Trong bài này từ cuốn sách “Chuyện lạ có thật về một con người” của tác giả-đại tá Cao Hùng (NXB Lao Động ấn hành năm 2006), chúng tôi sẽ trích giới thiệu những khả năng siêu phàm của một người Việt Nam tên là ĐVT, sinh ngày mồng 8 tháng Giêng năm Tân Hợi (1971) trong một gia đình nông dân đông anh em, thuộc tỉnh R. Những khả năng đó là: thu phục ma quỷ, biết trước sự vật, viết và đọc được chữ Phạn, điều khiển cảm nhận của người khác, chuyển đổi tâm năng thành cơ năng, chữa bệnh bằng khí v.v...
Lý lịch trích ngang
Bố của T là ĐVH, tính đến năm 2007 là 64 tuổi, mẹ là LTH 63 tuổi. Theo bà H kể lại, bà có mang T đến 11 tháng, sinh T trong một cái bọc lúc 10 giờ đêm, khi bọc được xé ra không thấy T khóc mà lại nhoẻn miệng cười, sau hơn một giờ mới cất tiếng khóc.
Lên 3 tuổi, bố mẹ T làm giấy khoản nhờ ông ngoại nuôi. Ngôi nhà mà vợ chồng T đang ở hiện nay do ông ngoại để lại, thuộc thôn B, xã M, huyện S, tỉnh H. Một bà cô không chồng cùng ở với ông ngoại đã nuôi dưỡng T từ ba tuổi cho đến khi trưởng thành.
T đã phát triển bình thường như những đứa trẻ khác trong làng. T học đến lớp chín thì thôi, ở nhà lao động và buôn bán vặt giúp gia đình.
Người mà T yêu quý nhất chính là ông ngoại. T gọi bố mẹ theo thứ tự như anh chị gọi các em. Vì bố là con thứ năm và mẹ là con thứ tư nên T gọi bố là “Năm”, gọi mẹ là “Bốn”. Khi hỏi thì T trả lời như sau: bố mẹ chỉ sinh phần xác, còn phần hồn thuộc về một cõi giới khác.
Theo T kể lại, việc anh ta lấy vợ là để làm vui lòng gia đình, chứ bản thân không thích người khác giới. Vợ chồng T có một cặp con gái sinh đôi, năm nay 9 tuổi, còn vợ T 35 tuổi, làm ruộng, chăn nuôi và chạy chợ lúc nông nhàn.
Những chuyện lạ về T bắt đầu từ năm 1996. Từ lúc thôi học, T làm được mọi việc ở nông thôn. Ai nhờ việc gì T cũng nhận giúp như đào mương, đắp nền nhà, cuốc vườn v.v...
Vào một sáng mùa thu năm 1996, T dùng xe ba gác chở đất đắp nền nhà cho một gia đình. Một lần khi đi được nửa đường, bỗng nhiên T bỏ lại xe đất, chẳng nói chẳng rằng chạy thẳng một mạch về nhà, rồi toạ thiền trước bàn thờ gia tiên suốt ba ngày đêm mà không ăn không uống. Người nhà hỏi gì cũng không nói. T ngồi kiểu kiết già, im lặng như một pho tượng.
Cả nhà T hốt hoảng. Người ta bảo T bị ma ám hoặc tâm thần. Mặc cho mọi người nói gì thì nói, còn T vẫn im lặng thiền. Cho đến khi bố T bảo người nhà thuê xe ô tô đưa anh ta đi viện thì T mới lên tiếng: “Năm dẹp cái chuyện thuê xe đưa tôi vào bệnh viện đi! Tôi không đau ốm gì đâu”. Ông H nói: “Không đi bệnh viện cũng được, nhưng con phải ăn uống gì chứ. Ba ngày rồi, ngồi mãi chịu sao nổi”. Rồi ông thúc người nhà dọn cơm cho T ăn.
Khi T buộc phải ngồi ăn cơm thì một chuyện lạ khác lại xảy ra. Đúng lúc một tay T bưng bát cơm, tay kia cầm đũa định đưa bát cơm lên miệng và thì cả bát cơm và đũa đều rơi tung toé xuống bàn. T đứng dậy nói: “Trên bảo từ nay trở về sau không được ăn cơm mà chỉ ăn rau, hoa quả thôi!”. Cả nhà ai cũng trố mắt ngạc nhiên. Từ đó về sau T chỉ ăn rau và một ít hoa quả. Còn những lúc luyện khí thì T hầu như nhịn ăn.
Về uống, T thích uống nước dừa từ quả (rót ra cốc thì T không uống). Cũng vậy, T chỉ uống nước khoáng từ chai còn nguyên. Các loại nước khác như nước ngọt, chè, cà phê T đều không uống.
Đặc biệt vào những ngày 30, 1, 14, 15 âm lịch T hoàn toàn nhịn ăn. Và từ lần rơi bát đũa trở về sau, T không cầm đũa được nữa mà chỉ ăn bốc.
Đối với T, về mặc cũng có điều lạ kỳ. Mùa đông anh ta chỉ mặc phong phanh một chiếc áo lót và áo khoác. Ngược lại, vào mùa hè tuy nóng nực nhưng T lại mặc nhiều lớp quần áo. Anh ta không tắm như người thường. Mỗi lần muốn tắm, anh ta cởi quần áo ngoài, ngồi thiền và vận khí cho toát mồ hôi rồi lấy khăn lau là được. Tuy vậy, người T vẫn sạch sẽ, không hôi hám gì. Đôi khi T cũng có tắm bằng nước.
T ngủ rất ít vào ban đêm. Trong khi mọi người ngủ, T ra ngoài trời luyện tập khí công tháng này qua tháng khác. T bảo có thầy hướng dẫn, nhưng rõ ràng đó là thầy vô hình chứ không phải thầy bằng da bằng thịt. Sau khi bắt đầu ăn rau thay cơm, T không quan hệ tình cảm với vợ nữa. T bảo vợ có thể tự do đi lấy chồng khác. Dù rất buồn và khổ sở nhưng cô ta ở lại với T như một người giúp việc cần mẫn. Có thể nói, hơn chục năm nay T không có những ham muồn trần tục.
Khả năng thu phục ma quỷ
Trong khi khoa học chưa thừa nhận có sự tồn tại ma quỷ thì chúng vẫn hiện hữu và quậy phá nhan nhản khắp mọi nơi. Sau đây là một số mẩu chuyện về khả năng thu phục ma quỷ của T.
Dẹp ổ ma quỷ trên cầu - Một hôm, mấy anh em đi xe máy ra Đà Nẵng. Khi đi đến cầu Câu Lâu, chiếc cầu dài nhất ở Quảng Nam, thì bị tắc đường. Ô tô bị dồn lại mấy chục chiếc. T nói ngay: “Tôi biết vì sao, để tôi lên giải quyết cho!”. T đi chen lên tới giữa cầu thấy một chiếc xe tải nằm ngang ngăn đường, không có ai chết hoặc bị thương. Rồi T lách qua phía trước chiếc xe và nói to: “Tôi biết chiếc xe ngăn đường là do các vị gây ra. Các vị ngự trên cầu này gây bao tai nạn cho dân lành. Các vị tưởng nhầm làm cho người ta chết, người ta thay thế mình để siêu thoát. Không có chuyện đó đâu! Muốn siêu thoát thì rủ nhau lên núi tìm hang động mà tu. Tôi tuyên bố không cho các vị ở đây nữa. Tôi phá bỏ chỗ ẩn náu của các vị đây!”.
Nói xong, T tiến lên hai bên thành cầu nơi nào có các am thờ người tử nạn (do dân dựng lên để hương khói cho vong linh người chết), anh ta đạp hết xuống sông, đồng thời đập vỡ tất cả các bát hương (việc này xưa nay ít có thầy pháp nào dám làm). Từ đó trên cầu Câu Lâu không thấy tai nạn xảy ra nữa.
Dẹp trừ “quỷ hai màu” - Ở xã Kế Xuyên, huyện Thăng Bình có một anh nông dân tên N bỗng nhiên bị điên rất dữ dội. Anh ta lấy lửa đốt nhà, đập phá đồ đạc, đánh vợ, đánh con. Gia đình phải lấy xích sắt xích anh ta vào cột nhà. Các thầy pháp có tiếng cao tay, các nhà sư đã được gia đình mời đến nhưng tất cả đều bất lực.
Gia đình N nhờ đến T. Khi đến nhà, T bảo người nhà mở xích cho N nhưng không ai dám làm vậy vì sợ N quậy phá. T bảo: “Cứ mở cho anh ta, có tôi anh ta không làm gì đâu, tôi chịu trách nhiệm”. Sau khi mở xong, N ngồi yên một chỗ không đập phá gì. T lấy chiếc ghế ngồi trước mặt N, bắt đầu hỏi:
- Nhà người có biết ta là ai không?
- Dạ biết!
- Biết được là tốt! Thế xưng tên họ đi! Đầu đuôi câu chuyện ra sao?
- Dạ, thưa ông, bên cõi Âm thường gọi con là con quỷ hai màu. Con tu luyện ở cái hồ sen này nhiều năm rồi. Tình cờ con gặp anh N. Từ đó hai người quen nhau, qua thời gian chúng con yêu nhau thắm thiết. Trưa hôm đó, con đang say trong vòng tay tình cảm của anh ấy lúc rời nhau không còn biết gì nữa, con lỡ chân bước xuống hồ. Anh N đã phát hiện ra con là ma, chạy về nhà rồi hóa điên.
- Được rồi, ta nói cho biết, ngươi là con quỷ hai màu chứ mười màu đối với ta cũng không nghĩa lý gì.
- Dạ, con biết. Gặp ông con xin khai thật, không dám giấu điều gì. Trong muôn ngàn kiếp trước, con với anh ấy đã có lần là vợ chồng, nay gặp lại con không thể bỏ anh ấy được, ông nghĩ tình thương cho.
- Điều nhà ngươi nói là không thể được. Cõi Trần là cõi Trần, cõi Âm là cõi Âm, âm dương cách biệt không thể nào yêu thương nhau được. Anh N có gia đình, vợ con. Việc ngươi làm vừa rồi là phá nát gia đình, hạnh phúc người ta, rồi bắt người ta điên. Tội nhà ngươi to lắm! Biết không?
- Dạ con biết rồi, cầu xin ông tha mạng cho.
- Ăn năn hối hận được là tốt. Ta sẽ tha cho nhà ngươi với một điều kiện là lập tức rời bỏ hồ sen, lên núi cao tìm một hang động thực sự tu hành, sám hối tội lỗi của mình, quên ngay mối tình vớ vẩn đó đi. Nếu không nghe ta bóp chết ngay tại đây.
- Dạ, ông tha cho con, con xin nghe lời ông!
- Thôi, nhà ngươi đi được rồi!
- Dạ, xin chào ông, con đi ngay bây giờ!
Nói xong câu ấy, N rùng mình một cái, ngồi thẫn thờ, một lát sau thì tỉnh hẳn, hết điên, trở lại bình thường. Sau này, N kể lại việc điên của mình cho T biết:
Anh ta có một hồ sen lớn cách nhà khoảng dăm kilômét. Đến mùa sen, N làm một cái chòi, hàng ngày lên đó nghỉ ngơi và trông giữ sen. Mỗi lần lên hồ trông sen, anh ta thường gặp một phụ nữ độ 30 tuổi, người dễ coi, vác cuốc đi tháo nước ruộng. Từ đó hai người quen nhau, có cảm tình và yêu nhau. Ngày nào gần như hai người cũng gặp nhau trong chòi. Và lần nào cũng vậy, đến 12 giờ trưa chị ta xin phép về lo cơm nước. Thường ngày mỗi lần về, từ trên chòi chị ta bước chân xuống bờ ruộng, rồi theo bờ ruộng đi về. Nhưng buổi trưa hôm ấy, có lẽ quá say về tình, chị ta quên không bước chân xuống bờ ruộng mà lại bước xuống phía hồ, rơi tõm xuống nước. Thấy vậy, N sợ quá la lên: “Ma, tôi gặp ma, cứu tôi với bà con ơi!” Rồi N tháo vội cái võng, chạy một mạch về nhà. Chị ta từ dưới hồ vọt lên, chạy theo gọi: “Anh ơi dừng lại, em là người không phải ma đâu!”. Dù vậy, N vẫn không đứng lại. Khi về đến nhà thì N thành người điên.
Điều khiển vong nhập - Tác giả Cao Hùng đã chứng kiến T có khả năng điều khiển vong nhập vào một người người phụ nữ chính là vợ của ông Trưởng công an huyện. Hôm đó có 7 người, ngoài ông Cao Hùng còn có bác Hoàng và 5 anh chị em khác. Do có nhiều người đến nhà T nên công an xã đã ập đến lập biên bản. Sau khi các công an xã ra về, T mời chị ta lên phản ngồi và hỏi: “Tôi nghe nói chị được một bà ở cõi vô vi mến, thỉnh thoảng nhập vào chị phán bảo nhiều chuyện hay lắm. Giờ chị mời bà ấy về cho tôi hỏi vài việc được không?”. Chị ta trả lời: “Lúc nào bà về là về, em không biết gì hết! Bà nói gì em cũng không biết, làm sao em mời được!”.
Chị này khoảng 35 tuổi, nước da trắng mịn, xinh gái. T nói tiếp: “Chị không mời được, để tôi mời. Chị cứ ngồi yên thế!”. Nói xong, T ngồi kiết già kiểu hoa sen, hai tay chắp lại theo ấn Quán thế âm. Sau khoảng 3 phút, chị ta ợ lên mấy tiếng và chuyện lạ bắt đầu xảy ra.
Ông Cao Hùng ngồi gần nên trông chị ta rất rõ. Sau khi ợ mấy tiếng, nước da chị ta từ màu trắng chuyển sang màu nâu sậm như da người dân tộc. Vẫn nguyên là khuôn mặt của chị, nhưng nét duyên dáng, dễ nhìn của người con gái Kinh trước đó không còn nữa, thay vào là nét mặt người phụ nữ dân tộc kiên nghị, rắn rỏi. Riêng chuyện đó đã là quá lạ, nhưng những gì diễn biến tiếp theo còn làm mọi người ngạc nhiên hơn.
Chị ta bắt đầu nói bằng tiếng dân tộc. T đáp lại cũng bằng tiếng dân tộc đó. Hai bên trao đổi với nhau một hồi bằng tiếng dân tộc. Độ 15 phút sau, T nói tiếng Kinh với anh em: “Vừa rồi bà kể với tôi bà là người dân tộc trên vùng cao Quảng Nam. Nhờ tu hành đắc đạo nên được phong danh hiệu Cao sơn Thánh mẫu. Trên phái bà xuống Trần nhưng bà rất buồn vì không hoàn thành nhiệm vụ được giao”.
T vừa nói dứt lời, “bà” ta bật sang nói tiếng Kinh: “Ông nói rất đúng! Tôi nói thêm để các ông biết. Tôi đã đi nhiều nơi, thấy nhân dân ta chưa phân biệt được đâu là khoa học tâm linh chân chính, đâu là mê tín dị đoan. Những người có chức có quyền coi hiện tượng nào cũng mê tín tuốt tuột. Do vậy, tôi không làm được nhiệm vụ. Tôi buồn lắm!”.
Mọi người ngồi nghe thấm thía như nuốt lấy từng lời. Riêng ông Cao Hùng có cảm nhận người này có trình độ khá vững, nói như một nhà khoa học.
Rồi “bà” hỏi T bằng tiếng Kinh: Ông định hỏi gì tôi thì hỏi đi?”. Từ đây hai bên dùng tiếng Kinh. T nói: “Tôi chỉ hỏi bà hai câu thôi. Câu thứ nhất: “Tôi có nên tiếp tục chữa bệnh nữa không, chữa bệnh cho dân không lấy tiền của ai vẫn bị cấm. Tôi ngán lắm muốn thôi cho rảnh có được không?”.
“Bà” ta nói: “Ông không được thôi, nhiệm vụ đó quan trọng lắm, có lợi cho dân. Tuy ông có khó khăn, phiền phức, nhưng ông vẫn làm được nhiệm vụ, không giống như tôi!”.
T hỏi tiếp câu thứ hai: “Chừng nào tôi thoát khỏi khó khăn, phiền phức đó?”. “Bà” ta trả lời: “Chỉ vài năm nữa thôi, ông phải tiếp tục rèn luyện tâm đức, cứ chữa khỏi cho nhiều người, nhiều bệnh, ai cũng công nhận ông chữa đạt hiệu quả thì sẽ không còn khó khăn, phiền phức nữa! Tôi nhắc lại, ông không được thôi chữa bệnh đấy! Nếu ông không hỏi gì nữa, xin chào ông!”.
Nói xong, chị ta ợ lên mấy tiếng. Gương mặt dần trở lại bình thường như trước. Ông Cao Hùng hỏi: “Vừa rồi chị có biết chị nói gì không?”. Chị ta đáp: “Em vừa ngủ một giấc dài có biết gì đâu, giờ thức dậy thấy đầu nặng lắm!”.
Nguyễn Hiếu (Sưu tầm và tổng hợp)
Lý lịch trích ngang
Bố của T là ĐVH, tính đến năm 2007 là 64 tuổi, mẹ là LTH 63 tuổi. Theo bà H kể lại, bà có mang T đến 11 tháng, sinh T trong một cái bọc lúc 10 giờ đêm, khi bọc được xé ra không thấy T khóc mà lại nhoẻn miệng cười, sau hơn một giờ mới cất tiếng khóc.
Lên 3 tuổi, bố mẹ T làm giấy khoản nhờ ông ngoại nuôi. Ngôi nhà mà vợ chồng T đang ở hiện nay do ông ngoại để lại, thuộc thôn B, xã M, huyện S, tỉnh H. Một bà cô không chồng cùng ở với ông ngoại đã nuôi dưỡng T từ ba tuổi cho đến khi trưởng thành.
T đã phát triển bình thường như những đứa trẻ khác trong làng. T học đến lớp chín thì thôi, ở nhà lao động và buôn bán vặt giúp gia đình.
Người mà T yêu quý nhất chính là ông ngoại. T gọi bố mẹ theo thứ tự như anh chị gọi các em. Vì bố là con thứ năm và mẹ là con thứ tư nên T gọi bố là “Năm”, gọi mẹ là “Bốn”. Khi hỏi thì T trả lời như sau: bố mẹ chỉ sinh phần xác, còn phần hồn thuộc về một cõi giới khác.
Theo T kể lại, việc anh ta lấy vợ là để làm vui lòng gia đình, chứ bản thân không thích người khác giới. Vợ chồng T có một cặp con gái sinh đôi, năm nay 9 tuổi, còn vợ T 35 tuổi, làm ruộng, chăn nuôi và chạy chợ lúc nông nhàn.
Những chuyện lạ về T bắt đầu từ năm 1996. Từ lúc thôi học, T làm được mọi việc ở nông thôn. Ai nhờ việc gì T cũng nhận giúp như đào mương, đắp nền nhà, cuốc vườn v.v...
Vào một sáng mùa thu năm 1996, T dùng xe ba gác chở đất đắp nền nhà cho một gia đình. Một lần khi đi được nửa đường, bỗng nhiên T bỏ lại xe đất, chẳng nói chẳng rằng chạy thẳng một mạch về nhà, rồi toạ thiền trước bàn thờ gia tiên suốt ba ngày đêm mà không ăn không uống. Người nhà hỏi gì cũng không nói. T ngồi kiểu kiết già, im lặng như một pho tượng.
Cả nhà T hốt hoảng. Người ta bảo T bị ma ám hoặc tâm thần. Mặc cho mọi người nói gì thì nói, còn T vẫn im lặng thiền. Cho đến khi bố T bảo người nhà thuê xe ô tô đưa anh ta đi viện thì T mới lên tiếng: “Năm dẹp cái chuyện thuê xe đưa tôi vào bệnh viện đi! Tôi không đau ốm gì đâu”. Ông H nói: “Không đi bệnh viện cũng được, nhưng con phải ăn uống gì chứ. Ba ngày rồi, ngồi mãi chịu sao nổi”. Rồi ông thúc người nhà dọn cơm cho T ăn.
Khi T buộc phải ngồi ăn cơm thì một chuyện lạ khác lại xảy ra. Đúng lúc một tay T bưng bát cơm, tay kia cầm đũa định đưa bát cơm lên miệng và thì cả bát cơm và đũa đều rơi tung toé xuống bàn. T đứng dậy nói: “Trên bảo từ nay trở về sau không được ăn cơm mà chỉ ăn rau, hoa quả thôi!”. Cả nhà ai cũng trố mắt ngạc nhiên. Từ đó về sau T chỉ ăn rau và một ít hoa quả. Còn những lúc luyện khí thì T hầu như nhịn ăn.
Về uống, T thích uống nước dừa từ quả (rót ra cốc thì T không uống). Cũng vậy, T chỉ uống nước khoáng từ chai còn nguyên. Các loại nước khác như nước ngọt, chè, cà phê T đều không uống.
Đặc biệt vào những ngày 30, 1, 14, 15 âm lịch T hoàn toàn nhịn ăn. Và từ lần rơi bát đũa trở về sau, T không cầm đũa được nữa mà chỉ ăn bốc.
Đối với T, về mặc cũng có điều lạ kỳ. Mùa đông anh ta chỉ mặc phong phanh một chiếc áo lót và áo khoác. Ngược lại, vào mùa hè tuy nóng nực nhưng T lại mặc nhiều lớp quần áo. Anh ta không tắm như người thường. Mỗi lần muốn tắm, anh ta cởi quần áo ngoài, ngồi thiền và vận khí cho toát mồ hôi rồi lấy khăn lau là được. Tuy vậy, người T vẫn sạch sẽ, không hôi hám gì. Đôi khi T cũng có tắm bằng nước.
T ngủ rất ít vào ban đêm. Trong khi mọi người ngủ, T ra ngoài trời luyện tập khí công tháng này qua tháng khác. T bảo có thầy hướng dẫn, nhưng rõ ràng đó là thầy vô hình chứ không phải thầy bằng da bằng thịt. Sau khi bắt đầu ăn rau thay cơm, T không quan hệ tình cảm với vợ nữa. T bảo vợ có thể tự do đi lấy chồng khác. Dù rất buồn và khổ sở nhưng cô ta ở lại với T như một người giúp việc cần mẫn. Có thể nói, hơn chục năm nay T không có những ham muồn trần tục.
Khả năng thu phục ma quỷ
Trong khi khoa học chưa thừa nhận có sự tồn tại ma quỷ thì chúng vẫn hiện hữu và quậy phá nhan nhản khắp mọi nơi. Sau đây là một số mẩu chuyện về khả năng thu phục ma quỷ của T.
Dẹp ổ ma quỷ trên cầu - Một hôm, mấy anh em đi xe máy ra Đà Nẵng. Khi đi đến cầu Câu Lâu, chiếc cầu dài nhất ở Quảng Nam, thì bị tắc đường. Ô tô bị dồn lại mấy chục chiếc. T nói ngay: “Tôi biết vì sao, để tôi lên giải quyết cho!”. T đi chen lên tới giữa cầu thấy một chiếc xe tải nằm ngang ngăn đường, không có ai chết hoặc bị thương. Rồi T lách qua phía trước chiếc xe và nói to: “Tôi biết chiếc xe ngăn đường là do các vị gây ra. Các vị ngự trên cầu này gây bao tai nạn cho dân lành. Các vị tưởng nhầm làm cho người ta chết, người ta thay thế mình để siêu thoát. Không có chuyện đó đâu! Muốn siêu thoát thì rủ nhau lên núi tìm hang động mà tu. Tôi tuyên bố không cho các vị ở đây nữa. Tôi phá bỏ chỗ ẩn náu của các vị đây!”.
Nói xong, T tiến lên hai bên thành cầu nơi nào có các am thờ người tử nạn (do dân dựng lên để hương khói cho vong linh người chết), anh ta đạp hết xuống sông, đồng thời đập vỡ tất cả các bát hương (việc này xưa nay ít có thầy pháp nào dám làm). Từ đó trên cầu Câu Lâu không thấy tai nạn xảy ra nữa.
Dẹp trừ “quỷ hai màu” - Ở xã Kế Xuyên, huyện Thăng Bình có một anh nông dân tên N bỗng nhiên bị điên rất dữ dội. Anh ta lấy lửa đốt nhà, đập phá đồ đạc, đánh vợ, đánh con. Gia đình phải lấy xích sắt xích anh ta vào cột nhà. Các thầy pháp có tiếng cao tay, các nhà sư đã được gia đình mời đến nhưng tất cả đều bất lực.
Gia đình N nhờ đến T. Khi đến nhà, T bảo người nhà mở xích cho N nhưng không ai dám làm vậy vì sợ N quậy phá. T bảo: “Cứ mở cho anh ta, có tôi anh ta không làm gì đâu, tôi chịu trách nhiệm”. Sau khi mở xong, N ngồi yên một chỗ không đập phá gì. T lấy chiếc ghế ngồi trước mặt N, bắt đầu hỏi:
- Nhà người có biết ta là ai không?
- Dạ biết!
- Biết được là tốt! Thế xưng tên họ đi! Đầu đuôi câu chuyện ra sao?
- Dạ, thưa ông, bên cõi Âm thường gọi con là con quỷ hai màu. Con tu luyện ở cái hồ sen này nhiều năm rồi. Tình cờ con gặp anh N. Từ đó hai người quen nhau, qua thời gian chúng con yêu nhau thắm thiết. Trưa hôm đó, con đang say trong vòng tay tình cảm của anh ấy lúc rời nhau không còn biết gì nữa, con lỡ chân bước xuống hồ. Anh N đã phát hiện ra con là ma, chạy về nhà rồi hóa điên.
- Được rồi, ta nói cho biết, ngươi là con quỷ hai màu chứ mười màu đối với ta cũng không nghĩa lý gì.
- Dạ, con biết. Gặp ông con xin khai thật, không dám giấu điều gì. Trong muôn ngàn kiếp trước, con với anh ấy đã có lần là vợ chồng, nay gặp lại con không thể bỏ anh ấy được, ông nghĩ tình thương cho.
- Điều nhà ngươi nói là không thể được. Cõi Trần là cõi Trần, cõi Âm là cõi Âm, âm dương cách biệt không thể nào yêu thương nhau được. Anh N có gia đình, vợ con. Việc ngươi làm vừa rồi là phá nát gia đình, hạnh phúc người ta, rồi bắt người ta điên. Tội nhà ngươi to lắm! Biết không?
- Dạ con biết rồi, cầu xin ông tha mạng cho.
- Ăn năn hối hận được là tốt. Ta sẽ tha cho nhà ngươi với một điều kiện là lập tức rời bỏ hồ sen, lên núi cao tìm một hang động thực sự tu hành, sám hối tội lỗi của mình, quên ngay mối tình vớ vẩn đó đi. Nếu không nghe ta bóp chết ngay tại đây.
- Dạ, ông tha cho con, con xin nghe lời ông!
- Thôi, nhà ngươi đi được rồi!
- Dạ, xin chào ông, con đi ngay bây giờ!
Nói xong câu ấy, N rùng mình một cái, ngồi thẫn thờ, một lát sau thì tỉnh hẳn, hết điên, trở lại bình thường. Sau này, N kể lại việc điên của mình cho T biết:
Anh ta có một hồ sen lớn cách nhà khoảng dăm kilômét. Đến mùa sen, N làm một cái chòi, hàng ngày lên đó nghỉ ngơi và trông giữ sen. Mỗi lần lên hồ trông sen, anh ta thường gặp một phụ nữ độ 30 tuổi, người dễ coi, vác cuốc đi tháo nước ruộng. Từ đó hai người quen nhau, có cảm tình và yêu nhau. Ngày nào gần như hai người cũng gặp nhau trong chòi. Và lần nào cũng vậy, đến 12 giờ trưa chị ta xin phép về lo cơm nước. Thường ngày mỗi lần về, từ trên chòi chị ta bước chân xuống bờ ruộng, rồi theo bờ ruộng đi về. Nhưng buổi trưa hôm ấy, có lẽ quá say về tình, chị ta quên không bước chân xuống bờ ruộng mà lại bước xuống phía hồ, rơi tõm xuống nước. Thấy vậy, N sợ quá la lên: “Ma, tôi gặp ma, cứu tôi với bà con ơi!” Rồi N tháo vội cái võng, chạy một mạch về nhà. Chị ta từ dưới hồ vọt lên, chạy theo gọi: “Anh ơi dừng lại, em là người không phải ma đâu!”. Dù vậy, N vẫn không đứng lại. Khi về đến nhà thì N thành người điên.
Điều khiển vong nhập - Tác giả Cao Hùng đã chứng kiến T có khả năng điều khiển vong nhập vào một người người phụ nữ chính là vợ của ông Trưởng công an huyện. Hôm đó có 7 người, ngoài ông Cao Hùng còn có bác Hoàng và 5 anh chị em khác. Do có nhiều người đến nhà T nên công an xã đã ập đến lập biên bản. Sau khi các công an xã ra về, T mời chị ta lên phản ngồi và hỏi: “Tôi nghe nói chị được một bà ở cõi vô vi mến, thỉnh thoảng nhập vào chị phán bảo nhiều chuyện hay lắm. Giờ chị mời bà ấy về cho tôi hỏi vài việc được không?”. Chị ta trả lời: “Lúc nào bà về là về, em không biết gì hết! Bà nói gì em cũng không biết, làm sao em mời được!”.
Chị này khoảng 35 tuổi, nước da trắng mịn, xinh gái. T nói tiếp: “Chị không mời được, để tôi mời. Chị cứ ngồi yên thế!”. Nói xong, T ngồi kiết già kiểu hoa sen, hai tay chắp lại theo ấn Quán thế âm. Sau khoảng 3 phút, chị ta ợ lên mấy tiếng và chuyện lạ bắt đầu xảy ra.
Ông Cao Hùng ngồi gần nên trông chị ta rất rõ. Sau khi ợ mấy tiếng, nước da chị ta từ màu trắng chuyển sang màu nâu sậm như da người dân tộc. Vẫn nguyên là khuôn mặt của chị, nhưng nét duyên dáng, dễ nhìn của người con gái Kinh trước đó không còn nữa, thay vào là nét mặt người phụ nữ dân tộc kiên nghị, rắn rỏi. Riêng chuyện đó đã là quá lạ, nhưng những gì diễn biến tiếp theo còn làm mọi người ngạc nhiên hơn.
Chị ta bắt đầu nói bằng tiếng dân tộc. T đáp lại cũng bằng tiếng dân tộc đó. Hai bên trao đổi với nhau một hồi bằng tiếng dân tộc. Độ 15 phút sau, T nói tiếng Kinh với anh em: “Vừa rồi bà kể với tôi bà là người dân tộc trên vùng cao Quảng Nam. Nhờ tu hành đắc đạo nên được phong danh hiệu Cao sơn Thánh mẫu. Trên phái bà xuống Trần nhưng bà rất buồn vì không hoàn thành nhiệm vụ được giao”.
T vừa nói dứt lời, “bà” ta bật sang nói tiếng Kinh: “Ông nói rất đúng! Tôi nói thêm để các ông biết. Tôi đã đi nhiều nơi, thấy nhân dân ta chưa phân biệt được đâu là khoa học tâm linh chân chính, đâu là mê tín dị đoan. Những người có chức có quyền coi hiện tượng nào cũng mê tín tuốt tuột. Do vậy, tôi không làm được nhiệm vụ. Tôi buồn lắm!”.
Mọi người ngồi nghe thấm thía như nuốt lấy từng lời. Riêng ông Cao Hùng có cảm nhận người này có trình độ khá vững, nói như một nhà khoa học.
Rồi “bà” hỏi T bằng tiếng Kinh: Ông định hỏi gì tôi thì hỏi đi?”. Từ đây hai bên dùng tiếng Kinh. T nói: “Tôi chỉ hỏi bà hai câu thôi. Câu thứ nhất: “Tôi có nên tiếp tục chữa bệnh nữa không, chữa bệnh cho dân không lấy tiền của ai vẫn bị cấm. Tôi ngán lắm muốn thôi cho rảnh có được không?”.
“Bà” ta nói: “Ông không được thôi, nhiệm vụ đó quan trọng lắm, có lợi cho dân. Tuy ông có khó khăn, phiền phức, nhưng ông vẫn làm được nhiệm vụ, không giống như tôi!”.
T hỏi tiếp câu thứ hai: “Chừng nào tôi thoát khỏi khó khăn, phiền phức đó?”. “Bà” ta trả lời: “Chỉ vài năm nữa thôi, ông phải tiếp tục rèn luyện tâm đức, cứ chữa khỏi cho nhiều người, nhiều bệnh, ai cũng công nhận ông chữa đạt hiệu quả thì sẽ không còn khó khăn, phiền phức nữa! Tôi nhắc lại, ông không được thôi chữa bệnh đấy! Nếu ông không hỏi gì nữa, xin chào ông!”.
Nói xong, chị ta ợ lên mấy tiếng. Gương mặt dần trở lại bình thường như trước. Ông Cao Hùng hỏi: “Vừa rồi chị có biết chị nói gì không?”. Chị ta đáp: “Em vừa ngủ một giấc dài có biết gì đâu, giờ thức dậy thấy đầu nặng lắm!”.
Nguyễn Hiếu (Sưu tầm và tổng hợp)
Comment