Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Như Cánh Chuồn Chuồn

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Như Cánh Chuồn Chuồn

    Anh Năm thợ hồ và anh Sáu thợ mộc
    ______________________________________________



    Đám trẻ ranh trên núi kéo cờ đỏ chạy xuống chợ la thất thanh ‘đất nước giải phóng, hoan hô, đả đảo...!’

    Lá cờ đỏ phất tới đâu có mãnh lực làm thiên hạ đóng cửa tới đó, họ bở ngỡ lạ lùng với mớ từ ngữ chưa nghe thấy bao giờ.
    Không khí im lìm ngột ngạt thấm nhập ngay cả vào hàng me xanh mướt lá run rẩy dưới cơn nắng thiêu đốt.

    Tin tức qua mấy cái máy thu thanh nhỏ bé về sự thay đổi chính quyền, khúc quanh lịch sử trọng đại sắp xếp ở bên Tây bên Mỹ chưa hoàn toàn thấm nhập vào chợ quê này.

    Dân chúng chỉ thấy có gì lạ lạ, khác thường. Biến cố chưa đủ khả năng đe dọa tinh thần họ như tiếng sấm nổ long trời và cơn mưa lởđá núi Tô năm nào.


    Buổi chợ trưa bao giờ cũng vắng vẻ, trừ các tiệm nước ngã tư đường lác đác những người đi sóc về, ngồi lê la nhăm nhi ly cà phê đen thường lệ, vừa nghỉ xả hơi bàn giá cả thóc lúa, thổ sản.

    Lần đầu tiên trong đời, họ cảm được sự khác biệt, không giống mấy lần đảo chánh trước kia. Ngay đến chủ các tiệm buôn quanh chợ còn vô tình, thiếu ý thức chính trị, dù tất cả mọi người đều quen với giới nghiêm, súng đạn pháo kích, chiến tranh hằng đêm - ‘Mà có chết ai đâu?

    Tới đâu thì tới, đèn nhà ai nấy sáng, trời kêu ai nấy dạ, cái sự vong như cái sự tồn!’ - Họ lý luận rất giản dị, như chính cuộc đời họ.

    Thời gian qua mau, tiếng loa hô hào bắt đầu ồn ào, xáo trộn đời sống dân chợ và dân xóm nhà lá. Những căn nhà lá lụp xụp, túm rụm vào nhau hai bên bờ kinh không có tên đường và số nhà, tầm thường vô danh như những người cư ngụ, bà con chằng chịt, quen biết nhau đã mấy đời nên địa chỉ đối với họ hơi dư thừa.

    Mấy dãy nhà ngói rêu xanh cũ kỷ, cất từ đầu thế kỷ hay những căn nhà lầu đúc mới xây, an toàn bằng bê tông cốt sắt, chống pháo kích hữu hiệu, chủ nhân được gọi tên theo bảng hiệu mình, vẫn thờ ơ với thời cuộc. Nhà lá hay nhà ngói đều chưa

    chuẩn bị chào đón tư tưởng ‘Mác xít, Lê Nin’ nhập cảng ở bên Nga, bên Tàu, họ nghi ngờ phẩm chất đồ nhập cảng này chưa chắc tốt hơn cây búa, cây cưa ở tiệm sắt, vô ích hơn tấm lưới câu, lạt lẽo hơn ly cà phêđá thơm mát buổi trưa
    Xóm nhà lá

    ban đầu tổ chức ăn mừng cách mạng, ‘con ta khỏi đi lính’ nên họ nhậu thả cửa, đi lại suốt đêm, làm ăn để đó, hồi nào giờ, xứ này có ai chết đói đâu? ‘Tiếng súng xử tử ở sân banh không đủ thức tỉnh họ’, ôi! Nhà ai nấy ở, cơm ai nấy ăn, ai làm dữ nấy lo,

    ai đánh to thua lớn. Rồi dân gốc Miên bị đuổi khỏi sóc, chợ búa thiếu rau cải, cây trái ... Ôi! Trời trả quả, hồi năm 45, tụi chết đốt này nổi lên ‘cáp duồng’, bây giờ đáng đời, mỗi người tốn ba

    thước củi là cùng!
    Những căn nhà lá dọc theo bờ kinh còn đó, phân nửa nhà nằm trên mặt lộ đá, phần sau nhà dựng bằng tre mở trên mé kinh. Gia đình đông con lại nghèo nên họ sống dễ dãi, nước sông gạo chợ, nấu ăn, tắm giặt gì cũng ở đó.

    Ai bước vào căn nhà ẩn dưới rặng trăm bầu buổi xế trưa đều gặp chú Năm Có. Chú Năm ngồi ngất ngưỡng, độc ẩm trên cái chỏng tre lung lay như răng sắp rụng, nghiến kẽo kẹt kêu ca, mỗi lần chú nhún thân mình mập như bao lúa.

    Trước mặt chú, một chai rượu trắng, mấy con khô cá lìm kìm, vài miếng xoài chua, và dĩa muối ớt. Năm Có trệu trạo nhai miếng khô, chắp miệng thấy thèm, mặt nghinh, mắt nhướng nhìn lên, chắc lưỡi rũ mấy con thằn lằn xuống nhậu, thỉnh

    thoảng đổ ọt ly rượu vào miệng như đổ nước vô lu.
    Cách mạng hay quốc gia, sau bửa cơm trưa đạm bạc, thiếu thốn thì đúng hơn, chú Năm Có bắt đầu nhăm nhi cho qua cơn nắng oi nồng, cổ nhăn nhúm đỏ gấc như da cổ con gà cồ, nóng hơn mặt trời

    đứng bóng.
    Thím Năm nhẫn nhục, quá quen thuộc bản tính chồng nên ít khi cằn nhằn trước mặt, tuy sau lưng chồng, thím thường hay nói hành nói tỏi, gia đình nhờ vậy nên sóng lặng gió yên. Mà chú Năm có ăn hại gì đâu, mấy con khô cá lìm kìm,

    trái xoài chua, chai rượu đế giá bao nhiêu mà kiếm chuyện, ‘tao có đòi rượu Tây, khô long chả phụng đâu mà kiếm chuyện, cằn nhằn là tao đốt nhà à’, chú Năm mượn rượu làm oai với vợ, lâu lâu chú ỷ thế cùi không sợ lở, heo chết còn sợ gì nước sôi,

    chưởi đổng, ‘xin lổi,Việt Cộng tao còn không sợ nữa à!’ bà vợ nghe lạnh tay lạnh chưn, sợ tai vách mạch rừng, ríu rít xin lỗi cho yên,được thể chú Năm càng làm già, nhứt là có mặt chú Sáu Hường, bạn thâm niên, làm nghề thợ mộc.
    Hứng chí hay

    thất chí, sau xị rượu đế, chú ngã quay ra nằm luôn trên chỏng tre ngủ mê man tới chiều, tiếng ngáy ồm ộp rung rinh cột tre dưới nhà, mặc đàn muỗi tha hồ chích cái lưng dầy như tấm thớt. Trong giấc ngủ khê, chú thường quơ quào mớ ú ớ trong miệng ‘cái nhà, tao xây hồi đó!’

    ***


    Năm Có chấp tay sau lưng đi quan sát tiệm tạp hóa cột gỗ mọt ăn, trên vách ổ mối dài ngoằn ngoèo như ghẻ chùm bao. Chú nghiêm trọng gật đầu nhè nhẹ sửa lại gọng cặp soi mát ‘mới mua năm chăm bạc’ chủ nhà mời vào uống nước trà bàn

    chuyện giao cho chú xây cất. Mời Năm Có xây nhà, chủ nhân phải kiên nhẫn đợi khá lâu, với đầy đủ điều kiện. Cầm ly trà nóng tới nguội, Năm Có phân trần ‘thợ hồ xứ này họ xây theo ý chủ, họ quên xây phải đúng phương hướng thủy thổ, thì nhà

    làm ăn mới phát, gia đình mới hòa thuận, muốn xây mau như họ, tôi làm cũng được, mà sau này đừng trách tôi không chịu nói cho nghe! Thời buổi, tôi xây tường, ca nông, mọt chê bắn không lũng, đừng nói đạn súng cối, ma-ti-dết, mút-cà-tông!’


    Bàn về giá cả, Năm Có nghiêm mặt, ‘nè, tôi học nghề mấy chục năm mới lên thợ cái nghe! Cầm cục gạch xây tường phải thẳng như thước gạch vậy, thấy Chín Be xây cái nhà Tửng É

    không? Ai đời, thợ hồ xây cột có chửa!’
    Năm Có đắc chí, xoa hai bàn tay, như hai nải chuối cau mẳn chín thâm kim. Chủ nhà lả vả ‘sao cũng được mà anh Năm’.

    ***


    Ngày khởi công, quấn điếu thuốc bập bập phà khói, chỉ huy đám thợ phụ, Năm Có căng dây, nheo mắt, hạ giọng, ‘qua chút, qua trái chút nữa, nói hoài cũng vậy, tụi bây lỗ tai cây mà!’ - góc bên kia thợ phụ đã đào xong lỗ xây cột, Năm Có

    treo sợi dây dọi, ngắm nghía, cẩn thận theo lương tâm nghề nghiệp. Phải thôi sao, liếc mắt xem chừng bọn đào lỗ xây tường, Năm Có nạt ‘hể vắng tao là bây đứng chơi, hồi đi học nghề, cha thợ cái lấy cái bàn chà đập lưng tao muốn lồng phổi,

    còn bây giờ tao dễ quá, bây lừng há!’ - còn đám phu trộn hồ, Năm Có canh chừng từng chút, cát, xi măng, vôi nước phải đúng theo ý mình; ít cát nhiều xi măng thì lỗ, nhiều cát hồ non

    không chắc tường, thiếu nước hồ trộn không ăn, nhiều nước hồ nhão xây không vững. Nhờ cẩn thận nên sau mỗi lần xây cất, Năm Có dư dã năm ba bao xi măng bán đem ngồi sòng bông

    dụ. Chủ nhà than phiền, tại họ không ở trong nghề, lệ tổ nghiệp, bỏ là trái lệ, thợ hồ ăn hồ, còn thợ may ăn vải, thợ mộc ăn dăm, còn thợ hàn ăn thiếc, sao không nghe ai chê

    cười,đám em út, theo học nghề hay thợ phụ, phải nghe lời răn rắt.
    Năm Có ngồi chồm hổm bắt đầu xây cột cái, gạch được gánh đến chất gọn gàng bên trái, thùng hồ bên phải, vừa tầm tay, không cần đứng dậy tới lui. Tay trái cầm cục gạch thẻ,

    ném lộn gạch để nhìn hai mặt, đập chính xác xuống, tay phải cầm bai xúc hồ vừa đủ, trải hồ trên mặt gạch, vỗ gạch cho ngay, tém hồ không cho rớt xuống đất, động tác khéo léo không dư không thiếu. Cái bai gạt đất cát trên mặt gạch,

    chặtđẽo viên gạch vuông vắn khít khao khi cần. Cột Năm Có xây thẳng, gạch không lồi ra lõm vào, cột không có chửa như mấy tay thợ khác xây.
    Làm ăn công ngày nên Năm Có rất thận trọng, xây chừng vài gang cột, lại vấn điếu thuốc trầm ngâm

    ngắm nghía, chiêm ngưỡng công trình hoàn hão của mình, chủ nhà chưa chắc vừa ý lối làm việc hết giờ không hết việc. Gặp hôm trái ý, Năm Có dặn thợ hồ trộn thật nhiều hồ xúc đầy

    thùng, hôm sau hồ dư, đặc cứng đổ bỏ, ‘để cho chủ ăn hồ cho biết’, chủ nhà rất sợ trường hợp này, nên cơm nước vừa miệng, thịt gà trộn bắp chuối hột thêm xị rượu công xi, vừa

    nhâm nhi vừa gật gù, vợ con chủ hầu hạ chờ đợi dọn dẹp mặc kệ. ‘Xây gạch còn dễ, xây tường đá khó hơn nhiều, đá lớn nhỏ không đều nhau, đặt cục đá xuống là phải ăn khớp, chỉ có tui xây được thôi, không tin ngó thử cái hàng rào nhà ông quận

    Sóc coi, trên tường cắm miểng chai sợăn trộm leo, vững chắc như Vạn Lý Trường Thành’.
    Mãy người lo cơm nước nghe Năm Có nói, chán ngấy, mặt chầm dầm, ‘ăn no rồi đi về cho người ta dọn dẹp, còn ngồi nói chuyện năm trên’. Năm Có lãng tai

    nên khề khà tiếp tục ‘Còn chuyện xây mả mồ nghe, thợ hồ xây ẩu, đất sụp, động mồ động mả con cháu tán gia bại sản, mả ông Cả, Sáu Be xây sụp tường đó, thằng cháu nội trai ông Cả đi ghe nồi bị Ma Rốc bắn chết đó thấy hông? Bởi hồi xưa người

    ta trọng thợ hồ lắm, nhứt là mấy cô gái ưa đòi mẹ gã cho thợ hồ, nên có câu: Má ơi, con quyết lấy anh thợ hồ, mai sau má có chết, cái mả cái mồ nó xây’.
    Mà thật, Năm Có xây nhà khó ai dám chê, dù đồng nghiệp địch thủ như Sáu Be cùng học một

    thầy.
    Chiều chiều, trước khi chủ dọn cơm, Năm Có đứng chỉ huy tổng quát, lớn tiếng dặn dò đám thợ phụ cốt ý cho chủ nhà nghe, ‘Mỗi buổi chiều tụi bây tưới nước sương sương lên vách, để cách đêm tường chắc, tô vách tường thì xi măng phải già

    hơn một chút, tô bằng bàn chà cho bằng phẳng, mới lấy bai vuốt cho láng. Pha nước vôi phải nhớ mấy phần nước mấy phần vôi, nếu quên, thùng vôi pha sau đặc hay lỏng hơn thùng trước, quét lên tường chỗ đậm chỗ lợt sọc rằn coi không được,

    còn đổ nền nhà, ngày nào đổ phải làm cho rồi, nếu chưa rồi mà đợi bửa sau làm tiếp, nền cũ hồ khô cứng, đổ thêm lớp mới thành bánh da lợn nghe. Lót gạch, phải trải cát cho thật bằng, sau khi lót, đổ nước lên thấy nước không đọng mới được.’


    Trước khi rửa tay nghỉ, Năm Có thu dụng cụ rửa thật sạch, ngâm nước để hôm sau, cây bàn chà, cái bai, xẻng, cuốc không bị hồ đóng cứng. Năm Có dặn dò khuyên răn thợ phụ ‘ăn cây nào rào cây nấy, cất căn nhà này rồi, còn cất căn khác nữa’. Nói vậy nhưng khi tiền nong trái ý có chuyện bực mình

    với chủ nhà, Năm Có bỏ mặc, ‘kệ nó, nhà ông nhà cha mình sao mà làm kỷ lưỡng’.
    Tuy gắt gao với thợ phụ, Năm Có đối với em út rất có lòng, nhứt là với các cô gánh hồ như cô Hai Thảo, được chú chở che, ngon ngọt. Cô Hai Thảo gánh hồ da mặt

    hồng như trái hồng quân. Cây đòn gánh tre quằn quại hai đầu là hai thùng hồ nặng trĩu, nhún nhẩy, thoăn thoắt nhịp nhàng trên vai thêm chút duyên của người khỏe mạnh cần cù, chiếc áo vá vai vải ú màu đen nhuộm hồ, cát, vôi hàng ngày ngả

    sang màu xám.
    Năm Có vừa ý lắm, liếc nhìn cô Hai Thảo. ‘Áo vá vai, vợ ai không biết! Áo vá quàng, cả quyết vợ anh’ Nắng đổ trên nền nhà đang xây dỡ, gạch ngói, cây vụn ngổn ngang, Hai Thảo hay đứng sau lưng che nắng cho Năm Có, bóng hai

    người nhập thành một in trên vách, cô Hai Thảo cầm cái nón lá dầy, vành nón rách tua tủa, vuốt mồ hôi tươm trên trán quạt phe phẩy cho Năm Có, cả hai mát mặt, mát lòng, mát ruột, ‘nắng lửa hồng mát như mưa’, Năm Có bắt chước giọng cải

    lương, hể hả.
    Năm Có tâm sự nghề nghiệp, ‘hồi mấy năm trước anh đứng trên cây thang tre vừa kéo thùng hồ nặng lên, cây thang gẫy, anh nhảy kịp, nếu không giờ này đâu có ngồi nói

    chuyện với em’. Hai Thảo quạt phành phạch vừa mắc cở, sợ tai tiếng, đám thợ phụ thị thiềng, nói cô nịnh bợ thợ cái.
    Ngày dài làm việc cực nhọc, nóng bức lấy gì làm hứng thú, nếu thiếu cơ hội nghỉ ngơi bên Năm Có, rãnh tay nghe kể chuyện. Ðêm về

    cơ thể rã rời sau suốt ngày gạch rồi hồ, hồ rồi gạch, hai bên vai đau nhức ê ẩm, Hai Thảo lăn ra ngủ mê mệt, trong giấc chiêm bao cô thấy Năm Có tướng quân lẫm lẫm oai nghi cầm cây bai sắc như gươm Lục Yểm chém yêu đứng chỉ huy đám

    dân đinh xây ngôi nhà ngói năm căn như nhà thầy ký Xạ, nhà nền cao, bực thangđá xanh, nền lót gạch Tàu mát lạnh, sau nhà có giếng nước mát lành, có bàu sen cây che mát, Hai trở

    thành bà chủ ngồi trong nhà, da dẻ mát rượi dù bên ngoài trưa nắng cháy da.
    Năm Có liệng cây thước hồ cắm xuống đất, cầm bai múa đường quờn, cả vùng Chợ mọc lên dãy nhà mười căn, hàng ba rộng rãi, chiều chiều ngồi trên chỏng mời bà con tới

    uống nước. Trong giấc mơ, Hai thấy khát nước, thèm vắt nước đá bào xi rô vàng ngọt mát, thấy rêu mọc xanh trên mái ngói cũ. Hai lăn lộn, trằn trọc, mồ hôi rít mình, ngứa ngáy vì mấy

    vết muỗi cắn, cái mùng rách lỗ chổ, chỏng tre và chiếu ẩm mồ hôi. Hai thèm thoát khỏi căn nhà ọp ẹp vách lá, lợp đưn, cột tre chật hẹp, sợ mọt chê rớt sập, sợ đạn súng mút xuyên qua,

    sợ súng trái châu rớt cháy nhà. Ước mơ có căn nhà gạch, ngoài Năm Có, ai có đủ khả năng mang cho cô? Hai Thảo chép miệng, ‘Má ơi, má nghèo làm con cực khổ quá trời!’
    ‘Dù cho má đánh ba treo, Ðứt giây rớt xuống, con cũng theo anh thợ hồ.’

    ***


    Chợ này trước mặt là con kinh cùng, hai bên đồng ruộng bao la trải tới bờ sông Hậu Giang cách đó gần bốn chục cây số. Sau lưng xa xa là những dãy núi cao, núi đất, núi đá. Buổi chiều,

    công việc đã xong, người ta thong dong đi ruộng. Ai nhà ở xóm chợ, đi ruộng Chưn Num, bờ ruộng tiếp giáp với dãy núi hùng vĩ chở che. Dân xóm nhà thờ đi xích ra ruộng bưng, cỏ xanh

    mơn mỡn, nhờ nước xâm xấp. Ai ở xóm chùa dưới tạt qua đám ruộng khô Ô Bà Lày, gần mấy chòm cây thốt nốt. Xóm kinh càng tiện, đổ ra phía cầu Giáo Sự. Ðồng ruộng bao la, bờ

    ruộng cao, mát mẻ, bụi cây, đám cỏ xanh che khuất kín đáo, dù mưa hay nắng cũng đủ chỗ cho dân tình làm công tác vệ sinh thoải mái. Ban ngày, túng bách quá thì chạy qua đầu bờ

    kinh, sau mấy cụm me nước lá dầy đặc mát mẻ cũng xong, miễn khuất mắt đám phú lít mắc ôn mắc gió của cha Cò Tây.


    Một buổi chiều khi đi đồng về, ai chú ý sẽ thấy đám thợ hồ đang bàn tán xôn xao giữa sân bên hông chợ. Cuộc thảo luận khá sôi nổi. Ðây không phải buổi họp chính trị về chuyện Nhựt thua trận, Tây thua Ðức, Việt Minh cướp chính quyền, Bảo Ðại

    thoái vị. Cuộc họp mặt công khai, các tham dự viên là các tay thợ hồ, trong đó Năm Có là một. Thợ phụ và các cô gánh hồ vắng mặt, chưa xứng đáng tham dự đề tài. Họ dùng tất cả tứ chi, miệng mồm thuyết phục, giảng giải, phản đối ...


    Ðề tài thảo luận mới mẻ ‘cái cầu tiêu máy’. Từ thuở giờ xứ này có ai nghe thứ lạ lùng này đâu, viết máy, xe máy, bàn máy may, nhà máy xay lúa thì có, ai chịu khó nghe cũng im lặng tỏ vẻ hồ nghi.
    Thuyết trình viên Sáu Be, từng đi làm Sàigòn,

    truyền bá thao thao, ‘nè, chung quanh họ đào sâu xuống chừng hai thước tây, chung quanh xây gạch tráng xi măng. Nè, nè, phần trên đúc sẵn, nè, nè, nó cong cong giống con thỏ, nên người ta kêu bằng con thỏ. Ði xong, dội nước xuống, cái

    xác ở dưới, còn nước chảy ra đường mương, chừng 15 năm có xe lại hút đi. Nè, nè! Xác nó mục thành đất. Sáu Be càng nói càng lắp bắp, tay chân lúng túng trình bày.’
    Năm Có ngắt lời,

    ‘thôi mà, nói nghe gớm thấy bà nội’, vừa khạc nhổ một bệt nước miếng.
    Ở đây, sang như nhà ông Quận, chỉ có thùng, gọn và sạch. Sáu Be đi xa về vẽ rắn thêm chưn, ‘đâu phải hể thợ ở Sàigòn về là giỏi hết!’ Ðêm đó, Năm Có thấy đau quặn ngang

    bụng và bả vai sau buổi nhậu ở nhà Sáu Be về vụ ‘cái cầu tiêu máy’. Sáu Be được mấy thầy ký kêu đo đạc xây cầu. Năm Có tuy là thợ kỳ cựu, bị chạm tự ái nên sa sút tinh thần sau những năm làm việc, cảm thấy bị đào thải theo thời gian.

    Chú bị đẩy xuống thợ hạng nhì, chỉ được mướn sửa nhà lặt vặt, xây miệng giếng, sửa bức tường cũ bị nước xoáy mục. Ðàn em, tay chưn bộ hạ bỏ nghề đi lính hết.
    Thời cuộc đổi nhanh, lúc còn xây nhà cho tiệm tạp hóa ông Húa, chú Năm nằm đêm có

    thể nghe và đếm bao nhiêu tiếng súng mút, bây giờ tiếng súng dồn dập như máy nổ, nhà gạch thẻ hai mươi do chính tay chú xây cho ông Năm thợ bạc bị bắn cháy sập, chú hết tưởng tượng nổi súng đạn bây giờ, chiến tranh bộc phát có mấy năm,

    dân chợ làm ăn phát đạt tranh đua xây cất nhà lầu đúc, nóc bằng tránh pháo kích. Nhà đúc đào móng sâu, bê tông cốt sắt, sàn nhà lót gạch bông mát mẻ, lan can bằng đá mài, hồ đẩy bằng xe ba bánh, nhiều mà mau. Mấy cây cột, bức tường này

    Năm Có thuở xưa cẩn thận cầm từng viên gạch xây. Qua bao nhiêu mùa mưa nắng, tường không mục, vách không lở, vôi không phai. Năm Có đứng nhìn họ đập bằng búa tạ, xô ngã từng mảng tường, gạch, nằm lăn lóc trên mặt đất không chút

    nương tay thương tiếc. Họ đành lòng phá tan nát công trình xây dựng của Năm Có, nỡ quên công lao cô Hai Thảo còng lưng, sưng bả vai gánh hồ dưới cơn nắng chang chang, ‘mồ hôi nước mắt em Hai nhiều hơn nước trộn hồ’. ‘Hai ơi! Vì thương

    anh, nghe lời anh theo nghề hồ, vôi ăn lở lói tay em, thùng hồ ngã trúng đầu, rồi em chết tức tưởi vì đạn pháo kích. Cái đòn gánh và đôi gióng em, anh còn giữ. Anh hứa liều cất căn nhà ngói tường gạch có giếng nước sau nhà cho em đỡ cực, mà giờ

    này anh còn ở trên căn nhà lá lôi thôi cheo leo bên bờ kinh, mùa nước lên sợ sụp đổ, long chong như kiếp thằng thợ hồ, xây chưa được cái mả cái mồ cho em. Anh tệ lắm em Hai à’.


    Năm Có lơ mơ thấy mình lấy xi măng trắng đắp tượng Hai Thảo trắng toát như màu nước vôi. Hai biến thành nàng tiên thanh khiết thướt tha bay lãngđãng trên bầu trời xanh.
    Năm Có mắt lờ đờ nửa say nửa tỉnh, dụi mắt cay sè sau giấc mộng Nam

    Kha. Thím Năm cầm cây chổi lông gà đuổi ruồi muỗi cho chồng.
    ‘Ngủ gì ngủ dữ vậy, xế trưa rồi coi chừng bị mộc đè à!

    Anh Sáu Hường kêu ông ra tiệm cà phê coi nhà ông Húa bị kiểm kê, tịch biên làm cửa hàng bách hóa kìa’. Chú Năm chống tay ngồi dậy khó khăn. Ờ, bà đưa tôi vài chục tôi ra uống cà phê với anh Sáu Hường luôn thể!
    Năm Có và Sáu Hường là đôi

    bạn thân lâu đời. Nhà cách nhau con kinh, bề ngang chừng sáu thước, hai bên có chuyện rầy rà trong gia đình đều nghe rõ, muốn thăm viếng nhau phải đi vòng qua ngã chợ mất hai mươi phút đi bộ, nên thường hẹn nhau ở quán cà phê cho tiện đôi

    bên. Quán cà phê là chỗ hai người bạn già xả hơi những bực dọc về nhân tình thế thái, đồng bịnh tương lân, câu chuyện không bị mấy mụ vợ ‘thọc gậy bánh xe, mở miệng ưa chỏi bản họng, nghe phát ghét’.

    ***


    Chú Sáu Hường quấn cái khăn rằn cố hữu lửng thửng tới tiệm cà phê,đối diện với tiệm Vĩnh Huê Chành, cẩn thận phủi bụi ghế rồi ngồi quay vô tiệm kêu ‘cà phe ... e!’ Tiệm cà phê này có lợi thế nhờ tọa lạc ở ngã tư đường, hai bên là dãy phố xưa

    nhứt. Phố rộng dài, tường cũ kỷ, dân Tàu đã ở hai đời. Tiệm Vĩnh Huê Chành trước là công xi rượu, sau vựa nước đá, đề bô nước ngọt la ve, nhờ phát đạt nên cất lại cơi thêm hai từng,

    nóc bằng, lầu đúc. Cửa sổ hình bán nguyệt, song sắt, có giếng nước sau nhà. Nhà bị kiểm kê vì mấy mươi năm thiếu thuế cách mạng, mấy đứa con lại vượt biên. Huyện uỷ thương tình chủ tiệm biết điều, dễ thương như mấy chai rượu Martel nên

    cho phép dọn đồ đạc ra, chỉ mượn tạm nhà làm cửa hàng bách hóa.
    Chú Sáu vấn điếu thuốc lá le lưỡi liếm rồi cuốn điếu thuốc, châm lửa phì phà, cố ý ngong ngóng chờ đợi, lý do thầm kín chỉ có chú biết. Chú nhấp ly cà phê đen thơm mùi bắp rang,

    vừa nhìn người nhà tiệm Vĩnh Huê Chành, lăng xăng dọn dẹp.

    Mắt chú Sáu chợt rực sáng, bất giác đứng dậy nhìn trân trối cái tủ chén cũ kỷ để trước lề đường chờ xe ba gác chở đi, chú lẩm bẩm ‘a, cái tủ búp phê, cái gạc măng rê’, mồ hôi đổ như tắm, đầu lắc lư như tợ nhập bà bóng, miệng láp giáp ‘cái bàn, cái ghế, cái tủ!’ - mắt lờ đờ mất thần.

    ***


    Anh thợ mộc dựng cây cột thao lao dựa vô cửa ngữa mặt nhìn lên ngắm nghía, hạ cây cột, lấy cây thước ê ke đo, làm dấu rồi cưa hì hục. Lúc dựng lên thấy thiếu cả tấc tây. Chú cầm cây cột hậm hực chưởi thề, ‘mẹ bà nó, ngó thấy đúng trân, lúc cưa

    thì hụt cả tấc’, vừa mắc cỡ vừa bực tức.
    Buổi sáng, sau khi cà phê cà pháo xong, Sáu Hường mở thùng đồ nghề trịnh trọng làm việc, Sáu Hường tối kỵ việc cho mượn dụng cụ dù viên đá

    mài dao. Chú làm việc kiên nhẫn với cây cưa, búa, bào, đục, hiệu Bờ Rô Sư Tử của Tây. Cây búa bén gọt cam ngọt xớt, dụng cụ được chú tự tay mài tỉ mỉ hàng giờ, bên tai giắt cây viết chì, bên giắt điếu thuốc vấn hút dỡ dang, bàn tay vàng

    màu vẹc ni. Ai đặt khung cửa sổ, chú làm xong mang đến ráp vào khít khao, cánh cửa không bị xệ. Chú thường nói, làm cửa sổ, cửa cái, quan trọng là bản lề tùy theo cửa và cây nặng nhẹ.

    Ðinh cũng vậy, đinh lớn đóng cây mỏng phải khoan trước. Ván tùy loại ván, thao lao, dầu, mềm hơn căm xe, cà chất. Ðống cây ván dài ngắn, dầy mỏng trong xưởng lớn nhỏ đủ loại, được bàn tay khéo léo đóng thành đồ gia dụng. Sáu Hường có thể

    nhắm mắt cầm khúc cây biết đầu nào ngọn, đầu nào gốc, loại gỗ gì. Ai muốn đặt tủ búp phê, gạc măng rê, kích thước tùy thích, chú giao bảo đảm vừa ý. Gỗ sần sùi, khúc mắc, vào tay chú thành trơn láng.
    Trong nhà, Sáu Hường thờ tổ Lỗ Bang, để

    chứng tỏ, chú hay kể chuyện khi rãnh rang ngồi mài cưa mài đục, rằng, lâu rồi chú có đóng cái tủ thờ bằng ván cây sao cho nhà kia, đêm đêm tủ vặn mình ken két như ó diều kêu oang oác dành ăn, mặt cửa tủ toát mồ hôi nhơn nhớt mùi tanh hôi

    của xác chết nhỏ xuống, đọng trên sàn như máu khô, trẻ con trong nhà bị ói mữa, đứa ở quét nhà mỗi ngày lượm được một nùi tóc rối dưới đáy tủ, chủ nhà sợ thợ mộc ếm mới trầu rượu mời Sáu Hường gỡ bùa. Chú đến xem xét mới biết, xưa có

    người tiều phu đi đốn củi, bị heo rừng chém chết. Bầy kên kên mỗ rỉa tử thi, tha thịt đứng trên cây sao dành ăn, miếng thịt rớt trên kẻ lá cành cây biến thành con ma mộc. Cây sao bị đốn xẻ ván đóng tủ, âm hồn con ma mộc vì chết oan uổng còn lẩn

    quẩn trong cái tủ thờ đó. Chú Sáu khuyên chủ nhà nấu mâm cơm cúng, lấy mấy nùi tóc bỏ vô nồi đất, đốt chung với giấy vàng bạc, cầm bó nhang đọc bùa, gõ trên tủ thờ hô:
    ‘Ma mộc, sống khôn thác thiêng, về bãi về gành, về cội về nguồn, về

    rừng xanh nước biếc, ở a ...!’
    Ma mộc sợ uy xuất đi, mỗi năm còn đòi chủ cúng một lần. Nhà xây tường xong, lúc gác đòn dông mới thấy sự quan trọng của thợ mộc. Sáu Hường và chủ nhà thắp nhang - quát đuổi đàn bà tránh xa, sợ đàn bà có

    tháng vô ý đạp trên bóng, tổ vật chết - uy nghi nâng cây đòn hai đầu bịt vải đỏ trừ ma, gác đòn dông đúng giờ khắc, chủ gia làm ăn mới khá. Gia chủ ít dám làm phật lòng thợ mộc, sợ ếm bùa Lỗ Bang, ma quỉ khua chén khua dao, nhà khó ở yên.
    Sáu

    Hường có khả năng trị mộc, cây ván làm sao vào tay đều dùng được tất cả, chú sống với gỗ, với cưa, bào, đục,đẽo, tuy ít học chữ nhưng cũng là nghệ sĩ có óc sáng tạo phong phú cộng thêm sự khéo tay.
    ‘Tôi đưa cây đinh, miếng ván đó, đóng cho

    ngay tôi phục, làm tủ ba chưn đặt đâu đứngđó, không lung lay mới tài. Ðục mấy cái khe lót miếng kiếng soi mặt, hai bên chạm hai con rồng con phượng như long phụng bay múa trên mặt tủ’.
    Ngài Lỗ Bang thương xót con cháu vì vướng nghiệp tổ,

    nghề là nghiệp, sinh nghề tử nghiệp, đôi lúc trưa đứng bóng, tổ về nhập vào Sáu Hường, chú cầm bào, cưa, đục, uốn éo oằn oại thân mình, mắt trừng trừng,đầu lắc lư, giọng khàn khàn:
    ‘Cái này là bào rà, Cái này là bào tách, Cái này là bào xoi’ Bào

    rà ư ứ ự, bào tách ứ ự ư, bào xoi a!
    Xoi, tách, rà, ý a... tam bào ý a, phạt mộc’. Mỗi lần tổ về mắt Sáu Hường đỏ gấc như tôm luộc, hơi rượu bay hừng hực, chú quơ cao cây thước Lổ Bang (thước nách), một thứ dụng cụ thiêng liêng. Sáu Hường

    vỗ đầu, chép miệng than ‘mình già hết thời rồi!’
    Người ta nói sĩ nông công thương, mình đứng hàng thứ ba, bây giờ đứng hàng thứ mấy trong xã hội, ít ai đặt chú làm bàn ghế như trước. Họ mua giường sắt, bàn ghế bằng nhôm, plastic, xếp lại được, nhà

    cửa họ đúc nóc bằng, quên tục lệ gác đòn dông,địa vị quan trọng Sáu Thợ Mộc mất luôn, bùa Lỗ Bang hết linh nghiệm.


    Chú Sáu Hường chợt xót xa luyến tiếc không khí bình tịnh chợ năm xưa, lúc mặt trời mọc đầu kinh, những cánh cửa cây mở rầm rập, tiếng kéo thông hồng ken két nôn nã chuẩn bị buổi chợ mai, bắt đầu sinh hoạt nhộn nhịp huyên náo. Trời chạng

    vạng tối, âm thanh của cây, thanh bình chậm rãi, thay tiếng trống thu không, nhắc nhỡ nhà nhà lên đèn cho gia đình ấm cúng, chừa một cánh cửa mở cho ánh đèn dầu lọt ra ngoài sân đủ sáng cho trẻ con chơi đùa, cho các bà ngồi chuyện trò trên

    chỏng, các ông dập dìu ra quán cà phê, thanh niên tụ tập đàn ca xướng hát.
    Cửa cây xếp gài bằng những cây thông hồng âm thanh mở cũng như đóng, thanh thản, không có gì vội vã, nghe như vỗ về, an lòng và dễ thương làm sao, người ta cũng đâu nỡ

    mạnh tay xô cửa vào giờ nghỉ ngơi.
    Ngày nay, những dàn cửa sắt sơn xanh sơn đỏ, nhìn thấy nhức mắt, kéo nhanh nghe ê răng, điếc tai buổi sáng, nó báo hiệu cơn lo sợ tạm qua, sau tai nạn. Chiều về tiếng cửa sắt tranh nhau cảnh cáo người vào

    nhà, nghiến rít đe dọa, báo hiệu sự mất an ninh chuẩn bị đêm lo âu triền miên, bỏ lại bên ngoài không khí vắng vẻ bơ vơ cho lũ chó hoang sủa trăng, đêm hôm tối trời súng nổ, chúng nó trốn nơi nào. Bà vợ lâu lâu bực bội chửi chồng xa xả, ’làm thợ

    mộc mà cái giường ở nhà lung lay như răng ông già, cột nhà mọt ăn muốn sập, nhà dột cột xiêu’.
    ‘Ôi, cuộc đời vô ơn bạc ngãi’, chú than, ‘ngoài đường cũng như trong nhà’. Chú Sáu nhìn lại hai bàn tay, đếm còn chín ngón, một ngón tay cái bị

    cái búa bén phạt bứt một lóng lúc đẽo cột, đầu gối vướng cây cưa, cái thẹo dài để đời. Chú Sáu buồn bã lắc đầu, lẩm bẩm an phận, ‘tổ còn trác, trách chi cái miệng đàn bà’.

    ***


    Năm Có kéo ghế ngồi bên đánh thức Sáu Hường qua cơn mê ban ngày. Chú Sáu mừng rỡ như Bá Nha gặp Tử Kỳ. ‘Uống cà phe, sao? Anh Năm thấy sao, coi kìa’, chú chỉ về phía tiệm Vĩnh Huê Chành, ‘cái tủ còn y nguyên đóng năm 48, bây giờ nó kéo

    bỏ một góc kia, cái tủ tôi đóng mấy ngày mới rồi, phần dưới để tô chén, phần trên làm bàn ăn cơm, nhứt cử lưỡng tiện. Cái nhà này chủ ỷ giàu, không tin phong thủy, bỏ cây đòn dông, cất nóc bằng, cất không có cửa sau, tiền vô dội ra như bị bịnh táo bón,ăn rồi ói, bị tịch biên phải rồi, nhà hướng tán gia bại sản’.

    Năm Có gật đầu đồng ý, cả hai uể oải sánh vai ra khỏi tiệm, khập khiễng ngã vào nhau. Hai người thấy cần nương tựa nưng đỡ tinh thần nhau để sống, bớt lẻ loi sau thời niên thiếu long đong làm việc nhọc nhằn như con ong thợ, xây tổ mà không

    được hút mật.
    Hết cả dãy phố bị nhà nước mượn dần, hai người thợ già dẫn nhau đi xem, cơ hội cà phê tâm sự, từng tuổi này còn tranh đua gì. Chủ nhà bị đuổi , tiếc của đã đành, Năm Có và Sáu Hường tiếc công mình mấy mươi năm xây dựng, kẻ

    tiếc của, người tiếc công.
    Nhà cao cửa rộng bị tịch biên xong, đến những căn nhà lá xóm kinh bị dời đi theo chương trình thủy lợi gì gì đó. Chú Năm Có và Sáu Hường may mắn dựng lại hai căn chòi tranh chung vách, lợp tạm lá dừa, mưa dột nước

    tràn lênh láng. Tuy xa chợ, đường đất lầy lội khó đi, nhưng hai người rất toại nguyện được sống gần nhau trong cơn hoạn nạn, bà con xa không bằng láng giềng gần, chiều chiều ngồi chồm hổm, kể chuyện cái bai, cái cưa, cái bào, cây cột xây kiểu này,

    cái tủ đóng kiểu kia.
    Mỗi lần nghe nhà ai bị tịch biên, tim hai người bị nhói ít nhiều, chắc lưỡi tới lui, tiếc hùi hụi như người mất của, ‘ừ, nhà tôi xây đó, tường xây gạch thẻ chắc chắn’.

    Hai bà vợ hiền thục tới đâu nghe hoài cũng chán. Thím Năm đang thổi lửa nấu cơm, củi để ngoài trời bị mưa ướt nên khói bay mịt mù, cay chảy nước mắt, bực quá lên tiếng, ‘nữa, cũng cái giọng đó nữa, cái nhà nào cũng do ông xây cất hết, vợ con

    thì cất nhà chòi cho ở, bây giờ giỏi xây hai cái kim tỉnh để dành đó’.
    Chú Năm Có cười vả lã, ‘gạch hồ có đâu mà xây?’ Thím Sáu Hường nhà bên được dịp, nói xéo chồng, vừa cho hàng xóm nghe: ‘Nè, ông thợ mộc, rãnh đóng giùm hai cái thọ đi

    Chú Sáu Hường ngáp dài,’cây ván đâu mà đóng’
    Tiếng chú Năm Có bên nhà vọng qua, ‘thôi anh Sáu, mình ra bờ kinh kéo vó coi có mớ cá sặc nào không, cá sặc rằn làm khô nhậu bắt dữ a!’ Hai ông bạn già lụm cụm xuống bờ kinh ngồi bệt xuống

    cầu ván. Chú Sáu lè nhè,
    ‘Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc lẽo, gập ghềnh khó đi’. Hai mái đầu bạc phơ gật gù mơ tưởng mình là Khương Tử Nha ngồi câu cá chờ thời, mỗi lần kéo vó lên, đáy vó chỉ có vài cọng rong xanh, vài cánh bèo, một ý

    nghĩ thoáng qua óc, chú Năm thẩn thờ, ‘anh Sáu à, vợ tôi nói phải anh à, mình già rồi, trước sau gì cũng đi theo ông bà ông vãi, phải như hồi còn trẻ, biết vậy, mua đá xanh xây sẵn kim tỉnh cho mình. Kim tỉnh xây bằng đá xanh chắc không sợ nước,

    không mục, đời đời không sập’.
    Chú Sáu hưởng ứng, ‘ừ, anh nói tôi mới nhớ, phải biết hồi đó cây ván còn rẽ, tôi đóng cái thọ bằng cây gõ, cây dên dên xanh, dòng thứ dên dên xanh nằm dưới đất cả mấy trăm năm không mục, xương cốt còn

    nguyên. Bây giờ làm sao kiếm thứ cây đó’.
    Cả hai dựa vai nhau, mặt buồn thiu, ủ rũ. Trên bờ đê, đám lau sậy cúiđầu yên lặng, xì xào tâm sự - chia xớt nỗi xót xa. ‘Ông ơi, lên xúc cám cho heo ăn dùm’, tiếng thím Năm gọi chồng. Bên kia nhà, tiếng

    thím Sáu ơi ới, ‘ông ơi, lên bửa giùm đống củi mai có nắng phơi’.
    Hai ông già nhìn nhau, chia xẻ chung một ý nghĩ, ‘thợ hồ mà bắt đi xúc cám cho heo ăn, thợ mộc khéo như anh mà bả kêu đi bửa củi’. Chú Năm lép nhép ‘giết ruồi mà mượn tới

    gươm vàng’.
    Chiều về trời bảng lảng những đám mây vàng ánh như màu lúa chín, đàn chim học trò lũ lượt bay về núi, xa xa vài con chim thi rớt mỏi mệt vỗ cánh bay theo. Trên bờ dọc

    theo con kinh hai ông già lọm khọm dắt nhau, chân dò dẫm,đi ngữa nghiêng như hai người say rượu.
    Chú Sáu an ủi nói theo tiếng thở ra thật dài, ‘đổi đời rồi anh Năm à, tới hai con gà mái nhà mình còn biết gáy, đổi đời thiệt rồi anh!’



    CHÚ THÍCH:
    - Cái sự vong như cái sự tồn: mất cũng như còn.
    - Ghẻ chùm bao: loại ghẻ làm da sần sùi, màu xám giống mụt cóc.
    - Chuối cau mẳn: loại chuối cau nhỏ, bằng ngón tay cái là lớn nhứt.
    - Bông dụ: một trò chơi cờ bạc, cái bông dụ có sáu mặt, từ một đến sáu, giống trò chơi đổ xí ngầu lác.
    - Trái hồng quân: nhỏ bằng đầu ngón tay cái,ăn ngọt, màu huyết sậm.
    - Vải ú: loại vải thô. - Thị thiềng (động từ): phao tin đồn.
    - Gươm lục yểm
    : loại gươm trừ tà trong truyện cổ Tàu.
    - Ðưn
    : loại lá dùng lợp nhà, mát nhưng mau dột, dễ cháy.
    - Mộc đè: ngủ buổi xế khó dậy.
    - Ðề bô (depot):
    đại lý, hoặc kho.
    - Thao lao, dầu, căm xe, cà chất:
    tên các loại gỗ.
    - Phạt mộc:
    chặt gỗ.
    - Kim tỉnh:
    giếng vàng, cái huyệt chôn.
    - Cái thọ: quan tài.
    - Cây thông hồng
    : nhỏ hơn ngón tay út, dài chừng hơn một thước, bằng kim loại, xỏ vào cái khoen, dùng để gài cửa.
    - Mỗi người tốn ba thước củi
    : dân Miên khi chết, họ thiêu, tốn khoảng ba mét củi.
    - Gà mái biết gáy
    :đàn bà cầm quyền.

    Gailes, Australia, 6/1989


    Lưu Nhơn Nghĩa
    thatsonchaudoc
    sigpic

    Comment


    • #17
      Như Cánh Chuồn Chuồn

      Mật ơi!
      ______________________________________________


      * Tặng Trương Văn Tấn (Scheldegg)

      Tỉnh tôi trú ngụ là một hòn đảo xa xôi, ít ai nghe tiếng, ở Nam Bán Cầu. Tiếng là thủ đô, nhờ vị trí giao thông thuận lợi, dân số hơn trăm ngàn sống rải rác trên đồi, lưng chừng đồi, thung lũng dọc theo bờ biển.

      Bốn mùa gió biển Nam Thái Bình Dương thổi về như bão, thành phố có biệt danh ‘Windy Wellington’.

      Nếp sống dân tứ xứ phẳng lặng và hiền hòa, cuối tuần, phố xá vắng vẻ, khó tìm người ngoài đường, quán rượu mở cửa từ 10 giờ sáng tới 10:30 tối, chủ nhựt đóng cửa, dịp lễ cuối tuần càng hoang vắng hơn. Cuối năm đó, vào dịp Giáng Sinh, ai cũng về quê đoàn tụ gia đình, ăn Tết Dương lịch.

      Hai vợ chồng Ấn Ðộ, vợ gốc Anh, mướn chung nhà, gấu ó nhau ỏm tỏi, vợ mắng chồng say rượu, chồng than thở bên vợ kỳ thị màu da.

      Cải nhau chán rồi cũng khăn gói về quê vợ, bỏ tôi một mình nằm co ro buồn tênh trong căn nhà rộng thênh thang, trống trải.

      Quán rượu vắng bạn bè, uống một mình, lúc ra về nơm nớp lo sợ đám công lộ hăm he rình rập, muốn đọc sách thì lại thiếu kiên nhẫn. Túng quẩn, tôi đến nhà cô bạn gốc Ái Nhỉ Lan, xin theo cô về quê ăn tết.

      Cô nghiêm trang trả lời: ‘Không, anh chàng Á châu luộm thuộm kia, tôi thấy anh cả tháng chưa giặt tấm vải trải giường ngủ, cha mẹ tôi khó chia sẻ cái thói quen không lấy gì đáng khuyến khích đó’. ‘Tốt hơn là anh đừng quấy rầy tôi!’

      Vừa nói, nàng nguây nguẩy vào bếp. Tôi ngơ ngác hỏi vói theo, bây giờ mới thấy vô duyên: ‘Ờ ! Vậy là người ta phải giặt vải trải giường sao?’ Tôi tiu nghỉu về nhà, ra sau vườn nằm cô đơn dưới tàng cây hạt dẻ, nhìn lên thảm trời xanh trong.

      Bên đồi kia, bãi biển vắng, hải âu bay lượn tìm cá biển. Bên vườn nhà bên cạnh, mấy con chim ‘TUI’ đậu trên cành hoa Kowhai, hoa hình cái chuông màu đỏ như phượng. Con chim Tui hút nhụy hoa Kowhai, say nhụy, bay vụt lên say sưa hót cao vút, vỡ không gian trong vắt.

      Tiếng nhạc dập dồn lẫn tiếng cười rộn rã từ nhà hàng xóm bên đường vọng qua, ai cũng lo hưởng hạnh phúc vội vã. Cơn ngột ngạt thần kinh đột ngột dựng tôi dậy, phút giây ấy nếu có người bạn bên cạnh an ủi, tâm sự, pha trò, chắc dễ chịu lắm.

      Tôi vội vã thu xếp ít hành trang vào túi đeo lưng, đặt lên xe gắn máy, chuẩn bị đi xa, xa cái không khí chán ngấy này. Cô bạn láng giềng giở cửa sổ lên, hỏi: ‘Anh sắp làm cuộc hành trình dài thú vị hả?’ Tôi đùa bỡn:

      ‘Tôi đi tìm hạnh phúc, cô thích đi tìm hạnh phúc không?’ - Ở đâu? Cô tò mò hỏi. - Trên yên sau xe tôi đây! Tới lượt cổ pha trò: ‘Cám ơn, tôi muốn sống tới năm 2050, anh hãy xuống địa ngục tìm hạnh phúc với quỷ sứ!’ Cô hạ sầm cửa sổ xuống. Lên xe mà chưa biết đi đâu, chỉ có hai hướng duy nhất.

      Về nam phải qua phà mất 4 tiếng, chưa biết giờ nào có phà, chỉ còn hướng bắc, chạy quốc lộ phía đông tránh mặt trời xế trưa.

      Cuộc hành trình kéo dài gần hai tiếng, thèm tách cà phê đen cho thỏa mãn cơn ghiền. Các quán cà phê dọc theo quốc lộ hoàn toàn đóng cửa vào dịp lễ, tôi bắt đầu ngất ngưỡng như người ghiền á phiện.

      Bên trái, biển xanh bao la, hải đảo xanh non cây cỏ, bên phải đồi xanh cỏ, đồi núi hùng vĩ cũng màu xanh lấm tấm điểm những con trừu trắng gặm cỏ, tôi thưởng thức nếp thanh bình, ngày như đêm, không lo mìn bẫy, hầm chông mã tấu, dù muốn

      tìm phút lo âu cũng không có, xe hư, sẽ có người dừng lại sửa hộ (đúng luật xa lộ), người mệt, có thể ghé bất cứ nông trại nào tìm chỗ nghỉ ngơi, được đãi ăn sáng, được mời ở lại.

      Khi hứng chí, khoảng đường vắng, siết ga, xe vọt chồm lên, thỏa tính ngang tàng say mê tốc độ.

      Gặp nơi nào phong cảnh hữu tình, dừng lại, xuống khe suối dọc theo vách núi cao sừng sững, khoát nước, vớt cụm bèo xanh mơn mởn, tâm trí thảnh thơi tưởng mình đang đứng trước con rạch cùng ở quê nhà. Nắng hè bảng lảng trên đồi xanh, lúc

      nhảy nhót trên dốc thoai thoải, trong óc tôi lởn vởn tách cà phê nóng đen bốc hơi thơm thoang thoảng, xứ này còn quá nhiều khuyết điểm cần hoàn chỉnh cấp thời, gần trăm đoạn đường mà không thỏa mãn cho tôi được tách cà phê đen.

      Cơn ghiền đưa tôi về không khí quán cà phê ở VN, ly cà phê đen đục, rẻ tiền, lợn cợn cặn cáu, nóng phỏng lưỡi, nhấp một ngụm thấm qua vị giác lên khứu giác, xuống ấm cả phổi tim, thơ thới quên nghèo.

      Óc tưởng tượng chưa đủ mạnh dằn cơn ghiền hành hạ, nước mắt tuôn từng hồi, gió phần phật khó xua đuổi cơn buồn ngủ lập lờ. Ði mãi mới tìm được quán bên đường thiên lý, sân quán vắng người, chừng chục chiếc xe Jeep và mấy con ngựa cao lớn yên cương sẵn đứng cựa quậy.

      Khách là những chủ nông trại chăn nuôi quanh vùng. Trong quán chưa đến hai mươi người. Tôi vừa bước vào, quán đang ồn chợt im lặng, họ đặt ly xuống bàn, trố mắt ngạc nhiên nhìn tôi.

      Tôi tháo bao tay, áo quần da và nón mô tô đặt đầy trên ghế bành, đi thẳng đến quày rượu, tìm vị trí của bình nấu nước pha cà phê, lại thất vọng. Tôi hầm hầm gọi một bình nước chanh rót ra ly uống.

      Tiếng ồ đồng loạt làm tôi giật mình. Họ cầm ly đi về phía tôi, những con gấu đủ loại, vạm vỡ xoay sở chậm chạp, thở phì phò, ngực lông lá như dã nhân, nói chuyện trong cổ họng.

      Tôi uống vừa cạn bình nước chanh, một anh nông dân, râu tóc che hết cả mặt, trừ đôi mắt, phục phịch di chuyển cái thân nặng nề, xô vai tôi. Trọng lượng và nội lực cánh tay hắn đủ xô tôi ngã bật vô tường. Hắn cười nói huênh hoang:

      ‘Ê, bạn ở đâu tới?’ Mùi beer, thịt trừu nồng nực, giọng nói ồm ộp, ‘Ê, người bạn hoạn quan đẩm máu kia, (Hey, man, you bloody eunuch) ở quán rượu không có lệ uống nước chanh nghe chưa?

      - Vậy sao họ bán nước chanh? Tôi hỏi lại. - Nước chanh để pha với rượu mạnh! - Tôi khát nước. Tôi trả lời. - Khát nước thì uống beer! Hắn lè nhè, ‘Bạn biết không, tụi tui thích bạn lắm, dù tụi tui chửi thề.

      Còn cái bọn dân biểu đảng lao động nghe, nó nói giỏi hơn nó làm, nó gạt gẫm người ta, rồi giải thích sai lầm cũng hợp lý. Ðảng đó vay mượn ngân hàng ngoại quốc cả mấy tỉ dollars để tài trợ cho bọn thất nghiệp và bọn công nhân, công chức lười biếng.

      Bọn đó lý luận là nông dân chúng tôi lợi tức cao, phải đánh thuế cao hơn cho hợp lý’. - ‘Này, anh đừng có bôi bác’ - tôi góp ý, ‘nông dân các anh có làm việc cực khổ dơ bẩn như vậy ở hãng xưởng không? Sáng 9 giờ các anh tụ tập quán rượu tới chiều, tự do muốn làm gì thì làm!’

      Hắn dằn ly beer xuống bàn, phân bua, ‘Sáng 5 giờ tôi dậy, lo cho bầy chó ăn, rồi mở chuồng, thả chó lùa trừu lên đồi, vừa gắn máy vắt sữa bò, cho bò ăn tới 9 giờ sáng, tắt máy vắt sữa, đi rãi phân v.v... cắt cỏ cuốn lại phơi, dành cho mùa đông. Bạn biết, hôm nay lễ Giáng Sinh, những con bò tôi vẫn cho sữa, vẫn ăn cỏ.

      Cái bọn Quốc hội thật vô dụng, kỳ bầu cử tới tôi bầu cho đảng Bảo thủ. Càng nói hắn càng hăng tiết, bạn bè chung quanh hổ trợ bằng những tràng cười hô hố. Hắn lại tò mò hỏi: - ‘Xứ anh nông dân theo đảng nào?’

      Tôi ấp úng, ‘tùy theo họ!’ - ‘Lượng thịt và lông trừu, thịt bò xứ anh xuất cảng đi đâu?’ - ‘Dạ xứ tôi thuộc khí hậu nhiệt đới, ít nuôi trừu!’ Hắn tròn xoe mắt, - ‘Thế thực phẩm chánh là gì?’ - ‘Gạo, thịt cá và rau cải!’ - ‘Có ăn thịt rắn không?’ Hắn nheo mắt.

      - ‘Dạ không!’ - ‘Lượng sản xuất gạo trên mỗi mẫu Anh là bao nhiêu?’ Hắn hỏi dồn. - ‘Dạ tôi cũng không nhớ’. Hắn lộ vẻ bực mình, ‘Hỏi cái gì anh cũng không biết, hay anh không ưa cuộc đối thoại với bọn tôi?’ ‘Uống beer đi!’

      - ‘Dạ không, cám ơn anh, tôi phải lái xe đi xa, mùa Giáng Sinh, nhân viên công lộ thường xuyên cảnh cáo là họ sẽ không nhân nhượng bất cứ ai lái xe trong máu chứa quá số lượng qui định nồng độ của chất lên men’.

      Hắn chửi thề, ‘Bọn công lộ lãnh lương để phát giấy phạt. Bạn ở xứ này lâu chưa?’ - ‘Dạ, được hơn 5 năm!’ - ‘Bạn thích theo tôn giáo bọn tôi chưa?’ Hắn nhướng mắt hóm hỉnh.

      - ‘Dạ, tôn giáo nào?’ - ‘Ở xứ này có ba thứ tôn giáo thông dụng nhất, bia, dã cầu và cá ngựa. Bạn chọn thứ nào, chọn cả ba cũng không sao!’ Hắn lại đưa ly bia ngang mày, giả vờ làm phép thánh.

      Tôi chưa bắt kịp trò đùa nên thờ ơ trả lời: ‘Dạ chưa biết!’ Mãy người đứng gần thấy tôi ngây ngô, họ phá lên cười thích thú, cười bằng miệng, bằng râu, bằng bụng phệ chứa nước bia và mở trừu.

      Quán càng nhộn nhịp, họ bàn tán sôi nổi về giá thịt trừu xuất cảng qua Trung đông đang có chiến tranh Iran - Iraq bị ngưng trệ, bọn Nhựt bản đánh cá trong vùng biển này mà do dự chưa chịu nhập cảng thịt bò và len đủ số lượng như đã thỏa hiệp ký kết, số thực phẩm sữa bị thặng dư, bọn công đoàn thay nhau đình công.

      Họ kết án chính phủ, quốc hội bất lực, làm quốc gia mất thăng bằng cán cân tài chánh, nông dân bị bớt tài trợ ... Một lão già ục ịch, bô bô, đưa ngón tay cái lên, ‘Ta mà làm thủ tướng hả, tỷ số thất nghiệp là zéro; bọn quốc hội nó bận việc ngủ gục’.

      Những nông dân đều là những chính trị gia, kinh tế gia lỗi lạc, tiếc là họ lo bận bịu cho bầy trừu và vắt sữa bò, chưa có dịp mang sở trường ra thi thố, nên hàng năm có hàng chục ngàn trừu già bị giết bỏ, cả triệu lít sữa đổ xuống suối vì thị trường ối đọng.

      Họ dằn cơn bực dọc bằng ly bia lạnh, đầu run run gật gật.

      Tiếng cười nói rộn ràng bị giọng nói lớn và uy quyền của anh chủ quán làm giảm bớt cường độ, đèn tắt một góc phòng.

      ‘Cám ơn quý vị, cám ơn quý vị, đã mười giờ rưỡi rồi, hẹn ngày mai, tạm biệt quý vị, chúc quý vị ngủ ngon’. Mọi người nốc vội ngụm bia cuối cùng, lảo đảo đi ra, kẻ mở máy xe, người lên ngựa về nông trại, rải rác ở các thung lũng chung quanh.

      Tôi cũng phải lên xe, gió đêm mát mẻ thổi từ biển lồng lộng, xe chao bềnh bồng, cơn mỏi mệt đè trên mí mắt. Gió lồng biển Nam Thái Bình Dương bao la ánh sao Nam cực thành một vùng lấp lánh kim cương, ai có người yêu cứ nhờ bầy chim hải âu ra biển nhặt về làm quà cưới.

      Càng lúc tôi càng thoát khỏi sự lúng túng trong xã hội quá nhiều ước lệ và chi tiết, quá tầm hiểu biết của khối óc khô héo như thỏi đất sét bị cơn buồn ngủ đè nặng.

      Ngang qua một làng nhỏ bên quốc lộ, đèn lấp lánh trên những cây thông Giáng Sinh, trước cửa một căn nhà, một đôi vợ chồng già ngồi tựa bên nhau âu yếm. Tôi vừa xuống xe, ông bà bước ra chào niềm nở.

      Tôi hỏi chỗ nghỉ qua đêm, ông bà vồn vã mời vào nhà. Bà già giục giã, ‘Cởi nón và áo, vào uống tách cà phê cho ấm đi chú em’.

      Ông cụ lui cui đẩy xe vào nhà xe. Tôi quen với lòng hiếu khách ở đây nên tự nhiên bước vào phòng khách. Sau khi tự giới thiệu tên họ, ông hỏi, ‘Chú em uống trà hay cà phê’.

      Cơn ghiền cà phê làm giọng nói tôi run rẩy: - ‘Dạ, cho tôi xin tách cà phê đen’. Ông thân mật hỏi, ‘Chú em ăn tối chưa?’ - ‘Dạ, cám ơn ông, tôi chỉ thèm cà phê’. Mùi cà phê thơm tuyệt diệu, tôi tỉnh táo, bắt đầu hàn huyên.

      Ông nói, ‘Chú em hãy xem như ở nhà, nhà này dư hai phòng, tôi giữ nhà cho con gái tôi đi du lịch xa’. Thích thú là tôi khám phá ông bà cũng cư ngụ ở tỉnh tôi đang ở cách nhau không xa.

      Cuộc đối thoại được kéo dài nhờ bình cà phê mới, câu chuyện tiếp tục đến gần nửa đêm, ông Buchenan dẫn tôi vào phòng ngủ, giường nệm trắng, tôi sợ sạch sẽ và ngăn nắp, nên lấy túi ngủ nằm trên sàn nhà, như tên chăn trừu ngủ trong lâu đài.

      Sáng hôm sau, tôi dậy khá sớm, vào phòng khách đã thấy ông Buchenan ăn mặc đàng hoàng như công chức sắp sửa đi làm.

      Ông vào bếp dọn bàn, chiên trứng, nướng bánh mì chuẩn bị bữa điểm tâm. Bà đã dậy nhưng còn trang điểm. Tấm trải bàn màu xanh nhạt, bốn góc thêu những đóa hoa hồng.

      Trên bàn bày ba bộ dĩa và dao nỉa bạc, bên cạnh ba cái khăn hồng xếp thành ba đóa hoa xinh xắn. Trong mỗi dĩa có hai trứng chiên thật khéo và mấy miếng thịt heo muối chiên, cuốn gọn, xếp thật đẹp mắt, không một giọt mỡ dư thừa nào đọng trong dĩa.

      Giữa bàn là một bình hoa tươi mát mới hái trong vườn, ông chủ sửa lại nhánh hoa, bưng bình cà phê, bình sữa, lọ đường để sẵn, mời tôi ngồi.

      Ông trịnh trọng ngồi vào bàn, sửa kiếng và cà vạt, hai tay chống trên bàn chờ đợi. Bà đã trang điểm xong, vừa bước ra khỏi phòng, ông Buchanan, kéo ghế nhẹ nhàng cho bà, vừa cười âu yếm, ‘Mừng em buổi sáng, Mật ơi, em dùng tách trà nhá!’ (Morning, Honey, Would you like a cup of tea?).

      Chúng tôi lại chào nhau, bà nũng nịu ngồi bên ông bắt đầu ăn sáng, gật đầu nhè nhẹ với ông, ‘Món heo muối chiên (bacon) anh chiên ‘thật là’ tuyệt diệu, cưng ơi, cưng là người chiên trứng khéo nhất thế giới, phải không chàng thanh niên?’, bà quay sang tôi hỏi.

      - ‘Dạ, thật là tuyệt diệu, chưa bao giờ tôi có bữa ăn sáng ngon như hôm nay!’ Tôi nghĩ thầm, ‘thịt heo muối mặn thấy bà nội’.

      Sau bữa ăn sáng, ông bà dẫn tôi đi dạo vườn hoa sau nhà, tỉ mỉ giảng cho tôi đặc tính các loài hoa, ông nâng niu ve vuốt những đóa hoa xương rồng xinh xắn.

      Mắt nhìn, tai nghe, nhưng đầu óc tôi nặng chĩu những lo âu ngày mai, nhớ thương cái quá khứ ở quê cũ, kìa, bông súng nằm trên mặt nước thanh bình, thân cây nằm cuốn dưới mặt nước mát.

      Tôi không góp ý được gì trong câu chuyện ông bà, tôi đi tìm hạnh phúc, thấy được hạnh phúc của người, họ say sưa hưởng hạnh phúc, riêng tôi đắm chìm trong cơn mơ ban ngày.

      Ông bà dắt tay nhau đi chầm chậm lên đồi thoai thoải, trò chuyện, tán tĩnh âu yếm như họ còn ở tuổi thanh xuân.

      Ông nhắc khéo bà, ‘Mật ơi, em còn nhớ một buổi đầu mình dắt nhau đi dạo anh hái hoa heather giắt trên tóc vàng óng ả của em đó! Bà gật đầu nhè nhẹ, đôi mắt xanh trong suốt, như chứa chan nước hồ xanh, ‘Em nhớ, vì thế nên em đặt tên đứa con gái lớn mình là Heather đó’.

      Ông tiếp tục, ‘Mật ơi! Em có trí nhớ tốt quá, Heather, con gái mình đẹp như em lúc còn trẻ phải không?’

      Họ ngồi xuống thảm cỏ, tự nhiên, ông vuốt ve tóc bà, bà dựa đầu trên vai ông. Cơn nắng sáng ấm áp, bà mặc y trang màu trắng tinh khiết, nón vành rộng, cổ đeo chuỗi ngọc trai, gương mặt đầy đặn, phúc hậu, những nét nhăn tuổi già không che hết nét đẹp thời hoa niên.

      Ông mặc y phục trắng, cà vạt nâu sẫm như lúc ông đi đánh Golf, đôi mắt tinh anh, thân thể còn vững chải. Hai vợ chồng già như đôi tiên ông tiên bà đang hưởng phong vị nơi non bồng nước nhược.

      Ông bà tế nhị gián tiếp tìm hiểu hoàn cảnh tôi, ý muốn giúp đỡ nếu có thể.

      ***

      Dĩa thịt trừu và khoai tây tán được ông bà dọn lên thơm nghi ngút. Cơn giông bất chợt dai dẳng góp phần ấm cúng cho bữa ăn tối bên ngọn nến trắng. Ông Buchanan khen vợ:

      ‘Ừ, món salad lần nào em làm cũng dòn và tươi, món trừu hầm, ăn mãi mà vẫn thích!’ Tôi cũng bắt chước khen lấy lòng bà:

      ‘Ngon tuyệt, thưa bà!’ Tôi hối hận đã khiếm nhã, khen cho có lệ, thật ra bữa ăn tối hôm đó với không khí đầm ấm, thân tình, mới gặp lần đầu mà được đối đãi như bạn thâm giao, còn từ ngữ nào hay hơn chữ ‘Tuyệt diệu’ để diễn tả? Sau đó, bà mang ra ba miếng bánh ngọt tráng miệng.

      Ông suýt xoa khen: ‘Eo ôi! Cái bánh này vợ tôi làm với cả tấm lòng’ (with loving care). Miếng bánh bơ, sữa, chocolate, trên mặt bánh cái bông hồng nhỏ bằng kem trông rất mỹ thuật, chứa toàn chất bổ dưỡng.

      Vừa ăn vừa nhớ vẩn vơ, nhớ câu ‘muối mặn gừng cay’, nhớ ‘dưa leo chấm với cá kèo, cha mẹ tôi nghèo tôi học Normal’.

      Bên ngoài mưa vần vũ, lành lạnh, sau bữa ăn tối, chúng tôi ngồi trong phòng khách uống cà phê. Ông bà khuyên tôi cứ ở lại chơi, tôi ngồi bơ phờ nhìn qua khung cửa, nước mưa chảy từng dòng ngoằn ngoèo như nước mắt.

      Ông bà nhạy cảm, thấy tôi lơ đãng, bắt đầu lả vả câu chuyện. Ðêm càng khuya, câu chuyện càng lý thú êm đềm, như liều thuốc chửa bệnh tâm thần hiệu nghiệm.

      Câu chuyện bắt đầu bằng bức ảnh phóng đại trên tường, một thiếu nữ độ 16 tuổi đẹp như nàng tiên thanh khiết, tôi tưởng đó là bức ảnh con bà, nhìn kỹ mới biết người trong ảnh là chính bà.

      Ông vuốt tóc bà, mỉm cười tình tứ, hôn nhẹ trên trán bà. Bà bắt đầu kể chuyện, giọng bà ấm áp dễ cảm người nghe chuyện. ‘Chú em à, ngày xưa còn bé, tôi được cha mẹ nuông chiều vì tôi là con một.

      Thời đi học tôi thích vẽ tranh thủy mạc. Năm tôi được giải thưởng toàn trường, giáo sư hội họa khuyến khích tôi thành nghệ sĩ. Nhưng cha tôi muốn tôi học xong làm việc ở quày bán vé xe lửa, thế chỗ ông, vừa vặn lúc ông ấy về hưu.

      Năm tôi học lớp 10, tranh tôi được chọn để triển lãm hội họa tỉnh nhà, bán gây quỹ cho ban nghệ thuật trường tôi đang học.

      Hôm ấy vào ngày làm việc, nên vắng người đến xem tranh, có một thanh niên đẹp trai vào phòng triển lãm.

      Chàng xem từng bức tranh vẽ, vẻ mặt say sưa thưởng ngoạn, quên mất chung quanh, có vẻ bực tức vì tranh nào cũng có người đặt mua cả’. Bà kể đến đây, ông Buchanan không dằn được, xen vào góp lời với bà:

      ‘Ừ, mật ơi! Bức tranh tỉnh vật mấy trái đào trong dĩa đó, nhìn những trái đào chín mọng, lưỡi anh thấy ngọt lịm vị của trái đào, em có để ý không?’ ‘Có chứ’, bà nũng nịu. ‘À, bức tranh em chỉ vẽ một phần của cành cây, chim oanh đậu trên cành hoa, mật ơi!

      Anh ngắm tranh, anh nghe tiếng chim oanh véo von, mũi anh thưởng thức hương hoa tràn ngập bầu không khí.

      Mật ơi! Bức tranh đồng cỏ đó, buổi xế trưa, ánh nắng hanh vàng nhuộm đồi cỏ xanh mơn mởn, một phần đồng cỏ bị đồi che ánh nắng, anh thấy bóng nắng ngã dần về phía tây, anh sợ mặt trời sẽ khuất sau đồi, mấy con trừu tung tăng chạy trên đồi.

      Mật ơi, bức tranh linh động chan hòa hạnh phúc phải không em?’ ‘À, mật ơi! Bức tranh ‘vách núi đá’ đó, sóng vỗ vào ghềnh đá lởm chởm của bãi biển Hokitika, tạo cho anh cảm giác rờn rợn khi đi tắm biển vùng đó vào ngày biển động.

      Anh thưởng thức từng bức tranh và cuối cùng, mật ơi, em là bức tranh đứng bên bức tranh cuối cùng đẹp tuyệt vời làm anh ngây ngất!’

      Nghe ông bà Buchanan kể chuyện tình cảm, tôi khen thầm, ối ôi ông bà kể chuyện và tán tĩnh nhau hay quá. Bà sửa lại thế ngồi, hăng hái tiếp tục, ‘Ðộ mấy ngày sau cuộc triển lãm, sau buổi cơm tối, cha tôi gọi tôi vào phòng, vẻ mặt nghiêm trang và lo lắng, đưa cho tôi một gói quà, nói:

      ‘Nầy con, nghe cha nói. Buổi trưa này, có một thanh niên tên Buchanan tới nhờ cha trao lại cho con một món quà. Nầy con, nếu con thích tiếp tục tìm hiểu, con mới được mở quà, vì chàng thanh niên đó rất nghiêm trang.’

      Tôi trả lời cha tôi, sau phút ngập ngừng: ‘Dạ, con muốn tìm hiểu.’ Từ đó mỗi chiều thứ sáu, chàng thanh niên tên Alex Buchanan quá giang xe đều đặn tới thăm tôi suốt quảng đường gần 80 km.

      Cha mẹ tôi rất vừa ý tư cách chàng. ‘À, mật ơi’ ông tiếp chuyện cho bà nghỉ lấy hứng, có hôm anh quá giang xe, vì mệt nên ngủ quên trên xe, lại quá giang trở lại, đêm đó gần 7 giờ đêm mới đến, em lo âu giận hờn, em nhớ không?’ Bà lim dim,


      ‘Chàng chiều chuộng tôi, tôi giận chàng về sự chiều chuộng quá độ.

      Chàng học xong, xin đổi về tỉnh tôi làm thư ký Bưu điện và chú em ơi, 42 năm hạnh phúc!’ Giọng bà chân thành, cảm động như chính bà đang sống đang thở cái không khí hạnh phúc trong veo, không gợn một thoáng buồn ...

      Ông vuốt ve bà, ‘Mật ơi, mấy đứa con gái mình đều có gia đình hạnh phúc, mấy đứa cháu mình, bé Judith, bé Patricia, bé Jason đều bụ bẩm dễ thương quá!’ Bình cà phê mới làm đậm đà câu chuyện, tôi ngồi nghe, mơ ước được cuộc đời suông sẽ như đôi vợ chồng già này, tuổi cao mà còn khỏe mạnh, thong dong hưởng nhàn trong quốc gia thanh bình.

      Tôi vẫn nhìn những bức tranh bà ký tên treo trên tường. Bức tranh nào cũng ngập tràn màu sắc hạnh phúc. Tâm hồn nghệ sĩ bà pha với màu sắc, bắt vệt mây trắng trên bầu trời xanh, thả mây vào bay trong tranh, mây vẫn còn bay chưa chịu dừng trong tranh bà, nhờ ngọn gió nhẹ qua cánh đồng cỏ.

      Bức tranh ‘cánh đồng lúa mì’ vào cuối thu, màu lúa vàng ngập đồng, tôi liên tưởng tới những ổ bánh mì nóng dòn, một đời no ấm dư thừa. Chất liệu trong tranh bà là cỏ xanh, hoa thắm, sữa ngọt.

      Càng ngắm tranh bà, người thưởng ngoạn dù buồn bực, cũng được chia xẻ ít nhiều hạnh phúc. ‘Anh có thích hội họa không?’ Bà cụ hỏi. ‘Thưa bà , tôi có học vẽ tranh thủy mạc như môn học chỉ mới bắt đầu học vẽ và chấm dứt sau khóa học’.

      - ‘À, hay quá, vậy anh có triển lãm tranh ở đâu?’ Mắt bà sáng lên, chực sẵn sàng thảo luận về môn hội họa. Tôi nửa đùa nửa thật, trả lời: ‘Thưa bà, tâm hồn bà trong sáng, may mắn hạnh phúc suốt đời, tranh bà phản ảnh sự thanh thản, màu sắc tươi non.

      Còn tôi chưa làm chủ được màu sắc và cọ vẽ, đề tài nghèo nàn nên bối cảnh tranh tôi giống màu trời xám của mùa đông, đại khái chiếc nón sắt bị lủng nằm trong vườn chuối, sợi kẽm gai còn sót lại sau khi trại quân dời đi.’ Bà tỏ ra rất quan tâm, ‘Sao buồn quá vậy chú em?’

      ‘Thưa bà, trong đầu tôi quanh quẩn chỉ có bấy nhiêu thôi’. Ông cụ lại hỏi, ‘Bức tranh nào anh đắc ý nhất kể cho chúng tôi nghe đi!’. ‘Thưa ông bà, bức tranh tôi đắc ý nhất, bối cảnh là bầu trời màu xám, vệt mây cuối cùng tan ở phương tây, giòng sông chảy về phía đông.

      Con chim nhạn đơn lẻ bay về phía nam, con chim hồng bơ vơ bay về hướng bắc’. Bà chậm nước mắt. Tôi ngạc nhiên, ‘Thưa bà, suốt đời hạnh phúc chắc chưa bao giờ bà biết khóc?’ Bà cải chính,

      ‘Ờ, chú em lầm rồi, xưa tôi cũng khổ lắm chứ, lúc chưa cưới nhau, chiều thứ sáu nào Alex về trễ tôi khóc sụt sùi, và chiều chủ nhật, Alex phải trở lại trường, ôi, buồn chết được, chú em à!’ Ông lại có cơ hội an ủi bà, ‘thôi em, chuyện đã qua!

      Tuần sau về lại Wellington, chú em cho tôi xem bức tranh ý nhị đó nghe!’ Bà lại hỏi tôi, ‘Ồ! Sao thê thiết quá vậy chú em?

      Sao chú em tô xám bầu trời xanh? Sao chú em nỡ bắt chim hồng bay về phương Bắc, xua nhạn bay về phương Nam? Rồi đuổi vệt mây buồn bay về phương Tây, ép dòng sông trôi về phương Ðông?

      Làm chim hồng và nhạn xa lìa nhau, mây nước bị ngăn cách, làm chi ngang trái vậy chú em?’ ‘Thưa bà, tôi là con chim nhạn cô đơn, người là con chim hồng, tôi là đám mây trôi, người là giòng nước chảy. Nhạn đâu có muốn xa hồng, mây có vui gì xa nước?

      Tôi muốn nhắc tới tâm trạng người bị xa cách quê hương, theo câu thơ cổ: Cô nhạn Nam phi, hồng Bắc khứ, Nhàn vân Tây tán, thủy Ðông lưu.

      ‘Chú em ơi! Chú em cho tôi xem bức tranh lúc về Wellington tuần tới nghe, tôi sẽ chắp cánh cho chim nhạn và hồng bay chung hướng, tôi mang vệt mây phiêu bồng về với giòng nước.

      Tôi xóa màu xám cho bầu trời xanh trong.’

      ‘Thưa bà, tiếc quá, lúc tôi treo bức tranh trong phòng khách, vợ chồng người bạn ở chung nó gở bỏ, vì sợ hư bức tường mới sơn’.

      Tôi cười xòa cho bầu không khí bớt căng thẳng. Chúng tôi hẹn gặp nhau, tôi lúi húi lấy sổ ghi địa chỉ và số điện thoại ông bà, trong sổ có bức thư rớt xuống ghế. Bà nhanh nhẩu nhặt đưa cho tôi hỏi:

      - Thư VN hả? - Dạ! - Của gia đình phải không? - Dạ, của bạn cũ. - Bạn gái hả? Bà cười hóm hỉnh. - Dạ bạn cũ, chứ không phải bạn gái, cô ấy tìm được địa chỉ tôi mới viết thư thăm hỏi. - Chú em có gia đình chưa? - Dạ chưa! - Sao vậy?

      - Dạ tôi đang chạy đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc tôi là vệt mây tan ở phía Tây như vừa kể! Ông cụ cười tủm tỉm, ‘Chà, chú em lãng mạn mà mỉa mai cay đắng quá vậy, chú em thật có tâm hồn và dáng dấp nghệ sĩ lắm.’

      Sợ ông bà quá lời khen làm nổ tung cái thùng rổng kêu to, nên tôi ngăn lại: ‘Thưa, ông nói đúng, tôi có dáng dấp nghệ sĩ, nhưng đó là bề ngoài, thực sự tôi đang làm bếp rau nhà hàng. Cái dáng dấp nghệ sĩ ông khen đó, thực ra tôi không có thói quen giặt áo quần thường xuyên.’

      Bà cụ có vẻ sốt ruột, ‘Này, chú em đã nghe chúng tôi kể, bây giờ tới lượt chú em kể, chúng tôi đợi đây! Chúng tôi rất lưu tâm vì sao chú em cứ hài hước và cay cú!’

      ‘Thưa bà, nếu ông bà thích và chịu khó kiên nhẫn, nghe câu chuyện chán ngấy, tôi xin kể’ ‘Khoan đã, chờ tôi pha bình cà phê mới!’ Bà nhanh nhẩu vào bếp nấu nước pha cà phê. Tôi bắt đầu câu chuyện qua tách cà phê nóng.

      ‘Ngày xưa, từ lúc còn nhỏ tôi chỉ ham chơi, trời lại tặng cho tôi đầu óc ngu tối. Tôi không biết tại sao tôi có thể chơi túc cầu hay bơi lội dưới sông suốt ngày không chút mỏi mệt, nhưng vào lớp thì cơn buồn ngủ kéo trì mắt tôi.

      Nghe tiếng chuông tan trường thì tôi tỉnh táo và có thể tiếp tục nô đùa ngay. Suốt thời gian đi học, luôn luôn học trường nam, cùng xóm không có được một cô gái trạc tuổi làm đối tượng mơ mộng.

      Gia đình tôi thất vọng về sự lận đận thi cử của tôi nên không ai muốn nhắc tên tôi mà không kèm theo sự bực bội.’ ‘Cuối cùng rồi cũng học chung với nữ sinh, cùng lứa tuổi mà tôi chậm chạp hơn bạn bè, chỉ biết phòng học, thư viện, và con đường từ nhà tới trường.’

      ‘Cậu bé chăm học thật!’ Ông Buchanan gật gù khen. ‘Thưa ông bà, siêng năng mà chậm hiểu, bi thảm là chỗ đó.’ ‘Quanh tôi, bạn bè có vóc dáng thư sinh thanh nhã, ăn nói chững chạc, trưởng thành, khéo léo cư xử.

      Ai cũng có bạn gái áo dài tha thướt, nón lá che nửa mặt hoa, sánh bước theo hàng me, hoặc ngồi giải khát các tiệm cà phê sang trọng.’ ‘Cả năm học, tôi như bóng ma ở trường, không ai chú ý đến sự hiện diện của tôi, mà tôi cũng không giao thiệp đậm đà với ai.

      Vào phòng học, tôi thu mình ngồi ở cuối phòng, không tham gia bất cứ sinh hoạt nào ở trường, tôi đâu có tài năng gì để đóng góp.’ ‘Mỗi buổi trưa, tôi luôn luôn ngồi trên bậc thềm sau lớp học, dưới bóng mát giàn bông giấy đỏ, cầm mẫu bán mì ăn trưa.

      Thường ít khi ai ngồi chỗ này, vì lá bông giấy rụng đầy khoảng đất, ai cũng ra quán giải lao hoặc vào rạp ciné có máy lạnh nghỉ trưa, nếu lười về nhà và chiều lại có giờ học.

      Một hôm, có thiếu nữ chung trường đến đấy tìm chỗ ngồi đối diện, thấy tôi nàng tủm tỉm cười lịch sự, thay cho câu chào hỏi.’

      ‘Cô ấy muốn tán tỉnh chú em phải không?’ ‘Không, thưa bà, cô ấy chỉ tìm chỗ nghỉ trưa, vì phòng học trường không có quạt máy. Tôi vừa ăn vừa cặm cụi lật xấp bài vở lem luốc, tra nghĩa ghi chép ...’ ‘Sau đó quen mặt, mỗi lần gặp cô tự nhiên cười chào bằng đôi mắt long lanh. Mãi rồi cũng quen nhau, ông bà ơi, cô ấy có khả năng ứng đối hoa mỹ lắm.

      Tôi thì ngôn ngữ vụng về, đầu óc chỉ muốn đi làm, sắm xe vận tải chở hàng mướn, mỗi lần mở miệng như có gì ngăn ở cổ, ngập ngừng, khép nép.’

      ‘Xế trưa, dưới bóng râm giàn bông giấy đầy gai góc, nàng lật xấp bài thơ chữ Nôm trong tác phẩm ‘Ngọa Long Cương ngâm’. Tiếng đọc thơ lanh lãnh xuyên qua hoa lá buổi trưa: ‘Nhân tài tuy khắp đời dùng, Kẻ đua tới Ngụy, người đành sang Ngô, Nam Dương có sĩ ẩn nho ...’

      ‘Ðọc câu cuối cùng, cô đưa mắt sắc sảo tinh nghịch liếc tôi, ngụ ý tôi là kẻ sĩ đang chờ thời, ẩn nhẫn. Lúc ấy, tôi đang ngồi trên bực thềm, dựa lưng lên cột, tư thế nửa ngồi nửa nằm, loại dài lưng tốn vải, đang cuộn tròn xấp tác phẩm ‘Sơ kính tân trang’ như hàn sĩ đọc sách.

      Ông bà Buchanan ơi, chỉ vì cái liếc kia mà tôi điêu đứng bao lâu rồi.’ ‘Sau đó, cứ giờ trưa không hẹn mà gặp, giàn bông giấy chứng kiến, phe phẩy lá ghẹo trêu.’

      ‘Vào dịp lễ, cô trao cho tôi một bức thư trong có giấy vẽ một thiếu nữ nước mắt đầm đìa, dưới có câu: ‘Nhứt nhựt bất kiến như tam thu hề’. Cô nhờ tôi sửa mấy nét chữ Hán cho đúng cách.

      Sau đó nhờ tôi dạy cách viết, viết không trái cựa, dịch mấy chữ tối nghĩa. Một phút lạc lòng, tim dậy men, tôi chép tặng lại hai câu thơ: ‘Cố niên đông vọng lộ man man, Song tủ long chung lệ bất càng’ ‘Hai năm tình cảm nẩy nở qua sách vở thơ thẩn.

      Những chiều mưa tối trời, tôi theo xe bus đưa cô về tận nhà mới yên lòng. Hứa hẹn nhau sẽ đổi về tỉnh lẻ, sống đơn sơ, xây dựng dần dần.

      Tôi bôn ba làm việc thêm, dành dụm đưa cho cô ấy mua sẵn chiếc xe gắn máy, vật dụng cần thiết làm phương tiện sau này.

      Suốt thời gian thân thiết, tôi chưa khám phá điều oan trái.’

      ‘Sao oan trái?’

      Bà Buchanan xen vào, ‘Cô ấy đẹp nên nhiều người tán tỉnh?’ ‘Thưa ông bà Buchanan, vì tôi thiếu óc quan sát, cô ấy chủ động. Ý kiến bạn bè không đủ cho tôi đề phòng, tôi sống trong cái hạnh phúc tạm bợ. Bạn bè cho rằng cô ấy đủ tật xấu, tôi xem điều đó là ưu điểm.

      Tôi chỉ biết học hành, đi làm để cung phụng cho cô ấy. Ở Sàigòn nhiều năm mà chưa biết quán ăn đặc biệt của người sành điệu, cô thường phàn nàn tôi chưa biết ‘savoir-vivre’, chưa biết ‘gentil’.

      Chiều theo ý cô, tôi học thói quen trưởng giả, đưa nàng vào nhà hành sang trọng. Nàng thực tình, tự nhiên, mỗi lần vào nhà hàng, không ngượng ngùng e lệ như những người cùng lứa.

      Chỉ có bạn bè xấu miệng cứ mỉa mai cái tánh quá tự nhiên của nàng, mỗi dịp tiệc tất niên, những dĩa thức ăn trước mặt nàng vơi đi rất nhanh, nàng xỉa răng, bỉm miệng chê các cô khác ‘hypocrite’.’

      ‘Tình cảm lãng mạn ban đầu biến thành thói quen thường nhựt gặp nhau buổi sáng điểm tâm, rồi ăn trưa, ăn chiều, rồi đưa nàng về.’ ‘Chú em quanh co mãi, tôi hỏi cô ấy đẹp lắm không?’

      ‘Thưa ông bà, bạn bè tôi cho rằng cô tệ nhứt trường, mắt to tròng trắng nhiều hơn tròng đen, người bội bạc, làn da đen nâu nên có mỹ danh ‘Fulbro’, đặc tính đa tình ...

      Tôi không so đo nhan sắc, vả lại, tôi xuất thân nhà quê, khó so bì với thị dân, ý nghĩ yên phận, thụ động, nên né tránh chú ý đến nhan sắc.’

      ‘Một buổi trưa hai đứa đang thơ thẩn bước dưới hàng me râm mát trước trường, mắt Hạnh buồn bả, nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi bất ngờ, ‘Anh hãy nhìn mắt em, có gì không vừa ý?’ - ‘Ờ, ờ! Anh không biết!’ Nàng lả lơi nói,

      ‘Anh à, gương mặt em mủm mỉm, phúc hậu, chỉ có cái mũi gãy là khuyết điểm duy nhất, đi với anh, bạn bè anh đàm tiếu, anh nghĩ sao?’ Tôi ấm ớ chưa tìm được câu trả lời, nàng đã quyết định,

      ‘Anh à, có một bác sĩ mới học được nghề giải phẫu thẩm mỹ, em định đến đó sửa cho sống mũi cao hơn, anh nghĩ phải không?’

      Nàng đề nghị phân tích kết luận, giọng nói, ánh mắt là liều thuốc làm tê liệt thần kinh tôi, u ám đến độ không tìm được lý luận phản đối hoặc trì hoãn cuộc giải phẫu. Suốt mấy tháng tôi lo tài chánh, bán vài cái máy chưa dùng, vay mượn bạn bè ít nhiều để Hạnh sửa khuyết điểm, làm đẹp cho đời.

      Tôi thiếu óc thẩm mỹ, nên mức độ chiêm ngưỡng thấp hơn Hạnh. Nàng hãnh diện và rất thú vị tuyên bố đã qua HongKong giải phẫu.

      Sau đó, Hạnh thường xuất hiện trong các buổi họp mặt, nàng cảm thấy mình là trung tâm của sự chú ý. Thỉnh thoảng nàng lấy gương soi, rồi mỉm cười. Cái mũi cao được bạn bè tặng cho biệt hiệu ‘Bombay’.

      Tình cảm nàng cởi mở hơn, thích lân la chuyện trò với ai sắp thi học bổng du học, hoặc thăm hỏi vồn vả với các sinh viên y khoa, dược khoa.

      Tôi lẻo đẻo theo Hạnh như tên cận vệ, có trách nhiệm thanh toán với nhà hàng, lấy vé ciné và vé các dạ hội. Năm học cuối cùng, tôi báo tin gia đình về chuyện tương lai, gia đình tôi không cản trở.

      Một buổi chiều, tôi sửa soạn nổ máy xe đưa nàng về, chợt thấy nàng đang đứng trầm ngâm với Cảnh, học cùng trường, bọn tôi biết nhau nhiều. Tôi kiên nhẫn ngồi chờ, điều làm tôi ngạc nhiên tột độ, bà Buchanan ơi!

      Nàng theo anh chàng đó ra bến xe bus về, vì cả hai cùng cư ngụ chung một cư xá ngoại ô. Vừa đi nàng vừa ném đôi mắt buồn thảm về phía tôi. Hôm sau nàng đến xin lỗi, phân trần vì bị Cảnh, anh bạn cũ tán tỉnh.

      Ngày xưa họ yêu nhau, nhưng vì lý do nào đó họ xa nhau, bây giờ Cảnh ngõ ý trở lại. Hạnh xác định tình cảm nàng đối với tôi vẫn như xưa. Tôi tin Hạnh ngay.

      Chỉ có người bạn gái Hạnh nhắc khéo, ‘Anh hãy xem chuyện tình cảm như cơn ác mộng!’ Lời khuyên tế nhị chưa đủ gây tỉnh táo khỏi cơn mê muội. Từ đấy Hạnh khéo léo chiều chuộng tha thiết, nàng là một kịch sĩ tài ba mà tôi là khán giả dễ tính.

      Hạnh cũng tế nhị cho thấy tình cảm nàng bị phân hóa, tuy nàng chọn tôi là đối tượng chính. Tôi vô tình không khám phá được sự sắp xếp thời giờ thích hợp hôm đi với tôi, hôm đi với Cảnh.

      Lần chót, tôi được tin Hạnh và Cảnh dẫn nhau đi xa cả tuần, gặp lại, cả ba ngồi nghiêm trang góc sân trường. Lần này, biết không dấu diếm được, Cảnh bảo Hạnh: ‘Em hãy nói thẳng, em chọn ai’, Cảnh liếc tôi, nghiêm nghị, ‘không có áp lực nào bắt em phải dối lòng!’

      Hạnh tha thiết nhìn cả hai, ‘Thôi, hai anh hãy quên em đi!’ Cảnh nhấn mạnh, ‘Hạnh nói Hạnh chọn tao!’ Tôi rơi vào khoảng không, chới với như người chết đuối, cách đây một tuần còn mặn nồng, sao đổi thay mau quá.

      Cuối cùng Hạnh xác định nàng chọn Cảnh, nàng khinh khỉnh chê tôi không tế nhị, trẻ con, nàng đã có nơi rồi mà tôi còn đeo đuổi, vừa nói vừa gằn giọng, ‘Anh hiểu rõ chưa?’. Tinh thần tôi rối loạn, lắp bắp không ra tiếng.

      Tôi bỏ ra về, đi lang thang một mình. Từ đó, tôi lơ là việc học hành, hàng ngày, thấy Cảnh và Hạnh sánh vai nhau như đôi chim ríu rít, tôi càng nản chí thêm. Ngày ngày sau giờ học, tôi tránh đi ngang giàn bông giấy.

      Bạn bè trêu ghẹo, khuyên nhũ, khuyên tôi cố học cho xong năm cuối cùng, bọn nó xác nhận tôi may mắn vừa thoát một tai nạn. Tôi thường tìm quán cà phê xưa hai đứa thường ngồi, mua gói thuốc lá, nhâm nhi ly cà phê để tìm hơi hướng tình cảm xưa, cho đỡ xót xa.

      Hai năm theo đuổi ảo ảnh bèo bọt, tập ‘Vũ trung tùy bút’, tập ‘Quân trung từ mệnh tập’, tác phẩm ‘Sơ kính tân trang’, quyển ‘Cổ văn quan chỉ’, sách vở lý thuyết nhà trường, sĩ khí nho gia không giúp tôi nhận rõ giả chân của tình đời trắng đen nắng sớm mưa chiều.

      Tôi tập tểnh phì phào thuốc lá, trầm ngâm, nhấp cà phê đen. Khói thuốc lá gây cơn ho khành khạch và tách cà phê đắng thấm thía tình đời làm tôi sa sút tinh thần. Ngồi quán ủ rũ như con vượn lìa cây.

      Ngày ngày lại chịu đựng vẻ mặt đắc chí của Cảnh, vẻ mặt kênh kiệu, nhí nhảnh của Hạnh, càng tránh càng gặp. Tôi muốn tránh tất cả, giận cá chém thớt, hận thù luôn môn học tôi say mê chỉ vì phút bốc đồng tình cảm.

      Giá Hạnh không phụ rẫy tôi, tôi vẫn theo Việt Hán, tôi sẽ là tên giáo nghèo ở VN. Chính thái độ nàng làm tôi bỏ môn học đó, tôi đổi sang trường khác, chọn môn khác, nên ngày nay mới có duyên gặp ông bà, kể cho ông bà nghe câu chuyện lạt lẽo.

      Tuy ngoài mặt tôi dứt khoát, sao đó tôi vẫn tiếp tục lảng vảng đến trường cũ để gặp mặt Hạnh. Một thằng tây lai học chung trường, chỉ quen mà không thân, thấy tôi đứng lờ đờ trước cửa lớp Hạnh, nó trừng trừng mắt nhìn, Eh! C’est la merle!

      Nó vừa nạt tôi, nện gót giày lộc cộc, búng điếu thuốc lá ra xa. Giọng nói nó có uy mãnh phá tan cơn u mê, cất bỏ gánh nặng trong tâm hồn tôi. Tôi khám phá sự buồn bực chỉ là trạng thái danh dự bị xúc phạm.

      Con tằm cắn đứt kén, thấy được ánh sáng, được chắp cánh thành bướm nhởn nhơ bay lượn. Lúc ấy, tôi đang gậm nhấm bài thơ nàng tặng: ‘Giấc mộng ngày nao vắng bóng anh, Mắt em vương nắng giải hoang thành.

      Tôi phá lên cười thích thú. Mắt em to trắng bạc như vôi, thi vị hóa thành nắng giải hoang thành, cành hoa lá ngọc, màu trắng hoa xoan, ôi lời hứa hẹn chỉ có trong thơ nhạc. Tôi cảm thấy nhẹ nhỏm, khoái trá, vội vã lên xe cho về kịp giờ học.

      Vào lớp khá trễ, lão Prof-Klotz đang giảng thấy tôi bước vô, lão chỉ cho tôi viên phấn rơi dưới đất giọng nghiêm trang trừng mắt, ‘Ði xuống lượm nó lên’, tay lão chỉ lên bảng, môi nhếch hàng râu rậm, ‘và mang lên đồi’.

      Cả lớp cười ầm ỉ, ngửa nghiêng, tôi ngượng ngạo vào chỗ ngồi, tưởng lão Klotz giận tôi về tội đi trễ.

      Sau mấy phút mới biết lão Prof đang giảng tác phẩm ‘Nét chữ màu đỏ tươi’ (The Scarlet letter), bối cảnh thời Hoa Kỳ chưa lập quốc, một thiếu phụ tên Herster đã có chồng, lại dan díu với lão mục sư sinh ra được đứa con gái tên Pearl.

      Mẹ con Herster phải đứng trên bục gỗ giữa chợ, chính lão mục sư khốn khổ kia đại diện cộng đồng phải buộc tội bà, lão hò hét, ‘hãy khai tên nó ra, tên đáng phỉ nhổ đó!’.

      Herster im lìm chịu đựng cộng đồng ‘bắt nàng mang chữ A trên áo (nghĩa là kẻ ngoại dâm= Adulteress). Nàng tự thêu chữ A màu đỏ tươi trên ngực áo, nét chữ kỹ xảo.

      Nàng sống nhẫn nhục nuôi con, cư xử thân thiện và giúp đỡ người thiếu kém, không oán hận; thời gian qua, người ta quên chữ A có nghĩa là ngoại dâm, hay chữ A có nghĩa là thiên thần (Angel), một hình phạt hay sự kính yêu.

      Một đêm, lão mục sư lén gặp Herster trên bục gỗ, nơi nàng bị xã hội chung quanh bắt đứng chịu sự phỉ nhổ.

      Lão mục sư thương bé Pearl, buồn rầu đứng với bé Pearl trên bục gỗ, Pearl chợt hỏi: ‘Thưa ngài, ngài đủ can đãm đứng với mẹ con tôi ở đây vào buổi sáng mai không?’.

      Lão không trả lời, lỡ đánh rớt cây thánh giá, lão bảo Pearl xuống nhặt lên, Pearl trã lời: ‘Hãy xuống nhặt nó lên!’, giống thời Chúa Jesus bị quân đội Roman bắt tự nhặt thánh giá.

      Sự trùng hợp và óc hài hước đúng lúc của lão Klotz hóa giải hoàn toàn mối hận tình của tôi. Từ đó tôi ít ghé lại trường Hạnh học, vì trường tôi đang học thuộc phụ cận Chợ lớn nên tôi chuyển địa bàn giải trí và làm việc về đó.

      Sau biến cố, tôi được bồi hoàn bằng những may mắn, nhờ việc làm thêm, khỏa lấp thời giờ trống trải. Vắng tôi, Hạnh không tìm được ai theo đuổi chiêm ngưỡng để nàng lấy đó làm hãnh diện.

      Nàng lửng lơ ghé thăm tôi, viết thư an ủi, ngụ ý nàng có thể xoay chiều tình cảm, tôi không có phản ứng gì. Sau giờ học, tôi còn bài vở, việc làm, bổ hàng hóa cho gia đình, hết thời giờ dành cho tình cảm, cho ‘bướm hoa tơ tóc’, như nàng thường nói.

      Tình yêu như cánh bướm nhởn nhơ, tới gần nó bay xa, như bèo bọt chạm tới thì tan vỡ. Hạnh bị bịnh tự kỷ trung tâm, tưởng ai cũng theo đuổi nàng xem nàng như thần tượng.

      Các sinh viên con chủ hãng sắp du học, các sinh viên y khoa, dược khoa đâu không thấy. Bạn bè xa lánh vì tính kiêu căng và sắc đẹp nàng có hiệu lực làm bạn bè xa lánh.

      Tệ hại hơn, là Cảnh tuy rất xứng đôi vừa lứa, chiều chuộng nàng tế nhị, nhưng thiếu khả năng thực tế để thỏa mãn cái ‘savoir vivre’ và cái sành điệu của nàng ở các tiệm ăn.

      Cảnh có tâm hồn của triết gia hướng thượng, xem nhẹ bạc tiền, nên có đêm thua bạc trọn tháng tiền cơm, sáng hôm sau chàng vẫn tỉnh táo dẫn Hạnh đi ăn sáng để Hạnh chi tiền, được Hạnh khen ‘con người idéaliste’, ngược lại tính ‘materialiste’ của tôi.

      Nhưng có điều lạ, hình như Cảnh không biết hoặc làm lơ, là Hạnh biết rất rõ thời khóa biểu giải trí của tôi, nhứt là những dịp tiệc tùng, dù ở đâu nàng cũng điều tra ra, hăng hái tham dự vì nàng sợ tôi cô độc giữa đám đông.

      ‘Em sẽ làm cho anh ngạc nhiên, tình cảm em đâu có gì thay đổi, em là người trọng thuở ban đầu! Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Nàng thở dài nhè nhẹ, chờ đợi một phản ứng sung sướng biết ơn của tôi đối với sự ban bố tình cảm này.

      Nàng không giận hờn dù nhận được vẻ mặt nhăn nhó của tôi. Chỉ có lần duy nhất nàng điều tra sai giờ. Sáng hôm đó, bọn tôi gồm mấy người bạn thân, hẹn nhau đi ăn sáng ở khu Chợ lớn, tiệm ăn ở góc phố này ít ai biết.

      Bọn tôi ăn điểm tâm xong, vừa bước xuống lầu, gặp ngay Hạnh, nàng không bỏ lỡ cơ hội, ‘Kìa, anh đi đâu vậy? Thi cử ra sao? Tiểu đăng khoa rồi, đại đăng khoa nghe anh! Ráng nghe anh (bao giờ nàng cũng khuyến khích tôi).

      Hôm nào thi, cho em biết, em sẽ chờ anh trước trường để nghe anh báo tin vui’. Nàng nói liên tục, không dư khoảng trống cho tôi đính chánh. Ðó là sự khôi hài cuối cùng nàng tặng tôi. Tôi trả lời, ‘Cám ơn chị, tôi thi xong rồi!’. Có kết quả vào vấn đáp chưa? Anh đừng lo lắng lắm, thất keo này bày keo khác’.

      ‘Dạ cám ơn, tôi xong hết rồi chị’. Thấy nàng lải nhải dông dài, tôi chỉ trả lời vắn tắt, thờ ơ. Nàng ngước nhìn tôi, mắt long lanh, đứng sát vào người tôi nũng nịu:

      ‘Em đã dặn dò anh từ trước, mỗi khi có thi cử phải cho em biết, để em chia xẻ niềm lo âu, anh thờ ơ với em quá, chính vậy mà ‘không hợp’ đãy’. Nàng nhấn mạnh chữ ‘không hợp’ tỏ vẻ nghiêm trọng lắm.

      ‘Năm tới em sẽ tìm đến lo cho anh, anh không cần thông báo ngày thi’. Mấy đứa bạn tôi có vẻ nóng nảy chờ đợi, nàng thấy tôi bồn chồn, lên giọng khuyên nhũ, ‘Anh cứ bạn bè, không lo cho em, bởi vậy em ‘sợ’ anh đãy!’, nàng chuyển sang giọng đe dọa.

      Tôi trả lời, ‘Dạ, chị đừng bận tâm lắm cho tôi, tôi không còn thi cử gì nữa, bọn tôi vừa nhận danh sách nhiệm sở sáng này’.

      Hạnh cụt hứng, đứng sát vào tôi, nũng nịu, ‘Vậy là anh phải khao một chầu ở Chợ củ bây giờ nghe’, Hoa cù hồng phấn nữ Tranh khán lục y lang Nàng nhắc hình ảnh thời xa xưa, có những thiếu nữ phấn hồng tranh nhau xem mặt anh chàng mặc áo lụa vua ban, vừa trúng cách cử nhân kỳ thi hương.

      Tiếng xe gắn máy nổ ầm ì, giục giã, bạn bè đã mang kiến, đội mũ sẵn sàng. Tôi cắt đứt câu chuyện, lễ độ nói: ‘Chị để lần khác, bọn tôi phải đi thăm ba tỉnh Long An, Mỹ Tho, Kiến Hòa gấp rút, để quan sát sinh hoạt ba tỉnh đó, tháng sau chọn nhiệm sở.

      Chiều nay phải về tới Sàigòn trước 7 giờ tối, sợ trễ đường về mất an ninh’. Hạnh định dặn dò thêm, tôi đã lên xe rồ máy chạy. Sau đó đổi về tỉnh nhỏ, mấy cô bạn sợ tôi buồn chuyện đám cưới Cảnh và Hạnh, họ thường an ủi. Tôi đùa: ‘Nợ ai người ấy trả!’ Cảnh và Hạnh sống thiếu thốn do bài bạc rượu chè.

      Cuộc tình thơ mộng ngày xưa không thích hợp thực tế cho sự tạo dựng gia đình có đông con. Mắt bà Buchanan quả có chút cảm thông, ông choàng khăn cho bà. Bà lim dim lắc đầu nhìn ra ngoài, nước mưa đục mờ cửa kính.

      Bà lại hỏi, ‘Sau đó chú em có gặp lại cô ấy thường không?’ Dạ, tôi có gặp lại, kể cũng khá lý thú. Lúc ấy, vì tình hình chiến sự căng thẳng, tôi bị động viên.

      Một buổi xế trưa, trên đường về trại quân, chúng tôi đi bộ ngang một vùng chợ ven đô thị. Nơi đó người ta dựng những tấm lều, che bằng đủ thứ vải thô, thấp và kín đáo, họ bán rượu và thức nhấm cho khách dọc theo xa lộ.

      Thay vì đi vòng bên hông chợ, chúng tôi lười đi xa nên đi len lỏi xuyên qua khu này cho đỡ mệt, nhìn thiên hạ hưởng thụ, chen chúc cười cợt quanh bàn rượu thấp lè tè.

      Tôi đi sau, chợt nghe tiếng cải vã và xin lỗi của anh bạn đồng đội đi đầu. Lúc đi ngang chỗ cải vã, tôi tò mò muốn biết việc gì đã xảy ra, thấy một viên Trung úy ôm một thiếu phụ, uống ực ly bia, đặt ly mạnh xuống bàn, bực tức.

      Thiếu phụ ăn mặc hở hang, mặt sừng sộ, đang dùng khăn tay lau khô vạt áo dài đỏ, bốn mắt nhìn nhau, người thiếu phụ đó là Hạnh, son phấn diêm dúa trơ trẻn, chàng Trung úy đó không phải là Cảnh.

      Tôi tiếp tục theo đoàn quân ra bãi, chờ xe chở về trại. Ở bãi tập họp, bọn tôi mới biết chuyện ồn ào xảy ra do anh bạn đồng đội vô ý, lúc đi ngang bàn Hạnh, cây lưỡi lê giắt bên hông vướng nhằm ly lave trên bàn đổ ướt vạt áo Hạnh.

      Hắn chống tay hai bên sườn nhăn nhó, phân trần, ‘Tôi đã xin lỗi, là cái lưỡi lê dài vướng ngã ly lave chớ không cố ý, vậy mà cha Trung úy và con mẹ đó sừng sộ, ướt vạt áo mà như lửa cháy nhà!’

      Tôi cười góp chuyện, ‘Ê, phải mấy trái lựu đạn anh đeo trước ngực đó, vướng cái bàn, rồi sút chốt, chắc bả không có thì giờ sừng sộ!’

      ***


      Mấy năm sau, cũng vào dịp ngẫu nhiên, ngày tôi được biệt phái về nhiệm sở cũ, tôi đón xe Lam đến Trung tâm 3 quản trị làm thủ tục xuất ngũ.

      Trên chuyến xe Lam chật chội, tôi ngồi đối diện với một thiếu phụ tóc ngắn, áo màu đỏ choét, phấn son dầy mặt, dáng mệt mỏi, thân mình lắc lư theo xe.

      Nhíp xe và thùng xe kẽo kẹt đay nghiến, tiếng máy nổ giận dữ một phần vì sức nặng tấm thân bồ tượng của bà. Tư thế ngồi hớ hênh bề xề, buông thả, choán gần hai chỗ ngồi.

      Nắng, hơi ẩm, và mùi mồ hôi khách trên xe xông nồng nực không làm tôi mất cảm giác khoan khoái, nghĩ chuyện tương lai, màu xanh mạ non trong những mẫu ruộng màu mỡ, bên nội dành sẵn miếng vườn cây trái mát mẻ có chim kêu, gà gáy

      sáng, chiếc xe hàng chở nông phẩm đi giao, tôi tự mỉm cười với giấc mơ xây sự nghiệp. Thiếu phụ mở mắt trao tráo nhìn tôi, đôi mắt trắng bạc, gương mặt đen thâm phấn son che không hết dấu vết.

      Bà lấy tay che một bên mặt nhăn nhó, lộ vẻ đau đớn khó chịu, miệng mấp máy, tiếng máy xe nổ ầm ì nên tôi không nghe bà ấy nói gì. Lúc xe ngừng, tôi vội vã xuống xe, thiếu phụ cũng lật đật xuống theo.

      Tôi vừa đi vừa chạy như ma đuổi, hôm ấy là ngày cuối trong tuần lễ, tôi phải hoàn tất thủ tục tốn nhiều thì giờ, không muốn kéo dài đến thứ hai.

      Thiếu phụ cũng theo tôi gấp rút, gọi tên, tôi giựt mình, ‘Gặp lại anh, em chưa kịp mừng, trên xe hỏi anh không trả lời, bây giờ chạy trốn em sao?’

      Tôi ngơ ngác, đầu óc đang lo việc riêng, chưa định thần để nhận ra bà ấy. Bà ấy lanh trí, nhăn mặt cười, ‘Hạnh nè, anh chóng quên quá!’ ‘À, à! Tôi la lớn, tốc độ đi bộ giảm lại, tuy vậy Hạnh cũng vất vã mới theo kịp.

      Tôi đã nhận ra Hạnh và nét quen thuộc xưa, gương mặt, đôi mắt, sống mũi giải phẫu ‘Bombay’ làm tôi điêu đứng bao lâu, bây giờ hiện thành bà già gần 50 tuổi, dù Hạnh lớn hơn tôi có 2 tuổi, chưa tới 30.

      Hạnh xoa bàn tay trên má, lúc nói chuyện, tôi thấy có vết máu đọng trong các kẻ răng. Nàng quay đi, kéo miếng bông đỏ máu trong miệng ném xuống lề đường, rồi lấy miếng bông khác trám vào hàm răng trên, Hạnh vừa ở phòng nha sĩ ra.

      Tôi cảm thấy bất nhẫn, nhưng tìm chưa được lời an ủi - Hạnh vừa đi vừa than con cái đông, Cảnh mãi mê bài bạc, nàng chịu trăm bề đắng cay. Hạnh khoe có một bác sĩ đang đeo đuổi nàng, nàng nghiêm nghị, ‘chưa quyết định bỏ chồng’, bác sĩ rất nể nang nàng. Nàng biện bạch liên tục như mê sảng.

      Tới Trung tâm quản trị, tôi đưa giấy trình cho anh lính gác, nàng chưa kịp kết luận câu chuyện với đầy đủ chi tiết nguyên nhân xa gần, trực tiếp hoặc gián tiếp được kết thành chuỗi những câu chuyện vụn vặt rời rạc có thể kéo dài vô tận.

      Khoảng gần nửa giờ, xong thủ tục, tôi ra khỏi cổng trại, thấy Hạnh vẫn đứng chờ. Tôi vô tình bước đi vùn vụt, Hạnh khó khăn mới theo kịp tôi ra bến xe Lam, buột miệng: ‘Anh đi chậm lại, anh có số vất vả vì đi mau, em lo ngại cho anh!’

      Tôi không tìm hiểu lý do Hạnh theo tôi, lả vả trả lời, ‘Quen rồi chị à, trong quân ngũ, hơn nữa tôi phải ra nha nhân viên nộp hồ sơ để làm lương bổng cho xong buổi chiều nay, tôi còn có tuần lễ nghỉ phép cuối cùng phải về thăm gia đình’.

      Vừa ra khỏi cổng Bộ Giáo dục, sau khi hoàn tất hồ sơ, tôi nhẹ nhỏm, thì gặp ngay Hạnh đứng chờ, như bà chủ nợ đón con nợ. Nàng ngỏ ý muốn ghé tiệm ‘giải khát’ để thảo luận, tìm lại kỷ niệm xưa, giải quyết vấn đề có lợi cho tôi.

      Hạnh nhắc thời ‘lá me rắc nhớ trên hè phố’, thời ‘áo màu thưa bóng nắng thưa hương’, thời ‘em cố làm cho hờn giận qua, hôm nao hội ý nắng sang nhà’ ...

      ‘Tôi quên hết chuyện cũ rồi, thưa chị, tiếng súng, tiếng pháo kích hằng đêm cướp mất bản chất mơ mộng trong người tôi, bây giờ tôi chỉ muốn yên thân, cái thuở vụng dại thời đi học đã qua, chị đã có gia đình con cái, nhắc làm gì?’

      Nàng im lìm, bước nhanh, tự nhiên lái tôi vào một nhà hàng, ngày trước cả hai thường là thực khách trung thành. Cẩn thận hơn, nàng kéo ghế ấn tôi ngồi xuống rồi ngồi sát bên cạnh thay vì đối diện.

      Anh bồi mang thực đơn đến, nàng tự nhiên như ngày trước, mở thực đơn, nhìn chăm chú, miệng nói liên tục: ‘Anh cứ gọi, em không đói’.

      ‘Tôi cũng không thấy đói, chị’. Mắt Hạnh sáng lên chăm chú, lay quay tìm các món ăn trên thực đơn. ‘Không’, nàng không nài nỉ, ‘Anh phải ăn cái gì chớ, chiều rồi, anh xanh xao hơn thời đi học, phải bồi bổ’.

      Tôi rút thuốc lá hút, dững dưng, nếp sống quân nhân làm tôi khỏe mạnh hơn xưa gấp bội, cười thầm cho cái nhận xét theo tiểu thuyết của bà kịch sĩ già ngồi bên cạnh. Hạnh đã tìm được món nàng thích, nhoẻn miệng tươi cười:

      ‘Anh ăn tôm lăn bột chiên nhé, đồ biển ăn tốt răng, món bò nướng chanh nè, anh cần bồi bổ thời gian kham khổ. Em khao anh’. Nàng không cần tôi đồng ý hay không, đưa trả lại thực đơn cho anh bồi, bắt đầu nói,

      ‘Gặp lại anh, một sự tình cờ may mắn, lúc trước em hiểu lầm, bây giờ hối hận thấy thương anh vô hạn. Em thấy ở anh, con người cao thượng và tài giỏi hơn Cảnh, nó chỉ biết nói và đánh bài, rượu chè.

      Em ghen tị với người có diễm phúc làm vợ anh, tương lai anh định làm gì? Nghe bạn bè nói anh hùn hạp mua xe vận tải, chắc chắn anh sẽ giàu to. Còn anh muốn xuất ngoại du học, chắc chắn với khả năng, anh dư sức’.

      Nàng vồn vã hỏi tôi và liên tục trả lời giùm tôi. Hạnh vừa nói vừa che miệng thỉnh thoảng ngừng để uống ừng ực ly nước cam vắt.

      Anh bồi vừa mang hai dĩa thức ăn đến. Nàng nhanh nhẩu gắp con tôm bỏ vào chén tôi, ‘Ăn đi anh, cho em được săn sóc anh, ít khi có cơ hội như chiều nay!’

      Miệng nói, tay gắp nhẹ nhàng, Hạnh nhai ngấu nghiến, thỉnh thoảng lấy tay xoa bên má chỗ răng đau, miệng nhắc tôi ‘Ăn đi anh, đồ ăn nguội!’, nhai không kịp nuốt. Tôi ngồi nhâm nhi ly bia và phì phà thuốc lá.

      Hạnh vẫn xem tôi như con trừu 6 năm trước, sắp xếp mọi việc, tôi chỉ có thi hành. Nàng ngồi ăn rao ráo, cái ‘savoir vivre’ của nàng là như vậy.

      Tôi bình tĩnh ngồi quan sát, không đổ quạu nao núng như ngày đầu thấy Hạnh và Cảnh sóng vai cười cười nói nói, cũng không thấy thất thế như lúc hai đứa thay nhau ‘giảng’ cho tôi bài học xử thế ngày nào.

      Nhìn nàng cắm cúi thưởng thức hai dĩa thức ăn, nhai ngồm ngoàm, tôi chỉ muốn bật cười ‘Tái ông thất mã’. Giá tôi cưới Hạnh, vẫn học trường cũ, lúc bị động viên sẽ không được hưởng qui chế biệt phái, lại vất vả nuôi một bà mập có thể xơi hai dĩa thức ăn mà còn thòm thèm.

      Mặc cảm tự ti nhờ vậy nhẹ bớt. Nếu Cảnh có bắt gặp, hắn sẽ làm gì tôi? Tôi đủ khả năng bảo hắn về dạy vợ hắn, đừng đeo theo làm ô nhiễm cái không khí tự do của tôi, suốt buổi chiều. Hạnh ăn xong, hỏi tôi ăn thêm gì không.

      Tôi có ăn miếng nào đâu, được dịp đùa làm nàng sợ hãi, tôi nghiêm nghị nói: ‘Vừa được biệt phái về, người bạn đầu tiên tôi gặp là chị, duyên bèo nước của người quân nhân sống nay chết mai. Cám ơn chị mất nhiều thì giờ đãi tôi buổi ăn thịnh soạn, chiều rồi, tôi phải về’.

      Tôi đứng dậy, đội mũ, tinh nghịch giơ tay chào kiểu nhà binh. Hạnh luống cuống, chụp tay tôi ấp úng: ‘Chết, em quên cái bóp tiền ở nhà!’ Tôi nhìn vào mắt nàng, cười.

      Hạnh đứng dậy đeo bóp lên vai, giả vờ vào toilet, tôi gọi anh bồi, trả tiền rồi ra khỏi quán. Hạnh lẽo đẽo đi bên cạnh tôi, đèn thành phố vừa sáng, 6 năm trước, trên đường phố này có tên thất tình cô đơn đếm bước như người điên vừa trốn khỏi dưỡng trí viện.

      Hạnh lại bắt đầu câu chuyện, những mẫu chuyện gia đình, khúc chiết, tiền hậu bất nhất, chỉ làm tôi tốn thuốc lá. Nàng lại thay đổi đề tài, gây hứng thú, tôi nhận xét thấy nàng lái tôi đi xăm xăm về phía hàng quán bán đồ ngọt ban đêm, sau cả tiếng đồng hồ đi quanh quẩn.

      Tôi không tiếc buổi giải lao với Hạnh, nhưng tưởng tượng mấy đứa con Hạnh ở nhà biết có ai săn sóc, nếu Cảnh bận đi ngồi sòng bạc, tội cho mấy đứa nhỏ biết bao.

      Tôi đang thèm dạo chơi thong thả, hưởng không khí tự do, sau đó về nghỉ để hôm sau dậy sớm, ra xa cảng về quê. Tôi nhứt quyết đi thẳng ra bến xe bus, nàng rẽ về phía khu bán chè, rồi miễn cưỡng trở lại theo tôi đến bến xe.

      Nàng ôm bóp lững lờ đôi mắt liều lĩnh, không chịu lên xe, vẻ mặt lầm lì như sắp nằm vạ, tôi không nỡ bỏ đi. Bất ngờ, có toán quân cảnh đi tuần tiểu, thấy tôi mặc quân phục, đến hỏi giấy phép, xem xong họ trả lại.

      Sẵn dịp, tôi theo toán quân cảnh, khi đi khuất, tôi rẽ đường khác ra về. Sau đó nàng ghé nhà trọ tôi nhiều lần, lần nào tôi cũng vắng nhà, nàng để lại mảnh giấy dặn dò, cần gặp tôi về vấn đề ‘khẩn thiết’.

      Ðêm khuya, ông bà Buchanan thở dài, tôi ngừng câu chuyện cá nhân vô vị. Bà Buchanan buồn rầu,’Tội nghiệp chú em, câu chuyện tình không đoạn cuối!’ ‘À, ông bà Buchanan ơi, cái thư bà vừa hỏi đó là của Hạnh, Hạnh tìm ra địa chỉ tôi qua người bạn thân’.

      Bà Buchanan rụt rè hỏi, ‘Thư viết gì đó?’ ‘Thưa bà, đó thật là bức thư khẩn cấp, Hạnh than đời sống chật vật quá. Cái mũi nàng hơn 12 năm bắt đầu bị nhiễm trùng, làm hàm răng trên của nàng bị hư tất cả.

      Muốn đi bác sĩ giải phẫu mà không có tiền. Nàng nhờ tôi tìm bác sĩ tai mắt mũi họng xem có loại thuốc mạnh, mua gởi cho nàng. Bà có biết ở nhà thuốc nào bán trụ sinh không cần toa bác sĩ, để tôi mua gởi cho nàng không?’ Bà Buchanan la lớn:

      ‘Chú em thật là ngốc, không có người dược sĩ nào ở đây dám làm điều bất hợp pháp đó. Thôi khuya rồi, chúng ta đi nghỉ’ Sáng hôm sau, sau bữa điểm tâm, tôi soạn đồ đạc, sửa lại giường gối cho ngay thẳng chuẩn bị ra về.

      Ông bà Buchanan còn ngồi tại bàn. Ông trịnh trọng mang kính trắng, lấy quyển sổ lật từng trang, vừa bấm máy tính, ghi ghi, chép chép. Bà cũng mang kính ngồi bên theo dõi.

      Ông Buchanan ngừng tính, mỉm cười. ‘Mật ơi! Kỳ Giáng Sinh và Tết Dương lịch này anh chi dụng cho thiệp Giáng Sinh và quà cáp tất cả là 69 dollars 40 cents.

      Còn em chi bao nhiêu?’ Bà Buchanan lật sổ, bấm máy tính một lúc, cẩn thận trả lời, ‘Em mua tem để gởi tất cả là 41 dollars 50 cents’. Ông Buchanan sửa lại kính, mỉm cười bấm máy tính, ‘À, mật ơi, em thiếu anh 13 dollars 95 cents’.

      Bà mở bóp đếm tiền trả đủ cho ông, những đồng xu kêu lách cách trên mặt bàn. Ông cất tiền vào bóp, ‘Cám ơn em. Mật ơi, chút nữa mình qua trại ông bà Norton xem vườn hoa hồng của ông thiệt hại thế nào sau cơn mưa lớn hôm qua!’

      Tôi chân thành cảm tạ ông bà trước khi từ giã. Ông bà không giữ tôi lại, vì biết hai ngày sau tôi phải đi làm, hẹn tuần sau đó sẽ gặp nhau ở cùng tỉnh.

      ‘Tốt, ông dặn dò, chú em đi xe gắn máy cho cẩn thận, hôm nay đài khí tượng loan báo sẽ có cơn gió lốc ở hẻm núi giữa Masterton và Upper Hutt.

      Tuần sau gặp lại nghe chú em!’ Ông bà vẫy tay chào, ông dẫn bà trở lại, tôi nghe thoang thoáng, ‘Mật ơi, mưa gió suốt đêm qua mà những đóa hồng vẫn còn nguyên không bị rụng, thật là tuyệt diệu!’

      Liếc kính chiếu hậu, tôi thấy ông bà lụm cụm dắt nhau lên đồi.

      Wellington,
      New Zealand
      Những ngày nóng cuối năm 1980


      Lưu Nhơn Nghĩa
      thatsonchaudoc

      Last edited by khatranac; 11-08-2015, 12:07 PM. Lý Do: Tách Hàng
      sigpic

      Comment


      • #18
        Như Cánh Chuồn Chuồn

        Tặng cho không bán!
        __________________________________________



        * Kính tặng Bác Hoành Linh Ðỗ Mậu
        * Thân tặng Nguyễn Long

        Lâu lắm rồi, từ ngày ông Leo Teo cao hơn ngọn thốt nốt lâu lâu hiện lên đứng chàng hảng trêu ghẹo người yếu bóng vía ở xóm Ô Thôm, cuộc sống xứ này không thay đổi mấy.

        Cuộc sống thật phẳng lặng theo một trật tự nào đó, một sự sắp xếp gần như hoàn hảo.


        Ðất trong xứ được chia đều hợp lý, chia hồi nào?, nghe nói cã hơn trăm năm trước, từ khi chợ quận cất năm 1906 - con kinh đào mang nước bạc Hậu giang từ kinh xáng Vịnh Tre, chảy thẳng đâm ngang hông chợ.

        Quanh chợ là những dãy phố thương mại dân Tàu làm chủ, cung cấp hàng hóa nhu cầu dịch vụ cho dân chúng quanh vùng. Dân thời đó không có nhiều nhu cầu như bây giờ.

        Dân nghèo ở Sóc phụ cận với miếng rẫy giồng khoai quanh năm chỉ cần quần Cành tăng, áo Phá lấu cứ ghé bàn máy may ở chợ của ông Bảy Sinh, may xong trong ngày.

        Dân thầy ký thầy thông thì đặt may ở phố tiệm Sum Nguyên, may bộ pyjama bằng vải lụa lèo dạo mát hay mặc đi ăn cưới.

        Ðau ốm thì tới dược phòng Bảo An Xương hay Vạn Trường Xuân coi mạch hốt vài thang thuốc Bắc, xắc ba chén còn năm phân về uống cũng hết.


        Buổi sáng nghèo thì ngồi chồm hổm trên chõng tre ăn cháo lòng của bà Tây Lèo, hoặc ăn bánh hỏi thịt luộc với rau ngành ngạnh, hay bánh canh bột gạo của ý Hiệu.

        Trẻ con có thể mua trứng chim cò, trứng trăn luộc sẵn, cùng lắm là củ co, bắp hầm ...
        Mỗi ngã tư đều có tiệm nước phục vụ người dư dả.

        Ðứng đầu bờ kinh ngó thẳng về phía đông tới kinh Xáng Vịnh tre, hai bên bờ kinh là dân ‘Anh Nam mình’. Bên trái kinh đặc biệt dân gốc Cù lao Ven, theo đạo Thiên Chúa cất nhà thờ ở kế bên thành Tây cũ - đại diện là bác Sáu Sâm, lớn người, giọng rổn rảng, cười nhiều hơn nói.


        Bên phải bờ kinh dân sống bằng nghề giăng câu, ruộng rẫy, trị bịnh bằng thuốc Nam, tiêu biểu là Củ Thiếu, cốt ông Trung Tử.


        Cạnh đó là nhà máy xay lúa xập xình, ba bữa chạy bốn bữa nghỉ, ống khói khìn khịt như mắc phong. Dân chúng còn ăn gạo xay tay, gạo giã bằng cối bằng chày.

        Tiếng nhà máy rì rầm lấn át dần dần tiếng chày giã gạo đêm thanh, cùng với tiếng đọc bài ám đọc của trẻ con ‘ba người dụm lại giã toàn chày ba, gạo trắng thì phải buông ra ...’


        Ðối diện xóm nhà máy là khu làm bò (xứ này không thấy con trâu) khuya nghe tiếng bò rống là biết cha con ông Rồng thằng Mây đang ra tay.
        Xuống chút nữa là lò heo và chùa Ông do người Minh hương cất.

        Rằm tháng bảy có thí vàng vui lắm. Ðình thì cất trước nhà việc (sau gọi là Tòa hành chánh quận) ngó thẳng ra đầu kinh, nửa phần làm trường học Việt Nam, nửa phần dành cho việc sinh hoạt của dân ngoài kinh, quan trọng vào dịp kỳ yên, tống gió.

        Dân đàng Thổ (danh từ này không có ý nghĩa xấu hay khinh miệt) đi chùa trên, chùa dưới rộng rải mát mẻ nhờ những cây Nam Vồ bóng mát, vui nhứt là vào dịp Chô tha năm (vô năm hay năm mới), Ðồn tà, He cà thưng. Dân Miên sống dựa theo quanh núi, làm rẫy ruộng.
        Xứ nhỏ vậy mà muốn gì có đãy.

        Muốn học chữ Tàu chữ Việt chữ Miên đều có. Hát Tiều, hát bội, hát Dù Kê cũng đầy đủ.
        Bánh thốt nốt, bánh gói Miên cũng được chiếu cố không kém chả giò nem nướng Việt Nam hay bánh tào xa, bánh quai chèo của tiệm Tập Sanh.

        Con nít Việt Nam bị bịnh tà ma thì xuống cho củ Thiếu trục ra, dân Tàu thì lên chùa ông Bổn giải trừ, dân Miên lên chùa cho ông sãi ôm đứa bé ném qua lại dưới bụng voi.


        Chuyện xứ tôi nói hoài tới chết cũng còn mà chết thì đường ai nấy đi. Dân Việt, Tàu lên Chưn Num nằm, dân Miên chết đốt vô tháp nằm.


        Buổi sáng nhóm chợ từ lúc chuông nhà thờ đổ, kẻ bán người mua trả giá kèo nài bằng ba thứ tiếng. Sinh hoạt ngừng lại khi đứng bóng.

        Người ta thường thu xếp để trưa nghỉ ngơi bàn thai đề (thời đó chưa có số đuôi). Dân Sóc bán hết thổ sản gánh quà chợ về, tất cả giải quyết trong buổi sáng, không kéo dài thêm được.

        Xóm ngoài kinh thì bắt đầu đưa võng đọc thơ Sáu Trọng, thơ Thằng Lãnh bán heo. Thằng cha Cò Le vô công rỗi việc đi rểu rểu ngoài chợ, mấy tay lính Marốc say đi lểnh nghểnh.

        Mặc kệ tất cả. Dân chúng sống sướng thỏa, nghèo đến ăn mày cũng no đủ.
        Ðiều ngạc nhiên là dân thì ít học, trình độ thấp mà ba nếp sống văn hóa vẫn hòa đồng, không va chạm bao giờ.

        Các cụ già gốc Tàu khen ‘đất hóc tì, Phước địa, mần ăn gian dối xứ này thì tàn mạt đó’.
        Dân Miên coi tiền bằng cái bánh xe bò, chắt chiu từ xu từ cắc, ăn uống kham khổ mà thảo ăn vô cùng, khách tới nhà họ mời cơm mà từ chối, họ giận lắm.

        Chuyện quốc sự ở xứ Bắc, xứ Huế, bên Tây bên Tàu khó len tới xứ này từ nào tới giờ. Ở Nhà Việc chỉ có vài tờ bích chương dán trên tường, có hình Ðức Quốc Trưởng Bảo Ðại làm lễ thọ, hình Thủ tướng Trần văn Hữu với hàng chữ ‘Việt Nam độc lập muôn năm’.

        Bích chương này thấy ít ai buồn đọc. Dân làm Nhà Việc, nhứt là Ban hộ tịch, nhiều cha viết chánh tả sai be bét. Người ta khai cho con tên Trần Ngọc Lan, ông viết thành Trần thị Lang, chữ Ngọc khó nhớ, thôi, thế bằng chữ ‘thị’ chữ ‘văn’ cho dễ.

        Người làm khai sanh không biết đọc, đâu cũng ra đó, miễn đứa con mạnh giỏi.
        Dân hai tỉnh gần nhứt cũng ít ai thích tới thăm vùng Sóc mẹt.

        Chiếc xe Renault Tân Thành chạy đường Châu Ðốc và xe Tân Nguyên đường Long Xuyên chỉ mang hàng hóa thông thường cung cấp.

        Ánh sáng văn minh hai tỉnh lỵ lân cận không thâm nhập ồ ạt vào xứ này để soi sáng những căn nhà lá lụp xụp trên đường xuống xóm Ô Pà Lày, Prey Veng, Tà Pó, Sóc Tiết hay Xla Ðom.


        Về tinh thần, lâu lâu vài ông đạo bới tóc còn sót lại thời xa xưa trên núi xuống chợ đọc sấm giảng, kể chuyện cơ trời, chuyện đôi rắn thần tu trong hang núi, cái hang mà ngày xưa Tây thả ông bác vật Lang xuống, lúc kéo ổng lên, ổng bị á khẩu luôn.

        Ðại khái, các ông đạo khuyên tu hành, làm lành lánh dữ, vậy mà một số người học được mớ chữ Tây, loại chữ Tây chưa sạch nước cản ở xứ khác tới, chê là mê tín, là hủ lậu.

        (Người ta khuyên làm lành lánh dữ mà chê hủ lậu, còn họ làm bồi Tây là văn minh?).


        Mấy chiếc tàu binh chở lính Marốc da đen đổ quân ở đầu kinh để đánh Việt Minh, súng nổ ầm ầm như cơn lốc qua chợ, như cuốn phim chớp bóng, sau đó trả lại không khí thanh bình không lưu lại chút thù hận.


        Kẻ phương xa tới gây thù gây oán, ngoài việc bắn giết trên chiến trường, lúc lưu lại đây cũng hòa đồng, không gây xáo trộn nếp sống cố hữu.

        Thỉnh thoảng người ta thấy lính Marốc cặp kè mấy tay bợm nhậu gốc bản xứ say khướt ngúc ngắc đầu, nói lảm nhảm ai nói nấy nghe.
        Cuộc sống quá dễ dàng nên sanh tật buông thả, tự mãn, biếng nói, biếng nghe, chỉ cười xuề xòa cho qua việc.

        Ngôn ngữ vì vậy khó phát triển, họ nói cho có nói, có sao nói vậy không biết quanh co rào đón.

        Họ quen nhắm mắt đối với những thay đổi bên ngoài, tưởng vậy là an thân. Nhưng họ quên là sống ở đầu thế kỷ 20, lắm khi chuyện bên Tây bên Mỹ cũng có thể làm lung lay gốc rễ cuộc đời họ.


        Chuyện sẽ đến phải đến, dù muốn dù không. Năm 1954, chiếc xà lan sắt chở ông Cò Le và đám lính Marốc đổi đi, để lại một số trẻ con da đen da trắng đủ hết. Dù không cha, chúng vẫn được bên ngoại nuôi nấng đùm bọc.

        Sau này lớn lên, đen thì thành Miên, trắng thì thành Việt, nhập vào dân bản xứ mất dần nét lai căng.
        Giòng đời trôi, sinh hoạt chợ quê trì trệ như từ nào tới giờ. Hình như họ muốn giữ chặt nếp sống cố hữu càng lâu càng tốt.

        Mỗi điều thay đổi đều làm số đông thủ cựu bực mình. Từ hôm có nhà máy đèn, sáng đâu chưa thấy, chỉ thấy người bị điện giựt chết cũng bộn.
        ‘Ðổi đời rồi’, ông đạo đọc giảng đầu chợ ‘Hạ ngươn nay đã hết rồi’.

        Hôm đó, nhớ mài mại đâu khoảng tháng giêng năm 1955, có hai đại đội Bảo An thay thế đám Commando tới đóng trên thành. Buổi sáng các bà vợ lính xách giỏ đi chợ, rau muống cắt không đủ bán.

        Mấy bà bán rau hành bắt chước trả treo, nhái theo giọng xứ Bắc, thấy ngồ ngộ, hay hay.
        Kế đến ông quận Miên già chết, được thay thế bằng ông Quan ba Việt Nam ở xứ khác tới.

        Nhiều vấn đề hành chánh thay đổi. Phú lích đổi thành Cảnh sát, Quan ba đổi thành Ðại úy, thầy Ðội chú Cai thành Trung sĩ Hạ sĩ, công an lính kín thành an ninh.

        Nghe riết rồi cũng quen đi. Các biến cố xảy ra liên tục hàng loạt làm chính các thầy ký, xã trưởng theo không kịp. Ðồng tiền, tem thơ có hình ông Bảo Ðại, ông Sihanouk, ông vua Lào biến mất, thay bằng hình khác. Nghe nói đó là ông ‘Ngô Thủ tướng’, họ nhắc tên xa lạ này mà ngờ ngợ.


        Các thầy ký chuyền tay nhau đọc nhựt trình, dù là công chức, cũng tránh bàn chánh trị. Họ thích đọc tiểu thuyết hàng ngày như Châu về hợp phố có chuyện tướng cướp Hiệp Liệt.


        Dĩ nhiên các thầy ký đọc rành chữ Việt, đậu Certificat, nói rành tiếng Pháp, vậy mà các thầy cũng chỉ hiểu lơ mơ. Ở Sàigòn đô hội mà có giặc Bình Xuyên? Bảy Viễn là xếp công an lính kín mà! Nhựt trình viết cao quá, đầy những chữ ít được nghe như ‘phiến loạn, tảo thanh’ ...

        Ðọc xong để đó, cuối tháng lãnh lương đều đặn, không ảnh hưởng gì đời sống họ. Từ trước tới giờ, Thủ tướng Trần văn Hữu, Nguyễn văn Tâm cũng chỉ ghé tỉnh chứ chưa xuống quận vô danh này bao giờ.


        Trận đánh ở Cái Dầu với Ba Cụt Hòa Hảo mấy ngày liền mà dân chúng có hay biết gì đâu. Mấy thầy ký không có nhựt trình đọc vì chuyến xe thơ Thành Long ở Saigon về bị kẹt. Mấy thầy thờ ơ không chịu tìm hiểu.

        ***


        Nhà việc hôm nay có cuộc họp đông đảo để học tập đường lối cách mạng của ‘Phong trào Công chức cách mạng quốc gia’.

        Công chức, giáo viên tiểu học sở tại đều phải có mặt. Từ đây Việt Nam độc lập tự do. Tây và Marốc đi rồi, hình Bảo Ðại bị hạ xuống, thay bằng hình Ngô Thủ tướng.


        Việc dồn dập làm xã Cuột rối trí. Hết học tập đến bắt dân đi bầu ‘Trưng Cầu Dân Ý’ gì gì đó. Dân Sóc dốt đặc, mà xã Cuột hơn họ bao nhiêu. Người cán bộ Công dân vụ giảng giải rõ ràng khúc chiết đầy đủ mà ra khỏi phòng xã Cuột quên gần hết.

        Chỉ nhớ là để hình Ngô Thủ tướng vô bao thơ rồi bỏ vô thùng phiếu, hình Bảo Ðại thì bỏ vô giỏ rác. Mấy người Công dân vụ nói sao dễ nghe, mà dân thấy lạ lùng lo âu vì họ quen hình ông Bảo Ðại đã lâu, hình ông Ngô Thủ tướng lạ quá, ‘bỏ vô thùng làm gì?’.

        Xã Cuột cẩn thận dặn dò từng người trong xã, ‘Ai không nghe lời thì đừng trách à! Ở tù mục xương à!’.
        May mắn là các giáo viên lo giấy tờ ghi chép, nghe nói, các ông Công dân vụ vừa ý lắm, 99 phần trăm bỏ cho Ngô Thủ tướng.

        Xã Cuột lo âu vì học tập liên miên, câu nào câu nấy dài nhớ không xuể. Chức xã trưởng là chức hàm, có tiếng không có miếng, chỉ hưởng vài đặc quyền nhận chút đỉnh quà cáp ơn nghĩa.

        Ngoài ra xã Cuột sống hoàn toàn nhờ bà vợ tảo tần mua bán tre, măng và vài công đất ruộng cho mướn lấy lúa ăn hàng năm. Nếp sống thanh bần dễ dãi làm xã Cuột ù lì ra. Sáng cà phê ở tiệm nước người khác trả tiền, chiều hay luân phiên mời nhau nhậu, say thì lảo đảo về nhà ngủ.


        Từ hồi Ngô Thủ tướng lên tới giờ, công tác học tập đổ đầu liên miên. Tuổi trên 40 khó nhớ vì lâu quá không cần xử dụng ngôn ngữ cầu kỳ, xã Cuột nhơi từng chữ vô nghĩa ‘Cần lao, nhân vị, cách mạng ...’ từ ngữ quá tầm hiểu biết. Sau khi họp học tập lại thêm cái trò hát hò.


        Người cán bộ Công dân vụ răng hô giảng thao thao bất tuyệt, chữ này liền chữ kế. Xã Cuột nghe chưa hiểu câu trước thì ông cán bộ đã nói xong câu sau.

        Xã Cuột thán phục khả năng ăn nói trôi chảy hàng giờ mà vẫn còn chữ, nói không biết mệt, trong lúc mình nghe mới chừng đâu mười phút đã sụp mí mắt, trong đầu xã Cuột chỉ có măng tre, măng tầm vông và những đống tre chất chồng trước nhà.


        Ông cán bộ Công dân vụ ráo riết dạy bài hát ‘Suy tôn Ngô Thủ tướng’. Anh quơ tay đánh nhịp cất giọng, ‘hai, ba’. Bao nhiêu năng lực hăng hái trong người ông trào lên gương mặt nổi gân để bắt đầu. Các giáo viên, thầy ký già lép nhép theo lõm bõm.

        Từ xưa tới giờ, họ hát quốc ca chưa xong. Mỗi lần lễ lạc là bọn học trò hát. Ông Công dân vụ giảng, ‘Mình phải hiểu ngày xưa Ngô Thủ tướng đã nưu gót nơi quê người, để tranh đãu cho tự do, độc lập.

        Công nao người, chúng ta phải ghi nhớ. Thế thì, chúng ta thấy rằng thì nà, chúng ta phải cố gắng học tập để theo gương người, nào, nàm nại! Ai bao năm, hai, ba!’
        Bài hát chép trên bảng, mọi người chép lại về học cả tuần mà chưa thấy ai tự tin. ‘Ối giời! Thế mà cũng là công chức’.

        Sự nhiệt tâm thiện chí của ông Công dân vụ cũng có giới hạn vì sự kém cỏi của cử tọa. ‘Hát nại đoạn nầy! Bao công nao hồn sông núi ghi muôn đời. Hai, ba!’ Càng khuya, nhà đèn sắp tắt điện, ông Công dân vụ gào thét, ‘Ngô Thủ tướng! Ngô Thủ tướng muôn năm!’.

        Ông hạ giọng ‘Toàn dân VN nhớ ơn Ngô Thủ tướng, xin Thượng đế ban phúc nành cho người’.
        Mí mắt xã Cuột sụp xuống trong âm thanh ồ ồ trong phòng, xã Cuột lơ mơ thấy đống tre xanh chất trước nhà và tiếng trả giá của bạn hàng. Tiếng ông Công dân vụ chí choét.

        ‘Này, này, hát tới đoạn ‘Xin Thượng đế ban phúc nành cho người’ thì phải ngước mắt nhìn lên như mình đang cầu nguyện Chúa ban phúc nành cho Ngô Thủ tướng chứ đâu gật gù như ngủ gật vậy? Nào. Hát nại câu nầy’.

        Hắn chắp tay ngước lên say sưa hát cầu nguyện. Tiếng nhừa nhựa trong phòng lọt ra sân Nhà việc.
        Hơn mười giờ đêm, xã Cuột lủi thủi ra về lo ngại cho địa vị bị lung lay.

        Mấy ông cán bộ Công dân vụ hình như có quyền lắm ở trung ương gì đó xuống, không khéo mình bị báo cáo mất chức như chơi, vì đã hai tuần mà chưa thuộc bài ‘Suy tôn Ngô Thủ tướng’. Các thầy ký, thầy giáo nhờ chữ nghĩa giỏi, mỗi sáng chào cờ bọn học trò đều thuộc bài hát trôi chảy.

        Hay hơn nữa, bọn học trò còn có khả năng đặt lời mới cho bản nhạc: ‘Toàn dân VN nhớ ơn tô hủ tiếu, tô hủ tiếu, tô hủ tiếu nước lèo!’ Xã Cuột thấy bọn trẻ có lý, thèm thèm tô hủ tiếu, nhăn mặt cười nhẹ.


        Vừa về tới nhà, bà vợ không thể cảm thông nỗi khổ đè nặng tim óc xã Cuột, cất giọng the thé chướng tai, ‘Nè, người ta giao tre mà không chịu ở nhà coi ghi sổ, tối tối lo đi hát, đi hát rồi có ai nuôi không?’.

        Xã Cuột ngộp thở, lầm bầm, ‘Con vợ mình ngu quá, ai muốn đi hát cho cực thân, lịnh trên bắt buộc, làm sao giải thích cho nó hiểu?’
        Ông Bảo, chủ tịch quận bộ Phong trào Công chức cách mạng quốc gia, được ăn trên ngồi trước, được gọi ‘Ông Quận

        phong trào’, vợ ông lên chức ‘bà Quận’ (bỏ chữ ‘phong trào’ vì dài giòng) danh giá không kém bà quận trưởng, lại có thể mua tôn sắt Ấp chiến lược bán lại lời cũng khá. Hôm đi Châu Ðôc, địa vị cao sang không cho phép bà ngồi chờ ở bến xe, bà dặn

        thằng Xăng lơ xe Tân Thành, ‘tới giờ chạy, ghé rước bà Quận nghe’ .Thằng Xăng tối dạ, lập lại y chang cho chú Óc Êng tài xế , chú chạy lên Chi khu rước bà Quận trưởng. Ðám xe đò không biết phân biệt bà Quận Chi khu và bà Quận Phong trào, cái đồ

        ngu. Chỉ có vợ xã Cuột, xã Phên, xã Xân ... và dân rẫy ruộng bái xái vì chương trình này, quốc sách nọ. Khốn nỗi, xã Cuột là gạch nối giữa chính quyền, trên đe dưới búa. Lúc trước dân xã xem xã Cuột như người thân trong gia đình, hàng xóm.

        Bây giờ chưa đến đỗi ghét, nhưng mỗi lần xã Cuột tới nhà ai, là y như họ tìm cách lánh mặt, xã Cuột thấy mình bơ vơ ở chính xứ sở mình.
        Bà vợ càng nhọc nhằn hơn vì chiều nào công việc còn đăng đăng đê đê, đống tre nằm la liệt trước nhà, cần xé

        măng chưa lột vỏ để xắt phơi khô, còn đâu thì giờ rang gạo xay thính trộn mấy lu mắm. Hai đứa con gái lớn tuổi nhờ cậy được thì rửng mỡ theo đi rầm rập ngoài đường, ‘Phong trào phụ nữ liên đới’ đó à!
        Cả năm nay xã Cuột cuống cuồng vào

        guồng máy, hết phương vùng vẫy. Ðứa con trai lớn chiều chiều đi tập Thanh niên Cộng hòa may bộ đồng phục xanh. Hai đứa con gái cũng phải đi tập Phụ nữ bán quân sự, bao nhiêu việc

        nhà đổ trên đầu vợ, bà chột dạ cảm được sự khổ tâm của chồng con, nên thường làm đồ nhậu mời mấy ông Công dân vụ cho chồng ‘giao thiệp’.

        ***


        Xã Cuột lủi thủi ra về, bước chân nặng chĩu lo âu. Cả tháng nay học tập Quốc sách ‘Ấp chiến lược’, lần này nặng dữ ạ! Ðêm nào cán bộ Công dân vụ cũng giảng dạy, cử tọa ghi chép không ngừng, mặt người nào cũng nghiêm trọng. Xã Cuột càng

        lộ cái dốt, vừa đi vừa lẩm nhẩm những danh từ bí hiểm, ‘cần lao, nhân vị, đồng tiến, quốc sách ...’, nhiều quá nhớ sao cho hết nè trời. Những danh từ đó không dính dáng gì đến màu tre

        mở, lồ ồ xanh giúp gia đình xã Cuột no cơm ấm áo.
        Mãi suy nghĩ vẩn vơ, xã Cuột vấp ngạch cửa té nhủi trên chõng tre, thở dài thườn thượt. Bà vợ lúi húi lột măng hỏi, ‘Gì tới nữa rồi’? Xã Cuột lắc đầu, kiệt sức hết khả năng trả lời giọng mỉa mai của

        vợ, chỉ còn nước rủa thầm, ở Nhà Việc thì ông Công dân vụ, ông quận Phong trào chỉ thị nghe lùng bùng lổ tai, về nhà vợ đay nghiến. Xã Cuột nằm sầm xuống chõng, không màng cơm nước, nhắm mắt vẩn vơ nghĩ cách nói cho người ta nghe lọt vô

        tai. Từ đây dân trong xã chẳng những không ưa mà còn thù hận mình suốt đời chỉ vì có tin động trời sau khóa Ấp chiến lược. Từ thuở nào tới giờ, dân Sóc ở rải rác quanh vùng, ruộng rẫy ở đâu, nhà cửa mồ mả ông bà ở đấy. Bây giờ có lịnh dời

        nhà cửa vô khu, đốn tre rào lại. Dân Sóc phải cơm ghe bè bạn mang cuốc xẻng công tác đào hào, đắp bờ, lấy tre nhọn cắm cọc chung quanh.
        Mấy ông Công dân vụ nói sao nghe hay quá, nào là vì công ích chung, an ninh, đồng tiến, cứ giảng cho dân

        chúng hiểu rõ quốc sách, họ sẽ tự động xung phong hy sinh, ‘bền gan tranh đấu cho cách mạng thành công’ như bài hát hàng đêm.
        Ðến khi xã Cuột mở miệng thì bị dân chống đối ngay. Làm sao dời nhà cửa, mồ mả vô một chỗ, xa ruộng rẫy,

        cạp đất ăn à?. Dân Sóc trả lời làm xã Cuột nghẹn họng, những điều học hỏi ở khóa Ấp chiến lược không giúp xã Cuột thành công, ngược lại, phải gánh thêm ân oán.
        Dân Sóc hãi hùng nguyền rủa đám xã Cuột, xã Phên, xã Xân nhưng khi đại đội

        Bảo An đến lùa dân đi xây ấp thì họ riu ríu, ai cũng đi công tác, không đi được thì cũng phải mướn người như mấy ông chủ tiệm ở chợ quận.
        Xã Cuột tránh nhìn người đào hào cắm chông quanh ấp, một ông già áo quần bê bết bùn đất ẩm mồ hôi, nón

        lá rách bươm, trúng gió, mặt mày xám như gốc cây mục, ngồi lọt trong cái ky xúc đất có hai người khiêng đi buổi chiều nọ.

        Xã Cuột tủi thân suýt rớt nước mắt. Mãy giáo viên điều động công tác kể lại cho vợ con nghe giống như thời Tần Thủy Hoàng bắt nho sĩ xây Vạn lý Trường thành.
        Vật dụng cất nhà theo như chỉ thị thì được cung cấp, xã Cuột hứa hẹn với dân

        trong xã y như những điều hứa hẹn của quí vị trên quận.

        Nhưng hỏi lại thì phải mua ở các tiệm bán đồ sắt. Dân quen mặt chửi xã Cuột nói dóc, mặt dày.
        Công tác phải hoàn thành thật gấp cho đúng ngày để các ông lớn trên Saigon xuống

        khánh thành. Dân phải đào chuối có trái sẵn trồng lại, ao đào xong tìm một mớ cá thả vào, gia súc ở đâu chở lại phân phát cho đầy chuồng, sau khi khánh thành phải trả lại.
        Vạn lý Trường thành xây cũng xong, nói chi cái ấp nhỏ này.

        ***


        Ngày khánh thành, xã Cuột mặc quần áo mới tới khán đài tập dượt hoan hô. Học trò được hát bài ‘Suy tôn Ngô Tổng Thống’ cho đều. Cán bộ Công dân vụ được tăng cường đôn đốc bắt máy điện và hệ thống âm thanh. Mãy tiểu đoàn lính đến đóng

        quanh để giữ an ninh trước cả tuần. Dân ở chợ quận xuống từ đêm trước để kịp dậy sớm đứng xếp hàng từ lúc mặt trời mọc.

        Dân xã thì đứng trong khoảng đất có căng dây, được dặn dò là phải ăn mặc tươm tất.
        Ðộ mười giờ sáng thì trực thăng đáp xuống. Tiếng hô của toán lính dàn chào nghiêm trang làm đám dân quê đứng lố ngố im lặng. Một ông mặc đồ lớn bước xuống

        trực thăng đi về phía khán đài. Ông người mập mạp, cao lớn, mắt ti hí, mặt mập phính ra. Vợ xã Cuột và các bà tò mò nhìn cho biết mặt, liên tưởng tới mặt những con heo trong chuồng.

        Một lát sau, chiếc trực thăng khác đáp xuống. Một ông khác mặc đồ lớn màu trắng, mập và lùn, đi lẹt đẹt như con vịt xiêm lai. Không khí thành nghiêm trọng, toán an ninh nhốn nháo. Có tiếng hô chát chúa trên máy vi âm: ‘Hoan hô Ngô Tổng

        Thống!’. Các thầy giáo mặt sưng lên, trừng mắt ra hiệu cho học trò la theo. Xã Cuột chỉ huy dân xã mình, trợn mắt biểu la cho thật lớn nhiều lần theo lịnh ồ ề trên máy vi âm.
        Vợ xã Cuột nhón người lên nhìn cho rõ ông lớn trên khán đài. Cái không

        khí chán chường đã biến mất nhường lại cho không khí trang trọng trên khán đài. Hai toán lính dàn chào đứng yên thẳng tắp như toán hành quyết tội nhân. Các bà trên khán đài ăn mặc rực rỡ, cười toe toét, nữ trang chói lọi trên ngực, trên tai.

        Các ông ậm à trên máy vi âm, ông nào ông nấy ban ‘huấn từ ’ cả giờ, nói vừa dai vừa khó hiểu, dân Sóc trong đó có xã Cuột đều không hiểu ổng nói gì.
        Buổi lễ chấm dứt bằng tiếng hoan hô vang dội. Lính tráng rải ra đi quanh các ông. Các ông đi

        quanh ấp quan sát, chỉ ao cá, chỏ bụi chuối, cười cười nói nói vui vẻ lắm. Ðám người đi theo khúm núm gật đầu đồng ý. Ổng ậm à khen cây chuối nhiều buồng, đất mầu mỡ, cá đầy ao.


        Mấy chiếc trực thăng bay đi, mọi người thoát nạn, nhẹ nhỏm, nhứt là dân chợ. Các chuyên viên lo thâu dọn hệ thống âm thanh, hạ khán đài. Công chức, giáo viên, học sinh chen chúc

        lên xe đò chờ sẵn về quận. Tuy xã Cuột là xã trưởng nhưng nhà ở gần quận, vì lý do an ninh không dám ngủ lại đêm.
        Dân Sóc lục tục kéo về cởi bộ áo quần sạch, trở lại với bộ áo quần lam lũ vác cuốc ra rẫy, bực bội vì phải đi cả mấy tiếng đồng hồ

        mới tới rẫy ruộng, rủa thầm: ‘Bầy đặt không hè! Dọn vô đây rồi lấy đách họ ăn, người ta đi xe hơi, đi máy bay, áo quần sang trọng, chớ có đi cẳng không, lội xuống bùn bị ô rô cóc kèn cắt chưn thành ghẻ lở đâu mà biết.’
        Toàn dân Việt Nam

        nhớ ơn Ngô Tổng Thống, nhưng họ ra mặt nguyền rủa xã Cuột vì xã Cuột trực tiếp, hơn nữa họ đâu dại gì động chạm với chánh quyền.
        Ðêm đó ở quận tổ chức liên hoan mừng lễ Khánh thành Ấp chiến lược thành công, ai nấy hể hả, nhứt là các cán

        bộ Công dân vụ và các ông trong Phong trào. Xã Cuột có chân trong ban tổ chức, sắp xếp bàn ghế. Ðồ ăn có các tiệm cơm, tiệm nước cung cấp, rượu có đề bô la ve khiêng tới. Vừa sắp ghế, xã Cuột than thầm, ‘Cứ bày đặt ra bắt mình thi hành, riết

        rồi bà con lối xóm tưởng mình chia chác’. Rầu hơn nữa, Quận Sữ lại bắt đầu kêu các cô Thanh nữ Cộng hòa lên quận trình diện gì đó, trong đó có hai đứa con gái xã Cuột. Ðám ở chợ ai cũng có thân nhân ở tỉnh hoặc Saigon, họ đưa con gái họ đi

        lánh nạn, còn xã Cuột không lẽ đưa con mình vô xã Ô lâm?
        Xã Cuột trưởng thành dần về chính trị tuy chưa thể bắt kịp phong trào, tự biết mình sẽ bị đào thải không biết lúc nào. Cứ lâu lâu

        lại học tập đường lối phong trào, gây quỹ phong trào. Dân Sóc chống đối ra mặt đã đành, mụ vợ ngu dốt ở nhà không kiêng nể gì cả.

        ***


        Ðêm nay họp Ủy ban Tái thiết Dinh Ðộc Lập. Mãy ông Công dân vụ thừa khả năng thuyết phục cử tọa đồng ý ủng hộ việc tái thiết hoàn toàn. Công chức giáo viên là thành phần nồng cốt, vì áo cơm chịu đựng sáu năm nay, quyền lợi họ không bị

        thiệt thòi nhiều nên khó tìm lý do chính đáng và can đảm có ý kiến khác. Bây giờ chính họ cũng phải góp phần về tài chánh.

        Không khí ngột ngạt trong phòng, ai cũng giữ thái độ im lặng, chờ xem, chưa chịu hưởng ứng ồn ào. Ông Công dân vụ khua môi múa mỏ, ‘Ðây là vấn đề thể diện quốc gia, Dinh Ðộc Lập là chỗ tiếp tân khách ngoại quốc. Nếu không sửa chữa lại, nó vẫn

        còn tàn tích của thực dân phong kiến. Chúng ta, toàn dân, phải tích cực đóng góp, phá hết tàn tích cũ, xây dựng lại mới hoàn toàn cho xứng đáng chỗ Ngô Tổng Thống làm việc.’
        Ông Cả Loi, người thâm trầm, một nhân sĩ trong quận vì có ruộng đất, thuộc giới giàu xưa.

        Thường khi ông ít nói, rất tiết kiệm lời nói (thật sự vì ông chưa học tới lớp ba), đêm đó ông buột miệng ngắt lời cán bộ Công dân vụ, ‘Cái nền nó cũng đào nữa hả?’ Tiếng phì cười biểu đồng tình vô tội vạ hóa giải không khí nghiêm trọng dối trá

        trong phòng họp, như cảnh người ta đang phúng điếu mà quan tài bị đứt néo, xì thúi cả phòng, chấm dứt buổi họp vì đã quá khuya, nhà máy điện sắp tắt.
        Mọi người lãnh vài xấp số Tombolla gây quỹ xây nhà thờ ở Vĩnh Long mang đi chia. Xã

        Cuột cũng không tránh khỏi.
        Xã Cuột cố lẫn tránh nhưng lúc đi ngang lò heo, già Chiêu và đám cạo heo nhao nhao, ‘Tại sao thứ sáu, chủ nhựt không cho cạo heo?’ Xã Cuột trả bài, ‘Lịnh trên nói là thiếu thịt.’ Ðám cạo heo la ỏm tỏi, ‘Thiếu đâu mà

        thiếu, heo bán còn không hết, phải muối làm lạp xưởng. Muốn bao nhiêu vô Sóc bắt cũng có. Mãy người bán bánh hỏi thịt luộc, cháo lòng, hủ tiếu đóng cửa nghỉ lấy gì ăn đây? Ông trả lời cho tôi coi!’ Xã Cuột lầm lũi đi, trăm dâu đổ đầu tằm, nghẹn

        họng, lại thêm mụ vợ mua chịu thịt heo của già Chiêu thường xuyên không tiền trả, ‘Khổ quá chánh phủ ơi!’
        Về nhà nạo tiền vợ đóng góp quỹ tái thiết cho Ủy ban, mụ vợ lại là loại điếc không sợ súng, tru tréo, Xây Dinh Ðộc Lập cho ông ở sao mà

        ông lo dữ vậy? Nhà cửa sao hổng lo? Trời không có mắt, máy bay liệng bom sập cho chết cha nó hết cho rồi. Xã Cuột chột dạ, thấy vợ nói đúng ý mình, hạ giọng nhỏ nhẹ, Thôi mà, không đóng nó bôi tên tôi rồi sao?

        ***


        Xã Cuột khệ nệ bưng cái thùng giấy cạc tông về, lén lút nhìn quanh quẩn giống con gà nòi thua độ. Căn nhà gỗ lợp ngói, phòng trước rộng nhưng xã Cuột chưa tìm được chỗ vừa ý.

        Nhìn tới nhìn lui. Cái bàn giữa nhà dành tiếp khách, ăn cơm, có sẵn bình trà đựng trong vỏ trái dừa khô bên cạnh cái dĩa nhôm với bốn cái ly nguyên tử. Xã Cuột ngẫm nghĩ, ‘Không lẽ để ổng trên bàn, mấy đứa nhỏ ăn cơm, lỡ đụng rớt bể thì mang họa.’

        Các chủ tiệm ở chợ có tủ kiếng, để ‘ổng’ vô tủ kiếng trên cao, ‘ổng’ độ cho làm ăn khá, ma quỷ tránh xa. Khốn nỗi trên tủ thờ nhỏ hẹp lại bề bộn bài vị, không chỗ nào trống. Xã Cuột than,’ Rước cái của nợ về, trời ơi là trời! Ðúng là nợ, phải đi

        mượn nữa rồi!’, chớ làm sao nạo tiền vợ hoài, rồi gia đình cứ xào xáo. Cuối cùng xã Cuột đành dời ống đựng bó nhang, rồi mở thùng cẩn thận lấy bức tượng đặt lên chỗ vị trí tốt nhứt, dễ

        thấy nhứt, ngắm nghía.
        Xã Cuột nằm dài trên chõng tre gác tay lên trán rầu rĩ, ngài ngại bà vợ về thì trả lời sao cho hợp lý.

        Bức tượng giá năm trăm đồng, bao gạo chưa tới ba trăm, nhà đang cơn túng bách, tre bán không chạy, măng đã hết mùa.


        Cả mấy ngàn bức tượng thạch cao chở về quận này, phong trào phải phân phát tiêu thụ cho hết. Xã Cuột có bổn phận phải thuyết phục cho dân trong xã nhận tặng phẩm vô giá,

        thường là các nhà có ăn, điền chủ, dân có máu mặt. Chắc chắn họ sẽ nhì nhằng mai mỉa nữa, nhắc đi nhắc lại, nhắc tái nhắc hồi về chuyện tiền tái thiết Dinh Ðộc Lập, tiền ủng hộ Phụ nữ

        liên đới, tiền ... thấy mặt xã Cuột là thấy tốn tiền, mặt xã Cuột hãm tài. Xã Cuột sờ mặt mình, thấy da mặt càng lúc càng dầy, ‘khổ quá ông ơi!’ Riêng công chức, thương gia, giáo viên họ thụ động miễn cưỡng nhận tặng phẩm vô giá trị này. Dù sao họ

        cũng hưởng phần nào mưa móc của quốc sách. Cán bộ Công dân vụ nhờ các tiệm buôn tiêu thụ tôn, số sắt và vật liệu ‘dư ’, tiệm buôn rất vui lòng nhận. Công chức thì được dầu ăn, sữa bột viện trợ chút đỉnh, có còn hơn không. Thương gia mướn

        người đi công tác, công chức giáo viên ngồi trong bóng mát chỉ vẽ, đốc thúc, họ đâu có xuống bùn sâu, tay chân đâu có bị nứt nẻ vì hốt đất?
        Ðám dân bắt đầu lờn mặt, lì lợm ra, nhiều lần tỏ thái độ không thích hợp hay ngược lại chủ trương, đường lối

        Cần lao Nhân vị. Cán bộ Công dân vụ giảng giải trong phòng nghe sao đơn giản dễ dàng quá, ‘Dân sẽ sung sướng, hãnh diện nhận bức tượng vị Tổng thống anh minh của dân tộc, người đã đưa nước Việt Nam bước lên hàng cường quốc trên

        thế giới. Bức tượng là món quà vô giá, đặt ở chỗ cao quý nhất trong nhà, để gia chủ thấy gần gũi kính mến. Họ còn đòi hỏi ân huệ nào hơn.’ Xã Cuột học tập đã lâu nên thông hiểu vấn đề dễ dàng, nhưng lặp lại đúng như lời y ta nói, dân nghe chướng tai.

        ***


        Vợ xã Cuột buông gánh măng le xuống, giở nón lá quạt gương mặt đẫm mồ hôi, thấy đồ đạc ngổn ngang. Bà nhìn châm bẩm thấy bức tượng trên bàn thờ, một lúc sau mới định thần hỏi, ‘Bàn thờ để thờ ông bà, ông mua bức tượng ai thờ vậy?’ Xã

        Cuột lắp bắp, ‘Tượng ông, mấy ông Công dân vụ tặng để chưng cho đẹp.’ Bà chưa kịp hiểu thì xã Cuột ngập ngừng, ‘À, à! Họ tặng, nhưng mình phải đóng năm trăm đồng tiền sở hụi.’

        ‘Hả?’ Vợ xã Cuột hả miệng thét văng cỗ trầu như người ho lao thổ huyết. Mặt bà xoắn lại nhăn nhúm, ‘Năm chăm? Con ở nhà cả bầy không đủ ăn, lấy năm chăm mua tượng về thờ. Làm xã mà ngu ngốc quá vậy.’ Xã Cuột cuống cuồng tát vợ một bốp

        tai nẩy lửa. Dù đã quen nghe vợ tru tréo mấy năm, lần này xã Cuột tát vợ không phải vì giận mà vì sợ, cái sợ lạnh người đối với mật vụ. Người ta ở trên quận đã dặn tuyệt đối cấm dùng chữ ‘mua, bán’ tượng ông.
        Vợ xã Cuột cảm được sự nghiêm

        trọng của cái tát tai, ngồi bệt xuống góc nhà khóc sướt mướt, tiếng khóc nhẫn nhục của bà nhà quê dốt nát nghe não nề làm chính xã Cuột cũng xót lòng, tủi phận mình và thương vợ.

        Chuyện ở đâu ngoài đường đem về nhà hành hạ vợ con, xã Cuột đành cúi xuống an ủi vợ,
        ‘Ðây là tượng của ông, ông Tổng Thống ở Saigon, trên quận tặng cho toàn xã mình để chưng, để gần gũi, kính trọng ông Ngô Tổng Thống. Cái tượng ông

        Ngô Tổng Thống thì tặng không, còn năm trăm là mình tự tình nguyện trả tiền sở hụi xe cộ, mầy hiểu chưa?’ Vợ xã Cuột trợn mắt rống lên,
        ‘Nè, bộ tui ngu hả! Ðây đi Saigon, tiền xe chưa tới sáu chục. Mình thờ ông bà mình, còn tượng ổng thì để con

        cháu ổng cúng. Ai biểu làm tài khôn mua?’ Xã Cuột càng sợ chữ ‘mua, bán’, trên quận dặn là ‘tặng’, mà làm sao nói cho con mẹ dốt này nó hiểu đây. Xã Cuột cố bào chữa, ‘Mà người

        ta nói là ‘tặng’ thì phải nói là ‘tặng’, mầy hiểu chưa?’ ‘Tặng sao đòi năm chăm?’ Vợ xã Cuột xon xỏn. Xã Cuột gằn giọng ‘Tiền sở hụi’.
        ‘Tiền sở hụi gì dữ vậy? Xe đò nào lấy tiền mắc quá vậy, chỉ cho tôi coi. Bộ muốn qua mặt tôi dễ lắm sao?’Chính xã Cuột

        luống cuống, rõ ràng xe nhà binh chở xuống, sở hụi năm trăm là quá, đâu phải chỉ có vợ mình mới biết tính. Xã Cuột ngoan cố thét, ‘Người ta tặng!’ Mụ vợ vẫn quyết không chịu nhịn,


        ‘Tặng sao lấy năm chăm? Tượng này trắng xác, đồng xu tui hổng mua, đem về rủi ban đêm ma quỷ nhập vô phá nhà cho coi!’
        ‘Con ngu ơi! Ðã nói người ta tặng.’ Hai vợ chồng cứ cãi nhau suốt cả buổi vì xã Cuột không đủ khả năng giải thích cho

        vợ hiểu. Mụ vợ dốt chỉ hiểu ‘tặng’ là khác ‘bán’. Mà đâu phải chỉ có gia đình xã Cuột gấu ó vì bức tượng. Khắp trong xã, các bà chất vấn ông chồng tới nghẹn họng, ‘bán’ hay ‘tặng’. Bán hay tặng gì cũng phải trả tiền, chỉ khác hai động từ, cãi cọ lôi

        thôi không đi tới đâu.
        Chỉ có các chủ tiệm buôn gốc Tàu ngoan ngoãn, vui vẻ nhận quà, vợ con không thắc mắc, giá mắc nhưng họ chịu được. Ðêm đó, vợ chồng xã Cuột cũng như hầu hết dân trong ấp khó ngủ. Vợ xã Cuột sợ ma, cứ nhìn lên bàn

        thờ, những đóm nhang đỏ rực, bức tượng trắng bệch như đầu con quỷ. Vợ xã Cuột co rút trong mùng, tưởng tượng cái đầu thở khò khè của con ‘ma lai’ rút ruột, đêm khuya đầu bay là là, kéo theo chùm ruột ra đồng kiếm ăn. Ban đêm sợ ma, ban

        ngày bực tức chồng ngu dại xài tiền vô lối, vì chính vợ xã Cuột phải chạy tiền trả cho cái đầu Ngô Tổng Thống. Bà tức chồng bể ngực, ‘mua’ mà không chịu nói ‘mua’, bắt phải nói ‘tặng’.

        Hai vợ chồng bị từ ngữ ‘mua, tặng’ hành hạ điên đảo.
        Cãi không lại chồng, bà ngồi lê đôi mách, ở đâu cũng đem ra bàn, cãi vã cho bằng được. Các bà khác hùa theo đồng ý với bà, mãi đến khi gặp một người giáo viên quen nói nhỏ, giọng nói nặng

        cân hơn xã Cuột, ‘Người ta trên quận, trung ương dặn, biểu nói là ‘tặng’, nếu nói ‘bán’, nói ‘mua’ thì cũng như mình đem ông Ngô Tổng Thống ra ‘bán’ sao? Vợ xã Cuột vẫn khư khư luận

        điệu cứng nhắc, ‘Nói ‘tặng’ sao phải trả năm trăm? Tiền sở hụi gì dữ vậy, tiền xe đi Saigon có ...’ Ông nọ nghiêm mặt ngắt lời, ‘Sao bà nói bậy bạ quá vậy, mật vụ nó bắt dợt cho mềm xương bây giờ!’
        Từ đó xã Cuột được yên thân ít lâu, bức tượng trên

        bàn bị khói nhang đóng đen như cột nhà cháy, rửa xà bông không trắng được như cũ. Vợ xã Cuột thù dai nhứt định không chịu cúng cho ông đó ăn gì cả.

        ***


        Năm đó, vợ xã Cuột đang bắt radio nghe cải lương, thì nghe ra rả mấy ngày liền, tắt thì thôi, hễ mở ra thì cũng không có chương trình cải lương, chỉ có nghe tiếng tuyên bố ‘quân đội, gia đình trị, độc tài, phong kiến ...’ Xã Cuột đi xăm xăm về nhà

        như ma đuổi, chụp ngay bức tượng chạy tót ra sau nhà, đập vô thành giếng nước bể tan tành. Vợ xã Cuột ngơ ngác như gà mở cửa mả, ‘Cái gì vậy, giận ai mà dám lấy tượng đập bể nát vậy.

        Bộ điên rồi hả? Bộ muốn ở tù hả?’ Xã Cuột hổn hển trả lời, ‘Nghe mấy ông trên quận biểu về dặn dân xã đập cho hết tượng vì tượng đã hết linh, đám Công dân vụ lặn đâu mất, gặp

        chém cho nó một dao cho đứt đầu.’
        Máu tiếc của của bà nổi dậy như sóng cồn, ‘Ðó, tui nói có sai đâu. Ðộng hào của mà!

        Tượng quỷ tượng yêu gì cũng mua về rồi đập bỏ, bây giờ đòi tiền lại được không? Sáng mắt ra chưa.’ Lần này bà có thể

        dùng chữ bán, chữ mua thả cửa. Xã Cuột đã sáng mắt, mặc vợ chửi rủa, bao nhiêu uất ức tám chín năm nay được dịp trào ra.

        Xã Cuột đang trưa nắng mà cũng lên giường bỏ mùng nằm như người bịnh, lo ngại dân trong xã mang tượng trả, đòi tiền lại. Xã Cuột than thầm, ‘Ông ơi, ông ăn tui chịu, bây giờ ông chết tui cũng chịu, khổ quá ông ơi!’

        ***


        Buổi sáng nước lớn ngập đầu bờ kinh chợ cá, rác rưới trên chợ đổ xuống trôi lều bều dưới sông, xế trưa nước ròng. Chợ cá còn đó, con kinh còn đây, nước lớn nước ròng cuốn trôi rác rến đi. Thời gian qua mau, gia đình xã Cuột chưa nguôi ngoai thì

        súng bắt đầu nổ dữ dội hàng đêm, bom dội núi Tô làm cửa sắt ở chợ cũng rung rầm rầm như tiếng súng. Dân Sóc long đong cuộc sống đã đành, thêm máu đổ, khủng bố hàng đêm. Nhà cửa trong Ấp chiến lược cháy tan hoang, mạnh ai nấy bỏ nhà

        tản cư. Những hàng chông tre mục nát, đất chài lấp hào quanh ấp.
        Chiến tranh dạy vợ xã Cuột trưởng thành, hiểu rằng cuộc chiến không phải dành riêng cho lính. Nhà cất thêm hầm tránh pháo kích. Ðời sống tiện nghi hơn với radio, cassette, xe Honda

        thay thế cho xe đạp nhưng đời sống vội vã hơn xưa. Bà vợ xã Cuột chấp nhận nhẫn nhục để chồng đêm đêm đi ngủ nhà khác vì an ninh, hai đứa con trai ngủ trong đồn nghĩa quân. Người ta sống ban ngày, ban đêm dành cho chiến tranh, khủng bố. Ngủ

        tới sáng mới biết mình còn sống. Cái gương chú Năm Ngọc Ðiền đó, hiền như đất, một đêm tên du kích cháu chú về kéo chú ra bắn chết trước nhà, tàn ác chưa!
        Xã Cuột sống qua

        nhiều trào, học được triết lý sống thật đơn giản, ‘Nắng bề nào che bề đó’, nên theo gương ông quận phong trào cũ, vui vẻ tình nguyện như bất cứ công chức nào khác gia nhập đảng Dân chủ. Bà vợ để mặc chồng lo việc chánh trị, miễn đừng nạo tiền

        nhà.
        Sống lâu lên lão làng, xã Cuột có lúc bất bình, lúc rượu vào, khì khà dám nói xéo ông Phó quận trẻ mới đổi về, ‘Nó Quốc gia Hành chánh hả, mẹ, con nít ke!’ Một hôm đi họp đảng Dân chủ về, xã Cuột mang về tấm ảnh lớn, bảo vợ đưa tiền gởi

        ra Châu Ðốc mua khung kiếng để chưng, hình ‘xếp’. Vợ xã Cuột thấy giá không bao nhiêu, lúc hình lộng khuôn treo trên tường, bà vợ nói mát, ‘Nữa rồi, hình thằng cha nào mặt chuột mà lộng kiếng treo, tối nó thành chuột cắn phá cho coi. Ông

        làm chuyện ruồi bu.’
        Xã Cuột nghiêm mặt, bình tĩnh, gương mặt phảng phất vài nét trí thức, chậm rãi nói, ‘Ðây là hình Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nói bậy cho an ninh theo dõi đi!’ Xã Cuột bước ra cười thầm, ‘Con vợ mình không biết chữ.

        Cái miệng ăn mắm ăn muối mà nói đâu trúng đó.’ Hai vợ chồng sống dai hơn hai đứa con trai, tử trận vì mìn ở gần cầu Tà đét.

        ***


        Ngày bọn trên núi Tô kéo cờ đỏ chạy xuống tiếp thu, xã Cuột bái xái vì chức xã hàm và chức đảng viên Dân chủ. Xã Cuột sợ tới ngã bịnh sốt rét, liệt giường liệt chiếu tưởng chết rồi. Bà vợ luống cuống gỡ tấm hình lộng kiếng xuống, bà không sợ hư

        tấm hình, chỉ sợ hư khung kiếng, lẩm bẩm, ‘Thằng cha mặt chuột đi rồi, ai tới nữa đây?’
        Cuộc sống khốn khổ quá sức tưởng tượng đối với bất cứ người dân nào trong xã. Năm đó

        trời lạnh, lại mất mùa, mặc mấy lớp áo mà vẫn lạnh run cầm cập. Cá, cua chết phơi bụng trắng dưới ruộng sâu; mùa lúa bị sâu rầy phá tiêu. Vợ xã Cuột đã quen cực khổ, chạy chọt buôn bán đắp đỗi nuôi chồng và đứa cháu. Mỗi lần đi học về nó hát

        nghêu ngao, ‘Ai yêu em bằng bác Hồ’, bà dằn không được, chửi đổng, ‘Thằng cha mầy, tao thương mầy chớ ai thương?’ Phần xã Cuột thì khép nép theo công an xã, được giao cho việc lấy

        danh sách người đi công tác đào kinh, thanh niên tới tuổi đi nghĩa vụ. Số xã Cuột vướng toàn những việc chọc chúng ghét, lúc trước vì thời thế, vì chức xã, bây giờ vì cái hộ khẩu.

        ***


        Xã Cuột đặt khuôn hình ngay ngắn trên bàn thờ, hình có hàng chữ Không có gì quý hơn độc lập tự do. Xã Cuột đọc hoài mà không nhớ cho trọn vẹn câu này. Trên huyện đưa xuống thi hành, vợ thì gánh gồng chạy ăn từng bữa, khó hiểu lý thuyết

        này nọ, điều này dễ hiểu vì bà không biết đọc chữ Miên lẫn chữ Việt. Bà may mắn có trí nhớ thiên phú nên mua bán không lầm lẫn. Ở xứ này cả đời mà chưa biết mặt ông Quận trưởng, ông

        Huyện ủy lần nào, nhưng đặc biệt bà có khả năng nhận xét khá đúng, nếu làm nghề coi tướng chắc bà phát tài mau lẹ.

        Thoáng nhìn bức ảnh trên bàn thờ, không cần đọc hàng chữ gì gì đó, bà bốp chát phủ đầu chồng như thường lệ,’ Nữa, nữa, lại đem cái hình lên thờ nữa rồi!’ Xã Cuột cuống quýt ngắt ngang, Im nghe, ‘công an nó nghe được là học tập cải tạo chết mẹ hết

        bây giờ.’
        Họa vô đơn chí, dân gốc Miên bị đuổi khỏi quận vì tình hình chiến sự với Khờ me đỏ. Xã Cuột và gia đình lưu lạc đâu ở Chương Thiện mấy năm. Nhà cửa bị giỡ lấy hết cây và ngói, còn lại nền cỏ hoang mọc hoang tàn, gia súc bị bán rẻ cho người ta làm thịt.

        ***


        Mấy năm sau, gia đình xã Cuột dẫn dắt nhau trốn về vì xứ người khó sống, cùng đường thì hết sợ. Vợ chồng xã Cuột ngồi chồm hổm với đứa cháu, cú rũ, hãm tài. Hai ông bà trên sáu mươi, nghị lực bị đốt cháy sau mấy lần đổi đời, ông thở dài

        ngao ngán. Một thằng con nít lóc chóc đeo súng đi qua, mặt non choẹt điếm đàng, hất mặt hỏi, ‘Ủa, ai cho mấy người về vậy?’ Không biết ông thần đất nào nhập, ông thần Leo Teo ở xứ này nhập thì đúng hơn, vì ông ngồi trên nền nhà cũ, xóm

        Tà Păng Flức, gần chòm mả. Xã Cuột chụp cây dao dâu nhào tới vớt đầu thằng nhỏ. Nó chạy thoát thân, la hoảng.
        Thiên hạ ngạc nhiên thán phục, quên hết chuyện ngày xưa xã Cuột gây

        ra, họ thấy xã Cuột rượt theo thét, Tao cáp mầy, tao cáp mầy, thằng con nít ke!
        Ðêm đó, gia đình xã Cuột nằm co ro trước chái nhà bà Ten. Gió từ núi Tô về lạnh buốt, hai vợ chồng và

        đứa cháu lấy tất cả áo quần quấn quanh người, chen chúc tìm hơi ấm, họ ôm ấp nhau đầm ấm qua những thăng trầm, còn sống, còn thương nhau là quý. Bà vợ lần áo lấy đồng xu cạo

        gió cho chồng, óc hài hước nổi dậy, bà hỏi chồng, ‘Từ đó tới giờ mới thấy người ta gan lần này á.’
        Xã Cuột run giọng vì lạnh, trả lời: ‘Choi me! Sợ cái gì nữa? Mặt quỷ, mặt chuột, mặt chồn

        gì tao cũng cáp chết mẹ nó hết! Chưa đã nư, xã Cuột la lớn cho bọn công an nghe, Choi me! Thằng nào giỏi lại đây!’
        · Viết để nhớ những người dân chơn chất quê tôi.· Kính dưng hương

        hồn củ Xã Cuột, người cao ráo, dáng đi ngúc ngắc như cây tre bị gió thổi, thuở sinh tiền đến lúc nằm xuống, cố hết sức không làm buồn tới đứa con nít.
        · Viết nhớ củ Xã Xân, Xã Phên. Trước 75, giúp đỡ bao nhiêu người, Cộng sản vào lây lất sống, được

        mấy người mời ly cà phê sáng? Ôi! Nhơn tình nhơn ngãi.
        · Chú Năm Ngọc Ðiền ơi! Mãy năm liền thi rớt, về quê, đi ngang tiệm chú, chú cười thông cảm. Chú Năm nói chuyện nhỏ nhẹ, cười không ra tiếng, ngồi đạp phùm phụp con cóc nhỏ trong tiệm

        vàng ở góc chợ. Chú nuối bầy cháu cho nó học nghề, chú không làm mất lòng ai trong chợ, dù là với tiệm vàng của ý Kim Lưng, vậy mà một đứa cháu chú nuôi, một đêm năm 1970, phá cửa bắt chú bắn chết trước mặt thím Năm. Tổ cha

        thằng mọi rợ tàn ác! Chú Năm à, Nghỉ vẫn nhớ thương kính trọng chú, Nghỉ chưa quên được gương mặt cười hiền lành cảm thông của chú mỗi lần Nghỉ qua tiệm chú!
        · Cảm ơn anh Giáo Chói, xin lỗi anh, vì tôi quên mất họ anh. Anh là giáo viên đầu

        tiên có bằng Trung học đệ nhứt cấp và có học một năm Quốc gia Sư phạm, anh lại làm hiệu trưởng trường Việt Nam xứ tôi.

        Anh lấy vợ ở xứ tôi, đứng về phía dân quê tôi. Ðêm nào tôi cũng nghe anh kể chuyện xảy ra trong các buổi họp, các công tác Ấp chiến lược. Tính tình anh trung thực và khôi hài.

        Sau năm 75, anh nói anh làm nghề ăn quần, đứa cháu anh ở Mỹ gởi quần jean về cho anh bán để tiêu xài. Cám ơn anh!
        · Còn những người theo đóm ăn tàn xin miễn nhắc.

        Brisbane, những ngày nắng cuối năm 92.




        GHI CHÚ
        (1) Ông Leo Teo: Khoảng trước năm 1920, xóm Ô Lâm có vị thần Leo Teo, thường đêm bóng ông hiện dang hai chân đùa những người yếu bóng vía.
        (2) Càu Vịnh Tre: (Dịnh Tre?) Ở khoảng giữa đường Châu Ðốc - Long Xuyên. (3) Quần Cành Tăng, áo Phá Lãu: Loại áo quần may rất đơn giản.
        (4) Rau ngành ngạnh: Loại lá nhỏ hơn lá xoài, ăn chua chua, nghe nói Long Thành cũng có.
        (5) Trứng trăn: Màu trắng nhỏ hơn nắm tay từng chùm dài, luộc ăn béo béo. (6) Ám độc: Bài học thuộc lòng.
        (7) Bánh thốt nốt: Bánh bột gạo, chất ngọt làm bằng sơ trái thốt nốt chín vắt ra, rải dừa nạo trên mặt, gói bằng lá chuối rồi đem hấp.
        (8) Bánh gói: Bánh làm bằng bột gạo, gói theo hình vuông và mỏng. Có nhưn đậu xanh, chan nước dừa.
        (9) Khi đứa bé bị bịnh tà, người Miên tin là ma sợ voi, nên ném đứa bé dưới bụng voi cho ma xuất ra.
        (10) Sóc mẹt: Xóm hẻo lánh quê mùa.
        (11) Ðứt néo: quan tài đứt mối giây, bị xì hơi, rất thúi.

        (12) Cạo heo: mổ heo.
        (13) Ly nguyên tử: loại ly thủy tinh pha plastic nội hóa, rớt không bể.
        (14) Ðộng hào của: làm cho tốn tiền.

        (15) Chồn đèn: loại chồn lớn, dữ và quỷ quyệt, khác loại chồn mướp hay chồn hương.

        (16) Dao dâu: dao dài độ 80 cm, nặng, rất bén, đầu dao cong có thể xắt chuối nuôi heo,
        hoặc dùng để móc dừa, thốt nốt trên cây.
        (17) Cáp: chém.

        (18) Chái nhà: hiên nhà.
        (19) Choi me: tiếng chửi thề của Miên.

        Graceville-Australia-1992


        Lưu Nhơn Nghĩa
        thatsonchaudoc
        sigpic

        Comment


        • #19
          Như Cánh Chuồn Chuồn

          Ðổi Trao Hạnh Phúc
          __________________________________________



          Tiếng gà gáy vang đầu xóm đánh thức mọi người trong Sóc dậy. Bầy vịt nhốt chung chuồng cũng phụ họa theo, ai muốn ngủ nướng thêm cũng khó.

          Dân Sóc thường dậy sớm hơn gà, họ làm việc không biết mỏi mệt, không biết nóng dù mặc toàn vải thô đen nhuộm mặc nưa.

          Mưa thì đội cái cà ròn cắt chéo, đủ che đầu và mình, nhưng thường họ ở trần cho đỡ hao quần áo. Trẻ con lam lũ như cha mẹ, gái lớn lên đã biết giữ em.

          Trời sinh trời dưỡng, bọn trẻ hàng ngày chạy nhảy, lăn vùi trên đường lởm chởm đá xanh nóng bỏng, đá núi bén như dao nhô trên cát, mà không thấy đứa nào đứt tay đứt chân.

          Mặt mũi lem luốt bẩn thỉu, ruồi bu đuổi không bay, ở trần trùng trục, thiếu ăn thiếu mặc mà đứa nào đứa nấy cũng mập cùi cụi như gấu con.

          Sóc nằm về phía Tây của ngọn núi Nam Vi, có con lộ đá gồ ghề chạy ngang, thật bất lợi về địa thế. Muốn chở hàng đi bán phải chở bằng xe lôi xuống chợ Cây Me đón xe hàng ra Châu Ðốc, lại thêm nạn bạn hàng dìm giá, dù vài gánh rau hành mắc rẻ bao nhiêu mà cũng so đo cắn đắng. Sóc này xưa nay chuyên nghề làm nồi, nhờ có mỏ đất sét gần đó.

          Ðàn ông hàng ngày đánh xe bò móc đất sét chở về. Ðất sét khá mịn, màu gạch tôm đỏ au, cộng thêm sự khéo tay của phụ nữ mấy đời, nên nồi xứ này rất nổi tiếng. Thời đó, khoảng trước 1959, ghe thương hồ đến tấp nập đầu kinh chợ Xà Tón hay kinh Cây Me chở nồi đi bán khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh.

          Nồi xứ này có tiếng rẽ lại tốt, nhờ mỏng, nhẹ và chắc. Một cái trả bề ngang khoảng sáu tất tây, cao gần năm tất, bề dầy chừng hai phân, không tráng men, dùng luộc bánh tét, bánh ít vào dịp Tết.

          Khó tưởng tượng một cái trả kích thước chừng ấy dùng đựng bánh canh của Ý Hiệu và nồi chè đậu trắng của dì hai Quẻn bán mỗi buổi sáng. Trả đóng khói đen xài không biết bao lâu mà chưa thấy bị xạt lần nào dù nó được đặt trên cái cà ràng ông Táo nặng chừng hai ký lô.


          Trong Sóc chỉ có vài căn nhà gạch cũ kỹ, tường đá nứt lổ chổ, ngói xanh rêu, gốc các nhà giàu xưa, bây giờ đã suy sụp, hoặc dời ra chợ ở. Hầu hết đều là nhà lá. Trong nhà luôn luôn có tiếng đập đất sét bành bạch từ sáng tới chiều. Ngoài các lò nung, nhà nào cũng có sân rộng để phơi nồi trước khi nung.

          Trước nhà ngổn ngang nồi, cà ràng, om, khuông bánh khọt, đủ loại chất cao gần mái nhà, chờ chở ra chợ.
          Pù Rum đứng đạp đất sét cho nhuyễn, có khi phải cúi xuống gỡ những miếng đá lẫn trong đất.

          Pù Rum làm không biết chán nhưng không hứng thú, đạp như người máy. Sau đó mới vác cuốc vô rẫy. Làm rẫy theo mùa, cực là lúc tưới nước vô phân, khi thì khoai núi, củ nừng, đậu hay bắp, đủ đắp đổi nuôi gia đình.

          Gia đình Pù Rum cũng như bất cứ người nào trong Sóc, sống trầm lặng, thảnh thơi. Thêm vào đó là mấy dịp hội hè, he cà thưng, chô tha năm (vô năm) nhộn nhịp thêm vào niềm hạnh phúc đơn sơ sẵn có.


          Sóc Nam Vi ngày đêm vang tiếng đập đất sét nắn nồi, nghe quen tai, thành thứ nhạc khó quên, âm thanh của thanh bình no ấm như những đám bắp trái mập hột đầy, lá xanh um ve vẩy cợt đùa với gió.


          Dân Sóc hầu như tự túc thực phẩm, cá tép dưới suối, dưới kinh, gà vịt trong sân, heo trong chuồng, đủ cung cấp những dịp lễ lộc. Các bồ lúa đầy ắp, cần thì xúc đổ vô cối dọt một lát đủ ăn vài ngày. Nền văn minh kỹ thuật ảnh hưởng đến xóm này có giới hạn.

          Trước năm 1950, chợ quận chưa có điện thì nói chi đến xóm nghèo này. Nhà máy ông Lến cất khoảng năm đó, cũng chỉ xay lúa vừa đủ bán ở tỉnh lân cận, dân Sóc chưa quen ăn gạo xay quá trắng của nhà máy.


          Dân chỉ sợ nhất là đám lính Marốc, lính Commando đi hành quân ngang qua xóm, súng ống còn là thứ bí mật đe dọa hải hùng. Ánh văn minh phương Tây cụ thể là thịt hộp, bánh Tây, phô mai được đổi lấy những buồng chuối, dưa rau.

          Sự trao đổi này chưa làm họ khôn ra chút nào, tiêu biểu cho dân Sóc này là Pùrum.
          Những buổi trưa nắng gắt, cày xong đám đất, Pùrum thả bò cho nhơi cỏ, rồi giở cơm trong gói lá mang theo ra ăn. Gạo đỏ, mắm mặn, nhai với rau dưa xào xạo ngó thấy thèm.

          Sau đó Pùrum khoác nước ruộng uống vài bụm, ngồi dựa lưng dưới bóng cây xà đâu râm mát, quấn một điếu thuốc gò to bằng ngón chân cái, kéo một hơi sảng khoái, chưa chắc kẻ giàu có được phút giây này.

          Thỉnh thoảng hết thuốc gò, Pùrum bẻ lá cần sa phơi nắng cho dốt dốt, cuốn lại hút cho đỡ ghiền, tuy không ngon bằng thuốc bánh. Miếng rẫy sau nhà Pùrum có trồng vài bụi cần sa, lá giống lá đu đủ dầu, lúc cần nêm canh đọt cần sa khỏi cần chạy qua nhà hàng xóm xin.

          Cây mọc tươi tốt, ít đòi hỏi sự chăm sóc như rau cải, có cây mọc cao gần bằng đầu người, chiếm khoảng đất nhỏ ở góc vườn, trồng nhiều không có lợi, vì giá rẻ rề, bó từng bó như chổi bán cho các ông thầy thuốc Nam.

          Ít khi Pùrum được điếu Bastos, Mélia xanh, nói chi đến thuốc nút chuồn hay Cotab.
          Năm nay Pùrum gần bốn mươi, nối tiếp ông cha làm nghề ruộng rẫy, móc đất sét cho vợ nắn nồi bán. Cứ nhìn bắp thịt săng nịch cũng biết gia đình Pùrum no đủ.

          Xóm Nam Vi là ốc đảo thanh bình, yên ổn được vài năm sau khi Marốc kéo đi, nhưng tiếng đập đất sét nắn nồi cũng vắng dần, ghe chở nồi đầu kinh chợ Xà Tón, chợ Cây Me thưa thớt.

          Những tiệm buôn ngoài chợ chất nồi, cà ràng bị ối động, bán không chạy ngồi than dài, cùng chia nổi lo âu với xóm Nam Vi, vợ chồng Pùrum bớt kham khổ, chồng không cần móc đất sét, vợ thôi làm nồi, nhưng tài chánh có phần thiếu thốn.

          Cuộc sống mới thêm nhiều nhu cầu. Trong xóm ai cũng có Radio pin, mình cũng phải có, phải theo cho kịp nên cũng vội vã. Những chiếc xe Folis, Mobylette bắt đầu kéo xe lôi thay cho người đạp.


          Nhà máy xay lúa ông Cùi Lến đã chạy khá đều, ít hư hơn trước, rồi đến nhà máy Cây Me, Nam Vi liên tiếp, cướp mất tiếng chày giả gạo đêm trăng.

          Tiếng chê khen gạo xay nhà máy trắng quá, nấu không ngọt cơm, nhưng rồi ai cũng quen dần.
          Thêm vào đó là không khí chánh trị lan tràn vào xóm, đại để, đồn lính mọc lên để bảo vệ an ninh, mấy anh Dân Vệ xách cây oảnh tầm sào nghiêm trang làm người ta ngài ngại, cũng có người dấu nụ cười thầm.

          Dân xóm vì vậy khôn hơn, nhờ có con đi học, mặc áo trắng quần xanh, về nhà đọc bài nghe lạ tai. Nồi, ơ, cà ràng, trả, khuôn bánh khọt, v.v... bán quá chậm, cả năm chưa hết.

          Những người đàn bà nắn nồi ngơ ngác không hiểu nổi lý do tại sao ghe nồi ít ghé bến như xưa. Vô lý quá, họ tự hỏi, từ xưa tới giờ có ai khen chê phẩm chất nồi xứ này đâu. Tình trạng ế ẩm làm dân xóm ngờ ngợ thấy có sự thay đổi bất thường ở đâu đó.

          Mấy ông già có tiếng giỏi chuyện xưa mà cũng không biết việc này, vậy mà hễ ngồi lại uống rượu với nhau là mấy ông đem chuyện bên Tây ra nói sành sỏi lắm.

          Mấy vị Sãi Cả trong chùa tu luyện thần thông cũng không hiểu nổi hiện tượng thương mại lạ lùng này.
          Vài năm sau, các tiệm bán nồi chợ quận đổi hàng hóa, họ bán nồi chảo nhôm sáng loáng.

          Mấy bà bán bánh canh, chè đậu, cháo cá cũng chạy theo thời, bắt đầu dùng nồi, soong nhôm sản xuất ở Chợ Lớn vừa tiện vừa bền, cà ràng ông Táo được thay dần bằng lò dầu hôi.
          Vợ

          Pùrum lẩm bẩm “Nồi nhôm xài biết chừng nào hư”, và chính bà cũng mua nồi nhôm dùng, vừa nhẹ, vừa dễ rửa ráy tiện lợi.
          Vài năm sau, những miểng nồi đất bể rải rác xóm này được quét

          sạch, dấu vết nghề nắn nồi không ai buồn nhắc. Dân bỏ sang làm ruộng rẫy sống qua ngày. Vợ chồng Pùrum cũng như những người khác, nhìn bàn tay, ngón tay thô như nải chuối héo, lắt đầu ngao ngán, thỉnh thoảng còn cảm được những

          khối đất sét mềm tay trong giấc chiêm bao. Hai vợ chồng thở dài, ngán ngẩm, thua cuộc, nhìn cuộc đời càng ngày càng chật vật. Họ nhớ mùi đất sét, mùi thơm khói lò nung, nhìn màu khói

          biết nồi chín, thèm nhào nặn những thỏi đất sét mềm.
          Nhưng dù sao, trời sinh voi sinh cỏ. Miếng ruộng làm tử tế cũng được vài chục giạ gạo đủ ăn. Sau mùa gặt trồng thêm dưa gan đấp đổi. Sự thay đổi tuy khó khăn nhưng ai cũng quen dần, dù rằng chưa theo kịp nếp sống mới ở chợ.

          ***


          Cuối năm 1962, mọi người nhất là trẻ con đổ ra xem đoàn xe nhà binh cả chục chiếc chạy ngang xóm về hướng Châu Lăng.

          Trẻ con thấy xe vui mừng la thét ầm ỉ. Bản tính vốn hiếu khách, dân Sóc vui vui thấy khách lạ tới xứ mình, đỡ tẻ nhạt.

          Những người khách này da trắng mắt xanh giống Tây ngày xưa. Họ đội bê-rê xanh lục, trên tay áo có hình con ong biển.

          Họ chở vật liệu đến xây đồn Châu Lăng.
          Những chiếc xe mười bánh chạy suốt tuần chở vật liệu xây cất, kéo theo một số người được mộ làm việc trong đồn và các dịch vụ cung cấp

          khác. Sinh hoạt ở chợ quận và Sóc Nam Vi cũng rộn rịp thêm nhiều.
          Vài người già trong xóm, xưa từng đi lính Tây, biết chút ít tiếng Tây, gật gù so sánh, “Tụi Mỹ thua tụi Tây xa, hà tiện,

          ai ăn nấy trả, không cho “buộc boa”, bánh mì ăn không hết cũng để dành”.
          Dân buôn bán tiệm chợ thì thích Mỹ vô cùng, “Tiền ở đâu mà nó xài dữ quá dậy kìa? Nó mua đồ không biết

          trả giá, nói thách mắc hai lần mà nó cũng mua”.
          Anh thông ngôn dặn chủ tiệm bán cho thật cao giá, sau đó anh ta lấy tiền đầu. Ai muốn vào đồn làm việc phải trả tiền đầu sòng phẳng,

          anh mới giới thiệu.
          Cái đồn Châu Lăng chừng một đại đội lính Mai Phọt và một trung đội lính Xi Bi (sea bee) mà thu hút hầu hết giới trong vùng, từ chú thợ hớt tóc Mười Oanh, tới chú Ba Ngô nấu bếp, xưa chú nấu cho Tây, bây giờ nấu cho lính Mỹ.

          Dân lò heo, giết bò phải vất vả lắm mới đủ cung cấp thịt. Các bà bán cá cũng biết lựa mặt các cô làm cho Mỹ mới bán, các bà bán rau cải cũng tự động lên giá khi chú Ba Ngô tới mua.
          Ngày ngày, ngay tại ngã tư chợ, vài chiếc xe mười bánh đậu chở

          nhân công vô đồn làm. Lương cao hơn đi làm cho các tiệm, việc làm nhàn hạ.
          Lính Xi Bi Mỹ hiền lành, cũng ở trần trùng trục làm việc, không phân biệt giai cấp, chưa thấy say sưa phá phách như bọn Pháp lúc trước. Văn hóa Mỹ tẩy xóa văn hóa

          Pháp trong đầu thế hệ già, thế hệ khen Pháp đủ điều.
          Tiền bạc Mỹ đổ vào vùng này như nước tràn ngập, ai cũng hưởng không nhiều thì ít. Chủ tiệm vật liệu xây cất, cây xăng làm giàu

          nhanh chóng. Thanh niên đang tuổi quân dịch đăng lính Mai Phọt, mang cái sọ người trên vai, hách hơn lính Bảo An. Ghét thương chưa vội nói, nhưng có điều chắc chắn là ai cũng thích làm việc cho Mỹ.

          ***


          Nhà Pùrum gần đồn Châu Lăng, nên việc nhập vào nhóm nhân công xây đồn không khó. Hàng ngày được xe chở vào đồn đắp các ụ đất, đào rãnh, trộn hồ, việc gì cũng làm được. Công việc quá dễ dàng, nhẹ nhàng hơn làm ruộng, móc đất sét cho vợ

          nắn nồi lúc trước, lương lại quá cao, nghỉ trưa đúng giờ đúng khắc.
          Trưa được nghỉ một giờ, dù việc còn dở dang, đúng năm giờ chiều cũng được xe chở về để hôm sau làm tiếp. Bịnh hoạn được phát thuốc miễn phí, thuốc Tây mắc thấu trời, dùng

          không hết bán lại cũng có tiền.
          Pùrum làm việc dưới quyền chỉ huy của một Hạ sĩ Mỹ gầy và cao tên Sạt. Vịt ở chung với gà cũng có ngày biết gáy. Thường Sạt và Pùrum ăn trưa dưới

          bóng mát bụi chuối xanh um, gió thổi phành phạch tào lá chuối làm mát mẽ dễ chịu.
          Sạt tính xuề xòa, rất thích hợp với Pùrum.

          Buổi ăn trưa là lúc hai người đối thoại bằng tay, chân, mắt, miệng. Sạt tò mò muốn học hỏi thêm về đời sống xứ lạ quê người, thích hòa đồng và giúp đỡ nhân công.
          Buổi ăn chung đầu tiên, Sạt ngơ ngác giương mắt xanh nhìn Pùrum mở bị

          mang một gói cơm đựng trong lá chuối và một gà mên cá nhỏ kho mẳn.
          Pùrum ăn ngấu nghiến, hai má độn cơm phùn ra, nuốt chưa hết miếng trước đã thêm miếng sau, tay xé liên hồi những con mắm sặt nhai luôn cả xương nghe rào rạo chung với

          nắm rau sống.
          Sạt, trái lại, điềm đạm khui thịt hộp, dùng dao nĩa ăn chầm chậm, không hở môi, thỉnh thoảng dùng nỉa xúc xà lách do chú Ba Ngô mang tới. Pùrum mặc áo nhà binh củ, rách lổ chổ, mặc cho có mặc, áo xét ra không cần thiết. Da

          chân chai cứng và đàn hồi như đế giày cao su, mang giày vướng víu vô ích.
          Pùrum nhìn Sạt, cũng ngạc nhiên không kém.

          Sao Mỹ nó giàu quá, ăn xong, dao nĩa bằng nhựa trắng nó cũng liệng bỏ, thiệt là phí phạm.
          Sau vài tuần làm việc, thân nhau hơn, Sạt rụt rè chia cho Pùrum phần cá hộp, thịt hộp, bánh bích-quy, có khi cả Coca và bia hộp mát lạnh. Pùrum

          mừng quýnh không ăn liền, gói mang về khoe với bà con chòm xóm rồi mới mang ra ăn với vợ con. Chiều nào mang về được một hộp thịt là cả nhà như tham dự buổi ăn thịnh soạn, mấy đứa con ăn ngốn ngáo.
          Giờ ăn trưa là lúc Sạt và Pùrum quan

          sát nhau. Sạt kiên nhẫn dùng đủ mọi cách cho Pùrum hiểu, sử dụng đủ thứ động tác và âm thanh. Sau cả mấy phút, khúc gổ đen da hăng hắt mùi nắng trả lờI bằng hai hàm răng trắng nhởn nhe ra cười hô hố. Sạt thất vọng đưa tay lên trời “Chúa

          ơi! Làm sao tôi giảng cho nó hiểu đây?”
          Sạt bất lực nhìn đôi mắt Pùrum, nhưng thấy thoải mái nhìn Pùrum cười, cái cười vô tội vạ chứa tình người hoang dã chân thật. Ngược lại Pùrum

          thấy Sạt ngớ ngẩn, coi Sạt như thằng con nít mới lớn. Tình bạn nẩy nở tự nhiên tuy có gặp bức tường ngôn ngữ và vấn đề an ninh quân sự. Sạt muốn đến thăm Pùrum, nhưng cái xóm lụp

          xụp im lìm bên lề đường chứa một nếp sống cùng cực, đe dọa khó giải thích. Hai người càng mến nhau hơn dưới bóng mát bụi chuối trong đồn.
          Sạt có dạy Pùrum một mớ tiếng Anh, hy vọng Pùrum sẽ dùng nó đối thoại với mình và cũng muốn học ít

          tiếng bản xứ. Sạt là ông thầy giỏi, nên Pùrum học được mấy tiếng OK, Yes, No... trong lúc Sạt không học được chữ nào của Pùrum.
          Trong sự đổi chác hàng ngày, Sạt bị lỗ lã nhiều. Thịt cá hộp của Sạt được Pùrum chiếu cố tận tình, ngược lại, có lần

          bậm gan nếm thử con mắm cá sặt vừa mặn vừa cay của Pùrum, Sạt hả mồm la oai oái, chụp vội lon bia hộp uống ừng ực, mặt đỏ rần. Sau đó vẫn hòa nhã cười tha thứ, không chút giận hờn.
          Chiều chiều, khi xe mười bánh chở công nhân về

          nhà, Sạt theo đưa Pùrum tới cổng xóm, giơ tay chào nhưng không dám theo vào Sóc.
          Sau buổi ăn chiều, Sạt thích lên vọng gác cao nhìn vào xóm Pùrum. Những căn nhà lá màu xám, tiếng bò, heo, gà, vịt gọi nhau về chuồng êm ả vọng từ xa.

          Khói cơm chiều hay khói un muỗi từ các đống bẹ dừa bay thật chậm lên không. Cảnh vật ngưng lại thành bức tranh quê mộc mạc. Mặt trời vàng ối để lại những tia nắng vàng rực cuối cùng trên những đám mây trước khi nhẹ nhàng lặn sau dãy núi mù

          sương khói phủ xa xa. Sạt thấy nao nao, muốn hòa mình trong nếp sống thanh bình, thảnh thơi.
          Con đường đất mấp mô ngoằn ngoèo trong xóm, tre, dừa, thốt nốt, chuối mọc không theo một trật tự kỹ hà nào gợi Sạt nhớ thành phố đô hội miền

          Bắc Dakota, chỗ anh sinh ra đời. Nơi đó, đường sá tấp nập ầm ỉ, vội vã suốt ngày đêm không được nghỉ ngơi bao giờ. Những con đường thẳng tấp như thước gạch, nếp sống cuồng vội theo kim đồng hồ. Sạt nhớ cảm giác choáng váng khi ngồi trên xe

          qua đường phố, hai bên đường, đèn quảng cáo sáng choang chớp tắt liên hồi nhức mắt. Sạt thấy mình vừa thoát khỏi sự giam lỏng của thành phố xứ mình, muốn giữ mãi phút giây lắng lòng, thưởng thức sự tỉnh mịch, chờ cho hoàng hôn xuống.


          Ðêm vắng, bên ngoài đồn chỉ có tiếng côn trùng, tiếng nhạc của loài dế, thỉnh thoảng ngưng vì tiếng súng lạch tạch từ xa.

          Sạt dựa lưng vào bao cát trong hầm kiên cố, mở khóa an toàn, ở tư thế chuẩn bị tác chiến khi cần. Sạt cũng dư biết đồn rất an toàn vì có một đại đội lính Việt Nam nằm kích bên ngoài, nhưng lo âu cho bạn mình trong căn nhà lá mong manh trong

          xóm nhỏ ngoài kia, vừa suy gẫm về sự phi lý của chiến tranh không giới tuyến này, biết ai là bạn, ai là thù.
          Lúc đó, Pùrum vừa lo sợ cho mình vì làm cho Mỹ, lại vái van Trời, Phật cho Sạt bình yên mỗi khi đồn bị pháo kích. Pùrum tưởng tượng xứ Sạt

          giàu sang lắm, có nhiều xe hơi sang trọng, nhà lầu cao, tuyết phủ lạnh lắm. Pùrum thu thập được kiến thức này khi lật xem hình những tờ tạp chí của Sạt cho. Người xứ Sạt chắc đẹp lắm, nhứt là phụ nữ da trắng, tóc vàng, mũi cao, nằm hở hang phơi

          nắng trên bãi cát trắng nước xanh. Pùrum giữ những tờ tạp chí như vật quí báu, đó là chứng tích của xã hội văn minh, lâu lâu giở ra xem, vợ con ngồi quanh ngắm nghía tranh ảnh, bàn luận rất thú vị. Cuộc sống lam lũ này giới hạn ước mơ không thực

          tế. Pùrum biết thân lắm, ra Châu Ðốc còn khó khăn, dám đâu nghĩ đến Sài Gòn, chuyện bên Mỹ chỉ là giấc chiêm bao.
          Pùrum vừa ngốn hết gói cơm dưa mắm thì Sạt cũng ăn xong phần mình. Pùrum tự nhiên mở bao thuốc bánh ra cuộn thành điếu

          thuốc lớn hơn ngón tay cái, lớn hơn điếu xì gà, châm lửa hút một hơi, ngã ngang dựa lên thân chuối mát rượi. Cùng lúc, Sạt cũng mở gói thuốc lá, đốt một điếu, rít hơi dài, phồng môi thở ra, vừa chửi thề “ F., lovely”.
          Hút hết điếu thuốc, Sạt tò mò ra

          hiệu xin một điếu thuốc bánh của Pùrum, còn mình thì cũng rút điếu Salem mời lại.
          Sự trao đổi thiệt thòi về phần Sạt, mới hút chưa kịp nhả khói thì anh bị nghẹt cổ, ho sằng sặc, vừa hướt cổ lên cố lấy hơi thở, vặn mình như giẫy chết, mặt đỏ au, thở

          hổn hển.
          Pùrum tinh nghịch nhăn răng cười hè hè, thầm nghỉ: “ ai biểu ham”.Nét mặt Sạt nhíu lại, có lẽ hơi bực dọc, lấy thêm điếu Salem châm lửa, tiện tay quẹt cho Pùrum. Pùrum đi một hơi, nuốt luôn cả khói, mùi bạc hà the the, thơm hơn thuốc

          bánh. Mùi thơm bạc hà len qua vị giác, khứu giác, ngập buồng phổi, thấm các thớ thịt. Pùrum thì thào: “Ðã quá”.
          Sạt mỉm cười vui lây. Pùrum biết phận mình, chưa đủ tiền mua Ruby, Captan hút, làm sao có được loại Salem có đầu lọc. Trong bụng nghĩ

          thầm”Ăn của người cũng đã nhiều, mà đưa cho nó, cái gì nó cũng chê, biết lấy gì trả ơn đây?” Cây nhà lá vườn, đâu có món gì Sạt thích ăn đâu. Ổi thì nó chê cứng, ớt thì nó chê cay, chùm ruột, me thì chê chua. Rượu đế, rượu thốt nốt thì làm

          sao ngon hơn huýt ky? Pùrum lén giấu nửa điếu Salem về cho vợ kéo thử cho biết.
          Từ đó về sau, mỗi lần được mời thuốc, Pùrum để dành mang về cho vợ và bà con chia xẻ. Về đêm, hút điếu Salem thơm ngát, khoái lạc như bay bổng trên mây,

          khói thuốc quyện với khói xơ dừa un muỗi la đà, bên ngoài mưa gió mịt mùng, bên trong vẫn ấm cúng. Hứng chí, tưởng tượng các tiên nữ tóc vàng nằm trên bãi biển phơi nắng như hình trong các tạp chí, quên đi phần nào nếp sống cơ cực mà tương lai không thấy sáng sủa chút nào.

          ***


          Buổi trưa ấy, như thường lệ, Sạt lại đãi Pùrum điếu thuốc trắng tinh có mùi bạc hà the the. Sạt độ này thích Pùrum, anh ta thỉnh thoảng kéo Pùrum vô chỗ vắng sau dãy tre ven đồn.

          Thỉnh thoảng Sạt ôm ấp Pùrum như ôm con gấu đen dồn bông loại Teddy bear mà Sạt thường chơi lúc nhỏ, Pùrum nhột nhạt cười hích vẫy vùng, rồi chợt có ý nghĩa tinh nghịch, Pùrum vấn

          điếu thuốc bằng loại lá cây xanh mọc trong vườn nhà, đưa cho Sạt và ra hiệu bảo hút. Sạt cũng tò mò, chiều ý Pùrum, nếm thử. Pùrum cố nhịn cười, chờ Sạt bị sặc vì lá xanh đó có mùi

          hăng hắc nồng mũi, tệ hơn thuốc gồi, thuốc bánh. Ðây lại là dịp cho Pùrum cười khoái trá như lần cho Sạt hút thuốc vấn lúc trước. Nhưng kìa, Pùrum quên mất cười, trợn mắt há hốc ngạc nhiên thấy Sạt hút một hơi dài, lim dim đôi mắt, tay chân run

          rẩy, há miệng thả khói bay tròn như bánh xe, hấp tấp từng đợt hút trọn điếu không chừa chút nào cả. Sạt thấy lâng lâng, cảm giác nhẹ nhàng sướng thỏa lòng. Mùi lá xanh phơi dốt dốt của Pùrum giống hệt mùi “cỏ” (herb) ở Mỹ mà Sạt từng thưởng

          thức trước khi bị động viên qua Việt Nam. Loại “cỏ” này ở Mỹ vừa đắc vừa khó mua, mà sao Pùrum đào đâu ra tiền mua cho mình hút, còn hắn lại tỏ vẻ khinh thường món cỏ quý giá này.

          Mùi lá xanh gây cho Sạt cái hứng thú tuyệt vời, thân thể nhẹ nhàng lơ mơ bay bổng lên, thần kinh dãn ra như được đấm bóp. Màu sắc huy hoàng lãng đãng chiêm bao trong đầu, chợt

          đến chợt đi, Sạt lim dim nhướng mắt nhìn Pùrum, vị thần có uy lực ban phước cho Sạt, anh quên mất mình đang ngồi dưới bóng mát lũy tre già này. Tinh thần đê mê sảng khoái sướng

          thỏa, anh quơ quào bắt lấy hạnh phúc chập chờn, bay bồng bềnh hay lặn ngụp trong thế giới ảo huyền, màu sắc tan rồi hiện. Bãi mìn trong hàng rào kẽm gai sắc bén quanh đồn mọc

          lên thành những đóa hồng nhung tím lịm. Sạt khoái trá, lăn lộn la “**** Herb!”.
          Chiều đó, Sạt theo xe đưa Pùrum về nhà, kín đáo đưa cho Pùrum nguyên cây thuốc Salem và dặn Pùrum

          mang cỏ xanh kia cho Sạt.
          Pùrum suy nghĩ mù mờ, một điếu cần sa khô mà được đền đáp bằng cả cây Salem, trí óc Pùrum lúc đó chỉ là một thỏi đất sét khô không đủ năng lực tìm hiểu thêm. Pùrum chắp tay xá lia lịa vừa lắp bắp “a kun” (cám ơn)

          Sạt, Sạt cũng bắt tay Pùrum “thanks, thanks”
          Xe vừa chạy khỏi, Pùrum chạy vụt vô nhà vấp ngạch cửa chúi xuống sút cả móng chân cái mà không hay, la hét reo mừng đưa cho vợ xem cây thuốc Salem.

          ***


          Ðêm đó, mưa thật đúng lúc. Mưa tầm tả rào rào trên bao cát, nước chảy như suối, gió kéo qua quật chòm cây ngả nghiêng, Sạt ngồi trong vọng gác nghe nước rỏ qua bao cát, chia xẻ

          những điếu cần sa xanh với bạn đồng ngũ. Tiếng “Ha” thoát ra từng lồng phổi ngập khói cần sa thơm nồng sảng khoái. Họ chuyền tay nhau hút liên tục, sợ thuốc cháy tàn phí phạm. Họ

          vui đùa cười cợt, nhắc lại thời còn ở xứ họ cũng chuyền tay nhau thưởng thức món thần dược có khả năng xoa nhẹ vết lo âu hằng trên cân não trong cuộc chiến vùng xa xôi này, giúp họ quên mình đang trực diện với đạn bom hàng đêm, hàng

          ngày, hàng giờ. Mưa càng lạnh, thuốc càng ngon.
          Cơn mưa này muốn xô ngã những mái nhà tranh Sóc Nam Vi. Tiếng nước rỏ từ mái lá đào thành mương quanh nhà như nhạc êm dịu dổ giấc ngủ ấm áp trẻ con. Quanh ngọn đèn dầu lửa trắng, Pùrum

          vặn cao đèn rồi mở gói Salem phân phát cho bà con. Những bàn tay đưa ra sẵn sàng nhận không khách sáo. Pùrum không giấu vẻ kiêu hảnh của người biết nhiều, gia ơn cho bà con. Họ ngồi dựa cột, dựa vách, trên chõng, chùi tay thật sạch sợ dơ

          điếu Salem có đầu lọc, màu trắng tinh khiết. Họ trầm trồ, mân mê chưa vội hút ngay, Pùrum giảng giải cho họ hiểu là thuốc này sản xuất ở bên Mỹ, xa lắm, xa hơn bên Tây nữa, chớ không phải thuốc sản xuất ở Sài gòn như Bastos, Ruby hay

          Captan. Họ giành xem gói thuốc, chữ Salem màu xanh lục nổi trên nền trắng tinh.
          Pùrum mím môi, nửa mĩm cười nói:”Me ôi! ? Thằng Mỹ nó tốt quá, cho nó một bó lá cần sa, nó cho lại một cây thuốc, để dành hút nửa năm mới hết, mỗi ngày một điếu

          cũng đã rồi, mình bẻ lá cần sa phơi khô bỏ vô cà- ròn đem vô đồn cho nó, chắc nó mừng lắm, nó còn dặn giấu cho kỹ. Pùrum thương mến Sạt vô cùng, “Tội nghiệp Sạt quá, cái gì mình cũng chơi gát nó hết, giá một cà-ròn cần sa bán cho mấy ông thầy

          thuốc Nam chưa mua được một vài điếu thuốc thơm đầu lọc này, mà có ở đâu mà mua”.
          Mưa gió bên ngoài, khói thuốc thơm thoang thoảng bên trong, mọi người quên mình đang

          hưởng thứ hạnh phúc tạm bợ, khi thuốc tàn, hạnh phúc cũng bay theo khói.
          Hôm sau, Pùrum bẻ hết lá cần sa trong vườn và hàng xóm, chờ phơi nắng cho dốt, để mang vào làm quà cho Sạt. Vừa vô đồn, nhiều người lính Mỹ đến vỗ vai Pùrum thân

          thiện, dặn dò mang cỏ “hợp” vô nhiều nhiều.
          Chiều về, Pùrum kinh ngạc khi nhận được một bao cát đựng đầy đồ hộp, thuốc lá, bôm, nho, bánh bích-quy. Pùrum bối rối trước việc trao đổi mà cáng cân lợi nghiêng quá nặng về phía mình. Từng vô chùa

          tu sáu tháng trả ơn cha mẹ, cộng với bản tính chất phác thật thà, mỗi lần nhận ơn ai, Pùrum đều chắp tay đọc một câu kinh chúc phúc, Pùrum thấy bất nhẫn và áy náy trong thâm tâm, trước sự bất công dù không chú ý gạt gẩm.
          Những hộp thịt

          nguội là món ăn dã chiến chán ngấy của Sạt, nhưng là món cao lương mỹ vị trên bàn ăn Pùrum. Ăn thịt xong, giữ lại cái hộp làm lon uống nước hoặc làm đồ chơi cho con. Những bao muối tiêu sạch sẽ, giấy lau miệng đựng trong bao bạc, Pùrum

          ngại ngùng không dám xé ra dùng. Sau buổi ăn, Pùrum bắt chước Sạt, nhả khói thơm tỏa mờ căn nhà tranh nghèo ám khói. Dân xóm nhỏ lại được cơ hội làm quen với sản phẩm tiêu thụ Âu Mỹ, kiến thức khoa học giới hạn, họ trầm trồ khen: “Tụi

          Mỹ hay hơn tụi Tây, nó kéo ‘cây sắt’ lên là kêu đâu cũng nghe! Cái Ra-dô nó không cần điện, nhỏ mà nghe lớn, máy hát nó không cần dĩa và không cần lên dây thiều”.
          Họ lại khám phá thích thú là thuốc lá Salem thơm hơn cần sa và thuốc gồi, hút

          the the, thông cổ, bổ phổi. Thịt heo hộp, bánh kẹo ngon hơn thịt xào mặn, mắm trèn, mắm sặt, nhứt là súp khoai tây bột, béo thơm và bổ hơn canh cua măng với lá bù ngót, hèn chi bọn Mỹ nó mập và trắng trẻo.

          ***


          Cách Sóc mấy cây số, trong đồn Châu Lăng, Sạt và bọn đồng ngũ cũng vui sướng không kém. Họ cũng khám phá và đồng ý rằng thuốc Salem lạt lẽo vô vị, hút cho có hút, họ đã ngấy thịt hộp bánh khô. Sạt nằm lăn ra, sảng khoái nhìn khói bay, vừa

          chép miệng: “Thằng Pùrum ngốc quá, cho nó cây thuốc Salem lạt lẽo, một mớ thịt cá hộp, ba cái thứ rẻ mạt bỏ đi đó mà nó cho mình cả bao cỏ “hợp” quý giá, thứ này ở Mỹ giá cả tuần lễ lương, cả mấy trăm đô-la chứ phải ít đâu. Tội cho hắn, nghèo

          mà quảng đại.. “.
          Hai bên đều vừa lòng về sự trao đổi hạnh phúc, dù đó là thứ hạnh phúc tạm bợ. Sạt đi quân dịch, ở đây mười hai tháng, còn vài ba tháng sẽ mãn hạn, rồi về nước. Sau đó Sạt đâu còn được “phê” thả cửa cỏ “hợp”. Và sau khi đồn

          xây xong, Pùrum cũng bị cho nghỉ việc. Thôi thì hai bên cứ sống với cái hiện tại, hưởng thụ được lúc nào hay lúc ấy.

          Nhưng cuộc đời lắm gút mắt, éo le hơn nhiều, đâu có phải chỉ bẻ một bó lá sau vườn đem phơi nắng rồi có thịt hộp, thuốc lá Salem. Ngược lại, bỏ ra cây Salem với thịt hộp mà đổi được cỏ “hợp” quý giá và cảm giác lâng lâng. Chiều hôm đó, Sạt trông

          cho tới giờ nghỉ, chạy thẳng về bung-ga-lô, ngả vật người ra, ngáp muốn trẹo quai hàm, tay run rẩy mở bao cát dưới nệm kéo ra một nắm cỏ “hợp”, se tròn, châm lửa nằm lăn ra một cách thoải mái. Thêm mấy người bạn Sạt cũng hấp tấp tới

          cùng chia xẻ bữa tiệc khói.
          Mọi người nằm vật vờ, mắt lim dim lơ mơ, đầu lắc lư chầm chậm. Tâm hồn thoát ra khỏi cơ thể vật chất, họ ngao du theo đám mây khói thơm tho, khoái cảm chưa đến tột đỉnh thì cánh cửa mở tung, một toán quân cảnh

          MP Mỹ ập vào, trợn mắt: “Chúa ơi. Nhiều thấy mẹ!”.
          Sạt và bạn bè bước lếch thếch lên xe về văn phòng cố vấn. Sạt rụng rời, khai xuất xứ món cỏ thơm kia. Cũng chiều hôm đó, Pùrum cười ngỏn ngoẻn vác về một bao cát nặng nề, bước vô nhà để

          nhẹ nhàng bao trên giường vừa run rưn mở ra:”Mê ôi! Nhiều lắm, thuốc Salem, thịt hộp nè, có...nè”. Vợ con cuống quýt mừng:”Cho Pù Khét một gói thuốc đi, người ta sửa cây cột nhà cho mình mà không lấy tiền. Còn đồ hộp để dành cho ông bà

          già uống rượu”.
          Tiếng reo cười vang trong nếp nhà tranh khổ nhiều vui ít. Mọi người lục lọi, ngắm nghía, bàn tán. Niềm hạnh phúc đầu tiên trong đời hơn cả ngày Tết, bị gián đoạn bởi tiếng xe Jeep thắng két, âm thanh rờn rợn đe dọa ngoài cửa. Cánh

          cửa lá bị đạp tung ra. Gia đình Pùrum ngơ ngác nhìn ra, một toán cảnh sát dã chiến, mặt mày nghiêm trọng, súng ống lăm lăm trên tay, đứng chật cả căn nhà nhỏ. Pùrum bị còng tay đứng run rẩy như người liên hệ với Việt Cộng bị bắt. Cảnh sát lục soát lập biên bản.

          Tang vật là cá, thịt hộp, thuốc Salem, đều được mang ra xe.

          Vợ Pùrum tiếc rẻ món ngon vào miệng chưa nuốt đã bị rớt xuống sông, vừa hãi hùng líu lưỡi ôm mấy đứa con run rẩy.
          Pùrum bị còng, ngồi co ro bên cạnh bàn, mặt đen càng đen

          thêm, đôi mắt khờ khạo lấm lét nghẹn ngào, lắp bắp trả lời những câu thẩm vấn tối nghĩa:
          - Ðồ quốc cấm chú mầy có ở đâu ra?- Dạ, tui trồng ở sau nhà.- Ai cho phép mầy trồng cây

          quốc cấm đó?
          - Pùrum ngập ngừng suy nghĩ:- Dạ, nó mọc từ hồi nào tới giờ, hồi ba tôi cất nhà này, tôi không nhớ.- Nói láo, sao chú mày đem vô đồn đầu độc lính Xi-Bi Mỹ, bọn Việt Cộng xúi mầy phải không?- Dạ, tôi cho có mình ông Sạt thôi, ổng

          thấy tôi hút, ổng thèm, nên tôi cho ổng.
          - Thuốc Salem, thịt hộp mầy ăn trộm ở đâu?- Dạ, đó là đồ ăn của ông Sạt, ổng thương, ổng cho tôi. Tôi không dám ăn cắp. Pùrum hiểu mù mờ từ ngữ phức tạp cao hơn tầm hiểu biết mình, nhướng mắt

          lơ láo nhìn mấy người cảnh sát, điều này làm tăng sự nghi ngờ của an ninh. Xóm này vùng xôi đậu, Việt Cộng đi từ núi Cấm qua kinh Tám Ngàn hoặc về phía núi Tô, đáng nghi lắm.
          Pùrum bị dẫn ra sau vườn, cảnh sát rọi đèn pin, nhổ những cây cần sa

          vô tội quen thuộc chất thành đống cao cẩn thận. Họ có vẻ nhẹ tay với những cây cần sa hơn là đối với Pùrum.
          Những bụi cần sa, đọt để nêm canh, lá phơi khô hút thay cho thuốc gồi, cả cây bán cho thầy thuốc Nam sao không thấy ai bắt, mà cho

          Sạt hút thì bị còng. Trong đầu Pùrum, đó là sự đổi chác như buôn bán, người bán người mua, hai bên đồng ý. Lúc trước, thời ông cha Pùrum, họ đổi thúng lúa đầy lấy thúng hủ tiếu khô, pên tâu pên mo, đầy đi đầy lại, công bình quá mà.
          Chưa

          kịp nghĩ ra lý do bị còng, Pùrum đã bị điệu ra xe theo nhân viên công lực ôm những bó cần sa làm tang chứng. Pùrum ngồi trên sàn xe, giữa hai hàng băng lính ngồi. Một người lính tiếc

          rẻ, lắc đầu:”Cái thằng Pùrum ngu quá, làm ăn công khai, phải nó khôn, nó kín kín một chút, phát tài mấy hồi, cái đồ quỷ này bán có tiền lắm chớ”.

          ***


          Ðêm đó, Pùrum bị nhốt trong khám cảnh sát để chờ điều tra bổ túc và sẽ bị gởi đi tòa án quân sự vùng. Ðám tù bị nhốt chung cười tinh quái nhìn Pùrum đang ngồi ủ rủ khóc thút thít trong góc. Nghĩ đến mà thương vợ con, mới được hưởng không

          bao lâu đã bị ngồi tù, biết vậy, dù chết đi sống lại biểu trồng cần sa cũng không dám.
          Pùrum nằm ê ẩm cả người ngủ thiếp đi, sau trận đòn dằn mặt. Pùrum mê sảng, thấy mình nhịn đói

          nhịn khát lại được dùng muỗng trắng mút miếng thịt hộp, uống lon Côca, ăn nhiều uống nhiều mà vẫn thấy đói cồn cào.
          Tỉnh dậy, Pùrum tủi thân ôm mặt khóc rưng rức:”Tôi đâu có ăn cắp ăn trộm của ai đâu mà bắt tôi?”

          ***


          Trong bộ chỉ huy cố vấn, Sạt và mấy người bạn đỡ khốn khổ hơn Pùrum. Họ nằm giường sắt, thức ăn đầy đủ. Thỉnh thoảng, nửa đêm bị lên cơn, vặn mình quằn quại, vẫy vùng, đập ầm ầm trên giường. Họ thở khò khè, miệng há hốc, sùi bọt mép.

          Họ gào thét kêu Pùrum mang cho họ cỏ “hợp”, họ cần cỏ “hợp”, họ sẽ đổi tất cả, Salem, thịt hộp, cá-phê. Cỏ “hợp” là hạnh phúc của họ, họ dư thừa mấy món kia, họ chỉ cần cỏ

          “hợp”. Pùrum dư cỏ “hợp”, cần Salem, thịt hộp. Hai bên đổi chác theo nhu cầu rất công bằng, chia xẻ hạnh phúc cho nhau, đúng theo định luật cung cầu, vậy mà cả hai đều bị bắt nhốt.

          Sạt quơ quào hai tay la hoảng:”Khôi hài, bất công”.



          Ghi chú
          (1) Trái mặc nưa: Loại trái bằng trái trứng cá. Vỏ xanh, trong có hột mềm, trắng, ăn được. Ðể trái mặc nưa vô cối giã nát, sau đó lấy xác bỏ vô thau nước, vắt lấy nước đen, rồi tiếp tục lấy xác để vào cối giả tiếp, rồi lại ngâm nước và vắt lấy nước. Nước đen nhuộm quần áo, xong đem phơi nắng suốt ngày, chiều xả nước quần áo cho sạch, phơi cho ráo. Hôm sau tiếp tục nhuộm, chừng mười lần vải mới xài lâu bền không trổ. Nhựa mặc nưa lỡ dính vào áo giặt không ra. Ngày nay dân ít nuôi tằm và việc nhuộm mặc nưa cũng hết, người ta hầu hết dùng vải nhập cảng.
          (2)
          Cái trả: Loại nồi lớn, thường để luộc bánh tét.
          (3)
          Xạt: Tét hai.
          (4) Cà ràng ông Táo: Một loại lò, có ba đầu để nồi lên, bên dưới dài có thể để thêm than củi, tro không đổ ra ngoài.
          (5) Om: Loại nồi cổ nhỏ, giống loại dân Ấn Ðộ đựng nước và đội trên đầu, dùng đựng đường chảy.
          (6)
          Củ nừng: Loại củ lớn như trái bí rợ, nhưng tròn và vỏ u nầng. Thái mỏng rồi xả nước nhiều lần cho hết chất độc, đem ngào đường, trộn dừa ăn.
          (7)
          Cây Xà đâu: Loại cây có bông đắng, mọc ở biên giới Miên. Lá và bông trộn với cá xấy, giống cá trèn, xấy khô, xỏ nhiều con lại thành hình cái quạt, ở Nam Vang chở xuống.
          (8) Cần sa: Ðọt để nêm canh, làm thuốc.
          (9)
          Dốt dốt: Chưa mấy khô.
          (10)
          Un muỗi : Lúc chưa có nhang un muỗi, dân quê lấy vỏ dừa khô đốt cháy ngún, khói lên xua bớt muỗi.
          (11) Bù ngót: Loại cây lá xanh đậm, lá dùng nấu canh chung với măng mạnh tông và cá, rất ngọt canh.
          (12)
          Pên tâu pên mo: Ðầy đi đầy lại, chỉ sự công bình.

          Graceville - Australia 12/1994


          Lưu Nhơn Nghĩa
          thatsonchaudoc

          sigpic

          Comment


          • #20
            Như Cánh Chuồn Chuồn

            “Tàu Tây Kia Liệt Mái”
            __________________________________________


            Cách đây 9 năm, lúc tôi làm trong hãng cưa gỗ làm bàn tủ ở Wildbad, máy bị hư bất ngờ, tiếng ken két ngưng làm người quen với tiếng động thấy chơi vơi.

            Tôi đứng thẩn thờ mệt nhừ trước những miếng gỗ nặng khiêng gẫy lưng, trong đầu trống rỗng, đón nhận câu hát ru em dội về, xa vắng man mác, dù lúc đó gần hai giờ sáng của ca làm đêm, cuối năm tuyết đổ, lạnh rát mặt.

            Câu ru em vỏn vẹn bốn chữ buồn xa vắng "tàu Tây liệt mái..." kéo dài than thở, dặn dò, khuyên nhủ.

            Tôi nhớ mài mại đâu khoảng năm 1956, buổi trưa hè, đi ngang qua nhà bếp bà ngoại, nghe thoáng tiếng ru em của một người đàn bà giúp việc kẻo kẹt theo tiếng võng đưa, tiếc là không ngừng lại để nghe cho trọn lời ru, nên giờ đây tôi chỉ nhớ bốn

            chữ không đầu không đuôi - của ngươi đàn bà mà mợ tôi đặt tên là "Bà Ðầu Ðỏ" vì bà quấn khăn đỏ, không phải trang điểm mà để buộc chặt đầu tóc bới.


            Thời buổi đó, người ta lấy giá trị văn hóa Pháp làm tiêu chuẩn lý tưởng, radio, máy hát đẩy dần những câu ca dao vào quên lãng, trong số những người đó có tôi, nên tôi cũng không thèm nhớ câu ru em của Bà Ðầu Ðỏ nhà quê nghèo đi làm mướn đó.


            Nhưng khi đi làm công, chợt thấm thía, nhờ máy cưa gãy cốt im lìm như tàu Tây liệt máy, tôi tìm được duyên tri kỷ với câu ru em này. Ðầu óc ám ảnh, tại sao " tàu Tây liệt máy?"

            Câu trước, câu sau tìm không ra, hỏi ai cũng không nhớ. Câu hát ru em làm nao lòng người mà thất truyền thì uổng phí và thiệt thòi biết chừng nào.

            Tôi cất giữ bốn chữ đó trong tận đáy lòng, giống như giữ một phần tấm bản đồ tìm kho tàng, chờ tìm những mảnh còn lại để ráp cho đủ.
            Câu ru em đã tìm tôi, cũng như tôi đi tìm nó, gặp duyên may bất ngờ.

            Tháng 6 rồi, tình cờ bạn tôi nhắc, thêm mấy câu ráp thành trọn vẹn:
            (Cái) quả năm ngăn trong lòng (anh) sơn đỏ, Mấy lời to nhỏ, (anh) bỏ (bạn) sao đành Khi nào xán nổ tan tành Tàu Tây (kia) liệt máy, mới đành phụ em.

            Ðó là thể thơ song thất lục bát, thêm những chữ trong dấu ngoặc cho rõ nghĩa và điệu ru ngân dài ra, vừa thơ vừa văn xuôi, một loại thơ có vần điệu dùng kể chuyện.


            Ðọc nghe sướng thỏa, tôi nghe tiếng xán nổ tan tành, xác quân xâm lăng tan tành như xác pháo đầu Xuân. Tôi chép vội bốn câu thơ vào nhựt ký ngày ngày ngâm nga, hay thì hay thật, mà hình như chưa ổn, như đang ăn bánh tằm mà nhai nhằm óc trâu, cái ngon không trọn vẹn.

            Cái gút mắc là "xán nổ tan tành". Xán (chaland) hút đất thổi lên, có loại cần trục múc làm sao nổ tan tành?, "nổ tan tành" (động từ + trạng từ) đối với "tàu liệt máy" (động từ + danh tự túc tự) chưa được cân xứng.

            Sau đó vài tuần, biết đâu hương hồn "Bà Ðầu Ðỏ" ở đâu đó (nếu còn sống cũng gần cả trăm tuổi) cảm nhận được sự say sưa câu hát của bà, đưa đẩy cho tôi cơ duyên gặp đúng người duy nhất đủ khả năng hóa giải cái thắc mắc cuối cùng đã gặm mòn tâm não tôi bấy lâu.

            Người đó là anh Phan Lương Quới, hôm gặp anh, dù chưa quen, tôi quên phép xã giao, hỏi quê quán anh Quới (anh gốc Cần Thơ) rồi hỏi phăng ra bốn câu trên.
            Anh xua tay và đọc lại nguyên văn anh còn nhớ: Khi nào xán nọ bung "dành" (vành) Tàu Tây kia liệt "mái" (máy) mới đành phụ em.

            Tôi run tay, reo lên, phải rồi.
            "Xán nọ" đối với "tàu kia" - "nọ, kia" đưa đẩy, miệng hứa hẹn, tay chỉ xán, tàu. "bung dành" đối với "liệt mái", mạnh mẽ, dứt khoát, hay quá, mà phải ru theo giọng Nam nhà quê mới thấm, "dành, mái" chớ không phải

            "vành, máy", không cần chánh tả, nói sao viết vậy, âm thanh vì thế kéo dài thêm ra, truyền cảm hơn, mặt lưỡi dính với khẩu cái (palatal stop voiced), hạ xuống nhẹ nhàng, vừa thở ra, môi bè ra xí xọn, thành âm /J/ "dành", dễ quá, hơn là sát âm răng

            môi (labiodental-fricative) /v/ "vành", cũng như âm /ai/ và /ei/ "mái" và "máy", quí vị phát âm thử sẽ thấy.
            Tôi quên tất cả chung quanh, như nhặt được miếng hình của cái puzzle rắc rối, ráp đúng khít khao. "Chừng nào, khi nào, ngày nào" bắt đầu

            các câu ca dao quen thuộc, than thở, thề thốt, hứa hẹn như câu:
            "Chừng nào trả hết nợ Cao Hoàng Ðào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu Lòng hẹn lòng, ai dỗ đừng xiêu Ở nuôi phụ mẫu, sớm chiều có nhau" (Câu ca dao than thở thời Trương

            Phúc Loan chuyên quyền)
            Từ cuối thế kỷ 19, quân Pháp dùng xán để đào kinh, không phải có ý tốt, mà cần vận chuyển quân đội bằng đường thủy trong việc bình định.

            Chỉ có miền Tây sông rạch chằng chịch mới có xán, miền Ðông trở ra Trung, Bắc chưa nghe nói.
            Những chiếc xán đào kinh, xây cầu thời cách đây chừng tám chín mươi năm là hình ảnh

            hãi hùng đối với dân quê chưa có kinh nghiệm về kỹ thuật - thời thuộc địa - (thời mà chiếc xe đạp còn là món xa hoa bí hiểm). Các địa danh như kinh xán Xà No, kinh Xán Cụt, kinh xán Vịnh Tre, kinh xán Ba Thê còn đó.
            Liên hệ tới xán - Chính

            bà ngoại tôi kể "Nó bắt con nít liệng xuống để xán ăn, máu đỏ quặng lên" cái tin đồn như thật -
            Xán đào kinh xong cho tàu binh chở lính Commando đi bố tận nơi xa xôi, để bình định.

            Ai sống thời đó, ở vùng quê xa xôi mới cảm được cái lo âu hãi hùng. Khi Tây đi bố, khi thấy chiếc xà lan sắt xuất hiện, tiếng nổ binh binh, lù lù di chuyển như khối thép khổng lồ so với ghe xuồng mong manh.


            Chiếc xán hư nằm trên kinh Xán Cụt quê tôi, tôi được thấy vài lần khi ngồi ghe trên kinh ra tỉnh vào mùa nước, vì đường xe bị ngập.
            Vào mùa mưa, nước sông Hậu Giang tràn lên vùng Láng Linh và Ba Thê, Núi Sập như biển cả. Ngồi trong ghe, với đầu

            óc non nớt, ghe trôi dần dần tới xán, cấu trúc giống tháp Eiffel, cứng cáp, đen sậm, cao vòi vọi vì nhìn từ dưới xuồng. Ngồi trên xuồng mà cứ tưởng xán di chuyển về phía mình, đe dọa chực nuốt sống mình. Tôi không đủ khả năng diễn tả cái cảm

            giác sợ sệt nơm nớp lúc đó. Chiếc xán và tàu binh tiêu biểu cho nền văn minh kỹ thuật dùng để khai hóa dân tộc "bán khai"?, văn minh đâu chưa thấy, chỉ thấy máu đổ cả trăm năm, hậu quả gián tiếp cuối cùng là tôi ngồi đây mệt mỏi, chán chường

            không thấy có đất sống.
            Sau năm 1954, xán nọ đã bung vành, đứng trơ trơ giữa cánh đồng Láng Linh, trên bờ kinh Xán Cụt.

            Xán ngóng trông tàu Tây trở lại, tàu Tây đã liệt máy, kinh cùn đã cạn nước. Khi mười giờ ông Chánh dìa Tây, cô Ba (đành) ở lại lấy thầy thông ngôn, thì xán đành sống chung với dân dọc

            theo bờ kinh, sóng nước bạc mênh mông cánh đồng Láng Linh không nỡ nhận chìm xán, hạ kẻ thế cô đầu hàng đâu phải là thái độ cao thượng của người kiến nghĩa bất vi vô dõng giả.


            Cả gần trăm năm qua, máu đỏ, hận thù sôi sụt đã nguội dần thành màu đất bón phân cho lúa. Xán đã quên mất mẫu quốc mình, hòa mình với đất phèn sóng bạc Láng Linh, đứng an phận bên bờ kinh, tên xán (xà-lan, Chaland) được đặt tên mới

            là "Cái càng tôm nó đứng giữa đồng", (như máy bay chuồn chuồn, đầm già, cồng cộc, v.v...). Làm chứng nhân giữa trại ruộng Láng Linh do Ðức Thầy Tây An khai phá và cuộc chiến đấu một sống một còn của đoàn quân Ðức Cố Quản Trần Văn

            Thành, dù thất bại, dù chim bay về núi tối rồi, vẫn quyết liệt, thà thua ta xuống láng xuống bưng, kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần.
            Sau năm 1975, xán bị kéo đi mất. Tôi cũng đánh mất ước mơ được một lần về hội ngộ tâm sự với xán bên bờ

            kinh Xán Cụt khi chiều xuống, thâm sâu giao cảm hơn đứng dưới chưn Tour Eiffel đô hội giả trá.
            Tôi đã trả nợ ơn nghĩa cho dì "Bà Ðầu Ðỏ", cám ơn dì đã hát cho tôi nghe lời ru em man mác dù có bốn chữ và đưa đẩy tôi đi tìm được trọn vẹn bài hát

            ru em.
            Lời thề thốt, xán nọ bung vành, nguyền cho tàu Tây kia liệt máy để tròn câu nhơn ngãi của chàng thanh niên kia đã trọn vẹn, chắc chắn chàng sẽ không phụ em đâu! Này người ơi, cho tôi xin ru lại lần cuối, cho em thơ êm ái đi vào giấc ngủ trưa:

            "À ơi! Cái quả năm ngăn trong lòng anh sơn đỏ
            Mấy lời to nhỏ, anh bỏ bạn sao đành Khi nào xán nọ bung "dành" Tàu Tây kia

            liệt "mái" mới đành phụ em"
            Và này người ơi, tôi muốn nói, dù cho xán nọ bung vành, dù tàu Tây kia liệt máy, dù cho đá nổi rong chim, dù muối có chua chanh có mặn cũng xin nguyền nhớ nhau.

            Graceville, 12 - 1996

            Lưu Nhơn Nghĩa
            thatsonchaudoc
            sigpic

            Comment


            • #21
              Như Cánh Chuồn Chuồn

              Trái Ô Rô
              __________________________________________________ ______


              - Viết tặng anh Bác sĩ Nguyễn Long (Brisbane).
              - Cuối năm tôi được nghỉ 6 tuần lễ.
              - Tuần đầu đau răng và cảm cúm.
              - Tuần thứ nhì lái xe ra biển bị gẫy cốt cam giữa đường. Đi xe lửa cả tuần. -Tuần thứ ba xe nằm đường
              - 8 tuần lương lãnh trước cạn sạch.

              - Tuần thứ tư bị ong vò vẻ trong vườn đánh sưng húp mặt, hết dám chường mặt ra khỏi nhà.
              - Còn 2 tuần dưỡng sức, ngủ trưa cho đả thèm, nhưng anh điện thoại gián tiếp khuyến khích. Tôi nể trọng anh nên miệt mài viết hàng đêm cho xong bài này để đền ơn tri ngộ.
              - Viết xong còn một ngày duy nhứt trước khi trở lại trường với lũ học trò quỉ quái.
              - Thở phào nhẹ nhỏm, ra sau nhà mới thấy cái máy lọc hồ tắm bị bể- ‘Tiền đâu thay đây trời?.


              ***


              Đào kép đoàn ca kịch Công Lập vừa ăn cơm trưa xong, chờ dọn ra chợ che đệm, dựng rạp chuẩn bị trình diễn vài đêm, trước khi xuống ghe bầu đi xứ khác kiếm ăn.

              Chợ này dân nghèo quá, coi cọp thì đông, tiền thâu giấy vô cửa ít oi, dân mua giàn thì trả lên từng chục đồng. Ông bầu gánh chạy vắt giò lên cổ mà chưa đủ đắp đỗi sở hụi qua ngày, nghe chê nhiều hơn khen. Thầy tuồng viết được vài tuồng thì mỏi mòn gầy gò tấm thân.

              Cô đào chánh Bảy Nhị nhờ sắc đẹp khuynh thành trong vở Tây Thi Phạm Lãi, giọng ca muồi mẫn có đủ khả năng chinh phục khán giả oai quyền.

              Nhờ vậy đào kép đoàn ca kịch có cơ hội được tháp tùng theo cô dự những bữa cơm tươm tất ở nhà ông Cả, ông chủ điền, bù lại những bữa cơm mắm kho mặn chát với rau dừa, rau tạp nhạp dưới kinh dưới ruộng, nuốt trôi cơm nhờ trái ớt hiểm.

              Ông bầu và đào kép vì vậy tranh nhau o bế cô Bảy Nhị mỗi khi cô nổi cơn đòi thối tiền lại, bỏ đi gánh khác. Nhục nhằn nhứt có lẽ là ông thầy đờn Mười Sáng, tọa trên chiếc chiếu rách xếp đôi, lưng dựa tường, mím môi nuốt nước bọt, vuốt bấm những sợi dây đờn, ông ôm ấp cây đờn xến như ôm ấp người yêu.

              Cuộc đời ông thảnh thơi trong bóng tối, cây đờn xến không phụ rẩy ông, cây đờn nhị nghe lời ông. Ông mù mắt nhưng được trời ban thính tai. Đào kép dù nổi danh đến đâu cũng phải nể vì ông, họ rất sợ thầy đờn phá, nhứt là đào kép còn non tay nghề như kép Năm Xồi, đào Ba Nhàn.

              Trưa trưa, ông có thói quen ôm đờn, vo từng tiếng tự thưởng thức tài nghệ, theo ông, chỉ có ông mới đủ khả năng thưởng thức tiếng đờn.

              Nhờ an phận sống qua ngày nên ông bình tỉnh trong không khí ầm ì tản cư giặc Thổ của mọi người chung quanh. Ông bầu đứng mũi chịu sào, luống cuống thở than: ‘Dọn đi thì lấy gì ăn?’.

              Đào kép nhao nhao sợ nạn Cáp Duồn, lấy của che thân hay là lấy thân che của? Sau đêm hát, khán giả lèo tèo đếm đâu được vài chục người và một lũ con nít ồn ào, đong được chục lít gạo thì mọi người quyết định lui ghe, vì nửa đêm, Thổ dậy, nghe tiếng kêu cứu và nhà cháy không xa.

              Gặp con nước ròng, càng khó khăn, thêm hai đứa bé khoảng mười lăm tuổi chạy loạn xin quá giang ra vàm, thằng Kèo và con Ngay. Hai đứa mồ côi nhưng có tài tháo vát đỡ đần cho đoàn hát ngay từ đầu.

              Kèo biết rõ từng khúc kinh cùn, con rạch cạn, từng con nước trước khi ra Sông Cái, lại quen chèo chống. Ngay thì nấu cơm nấu nước nhanh nhẹn. Nhờ hai đứa mà ghe đoàn hát ra đến Sông Cái an toàn, thoát nạn giặc Thổ.

              Kèo ngồi trên mui ghe buồn rầu nhìn về hướng quê mình, sông nước bao la, những giề lục bình xanh lạnh lẽo trôi phăng phăng như chính cuộc đời tên chăn trâu ở đợ, lỡ phải lưu lạc. Kèo ngồi ủ rũ như vượn lìa cây, chắt lưỡi như thằn lằn.

              Ghe trong xóm Tà Thom ra nườm nượp lánh nạn, mặt ai nấy đều căng thẳng. Kèo và Ngay cũng ở xóm đó ra, gia đình hai đứa bị Tây đi bố bắn chết đêm Việt Minh về chụp đồn.

              Hai đứa sống sót lây lất qua ngày trong xóm, biết mặt nhau nhưng không ưa nhau. Trong ghe, Ngay đang dọn cơm, Ngay quen việc cơm nước vặt vảnh vì ở mướn cho nhà điền chủ từ nhỏ.

              Bà bầu không buồn giải quyết chuyện hai đứa nhỏ làm việc không công cho đoàn hát. Mất người cũ, có người mới vô thay, đâu cũng vô đó.

              Tháng trước ghé chợ Bình Di, lúc lui ghe mới hay con đào lẳng theo trai ở lại với con thằng cha chủ nuôi cá bè. Cơm ghe bè bạn, gánh hát nhỏ, không đủ tiền mướn rạp ở tỉnh lớn, chợ quận nên chỉ loay hoay ở các thôn ấp nhỏ và nghèo dọc theo sông rạch, tiện việc giao thông chuyên chở.

              Nước sông gạo chợ, ghe bầu là căn nhà di động an toàn nhứt của tiểu gia đình mang cái nghiệp cầm ca. Ngoài nghiệp đó, thêm vài việc phụ mới vừa no đủ.

              Có khi ghé thửa ruộng dưa bên bờ kinh vắng vẻ xa nhà chủ, họ ghé bẻ vài trái giải khát hoặc lội xuống kinh nhổ bồn bồn, bông súng, rau để làm dưa hay nấu canh thêm với mắm kho mẳn là món ăn thường nhựt.

              Gặp mùa tát đìa, kép Năm Xồi la cà quanh đìa, làm vài bản vọng cổ chưa chín muồi cũng được giỏ cá thác lác. Riêng ông bầu và bà bầu, nghe tên tưởng đâu mập lắm.

              Bà thì đúng là bà bầu, còn ông thì gầy yếu, tay chân khẳng khiu, mặt tái mét, có tên là Bầu Ốm. Cuộc đời ông bầm dập qua bao biến cố loạn lạc, trên đe dưới búa. Vì cái quá khứ Thanh niên Tiền phong mà ông khốn đốn.

              Một thời, ông theo đoàn sơn đông mãi võ, làm quảng cáo cho nhà thuốc Hiệp Sơn, sau đó bỏ trốn vì bị tình nghi. Bây giờ ông còn tinh thần kinh cung chi điểu. Bọn lính kín rình rập nghe từng câu hát trong tuồng, sợ liên hệ tới quốc sự.

              Ngoài nghệ thuật sân khấu, ông còn bao nhiêu vấn đề khó khăn phải đương đầu. Có đêm hát xong, đào kép chưa kịp rửa mặt, khán giả ra về, dưới ghế có vài tờ truyền đơn, vậy là cả đêm đó có cơ ngủ bót.

              Đoàn hát khốn khổ nhứt là những đêm ngủ đình ngủ chợ, hoặc đậu ghe bên bờ kinh vắng, kẹt giữa hai lằn đạn Việt Minh và Tây. Hai bên coi những người nghệ sĩ lỡ bước như kẻ bị tình nghi.

              Gặp Tây thì sợ mình thành Việt Minh, gặp Việt Minh thì tự nhiên mình biến thành Việt gian, có thể bị lên núi cho ‘mò tôm’. Mỗi lần có ai trả giá mua giàn, mặt ông nhăn nhó như muốn khóc: - ‘Khổ lắm ông à, ông trả thêm chút đỉnh cho đào kép nhờ, bảo đảm vở tuồng đêm nay sẽ thu hút khán giả, ông lời chớ không có cách gì lỗ đâu mà sợ’.

              Ông biết là có lời, khán giả có đông, nhưng không có người giữ trật tự. Thanh niên theo phá các cô đào trẻ, lũ con nít quỉ chạy lanh quanh vạch đệm chung vô rạp leo tuốt lên sân khấu hậu trường làm sao kiểm soát nổi, rồi hàng ghế đầu thượng hạng dành cho khán giả danh dự, tiền thâu vô cửa chưa đủ đong gạo.

              Lâu lâu, những đêm mưa, ông nằm bên bàn đèn lai rai vài ngao, thở than, tâm sự: ‘Muốn diễn cho có nghệ thuật, vừa làm khán giả vui lòng đâu có dễ’. Chưa kể đào kép mè nheo lớn tiếng khi gặp lương trễ.

              Ông phải lo ngoại giao với quan làng, khán giả và đào kép một lượt, còn thân ông cũng rách bươm, loang lỡ như mảnh long bào lổ chỗ, màu như lang ben trên người ông. Ông cúng kiến vái van Tổ không trật đêm nào, thỉnh thoảng ông than với Tổ:

              ‘Sao cái nghiệp cầm ca nó khổ như vậy!’ Bà bầu siết hồ bao ông xẹp lép nên bà có thân hình bầu xứng đáng. Ông nuông chiều đào trẻ bao nhiêu, thì bà lại hạch sách họ bấy nhiêu.

              Sau buổi trình diễn, bà có tật cằn nhằn, chưa thấy lần nào bà khen cho rậm đám: ‘Sao con Sáu Nhánh mầy ca ưa lắc lắc cái vai vậy? Con Chín Ngân ca tới đoạn bi thương mà mầy cười mỉm với thằng cha Cai Tổng?’.

              Đào kép lắm lúc bực mình, đòi thối lại, đòi bỏ đi gánh khác, nhưng chuyện đâu còn có đó. Họ cũng quen chuyện bực bội hàng ngày với bầu gánh, thầy tuồng, thầy đờn, đứa đề-co, khán giả từ ông già râu dê tới đứa con nít mất dậy.

              Họ cũng biết thân, đi gánh nào rồi đói vẫn hoàn đói. Họ kiên nhẫn được nhờ sống hai thế giới. Thế giới ban ngày và sau hậu trường đầy dẫy bực bội, bất trắc, khốn khó.

              Bù lại, ban đêm khi ánh đèn măng-xông thắp sáng, họ mang hia đội mão thành vương tôn công tử trên sân khấu, thưởng thức nhìn những đôi mắt say sưa thán phục bên dưới, hưởng vài giờ huy hoàng, rồi mang theo hình ảnh đó để an ủi che lấp cuộc đời truân chuyên.

              Kép Tư Tam trưa trưa rảnh rang, ngồi tiệm hớt tóc tán gẩu, cười lốp bốp: ‘Hôm qua tôi bồng con Hàn Tố Mai, mình nó mềm, mặt hoa da phấn, sướng lắm anh ơi! Trong lúc thằng cha Cai Tổng ngồi nuốt nước miếng tức lộn gan.

              Còn mỗi lần tôi ăn bánh canh hả, con nhỏ bán bánh canh múc cho tôi cá nhiều hơn bánh’. Ngay đang lui cui múc nước rửa rau sau lái ghe. Từ ngày theo đoàn hát, Ngay hoàn tất việc bếp núc, sớm khuya hầu hạ đủ người. Ghe cắm sào đậu nghỉ, Kèo cắm câu thế nào cũng có cá ăn cơm chiều.

              Ghe đậu gần cánh đồng mùa nước, Kèo mò một giỏ cua đủ nấu canh, hoặc một thau ốc quắn đổi bữa. Qua kinh hẹp, Kèo móc lén quày dừa kho cá, lâu lâu được ổ trứng cò, trứng trích. Kèo tháo vát bao nhiêu thì Ngay giỏi giang bấy nhiêu.

              Suốt năm, Kèo là nguồn cung cấp thức ăn cho những buổi cơm. Gặp khi hát ở làng trù phú sau mùa gặt gần Tết, đào kép được đãi đằng tiệc tùng tại nhà các ông Cả, ông Cai, thì trong ghe còn lại chỉ ba người: Kèo, Ngay và lão thầy đờn Mười Sáng quây quần buổi cơm đạm bạc.

              Hai năm qua, Kèo đã quen việc dựng rạp, hạ rạp, ngoài việc chèo chống trên ghe.

              Những đêm mưa gió mịt mù, bên bến sông cô quạnh, đào kép quây quần trong ghe, nhấp chén trà sen, ăn miếng kẹo đậu phọng, quên mưa gió bão bùng bên bờ sông lau lách, chỉ có Kèo và Ngay ngồi bó gối sau lái vẩn vơ, nhìn nhau, nhắc gốc gác mình, làng xóm mình.

              Hai đứa đã vướng theo nghiệp giang hồ, trở về làng lúc chiến tranh, bơ vơ đâu có thân nhân nhà cửa mà trú ẩn. Đào kép xem Kèo và Ngay như hai đứa bạn (bạn đây theo nghĩa là bạn chèo, người giúp việc). Trên ghe thì chèo chống, đến nơi Kèo đủ khả năng che đệm quanh chợ, treo màn sơn thủy.

              Sau đó, Kèo ngồi trên xe lôi vỗ trống mời khách vừa phát ‘rồ ram’ cho người qua đường, vừa đuổi mấy đứa nhỏ chạy theo chen lấn giành giựt. Bà bầu rót ba chun trà nóng cúng Tổ.

              Trang thờ Tổ màn đỏ lay động, mỗi lần sóng vỗ mạn ghe lắc lư là y như Tổ hiện về. Bà quay nhìn ông bầu đang bó gối vừa thổi vừa uống chén trà nghi ngút hơi trong ghe bầu chật hẹp. Bà lẩm bẩm: ‘Ngồi cái giọng đó là hết tiền’.

              Ông bầu nghe được, bật cười: ‘Có tiền đâu mà hết?’. Đoàn ca kịch vừa mất thêm hai người đào kép phụ họ bỏ về quê làm rẫy. Lãy ai thay vào vai phụ đây? Kèo vừa buộc cây sào trên mui ghe, vừa ngâm nga điệu Sơn Đông Hướng Mã:

              ‘Tý ty tý, ty tỳ ty. Má ơi má, cái anh này dê, ảnh nắm tay con. Trời ơi! Làm sao đây, má ơi!’ Ông thầy đờn chép miệng: - Thằng Kèo ca đỡ quá chớ, có lý à bây. Ông bầu đang lim dim thưởng thức chén trà, giựt mình, mở mắt như khám phá điều gì: -

              Ờ! Thằng Kèo con Ngay lớn rồi, sao mình không cho nó đóng vai phụ. Tội nghiệp, hai đứa theo mấy năm không than van một tiếng. Kèo, Ngay à! Đâu hai đứa bây xuống đây làm thử, coi được, tao cho hai đứa bây lên sân khấu với người ta.

              Có đường tương chao lắm à! Kèo và Ngay rụt rè chui vô ghe, lấm lét nhìn mọi người. Một đứa xuất thân chăn trâu, đứa ở đợ, mồ côi cù bơ cù bất từ nhỏ, đâu dám ước mơ làm đào kép để đóng chung với vua chúa trên sân khấu huy hoàng.

              Có những đêm, Kèo đứng sau cánh gà kéo màn, nhìn xuống thấy khán giả say sưa thán phục vỗ tay mỗi lần đào kép xuống song lang, mắt các cô thôn nữ mềm lòng, ươn ướt, dại đi.

              Phần Ngay thì giúp đỡ đào gài nút áo, bóp vai họ, xếp áo mão vô rương. Nàng cũng có lúc ước ao, nhưng ý nghĩ đến là bị dập tắt ngay, vì nàng có nhiều việc phải làm.

              Ngay và Kèo đứng trong hậu trường tối mờ. Đèn sáng choang, sân khấu là cung vàng điện ngọc, đào kép được Tổ đãi lột xác thành vương tôn công tử, tráng sĩ hay nữ hiệp vung kiếm trừ gian diệt nịnh.

              Kèo, Ngay chưa đủ khả năng tự tin, lúc đầu bước theo nghiệp Tổ, chắc chỉ làm quân hầu cầm cờ chạy hiệu, hầu hạ đào kép chánh, mãn nguyện rồi.

              Ông bầu phà khói điếu thuốc Bastos xanh nghiêm nghị: - Kèo, Ngay à! Hai đứa bây theo qua mấy năm, qua thấy hai đứa bây giỏi giắn, qua thương, muốn nâng đỡ. Biết đâu phải thời, Tổ đãi thành kép chánh. Chuyện đó làm sao biết được.

              Mai sau, trên ô-tô dưới thì ca-nô, nằm giường Lèo trải thêm nệm gấm. Chừng đó đừng quên thuở hàn vi.

              Từ đây, hễ có giờ rảnh, ráng theo học ca với chú Mười Sáng, chú dợt đờn cho hát. Kèo đưa mắt nhìn Ngay, tâm hồn hai đứa nao nao.

              Ngay thoáng thấy Kèo là tráng sĩ Thạch Sanh hiên ngang leo xuống hang cứu công chúa khỏi tay Mãng Xà Vương. Ông bầu dặn thêm: Nhớ mua con gà cúng Tổ, lạy chú Mười làm thầy.


              ***


              - Mười Sáng thoải mái, khoái trá sau ngao thuốc, chưa chịu cầm cây đờn lên. Ngay bóp vai, đánh lưng xành xạch cho sư phụ.

              Kèo thì điếu đóm liền tay. Cả tháng đầu được bản ‘U xàng u xáng u, xáng trên đầu ba bữa còn u’. Ông dạy bài bản, rồi qua vọng cổ. Cả hai đứa không biết chữ.

              Ngay sáng dạ, có khiếu hơn Kèo, học mau nhớ dai. Kèo chỉ giỏi chuyện chân tay, nghiệp cầm ca sao mà gian truân quá. Mười Sáng vo tròn phím đờn, vừa dặn dò liền miệng:

              - Nè, đào kép nuôi thầy đờn, nếu chơi không điệu với thầy đờn, tao cứ đờn đúng nhịp, đào kép không đủ hơi xuống song lang, tao không đợi, tao đi luôn là tụi nó mắc dịch hết.

              Nè, Ngay, vô nghe, coi chừng xuống song lang nghe, tao đương đờn dây đào đó. Chừng nào tao qua dây kép thì tới mầy nghe Kèo! Mười Sáng dạo đờn tẳng tặng tằng tăng, Ngay hít hơi dài, nói lối: -

              Than ôi! Cánh hoa rụng tả tơi vì gió dập, chớ xác bướm khô ôm ấp mặt bởi tình yêu. Như tôi đây nhìn hoa lan mà ruột thắt trăm chiều.

              Trông hồ điệp lệ sầu tuôn mấy lượt... Mười Sáng nhắc, nè, nè, vô liền, xuống song lang, nhớ lấy hơi lên nghe. Tàm tạm được, được rồi đó Ngay. Bây giờ tới Kèo. Làm lại bản ‘Dặn Dò’.

              Nào, vô! ‘Nếu mai duyên phận không tròn thì sao hỡi em’ Mắt Kèo đờ đẫn chạm đôi mắt say dại của Ngay, hai tâm hồn xao xuyến. Bản ‘Dặn Dò’ sắp dứt, Mười Sáng la: - ‘Vô’, trời ơi, xuống song lang liền.

              ‘Than ôi, thời vận bất tề’. Lỗ tai mầy để đâu Kèo? Mười Sáng mất hết kiên nhẫn với Kèo. Kèo tối dạ, vô ưa trật nhịp, không đủ hơi xuống song lang, ưa ca rớt nhịp bất tử, giọng ồ ồ như vịt đực.

              Ông sởm mình với học trò Kèo. Ngay bỏ xa Kèo về tài nghệ, có triển vọng tiến xa, diễn xuất lại có nét hơn Kèo. Ông Bầu Ốm đang ngồi vô công rổi việc, nóng mũi xía vào: - Thôi, đủ rồi, bây giờ hai đứa bây đóng chung thử tao coi. Kèo, mầy đóng vai thằng cha già lái heo, chở heo lên Saigon gặp gái.

              Còn Ngay, mầy đóng vai con đĩ bọc đền. Tao vai Tư Diều dẫn mối. Ngay nhanh nhẩu vô ngay điệu ‘Xàng Xê’: - ‘Lời nói của ông nghe qua rất tình’. - ‘Già còn đường!’ Kèo sung sướng họa theo. Ngay bắt vô:

              - ‘Lòng chẳng đổi thay từ đây tới già’. Ông bầu quơ tay ra hiệu cho hai đứa hát: - ‘Còn gì bằng!’ - ‘Lòng thắm tấm lòng ai biết chăng ai’. Ông Bầu Ốm, sành điệu vừa xô Kèo và Ngay gần nhau hát: - ‘Tôi làm mai cho, đừng lo, làm mai chẳng lấy công’. Ông liếc sang Ngay, nàng hát, mắt tha thiết nhìn Kèo:

              - ‘Này ai ơi có thấu lòng em tha thiết! Dù mai sau có khổ cùng khổ với nhau’. Ông bầu kéo vai Ngay cho nàng ngã lên vai Kèo. - ‘Chớ quên lời thề. Em đây đà hứa trước kia’. Kèo cảm xúc, bất ngờ nắm tay Ngay, nàng trở lại thực tế, liếc mắt đỏ mặt thẹn thùng ‘Lảng nè’.

              Trong ghe có tiếng vỗ tay cổ võ. Ông Bầu Ốm dạy: - Nè! Ngay, lúc hát: ‘Lời nói của ông nghe qua rất tình’, mầy phải liếc mắt, phải mục khứ mi lai, kề vai cọ má mới đúng kiểu chớ.

              Lúc hát: ‘Này ai ơi, có thấu lòng em tha thiết’, mầy phải là... là... là... làm màu làm mè để nạo cho nó bán hết ghe heo. Lúc hát tới chỗ: ‘tha thiết’, mầy phải bi thương, ngọt ngào.

              Còn thằng Kèo, lúc hát câu: ‘Già còn đường’, mầy phải vuốt râu cười dê mới phải. Ông Bầu Ốm bất ngờ, chợt có ý nghĩ lạ, cười ha hả: - ‘Ủa, hồi nãy tao đóng vai Tư Diều, dắt mối làm mai: ‘Tôi làm mai cho, đừng lo’, hay là hai đứa bây làm thiệt đi.

              Ngày mốt ghé bến chợ mua cặp vịt làm thịt đãi đào kép, tao chứng kiến cho hai đứa bây hòa duyên kháng lệ cho tròn duyên kim cải, ông trổ giọng cải lương, xuống song lang ngọt sớt: ‘để cho chim liền cánh cho cây liền a... cành!’.

              Đào kép vui vẻ vỗ tay hát ‘Khải hoàn xum hiệp nhứt gia a!’ Câu hát, tiếng đờn và lúc dợt chung, hoàn cảnh làm chất xúc tác cho tim hai đứa bốc men. Kèo và Ngay sượng sùng, đứng bỡ ngỡ, lùi xa nhau.

              Hai đứa chưa tỉnh mộng, cái trò lộng giả thành chơn ngượng nghịu nhìn nhau, ‘vầy duyên can lệ, tròn duyên kim cải’. Vịt nhốt chung với gà cũng có ngày biết gáy.

              Kèo và Ngay đã thành đào kép nửa mùa, được khuyến khích tập tành, tuy chưa đóng vai chánh lần nào. Kèo vẫn chèo chống, Ngay vẫn lo cơm nước, đôi vợ chồng trẻ con này chưa bước hẳn vào thế giới cầm ca, chưa biết tán tỉnh nhau. Phải nhận là cả hai có tiến bộ nhiều, theo lời thầy đờn Mười Sáng.

              Đêm trăng sáng, đậu ghe chờ con nước, rảnh rang, Ngay đang vo đậu nấu chè, Kèo ngồi nhấp cá. Tức cảnh sanh tình, Ngay miên man nhớ cảnh thanh bình, rồi chiến tranh, ly loạn, trôi giạt như bèo trên sông.

              Say cảnh, say tình, cất giọng nhại theo bản âm nhạc cải cách ‘Nỗi Lòng Chinh Phụ’: ‘Ôi! Nước nhà yên nơi bia đá còn ghi’. Kèo đang lui cui gỡ con cá mắc câu, nổi hứng: ‘Non sông đang chờ ta đem máu xương ra đáp đền’.

              Tráng sĩ Kèo và nàng chinh phụ Ngay đang đứng bên bờ suối, chia tay tiễn chàng ra biên ải diệt thù theo tiếng gọi của non sông. Ngay cúi mặt thổn thức, bi thương xốn xang không muốn rời chồng: ‘Vì đâu khiến xui tan lìa, Đành cam, sang phút chia lìa xa’.

              Ngay ngước mắt nhìn Kèo, lắc đầu, bịn rịn: ‘Ôi vì non nước, anh đành đem thân ra chốn trường sa, Ôi! Nước non nhà’. Kèo ném cần câu, tâm can run như nhịp tim Kinh Kha Tráng Sĩ, xem cái chết nhẹ như lông hồng, vỗ ngực phành phạch, hát vang rền bến sông, mặt hiên ngang phủ đầy tráng khí: ‘Gặp hồi hùng anh phải liều thân sống, Việt Nam giống ta oai hùng’.

              Ngay đã bắt xong nồi chè, khói rơm cay mắt, thấm thía lòng chinh phụ cố che dấu nỗi buồn, sợ tiếng thường tình nhi nữ, lưu luyến: ‘Em tiễn anh lên đường, Được bao nhiêu khúc vẻ vang’.

              Tâm hồn Kèo vấn vương theo mây trời, nợ nước nặng hơn tình nhà, nhưng còn thương hiền thê nơi trướng liễu. Tráng sĩ phải dứt áo ra đi, còn quay lại dặn dò an ủi khuyên nhủ người ở lại:

              ‘Tình chớ vương mang, Hồn nước khóc than, Chờ những chiến khu, Nỗi nguy nan mau diệt thù’ Tráng sĩ Kèo kéo sào xô ghe ra khỏi đám lục bình vướng víu, chống sào xuống đáy kinh như cầm giáo chờ quân thù tới, một sống một còn.

              Tiếng ca im bặt bất ngờ trên ghe bầu đoàn ca kịch Công Lập. Tiếng vỗ tay trong ghe đánh thức bầy cò, cúm núm trong bụi bên bờ kinh. Cỏ cây lặng ngừng uống cạn rượu ly bôi của người chinh phụ tiễn chồng ra quan tái, mấy dặm quan san.


              ***


              Trận mưa đầu mùa dứt hột lúc xế trưa, không khí mát lành thích hợp cho buổi ra quân đầu tiên ở chợ này. Ông bầu và đào kép nhẹ nhỏm, không sợ vắng khách.

              Mới năm giờ chiều, trước chợ chè cháo đã sẵn sàng. Gánh hát đến mang niềm vui cho dân chợ đã đành, còn thổi luồng sinh khí rộn rịp buổi chiều trước chợ.

              Các chủ tiệm gốc Tàu ưa hát Tiều, chưa đủ trình độ thưởng thức cải lương hoặc không ưa thức khuya chen lấn, kéo nhau ra ngồi chồm hổm ăn cháo gà, nem nướng, gỏi tôm, những món ngon này chỉ xuất hiện buổi chiều khi có đoàn hát đến.

              Nem gỏi ngon hơn nhờ không khí náo nức khác với ngày thường. Kèo cắm cúi soát lại cái rỏ rẻ, vô thêm dầu và kiểm soát sợi dây bay, đêm nào có màn tiên bay. Bọn trẻ con tò mò rờ rẫm.

              Một đám khác chạy rầm rầm trên sân khấu la hét ầm ỉ. Kèo vừa làm vừa lo, đêm nay Kèo được xuất hiện trên sân khấu.

              Ngay bây giờ là đào Kim Xuân, được đưa lên sân khấu lần đầu đóng vai tiểu thơ An Lộc, vai này diễn chừng mười phút, tuy là vai phụ, nhưng y trang rực rỡ.

              Trong hậu trường, Ngay đang lầm thầm ôm ngực hồi hộp, nhẩm lại cho thuộc nhập tâm những câu đối thoại ác nhơn. Ước mơ nàng thành, nhờ cô đào lẳng lơ bỏ đi, không còn ai thay thế ngoài Ngay.

              Gái có hơi trai, mặt Ngay hồng hào, da không trắng nhưng nhờ phấn son của đào Bảy Nhị, nên xem ra sạch sẽ nhứt trong đoàn. Ngay nhắm mắt nhớ lại. Trưa nay, đào kép được Xếp Sử mời ăn hủ tiếu ở tiệm nước.

              Xếp Sử sà lại ngồi bên Ngay kêu ‘em’ ngọt: ‘Kim Xuân ăn cho no nghe, thiệt tình đừng làm khách nghe’.

              Ngay rụt rè, chưa quen với tên cải lương của nàng, nhưng thấy kiêu hãnh vô cùng khi được sắp ngồi bên ‘XếpSử ’, được bồi bưng tô hủ tiếu bốc hơi thơm mùi thịt heo, có dĩa nhỏ đựng nước tương, có ớt ngâm dấm. Lần đầu tiên ngồi tiệm Ngay

              lúng túng. Đào Kim Xuân chợt thấy chán ngấy, sợ cái cảnh làm cá, đánh vẫy cá, lặt rau, kho nồi đất lọ nghẹ đen khó chùi, mùi nước mắm ngang, nước mắm đồng tanh rình.

              Xếp Sử mang kính đen, đội kết-bi oai vệ, lắc mình cốt ý cho thiên hạ thấy cây súng sáu bên hông, mặt y nghinh nghinh nhìn người qua lại, như muốn gây.

              Ngay vừa uống xong ly cà phê đá mát lạnh thơm ngát, đả khát quá chừng. Xếp Sử dịu mặt lại, mỉm cười hỏi Ngay đưa đẩy: ‘No chưa em?’ Xếp quay sang phổ ky kêu tính tiền.

              Chủ tiệm chạy ra, xoa hai bàn tay mập như nải chuối hột, suýt xoa: ‘Thôi để bữa khác đi ông xếp, bữa nay cho tôi đãi khách của ông xếp ăn hủ tiếu lấy thảo.

              Đâu có bao nhiêu mà tính tiền!’. Xếp Sử thản nhiên đứng dậy, vì đã quen ngồi tiệm nước hàng ngày. Xếp kẹp cây ‘cane’ đi song song với Ngay về sân khấu chợ.

              Đào chánh Bảy Nhị hơi phật lòng vì thấy mình chìm trước con nhỏ Ngay. Bảy Nhị là ngôi sao sáng về đêm khi trời tối, ban ngày sao lu mờ. Ngay đi sánh đôi với Xếp Sử, dáng thiếu phụ trẻ gọn ghẽ hơn đào Bảy Nhị.


              ***


              Kèo đã căng xong màn làm buồng cho đào kép sau hậu trường, sắp xếp rương đựng y trang xong, mới bắt đầu tìm chỗ thích hợp thiết bàn thờ Tổ.

              Kèo đặt cái tráp gỗ sơn son vuông vức, có hai cửa mở như tủ quần áo bên trong lót chừng năm tấc vải đỏ.

              Tượng Tổ hay tượng ‘ông Làng’ bịt khăn đỏ, mặc áo vạt khách xanh lục, quần lụa trắng. Tổ mặc áo quần như vậy không biết bao lâu rồi nên màu đã ngã sang bạc thếch, bụi bám đầy. Kèo cẩn thận bỏ màn xuống không cho ai nhìn vào thấy Tổ, không tốt.

              Sau đó Kèo chạy lên sân khấu dậm coi có đinh hay đã vững vàng chưa, đập đập tấm sơn thủy cũ cho bớt bụi, thử dây màn. Kèo là một tay đề-co khéo léo. Kèo vừa xếp xong các hàng ghế ngay ngắn thì Xếp Sử tới.

              Xếp Sử mặc quân phục vàng, đội kết-bi, đeo ‘lon’ một gạch vàng có lằn đỏ ở giữa, giống lon quan một. Lính và dân gọi ‘quan’, nhưng sau lưng gọi ‘Xếp Sử’. Xếp Sử kỵ nhứt là tiếng ‘ách’, vì xếp mới là Thượng sĩ, tiếng Miên ‘ách’ có nghĩa là chất dơ của người thải ra.

              Xếp Sử hùn với chủ tiệm rượu mua giàn đêm nay, chủ tiệm hùn tiền, Xếp Sử hùn miệng, lời chia hai, lỗ chủ tiệm chịu.

              Gánh nào tới đây cũng không qua lệ đó, đây là cơ hội đền ơn trả nghĩa cho xếp, để thỏa mãn máu mê cải lương của xếp. Đổi lại, xếp cắt lính trong đồn đeo súng mút đi vòng quanh rạp canh gác.

              Các anh chị đứng bến xe đò cũng xếp de khi nghe tới oai xếp Sử. Xếp Sử lẩm nhẩm đếm số ghế thượng hạng, ghế danh dự mời quan khách, ghế ủng hộ bán cho các chủ tiệm.


              ***


              Trời đã tắt nắng. Trước rạp càng ồn ào người ăn kẻ uống. Trẻ con dành nhau đập trống giục giả. Dân các xóm chung quanh lũ lượt kéo ra chợ ăn hàng, coi hát.

              Bà Bảy ngồi quạt lò nem nướng vừa sắp bánh tráng, rau sống, chuối chát và nước mắm bưng cho khách.

              Theo chương trình, mở màn lúc bảy giờ, nhưng nhạc tò te, đờn rỉ rả tới tám giờ mới bắt đầu nghe tiếng chuông rung, tiếng gõ bồm bộp trên sân khấu báo hiệu giờ mở màn.

              Trong hậu trường tối mờ mờ, áo mão xiêm y cũ treo chung quanh, đào kép chen lấn sắm tuồng, không khí ẩm thấp từ những bộ áo mão không giặt bao giờ, bốc ra ngột ngạt làm ngứa mũi.

              Kèo ngồi sau cánh gà, nghề chánh là kéo màn, lặng lẽ quan sát vợ dặm mặt làm tuồng. Ngay đã trổ mã, dáng dấp gọn và thon, mặc áo kim tuyến lấp lánh như sao đêm.

              Nàng tằng hắng, thử giọng, rồi bước tới bàn thờ Tổ chắp tay khấn hứa: ‘Lão Đại Lang Thần’ chứng minh cho vợ chồng nàng.

              Đêm nay Kèo và Ngay cùng đóng chung một vở tuồng. Kèo vai lâu la, chận đường cướp giựt, đánh vài đường kiếm, bị đâm lòi ruột chạy vô buồng.

              Kèo nhìn lại y phục mình, đầu quấn khăn đen che tóc bờm xờm, áo quần bà ba đen bó chẻn, thắt lưng là khúc khăn tắm sọc vuông, ống quần bó túm lại, chân đất, bên hông giắt cây kiếm nhôm dài gần sút cán.

              Tuy vậy Kèo cũng vừa ý lắm, có được lên sân khấu là quý rồi.

              Ví dầu được đóng vai vương tướng, Kèo chưa chắc học nổi vở tuồng, rồi ca rớt nhịp, diễn xuất... Ôi, lộn xộn quá. Ai cũng khen và nâng đỡ Ngay, từ Ông Bầu cho đến thầy đờn Mười Sáng.

              Kèo linh cảm như vợ mình được chắp cánh bay cao, như con sáo xổ lồng nhanh nhanh. Kèo man man, mường tượng hình như có điềm gở, không nói được, khó diễn tả ra.

              Cái buổi xế trưa đó, những tia nắng quái nhảy lăn tăn trên mặt nước kinh, chói đến nhức mắt. Ngay rang rảng hát theo tiếng đờn Mười Sáng, Ngay xuất thần say sưa hát, giọng hát đã có giọt, chín lắm rồi:

              ‘Ải ai đem là con sào là sào sạng sông, Cho sáo xổ lồng, cho sáo xổ lồng, xổ lồng bay xa con sạo sáo bay xa’. Mười Sáng chắc lưỡi khen: - Hay quá, Ngay mầy vượt qua được khúc này hay quá. Từ buổi trưa đó, con sáo Ngay bay càng xa, ước mơ cao xa hơn.

              Ngay mọc lông mọc cánh thành con sáo, Ngay trổ mã thành chim phụng bay xa, bỏ Kèo như con gà trống kêu cúc cúc trong chuồng. Kèo lo âu, cảm giác thành luồng hơi nóng chạy suốt đường xương sống.

              Đã tám giờ đêm, những tấm giấy kiếng màu đã che mờ mấy cây đèn măng-xông, sân khấu đổi màu. Đào kép chỉnh tề đứng nghiêm trang trong hậu trường nghe thầy tuồng dặn dò lần chót.

              Thầy tuồng kiểm soát sơ y trang, nhắc những lúc quan trọng, cách diễn cho có lớp lang, bắt đào kép lặp đi lặp lại cho nằm lòng, sửa lại những câu sai, bộ điệu cho đúng. Thầy tuồng gốc thâm nho, muốn đào kép thuộc từng câu từng chữ.

              Thầy nhiều lần phàn nàn đào kép ỷ tài, ỷ tận, như ‘nầy phu tướng xuống giọng thành ‘phụ tướng’, phu tướng là để vợ gọi chồng làm tướng, còn ‘phụ tướng’ là ‘tướng cái’ nghe chưa?’.

              Đào Bảy Nhị và kép Tư Tam quá tự tin tài nghệ và kinh nghiệm nên cố ý lơ đãng vì biết thầy tuồng nói xéo mình. Ngay biết thân, sanh sau đẻ muộn, non nớt tay nghề nên ép mình học hỏi, biết điều. Thầy tuồng quay lại dặn Mười Sáng:

              - Anh Mười liệu đờn theo đào kép nghe, đi mau quá họ theo không kịp thì bể dĩa à. Đào Bảy Nhị biết thầy tuồng lại mỉa mai mình, xụ mặt quay đi, lầm bầm bất mãn.

              Thầy tuồng lo lắng cho Ngay: - Đâu! Nghinh mặt kiêu kỳ cho tao coi! À, được đó, mà nhớ lắng tai nghe chú nhưn nhắc tuồng nghe. - Ông Bầu nhớ nhắc đừng để nó khớp, nó quên. Bà Bầu cầm đèn cầy và xấp giấy, nhắc tuồng chung với Ông Bầu.

              Mười Sáng dạo bản Lưu Thủy Hành Vân. Kèo mải mê nhìn qua khe cửa cánh gà. Khán giả đông bộn. Xếp Sử ưỡn ngực ngồi ghế thượng hạng đang chuyện trò với các viên chức nhà việc.

              Người ‘lát-xưa’ cầm đèn ‘pin’ đi lên xuống sắp xếp chỗ ngồi và giải quyết các chuyện nhỏ nhặt như một giấy mà lại dẫn thêm mấy đứa con nít, mua nửa giấy mà đòi ngồi trọn ghế một mình, nhứt là các ghế hạng nhứt và hạng nhì, khán giả nôn náo. Ông Bầu giơ tay cho đào kép im lặng:

              - Rồi chưa? Mở màn bàn thờ Tổ đốt nhang chưa? Đào kép đốt nhang xá Tổ chưa? Coi chừng có đứa rắn mắt đem trái thị thì Tổ bỏ theo nó đó nghe. Hôm nay đầu tiên, hát coi cho được.

              Rồi! -Sẵn sàng- Kèo, rung chuông, gõ đi! Kèo kéo tấm màn nhung làm bằng vãi san đầm qua hai bên, một bên dây kéo hư, nên phải dùng tay kéo.


              ***


              Đêm đã khuya, vở tuồng đã tới hồi gay cấn, tiếng trống giục giả ‘quân’ pha tiếng đờn réo rắt của Mười Sáng.

              Đèn màu chiếu trên làn nước chảy cuồn cuộn dưới chân núi xa xa trên tấm tranh sơn thủy. Cảnh đẹp như tranh. Công tử Minh Văn đang phi ngựa săn bắn bị lâu la Kèo chận đường:

              - ‘À à! Mi đi đâu?’ (Kèo hỏi) - ‘Ta đi săn bắn qua khu rừng! Mi là ai?’ - ‘Phải nạp tiền mãi lộ cho mau!’ (Kèo đọc như thuộc lòng) Bà Bầu nhắc: ‘để lại cái thủ cấp’. Công tử Minh Văn rút kiếm đâm tên lâu la, Kèo ôm bụng chạy vào hậu trường, trở ra chỗ cánh gà lo phận sự kéo màn.

              Kèo say mê cải lương hát bội không kém khán giả, hồi hộp nhìn Ngay ‘xa giá võng lọng’ được mấy đứa tỳ nữ theo hầu bước vào túp lều tranh chỗ công tử Minh Văn bị té ngựa khi đi săn.

              Cô thôn nữ Hằng người yêu cũ Minh Văn băng bó và cho chàng uống thuốc. Tiểu thơ An Lộc ngồi chễm chệ trên ghế có tỳ nữ quạt hầu.

              Ngay có nét mặt kiêu sa đài các. Ông Bầu thì thầm: ‘Chèn ơi, con nhỏ đóng có đường quá ta! Phấn son hồng lên má tiểu thơ An Lộc, vóc dáng đẹp hơn đào chánh Bảy Nhị bề xề, tuổi xấp xỉ bốn mươi.

              Kèo nhìn Ngay trân trối, Ngay không thể là vợ tên kéo màn đang bó gối ngồi trong bóng đêm ngơ ngác nhìn tiểu thơ An Lộc đẹp như tranh kia.

              Nét mặt tiểu thơ Ngay kiêu kỳ quá. Ngay đã lột xác sâu thành cánh bướm rực rỡ rồi Kèo ơi! Cô thôn nữ Hằng đau đớn cầm chén thuốc dưng cho tiểu thơ An Lộc xem xét. Hằng quay về khán giả, nước mắt lưng tròng than bi ai thê thiết:

              ‘Than ôi! Thời vận bất tề’. Ông Quản Ấu lắc đầu ủ rũ theo. Xếp Sử khá hơn, biết xét người, có mắt nghệ thuật, quay sang ông Cai Tổng: - Đào Bảy Nhị tuổi quá bán rồi, mà đóng vai trẻ coi hơi chướng.

              Giọng ca Bảy Nhị chắc hơn Ngay, bóng sắc phải kém xa Ngay, nhứt là khi nước da hơi sạm nắng của Ngay được lớp phấn son che lấp. Nếu ở trong mát một thời gian, da Ngay sẽ nhả nắng, dư sức thay thế Bảy Nhị.

              Ông Cai Tổng gật gù đồng ý. Tiểu thơ An Lộc cầm chén thuốc Hằng ném xuống đất, nạt nghe phát ghét: - Xí, cái tô nhớt nhợt, con hèn hạ, mày dám cho phu quân ta uống thuốc đựng trong cái tô dơ dáy như vầy hà?

              Con kia, phu quân ta mà có mệnh hệ nào, thì ta xé xác mi ra nghe chưa! Tiểu thơ vừa nói vừa nhéo tai Hằng.

              Tiếng than áo não của Hằng, câu nói chanh chua của tiểu thơ và tiếng tô sành vỡ nghe nhói tim tạo niềm thương cảm, oán ghét trong lòng khàn giả, nhứt là các ông già đàng cựu, phân biệt người trung kẻ nịnh.

              Các anh chị đứng bến đứng sau hạng cá kèo không dằn được bất bình, dám lớn tiếng: - Mơi hổng có gạo nấu à nghe, đừng bày đặt nhỏng nhảnh.

              Thầy tuồng hít hà: - Tổ nhập nó rồi, nó đóng xuất thần quá, nó lột hết tinh thần vai tiểu thơ An Lộc rồi! Tiểu thơ An Lộc nguây nguẫy quay đi, giọng trả treo: - Quân, lấy xe giá đưa công tử về, thuốc thang ngơi nghỉ à


              ***


              Xếp Sử mua giàn mười đêm nhờ ngôi sao mới mọc Ngay, hay đào Kim Xuân, xuất sắc vai tiểu thơ An Lộc trong tuồng ‘Tiếng Khóc Bên Mồ’. Sáng, trưa, Xếp Sử đưa đào kép ra tiệm xíu mại bánh bao.

              Chiều chiều, Xếp Sử hướng dẫn ăn cơm ở các nhà có máu mặt khoản đãi. Đào kép no nê, nhờ ơn Ngay chứ không phải đào Bảy Nhị như trước.

              Chỉ có Mười Sáng vì mù, nên ở lại dưới ghe, ông cần cơm đen hơn cơm trắng. Kèo có phận sự giữ gìn ghe hoặc ngủ sân khấu canh bối.

              Sau đó, quen thân hơn, Xếp Sử chở đào kép về nhà việc ngủ, đỡ chen chúc muỗi mòng. Đêm đêm, Kèo tủi thân nhịn nhục chui vô nóp ngủ sau lái, nhớ Ngay, ‘thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi’.

              Kèo lép nhép vẩn vơ bản ‘Lý con sáo’, Mười Sáng cũng hết hứng đờn phụ họa: ‘Ải ại đem, con sạo sạo sáng sông, cho sáo xô lồng, cho sáo xô lồng, xồ lồng nhanh nhanh, con sáo sao nhanh nhanh’.

              Quanh quẩn cũng con sạo là sạo sang sông. Lúc trước hát buồn thương sướng thỏa, bây giờ sao hát nghe u sầu ủ dột. Tiếng hát từ cõi lòng sâu kín, than van thố lộ cùng ai?

              Chỉ con sáo trong bài ‘Lý con sáo’ mới diễn tả hết nỗi lòng Kèo. Đào kép cảm thông, nhưng kinh nghiệm đời như vậy phải chấp nhận.

              Kèo quan niệm cuộc đời quá đơn giản, như chèo chống, chưa thấy mặt trái của kiếp cầm ca, chưa thấu hiểu và chịu đựng cảnh thay vợ đổi chồng trên sân khấu ban đêm và nhơn tâm ban ngày.

              Số phần Kèo phải chịu vậy, tương lai Ngay định rồi. Làm bé Xếp Sử no cơm ấm áo, ăn cơm có thịt cá, đêm đêm nằm giường có chiếu chăn ấm áp, không co rúm hay ngủ nóp trong ghe.

              Kiếp cầm ca bấp bênh như lục bình trôi, sống ngày nào biết ngày đó. Mới là tiểu thơ đêm trước, hôm sau không có gạo nấu.

              Cao lương mỹ vị trên sân khấu là cái bánh vẽ, chun ngự tửu thực sự là nước giếng, đêm nay là người trung, bạn hữu, đêm sau là kẻ nịnh, người thù.

              Đầu óc Kèo u mê, bắt không kịp sự đổi đời đen trắng, nắng sớm mưa chiều. Tương lai là tên kép già câm, vai lão, đào già vai mụ ở.


              ***


              Ghe hát định nhổ sào từ khuya để kịp con nước ra Sông Cái, nhưng còn nấn ná vì gương mặt thảm não của Kèo, mọi người lẳng lặng ở lại chờ Ngay, thâm tâm ai cũng biết là vô vọng mà không dám nói thẳng với Kèo sự thật trái thường.

              Xếp Sử đưa Ngay ra tỉnh sắm sửa vải vóc hôm qua, Ngay vui vẽ nhận lời, hẹn chiều đó sẽ trở về. Đào kép thở phào, khi người lính xuống ghe báo tin bảo lui ghe, cho biết đoàn ghé chợ nào thì Xếp Sử sẽ đưa trả Ngay về chợ ấy, vì Xếp Sử có việc trên tỉnh.

              Ghe phải nhổ sào, Ông Bầu buồn, khuyên Kèo hãy hy vọng. Trễ con nước, chèo ngược suốt ngày, Kèo đâu còn sức lực chèo chống.

              Kèo nhìn nước kinh chảy ngược vô chợ, nuốt tức tửi tủi hờn, xuống câu lối thường nghe: ‘Tiền, đồng tịch kim bằng cộng lạc, Hậu, lâm nguy bất kiến nghĩa đệ huynh’.

              Câu nói lối học lóm của đào kép sao mà đánh đúng tâm sự kẻ sa cơ, bao nỗi oán hờn trách kẻ bạc tình. Đào kép lặng thinh, vì chính họ cũng có kẻ từng nếm cay ngậm đắng như Kèo, họ đã chai lì rồi.

              Chồng Bảy Nhị bỏ theo con gái ông chủ điền ruộng cò bay thẳng cánh, có ai an ủi tiếng nào, tức khí trong người muốn vỡ tung ra, muốn chụp cây dao đâm họng máu trào, để em ở lại lấy nơi nào hơn anh.

              Tiếng đờn cò Mười Sáng lanh lảnh trong khoang ghe, lựa chi bản buồn đứt ruột, Kèo lép nhép điệu ‘Xàng Xê’: ‘Hoa bay theo, ơi, cánh bướm rụng đầy sân rêu’.

              Kèo cúi đầu nhẫn nhục. Ngay ơi! Em tham quý phụ bần, tham lê quên lựu, em quên câu tào khang chi nghĩa.

              Em có nhớ đêm anh dẫn em chạy băng đồng trốn giặc Thổ, nhờ ai ngày nay em lên xe xuống ngựa? Mười Sáng hiểu chuyện, bò lên mui ghe nói vài câu an ủi vu vơ:

              - Thôi Kèo, thói đời mà. Họa phước đáo đầu chung hữu báo. Cao phi viễn tẩu giả nan tang. Lưới trời lồng lộng, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.


              ***


              Không nhớ mấy năm trôi qua, đoàn Công Lập rã gánh, rồi lập gánh cải tên là Hồng Nam, vẫn chiếc ghe bầu chở đào kép cũ mới len lõi qua bao nhiêu kinh rạch mang niềm vui rẻ tiền cho dân nghèo.

              Kèo bây giờ là kép Út An, như nhắc nhở tiểu thơ An Lộc. Út An đã trưởng thành, tuổi gần trung niên, quen sống với mặt trái của cầm ca.

              Kép Út An hát khá vững, giữ nhiều vai phụ ngắn. Út An có tật quên trước quên sau, vì chữ nghĩa không rành nên chỉ nhớ lỏm bỏm tuồng tích, luôn luôn nhờ người nhắc tuồng.

              Thầy tuồng phê bình cái tật cẩu thả của Út An và tật hay cương ẩu, cương có khi xuất thần, thường khi dở tệ, bị khán giả la ó.

              Ngoài đời Út An vướng rượu, màu da vàng nghệ là hậu quả, đến đâu cũng từng để thương để nhớ cho các cô thôn nữ địa phương.

              Tâm can Út An chưa phai hình ảnh tiểu thơ An Lộc trong vở ‘Tiếng Khóc Bên Mồ’, thường hay dựa khoang ghe, chỗ Ngay thường ngồi năm xưa, thẩn thờ hát, như ‘Lan và Điệp’:

              ‘Nhìn hoa tàn rụng rơi,
              Lan tái tê trong lòng, Bao cay đắng dập dồn, Tình đầu vừa tan theo khói sương, Lan khóc than bao tháng năm sầu thương, Mùi thiền đành quên câu muối dưa, Mang xót thương theo tháng năm dần qua’.

              Út An quên mất lưng trâu nhám xóm Tà Thôm năm xưa, trong giây phút trào lòng, bất giác xuống luôn câu vọng cổ trong dĩa ‘Hoa Rơi Cửa Phật’:

              ‘Tiếng mõ chuông đã chấm dứt một cuộc tình duyên đầy trái ngang đau khổ, Lan phải lịm đời ai trong lớp áo nâu sòng’. Út An hát với cả tấm lòng, nhưng tiếng Mười Sáng ngồi bên cạnh làm Út An cụt hứng:

              ‘Mày thiếu hơi nghe Kèo, tới chữ ‘nâu’ mà mày muốn bức hơi, thì xuống song lang hơi sượng đó’. Mười Sáng chỉ biết khen chê về kỹ thuật ca hát. Kèo hát vì con tim tan nát.

              Út An thành con phù du dưới ánh đèn sân khấu. Lăn lộn trong nghề đã lâu, ngôn ngữ Út An thấm mùi cải lương ‘chí anh hùng nào ngại lẽ tồn vong’.

              Nhờ học tuồng tích mà Út An bỏ dần những câu nói quê mùa lắp bắp, gương mặt lúc nói chuyện thường hay thay đổi vẻ bi thương, hào hùng, ai oán Út An đều xử dụng được. Út An nằm vật xuống khoang ghe, vắt tay trên trán:

              ‘Ngay ơi, em nằm đêm suy nghĩ lại coi, thiếu chi rau em ăn rau é, thiếu chi chồng em làm bé người ta’. Tiếng thả đòn dầy đậu ghe ăn cơm trưa và người đi lẹp nhẹp trên mui ghe, Út An giả vờ ngủ mê, dấu tâm sự buồn riêng.

              Mười Sáng thính tai nhạy cảm, gần gũi dẫn dắt Kèo từ ngày từ thuở ban đầu. Mười Sáng điềm đạm thủ thỉ: ‘Mấy năm rồi... chưa quên sao Kèo? Đời mà mậy! Tháng tới ghé chợ đó hát chắc con nhỏ đó đã con bầy con lũ rồi. Kiếp cầm ca, lộng giả thành chơn.

              Ông bà mình chê là xướng ca vô loại cũng có phần đúng. Chuyện thay vợ đổi chồng trên sân khấu hàng đêm, ngoài đời cũng vậy’. Út An trở mình, không muốn nhắc đến tên Kèo.

              Mười Sáng vỗ về:

              - ‘Tao kinh nghiệm quá rồi Kèo à! Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ. Cuộc đời đổi trắng thay đen, lấy công làm tội. Thôi mầy cũng gắng lên, tập tành ca hát, cái nghiệp rồi Kèo à! Hữu chí cánh thành, gắng công thì sẽ nên danh có ngày.

              Mầy đã học thuộc vai điên trong tuồng ‘Người Điên Trước Cổng Chùa’ chưa Kèo? Mầy đóng vai điên chưa chắc hợp, bài bản chữ nghĩa mắc mỏ, mầy phải học cho kỹ tuồng.

              Vo cho tròn mấy bản Bình Bán Vắn, giữ hơi để xuống song lang, tao đờn đệm theo cho. Cái nghề đờn ca, nói cho cùng, phải dựa nhau mà sống, mầy cũng thấy đó. Còn mầy đối với tao tròn ơn tròn nghĩa, ơn đền nghĩa trả, thảo với nhau là quý rồi’.

              Mười Sáng thở dài, ôm đờn cò bấm vài tiếng đờn trầm trầm như tiếng mưa rơi. ‘Mà xét cho cùng, con Ngay nó gặp cảnh ngộ trái ngang. Dù muốn dù không nó cũng phải chịu số phần nó.

              Oai quyền Xếp Sử hổng phải dễ à!’ Mười Sáng se điếu thuốc vấn, tiếp tục tâm sự: ‘Phần tao còn tệ hơn, phần thì đui tối, phần không vợ con, sống nhờ cây đờn mà khỏi đi ăn mày như lúc trước.

              Hồi đó, tao đứng hát ở cầu Bến Lức, chỉ cần hát nửa bản cũng đủ sống, chưa lần nào hát tròn bản Sơn Đông Hướng Mã. Hát chừng nửa bài thì phải đi qua xe khác. Tao sống qua ngày nhờ xe kẹt cầu phải đậu đợi.

              Thằng cháu tao dẫn tao đi hát nó bị ban cua lưỡi đắng chết. Tao lưu lạc tới giờ. Muốn giải nghệ mà giải nghệ thì lấy gì ăn’. Giọng Mười Sáng bực tức: ‘Mầy tưởng làm nghề đờn này sướng lắm sao.

              Đào kép nó chửi nhức xương. Con Bảy Nhị nó ca rớt nhịp, nó đổ thừa tao, nó chửi xéo tao, là tao đui mà đeo kiếng đen, làm như đeo kiếng là đọc chữ được.

              Họ hâm mộ đào kép trẻ, mầy thấy đó, còn họ có bao giờ mời thầy đờn ăn cơm tối, uống cà phê đâu’. Mười Sáng mải mê tâm sự, tên là Sáng mà sống trong thế giới tối


              ***


              Gánh Hồng Nam tiếp tục về chợ quê khua trống. Đào kép giữ nguyên nếp sống cơm đình cháo chợ. Mấy ngày đầu khán giả đông như chợ sáng, mấy ngày sau thưa thớt như buổi chợ trưa.

              Đào kép lỡ thời lỡ vận bỏ đi, lớp khác thay vào. Gần nửa đêm, sắp vãng hát, cửa rạp đã mở ‘thả giàn’. Cái lệ thả giàn. Người lớn và trẻ con tràn vô rạp đứng sau hạng cá kèo được thưởng thức vớt vát phần cuối, đây là dịp quảng cáo, nếu thấy hay, hôm sau họ sẽ mua giấy xem.

              Khán giả đang bị lôi cuốn vào vở tuồng, say sưa theo dõi, đèn khuya cũng mờ. Vở ‘Người Điên Trước Cổng Chùa’ đã đến hồi gay cấn.

              Trăng khuya đã xế trên sân khấu mờ mờ, tiếng chuông chùa ngân nhẹ. Người điên, Út An đóng, đứng ngơ ngác, tiếng chuông ngân dài, điên đứng nghe ngóng.

              Điên bị vợ phụ phàng, mặt mất hồn, hai tay quơ quào chới với lúc chạy về gác chùa, lúc nghiêng đầu vễnh tai lúc lắc. A, a! Kìa, kìa! Xếp Sử và Ngay đang ngồi hàng ghế thượng hạng coi hát.

              Mặt Xếp Sử ngước lên vì quá gần sân khấu, miệng mím toát ra vẻ oai quyền sinh sát. Ngay mặc áo dài hồng, quần trắng, guốc cao gót, là người đàn bà duy nhứt được ngồi ghế thượng hạng.

              ‘Kìa! Kìa! Nó kìa!’ Người điên đi chờn vờn ngang sân khấu.

              Ngay bất ngờ nhận ra Kèo, trời ơi, chồng cũ mình. Gánh này là gánh Hồng Nam chứ đâu phải gánh Công Lập. Đầu óc Ngay đảo lộn, không hiểu sao Kèo xuất hiện ngang xương ở gánh Hồng Nam. Nếu biết Kèo đi theo đoàn này, chắc Ngay không dám đến dự.

              Lỡ tay trót đã nhúng chàm. Ngay há hốc kinh ngạc, run lẩy bẩy như bà đồng, Ngay cố giữ thái độ bình tỉnh nhưng không kiểm soát nổi tứ chi mình.

              Lòng Ngay rộn lên niềm ao ước được sống say sưa theo tiếng hát tiếng đờn dưới ánh đèn sân khấu, nhớ thời xa giá của tiểu thơ An Lộc ghé túp lều tranh nghèo, mắng thôn nữ Hằng.

              Chân Ngay luống cuống muốn nhảy xổ lên sân khấu an ủi người điên. Thời tự do hò hát trong ghe bầu, trời rộng, sông dài, trăng thanh gió mát... Tứ chi Ngay bị vướng víu vì cái bóp đầm, đôi guốc, chiếc áo ngứa ngáy.

              Ngay muốn tung bay như chim trời. Mấy năm nay sống với Xếp Sử trong đồn lính tù túng, lo săn sóc con cái, đương đầu với vợ lớn.

              Tưởng bỏ kiếp cầm ca cơ cực về làm phu nhân Xếp Sử, chim bỏ trời xanh bay vào lồng son chật chội, khác xa thời êm ả trên kinh cùn rạch cạn, nay chợ này mai quê khác. Ngay càng vùng vẫy, tay Xếp Sử càng nắm chặt.

              Luồng nhỡn lực Kèo chạm phải mắt Ngay, thành tia thương cảm ân hận thù hằn. Mắt Ngay khờ dại, lạc lòng, mềm nhũn người. Kèo nhìn Ngay trân trối, đôi mắt Ngay giống hệt đôi mắt người điên trên sân khấu.

              Kèo là người điên chớ không phải là kép hát Út An, kẻ bạc tình đang ngồi dưới kia, hai tên gian ác ngồi dưới mắt ta mà, ta đứng trên sân khấu đèn khuya rực rỡ, hai đứa bây ngồi trong bóng tối.

              Điên quay lại cổng chùa, ôm mặt lùi lại: ‘Kìa! Ma trêu trước cửa’ Điên liếc Ngay rồi chỉ mặt Xếp Sử: ‘Nọ, quỉ lộng sau hè’ chân đá chân xiêu, quơ nhánh cây ô rô:

              ‘Ớ bây ơi! Ớ bây ơi! Tao sợ lắm, tao sợ lắm, Ta điên đây mà, ta đâu có sợ Xếp Sử, ta là thằng Kèo chèo ghe cho đoàn hát, ta là kép Út An trong tuồng ‘Người Điên Trước Cổng Chùa’.

              Tình cảnh trên sân khấu và cuộc đời dưới mắt nó trái ngang oan ức biết chừng nào. Điên dáo dác như tìm vật gì đánh mất đâu đây, ta đánh mất hạnh phúc ta ở chợ này, kẻ cướp hạnh phúc ta ngồi sờ sờ dưới kia, đang được mọi người kiêng nể.

              Mặt Ngay héo hắt theo thời gian. Điên nghẹn nghẹn cất giọng bài ‘Điên Văn Thi’: ‘Ong bay bướm lượn trên nhành, Đến khi hoa nở tan tành bông mai’ Điên quên tuồng, lại cương lên nữa rồi.

              Thầy tuồng đứng sau cánh gà nhảy đong đỏng: ‘Ê! Bộ mầy điên hả Kèo?’ Mười Sáng ôm đờn hiểu tâm sự Kèo, khoái chí đờn theo, nhỏ nhẹ với thầy tuồng: ‘Hổng sao đâu, xuất thần mà’. Điên ngước mắt nhìn, miệng chảy nước dãi như chó dại, chuyển sang khúc ‘Nam Ai’:

              ‘Đảo điên điên đảo vợ chồng, Lạt phai chuyện cũ, mặn nồng tân loan’ Rồi vô luôn bài ‘Sao bằng tham đó bỏ đăng. Học đòi, tình tang nậu tình, những kẻ chơi trăng quên đèn’. Điên tiếp tục Nam Ai, chỉ ngọn núi xa trên tấm sơn thủy, gằn giọng:

              ‘Lời thề sông núi còn rền, Dư âm chưa dứt, hương nguyền vội phai’ Diễn xuất đến độ hòa mình thành người điên với giọng hát hợp tình hợp cảnh làm Xếp Sử bủn rủn, bị thôi miên cứng họng cứng hầu, hết đường xoay trở. Ngay thở hổn hển. Khán giả vỗ tay tán thưởng, hậu trường nhốn nháo:

              ‘Sao nó cương quá vậy trời!’ Tiếng vỗ tay đánh thức Kèo khỏi giấc mơ điên trên sân khấu. Xếp Sử là thực, ta là mộng. Điên vỗ ngực, quay lưng về phía Xếp Sử, vêu vêu cái đít, ỏng ẹo như bà bóng múa quạt, hát bài thằng Bột, cố ý trêu chọc xếp:

              ‘Cha Thừa tướng ngôi cao Cụ chính danh Huê bột Dưới cửa trướng dẫy đầy gái tốt Trong nhà nuôi bề bộn con quan Tánh dọc ngang ai thấy cũng kinh hoàng Bề ngang ngữa trẻ già đều kính cụ Ống điếu tre quo que chỉ đỏ Quạt Lang Châu trọ trẹ

              cầm tay
              Gái thấy ta, a, gái phải chạy ngay Ta thấy gái, a, mèo thấy mỡ Xự xê ư ứ xang ư ư xệ Phàn liêu cống xề, ... Bữa nay ta buồn dạ, ý muốn nhàn du Truyền chúng bây hiệp lũ năm ba Theo cùng cụ dạo chơi phường phố Lựa một thằng nho nhỏ

              xách cái hỏa lò
              Lựa một cặp cho to để ứng hầu cái võng Lựa một thằng lỏng khỏng, để xách cặp dao vàng Lựa một cặp xuê xoang để ứng hầu trái địch’

              Cậu nói trái lịch, trái lịch, trái lịch. Thầy tuồng tức lộn ruột, điên tiết: ‘Đuổi mẹ nó cho rồi!’ Điên càng làm già, coi khán giả, thầy tuồng, ông Bầu như không.

              Điên chỉ diễn cho Xếp Sử và Ngay xem thôi mà! ‘Sớm mai tang tạng tàng tang Cụ bảo thằng tê bắt con kiến càng Lãy sợi dây chàng xỏ ngang lổ mũi, Cho cụ dắt đi chơi, ...’ Điên cúi đầu, mở to mắt nhìn Ngay thét:

              ‘Tớ trẻ, Mi đi đâu mà cụ kiếm đôn kiếm đáo Đảo địa thiên tôn, hà môn chi xứ Am tự thừa lôi, Thấy bánh thấy xôi, thấy ông lọ nồi, chẳng thấy thằng tê, ứ hự, thằng tê’.

              Ánh mắt rực lửa của Kèo làm Xếp Sử choáng váng, mất cả phản ứng theo quan cách oai phong hàng ngày. Xếp Sử ngày thường hét như sấm với Ban Hội Tề, dân chúng. Xếp Sử có oai hơn ông Quận, quyền sinh sát trong khám.

              ‘Các chủ tiệm Tàu không rành tiếng Việt mà dám liên quan rải truyền đơn của Việt Minh, xá gì tên xướng ca vô loài điên điên khùng khùng!’ Điên càng cương, thầy tuồng càng giận dữ:

              ‘Thằng Kèo, mầy muốn gánh hát dọn đi tối nay hả?’ Điên đứng bơ vơ trước cổng chùa, ánh trăng vàng vọt, cổng chùa đã khép kín, đêm nay tứ cố vô thân, chung quanh là hùm beo ma quỉ.

              Điên cảm thấy phần mình đã hết rồi, hết đất sống rồi, đêm nay ta trú ẩn nơi đâu để tránh tai họa? Điên quơ xành xạch nắm lá ô rô, gai ô rô đâm ngón tay rướm máu. Điên múa như cuồng, ông Bầu dậm chân rầm rầm, Mười Sáng đờn dồn dập.

              Ngay ú ớ mê sảng, Xếp Sử mặt đổi màu chì, thở hồng hộc.

              Điên chạy chờn vờn, gầm thét gần mé sân khấu, cầm bó ô rô chỉ chỏ Ngay và Xếp Sử. Hai khán giả vô tội vạ này bị lôi cuốn vào vở tuồng bi hài kịch mà không cần lên sân khấu.

              Xếp Sử đóng vai kẻ cướp vợ người, Ngay đóng vai kẻ bội bạc, quên lời thề đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách. Điên vượt xa khỏi vở tuồng, điên là kép đóng vai Kèo.

              ‘Ngay ơi, em nhớ những bụi ô rô mọc theo bờ rạch, em nhớ những con cá thòi lòi rút vội vô hang, em nhớ trái ô môi dài, em nhớ hai đứa bị ma bẻ trái bần liệng buổi tối đó không? Em nằm đêm suy nghĩ lại? Điên đang quay mòng, thình lình ngưng lại, quắc mắt nhìn Ngay.

              Oan ức hận thù biến thành chùm ô rô xanh. Kèo đã tỉnh, quay cuồng đến thân thể mỏi nhừ, giọng hát rã rời khản đi như thanh niên mới lớn bể tiếng: ‘Ớ ớ kìa, kìa Chim quyên ăn trái ô rô, Đứa nào lấy vợ tao á á á là là là ...’

              Xếp Sử và Ngay đã hiểu ý, rõ như ban ngày, hai người rùng mình nhắm mắt như tội nhân trên đoạn đầu đài nghe ba hồi trống giục, nhắm híp mắt kinh hãi, rút đầu chờ nhát búa đao phủ.

              Kèo cương đến đây, lơ mơ tìm bốn chữ cuối cho hợp vần, bị nghẹn, ngã lăn trước cổng chùa. Màn hạ. Khán giả vỗ tay, lục tục ra về. Đèn sân khấu đã tắt. Tiếng xô ghế ken két bớt dần. Thầy tuồng nhào lên sân khấu, chụp vai Kèo:

              - Ê, mầy khùng phải không? Mầy cương suốt đoạn chót làm hư tuồng hát của tao mầy biết không, từ đây sắp tới tao không cho mầy đóng vai nào hết. Ông Bầu lôi Kèo dậy, xỉ vã: - Mầy học câu đó ở đâu? Ai hát?

              Chim quyên ăn trái nhãn lồng, hoặc chim quyên xuống đất ăn trùn nghe còn được. Cái này lại hát ‘Chim quyên ăn trái ô rô’. Mầy ở kinh rạch, mầy phải biết là ô rô không có trái thì lấy gì cho chim quyên ăn?

              Tuồng thì không chịu học, chỉ tài cương ẩu. Hát như mầy rã gánh là phải lắm, mai dọn đi rồi, mầy đừng có vác cái bản mặt mầy ghé chợ này nữa, hết ai muốn nghe mầy hát rồi! Chỉ có Mười Sáng, mặt sáng rỡ, cười ha hả:

              - Hay, bữa nay tao thấy mầy xuất thần đó Kèo. Mầy lột lưỡi chửi đã tai quá. Ờ, mà sao câu chót mầy sượng, không hát luôn, tao đờn chậm đợi mầy lâu quá mà mầy nghẹn.


              ***


              Kèo vào khoang ghe nằm lăn lóc, đấm ngực đấm đầu phình phịch suốt đêm. Mọi người đã hiểu tình cảnh. Kèo vùng vẫy, trở mình lải nhải: ‘Chim quyên ăn trái ô rô, Đứa nào lấy vợ tao đó, là là là ...’, là gì kìa, là ‘mô’, ‘cô’, ‘lô’, ‘nhô’.

              Không được, không được. Vần ‘ô’ ác thiệt. Tiếng muỗi vo ve và tiếng ngáy rồ rồ của đào kép trong ghe làm kẻ mất ngủ thêm bực tức. Trăng khuya chiếu mặt nước kinh vàng rực, bên bờ lau lách rì rào.

              Tiếng trống canh từ đình vọng lại trầm trầm, trăng đã lặn, tiếng bằm thịt đã bắt đầu ngoài chợ mà Kèo chưa chợp mắt được, mãi lo ngẫm nghĩ chữ hợp vần ‘ô’ ác ôn này.


              ***


              Ghe đã lui từ trưa, nặng nề cọt kẹt cây chèo. Bà Bầu đang lấy khăn nhúng nước nóng đắp cho Kèo. Mặt sưng húp, máu rỉ đóng đen lợi răng.

              Thầy tuồng thở dài, sau khi hiểu câu chuyện, buồn bã kể: ‘Sáng này nó rủ tôi đi uống cà phê, sau đó nó uống mấy ly rượu trắng, tâm sự đời nó.

              Nó uống rồi nó chửi đỏng om sòm trong tiệm nước, cứ lải nhải ‘Chim quyên ăn trái ô rô’. Nó bị lính Xếp Sử lấy báng súng dọng vô mặt! Mười Sáng rầu rầu, nuốt nước miếng, vo đờn than van, trách móc, nguyền rủa:

              ‘Xưa nay trời công bình Không dung tình đứa gian Kẻ nào ác gian thì họa phải mang’ Kèo nằm thiêm thiếp, mắt dầy tím bầm, mấp máy môi sưng chìa ra mấy cái răng máu đỏ.

              Kiếm ra rồi, kiếm ra rồi: ‘Chim quyên ăn trái ô rô Đứa nào lấy vợ tao á, là, là, là ... Kèo khạc phun ra một bãi máu bầm, ‘là, là ... đồ thất phu’.




              CHÚ THÍCH
              (1) Nuôi cá bè : Dọc theo sông Hậu Giang, người ta đóng bè, hình hộp bằng gỗ, có khe hở nhỏ cho nước thông thương. Bè nằm dưới nước, bên trên là nhà chủ bè. Họ nấu cám cho cá ăn. Bề ngang bè cá khoảng năm thước tây bề dài khoảng tám thước. Tới mùa cá lớn thì cân bán cho chủ vựa.
              (2) Mò tôm : Bỏ vô bao liệng xuống nước (thời Việt Minh 1943-52).
              (3) Ốc quắn : Loại ở bưng, nhỏ hơn ốc bưu, lớn hơn ốc gạo, màu đen.

              (4) Có đường tương chao : Tiếng lóng, ý nói có tương lai khá hơn.
              (5) Cù bơ cù bất : Chỉ có một mình, bơ vơ.
              (6) Xuống song lang : Xuống chỗ muồi, sau đó khán giả vỗ tay.

              (7) Sáng dạ : Thông minh.
              (8) Dây đào : Đào hát nương theo dây đào, cường độ dây đào khác dây kép. (9) Bọc đền: Bordel, gốc tiếng Pháp.Trước năm 1952 từ ngữ này được dùng để tránh giọng tục khi gọi gái ăn sương.
              (10) Mục khứ mi lai : Mắt đi mày lại.
              (11) Hòa duyên kháng lệ : Nên nghĩa vợ chồng.
              (12) Lộng giả thành chơn : Lãy giả làm thiệt.
              (13) Âm nhạc cải cách : Khoảng 1946-48, có một số nhạc sĩ lấy nhạc lý Tây phương sáng tác, như bản ‘Cô Lái Đò’, ‘Cô Bán Mía’ (Mời thầy lại đây mua mía giùm em, Lời thành thật rao mua mía này xem... - Quý vị nào thuộc bản này, xin chép cho tôi xin. Cám ơn).

              (14) Cái rỏ rẻ : Cái ròng rọc.
              (15) Ông Ách : Adjudant = Thượng sĩ.

              (16) Nhà việc : Công sở làng, xã, quận.

              (17) Lát-xưa : Placeur, gốc chữ Pháp. Người chỉ chỗ ngồi cho khán giả trong rạp hát.
              (18) Nửa giấy : Giấy nửa giá bán cho trẻ em.
              (19) Trái thị : giống trái hồng, màu vàng, ăn chát, mùi thơm. Ông Tổ hát bội ưa mùi thị, nên hể ai mang thị đi ngang bàn thờ Tổ, Tổ theo trái thị,bỏ quên việc phù hộ đào kép.
              (20) Tuổi quá bán : Trên 40 tuổi.
              (21) Đàng cựu: Các ông lão còn theo xưa, còn biết đến triều đình Huế. Sau 1945, không nghe nói tới danh từ này nữa.

              (22) Canh bối : Canh ăn trộm ghe.

              (23) Tào khang chi nghĩa : Tình nghĩa vợ chồng.
              (24) Họa phước đáo đầu chung hữu báo, Cao phi viễn tẩu giả nan tàng : Họa phước cuối cùng rồi sẽ báo ứng. Dù bay cao, chạy xa cũng không trốn được. (25) Hữu chí cánh thành : Có chí thì nên.
              (26) Bà đồng : Bà cốt lên đồng lên bóng.

              (27) Đồng tịch đồng sàng : Chung chiếu chung giường.

              (28) Đồng quan đồng quách : Chết cùng chôn chung hòm.

              (29) Trái ô môi : Dài chừng năm tấc tây, vỏ cứng, bên trong có từng mắc như đồng xu, màu tím sẫm, ăn ngọt ngọt.


              Graceville-Australia 12-1995


              Lưu Nhơn Nghĩa
              thatsonchaudoc
              sigpic

              Comment


              • #22
                Như Cánh Chuồn Chuồn

                Tiền căn báo hậu
                __________________________________________________ _____



                * Viết tặng hai bác Trần Viết Chương (Muehlheim / Main) để đền ơn tri ngộ.
                * Tặng vợ chồng Nguyễn Long (Brisbane) ơn khuyến khích.
                * Tặng Trương Văn Tấn (Scheidegg).

                ***


                Xóm lò heo bắt đầu sinh hoạt từ ba giờ sáng, chưa hết giờ giới nghiêm. Dãy nhà từ ngã tư đường đi Long Xuyên thẳng xuống Chùa Dưới, sau lưng nhà ông quận Sóc.

                Dãy nhà gỗ lợp lá khang trang là xóm mổ heo hàng ngày cung cấp cho thớt thịt ngoài chợ. Vô tình hay hữu ý, xóm tọa lạc ở một góc quận, gần như biệt lập bởi mấy con đường, cách một khu đất vườn hoang, tường đá dầy loang lở rêu xanh phủ, vết tích của nhà quyền quí thuở trước.

                Cả xóm làm nghề cạo heo. Chủ nhân lò heo hầu hết gốc Tàu.

                Có người làm ăn phát đạt, cất nhà lầu đúc, suy sụp thì ở nhà lá. Ít ai dời nhà đi xóm khác trừ khi họ đổi nghề. Chú Xua và người nhà vô chuồng bắt heo từ khuya, mỗi ngày cạo hai con heo chừng năm mươi ký.

                Ðêm trước, trước khi đi ngủ, chú đã chuẩn bị xong xuôi. Sau nửa đêm, chú dậy nấu sẵn hai chảo đụn nước sôi, pha sẵn hai diệm nước muối đúng lượng (khi huyết đặc sẽ mềm và xốp, mặn vừa phải để cắt bán ngay).

                Ðồ nghề là những con dao thép rèn bằng nhíp xe, dao yếm để cắt thịt ba rọi, mỡ, dao măng tô chặt xương cứng, quan trọng nhứt là dao thọc huyết. Nghề nghiệp và đồ nghề mấy đời cha truyền con nối để lại.

                La liệt chung quanh là những thùng gỗ dầy lớn niền bằng sắt để đựng lòng heo, thịt vụn, mỡ heo hay những thứ tạp nhạp.

                Heo bị trói bốn chân được nằm ngửa trên mặt bàn xi măng thấp, miệng kêu en ét chói tai. Người phụ nắm hai tai heo cứng, đè đầu qua một bên.

                Chú Xua cầm cây dao bề ngang chừng bốn phân, dài độ năm tấc tây, dao nhọn bén ngót màu đen mướt. Chú nhanh nhẹn thọc một dao lút cán vô cổ heo, dao đi ngọt xớt nghe một tiếng xoạt.

                Heo bị thọc huyết kêu en ét, ột ạt, tiếng đứt đoạn; huyết đỏ sậm vọt ra như suối, phun từng bụm vô thùng nước muối đặt bên dưới, theo mỗi hơi thở. Chú cầm dao đều tay quậy diệm máu cho đặc, máu nổi bọt đỏ ngầu trong diệm.

                Xong đâu đấy, chú dời thùng huyết đi, lấy cái gáo cán tre múc nước sôi tưới từng chỗ trên mình heo, rồi bắt đầu dùng dao ngắn, cầm sống dao cạo sồn sột, lông heo dính theo lớp da đen ngoài rớt từng mảng xuống đất.

                Cạo cả giờ mới trắng được con heo, khó nhứt là cạo cái thủ, mặt heo lồi lỏm, và kẻ của hai lổ tai heo. Xong phần cạo, chú lấy chổi ráng quét lông vô góc nhà, sắp mấy thùng gỗ dọc theo bàn mỗ cho đúng chỗ.

                chú lật ngửa heo, dùng cây dao mổ rọc thẳng một đường từ ức xuống, bụng heo mở toát bày buồng phổi lòng đỏ bầy nhầy. Khéo léo như một bác sĩ giải phẫu, đúng ra chú còn khéo hơn bác sĩ. Tay phải cầm dao ngắn mỏng, dài độ hơn một gang tay, cắt, xén, vuốt, thẻo mỡ, thịt, lòng heo.

                Tay trái chú cầm những món cắt ra ném vô thùng gỗ, thứ nào thùng nấy, mỡ sa, mỡ thịt, ruột non ruột già ... để riêng, mỗi món có người đặt mua, có thể cân bán ngay tại lò, trước khi dọn ra thớt thịt.

                Thịt ba rọi, thịt nạc, xương nấu nước lèo để sẵn trong thùng cho người đặt tới cân. Cùng loại thịt đồng giá, nhưng thịt ngon dành cho bạn hàng trả tiền mặt, thịt hơi vụn mỡ,nặng xương giao cho người mua chịu trả lâu.

                Chú Xua quen tay, liếc dao ken két nghe ê răng rợn người trước khi cắt hay thẻo thịt. Cắt một lác, đặt lên cân là đúng trân theo ý, khỏi cắt thêm bớt cho thịt vụn. Sau cùng, chú Xua dùng dao lớn chặt heo ra nhiều phần sắp lên xe cho vợ đẩy ra thớt thịt, rồi bắt đầu mổ con heo thứ nhì.

                Ngày thường, mỗi tiệm hủ tiếu cà phê cân chừng trên dưới mười ký thịt nạc và ba rọi, mua mão một thùng xương heo nấu nước lèo, năm sáu ký thịt mỡ vụn để làm nhưn bánh bao hay xiếu mại, mấy bà bán bánh hỏi chỉ cân vài ký thịt bụng rẻ tiền.

                Xương heo lò chú Xua rẻ nhứt vì tài khéo léo lạn không còn miếng thịt của chú. Nhà lồng chợ có khoảng sáu thớt thịt; mỗi thớt bán chừng hai con, lỡ ế phải đem về muối, mỡ dư thì đem thắng bán lẻ, da thì bán cho người mua đem phồng mỡ.

                Lâu lâu cũng có người nhứt là ông Bảy Sên thầy cúng, đặt mua ‘thào búi’, chú Xua cẩn thận cắt cái đầu heo, bốn móng heo, cái bong bóng heo, một miếng huyết, cái đuôi heo.

                Các bộ phận đặt đúng vị trí trên mâm giống như con heo trắng nguyên. Bộ ‘thào búi’ (thủ vĩ) dùng để cúng trả lễ thay cho con heo trắng. Ông thần bị gạt, tưởng mình được hưởng trọn con heo, lại vừa cho túi tiền người cúng trả lễ.

                Dân sống trong dãy nhà đối diện với xóm lò heo đã quen thuộc với sinh hoạt và âm thanh bắt đầu từ sau nửa đêm, không tỏ ra khó chịu khi nghe tiếng heo giẫy đành đạch và tiếng lục đục lụi đụi trong các lò heo, hơn nữa phần nhiều việc làm ăn của họ cũng dính dáng phần nào với lò heo, nên họ yên chí ngủ say.

                Sinh hoạt xóm bắt đầu thức giấc rộn rịp khi các chủ thớt thịt tới cân thịt, bà bán cháo lòng tới chia huyết v.v... Tiếng trả giá, lời qua tiếng lại, cãi cọ không sót một ngày. Tiếng lào xào ‘mỡ sa mỡ thịt? Giò trước giò sau?’

                Khi âm thanh xô bồ độ nửa tiếng loãng dần, người ta nghe giọng nói ôn tồn hòa nhã của chú Tám Giò khi chú ghé các lò heo lựa lòng về khìa bán.

                Nhà chú Tám Giò cũng ở xóm Lò heo, mỗi sáng sớm chú đi rảo qua các lò heo lựa chọn thứ ngon nhứt, ‘vài ký phèo, bao tử, gan, lỗ tai heo, đùi heo trước, móng heo ...’ Chủ lò biết điều đó, vì quyền lợi hổ tương, chú Tám Giò mua trước, bán hết mới trả sau, ‘mượn đầu heo nấu cháo’, khi bán ế ẩm phải hẹn lại trả sau, lôi thôi khó nhớ lắm.

                thêm cái nạn nợ chồng nợ, nếu chủ lò không bán lòng, chú Tám lấy gì bán để trả nợ cũ? Chú Tám Giò lựa lòng kỹ lắm, vì nhà ở gần lò heo, chú biết ngày nào chủ lò cạo heo đau, heo bỏ ăn, heo gạo, heo nái ... để tránh.

                Ðống tim heo phèo phổi bầy nhầy trong các thùng gỗ lớn. Chú Tám dùng đôi mắt nhà nghề, bàn tay kinh nghiệm lựa khúc phèo ngon nhứt, khúc ruột dòn, cái bao tử nào dầy, lá gan phải còn nguyên để đủ bán buổi chiều, không dư không thiếu.

                Chủ lò biết ý người mua, muốn gạt cũng không được. Chú Tám ưu tiên chọn trước, dư mới giao cho thớt thịt ngoài chợ. Bước vô lò, không cần chào hỏi lôi thôi lằng nhằng cho hao hơi tổn tiếng. Chú Tám bắt đầu như thường lệ. ‘Ðồ lòng bây giờ ít ai chịu ăn, khó bán.

                Chú để nới nới cho tôi kiếm lời chút đỉnh nuôi con ....’ Chú Xua vui vẻ cười cầu tài: - Hà, cái lầy bán dẻ dồi! Mãy cái đùi heo lần trước Nị trả chưa đủ, Ngộ vô Sóc bắt heo hổng trả tiền sao? Chú Tám cũng có chuyện để nói: - Nghe nói bây giờ đánh lung tung, giá heo rẻ mạt, chú bắt năm sáu con còn nuôi trong chuồng, nói ai mà tin được ...

                Lời qua tiếng lại, mắt chú Tám cứ chăm chăm nhìn cái cân xách tay, ngón tay chú Xua đẩy trái cân nhích nhích trên đòn cây cân, mỗi nấc là một trăm cà ram. Chú Tám cao giọng, ‘vô ra một nấc, lợi hại lắm à!’ - Hà! Ngộ cân non cân già cho Nị làm gì, buôn bán sinh lợi, giàu nghèo do cái ông trời định. Coi nè, cân giát rồi nghe cha nội.

                - Giát chút đỉnh mà, thêm khúc ruột vụn đó đi, bửa nào cũng lấy lòng mà, chú không thêm chút nào hết. - Hà, mấy năm dồi, Ngộ ăn cháo, Nị có cơm ăn. Ðống lòng heo được bỏ chung trong thùng nhựa xách tay. Chú Tám bước qua nhìn cái đầu heo mới cạo, tay lật đầu heo coi cho kỹ, thịt dầy, lưỡi còn nguyên. Chú Xua lên tiếng trước:

                - Lấy cái đầu heo đi, thịt không đó, xăng dịch thằng con ngộ nó ngủ gục cắt gần tới cổ. Coi cái nọng heo nè, mấy đứa uống rượu ưa lắm. Bán cho người khác tám chục, bán cho nị bà con lối xóm mở hàng, bán bửa nay còn bán ngày mai.

                Chú Tám nài nỉ: - Năm chục được rồi, bửa nay mưa là mồ tổ tui ăn hổng hết. Giọng nói chú Xua không giận hờn quạu quọ, miễn kiếm thêm đồng nào hay đồng nấy. Tám Giò cũng năn nỉ đồng nào được đồng nấy. - Thôi, năm lăm đó.

                Tôi lấy cho rồi, cải vã với chú mệt quá. - Hà, cái lầy nị nhiều chuyện quá, sáng sớm mở hàng, sáu lăm dẻ dồi, lấy đi mở hàng, ngộ còn đẩy thịt ra chợ. Miệng nói, tay Chú Xua đặt đầu heo vào thùng. Chú Tám vừa quay đi, Chú Xua vói theo dặn: - Trước sau là bốn trăm sáu, chiều nay bán đắt, nị qua trả mớ nhấm để mai ngộ vô Sóc bắt heo.

                Nị ăn cơm mà bắt ngộ ăn cháo hoài vậy. Nghề cạo heo cũng thăng trầm chung với giới liên hệ như Chú Tám, tiệm nước, giới bán bánh tằm, bánh hỏi, cháo lòng ... Lâu lâu có đám cưới, cạo thêm con heo nhỏ, hoặc quay kiếm lời thêm đắp đổi lúc ế ẩm, ối đọng. Nợ nần trong cùng giới làm sao tránh được, thịt làm sao để lâu, để dành ngày sau bán?

                Dư phải nài ép bán rẻ thúi cho hết, để càng lổ. Nhiều bạn hàng trả nợ không nổi, chửi lộn trừ, rồi lại tiếp tục mua bán, nợ khác tính sau. Heo vừa cạo xong, giao cho vợ bán ngoài chợ, Chú Xua lui cui quét dọn rửa ráy bàn xi măng, chảo, dao kéo cho sạch.

                Dù rửa bằng xà bông, bàn chải chà mạnh tay, dội nước trôi hết máu và mỡ, mùi tanh hôi vẫn còn lẩn quẩn, ai đi ngang cũng ngửi và cảm thấy mùi của tử khí, của xác chết đọng trong không khí trong lò heo.

                ***



                Chú Tám xách mấy chùm gà vừa làm xong đi giao cho người đặt làm rồi trở về nhà. Vợ chú đã quẩy gánh ra chợ bán hàng sáo. Chú Tám bắt đầu công việc chánh hàng ngày. Nhà chú chỉ có một gian, cùng dãy với mấy cái lò heo hàng xóm.

                Bếp xây bằng gạch, trên để hai cái chảo đụn, bên cạnh là mấy bao trấu và củi để đốt lò. Ðồ nghề như dao, kéo bén nhọn giắt trên vách lá. Một cái kệ chất nhiều keo hủ đựng gia vị đủ loại.

                Vách lá bám khói đen xám , thoang thoảng mùi thịt ướp, mùi gia vị hành tỏi và mùi ngũ vị hương. Chú Tám lúi húi đốt lò, đổ trấu cho lửa cháy lên ngọn để nấu nước sôi trong chảo đụn.

                Chú đổ mớ lòng heo trên bàn, bàn là một cái thớt dầy, gỗ cây me, rồi bắt đầu nhúng đùi heo vào chảo nước sôi, cạo cho thật sạch nhớt và lông, thỉnh thoảng chú dùng nhíp nhổ những sợi lông cứng.

                Chú lộn ngược bao tử heo trong ra ngoài, rửa cạo qua loa, cắt bỏ những miếng mỡ thừa. Chảo đã nóng, chú hốt muối bọt rải đều trên chảo, để bao tử vô chảo lăn qua lăn lại cho muối hút hết chất nhớt. Sau đó lại mang ra chà với muối, rửa lại bằng nước lạnh, rồi treo trên móc.

                Ðống tai heo phải cạo cho sạch chất bợn đóng đen, phải quen tay lắm, cạo nhẹ không ra hết chất bợn, cạo mạnh rách da lùi xùi khó coi. Rồi đến đống ruột non, phèo.

                Hai ngón tay chú nhẹ nhàng vuốt sạch chất bợn trong ruột, cạo cho sạch nhớt, vừa nhẹ vừa đều tay để khúc ruột kéo ra dài cả thước, để thun lại còn nguyên như còn nằm trong bụng heo, như vậy khi treo bán trông hấp dẫn, ngon lành. Chừng vài tiếng đồng hồ mới xong việc đầu tiên.

                Chảo nước xâm xấp đã sủi bọt sôi, chú bỏ mấy cái giò heo trụng cho săn thịt, phải đứng tại chảo, trở liền tay, không cho thịt quá chín, thịt bệu hết dòn, xương vẫn còn đỏ máu bên trong.

                Chú vớt đùi heo móc treo lên cho ráo nước, rồi tiếp tục tới các món lòng khác, mỗi loại trụng nước sôi lâu mau tùy, chỉ có chú biết. Xong xuôi đâu đó, chú tát chảo cho sạch nước dơ, xúc đường rải vô chảo, đổ nước thắng đường tới khi đường có chỉ.

                Hai cái chảo, tay mặt một chảo, tay trái một chảo, hai tay chú cầm hai cây tiểu lư đẩy tới lui nhẹ nhàng. Chú đổ nước vô hai cái chảo, liếc nhìn ra cửa, chú không muốn ai quan sát khi chú làm việc, nhứt là lúc nếm gia vị.

                Chú bắt đầu xử dụng những hủ nhỏ đựng gia vị ướp trên kệ, tất cả được giữ kín, không cho tên hay nhãn dán trên hủ. Chú muốn thứ nào, thò tay lấy đúng thứ đó, không sai chạy hay phải ngửi lại.

                Chú hốt một nắm tỏi, dùng bề bản dao yếm đập xạch một cái, hốt lên thổi bay vỏ tỏi, đặt trên thớt. Hành tây thì chú cắt hai đầu, xẻ hai, lột vỏ gọn hơ, cắt xồn xột, trộn chung hành với tỏi, tay trái kềm đầu dao, tay phải cầm cán dao, giở lên ấn xuống vòng thớt, hốt hai bụm, mỗi bụm liệng vô mỗi chảo, xèo một tiếng, mùi thơm lừng bay lên trong bếp.

                Chú nghiêng đầu xuống nhìn hai bếp lửa dưới chảo, thêm bớt củi tùy lúc. Sau cùng, chú vói tay lấy từng hủ gia vị đặc biệt trên kệ, nghiêng hủ gia vị, đổ hoặc rải đều đúng phân lượng chính xác mà không cần cân đo mất thì giờ.

                Chú biết hủ nào là tiêu, đường, bột ngọt, hàn the, phèn chua, ngũ vị hương, tài hồi, hay một loại gia vị đặc biệt chỉ có chú biết, khó ai ăn cắp nghề. Chú giữ kỹ bí mật để làm cần câu cơm.

                Chú cúi xuống kiểm soát lửa, bớt củi, cời than chung quanh chảo cho lửa hạ, cháy riu riu, chú gật đầu vừa ý, lấy muỗng múc chút nước trong chảo nếm lần cuối cùng rồi mới thả mấy cái đùi heo vào, đùi heo và lòng đã được ướp sẵn vài giờ nên đã thấm.

                Mỗi thứ phải khìa riêng, ruột không thể khìa chung với bao tử hay gan hoặc giò, vì thời gian khìa lâu mau tùy món.

                Chú Tám không dư khoảng thời gian nào suốt khi làm việc, khi chờ đùi heo chín, chú lo làm keo tương ớt, nước mắm chanh, dưa đu đủ, dưa leo chua, đang lúi húi làm, chú ngừng lại, lo trở mấy cái đùi heo hay lòng heo mà không cần đồng hồ reo nhắc nhở, rồi lại tiếp tục trộn đồ chua.

                Vừa xong vài công việc vụn vặt, giò heo đã chín, chú móc lên sào cho ráo, lại nêm chảo khác để làm tới mấy món lòng. Nếu ai có thân lắm, vui miệng hỏi, ‘Chú Tám à, làm ơn dạy cho tôi cách ram thịt, khìa giò heo và ruột heo cho dòn, gan cho bùi, cách nào phá lấu bao tử dòn và ngon như của chú.’

                Chú Tám trả lời lúng túng, ai hiểu lầm tưởng chú hiểm, dấu nghề, điều này chỉ đúng phần nào thôi. Chú khìa lòng theo thói quen, động tác, thời gian phối hợp chính xác tỉ mỉ, mà chính chú cũng không ý thức được chú đang làm gì, dù là vài động tác có vẻ dư thừa như lúc nào đó, chú giở vung ra rảy cho ráo mồ hôi đọng trên nắp vung, cầm hai cái quai chảo lắc vài vòng gọn hơ.

                Chính chú không đủ kiên nhẫn nhắc từng ly từng tý cho vợ chú, thì còn dạy được ai. ‘Nghề dạy nghề’, chú thường nói. Vài tiệm cơm làm không kịp cũng hay chia vài đùi heo khìa của chú khi họ gặp khách đông bất ngờ.

                Cái tên Tám Giò, chữ giò có nghĩa là giò heo chớ đâu phải tên chú, vì chú thứ tám nên bà con gọi luôn tên nghề nghiệp. Ðám cưới quê hay các gia đình nghèo mượn chú làm tổng khậu, chỉ cần mổ con heo, giao tất cả cho chú, chú sẽ đặt đủ thực đơn, từ món nhậu như lòng khìa, dưa đầu heo chấm mắm nêm,

                món canh như bao tử phá lấu tiêu, món ăn no như thịt kho nước dừa, ruột heo xào khóm ... vừa rẻ vừa ngon, không cần vi cá, nấm đông cô, bào ngư mắc tiền, tiếng là sang, chưa chắc thích hợp với khẩu vị thực khách và túi tiền giới nghèo.

                ***


                Khoảng sau năm giờ chiều, khu chợ trống, những gánh chè cháo kéo ra ngồi dọc theo ngã tư chợ, để phục vụ khách ăn dậm thêm sau buổi cơm chiều. Thanh niên, xồn xồn từ các xóm dập dìu kéo ra, chỗ này uống cà phê, ngồi tán gẩu cho qua giờ.

                Chú Tám sửa soạn xong nồi cháo trắng,đặt hỏa lò than trong xe đẩy. Xe có giá thấp treo lòng heo lủng lẳng, thứ tự, màu lòng thấy thèm. Chú mặc áo kaki vàng cũ bạc màu, lành lặn sạch sẽ, thong thả đẩy xe ra ngã tư đậu bên cạnh xe nước đá của Chệt Xái, tại đó có sẵn ba bốn cái bàn và nhiều ghế xếp.

                Hai người biết nhau, gặp nhau thường ngày, gặp nhau hề hà, gặp thì vui vui, xa thì nhớ.

                Ðồng cảnh ngộ nghèo, không cần cạnh tranh nhau, nương nhờ nhau để sống, cả hai rất thoải mái đậu xe song song với nhau, vả lại, cả hai đứng tuổi biết điều, tương quan quyền lợi thật hoàn hão.

                Uống la ve phải cần món bổi nhậu, món nhậu ngon không thể thiếu la ve, ăn một miếng bao tử khìa của Chú Tám, muốn ăn thêm miếng nữa, phải kêu thêm chai la ve kế tiếp.

                Chú sắp một dĩa thịt đùi heo khìa thái mỏng đặt trên dĩa, góc dĩa là miếng tương ớt đỏ ao, một nhúm ngò, rau sống, dưa chua tùy món.

                Mùi thơm ngũ vị hương quyện với hành, tương, ớt; cái bùi bùi của lát gan heo, cái dòn nhai sướng răng của bao tử heo và phèo, cái vừa dòn vừa béo của đùi heo.

                Gắp một đủa nhai xong, vị thơm còn trên đầu khứu giác và vị giác, hơi cay còn tê tê trên lưỡi và nồng trong cổ, tớp một ngụm la ve mát từ miệng xuống thực quản, vừa nhìn hai bàn tay xinh xắn trắng muốt của cô bán xưng xa hột lựu đang múc chè vô ly cho khách, thực khách khoái chí đùa vài câu, cười hăng hắc, Chú Tám và Chệt Xái vui lây.

                Nhậu lưng lửng, thấy đói đói, cần dằn cho chắc bụng, Chú Tám múc ra tô cháo trắng nóng, chặt hai hột vịt muối đặt trên dĩa bưng cho khách, húp xong cháo, dẻ miếng trứng bùi bùi mặn mặn là giả rượu ngay.

                Nhắm mắt lại, còn nghe âm thanh dễ nghe của dao xắt lòng trên thớt me, cạo sột một cái, úp dao lên dĩa, một dĩa lòng thứ tự với dưa chua, tiếng đập nước đá chan chát, rồi tiếng nổ bốp của chai la ve khui.

                Ngã tư này thiếu Chú Tám và Chệt Xái thì hết ai muốn ghé. Nghề bán lòng heo và la ve nước ngọt là làm dâu trăm họ, tùy đủ điều kiện thời tiết và an ninh.

                Ðêm nào chưa bán được lại có tin mấy chả về, vài tiếng súng lạch tạch, tiếng pháo kích thụt đi ình ình đau tim, giới nghiêm sớm, Chú Tám và Chệt Xái dọn dẹp nhanh, cùng nhau lủi thủi đẩy xe về, mặt buồn thiu, thân mình hai người gầy đi như chiếc bóng cô đơn trên lộ đá xanh.

                Chú Tám lo lòng để lâu hư nếu không bán rẻ hoặc ăn cho hết, Chệt Xái buồn vì cây nước đá ủ trấu mỗi ngày hao đi gần hết một phần ba.

                Hai chiếc xe đẩy lạch cạch bên nhau, cả hai nhìn nhau lắc đầu. Chưa kể tới mùa mưa, chiều nào mưa đổ tầm tã, cả hai ngồi nhà bó gối buồn tênh, nhìn mưa nhìn trời, nghe gió.

                Có hôm càng tệ, vừa đẩy xe ra, trời đang trong, gió bất ngờ mang mưa tới, hoặc đương bán, quận bị pháo kích, mạnh ai nấy bỏ chạy, bỏ mặc đồ đạc ra sao thì ra. Bầy chó hoang được một bữa ăn thịnh soạn, giành giựt sủa cắn nhau.

                Bán ế ẩm lỗ lã, đồ ăn làm sao để lâu được, chú nài nỉ bán tháo, nợ lò heo chồng thêm, chủ lò heo nợ chủ heo ... Vòng lẩn quẩn chấm dứt nếu có một người phủi tay nằm xuống.

                Vợ con họ nheo nhóc, không lẽ cắt thịt họ trừ? Nói không phải khoe, dân xóm lò heo gấu ó, ẩu đả nhau, vì quyền lợi tiền bạc không trật ngày, như tiếng heo en ét khi bị thọc huyết, nhưng khi ai gặp nguy nàn, nhân tình người ta lại hiện lên, tiếp tục qua lại giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt đèn.

                Nói cho cùng, Chú Tám cũng chưa quịt nợ ai bao giờ, vừa đủ hai buổi cơm dưa, mắm, qua ngày. Chú Tám không ghiền số đuôi, không uống giọt rượu, đòi hỏi gì hơn nữa. Gặp hôm Tết, hội hè, có gánh hát ghé, bán khá hơn gấp mấy lần, bù lại những chiều mưa hay pháo kích, ‘trời sinh voi sinh cỏ’.

                Hôm nào xóm ngã tư vắng Chú Tám, xe nước đá cũng bị ảnh hưởng nặng nề thấy rõ. Ngược lại, hôm nào Chệt Xái bịnh, Chú Tám cũng bị tình trạng tương tự, chỉ có vài người qua, mua một miếng bao tử khìa, lấy cây tăm ghim, vừa đi vừa ăn cho vui miệng.

                Năm qua tháng lại, ai cũng già còm đi mà không hay. Chú Tám độ trên năm mươi rồi, người thấp, chắc nịch, nước da màu sậm giống màu bao tử khìa, một sự trùng hợp hay hay.

                Ai đứng gần Chú Tám gặp hôm trời nắng, mồ hôi chú toát ra mùi hăng hăng, mùi của ngũ vị hương, của gia vị ướp thịt thấm vào làn da thớ thịt và hơi thở chú.

                Cả người chú là cây thịt khìa bị cháy khét vì quá lửa. Ðó là nhận xét của Chú Xua cạo heo. Chú Tám cũng vui miệng đùa ông bạn già, ‘Chú Xua à, mỡ heo nó rút vô da chú, đứng ngoài nắng cho chảy ra được chảo mỡ à!’

                ***


                Chú Xua đau rề rề cả tháng rồi, mặt chú xám như màu gan heo luộc. Chú nằm chịu trận, uống thuốc cầm hơi, trên chiếc chiếu trơn nhớt như thoa mỡ, những ngày cuối sống không vui, chết không sướng.

                Chú lăn lộn vẫy vùng, người nhà phải dùng sức kềm lại. Trong cổ họng chú bị đờm chận, phát ra âm thanh ồn ột đứt quảng, hai tay cào cấu bụng, ú ớ: - Kéo, kéo phèo ngon, phèo ngon.

                Nghe người ta kể lại, cách đó vài tuần, Chú Xua vẫn còn mạnh khỏe, vào Sóc bắt con heo nái và hai con heo con vừa bỏ sữa, gặp lúc chiến tranh, giá heo rẻ mạt.

                Ổ heo mang về nuôi chưa được tháng thì đúng lúc nhà thuốc bắc Thiên Bảo Ðường đặt chú làm hai con heo sữa quay, đãi đám cưới con gái.

                Làm xong hai con heo sữa thì heo nái biếng ăn. Thứ heo bỏ ăn mau xuống cân lắm, để trễ ngày nào bất lợi ngày đó, chưa kể trường hợp heo chết bất ngờ phải khai báo tốn tiền lôi thôi. Chú đành bắt heo ra cạo. Lúc mổ bụng, mỡ heo tuôn ra một thùng lớn, màu hơi khác, mùi tanh tanh.

                Thịt heo cũng ngã màu không đỏ tươi như heo tốt. Lúc cắt lòng, chú kéo ra được một bọc hàm nàm (thai heo chưa đẻ, mới tượng hình). - Ừ ự! Heo có chửa, hèn chi nó biếng ăn. Chú được bọc hàm nàm, đếm được chừng sáu con heo nằm co quắp trong bọc, khoảng bằng con chuột xạ.

                Ðang lúc sức khỏe kém, lại gặp món đại bổ, chú mừng húm: - Hàm nàm hầm thuốc bắc, đại bổ, đại bổ! Làm xong con heo nái, đêm đó Chú Xua tự nhiên đổi tính bất ngờ.

                Nhằm ngày rằm, theo kinh nghiệm, lượng thịt sẽ giảm đi một phần ba, nên làm con heo nái này vừa đủ bán. Chú Xua dở chứng bất thường, quái dị, mắt chú láo liên, gõ sống dao lên đầu heo trắng toát lè nhè:

                - Vật dưỡng nhơn, ngày nào ăn mà không được. Nghe lời mấy ông thầy chùa ăn chay làm cái gì cho ốm. Ăn thịt heo thì bổ, thì mập, ăn gan bổ gan, ăn óc bổ óc.

                Chú nói nhiều, nói lảm nhảm, trái với bản tính trầm tỉnh của chú, cả xóm chú không làm mất lòng dù đứa con nít. Chú dùng cây móc sắt móc hai chân heo treo ngược đầu trên giàn cho ráo nước.

                Ðầu heo xệ như mặt con quỷ mập, hai mắt ti hí, nhe răng hiểm ác cười, vài giọt máu oan cừu từ miệng nhỏ xuống. Heo bị treo nhúc nhích không yên, Chú Xua liếc dao xoàn xoạt trên phiến đá mài.

                Chú cười khành khạch: - Phú, mổ bụng rồi mà còn nhúc nhích hả? Ai đâu nhập vào chú, chú hứng chí hát như trong tuồng hát bội: - Ta là đồ tể Trần Bình, vì chưa gặp thời nên xẻ heo chia thịt đều cho thiên hạ.

                Gặp thời vận ta là tướng quốc phò Lưu Bang nên nghiệp đế. - Ta là Phàn Khoái rút gươm cắt thịt heo uống rượu, mới là hảo hán! Chú hứng chí hát khò khè khúc ca Ðại Phong của Lưu Bang Hán Cao Tổ khi về đất Bái.

                - Ðại phong khởi hề, vân phi dương. Uy gia hải nội hề, quy cố hương. (Gió lớn nổi lên hề, mây bay ngang. Uy gia khắp nơi hề, trở về làng). Chú lại gõ dao như gươm thiêng trên diệm huyết hát: - Wá bò kia, lứ mái cháo!

                (Tao không sợ, mầy đừng chạy). - Mầy là con heo, ông trời sanh ra mầy cho người ta ăn thịt. Món tam sên có miếng thịt mầy, đừng trách dao tao bén, đừng giận tao.

                Chú vỗ đầu heo, đầu heo lắc lư, mỏ heo hỉnh, hai lổ mũi đỏ máu và sâu hoắm. Chú xách dao bước tới hạ heo xuống để cắt cái thủ, loay hoay thế nào lại đạp nhằm miếng mỡ heo trơn trợt trên mặt nền xi măng. Chú mất thăng bằng té ngửa, tay buông dao, chụp đầu heo gượng lại.

                Xác heo treo tòn ten bằng hai cái móc sắt rớt sầm xuống nằm trọn trên người chú, đầu heo đập phạch lên mặt chú, nanh heo xỉa trên hàm chú đau điếng.

                Vì bất ngờ, trọng lượng của heo đập ập lên mình chú, đầu chú bị đập ngã trên nền xi măng. ‘Con nít té mau lớn, người lớn té mang bịnh, người già té là chết’.

                Da heo lạnh như thây ma, sàn nhà ẩm ướt nhơn nhớt mỡ, máu heo lông heo lẫn lộn, cộng thêm cái lạnh lúc gần sáng. Chú bị khối thịt heo lạnh lẽo đè mẹp, không có thể xoay sở để lật nó qua một bên. Nằm mê mệt lờ đờ, mất thần khí, chú không còn tàn hơi để cựa quậy.

                Lúc ấy, vợ chú đang dọn dẹp thớt thịt ngoài chợ cho sạch sẽ (vì ban đêm bầy chó hoang thường ngủ trên thớt) chờ chú đẩy thịt ra. Ðứa con chú có lò heo riêng, cách đó mấy căn, hay đâu mà tiếp cứu. Hơi đất lạnh ẩm, thấm dần vào cơ thể, muốn rùng mình đuổi hàn khí đi mà không đủ sức.

                Miệng chú lảm nhảm mấp máy. Trong cơn mê, chú thấy một mụ đàn bà xồn xồn, mặt mập trắng bệt, hai bên má mụ, thịt nọng xệ gần tới vai. Hai tai mụ ve vẫy, miệng và mũi dài đỏ hoét hinh hỉnh như đánh hơi, táp phầm phập.

                Mụ lê tấm thân mập ú lù, hai hàng vú thộn thện trên ngực, mụ bước phình phịch tới xáp lại chú, chú có cảm giác như bị ai giữ lại, không thể thối lui. Mụ kê miệng sát lên mặt chú, hà hơi lạnh giá, nước bọt mụ chảy trơn nhớt tanh rình vô miệng chú.

                Chú ú ớ, kêu cứu. Mụ nhăn hàm răng to lớn cắn cổ chú, cổ họng mụ phát ra tiếng ột ệt tắt nghẻn, âm thanh ma quỷ cô hồn:

                - Chú đâm cổ mổ họng hai đứa con trai ta, chú thọc huyết ta khi đương thai nghén, chú muốn đem sáu đứa con vô tội, chưa lọt lòng mẹ của ta ra ăn dộng, chú bất nhơn quá mà, ta trả thù chú đâu có oan ức gì?

                ***


                Chú Xua chết khó khăn quá, nghe tiếng thở hồng hộc ai mà không kinh tởm. Chú Tám Giò cũng có mặt bên giường bịnh lo lắng cho bạn già phút lâm chung.

                Chú Tám lẵng lặng lấy cái diệm, đổ vô ít nước, cầm con dao thọc huyết hàng ngày để bên cạnh giường người bịnh. Con cháu ai cũng hiểu việc làm của chú, không thể nói ra, phải để chuyện này cho người ngoài làm.

                Chú Tám nghiêm trang cầm dao quậy nước trong diệm, chú ngập ngừng lạc giọng, lưỡi dao lạnh ngắt rùng mình suýt vuột khỏi tay chú, tiếng quậy róc rách, bọt nước đục ngầu nổi bong bóng như máu rồi vỡ tan.

                Chú vái van: - Cô hồn ơi! nghề nghiệp mà, biết sao cho vẹn? Sinh nghề tử nghiệp! Anh Xua ơi, anh đi thì đi cho yên, đừng làm khổ con cháu. Anh Xua ơi, tiền căn báo hậu, nhản tiền anh thấy chưa?

                Chú Tám cũng già yếu rồi, nợ chú Xua chồng chất, chú xót lòng nghĩ tới chính mình, thở dài, đặt cây dao nằm ngang trên miệng diệm nước hay diệm máu của chú Xua mà cô hồn hiện về đòi cho được.

                Tiếng ú ớ đều hơn, nhỏ dần một lúc lâu rồi tắt hẵn. Chú Tám thất thểu bước ra, chú hình như không nghe tiếng khóc sướt mướt quanh đây. Chú thở dài lẩm bẩm một mình: - Y trả hết nợ rồi, gần tới phiên mình.

                Bước về đến nhà, nhìn đống lòng heo nhầy nhụa trên bàn, mấy lá gan heo còn đọng mấy giọt máu tươi. Chú tưởng tượng như núi thịt bên ao rượu của Trụ Vương và Ðắc Kỷ. Mùi lòng heo lúc trước thơm tho, bây giờ bốc mùi tanh ói lợm giọng. Chú khạc nhổ liên hồi, chân tay uể oải hết hăng hái làm việc.

                Ngày mai phải giao sớm mười cái giò heo đám cưới, ‘thây kệ’, chú ngã mình trên giường lim dim, bản tính chú siêng năng, nhưng hôm ấy tinh thần đã mệt mỏi, cơ thể rã rời, lần đầu tiên chú buông lung, báo hiệu cho sự nãn chí.

                Gác tay trên trán, chú nhớ Chú Xua, mấy mươi năm gần gũi, bây giờ kẻ ở người đi. Chú Xua đi khó khăn quá, nghĩ tới mình, ‘số phận mà’.

                Chú nhắm mắt nghỉ giây lát để lấy sức, trong óc chú thấy mình bị một núi lòng heo, cao ngất, những nùi ruột quấn lòng thòng nhểu máu đỏ ao, những sợi lông heo đâm ê lưng.

                Trên bầu trời xám, những tờ giấy tiền vàng bạc bay chập chờn, chú cố rượt theo chụp, giấy tiền vàng bạc càng bay cao, cao lên mãi, chú đứt hơi té xuống đống lòng nhão nhẹt, chú lún xuống cố cựa quậy thoát ra, càng cựa quậy càng lún sâu tuyệt vọng, hàng ngàn bao tử heo bay lơ lững phình ra tóp vào như ruột xe hơi bị lủng, bơm lên bị xẹp trở lại.

                Chú Tám cố gượng, chổi dậy, vỗ trán bành bạch, xăm xăm di ra lu nước múc nước rửa mặt, mệt phải chịu, đồ lãnh phải giao đúng hẹn, rồi sau đó ra sao thì ra.

                ***


                Trước khi bỏ xứ, Chú Tám đi từng lò heo, từng nhà chủ nợ, chú ngay thẳng năn nỉ: - Bà con ơi, tui nghèo quá phải bỏ xứ đi, nợ nần chưa trả nỗi, tôi hứa với bà con, chừng nào khá, tôi trở về xứ trả lại cho bà con.

                Chú nghẹn ngào: - Bà con cũng biết, tôi không uống giọt rượu, không cờ bạc, chỉ có làm mà không đủ ăn, bà con thấy đó, giới nghiêm từ tám giờ tối hàng đêm thì bán buôn gì được.

                Chủ nợ ‘thấy đó’, cũng mủi lòng, nỡ nào mở miệng trách móc chửi bới như bạn hàng tôm hàng cá. Nhơn tình xóm nầy vậy đó mà, thiếu đủ rồi chan qua chan lại cũng xong. Chú thật thà và hiền lành từ xưa tới giờ.

                ***


                Mấy năm sau, Chú Tám trở về thật, có ai tin được, những món nợ như gáo nước đổ đi, làm sao hốt lại được. Chủ nợ quên nợ, quên luôn chú, ’bằng như gáo nước tưới hành không tươi’.

                Chú Tám thì khác, lời hứa như đinh đóng cột. Chú về vẫn như xưa, không huy hoàn g, mà giữ được trọn vẹn lời hứa xưa, tròn câu ơn nghĩa, chú chắt mót trả đầy đủ nợ, nghèo cho sạch, rách cho thơm.

                Người ta vừa ý lắm, không tâng bốc chú, vì chú nghèo, tâng bốc chú được cái mốc gì. Chú về đẩy chiếc xe lòng tới ngả tư chiều đầu tiên sớm hơn, Chệt Xái ngạc nhiên mừng reo, quơ tay nói chuyện liên miên với chú:

                - Lứ cứ ở đây bán với úa, đừng có bỏ xứ đi, ở đây có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo. Chú Tám mừng mừng tủi tủi gặp lại bạn già, nắm tay Chệt Xái , lòng bàn tay và ngón tay Chệt Xái đỏ dầy lạnh ngắt vì ngày ngày bào đập nước đá, cái lạnh của nước đá thấm luôn vô hai bàn tay chú Xái.

                Gia đình Chú Tám vẫn lây lất sống, yên lành như thuở nào nếu không có thằng con đi lính nghĩa quân, lâu lâu anh ta kéo bạn bè về lấy lòng khìa nhậu be bét, quậy chán rồi đi.

                Chú Tám tuổi xấp xỉ sáu mươi, một cở với Chú Xua, mỗi lần đi ngang lò heo Chú Xua, chú Tám thấy nhơ nhớ man mác trong lòng, ngại ngại cho chính mình mà chưa dám nói ra, chú lầm lũi đẩy xe lao chao trên đường đất cát.

                ***


                Ra giêng, mấy đám cưới đám hỏi liên miên. Ðám cưới nhà nghèo đặt làm giò heo, nhà giàu đặt làm gà vịt. Chiều đó, họ giao một xe gà vịt đến cho chú làm, hôm sau giao cho họ để nấu nướng.

                Ðám cưới chắc phải lớn, con chủ nhà máy xay lúa gã gấp cho con chủ tiệm đề bô la ve nước ngọt ở tỉnh, nghe đồn nó ngấp nghé muốn ôm gói theo thằng bạn đờn ca.

                Những lồng gà vịt lớn nhỏ đủ loại chất đầy nhà, không hăng hái như lúc trước, lần này chú nửa mừng nửa lo. Mừng là thêm món tiền công khá, bà chủ nhà máy tính rộng rải, lo là chú cảm thấy mệt cầm canh từ đầu hôm tới sáng, vừa gà vừa vịt tròm trèm trăm con.

                Món tiền công dư dã trả tiền thuốc men vừa rồi, món tiền công và tiền cho thêm của bà chủ nhà máy lởn vởn trong đầu, chú linh cảm mình không được hưởng món tiền đó, không biết tại sao, có điều, hiện tại chú phải bắt đầu làm việc ngay, không thể để trễ giây phút nào.

                Từ đầu hôm phải làm gà vịt tới sáng, sau đó còn khìa lòng bán cho chiều, thêm mấy cái giò bán riêng cho tiệm cơm ngoài chợ. Chú sắp xếp thời giờ, liên tiếp vừa đêm vừa ngày, chú quên sắp thời giờ để ngủ, tưởng mình còn sức trai trẻ mấy mươi năm về trước.

                Chú đẩy xe lòng vô nhà, dọn dẹp cho gọn gàng, bỏ lòng thịt bán dư vô thau đậy cẩn thận để vô tủ sợ chuột và gián, rồi lấy đủ loại dao ra mài cho bén; đâu đó xong xuôi, chú bắt hai chảo nước lên lò, đốt trấu và củi chờ nước sôi.

                Chú để những cái lồng gà một bên, lồng vịt một bên cho gọn ghẽ, sau đó lấy mấy chồng chén màu gan gà nhỏ cũ kỹ để sẵn dưới đất chỗ chú sắp sửa hành nghề bên cạnh mấy cây dao cắt cổ gà vịt.

                Gần mười giờ đêm mà gà trong lồng rộ lên oang oác phản đối, ở góc nhà vịt thò đầu ra khỏi lồng, lắc đầu nghe ngóng nháy mắt tròn như hai hột cườm trong vắt, ngơ ngác, càm cạp.

                Chúng đoán được số phận sắp chấm dứt khi nhìn và cảm thấy khung cảnh chung quanh, hôm sau, xác thân chúng sẽ nằm trong dĩa, trong tô, trong cù lao than hồng ... trên các bàn tiệc cưới.

                Chú nắm cổ từ con gà kéo ra khỏi lồng đặt nằm trên mặt đất.

                Chú bẻ quặt tréo cánh gà rồi dùng chân phải đạp lên, chân trái đạp hai chân gà, tay trái nắm mỏ gà kéo cổ lên, ba ngón tay phải nhổ lông cổ cho sạch, cầm con dao ngắn, bề dài độ gang tay kéo một đường trên chỗ cổ đã trụi lông, đúng mạch máu.

                Gà kêu con cót trong cổ, mắt nháy láo liên, máu phún đúng vô chén nước muối dùng đựng máu để bên cạnh. Chú Tám kiên nhẫn đợi máu chảy ra hết, tay cầm con dao quậy đều tay chén tiết gà.

                Gà giẫy giụa yếu ớt, mình gà giựt giựt mấy cái rồi yên, máu đã chảy ra hết, Chú Tám dùng tay cầm chén tiết để lên bàn, tay xách cánh gà liệng vô góc nhà. Chú thường nói: - Có người không biết, cắt cổ xong bỏ ra, gà phát chạy ngờ ngờ vì cắt không trúng chỗ.

                Xong con này, tới con khác. Từ lúc bắt gà ra khỏi lồng đến cắt tiết xong, chú làm gọn gàng, các động tác phối hợp cùng lúc đều đặn và chính xác, lúc nhanh, lúc chậm, lúc chờ đợi kiên nhẫn.

                Vì thế nên nửa đêm, hai bên nhà chú không nghe tiếng gà vịt oang oác nữa, bếp chú chỉ còn tiếng nước sôi trong chảo, bầy gà vịt nằm im lìm một góc. Chú múc những miếng tiết đặc trong chén thả vô chảo nước sôi luộc cho cứng và dai, rồi vớt ra để trong rổ riêng, chén thì chồng lại để trên kệ.

                Chú sắp mấy thùng gỗ lớn để bên rồi nắm hai chân gà nhúng vào chảo nước sôi, trở qua trở lại, bắt đầu nhổ lông. Nhúng nước sôi cũng phải quen tay, nhúng lâu quá, da gà chín, lúc nhổ da tróc theo lông; không đủ nóng nhổ không sút lông.

                Tay trái cầm mỏ gà, tay phải vuốt từ đầu xuống tới ức gà sạch lông. Nắm đầu gà, nhúng mình gà vào chảo lần nữa, hai bàn tay vuốt lưng, mình, xuống hai đùi gà, xong mới dùng ngón tay nhổ lông cánh và những sợi lông còn sót lại.

                Chú Tám có thể nhắm mắt, hay vừa nói chuyện vừa nhổ lông gà mà không cần nhìn gà, ‘nhổ lông chỉ cần hai bàn tay, không cần tới mắt’. Chú từng làm đủ loại gà, gà cồ, gà nòi, gà giò, gà mái dầu, gà nồi, gà chân đen, chân vàng, gà thiến ...

                Vịt như vịt tàu, vịt hảng, vịt xiêm lai, ngỗng, ngan, thậm chí chú từng làm thịt công, trỉ, gà lôi, các loại chim nhỏ như se sẻ, áo già, mỏ sắt v.v... Cũng gà vịt, nhưng cách nhổ lông khó dễ tùy loại, thường thì làm mỗi con gà ăn công mười đồng, vịt phải mười hai đồng vì vịt phải nhổ lông măng bằng nhíp, lâu hơn gà.

                Nghề nghiệp biết sao, chú làm ăn công, nhưng thỉnh thoảng lúc cắt cổ vịt, mắt vịt tròn ngây thơ đễ thương quá, chú thấy ngại ngại chùn tay, ý tưởng chỉ thoáng qua, chú phải tiếp tục, lột cho hết vẫy và da trên chân gà vịt.

                Gần hai giờ đêm, gà vịt trắng toát nằm trong mấy cái thùng gỗ, chú đứng dậy rửa tay, chuẩn bị mổ bụng gà vịt, chú lau sạch bàn thớt và sửa soạn loại dao để chặt.

                Chú đặt gà nằm ngửa, dùng dao chặt giữa ức, rọc xuống cho thẳng hai phần bằng nhau, bẻ gà ra, móc hết ruột gan lòng bỏ vô thùng bên phải chú, gà thì chú nhúng nước lạnh rửa sạch để trong rổ tre cho ráo nước, từ con này sang con khác, gà rồi tới vịt.

                Không như lúc bị cắt cổ, gà vịt bấy giờ nằm yên cho chú làm việc dễ dàng hơn. Sau cùng là việc làm tỉ mỉ cẩn thận. Khó khăn nhứt là mổ mề gà vịt, rứt những miếng mỡ dính trên mề cho sạch, dễ bị đứt tay vì mề nhỏ trơn khó giữ, sớ thịt lại cứng.

                Ruột gà vịt cạo sạch để riêng, nhỏ ngắn hơn ruột heo, gan gà phải nguyên vẹn không rách, đầu bếp xắt miếng để vô cù lao. Thỉnh thoảng được một đùm trứng non màu vàng tươi trong bụng gà mái đẻ, luộc ăn bùi bùi.

                Trứng non không cần phải giao cho chủ, nhưng chú Tám không dấu lại dù là một nắm mỡ gà, một đùm trứng non, chú chỉ lấy tiền công, đổi bằng mồ hôi nước mắt nhọc nhằn trắng đêm như đêm này.

                Tiếng lao xao trả giá thịt mấy lò heo bên cạnh nhà bắt đầu, Chú Tám cũng sắp sửa xong. Chú đặt từng con gà, con vịt làm xong trên thớt, trước mặt chú là những thau lòng làm sạch, để riêng, tim gà theo tim gà, mề gà theo mề gà ...

                Chú mổ bụng gà ra, để một trái tim, một lá gan, một cái mề, một xâu ruột vô bụng gà, lấy dây lạt buộc lại cho lòng đừng rớt ra, đầu bếp đám cưới dễ kiểm soát, huyết gà giao riêng, vì để chung sẽ bị bể.

                Chuông nhà thờ bên đồn lính Tây cũ vừa đổ hồi. Người tổng khậu đám cưới tới lấy gà vịt, đếm xong rồi bưng ra xe lôi chở đi, hắn ngoáy đầu lại dặn:

                ‘Trưa trưa, bà chủ qua đưa tiền’. Chú Tám chống tay trên bàn lấy điểm tựa, tay chân nhức nhối, mình mẩy bần thần lạ. Ngán ngẫm nhìn quanh, rồi lặng lẽ hốt lông vịt để vô rổ, gác trên giàn bếp cho khô để bán cho người mua ve chai lông vịt, rổ lông vịt là món tiền bỏ ống của chú.

                Nền xi măng ướt mem, chú lấy chổi ráng quét soàn soạt lông gà dính trên sàn nhà, đẩy vô một góc, rồi ra giếng múc từng gàu nước dội cho sạch. Chú tới lui chậm chạp thấy rõ, hậu quả của suốt đêm làm việc.

                Chú trừng trừng nhìn góc nhà, đống lông gà dính máu mỡ và thịt vụn bầy nhầy. Cơn gió núi sáng sớm lọt qua khe cửa lá, chú rùng mình khó biết là chú đang bị nỗi lo sợ vu vơ ám ảnh từ ngày trước.

                Gà vịt giao rồi mà tiền công chưa trả, tiền chưa vô túi, chú chưa thấy yên tâm, mọi khi lấy tiền trước hay ngay sau khi giao, món tiền khá cao chú chờ đợi với chút đỉnh lì xì. Chắc chắn bà chủ nhà máy sẽ trả, lại cho thêm là khác. Vậy mà sao chú cảm thấy chú khó lòng nhận được món tiền này, lạ thiệt.

                Nhớ tới đống gà vịt vừa giao, dạ dày chú trào lên một dịch vị tanh ói. Không khí âm lãnh bao trùm bếp. Ðã đến giờ qua lò heo lựa lòng, chú thiếu hứng thú vì mỏi mệt.

                Cả mình mẩy áo quần dính máu mỡ ẩm ướt, lông gà, mạc gà ngứa ngáy, bùn đất từ đầu đến chân nhớp nhúa làm sao ngủ, muốn tắm cho trôi hết chất bẩn mà sợ gáo nước giếng lạnh giá buổi sáng sớm.

                Suốt đời chưa được nghỉ ngơi ngày nào, dù là ba ngày Tết. Lúc thiên hạ vui chơi giải trí là lúc chú cực khổ nhứt. Chú buông mình trên ghế đẩu, tay chân buông thỏng, nhắm mắt thiêm thiếp được chốc lát, tai văng vẳng tiếng cạp cạp oang oác, cọt cọt của loài gia cầm.

                Tiếng đập cánh phành phạch giẫy giụa vô vọng, lúc đầu ít, nhỏ, sau rầm rộ hơn, lớn dần vang dậy. Xác gà vịt trắng xác nằm ngổn ngang trên bàn loi ngoi cựa quậy đứng dậy. Bầy vịt mọc lông trở lại bay tán loạn kêu cạp cạp vang trời.

                Bầy gà giương cổ gáy the thé oán hờn. Hàng hàng lớp lớp gà mỏ đỏ máu nhọn hoắc cứng như sắt bay ập lại mổ mắt chú, bầy vịt rỉa nhức nhối thịt xương chú.

                Chú thấy mình bơ vơ trong thế giới âm u lạnh lẽo, hai tay chú quơ quào tìm cách chống đỡ, chân cố bước chập choạng thối lui, chú cố lấy hơi thở.

                Bầy gà vịt biến thành hàng vạn kên kên đầu sói quái đãn, đầu ngúc ngắc, rồi quạ đen tinh quái bay tới mổ mắt chú, bụng chú tuôn ra đùm ruột già nhơn nhớt tanh tanh. Bầy kên kên giành nhau những khúc ruột chú, bay lởn vởn, kêu chí chóe.

                Chú bay phất phơ trong không gian lạnh buốt, giành chùm tim phổi với bầy kên kên quà quạ. Chú càng bay cao, bầy kên kên tha ruột càng bay xa.

                Lạnh quá, chú muốn quay trở về, nhưng ở trạng thái bồng bềnh không chỗ tựa, chú vô vọng tìm đường về, chú lạc mất đường về.

                Chú há miệng, mùi trà gừng trôi xuống cổ, hình như có ai xoa bóp và cạo sồn sột trên lưng chú, chú nghe tiếng khóc kêu gào trong thế giới mê mờ, gương mặt vợ con chú thấp thoáng rồi tan đi.

                Nhưng chú thấy rõ lắm, Chú Xua lãng đãng gần xa, cổ Chú Xua quấn một nùi ruột heo lủng lẳng, đầu đội cái đầu heo nọng lắc lư, nhăn răng trắng nhởn cười hềnh hệch, vừa đưa tay ngoắc.

                Người ta đứng cạnh giường chú nghe chú nghèn nghẹn kéo từng hơi thở, mắt chèm nhèm nhắm nghiền, nước mắt tuôn ròng ròng. Chú cong mình, nghiến răng trèo trẹo, ú ớ: - Tội nghiệp ... Tội nghiệp tui! Ai ... người ta ... ai ăn ngon, bắt tui cắt ... cổ, tại tui nghèo ...

                ***



                Chệt Xái ngồi ủ rủ im lìm trên ghế sau xe nước đá, ngậm miệng nuốt nước bọt khi đám ma Chú Tám Giò đi qua. Chệt Xái nhớ chú Tám, dù chưa qua lại thân đến độ phải đi đưa đám ma chú.

                Chệt Xái nhớ Chú Tám, cả hai làm ăn lương thiện, lấy công làm lời, cả hai nương tựa nhờ vả nhau sống, một người nằm xuống, người còn lại cũng đi xuống, ai uống la ve mà thiếu món bao tử khìa?

                Ðêm cúp điện, trăng lu, sắp mưa, Chệt Xái buồn bả đẩy lọc cọc xe nước đá về, ánh trăng vàng vọt, bóng Chệt Xái ngã dài trên đường đá gập ghình.

                Chệt Xái thấy bóng dáng gầy guộc của Chú Tám Giò khòm lưng lủi thủi đẩy xe lòng thịt khìa đi trước mặt mình. Chệt thấy thương Chú Tám vô hạn, mất Chú Tám, chệt bị mất mát quá nhiều, ngoài lợi tức còn tình cảm.

                Hình ảnh Chú Tám thái dĩa lòng để trên bàn cho khách, khách kêu chai le ve. Khách đứng dậy, Chú Tám thâu tiền dĩa lòng, Chệt Xái thâu tiền la ve.

                Càng nhiều dĩa lòng thì càng nhiều la ve. Hôm nào mưa vắng khách, cả hai cùng chung niềm lo âu, cùng cầu mong mưa tạnh, cùng xây mặt ra đường, cùng mời mọc người qua kẻ lại.

                Chệt Xái ngồi bơ phờ nhìn đám mây đen cuồn cuộn, xoa hai bàn tay tê cóng vì cả đời chỉ bào và đập nước đá, lòng bàn tay mất cả cảm giác.

                Hết hy vọng, chệt đành đứng dậy dọn dẹp, xếp ghế rồi đẩy xe về, vừa đi vừa chép miệng an phận: - Ông trời hổng thương thì mình đi về ngủ cho khỏe cái thân.

                Ðêm đó, Chệt Xái nằm gác tay lên trán, mưa dập vùi mái lá, vẩn vơ thấy nhớ Chú Tám Giò. Thấy khô cổ lạt miệng, chệt chổi dậy uống một gáo nước lạnh cho mát cổ.

                Cơn gió bên ngoài phần phật thổi bung cánh cửa sổ lá, chệt chóng mặt ớn lạnh, ngả quay lên giường trùm mền ngủ.

                Cả người Chệt Xái run bần bật, cái lạnh từ trong ra ngoài, hàm răng đánh lách cách, mền không đủ ấm, vì Chệt Xái đã biến thành cây nước đá ủ trấu tan dần.

                Quá sức chịu đựng vì bị cảm hàn, Chệt Xái thét lên:
                - Phú, chết theo thằng Tám Giò cho có bạn.



                CHÚ THÍCH
                - cạo heo: làm thịt heo, mổ heo.
                - đúng trân: là thật đúng.
                - bán tháo: bán gấp giá rẻ.
                - mạc gà: loại bọ nhỏ như bụi phấn đeo theo gà để hút máu.
                - hàm nàm: heo con trong bụng mẹ khi mổ, dùng nấu thuốc bắc ăn rất bổ.
                - thịt bệu: thịt mềm quá.
                - thớt thịt: gian hàng bán thịt.
                - chảo đụn: loại chảo sâu, lòng lớn.
                - dao yếm: dao to bản để cắt miếng thịt lớn.
                - cái thủ: cái đầu heo.
                - liếc dao: mài sơ qua vài cái.
                - mua mão: mua tính không cần cân lượng nhiều ít.
                - phồng mỡ, phồng cát: dùng mỡ hay cát làm da heo phồng lên để nấu canh.
                - mỡ sa: mỡ chùm trong bụng heo.
                - mỡ thịt: mỡ dính luôn trong thịt.
                - bán nới: bán rẻ hơn.
                - cân giát: cân già.
                - mở hàng: lần đầu mua hay bán buổi sáng.
                - đường có chỉ: khi thắng đường làm nước màu, người ta dùng đủa quậy đến khi bắt đường lên giống như sợi chỉ.
                - tiểu lư: cái vá xào.
                - phá lấu: khìa.
                - tổng khậu: đầu bếp chuyên nghiệp.
                - bổi nhậu: mồi hay món để nhậu.
                - chuột xạ: chuột có mùi, mỏ dài.
                - tam sên: một miếng thịt luộc, một con tôm, một cái trứng luộc để cúng.
                - ăn dộng: ăn, tiếng nói thô lỗ.
                - giấy tiền vàng bạc: vàng mả.
                - xấp xỉ: vào khoảng.

                Darra - Australia - 1990


                Lưu Nhơn Nghĩa
                thatsonchaudoc
                sigpic

                Comment


                • #23
                  Như Cánh Chuồn Chuồn

                  Bậu Gieo Tiếng Dữ
                  __________________________________________________ _____



                  Tôi có thói quen viết nhật ký và hồi ký, viết từ những năm còn đi học, ngồi đâu viết đó, cố moi trong trí nhớ những mảnh vụn tạp nhạp của cuộc đời quá khứ, để một mình đọc. Những mảnh vụn tiền hậu bất nhất, nhớ đâu viết đó, rời rạc.

                  Viết để tiếc nhớ và nguyền rủa cái thằng tôi với những lỗi lầm không thể tha thứ được. Không rõ cái nghiệt ngã nào mà tôi sinh ra đúng thời đó, đúng vùng đó, và ghét cay đắng những người cùng thời , vì họ vừa nghèo vừa mang đủ thứ bịnh tật trong người.

                  Thuở đó vào năm 1950, học sinh được nghỉ thứ năm và chủ nhật. Thay vì rong chơi tôi bị bắt ngồi chong ngóc giữ tiệm. Tôi ngồi như trời trồng, chịu đựng cực hình nên xem khách như kẻ thù, nhứt là những người Miên từ trong từ trong sóc ra chợ.

                  Họ nhẫn nại lựa cái lưỡi cày trong cà ròn cả buổi, làm tôi mất kiên nhẫn ngay từ đầu. Lựa rồi trả giá, rồi đưa tiền rách, không lấy thì miệng eo éo cắt ùm chai(tiền vậy mà không xài).

                  Ông bà già tôi lúc nào cũng có cách giải quyết ổn thỏa, còn tôi chỉ lập đi lập lại một câu , tâu tâu, cách tin mà đom, cách rô mà ngay ( đi đi, mua một cái lựa một ngày). Miệng tôi thì lầm bầm: đồ chết đốt. Buổi sáng đó, tôi đang bực dọc thì có một người Miên bước vào nhìn chăm chăm cái thùng kiếng.

                  Ông ta mở cái thùng kiếng, tẩn mẩn cái hộp nhôm dùng đựng thuốc gồi. Trong thùng kiếng có bốn cái hộp nhôm. Ông ta táy máy, lựa chọn, ngắm nghía, mặt ngẩn ra.

                  Thời đó thuốc lá chưa thông dụng, thuốc gồi thường được gói trong giấy nhựt trình hay lá chuối khô, có được hộp nhôm đựng thuốc gồi là quý lắm. Người Miên đó mặc áo bà ba đen, quần xà lỏn, đi chân đất gót chân nứt nẻ, mặt ghẻ dán một dề bình lịch trông ghê tởm.

                  Lựa chán, ý chừng không tiền, nên bỏ đi ra. Tôi vào kêu ông già tôi ra, đề quyết ông ta ăn cắp cái hộp nhôm (đã không tiền còn mò mẩm làm tôi phải mắc công coi chừng!). Ông ta nhăn nhó, lộn túi ra, ông già tôi nhìn thùng kiếng, còn nguyên bốn cái hộp nhôm xếp khít khao. Hỏi lý do tôi trả lời cộc lốc:

                  Thằng thổ ưa ăn cắp!. (Thật ra ông chỉ có tội bắt tôi phải dòm chừng). Người Miên tỏ ra bất mãn nhưng nhịn nhục, tay gải đầu bét bét đi ra.

                  Tôi rời quê ra tỉnh học năm 11 tuổi, quay lưng bỏ quên quê cha đất tổ, rẻ rúng người đồng hương, lên mặt vì ta ở thị thành văn minh. Tôi quên mất cái hộp nhôm và gương mặt nhăn nhó của người Miên năm 1950.

                  Câu chuyện đó không để lại một dấu vết nào trong trí nhớ của tôi. Khoảng 37 năm sau, ngày 24 tháng 6 năm 1987, câu chuyện lập lại với vài chi tiết trùng hợp hay hay.

                  Lần này không phải là hộp thuốc nhôm rẻ tiền, dùng đựng thuốc gồi hôi rình, mà là câu chuyện bắt đầu bằng hộp thuốc pipe Exclusive Royal của Hòa Lan thơm mùi rượu.

                  Buổi sáng kể trên, dậy trễ, tôi vào tiệm bánh mì ở khu phố Pforzheim ăn sáng và uống tách cà phê cho qua cơn ghiền.

                  Sờ túi thấy hết thuốc, tôi vào siêu thị Horten gần đó mua một hộp thuốc. Vai đeo cái cặp da cũ (vật bất khả ly thân), tôi đi nửa mơ nửa tỉnh trong đám người bương chải, gió thổi áo mưa ngắn xốc xếch phùng phình.

                  Tinh thần và thể xác kiệt quệ sau ca đêm làm ở hãng cưa, phải xếp hàng chờ, tôi mất kiên nhẫn bỏ ra, nhưng bị cơn ghiền hành hạ, tôi trở vào mua cho được hộp thuốc. Ra khỏi siêu thị, đi lếch thếch định tìm băng ghế trống ngồi hút vài cối.

                  Ðang đi tôi chợt cảm thấy cái bóng từ sau choàng qua vai tôi, trước mắt tôi là một tấm thẻ nhỏ, dính gọn trong lòng bàn tay rộng vừa đủ chỗ cho tôi thấy, đồng thời một giọng nói ôn hòa nhỏ nhẹ:

                  Thưa Ông, tôi là Detektiv siêu thị Horten, xin ông cho tôi thi hành nhiệm vụ của tôi, xin ông cảm phiền. Giọng nói vừa ôn tồn vừa đầy uy quyền đủ để tôi nghe, từ ngữ dùng rất tế nhị diễn tả cuộc điều tra bắt trộm.

                  Tôi chợt tỉnh, bước song song với hắn vào căn phòng nhỏ bên hông tiệm. Hắn bật đèn, kéo ghế mời tôi ngồi, nhã nhặn xin tôi tự tay mở cặp cho hắn xem.

                  Tôi tự tin, lôi ra quyển nhật ký màu đỏ và hộp thuốc pipe Exclusive Royal của Hòa Lan. Hắn nhỏ nhẹ xin coi biên lai, gương mặt hắn tự nhiên thân thiện, như đang tiếp khách quý.

                  Tấm biên lai tôi vò trong túi áo khoác còn đó, may mắn làm sao,nếu mất tấm biên lai, thì chuyện gì sẽ xãy ra ? ,.

                  Hắn đứng dậy nhũn nhặn cám ơn, xin lỗi rối rít, chúc tôi được một ngày vui. Diễn tiến từ đầu tới cuối không đầy năm phút.

                  Tôi bình thản bước ra, tâm lý thăng bằng, cơn ghiền đã qua, trở lại chính siêu thị Horten lên lầu uống cà phê. Tôi nhắp tách cà phê nóng và thổi làn thuốc thơm ướp rượu.

                  Sau bao năm bầm dập, tình cảm chai lì, biến cố vừa qua không làm tôi xao xuyến, sợ sệt hay nổi giận. Tôi dở cuốn nhật ký ghi vài hàng về biến cố, mới khám phá ra gần 3500 trang nhật ký tạp nhạp không có chuyện hộp thuốc gồi năm 1950.

                  Tôi cắm cúi viết sợ quên mất câu chuyện đáng suy gẫm và khám phá hai điều vô lý. Trong thùng kiếng ở tiệm ông già tôi, chỉ có bốn hộp thiếc sắp khít khao, lúc người Miên đi ra còn bốn hộp, tôi có ác ý vu oan cho y, chỉ vì y là người Miên, là thằng thổ, đồ chết đốt đáng ghét. Ðể đáp lại, người Miên kia nhịn nhục, gải đầu nhăn nhó bước đi.

                  Mà dù có giận, y làm gì được tôi lúc đó? Tôi là dân chợ, y là dân sóc mẹt! Ðó là điều vô lý thứ nhất xảy ra năm 1950 tại chợ Xà Tón.

                  Trong siêu thị Horten ở Pforheim, Tây Ðức, thuốc lá và diêm để trong tủ kiếng đóng kín, chỉ có nhân viên bán hàng đứng sau quầy mới lấy được thuốc bán cho khách hàng và thu tiền ngay.

                  Tủ thuốc để ngay chỗ cửa ra vào, khách mua trả tiền ngay tại quầy, chứ không cần qua cửa tính tiền.

                  Tôi chỉ trở vào mua một hộp thuốc và trở ra chớ không đi ngang bất cứ kệ bày hàng hóa nào mà tên Detektiv lại nghi tôi ăn cắp. Hắn không xét tôi như Ông già tôi xét người Miên kia, nhưng hắn làm tôi tự tay mở cặp ra trình cho hắn.

                  Tôi đoan quyết người Miên kia ăn cắp, tên detektiv chỉ thi hành phận sự. Tại sao hắn nghi tôi? Vì tôi là dân da vàng ở một xứ nghèo qua? Ðó là điều vô lý thứ hai! Hai điều vô lý trùng hợp khá thú vị, chỉ có chi tiết đảo ngược.

                  Năm 1950, tôi là chủ từ của động từ nghi oan, ông già người Miên là túc từ trực tiếp của động từ trên, từ cái hộp thuốc nhôm. Ngày 24 tháng 6/87, tên Detektiv Ðức là chủ từ của động từ nghi oan, tôi là túc từ trực tiếp, từ hộp thuốc pipe Exclusive Royal.

                  Tên Detektiv và hộp thuốc nhắc tôi nhớ lại chính cái thằng tôi với cái hộp thuốc nhôm ngày trước. Tôi gieo tiếng dữ cho người Miên kia, tưởng đã qua, cho qua luôn. Nào ngờ bây giờ tôi bị thằng Detektiv gieo tiếng dữ lại.

                  Tôi đã gieo tiếng dữ 37 năm trước, 37 năm sau gặt lại. Vậy là huề nhe! Tôi ngồi nhấp cà phê, vừa bập bập cái pipe, vừa suy gẫm sự đời, vừa loay hoay viết lại câu chuyện trong tập hồi ký này.

                  Viết đến đây đã quá nửa đêm rồi, cơn mưa dông và cơn sốt nhổ răng làm tôi nhớ những ác nghiệp đã gieo, tự nhiên nước mắt chảy một mình, khi vừa nhớ lại năm 1952, thằng bạn cùng xóm và tôi hè nhau ăn hiếp một thằng bé Miên ở đường Bảo Hộ Thoại, gần thành lính trạm kiểm soát Châu Ðốc.

                  Bọn tôi dấu xe đạp nó mượn của ai đó, nó sợ cuống cuồng, khóc tức tưởi khi khám phá ra bọn tôi dấu xe nó. Bọn tôi hăm dọa đánh nó, anh nó là lính tình cờ chạy ngang can ra. Thái độ quân tử và hiền lành của anh lính đó, làm tôi cảm phục cả đời.

                  Mà thôi, tôi cũng gặt rồi. Năm 1962, mua cái Puch mới chạy được một vài tuần thì bị mất cắp, phải đạp xe đạp đi học thêm vài năm nữa. Còn bao nhiêu ác nghiệp gieo trong kiếp này nhớ không hết, biết chừng nào gặt cho xong.

                  Lần nhận nước con chồn dưới sông khiến nó chết đi sống lại nhiều lần, lấy làm khoái chí! Mấy mươi năm cái mũi tôi sụt sùi! Lần lấy báng súng dộng vô mặt một thanh niên để tóc dài chạy xe Honda ầm ĩ trên đường Nguyễn Huệ.

                  Hai hàm răng của tôi nhức nhối mấy tuần nay! Tấm biên lai đề rõ ràng siêu thị Horten giá 6.75 Ðức Mã đề ngày 24 tháng 6 năm 87, là chứng chỉ tốt nghiệp khóa Nhân Quả nhãn tiền của tôi.

                  Lời Móc hậu
                  : Trong mấy năm lưu lạc trong Nam, tôi vốn là bạn học cùng cỡ với ông Minh Quang. Tuy nhiên về mặt văn chương chưa bao giờ tôi thấy ông chứng tỏ gì là có triển vọng thành một văn tài mai hậu!

                  Vốn là gốc đàng ngoài nên tôi cũng có ý khinh thường khả năng văn chương của người đàng trong, nhất là trong mấy thi văn đoàn tuổi học trò, chưa bao giờ nghe thấy tên ông.

                  Ví như người đàng ngoài chắc không ai có tên nhơn nghĩa, mà phải kêu nhân nghĩa cho có vẻ...hán học. Tôi còn nghi ông là người Minh Hương hay biết đâu là đầu gà đít vịt! Thế nhưng đời tôi với ông có nhiều điểm trùng hợp khá lạ lùng.

                  Trừ cái việc ông thi rớt nhiều lần nên mất...hôn thê, chúng tôi lớn lên học Văn Khoa và Sư Phạm, hoạt động trong đoàn Sinh Viên Phật Tử trong những năm 63.

                  Năm 1973 tôi đi du học, năm sau ông cũng lẽo đẽo theo sau ở một nước sát nách. Thỉnh thoảng gặp nhau ở Trung Tâm Quãng Ðức, chúng tôi chỉ mỉm cười chào.

                  Mấy mươi năm sau tình cờ đất khách gặp nhau, ông đưa cho tôi tập truyện ngắn đăng rãi rác trong các tập san Phật giáo nước ngoài.

                  Cái thằng cha Minh Hương mà cũng viết văn! Nhưng khi đọc các truyện ngắn của Ông, khi cười khúc khích, khi cười ục ục, khi hà hà, khi khoái quá thì cười hặc hặc. Hiện nay có nhiều người xưng là nhà văn miền Nam rặt, đưa ra những nhân vật ểnh ẹo như cô Bảy cầu Bông, cô Ba cầu Muối.

                  Nhưng nhân vật của họ son phấn lem luốt quá, xem một hồi thì thấy...ghê ghê. Ðọc Minh Quang tôi nghĩ đến Sơn Nam trong Hương Rừng Cà Mau. Ðọc Mối Tình Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tôi cười bò lăn bò càng, thật khoái tỉ.

                  Ðọc Minh Quang cũng vậy. Bây giờ thì tôi quá ân hận về cái thái độ mục hạ vô nhân của mình ngày trước. Phải chi lúc đó tôi biết kính Bồ Tát Thường Bất Khinh, tôi sẽ nói: Tôi không dám khinh ông, ông là nhà văn sẽ thành.

                  Và tôi cũng đã gặt cho cái ác nghiệp mà tôi đã gieo hồi còn học trung học đối với Minh Quang: Tôi tốn gần hai tiếng đồng hồ để đánh máy bài đoản văn này để kịp đăng Chuyển Luân. Vậy là huề nhe bồ!



                  Lưu Nhơn Nghĩa
                  thatsonchaudoc
                  sigpic

                  Comment


                  • #24
                    Như Cánh Chuồn Chuồn

                    Ông Tà Ni
                    __________________________________________________ ______



                    ‘Chó điên, chó điên!’ Chú tám Thành cuống cuồng đạp xe vùn vụt theo chó vừa la thất thanh cho bà con lối xóm đề phòng.

                    Chú rượt chó từ xóm kho dầu, ngang qua chợ, vẫn chưa ai đập chó, mấy chị bán hàng rong cầm đòn gánh đứng nhìn chó chạy qua. Chó mắt đục ngầu, miệng chảy nước dãi, đâm đầu chạy, tới chợ Cây Me mới bị các chú xe lôi đập chết.

                    Nắng chang chang, xác chó nhầy nhụa bê bết máu và đất cát, người lớn trẻ con tò mò bu quanh. Chó vừa cắn dì Men.

                    Có người chỉ dì tìm nước trong lu lò rèn (dùng để nhúng sắt rèn cho nguội) uống trừ nọc độc. Cẩn thận hơn, dì Men tìm tới nhà bác tư Ninh nhờ bác lấy nước dội lên mái nhà, nước rơi xuống đất ướt, vò thành viên, lăn trên vết thương bị chó cắn, để rút nọc.

                    Bác tư Ninh bẻ viên đất chỉ cho xem mấy sợi lông chó, dặn dì Men cử ăn mè.

                    Nhưng không bao lâu, dì Men chết; dượng Chín, sau khi vợ mất, tật ghiền rượu không bị ai ngăn cản, uống be bết ở quán ngã tư, mặt đỏ gay, đương mệt mỏi, dượng thường nhìn góc chợ, chép miệng lắc đầu, những hình ảnh hai mươi năm qua lảng vảng đứt đoạn hiện về trong óc dượng: ’Phải còn thằng cha Tà Ni.

                    ’ Nhắc ông Tà Ni, những người trên 60 tuổi chợt nhớ, nhớ rõ lắm, nhớ như chuyện hôm qua nầy. Dân chợ lam lũ làm ăn, không ai biết ông Tà Ni làm gì để sống. Nhà ông ở sau chuồng bò ông Quản Nghét, trước có mấy cây khế và cây xà đâu.

                    Xóm đó, những đêm khuya không trăng, người ta đồn có tiếng ma chó tru, những đóm lửa đỏ rực bay lập lờ trên mấy cụm tre tầm vông - ngoài đồng trống về phía Sóc Xuôi.

                    Ông Tà Ni người vạm vỡ, mập chắc, da chín gấc vì rượu, mình trần dù mưa hay nắng, cổ đeo cà tha và sợi dây bùa thấm mồ hôi mặn biến thành màu xám, đôi mắt đỏ ngầu, chó sợ uy ông.

                    Ông Tà Ni làm nghề đập chó, hình như ông Cò Tây trả lương.

                    Buổi sáng, dân Miên từ các Sóc phụ cận đội trái cây, rau quả ra chợ bán, họ đi bằng xe ngựa hay voi đưa khách. Chó theo chủ ra chợ bươi rác kiếm ăn, rồi nhiều con ở luôn lại chợ.

                    Ðúng lúc ông Tà Ni bắt đầu làm việc, sau khi ghé tiệm nước uống vài ly rượu trắng. Cây đòn bằng tre tầm vông cứng dài trên lưng, ông đi chầm chậm, len lỏi rình rập giữa chợ đông. Ông Tà Ni và tiếng chó bị đập kêu inh tai hãi hùng là hình dáng và âm thanh quen thuộc ở chợ.

                    Không ai sợ hoặc khó chịu dù âm thanh chát chúa đến đâu, ông sinh ra ở vùng này, sự hiện diện được chấp nhận trong cộng đồng này.

                    Không ai thương, ghét ông, trừ các quán nước ông uống rượu thiếu chịu, rồi quên luôn. Ghét thì ghét vậy nhưng họ vẫn bán rượu cho ông từ năm này sang năm khác, hơi men làm ông quên nợ rượu lần trước, đâu cũng vào đó. Ông thêm khả năng trời sinh làm những công việc dơ dáy.

                    Ông từ chết nằm sau miểu ông Tà mấy ngày không ai hay, mấy cái thây ma Việt Minh bị lính Commando Marốc kéo về nhầy nhụa máu, mùi hôi nhức đầu, chỉ mình ông Tà Ni hốt đem chôn, tiền công đủ trả mấy ly rượu.

                    Tìm ông Tà Ni dù chợ đông không khó khăn, chỉ nghe tiếng chó sủa ăng ẳng là biết nơi đó ông đang hành sự. Ông đập chó khéo léo lành nghề như võ sĩ, ông lặng lẽ theo sau chó, giáng đòn đầu tiên đủ cho chó bể đầu lăn ra dãy dụa, vài đòn kế tiếp là chó im ngay, sau đó chỉ việc kéo chó bỏ góc chợ.

                    Từ sáng đến đứng bóng chợ tan, ông siêng năng hoàn tất công tác ông Cò Tây giao phó. Ðống xác chó đủ loại chó cò, chó vện, chó mực... nhầy nhụa máu nằm chờ ông quét chợ hốt đi chôn.

                    Suốt thời gian làm việc, ông không buồn chào hỏi ai, và không ai buồn chào hỏi ông. Thỉnh thoảng ông lầm lẫn vì say rượu, nện mấy ông lão ăn xin nằm trong nóp vừa la ‘oi en ngóp (cho mầy chết!)’.

                    Nghề đập chó không làm ông Tà Ni giầu có gì, ông ít ăn thịt chó, chỉ ưa duy nhứt rượu con cọp. Nghề nghiệp mà, chủ chó chưa than phiền ông lần nào.

                    Như chệt Ky cạo heo, bác Tám Kiển đập đầu bò, họ đều đủ ăn đủ mặc, mình ông Tà Ni có mỗi cái quần xà lỏn. Riêng mấy đám múa Lam Thol bực mình ông Tà Ni nhứt, dù mỗi năm vài lần vào dịp hè Cà Thưng hay Tết.

                    Ðám Lam Thol hay Dù Kê nào ông Tà Ni cũng có mặt chơi chịu, không tiền mua bông, mà ông vẫn cố chen vào nhảy. Lục cụ thường khuyên răn nhưng chứng nào tật nấy.

                    Các cô vũ nữ uốn éo, những ngón tay uyển chuyển mời mọc theo dàn nhạc ngũ âm réo rắt, ai mà nhịn được.

                    Các ông già hà tiện ăn cá không dám lật mà còn ham vui, thì ông Tà Ni đâu phải là một ngoại lệ, có điều khó chịu là ông nhảy thô kệch, tay chân quơ quào, nặc nồng mùi rượu, nhảy say sưa liên tục, không trả tiền, đuổi không đi.

                    Có điều lạ, là ông chỉ hành nghề vào buổi sáng tới trưa, không biết vì ông cò Tây trả lương nửa ngày, hay ông chỉ đập chó từ Sóc xa chạy ra chợ.

                    Sau buổi trưa, chó mặc sức chạy rong sủa cắn, đó là chó chợ, đập nhầm chó có chủ e mích lòng, gặp chủ ba búa, ông có cơ lảnh đòn. Chó có linh tính, khi gặp ông, nhe răng gầm gừ, sủa chát chúa oán hận rồi cong đuôi chạy.

                    Cha quét chợ, kiếm thêm ít tiền bằng cách chờ chủ tiệm dọn cơm ra chỏng trước nhà, cầm chổi quét con đường đất cát, bụi bay mịt mù làm sao ăn vô, chỉ cần cho chả vài đồng là khỏi ăn cơm trộn bụi.

                    Ở địa vị thấp hèn nhứt trong quận, ông Tà Ni (nghe nói là gốc Chà và chứ không phải gốc Miên) chỉ có oai với chó. Mọi người đều khinh ông như chó, họ thương chó hơn thương ông.

                    Tài sản của ông là cây đòn tre tầm vông, khả năng ông chỉ đủ đập chó, ngoài ra không làm tích sự gì cho người khác, thua mấy người gánh nước mướn. Dân trong quận rành ông quá, ông hết cách moi tiền họ, ông đành quay sang cách làm tiền dân xứ khác tới, cái đó “thây kệ ông”.

                    Thời đó, chưa có nồi nhôm, dân xứ khác chèo ghe lườn, ghe cà dom đến mua nồi xứ nầy đi bán khắp lục tỉnh. Nồi từ Năm Vi chở ra chất từng hàng, cao hơn đầu người, dọc theo đầu bờ kinh chờ dọn xuống ghe.

                    Ông Tà Ni mặt nhăn nhăn, thiểu não, mon men tới bụm hai bàn tay xin chủ ghe bố thí cho ông mua gạo nấu. Cho thì ông bụm tiền kính cẩn đưa lên trán cúi đầu cám ơn, rồi lếch thếch ra quán uống rượu - không cho hả?

                    Ông gật gật đầu bỏ đi, rồi thọc tay vô bị lấy khúc xương heo liệng vô giữa những đống nồi. Bầy chó đánh hơi nhào tới giành xương, sủa cắn chạy tứ tung đụng bể bao nhiêu nồi. Bầy chó đụng bể nồi chứ ông đâu có lỗi, “giỏi thì đập chết cha chó đi”.

                    Trường hợp nầy, ông Tà Ni không có lờI, chỉ có chủ ghe nồi lổ nặng nên họ bấm bụng niềm nở đưa tiền cho ông. Ðống nồi của thiên hạ, bầy chó vô chủ có sẳn, chỉ cần khúc xương heo vô dụng thêm vào là ông kiếm được tiền uống rượu hợp pháp dễ dàng.

                    Dân thầy chú biết tiếng Tây, dân chủ tiệm rành tiếng Tàu, ông cò chú cai thầy đội rành luật mà đều gật đầu phục mưu kế ông Tà Ni. Lâu lắm rồi, sau năm 1952 từ khi ông Cò Tây đổi đi, không thấy ông Tà Ni quảy đòn ra chợ đập chó.

                    Chó từng đàn dành ăn, sủa cắn thả cửa. Vắng ông, không ai buồn hỏi thăm - dù đàn chó làm khó chịu các bà ngồi ăn cháo lòng ngoài chợ - Có người nói ông vô Sóc Ô Thôm ở, rồi bị Marốc bắn chết xác chôn bờ bụi vì làm nghề ác đức.

                    Chợ Xà Tón vẫn còn đó, thời cuộc đổi thay, hai vòi rồng trên nóc chợ chứng kiến bao nhiêu thế hệ qua rồi. Những hàng me keo, thốt nốt quanh chợ bị đốn dần, lớp trẻ tấn lên cất thêm sạp quanh chợ buôn bán.

                    Năm 1970, chiến tranh khốc liệt, đám mấy cha trong núi kéo về bắn cháy chợ, còn lại nền đá xanh nhấp nhô màu hổ phách nhắc nhở vết chân ông Tà Ni và những người thế hệ ông đi qua, nào bà Cà Ngul giữ em nghèo xơ xác, nào Pù Ưng bẻ

                    nhánh cây me nước đánh đứa con ham chơi rồi ôm con sướt mướt khóc kiếp nhọc nhằn, nào chú Sáu Nhỏ vào buổi xế trưa hanh nắng, kêu lô tô say sưa ứng khẩu trêu ghẹo bà bán chuối chiên có đứa con gái bỏ theo anh kép chánh đoàn cải lương vừa dọn đi.

                    Lớp người đi qua chợ không để lại dấu vết gì hiển hách, như lá me rụng mục thành đất. Dượng Chín vẫn ngồi trên chiếc ghế đẩu khập khểnh, đăm đăm nhìn về phía góc chợ, mắt lúc sáng lên, lúc ngô nghê, dượng thấy ông Tà Ni bụng quấn xà rông

                    sặc sở, ông biến thành vị thần, đầu đội nón chóp vàng như các tượng thần trên đỉnh tháp. Mắt đỏ ngầu rực lửa, ông Tà Ni tả xung hữu đột giữa bầy chó hoang đang nhe răng lởm chởm nhào tới cấu xé ông.

                    Cây đòn vông trong tay ông quay như chong chóng, dập dồn theo tiếng nhạc ngũ âm, giáng xuống bầy chó. Xác chó cao như núi, máu chảy thành sông đỏ như màu trời chiều khi ma phơi lúa. Xác chó cao dần thành đồi Ma thiên lãnh.

                    Thần Tà Ni như đã chu toàn nhiệm vụ, cắp cây đòn, chân duỗi thẳng, tay chỉ lên trời, bay xẹt ngang trời hướng về đỉnh núi Tà Lơn, Thần quay lại nhăn răng cười khoái trá, nhổ một ngụm máu xuống.

                    Tu thêm hớp rượu cay sè, dượng khoái tỉ như chính mình đã trả thù cho vợ. Ðầu dượng lắc lư như bà bóng nhập, dượng lảm nhảm một mình, Phải còn thằng cha Tà Ni, vợ tôi đâu có bị chó điên cắn chết bậy vậy!




                    Chú thích
                    (1) Cà tha: loại bùa làm bằng những miếng đồng mỏng cuốn lại.
                    (2) Mua bông: muốn múa với các vũ nữ Lam Thol, khách mua bông, một hình thức trả tiền như mua vé hát.
                    (3) Ăn cá không dám lật: chỉ những người hà tiện, ăn chỉ một bên, chừa lại chứ không lật cá, để ăn tiếp hôm sau.
                    (4) Me keo: xứ tôi gọi là cây me keo, trái giống trái me nhưng màu sậm, ăn ngọt gắt, ăn nhiều dễ say máu ngà, có người gọi là me tây, hình như cũng có người gọi là hoa xoan (?).
                    (5) Me nước: loại cây có gai, trái giống hình trái me, vỏ mềm, chín ăn ngọt ngọt chát chát, thường trồng làm hàng rào.

                    (6) Ma phơi lúa: chiều khoảng mặt trời gần lặn, nắng quái, có những đám mây phản chiếu ánh mặt trời màu đỏ rực, ông bà già xưa nói là lúa của ma phơi.
                    (7) Quần xà lỏn: giống quần đùi.

                    Wildbad, 6 - 1986


                    Lưu Nhơn Nghĩa
                    thatsonchaudoc


                    sigpic

                    Comment


                    • #25
                      Như Cánh Chuồn Chuồn

                      THÔNG CẢM
                      __________________________________________________ ______


                      Căn nhà lợp thiếc khang trang bên đường đất xóm lò rèn trở thành Trung tâm văn hóa giáo dục âm nhạc từ khi thầy Sang, một giáo viên trẻ tốt nghiệp trường Quốc gia Sư Phạm được bổ thẳng về dạy ngay lớp Nhất đầu tiên trường tiểu học Quận.

                      Phụ huynh nghèo không đủ khả năng chu cấp cho con ra tỉnh tiếp tục học, vui mừng khi thấy con mình có cơ hội học lớp Nhứt tại chỗ. Ăn cơm nhà đi học đỡ tốn kém vừa đỡ đần công việc.

                      Nhiều phụ huynh khó giấu vẻ đắc chí, “Học lớp nhứt với thầy Sư phạm a!; hổng phải chơi a!” Học sinh lớp Nhứt, qua cách cư xử theo thầy, tỏ vẻ nghiêm trang hơn, chứng tỏ mình xứng đáng là tư cách đàn anh trong trường, được mặc quần ngắn xanh, áo trắng, chân đất đi diễn hành và hát quốc ca chào cờ.

                      Thầy Sang có vóc dáng thơ sinh nhờ cặp kiếng trắng tăng thêm vẻ trí thức nghiêm trang, thầy sửa giọng nói cho đúng nguyên tắc sư phạm.

                      Trường tiểu học Quận có khá đông giáo viên, hầu hết ở tuổi trung niên, chỉ có bằng Certificat và vài giáo viên trẻ có trình độ đệ Tứ.

                      Thầy Sang chẳng những đậu Trung học Ðệ Nhứt Cấp (chưa ai có bằng nầy trong Quận) lại học thêm một năm Quốc gia Sư Phạm, ngạch trật khác xa đồng nghiệp.

                      Học trò đã quá quen mặt thầy cô gốc địa phương, phụ huynh thì lờn mặt, Phật nhà không thiêng, nên một giáo viên có ngạch “Sư Phạm” là đối tượng cho mọi người ngưỡng mộ.

                      Lần đầu tiên trong quận, phụ huynh được nghe danh từ “Sư Phạm”. “Sư Phạm là bằng cấp gì kìa? “. Có người dám quả quyết “Sư Phạm lớn hơn Diplôme Tú Tài.

                      Các thầy ký luôn cả giáo viên địa phương, ngạch trật thấp, làm quen với ngạch mới “Ngạch giáo viên Tiểu học”. của thầy Sang, lương bổng thầy Sang dù mới ra trường gấp đôi lương họ.

                      Thỉnh thoảng vài giáo viên địa phương ghé thăm thầy Sang, tò mò nhìn tủ sách, lén lật xem sách gì, đều lắc đầu vì họ chưa đủ trình độ hiểu, “khó quá, cao quá, toán gì mà có chữ a, chữ x, ẩn số, đại số.... “

                      Các thầy giáo già nầy quanh đi quẩn lại cũng mấy cuốn vần quốc ngữ, tập đọc, toán nhơn hai con là cao lắm rồi. Mấy chục năm nay quen theo lề lối cũ, thụ động, năm nào cũng ngân nga:

                      O tròn như quả trứng gà Ô thời đội mũ ơ thời mang râu I tờ hai chữ khác nhau I ngắn có chấm, tờ dài có ngang. Buổi trưa nghe vang vang tiếng dạy đánh vần buồn ngủ, “hắc o a anh hắc hoanh huyền hoành, hắc o a xê hắc hoách nặng hoạch, hoành hoạch”.

                      Ngoài ông Ðốc già lẩm cẩm, thầy Sang dạy lớp Nhứt, lớp cao nhứt, vài năm ông Ðốc hưu trí thì thầy Sang thay thế.

                      Thầy Sang gốc ở tỉnh, một thanh niên có tư tưởng cấp tiến, lý tưởng, đầy nhiệt huyết, muốn đem tài năng truyền bá kiến thức học hỏi, những điều thầy phát biểu dù ở tiệm nước, đều được đồng nghiệp và phụ huynh lắng nghe, học hỏi và lặp lại.

                      Thầy Sang sử dụng từ ngữ êm tai, bóng bẩy, đưa học sinh vào thế giới hoa bướm, mơ mộng. Học trò quê say mê từ ngừ mới được giới thiệu như “mái tóc thề của nàng tiên áo trắng đất thần kinh”, đọc hay hơn những bài học thuộc lòng “Bổn phận đối với ông bà vv... “.

                      Phụ huynh hết sức hài lòng thấy chương trình toán lớp Nhứt cao quá, lâu nay nghe trẻ đọc bảng cữu chương chín, “chín lần hai mười tám. “, làm như toán chỉ có cữu chương chín và toán nhơn ba con, toán chia hai con là hết rồi.

                      Học sinh lớp Nhứt, lớp Nhứt đầu tiên mà, đêm đêm nhai bài vở ấp a ấp úng, “Muốn kiếm diện tích hình tròn lấy bán kính nhơn bán kính nhơn bi, muốn kiếm diện tích hình tam giác lấy cạnh đáy nhơn chiều cao chia hai..... “

                      Ông Quới, một phụ huynh từng học hết lớp ba rất tự tin, “tôi học có lớp ba hà, mà viết giáo lý để lại cho con học, ông chê con ông đọc không đúng phải đọc cho suông vậy nè, Trong

                      đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng Nhụy vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, chứ mầy đọc cái gì mà bán kính bi nghe không lọt tai chút nào! “ Ngoài giờ học buổi sáng, sau buổi cơm trưa, nhiều học

                      sinh có lý do chính đáng ghé thăm thầy, đỡ giúp việc nhà. Căn nhà thầy mướn, thầy đặt tên “Thư trai” cho giống ngôn ngữ trong quyển Liêu trai. Xóm nhà nầy khá xa chợ, yên tĩnh nên thầy vừa ý lắm, cái không khí man man trưa nắng thích hợp

                      với bản tính nghệ sĩ của thầy. Trên bàn phòng khách của Thư trai, thầy chưng vài bình hoa tươi. Dây trầu bà treo bên khung cừa sổ gần cây ngải mọi, thặy đặt tên là Vạn Niên Thanh, nên ai bước vào cũng cảm thấy dễ chịu, mát mẻ và thư thái.

                      Xứ nầy chưa có nhà nào biết chưng hoa cỏ như thầy. Mấy ông điền chủ giàu xưa, vàng ô, có cả dãy phố trệt cho mướn, trong nhà họ chỉ có cái bàn thờ cắm nhang, bình tích trà và mấy cái ly uống nước là sang rồi, họ làm sao hiễu thú vui tao nhả như thầy Sang.

                      Thầy thích mang đờn guitare gảy những khúc nhạc êm dịu hay đêm đêm thổi sáo nhựa tiếng cao vút. Thời năm 1959, động từ “thông cảm” bắt đầu phổ thông trong giới có học thức, dân vùng nầy chưa nghe, thầy là người đầu tiên đủ khả năng sử dụng nó, thầy ưa nói, “thầy giáo là kỹ sư tâm hồn”.

                      Học trò nghe đắc ý, phụ huynh chưa thấu hiểu được. Hàng xóm khu nầy có một số học trò, ai cũng quí nể thầy, trừ lão thợ rèn sau nhà và ông Chệt chạp phô kế bên.

                      Tiệm chạp phô mở cửa từ sớm tới tối, ông chệt kéo đôi guốc vông chát chúa bất lịch sự, miệng bô bô, bán buôn suốt ngày, bất chấp giờ ngủ trưa của thầy.

                      Thầy Sang nhiều lần nhắc ông chợt chạp phô “thông cảm, mà ông chệt trơ trơ cười hề hề cho qua chuyện. Con ông đã lớn, học trường Tàu ở Chợ Lớn, ông chệt chạp phô chỉ thông cảm với cảnh sát nhờ cậy.

                      Nhưng ông chệt cũng thông cảm” tuy bực mình vì tiếng đờn sáo vô nghĩa làm rộn tai khi ông đang nói thách từng đồng với khách hàng.

                      Lần thầy Sang thả hồn theo mây bay trên khung trời xanh bao la, “những chiều mái tóc buông lơi, những chiều đem áo ra phơi... “ thì bên kia ông chợt cộc lốc, “Sao trưa hổng phơi cho mau khô, chiều có nắng đâu mà phơi?”

                      Khi nghe thầy hát, “Kìa rừng chiều âm u rét mướt, chờ người về vui trong giá buốt... “, ông chệt quạt phành phạch vừa kéo cái áo thun lá góp ý, “Hát tầm bậy tầm bạ, trời nóng đổ mồ hôi mà rét mướt cái gì. “

                      Thầy lắc đầu, “Ba tàu”. Còn cái lão thợ rèn sau nhà càng tệ hại hơn. Từ sáng sớm, lão đã đốt một lò than, vùi những thanh nhíp xe nung cho đỏ.

                      Lão mặc độc chiếc quần xà lỏn đen củn cởn, cái áo thun pha màu khói đẩm mồ hôi, đầu quấn khăn rằn. Buổi trưa, lúc đuối sức, lão nhún khăn vào lu nước bên hè chùi mặt cho đở nóng và lau cáo ghét trên mình, đó là cách tắm gội của lão, đở tốn xà bông.

                      Mùa nắng, hơi nóng than trong lò hừng hực táp vô mặt vô người, lò than là Hỏa Diệm Sơn, lão tưởng mình là con thỏ đốt lò Bát quái cho Thái thượng lão quân luyện thuốc linh đơn.

                      Cây búa lão là cái chày ngọc đâm thuốc. Lúc ngồi chồm hổm mài dao giống “tráng sĩ mài gươm dưới nguyệt, “theo giọng cải lương nghe đài Ra đô cuối tuần.

                      Gặp tháng gió bấc mưa dầm, nước mưa từ mái lò rèn dột lỏm bỏm trên sàn nhà đất nện, lão ngồi co ro bên lò lữa ăn khoai nướng lửa lò, thưởng thức cái không khí ấm áp chung quanh, mùa mưa làm không thấy mệt.

                      Thế giới lão là đống nhíp xe, cây búa tạ, cây kềm lớn, hòn đe, hai cái ống bể và lu nước. Lâu lâu có người tới xin nước cho người bị chó điên cắn uống trừ nọc chó.

                      Từ ngữ lão dùng hàng ngày là những thứ kể trên, khách hàng lão dùng từ ngữ lão sử dụng để đối thoại với lão. Các bà nội trợ nghèo sống trong xóm nhà lá xa chợ là khách hàng thường trực của lão.

                      Dân chợ giàu, biết xài dao kéo mua ở Sài gòn, hiệu I nốc trắng, gọt xắt thịt cá rau cải không dính sét. Lão đập những thanh sắt nung đỏ trên đe đinh tai chát óc, chưa kể thứ âm thanh bất thường bịnh hoạn khi thằng nhỏ ngồi thụt phùm

                      phụp hai cái ống bể. Tệ hơn ông chệt chạp phô, lão thợ rèn làm việc ngày đêm bất kể, nhứt là khi ông mua được những cây nhíp xe bị mìn cong queo. Thầy Sang lúc đầu không tưởng tượng nổi nhờ đâu mà lão thợ còn sống. Lửa lò rèn và rượu

                      nung người đỏ gấc, lão uống rượu không trật ngày, âm thanh lò rèn không làm hàng xóm khó chịu, hình như họ điếc không nghe thấy, chỉ duy nhứt làm khổ thính giác nhạy bén âm nhạc của thầy.

                      Âm thanh đàn sáo của thầy Sang và tiếng búa đập chan chát trên đe hợp thành khúc đại hòa tấu chói tai. Thầy Sang là con chim hồng bay trên bầu trời xanh bao la, dân quận nầy là những con cá sống dưới bưng nước phèn. Thầy hăng hái tham

                      gia nâng cao dân trí, chia xẽ kiến thức với tầng lớp lớn tuổi xưa không có cơ hội đi học, những kiến thức thầy từng được may mắn học ở trường Trung học và Sư Phạm. Trong các buổi tiệc cưới hay cúng cơm, người có chút đỉnh trình độ tìm đủ cách

                      ngồi chung bàn với thầy Sang - để có dịp học hỏi thêm kiến thức mới. Thầy giảng thoáng qua “về phương trình bậc 2, ẩn số, tiếng Tây có giống đực giống cái, có số ít, số nhiều thêm chữ s, tiếng Việt không chia vẹc bờ như tiếng Tây nên tối

                      nghĩa, hôm qua là passé, hôm nay là présent, ngày mai là future. Còn cái người Ăng Lê nghe, buổi sáng tốt trời nó mới chào gut mó nìng, trời xấu thì nó không chào ...”

                      Người có trình độ mới hiểu thầy. Thầy than thi Trung học khó lắm, cả ngàn người mới có người đậu, rồi thi tuyển vô Sư Phạm càng khó hơn. Tội nghiệp các ông giáo lá già, hầu hết có trình độ Tiểu học, vài ông chỉ học hết Sơ học, lớp Nhì xưa, đứng một

                      chỗ không tiến bộ, nên nín khe ít dám đóng góp câu chuyện, trơ mắt ngớ ra nghe thầy nói về điện trở R bằng r1 cộng r2 vv.... Người như thầy mà ở bên ông chệt chạp phô và lão thợ rèn thật vô lý hết bực. Thầy Sang là nhà mô phạm, biết tự

                      chế, nhìn xa hiểu rộng, biết thông cảm, nhưng tiếng trả giá bên tiệm chạp phô của kẻ tham tiền và tiếng búa đập trên đe lò rèn như gáo nước bùn đen đổ vào giòng nước thanh khiết cùa âm thanh đờn sáo thầy.

                      Thầy đang tìm nhà dời đi nhưng vấn đề an ninh, thầy e ngại dời về xóm sân banh, nằm trên đường pháo kích. Thầy chờ cơ hội trực tiếp giảng cho hai ngưòi hàng xóm bất lịch sự nầy xin thông cảm là công tác giáo dục của thầy rất quan trọng, khuyên họ ngưng làm phiền thầy.

                      Cơ hội đến vào buổi xế trưa, khi thầy chuẩn bị mời được Thảo, cô chị đứa học trò, đến dượt vài bài hát cho buổi văn nghệ bãi trường. Thầy Sang quen cô Thảo mấy tháng nay. Buổi trưa, chở em đưa tận lớp, cô ngả nón mĩm cười e ấp cúi chào thầy.

                      Buổi chiều, cô đứng trước lớp chờ rước em, e lệ mĩm cười cám ơn thầy. Thầy có cho cô mượn vài quyển tiểu thuyết mua ở tỉnh. Thầy có tặng cô mấy câu thơ viết ngay trong trang sách.

                      Ngoài kia hoang nắng, nắng ban trưa Nắng hoang nắng dãi, nắng trường quê Nắng phai tà áo màu hoa dại Nắng nhạt hoang tàn héo tóc xưa. Ánh mắt và nét e lệ trên mẳt Thảo là món quà tinh thần an ủi nhà giáo, man man khó tả.

                      Thầy xao xuyến chờ đợi, vừa đặt dĩa hoa dại, hoa màu trắng trôi nhè nhẹ trong dĩa và một bình hoa trinh nữ mimosa tím như môi người con gái. Cô khách vừa ngồi, thầy thong thả dạo đàn cho không khí lắng xuống.

                      Ðúng vào lúc cô bắt giọng thì tiếng đập ben ben đinh tay trên lò rèn bắt đầu hòa tấu át mất tiếng đàn ngọt ngào và âm thanh sáo nhựa.

                      Thầy Sang nhớm người dậy, sửa lại cặp kiếng trắng cho ra vẽ Sư Phạm, gương mặt nghiêm lại, tỏ vẻ khó chịu. Thầy bước vào lò rèn, lần đầu tiên bước vào lò rèn ngổn ngang sắt thép vụn, giọng nhủn nhặn, nghiêm trọng, “ thưa bác, xin bác thông

                      cảm giữ chút yên lặng để tôi dưọt nhạc cho cô Thảo hát vào kỹ lễ phát phần thưởng cuối năm”. Thầy nhấn mạnh chữ “thông cảm”, giọng rất sư phạm, trầm tỉnh. Lão thợ rèn không biết chữ, ngày ngày làm bạn với cây búa, cái đe, lò lửa nóng và hai

                      cái ống bể. Món nào cũng ngoan ngoãn, tuân lời lão, dù là thứ nhíp xe cứng của chiếc xe GMC nhà binh, lão muốn nó thành dao yếm thì nó thành dao yếm, muốn thành dao dâu thì thành dao dâu. Tai lão đã quen âm thanh đe búa, ống bể mấy chục

                      năm nay mà chưa bị tổn thương thính giác. Nghe thầy Sang “xin thông cảm”, chữ “thông cảm” làm lão bị nội thương hơn nghe tiếng chửi thường nhựt của mụ vợ. Cái tự ti mặc cảm thiếu học, an phận dốt nát, suốt đời chưa được ngồi chung bàn

                      hay tiếp chuyện với dân thầy chú, lão biết thân lắm. Lòng tự ti làm lão nghẹn lời, không đủ tự tin và ngôn ngữ phát biểu - dù là câu trả lời có mạch lạc, trước cái uy của thầy giáo Sư Phạm.

                      Miệng lão suốt đời chỉ la hét, chửi mắng vợ con, uống rượu. Cái nghề thợ rèn, không đập thì lấy gì sống. Lão nhúng vội thanh thép đập dở vào lu nước, buông búa bước ra, ngơ ngáo chào thầy Sang, vừa nhăn nhó cười gượng, hàm chứa sự xin lỗi.

                      Thầy Sang rất biết điều, giọng nghiêm trang, “Xin bác thông cảm”, rồi trở vào nhà. Lại thông cảm, tiếng thông cảm nặng hơn những tiếng đe búa. Lão lịch kịch bước vào lò rèn, vùi cây dao yếm vào lò lửa nóng cho dao đỏ hồng, lão tiếp tục đập, âm

                      thanh có vẻ bớt chát chúa hơn. Lão không tìm ra cách giải quyết ổn thỏa, chiều nay lão đã hứa giao cây dao yếm cho chủ lò heo. Lão kiếm ăn từng ngày, lấy công làm lời, tay làm hàm nhai. Tay cầm thanh thép, tay cầm búa đập ben ben, và mài

                      kèn kẹt, chỉ có mấy động tác đơn giản không thay đổi từ lúc học nghề rèn. Cây búa nặng chịch, miếng thép khó kềm hơn, tiếng động rời rạc, mệt mỏi. Quanh năm đập rồi mài thép thành dao kéo chưa biết mệt. Lần nầy tiếng “thông cảm” mắc

                      mỏ của thầy giáo Sư Phạm, có học, tuổi đáng con cháu mình làm lão xụi lơ. Chữ nghiã nặng hơn búa lò rèn, bao nhiêu sinh lực tiêu tan hết, lớn tuổi mà để cho con nít nói nặng, tủi nhục quá! Cách bên kia nhà một căn, bà hai chè đậu, vợ ông Biện

                      Sữu nãy giờ theo dõi câu chuyện từ đầu, bà biết thì cả xóm này biết, cả quận cũng biết. Bà hai chè đậu, một thời theo gánh hát bội, từng đóng vai Phàn Lê Huê, Tô Ðắc Kỹ mỗi lần xây chầu hát đình, cũng bỏm bẻm chút ít chữ nghĩa. Lúc trước

                      có qua lại nhà bà, thầy khen đứa cháu gái bà “sáng dạ”, có “hoa tay”. Bà thầm ước ao đưọc làm dì vợ thầy giáo Sư Phạm, như nàng Cám lấy Hoàng Tử. Bây giờ thầy nuông chiều galant cô Thảo thấy phát ghét, bà không nhịn được, tức tốc vạch

                      hàng rào sau hè bước qua sân nhà thầy, lúng túng đạp nhằm cụm hoa tim tím. Thầy Sang buông đờn, sửa kiếng bước ra, nghiêm nét mặt, “Thưa dì hai, xin dì hai thông cảm, dì đạp hư khóm hoa trinh nữ Mimosa”.
                      Bà hai luống cuống vướng ống

                      quần trong đám gai bông giấy vừa hít hà gỡ gai dưới bàn chân, quay lại oang oang cho cả xóm nghe, “Bông mắc cỡ gai đâm nhức thấy bà nội mà thầy nói hoa trinh nữ misa, bông móng bò thì thầy dạy học trò là hoa hoàng hậu, thầy có học, thầy Sư

                      Phạm, tụi tui dốt đặc, thầy ăn nói theo văn chương tao đàn, cải lương đại nhạc hội, nghe nó mệt quá. Hể mở miệng là thầy nói thông cảm. Người ta ăn muối nhiều hơn thầy ăn cơm mà! Anh chín lò rèn nghe lời thầy thông cảm thì lấy gì ăn, ôi, thầy để

                      cho người ta mần ăn chớ. Người ta đập ra bạc ra tiền, ra cơm ra gạo, ai mà rảnh rang đờn địch như thầy?”

                      Bà chống nạnh hất hàm, nhướng nhướng đôi mày như mụ Phàn Lê Huê ve vãn chàng Tiết Ðinh San, “Thầy thông cảm nghe, thầy giáo Sư Phạm.”



                      Lưu Nhơn Nghĩa
                      thatsonchaudoc
                      sigpic

                      Comment


                      • #26
                        Như Cánh Chuồn Chuồn

                        VAY TRẢ
                        __________________________________________________ _____



                        Tôi ngồi khá lâu suy nghĩ cách bắt đầu câu chuyện cho mạch lạc, có đầu có đuôi, câu chuyện về vay trả, trả vay. Tôi không muốn nhắc các từ ngữ nghiệp báo, nhân quả trong kinh sách nhà Phật.

                        Ðây là kinh nghiệm cá nhân trong đó có sự trùng hợp lạ lùng.

                        Câu chuyện sắp kể lủng củng và dài dòng. Ðại khái, năm 1952 tôi ra tỉnh Châu Ðốc học, trọ học ở nhà cô Ba Tên và bác Hai Khá. Cô Ba Tên gốc Tàu lai Miên, cùng quê.

                        Bác hai Khá có thời dạy học ở Tri Tôn, năm 1945 chạy nạn Việt Minh ra Châu Ðốc làm việc ở sở Giáo huấn, sau nầy đổi thành ty Tiểu học.

                        Vì quen biết ở xứ sở, ông già tôi xách gà ra xin cho tôi ăn cơm tháng đi học. Ðáng lẽ ông gởi tôi ở nhà các tiệm buôn gốc Hoa, nhưng có ý muốn nhờ vả bác hai Khá gởi gấm chuyển trường vào lớp nhì (những đứa bạn học cùng quê khi ra tỉnh đều phải học lại lớp ba).

                        Ông già tôi than, xách gà ra mấy lần mà họ không mở miệng.

                        Ông gốc buôn bán nên tính rất kỹ, bác hai Khá nhờ làm ở sở Giáo huấn có đặc ân đưa con cháu mình học với các giáo viên giỏi trong tỉnh, không cần qua hệ thống sắp lớp thông thường.

                        Tôi ở nhà bác hai Khá tròn 6 năm học, từ năm 1952 đến năm 1958. Ngày ăn cơm hai buổi, tối ngủ ghế bố. Bác có người con tên Pierre (thời đó nhiều công chức ảnh hưởng văn hóa Pháp, đặt tên con như Pierre, Gille, Thomas, Marie v.v...) tuy khai sinh vẫn giữ tên Việt.

                        Từ năm 1952 đến năm 1956 tiền cơm mỗi tháng 200 đồng, sau năm 1956 mỗi tháng là 400 đồng. Ông già tôi vui lòng trả vì vật giá lên chút đỉnh.

                        Ông già tôi rất biết điều, đúng mỗi tuần thứ năm, ông ra Châu Ðốc mua hàng luôn tiện xách con gà ra biếu. Mùa mãng cầu, mùa xoài, mùa Trung thu, Tết, mùa nào thức ấy.

                        Ở chung không tránh khỏi va chạm lặt vặt. Bác Hai Khá rất ít nói, ít giao thiệp ai, chỉ có cô Ba Tên la rầy chút ít. Pierre và tôi có hai nếp sống riêng biệt, nó chăm chỉ, học rất giỏi, tôi chỉ ham chơi.

                        Chuyện 6 năm ăn cơm tháng coi như sòng phẳng tài chánh, không ai nợ ai, có qua có lại đã toại lòng nhau. Cô Ba Tên khen tôi hiền lành khi tôi rời Châu Ðốc . Câu chyện vay trả bắt đầu do tôi.

                        Mỗi tháng ông già gởi 200 đồng đóng tiền cơm, ông đóng đủ muời hai tháng, dù nghỉ hè hay Tết. Có lần đầu tháng, lại vào cuối tuần, cô Ba Tên đi đánh tứ sắc (hai ông bà mê tứ sắc tới nghèo), tôi giữ tiền cơm dây dưa rồi quên (quên khôn), tôi nhịn không được, xài khẽ dần dần hết hai trăm đồng tiền cơm, định vài tháng sau về quê mót trả.

                        Tháng sau, cô Ba Tên không nhớ, tôi quỷ quái nín luôn. Ăn quen, lâu lâu tôi lại giở mửng cũ, tất cả là ba tháng, 600 trăm đồng, cô Ba Tên mải mê ông tướng xanh tướng đỏ, quên luôn.

                        Tháng 8 năm 1956, Pierre và tôi sắp đi dự Trại hè học sinh toàn quốc ở Vũng Tàu, (tôi nhớ rõ tháng tám vì còn giữ mấy tấm ảnh chụp ở trại hè).

                        Lúc hai đứa soạn quần áo thì cô ba Tên vừa đi đánh tứ sắc về, nét mặt cô bình thản sau khi ăn bài, khi cô mở tiền ra đếm thì bác hai Khá nói < Cho thằng Nghĩa một trăm đi >, cô ba Tên đếm tiền xong, lấy 200 đồng tự nhiên đưa cho tôi.

                        Tôi cầm tiền không ngượng ngùng dù không có ý xin xỏ. Câu chuyện đến đây đã hết phần đầu.

                        Lên Saigon gặp lại Pierre, nó hơn hẳn ngạch trật tôi, đậu Thủ khoa Nông lâm súc, được giữ lại làm Phụ khảo Ðại học, sau đó đi du học ở Thái Lan lấy Tiến sĩ Súc khoa về Việt Nam tiếp tục dạy Ðại học.

                        Hai đứa bặt tin nhau từ 30 tháng 4.1975. Tôi cố gắng tìm địa chỉ nó mà vô vọng. Bà già tôi về Việt Nam tìm cô ba Tên mà không gặp, vì hai bà đều bị cataract, mờ mắt không thấy đường.

                        Câu chuyện 3 tháng tiền cơm 600 đồng tiền Việt Nam và 200 đồng ơn nghĩa của cô ba Tên cho lẩn trốn trong ký ức tôi vì kỷ niệm đó không đẹp bằng những kỷ niệm tình cảm lãng mạn.

                        Mãi đến tháng tư năm 2000, tôi lần mò mất cả buổi trưa nắng ở Sài gòn tìm gặp được Pierre trong căn nhà chật hẹp dưới cầu chữ Y. Pierre gầy gò, hai tay chống trên đùi, thất chí, bịnh mất ngủ hành hạ không đi làm được.

                        Gia đình ba cha con sống nhờ đứa con gái út đi làm, vợ nó bỏ đi mất tích từ lâu. Pierre than thở sự bất hạnh của đời nó. Nó không nghĩ là có ngày gặp lại tôi, cứ ngồi thở dài.

                        Ba điều bốn chuyện xong, chia tay. Tôi tặng Pierre 100 dollars Úc làm quà, nó ngần ngại nhận tiền. Sau đó mấy tháng, tôi nhận được thư cám ơn, nhờ 100 dollars đi bác sĩ đã hết bịnh mất ngủ.

                        Nó cầu cứu nhờ tôi gởi thêm 700 dollars mua xe cho con nó đi làm xa, lời văn khẩn thiết vừa đòi hỏi <phải gởi trước cuối tháng 7>. Tôi cảm thấy đó là thư đòi nợ hơn là xin giúp đỡ.

                        Sao lại cần đúng 700 dollars mà không hơn không kém ? Ngẫm nghĩ mới nhớ đến 3 tháng tiền cơm chưa trả và 200 đồng cô ba Tên cho ngày xưa, tổng cộng là 800 đồng Việt Nam thời năm 1953 - 1956, lúc đó tô hủ tiếu chừng khoảng 5 đồng, tương đương 160 tô hủ tiếu, hoặc 133 tô ở Úc bây giờ với 800 dollars.

                        Thời đó chiếc xe đạp 570 đồng, cái đồng hồ Wyler 800 đồng, lương người lính Khinh quân 750 đồng. Tôi gởi ngay cho Pierre theo lời nó, trước sau tổng cộng là 800 dollars Úc, vay bao nhiêu trả bấy nhiêu, chưa tính tiền lời hơn 40 năm.

                        Bước ra khỏi ngân hàng thấy nhẹ người, trút bỏ gánh nặng tinh thần. Trong lòng sướng thỏa là đã trả xong món nợ vay ngày xưa, vì nếu không quyết tìm gặp Pierre, tôi sẽ hoàn món nợ nầy cho ai ?

                        Cô ba Tên và bác hai Khá đã mất. Xin hương hồn cô ba và bác hai chứng giám, con xin lỗi đã xài hết 3 tháng tiền cơm mà cô ba không nhớ và thêm 200 đồng tiền ơn nghĩa.

                        Con đã gởi cho Pierre. Con còn mang ơn bác hai đã ghi danh cho con học với thầy Dương văn Mậu lớp Nhì B và thầy Châu văn Tính lớp Nhứt E, trường Nam Tiểu học Châu Ðốc, hai thầy dạy hay nổi tiếng trong tỉnh, nhờ vậy con được dạy dỗ có nề nếp căn bản.

                        Bác hai cũng gởi gắm cho con đậu hai kỳ thi Tiểu học và Ðệ thất, lần bác hai rầy con < thằng quỷ hôm qua trốn học nghe, chết tổ mầy à>. Nhờ vậy con không dám trốn học nữa.

                        Ơn nghĩa đó con nguyền ghi nhớ và sẽ trả cho Pierre khi nó cần, bác hai và cô ba đã qua đời, nợ nầy con biết trả cho ai.

                        Ở vào tuổi tri thiên mạng, tôi nguyền tìm đủ cơ hội đền ơn trả nghĩa, thề không lấy oán báo oán, điều nầy tương đối dễ, còn lấy ơn trả oán, thành thật nói, tôi chưa đủ khả năng, mà cũng may, trong đời, chưa thấy ai gây oán đến độ phải báo thù.


                        Lưu Nhơn Nghĩa
                        thatsonchaudoc
                        sigpic

                        Comment


                        • #27
                          Như Cánh Chuồn Chuồn

                          CON GÀ MÁI DẦU
                          __________________________________________________ ______



                          Lời Ban biên tập: Tác giả viết văn nói theo giọng miền Nam, chúng tôi để nguyên dấu như tiếng phát âm để đọc như lời kể chuyện.

                          Các dấu (*) cho biết cần phải đổi ngược dấu được in để phù hợp với chính tả, ví dụ nếu chữ có dấu hỏi thì đổi là dấu ngã và ngược lại .

                          Từ lúc mới sinh, tôi đã mang cái gene thích ăn thịt gà dù xứ tôi là xứ nhiều bò, bò mập đến đổi (*) đổ nước lên lưng bò, nước không chảy xuống được.

                          Tôi hơi ngại thấy nhiều người ăn nhằm bò hóng bị nổi đơn khắp mình mẩy như ghẻ ngứa. Thịt heo thì hơi nhảo (*).

                          Nếu được lựa chọn, tôi chọn thịt gà, nếu được lựa chọn thêm, tôi chọn mề gà và lòng gà. Nhớ đâu chừng ba tuổi, mỗi lần cúng cơm, con gà luộc được đặt trước các món khác trên bàn.

                          Con gà luộc há miệng toang hoát (c) với đầy đủ đầu cánh, có khi gà lút (c) lắt (c) muốn nhảy ra khỏi dỉa (*) khi các món ăn khác được dời chổ (*) hay dọn thêm.

                          Trên lưng gà là miếng huyết luộc trộn với nếp, cùng với lòng gà. Ðược mẹ dúi cho cái mề gà ăn trước khi cúng, tôi ăn tự nhiên vì chưa đủ trí khôn tìm hỏi hay phản đối.

                          Lúc ra tỉnh học khoảng 11 tuổi, tôi ưa ăn cháo gà gần bến xe, vừa kêu thêm nguyên cái mề gà ăn cho sướng. Mụ bán cháo gả già chuyện rêu rao, ‘Con ông chệt ở Xà Tón ăn cháo gà còn thêm cái mề.’ Chuyện tới tai ông già, tôi tức điên lên, qua gánh cháo khác ăn.

                          Người lớn lúc đầu bất bình, thời đó trẻ con bị coi như cỏ rác, trừng mắt, ‘Ăn mề mà không để cúng rồi ăn, đồ con mất dạy.’

                          Sau đó không thấy ai trách. Nghe kể lại, khi lên ba, côn nội tôi ở xa tới thăm, vì là cháu tùa xun đích tôn, ông bồng tôi suốt ngày không dám cho chân tôi đụng đất.

                          Dịp cúng cơm bà nội, tôi đòi ăn mề gà trước khi cúng, ông lấy mề đút cho tôi ăn và dặn sau nầy, tôi được quyền ăn mề trước khi cúng. Ông già tôi theo di ngôn để vừa lòng côn nội tôi, cô bác cũng đồng ý nên sau đó không ai mắng tôi. Mấy đứa em tôi không được hưỡng (*) lộc đó.

                          Dĩ nhiên khi lớn lên, biết điều, khi cúng cơm tôi luôn luôn nhường cho côn nội tôi hưởng trước. Sau khi cúng cơm, gà được xé phai trộn bắp chuối hột và rau răm.

                          Xứ tôi có loại chuối hột lớn bắp, dòn, chát rất ngon chớ không chát ngầm và đắng như bắp chuối già hương già lùn. Ra tỉnh học, ăn cơm tháng.

                          Buổi cơm cũng có ba món, tô cá kho vụn, diả (*) dưa leo già nhiều hột, tô canh tép hay xương lỏng (*) bỏng (*). Hôm nào vui, mỗi đứa húp một muổng (*), buồn nhau, mỗi đứa chan canh vô chén mình, sau đó mạnh ai nấy ăn cơm không.

                          Hản (*) hửu (*) lắm, cả năm, chưa chắc được diả (*) gà xào mặn và canh xương gà. Cái gene ưa ăn thịt gà theo tôi tới giờ. Gà xứ nầy nuôi thúc trong chuồng, thịt nhảo (*) và lạt.

                          Sau nhà tôi có trồng buội chuối lá xiêm, lâu lâu chuối ra buồng, chờ cuối tuần thanh thản bẻ bắp chuối trộn gà ăn đở (*) ghiền, tuy ăn không lấy gì làm ngon.

                          Ở thế giới thực phẩm thặng dư, dinh dưỡng bảo (*) hòa, tôi mất cái thú thưởng thức buổi cơm ngon với gà trộn bắp chuối.

                          Gắp miếng gà có xương non với bắp chuối vừa dai vừa dòn trộn với rau răm vị hăng hăng cay, chấm nước mắm sống dầm ớt, cắn thêm khúc ớt sừng trâu nếu thấy chưa đủ cay, nhai ngồm ngoàm, dà (và) thêm miếng cơm gạo xo ùm pên, cái ngon phối hợp của cái vị chát, chua, mặn, cay, đơn sơ mộc mạc, ngon hơn cơm Tàu cơm Tây kiểu cách dầu mở (*).

                          Cả năm nay, sợ áp huyết lên, sợ cholesterol cao, tôi đã bỏ cà phê thuốc lá, bắt đầu ăn rau đậu, mong sống lâu để về hưu còn đủ sức khỏe ngao du sơn thủy. Cái gene ham ăn nằm ngủ trong tàng thức, ngủ chứ chưa mất.

                          Tháng 3 Thanh Minh về quê cúng mả. Thân nhân họ hàng vây quanh nhứt nhựt tiểu yếu, tam nhựt đại yếu, lẩu lươn, lẩu tôm cua, lẩu trâu. Nước trong lẩu đục đục, màu bún tẩy hóa chất trắng xác, diả (*) thịt bầy nhầy, rau cải luộm thuộm. Người ngồi quanh bàn ăn tranh nhau cười nói.

                          Buổi ăn trưa chưa dứt đã nghĩ tới buổi ăn chiều, ‘muốn ăn gì, nói, ở nước ngoài không có món nầy đâu’ (‘Dịch kiều’ về nước chết đói thèm ăn đủ thứ).

                          Không khí bửa (*) ăn nóng, ồn ào, ngột ngạt, tôi đổ quạu nói lẩy (*) với người anh họ xăng xái, ‘Mầy kiếm cho tao con gà mái dầu và bắp chuối hột, gà mái dầu là loại gà vừa lớn, sắp đẻ trứng lứa đầu, mình và lông rít rít như dầu, chân đen, nhớ chừa cho tao cái mề, miếng huyết, lòng gà và chùm trứng non.

                          Nhớ kiếm lít rượu nếp than nguyên chất.’ Bực bội thì nói vậy, lúc đó đã gần 2 giờ trưa, chợ búa đã dọn về hết, có ai mua bán đâu mà kiếm gà với bắp chuối.

                          Ðầu óc tôi đang nôn nóng muốn chạy vô sóc Ô thôm rình quay film các nàng Chăng cà mum vận chăn xà rông tắm nước giếng Nòl Tô, luôn tiện ghé tham gia đám múa Lâm thol chùa Préa Theat vào dịp Chô snăm mây.

                          Nhớ mấy cánh tay trần và bàn tay dịu dàng uốn lượn theo tiếng nhạc ngũ âm, ai mà nhịn được. Lúc về lại nhà, trời đã tối hẳn, tôi ngạc nhiên thấy người anh họ ngồi chờ tôi ăn gà mái dầu trộn bắp chuối.

                          Mâm cơm có diả (*) mề gà, lòng gà và chùm trứng non dành cho ‘dịch kiều.’ Tôi mệt mỏi nhưng khó từ chối. Mề gà dòn dòn kẹp với lọn bắp chuối hột, chùm trứng non nhỏ bùi bùi, miếng huyết gà trộn nếp xốp xộp.

                          Ăn hết ngon vì răng giả, đành nhâm nhi ly rượu nếp than vị ngọt tới mềm môi say khướt lúc nào không hay.

                          Trên đường về nhà ngủ, đầu óc xây xẩm, tôi ói thốc hết thịt gà và rượu vào bụi me nước bên đường. Sáng dậy đi uống cà phê, người anh họ tôi khoe công kể lể đủ chuyện đầu đuôi gốc ngọn, công cán nhiều lắm:

                          Sau khi cả buổi trưa lo cân cá hầm bán cho bạn hàng, hắn lục lọi khắp xóm tìm mua được con gà mái dầu, tới vườn chuối tìm cho được bắp chuối hột và tới lò chia lít rượu nếp than nguyên chất.

                          Hắn tìm được con gà mái dầu của người làm ruộng nhà bên bờ kinh Tám Ngàn. Ðứa con người làm ruộng giành con gà đó từ lúc nhỏ, nó său sóc gà như em ruột, lót ổ cho gà đẻ, bắt nhái và mót lúa nuôi gà, hy vọng gà lớn sẽ bán trứng và gây đàn gà mới bán mua áo quần.

                          Gà vừa lớn nhảy ổ, anh họ tôi đi lùng ngang nghe tiếng cục tác, ghé vào trả giá mua cho được con gà. Người làm ruộng nghèo mừng bán được giá cao. Ngay chiều đó, con gà mái dầu bị cắt tiết làm thịt đải (*) tôi.

                          Cùng thời gian đó, thằng bé đi mót lúa về thấy mất gà, khóc sướt mướt cả đêm. Nó khổ sở vì hình ảnh con gà mẹ dẩn (*) gà con túc túc kiếm ăn trên sân tương lai sẽ không thực hiện được.

                          Cái nghiệp tham ăn thịt gà đang ngủ yên, chờ dịp hiện ra theo câu nói ngông vô ý thức, nhà Phật có từ ngữ ‘thất niệm’, ‘vọng ngữ’, làm con gà mái dầu chết oan đau đớn, phá tan ước mơ mua áo mới của thằng bé.

                          Câu nói vô ý thức phát ra từ miệng người thân nhân nghèo khác chắc sẽ không gây chuổi (*) hậu qủa tai hại như vậy. Tôi phạm một lần ba giới cấm, giới nói dối vô lối, không muốn ăn mà đòi ăn gà, giới sát sanh xúi người khác giết cho mình ăn, giới uống rượu.

                          Cũng may trong túi còn tiền, chưa cần đến giới trộm cắp, xứ tôi không có chổ (*) ăn chơi trác táng gần đó. Nếu gặp cơ hội và nổi máu lính như ngày xưa, chắc chắn tôi phạm luôn trọn năm giới cấm, nhắc lại và suy gẩm (*) thấy rùng mình.

                          Mấy tháng qua, mề gà, lòng gà và chùm trứng non đã tiêu thành máu nuôi tôi. Câu chuyện chưa hết. Mấy ngàn cái mề gà và cái mề gà cuối cùng hợp nhau lại tác hại bộ máy tiêu hóa tôi.

                          Cứ mỗi đêm cần giấc ngủ ngon để hôm sau dậy sớm đi làm, cái mề gà quậy cho tôi sôi ruột mất ngủ, mề gà nhứt định không chịu tiêu. Khó chịu quá phải đi bác sĩ, bị khám đau điếng mà không dám than, sợ ông ta đưa vào bịnh viện giải phẩu (*) thì khó sống.

                          Cứ tưởng tượng nằm trên giường nhà thương công cộng chung với người lạ, mặc áo trắng lỏng (*) thỏng (*) hở hang, đeo những mủi (*) kim bén nhọn tiếp máu, tiếp nước biển mà rụng rời.

                          Ðó là chưa kể phải vạch áo trơ thân ra trước mặt các cô y tá trắng trẻ đẹp, thà chết sướng hơn chịu đựng cái đau đớn và mắc cở (*).

                          Lúc bác sĩ khám xong, mặt ông ta không có vẻ nghiêm trọng, thoát nạn nhẹ nhỏm (*), tôi bỗng thót ruột nghe ông nói, ‘Ông bị haemorrhoid, khi cần tôi sẽ giới thiệu vô bịnh viện mổ khi nặng.’

                          Ôi những cái mề gà, chùm trứng non, lòng gà, gỏi gà, cháo gà đang hoành hành phá vở (*) các mạch máu trong ruột tôi, muốn nhả ra cho hết mà nhả có được đâu, còn đau khổ dài dài, bịnh tòng khẩu nhập !



                          Lưu Nhơn Nghĩa
                          thatsonchaudoc
                          sigpic

                          Comment


                          • #28
                            Như Cánh Chuồn Chuồn

                            ÐỌC PHONG HƯNG LƯU NHƠN NGHĨA
                            __________________________________________________ ______



                            Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa là một tác giả quen thuộc của tập san Viên Giác, Tây Ðức.

                            Trong suốt thời gian 8 năm sống ở đó ông đã sáng tác khoảng 15 truyện ngắn đăng nhiều kỳ và rất được độc giả hâm mộ, nhất là loạt truyện viết về vùng Thất Sơn, nơi sinh trưởng của ông.

                            Một số bài viết khác được chọn trong tập sách này là những sáng tác về sau ở Úc.

                            Chịu ảnh hưởng của ba nền văn hóa Việt-Miên-Hoa, sinh viên Phật tử, rồi làm thầy, làm lính, làm du học sinh, làm thợ ... tác giả đi nhiều, sống nhiều, lại chung đụng thêm nhiều nền văn

                            hóa thế giới, ông - sau cùng - dừng chân ở Úc, xứ sở đa văn hóa, và trở về với nghề Ộhương sưỢ như nơi cố quận.

                            Thế giới mà ông vẫn thường hay nhắc dến không phải là Tân Tây Lan hay Âu Châu, những nơi ông đã ngự cư khá lâu, cũng không phải là thế giới văn chương Anh ngữ, nghề của ông, mà

                            là cái thế giới nhỏ xíu xiu, một vùng quận lỵ phải tốn nhiều công sức mới tìm thấy trên bản đồ nơi biên giới Việt - Miên . . . và không gian đó được ghi dấu từ những thập niên 40,50, . . .

                            Thế chiến thứ hai bùng nổ, phát-xít Nhật đến rồi đi, thực dân Pháp trở lại , toàn quốc kháng chiến, Genève 20 - 7 - 1954 , đất nước chia đôi. Việt Nam Cộng Hòa, chiến tranh Quốc Cộng.

                            Hình như phải lâu lắm những chấn động dồn dập của các làn sóng lịch sử ấy mới truyền đến xã Xà Tón và khi tới đó thì âm hưởng của nó cũng tan dần, còn lại như những vòng gợn sóng

                            lăn tăn của con cá đớp nước dưới ven hồ, những buổI trưa đắm mình dưới kinh Tri tôn, bóng mát cây Nam Vồ, vị ngọt đường thốt nốt thần tiên.

                            Cái thế giới đó, như Saroyan ở Mỹ thương nhớ quê hương ở vùng biên giới Nga, như Chagall ở Pháp và thế giớI người Do Thái nơi quê cũ của ông . .

                            Ðọc Phong Hưng ta thấy nỗi hoài cảm đó, con người đâu cũng là nhà nhưng quê hương thì chỉ có một: đó là tuổi thơ đánh mất.


                            Áo Lục (1998)


                            Lưu Nhơn Nghĩa
                            thatsonchaudoc
                            sigpic

                            Comment


                            • #29
                              Như Cánh Chuồn Chuồn

                              Gặp lại Phong Hưng trong những bài viết cũ
                              __________________________________________



                              Cách đây khá lâu, khi nhận được bản thảo tập truyện viết về vùng Bảy Núi của Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa, tôi đã dành nhiều thì giờ để đọc từ đầu đến cuối, không lưu ý đến tựa đề của từng mẫu chuyện.

                              Tuy nhiên, dù với những danh xưng nào trong các câu chuyện, tôi cũng hình dung ra được những mảnh đời quá khứ của anh và nối kết lại thành một mẫu người lang bạt phong trần.

                              Tôi không ngạc nhiên khi anh chọn tựa đề "Như Cánh Chuồn Chuồn"- khi vui thì đậu, khi buồn lại bay.

                              Chúng tôi mến nhau qua duyên văn nghệ và gặp nhau dưới cùng một mái chùa Viên Giác, Đức Quốc, đâu cũng từ năm 1984, trong buổi họp mặt lần đầu tiên của Ban Biên Tập báo Viên Giác.

                              Hồi đó những buổi họp thường được tổ chức sau Tết Nguyên Đán, nhưng thời tiết Âu Châu lại còn ở trong mùa đông.

                              B ba Phong Hưng, Vũ Ngọc Long và tôi, sau buổi họp, co ro chun dưới bệ thờ để tâm sự và ngủ ở đó cho ấm bởi còn là chùa thuê thì làm gì có phòng ốc dành riêng cho khách thập phương...

                              Hẳn không phải chúng tôi vì cùng cảnh ng của những người trung niên ly xứ, phải vứt bỏ hết bằng cấp để làm những nghề nghiệp bất xứng trên xứ người mà tỏ lòng lân mẫn.

                              Vũ Ngọc Long tốt nghiệp Đại Học Vạn Hạnh, ngành Báo Chí, phóng viên báo Sóng Thần của Chu Tử tại Việt Nam. Qua đây anh làm việc trong mt hãng dệt, chuyên "xe chỉ luồn kim"!

                              Cảm thân phận xót xa của mình, của lớp người tỵ nạn nên anh đã viết tập truyện "Nỗi Buồn Viễn Xứ Ai Buồn Hơn Ai?"...

                              Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa du học, tốt nghiệp Victoria University of Wellington và Wellington Teachers’ College là giáo sư tại Neu Seeland.

                              Anh lập gia đình và qua định cư tại Đức, làm việc trong mt hảng cưa, chuyên "mang vác và sắp xếp gỗ xẻ"! Mạt cưa, bụi bẩn, tiếng máy ồn ào, mồ hôi của những giờ làm việc bán sức lao đng đã là những thao thức đớn đau mỗi khi anh trở về nhà

                              trầm ngâm uống một lon bia, hay ôm gối dằn vặt xót xa khi anh chợt thức trong những giấc ngủ không yên. Những cái nhìn nghi ngờ miệt thị trong các hàng quán siêu thị, sự phân biệt

                              màu da trong một vài quán rượu hộp đêm, hẳn đã cho anh những gợi ý để viết lại những mẫu chuyện liên quan đến đời mình...

                              Nỗi quặn thắt chua cay đó tôi đã trải qua khi tôi phải giấu diếm gốc gác mình xuất thân từ Đại Học để nhận làm công việc của mt người thợ.

                              Ban đầu tôi đã tự an ủi là mình đã tìm được vùng trời tự do, tìm được việc làm để lo tương lai cho con cái. Nhưng đó cũng chỉ là lý do để tự đè nén sự tủi hổ của mình khi phải chung đụng làm việc với thành phần lao công.

                              Là mt Phật Tử, nhưng tôi vẫn còn mang nặng cái tâm phân biệt, nên tôi lại tiếp tục tự trấn an và đè nén những tủi thẹn của mình, tuy thế tôi vẫn không thể tự dối lòng và giấu kín được nỗi bất an của chính mình!

                              Cho đến một ngày tôi tự hỏi, tại sao mình lại tự dằn vặt tâm thức, hành hạ bản thân, trong khi những người đồng nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan hay cả mt số người Đức ít học lại tìm thấy niềm vui hạnh phúc vào cuối ngày hay cuối tuần?

                              Tại sao mình lại không tìm được nguồn an lạc như những người này? Tại sao mình lại tự làm khổ mình? Bỗng nhiên tôi "ng" được chân lý! Tôi trao đổi kinh nghiệm này với các bạn.

                              Từ đó Vũ Ngọc Long hăng say trong loạt bài Tham Luận Chính Trị để sau đó ấn hành tác phẩm "Tìm Nèo Đường Về".

                              Phong Hưng lại mang túi hành trang bụi đời làm những chuyến đi hoang.

                              Trước khi lên các quốc gia Bắc Âu để viết loạt bài Mật Ơi về hạnh phúc của những đôi vợ chồng già tại Tân Tây Lan, anh đã ghé lại Hamburg và đọc tặng tôi câu thơ cổ "Thiên thượng phù vân như bạch y" đúng như bút hiệu Phù Vân của tôi.

                              Trong vài ngày nghỉ lại, anh kể cho tôi nghe những mẫu chuyện quá khứ về vùng Bảy Núi. Cái bút hiệu của anh cũng xuất phát từ tên cửa tiệm tạp hóa Phong Hưng của thân phụ anh.

                              Tôi mường tượng đến những tiệm chạp phô, những tấm bảng chữ Tàu, những cậu con trai bất đắc dĩ phải ngồi trông chừng cửa tiệm cho cha mẹ, như trường hợp của Phong Hưng, ở một

                              số tỉnh lỵ mà tôi đã có dịp đi qua trong quá khứ, không phải vì tôi có dòng máu lãng tử chảy trong huyết quản, mà lắm lúc cũng vì công vụ phải thi hành.

                              Ở miền Nam, tôi cũng đã từng li vào trong những rừng Đước, rừng Tràm cùng làm việc với công nhân.

                              Nhờ sống chung với giới thợ thuyền nửa tỉnh nửa quê, nên tôi đã chứng kiến những cuc tình dở dang khi người con trai bỏ quê lên tỉnh để mong tìm kiếm công danh.

                              Tôi cũng đã nghe mt vài câu chuyện của người thôn nữ bỏ nhà ra đi theo kép cải lương dù biết rằng tuồng đời cũng tạm bợ như tuồng hát, nhưng nàng lại chỉ mong cầu thoát ly được vùng nước mặn đồng chua...

                              Phải chăng đó là những ý tình mà Phong Hưng đã ghi lại của thời quá khứ- không của riêng anh mà rất chung, rất gần gủi với người đọc.

                              Theo những thôi thúc của dòng máu lãng du, những cuốn hút của dấu chân lang bạt trên xứ người, tôi lại làm những cuc lữ hành để lảng quên những thiệt thòi mất mát của cuc đổi đời.

                              Tôi đến Pforzheim, nơi Phong Hưng cư ngụ, lại được nghe anh tâm tình đến đ nuối tiếc những hình ảnh chẳng bao giờ quên của Vùng Thất Sơn- nơi chôn nhau cắt rốn của anh.

                              Tôi là dân miền Trung, nhưng mức đ tiếc nuối của anh đã làm sống lại trong tôi hình ảnh của miền lục tỉnh.

                              Có khác nhau chăng giữa Phong Hưng và tôi là hình ảnh miền Nam được ghi lại bằng mốc thời gian, của anh từ năm 1952 và của tôi từ năm 1961.

                              Tôi đã theo ghe thương hồ trên kinh Vĩnh Tế về Châu Đốc, cận kề với ranh giới Miên, nên tôi vẫn thấy nơm nớp lo sợ về những vụ cáp duồng.

                              Tuy thế, khi ngang qua những sóc Miên, thấy nếp sống dân chúng hiền hòa, lòng mình yên ổn trở lại và cảm thấy ăn năn vì đã nghĩ đến những điều đc ác của người Miên.

                              Theo thời gian, theo nhu cầu công tác, tôi lại có dịp đến các tỉnh lỵ xa xôi của miền Nam. Dọc theo các liên tỉnh l, những cây thốt nốt chơ vơ vươn cao bên hai vệ đường.

                              Con đường từ Tri Tôn ra Châu Đốc, ra Vĩnh Trung; những con l qua giốc Bà Đắc hay giốc Nhà Bàn thường bị đắp mô, mìn bẩy.

                              Chỉ ti cho dân lành đã đổ máu cho những nhân danh bất chính và chủ nghĩa vô nhân của cng sản! Thế nhưng tôi cũng thường bươn bả qua đó, lắm lúc chỉ vì những bóng dáng giai nhân hay vài cuc tình không ước hẹn trăm năm.

                              Những thôn sóc nghèo nàn trơ trọi thơm mùi rơm rạ, mùi dân dã, mùi chất phát thật thà của dân quê các vùng Nhà Bàn, Chợ Voi, Tà Đét, Láng Linh.

                              Riêng vùng Láng Linh do Phật Thầy Tây An khai phá và cũng là nơi đã xảy ra cuc chiến đấu chống Pháp mt mất mt còn của Cố Quản Nguyễn Văn Thành.

                              Hình ảnh huyền bí của Núi Cấm trong thời tao loạn và huyền thoại về những vị đạo sĩ "thế thiên hành đạo" vẫn được dân chúng ngưỡng mộ Rồi trùng trùng điệp điệp núi đồi từ Núi Nam Di cho đến Núi Dài mà dưới chân những dãy núi này là đồng

                              rung khiêm nhường, sản xuất lúa gạo cũng chỉ đủ nuôi sống cho dân địa phương. Núi Sam với Bạch Vân Tịnh Xá, núi Thất Sơn linh thiêng hùng vĩ với đền thờ Bà Thiên Hậu Thánh Cung,

                              núi Ông Két với mõm đá hình con két vẫn còn trơ gan cùng tuế nguyệt. Núi Bà Đi Om, tên vẫn còn đó nhưng chẳng biết Bà nay trôi giạt về đâu...

                              Rất ít về những kỷ niệm với Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa trong một thời gian quen biết ngắn ngủi, rất ít về những hình ảnh của miền Nam mà tôi còn ghi nhớ mập mờ không mấy chính xác trong những mùa tập sự hay trong những chuyến công tác ngắn hạn từ thuở xa xưa.

                              Nhưng qua đó cũng mang chở rất nhiều thương nhớ của tôi về quê hương, nhất là với những người lưu lạc như tôi chưa có cơ hi trở về!

                              Hơn thập niên trước đây Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa lại di tản thêm lần nữa để đến định cư tại Úc Châu, may mắn trở lại làm nghề gõ đầu trẻ.

                              Hồi ở Đức vốn đã không có dịp gần nhau, nay anh qua xứ Đại Thử Kanguruh, chúng tôi lại càng xa nhau hơn nửa địa cầu.

                              Rồi Hạ Long Vũ Ngọc Long cũng vĩnh viễn từ giả cõi đời để đi vào cõi hư vô. Tôi trở nên hụt hẫng, cơn lốc lãng du cũng chìm xuống từ đó...

                              Đôi dòng cho bạn- cho Lưu Nhơn Nghĩa thay vì viết Lời Bạt như bạn yêu cầu.

                              Cảm ơn bạn đã tạo cho tôi cơ hi để tìm lại những mảnh đời vỡ vụn tưởng đã mất mát trong quá khứ hay đã lãng quên trên cuộc đời ly xứ...



                              Phù Vân
                              Tháng 10. 2001


                              Lưu Nhơn Nghĩa
                              thatsonchaudoc


                              sigpic

                              Comment


                              • #30
                                Như Cánh Chuồn Chuồn

                                Mấy hàng tiểu sử



                                Ði từ Châu Ðốc vô tới ngã tư đầu tiên Xà Tón, rẽ phải về hướng Tây đường vô Chưn Phnum ( khoan vô đó vội, vô Chưn Phnum phải có trống phèn la và bàn đưa, nằm trên xe đẩy có chạm rồng ).

                                Tiếp tục đi thêm 12 cây số về hướng Nam , ngang núi Cô Tô, đến ngã ba Sóc Ô thôm, rẽ phải hướng về chùa Pà Thết, rẽ trái là xóm Tà Păng Flức ( hầm đôi ) Xóm đó có căn nhà lá , nằm

                                dọc theo Ô tà tưng ( suối ngang ) cùng dãy nhà củ Búl và thầy cai Ul (ông ngoại Cà Tâm con củ Xướng ) là sinh quán của tiện nhân - Trước nhà là ruộng Tà lấp, kinh Xán, gần đó có giếng

                                nước Nòn Tô, có ông Tà Nol đánh trống chửa bịnh tà. Lúc mới sinh bà mụ Miên cắt rún bằng tre lồ ồ, nhờ vậy ngày nay miễn nhiễm nhiều loại vi trùng.

                                Chưa giáp thôi nôi, bị con quỷ trên cây xà đâu sau hè phá, khóc tới lật mí mắt, nhờ Lào Chệt Sầm Văn cúng giải mới hết.

                                Xưa dưới bàu sen Tà Păng Flức có con sấu, đó là ông Sải Cả thần thông biến thành sấu cho đệ tử coi, dặn đệ tử đọc thần chú, thành người lại, đệ tử quên đọc, nên ông mang hình sấu luôn.

                                Dưới hang chùa Pà Thớt có cặp rắn mồng, ngày lễ bò lên nghe kinh, không cắn ai. Sau rắn mái xuống giếng uống nước chết chìm, rắn trống bỏ đi mất.

                                Lại có ông Leo Teo đứng cao bằng cây dừa, hay hiện lên ban đêm ghẹo người yếu bóng vía . Chùa Pà Thết có cây cổ thụ, diệc làm ổ, sáng nghe tiếng diệc kêu.

                                Sóc Ô Thôm vui lắm, có gạo Xo Ùm Pên màu vàng, cốm dẹp, khoai từ núi, dưới ruộng là cua đồng, ếch, rắn vi cá, chim cò, cúm núm.

                                Món ngon có canh thốt nốt, canh xiêm lo nêm mắm bồ hốc, bún nước kèn, dưa chuối, bánh thốt nốt, bánh gói, đường thốt nốt chảy đựng trong om ăn với dưa gang.

                                Chết tốn một thước củi ( Lốt, lốt, thằng thổ chết đốt , An Nam chết chôn ). Sợ quỷ phá nên dời lên chợ Xà Tón.

                                Lên hai tuổI, bịnh ban nặng, thầy thuốc chạy, nhờ thầy Tám Tiểu ở Long xuyên bổ chai thuốc có mật gấu cả trăm đồng uống mới hết, uống thuốc tiêu ban kinh niên, trốn chích ngừa tới ngày đi lính.

                                Nhờ phước đức ông bà sống lây lất bên ngoại tới nay, đủ sống, đúng như lời côn nội ( ở Trà É Sóc trăng ) tới thăm, cân tính được “bốn lượng”, có “chén cơm đầy” , mỗi khi cùng cực, đều

                                gặp may, bình an, có đủ sức khỏe đi cầy trã nợ con, nợ ngân hàng và nợ đời . Về chủng tộc , nội ngoại đều gốc Triều Châu .

                                Mồ mả tổ đường bên phủ Triều Châu, gần Xua Tháo ( Sán Ðầu ) Phong khê, Lưu cấp thuỷ hương, nơi đó có tháp Cấp thuỷ.

                                Sở thích ngồi góc phố uống cà phê ,ước mơ có thật nhiều tiền để mua “Tiên” .


                                thatsonchaudoc


                                sigpic

                                Comment

                                Working...
                                X