Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Như Cánh Chuồn Chuồn

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Như Cánh Chuồn Chuồn

    Như Cánh Chuồn Chuồn
    Lưu Nhơn Nghĩa



    Lời nhà xuất bản
    __________________________________________________ ___________


    Ðã bao lần anh Phong-Hưng Lưu-Nhơn-Nghĩa viết cho báo Viên Giác, kể từ khi anh còn ở Ðức tại tỉnh Pforzheim. Cũng đã bao lần, mặc dầu anh sống xa Âu Châu hơn nửa vòng trái đất; nơi xứ Úc cũng còn có tên là under down; đã under là ở dưới rồi

    down thì còn đi sâu hơn nữa; nên xứ Úc ở Nam bán cầu mới gọi là xứ Australia và Thầy Bảo Lạc thường gọi là xứ của con Kanguru. Ðây là tiếng thổ dân da đỏ và người Trung Hoa

    gọi con nầy là “Ðại Thử” nghĩa là con chuột lớn. Tuy xa xôi vậy nhưng anh vẫn tiếp tục cộng tác với Viên Giác nhiều bài vở rất có giá trị, viết về những sinh hoạt của người Việt tại những tỉnh ranh giới với Miên, mà những nơi nầy tôi chưa có cơ hội đi và cũng chưa có cơ hội đến.

    Ở ngoại quốc đã đến năm thứ 30; nếu có ai đó hỏi tôi địa phương đó nằm ở đâu thì tôi mạnh dạn trả lời không suy nghĩ theo sự hiểu biết của mình. Nhất là những nơi tôi đã đi qua; nhưng khi nói về quê hương thì tôi không rõ lắm. Vì lẽ lúc còn

    học trò, nhất là một chú Tiểu ở nơi quê hương xứ Quảng nghèo nàn, ít có cơ hội như khi sống tại ngoại quốc ngày nay. Ngày xưa còn bé khi đi xe đò từ nhà xuống Hội An, hoặc ra Ðà Nẵng, thấy nơi nào cũng lớn, cũng đẹp. Còn thân phận mình thì bé

    nhỏ hẩm hiu. Ngồi trên xe, thấy ai cũng chạy ngược chiều với mình. Ðó là những cảm giác nhất thời khi còn bé. Khi lớn lên, có nhân duyên đi và đến nhiều thành phố lớn như Tokyo, Kyoto, Thượng Hải, Bắc Kinh, New York, Moscow, Paris v.v...

    nơi nào thì cũng như thế thôi. Không biết có phải mình già đi với năm tháng hay cái cảm giác như lúc nhỏ nó không còn ngự trị trong tâm thức của một người tu như tôi chăng ?
    Khi anh Phong-Hưng Lưu-Nhơn-Nghĩa còn ở Ðức, mỗi lần về chùa anh

    hay than thở về sự kỳ thị của người Ðức tại đây và lúc tôi gặp anh ở Úc trong những năm tháng trước, vấn đề nầy anh ít đề cập đến; nhưng lại có những khó khăn khác trong cuộc sống khi dạy học hay dạy con nên người. Về lại Úc cũng như về quê

    xưa của anh. Tân Tây Lan và Úc chánh sách giáo dục không xa mấy; nên bằng cấp của anh tại Tân Tây Lan, Úc chấp nhận một cách dễ dàng; còn ở Ðức thì điều nầy hơi khó. Nhiều lúc

    tôi thấy anh buồn đời; nên cũng đã góp ý với anh. Vì lẽ ở thế giới Ta Bà nầy đâu đâu cũng chỉ là quán trọ thôi. Ðâu có gì để mà phải vấn vương. Vì lẽ chúng ta cũng chỉ là những khách lữ

    hành có hạn định bởi thời gian năm tháng. Do đó sự buồn vui, giận hờn, thương ghét, thích hợp hay chống trái nhau cũng chỉ là một sự bình thường ở cõi thế nầy mà thôi. Anh nghe và chấp nhận điều ấy một cách dễ dàng. Vì anh cũng là một Phật Tử

    rất thuần thành.
    Có lần tôi ghé nhà anh tại Pforzheim, Ðức, và cũng có lần tôi ghé thăm nhà anh tại Brisbanne, Úc Ðại Lợi; nơi nào anh cũng tự nhiên đàm đạo giãi bày về mọi khía cạnh của cuộc đời. Những gì anh nói chuyện cũng là những gì anh đã

    viết văn gởi gắm tâm sự của mình để độc giả hiểu lòng anh, nhất là những hình ảnh quê hương và ân nghĩa Thầy trò khi anh còn học nơi Trường Thủ Khoa Nghĩa.
    Ðọc văn anh tôi chạnh nhớ quê; nhưng đôi khi những danh từ anh viết là tiếng địa

    phương có pha lẫn tiếng Miên, tôi phải ngưng lại nhiều lần để cố hiểu tận tường về những chú thích ở phía sau bài viết. Quả là công phu và sống cho quê hương như anh, có lẽ cũng có rất

    ít người. Anh gốc người Hoa nên cũng còn chút quyến luyến với quê cha đất tổ. Cũng giống như người Việt ngày nay dầu lưu lạc khắp bốn phương trời có tên Tây, tên Mỹ, tên Ðức; nhưng

    mấy ai lại dễ quên được cội nguồn; nhất là người Á Châu, tóc vẫn còn đen và mũi vẫn còn thấp. Dẫu có trải qua nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên tại xứ người đi nữa, cái vóc dáng Á Châu ấy có lẽ cũng khó mà xóa nhòa nơi huyết thống của giống da vàng nầy.


    Nhà văn Phạm-Thăng đã viết đầy đủ về tác phẩm của anh. Nhà thơ Tùy-Anh đã trang trọng giới thiệu anh qua cái tình cảm tha phương khi cố nhân tại một ngôi chùa mang tên Viên Giác ở xứ người. Rồi duyên văn nghệ đã đưa đến với quý anh qua sự

    cộng tác cho báo Viên Giác. Thiết tưởng đọc hai bài nầy quý độc giả sẽ hiểu rõ tác giả nhiều hơn. Riêng tôi chỉ làm cái nhiệm vụ của một người chủ trương báo Viên Giác cũng như

    nhà xuất bản của chùa, chỉ có một vài lời thô thiển để ghi lại nơi đây nhân lần xuất bản thứ nhất và sẽ ra mắt sách với độc giả tại Âu cũng như Úc Châu trong một ngày gần đây.

    Chỉ chừng ấy thôi cũng giúp được cho anh Phong-Hưng Lưu-Nhơn-Nghĩa một niềm vui. Vì đứa con tinh thần nầy cưu mang đã lâu, mà nay mới có cơ hội để ra mắt quý độc giả xa gần. Còn tôi cũng không kém. Vì lẽ giúp cho một nhà văn

    trang trải được tấm lòng của mình với nhân thế và nhất là nền văn học bình dân đối với quê hương miền Nam đất Việt ấy, lẽ nào tôi lại không vui và không cầu mong cho tác phẩm sớm được hoàn thành ?
    Ðọc văn tức hiểu người.

    Ở nơi anh Phong-Hưng Lưu-Nhơn-Nghĩa đã thể hiện rõ một tấm chơn tình và tấm chơn tình ấy anh đã trải dài trong những bài viết của anh. Vậy mong rằng những ai có cơ hội đọc được tác phẩm nầy, tức đã hiểu một phần lớn tâm tình của tác giả muốn

    gởi gắm vào đó.
    Dưới cái nhìn của Phật Giáo thì mọi vật, mọi việc trên cuộc đời nầy đều phải biến đổi qua các giai đoạn thành, trụ, hoại, không; hay phải hoán cái nhơn duyên của vô thường, khổ, không, vô ngã và Niết Bàn Tịnh Tĩnh thì mới biết

    rằng: Ðời nầy chẳng có gì cả. Mặc dầu có thị hiện bằng hình tướng đó. Nhưng những hình tướng nầy cũng chỉ là một sự đối đãi mà thôi. Hãy khoan vui khi có tiếng khen; hãy đừng buồn khi bị lời chê. Hãy khoan giận khi việc không đáng giận. Hãy

    đừng hờn khi biết rằng tất cả mọi hiện tượng đều luôn luôn đổi thay và không bao giờ đứng yên một chỗ cả.
    Trời đã vào thu và đông cũng sẽ đến. Tôi mong rằng với tác phẩm nầy anh viết

    cho mọi người đọc cũng chính là viết cho anh, cho thế hệ con cái của anh, để một mai đây có thăm lại quê cha đất tổ của mình thì có cơ hội tiếp xúc, nắm bắt những hiện hữu trong cuộc đời mà đã có lần chính anh đã trải qua, khi còn có mặt tại quê hương dấu yêu đó.


    Viết tại thư phòng chùa Viên Giác vào một chiều thu năm 2001

    Thích Như Ðiển
    thatsonchaudoc
    sigpic


  • #2
    Như Cánh Chuồn Chuồn

    Vài dòng cảm thông

    * của nhà văn Phạm Thăng


    Tôi như nhà văn Hồ Trường An, lúc nào cũng sẵn sàng viết lời tựa, lời bạt cho Tuyển Truyện của bạn bè, nhứt là cuốn sách do bạn văn gốc Nam Bộ viết.

    Tại sao vậy? Tôi có tinh thần địa phương quá chăng ? Không phải đâu. Bởi vì bạn văn người Nam viết chuyện miền Nam với tánh tình, phong tục, tập quán của vùng tôi biết rõ hơn vùng miền Trung, miền Bắc... tôi sẽ dễ dàng nhận định hơn.Tôi yêu

    mến quê hương, may mắn là trước kia có điều kiện được đi nhiều các vùng trong nước. Sang xứ người, nhớ quê nhà, đã viết, đã tìm đọc chuyện quê hương, hôm nay được bạn Phong

    Hưng sắp ra tuyển tập nhờ tôi cho ý kiến. Tôi vui thích lắm. Lại được thêm nhà văn quê hương miền Nam đây.
    Tôi sanh ra tại Long Hồ mà sống ở Châu Ðốc thời trai trẻ, có du học tại Cần

    Thơ, Mỹ Tho nên khi viết tựa cho Nguyễn Tấn Hưng và Hoài Ziang Duy về Mỹ Tho, Châu Ðốc tôi sung sướng để hồn thương quê trào thành chữ lên trang giấy, giờ đây nghe bạn Phong

    Lưu viết về Xà Tón của vùng Thất Sơn - Bảy Núi, tôi mong ngóng đón chờ từng ngày vì Xà Tón là vùng chợ nhỏ của tỉnh Châu Ðốc, nơi mà lúc còn ở Tiểu Học tôi được thầy giáo hướng dẫn đến cắm trại. Còn nhỏ, nên Xà Tón đối với tôi xa lạ, có

    nhiều "sóc đàn thổ" với những cây thốt nốt bao quanh ngôi chùa hai mái chồng lên nhau, ngói xanh, đỏ, vàng... có người đàn thổ (người Miên sanh sống tại đây lâu đời) mặt mày chất

    phác, nhưng nhìn vào đôi mắt sâu thẳm của họ, dân Việt Nam sống chung ở đó nơm nớp lo sợ nếu lúc nào đó, họ nổi cơn thù dân tộc, xách cái dao dâu rượt người Việt để cáp duồng (chặt đầu trả thù).
    Ðúng như sự nôn nao chờ đợi của tôi, xấp bản

    thảo của bạn Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa đã làm tôi say mê đọc luôn suốt ngày, truyện nầy lôi qua truyện nọ, hay quá, phong phú quá, đáp ứng cho người thương nhớ quê nhà đọc để tìm lại, để thấy rõ hơn vùng đất Xà Tón nầy !
    Ðối với tôi, những

    cây thốt nốt cao vút với chùm lá tròn, những cái nồi, cái om, cà ràng bằng đất nung, chất hàng đống bên bờ kinh, những chị đàn bà Miên mặc áo vải đen cổ tròn, dài khỏi đầu gối không xẻ vạt, chen lấn mua bán với các cô gái Việt địa phương trắng

    trẻo, các cô gái đầu gà đít vịt (lai Tàu) mặc áo bà ba, quần lãnh mặc nưa đen mướt... không quá xa lạ, nhưng ở truyện nầy, nhà văn Phong Hưng đã dẫn độc giả vào tận thôn xóm xa

    xôi đó với nhiều chi tiết tả cảnh, tả người giúp cho độc giả như thấy trước mắt.
    Chúng ta hãy theo dõi xứ Xà Tón trong truyện "Tiếng Khóc Con Ðiên" :"Mùa mưa lạnh lẽo vùng đất Bảy Núi lầy lội, ít ai muốn bước chân ra khỏi nhà, nhưng nắng hành hạ

    dân không kém, đi suốt cả gần nửa ngày mới gánh được đôi nước Chơn Num, nước màu trắng đục, uống chua chua, dân xứ khác tới thường bị chanh nước, bụng lớn, da vàng mét. Thế mà cũng có nhiều người tới đây lập nghiệp, cái nghiệp nghèo.


    Dân quanh chợ hầu hết gốc Triều Châu, buôn bán ở trong năm dãy phố cất từ xưa, mái ngói đỏ. Nghe nói thời đó vùng nầy còn là rừng dừa, khỉ đu từng đàn dám chọc phá người đi một mình, nên đặt tên là xứ "Xà Tón" (Swaton = Khỉ đu).

    Dân Tàu lập nghiệp gần khoảng 60 năm chen chân cạnh tranh không xuể ở các tỉnh lớn, lui dần về đây, vì dân Miên "chưa biết đi guốc", dễ làm ăn thất bại, một số người cùng đường lại bỏ đi nữa, lên Nam Vang, cái xứ "Trai vô bạn biển, gái về Tào

    Kê".
    Dọc theo chân núi đồi là những Sóc Miên, nhà sàn, phần dưới nuôi gia súc, phần trên người ở, họ sống bằng nghề làm rẫy, dệt vải, nặn nồi om, mang ra chợ bán. Họ di chuyển bằng

    xe ngựa, voi, hay đi bộ. Ẩn hiện trong những hàng dừa, tre, thốt nốt, có những ngôi chùa Miên mái cong như những ngôi tháp chứa hài cốt thiêu, làm tăng vẻ huyền bí xa xôi.
    Mỗi buổi sáng các Sư Sãi chậm rãi đi khất thực, len lỏi qua các khóm

    tre, bọn "Col Sóc" (chú Tiểu) lẽo đẽo theo sau kêu lớn "Lốt chăm bai" (Sư độ cơm). Các bà Miên quấn sa-rông sặc sỡ, đi chân đất, kính cẩn bưng cơm để nhẹ vào bình bát ông Lục,

    thức ăn giao cho Col Sóc trong gà-mên. Ðời sống trong Sóc nghèo thong dong và thanh thản, thời gian như ngừng đọng lại...".
    Ðấy, bạn đọc đã thấy hình ảnh "Sóc người đàn thổ" chưa? Yên tịnh theo thời gian... Tác giả còn ghi đậm nét :

    "Lâu lắm rồi, từ ngày ông Leo Teo cao hơn ngọn thốt nốt lâu lâu hiện lên đứng chàng hảng trêu ghẹo người yếu bóng vía ở xóm Ô Thôm, cuộc sống xứ nầy không thay đổi mấy. Cuộc

    sống thật phẳng lặng theo một trật tự nào đó, một sự sắp đặt gần như hoàn hảo. Ðất trong xứ được chia đều hợp lý, chia hồi nào ? nghe nói cả hơn trăm năm trước, từ khi chợ quận cất

    năm 1906, con kinh đào mang nước bạc Hậu Giang từ kinh xáng Vịnh Tre chảy thẳng đâm ngang hông chợ. Quanh chợ là những dãy phố thương mại dân Tàu làm chủ, cung cấp hàng

    hóa nhu cầu dịch vụ cho dân chúng quanh vùng. Dân thời đó không có nhiều nhu cầu như bây giờ. Dân nghèo ở Sóc phụ cận với miếng rẫy giồng khoai quanh năm chỉ cần quần Cành tăng,

    áo Phá lấu cứ ghé bàn máy may ở chợ của ông Bảy Sinh, may xong trong ngày. Dân thầy ký thầy thông thì đặt may ở phố tiệm Sum Nguyên, may bộ pyjama bằng vải lụa lèo dạo mát

    hay mặc đi ăn cưới. Ðau ốm thì tới dược phòng Bảo An Xương hay Vạn Trường Xuân coi mạch hốt vài thang thuốc Bắc, mang về xắc ba chén còn lại năm phân, uống cũng hết. Buổi sáng nghèo thì ngồi chồm hổm trên chõng tre ăn cháo lòng của bà

    Tây Lèo, hoặc ăn bánh hỏi thịt luộc với rau ngành ngạnh, hay bánh canh bột gạo của Ý Hiệu. Trẻ con có thể mua trứng chim cò, trứng trăn luộc sẵn, cùng lắm là ăn củ co, bắp hầm...".

    (Truyện tặng cho không bán).
    Tác giả rất thành công trong việc kể lại hình ảnh Xà Tón thời trẻ thơ của mình. Kể bằng lời văn mà thấy sống động như vẽ tranh trước mắt vùng Bảy Núi còn

    đậm mùi huyền bí:
    "Cái xứ kinh cùng chợ ngang, tận góc núi, ruộng phèn cỏ cú nhiều hơn lúa, mùa nước bao la như biển, mặt hậu những dãy núi xanh thẳm hùng vĩ huyền bí chở che

    bao bọc, cho cây trái, thú rừng nuôi dân. Những dãy núi như những con rồng thiêng, con hổ phục, sấu thần nằm yên chờ thiên lịnh quẫy đuôi làm ngựa cho Tiên Thánh hạ phàm nổi

    bão, diệt trừ yêu quỷ...". (Hai Cuộc Biểu Tình).
    Càng đọc, chúng ta càng phục tác giả đã có công nghiên cứu rồi ghi lại những hình ảnh đời sống dân nghèo vùng đó, thời đó. Những cảnh sống cơ cực của hạng người đinh đâm heo, đập chó, đời

    nghệ sĩ nghèo sống bằng "gạo chợ nước sông", đời lên voi xuống chó của cô gái lấy chồng ngoại quốc... Trong hơn mười truyện ngắn mà tác giả dựng lại nhiều nhân vật quay cuồng trên "sân khấu cuộc đời mình" đủ đầy kịch tính hài hước, bi ai

    với những âm thanh sống động. Kể ra đây chúng ta sẽ gặp:

    Chú Xua cạo heo, Chú Tám chuyên nghề giết gà vịt, lấy lòng heo làm phá lấu, chú Chệt Xái bán nước uống, ông Tà Ni chuyên việc đập giết chó hoang, cha quét chợ, chú Bảy Tề làm nghề tài xế, hai anh thợ yêu nghề: anh Năm thợ hồ, anh Sáu

    thợ mộc, anh chàng kêu lô-tô, cô Marie lấy Tây, anh lính người Mỹ tên Sạt, anh đàn thổ chất phác tên Pù Rum v.v... Ðó là những nhân vật giai cấp lao động, còn có nhân vật trí thức như quý Thầy của tỉnh Châu Ðốc của tôi như ông Ðốc Ðồng, ông

    Ðốc Thân, Thầy giao Ða, Thầy giao Nhựt, Thầy Phương... lại còn có Thầy giáo dạy các em học trò nhỏ ở trong... Ðình.
    Tác giả dựng lại cuộc đời các nhân vật đó sống động với tình cảm,

    đọc xong chúng ta bùi ngùi. Hãy lướt qua vài đoạn về nhân vật trong truyện "Trái Ô-Rô" để thấy sân khấu trên sàn gỗ lẫn lộn với sân khấu với sân khấu cuộc đời: Thương ơi là thương! Khi

    nói về ông bà Bầu gánh hát nghèo trôi nổi theo chợ quận, chợ làng để giúp vui thiên hạ kiếm sống:
    "... Nước sông gạo chợ, ghe bầu là căn nhà di động an toàn nhứt của tiểu gia đình mang cái nghiệp cầm ca... Riêng ông Bầu, bà Bầu, nghe tên

    tưởng đâu mập. Bà đúng là bà Bầu, còn ông thì gầy, tay chân khẳng khiu, mặt tái mét, có tên là Bầu ốm. Một thời ông theo đoàn Sơn đông mãi võ, làm quảng cáo cho nhà thuốc Hiệp Sơn, sau đó bỏ trốn vì bị tình nghi vì cái quá khứ làm Thanh Niên

    Tiền Phong của ông. Bây giờ bọn lính kín rình rập nghe từng câu hát trong tuồng, sợ liên hệ tới quốc sự. Ngoài nghệ thuật sân khấu công còn bao nhiêu vấn đề khó khăn phải đương đầu.

    Có đêm hát xong, đào kép chưa kịp rửa mặt, khán giả ra về, dưới ghế có vài tờ truyền đơn, vậy là đêm đó có cơ ngủ bót... Mỗi lần có ai trả giá mua giàn, ông năn nỉ, mặt nhăn nhó như

    muốn khóc: -Khổ lắm ông à, ông trả thêm chút đỉnh cho đào kép nhờ, bảo đảm vở tuồng đêm nay thu hút khán giả, ông lời chớ không có lỗ đâu mà sợ. Ông biết có lời, sao ông không tự

    bán vé lấy? Vì khán giả có đông nhưng không có người giữ trật tự. Thanh niên theo phá các cô đào trẻ, lũ con nít quỉ chạy loanh quanh vạch đệm chung vô rạp leo tuốt lên sân khấu hậu trường làm sao kiểm soát nổi, rồi hàng ghế đầu thượng hạng

    dành cho khán giả danh dự, tiền thâu vô cửa chưa đủ đong gạo...
    Thôi đành ép bụng bán giàn rẻ cho xong. Ông khổ lắm, chưa kể đào kép mè nheo lớn tiếng khi gặp lương trễ... Ðó là

    bầu gánh.
    Còn đào kép sống đời cầm ca cũng trăm đắng ngàn cay, nhiều lúc va chạm tự ái họ bực mình đòi đi gánh khác, nhưng chuyện đâu còn đó. Họ cũng quen chuyện bực bội hàng

    ngày với bầu gánh, thầy tuồng, thầy đờn, đứa đề co, khán giả từ ông già râu dê tới đứa con nít mất dạy. Họ biết thân, đi gánh nào rồi đói cũng hoàn đói...
    Ðộc giả sẽ thương ông thầy

    đờn mù mắt nhưng trời ban cho ông rất thính tai, ông sống trầm lặng trên manh chiếu rách, lòng thảnh thơi trong bóng tối. Ðào kép dù nổi danh đến đâu cũng phải nể vì ông, họ rất sợ thầy đờn phá, nhứt là đào kép còn non tay nghề. Ông dễ

    xúc động và thương ghét những mảnh tình đào kép phụ phàng nhau, khi còn chưa nổi danh thì yêu nhau lắm, vậy mà lúc Tổ nghiệp cho danh tiếng, sáng sân khấu thì phụ rãy theo kẻ có

    quyền hành, sang giàu, bỏ anh chồng là kép phụ đêm đêm nằm một mình hiu hắt... Ðộc giả sẽ thông cảm như ông thầy đờn khi anh kép phụ bị vợ bỏ theo ông Xếp lớn. Anh ta đau khổ vậy mà trớ trêu thay, trong một đêm diễn xuất, đang

    đóng vai người điên, anh gặp người vợ lúc còn trẻ nghèo đang ngồi với người chồng giàu và oai quyền, anh uất ức nên điên xuất thần, anh cương nhiều đoạn hát xiên xỏ để chửi ông Xếp ngang tàng hống hách và người vợ tham phú phụ anh: Anh

    chàng điên quay mòng, thình lình ngưng lại quắc mắt nhìn Ngay (người vợ đã phụ anh). Oan ức hận thù biến thành đám ô-rô xanh, anh mệt nhừ, giọng hát rã rời khản đi như thanh niên mới lớn bị bể tiếng:
    "ơ ớ kìaChim quyên ăn trái ô-rô Ðứa

    nào lấy vợ tao á á á... là là là..."
    Xếp Sử và Ngay đã hiểu ý, rõ như ban ngày...Anh kép mất vợ đau khổ cương đến đây, lơ mơ tìm bốn chữ cuối cho hợp vần, bị nghẹn, ngã lăn trước cổng

    chùa. Màn hạ. Khán giả vỗ tay, lục tục ra về, Thầy tuồng nhào lên sân khấu chụp vai anh kép đau khổ đang sống cảnh điên giả, điên thật. Ông Bầu cũng xỉ vả anh:
    -Mầy học câu đó ở

    đâu? Ai hát? Chim quyên ăn trái nhãn lồng hoặc chim quyên xuống đất ăn trùng còn được; còn mầy lại hát chim quyên ăn trái ô-rô... Mày ở kinh rạch phải biết là ô-rô không có trái thì lấy gì chim quyên ăn?
    Chỉ có ông thầy đờn Mười Sang cười ha

    hả: -Hay! Bữa nay tao thấy mầy xuất thần đó Kèo. Mày lột lưỡi đã tai quá. à, mà tại sao câu chót mầy sượng? Tao đờn chậm, đợi mầy lâu quá mà mầy nghẹn...
    Mọi người la hét, hỏi, trong khi anh kép điên còn lơ mơ vì nghẹn hờn và nghẹn lời. Cái vần chữ ô đang làm anh lẩm bẩm: "Cái gì kìa... là 'mô, cô, lô,

    nhô...'. Vần ô ác thiệt...".
    Trưa hôm sau, anh kép bị lính đàn em của Xếp Sử lấy báng súng dộng vô mặt. Anh nằm thiêm thiếp, mắt tím bầm, mấp máy môi sưng chìa ra mấy cái răng máu đỏ... Bỗng anh vui mừng la lên: Kiếm ra rồi, kiếm ra

    rồi:
    "Chim quyên ăn trái ô-rôÐứa nào lấy vợ tao, á, á, là, là, là...Kèo khạc phun ra một bãi máu bầm."... là là... đồ thất phu".Ðó là tâm tình của kiếp cầm ca, con các nhân vật lao

    động thì rất sống động chi tiết:
    "Buổi sáng, sau khi cà-phê cà pháo xong. Sáu Hường mở thùng đồ nghề trịnh trọng làm việc.

    Sau Hường tối kỵ việc cho mượn dụng cụ dù viên đá mài dao.

    Chú làm việc kiên nhẫn với cây cưa, búa, bào, đục.. hiệu Bờ-Rô Sư Tử của Tây. Cây búa bén ngót gọt cam ngọt xớt, dụng cụ được chú tự tay mài tỉ mỉ hàng giờ, bên tai giắt cây viết chì, bên giắt điếu thuốc vấn hút dở dang, bàn tay vàng màu vẹt-ni.

    Ai đặt khung cửa sổ, chú làm xong mang đến ráp vào khít khao, cánh cửa không bị xệ. Chú thường nói: làm cửa sổ, cửa cái, quan trọng là bản lề tùy theo cửa và cây nặng nhẹ. Ðinh

    cũng vậy, đinh lớn đóng cây mỏng phải khoan cây trước. Ván tùy theo loại ván thao lao, dầu mềm hơn căm xe, cà chất.

    Ðóng cây ván dài ngắn, dầy mỏng trong xưởng lớn nhỏ đủ loại, được bàn tay khéo léo đóng thành đồ gia dụng. Sáu Hường có thể nhắm mắt cầm khúc cây biết đầu nào ngọn, đầu nào gốc, loại gỗ gì... Ðấy là anh thợ mộc.
    Còn anh thợ hồ tên Năm Có,

    chiều chiều trước khi chủ nhà dọn cơm đãi thợ, Năm Có đứng chỉ huy tổng quát, lớn tiếng dặn dò đám thợ phụ cốt ý cho chủ nhà nghe: mỗi buổi chiều tụi bây nhớ tưới nước sương sương

    lên vách, để cách đêm tường chắc, tô vách tường thì xi-măng phải già hơn một chút, tô bằng bàn chà cho bằng phẳng mới lấy bay vuốt cho láng. Pha nước vôi phải nhớ mấy phần nước mấy phần vôi... Tuy gắt gao với thợ phụ nhưng Năm Có đối với

    em út rất có lòng nhứt là với các cô gánh hồ, như cô Hai Thảo được chú che chở, ngon ngọt...
    Theo thời gian và cuộc đời đổi thay, nghề của Năm Có, Sáu Hường bị ra rìa. Hai ông thợ yêu

    nghề giờ đây ngồi không, uống cà-phê nhìn thời cuộc đang qua trước mắt. Hai người thấy cần nương tựa nâng đỡ tinh thần nhau để sống, bớt lẻ loi sau thời niên thiếu long đong làm việc nhọc nhằn như con ong thợ xây tổ mà không được hút mật...

    Hết cả dãy phố bị nhà nước "mượn" dần, hai người thợ già dẫn nhau đi xem. Chủ nhà bị đuổi tiếc của đã đành, Năm Có và Sáu Hường tiếc công mình mấy mươi năm xây dựng, kẻ tiếc của,

    người tiếc công. Mỗi lần nghe nhà ai bị tịch biên, tim hai người bị nhói ít nhiều, chắt lưỡi tới lui, tiếc hùi hụi như người mất của: "ừ nhà tôi xây đó, tường xây gạch thẻ chắc chắn...." Cả

    hai dựa vào nhau, mặt buồn thiu ủ rũ. Trên bờ đê, đám lau sậy cúi đầu yên lặng, xì xào tâm sự, chia xớt nỗi xót xa. Bỗng có tiếng: "Ông ơi, lên xúc cám cho heo ăn giùm". Thím Năm gọi chồng. Bên kia nhà, tiếng thím Sáu ơi ới: "Ông ơi lên bửa giùm

    đống củi, mai có nắng phơi". Hai ông già nhìn nhau, chia xẻ chung một ý nghĩ "thợ hồ mà bắt đi xúc cám cho heo ăn; thợ mộc khéo như anh mà bả kêu đi bửa củi". Chú Năm lép nhép:

    "giết ruồi mà mượn tới gươm vàng". (Truyện Anh Năm thợ hồ và Anh Sáu thợ mộc).
    Ôi thời gian qua đem lại nhiều lần đổi đời. Chợ Xà Tón (của tác giả) vẫn còn đó, thời cuộc đổi thay, hai vòi rồng trên nóc chợ chứng kiến bao nhiêu thế hệ

    qua rồi. Những hàng me keo, thốt nốt quanh chợ bị đốn dần, lớp trẻ tấn lên cất thêm sạp quanh chợ buôn bán. Năm 1970, chiến tranh khốc liệt, đám mấy cha trong núi kéo về bắn cháy

    chợ, còn lại nền đá xanh nhấp nhô màu hổ phách nhắc nhở vết chân ông Tà Ni và những người thế hệ ông đi qua, nào bà Cà Ngul giữ em nghèo xơ xác, nào Pù Ưng bẻ nhánh cây me nước đánh đứa con ham chơi rồi ôm con sướt mướt khóc kiếp nhọc

    nhằn, nào chú Sáu Nhỏ vào buổi xế trưa hanh nắng, kêu lô-tô say sưa ứng khẩu trêu ghẹo bà bán chuối chiên có đứa con gái bỏ theo anh kép chánh đoàn cải lương vừa dọn đi. Lớp người đi

    qua chợ không để lại dấu vết gì hiển hách, như lá me rụng mục thành đất... (Truyện Ông Tà Ni) .
    Truyện nào của Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa đều bàng bạc tình người giữa chợ đời đen bạc nhưng tôi rung cảm nhứt là truyện Bốn Năm Với Trường Thủ Khoa Nghĩa ở Châu Ðốc. Không phải vì chuyện của trường

    Primaire, nơi tôi đã học trước khi lập thành Trung Học mà vì đa số Thầy Giáo, Ông Ðốc của trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa đều là thầy cũ của tôi, từ khi làm Giáo viên đến lúc lên làm Ðốc học. Làm sao không bùi ngùi thương nhớ Thầy xưa khi tác giả

    nhắc tánh tình từng Thầy của tôi lúc trước. (Tôi xin kính gọi thân thương quí Thầy Cô bằng Thầy của tôi, mặc dù khi Lưu Nhơn Nghĩa kể lại trong truyện đã lên làm Ðốc học). Nào là Thầy Thái Văn Thân tánh tình bác ái, tin người. Nhà Thầy ở

    ngang nhà tôi và tôi là học trò giỏi về toán và... vẽ, nên Thầy chọn tôi làm đứa cộng sổ điểm hàng tuần, hàng tháng và chuyên vẽ Bảng Danh Dự, Bảng Hàng Tuần, Bảng Ám Ðọc... Tuần nào cũng phải ngồi suốt buổi sáng để cộng cộng, chia

    chia. Tôi toàn quyền trong các bài toán tìm hạng cao thấp đó mà Thầy tin cậy (ví dụ tôi làm bộ cộng sai để tôi hoặc bạn thân nào đó thêm điểm, Thầy đâu biết, nhưng tuổi thơ trong trắng không cho phép tôi làm vậy, vả lại là học sinh được Thầy cho

    ôn sổ điểm, tôi hãnh diện lắm, nào đâu dám nghĩ chuyện sai quấy). Rồi bạn Lưu Nhơn Nghĩa nhắc chuyện Thầy Châu Văn Ðồng, nói năng trầm tĩnh, người mà tôi kính phục vì Thầy đã

    bỏ bao nhiêu thì giờ để kèm thêm học sinh buổi tối, ngày chủ nhựt, mong cho học trò mình thi đậu concours vào Trung Học Phan Thanh Giản ở Cần Thơ, lúc đó chưa có Trung Học Thủ

    Khoa Nghĩa. Nhắc đến Thầy Phan Cao Nhựt, vì tác giả học sau tôi mấy năm nên không biết Thầy có bịnh đau mắt hột (trachome). Thương Thầy lắm. Những buổi trưa nắng gắt, mắt Thầy bị xốn xang, đi bộ từ nhà đến trường mắt Thầy rất khó

    chịu, nằm sau cặp kính râm, da mặt Thầy nổi sần sùi... Học trò chúng tôi đều biết để dừng làm Thầy nổi giận, bài học phải thuộc trôi chảy, nếu Thầy kêu lên bảng đen để vẽ bản đồ hay dòng sông v.v... thì hãy mau mắn đừng để Thầy tức giận mà

    chọi cả cây roi mây vào lưng... Lúc ban đầu tôi cũng nhát sợ như các bạn, nhưng dần dần tôi biết bịnh đau mắt làm Thầy bực dọc, chớ buổi sáng Thầy hiền từ nói nhỏ nhẹ với học trò,

    những buổi trưa nắng gắt đó, gặp giờ Ðịa Lý, tôi thường nhẹ nhàng lên xin Thầy được trình bày bản đồ theo bài học. Thầy Nhựt vui lòng lắm. Tôi biết Thầy mong học trò nên người chớ nào ham đánh học trò mình. Thầy muốn đứa nào cũng mau

    giỏi. Các bạn lớn tuổi đều thương kính trọng quí Thầy, quí Ðốc học tận tình của Trung Học Thủ Khoa Nghĩa. Khi làm báo trong nước cũng như khi sang xứ người tôi có bài viết về các Thầy

    xưa, đó như lòng biết ơn với ân sư. Tác giả Lưu Nhơn Nghĩa cũng vậy, đã dành một chương dài nói về các ông Ðốc Học, các Thầy giáo quí mến đó.

    Ðọc xong tuyển truyện chúng ta còn sung sướng vì được đọc lại những danh từ, động từ của địa phương miền Tây, mà từ lâu ít được dịp dùng đến và tác giả kỹ lưỡng chú thích. Nào là:

    bán nới (bán rẻ hơn), thịt bệu (thịt mềm quá), bú thép (bú nhờ), dốt dốt (chưa mấy khô), un muỗi (lấy vỏ dừa đốt cháy ngún, khói lên xua bớt muỗi), quần xà-lỏn (giống quần đùi),

    qua (tiếng xưng hô: tôi) v.v...
    Tập tuyển truyện còn một ưu điểm lớn là tác giả đã đưa vào tập rất nhiều câu hò, tiếng hát, bài vè... của vùng Ðồng Bằng Sông Cửu Long và vùng biên giới

    Miền Tây nước Việt. Rất cám ơn nhà văn Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa vì đây là tài liệu, một kho tàng văn học bình dân vô giá cho thế hệ mai sau, cho những nhà sưu tầm khi cần đến.


    (Mùa nắng ấm ở Canada, năm 2000)

    thatsonchaudoc
    sigpic

    Comment


    • #3
      Như Cánh Chuồn Chuồn

      LỜI PHÂN TRẦN

      __________________________________________________ ____________

      Suốt những năm đi học, tôi phải viết những bài tác văn, văn tả cảnh, bình giảng, đề tài giới hạn trong phạm vi thi cử. Thôi học, xin trã lại trường.

      Gần đây, sống cô lập suốt 6 năm trong hảng cưa xóm Lautenhof , vùng Wildbad im Schwarzwald ( trùng tên với địa danh Ô Lâm , sinh quán ) , ít phương tiện di chuyển công cộng ra khu chợ gần nhứt. Cơ duyên được thầy Như Ðiển khuyến khích, tôi bắt đầu dùng thời giờ vô công rỗi việc tập viết vài bài cho báo Viên Giác.

      Tôi không phải là nhà văn như vài người bạn vui đùa quá lời .

      Tôi viết vì ở thế cùng cực, như viết nhựt ký và hồi ký, để giải toả căn bịnh ẩn uất tâm lý, tôi mắc bịnh này từ nhỏ, đang lành bịnh, khi xong nợ ngân hàng, bịnh lành hẳn, lúc đó hết luôn nghiệp văn.

      Những đêm cuối năm, hơi lạnh len qua khe hở nhà kho dùng làm chổ ở, cái lò sưởi củi choáng chổ hơn thực dụng, ngồi bó gối nghe tiếng xúc tuyết soàn soạt bên dưới, tôi xuống tinh thần tới quẩn trí. Tôi nghe tiếng khóc con Ðiên ngoài chợ

      trống, tiếng chó kêu hãi hùng dưới cây đòn tre tầm vông của ông Tà Ni, nhớ chuyến xe chiều mưa về tới nặng chĩu buồn, ngồi sau lưng chú bảy Tài và cô Út, nhớ con lọ nồi con lông vàng mượt như tơ đeo trên lưng, con trăn quấn trên cổ, vừa

      chơi bắn tràm sau đình. Hồn ma thằng Chùn, thằng Ðực hủ tiếu hiện về trong giấc chiêm bao rủ đi hớt cá lia thia. Vùng chợ quê trong tập truyện nầy cũng thành chiêm bao mất rồi .


      Hỏi cây, hỏi thú

      “Hết rồi !”
      Hỏi chim, hỏi cá, hỏi người
      “Còn đâu !”


      Lưu Nhơn Nghĩa



      thatsonchaudoc
      sigpic

      Comment


      • #4
        Như Cánh Chuồn Chuồn

        Bốn năm với trường trung học Thủ Khoa Nghĩa
        __________________________________________________ ____________



        Nhận được báo Viên Giác số 100, đọc từ đầu đến cuối thật thống khoái, tìm lại được những khuôn mặt thân hữu cũ và đọc văn họ càng thoải mái hơn. Phù Vân lại hỏi tôi ‘Thế nà thế lào?’. Tôi xin có vài lời phân trần, ‘Thế nà thế lày!’:

        Anh gửi thư bảo tôi đóng góp bài cho báo Viên Giác số 100 phát hành tháng 8, thư gởi tháng 5/97, gởi bằng đường thủy, cuối tháng 7/97 tôi mới nhận được. Cuối tháng 7 được tin bà già tôi bị đứt mạch máu não, bán thân bất toại, viêm bàng quang, hôn mê phải đưa lên nhà thương Chợ Rẩy điều trị.

        Cuối tháng 8 được xuất viện, tôi gấp rút về hôm trước, hôm sau đưa bà già qua Úc tiếp tục điều trị, chưa biết mặt Sàigòn - Chợ Lớn ra sao. Suốt tháng 8 và tháng 9, anh em tôi thay phiên túc trực ở nhà thương đêm ngày. Tháng 10/97 mới nhận được báo Kỷ niệm số 100. Anh chắc hết thắc mắc?


        Gần cuối tháng 1/98 rồi. Ngày mai tôi tiếp tục trở lại làm. Còn 11 tháng nữa là cuối năm sẽ được nghỉ sáu tuần hè, trông lắm.

        Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa

        *

        Đọc báo Việt ngữ hải ngoại, tôi thường bắt gặp tin Hội Cựu Học Sinh các trường cũ ở Việt Nam tổ chức ngày liên hoan họp mặt, phát hành đặc san kỷ niệm với khá nhiều hình ảnh cùng những bài viết về trường. Tờ đặc san kỷ niệm 50 năm thành lập

        trường Trưng Vương ở hải ngoại gồm khoảng 200 trang, đầy đủ hình ảnh giáo sư và học sinh. Các cựu nữ sinh Trưng Vương nổi bật và thành công ở hải ngoại.

        Gần đây bài viết về trường Trung Học Phan Thanh Giản của nhà văn nổi tiếng miền Nam, Nguyễn Văn Ba, trên báo Viên Giác, làm dậy men máu dân Bảy Núi, với Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đạo hạnh, với Hai Ngoán, Ba Cụt, Bảy Đởm, thiếu học nhưng khí phách ngang tang và thủy chung.

        Lâu nay mỗi lần gặp người cùng tỉnh, tôi đều cố gắng hỏi thăm về ngôi trường cũ, thầy cô và bạn bè mà không biết gì nhiều.

        Ở Đức chưa gặp bạn học gốc Châu Đốc. Ở Úc liên lạc được ba đứa, tuy cách nhau hơn ba ngàn cây số, qua điện thoại mới hay bọn nó đã thay lòng đổi xác sau tháng 4 năm 75, ‘hơi sức đâu mầy nhắc chuyện năm xưa nghe N.’. Tệ hơn nữa, đứa qua

        trước mở nhà hàng thành công, không muốn nhìn bạn cũ rách rưới mới qua sau này. Thất vọng quá, tôi đơn độc gom góp viết lại những gì bạn bè còn nhớ cộng thêm điều mình nhớ về ngôi trường cũ, may ra đồng môn đọc được sẽ xuất đầu lộ diện chỉ giáo.

        Là học sinh hậu sinh 1954-58 của trường tỉnh Châu Đốc, bây giờ đã hơi già, dĩ nhiên lớp thầy cũ đã đi gần hết, lớp đàn anh mất liên lạc. Tôi kém may mắn vì có trí nhớ bất bình thường,

        có thể nhớ đầy đủ chi tiết mình chứng kiến thời thơ ấu, hiện tại thực tế thì hay quên, nhứt là lạc vào trung tâm phố, tôi mất hàng giờ tìm đường ra. Cái trí nhớ lẩn thẩn chỉ làm mất thì giờ với cà-phê thuốc lá, nó tuyệt nhiên không giúp tôi kiếm được tiền trả cho các món trên.

        Hoa phượng nở đỏ rực các công viên, đường phố không làm tôi man mác như thời thơ ấu, thời kỳ mơ mộng và thực tại chưa có ranh giới chính xác.

        Tôi nhớ gần 80% tên bạn học chung lớp Đệ Thất C trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa năm 1954-55, những gương mặt và cá tính, phòng ốc, bàn ghế chỗ bọn nó ngồi, vậy mà khi đi

        phỏng vấn việc làm ban đêm, sau khi cẩn thận xem bản đồ, ghi chép tên đường, góc phố, chạy đi chạy lại cho quen, ngày đi phỏng vấn lại lạc đường.


        *

        Tôi sống ở Châu Đốc (sau này Ngô Đình Diệm đổi thành quận Châu Phú, sát nhập vớI tỉnh Long Xuyên thành An Giang) được tròn 6 niên khóa, gồm 2 năm Tiểu Học và 4 năm Trung Học.

        Sáu niên khóa học hành không lưu lại dấu vết hoặc ảnh hưởng tốt xấu gì trong cuộc sống hiện tại. Trong những giấc chiêm bao gần sáng, vài hình ảnh đứt đoạn hỗn độn loáng thoáng hiện về, muốn sống lâu hơn trong giấc mộng cũng không được.

        Thời còn ở Việt Nam, thỉnh thoảng về quê, tôi có tham vọng ghi lại giai đoạn hình thành và tiến triển của trường, đem bàn chuyện này không mấy ai hưởng ứng. Năm 1987, dịp may gặp được thầy cũ ở Paris (thầy Lê Văn Thời, nếu còn đã gần 90

        tuổi), thời gian gặp gỡ được một ngày, chưa kịp hỏi thăm thầy thì gia đình thầy đãi chầu ciné ‘Chiếc Bóng Bên Đường’ (cơ hội cho tôi ngủ lấy sức vài tiếng trong rạp), sau đó được dẫn đi Paris quận 13 đãi cơm ‘hương vị quê hương’ (theo quảng cáo)

        mất thêm nửa ngày khát nước vì bột ngọt. Lần sau ghé Caen thăm thầy được đãi ăn đồ biển mất toi một ngày. Buổi chiều trước khi chia tay, tranh thủ thời gian ghi chép ký ức thầy, nhưng người thân thầy mải mê tranh cãi chuyện mất nước,

        chuyện mặc Veston, Cravaté, biết soigné để ra đường cho Pháp nể trọng. Tôi mất cơ hội cuối cùng, thầy mất năm 1989 lúc tôi đã qua Úc.

        Đêm nay gần 12 khuya, cơn nóng vẫn chưa dịu chút nào, tôi ngồi xuống bắt đầu viết lại, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, những điều thầy và đàn anh kể lại, thêm những điều mình

        chứng kiến về ngôi trường cũ, cùng chia sẻ với đồng môn phần nào tâm tình và nhãn kiến cá nhân đối với khung cảnh thời ấy.


        *

        Tôi không phải dân chánh gốc Châu Đốc. Sinh trưởng ở Sóc, lớn lên ở quận hẻo lánh vùng Bảy Núi, lúc đầu học trường Tiều ở Mỹ Đức, sau đó học trường Miên, trường Việt ở quê, long

        bong không biết bao nhiêu năm, nhờ vậy ngày nay nói tiếng Tiều lỏm bỏm, tiếng Miên ba kẹ, lại được khen ‘bá nghệ bá tri’ (vị chi bá láp).

        Năm tôi học lớp Năm, thầy tôi phải dạy luôn ba lớp: lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba. Lúc tôi học lớp Tư, có cô giáo Ni vào dạy lớp Năm. Cô giáo Ni mặc xà-rông đen, áo cánh Nam Vang, tóc

        ngắn, nước da trắng hồng, thuộc gia đình dòng dõi trong quận, cô đẹp nhứt tỉnh Châu Đốc, nói không ngoa. Việc học càng mở mang, năm tôi học lớp Ba, có thêm hai thầy, thầy Chón (có tiệm sách sau nhà tôi) và thầy Lý (Trang Thuận, đậu Certificat d’Étude Primaire, tương đương lớp 6 ngày nay) dạy lớp Tư.

        Thầy Trang Thuận nhờ học trường Tàu và trường Pháp nên đậu Tú Tài 2 ban D, từ cò Hiến Binh cải ngạch làm Đại Úy Cảnh sát, rồi đậu Cử Nhân Luật thăng Thiếu Tá, học tập cải tạo 9 năm, mới mất ở Melbourne. Hóa ra suốt mấy năm không nhớ, tôi chỉ học với một giáo viên duy nhứt là thầy Chấp, nếu không kể trường Tiều và trường Miên.

        Cuối năm lớp Tư, tôi được thưởng cuốn ‘ Loài Chim Mùa Vải Chín ’ của Lý Thị Tuyết Mai, cũng lớp Tư (học lại) được thưởng cuốn ‘Chuyện Khoa Học Việt Nam’ của Nguyễn Công Hoan.

        Tất cả học sinh đều được thưởng. Năm đó buổi lễ phát phần thưởng tổ chức chung với trường Miên chùa trên. Ông quận Miên, tên Mao Kim Sóc, người phương phi, điềm đạm. Các em hãy ráng nghe, nghe! ‘Đây là bảng (?) của Đức Quốc Trưởng

        Bảo Đại nhắn nhủ học sinh toàn quốc, nhân ngày lễ phát phần thưởng cuối năm: Nghỉ hè đã đến, trước khi các em sắp tạm biệt nhà trường, nhân dịp lễ phát phần thưởng cuối năm, tôi có lời nhắn nhủ các em. Trước hết, tôi thành thật khen ngợi

        những học sinh được thưởng, xứng đáng với phần thưởng nhà trường cấp phát. Còn những em nào không được thưởng, tôi khuyên, chớ nên nản chí, hãy nhớ câu, có công mài sắt, có ngày nên kim ...’

        Năm Mậu Thân sợ cháy nhà, tôi gởi toàn bộ sách kỷ niệm cho thằng bạn nhà giàu, ở đường Ngô Tùng Châu Sàigòn. Nó coi thường, bỏ mất. Giận quá, hắn hiện hành nghề y sĩ ở Paris, ngày ngày ‘xách thùng đi rửa ghẻ’ (nhận xét của tên bạn gốc Văn Khoa).

        Vì là quyển chuyện đầu tiên trong đời, tôi đọc nhiều lần đến đỗi gần như thuộc lòng một số chuyện (Chim Tu Hú, Chim Bìm Bịp, Chim Áo Giá v.v...). Ở Đức, đêm trời lạnh, tôi ưa kể cho con tôi nghe chuyện Chim Đa Đa, có đoạn ‘gã tiều phu vác củi

        về thấy Đa Đa đang ngồi khóc, không chịu ăn bát cơm của người mẹ ghẻ. Bà mẹ ghẻ đay nghiến, gã tiều phu dùng rựa chém tét đầu Đa Đa. Đêm đó, gã tiều phu chiêm bao thấy người vợ mình dẫn Đa Đa về khóc lóc, tay chỉ vào chén cơm của người mẹ ghẻ!

        Sáng ra, soát lại chén cơm, thấy trên mặt là một lớp cơm mỏng, bên dưới toàn những cát; gã hối hận xách rựa trốn vào rừng, thấy con chim lạ cúi đầu kêu lên những tiếng ‘Bát cơm cát trả lại cho cha, đánh chát đầu ra bạc ác, Đa Đa’.


        Quyển chuyện ‘Khoa Học Việt Nam’ có chuyện ‘Vụ Án Trúc Đào’. Bài điếu văn của Hạc Đính khóc Trúc Đào tôi nhớ trọn, bắt đầu:

        Ấy vị nước quên mình cho đến nỗi
        Nhớ Trúc Đào hiền thê em hỡi...

        Kết thúc: Nay xin ghi chép mấy lời vào bia đá để kỷ niệm nghìn thu ’.

        Hạc Đính khấp bái.

        Lạc đề, xin trở lại trường Miên chùa trên, có nhiều nữ sinh ‘đầu gà đít vịt’ không để ý làm gì. Khi lớn, tôi về thăm quê, đứng trước nhà thơ thẩn, thì một cựu nữ sinh đồng học trường Chùa Trên ngày xưa, ở Nam Vang về thăm nhà. Nàng mặc xà-rông

        tơ nhuộm mặc nưa đen mướt, áo cánh Nam Vang, mảnh mai mặn mà, gương mặt nửa Tàu nửa Miên phảng phất không khí trầm mặc trên nét mặt nữ thần Đế Thiên Đế Thích, man man khó tả. Gió nhẹ lùa mái tóc bồng lơi lả bên vai, cơn nắng hanh xế trưa hong chín tím người, nàng lướt qua như cơn gió

        thoảng, tôi ngơ ngẩn nhìn theo. Cảm giác nao nao chưa phai lạt chút nào. Nàng đi Nam Vang, tôi lên Sàigòn. Sau nghe kể lại, Mè âu ơi! Nàng lúc đó là Hoa hậu Battambang, tôi thì mồ hôi tràn nón sắt, nước mắt ngập bi-đông, súng cầm tay chạy

        huấn nhục ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Tôi man mác nhớ cây khế ngọt bên bờ giếng Thala đúc, tập tểnh làm thơ con cóc.

        Mãy mươi năm qua, Xà Phớp, Cà Tâm, Til, Chau Chót... bỏ xứ đi, tôi cũng là con chim lạc bầy.

        Năm nao nằm chết trong phần mộ
        Gió nhẹ đìu hiu trở lại rừng
        Về ăn trái ngọt trong vườn vắng
        Tắm nước giếng sâu trắng bốn mùa
        Ăn khế ai trao chưa mấy chín
        Còn xanh như mái tóc Ol xưa. (Ol là em)

        Có lần bà già tôi vui miệng với tôi: ‘Mầy chịu đứa nào ở xứ nầy, tao mở miệng mà họ không gả, tao bỏ xứ này đi’. Sao bà không mở miệng với cô Hoa hậu Battambang cho con nó nhờ?

        (Vì ham sắc lại lạc đề!). Tết năm Tân Tỵ, 2001, không hẹn mà gặp, nghe tin cô từ Pháp về thăm quê, tôi nôn nóng chuẩn bị máy video chờ cơ hội thu hình bóng năm xưa. Đi ngang nhà,

        lén nhìn vào tìm người đẹp ngày nao, hởi ơi!!! Tôi giở nón che cái máy video lủi đi một mạch. Thời gian ơi, sao mi ác quá vậy.

        Y, vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!

        (Mạc Đỉnh Chi).


        Trở lại ngôi trường Đình. Năm lớp Ba 1951-53 thoải mái, thoát nạn thầy cho nhỏ Xà Phớp xách tay vì dở toán, nó đã lên Nam Vang. Lớp chừng 24 học sinh, hai dãy bàn, mỗi bàn 4 đứa.

        Tôi ngồi bàn đầu, thằng Chùn ngồi đầu bàn đưa bài cho tôi chép, trả công hậu bằng tiền mặt. Cuối năm lớp Ba, thầy gọi tôi lên bảng làm bài toán đố cuối cùng duy nhứt trước khi xuống núi. Suốt những năm Sơ Học, tôi lên bảng có 2 lần, lần đầu bị Xà Phớp xách tai và trận đòn tơi tả.

        Sách giáo khoa thời đó không nhiều, có thể vì xứ tôi cô lập.

        Cuốn vần ‘Chó với Gà một nhà xum họp. Cơn rảnh rang mài miệt chuyện trò; Rừng nhu biển thánh khôn dò. Khuyên trò ráng học, học cho thành tài...’. Cuốn vần hình bìa có con chó mặc quần Short gài chân và con gà trống. Phổ thông nhứt là

        ba cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư (lớp Đồng Ấu, Dự Bị và Sơ Đẳng. Tôi may mắn còn giữ được hai cuốn. Bạn bè tới nhà chơi, đem ra cho nó coi, sách cũ cưng sợ rách, bọn nó lật soàn soạt thấy phát nóng).

        Quê tôi nằm giữa khu núi non, cô lập với các tỉnh gần nhứt, nên tiện nghi thành phố khó đến xứ nầy được. Năm 1950 vẫn còn xài đèn dầu, đèn khí đá, ít ai mang guốc. Dân gốc Việt đàn ông một số còn bới tóc, mục tiêu cho đám anh chị xe đò trêu

        chọc: ‘Chị ơi! Chị! Hà tiện gì có đồng bạc’. Chợ cũng không có rạp hát, gánh Nam Hồng ngoài Bắc trôi giạt vào hát mấy đêm tuồng ‘Thạch Sanh-Lý Thông’ (đào Kim Anh, Lệ Thủy, kép

        chánh mà không hát được Vọng Cổ). Gánh Công Lập với vở ‘Tiếng Khóc Bên Mồ’ hát nhằm mồng hai Tết, xui tận mạng.

        Lâu lâu đám cưới lớn có máy hát dĩa ASIA quay dây thiều, phải thay kim và mài kim. Dĩa ‘Hoa Rơi Cửa Phật’ nghe tới thuộc lòng. Bấy giờ đã có bài ca ‘âm nhạc cải cách’, hát nghêu ngao bài ‘Cô Lái Đò’.

        Chèo thuyền lại đây cô lái đò ơi, đường trường kịp sang buông mái chèo trôi, đưa tôi qua bến con sông xa vắng...’, hoặc ‘Cô Bán Mía’, cùng điệu:

        Mời thầy lại đây mua mía giùm em, lời thành thật rao xơi mía nầy xem...’

        Tôi còn nhớ điệu hát năm 1948 ‘Núi cao tới mây, ta cố trèo, đường ta đi quanh co chen lấn muôn cây...’. Ngày nay hỏi lại không ai nhớ là bài gì. Thỉnh thoảng tôi lép nhép riêng bài ca liên hệ tới kháng chiến, học lóm:

        Ra đi ra đi muôn phần ra đi, nào có sá chi bao ngày trở về, ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết chớ lui...

        Tôi rất cẩn thận, hầu như im hơi lặng tiếng khi có mặt ông già tôi, lỡ miệng là no đòn. Tứ cố vô thân, bị ám ảnh Xếp Lùn thời Tây, rất sợ lính tráng và công an, sự ám ảnh đó hiện thành nếp trong lối sống, cách cư xử và lối dạy con. Những từ ngữ

        chánh trị, quốc sự như ‘thanh niên, đồn bót, Việt Minh, súng đạn...’ không được nhắc tới. Là chủ tiệm sắt, ông vì quyền lợi, xin hai chữ bình an. Việc quyết định cho con theo hệ thống

        giáo dục Việt Nam cốt cho con không bị hiếp đáp. Mỗi lần có ai lạ ghé thăm tôi là ông không yên tâm, phập phồng lo âu. Già Sự học chung lớp Nhì, sau gặp lại mừng húm, già mời đi uống cà-phê nhắc chuyện cũ, lúc tôi về, ông già tôi um sùm la tôi,

        trong thâm tâm sợ già Sự dụ dỗ làm khó dễ hay bắt bớ tôi. Già Sự là Trung đội trưởng nghĩa quân gác cầu số 5, tôi quên cho ổng biết, trong giấy tờ tôi là Trung úy, Bộ Tổng Tham Mưu cấp.

        Học trò thời đó mặc áo sơ-mi hay áo bà-ba, quần xà-lỏn, ít đội nón, còn thiếu thốn. Chưa có viết nguyên tử (viết Bic), hầu hết dùng viết chì, lớp Tư lớp Ba dùng viết ngòi lá tre chấm bình

        mực tím, đứa nào có viết bơm ‘Stylo’ là sang lắm rồi. Bọn lớp Năm mang theo bảng đá, phấn và miếng giẻ, cây chổi để cùng nhau quét.

        Có lần, một sĩ quan Pháp vào lớp đố học trò Việt Nam ‘quinze’ là số mấy? Trò Xủi đáp trúng được thưởng 5 đồng bạc (thời đó một gói bắp hầm 2 cắc). Lâu lâu được phát bánh Tây (bánh

        Biscuit lạt). Lính Pháp mang đồ hộp dư bán lại, dân mua đi bán lại bày bán ngoài chợ, bọn tôi đã biết thịt hộp, fromage. Ông già tôi định giá biểu ‘sáng năm cắc, trưa năm cắc, chiều năm cắc’, tôi thường lấy thêm xài, ổng làm ngơ. Buổi sáng bọn học

        sinh tùy hoàn cảnh, lót lòng bằng khoai, trứng trăn luộc, trứng chim cò, hột sen nấu, củ co, bánh canh bột gạo, thông dụng nhứt là bánh tằm. Ngày nay, đúng ra từ năm 1960, các loài thú cầm tuyệt chủng rồi. Tiếc ngày thơ ấu, có khi được quấn

        con trăn quanh cổ đi chơi, có đứa cõng con khỉ, con lọ nồi trên vai, vớt lăng quăng cho cá xiêm ăn, đút chuối cho con chồn đèn, bắt cào cào nuôi con sáo; bây giờ toàn đồ chơi bằng nhựa vô hồn.


        Chiến tranh, khí giới thô sơ, chưa khốc liệt như sau nầy. Xà-lan sắt chở Commando Maroc đổ bộ bình định, đầu kinh rộng tàu lồng cu xoay sở dễ dàng, ghe chài đậu san sát. Ghe chở nồi,

        xuồng trầu đậu nghẹt đầu kinh mỗi buổi sáng. Thằng cha cò Tây, cò le (vì giả le lưỡi đùa) hiền lành, chiều chiều xách xe đạp chạy vòng chợ khá vui, sau về Pháp bỏ lại bà vợ Việt Nam không có con. Một thời gian, nạn bắt cóc chuộc tiền hoành

        hành, có người đi thưa, ông chạy ra mượn chiếc xe hàng hiệu Renault của cậu tôi, tự lái rượt theo cứu được thằng Quan con ông Xiếu.


        Thế hệ trước tôi, nay chừng 60 tuổi trở lên, biết đọc biết viết là ra mầng ăn. Các bà già không biết chữ nằm võng bắt đứa cháu đọc thơ cho nghe những cuốn thơ khổ giấy A4 chừng 20 trang

        bằng chữ quốc ngữ như: Dương Ngọc, Thạch Sanh-Lý Thông, Chàng Nhái Kiễn Tiên, bán đầy ngoài chợ, đọc đi đọc lại có khi thuộc lòng. Nhớ lại hình bìa thơ Dương Ngọc, hình Thái Tử vác cuốc theo nàng thôn nữ Dương Ngọc ra đồng, bên dưới phụ

        đề: ‘Dương Ngọc-Thái Tử ra đồng. Đốn cây, nhổ cỏ, vun giồng trồng khoai’ (hạnh phúc như vậy mà vua cha nỡ từ bỏ Thái Tử vì không muốn có dâu sàng dã). Hình bìa thơ Thạch Sanh-Lý Thông: ‘Chằn tinh thấy thịt mừng lòng, Thạch Sanh bèn rút

        búa đồng cự đương
        ’ hay quá, hào hùng quá, nhứt là lúc Thạch Sanh ngồi tù, ôm cây đờn thần gảy lên giải nỗi oan kể lại từ đầu đến cuối; Công Chúa bị câm nghe bất giác nói ra được.

        Đoạn đờn tóm tắt cuộc đời Thạch Sanh, từ:

        Đờn kêu tích tịch tình tang
        Nhờ ai chém đặng đầu chằn miếu trung
        đến:

        Đờn kêu ai bắn chim bay
        Mũi tên dấu máu sa rày xuống hang
        và than van:

        Đờn kêu trách kẻ lòng tà
        Dĩ ơn báo oán mưu đà hại ta...

        (lại lạc đề)

        Cho đến hết năm lớp Ba, học sinh chưa đông, phòng ốc còn đủ,, nên học 5 ngày mỗi tuần, thứ năm nghỉ.

        Để duy trì kỷ luật, thầy dùng cây roi mây, củ mây cứng đánh trên đầu trên cổ học sinh riết cũng mòn. Cha mẹ còn đốc lói:

        ‘Thầy đánh nhiều, tôi cám ơn, thương cho roi cho vọt’. Học trò lớn lên ai cũng khen nhờ thầy đánh mới có ngày nay. Ngày nay

        đi làm lơ xe đò, đi nghĩa quân, gánh nước mướn cũng nhớ ơn thầy. Cuối tuần lỡ thầy ‘thua me’, thứ hai vào lớp, thầy dễ tức giận ‘gỡ bài cào’ với đám học trò quỉ quái. Mới lớp Ba mà thằng Đực hủ tiếu đã lẹo tẹo với chị em con Phấn, Dồi ở ngoài kinh.

        Cám ơn Thầy, thế hệ trước năm 1966 đều là học trò thầy, nhứt tự vi sư, bán tự vi sư. Nếu không có mặt thầy ở xứ nầy, cả thế hệ sẽ mù chữ.

        Sau tháng 4 năm 75, ngôi đình bị san bằng làm công viên trồng cỏ. Sân đình trước Nhà Việc ngày xưa bọn tôi chơi u ấp, bắn tràm, đẽo dây thung, tán hưng hay mướn xe đạp chạy quanh trường. Những cây me xanh um, lá me bay như mưa

        ngày gió, ông Tà bằng đá nằm lim dim dựa gốc me. Mấy gốc me già che mát sân bị đốn sạch. Me ơi là me! Tin đó làm tôi choáng váng, đầu kinh lại bị lấp ra xa làm bến xe. Dãy phố cổ

        kính ngói xanh cất cả trăm năm nay được cất lại nhiều tầng lỏn chỏn, kiến trúc tạp nhạp Tàu không ra Tàu, Tây không ra Tây.

        Bạn bè đồng học lớp Ba 51-52 mất gần một phần ba. Người ta phá núi Chưn Num lấy đá xây lộ, kẻ đi sau lấy chỗ đâu nằm? Thầy tôi mất năm 1969.

        Gần cuối năm lớp Ba, nghe phong phanh mình sẽ ra tỉnh tiếp tục học. Khi mang khai sanh vào cho thầy làm giấy chuyển trường, bạn học tha hồ chế diễu, tôi hiễu lờ mờ, vì tất cả đều do ông già tôi quyết định. Ông đặt đóng cái ghế bố, mua cái mền vãi, cái mùng và bốn cây tre làm cây giăng mùng.

        *

        Một sáng chủ nhựt mưa dầm tháng 9 năm 1952, tôi đang ngồi chồm hổm ngoài chợ ăn tô cháo phổi heo của chị Cà, thì được kêu về chuẩn bị lên xe. Tôi ngồi mệt mỏi nhức đầu trên hàng hóa ngổn ngang. Xe nghiêng ngả di chuyển chậm chạp trên đường lồi lỏm ngập nước.

        Từ Xà Tỏn ra Châu Đốc, 42 cây số xe đi mất khoảng ba tiếng đồng hồ. Nước kinh Cầu Cây Me đục ngầu, chợ Cây Me xơ xác, vườn chuối trên sườn núi Nam Vi xanh lạnh ngắt, thung lũng cầu Tà Đét khe nước sâu thăm thẳm. Xe chậm chạp, thỉnh

        thoảng ngừng rước khách, qua những rặng núi Dài, núi Bà Đội Om, núi Cấm, núi Két, đường nghiêng, bỏ lại sau cái thế giới bình yên đầm ấm ra đô thị bon chen. Đúng tâm trạng trong bài học thuộc lòng:

        ‘Thương con thân gái đi xa
        Mới lần thứ nhứt con ra thị thành
        Còn bỡ ngỡ chưa lanh chưa thuộc
        Lại ngây thơ, đường bước chưa quen’

        Đêm xa nhà đầu tiên, cô đơn trên ghế bố lạ chỗ lạ người. Cùng ở trọ tôi có cậu Xén cùng quê lúc đó đang học Đệ Tứ, thằng Cường và con Sai con chủ nhà.

        Sáng hôm sau đang lúi húi rửa mặt, thấy bác Hai Khá chủ nhà, nhìn tôi không nói một lời. Ông người mập trắng.

        Sáng đó bác Hai Khá đưa tôi lên Sở Giáo Huấn tại trường nữ, ghi tên vào lớp thầy Dương Văn Mậu, lớp Nhì B, học chung với Cường, học nhằm buổi chiều từ 2 giờ đến 6 giờ, buổi sáng

        nghỉ. Học được hai ngày, ngày thứ tư tôi định cuốn gói về quê, bị cô ba Tên (bà chủ nhà) la, tôi xép re, mang đồ trở vô. Đêm đêm, quả là nước mắt ướt đầm ghế bố.

        Lâu lắm, cả năm sau mới quen dần nếp sống thị thành, đèn điện, nước máy, cầu tiêu thùng ở sau nhà, không cần ra đầu bờ kinh sợ sệt đám phú-lít biên phạt.

        Cứ mỗi thứ năm, ông già tôi mặc quần lãnh đen, áo trắng ba túi, nút thắt, xách giỏ thịt hay con gà và trưa đó dẫn tôi đi ăn tiệm ngoài chợ, ổng sợ tôi thiếu ăn, đền bù bằng những buổi

        cơm gà, cơm tôm, bún bì và uống nước đá chanh ở tiệm cà-phê Thái Bình, nghe mấy người phổ-ky kêu đồ ăn như hát.


        Tiền cơm mỗi tháng hai trăm đồng bạc, tiền túi ba bữa mười đồng. Sức đang lớn ăn sao đủ no. Cứ vài tuần về quê, thế nào tôi cũng mang theo vài chục tiền túi. Lên mâm cơm, phải tùy món ăn gắp, ăn coi nồi, ngồi coi hướng, thức ăn có giới hạn,

        dọn trên dĩa tô kiểu trắng (nhà tôi ăn tô chén sành mà thức ăn dư thừa) một dĩa rau càng cua, một trứng vịt luộc xắt lát trải trên mặt, chấm nước mắm chanh, tô canh cà, dĩa đồ mặn, lay hoay đã hết, ăn xong chừng một giờ sau thấy đói. Còn nhớ

        loáng thoáng, gói hủ tiếu hấp có bì chan nước mắm chanh giá hai đồng bạc, bản nhạc năm đồng, bằng giá tô hủ tiếu.


        Bác Hai Khá, ngạch thư ký chỉ có bằng Tiểu Học (Certificat d’étude primaire), một vợ hai con lương hơn năm ngàn (tương đương một ngàn tô hủ tiếu thời 1952), lương cao nhứt của giáo viên Úc tương đương 350 tô hủ tiếu. Giáo viên cao nhứt thời

        đó, tốt nghiệp École normal hay Diplôme, Brevet (tương đương lớp 10 ngày nay) sống rất thoải mái. Nhiều công chức có hai vợ, hai dòng con, có người làm, có phố. Ông Một (Thiếu úy) duy nhứt, ở cái villa. Ngạch thấp như thầy Chón ở quê tôi,

        sang tiệm sách đi dạy (nhờ có bằng Certificat d’Étude Primaire) lương nuôi một vợ ba con, đứa lớn lên Nam Vang học, vợ không động móng tay, áo quần trắng trơn. Chiều chiều các thầy mặc pyjama sạch sẽ thảnh thơi đi uống cà-phê tối, tiệc

        tùng ăn trên ngồi trước, con cái học giỏi dang nề nếp. Khó tưởng tượng, trời tối, có người gõ cửa mua vài đồng bạc đinh, ông già tôi leo qua những chồng hàng hóa ngổn ngang, kéo thông hồng mở cửa, dọn những thùng đinh ra ngoài, soi đèn

        dầu, cân đinh bán. Lời bao nhiêu? Ông nói: ‘họ tới mua lần này, còn lần sau, mình giành mối mà!’. Đó là chưa kể đám phú-lít rình rập biên phạt. Sự quyết định sai lầm của thầy Chón làm ông già tôi đổi ý, cho tôi qua chương trình Pháp Việt để

        làm thầy thông thầy ký, thay vì học chữ Tàu như đám thằng Sóc Khiếm, thằng Tỷ. Khi lớn lên, Tỷ có hãng nước tương, Sóc

        Khiếm có hãng dệt nhỏ, mỗi lần lái camionette về quê ăn Tết mang biếu bà con nấm đông cô, vịt khô, hột cào lát đắt tiền.

        Còn tôi ngồi ngất ngưởng trên mui xe đò, trong giỏ có vài ký hột dưa làm ông già tôi xụ mặt với bạn bè (xa đề).

        Trở lại lớp Nhì B Châu Đốc, lớp gồm chừng trên 50 học sinh, số đăng bộ tôi 486/52. Ngày nay nhớ tên chừng 25 đứa. Lúc học lớp Ba ở quê, chỉ có ám đọc mới phải học thuộc lòng, trả bài.

        Trường tỉnh học sinh phải học thuộc lòng tất cả các môn, lại thêm môn chính tả và dictée không đánh phép được. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần để học bài đêm. Thằng Cường con bác Hai Khá chủ nhà giỏi nhứt nhì lớp lại siêng năng, lễ phép, đúng là con nhà gia giáo.

        Ngán nhứt là những bài récitation (ám đọc bằng tiếng Pháp).

        Thầy Mậu chỉ đánh đúng năm roi đứa nào không thuộc bài.

        Thầy đang giảng bài hứng thú trôi chảy, lâu lâu tôi làm thầy mất hứng. Có lần thầy giảng bài ‘Le corps humain’ (Thân thể người ta), Thầy say sưa giảng ‘les cinq doigts de la main

        sont
        ...’ rồi chỉ tôi. Tôi ấm ớ đang ngủ gục nên bị 5 roi. Lần khác, những bội số của mètre là..., thầy lại chỉ tôi, tôi lãnh 5 roi gọn hơ.

        Tuổi tác học sinh cùng lớp không đồng đều như ngày nay, học trường công lớn nhỏ gì cũng bắt đầu học lớp Năm. Trong lớp có trò Sự, trưởng lớp. Khoảng gần nửa niên khóa, bọn tôi đang

        ngồi trong lớp chợt có một bác nông dân bước vào, trịnh trọng đặt nải chuối cau trên bàn, tháo khăn quấn đầu, chào thầy xin cho trò Sự nghỉ học. Thầy ngạc nhiên hỏi lý do.

        ‘Dạ, vú nó biểu về cưới vợ mầng ăn’.

        Mười mấy năm sau, đi đò trên kinh Tri Tôn, tình cờ gặp hắn ngồi trên thành cầu số 5 vẫy tay chào, cười hiền khô.

        Lâu lâu có lễ lộc như đi đón rước Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm.

        Lời quốc ca hơi khác ‘Hồn thanh xuân như gương trong sáng’ thay vì: ‘Dù cho thây phơi trên gươm giáo’ như ngày nay.

        Cuối năm, thằng Lý Hoàn Khải lãnh thưởng hạng nhứt (sau là Cán sự Bưu Điện), Trương Thành To hạng nhì ( sau là Tổng Giám thị Trung Học Đức Thành - Sa Đéc), Nguyễn Trung

        Cường hạng ba (Giảng sư Cao đẳng Nông Lâm Súc Sàigòn, bị vợ chửi bất tài vì kẹt lại Việt Nam). Tôi hạng 20, được lên lớp Nhứt khỏi thi, mừng húm, về quê khoe cái ‘học lớp Nhứt’.

        Cám ơn thầy Dương Văn Mậu, gốc núi Sam, nhờ thầy huấn luyện cho con quen với nề nếp học đường mới. Thầy nghiêm nghị, ít cười, nhưng không nghiêm khắc, giơ cao đánh khẽ, thầy sống rất mẫu mực, tư cách hoàn toàn nhà giáo, không chê thầy được điểm nào trong trường cũng như ngoài xã hội.

        Thầy mất khoảng năm 1986.

        Mùa hè năm đó, tôi học thêm khóa hè với thầy Nguyễn Văn Ưa, tiền trường 200 đồng, hết nhớ nhà và không thích về quê.

        Học cho có học, khó thâu thập được gì, đêm đêm tùng tam tụ ngũ chờ xe hàng xuống củ sắn, hè nhau ôm củ lớn chạy đem trình đàn anh trong xóm để nhập bọn xin làm đàn em.


        Đầu năm học 1953-54, bác Hai Khá lại viết bức thư giới thiệu gởi con bác là Cường và tôi vào lớp thầy Châu Văn Tính, lớp Nhứt E. Cấp lớp nhứt lúc đó có 7 lớp. Lớp A thầy Hỷ, lớp D thầy Phương, lớp G thầy Mô.

        Thầy Tính và thầy Phương dạy hay nổi tiếng Châu Đốc. Lớp nhứt học 2 buổi, sau giờ học chiều, hai thầy ở lại dạy thêm cho học trò mình, nên năm nào học trò hai thầy cũng đậu nhiều vào Đệ Thất. Thầy Tính hiền lành, ít khi đánh, quá lắm như

        thằng Huỳnh Bửu Lý thầy cũng đánh vài roi nhẹ cho có lệ.

        Thầy hay rầy tôi, ‘‘Đã dặn ngáp thì phải che miệng lại, mà nó cứ hả miệng hoài. Bộ ban đêm mầy đi ăn trộm không ngủ sao?’’.

        Có câu chuyện trùng hợp vui vui khá lý thú. Hôm ấy thầy đang dạy cách viết thư, thằng Lý quậy quá, thầy kể chuyện về một đứa học trò nghịch ngợm, con của một lương y giầu có bị đòn, anh ta lén lấy mực đổ lem luốc trên tường, biết mà không có

        chứng cớ nên thôi - kể xong câu chuyện, thầy trở lại dạy cách viết thư thì bác lao công vào đưa cho thầy bức thư ở Pháp gởi về. Sẳn dịp thầy đọc cho học trò nghe, coi như bài luận viết

        thư mẫu. Lời thư rất lễ độ của người học trò biết ơn thầy. Thầy suy nghĩ không nhớ, lâu lắm mới nhớ ra, ‘‘à, nó đó’’. Nó là anh học trò nghịch ngợm xưa, con của thầy thuốc Ngưu. Có người

        hỏi, sau nhiều năm dạy học, có mấy đứa viết thư thăm thầy, ‘‘Chỉ có một đứa con của ông thầy thuốc Ngưu. Có một đứa là may rồi!’’. Cách đây 9 năm nghe chuyện đó, tôi vội xin địa chỉ gửi thư thăm thầy, đã quá muộn.

        Mùa hè năm 1954, hoa phượng nở đỏ núi Sam, bị ảnh hưởng văn chương về hoa phượng, lòng thấy man mác, lo âu, bồi hồi ngày chia tay, ai cũng thuộc bài ám đọc:


        ‘‘Mùa hoa phượng là mùa thi cử
        Chúc các em hai chữ khoa danh’’

        Bãi trường, Nguyễn Văn Huynh hạng nhứt, Võ Văn Hiền hạng nhì, Lê Văn Khải hạng ba, Huỳnh Văn Khuê hạng tư, Nguyễn Trung Cường hạng năm.

        Bọn học sinh lớp Nhứt và lớp Tiếp Liên lo học ôn bài vở Cách Trí, Sử Ký, Địa Lý, có những địa danh mãi đến nay chưa đến lần nào ‘‘Cái Bầu, Cát Bàn, Uông Bí, Phú Nho Quan, Nông Sơn’’, các cửa sông như ‘‘cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu’’. Học như két mà nay còn nhớ.

        Bọn tôi làm đơn xin thi Tiểu Học, đơn thi viết tay trên mẫu giấy lớn. Vài ngày trước khi thi, rủ nhau đi ‘‘dò Salle’’ xem phòng và chỗ mình sẽ ngồi thi để hôm vào thi đở bỡ ngỡ. Số ký danh tôi, vần N. là 707, số gánh, số hên.

        Phụ huynh và học sinh từ các quận lớn như Tân Châu, Cái Dầu đổ về tỉnh dự thi khoảng trên một ngàn thí sinh.

        Hôm đầu thi Toán, cô giáo Nho (ở cách nhà bác Hai Khá một căn) và cô giáo vợ thầy Phương gác phòng tôi. Bác Hai Khá đi qua, nhìn tôi, rồi đưa miếng giấy nhỏ cho cô Nho, cô xem xong xé bỏ, bây giờ hiểu là số báo danh tôi.

        Hai bài Toán chép trên bảng đen, tôi đọc và hiểu, chưa biết bắt đầu, còn lúng túng, thì ông đốc Thân bước vào chỉ câu hỏi và nói ‘‘Đây là cái bẩy nghe!’’. Hai cô giáo không hiểu, làm sao bọn học sinh hiểu? Bài toán đố về đào đất đắp nền nhà. Câu

        hỏi sau khi đắp nền, nền cao hơn mặt đất bao nhiêu? Câu trả lời là 0,70m, cách mặt đất từ lúc chưa đào, nếu đào rồi sẽ cộng thêm 0,05m. Cô Nho làm bài toán, rồi mang cho tôi chép. Cô sợ quá, tôi chưa bắt kịp ý cô, cô nhắc ‘‘chép lẹ đi mầy’’. Tôi

        luống cuống vì không biết nên chép vào giấy nháp hay chép ngay vào giấy thi. Mặt cô Nho căng thẳng. Có tiếng la từ ngoài vòng rào ‘‘bẩy tấc quây ơi!’’ chắc có ai chùi đề thi ra ngoài.


        Phụ huynh bên ngoài ồn ào. Ông Thanh Tra Huỳnh Sanh, mặt ông đỏ gay, ra cảnh cáo phụ huynh, giọng nói rất gay gắt. Mấy người kỳ quá mà! Muốn tôi cho tụi nó thi lại hết hôn?. Không khí lắng dịu hơn. Tôi làm được thêm nửa bài toán sau. Kế là bài Dictée Francaise và analyse grammaticale, nếu đậu sẽ có thêm bằng Tiểu Học Pháp.

        Cô Nho lại nhắc tôi, có lúc cô mất kiên nhẫn, cú đầu tôi, ‘‘quỷ chùa’’.

        Cám ơn cô Nho, nếu không có cô giúp, chưa chắc con đậu, lại phải thi kỳ 2. Lúc này mới thấy cảm thông và thương cô. Việc đổ bể, cô sẽ bị khiển trách và ảnh hưởng đến việc thăng thưởng ngạch trật của cô. Tinh thần cô lúc đó căng thẳng đến độ nào, bây giờ con mới biết.

        Hôm sau cô Trạnh và cô Sáu Vẹn gác giờ Luận văn và Chánh tả. Cô Sáu Vẹn hiền lành, gọi học trò là ‘‘con’’ dịu ngọt, con cô Sáu Vẹn là chị Mỹ Hạnh, hoa hậu An Giang (gồm Long Xuyên-Châu Đốc), chị Mỹ Hạnh sau là vợ của thầy Nguyễn

        Thuỳ, hiện giờ ở Pháp. Cô Trạnh, trẻ, cao mảnh mai, đẹp thanh thoát cao sang, giọng đọc rõ ràng thánh thót. ‘‘Tuổi thanh niên là hoa xuân mới nở, là vừng đông mới mọc, là ngọn suối mới sa, đẹp đẽ biết chừng nào, rực rỡ biết chừng nào, mạnh mẽ

        biết chừng nào...’’ Cô Trạnh đọc trước, cô Sáu Vẹn đọc lại, cố sửa giọng đọc chính xác cho thí sinh viết. Thỉnh thoảng cô Trạnh ngừng lại, viết chữ ‘‘d’’ trên bảng rồi bôi đi để nhắc chữ ‘‘dằng dặc’’. Cô Trạnh thật là ‘‘hoa xuân mới nở, là vừng đông

        mới mọc...’’ Rồi thi các câu hỏi về các môn khác. Cuối cùng là ‘‘oral’’ (hạch miệng, vấn đáp). Học sinh đọc bài thuộc lòng hay hát một bài đã được chép sẵn trong vở mang vào trình cho giám khảo trước khi đọc.

        Độ mười ngày sau, Châu đốc rộn lên, quán ăn đắt khách lần nữa nhờ học sinh và phụ huynh các quận phụ cận tề tựu về nghe kết quả. Ông Huỳnh Sanh, thanh tra, mở đầu: ‘‘Hôm nay là ngày, tuyên, bố, kết, quả, kỳ, thi, Tiểu, học’’, ông nói từng

        tiếng một. Tôi ngồi chồm hổm trong đám đông, giám khảo thay nhau đọc danh sách trúng tuyển. Tiếng reo mừng kế tiếp nhau, mặt cha mẹ hể hả, hay gầm gừ ‘‘tao đã dặn rồi, dấu chấm khác dấu phết...’’ Thầy Phương đọc số ký danh 707 và tên tôi.

        Qua ải đầu, hoa phượng nở đỏ đê mê, về quê tha hồ vênh váo với bạn bè cũ, rửa sạch cái tên ‘‘N. khùng hối lộ, bị con Xà Phớp xách tai’’.(Xà Phớp đã mất tích ở Nam Vang thời Pol, Xà Phớp, mầy ơi!)
        Đậu xong Tiểu Học lại lo làm đơn thi tuyển vào Đệ Thất (lớp 6 ngày nay). Lần này tương đối ít thí sinh hơn vì một số đã rớt, nhưng thêm thí sinh gốc lớp Tiếp Liên (đã đậu Tiểu Học nhưng rớt vào Đệ Thất).

        Tôi làm đúng hai bài toán, ông bà độ, câu trả lời là 25 phút và 70 m. Bài toán về nước chảy vô hồ, nước chảy ra gì đó, khi nào đầy. Hôm cuối cùng, ông Hiệu Trưởng Tài, người Bắc, vào lớp dặn, ‘‘Các ‘‘chò’’, thứ tư tuần sau, đến nghe tuyên bố kết quả’’.

        Về quê, trở ra nghe ‘‘résultat’’, bác Hai Khá tiết lộ, ‘‘Mầy có đường đậu à!’’. Bác Hai Khá rất ít lời, chỉ nói một vài tiếng. Có lần tôi trốn học, ổng nói ‘‘Thằng quỷ hôm qua trốn học nghe, chết tổ mầy ạ!’’, vậy thôi.

        Trung học Châu Đốc tuyển 150 học sinh, ba lớp Đệ Thất, sau lấy thêm 50 học sinh dự khuyết. Số học sinh dự thi khoảng một ngàn, số ký danh tôi là 565, cũng số gánh.

        Hôm nghe kết quả, gần đứng bóng, tôi cũng ngồi chồm hổm trên sân trường mới đang cất dở dang, nghe tên mình hạng 97, tôi bật dậy chạy về. Hạng nhứt là chị Trần Thị Sáu (Giáo

        viên hồi hưu ở Long Xuyên), hạng nhì chị Diệp thị Nguyên (cũng giáo viên hồi hưu), hạng ba chị Lài, hạng tư Nguyễn Văn Quyền lớp tôi, hạng 12 Võ Văn Hiền, hạng 16 Hồ Văn Vinh (giáo lá, đã mất lâu rồi).

        Về quê, nhiều người khen giỏi, ông già sợ tôi kiêu ngạo, nhăn mặt trừng trừng: ‘‘Mầy không giỏi đâu, giỏi là tao giỏi nè!’’.

        Sau đó bà già tôi nói thiệt: ‘‘Một ngàn đồng nghe!’’. Năm tháng tiền cơm chớ ít ỏi gì, chiếc xe đạp năm 1955 là 550 đồng, món xa xỉ phẩm như đồng hồ Wiler 820 đồng. Nhờ lo tiền mới đậu, mắc cỡ quá, tôi mất tự tin luôn.


        Niên khóa 1954-55, Trung học có 4 lớp đệ thất, 3 lớp đệ lục, 2 lớp đệ ngũ và 1 lớp đệ tứ. Từ lớp 7A (Thất A) gồm toàn nữ sinh, lớp 7B Nam sinh giỏi, 7C trung bình, 7D đậu vớt.

        Ngày khai trường (học sinh 7C và 7D còn mượn cơ sở trường Nam tiểu học), kéo qua trường Trung học mới cất dở, sắp hàng chào cờ, không khí thật nghiêm trang, im phăng phắc, Tân Hiệu trưởng là ông Ngô Văn Dư. Sau bản Quốc ca, tôi đứng sau nghe tiếng ông Đốc Thái Văn Thân (Surveillant général- Tổng giám thị) cất tiếng, Trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa xin chào, rồi ông bỏ lửng, im luôn.

        Trước khi bắt đầu viết về trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa, tôi xếp 26 tấm ảnh cũ chụp từ năm 1952 - 1958 theo thứ tự thời gian ghi trên ảnh. Nhìn những gương mặt, y phục, cảnh vật trong ảnh rồi vận động trí nhớ ghi lại các chi tiết, song

        song có gì thắc mắc, điện thoại hỏi bạn bè thêm. Biết bao nhiêu, viết bấy nhiêu, không dám múa gậy vườn hoang, người tôi may mắn liên lạc được là anh Dương Văn Chung hiện ở Sydney, học trên tôi 3 lớp, anh kể nhiều chi tiết thời anh học, trước khi tôi vào Trung học.

        Đầu tiên trường Trung học tỉnh Châu Đốc có tên Collège de Châu Đốc, năm thành lập là 1948 hoặc trước đó, vì năm 1952-53 đã có 1 lớp Đệ Tứ (lớp 9)

        Năm 1950 đổi tên thành Trung học Châu Đốc.

        Năm 1954 đổi thành Trung học Thủ Khoa Nghĩa đến ngày nay vẫn còn tên này

        Để khỏi lầm lẫn, tôi xin ghi tên cấp lớp tương đương ngày nay

        Trước 1950 Sau 1950 Sau 1971
        Cours Enfantin Lớp Năm Lớp 1
        Cours Préparatoire Lớp Tư Lớp 2
        Cours Élémentaire Lớp Ba Lớp 3
        Cours Moyen Un Lớp Nhì 1 Lớp 4 - 1
        Cours Moyen deux Lớp Nhì 2 Lớp 4 - 2
        Cours Supérieur Lớp Nhứt Lớp 5

        Trung học
        Premier Année Đệ Thất 7è Lớp 6
        Deuxième Année Đệ Lục 6è Lớp 7
        Troisième Année Đệ Ngũ 5è Lớp 8
        Quatrième Année Đệ Tứ 4è Lớp 9
        Second Đệ Tam Lớp 10
        Première Đệ Nhị Lớp 11
        Terminale Đệ Nhất Lớp 12

        Năm 1952, việc đổi tên cấp lớp đã gây luống cuống. Lớp Premier Année đổi thành lớp Đệ Thất hay 7ème. Trước đếm từ lớp Năm tới lớp Nhứt, sau đếm từ lớp 7 ( Đệ thất ). Rồi sau năm 1970, lại đổi theo hệ thống Mỹ, Lớp Năm (đầu năm tiểu học) thành lớp 5 (năm cuối Tiểu học). Lộn xộn quá.

        Châu Đốc là một trong những tỉnh có Trung học sau cùng, so với các tỉnh kỳ cựu như Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long .

        Hiệu trưởng đầu tiên là ông Phạm Ngọc Đa, nhà ở xóm đường Hàng Sáo, tu theo phái Thông Thiên Học qua Ấn Độ với nhóm nhà thuốc Võ Văn Vân, thỉnh được cây Bồ Đề con của cây Bồ Đề chỗ Đức Phật thành đạo. Lúc mang về, Nam kỳ có 21 tỉnh,

        tỉnh nào cũng giành trồng, nên bắt thăm, rốt cuộc cây Bồ Đề thuộc tỉnh Châu Đốc, lúc đó khoảng năm 1949. Cây Bồ Đề được trồng ở Bồ Đề Đạo Tràng, địa điểm gần bến xe ngày nay.

        Ban đêm, có kẻ lén chặt đứt cây, nên phải đổ sửa săn sóc cây và rào lại. Cây bị chặt sát gốc, mọc lên năm nhánh, ngày nay là cây cổ thụ năm gốc, lá xanh che mát cả khu. Ngôi chùa nhỏ đủ vài người đứng lễ Phật. Thỉnh thoãng ông Đốc Châu Văn

        Đồng thuyết pháp, một vài nhân sĩ trong tỉnh ngâm thơ đạo vang cả tỉnh. Bồ Đề Đạo tràng là khu công viên hóng mát, trẻ con chơi đùa. Ông Bảy làm Từ, nói chuyện lắp bắp, tật nguyền.

        Bọn tôi đứng xa trêu chọc ‘‘Bảy quẹo’’. Xin lỗi bác Bảy, bọn cháu mất dạy quá.


        Sau ông Đốc Đa là ông Tài, gốc Bắc, tóc hớt court, người gầy.

        Thời đó là năm cuối trước khi phân chia Nam Bắc. Đường Châu Đốc - Long Xuyên thuộc quân Đội Cậu Hai Ngoán (Tướng Lâm Thành Nguyên ). Dinh Cậu ở quận Cái Dầu, xe chạy ngang rất cẩn thận, sợ đụng, dù là con chó cũng gây khó khăn. Xe đò phải ngừng ở các trạm Phước Thiện để đóng ‘‘Phước Thiện’’ .

        Tướng Năm Lửa ( Trần Văn Soái ) dùng thủy phi thoàn xuống Châu Đốc duyệt binh. Bà vợ ông cũng có một đoàn nữ binh và một nữ binh xách giỏ trầu cho Bà đi diễn hành trước Nhà Lớn, gần bên nhà thương.


        Từ niên học 1954 về sau, trường Trung học Châu Đốc đổi tên thành Trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa, tên một vị quan Nam triều cuối cùng, tác giả ‘‘Kim Thạch Kỳ Duyên’’ vở tuồng hát bội nổi tiếng thời đó. Cuộc đời hoạn lộ ngài Thủ Khoa gian

        truân, hoàn cảnh gia đình bi đát không kém. Quê cụ Bùi Hữu Nghĩa ở Cần thơ, làm tri huyện Trà Vang (Trà Vinh ), vì binh vực dân nghèo không kiêng nể tham quan ô lại Trương Văn

        Uyển nên bị khép tội tử hình. Vợ là Bà Nguyễn thị Tồn, kiên tâm đáp ghe bầu ra Huế đánh trống kêu oan tới toà Tam Pháp.

        Ông được tha tội tử hình, nhưng bị đày đi Tiền quân hiệu lực đóng ở Vĩnh Thông, Châu Đốc. Mãi lo việc quân, khi nghe tin bà vợ mất không về chôn cất được, có cảnh nào nát lòng hơn?

        Ông gởi hai câu phúng điều vợ :

        - ‘‘Ngã bần, khanh năng trợ, ngã oan khanh năng minh.
        - Triều quận giai xưng khanh thị phụ
        - Khanh bịnh, ngã bất dược, khanh tử, ngã bất táng.
        - Giang sơn ứng tiếu ngã phi phu’’.

        Dịch:

        - ‘‘Ta nghèo khanh giúp đỡ, ta bị oan khanh có thể giải oan.

        - Trong triều ngoài quận đều khen khanh đúng là người vợ.

        - Khanh bịnh, ta không thang thuốc, khanh mất ta không chôn cất.


        - Núi sông cười ta không đáng mặt làm chồng” .


        Hay quá, đọc xong muốn thét cho vỡ nỗi oan ức. Khanh đã chu toàn

        tề gia nội trợ, ta chạy theo công danh, mải mê việc nước việc quân, quên mất vợ hiền, đến đổi núi sông cười ta không đáng mặt làm chồng. Chán chê giấc mộng công hầu khanh tướng,

        Ngài Thủ Khoa Nghĩa khóc gào, “Đất chẳng phải chồng, sao nỡ đem thân gởi đất ; Trời mà mất vợ, thử xem gan ruột mần răng?”. Kẻ ngồi trên ngai vững vàng ở Huề có thấu chăng?


        Thằng bạn xưa, đồng cảnh ngộ, nói chuyện rù rì như bồ câu trống gù gù bồ câu mái, vợ nó vượt biên qua đảo mất liên lạc, nó chạy thất điên bát đảo tìm ra rồi long đong bảo đảm đoàn tụ gia đình . Mới qua thời gian ngắn vợ nó khám phá nó không

        phải là giám đốc hảng may, chủ nhà hàng, hay kỹ sư điện tử như hầu hết Việt kiều khác, nó chỉ là tên làm công ở đợ ngày tám tiếng, thêm Overtime cũng không đủ nuôi dàn dĩa Karaoké hay trả tiền mướn film tập và cung phụng đám bên vợ ở Việt

        Nam. Nó mệt ngất, cuối tuần rủ bạn bè nhậu quên đời. Vợ nó chán chê, bỏ theo người khác, bán nhà chia hai, nhà còn nợ ngân hàng, đủ trả tiền luật sư, sạch sành sanh ! Sẵn dịp, tôi viết sẵn cho nó hai câu phúng điếu khi vợ nó chết (sẽ chết, trước sau gì cũng chết)

        Ngã cùng, khanh thường mạ
        Ngã túy, khanh thường lăng
        Bằng hữu giai ta khanh quái phụ
        Khanh đào ngã dĩ truy
        Khanh nạn ngã dĩ cứu

        Đệ huynh đương thán ngã ngu phu

        Ta nghèo khanh thường mắng
        Ta say khanh thường chửi
        Bè bạn than khanh “con vợ quái”
        Khanh trốn ta đi tìm
        Khanh gặp nạn ta đã cứu
        Anh em trách mỗ thứ chồng ngu

        (Lại lạc đề )

        Suốt bốn năm học, giáo sư Sử Địa chưa lần nào nhắc gốc tích cụ Thủ Khoa Nghĩa, về sau đọc sách mới biết. Mỗi sáng chủ nhật đạp xe đạp trên đường Bảo Hộ Thoại vô núi Sam, chạy nhảy trên những bậc đá Lăng Ông mà không biết đó là nơi yên

        nghỉ của cụ Thoại Ngọc Hầu, người khai kinh Vĩnh Tế. Dưới chân núi, có ngôi chùa, trước là tượng vị Sư bồng đứa bé, chùa Phật Thầy Tân An, dựa lưng vào núi nhìn về phía Hậu Giang.

        (Tiền hữu tam giang long hý thủy, Hậu đầu thất lĩnh phụng triều vân, dịch : Trước mặt ba sông rồng dởn sóng, sau lưng bảy núi phụng chầu mây). Ngài đã dẫn dân mở trại ruộng, khu Láng Linh phì nhiêu ngập lúa nuôi dân. Đi ngang đình Châu

        Đốc, mấy ai biết vị thần là Chưởng binh thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, từng xuôi ngược bình định vùng đất mới. Kẻ hậu sinh ăn chút bả Âu học vội quên ơn các vị tiền nhân nầy sao? (Xa đề )


        Ông Ngô văn Dư bắt đầu làm hiệu trưởng năm 1954 thay thế ông Tài, ngay vào năm trường có tên mới. Ông trắng trẻo, dáng thư sinh, luôn luôn mặc bộ veston trắng, tính nghiêm

        khắc và gay gắt như gương mặt ông. Ông có khả năng ăn nói trước công chúng, không cần viết sẳn trên giấy, (điều nầy hiếm có thời đó) rất được giới nhân sĩ trong tỉnh nể trọng.

        Cổng trường vừa mở, học sinh sắp hàng hai, trai gái đứng riêng, ông đứng trong cổng quan sát, quên chào là bị bắt ra đứng bên, sau đó lên phòng Tổng giám thị, tôi chưa lên nên không biết chuyện gì xảy ra. Hàng tháng, phát tableaux

        d‘honneur
        (bảng danh dự). Vào lớp đứng bên, thường có ông Giám học, hoặc Tổng giám thị, rất đúng nghi thức, ông cầm bảng danh dự, ông ban mầy lời khiển trách “Cả lớp đang làm

        gì?” rồi ông khen, “thế là lớp nầy có tiến bộ”. Ông có lối hành xử như vị thầy đồ khe khắc xưa pha trộn với tư cách công chức thuộc địa Pháp. Thỉnh thoãng có việc cần vào lớp, ông chỉ hỏi bằng tiếng Pháp.

        Giám học là ông Đốc Châu văn Đồng, thường mặc veston xám, rất nghiêm trang, ít nói, lúc nói chậm rải thâm trầm của người có từ tâm, chưa lần nào la hét giận dữ, bước vào lớp, lớp học trầm lại, ông nghiêm giọng “Asseyez-vous” . Tôi nhớ ông dạy

        Đức dục bài “Tình bằng hữu”, ông chậm rải cẩn thận viết chữ “Copain” trên bảng, rồi giảng “co” cùng nhau, pain “bánh mì” .

        Ông lên bổng xuống trầm “cùng nhau . . . bánh mì” . Trong một bài học, ông giảng, mỗi vật đều có phận sự riêng, cây cỏ làm mát mắt người. “Con gà để làm gì?”. Thằng Lê Hoàng Vân

        (đã tử trận ) xăng xái trả lời “gà để rô ti ăn”. Ngô Vînh Lâm trả lời “gà để gáy sáng” . Ông bước vụt xuống bục, đi vòng, cười sướng thỏa, khen Lâm. Ông Đốc Đồng là nhân sĩ uy tín trong tỉnh.

        Surveillant Général, Tổng giám thị là ông Đốc Thái Văn Thân, da sạm, tóc hớt court, ông nói trầm trầm, lớp bọn tôi la hét phá phách ông xuống lớp nói nhẹ nhàng, “la hét có khi không giống tiếng người ta” , Ông Nhành giám thị nóng tính chửi,

        “Aboyez ?” Sủa như chó hả ? Ông Đốc Thân có óc hài hước, vui tính, ôn tồn, ít nặng lời . Học sinh thời đó trưởng thành hơn thời nay, giử kỷ luật nên ít gây khó khăn cho trường và giáo sư, nhứt là trường công, học sinh tỉnh hãnh diện với tên trường mình, 15 tuổi học Đệ thất là thường.

        Người gần với học sinh nhất, ông Surveillant kiêm giáo sư thể dục là ông Nguyễn Văn Giỏi, có tên là ông Non. Ông Non tính rất hiền, tận tụy và tròn thiên chức. Mỗi sáng, ông dạy thể thao ở sân vận động. Ông chống nạnh, nghiêng trái, phải,

        trước sau đếm vang trên sân,1, 2 ,3 ,4 - 2, 2, 3, 4 - 3, 2, 3, 4.

        Người ông nở nang, một cầu thủ túc cầu. Sau giờ thể dục, học sinh tập đi đều, nghiêm trang hát, tiếng hát bảng “Nhạc tuổi xanh” vang rền, lời nguyên thủy “Một mùa thu năm xưa cách

        mạng tiến ra đất Việt . .” Ông đóng góp trọn vẹn cuộc đời cho môn thể thao Trung học nhiều thế hệ. Khi ông về hưu, tiếng đếm vang trên sân cỏ sáng tinh sương, trời còn mờ tối, vẳng đâu đây .

        Trường có thêm ba bốn giám thị khác, ông Vận, ông Giỏi cao, ông Sải. Ông Sải lớn người, da đen, dễ nóng, sẳn sàng nạt nộ như thù ghét học sinh từ đời nào .

        Tôi chỉ nhớ tên các giáo sư dạy tôi từ Đệ thất đến Đệ tứ ( 1954-58). Trước và sau các năm đó, nếu có nhắc chỉ nghe anh Dương Văn Chung( Đệ tứ năm1954) kể lại.

        Thầy Nguyễn Cữu Phú dạy Anh văn tôi đầu tiên, thầy nói rổn rảng, nhai trầu, hiền lành, không nặng lời với học sinh. Sau đó là thầy Trịnh Minh Lang, gốc Hoa, giảng hay pha tiếng Pháp.


        Bắt đầu Đệ thất, sách giáo khoa Anh văn duy nhất là quyển L’anglais vivant, sixième bleue, nhà xuất bản Hachette, học 2 năm. Lớp Đệ ngũ, Đệ tứ học cuốn Cinquième, bài về Christmas, ông ngồi trên bàn nói, tôi nghe thoang thoáng,

        “Ông già Noel ăn pudding tráng miệng”. Lên Đệ ngũ thầy Lưu Đức Dần người Bắc dạy. Ông có vẽ mệt mỏi, ít nói, nghiêm trang, giảng văn phạm pha tiếng Pháp, “to be, to have là verbes auxiliaires”. Lúc đi thi Trung học Đệ nhứt cấp, 2 bài thi dịch không dính dáng gì đến 2 cuốn sách trên.

        Cô Giêng dạy Pháp văn, tính cô hiền lành nhưng nghiêm nghị. Vào lớp, cô đứng chờ học sinh đứng lên, nhã nhặn, “Cảm ơn, các em ngồi”.

        Giờ Pháp văn thật khó thở, toàn là văn phạm vô bổ, participe présent, analyse logique, grammaticale khô khan . Sau đó lên lớp trên bọn tôi học với thầy Nguyễn Thế Trung và Trần Cao Luận, gốc Bắc. Đệ tứ bắt đầu học thơ văn Pháp, luận văn và dịch .

        Thầy Lê Hữu Thời dạy Việt văn, thầy sống nghệ sĩ, vui tánh.

        Năm 1954 mà dám đọc bài “Bức thư của Hoàng Hoa Thám gởi cho cha”( của Tố Hữu ) kể ra rất can trường . Thầy sống rất mẫu mực, tôi ở nhà bác hai Khá sát bên nhà Thầy, cuối tuần

        thứ bảy chứa bài tứ sắc suốt đêm, thầy bưng tô nước trà qua ngồi góp vui câu chuyện nhưng không bao giờ đụng tới cây bài.

        Thầy nuôi 8 người con, 5 người cháu đều thành đạt. Gặp thầy ở Caen năm 1987, thầy tặng tôi một bài thơ nay còn giữ. Thầy mãn năm 1989 .

        Thầy Trần Sung, gốc kỹ sư (Bác vật Trần Kim) dạy đại số hình học, lúc giảng phương trình, 2x tôi viết thành 2̽ ( 2 lũy thừa x ) vì chép sai, đáp số trúng mà vẫn bị zéro, tôi không hiểu sao, bây giờ mới vở lẽ. Thầy Trần Sung người cao lớn, hình như một trong những giáo sư cao niên nhứt, còn ảnh hưởng Pháp sâu đậm, mở miệng là “bon”.

        Thầy Phan Cao Nhựt, dạy môn gì tôi quên mất, da ngâm ngâm, mặc áo trắng 4 túi, rất nghiêm khắc. Nghe mấy đứa lớp trên kể lại cũng đủ ớn lạnh. Bước vào lớp bọn học trò đứng yên như tượng gỗ, thầy kéo ghế ngồi xuống, “Ngồi xuống đơ..i”.

        Thầy đánh dữ quá, bậm môi, nắm đầu học sinh dọng vô bảng.

        Mỗi lần thầy bước vào lớp, lớp lạnh tanh, run đùi vì sợ cũng là lý do no đòn . Dĩ nhiên mấy đứa giỏi ngoan thì được thầy thương .

        Thầy Trần Văn Hai, trẻ, mới ra trường, gốc Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ tho, dạy toán rất hay, lớp tư đông học sinh, có điều thầy hay chửi và khó khăn quá. Thầy có ác cảm với tôi, lý do không rõ, tuy tôi rất trọng thầy, có lẽ vì hai chất hóa học trong người

        thầy và tôi chống nhau. Tôi sợ thầy như cọp, rất lễ phép, mong thầy nương tay. Tôi học kém, có khi hỏi, bị thầy nạp nên nín khe, thầy không trả lời mà hỏi lại, làm tôi nghẹn luôn. Sau năm 1956, thôi học với thầy tới giờ, những điều thầy dạy không còn lưu lại dấu vết hay ảnh hưởng chút nào sau này.

        Ông Đốc Phúc dạy Việt văn, chấm câu bằng tiếng “hả”, dạy Việt văn lớp Thất A . Thầy Hiệu già mặc complet trắng, đội nón cối trắng, khi về hưu, hết luôn môn Hán văn “huyết hồi tâm, máu về tim”.

        Thầy Ngô Vĩnh Nghĩa, tú tài toán, dạy toán từ Đệ lục đến Đệ tứ. Tôi học chậm, các từ ngữ kề bù, đồng dạng . . mất căn bản và sợ toán tới giờ. Thầy dạy hay gặp tôi học trò dở tệ cái số tôi ít bị kêu lên bảng nên yên thân được 4 năm. Ngày nay tôi dở toán và khoa học, lại dính tới hai môn này, quả là nghiệp dĩ.

        Một số các giáo sư tôi còn nhớ, thầy Lê Hoàng Tánh (Việt văn) thầy Ánh (Sử - địa), thầy Thuận, thầy Trần Thiện Hiếu (Việt văn), thầy Vũ Hữu Diện ( Lý hóa Đệ Ngũ ), cô Đặng thị Ngọc (Pháp văn), thầy Thi dạy nhạc, thầy Trần Mạnh Cầm có tài nhớ nét chữ học trò, vẽ bằng hai tay.


        Suốt năm Đệ thất, tôi lơ mơ chưa tỉnh, học chậm, trong số điểm hàng tháng, có khi tôi hạng 51 trong 52 đứa, lay quay copier bọn nó rồi cũng đủ điểm lên lớp, tôi không mong bảng Danh dự, dĩ nhiên không cần lảnh thưởng làm gì. Miễn có tiếng là học sinh Trung học đủ rồi. Năm đó có 4 lớp Đệ thất, ba lớp Đệ lục, hai lớp Đệ ngũ và một lớp Đệ tứ.

        Năm 1954, tôi quan sát, lúc đó Đệ tứ khoảng chừng 15 học sinh. Tất cả đều chửng chạc, nghiêm trang có tư cách và chăm học. Khi họ nói chuyện hoặc ra sắp hàng chào cờ đều xứng đáng bậc đàn anh, chưa hút thuốc, uống rượu, dĩ nhiên, có anh chưa biết uống cà phê . Hôm lãnh thưởng, anh Chung lãnh

        nhiều, cầm không hết phải nhờ chú Xuân lao công bưng dùm cái đồng hồ lớn treo tường. Phần thưởng lớp Đệ ngũ, Lý Hoàn Minh lãnh cái Radio, chị Lan lãnh cái máy may. Đó là những

        món rất đắt tiền thời đó, học sinh cả tỉnh ao ước . Mãi đến năm 1957, bác Hai Khá mới mua lại cái Radio cũ cho bọn tôi nghe cải lương và ban kịch Dân Nam. Gần đây tình cờ liên lạc được với anh Chung, mới khám phá ra là chị Phấn cùng lớp với anh vừa là bạn đời của anh. Mới ngày hôm qua nầy anh chị còn là Đệ tứ đây mà! Bây giờ anh chị đã là ông bà nội .

        Đàn anh lớp trên để lại câu “hát ghẹo” bằng tiếng Pháp “dẻn rô, dẻn ra, dẻn mu, dẻn mol, dẻn rô lí mè dẻn no”, trêu chọc một chị học trò trên tôi hai lớp, tôi cũng bắt chước, bị chị kêu lại hỏi câu đó nghĩa gì, tôi không biết, chị lắc đầu chê, chứ

        không nặng lời. Ngày nay tôi mới hiểu nghĩa ( bien gros, bien gras, bien mou, bien molle, bien jolie mais bien noir, rất lớn, rất mập, rất mềm, rất mại, rất đẹp nhưng mà rất đen). Câu này tả đúng chị, các tĩnh từ không dư không thiếu. Em xin lỗi chị, vì ngu dốt nên đùa vô ý thức, em hối hận và cảm phục tư cách chị xứng đáng là đàn chị.

        Thời điểm năm 1954 chỉ có 4 dãy lớp, chừng 16 phòng học, tổng số học sinh chừng trên năm trăm. Tôi nhớ gần hết tên bạn học lớp Đệ thất C, vì học chung nhau 4 năm, chỉ có vài thay đổi nhỏ. Năm đầu Lâm Ngọc Châu làm major (Trưởng

        lớp), Tân làm phó, mỗi lần tới phiên lớp chào cờ, Tân ra đánh nhịp. Năm 1961 gặp lại Lâm Ngọc Châu ở Rạch Giá, hắn đang bán bán vé xe đò, tôi ăn tô bún xào và uống ly nước ngọt, họ nhứt định không chịu lấy tiền, vì tôi là bạn Châu. Oai dữ vậy ta!

        Nửa năm đầu chưa có đồng phục, cần mặc áo sơ mi trắng, mặc quần dài, bỏ áo ra ngoài, mang guốc, đó là tối thiểu. Nửa năm sau, áo trắng, quần tây dài, bỏ áo vô trong, mang giày hay sandale hoặc mặc bà ba trắng hay guốc vông (mau mòn). Tấm hình chụp chung năm Đệ ngũ (1957) không còn thấy đứa nào mặc áo bà ba .

        Nữ sinh mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc vông, guốc cao gót chưa thịnh hành. Nữ sinh còn kẹp tóc dài, nhưng độ vài năm sau, ít thấy ai để tóc dài. Những mái tóc quăn xoắn thay thế mái tóc dài tha thướt, mộc mạc với những gương mặt thật, không điểm phấn tô son .

        Buổi sáng dọc theo đường Hàng Sáo, tiếng guốc rộn rã, học sinh tới sớm ăn sáng trước trường, xe bánh mì Pâté, cháo đậu, xôi, bên xe nước đá chú Bảy Được.

        Insigne ( phù hiệu ) màu xanh dương, giữa là mặt trời trắng có nhiều tia. Thằng Tòng mang insigne Trung học, xách ly đi mua cà phê đá tại Bar Nam Hiệp, lúc trả tiền cho cô Nhung nhúc nhác, nó lắc lắc túi trên như móc tiền cốt ý cho cái insigne “chớp chớp ta là học sinh Trung học đây’. Không biết cô Nhung có nể nang gì nó không.

        Giáo sư giai đoạn đầu, hầu hết gốc giáo viên Tiểu học, lên dạy Trung học, các vị thường là Đốc học (Hiệu trưởng) xuất thân từ trường École Normale (gần Sở thú ngày nay), cũng có vị có Diplôme hay Brevet (tương đương 10 năm học, nhưng thời đó trình độ cao và thi cử khó khăn hơn ngày nay nhiều), Đức dục nặng như Trí dục. Học École Normale được trả học bổng nội trú, không tốn kém cho cha mẹ.

        “Dưa leo chấm với cá kèo
        Cha mẹ tôi nghèo, tôi học Normale”

        Trình độ Pháp văn đáng bậc thầy Tú tài sau này, không hiểu sao bọn tôi được dạy:

        “Je mange du riz, je bois du l’ eau”
        “Tôi ăn cơm, tôi uống nước”, loại tiếng Pháp “bầy tôi”. Cũng giống như một bà Việt Nam trách bà chủ nhà hàng Đức lường gạt tiền điện “Sie sehen ich dumm, ich nicht dumm! ” (bà thấy tôi ngu hả, tôi không ngu đâu).

        Sau Hiệp định Genève năm 1954, cuối năm có một số giáo sư gốc Bắc đổi vào, các vị này đều có Tú tài nên dạy các môn chánh như Toán, Lý hóa, Pháp văn, không khí học tập thêm hứng khởi. Chiến tranh vừa chấm dứt, phụ huynh nức lòng cho con đi học, trường sở mở rộng thêm, các lớp đêm đông học sinh, tôi cũng đi học, dở toán mà trốn học toán.

        Không khí chánh trị thay đổi đâu ở Sài gòn ảnh hưởng đến nếp sống thường nhựt khá nhiều. Trận đánh cuối cùng ở Cái Dầu làm đường Châu Đốc - Long xuyên gián đoạn mấy ngày. Quân đội cậu Hai Ngoán tan rã, cậu Hai và cậu Ba (Ba Bô) thôi lái xe

        Cadillac và Traction quinze qua Châu Đốc ăn nhậu nữa. Chiếc Cadillac là kỳ quan cho bọn tôi như chiếc xe Xi-gà của tướng cướp Hiệp Liệt trong truyện Châu Về Hiệp Phố đăng trên nhựt báo Thần Chung. Suốt mấy năm liền, mỗi tuần có những cuốn

        tiểu thuyết mỏng, loại định kỳ, giá một đồng một cuốn, trọn bộ dường như 20 cuốn. Tiểu thuyết in trên giấy thường như Đảng Đầu Lâu Máu, Kình Thiên Đại Khách, Hiệp Sî Què, Đảng Huỳnh Long . . Mỗi tuần mua để dành, sau thành bộ, đọc đi đọc lại .

        Tôi để dành được 8 bộ, mang về quê cất, ông già tôi lại xé từng tờ để gói đinh bán ráo . Tờ nhựt báo mỗi tờ một đồng, giao tận nhà như Tiếng Chuông, Thần Chung in do nhà sách Thanh Sơn và Hứa văn Trung.

        Tôi không nhớ ra, khoảng giữa những năm từ 1952 - 1954 một biến cố hãi hùng xảy ra làm cả tỉnh rúng động. Biến cố Bar Thanh Đạm. Trên đường vô núi Sam, cách tỉnh lỵ Châu Đốc chừng 2 cây số, lúc đó chưa có nhà cửa nhiều, dân cư còn thưa

        thớt, Bar Thanh Đạm nằm bên đường, trước sau là đồng trống mát mẻ, chung quanh không có nhà gần. Dân thầy chú chiều chiều thích ra ăn uống hóng gió. Một buổi chiều, có một toán võ trang bắt thực khách ra sắp hàng bắn chết, chỉ có một

        Thiếu uý chạy thoát. Trong số nạn nhân có anh Phong, con thầy Trần Sung. Thầy thương nhớ con, đêm đêm đi thất thểu ngoài phố một mình. Miếu cô hồn Bar Thanh Đạm ghi dấu cuộc tàn sát thời thanh bình có còn không?

        Về sinh hoạt, mỗi tháng đều có một buổi sáng ‘‘Tố Cộng’’ tại sân trường. Các giáo sư gốc Bắc thay nhau thuyết trình đề tài chống Cộng, hai giáo sư chủ động là Trần Thiện Hiếu (hiện ở Sydney) và Vũ Hữu Viện (đã mất). Sinh hoạt cho giáo viên Tiểu

        học bắt đầu bằng những cuộc họp hành, rồi Phong Trào Công Chức Cách Mạng Quốc Gia. Bác Hai Khá, sáng dậy dượt bài ‘‘Suy Tôn Ngô Thủ Tướng’’, bác thở phì phò, bàn tay xoa qua xoa lại mặt mũi vừa hát òm òm ‘‘Ngô Thủ tướng Ngô Thủ

        tướng muôn năm ...’’ Thằng Cấn đổi lời ‘‘Tô hủ tiếu tô hủ tiếu ăn ngon’’. Hôm Thủ tướng Diệm đến Châu Đốc, bọn tôi phải tập dượt cả tuần để đón ông.

        Mùa nước năm 55, hai nữ sinh tên Odette và Apoline theo bạn đi chèo xuồng bị chết đuối, gây xôn xao. Hồn hai nữ sinh này thỉnh thoảng hiện về, nghe nói chớ tôi chưa gặp. Thêm ông

        trọng tài Tươi, tiếng nói như chuông, bắt cá bằng điện bị tai nạn mất, làm rúng động tinh thần dân Châu Đốc, có báo đăng hình ông .

        Ngoài việc học chúng tôi giải trí tại rạp Lạc Thanh và Tân Việt.

        Rạp Tân việt cất năm 1956 bên bờ hồ (Sau này hồ bị lấp) trên đường Bảo Hộ Thoại. Rạp Lạc thanh ở đầu chợ phía trái nếu nhìn từ bờ sông Hậu Giang, chủ người Chà, thường chiếu phim

        Ấn Độ. Trong ‘‘Xuôi Dòng Cữu Long’’ có nhắc tới rạp Tân Kiểng bên hông chợ Châu Đốc (Gạo chợ, nước sông, trang 116 ). Tôi hỏi tứ tung mà không ai biết, Châu Đốc đâu có rạp Tân kiểng.

        Gặp người bạn Vĩnh Long mới biết rạp đó ở Vĩnh long. Phạm Thăng nhân huynh thương Vĩnh long hơn Châu Đốc, nên đến Châu Đốc mà lòng còn vương vấn quê mình!

        Cơn nắng miền Tây và hơi nước bạc Hậu giang hong chín vài quả tim, như già Thiềm Bữu T. và chị H. ; già Trình minh H. với chị L. lớp 7A .

        Trưởng lớp Đệ lục là anh Đinh văn Giống, lớn tuổi, một loại Ami Protecteur, rất sốt sắng tranh đấu, có điều giả học tệ quá, lớn tuổi học không vô, sau đi nghĩa quân, bạn bè là Đại úy, Thiếu tá vẫn xưng hô mầy tao, sau 75 bị hành dữ vì quen với sĩ quan .

        Năm đó cũng có tổ chức cuộc thi ca nhạc toàn tỉnh, tại Nhà Việc. Chị Xinh hạng nhứt, chị người Bắc ( không biết tên) hạng nhì, chị Phạm thị Hiếu hạng ba. Chị Hiếu nổi tiếng văn nghệ của trường, chị là cháu thầy Thời bên cạnh nhà tôi trọ, mỗi

        buổi trưa nghe chị đưa võng hát ru em ‘‘Kìa ào ào, chiến xa Việt Nam thẩng tiến lên đường’’. Dịp này có 3 phần thưởng cho học sinh toàn trường. Phần thưởng Trí dục (học giỏi ) về chị

        Lài, 100 đồng. Phần thưởng Đức dục (hạnh kiểm) thằng Chung Kinh lớp tôi, 150 đồng. Phần thưởng Thể dục về anh Giàu, 200 đồng (tương đương 40 tô hủ tiếu, hoặc 240 dollars Úc thời giá bây giờ, 1998)

        Vừa lãnh phần thưởng Đức dục xong, lớp thầy Đào Công Kỹ cũng vào giờ Đức dục, thằng Châu mang cuốn Sept Nuits merveilleuses ( Bảy Đêm khoái lạc ) vô lớp, chuyền tay khoe, lúi húi bị thầy Kỹ bắt đem lên xem. Chung Kinh khai sách của Châu với Tổng giám thị, ra Hội đồng kỷ luật, Châu lãnh zéro conduite, bị đuổi, Chung Kinh hết lãnh tableaux d’Honneur (bảng Danh dự) từ đó về sau.

        Năm 1954 học sinh Châu Đốc, Long xuyên phải xuống Cần thơ thi Trung học Đệ nhất cấp. Anh Chung là ngôi sao sáng, năm đó tỉ số đậu khá cao, vào trường chuyên môn như Quốc gia Sư phạm, Thương mại . . ra trường là tột đỉnh, lương bổng mỗi

        tháng mua trên 2 lượng vàng. Nhớ chị Ba trọ ở nhà thầy Rớt, học sau tôi một năm, vừa đậu Tiểu học (1955) mừng quýnh, về quê sắm áo dài, xin được chân Giảng tập viên, lương bổng khoảng 1.800 đồng, ăn cơm nhà đi dạy khá thảnh thơi. Cá

        mắm rẽ rề, chưa kể cha mẹ học trò biếu xén mùa nào thức ấy phủ phê, thời đó chưa có nhiều nhu cầu, còn xài bạc giấy xé hai.

        Bốn năm Trung học, tôi như cái bóng ma, không có đứa bạn thân, chơi quanh quẩn xóm, chưa có tư cách khả năng làm đàn em già Giống, chưa thăm ai và chưa mời ai về nhà chơi, vì tôi ở trọ. Bạn bè cãi vã tranh luận, tôi trố mắt nhìn, một ám ảnh mặc cảm ẩn tiềm trong lòng, ngày nay mới tìm ra căn bịnh đó.

        Tôi sợ ông già tôi như gà thấy cáo . Mỗi lần về quê, thấy bạn bè quen ở tỉnh đi ngang, tôi đều lẩn mất , sợ cái sợ mình, sợ thầy sợ bạn, sợ người. Thằng Nguyễn văn Nghĩa, bạn cùng lớp, ngồi kế bên tôi, nó giận dữ chuyện gì đó, nhào tới đánh tôi cho

        được, tôi dội ra sau, ù lì không phản ứng. Thầy Sơn dạy vẽ lấy sổ biên phạt consigne Chủ nhật, không hỏi một lời. Tôi sợ cuống cuồng chạy lên xin lỗi thầy, mặt nó vẫn sừng xỏ - Thưa thầy Sơn, thầy không được công bình, không chịu tìm hiểu

        ngọn ngành. Lâu lắm mới gặp nhau trên bến đò Vàm cống mùa nghỉ hè, hai đứa vẫy tay chào nhau, vừa vội vã theo xe chạy, đò lui, nó là giáo lá bèo nhèo vì thời thế .

        Năm tôi học Đệ lục, trường đã có Đệ tam (lớp 10) từ 1955, đáng lẽ nên học thêm Toán, Lý Hóa, tôi sợ hai môn này, chạy trời không khỏi nắng, vì đi thi đó là hai môn chánh. Tôi mãi mê mơ mộng viễn vông, mỗi lần giải Toán trong lớp, đầu óc tôi u tối, bây giờ mới biết đó là loại bịnh tâm lý ADD (Attention

        Deficit Disorder ), không thể tập trung tư tưởng lâu, nói theo đạo là ‘‘tâm viên ý mã’’. Bị bạn học bỏ xa, tôi buông xuôi tới đâu thì tới, muốn lấy lại căn bản cũng không được, chỉ bám lấy cái hy vọng, nhờ piston của ông già đẩy ‘‘xải chi’’ (xài tiền) như kỳ thi vào Đệ thất. Mãi đến ngày nay vẫn chưa biết giải

        phương trình bậc 2 và định luật Ohm, điện trở. Mà biết làm gì ba cái đồ ma đó, kêu thợ điện tới là nó ráp cho đầy đủ.

        Nhớ năm Đệ tứ, chưa thi, thằng Phát bỏ ra đời, thằng Đời có vợ giữa năm. Già Trình minh H. trách chị L. ‘‘ham villa’’, chị L. kêu gào (chị Chanti kể lại). So với bạn bè, tôi vẫn trẻ con, mỗi khi tan trường, đứng sắp hàng, thấy Châu thị Marie, tóc dài, ngây thơ, đứng đầu hàng suốt mấy năm, ra khỏi cổng trường tôi quên hết .

        Một chiều mưa ẩm ướt, mới vừa đọc xong bài báo về Công chúa Mãn châu cùng một thanh niên Nhật tự tử, tâm trí tôi lơ mơ theo câu chuyện các cô Nhựt và Mãn châu. Vừa rồi, xem nhật ký của Hoàng đế Phổ Nghi mới biết đó là cháu ông ta, con Hoàng tử Phổ Trị .

        Cuối niên khóa 1958, bốn lớp Đệ tứ A, B, C, D khăn gói xuống An giang thi Trung học Đệ nhất cấp. Trung tâm thi đặt ở trường Thoại Ngọc Hầu, cho các trường Châu Đốc, Rạch giá và Long xuyên. Xe đò đầy ắp, tiền xe lên giá ngang xương .

        Tôi chưa tự tin, chắc sẽ rớt, nhưng còn chút hy vọng hão huyền, nhứt là trông cậy ông già tôi, lần này không phải rẽ như kỳ thi Đệ thất, mà là mười ngàn, sau đó tăng lên mười lăm ngàn (viết ra sao không biết mắc cở?). Bác hai Khá (lúc đó đã

        đổi xuống Long xuyên, vì nhập tỉnh) dặn tôi làm dấu trong các bài thi để giám khảo dễ nhận ra. Ông già tôi quyết đánh trận để đời, ông tưởng Trung học Đệ nhất cấp giống như Brevet hay Diplôme ngày trước, làm Thầy Ký, Cò-mi rồi leo dần lên quận.

        Ngày đầu thi Việt văn, bình luận bài thơ ‘‘Vịnh Côn sơn’’ của cụ Phan Chu Trinh, bài đó tôi chưa học. Toán được nửa bài, Lý Hóa được vài câu Anh văn lấy bài trong Cổ Học Tinh Hoa ra dịch và một bài dịch Anh Việt. Pháp văn còn là sinh ngữ một,

        bài dịch Pháp Việt (L’ heure de repos = Giờ nghỉ ngơi)và bài Rédaction ( luận văn), đề tài viết về một dự định du ngoạn khi nghỉ hè. Đó là dự định thôi, tôi lại tả cuộc nghỉ hè. Hors de sujet (lạc đề ). Ngặt quá, Pháp văn đâu có học chân truyền,

        modes và temps chưa vững, làm sao conjuguer verbes ở conditionel passé ? Chế độ thi quá nghiêm ngặt, giám thị lớp rất sợ cấp trên, im lặng và căng thẳng. Thầy giáo Khải có hai người con gái thi, đúng ngay phòng ông gác, cũng đành làm

        ngơ, và ông chưa đủ trình độ nhắc toán Trung học. Qua cửa sổ, thỉnh thoảng thấy ông Phạm Văn Lược, Chánh chủ khảo, đi chầm chậm nhìn vào, Đôi mắt nghiêm khắc và cảnh cáo. Thí sinh ít ai dám đánh phép như thời nhiễu nhương sau này.

        Trường hợp thằng Bỉ, nổi tiếng trong Ban Văn nghệ trường vào dịp phát thưởng, thần tượng của các nữ sinh. Bỉ giỏi văn nghệ, có số đào hoa, suốt năm ôm đờn hát những bản nhạc thịnh hành thời đó ‘‘Chiều nay bên làng cũ, cô thôn nữ yêu kiều ..’’.

        Tôi nhớ nó ôm đờn, đầu nó gật gật, lim dim như bị xì-ke hành, ‘‘Chim ơi cho ta nhắn đôi lời, một lời mà thôi, về phía xa xôi, thăm người chiến sĩ giùm tôi’’ . Nó lẫn lộn âm nhạc và toán đại số hình học. Vào giờ thi toán, nó chép bài ‘‘Kiếp Nghèo’’ nhạc và lời của Lam Phương, bị cấm thi kỳ hai (lại lạc đề).

        Ngày có kết quả, thí sinh mấy tỉnh, thêm phụ huynh, ngồi âu lo chờ kết quả, rất nhiều phụ huynh gốc nông dân, còn mặc áo bà ba đen, quấn khăn, đứng bên con cháu mặc âu phục tân thời. Lúc kêu kết quả, có tiếng hét reo mừng, có cô cậu tiu nghĩu đứng dậy ra về, phụ huynh quần áo xốc xếch theo sau.

        Thằng Múi cùng quê tôi, tên vần M kêu trước, chết tôi rồi, nó đậu ‘‘vớt’’ vô Đệ Thất, học lớp D, cứ đinh ninh tôi giỏi hơn nó, nó đậu rồi, còn tôi thì chưa biết, hồi hộp chờ đợi. Tới vần N thằng cha Giám khảo đọc sót tên tôi, đi đời. Xách túi quần áo

        theo ông già đi ra, xe đò đậu dài dài chờ kẻ bần nhân lạc đệ, tụi lơ kêu nghe phát ghét : ‘‘lên xe này đi ông bác, cậu hai’’.

        Xe đò ngày đó ‘‘bỏ tài’’, chỉ cần rước học sinh thi rớt là đủ đầy xe. Lần đầu nếm mùi thi rớt, còn nữa !

        Tôi lủi thủi lên xe, ai nấy im lìm, thi rớt buồn đã đành, trước sau gì tin thằng Múi đậu sẽ tới tai ông già tôi, khốn khổ hơn.

        Ông sẽ so sánh, chê khen. ( Múi hiền lành, đẹp trai, chăm học mà tôi ganh ghét nó mấy năm. Mùi vào Quốc gia Sư phạm, đổi về Sa đéc, có vợ con sống cuộc đời bình thản hạnh phúc, hết bị bầm dập thi cử như tôi) .

        Thi kỳ hai, tôi bay luôn. Tệ hơn, lúc đầu làm đơn xin thi Đệ tam, điểm trung bình tôi quá thấp dưới moyen, chờ đợi từ tuần này sang tuần khác, ông già tôi nổi quạu, thêm ông cậu tôi buôn bán ở Sài gòn thôi thúc, tôi phải miễn cưỡng rời trường Thủ Khoa Nghĩa, nhớ bạn bè, nhớ trưa tắm Cầu Quan, nhớ sân vận động. May hay rủi phải chịu, vì sinh vào thời chiến tranh và cuộc đổi đời năm 75.

        Qua bao nhiêu nhục nhằn, đầu tư tất cả cho cấp bằng công danh của con để nhẹ bớt áp lực chánh quyền (Thầy Thông,Thầy Ký, ông Cò . . ) ông già tôi xấc bấc xang bang vì sự thất bại ê chề của tôi. Cuộc khủng hoảng triền miên của gia đình đã đành, tin con cháu người khác đổ đạt càng làm làn

        sóng khủng hoảng nổi lên cuồn cuộn. Suốt mùa thi, việc buôn bán chỉ có bà già tôi, ngưng trệ nhiều. Chú thằng Múi, rít điếu thuốc bao xanh hôi rình, mặt nghiêm trọng, ‘‘Thằng Múi cái mặt nó thiệt là buồn à ( Ý nói mặt nó không sáng sủa ) vậy mà thi một keo được liền’’. Mặt chú thằng Múi càng thích thú, mặt

        ông già tôi càng dài và xám thêm. Ông đi sai sải về nhà đổ thêm dầu lên đống than đang ầm ỉ cháy. Ông Kiếm mập, được dịp tỏ ra sành về thi cử, đem khoe người em gái vợ, ‘‘toán nó hay lắm à ! đậu viết kỳ hai’’, khoe ai không khoe, cứ chiều

        chiều lê lết đến nhà tôi, mụ vợ đứng bên kia cười toe toét. May quá cô em vợ ông rớt Oral kỳ hai, cũng như không. Cảm ơn ! Cảm ơn!

        Đêm đêm nằm nghe ông già rên rỉ, kiệt sức buông xuôi sau khi tôi rớt kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp cuối cùng năm 61, ‘‘Phải nó đậu Trung học, vô được Sư phạm như thầy Định, thầy Chói, tao chết cũng vừa lòng’’. Ông già tôi mệt mỏi lắm rồi. Bà già

        tôi gan góc hơn, ‘‘Năm tới đậu à, tao cho đậu’’, nói như mê sảng. Năm sau đã dẹp Trung học, đậu nỗi gì. Giấc mơ ông già tầm thường quá, đi dạy học, cưới con chủ tiệm vải, mở tiệm vải mần ăn. Tôi trốn trong giấc mơ cao sang hơn ( cưới Công chúa Mãn Châu hay làm Phò mã Nhựt ).

        Tôi tìm bạn bốn phương với cô gái Nhựt, Mai Mộc Hòa Tử (Kazuko Umeki ), liên lạc đến năm 1988, ngày nay nhìn mấy mươi tấm ảnh cô từ nhỏ tới có gia đình mau quá. (lạc đề xa quá )

        Đậu xong Trung học Đệ nhất cấp, năm đó có nhiều trường Quốc gia Sư phạm mở thêm khóa cấp tốc một năm để đáp ứng nhu cầu gia tăng sĩ số học sinh Tiểu học các quận. Lương tháng 4.200 đồng, cơm tháng chừng năm trăm đồng, chiếc xe

        Mobylette chừng chưa tới sáu ngàn đồng. Một loạt học sinh giỏi yên phận, thi vô Quốc gia Sư phạm tỉnh và về quận dạy an nhàn đến năm 1965. Lớp Đệ tứ C năm 58, tôi biết trên 10 đứa làm nghề giáo, vài đứa đi ngành cao hơn, đa số vào quân đội,

        nhứt xanh cỏ, nhì đỏ ngực. Ít gặp, nếu có gặp chăng trong quán cốc bên đường, đoàn xe nhà binh ngập bụi, mặt rắn rỏi, lớn tiếng, uống nước đắng và kỵ nước ngọt.

        Song song với trường Trung học Châu Đốc, Thủ Khoa Nghĩa, khoảng năm 1953 có trường Nguyễn Đình. Trước đó (theo lời anh Chung kể ) có trường tư thục Phan Bội Châu, không phải

        tên nhà cách mạng lão thành. Nguyên có một giáo sư Anh văn họ Phan hợp tác với ông Đốc Châu văn Đồng, rồi bỏ về Sài gòn. Ông Đốc Đồng đặt tên trường Phan Bội Châu, họ Phan bội ước họ Châu. Nghe sao viết vậy.

        Năm 1955, Châu Đốc thành lập thêm trường bán công Nguyễn Hữu Cảnh, kế bên trường Thủ Khoa Nghĩa, học phí nhẹ và lớp tiếp liên không còn.

        Xa trường cũ, bơ vơ giữa đám học sinh đồng học xa lạ Sài gòn, tôi nhớ ray rứt trường chừng vài tháng, rồi cũng quên .

        Năm 1959, có Đại hội Thể thao học sinh Toàn quốc tại sân Tao Đàn. Học sinh Thủ Khoa Nghĩa năm đó đoạt rất nhiều giải điền kinh. Hôm cuối có trận túc cầu chung kết giữa Quốc gia Sư

        phạm và Trung học Thủ khoa Nghĩa. Bốn cánh khán đài gồm mấy trường Trung học lớn Thủ đô chiếm cứ (Pétrus Ký, Gia Long, Chu Văn An, Trưng Vương). Tôi may mắn chen vào, ngồi khép nép giữa học sinh Pétrus Ký. Dĩ nhiên học sinh Thủ đô

        ủng hộ Quốc gia Sư phạm Sài gòn. Đội Thủ Khoa Nghĩa nhỏ tuổi hơn, bị dẫn 0-2 hiệp đầu, tôi thấy tổn thương. Thủ môn Quốc gia Sư phạm lớn con, giữ hay quá, anh cũng gốc Thủ Khoa Nghĩa, trên tôi hai lớp. Hiệp sau Thủ Khoa Nghĩa gỡ huề.

        Thằng học sinh Petrus Ký ngồi bên tôi la ỏm tỏi, nó la như ‘‘huấn luyện viên thượng thặng’’, Tao chỉ jeux cho đá . . Tụi Thủ Khoa Nghĩa uống nước mạch chạy mau lắm. Thủ Khoa Nghĩa thắng điểm, đoạt giải Túc Cầu học sinh Toàn quốc năm

        1959. Dân Sài gòn uống nước phèn ống rỉ sét chớ sang trọng gì đó. Từ đó tôi ác cảm với dân gốc Pétrus Ký, mỗi lần gác thi, không nhắc thì thôi, tôi lại tìm cách đì bọn nó. Xin lỗi ! Tôi lớn mà quá tiểu tâm, thù vặt, vô lý.

        Năm 1958, tôi rời trường, hay bị đuổi kỹ thuật, ông Hiệu trưởng Ngô Văn Dư củng đổi về sài Gòn . Gặp ông ở chợ Bến thành, vẫn bộ veston trắng, đội nón nỉ trắng. Nắng Sài gòn ông đi mà chịu nóng. Mấy vì Hiệu trưởng kế tiếp, hình như ông

        Lịnh, ông Trịnh Văn Mười Hai, ông Nguyễn Vạng Hộ . Sau 1962 thành trường Trung học Đệ nhị cấp. Tôi mất liên lạc từ năm rời trường. Mỗi lần về quê ăn Tết, qua khỏi Long xuyên, tôi đi ngả Lộ Tẻ nên ít có dịp qua Châu Đốc. Trường đã xô tôi ra, suy lại

        thấy may nhiều hơn rủi . Nếu tôi được nhận, lại vào học Ban A (Khoa học) làm sao tôi theo nổi môn Lý Hóa, Vạn vật. Lại ù lì vô ích thêm vài năm nữa, chắc gia đình tôi điên mất. Năm ra

        trường, danh sách không có nhiệm sở Châu Đốc, tôi lang bang ở Sài gòn, rồi năm 1974 xin về Quốc gia Sư Phạm An Giang cho gần, Bộ Giáo dục lại đẩy tôi về Sư phạm Ba Xuyên .

        Năm 1971, Hội Cựu học sinh tổ chức họp mặt tại trường vào sáng mồng hai Tết. Tôi từ Tri Tôn ra trễ, được đón tiếp đưa đến chỗ ngồi, thế hệ cấp lớp tôi không có ai, lớp theo đơn vị quân đội, lớp như bèo trôi giạt bờ bến nào?

        Lớp trẻ, sau tôi độ năm, sáu năm, chuẩn bị dàn âm thanh đàn hát giúp vui ngày họp mặt. Bơ vơ không gặp được một người đồng lứa mình chia xẻ, tôi ngồi ngơ ngáo cả buổi. Trường Thủ

        Khoa Nghĩa không muốn dung chứa tôi, tôi ngồi lơ đảng, Ban tiếp tân quên cho ly nước, khát nước mà không dám xin, muốn lấy miếng bánh trên dĩa mà còn ngại ngùng, lạc lỏng.


        Năm xưa chim hót vang rừng
        Ăn chung trái ngọt, uống chung suối ngàn
        Năm nao chim đã vỡ đàn
        Lặng im tiếng hót, ngỡ ngàng cuộc vui .



        Lưu Nhơn Nghĩa
        thatsonchaudoc

        sigpic

        Comment


        • #5
          Như Cánh Chuồn Chuồn

          Để ấm lòng người dân Châu đốc xa xứ
          _____________________________________________



          *Phạm Thăng

          Để nhớ ơn các Thầy, Cô giáo nhân mùa Vu Lan.


          Là người Việt xa xứ, tôi sung sướng theo dõi bài Bốn Năm Với Trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa của tác giả Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa đăng trên Viên Giác 106, 107 và 108 nói về ngôi trường và các thầy giáo, cô giáo thân yêu ở Châu Đốc.


          Nơi chôn nhau cất rốn tôi là Vĩnh Long nhưng suốt quảng đường từ niên thiếu đến trưởng thành tôi đã sống tại thị xã Châu Đốc (1940-1952) vì ba tôi làm việc tại đó, thế nên tôi muốn đền ơn nơi nuôi dưỡng mình, đến năm 1954 khi nhảy

          vào đời báo chí, tôi đã nhiều lần viết về hai vùng đất thương yêu nầy... nhiều hơn nơi khác.
          Có lúc cảm thấy thẹn vì mang nặng đầu óc địa phương, nhưng lại nhớ câu:.. "trong lòng ai

          cũng có dòng sông quê hương.. "nên lâu lâu tôi lại viết về Châu Đốc, Vĩnh Long, cũng như găp bài nói về hai nơi đó là tôi đọc ngấu nghiến.

          Tôi cám ơn tác giả Phong Hưng nhấc đến ngôi trường của chúng tôi lúc thiếu thời. Tôi cám ơn tác giả đã gợi lại hình bóng các thầy xưa mà suốt hơn 50 năm, tôi vì mãi theo cuộc sống mà chưa lần nào về lại Châu Đốc để bắt chước ông Carnot

          trong sách Giáo Khoa, khi ông đến thăm thầy học. Hình vẽ ông Carnot đứng trước ông thầy giáo già của mình, tay để trên ngực, đầu hơi cúi, nói: "Thưa thầy tôi là Carnot đây.

          Thầy còn nhớ tôi không?.. "
          Trong số các thầy giáo mà tác giả nhắc đến, tôi đều được học qua, và để mong làm ấm lòng những người đồng hương lớn tuổi ở Châu Đốc đã từng học với

          các thầy cũng như giúp thêm tài liệu với tác giả Phong Hưng, mà có lẽ vì tác giả học sau tôi khoảng tám năm, nên không hiểu nhiều về ông đốc học Châu Vân Đồng, thầy Phan Cao

          Nhựt và cô Lê Hữu Thời...
          Các học trò già của Châu Đốc ngày xưa khi nhắc đến thầy cô Thời đều nhớ đến " "đôi uyên ương" đẹp đôi, nhỏ nhắn người và dạy học trò ngọt ngào, chưa bao

          giờ làm phiền lòng bạn bè đồng nghiệp. Tôi là bạn của con thầy, anh Lê Hữu Phương, một cậu trai nhu mì như con gái, ăn nói nhỏ nhẹ như cha mẹ. Tôi mến anh Phương và khi lên Sài

          Gòn du học, đã cùng đi chung với nhau. Thầy cô lúc nào cũng có nụ cười hiền dịu trên môi, trái lại, ông Đốc Đồng rất ít cười, nghiêm trang đạo mạo nhưng các học trò Châu Đốc những

          năm 1943 về sau đều nhớ ơn ông dạy dỗ nên học sinh ở Châu Đốc đậu cao hơn các tỉnh khác. Thầy là đốc học, nên được gọi là ông Đốc Đồng. Đầu ông hớt tóc ngắn, miệng không thấy nụ

          cười nên học sinh ngán lắm, nhưng ông rất thương và lo lắng cho học sinh. Mùa bãi trưòng, ông không nghỉ, hoặc đi chơi, mà tập họp các học sinh bị trượt vỏ chuối kỳ thi vào Trung học

          Phan Thanh Giản Cần Thơ để dạy thêm lớp Tiếp Liên.
          Nếu nói răn dạy học sinh lúc đó bằng cáo bạt tai, thì học sinh ngán ông Đốc Đồng hơn thầy Nhựt. Tại sao?

          Vì ông đốc không đánh trực diện mà lúc đi tới đi lui trong hàng ghế học sinh, khi thấy đứa nào phạm cái lỗi vô lý quá, ông đánh tạt ngang bằng mu bàn tay. Không quá đau nhưng học

          sinh lại tá hỏa hết hồn... Vậy là nhớ mãi cái lỗi văn phạm đó để không bao giờ phạm lại. Phải xác nhận là các vị thầy có đánh phạt học sinh nhưng từ đấy đến nay không một vị phụ huynh

          nào than phiền cũng như học sinh lúc nên người đều nhớ mà mang ơn các thầy.
          Tác giả Phong Hưng vì chưa biết rõ thầy Phan Cao Nhựt nên viết không đúng hẳn.

          Nếu kể lại như tác giả viết (trang 45, Viên giác 108) thì hóa ra thầy Nhựt dữ dằn lắm sao? Xin hỏi lại các anh bạn già ở Châu Đốc. Người thầy trắng trẻo mảnh mai, không có nước da ngăm ngăm, mà da mặt thầy lại có nhiều vết mụn sần sùi nên

          thường thấy ửng đỏ vào buổi trưa. Miệng thầy rất đẹp lại hay cười cười, khác hơn ông đốc Đồng không cười, nhưng học trò thầy Nhựt biết và thương thầy hơn vì thầy bị đau mắt hột (trachome) mà bịnh nầy buổi trưa nếu thiếu ngủ thì đôi mắt

          xốn xang khó chịu ...Hãy yên lặng chăm chú lo bài vở, đừng phá phách nói chuyện. Khi học sinh phạm lỗi như không thuộc bài, liếng xáo nói chuyện, thầy kêu lên đứng trước mặt, và cơn giận của thầy cộng với cái xốn của mắt bị cườm, thầy nắm tóc kéo đầu đập vô bảng đen cho đở giận...

          Vì biết vậy nên học sinh đều thuộc bài cũng như giữ trật tự những buổi đó. Ngoài những buổi trưa bị bệnh mắt cườm hành hạ đó thầy lúc nào cũng tươi cười khuyến khích học sinh.

          Thầy đã ra ngưòi thiên cổ cách đây bốn năm, và người còn nhớ ơn thầy... Nhấc đến thị xã Châu Đốc, tác giả Phong Hưng có kể vài rạp hát và thắc mắc rạp Tân kiểng bên hông chợ Châu Đốc do tôi viết trong chuyện Gạo Chợ Nước Sông in trong cuốn Xuôi Dòng Cữu Long (Làng Văn xuất bản năm 1990) ở đâu?

          Không thấy và đã "đi hỏi lung tung mà không ai biết". Tác giả có nhẹ nhàng phê bình: " có lẽ Phạm Thăng thương Vĩnh Long hơn Châu Đốc, nên đến Châu Đốc mà còn vương vấn quê mình! ".


          Rất tiếc là bạn Phong Hưng không hỏi tác giả Phạm Thăng(cùng một tòa soạn Viên Giác mà) và mùa Vu Lan tới đây tác giả Phạm Thăng sẽ xuất bản lại cuốn "Những Mảnh Đời Gạo Chợ Nước Sông " để cúng dường Tam Bảo viên Giác.

          Trong đó sẽ gặp đoạn nói về Tân Kiểng mà bạn Phong Hưng thắc mắc. Trong tập tuyển truyện nầy, tác giả chọn lọc những bài nói về giới cầm ca nghèo ngày trước lồng trong khung cảnh cũng như sự kiện, sự việc có thật mà nếu không nhắc lại thì

          giới trẻ hôm nay không biết. Với những sự thật đó mà nhiều đọc giả nhận xét như bạn Phong Hưng trích dẫn thì cuốn sách do nhà xuất bản Viên Giác sẽ mất bớt giá trị nên tôi phải nhắc lại nơi đây:

          "Như đã viết ở trên, tôi theo ba về ở tại thị xã Châu Đốc còn nhiều hơn Vĩnh Long, và khi bạn Phong Hưng đến học ở Châu Đốc, cái hồ nước đày lục bình trước nhà thầy giáo Thời được

          lấp và xây dựng phố xá mới có rạp hát Tân Việt chuyên hát tuồng Ấn Độ, chớ trước năm 1945, dân chúng thị xã Châu Đốc giải trí nhờ rạp hát Tân Kiểng, nằm ngang đầu chợ trong.

          Rạp hát tên Tân Kiểng vì ông chủ rạp là ông Phan văn Kiểng, ba của bạn tôi. Dù rạp hát dính liền với dãy phố nhưng vẫn có hàng hiên (veranda) để treo hình tài tử cũng như các bảng quảng cáo tuồng hát.

          Trước rạp hát không có sân nhưng nhờ cái sân chợ nên mỗi chiều nơi nầy có nhiều người buôn bán cho giới đi xem hát như: kẹo, bánh, hột sen rang, hột dưa, nước đá si-rô vv...

          Trong rạp cũng có lầu, có dành mấy bao lơn nhỏ riêng biệt (gọi là loge) để dành cho quan khách tai to mặt lớn. Dành riêng cho gia đình chủ rạp cũng có một loge nhỏ mà nơi nầy tác giả

          Phạm Thăng lúc bấy giờ thường giả bộ đến hỏi bài học với bạn Phan Duy Khiêm nhưng thiệt ra để ra cái loge nầy coi hát cọp.


          Giờ đây các bạn học sinh niên thiếu ngày trước đã từng học qua các thầy cô, dầu nghiêm trang hay vui tánh, dầu ở tỉnh nào... cũng không làm sao trả được ơn dạy dỗ vì các vị đã quy tiên...

          Hôm nay, nhân mùa Vu Lan báo hiếu, chúng tôi thành tâm đốt nến tâm hương để kính dâng các Thầy giáo, Cô giáo tận tụy ngày xưa.



          Lưu Nhơn Nghĩa
          thatsonchaudoc
          sigpic

          Comment


          • #6
            Như Cánh Chuồn Chuồn

            Ðôi lời phân trần
            __________________________________________________ ___________



            Phạm Thăng nhân huynh,

            Khi đọc bài "Gạo Chợ Nước Sông" trong "Xuôi Dòng Cửu Long", em tìm hỏi dân gốc Châu Ðốc và Vĩnh Long về rạp Tân-Kiểng.

            Một nhân sĩ uy tín gốc Vĩnh Long trả lời không cần suy nghĩ "Rạp Tân Kiểng ở Vĩnh Long" (nhân sĩ đó là ông N.L, bạn của nhân huynh). Từ đó em hấp tấp, đinh ninh nhân huynh gốc Vĩnh Long ắt "thương Vĩnh Long hơn Châu Ðốc".


            Em gởi lời xin lỗi muộn màng đến nhân huynh. Khi đọc bài "Ðể ấm lòng người dân Châu Ðốc xa xứ" và nhận được bức thư nhân huynh, em hỏi lại chính nhân sĩ đó, ông trả lời, "hình như vậy, lâu quá tôi quên, không nhớ rõ".

            Sau nhiều lần điện thoại, hẹn gặp một cựu "Trung Tá an ninh" Tiểu Khu Vĩnh Long, ông tự hào "chỗ nào ở Vĩnh Long tôi cũng biết".

            Ông kể hàng giờ về Vĩnh Long, lúc hỏi về rạp Tân Kiểng ở Vĩnh Long, ông trả lời "ừ, tôi nhớ hình như là, cái... cái... à, ở miệt...". Cám ơn hai ông, đủ rồi!

            Ðiện thoại viễn liên bao nhiêu lần mới liên lạc được một cựu học sinh Châu Ðốc (thế hệ 1948), anh chỉ biết rạp Lạc Thanh ở đầu chợ Châu Ðốc, anh gốc Bình Di Bắc Nam, đến Châu Ðốc trễ nên trước đó không biết.

            Cách đây nửa giờ, tình cờ khám phá ở Melbourne có một nhà giáo trên 80 tuổi đã từng dạy học ở Châu Ðốc, điện thoại hỏi

            thăm, thầy có cho biết về rạp Tân Kiểng đúng như nhân huynh đã viết trong bài "Gạo Chợ Nước Sông" và bài "Ðể ấm lòng người dân Châu Ðốc". Nhưng sau năm 1945, rạp Tân Kiểng đổi chủ nên có tên mới là Lạc Thanh.

            Em ra Châu Ðốc năm 1952. Nếu nói rạp đầu chợ Châu Ðốc là rạp Tân Kiểng năm 1945 thì nhân huynh đúng, em sai. Nhưng nói rạp đó là rạp Lạc Thanh năm 1952 về sau thì em đúng.


            Lại kể tiếp, nếu nói năm 1997, đầu chợ Châu Ðốc có rạp Tân Kiểng hay rạp Lạc Thanh thì nhân huynh và em đều sai.

            Chợ Châu Ðốc được cơi lên cao hơn một thước rưỡi, rạp hát bị san bằng, nền rạp được chia lô bán cho bạn hàng cất sạp buôn bán. Từ đây, nếu về thăm Châu Ðốc nhân huynh sẽ không tìm thấy rạp Tân Kiểng, em cũng mất rạp Lạc Thanh.

            Thế hệ sau, nếu tình cờ đọc chuyện chúng ta, cũng sẽ như em "hỏi lung tung mà không biết rạp Tân Kiểng - Lạc Thanh ở đâu", mà có ai lẩm cẩm như chúng ta tốn giấy tốn mực về rạp Tân Kiểng - Lạc Thanh, người ta bận chạy mánh, "miếng đất đó mấy cây", "tiền Mỹ lớn hơn tiền Úc".

            Riêng rạp Tân Việt đứng cô đơn, cũ kỹ, buồn nản, thường làm chỗ hội họp, đại nhạc hội, người đi lèo tèo, trước sau cũng dẹp, ai cũng có "đầu máy" xem phim tập ở nhà.

            Cuộc hý trường dâu bể, ai buồn hơn ai! Ở Châu Ðốc 6 năm, em coi hát chưa tới 20 lần. Xem ciné Chủ Nhật, sợ ông già ở quê ra bất tử thì no đòn.

            Ban đêm coi hát về trễ, ngại ngủ hàng ba muỗi cắn thành ghẻ ngứa. 4 năm Trung Học thường đội sổ, chơi quanh quẩn nhà ở khu phố Ông Ðốc Công Cường đường Bảo Hộ Thoại (phố số 46 Bảo Hộ Thoại ngày nay là nhà ông Ðốc Ðồng), chưa qua ngang

            thành lính tới tiệm rượu hay đất Thánh Tây. Chỗ xa nhứt là Xóm Nhà Thờ, mỗi năm chỉ dám theo bọn nó đến đó vào dịp Noel, ngó những gian hàng bán thịt chó và xem lồng đèn ngôi sao.

            Em chưa dám bước chân vào Ðình Thần Châu Phú, vì gốc Tàu, chưa quen hội hè Việt Nam. Ngược lại, cũng không dám léo hánh tới chùa Ông Bổn, sợ gặp mấy cha Chủ Tiệm quen với ông già thì "can khấu" (gian khổ).

            Em nghe rất nhiều địa danh thuộc Châu Ðốc như Cồn Tiên, Tân Châu, Châu Giang, Bình Di v.v...

            (những địa danh nhân huynh thường nhắc) nhưng chưa dám bước xuống đò qua Châu Giang, chưa biết mua vé đò, sợ đòn và sợ đò chìm mùa nước, sợ người Chàm thư da trâu vô bụng (theo lời đồn).

            Các Thầy, Cô, thời nhân huynh, dạy Tiểu Học, thời em, hầu hết đều lên Trung Học dạy. Em quên nhắc Bà Ðốc Mót, trên 95 tuổi rồi, hiện ở Paris, là Sư Cô Trí-Tâm. Thầy Nhựt thời nhân

            huynh "trắng trẻo" (1940), thời em (1958), 18 năm sau, thầy đã già ,sức khoẻ kém, da thầy ngâm đi. Ngày ấy, em sợ các thầy như sợ cọp, bây giờ, sợ học trò như sợ quỷ.

            Trở lên là chuyện trường xưa, thầy bạn cũ. Ngoài duyên văn nghệ và tình đồng hương, nhân huynh đã tặng em một món quà vô giá. Xin chia sẻ với nhân huynh và độc giả.

            *

            * *


            Cuối tuần nghỉ lễ mùa xuân, thứ sáu 24.9.99 đúng ngày Rằm tháng Tám, Trung Thu, chúng tôi tổ chức buổi họp mặt ở nhà một người bạn vùng quê ăn bánh thưởng trăng.

            Khoảng 12 giờ trưa, bà già tôi bỗng lên cơn, bị bịnh dằn vặt, mắt mất thần, cứng miệng, mê mẩn không uống thuốc được.

            Thường thì bà nói lảm nhảm, tiếng Miên, như nói chuyện với ma, có khi nói tiếng Tiều hoặc tiếng Việt. Tình trạng càng lúc càng tệ, trong lòng không thấy yên tâm để bà ở nhà cho thằng con tôi giữ.

            Chán quá, tôi nằm uể oải, bực bội, nếu tệ hơn, sẽ phải gọi Ambulance đưa vào nhà thương, lại phải ngủ nhà thương như những lần trước, nghĩ đến mà chán chường.

            Thằng con tôi xuống mở thùng thư, mang lên cho tôi một bưu kiện, liếc thấy tên nhà văn Phạm Thăng, mừng quá, lay hoay tìm không thấy cây kéo, nên xé toạc bao giấy cho nhanh.

            Mở ra thấy quyển "Tiền Tệ Việt Nam" (đang định đặt mua mà anh gởi tặng), một cuốn kinh Quan-Thế-Âm, một lá thư và bức ảnh Quan-Thế-Âm. Trong thư, anh căn dặn "lộng kiếng để trên đầu giường cho Má nhìn, may ra Bồ Tát phò hộ bớt bịnh...".

            Lúc đó bà già đã mê rồi, hơi thở đứt đoạn. Nghe lời anh, tôi đặt quyển kinh và bức ảnh Quan-Thế-Âm trên ngực bà, la lới dặn bà niệm Phật.

            Bà vẫn lảm nhảm, ú ớ, nhưng hơi thở nhẹ dần, niệm tiếng còn tiếng mất. Lúc đó đã 3 giờ hơn. Tôi để bà dựa vào ghế, gọi điện thoại hồi buổi tiệc Trung Thu.

            Ðang ba điều bốn chuyện, liếc mắt thấy bà tỉnh lại thấy rõ, hơi thở đều, mở mắt tỉnh táo, tiếng niệm Phật rõ hơn. Tôi la lớn "Xiếm niệm Phật mau lên, mau lên!".

            Tôi đổi ý ngay trên điện thoại, dặn bạn bè chờ tôi đi cùng. 3 giờ 40 bà tỉnh hẳn, cho bà ăn cái bánh ngọt, uống thêm viên thuốc trợ tim. Tôi dặn bà tiếp tục niệm Phật, ôm bức ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát, rồi thay đồ xuống xe chạy đi, quá trễ rồi.

            Ðể lại bà cho Ðức Quan Thế Âm phò hộ và thằng con tôi săn sóc cơm tối cho bà. Gần 2 giờ sáng, về nhà thấy bà ngủ bình yên.

            Ðây là một ứng nghiệm thiêng liêng mà tôi từng trải qua nhiều lần niệm Hồng Danh Quan Thế Âm.

            Nghe lời anh Thiện-Lộc PHẠM THĂNG, tôi lộng kính bức ảnh Quan Thế Âm để trên bàn Phật.

            Anh Thiện-Lộc đã đúng lúc tặng phước đức cho mẹ tôi. Món quà phước đức vô giá, rất cám ơn anh. Mong ngày nào anh ghé Brisbane, em quét sân tiếp đón, àn cơi pệt chíu, rượu trắng gà vàng.



            Lưu Nhơn Nghĩa
            thatsonchaudoc
            sigpic

            Comment


            • #7
              Như Cánh Chuồn Chuồn

              Chuyến Xe Cuối Năm
              _____________________________________________



              Thân tặng Trương văn Tấn.
              Scheidegg.Tây Ðức.


              Bóng cây thốt nốt ngả dài trên cánh đồng, bơ vơ giữa đám khói đốt đồng mờ như mây trắng, sót lại những gốc mạ màu xám tro.

              Mãy chiếc xe bò đủng đỉnh từ xóm hai bên đường chở đầy những bao lúa cùng mấy người bạn hàng chờ xe.

              Mãy con bò cui cựa quậy, quẩy đuôi đuổi muỗi mòng, thở phì phò, tiếng lục lạc leng keng. Gần ba giờ chiều cuối năm, chuyến xe trên đường về bỏ lại sau đám bụi mịt mù.

              Chú bảy Tề bớt ga tắp xe vô lề, bơ phờ, lơ đãng nhìn mấy người lơ xe đở những bao gạo từ xe bò lên xe hàng.

              Chú bảy Tề nghe thoang thoáng tiếng trả giá giữa người tài phú và bạn hàng, đám người này không làm chú quan tâm. Trong xe nóng như lò thiêu, ‘chạy’ anh lơ xe la lớn, chú bảy sang số xe cọc cạch, xe lăn bánh chậm chạp.

              Con đường vô núi lồi lỏm, đá xanh lởm chởm, thùng xe nghiêng ngửa nhảy nhún kèn kẹt than thở, cứ như sắp sửa rớt ra từng mảnh một. Những cụm tre già bên đường dương lá quét xoàn xoạt trên cửa sổ xe.

              Bạn hàng chen chúc lắc lư trong xe hay ngất ngưởng trên mui quen thuộc với thứ âm thanh khó chịu này, nhứt là tiếng cười nói xô bồ pha lẫn tiếng heo kêu en ét và gà vịt trong giỏ tre.

              Quần áo lam lũ, sáng sớm họ theo xe vào Sóc Miên bắt heo, mua gà vịt, lúa thóc chở về chợ bán.

              Chiếc xe ọp ẹp, con đường gập ghềnh bụi bặm mùa nắng, lầy lội vào mùa mưa là phương tiện và sinh lộ cuối cùng của họ, dù con đường đã trở thành cấm địa lâu rồi, sau năm Mậu Thân. Họ cười nói hay cằn nhằn tùy mức độ lời lỗ trong ngày.

              ‘Trái cây bây giờ mắc quá, mắc hơn hồi đó, đánh hoài ai dám lên núi mua’, một bà than thở, tay vịn trên thúng trái thanh trà và mấy trái sa kê.

              Chệt Bá cũng góp chuyện ‘Heo bây giờ lên xuống hổng chừng hổng đổi!’. Sinh hoạt trên xe giống sinh hoạt chợ búa. Chợt dì Tam ngưỡng cổ ra trước hỏi:

              ‘Nghe nói ra giêng anh Bảy nghỉ hả?’ Giọng thờ ơ của dì Tam, hỏi cho có hỏi, chú bảy Tề trả lời theo tiếng thở ra ‘Dà’. Dì Tam an ủi lấy lệ ‘Thôi già rồi, nghỉ cho khỏe, tui ráng đi tại bầy con đông quá’.
              Chú bảy Tề im lặng, tay giữ cần số lụp cụp.

              Hôm nay là ngày cuối cùng đời tài xế, bằng lái xe hết hạn mấy tuần rồi, chủ xe giữ chú lại đến cuối năm để tìm người khác thay thế.

              Mệt mỏi rã rời trước sự thay đổi chú chưa nghĩ tới hay không dám nghĩ đến có ngày như hôm nay.

              Chú cầm tay lái, nhìn bơ phờ về phía trước, con đường xám bên trái là núi đồi xanh, bên phải đám ruộng xám rải rác những túp nhà lá xa xa.

              ‘Mau quá’ chú lẩm bẩm.
              Dì Tam nhắc đúng lúc, chú Bảy cười gượng gạo một mình, uể oải chuyện trò. Chú quên mất mình đang lái chiếc xe cũ kỷ ọp ẹp. Trên đường này, mỗi hòn đá xanh, mỗi gốc me già với bước thăng trầm qua mấy mươi năm.

              Xa lúc chú về đây, chỉ vỏn vẹn mấy chiếc xe đò cũ của hãng Tân Thành và xe ông Bảy Ðạo Chuối. Chú hân hạnh lái chiếc xe Renault mới kéo về, hiệu Lợi Thành.

              Chức ‘Sớp phơ’ chú mang không cao trọng như thầy ký thầy thông ngôn, nhưng không tầm thường như dân lao động khác. Hơn nữa, chú hãnh diện cầm xe mới chạy, dễ gì tìm được tài xế xe hàng bốn dấu xứ này.

              ***


              Mỗi buổi sáng, dù mưa hay nắng, chú bảy Tề trong bộ pyjama lụa lèo ủi thẳng, đầu đội nón nhung Fletcher đỏ, thong dong tới tiệm nước ngồi cà phê hủ tiếu, bình tỉnh hút thuốc nhìn chiếc xe màu xám đậu trước chợ.

              Mấy anh lơ xe hì hục chất chồng những bao gạo lên xe. Hàng hóa ngổn ngang, bạn hàng và bộ hiền lào xào tìm chỗ ngồi, ngong ngóng nhìn chú Bảy. Họ thích đi xe mới, ít nằm đường, chạy mau kịp buổi chợ đông, rau trái không hư hao, về nghỉ ngơi sớm.


              Chú bảy Tề thong thả hút thuốc, ai nôn nóng mặc ai, chú là người quan trọng trên xe này.

              Mãy người lơ nghe lời chú răm rắp, chú lại được dân phố và thầy chú tin cẩn nhờ chuyển thư tay ra tỉnh.

              Ðến giờ chạy, chú sửa lại áo, nghiêm trang ngồi trước tay lái, anh lơ xách tay quay, quay mấy vòng cho máy nổ dòn. Sau xe, bộ hiền chen chúc, xóc xẩy, rộng chỗ hơn.

              Xe đi ngang thành Phú lích, chú vẩy tay chào anh lính đứng gác, quen mặt hết. Ngay đến cò Hiến Binh đầu đỏ nể nang chủ xe, ít phạt vạ khó dễ chú.

              Ðến qua chợ Cây me, chiếc cầu bắc ngang kinh Tám Ngàn, cầu run rẩy đáng sợ, tài xế tay yếu dễ để xe va vào lô cốt bên cầu lấn ra lộ.

              Quá quen thuộc đường, chú không cần chú ý đến những ổ gà trước tha la chùa Tà đét; đổ dốc núi ‘Bà đội om’, qua cầu lỏng lẻo, hố sâu thăm thẳm, chú thường ghé chở những cà ròn khoai núi, những quày chuối xanh.

              Tới chợ Phong Chưng, bộ hiền Miên xuống trống xe, chú thản nhiên nghỉ ngơi nửa giờ giải khát, mặc mấy người lơ xe ơi ới gọi nhau lên xuống hàng hóa.

              Dốc Nhà Bàng nghiêng cao ngất xuyên qua hẻm núi, trên đỉnh cao, tảng đá chất chồng chênh vênh hình mỏ két làm nhân chứng thời gian.

              Chú thích ngâm nga hai câu thơ quen thuộc:
              ‘Ðèn nào cao bằng đèn Châu Ðốc?Dốc nào đứng bằng dốc Nhà Bàng?’Qua khỏi dốc, ghé chở những cần xé mảng cầu, củ sắn, tùy mùa.

              Xe đến chợ Nhà Bàng, đậu chờ khách từ Tịnh Biên đổ sang, chú Bảy ngong ngóng người bộ hiền đặc biệt thường mang cho chú phút giây nhẹ nhỏm.

              Cô Út, người bạn hàng buôn bán hàng nhảy dù Nam Vang xuống. Cứ nhìn kiếng chiếu hậu, chú Bảy luôn luôn cảm tưởng cô Út cười riêng với mình, bốn mắt gặp nhau trao đổi lặng lẽ nhờ khung kiếng chiếu hậu mối mai.

              Hàng hóa cô Út không cồng kềnh được xếp cẩn thận, thường khi cô Út được ngồi ngay trong cabine bên chú Bảy.

              Cô Út luôn luôn bắt đầu, ‘Anh Bảy à’, giọng nói cô Út chơn chất, nhỏ nhẹ chan hòa tình cảm.

              Câu chuyện đơn sơ của người thiếu nữ vất vả ngược xuôi, chuyện lời lỗ khó đoán trước, quanh đi quẩn lại được kéo dài suốt khoảng đường Nhà Bàng - Châu Ðốc.

              Mùa mưa, trời lành lạnh, quạt nước quét xành xạch trên kính mờ, trong cabine là thế giới yên tỉnh ấm cúng dành cho hai người. Chú Bảy chắc lưỡi, ‘nghe cô Út cực khổ, qua thấy thương, chờ qua khá, qua kiếm xe hàng đường Sàigòn gởi gắm!’.

              Cô Út cúi đầu, tóc nâu sẩm, da sạm nắng mưa hai mùa, làm sao so sánh với mấy cô giáo làng, bà thông bà ký.

              Chú Bảy và cô Út gần gủi nhau nhờ cùng chia quảng đường này, để ý chi màu da đen trắng. Trắng da vì bởi phấn dồi; Em đen vì bởi em ngồi chợ trưa mà! Cô Út bôn ba, quên mất da mặt càng ngày càng đen, có lần chú Bảy lả lơi:

              ‘Trắng như bông, lòng qua đây không chuộng; Ðen như cục than hầm mà lòng muốn dạ ưa!’Cô thấm thía tình nghĩa nồng nàn, xe nhúng nhảy trên đường lồi lõm đưa đẩy cô Út ngồi ép vào chú Bảy.Hai bên đường, ruộng lúa mạ dợn sóng như biển xanh man mác.

              Cô Út man man trong lòng, mắt lim dim thèm ngả đầu trên vai chú Bảy để nghe chú kể chuyện. Tháng mười tình cảm cô Út nồng nàn theo màu lúa chín vàng hực cánh đồng.

              Nghe chú Bảy trầm trầm: ‘Em à, lúa xanh quá hả em Út? Út à! Lúa vàng thơm quá hả em?’
              Con đường hẹp gồ ghề, chú Bảy rất tự tin.

              ‘Ðường này tay lái yếu dễ sụp ổ gà, có khi lủi xuống ruộng nữa nghe em! Qua kinh nghiệm, đi xe qua, em đừng sợ.

              Cô Út im lìm nghe chú. Trong cabine, tiếng máy nổ rì rầm, tiếng thùng xe lắc lư kèn kẹt, tiếng bánh xe cán rào rào.

              Cô không nghe gì ngoài giọng nói của người ‘sớp phơ’, cô tin tưởng và thán phục nhìn chú sang số tay lụp cụp, hai chân chú đạp ga và thắng nhẹ nhàng trông thật dễ dàng, hay nhứt là chú ‘de’ xe vào chỗ đậu chật hẹp, tay bẻ lái mạnh coi thật oai.
              Xe chạy đến núi Sam, chú Bảy kể:

              ‘Hồi mười mấy năm trước, chân núi Sam ăn ra tới bờ lộ này. Sau đó, Tây cho thầu hầm đá, lấy đá chở đi, bây giờ núi cứ lùi xa đường lộ.

              Lâu lâu em nghe tiếng súng bắn đá nổ ầm ầm đó!’
              Xe chạy gần tới Miểu Bà Chúa Xứ, chú bớt ga cho xe chậm lại dặn dò:

              ‘Bên mặt mình là Lăng Ông Thoại Ngọc Hầu đó, xưa ông khai phá vùng này, mà không biết mả mồ ông ở đâu bây giờ? Chỉ còn cổng sơn trắng và những bực làm bằng đá ong đó. Ðiêu tàn quá hả em?’
              Chú tiếp tục thành kính giở nón:

              ‘Tới Miểu Bà rồi, ngày vía Bà năm nào cũng đông và vui lắm. Tới ngày đó qua ngừng cho em tới cúng kiến và vay tiền Bà, để làm ăn cho khá.

              Tiền Bà hên lắm em à! Còn bên kia kìa, em thấy tượng chú Tiểu Kỉnh Tâm bồng đứa con Thị Mầu, đó là Chùa của Phật thầy Tây An đó. Ðiêu tàn rồi, ở trong không còn gì hết, xưa, người dẫn dắt dân ăn hiền ở lành!’

              Mỗi địa danh là một câu chuyện, thời gian trên xe vì vậy ngắn ngủi. Chạy khỏi chợ Ðầu Bờ một đổi là Bar Thanh Ðạm. Hôm nào từ Châu Ðốc về trễ, mưa gió tối trời khi chạy ngang qua Bar Thanh Ðạm vắng vẻ, chú Bảy kể nghe rợn người:

              ‘Hồi đó lúc qua mới chạy đường này, bữa nào về trễ thấy mấy cái bóng người đứng đón xe, họ trèo lên mui ngồi cười hăng hắc. Chạy chừng một đổi đường thì họ đâu mất hết. Hồi đó, Bar Thanh Ðạm sung lắm.

              Chiều, dân thầy chú ở chợ Châu Ðốc ưa rủ nhau vô Bar Thanh Ðạm ăn nhậu hứng gió mát. Hôm đó xe về trễ vì phải lòi hàng Sàigòn về, vừa qua khỏi Bar chừng vài cây số tới Ðầu Bờ Núi Sam thì nghe tiếng súng.

              Qua sợ quá, chạy trối chết, không dám rước khách dọc đường. Bữa sau mới có tin nhiều người bị bắn chết tại đó. Quán bị dẹp luôn. Em thấy Miếu Cô Hồn đó không? Linh lắm à! Lâu lâu họ hiện lên đón xe quá giang.

              Cô Út ngài ngại, nép sát vào chú Bảy, lén nhìn gương mặt trầm tỉnh, cô thấy yên ổn được che chở, một cảm giác vừa thú vị, vừa lo sợ không nói được lời nào, chỉ ước được ngồi bên chú mãi mãi ...

              Xe đến trạm Control tỉnh, anh cảnh sát quen mặt bước ra bắt tay ‘mạnh giỏi anh Bảy!’. Tấm giấy mười đồng trong lòng tay chú kín đáo dính vào tay anh cảnh sát.

              Nhờ sự trao đổi ngắn ngủi này nên những món hàng Nam Vang qua lọt, số bộ hiền quá hạn được trạm Control lờ đi.

              Nét mặt tươi tỉnh cô Út là niềm vui lây của chú Bảy. Hôm nào bố ráp lỗ lả, nhìn gương mặt xuôi xị lo âu cô Út, chú Bảy ái ngại buồn lòng, hai người san sẻ nỗi vui buồn trên chuyến xe này. Ðể đền bồi, cô Út săn sóc chú Bảy kín đáo, dành gói thuốc lá và trái cây ngon, ‘Ðể cho anh Bảy à nghe’.

              Xe đến bến, chú mở cửa xuống bên cô Út, mấy anh lơ biết ý, lựa đồ đạc Cô xuống trước để kịp buổi chợ đông, chú Bảy gật đầu vừa ý, thong thả chờ ra quán ăn cơm trưa, rồi ngồi nghỉ uống cà phê đá, hút thuốc thản nhiên nhìn lơ xe quần quật lo hàng hóa cho chuyến xe về.

              Bộ hiền than phiền mặc lòng, chú Bảy là sớp phơ, vua trên xe, chỉ có cô Út dám hối chú chạy nhanh chậm hơn thôi.


              Chuyến về nặng nề không kém chuyến ra, thích nhứt là mùa mưa, xe đi chậm, cố ý hơn cẩn thận, về trễ có lý do, miễn là cô Út còn ngồi lâu bên chú, lột quít ‘Ăn quít nè anh Bảy’, rồi cô ghé trạm Nhà Bàng, đón xe về biên giới Tịnh Biên, chú ngồi

              quán bên chợ, nhìn cô Út thoăn thoắt lên xe lôi, ly la ve lạnh mát cổ và điếu thuốc tỏa khói thơm khoan khoái vơi hết mệt nhọc, yên chí vài ngày sau người bạn hàng ‘mặt rổ hoa mè ăn

              nói có duyên’ trở lại.
              Năm này sang năm khác, chủ xe rất biết điều, cung cấp vật chất đầy đủ, chưa lần nào dám phật lòng chú Bảy. Cà phê hủ tiếu sớm, cơm trưa, món ăn tuỳ ý chú

              chọn, mỗi ngày một gói thuốc hút đương nhiên. Chai la ve ở quán Nhà Bàng chủ lắc đầu, nhưng chú Bảy thản nhiên tiếp tục, người tài phú phải trả tiền chai la ve. Gặp chuyện trái ý, chú Bảy nghiêm mặt ‘hứ’, bỏ về, chủ hấp tấp chạy theo hỏi

              han, ‘chuyện gì vậy, đâu còn có đó mà anh Bảy!’. Sau mỗi lần như vậy, chủ chìu chuộng chú Bảy hơn, dịp cho chủ hãng xe khác đánh tiếng mướn chú.
              Giao xe là giao cả gia tài chủ xe cho chú Bảy. Chú Bảy thường nói ‘Dễ quá mà, muốn xe uống xăng như uống nước hông? Muốn xe sụp ổ gà cong nhíp hông?

              Muốn vỏ xe bị đá chém hông? ...’ Những câu hỏi cảnh cáo thường nghe khi uống say. Ðối với bọn lơ xe, ‘thơm thảo, ta ngừng cho bây rước thêm khách dọc đường kiếm chút cháo;

              nếu buồn ta bỏ chạy luôn, ai đói cho biết’. Say thì nói vậy, chủ xe phải dịu ngọt, hậu đãi sớp phơ, nhớ lì xì tết hậu hỉ, vợ con sớp phơ đau yếu chủ đùm bọc. Chú Bảy vì vậy lái xe khéo léo.

              Tùy lúc mau, lúc chậm. Nhờ xe mới, chú có thể luôn luôn vượt qua những xe cũ kỹ chậm chạp khác. Chú chạy trước xe địch thủ chừng năm cây số, hốt hết khách dọc đường, xe sau chỉ lãnh bụi, đói dài.

              Nhờ vậy, mấy năm sau, chú lại được giao xe mới khác, và dĩ nhiên cô Út tiếp tục đón xe theo chú.
              Có dạo, tình cảm cô Út đối với chú lợt lạt, vì hoàn cảnh, xa mặt cách lòng. Cô buôn bán khá hơn, lên tận Nam Vang, mỗi tháng về hai lần là nhiều.

              Hàng cô cẩn mật che đậy, mắt cô lanh lợi, và nhứt là gương mặt khó dấu sự căng thẳng mỗi lần gần đến trạm Control.

              Quà cô dành cho chú Bảy không phải là những chục quít ngọt đậm đà như trước, cô thường lựa lúc vắng người đưa riêng cho chú Bảy những gói thuốc thơm đầu lọc gói giấy báo, tránh tai mắt.
              Vắng cô Út lâu, chú Bảy lầm lì ít nói, thỉnh thoảng nhìn lên

              kiếng chiếu hậu hy vọng tìm đôi mắt cô Út, chú chỉ bắt gặp đôi mắt bơ phờ của chính mình.
              Lần đó, cô Út đột ngột xuất hiện, chiếc nón lá che mặt cố ý như muốn tránh giấu điều gì, đi xăm xăm đến xe chú Bảy cô mở miệng chào ấp úng. Chờ xe chạy, cô Út thở phào, nỗi sung sướng dạt dào hiện lên mặt chú Bảy.

              ‘ Cả tháng nay mới gặp à, khá không em? Gặp mặt em đây mới biết em còn, hồi năm Thìn bảo lụt anh khóc mòn con ngươi’.
              Cô Út lại kể chuyện, ‘khi lời khi lỗ anh Bảy à, lần này bị gạt, đường lên Nam Vang mất an ninh, qua lại sợ lắm, bửa

              hôm, ấp Vĩnh Lạc bị đốt, bò bị lùa mấy chục con, em tính về Xà Tón mua bán hàng bông, lời ít mà đỡ sợ’. Cô Út im lìm, lần đầu tiên chú Bảy thỏa lòng vì sự thất bại của cô Út, chú nghĩ, từ đây, cô sẽ đi lại hàng ngày trên chuyến xe này.

              Mưa gió mịt mù, dốc Nhà Bàng nghiêng, chú lái thật chậm, lách tránh những vũng nước và chỗ đường lở vì nước trên núi đổ xuống, xe càng sóc xẩy, cô Út càng ngồi sát chú hơn, tâm trạng người ‘giả đò, mua khế, bán chanh’.

              Hai người lại nhìn lên kiếng chiếu hậu, hai gương mặt như mất hồn, buồn bả.

              ***


              Cuộc đời thăng trầm chú Bảy gắn liền với cô Út. Cô đi thêm mấy chuyến Nam Vang, mạo hiểm vì tiếc của rồi bặt tin luôn.

              Chú Bảy buồn nản, một chai la ve ở quán Nhà Bàng bị chủ nhắc khéo, chú tăng thêm hai chai cho vơi nỗi nhớ thương cô Út. Chủ xe bớt tin tưởng khả năng chú như trước nên có vài sự thay đổi gây bực mình cho chú, lơi mời cà phê sáng, bận quá

              thường quên đưa gói thuốc hút hàng ngày, sau khi chú lái va thùng xe vô lan can cầu Tà Ðét, lủi vô hàng rào nhọn làm nổ vỏ xe. Họa vô đơn chí, chú đụng chiếc xe lôi chạy cùng chiều làm vài người bị thương nhẹ; từ đó mỗi lần uống la ve ở quán

              Nhà Bàng, người tài phú bận rộn giao hàng không có thời giờ, quên ghé quán trả tiền. Chú Bảy bớt thấy ngượng ngùng hẹn nợ la ve đến cuối tháng khi bà chủ quán dặn đứa ở nói, ‘mười

              bốn chai rồi nghe cha nội!’
              Ðiều ngạc nhiên và đáng giận là chủ xe lại sắm thêm chiếc Ford chở hàng đường Sàigòn, giao luôn cho tên tài xế non nớt trẻ lái. Trong buổi nhậu chiều, rượu vào lời ra, chú Bảy ngất ngưỡng vỗ đùi gay gắt, ‘sắm xe mới hổng

              hỏi tôi một tiếng, giao cho thằng con nít cầm lái, nó là đệ tử tui mà, hứ!’ Chú gằn mạnh tiếng ‘hứ’ cốt cho đám lơ xe ngồi nhậu chung nhắn lại chủ xe, khôn hồn thì tới phân trần xin lỗi, chú

              sẵn sàng bỏ qua không chấp nhứt. Tiếng ‘hứ’ nặng nề, chú cảm thấy hình như mất cả uy lực, mỗi sáng chờ đợi chủ xe vỗ vai mời cà phê, chú Bảy đều thất vọng. ‘Ôi! Nghỉ lúc nào cũng được, hãng Tân Thành kêu tui cầm chiếc Fargot mới, tui còn

              chưa chịu mà, tui bỏ là đám Lợi Thành này tỏ tịa, đừng nói chơi!’ Mỗi chiều về, đi ngang nhà bà chủ hãng Tân Thành, chú Bảy cố ý chào, bà chủ ngồi gật đầu cho có lệ, ‘Ừ, để coi ai đủ tài lái chiếc Fargot mới’. Ðám đệ tử lái xe đường Sàigòn, mỗi

              chuyến về mập tiền cà phê nhờ chở thêm hàng dọc đường, mà đám này sao lái xe cứng hơn chú? Chú Bảy có lái tạm vài chuyến Sàigòn, đua chen qua phà Vàm Cống - Mỹ Thuận,

              tranh ưu tiên qua cầu Bến Lức - Long An, về đến nhà mệt rã rời, vợ con nheo nhóc, hạn chế la ve, vợ chú chỉ đủ khả năng cung cấp rượu trắng. Chủ xe sắm thêm mấy chiếc xe hàng, mở nhà máy xay lúa, trạm xăng, hãng nước mắm, chú Bảy nghèo

              thêm, cuộc đời chú tưởng đã cơ cực tận cùng, chưa đâu! Xe chú lái đổi chủ. Mấy mươi năm, xe bắt đầu hư hỏng, chú phải sửa chữa hàng ngày. Chiều nào cũng về trễ, áo quần tay chân bê bết dầu mỡ, mệt nhoài, cái áo thun trắng thành màu xám, ẩm mùi mồ hôi, lương tháng khi thiếu khi trễ.

              ***


              Chiếc xe lao chao khập khễnh trên đường, đầu chú lơ mơ nằng nặng sau ly rượu tiệm tạp hóa, ‘tội nghiệp chú Xi, rót rượu thuốc mời’, từ chối sao đành, ‘dù đầy ly chú cũng uống cạn, nói gì có nửa ly’. Rượu thuốc như luồng điện nhẹ len qua máu

              thêm sinh lực, chú cảm thấy mạnh mẽ hơn. Chú lẩm bẩm một mình, ‘phải chi con Út nói nghe lời, theo xe mình buôn bán hàng bông thì đâu đến đổi, đua tranh làm chi vậy! Út ơi, em đi biệt tăm biệt tích bỏ qua một mình vậy em!’

              Xe củ kỹ chậm quá, chú Bảy nôn nóng, đáng lẽ giờ này về tới rồi, nhưng từ sáng tới giờ xe trục trặc, cạo vít lửa mấy lần, rồi đợi xe nhà binh vô phá mô. Gương mặt chú Bảy đen gầy guộc, nổi mấy đường gân xanh hai bên thái dương, mặt đỏ lừ đừ mất

              hết vẻ linh hoạt. Mặt trời sắp lặn sau núi, đợt nắng chiều cuối năm bảng lảng vấn vương trên những ngọn thốt nốt, vài tiếng pháo đì đẹt từ xa. Tay chú dã dượi, thấy đau nhói ngực, ngước mắt nhìn tấm kiếng chiếu hậu tìm cô Út, chú bắt gặp gương

              mặt hóp, màu da vàng nghệ đáng sợ của chính mình.
              Chú vẩn vơ thương nhớ, trong óc lãng vãng hình bóng thời niên thiếu ẩn hiện đứt đoạn. Chú đang lái chiếc xe Renault Lợi Thành

              nghiêng ngữa trên dốc Nhà Bàng, Chú nhận hết ga, máy xe nổ dòn dã, xe đổ dốc vùn vụt, mặt cô Út ngồi bên đầy vẻ thán phục, cô ngả đầu trên vai chú tìm sự che chở, chú nuốt múi quít ngọt lịm, nghe cô Út nhẹ nhàng ‘Ăn quít đi anh Bảy’.
              Hai

              cánh tay run rẩy vuột khỏi tay lái sứt mẻ sần sùi, chú chưa kịp phản ứng, xe đã va vào gốc me già bên lộ, ngực chú đập nhẹ vào tay lái. Nghẹt thở, chú lảo đảo bước xuống xe ngồi bệt trên vệ đường, nhướng mắt nhìn, chú nghe thoang thoáng

              trong cơn mơ tỉnh tiếng người nôn náo la ó lẫn tiếng gà heo inh ỏi, hai tay chú quơ quào tìm điểm tựa đứng lên, rồi ngồi xuống.
              Anh lơ kéo cần số, xe lui lại, kiếng xe vở rơi lẻng xẻng, anh đở chú Bảy lên xe đóng sầm cửa lại, khinh khỉnh nhìn chú,

              chửi thề, ‘mẹ họ, permit hết hạn mà đụng đâu nhậu đó bất kể hà!’
              Chú Bảy Tề dựa nghiêng trên ghế, miệng há hốc ngô nghê, cố gắng nhướng đôi mắt ngờ nghệch nhìn chăm chăm kiếng chiếu hậu. Kìa! Em Út! Phải rồi! Cô Út bạn hàng ẩn hiện dật

              vờ, mắt cô man mác buồn nhìn chú, cô lắc đầu theo khung kiếng run rẩy. Sao em đi lâu quá, không tin tức gì cho qua vậy, Út?

              Ðầu óc chú Bảy Tề nóng ran, tai chú lùng bùng nghe tiếng cô Út thì thào, miên man lạnh lẽo từ xa xăm vọng lại:
              ‘Giả đò, mua khế bán chanh,Giả đi đòi nợ, thăm anh kẻo buồn’.


              CHÚ THÍCH:
              (1) Bò cui: loại bò mạnh, lớn, dùng kéo xe.
              (2) Tài phú: người lo giấy tờ sổ sách. (3) Lơ xe: công nhân phụ theo xe. (4) Hỏng chừng hỏng đổi: bất thường. (5) Ra giêng: sau Tết. (6) Bằng lái xe bốn dấu: bằng chuyên chở chung. (7) Lụa lèo: lụa mịn, mỏng, mặc mát. (8) Bộ hiền: hành khách. (9) Cà ròn: bao đan bằng đệm dùng như bao bố. (10) Cabine: phòng chỗ tài xế ngồi lái. (11) Qua: tiếng xưng hô ‘tôi’. (12) Trạm Control: trạm kiểm soát. (13) Tỏ tịa: phá sản. (14) Permit: bằng lái xe. (15) Lòi hàng: sang hàng từ xe này sang xe khác.

              Pforzheim, 2 - 1987

              Lưu Nhơn Nghĩa
              thatsonchaudoc
              sigpic

              Comment


              • #8
                Như Cánh Chuồn Chuồn

                Tiếng khóc con điên
                __________________________________________________ _____


                Mùa mưa lạnh lẽo vùng đất Bảy Núi lầy lội, ít ai muốn bước chân ra khỏi nhà, nhưng nắng hành hạ dân không kém, đi suốt cả gần nửa ngày mới gánh được đôi nước Chơn Num, nước màu trắng đục, uống chua chua, dân xứ khác tới thường bị

                chanh nước, bụng lớn, da vàng mét. Thế mà cũng có nhiều người tới đây lập nghiệp, cái nghiệp nghèo.
                Dân quanh chợ hầu hết gốc Triều Châu, buôn bán ở trong năm dãy phố cất từ xưa, mái ngói đỏ.

                Nghe nói thời đó vùng này còn là rừng dừa, khỉ đu từng đàn, dám chọc phá người đi một mình, nên đặt tên là xứ ”Xà Tón“ (Swaton = khỉ đu).

                Dân Tàu lập nghiệp gần khoảng 60 năm chen chân cạnh tranh không xuể ở các tỉnh lớn, lui dần về đây, vì dân Miên “chưa biết đi guốc“ dễ làm ăn, thất bại, một số người cùng đường lại bỏ đi nữa, lên Nam Vang, cái xứ “Trai vô bạn biển, gái về Tà Ke“.


                Dọc theo chân núi đồi là những sóc Miên, nhà sàn, phần dưới nuôi gia súc, phần trên người ở, họ sống bằng nghề làm rẫy, dệt vải, nặn nồi om, mang ra chợ bán. Họ di chuyển bằng xe ngựa, voi, hay đi bộ.

                Ẩn hiện trong những hàng dừa, tre, thốt nốt, có những ngôi chùa Miên, mái cong như những ngôi tháp chứa hài cốt thiêu, làm tăng vẻ huyền bí xa xôi.

                Mỗi buổi sáng, các sư sãi chậm rãi đi khất thực, len lỏi qua các khóm tre, bọn “Col Sóc“ (chú tiểu) lẽo đẽo theo sau kêu lớn “Lốt chăm bai“ (Sư độ cơm).

                Các bà Miên quấn xa rông sặc sỡ, đi chân đất, kính cẩn bưng cơm để nhẹ vào bình bát ông Lục, thức ăn giao cho Col Sóc trong gà mên.

                Đời sống trong Sóc nghèo thong dong và thanh thản, thời gian như ngừng đọng lại.
                Con kinh đào như lưởi dao bạc, đêm về lấp lánh đâm thẳng ngang hông chợ có hai vòi rồng trên nóc.

                Xứ kinh cùn chợ ngang vì vậy thế đất hư không phát thiên tài nhân kiệt. Dọc theo kinh, dân Việt sống bằng nghề giăng câu, hái rau cỏ đồng, bắt rắn dưới bưng, bán đổi gạo.

                Ruộng bao la nhưng đất phèn dày đặc, lúa tranh không nổi với cỏ ống, không nghe nói năm nào trúng mùa cả.
                Xứ nghèo, ba nếp sống văn hóa chủng tộc dị biệt hòa hợp tương đắc, chưa va chạm nhau bao giờ.

                Rằm tháng Bảy, thí vàng, cúng kiến chùa ông Bổn, ngày tống gió đình Việt Nam, Đôn Tà, He cà thưng rước Phật, đua bò, đều được tất cả tham gia. Dân giàu lòng vị tha mà sao không thấy ai phát quan, phát tài gì cả.

                Năm 1945 nghe đồn phong trào Cáp duồng, chỉ nghe đồn chứ không xảy ra. Tiếp theo năm 1945, Việt Minh chụp đồn, súng nổ đủ loại, cháy một dãy phố xưa.

                Sáng hôm sau, người ta dập dìu bó xác người thân đi chôn vội vã, ở Chơn Num, thiếu tiếng trống phèn la đưa tiển như thường lệ.

                Xứ nghèo, Trời không thương, người ta khô nước mắt vì đậu mùa giáng xuống năm kế tiếp. Chưa hết đâu, xứ kinh cùn chợ ngang mà ! Ông Đạo núi Tô xuống rao sấm truyền.

                Lính Commodo Maroc đi bố ráp quanh quẩn, thêm một số người bỏ ra chợ kiếm ăn, làm thuê, gánh mướn.
                Nhân vật bỏ sóc núi lang thang ngoài chợ trông quen mặt nhất là con Điên.

                Điên tuổi khoảng gần 20, da đen bóng.

                sạm nắng, mũi cao và thẳng, mấy chiếc răng vàng lấp lánh trong miệng, tóc rối bời, áo quần rách bươm, nhớp nhúa, lúc cười ngây dại, lúc khóc trông gớm ghiếc, ít ai biết Điên từ Sóc nào tới, vì bịnh điên, nên người con gái Miên này mang tên Điên.

                Điên thường ngày đứng dựa cây cột đá cạnh nồi hủ tiếu góc chợ kiếm ăn, lảm nhảm một mình.

                Có người kể, Điên xưa thuộc con nhà có ăn ở sóc Ô Thôm, biết tiếng Tây từ 1 đến 10, một thanh niên cùng xóm mê theo đuổi thất bại nên bỏ ngải độc hóa điên, mất luôn cha mẹ lưu lạc theo người ra chợ xin ăn qua ngày.

                Điên hay đứng trước các tiệm quanh chợ, lấm lét nhìn người ta quây quần trên chõng tre, ăn cơm chiều.

                Thời bình tịnh, cơm lúc bây giờ chưa phải là món xa xí phẩm như ngày nay, người ta cho Điên gói cơm dư đựng trong lá sen, thảo hơn, chan thêm một ít cá kho.

                Điên vừa đi vừa bóc ăn. Buổi sáng chợ đông, dân sóc đội trái cây ra chợ bán không hết, còn một ít trái héo dành cho Điên, cháo khét đáy nồi cô Xiệu tan buổi chợ đông Điên cũng có phần.

                Không ai dư dả cho tiền Điên, và Điên không biết xài tiền, cũng không ăn mày thật sự.
                Sự có mặt Điên trong chợ Xà Tón góp phần ý nghĩa cho sinh hoạt hàng ngày.

                Buổi sáng, Điên thưòng trốn ông quét chợ, vì Điên hay bươi những đống rác ông gom sẳn chờ xe đến hốt. Sợ nhất là ông già ăn xin cầm gậy dọa, ngại Điên chia phần.

                Buổi trưa chợ búa thưa thớt, còn những chị bán quà trưa ngồi trở những gắp chuối nướng trên lò than hồng, trò chuyện với chị bán chè khoai bên cạnh. Điên véo von múa hát điệu “Lam thol“, tạo tiếng cười thoải mái cho giới buôn thúng bán bưng.

                Họ cười nghiêng ngửa, không khác tiếng cười Điên bao nhiêu.


                Điên không phá phách ai bao giờ, vậy mà chính Điên là đối tượng cho đám trẻ con trêu chọc thường lấy cùi bắp ném Điên, người lớn không khuyến khích mà cũng không ngăn cấm.

                Ông Đạo áo vàng núi Tô, bới tóc cao, râu dài, dáng tiên phong đạo cốt, mỗi lần xuống chợ đưa cây gậy chạm đầu rồng ngậm châu, niệm thần chú làm phép cho Điên, ông dặn “Tu nghe, ăn tương nghe“, nhiều lần làm phép, nhưng Điên vẫn chưa tỉnh.


                Những đêm mưa lạnh, gió từ cánh đồng thổi qua con kinh mang theo giá buốt, mưa miền đất núi lồng qua chợ trống.

                Điên nép mình co ro dưới cột đá khóc sướt mướt. Tiếng khóc gào run rẫy, được gió núi nâng cao hòa với tiếng mưa bão bùng.

                Điên khóc vì cô đơn hay lạnh lẽo ? Điên không kể lể gì trong tiếng khóc.

                Dân phố quanh chợ hàng đêm, suốt mùa mưa quen thuộc với tiếng nhạc Điên, giúp họ cảm thấy ấm áp với gia đình hơn.

                “Me ơi, Me“ (Má ơi, Má). Trong óc Điên, lởn vởn hiện về những buổi trưa gay gắt nắng, nô đùa với bạn cùng tuổi, tắm nước giếng bên căn Tha la đúc, chia nhau những trái khế chua, uống một ống nước thốt nốt, những buổi cơm gạo đỏ với mắm, với

                cá xấy khô trộn bông xà đâu, cùng gia đình trong căn nhà sàn, thơm phân voi. Điên nhớ lờ mờ hàng thốt nốt cứng cáp, cao ngất trong sóc xưa. Đám He Cà thưng, đám rước Phật, ngày lễ rước nước lên khi nào kìa ?

                Nhà Điên xa quá, tăm tăm mù mù, không thấy đường về. Con sóc đuôi dài đu qua cành cây bưởi bên nhà Điên dưới chân núi Ta Pạ, không phải, con cua đồng bò ngang ruộng mạ xanh loang loáng nước dưới chân núi Năm Vi mà ! Ủa !

                mà rắn thần Naga biến thành ghe ngo - nhiều người bơi theo tiếng la trên kinh Cây Me đâu rồi ?
                Chiều nay, khuya rồi, chờ hoài sao không thấy đàn chim học trò bay về núi ?

                Điên bật cười sằng sặc, ôm ngực tức tưởi. Chợ trống, áo rách lưng, cột đá lạnh không đủ che mưa gió bốn bề, lạnh quá, “Me ơi ! Me !“
                Tiếng gió mưa tầm tã, đệm cho cô ca sĩ Điên đơn độc lạc lõng gào thét van xin được nằm trong tay ấm áp chở che

                của mẹ như ngày xưa, Điên làm cho các bà mẹ mũi lòng, lo âu, sợ mình mất sớm, con cái sẽ vất vưởng bơ vơ đầu đường xó chợ như Điên.


                Một đêm, thằng em tôi đang lúi húi xé giấy đậy cái lồng cho mấy con chim áo già nó nuôi khỏi bị lạnh, nghe tiếng Điên kêu khóc ngoài chợ, nó ngơ ngác hỏi : “Ủa ! sao nó điên mà nó biết kêu má nó vậy? ! !“




                Chú Thích :
                (1) Câu ca dao thường nghe vùng biên giới Việt Miên “Nam Vang lên dễ khó về, Trai vô bạn biển, gái về Tà Ke“ Ngụ ý chỉ những người túng cùng, thắt ngặt đến độ không sống được phải bỏ đi xứ người tìm đường sống. Ở chính quê hương mình không đủ khả năng để sinh sống, tương lai hầu hết của những người tay trắng này bắt đầu nghề làm công (bạn = những người làn công) ở Biển Hồ.

                Vì thất chí xa nhà, lại khó vươn lên được, họ tìm giải trí bằng rượu và cờ bạc nên thua lỗ, nợ nần, làm công suốt đời.. Phụ nữ càng khốn đốn hơn, dễ bị gạt sống bằng nghề buôn hương bán phấn. “TÀ KE“ : tiếng Miên mượn gốc tiếng Triều Châu “Thào Kê“ (đầu gia = chủ nhà hoặc người chủ nhân) biến nghĩa đi, chỉ các lầu xanh. Mụ Tào Ke dùng như mụ Tú Bà. Tình trạng tuyệt vọng của các nghề này trai gái khó dư dả và hứng khởi trở về quê mình.


                (2) Đôn Tà : một cuộc lễ lớn của Miên, vào khoản tháng Tư như Tết Việt Nam

                (3) He cà thưng : đám rước tượng Phật. Thường tượng Phật đặt trên giá có người khiêng, theo sau là đám rước có giàn nhạc ngũ âm phụ họa.

                (4) Cáp Duồng : Chặt người Việt. Phong trào này xãy ra trước năm 1945, trùng hợp với chính sách chia để trị miền Đông Dương (Việt - Miên - Lào) của Thực dân Pháp.

                (5) Chơn num : chân núi.


                (6) Lam Thol : một điệu vũ Miên, có khi hát đối đáp.

                (7) Xà đâu : một loại cây mọc ở Miên và vùng biên giới, bông và lá ăn đắng nhưng vị ngọt, trộn với cá xấy, dưa leo, rau thơm, thịt luộc, thái mỏng, bóp cho mềm, chấm nước mắm me chín.

                (9) Chim học trò : loại chim chiều chiều bay về núi, con nào bị bỏ sau gọi là chim thi rớt.

                (10) Chim áo già : bằng chim se sẻ, mỏ xám cứng, đầu lông đen, mình lông màu già, thường có nhiều vào mùa lúa. Ngày nay đã tuyệt chủng.



                Lưu Nhơn Nghĩa
                thatsonchaudoc
                sigpic

                Comment


                • #9
                  Như Cánh Chuồn Chuồn

                  Cơm Cháy
                  _____________________________________________



                  Trưa cuối năm, Củ Ướng kéo chiếc xe nước ọc ạch từ Chơn Num về chợ Xà Tón.

                  Gần Tết, trưa nắng chang chang, con đường đất đá nóng bỏng, xe chao đi khó điều khiển làm sao!

                  Hai bên ruộng khô còn trơ lại những gốc rạ xơ xác. Củ Ướng bỏ lại sau lưng ngọn đồi đá cằn cỗi trên sườn đồi và dưới chân đồi rải rác những mồ mả.

                  Núi Chơn Num là nghĩa địa của dân làng,sang giàu hay đói rách cuối cùng ai cũng về đây an nghỉ.

                  Trên núi có ngôi chùa Miên mái cong, thấp thoáng trong những cây đào lộn hột và cụm mai rừng, mấy người đi chặt mai về chưng Tết giơ tay chào Củ Ướng.

                  Chiếc xe đạp đòn vông kéo thùng nước củ kỹ màu xám, thùng nước là phi xăng cũ, trên có nắp vuông, đầy nước. Sau treo hai thùng nhỏ đập vào thùng lèn-xèn thành thứ âm thanh đều đặn quen tai.


                  Người Củ Ướng vốn dĩ đã nhỏ, chiếc nón chóp bằng tre đan, phết chai dầy, che mưa nắng, tưởng chừng nặng hơn sức chịu đựng của đầu cổ người, nên Củ luôn luôn cúi mặt lầm lũi đi.

                  Xe nước không tương xứng với người Củ Ướng chút nào, khó ai tưởng tượng Củ có thể kéo nổi chiếc xe nặng nề như vậy, vậy mà xe vẫn ngoan ngoãn di chuyển ngả nghiêng theo bước chân lếch thếch.

                  Tay chân và người Củ Ướng lở trắng vì nước ăn từ năm nầy qua năm khác, hai chân gân guốc màu đất xám như hai khúc tre già phải chịu đựng đất khô cháy hay lầy lội bốn mùa hơn 30 năm rồi.


                  Ngày 30 Tết, chợ đã tan từ trưa, ai cũng lo về sớm để cúng kiến ông bà. Dân chợ nài nỉ Củ rán đổ vài đôi nước uống, họ yên tâm với lu nước đầy cuối năm để nấu nướng, nên Củ Ướng nể tình cố lặn lội thêm chuyến xe nước cuối cùng nầy, ở nhà Củ đã có vợ con quán xuyến.


                  Củ Ướng không lười, nhưng mùa nắng khô hạn nầy cứ phải chờ cả buổi mới múc được một xe, mội nước rỉ ra đần dần mới vét được một gàu. Ngày được 4 xe là phước rồi. Củ nôn nóng kéo xe để về sớm, còn dịp nào nghỉ ngoài 3 ngày Tết đâu.


                  Mùa nắng, đất đá phỏng chân. Chuyến vô núi, Củ thong thả đạp xe, thùng nước rỗng nhún nhảy sau lưng.
                  Vùng chợ Xà Tón có mấy cái giếng, nhưng nước phèn chỉ dùng để tắm giặt.

                  Nước Chưn Num trắng đục, uống chua chua, có vị mãng cầu xiêm. Dân làng cho rằng nước ngon nhờ xương cốt trên đồi chảy xuống tụ lại mội nước, nói sao cũng được, nhưng ai cũng uống nước giếng Chưn Num mà không bị chanh nước.


                  Gần 30 năm nay, Củ Ướng quen thuộc với con đường đá xanh nầy, khoảng 3 cây số từ núi vô chợ. Múc đày thùng nước, cuộn giây gàu treo bên xe, Củ đi vòng qua cây Năm Vồ, (cây năm Vồ lá mát bên bờ giếng, che mát cho người đi lấy nước) xuống con đường mòn dốc ra đường cái.

                  Xa xa những bụi tre tầm vông xơ xác (Củ thường nói: “xưa, tr e tầm vông nhiều lắm, nhưng từ ngày Pháp tới, tre bị đốn sạch ...”) mấy cây thốt nốt cao vòi vọi chống trời giữa đồng. Bên trái là núi Năm Vi, bên phải cách cánh đồng, núi Cô Tô cao sừng sững huyền bí.

                  Hai bên đường ruộng cao thay đổi từng mùa. Lâu quá không thấy bóng người phu lục lộ sửa đường cho Củ Nhờ, mà con đường nầy đâu có gì quan trọng, hình như con đường dành riêng cho Củ đi lấy nước Chưn Num và chiếc xe đòn có hai đầu

                  rồng, do bác Sáu Sâm ngồi lái đưa người nằm xuống ở Chưn Num với 3 tiếng trống điểm cho những người đi sau kể lể than khóc, và 3 tiếng phèn la cáo biệt, “bà con ơi, tôi nghỉ chơi rồi nghe!”. Mỗi lần gặp xe đòn, Củ Ướng phải ngừng khá lâu cho

                  đám người đưa đám theo sau, những cây bàn đưa trắng, cùng bao nhiêu câu: “Vĩnh du tiên cảnh”, “nhựt lạc tây thiên”, ... Con đường chạy thẳng đụng vào chân núi và mặt trời cũng lặn sau núi, người xưa khéo phóng đường nầy hẵn ngụ ý “nhựt lạc

                  tây thiên”, và chọn đúng núi nầy làm nơi yên nghỉ cuối cùng. Mỗi chiều, mặt trời đỏ ối trước khi lặn, nắng bảng lảng nhuộm hồng đỉnh núi linh thiêng, một vùng trời tây vàng như lúa chín, ngưòi già chỉ cho con cháu, “Kìa, ma phơi lúa đó!”.


                  Mỗi buổi sáng, dân Miên từ các sóc quanh núi đội trái cây, gà vịt, lúa gạo ra chợ bán, Củ Ướng đạp xe ngược chiều, nên biết mặt từng người. Những bà Miên đội những om đường thốt nốt, thủng thẳng trò chuyện với những ông gánh những ống tre đựng nước thốt nốt, những bà già gánh kẽo kẹt từng thúng gừng, giá.. ra chợ bán.

                  Lâu rồi, Củ không thấy họ gánh khỉ, lọ nồi, chồn và thú rừng như xưa. Người ta đồn rằng khỉ bỏ núi đi rồi. Ðời sắp tới, không cần vô Sóc, Củ Ướng cũng biết mùa nào có loại trái cây nào, người nào dư ăn dư mặc, hay túng thiếu, Củ thường nói:

                  “Ngó cái xà-rông là biết rồi.”
                  Chuyến xe nước trưa kéo về, vừa đúng lúc Củ chào những người chợ tan trở về Sóc. Họ thảnh thơi nhẹ gánh trở về với những quà bánh chợ.

                  Ngược lại, Củ Ướng nặng nề đẩy xe ngược chiều, ai cũng lên tiếng chào “Xóc xà bai” (mạnh giỏi). Chưa bao giờ Củ Ướng ngừng xe nói chuyện phiếm với ai cả, vì ngừng xe phải lấy cây chống cho xe khỏi nghiêng mất công và mất thời giờ, nên mạnh ai đi đường nấy, Củ không buồn nghỉ ngơi, thân thể mệt rã rời từ năm nầy sang năm khác.


                  Vừa đẩy xe, đếm từng cụm cỏ hai bên đường, mỗi khóm cây dại là mỗi mấu chốt chỉ đường, cây cỏ nhắc Củ khoảng cách từ núi tới chợ, nó cũng nhắc nhở còn bao lâu mới được nghỉ ngơi.

                  Ðám bông mắc cở gai góc, bông tím dễ ghét trêu chọc, “ còn xa lắm mới tới chợ! “ Rặng tre tầm vông sau nhà thầy giáo Chấp, làm vơi mệt nhọc, lá tre mát ve vẩy chào đón an ủi, gần tới rồi.

                  Tiệm nước, ở ngả tư chợ, Củ ghé đổ vài đôi, xe nhẹ hẳn đi, túi tiền không nặng hơn dù những tờ giấy bạc thấm nước và đổ mồ hôi, ghé đổ thêm vài nhà là xong.

                  Hai đôi nước cuối cùng dành riêng cho nhà Củ Hòa, lu nước đãi những người Miên ra chợ. Dù mưa hay nắng Củ Hòa cũng đổ đầy nước. Củ Ướng xem lu nước làm phước nầy như của mình, lâu lâu Củ tự tay súc lu cho sạch, xong đâu đấy mới về nghỉ ăn

                  cơm.
                  Chuyến xe nước chiều, đường thật vắng, chỉ dành riêng cho Củ, trong núi thời nào cũng vậy, sau 4 giờ ít ai dám bén mảng tới gần. Mấy ông không thù oán gì Củ đâu. Ly cà phê đen tiệm Chệt Nghén đủ cầm hơi suốt buổi xế trưa oi nồng.

                  Nắng trời cao phủ xuống, hơi nóng đất đá dưới chân bốc lên, Củ như sống trong lò lửa không lối thoát.
                  Chuyến xe chiều về, sức hơi kiệt, tưởng chừng Củ có thể xụm bất cứ lúc nào, vậy mà Củ vẫn cặm cụi đi, một tay kềm chắc xe đạp, một tay đẩy xe nước, lắm khi cực quá, Củ Ướng càu nhàu, nói:

                  “ chết cho rồi cho khỏe thân! Sống cực như con trâu! “
                  Mùa nắng, nhiều người bất mãn kêu réo thiếu nước, trách Củ đổ không đủ. Làm cách nào hơn, sức người có hạn, nước giếng có chừng.

                  Thỉnh thoảng, Củ Ướng đổ quạu trước những lời gay gắt của khách hàng. “ Trời mưa anh có kêu tôi đổ không? “ Trời nắng cực, trời mưa nước nhiều làm người đổ nước cực khổ hơn.

                  Ít người kêu nước, vì hầu hết dân chợ có lu hứng nước mưa dư dùng hằng ngày, chỉ một ít nhà nghèo không đủ phương tiện mới kêu nước.


                  Mùa mưa dầm, gió từ núi thổi như thét gào, lạnh từ sáng đến chiều, ruộng úng nước ngập đường, Củ Ướng nhọc nhằn kéo xe đi lỏm bỏm, chiếc nón tre đủ che đầu, áo quần vá loang lở, nước thấm vào người, Củ Ướng run cầm cập.

                  Trời còn thương, Củ chưa bị bịnh hành hà, gia đình cần cơm, dân chợ cần nước.


                  Năm năm qua, sức khỏe càng suy lụn, căn nhà mướn gần 30 năm trước không thấy thay đổi, chỉ thêm người, con cái lớn dần, ăn nhiều mà chưa giúp đở gì được cho gia đình.


                  Chiều cuối năm, mâm cơm cúng ông bà, nhang đã tàn, châm thêm ít rượu, Củ cầm giấy vàng mả khấn vái lầm thầm, rồi quẹt lửa đốt, khói bay mịt mù quyện với khói nhà bên cạnh.

                  Mấy đứa con chuẩn bị đón Tết, vui với bộ quần áo mới may.

                  Suốt năm, hôm nay nhẹ nhàng, thảnh thơi nhất. Quanh đây nhiều người khốn khổ hơn, họ gọi nhau ơi ới, cãi cọ nợ nần cuối năm.
                  Mâm cơm dọn lên, Củ ngồi chồm hổm trên ghế ăn một mình.

                  Củ uể oải gắp dĩa mì xụa nuốt xuống như nuốt nhọc nhằn. Số phận trời cho mình lãnh, biết trách ai bây giờ. Các tiệm buôn bán tính sổ cuối năm, Củ không cần lo nghỉ gì cả, mình không biết chữ, tính toán cũng không trôi.

                  Củ uống chầm chậm ly trà chát chát, nằm gát tay trên trán.

                  Trong đầu hiện lờ mờ hình ảnh hơn 30 năm về trước, Củ bỏ xứ ra đi, theo những người chung xứ cùng quê xuôi nam. Trước khi lên tàu, Củ mơ ước làm ăn khá, giống mơ ước của những người đi chung tàu, dư dả về thăm xóm cũ. Người đồng hương cùng lứa tuổi tới xứ nầy cũng nhiều.

                  Ông Cáng xưa đẩy xe bán nước đá bào, bây giờ có tiệm cà phê lớn, ông Chiệp đẩy xe bán bánh nướng, bây giờ ở phố lầu, tiệm bánh. Tệ nhứt như Tửng Là, cũng có tiệm nhỏ ở góc chợ đỡ dầm mưa dãi nắng.

                  Cửa biển Xua Tháo (Sán đầu) xa quá, mất hết liên lạc với bà con hương lý xưa, người lớn tuổi chắc qui tiên hết rồi. Thấy thiên hạ có năm gởi mỡ heo về cho bà con qua ngả Hồng Kông, bà con mỗi nguời húp một muỗng mỡ heo, thiếu ăn vậy sao?

                  Củ muốn gởI về một thùng quà cho bà con ăn lấy thảo nhưng ngày qua ngày, không tiền nên giả vờ quên mất. Hơn 10 năm nay, giếng nước Chưn Num không còn là nguồn lợi, gia đình càng ngày càng đông, nước càng ngày càng cạn.


                  Ngày xưa, mỗi đôi nước 5 cắc, bây giờ mỗi đôi nước bảy chục đồng mà không đủ sống. Hàng năm, Củ lên giá vài đồng vào dịp Tết, Củ quên hàng hóa, thực phẩm, giá cả càng càng ngày càng cao.

                  Chành ông Pểnh và mấy người chủ tiệm tốt bụng mướn người vét giếng nước sâu cho nước nhiều hơn, nhưng những ngưòi hão tâm nầythôi không nhờ Củ Ướng nữa, họ dùng máy bơm và xe chở nước về.


                  Giấc mơ về thăm hương lý, thăm bà con thân thích, Củ không buồn mơ ước, hy vọng đám con cháu khá hơn, ở hiền gặp lành.

                  Câu châm ngôn nầy chưa đủ chứng minh, ít nhất trong thế hệ hiện tại. Cuối năm nay, không dư dả mua sắm thêm gì, trên bàn thờ tổ tiên, một nải chuối xanh, trái dưa hấu nhỏ héo, một đĩa quít đèo.

                  Củ nằm cô đơn, đám con cái bắt đầu ra khỏi nhà, líu lo với bạn bè.
                  Củ muốn kể cho bọn nó nghe chuyện xưa vào dịp rảnh rỗi cuối năm. Ðể tao kể cho nghe: “Tao với thằng Cởn, thằng Xua, ai nữa kìa, lâu quá quên!

                  Bọn tao tối tối rủ nhau đi bẻ cà na trộm. Mấy đứa con gái đứng canh chừng chủ vườn cà na. Bây giờ chắc tụi nó già hết rồi. Có khi chủ vườn gặp tao, tao chạy mất, hồi nhỏ tao mạnh lắm kìa, không phải lôi thôi như bây giờ đâu!

                  ” Cà na đen muối mặn, ăn cháo trắng ngon lắm bây ơi! “ Củ Ướng lim dim, mấy mươi năm trước, Củ thấy thằng bé chạy vùn vụt qua vườn cà na, lão chủ vườn tru tréo “con ai không có cha mẹ sao, bắt được tao bẻ cổ hết!

                  “ Củ phì cười một mình, tiếp tục: “Ðể tao kể nữa nghe bây” Thằng Xồi con Củ thờ ơ, “ Thôi có bao nhiêu Chệt nói cả trăm lần - chuyện năm xưa!

                  “ Nghe con nói, Củ Ướng vấn điếu thuốc, nhấp ly trà nguội từ lâu, cụt hứng than thầm: “ Ơi con cái thời nay mà!...

                  Nước trên mái nhà chảy xuống, chớ nuớc có có chảy ngược lên bao giờ đâu! Thương nó mà nó có thương mình đâu, cũng may là chưa nhờ nó gì à!”
                  Gác tay lên trán, lăn lộn, bực bội, Củ âm thầm chịu đựng. Năm nay, đoàn lân Phong Khê Lu mình, bọn võ sĩ tập thuần thục chưa? Còn đụng với xứ khác chớ.

                  Ông Lào, trưởng đoàn lân, vờn chảo mã tấn cảnh cáo lân địch, bộ cước ông không tệ đâu nghe. Lân lão râu bạc mà! Bọn lân râu đen chạm phải xá ba cái, tránh đường nhường bước.

                  Ðoàn lân Phong Khê Lưu, có bộ cước gia truyền, bộ tấn, chảo mã vờn như chân hổ, măt lân liếc trêu ghẹo lân địch, nhắp nháy trước khi leo sào cao đoạt phong pháo đỏ và phong lì xì phơ phất thách đố trên lầu cao.

                  Chung quanh các võ sĩ tới lui nhịp nhàng, quất những đường roi va chạm nhau chan chát. Trống chập chả, phèn la dập dồn như sấm nổ, xác pháo bay, màu hồng hoan hỷ.


                  Nằm trên bộ ván ngựa một mình, miệng phì phào điếu thuốc vấn, Củ ngước nhìn những tấm liễn mới dán trên mấy cây cột gỗ, ổ mối bò ngòng ngoèo, chằng chịt. Mãy câu liễn mua ở chợ, màu đỏ rực, chữ kỹ xảo có hồn.

                  Củ đọc thầm “ Hảo ngữ hảo ngôn hành hảo vận, tân niên tân nguyệt phát tân tài “ Củ mĩm cười chua chát, tuyệt vọng, lẩm bẩm “ phát tài cá mốc xì họ” .
                  Củ gác tay che đôi mắt để khỏi thấy miếng vỏ sò trong chữ “ tài” trên câu liễn.

                  Củ xoay mình oằn oại, những chiều cuối năm như vầy, nhớ cố hương quá, nhớ đến ngột ngạt thời thơ ấu, chép miệng:
                  “ Nhựt mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu” Bỏ sơn thôn hương lý, tưởng nên vương tướng gì, biết vậy qua đây làm gì.

                  Nghe mấy thằng bạn mắc dịch rủ rê, bây giờ nó khá nó có nhớ mình đâu. Kêu mấy đầu hụi, nó than túng, sợ mình tỏ tịa không đủ trả, vì không có sinh lợi.

                  Hận nhứt là lão Gia Phong Chành, ngày hàn vi chia ngọt xẻ bùi, bây giờ ngoảnh mặt, xem như người lạ, gả con cưới dâu mà không mời, quên mất chữ kim bằng. Năm nào lão cũng bô bô:

                  “ A, cành mai nhà quá nở rộ, năm nào cũng nở mùng một tết lấy hên! Quá mua cành mai nào cũng tốt, cái này, ông trời thương, ông bà độ! Củ Ướng thì gặp vân hạn, cành mai năm nào cũng lép rụng, ít khi nở, Củ tự an ủi:

                  “ Nghèo thì mua mai rẻ tiền, làm sao bông nở tốt được, có tiền coi, tui bỏ bạc trăm ra mua, coi mai có nở rộ không?” .


                  Quanh đi quẩn lại cũng chữ nghèo, nghèo ở chợ không ai ngó tới, Củ vừa nghèo vừa khuất trong hẻm cùng nầy, thì ai thèm ghé. Thuốc gồi càng hút càng cay đắng miệng.

                  Quá khứ cũng khổ, hiện tại càng tệ, hy vọng tương lai, mà mua vé số cũng không trúng, số đuôi đánh 47 nó ra 37, đánh 81 nó ra 18.
                  Muốn kể cho con cái nghe chúng nó lại chê mình lú lẫn chuyện năm xưa. Thèm cà na muối quá, bùi bùi và mặn.

                  Củ chép miệng, lẩm bẩm “ Mẹ họ, mấy gánh hát Tiều tới đây, ông Bang Nám không dẫn tới hát nhà mình, chê mình nghèo hớ, trời có mắt mà coi. Lẩm bẩm chán, Củ Ướng than thở như ngưòi bịnh rên rỉ.

                  Mình số phận cùng cực từ nhỏ tới lớn, trời không thương. Củ gõ nhịp, ngón tay gầy guộc như mấy cây lạp xưỏng khô, nhái lại điệu Huỳnh Mai, quanh đi quẩn lại cũng bấy nhiêu, cố nhớ mà không nhớ nổi thêm câu nào.

                  Hay nhất là đoạn Chúc Anh Ðài nhứt quyết đòi cha phải sắm xe tang vào ngày đưa dâu để trọn tình với Lương Sơn Bá, hay quá, hay quá. Củ Ướng la lớn.

                  Ðiệu Huỳnh Mai Củ Ướng nghe cách đây mấy mươi năm, trên bờ hải khẩu Xua Tháo, Củ đang ôm quần áo chờ xuống tàu mệt mỏi, lo âu, nghe tiếng còn, tiếng mất, một cô bé chừng 10 tuổi hát theo tiếng đờn gáo bừng bực bị át bởi tiếng chưn người qua lại.

                  Tiếng cô bé thật áo não, mới 10 tuổi đầu, hát cho ai nghe?

                  Trong cái nón rách mấy đồng tiền, khách qua lại bố thí chưa đủ nuôi thân nên cô bé gầy như que củi. Cô bé hát cho kiếp nghèo vất vưởng.

                  Ông già ăn mày mù vuốt những ngón tay gầy trên sợ dây đờn gáo bén ngót. Ông mù nên không thấy ai thờ ơ qua lại, ông bị chìm trong tiếng đờn thê thiết của kẻ ăn xin.

                  Ông già mù, cô gái bé nhỏ, tiếng đờn còn như văng vẳng đâu đây, mới hồi nãy kìa, Củ nhớ rõ lắm, Củ chìm đắm trong thứ âm thanh quen thuộc bị đánh mất, bây giờ tìm lại được.

                  Củ hát theo, Củ quơ quàu hai tay chơi vơi như Chúc Anh Ðài ôm mộ Lương Sơn Bá. Tiếng hát Chúc Anh Ðài cao vút, tiếng hát Củ Ướng ồ ề vỡ ngực bay lên cao, Củ hát cho kiếp nghèo.

                  Củ tưởng mình còn đang ôm gói quần áo đứng trên bến tàu cửa biển Xua Tháo. Tiếng hát Chúc Anh Ðài động tới Hoàng Thiên.

                  Tiếng hát Củ cũng hòa chung một điệu í i..
                  Ðiệu Huỳnh Mai, Củ hát chưa dứt, đứa con đi ngang nói, “ông già khùng!” Củ Ướng càng bực dọc, không giải tỏa được: “số phận cực cho tới chết vậy hè!

                  Biết chừng nào có tiền về Tàu thăm bà con nè trời! “ .
                  Bà vợ tình cờ đang quét dọn, phì cười góp ý: “Tại ông ăn CƠM CHÁY làm sao về Tàu được”. Củ Ướng giật mình nạt lên như hét:

                  “ Chớ có chiều nào mẹ con bây chừa cho tao được chén cơm trắng không”?
                  Viết thêmNhớ bao nhiêu viết bấy nhiêu, ngoài tôi ra thế hệ tôi không ai vô công rỗi việc, buồn nhắc và tìm hiểu, dân xứ tôi cũng không ai ưa đọc chuyện bá láp nầy, ai cũng lo chạy gạo.

                  Tôi viết để tự nhớ và cám ơn thế hệ đi qua, hiền hòa, cho tôi kỷ niệm vui buồn thời thơ ấu.
                  11 tuổi đã xa quê, trí óc còn non nớt. Càng ngày đi càng xa xứ sở, không được gần gủi lâu dài để nghe chuyện cũ.

                  Ngày nay, lớn tuổi, trôi nổi, lao đao, bầm vập, muốn về quê một lần thăm mồ mả ông cha mà không có cơ hội. Tôi nhớ và bị ám ảnh cái quá khứ chiêm bao đã mất.

                  Ai cũng tốt, chân thật, ai tôi cũng thương và muốn nhắc, vì ai cũng hiền lành, mần ăn ngay ngắn, đất nầy là hốc tì (phước địa) ai gian dối sẽ bị tàn mạt.


                  Xin kể thêm, dãy phố đầu chợ, từ bờ sông vô là tiệm Ðức Phong (bên ngoại tôi) Vạn Trường Xuân dược phòng(ông thầy thuốc ưa hát dân ca Triều Châu), tiệm bánh ông Chiệp xe (Tập Sanh) vợ chồng hút á phiện tới nghèo.

                  Tiệm Hòa Sanh tạp hóa, ý Tư Lềnh lớn người, nói lớn tiếng, không mất lòng ai. Tiệm Vạn Ðức, Ðức Phước, tiệm bánh mì, tiệm bánh Ðại Ðức Chành, Bảo An Xương dược phòng, phố bác bảy Ðạo Chuối có xe đò (hư không trật ngày, nên On, con bác

                  sửa xe rất giỏi) sau phố đó sang lại cho Ông Cả Lol cất làm phòng ngủ, bên cạnh là lô cốt thời Tây, nay không còn.
                  Chợ cất năm 1906, có hai vòi rồng trên nóc, cột đá, lợp ngói, cháy năm 1970 vì chiến tranh; Ðình cũng bị phá làm công viên, đầu kinh

                  bị lấp xa thêm cả cây số. Nhắc thêm đau, mà không nhắc thế hệ sau không biết- cha ông mình sống ra sau. Hình ảnh và kỹ niệm đó mất đi thì uổng.


                  Tôi lại nhớ miên man. Ông Lào Tán (Lão Trần) kể chuyện bên Tàu, ở bên Tàu, đàn ông được ăn cháo đặc, đi làm việc nặng ngoài đồng, đàn bà ăn cháo lỏng làm việc nhẹ ở nhà.

                  Bạn bè ở Nam Việt viết thơ về khuyên qua lập nghiệp. Cơm gạo dư dả, mùa Trung Thu, lượm trứng vịt không hết. Qua đây mới biết, dịp rằm tháng Tám, các tiệm bánh làm bánh Trung thu chỉ lấy tròng đỏ, bỏ tròng trắng, lượm ăn không hết.


                  Nhớ thương tỉa Xới Chia, hiền hậu, mặc áo Tiều trắng, quần lảnh đen, làm ăn vừa khá, tuổi già, sắp sửa về Tàu thăm vợ lớn và con trai một lần.

                  Vợ lớn và con trai trông ngóng gặp mặt chồng mặt cha một lần sau mấy mươi năm xa cách, chưa được mừng gặp gở thì tỉa mất.
                  Dân gốc Tàu đến xứ tôi lập nghiệp khá đông.

                  Quận có bốn dãy phố đầu tiên, lợp ngói âm dương, lầu ván, cửa gỗ gài thông hồng, lót gạch tàu. Bên hông chợ có mườI căn tiệm đâu lưng. Tôi nhớ không sót một hiệu tiệm.

                  Năm 1981, tại trại tỵ nạn gần Tuubingen, tôi gặp một thiếu phụ thông dịch viên, gốc tỉnh S. quê nội tôi. Lâu ngày bặt tin Việt Nam, tôi hăm hở hỏi thăm ngay về tỉnh S. Bà chận lại, giọng chan chát,

                  “Tôi đi lâu quá rồi” Từ 75 đến 81 có 6 năm mà quên quê hương mình, bà đó còn trẻ mà mắc bịnh amnesia, tôi xa quê mấy chục năm mà nhớ như in, bịnh dementia.


                  Năm 1998, trước tôi một thế hệ đi không còn một người.
                  Dân Tàu đợt đầu tiên đến lập nghiệp sống quanh chợ, buôn bán, từ đầu thế kỷ 20, nắm trọn vẹn việc thương mại. Có người thuộc từ thế hệ đầu, một số thuộc thế hệ thứ hai, còn trọng giá trị đạo đức cổ truyền. Cơ sở tinh thần là chùa ông Bổn.

                  Người lãnh đạo là ông Bang Ứng Vĩnh Phong Chành, lớn người có ba giòng con. Ai ở Từng Xua (Ðường Sơn) qua dều được ông dắt đến từng tiệm, uống trà, xin vài hột gạo, lấy cái lộc của người đồng hương.

                  Ai đến xứ nầy đều được đồng hương đùm bọc, “có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo”, dù là những gánh hát Tiều rả gánh, họp thành nhóm, xế trưa đến các tiệm buôn hát mừng, các tiệm cà phê bao cơm nước cho họ.


                  Ý Lèn, vợ hai ông bang Ứng mất, làm rúng động dân Hoa kiều. Ý Lèn hiền quá, ai cũng thương, để lại thằng Tỷ. Ông bang Ứng cưới vợ ba, bà nầy lấy dao gạch đứt tay Tỷ.

                  Dàn hát máy hát tuồng Phạm Công Cúc Hoa ra rả, áo nảo nhứt là lúc Cúc Hoa hiện hồn về bắt chí cho Nghi Xuân, như lửa thêm dầu, các bà có cơ hội thổi phồng cảnh mẹ ghẻ con chồng, công khai chửi đàn ông có vợ bé, sợ con mình bị hành hà như

                  Nghi Xuân Tấn Lực bị mụ Tào thị bắt dang nắng dầm mưa chăn vịt. Sự trùng hợp đó làm Tỷ nổi tiếng, đi ngang nhà ai cũng bị kêu vào xem vết đứt trên tay, vừa thương cảm nhắc ý Lèn, “phải còn mẹ đâu đến đổi vậy!

                  “ Chuyện nhỏ xé to, dân Tiều họp lại làm áp lực chuyện mới chấm dứt.
                  Tôi nhắc ông bang Ứng vì ông là người ơn của gia đình tôi. Mỗi lần có tin Việt Minh về gia đình tôi đến ngủ nhờ phố ông, cửa cây, tấn bằng những cà ròn muối, chống đạn.

                  Năm 1945 Thổ dậy, ra Mỹ Ðức lánh nạn, lúc trở về tiệm bị dọn sạch, cái nồi cái chén không còn, trời tối, ý Lèn kêu lại nấu cháo cho ăn. Trưa trưa ý Lèn thường dẫn Tỷ (con ruột) và Hạng (con của vợ lớn của con trai vợ lớn) ra chợ ngồi ăn quà.

                  Ý thương Hạng như con ruột. Hôm đám ma ý Lèn, lúc động quan, Hạng nhào khóc ngất kêu “Má, má” (bà, bà) bà nội ruột Hạng ở bên Tàu.

                  Ý Lèn mất, đâu còn ai thương Hạng, nó lưu lạc lên Nam Vang mất tăm.
                  Giới nhà máy xay lúa, xăng dầu, vận tải, lò heo do dân gốc Tàu chủ động.

                  Ðường xe ra Long Xuyên, hảng Tân Nguyền của củ Xụl, đường ra Châu đốc, đổ bao nhiêu máu bộ hiền và tài xế vì mìn đạn làm giàu cho hảng Tân thành của ý Hía.


                  Ngoài rìa chợ, dọc theo đường ra Châu đốc hoặc ngược vào núi Tô có những ngôi nhà xây đá cổ, hâu hết gốc “thầy”, thầy ký, thầy giáo, giàu xưa, tiêu biểu là ông Hội đồng Kết, Tàu lai Miên, hiền như đất.

                  Gia đình ông Hội đồng nắm hết quyền hành chánh và giáo dục trong quận, tất cả chưa làm mất lòng đứa con nít, sống rất trong sạch, không quan liêu hống hách, xem dân bổn phố như thân nhân, xưng hô “hia, chế củ, kiểm ...

                  “ Tôi vẫn thường gọi ông Hội đồng là “ông củ.”
                  Thêm giai cấp công chức gốc người Miên ở quanh chùa Trên tiêu biểu là ông Ðốc Nâu hay nói tiếng Pháp, thầy ký Seyla, thầy Tích, thầy Khách, thầy Hoạnh, thầy Kul, cô giáo Ni, thầy Xét....

                  gia đình họ lên Nam Vang có người làm Tỉnh trưởng.
                  Trường Miên tổ chức chặt chẻ, có tới lớp Nhứt, lâu đời, học sinh giỏi tiếp tục lên Nam Vang học rồi ở luôn không về.

                  Trường Tiều khi mở khi đóng bất thường. Trường Phước Kiến ngưng hoạt động, còn lại tòa nhà cũ.
                  Tôi không quên nhắc những người dân Miên nghèo sống quanh các ngôi chùa trong Sóc dọc theo chân núi, thật thà, sợ tội, ưa làm phước.

                  Bao nhiêu thế hệ đi qua không lưu lại dấu vết gì. Ông Tà Ni đập chó, tiếng là ác, ông đập chó để đổi lấy miếng cơm và ly rượu công xi.

                  Con Ðiên chợ Xà Tón năm 1950, tiếng là điên, sống nhờ miếng cơm dư của thiên hạ. Ác như ông Tà Ni, điên như con Ðiên mà vô hại, không ai ghét.

                  Khôn như quan một Sử, bắt người khảo của, Nội an Bổn cho thuộc hạ vô Sóc lùa bò, hai người nầy gốc gác ở xứ khác.
                  Tôi không biết nhiều về xóm dọc bờ kinh, nhà nào cũng có bàn Thông Thiên, một lon cặm nhang, một bình bông trang và ba chung nước cúng trời đất.

                  Họ có đạo tâm, giữ gìn giá trị đạo đức tuyệt đối, nhẫn nhục và an phận. Mưu sinh ra sao không rõ.
                  Có khoảng vài gia đình theo Thiên Chúa Giáo gốc cù lao Ven, sống ở đầu kinh, bắt trăn dưới bưng bán cho người lột da, bán thịt bán mật, đi lễ ở nhà thờ cất sát bên thành lính Tây.

                  Thành lính Tây sau nầy làm Chi khu, rồi bị phá làm rạp hát, một “cuộc hí trưòng”.
                  Trước năm 1960, đầu kinh ở sát đường dọc theo hông chợ phía đông, tàu lồng cu, xà lan và ghe chài, ghe nồi đậu nghẹt bờ kinh rộng. Ngày nay (1975) kinh bị lấp dần cả hơn cây số, nhà cửa cất san sát choáng hết đất.

                  Gia đình tôi bắt đầu ở Sóc, dờI lên chợ, sang lại tiệm tạp hóa của Chệt Chiêu, tiền vay bạc của Khánh An chành, sau chuyển sang “thí hụi” bán đồ sắt.
                  Năm 1954, Ngô Ðình Diệm cấm Hoa kiều mấy chục nghề, ông già tôi bỏ giấy Minh hương nhập Việt tịch, cuộc sống không thay đổi gì.

                  Ông là dân tỉnh xa, bỏ xứ đến đây lập nghiệp, ảnh hưởng chút ít văn hóa Pháp.
                  Ông chăm chỉ làm ăn nuôi con, muốn con đi học hơn là buôn bán, khoảng thời gian đầu với đủ thứ áp lực của Xếp lùn, thằng cha “Tây Răng”, phú lích Miên, lính kín, Việt

                  Minh, sự nhịn nhục sợ hải ông ảnh hưởng nặng nề nếp sống tâm lý tôi, thấy ai ở quê tôi cũng sợ, nhút nhát đến độ ít dám mở miệng. Ông bảo vệ tôi như đứa bé lên mười ngu ngốc, sợ người gạt gẩm dụ dổ làm khó dễ tôi. Hầu hết bạn bè gốc Tàu

                  đều là lính kiểng, hoặc lo tiền hoãn dịch, ở xa về lén lút tránh tai mắt. Tôi nhịn nhục tới đờ đẩn ngơ ngáo. Hôm đám cưới Nhền, tôi ngồi khép nép với những tên bạn học cũ, cách xa bàn chức sắc và đám giáo lá.

                  Thiếu úy L. gốc địa phương, trưởng ban gì đó của Chi khu bước tới, những đôi mắt lo lắng giùm tôi, hắn vổ vai tôi, cười nửa miệng “Hia mới về hả, nhậu đả đi, tôi không khó dễ gì đâu, dân xứ sở mà! “ Tôi chưa phản ứng gì thì hắn đã quay lưng.

                  Bàn tự nhiên mất vui, mấy tên bạn muốn dặn dò tôi điều gì mà ngài ngại. Sau đó nghe nói nhà tôi biếu hắn hai chai Martial (giống tên Martel).
                  Lâu lắm mới biết hắn nhắc tôi phải biết điều như đám thằng Sóc Khiếm, thằng Tỷ. Rủi cho tôi vì sự ngu dốt

                  không hiểu ngụ ý hắn , làm ở nhà tốn cặp rượu, nếu ngay lúc đó tôi thông minh hiểu ý, thì chắc hắn ăn ghế lên đầu, ông già tôi sẽ điên lên vì sợ.


                  Việc buôn bán càng phát đạt, tiền vô tiền ra dồi dào, con cái lớn yên ổn, đi xa, có đứa đi nhảy dù, tử trận ở Hạ Lào. Chánh quyền địa phương hết làm khó dễ, nên ông bớt bị áp lực, tinh thần thoải mái hơn, giới thương mại có thể dùng tiền mua chuộc giới cầm quyền.

                  Ông ủng hộ thành lập trường Tiều, cho vài đứa con trở lại học chữ Tàu. Mấy đứa con cười ngửa nghiêng nghe tin ông đắc cử Hội trưởng Hội Phụ huynh Trung học quận.

                  Mỗi tuần ở nhà chừng hai ngày, thời giờ đâu làm việc, ông trả lời tỉnh bơ, “tao ký tên thôi”. Lớn lên tôi đi làm xa, coi như yên một đứa, sự liên hệ tình cảm cha con lợt lạt, đối thoại khó khăn.

                  Mỗi lần Tết về quê, ông gián tiếp cằn nhằn bà già, ép tôi lập gia đình với con chủ vựa trái cây ở Chợ Lớn, con tiệm vải, tiệm tạp hóa, “biết mần ăn, lời một ngày bằng cả tháng lương thầy giáo”.


                  Sáng sớm mồng hai Tết năm 1975, tôi xách gói đi xe tài nhứt để kịp lên Sài Gòn lo hồ sơ xin thông hành xuất ngoại.

                  Ông nằm ngủ nướng trong mùng, nói vói theo, dặn lên Sài Gòn cần tiền cứ mượn thân nhân rồi ông gởi trả sau. Ðó là lời trăn trối dặn dò cuối cùng.

                  Những ngày khốn đốn vì Cộng Sản, con đi tứ tán, ông đi quanh quẩn ở nhà, hứng chí thì hát Tiều một mình, bạn bè tới ngồi chơi, nhắc tới con cái, ông thở dài than, “xa xua, lặt hái chiệt hun tì”, tam sơn lục hải nhứt phần địa, núi ba phần, biển sáu phần, đất chỉ là phần nhỏ. Xa xăm quá.

                  Những ngày cuối cùng, ông chống gậy lên núi Chưn Phnum tìm chỗ nằm theo hướng phong thủy, tec hóc xềnh hun chuối ,đức phước thành phong thủy . Ngày nhắm mắt ước ao thấy mặt con lần cuối. Nhựt lạc Tây thiên, mặt trời lặn ở hướng tây.

                  Bao nhiêu năm nay, nằm bơ vơ trên sườn núi, bầy con lưu lạc chưa đứa nào có ý định xên mến, thanh minh, về dẩy cỏ, lợp mả cúng heo quay, viện lý do bận làm việc nuôi con, trả nợ mua nhà, đứa nầy nạnh đứa kia, “kê kía ky xí pể” (con đông đói chết cha). Bạc phước!

                  Ðể lại cho con, Lưu Linh Kiwi


                  Lưu Nhơn Nghĩa
                  thatsonchaudoc
                  Last edited by khatranac; 08-08-2015, 07:35 AM. Lý Do: Tách hàng !
                  sigpic

                  Comment


                  • #10
                    Như Cánh Chuồn Chuồn

                    Hoa Trên Đồi
                    __________________________________________________ _____


                    * Viết đáp lễ Phù Vân
                    Tặng Trương văn Tấn (Scheidegg)
                    Viết cho cháu Ngọc Thanh (Liederbach)


                    Đang kéo mấy thùng hành lý ra Post gởi, tình cờ gặp người bạn báo tin có cuộc biểu tình ở Bonn liên quan tới vụ án tử hình hai vị tu sĩ, Đại Đức Tuệ Sĩ và Đại Đức Trí Siêu.

                    Không biết thì thôi, biết thì phải đi, cộng sản có để ai yên bao giờ đâu, hơn 13 năm làm đảo điên vật chất và tinh thần người Việt không ngừng, lại tiếp tục gây thêm oan trái.


                    Trước ngày biểu tình, tôi mang bị đi Frankfurt ghé gia đình người bạn thân để hôm sau cùng đi chung. Đến ga xe lửa Frankfurt, tôi len lỏi như bóng ma giữa đám đông bương chải tìm Ubahn số 2 về hướng Horst.

                    Đến ga Horst vắng vẻ, dư hơn hai tiếng đồng hồ chờ người bạn đi làm về ra đón. Gần sáu tuần vô công rỗi việc, phất phơ cơm đình cháo chợ, vô gia cư, vô nghề nghiệp đúng nghĩa, giấy tờ nhà mướn, thuế má đã xong, không còn bị ràng buộc bởi tiếng

                    còi hụ mệt tim của hãng xưởng, tôi thấy cái bổn phận cấp cần lợi dụng cơ hội thưởng cho mình vài giờ phong lưu hiếm có, thấm thía thưởng thức cái yên lặng trong đám đông nhộn nhịp.


                    Quán rượu Bahnhof Horst 17 giờ chiều cuối mùa Thu thưa thớt người. Tôi len qua hàng bàn ghế đến quày rượu. Anh chàng tóc xoắn gốc Arab ngồi sẵn nơi đó thân mật hỏi:

                    - Cà phê hả?
                    - Ừ, cà phê, tôi trả lời nhanh.
                    - Cà phê, Maria! Hắn tự nhiên lên tiếng.

                    Bà Maria nốc ực cốc rượu mạnh, mệt mỏi, miễn cưỡng pha tách cà phê.

                    Tôi lò dò móc tiền, chàng Arab nhanh nhẩu trả lời ‘Rồi’. Tôi lúng túng, anh ta trả lời ‘Egal’, rồi xáp lại gần tôi vỗ vai bá cổ thân thiện:

                    - Mạnh giỏi không?
                    - Cám ơn, tôi khỏe! Vừa trả lời, tôi vừa kiểm soát ví tiền trong túi và cái cặp đeo vai,

                    ngại ngại, tại sao anh ta tốt bụng trả tiền cà phê cho mình. Ở Tây Đức tám năm, tôi chưa gặp trường hợp này. Tôi ngập ngừng chào hắn rồi bưng tách cà phê tìm chỗ ngồi ngay cửa ra vào. Hắn lại cầm ly bia theo tôi ngồi bên cạnh, tươi cười rút thuốc lá mời.

                    Tôi ngại ngùng ‘Cám ơn anh, tôi không biết hút thuốc’ (dù tôi hút thuốc như ống khói). Hắn thân mật tiếp tục nói sang sảng:

                    - Tôi gốc dân Berber ở sa mạc Morrocco, làm việc ở tỉnh này 11 năm hơn, chán lắm!

                    Hắn tu gần nửa ly bia, mắt đỏ rực uất ức, buông thả nhún vai. Tôi càng lo lắng hơn về thái độ thân mật lạ lùng giữa hắn và tôi, một gốc Berber, một gốc Việt Nam, khác hẳn hoàn cảnh địa lý, chủng tộc, văn hóa.

                    Hắn lắc đầu cúi xuống nhìn màu óng ánh vàng của ly bia, nói nhỏ ‘Tôi độc thân, đi làm về cô đơn nên ghé quán rượu’, hắn ngập ngừng, miệng lảm nhảm, ngồi gần tôi, ôm vai tôi, hơi rượu nồng nực.

                    Tôi rùng mình, thầm trách sự lơ đãng của mình, ‘Mẹ ơi, chắc gặp anh em ta rồi!’, tôi thầm nghĩ. Tôi tự trấn an, quán đông người hơn, không thấy ai có dáng dấp du đãng, cái cặp tôi

                    chận giữa, hơn nữa hắn ngà ngà say, tôi uống ngụm cà phê, tỉnh táo, đề phòng ứng phó những bất trắc, sửa lại tư thế ngồi để dễ dàng xoay trở. Hắn hít mũi khìn khịt, tâm sự:

                    - Anh biết, tôi dân du mục Berber ở sa mạc Marrocco, tôi nói tiếng Arabic, Maroc, Pháp ngữ và Đức ngữ. Anh biết không, tôi làm việc cực khổ siêng năng mà vẫn bị bạc đãi.

                    Hắn lắc đầu, mỗi câu dặm thêm tiếng chửi thề:

                    - Dân Đức kỳ thị chủng tộc lắm anh ạ!

                    Tôi yên lòng đôi chút. Hắn hớp ly bia hỏi:

                    - Anh từ đâu đến?
                    - Tôi từ Việt Nam. Tôi trả lời, thờ ơ.

                    Hắn có vẻ thích thú, tiếp tục:

                    - Vậy à? Ở bộ lạc tôi có một ông già đi lính Lê Dương dự chiến ở Đông Dương, ông ta chết khá lâu rồi.

                    - Sao? Ông ấy tử trận hả? Tôi tò mò hỏi.

                    - Không, ông ta giải ngũ, về say rượu bị bịnh gan rồi chết. Hắn trả lời.

                    Tôi đưa tay đậy tách cà phê, sợ lây bịnh độc địa hại thân, im lặng sợ kéo dài câu chuyện. Anh kêu thêm ly bia, nói:

                    - Anh uống một ly bia nghe?

                    Tôi từ chối:

                    - Cám ơn, tôi không biết uống bia.

                    Chưa quen mà mời uống rượu, biết đâu hắn phục rượu mình, tứ cố vô thân, lỡ hắn có hành động quá trớn, hậu quả khó đoán.

                    Thân hình hắn vạm vỡ, không tương xứng với thân gầy gò của mình. Tôi tiếc bỏ quên cặp dao phòng thân mỗi lần tôi đi xa, ngồi thấp thỏm lo âu. Hắn tiếp tục liên miên:

                    - Anh biết không, lúc tôi còn bé, tôi theo gia đình đi chăn dê và trừu ở các ốc đảo sa mạc, nghèo mà vui lắm. Tôi ngồi trên lưng con lừa ngu ngốc, đuổi đàn thú về trước khi mặt trời lặn, đêm đêm đốt lửa rồi chun vô lều ngủ.

                    Lâu lâu ông tôi cho làm thịt con trừu sau khi xén lông nó, món couscous trừu ngon lắm, nói đến đây, hắn chu miệng chụt một tiếng, cười hể hả. Tôi cười vuốt theo, thấy chút vui lây. Cơn khủng hoảng tinh thần tan biến dần, tuy trong lòng còn e dè, căng thẳng.


                    Nói chán, không thấy tôi góp chuyện, hắn đứng lên nhập bọn với mấy người khách mới vô quán, vỗ vai gật đầu từ giã tôi.

                    Tôi nhẹ nhỏm, kiểm soát ví tiền, và cái bị đeo vai, bình tĩnh yên lòng lấy xấp postcards viết cho qua thì giờ, nhấp ly cà phê nguội lạt lẽo, liếc thấy chàng Arab trò chuyện với những người ngồi bên.

                    Tôi chợt cảm thấy thích thú vừa khám phá thêm một mảnh đời của khách quán rượu này, chắc ai cũng có tâm sự vui buồn, vào đây kẻ kể người nghe. Tôi viết vội mảnh đời anh Arab vô vở nhựt ký, quên tiếng ồn ào chung quanh.


                    Cánh cửa mở, cơn gió lạnh đánh thức tôi khỏi cơn mê ban ngày. Một thiếu nữ Á châu khệ nệ xách hành lý để góc cửa, cái thùng vàng của Post và hai cái va li nhỏ.

                    Cô đi thẳng vào trong, rồi trở lại xin phép ngồi bàn trước mặt tôi. Tôi tiếp tục viết, chán rồi lấy báo ra đọc. Cô gái vươn vai ngáp dài, ngồi thừ ra, im lìm, nét mặt lạ lùng. Tôi gợi chuyện:

                    - Cô người Việt Nam phải không?

                    Cô gái lắc đầu nguầy nguậy, trả lời bằng tiếng Đức:

                    - Không phải!
                    - Vậy cô người Hoa?
                    - Không phải, tôi người Mỹ.
                    - Cô qua Đức lâu chưa?
                    - Đã hơn một năm.
                    - Vậy cô qua đây du lịch? Tôi hỏi bằng tiếng Anh.
                    - Tôi không biết tiếng Anh. Cô trả lời bằng tiếng Đức.

                    Biết gặp người ba trợn, tôi ngưng câu chuyện, tiếp tục dán tem trên postcards rồi viết nhựt ký. Cô chợt hỏi:

                    - Ông viết gì đó? Cho tôi xin coi.

                    Cô đọc, mỉm cười nhẹ nhàng.

                    - Cô hiểu không? Tôi hỏi.

                    Cô gái gật đầu. Tôi quan sát cô gái, yên lòng hơn lúc ngồi bên anh Arab vừa rồi. Gương mặt này, dáng dấp này, nếu không phải là người Việt Nam thì là người gì?

                    - Cô uống nước? Tôi mời.
                    - Coca. Cô trả lời ngắn gọn.

                    Cô bưng ly coca uống từng ngụm, chậm rãi, sắc thái trầm tĩnh của người trưởng thành, dù tuổi cô chắc chưa quá hai mươi. Trí tò mò vô duyên của tôi bắt đầu:

                    - Cô đến tỉnh này tìm ai?

                    Cô lục lọi trong túi xách, lấy một phong bì đưa cho tôi xem.

                    Trên phong bì đề tên người gởi tên Chris ở Texas và người nhận ở New York, cũng tên người Mỹ, sau phong bì là địa chỉ của một Behinderten Werkstatt và địa chỉ cùng số điện thoại để cô liên lạc.

                    - Cô tên gì?
                    - Tên Chris.
                    - Gia đình cô ở đâu?
                    - Tôi không có cha mẹ. Tôi thử liên lạc số điện thoại trên mấy lần nhưng không ai trả lời.

                    Cô lấy bao thuốc lá, vấn hút thành thạo, lại ho sù sụ, lau miệng bằng khăn tay, đúng hơn là một miếng vải trắng đổi sang màu ngà. Cô khạc nhổ khèn khẹt vào bao plastic nhỏ, mắt đỏ ngầu, những người khách trong quán ngạc nhiên và khó chịu nhìn.

                    Vài phút sau, cô sửa thế ngồi, chống hai tay lên má, im lìm.

                    Đôi mắt cùa con cheo linh động trên gương mặt bất động, vô hồn, làn môi đổi thành thâm sạm ảnh hưởng của thuốc lá.


                    Nhạc trong quán bắt đầu rập rền. Một bà khách Đức duy nhứt đứng dậy kéo một lão già khác khiêu vũ. Lão từ chối, ngồi xuống gật gù trước ly rượu.

                    Bà nhún nhẩy, cởi áo, banh ngực, bụng nhầy nhụa mỡ, hát the thé như bà bóng nhập. Ngồi xa, tôi vẫn đề phòng, sợ ly rượu trên tay bà có thể bay về phía mình.

                    Khách có vẻ quen thuộc với cảnh này nên họ thờ ơ, không tham gia phụ họa hay khuyến khích, họ bận rộn cười nói huyên náo. Chàng Arab nhìn tôi, liếc bà, mỉm cười quơ bàn tay trước mặt.

                    Hai chân dù to lớn cũng không chịu đựng được khối nặng lâu, lại bị khách cô lập, bà già oái oăm phục phịch đi về phía bàn tôi và cô gái, đặt ly rượu trên bàn, ngồi sầm xuống, nói một câu tiếng Nhựt, tôi lắc đầu, bà gật gù:

                    - Tôi là dân sinh ở West Fallen, bồ biết không, dân Hessen tệ lắm. Nói cho bồ biết đề phòng, nếu bồ đói bụng mà gõ cửa nhà dân Hessen, họ sẽ thụi vô mặt bồ đó!

                    Tôi thờ ơ trả lời:

                    - Tôi chưa có kinh nghiệm, thưa bà!

                    Ông lão già Đức đi qua, mỉm cười nhìn, bà ta đứng dậy, giơ tay nói như đang gây gổ:

                    - Kệ ta, vấn đề của ta, không phải của ông!

                    Lão già cười chúm chím lễ độ:

                    - Tôi có nói bà gì đâu, bà có vấn đề của bà, tôi có vấn đề của tôi!

                    Bà quay lại tiếp chuyện:

                    - Tôi thích dân Nhựt hơn, dân Nhựt tốt lắm.

                    Cô gái ho khành khạch, khạc nhổ gớm ghiếc, cắt đứt câu chuyện, mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng, hai vai cô nhịp theo cơn ho hen rách phổi đứt đoạn. Bà già nhìn cô, nhìn tôi hỏi:

                    - Vợ phải không?
                    - Không phải.
                    - Em gái phải không?
                    - Không phải.
                    - Bạn gái hả?
                    - Không phải.

                    Cô gái đâu có liên hệ gì với tôi, cô tên Chris mà, cô không có cha mẹ, cô nhận tên ai làm tên mình, cô chối bỏ là người Việt Nam, cô chỉ sử dụng Đức ngữ. Bà già Đức mở lại cái máy phát ngôn, điều chỉnh âm thanh trầm và nghẹn ngào:

                    - Chồng ta chết lâu rồi, bồ biết, khi chồng ta chết, bà mẹ chồng bất nhân đuổi ta ra khỏi nhà, sau thế chiến thứ hai, mùa đông lạnh, ta ngủ lang thang, dân Hessen tệ lắm!

                    Mỗi câu nói chấm dứt bằng tiếng chửi thề, nét mặt trắng bệt hoặc đỏ rần cái quá khứ chua chát, đắng cay, bạc bẽo.

                    - Bồ biết không, bọn trong quán này chê ta ghiền rượu, còn bọn nó vô đây làm gì?

                    Bà bật ngửa người dựa trên thành ghế, hai chân nhịp rần rật theo tiếng nhạc. Thình lình bà ôm và hôn má tôi.

                    Tránh không kịp nên tôi xin lỗi bà vào toilette rửa mặt, cái bịnh Aids báo chí nhắc nhở ám ảnh tôi, vô tình lây bịnh bỏ mạng, uổng công cha mẹ nuôi dưỡng.

                    Tôi thầm tiếc rẻ: ‘Bà ơi, nếu bà trẻ lại 30 tuổi, nhẹ hơn 30 kí lô, tôi chết cũng cam lòng!’


                    Cô gái tiếp tục vấn thuốc hút. Tôi ngăn, ‘Đủ rồi cô ơi!

                    Cô hút thuốc nhiều sẽ bị ho’. Thực sự tôi sợ cô ho, cô khạc trông tởm quá. Cô gái ngoan ngoãn để gói thuốc vào túi.

                    Chỉ hơn một tiếng đồng hồ ở ga tỉnh lẻ, tôi tình cờ nghe tâm sự chàng Arab cỡi lừa chăn trừu, bà già Đức than bị mẹ chồng bạc đãi, bạn bè ruồng bỏ.

                    Còn tâm sự cô gái nhỏ im lìm đối diện, và tâm sự tôi có đẹp đẻ gì hơn ai?


                    Bà già Đức tóc bạch kim như con gấu trắng, thở phì phò, hơi rượu nồng nặc, gọi ba ly bia. Tôi xin tách cà phê và cho cô gái ly coca. Cô gái uống thanh thản, mắt nhìn thẳng về trước, lơ láo, hàm chứa sự trống rỗng bất thường.

                    - Sao hai người yên lặng vậy? Bà già hỏi.

                    - Thưa bà, ngôn ngữ yên lặng tuyệt diệu nhứt.

                    Cô gái chống hai tay lên má, lúc nhăn mặt thiểu não, lúc mím môi nghiêm nghị, lúc bỉm môi khinh miệt. Vầng trán căng tròn dung chứa sự khốn khổ vùi dập của cơn bão biển cuồng nộ, cái quá khứ thanh thản được nuông chiều che chở ở miền Á châu, con cá nhiệt đới bị ném vào ao hồ tuyết giá.

                    Vợ chồng người bạn ra đón, tôi thoát khỏi bà Đức xảnh xẹ uốn éo. Tôi trình bày hoàn cảnh cô gái, người bạn tốt bụng sẵn sàng chở cô đến địa chỉ ghi trên phong bì. Đến nơi mới biết là tiệm bán đồ chơi do người tàn tật sản xuất, ban đêm không ai làm việc.

                    - Đêm nay cô nghỉ ở đâu?

                    Cô tự nhiên nhún vai:

                    - Tôi không biết.
                    - Cô có tiền không?
                    - Không có!

                    Bạn tôi có lòng thương người, định chở cô về nhà tạm trú qua đêm. Tôi kéo người bạn ra bàn riêng:

                    - Mặt mũi cô có vẻ bất bình thường, môi xám, chưa biết lý lịch, hành lý khả nghi, bịnh

                    hoạn ban đêm ai chịu trách nhiệm?

                    Bọn tôi đồng ý mang trả cô về ga xe lửa. Hõi giấy tờ, passport, cô đưa cho coi xấp giấy. Bọn tôi giựt mình. Giấy của tòa án thiếu nhi phạm pháp, đang điều tra tên tuổi cô.

                    Bản án kết tội cô đi xe taxi không tiền trả. Đưa cô về Bahnhof, quán rượu đóng cửa, nên khuyên cô chờ và chúng tôi điện thoại liên lạc với Cảnh sát để họ giải quyết. Cô thơ thẩn gác chân tật nguyền trên lò sưởi bên tường.

                    Cơn đau bất ngờ hiện lên khuôn mặt thảm thương, nhăn nhó, rên rỉ ‘Ôi!’. Tiếng than ngôn ngữ Việt Nam, cô để lộ tiếng than vô thức sâu kín trong lòng. Thời tiết cuối Thu gió phần phật, cô đứng bơ vơ dựa trên lò sưởi.

                    Tiếng than vì chân bị nhức hay tiếng than của người xa nhà? Cảnh sát sắp đến, bọn tôi lên xe về, yên lòng đêm đó dù sao cô cũng có nơi tạm trú, ít nhứt đỡ cơn gió lạnh cuối Thu cho con chim lạc đàn nhỏ này.


                    Đêm đó, quanh bàn cơm tối ấm cúng, bọn tôi vẫn chưa quên biến cố gặp phải vừa qua. Chị bạn trách chồng quá tin người, ai thật ai giả, ách giữa đàng mang vào cổ.

                    Chị có lý của chị, anh chồng có lý của anh, anh lý luận qua tấm lòng nhân hậu, gặp đồng hương trong cơn hoạn nạn phải giúp đỡ. Cô gái đưa trát tòa truy nã cho xem, cô đâu dối trá gian xảo gì.


                    Buổi sáng sớm hôm sau, chúng tôi lên Bonn tham dự cuộc biểu tình chống bản án tử hình hai Đại Đức Tuệ Sĩ và Trí Siêu. Trời còn quá sớm, xe đi thật chậm để nhìn rõ bản chỉ đường bị sương dầy đặc che khuất.

                    Bé Ngọc Thanh nũng nịu ôm mẹ, chân đạp lên ghế ba nó. Đùa chán, bé hứng chí hát theo tiếng nhạc trong cassette, lúc đầu ngập ngừng, sau bé hát luôn theo tiếng nhạc, véo von như tiếng hát chim rừng nhiệt đới, át hẳn tiếng hát thương mại của

                    cô ca sĩ chuyên nghiệp. Tiếng hát bé Ngọc Thanh hồn hậu thanh khiết như suối đầu nguồn, chưa gạn lọc qua khuôn ngăn cuộc đời và nghệ thuật.

                    Tiếng hát ấm áp trong xe, tôi muốn tắt tiếng nhạc chùm gởi nhân tạo để nghe bé hát, tiếng hát thơ ngây cho tôi giây phút lắng lòng ngậm ngùi. Rồi bé lim dim ngủ.


                    Câu chuyện cô gái vô danh đêm trước còn quanh quẩn. Cô là ai? Đôi mắt lanh lợi khờ khạo kia có chất chứa điều gì giả trá?

                    Sao cô chối bỏ gốc nguồn? Nạn nhân của hệ thống lý thuyết chính trị phi nhân.

                    Xã hội cướp mất lòng tin người, cô tin tưởng ngoan ngoãn đưa cả giấy tờ cho chúng tôi đọc, để chúng tôi gọi Cảnh sát bắt cô về bót, chính cô đã đặt sai lầm niềm tin.


                    Cô đã chạy trốn tòa án thiếu nhi, trốn nợ taxi, chối bỏ cha mẹ cội nguồn. Ở Việt Nam, cô bị tước đoạt quyền làm người, cô bỏ xứ đi tìm tự do, rồi đánh mất tâm trí trên biển khơi nên cô lầm lẫn ảo tưởng và thực tế, nhận quốc gia khác làm sinh quán, cô đánh mất tấm căn cước văn hóa mất rồi. Ai đủ thẩm quyền trả lời?

                    Trước tòa Đại sứ CSVN, tôi đứng lẫn trong hàng ngũ anh em bạn bè nắm tay nhau cùng chống đối chế độ bạo ngược, hét đến rách phổi xin được quyền làm người.

                    Cơn gió Thu lạnh cóng mặt không đủ khả năng làm nguội nhiệt huyết mọi người, nạn nhân của chế độ. Tôi vô tâm hay thiếu phần can đảm và trách nhiệm đối với một nạn nhân của chế độ chúng tôi đang chống đối.

                    Người thủy thủ của thời tiết tốt, giúp người bằng ngôn từ hoa mỹ hơn là hành động thực tiễn. Trong xã hội Cộng sản, con cái tố cáo cả cha mẹ, cha mẹ nghi ngờ con cái. Giữa cô và bọn tôi, ai chân thật, ai nghi ngờ?


                    Sau cuộc biểu tình, hội họp, về nhà khá trễ, tiếng điện thoại reo, đầu giây bên kia tiếng quen thuộc của người bạn gọi:

                    - Sao? Anh hứa sau buổi chiều biểu tình ở Bonn, anh tạt qua nhà tôi chơi, tôi đợi anh

                    suốt buổi chiều, không dám đi đâu hết!

                    Anh bạn cười dòn:

                    - Tôi hết tin anh nổi rồi!

                    Tôi thẹn thùng nằm bừa trên ghế, nhắm mắt cố quên chuyện cho lương tâm yên ổn, qua cơn ngột ngạt tâm lý.

                    Cái cuối tuần trước ngày ra đi, được bạn bè đưa tiễn bằng buổi họp mặt. Tiệc tùng làm buồn thêm, hàn huyên gượng gạo, những ánh mắt buồn bã lưu luyến nhau, chưa lần nào nghi ngờ lợi dụng dù sơ thân. Đủ rồi, chúc tụng làm nao lòng nhau.

                    Tiếng hát anh bạn mới quen hát tặng, cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến, anh không phải là tướng tá hay ca sĩ Tâm Lý Chiến, ước mơ thanh bình của đất nước. ‘Tàn chiến cuộc em đi theo anh ...’ rầm rập như tiếng súng nổ, tôi nghe và cảm được

                    bước chân hào hùng của người thực sự tham dự trực diện cuộc chiến. Tiếng hát anh dòn dã phá vỡ những nghi ngờ, làm vững tin nhau hơn. Tôi chợt nhớ bé Ngọc Thanh với tiếng hát hồn

                    nhiên vỗ về như tiếng đờn thần Thạch Sanh có khả năng hóa giải oán thù. Tiếng hát hòa tan trong cơn gió thoảng êm ái xóa sạch đám mây xám nghi ngờ, là giọt mưa Xuân tưới mát cỏ hoa thơm ngát trên đồi.


                    ‘Gió mùa Xuân mẹ bâng khuâng hỏi
                    Hoa trên đồi, hoa trên đồi, sớm tối còn tươi’

                    Gailes - Australia 4 - 1989



                    Lưu Nhơn Nghĩa
                    thatsonchaudoc
                    sigpic

                    Comment


                    • #11
                      Như Cánh Chuồn Chuồn

                      Mười giờ Ông Chánh về Tây
                      _______________________________________________



                      · Kính tặng Bác Trần Viết Chương,
                      Muhlheim / Main - Tây Ðức



                      Tiếng bằm thịt làm bánh bao rầm rập đều đặn từ các tiệm nước đánh thức buổi chợ mai. Tiếng kéo thông hồng ken két ê răng của các tiệm tạp hóa quanh chợ giục giã người buôn gánh bán bưng chuẩn bị cho ngày.


                      Người rời chợ sớm vào Sóc phải qua góc chợ phía Tây mua quà sáng mang theo, những gói bánh tằm, bánh hỏi, bắp hầm ... được gói trong lá sen gọn ghẽ, rồi ghé tiệm nước uống cà phê.

                      Họ quây quần dưới ánh sáng chói chan của mấy cây đèn khí đá, đổ ly cà phê đen ra dĩa húp xùm xụp, vừa trao đổi câu chuyện giá cả thường nhựt.


                      Sáng hôm ấy, bỗng xảy ra câu chuyện hơi lạ, khó ai đoán nổi những gì sẽ xảy ra: Thầy đội Sử trong đồn dẫn toán lính phú lích đi ruồng qua chợ sớm, điều chưa xảy ra lần nào, vì bổn phố đang dọn hàng, trẻ con còn ngủ.

                      Gương mặt những người phú lích cũng khác lạ hơn thường ngày, lắng dịu hơn khi giữ trật tự. Súng mút trên vai lỏng lẻo, họ kiên nhẫn len lỏi chậm chạp qua các thùng trứng cút, trứng chim cò luộc chín bày ngổn ngang gần hết lối đi.


                      Toán lính Ma-rốc, độ nửa giờ sau, cũng di chuyển từ trên thành xuống, xốc vác túi quân trang cồng kềnh vừa đi vừa hút thuốc, cười nói ồn ào vui vẻ, thiếu vẻ dữ dằn đe doạ như khi trước.

                      Ông Cò Tây mặc quân phục vàng, đội kết bi đi sau cùng, nếu để ý, sẽ thấy ông hết sức hiền lành. Ðám người gồng gánh vùn vụt đi qua, chó cắn ăng ẳng chát tai ông không để ý, lầm lũi đi.
                      Ðoàn quân viễn chinh da đen, khăn quấn đầu, tập họp ngoài đầu kinh trước cửa chợ Nam, trên con lộ đá rộng.

                      Ông Cò Tây chắp tay sau lưng, tới lui, lo âu, nhìn toán quân ông chỉ huy, đếm lẩm nhẩm sợ thiếu mất người, rồi đi thẳng về phía chỗ ông Quận đứng nói nhỏ vài câu nghe không rõ, hoặc gật gù vỗ vai thầy thông, thầy ký.

                      Nhóm viên chức nhà việc đứng tụm năm tụm ba thì thầm, lắc đầu, nhìn lên trời, nhìn xuống đất hoặc tới lui nghĩ ngợi, lẩm bẩm.


                      Dưới kinh, tiếng mấy chiếc tàu xà lan sắt nổ bình bình tức tửi, đèn tàu sáng rực đầu kinh, mấy chiếc ghe nồi, xuồng trầu bị đuổi giạt về phía hai bên bờ đậu khép nép giữa đám lục bình dầy đặc. Tiếng tàu nổ dồn, lính thủy trên tàu loay hoay làm việc, thả bửng tàu xuống, chờ.

                      Ông Cò vội vã bắt tay từng người, nhăn miệng cười, đầu gục gặc, lưu luyến. Sau cùng ông đi thẳng đến một thiếu phụ mặc áo tay phùng đỏ, ngập ngừng, mặt dàu dàu.

                      Ông vỗ về, an ủi cô, ông hôn chùn chụt trên má cô làm cô ngượng ngùng đẩy ông ra. Ông nhắn nhủ cô khá lâu, bịn rịn như người sắp đi xa vĩnh viễn.

                      Ông Cò bước thẳng đến toán lính Ma-rốc hô dõng dạc, ‘Garde-à-vous!’En avant, marche.Un-deux, Un-deux ...Tiếng giày đinh dẫm rào rạo trên đường lộ đá xanh, đoàn quân vác túi dết, lếch thếch xuống tàu.

                      Ông Cò quay lại vẫy tay, rồi bước xuống tàu sau cùng. Tàu lui chầm chậm, quay đầu khó khăn vì đầu kinh hẹp, ghe xuồng đậu tấp nập. Không ai bảo ai, mọi người đứng trên bờ đi thẳng đến đầu kinh, vẫy tay chào, rồi lại vẫy tay chào vĩnh biệt ...

                      Tàu quay đầu, chuẩn bị, xình xịch di chuyển nặng nề, nưóc kinh bị xoáy đục ngầu, sóng vỗ ghe xuồng nghiêng ngửa, tàu đi khó khăn hơn lúc tàu đến.


                      Ông Quận, thầy Thông, thầy Ký, ông Cả, ông Quản, lính phú lích, thầy Ðội ... đứng nhìn chăm chăm, tàu càng trôi đi xa, nhỏ dần, kẻ ở, đứng đầu bờ kinh, người đi, còn lại những cái chấm đen của ống khói tàu ngoài xa. Cái cảnh chia tay giống hình trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư.

                      Chấm đen rồi cũng khuất dần sau lùm cây xa, nước đầu kinh phẳng lặng trở lại, những lượn sóng lăn tăn tiếp tục đuổi nhau nô đùa, mặt nước hiền hòa thanh bình như cũ.


                      Sinh hoạt chợ Xà Tón bình thường ít thay đổi dù kẻ ở người đi, dù mưa dầm nắng hạn. Những người khách mắt xanh da trắng từ bên Tây, hoặc da đen từ Bắc Phi có tới rồi đi, mặc họ. ‘Mình lo mần ăn, hơi đâu để ý’.

                      Chuyện bên Tây, bên Tàu chỉ dành riêng cho mấy cha vô công rỗi việc, ngồi xếp bằng trên chõng, tay chống trên đùi, nhún nhún, gật gật, nhậu vô ba sợi bàn chuyện bá-láp.

                      Mấy bà ghét nhứt các ông chồng hạng này. ‘Kêu gánh đôi nước, cái là nói mệt, a đau bụng, đau đầu, còn ngồi cả buổi đánh cờ uống rượu nói chuyện năm trên, bàn chuyện bá vơ thì giỏi, chuyện bên Tây bên Tàu mắc mớ gì mình, thứ đàn ông vô tích sự đó đem câu sấu mới vừa’.

                      Các tay nhậu chính trị cũng có lý do. ‘Ôi, đàn bà nói, hơi đâu nghe anh Ba, làm ly rồi tôi nói anh nghe. Nè! Tây thua trận Ðiện Biên Phủ, ký hiệp định ‘Giơ Neo’ đó.

                      Tôi nói hồi trước đó, anh có nghe đâu, bây giờ rõ ràng đó, anh hổng nghe sấm giảng nói sao?’
                      ‘Bao giờ lúa mọc trên chìVoi đi trên giấy, Tây thì về Tây.’‘Ðó anh coi, bó lúa trên đồng bạc chì, hình voi trên tờ giấy bạc đó. Tui nói đâu có đó, để rồi anh coi!’

                      ***


                      Thiếu phụ mặc áo tay phùng đỏ, mặt buồn rười rượi, đi nép dọc theo vỉa hè phố, tránh chung đụng với các thầy thông thầy ký đi đường hoàng trên lộ cái. Cây dù hồng ngượng nghịu xếp lại, kẹp chung với bóp đầm.

                      Cô bước luống cuống sợ chạm mặt người quen, ‘họ chào mất công trả lời! ’
                      Cô đi một mạch về nhà, nằm vật vả trên giường nệm, quên cả mái tóc mới ‘phi-dê’ tuần trước bị hư.

                      Cô đưa mắt mơ màng nhìn cái đồng hồ đờn treo trên vách, bên cạnh là bức ảnh bán thân cô chụp chung với ông Cò. Ảnh chụp lúc mới cưới, tóc cô lúc đó chưa ‘điển’, bới xệ trên vai giống vợ thầy Ðội Sử, môi son, lông mày nhổ sạch như hai sợi chỉ nằm vắt ngang đôi mắt mơ màng.

                      Chú thợ chụp hình phải sửa đổi điệu ngồi cho cô nghiêng bên vai ông Cò, tình tứ. Bức ảnh trắng đen do chính tay thợ ở Long Xuyên tô màu mới được vậy.

                      Cô chép miệng, thở dài thườn thượt, đứng dậy đi tới đi lui như người quẩn trí.
                      Ðứa ở trong bếp lên, rụt rè hỏi: - Cô Marie ăn gì, tui đi mua?Ðang bực bội mệt mỏi, cô trả lời bằng cái ngáp dài, ‘Thôi!’

                      Sáng này cô chưa thấy đói. Mọi khi, chú Tư Sen đã dọn sẵn điểm tâm cho cô rồi. Tư Sen nấu bửa tiệc của ông Cò đãi ông Quận và viên chức tuần trước, về nghỉ mấy ngày để sắp xếp việc nhà.

                      Căn phố ông Cò mướn riêng cho cô hiu quạnh hơn, đứa ở là cháu xa bên gia đình cô, sợ cô như cọp, nên chỉ lui cui dưới bếp suốt ngày.
                      Ðầu óc cô lờ đờ, đú đẩn, không nghĩ ngợi tính toán gì được sau khi ông Cò lên tàu về nước sáng này.

                      Con chó ‘bẹt-giê’ nhảy chồm lên mình cô rậm rật, bấu víu, sủa chát tai, cô ôm chó hôn trìu mến, vuốt ve quay xuống bếp gọi: ‘Sáu a! Cho chó ăn!’

                      ***


                      ‘Hồi đó nghe mấy bà, hổng phải tôi nói gian, chớ nhà tôi giòng dõi lắm, chớ phải chơi sao? Dượng Bảy tôi, bà con bên vợ của quan Tổng Ðốc Trần Bá Lộc à! Từ Cù lao Giêng tới Cái Bè, ai mà không nghe tiếng quan Tổng đốc Lộc?

                      Mấy bà biết hông, mỗi lần ông về thăm Cù lao Giêng, bà con lối xóm thiên hạ bu đông nghẹt vậy đó!’
                      - ‘Ðôi, ngựa trắng!’Bà Bang Lạm cắt đứt câu chuyện, ném con bài về phía cô Marie, cô lơ đãng lật lá bài mới nhìn, rồi ném về bà Ký Lành:

                      - ‘Pháo trắng’, cô cằn nhằn, ‘Mẹ cha nó, bài rác không hà!

                      Cô kẹp điếu thuốc Cotab thành thạo giữa hai ngón tay, tỏ vẻ sành đìệu thuốc lá, hít một hơi, nhả khói như khoe khoang cái thói quen của người văn minh, vừa cho các bà Ký, bà Bang thấy mấy ngón tay móng sơn đỏ choét. Cô Marie tiếp tục:

                      ‘Tôi nói mấy bà nghe, nhà tôi ở Cù lao Giêng nghe, nghĩa là lớn không thể tưởng tượng’, cô lắc đầu và nhăn mặt phô mấy cái răng vàng chói lọi, ‘mỗi cây cột mấy người ôm không giáp.

                      Mỗi lần má tôi đi chợ hả, mua cá lớn, chớ cá nhỏ hổng ăn đâu à nghe!’
                      - ‘Ăn, xe đỏ!’Bà Ký Lành cắt đứt câu chuyện ngang xương. Mấy bà mê ông tướng xanh tướng đỏ này chỉ để ý thưởng thức cái thú xòe xấp bài trên bàn tay dễ dàng như mở cây quạt, dù là bằng ngón cái của bàn tay trái.

                      - ‘Ăn, xe xanh!’
                      Bà Ký Lành thật bất lịch sự, cô Marie nghĩ thầm, mấy lần làm cô cụt hứng khi câu chuyện đang trôi chảy!

                      ‘Ừ, anh của mợ chín tôi nghe, ổng làm cai xếp gì đó, lớn lắm, ghe xuồng đi ngang, ổng kêu lại ai cũng sợ. Còn bà dì tôi ăn trầu, cau chẻ mặt chứ hổng ăn cau khô như ở xứ này à!’
                      -’Pháo vàng, tới, một, ba, bốn ...

                      Bà Bang Lạm đếm lệnh, vừa xỉa thuốc, sau khi nhổ bã trầu đỏ lòm vô ống nhổ khoe mấy ngón tay đeo cà rá vàng hực trêu chọc cô Marie. Bà Ký Lành xào bài thì cô Marie lại lải nhải:- ‘Mẹ cha nó, đứt bốn chếnh từ sáng đến giờ.

                      Quần lãnh mỹ a nhà tôi nghe, mỗi lần ăn Tết đem phơi ...’
                      Cô Marie đang kéo dài câu chuyện thì cô Ký Bê đứng dậy vươn vai ngáp, ‘thôi nghỉ, dìa, chiều rồi, còn lo cơm nước cho ổng.’- ‘Bà bé đâu, sao không nấu cơm?

                      - ‘Ôi, nó làm biếng như quỉ, chỉ tôi làm thôi, tiền thì nó giữ, nói gì ổng cũng nghe. Mình vợ lớn mà ổng coi như người dưng nước lã, ổng mê cái nhan sắc vợ bé.

                      Cô Marie thua đậm mấy chếnh bài vừa muốn gỡ, vừa muốn giết thời giờ từ khi ông Cò Tây về nước, đành đứng dậy thất thỉu ra về, chủ chứa không buồn mời ở lại ‘dùng cơm’ như mọi khi.

                      ***


                      Thời gian nặng chịch trôi qua; mấy tháng đầu cô Marie còn chờ đợi kiên nhẫn, chờ thư từ và ‘măn-đa’ bên Pháp gởi về. Mấy bà ký bà thông xấu miệng đồn đủ thứ, nào là ‘Ông Cò có vợ lớn ở Pháp, con cái đùm đề, hơi đâu viết thơ cho cô.

                      ’ Cô Marie không tin nhảm được, ‘ông Cò về bằng tàu, mất mấy tháng, thư đi phải mấy tháng nữa mới tới chớ! ’
                      Cô tự nhủ lòng, tự an ủi, ngoài con chó bẹt-giê bầu bạn, có ai tới nhà cô an ủi cô bao giờ đâu.

                      Mấy ông thầy ký lục, thông ngôn lúc trước đến nhà cô hàng tuần, nếu không nói hàng ngày, uống xâm-banh, ăn bít-tết, hút thuốc Cotab, nút chuồn với ông Cò, luôn luôn lễ phép, ‘Cô Marie mạnh giỏi!’

                      Nhứt là Ký Lành, mỗi lần có dịp đi Sài Gòn về mang cho cô dầu thơm ‘ô-đờ-cô-lôn’, viết máy 303, ... bây giờ lánh mặt cô, dân có học mà ‘phản chủ.

                      Suốt gần hai năm nay, cô Marie giải trí bằng tứ sắc, có khi cô đánh đề 40 con, để giết thì giờ, lúc ở nhà bà Hội Ðồng, lúc ở nhà bà Bang Lạm.

                      Cô Marie nằm trằn trọc, gác tay lên trán nghĩ ngợi, chờ các bà tới kêu đi đậu chếnh. Từ ngày ông cò Hiến Binh đầu đỏ đổi về, cô Marie bị mất chức ‘Cô Cò’, danh xưng đó dành cho vợ ông cò Hiến Binh mới. Họ gọi cô trỏng ‘Cô Marie’ nghe phát ghét.

                      Tệ hơn nữa, các bà mời lơi cô đậu chếnh như mọi khi. Cô sống với cái dĩ vãng huy hoàng, vung tiền như thời còn ông Cò. Mỗi lần bà con ở Cù lao Giêng lên thăm, cô lo cơm nước đầy đủ, cho tiền họ về xe, trái cây làm quà nên ai cũng khen cô rộng rãi và hể hả mỗi lần lên thăm cô.

                      Mấy năm qua như giấc chiêm bao, cô chưa tỉnh, vẫn xem mình là bà Cò chánh thức. Cô Marie bán dần tư trang ông Cò sắm cho lúc trước để làm vừa ý thói quen ‘văn minh.’

                      Cô quên là các bà thông bà ký còn có tiền ra tiền vô, cô thì ngồi ăn núi cũng lở. Dấu hiệu cô suy sụp bắt đầu lúc chú Tư Sen, bồi cho ông Cò nghỉ làm có mấy ngày sau khi ông Cò về Tây, kế đến là cha mẹ đứa ở cho cô lặn lội lên bắt con về vì họ chờ đợi tiền công cô hẹn tháng này qua tháng khác.

                      Chủ phố cố ý cứng đầu hoặc ngu dốt không tin cô, nên cứ nằng nặc sai người tới đòi tiền nhà. Cô tức mình, ‘sao lúc còn ông Cò không giỏi vác mặt tới?’

                      Cô giận dữ hét the thé như bà bóng bị nhập, tiếc là chủ phố vắng mặt lúc đó. Bà Bang Lạm nữa, lúc trước năn nỉ đưa tiền cho cô xài, bây giờ tới mượn thì nhăn mặt than túng, tiệm rượu công-xi mà túng à? Ai xin giùm môn bài hạng nhì cho bà, bây giờ vong ân bội nghĩa.

                      Chỉ có bà Tư xóm ngoài kinh thỉnh thoảng ghé chơi, chuyện vãn với cô, chịu khó ngồi nghe cô Marie kể chuyện quan Tổng Ðốc, ôi, nội ngoại gì cũng được, miễn bà con là được rồi. Cô Marie kể đầu giây mối nhợ, hàng giờ chưa chán.


                      - ‘Quan Tổng Ðốc nghe bà, người nghiêm là nghiêm à, tốt tướng lắm. Tui nhớ, ông mặc áo dài xanh, có tấm vải quàng ngang ngực, mề đai lóng lánh đầy ngực, đi đâu cũng có lính đeo súng ‘Mút’ đi hộ vệ, ‘gạt-đờ-co’ đó bà hiểu không?

                      ’ Bà Tư ngồi im nghe thán phục cô Marie và câu chuyện tưởng tượng phong phú của cô hết bực.
                      Chuyện gì đến phải đến. Tàu chở thơ của Pháp và bưu điện làm chậm như rùa, hơn hai năm rồi mà vẫn chưa được tin ông Cò.

                      Cô định khi được thơ sẽ không trả lời liền để dằn mặt ông, trả thù cho bỏ ghét, chưa kịp trả thù thì bị đuổi nhà, cô Marie dọn ‘tạm’ ở bên chái nhà bà Tư tốt bụng hủ hỉ qua ngày chờ đợi, cô hứa với bà Tư là khi ông Cò trở lại, cô đem bà Tư về nuôi.

                      Từ đó về sau, cô Marie thành khách hàng quen thuộc của tiệm cầm đồ ngoài chợ. Mỗi lần ghé tiệm, cô ngồi lê lết kể chuyện, hy vọng chủ tiệm trả giá cao.

                      Cô kỳ kèo:
                      ‘Từ đó tới giờ tôi mới túng lần đầu, chiếc neo này ông Cò cho tôi, ông năn nỉ lắm tôi mới chịu đeo à. Nói thiệt nghe bà, hồi xưa, tôi lịch sự lịch sàng lắm à!

                      Ở Cù lao Giêng, mỗi lần đi nhà thờ, tôi bận áo tay phùng, mang guốc cao gót, tụi đàn ông ngó tui lấm lét chớ không dám chọc ghẹo tới tôi đâu!

                      Khách hàng ra vào tiệm thường xuyên, bà chủ bận tiếp khách nên cô Marie cụt hứng, bực tức luôn đám khách hàng.Chiếc neo nằm vĩnh viễn trong tiệm cầm đồ, rồi đôi bông tai, cây kiềng.

                      Câu chuyện thêm bớt chút đỉnh, tựu trung vẫn giống như lúc cô kể lần đầu, con chó bẹt-giê cô nuôi cũng bỏ nhà đi mất, có thể nằm trong bụng các tay bợm nhậu rồi!
                      Người cuối cùng cô ít nhắc nhở là Tư Sen, dù cô từng là người ơn của chú bồi này.

                      Tư Sen sống lấp láp qua ngày nhờ thầu nấu ăn đám cưới, đám giỗ, buổi sáng bán bánh mì ba-tê, thịt nguội. Tư Sen đổi tính rõ rệt. Cô nhớ lúc còn ông Cò, Tư Sen mỗi sáng xách giỏ đi chợ tự ý mua, tự ý định ‘mơ-nu’ hàng ngày cho cô và ông Cò.

                      Tư Sen là bếp sành sỏi nấu ăn, nấu món nào cũng vừa miệng cô và ông Cò, cả món cho con chó bẹt-giê. Cà-rốt, bo-rô, cải trắng, xà-lách, lê-ghim phải thật tươi, chú xắt khéo léo, món ‘la-gu’, xúp khoai tây, thỏ nấu rượu chát, bò bít-tết với rượu xâm-banh, rượu chát đỏ.

                      Cô Marie thường tâm sự:
                      - ‘Buổi sáng, tôi không ăn hủ tiếu, cháo lòng được, bao tử tôi yếu, tôi ăn bánh mì trét bơ, phô-mai. Mình làm bà Cò mà ngồi tiệm nước, chỏng tre, ăn uống như đám đàn bà đàng Thổ coi sao được?’ Ở tiệm nước, mấy người hút thuốc bao xanh hôi chịu không nổi, tôi ưa thuốc nút chuồn, Cotab.

                      Tư Sen chiều chuộng cô qua những món ăn hợp ‘gu’. À, mà chính cô đặt tên cho Tư Sen chứ ai vào đây. Tư Sen tên thiệt là Cát, ông Cò Tây kêu lơ lớ dễ bị hiểu lầm, nên cô sửa tên cho Tư Cát thành ‘Mi Sen’, rồi quen gọi là Sen cho gọn.
                      Mỗi sáng chủ nhật đi lễ gặp nhau ở nhà thờ quả là cực hình cho cả hai.

                      Cô Marie thương hại Tư Sen, sợ chú mặc cảm, mắc cỡ vì lúc trước làm bồi cho cô.

                      Tư Sen ngược lại thổ lộ với bạn bè, ‘Tội nghiệp cô Marie, lúc trước ăn tiệc ngồi chung với ông Quận, bây giờ gặp tôi cổ cúi đầu tránh mặt, tui đâu ghét bỏ cổ đâu, thương còn không hết.’ Tư Sen vừa nói vừa cười ruồi đú đởn.

                      Câu chuyện tới tai cô Marie, cô giận dữ: ‘Hừ, lúc trước làm bồi cho tôi, kêu đâu dạ đó, bây giờ lên mặt làm phách!’ Tư Sen cũng đâu vừa, trả đủa:

                      ‘Cô làm bé ông Cò Tây đẹp đẽ gì đó, sao không theo ổng đi luôn, lại ở nhà bà Tư ăn chực, ở xóm đó, xin lỗi, tôi nghi lắm!

                      Cô Marie sống nhờ quá khứ ở Cù lao Giêng, với ông Cò, người dễ tin và nể nang cô còn quá ít. Các bà ký, bà thông tránh mặt khinh thường cô vì thói ăn vùa thua giựt, nên mỗi lần gầy sòng tứ sắc tên cô bị gạt ra. Ðến mấy tiệm bán tạp hóa, lúc còn ông Cò, chủ tiệm niềm nở mời mọc mỗi lần cô ghé tiệm.

                      ‘Cô Marie cần gì cứ lấy, chừng nào trả cũng được, bà con xín xái ù lái ù khự mà!’ Bây giờ mua đồ, mấy ông chủ lại ‘nói thách’, làm như cô thiếu là giựt luôn.

                      Mấy đầu hụi thảo cô làm chủ chưa kịp trả họ tới réo, ‘để cho ông Cò gởi măn-đa qua, tao lấy tiền đập vô mặt bây!’ Năm này qua năm khác, hơn 40 tuổi, son phấn rẻ tiền khó che giấu cái nhan sắc ủ dột héo xèo, gương mặt trơ trẽn ngồi lê lết vay mượn nhờ vào ảo ảnh của thời quá khứ huy hoàng.

                      Có nhiều lần cô Marie nhắm mắt đưa chân, nghe lời bà Tư gắt gỏng, để kiếm thêm ít tiền sống lây lất. Áo quần cô bắt đầu sờn rách, giày dép bèo nhèo. Cô Marie bắt đầu kể chuyện quá khứ cho chính cô Marie nghe, kể thầm, cười thầm.

                      Bà Tư trở mặt, dám xẳng giọng:- ‘Ôi! Mầy nói mười, tao chưa tin một. ’Dám gọi cô Marie bằng ‘mầy’. Cô không chấp nhứt người ngu dốt, vì cô là giòng dõi quan quyền, dượng Bảy cô bà con bên vợ quan Tổng đốc Lộc mà!

                      Vả lại, cô từng chạy xe máy đầm có đủ chuông, đèn, ông Cò mua cho, đám trẻ con thèm thuồng vỗ tay ầm ỉ.

                      Mái tóc ‘phi-dê’, cô là điều mơ ước ganh tị của đám gái trong quận này.
                      Ðang nằm mơ tưỏng miên man chuyện xưa, chợt có tiếng ồn ào ngoài cửa làm cô giựt mình.

                      Tiếng bà già quen quen mè nheo với anh xe lôi. Cô thò đầu qua cánh cửa phên tre nhìn, ngạc nhiên:
                      - ‘Ủa, má. Bà đi đâu vậy? ’Bà già mặc áo dài the, khăn gói xuống xe ngơ ngác nhìn cô hỏi:- ‘Ủa, Gáo! Sao mầy ở đây?

                      Tao tới căn phố cũ, họ chỉ lại chỗ này. Sao bây giờ tệ quá vậy Gáo?’
                      Cô Marie kéo vội bà già vào nhà.- ‘Thôi bà, tôi tên Marie Loan, kêu tên Gáo người ta cười chết!

                      - ‘Ôi! Lon gáo gì cũng vậy, đổi tên làm tao hỏi tùm lum bắt mệt!’Cô Marie sượng sùng vì đám em út ngồi đầy nhà bà Tư.

                      Bà già bắt đầu tía lia cái miệng, làm như nhà chỉ có hai mẹ con.
                      - ‘Gáo à!’- ‘Nữa, con tên Marie Loan!’ Cô nhắc nhỏ.- ‘Ủa, quen miệng rồi! Tía mầy biểu mầy đem tiền bạc về làm ăn, cất nhà lại, cái nhà cũ mình ọp ẹp muốn sập rồi.

                      Ở nhà tao với tía mầy làm mắm sặc, mắm trèn, dưa đìên điển rồi bơi xuồng đi bán. Thằng Cò Tây có trở lại chưa? Nó gởi tiền cho con nhiều ít?

                      Chín Bèo nhắc mầy hoài, nó có vợ con rồi!’
                      Cô Marie lạnh người, nhổm dậy, sợ bà già vui miệng kể dài dòng khó nghe, đám em út cười khúc khích, cô chận ngang, vội vã dẫn bà già ra cửa.- ‘Thôi má dìa trước, để tui liệu dìa sau’.

                      Ðây đâu phải là chỗ cho người danh giá trú ngụ, nên cô dẫn mẹ ra thẳng bến xe mua vé cho bà lên ngồi mới yên lòng.
                      Trên đường về, cô thấy buồn bực, bụng đói cồn cào, bèn nấu nồi cơm, kho nồi mắm sặc, ngồi ăn một mình.

                      Sẵn dưa điên điển mẹ vừa đem lên, cô nhai rào rạo. Dưa đìên điển chấm mắm sặc kho mặn, lâu lắm rồi cô mới được ăn. Mắm dưa điên điển chua, cộng với cơn đói dằn vặt, phảng phất mùi đất cồn phù sa. Cô buông đũa bước ra sau nhà, cánh đồng khô nứt nẻ, cô cố nhìn tìm màu vàng bông điên điển như ở quê cô.

                      Cô đi thất thểu trên con đê dài, nhìn con kinh trắng bạc, nhớ ông Cò Tây, nhớ Cù lao Giêng, quê hương thời thơ ấu, cô bùi ngùi.

                      ***


                      Sinh làm con nhà nghèo, cha mẹ cô phải làm việc quần quật mới đủ ăn. Thuở lên 10, cô đã giúp đỡ cha mẹ muối cá làm mắm.

                      Cô hái lá sen bó từng bó, có khi móc củ co, củ ấu, luộc xong, bơi xuồng đi bán, quần xắn tới gối, phèn đóng vàng ngón chân, mình mẩy cô tanh mùi mắm.


                      Những buổi chiều mưa gió mịt mù trên sông, gia đình cô ngồi ăn cơm trên chỏng tre quanh ngọn đèn bánh ú ấm cúng.

                      Trước nhà, sông sâu nước bạc chảy quanh Cù lao Giêng xanh mướt, dừa tre, cây ăn trái ...
                      Cù lao Giêng dễ thương hiện lờ mờ trong óc cô Marie.

                      Mỗi sáng chủ nhật, Gáo theo cha mẹ, áo quần tươm tất đi lễ nhà thờ cổ, xây lâu lắm rồi, nghe ông bà kể, từ lúc Tây đổ bộ. Cô còn nhớ, như mới xảy ra chiều qua nầy.


                      Hôm ấy, ông đội Tây dẫn lính đi ruồng kiểm soát cù lao và sông rạch, ghé Cù lao Giêng. Ông đội Tây được Cha Xứ dẫn đi thăm dân tình.

                      Ông đội mặc quân phục vàng, đeo súng lục vừa đi vừa chuyện trò với Cha Xứ.
                      Duyên nợ sao đó, mắt xanh ông đội bất ngờ chiếu thẳng vào đôi mắt cô Gáo đang đứng cầm cây cờ tam sắc vẫy chào trong đám đông đi đón.

                      Ông đội tươi cười, bỗng nghiêm nghị nói nhỏ với Cha Xứ. Mấy tháng sau, cô Gáo lột xác thành cô Marie dễ dàng, chỉ cần phi-dê tóc, mặc quần lãnh mỹ-a, áo tay phùng, lên chức bà Ðội, gia đình cô Marie được trọng vọng, sống khá giả hơn xưa.


                      Người đáng thương là chín Bèo, để ý Gáo từ lâu, thường cầu thân với gia đình Gáo bằng cách đươn thúng rổ giùm, hoặc làm những công việc lặt vặt.


                      Ngày cô Marie cặp tay ông Cò từ trong nhà thờ bước ra, chín Bèo thường lầm lì, hát lông bông:
                      ‘Uổng công xúc tép nuôi cò, Nuôi cho cò lớn, co giò cò bay.’Cô Marie theo ông đội đổi về quận này làm Cò mi, chân cô đã rửa sạch phèn Cù lao Giêng.

                      Ở quận này, cô ngang nhiên bước ngang hàng với bà Quận, bà Thông, bà Ký, ai đâu bươi móc đời tư cô, mà ai dám làm chuyện tày trời đó? Cuộc đời cô như diều gặp gió và ông Cò về nước, đứt giây, diều băng rơi xuống bất ngờ.


                      Muốn nhờ thầy thông viết giùm bức thơ bằng tiếng Tây cho ông Cò, dặn gởi măn-đa gấp, vậy mà con mụ vợ thầy, lúc trước từng đánh tứ sắc chung chiếu, trở mặt kéo đám vợ lính của đội Sử đi tìm cô đánh ghen.

                      Cô hăm he một mình, ông Cò Tây trở lại quận nầy ‘tao cho mấy mụ biết tay.’ Vì cô âm thầm hăm dọa nên họ làm tới khinh khỉnh. Ðám con mười Ngỡi, thằng Thơm, thằng Tho, chắc nghe lời bọn bà con nó theo Việt Minh, dám nghêu ngao hát, cốt trêu gan cô:

                      ‘Bắt Việt gian lên núi cho mò tôm!’
                      Nắng chiều gay gắt, cô ngồi thơ thẩn dưới hàng cây me nước, cô ngồi lẩm bẩm như người mất trí. Cô đi lang thang qua xóm kinh, hướng về chùa ông Bổn, lên xóm lò rèn.

                      Tiếng ru em đúng lúc đúng thời, véo von vô tình hay hữu ý nhắc nhở cô Marie cuộc sống chông chênh bèo bọt:
                      ‘Mười giờ ông Chánh dìa Tây,Cô Ba ở lại lấy thầy thông ngôn.

                      Cô lẩm bẩm, ‘vô lý’, dại gì lấy thầy thông thầy ký lương bạc chục, cô tiếp tục hát một mình:‘Thông ngôn ký lục bạc chục không màng.

                      Hát đến đây, cô bất giác ngửa hai bàn tay, dang hai bên, đầu ngoẹo qua, miệng tròn như khu tô, phân bua từ chối thẳng vào mặt đám thông ngôn ký lục, miệng trề như con cá trèn bầu. Tiếng ru con từ xa vọng lại như bổ sung cho ý nghĩ cô, đề nghị: ‘Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay.

                      Cô giựt mình, ai lại lấy đám thợ bạc, dù đeo vàng đỏ tay cô cũng không thèm mấy người thợ sồn sồn, con cái chật nhà, ngồi còng lưng đạp con cóc phùm phụp.

                      Từ ngày mẹ cô đến thăm, tai tiếng dập dồn đến với cô Marie, họ châm biếm mĩa mai cô gốc nhà quê, cóc đòi trèo thang, đổi tên đổi tuổi.

                      Bà Tư lại đuổi thẳng cô ra khỏi nhà, còn nhục nhã nào hơn. Bà Tư mắng cô ‘gái già bấm hổng vô, chứa cô lỗ chớ có lời lóm gì đó, uổng cơm thì có.

                      Cùng cực, cô Marie mới chợt nhớ chín Bèo, người thanh niên cục mịch nhà quê ăn nói lắp bắp. Hình ảnh đêm trăng sáng trước nhà thờ Cù lao Giêng, cô là một trong những đứa bé vòng tay xếp hàng chơi trò Thiên đàng địa ngục, vừa đi vừa hát:

                      ‘Thiên đàng địa ngục hai bên,Ai khôn thì nhờ, ai dại thì sa,Ðêm nằm, tưởng Chúa nhớ Cha,Ðọc kinh cầu Mẹ kẻo sa linh hồn!’Cô quả là dại, đã lỡ sa vào địa ngục mà không hay, cô đánh mất thiên đàng ở Cù lao Giêng, cô luyến tiếc bãi phù sa, nước ròng để lại nghêu hến lởm chởm, nghe chín Bèo trêu ghẹo:

                      ‘Nước ròng bỏ bãi sa cừ,Mặt em có thẹo anh trừ đôi bông.’và chính cô cũng lả lơi:‘Người hiền lại gặp người hiền,Cái quần chín núm nó liền như xưa.

                      ‘Anh chín Bèo ơi!’ Thân tàn ma dại, mặt mũi nào trở về Cù lao Giêng gặp lại anh, mắc cỡ chị em bạn, ngày đi huy hoàng như hoa nở sớm, ngày về tiêu điều như lá rụng mùa thu.

                      ‘Lúc còn ông Cò’ (lại lúc còn ông Cò) mỗi lần xuồng cặp bến, bà con đón tiếp đầy nhà. Ai cũng mừng rỡ, hài lòng nhận đồ hộp, sô-cô-la, kẹo ... cô mang về cho ăn lấy thảo; bom nho được cha cô khen là ngon hơn ổi, cóc nhiều. Nhớ đến thấy não lòng, càng nhớ càng thương.

                      Sóng nước quanh Cù lao Giêng rạt rào, tim cô Marie nhún nhẩy theo sóng lăn tăn trên sông bao la màu phù sa đục ngầu, nhứt là hình ảnh chín Bèo ngồi lập lờ trên xuồng ba lá vào buổi xế trưa đưa đẩy:
                      ‘Ngó lên Châu Ðốc Ngó xuống Vàm Nao Sóng vỗ lao xao’‘Anh thương em mà ruột thắt gan bào, Biết em có thương lại chút nào hay không?

                      Càng nhớ càng thấm thía, nhớ hôm đám cưới cô, nhà cô đang nhóm họ, chín Bèo say rượu, ngồi ngất ngưỡng trên xuồng chòng chành dưới bến, mắt ngờ nghệch dại khờ, tay quơ cây dầm căm tức đập xành xạch đám lục bình vô tội, nghêu ngao hát như cuồng sĩ:

                      ‘Gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn,Khúc sông giang hà,chỗ cạn chỗ sâu.

                      Ừ, anh chín Bèo ơi, cũng vì gió đẩy gió đưa cho nên thân em mới ra nông nỗi nầy, em cũng là chiếc xuồng trên sóng nước, khúc sông giang hà còn chỗ cạn chỗ sâu, trách chi lòng em khi vơi khi đầy? Ðừng trách chi em nghe anh Chín, sông sâu vẫn chảy, em là cánh lục bình trôi theo dòng ra biển.

                      Sông nước bao la, chảy xuôi dòng, khi bồi bên này cù lao, khi khuyết bên kia cù lao, làm cây đa trốc gốc, chờ em làm gì hở anh?


                      ‘Cây đa trốc gốc trôi rồi,
                      Ðò đưa bến khác, bậu ngồi đợi ai?’Giờ đây em nhớ anh, dù xán nọ bung vành, dù tàu Tây kia liệt máy, dù đá nổi rong chìm, dù muối chua chanh mặn, khó tìm đặng em nghe anh Chín!

                      ‘Cô Marie’Tiếng gọi bất thần kéo cô từ giấc mộng Cù lao Giêng về thực tế. Tư Sen đứng trước cửa nhà, xách hai chùm gà, ôn tồn mời mọc:- ‘Cô Marie vô đây chơi, uống nước!

                      Cô riu ríu bước vô, đi đâu bây giờ. Tư Sen vui vẽ mời cô ngồi, rồi nhanh tay dọn dẹp đống bắp cải, cà-rốt, rau đậu vào góc nhà, lấy lon cô-ca mở mời cô:-

                      ‘Cô Marie uống cô-ca cho mát.’
                      Cô Marie tự nhiên uống hết lon nước ngọt, cổ mát rượi khoan khoái tỉnh táo phần nào, lâu quá mới được uống nước ngọt. Tư Sen lại mở thuốc lá mời:- ‘Cô Marie hút thuốc!’Hơi thuốc the the mùi bạc hà thật tuyệt có khả năng thông cổ, ngon hơn Cotab và nút chuồn, nhờ có đầu lọc.

                      Cô phì phà hết điếu Salem, nhìn lên trần nhà, tưởng tượng thời còn ông Cò, Tư Sen đang hầu hạ cô. Trên vách những tấm hình thiếu nữ lõa thể da trắng ngần, cắt từ các tờ báo ngoại quốc che đậy phần nào tấm vách ám khói đen.

                      Trong tủ mấy chai rượu mạnh, la-ve lon, cô-ca, radio cassette lớn, những món xa hoa trong căn nhà tôn vách ván của Tư Sen.
                      Cô Marie chưa hết ngạc nhiên, làm sao Tư Sen mau khá quá vậy kìa.

                      Tư Sen ngồi cạnh cô, tư thế thoải mái, hai tay đặt trên đùi, cười hể hả:
                      - ‘Cô Marie sao ốm vậy, lúc nầy làm ăn sao rồi?’Giọng Tư Sen coi mòi nuông chiều an ủi che chở cô lúc thất thế sa cơ.

                      - ‘Uống thử lon beer, cô!’Cô Marie không nỡ lòng từ chối lòng tốt, tiếp lấy lon bia, mở uống từng ngụm, bọt bia xì hơi tràn trên miệng lon. Bia thơm và dịu hơn la-ve 33, cô thưởng thức lon bia để nhớ thời Tư Sen châm rượu xâm banh cho cô.

                      Tư Sen tiếp tục nói:
                      - ‘Tui làm ăn xa, mới về có vài tháng, gặp cô tui mừng lắm!’Tư Sen khép cánh cửa lại che nắng. Hai người hàn huyên tâm sự kín đáo suốt buổi chiều.

                      ***


                      Từ ngày dọn về đây tạm trú với Tư Sen, mặt mày cô Marie tươi tắn, hớn hở khởi sắc hơn, cô đi chợ thường hơn, tuy sự hiện diện của cô trong chợ quận Xà Tón không làm ai bận lòng.

                      Tư Sen được người thông dịch viên giới thiệu nấu ăn cho lính ‘Mai-phọt’ trong trại Châu Lăng, sau khi đồng ý trả tháng lương đầu cho anh chàng thông ngôn viên.


                      Mỗi sáng, cô Marie theo Tư Sen ra chợ mua rau cải, thịt thà, rồi xe lính Mỹ ra rước vào đồn nấu ăn.

                      Tài năng nấu các món Tây được trọng trở lại, cô Marie bây giờ hết dám coi thường Tư Sen, mà nể nang tâng bốc chú là khác. Cô nhìn Tư Sen thoăn thoắt gọt cà-rốt, miếng nào miếng nấy vừa ăn, gà rô-ti da dòn rụm, xúp khoai tây béo ngậy.

                      Lính Mỹ khen ngợi Tư Sen tặng nào cô-ca, bia lon, nhờ Tư Sen biết sở thích khẩu vị từng người, bỉm môi chê mấy tay đầu bếp Tàu nấu món nhà quê.


                      Cô Marie cũng được chiều chuộng ưu đãi đặc biệt, cô có thể ra vô đồn bất cứ lúc nào, có quyền ở lại đêm nếu thấy về trễ nguy hiểm, trời tối đường đi mất an ninh. Cuộc sống cô ổn định trở lại, ví dù ông Cò có trở lại, cô cũng bỏ mặc ông.

                      Tiền bạc dồi dào, số phận sướng thì sao cũng sướng. Lính Mỹ không hách dịch như lính Tây, họ bình dân, thân thiện sẵn sàng đưa rước cô đi sớm về trưa bằng xe Jeep, nhờ cô giới thiệu mấy cô gái trẻ muốn vào làm việc trong đồn Châu Lăng.


                      Các cô gái nầy rất biết ơn, xem cô Marie như người chị cả tốt bụng. Cô thường tự hào:
                      ‘Mình đỡ đầu cho em út vào đây làm việc, giúp ai được thì giúp, cần gì họ trả ơn!

                      Cô lại giúp đỡ các cô gái trang đìểm, son phấn, áo quần cho đúng kiểu, để khỏi ‘mất thể diện.’ Các cô gái rất biết điều, hậu hỉ đền ơn, cô phải nhận cho họ vui, để khỏi phụ lòng em út.

                      Cô tốt bụng thương người vậy mà vẫn mắc oán, mang tiếng dụ dỗ con gái nhà nghèo vì đồng tiền, ưa phấn son hào nhoáng, hành nghề không lương thiện làm điếm nhục gia phong. ‘Ôi! Hơi đâu nghe mấy ông bà già hủ lậu, tui để ngoài tai.

                      ’ Cô thường nói: ‘Miễn có tiền được rồi!’
                      Mà thật vậy, cô kiếm tiền gấp mấy lần lương thầy ký lục, đây là thời của cô, chớ thời của đám ký lục qua rồi.

                      Các bà ký than vật giá càng ngày càng tăng, cô Marie mặc kệ, mắc mỏ gì cô cũng mua. Mỗi lần đi chợ, cô mua con cá ngon nhứt, lớn nhứt, khỏi cần trả giá như đám vợ công chức keo kiệt.


                      Lâu lâu, cô bố thí cho bà Tư già cây thuốc Salem, bịt cái miệng thúi của bà cứ đem cái chuyện đời tư cô Gáo nói đi nói lại. Bà mẹ cô, thỉnh thoảng ghé thăm, hài lòng hết sức, lơ là chuyện khuyên cô về Cù lao Giêng bán mắm.


                      Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết, đời cô Marie khó thoát vòng lẩn quẩn. Chưa đầy năm, lính Mỹ rút đi, giao đồn lại cho lính Việt Nam đóng.
                      Cuộc đời cô Marie như quả bong bóng nổ bụp theo sự sắp xếp ở bên Tây bên Mỹ, đúng theo mấy tay bợm nhậu chánh trị quán cốc.

                      Tư Sen và cô Marie nương tựa nhau sống chờ thời, như cô Marie chờ măn đa ông Cò hơn 10 năm, từ 1953 đến 1964, rồi đời ‘Mai-phọt’ trở lại từ 1964 đến 1975, cũng hơn 10 năm chờ đợi.


                      Cô Marie chờ đợi, đợi chờ đến mặt cô đanh đá lại như mặt đàn ông vì tuổi càng cao, thời cuộc oái oăm, tình đời éo le, cây muốn lặng gió không ngừng.

                      Cuộc đời cô tả tơi như chiếc áo vá vai cô mặc, chồn chân mỏi gối, lực bất tòng tâm, cô cố phấn đấu lội giòng nước ngược, cuối cùng buông tay bỏ mặc.
                      Cái tuổi sồn sồn, muốn bước thêm bước nữa cũng khó khăn chắp nối.

                      Dù sống với Tư Sen, cô Marie vẫn cảm thấy cô đơn tâm tình. Tư Sen ăn nói cộc lốc, vướng nghề cờ bạc nghiện ngập. Ðêm đêm, cô thèm không khí đầm ấm của gia đình nghèo bên cạnh, thèm bầy con phá phách.

                      Vợ chồng họ nghèo, đầu tắt mặt tối, đêm về hay cải vã, la hét lũ trẻ, mắng đứa lớn, chửi đứa nhỏ, vậy mà sao cô thấy thèm như họ quá.

                      Cô trách trời than đất một mình ‘giờ nầy chắc Tư Sen ngồi sòng me với đám mười Ngỡi rồi đa! ’
                      Cô bất giác ấm ứ tiếng còn tiếng mất bài vè ‘Bậu lỡ thời’:‘Bậu lỡ thời, như ớt chín câyỚt chín cây, người ta còn hái Bậu lỡ thời, như nhái lột daNhái lột da, người ta còn bậnBậu lỡ thời, như rận cắn lưng Rận cắn lưng, người ta còn bắt Bậu lỡ thời, như giặc Hà Tiên Giặc Hà Tiên, người ta còn đánhBậu lỡ thời, như cánh chim bay Cánh chim bay, người ta còn bắnBậu lỡ thời, như rắn lột da ...

                      Cô ư ứ ngâm nga, hát đi hát lại giải khuây, bài vè đánh đúng tâm sự, cô xót lòng, ‘Anh chín Bèo ơi!’- ‘Lầm thầm gì đó con làm biếng?

                      Câu hỏi và tiếng vỗ cửa làm cô Marie giựt nẩy mình. Tư Sen độ nầy thất nghiệp, dù cách mạng vào đã khoan hồng tha cho mà vẫn say sưa bài bạc, đủ thói hư tật xấu, ăn nói lảm nhảm, dám gọi cô Marie là ‘con’.

                      Từ ‘bà’ xuống ‘cô’ rồi xuống ‘con’. Ôi! Chúa ơi! Chịu sao nổi nè! Cô Marie càng dằn cơn thịnh nộ, nhưng cơn tam bành lục tặc dồn nén từ thời ông Cò Tây 20 năm trước, qua thời Mỹ ở Châu Lăng, rồi cách mạng làm cô nát bươm.

                      Cơn giận bốc trào lên cổ, mặt cô đỏ rần, tóc tai dựng đứng, tay run bây bẩy, nộ khí chạy rần rần trong mạch máu khắp châu thân, từ đầu đến chân.

                      Cô xử dụng tất cả từ ngữ cô nhớ được qua những đêm học tập chính trị của ‘Hội phụ nữ yêu nước’, cô chửi oang oác:
                      - ‘A, cái thằng phản cách mạng, thằng phản động, thằng phồn vinh giả tạo, thằng Việt Cộng, thằng Mỹ ngụy, thằng mắc dịch, thằng nợ máu nhân dân, mầy giỏi ra đây!’

                      (Chửi đến đây cô đã hết chữ).
                      Cô sừng sỏ mặt, nhảy ton ton, cổ giương cao như con gà gáy, vỗ ngực phành phạch như gà vỗ cánh sau khi cho nước vô nghệ.

                      Sân nhà chung quanh rào tre giống trường gà, cô là con gà nòi với khí thế hung hăng mới được ‘xổ’ lần đầu, đang xòe cánh, xòe lông cổ, vờn cựa xáp tới địch thủ.


                      Tư Sen hầm hầm ném phăng cái áo xuống đất, bước sồng sộc về phía cô Marie. Hàng xóm cuống cuồng can gián, khuyên giải, đẩy Tư Sen vô nhà.

                      Tư Sen miễn cưỡng lùi bước, vì nể chòm xóm bà con, hoặc vì lấy rượu làm nư, chạm nhằm nữ kê tác quái.

                      Tư Sen chợt ớn lạnh theo xương sống, dù đang trưa nắng, khi nghe từ ngữ cô Marie chửi bới, mớ chữ tuy hỗn độn, tạp nhạp của con mẹ dốt, có thể đưa Tư Sen đi học tập cải tạo như chơi.

                      Mặt Tư Sen vì vậy dịu lại, tuy vẫn nói cứng: ‘Lần nầy, vị lòng bà con lối xóm, tao tha nghe!’
                      Sự cứng cỏi bề ngoài của Tư Sen lại trùng hợp với cô Marie.

                      Cô lùi dần về góc sân, vì chợt thấy mặt Tư Sen đáng sợ, cũng cái mặt nầy mà nó thượng tay hạ chân như trước thì đau mình, nhứt là có rượu vào, Tư Sen coi trời bằng hột tiêu, coi cách mạng như giun dế.


                      May cho cả hai là Tư Sen khó vượt khỏi đám đông, và thêm mấy tên cách mạng 30 xách súng lẩn quẩn như kên kên rình xác chết.


                      Ðược thể, cô Marie hăng tiết, dẫy đành đạch, khuỳnh hai cánh tay ra, áo quần màu bay phất phới, giống hệt cô đào vai Tôn phu nhân múa võ trước khi theo Lưu Bị về đất Thục, ong óng hét giống con gà mái nồi kêu ổ, cục tác:


                      ‘Bà con đừng can, gà tui nuôi, tui biết!’
                      Mọi người bật cười, trong đó có Tư Sen, bỗng họ thấy cô Marie mặt đổi sắc, thân thể run rẩy mềm nhũn khuỵu xuống, quằn quại, thảm não, miệng mếu máo, tức tưởi khóc như chưa bao giờ được khóc:

                      ‘Anh chín Bèo ơi!’‘Gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn,Khúc sông giang hà chỗ cạn chỗ sâu’CHÚ THÍCH:* điển tóc: uốn tóc.* đậu chếnh: đánh tứ sắc.

                      * chiếc neo: vòng đeo tay bằng vàng y cuốn lại đeo ở cổ tay.* lịch sự lịch sàng: đẹp đẽ.* ù lái ù khự: hữu lai hữu khứ, có đi có lại.* áo tay phùn: loại áo ngắn, tay phùn.* đàng Thổ: người Miên.* đèn bánh ú: đèn nhỏ, bằng thiếc, hình thức giống bánh ú.* cờ tam sắc: cờ Pháp.

                      * ông Chánh: tỉnh trưởng thời Pháp.* ‘xổ gà’: thả cho đá thử.* gà nồi: gà đen như lọ nồi.* cái quần chín núm: Xưa, có người đàn bà nghèo, hàng ngày đi làm ruộng, quần rách từng lỗ. Mỗi lần bị rách thì buộc chỗ rách lại thành một núm.

                      Mẹ chồng ở nhà, thấy quần con dâu phơi có chín núm, bèn vá lại và đem phơi trên sào. Lúc nàng dâu về, tìm quần không có, bèn hát:


                      ‘Từ bi ba lá từ bi
                      Cái quần chín núm nó đi đàng nào?’Người mẹ chồng trả lời:‘Cái quần mẹ giắt trên sàoCon hãy bước tới lấy vào mà thay.

                      Người con dâu thấy quần được vá lành lặn, bèn hát: ‘Người hiền lại gặp người hiền Cái quần chín núm nó liền như xưa. ’(Câu ca dao tôi nghe bà ngoại tôi hát, ru, chắc phải có trên trăm năm, tính đến năm 1995).

                      Pforzheim 2 - 1988


                      Lưu Nhơn Nghĩa
                      thatsonchaudoc
                      sigpic

                      Comment


                      • #12
                        Như Cánh Chuồn Chuồn

                        Hai cuộc Biểu Tình
                        _______________________________________________



                        Mấy năm nay vùng chợ quê nầy loạn lạc liên miên, không được mấy ngày yên ổn.

                        Vài tiếng súng nổ vu vơ cũng làm thiên hạ cuống cuồng chạy rầm rập, hàng quán đóng cửa vội vã, thúng gánh bỏ ngổn ngang ngoài chợ.

                        Nhiều biến cố dồn dập tiếp diễn sau khi mấy chiếc xà lan sắt chở lính Marốc đổ bộ đầu kinh, bố ráp khắp nơi. Lính phú-lích xách súng chạy vội vả về phía nhà máy xay lúa cháy rực bên bờ sông. Sự lo âu hồi hộp sau những cánh cửa đóng kín mít.


                        Rồi chú Biện bị bắt đầu tiên, mấy ai dám nhắc nhở, dù thì thầm trong xóm chuồng bò, tin đồn là chú Biện bị đày đi xa lắm, lý do có vẻ bí mật.

                        Mỗi lần Tết đến, chú Biện thủ vai ông Ðịa hay lắm, động tác có thần, người chú thấp gầy, má hóp mặc áo dài xanh độn gối cho bụng lớn ra. Vai trò chú làm hứng khởi cho lân nhờ lối lạy mừng tuyệt kỹ theo tiếng trống linh thiêng của chú Ráng, xem đáng đồng tiền.

                        Mồng mười Tết đoàn lân múa từ biệt, chú hứng chí la “51 hòa bình, 51 hòa bình” theo tiếng la “ghê ghịt” - của người chung quanh.
                        Mấy tháng sau, chú chết.

                        Tin dữ đưa về, thằng On con chú lên 7 tuổi, mồ côi mẹ, lại thêm mất cha, nằm úp mặt trên chõng tre dẫy dụa khóc sướt mướt kêu “Ba ơi! Ba ơi!” nghe đứt ruột. Cô bác hàng xóm dỗ dành an ủi On. Chuyện On mất cha, người ngoài chóng quên hơn On.
                        Cách mấy tuần sau, thêm biến cố khác xảy ra tại trường Ðình.

                        Gọi là trường Ðình, vì trường sơ học Việt Nam được đặt ngay trong đình, xét cho cùng, nếu không có ngôi đình rộng rải, thì không biết học trò vùng nầy học ở đâu. Trường không có tên mà cũng không có bảng hiệu, trừ khu thờ Thần Hoàng, trường không có vách, chỉ có những cây cột nhỏ, thưa, chắn chung quanh.

                        Những ngày mưa gió học trò hay bị ướt. Trước trường là cây cột cờ cao ngất, mỗi sáng học trò đứng chung quanh chào cờ, hát quốc thiều “Này dân Nam ơi, sử xưa vẫn còn chưa xóa”. Ba lớp học chỉ có một thầy giáo duy nhứt, thầy giáo Chấp, học trò tha hồ nói chuyện hay ngủ ngày.


                        Buổi sáng hôm ấy, không ai dẫn học trò chào cờ như thường lệ, quyển sổ điểm mỏng và cây roi mây dài do thằng Ðực thợ bạc giữ nằm trên bàn thầy. Học trò lớn nhỏ ngồi rãi rác trong lớp trống, có nhiều đứa thấy vắng thầy, bỏ ra chợ hoặc kéo ra sân chơi “U ấp”, “Thẩy lổ lạc”, “Bắn tràm”.


                        “Thầy đâu rồi”? có đứa tò mò hỏi, thằng Quan đứa lớn nhứt, tỏ vẻ sành sỏi, kể: “Chiều hôm qua, tao thấy thầy đương phơi áo ngoài vườn, thì hai ông lính Phú lích “đeo súng mút” vô nhà thầy nói có ông Cò mời. Thầy thay áo đi theo, rồi bị bắt luôn, bửa nay chưa về”.


                        Bọn học trò bàn tán ồn ào, không chuyện gì ra chuyện gì. Thằng Ðổi đề nghị: “Muốn vô thăm thầy, bây giờ mình cứ đi thẳng vô bót Phú lích, nó khoát tay như chỉ huy đám nhỏ. “Ơ, thì chết thôi mầy ơi”! Quan vuốt theo như sắp sửa thí mạng với đám Phú lích trong đồn. Bổng nghe Quan nói:”Thôi đi quây!”.

                        Bọn nhỏ theo sau mấy đứa lớn, lẻo đẻo lên bót. Bót Phú lích tường xây bằng đá núi dầy, trong lô cốt trước bót có người đeo súng Mitraillette lơ đảng gác, bót nầy xưa là cái villa của ông Ðốc Phủ Cui, ông là chuyên viên họa đồ được Pháp giao cho vẻ

                        họa đồ phóng đường Châu Ðốc Tri Tôn, chủ đồn điền Pháp muốn ông phóng đường ngang đồn điền hắn ta để tiện chuyên chở. Ông cải lại và phóng đường ngang núi Két gần Nhà Bàng ngày nay. Bọn học trò lếch thếch tới gần. Người Phú lích Miên mập, miệng đỏ cốt trầu nạt lớn: “Mấy đứa nhỏ đi đâu đó?”.

                        Hơi rượu bay nực nồng có mãnh lực đe dọa làm lũ nhỏ chạy tán loạn, tấp vô xóm đối diện lẫn trong các khóm tre và chuối, để ý không thấy Quan và Ðổi đâu cả, hai đứa học trò lớn chạy mau quá, bọn học trò như rắn mất đầu, mạnh ai nấy chạy.

                        ***


                        Sáng hôm sau, không biết ai chỉ bảo, bọn học trò xin tiền cha mẹ vài đồng, món tiền lớn thời đó, mua bánh trái mang cho thầy. Cha mẹ lần nầy cho tiền con mình khá dễ dãi, bọn trẻ con khỏi cần nhằn nhì.

                        Sinh hoạt buổi sáng chợ quê, không có gì thay đổi, chợ vẫn đông, trái cây đầy ắp trong những chiếc thúng, cá lươn đầy rộng. Gánh hát Sơn đông quảng cáo thuốc đau lưng tức ngực đông người coi.

                        Cạnh đó, bầy voi ve vẩy tai như những cánh quạt, chờ chở khách về sóc khi chợ tan. Chuyện thầy giáo Chấp bị giữ ở bót không ảnh hưởng gì.
                        Trường học đóng cửa đã 2 ngày, sự ngưng trệ thích thú nầy làm học trò được tự do, tha hồ chơi đùa thỏa thích mà không sợ tiếng chuông vào học.

                        Bọn học trò hôm ấy tụ họp tại trường như hôm trước, lần nầy vắng mặt Quan và Ðổi, có cả đám học trò gái tham gia, tuy mặt mày ngơ ngác. Mỗi đứa đều mang theo quà bánh cẩn thận, mấy đứa nhỏ nầy cứ tuởng mang vào là thầy sẽ ăn hết.

                        Bọn học trò theo nhau cùng đi. Ai dẫn dắt bọn nó kìa? “Con đường từ trường tới bót và những trái tim chân chất”.
                        Chúng di chuyển bình thường không gấp gáp, không bê trễ, vừa đi vừa nói chuyện ồn ào, so sánh quà mang cho thầy của bạn mình.

                        Thằng Ngứt trầm trồ: “Mè ơi! Thằng Chùn có 2 cái bánh tào xá, quây!” Thằng Bờ bỏ trong túi mấy cái trứng cò xanh luộc.

                        Thằng Kèo đi tay không, mấy hôm nay nước ròng, ba nó lưới không được cá nên không cho nó cắc nào. Kèo tự an ủi là nó thường mang tới nhà cho thầy dưa ngó sen và dưa điên điển vàng.

                        Thằng Ngứt cầm gói lá sen đầy củ vỏ sù sì đen như đất bùn và mấy củ khoai lùn. Sáng nầy má nó cẩn thận lựa củ lớn gói cho nó. Kèo tinh nghịch thúc vào hông Ngứt “Ê, thằng chết đốt, mầy đem củ co cho thầy ăn đau bụng hả?”


                        Con đường từ trường đến bót khá xa. Cuộc tuần hành trật tự tối đa, tuy ồn ào. Không có lực lượng, đoàn thể, đảng phái chính trị nào đứng sau lưng xúi dục, bảo trợ, không có biểu ngữ phô trương, không hoan hô đả đảo, không cần thông báo trước, không có tư cách pháp nhân.

                        Con trai nghịch ngợm đi trước, con gái đằm thắm theo sau. Trật tự văn hóa nầy vẫn được duy trì dù chưa đứa nào quá 12 tuổi. Người lớn nhìn đám học trò, “Ði đâu đông quá vậy kìa?”. Không đứa nào trả lời cả.

                        Vả như có cuộc đàn áp biểu tình, thì người đàn áp dựa trên căn bản gì để đối phó hợp lý? Bắt tất cả vào, nếu thẩm vấn viên hỏi lý do chắc chỉ nhận được câu trả lời “đi thăm thầy và mua bánh trái cho thầy ăn”. Ai xúi dục bọn bây?

                        Ðứa nào cầm đầu? Khó quá, chắc không đứa nào đủ ngôn từ diễn đạt văn hóa thấm nhuần vào tim óc bao nhiêu thế hệ rồi.

                        Tình nghĩa trò đối với thầy trong như suối đầu nguồn, không có màu sắc đỏ đen, không có mùi vị cay đắng.


                        Mà đây có phải là cuộc biểu tình không? Bọn tôi kéo nhau đi thăm thầy mà. Ðây là cuộc biểu dương tình nghĩa, không liên hệ tới ai cả. Cha mẹ không khuyến khích, lại không ngăn cấm, ai nỡ ngăn cấm tình thầy trò.

                        Mấy chú Phú lích đừng nghi ngờ xa hơn, tâm hồn bọn tôi đơn giản lắm, bọn tôi không phản đối ai hết. “Khám xét đi, đâu có vũ khí truyền đơn, chỉ có bánh trái, đâu có khả năng tấn công tự vệ”.

                        Cuộc tuần hành tình nghĩa sư đệ vỏn vẹn có mấy đứa nhỏ, như luồng gió nhẹ buổi sáng trong lành, không xô ngả được thành trì, nhưng nó len qua lòng ngườI, ve vẩy lá cành mát mẻ như nước giếng ban trưa.
                        Ði ngang qua xóm nào cũng có người tham gia.

                        Qua ngã tư nhà Việc, thằng Tô Phước lúp xúp chạy theo, con đường đá xanh dẹp, lởm chởm đất đá rác rến, nước mưa đọng vũng. Chiếc xe nhà binh Tây nặng nề di chuyển văng nước tung tóe, Tám lấy lưng che tô hủ tiếu.

                        Thằng Nghỉ lo âu nhìn dấu tay nó trên hai cái bánh bao ngọt trắng, giấy gói thấm nước bị rách nó đã cẩn thận chùi tay trên gốc me mà tay vẫn dơ. Nó quay lại nhìn phía sau, lén nhìn, Cà Tâm hôm nay mặc áo trắng, tóc chải gọn, cầm chai xá xị lóng lánh.

                        Con đường đá không rẽ ngang dọc, học trò cũng ngay thẳng như con đường duy nhất. Ngang lò rèn, thằng Phước lễ mễ thụt cái ống bể thùm thụp, thợ rèn đập chan chát.

                        Thấy đám bạn đi qua, nó nhảy tót xuống nhập bọn. Ba nó ngơ ngác, hỏi: “Ðâu đó thằng cốt đột?” “Thăm thầy!” Nó trả lời gọn lỏn. Qua xóm chùa Miên, đám ở vùng nầy đón sẵn, bọn nó đang tập tuồng “Bàng Quyên Tôn Tẩn” dưới gốc cây Năm Vồ chuẩn bị lập gánh “Vạn Huê Lầu”.

                        Thằng Huỳnh lủi thủi ôm bình cà rem cây theo, ba nó vừa mất, nên nghỉ học bán cà rem, mặt Huỳnh thiểu nảo ngượng ngùng.


                        “Tới bót rồi!” có đứa nói.

                        Cửa bót hôm nay mở rộng như đón đám học trò vô hại, lính gác im lặng nhìn. Sân bót rộng, thằng Kèo lôi một nùi rắn bông súng để ở góc sân, nó dặn bầy rắn:”Nằm yên ở đây nghe, bò bậy mấy con gà mổ đui mắt à!” Bày rắn có vẻ ngoan ngoãn vâng lời ngo ngoe.


                        Trong lớp, chính nhũng con rắn nầy làm đám học trò gái la hét, Kèo chịu đòn mấy lần.
                        Học trò xô đẩy vô phòng thầy, rồi yên lặng. Thầy mặc áo quần lảnh đen, ngồi trên chiếc chiếu trải trên giường tre. Nhìn thấy đám học trò mình, thầy ngạc nhiên, “Hà!” Ròi im lặng.

                        Lũ trẻ rón rén tuần tự đặt quà bánh trên giường bày biện như một mâm cúng cơm.
                        Thầy trầm ngâm khá lâu, rồi nói nhỏ nhẹ:

                        “Mua chi dữ vậy, thầy ăn sao cho hết, bửa nào ở nhà cũng mua vô cho thầy ăn, no rồi, thôi của đứa nào đứa đó đem về ăn đi, thầy biết, thầy biết...”.


                        Bọn học trò im thin thít, sự yên lặng khác với sự yên lặng giả tạo lúc thầy cầm roi xâm xâm đi tới trong lớp. Những đôi mắt đen len lén nhìn thầy, nhìn lên trần nhà, liếc nhau chờ đợi vẫn vơ.

                        Ngôn ngữ dù phức tạp và tế nhị tới đâu cũng khó diễn đạt được thờI gian yên lặng ngắn ngủi nầy.
                        Thầy thở dài thật lâu, miệng ngậm, cố tránh cơn ngáp trước mắt học trò, không che dấu được cơn mệt mỏi, thức khuya đêm trước.

                        Thầy với tay lấy ly cà phê sữa, khuấy nhẹ cho sữa tan - ly cà phê đã nguội lạnh lâu rồi, uống một ngụm đã thấy lợm giọng mùi sữa tanh. Ðặt ly cà phê xuống, thầy chậm rãi hỏi: “Sao? Mấy bửa rày nghỉ, bây ở nhà làm gì?”

                        Thầy thở phào trút bỏ bực bội ngao ngán, tiếp tục...
                        “Nghỉ học ở nhà thì coi lại bài vở, rảnh thì lo giúp đỡ ba má, mai mốt thầy về, đi học lại, không lâu đâu!”. Thầy muốn nói thêm, nhưng nhìn đám học trò quần áo lôi thôi lếch thếch đứng im lìm lơ

                        đảng, thầy nói thêm cũng vô ích, không hy vọng chúng nghe hiểu và cảm thông. Bất ngờ có tiếng dế gáy rét rét, kích thích, giải toả bầu không khí lơ mơ. Con dế gáy quả thật đúng lúc, chính nó gây hứng khởi khơi mào cho câu chuyện. Thằng Ký

                        nhỏ thó làm ra vẻ thản nhiên, trong bụng thầm trách con dế quái ác không đúng lúc chút nào. Dế tiếp tục gáy trêu chọc sự lo âu của Ký, nó từng bị đòn không biết bao nhiêu lần vì mang dế vào lớp, những con dế ốc tiêu nó bắt trong những bãi phân

                        bò ngoài ruộng.
                        Thầy nhìn Ký, thở phào:”Cũng mầy nữa nghe Ký, suốt ngày dang nắng ngoài đồng, bắt dế, ba mầy thì xúc tép ngoài kinh, cực khổ nuôi mầy đi học”. Ký nuốt nước bọt, nhè nhẹ rút cái hộp quẹt đựng dế liệng ra ngoài cửa. Thầy

                        chắc lưỡi, nhìn từng đứa, rồi kéo cổ áo thằng Bờ đứng bên cạnh, những quầng đất phèn đóng trên cổ, trên lưng nó. Thầy mệt mỏi chép miệng:”Bờ à! Tao dặn dò mầy mấy trăm lần rồi Bờ? Cũng cái ống bộng ngoài cầu Giáo Sự mầy lặn qua lặn lại

                        gặp hôm mùa nước, có nhánh cây trong đó, rồi mầy kẹt chết nghe Bờ”. Thầy ngưng nói, vấn điếu thuốc chậm chạp mắt hiền từ nhìn Phấn, “Phấn nè, con bán chuối nướng trời tối, lo dọn dẹp về sớm đừng ngồi nán nghe con, thời buổi bây giờ, rũi ro

                        khổ thân! A, thằng Hương nữa, trưa nắng chang chang, mầy tùng tam tụ ngũ đi bắt bướm ở sau nhà ông Hội Ðồng Kết, bà Hội Ðồng mắng vốn tao nhiều lần rồi nghe Hương! Thầy trừng thằng No, “No, nghe nói đêm nào mầy cũng leo bẻ khế trộm

                        nhà ông Quản Nghét, khế chua lét mà ăn nổi gì? Gặp đêm lính Marốc đi tuần, nó bắn chết nghe!”
                        Tiếng Thầy nhỏ dần, chán chường, lúc khuyên lơn, lúc hăm dọa, học trò đứng trơ trơ, tay vò chéo áo ra vẻ chăm chú nghe. Thầy dặn từng đứa, những

                        đứa khó dạy nhứt. “Thằng Kèo mầy vạch lục bình, bắt rắn bông súng, có ngày gặp rắn hổ, nó mổ bỏ mạng nghe Kèo!

                        Dặn dò bây như nước đổ lá môn, bây có chịu nghe đâu. Ðám thằng Thành, thằng Có, thằng Ân tụi bây nghỉ học rồi lội xuống bàu sen hớt cá lia thia, đám coi sóc trong chùa Miên nó liệng chết nghe! Thằng Ðực nghe nói chọc phá con Ðiên bị nó vác đá

                        liệng trúng lưng có sao không? Chọc phá nó chi vậy không biết, để bây giờ mang bịnh hậu. Thiệt là khổ, dạy khan cổ tụi bây có nghe đâu, chắc chờ roi mây mới nghe, phải không?”


                        Thầy ngước nhìn Huỳnh ôm bình cà rem cây, đứng co ro trong góc, Huỳnh bán khá không con? Bây thấy chưa, “Huỳnh nó có hiếu, ba nó mới chết phải đi bán cà rem nuôi má nó, bọn bây có cha mẹ lo cho đi học, sao không biết lo? Còn thằng Nghỉ

                        nữa, mầy nghe tiếng trống Sơn Ðông như lân nghe pháo, vạch đám đông chun vô, mê coi, có ngày lựu đạn nổ chúng chạy đạp chết nghe Nghỉ, mấy cái đó sao mầy giỏi quá vậy? Còn vô tới lớp là mầy được cái tài ngủ gục và copier! Nghỉ học có mấy

                        ngày, chắc bọn bây lộng hành dữ rồi há! Ráng học, giọng thầy trầm trầm, học cho bây chớ cho ai, biết chữ bây nhờ. Ông Châu Trí xưa, nhà nghèo phải ở chùa, tối quét lá đa đốt lửa ngồi học mà người ta đậu Trạng nguyên, còn như bây, nhà có

                        đèn dầu lửa, đèn khí đá, đèn măng xông, sao không chịu học hả?”
                        Thầy kiệt sức rồi, tiếng nói nhẹ dần, uống ngụm cà phê lạnh thấy lợm giọng, ly cà phê nguội lạnh lẻo như tình đời.

                        Ở đây, ai cũng nể trọng thầy, gởi gấm con em cho thầy, Tết nhứt, phụ huynh biếu gà vịt, mùa nào thức ấy. Thầy ký, thầy thông thích giao du với thầy, nhưng bây giờ không thấy ai ghé tạt vào thăm, sợ liên lụy. Mà thầy có tham gia quốc sự bao giờ

                        đâu, ngày hai buổi dạy học, ngày nghỉ chỉ lanh quanh ở trường gà, đá cá, hoặc vô núi gác cu tiêu khiển qua ngày tháng. Có lẽ họ nghi ngờ, vì trước khi bị bắt, chú Biện có ghé thăm thầy vào

                        buổi tối. Ông cò Tây có hỏi mấy câu, Việt Minh về chụp đồn núp quanh vùng thầy ở có chừng bao nhiêu người, sao nhà thầy có treo hình Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, lại không có hình Quốc Trưởng Bảo Ðại.
                        Ông cò Tây sắp xếp cho thầy nghỉ ngơi

                        tử tế, chung với lính trong đồn, không phải ở khám như những người khác. Thầy tự do đi bách bộ quanh đồn. Mấy người lính Phú lích Miên quen mặt nể nang thầy, lúc ra vào đều chào hỏi

                        lễ phép: ”Thầy giáo!”
                        Bây giờ thầy chán ngán nhân tình, miên man nghỉ ngợi biết ai thương thầy. Bánh trái la liệt trên giường, bọn học trò xuôi tay đứng bơ phờ, không đứa nào lên tiếng nói “thương thầy”, một sự yên lặng thoải mái len trong

                        lòng thầy, ngọt lịm như trái xoài thanh ca đông ken; thầy cảm thấy an ủi vì sự hiện diện của lũ học trò đơn sơ chơn chất và tầm thường như những củ khoai từ núi, những trái mít đất thầy thường nhận được, biết lấy gì so sánh đây.
                        Thầy miên

                        man mơ ước, sẽ có đứa học trò nên danh như ông Carnot, làm quan to, bước vô lớp chào hỏi:”Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?” Học trò thầy chắc không đứa nào làm nên như ông Carnot, vì sau lớp sơ đẳng, bọn nó sẽ nghỉ học theo cha mẹ

                        làm ăn rồi. Thầy muốn nói thêm điều thầm kín, nhưng ngại ngùng, học trò có hiểu đâu. Những lời răn dạy chúng cho có lệ, thầy biết sau khi ra khỏi bót, chúng sẽ quên tất cả. Thầy nói nhẹ như hơi thở, thì thầm như chỉ để riêng mình nghe. “Ráng

                        học nghe bây, học cho giỏi để sau nầy không bị ai đè đầu đè cổ!” Thầy nhắp thêm chút cà phê, cà phê đục nhơn nhớt màu đất phèn, cà phê đắng lạnh như tình đời, mấy con ruồi bu

                        quanh miệng ly đuổi không buồn bay. Má hóp, miệng hóm đi sau mấy đêm lo nghĩ, gương mặt hiền hòa, khác lúc ngồi trong lúc dạy học.
                        Trưa rồi, giữ chúng lại cũng không có lợi, thầy đứng dậy:”Thôi, đồ ăn đem về đi, thăm vậy đủ rồi, lần sau vô

                        thăm khỏi mua gì theo, gia đình đã đem đủ cho thầy rồi. Ra khỏi bót coi chừng xe nghe, lúc nầy xe nhà binh chạy nhiều lắm. Về thẳng nhà nghe, hay là ghé phá xóm phá làng nữa đi!”


                        Học trò lẳng lặng mang đồ ăn về, chen lẫn nhau lí nhí trong miệng: ”Thầy tui dì,thầy tui dìa! Thầy tiễn ra cửa, giữ trật tự đến lúc bọn nó ra khỏi bót.
                        Ra khỏi bót, không khí ồn ào trở lại, sau khi bị bó chân đứng như khúc gỗ trong bót nghe thầy

                        nói. Thằng Tám sừng sộ: “Ê, hồi nảy, đứa nào lấy tóc vấy tai tao đó, đá mầy thấy mẹ bây giờ!” Ðực cầm ly cà phê giơ lên cao hãnh diện reo: “Ê! Thầy uống cà phê tao quây. Thằng Kèo hốt mấy con rắn bông súng vuốt ve, Ừ, được, tao hớt cá lia

                        thia cho ăn.”
                        Trên đường về, ghé sân chùa Miên, Tám ngốn ngáo tô hủ tiếu, “Ừ, ổng hổng ăn, tao ăn”. Ngứt lột vỏ khoai nhai ngồm ngoàm. Chùn ăn vội bánh tào xa, chùi tay trên cát,

                        lấy đồng xu khoét lỗ trên mặt đất để chơi thẫy lỗ lạc. Ðám con gái về nhà hết rồi. Văng vẳng tiếng trống nhịp kêu lô tô của gánh quảng cáo thuốc của Lê văn Bảy, Nghỉ co chân chạy gấp

                        về phía chợ. Ðực la với theo:”Ê Nghỉ, mầy chạy đi coi hát Sơn Ðông nghe, thầy về tao mét”. “Kệ cha mầy,!” Nghỉ đáp gọn lỏn, nó đang nghĩ tới kêu lô tô có duyên, vừa chạy vừa kêu “lô tô”, tháng này là tháng 2, bước sang tháng 3; mưa sa lác đác,

                        cảm thương mấy cô chưa chồng, lạnh cong xương sống; lạnh cóng xương sườn, lạnh nằm trên giường, lạnh lăn xuống đất, hai tay quơ chiếu, hai chân quơ mền, đắp lại vẫn còn lạnh run

                        (cắt cắt tùng) cô nào còn lạnh, mượn tôi ôm giùm, không tính tiền công, là con số ứ... ba mươi lăm.
                        Tiếng trống cắc tùng lô tô dồn dập, thằng Nghỉ nao nức chạy mau hơn, vừa chạy vừa kêu “Con hai nó thương con ba, thì nó ra con mấy?” Thầy giáo

                        già trở lại giường, đặt mình trên chiếu, gác tay lên trán nghĩ ngợi, dù mới 10 giờ sáng, thầy mệt mõi nên không muốn di chuyển nhiều.
                        Lũ học trò đã về hết, thầy nhẹ nhàng nghĩ ngợi

                        vẫn vơ. Bao nhiêu năm dạy học trong ngôi trường đình, biết mấy thế hệ qua không thể nhớ hết, chưa đứa nào lừng lẫy để thầy hãnh diện. Giỏi lắm như Hol đi lính mấy năm chưa lên được cai, to xác như Hường không đậu nổi bằng lái xe, để bây

                        giờ đi làm lơ xe đò, đám học trò nầy tệ thiệt. Thầy hy vọng Huỳnh hơn ai hết, nhưng khi ba nó chết, nghe tiếng rao cà rem cây của Huỳnh giờ chơi nghe xót dạ. Lúc còn trẻ đổi về đây, xứ đầy sơn lam chướng khí, rắn lục bò từng bầy trên nóc chợ, rít

                        có con dài gần bốn tấc tây trong các đống củi, ngoài chợ nghe tiếng Miên nhiều hơn tiếng Việt. Mấy mươi năm, cảnh vật không mấy đổi thay, con kinh cùng chợ ngang còn đó, ông cò Tây cũ đi, thì có ông cò Tây mới khác tới. Thầy ngước mắt nhìn

                        trần nhà ám khói đen, lẩm bẩm:”Biết chừng nào lúa thôi mọc trên chì, voi thôi đi trên giấy! “ Bạn bè đâu hết rồi, hai ngày rồi sao chưa ai vô thăm, hay họ đã khám phá việc thầy làm cũng không chừng.
                        Cái xứ kinh cùng chợ ngang, tận gốc núi, ruộng

                        phèn cỏ cú nhiều hơn lúa, mùa nước bao la như biển, mặt hậu những dãy núi xanh thẩm hùng vĩ huyền bí che chở bao bọc cho cây trái thú rừng nuôi dân. Những dãy núi như những con

                        rồng thiêng, con hổ phục, sấu thần nằm yên chờ thiên lịnh quẫy đuôi làm ngựa cho tiên thánh hạ phàm nổi bão, diệt trừ yêu quỷ.
                        Mặt tiền là con kinh xanh màu cỏ, xa xa là chiếc xáng chìm nằm chơ vơ trên bờ kinh, ý chừng bọn Tây đào kinh phá

                        thế phong thủy. Con kinh như con dao bạc, đâm thẳng vào hông núi, phá thế đất long bàng hổ phục. Ðám Việt gian diện đồ Tây, đội nón cối, nón nỉ, mang giày san-dal theo thông ngôn cho ông Cò, ông Quận, coi mòi tân tiến văn minh, vợ con

                        được lên chức “bà, cô”.
                        Thầy lẩm bẩm hát đủ mình nghe “Mi nghe chăng? Hởi ai quên nhà quên nước quên non sông, hãy nghe đây lời ta vấn muôn năm, sao nở đành theo loài ngoại

                        quốc ác tâm dày xéo non sông nhà”. Giọng hát thầy càng căm hờn, “Ðồ bán nước, đồ buôn dân. “
                        Càng thấm thía, thầy buồn ngao ngán. Mỗi đêm Việt Minh kéo về bắn lạch tạch là hôm sau có người bị còng dẫn ngang qua trường, mặt người bị còng ngơ

                        ngác khốn khổ đi giữa đám lính kín, thầy thấy lo lắng xao xuyến như chính mình bị còng. Sức thầy không thể xoay sở thơì cuộc được. Thương nhứt là dân sống bám dọc theo bờ

                        kinh. Việt Minh kéo về, họ bị còng. Tây kéo tới, họ bị lùa đi đốn tre cho nhà nước , run rẫy khi nghe tớI tên đội Sữ, xếp Lùn, hai con chó săn lẩn quẩn quanh vùng, chờ chủ huýt gió nhảy

                        tơí táp.
                        Anh em trách thầy viện lẽ nặng gánh gia đình, lánh nặng tìm nhẹ, cầu an, lảng quên thời cuộc, khi họ tầm vông vạt nhọn lên đường chống Tây. Ðâu đây, còn văng vẳng tiếng

                        hát, kêu gọi, thúc dục, “Ra đi, ra đi, muôn phần ra đi, nào có sá chi đâu ngày trở về. Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết chớ lui. Cờ bay phất phới gọi giống Lạc Hồng ...“
                        Thầy ngồi phịch xuống bực tức. Cái chõng tre kèn kẹt, đay nghiến.

                        Nhìn lên, con thằn lằn chắt lưởi, nằm vật xuống, gối ẩm làm ngứa cổ. Thầy ngáp dài cho những uẩn uất trào ra.
                        Ngay chiều hôm đó, thầy được thả về, ông cò Tây đưa tận nhà, khách đến hỏi thăm đầy nhà. Một tai nạn nho nhỏ đã qua. Hôm sau học

                        trò trở lại, vẫn chưa đi học. Bàn ghế được dẹp sang hai bên nhường chỗ cho những tấm đệm trải dài trên nền gạch. Học trò ngồi hai bên đệm, trước mặt là những dĩa thịt quay bánh

                        hỏi và nước ngọt thầy đãi, chờ đợi nôn nóng.
                        Chợt có tiếng vỗ bàn, thầy cười và bắt đầu nói: “Hôm nay thầy kể cho bây nghe câu chuyện, chuyện con gà mẹ và bầy gà con. Khi con gà mẹ

                        bị bắt, bầy gà con ở nhà đi bắt con trùn con dế cho gà mẹ ăn, cũng như lúc thầy bị bắt, bây đem bánh đem nước vô cho thầy ăn. Bây hiểu không bây? “
                        Câu chuyện gà mẹ gà con chưa dứt, dù ngắn ngủi, bọn học trò chỉ nghe tiếng chập chập và tiếng

                        nhai rào rạo thịt quay bánh hỏi, câu chuyện chấm dứt sau khi thức ăn đã sạch. Thầy dặn thêm, “ à, mai mốt đứa nào thi đău Certificat nhớ đãi thầy nghe! “
                        Chỉ mấy ngày sau, đời sống học đường trở lại bình thường. Thời gian qua, học hết lớp ba, ít ai

                        ra tỉnh tiếp tục để đậu bằng Certificat đãi thầy, hầu hết bỏ ngang đi làm ăn theo ông bà cha mẹ. Học trò trường đình lớn lên theo thời gian, mang theo chuỗi biến cố buồn vui theo chợ nghèo, rồi một đêm, các chú về đốt cho sập chợ. Thằng Ðổi

                        bịnh đi trước, thằng Huỳnh theo kế, Chùn bị pháo kích chết, nó đánh mất giấc mơ đi cours đội xếp ngày xưa.
                        Thầy về hưu không bao lâu, thêm đám biểu tình đông đảo, thành phần

                        tham gia vẫn lây lất như xưa, có điều tóc cháy trán nhăn, tim khô óc héo, theo sau những cây bàn đưa và tiếng trống phèn la điểm ba tiếng một rời rạc. Họ đưa thầy về chân núi Chơn Num nghỉ ngơi vĩnh viễn.
                        Hai cuộc biểu tình duy nhứt chan hòa

                        tình nghĩa xảy ra tại chợ quê Xà Tón năm 1951, và năm 1969 bây giờ ai còn nhớ?!
                        Lúc đọc lại sửa chửa lỗi chánh tả thì nhớ tới On con chú Biện. On mồ côi mẹ, rồi cha, từ nhỏ, sống nhờ cơm bà con cô bác xóm chuồng bò. Lớn lên làm công hảng

                        nước mắm, lơ xe hàng. Hỏi thăm, mới biết On đã mất để lại bầy con đói rách mồ côi. Không ai nghèo ba họ, không ai khó ba đời, ngoài On.
                        Lại nhớ tới già Quan, lớn hơn tôi chừng bốn

                        năm tuổi, xưng là “chú” (bà con ở đâu tôi không biết) loại ami protecteur, bảo vệ tôi bằng miệng. Quan thường làm đồ chơi bán cho tôi. Có lần, tôi gói cho hắn một gói hột é, lười ươi, cả

                        nhà ngồi húp xùm xụp, nuốt luôn cả vỏ lười ươi, hỏi của ai, giả trả lời của thằng khùng. Ngày phát thưởng ở trường Chùa Trên, tôi đánh tay đôi với thằng Miên mạnh hơn tôi, giả làm lơ, phân trần “tụi nó đông quá làm sao tao đánh lại “. Lần tôi bị

                        thằng Kèo lớn hơn đánh, tưởng giả nhảy vào, giả lại đi mét, làm tôi về nhà ăn đòn thêm. Giả nghỉ học mà vẫn tìm cách theo làm tiền tôi, hăm dọa việc tôi hối lộ bạn bè làm toán

                        giùm. Mỗi lần giả lẽo đẽo sau nhà, bản mặt muốn nằm vạ, tôi phải thí cô hồn cho giả nắm tiền cho yên. Sau năm lớp ba, tôi ra tỉnh học, giả mất nguồn tài trợ, đói dài. Lớn lên, gặp lại, giả

                        ốm như cò ma lái quân xa, giả gạ bán chiếc xe Bridgestone cho tôi. Gần đây có nhắn gởi lời thăm tôi. Thôi, hết nợ rồi nghe cha! Ðiện thoại về Việt Nam mới biết tin giả vừa mất, thôi xù

                        bài!
                        Tôi muốn nhắc thêm thằng Phước ngoài kinh, ngồi sau tôi hai bàn, lớp ba năm 1951. Không biết vợ chồng nó làm gì sống. Cuối năm 1974, nó mặc quần dài đen, lưng quấn khăn đỏ theo đoàn lân lèo tèo múa tết, tôi theo tiếp đánh trống cho

                        lân múa vài tiệm. Sau nầy, nó hỏi thăm tôi và than thở, “Cũng một tuổi, học một thầy mà có đứa sướng đứa cực”. Phước mất vì bịnh bán thân bất toại, hậu quả của rượu pha thuốc rầy.


                        Thằng Ðực hủ tiếu to xác cũng mất, em nó thằng Thạnh chết vì rượu. Thằng Chau Chót hiền ít nói, gốc Miên, cựu Ðại úy, sau 75, về lại quê cũ, vợ nó giựt hội, lại dẫn vợ con bỏ xứ lần

                        nữa. Thằng Ngứt lên Nam Vang học Ðốc công Trường Tiền, cũng mất tích như Xà Phớp, Til.
                        Rồi thằng No, lớp học trong đình, mấy đứa con gái vô chỗ thờ thần, bọn tôi đóng cửa nhác

                        ma. Bọn con gái thấy No, bị đòn tơi tả một mình mà không khai những tên khác trong đó có tôi. Tôi còn nhớ No bị đòn, vừa khóc vừa nói, “không có ai hết thầy, có mình tui hà”. Sau

                        nầy, No bị sét đánh chết ở ngoài ruộng.
                        Già Long, học trước tôi mấy năm, rất thông minh, học đâu nhớ đó, vì nghèo nên ra Châu Ðốc học trễ hơn tôi hai năm. Tôi ỷ thế học trên lớp, cà

                        xốc, liệng rác lên xe đạp giả, giả giận lắm nói, mầy đồng hương, tao không đánh mầy! Giả trưởng thành sớm, học vài năm thì dắt một chị tóc dài về quê thôi học, làm ăn. Xin lỗi anh Long.

                        Viết tặng bạn học đồng lứa sống cũng như chết năm 1948 - 1951




                        Chú Thích:
                        U ấp: lối chơi mạnh bạo của trẻ con.

                        Thẩy lỗ lạc
                        : trò chơi ném những đồng xu vào lỗ khoét nhỏ, ai thẩy xu vào lỗ sẽ thắng cuộc.

                        Bắn tràm: những hột của cây tràm, bằng viên bánh xôi nước, được dựng đứng, trẻ con đặt hột tràm trên gối, ngồi bắn. Cái rộng: cái lu thấp, đựng cá lươn.

                        “Mè ơi”: tiếng tán thán của dân Miên, có nghĩa: Má ơi! Người Miên không kêu trời ơi

                        Dưa điên điển: thức ăn làm bằng bông điên điển, màu vàng, mọc nhiều ở vùng đất bưng

                        Củ co : loại củ nhỏ hơn trứng gà, vỏ có xơ, màu nâu đen, ruột ăn như khoai cao, có vị hơi đắng.

                        Rắn bông súng: loại rắn nước, nhỏ bằng ngón tay cái, dài chừng vài tấc tây.

                        Bàu: ao nước Col Sóc: chú tiểu theo hầu sư sãi Miên.

                        Xoài đông ken
                        : xoài lúc giữa mùa, trái nhiều

                        Mít đất: loại mít có trái dưới đất như củ Khoai từ: loại khoai bột, trắng, vỏ dai và mỏng có rễ

                        Chết đốt: người Miên chết thiêu xác chứ ít khi chôn bị gọi đùa là “dân chết đốt”

                        Khoai lùn
                        : loại khoai bằng ngón cái, dài hơn một tấc, có xơ, màu xanh lục nhạt, không có bột như khoai lang

                        Thằng cốt đột: “thằng khỉ”

                        Lưu Nhơn Nghĩa
                        thatsonchaudoc
                        sigpic

                        Comment


                        • #13
                          Như Cánh Chuồn Chuồn

                          Như Cánh Chuồn Chuồn
                          __________________________________________________ _______



                          * Riêng tặng Nguyễn Long - Bài cuối cùng từ giả Tây Ðức, 11-1988

                          Chợ sáng vừa tan, ông quét chợ lui cui hốt rác bỏ lên xe đẩy ra đồng đổ. Trưa đứng bóng, chợ quận vắng người hơn.

                          Giờ nầy ông thân tôi bắt đầu dọn dẹp tháo những khoanh dây chì, bưng những thùng đinh chất gọn vô tiệm, chồng chất những bó mây cho gọn ghẽ, đẩy thùng lưỡi cày xuống bộ ván ngựa, xếp chồng chảo bể vô góc hàng ba.

                          Xong xuôi, ông lau tủ kiếng có những chai rượu con cọp, mấy chai nước xá xị, những hộp phấn thoa con nít và hộp thuốc tiêu mặn, soạn lại xấp giấy san đầm cho thứ tự.
                          Sáng dọn ra, trưa dọn vô, rồi quét xành xạch hai cái chỏng trước hàng ba. Ông

                          thân tôi có khả năng làm công việc lủ khủ đó. Thế giới của ông là tiệm tạp hóa, ông nhớ từng chi tiết giá hàng lên xuống hàng ngày rành mạch.
                          Quanh chợ quận, các hiệu tiệm hay chành đều sống thoải mái với nhau, mỗi cửa tiệm một lại patent riêng,

                          nên ít khi va chạm nghề nghiệp, trừ các tiệm cà phê, thớt thịt, chợ cá, tiệm thuốc Bắc phải cạnh tranh nên khó tránh khỏi sự xung đột ngầm. Người ngoài khó nhận ra nếu không lê lết tiệm nước, nào tiệm cà phê nầy pha bắp rang, thớt thịt kia bán thịt

                          heo cũ, tiệm rượu nọ bán rượu không đủ chữ.
                          Ðối diện tiệm ông thân tôi, là tiệm Thoại Ký, ông chủ tiệm cũng làm việc cùng nhịp điệu với ông thân tôi, đồ đạc thuộc loại khác nên tình láng giềng chưa bị sứt mẻ. Ông Thoại Ký dọn những thùng bún tàu,

                          tàu hủ ky, các loại đậu xanh đỏ trắng đen, gạo, tương chao v.v...
                          Cơm trưa xong, ông Thoại Ký và ông thân tôi đều giữ đúng giờ ở tiệm cà phê cùng các chủ tiệm khác bàn luận hàng

                          hóa giá cả thị trường, vừa đổ ly cà phê nóng ra dĩa thổi uống xùm xụp, chắp chắp miệng lấy khẩu hứng vấn đề sinh lợi.

                          Trong khi các bà ở nhà lo giặt quần áo, lo nhà cửa con cái ...
                          Hiệu Thoại Ký có con gái duy nhứt lúc bấy giờ tên Sóc Lếnh (Thục Linh) lớn tháng hơn tôi, tóc ngắn, ưa nhảy cò cò quanh quẩn trước sân, hoặc thơ thẫn kéo cái ống chỉ quanh nhà, có

                          khi nói tiếng Việt, có khi nói tiếng Hẹ với bạn đồng lứa. Thục Linh là gái nên gia đình ít nuông chiều, tuy áo quần tươm tất lành lặn.
                          Tôi không ưa chơi gần nhà, trước nhà là con đường

                          bên hông chợ chật hẹp, buổi sáng khó len qua lối đi, thường ẩm ướt vì rau cải trái cây đổ ngỗn ngang. Hơn nữa, nếu quanh quẩn gần nhà thế nào cũng bị ông thân tôi la rầy bắt về tắm,

                          ngủ trưa. Bọn xóm tôi kéo ra sau đình, dưới bóng mát mấy cây me, có ông Tà bằng đá dựa gốc cây, ít đứa nào dám chơi ăn gian sợ thề thốt gặp giờ linh ông Tà bẻ cổ. Có đứa kéo diều chạy quanh đình, mệt thì buộc dây diều vào cây điệp đỏ bông,

                          ngồi nhìn diều bay vẫy đuôi theo gió trên nền trời xanh mây trắng.
                          Chiều chiều, bữa cơm dọn ra trên chỏng trước nhà, tôi ngồi quay lưng ra ngoài để khỏi thấy đôi mắt của đám chó vện

                          đói ngồi chờ xương. Hai gia đình thường có chung khẩu vị, thường là canh dưa cải, canh măng le, mì xụa xào, tàu hủ chiên.


                          ***


                          Bỗng một ngày, ông thân tôi lôi tôi ra tiệm hớt tóc, may cho mấy bộ đồng phục. Ông ra tỉnh mua một số tập vỡ ô vuông, bút lông và cái giỏ mây vuông vắn. Tôi ưa đồ chơi hơn, nên lơ là những món quà vô vị.Chuẩn bị cho con đi học, ông thân tôi

                          sắp xếp như việc sinh lợi buôn bán.
                          Ðêm đó, sau khi thanh toán sổ sách, dẹp cái bàn toán lách cách vô tủ kéo, ông gọi tôi ra vừa dặn dò, vừa hăm dọa:-‘ Mầy nghe, tối ngày chơi bời lêu lổng, tối ngày hổng thấy mầy ở nhà, sáu tuổi rồi mà chưa biết

                          chữ, mai mốt làm sao ra toa, làm sao sinh lợi, sổ sách không thông. ’
                          Lúc ông nhẹ nhàng khuyên nhủ:- ‘Ráng học, biết chữ để lo mấy cái xe hàng, biết đi Nam Vang bổ hàng, coi đồ đạc giá

                          cả lên xuống, tập mần ăn với người ta, tao hổng có sống già lột nuôi mầy đâu! ’
                          Sáng hôm ấy, mưa lành lạnh, ông thân tôi nghiêm trang lắc bàn toán xành xạch cầu bán đắt như thường lệ; tôi ngồi ăn chén cháo trắng với cà na muối, bên kia Thục

                          Linh cũng nhai cà na muối húp cháo trắng.
                          Tôi mặc đồng phục, xách cái giỏ mây vuông, theo ông thân tôi lên trường Tân Huê Học Hiệu. Ông thân tôi và ông Thoại Ký đi sánh đôi, cả hai đều che dù đen, mang guốc vông lộp cộp, bùn đất văng dính đầy

                          gót chân. Thục Linh khép nép dưới tàng dù đen, tim tôi đập theo tiếng guốc.
                          Ðến trường, tôi lơ đãng nhìn thế giới chung quanh, những tấm tranh viết chữ thảo, bức ảnh Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch treo trên tường, một người nghiêm trang,

                          một người mỉm cười.
                          Thục Linh khóc ré lên khi ông Thoại Ký rời trường. Thời giờ trong lớp học qua lâu chình chịch, tôi vòng tay cúi xuống bàn ngủ lúc nào không nhớ, ông thầy trẻ dùng roi gõ nhẹ trên vai, tôi tỉnh dậy bị cuốn theo tiếng đọc bài của học trò

                          vang dội:
                          ‘Rễn, rễn, rễn’ (người, người, người) ‘Wò xứ Chung Kwõ rễn’ (tôi là người Trung Quốc)‘Wò mễn tá chia, táo xứ Chung Kwõ rễn’ (chúng ta tất cả đều là người Trung Quốc).

                          Tôi và Thục Linh nhìn nhau cầu cứu, gần nhà, hai đứa biết mặt nhau, gần gũi nhau, đồng chép miệng vội vàng:
                          ‘Kwõ chì, Kwõ chì ’ (quốc kỳ, quốc kỳ) ‘Wò ái nì, wò chính nì’ (tôi thương anh,

                          tôi trọng anh).
                          Ðêm đêm, sau bữa cơm chiều, khi ngọn đèn ống khói thắp lên, bên kia ông Thoại Ký gõ bàn toán, bên này ông thân tôi ghi chép sổ sách, ánh đèn vàng vọt len qua khe cửa ra ngoài, Thục Linh và tôi cùng đọc vang vang đêm vắng:‘Lãi lãi

                          lãi ’ (đến đây, đến đây)
                          ‘Lãi tủ shu ’ (đến đọc sách)‘Tá chia lãi tủ shin shu ’ (chúng ta cùng đọc sách mới).Tiếng học bài hai đứa ấm cúng hai cửa tiệm, có khi Thục Linh đọc trước, tôi tiếp theo sau, khi hai đứa cùng đọc, âm thanh quyện vào nhau

                          thành bản nhạc ngây thơ trầm trầm nhịp nhàng như mưa rơi trên mái ngói.
                          Ngày ngày đi học về, bọn tôi đi dọc theo con đường đất sau dãy phố Vĩnh Phong Chành, Thục Linh đi phía bên có dòng nước, tôi đi bên có hàng trứng cá, để ý tìm cây

                          trứng cá nào trái chín nhiều, tay tôi thọc sâu trong túi, giữ chặt mấy viên đạn cu li.
                          Mấy tháng sau, quen nước quen cái, tôi dự cuộc chiến bằng nạng dàn thung, giữa học sinh trường Tiều và trường Phước Kiến, có mấy đứa lỗ đầu suýt đui mắt, tôi bị

                          đuổi oan vì bọn lớn đầu xúi giục.
                          Ông thân tôi trấn tôi vào chùa Miên học tiếng Miên, đầu cạo trọc, để chòm tóc dài trên mỏ ác vắt bên tai, nhìn tấm ảnh vua Norodom trên tường, vừa lải

                          nhải:
                          ‘Ko Ka Ket Kai ’hoặc những câu Kinh Phạn viết trên lá thốt nốt: Namo tasa, bhagavato, arahato, Sama sam Bhudda sa!Chiều về, tôi quơ quào viết ngoằn ngoèo các mẫu tự Miên như mấy con trùng bò, khác với tôi, Thục Linh nắn nót bằng

                          viết lông trong các ô vuông, nét chữ kỷ xão, có hồn như vết chân chim.
                          Ông Thoại Ký ngứa ngáy khoe khoang xách qua cho ông thân tôi xem chữ Qui Thục Linh viết:-‘ À! Hon hên hia à,

                          coi con Sóc Lếnh tiểu nữ nhà tôi viết chữ “ Qui” nè, giống hệt con rùa sống à! ’
                          Ông thân tôi đâu có gì khoe khoang hoặc hãnh

                          diện, ông càng chán ngấy những tấm hình chằn tinh trong tập vở tôi, các trang sách lem nhem số để chơi lật hình. Rồi hai biến cố làm ông thân tôi đổi hướng suy nghĩ.

                          ***


                          Năm đó, Commandos Maroc đổ bộ, say rượu phá phách xóm làng dữ quá, ông Quận ra lệnh cấm bán rượu cho Maroc, nhưng nó vào tiệm mua không bán, nó phá tan hoang cửa tiệm. Ông thân tôi bị bắt buộc bán nên bị phạt nặng.Sau nhà

                          tôi, tiệm sách sạch sẽ ngăn nắp của ông Trịnh tự nhiên dẹp, ông ta có bằng cấp Sơ học, nhờ biết tiếng Tây chạy được chân giáo viên nên sang hẳn người ra. Ông họ Trịnh mặc áo trắng

                          quần tây, mang sandal đi dạy, bầy con dọn về phố, ở không ăn, sung sướng quá.
                          Ðang lúc loạn lạc, ổng giao tôi cho bên ngoại vùng Mỹ Ðức an toàn hơn, xa cái nạn Cáp duồng. Tôi lại

                          học với ông thầy giáo Việt Nam đầu tiên - tên thầy giáo Lọ.


                          Yên giặc trở về, Thục Linh đã học đệ tam niên tiểu học, tôi tò mò lắng nghe Thục Linh đọc bài đêm thanh:
                          ‘Wãn wãn chu chiu’ (Quan quan thư cựu)‘tá hở chi chou ’ (tại hà chi châu) ‘Miễu thiễu sũ nũ ’ (yểu điệu thục nữ)‘Kwan tzù hão chìu ’ (quân tử hảo cầu)Thục Linh đang đọc bài thơ trong Kinh thi, hai con le le

                          đang kêu oang oang, tại cồn cát trên sông, người thục nữ yểu điệu, người quân tử thích cầu thân!
                          Tiếng đọc câu Kinh thi, thiên Quốc phong thật tao nhã, tôi lép nhép theo phụ họa:‘Xâm xi hành thái ’‘Tả hữu lưu chi ’‘Yểu điệu thục nữ ’‘Ngộ

                          mị cầu chi ’
                          ‘Cầu chi bất đắc ’‘Ngộ mị tư bặc ’‘Du tai du tai! ’Hứng chí, tôi đọc bài ám đọc mới học với thầy giá Lọ: Rừng một dãy, cây chen vạn gốc Gốc cây rừng, một nóc nhà tranhTrong nhà một ngọn đèn xanhNgọn đèn mờ tỏ bức tranh

                          ba người
                          Con thì khóc, vợ lại miệng dỗ Chồng lui cui đươn rỗ đựng than Thú vui mấy lúc thanh nhànThoảng như câu hát cung đàn gió bay.Hai bài thơ, hai niềm vui ấm cùng tuổi thơ quyện vào nhau thắm thía còn văng vẳng đâu đây, thứ hạnh

                          phúc đơn sơ như cái cười hể hả của tiều phu gánh củi bán chợ chiều, gặp ngư ông, rủ nhau nướng cá, cạn bầu rượu đục vui tao ngộ bên bờ suối sâu, hạnh phúc nầy đâu cần tìm đâu

                          xa?
                          Hạnh phúc nầy tiêu tán khi Tây đổ bộ ngoài kinh, cái áo sơ mi trắng của thầy giáo Trịnh, làm ông thân tôi đổi ý, lệch lạc cuộc đời sau nầy. Ông bàn với bà mẫu tôi: ‘Thằng nầy thả lỏng không được đâu, để của cho nó phá hết cũng vậy, bắt nó học

                          tiếng Tây, chừng nào đậu Certificat đi cours cò, cours đội cho đỡ cực thân nó.’
                          Sau quyết định, ông ném tôi vào lớp học Pháp.

                          Ðêm đêm, Thục Linh vẫn thủy chung đọc bài trường Tiều:
                          ‘Sứ Sù Sữ Sù ’ (Thạc thử thạc thử)‘Wu Sứ wò mew ’(Vô thực ngã miêu)‘Sán xuễ kwan nù ’ (Tam tuế quán nhữ)‘Mõ wò Khỡn lào ’

                          (Mạc ngã Khẳng lao)
                          Con chuột lớn ơi, mầy đừng ăn mạ tao, đã bao năm tao đối phó với mầy, mầy không biết công lao đó. Bên nầy, tôi mơ ước ngồi bên Thục Linh đọc tiếp bài Kinh thi: ‘Thệ tương khứ nhữ ’ (quyết bỏ mầy đi)‘Thích bỉ lạc giao ’ (đến nơi

                          an vui)
                          ‘Lạc giao, lạc giao ’ (lạc giao lạc giao)‘Thùy chi vĩnh hào ’ (mầy than gào ai?) Tôi bị đuổi khỏi vùng an vui, tôi gào con chuột đừng ăn mạ non mơn mởn như tóc tơ Thục Linh ngồi đọc bài bên ngọn đèn khuya, hơn là đọc những bài récitation vô

                          hồn của Tây:
                          Maintenant, je vais à lécoleJapprend chaque jour ma leçonLe sac qui pend sur mon épauledit, que je suis un grand garçon.Ngày nay tôi đi học, tôi học bài vở mỗi ngày. Bài vở làm tôi luống cuống, xa cội xa nguồn. Cái túi đeo trên vai

                          tôi là một gánh nặng rằng tôi đã lớn, lớn để làm gì, để xa dần thứ hạnh phúc ngây thơ, có nước sông gạo chợ, có người bạn gái xinh xinh sớm chiều cùng nhau đọc bài ám đọc.
                          Hai tiệm buôn vẫn đối diện sừng sững, hai đứa bé bên trong bắt đầu đi

                          ngược hướng nhau - vì hoàn cảnh lúc nào không biết. Nhứt là những lần lễ lạc, lễ Tây có nhảy bao, cạp chảo, đập nồi, chúng tôi đứng nghiêm chào lá cờ tam sắc xanh trắng đỏ ngạo nghễ bay, rống cổ hát không biết nhục:
                          Étudiants! Du sol lappel

                          tenace
                          Présent et fort, relentit dans lespaceDes côtes dAnnam aux ruines dAngkorA travers les monts, du Sud jusquau Nord Bọn tôi phục vụ tổ quốc ai?Servir la chère patrie? Tôi thèm thuồng đứng chào lá cờ thanh thiên bạch nhựt mãn địa hồng hát chung với Thục Linh ‘Sán Mìn chủ jí (Tam dân chủ

                          nghĩa).
                          Ai làm hai chúng tôi đổi giọng đổi lời đổi tiếng thay tâm?

                          Tiếng súng và tiếng giầy đinh commando từ Âu Châu làm tắt ngọn đèn dầu ấm cúng, làm uất nghẹn âm thanh học đêm, làm nồi cháo trắng với cà na muối thay bằng bánh mì thịt.
                          Hàng me dọc theo chợ bị đốn sạch, rừng cây sao dưới chân núi Cấm

                          thưa dần.
                          Ông thân tôi nuôi hy vọng cours cò, cours đội, thầy thông thầy ký, nhưng tôi ngồi lì lại lớp ít nhứt hai năm, ngủ ngày suốt buổi học, chung tiền cho bạn bè lo bài vở giùm. Việc

                          làm ăn trong lớp trôi chảy, đến khi thày khám phá tôi 6 năm học mà chưa làm nổi bài toán cộng đơn giản. Trận đòn tơi tả ở trường cũng như ở nhà ít làm tôi đau hơn cái nhục bị con nhỏ

                          Xà Phớt xách tai làm gương. Tôi trốn học cả tuần, đi về ngả sau tránh gặp Thục Linh.
                          Ông thân tôi đánh bàn toán tìm câu trả lời cho tương lai tôi, chuyển tôi ra tỉnh học, vì trường quận

                          chỉ có tới lớp Sơ đẳng (cours élémentaire).
                          Ðêm đó, ông nói với bà mẫu tôi, vừa nói vừa gõ bàn toán lách cách sau mỗi câu nói thiệt hơn. ‘Cho nó đi học xa cho yên, ở nhà lấy tiền nuôi thiên hạ để copier cũng vô đó. Ở tỉnh mình đóng tiền cơm tháng,

                          tiền xài bao nhiêu là bao nhiêu, rẻ hơn cho nó ở nhà. ’
                          Chưa thỏa mãn, ông quay sang tôi mặt vừa nhăn vừa trừng như đầu con cọp cười,- ‘Còn mầy nữa, ra tỉnh phải học cho nên, học cho sướng thân mầy, ai cần mầy nuôi lại. Nước trên mái nhà chảy

                          xuống, nước đâu có chảy ngược lên, làm sao thì làm coi cho được, đừng tùng tam tụ ngũ, xa hia xí tỉ à nghe! ’
                          Lời ông nói như nước đổ lá môn, tôi ngồi trơ trơ, nhớ và lo cho bầy cá lia

                          thia giấu trên nóc nhà, ai hớt lăng quăng cho cá ăn, ai lo kiếm cào cào cho con sáo, con gà tre và hết được nghe tiếng học bài Thục Linh đêm thanh rồi.

                          ***


                          Thục Linh may mắn hơn tôi, sống trọn vẹn với tuổi thơ êm ái bên cạnh cha mẹ, hàng xóm quen thuộc. Ðứa bé non nớt chưa chuẩn bị tinh thần bị ném bất ngờ vào thế giới thành thị, chưa

                          quen với kỷ luật trường tỉnh, roi vọt trường tỉnh thành nặng nề hơn trường xưa, bạn bè hiếp đáp chửi Ba Tàu, mặc cảm làm chai lì tình cảm. Ðêm đêm nằm trằn trọc lo sợ, mơ được nghe

                          tiếng Thục Linh đọc bài, nước mắt ướt dầm ghế bố. Bài vở càng vô vị hơn, nào analyse gramaticale, logique, nào ladjectif démonstratif, nào subjonctif passé du verbe apercevoir. Ông thầy nghiêm khắc, tôi mất hết cơ hội ngủ ngày trong lớp.
                          Vào

                          Trung Học, kỷ luật càng khắt khe, ít về quê, nhứt là vào những buổi sáng chủ nhựt bị consigné, phải vô trường ngồi viết hai trăm chữ silence discipline. Dần dần nếp sống quê, trong tiệm tạp hóa thiếu đèn điện, thiếu nước máy đẩy tôi gần nếp sống

                          thị thành.
                          Thục Linh học xong Tiểu học Hoa ngữ, ở nhà tiếp giúp bán buôn. Mỗi lần về, đi ngang qua tiệm, tôi luôn luôn lễ phép chào ông bà Thoại Ký, được khen thằng Phong Hưng con thật là lão thức. Thục Linh càng lớn càng duyên dáng dù không

                          phấn son. Hai đứa gặp nhau đều lúng túng, ngượng nghịu mỗi lần mang quà biếu nhau. Bà Thoại Ký thân thiết với bà mẫu tôi hơn, và hai ông ngồi uống cà phê với nhau lâu hơn.


                          ***
                          Năm tôi học Ðệ Tứ, đầu năm, Thục Linh mặc áo xẩm, cánh tay trắng ngần, môi hồng tự nhiên, má chín như trái đào, nét hao hao giống nữ tài tử Lâm Ðại, qua nhà tôi ấp úng:-‘Bề úm, tân niên phát tài.’Bà mẫu tôi bắt tôi qua nhà Thục Linh mừng

                          trả lễ. Thục Linh trốn sau nhà, mãi đến khi tôi về mới dám ra ngoài.
                          Thỉnh thoảng ông thân tôi và bà mẫu tôi xầm xì bằng tiếng Tiều, nhìn tôi vừa nghiêm trọng, cười chúm chím hài lòng. Tôi thoáng nghe tiếng còn tiếng mất, tiền chợ, tiền rửa

                          đít, mấy tạ bánh đặt tiệm nào?
                          Bà mẫu tôi lo âu nhắc: -‘ Ông nhắc chừng nó, coi chừng nó mê nhan sắc gái ở chợ.’Ông thân tôi rất tự tin:-‘ Hừ, nó không nghe lời, tôi vặn họng nó, đừng tưởng văn minh rồi qua mặt tôi. Bà chờ nó đậu Brevet đi cours

                          quan một hay là làm thầy ký ở quận rồi tính tới cũng kịp.’
                          Bà mẫu tôi gạt ngang:- ‘Thôi về xứ mình làm thầy giáo, tiếp nhà buôn bán, hai tiệm nhập lại nghiêng chợ nầy.’Tôi vô tình không tìm hiểu, mỗi năm về quê có mấy lần ngắn ngủi, rồi ra đi. Việc

                          buôn bán phát đạt làm Thục Linh vất vả nhanh nhẹn hơn. Tôi may mắn mỗi lần về, bị say xe ói mửa, xong nằm ngủ vùi, gia đình nội ngoại cưng chiều, ‘tội nghiệp thằng nhỏ, ép quá cũng

                          không nên, học quá thành ra vậy.’
                          Hai gia đình đang âm ỉ chờ đợi cái gì đó, Thục Linh lánh mặt tôi cố ý.Năm đó, tôi khăn gói dự thi, hàng xóm xôn xao như tin quan trọng chờ tôi xênh

                          xang áo gấm, ‘chờ uống rượu hai tiệm a!’
                          Sau khi nghe kết quả, bị rớt không được vào vấn đáp, tôi buồn bực ra về. Vừa bước xuống bến xe, hai gia đình lẫn lộn đứng chờ, mặt mày ai nấy

                          hớn hở. Thấy mặt tôi buồn thiu, ông thân tôi xuống sắc, chạy theo hỏi:
                          - Sao, thế nào?Tôi trả lời gọn lỏn:- Có Résultat rồi, rớt.Rồi đi xăm xăm một mạch về nhà. Ðêm đó, bầu không khí buồn tẻ cho hai tiệm buôn. Ông Thoại Ký và ông thân tôi ngồi

                          uống trà, yên lặng. Chợt ông thân tôi hỏi thật vô duyên không phải chỗ:
                          - ‘Bây giờ làm sao? ’Tôi đổ quạu, cộc lốc:-‘ Chờ deuxième session.’Rồi bước vùn vụt ra ngoài. Thục Linh đứng trước cửa khép hờ, mắt lo âu, nhìn theo tôi im lìm.Năm đó, tôi

                          rớt luôn kỳ hai. Bà mẫu tôi an ủi suông:
                          - ‘Năm tới chắc đậu phải không? ’Chẳng những năm tới, mà liên tiếp ba năm tôi rớt luôn 6 keo. Cuộc khủng hoảng gia đình tôi lan ra tới hàng xóm.

                          Bà Kim Seng vốn ganh tị, vì đám con bà ở nhà làm ăn, nghe tôi thi rớt, làm bộ vô tình ghé nhà tôi hỏi cho được, rồi vừa đi hai tay quơ sai sải, vừa cưòi hể hả nghe ứa gan.
                          Một số bà con tôi bắt đầu bàn ra tán vào, xem bói, xem tướng, xem địa lý,

                          đất chôn ông nội tôi phát phú chớ không phát quan. Một số tám tàng như già Chóng bô bô cái miệng:
                          -‘ Hia đưa tui mười lăm ngàn, tôi lấy cái Diplôme cho nó liền cho hia coi.’Tôi bỏ lên Sài Gòn học cho có, gia đình tôi tấn thối lưỡng nan, lở khóc lở

                          cười với xóm làng.
                          Lâu dần, tôi quên mất hình ảnh cô bạn gái láng giềng, chưa lần nào đối thoại trực tiếp, họa chăng vài lần bằng đôi mắt buồn tênh. Ý định chờ tôi đi cours cò, nhập hai tiệm thành một làm nghiêng chợ tan dần như vệt mây mù trên

                          bầu trời xanh.
                          Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Trước Tết, vô công rỗi việc, tôi ngồi trước cửa nhà thơ thẩn, chợt có thiếu nữ mặc đồng phục xanh, đeo dây biểu chương vàng xinh đẹp đi ngang nhìn tôi, thấy quen quen, sau đó mới biết đồng học

                          đồng cấp, chung trường ngày xưa, tuy khác lớp.
                          Cô đổi về quê tôi làm việc trong phong trào liên đới gì đó. Cô nhìn bạn cũ, nên tự nhiên ghé thăm thường xuyên nhà tôi, xứ lạ đâu có ai quen. Bọn tôi vui vẻ nhắc chuyện xưa, chuyện mấy ông Prof.

                          khó tính, chuyện những bài algèbre, chuyện ông Hiệu Trưởng mặc veston trắng, đội nón cối trắng, ngồi xe lôi, mặt hắc ám như sắp gây gổ, chuyện mấy bài Lý Hóa kỳ thi Trung Học.

                          Chuyện các cha xe đò lợi dụng thí sinh đổ về tỉnh thi, bắt chẹt lên giá, rồi ngày có kết quả đậu dài dài chờ rước đám thí sinh thi hỏng về, thêm nạn bị cha mẹ mắng nhiếc như Bùi Ông

                          nhún trề Bùi Kiệm. Bọn tôi vô tình có cơ hội xả hơi bực bội, lâu nay biết tâm sự cùng ai. Thủy, cô bạn, cũng tự nhiên vui tánh, ăn nói sang sảng lớn tiếng. Mặt Thủy luôn cười, bên kia bà Thoại Ký la đám người làm:
                          - ‘Cái đầu chó nấu không

                          chín. ’
                          Cũng may Thủy không hiểu câu ngạn ngữ nầy.Ông thân bà mẫu tôi điên đầu vì chuyện Thủy ghé thăm tôi thường xuyên, ông cằn nhằn:-‘ Biết vậy cho nó lên Nam Vang học trường Tàu cho khỏi văn minh, tối ngày trai gái. Nói chuyện

                          như chó nhai giẻ rách, quen cái thứ xa câu lặt má đó, đem về nhà cho xui xẻo.’
                          Thúc phụ tôi, dốt ưa nói chữ, lửa cháy thêm dầu, muốn dạy con cháu:‘Học hành ba chữ lem nhem’‘Thấy gái

                          mà thèm, bỏ chữ trôi sông. Bởi vậy nó có học hành làm vương làm tướng gì được, tui đã nói rồi mà!’
                          Bà cô họ tôi được dịp khoe tài ngồi lê đôi mách:‘Văn minh thái quá văn minh tệ’‘Hủ

                          lậu vừa vừa hủ lậu hay! ’
                          Ông Thoại Ký trách ông thân tôi ăn nói có đầu không có đuôi, sinh giờ thứ 11. Sinh con nuôi không dạy là lỗi cha:-‘ Học chữ Tàu yên rồi, ham làm ông cò, bây giờ

                          buôn bán cũng không biết, làm cò cũng không xong, lỡ thầy lỡ thợ lỡ cu li.’
                          Ông thân tôi bực quá:- ‘Ðẻ con bò con trâu, chớ đâu đẻ cái sừng, mình sanh con ai có sanh lòng, mà hia nói

                          vậy,’ rồi ông quạu với bà mẫu:
                          - ‘Lứ, có nghe không? Con trai quý của Lứ đó.’Bà Thoại Ký trách bà mẫu tôi:- ‘Hồi đó lứ nói sao? Mấy tạ bánh, tiền rửa đít, tiền chợ quá không lấy mà, quá

                          đâu có ham giàu, tiền như đất cát, nhơn nghĩa mới là vàng! Sao lứ không dạy nó.’
                          Bà mẫu tôi khốn đốn vì con, nhưng mấy ngày Tết phải im lặng, qua Tết tôi xách gói đi. Chuyện đâu vẫn còn đó.Tôi không buồn tìm hiểu, lối suy tưởng của hai gia đình

                          xa lạ đối với tôi quá, khác hẳn hoặc không liên hệ điều gì tôi học ở trường, dù những thùng đinh, những tấm lưới cá, những khoanh dây chì, cưa, bào, đục, đã góp phần nuôi nấng tôi nên vóc nên hình.
                          Chỉ vì vô tình, Thủy ghé nhà chơi, chuyện nhỏ xé

                          to, làng xóm than van, mặt Thục Linh rầu rầu như cỏ úa, tóc dài hơn, mím miệng giả vờ bận rộn khi tôi đi qua.


                          ***
                          Cuộc chiến bắt đầu khi ông Thoại Ký cất nhà trước thêm một từng, dành riêng phòng rộng màn che trướng rủ cho Thục Linh. Bà Thoại Ký nói với chòm xóm:-‘ Mình ở trên cao gió mát, ngó quanh thấy mấy cái nhà lợp ngói đóng rong xanh (ám chỉ

                          nhà tôi thấp) khó coi quá.’
                          Ân tình đã cạn, ông thân tôi cất thêm từng lầu trước, bà Thoại Ký rêu rao:- ‘Ôi, bắt chước! ’Tiệm Thoại Ký lại cất thêm nhà sau, đào thêm giếng nước trong nhà, khoe khoang:-‘ Khỏi mướn người gánh

                          nước.’
                          Ông thân tôi điên tiết cất lên nhà sau, cẩn thận hơn, ông để dành sẵn mấy cột thép để cần cất thêm - trưa ngồi tiệm cà phê, vừa cười thỏa mãn:- ‘Tới đâu thì tới, tôi chừa sẵn mấy cây cột sắt đó, lên từng nữa cho mát.’Từ đó hai ông uống cà phê

                          trái giờ, người tới sớm người tới trễ. Mỗi ngày là câu chuyện mỉa mai:
                          - ‘Ôi, có cái vỏ bề ngoài, tiệm tôi bán không hở tay! ’Ông thân tôi ngược ngạo:-‘ Phú! Bán tạ gạo lời không bằng cây cưa, tạ than thua hộp bản lề tui.’Muốn qua mặt ông

                          Thoại Ký, ông thân tôi mua cái máy điện để kéo bà con gần đó về phía mình, có thể xem vô tuyến cải lương tới vãng tuồng, vì điện quận tắt lúc 10 giờ đêm.
                          Ông Thoại Ký chưởi đổng:-‘ Máy kêu ầm ầm, tiếng An Nam không rành mà đòi coi cải

                          lương.’
                          Cuộc chạy đua ráo riết, ông Thoại Ký lót gạch hàng ba, cười nói: -‘Gạch bông sạch hơn xi măng.’Ông thân tôi xây luôn hàng ba liền với nhà trước, trả lời:-‘ Ðồ đạc để sẵn, tôi già rồi, dọn ra vô không nổi!’Ông Thoại Ký tìm rước ông thầy Tàu nổi

                          danh viết bảng hiệu lại để yểm tiệm đối diện. Ông thân tôi lật đật tìm rước tay hay chữ khác viết bảng hiệu:
                          - ‘Ðể coi ai phát, có đứa con gái, mai mốt thằng rễ hưởng chớ ai!’Cuộc đua tranh hơn thiệt khó ảnh hưỏng tôi. Ngồi lì mãi nhà trường, thi rớt mãi

                          cũng có ngày đậu.
                          Ông Thoại Ký không nhắc nhở, ông thân tôi lo về quê muốn làm xuôi với người bà con, ruộng đất hai bên nhập lại ăn mấy đời không hết, sợ người ngoài lọt vô ăn của.

                          Lần này ông cũng ê mặt vì tôi cải bướng. Chỉ thương Thục Linh, mặt buồn, đẹp như tranh tố nữ, bị tai tiếng khó lấy chồng, hồng nhan đa truân, cao duyên, nhưng vô duyên đối diện bất tương phùng.
                          Ông Thoại Ký càng ngày càng khó chịu,

                          có lúc tôi tưởng mình là Don Rodrige thách ông đấu kiếm, đâm ông một kiếm rồi tìm Chimène Thục Linh ném kiếm tạ tội.


                          ***
                          Việc thương mại càng phồn thịnh, tiệm Thoại Ký càng ngày càng chật chội. Ngày ngày Thục Linh vui vẻ, nhanh nhẹn đi len qua những bao đậu xanh, gạo, đường, cá khô chất cao gần đụng trần nhà. Chưa kể những hủ rượu công xi, tương tàu,

                          nhang đèn, hù ky, bún tàu. Dáng dấp Thục Linh mảnh mai, xinh xắn, làm khung cảnh tiệm chạp phô chồng chất hàng hóa ngổn ngang sinh động. Vắng Thục Linh, chắc tiệm Thoại Ký sẽ buồn tẻ, dù có hai cái cười hể hả cầu tài của ông bà chủ

                          tiệm.
                          Lâu lâu, ông Thoại Ký ngồi tiệm cà phê, một chân chống trên ghế, tay vuốt cái ống quần lảnh đen mướt rồi hạ ly cà phê xuống nói vói qua bàn bên kia, cho người cười hùn:- ‘Tiệm tôi

                          bảo đảm không thiếu món gì. Ai sắm đồ đám cưới, đám hỏi, tôi chỉ thiếu có đôi bông. Còn ai mua đồ làm đám ma, chỉ thiếu có cái hòm.’
                          Tiệm Phong Hưng cũng thay đổi nhiều, mỗi lần về quê, tôi bực bội vì chật chội. Tôi tự hỏi, không biết ai tiêu thụ

                          cho hết thực phẩm tiệm Lợi Ký và những khoanh giây chì, những chồng tôn lạnh, bành lưới cá, bù lon, cưa, bào, đục của tiệm Phong Hưng.
                          Hai bên tuy không cạnh tranh vì hai loại hàng hóa khác nhau, lại luôn luôn tìm cách hạ uy tín nhau.Cuối năm

                          đó, cuộc hỏa hoạn thiêu rụi gần mười căn nhà ngoài kinh. Ông Thoại Ký được dịp khoe khoang lòng hào hiệp. Ông kêu nạn nhân đến cho mỗi gia đình một táo gạo, một tỉn nước mắm và

                          vài ký cá khô. Khi mọi người lo xúc gạo đổ vô thùng mang về, họ cám ơn nức nở. Ông bô bô cái miệng, lớn tiếng cốt cho nhà tôi nghe:
                          - ‘Bà con gặp nạn lửa củi, ơn nghĩa gì. Cứ xúc gạo về nấu. Người ăn thì còn, con ăn thì hết.’ (Ông mỉa mai, vì cách

                          đó mấy tháng, ông thân tôi giao cho tôi bó tiền lên Sài Gòn trả cho Chành, tôi lại mang tiền sửa mũi cho người bạn gái, rồi về rầu rĩ nói bị mất). Ông thân tôi bị vố khá đau, bao nhiêu hy vọng đặt vào tôi như muối bỏ biển. Ông thân tôi giấu nhẹm,

                          mà không hiểu vì sao ông Thoại Ký lại biết? Ông Thoại Ký lừng lẫy tiếng tăm là người phước đức, nhân từ. Dân ngoài kinh nghe tiếng rủ nhau ghé tiệm ông mua càng đông.
                          Ông thân tôi bị chê là ganh tị khi đồn đải: ‘Ðó! Người ta thả con tép, bắt con

                          tôm, thả con cá rô, cá sặt, bắt cá bông cá lóc. Thí mấy bao gạo mốc, bán lời cả chục bao gạo tốt. Khôn quá là khôn.’
                          Trận chiến vẫn tiếp tục. Cũng năm đó, vào dịp tháng bảy cúng cô hồn, cúng Chùa Ông Bổn, dân bổn phố góp tiền để cúng kiến. Người thủ bổn tới từng nhà để ghi danh sách phần đóng của các

                          tiệm, mỗi phần trả bằng tiền, tùy theo giá sinh hoạt. Tiệm nhỏ đóng một phần, tiệm lớn đóng từ hai đến bốn phần, cũng có tiệm cúng nguyên con heo trắng. Sau khi cúng kiến xong, người đóng sẽ được lảnh số phần mình đóng. Ai đóng nhiều sẽ có tiếng đã đành, lại được ông Bổn phù hộ làm ăn phát tài.

                          Năm đó, ông Thoại Ký đóng năm phần, ông thân tôi nghĩ ra cách chơi gác, đóng mười phần, dặn ông Thủ Bổn giữ kín.
                          Sau khi thí vàng, ban tổ chức chia thịt. Ông Thoại Ký biểu Thục

                          Linh xách hui ná đi lảnh thịt. Bên này, ông thân tôi cũng giao cho tôi đem hai cái hui ná đi lảnh. Tôi nói ‘Một cái đủ rồi.’ Ông thân tôi cười hóm hỉnh: ‘Ừ! Thì xách hai cái, một cái đựng thịt, một cái đựng bánh trái riêng cho khỏi dơ.’
                          Vừa ra khỏi tiệm, tôi

                          gặp Thục Linh hai tay xách hai hui ná có vẻ nặng lắm. Mà nặng thật, nàng phải để xuống từ đầu đưòng để nghỉ. Tôi ái ngại nhìn nàng để hui ná trước cửa, vừa nhăn mặt, tay lau mồ hôi

                          than nặng quá.
                          Ông Thoại Ký la lớn: ‘Chèng ơi! Tội nghiệp ái nữ của tôi xách mõi tay quá, năm phần mà!’Tiếng ông Thoại Ký nghe ngứa tai. Ông thân tôi giục: ‘Mầy đi lảnh mau rồi về.’Lảnh xong, hai hui ná đầy thịt và bánh trái, tôi nghỉ dọc đường hai

                          lần mới về tới nhà, ngạc nhiên thấy ông thân tôi làm mặt giận trách lớn Mầy đi lâu quá vậy?
                          - ‘Nặng thấy mồ tổ.’Tôi hơi quạu trả lời. Ông thân tôi hướng về phía ông Thoại Ký nói lớn:-

                          ‘Nặng quá hả? Có mười phần mà mầy than nặng (Ông nhấn mạnh chữ mười phần). Phải rồi, mầy là học trò, học cao, không quen làm nặng’ (Ông lại kéo dài chữ ‘học cao’).
                          Tôi hơi hiểu ý, hình như Thục Linh cũng đoán ra phần nào, nàng dựa bao gạo,

                          mắt buồn man mác, yên phận không dám trách cha, tự xoa, bóp hai cánh tay. Tôi bực tức đá cái hui ná rồi bỏ vào nhà kho ngả mình trên chồng tôl lạnh.
                          Bà mẫu nhìn hai giỏ thịt, lắc đầu:

                          ‘Ông giỏi hơn thua thì ráng ăn cho hết a!’
                          Bên kia, bà Thoại Ký nói: ‘Ăn không hết mà làm tài khôn.’Ông thân tôi khoái trá đội nón ra tiệm cà phê để kể chuyện. Ông Thoại Ký cũng đội nón hầm hầm ra tiệm cà phê ngược hướng.Tôi nằm lăn lộn, vai ê

                          ẩm, càng bóp càng đau, thấy thương thương Thục Linh. Hai đứa đều là nạn nhân, nàng là thế nữ, tôi là tên quân chạy hiệu của hai ông vua chơi ác.
                          Năm nào cũng có chuyện gây hấn, khi có cơ hội, hoặc bên này hoặc bên kia.Nguyên trước chợ tôi có

                          con kinh cắt ruộng lúa làm hai. Từ bờ kinh bên này sang bên kia phải đi vòng ngỏ chợ, rất mất thì giờ cho dân lam lủ nhọc nhằn, gánh gồng, dù họ chưa than phiền. Những buổi trưa gay

                          gắt nắng, họ múc từng ngụm nước trong lu nước trước nhà tôi để uống, trước nhà tôi có để cái lu nước đải khách qua đường.

                          Ðó là đề tài cho ông Thoại Ký: ‘Uống nước rồi phải mua đồ của chủ lu nước à nghen! Móc con nhái nhắp con cá lóc, lợi hại lắm à!’
                          Trong buổi tiệc cưới dâu con ông chủ tiệm bánh, ông Năm Lụa trong Ban Hội Tề tình cờ được xếp ngồi bên mấy ông chủ

                          có máu mặt. Ông Năm ước mơ bắt cầu ngang kinh cho dân gánh lúa qua, đỡ phải đi vòng qua chợ (trong đó có nhiều bà con ông). Ban Hội Tề không có quyền, công nho thiếu hụt.

                          Rượu ngà ngà ông than thở: ‘Tội nghiệp! Trưa nắng mà họ gánh lúa đi vòng qua chợ, thấy thương hết sức. Trời mưa họ lội bùn lỏm bỏm, đá nhọn đứt chưn, thiệt là khổ à!’
                          May mắn làm sao! Ông chủ trại cưa, đầu lắc lư, quá chén, vỗ bàn:- ‘Cây ván

                          để tui, tui bao. Tui nói một tiếng như đinh đóng cột’ (Ông dư thừa một kho gỗ vụn).
                          Ông chủ nhà máy xay lúa, ngất ngưỡng, đôi mắt lim dim gật gù:- ‘Ờ! Ờ! Ban Hội Tề ... Ờ! Ờ! Làm cái

                          đi. Tiền công thợ tui chịu’ (Ông này đem nhân công nhà máy ra làm cầu).
                          Ông Năm Lụa không bỏ lở cơ hội, đứng dậy vỗ bàn lớn tiếng:- ‘Bà con chú ý! Chú ý! Ông chủ trại cưa hứa cung

                          cấp xây cầu bắc ngang qua kinh. Ông chủ nhà máy xay lúa bao tiền nhân công. Hoan hô hai ông chủ này!’
                          Khách cười vỗ tay ầm ĩ, dù cây cầu đâu có dính dáng gì tới họ.Ông thân tôi cử rượu, không bị ma men hành (đang tím mật bầm gan thấy bàn

                          kế bên, ông Thoại Ký, lắc đầu khiêm nhường, không dấu được sự kiêu hảnh trước lời khen về số gạo ông tiếp tế cho nạn nhân hỏa hoạn). Nghe vậy, nổi hứng, cương bất ngờ:
                          - ‘Còn tui, tui chịu đồ sắt, bù lon, dây chì.’Ông ngồi xuống, nháy mắt nhìn

                          ông Thoại Ký, không để ý tiếng hoan hô, vỗ tay của Ban Hội Tề.
                          Chiều đó, khi nghe người thuật chuyện lại, bà mẫu tôi hỏi,

                          ông thân tôi nhăn nhó:
                          - ‘Làm phước mà! Lỡ hứa gồi á!’Ông bét bét đi ra. Bà mẫu tôi nghe vậy, ngồi xuống ghế ôm bụng nhăn như đau đớn lắm, sau đó mới biết bả cười, bà không nói lý do.

                          ***
                          Dòng đời trôi, tôi vất vả ngược xuôi ở Sài Gòn, lặn ngụp trong ao tù ảo vọng hư danh.Năm đó, tôi nhận được giấy gọi nhập ngũ, tình cờ ghé vào quán ăn trước rạp hát Hảo Huê ăn trưa, chợt có tên bạn quen, cũng gốc trường xưa, dẫn theo

                          một thiếu nữ, sà đến bàn tôi, tay bắt mặt mừng. Lâu ngày gặp bạn cũ, hàn huyên tâm sự - giới thiệu Fiancée tao đây. Ðang nhắc nhở những chiều bỏ học tắm sông, hắn bỗng hơ hãi đi ra, hẹn trở lại vài phút sau. Tôi nghĩ chắc hắn có việc cấp bách,

                          nên vừa ăn vừa có ý nán chờ. Tôi nể tình bạn cũ, ngồi lơ mơ trước mặt cô Fiancée phấn son đầy mặt, hở hang ưỡn ẹo trêu chọc.
                          Tôi ngồi thơ thẩn, nhấp ly cà phê đá, một thiếu nữ thắt bính quen quen đi qua, mím miệng nhìn, tôi sững sờ, Thục Linh

                          tiểu thư. Tôi chết lặng nhìn theo. Cô Fiancée tên bạn vỗ vai tôi sỗ sàng:
                          - ‘Ơ kìa!!! Nhìn người đẹp như thế không sợ người đẹp ngượng sao?’Tôi suýt tát vô mặt cô ta vì câu nói rẻ tiền, nhất là nhìn đôi mi xanh đen như người mất ngủ. (Sau mới biết là bà hai của ông bạn quý, hắn ta tránh mặt người bà con bên

                          vợ).
                          Tôi đứng dậy vội vã ra cửa, nhìn tứ phía mong thấy Thục Linh đến để phân trần.Sau đó tôi nhận được thư đầu tiên, hết sức ngạc nhiên vui sướng như tìm lại được viên ngọc quý đánh mất. Bức thư ngắn ngủi, lời thư nghiêm túc và trang trọng.

                          Thư bắt đầu với từ ngữ xa cách, Lưu nhân huynh nhả giám!.

                          Kể chuyện quê nhà, xưng là tiểu muội. Lưu huynh có nhớ Linh (Linh bộ Ngọc hay bộ Kim? Lưu là cái xẻng đào đất hay Lưu là giết?).
                          Suốt bức thư, Thục Linh dùng lối chiết tự, hai cây đao trong họ Lưu tôi sắc bén cắt nát lòng tôi.Cuối thư Thục Linh

                          chép hai câu thơ của Ðỗ Mục:
                          ‘Thập niên nhất giác Dương Châu Mộng’‘Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh.’(Mười năm tỉnh giấc Dương ChâuNgả nghiêng tai tiếng thanh lâu bạc tình.) Bức thư đầu tiên và cuối cùng, ông bà Thoại Ký đã gã Thục Linh cho

                          con trai một tiệm trà ở tỉnh khác, họ Triệu.
                          Hai hiệu tiệm Phong Hưng-Thoại Ký còn đó nghênh ngang. Chuyện xưa bị lãng quên dần, chỉ có em gái tôi và em gái Thục Linh qua lại, người lớn thờ ơ.Bầm dập cuộc đời nên thấm thía câu vô duyên đối diện

                          bất tương phùng, gặp nhau chỉ trong hoàn cảnh trái ngang, hiểu lầm rồi cay đắng, bận tâm làm gì Thái tiểu thư, tiểu huynh đâu phải tên bạc hảnh.


                          ***
                          Tôi chen lấn ra khỏi khu đất tiếp tân Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung sau khi suốt buổi

                          sáng tìm thằng em họ bị động viên để đưa tiền cho nó xài. Con đường nhựa bị chảy dưới cơn nắng thiêu đốt cộng với hơi người nồng nực của đám đông đi thăm thân nhân. Tôi đi uể oải trong đám người, chợt chú ý đến một thiếu phụ đội nón vải lụp xụp,

                          hai tay bồng hai đứa bé, xách thêm một cái giỏ, thằng bé thứ ba đeo cánh tay của mẹ nó. Bị lôi lếch thếch, đứa bé nắm tay mẹ nó như đu rễ cây đa.
                          Tôi phản ứng tự nhiên, tiện tay bồng đứa bé và nói:- ‘Chị để tôi bồng một đứa cho!’Thiếu phụ cúi

                          đầu, thụ động mệt mỏi đến độ không buồn trả lời đồng ý hay phản đối. Tôi cõng đứa bé đi trước đến bến xe Lam, đặt đứa nhỏ trên xe, xách cái giỏ để lên giùm thiếu phụ rồi quay đi về phía quán giải khát.
                          Thiếu phụ ấp úng:- ‘Cám ơn Trung Úy.’

                          Chợt há hốc:
                          - ‘A! Nghĩ hia.’Tôi ngạc nhiên không kém:


                          - ‘Xái xiểu chể (Thái tiểu thư ), a, a, Chạo xải (Triệu thái).’Câu chuyện ngắn ngủi trao đổi, tôi biết Thục Linh thăm chồng bị bắt quân dịch. Gương mặt Thục Linh héo hắt xác xơ. Khách bộ hành chen lấn xô đẩy ba mẹ con Thục Linh vào trong xe nổ

                          máy ầm ầm chạy khỏi bến. Thục Linh ôm ba con cúi đầu chào, tôi bất giác cúi chào lại, cả hai cúi chào duyên số hẩm hiu. Bấy giờ thấy nhẹ hẳn người đi, tôi đã chứng minh tôi vô tội, tiểu huynh không phải bạc hãnh danh nghe Thục Linh hiền muội.


                          ***
                          Người chồng Thục Linh đổi ra Trung, ông Thoại Ký vận động kéo anh ta về xứ làm lính kiểng, giúp việc buôn bán, ông tốn kém cũng bộn. Trên đe, dưới búa, anh Triệu phải trốn tránh trong nhà, gặp Quân Cảnh, An Ninh hay Cảnh Sát là như gà thấy cáo. Ông Thoại Ký phải bao che, đãi đằng, biếu xén

                          hậu hỉ. Ông mang cả một gánh nặng lâu dài, năm này sang năm khác.
                          Ông thân tôi bắt đầu thương ông Thoại Ký hơn, sau khi cả mấy tháng mất ăn mất ngủ, bẽ bàng vì tôi từ chối theo ông ra tỉnh coi mắt con ông chủ tiệm vải. Hoàn cảnh không còn

                          cho phép hai ông chủ quan như trước, nên phải xích lại gần nhau hơn, cùng chia xẻ gánh nặng tinh thần, than thở cho sự bất lực đối với con cái thời nay. Có lần, ông bắt gặp trong ví

                          tiền của tôi, tấm ảnh cô thợ may tóc dài tặng. Ông tức lồng lộng, vấp ngạch cửa chúi nhủi đưa cho bà mẫu tôi xem. Bà mẫu tôi chưa kịp phản ứng, mãi tò mò ngắm nghía bức ảnh, bị ông nạt:
                          - ‘Bà muốn nó dẫn đồ chằn rây về làm tán gia bại sản

                          hả? Mình nhà buôn bán không chứa thứ vẽ lông mày như hát bội.’


                          ***
                          Ngoài tiệm cà phê, hai ông cúi đầu nhịn nhục, hết mỉa mai nhau, vì cả hai đồng hội đồng thuyền, nỗi lòng biết tỏ cùng ai, mà có ai liên can gì để cảm thông? Ông Thoại Ký giọng buồn buồn, nói đủ cho ông thân tôi nghe:- ‘Hia coi đó, mỗi lần ông

                          Trưởng Chi Cảnh Sát mới đổi lại, mình phải tốn một mớ, rồi ông Thiếu Úy Quân Cảnh, Trưởng Ban Nhân Dân Tự Vệ, ... đủ thứ. Khi đãi người này, phải mời người khác, ăn ngập mặt mà cứ dọa đòi thêm. Nuôi thằng rể này có ngày tỏ tịa! Ðóng hụi

                          chết, không biết chừng nào hết.’
                          Ông lắc đầu, uống ngụm cà phê đen, nhìn ông thân tôi, nuốt cà phê như nuốt hận vào lòng:-‘ Phải mình là xin kê, tôi đâu có lo lính tráng cho thằng Dìn Nghĩ? ’Nếu nghe câu này trước đó một năm, chắc ông thân

                          tôi vồ lấy cơ hội tốt, hạ ông Thoại Ký cho sướng miệng. Nghĩ tới tôi, ông hầm hầm như sắp gây gỗ:
                          - ‘Tui đâu có hơn gì hia? Hồi đó tại hia nổi chứng. Con Sóc Lếnh làm dâu tôi phải rồi.’Ông hớp cà phê, nuốt không trôi thở hổn hển:- ‘San dịch

                          thằng con tôi, lâu lâu nó về rút tiền đem nuôi con thợ may chằn rây. Tui chửi gì thì chửi, vợ tui, nó cũng đưa tiền.’



                          ***
                          Ngày được biệt phái về nhiệm sở cũ, tôi đi một mạch về quê, thấy nhớ quê quá, nhớ tiệm Phong Hưng hay tiệm Thoại

                          Ký? Suốt ngày nhảy nhún trên xe đò, mệt lả, lại say xe, tôi vội vã vào kho hàng cởi vội bộ đồ nhà binh đẫm mồ hôi và đôi vớ hôi hám ném một góc, ngã lưng trên khoanh dây chì mát

                          lạnh.
                          Trong giấc ngủ trưa mê mệt, nghe thoang thoảng trong không gian trong vắt tiếng ru con thanh thanh bên nhà hàng xóm vang qua.Cô họ tôi, đúng là cô ba bà sáu, nghe tôi mới về, ghé thăm, lay tôi thức dậy:- ‘Thức dậy đi, thức dậy nghe

                          người ta chửi kìa.’
                          Bên kia lầu, Thục Linh ru con, lời ru Việt Nam, tiếng ầu ơ vời vợi, hòa với tiếng kẽo kẹt theo võng đong đưa, an phận mà còn hờn trách vu vơ:‘À ơi! mãn coi hạc tắm

                          suối vàng
                          Cây cao vội ngả lấp đàng ngỡi nhơnNgỡi nhơn sao mỏng vánh như cánh chuồn chuồnKhi vui nó đậu, khi buồn nó bay.’



                          CHÚ THÍCH:
                          (1) Sinh lợi: Việc buôn bán.

                          (2) Ðầu con cọp cưỡi: Mặt người sừng sộ sắp sửa gây sự như cọp nhe răng.

                          (3) Xa hia xí tỉ: Anh ba em tư, tam huynh tứ đệ. Ý nói bạn bè ăn chơi như bạn thịt chó (cẩu nhục bằng hữu).

                          (4) Consigne: Bị phạt cấm túc sáng chủ nhật.

                          (5) Lão thức: Biết điều.

                          (6)
                          Résultat: Kết quả.

                          (7) Deuxième session: Kỳ thi thứ hai.

                          (8)
                          Ðầu chó nấu không chín: Ðầu chó nấu mãi cũng hả miệng nhe răng giống như mặt người nhe răng cười hoài.

                          (9) Xa câu lặt má: Cô ba bà sáu, tam cô lục bà. Chỉ mấy người nhiều chuyện hoặc bà làm mai.

                          (10) Có đầu không có cuối: Hữu thủy vô chung.

                          (11) Lứ: nhữ, ngôi thứ hai.

                          (12) Quá: ngã, tôi.

                          (13) Tiền rửa đít: Tiền trả cho mẹ cô dâu, phải đúng số từ 444 đồng, tiền vô định miễn là số 4.

                          (14) Lưu bộ đao: vừa là họ, vừa nghĩa là giết, vừa nghĩa là cây xẻng.

                          (15) Linh bộ Ngọc: tên loài ngọc.

                          (16) Linh bộ Kim: Tiếng leng keng.

                          (17) Tiếng Hẹ: Thổ ngữ Hoa Nam, giống như thổ ngữ Triều Châu/Phúc Kiến.

                          (18) Sinh giờ thứ 11: Tục truyền dân Tiều chính cống sinh lúc 12 giờ. Ai sinh lúc 11 giò không phài chính tông, xử sự khác.

                          (19)
                          Tiểu thư: Cô, danh xưng người thiếu nữ.

                          (20) Thái thái: Bà, danh xưng người đã có chồng.

                          (21) Chơi lật hình: Quyển sách tập đọc, có trang có hình người, nhiều người hoặc ít người. Ðứa nào lật trang có hình nhiều người nhất sẽ thắng.

                          (22) Chảo bể: Chảo bị bể không dùng nấu nướng được, người ta mua về vá các bộ phận cày bừa.

                          (23) Cours cò, cours quan một: Nếu có Trung học có thể được đi huấn luyện thành quan một (thiếu úy), hoặc cò (cảnh sát trưởng).

                          (24) Nhảy bao: Ðứng trong bao bố nhảy, ai đến mức trước sẽ thắng.

                          (25)
                          Cạp chảo: Ðồng tiền xu, cắc, gắn vào đít chảo, người thi cạp tiền bị lọ nghẹ dính miệng, không đưọc dùng tay.

                          (26) Ðập nồi: Cái nồi đựng nước, treo giữa hai cây cột. Người thì bị bịt mắt quay mấy vòng, cầm cây nhắm hướng tìm nồi, đập bể nồi sẽ được thưởng.

                          * Ðại để đây là những trò chơi trong ngày lễ Quốc Khánh Pháp (14-7).

                          (27) Nước trên mái nhà chảy xuống: Ý nói cha mẹ thương con và lo cho con chứ con đâu thương và lo ngược lại cho cha mẹ: Nước đâu có chảy ngược lên.

                          (28) Công nho: Tiền quỹ của làng xã.

                          (29)
                          Hui ná: Cái giỏ hoa tròn.

                          (30) Tỏ tịa: Phá sản.

                          (31) Xin kê: Thông gia.

                          Pforzheim, West Germany 8 - 1988



                          Lưu Nhơn Nghĩa
                          thatsonchaudoc
                          sigpic

                          Comment


                          • #14
                            Như Cánh Chuồn Chuồn

                            Cây Nam Vồ
                            _______________________________________________



                            Mau lên, mau lên! Tiếng súng nổ chát chúa dọa nạt thúc giục dân rời Sóc Ô Thôm.

                            Mấy tên du kích mặt rực hung ác hiểm độc đứng rải rác cầm súng la hét, chạy tới lui như lũ chó sủa người lạ, vừa dè dặt giữ khoảng cách xa đám dân này.

                            Chúng gờm biết những cây dao dâu bén ngót dùng để xắt chuối nuôi heo kia có uy mãnh vớt đầu chúng dễ dàng hơn mã tấu.

                            Cây dao dâu giống đám dân mặt hiền như đất bị dồn ép căm hận haimươi năm nay có thể bùng lên thành sấm sét lở núi năm xưa.


                            Vài tên du kích có kinh nghiệm lúc trước, khi xuống núi lén lút vào tuyên truyền thu thuế Sóc này. Một đêm hắn đang đứng trên bờ đá ven Sóc chợt nghe tiếng ‘cáp’ hãi hùng từ Sóc vang ra, âm thanh ‘cáp’ vang đến đâu, cây rừng im lặng, muôn thú trốn vào hang.

                            Những tên du kích tuyên truyền thu thuế đêm đó bặt tăm tích.
                            Sóc im lìm sống lây lất, dân Sóc nghèo xơ xác, vui buồn bên nồi khoai núi buổi trưa, thau cơm đỏ với mắm mặn rau dưa buổi chiều.

                            Đố mấy tên du kích dám léo hánh đến Sóc này.
                            ‘Cho tụi bây ngu dốt luôn, cách mạng muốn giáo dục bây no cơm ấm áo, lấy của nhà giầu chia cho lũ nghèo bây xài, bây chê, để rồi coi nghe!’.

                            Dân Sóc quá dốt nát không cách gì hiểu nổi lời hứa hẹn đe dọa sát nhân này. Họ sống lây lất an phận từ năm này sang năm khác, ‘không tham của ai’, Lục Cụ thường khuyên. Những nong tầm nhả tơ đều đặn, dệt xà rông áo cánh đủ đẹp rồi.

                            Con bò, miếng ruộng cho cơm đỏ no đủ, luống bắp xanh ve vẩy lá, ca hát mừng thanh bình. Mặt nước trong ô cá đớp móng cho đầy hũ mắm, mưa cho nước, nắng cho khô lúa.

                            Dừa, thốt nốt mọc vô số cho nước ngọt rượu nồng, rặng tre um tùm cho măng, cây cho trái. Hạnh phúc là những đám He Ca thưng, Đuông tà đua bò, hát Dù Kê, múa Lâm Thol.

                            Nhà sàn cao, tre cho cột, dừa cho lá lợp, chủ ngủ trên, gia súc phần dưới, tất cả ấm cúng dù mưa gió bão bùng.

                            Những đêm trăng sáng, phụ nữ chuyện trò bên cối giã gạo, cốm dẹp và nhiều lắm.
                            Sóc Ô Thôm có từ lâu lắm rồi. Nghe ông bà kể lại cho con cháu nghe.

                            Kìa vũng ‘Ô’ rộng, nước trong xanh, voi hay tụ tập vào đây tắm buổi trưa, voi hút nước tưới xanh đám cỏ quanh ô. Cứ nhìn hàng thốt nốt cao chống trời thì biết cả trăm năm rồi.

                            Sóc Ô Thôm làm chứng nhân thời gian nhưng chính đời sống dân Sóc vẫn tiếp tục trôi êm lành hiền hòa như lòng người chất phác.

                            Con đường đất mấy đời, mòn vết chân những thế hệ đi qua, ngoằn ngoèo dẫn vào núi Cô Tô. Sáng sớm gà rừng gọi gà nhà gáy đánh thức người ra ruộng, lên rẫy bẫy thú, đào khoai, nhổ củ.

                            Mặt trời khuất núi giục người về nghỉ ngơi quanh ngọn đèn mờ tỏ và tiếng cười khóc trẻ con ấm cúng.
                            Thời Việt Minh nổi dậy, lảng vảng qua Sóc, kế tiếp đám Commando Marốc rầm rập đi qua, súng nổ đì đùng phá tan cái yên lặng thanh thản một thời. Năm nào đám cán bộ lạ đến bày vẽ xây Ấp Chiến Lược.

                            Những cọc tre nhọn, những ụ đất cao làm mất cả mấy tháng công ăn việc làm. Ruộng rẫy nhà cửa ở đây, làm sao rời vào ấp cách mười cây số.

                            Tất cả rồi cũng đi qua cùng với người già.
                            Gần mười năm nay, thường nghe tiếng pháo kích trên núi, tiếng súng nổ ngoài lộ xa. Người ta lo lắng lùa trẻ vào nhà.

                            Những xe nhà binh từ chợ xa đổ lính xuống lục soát, du kích thường đi qua, ‘làm gì thì làm, vô phá Sóc ta, ta ‘cáp’ à!’.
                            Ẩn trong rừng dừa, tre, trên khu đất cao ráo giữa Sóc, mái chùa Prey Veng mái ngói đỏ linh thiêng nhìn từ trên núi, như đóa sen hồng mới nở giữa miếng vườn xanh mướt. Sân chùa rải rác những ngọn tháp tròn như búp sen.

                            Bàu sen bên hông chùa nở rực suốt mùa nắng.
                            Sóc Ô Thôm có chưa tới hai trăm căn nhà sàn rải rác quanh chùa Prey Veng. Phong cảnh âm thanh nơi này lúc nào cũng dễ thương.

                            Mặt trời vừa lên, lá tre còn đọng sương sớm, đường đất mòn ẩm, màu xanh cỏ cây mơn mởn như ngọc bích. Tiếng Col Sóc kêu ‘Lốt chanh bai’ (Sư độ cơm), những sư sãi đi len lỏi qua xóm nhỏ, từng nhà.

                            Bức tranh xóm nhỏ xanh mướt điểm màu áo vàng Sư Sãi, ‘Sóc ta êm tịnh thanh bình vậy đó, ta không động đến ai, đứa nào vô thu thuế, tuyên truyền ta ‘cáp’ a!

                            ***


                            Nước mắt Pù Ưng khô mấy ngày rồi. Căn nhà sàn mấy đời để lại phải kéo sập, chồng chất đồ đạc lên xe bò được món nào hay món đó.

                            Những cây cột tre mỡ già bám víu lấy nền đất khó kéo lên, vật vô tri còn luyến tiếc chưa nỡ rứt đi.

                            Chõng tre mấy đời láng mướt, chiếc nóp, cà ròn khoai núi, om đường thốt nốt, nồi đất đồ dùng hàng ngày ngổn ngang trên nền đất vỡ tung.

                            Sau mấy ngày làm việc, Pù Ưng đanh mặt cầm dao dâu chặt loạn đả những khúc cột cồng kềnh không mang theo được, lầm thầm một mình, ‘chặt cho tiêu hết, để lại bây lấy xài uổng’.

                            Vợ con Pù Ưng vất vả khuân đồ đạc lên xe bò, đứa nhỏ đào vội luống khoai củ chưa đủ lớn, xắn mấy mục măng mới nhú còn sót lại trong đám tre.

                            Con chó vện buồn bã nằm im thin thít dưới lườn xe bò, nó cảm thấy điều gì trọng đại lành ít dữ nhiều sắp xảy ra. Tiếng kêu gào thấu từng trời Đế Thích của những người bỏ Sóc ra đi, luống cuống không biết phải mang theo cái gì, còn lại cái gì, còn gì để mang theo?

                            Ruộng rẫy, nhà sàn, chùa Prey Veng, cái hạnh phúc đơn sơ tích lũy cả trăm năm Sóc nhỏ này làm sao mang theo được, nó đè nặng chĩu lòng người. Pù Ưng vừa kêu la, ‘Tụi ăn cướp!’.

                            Tên du kích hống hách xấc xược, xách súng chờn vờn nạt nộ một bà già lẩm cẩm. Một thanh niên Sóc cầm dao dâu xăm xăm đi đến, tên du kích lùi dần gờm cò súng, hắn biết, chỉ cần một giọt máu người dân Sóc là chúng lãnh đủ những nhát dao dâu cong cong kia.

                            Hắn hoa mắt thấy con dao dâu rùng mình chuyển động suýt vuột khỏi tay người bay tới. Hắn lấm lét nhìn, mắt ngơ ngáo.

                            Tiếng gào thét than vãn, kêu khóc inh ỏi lẫn lộn thành tiếng địa ngục đến đổi người ta nghe thấy như im lặng.

                            Họ kêu van ông cha, hồn thiêng những thế hệ đã qua về nhập vào âm thanh của người dân sắp rời Sóc, một điều lạ lùng quá sức tưởng tượng của mọi người, ‘tội tình gì bỏ Sóc ra đi, mà đi đâu?’
                            ‘Âu me ơi!’ (Ba Má ơi) ‘Con bò nó khóc!’.

                            Vợ Pù Ưng xối gáo nước lạnh lau mặt cho bò. Bà la hét the thé như mụ phù thủy ‘Con bò nó khóc’ phải rồi hồi đó ông Sãi nói, có lúc bò khóc, chó thôi sủa. Bà vặn mình khóc thét, quằn quại trên mặt đất.

                            Pù Ưng khập khễnh đến đỡ vợ, chùi mắt bò, ‘Âu me ơi! Con bò nó khóc!’. Mọi người đổ xô đén quanh bò, hỗn loạn.
                            ‘ Mau lên, mau lên!’, tiếng tên du kích hò hét hình như nó chỉ biết nói vậy thôi, ngoài cây súng, nó chỉ là những tên bù nhìn bện rơm mặc áo đủ khả năng xua đuổi đàn quạ ngoài đồng.

                            Xế chiều đám dân bị lùa chuyển băng qua cánh đồng khô, họ bị cấm đi gần lộ cái. Các Sư Sãi đi lẫn lộn trong đoàn người, lâm râm cầu nguyện. Họ đi từng nhóm quanh xe bò, trên xe nặng chĩu của cải góp nhặt mấy đời.

                            Tại sao họ phải đi? Âu me ơi! Đi đâu đây? Tới sẩm tối, họ đạp bóng đi, thành những hồn ma lếch thếch dò dẫm.

                            Tiếng khóc chín từng trời còn nghe tiếng chân đạp trên rơm rạ, tiếng xe lăn kẽo kẹt ngửa nghiêng địa ngục còn kinh sợ. Những bóng ma đói cầm súng lờn vờn quanh đám dân tù đầy. Bà Mây chết mấy tháng trước, hồn hiện lên ngọn tre vật vờ vẫy tay gọi ‘Xấp xanh’ (khoan đã) nghe rởn óc.

                            Trăng lưỡi liềm vội vã chồm lên ngọn núi Tô đưa tiễn, nhợt nhạt hữu ý chiếu xuống chùa Prey Veng. Nóc chùa rực thành đóa sen hồng mở tiếng kinh từ mấy trăm năm vang rền như nhạc ngũ âm, khi nhẹ như tiếng tiêu từ bi an ủi.

                            Hào quang từ đóa sen tỏa hồng đám mây che chở người chân chất. Linh hồn tổ tiên họ quay về góp tiếng kinh, muông thú cũng lắng nghe kinh, chỉ có những tên du kích chạy lăng xăng la hét như chó sủa trăng.

                            Chiếc xe bò lăn lộc cộc lẫn trong đám người. Pù Ưng đi bên hông bò cầm roi xua đuổi ruồi muỗi không nỡ nặng tay lớn tiếng với bò lúc nầy. Bò đi thật chậm, tiếng lục lạc leng keng lưu luyến, tuyệt vọng.

                            Bò nhớ chuồng ấm cúng, nhớ mùi rơm ruộng cao, cỏ thơm chân núi, nhớ cuộc đua bò tết Đuông Tà. Mãy con chó vện lẽo đẽo theo.

                            Trong giờ phút cấp bách nầy, người và thú vật càng gần gũi nhau hơn, cùng chia xẻ vui buồn Sóc nhỏ, cùng bảo vệ nhau lúc nguy hiểm cấp cần. Chó sủa bọn du kích lén lút vô Sóc gây rối, chó biết ai thù ai bạn, ai thương ai ghét...

                            Chó nhe răng gờm du kích, tình nghĩa hơn lũ vô nhân.
                            Bọn du kích thúc dục, đoàn người lầm lũi xô đẩy theo đường vạch sẵn.

                            Bò kéo xe chất đầy gia tài vật chất cộng thêm tâm hồn nặng chĩu đau đớn lìa bỏ Sóc xưa.

                            Pù Ưng đi khập khễnh như say rượu, chốc chốc quay mặt về phía chùa Prey Veng. Lòng Pù Ưng bỗng lịm tê tái, dù xác thân đưa đẩy lê lết trong đoàn di chuyển như máy.

                            Từ nhỏ Col Sóc Ưng sống trọn vẹn quanh quẩn ngôi chùa Prey Veng, quen thuộc tới độ đêm tối có thể chạy khắp khu chùa mà không sợ đụng chạm gì, hoặc rơi xuống giếng nước.

                            Sáng theo chân Sư Sãi khất thực xóm nhỏ, Col Sóc Ưng biết tên từng người, bà nào nấu thức ăn ngon, bà nào nấu hơi mặn.

                            Ngôi chùa cất từng phần, sửa sang dần theo tuổi Col Sóc Ưng.

                            Ưng rảnh rỗi hay ngồi nghịch đất, xem ông ngoại và Ta Kul, Ta Phên trộn hồ làm gạch cất chùa, xây tháp, các học tăng ở trần trùng trục cũng nhọc mệt không kém, khuân những tảng đá vuông vắn đắp nền bên những người thợ chăm chú tạc tượng.

                            Phật tại tâm, Phật tính thấm nhuần cây cỏ gỗ đá. Tâm hồn người thơ thới ấy được lau chùi nhiều đời có khả năng nhìn xuyên qua gỗ đá.

                            Họ không đẽo mài gỗ đá, chỉ dụng tâm điều khiển hai bàn tay thô kệch đen đúa khéo léo đục gỡ bỏ chất vô minh bám trên tượng để Phật hiện ra.

                            Ông ngoại Pù Ưng ngồi cả đời giữa đống đá ngổn ngang cặm cụi làm việc, tiếng búa chan chát phá vô minh, tiếng mài gọt những vết bám cuối cùng trên mặt tượng, tâm kiên nhẫn sáng rực lên với miệng mỉm cười trầm tư của tượng Phật, không một vết búa lệch lạc dư thừa nào làm sứt mẻ gương mặt hiền từ, u mặc.

                            Tiếp theo là tượng thần tứ diện, trên những đỉnh tháp giữ gìn tro cốt, những tượng thiên nữ uyển chuyển đứng bốn góc mái chùa, những tượng thần hầu linh hoạt dang tay đỡ kèo cột, tượng rắn thần Naga nằm trên nóc chở che.

                            Cây Nam Vồ bên chùa lá rậm rạp, rễ dài, chim chóc, cò, diệc làm ổ che mát giếng nước trong. Bầy voi thong thả ve vẩy tai phành phạch, giủ bó mía ngon nhai rào rạo, chờ phiên đi kéo gổ, tưởng không bao giờ hết việc.

                            Người, vật, cây cỏ, gỗ đá đều đóng góp, ngôi chùa Prey Veng dựng lên giữa Sóc thanh bình.
                            Những buổi trưa hanh nắng, Sóc Ưng và đồng bọn rủ nhau lội xuống bàu sen hớt cá xiêm, lặn ngụp chán lại rủ nhau lên nằm dọc theo hành lang chùa, nhìn xuống bàu sen xanh mát điểm những đóa sen hồng, trông cho sen tàn, bẻ gương sen lấy hột ăn.

                            Sân chùa vắng, cây Nam Vồ giương lá che rậm rạp một vùng.

                            Có lúc Sóc Ưng ngắm say sưa mấy ngọn tháp rải rác sau chùa, lẫn trong đám tre già. Đỉnh tháp có bốn mặt huyền bí, man mác nhìn bốn phía.

                            Đôi mắt thần có khả năng soi tận đáy lòng và ý nghĩ thầm kín Col Sóc Ưng. Lúc Ưng buồn bực, mặt thần bị bóng tre che hiền hòa dẫn dắt Ưng về thế giới xa xăm yên ổn.

                            Thần nghiêm nghị, khoan dung nhìn Ưng đang lén lút nhai nhấm nháp trái mãng cầu trộm trong vườn ông Cả.

                            Thần thay đổi thần sắc theo mùa mưa nắng, sớm trưa. Col Sóc Ưng xem thần như người cha nhân hậu, cảm thấy gần gũi thần nhất là lúc nét trầm tư vời vợi chợt mĩm cười với Ưng khi Ưng tinh nghịch trốn trong khóm lá nô đùa, trốn nơi nào cũng bị thần bắt gặp.


                            Kỷ niệm hình ảnh xa xăm xuất hiện đứt đoạn trong đầu, Pù Ưng không nghe thấy quanh mình âm thanh hỗn độn, tiếng kêu cứu chiếc xe bò sụp xuống rãnh, heo gà inh ỏi, trẻ con khóc báo điềm dữ.

                            Đi đã hơn hai ngày, quay nhìn lại, núi Cô Tô xanh mờ sừng sững xây bức thành trải dài, im lặng nhớ thương như mẹ đứng nhìn đàn con bỏ nhà ra đi.

                            Ngày đi đêm nghỉ, sự mệt nhọc ngột ngạt bao trùm, bớt dần than khóc, họ giở cơm mắm ngồi xổm ăn ngồm ngoàm trên bờ đê, áo quần ẩm mồ hôi, hơi đất phèn bốc lên mùi khó thở, mắt ngơ ngác hướng về núi Cô Tô, Sóc biến mất ở chân trời rồi, hết trông ngày trở lại.

                            Pù Ưng lơ đãng, mắt khờ khạo mất hồn, tháo càng xe cho bò nghỉ ngơi, rồi nằm lăn quay trên bờ cỏ thở dốc. Pù nhìn lên trời, khoảng trời xanh, thèm ngủ nhưng không chợp mắt được.

                            Vài Sư Sãi ngồi ‘xếp mon’ chắp tay cầu nguyện.

                            Tiếng kinh cầu an chúc phúc kéo Pù Ưng về chùa Prey Veng.

                            Tượng Phật uy nghi trên chánh điện, Col Sóc Ưng ra vẻ hiền lành tụng kinh, lắm lúc tinh quái nắm giựt đuôi tóc vắt bên tai của Col Sóc ngồi trước. Pù Ưng nhắm mắt, chập chờn thấy cha

                            mẹ hiện về chỉ tay về hướng chùa Prey Veng. Hai con mãng xà vương uốn lượn trên nóc chùa, dưới mái ngói tượng các thần hầu đỡ mái chùa vững chãi, thỉnh thoảng ham chơi lén kéo

                            xuống nhảy múa với Col Sóc Ưng. Tiếng Ngài Sãi Cả trầm trầm còn văng vẳng bên tai Pù Ưng, ngài khuyên tu hành, đời sau này lửa từ trời giáng xuống, ma qủy hiện hình làm người gây

                            tang thương chết chóc, người có căn tu còn sống ngồi không giáp cây ‘Nam Vồ’. Lời nói như sấm truyền thành tia sáng lóe trong lòng Pù Ưng. Thời niên thiếu Pù Ưng ham vui, bỏ Sóc lên

                            Nam Vang tìm sự nghiệp, bỏ quên cô thôn nữ dệt xà rông mộc mạc, Pù Ưng không thắc mắc, đến đâu thì đến, Cao Miên thanh bình hơn Việt Nam, những thiếu nữ áo cánh, xà rông tân thời

                            hấp dẫn hơn. Mãi đến trận mưa bom giáng xuống làng quê, lửa cháy khét mùi thịt người, đâu đâu bom đạn cũng tới nổ tung đất ruộng xanh thành hồ ao. Lửa trên trời giáng xuống, Pù Ưng thấy Sư Sãi đoán có vẻ đúng đây. Những con qủy vương,

                            chằng tinh hiện thành những tên Khmer đỏ làm biển hồ tanh mùi máu. Pù Ưng mang gia đình về Sóc xưa, ngang qua làng mạc vắng nguời. Xác chết sao nhiều quá, xác của ai nằm bơ vơ

                            giữa cánh đồng, xác ai bầm dập nằm vắt ngang bờ ruộng lẫn lộn mầu đất nâu, xác ai cháy một nửa đen như than trên những nền nhà còn ngút khói? Những sọ người nhăn nhở ngạo

                            nghễ cười chế nhạo; những đốt xương tay chân trắng hếu nắm chân những người đi qua đường mòn, Pù Ưng lạnh chân loạng choạng chân đá chân xiêu.
                            Theo sóng người vượt biên giới về

                            Sóc xưa, tưởng đã yên thân được mấy tháng. Những biến cố xảy ra ở Nam Vang Sài Gòn quan trọng đến đâu cũng không xuyên qua lũy tre Sóc. Mãi đến ngày nào đó, bọn du kích trên

                            núi dám xuống chạy như người điên la hét hoan hô đả đảo, ‘cách mạng thành công’, ‘tự do độc lập’. Dân Sóc đơn giản không theo kịp sự thay đổi bất chợt của thời cuộc, ngơ ngác lo

                            âu. Công ăn việc làm vẫn tiếp diễn như thường lệ. Đàn ông lui cui ngoài đồng, đàn bà xắt chuối nuôi heo, trẻ con rong chơi sân chùa. Toán du kích kéo vào Sóc tập họp dân ra chợ quận

                            biểu tình đả đảo chủ ruộng, chủ nhà máy, chủ tiệm cầm đồ giầu có bóc lột hút máu dân nghèo, phải đem ra tòa án nhân dân xử trị. Dân Sóc ngơ ngác tự hỏi, ‘Mấy người này mình chưa

                            gặp lần nào, chưa biết mặt, làm sao bóc lột hút máu dân mình kìa? Ai la sao mình la theo cho yên chuyện, để chiều về kịp cho heo ăn, kịp ‘dọt cối gạo’.
                            ‘Sao họ đuổi nhà mình đi vậy?’.

                            Câu hỏi của vợ làm Pù Ưng thảng thốt, ừ, chính Pù Ưng cũng định hỏi cho ra, nghe cán bộ nhắc đến chuyện Ba Chúc bị bọn Pol Pot pháo kích, chính phủ cách mạng muốn bảo vệ tính

                            mạng tài sản đồng bào ở Sóc Ô Thôm nên đüa dân về vùng kinh tế mới, trù phú, ấm no, hạnh phúc, độc lập, hòa bình. Bọn cán bộ ‘nói nhiều quá’, ‘khó nghe quá’. Ô Thôm cách Ba Chúc

                            khá xa, Khmer đỏ làm sao pháo tới? Bọn cán bộ nạt ‘mấy người phản động hả?’, ‘mấy người muốn theo Pol Pot nổi loạn hả?’. Phản động là cái gì? Nổi loạn là cái gì? Gương mặt thần

                            trên đỉnh tháp nghe cũng mỉm cười khó hiểu. Pù Ưng lắc đầu trước câu hỏi của vợ.
                            Đám người di tản bắt đầu lục tục kéo đi theo lịnh của vài tiếng súng thúc dục. Xa xa trên đường lộ cái,

                            đoàn xe chở những tên áo vàng nón cối chạy ầm ầm, ‘từ nào tới giờ mới thấy lính mặc áo vàng đội nón cối, ở đâu tới vậy kìa?’ Họ cứ hỏi nhau, hỏi cho có hỏi, ‘ai biết mà trả lời’. Ruộng

                            khô rồi ruộng ướt, hết ngày tới đêm. Cuối cùng tên du kích la ‘Tới rồi!’.
                            Cánh đồng hoang loang loáng nước dưới chân cỏ ống.

                            Pù Ưng đánh bạo hỏi:‘Ở đây kêu bằng gì?’ Tên cán bộ trả lời cộc lốc ‘Vùng kinh tế mới!’. Pù Ưng lẩm bẩm, ‘tên nghe lạ quá, thuở giờ có nghe tên vùng kinh tế mới đâu?’ Tại sao đặt tên

                            ‘Vùng Kinh Tế mới?’ Đâu có mấu chốt địa lý liên hệ cho cái tên lạ lùng này. Tuy vậy, Pù Ưng cũng gật đầu ra chiều hiểu biết, rồi ngồi xuống khoác một ngụm nước ruộng đưa lên miệng

                            uống, nước phèn chua lét. Nhìn quanh mặt nước mênh mông, phèn dầy đặc đóng vàng chân cỏ ống. Xa xa vài cây trâm bầu, cây điên điển bông vàng đứng bơ vơ im lìm, thờ ơ không ra vẻ

                            gì tiếp đón người bị đi tìm đất định cư. Dân lấm lét lo âu, trẻ con bắt đầu khóc rên rỉ. Mấy bà mẹ than van ‘Âu me ơi! Đất phèn cỏ ống làm sao trồng lúa, lấy gì nuôi con đây? Âu me ơi

                            no ấm chỗ nào? Âu me ơi!’.
                            Tiếng than van nhỏ dần theo hơi thở dài thành tiếng thì thầm, bực tức sau gần nửa tháng đi đường. Cán bộ ra lịnh cho mọi người chia đất cất nhà, ‘đất đâu

                            mà cất?’ Vùng gò đất cao thì lồi lõm, họ ngao ngán lắc đầu, tháo gỡ đồ đạc trên xe bò ném ngổn ngang trên gò cao.
                            Mọi người trải ‘nóp’ ra, gia đình con cái khép nép bên nhau, mắt

                            ngơ ngáo căng thẳng. Trời trong chưa phải mùa mưa. Đêm đầu tiên chui vào nóp ngủ mê mệt với cơn ác mộng đầu tiên trong đời, quên muỗi mòng kêu như sáo thổi.
                            Ngày qua ngày, gạo

                            mắm thiếu hụt trầm trọng. Vùng kinh tế mới này chỉ còn rau dưa bông súng ăn được. Bọn cán bộ đã dựng xong cổng, tấm bảng vắt ngang, ‘Làng Kinh Tế Mới Phú Cường’. Sau cổng chính

                            rải rác những căn nhà chòi tạm bợ, cái gì cũng sơ sài vá víu, có ai nghĩ là sống vĩnh viễn nơi này đâu.
                            Một buổi chiều bà Ngul lãng trí chợt thét lên rồi nhảy múa loạn đả, quơ quào, ‘Me Âu

                            ơi! Mấy gốc thốt nốt dì tôi chết để lại bây giờ ai giữ, nước phèn ngứa chân quá, cho tao về, cho tao về!’ Giọng bà the thé như ma nhập. Tên an ninh lăm lăm súng hăm he, ‘Bà phản động

                            hả?’ Bà Ngul vẫn tiếp tục quay cuồng, bà thấy hồn ma những ông cha về phù trì không biết sợ hãi. Bọn an ninh lùi dần, trơ mắt nhìn dáo dác, dân chúng đứng chung quanh thụ động tán

                            đồng. Tượng thần Hầu leo xuống nhảy nhót với bà. Pù Ưng nắm chặt búa, đứng theo dõi, tưởng mình là Thạch Sanh sắp sửa vung búa chém chằn tinh, xách đầu chằn về dâng vua làm

                            phò mã. Những cây dao dâu có thần khí run bần bật trong tay, người ta cố giữ dao, sợ dao vuột khỏi tay lao về phía kẻ thù. Lũ cán bộ làm lơ lảng tránh.
                            Đêm về, dân khốn khổ lại phải tập

                            họp ngồi nghe giải thích ‘cách mạng, tiến lên, tiến mạnh!’ Những gương mặt đen đúa, ngô nghê bất động, trẻ con thiếu sữa khóc lớn trấn át tiếng bép xép hô hào trống rỗng của cán

                            bộ. Trẻ con khóc dai dẳng như báo điềm gở. Người già há hốc nhìn lên trời kêu cứu, gương mặt đàn bà đầy nhẫn nhục an phận. Đàn ông thở hổn hển, gân xanh nổi hằn trên thái dương,

                            mặt bí mật, lầm lì đáng sợ. Thú vật cũng ý thức việc gì ghê gớm sắp xảy ra. Lũ chó nằm im hơi, nhe răng trắng mởn thu mình chờ đợi sẵn sàng đổi mạng rẻ như bèo.

                            ***


                            Ngôi chùa Prey Veng im lìm trong đêm khuya, chợt vang rền tiếng Sư Sãi tụng kinh Pali, lúc đầu nhỏ như tiếng chuông ngân, dần dần chuyển thành nhạc ngũ âm, dâng như sóng vỡ

                            bờ. Cùng lúc, sáu bảy bóng đen ẩn hiện chập chờn qua khóm tre. Tâm họ nhịp gấp theo tiếng kinh trầm hùng dìu dắt họ tiến về chùa Prey Veng, từng người di chuyển nhanh nhẹn hẹn

                            nhau chen chúc trong chùm dây rễ dài um tùm của cây Nam Vồ, ngồi lặng lẽ chắp tay run rẩy cúi đầu sám hối. Dưới mái chùa cong, tứ chi tượng các thần hầu linh động nhảy múa chúc mừng, bốn góc cột chùa, các thiên nữ trang kính nghe kinh.

                            Những bóng đen ẩn nấp dưới rễ cây Nam Vồ quên sự hiện hữu mình, buông thõng búa và dao dâu. Dao búa cũng mềm nhũn, hiền lành nằm bất động nghe kinh trên mặt đất. Trăng đêm ấy

                            ngại ngùng tránh tỏa tia sáng soi những gương mặt in vết hãi hùng mấy đêm trước. Đêm ở vùng kinh tế mới Phú Cường tối như mực, bầu không khí căng thẳng ngột ngạt chờ đợi, bị nổ

                            tung bởi tiếng ‘cáp’ vang dội thoát ra từ lồng ngực dồn nén căm phẫn. Tiếng súng cuồng sát nổ liên hồi, những bóng đen chạy rầm rập tán loạn. Lửa căm thù bừng cháy lan từ chòi này

                            sang chòi khác chiếu lập lòe thi thể bầm dập tanh máu. Cây búa thần Thạch Sanh của Pù Ưng vung lên như lưỡi tầm sét chém chằn tinh, những cây dao dâu bén ngót được dịp chuyển

                            mình thành rắn mãng xà vương quẫy khúc phi vùn vụt hớt đầu kẻ thù rụng như lúa dao móc dừa, thốt nốt. Bầy chó vện sống chết theo chủ nhập cuộc, lăn xả cắn xé. Gió đồng hoang tránh

                            xa, vi vu thương tiếc, mây trời vội vã đưa những linh hồn hóa kiếp trở về Sóc xưa, yên nghỉ trong cổ tháp quanh chùa Prey Veng sau khi trả xong nghiệp dĩ.
                            Tiếng than khóc la hét, tiếng

                            súng nổ dao bay loãng dần trên vùng kinh tế mới Phú Cường, địa ngục này chỉ còn lại tiếng bò mất chủ bơ vơ rống đứt đoạn não lòng. Kết thúc còn lại bao nhiêu người ngồi dưới gốc cây

                            Nam Vồ nầy.
                            Pù Ưng nhìn lên ngọn tháp tìm kiếm, mặt thần bốn mặt trầm tĩnh như xưa, chở che an ủi. Chùa và Sóc bị bỏ hoang mấy tháng nay, ngói đỏ loang lở rong rêu xám, bắt ánh

                            sao trời rực lên thành hoa sen cánh hồng hé nở đầy đặn, hương tinh khiết ngạt ngào trong đêm thanh. Chùa vắng Sư Sãi, những tiếng kinh từ tiền kiếp dội về trầm hùng, hòa với lời

                            kinh dâng lên cúng dường từ đáy lòng người ngồi đây, lời kinh hóa giải như tia sáng huyền diệu nhẹ nhàng hòa tan bóng tối u minh dầy đặc, âm thanh vang rền thanh thế đại hùng, đại lực

                            của chuông trống Bát Nhã ngân dài âm hưởng đại từ bi lên tận trời Đâu xuất, xuống tận ngục A Tỳ.
                            Sương khuya lạnh lẽo ướt đầm vai, những bóng đen rùng mình, bình tĩnh ngồi nép sát

                            vào nhau. Những chùm rễ cây Nam Vồ dài rậm rạp cương trực chở che họ. Pù Ưng chợt ớn lạnh, một tia sáng lóe qua óc, như khám phá ra điều gì hệ trọng ám ảnh từ nhỏ đến giờ. Pù Ưng

                            nắm chặt vai bạn lắc mạnh nói như người mê sảng.
                            ‘Me Âu ơi! Hồi xưa Lục Cụ nói đó, lửa trên trời sa xuống đốt đó, quỷ dưới âm phủ lên giết chóc đó, người còn sống không đủ ngồi giáp

                            vòng gốc cây Nam Vồ đó. Me Âu ơi! Bây giờ mới thấy đó’.
                            Tiếng kinh từ chùa Prey Veng nhỏ dần, vang xa, xoa dịu nỗi đau khổ nhân gian. Cỏ cây hoa lá đọng sương đêm lấp lánh lặng yên

                            nghe kinh. Tiếng kinh trở lại dập dồn tròn trịa, từng tiếng một dội vào tâm những người khốn khổ run rẩy dưới gốc cây Nam Vồ, phá tan u mê, hằng nhắc nhủ họ kiếp sống ngắn ngủi vô

                            thường, hợp rồi tan, tan rồi hợp, một vết mây trong bầu trời xanh kia, ánh trăng dưới bàu sen đó.
                            ‘Budham Saranam GacchamiDhammam Saranam GacchamiSangham Saranam Gacchami’


                            CHÚ THÍCH:
                            (1) Dao dâu: loại dao dài khoảng 80cm, nặng, đầu cong như lưỡi hái, thân dao thẳng có thể vừa móc vừa chặt.
                            (2) Cáp: chém, chặt.
                            (3) Bàu sen: hồ sen.
                            (4) Ngồi xếp mon: lối ngồi của Sư Sãi Miên, ngồi một bên hai gối hướng về phía trước, chồng song song lên nhau.
                            (5) Thần Hầu: Thần khỉ, thường ở dưới mái chùa hai tay nâng đỡ mái.
                            (6) Cây Nam Vồ: giống cây Bồ Đề, lá không có đuôi như lá Bồ Đề.
                            (7) Dọt cối gạo: giã gạo bằng chày tay.
                            (8) Nóp: loại túi ngủ đan bằng đệm cói.
                            (9) Kinh Miên chép, có một thời quỉ ma hiện làm người để hại người, lửa trên trời sa xuống, người còn sống rất ít, chưa đủ để ngồi giáp cây Nam Vồ.

                            Pforzheim 4 - 1987


                            Lưu Nhơn Nghĩa
                            thatsonchaudoc
                            sigpic

                            Comment


                            • #15
                              Như Cánh Chuồn Chuồn

                              Em Tôi Khát Sữa Bú Tay
                              ______________________________________________


                              · Cám ơn Hiến cùng tiếng hát ru đưa võng ‘Má ơi, về em bú’

                              ***

                              Trận mưa đầu mùa nặng hột trong cơn nắng oi nồng, đất bốc hơi hừng hực. Ai cũng sợ ngã bịnh bất nhờ vì thời tiết; chỉ có bầy cá lìm kìm, cá lòng tong nhởn nhơ lội từng đàn trên mặt kinh.

                              Dì Tư Thà bương bả chạy dọc theo bên kinh tìm kiếm, miệng lảm nhảm như cuồng trí. Những chiếc ghe bầu chất đầy nồi đất chòng chành đậu chen chúc chung với đám xuồng trầu.

                              Dì Tư đếm từ chiếc xuồng, chiếc ghe. Lạ quá, chiếc ghe bầu cho đoàn hát bội đâu rồi? Dì Tư Thà run rẩy đi một mạch về nhà, ngồi sầm xuống chõng tre, kéo vạt áo chùi nước mắt, chữi

                              rủa: ‘Tổ cha bây, quân dụ dỗ!’ Dì dáo dác nhìn ra cửa, sợ có người nghe thấy, khóc rưng rức một mình, vừa đấm ngực thình thịch. Ít ai để ý biết chiếc ghe bầu cho gánh hát bội đi từ lúc

                              nào, ‘mới hôm qua đào kép còn ăn cháo đậu với dưa mắm ngoài chợ mà!’ Gần nửa tháng trước, ghe cặp bến đầu kinh, che rạp, dựng sân khấu giữa chợ trình diễn. Chợ quê vui hẳn

                              lên. Buổi trưa xe lôi chạy vòng chợ vỗ trống, phát tờ quảng cáo. Trước rạp treo những tấm ảnh lộng khuôn lớn của đào kép. Mấy ông sồn sồn nhìn ảnh các cô đào cũng thấy lòng hớn

                              hở, trách chi đám thanh niên trẻ. Nào đào Tư An tóc uốn sáu sóng, miệng lấp lánh răng vàng; kép Năm Hội chải tóc bảy ba; hề Mười Chốt nhìn anh đã muốn cười... Trước rạp, nhóm thêm một buổi chợ đêm, thơm mùi nem nướng, cháo chè, bánh trái.

                              Sự hiện diện của gánh hát gây phấn khởi phá tan cái im lặng nhàm chán thường ngày. Già trẻ bé lớn đều mê hát đêm quên ngủ, ngày quên ăn. Ông Cả Lầu nghiêm nghị uy tín được giới

                              chức đề cử danh dự cầm chầu. Ông phải từ chối nhiều lần nhưng để khỏi phụ lòng người, ông đành nhận; dù tuổi ông khá già, ra khỏi nhà chỉ đi xe lôi, ít khi thấy ông đi bộ. Trong rạp

                              hát đông nghẹt, ồn ào hoặc mất trật tự. Thanh niên la hét cổ võ cô đào khả ái; ông Cả chỉ cần nghiêm nét mặt, giải quyết nhanh chóng. Ông nhịp ngón tay trỏ, chỉ mặt một cô gái sừng

                              xỉ vì thiếu ghế ngồi, ông gằn giọng ‘Nói mà nghe, chớ hổng phải nói mà xon xỏn vậy à nghe!’ Rồi ông liền taytát cô gái chúi nhủi, đuổi ra khỏi rạp, đủ thấy uy quyền ông đến độ nào

                              rồi. Ông Cả lại là người khí khái, luôn luôn thực hành câu ‘kiến nghĩa bất vi vô dõng giả’. Ông thương gánh hát bội nghèo nên bỏ tiền mua giàn gần mười đêm ‘lời lóm gì đó!’. Ông thường lắc

                              đầu, ‘Tội nghiệp hết sức, đào kép ăn uống kham khổ, thân tằm trả nợ dâu, mang nguồn vui cho dân quê mình’. Mỗi đêm, ông hy sinh thân già nghiêm chỉnh như vị tướng chỉ huy - trước cái

                              trống chầu - ông biết thế là dại dột, nhưng trách nhiệm nặng nề đòi hỏi sự công bình; ngoài ông ra, khó tìm người đủ tài đức, ham gì cái nghề ‘làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu’ đó.

                              Thật vậy, tuy tay chầu ông công bằng, mà vẫn có người xấu mồm xấu miệng châm biếm, làm như chuyện ‘cầm chầu’ là chuyện chơi chắc! Ông Cả cảnh cáo nhiều lần những kẻ suy

                              bụng ta ra bụng người phao tin nhảm. Họ đặt điều, nói ông bị cái liếc mắt của cô đào Tư An vai Tôn Phu Nhơn làm mê mẫn, nên tay chầu ông liên hồi, ông Biện ngồi bên ghi không kịp. ‘Ừ,

                              thì đào Tư An diễn xuất hay, làm sao chầu lơi được! Còn kép Năm Lai vai Chu Du không diễn tả được sự nóng nảy, lại trách ông chầu lơi, vô lý’. Truy ra mới biết ông Hương Quản Ái bán

                              đám ruộng dưa hấu lấy tiền sắm quần lãnh Mỹ A cho đào Tư An. Bị vợ phát giác cấm hẳn coi hát, Quản Ái ganh tị phao tin nhảm nhí. Ôi! Miệng đời, ‘trâu cột ghét trâu ăn!’. Ông Cả giận

                              nên thôi mua giàn, bỏ cầm chầu cho hả giận, lại mắc tiếng oan là bị bà Cả mắng nhiếc ông ‘đồ trâu già đòi ăn cỏ non’. Từ đó đoàn hát vất vưởng, sống tuỳ số khán giả vô cửa và bà con tốt

                              bụng, trong đó có dì Tư Thà. Mỗi buổi trưa, dì thường sai con gái tên Ðẹp bưng cháo mời đào kép. Ðẹp thương mẹ nên vui vẻ và nhanh nhẩu, nhứt là dành tô cháo nhiều thịt cho kép độc

                              Ba Nhu, vai Trương Phi, râu đen tua tủa hào hùng đứng trên cầu Ðơn dương trường bản hét như sấm nổ, đảy lui quân Tào Tháo. Ðôi mắt sáng rực hùng khí và tiếng dậm chân làm mềm

                              lòng cô khán giả tên Ðẹp hằng đêm. Càng say sưa coi hát, Ðẹp càng chán ngấy công việc hằng ngày, nào cạo cho sạch đống lòng ruột heo, rang gạo nấu cháo, thức khuya dậy sớm. Ðẹp

                              kể về Ba Nhu nghe bắt mê. Dì Tư Thà cảm thấy có điều gì bất thường xảy ra, nhưng thoáng nghĩ đến, rồi lại quên đi ngay và dì không nghĩ xa hơn. Dì Tư thường nhắc: ‘Trồng trầu trồng lộn

                              dây tiêu, Con theo hát bội, mẹ liều con hư!’ Ðẹp lại nghĩ ngược lại, giống như Ba Nhu nói, nàng tập dượt vài năm có thể thay thế đào Tư An trong tuồng Phấn Trang Lầu.

                              ***


                              Tiếng bằm thịt đều đều như nhạc ngựa từ các tiệm nước đánh thức người buôn gánh bán bưng dậy cho kịp buổi chợ mai; vừa lúc chiếc ghe bầu chở gánh hát bội rời khỏi bến. Con nước đổ

                              ngược vào nên việc chèo chống nặng nề chậm chạp. Thêm mấy người trạo phu đi bộ dọc theo đê quàng dây kéo ghe qua khúc kinh cạn. Ròng rã suốt ngày, gần chiều mới tắp vào nghỉ tại

                              bến Kinh Xáng Vịnh Tre. Trong khoang ghe, Ðẹp ngồi im lìm suốt ngày, ngơ ngác nhìn chiếc Xáng chìm cao vòi vọi đứng chơ vơ giữa đồng. Trong ghe chật hẹp, mỗi lần di chuyển phải né

                              tránh đồ đạc ngổn ngang, y trang của đào kép treo la liệt, nực nồng mùi mồ hôi ẩm. Ðẹp tự hỏi không hiểu sao trên sân khấu, cũng cái nón cái áo rực rỡ nầy mà bây giờ giống đống

                              giẻ rách, thua đồ thợ mả! Ðẹp càng lúc càng lo âu, dù khuya nầy táo bạo ôm gói áo quần âm thầm xuống ghe theo Ba Nhu thực hiện ước mơ làm đào hát. Nhìn bàn thờ Tổ màn đỏ che,

                              khói nhang lắc lư theo mỗi bước đi lẹp xẹp của người trên mui ghe, Ðẹp cầu cho tổ đãi. Sau lái, mấy người đàn bà đang sửa soạn cơm chiều, lui cui thổi lửa. Ðàn ông ngồi trước mui và trên ghe nói chuyện lào xào. Ðẹp ngó tới ngó lui, hỏi thầm:

                              ‘Ðêm nay nằm ngủ chỗ nào?’. Trong ghe hầu như chỉ có khoảng trống duy nhứt nằm tạm được trên tấm màn sân khấu xếp lại. Ðẹp rụt rè hỏi người đàn bà đang lặt rau sau lái. - ‘Chị à, đêm nay tôi ngủ ở đâu chị?’ Người đàn bà niềm nở trả lời: -

                              ‘Ở trước mũi, sau lái, trên mui, đâu mà không được. Gặp mưa gió, mình chun vô trong khoang ngồi đỡ, chớ làm sao bây giờ!’ Trong khoang, ông thầy đờn gầy guộc cuộn mình bên mâm

                              đèn, mắt lim dim, kéo ro ro cái ống điếu dài: mùi thuốc phiện thoang thoảng làm ngây ngất buồn nôn. Ba Nhu bò trên mui thò đầu xuống gọi: - ‘Ðẹp ơi, lên ăn cơm em!’ Ðẹp đứng lên, tê cả chân, đi chập choạng như người say rượu, ghe chòng chành.

                              Trên mui, mọi người quay quần bên mâm cơm chiều; mâm cơm là tấm cánh cửa gà sân khấu. Ðẹp ngượng ngùng ngồi khép nép giữa đám đào kép; ngoài Ba Nhu, không thấy ai săn

                              đón ngó ngàng tới Ðẹp (sao họ mau quên những buổi trưa Ðẹp bưng cháo lòng mời họ lúc trước ‘mấy cái mặt ăn chịu, bây giờ quay đi, thấy phát ghét!’ Ðẹp cầm chén cơm đỏ, lúng túng

                              trước bửa cơm đầu tiên xa nhà. Trên mâm, mấy nồi cơm, mấy nồi mắm kho mặn, vài rổ rau dưa hỗn độn. Vua, hoàng hậu, công chúa, quan, lính,tỳ nữ lẫn lộn ngồi chen chúc, đũa gắp

                              không ngừng, tiếng nhai xào xạo. Cô đào Tư An vai Tôn Phu Nhân trên sân khấu áo thêu hoa rực rỡ, mũ lấp lánh, mặt hoa da phấn nhờ tổ đãi, ngồi chồm hổm, húp muỗng canh xùm xụp, tóc khô xỏa trên vai áo, mặt mày đanh đá xác xơ. Ðẹp

                              trộm nhìn người yêu, những vết màu đen trên cằm chưa rửa sạch, tóc chải bảy ba tém ra sau, chiếc áo thun trắng bạc màu phô trương đám lang ben lổ chổ trên ngực. Ðẹp nuốt khó trôi

                              chén cơm đầu tiên. Tiếng bà bầu léo nhéo hạch sách chồng về số tiền bán giàn cho ông Cả, không ảnh hưởng đến bữa cơm chiều đạm bạc. Cô Tư An quay lại hỏi Ðẹp, vừa nhai miếng dưa

                              leo rau ráu: - ‘Biết hát chưa mà muốn theo?’ Ðẹp chưa kịp phản ứng, Ba Nhu đỡ lời: - ‘Ðương tập chút đỉnh, chị Tư à!’ Cô Tư An để đũa xuống, kéo khăn chùi miệng nói ỡm ờ: - ‘Chừng nào thiếu vai tỳ nữ, cho đóng tạm để coi coi!’ Ðẹp bật miệng:

                              ‘Trời đất ơi! Biết vậy tôi theo làm gì nè!’ Tiếng bà bầu gắt gỏng sau lái cắt đứt câu chuyện, chấm dứt bữa cơm chiều: ‘Ăn mau rồi đi nghỉ, mai sáng ra sông cái đi cù lao Ông Chưởng nghe.

                              Còn Ba Nhu, mầy liệu mà lo cho con vợ bé mầy đó nghe, chờ coi, bà bán cháo tới cào nhà mầy đó, tao nuôi cơm hổng nổi đâu!’ Ba Nhu lặng thinh, xuống nước: ‘chuyện dĩ lỡ rồi chị Cả

                              ơi!’ Mặt trời lặn xuống đầu kinh xa tắp; đợt nắng cuối cùng nhuộm màu vàng vọt nước kinh. Ðẹp lạnh người, rùng mình buông đũa, chén cơm chưa vơi một nửa, hậm hực nhìn Ba Nhu, cau có: ‘Tại anh hết, hứa hẹn đủ thứ hết à!’ Ba Nhu đáp lại

                              bằng tiếng cười hềnh hệch, tinh quái: - ‘Thôi em, duyên nợ mà, Trống treo ai dễ đánh thùng, Bậu không, ai dám giỡ mùng chung vô?’ Ðẹp nhìn đám lục bình trôi xuôi cảm thấy thân thể nàng cũng bồng bềnh như bọt bèo trên mặt kinh kia. Tiếng

                              đàn gáo bừng bực, ngao ngán theo tiếng hát áo não của lão đờn mù trong khoang ghe vọng ra. ‘Chính giữa một cái mả cao, à! Hai bên, hai cái mả thấp, á! Chú ấy đem chôn lấp, Xác bướm với cành lan, ... a!’

                              ***


                              Nồi cháo lòng bán hoài không hết, nhìn rổ giá luộc héo xèo, mặt dì Tư Thà lẩn tránh người qua lại. Ai qua nồi cháo dì Tư đều ngượng nghịu tò mò tuy họ cố giữ vẻ tự nhiên. Mấy ngày

                              qua, dì Tư như xác không hồn trước nồi cháo. Nhà lồng chợ thưa người hơn sau khi gánh hát dọn đi. Dì Tư vẫn chưa khỏi bịnh cảm gió mấy ngày qua. Dì ngồi bán mà đầu óc ngổn ngang, chân tay bải oải, mắt thâm quầng những đêm mất ngủ.

                              Gánh hát đến rồi đi, để buồn cho ông Quản Ái, để hận cho ông Cả Lần, và mang theo đứa con gái mới lớn nhờ cậy được của dì. Dì cố tưởng tượng, Ðẹp giận nhà bỏ đi ở nhà chú ruột nó ở Mỹ Ðức, làm sao đứa con gái giỏi giang con nhà lành lại bỏ

                              theo đoàn hát bội được! Góc chợ đàng kia, đối diện với gánh cháo lòng, cạnh chợ rau cải, những người vô công rỗi việc bắt đầu sắp mấy tấm lô tô trên chõng tre. Sáu Nhỏ trịnh trọng sóc

                              túi lô tô lách cách. Hôm ấy người chơi lô tô nao nức đợi chờ, và Sáu Nhỏ cũng biết điều đó. Sáu Nhỏ vừa tìm được đề tài sốt dẻo. Hai đề tài liên quan đến ông Cả Hân và Hương Quản Ái thì

                              chú Sáu ngài ngại chưa dám khởi hứng, dù chỉ vài câu mào đầu vô thưởng vô phạt, bứt giây sợ động rừng. Sáu Nhỏ còn thiếu mấy bao cám chưa trả tiền cho Bà Cả, dại gì! Chú lại nghĩ, ở

                              xứ này ai dám rớ tới ông Quản Ái, trừ vợ ông ta? Người gây hứng thú đồng thời là nạn nhân hôm ấy là Ðẹp. Thoáng nhìn dì Tư Thà thiểu não ngồi sau nồi cháo lòng, Sáu Nhỏ thấy áy náy,

                              tự nghĩ bỏ qua chuyện châm chọc người khốn khổ kia. Dì Tư Thà nhẹ nhõm khi thấy đôi mắt Sáu Nhỏ tỏ vẻ cảm thông, và Sáu Nhỏ tiếp tục những câu lô tô thường lệ, suốt mấy bàn đầu

                              trôi chảy êm tai. Sau ly rượu trắng thấm giọng, chứng nào tật ấy, Sáu Nhỏ cầm số lô tô hỏi lớn: ‘Anh Hai à! Tháng nầy là tháng mấy?’ ‘Tháng hai!’ Có tiếng trả lời ỡm ờ. Sáu Nhỏ tiếp

                              luôn: ‘Tháng nầy là tháng hai Bước qua tháng ba Mưa sa lác đác Cám thương mấy cô chưa chồng Lạnh cong xương sống Lạnh cóng xương sườn Lạnh nằm trên giường Lạnh lăn xuống

                              đất ... Giọng chú Sáu Nhỏ say sưa đến đỗi người đang chờ đợi không thấy sốt ruột, họ ngồi tham dự cuộc chơi xem nhẹ được thua; họ kiên nhẫn nghe Sáu Nhỏ. Chú Sáu Nhỏ biết điều đó,

                              lâu mau là quyền của chú, chú lên giọng xuống trầm, mỉa mai, trêu chọc, bông đùa, khuyên nhủ. Câu thơ ứng khẩu phát xuất từ tim người thi sĩ bình dân này hàm xúc đủ hỷ nộ ái ố, đề tài uyển chuyển lúc ngập ngừng, lúc tuôn trào như nước chảy.

                              ‘Hãy ngóng mà nghe Hãy nghé mà ngong! Con gì ra đây Là con số mấy? Chờ đây mà coi Kẻo bị thiệt thòi Nghèo lê nghèo lết Nghèo rớt mồng tơi...’ Nhưng cuối cùng bị bí vần, câu

                              chuyện đã lộ: ‘Con Hai nó thưong anh Ba Thì ra con mấy? Xa xi chạp dí (3 x 4 = 12) Xa cáo dẹp xịt (3 x 9 = 27) Dì Tư Thà bị căng thẳng tinh thần, phang cây đòn gánh túi bụi vào lưng Sáu Nhỏ, hét: ‘Nó theo hát bội chớ theo cha mầy sao?’ Sáu Nhỏ

                              vừa đưa tay đỡ vừa cười gượng, người lớn tuổi can gián mới yên. Câu chuyện Hai Ðẹp bỏ theo kép hát bội Ba Nhu thành dư luận từ chợ rau cải, lan lên xóm lò rèn nhà ông Cả, xuống xóm

                              kinh nhà Quản Ái. Các cô gái bị cha mẹ mắng oan vì hậu quả của Ðẹp, than thở: ‘Ðèn nhà ai nấy sáng, trời kêu ai nấy dạ!’ Chợ trưa vắng dì Tư Thà, tiếng kêu lô tô Sáu Nhỏ ít sôi nổi hơn

                              vì chú chưa tìm được đề tài khác. Gió thời gian cũng thổi khô nước mắt gia đình dì Tư, câu chuyện rồi cũng được lãng quên dần. Người không bao giờ quên là Hiến, em kế của Ðẹp. Dì Tư

                              Thà bị mụt bạc đầu mọc trên cổ, bị hành có mấy ngày rồi thình lình bỏ Hiến và đứa em ba tuổi bơ vơ. Ngày Hiến quấn khăn tang cõng em theo đám ma nghèo đưa mẹ tới chân núi, hai anh em khóc sướt mướt chia sớt nỗi buồn mất mẹ. Một buổi xế

                              trưa, ai đi ngang qua con đường đất quanh co dọc theo bờ kinh, căn nhà lá thấp trước sân có hai cây trứng cá rợp bóng, đều dừng lại hỏi an ủi Hiến. Sự oán trách Ðẹp biến thành lòng

                              thương yêu dành cho Hiến. Hiến giăng chiếc võng bố dưới gốc cây trứng cá, tàng cây loang lở chút nắng chiều. Từ ngày Mẹ bỏ đi, Hiến nghỉ học, bỏ hết những thú vui rong chơi với bạn

                              bè. Thế giới của Hiến giới hạn quanh căn nhà chật chội. Hiến nhớ như in. Ðêm cuối cùng gần sáng, mẹ Hiến nằm trên giường chiếu ẩm, nực nồng mồ hôi, cổ sưng híp, mắt lờ đờ

                              ngưng trên mặt Hiến. Trước khi đi vĩnh viễn, mẹ dặn dò Hiến qua hơi thở thì thào, đứt đoạn ‘Hiến à, chừng nào Ðẹp trở về, biểu nó giữ em cho con đi học lại nghe con!’ Ngưng lâu lắm,

                              giọng mẹ như van lơn Hiến: ‘Hiến à, em con nó còn nhỏ, chưa biết, con giữ em đừng bỏ nó một mình té xuống kinh nghe con! Con đừng đánh đập nó tội nghiệp, để nó kêu má, má chết

                              không yên nghe con... Hiến à, má thương con nhứt nghe con...!’ Mẹ Hiến cố điều khiển cánh tay gầy guộc run rẩy vuốt mặt thằng Út, ‘Con cưng của má, má có đi, con ráng nghe lời anh nghe con, đừng nhõng nhẽo nghe con’. Mấy tháng rồi

                              không phụ lòng mẹ Hiến chu toàn bổn phận làm mẹ, làm anh đối với em. Hai anh em lúc nào cũng quấn quít bên nhau. Mỗi sáng, Hiến nấu nước châm trà cúng mẹ, rồi cõng em ra chợ

                              mua gói bắp hầm hay gói khoai mì luộc về ăn với em trên chõng tre trước bàn thờ. Bé Út nhờ trời ngoan ngoãn ít bịnh hoạn. Hàng ngày, Hiến ra giếng gánh vài đôi nước, Út lẩm đẩm

                              theo anh. Buổi trưa dẫn nhau qua nhà người cô ăn cơm. Thỉnh thoảng bé Út nóng đầu, bịnh hay khóc đêm; Hiến đốt nhang cầu mẹ cho em mau mạnh. Có đêm, Hiến nằm mơ thấy mẹ về,

                              áo sô gai hiền hòa, nặn mụt nhọt trên đầu Út, đùa bé khóc thét, trên gối còn đọng ướt vết máu. Mẹ hiền về vuốt ve Hiến, bóng mẹ lảng đảng, lúc gần bên ấp ủ Hiến, lúc vẫy tay nhẹ

                              nhàng trong vệt mây bạc xa mờ. Ngày đầu tiên, Hiến lúng túng dỗ cho em ngủ, nghe em khóc, Hiến nhìn lên bàn thờ mẹ cầu cứu, ‘Má ơi! Dìa cho em bú!’ Lời cầu cứu giao cảm thiêng

                              liêng, chỉ xử dụng khi thấy mình đuối sức, xin mẹ về phù trì, vậy mà em nó nín khóc, như vừa được bú no sữa mẹ. Có khi em phá phách lúc Hiến đang bận rộn, Hiến quay về phía bàn

                              thờ gọi mẹ ‘Má ơi! Em nó phá!’ Bức ảnh mẹ Hiến ám khói, có hồn nghiêm nghị, chứng cho lòng thảo ngay của con trẻ. Buổi trưa, Hiến đưa võng dỗ em ngủ, lúc Hiến có thể thảnh thơi

                              nghỉ ngơi chân tay, cơ hội cho tâm hồn mộc mạc theo tiếng võng kẽo kẹt vẩn vơ bay bổng như mây trời bát ngát. Võng đong đưa, nhanh rồi chậm, lời ru em man mác, ngọt ngào,

                              chua xót, oán trách, theo cơn nắng sớm mưa chiều, theo mầu nước kinh lên xuống với sự góp mặt của cá nước, chim trời.

                              Bầy quạ đen tinh quái đậu trên cây me keo gọi nhau rình rập nia khô cá lóc phơi trên mái nhà. Hiến cao giọng: ‘Ầu ơi! Con quạ nó đứng đầu cầu Nó kêu bớ má, têm trầu khách ăn!’ Con

                              quạ nó đâu kêu má nó, chính Hiến kêu mẹ mình, Hiến kéo dài tiếng ‘má’ như muốn níu kéo trở về cái quá khứ khi mẹ còn sống. ‘Ầu ơi! Con quạ nó đứng chuồng heo Nó kêu bớ má, bánh

                              bèo chín chưa?’ ‘Tiếng rao bánh bèo ngọt, nhưn đậu xanh chan nước cốt dừa, thèm quá má ơi! Phải má còn, má mua cho con và bé Út một gói ăn nghe má!’ Nắng hanh vàng lấp loáng sóng

                              mặt kinh; đàn vịt lội nhởn nhơ trong đám lục bình xanh mát; bầy cá lìm kìm lờ đờ trôi trên mặt nước cũng làm Hiến thấm thía: ‘Má ơi, con vịt nó chết chìm Con thò tay vớt nó Con cá lìm

                              kìm nó cắn tay con!’ Hiến chợt nhớ Ðẹp, chị ruột mình, đáng lẽ giờ này ở nhà giữ em cho Hiến đi học. ‘Ầu ơ! Chờ cho cây lúa có bông Chị Hai có chồng... Em gặm giò heo!’ Chị Ðẹp ơi, ngày

                              xưa chị từng hát ru em, bây giờ chị quên hai em rồi. Chị mê cái bề ngoài của anh kép Ba Nhu vai Trương Phi, chị trốn má đi coi hát đêm, em không mét má, chị nhớ không? Còn anh Ba

                              Nhu, tên hiền nhu, ăn nói ngọt ngào, ai ngờ dụ dỗ chị Ðẹp để Hiến bơ vơ. Thằng bé lật mình, Hiến quạt cho em than thở: ‘Ầu ơ! Họa hổ họa bì Nan họa cách’ Hiến gằn giọng từng tiếng, như

                              chửi thẳng vào mặt Ba Nhu oán trách người hữu thuỷ vô chung: ‘Tri nhân Tri diện Bất tri tâm!’ Ừ, Hiếu hiểu rồi, dù mới mười lăm tuổi, Hiến đã trưởng thành. Từ nay sẽ không xem bề

                              ngoài mà quên tình nghĩa bên trong. ‘Ầu ơ! Chớ! Tiền tài như phấn thổ Nhơn nghĩa tợ thiên kim Chớ! Le le mấy thủơ chết chìm Ðồ tham tiền phụ nghĩa, em tìm làm chi?’ Tiếng ru em

                              bay vang vang trên khúc kinh nhờ sóng nước nhắn đưa theo gánh hát bội, ‘Thôi, bỏ luôn cho rồi!’ ‘Ầu ơ! Trồng trầu trồng lộn dây tiêu Con theo hát bội, mẹ liều con hư!’ Nắng vàng càng

                              đổ, Hiến càng say sưa với nắng gió, tâm tưởng bồng bềnh trên bầu trời xanh tìm chị, tay Hiến như chỉ vào mặt chị, hằn học, thách thức, đòi hỏi chị phải trả lời. ‘Ầu ơ! Chớ! Ghe bầu trở lái

                              dìa đông Con gái theo chồng, ơ ...! Vậy chớ ... bỏ mẹ ai nuôi?’ Ừ, mà sao chị không lấy chồng ở gần đây để gần mẹ gần em, lại bỏ đi xa biệt tăm biệt tích vậy chị Ðẹp? Chị Ðẹp ơi! ‘Chim đa

                              đa, đậu nhánh đa đa Chồng gần sao không lấy Lại đi lấy chồng xa Một mai Cha yếu, mẹ già! Bát cơm ai đỡ Bộ kỷ trà ai nâng? Ơ !’ Và Hiến nhìn trời cao, oán trách bâng quơ: ‘Ầu ơ! Thùng

                              thùng Cắc cắc Chim đậu sao không bắt Lại bắt con chim bay?’ Tiếng ru em theo cánh chim bay lượn trong bầu trời xanh, quyến luyến tình mẫu tử, ngao ngán tình chị em, tủi thân

                              chính mình, nhắn nhủ Cầm, người bạn láng giềng sau hàng rào dâm bụt. Cầm đẹp nhứt trong xóm, da tươi mát, bị mù từ nhỏ nên chỉ lẩn quẩn trong nhà. Cầm thích Hiến qua tiếng hát ru em, Cầm thấu hiểu lời ru kia kín đáo gói ghém lời nhắn nhủ.

                              Cầm chỉ đọc Sấm giảng, mãnh liệt, mơ ước sáng mắt lại một ngày, để xem Hội Long Hoa, để nhìn mặt Hiến. Tâm hồn Cầm đơn hòa, thuần nhứt và nhẫn nhục, giọng đọc Cầm như tiên

                              tri: Năm Dần nhiều chỗ bơ vơ Bước sang năm Mẹo, như tơ rối cuồng Năm mèo tháng Mẹo chưa buồn Năm mèo tháng Hợi lụy tuôn dầm dề Vậy mà chưa mấy ủ ê ! ... Tâm sự Cầm ấp ủ đơn

                              sơ hơn Hiến. Buổi trưa, nếu vắng tiếng ru em của Hiến và tiếng đọc Sấm giảng của Cầm thì xóm nhỏ nầy thiếu thốn tẻ nhạt biết bao nhiêu! Ai qua xóm đều khen Hiến, ‘Nhà nghèo mới biết

                              con thảo’. Bé Út ngủ yên, lớn dần nhờ tiếng hát ru của Hiến dưới tàng cây trứng cá chở che. Hiến nhìn em ngủ, đưa tay vuốt mồ hôi dầm trên má em, hình như sau hàng rào dâm bụt

                              bên kia có tiếng động. ‘Ầu ơ! Cây đa trước miểu, ai biểu cây đa tàn? Bao nhiêu lá rụng Ầu ơ! Chớ, bao nhiêu lá rụng, ờ ! Anh thương nàng bấy nhiêu, ơ ! Dù tình cảm phiêu lưu, nhưng chỉ

                              quanh quẩn liên hệ thâm trầm mối tình mẫu tử. Không gian, thời gian, âm thanh, ngoại cảnh được tô điểm bằng tình mẫu tử thuần hòa, cô đọng trong tim đứa trẻ mồ côi mẹ, thoát ra

                              lời ru thanh thoát bay vút lên cao. Hiến ước mơ làm Tử Lộ đội gạo nuôi mẹ như trong quyển ‘Quốc Văn Giáo Khoa Thư’ học ở trường, để thấy hình bóng mẹ chiều chiều đứng chờ trước cửa.

                              Hiến miên man nhớ ngày nào bỏ học rong chơi bị mẹ đánh đòn. Phải chi má còn, dù có đánh con đau thế nào con cũng chịu. ‘Ầu ơ! Má ơi, đừng đánh con đau Ðể con hát bội, làm đào

                              cho má coi’ ‘Ngủ đi cưng’, Hiến nhắc chừng em. ‘Ầu ơ! Má ơi, đừng đánh con hoài Ðể con câu cá nấu xoài cho má ăn!’ Hiến lo âu, sợ cha mình có vợ bé, hai anh em Hiến sẽ bơ vơ. Hiến

                              tưởng tượng đến người dì ghẻ ác tâm như Tào Thị, bắt Hiến và bé Út ra đồng chăn vịt, giải nắng dầm mưa. Nghi Xuân và Tấn Lực còn có cha làm Trạng Nguyên; ông bà ngoại giàu sang,

                              chứ Hiến thì không có ông bà lấy ai che chở đây. Bất giác Hiến chảy nước mắt thương cảm từ lúc nào không biết, nhìn lên bàn thờ mẹ, Hiến thấy hình như mắt mẹ bi thiết, xót xa. ‘Ầu ơ! Mấy đời bánh đúc có xương Mấy đời dì ghẻ nó thương con chồng?’

                              Hiến nhìn ảnh mẹ, thấy mẹ gật đầu nhè nhẹ. Tiếng kêu lô tô chú Sáu Nhỏ ngoài chợ, gần đây hình như ám chỉ dì bán rau đã nói chuyện lả lơi với ba Hiến. Giọng chú Sáu Nhỏ trêu cợt, bông đùa thường bắt nguồn từ sự thật. ‘Chú tửng chú tưng! Gặp chị

                              bán gừng! Ni nả ni nơi, Ni nởi ni na, Là con số 43. Phải rồi, cha Hiến đúng 43 tuổi gốc Tàu. Hiến chột dạ, không thể để mẹ buồn bên kia thế giới, Hiến ru nhắc khéo ba: ‘Ầu ơ! Gió đưa buội chuối sau hè Ba mê vợ bé, bỏ bè con thơ!’ Hiến chợt xót

                              lòng, hối hận, ‘Ba có nghe không ba?’ Bây giờ Hiến mới có dịp quan sát cha ruột mình. Da lưng nhăn nhúm lồi những đốt xương sống như mai rùa; ông ngồi chồm hổm trước sân nhà

                              dưới cơn nắng thiêu đốt. Ông lui cui, liền tay lột đống măng ở góc sân, xắt nhỏ măng rải đều lên tấm đệm; thỉnh thoảng ông dừng lại đưa tay lên miệng cắn lông măng đâm ngón tay. Hết

                              đống măng, đến những bao củ cải trắng; ông xẻ củ cải, muối cải phơi khô bán cho các tiệm tạp hóa. Từ tờ mờ sáng, ông đã quảy gánh vào Sóc mua thổ sản; trưa về còng lưng dưới ánh

                              nắng, ông lại bắt đầu làm việc tới nửa đêm, ít khi nói chuyện với anh em Hiến. Nhìn đống măng, đống củ cải bên những bao muối, đôi cần xé và chiếc đòn gánh bóng mượt mồ hôi nhọc

                              nhằn của tháng ngày đi sớm về trưa. Kìa, mấy cà ròn mặc nưa để sẵn bên cối chờ ba giã chiều nay; mấy bao tro trấu cho ba vắt trứng vịt muối; hai con gà tre mồng đỏ, gáy te te trong

                              chuồng ba mua từ trong Sóc mang về con chơi. Cái quần đen thùng thình ba mặc, giây lưng bằng bố, đầu buộc nút đồng xu cổ lổ quen thuộc; vậy mà ba to tiếng, suýt ẩu đả với người thợ

                              may thất hứa không kịp giao áo mới cho con trước Tết. Ba mua về cho con đôi guốc vông, dù ba đi chân đất, gân nổi ngoằn ngoèo như những con trùng đất, dẫm trên gai góc sỏi đá hai

                              mùa mưa nắng. Sinh kế công việc bề bộn làm ba câm lặng không hề than thở dù có hôm bịnh run lập cập thiếu nước trà nóng để uống thuốc. Hiến nhìn cha đăm đăm, người cha như

                              vậy đâu nỡ đành bỏ con theo chị bán gừng, ‘Ba không theo vợ bé, bỏ bè con thơ, phải không ba?’ Bé Út lật mình khóc, hơi thở khò khè vì nổi ban đỏ tối qua. Tiếng khóc bịnh hoạn đứt

                              đoạn của em làm Hiến nao núng. Hiến nhìn ba, rồi nhìn bàn thờ mẹ kêu cứu thiết tha, ‘Má ơi! Về em bú!’ Bên cạnh nhà, thằng Ðực đang bị má nó mắng vì ăn cơm bỏ mứa; suốt ngày

                              rong chơi bắt dế, đá gà. Hiến thấy tủi thân, không kịp ngăn nước mắt lưng tròng, cổ bị lạc giọng nghẹn ngào. Hiến giả vờ ho, thoáng bên kia hàng rào dâm bụt, Cầm đang lui cui dọn

                              dẹp; Hiến sợ Cầm biết tâm sự đau đón tột cùng của mình. Hiến cắn môi, cố gắng giả vờ bình thản, vừa quạt vừa vuốt má em,

                              tay kéo giây đưa võng kẽo kẹt, ngước mắt nhìn trời cao xanh, dỗ dành em: ‘Ngủ đi cưng, Ầu ơ! Em tôi khát sữa bú tay,
                              Ai cho bú thép, tối ngày mang ơn!’





                              CHÚ THÍCH:
                              (1) Cầm chầu: Khoảng năm 1950 về trước, mỗi buỗi trình diễn hát bội đều có lệ ‘cầm chầu’. Người có uy tín được cử cầm chầu ngồi trước cái trống chầu đặt trước sân khấu. Mỗi đoạn diễn xuất hay, người cầm chầu đánh vào trống để tán thưởng, ông biện ngồi bên đếm tiếng trống để tính tiền thưởng đào kép. Nếu diễn xuất kém, người cầm chầu ‘chầu lơi’, nghĩa là thỉnh thoảng đánh một tiếng trống, dĩ nhiên là tiền thưởng sẽ ít đi.
                              (2)
                              Xưa có câu: Ở đời có bốn chuyện ngu Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.
                              Bốn việc làm trên xét ra không có lợi lộc gì.
                              - Làm mai: Nếu gia đình rể dâu hạnh phúc thì không nói làm gì; khi cơm không lành canh không ngọt, cô dâu chú rể oán trách ông bà mai.
                              - Lãnh nợ: Khi con nợ trả không nổi, người lãnh nợ phải trả cho chủ nợ.
                              - Gác cu: Ðây là thú vui rất mất thì giờ. Người gác cu huấn luyện cho cu mồi trong lồng gáy, rồi đặt lồng cu trong rừng và ngồi rình. Chim cu rừng nghe cu mồi gáy bay vào lồng đá cu mồi; người gác cu kéo xập lồng để bắt cu rừng, có khi cả tuần lễ không được con nào, việc nhà bê trễ, vợ mắng con la.
                              - Cầm chầu: Khi chầu dồn dập, người mua vé thượng hạng, ngồi hàng đầu bực mình; chầu lơi, đào kép giận hờn.
                              (3) Trâu già đòi ăn cỏ non: Người già muốn có vợ trẻ.
                              (4) Cái nia: Loại rổ lớn bằng tre đan, đường kính chừng 1 thước tây.
                              (5) Họa hổ, họa bì nan họa cách (cốt), tri nhơn tri diện bất tri tâm: (Vẽ cọp, vẽ da, khó vẽ xương. Biết người, biết mặt, không biết lòng).
                              (6) Trái mặc nưa: Hình dáng giống trái thị, nhưng chỉ to bằng đầu ngón tay trỏ, giã nát ra pha với nước làm mầu nhuộm đen rất tốt.
                              (7) Bú thép: Bú nhờ.

                              Pforzheim 8 - 1987


                              Lưu Nhơn Nghĩa
                              thatsonchaudoc
                              sigpic

                              Comment

                              Working...
                              X