Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Ma Mậu Thân Tại Huế - Minh Trí

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Ma Mậu Thân Tại Huế - Minh Trí

    Ma Mậu Thân Tại Huế - Minh Trí





    Những ai sống tại Huế mà không biết chuyện Ma tại trường Trung-Học Gia- Hội thì không phải là dân Huế.

    Trong cuốn Luyện Văn (trang 99), ông Nguyễn Hiến Lê đã nói: “Tôi chưa gặp ma lần nào (mong lắm mà không được) ...”

    Có lẽ ông ta muốn thấy ma là để xem cách tả ma của vài tác-giả có đúng hay không. Tôi nghĩ là tôi may-mắn hơn ông ta vì tôi không những đã thấy ma một lần, mà thấy nhiều lần. Sau đây tôi chỉ xin tường-trình lại đúng 100% những hiện-tượng, những điều tai nghe mắt thấy để tùy qúy vị thẩm-định.

    Ma Tại Trường Trung-Học Gia-Hội Huế. Trước khi nói đến ma Mậu-Thân, tức ma tại trường Gia-Hội, tôi xin sơ lược vài nét về biến-cố Tết Mậu-Thân, vì tôi nghĩ rằng những hồn ma tại trường Gia-Hội là do biến-cố đó mà ra.

    Khi Việt Cọng tấn công vào thành phố Huế thì tôi đang ở tại Gia-Hội, cạnh xóm nhà vài người bà con ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi xin về phép để chung vui Tết với gia-đình; nhưng trước khi lên làng để thăm thầy mẹ, tôi ghé lại nhà người anh thì bị kẹt tại đây. Tôi phải cải trang và trốn nhui trốn nhủi từ nhà nọ sang nhà kia. Nghe những người hàng xóm kể lại thì từng nhóm VC nhiều lần vào nhà tôi lục-soát, nhưng may là tôi không có trong nhà.

    Sau một thời-gian chừng bảy hay tám ngày, khi được tin đồn Mang Cá đang còn được quân-đội VNCH bảo vệ thì tôi cùng gia-đình người bạn và một nhóm người khác tìm cách trốn về Bãi Dâu rồi vượt sông sang Bao Vinh. Tôi mặc áo quần rách-rưới, đội cái nón rách gảy vành và ôm một cháu bé của một gia-đình trong đoàn vừa run vừa đi. Khi gần đến Bãi Dâu, rất may là chúng tôi gặp những tên VC địa-phương chừng 13, 14 tuổi. Chúng rất dễ-dãi nên chúng tôi đi lọt và đến Bao Vinh an-toàn.

    Chừng 1 giờ trưa hôm ấy, hướng về Gia-Hội, chúng tôi nghe rất nhiều tiếng súng nổ của VC xử tử nhân-dân. Thật là hú vía! Nếu chậm một vài giây thì chúng tôi cũng tiêu-tùng rồi!

    Chúng tôi ở đây chừng một tuần hay 10 ngày, luôn ngóng về Gia-Hội. Trong thời-gian này, một anh bạn thân của tôi là viên Đại-Úy làm ở đại-đội Quân-Nhu thường xuyên thăm-viếng và giúp đỡ chúng tôi về tinh-thần cũng như vật-chất, và nhất là cho biết những tin sốt dẻo về cuộc chiến.

    Khi nghe tin Gia-Hội đã được "giải-phóng", gia đình bạn tôi và tôi bèn trở về ngay. Anh ta nôn nóng muốn biết ngôi nhà mới xây của anh có bị bom đạn gì không. Còn tôi thì muốn biết chiếc xe Vespa Sprint của tôi mới mua vứt sau hè nhà của người bà con còn hay mất. Tôi nghĩ xe có mất cũng chả sao, chỉ tiếc những thứ quan-trọng cất trong xe. Nhưng rất may, nhà cũng như xe còn nguyên-vẹn.

    Khi chúng tôi chưa tới trường trung-học Gia-Hội, cách chừng 1 km, thì đã ngửi thấy mùi hôi thối nồng-nặc. Đến nơi thì một cảnh rất thương-tâm bày ra trước mắt. Hơn 400 tử thi ửng hồng hay đỏ được sắp sít nhau từ cổng trường vào tận sau hàng tre. Theo lời mấy người đi giúp đào xác kể lại thì một, hai ngày trước đó, thân-nhân đã đến nhận chừng 150 xác đem về mai-táng rồi.

    Tôi không hiểu chỗ ở đâu mà chôn nhiều như vậy? Tại Gia-Hội, ngoài trường Gia Hội còn có những mồ chôn tập thể khác: Ba Viên gần chùa Diệu Đế, bãi đất sau chùa áo vàng Tăng-Quang-Tự, Bãi Dâu, nhưng tôi không rõ số lượng tử-thi là bao nhiêu. Mấy đứa em và bà con của tôi thì tôi biết chắc là bị chôn sống ở Kim-Long nhưng tôi cũng cố gắng đi quanh một vòng để họa may nhận ra xác người quen nhưng thối quá nên phải dội lui!

    Những ai đến nhận ra xác thân-nhân thì kỉnh cho các cụ đã đào xác một ít tiền để uống rượu mà thôi. Đêm đến, những xác chưa có người nhận thì bị heo hay chó ăn bớt tay chân! Trong cuốn hồi-ký, tướng Westmoreland nói số người bị giết trong vụ Mậu-Thân tại Huế là 2800 người. Thật ra, cả Huế và các vùng phụ-cận, tổng số người chết là gần 8000 người. Tôi muốn viết thư phân-bua với ông ta nhưng chưa có dịp.

    Tám, chín tháng sau ngày Tết, hay gần suốt cả năm Mậu Thân, Huế là một thành phố chết… Hầu như mỗi ngày hay mỗi tuần, ở một góc phố, trên một con đường, trên một cánh đồng, trong sân đình, chùa, hay trong sân của trụ sở xã, người ta thấy một nhóm 5, 6 người mặc đồ tang ngồi quanh 1, 2 cái tiểu (hòm nhỏ) bọc giấy điều khóc lóc một cách rất ai oán; tiếng khóc vọng ra cả một vùng! Họ là những người vừa tìm ra xác thân nhân ở một nơi nào đó. Những người qua đường thường là đồng cảnh ngộ nên dừng lại thăm hỏi.

    Mỗi khi thấy những cái quan tài màu đỏ là tôi rùng mình! Màu đỏ thường tượng trưng cho sự tươi vui, hạnh phúc như màu đỏ của hoa hồng, của thiệp cưới, của bao lì-xi… nhưng màu đỏ của quan tài trông rất là dễ sợ!

    Không riêng gì thành phố Huế, tại các quận trong tỉnh Thừa Thiên như Phú Thứ, Phú Vang, Phú Lộc, Hương Trà, Hương Thủy, Phong Điền,v.v… cảnh những đoàn người đi tìm xác thân nhân xôn xao diễn ra hàng ngày.

    Những tiếng khóc ai-oán, những quan tài đỏ rùng-rợn… cảnh sắc tang-tóc đó không bao giờ phai mờ trong óc tôi được! Còn nóng hổi như mới xảy ra ngày hôm qua!

    Không hiểu vì sao mà VC thù ghét dân Huế đến như vậy?

    Vài năm sau, khi nhắc đến biến cố Mậu Thân, vài sĩ quan Mỹ đã nói với tôi rằng: “Số người bị chết oan ở Mỹ Lai đâu có nhiều mà VC thổi phồng lên thành 150, xây lăng dựng bia làm rùm beng lên với cộng-đồng quốc-tế; còn tụi nó giết 8,000 người ở Huế thì sao lại im re? Hay là tên người chết quá nhiều nên không thể làm bia đá lớn để mà khắc lên được?

    Sau khi VC chiếm miền Nam, tôi còn được tiếp-tục đi dạy một vài năm tại trường trung học Gia-Hội. Và tôi thấy dư âm của Mậu-Thân vẫn còn lẫn-quất đâu đây. Đôi khi làm bồn hoa, trồng cây hay cuốc cỏ, học sinh tìm thấy một vài ống xương, một mái tóc, hay một đầu lâu trong bụi tre là chuyện bình-thường.

    Hồi đó, đêm đêm các giáo sư được phân công trực. Một bữa nọ, tôi được phân công trực cùng với anh bạn. Đến 1 giờ sáng, anh ta bảo tôi:

    “Tôi cần về nhà để rửa mấy cuốn phim, anh trực một mình có sợ không?”

    Tôi bèn đáp: “Không sao, anh có việc cần thì cứ về đi.”

    Anh ta đi rồi tôi mới thấy lạnh người! Tôi vừa nằm xuống được vài phút thì nghe tiếng guốc lóc-cóc và tiếng cười trên lầu, ngay trên phòng giáo-sư. Chừng năm phút sau tôi nghe tiếng guốc đi dọc theo hành lang, tôi liền chạy vụt ra sân ngước nhìn lên thì thấy một vệt trắng, tựa như một cái khăn, loáng lên nơi cửa sổ hai, ba lần rồi biến mất. Tôi nằm xuống lại và cố ngủ nhưng lại nghe tiếng cười nổi lên, lần nầy rất là ghê-rợn! Tôi chạy ra sân và nói vọng lên lầu:

    “Cô nương nào đó, có buồn thì xuống đây nói chuyện cho vui!”

    Không nghe trả lời, tôi vội bước vào. Tôi lại nghe tiếng cười rùng-rợn và tiếng rầm-rầm của bàn ghế bị xô đẩy. Tôi bèn ngồi dậy, chắp tay nói: “Tôi biết các Bạn bị giết một cách oan-uổng! Nhưng các Bạn chưa chết! Các Bạn còn sống trong khuôn viên nầy! Tôi cầu mong vong linh các Bạn sớm tiêu diêu nơi Miền Cực Lạc!” Sau đó tôi đọc mấy câu chú thì tiếng cười im bặt, và tôi ngủ đi khi nào không biết.

    Sáng hôm sau, đến trường tôi kể chuyện bị ma khuấy phá cho mọi người nghe thì mọi người đều bảo: “Có lạ gì đâu! Ai trực đêm cũng gặp hoàn-cảnh như vậy!”.

    Hai hôm sau, độ lúc 10 giờ sáng, trong khi tôi đang ngồi trong phòng giáo-sư thì nghe những tiếng thét rùng-rợn của các nữ-sinh từ dãy lầu phía tây. Tiếng thét khủng- khiếp, tựa như tiếng thét của người khi bị lưỡi lê đâm vào cạnh sườn. Những tiếng thét đó, tựa như một luồng điện, lan từ phòng nọ sang phòng kia, rồi sang dảy lầu phía đông, kéo dài từ 30 đến 40 phút, có khi lâu hơn, mới chấm dứt.

    Chuyện học sinh la hét như vậy mỗi tuần xảy ra vài lần và kéo dài trong ba năm liền; và mỗi lần học-sinh la hét như vậy thì vang động cả thành phố. Các nam-sinh thì không la hét, nhưng chúng bảo “trong khi la hét, mặt mày các nữ-sinh ngồi bên cạnh trông rất dễ sợ.” Mỗi khi nghe học-sinh la hét vang dội thì những người đang đi trên đường Võ Tánh trước mặt trường đều dừng lại xem. Những ai sống tại Huế trong thời-gian từ 1976 về sau mà không biết chuyện ma tại trường Gia Hội là điều đáng ngạc-nhiên.

    Một nữ-giáo-sư, dạy Vật-Lý, đã nói với tôi: “Tôi cố gắng trấn tĩnh hết sức, không thì đã ném viên phấn và cùng hét với tụi học trò rồi!” Có lẽ ma chỉ trêu các nữ sinh chứ không chọc cô giáo? Tôi thì không bao giờ được chứng-kiến các nữ-sinh trong lớp tôi đang dạy la hét cả, mặc dù nữ-sinh các lớp bên cạnh đang la hét rất dữ-dội. Các học-sinh của tôi nói rằng: “Có lẽ vì thấy thầy đang dạy các em nên ma không dám vào trêu chọc tụi em!”

    Những cảnh như vậy diễn ra hầu như mỗi tuần vài lần và kéo dài trong ba năm liền nên hầu như mọi người đang sống tại Huế không thể nói là không biết?

    Đến năm thứ ba, vì chuyện kéo dài quá lâu nên một lần nọ, ông hiệu-trưởng mời một chuyên-viên y-tế từ trạm xá Gia-Hội đến để thẩm-định tình hình. Anh ta bảo đó là do sự động kinh nhất thời mà thôi, không do ma quái gì cả. Một vài nữ-giáo-sư chi viện từ miền Bắc vào thì không đồng ý; họ quả-quyết đó là do bị ma trêu, vì họ biết một vài trường-hợp tương-tự như vậy đã xảy ra ở Hà Nội. Tôi hỏi một vài nữ-sinh vì sao mà la hét như vậy, thì các em đó luân-phiên cho biết rằng:

    - “Em cảm thấy một bàn tay lạnh ngắt đang bóp cổ em.”
    “Em thấy ai đang rị tóc em xuống và không thể ngẩng đầu lên được.”
    - “Em cảm thấy một bàn tay chụp vào sau ót em và một bàn tay bịt mũi và miệng em lại.”
    - “Em thấy hai bàn tay lạnh ngắt đang bóp vào hông em.”
    - “Em cảm thấy hai bàn tay lạnh ngắt đang kéo chân em.”
    - “Em cảm thấy những móng tay sắc đang bấm vào hông em.”
    - “Em cảm thấy một bàn tay lạnh sờ vào má em và nghe như ai hỏi bên tai “Em có yêu anh không? Có đi chơi với anh không?” ... v.v...

    Khoảng năm 1980 hay 1981, tôi gặp lại vài phụ-huynh ở quanh trường và hỏi họ về chuyện la hét của học trò thì họ cho biết như sau:

    “Thầy không biết à? Sau góc trường có một cái giếng sâu, bọn VC đã ném 17 hay 18 thanh niên xuống đó và lấp đất lại. Oan hồn các thanh-niên đó đã trêu chọc các nữ-sinh mà thôi. Chúng tôi và một nhóm phụ-huynh đã luân phiên nhau đến cái giếng cầu đảo bốn, năm đêm liền nên các cậu mới thôi trêu chọc con cái chúng tôi. Hơn cả tháng nay, đêm nào cũng có phụ-huynh đến đó cầu-nguyện.”

    Khi viết đến đây tôi sực nghĩ rằng: Tại sao trong những năm từ sau 1968 cho đến 1975, các hồn ma vẫn “ở quanh quẩn” trong khuôn viên trường Gia Hội nhưng không khuấy phá học sinh mà mãi đến 1976 trở đi mới bắt đầu sách động? Hay là ma thương học sinh Cọng Hòa hơn học sinh XHCN chăng?

    Những cựu học sinh trường Gia-Hội, hiện sống tại San José và ở Nam Cali, mỗi khi nghe lại chuyện Ma Mậu Thân tại trường thì đều rùng mình.

    Chuyện ma tại trường trung-học Gia-Hội hiện nay vẫn còn ăn sâu trong óc tôi, không bao giờ quên được. Tôi tin rằng vong-linh các oan-hồn tại trường Gia-Hội vẫn còn “sống” tại đó. Chết đâu phải là hết?

    = Minh Trí

  • #2
    Vâng, chết đâu phải là hết........bọn cs vô thần đã bị rất nhiều bài học từ thế giới vô hình và kết quả là hiện nay tại VN hầu như tất cả các cán bộ nhân viên trong guồng máy nhà nước cs đều tin răm rắp vào thế giới tâm linh mà có lẽ khởi đầu là vụ phó thủ tướng Trần Phương tìm mộ em gái , sau vụ này ông ta viết mấy bài về thế giới tâm linh và đã bị csVN chỉ trích mãnh liệt và bị kỷ luật , vụ này rùm beng 1 thời nhưng càng ngày vấn đề ngoại cảm càng nở rộ ( có lẽ thế giới tâm linh đã vào cuộc để bọn cs mở mắt ).....và bi giờ thì họ đã hoàn toàn tin 100% tuy không chính thức trên văn bản , sách báo........hehehhe........ông GS Trần Phương này không phải họ Trần mà là người bà con trong dòng họ mình , mẹ mình biết rất rõ cô em bị giết của ông ta..

    Tất cả các việc làm đều có nhân quả , hãy chờ xem............

    Cám ơn Sis PP cho xem truyện hay nha.


    Thân,
    Nahoku
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #3
      Nhờ nhà ngoại cảm, tìm được em trai 60 năm thất lạc



      Ông Thật và ông Thà. Năm 1945 hai anh em ông Thật và ông Thà thất lạc nhau trong nạn đói khủng khiếp. 60 năm sau người anh đã tìm lại được người em không phải bằng các phương tiện truyền thông hay do sự tình cờ mà là do… chỉ dẫn của một nhà ngoại cảm.Tổng kết các đề tài của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống cho thấy, có đến trên 60% các cuộc tìm kiếm thành công. Với số lượng và tỉ lệ hài cốt tìm được như trên có thể nói rằng, việc tìm được hài cốt mất tích không thể là ngẫu nhiên.

      Họ đã phối hợp với các nhà ngoại cảm tìm được trên 10 ngàn hài cốt liệt sĩ. Ba cơ quan là Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học hình sự – Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ văn hóa truyền thống cũng đã phối hợp với nhau thực hiện các đề tài nghiên cứu các nhà ngoại cảm từ hơn 10 năm nay.

      Tổng kết các đề tài cho thấy, có đến trên 60% các cuộc tìm kiếm thành công. Với số lượng và tỉ lệ hài cốt tìm được như trên có thể nói rằng, việc tìm được hài cốt mất tích không thể là ngẫu nhiên. Ngoài việc tìm thấy hài cốt thất lạc, các nhà khoa học cũng đã ứng dụng khả năng của các nhà ngoại cảm vào những công việc khác.

      Một chuyện gây sửng sốt trong giới khoa học diễn ra gần đây là việc nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện đã tìm được một người còn sống sau 60 năm thất lạc.

      Trong căn nhà đơn sơ ở thôn Trung Thịnh (Trường Thịnh, Ứng Hòa, Hà Tây) ông Vũ Đức Thật, 70 tuổi, không nén được xúc động khi kể về hành trình đi tìm người em trai vẫn còn sống sót sau 60 năm thất lạc.

      Ấy là năm Ất Dậu 1945, cả nước phải hứng chịu cảnh tang thương đói khát. Dù khi đó mới chưa đầy 9 tuổi, song ký ức về những ngày đói khát vẫn còn hằn in trong ông rõ mồn một. Nạn đói đã cướp đi mạng sống của cha và 2 người trong số 5 anh em nhà ông.

      Người cha đã chấp nhận chết đói để ông và mấy anh em có được mẩu củ chuối, mẩu rãi khoai giành giật cuộc sống với tử thần. Để tiếp tục sống, ông Thật và người chị gái là Vũ Thị Quặng (77 tuổi, hiện đang sống ở thôn Họa Đống) phải đi làm thuê, ở đợ mỗi người một phương cho nhà giàu.

      Ba tháng sau khi cha mất, trên đường đưa người em út đi tha phương cầu thực, mẹ ông đã qua đời vì không chống lại được cơn đói. Mấy chị em ông Thật cũng mất mẹ và cậu em út từ lúc đó luôn. Khi đó, người em tên Thà của ông mới có 4 tuổi.

      Người ta mang xác mẹ ông đi đâu cũng không rõ. Trong thâm tâm ông, cậu em út chắc chết đói ở đâu đó và được người ta đem chôn vào hố chôn tập thể rồi.

      Gần đây, khi một người trong làng Trung Thịnh tìm được hài cốt liệt sĩ thất lạc qua các nhà ngoại cảm thuộc sự quản lý của Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng, đã nhen lên trong ông niềm hy vọng. Ông cũng thử tìm đến cơ quan này để nhờ với hy vọng mong manh.

      Được sự hướng dẫn của các nhà khoa học, ông Thật cùng người con trai cả được tiếp xúc với nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Trước nhà ngoại cảm, ông Thật trình bày nguyện vọng muốn tìm hài cốt người mẹ và em trai thì cô Nguyện nói với ông: “Cứ tìm xong mẹ đã rồi hãy tính đến em”.

      Nhà ngoại cảm thắp nén nhang, rồi như chăm chú nhìn vào khoảng không, cô nói với ông Thật: “Năm 1945, khi mẹ ông dắt theo người em út từ quê ra đến Thanh Trì (Hà Nội), qua ngôi chùa thuộc thôn Triều Khúc, xã Tân Triều thì qua đời do mệt và đói. Người dân qua đường đã chôn cất mẹ ông vào bãi tha ma của làng, nhưng sau này người ta di chuyển bãi tha ma đi để xây dựng khu nhà cao tầng tái định cư. Xương cốt mẹ ông hiện nằm trong khu đất ở của một người có tên chữ cái đầu là C”.

      Ông Thật nghe vậy thì thực sự kinh hoàng. Ông chưa nói bất cứ thông tin nào về người mẹ và em trai mình, kể cả các nhà khoa học, vậy mà chị Nguyện nói rất chính xác. Ông cảm tưởng như chị đang nhìn vào màn hình chiếc tivi vô hình đặt trong khoảng không đang phát ra những gì diễn biến tại ngôi chùa làng Triều Khúc cách nay 60 năm.

      Sau khi mô tả xong, chị Nguyện lấy giấy bút vẽ lại rất tỉ mỉ sơ đồ nơi có hài cốt của mẹ ông Thật. Cầm tấm sơ đồ khá chi tiết trên tay, lòng ông không khỏi nghi ngại, phấp phỏng: Liệu gia đình có may mắn tìm được hài cốt mẹ mình hay không?

      Nhưng rồi, sự việc cứ thế trôi chảy, sau hai ngày tìm kiếm theo sơ đồ và sự hướng dẫn thêm qua điện thoại, ông Thật đã tìm được hài cốt của mẹ mình dù chỉ còn những mẩu nát vụn do khi chôn không có quan tài và đã 60 năm không được sang cát.

      Kỳ lạ thay, những thông tin như ngôi mộ nằm dưới gốc cây hồng xiêm, cạnh ngõ, chân nằm dưới tường nhà anh Triệu Văn Cường… đều đúng như chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Trong niềm xúc động lẫn vui mừng, ông Thật lại tìm gặp các nhà khoa học với những hy vọng sẽ tìm được… hài cốt em trai mình.

      Sau khi trình bày kết quả tìm mộ mẹ mình, ông Thật nhờ chị Nguyện tìm tiếp mộ người em trai như lần trình bày trước. Sau một thoáng chau mày, nhìn vào không gian, chị Nguyện nói với ông Thật: “Không thể tìm được hài cốt em trai ông, vì ông… chưa chết”.

      Nghe chị Nguyện nói thế, ông Thật và người con trai cả lặng đi, không nói nên lời. Sau khi trấn tĩnh, ông hỏi lại chị Nguyện rằng ông nghe lời chị chưa rõ: “Cô vừa nói gì thế ạ?”. Chị Nguyện tiếp: “Em trai ông hiện nay vẫn còn sống. Năm 1945, ông ấy đi cùng mẹ, khi bà chết, một người đã bế ông ấy đi theo hướng Cao Bằng – Lạng Sơn”.

      Khi nghe được thông tin này, các nhà khoa học lập tức vào cuộc, theo dõi sát sao và ghi nhận lại khả năng “nhìn” xuyên không gian, thời gian để tìm người còn sống của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện. Nếu khả năng này có thật thì đây sẽ là kỳ tài, các nhà khoa học sẽ phải bỏ nhiều công sức nghiên cứu, theo dõi tiếp.

      Tiếp tục nhắm nghiền mắt như trạng thái “xuất hồn”, chị Nguyện đã xác nhận người em trai của ông Thật hiện đang sống ở một vùng đất thuộc thành phố Thái Nguyên. Sau đó, chị Nguyện bật băng ghi âm và nói rằng: Vì người còn sống nên không vẽ sơ đồ mà chỉ cần tả đường đi, rồi cứ theo lời tả mà tìm sẽ thấy.

      Cầm cuốn băng về, ông Thật và con cháu nghe đi nghe lại. Thật khó có thể tưởng tượng nổi vì sao chỉ ngồi một chỗ mà nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện lại có thể tả chi tiết đến từng cây cầu, con suối, từng kilômét đường đi. Trong niềm khấp khởi người em còn sống, ông và con cháu sắp xếp lên đường nhanh chóng tìm lại em mình.

      Hôm sau, ông Thật và một số người thân lên đường. Lần đi đầu tiên này, ông đi với mục đích chủ yếu là tìm hiểu địa bàn. Từ trung tâm thành phố Thái Nguyên đi theo hướng nhà ngoại cảm chỉ, ông cũng gặp “hai cầu cao và một cái cống nhỏ” có hình dáng, đặc điểm giống như lời mô tả trong băng.

      Tuy nhiên, đi thêm một đoạn thì có đến 5 cái cống nhỏ nữa, cái nào cũng có hình thù giống nhau. Ông Thật và các con cháu chia nhau thành nhiều ngả, vào các làng xóm quanh khu vực hỏi han, song không ai biết chút thông tin gì về người em Vũ Văn Thà của ông. Mất phương hướng cộng với việc không liên lạc được với nhà ngoại cảm, bố con ông đành quay về.

      Tìm gặp chị Nguyện để báo cáo kết quả của ngày tìm kiếm đầu tiên, ông được chị cho biết rằng ông đã đi sai hướng. Theo nhà ngoại cảm, hướng đúng phải là Thái Nguyên – Bắc Kạn. Vậy là cuộc tìm kiếm lại quay về điểm xuất phát.

      Lần này, ông Thật và người con trai cả lên đường từ rất sớm theo đường chính từ trung tâm thành phố Thái Nguyên đi Bắc Kạn. Khi nhận thấy các thông tin về địa hình, địa vật đã khá chính xác, ông cẩn thận liên lạc với chị Nguyện thì được chị chỉ dẫn ngay: “Bác đã đi quá 5km, phải lùi lại rồi rẽ phải vào khu vực gần ga ấy”.

      Trong thâm tâm ông nghĩ rằng, mọi chuyển động của bố con ông đều được nhà ngoại cảm đặc biệt kia nhìn thấy. Quay lại khoảng 5km, hai cha con ông rẽ phải theo hướng dẫn thì đến ga Quán Triều. Theo lời nhà ngoại cảm, trên đường đi sẽ gặp một doanh trại bộ đội. Đi tiếp 3km thì vào địa phận xã Cù Vân, thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên.

      Lúc ấy đã là giữa trưa, các ngả đường bố con ông đã đi qua hết để tìm kiếm dấu hiệu như nhà ngoại cảm miêu tả, song tin tức về người em trai vẫn bặt vô âm tín. Bao nhiêu hy vọng trong ông đã vơi đi rất nhiều.

      Có thể, ông không có duyên tìm được em trai mình dễ dàng như tìm thấy hài cốt mẹ. Nếu người em ông còn sống mà ông lại không tìm được thì những ngày cuối đời ông sống cũng không an lòng.

      Buổi chiều, ông Thật tiếp tục gọi điện cho nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện để xin thông tin điều chỉnh và trình bày cả những băn khoăn trong lòng thì thật bất ngờ khi được chị hướng dẫn: Vẫn còn một con đường nhỏ bên trái dẫn vào chân núi. Loay hoay mãi rồi bố con ông Thật cũng tìm thấy một con đường nhỏ lẫn vào những tán cây mà bố con ông không để ý.

      Đi sâu 1km vào phía chân núi, ông nhận ra một ngôi nhà đúng như lời chị Nguyện mô tả, chỉ khác là bên trái không có cái ao nào. Tim đập thình thịch, ông Thật lò dò bước vào căn nhà đó với bao nhiêu hình dung về khuôn mặt người em trai đã thất lạc từ hơn 60 năm trước.

      Tuy nhiên, người chủ nhà đó lại là ông Nguyễn Văn Chắc. Qua trò chuyện được biết ông Chắc là người còn cả bố mẹ và anh em. Vừa thất vọng, vừa không giấu được lòng mình, ông Thật đem câu chuyện về người em trai đã mất tích mấy chục năm kể cho ông Chắc.

      Không ngờ, ông Chắc cho biết trong vùng cũng có một người chừng tuổi như thế, được một người ở đây đưa về làm con nuôi từ khi còn nhỏ. Thế nhưng, người đàn ông đó tên là Khương Văn Thông chứ không phải Vũ Văn Thà.

      Nhận lời dò hỏi giúp, ông Chắc khuyên hai cha con ông Thật nên quay về đợi tin vì theo ông việc này không chắc chắn lắm, vả lại cũng không thể kết luận ngay được.

      Suốt 10 ngày ở quê, ông Thật sống trong thắc thỏm lo âu và hy vọng, song không thấy tin gì báo về. Không có tin của người đàn ông tên Chắc thì coi như hết hy vọng. Đúng dịp đó thì có một chị cùng xóm tên là Cần bảo rằng sắp tới sẽ về xã Cù Vân (Đại Từ, Thái Nguyên) thăm mẹ đẻ. Chị Cần mới làm dâu ở làng ông Thật mấy năm nay.

      Ông Thật vội vàng lấy mảnh giấy viết mấy chữ: “Tháng 12/1945, mẹ Trương Thị Vòng có đưa em Vũ Văn Thà đi, sau khi mẹ mất có người đã nhận và đưa em lên Thái Nguyên làm con nuôi…”.

      Về xã Cù Vân, chị Cần đưa cho người đàn ông tên Thông mảnh giấy ghi mấy dòng chữ đó. Đọc những dòng chữ đó, ông Thông rơm rớm nước mắt. Ngày đó ông còn quá nhỏ, không nhớ được điều gì, nhưng khi lớn, trong những buổi sum họp gia đình, cha mẹ nuôi ông thường hay kể rằng, ông bà mua ông bằng một thúng gạo của một người lạ mặt.

      Người lạ mặt đó cũng kể rằng họ “nhặt” được ông dưới Hà Nội, khi mẹ ông chết đói. Cha mẹ nuôi ông không có con, đã nhận ông làm con nuôi, đặt tên cho ông là Khương Văn Thông và lấy năm khai sinh là 1945. Nặng ân nghĩa với cha mẹ nuôi, ông Thông coi họ như cha mẹ ruột của mình, hết lòng phụng dưỡng khi sống và hương khói thờ tự khi họ qua đời.

      Nhưng tuổi càng cao, nỗi mong ngóng tìm về quê quán, cội nguồn càng xót xa. Ký ức đau thương thời thơ ấu dù lớn thế nào cũng không còn chút gì trong ông. Nhận được lá thư của người đàn ông lạ, nhưng như có linh tính mách bảo, ông Thông lập tức hồi âm với những lời lẽ tha thiết mong sớm được gặp mặt ông Thật.

      Ngay sau ngày nhận được thư của ông Thông, hai cha con ông Thật lại lên đường đi Thái Nguyên. Thật kinh ngạc khi cảnh vật nơi ông Thông ở đúng như lời mô tả trong băng ghi âm: “Từ mặt đông bắc trông ra, tay phải là bếp, tay trái là ao. Tiến vào một chút là vườn cây, vườn rau. Có hai nếp nhà và lên nhà phải qua bậc thang”.

      Lòng trào dâng xúc động, nhưng ông Thật vẫn có phần e ngại vì hình dạng ông Thông khá khác biệt so với dự đoán của nhà ngoại cảm. Ông Thông cao hơn và khắc khổ hơn chứ không “trẻ hơn và thấp hơn”.

      Qua chỉ dẫn, người con ông Thật tìm gặp bà Tiễn (84 tuổi, là con nuôi lớn của bố mẹ ông Thông, thường tắm cho ông Thông khi nhỏ, hiện sống ở làng cạnh), và được bà kể mọi chuyện về thời thơ ấu khổ đau, lưu lạc của ông Thông y như nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện mô tả.

      Không còn nghi ngờ gì nữa, anh vừa khóc vừa chạy về với chú ruột của mình. Trong lúc anh con cả của ông Thật đi “điều tra”, ông Thật cũng “kiểm tra” tiếp bằng cách điện thoại về cho nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện.

      Kỳ lạ thay, ông Thật chưa kịp trình bày nỗi băn khoăn, chị Nguyện đã nói ngay: “Ông Thông chính là người em trai bị thất lạc của ông hơn 60 năm trước, ông không phải lăn tăn, điều tra gì nữa”.

      Bao nhiêu tình cảm và mong chờ trong những ngày tìm kiếm chợt vỡ òa. Hai anh em ông Thật và ông Thà ôm chầm lấy nhau trong nước mắt chứa chan. Hôm sau, hai anh em về quê. Đón họ là những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi của con cháu, xóm làng.

      Sau khi thắp nhang khấn vái bên mộ cha mẹ, trước bàn thờ tổ tiên và họ hàng thân thiết, ông Thông đã được nhận lại tên họ, quê hương, bản quán của mình sau hơn nửa thế kỷ lưu lạc. Cả gia đình ông Thật còn bàng hoàng khi nghe lại đoạn cuối trong cuốn băng ghi âm lời hướng dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện: “Tìm một mà được mười ba”. Ông Thà có cả thảy 13 người con và cháu.

      Sau khi tìm được em trai Vũ Văn Thà, ông Thật tiếp tục tìm được mộ chị gái Vũ Thị Quắng ở giữa cánh đồng xã Phương Tú (Ứng Hòa). Bà Quắng bị chết đói năm 1945, khi 11 tuổi và được người ta chôn luôn ngoài cánh đồng.

      Đặc biệt, trong một chuyến đi vỏn vẹn một tuần, bằng sự chỉ dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nguyện, bố con ông Thật còn tìm tiếp được 2 liệt sĩ nữa, là anh vợ và em vợ ông Thật. Hài cốt liệt sĩ Vũ Hồng Quân được tìm thấy ở xã Nghĩa Thương (Tư Nghĩa, Quảng Ngãi) và liệt sĩ Vũ Hồng Quang được tìm thấy giữa nông trường cà phê bạt ngàn thuộc xã Đắk Sắk (Đắk Nông).


      Sưu tầm
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment

      Working...
      X