Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Giết con chim nhại -Tác giả: Harper Lee

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Giết con chim nhại -Tác giả: Harper Lee




    Giết con chim nhại
    Tác giả: Harper Lee
    Dịch thuật: Huỳnh Kim Oanh & Phạm Viêm Hương



    Tặng ông Lee và Alice vì Tình yêu
    và sự trìu mến


    Chương 1




    Khi sắp mười ba tuổi, anh trai Jem của tôi bị gãy ngay khuỷu tay. Khi lành lại, nỗi sợ không bao giờ có thể chơi bóng được nữa của Jem đã dịu bớt, anh ít nghĩ ngợi về thương tật của mình. Cánh tay trái của anh hơi ngắn hơn cánh tay phải; khi đứng hoặc đi, mu bàn tay anh cứ thẳng góc với thân mình, ngón cái song song với đùi. Anh hoàn toàn không quan tâm, miễn là anh còn chuyền và lốp bóng được.
    Sau nhiều năm tháng trôi qua đủ để giúp chúng tôi nhìn lại, đôi khi chúng tôi bàn bạc về những sự kiện đưa đẩy đến tai nạn này. Tôi vẫn cho rằng tất cả là do nhà Ewell, nhưng Jem, lớn tôi bốn tuổi, lại bảo chuyện này đã bắt đầu từ trước đó rất lâu. Anh nói chuyện đó bắt đầu vào mùa hè khi Dill đến chơi với chúng tôi, lúc Dill lần đầu mớm cho chúng tôi ý tưởng kéo được Bob Radley ra khỏi nhà.
    Tôi nói nếu anh muốn có một cái nhìn bao quát về sự việc này, thì thực sự nó bắt đầu với Andrew Jackson. Nếu tướng Jackson không đẩy người Da đỏ Creek [1] lên thượng nguồn thì Simon Finch sẽ không bao giờ chèo thuyền đến Alabama, và liệu chúng tôi sẽ ở đâu nếu ông không làm việc đó? Chúng tôi đã quá lớn không thể dàn xếp một cuộc tranh cãi bằng nắm đấm, vì vậy chúng tôi hỏi ý kiến bố Atticus. Bố nói cả hai đứa tôi đều đúng.
    Là dân miền Nam, một số người trong gia tộc thấy xấu hổ vì chúng tôi chẳng có tổ tiên nào được lưu danh ở phía bên này hoặc bên kia trong trận Hasting [2]. Chúng tôi chỉ có mỗi Simon Finch, một tay bào chế thuốc bẫy thú lấy lông gốc từ Cornwall, người chỉ để cho thói keo kiệt vượt trội hơn so với lòng mộ đạo của mình. Ở Anh, Simon tức tối trước việc bách hại những người tự xưng là tín đồ phái Giám lý dưới tay các đạo hữu cấp tiến hơn của họ và vì Simon cũng nhận mình là tín đồ Giám Lý nên ông ta tìm đường vượt Đại Tây Dương đến Philadelphia, sau đó đến Jamaica, rồi đến Mobile, và lên đến Saint Stephens. Luôn nghĩ đến những phê phán của John Wesley [3] về thói lắm lời trong việc mua bán, Simon kiếm tiền bằng việc hành nghề y, nhưng trong việc này ông ta không vui vì sợ mình bị cám dỗ phải làm những điều mà ông biết rằng không vì vinh quang của Chúa, như việc đeo vàng trên người và mặc quần áo đắt tiền. Vì thế Simon, sau khi quên đi châm ngôn của thầy giáo mình về việc sở hữu nô lệ, đã mua ba nô lệ và với sự trợ giúp của họ ông lập một trang trại trên bờ sông Alabama, cách Saint Stephens khoảng bốn mươi dặm về phía thượng nguồn. Ông chỉ trở lại Saint Stephens một lần, để tìm vợ, và ông đã cùng bà tạo dựng một dòng họ với nhiều con gái. Simon sống rất thọ và chết trong giàu có.
    Thông lệ của người trong gia tộc này là vẫn ở lại trang trại của Simon, nó có tên là Finch’s Landing, và kiếm sống bằng nghề trồng bông vải. Trang trại này hoàn toàn tự túc: khá khiêm tốn so với những đại nông trại xung quanh, nhưng Landing vẫn sản xuất được mọi thứ để duy trì cuộc sống trừ nước đá, bột mì và những thứ y phục, vốn phải mua từ những ghe thương hồ từ Mobile.
    Simon nhìn sự náo loạn giữa miền Nam với miền Bắc với nỗi giận dữ bất lực, vì nó khiến cho con cháu ông bị tước đoạt hết mọi thứ trừ đất đai của chúng, nhưng truyền thống sống bám vào đất vẫn được duy trì đến nhiều thập niên của thế kỷ hai mươi, khi bố tôi, Atticus Finch, đến Montgomery đế học luật, và em trai bố đến Boston học y. Chị Alexandra của bố là người họ Finch vẫn ở lại Landing: bà cưới một ông chồng ít nói, người dành phần lớn thời gian nằm trên chiếc võng cạnh bờ sông mà tự hỏi những dây câu của mình đã dính cá hết chưa.
    Khi được nhận vào luật sư đoàn, bố tôi trở về Maycomb và bắt đầu hành nghề. Maycomb, cách Finch’s Landing mười hai dặm về phía Đông, là trung tâm của hạt Maycomb. Văn phòng của bố Atticus tại tòa án chẳng có gì nhiều hơn một cái giá treo mũ, một ống nhổ, một bàn cờ đam và một cuốn luật Alabama còn mới nguyên. Hai thân chủ đầu tiên của bố là hai người cuối cùng bị treo cổ trong nhà tù hạt Maycomb. Bố Atticus đã cố thuyết phục họ chấp nhận sự khoan hồng của tiểu bang trong việc cho phép họ nhận tội giết người cấp độ hai [4] và giữ được mạng sống, nhưng họ thuộc dòng tộc Haverford, ở hạt Maycomb cái tên này đồng nghĩa với thằng ngốc. Những tay Haverford này đã giết chết người thợ rèn giỏi nhất của Maycomb trong một vụ hiểu lầm xuất phát từ việc bắt giữ một con ngựa bị coi là sai trái, thật thiếu khôn ngoan khi làm việc đó trước mặt ba nhân chứng, và cứ khăng khăng rằng đồ-chó-đẻ-nếu-hắn-có-ý-đó là cách biện hộ đủ hiệu quả cho bất cứ ai. Họ nhất quyết rằng mình không phạm tội giết người cấp độ một, vì vậy bố Atticus không thể làm gì hơn cho thân chủ trừ việc có mặt vào lúc họ lên đường, một vụ xử có lẽ là khởi đầu cho nỗi chán ghét đối với ngạch luật sư hình sự của bố.
    Trong năm năm đầu ở Maycomb, bố Atticus thực hành tiết kiệm hơn bất cứ thứ gì khác, trong nhiều năm sau đó bố đầu tư thu nhập của mình vào việc học hành của em trai bố. John Hale Finch nhỏ hơn bố mười tuổi và chọn học nghề y vào thời điểm mà việc trồng bông vải không còn sinh lợi nữa; nhưng sau khi giúp chú Jack [5] khởi nghiệp, bố Atticus có được thu nhập đáng kể từ nghề luật. Bố thích Maycomb, ông sinh ra và lớn lên ở hạt Maycomb; ông biết rõ dân ở đây và họ cũng biết bố, và do công việc làm ăn của Simon Finch, nên bố Atticus có quan hệ họ hàng hoặc thông gia với hầu hết các gia đình ở thị trấn này.
    Maycomb là một thị trấn cổ, nhưng nó là một thị trấn cổ chán ngắt khi lần đầu tiên tôi biết nó. Vào mùa mưa đường phố trở nên lầy lội đỏ quạch; cỏ mọc trên hai lề đường, tòa án ủ rũ ở quảng trường. Không hiểu sao hồi đó trời nóng hơn: một con chó mực khổ sở trong ngày hè; mấy con lừa trơ xương bị buộc vào những cỗ xe hai bánh lo đuổi ruồi trong bóng râm nồng nực của những cây sồi trên quảng trường. Đến chín giờ sáng những chiếc cổ cồn cứng của các ông rũ xuống. Các bà tắm trước buổi trưa, rồi sau giấc ngủ ngắn lúc ba giờ, và khi đêm xuống họ trông giống như những chiếc bánh bơ mềm phủ mồ hôi và phấn rôm ngọt.
    Hồi đó người ta di chuyển chậm chạp. Họ thơ thẩn qua quảng trường, lê bước ra hoặc vào các cửa hàng quanh đó, rề rà trong mọi chuyện. Một ngày hai mươi bốn giờ nhưng có vẻ như dài hơn. Chẳng có gì vội vã, vì chẳng có nơi nào để đi, không có gì để mua và không có tiền để mua [6] chẳng có gì để thăm thú bên ngoài địa giới hạt Maycomb. Nhưng đó là thời kỳ lạc quan mơ hồ của một số người: đến gần đây người ta đã bảo với hạt Maycomb rằng nó chẳng có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ hãi [7].
    Chúng tôi sống ở con phố chính của thị trấn-bố Atticus, Jem và tôi, thêm Calpurnia đầu bếp của chúng tôi. Jem với tôi thấy bố rất dễ chịu: ông chơi với chúng tôi, đọc cùng chúng tôi, và đối đãi với chúng tôi với sự xa cách lịch sự.
    Calpurnia lại khác. Bà toàn góc cạnh và xương xẩu; bà cận thị; bà lé; bàn tay bà to bè như thanh giát giường và cứng gấp đôi. Bà luôn xua tôi khỏi nhà bếp, hỏi tôi sao không cư xử ngoan ngoãn được như Jem mặc dù bà biết anh ấy lớn hơn, và gọi tôi về nhà khi tôi không muốn về. Những trận chiến của chúng tôi thật hùng tráng và chênh lệch. Calpurnia luôn luôn thắng, chủ yếu vì bố Atticus lúc nào cũng đứng về phía bà. Bà đã ở với chúng tôi từ khi Jem chào đời, và trong những chừng mực gì còn nhớ được thì tôi đều cảm thấy sự có mặt độc đoán của bà.
    Mẹ chúng tôi mất khi tôi lên hai, vì vậy tôi không hề cảm thấy thiếu vắng bà. Bà là một người thuộc họ Graham gốc ở Montgomery; bố Atticus gặp mẹ khi lần đầu bố được bầu vào cơ quan lập pháp bang. Lúc đó bố đã trung niên, mẹ nhỏ hơn bố mười lăm tuổi. Jem là kết quả của năm đầu họ lấy nhau; bốn năm sau tôi chào đời, và hai năm sau mẹ tôi mất vì một cơn đau tim. Họ nói bệnh này di truyền trong gia đình bà. Tôi không nhớ mẹ, nhưng chắc Jem nhớ. Anh ấy nhớ mẹ rất rõ, và đôi khi đang chơi giữa chừng anh ấy thở dài hồi lâu, sau đó bỏ đi chơi một mình ở phía sau nhà xe. Khi anh ấy như vậy, tôi biết khôn hồn thì đừng quấy rầy anh ấy.
    Khi tôi gần được sáu tuổi và Jem xấp xỉ mười, ranh giới cho kỳ nghỉ hè của chúng tôi (nằm trong tầm nghe được tiếng gọi của Calpurnia) là nhà của bà Herry Lafayette Dubose cách nhà tôi hai căn về phía Bắc và tòa nhà Radley cách nhà tôi ba căn về phía Nam. Chúng tôi không bao giờ có ý muốn phá vỡ các ranh giới đó. Tòa nhà Radley là nơi cư ngụ của một thực thể lạ lẫm chỉ cần nghe miêu tả là đủ khiến chúng tôi ngoan ngoãn trong nhiều ngày liên tục, bà Dubose thì chán chết đi được.
    Đó là mùa hè Dill đến với chúng tôi.
    Một sáng sớm khi chúng tôi bắt đầu trò chơi ở sân sau, Jem và tôi có nghe tiếng gì đó ở nhà bên cạnh, trong mảnh vườn trồng bắp cải của cô Rachel Haverford. Chúng tôi đến bên hàng rào dây kẽm để xem có phải một chú chó con không-con chó săn chuột của cô Rachel đang sắp đẻ-thay vào đó chúng tôi thấy một đứa bé đang nhìn mình. Ngồi ở đó, nó không cao hơn những cây cải là mấy. Chúng tôi nhìn nó cho đến khi nó lên tiếng:
    “Chào”
    “Chào”, Jem vui vẻ đáp.
    “Tao là Charles Baker Harris”, nó nói. “Tao biết đọc đó”.
    “Thì sao?” tôi nói.
    “Tao nghĩ tui bay muốn biết tao có biết đọc hay không. Tụi bay có thứ gì cần đọc thì tao đọc cho...”
    “Mày mấy tuổi”, Jem hỏi, “bốn tuổi rưỡi hả?”
    “Sắp bảy tuổi”.
    “Vậy có gì bảnh đâu” Jem nói, chĩa ngón trỏ về phía tôi. “Con Scout kia biết đọc từ lúc mới đẻ, mà nó còn chưa tới trường nữa kìa. Sắp bảy tuổi mà coi mày nhỏ xíu à”.
    “Tao nhỏ con nhưng tao lớn rồi” nó nói.
    Jem hất tóc ra sau để nhìn rõ hơn. “Sao mày không qua đây, Charles Baker Harris?” Anh ấy nói. “Cái tên nghe ngon dữ”.
    “Tên tao đâu mắc cười gì hơn tên mày. Dì Rachel nói tên mày là Jeremy Atticus Finch”.
    Jem cau mặt. “Tao đủ lớn để khớp với tên của tao” anh ấy nói. “Tên mày còn dài hơn người mày nữa. Dám chắc là nó dài hơn cỡ ba tấc”.
    “Người ta gọi tao là Dill” Dill nói, cựa quậy bên dưới hàng rào.
    “Tốt hơn là mày nhảy qua thay vì chui dưới hàng rào” tôi nói. “Mày ở đâu tới vậy?”
    Dill quê ở Meridian, Mississippi, đang nghỉ hè ở chỗ dì nó, cô Rachel, và từ nay trở đi cứ hè là nó về Maycomb. Gia đình nó trước ở Maycomb, mẹ nó làm việc cho một tay thợ chụp hình ở Meridian, đã đưa ảnh của nó đi dự một cuộc thi Bé Xinh và giành được giải thưởng năm đô. Bà cho Dill số tiền đó, nhờ thế nó đi xem phim được hai mươi lần.
    “Ở đây không có mục phim ảnh gì hết, trừ thỉnh thoảng có chiếu phim về chúa Jesus trong tòa án” Jem nói. “Có từng xem thứ gì hay hay không?”
    Dill đã xem Dracula, một phát hiện khiến Jem nhìn nó với đôi mắt bắt đầu có vẻ nể nang. “Kể tụi tao nghe đi” anh ấy nói.
    Dill là một đứa khác lạ. Nó mặc quần soóc bằng vải lanh xanh cài nút vào áo sơ mi, tóc nó trắng như tuyết và ép sát vào đầu như lông vịt; nó lớn hơn tôi một tuổi nhưng tôi cao hơn nó. Khi nó kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện cũ xì đó đôi mắt xanh của nó hết sáng lên lại tối sầm; tiếng cười của nó bất ngờ và vui vẻ; nó luôn tay giật chỗ tóc bò liếm ngay giữa trán.
    Khi Dill kể rốt ráo hết phim Dracula, và Jem nói phim nghe có vẻ hay hơn sách, tôi hỏi Dill ba nó đâu, “Không nghe mày nói gì về ba mày hết”.
    “Tao không có ba”.
    “Ổng chết rồi hả?”
    “Không...”
    “Vậy nếu ổng không chết tức là mày có ba, đúng không?”
    Dill đỏ mặt và Jem bảo tôi im, một dấu hiệu cho thấy rõ ràng Dill đã được nghiên cứu và xếp vào loại chấp nhận được. Sau đó mùa hè trôi qua trong sự thỏa mãn bình thường. Sự thỏa mãn bình thường nghĩa là: cải thiện ngôi nhà trên cây của chúng tôi vốn nằm giữa hai cây xoan khổng lồ sinh đôi ở sân sau, làm rộn mọi chuyện, lược qua danh sách những vở kịch dựa trên tác phẩm của Oliver Optich, Vitor Appleton và Edgar Rice Burroughs. Trong vụ này chúng tôi may mắn có Dill. Nó đóng những vai trước đây tôi phải nhận - con khỉ đột trong vở Tazan, ông Crabtree trong The Rover Boys, ông Damon trong Tom Swift. Vì vậy chúng tôi dần xem Dill là một tay Merlin bỏ túi [8], với một cái đầu đầy những kế hoạch ly kỳ, những khát khao quái lạ, và những tưởng tượng kỳ quặc.
    Nhưng vào cuối tháng Tám kho tiết mục trò chơi của chúng tôi trở nên nhạt nhẽo vì đã chơi hoài không biết bao lần, và chính lúc đó Dill đã mớm cho chúng tôi ý tưởng dụ Boo Radley ra khỏi nhà.
    Ngôi nhà Radley mê hoặc Dill. Bất chấp những cảnh báo và giải thích của chúng tôi, ngôi nhà đó cứ thu hút nó như mặt trăng hút con nước, nhưng hút nó không vượt qua cột đèn ở góc phố, một khoảng cách an toàn tính từ cổng nhà Radley. Nó sẽ đứng đó, ôm lấy cột đèn, chăm chú nhìn và băn khoăn.
    Nhà Radley nhô hẳn ra đường cách nhà tôi một đoạn. Đi về phía Nam, người ta thấy hàng hiên của nó; lề đường bẻ góc và chạy dọc khu nhà. Ngôi nhà thấp, từng sơn màu trắng với hàng hiên rộng phía trước và những cửa chớp màu xanh lá cây, nhưng từ lâu đã chuyển sang màu xám xanh giống màu của vuông sân quanh đó. Những miếng ván lớn mục rã vì mưa gió rũ trên mái hiên; những cây sồi che khuất ánh mặt trời. Tàn tích của những chiếc cọc nhọn làm hàng rào xiêu vẹo ở sân trước - một cái sân “để quét” vốn không bao giờ được quét - nơi cỏ cho gia súc và cỏ thuốc thỏ mọc lan tràn.
    Bên trong ngôi nhà có một bóng ma quỷ quái. Người ta nói hắn có thật, nhưng Jem và tôi chưa bao giờ thấy hắn. Người ta nói hắn ra ngoài vào ban đêm khi trăng lặn, và nhìn lén qua cửa sổ. Khi cây đỗ quyên khô của người ta đông cứng trong một đợt rét, đó là do hắn hà hơi vào chúng. Mọi vụ trộm vặt ở Maycomb đều là do hắn. Có lần thị trấn kinh hoàng vì hàng loạt sự kiện ghê rợn về đêm: người ta tìm thấy gà và những thú cưng trong nhà bị chặt khúc; dù thủ phạm là Addie điên, tên này sau cũng đã tự trầm ở vũng xoáy Barker, nhưng người ta vẫn nhìn vào nhà Radley, không hề muốn dẹp bỏ những nghi ngờ ban đầu của họ. Một người Da đen sẽ không đi ngang nhà Radley vào ban đêm, ông ta sẽ băng qua lề đường đối diện và huýt sáo khi bước đi. Khuôn viên trường Maycomb giáp lưng với khu đất nhà Radley; những cây hồ đào cao lớn trong sân nuôi gà nhà Radley rụng đầy quả xuống sân trường. nhưng những quả hạch nằm đó mà không đứa trẻ nào dám đụng đến: những quả hồ đào nhà Radley sẽ giết bạn. Một quả bóng rơi vào sân Radley và coi như mất và không ai buồn nêu ra thắc mắc nào.
    Nỗi bất hạnh của ngôi nhà đó bắt đầu nhiều năm trước khi Jem với tôi ra đời. Người nhà Radley, tuy được chào đón ở bất cứ nơi nào trong thị trấn, lại sống tách biệt, một sở thích không thể tha thứ được ở Maycomb. Họ không đi nhà thờ, nơi giải trí chủ yếu của Maycomb, mà thờ phụng tại nhà; bà Radley hiếm khi qua bên kia đường uống cà phê giữa buổi sáng với hàng xóm, và chắc chắn không bao giờ tham gia nhóm truyền giáo. Ông Radley đi bộ xuống thị trấn lúc mười một giờ rưỡi sáng, và trở về vào đúng mười hai giờ, đôi khi xách một túi giấy nâu, mà láng giềng cho hàng tạp phẩm cho gia đình. Tôi không biết ông già Radley kiếm sống bằng cách nào - Jem nói ông ta “mua bông vải”, một mỹ từ lịch sự để chỉ việc không làm gì cả - nhưng ông Radley và vợ ông ta sống ở đó với hai con trai từ lâu lắm rồi.
    Cửa sổ và cửa chính nhà Radley đóng kín vào những ngày Chủ nhật; một điều nữa trái với cung cách của Maycomb: cửa đóng chỉ có nghĩa là bệnh hay trời lạnh. Trong các ngày thì Chủ nhật là ngày dành cho viếng thăm buổi chiều theo nghi thức: các bà mặc áo nịt, đàn ông mặc áo khoác, trẻ con mang giầy. Nhưng leo lên những bậc thềm trước nhà Radley và nói, “xin chào” vào buổi chiều Chủ nhật là điều mà không một người hàng xóm nào làm. Ngôi nhà Radley không có những cửa lưới. Có lần tôi hỏi bố Atticus liệu nó đã từng có cái nào không; bố Atticus nói có, nhưng trước khi tôi ra đời kia.
    Theo lời hàng xóm đồn đại, khi đứa con nhỏ nhà Radley ở tuổi thiếu niên, nó giao du với đám con nhà Cunningham gốc ở Old Sarum, một dòng họ đông đúc và khó hiểu cư trú ở phía Bắc của hạt này, và chúng lập thành một thứ gần như băng nhóm, thứ Maycomb chưa từng có bao giờ. Chúng chẳng làm gì nhiều, nhưng cũng đủ để dân thị trấn bàn luận và bị cảnh báo công khai tại ba buổi giảng kinh: chúng lẩn quất quanh các hiệu cắt tóc, đi xe buýt đến Abbottsville vào Chủ nhật và đi xem phim; chúng dự các buổi khiêu vũ tại ổ cờ bạc bên bờ sông của hạt, Dew-Drop Inn&Fishung Camp; chúng còn uống cả rượu lậu. Không ai ở Maycomb có đủ dũng cảm để nói với Radley rằng con trai ông ta giao du với bọn xấu cả.
    Một đêm nọ, trong cơn phấn khích tột độ, bọn chúng chạy lùi quanh quảng trường trên chiếc ô tô cũ mượn được, kháng cự nỗ lực chặn bắt của viên tuần cảnh già của Maycomb, ông Conner, và nhốt ông trong nhà xí của tòa án. Thị trấn nhất quyết phải làm điều gì đó; ông Conner nói ông biết rõ từng đứa một, và ông quyết chí và khẳng định chúng sẽ không yên thân được với chuyện này, vì vậy bọn trai trẻ này bị đưa ra trước tòa với cáo buộc về tội hành xử bừa bãi, phá rối trật tự, đe dọa và hành hung, sử dụng ngôn ngữ lăng mạ và báng bổ trước sự hiện diện và nghe thấy của một phụ nữ. Quan tòa hỏi ông Conner tại sao ông bao gồm cả tội cuối cùng; ông Conner nói rằng chúng chửi tục quá lớn đến độ ông chắc mọi quý bà ở Maycomb đều nghe thấy. Quan tòa quyết định tống bọn quấy rối này đến trường huấn luyện của tiểu bang, nơi thỉnh thoảng bọn trai trẻ được gửi đến không vì lý do gì khác hơn là cung cấp cho chúng thức ăn và chỗ ở tươm tất: nó không phải nhà từ và cũng không phải là điều gì đáng xấu hổ. Nhưng ông Radley lại nghĩ nó là vậy. Nếu quan tòa tha cho Arthur, ông Radley xin đảm bảo chắc chắn rằng Arthur sẽ không gây thêm rắc rối nào nữa. Biết rằng lời hứa của ông Radley là đinh đóng cột, nên quan tòa đã hoan hỉ làm thế.
    Những đứa đồng bọn thì vào trường huấn luyện và nhận nền giáo dục trung học tốt nhất có được ở bang này; một đứa trong bọn còn học tiếp lên trường cơ khí ở Auburn. Những cánh cửa nhà Radley đóng kín suốt các ngày trong tuần lẫn ngày Chủ nhật và người ta không thấy mặt thằng con ông Radley suốt mười lăm năm.
    Nhưng đến một ngày, mà Jem hầu như không nhớ được, có vài người, nhưng không phải Jem, nghe tiếng nói và thấy mặt Boo Radley. Anh ấy nói bố Atticus chẳng bao giờ nói gì nhiều về nhà Radley: khi Jem hỏi bố thì câu trả lời duy nhất của bố Atticus là bảo anh ấy hãy lo chuyện của mình và để cho nhà Radley lo công việc của họ, họ có quyền đó; nhưng khi chuyện này xảy ra Jem nói bố Atticus chỉ lắc đầu và kêu, “Mm, umm, umm”.
    Vì vậy Jem nhận hầu hết thông tin từ cô Stephanie Crawford, một hàng xóm gắt gỏng, người nói mình biết toàn bộ câu chuyện này. Theo cô Stephanie, Bob đang ngồi trong phòng khách cắt một số mục trong tờ The Maycomb Tribune để dán vào cuốn sưu tập báo của anh ta. Ba anh ta bước vào phòng. Khi ông Radley đi ngang, Bob đâm kéo vào chân ba mình, rồi rút ra, chùi nó vào quần, và tiếp tục công việc cắt dán.
    Bà Radley chạy ra đường gào lên rằng Arthur sắp giết cả nhà họ, nhưng khi cảnh sát trưởng đến ông ta thấy Bob vẫn ngồi trong phòng khách, cắt tờ Tribune. Lúc đó anh ta đã ba mươi ba tuổi.
    Cô Stephanie bảo ông Radley già nói không có người nào trong nhà Radley phải vào nhà thương điên cả khi có người đề nghị rằng một đợt an dưỡng ở Tuscaloosa có thể có ích cho Bob. Bob không điên, nhiều lúc anh ta quá căng thẳng. Nhôt anh ta lại thì được thôi, ông Radley thừa nhận, nhưng khẳng định rằng không thể buộc cho Bob bất cứ tội gì: anh ta không phải là tội phạm. Ông cảnh sát trưởng chẳng nỡ nhốt anh ta vào tù cùng bọn da đen, vì vậy Bob bị nhốt trong tầng hầm của tòa án.
    Việc chuyển Bob từ tầng hầm về nhà chỉ lờ mờ trong ký ức của Jem. Cô Stephanie Crawford nói một số người trong hội đồng thị trấn đã bảo ông Radley rằng nếu ông không đem Bob về, Bob sẽ chết vì nấm mốc do ẩm thấp. Ngoài ra Bob không thể sống dựa vào tiền bạc của hạt mãi được.
    Không ai biết ông Radley đã sử dụng hình thức răn đe nào để không ai nhìn thấy Bob, nhưng Jem hình dung rằng ông Radley hầu như thường xuyên xiềng anh ta vào giường. Bố Atticus nói không, không phải kiểu đó, rằng có nhiều cách làm cho người ta trở thành bóng ma.
    Ký ức tôi trở nên sống động khi thấy bà Radley thỉnh thoảng mở cửa trước, đi đến mé hàng hiên, tưới nước cho mấy cây chuối hoa của bà. Nhưng mỗi ngày Jem và tôi đều thấy ông Radley đi bộ xuống thị trấn rồi trở về. Người đàn ông gày gò khô quắt, mắt không màu, không màu đến độ chúng không phản chiếu ánh sáng, Xương gò má của ông ta nhọn và miệng thì rộng, môi trên mỏng và môi dưới dày. Cô Stephanie Crawford nói ông ta quá ngay thẳng đến độ ông ta xem lời Chúa là luật lệ duy nhất của mình, và chúng tôi tin cô, bởi vì dáng điệu của ông Radley lúc nào cũng thẳng đơ.
    Ông không bao giờ nói chuyện với chúng tôi. Khi ông đi ngang qua, chúng tôi thường nhìn xuống đất và nói, “Chào ông”, và ông ho đáp lại. Con trai cả của ông Radley sống ở Pensacola, anh ta về nhà vào dịp Giáng sinh, và anh ta là một trong ít người chúng tôi từng thấy bước vào hay rời ngôi nhà đó. Từ ngày ông Radley đưa Arthur về nhà, người ta nói ngôi nhà đó đã chết.
    Nhưng đến một hôm bố Atticus nói với chúng tôi bố sẽ phạt nếu chúng tôi làm ồn trong sân và giao cho Calpurnia thực hiện nhiệm vụ khi ông vắng mặt nếu bà nghe chúng tôi nói tiếng nào. Ông Radley đang hấp hối.
    Ông ấy khá thong thả trong việc này. Những băng ngựa gỗ của thợ mộc chặn hai đầu đường của khu đất nhà Radley, rơm được lót trên lề đường, giao thông được chuyển hướng sang đường nhanh phía sau. Bác sĩ Reynolds đậu xe ngay trước nhà tôi và đi bộ đến nhà Radley mỗi khi ông ta đến thăm bệnh. Jem và tôi chơi quanh quẩn trong sân suốt nhiều ngày. Cuối cùng những băng gỗ được mang đi, và chúng tôi đứng trước hiên nhìn theo khi ông Radley làm chuyến hành trình cuối cùng của ông ngang qua nhà tôi.
    “Đi rồi một kẻ bần tiện nhất mà Chúa từng thổi hơi thở vào” Calpurnia lẩm bẩm, và bà phun nước bọt ra sân với vẻ trầm tư. Chúng tôi nhìn bà đầy ngạc nhiên, vì hiếm khi Calpurnia bình luận về cung cách của người da trắng.
    Hàng xóm nghĩ khi ông Radley nằm xuống Bob sẽ xuất hiện, nhưng mọi người đã lầm: anh trai Bob từ Pensacola trở về và thế chỗ ông Radley. Khác biệt duy nhất giữa anh ta và người cha là tuổi tác. Jem nói ông Nathan Radley cũng “mua bông vải”. Tuy nhiên Nathan có đáp lại chúng tôi khi chúng tôi chào buổi sáng, và đôi khi chúng tôi thấy anh ta từ thị trấn ra về với tờ tạp chí trên tay.
    Chúng tôi càng nói nhiều với Dill về nhà Radley, nó càng muốn biết, thật đứng ôm cột điện càng lâu nó càng thắc mắc.
    “Không biết hắn ta làm gì trong đó”, nó lẩm bẩm. “Cứ là hắn ta vừa thò đầu ra khỏi cửa ấy”.
    Jem nói, “Hắn ta đi ra ngoài, chắc chắn rồi, khi mà trời tối thui. Cô Stephanie Crawford nói có lần cô tỉnh dậy lúc nửa đêm và thấy hắn nhìn cô qua cửa số... nơi đầu của hắn giống như cái sọ người nhìn cô. Mày có bao giờ thức giấc nửa đêm rồi nghe thấy tiếng hắn không, Dill? Hắn đi giống vậy nè...” Jem lê bàn chân anh trên sỏi. “Mày nghĩ sao khi cô Rachel lại khóa cửa kỹ thế ban đêm? Nhiều buổi sáng tao còn thấy dấu vết của hắn ở sân sau, và có đêm tao nghe thấy hắn cào cửa lưới sau nhà, nhưng khi bố Atticus ra tới đó thì hắn đã đi mất”.
    “Không biết hắn như thế nào sao?” Dill hỏi.
    Jem đưa ra mô tả hợp lý về Bob: Bob cao khoảng mét chín, đoán chừng qua những dấu vết của hắn; hắn ăn thịt sóc sống và bất cứ con mèo nào hắn bắt được, đó là lý do tại sao hai bàn tay hắn đầy máu-nếu mày ăn sống thú vật, mày sẽ không bao giờ rửa sạch máu được. Mặt hắn có nguyên một vết sẹo lồi chạy ngang qua; răng hắn không những vàng khè mà còn bị sâu nữa; mắt hắn thô lố; miệng lúc nào cũng chảy nước dãi.
    “Tụi mình thử dụ hắn ra ngoài đi” Dill nói. “Tao muốn thấy hắn ra sao”.
    Jem nói nếu Dill muốn bị mất mạng, thì nó chỉ cần đi tới và gõ cửa trước.
    Cuộc đột kích đầu tiên của bọn tôi xảy ra bởi vì Dill cá với Jem cuốn The Gray Ghost [9] ăn hai cuốn truyện Tom Swift rằng Jem sẽ không dám đi quá cổng nhà Radley. Cả đời mình, Jem chưa từng từ chối một thách thức nào.
    Jem nghĩ về chuyện đó ba ngày. Tôi nghĩ rằng anh ấy yêu danh dự hơn cái mạng mình, vì Dill công kích liên tục khiến anh kiệt sức dễ dàng. “Mày sợ rồi”, ngày đầu Dill nói. “Tao không sợ, chỉ kính trọng thôi” Jem nói. Ngày hôm sau Dill nói, “Mày sợ muốn chết đến độ không dám đặt ngón chân cái vào sân trước”. Jem nói anh ấy tin là mình không sợ, mỗi ngày anh ấy đều đi học ngang qua nhà Radley.
    “Lần nào cũng chạy thục mạng” tôi nói.
    Nhưng Dill khích được anh ấy vào ngày thứ ba, khi nó nói với Jem rằng dân Meridian chắc chắn không sợ hãi như dân Maycomb, rằng nó chưa từng thấy dân nào nhát như dân Maycomb.
    Điều này đủ làm cho Jem phải đi đến góc đường, ở đó anh dừng lại và dựa vào cột đèn, nhìn cánh cổng đong đưa như khùng điên trên bản lề tự chế.
    “Tao hy vọng cái đầu mày tự hiểu ra rằng hắn sẽ giết từng đứa bọn mình đó, Dill Harris” Jem nói, khi chúng tôi tới nhập bọn với anh. “Đừng trách tao khi hắn móc mắt mày nghen. Hãy nhớ là mày khơi mào vụ này đó”.
    “Mày vẫn còn sợ” Dill kiên nhẫn lầm bầm.
    Jem muốn Dill biết rõ ràng rằng anh ấy chẳng sợ bất cứ thứ gì. “Chỉ có điều tao không nghĩ ra cách dụ hắn ra khỏi nhà hắn mà không bắt được mình thôi”. Ngoài ra Jem còn nghĩ đến cô em nhỏ của mình nữa.
    Khi anh ấy nói vậy, tôi biết ngay anh ấy sợ. Jem cũng phải nghĩ tới em gái khi tôi thách anh ấy nhảy từ nóc nhà xuống. “Nếu tao chết thì mày sống ra sao?” Anh hỏi. Rồi anh nhảy, rơi xuống đất an toàn, và ý thức trách nhiệm đã biến khỏi anh ấy cho đến khi anh đối mặt với nhà Radley.
    “Mày né vụ thách thức này sao?” Dill hỏi. “Nếu vậy mày...”
    “Dill, mày phải nghĩ về mấy chuyện này” Jem nói. “Để tao suy nghĩ một chút... nó giống như việc làm cho một con rùa bò ra...”
    “Làm cách nào?” Dill hỏi.
    “Đốt cây diêm hơ dưới bụng nó”.
    Tôi bảo Jem nếu anh đốt nhà Radley tôi sẽ mách bố Atticus.
    Dill nói đốt diêm hơ dưới bụng rùa là độc ác.
    “Không độc ác, chỉ là thuyết phục nó - không giống như việc mày đốt lửa thui nó đâu” Jem làu bàu.
    “Sao mày biết đốt diêm không làm nó đau?”
    “Bọn rùa không có cảm giác, đồ ngốc” Jem nói.
    “Bộ mày từng là rùa hả?”
    “Trời đất, Dill để tao nghĩ coi.. tụi mình có thể làm hắn hoảng...”
    Jem đứng suy nghĩ quá lâu đến độ Dill nhượng bộ một chút, “Tao sẽ không nói là mày chạy vụ này và tao sẽ đổi cho mày cuốn The Gray Ghost chỉ cần mày dám đến đó rờ vào ngôi nhà”.
    Jem sáng rỡ. “Rờ vào ngôi nhà, vậy thôi hả?”
    Dill gật đầu.
    “Chắc chắn chỉ vậy thôi hả? Tao không muốn mày đòi thêm chuyện gì khác khi tao quay lại”.
    “Ừ, chỉ nhiêu đó thôi” Dill nói. “Chắc chắn hắn sẽ chạy ra đuổi khi thấy mày trong sân, lúc đó tao với Scout sẽ nhào vô, đè hắn xuống cho tới khi mình nói được với hắn là mình không tính hại gì hắn”.
    Chúng tôi rời góc phố, băng qua con đường nhỏ trước nhà Radley, và dừng ngay cổng.
    “Tới luôn đi,” Dill nói, “Scout với tao ở ngay sau lưng mày”.
    “Tao đi nè,” Jem nói, “đừng có thúc”.
    Anh đi đến góc sân, rồi lùi lại nghiên cứu địa thế như thể quyết định tìm cách tốt nhất để vào trong, nhíu mày và gãi đầu.
    Rồi tôi chế nhạo anh ấy.
    Jem đẩy tung cách cổng và đi nhanh đến hông nhà, vỗ vào nó và chạy trở ra vượt qua chỗ chúng tôi, không chờ xác nhận xem cuộc xâm nhập của anh có thành công hay không. Dill và tôi chạy theo sát gót anh. An toàn ở hàng hiên nhà mình, thở hổn hển, rầu rĩ và buồn bã.
    Ngôi nhà cũ kỹ vẫn như thế, rầu rĩ và buồn bã, nhưng khi nhìn dọc theo con đường, chúng tôi tưởng như mình thấy một tấm rèm cửa bên trong nhúc nhích. Khẽ rung nhẹ. Một chuyển động rất nhẹ, hầu như không thể thấy, và ngôi nhà vẫn lặng ngắt.

    ---------------------------------------
    [1] Andrew Jackson (sau này thành Tổng thống thứ bảy của Mỹ), trong Cuộc chiến Creek (1813-14) đã xua người da đỏ Creek ra khỏi Alabama, Georgia và Mississippi để bảo vệ các khu định cư của dân da trắng.
    [2] Trận Hasting (1066): trận đánh quyết định trong cuộc chinh phục Anh của người Norman (Pháp).
    [3] John Weslay (1703-1791): mục sư, nhà thần học Anh, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giáo phái Giám lý (Methodist) của đạo Tin lành. Giáo phái này xuất phát từ Anh, lan qua Mỹ, thu hút giới lao động và nô lệ.
    [4] Tội giết người không dự mưu trước nhưng không kèm tình huống gia trọng, theo luật Mỹ, nhưng định nghĩa này thay đổi ít nhiều tùy từng tiểu bang.
    [5] Tên gọi thân mật của John.
    [6] Ám chỉ khủng hoảng kinh tế 1929-1933.
    [7] Chẳng có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ hãi: câu nổi tiếng trong diễn văn nhậm chức của Franklin Roosevelt, Tổng thống thứ 32 của Mỹ (đắc cử năm 1932), người có công lớn trong việc đưa nước Mỹ vượt qua Khủng hoảng kinh tế. Ông đắc cử bốn kỳ bầu cử liên tiếp: 1932,1936,1940 và 1944.
    [8] Merlin: nhà tiên tri, phù thủy và cố vấn của vua Arthur trong truyền thuyết Anh, ở đây hàm ý Dill là kẻ tài giỏi, tháo vát trong mọi chuyện.
    [9] Nghĩa là Con ma xám.


  • #2
    Chương 2


    Dill chia tay chúng tôi vào đầu tháng Chín, để trở về Meridian. Chúng tôi tiễn nó lên chuyến xe buýt năm giờ và tôi đau khổ vì vắng bóng nó cho đến khi nhớ ra còn một tuần nữa là phải đi học. Tôi không bao giờ mong chờ bất cứ điều gì hơn trong đời. Nhiều giờ trong mùa đông tôi ở trong ngôi nhà trên cây, nhìn qua sân trường, theo dõi bọn trẻ bằng ống nhòm phóng đại hai lần mà Jem cho tôi, nghiên cứu những trò chơi của chúng, dõi theo chiếc áo khoác đỏ của Jem qua những nhóm bạn luồn lách chơi trò bịt mắt bắt dê, bí mật chia sẻ những vận rủi và những chiến thắng nho nhỏ của tụi nó. Tôi thèm được nhập bọn với chúng.
    Jem hạ cố dẫn tôi đến trường ngày đầu tiên, một công việc do bố mẹ thường làm, nhưng bố Atticus nói Jem sẽ thích chỉ cho tôi biết phòng học của tôi chỗ nào. Tôi nghĩ hẳn anh được một ít tiền trong phi vụ này, vì khi chúng tôi chạy lóc cóc quẹo góc phố ngang ngôi nhà Radley tôi nghe tiếng xủng xoẻng khác thường trong túi của Jem. Khi chúng tôi đi chậm lại tại rìa trường, Jem cẩn thận giải thích rằng trong giờ ở trường tôi không được làm phiền anh ấy, tôi không được lại gần anh ấy để yêu cầu diễn một đoạn trong Tazan and the Ant Men [1], làm anh bẽ mặt qua việc nhắc tới cuộc sống riêng tư của anh ấy, hay lẽo đẽo theo sau anh vào giờ giải lao và buổi trưa. Tôi phải chơi với bọn lớp một của tôi còn anh ấy chơi với bọn lớp năm. Tóm lại, tôi phải để anh yên.
    “Ý anh là tụi mình không chơi chung nữa hả?” Tôi hỏi.
    “Ở nhà mình vẫn chơi chung,” anh nói, “nhưng mày biết đó - trường học thì khác chứ”.
    Chắc chắn như vậy rồi. Trước khi buổi sáng đầu tiên trôi qua, cô Caroline Fisher, cô giáo của chúng tôi, lôi tôi lên trước lớp và khẻ tay tôi bằng cây thước, rồi bắt tôi đứng ở góc phòng đến tận trưa.
    Cô Caroline chưa quá hai mươi mốt tuổi. Cô có mái tóc màu nâu sáng, má hồng, và sơm móng tay màu đỏ thẫm. Cô cũng mang giày cao gót và mặc váy sọc trắng đỏ. Cô trông giống và có mùi một giọt bạc hà. Cô ở trọ bên kia đường cách nhà chúng tôi một căn, trong phòng trên lầu của cô Maudie Atkinson, và khi cô Maudie giới thiệu tôi với cô, Jem bối rối trong nhiều ngày.
    Cô Caroline viết tên cô bằng chữ in trên bảng và nói, “Câu này nghĩa là: Tôi là cô Caroline Fisher. Tôi quê ở Bắc Alabama, hạt Winston”. Cả lớp lầm bầm đầy lo lắng, liệu cô có chứng tỏ mình mang những nét quái đản đặc trưng của vùng đó không đây. (Khi Alabama ly khai khỏi liên bang ngày 11 tháng Giêng năm 1861, hạt Winston đã ly khai khỏi Alabama, và mọi đứa trẻ ở hạt Maycomb đều biết vụ này). Bắc Alabama vẫn đầy những tập đoàn kinh doanh rượu, những tay Big Mule [2], các công ty thép, các đảng viên Cộng hòa, giáo sư, và những người khác không rõ lai lịch.
    Cô Caroline bắt đầu ngày học bằng việc đọc cho chúng tôi nghe một câu chuyện về những chú mèo. Lũ mèo có những cuộc chuyện trò dài với nhau, chúng mặc quần áo nhỏ trông hấp dẫn và sống trong ngôi nhà ấm áp bên dưới một cái bếp lò. Vào lúc bà Mèo gọi điện đến cửa hàng dược phẩm đặt mua món chuột ướp mạch nha sôcôla cả lớp ngó ngoáy giống như một thùng đựng sâu nho. Cô Caroline có vẻ không biết rằng bọn lớp một mặc váy bằng bao bột mì và áo sơ mi bằng vải bông sờn rách này, hầu hết đều chặt cây bông và cho heo ăn từ lúc mới biết đi, đã miễn nhiễm với thứ văn chương tưởng tượng. Cô Caroline kết thúc câu chuyện và hỏi, “Thế nào, chuyện hay không?”
    Sau đó cô lên bảng và viết bảng chữ cái bằng những chứ in vuông thật lớn, quay xuống lớp và hỏi, “Có ai biết những chữ này không?”
    Mọi đứa đều biết; hầu hết lớp một đều không làm được chuyện này năm ngoái.
    Tôi cho rằng cô chọn tôi vì cô biết tên tôi; khi tôi đọc bảng chữ cái, một nét nhăn mơ hồ xuất hiện giữa cặp chân mày cô và sau khi tôi đọc lớn hầu hết cuốn My First Reader và những bảng báo giá thị trường chứng khoán trên tờ The Mobile Register, cô phát hiện ra rằng tôi đã biết chữ và nhìn tôi với vẻ không hài lòng hơn nữa. Cô Caroline bảo tôi nói với bố tôi đừng dạy tôi nữa, nó sẽ gây trở ngại cho việc học của tôi.
    “Dạy em?” Tôi nói với vẻ ngạc nhiên, “Bố em chẳng dạy em gì cả, cô Caroline. Bố Atticus không có thời gian dạy em bất cứ thứ gi” tôi nói thêm, khi đó cô Caroline mỉm cười lắc đầu. “Ồ, buổi tối bố em rất mệt và chỉ ngồi ở phòng khách đọc sách báo thôi”.
    “Nếu ông ấy không dạy em thì ai dạy?” Cô Caroline hỏi có vẻ ân cần. “Ai đó đã dạy em. Em đâu có bẩm sinh là đọc được tờ The Mobile Register”.
    “Jem nói em đọc được. Anh ấy đọc trong một cuốn sách trong đó em mang họ Bullfinch thay vì Finch [3]. Jem nói tên em thật ra là Jean Louise Bullfinch, rằng em bị tráo lúc mới sinh và em thực tình là một...”
    Rõ ràng cô Caroline đang nghĩ tôi nói láo. “Đừng để những tưởng tượng chi phối chúng ta, em yêu” cô nói. “Bây giờ hãy về nói với ba em đừng dạy em nữa. Tốt nhất là bắt đầu tập đọc với đầu óc mới mẻ. Em hãy nói với ba từ bây giờ cô sẽ lo việc này và cố cứu vãn thiệt hại này...”
    “Thưa cô?”
    “Ba em không biết cách dạy. Em có thể ngồi xuống”.
    Tôi lí nhí rằng tôi rất tiếc và về chỗ ngẫm nghĩ về tội của mình. Tôi không hề chủ tâm học đọc, nhưng bằng cách nào đó tôi đã đắm mình một cách lén lút vào những tờ nhật trình. Trong những giờ đằng đẵng ở nhà thờ - có phải tôi đã học lúc đó? Tôi không nhớ được có lúc nào mình không đọc được những bài thánh ca. Bây giờ tôi buộc phải nghĩ về nó, việc đọc là một điều gì đó tự nhiên đến với tôi, như việc học cách cài chặt đũng quần của bộ áo liền quần mà không cần nhìn quanh, hoặc việc thắt được hai cái nơ từ mớ dây giầy rối nùi. Tôi không thể nhớ khi nào những dòng chữ bên trên ngón tay di chuyển của bố Atticus tách ra thành những từ rời, nhưng tôi đã chăm chú nhìn chúng suốt những buổi tối trong ký ức tôi, trong khi lăng nghe tin tức trong ngày, những dự luật được thông qua thành luật, nhật ký của Lorenzo Dow [4] mọi thứ mà bố Atticus ngẫu nhiên đang đọc khi tôi bò lên đùi ông mỗi tối. Cho đến khi tôi sợ rằng sẽ mất nó, thì tôi chưa bao giờ yêu thích việc đọc. Người ta đâu có yêu việc thở.
    Tôi biết mình đã quấy rầy cô Caroline, vì vậy tôi được yên thân và nhìn ra cửa sổ cho đến giờ ra chơi khi Jem tách tôi ra khỏi đám học trò lớp một trong sân trường. Jem hỏi tôi xoay xở ra sao. Tôi kể anh ấy nghe.
    “Nếu không phải ở lại, em đã bỏ về. Jem, cái cô đáng ghét đó nói bố Atticus đã dạy em đọc và bố phải ngừng chuyện đó lại...”
    “Đừng lo, Scoutt” Jem trấn an tôi. “Thầy tao nói cô Caroline đang giới thiệu một phương pháp dạy mới. Cô học điều đó ở trường đại học. Rồi tất cả các lớp sẽ áp dụng nó ngay thôi. Mày không phải học nhiều từ những cuốn sách theo cách ấy-nó giống như nếu muốn biết về loài bò, mày phải đi vắt sữa một con bò vậy, hiều không?”
    “Hiểu, Jem, nhưng em không muốn học về bò, em...”
    “Chắc chắn rồi. Mày phải biết về loài bò, chúng là phần quan trọng trong đời sống ở hạt Maycomb”.
    Phải cố gắng lắm tôi mới ngăn được ham muốn hỏi Jem có phải anh bị mất trí hay không.
    “Tao chỉ ráng nói cho mày biết về cách dạy mới mà người ta áp dụng cho lớp một, đồ lì lợm. Đó là Hệ thống thập phân Dewey [5]”
    Chưa từng nghi ngờ về những tuyên bố chính thức của Jem, nên tôi thấy không có lý do gì để hỏi lúc này. Hệ thống thập phân Dewey, trong chừng mực nào đó, bao gồm việc cô Caroline vung vẩy trước mặt chúng tôi những tấm bảng trên đó viết những chữ như “the”, “cat”, “rat”, “man” và “you”. Có vẻ như cô giáo không chờ đợi ở chúng tôi lời bình luận nào, và lớp học nhận được những phát hiện đầy ấn tượng này trong im lặng. Tôi thấy chán, vì vậy tôi bắt đầu viết thư cho Dill. Cô Caroline bắt gặp tôi viết và bảo tôi phải nói với bố tôi ngừng dạy tôi. “Với lại,” cô nói. “chúng ta không viết trong lớp một, chúng ta chỉ tập đồ mẫu tự rời thôi. Em sẽ không học viết cho đến khi lên lớp ba”.
    Calpurnia là người chịu trách nhiệm về việc này. Nó giúp tôi khỏi làm bà phát điên vào những ngày mưa, tôi đoán vậy. Bà ấy đặt cho tôi bài tập viết bằng việc vẽ nguệch ngoạc bảng chữ cái ở phía trên một tấm bảng, sau đó chép lại một chương Kinh Thánh bên dưới. Nếu viết lại được theo nét của bà một cách thỏa đáng, tôi sẽ được bà thưởng một miếng sandwich phết bơ và đường. Trong việc dạy dỗ của Calpurnia, không hề có sự đa cảm: tôi hiếm khi làm bà hài lòng và bà hiếm khi thưởng cho tôi.
    “Em nào về nhà ăn cơm trưa giơ tay lên?” Cô Caroline nói, cắt ngang cơn bực bội mới mẻ của tôi đối với Calpurnia.
    Những đứa bé thị trấn giơ tay lên, và cô nhìn khắp chúng tôi.
    “Em nào mang bữa trưa theo để lên bàn”.
    Những xô mật mía đột nhiên xuất hiện, và trần nhà lấp loáng ánh sáng kim loại. Cô Caroline đi lên đi xuống các dãy bàn nhìn và ấn ngón tay vào các hộp đựng bữa trưa, gật đầu nếu thứ bên trong làm cô hài lòng, hơi nhíu mày trước những thứ khác. Cô dừng lại trước bàn của Walter Cunningham. “Bữa trưa của em đâu?” Cô hỏi.
    Khuôn mặt của Walter Cunningham cho mọi đứa trong lớp một biết rằng nó bị giun móc. Việc nó không đi giày cho chúng tôi biết rằng nó bị nhiễm giun ra sao. Người ta bị giun móc khi đi chân không trong chuồng ngựa và bãi đầm mình của heo. Nếu Walter có giầy nó sẽ mang vào ngày đầu tiên đến trường sau đó vứt chúng đi cho đến giữa mùa đông. Nó mặc chiếc áo sơ mi sạch và bộ áo liền quần được sửa vừa vặn.
    “Sáng nay em quên mang bữa trưa à?” Cô Caroline hỏi.
    Walter nhìn thẳng trước mặt. Tôi thấy một bên cơ hàm trơ xương của nó giật giật.
    “Em quên mang bữa trưa hả?” Cô Caroline hỏi. Hàm của nó lại giật.
    “Dạ, thưa cô” cuối cùng nó lí nhí.
    Cô Caroline đến bàn của cô và mở ví tiền ra. “Đây là đồng hăm lăm xu” cô nói với Walter. “Hôm nay xuống phố ăn đi. Mai trả lại cô [6]”
    Walter lắc đầu. “Không, cảm ơn cô” nó nói nhừa nhựa.
    Giọng cô Caroline bắt đầu mất kiên nhẫn, “Đây Walter, cầm lấy”.
    Walter lại lắc đầu.
    Khi Walter lắc đầu lần thú ba có đứa thì thào, “Lên nói với cô đi, Scout”.
    Tôi quay quanh và thấy hầu như cả đám dân thị trấn và toàn bộ nhóm đi xe buýt nhìn tôi. Cô Caroline đã nói chuyện với tôi hai lần, và chúng nhìn tôi với sự tự tin ngây thơ rằng sự quen biết dẫn đến thông cảm.
    Tôi đứng dậy đàng hoàng nhân danh Walter, “A - thưa cô Caroline?”
    “Gì đó, Jean Louise?”
    “Cô Caroline, bạn ấy là người nhà Cunningham”.
    Tôi ngồi xuống.
    “Là sao, Jean Louise?”
    Tôi cứ nghĩ mình đã làm mọi việc trở nên rõ ràng lắm rồi. Nó đủ rõ ràng với tất cả chúng tôi: Walter Cunningham đang ngồi đó gục đầu xuống. Nó không quên bữa trưa, nó không có bữa trưa gì cả. Hôm nay nó không có và cả ngày mai hay ngày mốt cũng không có luôn. Chắc cả đời nó chưa từng thấy ba đồng hai mươi lăm xu cùng một lúc bao giờ.
    Tôi thử lần nữa, “Walter là người của nhà Cunningham, cô Caroline”.
    “Rất tiếc, cô không hiểu, Jean Louise”.
    “Phải rồi, thưa cô, cô sẽ biết rõ mọi người dân thị trấn chỉ sau một thời gian ngắn. Người nhà Cunningham không bao giờ nhận bất cứ thứ gì mà họ không thể trả lại - không giờ quyên góp ở nhà thờ và cũng không phiếu bạc lẻ [7]. Họ không bao giờ nhận bất cứ thứ gì của bất cứ ai, họ sống với những gì họ có. Họ không có nhiều, nhưng họ xoay xở được với điều đó”.
    Hiểu biết đặc biệt của tôi về dòng họ Cunningham - tức là một nhanh của họ - có được từ những sự kiện năm ngoái. Cha Walter là một trong những thân chủ của bố Atticus. Một đêm, sau cuộc nói chuyện không vui trong phòng khách của chúng tôi về vụ hạn chế thừa kế của ông, trước khi ra về, ông Cunningham nói: “Ông Finch, tôi không biết chừng nào mới trả thù lao cho ông được”.
    “Đừng lo lắng chuyện đó, Walter” bố Atticus nói.
    Khi tôi hỏi Jem hạn chế thừa kế là gì, và Jem mô tả nó như tình trạng bị kẹt đuôi trong một khe nứt, và tôi hỏi bố Atticus liệu ông Cunningham có trả tiền cho nhà mình không.
    “Không trả bằng tiền,” bố Atticus nói, “nhưng trước cuối năm họ sẽ trả. Con cứ để ý xem”.
    Chúng tôi đã để ý. Một sáng Jem và tôi thấy một đống củi ở sân sau. Sau đó một bao hạt hồ đào nằm ở bậc thềm sau nhà. Giáng sinh là có một thùng dây leo và cây ô rô để trang trí. Mùa xuân đó chúng tôi thấy có một bao đầy rau củ cải, bố Atticus nói ông Cunningham đã trả cho bố quá nhiều.
    “Sao ổng lại trả cho bố nhu vậy?” Tôi hỏi.
    “Vì đó là cách duy nhất ông ấy có thể trả cho bố. Ông ấy không có tiền”.
    “Nhà mình có nghèo không, bố Atticus?”
    Bố Atticus gật đầu. “Mình có nghèo”.
    Mũi Jem nhăn lại. “Mình có nghèo như nhà Cunningham không?”
    “Không hẳn. Nhà Cunningham là dân nông thôn, là nông dân, và vụ sập tiệm chứng khoán giáng vào họ mạnh nhất [8]”
    Bố Atticus nói những người có tay nghề đều nghèo bởi vì các nông dân nghèo. Vì hạt Maycomb là hạt nông nghiệp, bác sĩ, nha sĩ và luật sư khó kiếm được những đồng năm xu và mười xu. Việc hạn chế thừa kế chỉ là một phần trong những ưu tư cho ông Cunningham. Những cánh đồng không bị hạn chế thừa kế đã được cầm cố gần hết sạch, và số tiền mặt ít ỏi ông kiếm được thì phải trả tiền lãi. Nếu biết giữ mồm giữ miệng, ông Cunningham có thể kiếm được một việc làm ở WPA [9], nhưng đất đai của ông sẽ tàn lụi nếu ông rời bỏ nó, và ông sẵn sàng nhịn ăn để giữ đất và quyền bỏ phiếu theo ý thích. Bố Atticus nói ông Cunningham thuộc loại người ngoan cường ít chịu thay đổi.
    Vì người nhà Cunningham không có tiền để trả cho luật sư, nên họ chỉ trả cho chúng tôi bằng những gì họ có. “Con có biết,” bố Atticus nói, “bác sĩ Reynolds cũng làm việc theo cách này không? Với một số người, ông tính thù lao một lần đỡ đẻ là một thúng khoai tây. Scout, nếu con chú ý bố sẽ nói cho con biết hạn chế thừa kế là gì. Định nghĩa của Jem đôi khi cũng khá chính xác”.
    Nếu giải thích được những chuyện này với cô Caroline, hẳn tôi đã tránh được ít nhiều phiền toái cho mình và cảnh ê chề sau đó cho cô Caroline, nhưng giải thích mọi việc rõ ràng như bố Atticus là chuyện nằm ngoài khả năng của tôi, vì vậy tôi nói, “Cô đang làm nó xấu hổ, cô Caroline. Walter không có đồng hai mươi lăm xu nào ở nhà để trả cô đâu, và cô cũng không thể dùng củi”.
    Cô Caroline đứng bất động, rồi cô nắm lấy cổ áo tôi và lôi tôi lên bàn của cô. “Jean Louise, em như vậy với tôi sáng nay thế là đủ rồi” cô nói. “Trong chuyện nào em cũng khởi đầu hỏng bét cả. Giơ tay ra”.
    Tôi nghĩ cô sẽ nhổ nước bọt lên đó, đó là lý do duy nhất mà mọi người ở Maycomb chìa tay ra: đó là phương thức đánh dấu hợp đồng miệng có từ lâu đời. Tự hỏi không biết chúng tôi đã thỏa thuận được điều gì, tôi quay xuống lớp tìm câu trả lời, nhưng cả lớp nhìn lại tôi đầy hoang mang. Cô Caroline cầm cây thước lên, phết lẹ làng vào đó sáu cái, rồi bảo tôi đứng vào góc. Một trận cười vỡ òa khi cả lớp rốt cuộc nhận ra rằng cô Caroline đã quất tôi.
    Khi cô Caroline dọa cả lớp sẽ bị y như vậy, lớp một lại ôm bụng cười nữa, chúng chỉ nghiêm túc lại khi bóng cô Blount trùm lên chúng. Cô Blount, một người chính gốc Maycomb cho đến lúc đó chưa biêt gì về những bí ẩn của Hệ thống thập phân, xuất hiện ngay cửa lớp, tay chống nạnh và thông báo, “Nếu còn nghe thấy âm thanh nào khác từ phòng này, tôi sẽ thiêu rụi mọi người trong đây. Cô Caroline, lớp sáu không thể tập trung vào kim tự tháp vì tất cả sự ồn ào này!”
    Tôi chỉ phải đứng trong góc một lát. Được tiếng chuông hết giờ cứu, cô Caroline nhìn theo cả lớp xếp hàng một để đi ăn trưa. Khi rời khỏi phòng sau tất cả những đứa khác, tôi thấy cô ngồi sụp xuống ghế và vùi đầu vào cánh tay. Nếu cô cư xử tử tế đối với tôi, tôi sẽ cảm thấy tiếc cho cô. Cô cũng thuộc loại khá xinh xắn.

    -----------------------------------
    [1] Nghĩa là Tazan và những người kiến.
    [2] Liên minh giữa các chủ đồn điền lớn với giới công nghiệp Alabama, chi phối nền chính trị của bang này, ủng hộ những chính sách bảo thủ.
    [3] Ở đây Jem nói đùa với em gái dựa trên cuốn sách cậu đang đọc, cuốn Bullfinch’s Mythology(Thần thoại của Bulfinch), một tuyển tập các truyện thần thoại Hy Lạp phổ biến thời đó. Cách phát âm hai từ Bullfinch và Bulfinch tương tự nhau. Trong tiếng Anh, Bukk nghĩa là con bò.
    [4] Lorenzo Dow (1777-1834): Nhà truyền giáo thuộc phái Giám lý từng đi khắp nước Mỹ, có tới Alabama.
    [5] Phương pháp đánh số phân loại sách trong thư viện do Melvil Dewey lập ra. Jem lẫn lộn ông này với John Dewey, lý thuyết gia về giáo dục tiến bộ.
    [6] Trong thời khủng hoảng kinh tế này, một ổ bánh mì giá 5 xu, vé xem phim giá 10 xu, một gallon xăng (3,8lit) giá 16 xu.
    [7] Scrip stamp: phiếu thay tiền giấy có mệnh giá nhỏ, dưới 1 USD, được phát hành khi khẩn cấp. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế, nhiều chính quyền địa phương cấp phát loại phiếu này cho dân thất nghiệp.
    [8] Vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1929: sự kiện khơi mài cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ.
    [9] Works Progress Administration-Sở quản lý tiến độ công trình: một trong nhiều cơ quan được thành lập để giải quyết nạn thất nghiệp trong khủng hoảng kinh tế. WPA ra đời năm 1935 để phát triển một chương trình công trình công cộng với kinh phí nhỏ cho vật tư và kinh phí lớn cho lương bổng.

    Comment


    • #3
      Chương 3


      Tóm được Walter Cunningham trong sân trường khiến tôi thấy hài lòng ít nhiều, nhưng khi tôi đè đầu nó xuống đất thì Jem đi ngang qua và bảo tôi dừng lại. “Mày lớn hơn nó mà” anh ấy nói.
      “Nó bằng tuổi anh chứ bộ” tôi nói. “Nó làm buổi học đầu tiên của em hỏng bét”.
      “Buông nó ra, Scoutt. Sao vậy?”
      “Nó không mang theo bữa trưa” tôi nói, giải thích việc tôi dính dáng vào vụ ăn uống của Water thế nào.
      Walter đã đứng lên và im lặng nghe Jem với tôi. Nắm đấm của nó đã hơi giơ lên như thể chờ đợi cuộc tấn công của anh em tôi. Tôi sấn tới đế đuổi nó đi, nhưng Jem đưa tay ngăn tôi lại. Anh xem xét Walter với vẻ suy đoán. “Cha mày là ông Walter Cunningham ở Old Sarum phải không?” Anh hỏi và Walter gật đầu.
      Walter trông như thể được nuôi bằng thức ăn cho cá: đôi mắt nó, xanh như mắt của Dill Harris, đỏ hoe và đầy nước. Mặt nó không có sắc màu trừ chóp mũi, chỗ đó có màu hồng ẩm ướt. Nó rờ rẫm ngón tay theo những dây cài của bộ áo liền quần đang mặc, lo lắng táy máy những cái móc kim loại.
      Bất chợt Jem nhe răng cười với nó. “Về nhà ăn cơm với tụi tao đi, Walter” anh nói. “Mày tới tụi tao vui lắm”.
      Mặt Walter bừng sáng rồi tối sầm.
      Jem nói. “Bố tụi tao là bạn của ba mày mà. Còn con Scout này, nó khùng - nó không đánh mày nữa đâu”.
      “Em không chắc điều đó đâu” tôi nói. Việc Jem tự ý làm ra cam kết cho tôi khiến tôi thấy khó chịu, nhưng những phút giây nghỉ trưa quý giá đang trôi qua. “Phải đó Walter, tao không đe mày nữa đâu. Mày không thích đậu bơ sao? Bà Cal nhà tao nấu bếp hết sẩy”.
      Walter đứng im tại chỗ, cắn môi. Jem và tôi bỏ đi, và khi chúng tôi gần đến chỗ nhà Radley thì Walter gọi, “Nè, tao đi với!”
      Khi Walter đuổi kịp bọn tôi, Jem nói chuyện thật vui với nó. “Có con ma sống trong đó” anh nói một cách thân mật, chỉ vào nhà Radley. “Nghe vụ này bao giờ chưa, Walter?”
      “Hình như có” Walter nói. “Năm đầu tới trường rồi ăn mấy quả hồ đào tao mém chết luôn - người ta nói hắn tẩm thuốc độc vô rồi thảy chúng qua hàng rào trường”.
      Lúc này Jem có vẻ ít sợ Boo Radley vì có tôi và Walter bên cạnh. Thực sự là Jem đâm ra huênh hoang, “Có lần tao dám đi một lèo tới nhà đó luôn” anh nói với Walter.
      “Bất cứ ai từng đi tới nhà đó hẳn không phải chạy mỗi khi đi ngang qua đó” tôi nói với đám mây trên trời.
      “Ai chạy vậy, cô Priss?”
      “Anh chớ ai, khi không có ai đi chung”.
      Lúc chúng tôi đi đến bậc thềm trước nhà, Walter đã quên nó là một Cunningham, Jem chạy xuống bếp yêu cầu Calpurnia bày thêm một đĩa nữa, chúng tôi có bạn. Bố Atticus chào đón Walter và bắt đầu nói chuyện về mùa màng mà cả Jem và tôi đều không thể hiểu.
      “Lý do cháu không thể qua được lớp một, ông Flinch, là mùa xuân nào cháu cũng phải ra đồng để giúp ba cháu chặt cây, nhưng có một lý do khác ở nhà bây giờ là kích thước của cánh đồng”.
      “Mày đã trả thúng khoai tây chưa?” Tôi hỏi, nhưng bố Atticus đã lắc đầu với tôi.
      Trong khi Walter chất thức ăn vào đĩa của nó, nó với bô Atticus nói chuyện với nhau như hai người đàn ông, trước sự ngạc nhiên thích thú của Jem và tôi. Bố Atticus đang giải thích những vấn đề nông trại thì Walter cắt ngang để hỏi không biết trong nhà có mật đường không. Bố Atticus gọi bà Calpurnia, bà quay lại mang theo bình xi rô. Bà đứng chờ Walter tự phục vụ. Walter rót xi tô lên rau và thịt thật hào phóng. Chắc hẳn nó sẽ rót xi rô vào cả ly sữa nếu như tôi không hỏi nó đang làm gì.
      Chiếc đĩa bạc kêu lách cách khi nó đặt bình xi rô xuống, rồi nó nhanh chóng đặt hai tay lên đùi. Sau đó nó cúi đầu xuống.
      Bố Atticus lại lắc đầu với tôi. “Nhưng nó tẩm bữa ăn của nó ngập xi rô” tôi phản đối. “Nó rót xi rô lên khắp...”
      Ngay lúc đó Calpurnia gọi tôi xuống bếp.
      Bà đang giận dữ, mà khi giận dữ thì văn phạm của Calpurnia trở nên lộn xộn. Khi bình thường, văn phạm của bà cũng tốt như văn phạm của mọi người Maycomb. Bố Atticus nói Calpurnia có học hơn phần lớn người da màu khác.
      Khi bà liếc nhìn xuống tôi, những nếp nhăn nhỏ xíu quanh đôi mắt bà hằn sâu hơn. “Có một số người ăn không giống nhà mình,” bà thì thầm một cách gay gắt, “nhưng đâu có ai yêu cầu cô rầy rà họ tại bàn ăn khi họ không giống cô đâu. Thằng nhỏ đó là bạn cô và nếu nó muốn ăn trên tấm khăn bàn thì cô hãy kệ nó, hiểu chứ?”
      “Nó đâu phải là bạn, Cal, nó chỉ là một đứa Cunningham...”
      “Ăn với nói! Họ là ai thì đâu thành vấn đề, bất cứ ai đặt chân đến nhà này đều là bạn cô, và đừng để tôi bắt gặp cô xét nét cung cách của họ theo kiểu kiêu kỳ này nữa nghe! Họ nhà cô có thể khá hơn họ nhà Cunningham, nhưng đó đâu phải lý do cho cô làm nhục họ - nếu cô không cư xử phù hợp để được ăn tại bàn, thì cô có thể xuống đây và ăn trong bếp đi!”
      Calpurnia đẩy tôi qua cánh cửa đung đưa sang phòng ăn bằng một cú phát đau điếng. Tôi lấy đĩa thức ăn của mình và xuống ăn trong nhà bếp, dù sao tôi cũng mừng là không bị bẽ mặt khi phải đối mặt với họ lần nữa. Tôi bảo Calpurnia hãy chờ đó, tôi sẽ cho bà biết: một ngày nào đó khi bà lơ đi, tôi sẽ bỏ đi và nhảy xuống chỗ nước xoáy Barker và rồi bà sẽ hối tiếc. Ngoài ta, tôi nói thêm, bà đã làm tôi gặp rắc rối bữa nay: bà đã dạy tôi viết và tất cả là lỗi của bà. “Dẹp cái trò nhặng xị của cô đi” bà nói.
      Jem và Walter trở lại trường trước tôi: việc ở lại sau để nói với bô Atticus về việc bất công quái ác của Calpurnia khiến tôi phải chạy nước rút một mình ngang nhà Radley. “Dù sao bà ấy cũng thích Jem hơn con” tôi kết luận, và gợi ý rằng bố Atticus nên nhanh chóng tống khứ bà ta đi.
      “Con có bao giờ nghĩ rằng Jem không làm bà ấy lo lắng bằng nửa con không?” Giọng bố Atticus đanh lại. “Bố không có ý định đuổi bà ấy, bây giờ và cả sau này nữa. Chúng ta không thể sinh hoạt một ngày mà không có Calpurnia, con có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Con có nghĩ là Calpurnia đã làm bao nhiêu chuyện cho con chưa, và con hãy quan tâm đến bà ấy, hiểu chưa?”
      Tôi trở lại trường và thấy căm ghét Calpurnia cho đến khi một tiếng hét bất ngờ phá vỡ những oán hờn của tôi. Tôi nhìn lên và thấy cô Caroline đang đứng giữa phòng, mặt cô đầy kinh hoàng. Dường như cô đã trấn tĩnh lại để giữ vững chức trách của mình.
      “Nó còn sống!” Cô rú lên.
      Lũ con trai trong lớp xông lên để giúp cô. Chúa ơi, tôi nghĩ, cô ấy sợ chuột. Thằng Little Chuck Little, thằng có một sự kiên nhẫn phi thường dành cho tất cả các loại sinh vật, nói, “Nó chạy đường nào, cô Caroline? Cho tụi em biết nó chạy đi đâu, nhanh lên! D.C...” Nó quay sang thằng nhóc đứng sau - “D.C., đóng cửa lại để tụi mình bắt nó. Mau lên, cô ơi, nó chạy đâu mất rồi?”
      Cô Caroline chỉ ngón tay run rẩy không phải xuống sàn mà cũng không phải lên bàn, mà vào một đứa lóng ngóng tôi không biết tên. Khuôn mặt Little Chuck cau lại và nó nói nhẹ nhàng, “Ý cô nói nó hả? Vâng, nó còn sống. Nó làm gì khiến cô sợ vây?”
      Cô Caroline nói một cách tuyệt vọng, “Cô vừa mới đi ngang thì nó bò từ tóc trò đó... Vừa mới bò ra khỏi tóc...”
      Little Chuck nhe răng cười. “Đâu có gì phải sợ một con chí, thưa cô. Cô chưa từng thấy con chí nào sao? Bây giờ cô chỉ cần trở lại bàn cô và dạy chúng em một số điều nữa”.
      Little Chuck là một thành viên khác trong lớp không biết bữa ăn kế tiếp của nó từ đâu tới, nhưng nó là một quý ông bẩm sinh. Nó nắm lấy khuỷu tay cô và dẫn cô Caroline đến trước lớp. “Giờ cô đừng sợ nữa, thưa cô” nó nói. “Không cần sợ một con chí đâu. Em sẽ đi lấy cho cô một ly nước”.
      Chủ nhân của con chí không thể hiện một chút quan tâm nào đến sự xôn xao mà nó gây ra. Nó lần mò lớp da đầu bên trên trán, tìm được vị khách và bóp chặt nó giữa ngón cái và ngón trỏ.
      Cô Caroline theo dõi quy trình đó trong sự mê hoặc kinh khiếp. Little Chuck mang nước đến trong chiếc cốc giấy, và cô uống với vẻ biết ơn. Cuối cùng giọng cô bình tĩnh lại. “Em tên gì, cậu bé?” Cô dịu dàng hỏi.
      Thằng nhỏ nheo mắt. “Ai, em hả?” Cô Caroline gật đầu.
      “Burris Ewell”.
      Cô Caroline xem kỹ cuốn sổ điểm danh. “Đây có một Ewell nhưng không có tên riêng... em đánh vần tên riêng của em được không?”
      “Không biết đánh vần làm sao. Ở nhà gọi em là Burris”.
      “Được rồi Burris” cô Caroline nói. “Cô nghĩ chúng ta nên cho em nghỉ chiều nay. Cô muốn em về nhà và gội đầu”.
      Cô lấy trong bàn ra một cuốn sách dày, lật qua các trang và đọc một lát. “Một biện pháp tại nhà tốt cho... Burris, cô muốn các em về nhà và gội đầu với xà bông nước tro. Làm vậy xong, em lấy dầu hỏa bôi da đầu”.
      “Để chi vậy cô?”
      “Để loại sạch... ờ, mấy con chí. Em biết đó, Burris, các bạn khác có thể bị lây chí, và em đâu muốn chuyện đó, phải không?”
      Thằng nhỏ đứng dậy. Nó là đứa ở dơ nhất tôi từng thấy. Cổ nó xám ngắt, mu bàn tay nó cáu bẩn, và mu bàn tay đen thui đến tận phần thịt mềm. Nó nhìn cô Caroline từ một khoảng trống sạch sẽ to bằng nắm tay trên khuôn mặt nó. Chắc chắn không ai để ý đến nó, vì cô Caroline và tôi đã giải trí cho cả lớp hầu như suốt buổi sáng.
      “Burris này,” cô Caroline nói, “làm ơn tắm trước khi đi học lại ngày mai”.
      Thằng nhỏ cười một cách thô lỗ. “Cô không cần đuổi em về nhà, thưa cô. Em sắp nghỉ đây - em làm thế này là đủ cho cả năm rồi”.
      Cô Caroline có vẻ bối rối. “Em nói vậy là sao?”
      Thằng nhỏ không trả lời. Nó khịt mũi đầy khinh bỉ.
      Một đứa lớn tuổi trong lớp trả lời, “Thưa cô, nó là người nhà Ewell”, và tôi tự hỏi không biết lời giải thích này có thất bại như nỗ lực của tôi không. Nhưng cô Caroline có vẻ sẵn sàng lắng nghe. “Cả trường đầy tụi nó. Tụi nó đến trường ngày đầu năm học rồi nghỉ. Cô phụ trách học sinh trốn học bắt tụi nó đến đây bởi vì cô ấy dạo giao tụi nó cho ông cảnh sát trưởng, nhưng cô ấy bỏ ý định giữ tụi nó lại. Cô ấy nghĩ cô đã thực hiện xong luật bằng việc ghi tên tụi nó vào sổ và quản lý tụi nó ở đây ngày đầu. Cô có nhiệm vụ đánh dấu tụi nó vắng những ngày còn lại trong năm...”
      “Nhưng còn ba má chúng thì sao?” Cô Caroline hỏi với vẻ quan tâm thực sự.
      “Có má nào đâu,” đó là câu trả lời, “còn ba của tụi nó thì ưa gây gổ lắm”.
      Burris Ewell hãnh diện với cách tưởng thuật này.
      “Em đến trường vào ngày đầu năm lớp một đã ba năm nay rồi” nó nói với vẻ cởi mở. “Coi như nếu năm nay em khôn hơn họ sẽ đẩy em lên lớp hai...”
      Cô Caroline nói, “Ngồi xuống lại đi, Burris” và ngay khi cô nói điều đó tôi biết cô đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Sự hạ mình của thằng nhỏ lóe lên thành cơn giận dữ.
      “Cô thử bắt em coi, cô giáo”.
      Little Chuck Little đứng dậy. “Để nó đi đi, thưa cô” nó nói. “Nó là một đứa xấu, một đứa cực hư. Nó có thể gây chuyện gì đó, mà ở đây có mấy đứa còn nhỏ”.
      Nó thuộc loại nhỏ con, nhưng khi Burris Ewell quay sao, tay phải của Little Chuck Little đút vào túi. “Coi chừng đóm Burris” nó nói. “Tao sẽ giết mày liền khi nhìn thấy mày. Bây giờ xéo về nhà đi”.
      Burris có vẻ như sợ thằng bé cao bằng nửa nó, và cô Caroline lợi dụng sự do dự của nó. “Burris về nhà đi. Nếu không cô sẽ gọi hiệu trưởng” cô nói. “Dù sao cô cũng phải báo cáo vụ này”.
      Thằng nhóc khịt mũi và lừ đừ tiến về phía cửa.
      Khi đã yên tâm là không ai có thể đuổi được nữa, nó quay lại nạt lớn, “Báo cáo mặc xác cô. Chẳng có mụ giáo viên mũi thò lò bào có thể bắt tôi làm bất cứ chuyện gì! Cô chẳng buộc tôi phải đi chỗ nào được đâu, cô giáo. Cô hãy nhớ rằng cô chẳng bắt được tôi phải đi đến chỗ nào đâu!”
      Nó chờ đến khi nó chắc là cô khóc, rồi mới lê bước ra khỏi trường.
      Ngay sau đó chúng tôi vây quanh bàn cô, cố bằng mọi cách để an ủi cô. Nó thực là một đứa xấu xa.. hèn hạ... cô không cần phải dậy những đứa như nó... đó không phải là cách ứng xử của Maycomb. Cô Caroline, cô đừng buồn nữa, sao cô không đọc cho tụi em nghe một câu chuyện nào đó? Chuyện con mèo sáng nay thật hay...
      Cô Caroline mỉm cười, chùi mũi, nói, “Cảm ơn các em” bảo chúng tôi về chỗ, mở sách ra và làm mê hoặc cả lớp một này bằng một câu chuyện kể dài về con cóc sống trong tòa lâu đài.
      Khi tôi đi ngang qua nhà Radley lần thứ tư trong ngày đó-hai lần chạy như bay - thì sự rầu rĩ của tôi càng trở nên sâu đậm hơn cho phù hợp với ngôi nhà. Nếu tháng ngày còn lại của năm học cũng đầy chuyện ly kỳ như ngày đầu tiên này, thì có lẽ khá thú vị, nhưng viễn cảnh trải qua chín tháng nhịn đọc và viết khiến tôi nghĩ đến chuyện bỏ trốn.
      Cho đến chiều tối phần lớn những kế hoạch giang hồ của tôi đã xong, khi tôi và Jem đua nhau chạy trên vỉa hè đón bố Atticus đi làm về, tôi không thua anh nhiều lắm. Bọn tôi có thói quen chạy ra đón khi bố Atticus quẹo góc bưu điện từ xa. Bố Atticus có vẻ quên mất vụ bê bối hồi trưa của tôi; ông hỏi đủ thứ về trường học. Tôi trả lời gióng một và ông không truy hỏi tôi.
      Có lẽ Calpurnia cảm thấy rằng ngày hôm nay của tôi là một ngày u ám: bà để cho tôi xem bà chuẩn bị bữa tối. “Nhắm mắt lại, mở miệng ra tôi sẽ cho cô một ngạc nhiên” bà nói.
      Bà ít khi làm bánh bì giòn, bà nói mình không có thời gian, nhưng hôm nay là một ngày dễ chịu với bà vì cả hai chúng tôi đều đi học. Bà biết tôi thích bánh bì giòn.
      “Bữa nay tôi nhớ cô” bà nói. “Nhà vắng quá nên hai giờ tôi phải bật radio”.
      “Sao vậy? Jem với con đâu có ở nhà trừ khi trời mưa”.
      “Tôi biết,” bà nói, “nhưng một trong hai đứa luôn ở trong tầm gọi của tôi. Tôi tự hỏi không biết một ngày tôi tốn bao nhiêu thời gian để gọi cô. Ừm”, bà nói, đứng dậy, “chắc là đủ thời gian để làm một chảo bánh bì giòn. Giờ cô đi chỗ khác chơi cho tôi chuẩn bị bàn ăn”.
      Calpurnia cúi xuống hôn tôi. Tôi chạy đi chơi, tự hỏi không biết bà có chuyện gì vậy, chắc bà muốn làm hòa với tôi. Bà luôn luôn khắt khe với tôi, cuối cùng bà đã thấy sai lầm trong cách cư xử gắt gỏng của bà, bà thấy hối tiếc nhưng quá bướng bỉnh không thể nói ra điều đó. Tôi quá mệt mỏi với những tội lỗi trong ngày hôm nay.
      Sau bữa tối, bố Atticus ngồi xuống với tờ báo và gọi, “Scout, chuẩn bị đọc chưa?” Đến thế này thì quá sức chịu đựng của tôi rồi, và tôi đi ra hàng hiên. Bố Atticus theo sau tôi.
      “Có chuyện gì không ổn hả Scout?”
      Tôi nói với bố Atticus tôi thấy không khỏe và tôi nghĩ mình sẽ không đi học nữa nếu như bố không phiền.
      Bố Atticus ngồi xuống chiếc xích đu và bắt chéo chân lại. Những ngón tay ông rờ rẫm cái túi đựng đồng hồ; bố nói đó là cách duy nhất ông có thể suy nghĩ. Bố chờ đợi trong sự im lặng thân tình, và tôi tìm cách củng cố quan điểm của mình, “bố không hề đi học mà bố vẫn ngon lành, vậy con cũng sẽ ở nhà. Bố có thể dạy con giống như ông nội dạy bố với chú Jack vậy”.
      “Không, bố không dạy con được” bố Atticus nói. “Bố phải làm việc kiếm sống. Với lại họ sẽ tống bố vào tù nếu bố để con ở nhà-tối nay con uống một liều magnesia [1] và ngày mai đi học như thường”.
      “Con thấy khỏe thiệt mà”.
      “Bố cũng nghĩ thế. Giờ thì có chuyện gì vậy?”
      Từ từ tôi kể cho bố nghe những chuyện xui xẻo trong ngày, “... và cô giáo nói bố dạy con sai hết trơn, nên chúng ta không thể đọc được nữa. Con xin bố đừng bắt con đi học nữa, nha bố”.
      Bố Atticus đứng dậy để đi đến cuối hàng hiên, sau khi xem xét giàn đậu tía, ông trở lại chỗ tôi.
      “Trước hết,” ông nói, “nếu con học được một cách thức đơn giản, Scout, con sẽ sinh hoạt thoải mái hơn nhiều với đủ loại người. Con không bao giờ thực sự hiểu một người cho đến khi con xem xét mọi việc từ quan điểm của người đó...”
      “Là sao bố?”
      “...tức là con sống và cư xử y như anh ta”.
      Bố Atticus nói bữa nay tôi đã học được nhiều điều và chính cô Caroline cũng học được vài điều. Cô đã biết được rằng không nên đưa cái gì cho một người Cunningham, điều thứ nhất là thế, nhưng nếu tôi và Walter tự đặt mình vào vai trò của cô, chúng tôi sẽ thấy đó là một sai lầm thành thực ở phía cô. Chúng tôi không thể mong cô hiểu được mọi cung cách của Maycomb chỉ trong một ngày, và chúng tôi không thể bắt cô chịu trách nhiệm khi cô không biết rõ mọi chuyện.
      “Con sẽ bị theo dõi gắt gao” tôi nói. “Con không biết gì hơn là không nên đọc cho cô nghe, và cô buộc tội con... nghe nè bố Atticus, con không đi học đâu!” Bất chợt đầu tôi lóe lên ý nghĩ. “Bố nhớ Burris Ewell không? Nó chỉ đi học ngày đầu. Cô phụ trách học sinh trốn học coi như đã làm đúng luật khi cô ghi tên nó vào sổ...”
      “Con không làm vậy được, Scout” bố Atticus nói. “Đôi khi tốt hơn là nên bẻ cong luật một chút trong những trường hợp đặc biệt. Trong trường hợp của con, luật pháp vẫn rất cứng rắn. Vậy nên con phải đi học”.
      “Con không hiểu sao con phải đi học trong khi nó thì không”.
      “Vậy thì nghe nè”.
      Bố Atticus nói rằng người nhà Ewell là sự ô nhục của Maycomb suốt ba thế kỷ. Không ai trong số họ từng lao động một ngày lương thiện theo trí nhớ của ông. Bố nói mùa Giáng sinh nào đó, khi đem bỏ cây Giáng sinh, ông sẽ dân tôi theo và chỉ cho tôi nơi và cách họ sống. Họ là con người, nhưng họ sống giống như thú vật. “Họ có thể đến trường bất cứ khi nào họ muốn, khi học thể hiện dấu hiệu nhỏ nhất của việc muốn có học vấn” bố Atticus nói. “Có nhiều cách để giữ chúng ở trường bằng vũ lực, nhưng thật ngu ngốc khi ép buộc những người như nhà Ewell vào một môi trường mới...”
      “Nếu mai con không đi học, bố sẽ ép buộc con”.
      “Mình không nói chuyện này nữa” bố Atticus nói một cách khô khốc. “Con, cô Scoutt Finch, thuộc loại người bình thường. Con phải tuân theo luật pháp”. Bố nói những người nhà Ewell là thành viên của một xã hội riêng biệt gồm toàn những người mang họ Ewell. Trong một số tình huống nào đó người bình thường sáng suốt cho phép họ hưởng những đặc quyền nào đó bằng phương pháp đơn giản là làm ngơ trước một hoạt động của người nhà Ewell. Chẳng hạn như họ không phải đi học. Một điều khác nữa, ông Bob Ewell, cha của Burris, được phép săn và bẫy thú ngoài mùa.
      “Bố Atticus, vậy là xấu” tôi nói. Ở hạt Maycomb, việc săn bắn ngoài mùa là phạm luật, một trọng tội trong mắt dân chúng.
      “Nó hoàn toàn sai luật,” bố nói, “và chắc chắn là xấu, nhưng khi một người tiêu hết những tấm ngân phiếu cứu trợ của mình vào rượu thì con cái ông ta chỉ có nước khóc vì đói. Bố không biết có chủ đất nào quanh đây chịu giao cho bọn trẻ bất cứ thú săn nào mà cha chúng có thể bắn được”.
      “Ông Ewell không nên làm điều đó..”
      “Dĩ nhiên ông ta không nên, nhưng ông ta sẽ không bao giờ thay đổi cung cách của mình. Liệu con có trút sự phản đối của con lên con cái ông ta không?”
      “Không, bố” tôi lẩm bẩm, và cố thêm lần cuối, “Nhưng nếu con tiếp tục đi học, bố con mình không bao giờ được đọc chung nữa..”
      “Điều đó thực sự làm phiền con hả?”
      “Vâng, thưa bố”.
      Khi bố Atticus nhìn xuống tôi, tôi thấy trên mặt ông có một vẻ luôn khiến tôi mong đợi một điều gì đó. “Con có biết thỏa hiệp là gì không?” Ông hỏi.
      “Bẻ cong luật pháp hả?”
      “Không, một thỏa thuận đạt được qua tương nhượng. Nó là vầy” ông nói. “Nếu con thừa nhận sự cần thiết của việc đi học, chúng ta sẽ tiếp tục đọc mỗi đêm giống như từ trước tới nay. Thỏa thuận vậy được không?”
      “Dạ, được!”
      “Chúng ta coi như đã ký kết xong mà không cần nghi thức thường lệ”. Bố Atticus nói khi thấy tôi chuẩn bị nhổ nước bọt.
      Khi tôi mở cửa lưới phía trước bố Atticus nói, “Mà nè, Scout, tốt hơn là con đừng nói gì về thỏa thuận của chúng ta ở trường nghe”.
      “Sao vậy?”
      “Bố sợ những việc làm của chúng ta không được những người học cao hơn chấp thuận”.
      Jem và tôi đã quen với kiểu ăn nói chúc-thư-và-ý-nguyện-cuối-cùng của bố chúng tôi, và lúc nào chúng tôi cũng được tự do ngắt lời đời bố Atticus diễn dịch khi nó vượt quá tầm hiểu của mình.
      “Sao, bố?”
      “Bố chưa từng đến trường,” ông nói, “nhưng bố có cảm giác rằng nếu con nói với cô Caroline chúng ta đọc mỗi đêm cô ấy sẽ rầy rà bố, mà bố không muốn bị cô ấy rầy rà”.
      Bố Atticus làm chúng tôi cười suốt buổi tối đó, nghiêm túc đọc những cột báo về một người đàn ông ngồi trên cột cờ [2] chằng vì lý do cụ thể nào, chuyện đó cũng đủ là lý do để Jem dành ngày thứ Bảy sau đó ở miết trong ngôi nhà trên cây. Jem ngồi từ sau bữa điểm tâm đến lúc mặt trời lặn và chắc sẽ ở đó suốt đêm nếu như bố Atticus không cắt đường dây tiếp tế của anh. Còn tôi thì dành hầu như cả ngày để leo lên tuột xuống, chạy việc vặt cho anh, cung cấp cho anh vật liệu, thức ăn và nước, và khi tôi mang cho anh mền đắp ban đêm thì bố Atticus nói nếu tôi không thèm để ý đến anh, thì Jem sẽ xuống. Bố Atticus nói đúng.


      ---------------------------------------
      [1] Thuốc để giảm axit trong bao tử, thúc đẩy tiêu hóa.
      [2] Ngồi trên cột cờ là một trò biểu diễn kỳ quái nhưng phổ biến ở thập niên 1930.

      Comment


      • #4
        Chương 4


        Những ngày đi học còn lại của tôi chẳng thuận lợi gì hơn ngày đầu tiên. Thật ra chúng là một đề tài tìm hiểu bất tận từ từ phát triển thành một bài học, trong đó hàng dặm giấy thủ công và bút sáp được bang Alabama chi trả trong những nỗ lực đầy hảo ý nhưng vô ích của nó nhằm dạy cho tôi về Động lực nhóm. Cái mà Jem gọi là Hệ thống thập phân Dewey đã phổ biến khắp trường vào cuối năm học đầu tiên của tôi, cho nên tôi không có cơ hội để so sánh nó với các phương pháp giảng dạy khác. Tôi chỉ có thể nhìn xung quanh: bố Atticus và chú tôi, người học tại nhà, biết mọi thứ - ít ra, những gì người này không biết thì người kia biết. Hơn nữa, tôi không thể không nhận thấy rằng bố tôi đã làm việc nhiều năm trong cơ quan lập pháp bang, lần nào cũng được bầu mà không gặp đối thủ, không bị tác động gì của những điều chỉnh mà các giáo viên của tôi nghĩ là thiết yếu đối với việc phát triển tư cách công dân tốt. Jem, được giáo dục trên cơ sở nửa Thập phân nửa Mũ học dốt [1], có vẻ hoạt động hiệu quả dù một mình hoặc trong một nhóm, nhưng Jem là một điển hình tồi: không một hệ thống kèm cặp nào do con người nghĩ ra lại có thể ngăn anh ấy đừng chúi mũi vào sách vở. Về phần tôi, tôi chẳng biết gì trù những điều thu thập được từ tạp chí Time và đọc mọi thứ vớ được ở nhà, nhưng khi uể oải dịch chuyển theo sinh hoạt nhàm chán của hệ thống trường học hạt Maycomb, tôi không thể không có ấn tượng rằng mình bị lừa lấy mất một cái gì đó. Ngoài những gì tôi không biết, tôi còn không tin rằng mười hai năm chán ngắt không nguôi lại chính là điều mà tiểu bang này muốn dành cho tôi.
        Suốt cả năm, tan học trước Jem ba mươi phút, anh còn phải ở lại đến ba giờ, bao giờ tôi cũng chạy ngang nhà Radley thật nhanh, không dừng lại cho đến khi an toàn tới được hàng hiên nhà tôi. Một buổi chiều, khi đang chạy ngang đó, một cái gì đó đập vào mắt tôi và nó đập theo một kiểu khiến tôi phải hít một hơi thật sâu, nhìn quanh một vòng, và quay trở lại.
        Hai cây sồi tươi tốt đứng ngay rìa khu đất nhà Radley; rễ chúng lan tới rìa đường khiến nó mấp mô. Có cái gì ở một trong hai cây sồi khiến tôi chú ý.
        Mấy tờ giấy bạc nằm trong hốc cây ngay bên trên tầm mắt tôi, nhấp nháy với tôi trong ánh nắng chiều. Tôi nhón gót, vội nhìn quanh lần nữa, thò tay vào hốc, và lấy ra hai miếng kẹo cao su không có giấy gói bên ngoài.
        Thôi thúc đầu tiên của tôi là cho nó vào miệng ngay tức khắc, nhưng tôi nhớ lại mình đang ở đâu. Tôi chạy về nhà, và tại hàng hiên, tôi xem xét kỹ thứ vừa lượm được. Thanh kẹo trông còn mới. Tôi ngửi và thấy nó tỏa mùi thật thơm. Tôi liếm nó và chờ một lát. Thấy mình không chết tôi nhét nó vào miệng: kẹo Wrigley’s Double-Mint.
        Khi Jem về nhà anh hỏi tôi lấy đâu ra cục kẹo vậy. Tôi nói với anh là tôi lượm được.
        “Đừng ăn những thứ lượm được, Scout”.
        “Cái này không ở dưới đất, nó nằm trên cây”.
        Jem hầm hè.
        “Thiệt mà. Nó nằm trên cây đằng kia đó, cái cây trên đường đi học về”.
        “Nhổ nó ra ngay!”
        Tôi nhổ nó ra. Dù sao thì vị nó cũng đã nhạt. “Em nhai nó suốt buổi chiều mà có chết đâu, thậm chí không bệnh nữa”.
        Jem giậm chân. “Bộ mày không biết là mày thậm chí không được sờ vào những cái cây đó sao? Mày sẽ bị chết nếu còn làm vậy!”
        “Anh đã từng chạm vào ngôi nhà đó rồi mà!”
        “Chuyện đó khác! Đi súc miệng đi - ngay lập tức, nghe không?”
        “Không, nó sẽ làm miệng em mất mùi thơm”.
        “Nếu không tao sẽ méc Calpurnia!”
        Để tránh gặp rắc rối với Calpurnia tôi làm theo lời Jem bảo. Vì lý do nào đó, năm học đầu tiên của tôi đã tạo ra một thay đổi lớn trong mối quan hệ của chúng tôi: sự áp chế, bất công, và thói hay xen vào công việc của tôi ở Calpurnia đã dần dần biến thành những lời cằn nhằn phản đối nhẹ nhàng. Về phần tôi, đôi khi tôi phải tốn nhiều nỗ lực, để không chọc giận bà.
        Mùa hè sắp đến; Jem và tôi nôn nóng chờ đợi. Mùa hè là mùa tuyệt vời nhất của chúng tôi: ngủ trên chõng ở hiên sau bọc cửa lưới; hoặc thử ngủ trong ngôi nhà trên cây; mùa hè có nhiều thứ ngon để ăn; nó là hàng ngàn màu sắc trên vùng đất khô nóng; nhưng trên hết, mùa hè là có Dill.
        Nhà trường cho chúng tôi về sớm vào ngày cuối năm học, tôi và Jem cùng nhau đi bộ về nhà. “Chắc ngày mai thằng Dill sẽ về tới đây” tôi nói.
        “Có thể ngày mốt” Jem nói. “Từ Mississippi về đây là hơn một ngày”.
        Khi chúng tôi đến chỗ cây sồi tại nhà Radley tôi giơ ngón tay chỉ lần thứ một trăm cái lỗ bọng nơi tôi tìm thấy thanh kẹo cao su, cố làm Jem tin rằng tôi đã lượm nó ở đó, và nhận ra mình đang chỉ vào một tờ giấy bạc khác.
        “Tao thấy rồi, Scout! Tao thấy rồi...”
        Jem nhìn quanh, với lên, và cẩn thận nhét vào túi một gói sáng bóng nhỏ xíu. Chúng tôi chạy về nhà, và ở ngay hàng hiên chúng tôi cùng xem cái hộp nhỏ được làm bằng những miếng giấy bạc gói kẹo cao su. Nó là loại hộp đựng nhẫn cưới, bằng vải nhung tím với một cái móc nhỏ. Jem bật mở cái móc. Bên trong là hai đồng xu được chà sạch và đánh bóng, hai đồng chồng lên nhau. Jem xem xét chúng thật kỹ.
        “Đầu da đỏ [2]” anh nói. “Một ngàn chín trăm lẻ sáu và Scout, một đồng là năm một ngàn chín trăm. Thứ này là đồ cổ thiệt đây”.
        “Một ngàn chín trăm” tôi lặp lại. “Tức là...”
        “Im nào, tao đang nghĩ”.
        “Jem, anh có nghĩ đó là chỗ giấu đồ của ai đó không?”
        “Đâu có mấy người đi qua đó ngoài tụi mình, trừ khi đó là chỗ giấu đồ của một người lớn nào đó..”
        “Người lớn không làm chỗ giấu đồ. Anh có cho là tụi mình nên giữ chúng không, Jem?”
        “Tao chưa biết mình có thể làm gì, Scout. Mình trả chúng lại cho ai đây? Tao biết chắc chắn là không có ai đi ngang đó hết. Cecil đi đường nhánh và vòng quanh thị trấn để về nhà”.
        Cecil Jacobs, sống ở cuối phố chúng tôi, cạnh bưu điện, mỗi ngày đi bộ đường vòng hơn một cây số đến trường để tránh nhà Radley và nhà bà Herry Lafayette Dubose. Bà Dubose sống cách nhà tôi hai căn; dư luận hàng xóm đều cho rằng bà Dubose là bà già xấu xa nhất trên đời. Jem thường không đi ngang nhà bà nếu không có bố Atticus đi cùng.
        “Vậy theo anh mình nên làm gì, Jem?”
        Người tìm ra là người được phép giữ trừ khi có ai đó chứng minh được quyền sở hữu. Thỉnh thoảng hái một đóa hoa trà, vắt chút sữa nóng từ con bò của cô Maudie Atkinson vào một ngày hè, hái trộm nho của ai đó là một phần trong văn hóa đạo đức của chúng tôi, nhưng tiền lại khác.
        “Thế này” Jem nói. “Mình cứ giữ chúng cho đến ngày tựu trường, rồi đi vòng vòng hỏi xem là của ai. Có thể chúng là của đứa nào đi xe buýt - nó quá mừng vì được nghỉ học hôm nay nên quên chúng. Những thứ này phải là của ai đó, tao biết. Thấy nó được đánh bóng cỡ nào không? Chúng được để dành không dám xài”.
        “Phải, nhưng tại sao ai đó muốn để dành kẹo cao su giống vậy? Anh biết nó không để lâu được mà”.
        “Tao không biết, Scout. Nhưng những thứ này quan trọng với ai đó...”
        “Quan trọng làm sao, Jem...?”
        “Đồng xu đầu Da đỏ-chúng có nguồn gốc từ người Da đỏ. Chúng có ma thuật mạnh dữ lắm, chúng đem vận may cho mày. Không như gà rán đến bất ngờ khi mày không tìm kiếm, mà là những thứ như sống lâu và sức khỏe tốt, và qua được những bài kiểm tra sáu tuần... những thứ này thực sự có giá trị với ai đó. Tao sẽ cất chúng trong rương của tao”.
        Trước khi Jem về phòng mình, anh nhìn hồi lâu vào nhà Radley. Có vẻ như anh đang suy nghĩ tiếp.
        Hai ngày sau Dill đến trong vinh quang rực rỡ: nó tự đi xe lửa từ Meridian đến Nhà ga Maycomb (một tước hiệu mang tính danh dự - vì Nhà ga Maycomb nằm trong hạt Abbott) ở đó nó được cô Rachel đón trên một chiếc taxi của Maycomb; nó đã ăn trên toa xe lửa; nó đã thấy hai anh em sinh đôi dính vào nhau cùng xuống xe ở St. Louis và cứ bámbasmo câu chuyện này của nó bất chấp những lời đe dọa. Nó đã thải bỏ cái quần soọc xanh đáng ghét được cài nút vào áo sơ mi và mặc chiếc quần ngắn thực sự có thắt lưng; nó có vẻ to con hơn, không cao hơn,và nói nó đã gặp ba nó. Ba Dill cao hơn bố tụi tôi, ông ta có râu đen (nhọn) và là chủ tịch của Công ty Đường sắt L&N.
        “Tao đã giúp tay kỹ sư một thời gian” Dill nói và ngáp.
        “Mày làm mọi thứ rối tung lên, Dill. Yên nào” Jem nói. “Bữa nay mình chơi vai gì?”
        “Tom, Sam và ****” Dill nói. “Tụi mình ra sân trước đi”. Dill muốn diễn trò Rover Boys bởi vì truyện này có ba vai đứng đắn. Rõ ràng là nó đã chán đóng những vai kỳ cục cho bọn tôi.
        “Em chán những nhân vật đó” tôi nói. Tôi chán đóng vai Tom Rover, người bất chợt mấy trí nhớ giữa một buổi chiếu phim và biến khỏi kịch bản cho đến đoạn cuối, khi người ta tìm thấy nó ở Alaska.
        “Chế một vở cho tụi mình đi, Jem” tôi nói.
        “Tao chán chế truyện lắm rồi”.
        Mới là những ngày tự do đầu tiên của chúng tôi mà chúng tôi đã chán. Tôi tự hỏi mùa hè này sẽ mang lại điều gì.
        Chúng tôi thơ thẩn ra sân trước, ở đó Dill đứng nhìn theo con đường, hướng vào bề mặt ảm đạm của tòa nhà Radley. “Tao-ngửi-thấy-mùi-chết-chóc” nó nói. “Thiệt, tao nói thiệt” nó nói, khi tôi bảo nó im miệng.
        “Ý mày là mày đánh hơi được khi có ai sắp chết hả?”
        “Không, ý tao là tao có thể nghe mùi ai đó và biết ngay họ có sắp chết hay không. Một bà già dạy tao cách đó”. Dill chồm tới ngửi tôi. “Jeans-Louis-Finch, mày sẽ chết trong ba ngày nữa”.
        “Dill, nếu mày không thôi ngay tao sẽ đá mày trặc giò. Tao nói thiệt đó...”
        “Im giùm coi,” Jem gằn giọng, “mày làm cứ như mày tin là có Hồn nóng vậy”.
        “Còn anh làm cứ như là anh không tin” tôi đốp lại.
        “Hồn nóng là cái gì vậy?” Dill hỏi.
        “Bộ mày chưa hề đi trên một con đường vắng vào ban đêm rồi gặp một chỗ nóng hả?” Jem hỏi Dill. “Hồn nóng là một người không lên thiên đàng được, chỉ mải mê loanh quanh trên những con đường vắng vẻ và nếu mày đi xuyên qua hắn, thì chết mày cũng thành một thứ như vậy, rồi mày sẽ lang thang suốt đêm hút hơi thở của người khác...”
        “Làm thế nào để đừng đi xuyên qua một thứ như vậy?”
        “Vô phương” Jem nói. “Có khi nó nằm dang ngang trên đường, nhưng nếu phải đi ngang qua mày hãy đọc, Thiên thần sáng láng, sống chết lộn nhau; rời khỏi đường này, đừng hút hơi tao, câu đó làm nó không quấn quanh người mày...”
        “Đừng tin lời nào anh ấy nói, Dill” tôi xen vào. “Calpurnia nói đó là đồn đại của người da đen”.
        Jem nhìn tôi cau có, “Được rồi, tụi mình có tính chơi cái gì hay không?”
        “Tụi mình lăn trong lốp xe đi” tôi đề nghị.
        Jem thở dài. “Mày biết là tao quá lớn mà”.
        “Thì anh đẩy”.
        Tôi chạy ra sân sau và lôi một lốp xe hơi cũ ở dưới lớp ván sàn. Tôi lăn nó ra sân trước. “Em trước” tôi nói.
        Dill nói nó phải trước, vì nó mới đến đây.
        Jem phân xử, cho tôi được đẩy trước và cho Dill được lăn trong thời gian dài hơn, tôi cuộn mình vào trong lốp xe.
        Mãi đến khi việc xảy ra tôi mới biết Jem cáu tôi vì tôi cãi anh vụ Hồn nóng, và anh ấy chờ cơ hội để trả đũa tôi. Anh đã làm thế, bằng cách lấy hết sức đẩy lốp xe theo lề đường. Đất, trời, nhà cửa trộn lẫn thành một khối lộn xộn, tai tôi lùng bùng, tôi thấy ngạt thở. Tôi không thể thò hai tay ra để ngừng lại, chúng bị kẹt chặt giữa ngực và hai gối. Tôi chỉ còn nước hy vọng là Jem chạy nhanh hơn lốp xe và tôi, hoặc một chỗ mấp mô trên lề đường sẽ dừng tôi lại. Tôi nghe tiếng anh ở đằng sau, đuổi theo và la hét.
        Lốp xe nảy tưng tưng trên nền sỏi, băng ngang đường, va vào một rào chắn và búng tôi như một nút bật lên trên lề đường. Choáng váng và buồn nôn, tôi nằm trên nền xi măng và lắc đầu, vỗ hai tai cho hết lùng bùng, rồi nghe thấy giọng Jem, “Scout, ra khỏi đó mau lên!”
        Tôi nhỏm đầu và thấy những bậc thềm nhà Radley ngay trước mặt. Tôi cứng người.
        “Ráng lên, Scout, đừng nằm đó!” Jem gào. “Đứng dậy, nổi không?”
        Tôi đứng dậy, run rẩy khi cố trở lại bình thường.
        “Lấy lốp xe!” Jem hò hét. “Mang nó theo! Bộ mày không hiểu chuyện gì hết hả?”
        Khi định thần lại được, tôi chạy về phía họ nhanh hết mức mà đôi chân run rẩy của tôi có thể làm được.
        “Sao mày không lấy nó theo” Jem hét.
        “Sao anh không vào mà lấy?” Tôi gào lại.
        Jem nín thinh.
        “Đi đi, nó đâu xa cổng mấy. Thậm chí anh từng rờ ngôi nhà đó rồi, nhớ không?”
        Jem nhìn tôi cau có, nhưng không thể từ chối, anh chạy theo lề đường, giẫm lên vũng nước ngay cổng, xông vào rồi lấy lại lốp xe.
        “Thấy chưa?” Jem cau có đầy đắc thắng. “Có gì đâu. Tao nói thiệt. Scout, có khi mày hành động y hệt con gái, thiệt mắc cỡ”.
        Chuyện còn nhiều hơn mức anh ấy biết, nhưng tôi quyết định không nói với anh.
        Calpurnia xuất hiện ngay cửa trước và la lên, “Tới giờ uống nước chanh! Vô nhà mau trước khi nắng nóng thiêu sống mấy đứa!” Nước chanh giữa buổi sáng là một thủ tục mùa hè, Calpurnia bày một bình và ba cái ly ở hàng hiên, sau đó đi làm công việc của bà. Việc không được Jem ưu ái nữa không làm tôi bận tâm lắm. Nước sẽ khôi phục tính hài hước của anh.
        Jem uống hết ly thứ hai và vỗ ngực. “Tao biết tụi mình sẽ chơi trò gì rồi” anh tuyên bố. “Trò gì đó mới, một cái gì khác”.
        “Cái gì?” Dill hỏi.
        “Boo Radley”.
        Đầu Jem đôi lúc thật sáng suốt: anh đã nghĩ ra trò đó để làm cho tôi hiểu rằng anh không sợ nhà Radley dưới bất cứ hình thức nào, để đối lập chủ nghĩa anh hùng không biết sợ của riêng anh với tính nhát gan của tôi.
        “Boo Radley? Là sao?” Dill hỏi.
        Jem nói, “Scout, mày có thể đóng vai bà Radley...”
        “Em tuyên bố nếu em thích. Em không nghĩ...”
        “Lảm nhảm gì vậy?” Dill hỏi, “Vẫn còn sợ hả?”
        “Hắn có thể ra ngoài vào ban đêm khi tụi mình ngủ hết..” tôi nói.
        Jem huýt sáo, “Scout, làm sao hắn biết tụi mình làm cái gì? Với lại tao không nghĩ hắn vẫn ở đó. Hắn chết đã mấy năm rồi, và người ta nhét hắn vào trong ống khói”.
        Dill nói, “Jem, mày với tao chơi cũng được, còn Scout cứ ngồi coi nếu nó sợ”.
        Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng Boo Radley vẫn ở trong ngôi nhà đó, nhưng tôi không thể chứng minh, và tôi cảm thấy hay nhất là ngậm miệng lại nếu không tôi sẽ bị buộc tội tin vào Hồn nóng, hiện tượng mà tôi không lo ngại vào ban ngày.
        Jem phân vai cho chúng tôi: tôi là bà Radley, và những gì tôi phải làm là bước ra quét hàng hiên. Dill là ông già Radley: ông đi tới đi lui trên lề đường và ho khi Jem nói chuyện với ông ta. Jem, dĩ nhiên là Bob: anh ấy luồn dưới những bậc thềm trước nhà và thỉnh thoảng la hét hay tru lên.
        Khi mùa hè dần trôi qua, trò đùa của chúng tôi cũng tiến triển. Chúng tôi trau chuốt và hoàn thiện nó, thêm lời thoại và cốt truyện cho đến khi cho ra đời một vở kịch nhỏ mà chúng tôi thay đổi mỗi ngày.
        Dill là một kẻ ác của kẻ ác: nó có thể nhập vào bất cứ vai nào phân cho nó, và có vẻ cao nếu chiều cao là một phần của trò tai quái cần phải có. Nó chỉ diễn xuất theo cách dở nhất của nó; cách diễn tệ hại nhất của nó mang tính rùng rợn. Tôi miễn cưỡng đóng vai đủ loại phụ nữ có trong kịch bản. Tôi không bao giờ nghĩ nó vui nhộn như chơi trò Tazan, và mùa hè đó tôi đảm nhận vai diễn với rất nhiều lo lắng mơ hồ bất chấp những bảo đảm của Jem rằng Boo Radley đã chết và không gì có thể đụng được đến tôi khi có anh ấy và Calpurnia vào ban ngày và bố Atticus vào ban đêm.
        Jem là một anh hùng bẩm sinh.
        Đó là một vở kịch nhỏ ảm đạm, được thêu dệt từ những mẩu chuyện linh tinh và lời đồn đại của hàng xóm: bà Radley thì khá xinh đẹp cho đến khi bà cưới ông Radley và mất hết tiền. Bà cũng rụng gần hết răng, tóc và ngón trỏ tay phải (đóng góp của Dill. Bob đã cắn cụt nó vào một đêm khi hắn không tìm được con mèo hay con sóc nào để ăn); bà ngồi trong phòng khách và khóc suốt, trong khi Bob dần dần mang hết mọi thứ đồ đạc trong nhà đi.
        Bộ ba chúng tôi là những đứa trẻ vướng vào rắc rối; tôi là quan tòa xác định di chúc, để thay đổi không khí; Dill dẫn Jem đi và ấn anh ngồi xuống bên dưới những bậc thềm, lấy chổi thọc anh. Jem trở lại khi cần trong bộ dạng cảnh sát trưởng, dân thị trấn các loại, và trong vai cô Stephanie Crawford, người có nhiều chuyện để kể về nhà Radley hơn bất cứ ai ở Maycomb.
        Khi đến lúc diễn cảnh chính của Bob, Jem sẽ lẻn vào nhà, ăn cắp cái kéo trong ngăn kéo máy may khi Calpurnia quay đi chỗ khác, sau đó ngồi trên xích đu cắt các tờ báo. Dill sẽ đi ngang qua, ho với Jem, và Jem sẽ giả bộ lao vào đùi Dill. Từ chỗ tôi đứng cảnh đó trông rất thật.
        Khi ông Nathan Radley đi ngang chỗ chúng tôi như thường lệ để xuống thị trấn, chúng tôi sẽ đứng im cho đến khi ông đi khuất, rồi tự hỏi ông sẽ làm gì chúng tôi khi ông nghi ngờ. Những hoạt động của chúng tôi tam ngừng khi có bất cứ một người láng giềng nào xuất hiện, và một lần tôi thấy cô Maudie Atkinson bên kia đường nhìn sang chúng tôi, chiếc kéo tỉa hàng rào của cô lơ lửng trên không.
        Một ngày nọ chúng tôi say sưa diễn Chương XXV, phần II của vở One Man’s Family [3], chúng tôi thấy bố Atticus đứng trên vỉa hè nhìn chúng tôi, vỗ tờ tạp chí cuộn lại vào đầu gối. Mặt trời cho biết đã mười hai giờ trưa.
        “Tụi con đang diễn cái trò gì vậy?” Ông hỏi.
        “Đâu có gì” Jem đáp.
        Câu trả lời né tránh của Jem cho tôi biết trò chơi của chúng tôi là một bí mật, vì vậy tôi im lặng.
        “Vậy tụi con làm gì với cái kéo đó? Sao lại xé nát tờ báo kia vậy? Nếu là tờ báo hôm nay bố sẽ cho tụi con ăn đòn đó”.
        “Không có gì”.
        “Không có gì là sao?” Bố Atticus hỏi.
        “Không có gì đâu bố”.
        “Đưa bố cái kéo” bố Atticus nói. “Nó đâu phải là thứ để con chơi. Bộ trò này không dính dáng gì đến nhà Radlay hả?”
        “Không, bố” Jem nói, đỏ mặt.
        “Bố hy vọng là không” ông nói cụt ngủn, rồi bỏ vào trong nhà.
        “Je-m..”
        “Im mồm! Bố mới vào phòng khách, trong đó bố có thể nghe tiếng tụi mình”.
        Ra tới chỗ an toàn ngoài sân, Dill hỏi Jem liệu chúng tôi có thể chơi nữa không.
        “Tao không biết. Bố Atticus không nói tụi mình không được chơi...”
        “Jem,” tôi nói, “em thấy chắc bố Atticus biết”.
        “Bố không biết đâu. Nếu biết bố đã nói là biết rồi”.
        Tôi không chắc thế, nhưng Jem bảo tôi là con gái, rằng con gái luôn luôn tưởng tượng ra mọi thứ, đó là lý do tại sao người ta ghét con gái như thế, và nếu tôi còn cứ cư xử như một đứa con gái tôi có thể cút xéo và tìm đứa nào khác mà chơi chung.
        “Được rồi, anh cứ giữ ý kiến của mình đi” tôi nói. “Rồi anh sẽ thấy”.
        Việc bố Atticus xuất hiện là lý do thứ hai khiến tôi muốn bỏ trò chơi này. Lý do thứ nhất xảy ra vào ngày tôi lăn vào sân trước nhà Radley. Lẫn trong cơn choáng váng, cơn buồn nôn và tiếng Jem rú, tôi đã nghe một âm thanh khác, trầm đến độ tôi không nghe thấy nó nếu ở vỉa hè. Có ai đó trong nhà đang cười.


        Chú thích

        [1] Mũ giấy hình chóp, ngày xưa được đội như một hình phạt cho học sinh không làm bài tập.
        [2] Đó là đồng một xu, một mặt đúc nổi hình đầu một người Da đỏ.
        [3] Gia đình của một người: vở kịch truyền thanh nhiều kỳ bắt đầu từ tháng Tư năm 1932 kéo dài đến tháng Năm năm 1959 với 3.256 buổi phát thanh, cực kỳ ăn khách suốt ba thập niên. Vở này có cấu trúc nhân vật tương tự chuyện nhà Radley.

        Comment


        • #5
          Chương 5


          Trò càm ràm của tôi cuối cùng đã đánh bại Jem, như tôi đã tiên đoán, và tôi thấy nhẹ nhõm khi chúng tôi bớt chơi trò này trong một thời gian. Tuy nhiên anh vẫn cho rằng bố Atticus không cấm chúng tôi chơi, vì vậy chúng tôi có thể chơi; và nếu bố Atticus có nói chúng tôi không được chơi thì Jem đã nghĩ ra một cách luồn lách nào đó: đơn giản là anh sẽ đổi tên nhân vật và sau đó chúng tôi không thể bị buộc tội đang chơi bất cứ thứ gì.
          Dill hăng hái đồng tình với kế hoạch hành động này. Dù sao thì Dill cũng đang trở thành một thứ gì đó của một cuộc thử nghiệm, luẩn quẩn theo sau Jem. Hồi đầu hè nó đã yêu cầu tôi cưới nó, rồi nó nhanh chóng quên mất chuyện đó. Nó bám sát tôi, xem tôi như một thứ tài sản của nó, nói tôi là đứa con gái duy nhất nó từng yêu, sau đó nó bỏ mặc tôi. Tôi đập nó hai lần nhưng không ăn thua gì, nó càng thân thiện với Jem hơn. Hai đứa ở suốt nhiều ngày với nhau trong căn nhà trên cây để lập mưu và lên kế hoạch, chỉ gọi tôi khi chúng cần đứa thứ ba. Tôi tránh xa những âm mưu ngu ngốc của chúng một thời gian, và với nỗi đau bị gọi là con gái, tôi dành hầu hết những buổi hoàng hôn còn lại của mùa hè năm ấy để ngồi với cô Maudie Atkinson ở hàng hiên trước nhà cô.
          Jem và tôi được tự do chạy chơi trong sân của cô Maudie nếu chúng tôi tránh xa những cây đỗ quyên của cô, nhưng mối liên hệ của chúng tôi với cô không được định rõ. Cho đến khi Dill và Jem gạt tôi ra khỏi kế hoạch của chúng, cô vẫn là phụ nữ khác duy nhất trong khu đó, nhưng là một người tương đối hiền lành.
          Hiệp ước ngầm của chúng tôi với cô Maudie là bọn tôi có thể chơi trên bãi cỏ của cô, ăn nho của cô nếu chúng tôi không nhảy lên giàn cây, hay mò vào khu đất rộng phía sau, những điều khoản quá hào phóng mà chúng tôi hiếm khi nói với cô, vì thế chúng tôi thận trọng giữ gìn cân bằng tế nhị trong mối quan hệ của chúng tôi, nhưng lối cư xử của Dill và Jem đã đẩy tôi đến gần cô hơn.
          Cô Maudie ghét ngôi nhà của cô: thời gian ở trong nhà là thời gian bị lãng phí. Cô là một quả phụ, một phụ nữ với bề ngoài thường xuyên thay đổi, người chăm sóc những luống hoa trong chiếc mũ rơm cũ và bộ đồ lao động của đàn ông, nhưng sau buổi tắm lúc năm giờ cô sẽ xuất hiện ở cổng và thống trị cả con phố trong vẻ đẹp đầy uy quyền.
          Cô yêu mọi thứ mọc trên đất của Chúa, cả cỏ dại. Với một ngoại lệ. Nếu cô thấy một lá cỏ cú trong sân nhà cô, thì mọi chuyện sẽ giống như là Trận Marna thứ nhì [1]; cô sà xuống bên bó với một chậu thiếc và bắt nó phải cháy lá từ bên dưới bằng một chất độc mà cô nói là cực mạnh, có thể giết tất cả chúng tôi nếu chúng tôi không đứng ra xa.
          “Sao cô không đơn giản là nhổ nó lên?” Tôi hỏi, sau khi chứng kiến một chiến dịch bền bỉ chống lại một lá cỏ cao chưa tới một tấc.
          “Nhổ nó lên, bé con, nhổ nó lên hả?” Cô nhặt lên cái chồi yếu ớt và ép chặt ngón cái vào thân cuống bé xíu của nó. Những hạt li ti rớt ra. “Ồ, một nhánh cỏ có thể làm hư cả cái sân. Nhìn nè. Khi mùa thu đến cái này khô đi và gió thổi nó bay khắp hạt Maycomb!” Khuôn mặt của cô Maudie ví sự cố này như một bệnh dịch trong kinh Cựu ước.
          Cách ăn nói của cô thật cả quyết so với một cư dân Maycomb. Cô gọi chúng tôi bằng cả tên lẫn họ của chúng tôi. Và khi cười, cô để lộ hai thanh nẹp vàng nhỏ xíu kẹp vào răng hàm trên. Khi tôi ngắm nghía chúng và mong rốt cuộc tôi cũng sẽ được vài cái như vậy, cô nói, “Nhìn nè”. Bằng một cái búng lưỡi cô làm cái cầu răng giả thò ra, một cử chỉ chân tình có tác dụng thắt chặt tình bạn của chúng tôi.
          Lòng tốt của cô Maudie mở rộng tới Jem và Dill, bất cứ khi nào tụi nó tạm nghỉ trong những cuộc rượt đuổi của chúng: chúng tôi được lợi từ một tài năng mà cho đến nay cô Maudie vẫn giấu chúng tôi. Cô làm những chiếc bánh ngon nhất trong vùng này. Khi cô được chúng tôi tin cậy, mỗi lần nướng bánh cô lại làm một cái bánh to và ba cái bánh nhỏ, và cô sẽ gọi vọng qua đường, “Jem Finch, Scout Finch, Charles Baker Harris, sang đây!” Sự mau mắn của chúng tôi luôn được tưởng thưởng.
          Trong mùa hè, những buổi hoàng hôn thường dài và thanh bình. Nhiều khi cô Maudie và tôi vẫn ngồi im lặng ở hàng hiên nhà cô, nhìn bầu trời chuyển từ vàng sang hồng khi mặt trời lặn, dõi theo những đàn chim nhạn bay sà thấp trên khu phố này và biến mất đằng sau mái trường học.
          “Cô Maudie,” một tối tôi nói, “cô có nghĩ Boo Radley còn sống không?”
          “Tên anh ta là Arthur và anh ta còn sống” cô nói. Cô đang đu đưa trên chiếc ghế gỗ sồi to. “Cháu có ngửi thấy mùi hoa Mimosa của cô không? Tối nay nó giống như hơi thở của thiên thần vậy”.
          “Vâng, có. Làm sao cô biết?”
          “Biết cái gì, bé con?”
          “Rằng B.. ông Arthur vẫn còn sống?”
          “Một câu hỏi kinh khủng. Nhưng cô cho rằng đó là một đề tài kinh khủng. Cô biết anh ta còn sông, Jean Louise, bởi vì cô không thấy anh ta bị đưa ra”.
          “Có lẽ ông ta chết rồi và họ nhét ông ta vào ống khói”.
          “Cháu lấy đâu ra cái ý tưởng đó vậy?”
          “Jem nói anh ấy nghĩ họ đã làm vậy”.
          “Ôi xì. Càng ngày nó càng giống Jack Finch hơn”.
          Cô Maudie đã biết chú Jack Finch, em trai của bố Atticus, từ khi họ còn nhỏ. Gần như cùng tuổi, họ cùng nhau lớn lên ở Finch’s Landing. Cô Maudie là con gái một chủ đất lân cận, bác sĩ Fank Buford. Nghề của bác sĩ Buford là nghề y và nỗi ám ảnh của ông là bất cứ thứ gì lớn lên trong đất, vì vậy ông vẫn nghèo. Chú Jack Finch giới hạn niềm đam mê đào xới với những bồn hoa cửa sổ của chú ở Nashville và vẫn giàu có. Chúng tôi gặp chú Jack vào mỗi Giáng sinh, và mỗi Giáng sinh chú đều gọi um qua đường kêu cô Maudie sang cưới chú. Cô Maudie thường gào lại, “Kêu lớn chút nữa đi, Jack Finch, và ở bưu điện họ sẽ nghe anh, tôi chưa nghe anh!” Jem và tôi nghĩ đây là một cách kỳ lạ để xin cưới một phụ nữ, nhưng hồi đó chú Jack cũng hơi kỳ lạ. Chú nói chú đang chọc tức cô Maudie, rằng chú đã cố gắng mà không thành công suốt bốn mươi năm, rằng chú là người cuối cùng trên trái đất này cô Maudie nghĩ đến khi muốn kết hôn nhưng là người đầu tiên cô nghĩ đến để chọc ghẹo và cách phòng thủ tốt nhất của cô là sự xúc phạm mạnh mẽ, tất cả điều này chúng tôi hiểu rõ.
          “Arthur Radley chỉ ở trong nhà, vậy thôi” cô Maudie nói. “Cháu có ở trong nhà không nếu cháu không muốn ra ngoài?”
          “Phải, nhưng cháu muốn ra ngoài. Sao ông ta không muốn nhỉ?”
          Cô Maudie nheo mắt. “Cô cũng biết như cháu thôi”.
          “Cháu chưa từng nghe giải thích tại sao. Chẳng ai nói cho cháu biết tại sao?”
          Cô Maudie gắn lại cái cầu răng giả. “Cháu biết ông già Radley là một tín hữu Baptist rửa chân... [2]”
          “Như cô vậy, phải không?”
          “Vỏ ngoài của cô không cứng đến thế, bé con. Cô chỉ là một Baptist”.
          “Tất cả những người như cô đều không tin vào việc rửa chân chứ?”
          “Tin chứ. Ở nhà, trong bồn tắm”.
          “Nhưng chúng cháu không thể rước lễ chung với những người như cô...”
          Rõ ràng, cô Maudie cho rằng định nghĩa phái Baptist nguyên thủy là dễ hơn định nghĩa họ đạo khép kín [3], nên cô nói, “Người Baptist rửa chân tin rằng những gì đem đến niềm vui đều là tội lỗi. Cháu có biết có bữa thứ Bảy nọ, một số họ ra khỏi rừng và đi ngang qua chỗ này và nói với cô rằng cả cô và những bông hoa của cô sẽ xuống địa ngục không?”
          “Hoa của cô cũng xuống hả?”
          “Phải, cưng. Chúng cũng bị thiêu cháy với cô. Họ nghĩ cô đã dành quá nhiều thời gian sinh hoạt ngoài trời và không đủ thời gian ở trong nhà để đọc Kinh thánh”.
          Niềm tin của tôi vào sách Phúc âm trên bục giảng đạo đã bớt dần trước cảnh tượng cô Maudie bị nung mãi mãi trong đủ loại hỏa ngục của người Tin lành. Quả là cô có giọng lưỡi cay độc, và cô không đi khắp xóm làm điều tốt, như cô Stephanie Crawford đã làm. Nhưng trong khi không ai có chút xíu hiểu biết lại tin cậy cô Stephanie, thì Jem và tôi tin cô Maudie hết mực. Cô không bao giờ mách tội chúng tôi, không hề chơi trò mèo vờn chuột với bọn tôi, cô hoàn toàn không quan tâm đến đời sống riêng tư của chúng tôi. Cô là bạn của chúng tôi. Làm sao mà một sinh vật hiểu biết như thế có thể sống trong nguy cơ bị tra tấn mãi mãi thì thật không thể nào hiểu được.
          “Điều đó không đúng, cô Maudie. Cô là người phụ nữ tuyệt vời nhất cháu biết”.
          Cô Maudie cười tươi. “Cám ơn cô bé. Vấn đề là, những người rửa chân nghĩ phụ nữ là một tội lỗi nào đó theo định nghĩa. Họ hiểu Kinh thánh hoàn toàn theo nghĩa đen, cháu biết đấy”.
          “Đó có phải là lý do ông Arthur ở trong nhà, để tránh xa phụ nữ không?”
          “Cô không rõ”.
          “Cháu chẳng hiểu gì cả. Giống như nếu ông Arthur thèm khát nước trời ít nhất ông ấy phải bước ra cổng. Bố Atticus nói Chúa yêu thuong loài người giống như mình yêu chính mình...”
          Cô Maudie ngừng đu đưa, và giọng cô đanh lại. “Cháu còn quá nhỏ không hiểu điều đó đâu,” cô nói, “nhưng đôi khi Kinh Thánh trong tay người nào đó còn tệ hại hơn một chai rượu mạnh trong tay của... ồ, của ba cháu chẳng hạn”.
          Tôi bị sốc. “Bố Atticus không uống rượu” tôi nói. “Bố cả đời chưa hề uống một giọt nào... à không, bố có uống chứ. Bố nói có lần bố uống chút ít và không thấy thích”.
          Cô Maudie cười lớn. “Ta không nói về ba cháu” cô nói. “Ý cô là, nếu Atticus Finch uống cho đến khi say khướt thì ông cũng không khó chịu như một số người ở trạng thái tốt nhất của họ. Có những loại người... họ quá bận lo về thế giới bên kia đến độ không hề biết cách sống trong thế giới này, và cháu có thể nhìn xuống phố và thấy những kết quả đó”.
          “Cô có nghĩ chúng có thật, tất cả chuyện mà người ta nói về B... ông Arthur không?”
          “Những chuyện gì?”
          Tôi kể ra với cô.
          “Ba phần tư là chuyện do người da màu kể và một phần tư là của Stephanie Crawford” cô Maudie nói một cách cả quyết. “Stephanie Crawford nói với cô rằng có lần cô ấy thức dậy lúc nửa đêm và thấy anh ta nhìn cô ấy qua cửa sổ. Cô hỏi rồi chị làm gì, Stephanie, nằm xích qua một bên và dành chỗ cho anh ta hả? Câu đó làm cô ta im họng được một thời gian”.
          Tôi tin chuyện đó. Giọng điệu của cô Maudie đủ sức làm bất cứ ai im miệng.
          “Không, cô bé ạ,” cô nói, “đó là một ngôi nhà buồn. Cô nhớ lại Arthur Radley hồi anh ta còn nhỏ. Anh ta luôn nói chuyện với cô một cách dễ thương, cho dù ai nói gì anh ta cũng vẫn dễ thương. Ăn nói dễ thương hết mức hiểu biết của anh ta”.
          “Cô có cho là ông ta khùng không?”
          Cô Maudie lắc đầu. “Nếu anh ta không điên thì vào lúc này hẳn anh ta phải điên. Chúng ta không bao giờ thực sự biết những gì xảy ra với người ta. Những gì xảy ra trong các ngôi nhà đóng kín cửa, những bí mật gì...”
          “Bố Atticus không bao giờ làm bất cứ điều gì với Jem và cháu trong nhà mà ông không làm ngoài sân” tôi nói, cảm thấy nhiệm vụ là phải bênh vực bố mình.
          “Cô bé ngoan, cô đang gỡ rối một sợi chỉ, thậm chí không hề nghĩ tới ba cháu nữa, nhưng bây giờ cô nói điều này: Atticus Finch ở trong nhà cũng giống như ông ấy ở nơi công cộng. Cháu có muốn mang ít bánh nướng về nhà không?”
          Tôi thích quá đi chứ.
          Sáng hôm sau khi thức dậy tôi thấy Dill và Jem đang ở sân sau say sưa nói chuyện. Khi tôi nhập bọn với chúng thì như thường lệ, chúng bảo tôi đi chỗ khác chơi.
          “Không. Sân này đâu phải của riêng anh, Jem Finch. Em có quyền chơi ở đây cũng như anh vậy”.
          Dill và Jem bàn bạc riêng một lát với nhau rồi quay sang tôi, “Nếu ở đây mày phải làm theo lời tụi tao” Dill cảnh báo.
          “Ái chà,” tôi nói, “ai mà bất ngờ cao cấp và quyền hành dữ vậy ta?”
          “Nếu mày không chịu làm theo lời tụi tao, tụi tao sẽ không cho mày biết bất cứ điều gì hết” Dill tiếp tục.
          “Mày cứ làm như đêm rồi mày cao vọt lên cả tấc vậy! Được rồi, cái gì thế hả?”
          Jem nói một cách bình thản, “Tụi tao sẽ gửi một lá thư cho Boo Radley”.
          “Bằng cách nào?” Tôi cố dằn nỗi khiếp hãi tự động dâng lên trong tôi. Cô Maudie nói gì thì cũng không sao... cô đã già và yên lành ở hàng hiên nhà cô. Còn tụi tôi lại khác.
          Jem chỉ đặt lá thư lên đầu cần câu và nhét nó qua chớp cửa sổ. Nếu có ai xuất hiện Dill sẽ rung chuông.
          Dill giơ tay phải lên. Nó cầm cái chuông bạc báo hiệu giờ ăn của mẹ tôi.
          “Tao sẽ đi vòng qua hông nhà” Jem nói. “Hôm qua tụi tao đứng bên kia đường nhìn sang thấy có một ô cửa bị long ra. Tao nghĩ ít ra tao có thể nhét nó vào bệ cửa sổ”.
          “Jem...”
          “Bây giờ mày đã dính vào chuyện này, mày không thể rút lui, mày sẽ phải tham gia, cô Priss!”
          “Được rồi, được rồi, nhưng em không muốn canh chừng. Jem, có ai đó...”
          “Mày sẽ phải canh chừng phía sau còn Dill canh chừng phía trước ngôi nhà và trên đường, nếu có ai đến nó sẽ rung chuông. Rõ chưa?”
          “Vậy được rồi. Anh viết gì cho hắn vậy?”
          Dill nói, “Tụi tao mời hắn hết sức lịch sự là thỉnh thoảng hãy ra ngoài và cho tụi mình biết hắn làm gì trong đó.. tụi tao nói tụi mình sẽ không làm hắn đau và sẽ mua cho hắn một cây kem”.
          “Mấy người điên hết rồi, hắn sẽ giết tụi mình!”
          Dill nói, “Đây là ý của tao. Tao nghĩ nếu bước ra và ngồi một lát với tụi mình có thể hắn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn”.
          “Sao mày biết hắn không cảm thấy dễ chịu?”
          “Vậy mày cảm thấy thế nào nếu mày bị nhốt một trăm năm mà chẳng có gì để ăn ngoài mèo? Tao cá là râu hắn dài đến tận đây...”
          “Giống râu ba mày hả?”
          “Ba tao không có râu, ông ấy...” Dill nín bặt, như thể cố nhớ lại.
          “Xì, xạo” tôi nói. “Mày nói trước khi xuống xe là ba mày có râu đen...”
          “Nếu đúng như vậy thì hồi mùa hè ba tao cạo rồi! Ờ phải, tao còn một lá thư để chứng minh điều đó... ông cũng gửi cho tao hai đô nữa!”
          “Tiếp đi... tao chắc là ổng còn gửi cho mày một bộ đồng phục cảnh sát kỵ binh nữa kìa! Và không bao giờ đến, đúng không? Mày cứ kể hoài những chuyện đó, đồ con...”
          Dill Harris có thể bịa những chuyện lớn lao nhất mà tôi từng nghe. Chẳng hạn như, nó đã lên máy bay chở thư mười bảy lần, nó đã đến Nova Scotia, nó đã thấy một con voi và ông nội nó là thiếu tướng Joe Wheeler và để lại cho nó thanh gươm của ông.
          “Tụi bây im hết coi” Jem nói. Anh mò dưới lớp ván sàn nhà và lấy ra một cây sào tre vàng. “Cái này có đủ dài để đứng trên vỉa hè thò vô không?”
          “Bất cứ ai có đủ can đảm bước vô ngôi nhà đều không cần dùng một cây cần câu” tôi nói. “Sao anh không đến gõ ngay cửa trước?”
          “Chuyện-này-khác,” Jem nói, “tao phải nói với mày câu này bao nhiêu lần?”
          Dill rút một miếng giấy ra khỏi túi và đưa cho Jem. Ba đứa chúng tôi thận trọng đi về phía ngôi nhà cổ. Dill dừng lại ngay cột đèn ở góc phía trước ngôi nhà, còn Jem với tôi dè dặt đi theo vỉa hè song song với hông nhà. Tôi vượt qua Jem và đứng ở nơi có thể thấy chỗ rẽ.
          “Vắng tanh” tôi nói. “Không thấy ai hết”.
          Jem nhìn lên lề đường chỗ Dill, nó gật đầu.
          Jem gắn lá thư vào đầu cần câu, thò nó ngang qua sân và đẩy về phía cửa sổ anh đã chọn. Cần câu thiếu vài phân nữa mới tới nơi, và Jem chồm tới trước hết sức mình. Tôi theo dõi anh làm những động tác thọc này hồi lâu, tôi bỏ vị trí đến chỗ anh.
          “Không hất nó ra khỏi cần câu được,” anh lầm bầm, “còn nếu hất ra được thì không để nó vào đúng chỗ được. Quay ra đường đi, Scout”.
          Tôi trở lại và nhìn quanh cung đường vắng ngắt. Thỉnh thoảng tôi nhìn về phía Jem, đang kiên nhẫn tìm cách đặt lá thứ lên bệ cửa sổ. Nó cứ rớt xuống đất và Jem cứ lo vít nó lên, cho đến khi tôi nghĩ nếu Boo Radley nhận được thì hắn cũng không thể đọc lá thư đó. Tôi đang nhìn dọc theo đường thì chuông rung lên.
          Hãy chấp nhận, tôi lảo đảo quay sang, nghĩ rằng mình sẽ đối mặt với Boo Radley và những chiếc răng nanh dễ sợ của hắn; thay vào đó tôi thấy Dill đứng trước mặt bố Atticus và đang lắc chuông cật lực.
          Jem trông có vẻ quá khốn khổ đến độ tôi không nỡ lòng nói với anh rằng tôi đã bảo anh trước rồi mà. Anh lê bước, kéo theo chiếc cần câu dài trên lề đường.
          Bố Atticus nói, “Thôi lắc cái chuông đó đi”.
          Dill nắm lấy con lắc của chuông, trong khoảng im lặng tiếp theo, tôi ước gì nó lại lắc chuông tiếp. Bố Atticus hất mũ về phía sau và đứng chống nạnh. “Jem,” ông nói, “tụi con đang làm gì vậy?”
          “Không có gì, thưa bố”.
          “Bố không muốn nghe câu trả lời đó nữa. Nói bố nghe”.
          “Con chỉ... tụi con chỉ cố đưa một thứ cho ông Radley”.
          “Tụi con cố đưa cho ông ta cái gì?”
          “Chỉ một lá thư”.
          “Đưa bố coi”.
          Jem chìa ra một mẩu giấy bẩn thỉu. Bố Atticus cầm lấy và cố đọc. “Sao tụi con lại muốn ông Radley ra ngoài?”
          Dill nói, “Tụi cháu nghĩ ông ấy sẽ thích tụi cháu..” và im bặt khi bố Atticus nhìn nó.
          “Con trai,” ông nói với Jem, “bố nói với con một điều và chỉ nói một lần thôi: chấm dứt ngay trò quấy rầy ông ấy. Điều đó áp dụng với cả hai đứa”.
          Những gì ông Radley làm là việc riêng của ông ta. Nếu ông ta muốn ra ngoài, ông ta sẽ ra. Nếu ông ta muốn ở trong nhà của ông ta thì ông ta có quyền ở lại trong đó để thoát khỏi sự chú ý của bọn trẻ tò mò, vốn đó là một thuật ngữ nhẹ nhàng dành cho những kẻ như chúng tôi. Chúng tôi sẽ nghĩ thế nào nếu bố Atticus xông vào mà không gõ cửa, khi chúng tôi ở trong phòng mình vào ban đêm? Chúng tôi, thực tế, đang làm chính điều như thế với ông Radley. Điều ông Radley làm có thể có vẻ kỳ quặc với chúng tôi, nhưng nó không kỳ quặc với ông ta. Hơn nữa, có phải chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ rằng cung cách lịch thiệp để giao tiếp với người khác là qua cửa trước thay vì qua cửa sổ không? Cuối cùng, chúng tôi phải tránh xa ngôi nhà đó cho đến khi được mời vào, chúng tôi không được chơi một trò ngu ngốc nào mà ông đã thấy chúng tôi chơi hoặc chọc ghẹo bất cứ ai trên con phố này hoặc trong thị trấn này...
          “Bọn con không chọc ghẹo ông ta, bọn con không cười nhạo ông ta,” Jem nói, “bọn con chỉ...”
          “Vậy đó là chuyện con đang làm, phải không?”
          “Chọc ghẹo ông ta hả?”
          “Không,” bố Atticus nói, “phơi bày lịch sử đời ông ta cho cả khu phố này biết hết”.
          Jem có vẻ hơi sưng lên. “Con không nói tụi con đang làm chuyện đó, con không nói vậy!”
          Bố Atticus cười khan. “Con vừa nói với bố xong” ông nói. “Tụi con ngưng ngay trò nhảm nhí này lại, cả ba đứa”.
          Jem há hốc nhìn ông.
          “Con muốn trở thành một luật sư, đúng không?” Miệng bố tôi mím lại một cách đầy nghi ngờ, như thể ông đang cố giữ cho nó mím chặt.
          Jem quyết định rằng có đôi co về chi tiết thì cũng chẳng ích gì, và im lặng. Khi bố Atticus vào trong nhà để tìm hồ sơ mà ông quên mang theo đến sở sáng nay, thì Jem mới nhận ra rằng anh đã bị hạ gục bằng cái mánh lới cổ xưa nhất từng được ghi nhận của giới luật sư. Anh đứng chờ ở một khoảng cách hợp lý tính từ bậc thềm, dõi theo bố Atticus rời khỏi nhà đi về phía thị trấn. Khi bố Atticus đi xa khỏi tầm nghe thấy, Jem mới gào lên sau lưng ông, “Con đã nghĩ muốn trở thành luật sư, nhưng bây giờ con không chắc nữa rồi!”


          Chú thích:

          [1] Trận Marne thứ nhì, hoặc trận Reims: trận đánh mang tính bước ngoặt trong Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ thứ tháng Bảy đến tháng Tám năm 1918, trong đó Đức đại bại trước Đồng minh. Trận này cũng mở đầu một loạt chiến thắng khác của Đồng minh và dẫn đến kết thúc chiến tranh.
          [2] Tín đồ Baptist (Tẩy lễ) sùng đạo đến mức cho rằng mọi thứ đều tội lỗi, nhất là những gì đem lại niềm vui.
          [3] Nguyên văn: Closed communion: giáo xứ có chủ trương chỉ làm nghi thức thánh thể (rước lễ) cho những người trong giáo xứ, chứ không cho những tín hữu vãng lai.

          Comment


          • #6
            Chương 6


            “Được” bố tôi nói khi Jem hỏi liệu chúng tôi có thể qua ngồi cạnh hồ cá của cô Rachel với Dill không, vì đây là đêm cuối cùng của nó ở Maycomb. “Tạm biệt cậu ta giùm bố luôn, chúng ta sẽ gặp lại cậu ta vào mùa hè sang năm”.
            Chúng tôi nhảy qua bức tường thấp ngăn giữa sân của cô Rachel và đường lái xe của chúng tôi. Jem huýt sáo giọng chim đa đa và Dill trả lời trong bóng tối.
            “Không một ngọn gió” Jem nói. “Nhìn đằng kia kìa”.
            Anh chỉ về hướng Đông. Mặt trăng khổng lồ nhô lên phía sau rặng câu hồ đào của cô Maudie. “Nó khiến trời có vẻ nóng hơn” anh nói.
            “Tối nay có hình thánh giá trên đó hả?” Dill hỏi, không nhìn lên. Nó đang làm một điếu thuốc từ tờ báo và một sợi dây.
            “Không, chỉ có chị Hằng. Đừng đốt nó, Dill, mày sẽ làm hôi rình cả góc phố này đó”.
            Có một phụ nữ trong mặt trăng ở Maycomb. Cô ta ngồi chải tóc trước chiếc gương trang điểm.
            “Tụi tao sẽ nhớ mày đó, nhóc” tôi nói. “Chắc mình nên chờ xem ông Avery hả?”
            Ông Avery ở thuê bên kia đường đối diện nhà bà Henry Lafayette Dubose. Ngoài việc làm thay đổi trong đĩa tiền quyên góp mỗi Chủ nhật, ông Avery còn ngồi ngoài hiên mỗi tối cho đến chín giờ và hắt hơi. Một tối nọ chúng tôi được ông cho hưởng đặc ân chứng kiến một màn trình diễn có vẻ như là lần cuối cùng của ông, vì chúng tôi đã chờ xem biết bao lâu mà ông không hề làm như vậy lần nữa. Một đêm nọ khi tôi và Jem rời hàng hiên nhà cô Rachel thì Dill ngăn tụi tôi lại, “Này, nhìn đằng kia xem”. Nó chỉ sang bên kia đường. Thoạt tiên chúng tôi chẳng thấy gì ngoài giàn nho phủ hiên trước, nhưng nhìn kỹ thì thấy một tia nước cong vòng từ trên đám lá, chúng tôi ước chừng nó cách mặt đất khoảng ba mét, đổ xuống và văng tung tóe trong vòng tròn vàng kệch của ngọn đèn đường. Jem nói ông Avery tính toán sai. Dill nói ông ta phải uống khoảng hơn bốn lít một ngày, và cuộc thi đua kế tiếp sau đó để xác định khoảng cách tương đối và tài năng của mỗi đứa lại làm tôi cảm thấy bị ra rìa, vì tôi không có khiếu trong lĩnh vực này.
            Dill vươn vai, ngáp, và nói hết sức thản nhiên. “Tao biết chuyện gì tôi, tụi mình đi dạo một lát đi”.
            Tôi nghe giọng nó đáng ngờ. Không ai ở Maycomb này đi dạo khơi khơi cả. “Đi đâu vậy, Dill?”
            Dill hất đầu về hướng Nam.
            Jem nói, “OK”. Khi tôi phản đối, anh nói ngọt ngào, “Mày không cần phải đi theo, Angel May”.
            “Mày không phải đi. Nên nhớ...”
            Jem không phải là người nghĩ mãi tới những thất bại đã qua: có vẻ thông điệp duy nhất anh nhận được từ bố Atticus là sự hiểu thấu nghệ thuật kiểm tra chéo. “Scout, tụi tao không tính làm gì cả, chỉ đi đến chỗ đèn đường rồi quay lại thôi”.
            Chúng tôi lặng lẽ đi dọc vỉa hè, lắng nghe tiếng ghế xích đu ở hàng hiên kẽo kẹt dưới sức nặng của người hàng xóm, lắng nghe tiếng thì thào nho nhỏ của người lớn trong khu phố chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng cô Stephanie Crawford cười lớn.
            “Sao?” Dill nói.
            “Được” Jem đáp. “Sao mày không về nhà đi, Scout?”
            Đơn giản là Dill và Jem sẽ nhìn trộm qua ô cửa sổ bị long thanh chớp để xem chúng có thể thấy Boo Radley không, và nếu tôi không muốn đi với chúng, tôi có thể về thẳng nhà và giữ im cái miệng bép xép, vậy thôi.
            “Nhưng làm cái quái gì mà mấy ông đợi tối nay vậy?”
            Bởi vì không ai thấy chúng vào ban đêm, bởi vì bố Atticus sẽ đắm mình vào cuốn sách đến nỗi không nghe thấy nước Chúa trị đến, bởi vì nếu Boo Radley có giết chúng thì chúng chỉ lỡ mất năm học thay vì mất kỳ nghỉ hè, và bởi vì đứng trong bóng tối thì dễ thấy bên trong một ngôi nhà hơn giữa ban ngày, tôi hiểu không?
            “Jem, làm ơn...”
            “Scout, tao nói với mày lần cuối, im mồm hoặc cút về nhà.. tao nói có Chúa chứng giám là mày ngày càng giống một đứa con gái”.
            Nghe câu đó, tôi không có chọn lựa nào khác ngoài việc theo họ. Chúng tôi nghĩ tốt nhất là chui dưới hàng rào dây kẽm cao ở phía sau khu đất nhà Radley, chúng tôi ít có nguy cơ bị nhìn thấy hơn. Hàng rào bao bọc một mảnh vườn lớn và một nhà vệ sinh nhỏ bằng gỗ.
            Jem kéo sợi dây hàng rào kẽm thấp nhất lên và Dill chui qua. Tôi theo sau, nâng hào rào cho Jem. Khoảng trống quá nhỏ đối với Jem. “Đừng gây tiếng động” anh thì thào. “Có làm gì đi nữa thù đừng bước vào luống cải, chúng đánh thức được cả người chết [1]”.
            Ghi nhớ điều đó, nên tôi có lẽ phải mất một phút mới đi được một bước. Tôi di chuyển nhanh hơn khi thấy Jem tuốt đằng trước vẫy tay ra hiệu dưới ánh trăng. Chúng tôi tới cái cổng ngăn cách khu vườn với sân sau. Jem chạm vào nó. Cánh cổng kêu ken két.
            “Nhổ nước bọt vào đó” Dill thì thầm.
            “Anh đưa cả lũ vô chỗ bí, Jem” tôi lầm bầm. “Mình không dễ gì rời khỏi chỗ này đâu”.
            “Suỵt, nhổ nước bọt vào đó đi, Scout”.
            Chúng tôi phun đến khô miệng, và Jem mở cổng từ từ, nhấc nó qua một bên và để dựa vào hàng rào. Chúng tôi đã ở trong sân sau.
            Phía sau nhà Radley không dễ coi bằng phía trước: một hàng hiên đổ nát chạy suốt chiều dài ngôi nhà; có hai cửa cái và hai cửa sổ xen kẽ với cửa cái. Thay vì có một trụ lớn, thì chỉ có một cây cột vuông chống một đầu mái nhà. Một cái lò Franklin cũ [2] nằm ở góc hàng hiên; bên trên nó là một tấm gương kèm giá treo mũ phản chiếu ánh trăng và sáng lên một vẻ kỳ bí.
            “Aaa” Jem thì thào, nhấc chân cao lên.
            “Gì vậy?”
            “Lũ gà con” anh thở ra.
            Việc chúng tôi buộc phải né tránh những thứ không thấy được từ mọi phía được khẳng định khi Dill dẫn đầu chúng tôi thì thào đánh vần chữ C-h-ú-a. Chúng tôi bò đến hông nhà, vòng tới ô cửa chớp bị long. Bệ cửa cao hơn Jem đến mấy tấc.
            “Làm kiệu cho mày lên nghe” Jem thì thào với Dill. “Đợi đã”. Jem nắm lấy cổ tay trái của anh ấy và cổ tay phải của tôi, còn tôi nắm lấy cổ tay trái của tôi và cổ tay phải của Jem, chúng tôi ngồi thấp xuống và Dill ngồi lên cái kiệu của tụi tôi. Bọn tôi nâng nó lên và nó bám vào được bệ cửa sổ.
            “Lẹ lên,” Jem thì thào, “tụi tao không chịu được lâu đâu”.
            Dill đám vai tôi và tụi tôi hạ nó xuống đất.
            “Mày thấy cái gì?”
            “Chẳng thấy gì. Mấy tấm màn. Dù sao cũng có ánh đè le lói đâu đó”.
            “Rút khỏi chỗ này đi” Jem thơ ra. “Mình vòng lại ra phía sau. Suỵt”. Anh cảnh báo tôi, khi tôi định phản đối.
            “Thử dòm ra cửa sổ phía sau đi”.
            “Dill, không” tôi nói.
            Dill dừng lại và để Jem đi trước. Khi Jem đặt chân lên bậc cấp cuối cùng, nó kêu cót két. Jem đứng im, rồi thử trọng lượng của anh từng chút một. Bậc cấp im lặng, Jem bỏ hai bậc, đặt chân lên hàng hiên rồi thót cả người lên, và lảo đảo một hồi lâu. Anh lấy lại thăng bằng và quỳ xuống. Anh bò tới cửa sổ, ngỏng đầu lên, nhìn vào.
            Rồi tôi thấy một cái bóng. Nó là bóng một người đàn ông đội mũ. Mới đầu tôi tưởng đó là cái cây, nhưng không có gió thổi, và thân cây không bao giờ đi. Hàng hiên sau nhà ngập tràn ánh trăng, và cái bóng, cứng còng, băng qua hàng hiên tiến về phía Jem.
            Dill thấy cái bóng sau tôi. Nó đưa hai tay che mặt.
            Khi cái bóng lướt ngang qua Jem, Jem cũng trông thấy. Anh vòng tay ôm đầu và đứng im.
            Cái bóng dừng lại cách Jem vài tấc. Cánh tay nó từ hông giơ lên, rồi buông xuống, và đứng im. Rồi nó xoay người lại, đi qua chỗ Jem, đi dọc theo hàng hiên và biến mất bên hông nhà, trở lại như nó đã đến.
            Jem phóng khỏi hàng hiên và chạy về phía tụi tôi. Anh giật mở cánh cổng, lôi Dill và tôi qua, và xua chúng tôi xuống hai luống cải. Chạy được nửa đường, tôi vấp té; khi tôi vấp, tiếng gầm của khẩu súng săn ầm vang cả khu phố.
            Dill và Jem kè bên tôi, Jem thở hổn hển không ra hơi, “Hàng rào mé sân trường!... Lẹ lên, Scout!”
            Jem kéo sợi dây kẽm lên, tôi và Dill chui qua và khi đã chạy được nửa đường đến chỗ cây sồi lẻ loi giữa sân trường chúng tôi mới nhận ra Jem không theo chúng tôi. Bọn tôi chạy trở lại và thấy anh đang lăn lộn ở hàng rào, đã tuột cái quần dài ra để thoát thân. Anh chạy tới cây sồi trong chiếc quần soóc.
            An toàn sau thân cây, chúng tôi chết lặng nhưng đầu óc Jem đang hoạt động, “Mình phải về nhà, mọi người sẽ nhận ra mình vắng mặt”.
            Chúng tôi chạy băng qua sân trường, bò dưới hàng rào vào Bãi Hoẵng sau nhà chúng tôi, leo qua hàng rào sau nhà và tới được bậc tam cấp cửa sau thì Jem mới cho tụi tôi dừng lại nghỉ.
            Khi thở được bình thường, ba chúng tôi cố ra vẻ tà tà đi ra sân trước. Bọn tôi nhìn ra đường và thấy một nhóm người hàng xóm tụ tập ngay trước cổng nhà Radley.
            “Mình tới đó đi” Jem nói. “Họ sẽ thấy kỳ lạ nếu tụi mình không xuất hiện”.
            Ông Nathan Radley đang đứng bên trong cổng nhà ông, tay ôm khẩu súng săn đã gãy. Bố Atticus đứng ngay cạnh cô Maudie và Stephanie Crawford. Cô Rachel và ông Avery đứng kế bên. Không ai trong số họ thấy bọn tôi đến.
            Chúng tôi chen vào cạnh cô Maudie, lúc đó đang nhìn quanh. “Mấy đứa ở đâu vậy, bộ không nghe thấy vụ lộn xộn này hả?”
            “Có chuyện gì vậy?” Jem hỏi.
            “Ông Radlay bắn một tên da đen trong vườn rau nhà ông”.
            “Ồ. Có bắn trúng không?”
            “Không” cô Stephanie nói. “Bắn chỉ thiên. Dù sao cũng làm hắn sợ xanh mặt. Nói nếu ai thấy một tên đen nhưng da lại trắng quanh đây, thì chính là người đó. Nói ông ta có cái nòng súng khác cho tiếng động kế tiếp ông ta nghe được trong vườn rau, và lần kế ông ta sẽ không nhắm cao nữa đâu, dù có là con chó, tay da đen, hay... Jem Finch!
            “Sao cô?” Jem hỏi.
            Bố Atticus hỏi, “Quần dài của con đâu, con trai?”
            “Quần dài hả, bố?”
            “Quần dài”.
            Vô phương cứu vãn. Anh chỉ mặc quần soóc trước mặt Chúa và mọi người. Tôi thở dài.
            “A... ông Finch?”
            Trong ánh sáng chói của ngọn đèn đường, tôi có thể thấy Dill đang có một âm mưu: mắt nó mở to, khuôn mặt bầu bĩnh của nó tròn hơn.
            “Gì đó Dill?” Bố Atticus hỏi.
            “A... cháu thắng được quần của nó” nó nói mơ hồ.
            “Thắng được quần của nó? Cách nào”
            Dill sờ gáy, rồi đưa tay ngang trán. “Tụi cháu chơi đánh phé cởi đồ đằng kia cạnh hồ cá” nó nói.
            Jem và tôi nhẹ nhõm. Những người hàng xóm có vẻ hài lòng: tất cả họ cứng đờ người lại. Nhưng đánh phé cởi đồ là gì?
            Chúng tôi không có cơ hội để khám phá: cô Rachel rú lên như cái còi báo cháy của trị trấn, “C-h-ú-a ơ-i, Dill Harris! Đánh bài ngay hồ cá của cô? Cô sẽ đánh phé cởi đồ cháu đây, ông nhóc ạ!”
            Bố Atticus cứu Dill khỏi tội phân thây tức thì. “Khoan đã, cô Rachel” ông nói. “Trước đây tôi chưa từng nghe nói bọn trẻ chơi trò này. Cả bọn chơi bài lá hả?”
            Jem bắt gọn quả bóng Dill đập qua với đôi mắt nhắm nghiền [3], “Không, thưa bố, chỉ bằng mấy que diêm”.
            Tôi phục ông anh mình. Những que diêm thì nguy hiểm, nhưng những lá bài là tai họa.
            “Jem, Scout,” bố Atticus nói, “bố không muốn nghe vụ bài bạc dưới bất cứ hình thức nào nữa, nghe chưa. Đi với Dill và lấy quần lại, Jem. Con tự giải quyết”.
            “Đừng lo, Dill,” Jem nói, khi chúng tôi đi trên vỉa hè, “cô ấy sẽ không phạt mày đâu. Bố tao sẽ thuyết phục cô về chuyện này. Đó là nhanh trí đó, ông tướng. Im nào... tụi bây có nghe không?”
            Chúng tôi dừng lại, và nghe giọng bố Atticus, “... không nghiêm trọng... tất cả chúng đều trải qua, cô Rachel...”
            Dill nhẹ nhõm, nhưng Jem với tôi thì không. Đó là vấn đề Jem bày ra cái quần nào đó vào buổi sáng.
            “Để tao đưa mày quần của tao” Dill nói, khi chúng tôi tới bậc thềm nhà cô Rachel. Jem nói anh mặc nó không vừa, nhưng dù sao cũng cám ơn. Chúng tôi tạm biệt nhau, và Dill đi vào nhà. Rõ ràng nó nhớ ra nó đã đính hôn với tôi, vì vậy nó quay trở ra và hôn tôi thật nhanh trước mặt Jem. “Nhớ viết thư, nghe không?” Nó gào lên sau lưng chúng tôi.
            Nếu cái quần của Jem có nằm an toàn trên người Jem, thì chúng tôi hẳn cũng không ngủ được nhiều. Mỗi âm thanh đêm tôi nghe từ chiếc giường của tôi ở hiên sau nhà đều được phóng đại gấp ba lần; mỗi tiếng chân bước trên sỏi là Boo Radley đang tìm cách trả thù, mỗi người da đen đi ngang qua cười nói ầm ĩ trong đêm là Boo Radley đang lang thang truy tìm chúng tôi; những côn trùng đâm bổ vào cửa lưới là những ngón tay điên rồ của Boo Radley đang ngắt sợi kẽm thành từng mẩu; những cây xoan hiểm ác, chờn vờn, sống động. Tôi chập chờn giữa ngủ và thức cho đến khi nghe Jem lầm bầm.
            “Ngủ chưa, Ba Mắt nhỏ?”
            “Anh khùng hả?”
            “Suỵt. Đèn của bố Atticus tắt rồi”.
            Trong ánh trăng tàn tôi thấy Jem búng chân xuống đất.
            “Tao đi lấy lại nó” anh nói.
            Tôi ngồi bật dậy. “Không được. Em không để anh đi đâu”.
            Anh mặc áo vào. “Tao phải lấy nó về”.
            “Nếu anh đi em sẽ kêu bố Atticus dậy”.
            “Mày làm vậy là tao giết mày”.
            Tôi kéo anh xuống cạnh tôi trên giường. Tôi cố thuyết phục anh. “Ông Nathan sẽ tìm thấy nó sáng mai, Jem. Ông ta biết anh làm mất nó. Khi ông ta đưa nó cho bố Atticus thì tình hình sẽ khá tệ hại, nhưng chỉ vậy thôi. Thôi đi ngủ đi”.
            “Tao cũng biết vậy” Jem nói. “Thế nên tao mới phải đi lấy nó về”.
            Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu. Một mình anh quay lại chỗ đó... tôi nhớ cô Stephannie nói: ông Nathan có một nòng súng khác cho tiếng động kế tiếp ông ta nghe được, dù đó là con chó, tay da đen... Jem biết điều đó rõ hơn tôi.
            Tôi tuyệt vọng, “Nghe nè, nó không đáng, Jem à. Một cú đánh thì đau nhưng không kéo dài. Anh sẽ bị bắn nát đầu, Jem. Làm ơn...”
            Anh thở ra một cách kiên nhẫn. “Tao... nó giống như vậy nè, Scout” anh lầm bầm. “Từ khi tao có trí khôn tới giờ bố Atticus chưa từng đánh đòn tao. Tao muốn giữ điều đó”.
            Đây là một ý tưởng. Có vẻ như bố Atticus dọa nạt chúng tôi mỗi ngày. “Ý anh muốn nói rằng bố Atticus chưa từng bắt quả tang anh bất cứ chuyện gì”.
            “Có lẽ thế, nhưng... tao chỉ muốn giữ nó như vậy hoài, Scout. Lẽ ra tối nay mình không nên làm chuyện đó, Scout”.
            Đến lúc đó, tôi cho rằng tôi và Jem bắt đầu rạn nứt. Đôi khi tôi không hiểu anh ấy, nhưng những thời kỳ hoang mang của tôi khá ngắn ngủi. Điều này quá tầm của tôi. “Làm ơn,” tôi van nài, “anh không thể nghĩ về nó chỉ trong một phút sao... một mình anh ở đó...”
            “Im mồm!”
            “Nó không giống chuyện bố không bao giờ nói với anh nữa hoặc một điều gì đó... em sẽ kêu bố dậy, Jem, em thề là em...”
            Jem nắm lấy cổ áo ngủ của tôi vặn chặt. “Vậy em sẽ đi với anh...” Tôi nghẹt thở.
            “Không mày không được đi. Mày sẽ chỉ làm ồn”.
            Thật toi công. Tôi mở chốt cửa sau và giữ nó trong khi anh bò xuống các bậc thềm. Lúc đó hẳn đã hai giờ. Trăng sắp lặn và những hàng rào mắt cáo mờ dần. Chiếc áo sơ mi trắng của Jem nhấp nhô giống như một con ma nhỏ nhảy trốn buổi sáng đang đến. Một cơn gió nhẹ thổi qua làm lạnh mồ hôi đang chảy hai bên mặt tôi.
            Anh đi ngõ sau, qua bãi Hoẵng, băng qua sân trường và vòng tới hàng rào, tôi nghĩ vậy... ít ra đó là lộ trình anh đang nhắm theo. Đường đi đó sẽ mất nhiều giờ hơn, vì vậy chưa đến lúc phải lo. Tôi chờ cho đến lúc phải lo và chờ nghe tiếng súng của ông Radley. Rồi tôi nghĩ mình nghe hàng rào sau kêu cót két. Đó chỉ là mơ tưởng.
            Rồi tôi nghe bố Atticus ho. Tôi nín thở. Đôi khi nửa đêm đến phòng tắm chúng tôi thường thấy ông đang đọc sách. Bố nói ông thường thức giấc lúc nửa đêm, kiểm tra tụi tôi, rồi đọc sách lại để ngủ. Tôi chờ đèn của bố bật lên, căng mắt nhìn ánh sáng tràn ngập căn phòng. Đèn vẫn tắt, và tôi thở phào.
            Những con giun đã về nghỉ, nhưng những quả xoan chín vẫn gõ trên mái nhà khi gió thoảng qua, và bóng tối thảm não với tiếng chó sủa xa xa.
            Anh ấy kia rồi, đang trở lại với tôi. Tấm áo trắng của anh thấp thoáng bên hàng rào sau nhà và rõ dần hơn. Anh bước lên những thềm sau nhà, đóng chốt cửa sau lưng lại và ngồi xuống giường của mình. Không nói lời nào, anh giơ cái quần lên. Anh nằm xuống, và trong một lát tôi nghe giường anh rung lên. Rồi anh nằm im, tôi không nghe anh ngọ nguậy nữa.


            Chú thích:


            [1] Đây là loại cải bẹ xanh (collard), lá rộng và dài mọc lòa xòa ra hai bên, nên rất khó đi giữa hai liếp cải mà không gây loạt xoạt.
            [2] Lò sưởi bằng sắt do Benjamin Franklin sáng chế.
            [3] Ý nói hai đứa tung hứng rất khớp.

            Comment


            • #7
              Chương 7




              Jem ủ rũ và im lặng suốt một tuần. Như bố Atticus đã có lần khuyên tôi làm, tôi thử đặt mình vào vị trí Jem và ứng xử như anh ấy xem sao: nếu tôi đi một mình đến nhà Radley lúc hai giờ sáng, đám tang của tôi hẳn đã được tổ chức vào chiều hôm sau. Vì vậy tôi để Jem một mình và cố không quấy rầy anh.
              Năm học bắt đầu. Lớp hai cũng tồi tệ như lớp một, thậm chí tệ hơn-họ vẫn chìa tấm thẻ vào mặt bạn và không cho bạn đọc hay viết. Sự tiến bộ của cô Caroline ở lớp kế bên có thể được ước tính bằng tần số tiếng cười; tuy nhiên, cái nhóm như thường lệ không qua được lớp một vẫn ở nguyên đó, và chúng có công lớn trong việc giữ trật tự. Điều lý thú duy nhất của lớp hai là năm nay tôi phải ở lại muộn bằng Jem, và anh em tôi thường cùng về nhà lúc ba giờ.
              Một buổi chiều khi chúng tôi băng qua sân trường về phía nhà, bất ngờ Jem nói, “Có một điều tao chưa nói với mày”.
              Vì đây là câu chuyện trọn vẹn đầu tiên của anh sau nhiều ngày, nên tôi khuyến khích anh, “Về chuyện gì?”
              “Về đêm đó”.
              “Anh không hề nói với em bất cứ chuyện gì về đêm đó” tôi nói.
              Jem xua những lời của tôi như quạt mấy con ruồi nhuế. Anh im lặng một lát, rồi nói, “Khi trở lại để lấy cái quần... nó rối nùi từ khi tao tuột nó ra, tao không gỡ nó ra được. Khi tao quay lại...” Jem hít một hơi sâu. “Khi tao quay lại, nó được xếp vắt ngang qua hàng rào... giống như nó đang chờ tao vậy”.
              “Ngang...”
              “Và còn chuyện nữa...” Giọng Jem chùng xuống. “Về nhà tao cho mày xem. Nó đã được khâu lại. Không giống một phụ nữ khâu, mà giống kiểu tao ráng làm. Nhăn nhúm hết trơn. Hầu như giống...”
              “... ai đó biết anh sẽ quay lại kiếm nó”.
              Jem rùng mình. “Giống như ai đó đọc được ý nghĩ của tao... giống như ai đó có thể biết tao sắp làm gì. Không ai có thể biết tao sắp làm gì trừ khi họ biết tao, đúng không, Scout?”
              Câu hỏi của Jem là một lời khẩn cầu, tôi trấn an anh, “Không ai có thể biết anh sắp làm gì trừ khi họ sống trong nhà này với anh, còn em thậm chí còn không biết nữa kia”.
              Chúng tôi đi ngang cái cây của mình. Trong lỗ hốc của nó có một cuộn dây xám.
              “Đừng lấy nó, Jem” tôi nói. “Đây là chỗ giấu của ai đó”.
              “Tao không nghĩ thế, Scout”.
              “Phải mà. Ai đó như Walter Cunningham đến đây vào mỗi giờ nghỉ và giấu các thứ của nó... và tụi mình đi ngang rồi lấy của nó. Nghe nè, cứ để nó ở đó vài ngày. Nếu nó còn đó, mình sẽ lấy, đồng ý không?”
              “Đồng ý, có thể mày đúng” Jem nói. “Chắc nó là chỗ của thằng nhóc nào đó... giấu những thứ của nó khỏi bọn lớn hơn. Mày biết là chỉ khi đi học mình mới thấy mấy thứ đó”.
              “Phải,” tôi nói, “nhưng tụi mình đâu có đi ngang đây trong lúc nghỉ hè”.
              Chúng tôi về nhà. Sáng hôm sau cuộn dây vẫn còn ở nơi chúng tôi để nó lại. Khi nó vẫn ở đó vào ngày thứ ba, Jem bèn bỏ nó vào túi. Từ đó trở đi chúng tôi xem mọi thứ tìm thấy trong lỗ hốc đó là tài sản của chúng tôi.
              Lớp hai thật chán, nhưng Jem cam đoan rằng tôi càng lớn trường học càng tốt hơn, rằng mới đầu anh cũng vậy, và mãi đến lớp sáu người ta mới học được điều đáng giá. Lớp sáu có vẻ khiến anh vui từ đầu: anh học qua Thời kỳ Ai Cập mà tôi thấy khó hiểu... anh cố đi thẳng đơ người, giơ một tay tới trước và một tay ra sau, để bàn chân này sau bàn chân kia. Anh tuyên bố người Ai Cập đi theo kiểu đó; tôi nói nếu họ đi như vậy, tôi không biết làm thế nào họ hoàn thành công việc được, nhưng Jem nói họ đạt thành quả hơn người Mỹ nhiều, họ đã chế ra giấy vệ sinh và thuật ướp xác vĩnh viễn, và hỏi ngày nay chúng ta sẽ ở đâu nếu họ không nghĩ ra những thứ ấy? Bố Atticus bảo tôi bỏ bớt những tính từ và tôi sẽ có các sự kiện [1].
              Ở Nam Alabama các mùa không được xác định rõ ràng; mùa hè lan sang mùa thu, và mùa thu đôi khi không có mùa đông nối theo sau, mà chuyển sang một mùa xuân ngắn ngủi rồi tan lại vào mùa hè. Mùa thu năm đó là một mùa thu dài, hầu như không lạnh đến mức cần tới một chiếc áo khoác mỏng. Jem và tôi đang đi theo quỹ đạo của chúng tôi vào một chiều tháng Mười dịu mát thì cái hốc cây khiến chúng tôi dừng lại. Lần này có cái gì trăng trắng trong đó.
              Jem dành cho tôi đặc ân: tôi lôi ra hai hình nhân nhỏ được tạc bằng miếng xà bông. Một cái tạc hình đứa con trai, hình kia mặc chiếc đầm thô.
              Trước khi tôi nhớ ra rằng không có thứ bùa ếm nào như vậy, tôi đã hét lên và ném chúng xuống.
              Jem lượm chúng lên. “Có chuyện gì với mày vậy?” Anh gào lên. Anh chùi sạch bụi đỏ bám trên chúng. “Mấy cái này hên lắm” anh nói. “Tao chưa từng thấy thứ đẹp như vậy”.
              Anh thả chúng xuống tay tôi. Chúng gần như là hình ảnh thu nhỏ hoàn hảo về hai đứa trẻ. Đứa con trai mặc quần soóc, và một lọn tóc bù xù xõa xuống chân mày nó. Tôi nhìn lên Jem. Một lọn tóc nâu thẳng rũ xuống từ đường ngôi. Trước đây tôi chưa từng nhận ra điểm này.
              Jem nhìn từ búp bê gái sang tôi. Búp bê có tóc che kín nửa trán. Tôi cũng vậy.
              “Nhưng hình này là tụi mình” anh nói.
              “Theo anh ai làm chúng?”
              “Ai ở quanh đây biết đẽo gọt mà tụi mình biết?” Anh ấy hỏi.
              “Ông Avery”.
              “Ông Avery chỉ làm giống vậy. Ý tao nói chạm khắc”.
              Ông Avery làm trung bình một thanh củi một tuần; ông gọt đến lúc nó nhỏ lại còn bằng cây tăm rồi nhai nó.
              “Đó là người yêu của cô Stephanie Crawford” tôi nói.
              “Ông ta khắc được, nhưng ông sống ở vùng nông thôn. Ông ta chú ý đến tụi mình hồi nào vậy?”
              “Có lẽ ông ngồi ở hàng hiên và nhìn tụi mình thay vì cô Stephanie. Nếu em là ông ta, em sẽ làm vậy”.
              Jem nhìn tôi rất lâu đến độ tôi hỏi có chuyện gì vậy, nhưng chỉ nhận được câu trả lời Không Có Gì, Scout à. Khi về tới nhà, Jem cất hai con búp bê vào rương của anh.
              Chưa đầy hai tuần sau, chúng tôi nhận được nguyên một gói kẹo cao su, mà chúng tôi cứ thế tận hưởng, lời đồn rằng mọi thứ ở khu nhà Radley đều là thuốc độc đã trôi khỏi ký ức của Jem.
              Tuần kế tiếp lỗ bọng đó chứa một huy chương xỉn màu. Jem đưa nó cho bố Atticus xem, ông nói đó là huy chương đánh vần, rằng trước khi tụi tôi ra đời các trường ở hạt Maycomb có những cuộc thi đánh vần và thưởng huy chương cho người thắng cuộc. Bố Atticus nói chắc có ai làm mất nó, và hỏi tụi tôi đã hỏi lòng vòng xung quanh chưa? Jem đá chân tôi khi tôi định khai ra nơi chúng tôi nhặt được nó. Jem hỏi liệu bố Atticus có nhớ ai đã nhận được một cái không, bố Atticus nói không.
              Món quà lớn nhất của chúng tôi xuất hiện bốn ngày sau đó. Nó là chiếc đồng hồ bỏ túi không còn chạy nữa, gắn vào một sợi dây chuyền có con dao nhôm.
              “Anh có nghĩ đó là vàng trắng không, Jem?”
              “Không biết. Để tao đưa cho bố xem”.
              Bố Atticus nói chắc nó đáng giá mười đô, gồm con dao, dây chuyền các thứ, nếu nó còn mới. “Con có đổi chác với ai trong trường không?” Ông hỏi.
              “Ồ, không, thưa bố!” Jem lôi ra cái đồng hồ của ông nội mà bố Atticus cho anh ấy đeo mỗi tuần một lần nếu anh giữ nó cẩn thận. Vào những ngày đeo đồng hồ đó, Jem đi đứng rất cẩn thận. “Bố, nếu bố đồng ý, con giữ được cái này xài thay cái kia. Không chừng con sửa nó được”.
              Khi cái mới thay thế dần cái đồng hồ của ông nội, và việc đeo nó trở thành một nhiệm vụ phiền toái trong ngày, Jem không còn cảm thấy sự cần thiết của việc xác minh giờ giấc năm phút một lần nữa.
              Anh đã làm việc sửa chữa ngon lành, chỉ có một lò xo và hai mẩu nhỏ xíu được bỏ ra, nhưng đồng hồ vẫn không chạy. “Ô-h,” anh thở dài, “nó không bao giờ chạy, Scout...?”
              “Hả?”
              “Mày có cho là mình nên viết một lá thư cho người để lại những thứ này cho mình không?”
              “Đúng vậy, Jem, mình cám ơn họ... có gì sai đâu?”
              Jem nắm hai lỗ tai, lắc đầu qua lại. “Tao không hiểu, tao vẫn không hiểu được... tao không biết tại sao, Scout...” Anh nhìn về phía phòng khách. “Tao nghĩ tốt hơn là nói với bố Atticus... không, tao cho là không”.
              “Em sẽ nói với bố dùm anh”.
              “Không, đừng làm vậy, Scout. Scout nè?”
              “Gì?”
              Suốt buổi tối anh đã định nói với tôi điều gì đó; khuôn mặt anh sáng bừng và anh chồm tới bên tôi, rồi anh đổi ý. Giờ anh lại đổi ý nữa. “Ô, không có gì”.
              “Nè, mình viết thư đi”. Tôi chìa tờ giấy và cây bút chì vào ngay mũi anh.
              “Được rồi. Kính thưa ông...”
              “Sao anh biết đó là đàn ông? Em cá đó là cô Maudie... em tin chắc điều đó từ lâu”.
              “Á... à, cô Maudie đâu có nhai kẹo cao su...” Jem cười toe. “Mày biết đó, nhiều khi cô có thể nói chuyện khá thật. Có lần tao mời cô một thanh kẹo cao su cô nói không, cám ơn, rằng... kẹo cao su dính vào vòm miệng làm cô không nói chuyện được” Jem nói một cách thận trọng. “Điều đó bộ không hay sao?”
              “Phải,có khi cô ấy có thể nói những điều hay ho. Nhưng dù sao cô cũng không có đồng hồ đeo tay với sợi dây chuyền”.
              “Thưa ngài,” Jem nói “chúng tôi trân trọng cái... không, chúng tôi trân trọng mọi thứ mà ngài đặt vào cây cho chúng tôi. Kính thư, Jeremy Atticus Finch”.
              “Ông ta đâu biết anh là ai nếu anh ký tên như vậy?”
              Jem tẩy tên anh và viết, “Jem Finch” . Tôi ký tên, “Jean Louise Finch (Scout)” bên dưới. Jem để lá thư vào bì thư.
              Sáng hôm sau trên đường đến trường anh chạy trước tôi và dừng lại chỗ cái cây. Jem đang quay mặt về phía tôi khi anh nhìn lên, và tôi thấy anh trở nên trắng bệch.
              “Scout!”
              Tôi chạy tới chỗ anh.
              Có ai đó đã trám lỗ bọc đó bằng xi măng.
              “Đừng khóc, Scout, lúc này... đừng khóc lúc này, mày không lo rằng...” Anh thì thầm với tôi suốt đường đến trường.
              Khi chúng tôi về nhà ăn trưa Jem nuốt vội nuốt vàng, chạy ra hàng hiên và đứng ở bậc thềm. Tôi theo anh. “Chưa có ai đi ngang đó” anh nói.
              Ngày hôm sau Jem lặp lại việc trông chừng của anh và được đền bù.
              “Ô, chào ông Nathan” anh nói.
              “Chào buổi sáng Jem, Scout” ông Nathan nói khi đi ngang qua.
              “Ông Radley” Jem nói.
              Ông Radley quay sang.
              “Ông Radlay, ờ... ông trét xi măng vào cái lỗ ở cây đằng kia kìa ạ?”
              “Phải” ông đáp “Ta trét nó đó”.
              “Sao ông làm vậy?”
              “Cây sắp chết. Cháu dùng xi măng trét vào khi chúng bệnh. Cháu phải biết điều đó, Jem”.
              Jem không nói gì về chuyện đó cho đến chiều tối. Khi chúng tôi đi ngang cái cây của chúng tôi anh vỗ một cách trầm tư vào lớp xi măng của nó, và vẫn chìm sâu trong suy nghĩ. Có vẻ như anh đang buồn phiền vì vậy tôi giữ khoảng cách.
              Như thường lệ, chúng tôi đón bố Atticus đi làm về tối đó. Khi tới bậc thềm, Jem nói. “Bố Atticus, làm ơn nhìn ra đằng kia chỗ cái cây đó”.
              “Cây nào, con trai?”
              “Cái cây ngay góc khu đất nhà Radley trên đường tới trường đó”.
              “Sao?”
              “Cây đó sắp chết hả?”
              “Ồ, không, con trai, bố không nghĩ thế. Nhin lá nó kìa, chúng sum suê và xanh um, đâu có chỗ nào úa đâu...”
              “Thậm chí nó không bệnh nữa hả bố?”
              “Cái cây đó khỏe mạnh như con vậy, Jem. Có chuyện gì?”
              “Ông Nathan nói cây đó sắp chết”.
              “Cũng có thể. Bố chắc ông biết nhiều về cây của ông hơn chúng ta”.
              Bố Atticus để chúng tôi ở lại hàng hiên. Jem tựa vào cây cột, cọ vai vào đó.
              “Anh ngứa hả, Jem?” Tôi hỏi một cách hết sức lịch sự. Anh không trả lời. “Vào nhà đi Jem”. tôi nói.
              “Lát nữa đi”.
              Anh đứng đó cho đến khi đêm xuống, và tôi chờ anh. Khi chúng tôi đi vào nhà, tôi thấy anh nãy giờ đã khóc, mặt anh bẩn ở những chỗ có thể có nước mắt, nhưng tôi nghĩ thật kỳ lạ là tôi không hề nghe tiếng anh khóc.


              Chú thích:

              [1] Jem bắt chước dáng điệu của người Ai Cập qua tranh vẽ của họ (trên tường, đồ gốm...) còn Atticus bảo Scoutt bỏ tính từ trong câu nói của Jem đi nghĩa là: người Ai Cập chế ra giấy (chứ không phải giấy vệ sinh) và thuật ướp xác (đương nhiên là vĩnh viễn).

              Comment


              • #8
                Chương 8


                Vì các lý do mà những nhà tiên tri kinh nghiệm nhất ở hạt Maycomb cũng không thể hiểu được, năm ấy mùa thu đã chuyển sang mùa đông. Chúng tôi có hai tuần lạnh nhất kể từ năm 1885, bố Atticus kể ông Avery nói trên Đá Rosetta [1] có viết rằng khi trẻ con không vâng lời cha mẹ chúng, hút thuốc lá và đánh lộn, các mùa sẽ thay đổi: Jem và tôi bị nặng bởi cái tội góp phần vào những sai lệch bất thường của thiên nhiên, do đó gây bất hạnh cho hàng xóm của chúng tôi và bực bội cho bản thân chúng tôi.
                Bà Radley già chết vào mùa đông năm đó, nhưng cái chết của bà chẳng gây được mấy xôn xao... hàng xóm hiếm khi thấy bà, trừ lúc bà ra tưới cây chuối hoa của bà. Jem và tôi cho rằng cuối cùng Bob đã giết bà, nhưng khi bố Atticus từ nhà Radley trở về, ông nói bà chết vì những nguyên nhân tự nhiên, trước sự thất vọng của chúng tôi.
                “Hỏi bố đi” Jem thì thầm.
                “Anh hỏi đi, anh lớn nhất mà”.
                “Đó là lý do mày phải hỏi bố”.
                “Bố Atticus,” tôi hỏi, “bố có gặp ông Arthur không ạ?”
                Bố Atticus nghiêm nghị nhìn tôi qua tờ báo, “Bố không thấy”.
                Jem cản không cho chúng tôi hỏi thêm nữa. Anh nói bố Atticus vẫn còn dễ sốc về chúng tôi và nhà Radley, và có dò hỏi gì thêm cũng không ổn. Jem có ý rằng bố Atticus nghĩ những hành động của chúng tôi vào đêm mùa hè ấy không đơn thuần chỉ dừng lại ở chỗ chơi phé cởi đồ. Jem không có cơ sở vững chắc cho những ý tưởng của anh, anh nói đó chỉ là một linh cảm bất chợt.
                Sáng hôm sau tôi thức dậy, nhìn ra cửa sổ và gần như chết điếng vì sợ hãi. Tiếng rú của tôi khiến bố Atticus đang cạo râu trong phòng tắm phải chạy ra.
                “Tận thế rồi, bố Atticus! Làm ơn làm cái gì đi...!” Tôi lôi ông đến cửa sổ và chỉ.
                “Ôi, không phải đâu” ông nói. “Tuyết rơi đấy mà”.
                Jem hỏi bố Atticus liệu nó rơi hoài sao. Jem cũng chưa từng thấy tuyết nhưng mà anh biết nó là gì. Bố Atticus nói ông không biết gì hơn Jem về tuyết. “Nhưng bố nghĩ nếu trời ẩm ướt thế này, nó sẽ chuyển thành mưa”.
                Điện thoại reo và bố Atticus rời bàn ăn đến nghe. “Đó là Eula May” bố nói khi quay lại. “Bố trích nguyên văn nhé... ‘Vì hạt Maycomb không có tuyết rơi từ năm 1885, nên hôm nay sẽ nghỉ học’.”
                Eula May là người trực tổng đài điện thoại hàng đầu của Maycomb. Cô được giao việc phổ biến những thông báo công, thư mời đám cưới, phát còi báo cháy, và cho những chỉ dẫn sơ cứu khi bác sỹ Reynolds đi vắng.
                Cuối cùng thì bố Atticus yêu cầu chúng tôi trật tự lại và bắt chúng tôi nhìn vào đĩa thức ăn của mình thay vì ra ngoài cửa sổ, Jem hỏi, “Đắp người tuyết như thế nào, hả bồ?”
                “Bố chưa từng biết” bố Atticus nói, “Bố không muốn tụi con thất vọng, nhưng bố e rằng không có đủ tuyết để làm một quả cầu tuyết nữa kìa”.
                Calpurnia bước vào nhà và nói bà nghĩ trời sẽ như vậy hoài. Khi chúng tôi chạy ra sân sau, nó đã phủ một lớp tuyết mềm mỏng.
                “Tụi mình không nên đi lòng vòng trên tuyết” Jem nói. “Coi kìa, mỗi bước chân của mày lại làm phí phạm hết cả”.
                Tôi nhìn lại những dấu chân sũng nước của mình. Jem nói rằng nếu chờ cho đến khi tuyết rơi nhiều hơn chúng tôi có thể vun nó lại để làm thành người tuyết. Tôi lè lưỡi ra liếm một bông tuyết. Nó bỏng rát.
                “Jem, nó nóng!”
                “Nó không nóng, nó quá lạnh đến độ đốt cháy. Đừng ăn nó nữa, Scout. Mày đang lãng phí nó. Để nó rơi xuống”.
                “Nhưng em muốn giẫm lên nó”.
                “Tao biết, mình có thể đi trên tuyết ở sân nhà cô Maudie”.
                Jem phóng qua sân trước, tôi bước theo dấu chân anh. Khi chúng tôi đến vỉa hè trước nhà cô Maudie, ông Avery đến bên chúng tôi. Ông có khuôn mặt đỏ lựng và cái bụng to dưới thắt lưng.
                “Thấy tụi bay làm gì chưa?” Ông nói. “Tuyết không rơi ở hạt Maycomb từ sau vụ Appomattox [2]. Chính mấy đứa trẻ hư như tụi bay làm các mùa thay đổi ráo”.
                Tôi tự hỏi liệu ông Avery có biết vào mùa hè rồi chúng tôi đã chăm chú háo hức chờ đợi như thế nào để thấy ông lặp lại màn trình diễn của mình và ngẫm nghĩ rằng nếu đây là phần thưởng của chúng tôi, thì cần phải nói điều gì đó để đền tội. Tôi không ngạc nhiên chuyện ông Avery tập hợp những thống kê khí tượng của ông ở đâu: chúng xuất phát thẳng từ Đá Rosetta.
                “Jem Finch, cháu đó Jem Finch!”
                “Cô Maudie gọi anh kìa, Jem”.
                “Mấy đứa cứ ở ngay giữa sân đi. Ngay gần hàng hiên có cây thạch thung dung bị vùi dưới tuyết. Đừng giẫm lên nó!”
                “Dạ” Jem gọi to. “Nó đẹp lắm hả cô Maudie?”
                “Đẹp khỉ mốc! Nếu tối nay đóng băng nó sẽ làm chết mấy cây đỗ quyên của cô!”
                Chiếc mũ cũ kỹ của cô Maudie láp lánh những tinh thể tuyết. Cô đang cúi xuống đám cây bụi nhỏ, chụp chúng trong những bao vải. Jem hỏi cô làm vậy để làm gì.
                “Giữ cho chúng ấm” cô nói.
                “Làm sao hoa giữ ấm được? Nó đâu có máu lưu thông”.
                “Cô không trả lời được câu hỏi này, Jem Finch. Tất cả những gì cô biết là nếu tối nay trời đóng băng thì những cây này sẽ đóng băng, vì vậy cô che chúng lại. Rõ chưa?”
                “Dạ, cô Maudie này?”
                “Gì nữa, quý ông?”
                “Scout và cháu có thể vay ít tuyết của cô không?”
                “Lạy Chúa, cứ lấy hết đi! Cô có một cái giỏ cũ dưới gầm sàn, hốt hết nó vô đi”. Cô Maudie nheo mắt. “Jem Finch, cháu sẽ làm gì với tuyết của cô?”
                “Rồi cô sẽ thấy” Jem nói, và tụi tôi cật lực chuyển tuyết từ sân nhà cô Maudie sang sân nhà tôi, một hoạt động ướt nhẹp.
                “Mình sẽ làm gì, Jem?” Tôi hỏi.
                “Rồi mày sẽ thấy” anh nói. “Bây giờ cầm cái giỏ và hốt hết tuyết mà mày gom được từ sân sau ra sân trước. Đi ngược theo dấu chân cũ nghe” anh cẩn thận dặn thêm.
                “Mình sẽ có một em bé tuyết hả, Jem?”
                “Không, một người tuyết thực thụ. Phải làm cật lực đó, nào đi”.
                Jem chạy ra sân sau, lấy cây cuốc làm vườn và bắt đầu đào thật nhanh đằng sau đống gỗ, để những con giun anh bắt được sang một bên. Anh vào nhà, trở ra với một cái giỏ mây đựng quần áo chờ giặt, đổ đầy đất vào và bưng nó ra sân trước.
                Khi chúng tôi có được năm giỏ đất và hai giỏ tuyết, Jem nói vậy là sẵn sàng để bắt tay vào làm.
                “Anh không nghĩ đây là một mớ lộn xộn hả?” Tôi hỏi.
                “Bây giờ trông lộn xộn, nhưng lát nữa thì không đâu” anh nói.
                Jem ôm một đống đất, đắp vào một ụ rồi thêm tiếp một ôm đất nữa, và một ôm nữa cho đến khi anh tạo xong một bức tượng bán thân.
                “Jem, em chưa từng nghe có người tuyết da đen bao giờ” tôi nói.
                “Nó sẽ không đen lâu đâu” anh càu nhàu.
                Jem đi kiếm vài cành hồ đào ở sân sau, bện chúng lại, rồi uốn chúng thành những khung xương để phủ đất lên.
                “Nó trông giống Stephanie Crawford với hai tay chống nạnh” tôi nói. “Mập ở giữa và hai cánh tay khẳng khiu”.
                “Tao sẽ làm cho chúng to hơn”. Jem té nước lên pho tượng bùn rồi đắp thêm đất. Anh nhìn nó ngẫm nghĩ một hồi, rồi anh đắp một cái bụng to bên dưới thắt lưng của người tuyết. Jem nhìn tôi, mắt anh nhấp nháy, “Ông Avery hơi có hình dạng một người tuyết, đúng không?”
                Jem vốc lên một mớ tuyết và bắt đầu trét lên nó. Anh chỉ cho phép tôi phủ sau lưng, dành những phần phơi ra trước cho anh. Dần dần ông Avery hóa thành trắng.
                Dùng những mẩu gỗ làm mắt, mũi, miệng và nút áo, Jem thành công trong việc tạo một ông Avery trông dữ dằn. Một thanh củi nữa làm hoàn tất bức tranh. Jem bước lui và ngắm công trình sáng tạo của anh.
                “Nó cũng dễ thương, hé Jem” tôi nói. “Coi gần giống như nó đang nói chuyện với anh”.
                “Thì vậy đó, phải không?” Anh bẽn lẽn nói.
                Chúng tôi không đợi được tới lúc bố Atticus về dùng bữa trưa, mà gọi điện và nói chúng tôi có một ngạc nhiên cho ông. Ông có vẻ ngạc nhiên thiệt khi thấy hầu hết tuyết ở sân sau được chuyển ra sân trước, nhưng ông nói chúng tôi đã làm một công việc tuyệt vời. “Bố không biết tụi con đã làm nó như thế nào,” ông nói với Jem, “nhưng từ giờ trở đi bố sẽ không còn lo con sẽ trở nên như thế nào nữa, con trai, con sẽ luôn luôn có ý tưởng”.
                Tai Jem đỏ lựng trước lời khen của bố Atticus, nhưng anh nhìn một cách ái ngại khi thấy bố Atticus bước lui lại. Bố Atticus nhìn người tuyết một hồi. Ông nhe răng cười, rồi cười to. “Con trai, bố không thể nói trước con sẽ trở thành gì... một kỹ sư, một luật sư, hoặc một họa sĩ vẽ chân dung. Nhưng con đã phạm tội gần như phỉ báng tại đây trong sân trước. Chúng ta phải cải trang thằng cha này”.
                Bố Atticus đề nghị rằng Jem gọt bớt phía trước của tạo vật của anh một chút, thay cây chổi cho cây củi, và gắn một cái tạp dề lên nó.
                Jem giải thích rằng nếu anh làm vậy, người tuyết sẽ trở nên bẩn thỉu và không còn là người tuyết nữa.
                “Bố không quan tâm những gì con làm, miễn là con làm một điều gì đó” bố Atticus nói. “Con không thể cứ chăm chăm làm những bức hí họa về các hàng xóm”.
                “Không phải là mô tả tính cách” Jem nói. “Nó chỉ trông giống ông ấy thôi”.
                “Ông Avery có thể không nghĩ thế”.
                “Con biết làm gì rồi!” Jem nói. Anh phóng ra đường, biến vào sân sau của cô Maudie và trở về đầy hoan hỉ. Anh chụp cái mũ của cô lên đầu người tuyết và nhét cái kéo tỉa hàng rào của cô vào chỗ khuỳnh ra ở cánh tay của nó. Bố Atticus nói như vậy có vẻ được.
                Cô Maudie mở cửa trước và bước ra hàng hiên. Cô nhìn sang chúng tôi. Bất ngờ cô cười nhăn răng. “Jem Finch” cô gọi. “Quỷ sứ, mang mũ trả cho cô, ông tướng!”
                Jem nhìn bố Atticus, đang đứng lắc đầu. “Cô ấy chỉ làm nhặng xị lên thôi” ông nói. “Cô ấy thực sự bị ấn tượng với... công trình của con”.
                Bố Atticus bước qua lề đường nhà cô Maudie, ở đó hai người sôi nổi chuyện trò, đoạn duy nhất tôi nghe được là “... dựng một nhân vật thiệt là lường tịnh [3]” trong sân đó! “Atticus anh không dạy dỗ bọn nhỏ gì hết trơn!”
                Đến chiều tuyết ngừng rơi, nhiệt độ xuống thấp, và khi đêm xuống những dự đoán tàn khốc của ông Avery đã thành sự thực: Calpurnia giữ cho mọi lò sưởi trong nhà cháy rực, nhưng chúng tôi vẫn lạnh. Khi bố Atticus về nhà tối đó ông bảo chúng tôi phải ở suốt trong nhà thôi, và hỏi Calpurnia bà có muốn ở lại với chúng tôi đêm nay không. Calpurnia nhìn lên trần nhà cao và những cửa sổ dài rồi nói bà nghĩ bà sẽ ấm hơn nếu được ở nhà của bà. Bố Atticus lái xe đưa bà về.
                Trước khi tôi đi ngủ bố Atticus cho thêm than vào lò sưởi trong phòng tôi. Ông nói nhiệt kế chỉ mười sáu, đó là đêm lạnh nhất mà ông từng biết, và rằng người tuyết của chúng tôi bên ngoài đã đông cứng.
                Nhiều phút sau, như thể có ai lay tôi thức dậy. Áo choàng của bố Atticus đắp ngang người tôi. “Trời sáng rồi à?”
                “Bé con, dậy đi”.
                Bố Atticus đang cầm áo choàng tắm và áo khoác của tôi. “Mặc áo choàng vào trước” ông nói.
                Jem đang đứng cạnh bố Atticus, loạng choạng và rối bù. Anh đang giữ chặt áo khoác sát cổ, tay kia nhét kín trong túi. Anh có vẻ béo lên một cách kỳ cục.
                “Nhanh lên, cục cưng” bố Atticus nói. “Giày vớ của con đây”.
                Đờ đẫn, tôi mang chúng vào. “Trời sáng rồi hả?”
                “Không, mới hơn một giờ thôi. Nhanh lên”.
                Cuối cùng tôi nhận ra có điều gì đó không ổn. “Chuyện gì vậy?”
                Đến lúc đó ông không cần nói gì nữa. Giống như bọn chim biết phải bay đi đâu khi trời mưa, tôi cũng biết khu phố tôi đang có biến cố. Nhưng âm thanh giống tiếng lụa phất loạch xoạch và tiếng chân chạy gấp khiến tôi chìm vào nỗi sợ hãi vô vọng.
                “Ở nhà ai vậy?”
                “Nhà cô Maudie, cục cưng” bố Atticus nhẹ nhàng nói.
                Tại cửa trước, chúng tôi thấy lửa phun ra từ những cửa sổ phòng ăn của cô Maudie. Như thể để khẳng định những gì chúng tôi thấy, còi cứu hỏa của thị trấn rú hết cỡ và cứ ở mức độ đó, cứ rú lên.
                “Nó cháy rồi, phải không?” Jem rên rỉ.
                “Bố e là thế” bố Atticus nói. “Giờ thì nghe đây, hai đứa. Đi xuống kia đứng trước nhà Radley. Tránh đường, tụi con hiểu không? Nhìn xem gió thổi hướng nào?”
                “Ồ” Jem nói. “Bộ mình không phải dọn đồ đạc ra sao?”
                “Chưa đâu, con trai. Làm như bố bảo. Giờ chạy đi. Chăm sóc Scout, nghe không? Đừng rời mắt khỏi nó”.
                Với một cái đẩy bố Atticus lùa chúng tôi về phía cổng trước nhà Radley. Chúng tôi đứng nhìn con đường đầy người và xe trong khi lửa lặng lẽ nuốt chửng ngôi nhà cô Maudie. “Sao họ không nhanh lên, sao họ không nhanh lên...” Jem lầm bầm.
                Chúng tôi thấy lý do. Chiếc xe cứu hỏa cũ, chết máy vì trời lạnh, đang được một đám đàn ông đẩy từ thị trấn về. Khi những người đàn ông gắn vòi nước vào họng cột nước cứu hỏa, vòi nước bung ra và nước phun lên, rơi lách tách trên vỉa hè.
                “Ô, Chúa ơi, Jem...”
                Jem vòng tay ôm tôi. “Suỵt, Scout” anh nói. “Chưa đến lúc lo. Tao sẽ cho mày biết khi nào phải lo”.
                Những người đàn ông Maycomb, mặc quần áo trong hoặc ngoài, dài hoặc ngắn đủ cấp độ, khuân đồ đạc trong nhà cô Maudie sang một khu sân ở bên kia đường. Tôi thấy bố Atticus khiêng chiếc ghế xích đu bằng gỗ sồi nặng của cô Maudie, và nghĩ ông thật nhạy cảm khi cứu món đồ mà cô Maudie yêu quý nhất.
                Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng la. Rồi khuôn mặt ông Avery xuất hiện trên cửa sổ tầng trên. Ông đẩy tấm nệm ra ngoài cửa sổ và ném đồ đạc xuống cho đến khi mọi người la to, “Xuống đi, ****! Cầu thang đang cháy! Ra đây, ông Avery!”
                Ông Avery bắt đầu trèo ra cửa sổ.
                “Scout, ông ấy bị kẹt...” Jem thở hổn hển. “Ôi Chúa...”
                Ông Avery bị kẹt cứng. Tôi vùi đầu vào cánh tay Jem và không dám nhìn nữa cho đến khi Jem la to, “Ông ấy ra được rồi, Scout! Ông ấy ổn rồi!”
                Tôi nhìn lên thấy ông Avery băng qua hàng hiên trên gác. Ông thả chân qua lan can và tuột xuống theo một cây cột. Ông té, hét lên và rơi xuống bụi cây của cô Maudie.
                Bất ngờ tôi nhận thấy những người đàn ông lùi xa khỏi nhà cô Maudie và di chuyển dọc con đường về phía chúng tôi. Họ không mang vác đồ đạc nữa. Lửa đã đến tầng hai và lan lên mái: các khung cửa sổ đen kịt nổi bật với một khối màu cam sống động ở giữa.
                “Jem, trông nó như quả bí ngô...”
                “Scout, nhìn kìa!”
                Khói cuộn phía trên nhà tôi và nhà cô Rachel như sương mù trên bờ sông, và người ta đang kéo vòi nước về phía chúng. Đằng sau chúng tôi, xe cứu hỏa từ Abbottsville hú còi rẽ khúc quanh và dừng lại trước nhà chúng tôi.
                “Cuốn sách đó...” Tôi nói.
                “Cái gì?” Jem hỏi.
                “Cuốn Tom Swift đó, nó không phải của em, mà của Dill...”
                “Đừng lo, Scout, chưa đến lúc phải lo” Jem nói. Anh chỉ. “Nhìn đằng kia kìa”.
                Trong một nhóm hàng xóm, bố Atticus đang đứng hai tay thọc vào túi áo khoác. Có vẻ như ông đang theo dõi một trận bóng đá. Cô Maudie bên cạnh ông.
                “Thấy chưa, bố đâu có lo” Jem nói.
                “Sao bố không leo lên nóc nhà?”
                “Bố già rồi, bố sẽ té hãy cổ”.
                “Anh nghĩ tụi mình có nên kêu bố mang đồ đạc của mình ra không?”
                “Đừng quấy rầy, bố biết khi nào đến lúc mà” Jem nói.
                Xe cứu hỏa Abbottsville bắt đầu bơm nước lên nhà chúng tôi; một người đàn ông trên mái chỉ những chỗ cần phun nước nhất. Tôi nhìn pho tượng Thiệt Là Lường Tịnh của chúng tôi ngả đen và dần dần sụm xuống; cái mũ của cô Maudie nằm yên trên đống tàn tích. Tôi thấy cái kéo tỉa hàng rào của cô. Trong cái nóng giữa ngôi nhà của chúng tôi, nhà của cô Maudie và nhà của cô Rachel, những người đàn ông đã cởi áo khoác và áo choàng tắm từ lâu. Họ chỉ mặc áo ngủ và áo sơ mi ngủ bỏ trong quần mà làm việc, nhưng tôi ý thức rằng tôi dần dần tê cóng ở nơi tôi đứng. Jem cố giữ cho tôi ấm, nhưng đôi tay anh không đủ. Tôi gỡ tay anh ra và ôm lấy vai mình. Nhảy nhót một chút, tôi có lại cảm giác ở dưới chân.
                Một xe cứu hỏa khác xuất hiện và dừng trước nhà cô Stephanie Crawford. Không có họng nước cho một vòi nữa, và những người đàn ông cố xối ướt nhà cô bằng những bình chữa cháy cầm tay.
                Mái tôn nhà cô Maudie che bớt lửa. Kêu rầm một tiếng, ngôi nhà sụp đổ; lửa tràn khắp nơi, tiếp theo là một cơn mưa mền từ những người trên các mái nhà kế cận, dập tắt các tia lửa và những khúc gỗ đang cháy.
                Trời đã rạng trước khi những người đàn ông bỏ đi, ban đầu từng người một, rồi từng nhóm. Họ đẩy xe cứu hỏa Maycomb trở lại thị trấn, xe Abbottsville đã rút lui, chiếc thứ ba vẫn còn ở đó. Hôm sau chúng tôi nhận ra nó đến từ Clark’s Ferry, cách đây sáu mươi dặm.
                Jem với tôi băng qua đường. Cô Maudie đang nhìn chằm chằm cái hố đen bốc khói trong sân nhà cô, và bố Atticus lắc đầu để cho chúng tôi hiểu rằng cô không muốn nói chuyện. Ông dẫn chúng tôi về nhà, ôm vai chúng tôi băng qua con đường đầy tuyết. Ông nói lúc này cô Maudie sẽ ở tạm nhà cô Stephanie.
                “Có ai muốn uống sôcôla nóng không?” Ông hỏi. Tôi rùng mình khi bố Atticus nhóm lửa lò trong bếp.
                Khi uống ca cao tôi thấy bố Atticus nhìn tôi, lúc đầu với vẻ tò mò, rồi sau với vẻ nghiêm khắc. “Bố nhớ bố đã biểu con với Jem đứng ở chỗ bố chỉ” ông nói.
                “Thì tụi con làm vậy mà. Tụi con đứng ở...”
                “Vậy cái mềm đó của ai?”
                “Mền nào?”
                “Phải, thưa quý cô, cái mền. Nó không phải của nhà mình”.
                Tôi nhìn xuống và thấy mình đang quấn một cái mền len nâu quanh vai, theo kiểu phụ nữ da đỏ.
                “Bố Atticus, con không biết... con...”
                Tôi quay sang Jem tìm câu trả lời, nhưng Jem thậm chí còn bối rối hơn tôi. Anh nói anh không biết làm sao nó ở đó, tụi con đã làm đúng những gì bố Atticus bảo, tụi con đứng ngay cổng nhà Radley cách xa mọi người, tụi con không xê dịch một tấc... Jem ngừng lại.
                “Ông Nathan có mặt chỗ lửa cháy,” anh nói lúng búng, “con thấy ông ấy, con thấy ông ấy, ông ấy đang giật mạnh tấm nệm đó... Bố Atticus, con thề...”
                “Không sao, con trai”. Bố Atticus cười từ tốn. “Có vẻ như mọi người dân Maycomb đều ra ngoài tối nay, theo cách này hay cách khác. Jem, có một số giấy gói đồ trong phòng đựng chén bát, bố nghĩ vậy. Đi lấy ra đây rồi mình sẽ...”
                “Bố Atticus, không!”
                Jem có vẻ mất bình tĩnh. Anh bắt đầu tuôn ra những bí mật của chúng tôi ở mọi nơi, hoàn toàn không quan tâm đến sự an toàn của tôi nếu không muốn nói đến sự an toàn của chính anh, không chừa một thứ gì cả, lỗ hốc, cái quần và mọi thứ.
                “... Ông Nathan trét xi măng vào cây đó, bố Atticus, và ông ta làm vậy để ngăn không cho tụi con tìm thấy các thứ... Ông ta điên, con cho là vậy, như người ta đồn, nhưng bố, con thề trước Chúa là ông ta chưa hề làm hại tụi con, ông ta không hề làm đau tụi con nữa kìa, ông ta có thể cắt cổ con từ tai này sang tai kia nhưng thay vào đó ông ta đã vá quần cho con... Ông ta chưa hề làm gì tụi con hết, bố Atticus...”
                Bố Atticus nói, “Ồ, con trai” quá dịu dàng đến độ tôi thấy hết sức phấn khởi. Rõ ràng là bố không chú ý lời nào Jem nói, vì bố chỉ nói là, “Con đúng. Chúng ta nên giữ kín chuyện này với cái mền cho mình. Một ngày nào đó có lẽ Scout có thể cảm ơn ông ta vì đã đắp cho nó”.
                “Cám ơn ai?” Tôi hỏi.
                “Boo Radley. Tụi con lo nhìn đám cháy mà không nhận ra khi ông ra choàng cái mền lên vai con”.
                Bao tử tôi tan thành nước và tôi suýt mửa nó ra khi Jem giơ cái mền ra và bò về phía tôi. “Ông ta lẻn ra khỏi nhà... vòng qua... lặng lẽ, và đi như vậy nè!”
                Bố nói khô khan, “Đừng lấy chuyện này làm vinh quang, Jeremy”.
                Jem nhíu mày, “Con sẽ không gây bất cứ chuyện gì cho ông ta” nhưng tôi nhìn thấy tia lửa mạo hiểm mới mẻ trong mắt anh. “Thử nghĩ coi Scout,” anh nói, “chỉ cần mày quay lại, mày đã thấy ông ta”.
                Calpurnia đánh thức chúng tôi lúc chưa. Bố Atticus đã nói chúng tôi không cần đến trường hôm đó, chúng tôi sẽ chẳng học được gì sau khi thiếu ngủ. Calpurnia nói chúng tôi phải lo dọn dẹp lau chùi sân trước.
                Cái mũ của cô Maudie nằm trong lớp băng mỏng, giống như con ruồi trong hổ phách, và chúng tôi phải đào xuống đất để tìm lại cây kéo tỉa hàng rào của cô. Chúng tôi tìm thấy cô ở sân sau, đang nhìn chằm chằm vào những cây đỗ quyên cháy sém lạnh giá của cô.
                “Tụi cháu mang trả mấy thứ của cô, cô Maudie” Jem nói. “Tụi cháu hết sức lấy làm tiếc”.
                Cô Maudie nhìn quanh, và bóng nụ cười quen thuộc phớt qua trên mặt cô. “Cô luôn muốn có một ngôi nhà nhỏ hơn, Jem Finch à. Để có thêm sân. Nghĩ coi, bây giờ cô sẽ có thêm đất cho mấy cây đỗ quyên của cô!”
                “Cô không đau lòng sao, cô Maudie?” Tôi hỏi, đầy ngạc nhiên. Bố Atticus nói gia tài của cô chỉ có ngôi nhà.
                “Đau lòng hả, bé con? Ôi, cô ghét cái chuồng bò cũ đó. Cô đã nghĩ đến việc đốt rụi nó cả trăm lần, chỉ sợ họ đưa cô vào viện tâm thần”.
                “Nhưng...”
                “Nhưng đừng lo cho cô, Jean Louise Finch. Có nhiều cách để làm chuyện này chuyện nó mà cháu không biết. Sao cô, cô sẽ xây cho cô một ngôi nhà nhỏ và kiếm vài người thuê phòng và... ôi, cô sẽ có cái sân đẹp nhất Alabama. Nhà Bellingrath [4] sẽ trông hết sức tầm thường khi cô bắt đầu khu vườn của cô!”
                Jem và tôi nhìn nhau. “Làm sao nó bắt lửa vậy, cô Maudie?” Anh hỏi.
                “Cô không biết, Jem. Chắc là cái ống thông gió trong nhà bếp, tối qua cô đốt lửa trong đó có mấy cây trồng trong chậu. Nghe nói tối qua cháu có một người bạn bất ngờ, Jean Louise”.
                “Sao cô biết?”
                “Atticus nói với cô trên đường xuống thị trấn sáng nay. Nói thật với cháu, cô thích ở cạnh cháu. Nhưng cô cũng đủ hiểu biết để không xen vào chuyện của cháu”.
                Cô Maudie làm tôi bối rối. Với hầu hết tài sản đã bị mất và cái sân yêu quý chỉ còn là một đống hỗn độn, cô vẫn quan tâm một cách chân thành và mạnh mẽ đến những vấn đề của Jem và tôi.
                Cô hẳn đã thấy vẻ lúng túng của chúng tôi. Cô nói, “Điều duy nhất tối hôm qua cô quan tâm là sự nguy hiểm và xáo động mà vụ cháy gây ra. Toàn bộ khu này có thể bị cháy rụi. Ông Avery chắc phải nằm trên giường cả tuần. Ông ấy bị té nặng. Ông ấy già rồi đâu còn làm những việc như vậy được và cô đã nói như thế với ông ấy. Chừng nào cô rảnh tay và khi cô Stephanie Crawford không dòm ngó, cô sẽ làm cho ông ấy một cái bánh nướng Lane cực ngon. Cô Stephanie đó cứ rình mò công thức làm bánh này của cô suốt ba mươi năm nay, và nếu cô ấy nghĩ cô sẽ cho cô ta công thức đó chỉ bởi vì cô ở với cô ấy thì cô ấy lầm to”.
                Tôi cho rằng nếu cô Maudie ngã bệnh và cho cô Stephanie công thức đó, thì cô ấy cũng không làm theo. Đã có lần cô Maudie cho tôi xem công thức đó: ngoài các nguyên liệu khác, công thức này còn ghi một tách đường lớn.
                Đó là một ngày yên tĩnh. Không khí quá lạnh và trong trẻo đến độ chúng tôi nghe tiếng đồng hồ tòa án kêu lách cách, rổn rang và căng thẳng trước khi báo giờ. Mũi cô Maudie có một màu mà trước đây tôi chưa từng thấy và tôi hỏi về nó.
                “Cô đã ngồi ngoài này từ sáu giờ” cô nói. “Đến bây giờ chắc nó bị đóng băng rồi”. Cô giơ hai bàn tay lên. Một mạng lưới những đường bé xíu đan ngang dọc trên lòng bàn tay, ngả màu vì đất và máu khô.
                “Cô làm hư tay hết rồi” Jem nói. “Sao cô không thuê một người da màu?” Giọng của Jem không hề mang vẻ hy sinh tự nguyện khi anh nói thêm, “Hoặc Scout với cháu, tụi cháu có thể giúp cô”.
                Cô Maudie nói, “Cám ơn các cháu, nhưng các cháu có công việc riêng bên nhà mà”. Cô chỉ qua sân của bọn tôi.
                “Ý cô muốn nói cái tượng Lường Tịch hả?” Tôi hỏi. “Ui chao, tụi cháu có thể cào đắp nó lên trong nháy mắt”.
                Cô Maudiee nhìn tôi, môi cô động đậy một cách lặng lẽ. Bất chợt cô đặt hai tay lên đầu rồi hét lên thích thú. Khi chúng tôi rời chỗ cô, cô vẫn cười rinh rích.
                Jem nói anh không biết cô có vấn đề gì - cô Maudie vẫn là như vậy mà.


                Chú thích:
                [1] Đá Rosetta được phát hiện năm 1799 ở Ai Cập, Đá Rosetta là một khối phún xuất thạch lớn có khắc văn bia về một đạo luật được ban hành năm 196 trước Công nguyên. Được viết bằng ba thứ tiếng, tảng đá này đem lại cho giới khảo cổ nhiều manh mối về ý nghĩa của các văn bản bằng chữ tượng hình người Ai Cập.
                [2] Appomattox là một ngôi làng xưa ở miền trung Virginia. Ngày 9/4/1865, tướng Robert E.Lee của miền Nam đầu hàng tướng Ullysses S. Grant của miền Bắc tại Pháp đình Appomattox, chấm dứt cuộc Nội chiến Mỹ.
                [3] Lường tịnh (tạm dịch chữ morphodite trong nguyên bản): Scout nghe nhầm lời cô Maudie, hẳn cô đã dùng chữ hermaphrodite (động thực vật lưỡng tính) để chỉ thằng người tuyết khi cô thấy nó có nét đàn ông lẫn đàn bà. Morphodite là một từ vô nghĩa do Harper Lee bịa ra nhưng sau này được nhiều tác giả Mỹ sử dụng lại.
                [4] Bellingrath: gồm một dinh thự và nhiều khu vườn ở Mobile, Alabama, rộng 275.186m2, mở cửa cho thăm quan từ 1932 và được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1982.

                Comment


                • #9
                  Chương 9


                  “Mày có thể rút lại câu đó, nhóc!”
                  Lệnh này, tôi đưa ra cho Cecil Jacobs, là một khởi đầu cho một thời kỳ khó chịu cho Jem và tôi. Nắm tay tôi siết chặt lại và tôi sẵn sàng bung nó ra. Bố Atticus đã đe với tôi rằng ông sẽ dần tôi nhừ xương nếu nghe tôi đánh lộn lần nữa; tôi đã quá lớn và quá to cho những trò trẻ con như thế, và tôi càng sớm học được cách kiềm chế, thì mọi người càng hài lòng hơn. Tôi đã nhanh chóng quên điều đó.
                  Cecil Jacobs đã làm tôi quên. Hôm qua nó rêu rao trong sân trường rằng bố của Scout Finch biện hộ cho bọn mọi đen. Tôi phủ nhận điều đó, nhưng kệ lại với Jem.
                  “Nó nói vậy là có ý gì?” Tôi hỏi.
                  “Chẳng có gì” Jem nói. “Hỏi bố Atticus, bố sẽ nói cho nghe”.
                  “Bố biện hộ cho bọn mọi đen hả bố Atticus?” Tối đó tôi hỏi ông.
                  “Đương nhiên. Đừng gọi là mọi đen, Scout. Gọi thế dung tục lắm”.
                  “Ở trường ai cũng gọi vậy hết”.
                  “Từ giờ trở đi mọi người cứ làm vậy trừ một người...”
                  “Được rồi, nếu bố không muốn con lớn lên với kiểu ăn nói đó thì sao bố cho con đi học?”
                  Bố tôi nhìn tôi dịu dàng, mắt ông ánh lên vẻ thú vị. Bất chấp thỏa hiệp của chúng tôi, chiến dịch trốn đi học của tôi vẫn tiếp tục dưới hình thức này hoặc hình thức khác kể từ ngày khó chịu trong ngày đầu tiên đến trường của tôi: đầu tháng Chín rồi tôi còn bị cảm giác nản chí, đờ đẫn và những cơn sôi ruột nhẹ. Tôi đã phải trả hai mươi lăm xu cho đặc ân được cọ xát đầu tôi với đầu đứa con trai người đầu bếp của cô Rachel, đứa bị chứng lác đồng tiền khủng khiếp. Nó không hết.
                  Nhưng tôi còn ưu tư về một cục xương khác. “Bộ luật sư lúc nào cũng biện hộ cho bọn... ờ, Da đen hả, bố Atticus?”
                  “Dĩ nhiên vậy rồi, Scout”.
                  “Vậy sao Cecil nói bố bảo vệ bọn mọi đen? Nó làm như bố đang điều hành một lò rượu lậu vậy”.
                  Bố Atticus thở dài. “Đơn giản là bố đang biện hộ cho một người Da đen - tên anh ta là Tom Robinson. Anh ta sống ở một khu định cư nhỏ đằng sau bãi rác thị trấn. Anh ta là thành viên trong giáo phái của Calpurnia, và Calpurnia biết rõ gia đình anh ta. bà nói họ là người đàng hoàng. Scout, con chưa đủ lớn để hiểu một số điều, nhưng có nhiều lời đồn trong thị trấn với ý rằng bố không nên làm gì nhiều trong việc biện hộ cho anh này. Đó là một vụ kỳ lạ... cho đến mùa hè nó mới được đưa ra xử. John Taylor khá tử tế khi cho chúng ta được hoãn lại...”
                  “Nếu người ta nói bố không nên biện hộ cho anh ta, vậy sao bố lại làm?”
                  “Vì một số lý do” bố Atticus nói. “Lý do chính là, nếu bố không làm được bố không thể ngẩng cao đầu trong thị trấn này được, bố không thể đại diện hạt này trong cơ quan lập pháp, thậm chí bố không thể bảo con hay Jem đừng làm điều gì đó nữa”.
                  “Ý bố nếu không biện hộ cho người đó, Jem và con sẽ không nể phục bố nữa hả?”
                  “Đại loại là như vậy”.
                  “Tại sao?”
                  “Tại vì bố không thể yêu cầu con nể phục bố nữa. Scout, đơn giản bởi vì bản chất của mỗi công việc, mỗi luật sư trong đời mình ít nhất có một vụ tác động đến cá nhân ông ta. Vụ này là của bố, bố cho là vậy. Con có thể nghe một số lời đồn xấu về vụ này ở trường, nhưng nếu được thì hãy làm cho bố một điều: con hãy ngẩng cao đầu và hạ nắm đấm xuống. Cho dù ai nói bất cứ điều gì với con, đừng để chúng khiến con nổi giận. Cố đấu tranh bằng cái đầu của con cho một sự thay đổi... Đây là một việc tốt, cho dù nó cản trở việc học”.
                  “Bố Atticus, mình sẽ thắng chứ?”
                  “Không, cục cưng”.
                  “Vậy tại sao...”
                  “Đơn giản bởi vì cho dù chúng ta đã bị đánh bại một trăm năm trước khi chúng ta bắt đầu thì đó cũng đâu phải là lý do khiến chúng ta không cố thắng” bố Atticus nói.
                  “Bố nói giống như anh họ Ike Finch” tôi nói. Ike Finch là một cựu binh miền Nam thời Nội chiến duy nhất còn sống của hạt Maycomb. Ông có bộ râu kiểu tướng Hood mà ông rất tự hào. Ít nhất mỗi năm một lần bố Atticus, Jem và tôi đến thăm ông, và tôi thường phải hôn ông. Đó là một điều khủng khiếp. Jem và tôi lắng nghe một cách kính trọng khi bố Atticus và bác Ike nhắc lại cuộc chiến tranh. “Cho anh biết, Atticus,” bác Ike vẫn nói, “Hiệp ước Dung hòa Missouri [1] chính là thứ đá đánh bại chúng ta, nhưng nếu phải sống lại thời đó một lần nữa tôi sẽ đi lại đúng từng bước y như tôi đã làm trước đây và hơn nữa lần này tôi sẽ hạ gục bọn chúng... Vào năm 1864, khi tướng Stonewall Jackson tỉnh lại với câu-xin lỗi các anh, những chàng trai trẻ tuổi. Lúc ấy thì Ol’ Blue Light [2] đã lên thiên đàng rồi, cầu Chúa nguôi giận...”
                  “Lại đây, Scout” bố Atticus nói. Tôi bò lên đùi và rúc đầu dưới cằm ông. Ông ôm và ru tôi dịu dàng. “Lần này khác” ông nói. “Lần này chúng ta không chiến đấu với bọn Yankee [3], mà đang chiến đấu với bạn bè của mình. Nhưng hãy nhớ điều này, dù cho mọi việc có cay đắng thế nào đi nữa, họ vẫn là bạn bè của chúng ta và đây vẫn là nhà của chúng ta”.
                  Với ý nghĩ này trong đầu, hôm sau tôi đối mặt với Cecil trong sân trường. “Mày rút lại lời nói đó không, nhóc?”
                  “Mày kiếm chuyện với tao trước!” Nó gào lên. “Nhà tao nói ba mày là một kẻ đáng hổ thẹn và thằng mọi đen đó phải bị treo cổ ở tháp nước!”
                  Tôi nhắm kỹ vào nó, rồi nhớ lại những gì bố Atticus nói, tôi buông nắm đấm xuống và bỏ đi. Câu “Scout là một đứa-hèn-nhát!” vang lên trong tai tôi. Đó là lần đầu tôi từ bỏ một cuộc đánh lộn.
                  Dù thế nào thì nếu đánh nhau với Cecil tôi sẽ phụ lòng bố Atticus. Bố Atticus hiếm khi Jem và tôi làm điều gì đó cho ông. Tôi có thể chấp nhận bị gọi là kẻ hèn nhát vì ông. Tôi có thể cực kỳ ngon lành vì đã nhớ lại lời bố, và cẫn tiếp tục ngon lành như thế trong ba tuần. Rồi Giáng sinh đến và tai họa giáng xuống.
                  Jem và tôi nghĩ tới Giáng sinh với những cảm xúc lẫn lộn. Khía cạnh hay ho là cây Giáng sinh và sự có mặt của chú Jack Finch. Ngày áp lễ Giáng sinh nào chúng tôi cũng đi đón chú Jack tại nhà ga Maycomb, và chú sẽ ở lại với chúng tôi một tuần.
                  Một cú tung đồng tiền là cho thấy ngay bản chất bất biến của bác Alexandra và Francis.
                  Tôi cho rằng mình nên kể cả bác Jimmy, chồng của bác Alexandra, nhưng vì bác không hề nói với tôi một tiếng nào trong đời tôi ngoại trừ một lần bác bảo, “Xuống khỏi hàng rào” nên tôi thấy chẳng có lý do gì để chú ý đến bác ấy cả. Mà cả bác Alexandra cũng vậy nữa. Hồi xưa, trong cơn bột phát tình thân, bác ấy và Jimmy đã cho ra đời một đứa con trai tên Henry, tay này đã bỏ nhà đi ngay khi có đủ khả năng, lập gia đình, và cho ra đời Francis. Henry và vợ gửi Francis ở nhà ông bà nội nó mỗi Giáng sinh, rồi theo đuổi những lạc thú riêng của họ.
                  Dù có thở dài bao nhiêu cũng không thuyết phục được bố Atticus cho chúng tôi đón Giáng sinh ở nhà. Chúng tôi luôn về Finch’s Landing vào Giáng sinh từ hồi tôi bắt đầu nhớ được tới giờ. Chuyện bác Alexandra là một đầu bếp tuyệt vời cũng là một đền bù cho việc bị buộc phải trải qua kỳ lễ thánh với Francis Hancock. Nó lớn hơn tôi một tuổi, và nói chung là tôi tránh nó: nó thích thú mọi thứ tôi phản đối, và không ưa những trò tiêu khiển chân chất của tôi.
                  Bác Alexandra là chị của bố Atticus, nhưng khi Jem nói với tôi về những trẻ sơ sinh bị đánh tráo và anh chị em ruột, tôi kết luận rằng bác đã bị đánh tráo khi ra đời, rằng ông bà nội tôi chắc đã nhận được một Crawford thay vì một Finch. Nếu tôi đã từng ấp ủ các khái niệm bí ẩn về những ngọn núi vốn có vẻ ám ảnh các luật sư và quan tòa, thì bác Alexandra sẽ giống với ngọn Everest: suốt thời thơ ấu của tôi, bác lạnh lẽo và ở nguyên đó.
                  Khi chú Jack nhảy xuống khỏi xe lửa vào ngày áp lễ Giáng sinh, chúng tôi phải chờ người khuân vác trao cho chú hai cái túi dài. Jem và tôi luôn nghĩ thật tức cười khi chú Jack hôn phớt lên má bố Atticus; cả đời tụi tôi chỉ được thấy hai người đàn ông hôn nhau là họ. Chú Jack bắt tay Jem và tung tôi lên cao, nhưng không đủ cao: chú Jack thấp hơn bố Atticus một cái đầu; chú nhóc của gia đình, chú là em của bác Alexandra. Chú và bác trông giống nhau, nhưng chú Jack tận dụng được khuôn mặt của mình: chúng tôi chẳng bao giờ phải cảnh giác với cái mũi và chiếc cằm nhọn của chú.
                  Chú là một trong số vài con người khoa học mà không hề làm tôi khiếp sợ, có lẽ vì chú chưa bao giờ cư xử như một bác sĩ. Bất cứ khi nào chú làm một việc chăm sóc nho nhỏ gì đó thay cho Jem đối với tôi, như lấy một cái dằm ra khỏi chân, chú sẽ nói chính xác việc chú sắp làm, cho chúng tôi ước tính về mức độ gây đau của nó, và giải thích công dụng của bất cứ cái kẹp nào chú dùng. Một Giáng sinh nọ, tôi trốn vào góc ôm cái dằm xoắn trong bàn chân, không cho ai đến gần. Khi chú Jack bắt gặp tôi, chú khiến tôi phá lên cười về chuyện một tay thuyết giáo rất ghét đi nhà thờ đến độ mỗi ngày ông đều mặc áo khoác ngủ đứng ở cổng, hút bát điếu và nói những bài thuyết giáo năm phút cho bất cứ khách qua đường nào cần sự thư thái tinh thần. Tôi ngắt ngang để hỏi chú chừng nào chú sẽ rút cái dằm ra, nhưng chú đã giơ lên cái dằm dính máu trong cái nhíp và nói chú đã rút nó ra trong lúc tôi đang cười ngặt nghẽo, đó là thứ được gọi là tính tương đối.
                  “Có cái gì trong mấy cái túi đó vậy?” Tôi hỏi chú, chỉ mấy cái gói dài mà người khuân vác đưa cho chú.
                  “Không phải việc của cháu” chú nói.
                  Jem nói, “Rose Aylmer khỏe không ạ?”
                  Rose Aylmer là con mèo của chú Jack. Nó là con mèo cái vàng tuyệt đẹp mà chú Jack xếp vào loại một trong vài giống cái mà chú có thể chịu đựng suốt đời. Chú thò tay vào túi áo khoác lôi ra mấy bức ảnh chụp. Chúng tôi ngắm nghía chúng.
                  “Nó mập lên há” tôi nói.
                  “Chú nghĩ thế. Nó ăn hết mọi ngón tay và lỗ tai bỏ lại ở bệnh viện”.
                  “Ối, chuyện gì thổ tả thế” tôi nói.
                  “Cháu nói gì?”
                  Bố Atticus nói, “Đừng chú ý đến nó, Jack. Con bé đang thử chú đấy. Calpurnia nói con bé biết rủa rất lưu loát cả tuần nay”.
                  Chú Jack nhướn mày và chẳng nói gì. Tôi đang thực hiện một lý thuyết mơ hồ, ngoài sức hấp dẫn tự nhiên của những từ như thế, rằng nếu bố Atticus phát hiện ra tôi đã lượm lặt những từ như vậy ở trường học ông sẽ không bắt tôi đi học nữa.
                  Nhưng trong bữa ăn tối đó khi tôi yêu cầu chú đưa giùm tôi miếng giăm bông chết tiệt, chú Jack chỉ vào tôi. “Ăn xong ra gặp riêng chú nhé, cô bé” chú nói.
                  Ăn tối xong, chú Jack ra phòng khách và ngồi xuống. Chú vỗ đùi cho tôi đến ngồi trên đùi chú. Tôi thích ngửi chú: chú giống như chai rượu và đôi khi có mùi ngọt ngào thú vị. Chú vén mớ tóc ở trán tôi và nhìn tôi. “Cháu giống Atticus hơn mẹ cháu nhiều” chú nói. “Cháu cũng lớn so với cái quần cháu mặc một chút”.
                  “Cháu nghĩ là nó rất vừa”.
                  “Hiện giờ cháu thích những từ như chết tiệt và quỷ sứ, phải không?”
                  Tôi nói tôi cho là vậy.
                  “Chú thì không,” chú nói, “không thích trừ khi có sự khiêu khích dữ dội khiến chú muốn xài tới chúng. Chú sẽ ở đây một tuần, và chú không muốn nghe bất cứ từ nào giống vậy trong khi chú ở đây. Scout, cháu sẽ gặp rắc rối nếu cháu tiếp tục nói những điều như thế. Cháu muốn lớn lên trở thành một quý cô, đúng không?”
                  Tôi nói không hẳn lắm.
                  “Dĩ nhiên là cháu muốn. Thôi bây giờ mình lại chỗ cây thông đi”.
                  Chúng tôi trang trí cây thông cho đến khi đi ngủ, và đêm đó tôi mơ về hai gói dài cho Jem và tôi. Sáng hôm sau Jem và tôi lao vào chúng: chúng là của bố Atticus, bố đã viết thư bảo chú Jack mua chúng cho tụi tôi, và chúng là thứ bọn tôi đã hỏi xin.
                  “Đừng chĩa súng trong nhà” bố Atticus nói, khi Jem nhắm vào một bức tranh trên tường.
                  “Anh phải dạy tụi nó cách bắn” chú Jack nói.
                  “Đó là việc của chú” bố Atticus nói. “Tôi chỉ chấp thuận điều không thể tránh khỏi”.
                  Bố Atticus phải dùng giọng nói ở pháp đình mới kéo được chúng tôi khỏi cây thông. Ông không cho chúng tôi mang cây súng hơi của chúng tôi đến Landing (Tôi đã nghĩ đến việc bắn Francis) và nói nếu chúng tôi phạm một hành động sai lầm ông sẽ tịch thu chúng vĩnh viễn.
                  Finch’s Landing gồm ba trăm sáu mươi sáu bậc cấp từ một mỏm đá cao đi xuống và kết thúc ở một đê chắn sóng. Xuôi theo dòng sông, bên kia mỏm đá, là vết tích của một bãi bốc dỡ bông vải, nơi những người Da đen nhà Finch chất các kiện hàng và nông sản, dỡ những khối nước đá, bột mì và đường, nông cụ, và quần áo cho phụ nữ. Một con đường hai vết lún chạy từ bờ sông và biến mất giữa những hàng cây tối. Cuối đường là ngôi nhà trắng hai tầng với hàng hiên bao quanh ở cả trên lầu và tầng trệt. Lúc về già, cụ tổ Simon Finch của chúng tôi đã xây nó để làm vui lòng người vợ hay cằn nhằn của ông; nhưng với các hàng hiên, mọi nét tương đồng với những ngôi nhà bình thường ở thời đại của nó kết thúc. Những sắp xếp bên trong của ngôi nhà Finch biểu thị sự thật thà của Simon và sự tự tin tuyệt đối của ông khi xét đoán con cháu mình.
                  Trên lầu có sáu phòng ngủ, bốn cho tám trẻ gái, một cho Welcome Finch, con trai duy nhất, và một cho họ hàng đến chơi. Khá đơn giản; nhưng phòng của đám con gái chỉ có một cầu thang đi lên, phòng của Welcome và phòng của khách đi bằng cầu thang khác. Cầu thang lên phòng con gái nằm trong phòng ngủ của ba má chúng ngay tầng trệt, vì vậy Simon luôn luôn biết giờ giấc đi về ban đêm của lũ con gái ông.
                  Có một nhà bếp tách khỏi phần còn lại của ngôi nhà, nối nhau bằng một lối đi hẹp bằng gỗ; trong sân sau có một cái chuông gỉ trên một cây sào, được dùng để tập trung nhân công nông trại hoặc phát tín hiệu báo nguy; trên mái có một sân thượng với lan can bao quanh, nhưng không có quả phụ nào đi dạo trên đó cả [4] từ chỗ đó, Simon theo dõi các đốc công, quan sát thuyền bè trên sông, và nhìn vào sinh hoạt của những chủ đất xung quanh.
                  Cùng với ngôi nhà là truyền thuyết bình thường về các Yankee: một phụ nữ nhà Finch, vừa mới đính hôn, đã mặc hết quần áo cưới của mình để cứu chúng khỏi những kẻ cướp bóc trong vùng; bà bị kẹt ngay cửa dẫn đến cầu thang lên phòng con gái nhưng được xối nước vào và cuối cùng cũng đấy lọt được qua. Khi chúng tôi đến Landing, bác Alexandra hôn chú Jack, Francis hôn chú Jack, bác Jimmy lặng lẽ bắt tay chú Jack, Jem và tôi trao quà của chúng tôi cho Francis, nó cũng cho tụi tôi một món quà. Jem cảm nhận được tuổi của anh và bị hút về phía người lớn nên anh để tôi chơi với đứa cháu họ của chúng tôi. Francis lên tám và chải dầu vuốt mái tóc nó ra sau.
                  “Giáng sinh mày được cho cái gì?” Tôi hỏi một cách lịch sự.
                  “Đúng thứ tao yêu cầu” nó nói. Francis đã đòi một cái quần lửng, một cái cặp da màu đỏ, năm áo sơ mi và một cái nơ bướm thả.
                  “Vậy là quá bảnh rồi” tôi nói xạo. “Jem với tao được hai khẩu súng hơi, và Jem có một bộ thí nghiệm hóa học...”
                  “Chắc là thứ đồ chơi chứ gì”.
                  “Không, một bộ thiệt. Anh ấy sẽ làm cho tao một thứ mực vô hình, và tao sẽ dùng nó viết thư cho Dill”.
                  Francis hỏi công dụng của thứ đó.
                  “Mày không hình dung được vẻ mặt của nó khi nó nhận lá thư của tao mà không có gì trong đó sao? Cái đó làm nó điên lên được”.
                  Việc nói chuyện với Francis cho tôi cảm giác đang chìm từ từ xuống đáy đại dương. Nó là đứa bé đáng chán nhất tôi từng gặp. Vì nó sống ở Mobile, nó không thể thông tin về tôi cho ban giám hiệu trường, nhưng tìm cách nói mọi thứ nó biết cho bác Alexandra, rồi bà lại kể hết cho bố Atticus nghe, ông hoặc quên nó hoặc trách mắng tôi, tùy theo cái gì đánh vào trí tưởng tượng của ông. Nhưng lần duy nhất tôi từng nghe bố Atticus nói chuyện gay gắt với người khác là khi có lần tôi nghe ông nói, “Chị à, em làm điều tốt nhất trong khả năng mình cho chúng!” Chuyện lần đó có liên quan đến việc tôi cứ mặc bộ áo liền quần suốt.
                  Bác Alexandra chú ý quá đáng đến vấn đề quần áo của tôi. Tôi hầu như không thể hy vọng trở thành một quý cô nếu cứ mặc quần chẽn; tôi nói mình không thể làm gì trong bộ áo váy, bác nói rằng tôi không có nhiệm vụ làm những việc đòi hỏi mặc quần tây. Quan điểm của bác Alexandra về cung cách của tôi liên quan tới việc chơi với những bếp lò nhỏ, bồ đồ pha trà và đeo vòng cổ hiệu Add-A-Pearl mà bác cho tôi khi tôi mới ra đời, hơn nữa tôi phải là một tia nắng ấm trong cuộc đời cô độc của bố tôi. Tôi đưa ra ý kiến rằng người ta có thể là tia nắng chiếc quần tây cũng được mà, nhưng bác nói rằng người ta phải cư xử giống như một tia nắng, rằng tôi được sinh ra tốt đẹp nhưng mỗi năm một tệ hại hơn. Bác làm tổn thương tình cảm của tôi và gây phiền hà cho tôi, nhưng khi tôi hỏi bố Atticus về chuyện này, ông nói đã có đủ những tia nắng trong gia đình này và tôi cứ lo việc của tôi, ông không ưu tư lắm về cung cách của tôi.
                  Ở bữa ăn Giáng sinh, tôi ngồi tại chiếc bàn nhỏ trong phòng ăn; Jem và Francis ngồi với người lớn tại bàn ăn lớn. Bác Alexandra tiếp tục cô lập tôi rất lâu sau khi Jem và Francis tiến dần đến bàn ăn lớn. Tôi thường tự hỏi bác nghĩ tôi sẽ làm gì, đứng lên và ném một cái gì đó chăng? Đôi khi tôi nghĩ đến việc nói với bác nếu bác cho phép tôi ngồi tại bàn lớn với những người kia chỉ một lần thôi, tôi sẽ chứng minh cho bác thấy tôi có thể lịch sự đến thế nào; rốt cuộc, tôi ăn ở nhà mỗi ngày và không xảy ra thiệt hại gì đáng kể. Khi tôi xin bố Atticus sử dụng ảnh hưởng của ông, ông nói ông chả có ảnh hưởng gì cả... chúng ta là khách, chúng ta ngồi vào nơi bác bảo chúng ta ngồi. Ông cũng nói bác Alexandra không hiểu con gái nhiều, bác không có con gái.
                  Nhưng tài nấu nướng của bác bù đắp cho mọi thứ: ba món thịt, rau mùa hè từ những chiếc kệ trong tủ đựng thức ăn; dưa hồ đào, hai loại bánh và món tráng miệng trái cây trộn dừa tạo thành một bữa Giáng sinh khiêm tốn. Sau đó, người lớn sang phòng khách và ngồi rải rác trong trạng thái lừ đừ. Jem nằm trên sàn nhà và tôi đi ra sân sau. “Mặc áo khoác vào” bố Atticus nói một cách lơ mơ, vì vậy tôi không nghe ông.
                  Francis ngồi cạnh tôi trên bậc thềm sau nhà. “Bữa ăn thiệt hết ý” tôi nói.
                  “Bà nội là đầu bếp tuyện vời” Francis nói. “Bà sẽ dạy tao cách nấu ăn”.
                  “Con trai không nấu bếp”. Tôi cười hinh híc trước ý nghĩ Jem mặc cái tạp dề.
                  “Bà nội nói tất cả đàn ông phải học nấu ăn, rằng đàn ông phải chăm sóc vợ và phục vụ họ khi họ cảm thấy không thoải mái” thằng cháu họ tôi nói.
                  “Tao không muốn Dill phục vụ tao” tôi nói. “Tao thích phục vụ nó hơn”.
                  “Dill?”
                  “Phải. Chưa nói gì về chuyện đó, nhưng tụi tao sẽ cưới nhau ngay khi tụi tao lớn lên. Mùa hè rồi nó hỏi cưới tao”.
                  Francis chế nhạo.
                  “Có vấn đề gì với nó hả?” Tôi hỏi. “Đâu có chuyện gì với nó đâu”.
                  “Ý mày nói cái thằng ẻo lả mà bà nội nói mỗi mùa hè đều về ở với cô Rachel đó hả?”
                  “Đó đúng là người tao muốn nói”.
                  “Tao rành nó quá mà” Francis nói.
                  “Cái gì về nó?”
                  “Bà nội nói nó không có nhà...”
                  “Có mà, nó sống ở Meridian”.
                  “... nó chỉ được chuyển từ nhà người bà con này đến nhà người bà con khác, còn cô Rachel lo giữ nó vào mỗi mùa hè”.
                  “Francis, không phải vậy!”
                  Francis cười vào mặt tôi. “Có khi mày quá ngốc, Jean Louise. Tao đoán mày chẳng biết gì hơn”.
                  “Ý mày là sao?”
                  “Nếu ông Atticus để mày chạy chơi loanh quanh với mấy con chó lạc, thì đó là việc của riêng ông, giống như bà nội nói, vì vậy đó không phải là lỗi của mày. Ngoài ra tao nghĩ nếu ông Atticus là một kẻ yêu bọn mọi đen thì đó cũng không phải là lỗi của mày, nhưng tao ở đây để nói với mày chuyện đó chắc chắn làm xấu mặt những người còn lại của dòng họ này...”
                  “Francis, mày muốn nói cái quái quỷ gì vậy?”
                  “Tao nói vậy đó. Bà nội nói chuyện ba mày để tụi mày sống bừa bãi tùy ý đã đủ tệ rồi, nhưng giờ ông lại té ra thành kẻ yêu bọn mọi đen thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể đi lại trên đường phố Maycomb được nữa. Ông ấy đang hủy hoại dòng họ này, ông đang làm vậy đó”.
                  Francis đứng dậy và chạy xuống lối đi hẹp dẫn tới nhà bếp cũ. Ở khoảng cách an toàn nó la to, “Ba mày chẳng là gì ngoài một kẻ yêu bọn mọi đen!”
                  “Không phải thế!” tôi gầm lên. “Tao không biết mày đang nói về cái gì, nhưng tốt nhất mày nên nhưng trò này ngay lập tức!”
                  Tôi phóng khỏi bậc thềm và chạy xuống lối đi. Tôi tóm cổ Francis dễ dàng và bảo nó rút lại lời nói ngay.
                  Francis vùng thoát và chạy nhanh vào nhà bếp cũ. “Đồ yêu bọn mọi đen!” Nó gào lên.
                  Khi rình con mồi của mình, tốt nhất là cứ thong thả. Chẳng nói gì, nhưng chắc chắn nó sẽ tò mò và hiện ra. Francis xuất hiện ngay cửa bếp. “Mày vẫn còn nổi sùng hả, Jean Louise?” Nó ngập ngừng hỏi.
                  “Chẳng có gì để nói” tôi đáp.
                  Francis bước lên lối đi.
                  “Mày rút lại lời nói đó không, Fra-a-ancis?” Nhưng tôi đã động thủ quá nhanh. Francis lui trở vào nhà bếp, vì vậy tôi rút về bậc thềm. Tôi có thể chờ một cách kiên nhẫn. Tôi đã ngồi đó có lẽ cỡ năm phút thì nghe bác Alexandra gọi:
                  “Francis đâu rồi?”
                  “Nó ở trong bếp”.
                  “Nó biết nó không được chơi trong đó mà”.
                  Francis bước ra khỏi cửa và gào lên, “Bà nội, cô ấy nhốt con trong này, không cho ra!”
                  “Chuyện gì vậy, Jean Louise?”
                  Tôi nhìn lên bác Alexandra. “Cháu không nhốt nó trong đó, bác, cháu không giữ nó”.
                  “Có, nó có,” Francis la to, “nó không cho con ra!”
                  “Tụi bay làm nhặng xị lên đó hả?”
                  “Jean Louise nổi sùng với con, bà nội” Francis kêu lên.
                  “Francis, ra khỏi đó! Jean Louise, nếu bác còn nghe cháu nói một từ nào như thế nữa bác sẽ mách ba cháu. Hồi nãy bác nghe cháu nói từ quái quỷ phải không?”
                  “Không ạ”.
                  “Bác nghĩ là có. Tốt hơn là đừng để bác nghe từ đó lần nữa”.
                  Bác Alexandra là người rình nghe ở hiên sau. Khi bác đi khuất Francis ló đầu ra nhăn nhở cười. “Đừng có lừa tao” nó nói.
                  Nó phóng ra sân và giữ khoảng cách, đã những bụi cỏ, thỉnh thoảng quay sang cười tôi. Jem xuất hiện trên hiên nhà, nhìn chúng tôi, rồi bỏ đi. Francis trèo lên cây mimosa, tuột xuống, đút hai tay vào túi quần và đi vòng quanh sân. “Ha!” nó nói. Tôi hỏi nó nghĩ nó là ai, chú Jack chắc? Francis nói nó nghĩ là tôi đã bị rầy rồi, tôi chỉ nên ngồi đó và để nó yên.
                  “Tao không thèm quấy mày” tôi nói.
                  Francis nhìn kỹ tôi, kết luận rằng tôi đã bị khuất phục, và ngân nga khe khẽ, “Đồ yêu bọn mọi đen...”
                  Lần này, tôi đấm vào răng cửa của nó đến toác da đốt ngón tay tới tận xương. Tay trái tôi tê dại, tôi chuyển sang đánh bằng tay phải, nhưng không được lâu. Chú Jack giữ chặt hai cánh tay tôi sát hông và nói. “Đứng im!”
                  Bác Alexandra chăm sóc Francis, lấy khăn tay chùi nước mắt cho nó, xoa đầu nó, vỗ má nó. Bố Atticus, Jem, và chú Jimmy ra tới hiên sau thì Francis bắt đầu gào.
                  “Đứa nào gây sự trước?” Chú Jack hỏi.
                  Francis và tôi chỉ nhau. “Bà nội,” nó hét, “nó gọi con là con điếm rồi nhảy xổ vào con!”
                  “Đúng không, Scout?” Chú Jack hỏi.
                  “Cháu cho là như vậy”.
                  Khi chú Jack nhìn tôi, nét mặt chú giống hệt mặt bác Alexandra. “Cháu có biết là chú đã nói rằng cháu sẽ gặp rắc rối nếu dùng những từ như thế không? Chú có nói với cháu rồi, đúng không?”
                  “Vâng, nhưng...”
                  “Giờ cháu gặp rắc rối rồi đó. Đứng đó”.
                  Tôi đang cân nhắc hoặc đứng đó hoặc chạy đi và nấn ná không quyết định quá lâu: tôi quay người để chạy trốn nhưng chú Jack nhanh hơn. Tôi thấy mình đột nhiên dí mặt xuống nhìn một con kiến bé xíu vật lộn với vụn bánh mì trên cỏ.
                  “Cháu không bao giờ nói chuyện lại với chú chừng nào cháu còn sống! Cháu ghét chú và coi thường chú và hy vọng mai chú chết!” Một tuyên bố có vẻ như khích lệ chú Jack, nhiều hơn bất cứ gì khác. Tôi chạy đến chỗ bố Atticus tìm sự vỗ về, nhưng ông nói rằng tôi đáng bị như vậy và đây là lúc chúng tôi nên về nhà. Tôi chui vào băng sau xe mà không chào tạm biệt bất cứ ai, và tới nhà tôi chạy vào phòng mình, đóng sầm cửa lại. Jem cố nói điều gì tốt đẹp, nhưng tôi không để anh nói.
                  Tôi xem xét thiệt hại, chỉ có bảy hay tám dấu đỏ, và tôi đang ngẫm nghĩ về tính tương đối thì nghe ai đó gõ cửa. Tôi hỏi ai; chú Jack trả lời.
                  “Đi đi!”
                  Chú Jack nói nếu tôi nói giống vậy chú sẽ đánh bại tôi lần nữa.
                  Chú Jack nói nếu tôi nói giống vậy chú sẽ đánh bại tôi lần nữa, vì vậy tôi im lặng. Khi chú bước vào phòng, tôi rút vào một góc và quay lưng lại chú. “Scout,” chú nói, “cháu vẫn ghét chú sao?”
                  “Chú cứ nói đi”.
                  “Chà, chú không nghĩ cháu vẫn còn ghét chú” chú nói. “Chú thất vọng về cháu... cháu đáng bị như vậy và cháu biết điều đó”.
                  “Cháu chẳng biết gì cả”.
                  “Cục cưng, cháu không thể cứ gọi người ta là...”
                  “Chú không công bằng,” tôi nói, “chú không công bằng”.
                  Chú Jack nhướn mày. “Không công bằng? Như thế nào?”
                  “Chú thiệt là tốt, chú Jack, và cháu cho rằng cháu vẫn yêu chú bất kể những gì chú đã làm, nhưng chú không hiểu trẻ con nhiều”.
                  Chú Jack chống nạnh và nhìn xuống tôi. “Và tại sao chú không hiểu trẻ con, cô Jean Louise? Kiểu cư xử như của cháu chẳng đòi hỏi hiểu nhiều. Thế là bừa bãi, lộn xộn, và thô lỗ...”
                  “Chú có cho cháu cơ hội nói chú nghe không? Cháu không có ý hỗn láo với chú, cháu chỉ đang cố nói với chú”.
                  Chú Jack ngồi xuống giường. Chú nhíu mày lại và nhìn tôi từ dưới hàng lông mày đó. “Bắt đầu đi” chú nói.
                  Tôi hít một hơi dài. “Được rồi, thứ nhất là chú không bao giờ ngưng lại để cho cháu được kể lại chuyện đó theo cách của cháu... chú chỉ tấn công cháu. Khi Jem và cháu gây lộn, bố Atticus không bao giờ lắng nghe ý kiến của Jem về chuyện đó, ông còn lắng nghe ý kiến của cháu nữa, và thứ hai là chú có bảo cháu đừng bao giờ dùng những từ như thế trừ trong trường hợp bị khiêu khích quá mức, và Francis đã khiêu khích cháu đủ để cháu nện vỡ đầu nó...”
                  Chú Jack gãi đầu. “Chuyện đó theo cách kể của cháu là sao, Scout?”
                  “Francis gọi bố Atticus là cái gì đó và cháu không tính nhắc lại nó”.
                  “Francis gọi ba con là gi?”
                  “Kẻ yêu bọn mọi đen. Cháu không biết chắc nghĩa của nó, nhưng kiểu Francis nói câu đó... nói với chú một điều này nghe chú Jack, cháu sẽ là đồ... cháu thề trước Chúa nếu cháu còn ngồi đó và để nó nói điều gì đó về bố Atticus”.
                  “Nó gọi bố Atticus như vậy hả?”
                  “Phải, nó nói vậy, còn hơn vậy nữa. Nó nói bố Atticus là sự hủy hoại của dòng họ này và bố đã để cho Jem và cháu sống bừa bãi...”
                  Qua vẻ mặt chú Jack, tôi nghĩ mình bị rắc rối nữa. Khi chú nói, “Chúng ta sẽ xem xét vụ này” thì tôi biết chính Francis mới bị rắc rối. “Chú nghĩ tối nay mình sẽ đến đó”.
                  “Thôi đi, bỏ qua chuyện này đi. Cháu năn nỉ đấy”.
                  “Chú không có ý định bỏ qua” chú nói, “Alexandra phải biết chuyện này. Ý tưởng về... cứ chờ cho tới khi chú trừng phạt được thằng bé này...”
                  “Chú Jack, làm ơn hứa với cháu một điều, cháu năn nỉ. Hứa là không nói với bố Atticus chuyện này. Có lần bố... bố yêu cầu cháu đừng để bất cứ điều gì cháu nghe về bố làm cháu nổi khùng lên, và cháu thà để bố nghĩ tụi cháu đánh nhau vì điều gì khác còn hơn. Làm ơn hứa...”
                  “Nhưng chú không thích Francis vẫn yên thân với chuyện giống như thế này...”
                  “Nó đâu có yên thân. Chú có nghĩ là chú băng tay cho cháu được không? Nó còn rỉ máu nè”.
                  “Dĩ nhiên chú sẽ băng chí, bé con. Không có bàn tay nào chú hoan hỉ băng lại hơn tay cháu đâu. Cháu vào trong kia nghe?”
                  Chú Jack trang trọng nghiêng đầu hướng tôi vào phòng tắm. Trong khi chú rửa và băng những đốt ngón tay cho tôi, chú giải thích cho tôi bằng câu truyện về ông già cận thị ngộ nghĩnh có một con mèo tên Hodge, và ông ta đếm tất cả các vết nứt trên lề đường khi ông ta đi bộ xuống thị trấn.. “Từ giờ,” chú nói, “cháu sẽ có một vết sẹo rất kém phụ nữ ở ngón áp út”.
                  “Cám ơn chú. Chú Jack này?”
                  “Gì cô nương?”
                  “Con điếm là gì vậy?”
                  Chú Jack lái sang một câu chuyện dài khác về một vị thủ tướng già ngồi trong Hạ viện thổi những chiếc lông trên không và cố giữ cho chúng ở đó trong khi tất cả những người quanh ông mất bình tĩnh. Tôi đoán chú đang cố trả lời câu hỏi của tôi, nhưng chú nói gì thì tôi chẳng hiểu được.
                  Sau đó, khi đến giờ sắp phải đi ngủ, tôi xuống hành lang để uống nc thì nghe bố Atticus và chú Jack nói chuyện trong phòng khách.
                  “Em sẽ không bao giờ cưới vợ, Atticus”.
                  “Sao vậy?”
                  “Em có thể có con”.
                  “Chú có nhiều thứ cần học, Jack à”.
                  “Em biết. Chiều nay con gái anh cho em những bài học đầu tiên. Nó nói em không hiểu trẻ con nhiều và cho em biết tại sao. Nó hoàn toàn đúng. Atticus, nó đã nói cho em biết cách em phải cư xử với nó...Ồ, em rất tiếc vì đã áp đặt nó”.
                  Bố Atticus cười. “Con bé đáng bị như vậy, nên cũng đừng quá ân hận”.
                  Lòng bồn chồn, tôi chờ chú Jack nói với bố Atticus ý kiến của tôi về chuyện đó. Nhưng chú không nói. Chú chỉ lẩm bẩm, “Việc con bé sử dụng những từ ngữ rủa xả chẳng để lại gì cho trí tưởng tượng. Nhưng con bé chưa biết hết ý nghĩa của phân nửa những gì nó nói... Nó hỏi em con điếm là gì...”
                  “Rồi chú nói cho nó biết hả?”
                  “Không, em kể cho nó nghe chuyện Huân tước Melbourne [5]”.
                  “Jack! Khi trẻ con hỏi chú điều gì thì hãy trả lời nói, vì thiện ý. Nhưng đừng bịa chuyện. Trẻ con là trẻ con, nhưng chúng có thể phát hiện sự lẩn tránh nhanh hơn người lớn, và sự lẩn tránh chỉ làm chúng bối rối. Không,” bố tôi trầm tư, “chiều nay chú đã trả lời đúng, nhưng với những lý do sai. Ngôn ngữ bậy bạ là một chặng đường mà mọi trẻ con đều phải đi qua, và nó chết với thời gian khi chúng biết chúng không thu hút được sự chú ý bằng thứ ngôn ngữ đó. Thói nóng nảy cũng không. Scout phải học cách giữ bình tĩnh và học sớm, với những gì sắp xảy ra cho nó vài tháng tới đây. Dù sao con bé cũng đang lớn lên. Jem đã lớn hơn và hiện nay con bé cũng học tập khá nhiều theo gương anh nó. Lắm khi tất cả những gì con bé cần chỉ là sự giúp đỡ”.
                  “Atticus, anh chưa bao giờ làm đau con bé”.
                  “Tôi thừa nhận điều đó. Cho đến bây giờ tôi vẫn có thể kiềm chế chứng nó bằng cách răn đe được. Jack à, con bé quan tâm đến tôi bằng hết sức của nó. Không thỏa đáng lắm trong bao lâu nay, nhưng con bé đang cố”.
                  “Đó không phải là câu trả lời” chú Jack nói.
                  “Không, câu trả lời là con bé biết tôi biết nó cố gắng. Đó mới là quan trọng. Điều khiến tôi lo là con bé với Jem sẽ phải tiếp xúc những điều xấu khá sớm. Tôi không lo về khả năng giữ bình tĩnh trong cơn khủng hoảng của Jem, nhưng Scout thì sẵn sàng nhảy xổ vào ai đó cũng như nhìn thẳng vào người đó nếu lòng tự trọng của nó bị xúc phạm...”
                  Tôi chờ thấy chú Jack vi phạm lời hứa, nhưng chú vẫn không.
                  “Atticus, chuyện này sẽ xấu đến cỡ nào? Anh đâu có nhiều cơ hội để thảo luận chuyện này”.
                  “Nó không thể tồi tệ hơn, Jack. Điều duy nhất chúng ta có là lời khai của một người da đen chống lại nhà Ewell. Bắng chứng rút cục lại là anh-có-làm-tôi-không-làm. Người ta hầu như không mong đợi bồi thẩm đoàn chấp nhận lời khai của Tom Robinson chống lại nhà Ewell... Chú có quen biết với nhà Ewell không?”
                  Chú Jack nói có, chú nhớ lại họ. Chú tả họ cho bố Atticus nghe, nhưng bố Atticus nói, “Chú là thế hệ trước. Tuy nhiên những người hiện nay cũng y như vậy”.
                  “Vậy anh sẽ làm gì?”
                  “Trước khi tôi xong vụ này, tôi có ý định quậy bồi thẩm đoàn một chút... Tuy nhiên tôi nghĩ chúng ta sẽ có cơ hội hợp lý để kháng án. Thực sự tôi không thể xác định gì vào giai đoạn này. Chú biết đấy, tôi hy vọng sẽ đi hết cuộc đời mà không gặp một vụ nào giống như vậy, nhưng John Taylor đã chỉ vào tôi và nói, ‘Là anh thôi’.”
                  “Xin cất chén này xa con, hả? [6]”
                  “Đúng. Nhưng bộ chú nghĩ tôi có thể đối mặt với các con tôi khác đi sao? Chú biết rõ chuyện này sẽ xảy ra y như tôi vậy, Jack, và tôi hy vọng và cầu nguyện mình có thể đưa Jem và Scout vượt qua vụ này mà không chịu đắng cay, và nhất là không bị nhiễm căn bệnh thường gặp của Maycomb. Tại sao những con người có lý trí lại hoàn toàn điên lên khi xảy ra bất cứ chuyện gì dính đến người Da đen là điều mà tôi không muốn làm bộ hiểu... Tôi chỉ hy vọng rằng Jem với Scout sẽ đến gặp tôi để kiếm câu trả lời cho chúng thay vì lắng nghe thị trấn này. Tôi hy vọng chúng đủ tin cậy ở tôi...Jean Louise hả?”
                  Tóc tôi dựng đứng. Tôi ló đầu khỏi góc nhà, “Dạ?”
                  “Đi ngủ”.
                  Tôi chạy về phòng và lên giường. Chú Jack là một người bạn tuyệt vời đã không bỏ rơi tôi. Tôi không hiểu nổi tại sao bố Atticus biết tôi đang lắng nghe, và mãi nhiều năm sau tôi mới nhận ra ông muốn tôi nghe mọi lời ông nói.


                  Chú thích:

                  [1] Hiệp ước dung hòa Missouri(1820) kết nạp Missouri vào liên bang mà vẫn được duy trì chế độ nô lệ ở bang này, nhưng quy định thêm rằng sẽ không cho phép có thêm tiểu bang có nô lệ nào nữa kể từ đường biên giới phía Nam Missouri trở lên phía Bắc.
                  [2] Stonewall Jackson (1824-1863): tướng miền Nam trong Nội chiến Mỹ, Ol’ Blue Light là biệt danh của ông.
                  [3] Dân miền Bắc nước Mỹ.
                  [4] Sân thượng có lan can trên nóc nhà(window’s walk, nghĩa đen, lối đi dạo cho quả phu) thường thấy ở những ngôi nhà ven biển, dành cho vợ của ngư phủ hoặc thủy thủ đứng ngóng tàu của chồng họ trở về.
                  [5] Huân tước Melborne(1979-1848): Thủ tướng đầu tiên của Nữ hoàng Victoria, cũng nổi tiếng là nịnh đầm.
                  [6] Vào đêm trước khi bị đóng đinh trên thập giá, Jesus cầu nguyện rằng, “Lạy cha, nếu cha muốn, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con, một xin theo ý cha”. Khi xin “cất chén này xa con” Jesus mong có thể tránh được số phận của mình (trong tiếng Hy lạp, “chén” có nghĩa bóng là “số phận”). Ở đây, Jack hiểu anh mình không muốn chịu số phận là phải biện hộ cho Tom Robinson.
                  Last edited by Poupi; 03-01-2016, 03:55 PM.

                  Comment


                  • #10
                    Chương 10


                    Bố Atticus đã yếu: ông gần năm mươi. Khi Jem và tôi hỏi tại sao bố lại già như thế, ông nói ông đã khởi đầu trễ, điều đó chúng tôi cảm thấy được phản ảnh trong những khả năng và nam tính của ông. Ông già hơn cha mẹ của những bạn học của chúng tôi nhiều, và chẳng có gì Jem hoặc tôi có thể nói về ông khi bạn học của chúng tôi nói, “Ba tao thế này... thế kia...”
                    Jem rất mê bóng bầu dục. Bố Atticus không bao giờ mệt đến độ không muốn chơi, nhưng khi Jem muốn dành bóng với ông, ông nói, “Bố quá già không làm vụ đó nổi, con trai”.
                    Bố tôi không làm bất cứ thứ gì. Ông làm việc trong một văn phòng, không phải trong tiệm tạp phẩm. Bố Atticus không lái xe thùng cho hạt, ông không phải là cảnh sát trưởng, ông không làm nghề nông, làm việc trong một tiệm sửa xe, hoặc làm bất cứ điều gì có thể dấy lên lòng ngưỡng mộ của bất cứ ai.
                    Ngoài ra, bố còn đeo kính. Mắt trái ông gần như mù, và ông nói rằng mắt trái là lời nguyền dòng tộc của nhà Finch. Mỗi khi muốn nhìn rõ thứ gì, ông phải quay đầu và nhìn bằng mắt phải.
                    Bố không làm những việc mà ba của các bạn học tôi làm: ông không đi săn, không chơi phé hoặc câu cá hay uống rượu hay hút thuốc. Bố ngồi trong phòng khách và đọc.
                    Tuy nhiên, với những đặc điểm này bố tôi vẫn không được chìm khuất như chúng tôi mong ước: năm đó, cả trường xôn xao chuyện ông biện hộ cho Tom Robinson, không lời bàn tán nào lộ sự thán phục. Sau vụ đụng độ giữa tôi và Cecil Jacobs khi tôi cam kết theo chính sách làm kẻ hèn nhát, có lời đồn lan truyền rằng Scout Finch sẽ không đánh nhau nữa, nó bị ba nó cấm. Điều này hoàn toàn không đúng: tôi sẽ không chiến đấu công khai vì bố Atticus, nhưng gia đình là lĩnh vực riêng tư. Tôi sẽ chiến đống sống mái với bất kỳ ai từ đứa anh em họ ba đời trở lên. Francis Hancock chẳng hạn, biết điều đó.
                    Khi cho chúng tôi những khẩu súng hơi bố Atticus không dạy chúng tôi bắn. Chú Jack dạy chúng tôi những nguyên lý cơ bản của việc đó; chú nói bố Atticus không quan tâm đến súng ống. Ngày nọ bố Atticus nói với Jem, “Bố thích con bắn vào mấy cái thùng thiếc ở sân sau, nhưng bố biết con sẽ đi săn chim. Cứ bắn mọi con giẻ xanh mà con muốn, nếu con có thể bắn trúng, nhưng hãy nhớ giết một con chim nhại là tội lỗi”.
                    Đó là lần duy nhất tôi từng nghe bố Atticus nói làm một điều gì đó là tội lỗi, và tôi hỏi cô Maudie về điều đó.
                    “Ba cháu đúng” cô nói. “Những con chim nhại chẳng làm gì ngoài việc đem tiếng hót đến cho ta thưởng thức. Chúng không phá hoại vườn tược của con người, không làm tổ trên những bẹ ngô, chúng không làm việc gì ngoài việc hót bằng cả trái tim cho chúng ta nghe. Điều đó lý giải tại sao giết một con chim nhại là tội lỗi”.
                    “Cô Maudie, đây là một khu lâu đời, đúng không?”
                    “Từng có ở đây trước cả thị trấn này”.
                    “Không, cháu muốn nói là những người ở khu phố chúng ta đều là người già, Jem và cháu là những đứa trẻ duy nhất ở quanh đây. Bà Dubose gần trăm tuổi con cô Rachel cũng già và cô và bố Atticus cũng vậy”.
                    “Cô không cho năm mươi là quá già” cô Maudie nói một cách chua chát. “Cô chưa phải đi bằng xe lăn, đúng không? Mà ba cháu cũng vậy. Nhưng cô phải nói là Chúa đã đủ tử tế để thiêu rụi ngôi nhà mồ cũ của cô, cô đã già quá không chăm sóc nó được nữa... có lẽ cháu đúng, Jeans Louise, đây là khu ổn định. Quanh cháu bọn trẻ không nhiều lắm, đúng không?”
                    “Phải, ở trường có”.
                    “Ý cô là những người lớn trẻ. Cháu biết không, cháu may mắn. Cháu và Jem có lợi từ tuổi tác của ba cháu. Nếu ba cháu ba mươi cháu sẽ thấy cuộc sống hoàn toàn khác hẳn”.
                    “Chắc vậy. Bố Atticus chẳng làm được cái gì...”
                    “Cháu sẽ ngạc nhiên đấy” cô Maudie nói. “Nhưng có cuộc sống bên trong ông ấy”.
                    “Bố cháu có thể làm gì?”
                    “Ông ấy có thể làm di chúc cho ai đó chặt chẽ đến độ không ai làm rối được”.
                    “Ôi trời...”
                    “Ồ, cháu có biết ba cháu là người chơi cờ giỏi nhất thị trấn này không? Ở Landing hồi bọn ta mới lớn, Atticus Finch có thể đánh bại bất kỳ ai ở hai bên bờ sông”.
                    “Chúa ơi, cô Maudie, lần nào Jem với cháu cũng thắng bố hết”.
                    “Đã đến lúc cháu nhận ra đó là bởi vì ông nhường tụi cháu. Bộ cháu không biết ông ấy còn chơi được thụ cầm Do Thái [1] sao?”
                    Thành tựu khiêm tốn này thậm chí còn khiến tôi xấu hổi hơn về ông.
                    “Ờ...” Cô ấy nói.
                    “Ờ, cái gì, cô Maudie?”
                    “Ờ không. Không có gì... có vẻ như thế cháu sẽ thấy tự hào về ông. Không phải ai cũng chơi được thụ cầm Do Thái. Bây giờ thì hãy tránh đường cho các thợ cưa. Tốt hơn cháu nên về nhà. Cô còn bận mấy khóm đỗ quyên và không trông chừng cháu được. Cây gỗ có thể rớt trúng cháu đó”.
                    Tôi bước ra sân sau và thấy Jem đang tích cực bắn vào một cái thùng thiếc, việc này có vẻ ngốc nghếch khi lũ giẻ xanh đầy quanh đó. Tôi trở ra sân trước và bận rộn hai giờ liền với việc xây dựng những công sự phức tạp ở cạnh hàng hiên, gồm một lốp xe, một thùng đựng cam, giỏ mây đựng quần áo giặt, những chiếc ghế ở hiên nhà, và một lá cờ Mỹ nhỏ mà Jem lấy trong một hộp bắp rang cho tôi.
                    Khi bố Atticus về nhà ăn trưa ông thấy tôi đang khum người nhắm sang bên kia đường. “Con bắn vào cái gì vậy?”
                    “Mông của cô Maudie”.
                    Bố Atticus quay sang và thấy mục tiêu bề thế của tôi đang cúi xuống những bụi cây của cô. Ông lật mũ ra sau và băng qua đường. “Maudie,” ông gọi, “tôi nghĩ tốt hơn tôi nên cảnh báo cô. Cô đang trong tình trạng nguy hiểm đáng báo động đấy”.
                    Cô Maudie đứng thẳng dậy và nhìn về phía tôi. Cô nói, “Atticus, anh đúng là quỷ sứ dưới địa ngục”.
                    Khi quay về, bố bảo tôi dẹp trò chơi này đi. “Đừng để bố thấy con nhắm cây súng này vào bất cứ ai lần nữa”.
                    Tôi ước gì bố tôi là quỷ sứ dưới địa ngục. Tôi kể lể chuyện này với Calpurnia. “Ông Finch hả? Ông ta có thể làm rất nhiều chuyện”.
                    “Như chuyện gì?” Tôi hỏi.
                    Calpurnia gãi đầu. “Tôi không biết rõ lắm” bà nói.
                    Jem làm chuyện này rõ ràng hơn khi anh hỏi bố Atticus có phải đấu tranh cho các tín hữu Giám lý không và bố Atticus nói ông sẽ chuốc vạ vào thân nếu làm như vậy, ông đã quá già cho loại việc như thế. Những tín hữu Giám lý đang cố trả hết tiền thế chấp nhà thờ của họ và đã thách thức các tín hữu Baptist chơi một trận bóng bầu dục chạm [2]. Mọi ông bố trong thị trấn đều chơi, trừ bố Atticus. Jem nói thậm chí anh không muốn đi, nhưng anh không cưỡng lại được môn bóng bầu dục ở bất cứ hình thức nào, và anh đứng rầu rĩ trên đường biên với bố Atticus và tôi theo dõi bố của Cecil Jacobs ghi điểm cho đội Baptist.
                    Một thứ Bảy tôi và Jem quyết định xách súng hơi đi thám hiểm xem liệu chúng tôi có tìm được con thỏ hay con sóc nào không. Chúng tôi đã đi cách nhà Radley khoảng năm trăm thước thì tôi nhận ra Jem đang nhìn cái gì đó dọc con đường. Anh quay đầu và nhìn bằng khóe mắt.
                    “Anh đang nhìn gì vậy?”
                    “Con chó già tuốt đằng kia kìa” anh nói.
                    “Đó là con Tim Johnson già, đúng không?”
                    “Phải”.
                    Tim Johnson là tài sản của ông Harry Johnson, người lái xe buýt Mobile và sống ở mé Nam thị trấn. Tim là con chó săn chim màu gan gà, con vật cưng của Maycomb.
                    “Nó làm gì vậy?”
                    “Tao không biết, Scout. Tụi mình nên về thôi”.
                    “Này Jem, trời mới tháng Hai”.
                    “Tao không quan tâm, tao sẽ nói với Calpurnia”.
                    Chúng tôi chạy về nhà và vào bếp.
                    “Calpurnia,” Jem nói, “bà có thể bước ra vỉa hè một chút không?”
                    “Chi vậy, Jem? Tôi không thể ra đứng vỉa hè mỗi lần cậu muốn đâu”.
                    “Có chuyện gì kỳ kỳ với con chó già đằng kia kìa”.
                    Calpurnia thở dài. “Tôi không thể băng chân cho bất cứ con chó nào lúc này. Trong phòng tắm có một số bông băng, đi lấy và tự làm đi”.
                    Jem lắc đầu. “Nó bệnh, Calpurnia à. Có chuyện gì kỳ kỳ với nó”.
                    “Nó đang làm gì, cố cắn đuôi nó hả?”
                    “Không, nó làm giống vầy nè”.
                    Jem ngáp ngáp giống như con cá vàng, rút vai và vặn vẹo thân mình. “Nó làm giống vậy, chứ không giống ý nó muốn”.
                    “Cậu đang bịa chuyện với tôi hả, Jem Finch?” Giọng Calpurnia khô khốc.
                    “Không Calpurnia, con thề là không”.
                    “Nó có chạy không?”
                    “Không, nó chỉ đi từ từ, chậm đến độ bà không thể nói là nó đi. Nó sắp tới đây rồi”.
                    Bà rửa tay và theo Jem ra sân. “Tôi có thấy con chó nào đâu” bà nói.
                    Bà theo chúng tôi đi vượt qua nhà Radley và nhìn theo hướng Jem chỉ. Tim Johnson ở đằng xa không lớn hơn một cái chấm nhỏ, nhưng nó đã gần chúng tôi hơn. Nó đi thất thểu, như thể chân phải của nó ngắn hơn chân trái. Nó gợi tôi nhớ đến một chiếc xe hơi bị kẹt trong bãi cát.
                    “Nó đi khập khiễng” Jem nói.
                    Calpurnia nhìn, rồi nắm vai lôi chúng tôi về nhà. Bà đóng cánh cửa gỗ lại sau lưng chúng tôi, đi đến điện thoại và la lên. “Cho tôi nói chuyện với văn phòng ông Finch”.
                    “Ông Finch!” bà la to. “Cal đây. Tôi thề có Chúa, có một con chó điên ở khu phố mình... nó đang đến đây, phải, thưa ông, nó là... ông Finch, tôi cho nó là... Tim Johnson già, phải... thưa ngài... phải... phải...”
                    Bà lắc đầu khi chúng tôi cố hỏi bà bố Atticus nói gì. Bà quay số điện thoại và nói, “Cô Eula May... tôi vừa nói chuyện với ông Finch, làm ơn đứng nối máy cho tôi nữa... nghe này, cô Eula May, cô có thể gọi điện cho cô Rachel và cô Stephanie Crawford và bất cứ ai có điện thoại trên phố này để báo cho họ biết có một con chó điên sắp đi ngang được không? Lẹ lên, cô!”
                    Calpurnia lắng nghe. “Tôi biết đang là tháng Hai, cô Eula May, nhưng khi thấy là tôi biết con chó nào điên liền. Nhanh lên đi cô!”
                    Calpurnia hỏi Jem, “Nhà Radley có điện thoại không?”
                    Jem nhìn danh bạ rồi nói không. “Dù sao thì họ cũng không ra ngoài đâu Cal”.
                    “Tôi không quan tâm, tôi sẽ báo với họ”.
                    Bà chạy ra hiên trước, tôi và Jem theo sát gót bà. “Cô cậu ở lại trong nhà!” bà hét lên.
                    Cả khu phố đã nhận được thông điệp của Calpurnia. Mọi cánh cửa gỗ trong tầm nhìn của chúng tôi đã được đóng chặt. Chúng tôi chẳng thấy bóng dáng gì của Tim Johnson. Chúng tôi nhìn theo Calpurnia đang chạy về phía nhà Radley, vén váy và tạp dề lên quá gối. Bà đến bên bậc thềm cửa trước và đập cửa. Chẳng ai trả lời và bà la to, “Ông Nathan, ông Arthur, có con chó điên đang đến! Chó điên đến!”
                    “Bà ta nên đi vòng ra phía sau” tôi nói.
                    Jem lắc đầu. “Giờ thì không ăn thua nữa rồi” anh nói.
                    Calpurnia nện vào cửa một cách vô ích. Không ai biết sự cảnh cáo của bà; không ai có vẻ nghe thấy gì.
                    Khi Calpurnia chạy nhanh đến hiên sau, một chiếc Ford đen chạy vào lối xe nhà tôi. Bố Atticus và ông Heck Tate bước ra.
                    Ông Heck Tate là cảnh sát trưởng của hạt Maycomb. Ông cao bằng bố Atticus nhưng gầy hơn. Ông có sống mũi dài, mang ủng có những lỗ xỏ dây kim loại lấp lánh, quần đi ủng và áo khoác. Thắt lưng của ông có gắn một hàng đạn. Ông mang cây súng trường nặng. Khi ông và bố Atticus đến hàng hiên, Jem mở cửa.
                    “Ở trong nhà đi, con trai” bố Atticus nói. “Nó đâu, Cal?”
                    “Giờ này lẽ ra nó phải ở đây rồi” Calpurnia nói, chỉ ra đường.
                    “Nó không chạy chứ?” Ông Tate hỏi.
                    “Không, thưa ngài. Nó đang trong giai đoạn co giật, ông Heck ạ”.
                    “Mình phải săn tìm nó, hả Heck?” Bố Atticus nói.
                    “Tốt hơn mình nên chờ, ông Finch. Chúng thường đi theo đường thẳng, nhưng ông đâu nó chắc được. Nó có thể đi theo đường cong... Hy vọng nó đã quẹo hoặc đi thẳng vào sân sau nhà Radley. Mình chờ một lát đi”.
                    “Tôi không nghĩ nó vào được sân nhà Radley. Hàng rào sẽ chặn nó lại. Chắc nó đi theo đường lộ...”
                    Tôi nghĩ bọn chó điên là sùi bọt mép, phóng hết tốc lực, nhảy lên và lao vào cổ họng, và tôi nghĩ chúng làm vậy vào tháng Tám. Nếu Tim Johnson phản ứng kiểu đó, chắc tôi sẽ ít sợ hơn.
                    Chẳng có gì rợn người hơn một con phố vắng ngắt đang nằm chờ. Cây cối lặng im, bọn chim nhại bặt tiếng, các thợ cưa nhà cô Maudie đã biến mất. Tôi nghe ông Tate khịt mũi rồi hắt hơi. Tôi thấy ông đưa súng lên kẹp vào khuỷu tay. Tôi thấy khuôn mặt của cô Stephanie Crawford lộ ra ở ô kính cửa trước nhà cô. Cô Maudie xuất hiện và đứng cạnh cô. Bố Atticus gác chân lên thanh ngang của chiếc ghế và chậm rãi chà bàn tay dọc bên đùi.
                    “Nó kìa” ông nói nhẹ nhàng.
                    Tim Johnson hiện ra, đi liêu xiêu theo mé trong của đoạn đường vòng song song với nhà Radley.
                    “Nhìn nó kìa” Jem thì thào. “Ông Heck nói chúng đi theo đường thẳng. Thậm chí nó không đi theo con đường được nữa”.
                    “Trông nó bệnh hoạn quá chừng” tôi nói.
                    “Để bất cứ thứ gì ngay trước mặt nó là nó nhảy thẳng vô liền”.
                    Ông Tate đặt tay lên trán và chồm tới. “Nó bị rõ ràng rồi, ông Finch”.
                    Tim Johnson tiến tới rất chậm, nhưng nó không đùa giỡn hoặc ngửi cành lá, có vẻ như nó chăm chú theo một hướng đi và bị đẩy bởi một lực vô hình về phía chúng tôi. Chúng tôi có thể thấy nó rùng mình như một con ngựa đang xua ruồi; hàm của nó há ra rồi ngậm lại; nó ngoẹo đầu sang một bên, nhưng đang bị đẩy dần dần về phía chúng tôi.
                    “Nó đang tìm chỗ để chết” Jem nói.
                    Ông Tate quay sang. “Còn lâu nó mới chết, Jem, nó còn chưa bắt đầu đi tìm nữa kìa”.
                    Tim Johnson đã tới chỗ con đường nhánh chạy trước nhà Radley, và những gì còn sót lại trong đầu óc khốn khổ của nó khiến nó ngừng lại và có vẻ cân nhắc không biết đi đường nào. Nó bước do dự vài bước rồi ngừng ngay trước cổng nhà Radley; rồi nó cố quay người, nhưng coi bộ rất khó khăn.
                    Bố Atticus nói, “Nó đang trong tầm bắn đó Heck. Anh nên xử lý nó trước khi nó quẹo xuống đường nhánh... có Chúa mới biết ai đang ở trong góc đường đó. Vào trong đi, Cal”.
                    Calpurnia mở cửa lưới, đóng chốt lại sau lưng bà, rồi lại mở chốt ra và cài vào móc cửa. Bà cố chặn tôi với Jem bằng thân người bà, nhưng bọn tôi nhìn ra qua nách bà.
                    “Hạ nó đi, ông Finch”. Ông Tate nói và trao khẩu súng trường cho bố Atticus; tôi và Jem gần muốn xỉu.
                    “Đừng phí thời gian, Heck” bố Atticus nói. “Làm đi”.
                    “Ông Finch, đây là công việc một-phát”.
                    Bố Atticus quyết liệt lắc đầu, “Đừng cứ đứng ngây ra đó, Heck! Nó không chờ anh cả ngày đâu...”
                    “Vì Chúa, ông Finch, nhìn chỗ nó đứng kìa! Bắn hụt là đạn bay thẳng vào nhà Radley đó! Tôi không bắn được ngon lành như thế và anh biết mà!”
                    “Tôi đã không bắn súng ba mươi năm rồi...”
                    Ông Tate gần như ném khẩu súng trường vào bố Atticus, “Tôi cảm thấy rất thoải mái nếu như anh bắn lúc này” ông ta nói.
                    Với cảm giác bối rối, tôi với Jem nhìn bố tôi cầm khẩu súng lên và bước ra ngay giữa đường. Ông đi nhanh, nhưng tôi nghĩ ông di chuyển giống như người lặn dưới nước: thời gian chậm lại tới mức gây buồn nôn.
                    Khi bố Atticus nâng kính lên Calpurnia lầm bầm, “Cầu Chúa phù hộ ông” và đưa hai tay ôm lấy má.
                    Bố Atticus đẩy kính lên trán; nó trượt xuống, và ông để nó rớt xuống đường. Trong im lặng, tôi nghe tiếng nó bể. Bố Atticus chà sát mắt và cằm. Chúng tôi thấy ông chớp mắt lia lịa.
                    Trước cổng nhà Radley, Tim Johnson đã quyết định với mớ thần kinh còn sót lại trong đầu nó. Sau cùng nó quay người, và tiếp tục lộ trình ban đầu hướng về phía nhà chúng tôi. Nó bước tới hai bước, rồi dừng lại và ngỏng đầu lên. Chúng tôi thấy thân thể nó cứng ngắc.
                    Với những động tác quá nhanh có vẻ như xảy ra đồng thời, bàn tay của bố Atticus kéo mạnh cần lên đạn trong khi ông đưa khẩu súng lên vai.
                    Khẩu súng nổ vang. Tim Johnson nhảy dựng, đổ phịch xuống và co rúm thành một đống màu nâu lẫn trắng trên lề đường. Nó không biết cái gì đã đâm trúng nó.
                    Ông Tate phóng khỏi hàng hiên và chạy tới nhà Radley. Ông dừng trước con chó, ngồi xổm xuống, xoay người và gõ ngón tay lên trán chỗ trên mắt trái ông, “Ông bắn hơi chệch sang phải, Finch” ông ta kêu lên.
                    “Luôn luôn vậy” bố Atticus đáp. “Nếu được chọn, tôi sẽ xài một cây súng bắn đạn chài”.
                    Ông cúi xuống nhặt kính lên, nghiền nát tròng kính bị vỡ dưới gót chân, đi tới chỗ ông Tate và đứng nhìn xuống xác Tim Johnson.
                    Từng cánh cửa mở ra, và khu phố chầm chậm hoạt động trở lại. Cô Maudie đi xuống những bậc thềm cùng cô Stephanie Crawford.
                    Jem đớ người. Tôi nhéo một phát thúc anh ấy đi ra, nhưng khi bố Atticus thấy chúng tôi đến gần, ông nói. “Ở yên đó”.
                    Khi ông Tate và bố Atticus trở lại sân, ông Tate mỉm cười. “Tôi sẽ kêu Zeebo hốt nó đi” ông nói. “Anh đâu có quên nhiều, Finch. Người ta nói nó không bao giờ rời anh”.
                    Bố Atticus im lặng.
                    “Bố Atticus?” Jem nói.
                    “Gì?”
                    “Không có gì”.
                    “Tôi chứng kiến hết, Finch Một-Phát”.
                    Bố Atticus quay sang đối mặt với cô Maudie. Họ nhìn nhau mà không nói gì, và bố Atticus bước vào xe ông cảnh sát trưởng. “Lai đây” ông nói với Jem. “Con đừng đến gần con chó đó, hiểu không? Đừng đến gần nó, nó chết nhưng vẫn nguy hiểm như khi còn sống vậy”.
                    “Vâng, thưa bố” Jem nói. “Bố Atticus...”
                    “Gì, con trai?”
                    “Không có gì”.
                    “Có chuyện gì mà cháu không nói được vậy, nhóc?” Ông Tate hỏi, vười với Jem. “Bộ cháu không biết ba cháu là...”
                    “Thôi đi, Heck,” bố Atticus nói, “mình quay lại thị trấn đi”.
                    Khi họ lái xe đi, Jem và tôi đi đến bậc thềm trước nhà cô Stephanie Crawford. Chúng tôi ngồi chờ Zeebo đến với xe chở rác.
                    Jem ngồi trong trạng thái bối rối đờ đẫn, và cô Stephanie nói, “Ô, ô, ô, ai lại nghĩ có chó điên vào tháng Hai chứ, có lẽ nó không điên, chắc nó chỉ mới khùng thôi. Cô ghét phải thấy khuôn mặt của Harry Johnson khi ông ta vừa chạy xong chuyến tài ở Mobile và biết được Atticus Finch đã bắn con chó của ông ta. Cá là nó đầy bọ chét từ đâu đó...”
                    Cô Maudie nói cô Stephanie sẽ ăn nói theo giọng khác nếu Tim Johnson vẫn đang đi dài trên phố, rằng họ sẽ sớm tìm ra, họ sẽ gửi đầu nó đến Montgomery.
                    Jem trở nên ăn nói mơ hồ, “Mày thấy không, Scout? Mày có thấy bố đứng ngay đó không?... rồi đột nhiên bố dãn người ra, trông cứ như cây súng đó là một phần cơ thể bố... và bố làm sao nhanh thế, giống như... tao thì phải nhắm cả mười phút mới bắn trúng một cái gì đó...”
                    Cô Maudie cười một cách ranh mãnh. “Giờ thì, cô Jean Louise,” cô nói, “vẫn còn nghĩ là ba cháu không làm được cái gì nữa không? Vẫn còn xấu hổ về ông hả?”
                    “Dạ không” tôi nói lí nhí.
                    “Bữa đó quên nói với cháu rằng ngoài việc chơi thụ cầm Do Thái, Atticus Finch còn là tay súng cừ nhất hạt Maycomb vào thời của ông”.
                    “Tay súng cừ...” Jem lặp lại.
                    “Đúng vậy đó, Jem Finch. Chắc bây giờ cháu sẽ đổi giọng điệu của cháu ngay. Đúng ý tưởng đó, bộ cháu không biết biệt danh của ông ấy là Một-Phát khi còn trai trẻ sao? Ở Landing, khi mới lớn, nếu ông ấy bắn mười lăm phát mà trúng được mười bốn con bồ câu là ông ấy đã phàn nàn rằng mình lãng phí đạn”.
                    “Bố chẳng hề hé môi chuyện đó” Jem lầm bầm.
                    “Không hề hé môi về chuyện đó hả?”
                    “Không, thưa cô”.
                    “Không biết sao bây giờ bố không đi săn nữa” tôi nói.
                    “Có lẽ cô có thể cho cháu biết” cô Maudie nói. “Dù ba cháu có bất cứ cái gì, thì trong tâm, ông đã là người văn minh. Thiện xạ là món quà của Chúa, một tài năng... ô, cháu phải thực hành để hoàn thiện nó, nhưng việc bắn súng khác việc chơi đàn dương cầm hoặc cái gì giống vậy. Cô nghĩ có lẽ ông đặt súng xuống khi ông nhận ra Chúa đã cho ông một lợi thế thiếu công bằng so với hầu hết những sinh vật khác. Cô đoán ông quyết định không bắn cho đến khi bị buộc phải bắn, và hôm nay ông đã phải làm thế”.
                    “Coi bộ bố sẽ tự hào về chuyện đó” tôi nói.
                    “Con người có đầu óc sáng suốt thì không bao giờ tự hào về tài năng của mình” cô Maudie nói.
                    Chúng tôi thấy Zeebo lái xe đến. Anh ta lấy trong thùng xe ra cái chĩa và cẩn thận nâng Tim Johnson lên. Anh ta hất con chó vào xe tải, sau đó đổ chất gì đó từ một cái bình to xuống khắp chỗ Tim nằm chết. “Đừng tới gần chỗ này trong ít lâu nghe” anh ta kêu lên.
                    Khi về nhà tôi nói với Jem tụi tôi có chuyện để kể trong trường vào thứ Hai rồi, Jem quay sang tôi.
                    “Đừng nói gì về chuyện này, Scout” anh nói.
                    “Cái gì? Chắc chắn là em sẽ kể. Đâu phải bố đứa nào cũng là tay súng cừ nhất hạt Maycomb đâu”.
                    Jem nói, “Tao cho là bố muốn tụi mình biết chuyện đó, bố đã kể với mình rồi. Nếu bố tự hào về chuyện đó, bố đã nói với mình rồi”.
                    “Có lẽ bố quên mất chuyện đó” tôi nói.
                    “Không đâu, Scout, đó là chuyện mày không hiểu được. Bố Atticus thì già thiệt, nhưng tao sẽ không quan tâm nếu bố không làm được bất cứ việc gì... Tao không cần biết nếu như bố không làm được một việc quái gì đó”.
                    Jem nhặt một hòn đá và hân hoan ném vào nhà xe. Chạy đuổi theo nó, anh kêu với lại, “Bố Atticus là một quý ông, giống như tao!”


                    Chú thích:
                    [1] Jew’s harp: nhạc cụ nhỏ xíu, gọn trong lòng bàn tay, được cầm trong miệng và tạo âm thanh bằng cách gẩy ngón tay vào một lưỡi gà kim loại.
                    [2] Touch foolball: một biến thể của dòng bầu dục nhằm làm cho nó ít bạo lực hơn bằng cách thay vì giành bóng thì người ta chỉ cần chạm vào bóng rồi chạy.

                    Comment


                    • #11
                      Chương 11




                      Khi chúng tôi còn nhỏ, jem và tôi giới hạn những hoạt động của mình trong khu phố phía Nam, nhưng khi tôi học lớp hai được ít lâu và việc chòng ghẹo Boo Radley trở thành lạc hậu, khu vực kinh doanh của Maycomb lôi kéo chúng tôi thường xuyên đi ngược về thị trấn qua khu đất của bà Henry Lafayette Dubose. Không thể xuống thị trấn mà không đi ngang qua nhà bà trừ khi chúng tôi muốn đi bộ vòng thêm cả dặm. Những cuộc chạm trán nhỏ trước đây với bà không để lại cho tôi khao khát được gặp lại bà nữa, nhưng Jem nói tới lúc nào đó tôi phải lớn lên.
                      Bà Dubose sống một mình nếu không kể một cô gái Da đen phục vụ thường xuyên, cách nhà tôi hai căn, trong một ngôi nhà có những bậc thềm dốc phía trước và một lối đi có mái che nối giữa hai khu nhà. Bà rất già; hầu như cả ngày bà nằm trên giường và sau đó ngồi trên xe lăn. Người ta đồn rằng bà giữ một khẩu súng lục CSA [1] giấu trong mớ khăn choàng vai và khăn quấn cổ.
                      Jem và tôi ghét bà. Nếu bà ngồi ở hàng hiên khi chúng tôi đi qua, chúng tôi sẽ bị soi mói mọi chỗ bởi cái nhìn phẫn nộ của bà, bị thẩm vấn thẳng tay về cách cư xử của chúng tôi, và được cho một dự đoán u ám về tình cảnh chúng tôi sẽ rơi vào khi lớn lên, vốn luôn luôn chẳng ra gì cả. Từ lâu tụi tôi đã từ bỏ ý tưởng đi ngang nhà bà ở phía bên kia đường; việc đó chỉ khiến bà cao giọng lên và cho cả khu phố cùng biết.
                      Không thể làm gì để bà vui lòng. Nếu tôi vui vẻ nói với bà, “Hê, bà Dubose” tôi sẽ nhận câu trả lời, “Đừng có nói hê với ta, đồ con gái xấu xa! Cháu phải nói xin chào, bà Dubose!”
                      Bà hung dữ. Có lần bà nghe Jem gọi bố chúng tôi là “Atticus” và phản ứng của bà cứ như sắp đột quỵ. Ngoài việc bảo chúng tôi là những đứa đần độn láu cá nhất, xấc xược nhất từng đi ngang qua nhà bà, bà còn bảo rằng thật tội nghiệp cho chúng tôi vì bố Atticus không tái hôn sau khi mẹ tôi mất. Một quý cô dễ thương hơn người mẹ quá cố của chúng tôi thì chưa hề có trên đời, bà nói, và thật đau lòng khi thấy cái kiểu Atticus Finch để cho con cái của cô ấy sống buông tuồng. Tôi không nhớ về mẹ mình, nhưng Jem thì có - đôi khi anh kể cho tôi nghe về mẹ - và anh giận điên người khi bà Dubose bắn cho chúng tôi thông điệp này.
                      Jem, đã sống sót sau vụ Boo Radley, vụ con chó điên, và những nỗi kinh hoàng khác, đã kết luận rằng thật hèn nhát khi dừng ở bậc thềm trước nhà cô Rachel và đợi, nên đã ra lệnh rằng chúng tôi phải chạy đến tận góc phố bưu điện mỗi chiều để đón bố Atticus đi làm về. Rất nhiều tối bố Atticus thấy Jem tức tối vì những điều bà Dubose phát biểu khi chúng tôi đi qua.
                      “Đừng chấp, con trai” bố Atticus thường nói. “Bà ấy đã già và còn bị bệnh. Con hãy ngẩng cao đầu và hành xử như một quý ông. Cho dù bà ta nói gì với con đi nữa, việc của con là không để cho bà ta làm con phát điên lên”.
                      Jem thường cãi bà ta chẳng ốm yếu gì lắm, vì bà ta cứ hò hét như thế. Khi bố con chúng tôi đến gần nhà bà, bố Atticus thường nhấc mũ ra, ân cần vẫy tay và nói, “Chào buổi tối, bà Dubose! Tối nay trông bà như một bức tranh”.
                      Tôi chưa từng nghe bố Atticus nói bà giống như bức tranh vẽ cái gì. Ông thường kể cho bà nghe tin tức ở tòa án, và nói thêm ông hết lòng hy vọng bà sẽ có một ngày mai tốt đẹp. Rồi bố đội mũ lên, kiệu tôi lên vai ngay trước mặt bà, và chúng tôi về nhà trong bóng chiều chập choạng. Những lúc như thế tôi đã nghĩ bố tôi, người ghét súng ống và chưa hề dự cuộc chiến nào, là người đàn ông can đảm nhất trên đời.
                      Ngày sau hôm sinh nhật thứ mười hai của Jem, tiền của anh cứ như đang bốc cháy trong túi, vì vậy tụi tôi vào thị trấn lúc đầu giờ chiều. Jem nghĩ anh có đủ tiền mua một động cơ hơi nước thu nhỏ cho anh và một cây gậy thể dục dụng cụ cho tôi.
                      Từ lâu tôi đã để mắt đến cây gậy đó: nó ở cửa hàng V.J.Elmore, được tô điểm bằng những hạt cườm lấp lánh và kim tuyến, đề giá mười bảy xu. Hồi đó tham vọng cháy bỏng của tôi là lớn lên và múa gậy với ban nhạc Trung học hạt Maycomb. Sau khi phát triển tài năng đến độ tôi có thể tung một khúc cây lên và hầu như chụp được nó khi rớt xuống, tôi đã khiến Calpurnia cấm không cho vào nhà mỗi khi bà thấy tôi cầm một cây gậy trên tay. Tôi cảm thấy mình có thể khắc phục khuyết điểm này với một cây gậy thể dục thực sự, và tôi nghĩ Jem thật hào phóng khi mua cho tôi một cây gậy như thế.
                      Bà Dubose đã trụ ở hiên nhà khi chúng tôi đi ngang.
                      “Hai đứa đi đâu vào giờ này hả?” Bà la to. “Chắc là trốn học chứ gì. Ta sẽ gọi điện cho ông ta biết!” Bà đặt tay lên bánh xe lăn và bày ra khuôn mặt thật hoàn hảo của mình.
                      “Ô, hôm nay là thứ Bảy, bà Dubose” Jem nói.
                      “Thứ Bảy thì có gì khác đâu,” bà nói một cách bí ẩn, “ta tự hỏi không biết ba tụi bay có biết tụi bay đi đâu không?”
                      “Bà Dubose, tụi cháu đã tự đi xuống thị trấn từ hồi tụi cháu cao cỡ này” Jem giơ bàn tay ở khoảng sáu tấc cách mặt lề đường.
                      “Tụi bay đừng có nói dối ta!” Bà gào lên. “Jeremy Finch, Maudie Atkinson nói với ta sáng nay cháu làm sụm giàn nho của cô ấy. Cô ta sẽ méc ba cháu, rồi cháu sẽ ước gì mình không bao giờ thấy ánh sáng ban ngày nữa! Nếu cháu không bị tống tới trường cải huấn trước tuần sau, thì tên ta sẽ không phải là Dubose nữa!”
                      Jem, vốn chưa hề đến gần dàn nho của cô Maudie từ mùa hè rồi, và cũng biết cô Maudie sẽ không nói lại với bố Atticus nếu anh có làm gãy, đã đưa ra những lời phủ nhận chung.
                      “Đừng có cãi ta!” Bà Dubose hét lên. “Còn cháu...” Bà chỉ ngón tay bi viêm khớp vào tôi - “cháu làm gì trong bộ áo liền quần đó? Cháu phải mặc váy với áo lót, quý cô ạ! Lớn lên cháu sẽ làm bồi bàn nếu không có ai đó thay đổi cung cách của cháu - một đứa nhà Finch làm bồi bàn ở quán cà phê O.K - à ha!”
                      Tôi kinh khiếp. Quán cà phê O.K là một cơ sở âm u ở phía Bắc quảng trường. Tôi nắm lấy tay Jem nhưng anh lắc tay tôi buông ra.
                      “Xem kìa, Scout” anh thì thào. “Đừng thèm chú ý đến bà ta, cứ ngẩng cao đầu và làm một quý ông coi”.
                      Nhưng bà Dubose không buông tha chúng tôi, “Không chỉ là một đứa nhà Finch làm bồi bàn mà còn là một Finch trong tòa án bênh vực họn mọi đen!”
                      Jem cứng người. Phát đạn của bà Dubose đã trúng đích và bà ta biết điều đó.
                      “Đúng vậy đó, thế giới này đi đến đâu khi một người nhà họ Finch chống lại người nuôi dưỡng nó? Ta sẽ cho mấy đứa biết!” Bà ta đặt tay lên miệng. Khi bà rút tay xuống, nó kéo rê một sợi nước dãi dài màu bạc. “Ba mấy đứa không hơn gì bọn mọi đen và thứ cặn bã mà ông ta phục vụ!”
                      Jem đỏ mặt. Tôi kéo tay áo anh, và một bài diễn văn đả kích về sự thoái hóa đạo đức của gia đình tôi đuổi theo chúng tôi dài theo vỉa hè, và tiền đề chủ yếu là cho rằng phần nửa nhà họ Finch đều ở trong nhà thương điên, nhưng nếu mẹ chúng tôi còn sống, chúng tôi chắc sẽ không đi đến một tình trạng như thế.
                      Tôi không chắc Jem phẫn nộ cái gì nhất, nhưng tôi tức tối trước sự đánh giá của bà Dubose về vấn đề sức khỏe tâm thần của gia đình tôi. Tôi hầu như đã quen nghe những lời thóa mạ nhắm vào bố Atticus. Nhưng đây là lời thóa mạ đầu tiên đến từ người lớn. Trừ những nhận xét của bà về bố Atticus, cuộc công kích của bà Dubose chỉ là thường lệ. Có phảng phất một dấu hiệu mùa hè trong không khí - trong bóng râm khí trời mát mẻ, còn nắng thì ấm, có nghĩa là thời kỳ thoải mái đang tới gần: không phải đi học và có Dill.
                      Jem đã mua động cơ hơi nước và chúng tôi đến cửa hàng Elmore mua cây gậy cho tôi. Jem không vui trước món đồ anh mới mua; anh nhét nó vào túi và lặng lẽ đi về nhà cùng tôi. Trên đường về nhà tôi suýt va phải ông Link Deas, ông nói, “Cẩn thận, Scout!” khi tôi lỡ mất một cú tung gậy, khi chúng tôi đến gần nhà bà Dubose cây gậy của tôi đã bị lem luốc vì rơi xuống đất quá nhiều lần.
                      Bà không có trên hiên nhà.
                      Nhiều năm sau, đôi khi tôi tự hỏi cái gì đã khiến Jem làm điều đó, cái gì đã khiến anh phá bỏ sự trói buộc của câu “Con là một quý ông, con trai” và cụm từ về sự chính trực tự giác mà anh vừa mới nhập vào. Jem có lẽ đã chịu đựng nhiều lời đồn đại ngốc nghếch về việc bố Atticus đã biện hộ cho bọn mọi đen như tôi đã chịu đựng, và tôi đương nhiên cho rằng anh đã kiềm chế - anh có tính khí trầm tĩnh tự nhiên và là một ngòi nổ chậm. Tuy nhiên, vào thời điểm đó tôi nghĩ cách giải thích duy nhất cho hành động của anh là anh chợt nổi điên trong vài phút.
                      Những gì Jem đã làm và việc tất nhiên tôi cũng sẽ làm nếu tôi không bị bố Atticus cấm, mà trong đó tôi cho là có cả việc không gây gổ với những bà già khó ưa. Chúng tôi vừa tới cổng nhà bà thì Jem chộp lấy cây gậy của tôi và chạy vung loạn xạ lên những bậc thềm vào sân trước nhà bà Dubose, quên hết mọi điều bố Atticus đã nói, quên rằng bà ta có cất một khẩu súng lục dưới đống khăn choàng, quên rằng nếu bà Dubose bắn hụt, thì có cô hầu gái Jessie của bà chắc chắn không bắn hụt.
                      Anh không bình tĩnh lại được cho đến khi đập gãy ngọn mọi bụi hoa trà của bà Dubose, cho đến khi mặt đất đầy những nụ và lá xanh. Anh kê cậy gậy của tôi vào đầu gối, bẻ làm hai và ném nó xuống đất.
                      Lúc đó tôi là hét ỏm tỏi. Jem nắm tóc tôi, nói anh không quan tâm, anh sẽ làm lần nữa nếu anh có cơ hội, và nếu tôi không câm họng anh sẽ nhổ từng sợi tóc tôi ra. Tôi không im miệng và anh đá tôi. Tôi mất thăng bằng và té dập mặt xuống đất. Jem nâng tôi dậy một cách thô bạo nhưng trông có vẻ anh đã hối lỗi. Không có gì để nói.
                      Chúng tôi không đi đón bố Atticus về nhà vào tối đó. Chúng tôi lẩn trốn trong nhà bếp cho đến khi Calpurnia xua chúng tôi ra. Bằng những phép thuật nào đó mà dường như Calpurnia biết hết mọi chuyện. Bà không thực hiện được vai trò là thuốc giảm đau hữu hiệu, nhưng bà cho Jem một cái bánh bơ nướng nóng mà anh bẻ chia tôi phân nửa. Nó có vị như quả bông.
                      Chúng tôi đi ra phòng khách. Tôi cầm lên một tờ tạp chí bóng bầu dục, tìm ra một ảnh chụp Dixie Howell, chỉ nó cho Jem coi và nói, “Tay này trông giống anh”. Đó là điều hay ho nhất tôi nghĩ ra để nói với anh, nhưng chẳng có tác dụng gì. Anh ngồi cạnh cửa sổ, khum người trong chiếc ghế đu, cau có, chờ đợi. Ánh sáng ban ngày nhạt dần.
                      Hai kỷ địa chất sau chúng tôi mới nghe thấy tiếng đế giày của bố Atticus trên những bậc thềm trước nhà. Khung cửa lưới đóng sầm, một khoảng yên lặng - bố Atticus đang ở chỗ giá treo mũ trong tiền sảnh - và chúng tôi nghe ông gọi, “Jem!” Giọng ông giống một cơn gió mùa đông.
                      Bố Atticus bật ngọn đèn trần trong phòng khách và thấy chúng tôi ở đó, người cứng đờ. Một tay ông cầm cây gậy của tôi; núm tua vàng bẩn thỉu của nó kéo lê trên thảm. Ông chìa tay kia ra; trên đó là những búp hoa trà căng tròn.
                      “Jem,” ông nói, “con là thủ phạm vụ này phải không?”
                      “Vâng, bố”.
                      “Tại sao con làm vậy?”
                      Jem nói lí nhí, “Bà ta bảo bố biện hộ cho bọn mọi đen và lũ rác rưởi”.
                      “Con làm chuyện này vì bà ta nói vậy à?”
                      Đôi môi Jem động đậy, nhưng câu, “Vâng, bố” hầu như không nghe được.
                      “Con trai, bố chắc chắn con đã bị những người xung quanh gây khó chịu về việc bố biện hộ cho bọn mọi đen, như con nói, nhưng làm một việc như thế này với một bà già bệnh tật là không tha thứ được. Bố thật lòng khuyên con bước ra ngoài và đi nói chuyện với bà Dubose” bố Atticus nói. “Rồi về thẳng nhà ngay”.
                      Jem không nhúc nhích.
                      “Bố bảo đi ngay”.
                      Tôi theo Jem ra khỏi phòng khách. “Quay lại đây” bố Atticus bảo tôi quay lại, tôi quay lại.
                      Bố Atticus cầm tờ Mobile Press lên và ngồi vào chiếc ghế đu Jem vừa rời đi. Dù cố gắng đến mấy, tôi cũng không thể hiểu làm sao ông có thể thản nhiên ngồi đó và đọc báo trong khi đứa con trai duy nhất của mình có nguy cơ bị giết bởi một di vật của quân đội miền Nam. Dĩ nhiên đôi khi Jem chọc giận tôi đến độ tôi muốn giết anh, nhưng rốt cuộc anh là tất cả những gì tôi có. Bố Atticus có vẻ không nhận ra điều này, hoặc nếu có nhận ra ông cũng không quan tâm.
                      Tôi ghét ông vì điều đó, nhưng khi gặp rắc rối bạn dễ thấy mệt: chỉ lát sau tôi đã rúc đầu vào lòng bố và đôi tay ông ôm lấy tôi.
                      “Con lớn quá hết ru được rồi” ông nói.
                      “Bố không quan tâm đến những gì xảy ra cho anh ấy” tôi nói. “Bố chỉ bắt anh ấy qua để nhận một phát đạn trong khi anh ấy chỉ làm một việc là bênh vực bố”.
                      Bố Atticus kê cầm của ông lên đầu tôi. “Chưa đến lúc phải lo” ông nói. “Bố không hề nghĩ Jem là đứa mất bình tĩnh trước chuyện này - bố cứ nghĩ sẽ phải gặp nhiều rắc rối với con cơ”.
                      Tôi nói dù sao tôi cũng không hiểu tại sao tụi tôi phải giữ bình tĩnh, không ai tôi quen biết ở trường phải giữ bình tĩnh về bất cứ chuyện gì.
                      “Scout,” bố Atticus nói, “đến hè con còn phải giữ bình tĩnh trước những điều còn tệ hại hơn... vậy là không công bằng cho cả Jem và con, bố biết vậy, nhưng nhiều khi mình phải cố làm tốt trong mọi chuyện và cả trong cách chúng ta ứng xử vào những lúc khó khăn... Ồ, bố chỉ có thể nói là, khi con và Jem lớn khôn, có thể con sẽ nhìn lại chuyện này với lòng nhân hậu và cảm xúc nào đó rằng bố đã không làm con thất vọng. Vụ kiện này, vụ của Tom Robinson, là một chuyện đánh vào cốt lõi của lương tâm con người - Scout, bố không thể đến nhà thờ và thờ phụng Chúa nếu bố không cố giúp anh ta”.
                      “Bố Atticus, bố hẳn là sai...”
                      “Sai thế nào?”
                      “Hầu hết mọi người có vẻ nghĩ rằng họ đúng còn bố sai...”
                      “Chắc chắn họ có quyền nghĩ vậy và họ có quyền nhận được sự tôn trọng dành cho ý kiến của họ,” bố Atticus nói, “nhưng trước khi bố sống được với người khác bố phải sống với chính mình. Có một thứ không tuân theo nguyên tắc đa số, đó là lương tâm của con người”.
                      Khi Jem trở về, anh thấy tôi vẫn nằm trong lòng bố Atticus. “Sao, con trai?” Bố Atticus nói. Ông nhấc tôi dậy đặt xuống đất và tôi bí mật dò xét Jem. Anh có vẻ vẫn còn nguyên vẹn nhưng mặt anh có nét kỳ cục. Có lẽ bà đã cho anh một liều thuốc xổ.
                      “Con đã dọn dẹp sạch sẽ cho bà và nói con rất tiếc, nhưng con không hối tiếc, rồi con nói con sẽ trồng lại chúng kể từ thứ Bảy và cố chăm sóc cho chúng lớn lại”.
                      “Thật vô nghĩa lý khi con nói rất tiếc mà con không thấy hối tiếc” bố Atticus nói. “Jem, bà ấy đã già lại bệnh. Con không thể buộc bà ấy chịu trách nhiệm cho những gì bà ấy nói và làm. Dĩ nhiên bố thà để bà ấy nói điều đó với bố hơn là với hai đứa con, nhưng mình đâu phải lúc nào cũng được quyền chọn lựa”.
                      Jem có vẻ bị mê hoặc bởi một đóa hoa hồng trên tấm thảm. “Bố Atticus,” Jem nói, “bà ấy muốn con đọc cho bà nghe”.
                      “Đọc cho bà nghe?”
                      “Vâng. Bà muốn con đến mỗi tối sau giờ đi học về và mỗi thứ Bảy để đọc to cho bà nghe trong hai giờ. Bố Atticus, con nên làm không?”
                      “Chắc chắn rồi”.
                      “Nhưng bà ấy muốn con làm vậy trong một tháng”.
                      “Vậy con sẽ đọc trong một tháng”.
                      Jem đặt ngón chân cái vào ngay giữa đóa hồng và ấn xuống đó. Cuối cùng anh nói, “Bố Atticus, ngoài vỉa hè thì không có gì nhưng bên trong thì... nó tối thui mà ớn da gà lắm. Có bóng đen với đủ thứ trên trần...”
                      Bố Atticus mỉm cười và cương quyết. “Điều đó sẽ hấp dẫn trí tưởng tượng của con. Cứ xem như con đang ở trong nhà Radley”.
                      Chiều thứ Hai sau đó Jem và tôi trèo lên những bậc tam cấp dốc trước nhà bà Dubose và bước đến trước cửa. Jem thủ sẵn cuốn Ivanhoe và mớ kiến thức đầy đủ, gõ cánh cửa thứ hai bên trái.
                      “Bà Dubose?” Anh gọi.
                      Jessie mở cánh cửa gỗ và mở chốt cửa lưới.
                      “Em hả, Jem Finch?” Cô hỏi. “Em còn dẫn em gái theo nữa à. Tôi không biết...”
                      “Cho cả hai đứa vô đi, Jessie” bà Dubose nói. Jessie cho tụi tôi vào rồi bỏ đi xuống nhà bếp.
                      Một mùi ngột ngạt phả vào chúng tôi khi chúng tôi bước qua ngưỡng cửa, một mùi tôi gặp nhiều lần trong những ngôi nhà xám xịt mục nát vì mưa, nơi có những ngọn đèn dầu, những cái gáo múc nước, và vải trải giường nội hóa ố màu. Nó luôn khiến tôi sợ, chờ đợi, và cảnh giác.

                      Trong góc phòng có cái giường bằng đồng, bà Dubose đang nằm trên đó. Tôi tự hỏi không biết có phải những hành động của Jem đã khiến bà phải nằm đó không, và trong giây lát tôi cảm thấy tiếc cho bà. Bà nằm dưới một đống chăn mền và trông rất thân thiện.
                      Có một cái bồn rửa tay mặt đá cẩm thạch cạnh giường bà; trên đó có một cái ly và cái thìa để trong ly, một ống bơm thụt, một hộp bông thấm nước, và một đồng hồ báo thức bằng thép có ba chân bé xíu.
                      “Vậy là cháu đưa theo cô em gái bẩn thỉu của cháu đó hả?” Đó là lời chào hỏi của bà.
                      Jem nói lặng lẽ, “Em cháu không bẩn thỉu và cháu không sợ bà” dù tôi thấy hai đầu gối anh run.
                      Tôi đang chờ đợi một bài diễn văn chỉ trích, nhưng bà ta chỉ nói là, “Cháu bắt đầu đọc được rồi đó, Jeremy”.
                      Jem ngồi xuống chiếc ghế mây và giở cuốn Ivanhoe ra. Tôi kéo một chiếc ghế khác và ngồi cạnh anh.
                      “Lại sát đây,” bà Dubose nói. “tới cạnh giường nè”.
                      Chúng tôi kéo ghế tới. Đây là lần đầu tiên tôi tới gần bà đến thế, và điều tôi muốn làm nhất là kéo ghế trở lại.
                      Bà thật khủng khiếp. Mặt bà có màu áo gối bẩn, và khóe miệng bà loáng nước, nó chảy dần dần như một con sông băng xuống những nếp nhăn hằn sâu bao quanh cằm bà. Những vết tàn nhanh của tuổi già lấm tấm trên hai má, và đôi mắt đã mờ đục của bà có hai đồng tử đen nhỏ xíu. Hai bàn tay bà nổi u cục, những lớp biểu bì trùm lên các móng tay. Hàm răng giả của bà không nằm trong miệng, và môi trên của bà nhô ra; thỉnh thoảng bà kéo môi dưới lên tới hàm trên và kéo theo cái cằm. Việc này làm nước dãi chảy nhanh hơn.
                      Tôi không nhìn bà nhiều quá mức cần thiết. Jem lại mở cuốn Ivanhoe ra và bắt đầu đọc. Tôi cố theo dõi truyện anh đọc, nhưng anh đọc quá nhanh. Khi đến những chữ anh không biết, Jem bèn bỏ qua, nhưng bà Dubose thường phát hiện được và bảo anh đánh vần chúng. Jem đọc có lẽ được hai mươi phút, trong thời gian đó tôi nhìn vào bệ lò sưởi ấm bồ hóng, nhìn ra ngoài cửa sổ, bất cứ nơi đâu để không phải nhìn bà. Khi anh đọc tiếp, tôi nhận thấy những lần bắt lỗi của bà ít dần và khoảng cách thưa hơn, và Jem thậm chí đã bỏ lửng một câu. Bà không còn lắng nghe nữa.
                      Tôi nhìn về phía giường.
                      Có chuyện gì đó đã xảy ra với bà. Bà nằm ngửa, chăn đắp tận cằm. Chỉ thấy được đầu và vai bà. Đầu bà lắc chầm chậm từ bên này sang bên kia. Thỉnh thoảng bà há to miệng và tôi có thể thấy lưỡi bà giật giật nhẹ nhẹ. Nước bọt đọng lại trên môi bà; bà sẽ nhép chúng vào; rồi lại há miệng ra. Miệng bà như có sự tồn tại riêng của nó. Nó hoạt động riêng rẽ và tách khỏi phần còn lại của cơ thể, thò ra thụt vào, giống như một cái hang của bọn trai sò lúc thủy triều rút. Thỉnh thoảng nó lại thốt ra, “Pt,” giống như một thứ chất sền sệt đang sắp sôi.
                      Tôi kéo tay áo Jem.
                      Anh nhìn tôi, rồi nhìn vào giường. Đầu bà lắc đều đặn về phía chúng tôi, và Jem hỏi, “Bà Dubose, bà ổn không?” Bà không nghe anh.
                      Đồng hồ reo lên và chúng tôi sợ cứng người. Một phút sau, thần kinh vẫn căng thẳng, Jem và tôi đã trở ra vỉa hè và hướng về nhà. Chúng tôi không bỏ chạy, Jessie tiễn chúng tôi về: trước khi đồng hồ hết dây thiều, cô đã vào phòng và đẩy Jem với tôi ra khỏi đó.
                      “Suỵt,” cô nói, “hai đứa về đi”.
                      Jem do dự ngay cửa.
                      “Đã đến cữ thuốc của bà” Jessie nói. Khi cửa đóng mạnh sau lưng chúng tôi, tôi thấy Jessie đi nhanh về phía giường bà Dubose.
                      Khi chúng tôi về đến nhà mới có ba giờ bốn mươi lăm, vì vậy Jem và tôi đã bóng qua lại ở sân sau cho đến giờ đi đón bố Atticus. Bố Atticus có hai cây bút chì màu vàng cho tôi và một tờ tạp chí bóng bầu dục cho Jem, mà tôi cho rằng đó là phần thưởng thầm lặng cho buổi đầu tiên chúng tôi ở bên bà Dubose. Jem kể cho ông nghe những gì xảy ra.
                      “Bà ấy có làm tụi con sợ không?” Bố Atticus hỏi.
                      “Không, bố,” Jem nói, “nhưng trông bà ấy tởm lắm. Bà ta bị động kinh hay cái gì đó. Bà chảy nước dãi tùm lum”.
                      “Bà không ngăn được chuyện đó. Khi người ta bệnh đôi khi người ta trông không được vừa mắt lắm”.
                      “Bà ta làm con sợ” tôi nói.
                      Bố Atticus nhìn tôi qua cặp kính. “Con biết là con không phải đi với Jem mà”.
                      Chiều hôm sau ở nhà bà Dubose cũng y như chiều hôm đầu, và ngày kế tiếp cũng vậy, cho đến khi dần dần hình thành một trình tự: mọi thứ sẽ bắt đầu một cách bình thường-nghĩa là, bà Dubose sẽ hành Jem về các đề tài ưa thích của bà, những bông hoa trà của bà và xu hướng thân mọi đen của bố chúng tôi; bà sẽ dần dần im lặng, rồi quên mất chúng tôi. Đồng hồ báo giờ sẽ reo, Jessie sẽ đưa chúng tôi ra, và những giờ còn lại trong ngày là của chúng tôi.
                      “Bố Atticus,” một tối tôi nói, “chính xác thì kẻ yêu bọn mọi đen nghĩa là gì?”
                      Mặt bố Atticus nghiêm lại, “Bộ có người gọi con vậy hả?”
                      “Không, bố. Bà Dubose gọi bố như vậy. Mỗi chiều bà ta khỏi động bằng việc gọi bố như vậy. Giáng sinh rồi Francis cũng gọi bố như vậy, đó là lần đầu con nghe từ đó”.
                      “Đó là lý do con nhảy xổ vào nó chứ gì?” Bố Atticus hỏi.
                      “Vâng, bố...”
                      “Vậy tại sao con hỏi bố nó nghĩa là gì?”
                      Tôi cố giải thích với bố Atticus rằng những gì Francis nói không làm tôi nổi sùng lên bằng cách nó nói câu đó. “Giống như nó nói mũi thò lò hay cái gì đó”.
                      “Scout,” bố Atticus nói, “kẻ-yêu-bọn-mọi-đen chỉ là một trong những từ ngũ không hàm ý gì cả-giống như mũi thò lò vậy. Nó khó giải thích... những người ngu dốt, kém hiểu biết dùng nó khi họ nghĩ một ai đó ưa thích người Da đen và trên cả họ. Nó trở nên thông dụng với một số người như chúng ta, khi họ muốn có một từ ngữ phổ biến, xấu xí, để gán cho ai đó”.
                      “Vậy thực sự bố không phải là kẻ-ưa-bọn-mọi-đen đúng không?”
                      “Chắc chắn bố là thế. Bố cố hết sức để yêu thương mọi người...Đôi khi bố cảm thấy khó khăn... bé con, không hề là sự xúc phạm khi bị gọi là thứ gì đó mà người ta nghĩ là một cái tên xấu. Nó chỉ cho con thấy người đó tội nghiệp làm sao, nó không làm tổn thương con. Vì vậy đừng để bà Dubose làm con xuống tinh thần. Bà ấy đã có đủ rắc rối riêng của mình rồi”.
                      Một tháng sau vào một chiều khi Jem đang khó nhọc đọc Sir Walter Scout [2], như anh gọi ông ta, và bà Dubose đang sửa cho anh từng chút một, thì có tiếng gõ cửa. “Vào đi!” Bà gào lên.
                      Bố Atticus bước vào. Ông bước đến giường bắt tay bà Dubose. “Tôi đi làm về không thấy bọn trẻ,” ông nói, “tôi nghĩ chúng còn ở đây”.
                      Bà Dubose mỉm cười với ông. Dù có gắng đến mấy tôi cũng không thể hình dung ra làm sao bà có thể nói chuyện với ông khi bà có vẻ ghét ông đến thế. “Anh biết mấy giờ rồi chứ, Atticus?” Bà nói. “Chính xác là năm giờ mười bốn phút. Đồng hồ reo được định giờ là năm giờ ba mươi. Tôi muốn anh biết điều đó”.
                      Bất chợt tôi nhận ra rằng mỗi ngày chúng tôi ở lại nhà bà Dubose lâu hơn, rằng đồng hồ reo này báo giờ trễ thêm vài phút mỗi ngày, và rằng bà đã động kinh được một hồi vào lúc nó reo. Hôm nay bà làm Jem tức tối gần hai tiếng vì không hề tính chuyện động kinh gì cả, và tôi cảm thấy mình bị mắc bẫy một cách tuyện vọng. Đồng hồ báo giờ là dấu hiệu cho sự phóng thích chúng tôi; nếu một ngày nào đó nó không reo, chúng tôi biết làm thế nào?
                      “Tôi có cảm giác rằng số ngày đọc của Jem đã hết” bố Atticus nói.
                      “Tôi nghĩ còn hơn một tuần nữa,” bà nói, “đế đảm bảo...”
                      Jem nhỏm dậy, “nhưng...”
                      Bố Atticus giơ tay ra và Jem im lặng. Trên đường về nhà, Jem nói rằng anh chỉ phải làm chuyện này một tháng và một tháng đã hết và thế là không công bằng.
                      “Chỉ một tuần nữa thôi, con trai” bố Atticus nói.
                      “Không” Jem nói.
                      “Có đây” bố Atticus nói.
                      Tuần sau chúng tôi trở lại nhà bà Dubose. Đồng hồ báo giờ đã ngừng reo, nhưng bà Dubose phóng thích chúng tôi với câu, “đủ rồi”, lúc chiều muộn tới độ hẳn bố Atticus đã ngồi đọc báo khi chúng tôi về tới nhà. Dù những cơn động kinh của bà đã biến mất, nhưng bà đã trở lại như trước ở mọi mặt khác: khi Sir Walter Scott sa đà vào những đoạn mô tả lê thê về những đường hào và các lâu đài, bà Dubose thường phát chán và quay ra chỉ trích chúng tôi:
                      “Jeremy Finch, ta đã bảo rằng cháu sẽ sống để hối tiếc về việc đã phá nát vườn hoa trà của ta. Giờ cháu đang hối tiếc, đúng không?”
                      Jem nói chắc chắn anh hối tiếc.
                      “Cháu nghĩ cháu có thể giết cây hoa Tuyết-trên-đỉnh-núi của ta, đúng không? Jessie nói ngọn của nó đã mọc lại. Lần sau cháu sẽ biết cách phá nó đúng cách, phải không? Cháu sẽ nhổ rễ nó lên, phải không?”
                      Jem thường nói chắc chắn anh sẽ làm vậy.
                      “Cháu đừng có lầu bầu với ta, nhóc! Hãy ngẩng cao đầu và nói vâng thưa bà. Dù sao ta cũng không nghĩ cháu sẽ thích giữ đầu cao với những gì bố cháu làm”.
                      Cằm Jem đưa ra, và anh nhìn bà Dubose với khuôn mặt hoàn toàn không oán hận. Qua nhiều tuần anh đã trao dồi một cách thể hiện mối quan tâm vô tư và lịch sự, và anh sẽ trình ra cho bà để đáp lại những lời đặt điều kinh hoàng nhất của bà.
                      Cuối cùng ngày đó đã đến. Khi một chiều nọ bà Dubose nói, “Đủ rồi” bà nói thêm, “Vậy là xong. Chúc cháu ngày tốt lành”.
                      Thế là xong. Chúng tôi phóng xuống vỉa hè trong niềm hân hoan cực độ, nhảy nhót và rú lên.
                      Mùa xuân đó thật tuyệt: ngày dài hơn và chúng tôi có thời gian chơi nhiều hơn. Đầu óc Jem hầu như chỉ đầy những thống kê quan trọng về từng cầu thủ bóng bầu dục đại học trên cả nước. Mỗi đêm bố Atticus sẽ đọc cho chúng tôi những trang báo thể thao. Năm nay bang Alabama có thể lại đi đến chung kết ở sân Rose Bowl, đánh giá qua những đội có triển vọng đoạt giải, không có cái tên nào trong số họ mà chúng tôi xác nhận được. Một tối nọ khi bố Atticus đang đọc đến chuyên mục của Windy Seaton thì chuông điện thoại reo.
                      Ông trả lời, rồi đi ra giá mũ ở tiền sảnh. “Bố sẽ sang nhà bà Dubose một lát,” ông nói, “không lâu đâu”.
                      Nhưng bố Atticus ở mãi bên đó tới quá giờ đi ngủ của tôi khá lâu. Khi ông về mang theo một hộp đựng kẹo. Bố Atticus ngồi xuống, đặt cái hộp xuống cạnh sàn ghế ông ngồi.
                      “Bà ấy muốn gì vậy?” Jem hỏi.
                      Chúng tôi đã không gặp bà hơn một tháng. Bà không còn ngồi ở hàng hiên khi chúng tôi đi qua.
                      “Bà ấy chết rồi, con trai” bố Atticus nói. “Bà chết cách đây vài phút”.
                      “Ô” Jem nói. “Tốt”.
                      “Tốt là đúng” bố Atticus nói. “Bà không còn phải chịu đau đớn nữa. Bà bệnh lâu rồi. Con trai, con không biết những cơn động kinh của bà là gì à?”
                      Jem lắc đầu.
                      “Bà Dubose là người nghiện Moóc-phin” bố Atticus nói. “Bà đã dùng nó như thứ thuốc giảm đau trong nhiều năm. Bác sĩ đã khuyên bà như thế. Bà đã dùng nó suốt quãng đời còn lại của bà và chết mà không đau đớn lắm, nhưng bà quá trái khoáy...”
                      “Sao bố?” Jem nói.
                      Bố Atticus nói, “Ngay trước khi xảy ra trò phá phách của con bà đã gọi bố đến làm di chúc cho bà. Bác sĩ Reynolds nói bà chỉ còn vài tháng nữa thôi. Công việc kinh doanh của bà đã được thu xếp chu đáo nhưng bà nói, ‘vẫn còn một việc chưa thu xếp được’.”
                      “Đó là chuyện gì?” Jem bối rối.
                      “Bà nói bà sẽ rời khỏi thế giới này mà không mắc nợ cái gì với bất cứ ai. Jem, khi con bị bệnh như bà, việc dùng bất cứ thuốc gì để nó dễ chịu hơn thì cũng được thôi, nhưng bà không muốn vậy. Bà nói bà muốn giải thoát bà ra khỏi nó trước khi chết, và đó là việc bà đã làm”.
                      Jem nói, “Ý bố là việc đó đã gây ra những cơn động kinh của bà hả?”
                      “Phải, chuyện là vậy. Trong hầu hết thời gian con đọc sách cho bà bố đã nghi không biết bà có nghe lời nào của con không. Toàn bộ tâm trí và cơ thể bà tập trung vào chiếc đồng hồ báo giờ. Nếu con không rơi vào tay bà, thì bố chắc cũng bảo con đến đọc cho bà nghe. Nó có thể là một cách tìm quên. Còn một lý do nữa...”
                      “Vậy là bà đã chết thanh thản?” Jem hỏi.
                      “Như không khí trên núi” bố Atticus nói. “Hầu như bà đã tỉnh táo đến phút cuối. Tỉnh táo,” ông mỉm cười, “và gắt gỏng. Bà vẫn phản đối kịch liệt những việc làm của bố, và nói chắc bố sẽ dành phần đời còn lại còn bố để cứu con khỏi nhà tù. Bà bảo Jessie đưa con cái hộp này...”
                      Bố Atticus thò xuống cầm hộp kẹo lên. Ông đưa nó cho Jem.
                      Jem mở hộp. Bên trong, bao quanh bởi mớ bông ẩm để chèn, là một bông hoa trà trắng, tuyệt hảo, bóng như sáp. Nó là một đóa Tuyết-trên-đỉnh-núi.
                      Jem trợn tròn mắt. “Bà già xấu xa chết tiệt, bà già xấu xa chết tiệt!” Anh rú lên, vứt nó xuống. “Sao bà ta không để con yên?”
                      Trong chớp mắt bố Atticus đã đứng dậy đến bên Jem, Jem vùi mặt vào ngực áo bố Atticus. “Sh-h” ông nói. “Bố nghĩ đó là cách bà nói với con - mọi việc giờ đã ổn, Jem, mọi thứ đều đã ổn. Con biết đo, bà là một quý bà vĩ đại”.
                      “Quý bà?” Jem ngẩng đầu lên. Mặt anh đỏ bừng, “sau tất cả những điều bà ta nói về bố, vậy mà bà ta vẫn là một quý bà?”
                      “Đúng vậy, bà có quan điểm của riêng bà về mọi thứ, rất khác quan điểm của bố, có lẽ... con trai, bố đã nói với con rằng nếu con không mất bình tĩnh, bố cũng sẽ bảo con đến đọc cho bà. Bố muốn con thấy được điều gì đó ở bà, bố muốn con thấy lòng can đảm là gì, thay vì có ý nghĩ rằng can đảm là người đàn ông có khẩu súng trong tay. Đó là khi con biết thất bại trước khi con bắt đầu nhưng dù vậy con vẫn bắt đầu và con theo đuổi nó tới cùng dù cho có chuyện gì xảy ra. Con hiếm khi thắng, nhưng đôi khi con cũng thắng. Bà Dubose đã thắng, tất cả bốn mươi sáu ký của bà. Theo quan điểm của bà, bà đã chết mà không mắc nợ bất cứ cái gì và bất cứ ai. Bà là người can đảm nhất bố từng biết”.
                      Jem nhặt hộp lên và ném nó vào lò sưởi. Anh nhặt đóa hoa trà lên, rồi khi lên giường tôi thấy anh vuốt ve những cánh hoa nở to của nó. Bố Atticus vẫn đọc báo.


                      Chú thích:

                      [1] Confederate States of America (Liên hiệp các tiểu bang Mỹ) tên gọi chính thức của phe miền Nam trong Nội chiến Mỹ.
                      [2] Cách đọc trại tên Sir Walter Scott, tác giả tiểu thuyết Ivanhoe.

                      Comment


                      • #12
                        Chương 12


                        Jem đã mười hai. Thật khó sống chung được với anh ấy, bất nhất, bất thường. Sự thèm ăn của anh thật khủng khiếp, và biết bao lần anh bảo tôi đừng làm phiền anh nữa, tôi hỏi ý kiến bố Atticus, “Không lẽ anh ấy bị sán sơ mít sao?” Bố Atticus nói không, Jem đang lớn. Tôi phải kiên nhẫn với anh và càng ít làm phiền anh càng tốt.
                        Sự thay đổi này của Jem xảy ra chỉ mới vài tuần. Bà Dubose còn chưa lạnh trong nấm mồ của bà - Jem có vẻ biết ơn khi tôi đã đi cùng anh khi anh đến đọc sách cho bà. Rồi đột nhiên, có vẻ Jem đã có được một hệ thống những giá trị mới mẻ và đang cố áp đặt nó lên tôi: nhiều lần anh thậm chí còn bảo tôi phải làm gì. Sau một trận cãi lộn nọ, Jem hét lên, “Đã đến lúc em làm một đứa con gái và cư xử cho đàng hoàng rồi đó!” Tôi khóc và chạy tới chỗ Calpurnia.
                        “Cô đừng lo lắng quá nhiều về cậu Jem...” Bà mở lời.
                        “Cậu Jem?”
                        “Phải, giờ cậu ấy sắp là cậu Jem rồi”.
                        “Anh ấy đâu có già đến cỡ đó” tôi nói. “Anh ấy chỉ cần ai đó đập cho một trận, mà cháu thì chưa đủ lớn”.
                        “Bé con,” Calpurnia nói, “tôi không thể làm vậy nếu cậu Jem sắp lớn. Bây giờ cậu ấy muốn được yên thân một mình, làm những gì các chàng trai vẫn làm, vì vậy cô chỉ có cách xuống bếp khi cảm thấy cô đơn. Mình sẽ tìm ra nhiều việc để làm ở đây”.
                        Bước khởi đầu của mùa hè đó là điềm tốt lành: Jem có thể làm như anh thích; Calpurnia cũng làm gì tùy ý cho đến khi Dill về đây. Bà có vẻ vui khi thấy tôi xuất hiện trong nhà bếp và qua việc quan sát bà tôi bắt đầu nghĩ có một số kỹ năng liên quan đến việc làm thân con gái.
                        Nhưng mùa hè tới và Dill không đến. Tôi nhận một lá thư và một bức ảnh Dill gửi. Lá thư nói nó có ba mới mà nó gửi hình kèm theo, và chắc nó phải ở lại Meridian vì họ lên kế hoạch đóng một cái thuyền đánh cá. Ba mới của nó là luật sư giống như bố Atticus, chỉ có điều trẻ hơn nhiều. Ba mới của Dill có khuôn mặt dễ chịu, tôi thấy mừng vì Dill có được ông ta, nhưng lòng tôi tan nát. Dill kết luận bằng cách nói nó sẽ yêu tôi mãi mãi và đừng lo, nó sẽ đến với tôi và cưới tôi ngay khi nó có đủ tiền, lá thư thật tuyệt.
                        Sự kiện tôi có một vị hôn phu lâu dài là sự đền bù nhỏ bé cho sự vắng mặt của nó: tôi chưa bao giờ nghĩ về nó, nhưng mùa hè nghĩa là có Dill bên cạnh hồ cá hút sợi thuốc, mắt Dill sống động với những kế hoạch phức tạp để làm Boo Radley xuất hiện; mùa hè nghĩa là Dill nhanh nhẹn chồm lên hôn tôi khi Jem không để ý, là những khao khát đôi khi chúng tôi cảm thấy đứa kia đang có. Có nó, cuộc sống trôi qua như thường lệ, không có nó, cuộc sống thật không chịu nổi. Tôi thấy khổ sở như thế trong hai ngày.
                        Như thể điều đó chưa đủ, cơ quan lập pháp tiểu bang lại được triệu tập họp khẩn cấp và bố Atticus xa chúng tôi hai tuần. Thống đốc hăm hở cải thiện hiệu năng của chính quyền tiểu bang; đã có những cuộc đình công ngồi lì ở Birmingham [1]; những hàng người chờ phát bánh mì tại các thành phố ngày càng dài hơn, người dân vùng nông thôn càng nghèo đi. Nhưng đấy là những sự kiện xa vời ngoài thế giới của Jem với tôi.
                        Một sáng chúng tôi ngạc nhiên khi thấy một tranh biếm họa trên tờ Montgomery Advertiser với chú thích, “Finch của Maycomb”. Nó vẽ bố Atticus chân trần mặc quần soóc, bị xích vào bàn giấy: ông đang chăm chú viết lên một tấm bảng đá đen trong khi một số cô gái có vẻ phù phiếm gào lên, “Yoo-hoo!” vào mặt ông.
                        “Đó là một lời khen ngợi” Jem giải thích. “Bố dành thời gian của bố để làm những việc mà chúng sẽ không thể hoàn tất nếu không có ai làm”.
                        “Vậy hả?”
                        Ngoài những đặc điểm mới phát triển của Jem, anh đã có được cái vẻ thông thái dễ ghét.
                        “Scout này, nó giống như việc tái tổ chức hệ thống thuế của các hạt và các thứ đại loại như vậy. Đó là loại việc khá vô vị đối với hầu hết mọi người”.
                        “Sao anh biết?”
                        “Ừ, đi chơi đi, để anh yên. Anh đang đọc báo”.
                        Jem muốn thế thì được ngay thôi. Tôi bỏ đi xuống bếp.
                        Trong khi đang tách vỏ đậu, bất ngờ Calpurnia nói, “Chủ nhật này tôi làm gì với vụ đi nhà thờ của cô cậu đây?”
                        “Con chắc là khỏi phải làm gì cả. Bố Atticus có để lại cho tụi con tiền quyên góp cho nhà thờ mà”.
                        Đôi mắt của Calpurnia nheo lại và tôi có thể đọc được những gì dang diễn ra trong đầu bà. “Cal,” tôi nói, “bà biết tụi con sẽ ngoan mà. Mấy năm nay tụi con đâu có gây chuyện gì trong nhà thờ”.
                        Rõ ràng là Calpurnia đang nhớ lại một Chủ nhật trời mưa khi chúng tôi vừa không có bố vừa không có giáo viên trông coi. Được tháo cũi sổ lồng, cả lớp đã buộc Eunice Ann Simpson vào một cái ghế và đặt nó trong phòng lò sưởi. Bọn tôi quên mất nó, lần lượt kéo nhau lên lầu đến nhà nguyện, và khi chúng tôi đang im lặng lắng nghe bài giảng thì những tiếng va đập khủng khiếp phát ra từ ống dẫn lò sưởi, liên tục không ngừng cho đến khi ai đó đi tìm hiểu và đưa được Eunie Ann ra và nói rằng con bé không muốn đóng vai Shadrach [2] nữa - Jem Finch nói con bé sẽ không bị thiêu cháy nếu nó có đủ đức tin, nhưng dưới đó quá nóng.
                        “Với lại, Cal, đây đâu phải lần đầu bố Atticus để bọn con ở nhà một mình đâu” tôi phản đối.
                        “Phải, nhưng ông ấy yên chí là giáo viên của cô sẽ có mặt ở đó. Lần này tôi không nghe ông nói thế - chắc là ông quên”. Calpurnia gãi đầu. Bất chợt bà mỉm cười. “Cô với cậu Jem có thích đi nhà thờ với tôi ngày mai không?”
                        “Thật ư?”
                        “Chịu không?” Calpurnia cười toét.
                        Nếu trước đó Calpurnia thường tắm rửa mạnh tay cho tôi, thì cũng chẳng có gì sánh được sự chăm nom của bà về những việc thường lệ của đêm thứ Bảy đó. Bà chà xà bông khắp người tôi hai lần, múc nước sạch trong chậu mỗi lần dội; bà nhấn đầu tôi vào bồn và gội bằng xà bông Octagon và xà bông Tây Ban Nha. Bà đã tin cậy Jem nhiều năm nay, nhưng đêm đó bà xâm phạm sự riêng tư của anh và khiến anh cự lại dữ dội, “Trong nhà này bộ người ta không thể tắm mà cả nhà không nhìn sao?”
                        Sáng hôm sau bà bắt đầu sớm hơn thường lệ, để “kiểm tra kỹ quần áo của chúng tôi”. Khi Calpurnia sang ngủ qua đêm với chúng tôi, bà ngủ trên giường xếp trong nhà bếp; sáng hôm đó nó đầy quần áo ngày Chủ nhật của bọn tôi. Bà đã hồ chiếc đầm của tôi quá nhiều đến độ nó giương lên như cái lều khi tôi ngồi xuống. Bà bắt tôi mặc một váy lót dài và thắt một dải thắt lưng màu hồng. Bà chà kỹ đôi dày da của tôi với một chiếc bánh nướng nguội đến độ bà soi thấy mặt mình trên đó.
                        “Cứ như mình sắp đi hội Mardi Gras [3] vậy” Jem nói. “Tất cả chuyện này để làm chi vậy, Cal?”
                        “Tôi không muốn người ta nói rằng tôi không chăm sóc bọn trẻ của tôi” bà lầu bầu. “Cậu Jem, cậu tuyệt đối không được đeo cái nơ đó với bộ đồ đó. Nó màu xanh lá cây mà”.
                        “Nó có sao đâu?”
                        “Bộ đồ màu xanh da trời mà. Cậu không biết hả?”
                        “Ha, ha,” tôi rú lên, “Jem mù màu”.
                        Mặt anh đỏ lên vì giận, nhưng Calpurnia nói, “Cô cậu thôi đi được rồi đó. Cô cậu sẽ đến First Purchase với nụ cười trên môi”.
                        Nhà thờ First Purchase của người Da đen nằm ở bên ngoài ranh giới phía Nam thị trấn, đối diện với khu đường mòn của khu xưởng cưa cũ. Nó là một tòa nhà cũ kỹ đã tróc sơn nhiều chỗ, nhà thờ duy nhất ở Maycomb có tháp chuông và chuông, được gọi là First Purchase [4] bởi vì nó được mua bằng những đồng tiền đầu tiên những nô lệ được giải phóng kiếm được. Người Da đen thờ phụng trong đó vào các ngày Chủ nhật và người da trắng đánh bạc trong đó vào những ngày khác trong tuần.
                        Sân nhà thờ bằng đất sét cứng như gạch nung, như nghĩa trang cạnh nó. Nếu có ai chết vào mùa khô, xác họ sẽ được ướp đá cho đến khi mưa làm mềm đất. Vài ngôi mộ trong nghĩa trang được đánh dấu bằng những bia mộ đổ nát; các ngôi mộ mới hơn được rào quanh bằng những miếng kính màu sặc sỡ và những chai Coca-Cola bể. Những cây cột thu lôi trên một số ngôi mộ cho thấy người chết yên nghỉ không được thoải mái lắm; những mẩu nến thừa đứng ngay đầu các nấm mồ trẻ con. Đó là một nghĩa trang hạnh phúc.
                        Mùi ngòn ngọt đăng đắng nồng ấm của người Da đen sạch sẽ trùm lấy chúng tôi ngay khi bước vào sân nhà thờ - mùi dầu gội Hearts of Love hòa quyện với mùi tỏi tây, thuốc lá hít, nước hoa Hoyt’s Cologne, thuốc lá nhai Brown’s Mule, mùi bạc hà, và phấn rôm tử đinh hương.
                        Khi thấy Jem và tôi đi cùng Calpurnia, đàn ông bước lùi lại và nhấc mũ ra; phụ nữ đan tay trước bụng, những cử chỉ tỏ vẻ trân trọng thường thấy. Họ tách ra tạo thành một lối đi nhỏ đến cửa nhà thờ cho chúng tôi. Calpurnia đi giữa Jem và tôi, đáp lại những lời chào của các láng giềng ăn mặc sặc sỡ của bà.
                        “Chị làm gì vậy, Cal?” Một giọng nói từ sau lưng chúng tôi vang lên.
                        Hai bàn tay Calpurnia lần đến vai chúng tôi và chúng tôi dừng lại, quay lại nhìn: đứng trên lối đi sau lưng chúng tôi là một phụ nữ da đen cao. Chị ta đứng trên một chân, khuỷu tay chống hông, bàn tay ngửa lên chỉ vào chúng tôi. Chị ta có cái đầu tròn nhỏ, với đôi mắt hình quả hạnh đào kỳ lạ, mũi thẳng, miệng cong. Nhìn chị ra phải cao tới gần hai mét.
                        Tôi cảm thấy bàn tay Calpurnia bấu chặt vai tôi. “Cô muốn gì, Lula?” Bà hỏi bằng giọng điệu tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Bà hỏi nhỏ nhẹ, đầy khinh bỉ.
                        “Tôi muốn biết tại sao chị đưa mấy nhóc da trắng đến nhà thời của dân da đen”.
                        “Chúng là khách của tôi” Calpurnia nói. Tôi lại thấy giọng bà nghe là lạ: bà nói chuyện giống hầu hết bọn họ.
                        “Phải, tôi cho là bà cũng là khách của nhà Finch suốt cả tuần”.
                        Tiếng xì xầm lan khắp đám đông. “Đừng lo”. Calpurnia thì thầm với tôi, nhưng những bông hoa trên mũ bà run lên đầy phẫn nộ.
                        Khi Lula bước sấn về phía chúng tôi, Calpurnia nói, “Đứng lại đó, con mọi đen”.
                        Lula dừng lại, nhưng chị ta nói, “Chị không việc gì phải đưa bọn nhóc da trắng đến đây... chúng có nhà thờ của chúng, chúng ta có nhà thờ của chúng ta. Đây là nhà thờ của chúng ta, đúng không, cô Cal?”
                        Calpurnia nói, “Chúng thờ cùng một Chúa với ta, đúng không?”
                        Jem nói, “Mình về thôi, Cal, họ không muốn tụi tôi ở đây...”
                        Tôi đồng ý: họ không muốn chúng tôi ở đây. Tôi có cảm giác, hơn là thấy, rằng chúng tôi đang được đẩy tới. Có vẻ như họ đang tiến lại gần chúng tôi hơn, nhưng khi tôi nhìn Calpurnia thì thấy có một sự thích thứ trong mắt bà. Khi tôi nhìn xuống lối đi lần nữa, Lula đã đi mất. Ngay chỗ chị ra là một đám đông những người da màu.
                        Một trong số họ bước khỏi đám đông. Đó là Zeebo, người quét rác. “Cậu Jem,” anh ta nói, “chúng tôi rất hân hạnh khi cô cậu đến đây. Đừng quan tâm đến Lula, cô ta ưa gây sự bởi vì Cha Sykes dọa không cho cô ấy vào nhà thờ. Cô ấy là người hay gây rối từ lâu nay, có những ý nghĩ quái gở và cung cách phách lối... tụi tôi rất hân hạnh khi cô cậu đến đây”.
                        Thế là Calpurnia dẫn chúng tôi đến cửa nhà thờ nơi Đức cha Sykes đón chào chúng tôi, ông dẫn chúng tôi tới hàng ghế đầu.
                        Nhà thờ First Purchase không đóng trần và không được sơn bên trong. Dọc bức tường nhà thờ có những cây đèn dầu hỏa chưa thắp sáng treo trên những giá đỡ bằng đồng, những băng ghế gỗ thông được dùng làm ghế nguyện. Phía sau bục giảng bằng gỗ sồi xù xì là một biểu ngữ bằng lụa hồng đã bạc màu có dòng chữ ‘Thiên Chúa Là Tình Thương’, nó là món trang trí duy nhất của nhà thờ nếu không kể bản in kẽm trong bức tranh The Light of the World [5] của Hunt. Không có bóng dáng của đàn dương cầm, phong cầm, những tập thánh ca, những chương trình hành lễ - những thứ quen thuộc của nhà thờ mà chúng tôi thường thấy mỗi Chủ nhật. Bên trong tối mờ, với cái lạnh ẩm ướt dần dần bị xua tan khi giáo dân tập trung vào. Ở mỗi chố ngồi có một cái quạt bằng bìa giấy cứng rẻ tiền in hình Khu vườn Gethsemane [6] lòe loẹt, quà tặng của công ty Tydal’s Hardware Co. (Với khẩu hiệu Bạn-cần-gì-chúng-tôi-bán-nấy).
                        Calpurnia đẩy chúng tôi xuống cuối hàng ghế và ngồi giữa chúng tôi. Bà lục tìm trong ví, lôi ra chiếc khăn tay, mở lấy một mớ tiền lẻ cột ở góc khăn. Bà đưa một đồng mười xu cho tôi và một đồng mười xu cho Jem. “Tụi con có tiền rồi” anh thì thầm với tôi. “Bà cứ giữ lấy”. Calpurnia nói, “Cô cậu là khách của tôi”. Tôi thoáng thấy nét do dự về đạo đức trên mặt Jem xem có nên giữ lại đồng mười xu của mình nhưng thói lịch sự bẩm sinh của anh đã thắng và anh nhét đồng mười xu vào túi. Tôi làm theo không chút băn khoăn.
                        “Cal,” tôi thì thầm, “sách thánh ca đâu?”
                        “Tụi tôi không có cuốn nào hết” bà nói.
                        “Sao lại...”
                        “Suỵt” bà nói. Cha Sykes đang đứng sau bục giảng nhìn giáo đoàn ra hiệu im lặng. Ông là người thấp, chắc nịch trong bộ đồ đen, nơ đen, và sơ mi trắng, và một dãy đồng hồ vàng lấp lánh trong ánh sáng từ những cửa sổ đầy tuyết.
                        Ông nói, “Hỡi anh chị em, chúng ta đặc biệt vui vì có những người bạn đến với chúng ta sáng nay. Cậu và cô Finch. Tất cả các bạn đều biết cha họ. Trước khi bắt đầu tôi sẽ đọc mấy thông báo”.
                        Cha Sykes lật giở mấy tờ giấy, chọn một tờ và giơ thẳng ra trước mặt. “Hội truyền giáo họp ở nhà chị Annette Reeves thứ Ba tuần sau. Đem theo đồ may vá của các bạn”.
                        Ông đọc một tờ giấy khác. “Tất cả các bạn đều biết vụ rắc rối của người anh em Tom Robinson. Anh ấy là thành viên trung tín của First Purchase từ hồi còn là cậu bé. Tiền quyên góp được hôm nay và trong ba Chủ nhật tôi sẽ gửi đến cho Helen - vợ của Tom, để giúp chị ấy lúc túng quẫn ở nhà”.
                        Tôi thúc Jem, “Đó là cái ông Tom mà bố Atticus sắp...”
                        “Suỵt!”
                        Tôi quay sang Calpurnia nhưng đã bị chặn lại trước khi kịp nói ra. Tôi nén lại, dán sự chú ý vào Cha Sykes, người có vẻ như chờ tôi bình tĩnh trở lại. “Sẽ có người phụ trách âm nhạc hướng dẫn chúng ta trong bài thánh ca đầu tiên” ông nói.
                        Zeebo nhỏm dậy khỏi ghế và bước tới lối đi ở giữa, dừng lại trước mặt chúng tôi và đối diện với giáo đoàn. Anh cầm một cuốn thánh ca đã sờn cũ. Anh mở nó ra và nói, “Tất cả chúng ta sẽ hát bài số hai trang bảy mươi ba”.
                        Đến vụ này thì tôi hết chịu nổi. “Làm sao mà hát được khi không có cuốn thánh ca nào cả?”
                        Calpurnia mỉm cười, “Suỵt, cô bé,” bà thì thầm, “cô sẽ thấy ngay thôi”.
                        Zeebo hắng giọng và đọc nghe như tiếng rền của đạn pháo từ xa;
                        “Có một vùng đất bên kia con sông”.
                        Kỳ diệu thay, cùng với độ cao, cả trăm giọng cùng hát to những lời của Zeebo. Âm tiết cuối cùng, tan thành tiếng ngân nga khàn khàn, kế theo đó là tiếng của Zeebo.
                        “Mà chúng ta gọi là miền đất dấu yêu mãi mãi”.
                        Âm nhạc lại dâng lên quanh chúng tôi ; nốt cuối cùng ngân dài và Zeebo nối sang câu hát kế tiếp, “Và chúng ta chỉ tới được bờ đó bằng sức mạnh đức tin”.
                        Giáo đoàn ngập ngừng, Zeebo lập lại câu đó một cách cẩn thận, và mọi người hát theo. Tới đoạn đồng ca, Zeebo gấp sách lại, một dấu hiệu cho giáo đoàn hát tiếp mà không cần anh lĩnh xướng.
                        Khi từ “Lễ mừng,” tắt dần Zeebo nói, “trong miền đất xa xôi dấu yêu mãi mãi đó, ngay bên kia dòng sông sáng rực”.
                        Từng câu một, mọi người hát theo với sự hòa âm đơn sơ cho đến khi kết thúc bài thánh ca bằng tiếng thì thầm buồn bã.
                        Tôi nhìn Jem, anh đang liếc nhìn Zeebo. Tôi cũng chẳng tin, nhưng cả hai chúng tôi đều nghe thấy nó.
                        Sau đó Cha Sykes cầu Chúa ban phúc cho những kẻ bệnh tật và đau khổ, một thủ tục không khác thủ tục của nhà thờ chúng tôi, trừ việc Cha Sykes xin Thượng đế chú ý đến vài trường hợp cụ thể.
                        Bài giảng của ông là sự tố cáo tội lỗi một cách thẳng thắn, một tuyên ngôn đơn giản về phương châm trên tường sau lưng ông: ông cảnh báo con chiên của ông trước những tai ương của rượu chè, cờ bạc, phụ nữ lạ. Bọn buôn bán rượu lậu đã gây đủ rắc rối trong khu này rồi, nhưng phụ nữ còn tồi tệ hơn. Một lần nữa, như tôi thường thấy trong nhà thờ của chúng tôi, tôi gặp phải học thuyết về sự ô uế của phụ nữ vốn có vẻ như ám ảnh mọi tu sĩ.
                        Jem và tôi nghe bài giảng giống vậy hết Chủ nhật này đến Chủ nhật khác, với duy nhất một ngoại lệ. Cha Sykes sử dụng bục giảng của ông một cách thoải mái hơn để biểu lộ các quan điểm của mình về những sa ngã cá nhân: Jim Hardy đã vắng mặt ở nhà thờ năm Chủ nhật và anh ta không hề bệnh; Constance Jackson nên cẩn thận hơn trong cách cư xử của mình... cô ta đang gặp nguy hiểm vì cãi nhau với những láng giềng; cô ta đã dựng lên hàng rào thù hận duy nhất trong lịch sử của khu dân cư này.
                        Mục sư Sykes kết thúc bài giảng của mình. Ông đứng cạnh cái bàn trước bục giảng và kêu gọi quyên góp buổi sáng, một nghi thức kỳ lạ với Jem và tôi. Từng người một, giáo đoàn tiến về phía trước bỏ những đồng năm xu và mười xu vào bình cà phê phủ mem đen. Jem và tôi cũng bắt chước, và nhận được lời nói dịu dàng, “Cám ơn, cám ơn” khi những đồng mươi xu của chúng tôi bỏ xuống kêu leng keng.
                        Trước sự ngạc nhiên của bọn tôi, mục sư Sykes đổ chiếc bình ra bàn và hốt những đồng xu trong tay. Ông đứng thẳng người và nói, “Bấy nhiêu chưa đủ, chúng ta phải có mười đô”.
                        Giáo đoàn xôn xao. “Tất cả các bạn đều biết nó để làm gì... Helen không thể bỏ bọn trẻ để đi làm trong khi Tom ở tù. Nếu mọi người đều cho thêm một đồng mười xu nữa, chúng ta sẽ có đủ...” Mục sư Sykes vẫy tay gọi ai đó ở phía sau nhà thờ. “Alec, đóng các cửa lại. Không ai rời khỏi đây cho đến khi chúng ta có đủ mười đô”.
                        Calpurnia móc trong túi ra chiếc ví da mòn cũ đựng tiền xu. “Không, Cal,” Jem thì thầm, khi bà trao cho anh đồng hai mươi lăm xu sáng loáng, “tụi con có thể góp tiền của tụi con vào. Đưa anh đồng mười xu của em, Scout”.
                        Nhà thờ trở nên ngột ngạt, và tôi nhận ra rằng mục sư Sykes có ý định để cho các con chiên của ông đổ mồ hôi hột đúng mức. Quạt kêu xoanh xoạch, những bàn chân bồn chồn, những người nhai thuốc lá bực bội.
                        Mục sư Sykes làm tôi giật mình bằng câu nói nghiêm khắc, “Carlow Richardson, ta chưa thấy con đi trên lối đi này”.
                        Một người đàn ông gày gò trong chiếc quần ka ki bước trên lối đi và đóng góp một đồng xu. Giáo đoàn lầm rầm tán đồng.
                        Sau đó mục sư Sykes nói, “Ta muốn tất cả các con, trừ trẻ em, hy sinh một chút và mỗi người cho mười xu nữa. Vậy là chúng ta sẽ có đủ”.
                        Từ từ, một cách đau khổ, mười đô được gom đủ. Cửa mở ra, và một luồng khí ấm làm chúng tôi tỉnh lại. Zeebo đọc từng câu trong bài thánh ca On Jordan’s Stormy Banks, và buổi lễ kết thúc.
                        Tôi muốn ở lại để tìm hiểu thêm, nhưng Calpurnia đã đẩy tôi theo lối đi trước bà. Tại cửa nhà thờ, trong khi bà dừng lại để nói chuyện với Zeebo và gia đình anh, Jem và tôi nói chuyện với mục sư Sykes. Trong tôi dấy lên cả đống thắc mắc, nhưng tôi quyết định để chúng cho Calpurnia trả lời.
                        “Chúng tôi đặc biệt vui khi cô cậu đến đây” mục sư Sykes nói. “Nhà thờ này không có người bạn nào tốt hơn cha cô cậu”.
                        Cơn tò mò của tôi bộc lộ, “Tại sao mọi người đều tham gia quyên góp cho vợ của Tom Robinson?”
                        “Cô không biết lý do à?” Mục sư Sykes hỏi. “Helen có ba đứa con nhỏ dại và cô ấy không thể bỏ nhà đi làm được...”
                        “Sao cô ấy không mang chúng theo, mục sư?” Tôi hỏi. Những người Da đen có con nhỏ mà phải làm việc ngoài đồng thường đặt chúng dưới bất cứ bóng mát nào ở đó trong khi họ làm việc - thường thì những đứa bé ngồi trong bóng mát giữa hai hàng cây vải bông. Những đứa chưa tự ngồi vững thì được buộc vào những túi địu trên lưng mẹ chúng, hoặc ở trong những túi vải họ mang theo.
                        Mục sư Sykes ngập ngừng. “Nói thật với cô, cô Jean Louise. Hồi này Helen khó mà tìm được việc làm... khi đến mùa gặt hái, ta nghĩ ông Link Deas sẽ nhận cô ấy”.
                        “Sao không, mục sư?”
                        Trước khi ông kịp trả lời, tôi cảm thấy bàn tay Calpurnia đặt lên vai tôi. Trước sức ép của nó, tôi nói, “Chúng cháu cảm ơn ông vì đã cho chúng cháu đến”. Jem lặp lại lời tôi, và chúng tôi lên đường về nhà.
                        “Cal, con biết Tom Robinson đang ở tù và anh ta đã làm điều gì đó khủng khiếp, nhưng tại sao người ta không thuê Helen vậy?” Tôi hỏi.
                        Calpurnia, trong bộ áo váy voan xanh nước biển và chiếc mũ hải quân, đi giữa Jem và tôi nói. “Đó là do những gì người ta cho là Tom đã làm” bà nói. “Người ta đâu có muốn...dính líu đến một ai trong gia đình anh ta”.
                        “Thế anh ta đã làm gì vậy, Cal?”
                        Calpurnia thở dài. “Lão già Bob Ewell đã buộc anh ta tội cưỡng hiếp con gái lão ta và khiến anh ta bị bỏ tù...”
                        “Ông Ewell?” Ký ức tôi khuấy động. “Anh ta có quan hệ gì với mấy thằng Ewell chỉ đến trường ngày đầu năm học rồi nghỉ luôn không? Bố Atticus nói họ là thứ hoàn toàn không ra gì... Con chưa từng nghe bố Atticus nói về người khác theo kiểu ông nói về người nhà Ewell. Ông nói...”
                        “Phải, chính cái nhà đó đó”.
                        “Nếu ai ở Maycomb cũng biết người nhà Ewell là thế nào, thì họ phải vui vẻ thuê Helen chứ... mà cưỡng hiếp là gì vậy, Cal?”
                        “Đó là điều mà cô nên hỏi ông Finch,” bà nói, “ông có thể giải thích nó rõ hơn tôi. Cô cậu đói chưa? Ông mục sư mất nhiều thời gian giải quyết công việc sáng nay quá, thường thì ông không chán ngắt như thế”.
                        “Ông ấy cũng giống như Cha giảng đạo của tụi con,” Jem nói, “nhưng sao mọi người ở đây hát thánh ca theo kiểu đó?”
                        “Hát theo hả?” Bà hỏi.
                        “Nó gọi là vậy phải không?”
                        “Phải, nó được gọi là hát theo. Người ta làm thế từ lâu lắm rồi”.
                        Jem nói họ có thể để dành tiền quyên góp trong một năm để mua sách thánh ca.
                        Calpurnia bật cười. “Chẳng ăn thua gì” bà nói. “Họ đâu có biết đọc”.
                        “Không biết đọc?” Tôi hỏi. “Tất cả à?”
                        “Đúng vậy” Calpurnia gật đầu. “Không biết đọc, cả giáo xứ First Purchase này đều không biết đọc trừ khoảng bốn người... trong đó có tôi”.
                        “Bà học trường nào vậy, Cal?” Jem hỏi.
                        “Chẳng ở trường nào cả. Cô cậu muốn biết ai dạy chữ cho tôi hả? Đó là gì của cô Maudie Atkinson, cô Buford già...”
                        “Bà già tới vậy sao?”
                        “Tôi già hơn cả ông Finch nữa đó”. Calpurnia mỉm cười. “Nhưng chắc không lớn hơn bao nhiêu. Có lần chúng tôi bắt đầu nhớ lại, ráng tính xem tôi bao nhiêu tuổi... Tôi có thể nhớ xa hơn ông ấy vài năm, tức là tôi không lớn hơn ông ấy nhiều lắm, khi đó mình rút ra kết luận rằng đàn ông không nhớ dai bằng đàn bà”.
                        “Sinh nhật của bà là ngày nào, Calpurnia?”
                        “Tôi cứ cho nó trùng với Giáng sinh, như thế dễ nhớ hơn - tôi không có ngày sinh nhật thật”.
                        “Nhưng bà Cal này,” Jem phản đối, “trông bà thậm chí còn chưa già bằng bố Atticus”.
                        “Người da màu không lộ vẻ già nua nhanh lắm” bà nói.
                        “Chắc tại họ không biết đọc. Cal, bộ bà dạy Zeebo đọc hả?”
                        “Phải, cậu Jem. Hồi nó còn nhỏ, thậm chí ở đây một ngôi trường cũng chưa có nữa. Dù vậy tôi vẫn bắt nó học”.
                        Zeebo là con trai lớn của Calpurnia. Nếu tôi từng nghĩ về điều này, hẳn tôi đã nhận ra từ trước kia rằng Zeebo đã tới tuổi trưởng thành rồi - Zeebo đã có con hơi lớn rồi - nhưng hồi đó tôi không nghĩ ra được như vậy.
                        “Bà dạy anh ấy theo một cuốn sách vỡ lòng, như tụi con vậy hả?” Tôi hỏi.
                        “Không, tôi bắt nó học mỗi ngày một trang Kinh Thánh, còn cô Buford thì dạy tôi theo một cuốn sách khác - tôi chắc là cô cậu không biết ở đâu mà tôi có được nó” bà nói.
                        Chúng tôi không biết.
                        Calpurnia nói, “Cụ nội Finch của cô cậu cho tôi đó”.
                        “Bà từng ở Landing hả?” Jem hỏi. “Bà chưa hề kể cho tụi con nghe chuyện đó”.
                        “Phải rồi, cậu Jem. Tôi lớn lên ở đó giữa điền trang nhà Buford với Landing. Suốt ngày tôi phải làm việc hoặc cho Buford hoặc cho Landing, và tôi chuyển đến Maycomb khi bố và mẹ cô cậu cưới nhau”.
                        “Cuốn sách đó là cuốn gì vậy?” Tôi hỏi Cal.
                        Commetaries của BlackStone [7]”.
                        Jem kinh ngạc. “Ý bà là bà đã dạy Zeebo theo cuốn đó hả?”
                        “Phải, thưa cậu Jem”. Calpurnia rụt rè đưa những ngón tay lên che miệng. “Tôi chỉ có mấy cuốn đó. Ông nội cậu nói Blackstone viết tiếng Anh rất chuẩn...”
                        “Đó là lý do tại sao bà không ăn nói giống như những người còn lại đó” Jem nói.
                        “Những người còn lại nào?”
                        “Những người da màu khác. Cal, nhưng bà ăn nói giống như người ta ăn nói trong nhà thờ...”
                        Tôi chưa từng nghĩ Cal có một cuộc sống kép giản dị. Ý nghĩ bà có một cuộc sống riêng lẻ ngoài gia đình tôi là một ý tưởng mới lạ, chưa nói đến chuyện bà thông thạo hai loại ngôn ngữ.
                        “Cal,” tôi hỏi, “sao bà dùng lối-nói-mọi-đen với... với người của bà trong khi bà biết nói thế không đúng?”
                        “Ờ thì, thứ nhất tôi là người da đen...”
                        “Điều đó không có nghĩa là bà phải nói theo cách đó khi bà hiểu biết nhiều hơn” Jem nói.
                        Calpurnia nghiêng mũ và gãi đầu, rồi cẩn thận kéo mũ trùm xuống tai. “Quả là khó noi” bà nói. “Giả sử như cậu và Scout dùng lối nói của người da màu ở nhà thì quả là không phù hợp, phải không? Vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu như tôi dùng lối nói của người da trắng tại nhà thờ này, với người hàng xóm của tôi? Họ sẽ nghĩ tôi làm ra vẻ ta đây hơn người”.
                        “Nhưng Cal, bà biết nhiều hơn cơ mà” tôi nói.
                        “Không cần thiết phải nói mọi điều mình biết. Như thế không đúng kiểu quý cô - thứ hai, người ta không thích xung quanh ai đó biết nhiều hơn họ. Nó làm cho họ bực thêm. Cô sẽ không thay đổi được bất kỳ ai trong số họ bằng việc nói đúng, tự họ phải cảm thấy muốn học hỏi, và khi họ không muốn học thì cô chẳng thể làm gì ngoài việc im miệng hoặc nói bằng thứ ngôn ngữ của họ”.
                        “Cal, thỉnh thoảng con có thể đến gặp bà không?” Tôi hỏi.
                        Calpurnia nhìn xuống tôi, “Gặp tôi, bé cưng? Cô gặp tôi mỗi ngày mà”.
                        “Tới nhà bà đó” tôi nói. “Đôi khi sau giờ làm việc được không? Bố Atticus có thể dẫn con tới”.
                        “Bất cứ lúc nào cô muốn” bà nói. “Chúng tôi rất vui được đón cô”.
                        Chúng tôi đang đi trên lề đường ngang nhà Radley.
                        “Nhìn hàng hiên đằng kia kìa” Jem nói.
                        Tôi nhìn sang nhà Radley, mong được thấy con người bí ẩn đó đang sưởi nắng trên xích đu. Chiếc xích đu trống trơn.
                        “Ý tao nói hiên nhà mình kìa” Jem nói.
                        Tôi nhìn xuôi theo con đường. Thích chí, thẳng tưng, kiên quyết không rời, bà Alexandra đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh chính xác như thể bác đã ngồi đó từng ngày một suốt cả đời bác.


                        Chú thích:

                        [1] Biểu tình ngồi lì: một vũ khí hữu hiệu của giới công nhân ở thời đại khủng hoảng kinh tế, họ ngồi tại xưởng, họ không làm việc và không cho ai khác làm việc, cho đến khi giới chủ chịu đàm phán với họ.
                        [2] Một trong ba người bị vua Nebuchadnezzar ném vào lò lửa, theo sách Daniel trong Cựu ước. Nhờ đức tin vào Thiên chúa, cả ba thoát nạn không chút hề hấn.
                        [3] Mardi Gras (gốc tiếng Pháp, nghĩa đen là thứ Ba béo): đợt lễ hội, vui chơi và diễu hành khi bước vào tuần chay mùa Phục sinh của người Công giáo, bắt đầu bằng thứ Tư lễ Tro.
                        [4] Nghĩa là món mua sắm đầu tiên.
                        [5] Nghĩa là: Ánh sáng của thế gian
                        [6] Kinh thánh tiếng Việt phiên âm thành Ghếtsêmani: nơi Jesus tới cầu nguyện vào đêm trước khi bị đóng đinh trên thập giá.
                        [7] Một trong những tác phẩm quan trọng nhất về luật pháp của Anh.

                        Comment


                        • #13
                          Chương 13




                          “Để túi của tôi vào phòng ngủ đằng trước, Calpurnia” là câu đầu tiên bác Alexandra nói. “Jean Louise, thôi gãi đầu đi” là câu thứ hai bác nói.
                          Calpurnia xách chiếc va li nặng trịch của bác lên và mở cửa. “Để con xách cho” Jem nói, và đón lấy nó. Tôi nghe tiếng va li rớt xuống nền phòng ngủ cái rầm. Âm thanh kéo dài trầm đục.
                          “Bác đến chơi hả” tôi hỏi. Những cuộc viếng thăm từ Landing của bác Alexandra thường hiếm, và bác du lịch trong tư thế người giàu có và cao sang. Bác có một chiếc Buick tinh tươm màu xanh lá cây và một tài xế da đen, cả xe lẫn người luôn phải ở trong tình trạng ngăn nắp đến bệnh hoạn, nhưng hôm nay chẳng thấy cả hai đâu.
                          “Bố các cháu không nói với các cháu hả?” Bác hỏi.
                          Jem và tôi lắc đầu.
                          “Có lẽ ông ấy quên. Bố các cháu chưa về hả?”
                          “Chưa. Bố cháu thường về muộn” Jem nói.
                          “À, bố cháu và ta quyết định đã đến lúc ta đến ở với các cháu một thời gian”.
                          “Một thời gian” ở Maycomb có nghĩa là từ ba ngày đến ba mươi năm. Jem và tôi liếc nhìn nhau.
                          “Jem giờ đã lớn, và cháu cũng vậy” bác nói với tôi. “Bố cháu với ta quyết định rằng có một số ảnh hưởng nữ giới là tốt nhất cho cháu. Jean Louise, không lâu nữa cháu sẽ quan tâm đến quần áo và bọn con trai...”
                          Tôi có thể đưa ra nhiều câu trả lời cho điều này: Cal là con gái, phải nhiều năm nữa tôi mới để ý đến bọn con trai, tôi sẽ không bao giờ quan tâm đến quần áo... nhưng tôi giữ im lặng.
                          “Còn bác Jimmy?” Jem hỏi. “Bác ấy cũng đến chứ?”
                          “Ồ, không, ông ấy ở Landing. Ông coi sóc công việc ở đó”.
                          Ngay lúc mở miệng hỏi, “Bác không nhớ bác ấy sao?” thì tôi nhận ra ngay đây là một câu hỏi không tế nhị. Bác Jimmy hiện diện hay bác Jimmy vắng mặt có khác nhau đâu, bác không hề nói bất cứ câu gì. Bác Alexandra phớt lờ câu hỏi của tôi.
                          Tôi chẳng nghĩ được điều gì khác để nói với bác. Thực tế tôi chưa hề nghĩ đến điều gì để nói với bác, và tôi ngồi nghĩ về những cuộc nói chuyện chán ngắt giữa chúng tôi trước đây: cháu thế nào Jean Louise? Cháu khỏe, cám ơn bác, còn bác thì sao? Rất khỏe, cám ơn, lâu nay cháu sinh hoạt thế nào? Không có gì cả. Cháu không làm gì cả à? Không thưa bác. Chắc cháu có bạn? Dạ có. Bọn cháu làm gì? Không làm gì hết.
                          Rõ ràng là bác nghĩ tôi cực kỳ ngu ngốc, bởi vì có lần tôi nghe bác nói với bố Atticus rằng trông tôi lờ đờ.
                          Có một chuyện gì đó đằng sau tất cả vụ này nhưng tôi không có ý muốn gặng hỏi bác. Hôm nay là Chủ nhật, và bác Alexandra chắc chắn dễ cáu vào ngày của Chúa. Tôi đoán đó là do cái áo nịt ngực mặc ngày Chủ nhật của bác. Bác không mập, nhưng to con, và bác chọn thứ quần áo bảo vệ nâng ngực của bác tới độ cao chóng mặt, siết chặt eo bác, xòe ra phần mông, và tạo ấn tượng rằng bác Alexandra từng có vóc dáng của một cái đồng hồ cát. Từ bất cứ góc độ nào nó cũng gây ấn tượng khả kính.
                          Buổi chiều còn lại trôi qua trong không khí ảm đạm nhè nhẹ vốn thường xảy ra khi có bà con xuất hiện, nhưng tan biến ngay khi chúng tôi nghe tiếng xe hơi quẹo vào lối vào nhà. Đó là bố Atticus, từ Montgormery trở về. Jem, quên mất vị thế của mình, chạy ào ra cùng tôi đón ông. Jem cầm lấy cặp và túi của ông, tôi bổ nhào vào cánh tay ông, cảm thấy cái hôn khô khan mơ hồ của ông và nói, “Bố có đem sách về cho con không? Bố có biết bác ở đây không?”
                          Bố Atticus trả lời hai câu hỏi bằng thể khẳng định. “Tụi con chắc thích lắm khi bác đến sống với mình?”
                          Tôi nói tôi rất thích, đó là lời nói dối, nhưng người ta phải nói dối trong những tình huống nào đó và vào mọi lúc mà người ta chẳng thể thay đổi gì được nó.
                          “Bác với bố cảm thấy đây là thời điểm bọn trẻ các con cần... giống như lúc này, Scout”. Bố Atticus nói. “Bác giúp ích cho bố cũng như cho các con. Bố không thể ở nhà suốt ngày với tụi con, và mùa hè này sẽ nóng đấy”.
                          “Vâng, thưa bố” tôi nói, không hiểu một lời nào ông nói. Tuy nhiên tôi có ý nghĩ rằng sự có mặt của bác Alexandra không phải là do ý của bố Atticus mà đúng hơn là ý của chính bác. Bác có một kiểu tuyên bố Điều Gì Là Tốt Nhất Cho Gia Đình, và tôi cho rằng việc bác đến sống với chúng tôi nằm trong kiểu đó.
                          Maycomb chào đón bác. Cô Maudie Atlkinson nướng chiếc bánh nướng Lane pha quá nhiều rượu làm tôi say; cô Stephanie Crawford đến chơi lâu với bác Alexandra, phần lớn thời gian cô Stephanie chỉ lắc đầu và kêu, “Ừ, ừ, ừ”. Cô Rachel cạnh nhà mời bác tôi sang uống cà phê vào các buổi chiều, và ông Nathan Radley còn bước ra sân trước và nói ông ta rất vui được gặp bác.
                          Khi bác đến ở với chúng tôi và cuộc sống trở lại nhịp điệu hàng ngày của nó, thì bác Alexandra làm như là đã luôn luôn sống với chúng tôi từ xưa đến nay vậy. Những món ăn nhẹ đãi Hội truyền giáo của bác làm tăng thêm danh tiếng bà chủ nhà của bác (bác không cho phép Calpurnia làm những món ăn đặc biệt cần có để Hội đủ sức trải qua những báo cáo dài về người Thiên chúa giáo thuộc thế giới thứ ba); bác gia nhập và trở thành thư ký của Câu lạc bộ Thư ký Maycomb. Đối với tất cả các nhóm hiện có và tham gia vào đời sống của hạt, bác Alexandra là người cuối cùng thuộc lớp người cả bác: bác có cung cách của thời người ta học trường nội trú, đi phà trên sông; cứ để cho mọi bài học đạo đức xuất hiện và bác sẽ tuân theo nó; bác được sinh ra trong một trường hợp khách quan; bác là một người lắm chuyện vô phương cứu chữa. Hồi bác Alexandra còn đi học, sự tư vấn không hề có trong bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, vì vậy bác không có nghĩa của nó. Bác không bao giờ buồn chán, và khi có được cơ hội nhất bác sẽ sử dụng đặc quyền làm bà chúa của mình: bác sẽ bố trí, khuyên bảo, dặn dò, và cảnh báo.
                          Bác không bao giờ bỏ lỡ cơ hội chỉ ra những thiếu sót của các nhóm thuộc dòng họ khác nhằm cho thấy sự vinh quang lớn hơn của dòng họ chúng tôi, một thói quen giúp vui cho Jem hơn là làm anh ấy bực mình, “Bác Alexandra nên cẩn thận với cách bác nói chuyện - bới lông tìm vết hầu hết người dân ở Maycomb trong khi họ cũng là họ hàng của chúng ta”.
                          Bác Alexandra, khi nhấn mạnh bài học về vụ tự tử của Sam Merriweather trẻ, đã nói đó là dấu vết bệnh tật trong dòng họ. Nếu có một cô gái mười sáu tuổi cười rúc rích trong đội đồng ca thì bác sẽ nói, “Chuyện xảy ra chỉ để cháu thấy tất cả phụ nữ nhà Penfield đều nông nổi”. Có vẻ như mọi người ở Maycomb đều có một Dấu vết: Dấu vết Say xỉn, Dấu vết Cờ bạc, Dấu vết Ích kỷ, và Dấu vết Lập dị.
                          Một lần, khi bác cam đoan với chúng tôi rằng xu hướng quan tâm đến công việc của người khác ở cô Stephanie Crawford là di truyền, bố Atticus nói, “Bà chị, khi bác bình tâm để nghĩ về chuyện đó, bác sẽ thấy thế hệ của chúng ta thực sự là thế hệ đầu tiên trong dòng họ Finch không cưới anh em họ của nhau. Chắc chị sẽ nói họ nhà Finch có Dấu vết Loạn luân?”
                          Bác nói không, chính dấu vết di truyền khiến chúng tôi có bàn tay và bàn chân nhỏ nhắn.
                          Tôi không hiểu nổi nỗi ám ảnh về di truyền của bác. Ở nơi nào đó, tôi đã có được ấn tượng rằng Những Người Tốt là những người đã làm hết khả năng của họ với ý thức mà họ có, nhưng bác Alexandra có quan điểm được biểu lộ một cách gián tiếp rằng một dòng họ chiếm dụng một khu đất càng lâu dòng họ đó càng tốt hơn.
                          “Nếu vậy thì dòng họ Ewell sẽ là những người tốt” Jem nói. Dòng tộc bao gồm Burris Ewell và anh em ông ta đã sống trên cùng mảnh đất phía sau bãi rác Maycomb, và đã sống ngon lành nhờ tiền phúc lợi của hạt suốt ba thế hệ.
                          Thế nhưng lý thuyết của bác Alexandra có điều gì đó đằng sau nó. Maycomb là một thị trấn cổ xưa. Nó cách Finch’s Landing hai mươi dặm về phía Đông, nằm sâu trong nội địa một cách khó chịu đối với một thị trấn cổ như thế. Nhưng Maycomb sẽ gần sông hơn nếu không vì sự nhanh trí của một ông Sinkfieid nọ, người trong buổi bình minh của lịch sử đã kinh doanh một quán trọ nơi hai đường mòn gặp nhau, quán rượu duy nhất trong vùng. Sinkfield, không phải là một người yêu nước, ông ta phục vụ và cung cấp đạn dược cho người Da đỏ cũng như dân khai hoang định cư, không biết mà cũng không cần biết mình có thuộc về Lãnh thổ Alabama hay Xứ Creek [1] hay không miễn là công việc làm ăn còn tốt đẹp. Việc làm ăn rất thuận lợi khi thống đốc William Wyatt Bibb, với ý định đấy mạnh trị an trong hạt mới thành lập, phải một đội giám định đến xác định trung tâm chính xác của nó và thiết lập cơ quan chính phủ ở đó. Nhóm giám định, khách của Sinkfield, nói với ông chủ quán rằng ông ta ở trong địa giới của hạt Maycomb, và chỉ cho ông ta khu đất nơi chắc chắn trung tâm của hạt sẽ được xây dựng. Nếu Sinkfield không có hành động táo bạo để bảo toàn tài sản của ông ta, thì chắc hạt Maycomb đã được đặt ở giữa vùng Đầm Winston, một nơi hoàn toàn không có nguồn lợi nào. Thay vào đó, Maycomb phát triển và trải rộng ra từ trung tâm của nó, quán rượu của Sinkfield, bởi vì một tối nọ Sinkfield đã phục vụ rượu cho các vị khách say khướt đến mức không biết trời trăng gì nữa, thuyết phục họ bày ra các bản đồ và biểu đồ của họ, cắt bỏ một chút ở đây, thêm một chút ở kia, và chỉnh sửa trung tâm của hạt để đáp ứng những yêu cầu của ông ta. Ngày hôm sau ông ta bảo họ cút xéo với các biểu đồ và năm thùng rượu Whisky trên túi yên ngựa của họ - hai cho mỗi người và một cho thống đốc.
                          Bởi vì lý do chủ yếu cho sự tồn tại của nó là chính phủ, nên Maycomb tránh được cái vẻ bẩn thỉu đặc trưng ở hầu hết các thị trấn Alabama cùng kích cỡ với nó. Trong buổi đầu, những tòa nhà ở đó chắc chắn, tòa án của nó uy nghi, đường phố của nó vô cùng rộng rãi. Tỉ lệ người có nghề chuyên môn ở Maycomb tăng cao: người ta đến đó để nhổ răng, sửa xe, khám bệnh, gửi tiền, cứu rỗi linh hồn, chữa bệnh cho mấy con lừa. Nhưng người ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu ra được cái khôn ngoan tột đỉnh trong thủ đoạn của Sinkfield. Ông ta đã đặt thị trấn non trẻ này quá xa loại phương tiện chuyên chở công cộng duy nhất thời đó - thuyền trên sông - và nó khiến một người từ cực Bắc của hạt phải mất hai ngày mới tới được Maycomb để mua hàng hóa tại các cửa hiệu. Do đó thị trấn vẫn giữ nguyên kích thước ban đầu cả trăm năm nay, một hòn đảo giữa một biển những cánh đồng bông vải và rừng khai thác gỗ.
                          Dù Maycomb đã bị bỏ quên suốt cuộc Nội chiến, nhưng sự suy thoái kinh tế và luật lệ Thời kỳ tái thiết [2] đã buộc Maycomb phát triển. Nó phát triển từ trong ra. Hiếm có người mới định cư ở đó, vẫn những dòng họ đó kết hôn với những dòng họ đó cho đến khi các thành viên của cộng đồng trông có vẻ hơi hơi giống nhau. Thỉnh thoảng có người từ Montgomery hoặc Mobile trở về cùng một người ngoài, nhưng kết quả này chỉ gây ra làn sóng gợn trong dòng chảy lặng lẽ của sự giống nhau trong gia đình. Mọi chuyện ít nhiều vẫn y như vậy trong suốt thời thơ ấu của tôi.
                          Thực tế ở Maycomb có một sự phân biệt đẳng cấp, nhưng trong suy nghĩ của tôi nó đi theo cách này: những công dân lớn tuổi, thế hệ hiện thời gồm những người sống bên nhau từ bao năm nay, hoàn toàn có thể hiểu nhau: họ biết quá rõ những thái độ, những khác biệt về tính cách, thậm chí cả cử chỉ, vì vẫn lặp đi lặp lại trong mỗi thế hệ và được hoàn thiện qua thời gian. Vì vậy những tổng kết kiểu như Không một người họ Crawford nào quan tâm đến công việc của hắn. Cứ ba người nhà Merriweather thì có một người bệnh hoạn. Sự thật thà không có ở họ Delafield.All người nhà Buford đều đi theo kiểu đó, đơn giản là những hướng dẫn cho sinh hoạt hàng ngày: không bao giờ nhận ngân phiếu từ một người họ Delafield mà không kín đáo gọi điện đến ngân hàng; vai cô Maudie Atkinson nghiêng vì cô là người họ Buford; nếu bà Grace Merriweather nhấm nháp rượu gin từ những chai Lydia E. Pinkham [3] thì không có gì là bất thường - mẹ bà ta cũng làm y như thế.
                          Bác Alexandra hòa hợp với thế giới của Maycomb giống như một bàn tay khít với găng tay, nhưng không bao giờ hòa hợp với thế giới của Jem và tôi. Tôi cũng thường tự hỏi làm sao bác có thể là chị của bố Atticus và của chú Jack đến độ những câu chuyện chỉ còn nhớ mang máng về việc đánh tráo con và những củ nhân sâm mà Jem đã thêu dệt từ lâu sống lại trong tâm trí tôi.
                          Những câu chuyện này là các suy đoán trừu tượng trong tháng đầu tiên bác lưu lại, vì bác ít khi nói chuyện với Jem và tôi, và chúng tôi chỉ gặp bác vào giờ ăn và vào ban đêm trước khi chúng tôi đi ngủ. Bây giờ là mùa hè và chúng tôi ở ngoài đường suốt. Dĩ nhiên có một số buổi chiều khi chạy vào nhà để uống nước, tôi thường thấy phòng khách đầy những quý bà Maycomb, nhấm nháp thức uống, xì xào quạt, và tôi sẽ bị gọi, “Jean Louise, đến nói chuyện với các quý cô đây”.
                          Khi tôi xuất hiện ngay ngưỡng cửa, có vẻ như bác hối tiếc về yêu cầu của mình; người tôi thường lấm bùn đất hoặc đầy cát.
                          “Nói chuyện với chị họ Lily của cháu đi” một chiều nọ bác đã nói vậy khi bắt được tôi trong hành lang.
                          “Ai ạ?” Tôi hỏi.
                          “Chị họ Lily Brooke của cháu” bác Alexandra nói.
                          “Cô ấy là chị họ của tụi cháu hả? Cháu không biết chuyện đó”.
                          Bác Alexandra cố nở một nụ cười theo kiểu chuyển được một lời phân trần nhẹ nhàng tới chị họ Lily và bày tỏ sự thất vọng dữ dội với tôi. Khi chị họ Lily Brooke ra về tôi biết mình sẽ gặp phiền toái.
                          Quả là điều đáng tiếc khi bố tôi quên nói cho tôi biết về Dòng họ Finch, hoặc cài đặt bất cứ lòng tự hào nào vào những đứa con của ông. Bác cho gọi Jem đến, anh thận trọng ngồi trên chiếc trường kỷ cạnh tôi. Bác rời phòng và quay lại với một cuốn sách bìa màu tía trên đó có dòng chữ Meditations of Joshua S. St. Clair [4] mạ vàng.
                          “Người bà con của cháu đã viết cuốn này” bác Alexandra nói. “Cậu ta là một nhân vật tuyệt vời”.
                          Jem xem xét cuốn sách nhỏ đó. “Đây là người họ hàng Joshua đã bị bỏ tù từ rất lâu đó hả?”
                          Bác Alexandra nói. “Sao cháu biết chuyện đó?”
                          “Bố Atticus nói ông ta đã đi vòng qua khúc cua tại trường đại học. Bố Atticus nói ông ta muốn bắn ông hiệu trưởng. Bố Atticus kể Joshua nới rằng ông ta chẳng là gì ngoài một tên thanh tra cống rãnh và cố bắn ông ta bằng một khẩu súng kíp, nó chỉ trúng bàn tay ông ta. Bố Atticus nói gia đình phải tốn năm trăm đô la để cứu ông ta ra khỏi vụ đó...”
                          Bác Alexandra đứng ngây ra như một cái chĩa. “Đủ rồi” bác nói. “Chúng ta sẽ xem xét chuyện này”.
                          Trước giờ ngủ tôi ở trong phòng Jem định mượn một cuốn sách thì bố Atticus gõ cửa bước vào. Ông ngồi xuống mép giường Jem, nhìn chúng tôi một cách nghiêm nghị, rồi cười toét.
                          “E hèm” ông nói. Bố bắt đầu giới thiệu mấy điều ông định nói bằng một cái hắng giọng, và tôi nghĩ rốt cuộc bố hẳn đang già đi, nhưng trông bố vẫn thế. “Bố không biết phải nói chuyện này như thế nào đây” ông bắt đầu.
                          “Bố cứ nói đi” Jem hỏi. “Tụi con đã làm chuyện gì bậy bạ sao?”
                          Bố bồn chồn. “Không, bố chỉ muốn giải thích với tụi con rằng... bác Alexandra yêu cầu bố... con trai, con biết con là một người nhà Finch, đúng không?”
                          “Con đã được nghe nói điều này”. Jem nhìn bằng đuôi mắt. Anh cao giọng một cách mất kiểm soát, “Bố Atticus, có chuyện gì vậy?”
                          Bố Atticus bắt chéo chân và khoanh tay lại. “Bố định nói với con mấy điều về chuyện con người ra đời như thế nào”.
                          Vẻ chán nản của Jem càng sâu thêm. “Con biết hết chuyện đó rồi” anh nói.
                          Bất chợt bố Atticus trở nên nghiêm túc. Bằng giọng điệu luật sư, không chút lên xuống giọng, ông nói, “Bác tụi con yêu cầu bố cố gây ấn tượng với con và Jean Louise rằng các con không xuất thên từ giới tầm thường, rằng các con là sản phẩm của vài thế hệ có giáo dục tử tế...” Bố Atticus ngừng, quan sát tôi đang tìm con rệp đỏ lẩn khuất đâu đó trên chân.
                          “Có giáo dục tử tế,” bố nói tiếp, khi tôi đã tìm ra và gãi nó, “và rằng con phải sống cho xứng đáng với tên của mình...” Bố Atticus cứ nói mà không quan tâm đến chúng tôi, “Bác yêu cầu bố nói với các con rằng các con phải cố cư xử giống như một quý co và quý ông nhỏ tuổi, đúng như vị trí của các con hiện giờ. Bác muốn nói chuyện với các con về dòng họ và nó có ý nghĩa gì với hạt Maycomb bao năm qua, để các con ý thức được mình là ai, để các con có thể có cách cư xử cho phù hợp” ông kết thúc thật nhanh.
                          Choáng váng, Jem và tôi nhìn nhau, rồi nhìn bố Atticus, có vẻ cái cổ áo đang làm ông bực bội. Chúng tôi không nói gì với ông cả.
                          Lúc đó tôi cầm cái lược trên bàn của Jem và cứa nó vào thành bàn.
                          “Dừng trò làm ồn đó lạ” bố Atticus nói.
                          Sự cộc lốc của ông xúc phạm tôi. Chiếc lược đang cứa nửa chừng và tôi quăng nó xuống. Không vì lý do gì tôi nhận thấy mình bắt đầu khóc, nhưng tôi không thể dừng lại. Đây không phải là bố tôi. Bố tôi không bao giờ có những ý nghĩ này. Bố tôi không bao giờ nói như thế. Bằng cách nào đó, bác Alexandra đã khiến ông như thế này. Qua màn nước mắt tôi thấy Jem cũng trong một cõi tách biệt tương tự, đầu anh ngoẹo sang một bên.
                          Không biết phải đi đâu, nhưng tôi vẫn quay người đi ra và đụng phải ngực áo vest của bố Atticus. Tôi vùi đầu vào đó lắng nghe những tiếng động nhỏ bên trong vang ta từ phía sau lớp vải xanh nhạt: đồng hồ của ông đang kêu tích tắc, tiếng lắc rắc mơ hồ của chiếc áo sơ mi hồ bột của ông, âm thanh nhẹ nhàng của hơi thở ông.
                          “Dạ dày của bố đang sôi” tôi nói.
                          “Bố biết” ông đáp.
                          “Tốt hơn bố nên uống ít thuốc tiêu”.
                          “Chốc bố uống” ông nói.
                          “Bố Atticus, mấy chuyện cư xử và các thứ này có quan trọng gì không? Ý con là bố...”
                          Tôi cảm thấy bàn tay ông vuốt gáy tôi. “Các con đừng lo nghĩ bất cứ điều gì nữa” ông nói. “Chưa đến lúc phải lo đâu”.
                          Khi tôi nghe câu này, tôi biết ông đã trở lại với chúng tôi. Máu ở chân tôi bắt đầu chảy lại, và tôi ngẩng đầu lên. “Bố thực sự muốn tụi con làm mọi chuyện đó hả? Con không nhớ hết nổi mọi việc mà những người nhà Finch có bổn phận phải làm...”
                          “Bố không muốn các con nhớ rõ. Quên nó đi”.
                          Ông đi đến cửa và ra khỏi phòng, đóng cửa lại phía sau. Ông suýt đập mạnh nó vào, nhưng đến phút cuối ông nhận ra và đóng nó lại nhẹ nhàng. Khi Jem và tôi nhìn theo, cửa mở ra lần nữa và bố Atticus nhìn vào. Lông mày ông nhướn lên, kính bố trễ xuống. “Càng ngày bố càng giống Joshua, đúng không? Con có nghĩ cuối cùng bố sẽ làm gia đình mất năm trăm đô la không?”
                          Bây giờ tôi biết ông đang cố làm gì, nhưng bố Atticus chỉ là một người đàn ông. Cần có một người phụ nữ để làm công việc đó.
                          -----------------------------
                          [1] Một liên minh Da đỏ gồm nhiều bộ tộc ở vùng Alabama, Georgia và Mississippi. Sau trận chiến 1813-14 họ bị người da trắng xua sang bờ Tây sông Mississippi.
                          [2] Reconstruction: thời kỳ trong khoảng 1867-1877, khi các bang miền Nam được tổ chức và xây dựng lại sau Nội chiến.
                          [3] Lydia E. Pinkham: nhà sản xuất những loại thuốc thông thường vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Hầu hết thuốc bào chế của Pinkham nhắm vào nữ giới, và phần lớn đều chứa một lượng cồn khá cao.
                          [4] Nghĩa là những suy ngẫm của Joshua S. St. Clair.

                          Comment


                          • #14
                            Chương 14




                            Dù chúng tôi không nghe thêm gì về Dòng họ Finch từ miệng bác Alexandra, nhưng chúng tôi nghe đủ thứ chuyện về họ nhà tôi từ dân thị trấn. Vào những ngày thứ Bảy, đem theo những đồng năm xu, khi Jem cho tôi đi theo anh (hiện anh rất dị ứng với sự có mặt của tôi cạnh anh ở nơi công cộng), chúng tôi thường đi luồn lách đi qua những đám đông mướt mồ hôi trên vỉa hè và đôi khi nghe thấy, “Con của ông ta đó” hoặc “Có mấy đứa nhỏ nhà Finch đằng kia kìa”. Quay sang đối mặt với những kẻ buộc tội, chúng tôi thường chỉ thấy một cặp vợ chồng nông dân đang săm soi những chiếc túi đựng chất lỏng dùng để thụt ruột trong ô kính bày hàng của nhà thuốc Mayco. Hoặc hai phụ nữ nông thôn thấp béo đội mũ rơm ngồi trên cỗ xe ngựa hai bánh.
                            “Chúng có thể chạy rông rồi cưỡng hiếp khắp vùng nông thôn cho cả bọn điều hành hạt này lo chơi”, là một lời bình phẩm khó hiểu mà chúng tôi gặp phải từ một quý ông gầy nhòm khi ông ta đi ngang qua chúng tôi. Câu đó làm tôi nhớ mình có một câu hỏi cần hỏi bố Atticus.
                            “Cưỡng hiếp là gì?” Tối đó tôi hỏi bố Atticus.
                            Đằng sau tờ báo bố Atticus đưa mắt nhìn quanh. Ông đang ngồi trên ghế cạnh cửa sổ. Khi chúng tôi lớn hơn, Jem và tôi nghĩ thật rộng rãi khi cho bố Atticus được ngồi một mình ba mươi phút sau bữa ăn.
                            Ông thở dài, nói cưỡng hiếp là tiếp xúc về mặt tình dục với một người nữ thông qua vũ lực mà không có được sự đồng ý.
                            “Nếu chỉ có vậy tại sao Calpurnia bảo con im đi khi con hỏi bà nó là gì?”
                            Bố Atticus có vẻ trầm ngâm. “Nói lại coi chuyện đó thế nào”.
                            “Bữa đó trên đường từ nhà thờ về con hỏi Calpurnia nó là cái gì và bà ấy biểu hỏi bố nhưng con quên và bây giờ con hỏi bố”.
                            Ông đặt tờ báo xuống đùi. “Nói lại lần nữa coi” ông bảo.
                            Tôi kể ông nghe chi tiết chuyến đi lễ nhà thờ của Calpurnia. Bố Atticus có vẻ thích thú, nhưng bác Alexandra, người đang ngồi trong góc nhà lặng lẽ khâu, đặt đồ thêu xuống và nhìn chúng tôi.
                            “Chủ nhật đó hai cháu về từ nhà thờ của Calpurnia hả?”
                            Jem nói, “Dạ, bà ấy dắt tụi cháu đi”.
                            Tôi nhớ lại một điều, “À, bà còn hứa con có thể đến nhà bà vào buổi chiều nào đó. Bố Atticus, nếu được thì Chủ nhật tới con đi, được không? Cal nói bà sẽ đón con nếu bố lái xe chở con đến”.
                            “Cháu không được đi”.
                            Bác Alexandra nói câu đó. Tôi quay sang, giật mình, rồi quay trở lại bố Atticus đúng lúc để bắt gặp ông nhìn nhanh sang bác, nhưng đã quá trễ. Tôi nói, “Cháu không hỏi bác!”
                            Tuy to con, nhưng bố Atticus có thể đứng lên ngồi xuống một cái ghế nhanh hơn bất kỳ ai tôi từng biết. Ông đứng bật dậy, “Xin lỗi bác ngay” ông nói.
                            “Con không hỏi bác ấy, con hỏi bố...”
                            Bố Atticus quay sang và nhìn tôi nghiêm khắc. Giọng bố đanh lại, “Thứ nhất, xin lỗi bác của con”.
                            “Cháu xin lỗi, bác” tôi lầm bầm.
                            “Còn bây giờ,” ông nói “chúng ta làm rõ điều này: con làm như Calpurnia bảo con, con làm như bố bảo con, và chừng nào bác con còn ở trong nhà này, con sẽ làm như bác bảo con. Hiểu chưa?”
                            Tôi hiểu, cân nhắc một hồi, và kết luận rằng cách duy nhất tôi có thể rút lui với một chút thể diện là đi vào phòng tắm, tôi ở lại đó đủ lâu để họ nghĩ rằng tôi phải vào đó. Trở lại, tôi nấn ná trong hành lang để nghe một cuộc tranh luận gay gắt đang diễn ra trong phòng khách. Qua cánh cửa tôi có thể thấy Jem ngồi trên trường kỷ với tạp chí bóng bầu dục trước mặt, đầu anh quay qua quay lại chứ như trên các trang báo đang có một trận quần vợt trực tiếp.
                            “... cậu phải làm điều gì đó với nó” bác nói tôi. “Cậu đã để mọi thứ xảy ra quá lâu. Atticus, quá lâu”.
                            “Em thấy chẳng có hại gì trong việc cho nó đi đến đó. Cal sẽ chăm sóc nó ở đó tốt như bà ấy làm ở đây vậy”.
                            “Nó” mà họ đang nói đến là ai vậy? Lòng tôi chùng xuống: tôi. Tôi cảm thấy các bức tường bông vải màu hồng của trại cải huấn đang vây siết lấy tôi, và đây là lần thứ hai trong đời tôi nghĩ tới việc bỏ trốn. Ngay lập tức.
                            “Atticus, đa cảm thì cũng tốt thôi, cậu là người đàn ông dễ dãi, nhưng cậu có một đứa con gái phải nghĩ đến. Một đứa con gái đang lớn”.
                            “Đó là điều em đang nghĩ đến”.
                            “Và đừng có lẩn tránh nó. Sớm muộn gì cậu cũng phải đối mặt với nó và tốt nhất là tối nay. Bây giờ chúng ta không cần bà ấy nữa”.
                            Giộng bố Atticus ôn tồn, “Alexandra, Calpurnia sẽ không rời khỏi nhà này cho đến khi bà ấy muốn thế. Chị có thể nghĩ khác, nhưng em không thể xoay xở được nếu như không có bà ấy trong những năm tháng này. Bà ấy là thành viên trung thành của gia đình này và đơn giản là chị phải chấp nhận mọi thứ như hiện nay. Với lại, chị à, em không muốn chị mệt óc vì gia đình em... Chị không có lý do gì phải làm điều đó. Tụi em vẫn rất cần Calpurnia như từ trước tới nay”.
                            “Nhưng Atticus...”
                            “Vả lại em không nghĩ bọn trẻ đau khổ vì việc bà ấy nuôi dạy chúng. Nếu có thể nói thì bà ấy nghiêm khắc với chúng theo một số cách nào đó hơn cả một bà mẹ... Bà ấy không bao giờ ngại trừng phạt chúng vì bất cứ chuyện gì, bà ấy không bao giờ nuông chiều chúng theo kiểu hầu hết các bà vú da màu vẫn làm. Bà cố nuôi dạy chúng theo lòng tin của bà, và lòng tin của Cal khá tốt... và còn một điều nữa, bọn trẻ yêu bà ấy”.
                            Tôi thở phào. Đó không phải là tôi, họ đang nói về Cal. Nhẹ nhõm, tôi bước vào phòng khách. Bố Atticus quay lại với tờ báo và Alexandra trở về với việc thêu thùa của bác. Pum, pum, pum, kim của bác làm xô lệch vòng căng vải. Bác ngừng tay, và kéo vải chặt hơn: pum, pum, pum. Bác bực bội.
                            Jem đứng dậy và bước nhẹ qua tấm thảm. Anh ra dấu bảo tôi theo sau. Anh dẫn tôi vào phòng anh và đóng cửa lại. Khuôn mặt anh nghiêm trang.
                            “Họ vừa cãi nhau, Scout”.
                            Những ngày này Jem và tôi gây nhau thường xuyên, nhưng tôi chưa bao giờ nghe hoặc thấy ai cãi nhau với bố Atticus. Đó không phải là cảnh dễ chịu.
                            “Scout, cố đừng làm trái ý bác, nghe không?”
                            Những nhận xét của bố Atticus vẫn còn đang day dứt, làm tôi quên đi lời thỉnh cầu trong câu hỏi của Jem. Người tôi lại sởn da gà, “Anh đang cố bảo em phải làm gì đó hả?”
                            “Không, chỉ là... hiện bố có quá nhiều chuyện bận tâm, chưa kể chuyện tụi mình còn quấy bố nữa”.
                            “Như chuyện gì?” Bố Atticus không có vẻ có điều gì bận tâm cả.
                            “Vụ Tom Robinson này đã khiến bố lo muốn chết rồi...”
                            Tôi nói bố Atticus chẳng lo về bất cứ chuyện gì cả. Ngoài ra vụ án này chẳng gây phiền cho chúng tôi trừ mỗi tuần khoảng một lần và nó không kéo dài.
                            “Đó là bởi vì em không để tâm đến điều gì lâu” Jem nói. “Với người lớn thì khác, tụi mình...”
                            Vẻ người lớn đáng ghét của anh hồi gần đây là không thể chịu được. Anh không muốn làm bất cứ điều gì ngoài việc đọc và bỏ đi một mình. Bất cứ điều gì đọc được anh vẫn truyền đạt cho tôi, nhưng có khác ở chỗ: trước đó, bởi vì anh nghĩ tôi thích nó; bây giờ anh làm vậy để mở mang kiến thức và trí tuệ cho tôi.
                            “Quỷ bắt anh đi, Jem! Anh tưởng anh là ai chứ?”
                            “Bây giờ anh nói thật đây, Scout, em mà làm phiền bác, anh sẽ... anh sẽ đét đít em”.
                            Điều đó làm tôi nổi điên. “Anh là đồ lường tịnh thối tha, em giết anh đó!” Anh ấy đang ngồi trên giường, và thật dễ để tóm mớ tóc trước trán anh và đấm một tay vào mồm anh. Anh đập tôi và tôi cố đấm một cú tay trái nữa, nhưng một quả đấm vào bụng đã khiến tôi ngã quay xuống sàn. Nó khiến tôi muốn tắc thở, nhưng thế không vấn đề gì vì tôi biết anh đang đánh, anh đang đánh tôi. Chúng tôi vẫn còn bình đẳng.
                            “Giờ anh cũng chẳng còn cao sang uy thế gì đâu, thấy chưa!” Tôi gào lên, tiếp tục lao vào anh. Anh vẫn ở trên giường và tôi không thể có được tư thế vững chắc, nên tôi dùng hết sức lực lao vào anh, đập, kéo, nhéo, móc. Cuộc chiến đấu bằng nắm đấm đã trở thành một cuộc đánh lộn ầm ĩ. Chúng tôi vẫn tiếp tục vật lộn khi bố Atticus tách chúng tôi ra.
                            “Thôi đi” ông nói. “Hai đứa đi ngủ ngay tức khắc”.
                            “Lêu lêu!” tôi kêu lên với Jem. Anh bị bắt đi ngủ vào giờ ngủ của tôi.
                            “Ai gây chuyện trước?” Bố Atticus hỏi, vẻ chịu đựng.
                            “Jem đó. Anh ấy cố bảo con phải làm gì. Giờ con đâu cần phải nghe lời anh ấy, đúng không?”
                            Bố Atticus mỉm cười. “Bây giờ chúng ta tạm giải quyết như vậy: con nghe lời Jem bất cứ khi nào anh ấy có thể khiến con nghe lời. Được không?”
                            Bác Alexandra xuất hiện nhưng im lặng, và khi bác đi ra hành lang với bố Atticus, tôi nghe bác nói, “... chỉ là một trong nhiều việc chị đã nói với cậu” một cụm từ có tác dụng liên kết chúng tôi lại.
                            Phòng của chúng tôi tiếp giáp nhau; khi tôi đóng cửa thông giữa hai phòng, Jem nói, “Ngủ ngon, Scout”.
                            “Ngủ ngon” tôi lầm bầm, lần mò băng qua phòng để bật đèn lên. Khi đi ngang qua giường tôi giẫm phải một cái gì ấm, co dãn, và hơi trơn. Nó không giống hẳn như cao su cứng, và tôi có cảm giác nó là vật sống. Tôi cũng nghe nó di chuyển.
                            Tôi bật đèn lên và nhìn xuống chỗ sàn cạnh giường. Vật tôi giẫm phải đã biến mất. Tôi đập cửa phòng Jem.
                            “Cái gì?” Anh nói.
                            “Con rắn rờ thấy làm sao?”
                            “Kiểu ram ráp. Lạnh. Trơn. Chi vậy?”
                            “Chắc có một con dưới gầm giường em. Anh vô xem thử được không?”
                            “Em có giỡn không đó?” Jem mở cửa. Anh đã mặc quần ngủ. Tôi nhận thấy, không khỏi khoái chí, dấu vết nắm đấm của tôi vẫn còn trên miệng anh. Khi anh hiểu ra tôi nói thật tình, anh nói, “Nếu em nghĩ anh sẽ dí cái mặt vô một con rắn thì em lầm to rồi đó. Chờ anh một chút”.
                            Anh xuống bếp đem lên một cây chổi. “Tốt nhất là em leo lên giường đi” anh nói.
                            “Bộ anh nghĩ có con rắn thiệt hả?” Tôi hỏi. Đây là một sự kiện. Những ngôi nhà của chúng tôi ở đây không có tầng hầm; chúng được xây trên những khối đá cao hơn mặt đất vài tấc, việc loài bò sát chui vào không phải là không có nhưng không phải là chuyện thường thấy. Cái cớ để uống một ly rượu mạnh nguyên chất mỗi sáng của cô Rachel Haverford là do cô không bao giờ thắng được nỗi sợ hãi của việc tìm thấy một con rắn chuông cuộn mình trong tủ phòng ngủ của cô, trên mớ quần áo giặt của cô, khi cô treo áo khoác ngoài lên.
                            Jem quét thử một phát dưới gầm giường. Tôi nhìn qua chân xem có con rắn nào bò ra không. Không hề. Jem quét sâu hơn.
                            “Bộ rắn biết kêu hả?”
                            “Nó không phải là rắn” Jem nói. “Là ai đó”.
                            Bất ngờ một chiếc túi nâu bẩn thỉu thò ra dưới gầm giường. Jem giơ cây chổi lên và suýt đập trúng đầu của Dill khi nó ló ra.
                            “Chúa lòng lành” giọng Jem đầy tôn kính.
                            Chúng tôi nhìn Dill từ từ chui ra. Nó đã bự hơn. Nó đứng lên, thả lỏng vai, xoay cổ chân, chà xát gáy. Sau khi máu huyết lưu thông đều lại, cậu ta nói, “Xin chào”.
                            Jem kêu Chúa lần nữa. Tôi không nói nên lời.
                            “Tao gần chết rồi” Dill nói. “Có gì ăn không?”
                            Như trong cơn mơ, tôi xuống nhà bếp. Tôi mang lên cho nó ít sữa và nửa bịch bánh ngũ cốc còn lại sau bữa tối. Dill ăn ngấu nghiến, nhai bằng răng cửa, theo thói quen của nó.
                            Cuối cùng tôi cũng nói thành tiếng được. “Mày đến đây bằng cách nào?”
                            Theo một lộ trình vòng vo. Tỉnh lại nhờ thức ăn, Dill kể lại câu chuyện: sau khi bị bố dượng buộc bằng dây xích và bị bỏ cho đến chết trong tầng hầm (ở Meridian có những tầng hầm), ông ta không thích cậu ấy, và được bí mật giữ cho cầm hơi bằng những hạt đậu sống của một bác nông dân, người đi ngang qua nghe tiếng cậu khóc xin giúp đỡ (người đàn ông tốt bụng này đã nhét từng quả đậu qua lỗ thông gió), Dill tự giải thoát bằng cách kéo bật sợi xích khỏi tường. Vẫn mang cùm ở cổ tay, nó lang thang hai dặm ra khỏi Meridian, phát hiện ra ở đó đang có một cuộc triển lãm thú vật nho nhỏ và lập tức được thuê tắm rửa cho lạc đà. Nó đi theo cuộc triển lãm khắp Mississippi cho đến khi trực giác không nhầm lẫn về phương hướng mách bảo nó rằng nó đang ở hạt Abbott, Alabama, và bên kia sông là Maycomb. Nó đã đi bộ quãng đường còn lại.
                            “Sao cậu đến đây được?” Jem hỏi.
                            Nó đã lấy ba mươi đô la từ ví của mẹ nó, đi chuyến xe chín giờ khởi hành từ Meridian và xuống ga Maycomb. Nó đã đi bộ mười hoặc mười một dặm trong số mười bốn dặm đến Maycomb, men theo những bụi cây tránh khỏi xa lộ vì sợ các giới chức đang truy tìm nó, và đã vượt quãng đường còn lại bằng cách leo lên bửng sau của một chiếc xe chở bông vải. Nó đã nằm dưới gầm giường độ chừng hai tiếng; nó nghe tiếng tụi tôi trong phòng ăn, và tiếng thìa chạm vào đĩa khiến nó gần phát điên. Nó tưởng như Jem và tôi sẽ chẳng bao giờ đi ngủ; nó đã nghĩ đến việc bò ra và giúp tôi đánh Jem, vì Jem đã cao hơn nhiều, nhưng nó biết ông Finch sẽ sớm can thiệp thôi, vì vậy nó nghĩ tốt nhất là cứ nằm ở chỗ cũ. Nó đã kiệt sức, bẩn đến khó tin, và đã về tới nhà.
                            “Không được cho ai biết cậu ở đây” Jem nói. “Mình sẽ biết họ có truy tìm cậu không...”
                            “Tao biết người ta vẫn còn lục soát mọi buổi chiếu phim ở Meridian”. Dill nhe răng cười.
                            “Cậu phải cho mẹ cậu biết cậu đang ở đâu” Jem nói. “Cậu phải cho cậu biết cậu đang ở đây...”
                            Đôi mắt Dill nhìn Jem nhấp nháy, Jem nhìn xuống sàn. Rồi anh đứng dậy, và phá vỡ quy ước còn lại của thời thơ ấu của bọn tôi. Anh ra khỏi phòng và đi dọc hành lang. “Bố Atticus,” anh gọi từ xa, “bố vào đây một lát, được không?”
                            Bên dưới lớp bụi bẩn nhễ nhại mồ hôi, khuôn mặt của Dill chuyển sang trắng nhợt. Tôi cảm thấy muốn khóc. Bố Atticus đã đứng ở ngưỡng cửa.
                            Ông bước vào giữa phòng, hai tay trong túi, nhìn xuống Dill.
                            Cuối cùng tôi cũng lên tiếng được, “Không sao đâu, Dill. Chừng nào bố muốn mày biết gì đó, bố sẽ nói cho mày nghe”.
                            Dill nhìn tôi. “Ý tao là không sao” tôi nói tiếp. “Mày biết là bố sẽ không làm khó mày đâu, mày biết là mày đâu phải sợ bố Atticus mà”.
                            “Tao không sợ...” Dill lầm bầm.
                            “Chỉ đói thôi, ta chắc như vậy”. Giọng bố Atticus vui vẻ tỉnh táo như thường lệ. “Scout, mình có thể làm tốt hơn một bịch bánh ngũ cốc, đúng không? Con cho anh chàng này ăn no và khi bố trở lại chúng ta sẽ tính coi mình có thể xem xét chuyện gì”.
                            “Ông Finch, đừng nói với cô Rachel, đừng bắt cháu phải quay lại, cháu xin ông! Cháu sẽ bỏ trốn mất...!”
                            “Ha, con trai” bố Atticus nói. “Chẳng ai định bắt cháu phải đi đâu ngoài việc đi ngủ sớm. Ta sẽ chỉ qua nói với cô Rachel là cháu đang ở đây và hỏi xin cô cho cháu ở lại đây với chúng ta - cháu muốn vậy, đúng không? Và vì Chúa hãy trả đất về lại với đất, chuyện xói mòn đất đã đủ tồi tệ rồi”.
                            Dill nhìn theo bóng bố tôi khuất hẳn.
                            “Ông đang cố pha trò” tôi nói. “Ý ông là đi tắm đi. Thấy chưa, tao đã nói là ông không gây khó cho mày đâu mà”.
                            Jem đứng trong góc phòng, trông như một kẻ phản bội. “Dill, tớ phải cho bố tớ biết” anh nói. “Cậu không thể vượt ba trăm dặm mà mẹ cậu không biết được”.
                            Chúng tôi để anh lại đó mà không nói một lời.
                            Dill ăn, và ăn, và ăn. Nó chẳng ăn gì từ tối hôm qua. Nó đã tiêu hết số tiền nó có để mua vé, lên xe lửa như nó đã làm nhiều lần, tỉnh bơ nói chuyện với người soát vé, mà Dill vốn là một hình ảnh quên thuộc, nhưng ông ta không có đủ can đảm viện dẫn đến luật lệ về việc trẻ em đi xa một mình: nếu bạn mất tiền người soát vé sẽ cho bạn mượn đủ tiền và ba bạn sẽ trả lại cho ông ta vào cuối chặng đường.
                            Dill đã ăn hết thức ăn còn thừa và đang ăn đến lon thịt lợn và đậu trong tủ thì tiếng kêu Do-oo- Je-sus của cô Rachel vang lên ngoài tiền sảnh. Nó run lên như một con thỏ.
                            Nó can đảm chịu đựng câu Cứ Chờ Coi Ta Đưa Cháu Về, Người Nhà Cháu Lo Lắng Đến Phát Điên của cô ấy, hoàn toàn bình tĩnh khi nghe câu Toàn Bộ Tính Chất Của Dòng Họ Harris Trong Cháu Hiện Ra Rồi, mỉm cười trước câu Ta Cho Là Cháu Có Thể Ở Lại Đây Một Đêm, và đáp lại cái ôm mà sau cùng cô ấy cũng dành cho nó.
                            Bố Atticus đẩy mắt kính lên trán và chà sát mặt.
                            “Bố cháu mệt rồi” bác Alexandra nói, có vẻ đó là lời đầu tiên của bác ấy trong mấy giờ qua. Bác đã ở đó, nhưng tôi cho rằng phần lớn thời gian bác đớ người không biết nói gì. “Giờ thì các cháu phải đi ngủ”.
                            Chúng tôi để họ lại trong phòng ăn. Bố Atticus vẫn chà mặt ông. “Từ cưỡng hiếp đến nổi loạn rồi bỏ trốn” tụi tôi nghe ông cười khùng khục. “Tôi tự hỏi hai tiếng nữa sẽ có chuyện gì đây”.
                            Vì mọi việc có vẻ tiến triển tốt, Dill và tôi quyết định phải lịch sự với Jem. Ngoài ra Dill phải ngủ với anh ấy do đó chúng tôi cũng nên ăn nó lễ độ với anh ấy.
                            Tôi mặc đồ ngủ vào, đọc sách một lát và thấy mình không mở mắt nổi nữa. Dill và Jem đã im lặng; khi tôi tắt đèn đọc sách thì không còn một vệt sáng nào bên dưới cánh cửa sang phòng Jem.
                            Hẳn tôi đã ngủ rất lâu, vì khi tôi bị lay dậy căn phòng đã lờ mờ sáng ánh trăng đang lặn.
                            “Dịch sang một bên, Scout”.
                            “Anh ấy nghĩ phải làm vậy” tôi lẩm bẩm. “Đừng bực anh ấy”.
                            Dill bò lên giường cạnh tôi. “Tao không giận,” nó nói, “tao chỉ muốn ngủ với mày. Mày thức rồi hả?”
                            Lúc này tôi đã tỉnh, nhưng quá lười biếng. “Sao mày làm vậy?”
                            Không trả lời. “Tao hỏi sao mày bỏ trốn? Ông ta thực tình ghét mày như mày nói sao?”
                            “Không...”
                            “Bố con mày không đóng thuyền như viết trong thư sao?”
                            “Ông ta chỉ nói tụi tao sẽ đóng. Bọn tao có đóng gì đâu”.
                            Tôi chống khuỷu tay nhổm người lên, nhìn mặt Dill. “Đó không phải là lý do để bỏ trốn. Đến nửa số lần là người ta không có thời gian để làm những gì họ đã nói họ sẽ làm...”
                            “Không phải vậy, ông ta... họ chỉ không quan tâm đến tao”.
                            Đó là lý do bỏ trốn kỳ cục nhất mà tôi từng nghe. “Nghĩa là sao?”
                            “Họ đi suốt, và thậm chí khi ở nhà, họ cũng rút vào phòng với nhau suốt”.
                            “Họ làm gì trong đó?”
                            “Chẳng làm gì, chỉ ngồi đọc sách... Nhưng họ không muốn có mặt tao”.
                            Tôi đẩy chiếc gối tựa lên đầu giường và ngồi dậy. “Mày biết gì không? Tao đang tính bỏ trốn tối nay bởi vì tất cả họ ở đây. Mày đâu muốn học lúc nào cũng quanh quẩn bên mày, Dill...”
                            Dill thở một hơi đầy kiên nhẫn, gần như thở dài.
                            “... Chúc ngủ ngon, bố Atticus đi cả ngày và đôi khi đến nửa buổi tối và ở lại trong cơ quan lập pháp và tao không biết cái gì... Mày đâu muốn họ dòm ngó mày suốt ngày, Dill, mày không thể làm bất cứ điều gì nếu có họ”.
                            “Không phải vậy”.
                            Khi Dill giải thích, tôi thấy mình đang tự hỏi cuộc sống sẽ ra sao nếu Jem khác đi, thậm chí, khác xa con người anh hiện nay, tôi sẽ làm gì nếu bố Atticus không cảm thấy cần sự có mặt, giúp đỡ và lời khuyên của tôi. Ô, ông ấy không thể ổn thỏa một ngày mà không có tôi. Thậm chí Calpurnia cũng không thể xoay xở, khi có mặt tôi. Họ cần tôi.
                            “Dill, mày không nói hết với tao... Bố mẹ mày không xoay xở được nếu không có mày. Có điều họ chỉ ích kỷ với mày thôi. Để tao nói cho mày biết phải làm gì với chuyện đó...”
                            Giọng của Dill tiếp tục đều đặn trong bóng tôi, “Vấn đề là, điều tao muốn nói là... Họ sống hòa thuận với nhau nhiều hơn nếu không có tao, tao không thể giúp họ bất cứ điều gì. Họ không ích kỷ với tao. Họ mua cho tao mọi thứ tao muốn, nhưng cái kiểu của họ là giờ-con-đã-có-nó-hãy-chơi-với-nó-đi. Mày có một căn phòng đầy nhóc các thứ. Mẹ-đã-mua-cho-con-cuốn-sách-đó-vậy-lo-đọc-nó-đi”. Dill cố gằn giọng. “Mày không phải con trai. Con trai ra ngoài và chơi bóng chày với những thằng nhóc khác, nó không quẩn quanh trong nhà làm rộn bố mẹ nó”.
                            Giọng Dill trở lại bình thường. “Ô, họ không ích kỷ. Họ hôn mày, ôm chặt mày, chúc mày ngủ ngon, chúc buổi sáng tốt lành và tạm biệt rồi nói họ yêu mày... Scout, kiếm cho mình một em bé đi”.
                            “Ở đâu?”
                            Dill nghe nói có một người đàn ông với chiếc xuồng chuyên chèo thuyền tới một hòn đảo đầy sương mù nơi tất cả em bé ở đó, mày có thể đặt hàng một đứa...
                            “Người ta nói dóc đó. Bác Alexandra nói Chúa thả chúng xuống ống khói. Ít nhất tao nghĩ là bác ấy nói thế”. Chỉ trong vụ này là cách nói của bác ấy không rõ ràng.
                            “Không phải vậy. Mày có em bé từ người khác. Nhưng đã có cái ông đó rồi.. Ông ta có những em bé đang chờ thức dậy, ông ta thổi sự sống vào chúng...”
                            Dill lại im. Những điều tốt đẹp đang trôi nổi trong cái đầu mơ mộng của nó. Nó có thể đọc hai cuốn sách so với một cuốn của tôi, nhưng nó thích ma thuật trong những bịa đặt của nó hơn. Nó có thể cộng và trừ nhanh hơn tia chớp, nhưng nó thích thế giới mờ ảo của nó hơn, một thế giới các em bé ngủ, chờ được người ta nhận lấy như những bông hoa huệ tây buổi sáng. Nó chậm rãi nói chuyện với chính mình để thiếp đi và đưa tôi theo cùng, nhưng trong cái tĩnh lặng của hòn đảo mờ sương của nó đã hiện ra hình ảnh mờ nhạt của ngôi nhà xám với những cánh cửa nâu ảm đạm.
                            “Dill?”
                            “Ưmmmmm?”
                            “Tại sao mày nghĩ Boo Radley không bao giờ bỏ trốn?”
                            Dill thở một hơi dài và quay khỏi tôi.
                            “Có lẽ ông ta không có chỗ nào để trốn đi...”

                            Comment


                            • #15
                              Chương 15




                              Sau nhiều cú điện thoại, rồi biết bao thỉnh cầu nhân danh bị cáo, và sau khí có một lá thư tha thứ dài từ mẹ nó, Dill mới được phép ở lại. Chúng tôi có một tuần thư thái ở bên nhau. Sau đó, một chút, có vẻ vậy. Một cơn ác mộng ập xuống chúng tôi.
                              Bắt đầu bằng một tối sau bữa ăn. Dill đã sang, bác Alexandra ngồi trên ghế trong một góc, bố Atticus ngồi ghế của ông. Jem và tôi ngồi đọc dưới sàn nhà. Đó là một tuần bình yên: tôi đã quan tâm đến bác; Jem đã hết thích chơi cái nhà trên cây, nhưng anh giúp tôi và Dill làm một cái thang dây mới cho nó. Dill đã nghĩ ra một kế hoạch chu đáo để dụ cho Boo Radley ra ngoài mà chúng tôi không bị mất mát cái gì (rắc một vệt giọt nước chanh từ cửa sau đến sân trước và ông ta sẽ theo nó, giống như một con kiến). Có tiếng gõ cửa trước và Jem ra mở và báo rằng có ông Heck Tate tới.
                              “Mời ông ấy vào” bố Atticus nói.
                              “Con mời rồi. Còn mấy người nữa ngoài sân, họ muốn bố ra”.
                              Ở Maycomb, người lớn đứng ngoài sân chỉ với hai lý do: chết và chính trị. Tôi tự hỏi ai đã chết, Jem và tôi đi ra cửa trước, nhưng bố Atticus gọi, “Quay vào trong nhà”.
                              Jem tắt đèn phòng khách và gí mũi vào lưới cửa sổ. Bác Alexandra phản đối. “Chút xíu thôi, bác, để tụi cháu xem đó là ai” anh nói.
                              Dill và tôi chiếm một cửa sổ khác. Một đám đông đang vây quanh bố Atticus. Có vẻ như tất cả đang nói cùng một lúc.
                              “... Chuyển hắn đến nhà tù hạt vào ngày mai” ông Tate nói. “Tôi không muốn có rắc rối nào, nhưng tôi không thể đảm bảo ở đó sẽ không có bất cứ...”
                              “Đừng ngốc thế, Heck” bố Atticus nói. “Đây là Maycomb”.
                              “... đã nói tôi chỉ thấy khó chịu thôi”.
                              “Heck, chúng ta đã được tạm hoãn vụ này chỉ để chắc rằng không có chuyện gì phải khó chịu. Hôm nay thứ Bảy,” bố Atticus nói, “phiên tòa có lẽ diễn ra vào thứ Hai. Anh có thể giữ anh ta một đêm, đúng không? Tôi không nghĩ có bất cứ ai ở Maycomb này bực bội vì tôi có một thân chủ, những lúc gian khó thế này”.
                              Có tiếng rì rầm vui sướng bất ngờ tắt ngấm khi ông Link Deas nói, “Không ai quanh đây muốn làm bất cứ điều gì bậy bạ cả, tôi chỉ ngại người ở Old Sarum... Anh không thể có vụ... gọi là gì vậy, Heck?”
                              “Thay đổi nơi xử” ông Tate nói. “Chuyện đó không có cơ sở lắm đâu, đúng không?”
                              Bố Atticus nói điều gì đó nghe không rõ. Tôi quay sang Jem, anh ra dấu cho tôi im lặng.
                              “... Vả lại,” bố Atticus nói, “anh không sợ đám đông đó, phải không?”
                              “... Biết họ làm thế nào khi đã xỉn”.
                              “Họ thường không nhậu vào Chủ nhật, họ đi nhà thờ cả ngày...” bố Atticus nói.
                              “Dù sao thì đây cũng là một dịp đặc biệt...” Ai đó nói.
                              Họ bàn tán rì rầm cho đến khi bác Alexandra bảo Jem nếu không bật đèn phòng khách lên anh sẽ khiến người ta chê cười cả nhà. Jem không nghe bác nói.
                              “... thứ nhất không hiểu tại sao anh lại dính vào chuyện này” ông Link Deas nói. “Vì vụ này anh đã mất mọi thứ, Atticus. Tôi nói thực là mọi thứ”.
                              “Ông nghĩ thế thật à?”
                              Đây là câu hỏi nguy hiểm của bố Atticus. “Con có thực sự nghĩ con muốn đi nước đó không, Scout?” Bam, bam, bam và tôi bị ăn sạch hết các quân cờ. “Con có thực sự nghĩ điều đó không, con trai? Vậy đọc cái này đi”. Thế là Jem sẽ phải vật lộn suốt cả buổi tối đó để đọc cà diễn văn của Henry W. Grandy.
                              “Link, chàng trai đó có thể lên ghế điện, nhưng anh ta sẽ không lên cho đến khi sự thật được phơi bày”. Giọng của bố Atticus đều đều. “Và ông biết sự thật là gì mà”.
                              Giữa nhóm người đó dấy lên tiếng rì rầm, làm tình hình xấu đi nhiều khi bố Atticus lui tới bậc thềm và đám người sấn lại gần ông hơn.
                              Bất chợt Jem hét toáng lên, “Bố Atticus, có điện thoại!”
                              Đám người đó hơi giật mình và tản ra; họ là những người chúng tôi gặp hàng ngày: thương nhân, nông dân trong thị trấn; bác sĩ Reynolds cũng ở đó; cả ông Avery nữa.
                              “Ừ, trả lời điện thoại đi, con trai” bố Atticus gọi.
                              Họ bật cười ồ. Khi bố Atticus bật đèn phòng khách, ông thấy Jem đang ở ngay cửa sổ, tái nhợt trừ vết đỏ của cửa lưới in trên mũi anh.
                              “Sao tụi con ngồi trong bóng tối vậy?” Ông hỏi.
                              Jem nhìn bố đi đến chiếc ghế của ông và cầm tờ báo buổi chiều lên. Đôi khi tôi nghĩ bố Atticus đã bình tĩnh đánh giá mọi cuộc khủng hoảng của cuộc đời ông đằng sau mấy tờ The Mobile Register, The Birmingham NewsThe Montgomery Advertiser.
                              “Họ đang rầy rà bố, phải không?” Jem đi đến bên ông. “Họ muốn bắt bí bố, đúng không?”
                              Bố Atticus hạ tờ báo xuống nhìn Jem. “Con đã đọc cái gì vậy?” Ông hỏi. Rồi ông nói nhẹ nhàng. “Không, con trai, những người đó là bạn của chúng ta”.
                              “Đó không phải là một... một băng đảng hả?” Jem liếc nhìn bố.
                              Bố Atticus cố nén một nụ cười nhưng không được. “Không, chúng ta không có những băng đảng và thứ nhảm nhí đó ở Maycomb. Bố chưa từng nghe nói ở Maycomb có một băng đảng”.
                              “Có lần băng Ku Klux truy đuổi mấy người Thiên chúa giáo”.
                              “Bố cũng chưa từng nghe có bất cứ người Thiên chúa giáo nào ở Maycomb,” bố Atticus nói, “con đã nhầm chuyện đó với một điều gì khác. Hồi khoảng năm 1920 có một đảng Klan, nhưng đó là một tổ chức chính trị hơn là bất cứ gì khác. Ngoài ta họ không thể tìm ra bất cứ ai để dọa. Có đêm họ tụ tập ở cạnh nhà ông Sam Levy, nhưng Sam chỉ đứng ở hiên nhà ông và bảo họ mọi thứ đã đến chỗ bi đát, ông đã bán cho họ chính những tấm vải trên lưng họ. Sam đã khiến họ quá xấu hổ về bản thân họ đến họ đã bỏ đi”.
                              Dòng họ Levy đã hội đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành Những Người Tốt; họ làm việc tốt hết sức mình với ý thức mà họ có được, và họ đã sống trên cùng một khu đất ở Maycomb trong năm thế hệ.
                              “Đảng Ku Klux đã biến mất” bố Atticus nói. “Nó sẽ không bao giờ trở lại”.
                              Tôi đi về nhà cùng Dill và trở lại đúng lúc nghe được bố Atticus nói với bác, “... Vì lợi ích của phụ nữ miền Nam cũng như bất cứ ai, nhưng không vì bảo tồn sự giả tạo lịch sự mà làm tổn hại đến mạng sống con người” một tuyên bố vốn khiến tôi e rằng họ lại cãi nhau nữa.
                              Tôi đi tìm Jem và thấy anh trong phòng, nằm trên giường chìm sâu vào suy tư. “Họ lại cãi nhau nữa hả?” Tôi hỏi.
                              “Đại khái vậy. Bác ấy sẽ không để bố yên với vụ Tom Robinson đâu. Bác ấy gần như nói rằng bố Atticus đã làm nhục cả dòng họ. Scout... Anh sợ”.
                              “Sợ cái gì?”
                              “Sợ cho bố Atticus. Ai đó có thể làm tổn thương bố”. Jem thích giữ vẻ bí ẩn; trước những câu hỏi của tôi anh chỉ nói là đi chỗ khác và để anh yên.
                              Ngày hôm sau là Chủ nhật. Trong lúc nghỉ giữa buổi học giáo lý và lễ nhà thờ khi giáo đoàn nghỉ giải lao tôi thấy bố Atticus đứng trong sân với một nhóm người khác. Ông Heck Tate cũng có mặt, và tôi tự hỏi phải chăng ông ta đã trở nên sùng đạo. Ông ta chưa bao giờ đến nhà thờ. Cả ông Underwood cũng có mặt ở đó. Ông Underwood không chịu nổi bất cứ tổ chức nào trừ tòa báo The Maycomb Tribune, mà ông là chủ, biên tập viên, kiêm luôn thợ in. Suốt ngày ông ở bên dàn máy sắp chữ, thỉnh thoảng ông lại rót cho mình một ly từ bình rượu dâu nằm thường trực gần đó. Ông hiếm khi đi thu lượm tin tức; người ta đưa nó đến cho ông. Người ta nói rằng ông hình thành mọi số báo The Maycomb Tribune từ trong đầu ông và viết nó ra với dàn máy sắp chữ. Đây là điều có thể tin được. Hẳn có một thứ gì đó đã đến lôi ông Underwood ra.
                              Tôi thấy bố Atticus bước đến cửa, và nói rằng họ đã chuyển Tom Robinson đến nhà tù Maycomb. Ông cũng nói, với chính ông hơn là với tôi, rằng nếu họ giữ anh ta ở đó ngay từ đầu thì đã không có chuyện nhộn nhạo nào. Tôi nhìn ông kiếm chỗ ngồi ở hàng thứ ba từ trên xuống, và nghe ông lầm bầm, “Chúa ở cùng anh chị em” chậm hơn tất cả chúng tôi. Ông không bao giờ ngồi cùng với bác Alexandra, Jem và tôi. Ông thích ngồi một mình trong nhà thờ.
                              Sự thanh bình giả tạo vốn phổ biến vào những ngày Chủ nhật càng trở nên khó chịu hơn với sự có mặt của bác Alexandra. Bố Atticus sẽ lánh thẳng về văn phòng ông ngay sau bữa ăn, ở đó nếu thỉnh thoảng nhìn vào, chúng tôi sẽ thấy ông ngồi dựa lưng vào chiếc ghế xoay và đọc. Bác Alexandra tự cho phép mình chợp mắt hai tiếng và cấm không cho chúng tôi gây bất cứ tiếng động nào trong sân, hàng xóm đang nghỉ ngơi. Jem trong cái tuổi chín chắn của anh đã ôm vào phòng mình một đống tạp chí bóng bầu dục. Vì vậy Dill và tôi dành những ngày Chủ nhật của mình bò quanh tronh bãi Hoẵng sau nhà.
                              Việc săn bắn vào ngày Chủ nhật bị cấm, vì vậy Dill và tôi đã quả bóng của Jem quanh cánh đồng một lát, một việc chẳng thú vị gì. Dill hỏi tôi liệu tôi có thích chọc ghẹo Boo Radley không. Tôi nói tôi nghĩ chẳng tốt đẹp gì khi quấy rầy ông ta, và dành buổi chiều còn lại để kể cho Dill nghe những sự việc xảy ra hồi mùa đông năm ngoái. Nó bị ấn tượng mạnh.
                              Chúng tôi chia tay vào giờ ăn tối, và sau bữa ăn khi Jem và tôi đang bắt đầu một buổi tối như thường lệ thì bố Atticus làm một việc khiến chúng tôi chú ý: ông bước vào phòng khách mang theo sợi dây điện dài. Có một bóng đèn ở đầu dây.
                              “Bố sẽ ra ngoài một lát” ông nói. “Các con chắc đã ngủ khi bố về, vì vậy bây giờ bố sẽ chúc tụi con ngủ ngon trước”.
                              Nói xong, ông đội mũ và đi ra cửa sau.
                              “Bố đi lấy xe” Jem nói.
                              Bố chúng tôi có vài thói quen lập dị: một là ông không bao giờ ăn tráng miệng; một điều khác nữa là ông thích đi bộ. Theo trí nhớ của tôi, luôn luôn có một chiếc Chevrolet trong tình trạng cực tốt ở nhà xe, và bố Atticus chỉ dùng đến nó trong những chuyến đi xa vì công việc, nhưng ở Maycomb ông đi bộ tới văn phòng làm việc mỗi ngày bốn lần đi và về, tổng cộng khoảng hai dặm. Ông nói việc tập thể dục duy nhất của ông là đi bộ. Ở Maycomb, nếu một người đi dạo không có mục đích rõ rệt trong đầu, thì người ta tin rằng đầu óc của người đó không có khả năng nghĩ ra một mục đích rõ ràng.
                              Sau đó, tôi chúc bác và anh trai tôi ngủ ngon rồi chìm đắm vào một cuốn sách, khi đó tôi nghe Jem lục đục trong phòng anh. Những âm thanh trước khi ngủ của anh quá quen thuộc với tôi đến độ tôi gõ cửa phòng anh, “Sao anh chưa đi ngủ?”
                              “Anh sẽ xuống thị trấn một lát”. Anh đang thay quần.
                              “Chi vậy? Gần mười giờ rồi, Jem”.
                              Anh biết điều đó, nhưng anh vẫn đi như thường.
                              “Vậy em sẽ đi với anh. Nếu anh nói em đừng đi, thì em cũng cứ đi, nghe không?”
                              Jem thấy rằng anh phải đánh nhau với tôi để buộc tôi ở nhà, và tôi cho rằng anh nghĩ việc đánh nhau sẽ làm phiền bác, nên anh miễn cưỡng cho tôi đi theo.
                              Tôi mặc đồ thật nhanh. Chúng tôi chờ cho đến khi đèn của bác tắt, và chúng tôi đi thật nhẹ xuống những bậc thềm sau nhà. Tối nay không có trăng.
                              “Dill sẽ muốn đi đó” tôi thì thào.
                              “Thì nó cứ muốn” Jem rầu rĩ nói.
                              Chúng tôi phóng qua bức tường cạnh đường xe chạy, đi qua sân bên hông nhà cô Rachel đến cửa sổ phòng Dill. Jem huýt sáo. Khuôn mặt Dill xuất hiện ngay khung cửa lưới, biến mất, và năm phút sau cậu ta mở chốt cửa lưới và bò ra. Là một tay lão luyện, nó không nói gì cho đến khi chúng tôi ra đến vỉa hè. “Đi đâu?”
                              “Jem đi lòng vòng chơi” một tình trạng mà Calpurnia nói tất cả bọn con trai đều mắc phải ở tuổi anh.
                              “Tớ chỉ mới có cảm giác này,” Jem nói, “đúng cái cảm giác này”.
                              Chúng tôi đi ngang nhà bà Dubose, nó vắng vẻ và các cánh cửa đóng kín, những cây hoa trà của bà mọc chen lẫn cỏ dại. Còn tám ngôi nhà nữa mới tới góc phố bưu điện.
                              Cạnh Nam của quảng trường vắng hoe. Những bụi cây bách tán khổng lồ che phủ một góc đường, và chạy giữa chúng là một con đường sắt lấp lánh dưới ánh sáng đèn đường. Một ngọn đèn chiếu sáng trong nhà vệ sinh của hạt, thường thì phía đó của tòa án tối om om. Một vòng lớn hơn gồm các cửa hàng vây quanh quảng trường tòa án; những ngọn đèn sáng mờ mờ ở sâu bên trong những cửa hàng đó.
                              Văn phòng của bố Atticus nằm bên trong tòa án hồi ông bắt đầu hành nghề, nhưng sau vài năm ông chuyển đến một khu yên tĩnh hơn trong tòa nhà ngân hàng Maycomb. Khi quẹo ở góc quảng trường, chúng tôi thấy xe của ông đậu trước cửa ngân hàng. “Bố ở trong đó” Jem nói.
                              Nhưng ông không có ở đó. Muốn đến văn phòng ông phải đi qua một hành lang dài. Nhìn theo hành lang, chúng tôi thường thấy dòng Atticus Finch, Luật sư bằng những chữ nhỏ thanh tú nổi bật trên ánh sáng từ bên trong cánh cửa phòng ông. Lúc này nó tối thui.
                              Jem nhìn vào cửa ngân hàng cho chắc ăn. Anh xoay nắm cửa. Cửa đã khóa. “Mình đi tiếp. Chắc bố đến gặp ông Underwood”.
                              Ông Underwood không chỉ điều hành tòa soạn từ The Maycomb Tribune, ông còn sống trong đó. Đúng ra là ở tầng trên đó. Ông tường thuật tin tức tòa án và nhà tù đơn giản bằng cách nhìn qua cửa sổ trên lầu của mình. Ngôi nhà tòa soạn nằm ở góc Tây Bắc cửa quảng trường, và muốn tới đó chúng tôi phải đi qua nhà tù.
                              Nhà tù Maycomb là một trong những tòa nhà đáng ngán nhất và khủng khiếp nhất trong số các công sở của hạt. Bố Atticus nói có vẻ như nó do người bà con Joshua St. Clair thiết kế. Nó chắc chắn là ước mơ của ai đó. Hoàn toàn lạc điệu trong một thị trấn gồm những cửa hàng quay mặt ra quảng trường và những ngôi nhà mái dốc, nhà tù Maycomb là một trò đùa kiểu Gothic thu nhỏ với chiều ngang bằng một xà lim và cao bằng hai xà lim rồi có cả những lỗ châu mai nhỏ xíu và cột vòm chống đỡ tường. Sự tưởng tượng của nó được tăng thêm bởi mặt tiền xây bằng gạch đỏ và những thanh chắn bằng thép dày tại các cửa sổ kiểu nhà thờ. Nó không nằm trên một ngọn đồi trơ trụi, mà chen giữa Cửa hàng kim khí Tyndal và tòa soạn tờ The Maycomb Tribune. Nhà tù là câu chuyện đáng bàn duy nhất của Maycomb: những kẻ chê bai nói nó giống một nhà vệ sinh thời Victoria;những kẻ ủng hộ nói nó tạo cho thị trấn một vẻ nghiêm trang rõ rệt, và không một người lạ nào từng nghi ngờ chuyện nó chứa đầy bọn mọi đen.
                              Khi đi theo vỉa hè, chúng tôi thấy một ánh đèn lẻ loi sáng ở đằng xa. “Thật buồn cười,” Jem nói, “nhà tù không có đèn phía ngoài”.
                              “Nhìn như có đèn phía trên cánh cửa” Dill nói.
                              Một đoạn dây điện dài chui qua song sắt của cửa sổ xà lim tầng hai và thả xuống hông tòa nhà. Trong ánh sáng từ bóng đèn trần trụi ở đầu dây, bố Atticus đang ngồi dựa vào cửa trước. Ông ngồi trên một trong những chiếc văn phòng của ông, và ông đang đọc, không để ý đến những con thiêu thân bay lảng vảng trên đầu ông.
                              Tôi định chạy đến, nhưng Jem ngăn lại. “Đừng đến chỗ bố,” anh nói, “có thể bố không thích thế. Bố ổn cả, tụi mình về đi. Anh chỉ muốn biết bố ở đâu thôi”.
                              Khi chúng tôi đi tắt qua quảng trường thì có bốn chiếc xe hơi đầy bụi đường xuất hiện từ phía xa lộ Medirian, chạy chầm chậm thành một hàng. Chúng chạy vòng quảng trường, qua tòa nhà ngân hàng, và dừng lại trước nhà tù.
                              Không ai bước ra. Tôi thấy bố Atticus rời mắt khỏi tờ báo ngước nhìn lên. Ông gấp nó lại, cuộn nó một cách cẩn thận, đặt lên đùi, và đẩy mũ ngược ra sau đầu. Có vẻ ông đang đợi họ.
                              “Tới coi” Jem thì thào. Chúng tôi phóng qua quảng trường, băng qua đường, và núp ngay cửa siêu thị Jitney Jungle. Jem nhìn theo lề đường. “Tụi mình có thể đến gần hơn” anh nói. Chúng tôi chạy đến khung cửa của Cửa hàng kim khí Tyndal - đủ gần, mà vẫn kín đáo.
                              Từng người hoặc từng hai người một bước ra khỏi xe. Những cái bóng biến thành hình khối cụ thể khi ánh đèn cho thấy các hình dáng rõ ràng di chuyển về phía cửa nhà tù. Bố Atticus vẫn đứng chỗ cũ. Những người đàn ông đó ché khuất ông khỏi tầm mắt chúng tôi.
                              “Hắn ở trong đó hả, ông Finch?” Một người hỏi.
                              “Phải,” chúng tôi nghe bố Atticus trả lời, “anh ta ngủ. Đừng đánh thức anh ta”.
                              Nghe lời bố tôi, sự việc diễn ra sau đó là điều mà sau này tôi hiểu ra là một khía cạnh khôi hài đáng ngán của một tình huống không vui vẻ gì: những người đó nói chuyện gần như thì thào.
                              “Ông biết chúng tôi muốn gì mà” một người khác nói. “Tránh khỏi cái cửa đó đi, ông Finch”.
                              “Ông có thể quay lưng về nhà đi, Walter” bố Atticus nói một cách thoải mái, “Heck Tate đang ở quanh đâu đây”.
                              “Mặc xác ông ta” người khác đó nói. “Cả đám của Heck đã vào tuốt trong rừng và tới sáng họ mới về”.
                              “Thật ư? Sao lại thế?”
                              “Bọn họ đi săn dẽ giun [1] rồi” một câu trả lời ngắn gọn. “Ông chưa hề nghĩ về trò đó hả, ông Finch?”
                              “Từng nghĩ đến, nhưng không tin. Vậy,” giọng bố tôi vẫn đều đều, “điều đó làm thay đổi mọi việc, phải không?”
                              “Vậy đó” một giọng khác lên tiếng. Người nói là một bóng đen.
                              “Ông thực sự nghĩ thế à?”
                              Đây là lần thứ hai tôi nghe bố Atticus hỏi câu hỏi đó trong hai ngày, và điều đó nghĩa là người của ai đó sẽ phải nhảy dựng lên. Vụ này quá hay không thể bỏ lỡ. Tôi bỏ Jem và phóng thật nhanh đến chỗ bố Atticus.
                              Jem hét lên và cố túm tôi lại, nhưng tôi đã bỏ xa anh và Dill. Tôi chen lấn qua những thân thể hôi hám tối thui và ào vào vòng ánh sáng.
                              “Ch...ào bố Atticus!”
                              Tôi nghĩ ông sẽ ngạc nhiên thú vị, nhưng khuôn mặt ông giết chết niềm vui của tôi. Một vẻ sợ hãi hiện ra trong mắt ông, nhưng biến mất khi thấy Jem và Dill chen vào chỗ ánh đèn.
                              Có mùi Whisky lên men và mùi chuồng heo phảng phất, khi nhìn quanh tôi phát hiện ra rằng những người này toàn là những kẻ lạ hoắc. Họ không phải là người tôi đã thấy tối qua. Tôi hết sức lúng túng: tôi đã phóng một cách đắc thắng vào đám người mà tôi chưa từng gặp trước đây.
                              Bố Atticus đứng dậy khỏi ghế, nhưng ông di chuyển một cách chậm chạp, giống một ông già. Ông đặt tờ báo xuống một cách cẩn thận, sửa những nếp gấp của nó bằng những ngón tay chần chừ. Chúng hơi run.
                              “Về nhà đi, Jem” ông nói. “Dẫn Scout với Dill về”.
                              Chúng tôi đã quan với việc nhắc nhở, nhưng không phải lúc nào cũng vui vẻ nghe theo những chỉ thị của bố Atticus, nhưng theo kiểu anh ấy đứng thì Jem không nghĩ đến việc nhúc nhích.
                              “Bố bảo về nhà”.
                              Jem lắc đầu. Khi bố Atticus chống nạnh, Jem cũng chống nạnh, và khi họ đối mặt nhau tôi có thể thấy họ ít giống nhau: đôi mắt và mái tóc nâu mềm mại của Jem, khuôn mặt trái xoan và đôi tai ép sát của anh là của mẹ chúng tôi, tương phản kỳ lạ với mái tóc xám bạc và những đường nét cương nghị của bố Atticus, nhưng họ giống nhau theo kiểu nào đó. Sự thách thức lẫn nhau khiến họ giống nhau.
                              “Con trai, bố bảo về nhà”.
                              Jem lắc đầu.
                              “Tôi sẽ đưa cậu ta về nhà” một người đàn ông lực lưỡng nói, và thô bạo chộp lấy cổ áo Jem. Ông ta gần như nhấc hẳn Jem lên khỏi mặt đất.
                              “Ông không được đụng vào anh ấy!” Tôi lẹ làng đá người đó. Chỉ có chân trần, tôi ngạc nhiên khi thấy ông ta lui lại với vẻ đau đớn thật sự. Tôi định đá vào xương ống chân ông ta, nhưng lại nhắm quá cao.
                              “Thôi đi, Scout” bố Atticus đặt tay lên vai tôi. “Đừng đã người ta. Đừng...” Ông nói, khi tôi đang kiếm cớ bào chữa.
                              “Không ai được đối đãi với Jem kiểu đó” tôi nói.
                              “Được rồi, ông Finch, đưa chúng tránh khỏi chỗ này” ai đó gầm gừ. “Ông có mười lăm giây để đưa chúng khỏi chỗ này”.
                              Giữa nhóm người lạ này, bố Atticus cố làm cho Jem nghe lời ông. “Con không đi” là câu trả lời kiên quyết của anh trước những đe dọa, yêu cầu, và cuối cùng là câu, “Bố xin con, Jem, đưa tụi nó về nhà đi” của bố Atticus.
                              Tôi cảm thấy hơi mệt với chuyện này, nhưng cảm thấy Jem có những lý do của anh ấy để phản ứng như anh đã làm, trước viễn cảnh của anh một khi bố Atticus lôi được anh về nhà. Tôi nhìn quanh đám đông. Đó là một đêm hè, nhưng hầu hết những người này mặc quần áo bảo hộ lao động và áo sơ mi cài nút đến tận cổ. Tôi nghĩ những người này bị lạnh bẩm sinh, vì họ không xắn tay áo lên mà cài nút tới tận cổ tay. Một số đội mũ kéo sụp đến tận tai. Họ là những con người trông cau có, mắt ngái ngủ có vẻ không quen thức khuya. Tôi lại đảo mắt tìm một khuôn mặt quen thuộc, và ngay giữa đám người đứng thành vòng cung tôi tìm thấy một khuôn mặt như thế.
                              “Chào ông Cunningham”.
                              Có vẻ như người đó không nghe tiếng tôi.
                              “Chào ông Cunningham. Vụ tài sản thừa kế của ông tới đâu rồi?”
                              Những sự vụ pháp lý của ông Walter Cunningham tôi đã quá rành; bố Atticus có lần mô tả chúng rất kỹ. Người đàn ông to lớn này nhấp nháy mắt và móc ngón tay cái của ông ta và dây quai của bộ đồ bảo hộ lao động. Ông ta có vẻ không thoải mái; ông ta hắng giọng và nhìn chỗ khác. Khúc dạo đầu thân thiện của tôi đã thất bại.
                              Ông Cunningham không đội mũ, và nửa trán phía trên của ông ta trắng bệch tương phản với khuôn mặt rám nắng của ông, điều đó khiến tôi tin rằng ông ta hầu như ngày nào cũng đội mũ. Ông nhúc nhích bàn chân trong đôi giày lao động nặng nề.
                              “Ông không nhớ cháu hả, ông Cunningham? Cháu là Jean Louise Finch. Có một lần ông đã mang cho tụi cháu một mớ hồ đào, nhớ không?” Tôi bắt đầu cảm thấy sự vô ích mà người ta cảm thấy khi một người quen tình cờ không nhận ra họ.
                              “Cháu đi học cùng với Walter” tôi lại bắt đầu. “Nó là con trai của ông, đúng không? Đúng không, ông?”
                              Ông Cunningham miễn cưỡng gật đầu. Rốt cuộc là ông có biết tôi.
                              “Bạn ấy học chung với cháu,” tôi nói, “bạn ấy học khá. Bạn ấy tốt lắm,” tôi nói thêm, “một cậu trai thực sự tốt. Có lần tụi rủ bạn ấy về nhà ăn trưa. Có lẽ bạn ấy có nói với ông về cháu, có lần cháu đánh bạn ấy, nhưng bạn ấy vẫn thật thoải mái với chuyện đó. Nhờ ông cho cháu gửi lời chào bạn ấy, được không?”
                              Bố Atticus đã từng nói rằng lịch sự là nói với người khác về những gì họ quan tâm, chứ không nói về những gì mình quan tâm. Ông Cunningham không biểu lộ sự quan tâm đến con trai ông, vì vậy tôi nói về vụ hạn chế thừa kế của ông ấy một lần nữa trong nỗ lực cuối cùng để khiến ông ấy cảm thấy thoải mái.
                              “Những khoản hạn chế thừa kế thì thiệt tệ” tôi góp ý với ông ta, rồi tôi từ từ nhận ra rằng tôi đang nói chuyện với cả nhóm người đó. Tất cả đều nhìn tôi, một số người há hốc miệng. Bố Atticus đã thôi thúc giục Jem: họ đang đứng bên cạnh Dill. Sự chú ý của họ đã lên tới mức ngây cả người. Miệng bố Atticus thậm chí hơi há ra, một cử chỉ mà ông từng mô tả là thô lậu. Mắt chúng tôi chạm nhau và ông nhắm lại.
                              “Bố Atticus, con đang nói với ông Cunningham rằng vụ hạn chế thừa kế thiệt là tệ, và nhiều điều khác nữa, nhưng bố đã nói là đừng lo, đôi khi nó mất nhiều thời gian.. rằng...bố với ông ấy sẽ xoay xở vượt qua được...” Tôi từ từ ngừng nói, tự hỏi mình đã phạm phải sự ngu xuẩn lớn lao gì đây. Vụ hạn chế thừa kế có vẻ như rất phù hợp cho một cuộc nói chuyện ở phòng khách.
                              Tôi bắt đầu cảm thấy mồ hôi túa ra từ chân tóc, tôi có thể chịu đựng mọi thứ trừ chuyện một nhóm người cứ nhìn tôi chòng chọc. Họ đứng im hoàn toàn.
                              “Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
                              Bố Atticus chẳng nói gì. Tôi nhìn quanh và nhìn lên ông Cunningham, khuôn mặt của ông cũng không để lộ cảm xúc nào. Rồi ông làm một việc lạ kỳ. Ông ngồi xuống nắm hai vai tôi.
                              “Tôi sẽ nói với nó cô gửi lời chào, quý cô bé bỏng” ông nói.
                              Rồi ông đứng thẳng dậy, vẫy bàn tay to bè. “Chúng ta giải tán” ông gọi to. “Chúng ta đi thôi, các bạn”.
                              Như khi họ đến, từng người hoặc từng hai người lại chui vào những chiếc xe cũ nát của họ. Cửa đóng sầm lại, máy nổ khục khặc, và họ đi mất.
                              Tôi quay sang bố Atticus, nhưng bố Atticus đã đi đến nhà tù và tựa người quay mặt vào tường. Tôi đến bên ông kéo tay áo ông. “Mình về nhà bây giờ được chưa?” Ông gật đầu, lấy khăn tay ra lau khắp mặt và thở phì thật mạnh.
                              “Ông Finch?”
                              Một giọng khàn khàn nhỏ nhẹ từ chỗ tối bên trên, “Họ đi rồi hả?”
                              Bố Atticus lùi lại, nhìn lên. “Họ đi hết rồi” ông nói. “Ráng ngủ chút đi, Tom. Họ sẽ không quấy rầy anh nữa đâu”.
                              Từ hướng khác, một giọng nói nữa cắt thẳng qua bóng đêm. “Ông đúng quá rồi chúng sẽ không quấy rầy nữa đâu. Tôi rình sẵn yểm trợ ông nãy giờ đó, Atticus”.
                              Ông Underwood và khẩu súng hai nòng thò ra cửa sổ bên trên tòa soạn tờ The Maycomb Tribune.
                              Đã quá giờ ngủ của tôi lâu rồi và tôi càng lúc càng mệt; có vẻ như bố Atticus với ông Underwood sẽ nói chuyện suốt đêm. Ông Underwood từ cửa sổ chõ xuống và bố Atticus nói vọng lên chỗ ông ta. Cuối cùng bố Atticus quay lại, tắt ngọn đèn bên trên cửa nhà tù, và cầm ghế của ông lên.
                              “Để cháu mang nó cho, ông Finch” Dill nói. Nãy giờ nó không nói một lời.
                              “Ô, cảm ơn, con trai”.
                              Đi về phía văn phòng, Dill và tôi đi sau bố Atticus và Jem. Dill bị cái ghế làm vướng chân nên bước đi của nó chậm hơn. Bố Atticus và Jem đã bỏ xa chúng tôi, và tôi cho rằng bố Atticus đang rầy la anh vì không chịu về nhà, nhưng tôi đã lầm. Khi họ đi qua dưới anh đèn đường, bố Atticus đưa tay xoa đầu Jem, một cử chỉ trìu mến của ông.

                              --------------------------------------

                              [1] Đi săn dẽ giun: một trò đùa trong đó một nhóm dẫn một người đi săn chim dẽ giun trong rừng sâu, và khi người đó lo đi tìm giống chim đó thì cả bọn trốn về.

                              Comment

                              Working...
                              X