hợp Ánh sáng với hai vầng Nhật Nguyệt, ba là hợp bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, và hợp Cát Hung với Quỉ Thần. Đó gọi là Hợp mà Lỗ San muốn biết.
        - Nhưng hợp rồi sẽ đi về đâu ?
        Nhà Thiền sư mù ngửa mắt lên trời cười vang lên quay mặt về phía tôi đáp lại:
        - Giải thoát! Là sự giải thoát! Đó là sự Minh Triết Thiêng Liêng. Biết chứ Lỗ San?
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment


        • #34
          CHƯƠNG SÁU
          CỔ HIỀN THẠCH ĐỘNG

          Nói về sự minh triết thiêng liêng, tôi sực nhớ có lần chú Sĩ Cát có nhắc đến những quyền năng kỳ vĩ, một thứ quyền năng đưa con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi! Nhưng có điều phải làm thế nào để đạt cho được những quyền năng kỳ vĩ đó? Đây là điều khiến tôi ưu tư không ít!
          Nghĩ vậy tôi vội lên tiếng hỏi:
          - Thưa Đại sư, theo con được biết muốn thoát ra khỏi vòng tục lụy con người cần phải triệt tiêu cho được mọi hoạt động của tâm thức? Vậy phải làm cách nào để thực hiện sự triệt tiêu tâm thức hầu đạt cho được không gian tuệ giác mà ta thường gọi là Chidakasha? Đại sư có thể giải thích hộ cho không?
          - Khi con rắn lửa huyền bí mà các nhà Yoga thường gọi Kundalini thoát khỏi được giấc ngủ mê mệt trong Muladhara, nó sẽ chui vào Shushumna và từ đó con rắn lửa huyền điệu đó lần lượt vươn lên từng bậc charka một, để tiến đến một trình độ cao hơn trong không gian tâm linh.
          Chính cái tâm linh không gian mà chú vừa nói đó là "quyền năng kỳ vĩ". Các hành giả sẽ phải cố gắng tiến lên từng bậc một, mới mong kiến nhận được vũ trụ và từ đó thăng hoa đến tột đỉnh Sahasrara, mà ta thường gọi đó là Niết Bàn.
          - Nói như vậy, thưa Đại sư, khi con người đạt đến đỉnh Sahaasara thì cũng chẳng khác nào như hình ảnh của Đấng Thế Tôn toàn tri, toàn năng sao?
          - Thì đúng là vậy. Lúc ấy ta sẽ thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, thì Đấng Thế Tôn toàn tri, toàn năng cũng có thế mà thôi! Nhà sư Nhật nói đến đây đột nhiên im lặng. Mãi trong giây lâu sau mới ngẩng mặt lên nhìn tôi hỏi:
          - Lỗ San, chú có bao giờ thắc mắc về cái vũ trụ bao la này với sự hiện hữu của con người chúng ta từ đâu mà có không? Chắc chắn là chú suy tư nhiều về điều này. Không phải chỉ có mỗi mình chú với ta là băn khoăn không thôi, mà ngay từ thuở hồng hoang của nhân loại, tiền nhân của chúng ta cũng đã từng ưu tư không ít!
          Vấn đề này trong những năm tháng đầu của thế kỷ 21, nhà khoa học nổi tiếng James Peebles đã có lần bày tỏ nỗi băn khoăn của mình về những điều kỳ diệu của vũ trụ, đồng thời ông cũng thú thật về những cố gắng vô vọng của loài người như sau:
          "Cho mãi đến ngày nay chúng ta vẫn hoàn toàn còn mù tịt là vũ trụ đã từng như thế nào vào thời điểm trước khi hình thành và sự thành hình của vũ trụ mà chúng ta đang hiện diện ra làm sao? "
          Cuối cùng nhà khoa học này khẳng định: "Thật khó lòng mà tìm hiểu được, không phải thiên niên kỷ này mà còn bao nhiêu thiên niên kỷ tiếp nối nữa!"
          Thế có nghĩa là nhà khoa học lừng danh này khẳng định mọi sự bí ẩn trong vũ trụ này con người không thể nào khám phá được.
          Theo nhà vật lý Murray Gell-Mann thì con người cho dù đến bao nhiêu thiên niên kỷ chăng nữa cũng khó đạt đến những biên cương cuối cùng của những bí hiểm trong vũ trụ. Ông đã viết lên tâm tư mình bằng những dòng chân thành xuất phát ra từ tận tâm tư mình:
          "Thật không thể nào tưởng tượng được hàng tỉ tỉ con người chúng ta đang chen chúc nhau trên một hành tinh bé nhỏ, trong khi cái hành tinh này bay chung quanh mặt trời như hàng tỷ mặt trời khác trong một dải ngân hà bé nhỏ so với hàng triệu triệu các dải ngân hà khác hiện hữu trong vũ trụ, làm sao có thể hiểu được những bí hiểm đầy sự huyền nhiệm này?
          Thật là hoài công khi các nhà khoa học cứ mãi chạy đua để cố tìm hiểu các cấu trúc bên trong vũ trụ hầu thỏa mãn lòng tự hào của mình, để tuyên bố với toàn thể những con người ở vũ trụ này rằng là.
          Bên trong vũ trụ chẳng có Thiên Đàng hay Niết Bàn nào cả, chẳng có bàn tay mầu nhiệm sáng tạo ra nó mà chỉ có mỗi con người mới chính là các Đấng Toàn Trí,Toàn Năng của nhân loại.
          Nhà khoa học này đã phải kêu lên:
          - Con người kiêu ngạo đến thế sao?
          - Lỗ San ạ!
          Nhà sư Nhật tiếp tục nói:
          - Nhiều khi ta muốn điên lên trước những bí ẩn của vũ trụ, mà tâm thức của ta cho ta biết nhất định phải có những sự bí ẩn thâm sâu mà con người không thể nào lý giải được.
          Có thể vì không lý giải được nên ta trở thành như kẻ điên dại, chính ngay cả các ngài Lạt Ma cũng nghi ngờ về sự mất thăng bằng con người của ta như chú đã biết.
          Rồi bất thần nhà sư Nhật Bản cũng như lần đầu tôi đến viếng thăm, Người đứng bật dậy nắm lấy cánh tay tôi bảo:
          - Lỗ San, hãy ra khỏi nơi này ngay, ta đã sắp đến giờ rồi.
          Thế có nghĩa là nhà sư Nhật này sắp nổi cơn điên loạn! Tôi đứng lên và làm theo lệnh của nhà sư Nhật Bản bước ra khỏi phòng! Tôi vừa đi vừa liên miên suy nghĩ thì gặp thầy tôi từ phía trước mặt đi lại.
          Nhưng lần này thầy tôi không đi một mình mà cùng đi với Người có hai vị sư già. Cả ba vừa thong thả bước đi vừa chuyện vãn như tuồng tâm đắc lắm.
          Khi đi gần đến, một trong hai vị sư già nhìn tôi mỉm cười, cử chỉ thân mật của vị trụ trì này tôi có cảm tưởng ông ta như một khối băng giá đông đặc. Minh Sư nhìn tôi tươi cười hỏi:
          - Lỗ San, chú vừa từ trong phòng của nhà sư Nhật ra đây phải không? Hai vị trụ trì đã bảo cho ta biết là chú đang phân vân về sự bí mật của đất trời! Có đúng như thế không?
          Tôi gật đầu:
          - Vâng, thưa Minh Sư, có như vậy. Nhà sư Nhật đã cho con biết sự bí mật của vũ trụ luôn luôn bị khép kín, thật khó lòng có ai có thể tìm hiểu được.
          Một trong hai vị sư già này lên tiếng:
          - Chú Thúc Di Lê Lỗ San Lâm Bát! Hãy gác lại chuyện vũ trụ vào một dịp khác. Giờ chúng tôi có nhiệm vụ báo tin cho chú biết là Ngài Tối Cao Lạt Ma đã có kết quả điều tra về lai lịch của chú.
          Tôi không khỏi ngạc nhiên, giương mắt nhìn vị trụ trì già nua này khẽ hỏi:
          - Để làm gì, thưa ngài trụ trì ?
          - Để có được một kết quả mà hiện tất cả mọi người trong Thiền Viện chúng ta đều vui mừng khi hay tin chú được công nhận là hậu thân của Ngài.
          "Là hậu thân của Ngài Tối Cao Lạt Ma" đã viên tịch? Đầu óc tôi như quay cuồng. Trước mắt tôi mọi vật đều như không đứng nguyên một chỗ.
          - Thưa Ngài Trụ Trì là nghĩa như thế nào ?
          Vị Trụ Trì cười lớn:
          - Rồi chú sẽ được biết những gì sẽ xảy đến cho chú trong tương lai. Bây giờ thì.
          Đến đây tôi chỉ còn loáng thoáng nghe tiếng được tiếng mất, và chỉ nhớ mang máng ở đoạn sau cùng nói về các lễ nghi, phẩm tước và chức vị Trụ Trì Đại Sư mà tôi sẽ được ban phát trong dịp lễ tấn phong sắp đến.
          Sau khi nói hết mọi điều, hai vị trụ trì cùng cúi rạp người xuống trước đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt và luôn cả tôi trước khi chia tay, rẽ sang ngả khác.
          Tôi thẫn thờ bước đi như một kẻ không hồn. Thầy tôi khẽ đặt tay lên vai tôi bằng giọng nhẹ nhàng nói:
          - Bây giờ thì chú đã biết hết mọi diễn tiến đã qua và chuẩn bị tư tưởng để tiếp nhận những việc làm sắp đến. Cuộc điều tra mà các vị trụ trì thông báo đó chẳng qua chỉ để chứng minh những gì mà Ngài Tối Cao đã biết từ lâu.
          Nói đến đây, thầy tôi mỉm cười vỗ vai tôi bảo:
          - Đây là ngày mà thầy trò chúng mình vui vẻ nhất. Ta phải có một bữa khao đặc biệt đãi chú, chúc chú gặp nhiều may mắn và thành công trong nhiệm vụ mới sau này.
          Đức Minh Dà Đông Đạt đưa tôi vào một căn phòng đặc biệt mà tôi chưa từng được đến bao giờ. Hai thầy trò tôi ngồi đối diện tại một chiếc bàn gỗ mun bóng lộn, trên mặt bàn đã có sẵn mâm cơm thật thịnh soạn.
          Hôm ấy tôi ăn thật nhiều. Món nào cũng ngon lành, ăn quên cả no mãi cho đến khi không còn ăn nổi được nữa. Sau bữa cơm chúng tôi lại được mời sang phòng bên cạnh uống trà thơm nơi một bộ ghế xa cừ kê cạnh cửa sổ.
          Chính tay Đức Minh Dà Đông Đạt trao tôi chung trà thơm thượng hảo hạng của xứ Ấn. Uống xong chung trà này, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy tinh thần thơ thới hẳn lên.
          - Lỗ San! Thầy tôi bắt đầu nói. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã cho phép ta thuật cho chú nghe về Cổ Hiền Thạch Động.
          Nói đến đây, Thầy tôi nhìn chung quanh và khi biết chẳng có ai ở trong phòng trà đặc biệt này bèn khẽ nói vào tai tôi:
          - Vài hôm nữa sẽ có một đoàn tăng sĩ đến nơi đó.
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • #35
            Tuy chẳng biết nơi đó là nơi nào nhưng nghe được tin này lòng tôi bỗng dấy lên niềm vui dào dạt. Bỗng dưng tôi cảm thấy hình như cái tên "Cổ Hiền Thạch Động" quen thuộc đối tôi, chẳng biết bằng cách nào và bao giờ tôi được biết đến nơi ấy?
            Minh sư nhìn tôi không chớp mắt đoạn gật gù đầu lên tiếng tiếp:
            - Lỗ San, ngày xưa ta cũng như chú . Ta cũng được đặc biệt huấn luyện và cũng được may mắn học hỏi được nhiều điều bổ ích. Nay thì hẳn nhiên Sư phụ ta đã qua đời! Ngài qua đời từ lâu rồi.
            Nhục thể của Người hiện vẫn còn giữ tại Mật Tẩm Kim Thân. Những ngày Ngài còn tại thế, ta từng được tháp tùng đi khắp nơi thế giới, ngay cả Cổ Hiền Thạch Động mà chú sắp đến đó nữa. Ngày ấy, ta theo thầy đến một mỏm đá trắng, chính nơi ấy.
            Nhưng nói đến đây Minh sư bỗng chăm chú nhìn về phía trước mặt, được một lúc Người bảo tôi:
            - Kìa! Lỗ San! Hãy ngồi ngay xuống nơi này! Phía trước mặt kia, chú có nhìn thấy cái gì không?
            Theo bàn tay chỉ của Minh sư, tôi khẽ đáp:
            - Thưa, mỏm đá hoa cương!
            - Đúng. Đó là mỏm đá trắng bóng loáng. Nơi mỏm đá trắng ấy, ngày xưa ta đã từng ngồi nơi ấy trước mặt thầy ta. Đó là cửa ngỏ bắt đầu đi vào Cổ Hiền Thạch Động!
            - Cổ Hiền Thạch Động! Tôi reo lên.
            - Đúng là vậy! Ta đã từng nhìn tận mắt.
            Tôi vô cùng thích thú. Nỗi vui hôm ấy, tưởng chừng như trên đời này chẳng có gì làm tôi vui sướng hơn nữa. Nhưng mà lại một lần nữa khi nhìn sang bên kia tôi lại có cảm tưởng là dường như nơi này đối với tôi chẳng có gì lạ lùng.
            Hình như tôi đã từng đến qua một lần nào rồi. Nhưng có điều lúc nào và trường hợp nào thì tôi cũng chẳng làm sao nhớ nữa!
            Nghe nói đến Cổ Hiền Thạch Động, tôi không che dấu được nỗi vui mừng khôn xiết! Minh Sư Minh Đà Đông Đạt mỉm cười đưa tay chỉ về phía trước mặt một lần nữa đoạn thì thầm bên tai tôi:
            - Lỗ San! Lúc bấy giờ ta theo chân Sư Tổ đi cùng với với ba Lạt Ma lên đường đến một dãy núi xa xôi đầy gian nan hiểm trở. Chính nơi ấy, một ngày không xa mấy chú sẽ có sứ mệnh đến đó để làm một nhiệm vụ mới do Đức Lạt Ma Tối Cao giao phó.
            Sở dĩ ba chúng ta cùng Sư tổ đến nơi ấy vì vừa xảy ra một vụ nổ kinh thiên động địa làm rung chuyển cả núi non, hất tung những tảng đá lớn vung vãi khắp nơi quanh sườn núi.
            Sư phụ đã cho chúng ta biết: "Đó là một sự kiện đặc biệt mà các nhà tiên tri đã cho biết từ bao nhiêu thế kỷ. Vì lẽ đó mà chúng ta cần phải đến tận nơi để nhìn xem chuyện gì đã xảy đến sau đó?"
            Thế là ngay hôm sau chúng tôi mang khăn nải theo chân Sư tổ lên đường! Đi được vài ngày thì đến chân một đỉnh núi cao, muốn lên tận đỉnh cao không phải là chuyện dễ dàng! Càng tiến lên cao đường đi càng quanh co hiểm trở. Mãi đến ngày nay ta cũng chẳng biết phải diễn tả nỗi gian truân nguy hiểm đó như thế nào!
            Phải quanh co mất hơn nửa ngày trời trên các ngách đi trên cao độ trên sườn núi, chỉ cần sơ ý để sẩy chân thì cả thân xác chúng ta không tránh khỏi nát như tương ngay khi rơi xuống.
            Thú thật, nhiều khi chúng ta phát run lên khi phải băng ngang qua khu đá dựng, nhìn lên bên trên thì toàn là những thỏi đá nhọn nhô ra cản cả lối đi, bên dưới thì hố sâu thăm thẳm, còn bề ngang của ngách đi không đủ đặt cả hai bàn chân cùng một lúc, muốn tiếp tục bước đi, phải cố lê từng bước một.
            Vì vậy mà chúng ta phải lần mò bước đi từng bước. Tuy gặp cảnh khó khăn như vậy, nhưng bọn ba người chúng ta không hề tỏ ra mềm lòng thối chí, vẫn lặng lẽ theo thầy ngày đi đêm nghỉ.
            Cho mãi đến ngày thứ năm, hôm ấy trời chưa rạng sáng Sư tổ đã dậy, nhưng trông Người có vẻ còn chưa khỏe hẳn. Lúc bấy giờ Người đang dõi mắt đăm chiêu như đang suy tư một vấn đề gì. Chúng ta bèn xúm xít quanh để vấn an và săn sóc Người.
            Buổi sáng hôm ấy khác với thường lệ, Sư tổ im lặng chẳng đáp lại chúng ta một lời nào.
            Riêng với ta, không khỏi phải ưu tư. Vì trong bọn ba Lạt Ma trẻ tháp tùng cùng Sư tổ lần này thì ta là người trọng tuổi hơn, coi như phải có bổn phận chịu trách nhiệm đến sự an nguy của Sư phụ. Nếu vạn nhất Người bị đau ốm thì chúng ta phải làm thế nào đưa xuống núi cho được an toàn? Nhất lại là, con đường lên cũng như xuống núi đầy cả gian nan hiểm trở.
            Ta đang mải mê ưu tư thì bỗng nhiên thấy châu thân Người bắt đầu cử động! Hình như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đang xâm nhập vào châu thân thầy ta, đã mấy lần Người vừa lồm cồm đứng lên đã phải ngã chúi xuống ngay xuống, mặc dù bên cạnh đã có bọn chúng ta cố mang cả sức lực của mình giúp cho Sư tổ chống trả lại.
            Trong tình trạng này, chúng ta đề nghị Sư phụ nên tạm thời nghỉ lại, đợi đến khi lấy lại đầy đủ sức khỏe hãy tiếp tục lên đường. Nhưng Người vẫn cương quyết bác bỏ lời đề nghị của chúng ta. Thế là thầy trò chúng ta lên đường ngay sau đó. Qua khỏi rặng núi thứ hai chúng ta phải tạm nghỉ lại qua đêm để lấy sức leo trèo lên vách đá thẳng tắp để đến đỉnh núi cuối cùng!
            Sáng hôm sau, khi mặt trời lên được khoảng con sào thầy trò ta mới bắt đầu lên đường để tiến đến ngọn núi được xem là cao nhất, nơi đây thầy ta ra lệnh cho tất cả hãy dừng lại bên này đỉnh núi. Sư phụ cố nhoẻn miệng cười nhìn chúng ta lên tiếng hỏi:
            - Các chú khỏe chứ ?
            - Chúng con chỉ lo cho Sư phụ không được bình an còn chúng con thì hoàn toàn khỏe cả.
            Sư phụ đưa tay chỉ về hướng trước mặt: "Các chú có thấy không, nơi hòn núi bên kia. Có một khe nhỏ bị các loại đá lấp gần hết. Chính đó là nơi đã xảy ra tiếng nổ rền vang cả trời đất làm tung tóe các núi đá hầu như khắp nơi trong vùng.
            Điều đặc biệt khiến chúng ta phải lưu ý là nơi các vách đá bên kia rực lên óng ánh làm lóa cả mắt Phải chăng Sư tổ đưa bọn Lạt Ma trẻ chúng ta đến viếng thăm cảnh Bồng Lai Tiên Cảnh?.
            Trong lúc đó thì sư phụ ta từ từ đứng lên, lần này thì trông Người khỏe hẳn lại, không cần đến sự giúp đỡ của chúng ta nữa. Dường như có một sức mạnh huyền nhiệm nào đó đã giúp Người chạy nhanh xuống phía sườn núi, nhanh đến nỗi chúng ta cố gắng chạy theo vẫn không thể nào bắt kịp.
            Tuy đang hổn hển thở vì bị mệt nhoài, song ta cũng có thể nghĩ là Sư phụ làm sao có một sức mạnh phi thường như vậy, nếu không có một sức huyền nhiệm nào hỗ trợ ?
            Tôi gật đầu:
            - Có. Con tin rằng là có. Và sau đó thì Sư Tổ phải giúp đỡ Minh Sư cùng các sư thúc, sư bá ?
            - Không! Người vẫn đợi chúng ta ì ạch sang được bên kia sườn núi. Người ngồi trên một mỏm đá trắng. Việc qua bên kia sườn núi hôm nay không như các ngày hôm trước. Lần này chúng ta phải đi trên các mảnh đá núi lở lấp cả lối đi, nhọn hoắt và thập phần khó khăn, nguy hiểm.
            Chúng ta vừa leo trèo vừa run sợ. Trống ngực đánh liên hồi, nhất là lúc bắt đầu leo lên bờ tường núi thẳng tắp, phải dùng cả tay lẫn chân bám chặt vào từng hốc đá nhỏ.
            Cái chết sờ sờ hiện ra trước mắt. Chỉ cần lơ đễnh, bám trật ngón chân hoặc trệch với lỗ hổng đầy rong rêu trơn trợt thì cả thân xác này hóa thành đống thịt vụn. Trèo lên như vậy đã quá nguy hiểm rồi, nhưng đến lượt về thì thập phần khó khăn hơn.
            Nói đến đây, Minh Sư nhìn chung quanh tứ phía rồi mỉm cười kể tiếp:
            - Thật là nguy hiểm. Sư phụ ta già nua còn đầy đủ can đảm vượt mọi hiểm nguy huống hồ là bọn chúng ta tuổi còn trẻ há lại chẳng làm được như vậy ru?! Ta thầm nhủ với lòng mình là không nên tỏ thái độ hèn nhát. Lòng tự ái không cho phép ta run sơ, ï làm như thế là khiếp nhược.
            Chúng ta đi quanh quẩn ven sườn núi cạnh miệng bờ vực sâu thăm thẳm mà đường đi thì chỉ vừa đủ cho từng người một lần bước đi. Chúng ta phải cố vận hết sức tinh thần để giữ cho bước chân đi thăng bằng.
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • #36
              Phần thì đá dưới chân vừa nhọn vừa cứng nhắc, phần không khí trên ngọn núi cao này như loãng đi. Chúng ta vẫn cố hết sức trèo lên cho kỳ được. Mồ hôi toát ra nhễ nhại cả áo.
              Được một lúc ta cảm thấy cổ mình khô quánh lại. Hơi thở bắt đầu khò khè. Buồng phổi ta như nhói lên. Chúng ta đang leo lên một cái hốc đá cao hơn thung lũng lối hơn một trăm năm mươi thước.
              Thật là diễm phúc, cái hốc núi này lại có một phiến đá phẳng lì, rộng đủ cho cả năm người nằm nghỉ ngơi thoải mái. Chúng ta không ai bảo ai đều ngả lưng xuống để nghỉ mệt một chút trước khi tiếp tục cố trèo lên nơi sư phụ đang ngồi. Chiếc áo vàng của Người phơ phất trông hệt như lá cờ phướn.
              - Thưa Minh Sư, từ nơi phiến đá Minh Sư ngả lưng nằm nghỉ đến nơi sư tổ ngồi đợi có còn xa lắm không?
              - Tuy khá xa, song không đến nỗi xa lắm như chú nghĩ. Sư phụ ta ra hiệu bảo chúng ta tạm nằm nghỉ, khi sức khỏe đầy đủ hẳn tiếp tục lên đường. Đây là chặng đường vô cùng nguy hiểm. Các Lạt Ma trẻ bạn ta đều tái xanh cả mày mặt, đâu có khác gì ta cũng đang hãi hùng khiếp vía.
              Sau một lúc nghỉ ngơi, chúng ta lại bắt đầu lên đường. Càng lên cao, gió thổi càng lộng, khiến các áo chúng ta đang mặc tung bay kêu lên phần phật. Có điều, đá sỏi bên trên lưng núi bị gió thổi bay lên rơi xuống trên đầu trên cổ chúng ta. Càng lúc, con đường đi càng thu nhỏ lại, khiến việc leo trèo của chúng ta vô cùng khó khăn hơn.
              Một trong ba Lạt Ma chúng ta bỗng kêu lên oai oái:
              - Chết mất, các sư huynh ơi! Tôi đang bám nhằm vào chiếc đuôi con rắn hổ mang Làm sao bây giờ?
              - Thả tay ấy ra, tìm chỗ khác mà bám vào.
              - Đâu có được.Chỉ có mỗi một lỗ này thôi.
              - Thì cố trườn người lên nắm lấy gốc cây kế cận đó.
              Tuy tôi nói vậy, song cũng lo sợ hộ cho người anh em Lạt Ma kia, nếu bị con hổ mang quay lại cắn thì chắc chắn chưa kịp ngấm độc rắn thì anh ta cũng đã bị trượt chân rơi tan xác rồi.
              Tôi cố thu hết can đảm để giúp cho anh ấy có đầy đủ tinh thần chịu đựng hầu thoát khỏi cơn nguy biến :
              - Hãy để yên bàn tay, đừng nhúc nhích khiến nó giật mình...nguy hiểm lắm.
              - Làm sao bây giờ ?
              - Thì cố nhắm cho kỹ cành cây nhô ra từ trong đám bụi kia rồi phóng tay đến nắm lấy. Phải thật cẩn thận đấy nha.
              Và, có lẽ vì quá sợ con hổ mang trong ngách núi mà người Lạt Ma trẻ tuổi đồng bọn của chúng tôi, nhắm mắt làm liều phóng đến bụi rậm cách đó lối một thước.
              Khi nhìn thấy thân hình anh ta chuyển động, tim ta như ngưng đập hẳn lại. Chỉ cần một chút sơ hở không nắm được cành cây thì tính mạng sẽ không còn nữa. Nếu chuyện ấy xảy ra, ta sẽ vô cùng ân hận.
              Nhưng may mắn thay! Người Lạt Ma trẻ này đã thoát khỏi miệng của con hổ mang và đang lơ lửng đu mình nơi rễ chuột của cây si, ta mừng rỡ reo lên:
              - Thoát hiểm rồi! Giờ đạo hữu hãy đưa chân bám vào ngách đá bên kia đi. Chúng ta lại có nơi tạm nghỉ nữa rồi. Sư phụ đang đưa tay vẩy chúng ta kia kìa. Bây giờ ba chúng ta chỉ cần rướn mình một chút là lên phía hốc đá ấy.
              Đó là một cái hốc đá hơi nghiêng nghiêng có bề rộng lối ba thước. Hang đá mát lạnh. Tiếc thay lúc bấy giờ ta không có đủ thì giờ để đi sâu vào tìm hiểu có những gì bên trong hang sâu thăm thẳm đó?! Ta lên trước tiên, trong lúc đó hai Lạt Ma trẻ kia còn ì ạch. Vì thế, ta lần lượt chìa tay ra tiếp sức họ từng người một.
              Khi chúng ta lên đến nơi được một lúc, phải đứng nép sát người vào nhau vì gió trên cao bắt đầu thấm lạnh. Hang này được Sư phụ ta cho biết vì bị đá lở mà thành. Và từ nơi đây lên đến chỗ Sư phụ đang ngồi không bao xa nữa và có đường dẫn lên nên không mấy khó khăn.
              Sư phụ chúng ta mừng rỡ vỗ vào vai từng môn đệ một khen thưởng:
              - Các chú xứng đáng là môn sinh của ta. Ngồi xuống đây đi và nhìn sang vách núi ngay trước mặt kia kìa. Các chú có nhìn thấy gì không?
              Và không đợi cho chúng ta đáp lại, sư phụ gật đầu nói tiếp:
              - Ngay chỗ chúng ta đang ngồi nhìn sang thì trông như cái bóng của một cây cổ thụ trải dài. Các chú đã khỏe cả rồi chứ ?
              Vừa nói, sư phụ vừa đứng lên.
              - Giờ thì chúng ta đi lại về phía đó để nhìn xem.
              Càng tiến sâu vào bên trong hang động càng rộng ra và ánh sáng tỏa ra cùng khắp. Chiếc bàn đá hoa cương tròn bóng loáng, xếp chung quanh là mười cái ghế cũng bằng một loại đá như nhau.
              Trên các mặt tường của hang động đều khắc những hình ảnh người cổ đại, đủ cả mọi lứa tuổi: nam, phu, lão, ấu. Chúng ta đang mải mê quan sát quên cả sư phụ. Mãi đến khi quanh quất nhìn quanh thì Người đã không còn ở bên cạnh, không biết Người đã biến đi đâu mất từ bao giờ!
              Chúng ta chia nhau đi tìm nhưng vẫn không thấy bóng dáng người. Ta buộc lòng phải lên tiếng gọi.
              - Minh Sư! Minh Sư ở nơi nào? Minh Sư chỉ đường cho chúng con.
              Lúc đầu chúng ta còn gọi nhỏ nhẹ, song vì sợ hãi, chẳng biết Sư tổ có gặp điều gì hay không, nên ta lớn tiếng gọi như thể gào lên:
              - Sư phụ...Sư phụ ơi!
              Chúng ta cùng một lúc gào lên, nhưng vẫn bặt vô âm tín, chẳng nghe thấy tiếng của Người hồi âm lại. Ta bắt đầu thật sự lo lắng. Chúng ta đưa nhau tiến vào các ngách không còn ánh sáng nữa. Nơi đây tối om như mực. Phải vận dụng nhãn quan để nhìn vào các ngách đá tối om như nhà mồ.
              Có nhiều ngách nhỏ đến nỗi không thể đứng thẳng để đi vào được mà cần phải cúi gập người xuống bò vào tận bên trong, đưa tay sờ soạng từng ngách nhỏ. Ta nghĩ dại, biết đâu Sư tổ gặp rắn rít hay bởi sức khỏe bị suy yếu ngã vào một nơi nào đó.
              Nghĩ vậy, ta lại cố trườn mình bò lê vào bên trong. Thật khó khăn mới có thể nhích lên một vài tấc Khi ta bò lối mười thước thì gặp một cái ngách quẹo khác. Và cứ như thế, ta phải quẹo đi quẹo lại không biết đến bao nhiêu lần mà vẫn hoài công vô ích.
              Nỗi lo sợ của ta mỗi lúc một tăng lên khiến ta gần như tuyệt vọng. Ta cũng như hai vị Lạt Ma kia cố thu người lại để chui qua các ngách nhỏ bên trong lòng hang động! Càng tiến sâu vào, bóng đen càng dày đặc thêm, đến nỗi ngửa lòng bàn tay ra cũng không tài nào trông thấy được!
              Bất giác ta cảm thấy phía sau gáy dường như có vật gì lạnh buốt đang bò lướt ngang qua!. Ta thật sự kinh hoàng vì biết đó là loài rắn hổ mang, một loài rắn tối độc, chỉ cần phản ứng bằng một cử động nhỏ cũng đủ nhận lãnh lấy ân huệ cuối cùng ban phát ra từ loài ác xà này. T
              rước nỗi nguy khốn thập tử nhất sinh này ta phải thu hết can đảm nằm yên bất động! Lúc bấy giờ ta cố hóa thân thành một vật vô tri vô giác, nhắm nghiền mắt lại phó mặc cho định mệnh an bài. May mắn thay! cuối cùng con rắn hổ mang này bò qua một ngách đá cạnh đó. Thoát được cảnh hiểm nguy này ta thở phào nhẹ nhõm.
              Vì hang đá có nhiều ngõ ngách, dễ bị lạc lối nên thỉnh thoảng chúng ta lên tiếng báo cho nhau biết về vị trí và sự hiện diện của mình hầu tránh bị mất liên lạc có thể dẫn đến hậu quả vô cùng tai hại là chẳng bao giờ tìm thấy nhau được nữa.
              Nói đến đây Minh Sư nhìn tôi hồi lâu đoạn nói tiếp :
              - Ta ngại nhất lúc bấy giờ nếu rủi ro chúng ta bị lạc nhau thì chắc chắn là khó lòng tìm nhau ra được nữa.
              - Đến trọn đời ? Tôi lên tiếng hỏi Minh sư.
              - Tất nhiên là vậy.
              Nếu một trong ba chúng ta bị lạc lối, rất có thể như lạc trong mê hồn trận không bao giờ có lối thoát cho đến trọn đời như chú nói, trừ phi họ tìm được lối thoát ra bên ngoài. Còn không thì cuối cùng gục ngã xuống bên trong lòng các hang động để làm mồi cho loài ác thú.
              - Thưa Minh Sư, như vậy thì trường hợp này đã từng xảy ra ?
              - Tất nhiên là có... có thể hàng trăm nhân mạng.
              - Họ lặn lội thám hiểm như thế để làm gì?
              - Để đi tìm Cổ Hiền Thạch Động.
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • #37
                Minh Sư lại im lặng, đôi mắt Người dõi về một nơi xa xôi nào đó, mãi giây lâu sau Người bắt đầu lên tiếng tiếp tục thuật lại cuộc hành trình của Người với Sư tổ đến nơi thạch động đầy huyền nhiệm này:
                - Chúng ta mò mẫm trong hang động tối tăm để tìm ra lối thoát thì bất thần phía trước mặt từ từ hiện ra một loại ánh sáng mờ đục màu ván sữa! Nơi đây, không còn bị bóng đen bao phủ nữa.
                Chúng ta reo lên tỏ vẻ vui mừng vì biết là mình đã thoát ra được khỏi màn đen của hang động, rồi từ từ tiến về phía cửa ngách cuối cùng, bước ra một lòng hang rộng lớn tràn ngập cả ánh sáng khác thường mà từ xưa nay ta chưa hề trông thấy bao giờ .
                Đây là một cái động đá lớn rộng thênh thang toàn đá hoa cương màu trắng xen lẫn với màu xanh trứng sáo. Điều khiến cho ta kinh ngạc là khi nhìn lên bên trên trần hang động như thể được kết lên hàng ngàn hạt kim cương lung linh tỏa ra muôn ngàn màu sắc rực rỡ.
                Đến giữa hang thấy có nhiều máy móc được sắp xếp thứ tự, ngăn nắp. Đó là những máy móc lạ lùng chúng ta chưa từng được trông thấy. Lạ lùng nhất làm cho chúng ta ngạc nhiên không ít và cùng nhau trầm trồ khi đứng trước một số máy khá lớn bên ngoài bọc lớp vỏ thủy tinh trong suốt dựng sát cạnh tường đá.
                Chúng ta quẹo sang bên phải nhìn thấy có những tảng đá đủ mọi hình dạng, tròn trịa có, hình thuẫn có, luôn cả các hình vuông vức hay hình chữ nhật, lớn nhỏ không đồng đều nhau được dựng lớp lang bên cạnh vách đá.
                Điều làm cho chúng ta không khỏi phải kinh ngạc khi nhìn thấy các tảng đá này phát lên ánh sáng lấp lánh đủ các màu sắc, xanh có, đỏ có, vàng ửng có, hoa lý có, hồng nhạt và xanh màu da trời vô cùng xinh đẹp.
                Chúng ta tò mò tiến đến bên cạnh nhìn xem đây là những vật gì mà tỏa ra ánh hào quang rực rỡ như vậy?! Thì ra đó là những chiếc đầu lâu được khắc bằng một loại đá đặc biệt không thể tìm thấy ở thế gian này.
                Gần đây tại Ý, các nhà khảo cổ đã khám phá những khuôn mặt người khắc trong các tảng đá có niên đại vô cùng xa xưa. Nhà khảo cổ học Pietro Gaietto thuộc Viện Bảo Tàng Nguồn Gốc Loài Người đã tìm thấy nhiều tác phẩm điêu khắc hình mặt người như vậy có niên đại cách đây 200.000 năm.
                Pietro đã khám phá ra vào năm 2001 tại khu vực Borzonasca ở Ý Đại Lợi khi vô tình tìm ra từ trong đám gạch vụn dùng để xây nhà. Thoạt đầu Pietro bắt gặp một hòn đá trông giống cái đầu lâu rất đặc biệt. Sau khi xem xét ông cho biết đó là tác phẩm được chạm trổ khá công phu và vô cùng tinh tế, kỹ thuật ngày nay khó lòng điêu khắc được như vậy.
                Theo lời nhà khảo cổ Pietro Gaietto: Nếu tôi không để ý, chúng có thể đã biến thành vật liệu để xây cất rồi. Theo ông cho biết đó là những phiến đá có khắc hình hai mặt con người, một mặt có râu trông rất biểu cảm còn mặt kia thì nhẵn thín, không có râu ria với hai mắt, miệng rộng, mũi to.
                Chúng có thể là sản phẩm nghệ thuật của người Homo Erectus giống dân này đã bị tuyệt chủng cách đây hơn 150.000 năm,vốn có di tích được tìm thấy tại nơi đây.
                Vấn đề này cũng có nhiều tranh cãi trong giới khoa học. Có một số trong giới khoa học cho rằng người Homo Erectus chưa có đủ khả năng tư duy hình tượng cần thiết để điêu khắc được các tác phẩm nghệ thuật như nhà khảo cổ Gaietto đã nghĩ.
                Họ nêu ra dẫn chứng các di chỉ nghệ thuật của nhân loại thường có niên đại ít hơn 100.000 năm, rõ nhất là nhạc cụ 70.000 năm được tìm thấy ở động Blombos tại Nam Phi.
                Lại còn có một số cổ vật được nhiều nhà nghiên cứu cho là những tác phẩm nghệ thuật. Các pho tượng nhỏ Tantan được khai quật lên ở Moroon xa xưa hơn về mặt cổ đại đối với các khuôn mặt của Borzonacco vào năm 1999, được biết là các pho tượng này có niên đại từ 400.000 năm.
                Có điều giới khoa học tin là tất cả những cổ vật tìm thấy trên đây nhất định không phải được tạo ra bởi con người. Những đường nét giống mặt người có thể là sản phẩm của các quá trình địa chất.
                Sau đó thì chúng ta qua một cửa hang nhỏ để tiến sang bên phía trái của hang động này. Nơi đây, được bày biện những "thẻ bài" dài ngắn không đều nhau cẩn thận gắn trên tường đá hoa cương, mới nhìn vào trông hệt như một bức tranh phong thủy.
                Đây có thể nói là một bức vẽ thủy mạc có nghệ thuật siêu việt. Một dòng sông đang chảy lặng lờ, lăn tăn gợn sóng. Một chiếc đò nan với một cô lái đò có lọn tóc dài lơ lửng trên đôi bờ vai thon tròn, một thân hình mảnh mai mặt hướng về một phương trời xa tắp.
                Ta tiến lại nhìn kỹ vào các thẻ bài, thì ra đó là những thẻ tre được viết bằng những chữ cổ tự. Chữ viết thật rõ nét. Thú thật ta không đọc được các thẻ tre ấy người xưa đã viết những gì bên trên ấy?
                (Tưởng cũng nên biết các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy hàng nghìn cổ thư chính thức cách đây hơn 2.000 năm và khoảng 20.000 trúc thư cổ xưa cung cấp thông tin chi tiết về đời sống văn hóa, kinh tế,chính trị của triều đại nhà Tần (221-206 trước CN.
                Tài liệu cũng bao gồm việc tiêu thụ thực phẩm của quân đội và mối quan hệ giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau. Theo Tân Hoa Xã cho biết những cổ vật này được khai quật tại tỉnh Hồ Nam thuộc miền Hoa Nam. Các chuyên gia đã so sánh những tài liệu mới khám phá với những tượng binh lính và ngựa bằng đất nung của thời nhà Tần được khai quật tại tỉnh Sơn Tây trong thập niên 70.
                Các nhà nghiên cứu cho biết chi tiết 2.000 thẻ tre được khai quật trong thế kỷ 20. Ông Guo Weimin, phó giám đốc Viện Khảo Cổ Hồ Nam cho biết: Đây là lần đầu tiên tại Trung Quốc phát giác được một khối lượng thẻ tre khổng lồ ghi lại lịch sử từ thời Xuân Thu 770-476 trước Công Nguyên. Đến triều đại Tây Hán 206 trước CN và 25 năm sau Công Nguyên.)
                Trong lúc đang ngẩn ngơ trước cảnh tượng lạ lùng này thì có tiếng cười vang lên khiến chúng ta giật mình quay lại, thì ra Sư tổ đã đứng ngay bên cạnh từ bao giờ. Không gì vui mừng bằng khi nhìn thấy lại Người, chúng ta đứng vây quanh như thể không cho Người biến mất đi lần nữa. Và như thông cảm Sư tổ dang rộng vòng tay ra ôm lấy chúng ta nói lên bèn giọng cảm động:
                - Ta biết các con lo lắng không ít trong suốt thời gian ta không ở bên cạnh. Thật ra, ta phải có bổn phận đi tìm kiếm những gì trong "Mật Thư" đã ghi lại, đợi khi nào tìm được nơi cất giấu những bảo vật trong hang động này ta sẽ quay trở lại đón các con, không ngờ các con đã tự tìm ra trước khi ta quay trở lại để tìm kiếm các con! Thật Sư phụ không phải, không phải!
                Nhưng chỉ nói đến đây, Minh sư Minh Dà Đông Đạt bất giác im lặng. Riêng tôi không cần đợi lời giải thích, cũng biết là Minh Sư đang nhận các thông tin truyền đạt đến. Và đúng như vậy, Người nói:
                - Ta định đưa các chú đến Cổ Hiền Thạch Động để chiêm ngưỡng ngoại cảnh của thạch động này, nhưng ta được lệnh của Đức Tối Cao Lạt Ma gọi về. Âu đó là các chú không có cơ duyên!
                Riêng mỗi Lỗ San thì khác, chú còn được cơ may nhìn tận mắt những tất cả những gì huyền nhiệm được cất giấu bên trong lòng thạch động này trong thời gian không còn xa nữa.
                Một hôm tôi đang ngồi suy tư về những điều bí mật bên trong dãy Hy Mã Lạp Sơn nơi lòng Cổ Hiền Thạch Động trong chuyến đi mạo hiểm mà thầy tôi vừa kể thì Minh Sư Minh Dà Đông Đạt cho người gọi tôi đến:
                - Ngày mai này các chú Sĩ Cát, Lâm Trần, cùng anh Hà Mịch trở về Ấn Độ, ta cho phép chú được đặc biệt nghỉ một ngày trước khi những người bạn này của chú rời khỏi Tây Tạng và có thể sẽ không còn bao giờ gặp gỡ nữa!
                Tôi sững sờ hỏi lại Minh Sư:
                - Không bao giờ hội ngộ nữa?
                - Không bao giờ. Tất cả đều có định mệnh. Con người không ai có thể tự quyết định lấy ý muốn của mình.
                Tôi lẩm bẩm tự hỏi:
                "Tại sao lại như vậy?".
                Nhưng thầy tôi đã lên tiếng khuyên nhủ:
                - Đừng thắc mắc Lỗ San! Rồi chú hẳn biết tại vì sao chú sẽ không còn có những cuộc gặp gỡ như vậy.
                Thế là ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở ven bờ suối. Không gì sung sướng bằng khi được ngồi quây quần lại bên nhau nói đủ thứ chuyện. Cuối cùng chú Sĩ Cát cho biết:
                - Ngày mai này, chúng ta sẽ trở lại Đông Dương!
                - Trở về bán đảo Đông Dương? Tại sao không trở về Ấn Độ?
                - Không! Chúng ta còn một ít việc phải làm trong một thời gian nữa. Lỗ San, chúng ta cầu mong sao cho Lỗ San thành công viên mãn trong cuộc hành trình mà ta biết định mệnh đã an bài cho chú.
                Hai anh Hà Mịch và Lâm Trần cũng đều khuyên tôi như vậy...Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này, chúng tôi thảo luận đủ mọi điều như về thuyết tiến hóa của linh hồn, làm sao cho đạt được đến mức toàn thiện, đạt đến trạng thái phát triển tâm linh thật hoàn hảo như một siêu nhân.
                Đạo lý cổ truyền cho biết mục đích "toàn thiện" và "giải thoát là quả vị cuối cùng, còn mau hay chậm thì tùy vào sức chịu đựng hy sinh và sự cố gắng của chính mình.
                Khi bàn đến chuyện sự tu luyện và hóa kiếp của con người, chú Sĩ Cát đã giải thích về giáo lý Huyền Môn. Theo chú sự phát triển về mặt thể chất, trí tuệ và tâm linh không thể nào đạt được trong một kiếp sống ngắn ngủi ít hơn trăm năm.
                Nếu con người chỉ sống duy nhất ở một kiếp này rồi vĩnh viễn không còn nữa thì cái quả vị tối cao ấy đâu có thể nào thực hiện được? Mà không thực hiện được thì ắt là nó sẽ trở thành điều hoàn toàn tuyệt vọng.
                Tôi sực nhớ lại có lần thầy tôi đã nói:
                "Con người ai cũng phải trải qua những thất bại của buổi ban đầu. Âu đó là một điều dễ hiểu. Không ai có đủ thì giờ và cơ hội để phát triển mọi khả năng, sửa đổi mọi khuyết điểm để đạt đến mục tiêu Toàn Thiện cùng một lúc được!"
                Hôm ấy chúng tôi đưa nhau đến ven các bờ suối để ngồi yên lặng hàng giờ lắng nghe tiếng nước suối chảy róc rách, tiếng gió rừng vi vu, cả tiếng của chim kêu vượn hú, hầu tận hưởng cảnh thiên nhiên của rừng núi.
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • #38
                  Chúng tôi cũng cùng nhau đến thăm khu rừng đầy cả hàng ngàn cánh bướm đủ màu đủ sắc đang nhởn nhơ bay lượn trên hàng ngàn cánh hoa rừng rực rỡ.
                  Chúng tôi như bị một sức huyền nhiệm cuốn hút tiến sâu vào khu rừng đầy muôn hương nghìn sắc Tôi nâng lên từng cánh hoa mà không hề dám mạnh tay sợ làm lay động và xúc phạm đến vẻ đẹp thiên nhiên của tạo hóa kết thành.
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • #39
                    THOÁT VÒNG SINH TỬ

                    Sinh lão bệnh tử là cái vòng lẩn quẩn, Thánh Nhân đã bảo như vậy. Sinh ra, lớn lên, già nua, bệnh hoạn, và cuối cùng thì quay đầu về núi. Chẳng ai thoát cả. Âu đó là qui luật của tạo hóa. Ấy thế mà, đối với các đấng siêu phàm thì thoát hẳn khỏi vòng sinh tử.
                    Anh Hà Mịch dừng lại một lúc, dõi mắt nhìn lên tận đâu đâu mãi đến phút giây sau mới tiếp tục nói:
                    Đúng vậy! Đó là các đấng siêu phàm thoát vòng sinh tử, là các bậc Chân sư mà hiện nay đang ẩn dật trong lòng dãi Hy Mã Lạp Sơn huyền nhiệm này. Các ngài có huệ nhãn nhìn thấy được ánh hào quang bao quanh của mỗi người và luôn cả hai dòng "Thần Kinh Lực", mà mắt của con người phàm như chúng ta không bao giờ nhìn thấy được.
                    Chú Sĩ Cát cũng đề cập đến các đấng Giác Ngộ từng truyền cho hậu thế Thánh ngữ Aoum Man Ni Pát Mi Hồng nói lên sự an lạc, dịu hiền, sự thanh thoát rung cảm với cõi Vô Hình nối liền giữa con người với đấng Thiêng Liêng.
                    - Đó là sức mạnh đầy quyền lực vô địch của con người, hay là sức mạnh phi thường của Thần Kinh Lực, của Prana, mà cũng là sức mạnh của dòng tư tưởng, xuất phát từ một quyền năng vô lượng.
                    Chú Sĩ Cát kết luận :
                    - Nếu ta hoàn toàn hiểu rõ được Prana và điều khiển được nó thì trên cõi đời này chẳng còn có quyền lực nào mà con người không có được.
                    - Vậy thì, như theo lời chú giảng giải, con người chúng ta sẽ điều khiển được mọi vật thể trong vũ trụ, từ cái nguyên tử li ti đến cả cái thiên thể cực lớn? Tôi muốn chú xác định điều này.
                    - Đúng vậy! Chú Lâm Trần cũng khẳng định như vậy Khi mà con người làm chủ cái Prana và luôn cả cái Thần Kinh Lực rồi thì chẳng khác nào các bậc siêu phàm ở chốn siêu nhiên.
                    - Nói như thế hóa ra ta có thể sánh mình như hàng Thánh Thần điều khiển được cả các linh hồn người chết? Tôi tò mò hỏi.
                    - Đến lúc ấy mọi thế lực thiên nhiên sẽ vâng theo mệnh lệnh của chúng ta, như đã tuân theo qui luật của vũ trụ.
                    Chúng tôi bàn thảo với nhau cả về khoa học của tôn giáo để tìm ra cái thực tại tối cao. Từ đó chúng tôi lần ra cái mốc cuối cùng cái triết của đạo giáo. Chúng tôi cũng lạm bàn về tâm linh của các Bồ Tát xuất phát từ cái Sambhogakaya hay cái hóa sinh phát xuất từ Mahakarana của các chư Phật Bồ Tát.
                    Chúng tôi cũng bàn đến các câu thần chú, mặc dù chẳng ai dùng đến nó, dù đó là "Lục Tự Thần Chú Vương Kinh" một câu chú biến được sự già nua cỗi cằn của con người trở lại sự trẻ trung tươi mát, hay đúng hơn là cải lão hoàn đồng.
                    Tôi sức nhớ lại Minh Sư có lần mang các lời lẽ trong "Mật Thư" nói về cái bản nguyên cuối cùng của vũ trụ, nó có thể đảo lộn được các mối quan hệ của "tâm vật".
                    Các phái trong giới nhà Phật như phái Thiên Đài phóng đại sức vô hạn tác dụng nội tại của "tâm", hay phái Pháp Tướng thì nặng về phần kinh nghiệm cảm giác theo như quan niệm "tâm ngoại vô vật, vạn pháp duy thức".
                    Trong khi đó phái Hoa Nghiêm thì bằng vào duy lý tính để nói lên thứ vũ trụ quan duy tâm này.
                    Lúc ấy, tôi đột ngột hỏi Minh sư :
                    - Thưa Minh sư, nói như thế thì chẳng hóa ra ai cũng cũng có thể đảo lộn "tâm vật" được sao?
                    - Tất nhiên là được, nếu ta không để ngoại cảnh làm giao động được tâm hồn mình. Chú có thể thành Phật, nếu chú thấu triệt được quan điểm "lương tri lương năng" thì chú có thể thành công được mọi việc.
                    Lúc bấy giờ chú có thể làm được ông Nghiêu, ông Thuấn, chú có thể thông suốt luôn cả quan niệm thể nghiệm cảm nhận của Đạo gia...mới là Phật. Vậy thì, Phật tính tồn tại trong tâm của mọi người chúng ta. Thế có nghĩa Phật tính là bản tính duy nhất của nhân tính bởi
                    Phật tính luôn luôn tồn tại trong tâm của mỗi người chúng ta, đừng để bất cứ một ý nghĩ nào làm sai lạc đi, mà sai lạc tức là "vọng niệm"... mà vọng niệm thì che lấp tất cả làm sao mà đốn ngộ được! Chúng ta phải "tự ngộ", "tự giác" để được thanh thản đi vào cõi Phật.
                    Chú đã từng nói về Huệ Năng với ta kia mà! Ông Tổ thứ sáu của phái Thiền tông này đã từng khuyến nhủ : "Hãy thận trọng, đừng để ý nghĩ sai lạc, nếu sai lạc thì sẽ bị diệt, hiểu biết tự tính, giác ngộ mà đến đất Phật".
                    Thế Lỗ San há chẳng nhớ "nhất sát na gian, vọng niệm cụ diệt, nhược thực tự tính, nhất ngộ tức chí Phật địa" đó sao? Đó là "đốn Ngộ", mà "Đốn Ngộ" tức là thành Phật rồi.
                    Mải mê chuyện trò với nhau quên cả trời bắt đầu tắt nắng. Một màu đỏ bao phủ cả núi rừng. Chẳng mấy chốc bóng đêm rủ xuống bao trùm lên vạn vật!
                    Chúng tôi trở về phòng, Minh Sư đã truyền cho nhà bếp dành cho chúng tôi một bữa ăn tối thịnh soạn. Đêm hôm ấy chúng tôi tiếp tục chuyện vãn suốt đêm vì biết rằng sẽ không còn cơ hội nào gặp mặt nhau lần nữa
                    Tôi lại bắt đầu trở lại nghe những buổi thuyết giảng của Minh Sư như thường nhật. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt quay lại câu chuyện bỏ dở tại Cổ Hiền Thạch Động hôm nào:
                    - Chúng ta theo sư phụ vào tận bên trong Cổ Hiền Thạch Động, càng lúc càng thấy quang cảnh nơi này thật lạ lùng. Ta sững sờ như một kẻ mất hồn. Cái động đá lớn như một đại sảnh, rộng thênh thang và bên trên là một trần đá phẳng lì cao vút, nơi nào cũng lấp lánh sáng như một rừng hoa đăng giăng mắc trên vòm trời!
                    Mãi một lúc sau, ta mới nhận ra đó là những bóng đèn đủ màu sắc đang tỏa ra muôn ngàn ánh sáng li ti như những hạt kim cương nhấp nháy. Bọn chúng ta còn đang ngơ ngác thì bỗng nghe có tiếng kêu lách tách vang lên cùng khắp hệt như các tiếng kim khí va chạm vào nhau.
                    Tiếp theo các âm thanh là một lằn sáng xanh tợ như mắt mèo hiện ra. Lằn sáng xanh này lớn dần lên và biến thành một bóng ma khi ẩn khi hiện chập chờn trước mắt. Bóng ma cứ lớn dần ra đến nỗi ta không không còn phân biệt được đó là bóng ma hay là bóng đêm nữa.
                    Trong lúc chúng ta như bị lạc trong mê hồn trận thì bất thần một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả thạch động. Thú thật bọn ta đều sợ xanh mặt, ngồi sát vào nhau và chẳng một ai dám nói lên lời nào. Sau đó không bao lâu như có luồng phóng xạ từ xa phóng lại, khiến ta có cảm tưởng đó là luồng phóng xạ của một vị Lạt Ma nào đó.
                    Có thể là của một vị Lạt Ma đã qua đời biến thành một bóng ma để đùa vói bọn chúng ta chăng?!
                    - Thưa Minh Sư, có đúng đó là trò nghịch đùa của một bóng ma không?
                    Minh Sư gật đầu:
                    - Sau đó là hình dáng của một bóng ma hiện lên mờ mờ ao ảo trông như hơi sương mờ không thể nào nhận diện được. Lúc bấy giờ đầu của bóng ma này nhẵn thín, không có lấy sợi tóc nào. Nhưng chẳng bao lâu sau đó bóng ma này mờ nhạt dần và cuối cùng tan biến mất. .
                    - Thưa Minh Sư, tôi hỏi. Sau chuyện bóng ma ấy còn có những sự kiện nào ly kỳ nữa không?
                    Người mỉm cười, không đáp vội, cầm lấy bình trà châm thêm vào chung rồi cứ nhịp độ như thế người uống liên tiếp cho đến khi bình trà không còn một giọt nào nữa. Tiếng cồng lại vang lên báo hiệu cho buổi lễ chiều sắp bắt đầu. Trước khi đứng dậy, mỉm cười đáp lại:
                    - Đã đến giờ đảnh lễ, đừng nôn nóng, chẳng còn bao lâu nữa chú sẽ được chính mắt mình nhìn thấy tất cả những gì diễn tiến sau đó. Ta có thể tóm lược đại khái là cách đây mấy nghìn năm, trên quả đất này từng có một nền văn minh cực thịnh.
                    Lúc bấy giờ con người đã từng biết sử dụng máy bay vượt khỏi sức hút của địa cầu. Chú nên biết rằng, tổ tiên ta đã từng sáng chế ra vô số máy móc chẳng phải chỉ để truyền tin cho nhau bằng âm thanh mà luôn cả về hình ảnh nữa.
                    Chú ngạc nhiên ư ? Không! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Chú có thể tin không, có một thời kỳ tổ tiên ta cho nổ quả bom khinh khí nhận chìm xuống lòng sâu bể cả mấy châu lục địa mà ngày nay vẫn còn những dấu tích!
                    Ngày hôm sau, Minh sư lại tiếp tục nói về những bức hình điêu khắc tại trong Cổ Hiền Thạch Động :
                    - Đó là một công trình nghệ thuật vô giá. Ta sững sờ nhìn từng nét khắc, thật tuyệt vời. Sao mà họ, những người cổ đại lại có bàn tay điêu luyện đến như thế. Sau này ta nghĩ chú sẽ không tránh khỏi xuýt xoa hoặc tiếc lời khen tặng.
                    Có những hình ảnh quái vật, mới thoạt nhìn thấy ta cứ đinh ninh đó là một con vật sống đang ngồi trên mỏm đá trắng. Và bên cạnh đó là những hình ảnh của bầy yêu tinh mình người đầu thú đang nhảy múa vây quanh đống lửa.
                    Chẳng những vậy, ta càng sửng sốt khi đứng trước một bức tranh lớn điêu khắc cảnh của bầu trời về đêm với những dãi ngân hà giăng mắc. Càng nhìn càng thấy như đó là một hình ảnh thật. các ngôi sao như thể đang nhấp nháy bên cạnh mặt trăng tròn vành vạnh. Sao mà tài tình đến như thế
                    (Gần đây, vào năm 2003 này, người ta đã tìm thấy các bức họa quái vật của người Ý Đại Lợi cổ đại. Nhờ vậy mà được biết nghệ thuật hội họa của người Etruscan, một giống người Ý Đại Lợi cổ đại, với những hình vẽ ma quỉ kỳ lạ, đang dần lộ diện tại ngôi làng Saterno, cách thành phố Siena 80 km. Phát hiện này được xem là một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất thời kỳ gần đây.)
                    Những bức tranh được điêu khắc như vậy có rất nhiều trên các bức tường trong Cổ Hiền Thạch Động. Đây không phải là những hình ảnh của một nền nghệ thuật còn sơ khai, mà chính là những dấu ấn được khắc ghi bởi các bàn tay khéo léo của những con người thời cổ đại.
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • #40
                      - Lỗ San, chú có nhận thấy như thế không?
                      Tôi gật đầu đáp lại:
                      - Thưa Minh Sư, đúng như vậy!
                      Những điểm sáng như các vì tinh tú phía bên trên mà chú trông thấy, đó là những hạt thủy tinh li ti mà nhà điêu khắc gia cổ đại đã khéo léo gắn vào một cách tài tình.
                      Nói đến đây người nhìn tôi mỉm cười :
                      - Bên trong các vì sao li ti đó là ánh sáng được phát ra bởi nguồn điện lực. Rồi đây chú sẽ có dịp được xem những hình thù quái đản khác. Ta đã trông thấy những động cơ làm bằng kim loại.
                      Khi đến một động cơ đầu tiên Minh Sư đã dùng tay quay thật mạnh vào một bánh xe và bỗng dưng tự nó phát ra những tiếng nổ liên tục cùng một lúc những tia chớp lóe lên bắn ra tứ phía. Thú thật lúc bấy giờ ta không còn bình tĩnh được nữa, đứng dang xa ra trố mắt nhìn trân trối.
                      Không phải mãi đến ngày nay con người mới biết sử dụng máy móc, điện lực mà từ thời xa xưa tại ngay trong hang đá của Cổ Hiền Thạch Động đã có sự hiện hữu của các động cơ như thế rồi.
                      Để giảng giải cho ta được hiểu thêm về nguồn điện năng, người mang một ít dụng cụ bằng thủy tinh trong một cái hộp ra và cột mỗi cái vào dây điện nơi đầu máy, đoạn quay mạnh cho phát ra tiếng nổ, rõ ràng ngọn lửa bật lên trong một cái bóng thủy tinh rồi tiếp nối bật sáng lên trong các bóng khác mà thầy ta đã cài vào.
                      Con người của chúng ta cũng có những nguồn điện lực như thế ấy. Vì vậy mà chúng ta thấy có các thuật thôi miên. Người ta có thể dùng điện lực của ta sai khiến kẻ khác, hoặc như để chữa bệnh chẳng hạn.
                      Ta có thể dùng điện lực của ta mở mang trí tuệ của chú mà không cần phải bửa cái sọ của chú ra để nhét vào. Chú có tin không ?
                      Tôi gật đầu:
                      - Thưa Minh sư, con tin là như vậy.
                      - Ta có thể bảo chú, khuyên chú, hoặc chỉ dẫn chú, trong lúc đó chú có thể chấp nhận hoặc từ khước những gì chú không muốn nhận lấy. Những lúc từ chối như vậy óc chú tự nhiên phóng ra luồng điện để khước từ trước luồng điện năng của đối phương đưa đến.
                      - Có khi nào Minh Sư dùng thuật thôi miên đối với người nào bằng lối cưỡng bức không?
                      - Ít khi ta dùng thuật thôi miên cho người nào trái với ý họ, ngoại trừ tình thế bắt buộc để chữa bệnh.
                      Và đến đây, người nhìn tôi trong giây lâu đoạn lên tiếng hỏi:
                      - Lỗ San! Chú có muốn thực hiểu về thuật thôi miên không ?
                      Tôi vui mừng gật đầu:
                      - Thưa Minh sư, con muốn có được điều này.
                      Người đưa mắt nhìn tôi chăm chú đoạn lên tiếng:
                      - Ta biết chú không thích đọc phần thứ "Năm" trong kinh Lăng Nghiêm, có đúng như thế không?
                      Tôi giật mình,vì đó là sự thật. Nhưng làm sao Minh sư biết được điều này? Không đợi để tôi đáp lại, người tiếp tục nói:
                      - Ta biết chú chưa học học kỹ lời kinh đó vì nó quá cao siêu có đúng thế chăng?
                      - Vì con cảm thấy nó rắc rối quá.
                      - Tôi đáp lại như vậy.
                      Thầy tôi đưa tay chỉ pho kinh Lăng Nghiêm đặt ở cạnh cửa sổ rồi lên tiếng bảo:

                      - Chú hãy đến đấy mang lại đây và mở đoạn ấy ra.
                      Tôi mang pho kinh này mà lòng chẳng mấy thích thú, nhất là khi tưởng tượng mò mẫm tìm kiếm những đoạn mà tôi không muốn đọc đến. Tại Tây Tạng pho kinh nào cũng vĩ đại. Tôi đặt pho kinh này xuống trên mặt bàn đang ngồi và từ từ mở ra.
                      Tôi có linh cảm là Minh Sư đang phóng mắt nhìn vào tôi, và chỉ trong giây lát sau không hiểu tại sao tôi lại tìm thấy dễ dàng những dòng kinh nơi phần của chương Năm này.
                      - Bây giờ chú thử đọc đi.
                      Khác với bao nhiêu lần khác, lần này tôi cảm thấy vô cùng thích thú. Đọc đến đoạn nào tôi chẳng những hiểu ý nghĩa của nó mà còn thuộc như thể nằm lòng từng dòng một của các lời kinh đó.
                      - Lỗ San, chú đừng ngạc nhiên về sự thông minh của chú hôm nay mà chính là chú đã nhận được luồng cảm xạ của ta. Chính ta đã điều khiển bộ óc của chú theo như ý chú muốn được có. Lúc bấy giờ dung dịch bọc chất chuyển động nơi não bộ chú đã làm những gì mà ta muốn. Đó là thôi miên.
                      Minh Sư ngừng lại trong giây lát nhìn vào thần thái của tôi rồi tiếp tục:
                      - Thôi miên là thế đấy, nhưng nó chẳng phải đơn thuần như vậy. Có điều quan trọng là làm sao cho "cảm xạ lực" của chú phải được tăng trưởng nhiều hơn, vì đó là nhu cầu trong tương lai của chú.
                      Tôi sực nhớ lại là nhiệm vụ của tôi đã được đặt định nó sẽ ra làm sao!
                      - Thưa Minh Sư con muốn..
                      Nhưng thầy tôi đã đưa tay ra cản lại:
                      - Bây giờ thì chú chưa cần quan tâm đến vội. Chú chỉ cần biết rằng đất nước đang cần đến chú. Vì vậy chú phải được huấn luyện đến nơi đến chốn.
                      - Con? Đất nước đang cần con?
                      - Phải. Đất nước đang cần chú. Ngoài con đường chú đã và đang đi là cố làm sao giải thoát cho linh hồn, nhưng không phải chỉ có ngần ấy không thôi, mà chúng ta còn có bổn phận bảo vệ đất nước và dân tộc nữa. Rồi đây, một thời gian nào đó ắt chú sẽ thấy điều này.
                      - Vậy thưa Minh Sư, con thật sự muốn biết nhiệm vụ của con sẽ đảm nhận việc gì ?
                      - Chú sẽ được đưa đi nhiều quốc gia trên thế giới. Tất nhiên là suốt thời gian ấy chú sẽ được thường xuyên liên lạc với chúng ta ở quê nhà. Chú nên nhớ rằng dù máy móc truyền thông tinh vi đến thế mấy cũng không thể nào vượt qua được "thần giao cách cảm".
                      Nghe đến "thần giao cách cảm" tôi vội lên tiếng hỏi:
                      - Con muốn được hiểu theo cái nghĩa đúng của "thần giao cách cảm" như thế nào!
                      - Thật đơn giản. "Thần giao cách cảm" là truyền đạt ý nghĩ của mình sang cho người khác mà không phải phát ra thành tiếng dù cho kẻ đó ở xa hàng ngàn dặm họ cũng có thể thu nhận được qua làn sóng điện mà ta phóng đến.
                      - Thế có nghĩa là chúng ta chỉ cần điều khiển cho được làn sóng điện là được. Đó là cách dùng điện năng của ý thức phát đi không giới hạn.
                      - Chú đúng. Trong tương lai gần chú sẽ phải sử dụng nó với chúng ta khi mà chú ra ngoài tiền tuyến. Trong thời buổi văn minh này mọi người đều sử dụng máy móc để thông tin liên lạc với nhau, nhưng với cung cách truyền tin cho nhau như vậy làm sao bảo mật được?
                      Tất nhiên là kẻ thù của chúng ta sẽ có thể nghe và có thể giải mã một cách dễ dàng. Nhưng với "thần giao cách cảm" thì chúng ta không cần đến mã số nữa, kẻ địch không thể nào nghe thấy chúng ta đang chuyện vãn với nhau.
                      Nói đến đây Minh Sư quay trở lại về các bức hình được điêu khắc trong Cổ Hiền Thạch Động mà người đã bỏ lửng nửa chừng:
                      - Bây giờ thì chúng ta quay lại về những hình ảnh điêu khắc trong các hang động mà ta đã được may mắn chiêm ngưỡng nó. Đúng đó là dấu ấn của con người từ ngàn xưa lưu lại.
                      Ngoài cái giá trị nghệ thuật, các hình ảnh sinh động của đàn ngựa, của chúa sơn lâm, của những con bò có đôi sừng cong vòng, hoặc nhưng con ma mút, những con tê giác quý hiếm.. nó còn ẩn chứa những bí mật của những người cổ đại truyền lại cho hậu thế.
                      - Thưa Minh Sư, phải chăng đó là những tác phẩm nghệ thuật siêu phàm?
                      - Có thể. Nhưng như ta đã nói. Ngoài việc phô trương về nghệ thuật của những bàn tay siêu việt, nó còn là những bức "mật thư" chỉ có các bậc tiên tri của chúng ta mới có thể đọc thấy được.
                      (Gần đây tại Pháp các nhà khảo cổ đã khám phá các hang động tại vùng Archède. Họ hy vọng tìm thấy những bằng chứng của nền nghệ thuật ban sơ của con người nhưng chưa thành công.
                      Họ đã biết các hình ảnh tuyệt vời dưới đất của thời Đổ Đá Mới (40.000 - 10.000 năm trước) họ cũng biết nghệ thuật tại Lascaux, Niaux và các địa danh nổi tiếng khác.
                      Nhưng Jean-Marie Chauvet và hai người cùng phát hiện cũng không thể ngờ tới cái mà họ tìm thấy trong một hang sâu, dưới ngọn đồi bên sông Archède - dấu ấn bàn tay con người từ rất xa xưa.
                      Đó là vô số hình ảnh sinh động của ngựa, sư tử, bò tót, tê giác cũng như voi ma mút đã tuyệt chủng. Một số hình ảnh được vẽ, số khác được chạm vào vách hang.
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • #41
                        Đèn của ba nhà khảo cổ rọi qua bóng tối, chiếu sáng đám xương gấu, chỗ vết lửa và các dấu vết như thể người ta dụi bó đuốc đang cháy vào tường. Họ cảm thấy như đang chìm sâu vào một thế giới linh thiêng đã mất từ lâu.
                        Khám phá hang Chauvet là một trong những phát hiện khảo cổ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Nhưng giống như các phát hiện khác, trong khi giải đáp được một số vấn đề, nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi mới.
                        Những người nguyên thủy mà dấu chân trần còn thấy rõ trên bùn đã vào các hang tối đó từ bao giờ! Tại sao họ vào sâu trong lòng đất để vẽ tranh? Hành vi bí ẩn đó có phải là nguồn gốc của cái mà chúng ta gọi là "nghệ thuật" ngày nay hay không?
                        Những hình ảnh đó liên quan thế nào với vật khắc trên xương, ngà voi và các bức tượng nhỏ tìm thấy ở các địa danh thời Đồ Đá Mới?
                        Và căn cứ theo niên địa cực kỳ xa xưa của chúng (32.400 năm với sai số 720 năm) người ta cũng phải tự hỏi liệu nghệ thuật có thể đã xuất hiện hoàn chỉnh ngay từ đầu, chứ không phải trải qua một quá trình phát triển từ thấp lên cao.)
                        Theo các nhà khảo cổ này thì các bức tranh mà họ khám phá ra chỉ là "nghệ thuật vị nghệ thuật", nhưng với hình ảnh được khắc trên các vách tường đá trong Cổ Hiền Thạch Động thì bên ngoài trông nó chẳng khác nào các điêu khắc gia cổ đại cũng không ngoài vấn đề nghệ thuật.
                        - Lỗ San, chú có bao giờ nghĩ những hình ảnh được người xưa điêu khắc đó không phải chỉ thuần túy về nghệ thuật mà nó còn ẩn chứa những điều gì đó mà chúng ta chưa thể tiết lộ ra được ngày nay không?
                        - Thưa Minh Sư, con hiểu.
                        Thầy tôi đứng dậy, gật gù đầu nhìn tôi nhỏ nhẹ bảo:
                        - Chúng ta tạm nghỉ, chú có thể rong chơi đâu đó Ngày mai chúng ta sẽ cùng bàn thảo thêm những điều cần thiết khác.
                        Nói xong, thầy tôi ung dung bước ra khỏi phòng. Đợi Minh sư rẽ vào phòng kế cận xong, lúc bấy giờ tôi mới ra thẳng hòn giả sơn ngắm nhìn đỉnh Hy Mã Lạp Sơn cao vút ẩn hiện trong đám mây vàng.
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment


                        • #42
                          CHƯƠNG BẢY
                          PHẦN MỘT


                          Từ thiền viện "Trắc Phổ Di" ra đi phải xuống một con dốc thoai thoải dọc theo công viên "Khả Chi Đa Linh Ngã" tràn ngập cả bông hoa và những cánh bướm rực rỡ đủ màu sắc đua nhau chập chờn bay lượn.
                          Chúng tôi tiến dần đến bến đò nơi có chiếc ghe bằng da bò thổi phồng và người lái đò đang cầm sào đợi sẵn. Bọn người chúng tôi gồm tất cả bảy người vượt sang sông Kỳ Chu, phải dành mất một thời gian gần trọn cả ngày đi ghe vì lòng sông quá lớn.
                          Khi sang đến bên kia bờ chúng tôi chia nhau các vật dụng để mang theo, trong đó có cả các thực phẩm, nước uống, dây thừng, quần áo. Ngoài ra mỗi người chúng tôi còn mang theo một số ít vật dụng cho cá nhân.
                          Bọn chúng tôi nhằm về hướng Tây Nam tiến đến. Khi đến cạnh dưới chân núi mới cảm thấy thấm mệt, không ai bảo ai, chúng tôi cùng ngồi xuống nơi mỏm đá ven đường để nghỉ mệt và dùng bữa cơm tối với ít bánh Tsampa.
                          Trên vòm trời tím sẫm các ngôi sao như những hạt kim cương lấp la lấp lánh. Cạnh nơi chúng tôi đang ngồi là những cánh hoa dại mọc ven theo sườn núi. Bóng trăng bắt đầu xuất hiện, ánh sáng vàng vọt chiếu lên cảnh vật một màu ván sữa.
                          Ăn uống xong chúng tôi tạm ngủ lại qua đêm tại đây. Vì quá mệt mỏi, vừa ngả lưng xuống tôi đã chìm ngay vào giấc ngủ. Tư thế ngủ của tôi có khác với các tăng sĩ và lạt ma Tây Tạng. Những người này theo giới luật "ngủ ngồi". Giới luật ngủ của tôi khác với số người cùng đi hôm nay, tuy vậy cũng chỉ được phép ngủ nằm bên tay phải với người không cùng một giới luật.
                          Tuy giữa cảnh rừng núi đêm hôm, song tôi cũng được yên lòng khi nhìn thấy Minh Sư Minh Dà Đông Đạt đang ngồi bên kia tảng đá trắng, lưng tựa vào vách tường núi, mặt hướng về phía tôi đang nằm trông hệt như một pho tượng đá. Người nhìn tôi mỉm cười:
                          - Lỗ San! Chúc chú ngủ ngon.
                          Và tôi ngủ ngon thật. Cho đến khi thức giấc thì vừa lúc trời rựng sáng. Vòm trời đã tan biến cả sao. Mặt trăng lưỡi liềm đã biến dạng từ lúc nào. Gió rừng buổi sáng nhẹ nhàng thổi lại. Cả rừng núi lúc bây giờ vang lên tiếng ca hót của các chim chóc, và xa xa tiếng tru tréo của các loài dã thú, cùng với các tiếng côn trùng kêu lên ra rả. Tất cả hòa hợp lại thành điệu nhạc vang lừng như những lời kinh cầu nguyện.
                          Ăn điểm tâm qua loa, chúng tôi lại mang hành trang lên vai tiếp tục cuộc hành trình. Suốt hai ngày băng đèo vượt suối mới qua hết chặng đường dài dưới chân núi. Chúng tôi dừng lại buộc dây thừng giữa người này với người kia, cố trèo lên các đỉnh núi trên cao, sự nguy hiểm luôn luôn đe dọa đến mạng sống.
                          Chúng tôi tập trung đến chân của một bờ tường đá cao chất ngất. Đứng trước bờ tường đá cao cheo leo này chúng tôi không tìm thấy bất cứ một chỗ nào có thể dùng tay bám vào để đặt chân lên được. Trước mắt chúng tôi hiện giờ là một cảnh đổ vở của đá núi rơi vung vãi.
                          Từ nhiều năm nay sỏi đá từ trên cao rơi xuống làm lấp cả các hốc kẽ chẳng còn nơi nào để lấy thế bám vào được để trèo sang bên kia. Sau gần một ngày trời tìm kiếm, bất thần chúng tôi nhìn thấy một hình ảnh trên bờ tường núi một hình dạng như cái ống khói. Niềm vui tràn ngập trong lòng tôi.
                          Thế là, chúng tôi bàn nhau tìm cách dùng tay bám vào nơi có hình dạng cái ống khói này, tựa lưng vào tường vách núi đá rồi từ từ nhô người lên. Gió thổi lồng lộng khiến nhiều khi chúng tôi bị ngợp thở. Hì hục mãi, rồi chúng tôi cũng leo đến tận phía bên kia. Nhưng nơi đây chúng tôi vẫn chưa tìm được nơi nào là chỗ hang động.
                          Phần thì gió lộng thổi không ngừng, phần trước mặt đầy cả những tảng đá chồng chất lên nhau, nhìn lại xuống bên phía dưới, đầy ắp cả những hòn đá nhọn quanh năm gồng mình chống lại các dòng nước cuốn như thác đổ băng qua.
                          Nơi đây có con đường nhỏ ngoằn ngoèo theo thân sườn núi. Nước suối chảy xiết như muốn cuốn trôi các tảng đá nằm rải rác giữa dòng, tung lên những chòm bọt nước trông như các đóa hoa tuyết trắng phau. Chúng tôi phải vất vả lắm mới lội sang được đến bên kia bờ.
                          Nhưng nỗi khó khăn vẫn chưa hết đối với chúng tôi. Khi lên được bờ lại bị các tảng đá lớn chắn ngang trước mặt, chúng tôi lại phải nhảy từ tảng này sang tảng nọ, vạn nhất chẳng may sẩy chân không chết, thì thế nào cũng phải bị trọng thương.
                          Khi tất cả đã sang được bên bờ bên kia xong xuôi, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt cho chúng tôi biết chỉ còn bức tường cuối cùng đang chắn ngang trước mặt là sẽ đến ngay Cổ Hiền Thạch Động.
                          Người đưa tay chỉ vào bức tường sứt mẻ thuật lại cho chúng tôi đủ mọi thứ chuyện. Những hốc đá mà trước kia để bám víu trèo lên, nay đã bị những tảng đá từ trên cao lở xuống làm biến mất tất cả như các chú đã trông thấy.
                          Thật vậy. Chúng tôi ngẩng mặt nhìn lên thấy một cái hốc đá cuối cùng cách mặt đất khoảng 4 thước, muốn trèo lên được chỉ còn có cách chọn một người mạnh nhất trong bọn đứng sát vào tựa vách đá, hai tay dang thẳng ra bám chặt thành núi để làm thế tựa cho các thể tháo gia đang giao đấu.
                          Tiếp đến là chọn một vị Lạt Ma trẻ khác có trọng lượng nhẹ nhất leo lên đứng trên vai vị này và cũng áp sát người vào tường giữ vững thế đứng để leo lên cột dây thừng vào nơi thuận tiện nhất, đoạn thòng xuống cho những người bên dưới tuần tự đu lên.
                          Tất nhiên là trong đám Lạt Ma trong chuyến đi này tôi được xem là nhỏ con và có trọng lượng nhẹ nhất so với đồng bọn. Thế là tôi được chọn để cho các Lạt Ma khác đôn tôi lên và thực hiện điều này.
                          Tôi từ từ leo lên phía trên cao và cột dây thừng vào một mõm núi, đâu đó xong xuôi, buông dây xuống bên dưới. Tôi chui vào một hốc đá vừa vẹn với thân hình nhỏ thó của tôi ngồi cầm sợi dây canh chừng, trong khi đó Minh Sư cùng các vị Lạt Ma kia từng người một nắm lấy dây thừng đang lơ lửng đó đu lần lên.
                          Khi mọi người chúng tôi lên được tận đỉnh cao của núi, chúng tôi ôm nhau lại tỏ vẻ vui mừng là đã được sự may mắn. Trong những giờ phút gian nan, tôi mới cảm thấy tình thương của đồng đội nó cao cả như thế nào. Minh Sư Minh Dà Đông Đạt đưa chúng tôi đến đứng trước hang động, nhưng chẳng thấy lối vào.
                          Tất cả chúng tôi đều cố dán mắt tìm kiếm, nhưng kể cả Minh Sư, cũng chẳng làm sao khám phá ra được. Bỗng mắt tôi bất thần nhìn vào khe núi nơi đó có dấu vết của đường nước chảy làm hoen ố trông hệt như bóng dáng hình ảnh của một con người đồng quê hương xứ sở.
                          Tôi nhìn sững sờ, chưa kịp báo cáo cho Minh Sư biết về cái hình quái dị này thì bỗng có một bàn tay đặt sau lưng đẩy tôi về phía trước, và bằng giọng nói ồ ồ:
                          - Nào, chú bé cưng ơi! Hãy mạnh dạn đẩy viên đá trước mặt đi, cánh cửa động ắt sẽ mở ra để đón mời vị Minh Sư cũng như chú cùng đám bạn của chú vào bên trong chiêm ngưỡng.
                          Tôi chưa kịp quay lại để nhận diện kẻ nào đã ra lệnh cho tôi như vậy, thì đã bước qua cửa của hang động từ bao giờ. Tôi bất giác giật mình khi nhìn thấy luồng ánh sáng từ đâu đột nhiên rực lên, phơi bày ra cảnh tượng lạ lùng hiện ra trước mắt. Bên trong hang động lớn gấp hai lần so với ngôi đại tự ở Lạt Sa. Vào tận bên trong, ánh sáng trở nên êm dịu hơn. Lúc bấy giờ Minh Sư mới bắt đầu lên tiếng nhẹ nhàng nói:
                          - Ánh sáng êm dịu ở đây, ngày xưa từng rực lên như khối lửa của mặt trời. Nhưng rồi trải qua hàng ngàn năm ánh lửa như mặt nhật đó bắt đầu giảm dần xuống, cho đến ngày nay như chúng ta đang nhìn thấy.
                          Minh Sư đưa chúng tôi đi sâu vào bên trong, ngang qua một căn phòng có một cái máy được đặt nơi đó từ bao giờ. Chẳng một ai trong chúng tôi dám động đến, nhưng lại tò mò muốn biết tác động của cái máy này, và tìm hiểu ai đã mang được nó vào tận nơi đây?
                          Chúng tôi lại được Minh Sư đưa đến một căn phòng khác. Trước mắt tôi là một bục nhỏ vuông vức, chiều rộng lối một thước, bốn bề được chắn lại bởi các lan can sơn màu xanh thẳm. Nối liền với cái máy đầu bên kia bởi một cái ống gập lại.
                          Vô tình tôi bước lên một cái bục gỗ tức thì cả cái bục lẫn lan can đều từ từ bay bổng lên. Tôi hốt hoảng đưa tay nắm chặt lấy lan can, trong lúc các Lạt Ma khác nhốn nháo cả lên. Minh Sư đứng bên dưới tươi cười nhìn tôi lên tiếng trấn an:
                          - Lỗ San, chú cứ an tâm. Ta từng bị một lần như chú vậy. Rồi nó sẽ hạ xuống. khi nó không còn đủ sức đưa chú lên cao được nữa.
                          Và quả thật như vậy! Thầy tôi vừa dứt lời thì một tiếng "tách" nhẹ vang lên, tức thì cái bục lại từ từ hạ xuống. Nhưng, tiếp ngay sau đó bỗng xuất hiện một làn ánh sáng lơ lửng trước mắt tôi. Tuy ánh sáng rực lên trước mặt như vậy song tôi cảm thấy không hề bị lóa mắt chút nào.
                          Tiếp đến, là phía chân tường xuất hiện một con quái vật trông hệt như một con mèo rừng khổng lồ. Nhưng khi nhìn kỹ ra, rõ ràng con quái vật này thân hình là một giống thú vật song đầu lại của một người đàn bà có mái tóc đen huyền phủ xuống tận đôi bờ vai thon tròn bé nhỏ.
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment


                          • #43
                            Gương mặt của quái vật đầu người mình thú này trông có vẻ kiêu kỳ, ngạo mạn. Chúng tôi cảm thấy bàng hoàng sợ hãi, toàn thân nổi cả da gà.
                            Minh Sư cười giải thích:
                            - Các chú đừng ngạc nhiên trước hiện tượng này. Hình ảnh được vẽ ra đó là tượng hình cổ tự (hierolyphs), một loại chữ cổ vẽ bằng hình của người Hy Lạp thời cổ đại phác họa cảnh con mèo quái dị đó đang chuyện vãn với Người và Linh Hồn khi rời khỏi thân xác để sang bên kia thế giới.
                            Đến đây Minh Sư quay sang nhìn tôi :
                            - Lỗ San hiểu chứ ?
                            Không đợi tôi đáp lại, Minh Sư chỉ vào một chiếc bàn đặt cạnh đó rồi cho phép chúng tôi lần lượt đặt tay lên nắp của chiếc hộp làm bằng kim loại.
                            Tôi là người đầu tiên thực hiện, tức thì nhìn thấy bên trong hiện lên một đám đông người đang rộn ràng điều khiển những máy móc cất giấu tại trong các căn phòng tại hang động này. Tôi sững sờ, suy nghĩ.
                            Minh Sư nhìn tôi bảo:
                            - Đừng ngạc nhiên Lỗ San ạ! Rồi một ngày kia, trong một tương lai gần chú sẽ nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi trên thế giới này.
                            Người đẩy chúng tôi vào Cổ Hiền Thạch Động lúc còn ở ngoài cửa hang là một vị sư già. Hình như vị sư già biết trước đoàn chúng tôi đến chiêm ngưỡng hang động linh thiêng này nên đã ra đứng đón sẵn ở nơi nào đó mà chúng tôi không phát giác được.
                            Lúc bấy giờ vị sư già này mới sừng sững hiện ra đứng bên cạnh Minh Sư Minh Dà Đông Đạt cười thành tiếng vui vẻ nói:
                            - Chắc các chú ngạc nhiên khi thấy ta đường đột hiện lên và âm thầm biến mất! Thật ra ta có bổn phận đợi chờ Ngài Minh Sư Minh Đà Đông Đạt cùng các chú để đưa vào trong Cổ Hiền Thạch Động.
                            Hang động này không phải mới hình thành vào thời cổ đại. Xứ sở Tây Tạng này đã trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch sử, máu đã từng đổ nhuộm đỏ cả rừng núi, ngay từ thời bộ lạc Tubo phất cờ dựng nước.
                            Và cũng kể từ ngày Lạt Ma Giáo (Lamaism) phối hợp với giáo thuyết của Đại Thừa Mật Tông cùng với đạo Bon hình thành một giáo thuyết riêng biệt. Chắc hẳn các chú thừa biết Lạt Ma giáo của chúng ta tin rằng các Lạt Ma đều là Phật tái sinh như các chú đó chẳng hạn.
                            Không hiểu sao, vị sư già này bỗng từ từ quay mặt lại nhìn tôi:
                            - Nhất là chú Lỗ San này chú không phải là một tăng sĩ bình thường. Chú được liệt kê có tước hiệu là Rinpoche một tước hiệu quí báu phi thường. Thật vậy! Chú là hạt ngọc báu trong các hạt ngọc. Chú là hình ảnh của sự thánh thiện hơn bất cứ hình ảnh thánh thiện nào.
                            Càng đi sâu vào bên trong Cổ Hiền Thạch Động, càng nhìn thấy nhiều hiện tượng lạ lùng. Bên trên trần hang động các đám mây đen trôi lơ lửng bềnh bồng. Thỉnh thoảng lóe lên những tia chớp ngoằn ngoèo nhưng rồi lại thoát biến ngay sau đó. Bóng tối cơ hồ đông đặc lại, tưởng chừng như bất cứ một vật cứng rắn nào cũng khó lòng có thể xuyên qua được.
                            Trong lúc đó có tiếng Minh Sư dõng dạc ra lệnh:
                            - Nắm chặt lấy tay nhau lại hãy tiến thẳng vào.
                            Chúng tôi siết chặt tay nhau xông xáo đi, bất chấp cả mọi rủi ro rất có thể xảy ra sau bức màn đen dày đặc ấy. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, bất thần có tiếng nói của Minh Sư vọng ra kêu lên:
                            - Thận trọng hình như có vật gì áng ngữ phía trước mặt chúng ta.
                            Và quả thật dường như bên trong bóng đen dày đặc đó có tiếng kêu "tí tắc" vọng ra. Không bảo nhau nhưng tất cả cùng đứng dừng ngay lại. Nhưng càng lúc, tiếng kêu tí tắc" càng vang vọng lên mỗi lúc một nhiều thêm.
                            Tôi có cảm giác như tiếng kim khí va chạm vào nhau. Trong khi chúng tôi ngơ ngác không hiểu cái gì đang diễn ra bên trong bức màn đen tối ấy, thì bỗng dưng có luồng ánh sáng không biết từ đâu tỏa ra khắp nơi làm bóng đen hoàn toàn tan biến hẳn.
                            Lúc bấy giờ chúng tôi chẳng khác nào như những kẻ sực tỉnh sau cơn mơ, đưa mắt lơ láo nhìn tứ phía nơi mình đang đứng trên trần hang động lúc bấy giờ trông hệt như vòm trời xanh đầy dẫy các vì tinh tú lung linh sáng.
                            Có điều ánh sáng của các vì tinh tú ấy đủ các màu sắc lấp lánh hệt như các hạt kim cương rực chiếu. Quang cảnh này khiến chúng tôi đứng trân người ra chiêm ngưỡng.
                            Chúng tôi theo chân Minh Sư Minh Dà Đông Đạt vào căn phòng hoàn toàn trưng bày các hình tượng rời ra từng pho, hoặc được người thời cổ đại khắc sâu vào vách tường đá. Các hình tượng được điêu khắc nơi đây gần như hầu hết là các hình ảnh ma quỉ kỳ lạ, hoặc của những vị thần mà nhiều người thường thờ cúng. Ngoài ra, không ít các bức tượng to lớn được tạc ngay trên bờ tường đá.
                            (Gần đây, các nhà khảo cổ khám phá ra những bức tượng đá tương tự như vậy tại Ý Đại Lợi. Như tại Siena của nước Ý mà theo tin của hãng thông tấn AFP trích thuật tin của Discovery đã diễn tả.
                            Nghệ thuật hội họa của người Etruscan, một giống người Ý cổ đại,với những hình vẽ ma quỉ kỳ lạ, đang dần lộ diện tại ngôi làng Sarteano, cách thành phố Siena 80 cây số. Khám phá này được xem là một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất thời kỳ gần đây.
                            Ngoài ra, cũng nguồn tin này viết lại, các nhà khảo cổ cũng cho biết "ẩn trong bức tường bên trái của một ngôi mộ có từ thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, người ta đã tìm thấy những hình ảnh họa các quái vật và ma quỉ còn nguyên vẹn khác thường.
                            Nhà khảo cổ Alessandra Minetti cho biết: Chúng tôi đã tìm thấy một số cảnh tiệc tùng, những quái vật giống rắn, yêu ma và một cái quách bị vỡ làm nhiều mảnh.
                            Những hình ảnh được điêu khắc này trùng hợp với các tác phẩm cổ đại tại ngay giữa lòng Cổ Hiền Thạch Động. Có điều đặc biệt là tư tưởng giữa những thánh nhân ẩn mình trong Cổ Hiền Thạch Động không cách biệt mấy đối với quan niệm của người Hy Lạp cổ xưa. Họ cũng có những màu sắc sặc sỡ, các hình vẽ trong ngôi mộ đã phản ảnh sự thay đổi u ám trong quan niệm về cái chết của người Etruscan.
                            Theo nhà khảo cổ học Giám đốc Trung tâm Bảo tồn ở Florence cho biết: Chân dung với mái tóc đỏ chắc chắn là một dạng bóng ma thần chết. Điều này khiến tôi sực nhớ lại nhà Thiền sư cuồng loạn đã có lần đề cập đến với tôi về điều này, trùng hợp giữa lời giải thích của các nhà khảo cổ ngày nay nói về hình ảnh Thần Chết được người cổ đại điêu khắc ngay trên các bức tường đá
                            Ông ấy đã khẳng định: "Thần Chết ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe thổ mộ y hệt như một con quái vật mình sư tử đầu chim miệng mở ngoạc ra như thể muốn ăn tươi nuốt sống kẻ đang hấp hối trên giường bệnh.
                            Trong bản tin của Reuter có ghi về hình ảnh của các khám phá mới này như sau: ... các nhà học thuật không rõ chân dung đó là của Charu (thường được mô tả như một người đàn ông có râu với làn da hung đỏ), ma nữ Vanth (thường có cánh) hay là một loại ma chưa hề biết tới...)
                            Chúng tôi nhận thấy trong Cổ Hiền Thạch Động thật lắm cái phi thường. Nhất là hình ảnh trái đất khi mới được hình thành, có nghĩa là từ khi khai thiên lập địa. Thế giới còn trong thời kỳ sơ khai, núi non giăng khắp mọi nơi, ngay cả những nơi mà ngày nay là bể cả.
                            Những bức tranh nói lên vai trò của nghệ thuật trong xã hội và mang nhiều mục đích từ chính trị đến kinh tế, từ tôn giáo cho đến vũ trụ quan...Tất cả những quan niệm này đều được ghi vào trong các ẩn ngữ nghệ thuật thời tiền sử.
                            (Trong Cổ Hiền Thạch Động đã ghi lên đầy đủ những bí mật trong đời sống của con người mà ngày nay người ta vừa phát hiện được loan báo trên các làn sóng phát thanh, báo chí :
                            "Các con đường xuyên sâu xuống lòng đất nó có sự bí mật nào đó. Salomon Reinach, cách đây trên một thế kỷ (1902) cho rằng con người vẽ lên các hình ảnh để điều khiển các loài muông thú mà họ vẫn săn bắt. Các hành vi đó được bao phủ dưới bức màn bí ẩn và cần phải được thực hiện xa nơi cư trú.
                            Rồi đến khi, nhà tiền sử học lừng danh trên thế giới, Abbé Henri Breuil vào năm 1952 cho rằng con người phác họa ra hình ảnh của các loài muông thú này chỉ vì muốn được khỏe mạnh như chúng.
                            Nhưng thật ra, đối với những nhà khảo cứu thì cho rằng những lời giải thích như vậy quả thật quá đơn giản. Đối với dạng nghệ thuật thì nó chẳng giải thích được gì, nhất lại là không giải thích được những đặc trưng của nó còn chưa phát hiện.
                            Vào thập niên 1960, André Leroi-Gourhan môn sinh cũ của Breuil đã đưa ra được cách giải thích hoàn toàn mới mẻ. Ông đã dựa trên cấu trúc luận do nhà dân tộc học Claude Lévi-Strauss phát triển, cho rằng mọi tư duy của con người đều có xu hướng đối đầu nhau theo phương thức nhị nguyên, thế có nghĩa là hai bán cầu của bộ não có chức năng bổ sung cho nhau.
                            Điều này như ta đã biết như: tự nhiên đối đầu với văn hóa, nóng đối đầu với lạnh, sáng đối đầu với tối, nam đối đầu với nữ. Ông Leroi-Gourhan muốn lấy khung cảnh đối đầu giữa nam/nữ mà lập thuyết cái này đương đầu với cái kia. Ông tin rằng trong toàn bộ 20.000 năm của thời đại Đồ đá mới, các hang động được cấu trúc theo nguyên tắc nam nữ.
                            Một số động vật, như ngựa, tượng trưng cho nam tính, còn số khác như bò tót, tượng trưng cho nữ tính. Các loài "nữ "tập trung tại giữa hang, các loài "nam" thì tản mát khắp nơi. Hình sư tử, gấu và các dã thú nguy hiểm khác thì nằm sâu trong hang)
                            Nơi đây chúng tôi được chứng kiến các hình ảnh lạ lùng mà cứ tưởng rằng mình đang nằm mơ chứ không phải là sự thực. Chúng tôi giương tròn xoe mắt nhìn những tia sáng quay chung quanh một hình tròn.
                            Các hình ảnh này lúc đầu lờ mờ trông không được rõ ràng, nhưng dần dần trở nên sống động hiện lên "ba chiều". Chúng tôi không còn lời lẽ nào để tán thưởng mà chỉ thốt lên đó là một điều phi thường.
                            Những cái phi thường mà chúng tôi nhìn thấy là hình ảnh của một trái đất khi mới khai thiên lập địa. Đó là một thế giới non trẻ, còn trong thời kỳ sơ khai, núi non đứng sừng sững ở những vùng đất đai mà bây giờ đã biến thành bể cả
                            Còn những nơi có những bờ biển thơ mộng thì ngày nay lại biến đổi thành những ngọn núi cao. Khí hậu lúc bấy giờ ấm áp dần và có lắm sinh vật lạ lùng hoạt động trên khắp mọi nơi ở quả đất này.
                            Đó là hình ảnh của một thế giới phát triển từ những ngôi chùa thật vĩ đại với những nóc tháp chọc trời, xuyên qua những màn mây đang thấp dần xuống giữa tiết đông giá rét.
                            Lúc bấy giờ, những thiên niên kỷ xa xưa đó thầy chúng tôi đã giải thích "Lúc bấy giờ người và loài vật không tị hiềm, xâu xé, phân biệt nhau mà từng dùng thần giao cách cảm để giao cảm nhau. Tôi nghĩ đó là một xã hội hoàn toàn hạnh phúc, an lành.
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


                            • #44
                              Nhưng càng nhìn lâu càng nhận thấy bên trong cái an lành đó dường như đang âm thầm nẩy nở mầm mống của sự chống đối nhau vì sự sống trên mọi lĩnh vực. Điều này sau này tôi được Minh Sư giải thích là thế giới bắt đầu đi vào con đường "tam phân ngũ liệt". Con người bắt đầu chia nhau các khu vực riêng biệt.
                              Rồi khu vực này thèm thuồng khu vực kia. Cũng kể từ đó, theo lời Minh Sư thì đã bắt đầu xuất hiện các Giáo chủ. Người phái này, kẻ phái khác. Phái nào cũng tự cho mình là đứa con ngoan của Thượng Đế, của Chân, Thiện, Mỹ.
                              Có lần Minh sư hỏi :
                              - Lỗ San, chú có nhận thấy điều đó chăng?
                              - Thưa Minh sư, có. Tôi xác nhận như vậy.
                              Tôi từng nhìn các hình ảnh này lần lượt hiện ra trước một bức tường phẳng lì trong hang động. Hình ảnh của các giáo chủ hiện lên trước mắt chúng tôi. Họ đang giảng giải những lời lẽ cứu rỗi. Họ luôn luôn thuyết đến chữ Thiện, đến lòng Từ, đến sự Bác ái
                              .Nhưng có điều, những hình ảnh này lại còn xen lẫn với những từ ngữ đối nghịch lại với nhau như lối đối đầu theo phương thức "nhị nguyên" ví như bên trên đã nói: "nóng với lạnh, sáng với tối, nam với nữ..."
                              Chúng tôi nhìn thấy các khoa học gia làm việc trong các phòng thí nghiệm đang bù đầu để phục vụ cho cái chết của những kẻ không cùng một chiến tuyến. Họ các nhà bác học này đang mò mẫm chế tạo ra những khí giới có sức tàn phá khủng khiếp.
                              Trong cái xô bồ hỗn loạn, chúng tôi cũng được nhìn thấy những con người đang mưu cầu sự an toàn cho tương lai của nhân loại. Họ cùng nhau âm thầm tổ chức cái "Ống Thời Gian" mà ngày nay được gọi là "Cổ Hiền Thạch Động".
                              Cái "Ống Thời Gian" đó giữ lại tất cả các máy móc đang được để dành sử dụng cho các thế hệ mai sau trong đó họ ghi nhận đầy đủ mọi chi tiết hình ảnh của một nền văn minh đang hồi cực thịnh.
                              Thật lạ lùng làm sao! Nhiều cơ khí hệt như người máy khổng lồ thay người khoan đá, đào đất, xuyên thủng núi non, cày sâu dưới lòng bể cả... Cũng có những toán người khác đang hì hục ráp nối đủ các loại máy khác lạ mà tôi không thể nào hiểu được.
                              Tôi há hốc mồm ra để nhìn khi trông thấy họ mang những quả ánh sáng tròn và tôi có cảm giác là nó lạnh như tuyết băng kéo lên tận trên cao, trong đó điện năng cung cấp ánh sáng cho cả hàng triệu năm.
                              Lúc đầu những hình ảnh này giải thích về "tĩnh năng và hoạt năng", hai danh từ phát sinh ở thế giới khoa học cực thịnh làm cho tôi bối rối chẳng hiểu họ muốn nói về cái gì.
                              Sau đó, nhờ những hình ảnh ráp nối chúng tôi mới biết được cái nghĩa của các từ "tĩnh năng" danh từ chỉ cho sự an toàn không làm hại đến cơ thể con người, còn từ "hoạt năng" là loại ánh sánh bất diệt, nó tồn tại mãi với thời gian và không gian.
                              Thế giới chúng ta đang ở đã từng một thời có nền văn minh cực thịnh. Những sự kiện đặc biệt mà chúng tôi được nhìn thấy nhờ vào cái máy "Ống Thời Gian" tuần tự chiếu lên màn ảnh trong Cổ Hiền Thạch Động.
                              Thì ra không phải mãi đến ngày nay chúng ta mới có được nền văn minh đang đi vào hồi cực thịnh, mà nó đã xuất hiện từ hàng bao nhiêu ngàn năm về trước!
                              Chính cái Ống Thời Gian đã chứa đựng hầu hết các công trình khoa học của cả một nền văn minh kỳ diệu mà tôi được may mắn chiêm ngưỡng tận mắt, hiện còn tồn trữ chẳng riêng tại xứ sở Tây Tạng này mà nó còn được cất dấu khắp năm châu bốn bể nữa.
                              Ngay cả những cổ tháp ở Nam Mỹ cũng như ở vùng đất lạnh lẽo Tây Bá Lợi Á, nơi quanh năm suốt tháng giá băng bao phủ chẳng mấy ai được biết. Đoàn Lạt Ma chúng tôi còn được sự hướng dẫn của tiếng nói của một người vô hình nào đó hướng dẫn đến các hang động, trong đó người xưa đã lưu lại dấu vết hoặc các hình ảnh được khắc lên trên các tường núi đá cực kỳ tinh xảo.
                              Đặc biệt là mỗi hang như vậy đều có hình ảnh của con mèo khổng lồ đầu người được khắc ngay vào các tường đá trong các hang động, hoặc có nơi còn điêu khắc cả một pho tượng thần miêu riêng rẽ được đặt lên một chiếc bệ dài hơn mười thước và chiều cao lối năm thược.
                              Cứ theo truyền thuyết thì đây là thần miêu Sphinx xuất hiện cùng thời với con người! Thần Sphinx hình mèo đầu người này biết nói năng và bày tỏ được mọi cảm xúc như loài người chúng ta. Người xưa cho rằng mèo là con vật hoàn hảo nhất về sức lực và luôn cả trí thông minh.
                              Nó có thể bưng cả ngọn núi to nhất lên và có thể tính toán và làm được mọi điều mà con người khó lòng thực hiện được.
                              Thần miêu Sphinx đầu người có gương mặt trái xoan cùng một làn da hồng hào trắng mịn. Thần Sphinx còn có đôi mắt bồ câu đen láy, cùng chiếc sống mũi dọc dừa nằm bên trên đôi môi hồng mọng đỏ, luôn luôn hé nở nụ cười để lộ đôi hàm răng nhỏ mứt, trắng trong như hạt lựu.
                              Ngoài ra thần miêu Sphinx còn có mái tóc vàng kim óng ánh phủ chụp xuống đôi bờ vai thon tròn nhỏ. Chính mái tóc vàng này có sức quyến rũ thu hút được tình cảm của mọi người nếu được cơ may gặp mặt.
                              Càng lúc tôi lại càng được chứng kiến lắm sự kiện lạ lùng khác cũng xuất phát từ cái máy "Ống Thời Gian" hiện lên trên màn ảnh. Tôi không tránh khỏi có những phút giây kinh hoàng khi nhìn thấy cảnh tượng hàng triệu con người đang gặp phải thiên tai nguy biến.
                              Rõ ràng có hàng bao nhiêu tiếng gào thét vang lên. Họ đang cố bám lấy trên những chiếc thuyền nan, hoặc trên các chiếc bè nhỏ mong manh, lênh đênh trên mặt đại dương giữa cơn giống tố bão bùng!
                              Dù đó là hình ảnh được Ống Thời Gian phát chiếu lại trên màn ảnh, tôi cũng không tránh khỏi nỗi hãi hùng trước các xác chết, có thể hàng trăm, có thể lên đến hàng ngàn đang bị các làn sóng thần cuốn hút ra tận ngoài trùng khơi bể cả mịt mùng.
                              Rồi một hình ảnh khác hiện lên. Đó là một đô thị, nhà cửa san sát bên nhau, đường sá dọc ngang, đan nhau như một bàn cờ vuông vức. Có lắm đô thị được dựng lên toàn là những nhà chọc trời, các dinh thự nguy nga mọc lên tứ phía, có cái trông hệt như pha lê trong suốt, có những ngôi tợ như dựng lên bằng vàng hay bạc
                              Nhưng đặc biệt là có những thành phố xây trên không trung và nối kết với nhau bằng những cây cầu treo lơ lửng. Có điều là tôi không thể biết được họ, những bậc tiền nhân xa xưa đó làm thế nào dựng lên được các phố xá giữa không trung ấy!
                              Đang mải mê chiêm ngưỡng các hình ảnh bên trên thì toàn thể màn ảnh như bị một màn đêm bao phủ. Chỉ trong phút chốc bóng đêm dần dần tan đi và ánh sáng bắt đầu trở lại.
                              Lần này, trước mắt chúng tôi là một khu nghĩa trang. Có nhiều ngôi mộ được xây nấm tròn, có ngôi lại hình chữ nhật. Nhưng tất cả được xây bằng pha lê trong suốt có thể nhìn thấy những chiếc quan tài bằng vàng hay bạc được điêu khắc những hình vân hoa, cũng như long, lân, qui, phụng.
                              Đặc biệt, có những Kim Tự Tháp chẳng khác gì như ở Ai Cập, nhưng không phải bằng đá mà bằng kim loại. Trong các ngôi cổ mộ này có khắc hình ảnh hệt như một thầy tu và chung quanh quan tài được bao quanh bởi một bức tường bằng đá vôi trắng cùng các bức phù điêu.
                              Một điều khiến tôi ngạc nhiên là có cả một phụ nữ bà ta trông rất đẹp đang cùng ngồi với một đàn con gồm cả trai lẫn gái.
                              (Gần đây các chuyên gia thuộc Viện Khảo Cổ Pháp ở Cairo (IFAO), Ai Cập vừa khai quật một nghĩa địa cổ với những ngôi mộ có niên đại 4.000 năm. Khám phá này có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm kiếm Pharaoh thất lạc ở Userkare.
                              Nghĩa địa này là nơi chôn cất những viên chức cao cấp dưới thời Vương Quốc Cổ Ai Cập, kéo dài từ năm 2.400 đến năm 2.100 trước CN. Vào thời kỳ này, 4 vị vua Ai Cập thuộc triều đại thứ 6 biến mất trong lịch sử không để lại dấu vết.
                              Theo Vassil Dobrev, trưởng đoàn khai quật cho biết họ khám phá tổng cộng 5 ngôi mộ song có thể được khai quật được nhiều hơn trong tương lai. Ngôi mộ đầu tiên thuộc về Hau-Nefer một thầy tu phụng sự trong ngôi đền tang lễ của vua Pepp l cùng với Hoàng hậu tên là Khuti, có với nhau 13 đứa con trai, gồm 4 gái và 9 trai)
                              Đang mải mê xem cảnh trí lạ lùng này thì đột nhiên ngay trên vòm trời xuất hiện một quả cầu lửa rực sáng, nhằm vào các nhịp cầu treo lơ lửng kia phóng xuống làm nổ tung ra từng mảnh nhỏ.
                              Rồi tiếp đến những quả cầu lửa khác xuất hiện và cũng như những quả cầu trước, nó lao thẳng đến các dãy phố bên dưới tạo nên một biển lửa rực sáng cả bầu trời. Và cứ như cảnh tượng này tuần tự diễn tiến, hết nơi này đến nơi khác, cuối cùng tất cả bị hoàn toàn tàn phá chỉ còn là một đống gạch vụn.
                              Hình ảnh này cho tôi thấy tất cả sự sống đã bị tiêu diệt. Không còn lấy một sinh vật nào tồn tại. Hình ảnh của ngày tận thế.
                              Nhưng cảnh huống này tự nhiên chuyển sang hình ảnh các hang động mà trong đó có điêu khắc những động vật như ngựa, lừa, trâu bò hoặc các giống thú vật khác như có lần tôi đã nhìn thấy chẳng khác nào vào niên đại của "Đồ Đá Mới".
                              (Vào năm 1972, Alexander Marshach đưa ra giả định một số về công trình điêu khắc được chạm trên xương hoặc ngà voi với niên đại 32.000 năm tính theo loại âm lịch.
                              Năm 1983 Pfeiffer đã bổ sung thêm những lời lẽ giải thích về quan niệm của Leroi Gourhan khi xem xét tác động của môi trường hang sâu lên giác quan và tinh thần con người. Pfeiffer cho rằng với người thời Đồ Đá Mới, hoàn toàn khác so với tình thế của từng giai đoạn.)
                              Các hình ảnh trong các hang động mà tôi đã được chiêm ngưỡng trên màn ảnh của Ống Thời Gian phát ra, như thể nó đang sống động. Tuy tôi biết các đàn vật kia chỉ là những tác phẩm điêu khắc được chạm trổ ngay trên vách tường đá, nhưng vẫn cảm thấy như là một đàn sinh vật sống động như thật.
                              (Sự kiện này cũng theo Alexander Marshach ghi nhân trong tài liệu khảo cổ ông đã ghi rõ Dưới ánh đuốc bập bùng, các hình ảnh động vật dường như cử động và hít thở. Không thể hiểu động cơ nào đã khiến người nguyên thủy tạo nên được các chi tiết quan trọng đó)
                              Chúng tôi còn được nhìn thấy một đám đông người vây quanh cái "Ống Thời Gian", mà bên trong của chiếc máy khổng lồ này nó chứa các bộ óc điện tử mang nhiều dấu ấn của một nền văn minh cực thịnh. Người cổ đại lúc bấy giờ đã tiên liệu được cái gì rồi sẽ diễn ra trong tương lai, nên đã thực hiện công trình lưu trữ này.
                              (Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tranh cãi về một cách giải thích cũng dựa trên sự kết nối thần kinh của bộ não, nhưng không liên quan tới tính đối ngẫu như trên.
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


                              • #45
                                Nó xuất phát từ một thực tế là, hầu hết các xã hội săn bắn, hái lượm trên thế giới đều có hệ niềm tin chung là vu thuật. Cộng đồng vu thuật luôn tin rằng, ngoài thế giới mà họ đang sống, còn có thế giới linh hồn phía trên và phía dưới.)
                                Có một điều lạ lùng, trong các hang động được Ống Thời Gian chiếu lên trên màn ảnh, có một hang đá thật âm u, nơi đó phát ra những tiếng khóc than thảm thiết! Tôi có cảm tưởng hình như đó là tiếng rên xiết của những oan hồn uổng tử.
                                Rồi tiếp đến là hình ảnh của các tay phù thủy múa may quay cuồng như thể muốn xâm nhập vào thế giới bên kia.
                                (Sự kiện này trong Ống Thời Gian chẳng khác mấy đối với bản giả định của nhà khảo cổ Pfeiffer cũng trong mục Đồ Đá Mới, nói về nhiệm vụ của các pháp sư là thâm nhập thế giới đó để giao tiếp xúc với các linh hồn, chữa các bệnh tật, kiểm soát các loại động vật cũng như thay đổi thời tiết.
                                Muốn làm được như vậy họ phải trải qua những trạng thái về ý thức thay đổi, từ sự phân ly nhẹ đến trạng thái ảo giác mạnh hay trong giấc chiêm bao. Trong trạng thái đó họ có thể gặp một linh hồn động vật để nhận được sức mạnh và sự giúp đỡ của nó trong vương quốc các linh hồn.)
                                Tôi sực nhớ lại có lần lén lút chứng kiến cảnh những con người ở thế giới bên kia trong ngôi Thiền Viện. Theo lời giải thích của Minh Sư Minh Dà Đông Đạt:
                                Vào một thời gian nào đó Hồn sẽ được đưa đi đầu thai do một vị Linh Thần cai quản điều động trở lại dương gian. Linh Thần đưa hồn nào đó đi đầu thai đến một nơi đã được dự định trước ai sẽ là cha mẹ tương lai của "Hồn"? Hoàn cảnh và điều kiện nào để cho "anh linh" đó tiếp tục đi vào môi trường thử thách?
                                Câu hỏi này được thầy tôi cho biết: "Hồn" đó sẽ được vị linh thần đặt để ở một vị trí nào đó, chờ đợi đúng ngày giờ khi có tiếng khóc chào đời của đứa bé sơ sinh, tức thì "Hồn" đó được vị Linh Thần cho nhập ngay vào. Theo thầy tôi cho biết thêm là giữa "Hồn" và đứa bé sơ sinh kia hoàn toàn xa lạ.)
                                (Theo bản giả định của Pfeiffer, thì các linh thần đó và các pháp sư cùng nghĩa với các tay phù thủy, có trách nhiệm ở các vương quốc được ấn định, họ tìm kiếm linh hồn động vật trong vai trò của kẻ giúp đỡ thực hiện công việc thiêng liêng này. Bằng cách nhìn và tiếp xúc cũng như đốt đuốc lên rồi lại dụi tắt đuốc đi, họ xem tường đá ở hang là tấm chắn ngăn cản họ với thế giới linh hồn.
                                Nhưng, khi họ nắm được linh hồn của một động vật, họ lôi kéo nó qua màn ngăn và dùng khả năng nghệ sĩ để nhận diện cái mà họ đã nhìn thấy! Nhà khảo cổ này khẳng định "Vu thuật là hệ niềm tin và tư tưởng năng động mà con người chúng ta có thể xử lý cũng như thay đổi tùy theo hoàn cảnh của xã hội.
                                Một số đặc trưng cơ bản của nó, như niềm tin vào thế giới bên kia, dường như không thay đổi trong suốt thời gian "Đồ Đá Mới", tuy nhiên các đặc tính khác thì có thể thay đổi sau mỗi thiên niên kỷ.)
                                Điều này tôi cũng từng được Minh sư Minh Dà Đông Đạt giải thích là tất cả những gì mình suy nghiệm đều do các trạng thái ý thức thay đổi xuất hiện do Thiền. Hay nói một cách khác hơn là do ảo giác hay do cách ly về cảm giác.
                                Trong lúc chăm chú nhìn cái "Ống Thời Gian" kia thì bất thần nghe một giọng nói rổn rảng phát ra: "Hỡi con người của tương lai, hãy cẩn trọng giữ kho tàng dự trữ đầy đủ các hồ sơ ghi chép các công trình văn minh của nhân loại này. Hãy trao lại cho thế hệ mai sau, vì chính những người hậu thế mới làm đầy đủ được mọi việc mà những con người tiên tri đã nhìn thấy trước.
                                Tiếng nói ấy nhỏ dần và im bặt lại ngay sau khi nơi các bức tường rực lên ánh sáng có màu váng sữa. Hình ảnh hiện lên bên trong bức màn này toàn là các loại máy móc nằm ngổn ngang cùng khắp. Có nhiều hình ảnh toàn là phố xá có những chiếc cầu bằng đá hoặc bằng kim khí bắc ngang qua, mà chúng tôi không phân biệt được thuộc kim loại nào! Lại cũng nhiều mô hình được xây lên bằng một chất trong suốt như thủy tinh.
                                Đang trong lúc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác thì bất thình lình "Một Con Mắt Đỏ" rực lên nhấp nháy ngay giữa bức tường vừa được sơn phết. Tôi có linh cảm thì hình như có điều gì không hay sắp xảy đến chăng? Đang phân vân thì Minh Sư Minh Dà Đông Đạt bước đến nắm lấy tay tôi giữa lúc con mắt lửa to lớn kia nhỏ dần rồi tắt hẳn:
                                - Chẳng hề hấn gì cả. Hãy nhìn kia. Thầy tôi bảo như vậy
                                Chúng tôi lại chụm đầu hướng mắt nhìn vào hình ảnh của một gian phòng khác. Nơi đây, bất thần tôi nhận được sự truyền đạt từ thần giao cách cảm của một vị Thiền sư nào đó vọng đến:
                                - "Hãy nhìn vào căn phòng kia, ắt sẽ nhìn thấy các vật liệu dùng để gắn kín cửa hang mà quý vị lúc mới đến đã đi ngang qua nơi đó. Nếu quý vị vẫn còn chưa đạt đến trình độ có thể điều khiển được những vật liệu và các cơ khí này thì cứ hãy để nguyên trạng như vậy sẽ có người thay thế làm việc đó."
                                Sau giọng nói này, chúng tôi tự cảm thấy như chính mình đang đi trong màn ảnh và đang tiến đến gian phòng thứ ba hiện lên trước mắt. Chúng tôi vừa đến nơi thì hai cánh cửa đại bảng từ từ mở ra. Lúc tiến vào bên trong, chúng tôi nhìn thấy có nhiều chai thủy tinh được đóng kín cùng một bản chỉ dẫn cách thức mở nắp đậy ra lấy vật liệu bên trong sử dụng lấp các cửa hang mà chúng tôi vừa đi ngang qua.
                                Khi đến gian phòng này thì bất thần nhận được lệnh tất cả ngồi bệt xuống trên nền đá của động! Vừa ngồi xuống trên mặt nền đá chúng tôi cảm thấy một toàn thân mát lạnh khác thường. Một cảm giác sảng khoải chạy rần trong cơ thể, khiến tinh thần chúng tôi minh mẫn và sự mệt mỏi đều hoàn toàn tan biến hẳn.
                                Nơi đây chúng tôi có thể nhìn suốt qua mọi cảnh vật qua "A Lại Da Tàng Thức"! Tôi lên tiếng xin Minh Sư giải thích và được cho biết:
                                - Chúng ta có thể nhớ mọi việc có thể xảy ra ngày hôm qua một cách dễ dàng, rồi đến những việc ngày hôm trước của ngày hôm qua và cứ như thế chúng ta nhớ được tất cả những gì đã xảy ra trong suốt thời gian ta sống trên cõi đời này. Lỗ San có tin như thế không ?
                                - Có.
                                Ta nghĩ là mọi người chúng ta đều có thể nhớ lại một cách rõ ràng, chỉ cần dành một chút thời giờ để tập luyện. Như ta đã nói chúng ta có thể nhớ rõ tất cả mọi việc đã xảy ra hàng trăm năm nếu đời sống chúng ta kéo dài đến hàng thế kỷ! Chẳng những vậy, chú còn có thể luyện biết trước được ngày của mình sẽ đi đầu thai kiếp khác
                                Thế có nghĩa là chú có thể tập luyện để nhớ lại chẳng những kiếp trước mà luôn cả bao nhiêu kiếp trước nữa của chính mình. Đó gọi là Tàng Thức.
                                - Thưa Minh sư, Còn A Lại Đa Tàng Thức là như thế nào?
                                - Đó là Akashic record tức là A Lại Da Tàng Thức mà chú đã nêu ra. Nó có thể áp dụng cho từng cá nhân một hoặc cho toàn thể mọi người. Luyện A Lại Da Tàng Thức có thể nhìn thấy mọi diễn biến trên thế giới và thấy luôn cả bất cứ sự kiện nào sắp xảy ra trong cuộc đời mình.
                                - Nói như vậy thì nó chẳng khác nào như một pháp thuật ?
                                Minh Sư lắc đầu :
                                - Không. Không phải vậy. Nó không dính dáng gì với pháp thuật cả. Tuy nhiên nó lại có liên hệ đến khoa thôi miên. Ta sẽ có ngày thảo luận vấn đề này với chú.
                                Minh Sư vừa dứt lời thì ánh sáng như váng sữa kia bỗng dưng mờ nhạt dần rồi tắt hẳn. Nhưng ánh sáng vừa tắt ngấm đó lại vụt bừng sáng lên, nhờ vậy nên chúng tôi nhìn thấy hình ảnh một đoàn người gồm cả nam lẫn nữ hiện lên đang rập ràng bước đi trong một đám rước, trong đó có cả các vị cao niên trong giới chức sắc thuộc hàng cao cấp.
                                Đám rước từ từ tiến ra cửa động, theo sau là những con người thép khổng lồ đang đẩy những tảng đá lớn bằng cả nửa quả núi vừa đủ để lấp kín cửa hang.
                                Tôi sực nhớ lại câu chuyện chú Sĩ Cát cùng hai anh Hà Mịch và Lâm Trần đã thuật lại về một đồng tử nhờ Tàng Thức mà nhớ lại các kiếp trước của mình. Đám rước theo chú Sĩ Cát thuật lại là một đám rước thật vĩ đại, có tiếng nhạc vang lừng, có xe loan màn che trướng phủ, bên trong có vị đại thánh xuất hiện từ bầu trời Kim Tinh chễm chệ ngồi.
                                Đám rước đi đến đâu đều có hào quang tỏa ra đến đó. Đoàn người này từ Thượng giới giáng xuống trên Bạch Đảo, hiện nay được gọi là Bạch Ngọc Kinh đầy hoa thơm cỏ lạ, quanh năm chỉ có một mùa xuân, bướm lượn ong vờn.
                                Về điều này, có lần tôi hỏi anh Lâm Trần:
                                - Thế thì phải có thiên đình, nhưng nếu có thì thiên đình ở chốn nào? Có phải trên không gian vô cùng vô tận kia không?
                                - Không! Thiên đình vốn là trung tâm thanh khí tại Oasis, ta thường gọi là Ốc Đảo trong dãi sa mạc Gobi thuộc vùng Á Châu, nơi đây kẻ phàm tục không thể nào đến được. Trung tâm này được bảo vệ bởi một mãnh lực phi thường.
                                Mãnh lực phi thường ấy không phải là một sức cản mà bằng sự huyền nhiệm, trên thế gian này chẳng có một ai có thể vượt qua được. Nếu đó là hình ảnh được dựng lên bằng vật chất thì chẳng có gì thoát khỏi tầm mắt và khối óc thông minh của con người.
                                Tuy nhiên những hình ảnh đó đã được tạo nên bằng sức mạnh của sự huyền bí tại ngay trên Ốc Đảo, thì dù con người có tài thiên biến vạn hóa đến đâu cũng chẳng nhìn thấy được cái gì đang hiện hữu tại nơi được xem là thiêng liêng huyền nhiệm này?
                                Có nhiều người từng lặn lội trên Ốc Đảo ấy, họ chẳng trông thấy gì cả! Nhưng thật ra đối với người có Tàng Thức thì đó là một cảnh Bồng Lai, một chốn Thiên Đường, cũng dinh thự đền đài, cũng núi cao, cũng sông ngòi, cũng hoa thơm cỏ lạ.
                                Nhưng con người chúng ta không thể nào va chạm được nó, dù có xuyên vào ngay chính các vật thể này. Tôi lại tò mò hỏi thêm.
                                - Vậy, ai đã tạo dựng nên Đấng Chí Tôn huyền nhiệm đó?
                                - Chẳng ai cả. Anh Hà Mịch trả lời. Ngài là Đấng Vô Thủy, Vô Chung, hằng sống đời đời. Ngài là chúa tể của muôn loài, muôn vật. Ngài không như chúng ta được tạo dựng bằng một khối hằng hà sa số tế bào, mà hình ảnh của Ngài chính do ý chí của Ngài tự tạo dựng lấy.
                                Đồng tử này khẳng định, Ngài không có những vết nhăn kiêu hùng của một bậc trưởng lão, mà luôn luôn có một sắc thái của một chàng trai giữa tuổi đương xuân. Trông Ngài uy nghiêm, lẫm liệt, nhưng Ngài lúc nào cũng có tấm lòng bao dung đại từ, đại bi đại hùng, đại lực.
                                Với Ngài luôn luôn trong sáng như vầng Thái dương soi sáng mọi nơi giữa vũ trụ bao la mênh mông vô tận.
                                Bỗng có tiếng của thầy tôi vẳng vọng đến bằng thần giao cách cảm:
                                - Lỗ San, chú lại bị phân trí rồi.
                                Tôi giật mình sực tỉnh, bắt đầu trở lại với các hình ảnh hoạt động của các máy móc trong Cổ Hiền Thạch Động. Những con người máy này làm nhiệm vụ khó khăn mà sức con người không thể nào chu toàn được. Nhưng rồi, các hình ảnh đó mờ nhạt dần, cuối cùng tan biến hẳn trên một bức tường bằng một tấm đá trắng.
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X