Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Những huyền nhiệm trên hy mã lạp sơn

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Tôi lặng lẽ bước đi và miên man suy nghĩ. Anh Hà Mịch đã có lần giúp tôi giữ vững lập trường trên con đường đi tìm đạo hạnh. Anh nhắc lại chuyện Đức Thích Ca Mâu Ni
    - Đấng đã tìm ra con đường dẫn dắt chúng sinh đi vào Cõi Thiện. Có một hôm một môn sinh kia đến hỏi Ngài: "Bạch Thầy, con phải tin ai đây, vì người thì nói điều này, kẻ lại bảo điều kia, cả hai đều đoan quyết là lời mình nói đúng!"
    Đức Phật đã trả lời: "Đừng tin lời ai cả, kể cả lời nói của ta trừ phi thấy lời nói của ai đó có ý nghĩa với ngươi. Và ngay cả với ngươi nữa khi không tin được điều nào đó thì hãy xử sự nó như một giả thuyết hợp lý, mãi đến khi chính bản thân ngươi cảm nhận rằng điều ấy là đúng."
    Lời nói này của anh Hà Mịch làm tôi suy nghĩ nhiều. Anh Hà Mịch hay chú Sĩ Ca đều có lý. Rồi tôi lại miên man nghĩ đến anh Lâm Chánh có lần cùng tôi mạn đàm về "sự sống" của các vật thể trên đời.
    - Lỗ San à ! Chưa ai có thể phân tích được "Sự Sống" một cách rõ ràng, mặc dù tất cả mọi người đều phải tiếp xúc với sự sống hiện hữu của mình. Có ai đã từng được nhìn thấy một sinh vật bắt đầu từ giã cõi đời, và trong giờ phút đó những gì đã xảy ra trong giờ phút lâm chung của họ?
    Tuy không nói ra bằng lời, nhưng có điều chẳng ai có thể chối bỏ là chắc chắn có một cái gì đó đã rời khỏi ngay thân xác một lớp vỏ bằng da thịt, xương xóc hay đúng hơn là một thi thể đang đi vào sự tan rã rữa nát để rồi vĩnh viễn trở về với cát bụi.
    Tôi nhìn anh Lâm Chánh một hồi lâu rồi lên tiếng hỏi:
    - Vậy, thưa anh Lâm Chánh, "Sự Sống" có phải là một hiện tượng có thật hay không?
    - Đúng vậy! Nó là một hiện tượng hiển nhiên có thật. Dù rằng, ta khó lòng hiểu được nó. Đành rằng trí tuệ của nhân sinh đã cố gắng sản xuất ra được các tổng hợp nhân tạo để hỗ tương cho những hiện tượng thiên nhiên!
    Đang nghĩ đến đây tôi bất giác giật mình đánh thót khi nghe giọng nói ồ ồ của người cảnh sát khổng lồ đang đi bên cạnh.
    - Thưa quý khách đã đến nơi rồi. Xin Ngài cho phép kẻ đưa đường này được cáo từ tại đây!
    Nghe lời nói một cách trịnh trọng này khiến tôi lúng túng, mặt mày đỏ au lên vì cả thẹn, không biết phải trả lời làm sao cho đúng phép
    ! Tôi chỉ là một đứa bé thân phận không hơn không kém một chú tiểu đâu có gì mà khiến ông cảnh sát có thân hình hộ pháp lại đến nỗi phải khuất mình trước một đứa bé con như vậy?!
    Bỗng ngay trong lúc đó giọng nói của Minh Sư vẳng vọng vào tai tôi, như thể muốn cắt đứt dòng mạch suy tư của tôi về những nỗi thắc mắc này:
    - Lỗ San, đừng quá ưu tư về những gì chú đã nhìn thấy trên màn ảnh đầy huyền diệu đó. Âu đó cũng chỉ là một chuyện thông thường có gì phải đáng quan tâm đâu?

    MẬT PHÁP MỘT QUYỀN NĂNG TỐI THƯỢNG
    Minh Sư đã ngồi đợi sẵn từ lúc nào. Vừa nhìn thấy tôi Người đã ra hiệu ngồi xuống chiếc ghế đối diện tại một bàn ăn làm bằng loại gỗ mun đen bóng lộn. Tôi vừa ngồi xuống thì cũng vừa lúc chiếc chuông bạc trên tay Người rung và ngân lên một hồi dài như tiếng của phong linh đong đưa trước gió.
    Trả cái chuông bạc về chỗ cũ, Người nhìn tôi cười bảo:
    - Hãy ăn cái đã...Thể xác phải được bồi dưỡng trước, nhiên hậu mới lo đến phần hồn. Có phải thế không chú ?
    - Thưa Minh Sư, con cũng nghĩ vậy.
    Từ nhà trong một chú tiểu đầu vừa gọt sạch nhẵn bưng khay thức ăn ra đặt giữa bàn đoạn cúi đầu lui lại trước khi quay mặt trở vào. Cũng may tôi về đúng vào giờ ăn, nên khỏi phải lo chạy xuống nhà bếp, lắm khi xui xẻo gặp các ông hỏa đầu hổ mang thường sừng sộ hạch sách đủ điều về sự trễ nải của mình về giờ giấc ăn uống. Thật ra với tôi thì giờ giấc ít khi được đúng theo điều lệ ấn định cho các chú tiểu tập huấn tại Thiền Viện.
    Nhưng các ông Sư Hỏa Đầu đâu có biết sự hiện diện cùng trách vụ đặc biệt của tôi tại ngôi Thiền Viện cao nhất nước này! Có lần khi mới cùng thầy tôi đến nơi, đã lãnh ngay chiếc đũa bếp còn đang có nhiệt độ cao từ trong bếp lửa ra đập mạnh vào đầu tôi, chỉ vì cái tội ăn uống ngoài giờ giấc qui định.
    Những lúc như vậy tôi cảm thấy mình bị xúc phạm một cách quá đáng, hai dòng lệ bất giác tuôn trào lên đôi má. Nhưng tôi được an ủi từ một chú tiểu ngồi bên cạnh thầm thì vừa đủ để cho tôi nghe: "Rồi cái gì cũng quen đi ông bạn ạ!.
    Các ông sư hỏa đầu hổ mang có la lối, hạch sách hay đánh đập đến đâu, chúng ta hãy xem đó như việc làm công quả, dù là công quả hóc búa hay công quả êm đẹp cũng đều như nhau, có nghĩa là cùng một thứ công quả để mong có được ngày đạt thành chánh quả cả chú ạ!".
    Rồi ngồi trầm ngâm trong giây lát, chú đưa cho tôi chiếc khăn tay và bảo: "Hãy thấm nước mắt vào trong chiếc khăn này và chú hãy giữ lấy để làm kỷ niệm". Về sau, có nghĩa là hơn nửa thế ký sau đó tôi mới truy ra được ông bạn "Tiểu Tiểu" này, trước kia, kiếp trước là một người bạn chí thân của tôi tại ngay đất nước có nhiều giai cấp nhất thế giới. Đó là đất nước Ấn Độ.
    Ăn uống ở cửa Thiền cũng có qui tắc. Khi ăn không được nhìn ngửa nhìn nghiêng. Tuy đang ăn uống cũng phải lắng nghe lời kinh tại ngôi đại sảnh đường vẳng vọng lại và tuyệt đối không được phân trí. Mọi hành động đều không thể thoát qua khỏi tầm mắt của các nhà sư già.
    Chỉ một cái liếc mắt nhìn nhau, một cái cựa mình không đúng lúc trong khi tiếng kinh kệ còn vang nơi Chánh Điện là vị chi đã bị ngay các Ngài Giám Thị tiến đến cảnh cáo. Riêng tôi, từ sau ngày gặp gỡ Ngài Lạt Ma Tiên Tri được ân sủng ngoại lệ ăn uống cùng phòng của Minh Sư, nên không còn bị ràng buộc theo các qui điều nghiêm khắc này.
    Nhìn qua song cửa sổ là ngọn Hy Mã Lạp Sơn chạy dài gần như bất tận hiện ra trước mắt. Dưới chân núi những bông hoa dại đủ màu rực rỡ. Xa xa một lạch suối trong veo có những nụ tầm xuân vàng ửng nổi lên giữa làn nước bạc phếu.
    Dăm ba chòm mây màu hồng nhạt lững lờ trôi giữa vòm trời xanh biếc. Không hiểu sao tự nhiên tôi cảm thấy lòng mình lâng lâng trước cảnh đẹp hùng vĩ của rặng Hy Mã Lạp Sơn và không muốn rời xa nó. Nhưng hoàn cảnh không cho phép tôi được làm theo ý muốn.
    Tuy chỉ là một chú tiểu tầm thường như trăm ngàn chú tiểu khác song tôi được tách biệt ra bởi thầy tôi và vị Lạt Ma Tiên Tri đưa tôi vào một địa vị khá đặc biệt, một vị trí khác. Tôi phải gánh vác một nhiệm vụ trọng đại mà Ngài Lạt Ma Tiên Tri cũng như thầy tôi đã dùng thần giao cách cảm truyền đạt đến:
    "Lỗ San! Chú không phải là một chú tiểu tầm thường hàng ngày lo châm dầu, quét dọn chánh điện. Chú phải gánh vác một trọng trách to lớn mà chính chúng ta cũng không được phép làm như chú."
    Thế có nghĩa là một ngày kia tôi sẽ phải rời bỏ ra đi vâng theo mệnh lệnh đến một nơi xa xăm nào đó để làm tròn trách vụ nặng nề của mình! Nhưng mà, rồi trong tương lai tôi còn có dịp nào trở về nơi đây để được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của dãy Hy Mã Lạp San hùng vĩ này chăng? Hay là...
    Về hình ảnh tương lai của tôi, tôi đã được nhìn thấy rõ ràng trên màn ảnh. Thú thật, tôi cảm thấy ưu tư không ít, bởi nhiều lúc có những cảnh tượng lờ mờ hiện lên trên màn ảnh mà tôi chẳng nhận ra được đó là những hình ảnh gì?!
    Một cuộc chiến máu chảy thành sông, thây chồng thành núi? Một cuộc vật lộn giữa con người với đàn thú dữ? Thật lạ lùng! Cái gì tôi cũng không làm sao diễn tả được! Hình như trong đó có cả hình ảnh của tôi, của những người chung quanh tôi! Của những kẻ hiền và của cả những người dữ.
    Tại sao lại như vậy? Và tại sao lại có cả hình ảnh của tôi bên trong ấy?!Tôi có cảm tưởng là mình đang bị quay cuồng theo cơn lốc xoáy và cuối cùng tôi chẳng còn là tôi nữa mà chỉ là một điểm trắng nhỏ rực lên sáng chói bay đi cùng khắp giữa màn trời đen tối.
    Và, chưa hết, tôi thấy hình ảnh tôi đang gặp cảnh hiểm nguy tứ bề thọ địch. Tôi như một kẻ bị lọt vào trong chiếc lưới sắt bủa vây cùng khắp mà chung quanh toàn là loài ác thú, luôn luôn rình rập để ăn tươi nuốt sống tôi. Chúng gầm gừ sẵn sàng nhảy vào tôi để xé tan từng mảnh.
    Rồi tiếp theo đó: sấm sét, bão táp, tựa như trời đất đang thịnh nộ. Tôi vụt nẩy ra ý nghĩ gần như khôi hài, ắt tiếng sấm sét gầm vang đó ắt làm náo loạn cả thiên cung, làm rung chuyển cả chín tầng địa ngục, khiến cho đất trời đều khủng khiếp. Vẫn chưa hết!
    Rồi một trận lụt đại hồng thủy. Nước đỏ như máu. Tôi lặn ngụp trước những đợt sóng thần phủ chụp và tôi có cảm tưởng là mình không còn đủ sức chịu đựng nữa. Tôi cố vùng vẫy để thoát khỏi cảnh hãi hùng ấy. Giữa lúc cảnh tượng thập tử nhất sinh ấy thì có tiếng thầy tôi văng vẳng bên tai:
    - Lỗ San! Chú đã nhìn thấy tương lai của chú rồi. Liệu chú có chịu đựng nổi không? Cuộc đời của chú toàn là như thế đấy! Nếu chú cảm thấy không đủ can đảm để xông pha cáng đáng với công việc mà mạng sống của chú chẳng khác nào như sợi chỉ mành treo chuông thì âu đó chỉ vì chú không có được cơ duyên.
    Ôi! Đáng tiếc thay! Thôi thì đành vậy. Nhưng biết làm sao bây giờ? Nếu thật vậy thì âu ta cũng đành giữ chú ở lại để tiếp tục sống và chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi rừng hùng vĩ ở dải đất Tây Tạng này.
    Tôi giật mình. Thầy tôi đã biết được ý nghĩ của tôi đang lưu luyến cảnh thái thiên nhiên của dãy Hy Mã Lạp San đầy huyền nhiệm này! Người đã biết rõ ràng là ta không muốn rời xa nó.
    - Thưa thầy! Con không muốn là hạng người tầm thường run sợ trước mọi cảnh hiểm nguy mà chối bỏ lấy trách nhiệm! Không, thưa Minh Sư, con không muốn bị người đời cho là hạng người tham sinh úy tử! Thưa Minh Sư, con không muốn bị liệt vào hạng người tầm thường đó.
    Con sẵn sàng chịu đựng và sẵn sàng làm tròn trách vụ của mình, mặc dù con biết sẽ gặp lắm nỗi khó khăn, cơ khổ.
    Nghe tôi nói như vậy, Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt nở nụ cười tươi trên gương mặt hiền hòa rạng rỡ. Người nhìn tôi thật lâu đoạn lên tiếng:
    - Ta không chê trách chú và ta còn biết trước chú sẽ có những phản ứng như vừa rồi. Chú hãy yên lòng và vững tin vào định mệnh của chú trên bước đường gian nan hiểm trở, mà chú sẽ phải trải qua với muôn vàn khổ nạn. Ta chắc chắn rằng chú sẽ thành công. Đức Lạt Ma Tiên Tri tin rằng kiếp số chú không phải là một chú tiểu tầm thường.
    Không hiểu sao, tôi sực nhớ đến lời giảng giải của chú Sĩ Ca trước kia nói về câu chuyện "tiền kiếp", liền cất tiếng hỏi :
    - Có một điều con thắc mắc là làm sao con người tái sinh vào cuộc đời này mà không nhớ được gì về tiền kiếp của mình? Và, tại sao còn có những chuyện phải che dấu không cho con người có trách nhiệm phải gánh vác một điều gì quan trọng được biết
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment


    • #17
      "cái gì rồi sẽ xảy ra", như trường hợp của con chẳng hạn?! Và cũng như tại làm sao, vì những lý lẽ gì mà chúng ta không nhìn thấy rõ tất cả mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời mình?
      Nghe tôi hỏi vậy, bất giác Ngài Minh Dà Đông Đạt phá lên cười. Giọng cười của Người làm tôi có cảm tưởng như âm vang chuyển động cả dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy huyền nhiệm này.
      - Chú quả thật biết quá nhiều, mà chú cũng vừa là con người lại chóng quên tất cả. Gần đây, có lần ta đã nói với chú là thông thường chẳng ai nhớ được những gì ở kiếp trước của mình được. Nếu biết được chỉ gây thêm cho mình những nỗi bận tâm không ít.
      Như chú đã biết, bánh xe luân hồi quay đều đặn và rất công minh, khi thì đem phú quí cao sang cho người này, và cũng cùng lúc mang cho kẻ khác bao cảnh khốn cùng đau khổ! Kiếp này làm kẻ ăn xin, cơm không, áo chẳng, kiếp sau lại trở thành là những ông hoàng bà chúa, sống trong chốn lầu son gác tía, ăn sung mặc sướng, rủng rỉnh ngựa xe, lắm kẻ hạ người hầu.
      Nói đến đây, thầy tôi im lặng trong giây lát như tuồng Người đang trầm ngâm suy nghĩ đoạn sau đó tiếp tục giải thích về điều tôi thắc mắc:
      - Con người không thể nhớ về quá khứ, đó là một qui luật của sự sống mà tạo hóa đã an bài. Con người không nhớ được cái quá khứ là một sự "thử thách" bắt đầu lập lại cuộc đời mới của một kiếp tái sinh!
      Tôi chận lại hỏi thầy tôi:
      - Nhưng, thưa thầy còn những cảnh phải dấu diếm là tại làm sao? Nếu cứ để cho mọi người đều biết được cái tiền kiếp của mình thì chắc chắn họ sẽ tiến nhanh hơn.
      - Đâu có phải giản đơn như vậy. Chúng ta có những tiềm năng ở trong người chúng ta thuộc quyền điều khiển của chính ngay thể phách mình. Không có gì so sánh được vì nó quá vĩ đại đối với tất cả cái gì.
      Chẳng biết thầy tôi nghĩ thế nào, đến đây Người mỉm cười chậm rãi nói:
      - Ta càng nghĩ càng không thể hiểu được khi nhìn thấy người Tây phương họ dùng một lúc hàng loạt các phương tiện máy móc để gửi tin tức bằng đường vô tuyến qua các đại dương mênh mông xa thẳm. Họ gọi đó là đường dây "vô tuyến" nhưng thật ra trong các máy móc đó lại chứa đựng hàng ngàn cây số dây điện.
      Trong lúc đó ở xứ sở Tây Tạng này các thông tin với nhau bằng "thần giao cách cảm". Chúng ta đâu có phải sử dụng cái vô tuyến như họ? Chúng ta còn có thể du hành trong cõi "Vô Hình", qua không gian và thời gian, đi khắp cùng thế giới hoặc các cảnh giới khác nhau.
      Chúng ta có thể dùng tiềm năng cho thể xác ta lướt trên không khí hoặc dùng nhãn lực của mình nhấc bổng được những khối nặng cả ngàn cân... Lỗ San ơi! Chẳng phải trên cõi đời này thảy đều trong sạch.
      Cũng chẳng phải tất cả những vị sư mặc áo cà sa đều trở thành Đức Phật. Đừng nghĩ đâu xa xôi, ngay cả ở Cửa Thiền này các nhà sư thảy đều hiền lành, đạo đức mà thật ra cũng lắm kẻ làm cho Cửa Thiền hoen ố!
      - Thưa thầy! Làm thế nào chúng ta có được những điều thầy vừa nói?
      - Mật pháp ! Mật pháp bảo vệ sự sinh tồn cho toàn thể nhân loại.
      - Thưa thầy, thật tình con chưa được hiểu điều này.
      - Mật pháp (Secret Knowledge) có thể cho ta biết trước những điều gì sắp xảy ra. Chính vì "mật pháp" đó mà có nhiều Đức Lạt Ma thuộc hàng cao cấp bị bách hại... chỉ vì các Ngài nhất quyết không chịu tiết lộ dù chỉ là một vài chi tiết.
      - Truyền đạt cho nhau là một điều nên làm, tại sao chúng ta phải giữ bí mật ?
      Ngài Minh Dà Đông Đạt nhìn tôi lắc đầu:
      - Lỗ San! Không nên nghĩ một cách nông cạn như vậy. Giữa cái xã hội ngày nay, con người đa phần chỉ nghĩ đến "tiền tài và quyền lực". Nếu "mật pháp" của chúng ta trao nhầm tay quỉ dữ thì chú thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra đây?
      Như thể nghi ngờ rằng tôi chưa nghe rõ sự cần thiết giữ bí mật các Mật Pháp, Minh Sư nhấn mạnh lại vấn đề này:
      - Để bảo vệ sự sinh tồn cho nhân loại chúng ta bắt buộc phải tuyệt đối giữ bí mật các "Mật Pháp" như ta đã nói với chú. Lỗ San, nghe rõ chứ?
      - Thưa thầy vâng. Con nghe rõ.
      Ngài Tiên Tri và nhiều vị khác nữa đều tiên đoán rằng mảnh đất Tây Tạng này rồi đây sẽ bị một loại tôn giáo ngoại lai khác mang quân đến chinh phục. Đó là loại tôn giáo bất bình thường.
      Mục đích của họ không ngoài củng cố bạo lực cho những nhà độc tài bắt toàn thể nhân loại hoặc ít nhất là một nửa số người trên hoàn vũ này làm nô lệ cho họ.
      Có nhiều Đức Lạt Ma thuộc hàng cao cấp đã bị người Nga bách hại đến chết, chỉ vì các vị này đã nhất quyết không chịu tiết lộ "mật pháp" dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt.
      Một kẻ tầm thường nếu có mật pháp trong tay họ sẽ làm gì khi mà kẻ ấy đã thấu đáo là mình sẽ tóm thâu tất cả những gì mình muốn bằng vào "quyền lực" siêu phàm mình đang sẵn có? Lúc ban đầu họ còn sợ hãi, hoang mang chẳng biết việc gì sẽ xảy ra nếu một khi họ sử dụng đến?
      Nhưng rồi sự sợ hãi ấy dần dà tan biến đi, tà tâm của họ bắt đầu khuấy động. Và từ sự khuấy động đó lòng tham lam của họ sẽ dấy lên và ý đồ lợi dụng sẽ từ từ nẩy nở... Từ đó họ bắt đầu cảm thấy phải thực hiện cái quyền lực vô song và phi thường này để thỏa mãn sự khát vọng của mình.
      Nói đến đây, Minh Sư nhìn tôi hỏi:
      - Chú hiểu chứ ?
      - Thưa thầy, con hiểu.
      - Lỗ San à! Họ thèm khát "mật pháp" của chúng ta là vì họ cần có tiền. Khi mà họ có tiền trong tay rồi thì quyền lực của họ càng tăng trưởng hơn lên. Từ đó họ bắt đầu biến thành một con thú dữ.
      Vốn là một con hổ dữ, giờ thêm mật pháp nữa thì chẳng khác nào ta cho họ thêm vây. Túi tham của họ không đáy. Với họ của cải quí
      báu có bao nhiêu cũng không đủ. Lúc nào họ cũng không thỏa mãn với sự hiện hữu của mình. Đừng nói "tri túc" với họ.
      Thầy tôi nói đến đây, thở dài lắc đầu:
      - Ôi! Không có gì đáng buồn bằng khi một kẻ giàu lòng tham vọng mà trong tay họ có quyền năng tối thượng, thì quả đất này sẽ có một ngày kia tan nát hết!
      Tự nhiên trong đầu óc tôi lóe lên một tia sáng vì nghĩ rằng nhờ "mật pháp" sẽ cứu nguy cho chính mảnh đất ven dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy huyền nhiệm này thoát ra khỏi cảnh đau khổ. Tôi bèn lên tiếng hỏi Minh Sư:
      - Nếu vậy thì thưa Minh Sư, "mật pháp" sẽ cứu nguy cho quê hương yêu dấu của chúng ta được có cảnh thanh bình an lạc.
      Người khẽ thở dài lắc đầu :
      - Không.
      Tôi vô cùng kinh ngạc khi nghe Minh Sư phủ nhận về cái quyền lực tối thượng của "mật pháp", bèn hỏi lại:
      - Thưa Minh Sư, tại sao lại không?
      - Không thể nào được. Chúng ta không có quyền mang bí pháp ra sử dụng với công việc làm như vậy.
      - Mật pháp của chúng ta, chúng ta có quyền mang ra bảo vệ hoặc làm tăng trưởng thêm quyền lực của chính mình. Tại sao lại không ?
      Minh Sư nhìn tôi trầm ngâm giây lát rồi lên tiếng đáp:
      - Không. Không thể được. Chúng ta không được phép mang bí pháp ra sử dụng với công việc như chú mong muốn. Chú nghĩ rằng Tây Tạng từ ngàn xưa không có tội lỗi hay sao?
      - Theo con nghĩ là không.
      - Chú lầm rồi! Có. Tây Tạng đã bị lỗi lầm to lớn, không phải như Lỗ San nghĩ hoàn toàn thánh thiện. Tây Tạng từng một thời như các quốc gia khác có một quá khứ dẫy đầy tội ác! Tây Tạng cũng bị trừng phạt theo định luật của Đất Trời.
      Mảnh quê hương này của chúng ta đã có một thời gian gần như bị tiêu diệt, nhưng may mắn thay chúng ta đã thoát ra được cảnh đau thương ấy. Hiện giờ tuy còn bị chìm trong nỗi tang thương thật nhưng trong tương lai sẽ được phục hồi và sẽ trở thành lớn mạnh!
      Mảnh quê hương yêu dấu có dãy Hy Mã Lạp Sơn này sẽ thanh lọc mọi cặn bã xấu xa ngay trong ngọn lửa chiến tranh và sẽ đưa toàn thể thế giới cùng hòa nhập vào đời sống thanh bình, an lạc...
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • #18
        Rồi Người mỉm cười nhìn tôi nói nhỏ:
        - Lỗ San ! Chiến tranh thật tàn ác, nhưng nó cũng là một đường lối giải quyết tất cả những cái xấu xa...
        - Thưa Minh Sư, còn nếu không có chiến tranh thì sao?
        - Thì loài người sẽ bị chết về mọi bệnh dịch bất trị khác. Đó là một đáp số thật công bình vì nhờ nó mà quân bình được dân số trên hoàn vũ để loài người trên Địa cầu này có cơ hội cùng các Thế Giới khác ở một cõi xa xôi nào đó, có cơ hội nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau.
        Chiến tranh sẽ xảy ra hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, cho đến khi quả đất được điều hòa bằng một phương pháp hợp lý để đạt được một đời sống không còn hận thù đau khổ nữa, một thế giới hoàn toàn an bình, cực lạc.
        Tiếng cồng từ xa bỗng rền rĩ đưa lại. Minh Sư vội đứng lên và bảo tôi hãy cùng đến Chánh Điện. Ra khỏi cửa phòng, thầy trò tôi đi dọc theo hành lang vào trong sân chùa. Tiếng cồng càng lúc càng vang lên như thể thúc giục, có vẻ càng lâu hơn cả khi chúng tôi còn ở Trắc Phổ Di.
        Trước mắt chúng tôi là một đám đông người toàn là các vị tuổi tác già nua hoặc những vị bị tàn phế khập khễnh bước đi một cách nặng nề, khó khăn nhất đối với họ là khi bước lên các bậc thềm của ngôi chùa vĩ đại này.
        Minh Sư khẽ nói bên tai tôi:
        - Lỗ San, chú hãy tìm chỗ đến ngồi cạnh với các tăng sĩ trong dinh Ngài Tiên Tri thì hơn.
        Tôi gật đầu vâng lời và tiến đến cạnh với đám tông đồ áo nâu đang ngồi bên trong ngay giữa Chánh Điện. Đám Tăng sĩ nhìn tôi có vẻ như tò mò. Rồi bất thần đám này thừa cơ viên giám thị nhìn đi nơi khác, liền sẽ sàng phóng nhanh đến bu quanh tôi để nhìn tôi được tường tận hơn.
        Trong đám đông Tăng sĩ bao quanh tôi đó, có tiếng khẽ hỏi:
        - Ông anh từ đâu đến ?
        - Trắc Phổ Di.
        Rồi một giọng có vẻ còn non choẹt hỏi tiếp theo:
        - Chú là người của Ngài Đại Lạt Ma gửi đến phải không ?
        Tôi nhìn chú tiểu nhỏ tí xíu này một lát rồi gật đầu:
        - Phải.
        - Để làm gì thế ?
        - Để gặp Ngài Tiên Tri.
        Bỗng một giọng oang oang như tiếng đồng chung từ phía sau lưng tôi vang lên:
        - Im ngay đi. Không được phép làm ồn nữa nghe không?
        - Tôi giật mình khẽ liếc mắt nhìn. Thì ra đó là ông cảnh sát Hộ pháp đang quắt mắt nhìn đám trẻ chúng tôi, nhưng may mắn thay, ông cảnh sát Hộ pháp này nói xong liền bỏ đi nơi khác.
        Lại có tiếng cười khúc khích:
        - Ấy dà! Đừng để ý làm gì cái ông bắt nạt người ấy! Tiếng sủa của con "tê" lúc nào cũng lớn hơn tiếng cắn.
        Đám Tăng sĩ nhỏ nhìn tôi rồi cùng nhau bụm miệng lại cười. Cùng trong lúc đó từ cánh cửa nhỏ Ngài Tiên Tri cùng với Ngài Trụ Trì xuất hiện tiến về hướng Chánh Điện.
        Sau khi làm lễ chúng tôi kéo nhau kéo nhau vào bên trong nhà bếp để lấy nước trà uống. Tôi cũng không quên lấy lúa mạch chứa đầy vào túi da rồi lặng lẽ bước ra trở về phòng ngủ.
        Nơi ngủ của tôi là một chiếc giường không lớn không nhỏ kê bên cửa sổ. Đêm đã về khuya, phòng kế bên một mầu tím sẫm bao phủ. Vài ngọn đèn le lói sáng.
        Ngoài trời, xa xa ngọn Hy Mã Lạp Sơn với những đỉnh núi nhọn hoắt chọc trời chia chỉa đâm lên tợ như những ngón tay chụp vào nhau để cầu khẩn các Linh Thần trên không trung bảo hộ cho mình. Ánh trăng chiếu vào các khe núi lúc ẩn lúc hiện, càng về khuya càng sáng hẳn lên.
        Bóng trăng trải xuống con suối trông hệt như một dòng sông nhấp nhô gợn sóng. Bên trên, các hòn đá nhọn chĩa lên, xa xa nhìn như những cây cột dựng hai bên của một cây cầu vắt ngang sông.
        Tôi sực nhớ ngày nào có lần cùng Minh Sư đi đến ngôi Đại Tự qua những cái ao nhỏ mọc đầy bông tý ngọ có màu sắc vừa tím vừa đỏ xen lẫn nhau cùng nhiều bụi huệ trổ hoa mọc ở chung quanh trông như thể một bức tranh ngày tết.
        Lúc ấy nếu không có Minh Sư đi bên cạnh, thế nào tôi cũng nhảy xuống ngựa đuổi bắt mấy chú chuồn chuồn hoặc bắt các nàng bướm hoa đủ màu đủ sắc.
        Lúc bấy giờ, các hình ảnh này đã gợi cho tôi nhớ lại cảnh sống ở quê nhà lúc tôi chưa được thân phụ mang đi tu viện đó là một nơi thật trầm lặng và cũng thật yên tĩnh, phảng phất mùi thơm của núi rừng hòa lẫn với mùi cỏ dại.
        Bây giờ thì quê hương ấy chỉ còn lại trong ký ức, hy vọng ngày trở về thăm viếng cha mẹ thật xa vời.
        Không ngủ được, tôi nằm miên man suy nghĩ đủ mọi thứ, đủ mọi hình ảnh. Tôi nhớ cả mấy ngọn cờ lễ rũ xuống im lìm trên cột gỗ. Một vài tảng mây mỏng lững lờ trôi trên vòm trời thành Lạt Sa.
        Ôi! Lạt Sa đẹp làm sao! Tôi không thể nào quên được các hình ảnh đầy thơ mộng ấy...Và, cứ như thế, hết hình ảnh này đến hình ảnh khác chập chờn hiện lên trước mắt cho đến khi tôi chìm dần vào giấc ngủ ngon lành đến sáng.
        Tôi giật mình thức dậy. Ánh bình minh vừa rựng dưới chân trời. Các cành cây còn đọng hạt sương mai lấp la lấp lánh trông hệt như những viên kim cương đủ màu đủ sắc.
        Tôi vội vàng vùng dậy, khoác lấy áo chạy ngay ra cửa dọc theo hành lang rồi vụt chạy thẳng đến sân ngoài gần đó, và cứ chúi đầu chúi cổ chạy, bất giác đâm sầm ngay vào vòng tay của ông cảnh sát người Kham.
        - Chú đi đâu ?
        Tôi vừa giật mình vừa cảm thấy cái đầu mình ê ẩm, ngước mắt lên nhìn thấy ông cảnh sát Hộ pháp này mỉm cười nhìn tôi, hỏi lại lần nữa:
        - Chú đi đâu thế ?
        Tuy giọng nói của ông ta nhỏ nhẹ đượm vẻ hiền hòa, nhưng cũng đủ làm cho tôi thấy chói cả tai:
        - Thưa ông cảnh sát, tôi chạy cho kịp đến khóa lễ sớm ạ! Có lẽ tôi bị ngủ dậy trễ rồi.
        Ông ta mỉm cười buông tay tôi ra khẽ nói:
        - A! Thì ra chú là khách đường xa đến. Nơi đây không có lễ sáng như chú tưởng. Thôi, chú có thể trở về phòng để tiếp tục ngủ lại đi.
        Nhìn thấy tôi có vẻ ngơ ngác, ông mỉm cười giải thích:
        - Nơi đây toàn là những người già cả, nếu không thì cũng là những kẻ tàn tật, què quặt hay đui mù...bởi những lý do đó nên được đặc ân khỏi phải đi lễ sáng như các Thiền Viện khác.

        Nói xong, ông ta cười híp cả mắt đưa tay vỗ nhẹ lên đầu tôi. Nhưng, với cái đầu nhẵn nhụi của tôi bị cái vỗ ấy của ông cảnh sát Hộ pháp này chẳng khác nào như một quả đấm nặng tợ ngàn cân giáng xuống.
        Tôi ngẩng mặt nhìn ông ta một lần nữa rồi cúi đầu thi lễ, đoạn chạy nhanh băng qua dãy hành lang trở về phòng ngả lưng xuống giường tiếp tục tìm lại giấc ngủ.
        Tiếng chim ngoài trời líu lo như thể những bản đàn tấu lên một điệp khúc êm ái, nhẹ nhàng đưa tôi vào chốn thiên thai đầy hoa thơm cỏ lạ.
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment


        • #19
          CHƯƠNG BA
          ĐI TÌM TIỀN KIẾP

          Tôi rời phòng ngủ lững thững đi đến một khu vườn trồng đủ các loại kỳ hoa dị thảo. Mới thoạt nhìn tôi không biết được có bao nhiêu loại hoa và gồm những loại hoa gì? Màu sắc rực rỡ của khu vườn làm tôi loáng cả mắt.
          Chân tôi cứ chậm rãi bước đi và mắt thì cứ chăm chú nhìn hết nơi này đến nơi khác. Có những cụm hoa rực lên như màu lửa mà cũng có những loài hoa hệt như những loài hoa dại mọc ven đường rừng mà tôi được nhiều lần trông thấy.
          Tất cả đều như thể tranh nhau phô bày vẻ đẹp muôn hồng nghìn tía của mình trước các đàn bướm hoa hay các con vò vẽ đang chập chờn bay lượn!
          Và cứ như thế, tôi lững thững tiến sâu vào bên trong khu vườn trông hệt như một thảm hoa rực rỡ. Xa xa tiếng sáo diều khi trầm khi bổng véo von vọng lại, như thể đưa hồn người đi vào một thế giới siêu nhiên nào đó.
          Tôi tiến sâu thêm vào bên trong, một quang cảnh khác lại phơi bày ra trước mắt. Đó là một cái hồ nước không lớn nhưng cũng chẳng là nhỏ nổi bật giữa một khoảnh đất trồng đầy loài hoa "tý ngọ" rực lên đủ màu sắc.
          Hồ nước có hình dáng như khu hồ Balaton mà có lần chú Sĩ Cát cho tôi xem trong tập sách nói về danh lam thắng cảnh nổi tiếng tại đất nước Hung Gia Lợi.
          Hồ Balaton ở chân núi Bakony có chiều rộng khoảng một cây số rưỡi là hồ lớn nhất ở Trung Âu, có những dải rừng xanh mướt, cũng như có các suối nước nóng bốc hơi và cả nước khoáng chảy róc rách ven theo sườn núi tạo thành một phong cảnh vô cùng ngoạn mục.
          Tôi không biết công trình kiến tạo hồ nước tại khu vườn hoa này nơi đây liệu người xưa có mô phỏng theo cảnh thực của Balaton không, nhưng hồ nước nhân tạo thu nhỏ lại mà tôi đang đứng sững sờ chiêm ngưỡng không có gì khác hơn.
          Cũng những dòng nước suối róc rách, cũng một dải thông xanh mướt và nước hồ trông hệt như mặt gương xanh phẳng lì, đứng tự đầu xa trông chẳng khác gì một bức tranh lung linh đủ màu đủ sắc.
          Bên kia vườn là một ngôi nhà có mái cong hệt như một ngôi đền, khi tôi bước vào bên trong mới biết đó là một tiểu thư viện, gồm một tủ kiếng lớn chứa đầy sách vở và một số tranh treo trên các tường.
          Tôi chú ý đến mấy bức tranh có sắc thái Bắc Tông mà tôi được biết nhờ có lần chú Sĩ Cát giải thích, còn gọi là Phật giáo Bắc Tông hay Phật giáo Bắc Phương. Phái Bắc Tông tức Đại Thừa, phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng và luôn cả Mông Cổ, Triều Tiên và Việt Nam.
          Phái Phật giáo này dựa vào những kinh sách Phật bằng chữ Sanskrit nếu mang ra so sánh với phái Phật giáo Nam Tông, dựa vào kinh sách Phật chữ Pali thì phái Phật giáo Bắc Tông cấp tiến hơn, có phần uyển chuyển hơn.
          Dễ thích ứng với những đổi thay tùy theo hoàn cảnh và thời đại của trào lưu, nhưng có điều nó dễ pha trộn với những yếu tố tín ngưỡng trong dân gian, vì vậy nó có vẻ xa lạ với Phật Giáo Nguyên Thủy thời đức Phật.
          Vừa về đến phòng đã được lệnh của thầy tôi bảo đến ngay gặp Ngài có chuyện cần gấp. Tôi được Minh Sư đưa đến gặp Ngài Trụ Trì cùng hai vị Lạt Ma lớn tuổi. Họ phỏng vấn tôi nhiều điều về gia cảnh. Họ còn nhìn tôi chăm chú, hỏi tôi có nhớ gì về tiền kiếp hay không?
          Và bằng cách nào mà tôi liên lạc được với Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt? Cuối cùng cả ba vị này im lặng chậm chạp lê bước ra bên ngoài không nói thêm lời nào. Tôi ngơ ngác chẳng biết có nên theo các Ngài hay không, thì vị tăng sau cùng đã lấy tay vẫy tôi vừa đi vừa nói:
          - Đi, đi theo chúng ta. Lúc bấy giờ tôi như cái máy chỉ biết phục tùng ngoan ngoãn theo sau. Tiếng dép lẹp kẹp vang lên dọc nẻo hành lang. Tôi có cảm tưởng như tiếng của con ngựa đói từ đường xa đang cố hết sức mình kéo lê đi một cách miễn cưỡng.
          Tôi đành theo sau từng bước. Và tôi có cảm tưởng những ông sư già này là hiện thân của các con sên đang mang cái vỏ già nua cằn cỗi, đang tiến dần đến bờ huyệt để an hưởng tuổi già. Thú thật trước hình ảnh này tôi thật sự cảm thấy khó chịu.
          Mỗi lần đi ngang các căn phòng trống, mấy chú tiểu cùng mấy ông phục dịch bên trong cứ trố mắt mắt nhìn tôi lộ vẻ tinh quái. Những lúc như vậy, mặt mày tôi nóng bừng lên thẹn thùng vì phải ở trong đám người lê bước chẳng khác như đàn rùa đói sau giấc ngủ dài vừa bừng tỉnh.
          Dẫn đầu là Ngài Trụ Trì bằng vào hai cái nạng khập khễnh bước, còn miệng thì cứ lẩm nhẩm đọc những lời kinh, chẳng biết có phải là những lời kinh sám hối không? Kế đến là hai vị Lạt Ma già lụ khụ, gầy đét như hai con mực khô, lảo đảo bước như một chú gà chọi thất trận.
          Còn tôi, thân phận của một chú tiểu giữ vị thế "tập hậu" cứ phải kiềm hãm lại bước chân mà không một chút nào thích thú. Không biết mất bao nhiêu thời gian, song tôi nghĩ là lâu lắm mới đến được phía cửa nhỏ ở chân tường.
          Đến đây Ngài Trụ Trì đứng hẳn lại, mò mẫm trong bọc túi áo lấy ra chiếc chìa khóa nhỏ, miệng lâm râm đọc. Vì tiếng quá nhỏ tôi không thể nghe thấy Ngài đã đọc những lời nào! Liền ngay sau đó một vị Lạt Ma khác đến giúp Ngài mở tung cánh cửa, tức thì có tiếng rít kèn kẹt của bản lề vang lên.
          Ngay sau đó hai vì Lạt Ma theo chân Ngài Trụ Trì bước vào bên trong. Chẳng một ai ra lệnh cho tôi theo vào, song lần này tôi không còn ngơ ngác nữa, tức thì lẳng lặng bám sát theo từng bước.
          Sau khi tôi bước qua ngạch cửa của một ngôi nhà gần như đổ nát thì bỗng một vị Lạt Ma quay lại đóng sập ngay cửa lại. Vào bên trong chúng tôi tiến đến một cái bàn khá dài, bên trên chất đầy những đồ vật cũ kỹ bám đầy bụi bặm.
          Những vật cũ kỹ này toàn là áo cà sa từ thời xa xưa nào, cũng như các xâu tràng hạt và nhiều bánh xe quay để các nhà tu già nua đi cầu kinh.. toàn là các loại từ bao nhiêu thời đại lưu lại. Nằm rải rác trên mép bàn có vài ba hộp búa bằng gỗ chạm trổ cùng nhiều vật khác khá lạ lùng tôi chẳng biết các vật lạ ấy là gì nữa?
          - Này! Lại đây chú bé ơi! Vị Trụ Trì gọi tôi. Chú thử nhìn xem tất cả các món đồ trên bàn này có nhận thấy cái nào là của chú không ?
          Tôi ngạc nhiên nhìn vị Trụ Trì vừa nói, hỏi lại:
          - Con không hiểu Ngài định nói điều gì ?
          Vị Trụ Trì nhắc lại từng tiếng một:
          - Ta muốn nói là chú thử nhìn xem trong đống đồ cũ kỹ này có cái nào của chú không
          Tôi lắc đầu:
          - Thưa Ngài Trụ Trì, làm sao có được đối với một đứa bé như con?!
          - Ta muốn nói những cái mà tiền kiếp của chú kia...
          Ngài vừa nói vừa từ từ tiến về chỗ tôi đang đứng rồi dắt về phía cạnh bàn, đoạn nghiêm nghị bảo:
          - Nếu chú nhận thấy các đồ vật nơi này không phải của chú thì cứ nhặt một vài món mang đến cho ta xem.
          Dứt lời, ngài đến chiếc ghế cách chỗ tôi đang đứng không bao xa ngồi xuống một cách nặng nề. Mặt ngẩng lên, mắt hướng lên trần nhà như đang suy tư một vấn đề gì. Lúc bấy giờ tư bề hoàn toàn yên tĩnh. Thỉnh thoảng có làn gió nhẹ thoảng vào, làm lay động mấy tấm màn treo nơi cửa sổ.
          - Được!
          Tôi lẩm bẩm và mỉm cười. Nếu ba Ngài muốn chơi cái trò này, thì "tiểu oắt con" này sẽ làm cho các Ngài ngạc nhiên cho mà xem!
          Sở dĩ tôi nghĩ vậy vì cho là các nhà sư già muốn chơi trò tâm lý. Nghĩ vậy, tôi từ từ tiến về phía bàn có đống đồ cũ. Khi đến nơi tôi dừng lại đưa mắt nhìn trong giây lát. Sau đó tôi tự động đưa tay bên trái ra để cách đống đồ cao lối ba tấc, đoạn rà qua rà lại các vật đặt trên mặt bàn.
          Có điều làm tôi ngạc nhiên là có một vài đồ vật đã làm tôi rụt tay ngay lại vì cảm thấy như bị điện giật khi tôi mó nhằm vào, đã vậy mà luôn cả mặt mũi như tuồng bị ngứa ngáy khó chịu!
          Còn một vấn đề khác nữa, tôi đâu có chú ý đến "bánh xe cầu kinh", ấy thế mà tôi lại nhắc ra để bên cạnh mình. Tiếp đến tôi bưng cái bình bát móp méo cùng một một xâu tràng hạt dính đầy bụi bặm.
          Như có một sức hút nhẹ nhàng tiếp tục đưa tôi đi ven theo quanh mép mặt bàn. Và cũng bất giác đứng lại, táy máy đôi tay mó thử một vài vật khác mà tôi nghĩ là dường như quen quen đã từng thấy từ bao giờ.
          Đó là chiếc "áo cà sa" màu vàng nghệ thường dành cho các bậc cao tăng! Chiếc áo cà sa này đã ngả màu bạc phếu và gần như mục nát!
          Đứng yên lặng trong giây lát, và nhất định không chần chờ nữa, tôi nhấc cái áo này lên một cách thật nhẹ nhàng đưa ra trước mắt mình ngắm nghía. Sở dĩ tôi có cử chỉ thận trọng như vậy chỉ vì sợ nó đã mục nát, có thể bấy ra từng mảnh vụn trước khi mang đến cho Ngài Trụ Trì quan sát.
          Vừa cầm trong tay vừa rón rén bước đi không dám động mạnh, đến đặt dưới chân ghế của vị Trụ Trì đang ngồi. Và, tôi lại nhẹ nhàng quay trở lại mang các thứ khác như bánh xe cầu kinh, cái bình bát méo mó và một xâu tràng hạt đã vẩn màu bạc mốc đến trước mặt ngài.
          Tôi mang tất cả các vật vừa tìm thấy đến để Ngài Trụ Trì quan sát, và tức thì ngay sau đó, hai nhà sư đang đứng đối diện với tôi bước ngay đến để cùng vị sư già tìm kiếm các dấu vết hoặc những điểm bí mật nào đó trong từng đồ vật một, đoạn mang ra đối chiếu với tập sách "Tiên Tri" và cùng nhau bàn thảo trước khi xác định tính cách riêng tư của các vật này.
          Các vị sư này thì thầm bàn tán trong khoảng thời gian khá lâu, bất giác cả ba đều ngẩng mặt lên đưa mắt nhìn nhau, như thể sững sờ trước một sự thể vừa khám phá ra một việc tối quan trọng nào đó.
          Tôi đứng bên kia bàn đưa mắt theo dõi, và suýt tí nữa tôi bật phì cười, vì cả ba vị đều có cái cổ khẳng khiu, dài thượt, trông hệt như cổ cò hay con gà tây mồng đỏ đang gật gù trông ra tuồng tương đắc lắm.
          Bỗng cả ba vị sư cất tiếng cười vui vẻ:
          - A! Ha,ha! Chú tiểu kia ơi !
          Cả ba vị cùng cất tiếng cười vui vẻ rồi cùng nói tiếp:
          - Đích thị...rồi...
          Tôi ngơ ngác, chẳng biết chuyện gì đã xảy đến với tôi? Tôi ngơ ngác nhưng tuyệt đối chẳng hỏi han thêm chuyện gì đã xảy đến cho tôi?
          - Hừ, hừ...đúng ...đúng là Người rồi...Ha, ha! Này chú tiểu ơi! Chú có nghe ba ông sư già này nói gì không?
          - Thưa, con có nghe, song chẳng hiểu điều gì cả!
          - Hả? Không hiểu điều gì cả à? Chúng ta nói rằng chú đích thực. Rõ ràng là đích thực, chú có hiểu không?
          Tôi ngơ ngác giương tròn xoe mắt lên hỏi lại:
          - Nhưng thưa các đại sư, con chẳng hiểu các đại sư khuyên bảo điều gì!
          Vị Trụ Trì mỉm cười:
          - Chúng ta đâu dám khuyên bảo chú điều gì, mà chỉ nói rằng là chú đúng là nhân vật mà chúng ta đang tìm kiếm.
          Rồi Ngài nắm lấy tay tôi nói tiếp:
          - Hừ, hừ. Thành quả chúng ta tìm thấy được thật không gì quý giá bằng. Chúng ta có thể tuyên bố là rất đáng lạc quan rất lạc quan chú biết chứ!
          Giờ chú hãy mau trở về thưa với Chân Sư của chú, ông Minh Dà Đông Đạt đó, rằng chúng ta muốn được hân hạnh tiếp chuyện với Ngài tại đây. Tại nơi này. Chú nghe rõ chứ?!
          Giọng nói của ngài Trụ Trì nghe có vẻ hoan hỉ! Tôi lập tức chạy đi ngay nhưng vừa bước đến ngạch cửa thì lại nghe tiếng của Ngài Trụ Trì già này nói vói theo:
          - Này! Ông bạn bé bỏng kia ơi! Nhớ là chỉ một mình Minh Sư ông bạn thôi đấy nha, còn ông bạn khỏi phải quay trở lại đây nữa. Ha! Ha! Nhanh lên. Phen này đừng hòng mà trốn các lão già này.
          - Tôi gật đầu và quay người lại chạy trở về nơi tôi và thầy tôi đang ở, vẫn còn nghe giọng cười của cả ba ông sư cao cổ vọng theo phía sau lưng tôi đuổi theo.
          Riêng tôi, cảm thấy sung sướng vì đã thoát khỏi cảnh phải ngồi cạnh mấy cái xác ma chỉ toàn da bọc lấy xương không còn một chút sinh lực nào!
          Tôi vừa chạy vừa suy nghĩ việc làm của mấy Ngài Trụ Trì trông hệt như cái hình nộm kia nên chẳng hề để ý đến mọi vật chung quanh, suýt chút nữa đâm sầm vào thầy tôi đang đứng cách đó chỉ trong gang tấc. Người vừa lấy tay ra nắm lấy tôi vừa cười lên tiếng hỏi:
          - Đi đâu mà vội mà vàng như thế, hở chú?
          Tôi vừa định đáp lại thì Người đã vỗ nhẹ vào vai tôi bảo:
          - Tôi biết rồi. Bây giờ chú có thể đi dạo quanh quất nơi này đợi ta về cùng một thể.
          Nói xong Minh Sư rảo bước đi đến nơi của các vị cao tăng đang đợi. Còn một mình tôi lững thững ra sân, lấy chân đá vào các hòn sỏi rồi thẩn thơ đi quanh quẩn trong vườn .
          Rồi hình ảnh của các vật cổ lỗ, xấu xí, ẩm mốc nhưng vẫn còn giữ được màu sắc nguyên thủy của nó hiện ra trước mắt.
          - Lạ! Chẳng biết các vị cao tăng này định chơi cái trò múa rối gì đây. Tại sao cái ông Trụ Trì kia cùng với hai vị Lạt Ma cứ bảo mình nhìn xem thử, có vật nào thuộc quyền sở hữu của mình hay không.
          Để làm gì. Mà làm sao một chú tiểu chưa thuộc hết pho kinh sách làm gì có được những của cải kỷ niệm như vậy?
          Tôi liên miên suy nghĩ như vậy. Nhưng rồi, đối với tuổi trẻ chúng tôi mọi việc đều dễ quên đi để chấp nhận những cái mới mẻ khác.
          Tôi miên man suy nghĩ. Chẳng biết mục đích của các bậc cao tăng bắt tôi tìm các kỷ vật như vậy để làm gì? Mặc dù cho có đi, cũng chẳng ích lợi
          gì cả đối với tôi. Mặc! Hơi đâu mà nghĩ?! Chuyện của các vị cao tăng hãy trả lại cho các vị ấy.
          Với tôi thì những chuyện vặt vãnh như vậy chẳng có gì là quan trọng!
          Tôi lững thững đi, đưa mắt nhìn khu vườn cây rậm rạp nhà chùa vừa để làm kiểng, cho các du khách hay cho những người mộ đạo tứ phương kéo về chiêm ngưỡng, vừa để ăn trái. Con đường dẫn đến khu vườn này không được rộng rãi lắm, lót bằng đá sỏi trắng phau phau.
          Ven theo vệ đường là một con lạch nước trong vắt, trông hệt như mặt kiếng phẳng lì. Những cây cọc lớn đóng dọc ven theo bờ lạch không cao không thấp, trông hệt như một dãy hành lang của một tòa nhà có lối kiến trúc của Tây phương.
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • #20
            Đến cạnh khu vườn quang cảnh có khác đi. Bóng râm mát phủ kín toàn thể khu vườn bởi các tàng cây quá lớn, cành lá đan vào nhau, ánh mặt trời không thể nào rọi qua được. Chính vì vậy mà bên trong khu vườn chỉ sáng lờ mờ mặc dù lúc bấy giờ mới vừa đúng ngọ, bên ngoài vẫn còn rực sáng!
            - Này, ông anh kia ơi!
            Tiếng nói của ai từ phía sau lưng tôi gọi vọng đến khiến tôi phải quay lại nhìn. Người vừa gọi là một tăng sĩ đang đứng nhìn tôi chòng chọc mỉm miệng cười hỏi:
            - Có phải anh là người có liên lạc với tiền kiếp đó không?
            - Tiền kiếp?
            Tôi hỏi lại.
            - Vâng! Tiền kiếp. Liên lạc tiền kiếp. Có phải thật vậy không?
            Tôi ngạc nhiên lắc đầu:
            - Ông anh nói gì tôi cũng chẳng hiểu nữa.
            - Quái! Thế mấy ông Trụ Trì cùng các bậc cao tăng chẳng nói gì với anh sao?
            - Các ông ấy bảo tôi tìm các kỷ vật của tôi.
            - Thì là đó. Các ông ấy muốn anh tìm cái gì thuộc kỷ vật của anh ở thời tiền kiếp! Rồi anh tìm được?
            - Ờ, thì ra là vậy. Nhưng nếu là tìm kỷ vật của thời tiền kiếp tôi thì các vật tôi tìm thấy ấy chắc gì là đúng của mình? Tôi chỉ mường tượng thôi ông anh ạ!
            - Mường tượng giống phải không ?
            Tôi nhún vai lè lưỡi:
            - Tôi không dám xác nhận là đúng hay không? Mà, thôi ông anh ạ! Tôi chỉ biết là bị họ kéo đi qua hành lang vào tận một căn phòng nhỏ nơi đó, như lúc nãy tôi vừa nói với anh, họ bày ra đủ mọi thứ toàn là các đồ vật cũ kỹ từ đời nào lưu giữ lại và bảo tôi tìm xem có cái gì của chính mình không?
            - Nhưng mà tôi muốn hỏi anh là có cảm giác gì khi sờ vào các món ấy?
            Tôi suy nghĩ trong giây lâu rồi gật đầu:
            - Có. Có anh ạ!
            - Thế nó như thế nào?
            - Lạ lắm. Có lần tôi rà nhằm một vật nào đó, cảm thấy tay mình như chạm phải điện vậy.
            - Nó giật?
            - Gần như vậy.
            - Anh có bảo như vậy với các vị Trụ Trì chăng?
            - Có.
            - Thế họ có ra lệnh gì cho anh không?
            - Có chứ. Họ bảo tôi cứ nhặt vài món nào mà tôi ngờ ngợ là của mình rồi mang lại cho các ông ấy. Tôi thấy điều này cũng hơi kỳ.
            Làm như vậy thì ai lại làm chẳng được. Đâu cần phải đợi đến tôi?
            Người tăng sĩ cười toe toét miệng, trông rất vui vẻ, nói:
            - Các vị cao tăng này ở Trắc Phổ Di đều biết các vật ấy là của chú, bằng không thì chú làm thế nào vào được nơi "Cổ Tàng Viện" đó?
            Tôi có nghe lóm các vị ấy nói với nhau là tiền kiếp của chú giữ một địa vị khá cao. Do đó mà Ngài Tiên Tri mới dành trọn nửa ngày cho chú. Đó là một điều đặc biệt. Bộ ai cũng được như chú sao!
            Anh ta vừa nói vừa khẽ nhún đôi vai lên, quay đầu nhìn chung quanh mình như thể sợ có ai nghe được câu nói vừa rồi.
            - Này! Phải coi chừng đấy! Trước khi chú biết được việc gì sẽ xảy đến, họ sẽ chứng nhận ngay lý lịch của chú và sẽ đưa chú lên làm một vị Trụ Trì quan trọng mà chính chú cũng không nghĩ đó là sự thực.
            Nói đến đây, người tăng sĩ nheo mắt nhìn tôi cười:
            - Liệu hồn nha! Rồi một ngày nào đây ông anh sẽ không còn một chút thì giờ mà rong chơi với đám bạn hữu nhỏ ở chốn Trắc Phổ Di nữa đâu! Chú sẽ vùi đầu với công việc như các vị cao tăng khác.
            Tôi đang ưu tư về lời nói của vị tăng sĩ này thì từ xa tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng của Minh Sư từ cuối vườn hướng về phía chúng tôi đang đứng tiến đến. Khi Người vừa đến nơi, ông anh tăng sĩ này vội vàng cúi rạp đầu xuống chào một cách thật cung kính.
            Nội bấy nhiêu đó cũng biết vai vế của thầy tôi không phải là nhỏ nhoi gì. Đáp lễ xong, Minh Sư bèn quay lại phía tôi bảo:
            - Lỗ San! phải lên đường ngay kẻo trời sắp tối mất. Chúng ta lại phải đành dùng ngựa đi trong đêm, chẳng biết làm gì hơn! Đi ngựa vào đêm hôm là điều phiền phức. Nhưng đành vậy!
            Hai chú tiểu trạc tuổi tôi đã chuẩn bị sẵn sàng hai con ngựa một con "Ô" và một con "Kim" đứng chờ chúng tôi từ lúc nào rồi. Đối với tôi phải đi ngựa là điều bất đắc dĩ. Chặng đường đầu tiên chúng tôi ngang qua là một rặng liễu dài cả hơn cây số. Nơi đây quả thật thơ mộng.
            Nhiều cảnh tượng
            trông như những hình ảnh vẽ trong tranh! Một chiếc cầu bằng cây vắt ngang qua lạch sông nhỏ có dòng nước trong xanh dưới tàng liễu rũ. Một đàn cá bơi lội tung tăng thỉnh thoảng dăm ba con nhô lên mặt nước hoặc đuổi nhau giữa dòng rồi lại trở ngay về đàn tiếp tục cuộc hành trình.
            Trong cuộc hành trình ngắn ngủi này chúng tôi chẳng chuyện vãn với nhau một lời nào. Nhất lại là tôi. Vì đi ngựa chưa được thành thạo nên tôi phải luôn luôn để ý tránh gặp trường hợp ngựa trở chứng có thể làm cho tôi bị ngã dọc đường. Đã vậy, tôi còn muốn được có tinh thần thoải mái để chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi rừng.
            Tôi vẫn cho ngựa đi nước kiệu theo sau Minh Sư. Tôi hoàn toàn thụ động, Minh Sư muốn đưa tôi đi nơi nào tôi theo đến nơi ấy nên chẳng biết là mình đang đi đâu và sẽ đến nơi nào?
            Có điều tôi không khỏi ngạc nhiên là tại làm sao Ngài Minh Dà Đông Đạt không rẽ về phía hướng Trắc Phổ Di mà lại đưa về hướng Phổ Đà La? Để làm gì? Và nơi ấy là nơi nào?
            Đường đi càng lúc càng dốc. Hai con ngựa nặng nề kéo lê từng bước một cách nặng nề. Phía bên dưới cánh đồng đã tắt nắng. Bóng hoàng hôn vàng vọt phủ chụp lên vạn vật. Và, dần dà bóng đêm bao trùm lên vạn nẻo. Còn gì đẹp bằng cảnh rừng núi về đêm.
            Đến Phổ Đà La thầy trò dần bước để tạm nghỉ ngơi và ăn uống tại đây. Sau khi ăn uống xong tôi trở về phòng. Chân sư đã ngồi đợi sẵn. Ngài gọi tôi đến và ra hiệu cho tôi ngồi xuống.
            - Lỗ San! Thầy tôi bắt đầu nói. Ta biết chú không khỏi thắc mắc về những sự việc liên tục diễn tiến trong cuộc đời của chú. Chú có cảm thấy thế không?
            Tôi cúi đầu trong giây lát , đoạn ngẩng thẳng mặt lên:
            - Thưa Minh Sư, phải chăng các cao tăng muốn tìm chứng minh về tiền kiếp của con?
            - Chú không sai! Lúc chú được các ngài Trụ Trì cho trở về gọi ta đến gặp các Ngài là không ngoài việc cùng các ngài thảo luận về tiền kiếp của chú. Bây giờ chỉ còn phải đợi mọi cuộc bàn thảo cuối cùng được hoàn tất chúng ta mới được rời khỏi nơi này.
            Chiều nay, chú không phải đi lễ, ta sẽ giảng giải cho chú thật rõ ràng những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong cuộc đời chú. Có điều, chú nên nhớ là không nên ngắt lời ta trong lúc ta giảng giải cho chú biết. Lỗ San! Chú có nghe rõ điều này không?
            - Thưa Minh sư, vâng ạ! Con nghe rõ.
            Người nhìn tôi trong giây lát và từ từ nói:
            - Đa phần khi con người trở lại thế gian này là để trau dồi học hỏi thêm những điều thiếu sót. Có người trở lại để giúp đỡ cho kẻ khác khi họ cần đến. Cũng có người trở lại vì được cõi giới khác giao phó sứ mệnh đặc biệt để hoàn thành một trọng trách mà người ấy còn đang bỏ dở!
            Nói đến đây, Minh Sư ngừng lại để dò xét xem tôi có bị phân trí hay không rồi lại tiếp tục giảng giải:
            - Có nhiều tôn giáo cho rằng "Địa Ngục" là nơi để tra khảo, trừng phạt linh hồn kẻ chết để đền lại những lỗi lầm trong thời gian còn ở cõi đời! Địa Ngục không phải ở đâu xa, mà ngay nơi tầm tay của chúng ta. Hay nói cách khác nó hiện hữu ở ngay thế gian này chứ không thuộc về cảnh giới khác.
            Hoặc giả, để hoàn thành sứ mệnh. Như chú chẳng hạn, như ta và như các Ngài Tiên Tri trong đời sống hiện hữu ở thế gian này.
            Chúng ta đều phải có trách nhiệm hoàn tất mọi sự kiện liên hệ đến "Ánh Sáng Thiêng Liêng" đang ngự trị trong cái thể xác bằng da bằng thịt này.
            Đến đây Người nhìn tôi hỏi:
            - Lỗ San, chú có nghe rõ lời ta vừa nói đó không?
            - Thưa, con rõ... Con nghe tất cả.
            - Lục Giác Thông sẽ giúp chú đạt đến trình độ nhìn thấu rõ ánh hào quang của con người và chú sẽ đạt thông tất cả các pháp môn về Huyền Bí Học.
            Chính Ngài Tối Cao Lạt Ma ra lệnh cho toàn thể chúng ta phải giúp đỡ chú bằng mọi cách để được tăng trưởng về khả năng pháp lực.
            Chúng ta sẽ tận dụng tất cả năng lực của mình hoặc bằng Trực Tiếp Tâm Truyền hoặc bằng Thần Giao Cách Cảm giúp chú tu luyện hầu có đủ Linh Năng Trực Giác trong một thời gian kỷ lục. Lỗ San hiểu chứ?
            Tôi suy nghĩ không ít về những câu nói của Minh Sư, hóa ra ngay cõi trần này là nơi để con người tự chuộc lấy tội lỗi của mình. Tôi liền hỏi lại Minh Sư:
            - Thưa Minh Sư, nói như vậy thì phải chăng cõi
            chúng ta đang sống đây là Địa ngục?
            - Nói là luyện ngục thì đúng hơn. Chính chốn luyện ngục này chúng ta sẽ bị thử thách đủ mọi hình thức tất nhiên không khỏi chịu trải qua lắm nỗi gian nan bắt buộc chúng ta phải cố vượt qua tất cả mọi truân chuyên để tiến lên một kiếp sống khác hoàn toàn tốt đẹp hơn.
            Mọi cam go sẽ được xóa bỏ. Mọi lỗi lầm phạm phải sẽ được tẩy trừ. Mọi hoen ố sẽ được thanh lọc. Tất cả sẽ làm cho linh hồn ta được trong sáng và nhẹ nhàng hơn, không còn vướng víu những vết nhơ tội lỗi trong cuộc sống đầy ô trọc này.
            Nếu chúng ta không gạn lọc được những điều xấu xa của một xã hội phi nhân ấy từ tâm hồn đến thể xác thì làm thế nào bước chân được vào cảnh giới siêu nhiên?
            Lỗ San, nên nhớ rằng một kiếp sống ở thế gian này so với cõi vĩnh cửu bên kia cảnh giới nó ngắn ngủi đến độ không bằng một cái nháy mắt!
            - Có thể người Tây phương nghi ngờ về điều này và họ cho rằng chúng ta thuộc về lớp người lạc hậu, lúc nào cũng mơ tưởng đến cảnh giới siêu hình, cảnh giới hoàn toàn do ảo giác, đánh lừa ta trên con đường đi tìm thánh thiện!
            Chúng ta sẽ nói lên cho họ một cách rõ ràng "Đời sống sau khi chết" là có thật. Và chúng ta cũng phải cho họ hiểu một cách cặn kẽ rằng tất cả mọi vật thể trên thế gian này là do qui luật "chuyển lực" tạo thành.
            Ngay cả đến cái vũ trụ bao la cùng khắp cũng phải tuân theo cái qui luật này, nó đâu có khác gì với lãnh vực bát âm của một cung đàn! Một khi chúng ta bước sang cảnh giới khác thì lĩnh vực "bát âm" đó lại bắt đầu lên cao hơn, réo rắt hơn, sắc sảo hơn chứ đâu có phải vĩnh viễn giữ mãi âm điệu ấy đứng nguyên tại chỗ?
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • #21
              Người tu hành muốn bảo vệ cái "Thiện" phải biết tiêu diệt cái "Ác". Cái ác mà không triệt tiêu được ắt cái thiện sẽ bị ngọn lửa có sức nóng đến cực độ thiêu cháy, biến thành mây khói của ngày kinh hoàng cách đây 1.600 năm ngày mà những tri thức của nhiều thế kỷ phải bị tiêu tan:
              Đại thư viện của thành phố Alexandria hoàn toàn thiêu rụi mang theo cả một nền văn minh rực rỡ đi vào quên lãng.
              Ngọn lửa tai hại ấy hiện chưa xuất hiện, nhưng mà những tư liệu về tri thức của loài người đang từ từ bị chôn vùi dưới lòng hố sâu vực thẳm, khiến cho nhân loại phải lâm vào cơ nguy sắp bị đánh mất đi quá khứ.
              Nền văn minh vật chất đang ngày càng phát triển, khiến con người vì nhu cầu phục vụ cho cái "sở dục" tầm thường của mình phải nhắm mắt chạy theo đuổi bắt để rồi lãnh cái hậu quả cuối cùng, là tất cả cái gì trong sáng của phần hồn đã bị đốt cháy, đạo lý sẽ không còn, nhân tính sẽ bị mất đi. Tất cả đều đảo lộn.
              Những tri thức sẽ biến mất và những gì còn lại chắc chắn cũng sẽ bị tiêu diệt chỉ trong vòng một thế hệ nữa, không xa lắm!
              Nói đến đây Minh Sư lại lên tiếng hỏi với mục đích đánh thức tiềm thức của tôi dậy:
              - Lỗ San! Chú có hiểu những gì ta nói đây với chú không ?
              - Vâng, thưa Minh Sư, con hiểu.
              - Ta biết chú thông minh, nhưng ta có bổn phận nhắc nhở lại những gì mà chú đã biết.
              Hoàng đế Khuphu, khoảng 2800 năm trước công nguyên trị vì đất nước Ai Cập, một đất nước thật xa xôi đối với xứ sở của chúng ta, đã từng thể theo lời khuyên của các giáo sĩ phán với mọi người dân là cuộc sống ở trần gian này chỉ ngắn ngủi và tạm thời, cung đình nguy nga lộng lẫy này âu đó chỉ là quán trọ.
              Cũng theo lời của nhà Vua thì chính ngôi mộ mới là ngôi nhà vĩnh cửu của các bậc Đế Vương.! Nhưng với chúng ta thì ngôi mộ mà nhà Vua cho rằng là nơi Vĩnh Hằng bất di bất dịch thì nó chẳng qua cũng chỉ là của cải vật chất nặng về phần trình diễn của phần xác chứ đâu phải phần hồn?
              Ngôi mộ mà nhà Vua Khuphu đã trịnh trọng phán ra cũng chỉ là một sự che đậy cái thây ma rữa nát! Thế thôi! Cái gì thuộc về vật chất thảy đều tạm thời, se sua trong một giai đoạn dù dài lâu hay ngắn ngủi cũng tàn đi theo biến chuyển của thời gian và không gian.
              Lỗ San, chú nghĩ thế đúng hay không?
              Thầy tôi hỏi.
              - Thưa, Minh Sư, đúng như vậy.
              - Quốc gia Hy Lạp từng tồn tại với một nền văn minh rực rỡ cổ đại, từ thời văn hóa Crète Mycène ở vào cuối thế kỷ thứ ba trước công nguyên đến Homère, nhà thơ vĩ đại, đại diện cho thời kỳ xuất hiện hai tập sử thi nổi tiếng đó là Ilyade và Odyssée mà tác giả của nó không ai khác hơn: chính đó là Homère!
              Rồi qua thời kỳ thứ ba với nhiều giai đoạn đạt đến đỉnh cao ở Athénes dưới thời Periclès trị vì. Nhưng rồi cuối cùng Hy Lạp cũng bị La Mã thôn tính và nền văn minh Hy Lạp chấm dứt từ đó.
              Đành rằng trong sự ra đời và phát triển của nền văn minh Hy Lạp càng ngày càng nảy sinh đa dạng và cũng lắm thành tựu rực rỡ được xem là một đất nước có nền văn minh tối cổ chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng văn hóa nhân loại, đặc biệt là thần thoại!
              Cả thế giới đều phải thừa nhận Thần thoại Hy Lạp vô cùng đa dạng và phong phú. Nhưng rồi các tài sản vật chất được dựng lên bởi lý trí của con người có tồn tại hay không?
              Chắc chắn là không. Đó là ta chưa nhắc nhở lại chú về các cội rễ của các nền văn minh khác trên thế giới, nhất là nền văn minh Ấn Độ, Ả Rập nền văn minh có hằng hà con số nối đuôi song cuối cùng chỉ còn là con số Không, mà bài thơ của nhà Vua Frédéric ll thể hiện trong những bức thư với dụng ý lấy nó làm đề tài cho khổ thơ tứ tuyệt:
              " Quần thần đó, chỉ là những quân cờ trên bàn tính toán. Giá trị của từng thành phần tùy thuộc vào vị trí nơi họ. Khi họ được hưởng những ân sủng đến hàng triệu triệu. Nhưng than ôi khi hết ân huệ rồi thì chỉ còn là những con số không thôi."
              Bài thơ tuy diễn đạt một thực tế của sự tính toán nhưng nó hàm súc một ẩn số cho ta thấy rằng cái gì rồi cũng trở về với con số không. Nó đâu có khác gì đời sống của con người như chúng ta hiện tại!
              Và một điều nữa. Một nền văn minh rực rỡ khác, nền văn minh của thời đại Kalip, triều Albasid. Al Ma'mum đã lập ra tại Baghdad một Ngôi nhà thông thái, có tính truyền thông và giao lưu văn hóa giữa nơi này với Ấn Độ thu thập được những loại sách quý.
              Nhưng đó chỉ là những của cải vật chất sản sinh từ tinh ba của con người. Tất cả đều không phải là cứu cánh, mà cứu cánh thật của con người là nơi Vĩnh Hằng, là Tinh Túy, là Bất Diệt. Chú biết chứ, Lỗ San?
              - Vâng, thưa Minh Sư, con biết.
              Đến đây thầy tôi dùng bàn tay Người đập đập xuống thềm nhà lát đá:
              - Này Lỗ San! Đây là đá! Sức rung động tất nhiên phải nặng.
              Rồi Người lại đưa tay cọ vào cái áo của tôi đang mặc trong người :
              - Còn đây là "len", vậy thì sự rung động phải nhẹ hơn. Nếu chúng ta nâng cao chuyển lực cho những âm tầng cao hơn vào sự cứng rắn hoặc tầm chuyển lực của nó. Vì thế mà đời sống sau khi chết, ở thế giới vĩnh cửu sẽ có đủ các vật thể riêng biệt cũng như ở thế gian này.
              Đến đây, người ngẩng mặt lên đưa mắt đăm đăm nhìn tôi:
              - Chú có hiểu những gì ta vừa nói đó không ?
              Lẽ tự nhiên là tôi hiểu, vì các điều này đã được biết từ lâu rồi. Không đợi tôi trả lời thầy tôi lại tiếp:
              - Tất cả những điều đó mọi người đều rõ cả. Ta nghĩ rằng những lời ta đem cả tâm huyết giảng giải cho chú nghe tuy rườm rà đượm màu lý luận, song nó lại là điều cần thiết. Một ngày nào đó, chú sẽ đi đến các nước Tây phương. Lúc đó chú ắt sẽ thấy là ta có lý.
              Ngoài hành lang các tăng sĩ đang lũ lượt kéo nhau vào chùa dự buổi lễ tối. Tiếng kèn đồng từ trên thung lũng rền rĩ vang lên báo hiệu một ngày đã lặng lẽ trôi qua và buổi lễ nguyện cầu sắp đến.
              Minh sư vẫn ngồi nguyên tại vị, miệng vẫn tiếp tục nói:
              - Lỗ San! Chú có biết chăng lý do phát sinh ra tôn giáo đều do hoàn cảnh và môi trường của nó. Ta không có ý đả kích bất cứ dòng tư tưởng nào đẻ ra một tôn giáo mà chỉ nói cái nguyên nhân phát sinh ra nguyên lý Toàn Chân và Toàn Thiện của con người.
              Những ngày sơ khai trên trái đất, con người chỉ ở với nhau từng đám nhỏ, từng bộ lạc nhỏ. Lúc bấy giờ không có đề ra một nền luân lý trong đời sống của con người.
              Họ, Thủy tổ của chúng ta, cho rằng chỉ có sức mạnh mới là tất cả, vì Tổ tiên của chúng ta lúc bấy giờ nghĩ rằng "sức mạnh" là luật duy nhất. Kẻ nào mạnh nhất, dữ tợn nhất sẽ đứng ra lập "bộ lạc". Họ sẽ được khuyến cáo phải có sự chiến đấu mới mong được sinh tồn.
              Thế là bộ lạc này gây hấn với bộ lạc kia, chinh phục, chèn ép nhau, giết chóc nhau không một chút động lòng. Từ đó, theo thời gian kẻ mạnh cũng như kẻ yếu đều khôn ra, tất cả đều nhận thấy rằng nếu biết tổ chức thì đời sống con người sẽ trở nên tươi sáng hơn.
              Ví như đặt bày ra nền tảng luân lý, họ cũng đặt bày ra những luật lệ để áp dụng, và cuối cùng là tôn giáo. Tổ tiên ta bảo rằng: Phải thật mạnh khỏe và phải bành trướng thêm về nhân số. Có sinh sản nhiều bộ lạc mới mong được đông đảo hơn. Có đông đảo mới hy vọng được thêm cường tráng.
              Trong lúc đó lòng ích kỷ, sự hẹp hòi, là điều kiện tất yếu đưa đến sự tàn ác, hung hãn, thiếu tình nhân loại! Tất cả đều phát sinh từ đó. Thế có nghĩa là người bộ lạc này không được lấy nhau với người bộ lạc khác. Nếu sự kiện này xảy ra thì lòng trung thành sẽ bị chia xẻ.
              Khi đã đưa ra luật lệ tất nhiên phải tìm mọi cách để ngăn chặn những kẻ phá luật. Các trưởng tế lại họp nhau đề ra phương thức ban thưởng và trừng phạt bằng roi vọt ở trần gian. Và cũng không quên đưa ra các danh từ Thiên Đàng, Tiên cảnh, Lạc Quốc, Niết Bàn cho những kẻ biết vâng lời.
              Cũng như Địa ngục, Hỏa ngục, Âm Phủ dành cho những ai đi ngược lại lời khuyến nhủ của kẻ thế gian, nơi đây họ sẽ phải chịu những hình phạt tra khảo đời đời, kiếp kiếp.
              Nhận thấy tôi có vẻ nghĩ ngợi về điều mà Minh Sư vừa nói, Người bèn cầm lấy tay tôi như muốn chuyền sang hơi ấm, đoạn lên tiếng từ từ nói:
              - Có thể chú nghĩ rằng ta muốn nói là kẻ làm điều dữ sẽ phải hứng chịu lấy quả báo, có phải thế không ?
              Tôi gật đầu:
              - Vâng, thưa Minh Sư quả con nghĩ như vậy!
              - Không, ta không phải chủ ý nói như vậy với chú. Lỗ San, chú nên nhớ rằng có lắm người tự thấy mình lạc lõng mất tin tưởng và cho rằng con người sinh ra giữa thế gian này chẳng lệ thuộc vào bất cứ ai.
              Họ làm điều lành hay điều ác, tất cả chung qui rồi cuối cùng cũng phải chết, mà chết là hết, là "tử giả biệt luận", không có bất cứ cõi nào nữa ngoại trừ kiếp sống hiện hữu.
              Vì vậy mà những người có những ý tưởng này hoàn toàn mất tất cả tin tưởng, cho đến khi chính họ nhận ra được là có một cái gì đó ngoài tầm mắt của mình lúc nào cũng trông thấy họ đang làm những gì, đang săn sóc họ và quan phòng họ, cho họ đời sống.
              Ngay từ khi chưa lọt lòng mẹ cho đến lúc sinh thành, và đặc biệt bên cạnh luôn có một "linh thần" lúc nào cũng theo dõi các hành động hàng ngày của họ.
              - Thế thì thưa thầy, trên đầu ta có một Đấng Thiêng Liêng và chính đấng này sẽ thưởng phạt phân minh đối với những hành động của con người trong đời sống?
              - Đó là Đấng Tối Cao mà ta thường gọi là Thượng Đế ! Nhưng đó đã vị tất chỉ riêng Ngài mà luôn cả chính con người chúng ta nữa.
              Tôi vô cùng ngạc nhiên trước lời nói này của Minh Sư bèn vội hỏi lại:
              - Ta cũng... là Thượng Đế ?
              - Ta muốn nói như vậy, và đúng như vậy!
              - Thưa Minh Sư, con hoàn toàn không hiểu điều này.
              Minh Sư cười:
              - Chẳng gì khó hiểu cả.
              Chính chúng ta cũng là Đấng Thượng Đế của những sinh vật li ti ở trong cơ thể chúng ta và còn ngay cả trong hằng hà sa số những sinh vật li ti đó, trong cái siêu vi của chúng còn có những loại cực cùng siêu vi khác nữa.
              Mắt thường ta không bao giờ có thể nhìn thấy được, chúng luôn luôn sinh sôi nẩy nở, biến hóa vô thường, đến nỗi con người chúng ta chính là Đấng Thượng Đế của chúng cũng phải điên cuồng cả lên.
              Nói đến đây Minh Sư đưa mắt nhìn ra ngoài khoảng không mênh mông vô tận, ngưng lại trong giây lát, rồi tiếp tục giảng giải:
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • #22
                - Có lẽ chú còn nhớ có một lần nào đó đã hỏi ta sự cầu nguyện mà chú nghi ngờ rằng nó hoàn toàn mơ hồ về sự hiệu nghiệm của nó.
                - Vâng, thưa Minh Sư quả thật như vậy. Điều này con vẫn còn thắc mắc. Con còn nhớ có lần thầy giảng giải cho con là sự cầu nguyện rất có ích lợi và vô cùng hiệu nghiệm. Con chỉ biết theo lời thầy giảng giải thế thôi.
                - Có vậy. Ta có lần bảo với chú như vậy. Ta xác nhận rằng là cầu nguyện rất linh ứng. Nếu chúng ta cầu nguyện với: linh hồn" và "thể phách" của ngay bản thân mình hoặc với "linh thể" của mình trên cõi Chân Như.
                Vì nơi đó mới là thực thể của ta đang điều khiển nối liền chúng ta với cõi Chân Như bởi những sợi "Siêu Thăng Tuyến". Chính nơi đó mới chuyển đạt lời cầu nguyện chân thành của chúng ta đến Đấng Tối Cao.
                - Và, thưa Minh Sư là lời cầu nguyện của chúng ta mới hiệu nghiệm?
                - Đúng vậy.
                - Thưa thầy, theo lời giảng giải của thầy như vậy mới được linh ứng?
                - Đúng vậy. Nếu cầu nguyện đúng với phương pháp tự nhiên và giản dị như ta vừa nói thì không gì linh nghiệm bằng.
                Chúng ta chẳng khác gì một đứa bé thơ lúc nào cũng run sợ trước mọi biến chuyển có tính hỗn loạn của sự vật quanh mình, đứa bé thơ này chỉ an lòng khi nào có được một cảm giác nằm trong vòng tay người mẹ.
                Tôn giáo chẳng khác nào như cái chăn bông ấm cúng và an toàn. Nhưng ấm cúng và an toàn hơn khi ta biết rõ được sự thật về sự sống và sự chết của chính mình.
                Khi ta chết thì linh hồn ta thoát ra khỏi cái vỏ mục nát đó biến thành hơi bay bổng lên đợi đến một ngày nào đó để đi đầu thai vào kiếp khác.
                Làn hơi kia lại trở thành dòng suối mát như xưa. Âu đó cũng chỉ là cái vòng lẩn quẩn của kiếp luân hồi. Lỗ San, chú hiểu chứ?
                Người vừa giảng đến đây bỗng có một nhà sư từ bên ngoài đi vào cúi rạp đầu xuống:
                - Kính thưa Ngài Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt! Tôi xin kính cẩn chuyển đến lời chào thân ái nhất của Ngài Tối Cao Lạt Ma đến Ngài. Tôi cũng xin được mạn phép đưa Ngài đến gặp Người để thảo luận những điều cần thiết.
                Không hỏi han một điều gì với nhà sư này, thầy tôi vội vã đứng lên đi ngay sau khi cho phép tôi được tự do trong khoảng thời gian Minh Sư vắng mặt. Tôi lững thững một mình trèo lên tầng thượng ngôi Đại Tự Phổ Đà La ngắm cảnh.
                Lúc bây gờ màn đêm bắt đầu buông xuống và xa xa hình ảnh Viện Y khoa Trắc Phổ Di ẩn hiện dưới lớp sương mờ nhạt. Cạnh chỗ tôi đang đứng, lá cờ lễ treo trên cao bay phấp phới.
                Tôi lần bước đến ngay khung cửa sổ, nhìn xuống bên dưới bất giác trông thấy một vị Tăng già đang quay "luân xa" giống như các vị tăng khác mà tôi đã từng chứng kiến vọng lên tiếng kêu kĩu kịt của bánh xe, chẳng khác nào tiếng võng đong đưa, phá tan sự im lặng giữa màn đêm đen tối.
                Bầu trời tím sẫm giăng mắc dày đặc các vì sao trông hệt như một bức tranh dệt toàn bằng những hạt kim cương lấp lánh. Thỉnh thoảng vài tia chớp ngoằn ngoèo trông như các con rắn bạc vụt hiện lên và vội tắt ngấm ngay sau đó.
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • #23
                  CHƯƠNG BỐN
                  HỒN MA NƠI CỐC ĐÁ


                  Tết Nguyên Đán của xứ Tây Tạng được gọi là lễ Lộ Sa. Năm nay được lệnh chuẩn bị ăn một cái Tết thật lớn, thật vui, thật lành mạnh mà còn phải thật hào hứng nữa. Lệnh này do Đức Đại Lạt Ma ban xuống. Nhờ vậy mà tất cả lớn nhỏ trong ngôi Đại Tự này đều đổ xô vào công việc lo cho ngày Tết.
                  Đây là một cái tết ăn bù, bởi vì năm rồi chùa chúng tôi không đủ thì giờ để vui xuân. Các chùa bạn đều có ý nghĩ ngược lại ngôi Đại Tự chúng tôi không muốn tham gia vào các trò chơi có tính cách trẻ con vô bổ. Chúng tôi không mấy quan tâm đến điều này, rồi đây họ sẽ hiểu và thông cảm chúng tôi hơn.
                  Năm này, chúng tôi cố gắng làm đủ mọi cách để tham gia song le cũng chỉ góp được một phần bé nhỏ chẳng đáng vào đâu. Trên một giá gỗ cao 6 thước và dài 9 thước, chúng tôi lấy mỡ bò đủ màu sắc đắp lên các mô hình gồm các hình tượng có ghi sẵn trong kinh sách.
                  Nhờ có hoa tay nên tôi nặn các tượng hình khá đẹp. Tôi vừa đẽo gọt, vừa tô phết thêm cho các ảnh tượng tăng phần mỹ thuật. Mấy tháng trước đây trong lớp học "nặn tượng", có một vài điều tôi muốn hỏi Minh Sư về vấn đề tôn giáo vì các hình tượng này có liên quan đến đời sống tâm linh.
                  Thế rồi nhân một đêm rỗi rảnh dưới ánh trăng vằng vặc, thầy trò tôi ra bên ngoài hóng gió. Nhìn cảnh đẹp của đất trời, tôi sực nhớ lại một bức tượng vẽ chân dung của một người ngồi Thiền được thầy tôi treo ở phòng ngủ của Người, tôi lên tiếng hỏi:
                  - Thưa Minh Sư, con từng nhiều lần tò mò đứng hàng giờ để nhìn bức tượng mà Minh Sư đã treo ở trong phòng ngủ dưới có đề mấy chữ "Siêu Phàm Của Nhân Loại", vậy đó phải chăng là chân dung của một bậc siêu phàm thời cổ đại?
                  Thầy tôi mỉm cười lắc đầu đáp lại:
                  - Không phải vậy. Đó là hình ảnh biểu trưng cho những dòng tư tưởng của Ấn Độ, nước láng giềng với chúng ta, nói về sự cấu tạo của Vũ trụ bởi hai yếu tố cần thiết. Đó là yếu tố Akaska và Prana.
                  Tất cả những gì hữu hình đều xây dựng từ Akaska, kể cả Mặt Trăng, Mặt Trời, các vì tinh tú, con người chúng ta, và luôn cả các động, thực vật.. nói chung cho các thể đặc hay lỏng hoặc khí, dưới mọi hình dạng vô cơ hay hữu cơ, hữu sinh hoặc vô sinh, hiện hữu trong vũ trụ này.
                  - Thưa Minh Sư, làm sao mà biết được Akaska như Minh Sư đã nói?
                  - Không thể có ai nhận biết được Akaska trực tiếp, vì chưng nó nằm ở dạng thái cực kỳ vi tế, mà chỉ có thể nhận thấy nó một cách gián tiếp qua dạng cô đọng trong các hình thể vật chất mà thôi.
                  Akaska thực thể và hiện hữu khắp mọi nơi tràn ngập cả không gian mông lung, không biên giới, chẳng bến bờ. Nó lúc nào cũng hiện hữu, ngay cả trong buổi đầu hình thành vũ trụ, đó là ngày của sự cấu tạo và hiện hữu ngay cả khi đến giai đoạn chuyển hóa của mỗi chu kỳ. Nhưng tất cả vạn vật đều trở về với Akaska nguyên thủy dưới muôn hình vạn trạng.
                  - Còn, thưa thầy Prana, là cái gì, hình như nó biểu tượng một cái gì đó ghê gớm lắm!
                  - Chính ta đang muốn nói đến nó. Prana chẳng khác gì Akaska, nó cũng ở trong một dạng thái vô cùng và bao trùm cả vũ trụ. Ta không đủ thì giờ giảng giải nhiều về nó cho chú, mà rất có thể một ngày nào đó chú sẽ tự nhận chân ra bộ mặt thật của nó.
                  Bây giờ chú chỉ cần biết rằng tất cả các lực tinh thần hay vật lý đều chung một bản thể là Prana, ở cuối mỗi một chu kỳ của Vũ trụ tất cả mọi dạng năng lượng lại trở về với cái trạng thái nguyên thủy của nó. Trạng thái nguyên thủy đó là Prana.
                  Cái hình mà chú nhìn thấy trong phòng ngủ của ta là để chỉ sự thị hiện cho chúng ta được biết một cách rõ ràng nhất và gần gũi nhất đó chính là PRANA trong cơ thể của con người, là sự hoạt động của Phổi. Điều mà chúng ta nên biết nếu hoạt động của phổi bị ngừng thì mọi sự hoạt động trong cơ thể ta đều hoàn toàn chấm dứt.
                  - Thưa thầy, theo thầy thì đó là qui luật chung của tất cả ?
                  - Chẳng có gì tuyệt đối trên cuộc đời này cả. Ta muốn nói là tuyệt đại đa số đều bị tê liệt, nhưng ngoại trừ đối với những người luyện Yoga đạt đến một trình độ thượng thừa, họ vẫn sống bình thường dù không còn hô hấp nữa.
                  Nói đến đây thì mây đen tứ phía ùn ùn kéo đến. Kế tiếp là các tiếng giông ầm ĩ, những ánh chớp làm sáng rực cả vòm trời và mưa bắt đầu trút xuống. Chúng tôi chạy vào phòng. Sự giảng giải của thầy tôi tạm thời chấm dứt.
                  Tôi lấy một cục bơ pha màu đoạn leo lên giàn đắp nốt cái tai Phật còn bỏ dở dang. Bên dưới tiếng đùa giỡn của hai chú tiểu nghịch ngợm nhồi hai cục bơ lớn bằng quả ổi xá lị mang ném vào nhau. Tiếng cười la của chúng làm ầm ĩ cả lên, chẳng may bị một trong các vị giám thị bắt gặp túm lấy cả hai ném vào cái chảo bơ to tướng còn hâm hấp nóng bên cạnh.
                  Nhìn cảnh hai chú tiểu bị liệng vào chảo bơ lem luốt cả mặt mũi áo quần, đang đứng nép sát bờ tường mặt lộ vẻ sợ hãi trông đến thảm hại! Một chú tiểu khác đang đi bên cạnh tôi lẩm bẩm :
                  - Nếu quả có các chư vì thần thánh quanh quẩn đâu đây nhìn thấy cảnh này chắc hẳn mấy ngài cũng phải bật phì cười, đừng nói là cái lũ người phàm mắt thịt này...ha...ha...
                  Nói đến đây, chú quay nhìn tôi hỏi:
                  - Phải thế không ông anh?
                  Tôi không trực tiếp trả lời song cái mỉm cười của tôi đáp lại cũng đủ cho chú ta hiểu ngầm rằng là "quả đúng như ông anh nghĩ vậy!"
                  Mải mê chuyện vãn với nhau đến Thiền Viện từ lúc nào tôi cũng chẳng hay biết nữa, cho mãi đến khi nghe tiếng cầu kinh của vị Sư Trưởng từ bên trong vang vọng đến, chúng tôi mới giật mình vội vã chạy vào để kịp thời dự buổi lễ chiều thường lệ.
                  - "Hãy nghe đây tiếng nói của linh hồn và của tất cả những ai vô định hướng! Thế giới này chỉ là ảo ảnh và đời sống này cũng chỉ là một giấc chiêm bao! Hãy lắng nghe đây tiếng nói của linh hồn"
                  Trên bàn thờ hàng trăm ngọn đèn bơ rực sáng! Các tuần nhang được lần lượt đốt lên! Tôi được biết đây là các nén nhang dẫn độ những linh hồn lạc lõng qua bến sông mê! Điều này làm cho tôi suy tư không ít! Phải chăng đó là các oan hồn uổng tử đang lặn ngụp trong bể trầm luân?!
                  Các câu hỏi này cứ lảng vảng trong đầu óc tôi đến nỗi tôi cảm thấy có cái gì đó làm cho tôi phải băn khoăn không ít! Đang miên man suy nghĩ thì bất thần có tiếng ai gọi bên tai:
                  - Lỗ San! Mày làm sao thế... Chết rồi à? Đứng dậy nhanh lên... đi! Lễ tất rồi... Mày suy tư gì thế? Có phải mày nghĩ đến các oan hồn uổng tử nào đó phải không?
                  Tôi giật mình đưa mắt nhìn nó. "Thằng oắt con!" Cái chú tiểu nghịch ngợm này tôi đã trông thấy nó nhiều lần. Hai mắt nó rực sáng mà tôi có cảm tưởng như hai luồng điện cực mạnh phóng xuyên vào đầu óc tôi!
                  Có thể nó đọc được dòng suy tư của tôi đang nghĩ điều gì? Bất tất phải ngại ngùng, nó chỉ là một chú tiểu tò mò, có gì phải đáng ưu tư?! Tôi đứng lên lảo đảo bước theo dòng người rời nơi Thiền Viện.
                  Sau đó tôi gặp Minh Sư đang đứng cạnh sẵn bên hiên, tôi ngỏ ý xin Người giảng giải những vấn đề tôi còn chưa rõ:
                  - Thưa Minh Sư! Con muốn biết sự thật về hình ảnh của các vị thần thánh! Liệu thật có những hình ảnh ấy không?
                  Người nhìn tôi trong giây lâu rồi lên tiếng bảo:
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • #24
                    - Lỗ San! Hãy lên sân thượng kia, chúng ta sẽ mặc tình thảo luận những điều mà chú đang còn thắc mắc!
                    Tôi theo chân Người đi dọc theo hành lang ngang qua các dãy phòng của các vị Lạt Ma, đoạn trèo lên trên sân thượng. Lúc bây giờ trời đã tối hẳn. Càng về đêm gió càng lộng. Nhìn về phía trước mặt là dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ.
                    Cách thiền viện không bao xa là dòng nước trong xanh của con sông Kỳ Châu lăn tăn gợn sóng như muôn ngàn con rắn bạc! Và từ xa xa một rừng lau bao quanh ngọn Khả Linh Châu trông chẳng khác nào như hòn cù lao giữa lòng bể cả.
                    Từ sân thượng nhìn xuống là khu Ngọc Hoa Viên và cạnh đó là tấm thảm cỏ xanh mướt dưới ánh trăng óng ánh lên những hạt sương đêm rực rỡ muôn màu.
                    Thầy tôi đưa tay chỉ xuống cảnh vật bên dưới:
                    - Lỗ San! Cảnh vật trước mắt chúng ta đây không phải do ngẫu nhiên mà phải có bàn tay mầu nhiệm an bài!
                    - Thưa Minh Sư, nếu vậy thì ở cõi này có sự hiện hữu của thần thánh hay sao?
                    - Đúng như vậy. Có sự sống của con người là có các thần linh hiện diện. Vị thiên thần cai quản thế giới ta đang ở như chú đã đọc thấy trong kinh điển gọi là Manu. Đó là một vị thiên thần trải qua nhiều kiếp tu luyện.
                    Ngài đến và ra đi từ quả đất này không biết bao nhiêu lần rồi. Mỗi lần là một thử thách, một thanh lọc cho đến khi "Hồn" của Ngài trở nên hoàn toàn tỉnh lặng!
                    Thầy tôi cũng giảng giải cho biết Đức Phật Thích Ca, Ngài Moses, Đấng Christ cùng nhiều Đấng khác nữa cũng trải qua một thời gian dài thử thách như vậy.
                    - Ta từng nghiền ngẫm đọc trong các pho kinh nhà Phật nói về Ngài Di Lặc, đã bao nhiêu lần trở lại thế giới này đến cả 5.656 triệu năm, sau ngày Đức Phật đắc đạo. Ngài có tên là Cồ Đàm Ma (Guatama) là Manu của thế giới này.
                    Chính Ngài là hóa thân của nhiều tiền kiếp. Chẳng riêng gì Ngài, chúng ta còn rất nhiều Manu khác nữa, có nhiệm vụ điều khiển vận mệnh cho mỗi quốc gia, luân phiên thay đổi vị trí để cai quản muôn loài.
                    - Vậy thì thưa Minh Sư.
                    Tôi nói:
                    - phải chăng các Manu không phải đều là các bậc anh minh!
                    Nghe tôi hỏi vậy Người ngạc nhiên nhìn tôi lên tiếng :
                    - Lỗ San, tại sao chú lại bảo như vậy? Phải chăng chú nhận thấy được có điều gì sai trái?
                    - Theo Minh Sư dạy thì bất cứ quốc gia nào cũng có Manu và Manu nào cũng phải trải qua bao nhiêu kiếp tu hành để trở thành một Manu thuần nhất. Thế thì, theo con nghĩ lại có cả những Manu của các quốc gia lớn chiếm cứ các quốc gia yếu kém hơn?! Điều này con nhận thấy hoàn toàn bất công mà Đấng Manu không làm việc đó.
                    Thầy tôi mỉm cười, đưa tay ra trước mặt như bảo tôi hãy nghe trọn ý nghĩa Ngài muốn nói :
                    - Lỗ San! Chú quên thế giới này là Địa Ngục rồi sao?! Chúng ta đến đây là để tu luyện, sẵn sàng chịu đựng mọi giông tố phũ phàng để cho "linh hồn" được nhẹ nhõm hầu được siêu thăng, chứ đâu phải đến đây để hưởng thụ, lún sâu thêm vào vũng lầy tội lỗi.
                    Đến đây, Minh Sư hạ thấp giọng nói rõ ràng từng lời mục đích để tôi tiếp thu ý Người:
                    - Vất vả, cực nhọc, khốn đốn, khổ cực là những điều kiện để tôi luyện cho ta. Đau đớn, đắng cay, buồn phiền, tủi nhục là để rèn luyện ta có một đức tự tin với lòng hỷ xả. Chiến tranh, chết chóc để con người biểu lộ được lòng can trường nơi chiến tuyến.
                    Xác thân bằng xương bằng thịt này, Lỗ San ơi! Nó chỉ là tạm thời, đâu phải là vĩnh viễn? Chính linh hồn mới là tinh anh nhất vĩnh viễn tồn tại đến đời đời kiếp kiếp.
                    Nhưng, tội lỗi thay! Con người dù muốn dù không cũng đều biết có cái gì đó nơi cõi vô hình, có cái gì đó nơi xác thân mình, ấy thế mà họ vẫn chối bỏ, bất chấp. Họ chỉ chú trọng về đời sống vật chất, lo lắng, săn sóc cho xác thân làm lu mờ lương tri và tâm trí của mình trước các quyến rũ tầm thường của tiền tài, danh vọng!
                    - Thưa Minh Sư, con muốn được phép trình bày một vài ý nghĩ của con.
                    - Được. Chú cứ nói lên những điều chú còn cảm thấy chưa được sáng tỏ!.
                    - Theo con nghĩ rằng vấn đề giáo dục cần phải có những kỷ luật nhẹ nhàng hơn là áp dụng kỷ luật đó để trừng phạt ép uổng các học sinh phải đi vào khuôn khổ.
                    Thầy tôi mỉm cười:
                    - A! Thì ra chú muốn có sự nuông chiều trong học đường phải không? Ta hỏi chú, nếu chú không nể vì thầy giáo liệu chú có mang hết khả năng ra để đọc cho hết Kinh Thư không? Thảng hoặc chú không sợ bị trừng phạt bởi kỷ luật thì liệu chú có đi đúng theo khuôn khổ của nhà trường không? Hãy cho ta biết chú muốn cách nào để giáo huấn những mầm non tơ đó?
                    Nói đến đây Ngài đứng lên vỗ vào vai tôi:
                    - Lỗ San, chú còn gì thắc mắc nữa không?
                    - Nhưng mà Lỗ San ơi! Chúng ta còn phải lo cho đám rước lễ năm mới Lộ Sa ngày mai nữa chứ !
                    - Vâng, thưa Minh Sư, có một điều con muốn biết là có lần con được nghe chú Sĩ Cát bảo là các nhà Yoga họ có thể đọc được tư tưởng của ta... chẳng hay có thật vậy hay không?
                    - Thật vậy! Thầy tôi gật đầu khẳng định. Sĩ Cát của chú không sai. Các nhà Yoga có thể đọc được dễ dàng tư tưởng của chúng ta hoặc trông thấy được các vật thể siêu cảm mà các nhà nghiên cứu về siêu nhiên gọi suprasensible, lúc ấy họ nhận thấy chúng trong không gian tâm linh Chittakasha.
                    Điều này ta không thể giảng giải cho chú hiểu rõ cùng một lúc được. Đây chính là vấn đề thuộc về tâm linh hiện thực trông bề ngoài có vẻ trừu tượng song nó lại là một thực thể siêu nhiên. Sau này có dịp ta sẽ dẫn giải một cách rõ ràng hơn.
                    Con người chúng ta chỉ là một đơn vị, một dòng nước chảy vào lòng đại dương vô biên của tri thức và quyền năng. Lỗ San, chú nên nhớ rằng khi mà sự khát vọng và nhu cầu cần thiết của con người dấy lên thì phương tiện thỏa mãn cũng chính ở nơi con người chứ chẳng phải ở trong tay của bất cứ một Đấng Tối Cao nào cả.
                    Chú cũng nên biết rằng khi mà đức tin hội nhập vào thế lực siêu nhiên, thì đức tin ấy chỉ đem lại cho ta nỗi run sợ, mà nỗi run sợ đó nó chỉ có nghĩa là suy thoái của tinh thần.
                    - Vậy, thưa thầy còn Kundalini là gì?
                    - Nó là sự thể hiện của PRANA và PRANAYAMA chỉ có mục đích là lay tỉnh con rắn lửa Kundalini mà ta sẽ giảng giải cho chú vào một dịp khác gần đây trước khi chú lên đường thực hiện một sứ mạng đặc biệt cho Đất Nước, Dân Tộc và Đạo Giáo.
                    Ngoài thời gian ấn định giảng giải chính thức, Minh Sư và tôi còn một khoảng trống dành để mạn đàm với nhau. Có lần Minh Sư ngồi đối diện tôi tại ven bờ suối nói đủ mọi thứ chuyện huyền nhiệm mà các nhà khoa học ngày nay vẫn còn chưa có lời giải thích được.
                    - Khoa học phát triển, không có nghĩa là thấu hiểu được tất cả mọi chuyện bí mật của đất trời. Tạo Hóa từ cái không làm ra cái có, nhưng con người gần đây từng tự hào là đang đạt dần đến nền văn minh cực đỉnh vẫn hoàn toàn bất lực. Thầy tôi đã khẳng định như vậy.
                    - Thưa Minh Sư, con cũng cảm thấy như Minh Sư đã dạy. Con người dù có thông minh đến đâu đi nữa cũng khó lòng tước đoạt được quyền tối thượng của tạo hóa.
                    - Lỗ San chú đúng! Đấng huyền nhiệm tối thượng có thể ban phát cho ta sự sống và thu hồi sự sống đó bằng cái chết, mà con người thì chỉ có mỗi một điều kiện hoàn toàn tuân thủ.
                    - Thưa Minh Sư, tạo hóa đúc nén hình tượng con người và ban cho con người sự sống... liệu đến một giai đoạn nào đó, con muốn nói về lâu về dài liệu khoa học có thể tước đoạt cái quyền tối thượng đó không?
                    - Con người có thể lấy cái sẵn có rập theo khuôn chứ không thể lấy cái không để tạo nên cái có. Cái gì phản lại với thiên nhiên đều không đạt đến sự thuần nhất được. Tất nhiên cái gì không thuần nhất là nghịch lý không thể sinh tồn.
                    Tôi trầm ngâm suy nghĩ trong giây lát đoạn lên tiếng hỏi :
                    - Thưa Minh Sư con muốn biết cái gì đã mất đi liệu khoa học có thể phục hồi lại được chăng ?
                    - Được.
                    Thầy tôi gật đầu khẳng định. Như các xác ướp chẳng hạn, các nhà khoa học có thể tái tạo lại được từ khuôn mặt và niên đại sống của họ, nhưng không có nghĩa là làm cho họ sống lại được.
                    Như ta đã nói khoa học chỉ có thể lập lại cái đã có từ trước bằng cái có như tế bào chẳng hạn, nhưng tuyệt đối không thể làm cho vật tái tạo đó có sự sống và có linh hồn như tạo hóa đã ban phát cho tất cả mọi người ở thế gian này.
                    Gần đây các nhà khoa học đang thực hiện dự án sử dụng công nghệ cao để tái tạo hoàn chỉnh cơ thể của một xác ướp có tên Cleo, nhằm khám phá cuộc sống và cái chết của một phụ nữ trung lưu trong tấm vải bọc sống tại Ai Cập cách đây 2000 năm.
                    Các chuyên gia sẽ sử dụng công nghệ CT scan (Computerized tomography) để tạo ra một mô hình kỹ thuật số của bộ xương và chiếc sọ. Từ đây, các nhà điêu khắc sẽ tái tạo lại khuôn mặt hoàn chỉnh của xác người phụ nữ vừa phát hiện được này, cho phép các chuyên gia chiêm ngưỡng dáng vóc của bà ta hệt như 2000 năm về trước.
                    Người ta phỏng đoán rằng xác ướp này là của một nàng công chúa và đã được bán cho một gia đình Sulman ở Canada vào đầu thế kỷ 19. Đến thập kỷ 40, Cleo được đưa vào viện bảo tàng. Chắc chắn là việc nghiên cứu về xác chết của nàng công chúa cổ đại này không ngừng tại nơi đây.
                    Theo chân thầy tôi xuống hành lang chùa đến phía sau nơi đám đông người đang ồn ào, bận rộn trong suốt tuần nay dành cho việc chuẩn bị ngày Nguyên Đán tại đây thì bất chợt gặp ngay vị giáo sư hội họa đang nhớn nhác tìm tôi.
                    Ông ta đang cần một người nhỏ con có tài điêu khắc đồng thời phải có đầu óc tinh tế về mỹ thuật, để trèo lên cao sửa một vài chi tiết cho bức tượng vừa được đắp xong ngày qua.
                    Tôi vội vã theo bén gót ông ta, vừa phải đi nhanh nhưng cũng vừa phải lưu ý giữ thật cẩn thận để khỏi bị trượt ngã vì sàn nhà quá trơn trợt bởi một lớp mỡ đánh bóng.
                    Tôi tạt vào phòng "bơ màu" mượn tạm một sợi dây dài buộc ngang lưng mình phòng lúc phải lấy thêm vật dụng thòng xuống kéo lên. Tôi bắt đầu leo lên, và đúng như giáo sư hội họa đoán, một nửa cái đầu của pho tượng bị vỡ ra khỏi cái khung gỗ bởi nơi đó không được đóng nẹp.
                    Tôi ngoái cổ nhìn xuống bên dưới báo cho họ biết là tôi cần có thêm nhiều bơ, đoạn thả dây để họ buộc cả một thùng bơ đầy ngoài cả số lượng cần thiết của tôi đòi hỏi. Tôi từ từ kéo lên không mấy nặng nhọc khó khăn.
                    Suốt mấy giờ liền, tôi làm việc liên miên, dùng gỗ đóng những nẹp nhỏ để giữ bơ mới được đắp khỏi bị vỡ ra như lần trước. Xong xuôi đâu đó tôi mới dùng tay nắn lại cho thật chắc chắn. Bên dưới vị giáo sư hội họa đứng theo dõi việc làm của tôi từng chi tiết một.
                    Tôi không nhớ là mất trong bao lâu nhưng chắc chắn là lâu lắm, cho đến khi ông ta kêu lớn tên tôi và tiếp theo chìa ngón tay cái ra phía trước mặt tỏ ra khen thưởng và ra lệnh cho tôi cẩn thận leo trở xuống.
                    Ngày hôm sau, tôi gặp lại chú Sĩ Cát. Lâu ngày mới được gặp, mừng quá chúng tôi ôm chầm nhau lại. Chú lên tiếng hỏi tôi cũng vẫn với câu thường lệ, thật ấm tràn ngập cả tình thương :
                    - Có mạnh khỏe không? Ta mới vừa gặp thân mẫu Lỗ San. Trông người vẫn khỏe như dạo nào.
                    Tôi cùng các chú tiểu và tất nhiên là có cả chú Sĩ Cát đi xuống cánh đồng Lạt Sa tràn đầy mạ lúa vào làng So nằm phía dưới chân núi Phổ Đà La. Trên nguyên tắc là chúng tôi đưa nhau xuống núi để xem đám rước, tham dự lễ đón năm mới Lộ Sa chật ních các nẻo đường.
                    Đám người hành hương thường ước ao được nhìn tận mắt thành Lạt Sa. Họ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đa phần họ là các người thuộc các nước sùng Phật giáo. Tất cả đều gọi xứ sở Tây Tạng là Thánh Địa hoặc Phật Quốc.
                    Hôm nay quang cảnh thật tấp nập, khắp nơi đều ngựa xe như nước, áo quần như nêm. Những kẻ già nua tuổi tác, những người tật nguyền, cùng những thiếu phụ cõng con trên lưng hăng hái bước đi.
                    Mọi người hành hương đều tin tưởng rằng nếu họ chịu khó đi hết một vòng chung quanh theo vòng đai đất Thánh Phổ Đà La là sẽ được xả hết tội lỗi từ trước đến giờ. Họ còn cả đức tin mạnh mẽ là sẽ được đi đầu thai vào kiếp khác sung sướng hơn và danh giá hơn đời sống hiện tại của họ hiện nay!
                    Các ông thầy tướng, các nhà bói toán ngồi la liệt trên con lộ Linh Cơ và cũng như cả những kẻ ăn xin, vừa đi vừa rên rỉ xin lòng thương xót của những kẻ hành hương từ phương xa lại. Những người bán hàng rong vai mang đầy hàng hóa vừa rao vừa chen lấn đi tìm mồi gạ gẫm.
                    Tôi và chú Sĩ Cát bắt đầu thấm mệt trước đám đông đang vây quanh khi chúng tôi dừng chân nghỉ để hỏi những mẩu chuyện đâu đâu, mà nhiều lúc tôi cũng chẳng hiểu là gì. Chúng tôi bảo nhau băng qua sườn núi rút lui về nghỉ ngơi để cùng nhau tâm sự sau những ngày tháng cách xa nhau.
                    Đến nơi, chúng tôi leo lên sân thượng đưa nhau đến ngồi ở hành lang. Đây thật là một nơi yên tĩnh và lý tưởng đối với tôi. Trời chiều nắng ấm, tuy đã vào hoàng hôn mà trời vẫn sáng. Một đàn công sặc sỡ màu sắc sà xuống dưới bãi cỏ xanh cùng nhau vũ lộng.
                    Tiếng ồn ào của đông đảo đám người bên dưới vang lên nghe như những lời cầu kinh không thành tiếng nhẹ nhàng dễ khiến người nghe đi dần vào giấc ngủ.
                    Và tôi như bắt đầu lim dim đôi mắt chập chờn nửa tỉnh nửa mê, thì lạ lùng thay, dường như có bóng dáng một người chập chờn hiện lên đứng tận ở bờ tường núi đối diện nhìn tôi nhoẻn miệng cười.
                    Tôi cố gắng chống lại cơn buồn ngủ đang liên tục kéo đến như quyến rũ tôi đi vào một thế giới mộng mơ. Không muốn bị rơi vào giấc ngủ trong trạng thái ảo tưởng trong lúc tôi còn nhiều điều cần cùng chú Sĩ Cát tâm sự, do đó tôi cố hết sức lắc đầu thật mạnh để lấy lại sự tỉnh táo.
                    Nhưng, cái bóng có vẻ ma quái kia đang tiến dần lại về phía tôi đang ngồi. Tôi bắt đầu lo sợ, vì khuôn mặt của nó có cái vẻ gì đó, cứ nhìn chằm chặp tôi cười khiến cả tóc gáy tôi như tuồng dựng đứng cả lên.
                    Tôi cố nhắm mắt lại để khỏi trông thấy, nhưng không được, càng cố nhắm lại, lại càng mở to thêm, tôi mơ hồ nghĩ như vậy. Trong lúc đó nó đã đến ngay trước mặt tôi cười lên một tràng dài, khiến tôi nắm lấy tay chú Sĩ Cát hét lên thật lớn:
                    - Ma, ma! Chú Sĩ Cát ơi!
                    - Không! Ta không là ma! Hãy bình tĩnh! Bóng kia đáp lại.
                    Tuy tôi khiếp hãi đến như vậy, nhưng khi nghe tiếng từ bóng kia nói ra, cũng hơi an lòng bèn lên tiếng hỏi :
                    - Nếu không là ma, thì người là ai?
                    - Ta? Ta là một con người bằng da bằng thịt đã từng một thời đi học tại ngọn Trắc Phổ Di này. Ta cũng vốn có tật lười như chú và cũng vốn thích cái sân thượng thật yên tĩnh này để ngồi trầm tư hàng giờ như chú.
                    Về sau ta quyết chí lo tu hành tinh tấn gạt bỏ mọi khát vọng tầm thường của thế tục mong sao cho mình được chóng có ngày giải thoát mà trở về với Cõi Phúc.
                    Bởi vậy ta mới đến cái cốc đá kia hỡi Lỗ San và chú Sĩ Cát thân mến các người có nhìn thấy không? Đó, cái thạch cốc đó nằm ngay ở giữa vách núi chênh vênh kia để tịnh tâm tu dưỡng.
                    Tôi cùng chú Sĩ Cát nhìn theo ngón tay chỉ của bóng người này và tự nhiên cả hai chúng tôi đều cảm thấy ớn lạnh cả xương sống.
                    Đến nay đã mười một mùa Lộ Sa. Ta đã đạt được kết quả như ý muốn. Có nghĩa là tự do cho linh thân lướt bay giữa khoảng không gian vô tận, trong khi xác thân ta vẫn an toàn trong cốc đá.
                    Chuyến bay thứ nhất của ta là để có dịp ngắm lại quang cảnh đông đảo của ngày Hội Lớn và cũng để nhìn lại nơi mà ta thường ngồi để suy tư hàng ngày hồi tưởng lại những lúc cam go để thực hiện được lòng mơ ước của mình.
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • #25
                      PHÉP DU HỒN
                      Nói đến đây, bóng người này lớn tiếng cười.
                      - Lỗ San, ta đã đạt được phép du hồn. Ta có thể thả hồn mình đi đến bất cứ nơi nào trên thế gian này và luôn cả cõi hư vô bao la vô cùng vô tận kia, bất cứ lúc nào ta cảm thấy thích thú.
                      Tôi vô cùng mừng rỡ, không còn sợ hãi như lúc ban đầu nữa. Đây là một dịp may để tìm hiểu những điều mình được nghe đến như các trường hợp của các "ẩn sĩ" hay của các "tiểu tăng" mà tôi hằng muốn được biết. Chẳng biết tại làm sao họ lại thích chơi cái trò trèo leo nguy hiểm như vậy để đùa với cái chết sẵn sàng đưa họ xuống tận lòng hố sâu thăm thẳm đó?!
                      Bỗng dưng tôi nhớ lại một nhà sư người dân tộc Hán tên là Ngô Tử có một địa vị khá cao trong xã hội. Được biết trước kia ông là nhà sư tu hành ngay tại cung vua ở Bắc Bình. Nơi này, về sau không thích hợp nên ông quyết định rời khỏi kinh thành tìm sang vùng đất Thánh.
                      Ước vọng của ông đến vùng đất Tây Tạng này để dốc lòng chừa cải, gột rửa mọi dục vọng tầm thường của thế gian, lo tu luyện mong chóng đạt thành chánh quả. Cuối cùng ông đến được Trắc Phổ Di liền qui y tại nơi đất Thánh này.
                      Sau vài năm công quả, ông quyết định hãm mình trong "thạch cốc" với lời nguyện ở trọn bảy năm trường tại nơi ấy quanh năm sống với bóng tối vây quanh, không bóng người, không tiếng nói... Bất chấp rắn rít lúc nào cũng lướt ngang bên cạnh ông, có khi còn leo lên cả lên chân ông...lên người ông...
                      Ngày nay thì nhà sư kia đã đắc đạo trở về Trắc Phổ Di ở tại căn phòng cách nơi tôi đang ở không xa mấy. "Đúng rồi, đó là tiếng nói của nhà sư kia, không ai xa lạ".
                      Thế là hôm sau, trong khoảng thời gian rảnh rỗi, tôi xuống nhà ngang qua lớp hành làng quen thuộc tìm căn phòng bé nhỏ mà tôi đã có lần phát giác được, nhẹ nhàng bước đến, áp sát mặt vào cánh cửa được sơn màu hồng phấn cất tiếng khẽ gọi vào:
                      - Đại sư ! Đại sư ơi !
                      Không một tiếng trả lời. Chẳng lẽ giờ này Người tham thiền sao? Tuy nghi ngờ vậy tôi vẫn lên tiếng nhỏ nhẹ gọi thêm lần nữa:

                      - Đại sư ! Ngài tham thiền ư ?
                      Bỗng có tiếng thật trong trẻo từ bên trong vọng ra nghe thật rõ ràng:
                      - Vào đi. Chú cứ tự nhiên. Hãy vào với ta. Ta đang đợi chú.
                      Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một nhà sư già đang ngồi với tư thế "bán già". Mặc dù đã trọng tuổi mà lưng ông vẫn thẳng tắp. Ông có đôi gò má nhô cao và làn da mỏng như lụa của lòng cây măng trúc. Mắt ông đen nhưng có hơi phảng phất màn mỏng màu váng sữa.
                      Cằm rộng và vuông vức có chòm râu ngả màu sương muối. Trên mu bàn tay nổi lên cả gân xanh trông hệt như một cành cây khô cằn cỗi. Đã vậy mà da tay có sắc vàng nhợt nhạt pha lẫn màu nâu với nhiều chấm nhỏ đen sẫm biểu lộ cho một sự tàn tạ.
                      Tôi lễ phép đến trước mặt Người cúi đầu cung kính:
                      - Kính mừng Đại sư !
                      Bằng phản ứng tự nhiên nhà sư quay vội về phía tôi đang đứng. Dường như ông lắng tai nghe nhiều hơn là nhìn bằng mắt để quan sát.
                      - Ừ, ừ...đây là chú bé.
                      Rồi ông mỉm cười nói tiếp:
                      - Chỉ cần nghe bước chân là đủ biết chú lớn hay nhỏ rồi.
                      Giọng ông hơi run run tuy vậy mà vẫn còn nghe rổn rảng chẳng kém gì người đang thời cường tráng. Tôi vẫn đứng yên lặng để được quan sát kỹ về cơ thể của con người trở về từ lòng thạch cốc.
                      - Này, chú bé kia ơi! Chú muốn điều gì ?
                      - Thưa Ngài! Con muốn được nghe những điều gì đã xảy ra trong lòng thạch cốc mà suốt thời gian dài Ngài đã tự giam hãm mình nơi ấy?!
                      Nhà sư chép chép miệng mình vài cái rồi ra hiệu cho tôi:
                      - Lỗ San, hãy ngồi xuống đã. Ta ít nhắc đến chuyện cũ từ lâu rồi, những câu chuyện mà không thể nào phai mờ trong đầu óc ta được.
                      Nói đến đây, nhà sư đưa tay vê về vài sợi râu mép, mắt hơi đảo lên mí mắt trên để lộ một màu trắng dã bên dưới rồi chậm rãi kể lại:
                      - Ngày ta còn trai trẻ, ta đã phải mỏi gót kỳ khu trên mọi nẻo đường. Sau đó, ta đến xứ sở Ấn Độ. Tại nơi đây có rất nhiều ẩn sĩ sống trong thạch cốc. Có vài người ngày nay đã đắc đạo.
                      Đến đây, ông ta ngừng lại, đầu khẽ lắc như tuồng biểu lô tiếc rẻ:
                      - Có đi vào thạch cốc và nhìn thấy được những người đã đắc đạo nơi đây, ta mới cảm thấy buồn cho những kẻ suốt ngày chỉ lẩn quẩn dưới mấy gốc cây thả hồn theo mây trời gió nước, thử hỏi họ đã đạt được những gì?
                      - Thưa Đại sư ! Tôi ngắt ngang lời. Con muốn được nghe những gì về các vị ẩn sĩ xứ Tây Tạng này?
                      - Hả? Ngươi muốn cái gì? Điều gì? Nhà sư này ngơ ngác cho mãi đến giây lát sau mới khẽ gật đầu. À, ta biết rồi! Ta ở Ấn Độ trở về Bắc Bình, nơi đó ta đâu có học hỏi được gì? Ta đâm ra chán nản rồi xách gậy và bình bát ra đi. Đầu trần, chân không dưới ánh nắng chói chang nhiều tháng trời như vậy ta mới đến tận nơi vùng Thánh Địa này.
                      Sau bao nhiêu năm tháng đi lần lượt từ chùa này sang chùa khác, lang thang mãi mới đến được ngọn Trắc Phổ Di này. May mắn thay, ta gặp được Ngài Trụ Trì và được Ngài cho phép ta ở lại đây để học hỏi, tu hành.
                      Nói đến đây, Người ngưng hẳn lại rồi quay lại phía tôi trầm ngâm giây lát rồi khẽ chép miệng nói tiếp:
                      - Ta rất vui mừng khi nghe được hơi thở của cháu, quả cháu có một "tiên thiên sung mãn" đáng mừng thay!
                      - Tại làm sao Đại sư lại biết được như vậy? Tôi lên tiếng hỏi.
                      - Trước kia ta vốn là một Đông y sĩ tại vùng Hoa Bắc, công việc chính của ta là châm cứu. Điều ta khuyên cháu hôm nay là cháu nên giữ lấy kho tàng của ông cha để lại đó mà dốc cả tâm lực vào việc tu hành.
                      Riêng ta, cũng đã một thời có được cái diễm phúc hưởng được cái kho tàng đồ sộ như cháu và nhờ vậy mà tu hành một thời gian vô cùng thoải mái. Nhưng tiếc thay, ta không thể tiếp tục đường đi đó vì một cơ duyên hãn hữu nên ta lại vào tu đại định nơi Tịnh cốc.
                      Tôi thở dài sốt ruột trước lối thuật chuyện lê thê như thế này chỉ vì sợ bị trễ khóa lễ đêm nay. Đang ngồi ưu tư chuyện này thì bên ngoài tiếng cồng bắt đầu vọng vào mỗi lúc một dồn dập thêm. Không còn chần chờ được nữa tôi bèn đứng lên khoanh tay cáo từ:
                      - Thưa Đại sư, con phải đi ngay bây giờ.
                      Ông Đại sư này lắng tai nghe rồi mỉm cười:
                      - Không! Lỗ San có thể ở lại nơi đây! Lỗ San có đủ lý do lưu lại để nghe ta thuyết giảng về phép "Công phu tu niệm". Lỗ San nên nhớ rằng hiện giờ phút này chú có bổn phận lãnh hội sự diễn giải của một sư huynh của chú cơ mà.
                      Ở lại đây! Không nên bồn chồn. Ngươi có thể vắng mặt khóa lễ đêm nay! Ta bảo đảm chẳng sao cả. Hãy ngồi xuống lại và nghiêm chỉnh nghe ta.
                      Đến đây, vị Đại sư già quay mặt vào bên trong cất tiếng:
                      - Có chú nào bên trong ấy không? Cho bình trà ra đây.
                      Ra lệnh xong,Người quay lại bên tôi cười nói:
                      - Chúng ta cùng uống trà nhé! Tóc bạc da mồi như ta hoặc tuổi trẻ như cháu cả hai lớp người già trẻ cũng đều phải cần trà cả. Nó là một loại thuốc làm tươi nhuận lại các tế bào và còn giúp cho tinh thần thêm thoải mái nữa.
                      Một chú tiểu từ bên ngoài mang vào một khay trà cùng bột lúa mạch đặt lên chiếc bàn đá phía trước mặt người Đại sư già. Chúng tôi trộn bột lúa mì làm thành bánh Tsampa vừa ăn vừa uống với nước trà thơm đặc biệt được nhập cảng từ Ấn Độ. Nhà sư già lại tiếp tục đi vào câu chuyện bị bỏ dở:
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • #26
                        - Ngài Trụ Trì nơi đây cho phép ta nhập "tịnh cốc". Ngài cấp cho một chú tiểu để trông nom giúp đỡ ta. Thế là thầy trò ta sau năm ngày lặn lội mới tìm được một nơi vừa ý đối diện với sân thượng này như chú đã nhìn thấy.
                        Tôi gật gù đầu:
                        - Thưa Đại sư ! Con được biết đó là một cốc đá nhỏ được xây bên trên ngọn Hy Mã Lạp Sơn.
                        - Đúng vậy. Cốc nhỏ này lúc ấy có một nhà sư viên tịch. Lâu ngày chẳng ai quét tước, vì vậy, khi đến đây,thầy trò ta phải thu dọn lau chùi sạch sẽ. Sau khi hoàn tất, ta mới có thì giờ bước ra nhìn xuống cánh đồng La Sa, ngọn Phổ Đà La và cuối cùng là Trắc Phổ Di trước khi chui vào bên trong tiểu cốc.
                        Chú đệ tử nhỏ bé của ta bắt đầu thi hành phận sự. Chú ta lấy mấy tảng đá đặt sẵn bên cạnh cốc chắn ngang nơi cửa ra vào rồi bên ngoài đó người đệ tử này dùng xi măng trám lại thật kín.
                        Tôi ngạc nhiên hỏi:
                        - Thật kín? Làm sao mà thở được?
                        - Được chứ. Đâu hẳn đã bít kín được tất cả, còn những lỗ hổng khác trên nóc động có thể để lọt ánh sáng cũng như thông cả khí trời, chỉ có điều là không thể thoát ra bên ngoài được.
                        - Nhưng làm sao ăn uống? Đại sư tự nấu lấy chăng?
                        - Không. Ta có thể tự ăn thôi. Nhà Sư già đùa. Chú đừng lo, tuy bít kín lỗ hổng ra vào song còn chừa một khoảng trống nhỏ đủ đặt cái khay thức ăn, cứ hai ngày một lần cho lão sư già này, kẻo không thì đói bụng làm sao chịu nổi?
                        - Thưa Đại sư, bên trong tiểu cốc ấy như thế nào?
                        Nhà sư Ngô Tử đưa tay lên xoa xoa chiếc đầu trụi lủi tóc của mình đoạn lên tiếng đáp lại:
                        - Đó là một căn phòng nhỏ bé, tường vách thật dày, không có cánh cửa hay lối thoát nào mà cũng chẳng có lấy tia sáng nào lọt vào được.
                        - Thưa Đại sư, chẳng lẽ tối om om sao?
                        - Thì phải vậy. Bức tường bên trong có một các ngách nhỏ dùng để tiếp tế cơm nước. Cạnh đó, có một đường hầm nhỏ, thông từ bên ngoài của cái cốc nhỏ ta đang giam mình hệt như một màn đen dày đặt, tưởng chừng có thể dùng tay sờ được.
                        Tứ bề im phăng phắc không có lấy một tiếng động nhỏ. Ta ngồi xuống sàn và bắt đầu tham thiền. Thoạt đầu, ta cảm thấy tâm trí mình gặp nhiều cảnh lạ lùng, nhưng tự biết đó âu chỉ là ảo tưởng. Các ảo ảnh này lúc thì là từng tia sáng li ti nhỏ lọt vào qua khe nứt nhỏ, khi thì như có cả một vừng ánh sáng bừng lên rồi từ từ tan biến.
                        Cũng lắm lúc lại nhìn thấy cả một màn đen tối phủ xuống đè lên người làm cho ta nghẹt thở. Chẳng những vậy, ta còn có cảm tưởng toàn châu thân mình hình như có cả khối bùn đen bao cả lại. Về sau này có lúc ta tưởng tượng như đâu đó có tiếng chuông rung xen lẫn với tiếng cồng vang lên tứ phía, lại có cả tiếng của hàng bao nhiêu người tụng kinh cầu nguyện.
                        Có lắm lúc ta đập tay vào vách tường đá đến độ điên cuồng như muốn phá vỡ một lối thoát ra bên ngoài. Dần dần về sau, ta cũng chẳng biết là bao nhiêu lâu nữa không còn phân biệt được ngày và đêm nữa.
                        Mà làm sao phân biệt được khi mà chung quanh mình chỉ toàn là bóng tối và câm lặng như một nấm mồ. Dần dà về sau ta trở nên yên tĩnh, tâm tư ta lắng đọng lại, không còn bị hốt hoảng nữa. Thế là cũng kể từ đó với ta mọi âu lo, bồn chồn, hồi họp đều lần lượt tan biến hết.
                        Tôi sững sờ ngồi lắng nghe và hình dung từng hình ảnh sống động trong "thạch cốc" mà nhà sư họ Ngô từng tự hãm mình để tu hành. Bên ngoài tiếng cầu kinh vọng vào lúc cao lúc thấp, khi to khi nhỏ, như thể đưa hồn chúng tôi vào cảnh tiêu diêu huyền nhiệm.
                        Nhà sư họ Ngô tiếp tục thuật lại cho tôi nghe về cảnh sống của người tại nơi thạch cốc!
                        - Cứ hai ngày một lần, chú tiểu đồng của ta ở bên ngoài lại đặt vào cái ngách nhỏ bên đường ít mẫu bánh Tsampa. Những lần mà chú tiểu đồng đến bỏ bánh, khi đến cũng như lúc rời khỏi nơi thạch cốc ta không hề được hay biết.
                        Có lần ta sờ soạng trong bóng tối để lấy thức ăn, vô ý làm đổ cả ra tận ngoài xa, ta cố với mãi song cũng không thể nào với tới được. Ta lên tiếng gọi song cũng chẳng ai nghe thấy
                        Tôi mau miệng hỏi:
                        - Thế Đại Sư phải làm thế nào? Chẳng lẽ phải nhịn đói đến cả hai ngày sao?
                        - Thì đành phải vậy, biết làm sao hơn! Bụng làm dạ chịu mà Lỗ San! Như chú đã hỏi, ta đành nhịn đói suốt hai ngày trời như vậy.
                        Tôi lại liên tưởng đến cảnh lỡ bị trái gió trở trời thì sao? Chẳng lẽ nằm chịu trận để Thần Chết đến mang đi sao? Nghĩ vậy tôi liền lên tiếng hỏi:
                        - Thưa Đại Sư ! Nếu gặp cảnh đau ốm hay nói gỡ hơn là bị hóa kiếp đi thì làm thế nào?
                        - À! Nếu có bị bệnh hoạn thì chẳng đáng lo ngại tí nào. Ta có thể dùng "Thiền Định" mà tự chữa lấy, nhưng bất thần bị hóa kiếp thì đã có quy định đã được đưa ra từ trước ngày nhập cốc.
                        Người đệ tử mang cơm hàng ngày có thể nhìn vào đống cơm cứ tiếp tục chất chồng lên với nhau tại ngay ngách tính đến ngày thứ mười bốn, lúc bấy giờ chú đệ tử phải cấp báo ngay về cấp trên để được biết. Đã có một số không ít các ẩn sĩ có vào song chẳng bao giờ trở lại với ánh sáng mặt trời nữa.
                        - Có nghĩa là...đã bị chết !
                        - Thì là đúng như vậy.
                        - Khi được tin người ẩn sĩ ấy qua đời thì phải làm thế nào, thưa Đại Sư ?
                        - Tức thì ngay sau đó người ta sẽ đến cho phá vỡ cửa ra đoạn mang xác của người ẩn sĩ hóa kiế
                        - Tôi trân trối ngắm nhìn nhà sư Ngô Tử như để tìm kiếm những dấu vết còn ghi lại trên thân thể Người sau những năm tháng dài trong lòng thạch cốc.
                        - Phải mất thời gian bao lâu Đại Sư mới rời khỏi thạch cốc?
                        - Thoạt đầu, ta ấn định hai năm, song sau đó ta cảm thấy còn có thể lưu lại lâu hơn nữa. Vì vậy, ta quyết định ở cho đủ bảy năm. Khi đến giai đoạn sắp phải rời cốc, thì ngài Trụ Trì cho người đến khoét một lỗ nhỏ phía bên trên nóc của thạch cốc vừa đủ cho tia sáng mỏng manh lọt vào.
                        Rồi, chờ đôi ba ngày sau mới lại cho đục khoét to thêm ra một chút nữa, mục đích rót thêm ánh sáng vào. Và cứ như vậy tiếp tục cho ánh sáng dần dần nhiều hơn, mãi đến khi đôi mắt ta có thể chịu đựng được như mọi người bình thường mới thôi.
                        - Cần gì phải như vậy. Thầy có thể để cho họ mang ra ngay sau khi đúng thời hạn. Làm như Đại Sư có vẻ sao sao ấy.
                        Nhà sư họ Ngô mỉm cười lắc đầu:
                        - Nếu bị mang ra bất thần theo như ý của chú thì người ẩn mình trong thạch cốc ấy sẽ bị mù ngay tức khắc. Đó là một điều dễ hiểu, vì khi ở trong bóng tối lòng đồng tử bị nở to ra khi gặp phải ánh sáng đột ngột chiếu đến, khiến lòng đồng tử của người ẩn cư trong thạch cốc lúc bấy giờ không kịp thời thu nhỏ lại.
                        Nói đến đây, nhà sư bật cười:
                        - Giả dụ ngày ra xuất cốc mà có chú đứng đón ta ắt sẽ không khỏi giật mình trố mắt ra nhìn. Toàn thân ta trắng toát mà đầu tóc thì như băng tuyết phủ. Ta phải chà xát cả người, nắn bóp khá lâu, đồng thời tập co giãn chân tay để cho các gân cốt làm việc trở lại. Chú đừng ngạc nhiên và cho ta là cầu kỳ.
                        Thật ra chính vì ta không cử động trong một khoảng thời gian thật dài nên tay chân hầu như không còn hoạt động được nữa. Dần dà sức lực và toàn cơ thể ta khôi phục lại. Thế là ta bước ra khỏi cốc đá như những kẻ bình thường cùng chú tiểu đồng xuống núi và đến nơi đây, không ngờ lại được may mắn gặp chú.
                        Tôi cúi đầu suy nghĩ, trong những năm tháng dài sống trong bóng tối, khiến thị giác của vị Đại Sư này cảm thấy không còn cần thiết nữa. Ông có thể nhìn thấy mọi vật trong bóng đêm vừa bằng nhãn lực và cũng vừa bằng cảm quan phát xuất từ trong tiềm thức!
                        Nhưng, ánh sáng mà suốt thời gian dài ngài Đại Sư ẩn cư không cần đến đó sẽ trở thành một loại vũ khí cực kỳ nguy hiểm. Nó có thể làm cho nhà sư này bị tước đoạt hẳn thị giác.
                        Tốc độ của ánh sáng nhanh đến nỗi chẳng có một tốc độ nào khác đuổi theo kịp và cũng chẳng có một quyền phép nào điều khiển được nó.

                        Có lần nghe được lời giảng dạy của Minh Sư tôi có đề cập đến tốc độ ánh sáng, đối với khoa học vẫn còn chưa ai có thể đuổi theo, hoặc cầm nắm nó lại đó, nhưng với nhà tu hành cấp cao, có thể giam hãm lại và có thể biến đổi cả màu sắc nó.
                        Gần đây một nguồn tin AP được đánh đi từ Boston, theo các nhà nghiên cứu của Viện Đại học Kỹ Thuật Massachusetts qua các cuộc thí nghiệm đã phát giác ra rằng, khi sóng ánh sáng tương tác với một lực mạnh như lực của viên đạn đang bay, chúng có những phản ứng rất khác lạ.
                        Nhà vật lý Evan J.Reed, làm việc tại phòng thí nghiệm nghiên cứu điện tử của MIT, đã tiến hành các cuộc nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ này và thấy rằng, khi cho sóng xung kích có cường độ mạnh đi qua tinh thể lượng từ ánh sáng, chúng có thể biến đổi màu đỏ sang màu xanh.
                        Những kết quả thu được từ thí nghiệm có thể ứng dụng cho lĩnh vực truyền thông và quang học điện tử. Thí nghiệm về sóng xung kích còn cho phép các nhà nghiên cứu có thể thấy phản ứng của vật chất trong môi trường chịu lực tác động lớn.
                        Chính vì không ai có thể đến gần tâm của trái đất nên thí nghiệm kiểu này sẽ giúp các nhà nghiên cứu thấy được sự thay đổi cấu trúc kết tinh của vật chất dưới nhiệt độ và áp lực cao.
                        Theo nhà vật lý Reed, kiểu thí nghiệm này không có gì đặc biệt nhưng cho đến nay vẫn chưa có nhà khoa học nào có thể tiến hành tương tự.
                        Qua thí nghiệm trên, các nhà nghiên cứu tại MIT cho biết họ có thể điều khiển được ánh sáng khi đưa sóng xung kích đi qua tinh thể lượng tử ánh sáng. Bằng cách giam hãm ánh sáng giữa mặt chuyển động của xung kích và bề mặt phản chiếu, tia sáng được đưa tới có thể bị ket lại tác các ranh giới của sóng xung kích.
                        Khi xung kích di chuyển qua tinh thể, độ dài sóng ánh sáng có thể thay đổi mỗi lần chúng tăng cường độ. Nếu sóng xung kích cùng chiều với ánh sáng, cường độ của ánh sáng sẽ mạnh lên, còn nếu nó ngược chiều thì cường độ ánh sáng nó sẽ giảm.
                        Nếu thay đổi cấu trúc của tinh thể, các nhà nghiên cứu có thể hoàn toàn điều khiển được cường độ tần số vào và ra khỏi tinh thể.
                        - Thưa Đại Sư, công phu của Đại Sư bỏ ra lớn lao đến như thế ấy có xứng đáng với thành quả của mình đạt được chăng ?
                        - Có, có chứ. Nhà sư họ Ngô nói với tôi. Xứng đáng lắm chú à! Nhờ đó mà ta thấu rõ nguyên tắc của đời sống, mục đích và hành động của bộ óc, sự ràng buộc giữa linh hồn và thể xác. Nhờ đó mà ta ngày nay được tự tại vô ngại.
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment


                        • #27
                          Ta có thể xuất hồn để bay lên trên không trung, chẳng khác nào chú dùng phép nhiếp hồn để đi đây đi đó.
                          - Thưa Đại Sư!
                          Tôi lại hỏi.
                          - Ngài có tin chắc rằng những thành quả của Ngài vừa nói đó là sự thật hay là do đầu óc mình tưởng tượng mà ra? Hoặc giả, xin Đại Sư cho phép con được vô phép hỏi, liệu Ngài chắc chắn là mình không bị "tẩu hỏa nhập ma"?
                          Có điều con vẫn thắc mắc là tại sao Ngài không dùng phép nhiếp hồn mà đi đó đi đây, có phải vừa đỡ hại sức khỏe, đỡ khỏi mất thời gian mà còn an toàn khỏi bị nguy hiểm nữa!
                          Nghe tôi hỏi một tràng dài toàn những thắc mắc, Đại Sư Ngô Tử cười ngửa nghiêng, phát ra thành tiếng. Ngài cười đến chảy ròng ròng cả nước mắt. Cuối cùng đưa tay chụp vào bả vai tôi nói:
                          - Á há ! Hỏi, hỏi, chú cứ hỏi nữa đi! Chú chẳng khác nào ta lúc trước thắc mắc mãi và hỏi mãi không bao giờ biết chán. Nó như thế này chú ơi! Thoạt đầu ta cố khắc phục nỗi bồn chồn hốt hoảng.
                          Ta tự nguyền rủa cái ngày mình quy y. Ta còn nguyền rủa cả ngày ta nhập cốc. Nhưng, rồi dần dà ta theo lối quán tưởng tập hô hấp rồi nhập thiền tĩnh tọa, ngưng thần.
                          Ta cũng có những lúc nhìn thấy cảnh ma quái chập chờn, ẩn hiện trong đầu óc hoặc ngay trước mặt mình. Ta cũng có những giấc mơ hão huyền, mộng tưởng. Nhưng tất cả những sự kiện đó, ta đều biết là do tinh thần mình quá căng thẳng tạo thành và khi ta xả thiền thì tất cả những ảo ảnh, mộng mị đều tan biến mất.
                          Điều tôi nhận thấy tuy nhà sư Ngô Tử nói cả một thôi dài mà vẫn giữ được sự điều hòa của hô hấp, không có vẻ gì là mệt mỏi cả. Ngài vẫn tiếp ục nói:
                          - Cho mãi đến một ngày kia, ta cảm thấy người mình nhẹ hẳn đi, và tự cảm thấy như hồn từ từ thoát ra khỏi thể xác. Trong bóng đêm dày đặc tự nhiên ta nhìn thấy rõ như ánh sáng ban ngày. Ta cúi xuống nhìn thể xác mình, rõ ràng là đang tham thiền tĩnh tọa.
                          Rõ ràng, mắt mình đang mở ra như thể đang nhìn về một phương trời xa xăm nào đó. Ta cũng nhìn thấy cả làn da ta quá xanh xao và cả thân hình thì gầy đi hẳn.
                          Ta lửng lơ bay xuyên qua những rặng núi từ thấp đến cao, có những lúc quá hứng khởi ta lại bay lên tận đỉnh núi cao quanh năm tuyết phủ Không khí nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn thật mát mẻ, trong lành. Ta nhìn xuống cả cánh đồng La Sa xanh mướt, mênh mông, rộng lớn.
                          Ta nhận thấy ở đất Thánh Tây Tạng này ngày nay có nhiều thay đổi. Ta cũng nhìn thấy cả những người đã quen biết từ trước, những người quen ở vào một thời gian nào đó. Ta lướt nhẹ vào ngôi Đại tự. Nơi đây, ta bắt đầu dùng Thần Giao Cách Cảm để chuyện trò với Đức Lạt Ma đã cho phép ta được rời khỏi "cốc".
                          Ta là là bay khá xa đến một xứ khác du ngoạn. Cứ mỗi hai ngày ta trở về cốc để nhập lại vào xác thân mình. Chú ngạc nhiên và thắc mắc ư ? Chẳng có gì cả. Thật ra ta vẫn như mọi người khác.
                          Có nghĩa là ta vẫn còn sống tại thế gian này, còn phải nhờ vả cái thể xác này. Ta phải nhập trở lại vào trong cái vỏ bằng da bằng thịt này để có thể cho nó ăn uống và dưỡng nuôi nó.
                          - Thưa Đại Sư! Tại sao Ngài không dùng phép "Nhiếp Hồn" để tránh khỏi phải tốn hao công sức?!
                          - Có rất nhiều người không có cơ duyên. Đâu có phải ai cũng như cháu cả! Chú đã nhờ trải qua bao nhiêu kiếp tu luyện nên kiếp này chú mới được giao phó một trách nhiệm đặc biệt.
                          Chú phải dùng đến "Linh Thân" chuyển động đến nhiều nơi xa xăm để thi hành Phật sự. Đa phần, như ta chẳng hạn phải dày công tu luyện đủ phúc, đủ duyên mới có thể thoát được hồn ra khỏi xác. Trong trường hợp cháu thì khác, lắm điều may mắn. Chú được thật nhiều duyên huyền linh hỗ trợ.
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment


                          • #28
                            CHƯƠNG NĂM
                            CON NGƯỜI BẤT TỬ

                            Nói đến đây, hơi thở của ngài Ngô Tử trông thấy có vẻ thiếu điều hòa. Trên mặt ngài lộ hẳn vẻ mệt mỏi. Mãi đến giây lâu sau ngài mới lấy lại được sức lên tiếng bảo:
                            - Thế cũng đã đủ cho cuộc gặp gỡ giữa hai chúng mình. Bây giờ thì cháu có thể rời khỏi nơi này. Xin lỗi cháu, ta đã mệt lắm vì đã nói quá nhiều. Ta mong rằng từ nay về sau, nếu cháu còn ở lại đây, thỉnh thoảng đến thăm viếng ta, mặc dù ta biết cháu hay tò mò muốn biết những điều huyền nhiệm ngay tại Hy Mã Lạp Sơn này, song ta lại cảm thấy là điều đó đã làm cho ta thích thú!
                            Dứt lời nhà sư Ngô Tử quay mặt về hướng khác. Tôi cúi đầu và khẽ cám ơn đoạn lặng lẽ bước ra khỏi căn phòng bé nhỏ này. Tôi vừa đi vừa nghiền ngẫm cuộc chuyện vãn vừa rồi đến độ không trông thấy cả bức tường chắn ngang phía trước mặt nên đầu bị va mạnh vào, đau muốn tắt cả hơi thở.
                            Khi ngang qua chánh điện thì cũng vừa lúc khóa lễ buổi chiều sắp chấm dứt. Các tăng sĩ ai nấy cũng muốn được về phòng nghỉ sớm. Nhà sư phát ngôn viên của Thiền Viện trông có vẻ đã luống tuổi còn đứng trên bục cao dùng tay đánh dấu trang kinh rồi mới ung dung bước xuống.
                            Góc bên kia có một cái bục cao vừa đủ cho ông giám thị có đôi mắt sáng quắc như thể đang toát ra hơi nóng sẵn sàng thiêu đốt các chú tiểu nào phạm vào qui điều của chốn thâm nghiêm, cái qui điều đó là sự nghịch ngợm và không chăm chú lắng nghe những lời giảng giải từ các Lạt Ma trên bục lễ đường.
                            Tuy nhiên ngay trong giờ phút này đôi mắt ông ta có vẻ hiền dịu và ấm áp hơn như ánh nắng của những ngày đầu xuân sau những tháng dài của tiết đông thiên giá rét.
                            Mấy chú tiểu cùng đi rập ràng tay đẩy đưa bình hương quanh một vòng cuối cùng trước khi thực sự giải tán. Trong lúc đó, toàn thể các người dự lễ cũng lục tục đứng dậy kéo ra bên ngoài rảo bước về phòng.
                            Nhưng bất thần một tiếng thét đâu đó vang lên như xé cả màng tai rồi tiếp theo một bóng người to lớn nhảy vọt lên qua đầu của các tăng lữ, chụp lấy tay chú tiểu đang cầm hai cây nhang trong tay. Hành động này đã khiến cho toàn thể mọi người đang hiện diện phải sửng sốt đứng dừng lại nhìn thẳng vào cái bóng người vừa xuất hiện đó.
                            Tôi cũng tỏ ra sửng sốt nhìn kẻ nào đó đã có hành động hung hãn như vậy. Thì ra, kẻ đang đứng trước mặt mọi người đó là một "thằng điên". Hắn vừa cầm hai cây nhang đang nghi ngút cháy từ tay của một chú tiểu rồi vặn mình nhảy múa.
                            Hắn đang trong cơn thác loạn, hết vặn người bên này, lại uốn éo bên kia, miệng mồm cũng cùng một hành động rập ràng như ông ta đang nhảy múa, có nghĩa là ông méo mó cái mồm mình theo cung cách của vũ điệu.
                            Nước dãi chảy ròng ròng ra hai bên khóe mép, đổ bừa bãi lên cả chiếc áo ông đang mặc trong người. Cổ ông ta nổi đầy cả gân, gồ lên và xanh rờn. Thỉnh thoảng từ trong cổ họng người này phát ra các âm thanh the thé tợ như ma hờn quỉ khóc.
                            Trước cảnh tượng xảy ra quá đột ngột này, các ông sư cảnh sát cũng đứng khựng lại vì không thể nào phản ứng kịp. Mấy nhà sư Chủ Tế cũng đứng trân người ra, há hốc cả mồm, đưa hai tay lên trời tỏ vẻ vừa kinh ngạc vừa thất vọng.
                            Cuối cùng không cần bảo nhau, các ông giám thị bất thần lao thẳng đến tóm lấy cổ ông ta đè xuống. Bị tấn công bất thình lình, người điên kia bị đè xuống không còn chống trả được đành nằm yên một chỗ.
                            Tuy vậy, ông ta không cần vận dụng về sức lực tay chân mà bằng những lời văng tục, mà xưa nay giới tu hành tại đây chưa bao giờ nghe nghe thấy! Mọi người cố hè nhau ấn mạnh đầu ông ta xuống, dùng tay bịt mồm kẻ điên loạn này lại, không để cho những lời lẽ phàm phu còn tiếp tục tuôn ra nữa. Họ lấy áo phủ lên đầu đoạn nhấc bổng ông ta lên khiêng ra khỏi chùa.
                            Chúng tôi hiếu kỳ chạy theo ra để được nhìn tận mắt tên điên khùng này rồi cùng nhau mỗi người một lời bàn tán.
                            Tôi được một chú tiểu thạo chuyện ở khu Thiền Viện này cho biết:
                            - Đó là một nhà sư Nhật. Tên ông ta là Henji Tchkenchi (Cảnh Di Tề Cữu Chi). Ông ta đã từng đi nhiều nơi hay có thể nói là khắp năm châu bốn bể.
                            Một chú tiểu khác chen vào:
                            - Ông còn bảo là đi như vậy mục đích là để tìm "Chân Lý". Ông ta muốn đi kiếm tìm một người nào đó mang "đạo quả" đến trao tận tay cho mình, chứ không muốn tự mình phải khổ tâm tu luyện.
                            Tôi không khỏi thắc mắc, đầu óc tôi cứ phải nghĩ mãi về việc nhà sư Nhật này đi tìm chân lý mà không muốn phải khổ công tu luyện thì chẳng khác nào chuyện nằm ngửa dưới gốc sung để chờ sung từ trên cành cây rụng xuống miệng mình.
                            Về đến phòng tôi cảm thấy thân mình đã như yếu hẳn đi, không thể chống lại cơn lạnh đã xâm nhập vào cơ thể mình, run lên lập cập. Tôi vớ vội áo quần treo trong phòng quấn vào người và nằm xuống với tư thế co quắp như thân hình con tôm sú. Tôi chợp mắt và ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay biết. Cho mãi đến khi nghe tiếng cồng từ thiền viện vọng lại báo hiệu buổi lễ sáng sắp sửa đến nơi rồi.
                            Mở mắt ra nhìn qua cửa sổ, ánh nắng đã bắt đầu le lói chiếu đến. Xuyên qua đỉnh núi ánh sáng mặt trời rực lên đủ màu sắc, chiếu xuống dòng sông phẳng lì như tấm gương, lấp lánh chẳng khác nào như những hạt kim cương đủ màu sắc. Tôi đi vội xuống hành lang hướng về phía thiền viện không khỏi lo sợ bị trễ buổi lễ sáng.
                            Sau buổi lễ, tôi gặp Minh Sư Minh Dà Đông Đạt. Ngài chăm chú nhìn tôi hỏi:
                            - Chiều qua chú đã nhìn thấy nhà sư Nhật Bản phải không ?
                            Tôi gật đầu:
                            - Thưa Minh Sư quả có như vậy.
                            - Đó là một nhà sư điên khùng. Chú nhận thấy như thế phải không?
                            - Vâng, thưa Minh Sư, quả ông ấy là một tên khùng đến độ khiến cho mọi người phải ghê tởm.
                            Thầy tôi mỉm cười:
                            - Ấy thế mà đối với chú sẽ không phải là hình ảnh đáng ghê tởm như chú đã nghĩ như vậy. Ta sẽ nói với chú về ông ta sau này.
                            - Tại sao Minh Sư phải nói với con về vấn đề ông ấy với con?
                            - Vì chú có cơ duyên với ông ta, mà không có ai ở đây được may mắn như chú!
                            Nói đến đây thầy tôi khẽ nhíu đôi lông mày lại, tiếp tục:
                            - Ta muốn nói với chú về con người ông ta, vì với chú là điều không thể tránh được.
                            Thầy bảo tôi ngồi xuống đối diện với Ngài. Tôi biết ngay câu chuyện Minh Sư sắp nói ra đây sẽ phải dài dòng... vì đó có thể là tương lai sự nghiệp của mình!
                            - Lỗ San! Có lẽ chúng ta phải dùng trà và bánh ngọt cho đỡ đói và làm cho tinh thần thêm sảng khoái. Có phải thế không?
                            Đến đây, Người chăm chú nhìn tôi đoạn bật cười thành tiếng.:
                            - Bánh họ sắp mang ra ngay. Chú thấy đói chưa?
                            Câu hỏi vừa dứt thì thấy một chú tiểu đã mang khay trà và bánh đi vào. Loại bánh mà chú tiểu mang vào thuộc loại bánh nhập cảng từ Ấn Độ mà tôi ưa thích nhất. Vì vậy, mà tôi ngấu nghiến ăn như kẻ bị bỏ đói lâu ngày, quên cả đang có sự hiện diện của thầy tôi bên cạnh!
                            - Cảnh Chi Tề Cữu Chi! Như chú biết.
                            Thầy tôi bắt đầu kể
                            - Ông ta là một nhà biện luận tài tình và khéo léo, từng đi du lịch nhiều nơi trên thế giới. Chú biết ông ấy đi làm gì không? Ông đi kiếm tìm "chân lý" đấy.
                            Thật là nực cười, "Chân lý" đang ở ngay trong chính người ông ta, thế mà chẳng hay biết cứ đi lang thang tìm hết nơi này đến nơi khác. Ông ta là một nhà có kiến thức cao rộng, đọc và nghiên cứu rất nhiều loại sách các tôn giáo.
                            Có thể nhà sư Nhật Bản này đọc gần hết các loại kinh kệ về mọi tôn giáo ở các quốc gia trên thế giới để tìm cho ra cái "chân lý" mà ông từng mơ ước đó. Ông cũng đã từng đi tìm con "Long Mã" mà vua Phục Hy đã nhìn thấy tại dòng sông Hoàng Hà.
                            Đó là con vật kỳ quái đã được huyền sử Trung Hoa mô tả là nó đã mang trên lưng một chiếc "bát quái" có tám dấu, mỗi dấu có ba hàng bố trí đối xứng quanh một vòng tròn nửa đỏ, nửa đen. Vậy chú đã có lần nào nghe đến con Long Mã này chứ?
                            - Vâng, con có nghe qua, nhưng không thể nào hiểu nổi cái huyền diệu của nó!
                            - Nó có ba mươi vẩy đen hình vuông sát bên hai mươi lăm vẩy khác hình tròn, màu trắng. Nó giúp tạo thành hình xen kẽ trắng, đen. Chính hình này tạo thành ba hình đồng tâm vuông vức.
                            Hoàng Đế biết đó là điềm trời phát xuống hạ giới bèn ghi lại những ấn dấu đầy huyền bí này.Ví như sự huyền nhiệm nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn mà chúng ta đang sinh sống.
                            - Thế thưa Minh Sư, còn chuyện con Thần Quy như thế nào?
                            Ngài nhìn tôi đoạn nói:
                            - " Hoàng đế Đại Vũ, một ngày kia đi du thuyền thấy một con rùa thần nổi lên trên dòng sông Lạc. Con rùa thần này mang trên lưng nó hai hàng chấm đen, trắng, tạo thành một hình vuông ở bốn góc.
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


                            • #29
                              Mỗi góc có hai mươi chấm đen hợp thành một chuỗi toàn những số chẵn: hai, bốn, sáu, tám. Bên cạnh đó thì có hai mươi chấm trắng cũng ở bốn cạnh hình vuông.
                              Các con số này cũng hợp thành một dây số lẻ như: một, ba, năm, bảy, chín. Toàn thân con rùa đều có ý nghĩa, như mai tròn nơi lưng tượng trưng cho Trời, còn hình vuông ở dưới biểu trưng cho Đất.
                              Người ta có thể nhìn nơi các hình ở vẩy của nó để tìm hiểu những lời tiên tri hàm chứa các sự nhiệm mầu bên trong đó.
                              - Thưa Minh Sư còn sáu mươi bốn ký hiệu mà con đã từng nghe nhắc đến là điều gì?
                              - Phục Hy đã tập hợp tám dấu trước tiên do rồng thiêng dâng lên cho Ngài ở sông Hoàng Hà, tạo nên sáu mươi bốn ký hiệu mà mỗi ký hiệu có sáu hàng chữ.
                              Mãi đến đời Văn Vương tức là phụ hoàng của Võ Vương, các nhà bói toán coi đây là loại sách "thần" có thể thông đạt được Trời Đất. Theo sách "Kỳ Môn Ngữ Tổng Quy" thì con Long Mã thân cao tám thước năm tấc.
                              Xương cổ nó dài, cánh bên phải nhúng nước không thấm ướt, bên trên có bức cổ đồ. Nó xuất hiện trên dòng sông Mạnh Hà, người đời lúc bấy giờ còn gọi là dòng sông Mạnh Độc. Nhưng đó là chuyện dài dòng, về sau tự khắc chú sẽ rõ.
                              Nói đến đây, thầy tôi châm trà cho tôi mời tôi cùng cạn chén:
                              - Chú cần có nhiều sức để đón các sự thể khác từ bên ngoài đưa đến. Chú có biết Akaska không ?
                              Tôi lắc đầu:
                              - Con chưa từng nghe nói đến.
                              - Nhà sư Nhật Bản có lần đã tiết lộ cho ta hình thái nguyên thủy của nó. Tất cả những hình ảnh trong Vũ Trụ này đều được cấu tạo đều từ Akaska mà ra.
                              Nó hình thành Mặt Trời, Mặt Trăng cùng tất cả các vì Tinh Tú, con người chúng ta và luôn cả muôn muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la cùng khắp này.
                              - Vậy thưa thầy, nó có ngay ở trước mắt ta không? Tôi tò mò hỏi với cái ước vọng hoang tưởng của tôi bất thần nẩy ra từ trong đầu óc mình.
                              - Không. Nó rất vi tế. Người ta chỉ nhận thấy nó dưới dạng được cô đọng lại trong các hình thể vật chất hiện đang vây chung quanh ta mà thôi. Nó biến biến hóa hóa khôn cùng. Nó từ cái không biến ra cái nguyên thủy.
                              Cái nguyên thủy đó là Akaska, như ta đã nói. Cái Akaska đó không thể nào nhìn thấy qua kinh hiển vi chứ đừng mơ tưởng là mắt thường cũng có thể trông thấy được.
                              Nó cũng chuyển hóa như Vũ Trụ qua mỗi chu kỳ, như con người từ trong lòng mẹ sinh ra, lớn lên, già nua rồi chết để rồi trở lại với cái sinh ra, lớn lên và cuối cùng cũng buông tay nhắm mắt.
                              Chẳng khác nào trong cái vòng lẩn quẩn! Cái Akaska nó huyền vi như vây. Con người nhắm mắt, tắt hơi thở, đâu phải là chết hẳn, vĩnh viễn xa lánh cuộc đời! Mà nó vẫn còn mãi mãi tồn tại qua một hình thức khác.
                              Vậy cái cát bụi vị tất đã là cái cuối cùng của các vật thể ở giữa thế gian này. Thế có nghĩa là nó sẽ tiếp tục đi vào cái vòng lẩn quẩn! Có phải thế không, Lỗ San?!
                              Thầy tôi tiếp tục nói lên điều kỳ diệu của cái thăng hoa và siêu phàm của con người trên quả đất này.
                              - Như ta đã giảng giải cho chú biết về chất liệu nguyên thủy của AKASKA , là hình thái nguyên thủy của chất liệu phổ biến phát sinh từ cái không ra có. Nó biểu trưng cho những sản phẩm của một sự tổ hợp phát xuất từ AKASKA mà ra.
                              Theo các nhà tư tưởng Ấn Độ cho đó là đầu mối tạo dựng ra Mặt trời, Mặt trăng, và hàng hà sa số các vì tinh tú cùng tất cả muôn loài muôn vật đang hiện hữu cùng khắp trong vòm trời bao la này.
                              Hay nói một cách khác nó là hiện hữu và bất biến tràn ngập khắp không gian vũ trụ, nó xuất hiện, biến đi và ngược lại nó lại xuất hiện theo đúng chu kỳ dài dặc của nó vô cùng vô tận!
                              Cái AKASKA mà ta giảng giải cho chú là nguyên thủy của sự chuyển hóa ra vũ trụ hiện hữu này.
                              - Vậy thưa thầy còn PRANA mà có lần con nghe một vị trụ trì nói đến cái nhiệm mầu của nó. Vậy thì cái PRANA đó có tác dụng gì ?
                              - Prana cũng chẳng khác với Askaka, vì cả hai đều là cái vô cùng, mà cũng là mối đầu của hai mối Âm Dương, rập ràng biến hóa! Nó ở khắp cùng mọi nơi và đời đời kiếp.
                              Ai làm chủ được PRANA thì có thể chế ngự và điều khiển được cả thể xác lẫn tinh thần của mình và luôn cả của kẻ khác.
                              Tôi tò mò hỏi:
                              - Thưa thầy, tại sao lại đạt được đến mức thượng thừa như vậy ?
                              - Nhờ thị hiện được khái quát hóa của năng lượng.
                              - Như các người luyện YOGA! Có phải thế không thưa Minh Sư ?
                              Thầy tôi gật đầu:
                              - Đúng như vậy. Những người luyện được Yoga là họ có thể chế ngự được Prana trở nên toàn bích luôn cả toàn năng và toàn tri nữa.
                              Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
                              - Chẳng lẽ phi thường đến như thế sao ?
                              Người gật đầu khẳng định:
                              - Đúng. Nó thật phi thường ngoài cả sức tưởng tượng của con người.
                              Tôi miên man suy nghĩ, có lần tôi được chú Sĩ Cát giảng giải về các cung cách chữa bệnh của những bậc được xem như các nhà tiên tri như chữa bằng "đức tin".
                              Bằng tinh thần, từ những nhà thôi miên hay thông thiên học, họ có thể điều động luồng điện lực từ xa phóng lại để điều trị của những con bệnh sống cách xa từ hàng ngàn vạn dặm. Người nhìn tôi mỉm cười đáp lại:
                              - Chú Sĩ Cát của chú không sai. Họ không phải trải qua một khóa học nào mà chỉ nhờ tình cờ khám phá ra được phương pháp trị liệu như vậy. Họ không biết một tí nào về Prana như ta đã giảng giải cho chú nghe. Điều này có dịp ta sẽ dẫn giải để chú được rõ thêm hơn.
                              Tôi nhớ lại có lần Minh Sư nói về câu thần chú "Án Ma Ni Bát Mê Hồng" nhưng tôi chưa hiểu rõ được căn nguyên của nó, bèn lên tiếng yêu cầu thầy tôi giảng giải lại:
                              - Thưa Minh Sư câu "Án Ma Ni Bát Mê Hồng" có đúng là câu thần chú không?
                              - Đó là câu thần chú mà trong dân gian Tây Tạng của chúng ta thường niệm lên để đuổi ma quỉ. Theo truyền thuyết là do Bồ Tát Quán Thế Âm dành cho nhân dân Tây Tạng.
                              Câu thần chú gốc chữ Sanskrist này được ghi là Aum Mani Padme Hong. Vậy Mani cho ta thấy nghĩa của nó là ngọc báu, Bát Mê là hoa sen, còn tiếng Hong thì giữ nguyên dạng của chữ Sanskrist.
                              - Thưa Minh Sư, trong lời giải thích của Minh Sư, con không thấy Minh Sư đề cập đến chữ Aum, vậy tiếng Aum ấy nó có nghĩa hay không ?
                              - Có chứ ! Aum là Án tức là âm linh thiêng của Ấn Độ giáo và Bà La Môn giáo. Trong Phật giáo Mật tông các câu chú cũng thường bắt đầu bằng âm Aum. Từ này tùy theo lối phát âm không giống nhau, như Việt Nam thì gọi là Úm, Trung Hoa thì đọc là Án, tiếng Phạn là Aum.
                              Nói đến đây thầy tôi cười nói tiếp:
                              - Hôm nay chúng ta mạn đàm có hơi nhiều. Hãy tạm nghỉ dành cho ngày khác. Bây giờ chú có quyền dùng thời gian rỗi rảnh để đi ngao du cho thơ thới tinh thần.
                              Một hôm tôi gặp lại nhà sư từng ẩn tu trong thạch cốc. Lần này nhà sư đề cập đến trường hợp của không ít nhà sư tham thiền và viên tịch luôn bên trong cốc đá.
                              Thân xác của các vị sư tu trong thạch cốc này vẫn giữ được nguyên vẹn, thỉnh thoảng có cả những nhà sư viên tịch từ lâu bỗng dưng người ta phát hiện đầu tóc mọc lại!
                              Trường hợp này ngày nay vẫn còn xảy ra như một nhà sư Thái Lan sau khi tham thiền nhập định đã để lại nhục thân gần hai mươi chín năm mà chẳng hề bị hủy hoại.
                              Câu chuyện này đã được loan báo trong thời gian gần đây, giữa những năm đầu của thế kỷ 21 này, nói về một nhà sư sau 29 năm không hề được bảo quản, nhục thân nhà sư Thái Lan Samatha Kittikhun vẫn khô ráo và còn nguyên vẹn cả nội tạng. Được biết nhà sư đã nhập diệt sau một thời gian dài tham thiền nhập định.
                              Khác với các quốc gia có nền văn minh cổ đại như Ai Cập cổ muốn giữ được xác của người chết được dài lâu, họ phải chuẩn bị kỹ lưỡng nhục thân trước khi mang đi ướp. Người Peru thì bảo quản xác ướp tự nhiên bằng cách chôn vùi trong cát khô.
                              Tại Á Châu, vẫn còn thấy những vị thiền sư Phật giáo sau khi viên tịch còn để lại thi thể nguyên vẹn. Như tại Việt Nam trường hợp này cũng từng xảy ra, nhục thân của vị thiền sư pháp danh là Đạo Chân tục danh là Vũ Khắc Trường còn giữ được nguyên vẹn cho đến nay vẫn không suy suyển, đang được thờ tại chùa Pháp Vũ hay gọi là chùa Đậu nay là thôn Gia Phúc, cách Hà Nội lối 23 cây số ngàn về phía Nam.
                              Nhà sư Thái Lan đang làm cho cả thế giới xôn xao không ít về xác thân của ông vẫn còn nguyên vẹn mang tên là Phra Khru Samatha Kitthikhun, nguyên trụ trì chùa Khunaram. Sinh quán của ông tại Koh Samui,thuộc tỉnh Surat Thani.
                              Ông sinh năm 1894, vào chùa tu năm lên 20 tuổi. Trong vòng sáu tháng sau ông xin trở lại sống với đời sống dân giả, cưới vợ, sinh được 6 con. Nhưng sau khi ông gầy dựng dựng được tài sản để lại cho vợ con, ông quay trở lại Cửa Thiền vào năm 1944 tiếp tục tu hành.
                              Lúc bấy giờ ông đã được 50 tuổi theo học tham thiền với nhiều vị sư nổi danh ẩn thân tại các nơi hoang vắng. Ông có đặc tài ngồi thiền suốt cả thời gian 15 ngày liên tục không ăn, không uống! Ông qua đời trong lúc ngồi tham thiền. Đó là ngày 6 tháng 5 năm 1973.
                              Theo lời các người thân thuật lại thì nhà sư biết trước ngày giờ viên tịch của mình, căn dặn những người chung quanh: "Nếu xác thầy thối rữa thì hãy mang chôn đi! Còn nếu không hề hôi thối thì liệm vào chiếc quan tài bình thường để cho các thế hệ mai sau chiêm ngưỡng, hầu tìm đến con đường giải thoát như ta".
                              Hai mươi chín năm sau xác thân nhà sư Samatha Kittikhun trở thành đối tượng cho các nhà nghiên cứu Jerry Conlogue và Ron Beckett là hai giáo sư của trường Đại học Quinnipiac ở Hamden thuộc bang Connecticut, Hoa Kỳ. Hai vị giáo sư hoàn toàn bất ngờ khi tiếp xúc với nhục thân của nhà sư Thái Lan. Hai ông mô tả đó là một người chết khô trong tư thế nhập định, mang kính râm, ngồi trong lồng kính.
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


                              • #30
                                Theo sự nhận xét của của giáo sư Beckett thì xác hoàn toàn khô ráo và không có lấy dấu hiệu gì cho thấy có dùng kỹ thuật bảo quản cho xác giữ cho được lâu dài. Có điều kỳ lạ đặc biệt hơn nữa là không hiểu trong thời tiết nóng và ẩm ướt như ở Koh Samui, tại sao xác thân của vị sư này không bị ảnh hưởng?
                                Được sự chấp thuận của các chức sắc cao cấp trong chùa Khunaram, hai ông có quyền tiếp xúc với xác chết bằng mọi cách. Họ yêu cầu được chụp quang tuyến X và mở nắp lồng kính che trên quan tài để được quan sát rõ ràng liệu có những điều gì bí mật nơi xác chết của nhà sư tịch diệt Thái Lan này hàng hai chục năm hơn hay không?
                                Cả hai nhà nghiên cứu đều tỏ ra vô cùng kinh ngạc là nội tạng của nhục thân lâu năm như tim, phổi, ruột, gan đều còn nguyên vẹn, không hề bị vi khuẩn tấn công dù chỉ ở mức độ tối thiểu đi nữa.
                                Thông thường, sau khi chết thì các cơ quan thuộc nội tạng phải teo đi, nhưng với nhà sư thì hoàn toàn không hề chẳng thấy có dấu hiệu nào bị teo đi hay bị hủy hoại.
                                Một ngày kia trong một dịp khác tôi trở lại chuyện của nhà sư Nhật Bản bị xem như điên loạn mang ra hỏi thầy tôi.
                                - Như ta đã nói với chú nhà sư Cảnh Di Tề Cưu Chi là một nhà biện luận giỏi dắn, khéo léo. Hình như điều này đã có lần ta đã bảo với chú, phải không?
                                - Vâng, thưa Minh Sư con nhớ.
                                - Ông ta đã đi du lịch khá nhiều nơi trên thế giới để tìm kiếm "chân lý", trong lúc đó "chân lý" thật sự đang ở trong người ông.
                                Ông ta bị điên loạn không phải vì thất chí, vì bị xúc động mạnh hay bị mất mát điều gì mà vì ông đọc quá nhiều những tư tưởng chống đối nhau thành ra tinh thần ông bị xô bồ, hỗn loạn.
                                Do đó mà "Nhân Thể Quang" bị nhiễm tà khí làm vẩn đục đi cái trong sáng của nó. Nhà sư này đọc thì nhiều song thu thập lại chẳng bao nhiêu, khiến thân tâm bị khích động, ý nghĩ lệch lạc và cuối cùng tai hại thay lại bị "tẩu hỏa nhập ma". Kiến thức cứ bị dồn nén quá nhiều trong đầu óc, song tiêu hóa lại chẳng bao nhiêu. Có thể nói đầu óc của ông ta bị bội thực.
                                Tôi ngắt lời hỏi lại:
                                - Nói như vậy chẳng hóa ra thầy thấy việc học bằng sách là không tốt hay sao?
                                - Không! Ta không có ý nói như vậy. Lỗ San à! Ta chỉ nói, chúng ta không nên đọc quá nhiều các sách nghiên cứu về Ma giáo hay Tà giáo. Tất cả những sách dạy ta về các phép thuật huyền bí đều hoàn toàn không tốt. Người đọc và nghiên cứu về tà ma chỉ đầu độc linh hồn mình mà không làm sao tránh khỏi mọi ám ảnh độc hại được.
                                - Thưa thầy, nếu bị lỡ lầm như vậy, ta làm thế nào để thoát khỏi cái nghiệp chướng đó?
                                - Hãy trở lại với sự hiền lương của tuổi thơ, mới mong tự mình giải thoát lấy được.
                                - Con vẫn chưa hiểu làm sao đọc sách không đúng phương pháp và chọn đúng nội dung của nó lại trở thành điên loạn?
                                - Đó là cả một chuyện dài dòng! Ở trên quả đất này chúng ta chẳng khác nào như những vật chơi có những tế bào và những luồng điện năng với các tốc độ rung chuyển trong thân thể ta một cách thật gắn bó.
                                Nó đâu có khác nào như những chiếc máy thu thanh nhận được các làn sóng điện trên khắp thế giới. Bộ óc của chúng ta chẳng khác nào như những máy thu thanh có thể nhận được những tin tức hoặc mệnh lệnh hay những chỉ dẫn của "linh thần" qua một siêu tần cao rồi chuyển đến một siêu tần thấp hơn thích hợp với cái xác thân để điều khiển mọi hoạt động...
                                Bộ óc của con người là một cái máy điện tử có chứa hóa chất. Phản ứng của hóa chất có thể đưa đến những sự hoạt động sai lầm tai hại. Tâm trí của chúng ta có thể chịu một phần trách nhiệm, có thể tự có những ý kiến và định đoạt để lấp bằng cái lỗ hổng nếu có giữa những hoàn thiện tuyệt hảo của "linh thần" với những điều kiện khó khăn ở trái đất.
                                Tôi ngắt ngang lời thầy tôi hỏi:
                                - Vậy, thưa thầy người Tây phương có chấp nhận lý thuyết điện năng ở bộ óc của con người không?
                                - Có! Có chứ ! Có những bệnh viện họ có máy đo "óc" ghi lên đồ bảng và mang đi nghiên cứu có thể biết được bệnh nhân đó bị mắc bệnh tâm trí hay không?
                                - Thưa thầy, nhà sư Nhật đó, có phải thật sự điên hay chăng?
                                Không đáp lại câu hỏi này, Ngài đến cầm lấy tay tôi lên tiếng có vẻ gấp rút:
                                - Đi, đi ngay, Lỗ San! Chúng ta đến gặp ngay ông ta. Bình thường ông ta ăn nói khôn ngoan lắm. Rồi chú ắt thấy và ta mong rằng chú sẽ không còn thắc mắc nữa.
                                Minh Sư Minh Đà Đông Đạt vừa nói vừa bước ra bên ngoài. Tôi lặng lẽ lẽo đẽo theo sau.
                                Người đi dọc theo hành lang, xuống tầng dưới thẳng đến khu nhà ngang nơi có nhiều căn phòng dành riêng cho các bệnh nhân nằm điều trị. Chúng tôi đến cái gác xếp, không lớn không nhỏ, cửa sổ trông ra Khatilinga, tại đây một nhà sư đang ngồi trên cái ghế mây, vọng mắt nhìn nhìn ra ngoài trời.
                                Khi nhìn thấy Đức Lạt Ma Minh Dà Đông Đạt, ông vội vàng đứng lên chắp tay cung kính cúi đầu thi lễ:
                                - Đạo hữu không nên quá khách khí, xin hãy tự nhiên. Thầy tôi nói. Hôm nay tôi đưa đến đây một chú "tiểu" trước là ra mắt sau nữa để được nghe những lời lẽ tốt đẹp nhất của đạo hữu dạy bảo. Chú tiểu này được đặc biệt huấn luyện theo lệnh của Ngài Tối Cao Lạt Ma, tất nhiên là đủ trí thông minh để hiểu biết được những điều gì đạo hữu giảng giải!
                                Nói xong thầy tôi chào từ giã nhà sư đoạn bước thẳng ra bên ngoài. Đợi cánh cửa khép kín lại, ông ta mới bắt đầu nhìn tôi mỉm cười, đưa tay chỉ chiếc ghế mây đặt đối diện:
                                - Chú cứ ngồi tự nhiên. Bây giờ chúng ta hãy xem nhau như đôi bạn, một già, một trẻ!
                                Đợi tôi ngồi xong xuôi,ông ta mới bắt đầu lên tiếng hỏi:
                                - Chú tên là...
                                Không đợi nhà sư Nhật này nói dứt lời, tôi đã đáp ngay lại:
                                - Thưa, con tên là Lỗ San!
                                Tôi vừa lễ phép đáp vừa lưu ý từng hành động của ông ta, mục đích là đề phòng rủi ro bị nhà sư nổi hứng lên cơn ắt không thể tránh khỏi tai họa oan uổng!
                                - Này, chú tiểu của ta ơi! Nhà sư điên này bắt đầu đi ngay vào vấn đề mà tôi hằng tìm hiểu. Điều đầu tiên ta yêu cầu chú là đừng bao giờ để cho đầu óc còn trắng trong của chú bị nhồi sọ bởi ba thứ sách vở nói về phép lạ với huyền bí.
                                Đó toàn là những chất béo khó tiêu hóa, làm cản trở không ít sự tiến hóa của loài người. Ta đã nghiên cứu đủ các loại tôn giáo và tìm hiểu bất cứ điều gì về phù thủy, quỷ thuật, về phép lạ và tà ma.
                                Tóm lại những điều mà con người còn băn khoăn chưa tìm hiểu được thì ta đã nghiền ngẫm và biết đó là những cái gì mà người xưa từ bao nhiêu thiên niên kỷ đã cố tình làm ra vẻ bí mật để che dấu ta.
                                Nói đến đây, nhà sư này đứng lên đi về phía cửa sổ tì tay lên mấy chấn song như tuồng để suy nghĩ điều gì. Không biết mất trong bao nhiêu lâu, song sau đó thì nhà sư từ từ quay lại ngồi vào chỗ cũ tiếp tục giảng giải:
                                - Ta cứ tưởng với mớ kiến thức kếch xù đó mình sẽ đạt được đến đỉnh cao vô địch, sẽ trở thành một người quán thế, không còn kẻ nào có thể so sánh kịp! Nhưng có ngờ đâu, chính cái ấy đã đầu độc ta, làm lý trí ta bị đen tối, làm cho ta lúc nào cũng cứ nghĩ mình là Đấng có đầy đủ quyền uy bao trùm khắp cả thế gian này!
                                Kể từ dạo ấy, bộ óc ta hoàn toàn bị bại hoại, nhiều lúc không còn tự chủ được khiến ta lang thang như những oan hồn lạc lõng.Thú thật với chú, cho đến ngay trong giờ khắc này, giờ phút mà ta còn tỉnh táo, đang ngồi trước mặt chú, hiểu biết chú không cần qua sự giới thiệu, rằng là...chú là ai, tại làm sao chú đến đây và đến để làm gì.
                                Nhưng, điều mà ta có thể thông báo cho chú biết, đằng sau của con người mà chú đang đối diện còn có hình ảnh của một kẻ điên dại, nó hiện thân của một con thú dữ, có cơ nguy đem lại cho chú nhiều điều phiền toái!
                                Hy vọng rằng chú sẽ không bị mệnh hệ thế nào, xin các Đấng Linh Thiêng hộ phù cho chú nếu rủi ro gặp phải điều gì không tốt lành! Ta thành thật khuyên chú đừng nên tò mò đọc bất cứ một loại sách vở nào xét thấy không có lợi gì cho trí tuệ mình.
                                - Thưa thầy, có đọc mới biết, còn nghe thì chỉ có tin hay chẳng tin mà thôi.
                                - Tin là một đức tính tốt, mà các tín hữu hay các con chiên cần phải có, nhưng ta muốn chú phải tìm hiểu cái biết. Chỉ có cái biết mới mong tránh được những thảm họa. Sách in ra không nguy hiểm, nhưng tư tưởng và lời lẽ của nó có thể bị độc hại!
                                Nó chẳng khác nào như tất cả loại thực phẩm, người ta không thể ăn được tất cả mọi thứ, không thể pha trộn lẫn lộn các thức ăn không hợp với nhau để tự mình làm sức khỏe mình có cơ nguy suy sụp! Đọc sách đâu có khác gì như vậy!
                                Đọc sách lành thì ảnh hưởng điều thiện, nâng niu sách xấu trong người ắt không thể nào tránh những hành vi tội lỗi! Vậy ta khuyên chú không nên đọc các sách có nhiều lời lẽ hứa hẹn mang lại cho ta những phép mầu huyền bí.
                                Chính những loại sách này sẽ đầu độc đầu óc chúng ta, khiến không còn tự chủ được. Như ta đây chẳng hạn, ta biết mình đang hành động gì trong lúc ấy, nhưng không thể nào tự chế được!
                                - Thưa Đại sư đã từng đi chu du trong thiên hạ?
                                Nhà sư Nhật nhìn tôi chằm chặp không chớp mắt:
                                - Ta sinh ra trong một ngôi làng nhỏ tại đất nước Phù Tang. Lớn lên theo học ngành Thông Thiên Học. Ta cũng đã học qua nhiều lý thuyết tôn giáo và từng luyện tập các môn thuộc "thần bí học". Ít lâu sau đó ta được sự khuyến khích nên đi ra ngước ngoài ở ngay bên kia bờ Đại Dương để tìm tòi học hỏi thêm.
                                Suốt năm mươi năm trường ta đi từ xứ này qua xứ khác, lục địa này đến lục địa kia, luôn luôn tìm tòi các môn học mới mẻ toàn là những phép lạ ngoài sức tưởng tượng của ta.
                                - Thưa Đại sư, có thể cho con biết đó là những phép lạ gì không?
                                - Đủ các loại, như phép lạ do đoàn Âm Binh tận trên từng tinh tú kết hợp, chính phép lạ này đã nhiều phen xâm phạm đến "Ngân tuyến" của ta. Sau này có dịp ta sẽ nói thêm cho chú biết điều này.
                                Ta nghiên cứu cả các thuật "Bói, Độn,Thuật số hoặc cả Tử vi, Nhân tướng học. Ta biết cả Mai Hoa Dịch Số, ta hiểu rõ về Tam Thế Diễn Cầm, về Lục Nhâm Đại Độn. Ta có thể tự hào thành thạo cả Bát Quái, thông hiểu cả Phong Thủy, cũng như Trạch Cát, Tinh Tượng...
                                Có điều cái mà ta đam mê nhiều nhất về Quyền mưu quỉ bí, Ảo thuật, Ma phương, Cửu cung, Hồng phạm khiến trí óc ta nhiều khi như trăm mối tơ vò, lẩn quẩn mãi không thể tìm ra lối thoát.
                                Và cũng như lần trước, nhà sư đến nơi cửa sổ đứng yên lặng tì tay vào song sổ nhìn ra bên ngoài lẩm bẩm điều gì tôi không nghe rõ. Sau đó, ông ta từ từ quay lại đến ngồi xuống nắm lấy tay tôi:
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X