Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Kể Chuyện MA

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Nguyên Văn Bài Viết Của Bụi Đời Con View Post
    dì Bụi hong biết but từ khi quen Ế tới giờ .. Bụi tin là có
    nói trắng ra Bác É là..là....m...a.. đó huh Bụi
    ***************

    Comment


    • #17
      Sis HKy Bụi

      Comment


      • #18
        Đừng có che Evo nghen, hổng chừng hoa khôi RFViet mà hổng biết á, hổng tin Evo post hình lên cho mọi người xem
        "Life is like a river, let it flow.
        Cuộc đời giống như một dòng sông. Cứ để nó trôi."

        Comment


        • #19
          Ế nhắn tin về nói là Ế đang ở bà Hạnh Phước , chờ Ế về lại là cả đám mình biết mặt , ủa hong , biết tay Ế hít đó nha ... thui Bụi dzọt trước cho chắc ăn







          Comment


          • #20
            Nguyên Văn Bài Viết Của Bụi Đời Con View Post
            Ế nhắn tin về nói là Ế đang ở bà Hạnh Phước , chờ Ế về lại là cả đám mình biết mặt , ủa hong , biết tay Ế hít đó nha ... thui Bụi dzọt trước cho chắc ăn









            Bụi ơi chờ sis xách guốc chạy theo với..sis cũng sợ Bác É xuất hiện lắm lắm
            ***************

            Comment


            • #21
              Vắng mặt có chút xíu xíu thui mừ trong này loạn như thời Tam Quốc. Khổ cái là toàn mấy ông mấy bà thứ bự vô quậy nữa mới chết chứ


              Je suis comme je suis
              Je suis faite comme ça
              Que voulez-vous de plus?
              Que voulez-vous de moi?

              Comment


              • #22
                Đêm trước hõng biết sao Bụi bị nitemare ... bi chừ vô đây lại mới biết tại sao

                Comment


                • #23
                  Nguyên Văn Bài Viết Của Bụi Đời Con View Post
                  Đêm trước hõng biết sao Bụi bị nitemare ... bi chừ vô đây lại mới biết tại sao
                  Đã nhát mừ bầy đặt kể chuyện Ma


                  Je suis comme je suis
                  Je suis faite comme ça
                  Que voulez-vous de plus?
                  Que voulez-vous de moi?

                  Comment


                  • #24
                    dì Bụi chỉ sợ Ma... Ế Dzợ thui


                    Nhát ma típ ... ai thích thì đọc , còn Bụi post thui chớ hõng đọc , Bụi nhát lém , chỉ thích coi phim ma thui hà


                    Ma KhÔnG ĐầU




                    Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ như chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình như rõ rệt tôi đợc mục kích càng làm cho dữ dội nặng nề.

                    Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trớc mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện trạng đó có quả thực là một hiện trạng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức nghiền ngẫm cho chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.

                    Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có khi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay nh làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi lại gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên không thấy gì nữa cả; hoặc ta đem lên mắt một cặp ống nhòm để phóng đại trưởng quan sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình như ta muốn thấy mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.

                    Bằng cứ chịu khó đứng xa mà ngắm nhìn thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiên của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc một thời oanh liệt thủa xưa.

                    Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chả hạn. tôi đã phải dằn lòng gắng sức đợi đến ngót tháng trời mới đợc trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.

                    Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được mục kích, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.

                    Phàm giả người ta, trong buổi sinh thời, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính hình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời , thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.

                    Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ, một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ của Đường Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, liệu đàn cua Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?

                    Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nào siêu linh tịnh độ được, cứ mập mò khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bến là bờ. Điểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình vừa trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn thì một khi thác đã tỉnh ngộ ra, bay lên một gầm thiêng liêng cao sạch để ngao du, tịnh dưỡng. Những linh hồn đó không mấy khi trở lại nữa, một đi, đi chẳng trở về. Còn như các linh hồn bi nghiệt duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt của loài người. thì chúng thường thường bay vẩn vơ quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp tốt là trở về sống chung lại với ta, dẫu rằng trong một phút.

                    Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi chóp lộc cúng cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những lúc có cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.

                    Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên có khi xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta không đợc quan sát thì ta vội cho là hoang đường. Song le , nêu ta chịu khó bỏ hết cả các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàn toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là thực cả.

                    Chỉ có một điều, là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phi đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Tỷ như vàng muốn biến hóa ra nước tất phi nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia có phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra đâu?

                    Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phi thiêng, mà muốn thiêng, thì theo như sự chúng ta cùng biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ. Hai là chết trẻ, mà chết một cách thê tham dữ dội. Ba là chết oan. Bốn là được chôn ở chỗ đất có mạch. Năm là phải hấp thu được khí thiêng của trời đất.

                    Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng buổi, từng chỗ, từng thời, mới hiện lên được. Ngày xưa, lúc văn minh Âu Mỹ chưa tràn sang bên cõi Á Đông, lúc máy móc chưa rầm rộ chạy dưới gầm trời Trung Hoa và Nam Việt, thì các chốn thị thành không đông đúc lắm, các đường sá không mở mang nhiều, những chốn hoang vu lạnh lẽo nhiều hơn những chốn phồn thịnh, mà sự tối tăm cũng lâu hơn sự sáng sủa vì đêm không có đèn điện rọi đường; bới thế nên trong một hoàn cảnh lặng lẽ đìu hiu khí âm tràn ngập cả non sông mà phủ trên cuộc sinh hoạt của loài ngời, khiến dương khí không có thể hưng thịnh lên được.

                    Nhưng, sau một cuộc suy vong, khí dương lại dần dần hăng hái, nó từ cõi Âu Tây tràn sang Đông Á, khiến cho các sự vật thay đổi cả. Máy móc ngày nào cũng rầm rộ, xe pháo ngày nào cũng xôn xao, đêm thì đèn sáng như ban ngày, ngày thì ầm ầm như chợ, lúc nào cũng có kèn có trống, có âm nhạc hùng hồn; mà người thì, bị hoàn cảnh run rủi, cũng ưa múa may quay cuồng hoạt động cạnh tranh, hơn là nhàn cư mà tĩnh dưỡng.

                    Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phi bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó lòng hiện lên được vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẩn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.

                    Chả bù với thời thái bình êm ái thủa xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thủa đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Đến thời này, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời!

                    Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Đó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này, khiến các bạn cùng được như tôi, thưởng thức một chuyện thần linh, gọi là những lúc thanh nhàn, quên được cuộc vật lộn quay cuồng mà ngày ngày ta phải dấn thân vào để kiếm cách mưu y mưu thực.

                    Thì đây, câu chuyện thần linh.

                    Hôm đó, cách đây chừng khoảng hai năm, tôi về vùng Nam Định xuống ga Gôi, vào thăm một ngời bạn cũ. Lâu ngày mới gặp được nhau, bạn tôi mừng lắm, vội vàng sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người vợ ra chợ đón mua những món quà ngon. tôi được thấy bạn cũng mừng, hai anh em ngồi uống trà đàm đạo mãi cho tói chiều, không biết mệt.

                    Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ. Trời tháng qui hạ, nồng nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn còn oi. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên với bạn đã ba giờ có lẻ. Lúc tôi đến, trời nắng chang chang như lửa đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong quãng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết cả. Trời lúc nãy bi vẩn ám , bây giờ quang đãng như không; vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng nổi dậy, nhưng chậm rãi uể oi, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa rỏ giọt.

                    Mặt trời , khỏi bị che kín sau bức màn mây tối, lai vui vẻ tia ra những luồng ánh sánh đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi trận mưa rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết. nhưng sự đó không xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong vụ mấy tháng mùa đông rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất thường.

                    Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà khí hậu thì lại hóa ra độc địa vô cùng.

                    Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm hồn. Người ta phòng nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chỗ thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một vùng nào. Sự thật chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy như hưởng của nó mà thôi ; nếu không có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.

                    Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.

                    Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét được nguyên cớ, nên cũng phải tạm liệt vào loại hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền bí do sức của luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đằm như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng óc mình không xét đoán được Nó cũng ví như những khói, những luồng điện trong vũ trụ vậy

                    Những nhà phù thủy cao tay, những kẻ thôi miên thiện nghệ phần nhiều đều luyện được một thứ mãnh lực tiềm tàng có thể sai khiến âm hồn tan tụ, tỷ nhà nhà kỹ sư biết cách phát điện đi hay gom điện lại. Nếu ta cho âm khí là một thứ điện, thì ta sẽ nhận rằng mỗi khi mưa dầm gió bấc, mỗi khi trời đất nặng nề, mỗi khi có mưa xuống nắng lên, thứ điện đó thường hay tụ lại thành khối. Nó tựa như chịu ảnh hưởng mật thiết của các luồng điện trong không khí, mỗi khi có sấm sét thì bị rung chuyển, xúc động; rồi, khi sấm sét đã nguôi nó cũng đông lại, cũng đặc lại như dưỡng khí, để hiện ra thành bóng.

                    Vì tình cờ run rủi, tôi đã được mục kích sự âm hồn hiển hiện, sau một trận mưa sau một ngày gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như chợt nghĩ đến sự gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi, vừa nói:

                    -Bác hây theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!

                    Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:

                    Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như kia, bác muốn chúng ta đi đâu?

                    - Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không phải hối hận xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ mất dịp này thì uổng quá!

                    Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. tôi không cưỡng cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đì. Hai chúng tôi ra khỏi nhà, lần theo bờ ruộng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Đến một nơi cổ am, có bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật thế nào.

                    Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài bước, ngoảnh đầu nhìn bốn phía, rồi ngước mắt trông ra phía chân đồi như tìm kiếm sự gì. Một chốc, hình như anh ta đã thấy sự muốn cho tôi được mục kích, anh lùi lại, bá vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc:

                    - Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven đồi , chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chính chỗ ấy, có hai người đang diễu võ dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...

                    Trong lúc bạn nói, tôi chăm chú thu hết nhỡn lực cố phóng luồng nhỡn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi? Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn chưa thấy tí gi! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhỡn lực của anh vậy.

                    - Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đương vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?

                    Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dới nghiêng về bên tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rông:

                    -Quái! Làm sao nó không đầu!

                    Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bi cuốn lôi lên. tôi níu chặt lấy bạn.

                    Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rõ xa, ở lưng chừng trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt Khi đến chỗ nương khoai, chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất tỏ rằng cn gió đã tan rồi.

                    Cố nhìn, thì chẳng thấy bóng dáng của hai anh chàng múa võ nữa. tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi bạn, anh đã cười bảo tôi:

                    -Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặc biệt! Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không ta đã được một phen khoái trá vô cùng!

                    - Cớ sao anh lại bảo vì tôi...

                    - Anh mới đến nên không biết. Sự mà tôi muốn anh được mục kích là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống nắng lên, thì hai oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lở mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như hai anh em mình vừa thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại nương khoai nhặt lấy mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...

                    Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà thôi. Bạn cười tôi là hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.

                    Tôi ở nhà bạn non bể, ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nưhng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ nói đến hai tiếng "không đầu" khiến cho hỏng việc một lần nữa.

                    Thấm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi quấy quả bạn tôi đã trọn hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chín mười giờ sáng trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt hột, tôi thủ ngay cái máy ảnh và ống dòm, rủ bạn đi lại chỗ có cái miễu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.

                    Tới nơi không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi nói có ngoa đâu, Tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.

                    Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được mục kích thật là kỳ dị , từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.

                    Đó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ không có đầu! Hai cái bóng ma cụt trốc! Đứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy không lấy gì làm đích xác nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu tý nữa, thì rỏ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm.

                    Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khói đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Đó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cờng tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiều.

                    Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, một thế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thủa bình sinh?

                    Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãi. Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải, Mãnh hổ tầm sào, Thái Sơn áp đính, Hạng Võ phi truy v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bõ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống tới cùng.

                    Đứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thực là một khoái lạc ý vi. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai ngời sử võ?

                    Giả dĩ có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chi toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện, mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.

                    Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm lên quan sát cho rõ rệt: nhưng, thực là kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn được thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhận được bóng dáng của hai nhà vo sĩ "cụt đầu" nữa! tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vậy; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia lại biến lúc nào rồi...

                    Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách xa độ bốn cột đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma đương đấm đá. Đi thêm lên độ chục bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu trong vắt, ruộng khoai một màu vàng đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.

                    Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi dợc cảnh thần bí mà mắt người không ghi nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả!

                    Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì ít ra cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!

                    Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chịu bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục năm nay, lúc anh chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi biết có thế thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.

                    Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phi tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng tôi, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước Đại Pháp vừa dựng cờ bảo hộ trên đất Việt Nam này?

                    Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả một bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mải mê về chuyện ma không đầu của tôi; rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ để họa may có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ, xong chả có pho nào đả động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...

                    Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy. Tôi rất bực mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật liệu lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng mình.

                    Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đi. Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?

                    Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Đồng Giao, tôi đã không biết được tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.

                    Attached Files

                    Comment


                    • #25
                      Nguyên Văn Bài Viết Của Bụi Đời Con View Post
                      Nhát ma típ ... ai thích thì đọc , còn Bụi post thui chớ hõng đọc , Bụi nhát lém
                      Dì Bụi yếu thì đừng ra gió!


                      Je suis comme je suis
                      Je suis faite comme ça
                      Que voulez-vous de plus?
                      Que voulez-vous de moi?

                      Comment


                      • #26
                        Òh , biết dì Bụi yếu đuối như dzạ, Ế hõng có được en híp dì Bụi nữa đó nghen hong




                        NhỮnG HồN Ma GhÊ RợN




                        Tại Việt Nam, không hiếm trường hợp đã xảy ra. Một vài thí cụ điển hình mà chúng tôi xin lược kể ra đây là những trường hợp hoàn toàn có thật do các nhân chứng trong cuộc kể lại.

                        Ông Trùm Mày, nhà ở Nam Giao, Huế, chuyên nghề chạy xe kéo, loại xe này rất phổ biến khoảng thời gian 1939 đến 1945. Một đêm nọ, trời gần khuya, ông Trùm Mày định kéo xe về nghỉ nhưng tự nhiên thay vì kéo xe chạy về phía cầu Gia Hội để về Nam Giao (qua cầu Trường Tiền), ông ta lại kéo xe chạy theo đường Hàng Đường để về cống Kẻ Trài. Xe chạy một quảng, ông bỗng thấy một cô gái mặc bộ đồ trắng, đội nón lá vừa bước lên vừa đưa tay vẫy vẫy ra hiệu cho xe ngừng lại.

                        Ông Trùm Mày vội vã ngừng xe, cô gái có vẻ hấp tấp vừa đi vừa chỉ về phía trước vừa nói - tiếng nói nhỏ như sợ có ai nghe: - Chở tôi về bến đò chợ Bao Vinh.

                        Ông Trùm Mày cố định thần nhìn cho kỹ mặt cô gái nhưng vì tóc cô để xõa nên chẳng thấy rõ mặt mày. Điều ông làm lạ là cô gái mảnh mai quá nên nhẹ tênh, ông kéo xe mà cảm thấy như chạy xe không. Qua khỏi cống Kẻ Trài và chạy độ hai mươi phút nữa, ông nghe tiếng trống trời khuya vọng lại. Bất giác ông chạy chậm xe và ngoái cổ lại để hỏi chuyện cô gái, nhưng lạ lùng chưa, cô gái không còn nữa. Chỗ ngồi trên xe kéo trống không và yên lặng một cách dễ sợ. Ông Trùm Mày sợ quá đến nổi gai ốc toàn thân, ông cấm đầu chạy thục mạng về nhà.

                        Sáng mai lại, ông đem chuyện lạ hồi hôm kể cho ông Lý Trưởng ở làng Bình An nghe. Người lão bộc trong nhà ông Lý Trưởng cho biết ở quảng đường gần cống Kẻ Trài đến bến đò Bao Vinh có một cái am nhỏ thờ cô gái bị chết trôi, trước đó độ năm năm, cô gái này bị chết nơi bến đò gần cống Kẻ Trài, xác nổi lên và tắp vào bờ, vướng vào gốc và rễ những cây sanh già cỗi nơi bến và nhiều đêm hay xuất hiện than khóc hay chận đường người qua lại để hỏi thăm, chuyện trò hoặc xin đi nhờ nếu gặp ai có phương tiện chuyên chở đi qua đó. Theo người lão bộc (ông Ngọng) thì có lần hai người kéo xe bò qua đó cũng đã gặp cô gái từ dưới bến sông (Đông Ba) đi lên xin đi nhờ một quãng đường. Khi xe đi được khoảng nửa tiếng, thì bỗng nhiên họ nghe một tiếng "Bõm" như có vật gì rơi xuống sông. Ngay lúc đó hai người đánh xe bò rởn tóc gáy vì cô gái trên xe đã biến mất tự bao giờ (lúc đó khoảng một giờ sáng).

                        Ở Huế có một địa danh đặc biệt là Ô Hồ. Xóm Ô Hồ gần trường tiểu học Gia Hội (Huế). Anh Hinh trước ở làng Đại Lược sau lên thành phố Huế làm nghề đạp xích lộ Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1956. Ở Huế mùa hè rất nóng, anh Hinh thường đạp xe đến quá khuya mới trở về nhà. Đêm đó, theo lời anh kể hình như là đêm 13 âm lịch, trời đầy trăng sao. Lúc đó khoảng 12 giờ khuya, anh đang đạp xe đi từ từ qua khỏi trường tiểu học Gia Hội và định tới chỗ quẹo sẽ đạp xe về đường đi Mười Gian. Khi chiếc xe xích lô vừa đến ngã ba thì anh thấy một người đàn bà đứng ngay nơi chỗ quẹo và đưa tay vẫy vẫy xe anh. Anh Hinh vội vã dừng xe lại. Dưới ánh trăng, anh thấy rõ gương mặt người đàn bà, rõ đến độ anh thấy nổi bật những dấu sẹo do bệnh đậu mùa để lại trên gương mặt người đàn bà. Anh hỏi:

                        - Chị về đâu?" Người đàn bà vừa trả lời vừa bước lên xe:

                        - Cho tôi đến Chùa Bà.

                        Khi xe sắp đến đường quẹo thì người đàn bà ra dấu ngừng xe và lấy trong ví ra hai tời giấy bạc trao cho anh Hinh rồi lầm lũi đi vào một khu vườn to lớn trồng toàn là nhãn và vải, anh Hing nhìn thấy hai tờ giấy loại 100 đồng và lấy làm lạ vì số tiền quá lớn cho một cuốc xe quá ngắn đường. Hay người đàn bà đã đưa nhầm, tưởng đó là giấy 10 đồng, nhưng 10 đồng bạc cũng vẫn lớn đối với thời đó. Vốn là người lương thiện, anh Hinh nghĩ bụng đêm quá khuya, khu vườn nhà quá rộng và sâu hun hút không tiện vào kêu cửa, chi bằng sáng mai đạp xe ngang nếu thuận tiện ghé lại xem thử ra sao. Thế rồi anh ta cất kỹ hai tờ giấy bạc loại 100 đồng vào cái bóp để trong túi áo. Trước khi đạp xe về nhà, anh còn nhìn kỹ lại địa điểm mà người đàn bà có gương mặt rỗ hoa đã bước suống xe để vào khu vườn sầm uất. Điều đáng nhớ là ngay tại chỗ đó có một cây vông đồng rất lớn.

                        Sáng hôm sau, khoảng 10 giờ, anh Hinh đạp chiếc xích lô đến địa điểm hồi hôm. Anh dừng xe lại bên cạnh cây vông đồng. Khu vườn rộng âm u và yên tĩnh quá, anh đẩy xe vào vườn. Xa tít phía trong khu vườn là căn nhà xưa cổ, cửa đóng then gài. Có lẽ gia chủ đã đi vắng. Anh đẩy xe ra, quang cảnh yên lặng lạ thường, qua một giàn hoa lài rủ xuống thấp lè tè có một ngôi mộ. Ngôi mộ này được chôn trong vườn nhà. Trưa hôm đó, anh ghé lại cái quán cơm gần Ô Hồ để ăn trưa, khi mở cái bóp trả tiền anh ngạc nhiên không thấy hai tờ giấy bạc đâu cả. Tìm mãi cũng chỉ có những đồng bạc lẽ mà anh đã có từ trước. Nhưng trong ví lại có hai tờ giấy trắng dài bằng cỡ hai tờ giấy bạc.

                        Anh ngẩn ngơ suy nghĩ. Bỗng nhiên một cảm giác lành lạnh chạy dọc theo đường xương sống... như có một linh tính vụt đến... anh hỏi ngay người bán quán về khu vườn nơi gốc cây vông đồng và ngôi mộ trong vườn thì người bán quán cho biết như sau:

                        - Khu vườn đó là của ông Cả Đễ. Ông có một người vợ bé, bà này ở chung với bà vợ lớn và bị bà vợ lớn của ông Cả Đễ ganh ghét, hành hạ đủ điều. Cách đây hai năm, bà vợ bé bị bệnh đậu mùa, người trong nhà sợ bị lây bệnh tìm cách lánh xạ Sau đó bà vợ bé chết. Ông Cả Đễ thương tiếc vô cùng, chôn ngay trong vườn. Hiện nay trong ngôi nhà ấy chỉ có một mình ông Cả Đễ thui thủi sống qua ngày nhờ nhuận lợi thu hoạch trong vườn mà thôi. Bà vợ lớn thì đã bỏ vào Đà Nẵng lấy chồng khác. Ông Cả từ đó có vẻ tàng tàng và mất trí... " Anh Hinh nghe đến đó thì tự nhiên tay chân run rẩy, mặt mày tái mét. Lúc bấy giờ anh mới kể hết mọi sự cho người chủ quán nghe. Sau cùng người chủ quán nói:

                        - Như vậy là anh đã gặp đúng người vợ bé của ông Cả Đễ rồi! Với lại gương mặt rỗ hoa thì chính là bà ấy rồi, nhưng lạy vong linh bà ấy, bà linh hiển quá, tuy rằng bà ấy trả cho anh hai tờ giấy bạc giả, nhưng theo ôn mệ (cha mẹ) tôi ngày trước thường kể thì những người đã giúp đỡ ma thường hay được phù trợ. Như anh đã có lần chở hồn ma bà vợ bé ông Cả, chắc anh cũng sẽ đắt khách cho coi... "

                        Attached Files

                        Comment


                        • #27
                          Dì Bụi kiếm đâu ra nhiều Ma quá dzị nè?


                          Je suis comme je suis
                          Je suis faite comme ça
                          Que voulez-vous de plus?
                          Que voulez-vous de moi?

                          Comment


                          • #28
                            Ế hỏi chỗ chi ... tính ôm hít Ma dzìa ... dzinh hủh

                            Mí con Ma nói phải đóng cửa en New Year vài ngày ... Ế don't miss them hỉ

                            Comment


                            • #29
                              OAn HồN ĐòI MạNg

                              Vĩnh là một thanh niên trên ba mươi, luôn luôn muốn tỏ ra là một người trí thức. Là một chuyên viên truyền hình, anh được hoãn dịch khi cuộc chiến chưa tới hồi khốc liệt. Tuy nhiên sau cuộc tấn công tết Mậu Thân, Vĩnh bị động viên và nhập ngũ với cấp bậc binh nhì.

                              Sau ba năm trời lăn lộn trên chiến trường, Vĩnh được biệt phái về đài truyền hình. Hình như Vĩnh lập được nhiều thành tích đáng kể trong quân đội, nhưng anh không bao giờ thổ lộ với ai. Cuộc chiến quá tàn bạo đối với một thanh niên muốn tỏ ra là người trí thức.

                              Khoảng hai năm sau khi được biệt phái, Vĩnh tâm sự với Khải, một người bạn thân, về ý định viết một quyển tiểu thuyết trinh thám, vì từ hồi nhỏ, Vĩnh vẫn say mê nhân vật thám tử Kỳ Phát của nhà văn Phạm Cao Củng.

                              Vĩnh nói rằng việc tạo ra các nhân vật rồi đưa họ vào những hoàn cảnh do chính mình tạo ra với những chứng cớ giả tạo nhưng có vẻ hợp lý, có lẽ thú vị hơn là đọc chuyện của người khác và bị hướng dẫn bởi những chứng cớ giả tạo của họ. Anh nói:

                              - Tôi muốn viết một câu chuyện hoàn toàn bí mật cho tới khi độc giả đọc tới giòng chữ cuối cùng.

                              Khải hỏi bạn:
                              - Thế ông đã có ý tưởng gì chưa?

                              - Có chứ! Trong câu chuyện của tôi, kẻ sát nhân thực ra lại không ra tay giết người.

                              Khải hơi nhíu mày:

                              - Ê ê, chỗ này coi bộ hơi lôi thôi rồi đấy! Tại sao đã gọi là kẻ sát nhân mà lại không giết người?

                              Vĩnh mỉm cười:

                              - Thế mới hay chứ! Kẻ sát nhân tìm thấy nạn nhân trong tình trạng nguy ngập mà nếu hắn không chịu giúp đỡ, nạn nhân sẽ chết. Hắn đâu có giết tuy hành động của hắn có nhiều yếu tố cấu thành tội phạm...

                              Tuy nhiên trước khi khởi sự, tôi muốn chế ra một loại mật mã rất tầm thường nhưng rất khó khám phá, loại mật mã mà mọi người thường thấy nhưng không bao giờ nghĩ rằng chúng lại được xử dụng để truyền đạt tin tức.

                              Khải có vẻ suy nghĩ:

                              - Tin tức... ngắn hay dài?

                              - Ngắn thôi! Loại tin tức mà bọn tội phạm dùng báo động, hẹn gặp... đại khái như vậy.

                              Khải nhìn Vĩnh:

                              - Tôi sẽ suy nghĩ về việc này. Nếu tìm được cái gì, tôi sẽ cho ông hay.

                              Chỉ hai hôm sau, Khải vui vẻ bước vào apartment của Vĩnh:

                              - Tôi tìm ra được một loại mật mã cho ông rồi!

                              Vĩnh nhìn bạn với vẻ nghi ngờ:

                              - Ông thử viết vài ký hiệu xuống xem.

                              Khải lắc đầu, mỉm cười bí mật:

                              - Hay ở chỗ là loại mật mã này không cần ký hiệu. Chúng có thể được học thuộc lòng trong vài phút, và sẽ không ai có thể khám phá được, ngoại trừ tay thám tử siêu nhân mà ông đẻ ra trong chuyện.

                              Rồi Khải nói đùa:

                              - Ông phải chia ba chục phần trăm tác quyền cho tôi đấy nhá!

                              Vĩnh gật gù:

                              - Để coi! Bây giờ ông thử nói xem mật mã của ông là cái gì mà ghê thế!

                              Khải chậm rãi nói:

                              - Khi một tên gian muốn liên lạc với đồng bọn, hắn chỉ cần gởi cho tên kia một bộ bài. Hoặc có thể những quân bài của hai ba bộ, tùy theo tin tức dài hay ngắn. Dĩ nhiên những con bài còn lại phải có đủ để tránh nghi ngờ trong trường hợp bị thất lạc.

                              Vĩnh chau mày:

                              - Tôi không hiểu ông muốn nói cái gì.

                              - Dễ quá mà! Chữ Việt mình có 24 mẫu tự, nhưng mình nên dùng mẫu tự Tây phương với 26 chữ trong trường hợp cần dùng những chữ j, w hoặc z. Ông cũng biết một bộ bài có 52 lá, điều này có nghĩa là mỗi mẫu tự được tượng trưng bằng hai lá bài.

                              - Ông có thể nói rõ hơn một chút được không?

                              - Thế này nhá, tính theo thứ tự cơ, rô, chuồn, bích thì ách cơ sẽ là chữ a, già cơ sẽ là chữ b, đầm cơ chữ c.... theo thứ tự đó, hai rô sẽ là chữ z. Khi một tên gian trong chuyện của ông muốn báo một tin gì cho đồng bọn, hắn chỉ việc xếp những con bài theo thứ tự...

                              Vĩnh gật gù thán phục:

                              - Có lý quá!

                              Khải nói tiếp:

                              - Sau khi nhận tin, tên kia sẽ hủy bỏ ngay một cách rất tự nhiên và dễ dàng bằng cách xào bài là xong.

                              Trong trường hợp bộ bài lọt vào tay phe địch hoặc cảnh sát, ngay khi những người này xem xét những quân bài để tìm dấu tích thì chính họ đã xóa bỏ những dấu tích đó rồi.

                              Vĩnh đập mạnh tay vào đùi:

                              - Hết xẩy!

                              - Ông nên nhớ một điều là một bộ bài thường không đủ vì trong một tin tức nào đó dù thật ngắn cũng có thể có nhiều chữ trùng nhau, bởi thế, mỗi tên gian trong chuyện của ông sẽ có khoảng mười bộ bài để có thể gởi những tin dài cho nhau. Lỡ có ai nhìn thấy những bộ bài này, cùng lắm họ chỉ nghĩ rằng bọn chúng là những tay cờ gian bạc lận mà thôi.

                              Vĩnh có vẻ hứng khởi:

                              - Thật là một sự trùng hợp hiếm hoi. Hồi sáng này lão Thân bên thuế vụ mới cho tôi một thùng bài tây mà lão tịch thu được. Để tôi lấy ra coi.

                              Vĩnh đứng dậy, bước tới cái tủ nhỏ ở góc phòng, mở cửa lấy ra một bọc mười hai bộ bài còn bọc trong giấy bóng kính, đem lại đặt lên bàn:

                              - Bây giờ tôi thử rút vài quân ra xem theo mật mã của ông chúng sẽ thành chữ gì.

                              Vĩnh và Khải cùng xé giấy bóng kính ra, mở hộp, đổ mấy bộ bài lên mặt bàn. Vĩnh rút hai quân:

                              - Bẩy chuồn, ách cơ... là chữ gì?

                              Khải nói ngay:

                              - Bẩy chuồn là chữ h, còn ách cơ là chữ a. Ha.

                              Vĩnh rút thêm bốn lá nữa. Khải coi từng lá một theo thứ tự:

                              - Sáu cơ... là chữ i, chín rô... chữ s, ách chuồn... chữ o, ách rô... chữ n. Như vậy, sáu lá bài mà ông mới rút là chữ haison, có thể là hai sơn hoặc hải sơn gì đó.

                              Mặt Vĩnh chợt tái xanh, hai tay run lẩy bẩy, những giọt mồ hôi không biết ở đâu đột nhiên ướt đầm trên trán. Khải nhìn bạn ngạc nhiên:

                              - ủa, ông... ông làm sao vậy?

                              Vĩnh lắc đầu:

                              - Không... không sao!

                              Khải nhìn bạn lo lắng:

                              - Ông có cảm thấy khó chịu hay là... cái gì không?

                              - Không, tại sao?

                              - À... thì... sau khi tôi đọc mấy lá bài là hai sơn hoặc hải sơn gì đó, ông có vẻ hốt hoảng thấy rõ, mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng làm như mấy chữ này có một ý nghĩa gì rất quan trọng đối với ông.

                              Vĩnh không đáp, chống hai tay lên bàn đứng dậy, lảo đảo đi tới mở tủ lạnh, lấy chai nước rót đầy ly, uống một hơi rồi nói với Khải:

                              - Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mệt chứ không có gì hết.

                              Rồi anh cố lấy vẻ tự nhiên, bước tới ngồi xuống đối diện bạn:

                              - Mật mã của ông hết xẩy. Chắc chắn tôi sẽ xử dụng trong câu chuyện của tôi.

                              Sau buổi tối hôm đó, ngoài những lúc gặp nhau ở truyền hình, mỗi tuần Khải lại tới gặp Vĩnh vài lần xem câu chuyện trinh thám mà Vĩnh dự tính viết đã tới đâu rồi. Tuy nhiên Vĩnh lại bị cái bệnh của các nhà văn mới, nghĩa là rất hăng say khi tìm được một ý tưởng, nhưng khi bắt tay vào việc thì lại không biết mở đầu câu chuyện ra sao.

                              Vĩnh nói với Khải rằng anh không được khỏe và anh chưa muốn khởi sự cho tới khi cảm thấy đầy đủ phong độ.

                              Khải cũng thấy Vĩnh có vẻ bệnh hoạn thật, và không hiểu tại sao, lúc sau này Vĩnh uống rượu nhiều quá.

                              Nói mãi không được, Khải cảm thấy tội nghiệp cho bạn khi thấy Vĩnh có vẻ xuống tinh thần, mặt mày lúc nào cũng bơ phờ hốc hác. Khải nghĩ rằng có lẽ Vĩnh gặp điều gì rất bất thường nên mới thay đổi một cách lạ lùng như vậy.

                              Anh quyết định tìm hiểu để may ra có thể giúp được gì cho bạn.

                              Khoảng một tháng sau, một buổi tối Khải tới cư xá Thanh Đa thăm Vĩnh. Bước hết những bực thang tối tăm, vừa lên tới lầu hai, Khải chợt thấy một bóng đen rời khỏi cửa apartment của Vĩnh bước về phía anh. Khải né sang một bên để người lạ mặt đi qua, nhìn theo ông ta bước thật êm xuống những bực thang. Người lạ mặt có một cái gì bất thường khiến Khải cảm thấy xương sống lạnh buốt. Vừa suy nghĩ, Khải vừa bước tới gõ cửa căn apartment của Vĩnh.

                              Tiếng gõ cửa của Khải được đáp lại bằng một giọng đầy vẻ hoảng hốt của Vĩnh:

                              - Ai đó? Ai đó?

                              - À, Khải đây.
                              Vừa nói, Khải vừa đẩy cửa bước vào. Trong phòng khách, Vĩnh đầu tóc bù rối, đôi mắt đỏ ngầu đang ngồi trước một núi quân bài trên bàn. Khải nói:

                              - Sao, ông đang làm quen với mấy lá bài để chuẩn bị viết phải không?
                              Hi vọng là tôi không đuổi khách của ông vì khi tôi vừa lên tới lầu hai thì ông ta đã ra khỏi cửa.

                              Khuôn mặt Vĩnh tự nhiên trắng bệch:

                              - Khách của tôi?

                              - Đúng! Một quân nhân.

                              Vĩnh hừ lớn:

                              - Quân nhân? Sao ông biết?

                              - Ông ta bận bộ quân phục tác chiến, dù trong tối tôi cũng thấy rõ. Hình như quân phục Biệt Động thì phải.

                              Vầng trán Vĩnh nhăn lại, giọng anh đầy vẻ hoang mang:

                              - Ông ta... coi ra sao?

                              - Cao lớn. Bộ quân phục có vẻ... không được sạch sẽ lắm, dường như ông ta mới từ mặt trận trở về.

                              Vĩnh đưa hai tay lên ôm mặt:

                              - Hừ! Thì ra đó là sự thật! Tôi không bị ảo giác. Tôi không điên vì chính ông cũng thấy. Ông nói đúng, hắn ta vừa trở về từ mặt trận, nhưng đó là mặt trận dưới địa ngục.

                              Khải nhìn bạn không chớp mắt, trong bụng nghĩ thầm “Chà! Tên này coi bộ không khá rồi!”, tuy nhiên ngoài miệng cố nói một cách vui vẻ:

                              - Nếu tôi không lầm thì ông đã có những ý tưởng mới cho câu chuyện. Ông đã khởi sự chưa? À, có lẽ chưa vì ông còn đang dợt những mật mã mà tôi sáng chế, phải không?

                              Dứt lời, Khải cất tiếng cười cho không khí bớt nặng nề. Nhưng Vĩnh lừ mắt, gằn giọng:

                              - Ông không sáng chế cái gì hết! Cái ý tưởng đó được nhét vào đầu óc ông và ra lệnh cho ông đem tới để hành hạ tôi. Tôi luôn luôn tránh né lũ thầy bói, những kẻ nghĩ rằng họ có thể liên lạc được với thế giới bên kia bằng cách... dùng những lá bài. Tối hôm đó, chính ông đã bị thúc đẩy nói ra loại mật mã quái quỉ đó và buộc tôi phải rút mấy lá bài đó.

                              Trước những lời nói không đâu của bạn, Khải bực bội cười khẩy:

                              - Ông đừng giả bộ điên nữa! Chính tôi đã nghĩ ra loại mật mã đó và chính ông đã tự tay rút ra mấy quân bài vô nghĩa đó.

                              Vĩnh nói gần như gào lên:

                              - Tôi không điên! Mấy quân bài đó không phải là vô nghĩa vì nó là tên của một người mà tôi vẫn cố tránh không nghĩ tới.

                              Khải sửng sốt nhìn bạn không nói. Vĩnh chợt thở dài:

                              - Tôi nghĩ rằng có lẽ tôi nên nói với ông tất cả. Bây giờ tôi không cảm thấy hổ thẹn gì nữa vì tôi đang ở trong tình trạng khủng hoảng cùng cực. Khi nào ông ở trong tình trạng khủng hoảng như tôi bây giờ, ông sẽ không còn cảm thấy hổ thẹn gì nữa. Để tôi nói hết cho ông nghe...
                              ...Có lẽ ông đã biết rõ về đời lính của tôi. Tôi chỉ nhập ngũ khi bị động viên. Sau thời gian huấn luyện, tôi bị đưa tới một đơn vị Biệt Động nổi tiếng, và bị đẩy vào một tiểu đội dưới quyền chỉ huy của Hai Sơn.
                              Hai Sơn là người từ binh nhì lên tới trung sĩ và đã mấy lần bị thương. Không ai chối cãi được rằng hắn ta là một quân nhân can trường, nhưng không ai ưa hắn. Có lẽ vì hắn không biết sợ là gì và thường chế nhạo những kẻ mà hắn gọi là đồ chết nhát.

                              Không hiểu tại sao hắn lại đặc biệt lưu ý đến tôi. Có lẽ vì vẻ trí thức của tôi. Cũng có thể vì tôi sợ dơ, sợ khó, sợ khổ. Tôi không biết, mà chỉ biết một điều là hắn đì tôi tối đa. Hắn hành hạ tôi khi ở hậu cứ cũng như ngoài mặt trận. ở hậu cứ, hắn bắt tôi làm những công việc nặng nhọc nhất, bẩn thỉu nhất. Ngoài chiến trường, hắn bắt tôi thi hành những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Những ngày quân ngũ của tôi là những ngày địa ngục! Vì hắn! Đáng lẽ tôi đã được biệt phái ngay từ năm đầu, nhưng tôi tin rằng chính hắn đã tìm cách ngăn chặn. Bởi thế, tôi chỉ mong hắn chết, và tôi không phải là người duy nhất mong muốn điều này, có lẽ chỉ ngoại trừ các sĩ quan vì hắn là người luôn luôn tình nguyện nhận lãnh những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Mỗi lần như vậy, hắn luôn luôn bắt tôi đi cùng vì hắn biết tôi rất ghét những việc đó.
                              Tôi biết hắn đang nghe những gì tôi nói với ông bây giờ, nhưng tôi cóc cần vì tôi chỉ nói với ông một sự thật giữa hắn và tôi. Một đêm, hắn được lệnh dẫn tiểu đội đột nhập đất địch làm công việc trinh sát. Dĩ nhiên hắn bắt tôi đi cùng vì hắn biết tôi rất sợ những công tác như vậy. Xui xẻo cho chúng tôi là có lẽ chúng tôi đã bị địch phát hiện từ đầu, nhưng chúng chờ cho tới khi chúng tôi đi thật sâu vào đất của chúng, chúng mới nổ súng.

                              Tiểu đội của tôi có tám mạng thì sáu bị bắn gục tại chỗ. Chỉ có hắn và tôi chạy thoát. Biết thế nào cũng bị chúng chặn hậu, trong đêm tối, tôi chạy thẳng vào vùng đất địch trước khi chạy về mé trái, hướng về một cánh rừng già, ngược chiều với hướng về đơn vị.

                              Trong đêm tối mịt mù tôi bị lạc. Sau khi đi lang thang trong bóng tối hàng tiếng đồng hồ, tôi té xuống một hố bom, đè lên một xác người. Hai Sơn! Nói là xác người thì không đúng vì hắn chưa chết, chỉ bị thương nặng và mất máu. Hắn dặn tôi nhớ kỹ địa thế nơi đó trước khi ra lệnh cho tôi lập tức trở về đơn vị, đưa người tới cứu hắn.

                              Sau khi được hắn chỉ đường, dù hai chân lết không muốn nổi, tôi cũng phải lập tức lên đường. Tôi không biết ông nghĩ sao về tôi vì sau khi tìm về đơn vị, tôi không nói với ai về Hai Sơn. Lúc đó tôi tự bào chữa rằng việc đưa hai y tá tới cứu hắn quả là một việc làm quá nguy hiểm. Có thể vì máu ra quá nhiều hắn đã chết rồi. Tôi không thể để ba mạng người phải hi sinh vì một xác chết. Tuy ngay hôm sau, một trung đội được lệnh tiến vào đất địch để giải cứu các đồng đội - thực tế là để lượm xác, nhưng không ai đi tới nơi tôi gặp Hai Sơn lần cuối. Mọi người cho rằng hắn đã bị bắt hoặc bị hạ sát.

                              Một thời gian khá lâu sau khi được biệt phái, tôi hiểu rằng linh hồn cuồng nộ của Hai Sơn vẫn đang tìm tôi, vẫn muốn cho tôi biết về sự hiện hữu của hắn. Vì lý do đó, tôi không bao giờ gặp gỡ những người có khả năng liên lạc với người chết. Nhưng rồi chính ông đã đem hắn lại với tôi bằng những mật mã của ông. Khi tôi rút sáu lá bài và ông đọc thành chữ Hai Sơn, tôi biết rằng tôi không còn hi vọng trốn chạy linh hồn cuồng nộ của hắn nữa. Trong trường hợp đó, tôi muốn biết hắn muốn nói gì với tôi. Và kể từ đêm đó, không đêm nào tôi rời khỏi mấy bộ bài. Tôi liên lạc với hắn.

                              Vĩnh ngưng lại. Vẻ mặt thật khổ sở. Khải đập tay lên bàn nói lớn:

                              - Ồ, làm gì có chuyện đó. Ông chỉ bị ám ảnh thôi. Có thể ông suy nghĩ về việc đó nhiều quá.

                              Vĩnh cười khô khan:

                              - Nếu ông không tin, ông hãy xào bài đi. Tôi sẽ quay lưng lại, lượm mấy lá bài. Rồi ông dùng mật mã của ông đọc thử xem tôi nói có đúng hay không.

                              Khải biết rằng cách chữa bệnh ảo tưởng tốt nhất là chứng minh rằng đó chỉ là ảo tưởng. Anh đồng ý:

                              - Được!

                              Trong khi Vĩnh quay lưng, Khải vừa xào bài vừa hỏi:

                              - Ông ta thường nói gì với ông?

                              Vĩnh lên tiếng với vẻ khó khăn:

                              - Những gì ông có thể đoán được. Đe dọa, đắng cay, xỉ vả, hận thù... đủ hết. Hắn không muốn ở đó một mình mà muốn tôi cùng tới đó để hắn có người ăn hiếp và hành hạ như xưa. Xong chưa? Tôi sẽ nhắm mắt khi lượm bài và ông đọc từng chữ khi tôi lật ngửa chúng.

                              Vĩnh rút khá nhiều lá bài và Khải lấy bút ghi vào một tờ giấy những gì những lá bài này “nói” qua mật mã của anh. Viết xong, Khải liếc nhìn và la lên một tiếng hãi hùng vì những chữ do chính tay anh viết là hàng chữ “Mày không chịu tới với tao thì tao tới với mày”.

                              Mấy hôm sau, người ta thấy Vĩnh ngồi chết trên ghế. Trên mặt bàn ngay trước mặt anh là một núi lá bài. Có lẽ Vĩnh đã biết trước những gì xẩy ra cho anh nên anh đã để lại mấy hàng chữ thật lớn trên bàn, yêu cầu không ai được đụng tới bất cứ vật gì cho tới sau khi Khải tới.

                              Buổi trưa, trước khi Khải bước vào apartment của Vĩnh, một người hàng xóm nói với anh:

                              - Có lẽ ông Vĩnh chết từ tối hôm qua vì bác sĩ nói rằng người ông ấy đã lạnh. Người ta đã đưa ông ấy đi rồi tuy mọi thứ trong nhà vẫn đâu ở đó. Hình như nửa đêm hôm qua có người tới gặp ông ấy thì phải. Người đó chắc là quân nhân mới từ mặt trận trở về, vì sáng nay tôi thấy mấy vết giầy sô dính đầy bùn trước cửa.

                              Khải bước vào, tim đập mạnh. Anh nhìn vào một hàng những lá bài lật ngửa. Qua mật mã của chính anh, Khải run lẩy bẩy sau khi đọc hàng chữ: “Mười hai giờ đêm nay. Hai Sơn"


                              (Sưu Tầm)

                              Comment


                              • #30
                                Dì Bụi cứ mang truyện ma ra mà kể hoài làm Evo tui sợ quá chừng, nếu tối nay Evo tui sợ hổng dám ngủ là dì Bụi qua ru Evo ngủ đó nha


                                Je suis comme je suis
                                Je suis faite comme ça
                                Que voulez-vous de plus?
                                Que voulez-vous de moi?

                                Comment

                                Working...
                                X