Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Khu vườn bí mật - Frances Hodgson Burnett

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Chương XVI

    Mary: “Tớ sẽ không đến!”



    Buổi sáng hôm đó, hai đứa trẻ tìm ra vô khối việc để làm. Lúc Mary quay về nhà thì đã muộn, sau đó nó còn vội vã trở lại với công việc đến nỗi quên khuấy cả Colin, cho tới phút cuối.
    - Chị bảo với Colin rằng tôi không thể tới thăm cậu ấy được - Nó nói với Martha - Tôi đang rất bận ngoài vườn.

    Martha trông có vẻ hoảng hốt.
    - Kìa, cô Mary, việc đó có thể khiến cậu ấy bực bội điên lên khi tôi báo tin.
    Nhưng Mary đâu có sợ Colin như những người khác, và nó vốn dĩ không phải một người biết hy sinh.
    - Tôi không thể ở lại. ****on đang đợi tôi. - Đoạn nó chạy ngay đi.
    Buổi chiều hôm ấy còn bận bịu và dễ thương hơn cả buổi sáng. Hầu như tất cả cỏ dại đều được dọn sạch và các khóm hồng cùng cây cối trong vườn đều được xén tỉa, vun gốc. ****on mang mai của mình đến, nó còn dạy Mary cách sử dụng mọi dụng cụ, nên lúc này chón hoang dại đáng yêu ấy tuy chưa giống một khu vườn của người làm vườn chuyên nghiệp, nhưng sẽ biến thành cả rừng cây vươn lên trước khi mùa xuân trôi qua.
    - Hoa táo và hoa anh đào sẽ tới đầu tiên, - ****on nói trong khi hăng hái làm việc - kế đến là mùa đào, rồi thì đám mận bên bờ tường cũng thi nhau nở rộ, và bãi cỏ này rồi sẽ biến thành một thảm hoa cho mà xem.

    Con cáo nhỏ và con quạ cũng ra điều sung sướng và bận rộn như chúng, còn chim ức đỏ cùng bạn đời của nó thì bay qua bay lại như những vệt sáng bé xíu. Thỉnh thoảng con quạ lại vỗ vỗ đôi cánh đen của nó rồi bay vút lên ngọn cây trong vườn. Mỗi lần trở lại đậu gần ****on, nó kêu lên mấy tiếng quạ quạ như đang kể lại những chuyến phiêu lưu của nó, ****on bèn trò chuyện với nó như với con chim ức đỏ lúc trước. Một lúc, khi ****on đang bận tay không kịp trả lời nó, Bồ hóng bèn bay ngay lên vai và lấy cái mỏ to tướng véo nhẹ bên tai thằng bé. Khi Mary muốn nghỉ tay một lát, ****on bèn ngồi xuống bên con bé dưới một tán cây. Nó rút cây sáo ra khỏi túi, và khi mấỳ nốt nhạc êm ái vừa mới cất lên thì hai con sóc từ đâu xuất hiện trên bờ tường, nghiêng ngó lắng nghe.
    - Trông cô thế mà khỏe hơn tôi tưởng đấy - ****on nói trong lúc nhìn con bé xới đất - Đã bắt đầu khác hẳn xưa rồi, thật đấy.
    Cả người Mary hồng rực lên bởi hoạt động chân tay và tinh thần phấn chấn.
    - Tôi mỗi ngày một béo ra - Nó hớn hở nói - Bà Medlock sẽ kiếm cho tôi mấy chiếc áo rộng hơn. Chị Martha thì bảo tóc tôi ngày một dày hơn. Nó không còn mỏng dính và rối tung như trước nữa.
    Mặt trời đang lặn dần và chiếu nhũng tia nắng vàng thẫm chênh chếch xuống tán cây khi hai đứa trẻ chia tay nhau.
    - Ngày mai trời sẽ đẹp - ****on bảo - Mặt trời mọc là tôi bắt tay vào việc ngay.
    - Tôi cũng sẽ như vậy. - Mary đáp.

    Con bé guồng chân chạy hết tốc lực. Nó chỉ muốn kể lại cho Colin nghe về con cáo, con quạ của ****on và những gì mà mùa xuân đã và đang mang lại. Nó chắc chắn rằng Colin sẽ thích nghe. Thế nhưng mọi thứ chẳng lấy gì làm vui, khi nó mở cửa phòng và bắt gặp Martha đang đứng đợi với bộ mặt sầu thảm.
    - Chuyện gì vậy? - Nó hỏi - Colin nói gì khi chị báo rằng tôi không thể tới được?
    - Ôi! - Martha đáp - Tôi ước gì cô có mặt tại đó mà chứng kiến. Cậu ấy lại lên cơn cáu giận điên cuồng như trước đây. Suốt buổi chiều chẳng có cách nào làm cho cậu ấy yên được. Cậu ấy cứ nhìn đồng hồ suốt.
    Đôi môi của Mary bậm lại. Thực ra nó ích kỷ chẳng kém Colin là bao, và nó nhận thấy chẳng có lý nào một thằng bé hay bẳn gắt lại được phép can thiệp vào những gì mà nó đang vô cùng thích thú. Con bé không hình dung ra nỗi khổ của những kẻ đang ốm đau rầu rĩ, những kẻ không có ỹ thức tự kiềm chế mình và bắt người khác cũng mệt mỏi phát ốm theo. Dạo ở Ấn Độ, mỗi khi bị nhức đầu, nó đã cố làm cho những người khác cũng phải đau đầu hay một cái gì tệ hại như thế. Và nó cảm thấy mình hoàn toàn đúng; còn dĩ nhiên, bây giờ nó cho rằng Colin hoàn toàn sai.
    Lúc Mary bước vào phòng riêng của Colin thì thằng bé không còn trên ghế sofa. Nó đang nằm dài trên giường, không thèm ngoái đầu lại nhìn khi con bé bước vào. Đây quả là một sự mở đầu tồi tệ. Mary cũng tiến lại chỗ thằng bé trong dáng điệu cứng nhắc của nó.
    - Tại sao cậu không ngồi dậy? - Nó hỏi.
    - Sáng nay tớ đã dậy vì nghĩ thể nào cậu cũng tới - Thằng bé đáp, mắt không nhìn Mary - Đến chiều tớ mới sai bọn họ đưa tớ về giường. Tớ đau lưng, nhức đầu và thấy mệt mỏi. Tại sao cậu không tới hả?
    - Tớ làm việc trong vườn với ****on.
    Colin cau mày rồi mới chiếu cố nhìn đến nó.
    - Tớ sẽ không cho phép thằng nhóc ấy đến đây nếu cậu cứ bỏ đi và ở lại với thằng ấy, trong khi lẽ ra phải đến đây nói chuyện với tớ. - Nó nói.
    Mary nổi giận lôi đình. Nó có thể giận dữ mà không làm huyên náo. Nó chỉ trở nên gay gắt, ương ngạnh và không cần biết chuyện gì sẽ xảy ra.
    - Nếu cậu đuổi ****on đi, tớ sẽ không bao giờ bước chân tới căn phòng này nữa. - Con bé trả miếng.
    - Cậu phải đến nếu tớ muốn. - Colin nói.
    - Tớ sẽ không đến! - Mary đáp lại.
    - Tớ sẽ ép cậu - Colin bảo - Bọn họ sẽ kéo cậu vào.
    - Họ dám à, ngài tiểu vương! - Mary nói một cách tức giận - Họ có thể kéo tớ vào, nhưng họ không thể bắt tớ nói sau khi ép buộc tớ tới đây. Tớ chỉ ngồi im, bịt miệng và không thèm nói với cậu dù chỉ một lời. Thậm chí tớ cũng không thèm nhìn cậu, mà chỉ nhìn xuống sàn!
    Và chúng vẫn cứ là hai đứa trẻ dễ thương khi chúng đưa mắt gườm gườm nhìn nhau. Giả sử là hai thằng nhóc bụi đời ngoài phố thì hẳn chúng đã lao vào mà choảng nhau ra trò.
    - Cậu là đồ ích kỷ! - Colin gào lên.
    - Thế còn cậu? - Mary nói - Người ích kỷ nào mà chẳng nói vậy. Bất cứ ai cũng thành ích kỷ, nếu không tự mình đi làm những gì họ muốn. Cậu còn ích kỷ hơn tớ. Cậu là thằng nhãi ích kỷ nhất mà tớ từng thấy.
    - Tớ không phải thế! - Colin vặc lại - Tớ không ích kỷ như anh chàng ****on xinh trai của cậu! Hắn giữ cậu lại mà chơi đùa ở cái nơi bẩn thỉu ấy trong khi hắn thừa biết tớ chỉ có một thân một mình. Hắn quả là ích kỷ, cậu cứ đi mà thích!
    Đôi mắt Mary nảy lửa.
    - Anh ấy còn tốt đẹp hơn bất cứ đứa con trai nào trên đời! - Nó nói - Anh ấy... anh ấy giống như một thiên thần! - Có lẽ nó thật ngốc khi nói ra điều đó, nhưng nó chẳng quan tâm.
    - Một thiên thần xinh đẹp! - Colin mỉa mai một cách dữ tợn - Đấy là một thằng nhóc bình dân trong túp lều gianh ngoài đồng hoang!
    - Anh ấy còn hay hơn một gã tiểu vương tầm thường! - Mary trả miếng - Anh ấy ngàn lần hay hơn!
    Bởi vì trong hai đứa, con bé có giọng điệu đanh thép hơn, nên nó bắt đầu thắng thế so với thằng kia. Sự thực là trong đời, thằng Colin chưa bao giờ phải đôi co với bất kỳ đứa trẻ nào giống mình, nhưng tựu trung thì chuyện này cũng tốt cho nó, mặc dầu cả nó lẫn Mary đều chẳng hề nhận ra. Nó trở đầu trên gối, nhắm tịt mắt lại, một giọt nước mắt lớn ứa ra chảy xuống má nó. Thằng bé bắt đầu cảm thấy đau đón xót xa cho thân phận mình.
    - Tớ không đến nỗi ích kỷ như cậu, bởi tớ lúc nào cũng ốm, tớ dám nói chắc rằng có một cục bướu đang hĩnh thành trên lưng tớ. Hơn thế nữa, tớ sắp chết đến nơi rồi.
    - Cậu không hề như vậy! - Mary phủ nhận một cách không thương xót.
    Thằng bé mở to đôi mắt phẫn nộ. Từ trước tới giờ, nó chưa từng nghe ai nói một câu tương tự. Nó vừa giận dữ, vừa thoáng thấy vui mừng, nếu như người ta có thể cùng lúc có cả hai cảm xúc đó trong mình.
    - Tớ mà không hề như vậy sao? - Nó kêu to - Tớ là thế đấy! Cậu cũng thừa biết tớ như thế mà! Ai ai cũng nói thế.
    - Tớ không tin! - Mary gắt gỏng - Cậu chúa là hay nói vậy để mọi người phải rầu lòng. Tớ chắc cậu tự hào về điều đó lắm. Tớ thì tớ không tín! Nếu cậu là một cậu bé ngoan thì có lẽ đúng vậy, nhưng đằng này cậu quá hư đốn!
    Không đếm xỉa tới cái lưng chưa ổn của nó, thằng bé ngồi bật dậy trên giường trong cơn thịnh nộ.
    - Cút ngay khỏi phòng! - Nó quát to, đoạn vớ lấy cái gối ném thắng vào con bé. Nó không đủ sức ném cái gối xa hơn, nên cái gối rớt xuống ngay cạnh chân con bé, nhưng khuôn mặt Mary vẫn rắn đanh như cái kẹp hạt dẻ.
    - Tớ về đây. Và sẽ không bao giờ trở lại!
    Con bé bước thẳng ra cửa, vừa ra đến đó nó quay lại và mở miệng.
    - Tớ định bụng sẽ kể cậu nghe biết bao chuyện hay. ****on mang con cáo và con quạ của anh ấy đến, và tớ định kể cho cậu mọi điều về chúng. Bây giờ thì một mẩu chuyện cũng đừng hòng tớ kể!
    Con bé chạy vụt ra khỏi phòng rồi khép cánh cửa lại sau lưng, tại đó nó kinh ngạc nhận ra cô bảo mẫu, có vẻ như đã nghe thấy hết câu chuyện và vẫn còn ngạc nhiên, cô cười phá lên. Cô là một thiếu nữ xinh đẹp, vóc người cao lớn và chẳng có vẻ gì là một bảo mẫu chuyên nghiệp cả. Hơn thế nữa, cô lại không thể chịu đựng được người tàn tật. Cô luôn kiếm cớ bỏ mặc Colin cho Martha hay bất kỳ ai khác thay chân giúp cô. Mary chưa bao giờ thấy ưa cô nên nó chỉ đứng nhìn cô chằm chằm, trong khi cô cười rúc rích sau cái khăn tay che miệng.
    - Chị cười gì hả? - Nó hỏi cô.
    - Cười hai bạn trẻ - Cô bảo mẫu nói - Đó quả là điều tốt nhất ta có thể làm cho một kẻ ốm yếu và được nuông chiều thái quá. Hết người nộ đến người kia hầu hạ chỉ tổ làm hỏng cậu ấy mà thôi - Nói đoạn cô lại đưa khăn tay che miệng cười - Giá như cậu ấy có một cô em gái đáo để mà choảng nhau, có khi lại cứu được cậu cũng nên.
    - Cậu ấy sắp chết thật sao?
    - Tôi không biết mà cũng chẳng quan tâm - Cô bảo mẫu nói - Sự nóng nảy kích động là một nửa những gì đã hại cậu ấy.
    - Kích động cái gì? - Mary hỏi.
    - Rồi cô sẽ thấy nếu cô đẩy cậu ấy vào một cơn điên giận sau chuyện vừa rồi. Nhưng dù thế nào đi nữa, cô đã cho cậu ấy một cái cớ để mà kích động, và tôi lấy làm mừng vì điều đó.
    Mary trở về phòng mà không hề xao xuyến như cảm giác nó đã từng có lúc từ vườn về nhà. Nó chỉ hơi bực mình và không hề thấy thương xót gì thằng Colin. Nó đã mong đến lúc kể lại cho thằng nhóc ấy biết bao chuyện lạ, và nó cũng đã tính, sẽ quyết định xem liệu có tin cậy mà thổ lộ với Colin cái điều bí mật to lớn ấy không. Con bé đã bắt đầu tính đến chuyện đó, nhưng bây giờ thì nó suy nghĩ khác hoàn toàn. Nó sẽ chẳng bao giờ nói cho thằng ấy biết, thằng ấy cứ việc nằm dài trong phòng, không khi nào được tận hưởng bầu không khí trong lành và sẽ chết như nó muốn! Thế cũng đáng đời lắm! Con bé cảm thấy mình cứng rắn và tàn nhẫn đến mức trong giây lát nó hầu như quên hẳn ****on cùng tấm màn xanh man mởn đang dần bao trùm lên thế giới, cùng với cả làn gió dịu dàng đang từ cánh đồng hoang thổi về.
    Martha đang đợi con bé, nét buồn rầu trên gương mặt chị lúc này tạm thời chuyển sang vẻ quan tâm pha chút tò mò. Một chiếc hộp gỗ để trên bàn, nắp đã mở sẵn, để lộ ra những gói buộc gọn gàng chật ních.
    - Ông Craven gửi nó cho cô đấy - Martha bảo - Có vẻ là mấy cuốn truyện tranh.
    Mary bỗng nhớ lại những gì ông đã nói với nó vào cái hôm nó đến phòng ông. “Cháu thích gì nào: búp bê, đồ chơi, sách?” Con bé mở gói đồ, tự hỏi không biết ông có gửi cho nó búp bê hay không, và nghĩ bụng nó biết làm gì với con búp bê đây nếu ông gửi. Nhưng ông không gửi cho nó con búp bê nào cả. Thế vào đó là mấy cuốn sách tuyệt đẹp chẳng kém gì của Colin, hai trong số đó viết về những khu vườn và đầy những tranh minh họa, cùng mấy thứ đồ chơi, một hộp đựng bút bé xinh trên có khắc chữ lồng mạ vàng, cùng một cây bút bằng vàng và cái giá để lọ mực.

    Tất cả đều đẹp đến nỗi niềm vui bắt đầu đẩy lùi mọi tức tối ra khỏi tâm trí của nó. Nó không dám mong được ông nhớ đến, trái tim bé nhỏ khô cằn của nó trở nên ấm áp lạ thường.
    - Tôi viết chữ thường đẹp hơn chữ in, - Nó nói - và việc trước tiên là tôi sẽ viết, bằng chiếc bút này, một bức thư để nói với ông rằng tôi cảm ơn ông.
    Giá như còn là bạn bè với Colin, thì chắc hẳn nó sẽ chạy đến khoe món quà với thằng bé ngay tức khắc, rồi chúng sẽ cùng nhau xem các bức vẽ, đọc mấy cuốn sách về vườn tược, và có thể còn mang đồ chơi ra chơi nữa, và thằng Colin chắc sẽ sung sứớng đến nỗi từ nay không bao giờ nghĩ rằng nó sắp chết, hay lại đặt tay lên xương sống để xem cục bướu có mọc lên không. Nó cứ làm vậy thì Mary không chịu nổi. Việc đó gây cho con bé một cảm giác kinh sợ bất an, bởi vì chính thằng bé trông cũng quá sợ hãi. Nó bảo nếu một ngày nào đó nó cảm thấy có một cái bướu nhỏ thôi thì nó hiểu ra rằng cái lưng của mình bắt đầu gù đi. Những gì bà Medlock thầm thì với cô bảo mẫu đã khiến ý nghĩ ấy hình thành. Nó âm thầm nung nấu ý nghĩ đó đến mức ăn sâu vào tâm trí. Bà Medlock cho rằng cái lưng của cha nó đã lộ vẻ méo mó từ khi ông còn bé tí. Nó chưa bao giờ thổ lộ với ai khác ngoài Mary rằng “những cơn tam bành” của nó, như thiên hạ thường gọi thế, đã nảy sinh từ nỗi sợ điên cuồng giấu kín đó. Khi nó kể chuyện đó, Mary cũng động lòng thương cảm.
    “Cậu ấy luôn nghĩ về điều đó mỗi khi tức giận hay mệt mỏi - Nó thầm nhủ - Hôm nay cậu ấy cũng đang tức giận thì phải. Có lẽ... có lẽ suốt chiều nay cậu ấy sẽ bị ám ảnh về chuyện ấy”.
    Con bé đứng lặng người, cúi nhìn tấm thảm và suy nghĩ.

    “Mình đã bảo sẽ không bao giờ thèm quay lại đấy nữa cơ mà, - Con bé lưỡng lự, cau mày - nhưng có lẽ, chỉ là có lẽ thôi, mình sẽ tới và xem xem... nhỡ cậu ấy cần mình... trong buổi sáng thì sao. Rồi cậu ấy sẽ lại ném chiếc gối vào mình cũng nên, nhưng... mình cho rằng... mình sẽ tới”.

    Comment


    • #17
      Chương XVII

      Một cơn cuồng nộ



      Ngày hôm ấy, Mary thức dậy rất sớm và làm việc miệt mài ngoài vườn, nên giờ nó thấy thấm mệt và buồn ngủ. Martha vội dọn bữa cho nó, con bé ăn xong thì hả hê leo lên giường. Vừa ngả đầu xuống gối, nó đã nhủ thầm: “Mình sẽ ra ngoài vào trước bữa sáng, làm việc với ****on rồi sau đấy... mình nghĩ... mình sẽ đi gặp cậu ấy”. Nó cứ tưởng như đã tới nửa đêm, khi những âm thanh khủng khiếp vang lên khiến nó tỉnh giấc, và ngay lập tức nó nhảy phắt ra khỏi giường. Cái gì thế... cái gì thế? Chỉ phút sau nó đã hiểu việc gì vừa xảy ra. Các cánh cửa hết mở ra rồi lại đóng sập, bước chân ai đang hối hả trong hành lang, cùng lúc đó là tiếng người đang vừa la hét vừa than khóc một cách khủng khiếp.
      - Đó là Colin - Con bé bảo - Cậu ấy đang nổi cơn tam bành mà chị bảo mẫu gọi là chứng kích động cuồng loạn. Âm thanh mới dễ sợ làm sao.

      Nghe những tiếng thét lẫn trong thổn thức đó, nó không lấy là ngạc nhiên khi thấy mọi người sợ hãi đến độ thà nhượng bộ mọi yêu cầu của thằng bé còn hơn là phải nghe những tiếng ấy. Con bé đưa tay bịt tai, cảm thấy mệt mỏi và run rẩy: “Mình biết làm gì bây giờ. Mình biết làm gì đây. Mình không tài nào chịu nổi nữa”.

      Có lúc nó tự hỏi không biết Colin có thôi kêu khóc nếu nó dám đến với thằng bé, chính lúc ấy nó nhớ lại cảnh thăng bé đã đuổi mình ra khỏi phòng và nhủ thầm, có lẽ sự có mặt của nó đã đẩy thằng bé vào tình trạng tồi tệ ấy. Ngay cả khi nó ép chặt hơn nữa hai bàn tay vào hai bên tai, nó vẫn không thể ngăn được âm thanh khủng khiếp nọ. Nó thấy ghét và kinh hoàng thứ âm thanh đó đến độ nó chợt nổi giận, nó có cảm tưởng bản thân cũng đang bị cuốn vào một cơn giận điên rồ và muốn đe dọa thằng bé như thằng bé đang đe dọa mình. Mary chưa bao giờ phải chịu đựng cơn nóng nảy của bất kỳ ai, ngoài bản thân nó. Nó buông hai tay ra, ngồi nhổm dậy và thõng chân xuống sàn.
      - Nó thôi đi được rồi đấy! Ai đó nên bảo nó thôi đi! Ai đó hãy cho nó một trận! - Con bé gào lên.
      Đúng lúc ấy, nó nghe có tiếng chân chạy dọc hành lang, cánh cửa phòng nó bật mở, cô bảo mẫu bước vào. Lúc này, chẳng còn thấy cô ta cười cợt gì nữa. Thậm chí mặt cô còn hơi tái đi.
      - Cậu ấy đang rơi vào con kích động cuồng loạn - Cô nói vội vàng - Như thế chỉ làm hại chính cậu ấy. Chẳng ai có thể làm gì với cậu ấy. Mong cô tới và thử xem sao, cô bé tốt bụng. Cậu ấy chỉ thích mỗi mình cô.
      - Sáng nay cậu ấy đã đuổi tôi khỏi phòng. - Mary vừa nói, vừa giậm chân.
      Cái giậm chân dường như khiến cô bảo mẫu thích thú. Sự thực là trước đó, cô đã lo có thể sẽ thấy Mary đang khóc và vùi đầu dưới tấm phủ giường.
      - Đúng như vậy đấy - Cô nói - Cô đang vui. Cô đi mà quở trách cậu ấy đi. Hãy cho cậu ấy cái gì mơi mới mà động não. Đi đi, cô bé, nhanh chân lên nào.
      Chẳng phải sau này Mary mới nhận ra điều đó vừa buồn cười lại vừa đáng sợ - buồn cười vì hầu như tất cả những người lớn ở đây đều kinh hoàng đến nỗi họ phải chạy tới cầu cứu một đứa bé gái mà họ cho rằng cũng tệ hại chẳng kém Colin.
      Con bé chạy như bay dọc hành lang, càng tới gần tiếng kêu, nỗi tức giận của nó càng dâng cao hơn. Vào lúc chạm tới cánh cửa, con bé mới cảm nhận hết sự nguy hiểm. Nó đưa tay đẩy cánh cửa mở toang, rồi chạy tới bên chiếc giường có bốn cái cọc chạm trổ.
      - Cậu thôi đi cho! - Con bé hầu như quát lên - Cậu thôi đi! Tớ căm ghét cậu! Ai cũng căm ghét cậu! Tớ ước gì mọi người chạy hết khỏi ngôi nhà này, để mặc cậu gào thét một mình cho tới chết! Cậu sẽ được gào khóc một mình cho tới chết, tớ ước gì cậu sẽ phải thế!
      Một đứa trẻ dễ thương có lòng trắc ẩn chẳng thể nào nghĩ hay nói những điều như vậy. Nhưng cú sốc trước những lời nói ấy lại là điều khả dĩ nhất cho một đứa trẻ đang kích động như thằng bé, một kẻ mà không một ai dám ngăn cản hay trái lời.
      Thằng Colin đang nằm úp mặt, hai tay nện thình thịch xuống gối, nó giật bắn mình quay ngoắt về phía giọng nói giận dữ của con bé. Khuôn mặt nó nom thật đáng sợ, trắng bệch và đỏ lựng, sưng vù lên, nó hết thở hổn hển rồi lại ho sù sụ, nhưng Mary bé bỏng độc ác vẫn không mảy may quan tâm.
      - Cậu mà gào thêm tiếng nữa thì tớ cũng sẽ gào cùng, mà tớ còn gào to hơn nữa kia, tớ sẽ làm cho cậu phải khiếp sợ, tớ sẽ làm cậu khiếp sợ cho mà xem!
      Đương nhiên là thằng bé im bặt, vì Mary đã làm nó sửng sốt. Việc kêu gào cũng khiến nó nghẹt thở. Mấy dòng lệ tuôn trào trên mặt nó.
      - Tớ không thể dừng được! - Nó hổn hển, thổn thức - Tớ không thể... Tớ không thể!
      - Cậu có thể! - Mary quát to - Một nửa bệnh tật chính là sự kích động và tính khí nóng nảy của cậu: kích động, kích động, kích động! - Con bé giậm chân sau mỗi lần nói.
      - Tớ cảm thấy rõ cục bướu... tớ cảm thấy nó - Colin nói như nghẹn thở - Tớ biết tớ sẽ bị. Rồi tớ sẽ mang một cục bướu trên lưng và sẽ chết. - Nó lại bắt đầu rên rỉ, quay mặt đi khóc thổn thức, nhưng không gào lên nữa.
      - Cậu chẳng cảm thấy cái bướu nào hết! - Mary phủ nhận một cách giận dữ - Đấy chỉ là một cái bướu mê sảng mà thôi. Sự kích động đã làm ra những cái bướu. Chẳng có vấn đề gì với cái lưng quá quắt của cậu cả, chẳng có gì hết ngoài sự mê sảng! Quay lưng lại để tớ xem!
      Con bé rất thích cái từ “kích động”, và không rõ tại sao nó cảm thấy từ ấy đã có hiệu quả nhất định đối với Colin. Thằng bé hình như cũng giống như nó, chưa từng nghe thấy từ ấy trước đây.
      - Chị bảo mẫu, - Nó ra lệnh - vào đây và ngay bây giờ vén cho tôi xem lưng cậu ấy.
      Cô bảo mẫu, bà Medlock và Martha nãy giờ vẫn cùng nhau đứng gần cửa ra vào đều trố mắt nhìn nó, miệng há hốc ra. Cả ba hổn hển vì sợ hãi hơn bao giờ hết. Cô bảo mẫu tiến về phía trước, có vẻ đã bớt sợ. Colin đang thốt ra những tiếng thổn thức nghẹn ngào.
      - Có lẽ cậu ấy... cậu ấy không để tôi. - Cô lưỡng lự nói với giọng khe khẽ.
      Dù sao thì Colin cũng chịu nghe lời con bé, nó hổn hển nói giữa hai tiếng nức nở :
      - Cho... cho cô ấy xem đi... để cô ấy xem!
      Lúc nó trần trụi mới thấy rõ một cái lưng gầy nhom tội nghiệp. Có thể đếm được từng chiếc xương sườn, từng đốt xương sống, mặc dầu cô chủ Mary không hề đếm trong lúc đang cúi xuống xem xét kỹ lưỡng với khuôn mặt nhỏ nhắn vừa nghiêm khắc vừa trịnh trọng. Con bé nom cau có đến nỗi cô bảo mẫu phải quay đầu sang bên để giấu khóe miệng của cô đang giật giật. Một phút im lặng thoáng qua, Colin cố nín thở trong khi Mary chăm chú hết nhìn lên lại nhìn xuống cột xương sống của nó như thể con bé là chính ông bác sĩ giỏi đến từ Luân Đôn vậy.
      - Chẳng hề có cục bướu cục biếc nào cả - Cuối cùng, nó lên tiếng - Không có lấy một mẩu, dù chỉ bằng cái đầu ghim, trừ những đốt sống, và cậu chỉ cảm thấy thế thôi bởi cậu quá gầy gò. Ngay tớ đây cũng có những cục xương sống, chúng thường lồi lên mỗi lúc ta cử động, cho tới khi tớ béo ra, ấy thế mà tớ vẫn chưa đủ béo để lấp hẳn chúng. Không hề thấy một cục bướu nào dù chỉ bằng đầu ghim. Nếu cậu cứ lải nhải mãi, tớ sẽ cười vào mũi cho đấy!
      Không một ai ngoài bản thân thằng Colin có thể thấy được hiệu quả của những câu hết sức trẻ con được nói ra một cách cáu bẳn dường ấy đối với nó. Giá như thằng bé có ai để mà kể về những nỗi hãi hùng bí mật của nó, giá như nó dám hỏi han mọi người, giá như nó có mấy đứa nhóc để cùng chơi đùa và không phải nằm dài suốt ngày trong ngôi nhà đồ sộ khép kín ấy, thở hít bầu không khí nặng nề cùng với nỗi sợ hãi của những người mà hầu hết là bọn ngốc đã chán ngấy nó, thì hẳn nó đã nhận ra rằng tất tật nỗi sợ hãi và đau ốm của nó đều do chính bản thân nó tạo ra. Đằng này nó chỉ biết nằm dài mà ngẫm nghĩ về bản thân và nỗi đau cứ âm ỉ kéo dài cũng như sự mệt mỏi buồn chán hết giờ này sang giờ khác, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, rồi năm này sang năm khác. Thế mà giờ đây, một con bé cáu kỉnh, khó ưa lại cứ khăng khăng bảo rằng nó không hề ốm như nó nghĩ thì mặc dù có vẻ kỳ lạ, nhưng nó cảm thấy có lẽ con bé đang nói ra sự thực.
      - Tôi không hiểu, - Cô bảo mẫu đánh bạo nói - vì lẽ gì cậu ấy lại nghĩ là mình có một cái bướu trên sống lưng. Lưng cậu ấy yếu chẳng qua vì cậu ấy không cố ngồi dậy. Tôi cũng có thể thấy là cậu chẳng có bướu biếc nào hết.
      Colin nuốt nước bọt, rồi khẽ ngoảnh lại nhìn cô.
      - Chị... mà cũng nói vậy? - Nó hỏi, nghe thật tội nghiệp.
      - Vâng, thưa cậu.
      - Thấy chưa! - Mary bảo, và nó cũng ực nước bọt một cái.
      Colin ngoảnh mặt lại lần nữa, và như để lấy lại hơi sức sau cơn khóc lóc ban nãy, nó nằm lịm người đi trong giây lát, mặc dầu mấy giọt nước mắt lớn vẫn trào ra trên mặt nó và thấm đẫm xuống gối. Đương nhiên, những giọt nước mắt ấy muốn nói lên rằng một niềm khuây khỏa vô cùng kỳ lạ đang đến với nó. Bỗng nó quay lại nhìn cô bảo mẫu, và lạ thay nó chẳng có vẻ một vị tiểu vương chút nào khi nói với cô.
      - Chị có cho rằng... tôi có thể... sống và lớn lên không?
      Cô bảo mẫu là người chẳng lấy gì làm thông minh mà cũng không phải người dễ mủi lòng, nhưng cô vẫn biết nhắc đúng từng lời của ông bác sĩ Luân Đôn.
      - Cậu sẽ khỏe nếu cậu chịu khó làm những gì được dặn dò phải làm, bỏ thói giận dữ, và sống cho thỏa thích ngoài khí trời trong lành.
      Cơn giận dữ của Colin đã nguôi, lúc này nó thấy mệt lả đi vì gào khóc, nhưng biết đâu điều đó lại giúp nó được yên lòng. Nó khẽ chìa bàn tay về phía Mary, và ta lấy làm mừng mà nói rằng cơn giận của con bé cũng đã qua đi nó thổn thức, bàn tay nó gặp bàn tay thằng bé ở giữa chừng, âu cũng là một ẩự đền bù cho tổn thất vừa qua.
      - Tớ sẽ... tớ sẽ đi ra ngoài với cậu, Mary ạ. Tớ sẽ không cảm thấy ghét không khí ngoài trời nữa nếu chúng mình cùng tìm thấy... - Đúng lúc ấy, nó sực nhớ ra và kịp không nói hết câu, “nếu chúng mình cùng tìm thấy khu vườn bí mật”, nên nó chỉ kết thúc bằng câu - tớ sẽ đi với cậu, nếu ****on cùng đi đẩy xe giúp tớ. Sao tớ muốn gặp ****on cùng mấy con cáo và quạ đến thế.
      Cô bảo mẫu sắp xếp lại chiếc giường bừa bộn và đặt lại mấy cái gối cho ngay ngắn. Sau đó, cô bưng cho Colin một bát nước thịt bò hầm, tiện thể cũng bưng cho Mary một bát, con bé thật sự vui mừng nhận lấy món ấy sau can náo động vừa qua. Bà Medlock và Martha mừng rỡ lui khỏi phòng, sau khi mọi thứ đều đã gọn gàng, êm ả đâu vào đó, cô bảo mẫu cũng hớn hở lui ra theo. Cô vốn là một thiếu nữ khỏe mạnh, nên lúc nãy cảm thấy tức giận vì bị mất giấc ngủ đang ngon lành. Cô vừa ngáp dài, vừa nhìn Mary khi con bé kéo chiếc ghế đẩu to tướng lại cạnh giường và cầm tay Colin.
      - Chị về mà ngủ tiếp đi - Con bé bảo - Chỉ lát nữa cậu ấy sẽ ngủ thôi, nếu cậu ấy không cảm thấy khó chịu. Lúc đó, tôi sẽ sang nằm ở phòng bên.
      - Cậu có muốn tớ hát cho nghe một bài tớ học được từ Ayah của tớ không? - Mary thì thầm bên tai Colin.
      Bàn tay thằng bé khẽ kéo bàn tay Mary, nó hướng đôi mắt mệt mỏi về phía con bé với vẻ đầy thiện cảm.
      - Ồ, có chứ! Với bài hát nhẹ nhàng như thế, tớ sẽ ngủ ngay trong ít phút.
      - Để tôi ru cho cậu ấy ngủ - Mary nói với cô bảo mẫu đang ngáp dài - Chị có thể đi nếu chị muốn.
      - Vâng - Cô bảo mẫu nói với một cố gắng miễn cưỡng - Nếu trong vòng nửa giờ nữa mà cậu ấy chưa ngủ được, cô cứ gọi tôi.
      - Được lắm. - Mary đáp.
      Cô bảo mẫu rời khỏi phòng trong chớp mắt; chờ cô đi khỏi, Colin lại cầm tay Mary mà nói.
      - Suýt nữa thì tớ đã nói ra, nhưng tớ đã kịp ngậm miệng. Tớ sẽ không khi nào nói ra đâu và tớ sẽ ngủ ngay, nhưng cậu chẳng bảo cậu có vô khối chuyện hay để kể cho tớ cơ mà. Cậu... cậu có cho rằng cậu đã khám phá ra mọi chuyện về con đường dẫn đến khu vườn bí mật ấy không?
      Mary nhìn khuôn mặt nhỏ mệt mỏi và tội nghiệp của thằng bé, cả đôi mắt sưng mọng của nó nữa. Nó thấy mủi lòng.
      - Ừ... ừ, - Nó đáp - tớ cho là có đấy. Nếu cậu chịu ngủ đi, ngày mai tớ sẽ kể cậu nghe.
      Bàn tay thằng bé run rẩy.
      - Ôi, Mary! - Nó nói - Ôi, Mary! Giá như được vào trong khu vườn đó, tớ nghĩ tớ sẽ sống mà lớn lên! Cậu có cho rằng, thay vì hát bài ca của Ayah... cậu có thể kể tớ nghe với cái giọng dịu dàng như hôm đầu, xem cậu đã tưởng tượng ra bên trong khu vườn ấy như thế nào? Tớ cam đoan nó sẽ làm tớ chóng ngủ.
      - Được - Mary đáp - Nhắm mắt lại nào.
      Thằng bé nhắm mắt, năm im phăng phắc, con bé cầm bàn tay nó rồi bắt đầu chậm rãi kể bằng một giọng khẽ khàng.
      - Tớ cho rằng nó đã bị người ta quên lãng từ lâu... đến nỗi cây cối mọc ngổn ngang thành một mớ rối bù dễ thương. Tớ hình dung ra các khóm hồng cứ leo, leo mãi cho tới khi chúng buông lơi từ các cành cây, rủ xuống các bờ tường rồi bò lan trên mặt đất... trông chẳng khác nào một màn sương màu xám kỳ lạ. Một só đã chết, nhưng rất nhiều khóm vẫn còn sống, khi mùa hè tới chúng sẽ biến thành những tấm rèm và dòng chảy tết bằng vô vàn bông hồng. Tớ hình dung mặt đất lúc ấy sẽ tràn ngập những đóa thủy tiên hoa vàng, hoa giọt tuyết, ly ly và diên vĩ [1]. Bây giờ mùa xuân đã tới... biết đâu... biết đâu...
      Giọng kể đều đều nhè nhẹ của nó khiến thằng bé yên dần, yên dần. Con bé cũng nhận ra điều đó, nó tiếp tục thì thầm :
      - Có lẽ chúng sẽ mọc xuyên qua lớp cỏ... có lẽ thoạt đầu sẽ là những khóm nghệ tây màu tía xen vàng... thậm chí ngay lúc này đã thấy chúng xuất hiện. Có lẽ những chiếc lá non sắp nhú ra và không còn quăn tít nữa... và có lẽ màu xám xỉn đang ngả sang màu khác, và một tấm mạng mỏng màu xanh mướt sẽ lan dần... lan dần... che phủ trên khắp mọi cảnh vật... Rồi chim chóc sẽ bay về để chiêm ngưỡng... bởi có ở đâu an toàn và yên bình hơn nơi đây. Và, biết đâu... biết đâu... biết đâu... con chim ức đỏ ấy chẳng tìm thấy một bạn tình... để cùng nhau làm tổ.
      Colin đã ngủ lúc tự nào không hay.



      [1] Iris: loài cây cao có lá hình lưỡi kiếm và hoa lớn, màu sáng.

      Comment


      • #18
        Chương XVIII

        “Ta đừng để lỡ thời gian!”



        Dĩ nhiên, Mary không thể dậy sớm vào sáng hôm sau. Nó đã phải ngủ muộn vì thấy quá mệt. Khi Martha dọn bữa sáng lên, chị bảo nó rằng mặc dù Colin hoàn toàn yên lặng nhưng cậu lại đang ốm và ngây ngây sốt như vẫn thường thế mỗi khi kiệt sức sau cơn gào thét. Mary vừa ăn chậm rãi, vừa lắng nghe.
        - Cậu ấy bảo mong cô tới gặp cậu sớm chừng nào hay chừng ấy. Quả khó mà tưởng tượng nổi những điều kỳ lạ đã xảy ra. Đêm qua, cô chính là người đã cho cậu thấy điều đó, phải không cô? Chưa một ai dám làm việc ấy. Ôi, anh chàng tội nghiệp! Cá đã ươn thì có ướp muối cũng vẫn ươn [1]. Mẹ tôi vẫn bảo có hai điều tồi tệ có thể đến với một đứa trẻ, đó là không bao giờ có được điều mình muốn, hoặc là luôn luôn có nó. Nhưng chính bà cũng không hiểu cái nào tệ hại hơn. Giờ cô đang tâm trạng vui vẻ. Vừa nãy, cậu ấy bảo khi tôi vào phòng: “Làm ơn hỏi cô Mary xem liệu cô ấy có vui lòng tới đây nói chuyện với tôi không?” Xin cô nhớ cho là cậu ấy đã phải nói câu làm ơn! Liệu cô có đi không, thưa cô?
        - Tôi sẽ chạy đi gặp ****on trước. - Mary đáp - Mà không, tôi đi gặp Colin trước và nói chuyện với cậu ấy, tôi biết mình sẽ nói gì rồi. - Con bé đột nhiên đổi ý.
        Mary đội mũ khi xuất hiện trong phòng Colin, và trong một thoáng thằng bé có vẻ thất vọng. Nó nằm trong giường, khuôn mặt trắng bệch thảm hại, đôi mắt thâm quầng.
        - Tớ lấy làm mừng vì cậu đến. Đầu tớ nhức như búa bổ, khắp người mỏi nhừ vì quá mệt. Cậu định đi đâu phải không?
        Mary bước tới vịn vào thành giường, nói.
        - Tớ đi không lâu đâu. Tớ định tới gặp ****on, rồi tớ sẽ quay lại ngay. Colin này, về việc... về việc khu vườn bí mật ấy mà.
        Cả gương mặt thằng Colin sáng bùng lên, một chút hồng ửng trên hai má nó.
        - Ồ! Là chuyên đó sao! - Thằng bé kêu to - Tớ đã mơ thấy nó suốt đêm qua. Tớ đã nghe cậu nói cái gì đó về màu xám đang ngả sang xanh rờn, thế rồi tớ mơ thấy mình đang đứng ở một nơi tràn ngập những chiếc lá xanh non run rẩy... và đâu đâu cũng bắt gặp những chú chim non trong tổ, tất cả mới dịu dàng yên tĩnh làm sao. Tớ sẽ nằm mà nghĩ đến điều đó cho tới lúc cậu trở về.
        Năm phút sau, Mary đã ở bên ****on ngay giữa khu vườn của chúng. Con cáo và con quạ vẫn bám theo thằng bé, nhưng lần này nó còn mang theo hai con sóc đã thuần dưỡng.
        - Sáng nay tôi cưỡi ngựa con đến đấy. Này, nó là một gã tuy bé nhỏ mà tốt bụng lắm... Nó nhảy kìa! Tôi còn mang theo hai đứa nữa trong túi. Đây là Hạt dẻ, còn kia là Vỏ sò.
        Lúc nó vừa bảo “Hạt dẻ”, một con sóc leo phắt lên bên vai phải, và khi nó gọi tên “Vỏ sò” thì con kia nhảy phóc lên vai trái.
        Chúng ngồi bệt xuống bãi cỏ, Đại úy nằm cuộn tròn bên cạnh, còn Bồ hóng thì nghiêm nghị lắng nghe trên cành cao, Hạt dẻ và Vỏ sò đang hếch hếch mũi về phía bọn trẻ. Cứ nhìn Mary thì rõ, nó khó lòng chịu xa rời một niềm vui thích đến nhường này, nhưng khi nó cất tiếng kể lại câu chuyện của nó thì không hiểu sao, những gì hiện lên trên khuôn mặt ngộ nghĩnh của ****on dần làm con bé thay đổi ý nghĩ. Nó nhận ra ****on còn xót xa cho Colin hơn cả nó. ****on ngước nhìn bầu trời, suy nghĩ.
        - Hãy lắng nghe tiếng chim hót mà xem... thế giới này dường như đang ngập tràn tiếng líu lo... tất cả chỉ còn là những âm thanh véo von, lảnh lót. Hãy nhìn chúng chao lượn, rồi lắng nghe chúng gọi nhau. Mùa xuân đang tới gần, muôn loài đều cất tiếng hát ca. Những chiếc lá đang mở dần ra làm ta thấy chúng được rõ hơn. Muôn vàn làn hương thuần khiết đang lan tỏa khắp không trung! - Thằng bé đưa chiếc mũi hếch lên hít một hơi dài - Thế mà anh chàng tội nghiệp ấy lại phải nằm nhà bó gối nhìn trần mà nghĩ ngợi lung tụng rồi gào thét. Ôi! Ông bạn! Chúng mình phải đưa cậu ấy ra ngoài này... chúng mình phải để cậu ấy được nhìn, được nghe và hít thở, bắt cậu ấy phải tắm mình trong ánh nắng mặt trời. Chúng mình đừng bỏ lỡ thời gian.
        Hễ tập trung vào điều gì là nó lại nói giọng Yorkshire đặc sệt, dù lúc khác nó thường cô chỉnh cái tiếng địa phương của mình sao cho Mary có thể hiểu được. Vậy mà Mary lại mê cái giọng Yorkshire đặc sệt của nó, và lại còn đang bắt chước theo. Con bé liền nói thử mấy câu cho vui.
        - Ấy, đấy, bọn mình phỏng... - Nó nói (câu này có nghĩa “ừ, thực vậy, chúng ta phải...”) - tôi sẽ bảo anh nghe trước tiên chúng ta phải làm gì. - Nghe con bé nói, thằng ****on nhe răng ra cười, bởi vì khi một cô bé cố uốn lưỡi sang giọng Yorkshire thì nghe thật kỳ khôi - Cậu ấy muốn gặp anh và cũng muốn được gặp cả Bồ hóng với Đại úy nữa. Khi nào trở vào nhà, tôi sẽ lập tức báo cho cậu ấy biết, nếu như anh bằng lòng đến gặp cậu ấy vào sáng mai... và mang theo mấy con vật của anh... và rồi... chẳng mấy nữa, chờ khi những cái cây đâm chồi nảy lộc, chúng ta sẽ đưa cậu ấy ra ngoài và anh sẽ đẩy xe cho cậu ấy, và ta sẽ mang cậu ấy đến đây, cho cậu ấy xem mọi thứ.
        Con bé dứt lời, thấy vô cùng hãnh diện về bản thân. Xưa nay, chưa bao giờ nó nói được một thôi một hồi bằng giọng Yorkshire như thế, kể ra thì nó có trí nhớ khá tốt.
        - Cô hãy thử nói mấy câu giọng Yorkshire như thế với Colin xem sao. - ****on cười tủm tỉm - Cô sẽ làm cậu ấy bật cười và chẳng gì có lợi cho một người ốm bằng được cười cho thỏa thích. Mẹ tôi vẫn bảo bà tin rằng một trận cười thỏa thích trong nửa tiếng mỗi sáng sẽ chữa lành một gã sắp lên cơn sốt phát ban [2].
        - Từ giờ hằng ngày, tôi sẽ nói giọng Yorkshire với cậu ấy. - Mary nói, ngay cả nó cũng bật cười.
        Khu vườn đã đến thời kỳ mà cứ mỗi ngày mỗi đêm trôi qua, dường như nó được lướt qua bởi các nhà ảo thuật gia và được họ vung những chiếc đũa thần vẽ nên vẻ yêu kiều trên mặt đất và các cành cây. Chẳng thể nỡ lòng bỏ mặc khu vườn mà đi, nhất là khi con Hạt dẻ đang rón rén bò trên vạt áo Mary, còn Vỏ sò thì đang bám trên thân cây táo có hai đứa ngồi dưới và cứ nguyên đó mà nhìn con bé với đôi mắt dò hỏi. Khi về đến nhà, Mary tới ngồi bên giường của Colin rồi bắt chước cái điệu khụt khịt của ****on, mặc dù không được giống cho lắm.
        - Người cậu toàn hương hoa, và cả hương gì thật tươi mát nữa, - Thằng bé kêu toáng lên vì vui thích - cậu có mùi gì mà vừa mát vừa ấm lại vừa ngọt ngào thế?
        - Đấy là bởi gió từ ngoài đồng hoang đưa đến - Mary bảo - Tớ đã ngồi trên bãi cỏ dưới một gốc cây với ****on và Đại úy và Bồ hóng và Hạt dẻ và Vỏ sò. Mùa xuân đang chờ ngay ngoài cửa và cả nắng ấm cũng có mùi hương ngào ngạt như thế.
        Con bé đã nói câu ấy với giọng Yorkshire đặc sệt nhất, và người ta khó mà hình dung được âm điệu Yorkshire ấy nặng ra sao cho tới khi được nghe ai đó nói ra. Colin bật cười.
        - Cậu làm cái trò gì thế? Xưa nay có thấy cậu nói thế bao giờ đâu. Giọng gì mà lạ thế.
        - Thì tớ đang thử cho cậu nghe mấy câu theo kiểu Yorkshire mà - Mary trả lời đắc thắng - Tớ không thể nói trơn tru như ****on và Martha, nhưng cậu thấy không, tớ có tiến bộ đấy chứ. Chẳng lẽ cậu không hiểu nổi một vài câu Yorkshire? Và bản thân cậu cũng là một gã Yorkshire được sinh ra và lớn lên nơi đây kia mà! Ôi! Tớ tự hỏi sao cậu không thấy ngượng nhỉ?
        Dứt lời con bé cất tiếng cười, rồị cả hai cùng cười lăn cười lóc, không sao nín được, cười vang khắp căn phòng khiến bà Medlock vội mở cửa bước vào hành lang và lắng nghe, vô cùng kinh ngạc.
        - Ủa! - Bà thốt lên bằng thứ giọng Yorkshire nặng trịch của chính bà, phần vì chẳng sợ ai nghe thấy. Bà tỏ ra hết sức sửng sót - Chưa từng thấy! Chẳng một ai trên đời có thể ngờ tới điều này!
        Thế là có bao chuyện để mà tán dóc. Có vẻ trước đó Colin chưa được nghe thỏa thích về ****on với mấy con Đại úy, Bồ hóng, Hạt dẻ và Vỏ sò, và nay lại thêm chú ngựa con có tên là Nhảy Phốc nữa. Mary đã phải chạy vòng vèo trong rừng cây cùng với ****on để tìm con Nhảy Phốc. Đấy là một con ngựa hoang bé tí sống ngoài cánh đồng, bộ lông bờm rậm rì rủ xuống hai bên mắt, với cái mặt xinh xắn dễ thương, cùng hai cánh mũi mượt như nhung lúc nào cũng rung rung. Ngựa con này khá gầy guộc vì chỉ sống bằng cỏ ngoài đồng hoang nhưng được cái bền bỉ và dẻo dai, như thể những bắp thịt trong các cẳng chân nhỏ xíu của nó được làm từ những chiếc lò xo thép. Nó ngẩng đầu hí lên khe khẽ lúc trông thấy thằng ****on, nó chạy nước kiệu tới bên rồi ngả đầu lên vai thằng bé. ****on nói rủ rỉ vào tai con vật, còn nó đáp lại bằng mấy tiếng khe khẽ lạ lùng, vừa phì nhè nhẹ vừa khịt khịt. ****on bảo nó giơ cái móng guốc phía trước của nó cho Mary bắt và hôn vào má con bé bằng cái mũi ươn ướt mịn như nhung của nó.
        - Nó có thực sự hiểu những điều ****on nói không? - Colin hỏi.
        - Có vẻ như nó hiểu - Mary đáp - ****on bảo con gì cũng hiểu được nếu người ta thực tâm là bạn với nó, mà trước hết phải là bạn bè thật sự cơ.
        Colin nằm lặng người giây lát, đôi mắt xám kỳ lạ của nó dường như đang đăm đắm nhìn vào bức tường, Mary nhận ra nó đang suy nghĩ.
        - Tớ ao ước được đánh bạn với tất cả, - Cuối cùng nó lên tiếng - vậy mà tớ không thể. Tớ chẳng có gì để làm bạn, mà tớ thì không thể chịu đựng được con người.
        - Cậu không thể chịu đựng được tớ?
        - Có chứ, - Nó đáp - chuyện này quả thật lạ lùng, tớ thậm chí còn quý mến cậu.
        - Ông Ben Weatherstaff bảo rằng tớ có cái gì đó giống ông ấy. Ông ấy bảo dám đánh cuộc rằng cả tớ với ông ấy đều có những điểm xấu như nhau. Tớ nghĩ cậu thì cũng giống y ông ấy. Cả ba đều giống nhau - cậu, tớ và ông Ben. Ông ấy nói tớ với ông ấy bề ngoài chẳng có gì hay, cũng cáu kỉnh như nhau. Nhưng giờ tớ không còn thấy bực tức như trước, kể từ khi tớ gặp được chim ức đỏ và ****on.
        - Cậu có cảm giác như thể căm ghét mọi người phải không?
        - Đúng vậy - Mary trả lời không chút màu mè kiểu cách - Tớ sẽ ghét cậu nếu tớ gặp cậu trước khi gặp chim ức đỏ và ****on.
        Colin đưa bàn tay gầy guộc chạm vào người con bé.
        - Mary ạ, tớ ước gì chưa bao giờ nói tới việc đuổi ****on đi. Tớ thấy tức khi cậu bảo cậu ấy tựa một thiên thần và tớ đã nhạo báng cậu, nhưng... nhưng có lẽ cậu ấy như thế thật.
        - Chà, cũng thật kỳ, - Con bé thẳng thắn thừa nhận - bởi vì mũi cậu ấy thì hếch, miệng thì rộng ngoác, quần áo lại vá chằng vá đụp, còn hễ nói thì rặt một thứ giọng Yorkshire đặc sệt, nhưng... nhưng nếu có một thiên thần hạ cánh xuống Yorkshire mà sống trên cánh đồng hoang... nếu có một thiên thần của xứ sở Yorkshire này... thì tớ tin rằng người ấy sẽ hiểu mọi loài cây và biết làm cho chúng đâm chồi nảy lộc, biết cách chuyện trò với những con thú hoang y như ****on đang làm và chúng sẽ nhận ra đó chính là người bạn đáng tin cậy.
        - Tớ không có ý bắt ****on đến đây gặp tớ, mà tớ muốn gặp ****on trước.
        - Tớ lấy làm mừng vì cậu đã nói thế, - Mary nói - bởi vì... bởi vì...
        Hoàn toàn bất chợt, trong đầu con bé lóe lên ý nghĩ rằng đây chính là lúc để nói cho cậu bạn biết. Colin cảm nhận có điều gì mới.
        - Bởi vì cái gì hả? - Thằng bé kêu to một cách háo hức.
        Mary lo lắng đến nỗi nó rời khỏi chiếc ghế đẩu, tiến tới bên Colin và cầm lấy hai bàn tay nó.
        - Tớ có thể tin tưởng ở cậu chứ? Tớ đã tin vào ****on bởi ngay lũ chim chóc cũng tin vào anh ấy. Liệu tớ có thể tin cậu... một cách chắc chắn... một cách chắc chắn? - Con bé khẩn khoản.
        Vẻ mặt nó trông nghiêm nghị đến nỗi thằng Colin gần như phải thì thầm khi trả lời nó.
        - Có... có chứ!
        - Được, ****on sẽ đến gặp cậu sáng mai, và sẽ mang theo mấy con vật của anh ấy.
        - Ôi! Ôi!... - Colin kêu lên vui sướng.
        - Nhưng thế chưa hết - Mary tiếp tục, mặt nó tái đi vì xúc động - Phần còn lại còn hay hơn nhiều. Có một cánh cửa dẫn vào bên trong khu vườn. Tớ đã phát hiện ra nó từ trước đây. Cánh cửa ẩn khuất dưới đám dây thường xuân trên bờ tường.
        Giá là một đứa trẻ khỏe mạnh thì có lẽ Colin đã hét tướng lên: “Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!” nhưng nó còn yếu quá, lại vừa trải qua cơn cuồng loạn; mắt nó mở to và nó phải thở hổn hển để lấy hơi.
        - Ôi! Mary này! - Nó kêu to, giọng đượm chút nghẹn ngào - Rồi tớ sẽ được trông thấy nơi ấy chứ? Tớ sẽ được vào bên trong phải không? Tớ sẽ còn sống để vào trong ấy chứ? - Thằng bé túm lấy hai bàn tay Mary và kéo nó lại gần mình.
        - Dĩ nhiên, cậu sẽ được trông thấy nó! - Mary gắt gỏng đầy phẫn nộ - Dĩ nhiên, cậu sẽ sống để vào trong đó! Đừng có mà ngốc thế!
        Con bé thật bình thản, tự nhiên và ngây thơ, đến mức khiến thằng bé kia phải trấn tĩnh lại và bắt đầu tự cười mình. Mấy phút sau, Mary tới ngồi trên chiếc ghế đẩu để kể cho Colin, không phải những gì nó tưởng tượng về khu vườn bí mật, mà là những điều có thực. Thằng Colin quên sạch mọi đau đớn mệt mỏi và say sưa lắng nghe.
        - Đó là những gì cậu nghĩ sẽ là như thế - Cuối cùng thằng bé lên tiếng - Nghe như thể cậu đã được nhìn tận mắt vậy. Cậu có nhớ tớ đã nói vậy, hôm cậu kể tớ nghe lần đầu ấy.
        Mary lưỡng lự ít phút rồi đánh bạo nói ra sự thật.
        - Tớ đã trông thấy... và tớ đã từng ở trong đó. Tớ đã tìm thấy chiếc chìa khóa, rồi vào hẳn được bên trong khu vườn từ mấy tuần trước. Nhưng tớ không dám kể cậu nghe. Tớ không dám bởi vì tớ e rằng tớ chưa thể tin tưởng ở cậu... hoàn toàn!



        Chú thích;
        [1] Nguyên văn: He’s been spoiled till salt won’t save him (cậu ấy đã bị làm hư thì dù có rắc muối cũng không cứu được cậu ấy), ở đây chỉ dịch lấy ý.
        [2] Typhus: bệnh lây nhiễm gây sốt, ốm yếu, trên cơ thể mọc lên những đốm đỏ tím; bệnh sốt Rickettsia.

        Comment


        • #19
          Chương XIX

          “Nó đã đến rồi đó!”



          Dĩ nhiên, bác sĩ Craven được mời tới ngay buổi sáng sau cái đêm Colin nổi cơn cuồng nộ. Hễ có chuyện như thế xảy ra là ông ta được mời tới ngay tức khắc. Lần nào tới nơi ông ta cũng thấy một thằng bé run rẩy, trắng bệch đang nằm vật vã trên giường, mặt mày u ám và vẫn còn trong cơn kích động đến nỗi chỉ chực òa lên thổn thức khi có ai mở miệng nói gì. Sự thực mà nói, bác sĩ Craven cũng rất kinh hãi và ngại ngần những lần đến thăm khó khăn đó. Vào dịp này, ông ta thường ra khỏi Trang viên Misselthwaite đến chiều mới về.
          - Cậu nhà thế nào? - Ông ta hỏi bà Medlock với giọng cáu kỉnh khi vừa đến nơi - Rồi sẽ có ngày cậu ta vỡ mạch máu vì một trong những cơn động kinh như thế cho mà xem. Thằng bé này cũng gần mất trí vì kích động và buông thả thái quá rồi còn gì.
          - Ồ, thưa ông, - Bà Medlock đáp - ông sẽ khó mà tin vào mắt mình khi ông thấy cậu ấy. Con bé với khuôn mặt cáu kỉnh và cũng khó ưa như cậu Colin đã bỏ bùa mê cho cậu. Con bé làm việc đó như thế nào thì không ai hay. Có Chúa chứng giám, nó chẳng có gì đặc biệt, chả mấy khi mở miệng lấy một câu, vậy mà nó lại làm được những điều mà không một ai trong chúng tôi dám làm. Đêm hôm qua, nó như một con mèo nhỏ chạy vụt đến chỗ cậu nhà rồi giậm chân ra lệnh cho cậu đừng có gào toáng lên làm cậu ấy giật mình hoảng hốt đến nỗi cậu ấy gần như nín bặt, và chiều hôm nay thì... chà, ông thử đến mà xem, thật không thể tin nổi.

          Cảnh tượng mà bác sĩ Craven trông thấy lúc tiến vào phòng bệnh nhân của mình quả thực khiến ông sửng sốt. Khi bà Medlock mở cửa ra, ông nghe thấy tiếng nói cười chuyện trò rôm rả. Colin ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sofa trong bộ quần áo mặc nhà, đang dán mắt vào bức hình của một trong những cuốn sách dạy làm vườn và nói chuyện với con bé có khuôn mặt tầm thường nọ, một khuôn mặt mà vào lúc ấy thì khó có thể bảo là tầm thường bởi nó đang ngời lên rạng rỡ.
          - Này, những ngọn tháp màu xanh này thì chúng mình sẽ có vô khôi. - Colin tuyên bố - Chúng gọi tên là Phi yến.
          - Nhưng ****on lại gọi là cây la lết [1] kia đấy - Cô chủ Mary kêu toáng lên - Và còn các khóm nhỏ này nữa.
          Thấy bác sĩ Craven bước vào cả hai liền im bặt. Mary ngồi im phăng phắc, còn Colin trông rõ ra dáng cáu kỉnh.
          - Chú lấy làm tiếc nghe tin cháu bị ốm đêm hôm qua, cháu yêu ạ. - Bác sĩ Craven nói hơi bồn chồn. Ông là người đàn ông có phần nhút nhát.
          - Bây giờ cháu đã khá hơn rồi, khá hơn rất nhiều. - Colin đáp lại, như một vị tiểu vương - Cháu định sẽ rời khỏi ghế ngồi trong một hai ngày tới, nếu thời tiết đẹp. Cháu muốn được hưởng không khí trong lành.
          Bác sĩ Craven ngồi xuống bên giường và xem mạch cho nó, đoạn ông nhìn nó một cách tò mò.
          - Nhưng phải vào một ngày đẹp trời kia, - Ông nói - và cháu cần hết sức thận trọng đừng để bị mệt quá.
          - Không khí trong lành chẳng thể làm cháu mệt. - Tiểu vương trẻ đáp.
          Bởi quý ngài trẻ tuổi đó đã nhiều lần la lối và một mực cho rằng không khí ngoài trời sẽ làm nó phải cảm và rồi hủy diệt nó, nên ta cũng chẳng lấy làm lạ khi vị bác sĩ kia phải giật mình.
          - Chú tưởng cháu chẳng ưa gì không khí ngoài trời?
          - Là như thế nếu cháu chỉ có một mình, - Vị tiểu vương đáp - nhưng bây giờ thì cô em họ sẽ đi cùng cháu.
          - Và dĩ nhiên cả cô bảo mẫu nữa. - Bác sĩ Craven gợi ý.
          - Không, cháu không cần bảo mẫu.
          Câu trả lời long trọng đến nỗi làm Mary liên tưởng đến một vị hoàng tử trẻ người bản xứ, trên mình đeo đầy kim cương cùng đồ trang sức nạm đá quý và ngọc trai, với bàn tay nhỏ đen nhẻm của chàng mang chiếc nhẫn gắn những viên hồng ngọc lớn và đang vẫy bọn gia nhân đến gần mà nhận lệnh.
          - Cô em họ đây biết phải lo cho cháu thế nào. Cháu luôn cảm thấy ổn mỗi khi có cô ấy bên cạnh. Đêm qua, nhờ cô ấy mà cháu thấy đỡ hẳn. Có một cậu bé rất khỏe mà cháu quen biết sẽ đẩy xe giúp cháu.
          Bác sĩ Craven cảm thấy hơi lo. Nếu cái thằng nhóc mắc chứng cuồng loạn và nhiễu sự này bỗng nhiên khá lên thì ắt hẳn ông sẽ mất hết mọi cơ hội thừa kế Misselthwaite; nhưng ông đâu phải người không có nguyên tắc đạo đức, dẫu rằng ông kém cỏi và yếu đuối, và ông không có ý định để mặc nó lao vào một nỗi nguy hiểm có thực.
          - Nhưng nó phải là một thằng bé thật thà, khỏe mạnh, - Ông nói - và chú phải được biết đôi điều về nó. Nó là ai? Tên nó là gì?
          - Đó là ****on! - Mary đột nhiên lên tiếng. Không hiểu sao nó cảm tưởng ai biết về cánh đồng hoang thì cũng phải biết ****on. Quả nhiên nó đúng. Trong giây lát, nó thấy khuôn mặt lo lắng của bác sĩ Craven dịu hẳn đi, ông mỉm cười nhẹ nhõm.
          - À, thì ra là ****on - Ông bảo - Nếu là ****on, cháu mới đủ an toàn. Cậu ấy khỏe như một con ngựa hoang ngoài đồng.
          - Anh ấy còn đáng tin cậy nữa - Mary bảo - Anh ấy là người đáng tin nhất ở xứ Yorkshire này.
          Con bé đang nói bằng thứ giọng Yorkshire cho Colin nghe, nó chợt quên khuấy điều đó.
          - ****on đã dạy cho cháu đấy à? - Bác sĩ Craven hỏi, nụ cười cởi mở.
          - Cháu đang học thổ ngữ vùng này, coi như tiếng Pháp vậy. - Mary đáp khá lạnh lùng - Thì cũng như một thứ tiếng địa phương ở Ấn Độ. Có rất nhiều người thông minh đang cố gắng học chúng. Cháu thích và Colin cũng vậy.
          - Được, được lắm - Ông Craven nói - Nếu như cái đó làm cháu thấy vui thì có lẽ nó cũng chẳng hại gì. tìêm qua cháu đã uống thuốc an thần chưa, Colin?
          - Chưa - Colin đáp - Lần đầu tiên cháu không phải dùng đến nó. Sau khi Mary giúp cháu dịu đi, cô ấy đã kể chuyện cho cháu ngủ... thật khẽ khàng... kể cháu nghe về mùa xuân đang len lỏi vào trong một khu vườn.
          - Nghe êm đềm quá - Bác sĩ Craven bảo, ông tỏ ra bối rối hơn bao giờ hết và quay sang liếc nhìn cô chủ Mary đang ngồi trên ghế đẩu, im lặng nhìn xuống tấm thảm - Rõ ràng cháu đã khá hơn, nhưng cháu cần phải nhớ rằng...
          - Cháu chẳng muốn nhớ gì hết - Vị tiểu vương trở mình và ngắt lời - Khi cháu nằm đây một rrùnh-mấ nhớ tới đủ mọi thứ thì cháu bắt đầu thấy đau đớn khắp người, cháu phải tưởng tượng đến những điều khiến cháu phải gào lên bởi vì cháu căm ghét chúng vô cùng. Nếu ở đâu đó có một ông bác sĩ có thể khiến chú quên rằng chú đang ốm thay vì phải nhớ tới điều vớ vẩn nào đó, thì hãy mang ông ấy tới đây ngay cho cháu. - Nói đoạn, thằng bé vẫy vẫy bàn tay gầy guộc, bàn tay lẽ ra phải đeo đầy nhẫn hồng ngọc vương giả của nó - Chẳng qua cô em họ đây đã khiến cháu quên hết những thứ đó nên mọi chuyện mới được vậy.
          Bác sĩ Craven chưa khi nào vội đi sau mỗi “cơn tam bành” của thằng bé; thường thì ông buộc phải ở lại rất lâu để làm đủ thứ việc. Nhưng chiều nay, ông chẳng thèm kê thuốc, chẳng hề dặn dò gì hết, và cũng tha thứ luôn cho những gì khiến ông khó chịu. Khi bước xuống cầu thang, nom ông có vẻ suy nghĩ. Và lúc ông dừng chân nói chuyện với bà Medlock trong thư viện, bà có cảm tưởng ông đang lúng túng hay bối rối về chuyện gì đó.
          - Vâng, thưa ông - Bà đánh bạo nói - ông đã có thể tin rồi chứ?
          - Đây chắc chắn là một giai đoạn mới của vấn đề - Ông bác sĩ bảo - Nhưng cũng không thể không thừa nhận rằng có tốt hơn trước.
          - Tôi tin rằng bà Susan Sowerby đã có lý. Tôi xin cả quyết thế. - Bà Medlock nói - Ngày hôm qua khi trên đường sang bên Thwaite, tôi có ghé vào ngôi nhà gianh của bà ấy để nói dăm ba câu chuyện. Bà ấy có bảo tôi: “Chà, Sarah Ann ạ, con bé chưa phải đứa được giáo dục tốt, và nó cũng chẳng xinh xắn gì, nhưng nó chỉ là một đứa trẻ, mà trẻ con chỉ cần trẻ con mà thôi”. Trước kia, Susan Sowerby và tồi, chúng tôi đã cùng đến trường với nhau đấy.
          - Bà ấy quả là một bảo mẫu chăm sóc người ốm tốt nhất mà tôi được biết - Bác sĩ Craven bảo - Kể từ hôm gặp bà ấy trong túp nhà gianh, tôi đã biết đây là cơ hội để tôi cứu được bệnh nhân của mình.
          Bà Medlock mỉm cười. Bà rất yêu quý bà Susan Sowerby.
          - Bà ấy luôn có cách của riêng mình. - Bà tiếp tục liến thoắng - Tôi đã suy nghĩ suốt buổi sáng một điều bà ấy nói hôm qua. Bà ấy bảo: “Một hôm tôi phải bảo ban bọn trẻ mấy câu sau khi chúng choảng nhau, tôi đã nhìn chúng mà nói rằng ‘Dạo mẹ còn đi học, thầy giáo dạy môn địa lý bảo trái đất này có hình giống quả cam, và trước khi lên mười thì mẹ đã phát hiện ra rằng cả quả cam này chẳng thuộc về ai cả. Không một ai được quyền sở hữu hơn một phần của nó và vì thế đôi khi dường như không có đủ các phần để đủ chia khắp lượt. Nhưng có phải không ai trong các con không nghĩ mình được có toàn bộ quả cam, hoặc rồi sẽ nhận ra mình đã mắc sai lầm, hoặc không nhận ra được cho tới khi phải có những cú đấm nặng nề. Những gì mà trẻ con học được từ trẻ con’ - Bà ấy bảo - ‘là chẳng nghĩa lý gì đâu khi cô chộp lấy cả quả cam, tất tật kể cả vỏ, bởi vì như thế thì rồi sẽ chỉ còn hạt thôi, mà hạt cam thì đắng lắm’.”
          - Bà ấy quả là một phụ nữ khôn ngoan sắc sảo. - Bác sĩ Craven vừa nói, vừa mặc áo khoác.
          - Vậy đấy, bà ấy đẵ nói rặt những chuyện như vậy đấy - Bà Medlock kết thúc, hể hả ra mặt - Thỉnh thoảng tôi vẫn phải bảo bà ấy: “Này, chị Susan, giá chị ở một vị thế khác và đừng có cái giọng Yorkshire đặc sệt như vậy thì khối bận tôi phải nói rằng chị quả là thông minh”.

          Đêm ấy, Colin ngủ say tít không một lần thức giấc. Khi choàng tỉnh dậy vào buổi sáng, nó vẫn nằm dài, mỉm cười không duyên cớ, bởi nó cảm thấy dễ chịu lạ lùng. Giờ này thức dậy thật là hay. Nó vươn người, duỗi chân duỗi tay một cách thoải mái. Nó có cảm tưởng những sợi dây căng cứng trong cơ thể nó lúc này đang chùng xuống và cho phép nó đi lại dễ dàng. Nó không biết cả ông bác sĩ Craven cũng phải thừa nhận thần kinh nó đã được thư giãn và nghỉ ngơi. Thay vì nằm lì trên giường giương mắt nhìn các bức vách và ước ao đừng thức dậy, tâm trí nó lúc này đầy ắp các kế hoạch mà nó đã cùng với Mary vạch ra hôm qua, cùng những hình ảnh về khu vườn, về ****on và các con thú hoang của thằng bé. Thật tuyệt vời biết bao khi ta có thứ gì đó để mà nghĩ đến. Nó còn chưa chịu dậy cho tới khi nghe có tiếng chân người chạy ngoài hành lang và Mary xuất hiện bên cửa ra vào. Ngay sau đó, con bé đã ở trong phòng. Nó chạy tới bên giường thằng bé, mang theo một làn không khí trong lành đầy ắp hương thơm buổi sáng.
          - Cậu đã ra ngoài! Đã ra ngoài rồi kia à! Còn sực nức mùi thơm dễ chịu của cây cỏ! - Thằng bé kêu lên.
          Con bé vừa chạy về, tóc nó buông xõa ra, hồ hởi vì khí trời, hai má hồng rực, mặc dù thằng bé không nhận thấy điều ấy.
          - Thật là đẹp! - Mary vừa nói, vừa thở hổn hển, vì chạy nhanh - Cậu chưa bao giờ nhìn thấy cái gì đẹp đến thế đâu. Nó đến rồi đó! Mình cứ ngỡ nó đã đến vào một buổi sáng nào rồi cơ, không ngờ chỉ vừa mối. Bây giờ nó đang ả đây! Mùa xuân đến rồi! ****on bảo thế!
          - Đến rồi sao? - Colin kêu lên, và mặc dù thực sự nó không rõ là cái gì, nó vẫn cảm thấy tim mình đập mạnh. Nó ngồi bật dậy trên giường.
          - Mở cửa sổ ra! - Nó nói thêm rồi bật cười vì niềm phấn khích, và bởi tưởng tượng của riêng nó. - Có lẽ chúng ta có thể nghe thấy tiếng kèn trompét [2] vàng đâu đây!
          Mặc cho thằng bé đang cười, Mary lưu lại bên cửa sổ một lúc, và mỗi lúc trôi qua, sự tươi mát, dịu dàng, hương thơm và cả tiếng chim đang ca hót lại càng tràn ngập vào trong căn phòng.
          - Đó là không khí trong lành - Con bé nói - Hãy nằm xuống và hít một hơi thật sâu. ****on vẫn làm vậy khi nằm trên đồng hoang. Anh ấy bảo anh ấy cảm thấy khí trời tỏa đi trong từng mạch máu của mình, khiến anh ấy khỏe mạnh và có cảm tưởng rồi mình sẽ sống mãi. Cậu hãy hít lấy nó, hít nữa đi.
          Con bé chỉ nhắc lại những điều ****on đã nói cho nó, nhưng nó nhận ra sự ngạc nhiên thích thú của Colin.
          - Mãi mãi! Cái đó khiến cậu ấy cảm thấy thế sao? - Thằng Colin bảo, rồi làm theo lời Mary, hít liền mấy hơi thật sâu, cho tới khi nó cảm nhận ra một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ và hứng khỏi đang đến với nó.
          Mary đến bên giường thằng bé.
          - Cây cối đang đua nhau vươn khỏi mặt đất - Nó hối hả nói - Hoa đang tỏa cánh chứ không cuộn mình, mọi thứ đều đâm chồi nảy lộc, cả một tấm mạng xanh đang che phủ hầu như nơi nơi, chim chóc bận rộn bên tổ của chúng như sợ rằng chúng có thể đến trễ, đến nỗi một vài đôi còn choảng nhau để giành chỗ trong khu vườn bí mật. Chỗ hạt giống bọn tớ trồng giờ đã nhú mầm xanh mượt. ****on còn mang theo cáo, quạ, hai chú sóc và cả một con cừu non mới sinh nửa chứ.
          Nói đoạn, nó dừng lại lấy hơi. Con cừu non mới sinh ấy ****on đã tìm thấy ba ngày trước, lúc nó nằm bên xác cừu mẹ giữa mấy bụi kim tước ngoài cánh đồng hoang. Đây không phải con cừu non mất mẹ đầu tiên mà thằng bé bắt gặp. ****on biết phải làm gì với con vật tội nghiệp, liền mang con vật về ngôi nhà gianh, bọc nó trong chiếc áo khoác của mình, đặt nó nằm gần ngọn lửa rồi cho nó uống sữa ấm. Con vật mềm mại như cục bông, cái mặt như một đứa trẻ thơ đáng yêu, cùng mấy cẳng chân khá dài so với thân thể. ****on đã ôm nó trên tay khi vượt qua cánh đồng hoang, còn chai sữa cho con vật thì thằng bé để bên túi áo, cùng với một con sóc. Khi Mary ngồi xuống dưới một gốc cây với cái vật âm ấm ẻo lả ấy nằm cuộn tròn trên vạt váy của mình, con bé cảm thấy trong lòng tràn ngập một niềm vui kỳ diệu khó nói thành lời. Một chú cừu non! Một chú cừu non! Một con cừu non sống hẳn hoi đang nằm trên vạt váy nó như một đứa trẻ!
          Con bé đang say sưa miêu tả chuyện đó, còn Colin lăng nghe và hít thở không khí thì cô bảo mẫu bước vào. Cô hơi giật mình sửng sốt trước cảnh cửa sổ để ngỏ. Cô đã phải chịu cảnh kín hơi trong căn phòng ấy nhiều bận, kể cả những ngày ấm áp bởi vì bệnh nhân của cô luôn cả quyết rằng cửa sổ để ngỏ sẽ khiến người ta bị ho.
          - Cậu chắc cậu không bị lạnh chứ, cậu Colin. - Cô gặng hỏi.
          - Không - Nó trả lời - Tôi đang hít thật sâu vào người làn không khí trong lành. Nó làm tôi thấy khỏe hẳn ra. Tôi định ra sofa để dùng bữa sáng, và cô em họ sẽ cùng ăn với tôi.
          Cô bảo mẫu ra khỏi phòng, cô giấu một nụ cười. Cô đi yêu cầu người ta chuẩn bị hai suất ăn sáng. Đối với cô, gian phòng lớn dành cho gia nhân thú vị hơn căn phòng của người ốm và ở đó lúc này ai nấy đều háo hức muốn nghe tin tức từ trên gác. Có nhiều lời đùa cợt về anh chàng ẩn dật khó ưa đó, như anh bếp đã nói: “Cậu chủ đã tìm được thầy cho cậu rồi đấy, vậy mà tốt!” Đám gia nhân từ lâu đã quá ư mệt mỏi với những trận cuồng phong kích động của cậu, còn lão quản gia, vốn được coi như người trong nhà, cũng có lần phải bảo với cái kẻ ốm o ấy thì chỉ còn mỗi cách là “yêu cho vọt”.
          Khi Colin đã yên vị trên chiếc sofa cùng với bữa sáng cho hai đứa được dọn trên bàn, nó mới tuyên bố với cô bảo mẫu bằng cung cách tiểu vương nhất của mình.
          - Sáng hôm nay, có một anh bạn cùng với một con cáo, một con quạ, hai con sóc và một con cừu non mới sinh sẽ tới đây thăm tôi. Tôi muốn bọn họ được đưa lên gác ngay khi tới nơi. Cô không được đùa với các con vật trong phòng gia nhân hay giữ chúng ở đó. Tôi muốn chúng ở đây.
          Cô bảo mẫu há hốc mồm và cô trấn tĩnh bằng một điệu ho.
          - Vâng, thưa cậu. - Cô đáp.
          - Tôi sẽ bảo cô những gì cô cần làm - Colin nói thêm, rồi khoát tay - Cô bảo Martha đưa chúng lên đây. Cậu bé là em trai chị Martha. Tên cậu ấy là ****on, cậu ấy là người biết cách thu phục muông thú.
          - Tôi hy vọng lũ súc vật sẽ không cắn, thưa cậu Colin. - Cô bảo mẫu nói.
          - Tôi vừa bảo cô, cậu ấy là người biết cách thu phục muông thú mà - Colin nói một cách nghiêm nghị - Các con thú trong tay người thuần dưỡng không bao giờ cắn.
          - Những người dụ rắn ở Ấn Độ, - Mary nói - họ có thể đưa cả đầu các con rắn của họ vào tận trong miệng cơ.
          - Lạy Chúa lòng lành! - Cô bảo mẫu rùng mình kêu lên.
          Hai đứa ăn bữa sáng trong bầu không khí trong lành cùa buổi ban mai. Món điểm tâm của Colin rất ngon, Mary ngắm nhìn nó với vẻ mặt quan tâm.
          - Rồi cậu sẽ béo ra như tớ. Tớ chẳng bao giờ muốn dùng bữa sáng hồi ở Ấn Độ, còn bây giờ thì lúc nào cũng thấy thích.
          - Chỉ sáng nay tớ mới muốn chén. Có lẽ nhờ không khí. Cậu bảo khi nào ****on tới?
          Quãng đường để ****on đến đây cũng chẳng lấy gì làm xa. Mười phút sau đã thấy Mary giơ hai tay lên trời.
          - Nghe kìa! - Con bé nói - Cậu có nghe thấy tiếng quạ quạ không?
          Colin lắng tai và nhận ra tiếng ấy, đó quả là âm thanh kỳ quặc nhất trên đời khi ta nghe thấy nó bên trong một ngôi nhà - một tiếng khàn cộc cằn: “quạ - quạ”.
          - Có. - Thằng bé trả lời.
          - Con Bồ hóng đấy - Mary bảo - Chú ý lần nữa nào! Cậu có nghe tiếng be be nhỏ xíu ấy không?
          - Ồ, phải rồi! - Colin hét lên, mặt đỏ bừng.
          - Ấy là tiếng chú cừu mới sinh, - Mary bảo - cậu ấy đang đến.
          Tiếng đôi giày ống từng đi khắp đồng hoang của ****on nằng nặng vụng về, và mặc dù đã cố bước thật êm, chúng vẫn phát ra tiếng thình thịch khi bước qua những hành lang dài hun hút. Mary và Colin nghe tiếng chân đều đều bước, qua cánh cửa có treo tấm thảm thêu và dừng lại trên miếng thảm mềm ở lối đi riêng của Colin.
          - Nếu cậu vui lòng, thưa cậu - Martha vừa lớn tiếng, vừa mở cửa - Nếu cậu vui lòng, thưa cậu, thì đây là ****on cùng mấy con thú của anh ấy.
          ****on bước vào phòng, miệng cười rạng rỡ. Con cừu mới sinh vẫn nằm trên tay thằng bé, con cáo đỏ bé tí quấn quýt bên chân nó. Hạt dẻ ngồi bên vai trái, Bồ hóng đỗ trên vai phải, cái đầu của Vỏ sò cùng mấy chiếc móng chân thập thò ngoài miệng túi áo khoác của nó.
          Colin chầm chậm ngồi dậy, mắt nhìn trân trân không chớp. Nó từng nhìn Mary như vậy vào buổi đầu trông thấy con bé. Nhưng lúc này đây là cái nhìn kinh ngạc và vui sướng. Sự thật trước mắt này khác hẳn với những gì nó đã từng nghe, chí ít nó cũng không thể hình dung nổi vì sao anh chàng này và con cáo, con quạ, hai con sóc, chú cừu non lại có thể gần gụi nhau đến vậy, đến mức chúng hầu như là một phần của con người ****on vậv. Trong đời mình, Colin chưa từng chuyện trò với một thằng bé nào, từ đáy lòng nó tràn ngập niềm vui và sự háo hức tò mò đến nỗi không thốt nổi thành lời.
          Nhưng ****on chẳng mảy may ngại ngùng hay ngượng ngập. Nó không cảm thấy bối rối, bởi lần đầu tiên gặp nhau con quạ cũng đâu có hiểu ngôn ngữ của thằng bé mà chỉ giương mắt nhìn, chẳng nói chẳng rằng. Mọi sinh vật đều như vậy cho tới lúc chúng hiểu về bạn. Nó bước tới bên ghế sofa của Colin, lặng lẽ đặt chú cừu non lên vạt áo thằng bé, và con vật be bé ấy ngay lập tức cựa quậy trong chiếc áo khoác nhung ấm áp rồi bắt đầu rúc rúc vào các nếp gấp của áo, húc cái đầu xoăn tít lông của nó vào bên sườn thằng bé. Dĩ nhiên, thằng Colin chẳng thể nào có thể ngồi yên lặng được nữa.
          - Nó làm gì thế này? - Colin kêu tướng lên - Nó muốn gì thế?
          - Nó muốn mẹ của nó - ****on đáp rồi lại mỉm cười - Tôi mang nó đến cho cậu vào lúc nó hơi đói, bởi tôi biết cậu thích nhìn nó bú.
          Rồi ****on quỳ xuống bên chiếc sofa, lấy chai sữa từ trong túi ra.
          - Nào, cừu bé bỏng của ta - Nó nói rồi với bàn tay rám nắng mà thanh tú, nó xoay nhẹ cái đầu lông trắng xoăn xoăn nhỏ xinh về phía mình - Xem đằng sau mày có gì này. Mày nốc cho cạn đi, còn hơn là rúc vào áo nhung. Nào, thế nhé. - Nói đoạn nó ấn núm vú cao su của chai sữa vào cái miệng đang rúc ráy tìm hơi. Con cừu non bắt đầu tợp lấy tọp để núm vú.
          Sau đó, mọi chuyện thật dễ hiểu. Con cừu lăn ra ngủ, rồi là hết câu hỏi này đến câu hỏi khác dồn dập đưa ra và ****on trả lời tất thảy. Nó kể cho hai đứa, nó đã tìm thấy con cừu như thế nào vào lúc mặt trời lên cách đây ba buổi sáng, vào lúc nó đang đứng trên đồng hoang nghe chim chiền chiện hót, ngắm cánh chim bay vút lên cao, cao mãi giữa bầu trời xanh thẳm, cho tới khi chỉ còn là một cái chấm trong không trung vời vợi.
          - Nó hầu như mất hút trước mắt tôi, ngoại trừ tiếng hót, tôi tự hỏi không biết tại sao người ta còn nghe được tiếng hót ấy khi dường như anh ta đã thoát ly khỏi thế gian này trong giây lát... và chính lúc ấy tôi nghe một âm thanh gì đó phát ra từ bụi kim tước. Thì ra là tiếng be be yếu ớt và tôi hiểu một con cừu mới lọt lòng đang khát sữa mẹ. Tôi cũng thấy ngay nó sẽ không bị đói nếu không lạc mất mẹ vì một lý do nào đấy, thế là tôi bèn đi tìm. Chà! Tôi đã thấy nó. Tôi cứ ra ra vào vào giữa những bụi kim tước, rồi lại đi vòng quanh, và có vẻ như tôi luôn rẽ nhầm. Nhưng cuối cùng, tôi thấy một vật gì trăng trắng bên tảng đá trên một gò đất cao của cánh đồng hoang, bèn leo lên đó và phát hiện ra con vật tí hon này đang ngắc ngoải vì lạnh và đói.
          Trong lúc nó kể chuyện, Bồ hóng trịnh trọng bay ra bay vào cánh cửa sổ để ngỏ, miệng kêu quạ quạ như để bình phẩm về cảnh tượng. Hạt dẻ và Vỏ sò thì dạo chơi trong vòm lá của mấy cây to bên ngoài cửa, chạy lên chạy xuống dọc thân cây rồi thập thò qua các kẽ lá. Còn Đại úy nằm cuộn tròn gần ****on, lúc này được ưu tiên ngồi trên tấm thảm trải trước lò sưởi.
          Bọn trẻ dán mắt vào các bức tranh trong mấy cuốn sách về vườn tược. ****on biết tên địa phương của tất cả các loài hoa, nó còn biết chính xác loài nào hiện đang mọc trong khu vườn bí mật.
          - Tôi không biết tên của loài này, - Nó nói và đưa tay chỉ một loài hoa bên dưới có dòng chữ “Aquilegia” - nhưng chúng tôi gọi nó là columbine [3], còn kia là hoa mõm chó [4], cả hai đều mọc hoang dại nơi các bờ giậu nhưng ở đây, được trồng trong vườn, trông chúng lớn hơn và sang trọng hơn. Đây là mấy khóm columbine lớn trong vườn, tựa như một tấm thảm màu xanh pha trắng có ong bướm rập ròn bay lượn vào mùa ra hoa.
          - Tớ phải đi xem chúng mới được! - Colin kêu to - Tớ phải đi xem chúng mới được!
          - Đúng đấy! Cậu nên đi. - Mary nói với vẻ thật nghiêm túc - Và cậu cũng đừng để lỡ thời gian nữa.

          -

          Chú thích:

          [1] Delphinium hoặc còn gọi là larkspur: cây họ cao trồng trong vườn, có hoa màu xanh, hồng hoặc trắng; cây phi yến; cây la lết.
          [2] Trumpet: nhạc cụ bằng đồng có âm điệu rung vang vui tươi.
          [3] Columbine: cây trong vườn có cánh hoa mỏng nhọn.
          [4] Snap dragon (còn có tên khác là antirrhinum): loại hoa trong vườn có cánh hình túi mở ra khi lấy tay bóp; hoa mõm chó.

          Comment


          • #20
            Chương XX

            “Tớ sẽ sống mãi! - Mãi mãi!”

            Vậy mà bọn trẻ buộc phải chờ hơn một tuần lễ nữa, bởi mấy ngày sau đó gặp phải những cơn gió lộng tơi bời, lại thêm việc Colin cộ nguy cơ cảm lạnh, hai chuyện đó, chuyện này nôi tiếp chuyện kia, đã đẩy Colin vào một cơn thịnh nộ. Nhưng rồi chúng còn phải vạch kế hoạch sao cho thật công phu và bí mật, và ****on hầu như ngày nào cũng đến chơi, dù chỉ trong ít phút, để kể chúng nghe những việc đang diễn ra ngoài cánh đồng hoang, trên những lối mòn, hàng giậu và hai bên bờ suôi. Những chuyện của nó thường là về ngôi nhà của bọn lửng [1], rái cá [2] và chuột nước [3], và còn chưa kể các tổ chim, chuột đồng và hang hốc của chúng. Chỉ riêng những chuyện đó thôi cũng đủ khiến người ta run lên vì thích thú, nhất là khi được nghe mọi điều riêng tư về muông thú từ miệng một người yêu quý chúng và người ta nhận ra rằng toàn thể thế giới nơi lòng đất lúc này đây đang bận rộn với niềm náo nức và hăm hở đến nhường nào.

            - Chúng cùng giống như chúng ta thôi. - ****on nói - Chỉ có điều mỗi năm chúng lại phải xây nhà một lần. Điều đó khiến chúng phải lo giành giật cho được những chỗ tốt.
            Tuy nhiên, hấp dẫn nhất là việc chuẩn bị để đưa Colin ra ngoài, trong khi vẫn giữ kín điều bí mật cho khu vườn. Không ai được nhìn thấy chiếc xe đẩy cùng ****on và Mary sau khi chúng rẽ vào một góc quanh có bụi cây, rồi tiến vào lối đi dạo bên ngoài mấy bức tường phủ dây thưòng xuân. Mỗi ngày trôi qua, Colin càng tâm niệm rằng điều bí mật xung quanh khu vườn là một trong những nét đáng yêu nhất của nơi ấy. Không gì có thể làm hỏng điều đó. Và không ai có thể ngờ rằng bọn trẻ có cả một bí mật. Mọi người chắc sẽ đơn giản nghĩ rằng Colin ra ngoài cùng với Mary và ****on bởi nó mến hai đứa ấy và không muốn để ai nhìn thấy. Bọn trẻ đã vui vẻ bàn tán rất lâu về lộ trình của chúng. Chúng tính sẽ đi ngược lên đường mòn này rồi tạt xuống đường mòn kia, vượt ngang lối đi nọ, từ đấy đi vòng vèo giữa các luống hoa có vòi phun, như thể chúng đang ngắm nghía những thảm cây được cắt tỉa gọn gàng mà người quản vườn, ông Roach, đã dày công cho sắp đặt. Chuyện đó thật hợp lý, nên sẽ chẳng ai mảy may ngờ rằng ở đây có điều gì đó bí hiểm. Rồi chúng sẽ tạt vào các lối đi có nhiều cây bụi để cho khuất dạng, cho tới khi đến bên những bức tường dài. Đó quả là những dự tính nghiêm túc và tỉ mỉ, chẳng khác nào bản kế hoạch tác chiến do các tướng lĩnh tài ba vạch ra.
            Những lời xầm xì về những chuyện mới mẻ khác thường trong phòng người ốm, dĩ nhiên, đã lan ra, từ phòng gia nhân sang khu chuồng ngựa cho tới đám thợ làm vườn. Vậy nhưng, chẳng hề hay biết gì, một bữa nọ ông Roach giật mình khi nhận được lệnh từ phòng riêng của cậu Colin rằng ông phải thân chinh đến báo cáo tại căn phòng chưa người ngoài nào được thấy đó, bởi kẻ ốm o kia muốn nói chuyện với ông.
            - Chà, chà - Ông nhủ thầm khi vội vã thay áo khoác - Bây giờ ta biết làm gì đây? Vị hoàng thân không thể cho gọi một kẻ mà ông ta chẳng bao giờ thèm để mắt.
            Ồng Roach không khỏi tò mò. Ông chưa bao giờ thấy, thậm chí dù chỉ thoáng qua, bóng dáng thằng bé đó. Ông cũng đã nghe hàng tá những câu chuyện đồn thổi về diện mạo kỳ quặc và tâm tính khác thường của nó. Những gì mà ông hay được nghe nhất, đó là thằng bé có thể chết bất kỳ lúc nào, cùng với một lô một lốc những mô tả kỳ khôi về một người gù lưng và những cái bướu vô phương cứu chữa từ miệng những kẻ chưa bao giờ nhìn thấy cậu.
            - Biết bao điều đang đổi thay trong ngôi nhà này, ông Roach ạ. - Bà Medlock bảo khi bà đưa ông lên đoạn cầu thang phía sau dẫn tới hành lang, từ đó mở thông sang gian phòng ngủ mà cho đến giờ vẫn chìm trong màn bí ẩn.
            - Hy vọng mọi thứ đổi thay theo chiều hướng tốt, thưa bà. - Ông đáp.
            - Không thể xấu đi được, - Bà tiếp tục - và lạ lùng không kém là bọn trẻ đã biết bổn phận của chúng, nên cũng thấy dễ chịu hơn nhiều. Ông đừng có ngạc nhiên, ông Roach, nếu bất chợt nhận thấy mình đang ở giữa một bầy thú, và thấy thằng ****on em trai Martha ở đó thoải mái như ở nhà, còn hơn cả ông và tôi.
            Thật sự thì như có một thứ phép lạ gắn liền với cái tên của ****on như Mary vẫn thầm tin tưởng. Ông Roach vừa nghe tên cậu liền mỉm cười khoan dung.
            - Với thằng bé này thì dù có ở Điện Buckingham hay dưới đáy hầm than thì cũng như ở nhà thôi. - Ông nói.
            - Nó cũng chưa bao giờ láo xược. Nó là người tốt.
            Có thể ông đã chuẩn bị tinh thần hay chính ông cũng bị bất ngờ. Khi cánh cửa phòng ngủ mở ra, một con quạ to tướng, như thể đang ở nhà nó, đậu lên lưng tựa cao của chiếc ghế chạm trổ, loan báo sự có mặt của vị khách bằng cách kêu tướng lên “quạ - quạ”. Dù đã có lời báo trước của bà Medlock, ông Roach vẫn phải cố giữ tư thế thăng bằng cách nhảy lùi về phía sau.
            Vị tiểu vương trẻ không nằm trên giường mà cũng không ngả lưng trên sofa. Cậu ta đang ngồi trong ghế bành, con cừu non đứng cạnh ve vẩy đuôi đúng điệu cừu non bú mẹ, trong khi ****on quỳ giữ chai sữa cho nó. Một con sóc ngồi trên cái lưng khom khom của ****on đang mải mê nhằn hạt dẻ. Còn con bé đến từ Ấn Độ ngồi trên chiếc ghế đẩu lớn chăm chú nhìn ra.
            - Thưa cậu Colin, đây là ông Roach. - Bà Medlock bảo.
            Vị tiểu vương trẻ quay ra nhìn người nô bộc của mình từ đầu đến chân - chí ít đó là điều mà người quản vườn đã nghĩ.
            - Ô, ông Roach đấy à - Nó nói - Tôi cho gọi ông để giao cho ông mấy việc quan trọng.
            - Tốt quá, thưa ngài. - Ông Roach đáp lại, tự nhủ không biết có phải mình sắp nhận được lệnh đốn bỏ toàn bộ sồi trong công viên hay chuyển vườn cây ăn quả thành vườn thủy tạ.
            - Tôi định ra khỏi nhà vào chiều nay - Colin bảo - Nếu khí trời hợp với tạng người tôi thì tôi có thể sẽ đi dạo hàng ngày. Mỗi khi tôi đi dạo thì không người làm vườn nào được phép có mặt ở bất kể nơi đâu gần với lối đi dạo ven các bức tường bao quanh khu vườn. Không một ai được phép ở đó. Khoảng hai giờ chiều tôi sẽ ra khỏi nhà và mọi người phải tránh xa cho tới khi tôi bảo rằng họ có thể quay trở về làm việc.
            - Dạ, tốt quá, thưa ngài. - Ông Roach lặp lại và cảm thấy nhẹ cả người khi rặng sồi vẫn còn và các vườn cây ăn quả vẫn yên ổn.
            - Cô Mary, - Colin vừa nói vừa ngoảnh sang con bé - ở Ấn Độ người ta nói gì khi họ kết thúc câu chuyện và muốn mọi người đi ra.
            - Người ta bảo: “Ngươi được phép lui”. - Mary đáp.
            Vị tiểu vương vẫy tay ra hiệu.
            - Ông được phép lui, ông Roach, nhưng cần nhớ rằng việc này rất hệ trọng.
            “Quạ - quạ”, con quạ phụ họa bằng giọng khàn khàn, nhưng không hề vô lễ.
            - Tốt quá, thưa ngài. Cảm an ngài. - ông Roach bảo. Rồi bà Medlock đưa ông ra khỏi phòng.
            Ra tới hành lang, vốn bản chất hiền hậu, ông cứ mỉm cười mãi cho tới khi cười lên thành tiếng.
            - Lạy trời! - Ông bảo - Cậu ấy có một phong cách quý tộc rất ư tao nhã, phải không? Bà có cho rằng cậu ấy thừa hưởng cả truyền thống Hoàng gia trong người mình, như một vị hoàng phu và gì gì nữa chứ?
            - Hừ! - Bà Medlock biểu lộ sự không tán thành - Chúng ta đã để cho cậu ấy giẫm đạp lên tất cả kể từ khi cậu ấy chập chững biết đi, và cậu ấy quen nghĩ mọi người sinh ra là để như vậy.
            - Có thể rồi đây cậu ấy sẽ không còn như thế, nếu cậu ấy sống. - Ông Roach gợi ý.
            - Chà, đó là điều có thể tin được, - Bà Medlock nói - nếu cậu ấy sống và đứa trẻ từ Ấn Độ còn ở đây. Tôi cam đoan rằng con bé đã khiến cậu ta hiểu rằng quả cam không chỉ thuộc về một người, như bà Susan Sowerby đã ví von. Và đây có vẻ là lúc thích hợp để cậu ấy khám phá xem phần cam của cậu ấy là bao nhiêu.
            Bên trong căn phòng, Colin đang ngồi tựa lưng vào tấm nệm.
            - Vậy là tất cả đều ổn, - Nó nói - chiều nay mình sẽ nhìn thấy nó, chiều nay mình sẽ được ở trong đó.
            ****on trở lại khu vườn cùng với mấy con thú. Mary vẫn ở bên Colin. Con bé không nghĩ Colin đang mệt, nhưng thằng bé hoàn toàn im lặng trước khi bữa trưa được dọn ra và suốt thời gian dùng bữa nó vẫn chẳng nói lấy một câu. Mary ngạc nhiên không hiểu tại sao, liền lên tiếng hỏi.
            - Colin này, cậu có đôi mắt to thật. Khi cậu đang suy nghĩ điều gì thì trông chúng như hai chiếc đĩa vậy. Lúc này, cậu đang nghĩ gì thể?
            - Tớ chịu không thể hình dung nổi trông nó ra sao. - Thằng bé đáp.
            - Khu vườn ấy à? - Mary hỏi.
            - Mùa xuân! - Thằng bé đáp - Tớ đang tự nhủ thực ra trước đây mình có bao giờ thấy nó. Tớ hiếm khi ra bên ngoài, mà hễ có ra thì tớ cũng chẳng thèm đoái hoài tới. Tớ thậm chí còn không nghĩ tới nó nữa kia.
            - Tớ chưa bao giờ thấy mùa xuân ở Ấn Độ, bởi vì làm gì có. - Mary nói.
            Khép kín và bệnh hoạn như chính cuộc đời nó đã sống, Colin thậm chí còn nhiều tưởng tượng hơn cả con bé. Ít nhất, nó cũng đã dành khá nhiều thời gian cho những cuốn sách đẹp có tranh.
            - Sáng nay, khi cậu chạy vào và bảo: “Nó đến rồi! Nó đến rồi!”, cậu khiến tớ cảm thấy hết sức kỳ lạ. Câu ấy vang lên như báo hiệu một cái gì đó đang đến, một đám rước linh đình đang tiến lại với những âm thanh huyên náo tuôn trào, lẫn trong tiếng nhạc. Tớ đã thấy một bức tranh như thế trong một quyển sách: đám đông những con người đáng yêu cùng bầy trẻ thơ đeo các tràng hoa, tay cầm nhành hoa, ai nấy nói cười, nhảy múa, tụ tập thổi sáo. Đó là lý do tại sao mà tớ bảo, “Biết đâu chúng mình sẽ được nghe tiếng kèn trompet bằng vàng”, và giục cậu mở toang cửa sổ ra.
            - Vui quá nhỉ! - Mary nói - Đó đúng là những gì mà người ta có thể cảm thấy. Và nếu như tất cả hoa lá, cây cỏ chim chóc và muông thú hoang dại cùng một lúc nhảy múa reo ca thì là cả một đám đông rồi còn gì! Tớ dám chắc rằng nếu chúng cùng nhảy nhót, ca hát và líu lo thì chắc hẳn sẽ làm nên bản hòa tấu tuyệt vời.
            Cả hai đứa cất tiếng cười, không phải bởi ý tưởng buồn cười, mà bởi chúng đều thấy thích cảnh tượng đó vô cùng.
            Chỉ một lát sau, cô bảo mẫu đã sửa soạn xong cho Colin. Cô nhận thấy thay vì cứ nằm ì như một khúc gỗ tròng khi mặc quần áo thì hôm nay nó ngồi ngay dậy và gắng tự mình mặc lấy, trong suốt thời gian đó vẫn luôn mồm cười nói với Mary.
            - Đây là một trong những ngày vui vẻ của cậu ấy, thưa ngài - Cô nói với bác sĩ Craven vừa tạt qua để kiểm tra tình trạng thằng bé - Cậu nhà tinh thần thoải mái nên khỏe khoắn hẳn ra.
            - Tôi sẽ ghé lại lần nữa vào buổi chiều, sau khi cậu ấy vào trong nhà - Bác sĩ Craven bảo - Tôi phải xem việc ra ngoài có thích hợp với cậu ấy không. Tôi mong rằng, - Ông hạ thấp giọng - cậu ta để cô đi cùng.
            - Trong trường hợp này tôi thà từ chối, thưa ngài, còn hơn ở lại nghe theo lời gợi ý của ngài. - Cô bảo mẫu đáp lại thẳng thừng.
            - Quả tình tôi không định đưa ra lời gợi ý đó - Bác sĩ trả lời, vẻ hơi thiếu quyết đoán - Chúng ta cứ thử nghiệm xem sao. ****on là một anh bạn trẻ mà tôi hoàn toàn tin tưởng.
            Người hầu lực lưỡng nhất trong nhà đã bế Colin xuống tầng dưới, đặt nó vào chiếc xe lăn, gần chỗ ****on đang đứng đợi bên ngoài. Sau khi anh ta sắp lại tấm mền đắp lên đầu gối và tấm nệm của nó cho ngay ngắn, vị tiểu vương khoát tay bảo bác sĩ và cô bảo mẫu :
            - Các vị có thể lui.
            Hai người nhanh chóng biến mất. Cũng phải thú thật rằng họ đã khúc khích cười với nhau khi vào đến trong nhà.
            ****on bắt đầu đẩy chiếc xe lăn một cách chậm rãi, chắc chắn. Cô chủ Mary đi bên cạnh xe, Colin ngồi tựa lưng và ngẩng mặt nhìn bầu trời. Vòm trời cao vời vợi, mấy đám mây nhỏ trắng xóa như tuyết nom tựa một bầy chim trắng đang lững lờ sải cánh trên bầu trời xanh trong như pha lê. Làn gió từ cánh đồng hoang thổi tới, thoang thoảng hương thơm ngào ngạt, tinh khôi và hoang sơ. Colin rướn bộ ngực mảnh khảnh hít lấy hít để, lúc này như thể nó không nghe bằng tai nữa mà bằng cặp mắt to tướng của mình.
            - Có bao tiếng hát ca, ríu rít và gọi mời quanh ta - Colin nói - Mùi hương gì gió vừa đưa tới thế?
            - Đó là mùi hoa kim tước đang nở rộ ngoài đồng - ****on trả lời - Ồ! Ong bay ra nhiều thế này thì hôm nay trời đẹp lắm.
            Trên các nẻo đường mòn chúng đi không có lấy một bóng người nào. Thực ra đám làm vườn đã được dặn dò phải tránh đi chỗ khác. Nhưng chúng vẫn lẩn qua lẩn lại giữa các đám cây bụi, rồi lại ló ra và đi vòng qua các luống hoa. Rốt cuộc, khi bọn trẻ rẽ vào lối đi dạo bên mấy bức tường phủ đầy dây thường xuân, cái cảm giác phấn khích trước nỗi xúc động đang tới gần khiến chúng, vì một lý do kỳ lạ nào đó mà chúng không thể giải thích nổi, bắt đầu mở miệng thì thào với nhau.
            - Đây là, - Mary nói qua hơi thở - đây là nơi tớ thường đi tới đi lui và luôn lấy làm kinh ngạc.
            - Thế hả? - Colin khẽ kêu và đưa mắt nhìn đám dây thường xuân với nỗi tò mò háo hức - Nhưng tớ chẳng thấy gì hết - Nó thì thầm - Không có lấy một cánh cửa.
            - Đó chính là điều đã khiến tớ suy nghĩ. - Mary nói.
            Xung quanh im phăng phắc, không cả tiếng thở nhẹ, chiếc xe lại lăn bánh.
            - Kia là khu vườn nơi ông Ben Weatherstaff làm việc. - Mary bảo.
            - Thật hả? - Colin nói.
            Thêm mấy bước nữa, Mary lại thì thầm.
            - Còn đây là nơi con chim ức đỏ bay qua bức tường. - Con bé nói.
            - Thật chứ? - Colin kêu toáng lên - Ôi! Ước gì nó trở lại!
            - Và kia, - Mary nói với vẻ trang trọng xen lẫn thích thú, chỉ tay vào dưới bụi tử đinh hương [4] lớn - chính là nơi nó đậu trên một đống đất nhỏ mà chỉ cho tớ chiếc chìa khóa.
            Thế là Colin nhỏm hẳn người lên.
            - Đâu? Đâu? Chỗ đó hả? - Thằng bé kêu lên, đôi mắt mở thao láo như mắt sói. ****on đứng lặng yên, chiếc xe đẩy cũng dừng bánh.
            - Còn đây, - Mary nói, nó rón rén bước tới luống hoa gần đám dây thường xuân - là nơi tớ nói chuyện với nó khi nó từ trên bờ tường kia hót vọng xuống. Chỗ này là đám dây thường xuân bị gió thổi lật lên. - Nói đoạn con bé đưa tay vén tấm rèm màu xanh đang buông rủ xuống.
            - Ôi! Thế sao! - Colin thở hổn hển.
            - Và đây, cái tay nắm, còn đây là cánh cửa ra vào. ****on, đẩy cậu ấy vào trong đi, đẩy cậu ấy vào trong nhanh lên!
            ****on ra tay bằng một cú đẩy mạnh, chắc và hết sức tuyệt.
            Colin buông phịch người tựa vào tấm đệm, thở hổn hển vì sung sướng, nó đưa tay bưng kín mắt để không thấy gì cho tới khi cả ba đã vào tới bên trong, chiếc xe dừng khựng lại như có phép lạ và cánh cửa khép lại sau lưng. Chỉ đến khi đó nó mới bảo hai đứa đứng sang một bên rồi nhìn quanh một lượt, như ****on và Mary trước đây đã từng làm. Và trên bức tường, đất đai, cây cối cùng những cành nhánh mềm mại đang đung đưa trong gió là cả một tấm mạng màu xanh tuyệt đẹp do ngàn vạn chiếc lá nhỏ xíu mềm mại dệt thành đang phủ kín khắp nơi; trên bãi cỏ dưới bóng cây, nơi các bình xám trong hốc tường, chỗ này chỗ kia, hết thảy đều rực lên những đốm hoa màu vàng, tím, trắng; và những cây cao cũng đang khoe những đóa hoa màu phớt hồng và màu trắng như tuyêt ngay trên đầu thằng bé; rồi thì tiếng vỗ cánh đầy xao xuyến của chú chim nào đó và tiếng líu lo ngọt ngào mơ hồ, tiếng vo ve cùng muôn vàn mùi hương, vầng dương buông những tia nắng ấm áp lên khuôn mặt Colin giống như có một bàn tay mơn man dịu dàng. Trong ánh măt kinh ngạc, Mary và ****on sững người đăm đắm nhìn nó. Thắng bé trông thật lạ lùng và hoàn toàn khác trước bởi sắc diện ửng hồng ánh lên trên toàn bộ cơ thể nó - từ khuôn mặt trắng ngà cho đến cổ, hai bàn tay và tất cả.
            - Tớ sẽ khỏe! Tớ sẽ khỏe! - Nó gào to - Mary! ****on! Tớ sẽ khỏe mạnh! Và tớ sẽ sống mãi mãi!

            -
            Chú thích:

            [1] Badger: động vật thuộc họ chồn, màu xám có vằn đen và trắng trên đầu, sống trong hang dưới đất và ra ngoài hang vào ban đêm.
            [2] Otter: động vật nhỏ, sống ở sông, ăn cá, bốn chân bẹt có màng và lông dày.
            [3] Water-rat: động vật giống như con chuột, bơi dưới nước, sống trong hang bên bờ sông, bờ hồ.
            [4] Lilac: cây bụi có hoa màu tím nhạt hoặc trắng, mùi thơm dễ chịu.

            Comment


            • #21
              Chương XXII

              Lúc mặt trời lặn



              Khi đầu lão Ben vừa khuất khỏi tầm mắt, Colin quay sang bảo Mary.
              - Cậu đi gặp ông ấy đi.

              Mary băng qua bãi cỏ tới chỗ cánh cửa ẩn dưới đám dây thường xuân.
              Di ckon quan sát kỹ thằng Colin. Đã thấy những đốm hồng trên hai má nó và trông nó thật đáng kinh ngạc, không hề có vẻ sắp ngã.
              - Tớ có thể chịu đựng được, - nó ngẩng cao đầu nói, vẻ đầy kiêu hãnh.
              - Tôi đã bảo với cô Mary rằng chẳng chóng thì chầy cậu sẽ không còn sợ hãi nữa, - ****on bảo - và quả nhiên cậu đã không còn sợ thật.
              - Ừ, tớ chẳng thấy sợ gì nữa. - Colin bảo.
              Rồi đột nhiên, nó nhớ lại một điều Mary đã nói.
              - Cậu biết làm ra phép mầu phải không? - Nó bất ngờ hỏi.
              Cái môi cong cong của ****on toét ra nụ cười.
              - Bản thân cậu đang tạo ra phép mầu đấy chứ! Cũng giống như phép mầu đã làm nên mọi thứ trên thế giới này. - Mải nói chuyện, ****on suýt giẫm đôi giày ông nặng trịch của mình lên khóm nghệ tây mọc xen giữa vạt cỏ.
              Colin nhìn xuống khóm nghệ.
              - À, - Nó chậm rãi nói - chẳng gì có thể vĩ đại hơn phép mầu, chẳng gì có thể.
              Rồi nó lại thẳng người hơn trước.
              - Tớ định đi bộ tới cái cây kia xem sao - Nó vừa nói, vừa chỉ tay vào cái cây cách đó mấy bước chân - Tớ đã gần đứng được lúc ông Ben đến đây. Tớ có thể tựa vào cái cây nếu muốn. Khi nào thích ngồi thì tớ sẽ ngồi. Trước đây đâu có vậy. Bỏ hộ tớ cái chăn ra khỏi xe đi.
              Thằng bé bước về phía cái cây, và dù được ****on dìu một bên nách, nó vẫn bước đi vững chãi một cách đáng kinh ngạc. Đứng tựa vào thân cây cũng không phải chuyện đơn giản, và bởi nó cố giữ cho thẳng người nên trông nó cao hẳn lên.
              Khi lão Ben Weatherstaff bước qua cánh cửa ở chỗ hõm vào bức tường, lão đã thấy thằng bé đứng đó rồi, cùng lúc cứ nghe thấy Mary thì thầm gì đó.
              - Cô đang nói gì vậy? - Lão hỏi giọng gắt gỏng, lão không muốn xao lãng sự chăm chú vào thằng bé còm nhom đang rướn thẳng tấm thân dài ngoẵng cùng khuôn mặt kiêu hãnh của nó.
              Con bé không đáp lại. Nó cứ lẩm nhẩm mãi một câu :
              - Cậu có thể làm được việc đó! Cậu có thể làm được việc đó! Tớ đã bảo cậu rằng cậu có thể mà! Cậu có thể làm được việc đó! Cậu có thể!
              Con bé đang nói điều đó với chính Colin bởi nó muốn tạo ra một phép mầu, giữ cho thằng bé đứng thẳng trên đôi chân của mình. Nó không chịu đựng nổi, nếu Colin thất bại trước mặt lão Ben và thằng bé đã không hề thất bại. Mary phấn khích trước cái cảm giác bất chợt rằng trông Colin thật đẹp, bất chấp hình dong gầy gò của nó. Còn thằng kia thì đang nhìn như dán mắt vào lão Ben với vẻ hống hách.
              - Trông đây! - Nó ra lệnh - Nhìn khắp người xem ta có phải một thằng gù không? Ta có bị khoèo chân không?
              Lão Ben Weatherstaff không giấu nổi xúc cảm, nhưng lão kịp trấn tĩnh đôi chút và trả lời theo thói quen cố hữu của lão.
              - Không đâu ạ - Lão bảo - Cậu đâu có thế. Nhưng cậu đang làm gì vậy, cứ giấu mình mãi khiến mọi người nghĩ rằng cậu què quặt và chậm hiểu?
              - Chậm hiểu! - Colin giận dữ nói - Kẻ nào dám nghĩ thế?
              - Có khối ra đấy - Lão Ben đáp - Thế gian này thiếu gì bọn lừa phỉnh làm ta inh tai nhức óc, nhưng chúng không be be mà chỉ rặt nói láo. Cậu cứ tự giam mình lại để làm gì?
              - Ai cũng cho rằng tôi sắp chết - Colin nói cộc lốc - Tôi không phải thế!
              Nghe nó nói với vẻ cả quyết, lão Ben nhìn khắp người nó, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên.
              - Cậu mà chết! - Lão nói với niềm hân hoan - Không hề. Cậu có thừa can đảm bên trong cậu. Khi tôi thấy cậu hăm hở buông chân xuống đất, tôi liền hiểu ngay rằng cậu chẳng việc gì sất. Hãy ngồi xuống tấm chăn kia một lát đã, thưa cậu chủ, rồi cho tôi biết mệnh lệnh của cậu.
              Đây quả là một sự pha trộn kỳ dị giữa dịu dàng chua chát và hiểu biết tinh tường trong tính cách của lão. Mary đã dặn dò lão đủ điều từ lúc bên ngoài lối đi dạo. Điều cốt yếu cần phải nhớ, nó bảo với lão, là Colin đang ngày một khỏe ra. Chính khu vườn này đã mang lại điều đó. Không một ai được phép khiến cậu ấy nhớ lại chuyện ốm đau chết chóc.
              Vị tiểu vương hạ cô ngồi xuống tấm chăn dưới gốc cây.
              - Công việc ông thường làm trong khu vườn này là gì vậy, ông Weatherstaff? - Colin hỏi thăm.
              - Bất kể việc gì tôi được sai khiến - Lão Ben đáp - Kể ra tôi cũng được chiếu cố, bởi vì bà ấy quý tôi.
              - Bà nào? - Colin hỏi.
              - Bà mẹ của cậu. - Lão Ben đáp.
              - Mẹ của tôi? - Colin thốt lên, rồi nó lặng người nhìn ông già - Đây là khu vườn của bà, có đúng không?
              - Vâng, thưa đúng! - Và lão Ben cũng nhìn nó - Chỉ có bà nhà ưu ái nó nhất.
              - Giờ đây nó là khu vườn của tôi. Tôi cũng yêu nó. Tôi sẽ đến đây hằng ngày - Colin tuyên bố - Nhưng nó vẫn phải là một bí mật. Mệnh lệnh của tôi là không ai được biết chúng tôi đã đến đây. ****on và cô em họ của tôi sẽ làm vườn và giữ cho nó sống. Thỉnh thoảng tôi sẽ cử ông đến giúp họ một tay, nhưng ông chỉ được tới khi không một ai nhìn thấy.
              Khuôn mặt lão Ben Weatherstaff méo đi trong nụ cười già nua khô khốc.
              - Trước kia tôi cũng đã từng tới đây, nhưng chẳng một ai nhìn thấy tôi hết. - Lão bảo.
              - Cái gì? - Colin thốt lên - Khi nào?
              - Lần cuối tôi tới đây, - Lão đưa tay xoa cằm rồi ngó quanh - là quãng hai năm về trước.
              - Suốt mười năm qua làm gì có ai ở trong vườn - Colin kêu lên - Và không có cửa mà vào.
              - Không chỉ có mình tôi, - Lão Ben nói một cách khô khan - và tôi cũng không đi đằng cửa. Tôi trèo qua tường. Nhưng rồi bệnh thấp khớp đã giữ chân tôi suốt hai năm qua.
              - Thì ra bác là người vẫn vào xén tỉa cây! - ****on kêu to - Cháu đã không tài nào hiểu nổi điều đó.
              - Bà nhà đã yêu quý khu vườn biết bao! - Lão Ben chậm rãi - Và bà là một phu nhân thật trẻ ữung xinh đẹp. Có lần bà bảo tôi: “Này bác Ben, - Bà vừa nói, vừa cười - nếu có ngày tôi bị ốm hoặc bận đi xa, thì bác phải chăm sóc các khóm hồng này giúp tôi đấy nhé”. Nay bà đã khuất bóng, và còn có lệnh không ai được phép bén mảng đến đây. Nhưng tôi vẫn cứ đến... - Lão cằn nhằn vẻ ngoan cố - Tôi vào bằng cách trèo tường... cho tới khi bệnh khớp ngáng chân tôi. Và mỗi năm, tôi chỉ còn làm được tí chút. Bà nhà là người xem trọng sự nền nếp.
              - Nó chẳng được như thế này nếu không có bác chăm sóc - ****on tiếp - Cháu đã hết sức ngạc nhiên.
              - Tôi lấy làm mừng vì ông đã xử sự như vậy - Colin nói - Nhưng ông biết phải giữ bí mật như thế nào chứ?
              - Ấy, tôi biết, thưa cậu - Lão Ben trả lời - Vả lại, đối với một người bị thấp khớp như tôi thì vào đằng cửa vẫn dễ dàng hơn.
              Trên bãi cỏ gần cái cây, Mary buông cái xẻng bứng cây xuống. Colin với tay nhặt nó lên. vẻ kỳ quặc hiện trên khuôn mặt thằng bé, và nó bắt đầu xới đất. Bàn tay mảnh khảnh yếu ớt, nhưng nó vẫn làm, mặc cho mọi người đứng nhìn. Mary đăm đăm nhìn nó đến nỗi tưởng chừng quên cả thở: thằng bé đang xắn ngập lưỡi xẻng xuống đất rồi lật lên.
              - Cậu làm được mà! Cậu làm được mà! - Mary thầm nói với chính mình - Tớ đã bảo cậu làm được mà!
              Đôi mắt tròn xoe của ****on tràn ngập nỗi tò mò háo hức, nó không thốt nổi nên lời. Lão Ben Weatherstaff cúi xuống nhìn chăm chú.
              Colin vẫn kiên trì. Sau lúc đã lật được mấy xẻng đất đầy, nó hớn hở bảo ****on bằng giọng Yorkshire đúng điệu nhất của nó.
              - Cậu bảo cậu sẽ đưa tớ tới đây để đi lại như mọi gã trai khác, và cậu còn bảo muốn thấy tớ đào xới đất vườn. Tớ nghĩ cậu đã được thỏa nguyện rồi đấy. Mới ngày đầu tiên mà tớ đã biết đi và còn đào đất nữa chứ.
              Miệng lão Ben lại há ra khi nghe thằng bé nói, lão chỉ còn biết cười khùng khục.
              - Chà! - Lão bảo - Nghe kiểu này mới hay cậu cũng dí dỏm ra trò. Cậu đúng là một gã Yorkshire chính cống. Lại biết xới đất nữa chứ. Cậu có muốn trồng một cái gì đó không? Để tôi đi kiếm cho cậu một giỏ hồng.
              - Ông đi kiếm ngay đi! - Colin bảo, nó đang hào hứng với việc xới đất - Nhanh lên! Nhanh lên!
              Quả thực việc đó được làm nhanh quá thể. Lão Ben vội đi ngay, quên khuấy cả chứng thấp khớp của lão. ****on cầm chiếc mai đào cho sâu hơn và rộng hơn cái hố mà hai bàn tay trắng trẻo mảnh khảnh kia đã đào ra. Mary chạy ù đi rồi mang về một bình tưới. Trong khi ****on đào cái hố cho đủ sâu, Colin tiếp tục xới đi xới lại lớp đất tơi. Nó ngước nhìn bầu trời với vẻ xúc động và quay sang tán dương sự tập luyện mới mẻ kỳ lạ này.
              - Tớ muốn làm cho tới khi mặt trời lặn hẳn. - Nó nói.
              Mary nghĩ có lẽ cũng vừa kịp, mặt trời sắp lặn sau ít phút nữa. Lão Ben Weatherstaff mang về một khóm hồng còn đựng trong chậu hoa lấy từ nhà kính. Lão vặt vội mấy nhánh cỏ quanh gốc. Lão cũng bắt đầu thấy hứng thú. Lão quỳ xuống bên miệng hố và đập bỏ chiếc chậu đựng khóm hồng.
              - Đây, cậu trẻ - Lão nói rồi đưa cái cây cho Colin - Để tự tay cậu trồng xuống đất, như đức vua vẫn làm khi ngài chuyển đến cung điện mới.
              Hai bàn tay trắng trẻo gầy guộc của thằng bé run run và ánh hồng trên má nó mỗi lúc một đậm hơn khi nó đặt khóm hồng xuống hố để lão Ben vun đất cho chặt. Tiếp đó là tưới nước, rồi dặm đất quanh gốc giữ cho cây đứng thẳng. Mary nhoài hẳn người ra phía trước. Con Bồ hóng từ đâu sà xuống, ngó nghiêng xem mọi người đang làm gì. Hạt dẻ và Vỏ sò cùng nhau bàn luận về mọi chuyện trên một cây anh đào.
              - Trồng xong rồi - Cuối cùng Colin bảo - Mặt trời cũng sắp lặn, giúp tớ đứng dậy nào, ****on. Tớ muốn đứng khi nó đi ngủ. Đó cũng là một phần của phép mầu, phải không.

              ****on giúp nó đứng dậy, và phép mầu - hay cái gì đại loại như thế - đã mang lại cho nó sức mạnh, đến nỗi khi mặt trời khuất hẳn phía chân mây và cái buổi chiều kỳ lạ đáng yêu ấy đã khép lại rồi, thằng bé vẫn còn đứng thẳng trên hai chân nó mà cười vang.

              Comment


              • #22
                Chương XXIII

                Phép mầu

                Bác sĩ Craven đợi ở nhà được một lúc khi chúng trở về. Ông bắt đầu tự hỏi có nên cho người đi thăm dò các đường mòn xung quanh khu vườn. Khi Colin được đưa về phòng, con người tội nghiệp ấy nhìn nó với vẻ nghiêm nghị.
                - Cháu không nên ở ngoài lâu như vậy. Lại càng không được gắng sức.
                - Cháu chẳng thấy mệt tí nào. Chuyện này làm cháu thấy dễ chịu. Ngày mai cháu sẽ ra khỏi nhà cả sáng lẫn chiều.
                - Chú không chắc chú có thể cho phép điều đó - Bác sĩ Craven trả lời - Chú e rằng đó không phải là một quyết định khôn ngoan.
                - Và chắc chắn là không khôn ngoan khi chú cứ cố ngăn cản cháu - Colin nói hết sức nghiêm trang - Cháu sẽ đi.

                Ngay cả Mary cũng nhận ra cái thói kỳ quặc nổi bật ở Colin khi nó tuyệt nhiên không thèm để tâm tới thái độ cộc cằn bất lịch sự mà nó vẫn thường thể hiện khi ra lệnh cho ai việc gì đó. Nó đã sống một cuộc đời như thể trên hoang đảo, và từ khi trở thành ông vua của hòn đảo ấy, nó có lối cư xử riêng mà không một ai được phép so sánh. Thật ra Mary cũng giống thằng Colin thôi. Kể từ ngày về Misselthwaite, dân dà nó phát hiện ra rằng cách cư xử của bản thân cũng chẳng lấy gì làm bình thường hay được nhiều người ưa thích cho cam. Từ khi nhận ra điều đó, tự nhiên nó thấy cần phải nói cho Colin biết. Bác sĩ Craven đi khỏi rồi, nó liền ngồi xuống và tò mò nhìn thằng bé mấy phút liền. Nó chỉ muốn Colin hỏi nó tại sao lại làm vậy, và quả nhiên thằng bé lên tiếng.
                - Cậu đang nhìn gì tớ thế?
                - Tớ nghĩ mà lấy làm buồn cho bác sĩ Craven.
                - Tớ cũng vậy - Colin điềm tĩnh nói, không tỏ ra tự mãn - Bây giờ thì ông ấy không thể đoạt lấy Misselthwaite được nữa rồi. Tớ không có ý định chết.
                - Dĩ nhiên, tớ thấy buồn cho ông ấy vì điều đó, - Mary bảo - nhưng chính lúc đó tớ chợt nghĩ rằng quả là khủng khiếp khi phải giữ phép lịch sự trong suốt mười năm qua với một thằng bé luôn luôn thô lỗ. Tớ thì chẳng đời nào chịu làm việc đó.
                - Tớ mà thô lỗ. - Colin vặn lại, không một chút bối rối.
                - Nếu cậu là thằng nhóc nhà ông ấy và ông ấy thuộc hạng người hay đánh trẻ con thì thể nào ông ấy cũng phát vào đít cậu.
                - Ông ấy chẳng dám đâu. - Colin trả lời.
                - Ừ, ông ấy chẳng dám. - Mary trả lời, nó đang suy nghĩ những điều sắp nói sao cho hoàn toàn không thành kiến - Chưa một ai dám làm bất cứ điều gì mà cậu không thích. Bởi họ cho rằng cậu sắp chết, rằng cậu chỉ là một kẻ đáng thương.
                - Nhưng, - Colin tuyên bố một cách bướng bỉnh - tớ không có ý định trở thành một kẻ đáng thương. Tớ không cho phép người ta nghĩ tớ là một kẻ như vậy. Chiều hôm nay, tớ đã đứng được trên đôi chân của mình.
                - Chính đó là điều khiến cậu trở nên kỳ cục đến vậy,
                - Mary tiếp tục nói lên thành lời những suy nghĩ của nó.
                Colin nhăn mặt ngoái đầu lại.
                - Tớ là kẻ kỳ cục sao?
                - Phải, - Mary đáp - rất kỳ cục là đằng khác. Nhưng cậu không cần phải cáu làm gì, - Nó nói thêm với vẻ hết sức vô tư - bởi vì tớ cũng là một đứa kỳ cục... Và ngay cả ông Ben Weatherstaff cũng vậy. Nhưng tớ không còn kỳ cục như trước, khi tớ bắt đầu thấy quý người khác, khi đã tìm ra khu vườn.
                - Tớ không muốn là một kẻ kỳ cục - Colin nói - Tớ không muốn trở thành như vậy. - Nó nghiêm mặt tỏ vẻ quyết tâm.
                Colin quả là một thằng bé rất biết tự trọng. Nó nằm suy nghĩ hồi lâu và chính lúc ấy, Mary nhận ra nụ cười tuyệt đẹp của nó bắt đầu nở trên môi và từ từ làm biến đổi toàn bộ gương mặt nó.
                - Từ nay tớ sẽ thôi không còn là kẻ kỳ cục, nếu hằng ngày tớ được tới khu vườn ấy. Ở đấy hẳn phải có phép mầu nào đó, một thứ phép mầu tử tế, mà cậu cũng biết rồi còn gì, Mary. Tớ cam đoan rằng nó có tồn tại đấy.
                - Tớ cũng tin như vậy.
                - Cho dù đó không phải là phép mầu thật đi chăng nữa, - Colin bảo - chúng ta vẫn có thể coi như thế. Có một cái gì ở đó... một cái gì...!
                - Thì đấy chính là phép mầu, - Mary nói - nhưng nó không hắc ám, mà tốt đẹp, trong trẻo.
                Hai đứa luôn gọi đó là phép mầu, và quả thực mọi thứ cũng dường như thế trong những ngày tiếp theo, những ngày tháng kỳ diệu, rực rỡ và quá đỗi lạ lùng. Ôi! Biết bao chuyện đã xảy ra trong khu vườn ấy! Nếu bạn chưa bao giờ có một khu vườn, bạn chẳng hiểu nổi đâu; nhưng nếu bạn có một khu vườn rồi thì bạn sẽ hiểu rằng bạn phải viết cả một cuốn sách để tả lại tất cả những gì đã xảy ra nơi đó. Đầu tiên, dường như những gì có màu xanh đang không ngớt tìm đường vươn lên mặt đất, giữa đám cỏ, trong các luống hoa, thậm chí ngay cả từ các khe nứt trên tường. Rồi non xanh bắt đầu nhú thành chồi, chồi đâm lá và lá lại khoe sắc, mọi sắc độ của màu xanh, màu tím, và đỏ thẫm. Để rồi vào những ngày hạnh phúc của mình, muôn vàn đóa hoa cùng bừng lên khắp nơi, trên từng tấc đất, từng xó xỉnh trong vườn. Lão Ben Weatherstaff đã bao lần chứng kiến cảnh tượng ấy, lão đã tự tay cạo sạch lớp vữa giữa các viên gạch trên bức tường rồi nhôi từng vốc đất vào đó giúp cho các thứ rêu cỏ đáng yêu mọc được dễ dàng hơn. Diên vĩ và loa kèn trắng ngoi lên khỏi cỏ dại thành từng búi hoa, còn các khoảng bóng râm trong vườn thì phủ đầy phi yến và thạch thảo.
                - Chỉ có bà ấy là quyến luyến chúng nhất, bà ấy... - Lão Ben nói - bà ấy thích tất cả các loài đầy nhựa sống đang vươn lên trời xanh, bà thường bảo vậy. Chẳng phải vì bà coi thường mặt đất đâu, bà yêu nó lắm nhưng bà bảo bầu trời xanh mới tuyệt đỉnh làm sao.

                Chỗ hạt giống mà ****on và Mary gieo đã mọc xanh rờn như thể được các nàng tiên chăm sóc. Các kiểu hoa anh túc mịn như sa tanh đang rập ròn trong gió nhẹ, vui vẻ thách thức những cây đã ở trong vườn từ nhiều năm nay - bọn này dường như muốn thú nhận chúng đang tự hỏi làm cách nào mà những kẻ lạ mặt đó lại vào được đây. Và kìa! Những khóm hồng, những đóa hoa hồng! Chúng đang mọc lên khỏi thảm cỏ, quân quanh chiếc đồng hồ mặt trời, ôm lấy các thân cây để rồi buông chùng xuống đất. Chúng còn bò ngược lên các bức tường rồi mới chịu tỏa rộng ra các cành, buông rủ xuống khác nào thác nước. Chúng đang sống lại từng ngày từng giờ. Những chiếc lá tươi xinh xắn, những nụ hoa... thoạt tiên chỉ là những chấm li ti, rồi phình to ra và phép mầu đã ra tay, cho tới khi chúng bừng ra thành những đài hoa thơm ngát, dịu dàng tràn ngập khắp không gian khu vườn.

                Colin đã thấy tất cả, đã quan sát từng đổi thay đang diễn ra. Sáng nào nó cũng được đưa tới đây, và từng giờ trong ngày, hễ trời không mưa là nó luôn có mặt trong vườn. Ngay cả những ngày âm u cũng khiến nó thích mê. Nó sẽ nằm dài trên thảm cỏ mà nhìn “vạn vật sinh sôi” - nó bảo thế. Nếu ta để tâm ngắm thật lâu, nó cả quyết, thì ta có thể xem được cảnh các nụ hoa đang tự mình nhú ra. Và ta cũng bắt gặp bao điều mới lạ, vô số loài côn trùng bận rộn chạy tứ phía nhưng với mục đích rõ ràng của chúng, lúc thì tha những mẩu rơm, cái lông hay thức ăn, lúc thì bò trên nhánh cỏ như thể đó là những cái cây, để từ đó có thể bao quát cả giang sơn của chúng. Một chú chuột chũi đang đùn lên cả đống đất ở cuối hang của mình và cuối cùng chú ta cũng đào xong một lối thoát với những cái móng sắc dài nom chẳng khác nào những bàn tay yêu tinh, và chuyện này thu hút thằng Colin cả buổi sáng. Nào hang kiến, nào hang của bọ cánh cứng, rồi thì tổ ong, hang ếch, tổ chim và cây cối. Đối với Colin thì đó là cả một thế giới mới mẻ để khám phá. Khi ****on tiết lộ tất cả những điều này, lại cho nó biết thêm về hang cáo, hang rái cá, hang chồn sương, tổ sóc, luồng cá hồi, rồi thì hang chuột nước, hang lửng thì câu chuyện tưởng như không có hồi kết và người nghe cứ muốn nghe mãi không thôi.

                Và đó vẫn chưa phải là một nửa của phép mầu. Việc nó thực sự đứng được trên đôi chân của chính mình đã khiến Colin suy nghĩ rất nhiều, cho nên khi được Mary cho hay câu thần chú mà con bé đã đọc, thằng bé vô cùng phấn khích và đồng tình ngay. Nó thường xuyên bàn luận về điều này.
                “Dĩ nhiên, có rất nhiều phép mầu trên thế gian này, - Một hôm, thằng Colin ra vẻ khôn ngoan - nhưng người ta không rõ nó như thế nào và làm sao để tạo ra nó. Có lẽ thoạt tiên người ta chỉ nói rằng những điều tốt đẹp sắp xuất hiện, cho tới khi nó phải hiển lộ. Tớ định làm thí nghiệm xem sao”.
                Sáng hôm sau, khi cả bọn kéo đến khu vườn bí mật, nó lập tức cho gọi lão Ben Weatherstaff. Lão Ben vừa tất tưởi đến nơi thì đã thấy vị tiểu vương đang đứng dưới một gốc cây, trông thật đường bệ trong nụ cười rạng rỡ.
                - Chào ông, ông Ben Weatherstaff - Thằng bé bảo - Tôi muốn ông và ****on cùng với cô Mary đứng thành hàng ngang mà nghe tôi nói, bởi vì những điều tôi sắp nói với mọi người hôm nay hết sức quan trọng.
                - Vâng, vâng, thưa ngài! - Lão Ben Weatherstaff đáp, đưa tay lên ngang trán. (Một trong những nét đáng yêu lâu nay vẫn giấu kín của Ben Weatherstaff là vào thời trai trẻ, lão đã có những cuộc hành trình trên biển. Bởi thế lão có thói quen đáp lời như một thủy thủ).
                - Tôi đang định tiến hành một thí nghiệm khoa học - Vị tiểu vương giải thích - Khi nào lớn lên tôi sẽ có những phát minh khoa học vĩ đại và tôi định bắt đầu ngay từ giờ với thí nghiệm này.
                - Vâng, vâng, thưa ngài! - Lão Ben mau mắn, mặc dù đây là lần đầu tiên lão nghe đến từ phát minh khoa học vĩ đại.

                Đây cũng là lần đầu tiên Mary nghe thấy từ đó, và cho đến giờ nó bắt đầu nhận ra, cho dù khá kỳ cục, rằng Colin đã đọc được rất nhiều điều kỳ thú, nhưng chẳng hiểu tại sao nó lại là một đứa bé rất biết cách thuyết phục người khác. Hễ nó ngẩng cao đầu và nhìn đăm đăm vào bạn bằng cặp mắt kỳ lạ của nó, thì bạn hầu như tin nó ngay, dù nó mới lên mười, sắp bước sang tuổi mười một. Vào giây phút đó, nó lại càng đặc biệt thuyết phục bởi bỗng nhiên chính nó cũng cảm thấy sự mê hoặc trong cách biểu đạt chẳng khác gì một người trưởng thành của mình.
                - Nhũng phát minh khoa học vĩ đại mà tôi định tiến hành sau đây, - Nó tiếp tục - sẽ liên quan đến phép mầu. Phép mầu là một điều vĩ đại, rất hiếm người hiểu được, trừ một vài người được ghi nhận trong các cuốn sách cổ, - Và Mary cũng hiểu đôi chút, bởi vì con bé sinh ra ở Ấn Độ, nơi sản sinh ra các vị pha-kia [1] - Tôi cũng tin rằng ****on biết một số phép mầu, nhưng có thể cậu không ý thức được rằng mình biết. Cậu ấy mê hoặc muông thú và con người. Tôi sẽ không đời nào để cậu ấy đến thăm tôi nếu cậu ấy không phải người biết thu phục loài vật, cũng như thu phục bọn trẻ, bởi vì một đứa trẻ, nói cho cùng, cũng là một con thú nhỏ. Tôi tin chắc rằng có phép mầu trong mọi vật quanh ta, chỉ có điều chúng ta không đủ ý thức để nắm bắt và buộc nó phục vụ chúng ta, như điện năng, sức kéo và hơi nước chẳng hạn.
                Những lời ấy vang lên oai nghiêm đến nỗi làm lão Ben Weatherstaff phấn chấn không sao trấn tĩnh được.
                - Vâng, vâng, thưa ngài. - Lão nói và rướn người thẳng tắp.
                - Khi Mary phát hiện ra khu vườn này thì nó như không còn chút sinh khí nào nữa, - Nhà hùng biện tiếp tục - và rồi có một sức mạnh huyền bí nào đó thôi thúc muôn vật vươn lên mặt đất và tạo ra nhiều thứ từ chỗ chẳng có gì hết, hôm trước chưa có gì mà hôm sau đã vô vàn. Trước đó tôi chưa từng thấy chúng, và chúng làm tôi vô cùng tò mò. Những người làm khoa học luôn luôn tò mò, mà tôi thì đang muốn trở thành nhà khoa học. Tôi thường tự hỏi: “Đó là cái gì? Đó là gì?” Đó phải là cái gì chứ! Tôi không biết tên của nó, vì vậy chỉ biết gọi nó là phép mầu. Tôi cũng chưa từng được thấy cảnh mặt trời mọc, nhưng Mary và ****on đã thấy, và từ những gì mà họ nói với tôi, tôi dám khẳng định rằng đó cũng là phép mầu. Có cái gì đó đã đẩy nó lên rồi lại kéo nó xuống. Đôi lúc, kể từ ngày tôi được ở trong khu vườn này, và thường nhìn lên vòm trời qua tán lá, trong tôi bỗng nảy sinh một cảm xúc kỳ lạ về hạnh phúc, như có một cái gì đang giằng xé trong lồng ngực khiến tôi phải thở gấp. Phép mầu đã luôn thúc đẩy, lôi kéo và tạo nên mọi thứ từ hư không. Vạn vật đã được tạo nên bởi phép mầu: cỏ cây, hoa lá, chim muông, chồn, cáo, sóc và cả con người. Bởi vậy, nó tồn tại quanh ta. Ngay trong khu vườn này... và khắp nơi khắp chốn. Phép mầu trong khu vườn này đã giúp tôi đứng thẳng người lên và ý thức được mình đang sống để trở thành một con người. Tôi đang định tiến hành một thí nghiệm khoa học nhằm tìm kiếm một phép mầu rồi đưa nó vào bản thân, để nó thúc đẩy tôi, khiến tôi trở nên vững mạnh. Tôi chưa biết làm cách nào để đạt được điều đó, nhưng tôi cho rằng nếu người ta cứ tiếp tục suy nghĩ về nó, và kêu gọi nó thì rất có thể nó sẽ tới. Có lẽ đây chỉ được coi là một phương pháp non kém ban đầu để đạt được điều đó. Khi lần đầu tiên tôi cố gắng đứng vững, Mary đã luôn miệng nói thầm thật nhanh câu này: “Cậu có thể làm được điều đó! Cậu có thể làm được!”, và quả nhiên tôi đã làm được. Vào lúc ấy, tôi đã cố gắng, hết sức mình, dĩ nhiên là vậy, nhưng phải nói phép mầu của cô ấy đã giúp tôi - và cả của ****on nữa. Mỗi buổi sáng, mỗi buổi tối và mỗi ngày trôi qua, chừng nào tôi còn nhớ được, tôi sẽ bảo rằng: “Phép mầu ở trong chính ta! Phép mầu đang giúp ta khỏe mạnh! Ta đang trở nên khỏe mạnh như ****on, khỏe mạnh chẳng kém gì ****on!” Ngay các bạn cũng phải làm thế. Đấy là thí nghiệm của tôi. Liệu ông có giúp tôi không, ông Ben Weatherstaff?
                - Vâng, vâng, thưa ngài. - Lão Ben đáp - Vâng, vâng!
                - Nếu các bạn giữ vững ý chí, làm việc đều đặn hằng ngày như những người lính đang khổ luyện ngoài thao trường, chúng ta sẽ tận mắt thấy những gì sắp xảy ra và khám phá tại sao thí nghiệm ấy lại thành công. Nếu như các bạn học hỏi mọi điều, nghiền ngẫm thấu đáo tới mức chúng in sâu vào tâm trí, thì tôi cho rằng điều đó cũng như một thứ phép mầu. Nếu các bạn gọi nó tới giúp, nó sẽ trở thành một phần của các bạn, nó sẽ ở lại và làm nên mọi chuyện.
                - Có lân tớ đã nghe một viên sĩ quan ở Ấn Độ bảo với mẹ tớ rằng có những vị thầy tu khất thực cầu nguyên một câu đến cả ngàn lần. - Mary bảo.
                - Tôi cũng từng nghe bà vợ ông Jem Fettleworth lải nhải gọi ông Jem là một tay cục súc nghiện rượu hàng ngàn lần - Lão Ben Weatherstaff nói tỉnh queo - Ông ta vốn hay giấu vợ lỉnh tới quán “Sư tử xanh” nốc cho thật đẫy.
                Colin nhăn mày suy nghĩ giây lát. Rồi nó hăng hái nói tiếp.
                - Chà, - Nó nói - các bạn có nhận ra điều gì đi kèm câu chuyện vừa rồi không? Bà ta đã sử dụng một thứ phép thuật sai đến nỗi ông ấy phải nện cho. Nếu bà ta sử dụng một phép mầu đúng đắn và nói năng tử tế, có lẽ ông ấy đã không nốc rượu xả láng đến vậy và... biết đâu ông ấy chẳng mua tặng bà một chiếc mũ mới.
                Colin vừa dứt lời, lão Ben đã cười khùng khục, để lộ vẻ thán phục qua đôi mắt già nua bé tí của lão.
                - Cậu là một anh chàng vừa thông minh, vừa thẳng thắn, cậu Colin ạ. Lần tới gặp bà Bess Fettleworth tôi sẽ gợi ý cho bà ấy về những gì mà phép mầu có thể mang lại. Bà ấy chắc sẽ lấy làm mừng nếu thí nghiệm khoa học có thể cải tạo được lão Jem nhà bà.
                Từ nãy tới giờ, ****on cứ đứng mà nghe bài thuyết trình, đôi mắt tròn xoe của nó ánh lên niềm vui xen lẫn vẻ tò mò. Hạt dẻ và Vỏ sò ngồi hai bên vai nó, trong khi một tay nó còn ôm một con thỏ trắng tai dài, tay kia gại gại nhẹ vào con vật. Con thỏ cụp đôi tai dài của nó dọc theo thân mình ra chiều thích thú lắm.
                - Cậu có cho rằng thí nghiệm sẽ thành công không? - Colin hỏi ****on và băn khoăn không biết thằng bé đang nghĩ gì. Nó vẫn thường tự hỏi đâu là những điều ****on đang nghĩ khi ****on nhìn nó hay một trong các con vật cưng kia với nụ cười rộng ngoác vẻ hạnh phúc.
                Lúc này, ****on cũng đang cười, miệng còn rộng hơn mọi bữa.
                - Vâng, tôi cho rằng vậy - Thằng bé trả lời - Điều đó sẽ diễn ra, như hạt giống cựa mình dưới ánh mặt trời. Đó là điều chắc chắn sẽ đến. Vậy bao giờ ta sẽ bắt đầu?
                Colin phấn khởi, Mary cũng vậy. Nhớ lại hình ảnh các vị thầy tu và những kẻ mộ đạo trong các hình vẽ minh họa, Colin đưa ra gọi ý cả bọn nên ngồi khoanh chân dưới tán cây.
                - Cũng tựa như đang ngồi trong một ngôi đền, - Colin bảo - vả lại bây giờ tớ khá mệt rồi, tớ muốn ngồi.
                - Ấy! - ****on bảo - Cậu không được bắt đầu bằng cách nói rằng mình bị mệt. Cậu có thể làm hỏng phép mầu mất.
                Colin quay sang nhìn nó, nhìn sâu vào đôi mắt tròn ngây thơ của thằng bé.
                - Đúng thế, - Nó chậm rãi nói - tớ chỉ được nghĩ đến phép mầu mà thôi.
                Quang cảnh hết sức trang trọng và huyền bí khi cả bọn ngồi xuống thành vòng tròn. Lão Ben Weatherstaff có cảm tưởng như đang bị dẫn ra mắt tại một buổi cầu nguyện nào đó. Bình sinh lão vốn có thành kiến với những cái được gọi là “tụ tập cúng bái” vậy nhưng đây lại là công chuyện của vị tiểu vương, lão không hề bực bội, thậm chí còn thấy biết ơn vì được mời tham dự. Cô chủ nhỏ Mary thì mê mẩn một cách trang nghiêm. ****on ôm con thỏ trong tay, có lẽ nó đang ra một hiệu lệnh riêng của người dạy thú mà không ai nghe thấy. Rồi nó ngồi xếp bằng tròn như những người khác. Con quạ, con cáo, hai tên sóc và chú cừu non từ từ sán lại tạo thành một vòng quanh thằng bé.
                - Bọn thú đã tới - Colin nói vẻ trang nghiêm - Chúng muốn giúp chúng ta.
                Colin trông thật đẹp, Mary nghĩ thầm. Thằng bé ngẩng cao đầu và cảm thấy mình như một vị trưởng tế, đôi mắt lạ kỳ của nó lúc này lấp lánh những ánh nhìn tuyệt đẹp. Ánh nắng xuyên qua tán cây chiếu vào người nó.
                - Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu, - Nó nói - chúng ta sẽ lắc lư về phía trước và phía sau, phải không Mary, như thể chúng ta là những giáo sĩ Hồi giáo thần bí.
                - Tôi không thể lắc lư vừa phía trước vừa phía sau được - Lão Ben bảo - Tôi bị đau khớp mà.
                - Phép mầu sẽ đẩy lùi chúng - Colin đáp lại bằng giọng của một Thầy Cả - Nhưng ta không ngồi im mà chờ đợi. Ta sẽ hát thánh ca.
                - Tôi không thể hát thánh ca - Lão Ben nói hơi gắt gỏng - Họ đã đuổi tôi ra khỏi đội hợp xướng nhà thờ chỉ vì lúc bấy giờ tôi đã không cố gắng.
                Không ai cười. Mọi người đều giữ vẻ mặt nghiêm trang. Thậm chí khuôn mặt Colin không gợn thoáng tức giận. Nó mải mê suy nghĩ về phép mầu.
                - Vậy thì tôi sẽ hát thánh ca. - Nó nói. Và nó bắt đầu, với khí thế của một chàng trai - “Mặt trời đang tỏa rạng - mặt trời đang tỏa rạng. Ấy là phép mầu. - Hoa lá đang đua nở. Rễ cây đang vươn lên. - Ấy là phép nhiệm mầu. - Được sống là mầu nhiệm. Khỏe mạnh là nhiệm mầu. - Nhiệm mầu ở trong ta. - Nhiệm mầu ở trong ta. - Nó đang ở trong ta, nó đang ở trong ta. Ở trong mỗi chúng ta. Trong tấm lưng của Ben Weatherstaff. Phép mầu! Phép mầu! Hãy tới và cứu rỗi chúng con!”
                Thằng bé đã đọc đi đọc lại câu ấy không biết bao nhiêu lần, nếu chưa đến ngàn lần thì chắc cũng phải nhiều lắm. Mary lắng nghe mê mải. Ngay lập tức, nó cảm thấy có cái gì đó vừa kỳ quặc vừa đẹp đẽ trong bài thánh ca đó và nó muốn Colin cứ tiếp tục. Lão Ben cũng cảm thấy như người ta đang ru lão vào một giấc mộng vô cùng dễ chịu. Tiếng vo ve của bầy ong giữa những bông hoa đang nở rộ hòa lẫn cùng giọng hát dần biến thành một cơn buồn ngủ dễ chịu. ****on ngồi khoanh chân, con thỏ đang ngủ trên tay, còn tay kia của nó đặt trên lưng chú cừu non. Bồ hóng vừa hích được con sóc ra khỏi chỗ của nó rồi ghé sát lại trên vai thằng bé, mắt ****on cũng đang ríu lại vì buồn ngủ. Cuối cùng, Colin ngừng lại.
                - Bây giờ tôi muốn đi dạo quanh khu vườn. - Nó tuyên bố.
                Đầu lão Ben vừa chúi về phía trước bỗng ngật trở lại.
                - Ông ngủ từ nãy đến giờ đấy. - Colin bảo.
                - Đâu có ạ - Lão Ben nói lí nhí - Bài thuyết giáo nghe hay quá. Tôi vừa cúi xuống xem đang ở chương nào đấy chứ.
                Lão có vẻ vẫn lơ mơ chưa tỉnh hẳn.
                - Ông đâu ở trong nhà thờ. - Colin bảo.
                - Ai bảo không nào? - Lão Ben nói và rướn thẳng người lên - Tôi nghe rõ từng câu một. Cậu chẳng bảo phép mầu trong lưng tôi là gì. Nhưng bác sĩ thì gọi đó là chứng thấp khớp.
                Vị tiểu vương xua tay.
                - Đấy là thứ Ma thuật sai trái. Rồi ông sẽ khỏi thôi. Ông được phép đi làm việc. Nhớ quay lại vào ngày mai đấy nhé.
                - Tôi chỉ muốn được thấy cậu đi dạo quanh vườn. - Lão Ben nói càu nhàu.
                Nhưng đó không phải những càu nhàu khó chịu, mà chỉ đơn thuần tính lão hay cấm cảu. vốn là một lão già bướng bỉnh ương ngạnh, không tin lắm vào phép mầu nên lão quyết định nếu bị đuổi đi thì lão sẽ trèo lên thang mà nhòm qua bờ tường, ngộ nhỡ có gì xảy ra thì lão có thể khập khiễng quay trở lại giúp.
                Do vị tiểu vương không lấy làm phiền nếu lão ở lại, nên mọi người tập hợp thành một đoàn. Trông họ chẳng khác nào một đám rước. Colin đi đầu, kế đến là ****on rồi Mary. Lão Ben lẽo đẽo theo sau, đám thú hoang bám sau rốt. Cừu non và cáo con theo sát ****on, thỏ trắng cũng nhảy nhảy bám gót, thỉnh thoảng còn dừng lại gặm mấy cọng cỏ non. Con Bồ hóng thì không chịu rời thằng bé một bước, với vẻ trang nghiêm của một kẻ ý thức được trách nhiệm của mình.
                Đám rước di chuyển chậm rãi, nhưng dáng vẻ chững chạc đàng hoàng. Cứ mỗi quãng họ lại dừng lại để nghỉ. Colin tựa người vào cánh tay ****on, lão Ben kín đáo lánh xa một chút, thỉnh thoảng Colin lại gỡ tay khỏi ****on và tự đi mấy bước. Những lúc như vậy, đầu nó ngẩng cao hết sức kiêu hãnh.
                - Phép mầu ở trong ta! - Nó cất tiếng nói - Phép mầu đang làm ta khỏe mạnh! Ta có thể cảm nhận được nó! Ta có thể cảm nhận được nó!
                Dường như chắc chắn có một cái gì đang nâng đỡ nó. Thằng bé ngồi xuống chiếc ghế bên đường, thỉnh thoảng nó còn ngồi bệt xuống bãi cỏ, có lúc lại dừng bước trên con đường mòn, tựa người vào ****on, nhưng nó nhất định không chịu bỏ cuộc cho tới khi đã làm một vòng quanh khu vườn. Lúc trở về cái cây dùng làm mái che thì hai má nó đỏ bừng đầy vẻ đắc thắng.
                - Ta đã làm được! Phép nhiệm mầu đã ra tay! - Nó kêu to - Đây là phát kiến khoa học đầu tiên của ta.
                - Không biết bác sĩ Craven sẽ nói gì nhỉ? - Mary buột miệng bảo.
                - Ông ấy sẽ chẳng thể nói gì, - Colin đáp - bởi vì ông ấy không được ai bảo cho mà biết. Đây có lẽ là bí mật lớn nhất trong tất cả các bí mật. Không ai được biết gì về nó cho tới khi tớ trở nên khỏe đến nỗi có thể đi đứng, chạy nhảy như mọi đứa trẻ khác. Từ hôm nay tớ sẽ tới đây hằng ngày rồi trở về bằng chiếc xe đẩy của tớ. Tớ không muốn mọi người xì xào bàn tán hay hỏi han, và càng không muốn để cha tớ nghe thấy chuyện này cho tới khi nào thí nghiệm thành công. Rồi đến lúc nào đó, khi ông trở về Misselthwaite, tớ sẽ bước thẳng tới phòng làm việc của ông mà bảo: “Con đây - giờ thì con cũng như bất kỳ đứa trẻ nào khác. Con hoàn toàn khỏe mạnh và sẽ sống để trở thành một người đàn ôrig. Đây chính là kết quả của một thí nghiệm khoa học”.
                - Ông ấy sẽ ngỡ là mình đang mơ cho mà xem - Mary bật cười - Ông ấy không tin nổi vào mắt mình đâu.
                Colin đỏ bừng mặt đắc thắng. Nó đã khiến cho chính nó tin rằng mình đang khá lên, và vậy đã là hơn nửa trận chiến rồi, nếu nó nhận ra điều đó. Và cái ý nghĩ khuấy động tâm hồn nó hơn bất kỳ điều gì khác, là mường tượng ra cảnh cha nó nhận ra ông có một đứa con trai cũng thẳng thớm và khỏe mạnh như con cái nhà ai. Một trong những bất hạnh đen tôi nhất của nó trong nhưng ngày bệnh tật đau yếu vừa qua, chính là nỗi uất hận khi phải làm một thằng bé gù lưng còi yếu đến độ cha mĩnh cũng phải hãi hùng khi nhìn thấy.
                - Ông ấy sẽ phải tin thôi - Nó nói - Một trong những việc tôi sắp làm, sau khi được phép mầu phù hộ và trước khi tôi bắt tay vào các khám phá khoa học, là trở thành một vận động viên điền kinh.
                - Chúng tôi sẽ dạy cậu chơi đấm bốc chỉ trong vòng một tuần - Lão Ben bảo - Cậu sẽ là người chiến thắng với việc giành Đai Vàng và trở thành nhà vô địch toàn nước Anh cho mà xem.
                Colin đưa mắt nhìn lão một cách nghiêm khắc.
                - Ông Weatherstaff này, nói vậy là thiếu tôn trọng đấy. Ông đừng tùy tiện sỗ sàng, bởi vì ông cần phải giữ bí mật. Dù phép mầu có hiệu nghiệm đến đâu, tôi cũng sẽ không vô địch quyền anh đâu mà sẽ trở thành một nhà phát minh khoa học.
                - Ấy, xin ngài thứ lỗi, thưa quý ngài - Lão Ben vừa đáp, vừa đặt tay ngang trán để chào - Có lẽ tôi nên đi gieo hạt hơn là ở đây mà tán dóc.
                Đôi mắt lão nheo nheo lấp lánh, tự đáy lòng lão cảm thấy hết sức vui vẻ. Thực tình lão không hề bận lòng vì bị bẽ mặt, vì kể từ lúc làm bẽ mặt lão, anh chàng này đã lấy lại được sức mạnh và tinh thần.


                Chú thích:

                [1] Fakir: a) thầy tu khất thực Ấn Độ được coi như một thánh nhân.
                b) thành viên của một môn phái Hồi giáo sống bằng ăn xin.

                Comment


                • #23
                  Chương XXIV

                  “Mặc cho chúng cười!”

                  Khu vườn bí mật không phải nơi duy nhất ****on làm việc. Quanh ngôi nhà gianh trên cánh đồng hoang có một mảnh đất được vây kín bởi bức tường thấp xây bằng đá hộc. Ngày nào cũng vậy, từ sớm tinh mơ cho tới khi trời nhập nhoạng tối, Colin và Mary không gặp được ****on, bời nó đang ở đó trồng trọt hoặc chăm sóc khoai tây, cải bắp, củ cải, cà rốt cùng các loại cỏ thuốc, đỡ đần cho mẹ nó. Bên cạnh những con thú, nó miệt mài làm ra những điều kỳ diệu. Trong lúc bận tay đánh luống hay rãy cỏ, nó vẫn huýt sáo hay cất tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp của đồng hoang xứ Yorkshire, chuyện trò cùng Bồ hóng và Đại úy, hay lại quay sang dạy các em cách thức để có thể giúp nó một tay.
                  - Chúng tôi sẽ không thể sống dễ chịu như bây giờ, - Bà Sowerby nói - nếu không có khu vườn của thằng ****on. Bất kể thứ gì cũng nhờ nó mà tươi tốt xanh um. Khoai tây, cải bắp nó trồng to gấp đôi của người khác, ấy vậy lại thơm ngon hơn kia chứ.
                  Hễ rảnh rỗi, bà lại thích ra ngoài trời trò chuyện cùng con. Sau bữa tối, còn vài việc vặt để làm khi trời vẫn nhá nhem, ấy cũng là lúc bà được thư thả. Lúc đó, bà ngồi bên bức tường thấp thô nhám, nhìn quanh và lắng nghe mọi chuyện trong ngày. Bà yêu quãng thời gian này vô cùng. Và không chỉ rau cỏ trong vườn. Thỉnh thoảng, ****on còn mua được cả những gói hạt giống hoa đáng tiền chỉ có vài penny. Nó vãi những hạt giống sáng màu có hương thơm ngào ngạt xen lẫn vào giữa các bụi lý gai và đám cải bắp, trồng nên những luống cẩm chướng, păng-xê và các thứ hoa khác. Các loại hạt giống đó nó để dành từ năm này qua năm khác. Mùa xuân đến, chúng mọc mầm rồi vươn lên thành khóm. Bức tường thấp là một trong những chỗ dễ thưong nhất ở xứ Yorkshire này, bởi thằng bé nhét đầy vào từng vết nứt trên đá những cây mao địa hoàng [1] mọc ngoài đồng hoang, rồi dương xỉ cùng các cây hoa dại, đến độ chỉ còn thấy lấp ló đây đó mấy phiến đá.
                  - Tất cả những gì mà người ta có thể làm để chúng lớn lên, mẹ ạ, là thật lòng kết bạn với chúng. Chúng chỉ là những sinh vật không biết nói năng. Nếu chúng khát ta phải cho chúng uống, nếu chúng đói ta phải cho chúng ăn. Chúng khao khát muốn sống chẳng khác nào chúng ta. Nếu chúng chết, con sẽ cảm thấy mình như một gã tồi vì đã đôi xử nhẫn tâm với chúng đến thế.
                  Chính vào những lúc tranh tối tranh sáng đó bà Sowerby được nghe kể về mọi chuyện đang diễn ra ở Trang viên Misselthwaite. Thoạt đầu, bà nghe thấy rằng “Cậu Colin” đã làm được một chuyện đáng kinh ngạc là ra khỏi nhà với cô Mary và việc đó đã giúp cậu khỏe hẳn ra. Nhưng trước đó không lâu, đã có một thỏa thuận giữa hai đứa trẻ là mẹ của ****on cũng được phép “tham dự vào bí mật này”. Không còn nghi ngờ gì nữa, bà chính là người “đáng tin cậy tuyệt đối”. Bởi vậy, vào một buổi tối đẹp trời, ****on đã kể lại cho mẹ mình toàn bộ câu chuyện, với tất cả các tình tiết ly kỳ nhất, từ chuyện chiếc chìa khóa được chôn giấu kỹ đến chuyện con chim ức đỏ, từ chuyện tấm màn xám gợi lên sự chết chóc rạn người cho đến điều bí mật mà cô Mary dự định sẽ không bao giờ tiết lộ, sự xuất hiện của ****on và lý do tại sao điều bí mật ấy lại được kể cho nó nghe, rồi mối ngờ vực của cậu chủ Colin và màn kịch cuối cùng nhằm giới thiệu lãnh địa bí mật của cậu, kết hợp với tình tiết nét mặt giận dữ của lão Ben Weatherstaff lúc ngó qua bờ tường, rồi việc cậu chủ Colin bỗng nhiên có một sức mạnh lạ thường - ngần ấy câu chuyện khiến cho gương mặt vốn tươi sáng của bà Sowerby mấy phen phải thất sắc.
                  - Lạy trời! - Bà thốt lên - Quả là một điềm lành khi cô gái bé bỏng đến với Trang viên. Ông trời đã tạo ra cô ấy và cứu rỗi cậu ấy. Cậu ấy đã tự đứng được trên đôi chân của mình! Vậy mà tất cả chúng ta đều cho rằng cậu ấy là một đứa trẻ tội nghiệp chậm hiểu trong người không có nổi một mẩu xương thẳng thớm.
                  Bà còn hỏi nhiều điều khác nữa, trong đôi mắt xanh biếc của bà chan chứa đầy những nỗi niềm sâu xa.
                  - Người trong Trang viên phản ứng thế nào khi... cậu ấy khỏe mạnh, vui vẻ và không còn than vãn nữa? - Bà hỏi thăm.
                  - Họ có biết gì đâu mà tỏ thái độ hả mẹ - ****on đáp - Mỗi ngày cậu ấy một khác. Cơ thể trông béo hẳn ra, không còn chửi rủa cay nghiệt như trước, và nước da như sáp cũng đang đổi màu. Nhưng thỉnh thoảng cậu vẫn còn than vãn tí chút.
                  - Than vãn nỗi gì mới được chứ? - Bà Sowerby hỏi.
                  - Cậu ấy làm vậy cốt để mọi người khỏi đoán được những chuyện đang diễn ra. Nếu ông bác sĩ biết, ông ta sẽ khám phá ra ngay việc giờ đây cậu ấy đã đứng được, có khả năng ông ta sẽ viết thư báo cho ông Craven. Cậu Colin muốn giữ lại bí mật này để tự cậu ấy kể ra cơ. Cậu ấy đang thực hành phép mầu ngay trên đôi chân của mình, ngày này qua ngày khác, cho tới khi cha cậu ấy trở về, lúc đó cậu ấy sẽ tiến vào phòng ông và cho ông thấy rằng mình cũng thẳng thớm khỏe mạnh như bao đứa trẻ khác. Thế là cậu ấy và cô Mary nhất quyết rằng thỉnh thoảng cần phải rên rỉ và cáu kỉnh một chút để che mắt thiên hạ.
                  Bà Sowerby khe khẽ cười, vẻ khoan khoái trước khi nó nói xong câu cuối cùng.
                  - Chà! Thế là cả hai cha con sẽ cùng hưởng niềm vui đó, mẹ dám cược đây. Cha con họ sẽ tha hồ mà hàn huyên, và đối với bọn trẻ thì không gì bằng được yêu thương vỗ về. Hãy xem họ sẽ làm gì, ****on nhé.
                  ****on ngừng tay gieo hạt giống, nó nhón gót ngồi xổm lên để nói chuyện với mẹ. Đôi mắt nó long lanh vì vui sướng.
                  - Cậu Colin lúc nào cũng mang theo một cái ghế riêng mỗi khi ra ngoài - Nó giải thích - Cậu ấy đã mắng anh John người hầu té tát vì đỡ cậu ấy không cẩn thận. Cậu ấy làm ra vẻ như không có khả năng hoạt động nếu không được giúp đỡ, và đầu thì cứ cúi gằm hay gục gặc cho tới khi chúng con khuất khỏi tầm nhìn của người khác. Cậu ấy còn làm bộ nhăn nhó, rên la lúc bị đặt vào ghế nữa chứ. Cậu ấy và cô Mary, cả hai đều khoái chí cái trò đó lắm. Hễ cậu ấy rên rỉ, than vãn là cô ấy lại dỗ dành: “Tội nghiệp Colin! Cậu đau lắm à? Cậu đau yếu đến nỗi này ư, tội nghiệp cho cậu!” Thế nhưng có những lúc, hai người đó khó lòng nín được cười. Khi cả bọn đã vào trong vườn yên ổn, mọi người cười rũ rượi tới mức không còn hơi sức đâu mà cười nữa. Ai nấy đều vùi mặt vào những tấm nệm của Colin để đám người làm vườn khỏi nghe thấy.
                  - Cười càng nhiều càng tốt cho chúng! - Bà Sowerby nói mà bản thân vẫn còn chưa hết buồn cười - Cười đùa giúp bọn trẻ còn khỏe mạnh hơn cả thuốc thang quanh năm. Đôi này chắc rồi sẽ phổng phao phải biết.
                  - Thì họ đang phổng phao lên mà mẹ. - ****on nói - Họ đói ngấu nghiến đến nỗi không biết làm thế nào để no bụng mà lại không bị bàn ra tán vào. Cậu Colin bảo nếu cậu ấy sai mang thêm thức ăn tới thì người ta sẽ không còn tin cậu ấy là người tàn tật nữa. Thấy vậy, cô Mary bèn bảo sẽ nhường cho cậu phần của mình, nhưng cậu nói rằng nếu cô ấy bị đói, cô ấy sẽ gầy đi và cả hai sẽ không béo bằng nhau được.
                  Bà Sowerby thích thú trước sự tiết lộ về chi tiết rắc rối này đến độ bà cứ phá lên cười ngả nghiêng trong chiếc áo choàng rộng màu xanh, ****on cùng cười theo mẹ.
                  - Mẹ sẽ kể con nghe chuyện này, nhóc ạ - Bà Sowerby bảo khi đã có thể cất lên thành lời - Mẹ đã nghĩ ra cách để giúp họ. Sáng sáng khi con tới chỗ họ, con nên mang theo một xô sữa tươi loại ngon và mẹ sẽ nướng cho họ một ổ bánh mì “đúp” vỏ giòn tan, hoặc mấy cái bánh ngọt tròn nhỏ có nhân nho khô mà trẻ con thường thích. Chắng có gì tốt bằng sữa tươi với bánh mì. May ra họ có thể đỡ đói lòng lúc ở trong vườn.
                  - Ôi! Mẹ! - ****on thốt lên đầy vẻ thán phục - Mẹ mới tuyệt làm sao! Mẹ lúc nào cũng biết lo liệu mọi chuyện. Hôm qua, mọi người đã đói quặn cả ruột. Quả thật họ không biết xoay xở ra sao mà không cần lệnh mang thêm thức ăn tới, trong lúc bụng ai cũng trống rỗng.
                  - Hai đứa rồi sẽ mau lớn phải biết. Trẻ con cũng tựa như bầy sói con vậy. Đồ ăn với bọn chúng chẳng khác nào thịt sống cho bọn sói con. - Bà Sowerby nói - Chà, chắc chắn lũ trẻ sẽ rất thích cho mà xem.
                  Bà hoàn toàn có lý, bà quả là một người mẹ tuyệt vời, nhất là khi bà còn lấy chuyện “giả bộ” của họ làm niềm vui của mình. Colin và Mary thì thấy đó là một trò giải trí bậc nhất. Ỷ nghĩ phải bảo vệ mình khỏi sự ngờ vực đã nảy ra một cách vô thức ngay từ buổi đầu, qua vẻ bối rối của cô bảo mẫu và rồi của chính bác sĩ Craven.
                  - Cậu ăn ngon miệng hơn chứng tỏ cậu đang khỏe ra, cậu chủ Colin ạ. - Một hôm cô bảo mẫu nói - Trước đây, cậu thường xuyên chẳng ăn gì, lại thêm nhiều món chẳng vừa ý cậu.
                  - Cả bây giờ cũng chẳng món nào vừa ý tôi hết - Colin gắt gỏng. Chợt thấy cô bảo mẫu đang nhìn mình một cách tò mò, nó bỗng nhớ ra có lẽ nó không nên gây ấn tượng mạnh như thế nữa - Ít ra, cũng có một thứ vừa ý tôi. Đó là không khí trong lành.
                  - Có lẽ thế thật - Cô bảo mẫu đáp, mắt vẫn không rời khỏi Colin với vẻ mặt bí hiểm - Tôi phải báo cho bác sĩ Craven biết chuyện này mới được.
                  - Cô ta cứ nhìn chòng chọc vào cậu mới kinh khiếp làm sao! - Mary nói tiếp khi cô bảo mẫu đã ra ngoài - Chắc cô ta cho rằng có gì đó cần khám phá chăng.
                  - Tớ không cho phép cô ta khám phá gì hết - Colin nói - Không một ai được phép khám phá khám phiếc gì hết!
                  Sáng hôm ấy, khi bác sĩ Craven tới thăm, ông có vẻ hết sức bối rối. Ông hỏi đủ điều khiến Colin vô cùng khó chịu.
                  - Cháu ở ngoài vườn quá lâu. Vậy cháu đã đi những đâu?
                  Trước câu hỏi đó, Colin tỏ cái vẻ thờ ơ kiêu kỳ thường thấy ở nó.
                  - Cháu sẽ không cho phép bất kỳ ai được biết cháu đi những đâu. Cháu tới nơi nào mà cháu thích. Mọi người đã được lệnh phải tránh xa đường đi. Cháu không thích bị rình mò xoi mói. Chú phải cho hiểu điều đó!
                  - Hình như cháu đã ở ngoài trời suốt ngày, nhưng chú không nghĩ điều đó có hại cho cháu. Cô bảo mẫu cho biết cháu ăn uống khỏe hơn trước rất nhiều.
                  - Có lẽ thế, - Colin đáp lại, một ý nghĩ thú vị chợt lóe lên trong đầu - có lẽ đó là một sự thèm ăn thèm uống không bình thường chăng?
                  - Chú không nghĩ vậy, cái chính là đồ ăn hợp với khẩu vị cháu. Cháu đã nhanh chóng có da có thịt, mà sắc diện cũng hồng hào hơn xưa.
                  - Nhưng có lẽ... có lẽ cháu đang húp híp lên và ngây ngấy sốt - Nó làm ra vẻ chán nản, rầu rĩ - Những người sắp chết thường thấy trong người... khang khác.
                  Bác sĩ Craven lắc đầu. Ông cầm lấy cổ tay Colin, vén cao tay áo rồi nắn nắn cánh tay nó.
                  - Cháu không sốt, - Ông nói vẻ trầm ngâm - có da có thịt như thế này là khỏe ra rồi. Nếu chúng ta cứ giữ được phong độ như thế, anh bạn trẻ ạ, thì đừng có nói gì đến chuyện chết chóc nữa. Cha cháu hẳn sẽ vô cùng hạnh phúc khi biết được sự cải thiện rõ rệt này.
                  - Cháu không muốn ông ấy biết làm gì! - Colin thốt lên giận dữ - Chỉ tổ làm ông thấy thất vọng nếu cháu lại gầy yếu đi... mà cháu có thể nguy kịch ngay đêm nay cũng nên. Cháu cảm thấy một cơn sốt dữ dội đang bắt đầu ngay lúc này. Cháu không thích có chuyện viết thư cho cha cháu... cháu không thích... không thích! Cháu thấy bực bội trong người và chú thừa biết là việc này có hại cho cháu. Cháu thấy người đang sốt đùng đùng đây này. Cháu căm ghét việc người ta thư từ qua lại rồi bản thân bị đem ra đàm tiếu cũng như ghét bị người ta nhìn chòng chọc vào mình vậy!
                  - Suyt... uyt! Anh bạn. - Bác sĩ vỗ về nó - Không ai được viết gì nếu không có sự cho phép của cháu. Cháu quả là quá nhạy cảm về mọi thứ. Cháu không được hủy hoại những gì tốt đẹp mà cháu đã có được.
                  Ông không bàn thêm việc viết thư cho ông Craven nữa, rồi vừa thấy cô bảo mẫu ông liền vội dặn riêng cô về một khả năng nhất thiết không được nhắc đến trước mặt người bệnh.
                  - Cậu bé khá lên rất nhiều. Sự tiến bộ của cậu ấy thật khác thường. Cậu ấy đang tự nguyện tuân thủ những gì mà trước đây chúng ta đã không thể ép cậu ấy làm. Hiện tại, cậu ấy vẫn còn rất dễ bị kích động, nên tuyệt nhiên không ai được nói gì chọc tức cậu ấy, nghe không.
                  Cả Mary và Colin đều vô cùng hoảng, chúng lo lắng bàn bạc với nhau. Từ lúc này, chúng quyết định là phải “đóng kịch”.
                  - Có lẽ tớ buộc phải giả bộ lên cơn - Colin nói vẻ buồn rầu - Tớ chẳng còn muón chuyện đó chút nào. Giờ đây, tớ đâu còn khốn khổ để mà đem thân ra làm cái trò ấy. Có lẽ tớ không thể làm ra nổi một con nào hết. Cổ họng tớ bây giờ có muốn gào cũng chẳng được vì tớ chỉ nghĩ về những chuyện tốt đẹp chứ không bị ám ảnh bởi những thứ khủng khiếp như trước nữa. Nhưng nếu họ tính chuyện viết thư cho cha tớ thì tớ sẽ ra tay.
                  Nó quyết định từ giờ phải ăn ít đi, nhưng bất hạnh thay, thật khó mà thực hiện nổi cái ý tưởng khác thường này vì mới bảnh mắt ra nó đã thấy thèm ăn lắm rồi. Trên chiếc bàn kê gần ghế sofa đã dọn sẵn bữa điểm tâm gồm bánh mì nhà làm với bơ tươi, cốc trứng gà đánh sủi bọt, mứt làm từ quả mâm xôi, và kem đặc hớt từ sữa đun gần sôi. Mary thường ăn sáng cùng với nó, và hễ gặp nhau bên bàn ăn - nhất là hôm nào có mấy lát giăm bông ngon lành cồn xèo xèo và tỏa mùi ngào ngạt - là chúng lại đưa mắt nhìn nhau tuyệt vọng.
                  - Tớ nghĩ chúng mình chén chỗ này cả sáng nay cũng không hết, Mary ạ - Colin luôn kết thúc bằng cách nói như vậy - Có lẽ chúng mình phải bớt lại mấy thứ sang bữa trưa và bỏ hẳn bữa tối mất.
                  Nhưng chúng chẳng bỏ món nào bao giờ, không những vậy chúng còn vét cho mấy chiếc đĩa sạch bóng thức ăn mới chịu thôi.
                  - Tớ chỉ ước, - Colin cuối cùng lên tiếng - tớ chỉ ước mấy lát giăm bông cắt dày hơn, và mỗi người một cái bánh xốp thì chẳng bõ miệng.
                  - Ừ, với một kẻ sắp ngoẻo thì thừa là khác - Mary đáp khi lần đầu nó nghe thấy câu ấy - Nhưng với một người sắp sống thì chẳng bõ bèn. Đôi khi, vào những lúc mùi hương tươi mát của kim tước và thạch thảo từ ngoài đồng hoang tràn về qua cửa sổ để ngỏ, tớ cảm thấy tớ có thể chén bay ba chiếc bánh.
                  Sáng hôm ấy, sau khi cả bọn đã cùng nhau vui đùa ngoài vườn khoảng chừng hai tiếng, ****on bước tới sau một khóm hồng lớn, xách ra hai cái xô bằng thiếc, một xô đầy ắp loại sữa tươi béo ngậy với nguyên một lớp kem phủ lên trên, còn xô kia đựng những chiếc bánh ngọt tròn nhân nho được làm ngay tại ngôi nhà gianh, lèn chặt vào nhau trong một chiếc khăn màu xanh trắng sạch tinh, đến nỗi khi mang đến nơi chúng vẫn còn nóng hôi hổi. Hai đứa kia hò reo vì ngạc nhiên và vui sướng. Bà Sowerby đã nghĩ ra một việc kỳ diệu biết bao! Bà quả là một người đàn bà thông minh và nhân hậu! Những chiếc bánh ngọt thật hấp dẫn biết mấy, lại thêm món sữa tươi tuyệt vời nữa chứ!
                  - Phép nhiệm mầu có trong bà, chẳng khác nào ****on - Colin bảo - Nó giúp bà nghĩ ra cách làm đủ mọi điều tốt đẹp. Bà là một con người kỳ diệu. Cậu hãy về thưa với mẹ mình là chúng tớ rất biết ơn bà, ****on, vô cùng biết ơn.
                  Nó dùng đến một loạt cụm từ trông ra dáng người lớn lắm và tỏ ra rất thích thú.
                  Nó thích thú đến độ còn đưa đẩy thêm vài lời :
                  - Cậu hãy thưa với bà rằng bà là người hào phóng nhất và lòng biết ơn của bọn tớ là vô tận.
                  Sau đó, dường như quên cả sự đường bệ của mình, nó ngồi bệt xuống, ngốn liền mấy cái bánh ngọt và nốc một hơi hết sạch sữa rót từ trong xô, như một thằng bé bị đói ăn từ lâu, ấy là chưa kể nó vừa ăn điểm tâm hai giờ trước đó.
                  Đây chính là sự mở đầu cho những rắc rối dễ chịu sau này. Trên thực tế, chúng nhận ra một điều là gia đình bà Sowerby có mười bốn miệng ăn cả thảy. Vì vậy, rất có thể bà không đủ khả năng đáp ứng hai suất ăn thêm mỗi ngày. Thế là chúng đề nghị bà cho phép gửi ít tiền riêng của chúng để phần nào đỡ đần cho bà.
                  ****on có một khám phá đầy thú vị là trong rừng cây ở công viên phía ngoài khu vườn, nơi Mary lần đầu gặp nó ngồi thổi sáo bên mấy con thú hoang, có một cái hố hơi sâu, nếu đắp đá xay thành một cái lò nhỏ dùng để nướng khoai tây hoặc nướng trứng thì rất tuyệt. Trứng nướng vốn là một thứ xa xỉ chưa mấy người từng biết trước đây, còn món khoai nướng nóng hổi chấm muối hoặc ăn cùng bơ tươi thì thật xứng với một ông vua vùng rừng, lại còn ngon miệng và no nê nữa chứ. Ta có thể mua cả trứng lẫn khoai tây mà chén bao nhiêu tùy thích, khỏi áy náy rằng mình đã lấy bớt khẩu phần ăn của mười bốn con người.
                  Buổi sáng đẹp trời nào cũng vậy, phép mầu lại hiển hiện với một vòng tròn huyền bí dưới tán cây mận xanh um sau khi kết thúc kỳ đơm hoa ngắn ngủi. Sau nghi lễ, Colin luôn tập đi bộ. Nhờ suốt ngày chịu khó tập luyện, nên nó tìm thấy một sức mạnh mới. Mỗi ngày nó một khỏe ra, có thể bước đi ngay ngắn hcrn, sải chân dài hơn. Và niềm tin của nó vào phép mầu mỗi ngày một trở nên mạnh mẽ. Nó thử hết thí nghiệm này sang thí nghiêm khác, mỗi lân như vậy nó cảm thấy mình đang đạt tới một sức mạnh thực sự. ****on đã chỉ bảo cho nó những điều hay nhất.
                  - Hôm qua, - Một buổi sáng, nó bảo với Colin sau một hôm vắng mặt - mẹ sai tôi sang bên làng Thwaite, và gần quán trọ “Quạ xanh” tôi trông thấy Bob Haworth. Đấy là anh chàng khỏe nhất vùng đồng hoang này. Anh ta là một đô vật vô địch và có thể nhảy cao hơn bất kỳ gã trai nào khác, ném búa cũng hơn người. Anh ta từng đi khắp các nẻo đường xứ Scotland để tỉ thí các môn thể thao trong mấy năm liền. Anh ta biết tôi từ khi tôi còn bé, và cũng thuộc loại thân thiện dễ gần nên tôi có được dịp hỏi han anh ta dăm ba câu. Những người trung lưu ở đây vẫn gọi anh ta là vận động viên điền kinh, và tôi nghĩ ngay đến cậu, cậu chủ Colin ạ, tôi bèn hỏi: “Anh làm thế nào mà cơ bắp cuồn cuộn lên thế, Bob? Anh có cách tập luyện gì thêm để có được cơ thể khỏe như vậy?” Và anh ta đáp lại: “Ầy, phải đấy, anh bạn. Có lần một lực sĩ trong một bận đến Thwaite biểu diễn đã chỉ cho cách tập tành để cho chân, tay và mọi cơ bắp trong cơ thể nổi cuồn cuộn cả lên”. Tôi bèn hỏi: “Liệu một gã gầy gò mảnh dẻ có thể tự luyện tập theo cách đó được không anh Bob?” Anh ta bật cười và nói: “Một gã gầy nhẳng à?”, tôi bèn bảo: “Không, nhưng tôi biết có một quý ngài trẻ đang lại sức sau một trận ốm dài, nên tôi muốn tìm hiểu vài điều nhỡ khi phải kể cho ông ấy nghe”. Tôi không nêu tên người mà anh ta cũng chẳng hỏi. Anh ta vốn tính tình thân thiện, liền đứng phắt dậy và chỉ dẫn cho tôi một cách tận tình, và tôi đã làm theo mọi thứ anh ta dạy cho tới lúc nhập tâm.
                  Colin lắng nghe với vẻ đầy kích động.
                  - Cậu có thể chỉ dẫn cho tớ được không? - Nó kêu lên - Được không cậu?
                  - Được, được chứ - ****on trả lời rồi đứng lên - Nhưng anh ấy bảo rằng ban đầu phải tập các động tác nhẹ nhàng và đừng quá sức. Cần nghỉ ngơi giữa các lần tập, thở cho sâu và đừng vượt quá giới hạn cho phép.
                  - Tớ sẽ cẩn thận mà - Colin bảo - Chỉ cho tớ đi! Chỉ cho tớ đi! ****on, cậu quả là anh bạn nhiều phép mầu nhất trên đời!
                  ****on đứng dậy trên bãi cỏ, rồi chậm rãi làm một loạt những động tác cơ bắp đơn giản nhưng kỹ lưỡng. Colin mắt mở thao láo nhìn cho thật kỹ. Trong lúc vẫn ngồi, nó bắt chước làm theo. Dần dà nó cũng làm được mấy động tác nhẹ nhàng mà chân vẫn đứng vững. Mary bắt đầu làm theo. Bồ hóng từ nãy vẫn quan sát màn trình diễn đó. Nó trở nên bối rối và rời khỏi cành cây đang đậu, rồi nhảy quanh với vẻ bồn chồn bởi nó không biết tập cùng cả bọn như thế nào.
                  Kể từ lúc ấy, những động tác thể dục đã trở thành một phần trong các nhiệm vụ hàng ngày của chúng, cũng như phép mầu. Cả Colin và Mary đều có thể tập nhiều hơn mỗi khi cần cố gắng, và kết quả là sự ngon miệng đến nỗi đồ ăn trong chiếc giỏ ****on đem đến đặt sau bụi cây mỗi sáng đều được chúng chén sạch. Vậy nhưng chiếc lò nhỏ trong hố và các món quà hào phóng của bà Sowerby lại đem tới sự no nê mãn nguyện cho bọn trẻ đến nỗi bà Medlock, cô bảo mẫu và bác sĩ Craven một lần nữa phải hoang mang. Bọn trẻ bắt đầu xem thường bữa sáng và coi nhẹ bữa tối một khi đã chén đầy trứng nướng với khoai tây, rồi là sữa tươi mới vắt còn sủi bọt béo ngậy, sau đó còn ngốn đẫy bánh yến mạch cùng bánh ngọt, mật hoa thạch thảo và cả kem đặc nữa.
                  - Đến bữa hai cô cậu chẳng chịu ăn gì hết - Cô bảo mẫu nói - Cả hai sẽ chết vì đói nếu không được ai khuyên nhủ phải ăn uống cho đủ dinh dưỡng. Cứ nhìn họ thì biết.
                  - Nhìn thì đủ biết! - Bà Medlock thốt lên đầy phẫn nộ - Chà chà! Tôi cũng đến chết vì chúng mất thôi. Chúng là đôi nhóc sa tăng chứ chẳng chơi. Có bữa thì ăn đến vỡ bụng, có bữa lại chỉ hếch mũi lên với cả những đồ ăn ngon lành của bà bếp. Ngày hôm qua, chúng chẳng thèm đụng dĩa món chim non với nước sốt đấy thôi. Người đàn bà tội nghiệp đó còn sáng chế ra cả một chiếc bánh pudding cho chúng, vậy mà cũng bị trả lại. Bà ấy la hoảng lên, chỉ sợ phải tội nếu để chúng đói lép bụng cho tới khi chui vào mồ.
                  Bác sĩ Craven đến thăm bệnh tình cho Colin khá lâu và cẩn thận. Ông có vẻ hết sức lo lắng khi cô bảo mẫu kể lại mọi chuyện và chỉ cho ông xem chiếc khay đựng bữa điểm tâm hầu như chưa ai đụng tới, mà cô chưa thu dọn để ông chứng kiến. Nhưng ông còn thấy lo hơn lúc ngồi xuống ghế sofa của Colin để khám cho nó. Ông vừa được mời về Luân Đôn vì mấy công chuyện gấp, nên gần hai tuần lễ qua ông không gặp thằng bé. Bọn trẻ mà lấy lại sức thì nhanh lắm. Màu sáp phớt nhẹ trên làn da của Colin đã biến mất, thay vào đó là vẻ ửng hồng ấm áp; đôi mắt vốn đã đẹp của nó nay sáng ngời, trong veo và sâu thẳm, hai bầu má và hai bên thái dương giờ nom đầy đặn hẳn ra. Những lọn tóc dàý nặng và đen nhánh trên vầng trán nó trông thật mềm mại, ấm áp và đầy sức sống. Đôi môi nó cũng đầy mọng lên và có sắc màu tự nhiên. Bác sĩ Craven đưa tay nâng cằm nó lên, vẻ suy nghĩ.
                  - Chú lấy làm tiếc khi nghe nói cháu chẳng chịu ăn uống gì hết. Điều đó là không nên. Như vậy cháu sẽ mất tất cả những gì cháu đã đạt được một cách đáng kinh ngạc này. Mấy bữa trước cháu ăn khá lắm cơ mà.
                  - Cháu chẳng bảo chú đó là một kiểu ngon miệng không bình thường là gì. - Colin bảo.
                  Mary đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh đây, thình lình phát ra một âm thanh vô cùng kỳ quặc mà nó đã hết sức kiềm chế đến nỗi gần như nghẹt thở.
                  - Có chuyện gì thế? - Bác sĩ Craven hỏi rồi quay phắt sang nhìn nó.
                  Mặt Mary đanh lại.
                  - Một cái gì đó giữa hắt hơi và ho, - Nó đáp lại vẻ kênh kiệu - nó ở tận trong cổ họng của cháu.
                  - Nhưng, - Nó quay sang bảo Colin - tớ không sao kìm nổi. Tự nó cứ bật ra. Mà này, tớ không khỏi nhớ đến củ khoai tây to tướng cuối cùng mà cậu chén, và cái cách cậu ngoác mồm ra nuốt chửng lát bánh mì kẹp giăm bông phết kem đặc.
                  - Mấy đứa nhóc này không có cách bí mật nào đó để kiếm được thức ăn đấy chứ? - Bác sĩ Craven căn vặn bà Medlock.
                  - Làm gì có cách nào, trừ phi chúng đào từ dưới hố lên hoặc hái từ trên cây xuống - Bà Medlock trả lời - Chúng ở ngoài trời suốt ngày, chẳng hề gặp ai ngoài hai đứa với nhau. Vả lại, nếu chúng muốn bất kể thức gì khác ngoài những món đã dọn ra thì chúng chỉ cần gọi một tiếng là có ngay.
                  - Hừ, - Bác sĩ Craven bảo - lâu nay chẳng có món nào vừa ý chúng. Mà thôi, chúng ta chẳng nên bận tâm làm gì. Thằng nhóc bây giờ là một đứa khác hẳn trước rồi.
                  - Con bé kia cũng vậy - Bà Medlock nói - Nó bắt đầu xinh ra kể từ khi người nó đầy đặn lên và mất hẳn vẻ quàu quạu khó chịu. Ngay cả mái tóc nó cũng dài và dày dặn hơn, sắc diện thì sáng sủa. Trước là một con nhóc cau có xấu tính, giờ thì nó và Cậu Colin lúc nào cũng cười với nhau như một cặp phát rồ. Có lẽ cả hai sẽ béo lên vì thế.
                  - Có thể lắm - Bác sĩ Craven bảo - Mặc cho chúng cười!

                  ----------------------------------------------------
                  [1] Foxglove: loài cây cao có hoa màu tím hay trắng hình quả chuông mọc ra từ thân cây.



                  Comment


                  • #24
                    Chương XXV

                    Bức màn



                    Muôn vàn đóa hoa đang nở rộ trong khu vườn bí mật và cứ mỗi sớm mai qua đi, những phép mầu mới lại lộ ra. Trong tổ của chim ức đỏ đã thấy mấy quả trứng con con, con mái đang nằm ấp bên trên chúng, giữ cho trứng được ấm bằng cái ngực nhỏ xíu đầy lông mịn và đôi cánh cẩn trọng của nó. Lúc đầu nom nó cũng có vẻ lúng túng lắm, khiến chim ức đỏ chồng phải trông chừng mọi người với vẻ bực bội. Trong mấy ngày đó, ngay cả ****on cũng không dám đến gần cái góc kín đáo của chúng như mọi bữa, mà chỉ chờ đợi cho tới khi bằng vài câu thần chú thầm lặng, nó dường như nhắn nhủ tới đôi sinh linh bé nhỏ kia rằng không một sinh vật nào trong khu vườn lại không đồng cảm với chúng. Không một ai là không thấu hiểu điều kỳ diệu đang xảy ra đến với chúng: vẻ đẹp mênh mông, dịu dàng, ghê gớm, trang nghiêm và nao lòng của Trứng. Nếu như có một ai đó trong vườn này không thấu hiểu đến tận cùng tâm can, rằng nếu một quả trứng bị lấy đi hoặc bị đập vỡ thì cả trái đất này sẽ quay cuồng, lao bắn vào khoảng không vũ trụ để mà đi đến chỗ hủy diệt - nếu như có kẻ mà không cảm nhận được điều đó mà cư xử cho phải lẽ thì kẻ đó sẽ không bao giờ có được hạnh phúc, dù đang giữa tiết xuân rạng rỡ. Nhưng may thay, bọn trẻ hiểu và cảm nhận được, chim ức đỏ và bạn đời của nó cũng biết rằng chúng hiểu.

                    Thoạt đầu, chim ức đỏ nhìn Mary và Colin hồi lâu với vẻ lo lắng. Vì một lý do bí ẩn nào đó, nó hiểu rằng nó không phải e ngại ****on. Lần đầu tiên hướng đôi mắt đen láy như hạt huyền vào ****on, nó đã biết rằng thằng bé không phải kẻ lạ mặt. ****on có thể nói được ngôn ngữ của chim ức đỏ. Nói giọng chim ức đỏ với một con chim ức đỏ cũng tựa như nói tiếng Pháp với một người Pháp vậy (và nó là một ngôn ngữ riêng, không lẫn vào đâu được). ****on thường dùng ngôn ngữ ấy để nói riêng với chim, cho nên những tiếng linh tinh kỳ quặc mà nó nói với con người cũng chẳng ảnh hưởng chút nào. Chim ức đỏ cho rằng thằng bé nói những tiếng linh tinh với với họ cũng phải thôi bởi họ đâu đủ thông minh để hiểu ngôn ngữ loài chim. Mỗi cử động của ****on cũng lựa theo đôi chim. Chúng chưa bao giờ phải bất ngờ giật mình bởi hiểm nguy hay một mối đe dọa nào đó. Bất kỳ con chim ức đỏ nào cũng hiểu thằng ****on, nên sự có mặt của nó không làm chúng e ngại.

                    Hồi đầu, chúng cũng cảnh giác trước hai đứa bé kia. Đầu tiên là một thằng bé vào vườn không phải bằng đôi chân của nó. Nó được đẩy đi trên một vật gì đó có hai chiếc bánh tròn tròn, trên người phủ mấy tấm lông thú gớm ghiếc. Riêng việc ấy thôi cũng đủ đáng ngờ rồi. Đã thế khi nó đứng dậy và bước đi thì cũng với cái cách khác thường, chẳng giống ai, và mấy đứa kia phải giúp đỡ nó. Chim ức đỏ thường ẩn mình trong một bụi cây mà theo dõi cảnh tượng ấy một cách lo âu, cái đầu nó nghiêng ngó hết bên này lại bên kia. Nó cho rằng những chuyển động chậm chạp ấy cho thấy thằng bé sắp vồ nó đến nơi, như bọn mèo đáng ghét. Hễ khi nào bọn mèo chuẩn bị vồ cái gì, chúng thường trườn sát mặt đất thật chậm rãi. Có tới vài ngày, chim ức đỏ đem kể chuyện này với bạn đời của nó, nhưng sau đó nó quyết định không nhắc tới nữa bởi con mái hãi hùng đến nỗi nó lo điều đó có thể làm hại ổ trứng đang ấp.

                    Khi thằng bé bắt đầu tự đi lại được, thậm chí mỗi lúc một nhanh hơn, chim ức đỏ mới như trút bỏ được gánh nặng. Nhưng trong suốt một thời gian dài, hay ít ra cũng dài với chim ức đỏ, thằng bé đó là nguồn cơn nỗi lo lắng bồn chồn của nó. Thằng bé đó không hành động như những con người khác. Nó có vẻ thích đi lại lắm thì phải, nhưng chốc chốc lại ngồi xuống hoặc nằm kềnh ra một lúc rồi mới bò dậy với vẻ bối rối để làm lại từ đầu.

                    Cho tới một ngày nọ, chim ức đỏ nhớ ra hồi nó được bố mẹ dạy bay, nó cũng phải học những động tác tương tự. Thoạt đầu họ học bay những quãng ngắn rồi nghỉ lấy sức. Trong đầu nó lóe lên ý nghĩ rằng thằng bé đang học bay... hay đúng hơn là học đi. Nó bèn kể điều đó cho bạn đời nghe, và lúc nó bảo với con mái rằng Trứng của mình cũng sẽ phải tập tành như vậy khi đã được nuôi nấng cho cứng cáp lên, thì con mái mới hoàn toàn yên tâm, thậm chí nó còn trở nên tò mò háo hức và tìm thấy niềm vui trong việc quan sát thằng bé ngay dưới tổ của nó, dù trong thâm tâm nó luôn cho rằng các con nó rồi đây sẽ thông minh và giỏi giang hơn thế. Nhưng nó cũng tự nhủ với vẻ bao dung rằng con người thường vụng về và chậm chạp hơn lũ chim non, bọn họ chưa bao giờ thực sự biết bay. Ta chưa từng thấy họ trong không gian hay trên các ngọn cây.

                    Chẳng bao lâu sau, thằng bé đã có thể đi đứng bình thường như bao đứa trẻ khác, chỉ có điều cả ba lúc này làm những việc chẳng bình thường chút nào. Chúng đứng dưới mấy tán cây rồi cử động tay, chân, đầu theo cái lối nom chẳng ra đi, chẳng ra chạy, cũng chẳng ra ngồi. Chúng tiến hành các động tác ấy vào những lúc xen kẽ trong ngày, và chim ức đỏ không tài nào giải thích nổi cho con mái xem chúng đang làm gì. Nó chỉ có thể cam đoan với vợ rằng đừng sợ bọn Trứng của mình cũng bắt chước rồi đập cánh bay đi mất. Thấy thằng bé thông thạo tiếng chim cũng đang tập cùng với chúng, đôi chim càng yên tâm rằng mấy cử động kia chẳng hề nguy hiểm. Dĩ nhiên, cả con chim ức đỏ lẫn bạn đời của nó đâu biết gì về nhà vô địch môn vật Bob Haworth cùng các bài tập cơ bắp của anh ta. Loài chim ức đỏ chẳng có gì giống với con người; ngay từ những ngày đầu đời thì cơ bắp của chúng đã luôn phải luyện tập rồi, và chúng tự phát triển theo một phong cách tự nhiên nhất. Nếu ta phải tự bay đi kiếm ăn như chúng, chắc hẳn các cơ bắp của con người cũng không đến nỗi teo mòn.

                    Khi thằng bé đã đi lại, chạy nhảy, đào xới và gieo trồng như mấy đứa kia thì chiếc tổ chim trong góc vườn đắm chìm trong một bầu không khí vô cùng thanh binh và mãn nguyện. Mọi nỗi lo sợ cho sự an nguy của mấy quả trứng nay đã lùi vào dĩ vãng. Giờ đây nó tin chắc rằng bọn Trứng đã được an toàn như thể được khóa kỹ trong một hầm két nhà băng, và sự thực mà nói, việc chứng kiến những chuyện kỳ cục đang diễn ra trước mắt lại là một việc bận rộn thú vị nhất đối với nó. Vào những ngày ẩm ướt, chim mẹ thậm chí còn cảm thấy hơi buồn vì bọn trẻ không đến chơi khu vườn.

                    Nhưng với Mary và Colin kể cả trong những ngày ẩm ướt cũng không thể bảo rằng chúng rầu rĩ. Một buổi sáng trời mưa dai dẳng không dứt, Colin bắt đầu thấy bồn chồn vì cứ phải nằm lì trên xô pha. Nhưng lúc này mà ra ngoài kia thì chẳng an toàn chút nào. Mary bỗng nảy ra một ý.

                    - Giờ đây tớ đã trở thành một chàng trai thực sự - Colin bảo - Chân, tay và cả cơ thể tớ tràn ngập một thứ phép mầu mà tớ không tài nào kiềm chế được. Lúc nào tớ cũng muốn làm một cái gì đó. Mary, cậu có biết không, sáng nay tớ thức dậy trời mới hé rạng, ngoài kia chim chóc đã ríu rít gọi nhau và muôn loài dường như muốn cất tiếng hò reo vì vui sướng, cả cây cối và các vật vô tri vô giác cũng thế. Tớ chỉ muốn nhảy bổ ra khỏi giường mà gào lên. Những chỉ e một nỗi, nếu tớ mà làm vậy thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra!
                    Mary cười khúc khích.
                    - Nếu thì cô bảo mẫu và bà Medlock sẽ đâm bổ tới ngay, họ sẽ quả quyết rằng cậu lại phát rồ và ngay lập tức cho mời ông bác sĩ.
                    Colin cũng cười theo. Nó có thể hình dung rõ ràng mặt mũi từng người vào lúc ấy - họ sẽ hoảng hốt ra sao trước cơn bộc phát của nó và sững sờ thế nào khi tận mắt thấy nó đứng thẳng tắp.
                    - Tớ ước gì cha tớ sớm trở về. Tớ muốn tự mình nói để ông ấy hay. Lúc nào tớ cũng nghĩ đến giây phút đó. Nhưng chúng ta không thể tiếp tục lâu hơn được nữa. Tớ không thể chịu nổi cứ phải nằm lì như thế này mà giả bộ nọ kia. Vả lại, giờ tớ trông khác hẳn trước. Ước gì hôm nay trời đừng có mưa.
                    Chính lúc ấy cô chủ Mary nảy ra một ý hay.
                    - Colin này, - Con bé mào đầu với vẻ đầy bí ẩn - cậu có biết trong ngôi nhà này có bao nhiêu căn phòng không?
                    - Tớ đoán chừng một ngàn.
                    - Trong đó có khoảng một trăm căn phòng mà chưa hề có ai lui tới, - Mary bảo, - Vào một ngày mưa gió, tớ đã đi và ngó rất nhiều phòng trong số đó. Không một ai hay biết, mặc dù bà Medlock gần như đã phát hiện ra tớ. Tớ đã lạc đường vào đúng lúc quay trở lại, và tớ dừng chân ở cuối hành lang dẫn đến phòng cậu. Đó chính là lần thứ hai tớ nghe thấy cậu khóc.
                    Colin ngồi bật dậy trên sô pha.
                    - Một trăm căn phòng chưa hề có người lui tới! - Nó thốt lên - Nghe cứ như lại có một khu vườn bí mật nữa ấy. Tớ cho rằng ta nên tới đó xem sao. Cậu nên đẩy xe giúp tớ và không ai biết chúng mình đi đâu.
                    - Đó chính là điều tớ đang nghĩ, - Mary bảo - Không kẻ nào dám cả gan đi theo chúng ta. Có bao nhiêu phòng tranh mà cậu cần tham quan. Chúng mình còn có thể tập thể dục luôn. Mà này, có cả một căn phòng bài trí theo kiểu Ấn Độ, trong đó có một cái giá treo đầy những con voi làm từ ngà voi đấy. Thôi thì đủ các loại phòng!
                    - Rung chuông đi. - Colin bảo.
                    Chờ cô bảo mẫu bước vào, nó ra lệnh.
                    - Tôi cần chiếc xe đẩy. Cô Mary và tôi định đi thăm nom phần nhà chưa sử dụng đến. Anh John có để đẩy xe cho tôi tới các phòng trưng bày tranh, bởi vì muốn tới đó phải qua mấy cầu thang. Tới nơi rồi anh ta cứ việc đi, để chúng tôi một mình cho tới khi tôi cho gọi anh ta.
                    Những ngày mưa gió đã chằng còn đáng sợ nữa trong buổi sáng hôm ấy. Khi người hầu đã đẩy chiếc xe vào giữa phòng tranh, rồi để hai đứa lại đúng như lệnh, Colin và Mary đưa mắt nhìn nhau đầy sung sướng. Đợi Mary chắc chắc John đã về tới chốn ăn ở của anh ra dưới tầng trệt xong, Colin bèn đứng phắt dậy khỏi chiếc xe đẩy.
                    - Tớ định bắt đầu lần lượt hết phòng này rồi sang các phòng khác, - Thằng bé nói - sau đó tớ sẽ nhảy và ta cùng làm mấy động tác thể dục của Bob Haworth chơi.

                    Chúng thực hiện ngay những điều vừa nói cùng nhiều việc khác nữa. Khi ngắm các bức tranh chân dung, chúng phát hiện ra bức vẽ một đứa bé gái xấu xí trong bộ y phục gấm thêu kim tuyến màu xanh và đang nâng con vẹt trên ngón tay nó.
                    - Người trong tất cả các bức chân dung này, - Colin bảo - chắc phải bà con họ hàng với tớ. Họ sống cách đây lâu lắm rồi. Người nâng trên tay con vẹt kia, tớ tin rằng là một trong những cụ kị tằng tổ tám đời nhà tớ. Cô ấy nom giống cậu thật đấy, Mary ạ, - nhưng không phải cậu bây giờ, mà là hôm mới đến đây kia. Bây giờ trông cậu khá hơn, xinh hơn.
                    - Cậu cũng vậy. - Mary đáp, cả hai cùng bật cười.
                    Chúng bước vào căn phòng bài trí theo lối Ấn Độ và tỏ ra thích thú với bầy voi làm bằng ngà. Chúng phát hiện ra một phòng the [1] có chăng tấm gấm thêu kim tuyến màu hồng, và tấm đệm bị chuột cắn thủng, lũ chuột giờ đã sinh sôi nảy nở và chạy tứ tung, còn cái lỗ thủng thì trống hoác. Chúng thấy nhiều phòng, phát hiện ra nhiều thứ hơn những gì Mary tìm thấy trong lần thăm đầu tiên. Chúng thấy những hành lang mới với những khúc ngoặt và dãy bậc thang giữa hai tầng nhà, cả những bức tranh cổ mà lần trước Mary chưa từng thấy, chưa kể đến rất nhiều thứ đồ cổ kỳ quái không biết dùng vào việc gì. Đó là một buổi sáng thú vị lạ lùng và cảm giác vừa được lang thang với những người lạ trong cùng ngôi nhà vừa cảm thấy giữa chúng với họ là nghìn trùng xa cách, quả là một điều hấp dẫn.
                    - Tớ rất vui vì chúng mình đã đến đây, - Colin bảo - tớ không ngờ mình lại sống trong một tòa nhà đồ sộ, lạ lùng và cổ kính đến thế. Nhưng tớ thích nó. Từ giờ, hễ hôm nào mưa thì ta lại đi loanh quanh nhé. Thể nào ta cũng tìm ra những góc khuất mới cùng những thứ lạ khác cho mà xem.
                    Hôm ấy, chúng tìm ra được bao nhiêu thứ và đói bụng đến mức khi trở về phòng của Colin, chúng chẳng thể nào bỏ qua được bữa trưa.
                    Khi cô bảo mẫu bưng chiếc khay xuống dưới nhà, cô đặt nó thật mạnh xuống chạn bát đĩa trong bếp đến nỗi bà bếp Loomis phải giật mình ngoái lại và nhận ra đĩa nào đĩa ấy đều nhẵn bóng như chùi.
                    - Nhìn mà xem! - Cô bảo - Một ngôi nhà bí hiểm và hai đứa nhóc chính là những điều bí hiểm lớn nhất.
                    - Nếu ngày nào chúng cũng chén đầy như thế này, - Anh hầu trẻ vạm vỡ tên John bảo - thì chỉ riêng cậu bé thôi sẽ nặng gấp đôi tháng trước. Lúc ấy thì tôi đến phải thôi việc mất, vì sợ gắng sức quá mà đứt cả gân.

                    Chiều hôm ấy, Mary nhận thấy có một điều gì đó mới mẻ xảy ra trong phòng Colin. Nó đã để ý chuyện này từ hôm trước, nhưng chẳng muốn nói ra bởi nó cho rằng sự thay đổi ấy chẳng qua chỉ là tình cờ. Ngay cả hôm ấy, nó cũng không nói mà chỉ ngồi dán mắt vào bức tranh treo tường phía trên lò sưởi. Nó có thể ngắm được bức tranh, bởi vì tấm màn che đã được vén sang một bên. Đó chính là sự thay đổi mà Mary nhận ra.
                    - Tớ biết cậu đang muốn tớ kể cho nghe chuyện gì rồi - Colin bảo, sau khi con bé ngước lên nhìn ít phút - Tớ thường đoán được mỗi khi cậu muốn tớ cho cậu biết một chuyện gì đó. Cậu đang ngạc nhiên vì tấm màn bị vén sang bên chứ gì? Tớ định cứ để nguyên như vậy.
                    - Tại sao? - Mary hỏi.
                    - Bởi vì giờ đây nó không còn làm tớ tức giận mỗi khi nhìn thấy bà đang mỉm cười. Cách đây hai đêm, tớ đã tỉnh giấc lúc ánh trăng vằng vặc rọi vào phòng. Tớ có cảm giác như phép mầu ngập tràn khắp cả gian phòng này, khiến mọi thứ trở nên lộng lẫy đến nỗi tớ không tài nào ngủ được nữa. Tớ ngồi dậy và nhìn qua cửa sổ. Cả gian phòng tràn trề ánh sáng và một vệt trăng sáng đọng lại trên tấm màn che. Rồi không rõ vì cớ gì, tớ đi ra kéo sợi dây gai kia. Bà nhìn xuống tớ, dường như bà đang mỉm cười sung sướng vì tớ đã đứng dậy được. Chính bởi vậy, nên tớ muốn ngắm bà. Lúc nào tớ cũng muốn thấy bà cười như thế. Tớ nghĩ có lẽ bà là một trong những người làm ra phép mầu.
                    - Lúc ấy, tớ thấy cậu giống bà quá đỗi - Mary bảo - Đã có lúc tớ thầm nghĩ biết đâu cậu chính là hồn phách của bà trong hình hài một cậu bé.
                    Ý nghĩ lạ lùng ấy dường như gây ấn tượng mạnh mẽ với Colin. Nó suy nghĩ một hồi rồi chậm rãi trả lời.
                    - Nếu tớ quả là hồn vía của bà... thì chắc cha tớ sẽ thích tớ hơn.
                    - Cậu có muốn được ông yêu quý không? - Mary gặng hỏi.
                    - Tớ thường căm hận ông bởi ông đã không thích tớ. Nhưng nếu ông yêu quý tớ, tớ nghĩ tớ sẽ kể cho ông nghe về phép mầu. Điều đó có thể sẽ khiến ông vui sướng.

                    Chú thích:

                    [1] Boudoir: phòng ngủ hoặc phòng khách riêng của phụ nữ.

                    Comment


                    • #25
                      Chương XXVI

                      Mẹ!

                      Niềm tin của bọn trẻ vào phép mầu đúng là vĩnh cửu. Sau bài niệm chú buổi sáng hôm ấy, thỉnh thoảng Colin còn có những bài giảng về phép mầu.
                      - Tớ thích làm việc này, - Nó giải thích - bởi vì một khi tớ đã trưởng thành và có những phát kiến khoa học, tớ sẽ buộc phải giảng giải về chúng, vậy nên đây chính là dịp để thực hành. Hiện giờ tớ chỉ có thể trình bày những bài giảng ngắn bởi tớ còn quá trẻ, và nếu không ông Ben Weatherstaff lại cứ ngỡ mình đang ở giữa nhà thờ mà ngủ gà ngủ gật.
                      - Cái hay nhất trong các bài giảng là ở chỗ, - Lão Ben lên tiếng - một gã nào đó có thể đứng nói bất kỳ cái gì gã thích, và không một ai buồn đáp lại. Đôi khi chính tôi đây cũng có thể làm điều đó.
                      Nhưng vào những dịp Colin diễn thuyết dưới tán cây, lão Ben cứ hau háu nhìn nó mà không chớp mắt. Nó cũng nhìn lại lão với vẻ hài lòng. Thực ra mấy bài giảng ấy chẳng làm lão quan tâm bằng đôi chân thằng bé lúc này xem ra đã thẳng và cứng cáp lên từng ngày, cái đầu trẻ con của nó ngẩng thật cao, rồi cái cằm nhọn và đôi má hõm của nó nay đã tròn trịa trở lại, và nhất là đôi mắt thì đầy thần sắc khiến lão chạnh lòng nhớ đến đôi mắt bà mẹ nó ngày xưa. Đôi khi Colin cảm nhận được cái nhìn da diết của lão, nó vô cùng ấn tượng đến độ tự hỏi không biết lão đang nghĩ gì. Có lần, khi lão đang mê mẩn, nó liền hỏi :
                      - Ông đang nghĩ ngợi gì thế, ông Ben?
                      - Tôi đang nghĩ, - Lão Ben trả lời - tôi dám đánh cuộc rằng cậu phải nặng thêm ba bốn pao [1] trong tuần này ấy chứ. Cứ nhìn vào bắp chân và đôi vai cậu thì rõ. Tôi chỉ muốn được đặt cậu lên một cái cân đĩa.
                      - Nhờ có phép mầu... và bánh ngọt và sữa và đủ các thứ khác của bà Sowerby - Colin bảo - Ông cũng thấy đấy, thí nghiệm khoa học đã thành công.
                      Sáng hôm ấy, lúc ****on đến nghe giảng thì đã khá muộn rồi. Khi đến nơi, cả người nó đỏ gay vì chạy quá nhanh, gương mặt ngộ nghĩnh của nó còn lấp lánh hơn mọi bữa. Sau cơn mưa, cỏ dại mọc xanh rì nên bọn trẻ phải bắt tay vào làm ngay. Chúng thường phải làm cỏ rất nhiều sau mỗi đợt mưa. Tiết trời ẩm ướt tốt cho hoa lá bao nhiêu thì cũng lợi cho cỏ dại bấy nhiêu. Bọn cỏ đang nhú những mầm lá nhỏ xíu khỏi mặt đất, phải nhổ ngay trước khi chúng bắt rễ sâu vào đất. Mấy ngày ấy, Colin nhổ cỏ cũng nhanh chẳng kém mọi người, hơn nữa nó còn có thể vừa làm, vừa giảng giải.
                      - Phép mầu chỉ tỏ ra hiệu nghiệm nhất khi ta tự mình ra tay. Ta có thể cảm nhận nó rõ ràng trong từng đường gân thớ thịt. Tớ đang đọc mấy cuốn sách viết về cấu tạo xương và cơ bắp, và tớ dự định sẽ viết một cuốn sách về phép mầu nữa. Ngay từ bây giờ, tớ đã vạch sẵn nội dung rồi. Nhất định tớ phải tìm hiểu mọi thứ mới được.

                      Nói xong câu ấy ít phút, nó đặt cái xẻng xuống đất, rồi đứng dậy. Nó im lặng hồi lâu, mọi người đều cho rằng nó đang mải nghĩ về các bài giảng như mọi bữa. Khi nó buông xẻng và đứng thẳng người dậy, Mary và ****on thấy dường như nó đang có một ý nghĩ mạnh mẽ bất chợt lóe lên. Nó vươn mình cao hết cỡ rồi vung mạnh hai cánh tay. Khuôn mặt nó ửng hồng, còn đôi mắt kỳ lạ thì mở to lộ rõ vẻ vui sướng.
                      - Mary! ****on! - Nó kêu lên - Nhìn tớ này!
                      Hai đứa ngừng tay nhổ cỏ và ngước lên nhìn nỏ.
                      - Các cậu còn nhớ buổi sáng đầu tiên các cậu đưa tớ tới đây không?
                      ****on nhìn Colin đăm đăm. Là đứa có khả năng thuần dưỡng bọn thú, nó có thể nhìn thấu nhiều điều, khác hẳn với đa phần mọi người, dù nó không thích nói ra. Những điều đó giờ đây nó đang thấy trong anh chàng Colin này.
                      - Chà, nhớ chứ. - ****on trả lời.
                      Mary cũng chăm chú nhìn Colin, nhưng không nói gì.
                      - Đúng lúc này, - Colin nói - tự dưng tớ nhớ lại tất cả... khi cúi nhìn tay mình đang cầm xẻng xúc đất... tớ đứng ngay dậy trên đôi chân mình để xem đây là thực hay mơ. Thì ra đây là sự thực! Tớ đã khỏe... tớ hoàn toàn khỏe mạnh!
                      - Thì cậu đúng là thế mà! - ****on bảo.
                      - Tớ đã khỏe! Hoàn toàn khỏe rồi! - Colin nhắc lại, cả khuôn mặt thằng bé đỏ bừng.
                      Thực ra Colin đã nhận ra điều này từ trước đó, nó đã phập phồng hy vọng, cảm nhận, suy nghĩ về điều đó, thế nhung chính giây phút ấy một cái gì thật kỳ lạ bỗng tràn ngập cơ thể nó... tựa một niềm tin vô ngần và mạnh mẽ khiến nó phải thốt lên thành lời.
                      - Tớ sẽ sống mãi mãi! - Nó kêu lên kiêu hãnh - Tớ sẽ còn khám phá ra vô vàn thứ, tớ sẽ hiểu thêm về con người, muông thú cùng cây cỏ... như ****on vậy... và tớ sẽ không bao giờ từ bỏ phép mầu. Tớ đã khỏe mạnh!... và tớ cảm thấy như muốn thét lên một câu gì đó... một câu gì đó để nói lên lòng biết ơn!
                      Lão Ben Weatherstaff nãy giờ vẫn làm việc quanh một khóm hồng, bèn quay lại nhìn nó.
                      - Cậu có thể hát Thánh ca được rồi đấy. - Lão càu nhàu gợi ý, dù chẳng có ý niệm tôn kính cụ thể gì.
                      Ngay cả Colin có đầu óc khám phá cũng chẳng biết gì về Thánh ca.
                      - Đó là cái gì? - Thằng bé căn vặn.
                      - Tôi dám đánh cuộc ****on có thể hát nó cho cậu nghe. - Lão Ben đáp.
                      ****on đáp lại bằng nụ cười bao dung của một anh chàng dạy thú.
                      - Người ta chỉ hát Thánh ca trong nhà thờ. - Nó đáp.
                      - Mẹ tôi bảo bà tin rằng chim chiền chiện vẫn hát Thánh ca mỗi khi chúng thức dậy vào ban mai.
                      - Bà mà nói vậy thì chắc hẳn đó là một bài ca hay lắm - Colin bảo - Bản thân tớ chưa một lần được đặt chân vào nhà thờ, lúc nào cũng ốm với đau. Hát đi, ****on. Tớ muốn được nghe quá.
                      ****on tỏ ra giản dị không chút màu mè. Nó hiểu những gì Colin cảm thấy còn rõ hơn cả chính Colin. Nó hiểu bằng một thứ bản năng tự nhiên, mà không hề nghĩ đó là lòng ham hiểu biết. Nó bỏ chiếc mũ lưỡi trai xuống rồi ngó quanh, nụ cười vẫn nở rộng trên khuôn mặt tròn.
                      - Ngay cả cậu cũng nên bỏ mũ ra, - Nó bảo Colin - và bác nữa, bác Ben, và mọi người cũng biết đấy, ta hãy đứng cả dậy.

                      Colin bỏ mũ, mặt trời tỏa tia nắng ấm áp xuống mái tóc dày của nó trong lúc nó vẫn đang nhìn ****on chăm chú. Lão Ben Weatherstaff nhổm dậy khó nhọc trên hai đầu gối, đầu để trần, vẻ bối rối lộ rõ trên khuôn mặt già nua nhăn nheo, như thể lão không biết đích xác tại sao mình phải làm cái việc ngoại lệ này.

                      ****on đứng tách khỏi đám cây cối và mấy khóm hồng, nó bắt đầu cất tiếng hát thật hồn nhiên, bằng một giọng thiếu niên khỏe khoắn dễ thương.

                      “Tạ ơn Chúa về tất cả ân huệ và sự che chở của Người,
                      Tạ ơn Người đã vì mọi sinh linh nơi trần thế,
                      Tạ ơn Người vì bánh thánh Người đã ban cho;
                      Tạ ơn Cha!, Con và Thánh thần. Amen”.

                      Khi thằng bé kết thúc bài nguyện, lão Ben Weatherstaff vẫn đứng im phăng phắc, mồm há hốc cứng đờ, lão đưa cặp mắt lúng túng nhìn Colin. Khuôn mặt Colin đượm vẻ trầm tư và ngưỡng mộ.
                      - Bài ca thật tuyệt vời - Nó bảo - Tớ thích nó. Có lẽ nó bày tỏ những điều mà chính tớ muốn nói khi tớ hét lên rằng tớ biết ơn phép mầu biết bao. - Nó dừng lời và bối rối suy nghĩ - Có lẽ hai điều đó là một chăng. Làm sao chúng ta có thể biết đích xác tên gọi của mọi sự? Hát lại đi, ****on. Chúng mình hãy thử xem sao, Mary. Tớ cũng muốn được hát theo. Đó chính là bài ca của tớ. Nó mở đầu như thế nào nhỉ? “Tạ ơn Chúa về tất cả ân huệ và sự che chở của Người” phải không?
                      Và cả bọn nhất loạt hát lại bài ấy lần nữa, Mary và Colin cố cất giọng sao cho thật du dương, trong khi ****on gồng mình hát cho to và hay. Lúc cả bọn sang đến câu thứ hai, lão Ben đã đằng hắng sẵn giọng để khi đến câu thứ ba lão liền nhập vào bè với một sự mãnh liệt hoang dại, và ngay khi từ Amen vừa kết thúc, Mary nhận thấy những cảm xúc xảy ra với lão trước đó, vào cái hôm lão phát hiện ra rằng Colin không phải là một kẻ què quặt, nay đã trở lại: cằm lão giật giật, đôi mắt vừa thao láo vừa hấp háy, hai gò má già nua nhăn nheo đẫm lệ.

                      - Trước đây, tôi chưa từng thấy cảm xúc gì khi hát Thánh ca, - Lão nói giọng khàn khàn - nhưng nay suy nghĩ của tôi đã khác nhiều. Tôi có thể nói cậu sẽ nặng thêm ít nhất năm pao trong tuần này. Cậu chủ Colin ạ - những năm pao cơ đấy!
                      Colin còn đang mải nhìn qua vườn vì có một cái gì đó khiến nó để ý, mặt lộ rõ vẻ hoảng hốt. - Ai đang đến kìa - Nó nói vội - Ai thế nhỉ?
                      Cánh cửa nơi hõm tường phủ dày dây thường xuân vừa được nhẹ nhàng mở ra, một người đàn bà bước vào. Thực ra bà đã đến từ lúc cả bọn hát sang câu cuối cùng. Bà đứng đó lặng người nhìn và nghe chúng hát. Với mảng tường phủ kín dây thường xuân sau lưng, với ánh nắng nhấp nháy qua các tán lá cây tạo nên những đốm sáng trên tà áo choàng màu xanh của bà, gưang mặt nhẹ nhõm tươi tắn ánh lên nụ cười ở phía vườn cây trông thật giống một bức chân dung minh họa với sắc màu dìu dịu trong một cuốn sách nào đó của Colin. Đôi mắt bà vô cùng tình cảm, dường như chứa đựng tất cả. Tất cả, cả đến hình bóng của lão Ben Weatherstaff cùng bầy thú hoang và từng bông hoa đang nở rộ. Bà xuất hiện hoàn toàn bất ngờ, vậy nhưng không một ai trong bọn họ nghĩ bà là kẻ xâm nhập khu vườn. Đồi mắt ****on sáng ngời.
                      - Mẹ đấy mà... còn ai vào đây nữa! - Thằng bé kêu lên, rồi bước vội qua bãi cỏ,
                      Colin cũng tiến về phía bà, Mary đi cùng với nó. Cả hai đứa đều cảm thấy các huyết mạch trong người chúng đập mỗi lúc một nhanh.
                      - Mẹ! - ****on thốt lên khi hai mẹ con gặp nhau ở giữa chừng. - Tôi biết các cậu muốn gặp bà, nên tôi đã chỉ cho bà chỗ cánh cửa bị che khuất.
                      Colin chìa tay ra với vẻ bẽn lẽn, nhưng không kém phần quý phái, đôi mắt nó nhìn bà đăm đăm.
                      - Ngay cả lúc ốm đau cháu vẫn mong được gặp bác, - Nó nói - Bác, ****on và khu vườn bí mật. Trước đây, cháu chưa từng muốn gặp bất kỳ ai và bất cứ thứ gì như thế.
                      Hình ảnh gương mặt ngẩng cao của cậu bé khiến tâm trạng bà đột ngột biến đổi. Mặt bà đỏ lên, khóe miệng hơi giật giật, một làn sương mỏng dường như thoảng qua đôi mắt.
                      - Ôi! Chàng trai thân mến! - Bà thốt lên, giọng run run - Ôi, chàng trai thân mến! - Có lẽ bà cũng không biết mình sắp nói ra câu đó. Bà không gọi là “Cậu chủ Colin” mà bất chợt gọi thế. Hẳn bà cũng sẽ gọi ****on như vậy, nếu có điều gì trên khuôn mặt nó làm bà cảm động. Colin thích điều đó.
                      - Bác có ngạc nhiên khi thấy cháu khỏe thế này không? - Nó hỏi.
                      Bà đặt tay lên vai thằng bé, mỉm cười, làn sương trong mắt bà tan biến.
                      - Ồ, có chứ, - Bà bảo - cháu giống mẹ cháu quá đỗi khiến bác nhói cả tim.
                      - Bác thấy thế sao, - Colin hỏi với vẻ bối rối - nhưng liệu điều đó có làm cha cháu quý cháu không?
                      - Trời ơi, chắc chắn là như vậy, chàng trai thương mến. - Bà vừa đáp, vừa vỗ nhẹ lên vai thằng bé - Ông ấy sẽ trở về... ông ấy sẽ trở về.
                      - Bà Susan Sowerby đấy à, - Lão Ben Weatherstaff lên tiếng và tiến lại chỗ bà - bà đã thấy đôi chân của cậu chủ chưa? Mới hai tháng trước trông chúng chẳng khác nào hai chiếc dùi trống trong đôi bít tất dài. Lại thêm nỗi bị vòng kiềng nữa chứ, tôi nghe người ta bàn tán thế. Bây giờ bà hãy xem xem!
                      Bà Susan Sowerby cất tiếng cười nhẹ nhõm.
                      - Chúng sẽ là đôi chân của một anh chàng mạnh mẽ đấy - Bà bảo - Cứ mặc cậu ấy chơi đùa và làm vườn, cứ ăn cho no, uống cho thật nhiều sữa. Rồi xem, ở xứ Yorkshire này sẽ chẳng thể có đôi chân nào đẹp hơn chúng đâu, lạy Chúa ban phước lành.
                      Bà đặt tay lên vai Mary và cúi nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn của con bé với dáng vẻ của một người mẹ.
                      - Cả cô cũng vậy - Bà bảo - Cô cũng gần mạnh bằng con bé Lizabeth Ellen nhà tôi rồi còn gì. Tôi dám đánh cuộc rằng cô cũng giống hệt mẹ cô. Con bé Martha bảo tôi rằng, theo như những điều bà Medlock nghe được thì bà nhà là một phụ nữ đẹp tuyệt trần. Rồi cô cũng sẽ trở thành một đóa hồng tươi thắm khi cô lớn lên, cô bạn trẻ của tôi ạ, cầu Chúa phù hộ cho cô.
                      Bà không nhắc tới chuyện khi Martha về nhà vào “ngày nghỉ” đã tả lại một đứa trẻ hay cáu bẳn và tẻ nhạt ra sao, rằng chị không mấy tin tưởng vào những gì bà Medlock đã nghe. “Thật vô lý khi một người phụ nữ xinh đẹp lại có thể là mẹ của đứa bé như vậy” - chị bướng bỉnh thêm vào.
                      Mary không có thời gian để chú ý đến khuôn mặt đang thay đổi của nó. Nó chỉ biết rằng mình trông “khác hẳn” trước kia, tóc mình đã dày và dài ra rất nhanh. Chợt nhớ lại niềm vui mỗi khi được ngắm nhìn mẹ thuở trước ở Memsahib, nó vui mừng khi có người nói một ngày nào đó trông nó cũng được như bà.
                      Bà Susan Sowerby cùng mọi người đi dạo một vòng quanh khu vườn của chúng, được kể cho nghe toàn bộ câu chuyện về nơi này, được chỉ cho xem từng khóm cây nhỏ, từng cái cây lớn nay còn sống. Colin đi bên cạnh bà, Mary đi bên kia. Cả hai đứa đều không rời mắt khỏi khuôn mặt hồng hào, nhẹ nhõm của bà. Chúng không khỏi thầm ngạc nhiên trước tình cảm mê say mà bà mang lại cho chúng - một thứ tình cảm ấm áp, khích lệ. Dường như bà hiểu bọn trẻ như ****on hiểu bầy thú của nó vậy. Bà khom mình trên những đóa hoa và nói về hoa cỏ như nói về một bầy trẻ. Bồ hóng lẽo đẽo bay theo bà, thỉnh thoảng cất tiếng quạ quạ, rồi tự nhiên đậu xuống vai bà như đậu xuống vai ****on. Khi bọn trẻ kể với bà về con chim ức đỏ và những chuyên bay đầu tiên của bầy chim ra ràng, bà cất tiếng cười dịu dàng của một người mẹ.
                      - Tôi nghĩ học bay cũng tựa như trẻ con tập đi vậy. Nhưng nếu đôi chân ta bỗng dưng bị thay bằng đôi cánh thì cũng đáng lo lắm đấy. - Bà nói.
                      Và bởi thấy bà là một phụ nữ tuyệt vời trong túp nhà gianh êm đềm nằm trên cánh đồng hoang nên cuối cùng, bà đã được kể cho nghe về phép mầu.
                      - Bác có tin vào phép mầu không? - Colin hỏi sau khi đã giải thích một hồi về các thầy tu ở Ấn Độ - cháu hy vọng bác cũng biết tên phép mầu.
                      - Tôi có biết, anh bạn ạ - Bà đáp - Tuy tôi không biết nó dưới cái tên ấy, nhưng têrrthrcứnghĩa gì đâu? Tôi dám chắc người ta gọi nó bằng những cái tên khác nhau ở Pháp và ở Đức. Nhưng cùng một điều đó, đã khiến cho hạt giống nảy mầm và mặt trời chiếu sáng, và giúp cậu trở thành một anh chàng khỏe mạnh, ấy là Đấng Tối cao. Người không hề giống chúng ta, những người khờ khạo đáng thương cứ cho rằng việc không gọi được đúng tên là một vấn đề. Đấng Tối cao không ngừng lo lắng và chở che cho cậu. Người cũng bận tâm lo lắng cho hàng triệu sinh linh trên thế giới này nữa. Cậu không bao giờ được thôi tin tưởng vào Người và phải hiểu rằng thế giới này luôn tràn ngập Người - và gọi tên thế nào là tùy cậu. Cậu chẳng vừa hát ngợi ca Người lúc tôi đặt chân vào khu vườn này đấy thôi.
                      - Lúc ấy cháu thấy vui quá. - Colin nói, mở to đôi mắt đẹp kỳ lạ nhìn bà - Đột nhiên, cháu cảm thấy mình khác trước biết bao, tay chân mình mới khỏe làm sao, bác cũng thấy đấy... cháu đã có thể xới đất, đứng dậy rồi nhảy cẫng lên, muốn hét thật to một điều gì đó để mọi người cùng nghe thấy.
                      - Người đã chứng kiến hết khi cậu hát Thánh ca. Người nghe rõ từng lời cậu hát. Đó chẳng qua vì cậu quá hạnh phúc. Ôi, anh bạn, anh bạn... Người còn có một tên nữa là Đấng Sáng tạo Niềm vui. - Nói đoạn bà lại đưa tay vỗ nhẹ lên vai thằng bé.
                      Sáng hôm ấy, bà đã sắp sẵn một giỏ thức ăn như mọi bữa. Khi chúng đói bụng và ****on mang chiếc giỏ ra khỏi nơi hằng ngày cất giấu, bà ngồi xuống cùng chúng dưới một tán cây, ngắm nhìn chúng ăn ngấu nghiến. Bà cười mãn nguyện trước cảnh ngon miệng của bọn trẻ. Bà có đủ các thứ chuyện hài hước khiến bọn chúng cười bò. Bà kể chúng nghe mấy chuyện bằng thứ giọng Yorkshire đặc sệt, đồng thời dạy cho chúng những từ mới. Bà ôm bụng cười khi chúng thuật lại những khó khăn lúc thằng Colin phải tiếp tục giả vờ là một kẻ tàn tật hay cáu bẳn.
                      - Bác thấy đấy, chúng cháu không thể nín được cười mỗi khi ở cạnh nhau. - Colin giải thích - Thật chẳng có vẻ gì là ốm đau cả. Chúng cháu đã cố tỏ ra khó chịu, nhung rồi lại cười lăn ra không sao kìm nổi.
                      - Cháu vẫn còn băn khoăn một điều, - Mary nói - và cháu khó lòng yên tâm được mỗi khi bất chợt nghĩ đến nó. Ấy là cháu lo cho cái khuôn mặt mỗi ngày một tròn vành vạnh của Colin. Nó không béo từng tí một mà cứ to lên phèn phẹt từng ngày... cháu e rằng đến một buổi sáng nào đó, nó lại chẳng giống như...
                      - Cầu Chúa phù hộ cho tất cả chúng ta. Tôi có thể hình dung bấy lâu nay cậu đã phải giả bộ như thế nào - Bà Susan Sowerby nói - Nhưng cậu không thể kéo dài chuyện này lâu hơn nữa. Ông chủ Craven sắp trở về.
                      - Bác nghĩ ông sắp trở về à? - Colin hỏi - Tại sao?
                      Bà Susan Sowerby cười lặng lẽ.
                      - Tôi cho rằng cậu sẽ rầu lòng nếu ông ấy phát hiện ra trước khi cậu tự kể cho ông mọi chuyện. Cậu đã phải thức đêm để lập ra kế hoạch.
                      - Cháu không tài nào chịu nổi nếu có ai đó báo cho ông biết - Colin nói - Ngày nào cháu cũng nghĩ ra đủ mọi cách. Nhưng bây giờ cháu chỉ muốn chạy thẳng vào phòng ông để ông thấy.
                      - Đấy mới chính là một sự khởi đầu tốt đẹp đối với ông ấy - Bà Susan Sowerby nói - Tôi thích được ngắm khuôn mặt ông vào lúc ấy, anh bạn ạ. Tôi rất muốn được như vậy! Ông ấy chắc chắn sẽ trở về.
                      Một trong những chuyện khiến mọi người bàn bạc sôi nổi là chuyên thăm sắp tới của họ đến túp nhà gianh của bà. Họ xúm vào cùng vạch kế hoạch cho chuyến đi. Họ sẽ phải băng qua cánh đồng hoang và ăn trưa ngoài trời giữa các bụi thạch thảo. Họ chẳng những sẽ được gặp đủ cả mười hai người con của bà mà còn được ngắm khu vườn của ****on, và nhất định sẽ không quay trở về cho tới khi ai nấy đều mệt lử.
                      Cuối cùng, bà Susan Sowerby đứng dậy để vào trong nhà gặp bà Medlock, cũng là lúc Colin ngồi lại vào xe. Trước khi bước vào xe, nó còn đứng kề bên bà Susan, nhìn bà với vẻ tha thiết, bối rối. Đột nhiên, nó đưa tay nắm vạt áo choàng xanh của bà rồi giữ chặt lấy.
                      - Bác chính là những gì... những gì mà cháu ao ước bấy lâu nay. Cháu ước gì bác là mẹ của cháu... cũng như ****on vậy!
                      Ngay lập tức, bà Susan Sowerby cúi xuống, kéo thằng bé vào vòng tay ấm áp của bà, áp đầu nó vào ngực mình dưới tấm áo choàng xanh - như một đứa em của ****on vậy. Một làn sương mờ nhẹ thoảng qua trước mắt bà.
                      - Ôi, chàng trai yêu quý! - Bà thốt lên - Mẹ của con ở trong từng tấc đất của khu vườn này, mẹ tin như vậy. Bà không thể nào rời xa chúng ta được. Cha con nhất định sẽ trở về với con... ông nhất định sẽ trở về!

                      -------------------------------------------------
                      [1] Pound: theo hệ thống đo lường Anh, Mỹ bằng 0,454 kg.

                      Comment


                      • #26
                        Chương XXVII Trong khu vườn

                        Kể từ khi thế giới thành hình, cứ mỗi thế kỷ trôi qua lại có biết bao điều kỳ diệu được khám phá. Vào thế kỷ sau cùng này, người ta lại càng biết được nhiều điều hơn bất kỳ thế kỷ nào trước đây, và hàng trăm điều đáng kinh ngạc hơn còn đang đợi ngày ra mắt. Thoạt đầu, con người luôn từ chối niềm tin tưởng rằng một điều mới lạ nào đó có thể được thực hiện, rồi họ bắt đầu hy vọng nó không thể thực hiện, rồi họ nhận thấy rằng nó có thể thực hiện được - cuối cùng, người ta thực hiện điều đó thành công, và toàn thể nhân loại đều tự hỏi tại sao việc này lại không diễn ra từ các thế kỷ trước. Một trong những sự kiện mới mẻ mà con người bắt đầu khám phá ra trong thế kỷ vừa qua là ý nghĩ - chỉ đơn thuần là những ý nghĩ - cũng mang một sức mạnh chẳng kém gì điện năng - và nếu tốt thì như thể ánh sáng mặt trời, còn nếu xấu thì chẳng khác nào thuốc độc. Để mặc cho một ý nghĩ xấu xa tồi tệ len lỏi vào tâm trí ta thì cũng nguy hại chẳng kém việc để cho mầm bệnh ban đỏ lọt vào trong cơ thể ta vậy. Sau khi đã xâm nhập rồi, nếu cứ mặc cho chúng hoành hành thì có lẽ ta chẳng bao giờ rũ bỏ nổi chúng trong suốt cuộc đời mình.
                        Chừng nào đầu óc con bé Mary còn đầy ắp những ý nghĩ bất mãn về những khó chịu của bản thân, cùng những nhận xét chua chát về người khác, lại nhất quyết không chịu quan tâm hay hài lòng với bất cứ điều gì, thì nó vẫn còn là một đứa trẻ mặt mũi vàng ệch, ốm o, chán chường, thảm hại. Nhưng rồi những hoàn cảnh sống, dù nói gì đi chăng nữa, đã mang lại những điều hết sức tốt đẹp cho nó, dù nó không hề nhận ra. Chúng bắt đầu thúc đẩy con bé theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Kể từ lúc tâm trí nó dần tràn ngập những hình ảnh của chim ức đỏ, của nếp nhà gianh giữa miền đồng hoang với bầy trẻ đông đúc, rồi ông lão làm vườn quàu quạu và kỳ quặc nọ, hay chị hầu gái nhỏ bỗ bã vùng Yorkshire, cũng như mùa xuân với khu vườn bí mật đang hồi sinh từng ngày từng giờ, và cả cậu bé miền đồng hoang cùng bầy thú của nó nữa, quả là không còn chỗ nào cho những ý nghĩ khó chịu đã từng ảnh hưởng tới lá gan và cỗ máy tiêu hóa, khiến nó sinh ra vàng vọt và mệt mỏi như vậy.
                        Cũng như bao năm qua, Colin tự giam mình trong phòng, chỉ nghĩ tới những sợ hãi, những khiếm khuyết, và nỗi thù ghét những ai dám nhìn nó, rồi ngẫm ngợi hết giờ này qua giờ khác về những cục bướu và cái chết đang tới gần. Thằng bé mắc phải chứng cuồng loạn, lúc nào cũng tưởng mình bệnh nọ bệnh kia [1], chẳng có ý niệm gì về ánh mặt trời và mùa xuân, mà cũng không biết rằng nó có thể bình phục và tự đứng trên đôi chân của mình một khi đã cố gắng. Thế rồi nhũng suy nghĩ tốt đẹp và mới mẻ bắt đầu xua tan mọi điều cũ kỹ hắc ám. Cuộc sống mới đã đến với nó, bầu máu nóng chảy rần rật khắp các huyết quản của nó và một sức mạnh ùa vào trong cơ thể nó chẳng khác nào thác lũ. Thí nghiệm khoa học của nó quả vô cùng đơn giản và thực tế, hoàn toàn chẳng có vẻ gì huyền bí hay kém tự nhiên. Còn biết bao điều đáng ngạc nhiên hơn có thể đến với bất cứ ai, dù có lúc để cho những ý nghĩ khó chịu hoặc chán nản len lỏi trong tâm trí, nhưng kịp thời nhận ra và xua đuổi chúng đi với lòng can đảm và cả quyết. Bởi hai thứ đó không thể có cùng một chỗ đứng.

                        Nơi anh định trồng một khóm hồng, bạn hỡi.
                        Cây kế
                        [2] sẽ chẳng thể nào mọc lên.

                        Giữa lúc khu vườn bí mật đang dần hồi sinh cùng với hai đứa trẻ, có một người đàn ông vẫn lang thang vô định trên các miền đất tươi đẹp nơi các vịnh hẹp xứ Na Uy, hoặc giữa các thung lũng và núi đồi của Thụy Điển. Ông chính là người mà suốt mười năm qua tâm trí lúc nào cũng tràn ngập những ưu tư u buồn và đau đớn. Ông không phải là người dũng cảm; ông cũng chưa bao giờ thử thay đổi những ý nghĩ đen tối bằng một thứ gì khác. Ông chỉ biết lang thang bên những hồ nước xanh thăm thẳm mà suy tư về chúng; hoặc ngả mình trên những sườn núi với các thảm cây long đởm [3] xanh thẫm đang đua nở quanh ông, rồi hít thở làn hương thơm ngát tràn ngập cả không gian cũng chỉ để suy nghĩ về chúng mà thôi. Một nỗi đau buồn khủng khiếp đã giáng xuống đầu giữa lúc ông đang hạnh phúc, từ đó ông cứ để mặc cho tâm hồn mình phủ bóng đen u ám và khăng khăng khước từ không cho bất kỳ tia sáng nào rọi qua. Ông đã quên lãng và bỏ mặc gia đình cùng bổn phận của mình. Tuy du ngoạn đó đây, thế nhưng tâm hồn ông lúc nào cũng ảm đạm buồn bã đến nỗi hễ thấy bóng dáng ông, mọi người đều coi đó như điềm chẳng lành, như thể ông đầu độc bầu không khí xung quanh bằng nỗi u sầu vậy. Hầu hết những kẻ không quen biết đều cho rằng nếu ông không dở người thì cũng là một kẻ đang cắn rứt vì tội lỗi. Ông người cao lớn, khuôn mặt mệt mỏi phiền muộn, đôi vai lệch sang bên, và cái tên ông thường dùng để đăng ký ở khách sạn là “Archibald Craven, Trang viên Misselthwaite, xứ Yorkshire, nước Anh”.
                        Ông đã du ngoạn khắp nơi kể từ hôm gặp cô chủ nhỏ Mary trong phòng làm việc của mình và cho nó biết nó có thể có riêng “một mảnh đất”. Kể từ đó, ông đã sống ở những chốn đẹp nhất của châu Âu, dù chẳng lưu lại nơi nào quá vài ngày. Ông chọn toàn những nơi hẻo lánh nhất yên tĩnh nhất làm đích đến. Ông đã từng đặt chân lên những đỉnh núi chạm tới cả mây, và phóng tầm mắt xuống những ngọn núi khác vào lúc mặt trời mọc, và đưa tay hứng những tia nắng đầu tiên với cảm giác thế giới này vừa mới được sinh ra.
                        Những tia nắng kia dường như chẳng bao giờ chạm tới đáy lòng ông cho tới một ngày, lần đầu tiên trong suốt mười năm qua, ông chợt thấy một điều kỳ lạ xảy ra. Bấy giờ, ông đang ở trong một thung lũng đẹp lạ lùng của vùng Tyrol nước Áo, vào hôm đang một mình đi dạo giữa một vùng đất trời đẹp đến nao lòng, tưởng chừng có thể nâng đỡ bất kỳ tâm hồn nào khỏi bóng tối tội lỗi. Ông đã đi được một đoạn đường dài và dường như cảnh vật đó chắng tác động gì đến ông. Cuối cùng, ông thấy mệt và nằm vật xuống nghỉ trên một thảm rêu xanh rì bên bờ suối. Đó là một dòng suối nhỏ nước trong veo chảy men theo con đường hẹp rồi cắt ngang qua một vùng đồng nội ẩm ướt ngọt ngào. Thỉnh thoảng con suối làm bật ra âm thanh nghe tựa một tiếng cười khẽ mỗi khi nó lượn qua và tung bọt nước trắng xóa trên mấy tảng đá. Ông thấy mấy con chim sà tới nhúng mỏ xuống uống nước, rồi tung cánh bay xa. Dòng suối đó chẳng khác nào một cơ thể sống động và tiếng nói khẽ khàng của nó càng khiến vẻ tĩnh mịch thêm sâu lắng. Cả thung lũng thật quá ư tĩnh mịch.
                        Khi ngồi dậy nhìn xuống dòng nước trong vắt, ông Archibald Craven dần cảm thấy cả tâm hồn và thể xác mình cũng trở nên tĩnh lặng, chẳng khác nào thung lũng này. Ông tự nhủ phải chăng mình buồn ngủ, nhưng đâu phải vậy. Ông ngồi thừ người mà đăm đắm nhìn làn nước chan hòa ánh nắng, đôi mắt ông bắt gặp đám cây mọc rải rác ngay sát mép nước. Thì ra đó là một vạt dày đặc những cây hoa lưu ly màu xanh hết sức dễ thương mọc kề bên dòng suối đến mức những cánh lá ướt sũng, và ông nhận ra mình đang ngắm nhìn loài hoa đó, trong lúc nhớ lại ông đã từng ngắm nhìn chúng nhiều năm trước đây. Ông còn bâng khuâng nghĩ rằng điều đó sao mà đáng yêu và sắc xanh của hàng trăm đóa hoa li ti kia mới kỳ diệu xiết bao. Ông đâu biết chính ý nghĩ giản dị đó đang dần dà choán ngợp tâm trí ông - choán ngợp và choán ngợp mãi cho tới khi những thứ khác được nhẹ nhàng đẩy sang bên. Nó chẳng khác nào dòng suối ngọt ngào trong vắt đang bắt đầu dâng trào nơi ao tù, và cứ thế dâng cao, dâng cao mãi, cuối cùng quét sạch đi tất cả chỗ nước tù đọng. Nhưng dĩ nhiên, ông không nghĩ về bản thân mình như vậy. Ông chỉ cảm thấy thung lũng mỗi lúc một vắng lặng quạnh quẽ hơn trong khi ông vẫn ngồi im, ánh mắt đăm đắm nhìn ra cánh đồng cỏ mượt mà xanh nõn. Ông không biết mình đã ngồi đó được bao lâu hoặc chuyện gì đang diễn ra trong tâm hồn mình, rồi cuối cùng ông giật mình như thức tỉnh, ông chậm rãi nhỏm dậy và cứ đứng nguyên thế trên thảm rêu, hít một hơi thật dài, sâu và êm rồi ngỡ ngàng với chính mình. Dường như ông vừa trút bỏ, vừa giải thoát được điều gì đó trong lòng một cách thật lặng lẽ.
                        - Có chuyện gì thế nhỉ, - Ông nói, hầu như chỉ là tiếng thì thầm, đoạn ông đưa tay lên trán - ta cảm thấy như mình vừa sống lại.
                        Tôi không hiểu hết sự diệu kỳ của những điều chưa được khám phá để có thể giải thích chuyện gì đã xảy đến với ông. Và ai cũng vậy thôi. Chính ông cũng không hiểu được. Nhưng nhiều tháng sau này, khi đã trở về Misselthwaite, ông nhớ lại giây phút kỳ lạ ấy, và ông hoàn toàn tình cờ mà phát hiện ra rằng chính đó là ngày mà Colin sung sướng gào lên ở bên trong khu vườn bí mật:
                        “Tớ sẽ sống mãi, mãi mãi, mãi mãi!”.
                        Sự thanh thản khác thường vẫn còn nơi ông cả buổi tối hôm ấy; ông đã ngủ một giấc ngủ khỏe khoắn và êm ả, dù chẳng được lâu. Ông không biết việc này liệu có kéo dài được chăng. Đến hôm sau, ông lại mở toang cánh cửa cho những ý nghĩ đen tối của ông ùa vào, chúng kéo từng đàn từng lũ ào ào quay lại. Ông rời khỏi thung lũng, rồi lang thang trên các nẻo đường khác. Nhưng thật kỳ lạ thay cho ông, thi thoảng lại có vài phút, và đôi khi là suốt nửa giờ đồng hồ mà ngay ông cũng không hiểu tại sao, cái gánh nặng đen tối nọ tự nó lại rời đi và ông biết rằng từ nay ông là một con người đang tồn tại chứ không phải một kẻ đã chết. Dần dà dần dà, ông chẳng rõ vì nguyên cớ gì, ông đang sống lại cùng với khu vườn.
                        Khi mùa hạ lộng lẫy chuyển sang sắc thu vàng sâu lắng, ông bèn tới thăm hồ Como. Chính nơi đây ông mới hiểu thế nào là vẻ đẹp của một giấc mơ. Ông bồng bềnh phiêu lãng suốt mấy ngày liền trên mặt hồ xanh thẳm và trong vắt tựa pha lê, hoặc dạo chơi trên các trảng cỏ dày mượt của đồi núi, lê bước cho tới khi cơ thể rã rời muốn lăn quay ra ngủ. Vào thời gian này, ông bắt đầu ngủ ngon hơn, ông biết vậy, và những giấc mộng cũng thôi không còn là một nỗi kinh hoàng đối với ông nữa.
                        - Có lẽ, - Ông nghĩ - cơ thể mình đang ngày càng khỏe lên.
                        Không những cơ thể ông ngày một đổi khác, mà nhờ những giờ phút yên bình hiếm hoi, suy nghĩ của ông thay đổi và cả tâm hồn ông cũng trở nên mạnh mẽ. Ông bắt đầu nghĩ tới Misselthwaite và tự hỏi sao ta còn chưa trở về nhà. Nhiều lúc ông thảng thốt không biết hiện giờ đứa con trai của mình ra sao và tự hỏi lòng xem ông sẽ cảm thấy gì khi tới đứng bên chiếc giường có bốn cây cọc gỗ chạm trổ và cúi xuống ngắm nhìn khuôn mặt trắng bợt màu sáp giữa lúc nó đang ngủ với hàng mi rợp trên đôi mắt nhắm nghiền. Ông đã lưỡng lự khi nghĩ tới điều đó.
                        Vào lúc tuyệt diệu nhất trong ngày, ông dạo bộ xa đến nỗi khi trở về thì trăng đã lên cao. Khắp nơi tràn ngập ánh trăng và cả thế giới này tựa hồ được dát bằng bạc. Sự tĩnh lặng của mặt hồ, bờ hồ và rừng cây tuyệt vời đến nỗi ông chẳng nỡ bước vào ngôi biệt thự nơi ông ở. Ông bước xuống một thềm hiên nhỏ sát ngay mép nước, ngồi xuống ghế rồi hít căng lồng ngực mọi hương thơm tuyệt diệu về đêm của núi rừng. Ông cảm nhận rõ một sự yên ả kỳ lạ đang tràn ngập tâm hồn và mỗi lúc một đượm sâu hơn, cho tới khi ông ngủ thiếp đi.
                        Ông không hề hay biết gì trong lúc chợp mắt và bắt đầu mơ; giấc mơ ấy thực đến nỗi ông không ngỡ mình đang mơ. Sau này, ông còn nhớ mình đã tỉnh táo và suy nghĩ rành mạch ra sao. Ông nhớ rằng giữa lúc ông đang ngồi đó, tận hưởng hương thơm tỏa ra từ những đóa hồng nở muộn và lắng tai nghe tiếng nước vỗ ì oạp dưới chân thì có tiếng ai đang gọi. Tiếng gọi ấy hết sức dịu ngọt, rõ ràng, nghẹn ngào hạnh phúc nhưng cũng xa vời vợi. Nó xa tít mù khơi, thế nhưng ông lại nghe thấy rõ mồn một như thể ở ngay bên ông.
                        - Anh Archie! Anh Archie! Anh Archie! - Tiếng gọi, lặp đi lặp lại, mỗi lúc một ngọt ngào và rõ ràng hơn - Anh Archie! Anh Archie!
                        Ông còn nhớ ông đã đứng phắt dậy, nhưng không hề giật mình hoảng hốt. Đó là một giọng nói có thực và tự nhiên đến nỗi ông không thể không nghe thấy.
                        - Lilias! Lilias phải không? - Ông đáp lời - Lilias! Em ở đâu?
                        - Em đang ở trong vườn - Tiếng nói vọng lại tựa như âm thanh phát ra từ một cây sáo bằng vàng - Em đang ở trong vườn!
                        Đến đấy thì giấc mơ kết thúc. Nhưng ông vẫn chưa tỉnh giấc. Ông đã ngủ một giấc say sưa, ngọt ngào suốt đêm hôm đó. Khi ông tỉnh dậy thì mặt trời đã chói lọi, người hầu phòng đang đứng chằm chằm nhìn ông tự bao giờ. Anh ta là người Ý và cũng giống như tất cả những người hầu phòng trong biệt thự đều vậy, anh ta đã quen với việc chấp nhận ngay lập tức mọi điều kỳ quặc mà các ông khách nước ngoài có thể làm. Không một ai được biết khi nào họ đi hay về hay họ sẽ ngủ lại ở đâu, họ thích lang thang trong vườn hay nằm trong thuyền, bồng bềnh trên mặt hồ suốt đêm. Anh ta đang đỡ một cái khay trên có mấy bức thư, lặng lẽ đứng đợi cho tới khi ông Craven nhận lấy chúng. Khi anh ta đi khỏi, ông Craven vẫn ngồi mấy phút, tay cầm thư và ngắm mặt hồ. Cái cảm giác yên bình kỳ lạ vẫn còn nguyên trong ông và một cái gì đó hơn thế - như ánh sáng chiếu rọi, như thể những điều ác nghiệt đã từng xảy ra nhưng lại không có thực như ông tưởng - một điều gì đó đã thay đổi. Ông đang nhớ lại giấc mơ, một giấc mơ rất thực.
                        - Trong khu vườn! - Ông thốt lên, tự mình cũng thấy ngạc nhiên - Trong khu vườn! Nhưng cánh cửa đã bị khóa chặt, còn chiếc chìa thì bị vùi sâu lắm kia mà.
                        Mấy phút sau, ông liếc mắt qua mấy bức thư, và nhận thấy bức đầu tiên viết bằng tiếng Anh, từ Yorkshire gửi tới. Nó được viết trực tiếp từ một bàn tay phụ nữ chất phác, nhưng không phải nét chữ ông quen. Ông mở phong bì, không đoán được người viết, nhưng những chữ đầu tiên đã ngay lập tức thu hút sự chú ý của ông.
                        Ngài kính mến,
                        Tôi là Susan Sowerby, kẻ đã có lần mạo muội nói chuyện với ngài trên cánh đồng hoang. Hôm ấy, tôi đã thưa với ngài về cô chủ Mary. Tôi xin mạo muội thưa lại lần nữa. Thưa ngài, mong ngài lượng thứ, nếu ở địa vị ngài thì tôi sẽ trở về nhà. Tôi nghĩ ngài sẽ lấy làm mừng khi về đến nhà và, xin bò quá cho, tôi cho rằng phu nhân của ngài cũng sẽ mong mỏi điều đó, nếu như bà có ở đây.
                        Bề tôi trung thành của ngài,
                        Susan Sowerby

                        Ông Craven đã đọc bức thư hai lần trước khi cất nó vào phong bì. Ông lại nghĩ ngợi tiếp về giấc mơ nọ.
                        - Ta sẽ trở về Misselthwaite. Phải rồi, ta sẽ trở về ngay lập tức.
                        Rồi sau đó, ông băng qua khu vườn để vào tòa biệt thự, và ra lệnh cho Pitcher sửa soạn cho chuyến trở về nước Anh.
                        Chỉ mấy ngày sau, ông đã lại đặt chân lên xứ Yorkshire, và trong cuộc hành trình bằng xe lửa dài dằng dặc ấy, ông nhận thấy mình lúc nào cũng nghĩ tới thằng bé mà suốt mười năm qua ông không bao giờ nghĩ đến. Trong những năm tháng ấy, ông chỉ ước sao quên được nó. Bây giờ, cho dù ông không có ý định nghĩ tới, thì những kỷ niệm về thằng bé cứ liên tục trở về trong tâm trí ông. Nhớ lại những ngày đen tối ấy, ông đã la hét như điên như dại chẳng khác nào một kẻ loạn óc, bởi đứa trẻ còn sống mà mẹ nó lại lìa đời. Ông đã từ chối không muốn nhìn mặt con trai, nhưng khi cuối cùng ông tới nhìn nó thì thấy cái sinh linh bất hạnh ấy yếu ớt đến độ ai nấy đều cả quyết, chỉ ít ngày nữa nó sẽ chết. Rồi trước sự ngạc nhiên của những người chăm sóc nó, ngày qua ngày nó vẫn cứ sống, và khi đó mọi người tin rằng đây hẳn là một đứa bé dị dạng và què quặt.
                        Ông không có ý làm một người cha tồi, nhưng trong ông không có cảm giác như một người cha chút nào. Ông đã mang đến cho thằng bé các bác sĩ, các cô bảo mẫu và nhiều thứ đồ đắt tiền, vậy nhưng chỉ cần nghĩ tới nó thôi là ông đã thấy sợ hãi muốn lùi bước, để rồi vùi mình vào nỗi khốn khổ của riêng ông. Lần đầu tiên sau một năm vắng mặt, ông quay trở về Misselthwaite và mỗi khi cái sinh vật nhỏ bé thống khổ ấy uể oải, hờ hững ngẩng khuôn mặt có đôi mắt xám to tròn rợp bóng mi đen lên, đôi mắt vừa giống vừa không giống đến mức khủng khiếp với đôi mắt tràn ngập hạnh phúc mà ông quá đỗi tôn thờ; lúc đó, ông cảm thấy không sao chịu đựng nổi và phải quay đi, mặt tái nhựt như một xác chết. Vả lại, ông cũng hiếm khi nhìn thấy nó, có chăng vào lúc nó ngủ, nên tất cả những gì ông biết về nó là một đứa tàn tật, tính khí cuồng loạn, hằn học và trì độn. Cách duy nhất để tránh cho thằng bé những cơn cuồng nộ nguy hiểm là đáp ứng mọi yêu sách của nó, dù là nhỏ nhất.
                        Khi đoàn tàu đưa ông đi xuyên qua các hẻm núi và lướt trên những cánh đồng vàng óng thì người đàn ông “đang sống lại” ấy bắt đầu suy nghĩ về mọi thứ theo một cách mới mẻ, điềm tĩnh và sâu sắc hơn.
                        “Có lẽ ta đã hoàn toàn sai lầm trong suốt mười năm qua” - Ông tự nhủ - “Mười năm là cả một quãng thời gian dài. Giờ đây, có thể đã quá muộn để làm lại, hoàn toàn đã muộn. Ta biết nghĩ sao đây”.
                        Dĩ nhiên, đây là thứ phép mầu sai lầm, vì nó được bắt đầu bằng từ “quá muộn”. Thậm chí, Colin cũng có thể nói với ông như vậy. Nhưng ông nào có biết gì về phép mầu đâu - dù là tốt đẹp hay hắc ám đi chăng nữa. Điều này ông vẫn còn chưa học được.
                        Ông tự nhủ, nếu bà Sowerby đánh bạo viết thư cho ông thì cũng chỉ vì tình thương của người mẹ đã giúp bà nhận ra thằng bé đang nguy kịch hơn - một trận ốm thập tử nhất sinh chẳng hạn. Nếu không có sự bình yên kỳ lạ đang xâm chiếm tâm hồn, hẳn ông đã cảm thấy lòng mình tan nát hơn bao giờ hết. Sự bình yên đó cũng mang lại cho ông can đảm và hy vọng. Thay vì những ý nghĩ u uẩn, ông thấy mình đang cố gắng tin tưởng vào những điều tốt lành hơn.
                        “Có lẽ nàng cũng nhận thấy ta có thể làm điều tốt cho thằng bé và giữ cho nó được bình an?” - Ông nghĩ - “Ta sẽ quay về và gặp nàng trên con đường trở lại Misselthwaite”.
                        Đang băng qua cánh đồng hoang, ông cho dừng cỗ xe trước mái nhà gianh. Chừng bảy, tám đứa trẻ đang tụ tập thành một nhóm chơi đùa, thấy khách lạ chúng liền lịch sự nhún gối chào một cách thân thiện. Chúng thưa với ông rằng mẹ chúng đã sang bên kia đồng hoang từ sớm tinh mơ để giúp một phụ nữ sinh em bé. “Còn anh ****on nhà chúng cháu,” chúng bảo, “thì đang ở bên Trang viên làm vườn, mỗi tuần anh ấy phải mất mấy ngày ở bên ấy”.
                        Ông Craven đưa mắt nhìn đám trẻ khắp một lượt, đứa nào thân hình cũng cứng cáp, mặt mũi tròn trịa, má đỏ hây hây, mỗi đứa toét miệng một kiểu, biểu lộ sự vui thích, khiến ông nhận ra chúng đều vô cùng khỏe mạnh dễ thương. Ông cũng mỉm cười đáp lại những nụ cười thân thiện của chúng. Ông lấy trong túi ra một đồng xôrơven [4] và tặng cho “Lizabeth Ellen nhà chúng cháu” - đứa lớn tuổi nhất trong cả đám.
                        - Nếu các cháu chia nó làm tám phần thì mỗi đứa sẽ được một nửa cơrao [5] đấy.
                        Thế rồi, giữa những nụ cười toe toét hay khúc khích, những cái nhún gối chào của bọn trẻ, ông cho xe lăn bánh, để lại đằng sau cảnh chen huých và nhảy nhót vui vẻ .
                        Chuyến đi băng qua cảnh trí kỳ diệu của đồng hoang mới thật dễ chịu làm sao. Điều đó mang đến cho ông cảm giác được về nhà mà ông từng nghĩ chẳng bao giờ có nổi, cảm giác về vẻ đẹp của vùng đất và bầu trời và những vạt hoa tím xa xa, sự ấm áp trong lòng khi mỗi lúc ông lại được gần thêm ngôi nhà cổ kính nguy nga đã gắn bó với tổ tiên ông từ sáu trăm năm qua. Tại sao ông nỡ lòng xa lánh nó trong suốt thời gian qua, và rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến những căn phòng khóa chặt cùng thằng bé đang nằm trên cái giường có bốn cọc gỗ chạm trổ, xung quanh căng những tấm gấm thêu kim tuyến. Liệu ông có thể thay đổi bản thân mình để rồi trở nên tốt đẹp hơn, và vượt qua được những do dự của chính ông? Giấc mơ nọ mới thực làm sao, và giọng nói ấy mới kỳ diệu và rõ ràng làm sao khi gọi ông trở về: “Em đang ở trong vườn... Em đang ở trong vườn!”
                        - Mình sẽ cố tìm lại chiếc chìa khóa - Ông nói - Mình sẽ mở cánh cửa ấy ra. Mình phải... mặc dù mình chẳng biết tại sao.
                        Khi ông về đến Trang viên, đám gia nhân đón ông với nghi lễ thường có, cả bọn đều nhận thấy trông ông khá hơn trước. Ông không đi về mấy căn phòng biệt lập mà ông đã quen sống trong đó với sự phục dịch của Pitcher. Ông đến thẳng thư viện rồi cho gọi bà Medlock. Bà đến gặp ông, bộ dạng bối rối, mặt đỏ tía tai.
                        - Cậu chủ Colin ra sao, bà Medlock? - Ông hỏi thăm.
                        - Tốt lắm, thưa ngài - Bà Medlock đáp - Cậu ấy... cậu ấy nom khác hẳn, theo một cách nào đấy.
                        - Xấu đi à? - Ông gọi ý.
                        Bà Medlock mặt đỏ bừng lên.
                        - Chà, ngài thấy đấy, thưa ngài - Bà cố tìm lời giải thích - Cả bác sĩ Craven lẫn cô bảo mẫu và tôi đều khó có thể hiểu được cậu ấy.
                        - Tại sao thế?
                        - Sự thực mà nói, thưa ngài, cậu Colin có thể khá hơn lên mà cũng có thể đang thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Cái sự ngon miệng của cậu ấy, thưa ngài, thì khó mà hiểu nổi... và cái cách của cậu ấy...
                        - Thế ra cậu ấy ngày càng trở nên... kỳ lạ hơn? - Ông chủ của bà hỏi, hai hàng lông mày của ông nhíu lại lo lắng.
                        - Đúng vậy, thưa ngài. Cậu ấy ngày càng trở nên hết sức kỳ quặc, nếu ông muốn so sánh với những gì cậu ấy vẫn thường tỏ ra. Thường ngày cậu ấy chẳng ăn gì cả, thế rồi đột nhiên cậu ấy ăn lấy ăn để... và sau đó lại không động lấy một miếng, các bữa ăn dọn lên thế nào lại trả về bếp thế ấy. Ngài chưa biết đấy thôi, thưa ngài, có thể ra khỏi cửa nhà cậu ấy lại khác chăng. Chúng tôi nhận thấy mỗi lần đưa cậu ấy ra ngoài trời bằng xe lăn thì cơ thể cậu ấy cứ run rẩy như một chiếc lá. Cậu ấy đã tự đẩy mình vào tình trạng mà bác sĩ Craven phải bảo, ông ấy không có trách nhiệm phải ép cậu. Chà, thưa ngài, chịu không tài nào đoán trước được... Chẳng bao lâu sau con cuồng loạn tồi tệ nhất của mình, cậu ấy đột nhiên khăng khăng đòi ra ngoài trời hằng ngày với cô Mary và thằng bé ****on con bà Susan Sowerby, thằng bé này đẩy xe giúp cậu ấy. Cậu ấy thích cả cô Mary lẫn ****on. Thằng ****on thường mang theo bầy thú hoang đã thuần hóa của nó, và liệu ngài có tin không, thưa ngài, cậu ấy cứ ở ngoài nhà từ sáng sớm đến tối mịt mới về.
                        - Cậu ấy trông thế nào?
                        - Nếu cậu ấy ăn uống một cách tự nhiên, thưa ngài, thì ngài có thể tin rằng cậu ấy đang béo ra. Nhưng chúng tôi đều e rằng đó có thể là một dạng phù. Thỉnh thoảng cậu ấy còn cười một cách kỳ quặc khi chỉ có một mình với cô Mary. Cậu ấy có mấy khi cười đâu. Bác sĩ Craven sẽ tới thăm ngay bây giờ, nếu ngài cho phép. Ông ấy chưa bao giờ phải ngạc nhiên đến vậy trong đời.
                        - Cậu chủ Colin giờ ở đâu? - Ông Craven hỏi.
                        - Ở ngoài vườn, thưa ngài. Cậu ấy luôn ở ngoài vườn và không một người nào được phép đến gần, vì cậu ấy sợ mọi người trông thấy mình.
                        Ông Craven khó có thể nghe rõ những lời cuối cùng của bà.
                        - Ở ngoài vườn! - Ông kêu lên, và sau khi cho phép bà lui ra, ông đứng dậy nhắc đi nhắc lại câu ấy - Ở ngoài vườn!
                        Phải cố gắng lắm ông mới trấn tĩnh được. Và khi đã bình tĩnh lại, ông quay người và ra khỏi phòng. Ông cũng phải tìm đường chẳng khác gì con bé Mary. Sau khi bước qua cánh cửa, ông đặt chân vào giữa một nơi có nhiều cây bụi với hai hàng nguyệt quế và các luống hoa chạy quanh đài phun nước. Đài phun nước đang phun, xung quanh là những thảm hoa rực rỡ. Ông băng qua thảm cỏ rồi ngoặt vào lối đi dạo dài hun hút chạy men theo những bức tường phủ đầy dây thường xuân. Ông không vội vàng mà chỉ chậm rãi từng bước, nhìn như dán mắt vào con đường mòn. Ông có cảm tưởng đang bị kéo trở về nơi mình đã bỏ rơi bấy lâu mà chẳng rõ vì sao. Càng gần tới đó, bước chân ông càng trở nên chậm chạp. Ông biết chỗ cánh cửa, cho dù cả một mảng thường xuân ken dày đang phủ kín lấy nó, nhưng ông không nhớ chính xác chỗ chiếc chìa khóa bị vùi.
                        Ông dừng bước, đứng lặng người và nhìn xung quanh, lúc đó ông hầu như chỉ thẫn thờ lắng nghe rồi tự hỏi phải chăng mình đang đi trong một giấc mơ.
                        Dây thường xuân mọc dày đặc trước cánh cửa ra vào, chiếc chìa khóa đã được vùi kín dưới mấy bụi cây kia, không người nào bước qua cánh cửa vườn trong mười năm cô đơn đó: vậy nhưng bên trong vườn lại có những âm thanh. Có tiếng chân ai đang chạy, tiếng những chiếc giày đuổi nhau vòng vòng dưới những tán cây, lại thêm giọng nói lạ lùng của ai đó đang cố nén cho khẽ đi, để rồi bật ra thành những tiếng reo kinh ngạc và vui vẻ. Đó dường như là những tiếng cười tươi trẻ, thoải mái của một đám trẻ con đang không muốn người khác nghe thấy mình, nhưng trong khoảnh khắc không kìm nén được, lại vỡ ra ồn ĩ. Phải chăng đó là chốn thiên đường ông đang mơ tới? Và những gì mà ông đang nghe thấy không phải dành cho đôi tai con người? Giọng nói trong trẻo, xa xăm kia muốn nhắn nhủ điều gì vậy?
                        Và cái giây phút ấy đã đến, cái giây phút không sao kiềm chế nổi, khi những âm thanh quên mất phải im lặng. Tiếng chân chạy mỗi lúc một nhanh hơn... chúng đang đến gần cánh cửa khu vườn... có thể nghe rõ cả tiếng thở trẻ trung, mạnh và gấp, và cả tiếng cười, tiếng la hét không thể kìm nén được nữa... rồi cánh cửa nơi hõm tường mở toang, tấm thảm dày do những cành thường xuân kết thành đung đưa, một thằng bé chạy ào ra và chẳng cần ngó nghiêng gì bên ngoài, nó gần như rơi vào vòng tay ông.
                        Ông Craven vừa kịp dang rộng hai tay ra, chứ không thì ông đã ngã bổ ngửa khi thằng bé chẳng nhìn ngó gì lao vụt tới. Ông đỡ lấy nó và kinh ngạc ngắm nhìn khi nó lúc này đây còn đang thở hổn hển.
                        Đó là một thằng bé cao lớn, xinh trai, bừng bừng sức sống. Vừa lao từ trong ra nên cả khuôn mặt nó hồng hào rạng rỡ. Nó vuốt mái tóc dày về phía sau rồi ngước đôi mắt xám kỳ lạ nhìn ông - đôi mắt ngập tràn niềm vui trẻ con với hàng mi đen huyền. Ông Craven nghẹn ngào khi nhìn vào đôi mắt ấy.
                        - Ai đây? Cái gì thế này? Ai thế hả? - Ông lắp bắp.
                        Đó đâu phải những gì Colin mong chờ, đó cũng không phải những điều nó chuẩn bị từ trước. Nó chưa bao giờ nghĩ tới một cuộc gặp như vậy. Cứ thế mà lao ra, bởi còn mải chạy đua với hai đứa kia. Mà thế cũng tốt. Nó rướn thẳng người lên. Con bé Mary, vừa chạy cùng với nó và cũng lao qua cánh cửa, đã biết tỏng thằng bé đang tính toán làm sao cho mình trông cao hơn mọi bữa.
                        - Thưa cha, - Nó nói - con là Colin. Cha không thể tin chứ gì. Ngay con cũng còn không tin nổi nữa là. Con là Colin đây.
                        Giống y như bà Medlock, nó không hiểu ý ông ra sao nữa khi ông hối hả kêu lên :
                        - Ở ngoài vườn! Ở ngoài vườn!
                        - Vâng - Colin cũng hối hả đáp lại - Chính khu vườn này đã làm nên chuyện đó, rồi Mary, ****on và bầy thú... và phép mầu nữa. Chưa một ai hay biết chuyện này. Con đã giữ kín nó trong lòng để kể cho cha ngày cha trở về. Con đã hoàn toàn khỏe mạnh. Con có thể thách Mary chạy đua cơ đấy. Con sắp trở thành một vận động viên.
                        Nó nói tất cả chuyện ấy như một đứa trẻ khỏe mạnh: mặt nó ửng hồng, lời nói tuôn ra lộn xộn trong nỗi háo hức khiến cho tâm hồn ông Craven choáng ngợp trước một niềm vui không sao tả xiết.
                        Colin đưa tay vịn vào cánh tay cha nó.
                        - Cha có mừng không, cha? - Nó kết thúc - Cha có mừng không? Con sẽ được sống mãi mãi!
                        Ông Craven đặt cả hai bàn tay lên đôi vai đứa con trai, rồi siết chặt lấy nó. Ông biết đó là lúc ông không thể nói thêm gì nữa.
                        - Đưa cha vào trong vườn nào, con trai ta, - Cuối cùng, ông lên tiếng - và kể cho cha nghe mọi điều về nó.
                        Bọn trẻ liền dẫn ông vào trong vườn.
                        Khu vườn là một vùng hoang dã, toàn sắc vàng của mùa thu xen lẫn màu tía, màu tím phớt xanh và cả đỏ tươi chói lọi. Khắp mọi nơi là những vạt ly ly nở muộn mọc sát bên nhau: ly ly có hai màu, trắng và trắng pha đỏ sẫm. Ông vẫn còn nhớ rõ khi lứa hoa đầu tiên được trồng cũng vào mùa này trong năm, vẻ lộng lẫy muộn mằn của chúng phát lộ ra hết. Mấy khóm hồng muộn bò lan ra, đung đưa và quyện chặt lấy nhau. Ánh nắng đang mỗi lúc một sẫm dần, phủ màu vàng lên các ngọn cây khiến ta ngỡ như đang đứng trong một ngôi đền bằng vàng. Người mới đến sững sờ đứng chẳng khác nào bọn trẻ vào cái ngày chúng mới đặt chân tới đây, giữa một màu xám ngắt. Ông đưa mắt nhìn khắp xung quanh.
                        - Cha ngỡ rằng nơi này đã chết. - Ông nói.
                        - Thoạt đầu Mary cũng nghĩ thế - Colin đáp - Thế mà nó đã sống lại.
                        Mọi người ngồi xuống, dưới tán cây quen thuộc, chỉ trừ Colin muốn đứng để thuật lại câu chuyện.
                        Đây quả là những gì kỳ lạ nhất mình từng được nghe, ông Archibald Craven nghĩ thầm, trong khi thằng bé ào ào kể lại. Những bí ẩn, phép mầu cùng bầy thú hoang, rồi cuộc gặp nửa đêm kỳ lạ của chúng, cảnh mùa xuân đến, con giận dữ khi niềm kiêu hãnh bị xúc phạm đã kéo vị tiểu vương đứng dậy thách thức lão Ben Weatherstaff ra sao. Rồi tình bạn kỳ lạ, màn kịch và điều bí mật to lớn đã được giữ kín một cách cẩn trọng thế nào. Ông nghe mà cười đến ứa nước mắt, và thỉnh thoảng nước mắt cũng vẫn ràn rụa ngay cả khi ông không cười. Vận động viên điền kinh, kiêm nhà diễn thuyết, nhà phát minh khoa học là một cậu bé đáng yêu hay cười và tràn đầy sinh lực.
                        - Còn bây giờ thì, - Nó nói khi kết thúc câu chuyện - không cần thiết phải coi đó là một bí mật nữa. Con đoán chắc mọi người sẽ phát hoảng khi họ nhìn thấy con, nhưng con sẽ không bao giờ có ý định ngồi vào chiếc xe đẩy ấy nữa. Con sẽ đi cùng với cha về nhà, cha ạ.
                        Bổn phận của lão Ben Weatherstaff hiếm khi lôi lão ra khỏi khu vườn, nhưng trong trường hợp này lão cố kiếm cớ để lăng xăng mang ít rau quả cho nhà bếp, và được bà Medlock mời vào gian phòng lớn dành cho gia nhân để uống một vại bia. Lão đã có mặt ngay tại đó, đúng như lão từng mong ước, khi diễn ra sự kiện gây xúc động nhất mà tất cả mọi người ở Trang viên Misselthwaite thế hệ này chưa từng chứng kiến.
                        Từ một trong những cửa sổ nhìn xuống khoảng sân trong, người ta cũng thoáng thấy bãi cỏ. Bà Medlock biết lão Ben vừa từ ngoài vườn về, bà hy vọng lão gặp ông chủ ngoài đó, và thậm chí chứng kiến cả cuộc gặp gỡ giữa ông và cậu chủ Colin nữa.
                        - Bác đã trông thấy cha con họ rồi chứ, bác Weatherstaff? - Bà hỏi.
                        Lão Ben nhấc vại bia khỏi miệng, rồi đưa mu bàn tay quệt môi.
                        - Chà, tôi thấy rồi. - Lão đáp lời ra bộ láu lỉnh.
                        - Cả hai cha con ư? - Bà Medlock gợi ý.
                        - Cả hai - Lão Ben Weatherstaff quay người lại - Đa tạ lòng tốt của bà, thưa bà, tôi có thể làm một vại nữa chứ?
                        - Họ đi cùng nhau à? - Bà Medlock hỏi, hối hả rót đầy bia vào vại của lão với vẻ bồn chồn.
                        - Cùng nhau, thưa bà. - Nói đoạn, lão Ben lại cạn một hơi hết ngay nửa vại mới.
                        - Cậu chủ Colin hiện ở đâu? Trông cậu ấy ra sao? Cha con họ đã nói gì với nhau?
                        - Tôi chẳng nghe thấy gì hết, - Lão Ben đáp - vì tôi chỉ đứng trên thang mà nhìn qua bờ tường. Tuy vậy, tôi muốn nói điều này để bà hay. Có những thứ đang diễn ra ngoài kia mà mọi người sắp được biết. Vậy bà muốn biết cái gì thì bà nên biết cho sớm nhé.
                        Chưa đầy hai phút trước khi dốc tuột nốt ngụm bia cuối cùng, lão huơ huơ chiếc vại một cách trịnh trọng về phía cửa sổ mà từ đó nhìn qua bụi cây, người ta có thể thấy rõ một phần của bãi cỏ.
                        - Nhìn đấy, - Lão bảo - nếu bà còn tò mò. Nhìn thử xem cái gì đang đi ngang qua bãi cỏ kia kìa.
                        Bà Medlock vừa đưa mắt nhìn ra đã giơ hai tay lên trời cùng một tiếng thét nhỏ, đám gia nhân nam nữ trong nhà nghe thấy liền chạy lồng lên ngang qua gian phòng lớn dành cho họ rồi đứng nhìn qua cửa sổ bằng những đôi mắt hầu như muốn bật khỏi tròng.
                        Ông chủ của Misselthwaite đang từ ngoài bãi cỏ bước tối, dáng điệu như thể nhiều người trong họ chưa bao giờ được thấy ông. Và đi bên ông, với cái đầu ngẩng cao, đôi mắt lấp lánh ánh cười, cùng những bước chân mạnh mẽ, vững chãi như bất kỳ thằng bé nào khác ở xứ Yorkshire này - đó là Cậu chủ Colin!


                        Hà Nội, tháng Tám 2006

                        Chú thích:
                        [1] Hypochondriac: người mắc chứng nghi bệnh.
                        [2] Thistle: một trong nhiều loại cây dại, lá có gai, hoa đỏ thắm, trắng hoặc vàng (xuất hiện trên quốc huy của Scotland).
                        [3] Gentian: cây có hoa màu xanh mọc ở vùng núi.
                        [4] Sovereign: đồng tiền vàng trước đây của Anh, lúc đầu có giá trị bằng một pao.
                        [5] Crown: đồng tiền kim loại 5 si-ling (25 penny) của Anh trước đây.




                        Hoa Gentian


                        HẾT

                        Comment

                        Working...
                        X