Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Giết con chim nhại -Tác giả: Harper Lee

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Chương 16




    Jem nghe tiếng tôi sụt sịt. Anh thò đầu qua cửa thông giữa hai phòng. Khi anh đến bên giường tôi đèn của bố Atticus đã bật lên. Chúng tôi ở yên tại chỗ cho đến khi ánh đèn đó tắt; chúng tôi nghe ông trở mình, và chờ cho đến khi ông im lặng trở lại.
    Jem dẫn tôi qua phòng anh và đặt tôi lên giường cạnh anh. “Ráng ngủ đi” anh nói. “Có lẽ ngày mai mọi chuyện sẽ qua thôi”.
    Chúng tôi lặng lẽ vào nhà, để không làm bà bác thức giấc. Bố Atticus tắt máy xe trên đường rẽ vào nhà và thả cho xe chạy đến nhà xe; chúng tôi vào bằng cửa sau và ai về phòng nấy không nói một lời. Toi quá mệt, và trôi vào giấc ngủ với ký ức về việc bố Atticus bình tĩnh xếp tờ báo và đẩy mũ ra sau trở thành bố Atticus đang đứng giữa con đường chờ trống trơn, đẩy cặp kính lên. Việc hiểu rõ ý nghĩa của các sự kiện trong đêm làm tôi khóc. Jem quá tế nhị trong chuyện này: như một ngoại lệ anh nhắc tôi nhớ rằng những người gần chín tuổi không làm những việc giống như vậy.
    Sáng nay mọi người ăn không thấy ngon, trừ Jem; anh ăn hết ba quả trứng. Bố Atticus theo dõi với vẻ thán phục rõ ràng; bác Alexandra nhấp cà phê và lộ vẻ không tán thành theo từng chặp. Trẻ con lẻn ra ngoài vào ban đêm là một nỗi ô nhục cho gia đình. Bố Atticus nói rằng ông rất vui vì những ô nhục của ông đã đi theo ông, nhưng bà bác nói, “Nhảm nhí, ông Underwood lúc nào cũng ở đó”.
    “Chị biết đó, có một điều buồn cười ở ông Braxton này” bố Atticus nói. “Ông ta khinh thường người da đen, sẽ không để người nào ở gần ông ta”.
    Quan điểm địa phương cho rằng ông Underwood là một con người nhỏ thó báng bổ, mạnh mẽ, cha ông ta trong một lúc nổi máu hài hước quái dị đã đặt tên thánh cho ông là Braxton Bragg [1], một cái tên mà ông Underwood đã làm hết sức để mọi người quên đi. Bố Atticus nói việc đặt tên cho con theo các tướng lĩnh miền Nam khiến người ta uống rượu lâu say.
    Calpurnia phục vụ thêm cà phê cho bác Alexandra, và bác lắc đầu trước những gì mà tôi nghĩ là ánh mắt nài xin đầy thuyết phục. “Cháu còn nhỏ quá” bà nói. “Bác sẽ nói cho cháu nghe khi cháu lớn hơn”. Tôi nói như thể có ích cho dạ dày tôi. “Được rồi” bà nói, và lấy một cái tách từ tủ bát đĩa. Bà rót một thìa cà phê vào đó và chế sữa tới miệng tách. Tôi cám ơn bà bằng cách thè lưỡi vào húp, và nhìn lên bắt gặp cái nhìn cảnh cáo của bác tôi. Nhưng đó là bác đang cau mày với bố Atticus.
    Bác chờ cho đến khi Calpurnia vào nhà bếp mới nói, “Đừng ăn nói như vậy trước mặt họ”.
    “Nói làm sao trước mặt ai?” Bố hỏi.
    “Giống như vậy trước mặt Calpurnia. Cậu nói Braxon Underwood khinh thường người da đen ngay trước mặt bà ấy”.
    “Phải, em chắc Calpurnia biết rõ điều đó. Mọi người ở Maycomb đều biết chuyện đó”.
    Tôi bắt đầu nhận thấy một thay đổi tinh tế ở bố tôi mấy ngày nay, điều đó lộ ra khi ông nói chuyện với bác Alexandra. Nó là sự khó chịu ẩn khuất sâu bên trong không bao giờ lộ ra ngoài. Có một vẻ gay gắt mơ hồ trong giọng ông khi ông nói. “Bất cứ điều gì nói tại bàn ăn được thì nói trước mặt Calpurnia cũng được. Bà ấy biết bà có ý nghĩa thế nào với gia đình này”.
    “Tôi không nghĩ đó là một thói quen tốt, Atticus. Nó khích lệ họ. Cậu biết họ nói chuyện giữa họ với nhau như thế nào mà. Mọi việc xảy ra trong thị trấn này đều lan tới khu da đen trước khi mặt trời lặn”.
    Bố tôi đặt con dao xuống. “Em không biết luật nào nói họ không thể nói chuyện. Nếu chúng ta đừng gây những chuyện cho họ bàn tán thì chắc họ sẽ im lặng. Sao con không uống cà phê của con đi, Scout?”
    Tôi đang nghịch chiếc muỗng trong ly. “Con nghĩ ông Cunningham là một trong những người bạn của chúng ta. Bố nói vậy với con từ lâu rồi”.
    “Ông ta vẫn là bạn”.
    “Nhưng tối hôm qua ông ta muốn hại bố”.
    Bố Atticus đặt cái đĩa xuống cạnh con dao và đẩy cái đĩa của ông sang một bên. “Ông Cunningham về cơ bản là một người tốt,” ông nói, “ông ta chỉ có thành kiến giống những người khác trong chúng ta thôi”.
    Jem nói. “Đừng nói đó là thành kiến. Ông ta đã định giết bố tối hôm qua khi ông ta vừa đến đó”.
    “Ông ta có thể làm bố bị thương chút ít,” bố Atticus thừa nhận, “nhưng con trai, con sẽ hiểu con người hơn khi con lớn hơn chút nữa. Dù gì đi nữa thì một đám đông hung hăng cũng gồm những con người đơn lẻ. Tối qua ông Cunningham chỉ là một phần của đám đông hung hăng đó, nhưng ông ta vẫn là một con người. Mọi đám đông hung hăng trong mọi thị trấn nhỏ bé ở miền Nam này luôn luôn gồm những người con đã biết... điều đó quá bình thường dễ hiểu, đúng không?”
    “Con sẽ nói không” Jem nói.
    “Vậy thì cần một đứa bé tám tuổi để họ bình tĩnh lại, phải không?” Bố Atticus nói. “Điều đó chứng minh điều gì đó - rằng một đám thú hoang vẫn có thể bị ngăn lại được, đơn giản bởi họ vẫn là con người. Hừm, có lẽ chúng ta cần một lực lượng cảnh sát gồm toàn trẻ em... Bọn trẻ các con tối hôm qua đã khiến Walter Cunningham ở vào hoàn cảnh của bố trong một lát. Vậy là đủ rồi”.
    Ồ, tôi hy vọng Jem sẽ hiểu con người hơn một chút khi anh ấy lớn; tôi thì không, “Ngày đầu tiên Walter quay lại trường sẽ là ngày cuối cùng của nó” tôi khẳng định.
    “Con không được đụng tới nó” bố Atticus nói thẳng thừng. “Bố không muốn cả hai đứa mang lòng hận thù về chuyện này, bất chấp chuyện gì xảy ra”.
    “Cậu thấy đó, phải không,” bác Alexandra nói, “những việc giống vầy sẽ đi tới đâu. Đừng nói là tôi không báo trước với cậu”.
    Bố Atticus nói ông sẽ chẳng bao giờ nói như vậy, đẩy ghế ra và đứng lên. “Xin lỗi, em còn cả một ngày trước mặt. Jem, bố muốn con hôm nay và Scout đừng xuống thị trấn, làm ơn nghe lời bố đi”.
    Khi bố Atticus vừa rời đi, Dill nhảy chân sáo từ hành lang vào phòng ăn. “Sáng nay xôn xao khắp thị trấn,” cậu ta thông báo, “về chuyện làm thế nào chúng ta đẩy lùi được hàng trăm người bằng tay không...”
    Bác Alexandra nhìn cậu ấy chằm chằm ra hiệu im lặng. “Không có hàng trăm người,” bác nói, “và không có ai đẩy lùi bất cứ ai hết. Đó chỉ là hang ổ của những tên Cunningham, say sưa và ồn ào”.
    “Ồ, bác, Dill chỉ nói vậy thôi” Jem nói, ra hiệu cho bọn tôi theo anh.
    “Bữa nay tất cả các cháu ở chơi trong sân” bác nói khi chúng tôi tiến về hàng hiên trước nhà.
    Hôm ấy giống như ngày thứ Bảy. Dòng người từ phía Nam hạt kéo ngang qua nhà chúng tôi một cách nhàn nhã nhưng đều đặn.
    Ông Dolphus Raymond lảo đảo đi qua trên con ngựa thuần chủng của ông ta. “Không thấy kiểu ông ta ngồi trên yên thế nào sao” Jem thì thào. “Làm sao em có thể say xỉn khi chưa tới tám giờ sáng?”
    Một chiếc xe chở toàn các quý bà đi ngang qua chúng tôi. Họ đội mũ vải và mặc áo tay dài. Một người đàn ông râu ria đội chiếc mũ len điều khiển xe. Đằng xa có một nhóm người theo phái Mennonite, Jem nói với Dill, “Họ không có nút áo”. Họ sống sâu trong rừng, gần như chỉ buôn bán với bên kia sông, hiếm khi đến Maycomb. Dill khoái chí, “Mắt của tất cả họ đều xanh,” Jem giải thích, “và những người đàn ông này không thể cạo râu sau khi cưới vợ. Vợ họ thích họ mơn trớn các bà bằng râu của họ”.
    Ông X Billups cưỡi lừa đi ngang qua và vẫy chào chúng tôi. “Ông này ngộ lắm nghe” Jem nói. “X là tên ông ta, không phải viết tắt tên ổng đâu. Có lần ông ta đến tòa án và người ta hỏi tên ông ấy. Ông ta nói là X Billups. Viên thư ký yêu cầu ông ta đánh vần nó và ông ta nói X. Yêu cầu lần nữa, ông ta nói X. Họ cứ nói vậy cho đến khi ông ta viết chữ X lên một tờ giấy và đưa ra cho mọi người xem. Họ hỏi vì sao ông ta có tên đó ông ta nói đó là cách người nhà ông đăng ký cho ông khi ông mới chào đời”.
    Khi cả hạt đi ngang qua chúng tôi, Jem kể cho Dill nghe những câu chuyện và quan điểm chung của những nhân vật nổi bật hơn: ông Tensaw Jones ủng hộ luật cấm rượu; cô Emily Davis lén hít thuốc lá bột; ông Byron Walter chơi được vĩ cầm; ông Jake Slade đang làm hàm răng giả thứ ba của ông.
    Một xe chở hàng đầy những công nhân mặt mày nghiêm trang khác thường xuất hiện. Khi họ chỉ vào sân nhà cô Maudie Atkinson, vốn nở rộ những bông hoa mùa hè, thì chính cô Maudie bước ra hàng hiên. Có một cái gì đó khác lạ ở cô Maudie - đứng trên hiên nhà, cô ở quá xa nên chúng tôi không thể thấy rõ nét mặt cô, nhưng chúng tôi có thể biết được tâm trạng cô thông qua cách cô đứng. Cô đứng chống nạnh, vai cô hơi xuôi xuống, đầu cô nghoẹo sang một bên, cặp kính cô lấp lánh trong ánh nắng. Tôi biết cô đã bày ra một nụ cười kinh dị nhất.
    Người đánh xe ghìm ngựa chậm lại, và một phụ nữ giọng the thé nói vọng ra, “Kẻ đến trong phù hoa sẽ ra đi trong tăm tối!”
    Cô Maudie đáp, “Lòng mừng vui làm hân hoan nét mặt [2]”
    Tôi đoán những người theo phái rửa chân nghĩ rằng Quỷ sứ đang trích dẫn Kinh Thánh vì mục đích của hắn, vì người đánh xe thúc bọn lừa tăng tốc. Lý do tại sao họ phản đối cái sân của cô Maudie là một điều bí ẩn, điều bí ẩn đó càng tăng lên trong đầu tôi bởi vì đối với những ai dành cả ngày ở ngoài trời, thì sự thông thạo Kinh Thánh của cô Maudie thật sự ấn tượng.
    “Sáng nay cô có đến tòa án không?” Jem hỏi. Chúng tôi đã thả bộ sang đó.
    “Không” cô đáp. “Sáng nay cô chẳng có việc gì với tòa án cả”.
    “Cô không xuống đó để theo dõi sao?” Dill hỏi.
    “Không. Quả là bệnh hoạn, theo dõi một kẻ khốn khổ bị xử tội chết. Nhìn tất cả những người kia xem, trông cứ như một ngày hội của người La Mã”.
    “Họ phải xử anh ta công khai, cô Maudie” tôi nói. “Nếu không làm vậy là sai”.
    “Cô biết rõ điều đó” cô nói. “Chỉ bởi vì nó công khai, nên việc gì cô phải đi, đúng không?”
    Cô Stephanie Crawford đi ngang qua. Cô đội mũ và đeo găng tay. “E, e hèm” cô nói. “Nhìn đám người kia kìa - bạn sẽ nghĩ là William Jennings Bryan [3] đang nói”.
    “Chị tính đi đâu vậy, Stephanie?” cô Maudie hỏi.
    “Tới siêu thị Jitney Jungle”.
    Cô Maudie nói cả đời cô chưa từng thấy cô Stephanie đến siêu thị Jitney Jungle với cái mũ trên đầu.
    “Phải” cô Stephanie nói, “Tôi nghĩ mình có thể ghé mắt vào tòa án, để xem Atticus làm gì trên đó”.
    “Tốt hơn là nên cẩn thận kẻo ông ta trao cho chị cái trát hầu tòa”.
    Chúng tôi yêu cầu cô Maudie giải thích: cô nói cô Stephanie có vẻ biết quá nhiều về vụ án này nên cô cũng có thể bị triệu tập để làm chứng.
    Chúng tôi dằn lòng đến trưa, khi bố Atticus về nhà dùng bữa trưa và nói họ đã dành ra cả buổi sáng để chọn bồi thẩm đoàn. Sau bữa trưa, chúng tôi đến đón Dill và xuống thị trấn.
    Đây là một ngày hội. Vòng buộc công cộng không còn chỗ cho một con vật nào nữa, lừa và xe ngựa được buộc vào mọi gốc cây còn chừa ở đó. Quảng trường tòa án đầy các nhóm cắm trại ngồi trên những tờ báo ăn bánh quy với xi rô và uống sữa nóng rót ra từ những bình trái cây. Vài người gặm thịt gà nguội và những miếng sườn chiên nguội. Vài người khá giả hơn thanh toán thức ăn và Coca-Cola trong những ly soda dạng bầu tròn mua từ tiệm tạp phẩm. Những đứa trẻ có khuôn mặt mũm mĩm vung roi da qua đám đông, và trẻ sơ sinh vục đầu vào vú mẹ.
    Ở góc xa quảng trường, những người Da đen ngồi lặng lẽ ngoài nắng, ăn trưa với cá mòi, bánh quy và những hương vị sống động hơn của Nehi Cola. Ông Dolphus Raymond ngồi với họ.
    “Jem,” Dill nói, “ông ta đang uống từ một cái bao”.
    Có vẻ như ông Dolphus Raymond đang làm thế: hai ống hút màu vàng chạy từ miệng ông vào tuốt sâu bên trong một túi giấy nâu.
    “Chưa từng thấy ai làm vậy sao?” Dill thì thào.
    “Làm thế nào ông ta đựng cái gì trong đó được vậy?”
    Jem cười rúc rích. “Ông ta có một chai Coca-Cola đựng đầy rượu mạnh trong đó. Làm vậy để các bà không cằn nhằn. Cậu sẽ thấy ông ta nhấm nhấp suốt buổi chiều, ông ta sẽ ra ngoài một lát để nạp đầy chai lại”.
    “Sao ông ta ngồi với những người da màu vậy?”
    “Luôn luôn vậy. Tớ nghĩ là ông ta thích bọn họ hơn thích chúng ta. Ông ta sống một mình gần biên giới hạt. Ông ta có một bà da màu và những đứa con lai. Nếu thấy chúng tớ sẽ chỉ cho cậu”.
    “Trông ông ta có vẻ nghèo khổ” Dill nói.
    “Ổng đâu có nghèo, ổng sở hữu tất cả đất bên kia sông, với lại ông ta xuất thân từ một dòng họ thực sự lâu đời”.
    “Sao ông ta lại làm thế?”
    “Cái kiểu của ông ta là vậy” Jem nói. “Họ nói ông ta không bao giờ quên được đám cưới của mình. Ông ta dự trù sẽ cưới một trong các... cô con gái nhà Spencer, tớ nghĩ vậy. Họ chuẩn bị một đám cưới linh đình, nhưng không có được - sau buổi thử áo, cô dâu đã lên lầu và bắn vào đầu mình. Súng săn, cô ta đạp cò bằng ngón chân”.
    “Họ có biết lý do không?”
    “Không” Jem nói. “Chẳng ai biết tại sao trừ ông Dolphus. Họ nói đó là do cô ta biết được người phụ nữ da màu của ông, ông ta cho rằng ông ta có thể giữ bà ta mà vẫn cưới được vợ như thường. Từ đó trở đi ông ta cứ say xỉn. Dù sao ông ta cũng rất tốt với bọn trẻ đó...”
    “Jem,” tôi hỏi, “trẻ lai là gì?”
    “Nửa trắng, nửa màu. Em thấy tụi nó rồi mà, Scout. Em biết thằng nhỏ tóc đỏ kỳ cục giao hàng cho cửa hàng thực phẩm không? Nó lai trắng đấy. Tụi nó thật đáng buồn”.
    “Buồn, nghĩa là sao?”
    “Chúng không thuộc về bất cứ đâu. Người da màu không dung chứa chúng bởi vì chúng lai trắng; người da trắng không chấp nhận chúng bởi vì chúng lai da màu, vì vậy chúng chỉ đứng ở giữa, không thuộc về đâu cả. Nhưng ông Dolphus, hiện giờ, họ nói ông đã đưa hai đứa con ông lên miền Bắc. Ở miền Bắc họ không quan tâm đến chúng. Đằng kia là một đứa trong bọn tụi nó”.
    Một chú nhóc nắm chặt tay một người phụ nữ da đen đi về phía chúng tôi. Với tôi nó giống mọi người da đen khác. Nó có màu da Sôcôla đậm với lỗ mũi to và hàm răng tuyệt đẹp. Thỉnh thoảng nó nhảy chân sáo thật phấn khởi, và người phụ nữ da đen giật mạnh tay nó để bắt nó dừng lại.
    Jem chờ cho đến khi họ đi ngang chúng tôi. “Đó là một trong những đứa trẻ lai” anh nói.
    “Sao cậu dám chắc?” Dill hỏi. “Tớ thấy nó cũng là da đen thôi”.
    “Có khi cậu không thể phân biệt, trừ khi cậu biết họ là ai. Nhưng nó có nửa dòng máu của Raymond đó”.
    “Nhưng làm sao anh dám chắc?” Tôi hỏi.
    “Anh đã nói với em rồi, Scout, em phải biết chúng là ai”.
    “Vậy làm sao anh biết chúng tôi không phải là người da đen?”
    “Chú Jack Finch nói chúng ta thực sự không biết. Chú nói trong chừng mực chú lần ngược được gốc gác dòng họ Finch thì chúng ta không phải, nhưng theo tất cả những gì chú biết thì có thể chúng ta đến từ Ethiopia [4] trong Cựu Ước”.
    “Nếu chúng ta đến từ thời Cựu Ước, thì chuyện đã quá lâu rồi không đáng kể nữa”.
    “Anh cũng nghĩ vậy,” Jem nói, “nhưng ở đây nếu em từng có một giọt máu da đen, điều đó làm em hành đen hoàn toàn. Ê, nhìn kìa...”
    Một dấu hiệu vô hình nào đó đã khiến những người ăn trưa trên quảng trường nhỏm dậy và bỏ bừa những tờ báo, giấy bóng kính, và giấy gói. Trẻ em chạy đến bên mẹ, những đứa trẻ được bế lên hông khi đàn ông với những chiếc mũ ố mồ hôi tập họp gia đình họ lại và lùa chúng qua các cửa tòa án. Ở góc xa của quảng trường, những người da đen và ông Dolphus Raymond đứng lên và phủi đít. Có ít phụ nữ và trẻ em trong số họ, điều đó có vẻ xua tan tâm trạng lễ hội. Họ kiên nhẫn chờ đợi tại các cửa phía sau những gia đình da trắng.
    “Tụi mình vô đi” Dill nói.
    “Tốt hơn là tụi mình chờ cho họ vào hết, bố Atticus có lẽ sẽ không thích nếu ông thấy tụi mình” Jem nói.
    Tòa án hạt Maycomb gợi nhớ đến Arlington ở một khía cạnh: những cột bê tông đỡ mái phía Nam của nó quá bề thế so với trọng lượng nhỏ bé mà chúng chống đỡ. Những cây cột này là thứ duy nhất còn đứng vững khi tòa án ban đầu bị cháy năm 1856. Một tòa án khác được xây quanh chúng. Nói rõ hơn là, được xây bất chấp chúng. Nhưng đối với mặt phía Nam, tòa án hạt Maycomb mang dáng dấp thời đầu Victoria, bày ra một khung cảnh hài hòa khi nhìn từ phía Bắc. Tuy nhiên, nhìn từ góc cạnh khác, những cây cột kiểu Hy Lạp được phục hồi này trong trái mắt với chiếc tháp đồng hồ khổng lồ thế kỷ mười chín chứa một công cụ gỉ sét không đáng tin cậy, một hình ảnh cho thấy một dân tộc nhất quyết bảo tồn mọi mảnh vụn vật chất của quá khứ.
    Đã đến được phòng xử án trên tầng hai, người ta phải đi qua nhiều phòng nhỏ kín mít khác nhau dành cho các công chức trong hạt: người thẩm định thuế, nhân viên thuế, thứ ký hạt, cố vấn pháp luật, thư ký lưu động, thẩm phán tòa án xử các vụ liên quan đến di chúc sống trong những ô nhỏ tối mờ mát lạnh bốc mùi những tập hồ sơ mục nát trộn lẫn với mùi vị xi măng ẩm thấp cũ kỹ và mùi những tiểu ngai ngái. Ban ngày cũng phải bật đèn, luôn luôn có một lớp bụi phủ lên ván sàn thô ráp. Người trong các phòng này là những sinh vật thuộc môi trường của họ: những người nhỏ thó với khuôn mặt xám xịt, có vẻ như họ không bị nắng gió chạm đến.
    Chúng tôi biết bên trong rất đông, nhưng chúng tôi không ngờ được khối người đặc nghẹt ở hành lang tầng một. Tôi bị tách khỏi Jem và Dill, nhưng đi được đến bức tường cạnh cầu thang, biết rằng sau cùng Jem cũng sẽ đến tìm tôi. Tôi thấy mình lọt giữa câu lạc bộ Idlers [5], và cố sao để mình càng ít bị chú ý càng tốt. Đây là nhóm các ông già, mặc quần kaki có dây đeo qua vai, áo sơ mi trắng, họ sống cả đời chẳng làm gì và trải qua những tháng ngày tàn tạ bằng việc ngồi trên những băng ghế bằng gỗ thông dưới bóng các cây sồi ở quảng trường. Là những người chỉ thích phê bình những công việc của tòa án, bố Atticus nói họ rành luật pháp như chánh án Tối cao pháp viện, qua nhiều năm dài quan sát. Bình thường, chỉ có họ là khán giả của tòa án, và hôm nay họ có vẻ bực tức vì bị gián đoạn thói quen thoải mái của mình. Cuộc nói chuyện là về bố tôi.
    “... nghĩ ông ta biết mình đang làm gì” một người nói.
    “Ô - ô, không, tôi không nói thế” người khác nói. “Atticus Finch là người đọc kỹ, một người đọc rất kỹ”.
    “Ông ta đọc nhiều, và ông ta chỉ làm có vậy”. Cả câu lạc bộ cười khúc khích.
    “Bây giờ để tôi nói với ông một chuyện, Billy,” người thứ ba nói, “anh biết tòa án chỉ định ông ta biện hộ cho tên da đen đó”.
    “Phải, nhưng Atticus quyết biện hộ cho hắn. Đó là điều tôi không ưa”.
    Đây là tin tức, tin tức soi rọi một ánh sáng khác vào mọi việc: bố Atticus đã phải làm vậy, dù ông muốn hay không. Tôi nghĩ thật kỳ lạ ông đã không nói bất cứ điều gì với chúng tôi về chuyện này - chúng tôi có thể sử dụng nó nhiều lần để biện hộ cho ông và cho cả chúng tôi. Ông đã phải làm việc này, đó là lý do tại sao ông làm việc này, với ít xung đột hơn và ít lộn xộn hơn. Nhưng điều đó có giải thích thái độ của cả thị trấn này không? Tòa án chỉ định bố Atticus biện hộ cho anh ta. Bố Atticus quyết bảo vệ anh ta. Đó là lý do tại sao họ không thích. Chuyện này thật rối trí.
    Những người da đen, sau khi chờ cho những người da trắng lên lầu, mới bước vào. “Khoan nào, chờ một chút” một thành viên của câu lạc bộ nói, lấy cây gậy của ông chặn lại. “Khoan cho họ lên lầu một lát”.
    Cả câu lạc bộ lụm cụm kéo nhau leo lên và gặp phải Jem và Dill đang đi tìm tôi. Hai đứa chen qua đám đông và Jem gọi, “Scout, lên đây, chẳng còn chỗ ngồi đâu. Tụi mình phải đứng thôi”.
    “Nhìn kìa, ồ” anh nói một cách bực bội, khi những người da đen tràn lên lầu, những ông già đi trước họ hẳn đã chiếm hết chỗ đứng. Chúng tôi thiếu may mắn và đó là do lỗi tại tôi, Jem trách tôi. Chúng tôi đứng khổ sở ở cạnh tường.
    “Tụi cháu không vô được hả?”
    Mục sư Sykes nhìn xuống bọn tôi, chiếc mũ đen cầm trên tay.
    “Chào mục sư” Jem nói. “Không được ạ, tại Scout đấy”.
    “Để xem chúng tôi có thể làm được gì nào”.
    Mục sư Sykes thận trọng lách mình lên lầu. Vài phút sau ông quay lại. “Dưới nhà không còn chỗ. Bọn cháu có chịu ra chỗ ban công với ta không?”
    “Hay quá” Jem nói. Mừng rõ, bọn tôi chạy trước mục sư Sykes để vào bên trong tòa. Ở đó chúng tôi leo lên một cầu thang có mái che và chờ ở cửa. Mục sư Sykes thở phì phò đằng sau chúng tôi, và dẫn chúng tôi nhẹ nhàng lách qua những người da đen ở ban công. Bốn người da đen đứng lên và nhường cho chúng tôi ngồi ở hàng ghế đầu.
    Ban công dành cho người da màu chạy dọc ba bức tường của tòa án giống hành lang ở tầng hai và từ đó chúng tôi có thể thấy mọi thứ.
    Bồi thẩm đoàn ngồi bên trái, dưới những cửa sổ dài. Gầy và da rám nắng, tất cả bọn họ đều có vẻ là nông dân, nhưng điều này là tự nhiên: dân thị trấn hiếm khi tham gia làm bồi thẩm đoàn, họ hoặc bị bệnh hoặc được miễn. Một hoặc hai người trong bồi thẩm đoàn trông hơi giống những người nhà Cunningham ăn mặc tươm tất. Lúc này họ ngồi thẳng và chăm chú.
    Luật sư tòa lưu động và một người khác, bố Atticus và Tom Robinson ngồi tại những chiếc bàn quay lưng về phía chúng tôi. Có một cuốn sách nâu và vài tờ bìa vàng trên bàn của viên luât sư; bàn của bố Atticus trống trơn.
    Ngay bên trong hàng rào chia tách cử tọa với tòa, nhân chứng ngồi trên những chiếc ghế lót nệm da bò. Lưng họ quay về phía chúng tôi.
    Quan tòa Taylor ngồi trên ghế chủ tọa, trông giống một con cá mập già ngái ngủ, con cá hoa tiêu của ông ta ghi chép lẹ làng phía dưới ngay trước mặt ông ta. Quan tòa Taylor trông giống hầu hết các quan tòa tôi từng gặp: hòa nhã, tóc bạc, mặt hơi đỏ, ông ta là người điều hành tòa án với phong cách buông tuồng đáng ngại - đôi khi ông gác chân lên, ông thường cậy móng tay bằng con dao bỏ túi. Trong những buổi thẩm vấn kéo dài, đặc biệt là sau bữa ăn, ông tạo ấn tượng bằng ông đang ngủ gật, một ấn tượng tan biến mãi mãi khi có lần một luật sư cố ý đẩy một chồng sách xuống sàn nhà trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm đánh thức ông dậy. Không mở mắt, quan tòa Taylor lầm bầm, “Ông Whitley, làm chuyện đó lần nữa là nó sẽ khiến ông mất một trăm đô đó”.
    Ông là người học ngành luật, và dù có vẻ nhận công việc của mình một cách hờ hững, nhưng thực tế ông ta nắm vững tất cả mọi thủ tục tồn tại trước ông. Chỉ một lần duy nhất người ta thấy quan tòa Taylor lâm vào hoàn cảnh bế tắc trong phiên tòa công khai,và những người nhà Cunningham khiến ông bó tay. Old Sarum, khu vực quen thuộc của họ, đã có hai dòng họ riêng rẽ và tách biệt sinh sống từ đầu, nhưng không may lại mang cùng tên. Người họ Cunningham cưới họ Coningham cho đến khi việc viết chính tả tên này chỉ mang tính lý thuyết - lý thuyết cho đến khi một người họ Cunningham tranh chấp quyền sở hữu đất đai với một người họ Coningham và dẫn đến thưa kiện. Trong suốt cuộc tranh luận về chữ viết này, Jeems Cunningham khai rằng mẹ ông ta đã viết là Cunningham trên các bằng khoán và các thứ, nhưng bà thực sự là một Coningham, bà là một người viết chính tả không trôi chảy, một người ít đọc, và đôi khi có thói quen nhìn xa xăm khi bà ngồi trên hành lang trước nhà vào buổi tối. Sau chín giờ lắng nghe những thói quen kỳ dị của các cư dân Old Sarum, quan tòa Taylor đã ném vụ án này khỏi tòa án. Khi được hỏi dựa vào lý do gì, quan tòa Taylor đáp, “thông đồng chia án phí” và tuyên bố ông hy vọng ở Chúa những người kiện tụng được hài lòng vì mỗi người đều được ăn nói công khai trước công chúng. Họ đã hài lòng. Đó là tất cả những gì họ muốn.
    Quan tòa Taylor có một thói quen thú vị. Ông cho phép hút thuốc trong phòng xử của ông nhưng bản thân ông thì không: đôi khi nếu may mắn, người ta có đặc ân thấy ông đặt một điếu xì gà khô dài lên miệng, và nhai nó từ từ. Dần dần điếu xì gà đó biến mất, để vài giờ sau tái xuất hiện thành một mớ lầy nhầy dẹp lép, tinh chất của nó bị rút ra và trộn lẫn với dịch vị của quan tòa Taylor. Có lần tôi hỏi bố Atticus làm sao bà Taylor chịu hôn ông ta cho nổi, nhưng bố Atticus nói họ không hôn nhau nhiều.
    Bục nhân chứng nằm ở bên phải của quan tòa Taylor, và khi chúng tôi an vị ông Heck Tate đã đứng trên đó.

    ---------------------------------

    [1] Chỉ huy binh đoàn miền Tây của phe miền Nam trong Nội chiến, Bragg có binh nghiệp không lẫy lừng lắm và binh đoàn của ông cuối cùng đại bại.
    [2] Câu trước của người ngồi xe là tục ngữ, câu sau của cô Maudie trích từ sách Châm ngôn (Cựu ước)
    [3] William Jennings Bryan (1860-1925): luật sư, chính khách (từng ra tranh cử Tổng thống ba lần) và là nhà hùng biện nổi tiếng. Diễn văn của ông thu hút rất đông người, nhất là ở miền Nam.
    [4] Trong thời Cựu Ước, Ethiopia là một Vương quốc ở Đông bắc châu Phi. Ngày nay, nó là một nước ở Đông Phi.
    [5] Nghĩa là những kẻ ở không.

    Comment


    • #17
      Chương 17




      “Jem,” tôi hỏi, “có phải người nhà Ewell ngồi đằng kia không?”
      “Suỵt,” Jem nói, “ông Hate Tate đang làm chứng kìa”.
      Ông Tate ăn mặc tươm tất cho dịp này. Ông mặc bộ Comlê giao dịch bình thường, nó làm ông hơi giống mọi người đàn ông khác: không còn đôi ủng cao cổ, áo khoác, thắt lưng dắt đầy đạn. Từ phút đó ông không còn làm tôi khiếp sợ nữa. Ông đang ngồi chồm tới trước trên ghế nhân chứng, hai bàn tay đan vào nhau đặt giữa hai đầu gối, chú ý lắng nghe luật sư tòa án lưu động.
      Luật sư này, ông Gilmer, chúng tôi không biết rõ. Ông đến từ Abbottsville; chúng tôi chỉ thấy ông khi tòa án nhóm họp, và điều đó hiếm, vì Jem và tôi không quan tâm đặc biệt đến tòa án. Một người hói đầu, mặt mày nhẵn nhụi, chắc ông khoảng chừng từ bốn mươi đến sáu mươi tuổi. Dù ông quay lưng về phía chúng tôi, chúng tôi vẫn biết một mắt ông hơi lé mà ông sử dụng như một lợi thế: ông có vẻ như đang nhìn một người, nhưng thực sự ông không nhìn người đó mà nhìn vào bồi thẩm đoàn và nhân chứng. Bồi thẩm đoàn, nghĩ mình đang bị xem xét cẩn thận, rất chú ý; cả các nhân chứng cũng nghĩ giống như vậy.
      “... Trong lời khai của chính ông Tate” ông Gilmer nói.
      “À,” ông Tate nói, sờ kính và nói với đầu gối ông, “tôi được gọi...”
      “Ông có thể nói điều đó với bồi thẩm đoàn không ông Tate? Cám ơn. Ai đã gọi ông?”
      Ông Tate nói, “Tôi được ông Bob gọi đến... ông Bob Ewell đằng kia, một đêm...”
      “Đêm nào, thưa ông?”
      Ông Tate nói, “Đó là đêm hăm mốt tháng Mười một. Tôi sắp rời văn phòng về nhà thì ông B... Ewell bước vào, ông ta rất kích động, và nói bây giờ tới nhà ông ta liền, một tên mọi đen nào đó đã cưỡng hiếp con gái ông ta”.
      “Ông có đi không?”
      “Chắc chắn. Vào xe và đi nhanh hết sức mình”.
      “Và ông tìm thấy cái gì?”
      “Thấy cô ta nằm trên sàn nhà ngay giữa phòng trước, phòng bên phải khi tôi bước vào. Cô ta bị đánh dữ dội, nhưng tôi đỡ cô ta đứng dậy và cô ta rửa mặt trong cái xô nói góc nhà và nói cô ta ổn. Tôi hỏi ai làm đau cô ta và cô ta nói Tom Robinson...”
      Quan tòa Taylor, người đang tập trung vào những móng tay của ông, nhìn lên như thể ông ta đang mong đợi một sự phản đối, nhưng bố Atticus im lặng.
      “... đã hỏi cô ta có phải anh ta đánh như vậy không, cô ta nói phải. Hỏi cô ta có phải anh ta lợi dụng cô không, cô ta nói phải. Vì vậy tôi đến nhà Robinson và đưa anh ta trở lại. Cô ta nhận dạng anh chính là người đó, vì vậy tôi bắt anh ta. Đó là tất cả những gì đã diễn ra”.
      “Cám ơn” ông Gilmer nói.
      Quan tòa Taylor nói, “Có hỏi gì không, Atticus?”
      “Có” bố tôi nói. Ông đang ngồi sau cái bàn của mình, ghế kéo lệch sang một bên, chân ông bắt chéo và một tay để trên lưng ghế.
      “Ông có gọi bác sĩ không, cảnh sát trưởng? Có bất kỳ ai gọi bác sĩ không?” Bố Atticus hỏi.
      “Không, thưa ngài” ông Tate nói.
      “Không gọi bác sĩ đến sao?”
      “Không, thưa ngài” ông Tate lặp lại.
      “Tại sao không?” Có một âm thanh gắt gỏng trong giọng bố Atticus.
      “Tôi có thể nói với ông tại sao tôi không gọi. Điều đó không cần thiết, ông Finch. Cô ta bị đánh dữ dội. Có điều gì đó xảy ra, quá rõ ràng”.
      “Nhưng ông đã không gọi bác sĩ? Trong khi ông ở đó có ai được phái đi tìm bác sĩ, đưa bác sĩ tới, mang cô ta đến bác sĩ không?”
      “Không, thưa ngài...”
      Quan tòa Taylor xen vào, “Ông ta đã trả lời câu hỏi này ba lần rồi, Atticus. Ông ta đã không gọi bác sĩ”.
      Bố Atticus nói, “Tôi chỉ muốn chắc điều đó thôi, thưa quan tòa” và quan tòa mỉm cười.
      Bàn tay Jem, đang nằm trên thanh ban công, siết chặt lại. Bất chợt anh hít thật sâu. Nhìn xuống, tôi không thấy phản ứng tương tự nào, và tự hỏi liệu Jem có đang cố ra vẻ gì không. Dill đang theo dõi một cách bình thản, và mục sư Sykes gần đấy cũng vậy. “Vậy là sao?” tôi thì thào và nhận được một tiếng “Suỵt!”
      “Cảnh sát trưởng,” bố Atticus đáng nói, “ông nói cô ta bị đánh dữ dội. Bị đánh làm sao?”
      “�...”
      “Tả lại những vết thương của cô ta đi, Heck”.
      “Cô ta bị đánh quanh đầu. Có những vết bầm tím trên hai cánh tay cô ta, và nó xảy ra khoảng ba mươi phút trước khi...”
      “Làm sao ông biết?”
      Ông Tate cười. “Xin lỗi, đó là những gì họ nói. Dù sao thì cô ta cũng bị bầm dập khi tôi tới đó, và một con mắt bầm đen”.
      “Mắt nào?”
      Ông Tate nheo mắt và gãi đầu. “Để nhớ coi” ông ta nói nhẹ nhàng, rồi nhìn bố Atticus như thể ông ta xem câu hỏi như đồ trẻ con. “Ông không nhớ được à?” Bố Atticus hỏi.
      Ông Tate chỉ vào người vô hình trước mặt ông ta vài tấc và nói. “Mắt trái của cô ta”.
      “Chờ một chút, cảnh sát trưởng” bố Atticus nói. “Bên trái của cô ta hướng đối diện với ông hay bên trái của cô ta nhìn cùng hướng với ông?”
      Ông Tate nói. “Ồ, phải, nó là bên phải cô ta. Mắt phải của cô ta, ông Finch. Giờ thì tôi nhớ ra rồi, cô ta bị đánh bên phía đó của khuôn mặt...”
      Ông Tate lại nheo mắt, như thế có điều gì đó trở nên rõ ràng với ông ta. Rồi ông ta quay đầu nhìn quanh vào Tom Robinson. Như thể theo bản năng. Tom Robinson ngẩng đầu lên.
      Một điều gì đó cũng trở nên rõ nét với bố Atticus và nó khiến ông đứng lên. “Cảnh sát trưởng, làm ơn lặp lại những gì ông vừa nói”.
      “Tôi nói đó là con mắt phải của cô ta”.
      “Không...” bố Atticus đi đến bàn của người ghi biên bản tòa án và cúi xuống bàn tay đang điên cuồng viết tháu. Nó dừng lại, lật lại tập giấy ghi tốc ký và người thư ký biên bản tòa án đọc lại. “Ông Finch, giờ tôi nhớ ra rồi, cô ta bị đánh bên phía đó của khuôn mặt”.
      Bố Atticus nhìn ông Tate, “Nói lại coi, bên nào, Heck?”
      “Bên phải, ông Finch, nhưng cô ta đã có nhiều vết bầm tím hơn...ông muốn nghe về chúng sao?”
      Bố Atticus có vẻ như đang sắp đưa ra một câu hỏi khác, nhưng ông suy đi tính lại và nói, “Còn những vết thương khác của cô ta thế nào?” Khi ông Tate trả lời, bố Atticus quay sang nhìn Tom Robinson như thể nói đây là điều họ không hề dự tính.
      “... hai cánh tay cô ta đầy vết thâm và cô ta cho tôi xem cổ cô ta. Có dấu ngón tay rành rành trên cổ cô ta...”
      “Quanh cổ cô ta à? Cả luôn phía sau gáy nữa hả?”
      “Tôi nói quanh cổ cô ta, ông Finch”.
      “Ông nói vậy sao?”
      “Phải, thưa ngài, cổ họng cô ta nhỏ, bất cứ ai cũng có thể nắm trọn nó...”
      “Làm ơn chỉ trả lời câu hỏi có hoặc không, cảnh sát trưởng” bố Atticus nói khô khóc và ông Tate im lặng.
      Bố Atticus ngồi xuống và gật đầu với viên luật sư tòa lưu động, ông này lắc đầu với quan tòa, gật đầu với Tate, ông này nhổm dậy một cách khó nhọc và bước xuống khỏi bục nhân chứng.
      Bên dưới chúng tôi, những chiếc đầu quay qua quay lại, những bàn chân cọ xát sàn nhà, trẻ con được xốc trên vai, vài đứa bé chạy láo nháo khỏi tòa án. Những người da đen đằng sau chúng tôi xì xào với nhau. Dill đang hỏi mục sư Sykes tất cả chuyện đó nhằm ý gì, nhưng mục sư Sykes nói ông không biết. Cho đến lúc này, mọi việc hoàn toàn mờ mịt: không ai lớn tiếng, không có những cuộc tranh luận giữa hai luật sư đối lập, không có kịch tính; có vẻ như mọi người có mặt đều thấy thất vọng dữ dội. Bố Atticus đang tiến hành công việc một cách từ tốn, như thể ông bị dính vào một cuộc tranh chấp tước vị. Với khả năng vô hạn trong việc làm lặng biển cả dậy sóng, ông có thể biến một vụ cưỡng hiếp trở nên khô như một bài thuyết giảng. Đã qua rồi nỗi khủng khiếp trong tâm trí tôi về rượu Whisky chua và mùi mốc meo, về những người đàn ông cau có với đôi mắt ngái ngủ, về một giọng khàn khàn gọi trong đêm, “Ông Finch, họ đi rồi hả?” Cơn ác mộng của chúng tôi đã qua trong ánh sáng ban ngày, mọi thứ sẽ hóa ra ổn thỏa.
      Mọi khán giả đều nhẹ nhõm như quan tòa Taylor, trừ Jem. Miệng anh méo thành một nụ cười nửa miệng đầy ngụ ý, và đôi mắt anh lấp lánh niềm vui, và anh nói một điều gì đó về chứng cứ chứng thực, điều đó khiến tôi tin chắc rằng anh đang cố gắng gây ấn tượng.
      “... Robert E. Lee Ewell!”
      Trả lời cho giọng trầm vang của viên thư ký, một người đàn ông như con gà chọi nhỏm dậy và vênh váo bước lên bục, gáy ông ta đỏ lựng trước âm thanh gọi tên mình. Khi ông ta quay sang để tuyên thệ, chúng tôi thấy mặt ông ta cũng đỏ như cổ ông ta. Chúng tôi cũng không thấy ông ta có sự tương đồng nào với người trùng tên mình [1]. Một mái tóc bù xù mới gội lưa thưa dựng đứng trên trán ông ta; mũi ông ta nhọn, nhỏ và bóng nhẫy; có thể nói ông ta không có cằm - có vẻ như chìm vào cái cổ nhăn nheo của ông ta.
      “... xin Chúa cứu giúp” ông ta gáy lên.
      Mọi thị trấn giống như Maycomb đều có những gia đình giống như nhà Ewell. Không có biến động kinh tế nào thay đổi được vị thế của họ - những người giống như nhà Ewell sống dựa vào trợ cấp của hạt trong lúc phồn vinh cũng như trong lúc suy thoái tận cùng. Không một nhân viên phụ trách trẻ bỏ học nào có thể giữ hàng lũ con cái của họ trong trường; không một nhân viên sức khỏe cộng đồng nào có thể cứu họ khỏi những khuyết tật bẩm sinh; những loài giun sán khác nhau, và những bệnh tật vốn là sản phẩm của môi trường bẩn thỉu.
      Nhà Ewell của Maycomb sống đằng sau bãi rác của thị trấn trong những gì đã từng là một căn chòi của người da đen. Những bức vách ván của căn chòi được bổ sung bằng các tấm tôn, mái của nó được lợp bằng những thùng thiếc được đập bẹp ra, vì vậy chỉ có hình dung tổng quát của nó gợi đến thiết kế ban đầu: vuông, với bốn phòng bé xíu mở vào một một phòng chính, căn chòi nằm chênh vênh trên bốn khối đá vôi gập ghềnh. Cửa sổ của nó chỉ là những khoảng trống trên các bức vách, vào mùa hè được che bằng những dải vải mỏng trơn để xua bọn muỗi ruồi sống no đủ trên rác rưởi của Maycomb.
      Bọn ruồi muỗi đã có một thời gian đói kém, vì người nhà Ewell mỗi ngày đã mót sạch rác rưởi, và những thành quả của công việc của họ (những thứ không ăn được) làm cho mảnh đất quanh căn chòi như nhà chòi của một đứa trẻ mất trí; cái được cho là hàng rào chỉ là một mớ cành cây, cán chổi, cán của các dụng cụ, tất cả được gắn những đầu búa gỉ sét, những đầu cào sứt răng, những cái xẻng, rìu, cuốc, được buộc chặt lại bằng những đầu dây thép gai. Bên trong chiến lũy này là một cái sân bẩn thỉu chứa xác của chiếc Ford kiểu bình dân (được đặt trên những khúc gỗ), một chiếc ghế nha khoa đã hư, một tủ lạnh kiểu xưa, cùng những món nhỏ hơn, những chiếc giày cũ, radio hỏng, khung hình, bình đựng nước trái cây, bên dưới đó là những con gà con màu cam ốm đói mổ một cách đầy hy vọng.
      Tuy nhiên một góc sân ở đó đã gây ngỡ ngàng cho cả Maycomb. Sát hàng rào, xếp thành hàng, là sáu cái bô bằng sứ mẻ trồng hoa phong lan lữ nở đỏ rực rỡ, được chăm sóc ân cần như thể chúng là của cô Maudie Atkinson, nếu như cô Maudie hạ cố cho một cây phong lan lữ trong nhà cô. Người ta nói chúng là những cây hoa của Mayella Ewell.
      Không ai biết chắc có bao nhiêu đứa trẻ con ở nói này. Một số người nói sáu, những người khác nói chín; luôn luôn có vài đứa trẻ có mặt ở cửa sổ khi có người đi ngang. Không ai có dịp đi ngang qua đó trừ Giáng sinh, khi các nhà thờ phát các giỏ quà cho người nghèo, và khi thị trưởng Maycomb yêu cầu chúng tôi vui lòng giúp người gom rác bằng cách tự đem vứt những cây thông và rác rưởi của mình.
      Bố Atticus dẫn chúng tôi đi theo ông vào Giáng sinh năm ngoái khi ông làm theo yêu cầu của thị trưởng. Một con đường bụi mù chạy từ xa lộ ngang qua bãi rác, xuống tới khu định cư nhỏ của người da đen cách khu của nhà Ewell khoảng năm trăm thước. Người ta phải lui xe ngược ra xa lộ hoặc chạy hết con đường và quay trở ra; hầu hết người ta đều quay xe ở sân trước của khu da đen. Vào lúc chạng vạng tối của tháng Mười hai đầy sương mù, những căn nhà của họ trông ngăn nắp và ấm cúng với những làn khói xanh nhạt bốc lên từ ống khói và những ô cửa ánh lên màu hổ phách từ bếp lửa bên trong. Mùi thơm ngon phảng phất: gà, thịt muối chiên ròn như không khí buổi hoàng hôn. Jem và tôi khám phá được cách nấu thịt sóc, nhưng phải có một ông già nông thôn như bố Atticus mới nhận diện được con thú có túi và thỏ, mùi thơm biến mất khi chúng tôi chạy ngược trở lại khu của nhà Ewell.
      Điều duy nhất ở người đàn ông nhỏ bé trên bục nhân chứng có thể khiến ông ta hơn những người láng giềng gần nhất của ông ta là, nếu được kỳ cọ bằng xà bông tro trong nước rất nóng, da ông ta sẽ trắng.
      “Ông là Robert Ewell?” Ông Gilmer hỏi.
      “Đó là tên tôi, sếp”. Nhân chứng trả lời.
      Lưng ông Gilmer cứng lại một chút, và tôi thấy tiếc cho ông ta. Có lẽ lúc này tôi nên giải thích một số điều. Tôi từng nghe rằng con cái của các luật sư, khi nhìn cha mẹ của chúng ở tóa án trong lúc đang tranh cãi quyết liệt, thường có ý tưởng sai: chúng nghĩ luật sư đối lập là kẻ thù cá nhân của cha mẹ chúng, chúng đau đớn, và ngạc nhiên khí thấy họ khoác tay kẻ hành hạ mình trong giờ giải lao đầu tiên. Điều này không đúng với cả Jem và tôi. Chúng tôi không hề bị tổn thương do việc thấy bố tôi thắng cuộc hoặc thua. Tôi tiếc rằng minh không thể đưa ra bất kỳ tấn kịch nào về mặt này; nếu tôi làm thế thì nó sẽ không trung thực. Tuy nhiên chúng tôi có thể nói khi nào cuộc tranh luận trở nên gay gắt hơn là chuyên nghiệp, nhưng điều này là qua việc quan sát các luật sư khác hơn là bố chúng tôi. Trong đời mình, tôi chưa từng nghe bố Atticus cao giọng, ngoại trừ với một nhân chứng điếc. Ông Gilmer đang làm công việc của ông, như bố Atticus đang làm công việc của bố. Ngoài ra, ông Ewell là nhân chứng của ông Gilmer, và ông không có quyền thô bạo với bất kỳ ai nhất là ông này.
      “Ông là cha của Mayella Ewell?” Là câu hỏi kế tiếp.
      “Phải, nếu không phải thì đến lúc này tôi không làm gì được vụ này, mẹ nó chết rồi” là câu trả lời.
      Quan tòa Taylor cựa quậy. Ông quay người chầm chậm trong chiếc ghế xoay của mình và nhìn một cách thiện cảm vào nhân chứng. “Ông là cha của Mayella Ewell?” Ông hỏi, theo kiểu làm cho tiếng cười rộ bên dưới chúng tôi tắt hẳn.
      “Vâng, thưa ngài” ông Ewell đáp một cách ngoan ngoãn.
      Quan tòa Taylor tiếp tục với giọng điệu tử tế, “Đây là lần đầu ông xuất hiện ở tòa án hả? Tôi không nhớ đã từng thấy ông trước đây”. Trước cái gật đầu khẳng định của nhân chứng ông tiếp tục, “Tốt, vậy chúng tôi hãy hiểu đúng mấy điều. Sẽ không có bất cứ suy đoán tục tĩu có thể được nghe thấy về bất cứ vấn đề nào từ bất cứ ai trong tòa án này chừng nào tôi còn ngồi ở đây. Ông có hiểu không?”
      Ông Ewell gật đầu nhưng tôi không tin ông ta hiểu. Quan tòa Taylor thở dài và nói, “Được chưa, ông Gilmer?”
      “Cám ơn ngài. Ông Ewell, ông sẽ nói với chúng tôi bằng chính lời khai của ông về những gì đã xảy ra vào tối hai mươi mốt tháng Mười một chứ?”
      Jem nhe răng cười và hất ngược tóc anh. Bằng-lời-khai-của-chính-ông là nhãn hiệu của ông Gilmer. Chúng tôi thường tự hỏi ông Gilmer sợ nhân chứng của ông có thể sử dụng lời khai của ai khác đây.
      “Phải, đêm hai mươi mốt tháng Mười một tôi trở về từ trong rừng với một bó củi và khi vừa vào tới hàng rào tôi nghe tiếng Mayella rú lên như một con lợn bị chọc tiết ở trong nhà...”
      Tới đây quan tòa nhìn gay gắt vào nhân chứng và hẳn đã quyết định những suy đoán của ông ta hoàn toàn không có ý định xấu, vì ông ta đã dịu lại như thể đang ngái ngủ.
      “Lúc đó là mấy giờ, ông Ewell”.
      “Ngay trước khi mặt trời lặn. À tôi đang nói rằng Mayell đang gào lên đến đánh bật cả chúa Jesus...” Một cái nhìn nữa từ ghế của quan tòa khiến ông Ewell im bặt.
      “Sao? Cô ta đang gào lên hả?” Ông Gilmer hỏi.
      Ông Ewelll nhìn quan tòa một cách lúng túng. “Phải, Mayella đang gào ầm ĩ vì vậy tôi bỏ bó củi xuống và chạy tới nhanh hết sức mình nhưng vướng phải hàng rào, nhưng khi gỡ ra được tôi chạy đến cửa sổ và thấy...? Khuôn mặt ông Ewell đỏ tía. Ông ta đứng dậy và chỉ tay vào Tom Robinson. ‘... tôi thấy thằng mọi đen đằng kia đang cày Mayella của tôi’.”
      Phòng xử của ông Taylor quá im lặng, đến độ ông ít có dịp sử dụng chiếc búa của mình, nhưng lúc đó ông đã gõ đến năm phút. Bố Atticus đã đứng bên ghế quan tòa và nói điều gì đó với ông. Ông Tate trong vai trò sĩ quan cao cấp nhất của hạt đứng ngay giữa lối đi đứng dẹp yên phòng xử án chật cứng. Đằng sau chúng tôi, có tiếng rên rỉ nghẹn ngào giận dữ từ những người da màu.
      Mục sư Sykes chồm ngang Dill và tôi, kéo khuỷu tay Jem. “Cậu Jem, tốt hơn là cậu đưa cô Jean Louise về nhà. Cậu Jem, cậu nghe tôi nói không?”
      Jem quay sang. “Scout, về nhà. Dill, cậu với Scout về nhà”.
      “Anh phải làm gương cho em trước” tôi nói, nhớ câu tuyên bố của bố Atticus.
      Jem cau có giận dữ với tôi, rồi nói với mục sư Sykes, “Cháu nghĩ không sao đâu, mục sư. Con bé không hiểu gì đâu”.
      Tôi bị xúc phạm dữ dội. “Chắc chắn là em hiểu hết. Em hiểu được mọi thứ anh hiểu”.
      “Im nào. Mục sư, con bé không hiểu gì đâu. Nó chưa đến chín tuổi mà”.
      Đôi mắt đen của mục sư Sykes lo lắng. “Ông Finch biết bọn cháu ở đây không? Chuyện này không thích hợp cho cô Jean Louise cũng như cho các cậu”.
      Jem lắc đầu. “Ở xa vầy bố cháu không thấy được tụi cháu đâu. Không sao đâu, mục sư”.
      Tôi biết Jem sẽ thắng, bởi tôi biết không có gì có thể khiến anh rời khỏi đây lúc này. Dill và tôi an toàn, dù chỉ trong ít lâu: từ chỗ bố Atticus ông có thể nhìn thấy chúng tôi nếu ông nhìn lên.
      Khi quan toàn Taylor gõ búa, ông Ewell vẫn ngồi vênh váo trên ghế nhân chứng, quan sát công trình của mình. Với một cụm từ ông ta đã biến những người đi cắm trại vui vẻ thành một đám đông xì xào, căng thẳng, hờn dỗi, từ từ bị mê hoặc bởi tiếng gõ búa ngày càng giảm về cường độ cho đến khi thành âm thanh duy nhất trong phòng xử án là tiếng cốc cốc mơ hồ: quan tòa có lẽ đang gõ bút chì vào ghế.
      Khi kiểm soát lại được văn phòng, quan tòa Taylor ngồi dựa lưng vào ghế. Ông bất ngờ có vẻ rã rời; tuổi tác của ông đang lộ ra và tôi nghĩ về những gì bố Atticus nói - ông bà Taylor không hôn nhau nhiều - ông hẳn đã gần bảy mươi.
      “Có một yêu cầu,” quan tòa Taylor nói, “rằng phòng xử này không còn người dự khán, hoặc ít nhất là phụ nữ và trẻ em, một yêu cầu vốn sẽ bị từ chối trong lúc này. Nói chung người ta xem những gì họ tìm kiếm, và nghe những gì họ lắng nghe, và họ có quyền cho con họ nếm trải nó, nhưng tôi có thể bảo đảm với các vị một điều: các vị sẽ nhận những gì các vị thấy và nghe trong im lặng hoặc rời khỏi phòng xử án; nhưng các vị sẽ không rời khỏi nó cho đến khi toàn bộ đám đông hỗn loạn các vị được đưa ra trước tôi vì bị buộc tội khinh miệt tòa. Ông Ewell, ông sẽ giữ lời khai của ông trong giới hạn của việc sử dụng tiếng Anh Thiên chúa giáo, nếu có thể được. Tiếp tục đi, ông Gilmer”.
      Ông Ewel; gợi tôi nhớ về một người câm-điếc. Tôi tin chắc ông ta không hề nghe bất cứ một lời nào quan tòa Taylor nhắm vào ông ta - miệng ông ta đấu tranh một cách im lặng với những lời đó - nhưng ý nghĩ của chúng biểu lộ trên khuôn mặt của ông ta. Vẻ tự mãn mất dần, thay thế bằng sự bướng bỉnh ương ngạnh hoàn toàn không lừa được quan tòa Taylor: chừng nào ông Ewell còn đứng trên bục nhân chứng, quan tòa còn để mắt đến ông ta như thể thách thức ông ta làm bất cứ động tác sai sót nào.
      Ông Gilmer và bố Atticus liếc nhìn nhau. Bố Atticus ngồi xuống lại, ông chống tay vào má và chúng tôi không thấy được khuôn mặt ông. Ông Gilmer có vẻ hơi thất vọng. Một câu hỏi của quan tòa Taylor làm ông nhẹ nhõm, “Ông Ewell, ông có thấy bị cáo giao cấu với con gái ông không?”
      “Có, tôi có thấy”.
      Cử tọa im lặng, nhưng bị cáo nói điều gì đó. Bố Atticus thì thầm với anh ta, và Tom Robinson im lặng.
      “Ông nói ông đứng ở cửa sổ?” Ông Gilmer hỏi.
      “Vâng, thưa ngài”.
      “Nó cách mặt đất bao xa?”
      “Khoảng một thước”.
      “Ông có nhìn rõ căn phòng không?”
      “Có, thưa ngài”.
      “Căn phòng trông như thế nào?”
      “Mọi thứ bị văng tứ tung, giống như có một vụ đánh lộn”.
      “Ông đã làm gì khi thấy bị cáo?”
      “Tôi chạy vòng qua để vào nhà, nhưng hắn đã chạy ra cửa chính trước tôi. Tôi thấy hắn là ai, đúng vậy. Tôi quá lo cho Mayella nên không đuổi theo hắn. Tôi chạy vào nhà và con bé nằm trên sàn khóc lóc um sùm...”
      “Rồi ông làm gì?”
      “Tôi chạy tìm Tate ngay. Tôi biết nó là ai, phải, sống dưới kia trong khu mọi đen đó, đi qua nhà mỗi ngày. Quan tòa, tôi đã yêu cầu hạt này suốt mười lăm năm qua là dọn sạch khu dưới đó, sống gần chúng rất nguy hiểm ngoài ra còn làm giảm giá trị tài sản của tôi...”
      “Cám ơn, ông Ewell” ông Gilmer nói nhanh.
      Nhân chứng vội vã rời bục và đâm sầm vào bố Atticus, người đã đứng lên để hỏi ông ta. Quan tòa Taylor cho phép tòa cười ầm lên.
      “Chỉ một phút thôi, thưa ngài” bố Atticus nói một cách hòa nhã. “Tôi có thể hỏi ông một hai câu được không?”
      Ông Ewell quay trở lại ghế nhân chứng, ngồi xuống và đánh giá bố Atticus với vẻ ngờ vực cao ngạo, một tác phong phổ biến ở những nhân chứng của hạt Maycomb khi phải đối mặt với luật sư đối lập.
      “Ông Ewell,” bố Atticus bắt đầu, “đêm đó người ta chạy tới chạy lui rất nhiều. Xem nào, ông nói ông chạy về nhà, ông chạy đến cửa sổ, ông chạy vào trong, ông chạy tới Mayella, ông chạy đi tìm ông Tate. Vậy, trong suốt việc chạy đó, ông có chạy tìm một bác sĩ không?”
      “Không cần. Tôi chứng kiến những gì xảy ra mà”.
      “Nhưng có một điều tôi không hiểu” bố Atticus nói. “Ông không quan tâm tới tình trạng của Mayella sao?”
      “Chắc chắn tôi có quan tâm” ông Ewell nói. “Tôi thấy đứa làm chuyện đó mà”.
      “Không, ý tôi muốn nói là tình trạng sức khỏe của cô ấy. Bộ ông không nghĩ bản chất vết thương của cô ấy cần phải được chăm sóc ý tế hay sao?”
      “Cái gì?”
      “Ông không nghĩ cô ấy cần có một bác sĩ, ngay lập tức sao?”
      Nhân chứng nói ông ta không hề nghĩ đến điều đó, trong đời mình ông ta chưa từng gọi bác sĩ cho bất cứ ai trong nhà, và nếu phải gọi thì ông ta phải tốn năm đô la. “Phải vậy không?” Ông ta hỏi.
      “Không hẳn” bố Atticus nói một cách hờ hững. “Ông Ewell, ông có nghe lời khai của ông cảnh sát trưởng, đúng không?”
      “Rồi sao?”
      “Ông ở trong phòng xử án khi ông Tate trên bục nhân chứng, đúng không? Ông nghe mọi điều ông ta nói, đúng không?”
      Ông Ewell cân nhắc vấn đề một cách cẩn thận, và có vẻ quyết định câu hỏi này là an toàn.
      “Phải” ông ta nói.
      “Ông có đồng ý với mô tả của ông ta về những vết thương của Mayella không?”
      “Rồi sao?”
      Bố Atticus quay nhìn ông Gilmer và mỉm cười. Ông Ewell có vẻ quyết định không cho luật sư biện hộ chút lợi điểm nào.
      “Ông Tate đã khai là mắt phải của cô ấy bị bầm đen, rằng cô ấy bị đánh quanh...”
      “Ồ, phải” nhân chứng nói. “Tôi đồng ý mọi điều ông Tate nói”.
      “Ông đồng ý?” Bố Atticus nhã nhặn nói. “Tôi chỉ muốn chắc”. Ông đi đến chỗ người viết biên bản tòa án, nói điều gì đó, và người viết biên bản giải lao cho chúng tôi vài phút bằng cách đọc lại lời khai của ông Tate như thể nó là bảng yết giá của thị trường chứng khoán, “...mắt nào bên trái cô ta, ồ, phải, nó là bên phải cô ta. Mắt phải của cô ta, ông Finch. Giờ thì tôi nhớ ra rồi, cô ta bị đánh”. Ông ta lật trang khác. “Bên phía đó của khuôn mặt Cảnh sát trưởng, làm ơn lặp lại những gì ông vừa nói, tôi nói đó là con mắt phải của cô ta...”
      “Cám ơn, Bert” bố Atticus nói. “Ông đã nghe nó lần nữa rồi, ông Ewell. Ông có thêm gì nữa không? Ông có đồng ý với ông cảnh sát trưởng không?”
      “Tôi đồng ý với Tate Con mắt của nó bị bầm và nó bị đập rất dữ”.
      Người đàn ông nhỏ bé này có vẻ quên việc ông ta bị quan tòa làm nhục trước đó. Rõ ràng ông ta nghĩ bố Atticus là một đối thủ dễ chịu. Có vẻ như ông ta dần dần hồng hào trở lại; ngực ông ta căng phồng lên, và một lần nữa ông ta là một con gà trống đỏ nhỏ. Tôi nghĩ ông ta sẽ làm bứt tung áo sơ mi của mình trong câu hỏi kế tiếp của bố Atticus.
      “Ông Ewell, ông biết đọc và biết viết không?”
      Ông Gilmer xen nào. “Phản đối” ông ta nói. “Tôi không thấy việc nhân chứng biết chữ có liên quan gì đến vụ này, không liên quan và không cần thiết”.
      Quan tòa Taylor định nói nhưng bố Atticus đã nói, “Quan tòa, nếu ông cho phép câu hỏi này cộng với một câu hỏi nữa ông sẽ sớm thấy thôi”.
      “Được rồi, chúng ta hãy xem,” quan tòa nói, “nhưng hãy đảm bảo rằng chúng tôi thấy, Atticus. Bác bỏ phản đối”.
      Ông Gilmer cũng như đa số chúng tôi tò mò muốn biết tình trạng học vấn của ông Ewell sẽ có ảnh hưởng gì trong vụ xử này.
      “Tôi sẽ lặp lại câu hỏi” bố Atticus nói. “Ông biết đọc và biết viết không?”
      “Chắc chắn là tôi biết”.
      “Ông sẽ viết tên ông cho chúng tôi xem được chứ?”
      “Chắc chắn rồi. Ông nghĩ tôi ký các hóa đơn cứu trợ của tôi như thế nào?”
      Ông Ewell đang làm cho các công dân yêu mến ông ta. Những tiếng xì xào và cười khúc khích bên dưới chúng tôi chắc chắn có liên quan tới việc ông ta là mẫu người kỳ cục thế nào.
      Tôi bắt đầu lo lắng. Bố Atticus có vẻ biết những gì ông đang làm - nhưng tôi có vẻ như ông đi soi ếch mà không có đèn. Không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ, trong khi đối chất lại hỏi một nhân chứng một câu hỏi mà bạn không biết trước câu trả lời, đó là một nguyên tắc mà tôi đã hấp thu cùng với thức ăn hồi sơ sinh. Làm điều đó, bạn sẽ thường nhận được câu trả lời mà bạn không muốn, một câu trả lời có thể làm hỏng vụ kiện của bạn.
      Bố Atticus đang thò tay vào túi áo khoác bên trong của ông. Ông rút ra một bao thư, rồi thò tay vào túi áo vest rút ra một cây bút máy. Ông cử động một cách ung dung và quay sang để bồi thẩm đoàn có thể nhìn rõ ông. Ông vặn nắp bút ra và nhẹ nhàng đặt nó lên bàn. Ông vẩy nhẹ cây bút và trao nó cùng với bao thư cho nhân chứng. “Ông sẽ viết tên ông cho chúng tôi được chứ?” Ông hỏi. “Một cách rõ ràng ngay bây giờ, để bồi thẩm đoàn có thể thấy ông viết”.
      Ông Ewell viết vào lưng bao thư một cách tự mãn để thấy quan tòa Taylor đang nhìn ông ta chằm chằm như thể ông ta là một đóa hoa dành dành thơm ngát đang mãn khai trên bục nhân chứng, để thấy ông Gilmer đang nửa ngồi nửa đứng ngay bàn ông ta. Bồi thẩm đoàn đang nhìn ông ta, một người đang chồm tới trước với hai bàn tay đặt trên rào chắn.
      “Cái gì thú vị thế?” Ông ta hỏi.
      “Ông thuận tay trái, ông Ewell” quan tòa Taylor nói. Ông Ewell giận dữ quay sang quan tòa và nói ông ta không thấy việc thuận tay trái của ông ta có liên quan gì đến chuyện này, rằng ông ta là người kính Chúa và Atticus Finch đang lấn lướt ông ta. Những luật sư bịp bợm như bố Atticus đã luôn lợi dụng ông ta bằng những cách thức lừa bịp của họ. Ông ta đã nói với họ những gì đã xảy ra, ông ta sẽ nói đi nói lại điều đó - ông ta đã làm thế. Chẳng có gì bố Atticus hỏi ông ta có thể lay chuyển được câu chuyện của ông ta, rằng ông ta đã nhìn qua cửa sổ, rồi chạy đuổi theo tên mọi đen đó, sau đó chạy tìm cảnh sát trưởng. Cuối cùng bố Atticus cho ông ta rời bục.
      Ông Gilmer hỏi ông ta một câu nữa. “Về việc viết bằng tay trái của ông, ông thuận cả hai tay hả ông Ewell?”
      “Tôi chắc chắn không phải thế, tôi có thể sử dụng một tay thuận như người khác” ông ta nói thêm, nhìn vào bàn tay của bên biện hộ.
      Jem có vẻ rơi vào một cơn im lặng. Anh đang gõ nhẹ vào thanh lan can, và một lần nữa anh thì thào, “Ta nắm được hắn rồi”.
      Tôi không nghĩ thế: bố Atticus đang cố chứng minh, theo tôi, rằng ông Ewell có thể đã đánh Mayella. Tôi có thể hiểu được tới đó. Nếu mắt phải của cô ta bầm đen và cô ta bị đánh chủ yếu là ở mặt bên phải, điều đó có xu hướng chứng tỏ rằng một người thuận tay trái đã làm chuyện đó. Sherlock Home và Jem sẽ đồng ý. Nhưng Tom Robinson cũng có thể là người thuận tay trái. Giống như ông Heck Tate, tôi tưởng tượng một người đối diện với tôi, tham gia một vở kịch câm ngắn, và kết luận rằng ông ta có thể đã tóm cô ta bằng tay phải và đập cô ta bằng tay trái. Tôi nhìn xuống ông ta. Lưng ông ta quay về phía chúng tôi, nhưng tôi có thể nhìn thấy bờ vai rộng và cái cổ to như bò mộng của ông ta. Ông ta có thể làm chuyện đó dễ dàng. Tôi nghĩ Jem đang đếm gà [2].

      ------------------------------------

      [1] Ám chỉ Robert Edward Lee (1807-1870) vị tướng lừng danh nhất của quân đội miền Nam trong Nội chiến.
      [2] Nguyên văn: “counting his chickens” Scout dùng nửa câu tục ngữ “Don’t count your chicken before they’re hatched” (Đừng đếm gà trước khi trứng nở) có nghĩa là đừng chắc chắn trước khi chuyện đó xảy ra. Vì Jem có vẻ chắc chắn rằng Atticus sẽ thắng, nên Scout nghĩ Jem quá tin chắc vào một chuyện chưa chắc xảy ra.

      Comment


      • #18
        Chương 18




        Nhưng ai đó đang xướng lên lần nữa.
        “Mayella Violet Ewell...!”
        Một cô gái trẻ đi lên bục nhân chứng. Khi cô giơ tay lên thề rằng chứng cứ cô đưa ra là sự thật, toàn bộ sự thật, và chẳng có gì ngoài sự thật, cầu Chúa phù hộ, cô ta có vẻ mỏng manh, nhưng khi ngồi đối mặt với chúng tôi trên ghế nhân chứng cô trở thành chính con người cô, một cô nàng có thân hình đậm chắc quen với lao động nặng nhọc.
        Ở hạt Maycomb, thật dễ xác định khi nào người ta tắm rửa thường xuyên, trái với việc tắm rửa một năm một lần: ông Ewell có một vẻ như bị bỏng; như thể việc ngâm nước qua đêm đã lấy mất đi của ông ta những lớp vỏ bụi bẩn bảo vệ, da ông ta có vẻ nhạy cảm với những hiện tượng tự nhiên. Mayella trông cứ như cô ta đang cố giữ sạch sẽ. và tôi nhớ lại hàng hoa phong lữ trong sân nhà Ewell.
        Ông Gilmer yêu cầu Mayella kể cho bồi thẩm đoàn nghe bằng lời của chính cô những gì xảy ra vào tối ngày hai mươi mốt tháng Mười một năm rồi, chỉ bằng lời của chính cô, xin cô vui lòng.
        Mayella ngồi im lặng.
        “Cô đã ở đâu lúc chạng vạng tối đó?” Ông Gilmer bắt đầu một cách kiên nhẫn.
        “Trên hiên nhà”.
        “Hiên nào?”
        “Chẳng có hiên nào, trừ một cái hiên, hiên trước nhà”.
        “Cô làm gì ở hiên nhà?”
        “Chẳng làm gì”.
        Quan tòa Taylor nói, “Chỉ nói cho chúng tôi nghe những gì xảy ra. Cô có thể làm điều đó được, đúng không?”
        Mayella nhìn ông ta và òa khóc. Cô lấy tay che miệng và thổn thức. Quan tòa Taylor để cô khóc một hồi rồi nói, “Nhiêu đó đủ rồi. Đừng sợ bất cứ ai ở đây, miễn là cô nói sự thật. Tất cả điều này lạ lùng với cô, tôi biết, nhưng cô chẳng có gì phải xấu hổ hay sợ hãi. Cô sợ cái gì?”
        Mayella nói điều gì đó qua kẽ tay. “Đó là cái gì?” Quan tòa hỏi.
        “Ông ta” cô ta thổn thức, chỉ vào bố Atticus.
        “Ông Finch hả?”
        Cô mạnh dạn gật đầu, nói. “Không muốn ông ta làm gì tôi như đã làm với ba tôi, tìm cách để chứng tỏ ông ấy thuận tay trái...”
        Quan tòa Taylor gãi mái tóc bạc dày của ông. Rõ ràng ông chưa từng gặp phải một vấn đề như kiểu này. “Cô bao nhiêu tuổi rồi?” Ông hỏi.
        “Mười chín tuổi rưỡi” Mayella đáp.
        Quan tòa Taylor hắng giọng và cố gắng một cách thảm hại để nói bằng giọng nhẹ nhàng. “Ông Finch không có ý định làm cô sợ,” ông gầm gừ, “và nếu ông ta làm vậy, thì có tôi ở đây để ngăn ông ta. Tôi ngồi đây để làm chuyện đó. Bây giờ cô là một cô gái lớn, vì vậy cô hãy ngồi thẳng lên và nói... nói với chúng tôi những gì đã xảy ra với cô. Cô làm điều đó được mà, đúng không?”
        Tôi thì thào với Jem, “Cô ta khôn đó chứ?”
        Jem đang liếc nhìn xuống bục nhân chứng. “Chưa nói được” anh nói. “Cô ta có đủ khôn ngoan để làm cho quan tòa thông cảm với cô ta, nhưng cô ta có thể chỉ... ờ, anh không biết”.
        An lòng, Mayella nhìn bố Atticus với anh mắt khiếp sợ cuối cùng và nói với ông Gilmer, “Vâng, thưa ngài, tôi đang ở hiên nhà và... và anh ta xuất hiện, và, ngài biết đó. Có một cái tủ đựng quần áo trong sân mà ba tôi mang về để làm củi chụm... ba tôi biểu tôi rửa bát trong khi ông vô rừng nhưng bữa đó tôi thấy mình không được khỏe, rồi hắn ta đi ngang qua...”
        “‘Hắn ta’ là ai?”
        Mayella chỉ Tom Robinson. “Tôi sẽ phải hỏi cô cụ thể hơn” ông Gilmer nói. “Người viết biên bản không thể ghi lại các cử chỉ”.
        “Người đằng kia đó” cô ta nói. “Robinson”.
        “Sau đó chuyện gì đã xảy ra?”
        “Tôi nói lại đây, thằng mọi, và bửa cái tủ này cho tao, tao cho mày năm xu. Hắn ta có thể làm chuyện này dễ dàng. Vì vậy hắn vào sân và tôi bước vào nhà để lấy đồng năm xu cho hắn và tôi quay lại và trước khi tôi kịp biết chuyện gì xảy ra thì hắn đã đè lên tôi. Hắn chụp tôi từ phía sau. Hắn bóp cổ tôi, chửi rủa tôi và nói bậy bạ... Tôi vùng vẫy và la hét, nhưng hắn đã bóp cổ tôi. Hắn đánh tôi liên tục...”
        Ông Gilmer chờ cho Mayella trấn tĩnh lại: cô ta đang xoắn chiếc khăn thành một sợi dây đầy mồ hôi; khi cô ta mở nó ra để lau mặt nó nhăn nhúm trong đôi tay nóng hổi của cô ta. Cô ta chờ cho ông Gilmer hỏi một câu nữa, nhưng khi thấy ông ta không hỏi, cô nói, “... hắn đè tôi xuống sàn làm tôi nghẹt thở và hãm hiếp tôi”.
        “Cô có la lên không?” Ông Gilmer hỏi. “Cô có la và chống trả lại không?”
        “Tôi cho rằng mình đã làm vậy, la hết sức mình, đá và gào lên hết cỡ”.
        “Sau đó chuyện gì xảy ra?”
        “Tôi không nhớ rõ, nhưng việc kế tiếp tôi biết là ba tôi bước vào phòng và đứng ngay chỗ tôi gào lên ai đã làm chuyện này, ai đã làm chuyện này? Rồi tôi ngất đi và việc kế tiếp tôi biết là ông Tate kéo tôi đứng dậy và dẫn tôi đến xô nước”.
        Hình như việc kể của Mayell đã khiến cô ta tự tin, nhưng đó không phải là kiểu trơ tráo của cha cô ta: có một điều gì lén lút trong lời kể của cô ta. Giống như một con mèo có đôi mắt kiên định nhưng cái đuôi co giật.
        “Cô nói cô chống trả hắn quyết liệt? Chống trả bằng hết sức mình?” Ông Gilmer hỏi.
        “Chắc chắn tôi đã làm vậy” Mayella bắt chước cha cô ta.
        “Cô chắc chắn rằng hắn đã hãm hiếp cô?”
        Mặt Mayella méo mó, và cô e rằng cô ta sẽ lại khóc. Thay vào đó, cô ta nói, “Hắn đã làm chuyện hắn toan tính”.
        Ông Gilmer gợi sự chú ý đến một ngày nóng bằng cách lấy tay vuốt đầu. “Lúc này chỉ có thế,” ông ta nói một cách vui vẻ, “nhưng cô cứ ở đó. Tôi mong ông Finch khủng khiếp sẽ có một câu hỏi dành cho cô”.
        “Đại diện tiểu bang không được tác động đến nhân chứng chống lại luật sư biện hộ,” quan tòa Taylor lầm bầm một cách nghiêm túc, “ít nhất lúc này là không”.
        Bố Atticus đứng dậy tươi cười nhưng thay vì đi đến bục nhân chứng, ông cởi nút áo khoác và móc hai ngón tay cái vào áo gile, rồi ông từ tốn băng qua phòng đi về phía cửa sổ. Ông nhìn ra ngoài, nhưng không có vẻ đặc biệt quan tâm đến những gì ông thấy, rồi ông quay người và đi trở lại bục nhân chứng. Qua nhiều năm dài kinh nghiệm, tôi có thể nói ông đang cố đi tới quyết định về chuyện gì đó.
        “Cô Mayella,” ông mỉm cười nói, “tôi sẽ không làm cô sợ. Giờ chúng ta hãy làm quen. Cô bao nhiêu tuổi?”
        “Đã nói tôi mười chín, đã nói chuyện đó với quan tòa đằng kia rồi”. Mayella hất đầu giận dữ về phía quan tòa.
        “Cô đã nói như thế, cô đã nói như thế, thưa quý cô. Cô sẽ phải kiên nhẫn với tôi, cô Mayella. Tôi đã già và không thể nhớ tốt như xưa. Tôi có thể hỏi cô một số điều mà cô đã nói rồi, nhưng cô phải cho tôi một câu trả lời, được không? Tốt”.
        Tôi chẳng thấy có gì trong vẻ mặt của Mayella chứng tỏ giả định của bố Atticus rằng ông đã có được sự hợp tác hết lòng của cô ta. Cô ta đang nhìn ông một cách giận dữ.
        “Tôi sẽ không trả lời một chũ nào ông nói chừng nào ông còn tiếp tục coi thường tôi” cô ta nói.
        “Sao?” Bố Atticus giật mình.
        “Chừng nào ông còn tiếp tục giễu cợt tôi”.
        Quan tòa Taylor nói, “Ông Finch không giễu cợt cô. Cô sao vậy?”
        Mayella liếc nhìn bố Atticus, nhưng cô ta nói với quan tòa, “Chừng nào ông ta còn tiếp tục gọi tôi là quý cô và nói cô Mayella. Tôi không việc gì phải chấp nhận cái kiểu láo xược của ông ta. Tôi không được gọi tới đây để nhận điều đó”.
        Bố Atticus tiếp tục đi đến cửa sổ và để cho quan tòa Taylor giải quyết vấn đề này. Quan tòa Taylor không phải là nhân vật dễ động lòng, nhưng tôi cảm thấy tiếc cho ông khi ông đang cố giải thích. “Đó chỉ là cung cách của ông Finch” ông ta nói với Mayella. “Chúng tôi đã làm việc trong tòa án này nhiều năm liên tục và ông Finch luôn luôn lịch sự với mọi người. Ông ấy không cố coi thường cô, ông ấy cố tỏ ra lịch sự. Đó chỉ là cung cách của ông ấy”.
        Quan tòa dựa người vào ghế, “Atticus, hãy tiếp tục với vụ kiện này và để biên bản cho thấy rằng nhân chứng không bị nhục mạ, ngược lại với quan điểm của cô ấy”.
        Tôi tự hỏi trong đời cô ta có ai gọi cô ta là “quý cô” hay “cô Mayella” không; chắc hẳn là không, vì cô ta khó chịu với kiểu lịch sự thông thường này. Cuộc sống của cô ta thế nào? Tôi nhanh chóng nhận ra.
        “Cô nói cô mười chín tuổi” bố Atticus tiếp tục. “Cô có bao nhiêu anh chị em?” Ông đi từ cửa sổ ngược trở lại bục nhân chứng.
        “Bảy” cô ta nói, và tôi tự hỏi liệu tất cả họ có giống hạng người tôi đã gặp vào ngày đầu tiên đi học không.
        “Cô lớn nhất hả? Chị cả hả?”
        “Phải”.
        “Mẹ cô mất bao lâu rồi?”
        “Không biết... lâu lắm rồi”.
        “Cô có bao giờ đi học không?”
        “Đọc và viết tốt như ba tôi đằng kia”.
        Mayella có vẻ giống như ông Jingle [1] trong một cuốn sách tôi đã đọc.
        “Cô đi học được bao lâu?”
        “Hai năm... ba năm... không nhớ”.
        Từ từ, nhưng chắc chắn tôi đã bắt đầu nhận ra chiều hướng trong những câu hỏi của bố Atticus: từ những câu hỏi mà ông Gilmer cho rằng chưa đến độ không cần thiết hoặc không liên quan để cần phải phản đối, bố Atticus lặng lẽ xây dựng trước bồi thẩm đoàn bức tranh về cuộc sống nhà Ewell. Bồi thẩm đoàn biết được những điều sau: chi phiếu cứu trợ của họ không đủ nuôi gia đình, có mối nghĩ ngờ mạnh mẽ rằng ông bố dùng nó để uống rượu - đôi khi ông ta đi vào vũng đầm lầy nhiều ngày và trở về nhà bệnh rũ rượi; thời tiết hiếm khi đủ lạnh để buộc phải mang giầy, nhưng khi trời lạnh, bạn có thể làm những đôi giày tuyệt vời từ những sợi xé từ bánh xe cũ; gia đình kéo nước bằng những chiếc xô từ những con suối chảy ra tại đầu một bãi rác - họ giữ vùng đất quanh đó sạch rác rưởi - và mọi người tự lo cho mình khi muốn giữ sạch sẽ: nếu muốn tắm bạn kéo nước cho riêng bạn; những đứa nhỏ hơn bị cảm liên tục và bị nhiễm giun kinh niên; có một quý bà đôi khi đến hỏi Mayella tại sao cô ta không đi học - cô ta viết ra câu trả lời; đã có hai thành viên trong nhà biết đọc và viết, thì những người còn lại không cần đi học - ba cô cần chúng ở nhà.
        “Cô Mayella,” bố Atticus nói, như bị buộc lòng phải hỏi, “một cô gái mười chín tuổi như cô tất phải có bạn. Bạn cô là ai?”
        Nhân chứng nhíu mày như bối rối. “Bạn hả?”
        “Phải, cô không quen ai bằng tuổi cô, hoặc lớn hơn cô, hoặc nhỏ hơn cô sao? Con trai lẫn con gái? Chỉ bạn bè bình thường thôi?”
        Vẻ thù địch của Mayella, vốn đã dịu xuống mức độ trung lập miễn cưỡng, lại bùng lên. “Ông lại giễu cợt tôi nữa hả, ông Finch?”
        Bố Atticus để cho câu hỏi của cô ta trả lời câu hỏi của ông.
        “Cô có yêu thương cha cô không, cô Mayella?” Là câu hỏi kế tiếp của ông.
        “Thương ba tôi, nghĩa là sao?”
        “Ý tôi là, ông ta có tốt với cô không, ông ta có dễ gần gũi với cô không?”
        “Ông ta cũng dễ chịu, trừ khi...”
        “Trừ khi nào?”
        Mayella nhìn cha cô, người đang ngồi tại ghế của ông ta và dựa vào thanh chắn. Ông ta ngồi thẳng lên và chờ câu trả lời của cô.
        “Chẳng trừ khi nào cả” Mayella nói. “Tôi nói ông ấy cũng dễ chịu”.
        Ông Ewell ngồi dựa trở lại.
        “Trừ khi ông ta say rượu, phải không?” Bố Atticus hỏi quá nhẹ nhàng đến độ Mayella gật đầu.
        “Ông ta có bao giờ lùng cô không?”
        “Ý ông là sao?”
        “Khi ông ấy... giận dữ, ông ấy có đánh cô không?”
        Mayella nhìn quanh, nhìn xuống người thư ký tòa, nhìn lên quan tòa. “Trả lời câu hỏi đi, cô Mayella” quan tòa Taylor nói.
        “Từ nhỏ đến giờ ba tôi chưa từng động đến một sợi tóc của tôi” cô ta tuyên bố một cách chắc nịch. “Ông ấy không bao giờ đụng đến tôi”.
        Kính của bố Atticus hơi tụt xuống, và ông đẩy nó lên mũi. “Chúng ta đã có một cuộc trao đổi tốt, cô Mayella, và bây giờ tôi nghĩ chúng ta nên đi vào vụ này. Cô nói cô đã yêu cầu Tom Robinson đến bửa một... cái gì nhỉ?”
        “Một cái tủ, một cái tủ cũ đầy nhóc ngăn kéo bên trong”.
        “Và cô biết rõ Tom Robinson?”
        “Ông muốn nói sao?”
        “Ý tôi muốn nói là cô biết anh ta là ai, anh ta sống ở đâu?”
        Mayella gật đầu. “Tôi biết hắn ta là ai, hắn đi ngang qua nhà tôi mỗi ngày”.
        “Đây là lần đầu cô yêu cầu anh ta vào bên trong hàng rào?”
        Mayella hơi giật mình trước câu hỏi. Bố Atticus đi chậm rãi đến cửa sổ, như ông làm nãy giờ: ông sẽ hỏi một câu, rồi nhìn ra, chờ câu trả lời. Ông không thấy cô ta bất giác giật mình, nhưng theo tôi ông biết cô ta rúng động. Ông quay sang và nhướn mày. “Đây...” Ông lại mở lời.
        “Phải, lần đầu”.
        “Trước đó cô chưa bao giờ yêu cầu anh ta vào bên trong hàng rào à?”
        Bây giờ cô ta đã chuẩn bị. “Không, tôi chắc chắn là không”.
        “Một lần nói không là đủ rồi” bố Atticus nói một cách bình thản. “Trước đây cô chưa từng nhờ anh ta làm việc gì lặt vặt cho cô chứ?”
        “Có thể” Mayella thừa nhận. “Có nhiều tên mọi đen quanh đó”.
        “Cô có thể nhớ bất kỳ lần nào không?”
        “Không”.
        “Được rồi. Bây giờ tới những gì đã xảy ra. Cô nói Tom Robinson ở sau lưng cô trong khi cô quay lại, đúng vậy không?”
        “Đúng”.
        “Cô nói anh ta bóp cổ cô, chửa rủa và nói bậy bạ... đúng vậy không?”
        “Đúng”.
        Trí nhớ của bố Atticus bất ngờ trở nên chính xác. “Cô nói ‘hắn tóm lấy tôi, bóp cổ tôi và hãm hiếp tôi’ - phải vậy không?”
        “Tôi đã nói vậy”.
        “Cô nhớ hắn đánh vào mặt cô à?”
        Nhân chứng do dự.
        “Cô có vẻ chắc rằng hắn bóp cổ cô, suốt thời gian đó cô chống trả lại, nhớ không? Cô đã ‘đá và gào rú hết sức của cô’. Cô nhớ anh ta đánh vào mặt cô hả?”
        Mayella im lặng. Có vẻ như cô ta đang cố hiểu rõ một thứ gì đó. Trong phút chốc tôi nghĩ cô ta đang thực hiện trò chơi của tôi và của ông Heck Tate, giả vờ như có một người trước mặt chúng tôi. Cô ta nhìn ông Gilmer.
        “Đó là một câu hỏi dễ, cô Mayella, vì vậy toi sẽ thử một lần nữa. Cô có nhớ anh ta đánh vào mặt cô không?” Giọng của bố Atticus đã mất vẻ dễ chịu; ông đang nói bằng giọng khô khan, đầy vẻ chuyên nghiệp xa cách của ông. “Cô có nhớ anh ta đánh vào mặt cô không?”
        “Không, tôi không nhớ hắn ta có đánh vào mặt tôi không. Ý tôi là phải tôi có nhớ, hắn ta đánh tôi”.
        “Câu sau mới là câu trả lời của cô phải không?”
        “Hả? Phải, hắn đã đánh... tôi chỉ không nhớ rõ, tôi chỉ không nhớ... tất cả xảy ra quá nhanh”.
        Quan tòa Taylor nhìn Mayella một cách nghiêm khắc. “Đừng khóc, cô kia...” Ông ta lên tiếng, nhưng bố Atticus nói, “Cứ để cô ta khóc, nếu cô ta muốn, thưa quý tòa. Chúng ta còn rất nhiều thời gian mà”.
        Mayella khịt mũi giận dữ nhìn bố Atticus. “Tôi sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào ông đưa ra - gọi tôi đến đây rồi chế nhạo tôi, phải không? Tôi sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào ông đưa ra...”
        “Vậy là tốt” bố Atticus nói. “Chỉ vài câu nữa thôi. Cô Mayella, đừng lấy làm nhàm chán, cô đã khai là bị cáo đánh cô, bóp cổ cô và cưỡng dâm cô. Tôi muốn cô bảo đảm cô biết đúng người đàn ông đó. Cô nhận dạng được người đàn ông đã hiếp dâm cô chứ?”
        “Được, đó là hắn ngay đằng kia”.
        Bố Atticus quay sang bị cáo. “Tom, đứng lên. Hãy để cô Mayella nhìn anh cho kỹ. Phải người đàn ông này không, cô Mayella?”
        Đôi vai mạnh mẽ của Tom Robinson nhúc nhích dưới lớp áo sơ mi mỏng của anh. Anh nhỏm dậy và đứng với bàn tay phải đặt trên lưng ghế. Anh ta có vẻ thiếu cân đối một cách kỳ cục, nhưng đó không phải do cách anh ta đứng. Cánh tay trái của anh ta ngắn hơn cánh tay phải đến ba tấc, và lủng lẳng bên hông. Cánh tay đó tận cùng bằng bàn tay nhăn nhúm, và từ ban công chỗ tôi ngồi tôi có thể thấy nó chẳng còn hữu dụng gì cho anh ta.
        “Scout” Jem thì thào. “Scout, nhìn kìa! Mục sư, anh ta bị tật”.
        Mục sư Sykes chồm sang tôi và thì thầm với Jem. “Cậu ta bị kẹt vào máy tách hạt bông, bị cuốn vào máy tách hạt bông của ông Dulphus Raymond hồi cậu ta còn nhỏ... máu chảy dữ lắm... tuốt rách hết các bắp thịt tới tận xương...”
        Bố Atticus nói, “Đây có phải là người đã cướng hiếp cô không?”
        “Chắc chắn là hắn”.
        Câu hỏi kế tiếp của bố Atticus rất ngắn gọn. “Như thế nào?”
        Mayella giận dữ. “Tôi không biết hắn làm nó như thế nào, nhưng hắn đã làm chuyện đó - tôi đã nói tất cả xảy ra nhanh đến mức tôi...”
        “Bây giờ chúng ta hãy xem xét chuyện này một cách bình tĩnh...” Bố Atticus bắt đầu, nhưng ông Gilmer xen vào bằng cách phản đối: ông ta không phải là không liên quan hoặc không quan trọng, nhưng Atticus đang bắt nạt nhân chứng.
        Quan tòa Taylor bật cười rõ tiếng. “Ô, ngồi xuống đi Horace. Ông ấy không làm điều gì như thế đâu. Nếu có, thì nhân chứng đang bắt nạt Atticus đấy chứ”.
        Quan tòa Taylor là người duy nhất trong phòng xử án cười thành tiếng. Ngay cả những đứa bé cũng im lặng, và bất chợt tôi tự hỏi liệu chúng có bị ngạt thở trên bầu ngực của mẹ chúng không.
        “Bây giờ,” bố Atticus nói, “cô Mayella, cô đã khai rằng bị cáo bóp cổ cô và đánh cô... cô không nói rằng anh ta lên đến đằng sau cô và đánh cô bất tỉnh, mà cô đã quay lại và thấy anh ta đứng ở đó...” Bố Atticus đã trở lại đứng sau cái bàn của ông, và ông nhấn mạnh lời lẽ của mình bằng cách gõ các khớp ngón tay lên bàn “... cô có muốn xem xét lại lời khai của cô không?”
        “Ông muốn tôi nói điều gì đó mà nó không xảy ra à?”
        “Không, thưa cô, tôi muốn cô nói điều mà nó đã xảy ra. Làm ơn kể cho chúng tôi nghe một lần nữa, chuyện gì đã xảy ra?”
        “Tôi đã kể những gì xảy ra rồi”.
        “Tôi đã khai rằng cô quay lại và thấy anh ta ở đó. Lúc đó anh ta mới bóp cổ cô hả?”
        “Phải”.
        “Sau đó anh ta buông họng cô ra và đánh cô hả?”
        “Tôi đã nói hắn làm vậy”.
        “Anh ta làm bầm mắt trái của cô bằng nắm đấm tay phải của anh ta à?”
        “Tôi né và nó... nó trượt ngang, nó xảy ra như vậy đó. Tôi né và nó trượt ngang”. Mayella cuối cùng đã thấy ra vấn đề.
        “Bất ngờ cô lại rất rõ ở điểm này. Cách đây một lát cô không nhớ rõ, phải không?”
        “Tôi nói là hắn đá đánh tôi”.
        “Đúng rồi. Hắn bóp cổ cô, hắn đánh cô, rồi hắn cưỡng hiếp cô, đúng vậy không?”
        “Chắc chắn là vậy”.
        “Cô là một cô gái khỏe mạnh, suốt thời gian đó cô làm gì, chỉ đứng đó thôi sao?”
        “Tôi đã nói tôi gào lên đá lại và chống trả...”
        Bố Atticus đưa tay lên giở kính ra, quay mắt phải còn tốt của ông sang nhân chứng, và dồn dập hỏi cô ta. Quan tòa Taylor nói, “Mỗi lần một câu hỏi thôi, Atticus. Hãy để nhân chứng còn kịp trả lời”.
        “Được rồi, tại sao cô không chạy?”
        “Tôi đã cố...”
        “Cố làm gì? Điều gì ngăn cản cô?”
        “Tôi... hắn ta vật tôi xuống. Hắn đã làm vậy đó, hắn vật tôi xuống và đè lên tôi”.
        “Cô kêu gào suốt thời gian đó à?”
        “Chắc chắn rồi”.
        “Vậy tại sao đứa em kia không nghe tiếng cô? Chúng ở đâu? Ở bãi rác hả?”
        “Chúng ở đâu”.
        Không trả lời.
        “Tại sao tiếng kêu gào của cô không làm chúng chạy đến? Bãi rác gần hơn khu rừng, đúng không?”
        Không trả lời.
        “Hay cô không kêu gào gì cả cho đến khi cô thấy cha cô ngay cửa sổ? Cô đã không nghĩ đến việc kêu gào cho đến lúc đó, đúng không?”
        Không trả lời.
        “Có phải ban đầu cô gào vào mặt cha cô thay vì vào mặt Tom Robinson? Đúng vậy không?”
        Không trả lời.
        “Ai đã đánh đập cô? Tom Robinson hay cha cô?”
        Không trả lời.
        “Cha cô thấy điều gì ngay cửa sổ, tội cưỡng dâm hay sự chống trả quyết liệt lại nó? Tại sao cô không nói sự thật, cô bé, Bob Ewell không hề đánh cô sao?”
        Khi bố Atticus quay đi khỏi chỗ Mayella, trông bố có vẻ như đang đau quặn dạ dày, nhưng khuôn mặt của Mayella là sự trộn lẫn giữa khiếp sợ và giận dữ. Bố Atticus ngồi xuống một cách mệt mỏi và lau chùi mắt kính của ông bằng chiếc khăn tay.
        Bất ngờ Mayella trở nên rành mạch. “Tôi có điều muốn nói” cô ta nói.
        Bố Atticus ngẩng đầu lên. “Cô muốn nói với chúng tôi những gì xảy ra à?”
        Nhưng cô không nghe lòng trắc ẩn trong lời đề nghị của ông. “Tôi có điều muốn nói và sau đó tôi sẽ không nói nữa. Rằng tên mọi đen đằng kia đã cưỡng hiếp tôi và nếu quý ông tử tế không chịu làm gì về chuyện này thì tất cả các ông đều là đồ hèn nhát tệ hại, đồ hèn nhát tệ hại, tất cả lũ các ông. Cái kiểu tử tế của các ông chẳng đi tới đâu hết - cái kiểu nói thưa cô hay cô Mayella chẳng được cái nước chết gì cả, ông Finch...”
        Sau đó cô òa khóc. Hai vai cô run theo nhịp thổn thức giận dữ. Cô ta giữ đúng lời của mình. Cô ta không trả lời câu hỏi nào nữa, cả khi ông Gilmer cố đưa cô trở lại đúng hướng. Tôi đoán nếu cô ta không nghèo khổ và ít học như thế, quan tòa Taylor chắc đã bỏ tù cô ta vì tội khinh miệt mà cô ta đã thể hiện với mọi người trong phòng xử án. Bằng cách nào đó bố Atticus đã tác động nặng nề đến cô ta theo một cách mà tôi không rõ, nhưng ông không thấy vui khi làm vậy. Ông ngồi cúi đầu xuống, và tôi chưa từng thấy bất cứ ai nhìn ai với vẻ căm ghét như Mayella thể hiện khi cô ta rời bục nhân chứng đi ngang bàn của bố Atticus.
        Khi ông Gilmer nói với quan tòa Taylor rằng bên công tố tạm ngừng, quan tòa Taylor nói, “Đã đến lúc tất cả chúng ta nghỉ ngơi. Chúng ta sẽ tạm nghỉ mười phút”.
        Bố Atticus và ông Gilmer gặp nhau trước bục quan tòa và thì thầm, rồi họ rời phòng xử án bằng cửa đằng sau bục nhân chứng, đó là dấu hiệu cho tất cả chúng tôi vươn vai xả hơi. Tôi phát hiện rằng mình đang ngồi ở mép một chiếc ghế dài, và tôi hơi bị tê chân. Jem đứng lên và ngáp. Dill cũng làm y như vậy và mục sư Sykes lấy mũ lau mặt. Nhiệt độ dễ tới chín mươi độ [2], ông nói.
        Ông Braxton Underwood, người ngồi lặng lẽ suốt trên ghế dành cho giới báo chí, tập trung toàn bộ tâm trí để lắng nghe những lời khai, lướt đôi mắt cau có khắp ban công dành cho người da màu, và gặp ánh mắt tôi. Ông khịt mũi và nhìn chỗ khác.
        “Jem” tôi nói, “Ông Underwood vừa nhìn tụi mình”.
        “Không sao đâu. Ông ta không nói gì với bố Atticus đâu, ông ta sẽ đưa nó vào mục xã hội của tờ Tribune”. Jem quay lại với Dill, giải thích, tôi nghĩ vậy, những điểm hay của phiên tòa cho nó nghe, nhưng tôi tự hỏi những điểm đó là gì. Không hề có những cuộc tranh luận dài dòng giữa bố Atticus và ông Gilmer về bất cứ điểm nào, ông Gilmer có vẻ như truy tố một cách miễn cưỡng; các nhân chứng bị dắt mũi như những con lừa, ít có lời phản đối. Nhưng bố Atticus từng nói với chúng tôi rằng trong phòng xử của quan tòa Taylor bất cứ luật sư nào biết luận giải chặt chẽ các chứng cứ thường rốt cuộc lại nhận những hướng dẫn chính xác từ quan tòa. Bố chắt lọc điều này cho tôi để ngụ ý rằng quan tòa Taylor có thể trông uể oải và điều hành phiên tòa với vẻ buôn ngủ, nhưng ông hiếm khi bị lật ngược, và rằng phải qua thử thách mới biết dở hay. Bố Atticus nói ông là quan tòa tốt.
        Hiện thời quan tòa Taylor đã trở lại và leo lên chiếc ghế xoay của ông. Ông móc một điếu xì gà từ túi áo gile ra và xem xét nó một cách suy tư. Tôi thúc Dill. Sau khi qua được sự kiểm tra của quan tòa, điếu thuốc bị cắn một cách không thương tiếc. “Đôi khi mình phải cúi xuống để theo dõi ông ta” tôi giải thích. “Bây giờ nó sẽ chiếm hết buổi chiều của ông ta. Rồi mày coi”. Không biết bên trên đang chăm chú nhìn mình, quan tòa Taylor giải quyết mẩu xì gà bị cắn đứt bằng cách đẩy nó một cách khéo léo ra môi ông và kêu, “Phù!” Ông ta phun nó vào ống nhổ một cách chính xác đến độ chúng tôi có thể nghe nó rơi bõm một tiếng nào đó. “Tao dám chắc ông ta là vô địch trong trò nhai giấy thành cục tròn rồi ném” Dill lầm bầm.
        Như một nguyên tắc, giờ giải lao nghĩa là mọi người ra ngoài hết, nhưng hôm nay người ta không rời chỗ. Ngay cả những ông Idler, những người không thể làm đám trẻ tuổi xấu hổ rời chỗ ngồi để nhường cho họ, vẫn đứng dọc theo các bức tường. Tôi đoán ông Heck Tate đã dành riêng nhà vệ sinh hạt cho các nhân viên tòa án.
        Bố Atticus và ông Gilmer quay lại và quan tòa Taylor nhìn đồng hồ của mình. “Ta sẽ tiếp tục tới bốn giờ” ông nói, điều này gợi tò mò, vì đồng hồ tòa án hẳn đã báo giờ ít nhất hai lần. Tôi đã không nghe nó hoặc cảm thấy những dao động của nó.
        “Chúng ta kết thúc trong chiều nay được không?” Quan tòa Taylor hỏi. “Sao, Atticus?”
        “Tôi nghĩ ta làm được” bố Atticus nói.
        “Ông có bao nhiêu nhân chứng?”
        “Một”.
        “Vậy gọi anh ta lên đi”.

        ------------------------------------

        [1] Jingle: một nhân vật trong tiểu thuyết The Pickwick Papers của Charles ****ens, người thường bày tỏ ý kiến bằng những câu không trọn nghĩa.
        [2] Đây là độ Fahrenheit, bằng khoảng 32 độ C.

        Comment


        • #19
          Chương 19




          Thomas Robinson vòng tay xuống, luồn những ngón tay vào bên dưới cánh tay phải và nâng nó lên. Anh ta nâng cánh tay tới cuốn Kinh Thánh và bàn tay trái như cao su của anh ta tìm cách tiếp xúc với bìa sách màu đen. Khi anh ta giơ bàn tay phải lên, bàn tay trái vô dụng trượt khỏi cuốn Kinh Thánh và đụng vào bàn viên thư ký. Anh ta cố một lần nữa thì quan tòa Taylor làu bàu: “Được rồi, Tom”. Tom đọc lời thề và bước vào ghế nhân chứng, bố Atticus nhanh chóng khiến anh ta kể cho chúng tôi nghe.
          Tom hai mươi lăm tuổi; anh ta đã cưới vợ và có ba đứa con; trước đây anh ta đã gặp rắc rối với pháp luật; anh ta đã từng ở tù ba mươi ngày với tội gây rối trật tự công cộng.
          “Đó hẳn là một vụ gây rối trật tự công cộng” bố Atticus nói. “Gồm những chuyện gì?”
          “Đánh nhau với một người khác, hắn ta cố chém tôi”.
          “Hắn có làm được không?”
          “Có, một chút thôi, không đủ làm bị thương. Ông thấy đó, tôi...” Tom nhúc nhích vai trái.
          “Phải” bố Atticus nói. “Cả hai người đều bị kết án hết chứ?”
          “Vâng, thưa ngài, tôi phải ngồi tù vì không trả nổi tiền phạt. Người kia thì trả được”.
          Dill chồm ngang tôi và hỏi Jem xem bố Atticus đang làm gì, Jem nói bố Atticus đang chứng tỏ cho bồi thẩm đoàn thấy Tom chẳng có gì để giấu.
          “Anh có quen với Mayella Violet Ewell không?” Bố Atticus hỏi.
          “Có, thưa ngài, tôi phải đi ngang qua nhà cô ấy để ra đồng hay về nhà”.
          “Cánh đồng của ai?”
          “Tôi thu hoạch cho ông Link Deas”.
          “Anh hái bông vào tháng Mười một à?”
          “Không, thưa ngài, tôi làm việc trong sân nhà ông ấy vào mùa Thu và mùa Đông. Tôi làm việc khá đều đặn cho ông ấy quanh năm, ông ấy trồng nhiều hồ đào pecan và các thứ khác”.
          “Anh nói anh đi ngang qua nhà Ewell tới lui để làm việc. Có con đường nào khác để đi nữa không?”
          “Không, thưa ngài, tôi không biết con đường nào khác”.
          “Tom, cô ta có bao giờ nói chuyện với anh không?”
          “Có, thưa ngài, tôi thường bỏ mũ khi đi ngang qua, rồi một ngày nọ cô ta bảo tôi vào trong hàng rào và bửa cái tủ cho cô ấy”.
          “Cô ta yêu cầu anh bửa cái... tủ ấy hồi nào?”
          “Ông Finch, hồi mùa xuân năm ngoái. Tôi còn nhớ vì đó là mùa đi chặt củi và tôi có mang cuốc theo. Tôi có nói tôi không có gì ngoài cuốc, nhưng cô ấy nói cô ấy có một cái rìu. Cô ấy đưa cái rìu cho tôi và tôi bửa cái tủ ra. Cô nói, ‘Tôi tính là phải trả anh năm xu, được không?’ rồi tôi nói, ‘Không cần, thưa cô, không cần trả tiền’ sau đó tôi về nhà. Ông Finch, đó là chuyện mùa xuân năm ngoái, chuyện cách nay một năm rồi”.
          “Anh có đến đó nữa không?”
          “Có, thưa ngài”.
          “Khi nào?”
          “Tôi đến đó nhiều lần”.
          Quan tòa Taylor theo bản năng với lấy chiếc búa nhỏ của ông, nhưng để bàn tay ông rơi xuống. Tiếng rì rầm bên dưới của chúng tôi dứt hẳn mà không cần sự nhắc nhở của ông.
          “Trong những trường hợp nào?”
          “Ngài nói gì, thưa ngài?”
          “Tại sao anh vô bên trong hàng rào đó nhiều lần?”
          Trán Tom Robinson giãn ra. “Cô ấy gọi tôi vào, thưa ngài. Có vẻ mỗi lần tôi đi ngang qua cô ấy đều có công việc nhỏ nhặt nào đó nhờ tôi làm - chặt củi, kéo nước cho cô ấy. Cô ấy tưới mấy đám hoa đỏ mỗi ngày...”
          “Anh có được trả công phục vụ không?”
          “Không, thưa ngài, không có kể từ lần đầu cô ấy đưa tôi năm xu. Tôi vui khi làm điều đó, coi bộ ông Ewell không giúp cô ấy chút nào cả, mà cũng không giúp bọn nhỏ, mà tôi biết cô ấy cũng không dư được đồng năm xu nào”.
          “Mấy đứa nhỏ kia ở đâu?”
          “Chúng luôn quanh quẩn ở đó. Chúng nhìn tôi làm việc, một số đứa, một số đứa ở bên cửa sổ”.
          “Cô Mayella có nói chuyện với anh không?”
          “Có, thưa ngài, cô ấy có nói chuyện với tôi”.
          Khi Tom Robinson đưa ra lời khai, tôi cảm thấy rằng Mayella Ewell hẳn phải là kẻ cô đơn nhất trên đời này. Thậm chí cô ấy còn cô đơn hơn cả Boo Radley, người đã không ra khỏi nhà suốt hai mươi lăm năm. Khi bố Atticus hỏi cô ấy có bạn không, cô ấy có vẻ không hiểu ý ông là gì, rồi cô nghĩ ông đang chế nhạo cô. Cô ấy buồn, tôi nghĩ, như kẻ mà Jem gọi là trẻ lai: người da trắng không có bất cứ chuyện gì dính líu tới cô bởi vì cô sống giữa những kẻ bẩn thỉu; dân da đen không có quan hệ gì với cô bởi vì cô là người da trắng. Cô không thể sống giống như ông Dolphus Raymond, người thích bầu bạn với người dân da đen, bởi vì cô không làm chủ một bờ sông và vì cô không xuất thân từ một gia đình lâu đời tử tế. Không ai buông một câu kiểu như, “Kiểu của bọn họ là vậy” khi nói về người nhà Ewell. Hạt Maycomb đã cho họ những giỏ quà Giáng Sinh, tiền phúc lợi và cho họ cả sự khinh bỉ. Tom Robinson chắc chắn là người duy nhất lịch sự với cô. Nhưng cô ta nói anh ta cưỡng hiếp cô, và khi đứng dậy cô ta nhìn anh ta như thể anh ta là bụi bẩn dưới chân cô.
          “Anh có bao giờ,” bố Atticus cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi, “vào bất cứ thời điểm nào, bước vào đất của Ewell... anh có bao giờ đặt chân lên đất nhà Ewell mà không có một lời mời rõ ràng của một người trong nhà ấy không?”
          “Không, thưa ngài, ngài Finch, tôi chưa bao giờ làm vậy. Tôi sẽ không làm vậy, thưa ngài”.
          Đôi khi bố Atticus nói rằng có một cách để biết nhân chứng đang nói dối hay nói thật là lắng nghe hơn là nhìn: tôi áp dụng thử nghiệm của ông-Tom đã phủ nhận nó ba lần một lèo, mà một cách lặng lẽ, không hề có một thoáng rên rỉ nào trong giọng nói của anh ta, và tôi thấy rằng mình tin anh ta bất chấp sự phản đối hăng hái của anh ta. Anh ta có vẻ là một người da đen đáng kính, và một người da đen đáng kính sẽ không bao giờ bước chân vào sân nhà ai một cách tự tiện.
          “Tom, chuyện gì đã xảy ra với anh vào đêm hai mươi mốt tháng Mười một năm ngoái?”
          Bên dưới chúng tôi, những người dự khán cũng nín thở và chồm tới trước. Đằng sau chúng tôi, những người da đen cũng làm như vậy.
          Tom là người gốc Phi đen như nhung, không bóng, mà là một thứ nhung đen mềm mại. Tròng trắng của mắt chiếu sáng trên khuôn mặt anh và khi anh nói chúng tôi thấy ánh lấp lánh của hàm răng. Nếu không bị tật, anh sẽ là một mẫu đàn ông đẹp.
          “Ông Finch,” anh nói, “tôi về nhà như thường lệ tối đó và khi tôi đi ngang qua nhà Ewell thì cô Mayella Ewell đang ở hiên nhà, như cô ấy nói. Xung quanh có vẻ rất yên lặng, và tôi hoàn toàn không biết tại sao. Tôi đang ngẫm nghĩ tại sao như thế, khi đi ngang qua đó, thì cô ấy kêu tôi vô giúp cô ấy một chút. Vậy là tôi bước vô trong hàng rào và nhìn quanh tìm củi để bửa, nhưng không thấy củi đâu hết và cô ấy nói. ‘Không tôi có cái này cho anh làm trong nhà. Cánh cửa củ sút bản lề rơi xuống rồi’. Tôi hỏi ‘Cô có cây vít không, cô Mayella?’ cô ấy nói có. Rồi tôi bước lên mấy bậc thềm và cô ấy ra hiệu cho tôi bước vô trong, tôi đi vào phòng trước và nhìn cái cửa. Tôi nói cô Mayella là cái cửa này trông ổn mà. Tôi kéo nó tới lui và mấy cái bản lề còn tốt. Rồi cô ấy đóng cửa ngay trước mặt tôi. Ông Finch, tôi tự hỏi sao nhà yên ắng dữ vậy, rồi tôi chợt thấy nhà không có đứa bé nào, không một đứa bé nào hết, và tôi hỏi cô Mayella, ‘Mấy đứa nhỏ đâu?’”
          Làn da đen mịn của Tom bắt đầu sáng lên, và anh đưa tay lên vuốt mặt.
          “Tôi hỏi bọn nhỏ đâu?” Anh tiếp tục, “Và cô ấy nói - cô ấy bật cười, đại khái là vậy - cô ấy nói bọn nhỏ xuống thị trấn ăn kem. Cô ấy nói, ‘tôi phải mất cả năm để dành được mấy đồng năm xu, nhưng tôi đã làm được. Tụi nó kéo nhau xuống thị trấn hết cả rồi’.”
          Vẻ khó chịu của Tom không phải do sự ẩm ướt. “Sau đó anh nói gì, Tom?” Bố Atticus hỏi.
          “Tôi nói điều gì đó kiểu như vầy, sao vậy cô Mayella, cô đúng là thông minh khi đãi tụi nhỏ như vậy. Và cô ấy nói, ‘anh nghĩ thế hả’? Tôi không nghĩ cô ấy hiểu những gì tôi nghĩ - ý tôi là cô ấy thật thông minh khi tiết kiệm như vậy, và cô thật tốt khi chiêu đãi tụi nhỏ”.
          “Tôi hiểu anh, Tom, nói tiếp đi” bố Atticus nói.
          “Tôi nói tôi nên về thôi, tôi không có gì làm tốt cho cô ấy,và cô ấy nói ồ có đấy tôi có thể làm công chuyện giúp cô chứ, và tôi hỏi cô ấy chuyện gì, và cô ấy nói chỉ bước lên cái ghế đằng kia rồi lấy cái hộp trên đầu tủ xuống”.
          “Không phải cái tủ anh bửa chứ?” Bố Atticus hỏi.
          Nhân chứng mỉm cười, “Không, thưa ngài, một cái khác. Nó cao cỡ căn phòng. Vì vậy tôi làm việc cô ấy bảo, và tôi với lên thì ngay lập tức nhận ra cô ấy - cô ấy ôm cứng hai chân tôi, ôm cứng hai chân tôi, ông Finch. Cô ấy làm tôi sợ đến độ tôi nhảy xuống và làm đổ cái ghế luôn... đó là vật duy nhất, món đồ đạc duy nhất trong phòng đó, ông Finch, khi tôi rời nó. Tôi thề trước Chúa”.
          “Chuyện gì đã xảy ra sau khi anh làm đổ chiếc ghế?”
          Tom Robinson đã im bặt. Anh nhìn bố Atticus, nhìn bồi thẩm đoàn, rồi nhìn ông Underwood đang ngồi đằng kia phòng xử án.
          “Tom, anh đã thề nói toàn bộ sự thật. Anh sẽ nói điều đó chứ?”
          Tom bối rối đưa bàn tay lên miệng.
          “Chuyện gì đã xảy ra sau đó?”
          “Trả lời câu hỏi đó” quan tòa Taylor nói. Một phần ba điều xì gà của ông đã biến mất.
          “Ông Finch, tôi bước ra khỏi ghế và quay lại và cô ấy nhảy xổ vào tôi”.
          “Nhảy xổ vào anh? Làm dữ hả?”
          “Không, thưa ngài... cô ấy ôm tôi. Cô ấy ôm ngang hông tôi”.
          Lần này chiếc búa của quan tòa Taylor gõ Bobng một tiếng, và khi nó vừa gõ thì những bóng đèn trên đầu bật sáng phòng xử án. Trời không tối, nhưng mặt trời chiều đã xuống khỏi các cửa sổ. Quan tòa Taylor nhanh chóng vãn hồi trật tự.
          “Sau đó cô ta làm gì?”
          Nhân chứng nuốt nước miếng khó khăn. “Cô ấy chồm lên và hôn một bên mặt tôi. Cô nói trước đây cô chưa từng hôn một người đàn ông đã lớn và cũng chưa hôn một người da đen. Cô ấy nói những gì ba cô ấy làm với cô ấy thì không kể đến. Cô ấy nói, ‘Hôn lại tao đi, thằng mọi’. Tôi nói cô Mayella hãy cho tôi ra khỏi chỗ này và cố chạy ra nhưng cô ấy đã tựa lưng vào cửa và tôi đã phải đẩy cô ấy ra. Tôi không muốn làm cô ấy đau, ông Finch ạ, và tôi nói hãy để cho tôi ra, nhưng khi tôi nói như vậy thì thấy ông Ewell đằng kia đã gào thét qua cửa sổ”.
          “Ông ta nói gì?”
          Tom Robinson lại nuốt nước miếng và anh mở to mắt. “Những lời nói ra không tiện... không nên nói cho những người ở đây và bọn trẻ nghe...”
          “Anh ta đã nói gì, Tom. Anh phải nói cho bồi thẩm đoàn nghe những gì ông ta nói”.
          Tom Robinson nhắm chặt mắt lại. “Ông ta nói, con điếm thùi này, tao sẽ giết mày”.
          “Sau đó chuyện gì xảy ra?”
          “Ông Finch, tôi bỏ chạy quá nhanh đến độ không biết chuyện gì xảy ra”.
          “Tom, anh có cưỡng hiếp Mayella Ewell không?”
          “Tôi không làm vậy, thưa ngài”.
          “Anh có làm bất cứ điều gì gây thương tích cho cô ta không?”
          “Tôi không có, thưa ngài”.
          “Anh có cự tuyệt đòi hỏi của cô ta không?”
          “Ông Finch, tôi đã cố. Tôi đã cố không xấu với cô ấy. Tôi không muốn xấu, tôi không muốn xô cô ấy hoặc bất cứ gì khác”.
          Tôi chợt nghĩ rằng theo cách riêng của họ, lối ứng xử của Tom Robinson cũng tốt như lối ứng xử của bố Atticus. Mãi sau này khi bố giải thích điều đó thì tôi mới biết, còn lúc đó tôi không hiểu uẩn khúc trong tình trạng khó xử của Tom Robinson: anh ta không đời nào dám đánh một phụ nữ da trắng trong bất kỳ tình huống nào và muốn được sống thọ, vì vậy khi vừa có cơ hội là anh ta bỏ chạy - một dấu hiệu rõ ràng của tội lỗi.
          “Tom, trở lại với ông Ewell” bố Atticus nói. “Ông ta có nói gì với anh không?”
          “Không nói gì cả, thưa ngài. Có lẽ ông ta nói gì đó, nhưng tôi không còn ở đó nữa...”
          “Được rồi” bố Atticus đột ngột ngắt lời. “Anh đã nghe những gì, ông ta đang nói với ai?”
          “Ông Finch, ông ta nói và nhìn vào cô Mayella”.
          “Rồi anh bỏ chạy?”
          “Tôi đã làm vậy, thưa ngài”.
          “Tại sao anh bỏ chạy?”
          “Tôi sợ, thưa ngài”.
          “Tại sao anh sợ?”
          “Ông Finch, nếu ông là một tên da đen như tôi ông cũng sẽ sợ”.
          Bố Atticus ngồi xuống. Ông Gilmer đang tiến về bục nhân chứng, nhưng trước khi ông ta đến nơi, ông Link Deas nhổm khỏi hàng ghế dự khán và tuyên bố:
          “Tôi chỉ muốn toàn thể quý vị biết một điều ngay bây giờ. Cậu trai đó đã làm cho tôi tám năm và tôi không có chút phàn nàn nào về cậu ta. Không một chút phàn nàn”.
          Im mồm, thưa ông!” Quan tòa Taylor bừng tỉnh và gầm lên. Mặt ông ta đỏ bừng, lời nói của ông ta, kỳ diệu thay, không bị tác động bởi điếu xì gà. “Link Deas,” ông ta gầm lên, “nếu ông có bất cứ điều gì muốn nói, ông có thể nói sau khi tuyên thệ và vào thời điểm thích hợp, nhưng cho đến lúc đó ông phải rời khỏi phòng này, ông nghe tôi nói không? Ra khỏi phòng này, thưa ngài, ngài nghe tôi nói không? Tôi chắc chắn sẽ không lắng nghe vụ này lần nữa!”
          Quan tòa Taylor nhìn sắc lẻm vào bố Atticus, như thể thách ông dám nói, nhưng bố Atticus đã cúi đầu xuống và bật cười với cái bụng của mình. Tôi nhớ lại điều gì đó bố Atticus đã nói về những lời nhận xét theo quyền hạn của quan tòa Taylor đôi khi vượt quá nhiệm vụ của ông, nhưng ít luật sư nào có phản ứng về việc này. Tôi nhìn Jem, nhưng Jem lắc đầu. “Nó không giống như chuyện một người trong bồi thẩm đoàn đứng lên và bắt đầu nói,” anh nói, “anh nghĩ lúc đó thì khác. Ông Link vừa làm rối trật tự hay đại loại như thế”.
          Quan tòa Taylor bảo người viết biên bản xóa bất cứ điều gì mà anh ta đã máy móc ghi lại sau câu ông Finch nếu ông là một tên mọi đen như tôi ông cũng sợ, và bảo bồi thẩm đoàn đừng quan tâm đến việc làm gián đoạn đó. Ông nhìn xuống lối đi ở giữa một cách nghi ngờ và đợi, tôi đoán vậy, cho ông Link Deas hoàn toàn rời khỏi phòng. Rồi ông nói, “Tiếp tục đi, ông Gilmer”.
          “Anh đã từng một lần ngồi tù ba mươi ngày vì tội quấy rối trật tự công cộng, phải không Robinson?” Ông Gilmer hỏi.
          “Vâng, thưa ngài”.
          “Tên ra đen kia ra sao khi anh xong chuyện với hắn?”
          “Hắn ta đánh tôi, ông Gilmer”.
          “Phải, nhưng anh bị kết án, đúng không?”
          Bố Atticus ngẩng đầu lên, “Đó là một tội nhẹ và nó đã có trong hồ sơ thưa quan tòa”. Tôi nghĩ giọng bố có vẻ mệt.
          “Dù sao thì nhân chứng vẫn phải trả lời” quan tòa Taylor nói, cũng mệt mỏi như vậy.
          “Vâng, thưa ngài, tôi lãnh án ba mươi ngày”.
          Tôi biết rằng ông Gilmer sẽ thành thật nói với bồi thẩm đoàn rằng bất cứ ai bị kết án tội phá rối trật tự công cộng, cũng dễ dàng có ý tưởng cưỡng dâm Mayella Ewell, đó là lý do duy nhất ông ta quan tâm. Những lý do giống như thế rất hữu dụng.
          “Robinson, anh làm tốt việc bửa tủ và chặt củi với một tay, phải không?”
          “Vâng, thưa ngài, tôi cho là thế”.
          “Đủ khỏe để bóp cổ một phụ nữ và vật cô ra xuống sàn?”
          “Tôi chưa từng làm chuyện đó, thưa ngài”.
          “Nhưng anh đủ khỏe?”
          “Tôi cho là thế, thưa ngài”.
          “Anh đã để mắt đến cô ta từ lâu, đúng không, chàng trai?”
          “Không, thưa ngài, tôi chưa từng nhìn cô ta”.
          “Vậy hẳn là anh rất lịch sự khi làm tất cả chuyện chặt củi và kéo nước cho cô ta, đúng không, chàng trai?”
          “Tôi chỉ cố giúp cô ấy thôi, thưa ngài”.
          “Vậy là anh rất hào phóng, anh có nhiều việc lặt vặt ở nhà sau khi làm công việc thường lệ, đúng không?”
          “Vâng thưa ngài”.
          “Tại sao anh không làm những việc đó mà làm cho cô Ewell?”
          “Tôi làm hết cả hai, thưa ngài”.
          “Anh hẳn rất bận rộn mà, tại sao vậy?”
          “Tại sao cái gì, thưa ngài?”
          “Tại sao anh sẵn lòng làm những việc lặt vặt cho cô ấy?”
          Tom Robinson do dự, tìm câu trả lời. “Có vẻ như không có ai giúp đỡ cô ấy, như tôi đã nói...”
          “Với ông Ewell và bảy đứa trẻ đang sống ở đó hả, chàng trai?”
          “Ồ, tôi nói có vẻ họ không giúp đỡ cô ấy...”
          “Anh làm tất cả công việc chặt củi và những việc khác hoàn toàn do lòng tốt sao, chàng trai?”
          “Tôi nói tôi có giúp cô ấy”.
          Ông Gilmer mỉm cười nhăn nhó với bồi thẩm đoàn. “Có vẻ như anh ta là một chàng trai rất tốt... làm mọi chuyện không vì một đồng xu nào sao?”
          “Vâng, thưa ngài. Tôi cảm thấy rất tiếc cho cô ấy, cô ấy có vẻ cố gắng nhiều hơn mọi người khác trong nhà...”
          “Anh cảm thấy rất tiếc cho cô ấy, anh cảm thấy rất tiếc cho cô ấy hả?” Ông Gilmer có vẻ sẵn sàng vươn lên tới trần nhà.
          Bị cáo nhận ra sai lầm của anh ta và cựa quậy một cách khó chịu trên ghế. Nhưng thiệt hại đó là không thể cứu vãn. Bên dưới chúng tôi, không ai ưa nổi câu trả lời của Robinson. Ông Gilmer ngừng một hồi lâu để cho nó ngấm sâu.
          “Anh đi ngang ngôi nhà đó như thường lệ, ngày hai mươi mốt tháng Mười một năm rồi,” ông ta nói, “và cô ấy yêu cầu anh vào trong để bửa một cái tủ!”
          “Không, thưa ngài”.
          “Anh phủ nhân rằng anh đã đi ngang qua ngôi nhà đó?”
          “Không, thưa ngài... cô ấy nói có việc cho tôi làm trong nhà...”
          “Cô ta nói cô ta nhờ anh bửa một cái tủ có đúng vậy không?”
          “Không thưa ngài, không phải vậy”.
          “Vậy anh nói cô ta nói dối hả, chàng trai?”
          Bố Atticus đứng dậy nhưng Tom Robinson không cần đến ông. “Tôi không nói cô ấy nói dối, ông Gilmer, tôi nói cô ấy lầm lẫn trong đầu”.
          Với mười câu hỏi kế tiếp, trong khi ông Gilmer xem xét lại lời kể của Mayella về các sự kiện, câu trả lời của bị cáo là cô ta lầm lẫn trong đầu.
          “Ông Ewell không rượt anh ra khỏi nhà sao, chàng trai?”
          “Không, thưa ngài, tôi không nghĩ ông ta làm vậy”.
          “Không nghĩ, ý anh là sao?”
          “Ý tôi là tôi không ở đó đủ lâu để ông ta phải rượt đuổi tôi đi”.
          “Anh rất thành thật về chuyện này, tại sao anh chạy nhanh đến thế?”
          “Tôi nói tôi sợ, thưa ngài”.
          “Nếu anh có lương tâm trong sạch, tại sao anh sợ?”
          “Như tôi nói trước đây, thật không an toàn cho một tên đen khi lầm vào một... tình thế khó khăn như vậy”.
          “Nhưng anh không ở trong một tình thế khó khăn... anh khai rằng anh chống cự lại cô Ewell. Anh sợ rằng cô ấy làm đau anh đến thế, anh đã bỏ chạy sao, một chàng da đen to bự như anh?”
          “Không thưa ngài, tôi sợ bị đưa ra tòa, giống như bây giờ vậy”.
          “Sợ bị bắt giữ, sợ bị đối mặt với những gì anh đã làm à?”
          “Không thưa ngài, sợ phải đối mặt với những gì tôi không hề làm”.
          “Anh đang hỗn láo với tôi hả, chàng trai?”
          “Không, thưa ngài, tôi không có ý đó”.
          Tôi chỉ nghe phần chất vấn của ông Gilmer tới đó, vì Jem bắt tôi đưa Dill ra. Vì lý do nào đó, Dill đã bắt đầu khóc và không nín lại được; ban đầu nó còn lặng lẽ, sau nhiều người ở ban công nghe thấy tiếng thổn thức của nó. Jem nói nếu tôi không đi với nó anh ấy sẽ buộc tôi đi, và mục sư Sykes bảo tôi nên đi, vì vậy tôi đi. Hôm đó Dill có vẻ rất ổn, chẳng có gì trục trặc với nó, nhưng tôi đoán nó chưa hồi phục hoàn toàn từ vụ bỏ nhà trốn đi.
          “Mày thấy không khỏe hả?” Tôi hỏi khi chúng tôi xuống tới chân cầu thang.
          Dill cố kiềm chế lại khi chúng tôi chạy xuống những bậc thang phía Nam. Ông Link Deas đang ở một mình ở đầu cầu thang. “Có chuyện gì vậy, Scout?” Ông hỏi khi chúng tôi đi ngang. “Không thưa ngài!” tôi ngoái lại đáp. “Thằng Dill này, nó bệnh”.
          “Ra ngồi dưới gốc cây đi” tôi nói. “Tao chắc mày bị say nóng đấy”. Chúng tôi chọn cây sồi to nhất và ngồi dưới gốc.
          “Chỉ nhìn ông ta là tao không chịu nổi” Dill nói.
          “Ai, Tom hả?”
          “Cái lão già Gilmer đó cứ hành hạ anh ta, ăn nói đầy ác ý với anh ta...”
          “Dill, đó là công việc của ông ta. Nếu chúng ta không có công tố viên - thì chúng ta cũng không có được luật sư biện hộ, tao nghĩ vậy”.
          Dill thở ra một cách kiên nhẫn. “Tao biết hết mấy chuyện đó, Scout ạ. Chính cái kiểu ông ta ăn nói làm tao phát bệnh, thật sự bệnh luôn”.
          “Ông ta có nhiệm vụ phải làm vậy, Dill, ông ta đang chất vấn...”
          “Ông ta không hành động theo kiểu đó khi...”
          “Dill, những người đó là nhân chứng của ông ta”.
          “Ông Finch không làm theo kiểu đó với Mayella và lão già Ewell khi ông chất vấn họ. Cái kiểu cha đó cứ gọi anh ta là ‘chàng trai’ rồi cười nhạo anh ta, và nhìn khắp lượt bồi thẩm đoàn mỗi lần anh ta trả lời...”
          “Dill, xét cho cùng anh ta chỉ là một người da đen”.
          “Tao không quan tâm vụ đó chút nào. Thiệt không phải chút nào, quả là không đúng khi cư xử với họ theo kiểu đó. Bất kỳ ai cũng không mắc mớ gì phải ăn nói theo kiểu đó... nó làm tao phát bệnh”.
          “Cái kiểu của ông Gilmer là vậy, Dill à, ông ta cư xử với tất cả họ theo cách đó. Mày chưa hề thấy ông ta hoàn toàn ghét ai cả. Theo tao thì hôm nay thì ông ấy chưa ra tới nửa sức mình. Bọn họ cư xử với mọi người theo kiểu đó, ý tao là hầu hết luật sư đều vậy”.
          “Ông Finch không như vậy”.
          “Bố tao không phải tiêu biểu, Dill, ông là...” Tôi đang cố mò tìm trong ký ức của mình để tìm một câu sắc xảo của cô Maudie Atkinson. Tôi nghĩ ra, “Ông ấy ở trong tòa án cũng y như ông ấy ở trên đường phố”.
          “Đó không phải là điều tao muốn nói” Dill nói.
          “Tôi hiểu ý cháu đấy, nhóc” một giọng từ phía sau chúng tôi vang lên. Chúng tôi nghĩ nó phát ra từ thân cây, nhưng đó là của ông Dophus Raymond. Ông ló mặt từ sau thân cây nhìn chúng tôi. “Cháu không dễ xúc động, nó chỉ làm cháu phát bệnh thôi, đúng không?”

          Comment


          • #20
            Chương 20




            “Đi vòng qua đây, con trai, ta có thứ làm cho dạ dày cháu ổn thôi”.
            Vì ông Dolphus Raymond là người xấu nên tôi nhận lời mời của ông một cách miễn cưỡng, tôi theo sau Dill. Không hiểu tại sao tôi nghĩ chắc bố Atticus sẽ không vui nếu thấy chúng tôi kết thân với ông Raymond, và tôi biết bác Alexandra cũng không thích.
            “Nè,” ông ta nói, đưa cho Dill một túi giấy có những ống hút trong đó. “nhấp một ngụm đi, nó sẽ làm cho cháu êm lại”.
            Dill nút ống hút, mỉm cười và kéo một hơi dài.
            “He, he” ông Raymond nói, rõ ràng vui thích trong việc làm hư một đứa trẻ.
            “Dill, coi chừng đó” tôi cảnh báo.
            Dill buông ống hút ra và nhe răng cười. “Scout, chỉ là Coca-Cola”.
            Ông Raymond ngồi dựa lưng vào thân cây. Nãy giờ ông nằm trên cỏ. “Giờ tụi nhỏ các cháu sẽ không mách ta đấy chứ? Nó sẽ hủy hoại thanh danh ta nếu các cháu làm vậy”.
            “Ông muốn nói là thứ mà ông uống trong cái túi đó là Coca-Cola sao? Chỉ là Coca-Cola thôi hả?”
            “Phải, cô bé” ông Raymond gật đầu. Tôi thích mùi của ông ta: đó là mùi da, mùi ngựa, mùi của hạt bông vải. Ông ta mang đôi ủng cưỡi ngựa kiểu Anh duy nhất tôi từng thấy. “Đó là tất cả những gì ta uống, lúc nào cũng vậy”.
            “Vậy ông chỉ giả bộ ông nửa...? Cháu xin lỗi, thưa ông” tôi kiềm mình lại. “Cháu không có ý...”
            Ông Raymond cười khúc khích, không chút phật lòng, và tôi cố nghĩ một câu hỏi kín đáo. “Tại sao ông cứ làm vậy hoài?”
            “Ờ... à phải, ý cháu là tại sao ta giả bộ hả? Thật đơn giản” ông nói. “Một số người không... thích lối sống của ta. Bây giờ ta có thể mặc xác họ, ta không quan tâm họ có thích chuyện đó không. Ta nói ta không quan tâm chuyện họ có thích hay không... nhưng ta không mặc xác họ, hiểu không?”
            Dill và tôi nói, “Hiểu, thưa ngài”.
            “Ta cố cho họ một lý do, các cháu thấy đó. Nếu họ có thể bám vào một lý do thì rất có ích cho họ. Khi ta vào thị trấn, chuyện đó hiếm lắm, nếu ta đi hơi xiêu vẹo và uống trong túi này, người ta có thể nói Dolphus Raymond nghiện rượu... bởi thế chả sẽ không thay đổi lối sống của chả. Chả không dừng lại được, nên chả sống theo kiểu đó”.
            “Vậy là không trung thực, ông Raymond, làm cho mình xấu hơn sự thực...”
            “Nó không trung thực nhưng nó hữu ích cho người ta. Bí mật nghen cô Finch, ta không phải là kẻ say sưa, nhưng cô thấy họ không thể nào, không thể nào hiểu rằng ta sống theo kiểu đó bởi vì đó là cách ta muốn sống”.
            Tôi có cảm giác rằng tôi không nên ở đây nghe người đàn ông đầy tội lỗi này, người vốn có những đứa con lai và không quan tâm đến việc có ai biết điều đó hay không, nhưng ông ta thật quyến rũ. Tôi chưa từng gặp một ai cố ý lừa chính bản thân minh. Nhưng tại sao ông ta lại tiết lộ cho chúng tôi bí mật sâu kín nhất của ông ta? Tôi hỏi ông ta lý do.
            “Bởi vì các cháu là trẻ con và các cháu có thể hiểu nó,” ông ta nói, “và bởi vì ta nghe nói rằng một...”
            Ông ta hất đầu vào Dill, “Mọi chuyện chưa bắt nhịp với bản năng của cậu này. Cứ để cậu ta lớn thêm chút nữa thì cậu ta sẽ không phát bệnh và khóc lên. Có lẽ cậu ta sẽ thấy mọi chuyện như chúng vốn dĩ là thế... Không hẳn thế, chẳng hạn, nhưng cậu ấy sẽ khóc, không khóc nữa khi cậu ấy lớn thêm vài tuổi”.
            “Khóc về cái gì, ông Raymond?” Nam tính của Dill bắt đầu khẳng định.
            “Khóc về sự bất hạnh đơn giản mà người này gây ra cho người kia... mà không hề suy nghĩ. Khóc về điều bất hạnh do người da trắng gây ra cho người da màu, mà không hề dừng lại để nghĩ rằng họ cũng là con người”.
            “Bố Atticus nói lừa gạt một người da màu còn tệ hại gấp mười lần lừa gạt một người da trắng” tôi lầm bầm. “Bố nói đó là điều tệ hại nhất mà người ta có thể làm”.
            Ông Raymond nói, “Ta không cho rằng nó là vậy... Cô Jean Louise, cháu không biết bố của cháu không phải người tầm thường, phải mất vài năm để thấm nhuần điều đó... cháu chưa biết nhiều về giới này. Thậm chí cháu chưa biết hết về thị trấn này, những điều các cháu phải làm là trở vào tòa án thôi”.
            Câu đó nhắc tôi nhớ chúng tôi đã bỏ lỡ gần như toàn bộ phần chất vấn của ông Gilmer. Tôi nhìn mặt trời, nó đang khuất nhanh đằng sau những nóc cửa hàng mé Tây quảng trường. Kẹt giữa hai làn đạn, tôi không quyết định được mình muốn nhảy vào bên nào: ông Raymond hay Tòa tư pháp lưu động số 5. “Nào Dill,” tôi nói, “mày ổn chưa?”
            “Rồi. Rất vui được gặp ông, ông Raymond và cám ơn nước uống, nó thật dễ chịu”.
            Chúng tôi trở vào phòng xử án, lên các bậc thang, lên hai lượt bậc thang nữa, và len lỏi dọc theo tay vịn ban công. Mục sự Sykes đã giữ chỗ cho chúng tôi.
            Phòng xử án vẫn im lặng, và một lần nữa tôi tự hỏi các em bé đâu rồi. Điếu xì gà của quan tòa Taylor chỉ còn là một đốm nhỏ màu nâu giữa miệng ông ta; Ông Gilmer đang viết lên một trang của xấp giấy vàng trên bàn ông ta, cố vượt qua người ghi biên bản vẫn đang múa tay như gió. “Nhanh lên,” tôi làu bàu, “mình bỏ lỡ mất”.
            Bố Atticus đang nói giữa chừng với bồi thẩm đoàn. Rõ ràng ông đang rút mấy tờ giấy trong chiếc cặp bên cạnh ghế ngồi của ông, bởi vì chúng đã ở trên bàn ông. Tom Robinson đang lơ đãng lật xem chúng.
            “... bởi vì thiếu chứng cứ chứng thực, người đàn ông này bị buộc tội chết và bây giờ đang bị tòa xét xử cái mạng mình...”
            Tôi thúc Jem. “Bố nói bao lâu rồi?”
            “Bố chỉ mới lược qua phần chứng cứ,” Jem thì thầm, “và chúng ta sẽ thắng, Scout. Anh thấy dứt khoát chúng ta sẽ thắng, không thể nào khác được. Bố đã nói khoảng năm phút rồi. Bố làm cho nó rõ ràng và dễ hiểu như... ở, như anh giải thích nó cho em vậy. Cả em cũng hiểu rõ được mà”.
            “Ông Gilmer có...?”
            “Suỵt. Không có gì mới, như thường lệ. Giờ thì im đi”.
            Chúng tôi lại nhìn xuống. Bố Atticus đang nói một cách thoải mái, với cái kiểu thản nhiên xa cách ông thường có khi đọc một lá thư cho người khác chép. Ông bước đi từ tốn tới lui trước mặt bồi thẩm đoàn, và bồi thẩm đoàn có vẻ chăm chú: đầu họ ngẩng lên, và họ theo dõi bước đi của bố Atticus với vẻ thán phục. Tôi đoán đó là do bố Atticus không phải là loại ăn to nói lớn.
            Bố Atticus ngừng lại, rồi ông làm một động tác mà bình thường ông không làm. Ông tháo đồng hồ và dây đeo để lên bàn, nói, “với sự cho phép của tòa...”
            Quan tòa Taylor gật đầu, và sau đó ông làm một điều mà trước đây tôi chưa từng thấy ông làm, trước công chúng hoặc ở chỗ riêng tư: ông cởi áo gile, cởi nút cổ, nới lỏng cà vạt và cởi áo khoác. Ông chưa từng nới lỏng một phần nào của trang phục cho tới khi ông cởi quần áo đi ngủ, và đối với Jem và tôi, điều này giống như việc ông đứng trước chúng tôi hoàn toàn trần truồng. Chúng tôi trao nhau cái nhìn kinh hoàng.
            Bố Atticus đặt hai tay vào túi, và ông quay lại phía bồi thẩm đoàn, tôi thấy nút cổ áo cùng đầu bút mực và bút chì của ông lấp lánh dưới ánh đèn.
            “Thưa quý vị,” ông nói. Jem và tôi lại nhìn nhau: tưởng như bố Atticus vừa nói, “Scout”. Giọng ông đã mất vẻ khô khan, xa cách, và ông nói với bồi thẩm đoàn như thể họ là những người ngay góc bưu điện.
            “Thưa các quý vị,” ông nói, “tôi sẽ nói ngắn gọn, nhưng tôi thích sử dụng thời gian còn lại của tôi để nhắc các vị rằng vụ này không phải là vụ án khó, nó không đòi hỏi phải xem xét kỹ các sự kiện phức tạp, mà nó đòi hỏi quý vị phải chắc chắn vượt qua mọi nghi ngờ có vẻ hợp lý về tội của bị cáo. Trước hết, vụ này không cần phải đưa ra xem xét. Vụ án này đơn giản như đen và trắng”.
            “Bên công tố đã không đưa ra được chút chứng cớ ý học nào có thể cho thấy rằng tội lỗi mà Tom Robinson bị cáo buộc đã từng xảy ra. Thay vào đó nó dựa vào lời khai của hai nhân chứng với chứng cứ không chỉ hết sức đáng nghi ngờ qua chất vấn, mà nó còn hoàn toàn mâu thuẫn với bị cáo. Bị cáo không có tội, nhưng ai đó trong phòng xử án này thì có”.
            “Tôi không có gì ngoài việc lấy làm tiếc cho nhân chứng chính của bên nguyên, nhưng lòng thương xót của tôi không bao dung được đối với hành động đặt một người vào chỗ chết của cô ta, một việc mà cô ta ráng sức làm nhằm gạt bỏ tội lỗi của chính mình”.
            “Tôi nói tội lỗi, thưa quý vị, bởi vì chính tội lỗi đã thúc đẩy cô ta. Cô ta không gây tội ác, cô ta chỉ phá vỡ một quy ước cứng ngắc và lâu đời của xã hội chúng ta, một quy ước quá khắt khe đến độ bất cứ ai phá vỡ nó đều sẽ bị loại khỏi cộng đồng chúng ta như một kẻ không thích hợp để sống chung. Cô ta là nạn nhân của sự nghèo khổ và ngu dốt cao độ, nhưng tôi không thể thương hại cô ta: cô ta là người da trắng. Cô ta biết rất rõ tác hại nghiêm trọng của việc vi phạm luật lệ của cô ta, nhưng vì những thèm muốn của cô ta mạnh mẽ hơn quy ước mà cô ta đang phá vỡ, nên cô ta nhất quyết phá vỡ nó. Cô ta kiên quyết, và phản ứng sau đó của cô ta là điều mà tất cả chúng ta đã biết vào lúc này hay lúc khác. Cô ta đã làm điều mà mọi đứa trẻ đều làm - cô ta đã giấu nhẹm chứng cớ về sự vi phạm luật lệ của cô ta. Nhưng trong trường hợp này cô ta không phải là một đứa trẻ giấu hàng lậu ăn cắp: cô ta đánh thẳng vào nạn nhân của cô ta - cô ta nhất thiết phải tống khứ anh ta xa khỏi cô ta - anh ta phải bị biến mất khỏi tầm mắt của cô ta, biến khỏi thế giới này. Cô ta phải tiêu hủy chứng cứ về sự vi phạm luật lệ của cô ta”.
            “Chứng cứ về việc vi phạm luật lệ của cô ta là gì? Chính là Tom Robinson, một con người. Cô ta phải tống khứ Tom Robinson xa khỏi cô ta. Tom Robinson là điều hàng ngày nhắc nhở cô ta về những gì cô ta đã làm. Cô ta đã làm những gì? Cô ta đã quyến rũ một người da đen”.
            “Cô ta là một người da trắng, và cô ta quyến rũ một người da đen. Cô ta đã làm một điều không tiện nói ra trong xã hội chúng ta: cô ta đã hôn một người da đen. Không phải là một ông bác già, mà là một chàng trai da đen khỏe mạnh. Không một luật lệ nào là quan trọng đối với cô ta trước khi cô ta phá vỡ nó, nhưng sau đó nó lại giáng xuống cô ta”.
            “Cha cô ta đã thấy điều đó, và bị cáo đã khai về những lời lẽ của ông ta. Cha cô ta đã làm gì? Chúng ta không biết, nhưng có chứng cớ gián tiếp cho biết rằng Mayella Ewell đã bị đánh một cách dã man bởi một người hầu như đặc biệt thuận tay trái. Chúng ta hầu như phần nào biết được ông Ewell đã làm: ông ta đã làm điều mà hầu như người da trắng đáng trọng, kiên định, biết kính Chúa nào cũng sẽ làm trong tình huống đó - ông ta đã đòi trát tống giam, rõ ràng là ký nó bằng tay trái, và Tom Robinson hiện đang ngồi trước quý vị, đã tuyên thệ với bàn tay duy nhất còn cử động được của anh ta - bàn tay phải”.
            “Và thế là một người da đen hèn mọn, đứng đắn, trầm lặng, người hết sức liều lĩnh khi ‘cảm thấy tiếc’ cho một người phụ nữ da trắng đã đưa ra lời khai chống lại những lời khai của hai người da trắng. Tôi không cần nhắc nhở quý vị về thái độ và cách cư xử của họ trên bục nhân chứng - tự quý vị đã thấy. Các nhân chứng của bên nguyên, trừ vị cảnh sát trưởng của hạt Mycomb, đã trình diện trước mặt quý vị, trước tòa án trong niềm tin ích kỷ rằng lời khai của họ sẽ không bị nghi ngờ, tin rằng quý vị sẽ đồng ý với họ về giả định này - giả định xấu xa- rằng mọi người da đen đều nói dối, ràng mọi người da đen cơ bản là những kẻ đồi bại, rằng mọi đàn ông da đen đều không được phép đến gần những phụ nữ của chúng ta, một giả định gắn liền với não trạng của loại người như họ”.
            “Thưa quý bị, chúng ta biết rằng giả định đó là một lời dối trá đen tối như nước da của Tom Robinson vậy, một lời nói dối mà tôi không cần chỉ ra cho quý vị. Quý vị biết sự thật, và sự thật là điều này: một số người da đen nói dối, một số người da đen đồi bại, một số người đàn ông da đen không được phép đến gần phụ nữ - đen hoặc trắng. Nhưng đây là một sự thật đúng với cả loài người chứ không riêng với một chủng tộc cụ thể nào. Trong phòng xử này không có một người nào chưa từng nói dối, chưa từng làm điều gì đồi bại, và không có người đàn ông đang sống nào nhìn phụ nữ mà không có ham muốn”.
            Bố Atticus ngừng lại và móc khăn tay ra. Rồi ông gỡ kính xuống, lau nó, và chúng tôi thấy một “điều đầu tiên” khác nữa: chúng tôi chưa từng thấy mặt ông đổ mồ hôi, nhưng bây giờ nó bóng sáng màu đồng.
            “Còn một điều nữa, thưa quý vị, trước khi tôi rời bục. Thomas Jefferson từng nói rằng tất cả con người sinh ra đều bình đẳng, một cụm từ mà bọn miền Bắc và cánh nữ của ngàng Hành pháp ở Washington [1] thích quát vào mặt chúng ta. Có một xu hướng trong năm nay, 1935, một số người thích sử dụng từ này tách khỏi ngữ cảnh, để thỏa đáp mọi tình huống. Ví dụ buồn cười nhất tôi có thể nghĩ đến là chuyện những nhà quản lý nền giáo dục công lập khuyến khích kẻ ngu ngốc và lười biếng học cùng với người siêng năng - bởi vì tất cả con người sinh ra đều bình đẳng, các nhà giáo dục sẽ long trọng nói với quý vị rằng những đứa trẻ bị bỏ lại đằng sau sẽ phải chịu đựng cảm giác khủng khiếp về sự kém cỏi. Chúng ta biết tất cả mọi người sinh ra không bình đẳng theo cái nghĩa mà một số người thường muốn chúng ta tin - rằng một số người thì thông minh hơn một số người khác, một số người có cơ hội hơn bởi vì họ sinh ra với nó, một số đàn ông kiếm ra nhiều tiền hơn những người đàn ông khác - một số người sinh ra có tài năng vượt quá mức bình thường của hầu hết con người”.
            “Nhưng có một cách thức đến đất nước này mà trong đó mọi người sinh ra đều bình đẳng - có một thể chế của con người khiến một người dân nghèo bình đẳng với một Rockefeller [2], một kẻ ngu ngốc bình đẳng với một Einstein, và một kẻ dốt nát bình đẳng với bất cứ vị hiệu trưởng trường đại học nào. Thể chế đó, thưa quý vị, chính là tòa án. Nó có thể là Tòa án tối cao của nước Mỹ hay tòa sơ thẩm tầm thường nhất của đất nước này hay chính cái tòa án danh giá mà quý vị đang phục vụ này. Các tòa án của chúng ta có những lỗi lầm của nó, như bất cứ thể chế nào của loài người, nhưng trên đất nước này các tòa án của chúng ta là những kẻ công bằng vĩ đại, và trong các tòa án của chúng ta tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng”.
            “Tôi không phải là người lý tưởng tin một cách kiên định vào sự chính trực vào các tòa án của chúng ta và vào chế độ bồi thẩm đoàn - với tôi nó không là lý tưởng, nó là một thực tế sinh động, hữu hiệu. Thưa quý vị, tòa án chẳng tốt gì hơn mỗi quý vị ngồi đây trước mặt tôi trong bồi thẩm đoàn này. Một tòa án chỉ lành mạnh bằng mức bồi thẩm đoàn của nó, và bồi thẩm đoàn cũng chỉ lành mạnh bằng những người tạo nên nó. Tôi tin rằng quý vị sẽ xem xét lại mà không để tình cảm chi phối các chứng cứ mà quý vị đã nghe, đi đến một quyết định, và trả bị cáo này về với gia đình anh ta. Nhân danh Chúa, hãy làm nhiệm vụ của quý vị”.
            Giọng của bố Atticus chùng xuống, và khi quay đi rời khỏi chỗ bồi thẩm đoàn ông nói điều gì đó tôi không nghe được. Ông nói điều gì đó với chinh ông hơn là với tòa. Tôi thúc Jem, “Bố nói gì vậy?”
            “‘Vì Chúa, hãy tin anh ta’ anh nghĩ chắc bố nói vậy”.
            Bất chợt Dill chồm qua tôi và kéo Jem. “Nhìn kia kìa!”
            Chúng tôi dõi theo ngón tay cậu ấy và giật thót người. Calpurnia đang len lỏi giữa lối đi giữa phòng xử án, tiến thẳng về phía bố Atticus.

            -----------------------------------

            [1] Câu nói Atticus trích dân là từ Tuyên ngôn đọc lập của Mỹ do Thomas Jefferson soạn thảo. “Ngành hành pháp” ám chỉ Tổng thống; ‘cánh nữ của ngành hàng pháp’ ám chỉ vợ Tổng thống đương thời, bà Eleanor Roosevelt, người bị dân miền Nam chỉ trích gay gắt vì những quan điểm ủng hộ dân quyền của bà.
            [2] Tức John D. Rockerfeller (1839-1937) vua dầu hỏa, một trong những người giàu nhất nước Mỹ thời đó.

            Comment


            • #21
              Chương 21




              Bà ngại ngùng dừng lại tại rào chắn chờ quan tòa Taylor để ý đến. Bà mặc một tạp dề sạch và cầm một lá thư trên tay.
              Quan tòa Taylor thấy bà và nói, “Calpurnia đó phải không?”
              “Phải, thưa ngài” bà nói. “Tôi có thể đưa lá thư này cho ông Finch được không, thưa ngài? Nó không liên quan gì tới... phiên tòa?” Quan tòa Taylor gật đầu và bố Atticus nhận lá thư từ Calpurnia. Ông mở nó ra, đọc nội dung và nói, “Quan tòa,... lá thư này là của bà chị tôi. Bà ấy nói các con tôi đã biến mất, không thấy từ trưa... tôi... ông có thể...”
              “Tôi biết chúng ở đâu, Atticus” ông Underwood nói to. “Chúng ở ngay đằng kia, trên ban công dành cho người da màu... ở đó chính xác từ một giờ mười lăm phút chiều”.
              Bố chúng tôi quay sang và nhìn lên. “Jem, xuống đây” ông gọi. Rồi ông nói điều gì đó với quan tòa mà chúng tôi không nghe thấy. Chúng tôi trèo ngang mục sư Sykes và tìm đường xuống cầu thang.
              Bố Atticus và Calpurnia gặp chúng tôi dưới nhà. Calpurnia có vẻ tức giận còn bố Atticus có vẻ mệt mỏi.
              Jem nhảy lên kích động. “Mình thắng rồi, phải không?”
              “Bố không biết” bố Atticus nói gọn lỏn. “Các con ở đây cả buổi chiều hả? Về nhà với Calpurnia lo ăn chiều đi... và ở nhà”.
              “Ôi, bố Atticus, cho tụi con trở lại đi” Jem năn nỉ. “Làm ơn cho tụi con nghe tuyên án đi, năn nỉ bố đấy”.
              “Bồi thẩm đoàn sẽ ra ngoài và lát sau sẽ quay lại, chúng ta không biết...” Nhưng chúng tôi có thể thấy bố Atticus đã bớt nghiêm khắc. “Được rồi, các con đã nghe vụ xử, vậy các con có thể nghe phần còn lại. Bố nói thế này nhé, tụi con có thể trở lại sau khi ăn xong - ăn từ từ, các con sẽ không bị mất điều gì quan trọng đâu - và nếu bồi thẩm đoàn vẫn chưa trở vào, các con có thể chờ với bố. Nhưng bố mong nó sẽ xong trước khi các con quay lại”.
              “Bố nghĩ họ sẽ tha bổng cho anh ta nhanh vậy sao?” Jem hỏi.
              Bố Atticus mở miệng định trả lời, nhưng rồi ngậm lại và bỏ đi.
              Tôi cầu rằng mục sư Sykes sẽ giữ chỗ cho chúng tôi, nhưng ngưng cầu mong khi nhớ ra rằng mọi người đều đứng dậy và ra khỏi khi bồi thẩm đoàn họp kín - tối nay họ sẽ tràn ngập cửa hàng tạp phẩm, quán cà phê O.K và khách sạn, tức là, trừ khi họ cũng mang theo bữa tối của mình.
              Calpurnia đi với chúng tôi về nhà, “... lột da sống từng cô cậu một, thử nghĩ mà coi, bọn trẻ cô cậu mà đi nghe hết chuyện đó! Cậu Jem, bộ cậu không biết làm gì tốt hơn chuyện đưa cô em nhỏ của cậu đến phiên tòa đó sao? Bác Alexandra chắc bị tê liệt hoàn toàn nếu biết ra vụ này! Vụ này không hợp cho trẻ con nghe...”
              Những ngọn đèn đường đã sáng, và chúng tôi thoáng thấy vẻ bực bội trên mặt Calpurnia khi chúng tôi đi dưới ánh đèn. “Cậu Jem, tôi nghĩ cậu có cái đầu biết suy nghĩ trên vai cậu chứ - ý tưởng hay nhỉ, cô ấy là em gái nhỏ của cậu mà! Nghĩ mà coi, quý ông! Cậu phải biết xấu hổ với chính mình chứ - cậu không có suy nghĩ chút nào sao?”
              Tôi thấy phấn chấn. Biết bao việc đã xảy ra quá nhanh đến độ tôi cảm thấy phải mất nhiều năm để sắp xếp lại, và bây giờ ở đây Calpurnia đang dạy cho Jem quý hóa của bà một số suy nghĩ của mình - tối nay còn mang lại những điều kỳ diệu mới mẻ gì đây?
              Jem cười lặng lẽ, “Bộ bà không muốn nghe vụ này sao, Cal?”
              “Cậu im miệng giùm đi, cậu chủ! Thử xem khi bị treo cổ trong nhục nhã cậu con tiếp tục cười được không...” Calpurnia lại tiếp tục những lời răn đe cũ xì làm Jem thấy hơi hối hận, và bà bước nhanh lên những bậc tam cấp trước nhà với những kiểu cổ điển của bà, “Nếu ông Finch không làm cô cậu mệt lử, thì tôi sẽ làm... và vào nhà đi, thưa cậu!”
              Jem bước vào nhà nhe răng cười, và Calpurnia gật đầu ngầm đồng ý cho Dill vào dùng bữa tối. “Cậu gọi cho cô Rachel ngay bây giờ báo cho cô ấy biết cậu đang ở đây” bà bảo Dill. “Cô ấy cuống cuồng đi tìm cậu - coi chừng kẻo cô ấy tống cậu lên tàu trở về Meridian ngay khi thức dậy sáng mai”.
              Bác Alexandra gặp chúng tôi và muốn xỉu khi Calpurnia nói chúng tôi đã ở đâu. Tôi đoán bác ấy cảm thấy bị thương tổn khi chúng tôi nói rằng bố Atticus bảo chúng tôi có thể quay trở lại, bởi vì bác không nói một lời nào trong bữa tối. Bác chỉ sắp xếp lại thức ăn trong đĩa của mình, nhìn nó một cách rầu rĩ trong khi Calpurnia tận lực phục vụ Jem, Dill và tôi. Calpurnia rót sữa, dọn ra rau trộn khoai tây và giăm bông, lầu bầu, “tự xấu hổ” theo những cường độ khác nhau. “Bây giờ các cô cậu ăn chậm thôi” là mệnh lệnh cuối cùng của bà.
              Mục sự Sykes vẫn giữ chỗ cho chúng tôi. Chúng tôi ngạc nhiên nhận ra rằng chúng tôi đã đi gần một tiếng đồng hồ và ngạc nhiên không kém khi thấy phòng xử án vẫn y như lúc chúng tôi đi, với mấy thay đổi nhỏ, chỗ dành cho bồi thẩm đoàn bỏ trống, bị cáo được dẫn đi, quan tòa Taylor vắng bóng, nhưng ông xuất hiện lại khi chúng tôi ngồi vào chỗ của mình.
              “Hầu như không ai di chuyển” Jem nói.
              “Họ đi loanh quanh khi bồi thẩm đoàn họp kín” mục sư Sykes nói. “Đàn ông xuống đó để dùng bữa do mấy bà đem theo, và cho bọn trẻ ăn”.
              “Họ họp bao lâu rồi ạ?” Jem hỏi.
              “Khoảng ba mươi phút. Ông Finch và ông Gilmer bàn bạc thêm gì đó, còn quan tòa Taylor thì hướng dẫn bồi thẩm đoàn về pháp lý trong việc quyết định vụ xử Tom”.
              “Ông ta thế nào ạ?” Jem hỏi.
              “Nói sao bây giờ? Ông ta làm rất tốt. Tôi chẳng phàn nàn chút nào... Ông ấy rất công bằng. Ông ấy nói nếu quý vị tin điều này, vậy quý vị sẽ tuyên đọc phán quyết này, nhưng nếu quý vị tin phán quyết kia, quý vị sẽ phải tuyên đọc một phán quyết khác. Tôi nghĩ ông ta hơi nghiêng về phía chúng ta...” Mục sư Sykes gãi đầu.
              Jem mỉm cười, “Ông ta không được phép thiên về phía nào, mục sư, nhưng đừng lo, chúng ta sẽ thắng mà” anh nói với vẻ thông thái, “Ông không thấy bất cứ bồi thẩm đoàn nào cũng có thể kết án theo hướng nào dựa trên những gì ta đã nghe sao...”
              “Lúc này cậu đừng quá tự tin, cậu Jem, tôi chưa từng thấy bất cứ bồi thẩm đoàn nào quyết định ủng hộ người da màu hơn người da trắng...” Nhưng Jem phản đối mục sư Sykes và chúng tôi lao vào xem xét chi li các chứng cứ với những ý kiến của Jem về luật liên quan đến việc cưỡng hiếp: sẽ không là cưỡng hiếp nếu cô ta cho phép bạn, nhưng cô ta phải mười tám - ở Alabama là vậy - mà Mayella đã mười chín. Rõ ràng bạn phải đá và gào la, và bạn phải bị áp đảo và bị đè, tốt hơn là bị đánh bất tỉnh. Nếu bạn dưới mười tám, bạn không cần phải hội đủ những yếu tố này.
              “Cậu Jem,” mục sư Sykes ngần ngại, “đây không phải là điều lịch sự cho những cô gái nhỏ nghe...”
              “Ôi, nó không biết chúng ta đang nói về chuyện gì đâu” Jem nói. “Scout, chuyện này quá tầm đối với em, đúng không?”
              “Chắc chắn là không rồi, em biết mọi chữ anh nói”. Có lẽ tôi quá tự tin, bởi vì Jem im lặng và không bàn bạc về đề tài này nữa.
              “Mấy giờ rồi, mục sư?” Anh ấy hỏi.
              “Gần tám giờ”.
              Tôi nhìn xuống và thấy bố Atticus đang đi loanh quanh và hai tay đút túi: ông đi một vòng quanh các cửa sổ, rồi đi dọc rào chắn tới ghế ngồi của bồi thẩm đoàn. Ông nhìn vào đó, quan sát quan tòa Taylor trên ghế của ông ta, rồi đi trở về nơi ông đã bắt đầu. Tôi bắt gặp ánh mắt ông và vẫy tay với ông, ông đáp lại lời chào của tôi bằng cái gật đầu, và tiếp tục lộ trình của ông.
              Ông Gilmer đang đứng tại cửa sổ nói chuyện với ông Underwood. Bert, người ghi biên bản tòa án, đang hút thuốc liên tục: ông ta ngồi dựa ngửa gác chân lên bàn.
              Nhưng các viên chức của tòa án, những người có mặt - bố Atticus, ông Gilmer, quan tòa Taylor có vẻ say ngủ, và Bert, là những người duy nhất mà cách cư xử có vẻ bình thường. Tôi chưa từng thấy một phòng xử chật ních nào yên tính như thế. Thỉnh thoảng một đứa bé khóc quấy, và một đứa trẻ chạy ra nhưng người lớn ngồi như thể họ ở trong nhà thờ. Ở ban công, những người da đen đứng ngồi quanh chúng tôi với sự kiên nhẫn nghiêm túc.
              Chiếc đồng hồ cổ của tòa án chịu đựng sự căng thẳng mở đầu và báo giờ, tám tiếng Bobng rõ to rung động đến tận xương ủy chúng tôi.
              Khi nó đánh Bobng mười một lần thì tôi đã không còn cảm giác: mệt mỏi do chống chọi với cơn buồn ngủ, tôi cho phép mình chợp mắt một chút trên cánh tay và vai của mục sư Sykes. Tôi giật mình thức giấc và hết sức ráng giữ mình tỉnh táo, bằng cách nhìn xuống và tập trung vào những cái đầu bên dưới: có mười sáu cái đầu hói, mười bốn người có thể được coi là tóc đỏ, năm mươi cái đâu có mái tóc từ đen đến nâu, và - tôi nhớ một điều mà có lần Jem giải thích cho tôi biết khi anh trải qua một giai đoạn ngắn nghiên cứu tâm linh: anh nói nếu có đủ số người - một sân vận động đầy nghẹt, có lẽ thế - cùng tập trung vào một việc, như việc khiến một cái cây bốc cháy trong rừng, thì cái cây đó sẽ tự bốc cháy. Tôi vẩn vơ với ý tưởng yêu cầu mọi người bên dưới tập trung vào việc trả tự do cho Tom Robinson, nhưng lại nghĩ đến họ cũng mệt như tôi, chắc nó sẽ không tác dụng.
              Dill đã ngủ say, cậu ấy ngả đầu vào vai Jem và Jem im lặng.
              “Chắc không lâu đâu hả?” Tôi hỏi anh.
              “Chắc chắn rồi, Scout”. Anh vui vẻ đáp.
              “Theo kiểu anh nói thì nó chỉ mất năm phút”.
              Jem nhướn mày, “Có nhiều việc em không hiểu được” anh nói, còn tôi thì quá mệt không tranh cãi nổi.
              Nhưng tôi phải giữ cho mình đủ tỉnh táo, nếu không tôi sẽ không nhận ra được ấn tượng đang len lỏi vào trong tôi. Nó không giống ấn tượng tôi đã có hồi mùa đông năm ngoái, và tôi lạnh run, dù đêm trời nóng. Cảm giác này lớn dần cho đến khi bầu không khí trong tòa án giống như một buổi sáng tháng Hai lạnh lẽo, khi những con chim nhại im lặng, và những người thợ mộc thôi không còn đóng đinh trên ngôi nhà mới của cô Maudie, và mọi cánh cửa gỗ quanh khu phố tôi đều đóng chặt như những cánh cửa nhà Radley. Một con phố vắng tanh, chờ đợi, lạnh ngắt và và một phòng xử án đầy nhóc người. Một đêm mùa hè nồng nực lại không khác gì một sáng mùa đông. Ông Heck Tate, người đã bước vào phòng xử án và đang nói chuyện với bố Atticus, có lẽ đang mang đôi ủng cao và mặc áo khoác dài tay kín cổ. Bố Atticus đã ngừng đi tới đi lui và đặt chân lên thành thấp nhất của chiếc ghế; khi ông lắng nghe những gì ông Tate đang nói, ông chà tay tới lui trên đùi. Tôi mong ngóng, bất cứ lúc nào đó, ông Tate sẽ nói, “Mang anh ta đi, ông Finch...”
              Nhưng ông Tate lại kêu, “Tòa trật tự đi” bằng một giọng đầy thẩm quyền, và những cái đầu bên dưới chúng tôi bất ngờ ngước lên. Ông Tate rời khỏi phòng rồi trở lại với Tom Robinson đến chỗ của anh ta cạnh bố Atticus, và đứng đó. Quan tòa Taylor bất chợt trở nên tỉnh táo và ngồi thẳng dậy, nhìn vào khu dành cho bồi thẩm đoàn còn trống trơn.
              Những gì xảy ra sau đó giống như một giấc mơ: trong giấc mơ tôi thấy bồi thẩm đoàn trở lại, di chuyển giống như những người đang bơi dưới nước, và giọng của quan tòa Taylor vang lên từ xa xôi và nhỏ xíu. Tôi thấy một điều mà chỉ có con của một luật sư mới có thể thấy, mới có thể chờ đợi, và nó giống như việc nhìn theo bố Atticus bước xuống lòng đường, nâng khẩu súng trường trên vai và bóp cò, nhưng theo dõi suốt với ý thức rằng cây súng rỗng.
              Bồi thẩm đoàn không bao giờ nhìn vào bị cáo mà họ kết án, và khi bồi thẩm đoàn này bước vào, không ai trong họ nhìn Tom Robinson. Người đi đầu trao mảnh giấy cho ông Tate, ông ta trao nó cho viên thư ký và viên thư ký trao nó cho quan tòa...
              Tôi nhắm mắt. Quan tòa Taylor đang nghe từng người trong bồi thẩm đoàn bỏ phiếu, “Có tội... có tội... có tội... có tội...” Tôi nhìn Jem: hai tay anh trắng nhợt vì nắm thanh lan can, và hai vai anh co giật như thể mỗi chữ “có tội” lại là một vết đâm vào giữa hai vai.
              Quan tòa Taylor đang nói điều gì đó. Ông đang cầm cây búa, nhưng không dùng tới nó. Lờ mờ, tôi thấy bố Atticus gom những tờ giấy trên bàn vào cặp ông. Ông đóng sập nó lại, bước tới chỗ người ghi biên bản của tòa và nói điều gì đó, gật đầu với ông Gilmer, sau đó đi đến chỗ Tom Robinson và nói nhỏ điều gì đó với anh ta. Bố Atticus đặt tay lên vai Tom khi thì thầm. Bố Atticus lấy áo khoác của ông từ lưng ghế và phủ nó lên vai anh ta. Sau đó ông rời khỏi phòng xử án, nhưng không bằng lối ra thường lệ của ông. Ông hẳn muốn về nhà bằng đường tắt, bởi vì ông đi nhanh bằng lối đi giữa phòng về phía cửa ra hướng Nam. Tôi dõi theo đỉnh đầu ông khi ông len đến cửa. Ông không nhìn lên.
              Có ai đó thúc tôi, nhưng tôi không muốn rời mắt khỏi những người bên dưới, và khỏi hình ảnh của bố Atticus bước cô đơn theo lối đi giữa phòng.
              “Cô Jean Louise?”
              Tôi nhìn quanh. Họ đã đứng dậy. Tất cả quanh chúng tôi và ở ban công đối diện, những người da đen đang đứng lên. Giọng của mục sư Sykes cũng xa xôi như giọng của quan tòa Taylor:
              “Cô Jean Louise, đứng lên đi, cha cô vừa đi qua”.

              Comment


              • #22
                Chương 22




                Đến lượt Jem khóc. Những dòng nước mắt giận dữ lăn dài trên má anh khi chúng tôi len qua đám đông phấn chấn. “Thật không phải lẽ” anh lầm bầm, suốt đường đi đến góc quảng trường nơi chúng tôi thấy bố Atticus đang đợi. Bố Atticus đứng dưới ngọn đèn đường trông như thể không có chuyện gì xảy ra: áo khoác đã cài cúc, cổ áo và nơ ngay ngắn, dây đồng hồ của ông lấp lánh, ông trở lại con người không cảm xúc.
                “Thật không phải lẽ, bố Atticus” Jem nói.
                “Phải con trai, không phải lẽ”.
                Chúng tôi đi bộ về nhà.
                Bác Alexandra đang chờ. Bác mặc áo khoác ngoài, và tôi dám thề rằng bác có mặc áo nịt bên trong. “Chị rất tiếc, em trai” bác nói nhỏ. Trước đây chưa từng nghe bác gọi bố Atticus là “em trai”, tôi liếc nhìn Jem, nhưng anh không nghe. Anh thường nhìn lên bố Atticus, rồi nhìn xuống sàn nhà, và tôi tự hỏi không biết anh có nghĩ bố Atticus ít nhiều phải chịu trách nhiệm cho việc Tom Robinson bị kết án không.
                “Nó ổn không?” Bác hỏi tôi, chỉ Jem.
                “Nó sẽ ổn thôi” bố Atticus nói. “Chuyện này hơi sốc với nó”. Bố chúng tôi thở dài, “em đi ngủ đây” ông nói. “Nếu sáng mai em không dậy, đừng gọi em”.
                “Thứ nhất, chị nghĩ thật không nên khi cho phép chúng...”
                “Chị ơi, đây là quê nhà của chúng” bố Atticus nói. “Chúng ta tạo nó theo kiểu này cho chúng, chúng có thể học được cách đương đầu với nó”.
                “Nhưng tụi nó không cần phải đến tòa án và đắm mình trong đó...”
                “Nó cũng mang chất Maycomb y như những bữa tiệc trà của dân truyền giáo”.
                “Atticus...” đôi mắt bác Alexandra đầy lo lắng. “Cậu là người cuối cùng chị nghĩ sẽ thất vọng với chuyện này”.
                “Em không thất vọng, chỉ mệt thôi. Em đi ngủ đây”.
                “Bố Atticus...” Jem rầu rĩ nói.
                Ông quay lại ngay khung cửa. “Chuyện gì hả, con trai?”
                “Sao họ có thể làm vậy, sao họ có thể?”
                “Bố không biết, nhưng họ đã làm vậy. Họ đã làm điều đó trước đây, họ đã làm điều đó tối nay, và họ sẽ còn làm vậy nữa khi họ làm vậy... có lẽ chỉ có trẻ con là khóc thôi. Chúc ngủ ngon”.
                Nhưng mọi việc luôn khá hơn vào buổi sáng. Bố Atticus dậy vào cái giờ trái khoáy thường lệ của ông và đang đọc tờ Mobile Register trong phòng khách khi chúng tôi bước vào. Khuôn mặt buổi sáng của Jem in hằn câu hỏi mà đôi môi của anh đấu tranh muốn nêu ra.
                “Chưa đến lúc phải lo” bố Atticus trấn an anh, khi chúng tôi vào phòng ăn. “Chúng ta chưa xong mà, sẽ có đơn kháng án, con có thể tin vào điều đó. Chúa ơi, Cal, tất cả những thứ này là gì vậy?” Ông nhìn chăm chăm vào đĩa điểm tâm của mình.
                Calpurnia nói, “Ba của Tom Robinson gửi cho ông cùng với con gà này sáng nay. Tôi đã làm nó”.
                “Bà nói với ông ta tôi tự hào nhận nó... Tôi dám chắc là ở Nhà Trắng người ta còn không có gà cho bữa điểm tâm nữa kìa. Những thứ này là gì vậy?”
                “Bánh mì” Calpurnia nói, “Estelle dưới khách sạn gửi cho”.
                Bố Atticus nhìn bà, bối rối, bà nói, “Tốt hơn là ông nên bước ra khỏi đây và xem có cái gì trong bếp, ông Finch”.
                Chúng tôi đi theo ông. Chiếc bàn nhà bếp chất đầy thức ăn đủ chôn vùi cả một gia đình: những khoanh to thịt lợn muối, cà chua, đậu, có cả nho. Bố Atticus cười tươi khi ông tìm thấy một hũ chân giò heo ướp chua. “Bà tưởng là bác Alexandra sẽ cho tôi ăn thứ này trong phòng ăn chắc?”
                Calpurnia nói, “Mấy thứ này để đầy bậc thềm sau nhà khi tôi lên đây hồi sáng. Họ... họ đánh giá cao những gì ông đã làm, ông Finch. Họ... họ không quá lố phải không?”
                Lệ dâng lên mắt bố Atticus. Ông im lặng một hồi. “Nói với họ, tôi rất cảm kích” ông nói. “Nói với họ... nói với họ đừng làm vậy nữa. Thời buổi này quá khó khăn...”
                Ông rời nhà bếp, đi, vào phòng ăn và xin lỗi bác Alexandra, đội mũ và đi xuống thị trấn.
                Chúng tôi nghe bước chân Dill ngoài hành lang, vì vậy Calpurnia để phần điểm tâm còn nguyên của bố Atticus lên bàn. Trong lúc ăn Dill kể cho chúng tôi nghe phản ứng của cô Rachel về việc tối hôm qua là: nếu một người giống như Atticus Finch muốn húc đầu mình vào một bức tường đá thì đó là đầu ông ta.
                “Tôi phải báo với dì ấy,” Dill lầm bầm, lo gặm chân gà, “nhưng sáng nay dì ấy có vẻ không thích nói chuyện lắm. Nói dì ấy thức đến nửa đêm lo lắng không biết tớ đang ở đâu, nói dì ấy đã nhờ cảnh sát trưởng kiếm tớ nhưng ông ta bận ở phiên tòa”.
                “Dill, cậu phải thôi ngay cái trò ra ngoài mà không thông báo cho dì ấy biết đi” Jem nói. “Nó chỉ khiến dì ấy bực mình”.
                Dill thở dài kiên nhẫn. “Tớ đã cố hết sức nói dì ấy tớ đi đâu rồi đó chứ - dì ấy chỉ thấy quá nhiều rắn trong tủ. Tớ dám chắc bữa điểm tâm nào dì ấy cũng uống nửa lít rượu - tớ biết dì ấy uống hai ly rượu. Từng thấy rồi mà”.
                “Không được nói như vậy Dill” bác Alexandra nói. “Nó không hợp với một đứa trẻ. Thế là... hỗn”.
                “Cháu không hỗn, bác Alexandra. Nói thật không phải là hỗn, đúng không?”
                “Cách cháu nói là hỗn”.
                Mắt Jem thoáng nhìn bác, nhưng anh nói với Dill, “Tụi mình đi thôi, cậu cứ mang cái giò gà đó theo”.
                Khi chúng tôi ra đến thềm trước, cô Stephanie Crawford đang bận nói chuyện với cô Maudie Atkinson và ông Avery. Họ nhìn sang chúng tôi và tiếp tục nói chuyện. Jem gầm gừ trong cổ họng. Tôi ước mình có một thứ vũ khí gì đó.
                “Tớ ghét những người lớn nhìn cậu” Dill nói. “Nó khiến cậu cảm thấy cậu đã làm một điều gì đó”.
                Cô Maudie kêu Jem lại chỗ cô.
                Jem càu nhàu và phóng mình khỏi chiếc xích đu. “Tớ sẽ đi với cậu” Dill nói.
                Mũi cô Stephanie run lên vì tò mò. Cô muốn biết ai đã cho phép bọn tôi đến tòa án... Cô không thấy chúng tôi nhưng cả thị trấn sáng nay đều biết chuyện chúng tôi ở ban công dành cho người da màu. Có phải bố Atticus bảo chúng tôi ở đó như một kiểu...? Có đúng không khi ở trên đó với những người đó...? Scout có hiểu tất cả chuyện đó...? Chúng tôi không tức điên lên khi thấy bố chúng tôi thất bại sao?
                “Thôi đi, Stephanie”. Cách nói của cô Maudie buồn buồn “Tôi không phí cả buổi sáng để loanh quanh ở hiên nhà đâu... Jem Finch, cô gọi để coi cháu và các bạn cháu có thích ăn ít bánh không. Cô thức dậy lúc năm giờ để làm bánh, cho nên tốt hơn là các cháu nên nói là có ăn. Xin lỗi, Stephanie. Chào buổi sáng, ông Avery”.
                Có một cái bánh to và hai cái bánh nhỏ trên bàn nhà bếp của cô Maudie. Lẽ ra nên có ba cái bánh nhỏ, không có vẻ gì là cô Maudie quên mất Dill, và chúng tôi phải chứng tỏ điều đó. Nhưng chúng tôi hiểu khi cô cắt chiếc bánh to ra và đưa cho Jem một miếng.
                Khi chúng tôi ăn, chúng tôi có cảm giác đây là cách cô Maudie bày tỏ rằng về phần cô, không có gì thay đổi. Cô ngồi im lặng trên chiếc ghế trong bếp, nhìn chúng tôi.
                Bất chợt cô nói, “Đừng lo, Jem. Mọi việc không bao giờ xấu đi như mình thấy đâu”.
                Ở trong nhà, khi cô Maudie muốn nói điều gì dài dòng cô thường xòe những ngón tay trên đầu gối và sửa lại hàm răng giả của cô. Cô đã làm như thế, và chúng tôi chờ.
                “Đơn giản cô muốn nói với các cháu rằng trên đời này có một số người được sinh ra là để làm những việc khó chịu cho chúng ta. Cha các cháu là một trong số đó”.
                “Ồ” Jem nói. “Thế”.
                “Cháu đừng ô thế với cô,” cô Maudie đáp, nhìn ra nhận xét xuôi xị của Jem, “cháu chưa đủ lớn để hiểu những gì cô nói đâu”.
                Jem nhìn chiếc bánh ăn dở của mình. “Nó giống như việc làm một con sâu trong cái kén, nó là như vậy” anh nói. “Giống như thứ gì đang ngủ được bao bọc trong một nơi ấm áp. Cháu luôn nghĩ đến dân Maycomb là những người tốt nhất trên đời, ít nhất là trông họ cũng có vẻ như thế”.
                “Chúng ta là những người thận trọng nhất trần đời” cô Maudie nói. “Họa hoằn lắm chúng ta mới được kêu gọi hành xử đúng nghĩa người Thiên Chúa Giáo, nhưng khi chúng ta được kêu gọi, đã có những người như Atticus làm giùm chúng ta”.
                Jem cười đầy nuối tiếc. “Ước gì những người còn lại trong hạt này cũng nghĩ như vậy”.
                “Cháu sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu người chúng ta nghĩ vậy”.
                “Ai?” Jem cao giọng. “Ai trong thị trấn này đã làm một việc gì để giúp Tom Robinson, đó là ai?”
                “Thứ nhất là những người bạn da màu của anh ta, và những người như chúng ta. Những người như quan tòa Taylor. Những người như ông Heck Tate. Ngừng ăn và bắt đầu suy nghĩ đi, Jem. Bộ cháu không thấy rằng việc quan tòa Taylor chỉ định biện hộ cho chàng trai đó không hề là ngẫu nhiên sao? Quan tòa Taylor hẳn có lý do để chỉ định ông ấy, thấy không?”
                Đây là một ý tưởng hay. Những vụ bào chữa do tòa án chỉ định thường được giao cho Maxwell Green, nhân sự bổ sung mới nhất vào luật sư đoàn của Maycomb, người cần thêm kinh nghiệm. Maxwell Green lẽ ra đã được giao vụ án Tom Robinson.
                “Cháu cứ nghĩ về điều đó xem” cô Maudie nói. “Đó không phải là ngẫu nhiên. Tối hôm qua cô ngồi đó trên hiên nhà, chờ đợi. Cô chờ mãi, chờ cho bọn cháu bước xuống vỉa hè, và khi chờ cô nghĩ, Atticus sẽ không thắng, ông ấy không thể thắng, nhưng ông ấy là người duy nhất có thể khiến bồi thẩm đoàn phải họp kín lâu đến mức đó trong một vụ xử giống như vậy. Và cô thầm nghĩ, chúng ta bước được một bước... chỉ một bước ngắn, nhưng đó là một bước”.
                “Hoàn toàn đúng khi nói như vậy... không thể có bất cứ quan tòa và luật sư Thiên Chúa giáo nào bù đắp được cho những bồi thẩm đoàn ngoại đạo” Jem làu bàu. “Rồi cháu sẽ lớn nhanh thôi...”
                “Đó là việc cháu sẽ phải gánh vác cùng bố cháu” cô Maudie nói.
                Chúng tôi từ những bậc thềm mới xây mát lạnh của cô Maudie bước ra nắng và nhận ra ông Avery và cô Stephanie vẫn còn ở đó. Họ đã bước đi theo vỉa hè và đang đứng trước nhà cô Stephanie. Cô Rachel đang đi về phía chúng tôi.
                “Tớ nghĩ khi lớn lên tớ sẽ làm anh hề” Dill nói.
                Jem và tôi đột ngột dừng lại.
                “Vâng thưa ngài, một anh hề” nó nói. “Trên đời này tớ chẳng làm được gì cho mọi người trừ việc làm cho họ cười ầm lên, cho nên tớ sẽ gia nhập một gánh xiếc và cười đã luôn”.
                “Cậu nghĩ ngược rồi, Dill” Jem nói. “Những anh hề thường buồn, chính người ta mới cười lại họ”.
                “Vậy tớ sẽ làm một dạng hề mới. Tớ sẽ đứng ngay giữa vòng diễn và cười nhạo mọi người. Nhìn kia kìa” nó giơ tay chỉ. “Tất cả bọn họ hẳn đang cưỡi chổi. Dì Rachel đã làm vậy”.
                Cô Stephanie và cô Rachel đang vẫy chúng tôi rối rít, theo một cách cho thấy quan sát của Dill không hẳn là sai.
                “Ui dào” Jem thở ra. “Tớ cho là thật tệ khi không tới gặp họ”.
                Có điều gì đó không ổn. Ông Avery đỏ mặt do hắt hơi liên tục và gần như thổi bay chúng tôi khỏi vỉa hè khi chúng tôi đến. Cô Stephanie run lên vì kích động, và cô Rachel nắm vai Dill. “Tụi cháu ra sân sau và ở nguyên tại đó” cô nói. “Nguy hiểm đang đến”.
                “Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
                “Tụi cháu chưa nghe hả? Đồn khắp thị trấn này rồi...” Ngay lúc đó bác Alexandra bước ra cửa và gọi chúng tôi, nhưng bác đã quá trễ. Cô Stephanie đã phấn khởi cho chúng tôi hay: sáng nay ông Boo Radley đã chặn bố Atticus ngay góc bưu điện, nhổ nước bọt vào mặt ông, và nói bố Atticus rằng ông ta sẽ trả thù bố kể cả phải mất hết phần đời còn lại của ông ta.

                Comment


                • #23
                  Chương 23




                  “Tôi ước phải chi Bob Ewell không nhai thuốc lá” là tất cả những gì bố Atticus nói về chuyện đó.
                  Tuy nhiên, theo cô Stephanie Crawford, bố Atticus vừa rời khỏi bưu điện thì ông Ewell đến gần bố, chửi rủa bố, nhổ vào mặt bố, và đe dọa giết bố. Cô Stephanie (lúc này đã kể chuyện đó hai lần và đã có mặt ở đó và chứng kiến tất cả - cô rời Jitney Jungle, đi ngang qua) - cô Stephanie nói bố Atticus thản nhiên như không, chỉ lấy khăn tay ra chùi mặt và đứng đó để cho ông Ewell gọi ông bằng những cái tên mà không có gì trên đời này khiến cô lặp lại được. Ông Ewell là cựu binh của một cuộc nội chiến không mấy người biết; điều đó cộng với phản ứng ôn hòa của bố Atticus chắc chắn đã thúc đẩy ông ta hỏi, “Quá kiêu ngạo đến độ không muốn đánh nhau hả, thằng con hoang yêu bọn mọi đen kia?” Cô Stephanie nói, bố Atticus chỉ đáp, “Không, chỉ quá già thôi” rồi thọc hai tay vào túi và bỏ đi. Cô Stephanie nói bạn phải khen ngợi Atticus Finch, đôi khi ông ấy thật thông minh tinh tế.
                  Jem với tội không nghĩ điều đó thật thú vị.
                  “Dù sao thì xét cho cùng,” tôi nói, “bố từng là người bắn giỏi nhất hạt này. Bố có thể...”
                  “Em biết là bố không hề mang súng, Scout. Thậm chí bố không có khẩu nào...” Jem nói. “Thậm chí đêm đó ở nhà tù bố không có khẩu súng nào. Bố nói với anh việc có một khẩu súng bên mình là khuyến khích một ai đó bắn mình”.
                  “Lần này khác” tôi nói. “Tụi mình có thể bảo bố đi mượn một khẩu”.
                  Bọn tôi là vậy và bố nói, “Nhảm nhí”.
                  Ý của Dill cho rằng việc kêu gọi tới lòng tử tế của bố Atticus thì có thể hữu hiệu: xét cho cùng, chúng tôi sẽ chết đói nếu ông Ewell giết bố, chưa kể đến việc sẽ được một mình bác Alexandra nuôi dạy, và chúng tôi đều biết việc đầu tiên bác ấy làm trước khi bố Atticus yên nghỉ dưới lòng đất là đuổi Calpurnia, Jem nói cách hiệu quả là tôi khóc lóc và làm mình làm mẩy, vì là con út và là con gái. Cách đó cũng không tác dụng.
                  Khi bố nhận thấy chúng tôi lê la quanh vùng, không ăn, ít quan tâm đến những trò giải trí bình thường của chúng tôi, bố Atticus hiểu ra chúng tôi sợ hãi xâu xa đến mức nào. Một đêm bố gợi thèm Jem bằng một tờ tạp chí bóng bầu dục mới, khi thấy Jem lật nhanh các trang và ném nó sang một bên, bố hỏi, “Con đang lo chuyện gì vậy, con trai?”
                  Jem nổ liền, “Ông Ewell”.
                  “Có chuyện gì à?”
                  “Không có gì. Tụi con sợ cho bố, và tụi con nghĩ bố phải làm một điều gì đó với ông ta”.
                  Bố Atticus cười hóm hỉnh. “Làm gì bây giờ? Ép ông ta ký một hiệp ước hòa bình à?”
                  “Khi một người nói ông ta sẽ trả thù bố, coi bộ ông ta có ý đó”.
                  “Ông ta có ý vậy khi ông ta nói nó ra” bố Atticus nói. “Jem, thử xem con có thể ở vào địa vị của Bob Ewell không? Bố đã hủy hoại chút chữ tín cuối cùng của ông ta tại phiên tòa, nếu ông ta có. Ông ta phải có một kiểu phản ứng lại, loại người của ông ta luôn luôn làm như vậy. Vì vậy việc nhổ vào mặt và đe dọa bố làm cho Mayella Ewell khỏi bị một trận đòn nữa, thì bố vui lòng nhận. Ông ta phải trút giận lên ai đó thì bố thích là bố hơn là bọn trẻ ngoài đó. Con hiểu không?”
                  Jem gật đầu.
                  Bác Alexandra bước vào phòng khi bố Atticus nói tiếp, “Chúng ta không có gì phải sợ Bob Ewell, sáng đó ông ta đã trút hết mọi giận dữ rồi”.
                  “Tôi không tin thế đâu, Atticus” bác nói. “Loại người như ông ta sẽ làm bất cứ việc gì để thỏa cơn giận. Cậu biết những người đó như thế nào mà”.
                  “Ewell có thể làm gì với em hả, bà chị?”
                  “Một cái gì đó ngấm ngầm” bác Alexandra nói. “Cậu có thể tin chắc điều đó”.
                  “Không ai có nhiều cơ hội để làm điều gì ngấm ngầm ở hạt Maycomb này” bố Atticus đáp.
                  Sau chuyện đó, chúng tôi không còn sợ nữa. Mùa hè trôi qua, và chúng tôi tận hưởng nó. Bố Atticus đảm bảo với chúng tôi rằng chẳng có gì xảy ra cho đến khi tòa án cấp cao hơn xem xét lại vụ án của Tom Robinson, và rằng Tom có cơ hội được trả lại tự do, hoặc ít nhất có một vụ xét xử mới. Anh ta đang ở trại giam Enfield Prison Farm, thuộc hạt Chester cách đây gần trăm cây số. Tôi hỏi bố Atticus không biết vợ con Tom có được phép đến thăm anh ta không, nhưng bố Atticus nói không.
                  “Nếu anh ta thua kiện trong phiên kháng án,” một tối tôi hỏi, “chuyện gì sẽ xảy ra với anh ta?”
                  “Anh ta sẽ lên ghế điện” bố Atticus nói, “Trừ khi thống đốc giảm tội cho anh ta. Chưa đến lúc lo đâu, Scout. Chúng ta có một cơ hội tốt”.
                  Jem đang nằm dài trên ghế sofa đọc tờ Popular Mechaincs. Anh nhìn lên. “Như vậy không hợp lẽ. Anh ta đâu có giết ai cho dù anh ta có tội. Anh ta đâu có lấy mạng của ai đâu”.
                  “Con biết cưỡng hiếp là tội tử hình ở Alabama mà” bố Atticus nói.
                  “Vâng, thưa bố, nhưng bồi thẩm đoàn đâu cần xử anh ta tội chết... nếu muốn họ có thể xử anh ta hai mươi năm”.
                  “Chỉ là giả thuyết thôi” bố Atticus nói. “Tom Robinson là người da màu, Jem ạ. Không một bồi thẩm đoàn nào ở khu vực này của thế giới lại nói, ‘Chúng tôi nghĩ anh có tội, nhưng không nặng’, cho một vụ truy tố như thế. Hoặc là tha bổng lập tức hoặc không gì cả”.
                  Jem lắc đầu. “Con biết đó là không đúng, nhưng con không nhìn ra được cái gì sai - có lẽ việc cưỡng hiếp không thể là tội tử hình...”
                  Bố Atticus để tờ báo xuống cạnh ghế ông ngồi. Ông nói ông có bất cứ tranh cãi gì với luật về cưỡng hiếp, hoàn toàn không, nhưng ông đầy nghi hoặc khi bên công tố yêu cầu và bồi thẩm đoàn xử tội tử hình từ chứng cứ hoàn toàn suy diễn. Ông nhìn tôi, thấy tôi đang lắng nghe, và làm cho nó dễ hiều hơn. “... ý bố là, trước khi một người bị kết án tử hình vì tội giết người, phải có một hoặc hai người tận mắt chứng kiến. Ai có thể nói. ‘Phải, tôi có mặt ở đấy và thấy anh ta bóp cổ’.”
                  “Nhưng nhiều người đã bị cheo cổ - à, treo cổ - dựa vào những chứng cứ suy diễn” Jem nói.
                  “Bố biết, và nhiều người trong số họ chắc chắn đáng bị như thế - nhưng khi không có nhân chứng tận mắt chứng kiến thì luôn có sự nghi ngờ, đôi khi chỉ là một thoáng nghi ngờ. Luật sư cho rằng ‘nghi ngờ có cơ sở’, nhưng bố nghĩ một bị cáo có quyền có chút nghi ngờ. Luôn luôn có khả năng, cho dù không chắc, rằng anh ta vô tội”.
                  “Vậy tất cả quy cho bồi thẩm đoàn. Chúng tôi phải loại bỏ các bồi thẩm đoàn”. Jem kiên quyết.
                  Bố Atticus nín cười nhưng không được. “Con có phần nghiêm khắc với chúng ta, con trai. Bố nghĩ có thể có một cách tốt hơn. Thay đổi luật. Thay đổi nó để chỉ có quan tòa mới có quyền quyết định hình phạt trong các vụ trọng án”.
                  “Vậy cứ đi đến Montgomery và thay đổi luật”.
                  “Con sẽ ngạc nhiên khi thấy chuyện đó vất vả như thế nào. Bố không sống nổi tới lúc thấy luật thay đổi, và nếu con sống để thấy được nó chắc con phải già lắm rồi”.
                  Điều này không làm Jem hài lòng, “Không, bố ạ, họ phải dẹp bỏ bồi thẩm đoàn. Thứ nhất anh ta không có tội vậy mà họ nói có”.
                  “Nếu con nằm trong bồi thẩm đoàn đó, con trai, và mười một người kia giống con, Tom sẽ là người tự do” bố Atticus nói. “Cho đến giờ không có gì trong cuộc đời con ngăn cản lập luận của con. Những người đó, bồi thẩm đoàn của Tom, là mười hai con người có lý trí trong cuộc sống hàng ngày, nhưng con thấy có điều gì đó đã chen vào giữa họ và lý trí của họ. Đêm đó con đã thấy điều tương tự ngay trước nhà tù. Khi nhóm người đó bỏ đi, họ không đi như những người có lý trí, họ đi bởi vì chúng ta ở đó. Có điều gì đó trong thế giới của chúng ta khiến cho họ mất khả năng lập luận - họ không thể công bằng cho dù họ cố gắng. Trong tòa án của chúng ta, khi lời khai của một người da trắng chống lại lời khai của một người da đen, người da trắng luôn luôn thắng. Họ xấu xa, nhưng sự đời nó thế”.
                  “Thật không đúng” Jem nói một cách lạnh nhạt. Anh đấm tay vào đùi. “Bố không thể kết tội một người dựa trên chứng cứ giống như vậy... bố không thể”.
                  “Con không thể, nhưng họ có thể và họ đã làm. Càng lớn con sẽ càng thấy nhiều điều như vậy. Một số nơi con người phải nhận được sự đối xử công bằng là trong tòa án, dù anh ta có màu da nào, nhưng con người có cách mang cả những oán hận của họ vào trong khu bồi thẩm đoàn. Khi lớn hơn, con sẽ thấy người da trắng lừa đảo người da đen mỗi ngày trong cuộc đời con, nhưng hãy để cho bố nói cho con nghe điều này và con đừng quên - bất cứ khi nào một người da trắng làm điều đó với một người da đen, bất kể anh ta là ai, anh ta giàu cỡ nào, hoặc anh ta xuất thân từ một gia đình danh giá ra sao, thì người da trắng đó vẫn là thứ rác rưởi”.
                  Bố Atticus nói một cách quá nhẹ nhàng đến độ lời cuối cùng của ông đập mạnh vào tai chúng tôi. Tôi nhìn lên, khuôn mặt ông đầy cảm xúc. “Đối với bố chẳng có gì đáng ghê tởm hơn một người da trắng thấp kém lợi dụng sự ngu dốt của người da đen. Đừng đánh lừa mình - tất cả được tích tụ lại và tới lúc chúng ta sẽ phải trả giá cho điều đó. Bố hy vọng thời đại của các con sẽ không như vậy”.
                  Jem đang gãi đầu. Bất chợt anh mở mắt to. “Bố Atticus,” anh hỏi, “tại sao không có những người như chúng ta và cô Maudie tham gia vào bồi thẩm đoàn? Bố chưa từng thấy ai ở Maycomb trong bồi thẩm đoàn... Tất cả họ đều từ trong rừng mà ra”.
                  Bố Atticus ngồi ngả trên chiếc ghế bập bênh của bố. Vì lý do nào đó ông có vẻ hài lòng với Jem. “Bố đang tự hỏi chừng nào ý nghĩ đó đến với con” ông nói. “Có nhiều lý do. Điều thứ nhất, cô Maudie không thể phục vụ trong bồi thẩm đoàn vì cô là phụ nữ...”
                  “Ý bố là phụ nữ ở Alabama không thể...?” Tôi tức tối.
                  “Đúng vậy. Bố đoán đó là bảo vệ các bà các cô yếu đuối của chúng ta khỏi những vụ bẩn thỉu giống như vụ của Tom Robinson. Ngoài ra,” bố Atticus cười tươi, “bố e không biết chúng ta có xử trọn được một vụ không - các cô sẽ xen vào hỏi đủ thứ”.
                  Jem và tôi cười ầm. Chuyện cô Maudie nằm trong bồi thẩm đoàn sẽ rất ấn tượng. Tôi nghĩ về bà Dubose già trên chiếc xe lăn của bà - “Ngưng gõ búa ầm ĩ đi, quan tòa Taylor, tôi muốn hỏi người đàn ông này một điều”. Có lẽ cha ông chúng ta thật thông thái.
                  Bố Atticus nói tiếp, “Với những người như chúng ta - đó là phần giá chúng ta phải trả. Chúng ta thường chỉ có được những bồi thẩm đoàn mà chúng ta đang có. Thứ nhất, các công dân Maycomb kiên cường của chúng ta không quan tâm. Thứ hai họ sợ. Sau đó họ...”
                  “Sợ, tại sao?” Jem hỏi.
                  “À, chuyện gì xảy ra nếu - chẳng hạn như ông Link Deas phải quyết định số tiền bồi thường dành cho... cho cô Maudie chẳng hạn, khi cô Rachel tông xe vào cô ấy. Link không thích chuyện hết đường làm ăn với cô nào ở cửa hàng của ông ta, đúng không? Vì vậy ông ta nói với quan tòa Taylor rằng ông ta không thể phục vụ trong bồi thẩm đoàn vì không ai trông coi cửa hàng khi ông ta đi vắng. Vì vậy quan tòa Taylor miến cho ông ta. Đôi khi quan tòa miễn cho ông ta mà rất bực bội”.
                  “Điều gì khiến ông ta nghĩ một trong hai cô sẽ ngưng mua bán với ông ta?” Tôi hỏi.
                  Jem nói, “Cô Rachel sẽ ngưng, còn cô Maudie thì không. Nhưng lá phiếu của bồi thẩm đoàn là bí mật mà, bố Atticus”.
                  Bố chúng tôi cười khùng khục. “Con còn phải học hỏi nhiều điều nữa, con trai. Lá phiếu của bồi thẩm đoàn được coi là bí mật. Việc phục vụ trong bồi thẩm đoàn buộc người ta phải quyết định và tuyên bố ý kiến về một điều gì đó. Người ta không thích làm chuyện đó. Đôi khi việc đó khó chịu lắm”.
                  “Bồi thẩm đoàn của Tom chắc đã quyết định quá vội vã” Jem làu bàu.
                  Bố Atticus thò tay vào túi đựng đồng hồ. “Họ không vội vã đâu” ông nói, với ông hơn là với chúng tôi. “Đó là điều khiến bố suy nghĩ, điều này có thể là dấu hiệu của khởi đầu mới. Bồi thẩm đoàn này đã mất vài tiếng. Một lời phán quyết không thể tránh khỏi, có lẽ thế, nhưng thường nó chỉ khiến họ mất vài phút. Nhưng lần này...” Ông bỏ lửng và nhìn chúng tôi. “Có lẽ con muốn biết rằng có một người dám chịu đựng mệt mỏi đáng kể - ngay từ đầu ông ấy đã muốn tha bổng cho rồi”.
                  “Ai vậy?” Jem kinh ngạc.
                  Đôi mắt của bố Atticus lấp lánh. “Bố không được phép nói, nhưng bố sẽ nói vầy cho con. Ông ta là một trong những người bạn ở Old Sarum của con...”
                  “Một trong những người nhà Cunningham hả?” Jem kêu lên. “Một trong... con không nhận ra ai trong số họ... bố đùa chắc...” Anh liếc nhìn bố Atticus.
                  “Một trong những bà con xa của họ. Dựa vào trực giác, bố không tác động ông ta. Chỉ dựa vào linh cảm. Bố có thể làm, nhưng bố không làm”.
                  “Ôi trời” Jem nói đầy tôn kính. “Một phút trước họ cố tình giết anh ta rồi phút kế tiếp lại cố tìm cách phóng thích anh ta... Chừng nào còn sống thì con cùng không bao giờ hiểu được những người đó”.
                  Bố Atticus nói con phải hiểu họ. Ông nói người Cunningham không nhận hoặc lấy bất cứ thứ gì của ai từ khi họ di cư đến Tân thế giới. Ông nói thêm một điều khác nữa về họ là, một khi bạn được tôn trong họ sẽ hết lòng với bạn. Bố Atticus nói ông có cảm giác, chỉ là hồ nghi, rằng họ rời nhà tù đêm đó với lòng kính trọng đáng kể dành cho người nhà Finch. Sau đó ông cũng nói rằng cần có một việc bất ngờ cộng với một Cunningham khác nữa để làm một người trong số họ thay đổi suy nghĩ của mình. “Nếu chúng có hai trong số đám đông đó, chúng ta sẽ có một bồi thẩm đoàn treo [1]”.
                  Jem nói từ tốn, “Ý bố rằng bố thực sự giới thiệu vào bồi thẩm đoàn một người muốn giết bố tối trước đó hả? Sao bố liều thế, bố Atticus, sao vậy?”
                  “Khi con phân tích thì thấy có một chút rủi ro. Không hề có sự khác biệt giữa một người này sắp kết án với một người khác cũng sắp kết án, đúng không? Nhưng có một khác biệt nhỏ giữa một người sắp kết án và một người thấy lương tâm hơi bối rối, đúng không? Ông ta là người duy nhất ngập ngừng trong cả danh sách”.
                  “Ông đó với Walter Cunningham quan hệ ra sao hả bố?” Tôi hỏi.
                  Bố Atticus đứng dậy, vươn vai và ngáp. Lúc đó chưa tới giờ ngủ của bọn tôi, nhưng tụi tôi biết ông muốn có giờ đọc báo. Ông cầm tờ báo lên, gấp nó lại và vỗ đầu tôi. “Bây giờ để xem nào” ông lầm bầm với chính mình. “Hiểu rồi, anh em họ đôi [2]”.
                  “Chuyện đó là sao?”
                  “Hai chị em cưới hai anh em. Bố chỉ có thể nói với con thế thôi... con tự hình dung ra đi”.
                  Tôi vắt óc một hồi và kết luận rằng nếu tôi cưới Jem và Dill có một đứa em gái và cậu ta cưới em gái đó thì con cái của tụi tôi là anh em họ đôi. “Chúa ơi, Jem này,” tôi nói khi bố Atticus đã đi, “mấy người đó mắc cười thiệt. Bác có nghe chuyện này chưa, bác Alexandra?”
                  Bác Alexandra đang móc ở tấm thảm và không nhìn chúng tôi, nhưng bác lắng nghe. Bác ngồi trên ghế với cái rổ đan bên cạnh, tấm thảm trải trên đùi. Tại sao các bà lại móc thảm len vào những đêm nóng nực là điều tôi không thể nào hiểu nổi.
                  “Bác có nghe” bác đáp.
                  Tôi nhớ lại cái lần tai hại hồi xưa khi tôi nhảy vào giúp nhóc Walter Cunningham. Bây giờ tôi vui vì mình đã làm chuyện đó. “Ngay ngày khai trường em sẽ rủ Walter Cunningham về nhà mình ăn” tôi lên kế hoạch, quên béng mình đã thầm quyết tâm dần cho nó một trận ngay lần kế tiếp gặp nó. “Nó cũng có thể ở lại chơi sau khi tan học. Bố Atticus có thể lái xe đưa nó về Old Sarum. Thỉnh thoảng nó có thể ở lại đêm với tụi mình, hén, Jem?”
                  “Chuyện đó để tính toán sau” bác Alexandra nói, một tuyên bố mà với bác luôn là lời răn đe, chứ không hề là một lời hứa. Ngạc nhiên, tôi quay sang bác, “Sao không được, bác? Họ là người tốt mà”.
                  Bác nhìn tôi qua cặp kính may. “Jean Louise, bác không hề nghi ngờ việc họ là người tốt. Nhưng họ không phải loại người như chúng ta”.
                  Jem nói, “Ý bác nói họ thấp kém đó mà, Scout”.
                  “Thấp kém là gì?”
                  “À, họ không bảnh. Họ thích táy máy tay chân hay đại loại như vậy”.
                  “Vậy em cũng...”
                  “Đừng ngớ ngẩn thế, Jean Louise” bác Alexandra nói. “Vấn đề là, cháu có thể cọ rửa Walter Cunningham cho đến khi nó sáng bóng, cháu có thể cho nó đi giày và mặc cho nó bộ đồ mới, nhưng nó không bao giờ giống được như Jem. Ngoài ra, gia đình đó còn nổi tiếng nghiện rượu. Phụ nữ nhà Finch không quan tâm đến loại người đó”.
                  “Bá...ác,” Jem nói, “em cháu chưa tới chín tuổi mà”.
                  “Bây giờ nó cũng nên biết điều đó”.
                  Bác Alexandar đã nói. Nó gợi cho tôi một cách sống động về lần cuối cùng bác kiên quyết phản đối. Tôi không bao giờ hiểu tại sao. Đó là khi tôi bị cuốn vào kế hoạch đến thăm nhà Calpurnia... tôi tò mò, thích thú; tôi muốn trở thành “bầu bạn” của bà, để biết bà sống như thế nào, bạn bè của bà là ai. Chắc tôi cũng muốn xem mé bên kia của mặt trăng nữa. Lần này những chiến thuật thì khác hẳn, nhưng mục đích của bác Alexandra thì vẫn vậy. Có lẽ đây là lý do bác đến sống với chúng tôi - để giúp chúng tôi chọn bạn. Tôi sẽ chống lại bác bằng hết sức mình, “Nếu họ là người tốt, vậy tại sao cháu không thể cư xử tốt với Walter?”
                  “Ta không nói không được tử tế với thằng bé. Cháu nên thân thiện và lịch sự với nó. Cháu nên hào hiệp với mọi người, cháu yêu. Nhưng cháu không cần mời nó tới nhà”.
                  “Nếu như nó có họ hàng gì với mình thì sao, bác?”
                  “Vấn đề là ở chỗ nó không có họ hàng với chúng ta, nhưng nếu có, câu trả lời của bác vẫn là vậy”.
                  “Bác,” Jem lên tiếng, “bố Atticus nói bác có thể chọn bạn cho bác, nhưng chắc chắn bác không thể chọn gia đình cho mình và họ vẫn là họ hàng của bác dù cho bác có thừa nhận hay không, và nếu bác không thừa nhận thì thật lố bịch”.
                  “Lại là bố cháu nữa,” bác Alexandra nói, “và ta vẫn nói rằng Jean Louise không được mời Waler Cunningham đến nhà này. Nếu nó là anh em họ đôi của con bé nó vẫn không được đón nhận trong nhà này trừ khi nó đến gặp tất cả vì công việc. Dứt khoát là thế”.
                  Bác ấy đã nói Chắc chắn là Không, nhưng lần này chắc bác sẽ đưa ra lý do, “Nhưng cháu muốn chơi với Walter, sao lại không được?”
                  Bác gỡ kính ra và nhìn chúng tôi. “Bác sẽ cho cháu biết tại sao” bác nói. “Bởi vì nó-là-đồ-rác-rưởi, đó là lý do cháu không thể chơi với nó. Bác sẽ không để cháu quanh quẩn bên nó, bắt chước những thói quen của nó và học những thứ mà chỉ có Chúa-mới-biết. Cháu đã gây đủ vấn đề cho bố cháu rồi”.
                  Tôi không biết mình có thể phản ứng thế nào, nhưng Jem đã ngăn tôi lại. Anh nắm lấy vai tôi, ôm lấy tôi, và dẫn tôi đang khóc om sòm về phòng ngủ của anh. Bố Atticus nghe tiếng chúng tôi và ló đầu ra cửa. “Tụi con ổn, bố,” Jem gắt gỏng, “chẳng có gì cả”. Bố Atticus bỏ đi.
                  “Nhai kẹo cao su đi, Scout” Jem thò tay vào túi và móc ra thanh Tootsie Roll. Phải mất vài phút để nhào cục kẹo thành một khối dễ chịu trong miệng tôi.
                  Jem sắp xếp lại các thứ trong tủ của anh. Tóc anh chổng ngược lên phía sau và rủ xuống ở phía trước, và tôi tự hỏi liệu nó có giống tóc một người đàn ông - có lẽ nếu anh cạo nó đi và để cho nó mọc lại, tóc anh sẽ mọc lại gọn gàng đúng chỗ. Lông mày anh ngày càng rậm hơn, và tôi nhận thấy thân hình anh gày đi. Anh đang cao hơn.
                  Khi anh nhìn qua, anh hẳn đã nghĩ chắc tôi sắp khóc nữa, vì anh nói, “Cho em coi cái này nhưng em đừng nói với ai nghen” tôi hỏi cái gì. Anh cởi áo sơ mi ra, cười bẽn lẽn.
                  “Cái gì vậy?”
                  “Em không thấy hả?”
                  “Không”.
                  “Lông đó”.
                  “Đâu?”
                  “Đây, chỗ này nè”.
                  Anh là nguồn an ủi với tôi, vì vậy tôi nói trông nó thật dễ thương, nhưng tôi có thấy gì đâu. “Nó đẹp thiệt, Jem”.
                  “Dưới nách anh cũng có” anh nói. “Năm tới anh sẽ chơi bóng Bầu dục. Scout, đừng để bác làm em tức giận”.
                  Có vẻ chỉ mới hôm qua anh bảo tôi đừng làm bác bực mình.
                  “Em biết bác không quen với con gái,” Jem nói, “ít ra không phải những đứa con gái như em. Bác cố biến em thành một quý cô. Bộ em không thể tập máy vá hay làm cái gì đó sao?”
                  “Không hề, bác ấy không thích em, chỉ có vậy thôi, và em không quan tâm. Chính việc bác ấy gọi Walter là đồ rác rưởi khiến em tức điên lên, Jem à, không phải chuyện bác ấy nói em là mớ rắc rối của bố Atticus. Đã một lần em và bố giải quyết chuyện này rồi, em hỏi bố em có phải là mớ rắc rối không, bố nói một rắc rối không lớn, nhiều lắm thì cũng chỉ là một rắc rối mà bố luôn có thể biết chắc, và đừng lo nghĩ một giây nào về việc em có thể quấy rầy bố. Bây giờ nói về Walter - thằng đó đâu phải thứ rác rưởi, Jem. Nó đâu giống người nhà Ewell”.
                  Jem hất giầy ra và vắt chân lên giường, anh chuồn người lên tựa vào gối và bật đèn đọc sách. “Em biết điều gì không, Scout? Giờ anh đã hiểu ra mọi thứ. Giờ đây anh nghĩ nhiều về chuyện đó và anh đã hiểu ra. Trên đời này có bốn loại người. Đó là loại người bình thường như tụi mình và những hàng xóm, có loại người giống như nhà Cunningham sống trong rừng, loại người giống như nhà Ewell ở bãi rác, và người da đen”.
                  “Thế còn người Trung Quốc, và người Cajun ở mãi tận hạt Baldwin?”
                  “Anh muốn nói ở hạt Maycomb. Vấn đề là, loại như mình không thích loại nhà Cunningham, nhà Cunningham không thích người nhà Ewell, và người nhà Ewell ghét và coi thường người da màu”.
                  Tôi nói với Jem nếu vậy thì tại sao bồi thẩm đoàn của Tom, gồm những người như nhà Cunningham, không tha bổng Tom để chọc tức nhà Ewell?
                  Jem gạt bỏ câu hỏi của tôi như đồ trẻ con.
                  “Em không biết” Jem nói, “anh từng thấy bố Atticus vỗ nhịp bàn chân khi trên radio đang chơi vĩ cầm và ông thích những xúp hơn bất cứ người nào anh từng thấy...”
                  “Vậy điều đó làm chúng ta giống người nhà Cunningham” tôi nói. “Em không hiểu tại sao bác...”
                  “Khoan, để anh nói hết - nó có làm mình giống nhà đó thiệt, nhưng ít nhiều tụi mình vẫn khác. Có lần bố Atticus nói lý do khiến bác quá quan tâm đến dòng họ là vì chúng ta chỉ có học thức và chúng ta nghèo”.
                  “Jem này, em không biết... có lần bố Atticus nói với em rằng hầu hết cái kiểu Dòng Họ Lâu Đời là ngốc ngếch bởi vì dòng họ của người nào cũng lâu đời như dòng họ của người nào. Em hỏi liệu điều này có bao gồm cả những người da màu và người Anh không, bố bảo có”.
                  “Học thức không có nghĩa là Dòng Họ Lâu Đời” Jem nói. “Anh nghĩ đó là chuyện dòng họ bạn biết đọc biết viết tù hồi nào. Scout, anh đã nghiên cứu điều này rất kỹ và đó là lý do duy nhất anh có thể nghĩ ra. Vào thời đó khi họ nhà Finch còn ở Ai Cập, một người trong số họ hẳn đã học được chữ tượng hình và dạy cho con trai mình”. Jem cười to. “Hãy tưởng tượng bác mình tự hào cụ tổ của bác biết đọc biết viết - các bà chuyên tìm những điều ngớ ngẩn để tự hào”.
                  “Em vui mừng là cụ tổ biết đọc biết viết, hoặc người đã dạy bố Atticus và họ, và nếu bố Atticus không biết đọc, anh em mình sẽ khốn khổ. Em không nghĩ đó là cái gọi là học thức đâu, Jem”.
                  “Nếu vậy làm sao em giải thích được tại sao người nhà Cunningham lại khác? Ông Walter hầu như không ký được tên ông ta, anh thấy rồi mà. Họ nhà ta biết đọc biết viết trước họ lâu”.
                  “Không, mọi người đều phải học, không ai sinh ra là đã biết. Thằng Walter cũng thông minh theo mức của nó, đôi khi nó bị cản trở vì nó phải ở nhà giúp đỡ bố nó. Chẳng có gì sai với nó. Không, Jem, em nghĩ chỉ có một hạng người. Đó là người”.
                  Jem quay đi và đấm vào gối anh. Khi anh nằm ngửa lại, mặt anh u ám. Anh sắp sửa bước vào thời kỳ suy sụp tinh thần, và tôi thấy e dè. Chân mày anh cau lại, môi anh mím thành một vành mỏng. Anh im lặng một hồi.
                  “Anh cũng nghĩ y như vậy,” cuối cùng anh nói, “khi anh bằng tuổi em. Nếu chỉ có một hạng người, tại sao mọi người không thân thiện được với nhau? Nếu tất cả là giống nhau, tại sao họ lại mất công coi thường nhau? Scout, anh nghĩ anh bắt đầu hiểu ra điều tại sao Boo Radley luôn đóng cửa ở trong nhà suốt... đó là bởi vì ông ta muốn ở trong nhà”.

                  -----------------------------------

                  [1] Bồi thẩm đoàn treo: (hung Jury): một bồi thẩm đoàn không thể nhất trí phán quyết trong một vụ xử.
                  [2] Anh em họ đôi (double cousin): khi hai chị em ruột lấy chồng là hai anh em ruột, con cái của hai cặp đó là anh em họ đôi, nghĩa là có họ theo bên nội lẫn bên ngoại. Scout đoán mò tầm bậy ý nghĩa của danh từ này.

                  Comment


                  • #24
                    Chương 24




                    Calpurnia đeo chiếc tạp dề hồ bột cứng nhất của bà. Bà mang một khay bánh nướng. Bà đi lui trở lại cánh cửa đu và ẩn nhẹ. Tôi ngưỡng mộ vẻ khoan thai và duyên dáng của bà khi bà xử lý hàng đống công việc vặt vãnh. Tôi đoán bác Alexandra cũng vậy, bởi vì bữa nay bác cho phép Calpurnia phục vụ.
                    Tháng Tám sắp bước sang tháng Chín. Ngày mai Dill sẽ lên đường về Meridian; hôm nay nó với Jem đến vũng xoáy Barker’s Eddy. Jem đã phát hiện với vẻ ngạc nhiên giận dữ rằng không ai quan tâm đến việc dạy Dill bơi lội, một kỹ năng mà Jem thấy cần thiết như đi bộ vậy. Họ đã dành hai buổi chiều ở khúc sông đó, họ nói họ sẽ bơi trần truồng và tôi không được đi theo, vì vậy tôi chia những giờ cô đơn của mình giữa Calpurnia và cô Maudie.
                    Bữa nay bác Alexandra và nhóm truyền giáo của bác đang trợ giúp truyền giáo trong khắp ngôi nhà. Từ nhà bếp, tôi nghe bà Crace Merriweather tường trình trong phòng khách về cuộc sống khốn khổ của người Mruna. Họ đem phụ nữ bỏ trong những túp lều khi họ đến kỳ kinh nguyệt, bất kể chuyện gì; họ không có ý thức về gia đình - tôi biết điều đó sẽ khiến bác Alexandra phiền não - họ bắt trẻ con chịu đựng những thử thách kinh khủng khi chúng mới mười ba; người chúng đầy ghẻ cóc và sâu róm, chúng nhai và phun vỏ cây vào một ống nhổ chung rồi sau đó uống ngay thứ nước ấy.
                    Ngay sau đó, các bà nghỉ ăn nhẹ.
                    Tôi không biết mình nên đi vào phòng ăn hay ở bên ngoài. Bác Alexandra bảo tôi cùng ăn với họ, bác bảo tôi không cần dự phần họp mặt, bác nói nó sẽ làm tôi chán. Tôi mặc chiếc váy Chủ nhật màu hồng, mang giày, và mặc váy lót, và nghĩ rằng nếu tôi làm đổ bất cứ thứ gì thì Calpurnia sẽ phải giặt áo tôi một lần nữa cho ngày mai. Đây là một ngày bận rộn đối với bà. Tôi quyết định ở ngoài.
                    “Con giúp gì được cho bà không, Cal?” Tôi hỏi, mong được giúp cái gì đó.
                    Calpurnia dừng lại ngay ngưỡng cửa. “Cô cứ ở yên như con chuột trong góc đó,” bà nói, “và cô có thể giúp tôi chất đầy mấy cái khay này khi tôi quay lại”.
                    Tiếng rì rầm của quý bà nghe lớn hơn khi bà mở cửa: “Ôi, Alexandra, tôi chưa từng thấy bánh như thế này... quá hấp dẫn... tôi chưa từng làm được vỏ bánh giống như vầy, không thể...ai đã nghĩ tới loại bánh nướng nhân quả mâm xôi... Calpurnia hả?... ai đã nghĩ ra nó... bất cứ ai nói với chị rằng vợ của một nhà thuyết giáo... khôôông, bà ta là vậy, và rằng đứa kia còn chưa đi”.
                    Họ trở nên im lặng, và tôi biết tất cả đã được phục vụ. Calpurnia quay trở lại và đặt cái bình đựng nước bằng bạc của mẹ tôi lên một cái khay. “Chiếc bình cà phê này là vật hiếm,” bà lầm bầm, “bây giờ người ta không chế tạo thứ này nữa”.
                    “Con mang nó vào được không?”
                    “Nếu cô cẩn thận đừng đánh rớt. Để nó ngay đầu bàn cạnh bác Alexandra. Để xuống đó cạnh mấy cái tách và các thứ khác. Bà ấy sẽ rót”.
                    Tôi thử ấn mông tôi vào cửa như Calpurnia đã làm, nhưng cánh cửa không nhúc nhích. Cười tươi, bà giữ nó mở ra cho tôi. “Cẩn thận, nặng đấy. Đừng có nhìn nó, như vậy cô sẽ không làm nó đổ ra”.
                    Chuyến đi của tôi thành công: bác Alexandra cười rạng rỡ. “Ở đây với bọn ta nào, Jean Louise” bác nói. Vụ này nằm trong chiến dịch dạy tôi trở thành quý cô của bác ấy.
                    Đã thành thông lệ mỗi chủ nhà trong nhóm sẽ mời láng giềng của họ dự bữa tiệc nhẹ, dù họ theo phái Tẩy Lễ hay Trưởng lão, điều đó giải thích sự có mặt của cô Rachel (tỉnh như sáo), cô Maudie và cô Stephanie Crawford. Hơi lo lắng, tôi ngồi cạnh cô Maudie và tự hỏi tại sao quý cô chỉ đi băng qua đường mà cũng phải đội mũ. Các quý cô tụ thành nhóm luôn luôn làm tôi lo sợ mơ hồ và khao khát được ở chỗ khác, nhưng cảm giác này là những gì bác Alexandra gọi là “nuông quá thành hư”.
                    Các quý bà này đều thoải mái trong những bộ đồ vải hoa mỏng: hầu hết họ đều đánh phấn đậm nhưng không thoa phấn hồng; cây son duy nhất trong phòng là Tangee Natural. Sơn Cutex Natural lấp lánh trên những móng tay của họ, nhưng một số bà trẻ hơn thì xài hiệu Roso. Họ thơm nồng nặc. Tôi ngồi im, chế ngự hai bàn tay bằng cách nắm chặt tay ghế, và chờ ai đó nói chuyện với tôi.
                    Hàm răng vàng của cô Maudie lấp lánh. “Cháu ăn mặc rất đẹp, Jean Louise” cô ấy nói. “Bữa nay quần cháu đâu?”
                    “Dưới váy của cháu”.
                    Tôi không cố ý đùa vui, nhưng các bà cười ầm. Hai má tôi nóng bừng và tôi nhận ra sai lầm của mình, nhưng cô Maudie nhìn tôi một cách nghiêm trang. Cô không bao giờ cười cợt tôi trừ khi tôi muốn gây cười.
                    Trong khoảng khắc im lặng bất ngờ kế tiếp, cô Stephanie Crawford từ đầu phòng bên kia hỏi với sang. “Cháu sẽ làm gì khi lớn lên, Jean Louise? Luật sư hả?”
                    “Không, thưa cô. Cháu không nghĩ đến chuyện đó...” Tôi đáp, lòng thầm cảm ơn cô Stephanie Crawford quá tử tế khi thay đổi đề tài. Tôi vội chọn hướng đi cho mình. Y tá? Phi công? “Ờ...”
                    “Nói đi, ta nghĩ cháu muốn trở thành luật sư, cháu đã bắt đầu đến tòa án rồi đó”.
                    Các bà lại cười ầm lên. “Stephanie này thiệt kỳ cục” ai đó nói. Cô Stephanie được khuyến khích theo đuổi đề tài, “Cháu không muốn lớn lên thành luật sư sao?”
                    Tuy cô Maudie chạm vào tay tôi và tôi trả lời đủ hòa nhã, “Không thưa cô, chỉ là một quý cô”.
                    Cô Stephanie nhìn tôi đầy ngờ vực, kết luận rằng tôi không có ý xấc láo, và tạm chấp nhận, “Phải cháu sẽ không tiến được xa cho đến khi cháu bắt đầu mặc váy thường xuyên hơn”.
                    Bàn tay cô Maudie siết chặt tay tôi hơn và tôi chẳng nói gì. Sự nồng ấm của nó đã đủ.
                    Bà Grace Merriweather ngồi bên trái tôi, và tôi cảm thấy lịch sự khi nói chuyện với bà. Ông Merriweather, một tín đồ Giám lý trung thành do ép buộc, hình như chẳng thấy dính dáng đến riêng ông khi hát, “Ân sủng tuyệt vời, âm thanh ngọt ngào làm sao, điều đó cứu rỗi một kẻ khốn khổ như tôi...” Tuy nhiên dư luận phổ biến ở Maycomb cho rằng bà Merriweather đã giúp ông bỏ rượu chè và biến ông thành một công dân hữu ích một cách thỏa đáng. Chắc chắn bà Merriweather là một quý bà ngoan đạo nhất Maycomb. Tôi tìm một đề tài để làm bà hứng thú. “Chiều nay nghiên cứu của các bà là gì?”
                    “Ô bé con, những người Mruna tội nghiệp đó” bà đáp và im lặng. Vài câu hỏi nữa sẽ là cần thiết.
                    Đôi mắt to nâu của bà Merriweather luôn luôn ngấn lệ khi bà nhắc đến những người bị áp bức. “Sống trong khu rừng đó không có ai trừ J. Grimes Everett” bà nói. “Không một người da trắng nào đến gần họ trừ J. Grimes Everett thánh thiện”.
                    Bà Merriweather làm cho giọng của mình giống một cây phong cầm; mỗi lời bà nói đều nhận được âm lượng đầy đủ của nó, “Sự đói nghèo...sự tối tăm... sự đồi bại - không ai trừ J. Grimer Everett biết. Cháu biết không, khi nhà thờ cho ta một chuyến đi đến khu trại đó J. Grimes Everett đã nói với ta...”
                    “Ông ấy ở đó hả, bà? Cháu nghĩ...”
                    “Về nhà nghĩ phép J. Grimer Everett đã nói với ta, ông ấy nói, ‘Bà Merriweather, bà không có ý niệm, không có ý niệm về những gì chúng ta đang chiến đấu ở đó’. Ông ấy nói với ta như thế”.
                    “Vâng, thưa bà”.
                    “Ta nói với ông ấy, ‘Ông Everett,’ ta nói, ‘các quý bà ở nhà thờ miền Nam thuộc hội Giám lý Maycomb ở Alabama ủng hộ ông một trăm phần trăm’. Ta nói với ông ấy như vậy. Và cháu biết không, ngay lúc ấy trong thâm tâm ta tự hứa. Ta tự nhủ, khi nào về nhà ta sẽ nói chuyện về người Mruna và mang thông điệp của J. Grimer Everett đến Maycomb và đó là việc ta đã làm”.
                    “Vâng, thưa bà”.
                    Khi bà Merriweather lắc đầu, những búp tóc đen của bà đong đưa. “Jean Louise,” bà nói, “cháu là một cô bé may mắn. Cháu sống trong ngôi nhà Thiên chúa giáo và với những người Thiên chúa giáo trong một thị trấn Thiên chúa giáo. Ngoài đó ở một vùng đất của J. Grimes Everett chẳng có gì ngoài tội lỗi và tình trạng bẩn thỉu”.
                    “Vâng, thưa bà”.
                    “Tội lỗi và tình trạng bẩn thỉu - đó là cái gì vậy, Gertrude?” Bà Merriweather bật bộ chuông nhạc của bà lên cho người phụ nữ ngồi bên cạnh. “Ồ, phải, ta luôn luôn nói tha thứ và quên, tha thứ và quên. Việc nhà thờ phải làm là giúp cô ta sống một đời sống Thiên chúa giáo cho bọn trẻ từ bây giờ đi. Một số người phải tới đó và bảo nhà truyền giáo đó khích lệ cô ta”.
                    “Xin lỗi, bà Merriweather,” tôi ngắt lời, “bà đang nói về Mayella Ewell hả?”
                    “May...? Không cô bé. Đó là vợ của tên da đen. Vợ của Tom, Tom...”
                    “Robinson, thưa bà”.
                    Bà Merriweather quay sang người ngồi kế bà. “Có một điều tôi thực sự tin, Gartrude,” bà nói tiếp, “nhưng một số người không chịu nhìn nhận theo cách của tôi. Nếu chúng ta để họ biết chúng ta tha thứ cho họ, rằng chúng ta đã quên nó, thì toàn bộ việc này sẽ bị gió cuốn đi”.
                    “À,... bà Merriweather,” tôi cắt ngang lời bà, “gió sẽ cuốn đi cái gì?”
                    Bà lại quay sang tôi. Bà Merriweather là một trong những người lớn không có con, bà thấy cần thiết phải có một giọng khác khi nói chuyện với trẻ con. “Không có gì đâu, Jean Louise,” bà nói thật chậm rãi, “các đầu bếp và các nhân công làm đồng không được hài lòng, nhưng giờ họ đã bình tĩnh lại, họ đã cáu kỉnh suốt cả ngày sau phiên tòa đó”.
                    Bà Merriweather đối mặt với bà Farrow, “Gertrude, tôi nói cho chị biết không có gì làm mình phân tâm bằng một tên da đen hờn dỗi. Miệng họ chảy xuống tới đây. Có mặt một người như vậy trong nhà bếp chỉ làm chị phát nản cả ngày. Chị biết tôi nói gì với Sophy nhà tôi không, Gertrude? Tôi nói ‘Sophy’, tôi nói, ‘hôm nay cô không phải là người Thiên chúa giáo. Chúa Jesus không bao giờ đi loanh quanh cằn nhằn và phàn nàn’, và chị biết không, nó tốt cho cô ấy, cô ấy rời mắt khỏi sàn nhà và nói, ‘Không, bà Merriweather, Chúa Jesus không bao giờ đi loanh quanh cằn nhằn và phàn nàn’. Nói cho chị biết, Gertrude, chị không nên để lỡ cơ hội làm chứng nhân cho Chúa”.
                    Điều này làm tôi nhớ đến cây phong cầm nhỏ cổ xưa trong nhà nguyện tại Finch’s Landing. Khi tôi còn nhỏ xíu, và nếu ngày đó tôi rất ngoan, bố Atticus cho phép tôi bơm những ống gió của nó trong khi ông đang chơi một giai điệu bằng một ngón tay. Nốt cuối cùng sẽ ngân vang miễn là còn hơi để duy trì nó. Tôi đoán, bà Merriweather đã hết hơi và chuẩn bị nạp thêm nhiên liệu trong khi bà Farrow cố gắng nói.
                    Bà Farrow là một phụ nữ có vóc dáng tuyệt mỹ với đôi mắt xanh nhạt và bàn chân nhỏ. Bà có mái tóc xám quăn dài tự nhiên. Bà là người phụ nữ mộ đạo thứ hai ở Maycomb. Bà có thói quen kỳ lạ là thích bắt đầu mọi chuyện với một âm gió nhẹ.
                    “S-s-s ơn Chúa,” bà ta nói, “giống như ngày nọ tôi nói với đạo hữu Hutson. ‘S-s-s Đạo hữu Hutson,’ tôi nói, ‘có vẻ như chúng ta đang đánh một trận chiến thua chắc’. Tôi nói, ‘S-s-s không thành vấn đề gì với họ cả, chúng ta có thể giáo dục họ cho đến hết sức chúng ta, chúng ta có thể cố cho đến khi chúng ta gục ngã để làm cho họ thành những người Thiên chúa giáo, nhưng không một quý bà nào an toàn trên giường ngủ của mình vào những đêm này’. Ông ta nói với tôi, ‘Bà Farrow, tôi không biết điều gì đã đưa chúng ta xuống đây’. S-s-s tôi nói đó chắc chắn là một sự kiện”.
                    Bà Merriweather gật đầu vẻ hiểu biết. Giọng bà át cả tiếng lanh canh của những tách cà phê và âm thanh êm ái như bò của các bà bà đang nhai bánh tóp tép. “Gertrude,” bà nói, “tôi cho chị biết trong thị trấn này có một số người tốt nhưng bị lầm lạc. Tốt nhưng bị lầm lạc. Ý tôi là dân trong thị trấn này nghĩ họ làm đúng. Tôi thì không muốn nói đó là ai, nhưng một số người trong thị trấn này nghĩ họ đang làm việc đúng ít lâu trước đây, nhưng tất cả những gì họ đã làm là kích động họ. Họ chỉ làm được có thế. Lúc đó trông nó có vẻ như điều đúng cần phải làm, tôi chắc mình không biết, tôi không rành trong lĩnh vực đó, nhưng hay hờn dỗi... phật lòng... Tôi nói với chị nếu Sophy cứ như vậy hoài tôi sẽ để cô ta đi. Cô ta không hề hiểu rằng lý do duy nhất tôi giữ cô ta lại là vì tình trạng suy thoái diễn ra và cô ta cần mớ một đô hăm lăm xu mà cô ta nhận được mỗi tuần”.
                    “Thức ăn của anh ta không bị kẹt khi nuốt xuống, đúng không?”
                    Cô Maudie nói câu đó. Có hai đường hằn sâu xuất hiện ngay khóe miệng cô. Cô đã ngồi im lặng nãy giờ cạnh tôi, tách cà phê nằm cân bằng trên đầu gối. Tôi đã không hiểu kịp mạch câu chuyện từ lâu rồi, khi họ thôi nói về vợ của Tom Robinson, và bằng lòng với việc nghĩ về Finch’s Landing và con sông. Bác Alexandra đã làm nó hỏng bét: phần công việc của cuộc họp thật tệ hại, giờ giao lưu chán ngắt.
                    “Maudie, tôi không hiểu ý cô muốn nói gì” bà Merriweather nói.
                    Cô chẳng nói gì thêm. Khi cô Maudie giận dữ, cái kiểu ngắn gọn của cô lạnh tanh. Điều gì đó khiến cô rất giận dữ, và đôi mắt xám của cô cũng lạnh như giọng của cô. Bà Merriweather đỏ mặt, nhìn tôi, rồi quay chỗ khác. Tôi không nhìn thấy bà Farrow.
                    Bác Alexandra đứng dậy khỏi bàn và mau lẹ chuyền thêm những món ăn khác, tìm cách để bà Merriweather và bà Gates tham gia một cuộc chuyện trò sôi nổi. Khi hai bà rôm rả chuyện trò với bà Perkins, bác Alexandra bước lui lại. Bác nhìn cô Maudie với vẻ biết ơn và tôi ngạc nhiên với thế giới đàn bà. Cô Maudie và bác Alexandra không hề thân nhau, và ở đây bác tôi lại lặng lẽ cám ơn cô Maudie vì một điều gì đó. Điều tôi không biết. Tôi hài lòng khi biết rằng bác Alexandra có thể bị hạ gục để để cảm thấy biết ơn khi được người khác giúp đỡ. Không còn nghi ngờ về điều ấy, tôi phải nhanh chóng bước vào thế giới này, nơi mà ở ngoài mặt là các bà thơm tho ngồi đu đưa từ tốn, phe phẩy quạt và uống nước mát.
                    Nhưng tôi quen thuộc và thoải mái hơn trong thế giới của bố tôi. Những người giống ông Heck Tate không bẫy bạn với những câu hỏi vô hại để giễu cợt bạn; ngay cả Jem cũng không chê bai gì nhiều nếu như bạn không nói gì ngốc nghếch. Các bà có vẻ sống trong nỗi khiếp sợ mơ hồ đối với đàn ông, có vẻ không sẵn lòng tán thành họ một cách hết lòng. Nhưng tôi thích họ. Có điều gì đó ở họ, cho dù họ hay chửi tục, say xỉn, bài bạc và nhai thuốc lá, cho dù họ chẳng thú vị chút nào, có điều gì đó ở họ mà tôi thích theo bản năng... họ không...
                    “Đạo đức giả, bà Perkins, đạo đức giả bẩm sinh” bà Merriweather nói. “Ít nhất chúng ta ở miệt dưới này không mang trên vai tội đó. Dân miệt trên đó đã giải phóng họ, nhưng chị không thấy những người đó ngồi chung bàn với họ. Ít nhất chúng ta không có thói lừa đảo để nói với họ rằng phải quý vị cũng tốt như chúng tôi nhưng hãy tránh xa chúng tôi. Ở miệt này chúng ta chỉ nói quý vị cứ sống theo cách của quý vị và chúng tôi sống theo cách của chúng tôi. Tôi nghĩ người phụ nữ đó, bà Roosevelt đó không tỉnh táo - chỉ đơn giản là mất trí khi xuống tới tận Birmingham và cố ngồi với họ. Nếu tôi là thị trưởng Birmingham tôi sẽ [1]...”
                    Tốt, không ai trong chúng tôi là thị trưởng Birmingham cả. Nhưng tôi thích một ngày nào đó tôi là thống đốc Alabama: tôi sẽ trả tự do cho Tom Robinson nhanh đến độ Hội truyền giáo không có thời gian để điều hòa hơi thở. Hôm nọ Calpurnia kể với đầu bếp của cô Rachel tình hình của Tom xấu như thế nào và bà không ngừng nói khi tôi bước vào nhà bếp. Bà nói rằng bố Atticus không thể làm gì để cảnh ngục tù được thoải mái hơn cho anh ta, rằng điều cuối cùng anh ta nói với bố Atticus trước khi họ đưa anh ta xuống trại giam là, “Tạm biệt, ông Finch, giờ thì ông chẳng thể làm được gì, vì vậy có cố cũng vô ích”. Calpurnia kể bố Atticus nói với bà rằng ngày họ đưa Tom vào tù anh đã thôi hy vọng. Bà nói bố Atticus đã cố giải thích mọi việc với anh ta, và rằng anh ta phải cố hết sức mình để không tuyệt vọng bởi vì bố Atticus đang làm hết sức ông để anh ta được tự do. Đầu bếp của cô Rachel hỏi Calpurnia tại sao bố Atticus không nói ừ, anh sẽ được tự do, và để nguyên mọi chuyện như thế - điều đó có vẻ là nguồn an ủi lớn lao cho Tom. Calpurnia nói, “Bởi vì chị không rành luật. Điều đầu tiên chị học được khi ở trong một gia đình luật là không có một câu trả lời chắc chắn nào cho bất cứ điều gì. Ông Finch không thể nói một điều gì như thế khi ông không biết chắc nó như thế”.
                    Cửa trước đóng mạnh và tôi nghe những bước chân của bố Atticus ngoài hành lang. Bất giác tôi tự hỏi không biết bây giờ là mấy giờ. Chưa đến giờ ông về nhà mà, và vào những ngày họp của Hội truyền giáo ông thường ở lại thị trấn cho đến tối mịt.
                    Ông dừng lại ngay ngưỡng cửa. Mũ ông trên tay và mặt ông trắng bệch.
                    “Xin lỗi, quý bà,” ông nói, “cứ tự nhiên với cuộc họp của quý vị, đừng để ý đến tôi. Alexandra, chị có thể xuống bếp một chút không? Em muốn mượn Calpurnia một lát”.
                    Ông không qua phòng ăn, mà đi theo hành lang phía sau vào nhà bếp. Bác Alexandra và tôi gặp ông. Cửa phòng ăn lại mở và cô Maudie bước vào. Calpurnia nhổm khỏi ghế.
                    “Cal” bố Atticus nói, “Tôi muốn bà đi với tôi đến nhà Helen Robinson...”
                    “Có chuyện gì vậy?” Bác Alexandra hỏi, lo lắng trước nét mặt của bố tôi.
                    “Tom chết rồi”.
                    Bác Alexandra đưa hai tay lên miệng.
                    “Họ bắn anh ta” bố Atticus nói. “Anh ta bỏ chạy. Ngay vào giờ tập thể dục. Họ nói anh ta phát cuồng chạy lao vào hàng rào và bắt đầu leo qua. Ngay trước mặt họ...”
                    “Sao họ không cố ngăn anh ta? Họ không có hành động cảnh cáo nào sao?” Giọng bác Alexandra run rẩy.
                    “Ồ có, lính canh hô anh ta dừng lại. Họ bắn chỉ thiên vài phát, sau đó giết. Họ bắn trúng ngay khi anh ta đã trèo qua hàng rào. Họ nói nếu có hai cánh tay lành lặn, anh ta hẳn đã thành công, anh ta di chuyển thật nhanh. Mười bảy lỗ đạn trên người anh ta. Họ không cần phải bắn nhiều như thế. Cal, tôi muốn bà đi với tôi để giúp tôi báo tin cho Helen”.
                    “Vâng, thưa ông” bà lầm bầm, lóng ngóng sờ soạn tạp dề của mình. Cô Maudie đến bên Calpurnia và cởi nó ra.
                    “Đây là giọt nước cuối cùng làm tràn ly, Atticus” bác Alexandra nói.
                    “Tùy thuộc vào cách chị nhìn nó” ông nói. “Một người da đen, trong số hai trăm người khác, đại khái như thế, thì có nghĩa lý gì? Với họ anh ta không phải là Tom, anh ta chỉ là một tù nhân vượt ngục”.
                    Bố Atticus dựa vào tủ lạnh, đẩy kính lên, lau mắt. “Chúng ta đã có một cơ hội tốt như thế” ông nói. “Em đã nói với anh ta những điều em nghĩ, nhưng thực tình em không thể nói chúng ta có nhiều có may. Em đoán Tom đã phát mệt với những cơ hội của người da trắng và thích chớp lấy cơ hội của anh ta hơn. Phải không, Cal?”
                    “Đúng vậy, thưa ông Finch”.
                    “Vậy chúng ta đi”.
                    Bác Alexandra ngồi trên ghế của Calpurnia và úp mặt vào hai tay. Bác ngồi hoàn toàn im lặng; bác im lặng đến độ tôi tự hỏi liệu bác có bị ngất đi không. Tôi nghe cô Maudie thở như thể cô vừa trèo lên mấy bậc thang, và trong phòng ăn các bà vẫn vui vẻ chuyện gẫu.
                    Tôi nghĩ bác Alexandra đang khóc, nhưng khi bác buông hai tay khỏi mặt, bác không hề khóc. Trông bác yếu ớt. Bác nói, và giọng của bác trùng xuống.
                    “Tôi không thể nói tôi tán thành mọi chuyện cậu ấy làm, Maudie, nhưng cậu ấy là em trai tôi, và tôi chỉ muốn biết chừng nào chuyện này kết thúc”. Bác cao giọng, “Nó làm cậu ấy tan nát. Cậu ấy không để lộ nhiều, nhưng nó làm cậu ấy tan nát. Tôi đã thấy cậu ấy khi - họ còn muốn gì ở cậu ấy nữa, Maudie, muốn gì nữa?”
                    “Ai muốn gì, Alexandra?” Cô Maudie hỏi.
                    “Ý tôi nói thị trấn này nè. Họ sẵn sàng để cậu ấy làm những gì họ sợ không dám làm - nó có thể làm họ mất mấy đồng xu. Họ sẵn lòng bỏ mặc cậu ấy hủy hoại sức khỏe để làm những điều họ sợ không dám làm, họ...”
                    “Nói nhỏ thôi, họ sẽ nghe thấy chị nói đấy” cô Maudie nói. “Chị từng nghĩ về nó theo cách này chưa, Alexandra? Dù Maycomb biết hay không, chúng ta vẫn bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc mà chúng ta có thể đối với một con người. Chúng ta tin ông ấy đã làm đúng. Đơn giản vậy thôi”.
                    “Ai?” Bác Alexandra không hề biết rằng mình đang bắt chước đứa cháu mười hai tuổi của bác.
                    “Một nhóm người trong thị trấn này biết nói rằng cuộc chơi công bằng không hề đóng dấu ‘chỉ dành cho người da trắng’; một nhóm người nói rằng một vụ xét xử công bằng là dành cho mọi người, chứ không chỉ riêng cho chúng ta; một nhóm người có đủ khiêm tốn để suy nghĩ, khi họ nhìn một người da đen, tôi có mặt ở đó chỉ vì lòng nhân từ của Chúa”. Sự hoạt bát vốn có của cô Maudie đang trở lại. “Một số người trong thị trấn này có học thức, họ là loại như thế”.
                    Nếu tôi chú ý, hẳn tôi đã có thêm một chi tiết khác để thêm vào định nghĩa của Jem về học thức, nhưng tôi nhận thấy mình đang run rẩy và không dừng lại được, tôi đã thấy trại tù Enfield Prison Farm, và bố Atticus đã chỉ cho tôi thấy sân tập thể dục. Nó to cỡ sân bóng Bầu dục.
                    “Đừng run vậy nữa” cô Maudie ra lệnh và tôi dừng. “Đứng lên đi, Alexandra, mình bỏ lại họ hơi lâu rồi đó”.
                    Bác Alexandra đứng lên và vuốt cho phẳng những nếp váy xếp dọc hai bên hông. Bác móc khắn tay ở thắt lưng ra lau mũi. Bác vuốt nhẹ lên tóc và nói, “Tôi có để lộ ra không?”
                    “Không một dấu hiệu gì” cô Maudie nói. “Cháu ra cùng bọn ta không, Jean Louise?”
                    “Có, thưa cô”.
                    “Vậy ta ra với các bà thôi” cô nói một cách chán chường.
                    Tiếng nói của họ nghe rõ hơn khi cô Maudie mở cửa dẫn sang phòng ăn. Bác Alexandra đi trước tôi và tôi thấy đầu bác ngẩng cao khi bước qua cửa.
                    “Ô, bà Perkins,” bác nói, “bà cần thêm cà phê nữa rồi. Để tôi lấy cho”.
                    “Calpurnia bận đi công việc một lát” cô Maudie nói. “Để tôi đưa thêm cho chị bánh nướng nhân quả mâm xôi. Chị có nghe những gì đứa em họ của tôi làm hồi đó không, đứa thích đi câu cá đó?...”
                    Và thế là họ đi, dọc theo hàng phụ nữ đang cười đùa, vòng qua phòng ăn, châm thêm cho đầy những tách cà phê, bày kẹo ra đĩa như thể điều đáng tiếc duy nhất của họ là tai họa nhất thời của việc vắng mặt Calpurnia.
                    Tiếng rì rầm nhẹ nhàng lại vang lên. “Phải, bà Perkins, J. Gilmer Everett đó quả là một vị thánh tử vì đạo, ông ta... cần được cưới vợ vì vậy họ chạy... đến mỹ viện mỗi chiều thứ Bảy... ngay khi mặt trời lặn. Ông ấy đi ngủ vào cái giờ gà lên chuồng, một chuồng gà bệnh, Fred nói đó là điều khơi mào mọi chuyện, Fred nói...”
                    Bác Alexandra nhìn qua tôi ở đầu kia phòng và mỉm cười. Bác nhìn xuống khay đựng bánh kẹo trên bàn và gật đầu ra hiệu. Tôi thận trọng bưng khay lên và bước tới chỗ bà Merriweather. Với thái độ thân thiện tuyệt vời nhất của mình, tôi hỏi bà có muốn dùng một ít không.
                    Xét cho cùng, nếu bác tôi có thể là một quý bà vào lúc này, thì tôi cũng làm được.

                    -------------------------------------

                    [1] “Miệt trên” (Up there): ám chỉ miền Bắc, các tiểu bang ủng hộ giải phóng nô lệ, còn “miệt dưới” (Down there) ám chỉ các bang miền Nam, vốn chủ trương duy trì chế độ nô lệ. Bà Roosevelt tức Eleanor Roosevelt, vợ Tổng thống Franklin Roosevelt. Năm 1939, bà tới Birmingham, một thành phố miền trung Alabama, để dự Hội nghị phía Nam về An sinh nhân dân. Bà đã thách thức chính quyền tiểu bang bằng cách ngồi ở lối đi, giữa hai hàng ghế phân biệt dành cho người da đen và người da trắng, sau khi cảnh sát bảo rằng bà đã vi phạm luật phân cách chủng tộc khi ngồi chung với người da đen.

                    Comment


                    • #25
                      Chương 25




                      “Đừng làm vậy, Scout. Thả nó ra thềm sau nhà đi”.
                      “Jem, anh khùng hả?”
                      “Anh bảo là thả nó ra thềm sau nhà”.
                      Thở dài, tôi nâng sinh vật nhỏ bé đó lên, đặt nó xuống bậc thang dưới cùng và quay lại võng của mình. Tháng Chín đã đến, nhưng không mang theo một dấu hiệu thời tiết mát mẻ nào, và chúng tôi vẫn ngủ ở hàng hiên có cửa lưới phía sau nhà. Lũ đom đóm vẫn quanh quẩn, lũ côn trùng bay ăn đêm và sâu bọ thường va vào lớp lưới suốt mùa Hè chưa đến nơi chúng vẫn đến khi mùa Thu tới.
                      Một con bọ bi đã bò được vào trong nhà; tôi cho rằng con vật bé xíu này đã bò lên mấy bậc thềm và chui dưới khe cửa. Tôi đang đặt cuốn sách xuống sàn cạnh cái võng đang nằm thì thấy nó. Mấy con vật loại này dài chưa tới ba phân, và khi bạn đụng vào nó, nó sẽ cuộn mình lại thành một viên bí xám cứng ngắc.
                      Tôi nằm sấp, thò tay xuống chọc nó. Nó cuộn lại rồi cảm thấy an toàn, tôi đoán vậy, nó từ từ duỗi người ra. Nó đi được vài phân với hàng trăm cái chân của nó và tôi đụng nó lần nữa. Nó cuộn lại. Cảm thấy buồn ngủ, tôi quyết định chấm dứt chuyện này. Bàn tay tôi sắp đập xuống nó thì Jem lên tiếng.
                      Jem đang cau có. Chắc là do giai đoạn anh đang trải qua, tôi ước gì anh qua nhanh hơn và kết thúc nó. Chắc chắn anh không bao giờ tàn ác với thú vật, nhưng tôi không biết lòng nhân từ của anh bao trùm sang cả thế giới côn trùng.
                      “Tại sao em không được đập nó?”
                      “Bời vì nó không quấy rầy em” Jem trả lời trong bóng tối. Anh đã tắt đèn đọc sách của anh.
                      “Cứ cho là hiện giờ anh đang ở thời kỳ mà anh không muốn giết ruồi muỗi đi” tôi nói. “Cho em biết coi chừng nào anh đổi ý. Dù sao cũng cho anh biết một điều, em không ngồi chơi vớ vẩn ở đây mà không gãi một con bọ chét đâu”.
                      “Ừm, im đi”. Anh đáp vẻ ngái ngủ.
                      Jem ngày càng giống một đứa con gái hơn, chứ không như tôi. Thư thái, tôi nằm ngửa ra chờ giấc ngủ đến, và trong lúc đó tôi nghĩ về Dill. Nó đã chia tay với bọn tôi ngay ngày đầu tháng với đảm bảo chắc nịch là sẽ quay lại vào lúc được nghỉ học - nó đoán ba mẹ nó đã hiểu ra rằng nó thích nghỉ hè ở Maycomb. Cô Maudie cho chúng tôi đi taxi cùng họ ra nhà ga Maycomb, và Dill vẫy chào chúng tôi từ cửa sổ xe lửa cho đến khi nó đi khuất. Nó không biến khỏi tâm trí tôi: tôi nhớ nó. Hai ngày cuối cùng ở với chúng tôi, Jem đã dạy nó bơi...
                      Dạy nó bơi. Tôi bừng tỉnh như sáo, nhớ lại những gì Dill đã kể với tôi.
                      Vũng xoáy Barker’s Eddy ở cuối con đường đất rẽ khỏi xa lộ Meridian khoảng hơn cây số tính từ thị trấn. Dọc xa lộ đó thật dễ xin quá giang trên một chiếc xe chở bông vải hoặc một chiếc oto đi ngang, và đi bộ một chút là tới khúc sông đó, nhưng viễn cảnh đi bộ suốt con đường lúc chạng vạng, khi giao thông đã ngớt, thì thật mệt, và những người đi bơi thường cẩn thận không đi chơi quá trễ.
                      Theo Dill kể, nó với Jem vừa ra đến xa lộ thì thấy bố Atticus lái xe về phía chúng. Có vẻ như ông không thấy chúng, nên hai đứa cùng vẫy tay. Cuối cùng bố Atticus chạy chậm lại; khi chúng chạy tới nơi ông nói, “Tốt hơn hai đứa nên quá giang khi trở về, bố đi một lát rồi mới về nhà”. Calpurnia đang ngồi ở băng sau.
                      Jem phản đối, rồi van nài, và bố Atticus nói, “Được rồi, tụi con có thể đi cùng nhưng phải ở trong xe”.
                      Trên đường đến nhà Tom Robinson, bố đã kể cho họ nghe những gì đã xảy ra.
                      Họ rẽ khỏi quốc lộ, chạy chậm qua bãi rác và vượt qua chỗ ở của nhà Ewell, xuống con đường nhỏ dẫn đến những căn chòi của người da đen. Dill nói có một đám trẻ con đang chơi bi trong sân trước nhà Tom. Bố Atticus đậu xe và bước ra. Calpurnia theo ông đi qua cổng trước.
                      Dill nghe ông hỏi một đứa trong bọn trẻ, “Mẹ cháu đâu, Sam?” và nghe Sam nói, “Mẹ cháu ở chỗ sơ Steven, ông Finch. Cháu chạy kêu mẹ cháu về nghen?”
                      Dill nói bố Atticus có vẻ ngập ngừng, rồi ông nói ừa và Sam chạy đi, “Chơi tiếp đi mấy đứa”, bố Atticus nói với bọn trẻ.
                      Một đứa con gái nhỏ bước ra khỏi căn chòi và đứng nhìn bố Atticus. Dill nói tóc con bé là một mớ bím nhỏ xíu, mỗi đuôi bím là một chiếc nơ màu sáng. Nó cười toe toét miệng và đi tới chỗ bố tôi, nhưng nó quá nhỏ không thể hướng về phía những bậc thềm. Dill nói bố Atticus đã đến bên con bé, giơ mũ và giơ ngón tay ông ra. Con bé chộp lấy và ông đưa nó xuống những bậc thềm. Rồi ông giao nó cho Calpurnia.
                      Sam nhảy nhót sau lưng mẹ nó khi họ về đến. Dill kể Helen nói, “Chào ông, ông Finch, sao ông không ngồi chơi?” Nhưng chị ta không nói gì nữa. Cả bố Atticus cũng không.
                      “Scout,” Dill nói, “chị ta té xuống đất. Chị té xuống nền đất, giống như một người khổng lồ có bàn chân to xuất hiện và giẫm lên chị ta. Chỉ uỵch một tiếng...” Bàn chân mập mạp của Dill dậm xuống đất. “Giống như cậu, giẫm lên một con kiến”.
                      Dill kể Calpurnia cùng bố Atticus đỡ Helen dậy với nửa bế nửa dìu chị ấy vào chòi. Họ ở bên trong hồi lâu rồi bố Atticus đi ra một mình. Khi họ lái xe trở về ngang bãi rác một số người nhà Ewell hò hét vào mặt họ, nhưng Dill không nghe được họ nói gì.
                      Maycomb được quan tâm bởi tin tức về cái chết của Tom trong khoảng có lẽ hai ngày, hai ngày là đủ cho tin đó lan khắp hạt. “Anh có nghe về?... không à? Ồ, họ nói anh ta chạy đến nhanh hơn tia chớp...” Đối với Maycomb, cái chết của Tom là một điển hình. Điển hình về một người da đen đột ngột chạy trốn. Điển hình về trạng thái tâm lý của một người da đen không có kế hoạch, không nghĩ đến tương lai, chỉ mù quáng bỏ chạy khi thấy cơ hội đầu tiên. Điều buồn cười, có thể Atticus Finch có thể sẽ gỡ được cho anh ta thoát mọi trừng phạt, nhưng chờ à...? Không đời nào, anh biết họ như thế nào mà. Hời hợt. Cho anh thấy, rằng Tom Robinson đã có vợ hợp pháp, họ nói anh ta giữ mình nghiêm túc, đi nhà thờ và các thứ khác, nhưng khi có chuyện gì thì cái vẻ ngoài lại rất mỏng manh. Người da đen luôn luôn để lộ điều đó.
                      Thêm vài chi tiết nữa, giúp cho người nghe lần lượt lặp lại câu chuyện theo dị bản của mình, sau đó chẳng ai biết về nó cho đến khi tờ Maycomb Tribune xuất hiện theo các thứ Năm tiếp đó. Có một cáo phó ngầm trong phần Tin của người da màu, nhưng cũng có một bài xã luận.
                      Ồng Underwood hết sức cay cú và ông hẳn không buồn quan tâm trừ những người hủy bỏ quảng cáo và đặt mua báo dài hạn. (Nhưng Maycomb không chơi kiểu đó. Ông Underwood có thể hò hét cho đến khi ông đổ mồ hôi và viết bất cứ điều gì ông muốn, nhưng ông vẫn nhận được quảng cáo và tiền đặt mua dài hạn. Nếu ông muốn cư xử ngốc nghếch trong tờ báo của ông thì đó là việc của ông.) Ông Underwood không nói về thất bại của công lý, ông viết để trẻ con cũng có thể hiểu. Ông Underwood đơn giản nghĩ rằng quả là một tội lỗi khi giết những kẻ tật nguyền, dù họ đứng, ngồi hoặc đào thoát. Ông so sánh cái chết của Tom với việc những thợ săn và trẻ con giết chóc những con chim biết hót một cách vô ý thức và Maycomb nghĩ rằng ông ta đang cố viết một bài xã luận có đủ chất thơ để được in lại trong tờ The Montgomery Advertiser.
                      Khi tôi đọc bài xã luận của ông Underwood tôi tự hỏi sao lại có chuyện có thể như thế. Giết chóc vô ý thức... Tom đã có được một quy trình pháp lý công bằng cho đến ngày anh ta chết; anh ta được xét xử công khai và được kết án bởi mười hai người tốt hoàn toàn; bố tôi đã đấu tranh hết mình cho anh ta. Bây giờ hàm ý của ông Underwood đã trở nên rõ ràng: bố Atticus đã sử dụng một cung cụ sẵn có cho người tự do để cứu Tom Robinson, nhưng trong tòa án bí mật của trái tim con người bố Atticus không có cơ hội. Tom đã là người chết kể từ lúc Mayella mở miệng và gào lên.
                      Tên gọi Ewell cho tôi một cảm giác buồn nôn. Maycomb đã lập tức tiếp nhận quan điểm của ông Ewell về cái chết của Tom và truyền chúng theo kênh ngồi lê đôi mách, cô Stephanie Crawford. Cô Stephanie đã nói với bác Alexandra trong khi có mặt Jem (“Ô, có sao đâu, nó đủ lớn để nghe rồi”) rằng ông Ewell nói nó làm một người ngã xuống và hai người sắp đi theo. Jem bảo tôi chẳng có gì phải sợ, ông Ewell là khí nóng hơn bất cứ thứ gì khác. Jem cũng nói với tôi rằng nếu tôi hở một lời nào với bố Atticus, nếu bằng bất kỳ cách nào tôi để bố Atticus biết rằng tôi đã biết thì Jem sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa.

                      Comment


                      • #26
                        Chương 26




                        Trường học đã khai giảng và thế là hàng ngày chúng tôi phải đi ngang qua nhà Radley. Jem đã lên lớp bảy và vào trường trung học, nằm phía bên kia trường tiểu học, bây giờ tôi lên cấp ba, và lịch sinh hoạt chúng tôi khác nhau đến độ tôi chỉ tới trường với Jem vào buổi sáng và gặp lại anh ấy vào giờ ăn. Anh ấy tham gia môn bóng Bầu dục, nhưng lại quá ốm và quá nhỏ không thể làm gì trừ việc mang xô nước cho đội bóng. Anh làm chuyện này hết sức nhiệt tình; hầu hết các buổi chiều hiếm khi anh về nhà trước khi trời tối.
                        Nhà Radley không còn làm tôi khiếp sợ nữa, nhưng nó vẫn mang nét ảm đạm, vẫn lạnh lẽo bên dưới những tán sồi to và vẫn khiến người ta xa lánh. Người ta vẫn thấy ông Nathan Radley vào một ngày mới, đi xuống thị trấn và trở về; chúng tôi biết Boo ở đó, cũng vì lý do trước đây... chưa ai thấy ông ta được mang ra ngoài. Đôi khi tôi cảm thấy bị cắn rứt vì hối hận, khi đi ngang qua chỗ cũ, vì mình từng dự phần vào sự vụ hẳn từng là nỗi khổ đau tột độ cho Arthur Radley - người ẩn dật hợp lý muốn bọn trẻ nhìn thấy gì qua những ô cửa của ông ta, chuyển lời chào hỏi trên đầu cần câu, lang thang trong những luống bắp cải của ông ta vào ban đêm?
                        Và tôi vẫn nhớ. Hai đồng xu có hình đầu người da đỏ, kẹo cao su, những con búp bê xà phòng, một huy chương gỉ sét, một đồng hồ bị vỡ có gắn dây chuyền. Jem hẳn đã cất nó đâu đó. Một chiều tôi dừng lại và nhìn vào cái cây, thân cây phình to quanh mảng xi măng. Mảng đó đã bị ngả vàng.
                        Chúng tôi hầu như thấy được ông ta vài lần, một thành tích đủ tốt cho bất cứ ai.
                        Nhưng tôi vẫn đảo mắt tìm ông ta mỗi lần đi ngang qua đó. Biết đâu một ngày nào đó chúng tôi sẽ nhìn thấy ông ta. Tôi tưởng tượng cảnh đó như sau: khi nó xảy ra, ông ta chỉ ngồi trên ghế xích đu khi tôi bước tới. “Chào ông Arthur” tôi sẽ nói cứ như tôi vẫn nói câu đó mỗi chiều trong đời. “Chào Jean Louise,” ông ta sẽ nói, như thể ông ta vẫn nói câu đó mỗi chiều trong đời, “mình có mấy ngày liền thời tiết đẹp, phải không?” “Vâng thưa ông, thật đẹp” tôi sẽ nói và đi tiếp.
                        Đó chỉ là một tưởng tượng. Chúng tôi sẽ không bao giờ thấy ông ta. Có lẽ ông ta ra ngoài khi trăng lặn và chăm chăm nhìn cô Stephanie Crawford. Nếu là tôi thì chắc tôi đã chọn ai đó để nhìn, nhưng đó là công việc của ông ta. Ông ta sẽ không bao giờ nhìn chúng tôi.
                        “Con sẽ không bắt đầu chuyện đó nữa chứ, đúng không?” Một đêm nọ bố Atticus nói, khi tôi bày tỏ mơ ước trái khoáy là được nhìn kỹ Boo Radley một lần trước khi chết. “Nếu con muốn vậy, bố sẽ nói với con ngay bây giờ dừng chuyện đó lại. Bố đã quá già không thể rượt đuổi con ra khỏi sân nhà Radley. Với lại nó rất nguy hiểm. Con có thể bị ăn đạn. Con biết là ông Nathan bắn vào mọi cái bóng mà ông ta nhìn thấy, cả những cái bóng để lại dấu chân trần cỡ số bốn. Con đã may mắn là không bị giết”.
                        Tôi im ngay tắp lự. Đồng thời tôi rất ngạc nhiên vì bố Atticus. Đây là lần đầu tiên ông cho chúng tôi biết ông biết nhiều về một điều gì đó hơn mức chúng tôi nghĩ ông biết. Và nó đã xảy ra cách đây nhiều năm. Không, chỉ một mùa Hè năm ngoái - không, mùa Hè năm trước nữa, khi... thời gian làm tôi rối trí. Tôi phải nhớ hỏi lại Jem mới được.
                        Quá nhiều điều đã xảy ra với chúng tôi, Boo Radley là nỗi sợ hãi nhỏ nhất của chúng tôi. Bố Atticus nói ông không thấy làm sao có bất kỳ chuyện nào khác có thể xảy ra, rằng mọi việc có một cách để lắng xuống và sau một thời gian người ta sẽ quên rằng sự tồn tại của Tom Robinson đã từng khiến họ chứng kiến.
                        Có lẽ bố Atticus đúng, nhưng những sự kiện xảy ra vào mùa Hè đó lơ lửng trên đầu chúng tôi giống như khói trong một phòng kín. Người lớn ở Maycomb không bao giờ bàn cãi vụ này với Jem và tôi: có vẻ như họ thảo luận việc này với con cái họ, và quan điểm của họ hẳn cho rằng cả hai chúng tôi không thể tránh được việc có bố là Atticus, vì vậy con cái của họ phải tử tế với chúng tôi bất chấp ông. Bọn trẻ chắc không bao giờ tự nghĩ ra được điều đó: nếu bạn học của chúng tôi được tùy ý muốn làm gì thì làm, thì Jem với tôi mỗi đứa chắc sẽ có những trận đấm lộn đã đời, nhanh gọn và kết thúc vấn đề vĩnh viễn. Như thế, chúng tôi buộc phải ngẩng cao đầu giữ tư thế của một quý ông và một quý cô. Ở một mức độ nào đó, nó giống như thời kỳ của bà Henry Lafayette Dubose, chỉ khác là không có tiếng gào thét của bà. Dù sao có một điều kỳ quặc mà tôi không bao giờ hiểu: bất chấp những thiếu xót của bố Atticus trong vai trò làm cha, người ta vẫn bầu lại ông vào ban lập pháp của bang năm đó, như thường lệ, mà không có sự phản đối nào. Tôi đi đến kết luận rằng con người thật kỳ lạ, tôi tránh xa họ và không bao giờ nghĩ về họ cho đến khi tôi buộc phải nghĩ.
                        Một ngày nọ trong trường tôi buộc phải nghĩ như vậy. Mỗi tuần một lần, chúng tôi có một tiết học. Các sự kiện hiện tại. Mỗi học sinh có nhiệm vụ cắt một mẩu tin từ báo, nắm vững nội dung của nó và trình bày cho cả lớp nghe. Việc thực tập này được cho là nhằm khắc phục nhiều nhược điểm: việc đứng trước đám bạn kích thích tư thế đường hoàng và tạo cho trẻ sự tự tin; việc trình bày một bài nói ngắn làm trẻ có ý thức về ngôn từ; việc tìm hiểu sự kiện hiện nay củng cố ký ức của trẻ; việc bị chọn riêng ra khiến trẻ nóng lòng muốn quay trở lại với tổ nhóm của mình hơn.
                        Ý tưởng này thật uyên bác, nhưng như thường lệ, ở Maycomb nó không đạt hiệu quả nhiều. Thứ nhất, ít có trẻ nông thôn tiếp cận được với báo chí, vì vậy gánh nặng của tiết học Các sự kiện hiện tại đổ hết cho bọn trẻ ở thị trấn, khiến những đứa trẻ đi xe buýt càng tin chắc rằng bọn trẻ ở thị trấn dù gì cũng dành được hết mọi sự chú ý quan tâm. Những đứa trẻ nông thôn nào có thể tham gia lại thường mang những mẩu được cắt ra từ cái mà chúng gọi là The Grit Paper, một thứ không đích thực là báo chí dưới mắt cô Gates, cô giáo của bọn tôi. Tại sao cô nhíu mày khi một đứa trẻ trích đọc từ The Grit Paper thì tôi không biết, nhưng ở một mức độ nào đó thì nó gắn liền với việc thích táy máy chân tay, ăn bánh quy ngọt thay thế bữa trưa, là một tín đồ nhảy múa [1], bài bát Sweetly Sings the Donkey và phát âm nó thành dunkey, tiểu bang đã trả lương cho các giáo viên để ngăn chặn những chuyện đó.
                        Dù vậy, ít đứa trẻ nào biết một sự kiện hiện tại là gì. Little Chuck Little, có trăm năm hiểu biết về bò và các thói quen của chúng, đang đọc nửa chừng một chuyện về Chú Natchell [2] thì cô Gates bảo nó dừng lại, “Charles, đó không phải là sự kiện hiện tại. Đó là mẩu quảng cáo mà”.
                        Tuy nhiên Cecil Jacobs lại biết một sự kiện là gì. Khi đến lượt nó, nó đi đến trước lớp và bắt đầu, “Lão Hitler...”
                        “Adolf Hitler, Cecil” cô Gates nói. “Đừng bao giờ bắt đầu với từ Lão trước tên bất kỳ ai”.
                        “Vâng, thưa cô” nó nói. “Lão Adolf Hitler đã truy tố người...”
                        “Ngược đãi Cecil...”
                        “Không, cô Gates, ở đây nói nè - lão Adolf Hitler đã lùng bắt mọi người Do Thái và bỏ tù họ và ông ta tịch thu tất cả tài sản của họ và ông ta sẽ không để cho bất kỳ ai trong số họ rời khỏi đất nước và ông ta tắm rửa tất cả bọn đần độn và...”
                        “Tắm rửa bọn đần độn hả?”
                        “Phải thưa cô, em cho là họ không có đủ ý thức để tự tắm rửa, em cho là một tên ngốc không thể biết giữ cho mình sạch sẽ được. Dù sao thì Hitler cũng đã bắt đầu một chương trình tập trung tất cả những người lai Do Thái và ông ta muốn ghi họ vào sổ trong trường hợp họ có thể muốn gây bất cứ rắc rối nào cho ông ta và em nghĩ đây là một việc làm xấu và đó là sự kiện hiện tại của em”.
                        “Rất tốt, Cecil” cô Gates nói. Thở phì phò, Cecil trở về chỗ ngồi.
                        Một bàn tay giơ lên ở cuối phòng. “Sao ông ta có thể làm điều đó?”
                        “Ai làm cái gì?” Cô Gates hỏi một cách kiên nhẫn.
                        “Ý em là làm sao Hitler có thể nhốt nhiều người vào một bãi rào kín như vậy, xem ra chính phủ sẽ ngăn ông ta lại” chủ nhân của cánh tay đó nói.
                        “Hitler là chính phủ” cô Gates nói và chớp lấy cơ hội này để làm việc giáo dục được mạnh mẽ hơn, cô đi lên bảng, viết in từ DÂN CHỦ bằng chữ to. “Dân chủ” cô nói. “Ai có thể định nghĩa được?”
                        “Em, em” một số đứa nói.
                        Tôi giơ tay, nhớ lại khẩu hiệu của một chiến dịch cũ mà bố Atticus đã có lần nói cho tôi nghe.
                        “Theo em nó nghĩa là gì, Jean Louise?”
                        “Quyền bình đẳng cho mọi người, không có đặc quyền cho bất cứ ai” tôi trích dẫn.
                        “Rất tốt, Jean Louis, rất tốt” cô Gates mỉm cười. Trước chữ DÂN CHỦ, cô viết in chữ, CHÚNG TA LÀ MỘT NƯỚC. “Bây giờ cả lớp cùng đọc to, ‘Chúng ta là một nước dân chủ’.”
                        Chúng tôi đọc theo. Sau đó cô Gates nói, “Đó là khác biệt giữa nước Mỹ và nước Đức. Chúng ta là một nước dân chủ và Đức là một nước độc tài. Chế độ độc-tài” cô nói. “Ở đây chúng ta không tin vào việc ngược đãi bất cứ ai. Sự ngược đãi bắt nguồn từ dân tộc có thành kiến. Thành kiến” cô phát âm một cách cẩn thận. “Trên thế giới không có dân tộc nào tốt hơn người Do Thái, và tại sao Hitler không nghĩ như thế vẫn còn là bí ẩn đối với cô”.
                        Một đứa tò mò giữa lớp hỏi. “Theo cô tại sao họ không thích người Do Thái vậy, cô Gates?”
                        “Cô không biết, Herry. Họ đóng góp vào mọi xã hội mà họ sống, và họ là một dân tộc rất sùng đạo. Hilter đang cố thủ tiêu tôn giáo, nên có lẽ ông ta không thích họ vì lý do đó”.
                        Cecil lên tiếng. “Em không biết chắc,” nó nói, “họ được coi như làm việc đổi tiền hoặc cái gì đó đại loại như vậy, nhưng đó không phải là lý do để ngược đãi họ. Họ là những người da trắng, đúng không?”
                        Cô Gates nói, “Khi em lên đến trung học, Cecil, em sẽ học được rằng người Do Thái đã bị ngược đãi từ bình minh của lịch sử, thậm chí bị đuổi khỏi đất nước của họ. Đó là một trong những câu chuyện kinh khủng nhất trong lịch sử. Đã đến giờ học số học rồi, các em”.
                        Vì không hề thích môn số học, nên tôi dành tiết này nhìn ra cửa sổ. Lần duy nhất tôi thấy bố Atticus cau có là khi bình luật viên Elmer Davis [3] đưa tin mới nhất về Hitler. Bố Atticus tắt ngay radio và nói,, “Hừm!” Có lần tôi hỏi tại sao bố Atticus bực bội với Hitler thì bố cười, “Bởi vì hắn là một tên điên khùng”.
                        Tôi ngẫm nghĩ, điều này không được rồi, trong khi cả lớp lo làm bài toán số học. Một tên điên khùng và hàng triệu người dân Đức. Tôi thấy đúng ra họ nên nhốt Hitler vào một bãi đất có rào thay vì để cho ông ta nhốt họ. Có một điều gì khác không ổn... tôi sẽ hỏi bố tôi về chuyện này.
                        Tôi đã hỏi, và ông nói có lẽ ông không trả lời được câu hỏi của tôi vì ông không biết câu trả lời.
                        “Nhưng ghét Hitler là đúng phải không?”
                        “Không” ông nói. “Không đúng khi ghét bất cứ ai”.
                        “Bố Atticus,” tôi nói, “có một điều gì đó con không hiểu. Cô Gates nói nó thật khủng khiếp, Hitler làm những gì ông ta làm, cô đỏ mặt tía tai về chuyện đó...”
                        “Bố nghĩ cô ấy sẽ như thế”.
                        “Nhưng...”
                        “Sao?”
                        “Không có gì, bố” tôi bỏ đi, không chắc mình có thể giải thích với bố Atticus những gì trong đầu tôi, không chắc tôi có thể làm sáng tỏ điều mới chỉ là cảm giác. Có lẽ Jem có câu trả lời. Jem hiểu những chuyện trong trường hơn bố Atticus
                        Jem mệt lử sau khi xách nước cả ngày. Có ít nhất mười hai vỏ chuối dưới sàn cạnh giường của anh, vứt quanh một chai sữa cạn. “Ngốn cả đống như thế để làm chi vậy?” Tôi hỏi.
                        “Huấn luyện viên nói nếu tăng thêm chục ký vào năm tới thì anh có thể chơi” anh nói. “Đây là cách nhanh nhất”.
                        “Nếu anh không bị ói ra hết mớ đó, Jem,” tôi nói, “thì em muốn hỏi anh mấy chuyện”.
                        “Hỏi đi”. Anh đặt cuốn sách xuống và duỗi chân ra.
                        “Cô Gates thật dễ thương, đúng không?”
                        “Chắc chắn rồi” Jem nói. “Hồi anh còn học cô, anh thích cô lắm”.
                        “Cô rất ghét Hitler...”
                        “Chuyện đó có gì sai đâu?”
                        “Bữa nay cô nói về chuyện ông ta cư xử tồi tệ mức nào với người Do Thái, thật không đúng khi ngược đãi bất cứ ai, phải không? Em muốn nói là có ý nghĩ xấu về bất cứ ai, đúng không?”
                        “Đương nhiên là không rồi, Scout. Em đang vòng vo chuyện gì vậy?”
                        “Bước ra khỏi tòa án đêm đó cô Gates - cô bước xuống bậc thềm ngay trước tụi mình, chắc anh không thấy cô - cô nói chuyện với cô Stephanie Crawford. Em nghe cô ấy nói đã tới lúc phải có ai đó dạy cho chúng một bài học, chúng đang vượt qua thân phận của chúng rồi đấy, và điều kế tiếp chúng nghĩ chúng có thể làm là cười chúng ta. Jem, làm thế nào anh có thể ghét Hitler dữ dội và suy nghĩ tồi tệ về một người khác ngay tại quê nhà...”
                        Jem chợt giận dữ. Anh phóng khỏi giường, chộp lấy cổ áo tôi và lắc. “Anh không bao giờ muốn nghe về phiên tòa đó nữa, không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ, nghe không? Em nghe anh nói không? Đừng bao giờ nói một câu nào về chuyện đó với anh nữa, nghe không? Giờ thì xéo đi!”
                        Tôi quá ngạc nhiên đến độ không bật khóc được. Tôi lủi khỏi phòng Jem và đóng cửa nhẹ nhàng, e rằng tiếng ồn không đúng lúc lại khiến anh nổi khùng lên nữa. Chợt thấy mệt, tôi muốn có bố Atticus. Ông đang ngồi trong phòng khách, tôi đi đến bên ông và tìm cách leo lên đùi ông.
                        Bố Atticus mỉm cười, “Giờ con lớn qua rồi, bố chỉ bế được một phần của con thôi”. Ông ôm chặt tôi, “Scout,” ông nói dịu dàng, “đừng để Jem làm con mất tinh thần. Mấy ngày nay nó đang trải qua một giai đoạn bức bối. Bố nghe tiếng các con trong đó”.
                        Bố Atticus nói Jem đang hết sức cố gắng để quên đi một số chuyện, nhưng việc anh thực sự làm là tạm gác nó đi, chờ cho đủ thời gian trôi qua. Sau đó anh có thể nghĩ về nó và sắp xếp lại vấn đề. Khi có thể bình tĩnh nghĩ về nó, Jem sẽ lại là chính anh.

                        ------------------------------------

                        [1] Tín đồ nhảy múa(holy-roller): thành viên của một cô giáo nhỏ, thường biểu lộ lòng sùng đạo bằng cách la hét và di chuyển vòng quanh khi hành lễ.
                        [2] Natchell là nhân vật hí họa cho một loại phân bón có tên là Natural Chilean Nitrade of Soda. Nhiều mẩu quảng cáo cho sản phẩm này được làm dưới dạng truyện tranh. Little Chuck Little lầm tưởng những câu truyện này là sự kiện đương thời.
                        [3] Nhà báo và bình luân viên của đài CBS, sau đó phụ trách phòng thông tin chiến sự.

                        Comment


                        • #27
                          Chương 27




                          Mọi chuyện lắng xuống, theo một kiểu nào đó, như bố Atticus đã dự đoán. Vào tháng Mười, chỉ có hai việc nhỏ khác thường xảy ra với hai công nhân Maycomb. Không, ba việc chứ, chúng không trực tiếp liên quan đến chúng tôi - những người nhà Finch - nhưng theo một cách nào đó thì chúng có liên quan.
                          Việc thứ nhất là ông Bob Ewell kiếm được việc rồi lại mất việc chỉ trong vài ngày hầu như chắc chắn điều đó khiến ông ta trở thành người độc đáo trong biên niên sử thế kỷ mười chín: ông là người duy nhất tôi từng nghe bị sa thải khỏi chỗ làm WPA vì lười biếng. Tôi cho rằng sự bùng nổ danh tiếng ngắn ngủi của ông ta dẫn đến sự bùng nổ ngắn ngủi của công ăn việc làm, nhưng việc làm của ông ta chỉ kéo dài bằng tai tiếng của ông ta: ông Ewell nhận ra mình cũng bị lãng quên như Tom Robinson. Sau đó ông ta lại tiếp tục xuất hiện đều đặn hàng tuần tại văn phòng trợ cấp thất nghiệp để lãnh chi phiếu, và nhận nói với vẻ bất lịch sự giữa những tiếng lầm bầm trong miệng rằng bọn chó để vốn nghĩ họ điều hành thị trấn này không chịu để cho một người lương thiện kiếm sống, Ruth Jones, người phụ trách trợ cấp, nói ông Ewell công khai buộc tội bố Atticus làm ông ta mất việc làm. Cô bực bội tới mức đi xuống văn phòng bố Atticus nói cho ông nghe. Bố Atticus bảo cô Ruth đừng quan tâm, rằng nếu Bob Ewell muốn thảo luận chuyện bố Atticus làm mất công việc của ông ta, thì ông ta biết đường đến văn phòng này.
                          Việc thứ hai xảy ra với quan tòa Taylor. Quan tòa Taylor không phải là người đi nhà thờ tối Chủ nhật. Mà là bà Taylor. Quan tòa Taylor thưởng thức buổi tối được ở một mình đêm Chủ nhật trong ngôi nhà to lớn của ông, và vào giờ đi nhà thờ ông chui vào phòng làm việc đọc các tác phẩm của Bob Taylor [1] (không có họ hàng nhưng quan tòa vẫn tự hào nhận là có). Một tối Chủ nhật nọ, chìm đắm trong những phép ẩn dụ lý thú và lối viết hoa mỹ, sự chú ý của quan tòa Taylor bị lôi khỏi trang giấy bởi những tiếng cào xước khó chịu. “Suỵt” ông là Ann Taylor, con chó mập mạp lờ đờ của ông. Rồi ông nhận ra mình đang nói với căn phòng trống trơn; tiếng cào xuất phát từ sau nhà. Quan tòa bước ra hiên sau để cho Ann ra ngoài và thấy cửa lưới mở toang. Ông thấy một bóng người trong góc nhà, ông chỉ thấy được có thế về người khách của ông. Bà Taylor từ nhà thờ về nhà và thấy chồng bà trên ghế, vẫn chìm đắm trong những văn phẩm của Bob Taylor, với khẩu súng săn gác ngang đùi.
                          Chuyện thứ ba xảy ra với Helen Robinson, vợ góa của Tom. Nếu ông Ewell đã bị lãng quên như Tom Robinson, thì Tom Robinson đã bị lãng quên như Boo Radley. Nhưng Tom Robinson không bị ông chủ Link Deas của anh ta quên. Ông Link Deas tìm một công việc cho Helen. Ông không thực sự cần chị, nhưng ông nói ông cảm thấy không vui chút nào trước những việc xảy ra. Tôi không biết ai chăm sóc mấy đứa con của Helen khi chị vắng nhà. Calpurnia nói thật khó khăn cho Helen, vì chị phải đi bộ gần cả cây số theo đường vòng để tránh nhà Ewell, người, theo Helen, “chửi rủa chị” ngay lần đầu tiên chị đi theo đường chính. Sau cùng ông Link Deas nhận ra việc Helen đến làm việc mỗi sáng không từ hướng nhà chị ta và hỏi chị lý do. “Cứ để như vậy đi, ông Link, tôi xin ông” Helen van nài. “Tôi sẽ làm cho ra chuyện” ông Link nói. Ông bảo chị đến cửa hàng của ông buổi chiều đó trước khi chị ra về. Chị làm theo, và ông Link đóng cửa hàng, đội mũ cẩn thận lên đầu, và đi bộ cùng Helen về nhà. Ông đi với chị theo con đường ngắn, ngang nhà Ewell. Trên đường về, ông Link dừng lại ngay cánh cổng xiêu vẹo.
                          “Ewell?” Ông gọi. “Tao gọi Ewell!”
                          Các cửa sổ, thường đầy bọn trẻ, giờ trống trơn.
                          “Tao biết mọi người trong nhà mày ở trong đó, nằm dưới sàn nhà! Giờ thì nghe đây, Bob Ewell: nếu tao còn nghe cô Helen của tao than thở và không được đi con đường này tao sẽ cho mày vô tù trước khi mặt trời lặn!” Ông Link phun nước bọt và đi về nhà.
                          Sáng hôm sau Helen đi đến chỗ làm bằng đường chính. Chẳng có ai chửi rủa chị, nhưng khi chị đi khỏi nhà Ewell vài mét, chị quay lại và thấy ông Ewell đang đi sau lưng chị. Chị quay đi và tiếp bước và ông Ewell giữ khoảng cách y như vậy sau lưng chị cho đến khi chị đến nhà ông Link Deas. Suốt đường đi, Helen nói, chị nghe một giọng nho nhỏ sau lưng, âm ư những lời bẩn thỉu. Quá sợ hãi, chị điện thoại cho ông Link ở cửa hàng, ông Link thấy Ewell đang dựa vào hàng rào. Ông Ewell nói, “Đừng có nhìn tao, Link Deas, cứ như tao là bùn đất vậy. Tao không nhảy xổ vào con...”
                          “Việc đầu tiên mày có thể làm, Ewell, là lê cái xác thố tha của mày ra khỏi điền sản nhà tao. Mày đang dựa vào nó và tao không có tiền sơn mới cho nó đâu. Điều thứ hai mày có thể làm là tránh xa đầu bếp của tao nếu không tao sẽ cho mày ra tòa vì tội hành hung...”
                          “Tao không đụng vào nó, Link Deas, và cũng không định đi chung với một con mọi đen!”
                          “Mày không cần chạm vào cô ta, chỉ cần mày làm cô ta sợ, và nếu tội hành hung không đủ để mày bị giam một thời gian, tao sẽ cho mày đi tù theo Luật Quý bà [2], vì vậy hãy cút xéo khỏi mắt tao! Nếu mày không tin tao nói thiệt thì cứ quấy rầy cô ta nữa xem”.
                          Rõ ràng ông Ewell nghĩ ông ta nói thiệt, vì không nghe Helen báo cáo rắc rối nào nữa.
                          “Tôi không ưa được, Atticus, không ưa được chuyện này chút nào” là đánh giá của bác Alexandra về những sự kiện ấy. “Gã đó có vẻ hận thù thường trực với mọi người liên quan đến vụ án. Tôi biết hạng người đó sẽ thanh toán thù hằn như thế nào, nhưng tôi không hiểu tại sao hắn phải nuôi dưỡng một... hắn đã được điều hắn muốn ở phiên tòa rồi, đúng không?”
                          “Em nghĩ mình hiểu” bố Atticus nói. “Có lẽ bởi tận thâm tâm hắn biết rằng rất ít người ở Maycomb này thực sự tin lời bịa đặt của hắn và Mayella. Hắn nghĩ hắn sẽ trở thành anh hùng, nhưng tất cả những gì hắn nhận được cho nỗi đau của hắn là... là, được rồi, chúng tôi sẽ kết án tay da đen này nhưng hãy trở lại đống rác của anh đi. Hiện giờ hắn đã có thời gian vui thú với hầu hết mọi người rồi, vì thế hắn phải hài lòng. Hắn sẽ bình tĩnh lại khi thời tiết thay đổi”.
                          “Nhưng tại sao hắn lại đột nhập vào nhà John Taylor? Rõ ràng hắn không biết John ở nhà nếu không hắn sẽ không mạo hiểm. Những ngọn đèn duy nhất John bật lên vào những tối Chủ nhật là ở hàng hiên trước và ở phía sau trong phòng làm việc của ông ấy...”
                          “Chị đâu biết có phải chính Bob Ewell cắt cửa lưới đó không, chị đâu biết ai là thủ phạm” bố Atticus nói. “Nhưng em có thể đoán. Em đã chứng tỏ hắn là một kẻ nói dối nhưng John làm hắn trông giống một tên ngốc. Tất cả những lần Ewell đứng trên bục nhân chứng, em không dám nhìn John và giữ bộ mặt nghiêm trang, John đã nhìn hắn cứ như hắn là con gà ba chân hoặc một quả trứng vuông. Đừng với với em là các quan tòa không cố tác động đến bồi thẩm đoàn” bố Atticus cười rúc rích.
                          Cho đến cuối tháng Mười, cuộc sống của chúng tôi đã theo nhịp quen thuộc gồm đến trường, chơi, học ở nhà. Jem có vẻ đã loại được khỏi đầu óc anh bất cứ thứ gì anh muốn quên và bạn học của chúng tôi đã tử tế để cho chúng tôi quên những hành động kỳ dị của bố chúng tôi. Có lần Cecil Jacobs hỏi tôi liệu bố Atticus có phải là người cấp tiến không. Khi tôi hỏi bố Atticus, bố Atticus cười khiến tôi hơi khó chịu, nhưng ông nói ông không cười với tôi. Ông bảo, “Con nói với Cecil là bố cấp tiến cỡ ngang với Cotton Tom Heflin [3]”.
                          Bác Alexandra đang hào hứng, cô Maudie hẳn đã làm tắt tiếng cả hội truyền giáo chỉ bằng một đòn, vì bác tôi lại thống trị cả nhóm. Những bữa tiệc nhẹ nhàng của bác càng ngon lành hơn. Tôi biết được nhiều hơn về cuộc sống xã hội của người Mruna tội nghiệp qua việc lắng nghe bà Merriweather: họ ý thức quá ít về gia đình đến độ cả bộ lạc là một đại gia đình. Một đứa trẻ có số cha bằng số đàn ông trong cộng đồng, có số bà mẹ bằng số phụ nữ ở đó. J. Grimes Everett đang làm hết sức mình để thay đổi tình trạng này và rất cần cho những lời cầu nguyện của chúng ta.
                          Maycomb lại trở về như cũ. Chính xác y như năm ngoái và năm kia, với chỉ có hai thay đổi nhỏ. Trước tiên, người ta đã gỡ khỏi các cửa kính cửa hàng và các xe hơi của họ những tấm dán có chữ NRA - CHÚNG TÔI LÀM PHẦN VIỆC CỦA CHÚNG TÔI. Tôi hỏi bố Atticus tại sao, và bố nói với cơ quan NRA đã chết. Tôi hỏi ông ai giết nó, ông nói: chính ông già [4].
                          Thay đổi thứ hai của Maycomb từ năm ngoái không phải là một thay đổi tầm cỡ quốc gia. Cho đến khi ấy, lễ hội Halloween ở Maycomb là một sự kiện hoàn toàn thiếu tổ chức. Mỗi đứa bé làm những gì nó muốn làm, với sự giúp đỡ của mấy thằng nhóc khác nếu cần di chuyển thứ gì đó, chẳng hạn như đặt một cỗ xe ngựa nhỏ lên nóc chuồng ngựa. Nhưng các bậc phụ huynh nghĩ mọi chuyện năm ngoái đã đi quá xa khi sự thanh bình của cô Tutti và cô Frutti bị phá vỡ.
                          Tutti và Frutti Barber là hai bà cô già không chồng, chị em ruột sống với nhau trong tòa nhà có tầng hầm duy nhất ở Maycomb. Hai bà Barber theo lời đồn là đảng viên Cộng hòa, đã di cư từ Clanton, Alabama, từ năm 1911. Với chúng tôi, cung cách của họ thật lạ lùng và tại sao họ cần một tầng hầm thì không ai biết, nhưng họ muốn có một cái và đã đào nó, và họ dành phần đời còn lại của họ để đuổi các thế hệ trẻ con ra khỏi đó.
                          Cô Frutti và Tutti (tên của họ là Sarah và Frances), ngoài những cung cách miền Bắc của họ, đều bị điếc. Cô Tutti phủ nhận chuyện đó và sống trong một thế giới im lặng, nhưng cô Frutti, không có ý định bỏ lỡ bất cứ điều gì, đã sử dụng một ống nghe quá lớn đến độ Jem tuyên bố nó là một cái loa phóng thanh từ một trong những quảng cáo cho Victrolas [5] đó.
                          Với những sự kiện này trong đầu và lễ Halloween trước mắt, một số đứa trẻ tai quái đã chờ cho đến khi các cô Barber say ngủ, lẻn vào phòng khách của họ (không ai trừ nhà Radley khóa cửa vào ban đêm) lén lút lấy trộm mọi thứ đồ đạc bên trong, và giấu nó dưới tầng hầm. Tôi từ chối tham gia vào một trò như thế.
                          “Tôi nghe tiếng chúng!” Là tiếng la đánh thức hàng xóm của các cô Barber vào sáng sớm hôm sau. “Nghe chúng lái một chiếc xe tải đến cửa. Đi huỳnh huỵch loanh quanh như bầy ngựa. Bây giờ chúng ở tận New Orleans rồi!”
                          Cô Tuttin đoán chắc những người bán lông thú dạo vừa đi ngang thị trấn trước đó hai ngày đã ăn trộm đồ đạc của họ. “Bọn họ xấu” cô nói. “Những tên Syria”.
                          Ông Heck Tate được gọi đến. Ông xem xét hiện trường và nói ông nghĩ đây là việc làm của dân địa phương. Cô Frutti nói cô nhận ra giọng Maycomb ở bất cứ đâu, và tối qua không có giọng Maycomb nào trong phòng khách đó... chúng phát âm rất rõ chữ r khắp nơi trong nhà cô. Cần phải dùng bọn chó săn để xác định vị trí đồ đạc của họ, cô Tutti khẳng định, vì vậy ông Tate buộc phải đi cả chục cây số, mượn những con chó săn của hạt và chúng đi tìm dấu vết.
                          Ông Tate thả chúng ra tại mấy bậc thềm trước nhà cô Barber, nhưng tất cả những gì chúng làm là chạy vòng ra sau nhà và tru trước cửa hầm. Khi ông Tate cho chúng chạy ba lần, cuối cùng ông đoán ra sự thật. Trưa hôm đó khắp Maycomb không ai thấy bóng dáng một đứa trẻ chân trần nào và không đứa nào cởi giầy của mình ra cho đến khi bọn chó săn được trả về.
                          Vì vậy các bà Maycomb nói năm nay mọi việc sẽ khác. Hội trường của các trường trung học được mở cửa; sẽ có một hoạt cảnh lịch sử cho người lớn; trò tán láo, thi kẹo kéo, gắn đuôi cho lừa dành cho trẻ con. Cũng có một phần thưởng hai mươi lăm xu cho trang phục Halloween đẹp nhất, do người mặc nó tạo ra.
                          Cả Jem lẫn tôi đều rên rỉ. Không phải chuyện chúng tôi từng làm bất cứ chuyện gì và là chuyện nguyên tắc của sự vụ. Dù sao Jem cũng tự cho mình là quá tuổi tham dự Halloween. Anh nói sẽ không vướng vào trò gì đại loại như thế ở gần trường học. Được thôi, tôi nghĩ, bố Atticus sẽ dắt tôi đi.
                          Tuy nhiên tôi nhanh chóng biết được rằng tôi sẽ phải có mặt trên sân khấu tối hôm đó. Bà Merriweather đã sáng tác một hoạt cảnh lịch sử độc đáo nhan đề Maycomb country: Ad Astra Per Aspera [6], và tôi sẽ đóng vai một miếng giăm bông. Bà nghĩ sẽ rất hấp dẫn nếu một số đứa trẻ ăn mặc đại diện cho một số nông sản của hạt: Cecil Jacobs sẽ ăn mặc như một con bò; Agnes Boone sẽ là quả đậu trắng, một đứa khác sẽ là hạt lạc, và cứ thế cho đến khi sức tưởng tượng của bà Merriweather và nguồn cung cấp trẻ con cạn kiệt.
                          Nhiệm vụ của chúng tôi, trong chừng mực tôi có thể hiểu ra qua hai buổi diễn tập, là bước vào từ mé trái sân khấu khi bà Merriweather (không chỉ là tác giả mà còn là người dẫn chuyện) nhận dạng chúng tôi. Khi bà gọi to, “thịt heo” đó là ám chỉ tôi. Sau đó nhóm của tôi sẽ hát, “Hạt Maycomb, hạt Maycomb, chúng ta sẽ thủy chung với mi” như tiết mục kết thúc của buổi biểu diễn và bà Merriweather sẽ trèo lên sân khấu phất lá cờ tiểu bang.
                          Trang phục của tôi không phải là một vấn đề lớn. Bà Crenshaw, thợ may địa phương, có trí tưởng tượng cũng mạnh như bà Merriweather. Bà Crenshaw lấy một số lưới thép mỏng và uốn cong nó thành hình dạng một miếng thịt muối. Bà phủ một lớp vải nâu, và sơn nó giống nguyên mẫu. Tôi có thể chui bên dưới và ai đó sẽ kéo vật này phủ xuống đầu tôi. Nó dài tới gần đầu gối tôi. Bà Crenshaw làm cho tôi hai cái lỗ mắt. Bà làm nó thật khéo. Jem nói tôi giống ý chang miếng thịt muối có hai chân. Dù sao cũng hơi khó chịu: nó nóng, nó chật khít; nếu mũi bị ngứa, tôi sẽ không gãi được, và một khi đã chui vào, tôi không thể tự chui ra.
                          Khi Halloween đến, tôi cho rằng cả nhà sẽ có mặt để xem tôi trình diễn, nhưng tôi thất vọng. Bố Atticus khéo léo nói rằng ông không nghĩ mình có thể chịu nổi một màn hoạt cảnh tối nay, ông đi họp suốt. Ông đã ở Montgomery suốt một tuần và chiều đó về nhà muộn. Ông nghĩ Jem có thể hộ tống tôi nếu tôi yêu cầu anh ý.
                          Bác Alexandra nói bác phải đi ngủ sớm, bác đã trang trí sân khấu suốt buổi chiều và mệt muốn chết... Bác ngưng bặt ngay giữa câu nói. Bác ngậm miệng, rồi mở ra để nói một điều gì đó, nhưng không lời nào thoát ra.
                          “Có chuyện gì vậy, bác?” Tôi hỏi.
                          “Ồ, không có gì, không có gì,” bác nói, “ai đó vưa bước qua huyệt mộ của bác [7]”. Bác gạt bỏ bất cứ điều gì gây cho bác lo sợ, và gợi ý rằng tôi nên cho gia đình xem trước màn diễn của tôi trong phòng khách. Vì vậy Jem nhét tôi vào lớp trang phục của tôi, đứng tại cửa phòng khách, gọi to, “Thịt he-eo” đúng y như bà Merriweather sẽ làm, và tôi bước ra. Bố Atticus và bác Alexandra hài lòng.
                          Tôi lặp lại vai của tôi cho Calpurnia xem trong bếp và bà nói tôi thật tuyệt vời. Tôi muốn đi qua bên kia đường để trình diễn cho cô Maudie xem, nhưng Jem nói chắc cô đang ở chỗ chuẩn bị hoạt cảnh.
                          Rốt cuộc, họ đi hay không cũng chẳng quan trọng, Jem nói anh sẽ đưa tôi đi. Chuyến hành trình dài nhất của chúng tôi với nhau đã khởi đầu như vậy.

                          --------------------------

                          [1] Tức Robert love Taylor (bob là tên gọi thân mật của Robert) chính khách và nhà hùng biện cuối thế kỷ mười chín.
                          [2] Ladies’ Law: bộ Hình luật Alabama, tập III, 1907, có ghi, “Bất cứ ai bước vào, hoặc đến đủ gần nơi cư trú của người khác, và trước sự hiện diện hoặc nghe thấy của gia đình người đó, hoặc bất cứ thành viên nào trong gia đình người đó, hoặc bất kỳ ai, trước sự hiện diện và nghe thấy của bất kỳ nữ giới nào, lại sử dụng ngôn từ tục tĩu, xúc phạm hoặc thô lỗ, nếu bị xác định có tội, sẽ bị phạt vạ tối đa 200 đô la, và có thể bị tù giam, hoặc lao động khổ sai cho hạt, tối đa sáu tháng”.
                          [3] J. Thomas “Cotton Tom” Heflin là một chính khách và nhà hùng biện của đảng Cộng hòa. Ông là tổng trưởng ngoại giao của bang Alabama vào đầu thế kỷ 20, sau đó được bầu vào Quốc hội Mỹ (1905-1920) và Thượng viện (1921-1931). Khối ủng hộ Heflin chủ yếu là nông dân và thành viên khu Klux Klan.
                          [4] NRA-WE DO OUR PART: Khẩu hiệu của NRA, tức National Recovery Administration (Cơ quan phục hồi kinh tế quốc gia). NRA cũng là tên viết tắt của National Recovery Act (Đạo luật phục hồi kinh tế quốc gia) có mục đích tiến hành một loạt chương trình nhằm giúp nước Mỹ, nhất là các doanh nghiệp, phục hồi sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Năm 1935 Tối cao Pháp viện Mỹ phán quyết luật này vi phạm hiến pháp. Atticus nói chính ông già giết chết NRA là ám chỉ chín thành viên của Tối cao Pháp viện.
                          [5] Dog Victrolas; ám chỉ biểu tượng quảng cáo của hãng RCA/ Victor, có hình một con chó “Nipper” đang nhìn vào loa của chiếc máy quay đĩa Victrolas.
                          [6] Tiếng latinh, nghĩa là: vượt qua khó khăn vươn tới các vì sao.
                          [7] Dân miền Nam nước Mỹ thường nói câu này (somebody just walked over my grave) khi họ bị một cơn ớn lạnh rùng mình.

                          Comment


                          • #28
                            Chương 28




                            Thời tiết ấm khác thường đối với ngày cuối cùng của tháng Mười. Thậm chí chúng tôi không cần áo khoác. Gió thổi mạnh hơn, và Jem nói trời sẽ mưa trước khi chúng tôi về đến nhà. Không có trăng.
                            Đèn đường ngay góc hắt những chiếc bóng sắc nét lên nhà Radley. Tôi nghe Jem cười nhẹ. “Cá là không có ai quấy rầy họ tối nay” anh nói. Jem đang cầm bộ đồ giăm bông của tôi, hơi lóng ngóng vì nó khó ôm theo. Tôi nghĩ anh làm thế thì quả là lịch sự với nữ giới.
                            “Dù sao thì đó cũng là một nơi đáng sợ, đúng không?” Tôi nói. “Boo không có ý làm hại bất kỳ ai, nhưng em rất vui khi có anh đi chung”.
                            “Em biết bố Atticus không để em đến trường một mình mà” Jem nói.
                            “Không hiểu sao bố nghĩ vậy, chỉ quẹo một ngã tư rồi băng qua một cái sân”.
                            “Cái sân đó dài quá mức mấy cô bé băng qua vào ban đêm” Jem chọc tôi. “Em không sợ ma hả?”
                            Tụi tôi cười lớn. Ma, hồn nóng, những câu thần chú, những dấu hiệu mật, đã biến mất với năm tháng như sương mù dưới mặt trời. “Câu hồi xưa đó là gì nhỉ?” Jem nói, “Thiên thần sáng láng, sống chết lộn nhau, rời khỏi đường này, đừng hút hơi tao”.
                            “Thôi đi” tôi nói. Chúng tôi đang ở trước nhà Radley.
                            Jem nói, “Chắc Boo không có ở nhà. Nghe kìa”.
                            Trên đầu chúng tôi trong bóng tối có một con chim nhại lẻ loi đang trút ra toàn bộ tuyệt kỹ nhái giọng của nó trong niềm vui sướng chẳng cần biết chủ của cái cây nó đang đậu là ai, nó đã chuyển từ tiếng kii kii chói tai của chim hướng dương đến tiếng qua-ack giận dữ của con giẻ cái, đến lời than vãn buồn bã của chim đớp mồi.
                            Chúng tôi quẹo góc phố và tôi vấp phải một rễ cây nhô lên trên đường, Jem cố giúp tôi, nhưng tất cả những gì anh làm là đánh rơi trang phục của tôi xuống đất. Dù sao thì tôi cũng không bị ngã và chúng tôi đi tiếp.
                            Chúng tôi rời khỏi đường chính và bước vào sân trường. Nó tối thui.
                            “Làm sao anh biết mình đang ở đâu, Jem?” Tôi hỏi, khi chúng tôi đã đi vài bước.
                            “Anh dám chắc mình đang ở dưới tán cây sồi to vì mình vừa đi qua một nơi mát lạnh. Bây giờ cẩn thận đó, coi chừng ngã nữa đấy”.
                            Chúng tôi thận trọng đi chậm lại, và dò đường phía trước để không đụng vào gốc cây. Đó là cây sồi cổ thụ đơn lẻ; hai đứa bé không thể ôm hết vòng thân cây. Nó cách xa các giáo viên, các do thám của họ, và những láng giềng tò mò: nó gần khu đất nhà Radley, nhưng người nhà Radley không tò mò. Một khoảng đất nhỏ dưới tán cây là nơi diễn ra nhiều trận đánh lộn và những trò chơi nhảm nhí thẩm lén.
                            Những ngọn đèn ở hội trường của trường trung học sáng rực từ xa, nhưng chúng chỉ tổ làm chúng tôi chói mắt. “Đừng nhìn đằng trước, Scout” Jem nói. “Nhìn xuống đất không là ngã đó”.
                            “Đúng ra anh nên mang theo đèn pin, Jem”.
                            “Ai mà biết trước tối như vậy. Hồi nãy trời đâu có tối dữ vậy. Tại mày đó. Dù sao thì chút nữa sẽ hết”.
                            Ai đó nhảy xô vào chúng tôi.
                            “Chúa ơi!” Jem hét lên.
                            Một vòng ánh sáng bùng chiếu vào mặt chúng tôi, và Cecil Jacobs nhảy cẫng khoái chí sau luồng sáng. “Ha-a-a ngay chóc!” Nó hét lên. “Tao đã đoán tụi bay đi theo đường này mà!”
                            “Mày làm gì ở ngoài này vậy, nhóc? Mày không sợ Boo Radley hả?”
                            Cecil đã ngồi trên xe an toàn với ba mẹ nó tới hội trường, không thấy tụi tôi, nó mò mẫm tới tận đây vì nó biết rõ tụi tôi đi theo lối này. Nhưng nó cứ nghĩ bố Finch sẽ đi với tụi tôi.
                            “Có xa lắm đâu, chỉ quẹo cua này thôi mà” Jem nói. “Ai mà sợ đi qua vòng cua này?” Dù sao chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng Cecil giỏi. Nó đã làm chúng tôi một phen hoảng hồn, và nó có thể kháo chuyện này khắp trường, đó là đặc quyền của nó.
                            “Ê,” tôi nói, “tối nay mày không làm bò hả? Trang phục của mày đâu?”
                            “Để đằng sau sân khấu cơ” nó nói. “Bà Merriweather nói chưa tới hoạt cảnh này đâu. Mày cứ để bộ đồ này phía sau sân khấu kế bộ đồ của tao, Scout, rồi tụi mình với mấy đứa kia”.
                            Đó là một ý tưởng tuyệt hay, Jem nghĩ. Anh cũng nghĩ thật hay khi tôi đi chơi với Cecil. Như vậy, anh sẽ được rảnh rang đi chơi cùng bạn bè cùng trang lứa của anh.
                            Khi bọn tôi tới hội trường, cả thị trấn đã có mặt ở đó trừ bố Atticus và các bà mệt lử vì trang trí, và những kẻ vô gia cư và những người thường ru rú ở trong nhà. Có vẻ như cả hạt đều ở đó: hành lang đầy dân trong hạt ăn mặc chải chuốt. Trường trung học có một tiền sảnh tầng trệt rộng lớn. Người ta chen chúc quanh các quầy được lắp đặt dọc hai bên.
                            “Ôi, Jem. Em quên mang tiền rồi” tôi thở dài khi tôi thấy khu này.
                            “Bố Atticus không quên” Jem nói. “Ba mươi xu nè, em có thể chơi ở sáu quầy. Gặp lại sau nghen”.
                            “Rồi” tôi nói, hoàn toàn hài lòng với ba mươi xu và Cecil. Tôi đi với Cecil tới phía hội trường, qua một cánh cửa bên hông và vào hậu trường. Tôi để bộ trang phục giăm bông tại đó và vọt lẹ, vì bà Merriweather đang đứng ngay bục phát biểu ngay hàng ghế đầu để sửa kịch bản lần cuối.
                            “Mày có bao nhiêu?” tôi hỏi Cecil. Cecil cũng có ba mươi xu, vậy là chúng tôi bằng nhau. Chúng tôi tiêu những đồng năm xu đầu tiên của mình ở Ngôi nhà kinh hoàng, vốn chẳng làm tụi tôi sợ chút nào, tụi tôi bước vào phòng lớp bảy đen thui và được dẫn đi loanh quanh bởi một con ma cà rồng tạm thời trong đó và được hướng dẫn rờ vào những món được cho là bộ phận cấu thành con người. “Đây là đôi mắt” chúng tôi được nói cho biết khi chạm vào hai quả nho bóc vỏ để trên một cái đĩa. “Đây là trái tim” vốn tạo cảm giác giống lá gan khi còn sống. “Những thứ này là bao tử và ruột” và tay chúng tôi được nhét vào một đĩa mì sợi lạnh ngắt.
                            Cecil và tôi ghé qua vài quầy nữa. Bọn tôi mỗi đứa mua một gói kẹo tự làm của bà quan tòa Taylor. Tôi muốn chơi trò dùng răng cắn những quả táo trôi bập bềnh trong chậu, nhưng Cecil nói làm thế mất vệ sinh lắm. Mẹ nó nói nó có thể lấy một thứ gì đó từ đầu của người khác chui vào trong cùng một cái chậu. “Bây giờ trong thị trấn này không có thứ gì để bị lây đâu” tôi phản đối. Nhưng Cecil nói mẹ nó bảo không hợp vệ sinh khi ăn sau người khác. Sau đó tôi hỏi bác Alexandra về chuyện này, và bác nói những người còn những quan điểm như thế thường là những kẻ bon chen trong xã hội.
                            Chúng tôi định mua một miếng kẹo bơ thì những tay đưa tin của bà Merriweather xuất hiện bảo chúng tôi đến hậu trường, đến lúc phải chuẩn bị rồi. Hội trường đang dần đầy nhóc người. Ban nhạc Trường trung học Maycomb đã tập hợp bên dưới ngay trước sân khấu; đèn rọi sân khấu đã bật lên và tấm màn nhung đỏ nhấp nhô do có người đi lại nhộn nhạo đằng sau đó.
                            Ở hậu trường, Cecil và tôi thấy lối đi hẹp đầy nhóc người; người lớn đội những cái mũ ba góc tự chế, mũ lưỡi trai của quân miền Nam, mũ thời Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha, và mũ sắt thời Thế chiến. Trẻ em ăn mặc như những công nhân nông nghiệp khác nhau tụ tập quanh một ô cửa nhỏ.
                            “Ai giẫm nát trang phục của tao rồi” tôi rên rỉ trong đau khổ. Bà Merriweather phóng về phía tôi, sửa lại tấm lưới áo và đẩy tôi chui vào trong.
                            “Mày trong đó êm không, Scout?” Cecil hỏi. “Nghe tiếng mày xa lắc, cứ như ở tuốt bên kia đồi vậy”.
                            “Tiếng mày nghe đâu có gần hơn chút nào đâu” tôi nói.
                            Ban nhạc đang chơi quốc ca, và chúng tôi nghe khán giả đứng lên. Rồi tiếng trống vang lên. Bà Merriweather, đứng đằng sau bục cạnh ban nhạc, xướng lên, “Maycomb Country. Ad Astra Aspera”. Tiếng trống trầm vang lên lần nữa. “Điều đó có nghĩa là” bà Merriweather nói, dịch cho đám cư dân nông thôn hiểu, “từ bùn lầy lên những ngôi sao”. Bà thêm, theo tôi là không cần thiết, “Một màn hoạt cảnh”.
                            “Làm cứ như họ không hiểu nổi nó là cái gì nếu như bà ta không nói cho họ biết vậy” Cecil thì thào, lập tức bị nhắc giữ im lặng.
                            “Cả thị trấn này đều biết rồi” tôi nói nhỏ.
                            “Những dân nông thôn cũng tới” Cecil nói.
                            “Im hết coi” một giọng ra lệnh, và chúng tôi im lặng.
                            Trống trầm đánh lên theo mỗi câu bà Merriweather thốt ra. Bà nói lê thê về hạt Maycomb còn lâu đời hơn tiểu bang, rằng nó là một phần lãnh thổ của Mississippi và Alabama, rằng người da trắng đầu tiên đặt chân lên khu rừng nguyên sinh là cụ tổ năm đời của Quan tòa di chúc, người không bao giờ được nghe nhắc lại. Sau đó là đại tá Maycomb dũng cảm, người được lấy tên để đặt cho hạt này.
                            Andrew Jackson đã bổ nhiệm ông vào vị trí cầm quyền và sự tự tin không đúng chỗ và có ý thức định hướng kém cỏi của đại tá Maycomb đã mang đến tai họa cho tất cả những người chiến đấu cùng ông trong những cuộc chiến tranh với người Da đỏ Creck. Đại tá đã nỗ lực kiên trì biến khu vực này trở thành vùng an toàn cho một nền dân chủ, nhưng chiến dịch đầu tiên của ông cũng là chiến dịch cuối cùng. Những mệnh lệnh của ông được truyền tới qua một phái viên Da đỏ thân thiện và tiến về phía Nam. Sau khi nghiên cứu địa y của một thân cây để xác định hướng nào là hướng Nam, và bỏ ngoài tai lời khuyên của những thuộc cấp vốn đã mạo muội sửa sai ông, đại tá Maycomb thực hiện một chuyến hành trình cương quyết nhằm đánh tan kẻ thù và khiến binh lính của ông đi lạc về hướng Tây bắc trong rừng nguyên sinh đến độ cuối cùng được những người khẩn hoang giải cứu khi họ đi sâu vào nội địa.
                            Bà Merriweather kể lể khoảng ba mươi phút về những chiến công của đại tá Maycomb. Tôi phát hiện ra rằng nếu quỳ xuống tôi có thể nhét đầu gối vào trong trang phục của mình và sau cùng ngồi xuống được. Tôi ngồi xuống lắng nghe bài nói chuyện của bà Merriweather và tiếng trống trầm vỗ rồi ngủ hồi nào không hay.
                            Sau này họ nói rằng bà Merriweather đã dành hết tâm trí của bà vào màn cuối cùng tráng lệ này, rằng bà đã ngân nga, “Gi-ăm bô-ng” với một niềm tin hình thành khi thấy những cây thông và những hạt đậu đều ra sân khấu đúng thời điểm. Bà chờ vài giây rồi gọi, “Gi-ăm bô-ng?” Khi không có gì xuất hiện, bà gào lên, “Giăm bông!”
                            Hẳn tôi đã nghe tiếng bà trong giấc ngủ, hoặc ban nhạc chơi bài Dixie đánh thức tôi, nhưng khi bà Merriweather trèo lên trên sân khấu với lá cờ tiểu bang tôi mới quyết định bước ra. Quyết định này quả không đúng lúc khi nghĩ tốt hơn tôi nến bắt kịp những đứa khác.
                            Sau này họ nói với tôi rằng quan tòa Taylor đi ra phía sau hội trường và đứng đó vỗ đầu gối của ông mạnh đến độ bà Taylor phải mang cho ông một ly nước và một viên thuốc.
                            Có vẻ như bà Merriweather đã thành công, mọi người khen ngợi như thế, nhưng bà đã chộp lấy tôi ở hậu trường và nói tôi đã làm hỏng cả màn hoạt cảnh của bà. Bà làm tôi cảm thấy khó chịu, nhưng khi Jem đến để dẫn tôi về, anh rất thông cảm. Anh nói từ chỗ ngồi anh không thấy rõ trang phục của tôi. Làm thế nào anh biết tôi cảm thấy khó chịu dưới lớp trang phục thì tôi không biết, nhưng anh nói tôi diễn cũng tốt, tôi chỉ lên trễ có chút xíu, có vậy thôi. Jem đang trở nên tốt gần bằng bố Atticus trong việc làm bạn cảm thấy dễ chịu khi mọi việc bị trục trặc. Hầu như - Jem không chỉ có thể dẫn tôi đi qua đám đông đó, mà anh còn bằng lòng chờ ở hậu trường với tôi cho đến khi khán giả về hết.
                            “Em muốn cởi nó ra không, Scout?” Anh hỏi.
                            “Không, em muốn mặc nguyên vậy” tôi nói. Tôi có thể giấu nỗi xấu hổ của mình dưới lớp hóa trang đó.
                            “Mấy đứa có muốn quá giang về nhà không?” Ai đó hỏi.
                            “Không thưa ông, cám ơn” tôi nghe Jem nói. “Tụi cháu chỉ phải đi bộ một chút thôi”.
                            “Coi chừng mà đó” giọng đó nói. “Tốt hơn nên bảo mấy con ma coi chừng Scout”.
                            “Người ta về gần hết rồi” Jem nói với tôi. “Tụi mình đi thôi”.
                            Chúng tôi đi qua hội trường ra tiền sảnh, rồi xuống các bậc thềm. Trời vẫn tối thui. Những chiếc xe hơi còn lại đậu bên kia tòa nhà, và đèn pha của chúng chẳng có tác dụng gì. “Nếu có chiếc nào đi theo hướng tụi mình thì tụi mình có thể thấy đường rõ hơn” Jem nói. “Scout này, để anh giữ bộ trang phục cho. Em có thể mất thăng bằng đó”.
                            “Em thấy đường mà”.
                            “Đúng, nhưng em có thể mất thăng bằng”. Tôi cảm thấy một lực đè nhè trên đầu, và cho rằng Jem đã túm lấy đầu của khúc giăm bông. “Anh nắm em hả?”
                            “Ừ!”
                            Chúng tôi bắt đầu băng qua sân trường tối thui, căng mắt nhìn xuống bàn chân. “Jem này,” tôi nói, “em quên đôi giày, còn bộ ở đằng sau sân khấu”.
                            “Trở lại lấy đi” nhưng khi chúng tôi vòng qua hội trường thì đèn đã tắt. “Để mai lấy cũng được” anh nói.
                            “Nhưng mai là Chủ nhật” tôi phản đối, khi Jem xoay tôi về nhà.
                            “Em có thể nhờ chú bảo vệ cho vào mà... Scout!”
                            “Hả?”
                            “Không có gì”.
                            Anh nín lặng hồi lâu. Tôi tự hỏi anh đang nghĩ gì. Anh sẽ nói cho tôi hay khi nào anh muốn, chắc là khi tụi tôi về tới nhà. Tôi cảm thấy những ngón tay của anh ấn trên đầu trang phục của tôi, có vẻ quá mạnh. Tôi lắc đầu “Jem, anh đâu cần phải...”
                            “Im một chút coi, Scout” anh nói, nhéo tôi.
                            Chúng tôi im lặng đi. “Hết một chút rồi” tôi nói. “Anh nghĩ gì vậy?” Tôi quay sang nhìn anh, nhưng bóng dáng anh khó mà thấy rõ.
                            “Hình như anh nghe có cái gì đó” anh nói. “Dừng lại chút đi”.
                            Chúng tôi dừng lại.
                            “Có nghe gì không?” Anh nói.
                            “Không”.
                            Chúng tôi đi chưa tới năm bước thì anh bảo dừng lại lần nữa.
                            “Jem, bộ anh tính nhát em đó hả? Anh biết là em đã quá lớn...”
                            “Im nào” anh nói, và tôi biết anh không đùa.
                            Đêm im ắng. Tôi có thể nghe rõ hơi thở của anh ngay cạnh tôi. Thỉnh thoảng có một cơn gió nhẹ bất ngờ làm mát đôi chân trần của tôi, nhưng đó là tất cả những gì còn sót lại của một đêm hứa hẹn đầy gió. Đây là sự yên tĩnh trước một cơn bão. Chúng tôi lắng nghe.
                            “Chỉ có tiếng con chó già” tôi nói.
                            “Không phải nó” Jem đáp. “Anh chỉ nghe tiếng đó khi mình đi, nhưng khi dừng lại anh không nghe thấy nữa”.
                            “Anh nghe tiếng trang phục của em kêu sột soạt chứ gì. Ôi, anh nhiễm Halloween rồi...”
                            Tôi nói vậy để trấn an tôi hơn là Jem, chắc là thế, khi chúng tôi bắt đầu đi tiếp, tôi nghe thấy tiếng động mà anh vừa nói. Nó không phải từ trang phục của tôi.
                            “Chắc chỉ là thẳng quỷ Cecil” Jem nói ngay. “Nó không hù được mình nữa đâu. Đừng để nó nghĩ mình đang vội”.
                            Chúng tôi đi chậm lại gần như bò. Tôi hỏi Jem làm sao Cecil có thể theo chúng tôi trong đêm tối thế này, rình chờ để hù chúng tôi từ sau lưng.
                            “Anh thấy được em mà, Scout” Jem nói.
                            “Sao được? Em đâu thấy anh”.
                            “Mấy được sọc to của em thấy rõ lắm. Bà Crenshaw đã sơn chúng bằng chất gì đó lấp lánh để chúng nổi bật trên ánh đèn sân khấu. Anh có thể thấy em khá rõ và anh nghĩ rằng Cecil có thể thấy em đủ rõ để không đến quá gần”.
                            Tôi sẽ cho Cecil thấy rằng chúng tôi biết nó ở sau lưng và đã sẵn sàng với nó. “Cecil là con gà mái ghẹ mắc mưa!” Bất ngờ tôi quay lại, gào lên.
                            Chúng tôi dừng lại. Không một lời đáp lại nào trừ tiếng con gà mái dội lại từ bức tường trường học đằng xa.
                            “Anh sẽ tóm nó” Jem kêu. “Này!”
                            Này-à-này-à-này-à, bức tường trường học vọng lại. Không có vẻ Cecil cố tình trì hoãn lâu như vậy; một khi nó đã thắng đẹp một trò đùa nó sẽ lặp đi lặp lại vụ đó. Chúng tôi hẳn đã bị nó nhảy xổ vào người rồi. Jem ra dấu cho tôi dừng lại lần nữa.
                            Anh nói thì thào, “Scout, em có thể cởi cái áo đó ra không?”
                            “Em chắc được, nhưng em không mặc đồ nhiều bên trong”.
                            “Anh có mang váy cho em đây”.
                            “Em không mặc được nó ở chỗ tối hù như vậy”.
                            “Được rồi” anh nói. “Đừng lo”.
                            “Jem, anh sợ hả?”
                            “Không. Chắc mình sắp tới chỗ cái cây rồi. Chừng vài thước nữa thôi, rồi mình sẽ ra tới đường. Lúc đó mình sẽ thấy đèn đường”. Jem nói bằng giọng đều đều, không gấp. Tôi tự hỏi anh sẽ giữ huyền thoại Cecil kéo dài bao lâu.
                            “Anh nghĩ mình phải hát lên hả, Jem?”
                            “Không. Im nữa coi, Scout”.
                            Chúng tôi không tăng tốc độ. Jem cũng như tôi biết rõ rằng khó đi nhanh mà không bị vấp đầu ngón chân, trượt trên đá sỏi, và những phiền phức khác, mà tôi lại còn đi chân không nữa chứ. Có lẽ đó là gió đang lùa trong hàng cây. Nhưng đâu có gió và cũng không có cây cối gì trừ cây sồi cổ thụ đó.
                            Người đồng hành với chúng tôi kéo lê chân của hắn như thể đang mang đôi giầy nặng. Dù đó là ai thì hắn cũng mặc một quần vải dày, âm thanh mà tôi nghĩ là cây cối xào xạo chính là tiếng sột soạt của vải cọ vào vải, soạt soạt theo mỗi bước chân.
                            Tôi cảm thấy cát dưới chân tôi trở lạnh và tôi biết chúng tôi gần tới cây sồi già, Jem ấn đầu tôi. Chúng tôi dừng lại và lắng nghe.
                            Lần này tiếng chân lê không dừng lại theo chúng tôi. Quần y kêu sột soạt nhẹ nhàng và đều đặn. Rồi chúng dừng lại. Y đang chạy, chạy về phía chúng tôi không phải bằng những bước chân trẻ con.
                            “Chạy đi, Scout! Chạy! Chạy!” Jem gào lên.
                            Tôi bước một bước dài và thấy mình lảo đảo: hai cánh tay tôi vô dụng, trong bóng tối, tôi không thể giữ thăng bằng.
                            “Jem, Jem, cứu em, Jem!”
                            Có cái gì đó chạm mạnh vào lớp lưới thép mỏng bao quanh tôi. Kim loại chọc toạc kim loại và tôi té xuống đất lăn ra xa đến hết sức mình, vật lộn để thoát khỏi nhà tù lưới của tôi. Từ đâu đó gần bên tôi vang lên những âm thanh đá, âm thanh của những đôi giày và da thịt cọ sát vào đất và rễ cây. Ai đó lăn đụng vào tôi và tôi cảm giác đó là Jem. Anh đứng lên nhanh như chớp và lôi tôi theo anh nhưng, dù đầu và vai tôi đã thoát ra, tôi vẫn quá vướng víu nên chúng tôi không đi xa được.
                            Khi chúng tôi gần đến đường lộ thì tôi có cảm giác tay Jem rời khỏi tôi, cảm thấy anh bị giật ngược ra sau đè xuống đất. Lại có xô xát, và có tiếng lụp cụp trầm đục và tiếng Jem rú lên.
                            Tôi chạy theo hướng tiếng rú của Jem và ập vào cái bụng mềm nhão của một người đàn ông. Chủ nhân của cái bụng đó kêu lên, “Hự!” và cố nắm hai cánh tay của tôi, nhưng chúng đã bị khóa chặt. Bụng y mềm nhưng hai cánh tay cứng như thép. Y từ từ ép chặt làm tôi ngạt thở. Tôi không nhúc nhích được. Bất ngờ y bị kéo ngược ra sau và bị vật xuống đất, gần như lôi cả tôi theo. Tôi nghĩ, đó là Jem.
                            Nhiều khi đầu óc con người hoạt động rất chậm. Choáng váng tôi đứng đó đờ đẫn. Tiếng vật lộn im hẳn, ai đó thở khò khè và đêm yên tĩnh trở lại.
                            Yên tĩnh trừ tiếng một người đàn ông thở nặng nhọc, thở nặng nhọc và lảo đảo. Tôi nghĩ y đi đến cây sồi và dựa vào đó. Y ho dữ dội, một cơn ho khàn đục, co giật cả người.
                            “Jem hả?”
                            Không có tiếng trả lời trừ tiếng thở nặng nhọc của người đó.
                            “Jem?”
                            Jem không trả lời.
                            Người đó bắt đầu di chuyển loanh quanh, như thể đang mò tìm cái gì. Tôi nghe y rên rỉ và kéo cái gì đó nặng lê dưới đất. Từ từ tôi nhận ra rằng hiện có tới bốn người dưới tán cây.
                            “Bố Atticus hả...?”
                            Người đàn ông bước nặng nhọc và lảo đảo về phía đường lộ.
                            Tôi đi đến chỗ tôi nghĩ ông ta đứng và điên cuồng mò mẫm dưới đất, quờ mấy ngón chân tìm. Rồi tôi chạm phải ai đó.
                            “Jem hả?”
                            Mấy ngón chân của tôi chạm phải cái quần, khóa thắt lưng, nút, một thứ gì đó mà tôi không xác định được, một cổ áo và một cái mặt. Những sợi râu lởm chởm trên cái mặt đó cho tôi biết không phải là Jem. Tôi ngửi thấy mùi rượu mạnh chua loét.
                            Tôi đi dọc theo phía mà tôi nghĩ là dẫn ra đường lộ. Tôi không dám chắc, bởi vì tôi bị quay tới quay lui quá nhiều. Nhưng tôi tìm ra nó và nhìn thấy đèn đường. Một người đàn ông đang đi qua dưới ánh đèn. Người đàn ông đang đi bằng những bước lịch bịch của một người đang mang một vật nặng quá sức mình. Ông ta đang quẹo góc đường. Ông ta đang vác Jem. Cánh tay của Jem đung đưa dữ dội trước ngực ông ta.
                            Đến khi tôi tới góc đường thì người đó đã băng qua sân trước nhà tôi. Đèn từ cửa trước nhà tôi soi rõ bố Atticus trong tích tắc; ông chạy xuống những bậc thềm, và cùng người đó mang Jem vào nhà.
                            Tôi đến được cửa trước khi họ đi vào hành lang. Bác Alexandra chạy ra đón tôi. “Gọi bác sĩ Reynolds ngay!” Giọng bố Atticus đanh gọn từ phòng Jem. “Scout đâu?”
                            “Con bé đây” bác Alexandra đáp, lôi tôi theo bác đến điện thoại. Bác lo lắng kéo mạnh tôi. “Cháu không sao, bác,” tôi nói, “tốt nhất bác nên gọi điện thoại”.
                            Bác nhấc ống nghe khỏi giá và nói, “Eula May, gọi bác sĩ Reynolds, nhanh lên!”
                            “Agnes, ba cháu có nhà không? Chúa ơi, ông ấy đâu rồi? Làm ơn báo ông ấy đến đây ngay khi ông ấy về tới. Làm ơn, gấp lắm!”
                            Bác Alexandra không cần xưng bác là ai; mọi người ở Maycomb đều biết giọng của nhau.
                            Bố Atticus bước ra khỏi phòng Jem. Ngay khi bác Alexandra nói xong, bố Atticus đón lấy ống nghe từ tay bác. Ông vỗ vỗ giá điện thoại và nói, “Eula May, làm ơn gọi cảnh sát trưởng giùm tôi”.
                            “Heck hả? Atticus Finch đây. Có người đuổi theo đám con tôi. Jem bị thương. Đoạn từ nhà tôi đến trường. Tôi không bỏ con trai tôi một mình được. Làm ơn chạy ra đó giùm tôi, và xem hắn còn loanh quanh ở đó không. Không chắc anh sẽ tìm ra hắn lúc này, nhưng tôi muốn gặp hắn. Đi ngay đi. Cám ơn Heck!”
                            “Bố Atticus, Jem chết rồi hả?”
                            “Không, Scout. Chị chăm sóc con bé giùm” ông gọi, khi đi ra hành lang.
                            Những ngón tay của bác run lên khi tháo lớp vải và miếng lưới sắt quanh người tôi. “Cháu có sao không, cục cưng?” Bác cứ hỏi mãi câu đó khi tháo lớp vải quanh tôi.
                            Quả là nhẹ nhõm khi được giải thoát. Hai cánh tay tôi bắt đầu tê và chúng đỏ ửng lên với những vết lục giác nhỏ. Tôi chà sát chúng và thấy đỡ hơn.
                            “Bác này, Jem chết rồi hả?”
                            “Không... không, cưng, nó chỉ ngất đi thôi. Mình chưa biết nó bị thương cỡ nào cho đến khi bác sĩ Reynolds tới. Jean Louise, chuyện gì xảy ra vậy?”
                            “Cháu không biết”.
                            Bác tạm ngưng ở đó. Bác mang cho tôi thứ gì đó để mặc vào, và đến lúc đó tôi nghĩ về nó, tôi hẳn sẽ không bao giờ để bác quên: trong cơn bối rối, bác đã mang cho tôi bộ áo liền quần. “Mặc vào đi, cưng” bác nói, và đưa cho tôi bộ đồ mà bác ghét nhất.
                            Bác ào vào phòng Jem, sau đó chạy ra chỗ tôi ngoài hành lang. Bác vỗ nhẹ vào người tôi rồi trở vào phòng Jem.
                            Một chiếc xe hơi dừng ngay cửa nhà tôi. Tôi nhận tiếng bước chân của bác sĩ Reynolds rõ như tiếng bước chân của bố tôi. Ông đã đỡ đẻ cho tôi và Jem, và đưa chúng tôi vượt qua những bệnh tật hồi nhỏ mà con người thường mắc phải gồm cả lần Jem té từ ngôi nhà trên cây xuống và ông không bao giờ mất đi tình bạn của tụi tôi. Bác sĩ Reynolds nói, nếu chúng tôi thuộc loại dễ bị nổi nhọt thì mọi chuyện sẽ khác, nhưng chúng tôi không tin điều đó.
                            Ông bước đến cửa và nói, “Chúa ơi”. Ông bước về phía tôi và nói, “cháu vẫn đứng vững được” và đổi hướng. Ông biết mọi căn phòng trong nhà này. Ông cũng biết ngay tôi có gặp tình trạng tệ hại hay không, và biết cả Jem nữa.
                            Sau mười phút dài đằng đẵng bác sĩ Reynolds trở ra. “Jem chết rồi hả?” Tôi hỏi.
                            “Còn lâu lắm” ông nói, quỳ xuống cạnh tôi. “Cậu ấy bị một cục u trên đầu giống như cục u của cháu vậy, và gãy một cánh tay. Scout, nhìn hướng đó - không, đừng quay đầu, chỉ đảo mắt thôi. Bây giờ nhìn ra đằng kia. Cậu ấy bị gãy tay nặng lắm, giờ bác chỉ có nói là ngay khuỷu tay. Kiểu như ai đó đã cố ý bỏ tay cậu ấy... Giờ thì nhìn bác nè!”
                            “Vậy anh ấy không chết hả?”
                            “Khô-ng!” bác sĩ Reynolds đứng lên. “Tối nay mình không làm gì được nhiều,” ông nói, “trừ việc làm cho cậu bé thoải mái hết sức. Mình sẽ phải chụp X quang cánh tay cậu ấy - chắc chắn cậu ấy phải treo cánh tay xa một bên hông trong ít lâu. Dù gì cũng đừng lo, cậu ta sẽ lành lại thôi. Con trai ở tuổi cậu ấy sẽ lành nhanh lắm”.
                            Trong khi nói, bác sĩ Reynolds nhìn tôi chăm chú, nhẹ nhàng rờ cục u trên trán tôi. “Cháu không thấy có chỗ nào bị sứt mẻ hết hả?”
                            Trò đùa nho nhỏ của bác sĩ Reynolds làm tôi cười. “Vậy cháu không nghĩ là anh cháu chết chưa hén?”
                            Ông đội mũ lên. “Bây giờ có thể bác sai, dĩ nhiên, nhưng bác nghĩ cậu ấy còn rất khỏe. Thể hiện được mọi dấu hiệu của sự sống. Vào thăm anh cháu đi, và khi bác quay lại mình gặp nhau rồi quyết định”.
                            Bước chân của bác sĩ Reynolds trẻ trung và nhanh nhẹn. Bước chân của ông Heck Tate thì không. Đôi ủng nặng nề của ông hành hạ hàng hiên và ông mở cửa một cách vụng về, nhưng ông nói y câu của bác sĩ Reynolds kh bước vào. Rồi ông thêm, “Cháu ổn chứ, Scout!”
                            “Ổn, thưa ông, cháu sẽ vào thăm Jem. Bố Atticus với mọi người đang ở trong đó”.
                            “Ta sẽ đi với cháu”. Ông Tate nói.
                            Bác Alexandra đã che đèn đọc sách của Jem bằng một cái khăn và phòng anh mờ mờ, Jem đang nằm ngửa. Có một vết xấu xí chạy dọc một bên mặt anh. Cánh tay trái của anh dang xa khỏi thân người; khuỷu tay hơi cong lại, nhưng theo một hướng kỳ cục. Jem đang nhíu mày.
                            “Jem...?”
                            Bố Atticus nói. “Anh con không nghe tiếng con đâu, Scout, anh bị ngất. Anh sắp tỉnh lại, nhưng bác sĩ Reynolds làm anh mê trở lại”.
                            “Vâng, thưa bố” tôi rút lui. Phòng của Jem to và vuông. Bác Alexandra đang ngồi trên chiếc ghế đu cạnh lò sưởi. Người đàn ông cõng Jem đứng trong một góc, tựa lưng vào tường. Ông ta là một nông dân nông thôn nào đó tôi không biết, có lẽ ông ta có mặt tại buổi hoạt cảnh, và ở gần đâu đó khi sự việc xảy ra. Hẳn ông ta đã nghe tiếng rú của chúng tôi và chạy đến.
                            Bố Atticus đứng cạnh giường của Jem.
                            Ông Heck Tate đứng ngay khung cửa. Mũ ông trên tay, và chiếc đèn pin cộm lên trong túi quần. Ông đang mặc cảnh phục.
                            “Vào đây, Heck” bố Atticus nói. “Anh có tìm thấy gì không? Tôi không nghĩ ra ai lại hèn mạt đến độ làm một chuyện như vầy, nhưng tôi hy vọng anh tìm ra hắn”.
                            Ông Tate khịt mũi. Ông nhìn sắc lẻm vào người đàn ông trong góc phòng, gật đầu với ông ta, rồi nhìn quanh phòng... vào Jem, vào bác Alexandra và vào bố Atticus.
                            “Ngồi xuống đi, ông Finch” ông nói một cách thoải mái.
                            Bố Atticus nói, “Mình ngồi cả đi. Có cái ghế đó, Heck. Để tôi ra phòng khách lấy một cái nữa”.
                            Ông Heck ngồi xuống chiếc ghế ngay bàn của Jem. Ông chờ cho tới khi bố Atticus trở vào và ngồi xuống. Tôi tự hỏi sao bố Atticus không mang một cái ghế nữa cho người đàn ông trong góc, nhưng bố Atticus hiểu rõ cung cách của dân nông thôn hơn tôi nhiều. Một số thân chủ nông thôn của ông sẽ cột mấy con lừa tai dài của họ bên mấy cây đào ở sân sau, và bố Atticus vẫn thường trao đổi với họ ở ngay bậc thềm sau nhà. Người đàn ông này chắc chắn thoải mái hơn khi đứng ở đó.
                            “Ông Finch,” ông Tate nói, “để cho tôi cho ông biết tôi đã tìm thấy gì. Tôi tìm thấy một cái váy của bé gái - nó ở ngoài xe tôi. Cái váy đó của cháu hả, Scout?”
                            “Phải, thưa ông, nếu đó là váy hồng có xếp nhiều nếp nhún” tôi nó. Ông Tate cư xử như đang ở trên bục nhân chứng. Ông thích kể mọi chuyện theo cách của riêng ông, không bị bên công tố hay luật sư cản trở, và đôi khi việc đó làm ông tốn thời gian.
                            “Tôi tìm thấy mấy miếng vải lấm bùn trông kỳ cục và...”
                            “Đó là đồ hóa trang của cháu, ông Tate”.
                            Ông Tate lần tay xuống đùi. Ông chà xát cánh tay phải và nghiên cứu bệ lò sưởi của Jem, rồi có vẻ ông quan tâm đến lò sưởi. Nhưng ngón tay của ông sờ lên sống mũi dài của ông.
                            “Có gì nữa vậy hả, Hate?” Bố Atticus hỏi.
                            Ông Tate mò xuống cổ và chà xát nó. “Bob Ewell nằm dưới đất dưới tán cây đằng đó với một con dao làm bếp cắm sâu vào sườn. Hắn chết rồi, ông Finch ạ”.

                            Comment


                            • #29
                              Chương 29




                              Bác Alexandra đứng lên và với tay lên chỗ bệ lò sưởi. Ông Tate nhỏm dậy, nhưng bác từ chối sự giúp đỡ. Như một ngoại lệ trong cuộc đời ông, bản năng lịch sự của bố Atticus đã quên không thể hiện: ông ngồi ỳ tại chỗ.
                              Chả hiểu sao tôi chẳng thể nghĩ về điều gì ngoài việc ông Bob Ewell nói ông ta sẽ trả thù bố Atticus cho dù phải bỏ ra cả phần đời còn lại của ông ta. Ông Ewell hầu như đã trả thù được bố tôi, và đó là việc cuối cùng của ông ta.
                              “Anh chắc chứ?” Bố Atticus hỏi một cách ảo não.
                              “Hắn chết ngắc rồi” ông Tate nói. “Hắn chết rồi. Hắn không còn làm tổn thương bọn trẻ con được nữa”.
                              “Tôi không có ý đó”. Bố Atticus có vẻ như đang nói trong giấc ngủ. Tuổi tác của ông đã bắt đầu lộ ra, một dấu hiệu sự bối rối trong lòng ông, đường nét mạnh mẽ của quai hàm ông hơi chảy ra, người ta thấy rõ những nếp nhăn tối cáo tuổi tác hình thành bên dưới tai ông, người ta không nhận ra mái tóc đen huyền của ông mà chỉ thấy những vệt bạc ngày càng nhiều ở hai bên thái dương ông.
                              “Sao mình không ra phòng khách đi?” Cuối cùng bác Alexandra nói.
                              “Nếu bà không phiền,” ông Tate nói, “tôi thích chúng ta ở lại trong này hơn nếu điều đó không làm tổn thương Jem thêm. Tôi muốn xem xét vết thương của nó trong khi Scout... kể cho chúng ta nghe sự vụ này”.
                              “Vậy tôi xin kiếu thì có phiền gì không?” Bác nói. “Tôi là người thừa ở đây. Tôi ở trong phòng nếu cậu cần tôi, Atticus”. Bác Alexandra đi ra cửa, nhưng bác dừng bước và quay lại. “Atticus, tối nay tôi có linh cảm về chuyện này rồi... tôi... đây là lỗi của tôi” bác tiếp. “Đúng ra tôi nên...”
                              Ông Tate giơ tay lên. “Bà cứ về phòng đi, bà Alexandra, tôi biết đây là cú sốc cho bà. Bà đừng tự trách móc mình vì bất cứ chuyện gì nữa... ôi, nếu lúc nào chúng ta cũng đi theo những linh cảm của mình, thì ta sẽ giống những con mèo đuổi theo đuôi của chúng vậy. Scout này, xem cháu có thể kể cho mọi người ở đây nghe những gì xảy ra, trong khi nó còn đậm nét trong đầu cháu không. Cháu kể được không? Cháu thấy hắn ta theo tụi cháu hả?”
                              Tôi đi đến bên bố Atticus và cảm thấy hai cánh tay ông vòng qua người tôi. Tôi vùi đầu vào lòng ông. “Tụi cháu bắt đầu về nhà. Cháu bảo Jem, em bỏ quên đôi giày rồi. Tụi cháu lật đật quay lại tìm thì đèn tắt. Jem nói để mai đến lấy...”
                              “Scout, nói lớn lên cho ông Tate nghe rõ” bố Atticus nói. Tôi bò lên đùi ông.
                              “Rồi Jem nói im một lát. Cháu nghĩ anh ấy đang suy nghĩ - anh ấy luôn luôn muốn làm người ta im lặng để anh ấy suy nghĩ - rồi anh ấy nói anh ấy nghe thấy gì đó. Tụi cháu nghĩ đó là Cecil”.
                              “Cecil?”
                              “Cecil Jacobs. Tối nay nó đã hù tụi cháu được một lần, và tụi cháu nghĩ là nó. Nó trùm một tấm vải. Họ thưởng hai mươi lăm xu cho bộ trang phục đẹp nhất, cháu không biết ai giành được nó...”
                              “Cháu ở đâu khi cháu nghĩ đó là Cecil?”
                              “Mới ra khỏi trường một chút. Cháu hét một câu vào mặt nó...”
                              “Cháu hét cái gì?”
                              “Cecil là con gà mái ghẹ mập ú, cháu nghĩ vậy. Tụi cháu không nghe thấy gì... sau đó Jem la to xin chào hay câu gì đại loại như vậy lớn đến độ đánh thức cả người chết...”
                              “Chờ chút, Scout” ông Tate nói. “Ông Finch, ông có nghe thấy chúng không?”
                              Bố Atticus nói ông không nghe thấy. Ông đang bật radio. Bác Alexandra cũng bật một cái khác trong phòng bác. Ông nhớ bởi vì bác bảo ông vặn nhỏ một chút để bác nghe được radio của bác. Bố Atticus mỉm cười, “Tôi luôn bật radio hơi lớn”.
                              “Không biết những người láng giềng có nghe được gì không...” Ông Tate nói.
                              “Chắc không đâu, ông Heck. Hầu hết họ đều nghe radio hoặc đi ngủ cùng lúc với gà. Maudie Atkinson có thể còn thức, nhưng tôi không chắc”.
                              “Nói tiếp đi, Scout” ông Tate nói.
                              “Rồi sau khi Jem hét to một tiếng tụi cháu lại đi tiếp. Ông Tate, cháu bị trùm trong bộ đồ hóa trang nhưng cháu vẫn nghe thấy. Ý cháu muốn nói tiếng bước chân. Nó đi theo khi tụi cháu đi và dừng lại khi tụi cháu dừng. Jem nói ông ta thấy được cháu vì bà Crenshaw có phết sơn chiếu sáng trên trang phục của cháu. Cháu là một miếng giăm bông”.
                              “Cái đó là sao?” Ông Tate hỏi, giật mình.
                              Bố Atticus mô tả vai diễn của tôi cho ông Tate nghe, cùng cấu tạo của bộ đồ hóa trang. “Anh phải thấy con bé khi nó mới về tới mới hiểu được,” bố tôi nói, “nó bị rách tả tơi”.
                              Ông Tate xoa xoa cằm. “Tôi tự hỏi sao thằng bé có những vết đó trên người. Hai tay áo nó bị lủng lỗ chỗ. Có một vài vết đâm nhỏ trên cánh tay nó trùng với những lỗ thủng. Cho tôi xem bộ trang phục đó đi”.
                              Bố Atticus tìm và đem ra những gì còn lại của bộ trang phục của tôi. Ông Tate lật nó tới lui và uốn lại để nhận ta hình dạng ban đầu của nó. “Vật này chắc chắn đã cứu mạng cô bé” ông nói. “Nhìn nè”.
                              Ông chỉ bằng ngón trỏ dài. Một lằn sáng rõ ràng nổi bật trên khung thép mờ xỉn. “Bob Ewell có ý đồ thật sự” ông Tate lầm bầm.
                              “Ông ta phát điên rồi” bố Atticus nói.
                              “Không thích cãi lại ông, ông Finch - không hề khùng, mà có ý định xấu xa. Tên đốn mạt đê hèn đã nốc rượu đủ để hắn có can đảm giết bọn trẻ. Hắn chưa từng gặp ông mặt đối mặt”.
                              Bố Atticus lắc đầu. “Tôi không thể tưởng tượng một người mà...”
                              “Ông Finch, có hạng người mà ông phải bắn trước khi ông có thể nói câu xin chào với chúng. Thậm chí đến lúc đó chúng cũng không xứng đáng nhận viên đạn để dành bắn chúng nữa. Ewell thuộc vào loại đó”.
                              Bố Atticus nói, “Tôi nghĩ ông ta có ý đồ này ngay từ ngày ông ta đe dọa tôi. Ngay cả nếu ông ta không hăm dọa, tôi vẫn nghĩ ông ta săn đuổi tôi”.
                              “Hắn ta có đủ can đảm để quấy nhiễu một người phụ nữ da màu tội nghiệp, hắn đã có đủ can đảm để quấy nhiễu quan tòa Taylor khi hắn nghĩ trong nhà không còn ai khác, vậy mà ông nghĩ hắn sẽ đối mặt với ông giữa ban ngày hả?” Ông Tate thở dài, “Thôi chúng ta tiếp tục đi. Scout, cháu nghe tiếng hắn ta sau lưng cháu...”
                              “Vâng, thưa ông. Khi tụi cháu tới chỗ tán cây...”
                              “Làm sao cháu biết mình đang đứng dưới tán cây, ở ngoài đó cả sấm chớp cháu còn không thấy được mà”.
                              “Cháu đi chân không và Jem nói đất dưới tán cây luôn luôn mát lạnh hơn”.
                              “Mình phải đưa nó làm phụ tá cảnh sát trưởng mới được, nói tiếp đi”.
                              “Sau đó có một cái gì đó bất ngờ chộp lấy cháu và dập nát trang phục của cháu... cháu nghĩ mình chúi nhủi xuống đất... nghe có tiếng vật lộn dưới tán cây kiểu như... họ va đụng vào thân cây. Jem tìm thấy cháu và lôi cháu về phía đường lộ. Ai đó... ông Ewell vật anh ấy xuống, cháu cho là vậy. Họ ẩu đả dữ dội hơn rồi sau đó có tiếng động lạ lùng... Jem thét lên...” Tôi ngưng bặt, đó là cánh tay của Jem.
                              “Dù sao thì Jem thét lên và cháu không nghe tiếng anh ấy nữa rồi kế đó... ông Ewell cố bóp cổ cháu, cháu nghĩ vậy... rồi ai đó vật ông Ewell xuống. Chắc Jem đã đứng dậy, cháu đoán vậy. Cháu chỉ biết bấy nhiêu thôi...”
                              “Rồi sau đó?” Ông Tate nhìn tôi đăm đăm.
                              “Ai đó lảo đảo, thở hổn hển... và ho dữ dội. Mới đầu cháu nghĩ đó là Jem, nhưng nghe tiếng không giống Jem vì vậy cháu tiếp tục mò dưới đất tìm Jem. Cháu nghĩ bố Atticus đã đến cứu tụi cháu và kiệt sức...”
                              “Đó là ai?”
                              “Ông ta đó, ông Tate, ông ta có thể nói cho ông biết tên mà”.
                              Khi nói điều đó, tôi nửa chỉ người đàn ông trong góc, nhưng vội hạ tay xuống vì sợ bố Atticus quở trách tội chỉ trỏ. Chỉ trỏ là bất lịch sự.
                              Ông ta vẫn tựa vào tường. Ông ta đã dựa tường khi tôi bước vào phòng, hai tay ông ta khoanh trước ngực. Khi tôi chỉ tay, ông thả hai cánh tay xuống và áp lòng bàn tay áp sát tường. Hai bàn tay đó trắng, trắng một cách bệnh hoạn vì chưa từng gặp ánh nắng mặt trời, quá trắng đến độ chúng nổi bật trước bức tường màu kem mờ xỉn trong ánh sáng lờ mờ của căn phòng Jem.
                              Tôi nhìn từ hai bàn tay ông ta đến chiếc quần kaki bạc màu; mắt tôi đưa dần lên thân hình gày gò đến chiếc áo sơ mi vải tả tơi của ông ta. Mặt ông ta trắng như bàn tay ông trừ một đốm đen trên chiếc cằm chìa ra của ông ta. Đồi gò má ông ta gầy đến mức hóp vào; miệng ông rộng, có những vết lõm nông, hầu như khó thấy trên hai thái dương ông ta, đôi mắt xám ông ta không màu đến độ tôi nghĩ ông ta mù. Tóc ông mỏng và thưa, hầu như lơ thơ trên đỉnh đầu.
                              Khi tôi chỉ vào ông, lòng bàn tay ông trượt nhẹ, để lại những vết mồ hôi nhờn trên tường, vì ông móc ngón tay cái vào thắt lưng. Một cơn co thắt nhẹ kỳ lạ lướt qua thân người, như thể ông nghe tiếng móng tay cào vào phiến đá, nhưng khi tôi hoang mang nhìn ông thì vẻ căng thẳng từ từ biến khỏi mặt ông. Đôi môi ông ta nở thành một nụ cười bẽn lẽn, và hình ảnh người hàng xóm của tôi mờ đi trong dòng nước mắt bất ngờ của tôi.
                              “Xin chào, ông Boo” tôi nói.

                              Comment


                              • #30
                                Chương 30




                                “Ông Arthur chứ, cục cưng” bố Atticus nói, nhẹ nhàng sửa lời tôi. “Jean Louise, đây là ông Arthur Radley. Bố tin là ông ấy đã biết con”.
                                Nếu bố Atticus có thể thản nhiên giới thiệu tôi với Boo Radley vào một thời điểm như bây giờ, ồ... đó là bố Atticus.
                                Boo nhìn tôi chạy theo bản năng đến chiếc giường Jem đang nằm, vì chính nụ cười bẽn lẽn nở trên mặt ông. Quá mắc cỡ, tôi cố giấu mặt bằng cách chúi vào Jem.
                                “Ấy ấy, đừng đụng anh con” bố Atticus nói.
                                Ông Heck Tate ngồi nhìn Boo chăm chú qua cặp kính gọng sừng của ông. Ông định mở miệng nói thì bác sĩ Reynolds từ hành lang bước vào.
                                “Mọi người ra thôi” ông nói khi ông bước tới cửa phòng. “Chào buổi tối, Arthur, hồi nãy ở đây tôi không thấy ông”.
                                Giọng của bác sĩ Reynolds vui tươi như bước chân của ông, như thể ông nói câu đó mỗi tối trong cuộc đời của mình, một thông báo gây sửng sốt cho tôi thậm chí còn hơn việc ở cùng phòng với Boo Radley. Dĩ nhiên... tôi nghĩ, cả Boo Radley đôi khi cũng bị bệnh chứ. Nhưng mặt khác tôi không dám chắc.
                                Bác sĩ Reynolds mang một cái túi lớn quấn trong tờ báo. Ông đặt nó xuống bàn của Jem và cởi áo khoác ra. “Giờ hẳn cháu hoàn toàn hài lòng vì anh cháu còn sống rồi hả? Để bác nói cho cháu là làm sao bác biết. Khi bác khám cho cậu ta, cậu ta đã đá bác. Phải làm cho cậu ta mê đi mới đụng vào cậu ta được. Thôi ra ngoài đi” ông nói với tôi.
                                “Ừm...” Bố Atticus nói, liếc nhìn Boo. “Heck này, tụi mình ra hàng hiên trước đi. Ngoài đó có nhiều ghế lắm, mà trời vẫn còn ấm”.
                                Tôi tự hỏi tại sao bố Atticus mời chúng tôi ra hiên trước mà không vào phòng khách, rồi tôi hiểu ra. Đèn phòng khách quá sáng.
                                Chúng tôi lần lượt đi ra, trước tiên là ông Tate - bố Atticus chờ ông ngay cửa để dẫn đường cho ông. Rồi ông đổi ý và đi theo sau ông Tate.
                                Người ta có thói quen làm những công việc hàng ngày ngay cả trong những điều kiện kỳ cục nhất. Tôi cũng không là ngoại lệ, “Đi nào, Arthur,” tôi nghe mình nói, “ông không biết rõ ngôi nhà này. Cháu sẽ dắt ông ra hiên nhà”.
                                Ông nhìn xuống tôi và gật đầu.
                                Tôi dẫn ông đi qua hàng lang và đi ngang phòng khách.
                                “Sao ông không ngồi, ông Arthur? Cái ghế bập bênh này êm và dễ chịu lắm”.
                                Trí tưởng tượng nhỏ bé của tôi về ông ta sống lại lần nữa: ông sẽ ngồi trên hiên nhà... mình có mấy ngày đẹp trời liên tiếp, phải không, ông Arthur?
                                Phải, mấy ngày đẹp trời liên tiếp. Cảm giác có phần hư ảo, tôi dẫn ông đến chiếc ghế cách xa bố Atticus và ông Tate nhất. Nó nằm hoàn toàn trong bóng tối. Boo sẽ cảm thấy thoải mái hơn trong bóng tối.
                                Bố Atticus đang ngồi trên ghế xích đu, ông Tate ngồi trên một chiếc ghế cạnh ông. Đèn từ cửa sổ phòng khách rọi thẳng vào họ. Tôi ngồi cạnh Boo.
                                “Heck này,” bố Atticus đang nói, “tôi đoán việc cần làm... Chúa ơi, tôi đang mất trí nhớ...” Bố Atticus đẩy kính lên và chà xát mắt. “Jem chưa đến mười ba... không, nó mười ba rồi... tôi không nhớ rõ. Nhưng dù sao chuyện cũng ra trước tòa án hạt...”
                                “Cái gì ra, ông Finch?” Ông Tate nhấc cái chân đang bắt chéo và chồm tới.
                                “Dĩ nhiên đó rõ ràng là trường hợp tự vệ, nhưng tôi sẽ phải đến văn phòng và tìm kiếm...”
                                “Ông Finch, ông nghĩ Jem đã giết Bob Ewell hả? Ông nghĩ vậy hả?”
                                “Ông nghe những gì Scout nói rồi đó, không còn nghi ngờ gì về chuyện này. Con bé nói Jem đứng dậy và lôi hắn ta ra khỏi con bé... chắc chắn bằng cách nào đó nó đã vớ được con dao của Bob Ewell trong bóng tối.. ngày mai chúng ta sẽ tìm ra”.
                                “Ô-ng Finch, nghe nè” ông Tate nói. “Jem không hề đâm Bob Ewell”.
                                Bố Atticus im lặng một lát. Ông nhìn ông Tate như thể ông đánh giá cao điều ông ấy nói. Nhưng bố Atticus lắc đầu.
                                “Heck, ông thật tử tế và tôi biết ông làm điều đó vì lòng tốt, nhưng đừng bầy ra bất cứ chuyện gì như vậy”.
                                Ông Tate đứng dậy, và đi đến mép hàng hiên. Ông nhổ nước bọt vào bụi cây, rồi đút hai tay vào túi bên hông và đối diện với bố Atticus. “Như cái gì?” Ông hỏi.
                                “Tôi xin lỗi nếu tôi ăn nói thẳng thừng quá, Heck,” bố Atticus nói một cách đơn giản, “nhưng, không ai bưng bít chuyện này. Tôi không sống kiểu đó”.
                                “Chẳng ai bưng bít gì cả, ông Finch”.
                                Giọng ông Tate thật ôn tồn, nhưng đôi giày của ông đặt quá vững chãi trên hàng hiên đến độ có vẻ như chúng mọc lên từ đó. Một cuộc ganh đua kỳ cục, mà bản chất của nó tôi không hiểu ra, đang phát triển giữa bố tôi và ông cảnh sát trưởng.
                                Đến lượt bố Atticus đứng dậy và đi tới mé hiên. Ông nói, “Hừm” và nhổ nước bọt xuống sân. Ông thọc hai tay vào túi và đối mặt với ông Tate.
                                “Heck, ông không nói nhưng tôi biết ông đang nghĩ gì. Cám ơn vì điều đó. Jean Louise...” Ông quay sang tôi. “Con nói Jem lôi ông Ewell khỏi con hả?”
                                “Vâng, thưa bố, con nghĩ vậy... con...”
                                “Thấy chưa, Heck? Tận đáy lòng tôi cám ơn ông, nhưng tôi không muốn con trai tôi bước vào cuộc đời với một điều gì đó như chuyện này trên đầu nó. Cách hay nhất để làm sạch bầu không khí là đưa mọi chuyện ra công khai. Hãy để cả hạt này đến và mang theo sandwich [1]. Tôi không muốn nó lớn lên với những tiếng xì xào về nó, tôi không muốn bất cứ ai nói, ‘Jem Finch... bố nó đã đút lót rất nhiều tiền để gỡ nó ra khỏi vụ đó’. Chúng ta giải quyết chuyện này càng sớm càng tốt”.
                                “Ông Finch,” ông Tate nói một cách dửng dưng, “Bob Ewell té ngay trên con dao của hắn ta. Hắn ta tự giết mình”.
                                Bố Atticus đi tới góc hàng hiên. Ông nhìn giàn đậu tía. Theo tôi hai người đều ương ngạnh như nhau. Tôi tự hỏi ai sẽ đầu hàng trước đây. Tính ương ngạnh của bố Atticus thì lặng lẽ và hiếm khi thể hiện rõ rệt, nhưng trong một số cách ông cố chấp như những người nhà Cunningham. Tính cố chấp của ông Tate thì không theo bài bản và lộ liễu, nhưng nó cũng ngang bằng với bố tôi.
                                “Heck này” bố Atticus quay lại. “Nếu việc này bi ỉm đi thì đối với Jem đó sẽ là sự phủ nhận thẳng thừng phương cách mà tôi đã cố công nuôi dạy nó. Đôi khi tôi nghĩ trong vai trò cha mẹ thì tôi đã thất bại hoàn toàn, nhưng tôi là tất cả những gì chúng có. Trước khi Jem nhìn vào bất cứ người nào khác, nó sẽ nhìn vào tôi, và tôi cố sống để tôi có thể thẳng thắn nhìn lại nó... Nếu tôi đồng lõa với một chuyện như vầy, tôi không thể thẳng thắn nhìn vào mắt nó, và vào cái ngày tôi không làm được điều đó tôi biết tôi sẽ mất nó. Tôi không muốn mất nó với Scout, bởi vì chúng là tất cả những gì tôi có”.
                                “Ông Finch” ông Tate vẫn chôn chân trên sàn nhà. “Bob Ewell té trên con dao của hắn. Tôi có thể chứng minh điều đó”.
                                Bố Atticus quay sang. Hay tay ông thọc vào túi. “Heck này, ông thậm chí không thể nhìn vụ này theo cách của tôi sao? Ông có con, nhưng tôi già hơn ông. Khi con tôi lớn tôi đã là một ông già nếu tôi còn sống, nhưng ngay bây giờ tôi là... nếu chúng không tin tôi, chúng sẽ không tin bất cứ ai. Jem và Scout biết chuyện gì đã xảy ra. Nếu chúng nghe ở thị trấn tôi nói một điều gì đó khác việc đã xảy ra... Heck, tôi sẽ không còn chúng nữa. Tôi không thể sống ngoài thị trấn theo kiểu này và sống ở nhà theo kiểu khác”.
                                Ông Tate lắc lư trên gót chân ông và nói một cách kiên nhẫn, “Hắn vật Jem xuống, hắn vấp và rễ cây và... nhìn nè, tôi có thể cho ông thấy”.
                                Ông Tate thọc tay vào túi bên hông và rút ra một con dao bấm. Khi ông ta làm thế, bác sĩ Reynolds bước ra cửa. “Đứa con trai... À, người chết dưới tán cây đó, bác sĩ, ngay bên trong sân trường. Có đèn pin không? Tốt hơn nên lấy cái này”.
                                “Tôi có thể lái xe tới rồi bật đèn xe lên” bác sĩ Reynolds nói, nhưng vẫn lấy đèn pin của ông Tate. “Jem ổn rồi. Tôi nghĩ là tối nay cậu ấy không tỉnh dậy đâu, cho nên đừng lo. Đó là con dao đã giết ông ta hả, Heck?”
                                “Không, thưa ông, nó vẫn còn cắm trong người hắn ta. Nhìn chuôi dao thì thấy giống loại dao làm bếp. Hiện giờ chắc Ken đã có mặt ở đấy với xe chở xác, bác sĩ, tạm biệt”.
                                Ông Tate bấm mở con dao, “Nó giống như vậy nè” ông nói. Ông cầm con dao và giả bộ như bị vấp; khi ông chồm tới cánh tay trái của ông chõi xuống trước mặt ông. “Thấy chưa? Tự đâm mình xuyên qua lớp thịt mềm giữa các xương sườn. Toàn bộ sức nặng của hắn đổ lên nó”.
                                Ông Tate đóng con dao lại và nhét nó trở vào túi. “Scout tám tuổi” ông nói. “Con bé quá sợ đến độ không biết chuyện gì xảy ra”.
                                “Ông sẽ phải ngạc nhiên đó” bố Atticus nói một cách nghiêm khắc.
                                “Tôi không nói con bé bịa ra chuyện này, tôi nói con bé quá sợ đến độ không biết chính xác những gì đã xảy ra. Ngoài đó trời rất tối, tối đen như mực. Phải ai đó rất quen với bóng tối mới làm nhân chứng tốt được...”
                                “Tôi sẽ không chấp nhận chuyện đó” bố Atticus nói một cách nhẹ nhàng.
                                Khỉ mốc, tôi không nghĩ đến Jem!
                                Giày của ông Tate giậm lên sàn nhà mạnh đến độ đèn trong phòng ngủ của cô Maudie bật sáng. Đèn của cô Stephanie Crawford cũng bật sáng. Bố Atticus và ông Tate nhìn qua bên kia đường, rồi nhìn nhau. Họ chờ đợi.
                                Khi ông Tate nói tiếp giọng ông chỉ vừa đủ nghe. “Ông Finch, tôi ghét tranh cãi với ông khi ông giống vầy. Tối nay ông đã trải qua một chuyện căng thẳng mà không một người nào trải qua. Tôi không hiểu sao ông không dẹp chuyện này sang một bên, nhưng tôi biết rằng lúc này ông không cộng hai với hai lại được, và chúng ta phải giải quyết chuyện này tối nay bởi vì ngày ai là quá trễ. Bob Ewell lãnh một con dao làm bếp vào bụng hắn ta”.
                                Ông Tate nói thêm rằng bố Atticus không nên đứng đó và cứ cho rằng một đứa con trai cỡ như Jem với một cánh tay gãy lại còn đủ sức chiến đấu để khống chế và giết một người lớn trong đêm tối như hũ nút.
                                “Heck này,” bố Atticus bất chợt nói, “thứ ông đang cầm là một con dao bấm. Ở đâu ông có nó vậy?”
                                “Tước từ một tên say rượu” ông Tate đáp một cách lạnh nhạt.
                                Tôi đang cố nhớ lại. Ông Ewell xấn vào tôi - rồi ông ta ngã xuống... Jem hẳn đã đứng dậy. Ít nhất tôi nghĩ...
                                “Heck này?”
                                “Tôi nói tôi tước nó từ một tên say rượu dưới thị trấn hồi tối. Ewell có lẽ vớ được con dao làm bếp đâu đó trong bãi rác. Mài nó và chờ cơ hội... chỉ chờ có cơ hội”.
                                Bố Atticus bước tới cái ghế xích đu và ngồi xuống. Hai bàn tay ông buông thõng giữa hai đầu gối. Ông đang nhìn xuống sàn nhà. Ông cử động với vẻ chậm chạp y như trong cái đêm đó trước cửa nhà tù, khi tôi nghĩ sao ông gấp tờ báo và ném nó xuống ghế lâu đến thế.
                                Ông Tate đi nhẹ nhàng quanh hiên nhà. “Đó không phải là quyết định của ông, ông Finch, tất cả là của tôi. Nó là quyết định của tôi và trách nhiệm của tôi. Lần cuối, nếu ông không nhìn nó theo cách nhìn của tôi, ông chẳng thể làm gì được đâu. Nếu ông muốn thử, tôi sẽ gọi thẳng vào mặt ông rằng ông là kẻ nói dối. Con trai ông không hề đâm Bob Ewell,” ông nói chậm rãi, “tuyệt đối không hề làm được chuyện gì đại loại như thế và giờ ông biết mà. Nó chỉ muốn một chuyện là đưa nó và em gái về nhà an toàn”.
                                Ông Tate thôi đếm bước. Ông ngừng ngay trước mặt bố Atticus và quay lưng về phía chúng tôi. “Tôi không phải là người rất tốt, thưa ngài, nhưng tôi là cảnh sát trưởng hạt Maycomb. Đã sống ở thị trấn này cả đời và tôi gần bốn mươi ba tuổi. Biết mọi việc ở đây từ trước khi tôi ra đời. Có một chàng trai da đen chết chẳng vì lý do gì cả, và người đàn ông này chịu trách nhiệm cho cái chết đó. Lần này hãy để người chết chôn người chết. ông Finch. Hãy đển người chết chôn người chết”.
                                Ông Tate đi đến chỗ ghế xích đu và cầm mũ lên. Nó nằm cạnh bố Atticus. Ông Tate vuốt ngược tóc ra sau và đội mũ lên.
                                “Tôi chưa từng nghe nói rằng sẽ là phạm pháp nếu một công dân cố hết sức mình để ngăn không cho một tội ác xảy ra, và đó chính xác là điều anh ta đã làm, nhưng có thể ông cho rằng nhiệm vụ của tôi là phải nói cho cả thị trấn này biết chuyện và không được ỉm nó đi. Biết sau đó sẽ xảy ra chuyện gì không? Tất cả phụ nữ ở Maycomb này, kể cả vợ tôi, sẽ gõ cửa nhà anh ta mang theo bánh xốp. Theo tôi nghĩ, ông Finch, bắt giữ một người vốn đã giúp đỡ rất nhiều cho ông và cho cả thị trấn này rồi lôi anh ta ra cùng với cung cách rụt rè của anh ta trước công chúng... với tôi, đó là một tội ác. Đó là một tội ác và tôi không định chứa nó trong đầu tôi đâu. Nếu đó là bất cứ người đàn ông nào khác thì lại khác. Nhưng không phải người đàn ông này, ông Finch”.
                                Ông Tate đang cố đào một cái lỗ trên sàn nhà bằng mũi giày của ông. Ông kéo mũ, rồi ông chà xát cánh tay trái. “Tôi chẳng là gì cả, ông Finch, nhưng tôi vẫn là cảnh sát trưởng hạt Maycomb và Bob Ewell đã té trên con dao của hắn. Chúc ngủ ngon, thưa ngài”.
                                Ông Tate bước khỏi hàng hiên và băng qua sân trước. Cửa xe ông đóng sầm và ông lái xe đi.
                                Bố Atticus ngồi nhìn xuống sàn nhà hồi lâu. Cuối cùng ông cũng ngẩng đầu lên. “Scout,” ông nói, “ông Ewell té trên con dao của ông, chắc con hiểu chứ?”
                                Có vẻ bố Atticus cần được cổ vũ. Tôi chạy đến bên ông, ôm ông và hôn ông tới tấp. “Vâng, thưa bố, con hiểu” tôi đoán chắc với ông. “Ông Tate nói đúng”.
                                Bố Atticus nhẹ nhõm và nhìn tôi. “Ý con là sao?”
                                “À, nó giống như việc bắn một con chim nhại vậy, đúng không bố?”
                                Bố Atticus úp mặt ông vào tóc tôi và xoa nó. Khi ông đứng lên bước qua hàng hiên vào chỗ bóng tôi, bước chân trẻ trung của ông đã trở lại. Trước khi đi vào nhà, ông dừng lại trước mặt Boo Rayley. “Cám ơn vì những gì đã làm cho những đứa con của tôi, Arthur” ông nói.

                                --------------------------------

                                [1] Atticus hàm ý cứ đem Jem ra xử trước tòa cho mọi người tới xem.

                                Comment

                                Working...
                                X