Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Ngàn Giọt Lệ Rơi - Yung Krall Đặng Mỹ Dung

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    Chương 32



    Tôi nghe từ đầy dây bên kia có tiếng trả lời:
    - Allo!
    Giọng nói nửa Pháp nửa Anh, nhưng tôi biết ngay là ba tôi, dù đã hơn hai mươi năm chưa một lần tiếp xúc. Tôi nghĩ xốn xang, nghẹn ngào, chỉ muốn kêu lên thật lớn: “Ba ơi! Con đây”. Nhưng tôi có nén xúc động để bình tĩnh, kính cần hỏi:
    - Thưa ông, có phải ông là Đại sứ Minh không?
    - Phải, tôi là đại sứ Minh. Ai gọi tôi đây?
    Giọng ba tôi trong, pha lẫn tiếng cười nên còn rất trẻ. Tôi thêm:
    - Thưa, có phải trước năm 1954, ông là tỉnh uỷ Cần Thơ không? Tên thiệt của ông là Đặng Văn Quang?
    Lần này, tôi nghe một tiếng cười nổi lên trong điện thoại tưởng tượng ra hàm răng trắng tươi của ba tôi.
    - Đúng rồi. Bây giờ cô phải nói, làm sao cô biết rõ tôi vậy?
    - Hồi đó cháu ở Biên Hoà, gần hãng cưa Tân Mai. Cháu cô Bảy Khuê.
    - Cô ấy là em một tôi! Vậy, cô có phải là một trong những sinh viên Việt Nam sáng nay ra phi trường đón phái đoàn của chúng tôi không?
    Đến đây, tôi chịu hết nổi vì quá xúc động. Tôi nghẹn ngào kêu lên:
    - Ba ơi, con đây, ba. Con là Mỹ Dung, con gái của ba nè.
    Bên kia đầu dây bỗng im lặng như tờ. Tôi có cảm tưởng ba tôi quá xúc động vì bị bất ngờ đến ngừng tim, nên tôi hốt hoảng nói:
    - Ba, ba còn đó không? Ba có làm sao không?
    Tôi nghe có tiếng động mạnh như tiếng máy điện thoại rơi xuống bàn, hay xuống sàn. Tôi càng hoảng sơ hơn, vì tưởng ba tôi té xíu. Nhưng tôi chưa biết nên phản ứng ra sao, thì bên kia đầu dây có tiếng của ba tôi:
    - Trời ơi! Con gái của ba.
    Tôi lại giữ mi lặng. Sự im lặng lần này lâu hơn, những tôi biết ba tôi không đứt tìm đến té xỉu, vì tôi nghe có tiếng khóc. Tôi nghẹn ngào chờ đợi.
    Rụt rè, tôi hỏi:
    - Mình nói chuyện trong điện thoại được không, ba?
    Tôi biết cộng sản luôn luôn rình rập đảng viên của họ. Đảng đã nghe trộm ông Hồ Chí Minh, thì tha gì ba tôi.
    - Không, con à. Mình không nên nói nhiều trong điện thoại. - Ba tôi chậm rãi trả lời - Sao con biết ba ở đây vậy con?
    Tên của ba trên báo Japan Times. Hình của ba trên hết báo Nhựt. - Tôi đáp với một vẻ tự hào.
    - Con ơi, ba rất sung sướng được nghe tiếng con gái của ba! - Ba là tôi ngập ngừng, không nói tiếp. Tôi vội hỏi:
    - Con tới gặp ba bây giờ được không? Con biết đã khuya lắm rồi!
    - Con đi với ai? - Ba tôi hỏi bằng một giọng nghiêm nghị.
    - Con đi với thẳng nhỏ của con. Mà bây giờ nó đang ngủ. Con sẽ kêu người giữ nó!
    - Chỗ lạ mà con có thể tin người ta giữ con cho con sao?
    Tôi vui vẻ trấn an ba tôi:
    - Ông ngoại đừng lo. Con sẽ gọi người giữ trẻ trong khách sạn trông chừng cháu của ông.
    Ba tôi căn dặn:
    - Cứ đi thẳng lên phòng của ba, đừng ghé quầy tiếp khách, cẩn thận nhìn trước ngó sau, khi lên thang máy đến phòng của ba.
    Ngoài ra, chúng tôi đồng ý là vẫn giữ lý lịch giả. Nếu tình cờ gặp ai trong phái đoàn, thì tôi là một sinh viên Việt Nam ở Nhựt vừa tới thăm người đại diện của Việt Nam. Cách che giấu này cũng hợp lý, vì chỉ có Việt kiều yêu nước hay gián điệp của Việt Cộng mới dám tới gặp ông đại sứ vào cái giờ khuya khoắt này. Ttn không phải Việt kiều Y6u Nước mơ cũng không phải là gián điệp Việt Cộng, nhưng nếu tôi phải hoá trang với bộ râu để biến thành Hồ Chí Minh mà được gặp ba tôi lúc bấy giờ, thì tôi cũng phải hạ mình làm thôi.
    Tôi để nhẹ điện thoại xuống, như sợ đặt mạnh quá thì ba tôi biến mất. Thương cho người chồng, người cha cô đơn. Mà cũng thương cho người làm cách mạng, mà chính bản thân ông, cũng chưa được tự do, khi đảng của ông đã “giải phóng miền Nam”

    Một người đàn bà Nhựt có nhiệm vụ trông chừng Lance, tới phòng tôi trong bộ y phục mầu trắng. Bà trông gọn gàng, vui vẻ rất lịch sự, nhã nhận. Nhìn Lance ngủ say, bà gật đầu ha rồi mở của cho tôi đi.
    Ngồi trong taxi trên đường đến khách sạn Prince, tôi suy nghĩ liên miên. Tôi sẽ gặp lại ba tôi sau hơn hai mươi năm xa cách. Rồi cùng một lúc, tôi cũng sẽ gặp một chánh trị gia đại diện cho chánh phủ mà trong thâm tâm tôi vẫn coi là những người cướp nước tôi. Nhưng mặt khác, tôi lại ước mong ba tôi sẽ là ngọn đèn leo lét cho một niềm hy vọng; hy vọng cho một Việt Nam tự do, thái bình, và người dân được no ấm, hạnh phúc.
    Ra khỏi taxi, tôi nhanh nhẹn bước vào khách sạn, đi thẳng lên phòng ba tôi như một người khách đã quen. Ba tôi vụt mở cửa khi tôi chưa kịp gõ tới tiếng thứ ba.
    - Trời ơi!
    Ba tôi thốt kêu, rồi một tay ôm tôi thật chặt, một tay khép lại. Ông ôm tôi, rồi trận mưa hôn bắt đầu phủ lên tóc, lên mặt, hai cánh tay, hai bàn tay tôi, như 20 năm về trước mỗi lần đi công tác xa về. Ba tôi có thói quen hôn tôi, Hải Vân và Hoà Bình.
    Rồi hai cha con tôi ngồi xuống cái ghế salon dài. Ba tôi bỏ kiếng ra, nắm lấy hai vai tôi, rồi nhìn tôi không chớp mắt.
    - Con ơi, con cưng của ba, lâu quá rồi, con ơi!
    Mặt ba tôi ướt đầm đìaa. Tôi lău nước mắt cho ông, mà mắt tôi khô. Tôi cảm động đến nghẹn lại, chỉ đưa tay rờ mái tóc trên vầng trán cao. Ba tôi vẫn chải đầu rẽ tóc qua bên mặt. Bây giờ tóc của ông đã ngả mầu. Hai mươi nam xa vợ, xa con! Hai mươi năm sống xa thế giới văn minh! Ngoài mái tóc bạc, không biết tình của ba tôi dành cho gia đình có còn nồng ấm như xưa không?
    Ông chậm rãi nói nho nhỏ:
    - Ba không có lời nào để diễn tả đủ thứ tình cảm, nhớ thương đối với với má, chị em con và Hải Vân.
    Ba tôi nghẹn ngào khi nhắc đến Hải Vân, ông im lặng như để nghiêng mình trước vong lính của thằng con chết yểu. Tôi siết tay ba tôi để chia sẻ nỗi đau thương. Ít nhứt ba tôi và tôi, chia sẻ được cùng một nỗi đau, và cũng cảm thấy nỗi trống vắng lớn lao vì sự ra đi quá sớm của em tôi. Ba tôi thở dài, buồn bã nói:
    - Buồn quá, ba không muốn nhắc tới Hải Vân nữa.
    VBa tôi vừa nói vừa nhìn vào khoảng trống. Tôi thắc mắc:
    - Con không hiểu ý ba.
    - Ba được cấp trên cho biết Mỹ giết Hải Vân.
    Tôi giựt mình, nhưng không dám nhích xa khỏi ba tôi, khi tôi thấy hận thù hiện lên trong đôi mắt của người cha, tin rằng con mình bị kẻ thù hãm hại.
    - Ba muốn tìm hiểu sự thật hay ba muốn chấp nhận lời bịa đặt?
    Tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào mặt ba tôi, rồi tiếp:
    - Con không muốn cãi với ba ngay buổi gặp đầu tiên sau hơn mươi năm xa cách. Nhưng, con phải nói thật, là cấp chỉ huy của ba quen nghề nói láo. Em con không bị ai giết hết, chỉ là một tai nạn!
    Ba tôi liền đổi đề tài:
    - Hãy nói về má con, về con và các chị em con cho ba nghe!
    Mắt ba tôi sáng ngời trở lại khi ông nhắc đến vợ con.
    - Mà khoẻ mạnh, má mong tin ba lắm. Mấy chị mấy em của con bình yên. Chị Kim, chị Cương đã có chồng; chị Cương có hai con gái. Hoà Bình có một thằng con trai bằng tuổi thằng con của con, còn Minh Tâm thì mới chân ướt chân ráo trên đất lạ, cũng như mọi người khác, phải đi học để hội nhập đời sống. Con biết, Hoà Bình sẽ nhớ Việt Nam hơn mọi người trong gia đình. Con cũng như nó. Con cứ chiêm bao thấy trở về Việt Nam. Con còn nghe thoang thoảng mùi lúa chín ngoài đồng trong ngủ. Mầu vàng rực của những trái quít chín trong vườn ông ngoại bà ngoại vẫn ám ảnh con. Con còn cảm thấy cái mát rượi của nước sông trên da thịt con. Con vẫn mơ ước cái không khí đầm ấm bình yên trong ngôi làng của ông ngoại bà ngoại. Con toàn chiêm bao thấy quê hương thôi, ba ai!
    Nghe tôi say sưa nói về quê hương Việt Nam, ba tôi vui vẻ mắt sáng ngời, nắm chặt lấy tôi, nói:
    - Được như vậy quý lắm, con à.
    Thấy ba tôi vui, tôi trả lời cái chết của Hải Vân:
    - Ba à, con muốn cho ba biết chắc chắn là không có ai giết rm con hết. Hải Vân là người chiến sĩ, dù em chưa kịp ra trận. Em là phi công của Quân Lực Việt Nam Cộng hoà. Em chết vì tai nạn mà ai cũng đã biết rõ như vậy. Cả gia đình đều biết như vậy. Con xin ba hãy tin sự thật của gia đình, cha đừng nghe lời tuyên truyền bậy bạ của cộng sản.
    Ba tôi bỗng đập bàn, nói lớn:
    - Không, không phải là một tai nạn như con tưởng. Chúng dàn cảnh ra như vậy. Chúng nó cũng là bọn bắt ép má con phải bỏ Sài gòn mà đi, khi ba sắp sửa trở về. Làm sao con biết được mánh khoé lừa bịp của chúng nó.
    Tôi cố giữ bình tĩnh:
    - Ba tin là chị của nó để yên cho quân nào “giết” em mình sao?
    Tôi đâu có nói được chính tôi là người đi cầu cạnh CIA cứu má tôi, chớ nào có ai “ép” má tôi rời Sài gòn!
    Ba tôi giữ im lặng một chút, rồi rót một ly nước đầy để uống. Không biết ông uống nước để dằn cơn giận, hay để lấy thêm sức cãi vã với đứa con gái cứng đầu cứng cổ. Uống xong, ông nhìn tôi, nở một nụ cười thân thiện, nói:
    - Hai chục năm trước, ba đã hình dung ra, con sẽ là con một con người như thế nào khi con lớn. Bấy giờ, ba thấy đúng như vậy!
    ôi dịu dàng nói:
    - Con rất tiếc, nếu con đã làm cho ba thất vọng về con.
    Ba tôi liền đáp:
    - Không, ba không thất vọng về con. Ba chỉ muốn con của ba thương ba và tin tưởng ba thôi.
    Tôi vòng tay ra sau lưng ba, rồi siết chặt thật lâu. Rồi vui vẻ nói:
    - Con rất mừng khi nghe ba nói vậy. Bấy giờ ba cho con biết về anh Khôi của con đi.
    Mắt ba tôi lại sáng ngời, mặt ba rạng rỡ khi tôi nhắc đến anh Khôi. Từ ngày anh còn nhỏ, ba tôi đã cưng anh nhứt nhà, đã hãnh diện về anh. Ông vui vẻ nói:
    - Anh con đang sửa soạn lên đường vào Nam. Khi ba về Việt Nam sẽ ghé Hà Nội đón anh hai con cùng vào Nam. Anh nhớ con nhiều nhứt đó!
    Tôi nửa đùa nửa thật nói:
    - Không biết ai nhớ ai hơn ai, ba ạ!
    Ba tôi nhìn tôi đăm đăm, rồi hỏi:
    - Chừng nào con về thăm nhà?
    Tôi thầm tự hỏi có nên nói thật ý nghĩ của mình không, rồi gượng đáp:
    - Không, ba à. Con chỉ có can đảm chịu đựng với những gia đình, những mất mát trong chiến tranh, mà còn không có lòng dạ nào chứng kiến người dân Việt sống nhục nhã dưới chính quyền Hà Nội.
    Tức thì mặt ba tôi sầm lại, nhưng ông cố nén cơn giận, nói:
    - Ba muốn đón má về với ba.
    Tôi đáp ngay:
    - Đó cũng là ước nguyện của má.
    - Vậy thì con tìm cách đưa má qua Paris gặp ba.
    Tôi biết Paris là nơi rất quen thuộc của nhiều người Việt thân Cộng, cũng là nơi hoạt động của Cộng sản Bắc Việt, nơi đó ba tôi có nhiều đồng chí, bạn bè.
    Tôi mỉm cười hứa hẹn:
    - Dạ, con sẽ cố gắng hết mình.
    Ba tôi vui vẻ:
    - Cố gắng cho ba nhen con.
    Tôi trịnh trọng đáp:
    - Lời hứa của người họ Đặng là một lời danh dự, ba à.
    Mỉm cười một cách hài lòng, rồi ba tôi nhìn đồng hồ tay. Lúc ấy tôi mới thấy chiếc đồng hồ Omega thật đẹp. Ông bào, tôi đã đến lúc phải về với cháu ngoại của ông. Tôi chưa muốn xa ba tôi ngay, nhưng thấy ông có vẻ mệt, và biết rằng hôm sau ông phải dậy sớm để dự một buổi tập họp đông đảo tại một nơi trong thành phố. Tokyo. Tôi bỗng thấy khó chịu trong người. Ba tôi, một người rất thân của tôi, lại có mặt trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, chống bom nguyên tử. Tôi bât giác mỉm cười bâng quơ. Ba tôi thấy tôi cười thì hỏi lại sao tôi cười? Tôi liền đáp:
    - Cha con mình bấy giờ khác nhau quá.
    Khi tôi trở về khách sạn, người đàn bà Nhựt giữ trẻ vừa ra khỏi phòng thì ba tôi gọi, ông không chỉ muốn biết xem tôi về nhà an toàn không, mà còn nói:
    - Con à, lần tới, cha con mình đừng nói chuyện chánh trị nữa nhen con. Hãy nói về gia đình thôi. Con cho ba biết về má, về chị em của con, về mấy người con rể của ba. Thời gian của cha con mình ngắn ngủi quá con à.
    Nhưng tôi không chịu, liền đáp:
    - Suốt đời chúng con thiếu ba chỉ vì chánh trị. Ba xa chúng con hai mươi năm. Ba biết không? Gia đình ly tán vì chánh trị. Chánh trị làm vợ xa chồng, con xa mẹ. Đời sống của mình đã bị chánh trị cầm đầu, mình phải nói tới chánh trị, ba à.
    Ba tôi vừa cười vừa nói:
    - Ba nhớ con gái cưng của ba dễ thương, thông minh, cứng đầu, nhưng ba không ngờ con ba lại dữ thế này… Nhưng bà biết con thương ba là đủ rồi.
    Tôi đổi sang hướng khác.
    - Ba, con không có giận ba, mà con giận đảng Cộng sản, giận cái tập đoàn của những người đã phản bội cách mạng thôi.
    Nói xong, tôi chờ đợi cơn giận dữ của ba tôi. Nhưng ông bình tĩnh trả lời:
    - Ba mong rằng sẽ có dịp cho con thấy cái mặt tốt đẹp của cách mạng. Rồi con sẽ vui vì thấy ba đi đúng đường.
    - Con lúc nào cũng hãnh diện vì ba đã can đảm chiến đấu chồng ngoại bang, đã từng vô tù ra khám, từng bị đầy ra Côn đảo. Nhưng con không thể chấp nhận sự có mặt của tập đoàn cộng sản Hà Nội ở miền Nam.
    Tôi nói một hồi dài như sợ bị ba tôi ngắt lời. Tôi nghe tiếng cười của ba tôi, rồi ông nói:
    - Thì con cứ tiếp tục hãnh diện về ba đi. Tin rằng luôn luôn ba đem hết sức ra để phục vụ miền Nam. Con có biết không? Không chỉ chúng ta thắng cuộc chiến này, mà ngay cả người Mỹ thắng nữa…
    Tôi vội ngắt lời:
    - Có thể đó là mấy thằng trốn lính, mấy thẳng phản chiến, chớ đâu phải toàn dân tộc Mỹ. Con đau đớn lắm khi miền Nam của xon đã mất.
    Tôi nghe có tiếng cười của ba tôi, rồi ông nói:
    - Nghe con nơi mà thấy vui vui, vì lạ tai.
    Tôi cũng cười theo và chọc ba tôi:
    - Con tin là không có ai dám trả trêu với ông đại sứ của ntr Giải phóng Miền Nam như con đâu. Nhưng con là con của ba, nên mới dám lợi dụng ba như vậy.
    - Con thì tha hồ lợi dụng ba bất cứ lúc nào cũng được.
    - Thiệt vậy hả ba?
    - Ba nói thật.
    - Con có một chuyện muốn ba giúp. Ba phải hứa là phải cố gắng hết sức nhen.


    Ba tôi im lặng chờ đợi. Tôi nói tiếp:
    - Hồi nãy ba nói quê hương mình hết giặc rồi. Hết giặc có nghĩa là hoà bình, xoá bỏ hận thù, lá tha thứ, là thương yêu nhau “trong tinh thần của cách mạng” phải hông?
    Tôi nghe ba tôi thở dài; chắc ông biết ông cho tôi một thước, tôi lại đòi một cây số.
    - Con muốn nhắc tới những người tù binh Mỹ con bị Hà Nội cầm tù. - Tôi nghẹn ngào nói.
    Thật ra vấn đề này tôi đâu có định nói với ba tôi, nhưng khi ông nói ông cho tôi lợi dụng ông, thì tôi chụp ngay cơ hội.
    Ba tôi ngập ngừng đáp:
    - Con à, đó là một vấn đề ba không có thẩm quyền nói tới.
    Giọng ông trở nên nghiêm nghị, chậm rãi như giọng nói của một nhà ngoại giao tuyên bố trước công chúng. Tôi cũng lấy giọng nghiêm trang đáp lại:
    - Con biết, nhưng con không có nói với một người có quyền hành, mà con nói với một người mà ai ai cũng mến thương, quý trọng, vì tình yêu của người đó cho dân tộc và gia đình. Con nói, với một người có trái tim, có kinh nghiệm, đã từng bị người ta nhốt vô tù vì lý tưởng. Con muốn những người tù binh Mỹ này được trả tự do để họ được về với gia đình họ, ba à. Bây giờ con lớn rồi, nhưng con vẫn còn tin ở sự mầu nhiệm, mà sự mầu nhiệm nhiệm đó chỉ có từ con tim của những người đàn ông như ba!
    Tôi nghe ba tôi khẽ thở dài, rồi ông nói bắng một giọng lạnh lùng:
    - Con à, tại sao con lại dằn vặt con như vậy? Chuyện không liên quan gì đến cha con mình. Không liên quan gì tới 20 năm chia cách của gia đình minh.
    - Ba à, làm con của ba, con hiểu thấu được thể nào là lớn lên không có cha, con codn được biết cái sung sướng vô tận khi gặp lại ba. Con biết ba sung sướng biết chừng nào khi ba nói chuyện với con. Con muốn ba giúp cho những người đàn ông. đàn bà và con trẻ được hưởng cái sung sướng mà mình đã được.
    - Ba không thể nói đến chuyện này nữa.
    - Ba có thể!
    - Con không hiểu sao?
    - Con hiểu, nhưng con không chấp nhận là ba của con lại từ chối một dịp đem hạnh phúc đến cho người khác. Ba mới là người biết tươi cười khi thấy người đàn ông đoàn tụ với gia đình mình sau một thời gian xa cách. Ba mới là người lấy tay chùi nước mắt khi khi thấy một người từ liệng cái nạng để ôm lấy con của mình. Dù là hình ảnh của ba con. Nếu ba không có dậy con đừng ích kỷ, con không có dùng thì giờ quý báu này của cha con mình mà nói chuyện hạnh phúc của người ta. Con nghĩ, ba hiểu con mà.
    Tôi nói một hơi không cho ba tôi nói. Nhưng ba tôi ngắt lời:
    - Con à, nghe ba nơi đây. Ba thương con vì con không ích kỷ, nhưng con phải hiểu, trên ba con có đảng. Nó không có giản dị như con tưởng.
    - Con đâu có kêu ba mở chuồng thả những tù binh Mỹ. Con chỉ xin ba tạo ảnh hưởng những người có quyền lực trong vấn đề này. Ba làm cho Liên Xô mê Mặt trận giải phóng miền Nam được, thì vì những gia đình của tù binh, ba làm cho bác Lê Duẩn mê ba đi.
    - Ba nghĩ mình không nên nói chuyện này trong điện thoại. - Ba tôi nói.
    - Ba làm ơn nghĩ đến những gì con nói nhen.
    - Ba sẽ nghĩ đến tất cả những gì con nói với ba.
    - Con muốn ba nghĩ đến vợ con của những người Mỹ mất tích mỗi khi ba nghĩ đến má và tụi con. Sự suy nghĩ của ba quan trọng lắm, nó thể thay đổi cho những người bị tù đầy.
    - Ba thương con lắm con có biết không. - Ba tôi nói.
    - Con thương ba nhiều lắm.
    Tới đây, ba tôi đổi đề tài, ông hỏi tôi:
    - Người ta nói cho ba biết chồng con là người Nam Tư. Có phải không?
    - Dạ, anh là người Mỹ gốc Nam Tư. Tình yêu nói nhiều thứ tiếng lắm, ba à.
    Chúng tôi cùng cười vang trong điện thoại. Rồi ba tôi ngập ngừng:
    - Ba mừng. Ba chỉ sợ…”
    - Ba sợ con có chồng người Mỹ vì phương tiện chớ gì? Má con nói giòng họ Đặng của mình mùi mẫn lắm.


    Chúng tôi cười, tiếng cười đem lại cho tôi những kỷ niệm vui tươi của gia đình lúc tôi còn nhỏ. Chúng tôi chúc nhau ngủ ngon năm sáu lần rồi mới chịu ngừng.

    Comment


    • #32
      Chương 33


      Tôi nghe hơi ấm của ánh nắng xuyên qua cửa kiếng chỗ tôi đang ngồi viết nhật ký. Ngước nhìn lên, tôi thấy mặt trời đi cao ngoài cửa sổ, 6 giờ! Thế là tôi đã thức suốt đâm.

      Lance còn ngủ say, cái chân tuột khỏi chăn, một tay ôm con khỉ, tay kia để dưới đầu. Cách ngủ của nó giống ba nó như đúc. Tôi thầm nghĩ: “Giống gì mà giống dữ vậy!
      Tôi bỗng nghe ê ẩm cả người vì đã ngồi suốt đêm. Tôi uể oải đứng lên và cảm thấy buồn ngủ quá. Nhưng tôi biết, nếu tôi ngả lưng nằm xuống giường, thể nào tôi cũng ngủ tới trưa. Tôi không có thì giờ để ngủ, vì đã tới giờ cho Lance ăn sáng, để con đi thăm ông ngoại. Khi hai mẹ con ngồi trong taxi đi tới khách sạn Prince tôi bắt đầu nói về ba tôi cho đứa bé 5 tuổi nghe. Ông ngoại nó là một nhân viên của Bộ ngoại giao ở Sài gòn, và bây giờ đang ở Nhật để tham dự một buổi họp quốc tế.
      Nó có vẻ suy nghĩ, rồi cau mày nói:
      - Nếu ông ngoại ở Sài gòn bây giờ, thì ông phải là cộng sản!
      Tôi giựt mình về nhận xét của một đứa bé mới 5 tuổi, tôi phải tìm lời trấn an nó:
      - Lance nói đúng. Nhưng đừng quên ông là ông ngoại Lance, và ông muốn gặp con lắm.
      Nó đáp ngay:
      - Lance hổng sợ.
      Tôi dặn dò nó:
      - Trong phòng ông ngoại có thể có người ra vào, vì họ làm việc với ông. Vậy con đừng nói gì đến Daddy của con nhen, nhớ là đừng cho ai biết Daddy là phi công. Đây là bí mật của mình, đừng nói cho ai nghe nhen.
      Lance liền hỏi:
      - Daddy của Lance có bỏ bom Hà Nội không?
      - Mommy không biết.
      Lance nhỏ giọng:
      - Mà nói cho Lance biết đi. Lance hứa không nói cho ai biết đâu.
      - Chừng nào mình về nhà, con hỏi Daddy nhen.
      Vừa nói tôi vừa hơn lên tóc thằng nhỏ và cười thầm, vì nó cũng làm ra vẻ người lớn.
      Có lẽ ba tôi đã đợi ở cửa lâu, nên tôi vừa gõ, cửa đã mở ra. Sáng nay trông ba tôi có vẻ vui hôm hôm qua. Tóc ông chải gọn gàng, áo sơ mi trang ủi thẳng nếp, và cái cà vạt mầu xanh, xọc xám mục đích tinh. Ba tôi xớt Lance lên tay; tôi đi sau khép cửa lại. Nhìn ba tôi hôn lên tóc Lance, tôi nhớ lại hồi tôi còn nhỏ, ba tôi cũng hay hôn lên tóc tôi, rồi nói: “Tóc con thơm như bông bưởi trong vườn bà ngoại.
      Ba tôi nói chuyện với Lance bằng tiếng Việt. Rất may là lúc đó Lance còn nói và hiểu được tiếng Việt rất nhiều. Nó còn nói điều kiện một cách văn vẻ. Lance đề nghị:
      - Ông ngoại về ở với Lance và má Lance được không?
      Ba tôi ôm cứng Lance vào lòng nhưng không trả lời. Lance nói thêm:
      - Daddy của Lance sẽ thương ông ngoại nữa. Daddy nói vậy rồi mà!
      Ba tôi vui lắm, càng ôm cứng Lance vào lòng, rồi thủ thỉ bên tai nó:
      - Thank you… Thank you, my grandson.
      Lance tiếp tục dụ dỗ ông ngoại:
      - Bà ngoại nhớ ông lắm. Bà viết thơ cho ông mà khóc.
      Nói xong, Lance tuột xuống khỏi vế của ông ngoại, chạy đến mặt tôi, xoè hai tay ra để đòi lá thơ của bà ngoại viết cho ông ngoại. Tôi vui vẻ đưa cho nó. Nhưng ba tôi không đọc ngay, bỏ vào túi áo, rồi lại ôm cháu mà hôn lên trán nó.
      Nhìn hai ông cháu âu yếm nhau mà tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn Chúng tôi vô cùng yêu thương nhau, nhưng vì khác lý tưởng, chúng tôi đã xa cách ngàn trùng, mỗi người đi một con đường riêng. Tôi đã chịu nhiều đau đớn âm thầm từ ngày miền Nam sụp đổ, trước mắt tôi lúc này là người cha vô cùng thương yêu của tôi. Nhưng đồng thời, ông cũng là một đại diện của những người đang nắm quyền ở đất nước tôi, tức là những kẻ đã xâm chiếm miền Nam, tức kẻ thù của dân Nam.
      Trong khi tôi đau buồn suy nghĩ như vậy, ba tôi vẫn thản nhiên vui với cháu ngoại.
      Tôi đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng có tiếng gõ cửa. Ba tôi hơi giật mình, chau mày nhìn ra cửa, nụ cười tươi trên môi biếm mất. Ông bước ra mở cửa. Một người đàn ông Việt Nam khoảng 30 tuổi cung kính chào ba tôi. Ông gọi anh ta là “đồng chí”, mời anh ta vào phòng, rồi nói:
      - Tôi muốn đồng chí gặp một người đồng hương, cùng làng với tôi ở Cần Thơ.
      Tôi hiểu ý ba tôi ngay, nên từ đó tôi gọi ông là “Bác Năm”. Người “đồng chí” đó là người thông ngôn của ba tôi. Anh ta có thể thông thạo ba thứ tiếng: Nhật. Anh và Pháp.
      Khi anh ta thấy Lance có mặt ở trong phòng mà chúng tôi chưa kịp giới thiệu, tỏ vẻ bối rối, bắt tay cháu rồi nói:
      - Bonjour!
      Lance nói ngay:
      - I don't speak French, only speak English Vietnamese!
      Lần đầu tiên tôi thấy con tôi rụt rè mà nóng ruột. Sau khi trở lại mấy câu hỏi xã giao của anh thông ngôn về tuổi tác, học hành, Lance nhìn người thông ngôn và hỏi lại:
      - Cậu là cộng sản, phải không?
      Ba tôi và tôi đều giựt mình, nhưng anh thông ngôn mỉm cười thản nhiên trả lời:
      - Phải!
      Thằng nhỏ bỗng có vẻ sợ, nhích ra xa anh thông ngôn ít chút vì đang cùng ngồi trên ghế dài. Nó nhìn thẳng mặt anh và hỏi:
      - Cậu sẽ giết Lance và má Lance, phải không?
      Anh ta nhìn tôi, nhưng tôi nhìn xuống đất. Anh quay lại Lance:
      - Sao em lại hỏi vậy?
      - Má của Lance giúp mấy người chạy trốn. Người ta nói người ta sợ cộng sản, người ta chạy trốn. Lance không muốn cậu giết Lance nhen.
      Ba tôi ra dấu cho tôi bảo cháu ngừng nói. Tôi phải “hỏi lộ” thằng nhỏ cái bánh croissant và ly nước cam. Nó chạy sang bàn to, nhưng mắt vẫn không rời khỏi anh thông ngôn. Anh nói nhỏ với ba tôi mấy câu rồi đứng dậy, đi về hướng cửa, Lance lại còn nói thêm:
      - Lance muốn cậu tử tế với người Sài gòn, nghen cậu. Lance có ở Sài gòn rồi, người ta thương Lance lắm!
      Anh thông dịch viên hơi lúng túng, rồi bước lại gần nó, nói:
      - Cậu sẽ tử tế với người Sài gòn, cháu đừng lo!
      - Daddy của Lance là ông Mỹ, thấy người chết ở Sài gòn thì buôdn lắm. Daddy nói cộng sản giết người ta.
      Người đồng chí của ba tôi nhìn tôi mà không nói được một lời, mở cửa bước ra.
      Ba tôi lắc đầu tỏ vẻ bực mình vì lời nói thẳng của tháng cháu ngoại 5 tuổi, rồi bảo tôi:
      - Ngày mai con nên đến một mình. Vì sẽ có nhiều người tới đây gặp ba với nhiều việc phải làm!
      - Con xin lỗi ba.
      Ba tôi chép miệng:
      - Khi người lớn đầu độc con nít thì con nít đâu có đáng trách.
      Tôi lắc đầu, cãi:
      - Ba à, con đâu có đầu độc nó. Con nói cho nó biết cái gì con tin là sự thật, chừng nào nó lớn khôn, tự nó nó chọn. Ba dậy con trọng tinh thần cách mạng, con làm cách mạng tư tưởng, khi con dám nhận biết cái nào hiền, cái nào ác, và con không chọn cái ác.
      Ba tôi im lặng, rồi kéo ghế kêu tôi ngồi vào bàn ăn điểm tâm sáng. Ba tôi vẫn giữ thói quen uống trà buổi sáng. Tôi nhớ lại hồi ở trong vùng giải phóng, sáng nào ba má tôi cũng uống nước trà trong bếp, trước bếp lửa. Ba tôi hãnh diện là có người vợ hiền, để sẵn sàng chia sẻ các khó khăn cũng chồng. Mặt ba tôi tươi hẳn lên khi tôi nhắc lại chuyện đó. Thấy ông vui, tôi nhẹ nắm tay ông, rồi hỏi:
      - Ba có tin là con nói với ba với tất cả lòng chân thành từ tim con không?
      Ba tôi gật đầu, đáp:
      - Ba biết con chân thành, nhưng con không hiểu được cái phức tạp của nhiều vấn đề chánh trị.
      Tôi ngập ngừng một chút rồi đề nghị:
      - Hà Nội đã thành công trong việc xâm chiếm miền Nam, bây giờ đến luợt tụi con… giành lại ba, ba nghĩ sao?
      Tức thì ba tôi bật người lên, vội đưa tay bụm miệng tôi, như sợ có ai nghe được câu nói của tôi, ông còn kéo tôi đến gần radio, vặn to lên, ghé tai tôi mà nói:
      - Ba không muốn nghe con nói như vậy. Lần này ba bỏ qua cho con, vì con chưa hiểu ba chút nào. Nhưng lần sau, con không nên nói đến chuyện này.
      Tôi kinh ngạc vì cơn giận của ông. Tôi cho rằng, đối với chuyện đất nước, ba tôi đã làm tròn bổn phạn của một người yêu nước. Bây giờ, mọi chuyện đã xong, đất nước đã hoà bình, người ta có quyền nghĩ đến sự đoàn tụ gia đình. Vậy thì ba tôi trở về với vợ con là chuyện nên làm, có gì sai trai đâu. Tại sao ba tôi lại hoảng sợ, giận dữ, cấm đoán tôi nói tới việc đoàn tụ gia đình?
      Tôi thở dài, nói:
      - Con bắt đầu thấy hai chiếc xe lửa chạy trên hai đường rầy khác nhau rồi, ba ơi. Sau cuộc chiến kéo dài mấy chục năm ai cũng mơ ước được trở về với gia đình, chỉ có ba là chối bỏ con đường đó thôi.
      Ông nói với một giọng cương quyết:
      - Ba sẽ không tìm cách thay đổi tư tưởng của con, thì ba xin con đừng chà đạp lên lý tưởng của ba.
      Tôi bật khóc, vì tôi không ngờ cái hố ngăn cách giữa ba tôi và tôi lại rộng và sâu như vậy. Tôi nghẹn ngào nói:
      - Nhờ ba, con hiểu được nỗi đau của một dân tộc nhược tiểu bị ngoại bang áp bức, từ đó lòng yêu nước phát sinh. Ba đã cho con nhiều thứ lắm. Nhờ ba mà lúc nào con thấy một tia ánh sáng cho quê hương, con sung sướng vô cùng. Suốt đời, ba đã hy sinh cho lý tưởng của ba, bây giờ đã đến lúc ba phải được hưởng hạnh phúc gia đình, để tụi con biết thêm về ba của con. Ba thấy hông, mình không hiểu nhau gì hết!
      Ba tôi vui vẻ trở lại:
      - Ba rất cảm động khi biết con quan tâm nhiều đến ba. Đó là cái danh dự của người cha. Nhưng con cái cưng của ba hãy nghe đây, nghe để con không lập lại lời yêu cầu đó nữa. Việt Nam cần tất cả những bàn tay xây dựng, để hàn gắn những vết thương do chiến tranh gây nên, phải phục hồi kinh tế để bằng người ta. Con nói con thương Việt Nam, thì con phải chia sẻ giấc mơ của ba, giấc mơ xây dựng một Việt Nam hùng cường, độc lập.
      Tôi vẫn chưa chịu thua, nên lại nói:
      - Làm sao mà dân có thể giầu, nước có thể mạnh, khi con người không có tư hữu, không có cả tự do, vì đảng của ba đã tước đoạt hết mọi quyền của con người.
      - Ba chỉ hứa được với con, là ba sẽ phục vụ với hết sức của mình để Việt Nam được hùng cường.
      Rồi ba tôi đưa tay ra bắt tay tôi, không nói, nhưng cả hai đều hiểu rằng đây là một khế ước. Ba tôi sẽ làm phận sự của ba, còn tôi không được năn nỉ ba tôi rời bỏ đang. Đến đây, ba tôi bỗng thay đổi đề tài:
      - Bao giờ con có thể thu xếp cho má sang Paris gặp ba?
      Tôi hứa:
      - Con sẽ lo việc này liền khi con về Hawaii.
      - Má có giận ba nhiều lắm không con?
      Tôi ngạc nhiên vì giọng nói e ngại, rụt rè của ba tôi. Giọng nói này khiến tôi nhớ đến những đứa trẻ trót lẫm lỗi, muốn biết mình lỗi nhiều ít ra sao, chớ không muốn sửa chữa lỗi lầm.
      - Hồi tụi con còn nhỏ, đời sống của gia đình mình thật khó khăn. Má nhọc nhằn lắm, nên nhiều khi má than thở “phải chi có ba tụi con ở nhà tiếp má”!
      Ba tôi nghẹn ngào nói:
      - Con có biết không? Từ ngày lấy má, ba không làm ra một xu con nào hết. Má con gánh vác hết mọi việc trong gia đình với sự giúp đỡ của ông ngoại bà ngoại. Ba mang ơn má nhiều lắm, Ba đã nhiều lần hối hận, vì hồi đó ba không đưa má và các con ra Hà Nội với ba.
      Tôi giựt mình, hỏi:
      - Con tưởng đó là quyết định của má?
      - Đúng, đó là quyết định của má. Nhưng bà có lỗi không chịu thuyết phục má.
      Tôi cười lý lắc, hỏi:
      - Ba có nghĩ là nếu cả gia đình ta ra Bắc hồi đó, tụi con giờ là đảng viên cộng sản hết không?
      Ba tôi lắc đầu, đáp ngay bằng một giọng nghiêm nghị:
      - Không phải dễ gia nhập đảng đâu con. Anh Khôi con không được vô đảng cũng vì hạnh kiểm. Anh không phải là đảng viên. Lúc học trung học ở Bắc Kinh, anh tổ chức tuyệt thực phản đối nhà trường ngược đãi con em của cán bộ Mặt trận giải phóng miền Nam. Lúc ở Hà Nội thì vừa làm vừa chơi, sang Liên Xô lo học đàn hơn học quân sự. Đã vậy, anh lại xin giải ngũ sau trận Hạ Lào.
      Tôi lo lắng hỏi:
      - Ba có thất vọng về anh Khôi không, ba?
      - Không, anh của con chỉ không cố gắng để được vô đảng thôi, nhưng ba mừng cho sự học vấn của ảnh; đối với ảnh, học hành là quan trọng nhứt.
      - Má lo cho anh Khôi lắm, ba à. Má cứ thắc mắc không biết ảnh ra sao? Đã trở thành con người như thế nào, sau những năm sống với cộng sản? Liệu ảnh còn là đứa con trai chân thật không, liệu ảnh có còn là thằng con trai má thương, má quý, sau thời gian ảnh sống ở Liên Xô?
      Ba tôi vui vẻ trấn an:
      - Má sẽ có dịp gặp lại anh con, và lúc đó sẽ biết rõ.
      Chúng tôi nói chuyện đến đây thì phải chia tay, vì đã đến giờ ba tôi phải đến địa điểm tập hợp đi biểu tình. Ông hứa sẽ gọi ngay sau khi trở về khách sạn. Chúng tôi dự tính đi mua sắm lặt vặt. Ba tôi muốn mua một cây đàn guitar làm qua cho anh Khôi.
      Khi ôm ông ngoại để từ biệt. Lance mời ông tới chân khách sạn của nó. Nhưng tôi biết, với tư cách một nhà ngoại giao, đâu dễ ra khỏi khách sạn đang ở mà không có tuỳ tùng, kể cả ông thông ngôn.
      Trên đường trở về khách sạn, tôi ngạc nhiên khi nghe Lance nghĩ sâu xa về hoàn cảnh của tôi và ba tôi, và lo cho thân phận nó. Lance vừa khóc vừa nói bắng tiếng Anh:
      - Con không để Daddy của con ở xa con đau. Con sẽ khóc điên đầu luôn, nếu Daddy bỏ đi xa.
      - Nếu Daddy đi xa vì một chính nghĩa, thì con cũng phải để Daddy đi. Con phải can đảm.
      - Hồi đó, ông ngoại đi xa. Mommy có khóc không?
      - Nếu Daddy phải đi xa, con cũng khóc, nhưng không khóc lâu, vì Daddy nói con trai không được khóc dài.
      Nghe nó nói vậy, tôi nghĩ đến hoàn cảnh của tôi. Ba tôi bỏ đi được hai chục năm rồi, má tôi vẫn còn khóc, và đang khóc.

      Comment


      • #33
        Chương 34


        Tới giờ ăn chiều mà vẫn chưa thấy ba tôi gọi, nên tôi bảo khách sạn đem đồ ăn lên phòng cho chúng tôi, phòng khi tôi gọi. Đúng như vậy, khi hai mẹ con tôi đang ăn, ba tôi gọi. Ông tỏ ra rất vui vẻ vì đã được gặp nhiều bạn cũ, Nhựt có, Mỹ có. Đó là những người đã ủng hộ ba tôi trong thời chiến. Tôi thầm tự hỏi, loại người Mỹ nào đã làm bạn với ba tôi trong khi nước họ tham chiến ở Việt Nam.

        Tôi nghe giọng nói của ba tôi có vẻ mệt mỏi, nên đề nghị sáng mái sẽ gặp lại, để ông có thì giờ nghỉ ngơi. Ba tôi đồng ý ngay. Nhưng đến 10 giờ đêm, ba tôi lại gọi. Tôi tưởng có chuyện gì quan trọng, nhưng không, ba tôi chỉ muốn nói chuyện về gia đình thôi. Tôi hiểu tâm trạng của ba tôi, một người xa gia đình hơn hai chục năm trời, thèm được biết về những người thân mình ở cách quá lâu, đến những chi tiết nhỏ nhặt. Về phần tui muốn biết về chú bác, cậu và các anh các chị bà con đã cùng ba tôi tập kết ra Bắc. Tôi hỏi đến những người bạn trong bưng biền của ông, kể cả “đồng chí” Lê Đức Thọ. Cuối cùng, ba tôi nói về chuyện du lịch. Ông say sưa tả cảnh mặt trời mọc ở Scandinavia. Tôi vui vẻ cho ông biết tôi mơ ước được trở về Mông Cổ. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi tôi lại sao lại “trở về” Mong Cổ. Tôi chậm rãi giải thích:
        - Vì con nghĩ, con có má Mông Cổ.
        Ông càng ngạc nhiên hơn:
        - Tại sao?
        - Ba đi rồi, con phải lớn lên một mình với nhiều khó khăn. Con phải tin là con vừa mạnh tinh thần lẫn thể xác. Con có đọc Thành Cát Tư Hãn, con khâm phục ông đó lắm. Con chưa gặp một người Mông Cô nào, nhưng con cảm thấy con gần với họ lắm. Sẽ có một ngày nào đó con sẽ đi thăm viếng cái nước huyền bí đó!
        Ba tôi im lặng nghe tôi nói một hơi dài, rồi mới lên tiếng
        - Ba lại tin rằng con sẽ mê nước Nga.
        Sáng hôm sau, tôi và ba tôi đi “bát phố”. Tôi gởi Lance cho tuỳ viên chính trị của toà đại sứ Mỹ ở Tokyo. Ông hứa sẽ cho Lance đi hồ tắm vào buổi trưa.


        Ba tôi được ban tổ chức đại hội cho một người hôh vê luôn luôn theo sát bên cạnh. Anh ta ngồi như một pho tượng bên cạnh tài xế. Mắt anh láo liên như một con báo. Anh rành phố xá Tokyo nên khi biết chúng tôi muốn mua một cây đàn guitar, anh xổ một tràng tiếng Nhật với tài xế. Khi chúng tôi được taxi đưa đến khu Ginza.


        Tôi bỗng có linh cảm bị theo dõi. Tôi thầm tự nhủ phải thận trọng, ngó trước coi sau. Thế là tôi có cảm tưởng mình là điệp viên thứ thiệt. Tôi sử dụng ngay “kinh nghiệm của một điệp viên”. Kinh nghiệm của tôi là những kinh nghiệm học được trong những cuốn tiểu thuyết và phim ảnh gián điệp. Hồi đó, tôi thích đọc sách của nhà văn Sidney Sheldon. Sau nhiều lần ngó nhanh, liếc nhìn về phía sau, tôi thấy có một người đàn ông da trắng, ăn mặc sang trọng, đi theo chúng tôi. Khi chúng tôi bước vào tiệm bán đàn, ông ta cũng vào theo. Sau khi ba tôi mua đàn, chẳng vào một tiệm giải khát, người đàn ông cũng theo vào, nhưng không mua nước uống.
        Khi ba tôi ngỏ ý muốn mua đồ chơi cho con nít, tôi mới biết tôi có một người chị nuôi cỡ tuổi tôi. Cha mẹ cũng tập kết ra Bắc. Nhưng không biết tại sao cả hai đều chết, rồi ba tôi nhận nuôi chị ở Hà Nội. Chị được ba tôi gởi đi học kỹ sư ở Liên Xô, cũng thời với anh Khôi, anh Trung, và chị Thu Vân. Ba tôi gả chồng chị cùng một năm tôi Iập gia đình với John. Nhưng tôi chưa hỏi gì thêm về người chị nuôi, thì đã thấy người đàn ông da trắng lúc nãy lại xuất hiện. Lần này tôi quyết định nhìn rõ ông hơn. Tôi thấy ông có đôi mắt sắc bén mầu xanh, da trắng bạch như dân Âu châu. Tôi đoán ông ta là thằng Tây, hay là một nhân viên KGB. Khi thấy tôi lại gần, ông lẳng lặng bỏ đi. Khi ông ra khỏi tiệm, tôi mới biết ba tôi cũng để ý đến người ấy. Ông nói nhỏ với tôi:
        - Ba nghĩ mình bị theo dõi!
        Tôi đùa:
        - Người của ba hay của con theo dõi?
        Ba tôi có vẻ ngạc nhiên, nhưng không nói gì.
        Sau đó chúng tôi trở về khách sạn của ba, tôi về khách sạn của tôi. Ba muốn tôi trở lại sau giờ ba tôi ăn trưa với những người trong phái đoàn; ba sẽ không ngủ trưa hôm đó.
        Hai giờ, tôi trở lại khách sạn Prince để gặp ba tôi. Khi vào phòng ông, tôi thấy ông đang ngồi cạnh một xấp giấy, trông giống thẻ căn cước, nhưng lớn hơn. Tôi tò mò cầm một thẻ lên coi thì biết rằng đó là giấy gọi nhập ngũ của Mỹ. Giấy này đã gởi đi vào tháng 7 năm 1969 cho một thanh niên 19 tuổi.
        Lúc đầu, tôi nghĩ đây là thẻ động viên của một người lính tử trận. Tôi bỗng nghe một niềm thương cảm tràn ngập trong lòng. Chết cho tổ quốc là một vinh dự. Nhưng tình thương ấy bị dập tắt ngay khi ba tôi cho biết những thẻ động viên mà ba tôi đang để trên mặt bàn là những thẻ của những tên phản chiến, chúng nhận được lệnh nhập ngũ thì bỏ trốn, rồi gởi những thẻ trên đến toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Tôi giận điên người khi biết chúng là những tên phản quốc. Như đổ thêm dầu vào lửa, ba tôi vui vẻ nói:
        - Điều đó chứng tỏ rằng Mỹ đã sai lầm khi tham chiến ở Việt Nam.
        Tôi chưa cần phân tích xem Mỹ sai lầm ở chỗ nào, nhưng tôi nhận ra một sự thật làm tan nát tim tôi. Đó là sự ngăn cách giữa hai cha con tôi quá lớn. Chúng tôi gặp nhau chỉ để xa nhau mà thôi. Mỗi người đã quyết định tiếp tục đi con đường riêng của mình. Lẽ thường ở đời, ai không muốn ngả theo phe thắng để mưu cầu danh lợi cho riêng mình. Nhưng tôi thì không, tôi nhất định đi con đường của tôi. Không bao giờ tôi phản lại quốc gia, phản lại lý tưởng mà gia đình tôi đã đi theo. Vì lý tưởng, em trai tôi đã chết khi mỗi chập chững bước vào binh nghiệp.
        Tôi nghiêm giọng nói với ba tôi:
        - Hạng người phản chiến này chỉ là những tên phản quốc, hèn nhát, nên mới gởi những thẻ quân dịch này cho kẻ thù.
        Ba tôi lắc đầu:
        - Mỹ nhảy vào Việt Nam là một sai lầm to lớn. Những người Mỹ trẻ này đã sáng suốt nhận ra như vậy.
        Tôi cãi:
        - Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ có một sai lầm tai hại và trách. Đó là việc họ Vietnamization để rút bớt quân, mặc một mình quân lực Việt Nam Cộng hoà chiến đấu chống Bắc Việt, trong khi Bắc Việt vẫn được Liên Xô và Tàu Cộng tiếp tay. Sự sai lầm này do các chính trị gia xa lông của Mỹ chủ xướng. Họ ngay thẳng, thật thà, làm sao hiểu nói cái lưu manh của cộng sản. Vậy khi Liên Xô và Tàu Cộng viện trợ khí giới cho các du kích của Mặt trận giải phóng giết đồng bào, thì có chính nghĩa không?
        Ba tôi chưa kịp có ý kiến gì, tôi đã nói tiếp:
        - Cuộc chiến này sai bét vì người Việt lại giết người Việt!
        Trong khi tôi nói thao thao, ba tôi ngồi làm thinh, nên chính tôi cũng thấy tội nghiệp ông. Tôi thầm công nhận, ông hiền khó.
        Ông dịu dàng nói:
        - Ba không muốn tranh luận với con gái cưng của ba. Vì ba không bao giờ muốn thay đổi cách suy nghĩ của con. Nếu con hài lòng với niềm tin của con, tức là con đang có hạnh phúc. Cha mẹ nào mà không muốn con cái mình có hạnh phúc. Đối với ba, gia đình rất đáng quý.
        Ba tôi nói dịu dàng như vậy, má tôi vẫn khiêu chiến:
        - Nhưng đảng của ba còn đáng quý hơn tụi con!
        Ba tôi chậm rãi:
        - Đất nước trên hết đối với ba. Con can đảm, con đã tự lập, con cho con được. Con OK.
        Nói xong hai chữ “OK” ba tôi cười vui vẻ. Thấy ông vui, tôi trả lời:
        - Tất cả người dân miền Nam cũng đã OK. Vợ của ba, con cái của ba đều là hình ảnh của người dân miền Nam sống đơn sơ và hạnh phúc. Chúng con không có gì khác biệt với mọi người. Những nhu cầu, những mơ ước của chúng con đều là nhu cầu và mơ ước của hàng triệu dân miền Nam, và mọi người đã OK, cho đến ngày Hà Nội đem quân xâm chiếm miền Nam.
        Ba tôi tôi gật đầu:
        - Ba biết rõ những nhu cầu của người miền Nam. Ba hứa sẽ cố gắng đem sức mình để đáp ứng những nhu cầu đó.
        Tôi chưa kịp nói gì thêm, ông đã đề nghị:
        - Mình nói chuyện khác đi, con.
        Tôi đến ngồi cạnh ông, rồi ôm chặt lấy ông. Ba tôi cho biết đêm qua ông thức quá nửa đêm để ngắm hình gia đình. Ông khen các cháu ngoại của ông “đẹp như tiên”. Cuối cùng, ông ngỏ ý muốn má tôi về ở với ông.
        Chúng tôi bàn tánh cách thức và lịch trình đưa má tôi đi Paris. Nhiệm vụ của tôi là phải xin giấy thông hành cho má. Lúc ấy, bà chưa có giấy tờ gì hết, ngoài chứng chỉ nhập cảnh tỵ nạn cộng sản. Nhiệm vụ của ba tôi có phần khó hơn một chút. Ông phải xin giấy nhập cảnh Pháp. Ba tôi sẽ phải nhờ một vài người bạn Cộng sản Pháp đang làm trong Bộ ngoại giao ở Paris.
        Chúng tôi đang bàn tánh, thì anh thông ngôn gõ cửa mời ba tôi đi ăn trưa. Ba tôi ngỏ ý muốn ăn ngày ở trong phòng, nhưng anh cho biết hôm nay ba tôi có khách. Đó là phái đoàn của đạo Quaker từ Mỹ sang. Họ muốn gặp ông đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam.
        ***
        Tôi vẫn có thôi quen viết nhật ký, nhất là vào thời gian đi gặp ba tôi. Mọi việc xảy ra quá nhanh, nhiều khi như một cơn bão nếu không ghi lại làm sao tôi có thể nhớ hết được. Chính nhờ những dòng nhật ký này mà tôi hiểu được ba tôi, một nhà ái quốc chân chính, nhưng đã đi lầm đường. Bao nhiêu công sức của ông đóng góp cho đất nước đã biến thành công dã tràng.
        Hồi nhỏ, năm 1972 tôi bỗng nhận được thư của ba tôi gởi từ Ý, khi ông đang đi công tác. Thơ này được một người bạn ở Paris chuyển cho tôi. Thơ viết như sau:
        “Con yêu quý, ba rất hãnh diện về gia đình ta. Tất cả đối với ba đều đáng quý và đáng phục Ba rất thương má đã một mình nuôi sáu đứa con trong suốt 18 năm trời ròng rá. Ba thường trách ba, vì ba mà người vợ chung thuỷ và can đảm phi thường của ba phải sống đơn chiếc trong một quê hương nhiều xáo trộn, điêu linh… Đối với các con, ba vẫn mơ ước được trực tiếp săn sóc, dậy dỗ cho từng đứa. Vậy mà ba đã bỏ rơi các con, mặc cho các con lớn lên một mình với nhiều thử thách gay go. Ba chẳng bao giờ có thể quên được cái chết của Hải Vân.
        Ba vẫn tin rằng gia đình ta sẽ có một ngày đoàn tụ, ngày ấy không xa. Mới đây, nhận được thơ con, ba cứ thẫn thờ như người đi trong mộng, không làm được việc gì hết. Suốt đêm ba mơ thấy con sang Moscow thăm ba. Rồi ba nhớ lại chuyện đã qua. Nhớ lại ngày ba ra đi, mà mới có 37 tuổi, con mới lên 9, Hải Vân 6 tuổi. Hoà Bình 2, con Minh Tâm vừa tròn 3 tháng.
        Hải Vân rất thông minh, ba con nhớ hồi nó mới 4 tuổi, một đêm ba bơi xuồng đưa nó ra giữa sông Ong Vèo để chỉ cho nó tên các ngôi sao. Bỗng nó chỉ mặt trăng mà hỏi ba có biết tại sao tối nay chỉ có một nửa mặt trăng không? Ba trả lời là ba không biết, thì nó nói nó đã bẻ làm hai, một nửa vẫn ở trên trời, còn một nửa nó ném xuống sông.
        Lúc đó, em con đã cho ba thấy nó có khiếu về âm nhạc. Cho tới nay, ba vẫn nhớ những ngón tay bé nhỏ của nó lướt trên mấy phím đàn mandoline mà ông ngoại đã cho các con. Ba không ngờ em con lại vắn số như vậy. Bây giờ, má các con còn có thể đi thăm mộ Hải Vân hàng tuần, còn được tự do khóc thương nó, còn được nói lên nỗi đau đớn cũng như đắng cay vì mất nó, má con cũng còn có thể đốt cho nó nén nhang. Trong khi đó, ba không có thể làm được, chỉ âm thầm giấu nỗi đau của sự mất mát trong lòng. Ba không sao quên được gương mặt tươi roi rói đầy sự sống của em con và bên tai ba vẫn văng vòẳg nghe tiếng cười của nó…”
        Hai mươi năm trước, ba tôi ra đi và hứa hai năm sẽ trở về, nhưng tình hình đất nước mỗi ngày một thay đổi, khiến gia đình tôi phải chịu đựng cảnh chia cách, không những chia cách về không gian mà còn chia cách cả về tư tưởng nữa. Nhưng tôi tin ba tôi không bao giờ có ý định dụ dỗ tôi hoặc thuyết phục nghiêng về phía cộng sản. Vì thế, khi muốn đả kích cộng sản Việt Nam, tôi cùng phải biết “vuốt mặt mà nể mũi”, lựa lời để ba tôi khỏi buồn hay chạm tự ái.
        Khi cờ đỏ sao vàng bay trên nên trời miền Nam, ba tôi cho đó là ngày trở về. Nhưng ngày đó lại chính là ngày gia đình chẳng phải bỏ nước ra đi.
        Ba tôi nhắc đi nhắc lại với tôi rằng:
        - Người Việt Nam đã tái lập hòa bình, đã tự nắm lấy vận mạng và tương lai của đất nước mình. Bấy giờ là lúc chúng ta hàn gắn lại những vết thương do chiến tranh gây nên, để dựng lại quê cha đất tổ. Đây không phải là trách nhiệm của riêng đảng, mà là của tất cả những người yêu chuộng hoà bình ở Việt Nam. Ai ai cũng phải đóng góp vào chương trình này. Ba của của con là một trong những người được giao phó nhiệm vụ này.
        Nghe ba tôi nói như vậy, tôi thầm tội nghiệp cho ông, vì tôi biết cái mà ba tôi gọi là tự do, chỉ là bánh vẽ nhằm lừa bịp mọi người. Ba tôi sẽ thất vọng.


        Có lẽ vì xa chúng tôi đã lâu ngày, nên ba tôi có mặc cảm tình cha con phai lạt, nên cứ nhắc nhở;
        - Hãy thương ba! Hay chung thuỷ với ba như con chung thuỷ với dân tộc Việt Nam.
        Trước khi ba tôi rồi Tokyo để bay qua Pháp, chúng tôi đã được sống những ngày thần tiên trên đất nước lạ hoắc này. Trong khi nói chuyện với ông, tôi phải hết sức giữ ý giữ tứ, và lựa lời khỏi làm mất lòng ông. Chẳng hạn, nếu tôi chửi cộng sản nhiều quá, tôi có thể gặp phản ứng mạnh của ông, vì tôi đã xúc phạm tới “tôn giáo” của ông. Ở các nước tự do, chúng ta tôn trọng tín ngưỡng của nhau, vậy tốt nhất, tôi không nên đả động gì tói “tín ngưỡng” của ba tôi.


        Vì ba tôi đã coi chú nghĩa cộng sản như một thứ “tôn giáo”, mà ông lại là người rất “ngoan đạo”, nên tôi biết, tôi không thể để ông đào thoát ở lại vùng tự do với gia đình. Tôi nghĩ đến người anh có tâm hồn nghệ sĩ, phóng khoáng của tôi, đó là anh Khôi. Tôi đã mấy lần xa xôi thăm dò ý kiến của ba tôi về “âm mưu” này, ông im lặng, cái im lặng thuận tình mà không dám nói ra. Thế là tôi thầm biết rằng ba tôi cũng muốn anh tôi ra khỏi Việt Nam; trường hợp này, tốt nhứt cho ba tôi là không thấy, không nghe, không nói, là tạm ổn cho ông.
        Anh tôi sẽ ra đi băng cách nào? Tôi nói chuyện với Rob Hall, một nhân viên của CIA hiện đang có mặt ở Tokyo. Tôi đề nghị CIA tuyển mộ anh, với điều kiện là phải đưa anh sang Mỹ một thời gian ngắn. Vì chuyện này liên quan đến tính mạng của anh, nên tôi phải hết sức thận trọng. Tôi muốn làm chủ tình hình hơn là để CIA làm theo dự tính của họ. Nếu họ làm theo ý họ, tôi sẽ trở thành đui và điếc, mà đã đui và điếc thì làm sao cứu được con trai của một cán bộ cao cấp cộng sản.
        Tôi cho Rob Hall biết ý định của tôi và yêu cầu ông giúp tôi. Tôi muốn viết cho anh Khôi một lá thơ, thì CIA miễn cưỡng bằng lòng. Sau đó, ông cho biết viên kỹ sư của CIA sẽ gởi một kính để đọc “micro dot” vào một máy tinh, trong đó sẽ gồm cả những lời chỉ dẫn để đọc “micro film”. Lúc đầu, viên kỹ sư có ý định bỏ micro film trong một máy chụp hình, nhưng tôi không chịu, vì sợ rằng cán bộ cộng sản sẽ ăn cắp mắt máy hình, thì cuốn phim bí mật cũng mất theo luôn. Tôi đề nghị thay thế cái máy hình bằng một máy tinh, vì lúc đó (năm 1975) chưa có cán bộ nào biết ssử dụng máy tính. Loại này chỉ dành riêng cho các kỹ sư. Họ đồng ý. Chúng tôi bắt tay ngay vào làm việc ngày đêm không nghỉ.
        Tôi viết đi viết lại một cách thận trọng nhưng rõ ràng một bức thư, cho anh Khôi biết những gì em gái của anh có thể làm được, nhằm giải thoát anh khỏi chế độ cộng sản. Tuy nhiên, mọi quyết định vẫn ở trong tay anh. Cuối thư, tôi viết cho anh như sau:
        “Em chỉ giúp anh đào thoát, đưa anh đến bến tự do, nếu anh muốn. Quyền quyết định là của anh. Em cũng xin nói để anh rõ, chúng mình không làm chuyện này vì đồng tiền, mà cũng không muốn anh phản quốc. Em chỉ muốn anh được sống trong tự do sau cuộc đời còn lại với má và chúng em“.
        Những lời nhắn kín ấy, tôi giấu kín trong những dòng nhạc đã mua cho anh ở phố Ginza mấy ngày sau khi ba tôi và tôi cho anh cây đàn guitar.
        Khi đưa bị đưa máy tính cho ba tôi đem về Việt Nam, tôi cẩn thận hỏi xem ba tôi có bị xét hành lý không, thì ông vui vẻ cho biết:
        - Không, con à. Không ai xét túi của ba đâu.
        Dù tôi cũng phải thận trọng, vì chuyện này có thể đe doạ tính mạng của anh tôi, và tai tiếng của ba tôi.
        Bây giờ tôi đã có thể thảnh thơi viết cho anh một bức thơ thường của em viết cho anh. Đây cũng là bức thơ đầu tiên tôi viết cho anh, kể từ ngày tôi mò mẫm từng chữ trong quyển tập vỡ lòng vào năm 1954. Tôi cho anh biết, má tôi hay nhắc tới “thẳng con yêu quý của má” hồi mới lên 5, lên 5. Với những kỷ niệm nho nhỏ này, tôi đã cố gắng tìm cách chỉ dẫn cho anh mò ra cái bí mật mà đứa em tinh quái này gởi về cho anh. Tôi bóng gió cho anh biết trong cái máy tính, giữa những sợi dây chằng chịt có một vết đặc biệt mà anh phải cố tìm ra. Tôi nhắc lại chuyện ngày xưa, viết một câu như sau:
        “Anh có nhỏ hồi anh 6 tuổi, ba cho anh một cây harmonica, anh đã làm gì ngay đêm đó không? Em muốn anh hãy làm như vậy sau khi nhận được cái máy tính này”


        Tôi cầu Trời khấn Phật cho anh có đủ trí khôn và trí nhớ để biết tôi nhắc lại chuyện anh lấy dao cậy cây harmonica coi bên trong có gì mà phát ra những âm thanh thánh thót như vậy. Nếu anh cũng làm như vậy với cái máy tính, anh sẽ biết tôi đang hợp tác với một nhõm người có thể giúp anh trốn khỏi Việt Nam qua Mỹ. Tôi cũng dặn anh là từ nay nếu nhận được quà ở anh phải tìm ngày những tin mật tôi giấu trong món quà liên quan đến sự sống còn và tự do của anh. Chớ tôi sẽ không bao giờ gởi quà cáp mà không có giấu bí mật trong đó.
        Ngày ba tôi rời Tokyo đi Paris cũng là ngày tôi và Lance lên đường trở về Hawaii để sửa soạn cho ngày hội ngộ của ba má tại thủ đô ánh sáng, mà cũng là thù đô của một nước đã từng dầy xéo, đô hộ nước tôi suốt một trăm năm trờ

        Comment


        • #34
          Chương 35


          Như trời đã sắp xếp trước, khi tôi vừa trở về Hawaii một ngày thì John phải đi công tác hai tuần. Nhờ vậy, tôi có nhiều thì giờ chuyện với má tôi về chuyến đi gặp ba tôi ở Tokyo. Mà nóng lòng nghe chuyện về người chồng đã xa cách hơn hai mươi năm, còn tôi thì chỉ muốn kể cho nhanh, cho hết, trước khi tôi quên đi những chi tiết lặt vặt. Các chị và em tôi cũng muốn muốn biết về ba. Vì vậy, tôi cứ phải nói đi nói lại, người muốn biết thêm chi tiết chuyện này, người lại thắc mắc tại sao lại thế này, thế kia… Tôi đưa cho má tôi lá thơ của ba tôi; bà cầm vào phòng riêng. Các em tôi tò mò hỏi ba viết gì cho má. Làm sao tôi biết được! Chị em tôi chỉ lo ba tôi trách má sao lại bỏ đi trước khi ba về Sài gòn. Tôi cũng vái cho ba tôi không trách má tôi để cho con gái lấy chồng “đế quốc Mỹ”. Khi má tôi mở cửa bước ra gặp chúng tôi, ai cũng chăm chú nhìn bà, chờ xem phản ứng. Nhưng má tôi không có vẻ xúc động mấy, và cũng không có vẻ giận hờn, chỉ hơi buồn một chút thôi. Vì sống lâu với mà, tôi hiểu rõ nỗi buồn này. Buồn pha chút thất vọng. Khi tôi nghỉ học để làm cho Phòng V, Quân đoàn 4, má tôi buồn. Lĩnh số lương đầu tiên, đưa về cho má, bà cất ba ngàn vào hộc tủ máy may mà mắt buồn hiu. Khi chúng tôi tiễn Hải Vân lên Sài gòn ở với chị Kim, chị Cương để đi học, tránh bị đi lính Việt Cộng, mà cũng buồn héo hắt. Má biểu chúng tôi ngồi vào gần quanh má để nghe thơ ba. Chị Cương mới nghe nửa đường đã ôm mặt khóc nức nở. Tôi thì không khóc, nhưng tim như bị ai bóp nghẹn. Đọc xong, má xếp lại như cũ, đưa cho chị Cương. Chị chạy vội về phòng riêng để đọc; rất lâu sau mới trở ra, hai mắt đỏ hoe. Rồi tới lượt Hoà Bình và Minh Tâm. Tôi không đọc ngay tại chỗ, mà đem thơ về nhà.

          Thơ ba làm chúng tôi khóc, mà cũng làm chúng tôi cười, khi nhắc tới những thói hư tật xấu của từng đứa con. Anh Khôi thì lúc nào cũng lo bị thất học, vì cứ phải chui rúc trong “vùng giải phóng” khỉ ho cò gáy. Hai chị Kim và chị Cương chỉ mơ ước được sống ở thành thị to nhiều tiện nghi. Hải Vân rất thông minh, còn Hoà Bình hay nhõng nhẽo. Ba cũng không quen cái tật tôi thường bỏ mứa khi ăn cơm.


          Khi chúng tôi họp nhau để bàn chuyện đi Paris của má, ai cũng biết chuyến đi này có nhiều khó khăn cho má, vì mà có nhiều “hành lý” nặng trĩu trên đôi vai gầy. Hơn hai chục năm xa cách chồng để một mình nuôi dậy đàn con nhỏ. Má đã gánh bổn phận làm cha, làm mẹ, làm thầy, làm bạn với chúng tôi trong khi ba đi theo tiếng gọi của núi sông, của lý tưởng mơ hồ. Chị em chúng tôi không ai dám hỏi thẳng má, chỉ đoán với nhau, là có thể má sẽ trở về Việt Nam với ba. Thiệt ra, chúng tôi, nếu má chịu về Việt Nam, thì nguyên nhân chính muốn gặp lại anh Khôi.


          Chị Cương và tôi biết mà đang đứng trước một sự lựa chọn quá khó khăn, tế nhị. Để mà dễ dàng trong việc lựa chọn, chúng tôi đã cho má rõ là trong suốt hai chục năm qua, má đã sống và đã cống hiến hết tuổi trẻ cho các con nhiều rồi, bây giờ là lúc má hãy nghĩ đến má, đến bản thân má. Chúng tôi nói như vậy không phải để làm vui lòng hoặc trấn an má, nhưng thực tế đã đú như vậy. Má tôi đã dành trọn tuổi trẻ và tình thương của má cho đàn con. Bà đã cho chúng tôi mái ấm gia đình, cơm no, áo ấm. Bàa đã không bỏ rơi một đứa nào trong chúng tôi. Có người bạn giầu có của má, hiếm muộn, muốn xin một đứa làm con nuôi, với hảo ý làm nhẹ bớt gánh nặng trên vai má tôi. Nhưng bà cương quyết từ chối, ôm chặt chúng tôi vào lòng những lúc khó khăn, thiếu thốn. Bà dậy dỗ chúng tôi không bằng roi vọt hay những lời trách mắng nặng nề, mà bằng những lời khuyên răn và làm gương tốt cho chúng tôi noi theo. Ngay cả vấn đề tôn giáo, má cũng không cấm đoán hay ép buộc. Hai chị tôi muốn theo đạo Thiên Chúa, má khuyên hai chị nên tìm hiểu kỹ trước khi quyết định. Theo một đạo mới, má khuyên, không giản dị như chạy theo thời trang, thay đổi một kiểu tóc, một cái áo dài hay mua một đôi giầy kiểu mới. Chừng nào thật lòng tin ở “Đức Chúa Trời” thì hãy vô đạo. Hai chị tôi vâng lời, cuối cùng đã được rửa tội. Hai chị đã trở thành con chiên của Chúa và suốt đời giữ đạo.
          Chị Cương và tôi biết má không mạo hiểm gì mà trở về Việt im, khi vừa mới thoát nạn. Nhưng có thể vì bà nhớ đứa con đầu lòng xa cách hai chục năm dài mà đổi ý, để được gặp anh Khôi. Hiểu tâm trạng của má như vậy, chị Cương cấm các em không được ngăn cản mà. Chúng tôi còn hứa với má, sẽ lo lắng, đùm bọc Minh Tâm suốt đời.
          Sở ngoại kiều ở Honolulu cho chúng tôi biết phải mất chừng bốn tuần mới lấy được giấy thông hành cho má tôi (Refugee Travel Document). Trong khi đó, ba tôi không thể chờ đợi bốn tuần ở Paris được. Muốn được việc, tôi phải tìm “tay trong” giúp thì may ra mới kịp. Tôi chợt nhớ tới viên sĩ quan làm việc cho Sở ngoại kiều mà tôi đã gặp khi tôi tình nguyện giúp người tỵ nạn ở phi trường Honolulu. Ông vui vẻ nhận lời, nên chỉ hai tuần má tôi có giấy thông hành đi Paris.
          Sau khi được fiấy thông hành, tôi đưa má tôi tới toà lãnh sự Pháp ở Honolulu để xin chiếu khán. Một bà đầm già xem đơn xong, trả lời bằng tiếng Pháp:
          - Việt Nam phải không?
          Tôi hơi bực mình vì giọng nói xách mé của bà. Tôi nghĩ rằng bà cũng như nhiều người Pháp khác, thường có mặc cảm tự tôn đối với người Việt Nam. Hình như họ vẫn tự coi là kẻ cai trị dân Việt. Tôi chưa kịp trở lại thì bà lại hỏi thêm, cũng bằng tiếng Pháp.
          - Có phải là thường trú nhân hợp pháp của Mỹ không?
          Tôi vội trả lời bằng tiếng Anh:
          - Tôi không biết tiếng Pháp.
          Bà ta tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi bằng tiếng Anh:
          - Cô là người Việt Nam mà không nói được tiếng Pháp?
          Tôi nhìn thẳng mắt bà, trả lời một cách thách thức:
          - Tôi là người Việt Nam, nhưng tôi không bị người Pháp cai trị.
          Bà hơi giựt mình, dịu dàng:
          - Cô ơi, cô không cần phải chua chát như vậy.
          Bà nói đúng. Tôi không nên chua chát khi đang cần họ giúp đỡ. Nhưng lúc đó, bỗng tôli nhớ tới những chuyện Tây ăn hiếp dân mình do má tôi kể lại.
          Bà đầm bình tĩnh đọc đơn của má tôi, rồi cho biết má tôi cần hai người ở Pháp bảo trợ, và giấy chiếu khán sẽ được chấp tthuận từ 4 đến 6 tuần. Hai người bảo trợ thì không khó, vì má tôi cho biết có thể nhờ vợ chồng Cúc, bác sĩ ở Paris. Vợ chồng này con của bạn ba má tôi. Người thứ hai cũng là con của bạn má tôi. Nhưng cái thời hạn thì quá dài. Tôi phải tìm cách rút ngắn. Thoạt tiên, tôi nghĩ đến toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam ở Paris. Không biết họ có thể móc nói với một thằng Tây mẹ đầm nào khuynh tả trong Bộ ngoại giao Pháp không? Tôi viết tha cho ba tôi về vấn đề này, hy vọng ba tôi có thể giải quyết nhanh chóng để gặp má tôi.
          Rồi tôi nghĩ đến Rob Hall, nhân viên của CIA. Nhưng Rob cho biết tức khắc, là việc này “ngoài tầm tay” của CIA. Tôi nghĩ trong bụng “vậy mà người ta tưởng mấy anh đi trên nước, bước trên lửa!


          Bối rối trước nhiều bức tường, tôi chợt nhớ tới một nhân viên toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam ở Paris tên là Phan Thanh Nam. Hồi tôi sang Tokyo, ba tôi cho biết, nếu cần giúp đỡ gì khi ba tôi chưa tới Paris, có thể liên lạc với ông ta và kêu ông bằng chú. Thế là tôi vội gọi cho Nam ngay. “Chú Nam” hứa sẽ nhờ một “người bạn thân” lo ngay việc này cho má. Chỉ mới hai tuần và bốn ngày sau ngày nộp đơn ở toà lãnh sự Pháp, ba đầm gọi điện thoại báo cho chúng tôi biết là má có giấy chiếu khán. Khi chúng tôi đến toà lãnh sự; bà đầm rất ngạc nhiên, vì sự nhanh chóng khác thường. Bà đoán tôi phải quen biết nhiều người trong Bộ ngoại giao Pháp. Tôi nửa đùa nửa thật nói:
          - Bây giờ tới phiên người Pháp phục vụ chúng tôi, bà ơi.
          Bá đầm thắc mắc nhìn má tôi, rồi chúc:
          - Bon voyage!
          John và tôi quyết định để Lance ở nhà với John, vì chúng tôi không muốn dậy con nói đối. Lời nói trung thực của một đứa trẻ lên 5 có thể gây mâu thuẫn giữa người lớn. Chúng tôi gửi Lance cho bà vợ một sĩ quan cùng phi đoàn với anh. Buổi chiều đi làm về John sẽ đón Lance về nhà. John còn định xin nghỉ một tuần lễ để hai cha con đi cắm trại. Tôi yên tâm đi với má tôi sang Paris.
          Khi tôi báo cho Rob Hall biết tin này qua điện thoại, ông giữ im lặng một lúc khá lâu. Không biết có phải ông giựt mình vì sự việc xảy ra nhanh chóng hơn dự tính của CIA? Mà cũng có thể ông ngạc nhiên vì tài tháo vát của người “gián điệp mới” này. Nhưng chỉ vài phút sau, tôi hiểu rằng Rob không ủng hộ chuyến đi vì lo má tôi theo ba tôi về Việt Nam thì sao. CIA đã góp công vào việc đưa má và hai em tôi sang Mỹ để bảo vệ an ninh tính mạng cho ba mới cách đó không đầy 5 tháng. Ông đề nghị tôi ghé Washington, D.C., trước khi chúng tôi lên đường sang Pháp. Tôi thắc mắc hỏi tại sao, thì ông cho biết:
          - Chúng tôi cần bàn một vài chuyện quan trọng trước khi giáo sư cô gặp ba có lần này.
          Trước khi lên đường, tôi viết cho Rob một bức thơ, cảnh cáo ông không được xâm phạm tự do riêng tư của má tôi. Nếu bà quyết định về Việt nam với ba tôi thì không nên ngăn cản, không nên hù doạ má tôi. Chúng tôi biết rằng, nếu má tôi quyết định về Việt Nam thì phần lớn là bà muốn gặp anh Khôi. Nhiều lần nói chuyện nhắc đến anh, bà không cầm được nước mắt.
          Ba ngày ở Washington, D.C, là thời gian dài vô tậ n đốt với tôi. Bà tâm sự với tôi:
          - Trong thâm tâm, mà muốn về với ba của con lắm. Nhưng quyết định của má còn tuỳ thuộc vào chính sách của cái Chánh phủ của ba con. Mà muốn biết tụi Bắc Kỳ Hà Nội đối xử với người Nam mình ra sao. Má không tin lời báo chí của phe quốc gia, má cũng không tin luôn cái miệng “chống cộng” của tụi con. Người má tin nhứt là ba con. Chắc chắn ba sẽ không gạt má kỳ này. Vậy, tụi con cứ yên tâm.
          Rob Hall đưa tôi đến “Nông trại” để gặp xếp lớn của CIA. “Nông trại” là tên lóng, gọi trụ sở bí mật của trùm CIA Jerrie Parker. Trên đường tới “nông trại”, Rob cho biết ông trùm muốn gặp tôi để chào đón tôi mới gia nhập “công ty”. Nhưng khi ngồi nói chuyện với ông Jerrie Parker tôi mới biết rằng “con mồi” mà CIA nhắm là anh Khôi của tôi.
          Anh tôi đã từng học ở Hà Nội, Bắc Kinh và Liên Xô. Anh tốt nghiệp với bằng kỹ sư tên lửa. Nhưng, đủ là con một nhà cách mạng, anh lại có tâm hồn phóng khoáng, thầm mơ ước cuộc sống tự do bên cạnh mẹ và các em của anh. Vì vậy, anh không phải đảng viên cộng sản.
          Khi thấy Jerrie Parker quan tâm nhiều đến anh Khỏi, tôi thận trọng, dè dặt khi trả lời những câu hỏi về cá nhân anh muốn anh. Ông muốn ở lại Việt Nam vài năm, làm việc cho CIA, rồi sẽ tìm cách đưa anh ra khỏi nước. Đã hai chục năm này, kể từ ngày ba tôi đi tập kết, tôi phải lăn xả vào đời để giành một chỗ đứng danh dự. Tôi chỉ tin có má tôi và… chính tôi thôi. Vì vậy, lời gứa của ông Parker tôi bỏ ngoài tai, không tin mà cũng không giận hờn: Tôi thầm nhắc nhở mình, rằng CIA đã có nhiều kinh nghiệm về Việt Nam. Họ đã từng đi giầy, đi guốc, đi cả dép râu trên quê hương tôi. Mỹ đã từng đem tầu há mồm đến Hải Phòng đem người Bắc di cư vào Nam cho tới ngày ông đại sứ Martin ôm lá cờ Mỹ chạy. Trong khi đó, tôi chỉ mới biết CIA không đầy 3 tháng. Ba tháng là 100 ngày, một thời gian qua ngắn ngủi, cứ như một giấc chiêm bao.


          Khi tôi bắt đầu làm việc cho CIA, người ta đã bắt tôi ký một văn kiện có nhiều quy luật. Những đối với tôi, quy luật nào cũng theo được hết, miễn không làm điều gì hại đến ba tôi, dù tôi vẫn biết ba tôi luôn luôn trung thành với đất nước, mà đất nước tức là Đảng. Những đối với anh Khôi thì khác. Anh như con tầu mắc cạn, con chim bị nhốt trong lồng. Anh khao khát được sống như mọi người bình thường khác. Tôi không ngần ngại tìm cách giúp anh thoát khỏi cái nhà tù khổng lồ đó.

          Comment


          • #35
            Chương 36


            Việc đầu tiên khi chúng tôi đến Paris, là tôi phải liên lạc ngay với Rob. Rob Hall và chúng tôi đi cùng chuyến bay, nhưng ngận ra nhau ngày từ phi trường Dulles ở Washington, D.C, đến phi trường Charles de Gaulle. Thế rồi Rob cũng ở chung khách sạn Sheraton với chúng tôi. Một tiếng đồng hồ sau khi vào khách sạn, theo chỉ dẫn của Rob, tôi xuống lầu, đi xem các cửa tiệm trong khách sạn, mua sắm lặt vặt vài thứ. Sau đó, tôi trở lại thang máy, nhưng tôi không lên tầng lầu 6, nơi chúng tôi đang tạm trú, mà lên lầu 3. Tôi lên xuống ba lần, đến lần thứ tư thì Rob đã chờ sắn ở cửa. Nhưng chúng tôi không chào nhau, coi như không quen biết nhau. Khi mọi người đã ra hết, chỉ còn mình tôi, ông bước vào, rồi chúng tôi đi lên. Ông vừa nói “welcome to Paris” vừa trao cho tôi một hộp diêm quẹt giấy của khách sạn. Đến tầng lâu 4, thang máy ngừng lại, mở cửa, ông bước ra, tôi tiếp tục đi lên tầng lâu 6 để về phòng. Khi đã đóng hẳn cửa, tôi mở hộp diêm để biết số phòng của ông. Năm phút sau tôi đến gặp ông để bàn về chuyện ba má tôi. Nhiệm vụ của tôi là phải quan sát và theo dõi những cán bộ Cộng sản chung quanh hai người, rồi báo cáo cho Rob.

            Về phòng, tôi hỏi má tôi đã sẵn sàng gặp ba tôi chưa, bà tươi cười đáp “Chưa!”. Chưa bao giờ tôi thấy một má tôi vui vẻ như lúc này. Má tôi trẻ hẳn lại. Có phải bà đang nao nức gặp lại người chồng đã xa cách hơn hai chục năm? Má tôi hát “Ngày trở về” không biết mấy trăm ngàn lần. Nhưng cái vẻ tươi vui, rạng rỡ của má tôi biến mất đi. Ba trở nên đăm chiêu, lo nghĩ. Tôi ngồi xuống cạnh má, hỏi nhỏ:
            - Má nghĩ gì? Sao tự nhiên má buồn?
            Ná tôi khẽ thở dài:
            - Má buồn cho hoàn cảnh ngang trái của mình. Chỉ còn vài phút nữa, má được gặp ba con, đáng lẽ mừng lắm, vậy mà má không thể dẹp qua cái giận hờn cái “đảng” của ba. Ba biết má thương ba, nhưng ba làm bộ như má cũng thích cái đảng của ba.
            Tôi đề nghị:
            - Má, quan trọng nhứt là mình cho ba biết, mình thương ba, nhưng mình ghét cái đảng của ba. Con nghĩ, như vậy ba sẽ hiểu thấu xương thấu tuỷ của mình.
            - Nếu má có theo ba về lại Việt Nam thì cũng chỉ vì thằng con của má, anh Khôi của con thôi.
            Tôi nói ngay bằng một giọng tha thiết:
            - Mà sẽ không làm gì được cho anh Khôi đâu, má à. Đừng về vì ảnh, chỉ về cho má thôi.
            Má tôi nghẹn ngào, nước mắt chảy dài trên má:
            - Ít nhứt mà cũng chịu khổ với ảnh…
            Tôi năn nỉ:
            - Bây giờ mà chỉ nên nghĩ tới ba thôi. Một lát nữa gặp ba, má ráng nói ngọt, ba mình ưa ngọt lắm.
            Ba lấy khăn chấm nước mắt, rồi đứng lên xuôi xị:
            - Được rồi, cho má gặp ba con đi.
            Giọng bà đầy miễn cưỡng, không có vẻ rộn ràng như cái áo dài mới má đã ủi thẳng máng trên móc áo.
            Để sắp xếp cuộc gặp gỡ, tôi gọi toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam, xin nói chuyện với Phan Thanh Nam, người đã giúp chúng tôi lấy được giấy chiếu khán cho má tôi. Như tôi biết, ba tôi đã tới Paris từ ngày 14 tháng 9 và rất nôn nóng chờ tin má tôi. Khi được Nam chuyển điện thoại, ba tôi hỏi ngay địa chỉ của khách sạn, để sai nhân viên tới rước. Tôi đợi ông đến gặp chúng tôi ở khách sạn, nhưng ông cho biết theo ông phải ở trong cơ quan. Tôi nói đùa:
            - Thì lâu lâu ba phạm luật một lần cũng đâu có sao!
            Ba tôi cười, rồi cho biết ông và “chú Nam” sẽ đến khách sạn ngay. Tôi hơi bực mình vì “chú Nam” chen vô cuộc gặp ba má tôi, làm mất hết ý nghĩa của phút giây đoàn tụ của hai vợ chồng.
            Tôi xuống đón ba tôi và “chú Nam” để đưa lên gặp má. Tôi thấy chú Nam không có dáng của một nhà ngoại giao. Chú có dáng vẻ khắc khổ, chừng 55 hay 56 tuổi. Chú lùn, nhưng người vạm vỡ, da đen xạm, môi chì. Khi chú đưa tay ra bắt tay tôi, tôi thấy hai ngón tay chú vàng khè vì khói thuốc lá. Chú vui vẻ hỏi:
            - A, cháu đây là người đã nói chuyện với chú trong điện thoại. Quite an operator.
            Tôi hơi giựt mình vì tưởng bí mật của tôi đã bị… bật mí. Tôi cố giữ bình tĩnh, nhìn thẳng mắt chú như chờ đợi, thách thức. Chú Nam nói tiếp:
            Chú rất ngạc nhiên khi cháu gọi chú lần đâu.
            Tôi vui vẻ hỏi:
            - Bộ từ hồi nào đến giờ không có ai gọi chú từ bên Mỹ sao?
            Tôi cũng muốn nhân dịp này tìm hiểu chú, để có lợi cho công tác của tôi sau này. Chú đáp:
            - Có, có người gọi chú từ Mỹ chớ, nhưng không phải…
            Thấy chú ngần ngừ, tôi nói tiếp để trả lời:
            - Một người Việt Nam không phải là Việt Cộng?
            Chúng tôi cùng cười phá lên, làm cho bầu không khí bớt căng. Chú Nam sau đó giới thiệu anh Phạm Gia Thái, một sinh viên Hà Nội du học Pháp. Giọng Hà Nội của anh nghe thật êm tai. Anh cao hơn chú Nam, tất nhiên, người ốm yếu. Anh cận thị, mang kiếng dầy cộm như cái đít ve chai, nhưng tôi cũng nhận thấy đôi mắt lé của anh sau cặp kiếng. Anh mặc sơ mi trắng tay dài, bên ngoài khoác thêm một jacket kiểu Members Only mầu xanh dương, quần kaki xanh. Anh có dáng dấp của một thư sinh, con nhà gia giáo, lịch sự, dịu dàng, dễ thương. Nhưng tôi anh làm “nghề” sinh viên, vì đã trên dưới 40 tuổi. Anh sẽ lo cho chúng tôi trong thời gian chúng tôi lưu lại Paris. Sau tôi mới khám phá ra rằng tôi đã đánh giá anh quá thấp trong mọi hoạt động của Việt Cộng ở Paris.
            Chú Nam đề nghị với ba tôi là chúng tôi nên dọn về sứ quán ngay đêm đó; hôm sau anh Thái sẽ đưa chúng tôi đến biệt thự của Chánh phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam ở vùng Verrieres-la-Buisson. Đây là nơi mà cộng sản đã dùng nơi trú ngụ cho phái đoàn trong thời gian có hội đàm Paris. Tất nhiên là tôi muốn biết nơi đó lắm, nhưng lại không muốn mang ơn, và không thích ngủ dưới cùng một mái nhà với cộng sản. Tôi cần tự do đi lại để có thể liên lạc dễ dàng với CIA. Ngoài ra tôi cũng ngại đó là một cái bẫy? Tôi từ chối, nói rằng tôi sợ Bộ ngoại giao Hà Nội không muốn người có quốc tịch Mỹ ngủ trong biệt thự đó. Khi về Mỹ, tôi cũng có thể bị rắc rồi. Tôi hứa sẽ đi xe lửa tới thăm ba má tôi hàng ngày. Chú Nam nghe xong, tỏ vẻ bực mình, lạnh nhạt nói:
            - Tuỳ Mỹ Dung, miễn sao tiện cho cháu. Những chú cần cho cháu biết, là sẽ không có xe đưa rước cháu hàng ngày đâu.
            Tôi trấn an:
            - Chú khỏi lo. Cháu sẽ đi metro, chớ không làm phiền ai hết.
            Anh Thái thì ngạc nhiên, nhìn tôi đăm đăm mà không nói gì hết. Tôi thầm nghĩ, tôi cũng liều khi dám trả treo với Việt Cộng trên xứ lạ của thằng Tây. Hai mươi năm trước, tôi mới ra sống noi thị thành sau mười năm trong bưng biến, rừng rú. Nay mới 29 tuổi, lần đầu tiên tới thủ đô ánh sáng, chữ Tây đã trả tại thấy hết, may ra chỉ còn sót lại mấy chữ thông thường. Vậy mà dám tính di chuyển bằng xe điện ngầm. Hồi đó, ông ngoại thường nhắc nhở: “Đường đi ở cửa miệng”. Cứ hỏi những người chung quanh thì cũng có thể đi đến nơi về đến chốn.
            Khi tôi đưa mọi người lên phòng, cửa vừa mở, ba má tôi nhìn nhau sững sờ. Rồi ba tôi ôm choàng lấy với má tôi, cả hai cũng khóc trước một chúng tôi. Nhưng hai cụ phải cố kìm xúc động để thăm hỏi nhau một cách trang trọng, vì có hai người lạ. Nếu không phải là người Việt, tôi có thể thẳng thắn mời chú Nam và anh Thái đi chỗ khác chơi, để ba má tôi được tự do bày tỏ tình cảm sau một thời gian dài xa cách, nhớ nhung. Trong phủ giây đầy cảm xúc này, mà có hai cán bộ cộng sản chứng kiến, quả thật bẽ băng quá chừng đi. Đáng lẽ chính họ phải tự ý rút lui để tỏ ra mình là người lịch sự hiểu biết chớ. Nhưng họ cứ trơ trẽn đứng ỳ tại đó một cách thô bỉ. Khoảng 15 phút sau, anh Thái cho biết phải về sứ quán vì có buổi họp, chú Năm cũng về theo việc hẹn. Đáng lẽ ba tôi có thể ở lại khách sạn với chúng tôi, nhưng theo luật của cộng sản, cán bộ cao cấp phải có người bảo vệ (rình rập, kiểm soát?), nên không thể ở lại một mình được, phải đi theo họ. Chú Nam mời má tôi cùng đi cho tiện. Má tôi từ chối hẹn ngày mai về thẳng biệt thự ở Verrieres-la-Buisson. Sau khi tiễn ba người lên xe về sứ quán, tôi phải gặp Rob Hall để báo cáo. Tôi nhớ lời dặn của ông, là khi đã gặp cán bộ cộng sản, tôi sẽ bị chính cộng sản và cơ quan phả gián Mỹ theo dõi. Tôi lại phải dùng cái mẹo vặt lần trước, là đi lên đi xuống, ra vào thang máy nhiều lần, rồi gọi cho Rob bằng điện thoại công cộng. Khi gặp Rob, tôi cho ông biết mọi chi tiết. Ông có vẻ tiếc, là tôi không đến ở biệt thự của Mặt trận giải phóng miền Nam, vì nơi đó là một kho báu chứa nhiều tài liệu bí mật về cuộc hoà đàm Paris.
            Sáng hôm sau, ba tôi và anh Thái tại rước chúng tôi. Anh cho chúng tôi được đến vào thăm sứ quán của chính phù cách mạng lâm thời, vì các nhân viên ở đây nôn nóng muốn gặp má tôi và tôi. Trong phòng tắm, má tôi nói nhỏ với tôi, là má không muốn gặp “ông kẹ” nào hết, nhưng không thể từ chối, để ba tôi vui lòng.
            Sứ quán là nhà số 44 Avenue de Madrid ở vùng Neuilly-sur-Seine. Trên đường đi, anh Thái cho biết chú Nam sáng nay bận gặp mấy người “bạn Mỹ” nên không thể đi cùng. Nhưng khi tới sứ quá,, tôi thấy chú ăn mặc xuề xoà, ngồi cạnh bàn viết đọc cuốn “Inside the Cơmpany CIA Diary” của một cựu trùm CIA Phillip Agee. Quyền sách này đã gây sóng gió ở Washington nửa tháng trước, nhưng tôi chưa có dịp đọc. Tôi bước nhẹ tới sau lưng chú, rồi chỉ quyển sách hỏi:
            - Ôn bài, hả chú Nam?
            Chũ bẽn lẽn như con nít bị bắt quả tang đang ăn vụng. Chủ ngượng ngùng đáp:
            - Không, chủ thực hành Anh ngữ.
            Chú vội vàng xếp quyền sách lại, cùng tôi đi ra phòng khách. Tại đây, tôi thấy ba má tôi đang nói chuyện với mấy nhân viên, trong đó có một người tên là Như Phi mà chú Nam giới thiệu “thơ ký” của sứ quán. Sau này, tôi mới biết bà là vợ của nhà vật lý Jean Kaplan, làm việc cho French National Scientific Research Center. Tôi sực nhớ hồi tháng 3, người gọi tôi từ Paris biểu tôi lo đưa má tôi và hai đứa em cũng là Jean Kaplan, không lẽ ông Jean Kaplan này? Mà thôi, cũng có thể trùng tên, cũng như Việt Nam mình có bao nhiêu ông Trần, ông Đặng. Tôi cũng được gặp ông Thanh, tài xế của toà đại sứ. Thật ra, chức vụ tài xế chỉ là bề ngoài; ông chính là một sĩ quan tình báo, cánh tay trái của Phan Thanh Nam.
            Chúng tôi cũng được giới thiệu với một số nhân viên của ngoại giao đã làm việc dưới quyền của ba tôi. Một người hãnh diện khoe rằng ông đã chăm sóc ba tôi khi ba tôi bị bịnh vào mùa đông ở Moscow, và được đưa sang Paris dưỡng sức vào mùa xuân năm 1972.
            Đứng giữa phòng khách nguy nga, tráng lệ của toà đại sứ, thảm đỏ dưới chân, với những bình bông đầy hoa tươi, với những bộ bàn ghế kiểu Tây phương quý giá, tôi chợt nhớ tới phòng làm việc của ba tôi ở một xứ hẻo lánh trong vùng giải phóng trước năm 1954. Tôi cảm thấy mình xa lạ với căn phòng lộng lẫy này, dù những người chung quanh đều tỏ vẻ thân mật với tôi.
            Khi ba má tôi vào phòng riêng để nói chuyện vài phút. Thái đưa tôi đi thăm sứ quán của Mặt trận giải phóng miền Nam một vòng. Anh tặng tôi một lá cờ của Mặt trận và cho biết lá cờ này đã được treo trước toà đại sứ lâu ngày. Tôi thầm nghĩ tôi đang cầm trong tay một di tích lịch sử. Vậy má tôi không mảy may xúc động như khi tôi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ. Sau này tôi tặng lá cờ đó cho Rob Hall để kỷ niệm ngày tôi “vào đồn giặc”. Nhưng Rob cũng không muốn giữ nó, lại đem tặng ông chánh văn phòng của CIA tại Paris. Lá cờ được treo trên tường trong mấy ngày như một “chiến lợi phẩm” của mấy tay thợ săn.
            Trước khi trở lại phòng khách, tôi vào nhà vệ sinh. Khi mở đèn sàng, tôi lạnh toát người vì thấy trên sàn nhà có mấy lá cờ của Việt Nam Cộng hoà chung quanh cầu tiêu. Tôi cúi xuống, định cuốn mấy lá cờ lại, những chúng nặng trĩu nước. Tôi bỗng nhớ đến lá cờ phủ trên quan tài của em Hải Vân và những bạn bè chết trận. Cũng là lá cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi nghen ngào nuốt nước mắt. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa.
            Tôi xỉu đi không biết bao lâu, mấy người trong toà đại sứ không thấy tôi, phải chạy đi tìm. Họ gõ cửa ầm ấm phòng tắm làm tôi tỉnh lại. Tôi nghe tiếng ba tôi. Tôi vội nắm lấy áo ông, kéo vô phòng tắm, rồi đóng cửa lại ngay. Cũng chả có cần mọi người nghĩ gì lúc đó.
            Tôi chỉ xuống sàn nhà tám. Tôi nói vừa nghiến răng:
            - Ba coi nè, tụi này là do thú vật. Con sẽ trả mối thù này. Con thề với ba đó.
            Nói xong, tôi đẩy ông ra ngoài và lại đóng của. Tôi có vắt cho ráo nước lá cờ bị ướt, rồi lấy lá cờ khô gói lại, cất hết vô trong bóp. Về khách sạn, sau mấy tiếng đồng hồ cân nhắc, không còn cách nào hơn là gói mấy lá cờ trong bọc nylon, rồi miễn cưỡng nhẹ nhàng để vào thùng rác, như một kẻ hèn nhát. Khi về Mỹ,, chị em tôi hỏi sao tôi không giữ làm kỷ niệm? Tôi cho biết cứ lần nhìn thấy nó, tôi lại căm hờn cái đám người trong toà đại sứ quán.
            Nhưng chỉ hôm sau, tôi biết rõ hơn về “ý đồ” của CIA. Khi đọc bản báo cáo của tôi về chuyện viếng thăm sứ quán Mặt trận giải phóng miền Nam. Rob tỏ vẻ thất vọng, nhất là về mấy lá cờ Việt Nam Cộng hoà. CIA đâu cần đếm xía gì tới sự sống còn của Việt Nam Cộng hoà, kể cả nói đau khổ của người dân miền Nam sống dưới ách độc tài đảng trị của cộng sản. Họ chỉ cần tôi báo cáo những gì liên quan tới họ, những gì mà CIA muốn biết. Họ yêu cầu tôi vẽ lại sứ quán, rồi chỉ rõ cho ông biết một số chỗ như chõ nào là phòng khách, chỗ nào Phan Thanh Nam thường ngồi ăn uống, chuyện trò riêng tư, phòng làm việc cho nhân viên, chổ để điện thoại của phòng khách, v.v… May mà tôi mới vào sứ quán ngày hôm qua, nên còn nhớ rõ mọi thứ.

            Comment


            • #36
              Chương 37



              Tối hôm đó, chúng tôi được mời dùng cơm tại một nhà hàng Việt Nam trong quận 5 Paris. Cũng đi với chúng tôi có chú Thanh và anh Thái. Chủ nhà hàng là một người đàn ông Việt Nam chừng 45 tuổi, tên là Giang. Chắc anh ở Pháp đã lâu, có vợ đầm; tên chị Giang là Simone. Chị có vẻ hiểu nhiều về phong tục Việt Nam. Chị mừng rỡ khi thấy ba tôi bước vào nhà hàng, đã chạy ra đón, rồi hôn hai má ông. Anh Giang cùng tay bắt mặt mừng. Anh chị đều tỏ vẻ mừng rỡ khi ba tôi giới thiệu má và tôi. Anh cung kính chào má tôi, rồi nói:

              - Bác Nam và chúng cháu chỉ mong có ngày hôm nay, bác ơi! Gia đình bác được đoàn tụ, rồi đây đất nước mình sẽ yên vui.
              Chị Simone cung kính chắp tay lên ngực chào má tôi cung cách Việt Nam.


              Anh chị bắt tay tôi, rồi anh nói:
              - Chị giống bác trai quá. Chúng tôi rất mừng được chung vui bác Nam và gia đình chị ngày hôm nay. Rồi mình sẽ về quê hương với dân tộc mình, chị Dung ơi.
              Niềm vui lên cao, tôi lay cái vui của anh Giang. Tôi nghe có tiếng reo vui của dân tộc tôi đâu đây. Tôi hình dung ra đêm trăng sáng không còn tiếng súng. Ba má tôi sẽ dậy sớm đun nước pha tra để đối ẩm. Ban ngày thì đi thăm ba con lối xóm Cần Thơ, bên Ba Càng. Rồi tôi sẽ về thăm Cần Thơ… Nhưng tiếng ồn ào chung quanh kéo tôi trở lại thực tế.
              Simone đem ra một chai Johnny Walker đen, chưa khui, kéo một ly nhỏ để trước mặt chú Nam. Khi bắt đầu kêu món ăn, ba tôi nói:
              - Đây là bữa cơm đặc biệt, tôi phải uống rượu ăn mừng.
              Mọi người đều vui vẻ tán thành. Ba tới kêu một chai Côte du Rhône. Tôi cũng hay uống rượu nhưng giấu má tôi, nên Nam định rót rượu cho tôi, thì tôi vội từ chối. Lúc má tôi ra phòng tắm, tôi nói nhỏ với chú:
              - Chú cháu mình còn nhiều dịp uống rượu với nhau khi cháu đã về Việt Nam.


              Chú gật đầu cười đồng loã.
              Bữa cơm thịnh soạn, toàn những món ngon, đặc sản của miền Nam, vì anh Giang là người Sóc Trăng. Trước khi mang món ăn ra, anh nói:
              - Hôm nay chúng cháu chỉ đãi hai bác và chị các món ăn của dân Nam mình, không có món Bắc kỳ nào.
              Nghe giọng nói của anh, và nhớ lại thái độ của mấy người trong nhóm Mặt trận giải phóng miền Nam, tôi đoán có chuyện lủng củng gì giữa họ với Bắc Kỳ. Con anh Thái thì thuộc phe nào? Anh trung lập, hay là tai mắt của đại sứ Hà Nội, đi theo để dòn chừng ba má tôi?
              Về công tác tình báo của tôi, cho đến lúc ấy vẫn chưa rõ rằng. Rob chỉ dặn đi dặn lại là tôi cứ theo dõi những gì đang xảy ra trước mắt. Vì vậy, suốt bữa ăn, tôi để ý nhiều đến chú Nam và anh Thái. Chỉ mới uống có một ly rượu, mắt anh đã đỏ như gấc chín. Con chú Nam thì đã uống gần một phần tư chai Whiskey mà mặt cứ tái xanh, nặng như chì.
              Tôi dặn lòng là phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, không uốn lưỡi đủ bảy lần thì cũng phải sáu lần. Tôi còn cố gắng xài những từ Việt Cộng, tuỳ cơ ứng biến, như một con cắc kè thay đổi mầu sắc tuỳ theo hoàn cảnh. Vậy mà khi chú Nam khen đi khen lại rằng tôi tài tình khi tìm ra ba tôi ở Tokyo, tôi nói phần lớn cũng nhà tự do báo chí mà tôi tìm được ba tôi. Báo Japan Times đã đưa tin ngay phái đoàn của Mặt trận giải phóng miền Nam đến Tokyo. Khi nghe tôi nói vậy, mọi người trong bàn đều im lặng, một sự im lặng ngột ngạt, khó chịu. Ba tôi thì nhìn tôi bằng cặp mắt nghiêm nghị, trách móc. Má tôi đá nhẹ chân tôi dưới gầm bàn.
              Hồi nhỏ dì Bảy tôi dậy, trước khi nói phải suy nghĩ. Có thật không? Có cần nói không? Có tử tế không? Đúng 100%, không cần nói cho lắm. Có gì mà không tử tế, khi đó là sự thật ai cũng biết.
              Phan Thanh Nam chú động trong cuộc nói chuyện. Chú đặt nhiều câu hỏi riêng tư cho người đối thoại, vì vậy, tôi khó đoán nổi trong cái đầu hoa râm của chú đang thật sự nghĩ những gì. Tôi phải thận trọng khi nói chuyện với chú.
              Trước hết, chú hỏi tôi đến Mỹ bằng cách nào. Tôi cứ thật thật mà trả lời:
              - Cháu nghe nói Mỹ là nước tự do, có nhiều cơ hội để tiên thân và có thể tìm đến ba cháu được. Rõ ràng là cháu đang ngồi bên ba cháu nè.
              Chú đột ngột hỏi:
              - Cháu làm gì ở Mỹ?
              Chú nhìn tôi không chớp mắt, trong khi đó anh Thái xích lại gần chú hơn để nghe tôi trả lời.
              Tôi thành thật đáp:
              - Cháu dậy tiếng Việt cho quân đội Mỹ ở Fort Bliss tại tiểu bang Texas một thời gian, rồi sau đó cháu dọn qua Monterey, tiểu bang bằng California.
              Chú lại hỏi bằng một giọng nữa tò mò nửa nghi ngờ:
              - Làm sao cháu được chọn để dậy cho chánh phủ Mỹ?
              Tôi đáp ngay, không một chút rụt rè, suy nghĩ:
              - Chắc chú còn nhớ đại tá Phạm Ngọc Thảo, bị giết trong cuộc đảo chính ở Biên Hoà? Bà đại tá Thảo là…
              Chú cướp lời tôi:
              - Chị Phạm Thị Nhiệm, người của mình, Mỹ Dung biết không?
              - Cháu hy vọng là như vậy, bà ấy giúp cháu khi cháu dậy học.
              Phan Thanh Nam gật gù, mặt tươi hẳn lên, rồi nói với giọng đắc ý:
              - Mặc dù cháu phải sống xa ba cháu, không được ba chỉ dẫn nhưng cháu đã gần gũi với những người chính đáng. Chú rất hài lòng.
              - Con của ba cháu không có đi lạc đường đâu, chú!
              Chú lại hỏi:
              - Khi dậy lính Mỹ, cháu nói gì với họ về chiến tranh Việt Nam? Cháu có nói cho họ biết là sự có mặt của Mỹ là một sai lầm to lớn của chánh phủ họ không?
              Nghe hỏi, tôi nhớ ngay đến chiến dịch tuyên truyền của cộng sản. Cán bộ được đưa vào các trường dậy tiếng Việt ở Mỹ. ngoài giờ dậy, chúng la cà làm quen với các lính Mỹ, rồi xúi bảy họ đào ngũ. Bọn lính trẻ này là bọn bỏ học, bỏ nhà đi lính. Họ chưa bao giờ nghe nói tới Việt Nam, cũng không biết Việt Năm nằm ở chỗ nào trên trái đất nữa, thế mà khi nghe nói tới các mật khu sình lầy, rắn rết, thì họ đã hết hồn, có đường đào ngủ là thần tiên cho họ rồi. Dù sao họ cũng con là con nít, học hành dở dang.
              - Đó là một chiến dịch mật, cháu không được tuyển chọn, vì cháu còn non nớt, nhưng cháu biết tới chiến dịch đó.
              Phan Thanh Nam nhìn tôi chậm chạp, rồi nói với giọng nghiêm trang:
              - Thôi, Mỹ Dung à, chiến tranh đã chấm dứt, những dịp cho cháu đóng góp cho đất nước vẫn còn chờ cháu, nếu cháu muốn.
              - Nếu cháu muốn? Dĩ nhiên là cháu muốn chớ, chú Nam!
              Tôi vội trả lời như một Việt kiều nhẹ dạ, nghe mà mắc cỡ.
              Nam gật gù:
              - Chú cháu mình mình cần nhiều thời giờ ngồi lại với nhau sau khi ba má cháu về thành phố Hồ Chí Minh. Sẵn đây, chú báo cho cháu biết: Sài gòn đã đổi tên.
              Dù đã biết trước khi mất nước, nhưng nghe Phan Thanh Nam nói, tim tôi đau nhói. Sài gòn mất tên; Sài gòn không còn nữa.
              Sau bữa ăn, tôi hỏi nhỏ ba tôi là tôi có nên trả tiền cho anh Giang không, vì tôi biết tất cả mọi người trong sứ quán đều nghèo tả tơi? Ba tôi chưa kịp trả lời, thì Phan Thanh Nam nói:
              - Anh là người trong nhà cả. Bữa nay anh chị Giang đãi ba má cháu và cháu.
              Tôi không ngờ, truyền thống “dân phải nuôi đảng viên để đảng viên nuôi đảng” lại tràn sang tận Paris, dù xa cách rừng U Minh cả ngàn vạn dặm.
              Trên đường về, Nam cho biết các Việt kiều ở Paris đã tích cóp, đóng góp cho cách mạng. Họ đã hiến tiền bạc, thì giờ, phương tiện theo khả năng của họ. Có như vậy, cách mạng mới thành công.
              ***
              Hôm sau, tôi không tới Verrieres-la-Buisson thăm ba má, ở lại Paris để dò đường, tìm cách vô toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Trước khi đi, tôi nói với Rob, nếu 12 giờ khuya mà không trở về khách sạn, tôi muốn xác của Phan Thanh Nam treo ngược đầu trong phòng làm việc của ông giam đốc CIA. Câu nói nửa đùa nửa thật của tôi đã làm Rob lo lắng. Tôi mừng thầm sự lo lắng này, vì tôi không muốn họ quá tin tưởng vào sức tôi, rồi đưa tôi vào một hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm. Cho tới lúc đó, CIA chưa chánh thức huấn luyện tôi về chuyên món: hoàn toàn trông cậy vào cái khéo léo xứ sự của tôi thôi.
              Rob lo lắng hỏi:
              - Nếu cô không hoàn toàn thoải mái thì đừng đi.
              Tôi đáp:
              - Không bao giờ tôi thoải mái khi tới gần Việt Cộng, nhưng việc phải làm thì phải lắm.
              Rob nhanh nhảu chúc tôi đi may mắn.
              Rob lớn hơn tôi chừng 10 tuổi, nên trong thời gian chúng tôi cùng làm việc, ông thường kêu tôi là kiddo (con nhỏ).
              Ở Paris, Rob chỉ dẫn tôi đủ mọi điều, nhưng lại quen không chỉ cho tôi cách đi xe điện ngầm ở Paris. Tôi phải lần mò, hỏi han người khác, rồi cũng đi được một chuyến metro từ khách sạn Montparnasse. Rồi lại phải tìm một hồi lâu mới biết đường tới Avenue de Madrid, nhưng tìm hoài mà không biết có đi đúng đường không, đành đi về hướng Neuilly, rồi đi taxi.
              Sứ quán của Mặt trận giải phóng miền Nam có bức tường cao che kín. Tôi bấm chuông ở cổng, nhưng không nghe ai trong intercome. Khi nhìn lên lầu, tôi thấy một người đan ông đứng bên cửa sổ văn phòng chú Nam nhìn xuống. Sau đó, tôi nghe có tiếng mở khoá cổng. Chú “tài xế” Thanh đón tôi vô. Lúc này chú có vẻ trịnh trọng và khách sáo. Chũ dân tôi vào phòng khách và chỉ một cái ghế mời tôi ngồi chờ.
              Phan Thanh Nam có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi, có thể ông lại cho là dịp tốt để khai thác tôi. Chúng tôi rời phòng khách, đi xuống phòng ăn của cơ quan. Phòng nhỏ ở trong bếp lạnh lẽo, vừa bước vô tôi nghe mùi thuốc lá hôi hám. Mùi đồ nấu ăn, mùi nước mắm quen thuộc. Nơi đây rất yên lặng, thuận tiện cho trùm gián điệp cộng sản tìm một tài năng mới.
              Không để mất thì giờ, chú đi thằng vào vấn đề. Chú hỏi về chồng con của tôi. Tôi không biết chú biết về gia cảnh của tôi đến đâu, tôi nghĩ, nói ít và nói thật là thượng sách. Chú hỏi rất nhiều chồng tôi, hỏi cả về gốc rễ, từ đâu di cư sang Mỹ. Tôi nói bên nội, bên ngoại của John là người Nam Tư. Chú nhận định y như ba tôi đã nói: “Như vậy, anh ấy không xa lạ gì với mình”. Tôi nghĩ bụng: “Ngu gì mà ngu thể! Ông bà của người ta di cư qua Mỹ để tỵ nạn cộng sản, ông Việt Cộng ơi!”. Nhưng tôi không dám nói ta.
              Nam tằng hắng, vẻ mặt trở nên nghiêm trọng. Tôi bình tĩnh sửa soạn tinh thần. Chú hỏi:
              - Chồng cháu làm nghế gì?
              Tôi giật mình và khó chịu, vì ở Mỹ không ai hỏi nhau làm việc gì. Nhưng tôi hiểu ngay rằng, dù làm trong ngạnh ngoại giao, Nam cúng vẫn chỉ là một kẻ xuất thân từ rừng U Minh, kinh nghiệm hơn là suốt đời lẩn lút trong bóng tối.
              - Anh ấy có bằng về thiên văn học và hải dương học, hiện đang làm cho đài khí tượng ở Hawaii.
              Phan Thanh Nam xoa hai tay vào nhau như thể cho ấm trong căn nhà bếp lạnh lẽo này. Nhưng nhìn mặt chú, tôi đoán biết ý muốn của chú. John Krall là một con mồi hấp dẫn của chú.
              - Nếu chú cháu mình khéo léo hỏi chồng cháu giúp mình, thì anh ấy sẽ có lợi ích cho Việt Nam vô cùng.
              Tôi giả bộ khờ khạo hỏi:
              - Chú có thể nói rõ hơn chú muốn gì không?
              - Chưa, chưa tới lúc. Chú cần nghiên cứu thêm. Những phải nói là vào địa vị ấy, chồng cháu sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, và chú sẽ tạo cho cháu một chỗ đứng tốt trong xã hội.
              Cgỉ mới nghe Nam nói, tôi đã thấy mình có tội với dân tộc và những người di tản. Tôi có thể kể chuyện này cho CIA, nhưng làm sao tôi dám mở miệng nói với John. Tôi biết anh sẽ giận lắm.
              Nam nhìn tôi đăm đăm, rồi hạ thấp giọng hỏi:
              - Cháu có yêu nước không, Mỹ Dung?
              Tôi thầm nghĩ là ông này dám chọc cọp Thị Nghè thì cũng gan dạ thiệt. Tôi liền đáp một cách dõng dạc:
              - Cháu dám nói chắc với chú là cháu yêu nước hơn chú!
              Mắt chú mở to ra, và đôi môi chì mím lại. Tôi tiếp tục nói:
              - Cháu sanh trưởng ở miền Nam, con của một nhà cách mạng, cả gia đình cháu bên nội bên ngoại đều chống Pháp. Cháu lớn lên với đất nước, đã biết yêu, biết thương dân tộc, đã chia sẻ mọi đau khổ theo vận nước thăng trầm. Xác của em cháu, bạn cháu, trong lòng đất nước, bạn học cũng trường của cháu mất tích trong rừng, dưới sông, dưới biển… Trong khi đó, ở bên Tây, chú rheo dõi chiến tranh trên truyền hình, qua báo chí… Làm sao chú có thể yêu nước bằng cháu?
              Nói xong, tôi nhìn chú không chớp mắt. Chú binh tĩnh, đáp:
              - Hồi còn ở bên nhà, chú ở trong bộ đội. Như ba cháu, cũng hy sinh đời chú cho cách mạng. Chú không có thời giờ riêng cho chú, nên cũng không dám nghĩ đến chuyện vợ con.
              Chớ không phải bắt chước “bác Hồ” ở vậy không nuôi con. Tôi nghĩ thầm, rồi mỉm cười.
              - Không lập gia đình, chú cũng không mất mát gì lắm đâu. Vợ là nợ. Có vợ có con rồi đùm nhau để tản cư chạy giặc cực lắm!
              - Sao cháu biết?
              - Chú quên là trước khi đi Mỹ, cháu ở đâu sao? Cháu chạy giặc từ hồi cháu mới chập chững biết đi mà, chú.
              Phan Thanh Nam đổi đề tài:
              - Cháu nên thuyết phục má cháu trở về Việt Nam. Đó là thượng sách.
              Tôi đáp ngay:
              - Gia đình cháu có truyền thống tự do. Bất cứ ai quyền lựa chọn theo ý mình. Má cháu muốn về Việt Nam hay ở lại Mỹ là quyền của má cháu. Chị em cháu không được xía vô, không xúi má về, cũng không giữ má lại. Chị em cháu đã bắt tay nhau đồng ý như vậy rồi.
              Nam ngập ngừng:
              - Đôi khi người già không đủ sáng suốt để tính toán quan trọng, mình phải giúp ý kiến…
              Khi nghe Nam đánh giá thấp má tôi, coi bà như một bà già không đủ minh mẫn, tôi giận lắm, những phải cố nén xuống để khỏi đập tay lên bàn. Tôi lấy giọng ôn tồn nói:
              - Chú Nam, có thể chú chỉ biết ba cháu thôi, vì hai người là đồng chí. Bây giờ cháu xin nói về má cháu cho chú nghe, để chú biết má cháu. Bà đã tự do kết hôn với ba cháu. Khi biết ông theo cộng sản, bà vẫn lo tròn bổn phận một người vợ đảm đang, một mẹ hiền trong gia đình, dù ba cháu vắng mặt. Cháu dám quả quyết với chú là má cháu vượt xa hẳn những người đàn bà từng là “cách mạng”. Mà cháu thông monh, nhìn xa, hiểu rộng, chắc chắn không phải là một “bà già trầu” như chú tưởng. Bà chưa già, mới có 60 hả. Nếu có đầu thai lại 25 lần nữa, ba cháu cũng không thể tìm được một người đàn bà nào như má cháu để làm bạn đời đâu. Má cháu cũng không thương ai bằng thương ba cháu. Vì vậy, cháu đâu cần thuyết phục má về Việt Nam với ba cháu.
              - Tại sao lúc đó mà cháu bỏ nước ra đi vậy?
              Vừa hỏi, Nam vừa móc túi lấy một cuốn số nhỏ để ghi.
              - Cháu sợ Sài gòn tắm máu như Việt Cộng doạ, nên phải tìm cách đưa bà ra khỏi cho nguy hiểm.
              - Tự cháu về Sài gòn rước má?
              Nam nhìn tôi bằng đôi mắt nghiêm nghị hỏi. Tôi lắc đầu:
              Ước gì cháu làm được việc đó. Chồng cháu phải về để cứu má và hai em cháu.
              Nghe nói có cả hai đứa em, Nam nhóm người lên, nói như ra lệnh:
              - Hai em cháu cũng phải trở và Việt Nam!
              Tôi nhún vai:
              Tuỳ tụi nó, chú à. Gia đình cháu là gia đình tự do, dân chủ, không ai có quyền ép buộc người khác làm điều trái ý của họ. Chị em cháu sẽ ăn thịt cháu, nếu cháu định chơi trò độc tài.
              Nam giũ im lặng một lát, rồi nghiêm giọng nói:
              - Mỹ Dung, cháu đừng quên là hai em của cháu có bổn phận phải về Việt Nam vì danh dự của ba cháu. Chúng nó sẽ làm tổn thương danh dự của ba cháu khi con cái của ba cháu đều sống trên đất nước của kẻ thù dân tộc.
              Tôi đưa hai lấy lên ra dấu cho Phan Thanh Nam bỏ qua đề tài này, rồi gạt đi bằng một giọng quả quyết:
              - Mình không nên để mất thì giờ cho việc này. Cháu không có ý kiến hay ảnh hưởng nào tôi sự quyết định của em cháu.
              Nhưng Nam vẫn nói:
              - Khi má cháu vế rồi, cháu nên thuyết phục hai em cháu phải về theo.
              - Tại sao?
              - Ba của cháu là một vị đại sứ nổi tiếng ở Moscow. Các chị Liên Xô của ba cháu đã ký hộ chiếu cho má cháu ghé thăm Liên Xô trên đường trở về Việt Nam. Họ còn có nhã ý mời ba cháu đi máy bay Aeroflot từ Paris qua Moscow, rồi về Hà Nội không mất liền. Cháu có thấy đó là một vinh sự lớn cho gia đình cháu không?
              Tôi bướng bỉnh nói:
              - Cháu hiểu. Được Liên Xô ưu đãi là một vinh dự đối với chú và ba cháu. Nó hoàn toàn vô giá trị đối với cháu.
              - Khi mà cháu trở về Việt Nam là một thắng lợi nữa cho chúng ta, và cho Việt Nam nữa.
              Tôi đáp ngay với giọng mỉa mai:
              - Mà cháu ở đậu, có ăn nhậu gì đến ai. Má chỉ là một trong mấy trăm ngàn người tỵ nạn đến Mỹ mà thôi. Nếu Nguyễn Cao Kỳ xin tỵ, nạn chánh trị ở Hà Nội mới là chuyện đáng nói. Báo chí cả thế giới sẽ đăng tin này trên trang nhứt. Còn má cháu? Hay em cháu?
              Nam lắc đầu:
              - Mỹ Dung, cháu sai lầm rồi. Má cháu không phải là người tầm thường, mà là vợ của một vị đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Mà cháu là nạn nhân của một cuộc bắt cóc do CIA chủ mưu. Họ bắt má cháu đi để làm mất mặt Chánh phủ cách mạng. Việc mà cháu trở về có thể ví như một cái tát vào giữa mặt tổng thống Ford và chánh phủ Mỹ.
              Tôi giận đến run người khi nghe Phan Thanh Nam nói má tôi là nạn nhân của một vụ bắt cóc do CIA tổ chức. Như vậy, từ nãy tới giờ, ông không tin chồng tôi đã về Việt Nam rước má Mỹ. Để lấy lại bình tĩnh, tôi xin phép đi vào nhà vệ sinh, ra, tôi thấy trên bàn có hai chai bia. Tôi liền từ chối. Ông rót bia ra và mời tôi.
              Dường như Phan Thanh Nam đã có một loạt câu hỏi, và nóng này chờ tôi trả lời. Ông nhắc tới Hải Vân, em tôi. Tôi nghĩ rằng đời em không có gì phải giấu, vì em đã sống một cách hồn nhiên và danh dựr. Nhưng tôi lại nghĩ, anh cán bộ cộng sản này không xứng đáng nghe về em tôi.
              Phan Thanh Nam dựa lưng vô ghế, nhìn tôi với vẻ mặt thách đố, nói:
              - Cháu đừng quên những kẻ đã giết hại em cháu. Cháu phải bắt họ phải trả một giá thật đắt, phải chịu một hình phạt cho xứng đáng cho cái tội đã làm gia đình cháu đau khổ.
              Tôi không còn kiên nhẫn với nghệ thuật vụng về của Phan Thanh Nam nữa.
              - Cái chết của em cháu là bị thảm của gia đình cháu, chú Nam.
              Nhưng Phan Thanh Nam luôn luôn có giải pháp cho mọi vẫn đề, ông nói:
              - Gia đình của ba cháu cũng là gia đình của cách mạng. Mấy chú, mấy bác rất xót xa. Bây giờ lại được gặp mà cháu và cháu, thì càng tội nghiệp hơn nhiều.
              Nói gì đây, với một người Cộng sản đang gieo mầm thù hận vào lòng tôi! Mục đích của tôi hôm nay là tìm hiểu con người ông, để đối phó với ông sau này. Biết đâu, có một ngày nào đó, tôi sẽ cho ông vào cái bẫy, mà chính ông đang muốn đẩy tôi vô? Nghĩ vậy, tôi phải tìm những lời nhẹ nhàng, để làm vui lòng ông:
              - Cháu mừng được gặp đồng chí của ba cháu. Cháu cần học với chú nhiều lắm. Ít nhứt cháu cũng phải hiểu việc làm của ba cháu, ý nguyện của ông, mục đích của ông, để có thể tiếp tay ba, nếu cho phép.
              Nam hãnh diện ra mặt, nói:
              - Chú sẵn sàng chỉ dẫn cho cháu khi ba cháu vắng mặt. Cháu có thể đóng góp thật nhiều cho công cuộc xây dựng lại đất nước chúng ta, bằng cách dùng khoa học, kỹ thuật của Mỹ. Bằng cách hay bằng cách khác, Mỹ phải có bổn phận xây dựng đất nước chúng ta.
              Tôi hùa theo:
              - Tối hôm qua, cháu nghe chú và ba cháu nói về chuyện Mỹ phải bồi thường chiến tranh. Vậy, theo chú, Mỹ nợ Việt Nam bao nhiêu?
              - Theo hiệp định Paris, họ nợ mình ba tỷ rưỡi Mỹ kim.
              Tôi biết câu nói sắp đến không nên nói, nhưng tôi hết kiên nhẫn với người nói ngang nói ngược rồi; có bị bắt bẻ, tôi sẽ nói là tôi không biết.
              - Rủi Mỹ nhắc cho Hà Nội nhớ lại là theo hiệp định Paris, Hà Nội không được thôn tính miền Nam. Chừng đó ăn làm sao, nói làm sao? -. Tôi hỏi.
              - Cháu ngây thơ lắm. Mình đâu có thôn tính miền Nam. Đúng hơn là mình giải phóng miền Nam khỏi tay để quốc Mỹ và bù nhìn! - Ông cười đắc ý.
              - À, cháu quên là Hà Nội giải phóng miền Nam.?
              Nam lại nói với một giọng hăm hở:
              - Khi về Mỹ, cháu phải vận động người Mỹ đòi hỏi Chánh phủ của họ phải tôn trọng Hiệp định Paris.
              Tôi thầm tự hỏi, tôi sẽ vận động ai? Bọn phản chiến đã chạy qua Gia Nã Đại? Hay vận động thượng nghị sĩ Gorge McGovern? Thấy tôi mỉm cười vu vơ, Nam hỏi tôi nghĩ gì, tôi đáp:
              - Cháu đang nghĩ xem cháu có thể vận động ai được, người đó có đủ khả năng để thức đẩy quốc hội Mỹ chấp thuận đề nghị này không?
              Nam vội hỏi:
              - Ai vậy?
              Tôi cười:
              - Thượng nghị sĩ McGovern.
              Nam có giọng nghiêm trang:
              - Chú đã nghiên cứu về các thượng nghị sĩ Mỹ. Chú thấy ông McGovem là một trong số ít người có tinh thần phóng khoáng. Ông là người mà chung ta có thể tin tưởng được.
              Trời! Tôi thầm cầu xin tôi không phải là loại người “phóng khoáng” như ông cán bộ cộng sản này nói tới. Nếu “phóng khoáng” như vậy, tôi sẽ trở thành một thứ bù nhìn có lợi cho cộng sản. Tôi tự hỏi, không biết thượng nghị sĩ McGovem đã làm gì cho Hà Nội chưa? Tôi hỏi Nam:
              - Tại sao chú nghĩ ông ấy là người phóng khoáng?
              - Điều rõ ràng nhất là ông ấy chống chiến tranh.
              Tôi nghĩ rằng chú Nam hơi tầm thường, nhưng tôi lại nữa đùa nửa thật nói:
              - Chú à, cháu còn phải học chú nhiều lắm!


              Chú không hiểu ý tôi. Vừa lúc đó, có người vào bếp để sửa soạn bữa ăn trưa. Tôi muốn ở lại để tìm hiểu chú nhiều hơn, nhưng hôm nay tôi cho như vậy là đủ rồi, nên tôi xin phép ra về, dù chú cô giữ tôi lại.


              Vừa ra khỏi toà đại sứ, tôi đi thật lẹ như muốn chạy cho xa chỗ này, rồi kêu xe taxi để về khách sạn. Tôi cảm thấy tôi dơ bẩn, vì đã đi vào toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam, nói chuyện với cộng sản bên ly trà. Việc đầu tiên khi về đến khách, tôi đi tắm gội, rồi bỏ hết quần áo vô bao để bỏ giặt ủi.

              Comment


              • #37
                Chương 38



                Cửa sổ phòng khách sạn Sheraton của tôi trông ra nghĩa trang Montparnasse. Sau khi tắm cho sạch hết những dơ bẩn của toà đại sứ, tôi đứng bên cửa sổ, đem tâm hồn trở về với cái thân mệt mỏi này. Một ý nghĩ vui vui hiện lên trong óc tôi. Trong nghĩa địa kia có người lính nào tử trận Điện Biên Phủ nằm không? Nghĩ tới cuộc chiến tranh của thực dân Pháp trên quê hương, tôi lại ghét thằng Tây nhiều nữa. Ác cảm của tôi với nước Pháp ở ngày một tăng, trong thời gian tôi ở đây. Cho tới cái tay vịn cầu thang bằng đồng cũng làm tôi nhỏ đến đạn đồng, bom đạn quân đội viễn chinh Pháp trút lên quê hương tôi.

                Tôi lắc đầu để có quen đi dĩ vãng, rồi đi ăn trưa và nghiên cứu bản đồ xe điện ngầm, tìm đường tới biệt thự của Mặt trận giải phóng miền Nam thăm ba má tôi. Khi ra khỏi trạm xe điện ở vùng ngoài ô Paris, tôi mở cửa một xe Taxi, đưa cho tài xế địa chỉ của biệt thự tại 49 đường Cambaceres.
                Ông tài xế liền hỏi tôi:
                - Bà định đến cơ quan của Việt Cộng?


                Khi tôi xác nhận bằng tiếng Anh, ông ta hỏi tôi có biết Pháp không. Tôi phải thú thật là tôi không biết. Ông bèn vén đồ thun lên để cho tôi thấy hai chữ “Việt Nam” xâm trên vai. Ông cũng cho biết ông đã từng ở Việt Nam năm 1952 và 1953


                Tôi hỏi ông có biết tiếng Anh không thì ông lấy tay ra hiệu “Biết chút chút”. Tôi liền hỏi:
                - À. Việt Minh đuổi ông xuống tầu?
                - Bà là Việt Cộng?
                - Không, tôi là người Quốc gia.
                Ông vui vẻ nói:
                - Tốt! Tốt!


                Rồi ông bắt đầu cho xe chạy. Khi đến nơi, ông cựu lính viến chinh không chịu thối tiền cho tôi, viện cớ không có tiền lẻ. Tôi tức giận định la ông, thì chợt trông thấy ba má tôi đứng trên bao lơn biệt thự nhìn xuống. Cảnh êm đềm hiếm có ấy làm tôi nguôi giận. Tôi vội vàng mở của xe bước ra.


                Má tôi đi vào phòng. Cảnh này làm tôi nhớ lại thời chúng tôi tầng lấu hai, chung cư trên đường Nguyễn Văn Sâm. Sài gòn. Má tôi thường đứng trên bao lơn đợi chúng tôi đi làm về. Khi thấy bóng chúng tôi, bà vội vào nhà để mở cửa cho con.


                Một ông già, hình như là một người giúp việc, đón tôi ở cửa, và nói bằng một giọng chân tinh:
                - Rất vui mừng được đón tiếp cô ở đây.
                Tôi chắp tay, cúi đầu chào ông theo kiểu Việt Nam. Ông cũng cúi khom lưng để đáp lễ. Tôi kêu ông bằng “ông Các”. Nhưng sau đó ba tôi dặn tôi kêu là “bác Các” cho thân mật.


                Trời tháng 9 của Paris có thể dễ chịu với người Pháp, nhưng lại lạnh đối với một người Việt Nam như má tôi. Bà đã quen khí hậu nóng ở Việt Nam và Hawaii. Bà đứng cạnh một bồn bông súng, mặc cái áo len dầy và trùm kín đầu bằng một khăn quàng mầu đỏ. Trong khi đó, ba tôi chỉ mặc một chiếc do sơ mi tay dài. Bác Các đưa chúng tôi vào một phòng khách và mang trà nóng ra. Sau đó, bác xuống nhà bếp để sửa soạn bữa ăn tối cho chúng tôi. Bác cho biết đây là một dịp đặc biệt, nên bác tự tay nấu nướng, dù bác nấu cũng không ngon lắm. Để tăng cường cho bác, sứ quán gọi hai người đàn bà tới phụ. Họ là hội viên của Việt kiều yêu nước.


                Sau khi bác ra khỏi phòng, má tôi và tôi nhìn nhau, không nói một lời, nhưng đều có ý không thích những người này ở gần chúng tôi i. Má tôi chỉ muốn được ở bên ba tôi mà không bị ai nhòm ngó, rình rập. Má tôi muốn tìm hoàn toàn ba tôi hơn, sau hai mươi năm xa cách. Má tôi cũng muốn biết ba tôi nghĩ gì về cuộc “giải phóng” tại quê nhà.
                Lợi dụng khi ba tôi ra khỏi phòng mấy phút, tôi hỏi má tôi thấy thể nào khi được gặp lại ba tôi. Má tôi khóc, bà nói:
                - Má muốn cho con biết để con yên lòng, là ba con muốn má về Việt Nam với ba. Còn họ, tụi Nga muốn má về, nên đã làm ầm ĩ chuyện này để tuyên truyền. Ba con chua dám nói thiệt với má, nhưng má đã biết hết rồi.


                Tôi xác nhận:
                - Má à, con nói chuyện với chú Nam, thì ra ý đồ của họ là như vậy. Con không quan tâm về chuyện tuyên truyền của họ; con chỉ muốn biết, khi má trở về Việt Nam, mà có được ăn toàn không?
                Má tôi nghẹn ngào nói:
                - Thằng John đã liều mạng, không kể hiểm nguy cho nghề nghiệp, để cứu má và hai đứa nhỏ. Không có một lý do nào, mà má phụ hết công lao do của vợ chồng con.
                Tôi vội lắc đầu lia lị, nói:
                - Đó là bổn phận của tụi con trong giờ phút đó. Quên công lao đó đi. Đó là chuyện quá khứ. Con nói chuyện bây giờ nè, má có về Việt Nam với ba không?
                Bà chưa kịp trả lời thì ba tôi trở vào phòng, ông ngỏ ý muốn đưa tôi đi xem quanh nhà, mà ông kêu là “biệt thự lịch sử” tỏ ra hãnh diện về ngôi nhà này. Thật ra thì cũng đáng hãnh diện vì đây là nơi trú ngụ của các lãnh tụ nổi tiếng trong khi dự hoà đàm Paris. Đó là ông Lê Đức Thọ và bà Nguyễn Thị Bình và nhiều nhân vật nổi tiếng khác nữa. Cũng chẳng có gì nhiều để coi vì nhà đang sửa lại, đồ đạc chất đống trong một căn phòng Nhưng tôi phải tỏ ra thích thú và thán phục khi đi vòng quanh nhà, cho ba tôi vui.
                Ngay cả khi chúng tôi nói chuyện về ngôi nhà, tôi thấy ba má tôi có vẻ buồn trong ánh mắt. Tôi thấy mình bất lực. Dù sao tôi cũng là người ngoài cuộc: chỉ có ba má tôi mới giải quyết chuyện riêng của hai người. Khi chúng tôi còn sống ở Sài gòn chị em tôi thường kêu tôi là người có “ba đầu sáu tay”, vì tôi có khả năng giải quyết nhiều chuyện khó khăn trong gia đình. Bây giờ mà có 6 đầu 18 tay cũng bất lực, vì đây là chuyện chỉ có thể giải quyết giữa hai trái tim.
                Ba tôi vui lắm bên vợ con, dù hoàn cảnh qua mong manh:
                - Ba à, con mơ ước ngày đoàn tụ của mình lâu quá rồi!
                Ba tôi vui vẻ nói:
                - Ba phải công nhận rằng con rất có công trong việc này. Con đã thu xếp cho má sang đây với ba, ngồi cùng một phòng nói chuyện với ba.
                Má tôi nói:
                - Con không thể nào chạy nửa vòng trái đất để được gặp ba con vài ngày, vài tuần, sau lưng đảng của ba con. Tới lúc con phải hiểu, những điều kiện nào hai cha con mới được gặp nhau?
                Trời ơi, má tôi đi guốc trong bụng cộng sản, mới hiểu mà thắc mắc vấn đề này. Chắc má tôi nghĩ rằng, tôi đã phải tuân theo những điều kiện của cộng sản, để được gặp ba tôi. Ba tôi nhắc má tôi:
                - Chuyện riêng tư thì từ từ giải quyết!
                Má tôi có giọng bất mãn:
                - Ở Nhựt, ông đã không dám cho “đồng chí” của ông biết nó là con gái ông. Tôi không thích như vậy!
                Tôi nháy mắt ra dấu cho má tôi hay giữ bình tĩnh, và đừng vì tôi mà trách móc ba tôi. Thật ra, hồi ở Nhựt tôi đau lắm, những tôi cho rằng đó là điều cần thiết, để ba tôi giữ uy tín với các cán bộ cộng sản, khi được chút tự do ra khỏi nước. Nếu cộng sản biết được rằng các con của ba tôi hiện sống ở Mỹ, vẫn tìm cách liên lạc với ông, thì chắc chắn họ sẽ không cho ông được hưởng chút tự do nào nữa.
                Bữa ăn tối rất ngon, với nhiều món đặc biệt và thuần tuý Việt Nam. Tôi ăn như người bị đói, đến nỗi ba má tôi hỏi tôi có ăn nữa không?
                Khi bác Các và hai người đàn bà dọn cơm xong, họ đóng cửa đi xuống nhà bếp; chúng tôi nói chuyện gia đình, nhắc tới những ngày xa xưa. Ba má tôi nói tới con cái, cả những tánh tốt lẫn điều xấu. Khi má tôi khen tôi - rất hiếm khi tôi được khen như vậy - bà cho biết các con đã tận tình săn sóc bà. Khi phê bình tôi, bà nói:
                - Con nhỏ này làm tôi bạc đầu, cho tới khi nó đi lấy chồng. Nó đúng là con gái của anh.
                Ba tôi cười và khen má tôi đã dậy dỗ chúng tôi nên người, rồi ba tôi nói tới Hoà Bình thì hai mắt của ông sáng lên. Ông vừa nói vừa nhìn tôi:
                - Ba nhớ Hoà Bình… hồi ở Kim Qui trời đẹp, mình hay ăn bên ngoài cái sân nước trước nhà. Nó cứ nhảy xuống sông, con mau mau nhảy theo với nó; ngày nào nó cũng làm vậy, và lần nào con cũng nhanh nhẹn nhảy theo vớt nó lên. Ba nhớ con chó của mình, nó hay nằm giữ Hoà Bình lắm.
                Tôi hỏi:
                - Ba có nhớ có lần ba làm thứ nước mắm không?
                Ba tôi chưa kịp nói gì, thì má tôi đã xen vô:
                - Tôi khổ vì hai cái thùng nước mắm thúi quắc đó.
                Chúng tôi cười phá lên vui vẻ. Sau đó, ba tôi hỏi má tôi làm gì hai thùng nước măm của ông? Bà đáp:
                - Anh không tin đâu, có một gia đình tới hỏi mua hai thùng nước mắm đó. Chắc họ muốn nuôi ruồi sau hè.
                Ba tôi vui vẻ nói:
                - Nước mắm của anh làm ngon hơn nước mắm em mua ở tiệm.
                - Đúng! - Má tôi vừa cười vừa nói bằng một giọng trêu ba tôi - Tằm của anh nuôi kéo nhiều tơ hơn tằm của người ta. Còn con của anh thì khôn hơn con của người ta vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dưa leo anh trồng lớn hơn dưa leo của anh Mười Cừ. Mía của anh cũng ngọt hơn mía của người khác trồng.
                Ước gì có chị em cũng chia sẻ những giây phút thần tiên đó.
                Hôm đó, có một người đàn ông ghé qua villa trong Verrieres-la-Buisson gặp ba tôi. Trong khi người tài xế của ông ngồi đợi trong xe, ông và ba tôi kéo nhau vào phòng khách để nói chuyện. Vì phòng đang được sửa sang, nên không có bàn ghế gì hết, hai người phải đứng bên cửa sổ thì thầm.
                Má tôi về phòng nằm nghỉ. Nhận lúc vắng vẻ, tôi lọt vô để xem xét, thăm dò. Trong một văn phòng sát phòng ngủ của má tôi, tôi thấy có nhiều ngăn đựng giấy tờ, có cả những ngăn chứa toàn hồ sơ cũ, giấy đã ngả sang mầu vàng. Tôi vuốt nhẹ tay những tờ giấy vàng đó, và nghĩ rằng những hồ sơ này có nhiều giá trị đối với chánh phủ Hoa Kỳ, mà tôi nên đọc qua, hoặc định chụp hình để đưa cho Rob. Nhưng phòng này không đủ ánh sáng nên máy hình của tôi không chụp được. Tôi đóng cửa phòng rồi bắt đầu quan sát. Tôi không dám bật đèn, vì sợ người tài xế Mercedes từ dưới nhìn lên có thể thấy rõ. Tôi mở một ngăn và đọc sơ qua một vài trang giấy, thì mới biết cái bàn này là của bà Nguyễn Thi Bình, bộ trưởng ngoại giao của Chánh phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Tôi kéo ghế ngồi xuống. Tôi đọc lướt qua một vài tờ giấy nữa, rồi cảm thấy mắc cỡ vì bà ta cũng là một phụ nữ Việt Nam, mà lại phục vụ cho một tà đạo.
                Trong ngăn kéo, có một lá thơ của một người đàn bà Mỹ chúc bà Bình gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp trong hội nghị hoà đàm Paris. Người đàn bà này ca tụng bà Bình là một con người bản chất yêu chuộng hoà bình. Đoạn cuối của bức thơ, ba yêu cầu bà Bình và chánh phủ Hà Nội cũng như chánh phủ lâm thời miền Nam hay thả các tù binh Mỹ. Bà cho biết, cháu bá đã bị ép phải chiến đấu cho chánh phủ bù nhìn Nam Việt Nam và đã bị bắt àm tù binh.
                Bà Bình đã phê vô cuối lá thư: “Bà này điên khủng quá, không trả lời”.
                Lá thơ thứ hai của bà mẹ một anh lính trẻ đang chiến đấu ở Việt Nam. Bạ tự nhận là một người “phản chiến”. Bà khẩn khoản xin bà Bình và Chánh phủ Hà Nội cố gắng chấm dứt chiến tranh, và hỏi bà có thể làm gì, để giúp Mặt trận giải phóng miền Nam dứt chiến tranh.
                Tôi tin rằng em trai tôi sẽ không bao giờ cho phép má tôi đi xin với kẻ thù chấm dứt chiến tranh, để nó được về nhà với má.
                Bà Bình viết vào lá thơ cho thơ ký trả lời: “Bà này có thể khuyên con trai đời bồi thường khi nó về Mỹ, nhưng đừng viết vào thư trả lời. Bảo bà ấy hãy vận động và liên kết với hàng xóm giềng, chống chính sách của Chánh phủ về chiến tranh tại Việt Nam. Đồng ý với bà ấy là con bà phải được ở cạnh bà, chớ không phải ở Việt Nam”.
                Lá thơ thứ ba của một cô gái Mỹ, bầy tỏ lòng ngưỡng mộ bà Bình và “những cố gắng của bà để tiến tới hoà bình trên tổ quốc của bà. Tôi hổ thẹn làm công dân Mỹ trong giai đoạn này, Việt Nam là nước duy nhứt bầy tỏ lòng yêu chuộng hoà bình”. Lá thơ còn tỏ ra thiếu dè dặt khi cô gái viết: “Tôi mong rằng nhờ dân tộc Việt Nam mà chúng tôi có thể thấy lại được ánh sáng cho nước tôi, sau những ngày đen tối. Hơn thế nữa nước Mỹ hiểu rằng, dù là một cường quốc cũng phải tôn trọng hoà bình. Bà Bình viết cho thơ ký: “Tiếp tục gửi tài liệu cho cô gái này và cho người của chúng ta tiếp xúc với cô ấy. Đây là nhân vật có thể xài được”.
                Tôi định đọc tiếp, thì nghe tiếng ba tôi kêu. Tôi ngó qua lỗ khoá, thấy ông đang đứng giữa nhà nhìn dáo dác tìm tôi. Tôi mở cửa, lẻn ra, và rón rén bước xuống cầu thang ra vườn, vào nhà trở lại; tránh cho ba tôi thấy tôi trở ra từ văn phòng bà Bình.
                Tôi ghẹo ba tôi:
                - Việt Cộng gian ác tới gặp ba chi vậy?
                Ba tôi cười nụ cười héo hắt, trả lời:
                - Đó là nhân viên toà đại sứ đến lấy giấy tờ của má để chiếu khán cho má về Việt Nam, qua ngả Mạc Tư Khoa.
                Tôi không hiểu ba tôi có biết tôi cất giấy tờ của má tôi trong tủ sắt trong khách sạn không? Ba tôi cho nhân viên toà đại sứ biết rằng, má tôi còn cần suy nghĩ thêm một thời gian nữa. Tôi thấy đây là một chuyện rất khó khăn cho ba má tôi, khi phải đối mặt với thực tế. Nó có thể làm tan vỡ ảo tưởng về sự xum họp tại ngôi biệt thự này. Ba tôi có vẻ lo lắng trong khi má tôi lại tỏ ra chán nản. Tôi nhìn bà, định nói một câu gì, nhưng bà đã lên tiếng trước:
                - Tui không thích bị dồn vô cái thế này… đừng có để ai ép buộc tui.
                - Ai ép má? - Tôi hỏi.
                Ba tôi liền đi ra khỏi phòng, mà không nói một lời nào. Tôi im lặng nhìn theo ba tôi, rồi đến ngồi lên mép giường má nằm. Bá nói:
                - Họ tới cho ba con biết họ đã giữ chỗ cho ba má trên chuyến bay đi Mạc Tư Khoa, rồi về Hà Nội vào cuối tuần.
                Tại sao người ta lại sắp xếp ngày giờ cho ba má tôi đi? Hai người muốn đi chừng nào thì cho họ biết, chớ tại sao họ bắt ba má tôi biết chừng nào phải đi theo chỉt thị của họ? Hồ đó đến giờ, chưa có ai biểu má tôi đi thì đi, ở thì ở bao giờ.
                Chuyện này làm tôi nhớ lại một câu chuyện cổ tích đọc hồi nhỏ. Người ta tin có thiên đàng và địa ngục. Sưd giả của địa ngục là bọn quỷ sứ thường đi đón người sắp chết để về “dưới đó”. Một hôm, quỷ sứ đến gặp một bà già đang ốm nặng: “Mời ba đi. Đã đến lượt bà rồi”. Bà già cố ngồi gượng dậy và quát lớn: “Cút đi! Đến lượt nhà ngươi chớ không của ta,. Ta đợi con trai của ta con đi đánh giặc chưa về. Con của ta sẽ trở về sau cuộc chiến tranh để lấy vợ và sanh cho ta lũ cháu nội!”.
                Ba tôi để hai mẹ con tôi ngồi nói chuyện, rồi lên giường nằm ngủ.
                Lại sợ “vách có tai”, nên mà nắm tay tôi dẫn ra ngoài sân nói chuyện. Bà kể, bà hỏi ba tôi nửa đùa nửa thật:
                - Khi tôi về bên nhà, tụi “cán ngố” nó làm gì tôi hả anh?
                Ba tôi nhăn mặt:
                - Sao em dùng danh từ không hay chi vậy em?
                - Người người trong Nam của tui nói sao, tui nói vậy!
                Anh nợ em nhiều lắm, không làm sao trả hết, vì vậy, anh phải nói thật với em để sau này em không trách anh. Em về, các anh sẽ mời em lên nói chuyện. Có thể em sẽ đi họp vài ngày, rồi em về với anh.
                Má tôi nói lại rằng ba vừa tội nghiệp, vừa thương ba tôi, khi nghĩ rằng ông đã lấy hết can đảm, hết tình chồng vợ mà trút hết sự thật với má tôi, nhưng bà cũng la lên:
                - Vác cái mặt lên cho mấy thằng đó mắng chưởi chớ gì!
                - Không có có ai dám xúc phạm em, nhưng đi học tập ít ngày rồi về!
                - Tôi khôn hơn ông Hồ Chí Minh của anh, thương dân thương nòi hơn anh Ba Duẩn của anh, thì ai mà dậy tôi để mà học với tập! Thôi, tôi không về, cho đẹp lòng hai bên.
                Má tôi kể lại. Bà thấy ba tôi không nói, mà im lặng cả buổi trưa.
                Tôi thầm nửa mừng, nửa xót xa khi biết má tôi đã từ chối đường về Sài gòn. Tôi can má dùng giận ba tôi, vì đó không phải là ý của ông. Công bằng mà nói, cả tuần này ba tôi chịu má, nhượng bộ hết.
                ***
                Tôi gọi cho Rob nhiều lần, khi tôi đã trở về khách sạn vào 9 giờ tối, nhưng không gặp ông. Rỗi rảnh quá, tôi ngồi lại ngồi viết báo cáo về cuộc viếng thăm ngôi biệt thự. Nó hai dài, tôi thiếu loại giấy đặc biệt mà ông cho tôi hôm trước, nên tạm xài thêm giấy viết thơ.
                Tôi mong Rob đến lấy bản báo cáo ngay tối hôm đó, vì không muốn để nó trong phòng tôi, lor bị an ninh Pháp, gián điệp Nga KGB lên vô phòng tìm thấy thì rất phiền phức. Tôi đi quanh phòng để kiếm một chỗ an toàn, tạm giấu bản báo cáo này trong đêm nay. Mấy bức tường thì cứng ngắc, còn thả thì đóng chặt trên sàn. Trong chỗ máng quần áo có một giàn để máng áo phía chót của cái giàn bằng sắt tròn, có cái nắp bằng cao su đậy cái lỗ của thanh sắt, tôi gỡ cái nắp cao su đó, quấn tròn mấy trang báo cáo lại, rồi bỏ vô thanh sắt, đậy nắp lại. Xong xuôi, tôi rửa mặt, xúc miệng, lên giường ngủ, ngủ ngon như một em bé.
                Khoảng mười giờ sáng Rob tôi gặp tôi. Trao ngay cho ông bản báo cáo xong, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Ông có vẻ ngạc nhiên, vì không ngờ lại có bản báo cáo sớm như vậy. cũng có thể, tối hôm qua ông đi chơi khuya, chưa sẵn sàng làm việc sáng nay, ông gấp bản báo cáo lại, rồi cất vào túi nilon. Tôi nửa đùa nửa thật nói:
                - Nếu ông bị cướp hỏi thăm, thì cho chúng nó cái Rolex và thẻ đi metro, đừng cho nó lấy bản báo cáo nhen.
                Rob cũng mê tín dị đoan, nên nhăn mặt mà nói:
                - Cái miệng của bà linh lắm, đừng nói vậy cho.
                Khi tôi kể lại cuộc “thám hiểm” của tôi trong văn phòng bà Bình, Rob hơi giựt mình, và khuyên tôi không tiếp tục nữa. Không phải là vì an ninh của tôi mà ông khuyên như vậy. Mãi sau này tôi mới biết rằng CIA không còn quan tâm, không muốn đã động đến đám phản chiến. Từ ngày chiến tranh chấm dứt, Mặt trận giải phóng miền Nam đã bị lu mờ và bị cộng sản Hà Nội nắm hết. Bây giờ CIA chỉ nhắm vào Nam đã đốt nhịp cầu của Chánh phủ cách mạng lâm thời Nam Việt Nam, sau khi bước qua với chánh quyền Hà Nội chớ không để cho cái bóng màacủa Chánh phủ cách mạng lâm thời nhát họ nữa.
                Một buổi sáng, tôi đi xe điện ngầm từ Gaite tới trung tâm rồi đi bộ trên lề đường để xem các quầy bán sách vở. Tôi có cảm tưởng tôi đang đi trên đường Lê Lợi ở Sài gòn. Tôi thấy vui vui. Chung quanh tôi, người ta toàn nói tiếng Pháp. Sau khi ăn điểm tâm tại một tiệm café đối diện với nhà thờ Notre Dame (Đức Bà), tôi quyết định gọi Thái. Anh ở nhà vợ ở Mcudon, ngoại ô Paris. Bà mẹ vợ chưa cưới của anh nói anh hiện đang làm việc ở toà đại sứ của Hà Nội. Thế là tôi biết Thái không phải chỉ là sinh viên, mà còn là một nhân viên tại của toà đại sứ.
                Tôi biết rằng nếu tôi cho bà ta biết tôi là ai, thì tôi có thể biết thêm được một số tin tức khác. Tôi liền xưng danh, và nói rằng tôi tới Paris để tham viếng ba tôi là ông Đặng Quang Minh. Ba về reo lên:
                - Tôi biết anh Minh. Gia đình tôi rất quý anh. Cảm ơn cháu đã cho biết cháu là con gái anh Minh!
                Tôi hơi có mặc cảm tội lỗi khi nghe giọng thân mật của bà. Tôi không biết nói gì hơn nữa, chỉ xin bà cho anh Thái biết tôi đã kêu. Bà liền cho tôi số điện thoại của toà đại sứ Hà Nội và đề nghị tôi gọi cho Thái để cùng đi ăn trưa. Tôi nói tôi không muốn phiền anh khi anh đang làm việc. Nhưng bà nói thêm:
                - Cháu cứ kêu Thái đi. Anh ấy chắc chắn rất vui được gặp cháu. Cũng có thể Thái sẽ đưa cháu đến Hội Người Việt và giới thiệu với ông chủ tịch hội.
                Hội người Việt này là hội của những Việt kiều theo cộng sản. Làm sao tôi có thể bỏ qua cơ hội đẹp như vặy? Tôi vội ghi số điện thoại toà đại sứ Hà Nội, và cám ơn bà rối rít. Tôi không có ý gọi cho toà đại sứ, vì không biết có bị an ninh chìm nổi của ai khác theo dõi không? Do đó, tôi nghĩ rằng phải hết sức cẩn thận. Tôi theo đám đông các du khách để đi đến nhà thờ Đức Bà.
                Trong một tiệm buôn lớn trên đường Haussman, tôi dùng điện thoại công cộng để gọi cho toà đại sứ Hà Nội. Người trả lời tôi cho biết Thái đang họp với ông đại sứ, nếu tôi có việc khẩn cấp cấp, thì ông ta sẽ mời Thái ra ngay. Như vậy là thêm một chi tiết quan trọng về Thái. Anh làm việc trực tiếp với ông đại sứ. Có thể những điều anh nói với tôi là ý kiến của ông đại sứ. Như vậy, giao thiệp với anh rất có lợi. Tôi cảm ơn người trả lời điện thoại và hẹn sẽ gọi lại.
                Tôi cảm thấy tôi đang gặp may. Nhưng khi tôi đi dạo trên phố phường, chợt nhớ tới ba má tôi và hoàn cảnh hiện tại của ông bà, thì mấy đen kéo đến che phủ nền trời trong sáng. Không còn hứng đi chơi nữa, tôi đi xe điện ngầm về và gọi điện thoại ngay cho ba tôi. Ông tỏ ra vui vẻ và muốn tôi cũng vui như ông. Tôi đề nghị ông đưa má tôi vào Paris cùng đi chơi, mua sắm lặt vặt. Nhưng ông cho biết, ông cũng phải đi với một người trong toà đại sứ; đó là hộ vệ viên của ông. Nhưng ông hứa, ngày mai ông có thể đi cùng với Thái và cùng má tôi và tôi đi mua sắm.
                Tôi viết một bản báo cáo về những điều mới khám phá liên quan tới Thái, để trao cho Rob khi ông tới gặp tôi vào buổi chiều. Ông tỏ vẻ vui thích về khám phá này. Chúng tôi đồng ý là tôi cần đến Meudon gặp Mimi, vợ chưa cưới của Thái và gia đình cô ta. Có thể có nhiều tin tức mới lạ.. Nhưng tôi cần chờ đợi người ta mới, hơn là tự tiện đến. Rob cho rằng tôi nên giữ thế thụ động để Thái tìm cách chỉ bảo tôi về thế giới của xã hội chủ nghĩa.
                Rob cho biết sẽ gửi bản báo cáo của tôi về Langlcy ngay. Sau đó, Rob mời tôi đi ăn tối, để mừng công việc có tiến bộ. Chúng tôi đến một tiệm mà ông thích. Nhưng chúng tôi cẩn thận đi riêng, chỉ gặp nhau trạm xe điện ngầm ở Francois-Xavier. Tối hôm đó chúng tôi được ăn một bữa thật ngon, và tôi đã uống rượu hơi nhiều.
                Khi tôi trở về khách sạn, người làm việc ngoài quầy tiếp khách đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ trong hộc để chìa khoá phòng thì tôi biết Thái kêu tôi khi tôi đi vắng.
                Khi Thái kêu và cho biết anh cùng ba má lời đang đợi ở dưới nhà, tôi vội vã chạy xuống ngày. Chúng tôi tới nhiều tiệm hàng hóa. Ba tôi mua một máy quay phim. Nhưng khi má tôi đề nghị đến một tiệm bán quần áo đàn ông để mua cho ba tôi mấy sơ mi, thì ba tôi tỏ vẻ không thích. Ba tôi nói có đủ rồi.
                Tôi biết, nếu một người đàn ông chỉ cần có bốn áo sơ mi thì có thể coi như ba tôi có đủ cả rồi. Má tôi năn nỉ nhiều lần, ông mới chịu mua mấy cái áo, nhưng nhất định không chịu mua quần. Ông chỉ mua hai áo, và một vài quàn lót cho anh Khôi thôi. Vì vậy tôi cũng đành đồng ý, dù trong lòng tôi hai ghen với anh. Dù đã lớn tôi vẫn được ba tôi cưng chiều. Trong một thoáng, tôi nghĩ rằng nếu tôi ngưng hát những bài ca chống cộng thì có lẽ tôi cũng được cưng chiều như anh Khôi. Thôi rõ rồi, biết ba má thương yêu nhau, đời cưng chiều tôi đến mức này là lý tưởng vô cùng rồi.
                Trong chuyến đi mua sắm đó, vào một lúc vắng vẻ chỉ có hai mẹ con, má tôi cho biết bà đã có quyết định về tương lai của hai người rồi.
                Ba má tôi đã thảo luận rất lâu, và đã đi đến một kết luận là má tôi nên trở về Mỹ với các con. Lúc đó, tôi không tiện hỏi lý do vì sợ Thái có thể nghe được. Tôi rất mừng là ba má tôi đã có một quyết định chung, dù quyết định do có thể làm cả hai đau lòng lắm.
                Sau khi mua sắm xong, bất ngờ Thái cho biết Phan Thanh Nam mời má tôi và tôi tới toà đại sứ Việt Cộng. Chúng tôi không muốn gặp Nam chút nào, nhưng lại không dám từ chối, vì Thái là người lái xe, mà chúng tôi lại không muốn tỏ thái độ thật của chúng tôi cho anh ta biết.
                Khi chúng tôi tới toà đại sứ Mặt trận giải phóng miền Nam, thái độ của Nam đã thay đổi hẳn, không còn niềm nở như lần đầu gặp chúng tôi nữa, ông tỏ vẻ lạnh nhạt đối với má tôi; không cười, dù chỉ là một nụ cười xã giao. Tôi đoán ông đã mất bình tĩnh khi phải chờ đợi quá lâu quyết định của má tôi. Ông chào đón má tôi song vẻ mặt lạnh lùng, nặng như chì. Ngay khi chúng tôi vừa tới nơi, bà Như Phi, vợ một khoa học người Pháp, mời ba tôi lên ăn phòng của bà ở lầu hai, để hỏi ý kiến ông về cách đối phó với Chánh phủ Gia Nã Đại về một chiếc tầu mới tới Gia Nã Đại sau khi miền Nam sụp đổ. Tàu đó chở đầy đồ cổ quý giá của miền Nam, mà chính quyền mới ở Sài gòn muốn lấy lại.
                Thanh, bác “tài xế”, cũng đã ngồi ở phòng khách với Nam khi má tôi và tôi vào ngồi trong đó. Nhìn mặt má tôi, tôi biết bà không muốn nói chuyện với “thằng lùn” (biệt danh má tôi đặt cho Nam), nhưng bà im lặng chờ đợi. Sau khi Nam và Thanh đưa mắt nhìn nhau, Nam tằng hắng theo thói quen, rồi hỏi má đã quyết định trở về Việt Nam chưa?
                Má tôi đáp:
                - Tôi quyết định rồi, chú Nam à.
                Bà dùng chữ “chú” để tỏ ra mình là người trên đối với kẻ ít tuổi hơn.
                Thanh và Nam đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ vui mừng. Như cái máy, cả hai chồm tới để nghe má tôi nói, rồi cũng nhìn má tôi chờ đợi. Bà bình tĩnh nói:
                - Tôi sẽ rồi Paris thật sớm, nhưng tôi không về Sài gòn.
                Cả hai cùng tỏ vẻ kinh ngạc, ngồi bất động và giữ im lặng hồi lâu. Cuối cùng, Nam lên tiếng bằng một giọng yếu ớt:
                - Tôi không hiểu chị nói gì.
                Má tôi nói:
                - Để tôi giải thích cho hai chú hiểu. Ba nó và tôi cùng phục vụ tổ quốc bằng hai đường khác nhau. Anh đi làm cách mạng, còn tôi nuôi dậy con cái. Không ai thay thế cho ai được. Cũng không thể lơ là bổn phận nặng nề của mình.
                Thanh ngắt lời má tôi:
                - Nhưng các con chị đã trưởng thành và hoà bình đã trên quê hương ta.
                - Chú Thanh, chú cho tôi nói hết đã. Tôi còn hai đứa nhỏ. Đành rằng Việt Nam bây giờ không còn đánh nhau nữa, ba nó và Chánh phủ mới còn nhiều việc phải làm lắm. Tôi lớn tuổi hơn hai chú, tôi đã trải qua chiến tranh, rồi hoà bình, rồi chiến tranh, nên tôi biết, mấy tháng mấy năm sắp tới không dễ như hai chú tưởng đâu.
                Hai nhà ngoại giao ngồi nín thở nghe người đàn bà Cần Thơ giản dị trình bày.
                Ngưng một chút, bà tiếp:
                - Không có tôi, ba nó có nhiều thì giờ rảnh rỗi để lo việc giữ quốc gia đại sự. Trong khi đó, hai đứa con nhỏ của tôi sẽ được tôi săn sóc nơi xứ lạ quê người. Tôi xin hai chú trình bày ước vọng của tôi cho cấp trên ở Hà Nội biết.
                Hai nhân viên cộng sản ngồi im lặng, cố gắng vừa nghe má tôi nói chuyện, vừa nuốt trái đắng. Tôi nhìn lên tường có bức in chân dung của Hồ Chí Minh và câu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tôi nghĩ rằng Bác Hồ chắc phải thích má tôi lắm, bà lúc nào cũng tỏ ra có tinh thần độc lập và đang thực hành lời nói lãnh tụ để được hưởng tự do. Má tôi quay lại nói với tôi:
                - Con à, mình làm mất thì giờ của chú Nam nhiều quá rồi!
                Tôi biết hai chú không muốn gì hơn là “mất nhiều thì giờ” cho má tôi. Vì họ đã mất thì giờ tính toán kỹ càng chiến lược của họ để sắp xếp cho “vấn đề” của bá. Trong khi hai người đang lúng túng, tôi bỏ ra khỏi phòng, để lại một mình má tôi và hai ông cộng sản. Tôi chạy lên lầu xem ba tôi đã nói chuyện với ba Như Phi xong chưa. Bà cho biết ba tôi hiện ở trong phòng trọ của khách. Tôi vội tới đó, thấy ba tôi đang đứng bên cửa sổ, ngắm nhìn bầu trời tháng 9 của Paris.
                Tôi đến bên ông và quàng tay ôm lấy lưng ông, rồi nhìn ra ngoài. Cây hạt dẻ trước toà đại sứ đã đổi sang mầu nau, lá rung rinh mỗi khi cơn gió lướt qua, và lác đác rụng xuống lối đi. Tôi hỏi nhỏ:
                - Ba nghĩ gì vậy, ba?
                - Ba đang nhớ tới mùa thu ở quê mình. Ba nhớ tới mùa gặt trên cánh đồng của ông nội khi ba còn nhỏ.
                Trong khi ông nói, tôi nhận thấy nụ cười buồn man mác trên môi ông, một nụ cười của người đang nhớ nhà. Tôi nói:
                - Ba ơi, con có thể nhắm mắt để nhớ lại cánh đồng ngập lúa vàng của bà ngoại vào mùa gặt.
                Ông vuốt nhẹ mái tóc tôi, rồi nói:
                - Ba có vào thăm cô của con khi ba từ Hà Nội vào Nam. Một buổi sáng, ba đi thăm rộng. Không khí mất mẻ, ngọt ngào; ba nghe như có tiếng chuông reo trong gió. Lá cây láp lánh anh nắng bình minh. Ba không ngờ ba lại con có may mắn được trở lại nơi nhau cắt rún. Ba bọc một nắm đất cầm chặt trong tay, rồi mơ ước được hưởng cảnh thanh bình này với gia đình ba.
                Ba tôi nhìn vào xa xăm. Quê hương và người và sắp đi xa. Tôi nói:
                - Lạ lắm ba, mỗi lần con nghe mùi lá cháy ngoài đồng là ruột gan con xao xuyến. Có biết bao nhiêu kỷ niệm trở lại trong óc con; kỷ niệm vui buồn, rối beng như tơ vò, mà con chỉ biết khóc thôi. Ba à, sao yêu mà đau đớn quá vậy ba?
                Ba tôi lắc đầu:
                - Ba cũng không biết trả lời câu hỏi đó!
                - Hồi con nhỏ, mỗi lần buồn chuyện gì, con khóc. Nếu khóc nhiều, con chỉ thấy đau ở quai hàm. Vậy mà sao người ta vẫn kêu là đau trong tim, nên thường có chữ “tan nát trái tim”. Con thắc mắc về chuyện này hoài mà không biết hỏi ai.
                Ông biết, tôi có ý nói lúc tôi lớn lên ông không ở gần để trả lời những câu hỏi của tôi. Vì vậy, ông nói:
                - Ba tiếc đã bỏ lỡ một thời tuyệt đẹp trong đời của ba. Đó là thời mà các con đang lớn lên. Ba không được chia sẻ với các con những nỗi đau buồn, những niềm hạnh phước, những hy vọng, những hất vọng, để có thể trả lời các con những điều thắc mắc.
                - Ngày xưa ba với ông nội có thận mất với nhau không.
                Ba tôi vui vẻ đáp ngay:
                - Ông nội yêu ba hơn cả yêu chính bản thân ông. Nhưng giữa ba với ông nội có tính cách nghiêm trang theo lễ nghi. Ba gọi ông bằng thầy. Nhưng bà nội lại không giống những người đàn bà Việt Nam khác. Ba công khai bày tỏ tình thương, âu yếm con cái, ngay cả với ông nội nữa, không một chút e thẹn.
                - Ba có biết, con đã rất buồn một thời gian dài, khi phải mang họ Trần, để được yên thân với công an dưới thời của ông Diệm không? I
                - Con là con của ba, về máu huyết lẫn tâm hồn, con à. Không có ai có thể chối bỏ được điều đó. - Ba tôi mỉm cười.
                - Không có ai chối bỏ được, kể cả điện Cẩm Linh. Con muốn ba biết chắc như vậy.
                Ba tôi cười đồng loã với tôi:
                - Kể cả điện Cẩm Linh, ai cũng phải công nhận con là con của ba.
                Rồi ba tôi đổi giọng nghiêm trang:
                - Con săn sóc má giùm ba, nghe con.
                - Dạ, con xin hứa chắc với ba điều đó.
                - Còn về phần ba, ba cũng hứa cố gắng hết sức để đem lại hoà bình và thịnh vượng cho toàn dân, vì ba biết điều đó quan trọng đối với con.
                Tôi biết rằng một cuộc chia ly khác đã bắt đầu trong đời tôi một lần nữa và lần này sẽ kéo dài không biết bao lâu. Tôi mạnh lấy ba tôi, rồi nói:
                - Con rất muốn có một ngày con với ba đi dạo trên cánh đồng của ông nội, để mình nghe tiếng chuông reo trong gió, để nếm hương vị ngọt ngào trong bầu không khí trên miếng đất của ông bà nội con.
                - Ba sẽ cha con về.
                Tôi liền nói:
                - Đau lắm ba ai. Tối hôm qua, con so sánh tâm trạng của con lúc này với tâm trạng của ba khi thực dân Pháp cai trị Việt Nam, con mới biết tội nghiệp cho ba hồi đó lắm…
                Nói đến đây, tôi vội ngưng lại, vì nhớ ra rằng “rừng có mách, có tai”. Tôi đang đứng trong sào huyệt của Việt Cộng, và người ta có thể lén đặt máy nghe khắp nơi. Tôi không thể nói thật ý nghĩ của tôi được nữa.
                Ba má tôi và tôi được mời ăn tối cũng ông đại sứ Võ Văn và phu nhân tại toà đại sứ Hà Nội. Nhưng sau khi má tôi cho Phan Thanh Nam biết sẽ không về Việt Nam, thì bà không muốn gặp các nhân vật của Hà Nội nữa. Khi Nam cho biết bữa tiệc tối nay là để ăn mừng ngày xum họp của ba má tôi, thì bà cũng thấy cuộc gặp gỡ càng không họp tình hợp lý nữa. Nam cũng không muốn là người báo tin xấu với ông đại sứ, nên nói thêm:
                - Ông bà Sung muốn gặp má tôi và tôi lắm.
                Nhưng má tôi đã quyết định khước từ. Phan Thanh Nam chịu luôn.
                ***
                Chiều hôm đó. Thái lái xe đưa ba má tôi trở về biệt thự ở Verrieres-la-Buisson và đề nghị tôi đi cùng. Tất nhiên là tôi chịu vì tôi biết rằng cơ hội được gần ba má tôi sắp sửa không còn nữa. Tôi phải tận hưởng những giây phút tuyệt vời này cành nhiều càng tốt.


                Tuy nhiên, trong chuyến đi này, chúng tôi không tiện nói chuyện riêng tư, vì Thái lắng tai nghe hết. Chúng tôi chỉ nói đến chuyến đi chợ hồi sáng đó. Chúng tôi đã tới tiệm Lafayette và nhớ tới cuốn catalog đã được xem từ nhiều năm trước ở nước nhà. Trong thời Pháp thuộc, có nhiều người giầu có ở Việt Nam đã gởi mua hàng của tiệm Lafayette này.


                Trên đường đi ra ngoại ô, tôi trông thấy một bảng tên mầu xanh chữ trắng, nên nói với ba má tôi là bảng tên đã làm tôi nhớ đến Sài gòn. Thế là Thái thao thao nói về “giải phóng” sẽ thay đổi bộ mặt Sài gòn bằng cách bỏ tên Sài gòn và thay tên đường. Tôi hối hận đã nhắc đến Sài gòn vì theo đà nói như cái máy. Thái say mê nói đến “cách mạng”:
                - Chúng ta sẽ xoá hết vết tích của thời Pháp thuốc và thời đế quốc Mỹ dày xéo quê hương ta.
                Tôi hỏi Thái có biết người ta đã làm gì với toà đại sứ Mỹ ở Sài gòn không? Thái nhanh nhảu trả lời:
                - Toà đại sứ Mỹ sẽ là nơi trưng bày hình ảnh đế quốc Mỹ trên quê hương chúng ta. Đó cũng là nơi cho biết các chiến thắng oai hùng của nhân dân ta trước sức mạnh của một siêu cường.
                Thái liên tục đả kích “đế quốc Mỹ” và ca ngợi Phong trào Giải phóng. Lúc đó, mới chỉ năm tháng sau khi Sài gòn dụp đổ, anh ta đã nói tới chương trình “thống nhứt” hai miền Nam Bắc mà anh cho rằng càng sớm càng tốt.
                Tôi nhận thấy ba tôi giữ im lặng trước những lời huyênh hoang của Thái. Trước đây vài hôm, khi nói chuyện riêng má tôi, thì theo ba tôi, chương trình tái thống nhứt không phải là một uu tiên của ông. Ba tôi nói rằng miền Nam cần có thời gian để tái thiết và mạnh hơn, trước khi thống nhứt. Ông cho rằng thống nhứt đất nước là việc của Mặt trận giải phóng miền Nam và Chánh phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam chớ không phải việc của Chánh phủ Hà Nội.
                Khi nghe Thái huênh hoang khoe người Bắc tự ý giải quyết mọi việc, tôi nghĩ tới lúc ba tôi trở lại làm việc, và một lần nữa chạm mặt với thất vọng tràn trề. Lần này không phải vì vợ và con “đi lạc đường”, mà vì cái chánh phủ ông hằng tin tưởng, và cái đảng ông đã phục vụ suốt đời.
                Ngay sau khi cho biết sẽ không về Việt Nam, má tôi ngỏ ý muốn trở lại Mỹ càng sớm càng tốt. Thế là không khí trở nên căng thẳng giữa ba và má tôi. Má tôi thấy có một người lạ mặt nhưng không vô nhà gặp ba tôi; chỉ vô cổng, xuống nhà bếp, nhà xe, rồi đi. Bà e ngại có thể Chánh phủ Hà Nội ép bà phải về Việt Nam để Hà Nội khỏi bị mắt mặt. Một ngày trước khi má tôi lên đường như đã định, tôi đến lấy đồ đạc của bà đem về khách sạn. Khi tôi sắp sửa ra xe, bà muốn đi với tôi luôn, chớ không muốn chờ đến ngày mai.
                Má tôi bay qua Atlanta để ở với vợ chồng chị Kim của tôi một thời gian.
                Ba tôi luu lại Paris thêm vài ngày với tôi. Ông không ở biết thự nữa, mà về toà đại sứ của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời.
                Ba má tôi mất nhau vì ý thức hệ. Đây là lần đầu tiên trong đời một đảng viên Cộng sản ở địa vị của ba tôi được tự do, tự do châsp nhận, và tự do để cho một cá nhân chọn lựa giữa xã hội chủ nghĩa và dân chú.
                Sau này, má tôi mới kể lại cho tôi biết: khi bà hỏi ba tôi, nếu bà không về Việt Nam thì Chánh phủ sẽ làm gì bà, ba tôi nói, ba sẽ phải gặp một vài người có trách nhiệm để giải thích về trường hợp của bà. Trường hợp của má tôi là “cho phép” con gái kết hôn với người Mỹ, và việc má tôi bị Mỹ “bắt cóc”.
                Má tôi buồn lắm, nhưng bà duyên dáng kể rằng, khi ba tôi nhắc đến những thằng rể Mỹ, má tôi nói: “Tôi cho đồng chí biết, những thằng đó là cha của cháu ngoại anh chớ không ai xa lạ!”


                Thời gian là một liều thuốc mầu nhiệm. Má tôi là người biết rộng. Bà không nhìn lại, không nuối tiếc về sự quyết định của bà, bà không ngừng tìm cách cho anh Hai tôi vượt biển đi tìm tự do, thỉnh thoảng má tôi nhận được thơ của ba tôi; thơ viết từ “người chị yêu thương em, yêu thương con cái của em”. Thơ cám ơn người em đã chung thuỷ với gia đình, bạn bè, làm vợ, làm mẹ, làm người con hiếu thảo.

                Comment


                • #38
                  Chuơng 39



                  Ngày ba tôi rời Paris. Thái và tôi đưa ông đến phi trường. Trong khi Thái còn chạy kiếm chỗ đâu xe, ba tôi và tôi đi vô để trình vé ở quầy của hãng máy bay Aeroflot. Tôi không hiểu hết, khi ba tôi nói tiếng Nga với người đàn bà Nga ở sau quầy. Thái muốn ba tôi đi máy bay của hãng Air France, Nhưng ba tôi không chịu, chỉ muốn Aeroflot thôi. Điều này khiến tôi nhớ lời Rob, dặn tôi chỉ nên đi máy bay Mỹ thôi.


                  Chúng tôi ngồi chơi với ba tôi ở phòng đợi cho đến khi ông lên đường. Khi nhân viên hàng hàng không kêu tên ba tôi, ông không nhúc nhích mà nắm chặt tay tôi như không muốn rời.


                  Ông nhắc lại:
                  - Con săn sóc má giùm ba.
                  Chúng tôi cùng đứng lên, rồi ông ôm tôi thật lâu trước khi lên máy bay.
                  Tôi thấy mình như đứa trẻ mồ côi. Tôi đứng bên cửa sổ nhìn chiếc máy bay sắp sửa đưa ba tôi đi mất. Thái đứng cách tôi vài mét để chờ tôi. Trên đường về, tôi không biết nói gì với Thái.
                  Trước khi tôi rời Paris, Phan Thanh Nam đưa tôi đến gặp ông đại sứ của Hà Nội ở Paris. Nam dặn tôi kêu ông là “chú”. Càng tốt, có chú làm đại sứ của Cộng sản, có cơ hội lấy tin tức cho CIA.
                  Chúng tôi uống trà trong một phòng ấm cúng của toà đại sứ, và lắng nghe tất cả những câu hỏi của ông đại sứ. “Chồng cháu phải là người Mỹ tốt không?”. (Đối với cộng sản, một người Mỹ “tốt” là người chống chiến tranh). “Anh ấy làm nghề gì?” (việc tốt đối với cộng sản là không làm gì hại đến họ). Không thể nói đối với họ, nhưng tôi quan niệm là không nên nói ra nếu không nói thật được, thì đừng nói; không ai đánh mà sợ.
                  Tôi trả lời ông đại sứ:
                  - Thưa chú, chồng cháu yêu nước của anh như cháu yêu nước của mình. Điều an ủi là cháu biết anh ấy thông cảm, buồn cho đất nước mình.
                  Võ Văn Sung và Nam có vẻ phấn khỏi khi biết chồng tôi là một nhà khí tượng học, và đang làm việc cho đài khí tượng ở Honolulu. Đại sứ Võ Văn Sung nói:
                  - Một ngày nào đó, chồng cháu có thể giúp ba cháu khi ông cần.


                  Đại sứ Võ Văn Sung không để mất thì giờ nói chuyện quanh co, mà đi thẳng vô vấn đề. Ông hỏi tôi đã có bao giờ tham gia hoạt động của Mặt Trận chưa? Cũng như đối với mọi người, tôi cho ông biết cả gia đình tôi ở miền Nam đều hoạt động cho Mặt trận. Mặt Trận đã từng lấy đất của ông bà tôi làm căn cứ hoạt động, và vì thế người anh bà con rất trẻ của tôi đã bị giết. Tôi biết rằng những mất mát này chẳng có nghĩa lý gì đối với ông đại sứ. Có chăng, là máu của tôi hoa với máu của kẻ thù của cộng sản và trở thành thương binh một giò đứng trước mặt ông, thì may ra tôi mới là người có công với “Cách mạng”. Nhưng ông cũng cho tôi một dịp nữa, là cho tôi bắt đầu đóng góp, ông nói:
                  - Chú có một người bạn rất tốt ở Mỹ. Ông ta sống ở Francisco. Chú muốn cháu gặp ông ta ngay khi cháu về Mỹ.
                  Tôi tự hỏi, không biết các viên chiếc cao cấp của chính Hà Nội có xem bản đồ của nước thù địch của họ không. Ông cán bộ khoảng cách từ Hawaii đến San Francisco là bao xa không. Tuy vậy, tôi vẫn hỏi địa chỉ của người bạn tốt đó, và ghi vào sổ tay. Tôi còn xin ông đại sứ viết mấy chữ vô sau danh thiệp ông để giới thiệu tôi với người “bạn tốt”. Ông viết ngay, tôi có đủ mọi thứ cần thiết để có thể liên lạc với mạng lưới cộng sản ở nước Mỹ.


                  Người bạn mà ông đại sứ muốn tôi gặp ở San Francisco chính là người thành lập là chủ tịch của “Hội Việt kiều yêu nước” ở Mỹ. Một năm sau, tôi bay qua San Francisco gặp ông và thâm nhập vào hội này. Tôi còn hỏi ông đại sứ có “bạn nào ở Honolulu muốn tôi gặp không?, ông hãnh diện trả lời:
                  - Có thể mình cũng có nhiều nguồn ở Honolulu, nhưng hoạt động bí mật nên chú không rõ.


                  Tôi rời Paris về Hawaii với sự tin tưởng rằng tôi vẫn được cộng đồng người Viột thân Cộng tại Paris đón tiếp nồng hậu, và chắc chắn sẽ có nhiều cuộc gặp gỡ với Nam, Thái. Tôi không hứa hẹn gì trước khi từ biệt, nhưng tôi biết, Nam tin rằng tôi đã lọt vô lưới hoạt động của ông. Hôm tôi đến chào ông để về Mỹ, Nam nói:
                  - Chú biết rằng sự đóng góp sau này của cháu cho Cách mạng sẽ được những người có trách nhiệm trong nước biết. Điều này sẽ làm cho ba cháu vui lắm đó!

                  ***


                  Mấy tháng sau khi tôi trở về Hawaii, CIA thương lượng với hải quân, cho John đổi về Ngũ Giác Đài. Sau đó, CIA cho tôi sang Paris theo lời mời của ông chủ tịch của Hội Việt kiều yêu nước Huỳnh Trung Đồng. Trước đó. Thái có dặn tôi nên kêu chủ tịch bằng “anh”. Thế là tôi tới trụ sở gặp anh Huỳnh Trung Đồng. Đồng là một người cô đơn, trầm lắng, dáng người khắc khổ. Mỗi lần gặp anh, tôi có cảm tưởng như thân của anh ở đó, mà hồn của anh ở một nơi nào, đố ai biết, anh như một người phản chiến tranh, một người hết nghị lực. Anh còn có cái tật nói nhỏ, thì thầm như sợ có ai rình nghe.

                  Vào một buổi sáng tôi đến gặp anh Đồng, anh cho tôi xem tờ “Đoàn kết” do hội của anh xuất bản. Báo phát hành hai tuần một lần. Anh xin địa chỉ của tôi để anh gởi báo cho tôi sau đố. Tôi đề nghị anh gởi về hộp thơ của tôi ở Washington, D.C, cho tiện.


                  Như sực nhớ một điều gì quan trọng, anh lục lời trong hồ sơ”USA” cho đến lúc tìm ra một danh thiệp có đánh dấu ở một góc, lẩm bẩm đọc mấy chữ trên đó, rồi hỏi tôi có biết một người đàn bà Nguyễn Thị Ngọc Thoa không? Ba Thoa hiện sống ở Washington. D.C. Tôi trả lời rằng tôi mới dọn tới đó, nên chưa biết ai hết. Anh đọc tấm thiệp một lần nữa, rồi cho tôi biết về bà Thoa:

                  Bà này có chồng Mỹ, nhưng ông ấy là bạn của chúng ta. Bà tham dự phong trào chống chiến tranh rất sớm, vào đầu thập niên 60.
                  Tôi giả bộ khờ khạo nói:
                  - Vào những năm đó, em con ngủ kỹ, không có làm gì hết.
                  Đồng nói:
                  Tôi muốn cô gặp chị Thoa, kết bạn với chị ấy trước cái đã.
                  Tôi không mấy thích chuyện bắt con cá, nhử con tôm, nhớ lời dặn của Thái là phải kiên nhẫn, nên tôi gật đầu và giũ im lặng.
                  Trong buổi thăm viếng đó, anh Đồng đưa tôi đến trụ sở hội. Đó là một thư viện ở tấng dưới hầm, chứa đầy “Nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản”, và một nhóm thanh niên nghe một người đàn bà diễn thuyết. Nữ diễn giả dùng những từ cộng sản đầy mầu mè nhưng vô nghĩa, để giảng giải về cuốn sách mà mọi người đã đọc.


                  Trong một tủ kiếng gần lối ra vào của một phòng lớn lầu chánh, Đồng hãnh diện khoe với tôi “cây viết đã từng ký hiệp định Paris”. Sau đó, anh cầm một miếng kim loại mầu trắng đưa cho tôi xem. Trên miếng kim loại do có vẽ hình một nữ chiến sĩ, quần xắn lên tới đầu gối, vai mặt đeo một khẩu súng, tay bên trái có một sợi dây kéo một vật phía sau. Đồng giải thích:
                  - Đây là xác máy bay B-52 của Mỹ.


                  Rồi ông đưa cho tôi mảnh kim loại đó để xem cho rõ hơn. Tôi bỗng thấy hơi run run, nên không đưa tay ra đón nhận. Tôi chợt nghĩ tới các phi công Mỹ và những chiến binh khác. Tôi giận mình, vì không thể nói gì thay cho sự hy sinh của họ cho đất nước Việt Nam của mình.
                  Anh Đồng đưa cho tôi nhiều tài liệu để đem về Mỹ, đa số sách báo tuyên truyền của cộng sản bằng Anh ngữ. Tôi cám ơn ông về những tài liệu này, và nghĩ ngay trao hết cho CIA cùng với địa chỉ của bà Nguyễn Thị Ngọc Thoa, một người hoạt động cho phong trào phản chiến ở Washington D.C.
                  Ba tuần lễ tôi tiếp xúc với cộng sản và người Việt thân Cộng ở Paris, là thời gian xa nhà dài nhứt của tôi. Không ngày nào là tôi không gặp gỡ, chung đụng, chuyện trò, ăn uống với cộng sản. Tôi học ăn, học nói, hành động như một người thân cộng sản.
                  Qua chung trà, tách nước, tôi được tiếp xúc với người tỵ nạn Cộng sản, và những người trước kia đã nhiệt tâm ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng sau 1975 họ đã biết sự thật phũ phàng, thì trở lại giúp đỡ những người tỵ nạn còn chân ướt chân ráo.


                  ***


                  Trở về Washington, D.C, tôi cho Rob biết là chúng tôi nên liên lạc với những người mà ông chủ tịch của Việt kiều yêu nước ở Paris giới thiệu, vì đây là những điệp viên của Cộng sản Hà Nội hoạt động tại Mỹ, đặc biệt là Nguyễn Thị Ngọc Thoa. Nhưng Rob cực lực phản đối. Ông nói:
                  - Phản gián không phải là việc của chúng ta. CIA không có trách nhiệm về chuyện này.
                  Tôi không đồng ý với Rob vì hai lý do. Một là, ông đại sứ Võ Văn Sung và chủ tịch Huỳnh Trung Đồng đã giới thiệu họ cho tôi. Thứ hai, họ là cái chìa khoá để mở những cửa ra vào những nơi mà CIA và tôi muốn thâm nhập. Nếu tôi không gặp những người này, thì khi trở lại Paris gặp họ, tôi đâu có đề tài gì để trao đổ với mấy ông Cộng sản này. Rob thì nghĩ khác, anh nói chừng đó tính sau, tuỳ cơ ứng biến, phản gián là việc của FBI, không phải chuyện của mình.
                  Tôi nói:
                  - Rác sau nhà mình, nếu mình không quét, thì việc làm của mình có lợi ích gì cho nước Mỹ, khi mình cứ chạy hết cái địa cầu này đểsăn tin của địch?
                  Nhưng ông lại nói:
                  - CIA không được phép tuyển dụng người Mỹ để hoạt động trên đất Mỹ, nếu không được phép đặc biệt của Bộ tư pháp!
                  Thì ra CIA đã làm trái luật khi tuyển dụng tôi, một công dân hoạt động tại nước Mỹ. Luật của người lập ra khác hẳn vấn đề thiên nhiên; bởi vì người lập ra, thì người có thể thay đổi, để thích ứng với hoàn cảnh. Tôi cho Rob biết ý nghĩ của tôi, và khuyên anh nên bàn lại với thượng cấp của anh, để họ thương lượng với Nộ Tư pháp.
                  Rob hứa sẽ suy nghĩ về đề nghị của tôi, và dặn tôi cứ theo đúng nguyên tắc. Có thể tôi vẫn phải nghe lời ông, nhưng muốn ông hiểu tầm quan trọng của vấn đề. Vì vậy, tôi nói:
                  - Nếu anh không báo cho FBI biết về người đàn bà Việt Nam đó, tôi sẽ báo. Nếu không được, tôi sẽ nhờ chồng tôi chuyển tin tức này đến cho FBI.
                  Có lẽ như vậy dễ dàng hơn, vì John đang làm cho cơ quan tình báo Hải quân, dưới quyền đô đốc Bobby Inman. Rob phản ứng:
                  - Nếu có làm như vậy, tôi sẽ đuổi cô.
                  Ông nói bằng một giọng cứng rắn. Tôi liền phá lên cười:
                  - Trước hết, anh phải chánh thức mướn tôi, rồi mới có thể đuổi tôi được.
                  Trên thực tế, dù đã làm việc cho CIA và cung cấp nhiều tin tức giá trị, tôi vẫn chỉ là một nhân viên không lương, căn bản là tự nguyện. Làm gián điệp không phải là cái nghề để sinh nhai. Có thể lời nói thẳng của tôi đã làm Rob chột dạ, nên đáp:
                  - OK, có lẽ cô và tôi nên ngồi xuống để nói chuyện việc làm của cô.
                  - Có như vậy anh mới có quyền đuổi tôi khi công việc không xuôi chèo mát mái. Nghề tình báo không phải lúc nào cũng xuôn sẻ, êm ru như ba tuần vừa qua đâu. Tôi có thể vui vẻ làm với anh, nhưng tôi cũng là một con chồn hôi khi bị ăn hiếp đó! Anh nên nhớ cái tánh xấu này của tôi.
                  Hải quân chuyển chồng tôi về Washington. Anh làm việc ở Ngũ Giác Đài dưới sự lãnh đạo của đô đốc Bobby Inman trùm tình báo của Hải quân Mỹ. Ở Washington, tôi và Rob Hall thường gặp nhau ít nhứt mỗi tuần một lần, khi thì ở tiệm ăn Marco Polo, trong vùng Vienna để ăn trưa, khi ởe Springfield ăn điểm tâm ở McDonald; lại có khi chỉ gặp ở bãi đậu xe của một trung tâm buôn bán thuộc quận Fail để trao đổi với nhau một vài tin tức. Chúng tôi thảo luận về việc đối phó với Phan Thanh Nam, Huỳnh Trung Đồng và Phạm Gia Thái ở Paris cùng những người khác, để chuẩn bị cho những công tác tương lai. Chúng tôi nghiên cứu một kế hoạch lợi dụng chỗ quen biết với Huỳnh Trung Đồng, như một cây cầu để gặp ngoại trưởng Hà Nội Nguyễn Duy Trinh và thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi hai ông sắp tới Paris. Cuộc viếng thăm này có thể quan trọng đối với chánh phủ Hà Nội, vì họ muốn tái lập mối quan hệ với Pháp. Tất nhiên, CIA cũng quan tâm đến chuyện này.
                  Trong một buổi gặp gỡ, tôi nhắc lại chuyện “dọn dẹp rác rưởi” bằng cách báo cho FBI biết mấy cán bộ cộng sản nằm vùng tại Mỹ. Có thể Rob đã suy nghĩ kỹ về vấn đề này, ông trả lời ngay rằng ông không đồng ý với tôi, dù đây là một vấn đề quan trọng.
                  Tôi không thể dễ dàng chấp nhận một chuyện như vậy được. Gián điệp của Cộng sản và nhóm “Việt kiều yêu nước” chính là hậu thuẫn của phong trào phản chiến trong những năm 1960. Ngay cả bây giờ đã hoà bình, họ vẫn có thể tuyển dụng người Mỹ cộng tác với họ trên danh nghĩa “Phục vụ hoà bình qua tình hữu nghị“. Họ có thể đánh cắp những bí mật quốc gia, kể cả về công nghệ lẫn kỹ thuật mới. Họ cũng có thể xâm nhập vào ngành tình báo, phản gián, và Bộ quốc phòng. Một chiến thuật khác của họ là tung những tin vịt trong ngành báo chí, để gây hoang mang và hiểu lầm trong các cộng đồng thiểu số, tạo nên sự căng thẳng giữa các chủng tộc. Cao hơn nữa, họ có thể gây nên rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa các nước đồng minh với nhau, nếu họ moi được những mật mã trong sự liên lạc. Chiến tranh có thể bùng nổ giữa hai nước bạn.
                  Tối hôm đó, tôi thảo luận với chồng tôi về mối lo này. Tôi nói với John rằng tôi thông cảm với Rob về ý nghĩ của ông, khi cho rằng FBI chỉ là “bọn cảnh sát”, nhưng tôi thực sự muốn ý kiến của một chuyên gia khác về vấn đề này. Tôi muốn biết đô đốc Bobby Inman, một “siêu gián điệp suy nghĩ gì về chuyện này. Riêng John thì anh cũng nghĩ rằng ngành phản gián phải biết rõ những gián điệp đang hoạt động trên đất Mỹ. Hôm sau, John gặp ngay đô đốc Bobby Inman. Ông cho biết ông sẽ tìm hoàn toàn tình trạng này. Nhưng chỉ mấy ngày sau, John cho biết “họ không quan tâm” đến chuyện này. Tôi không thể tin như vậy được. Tôi nghĩ rằng nước Mỹ đang sai lầm quan trọng, mà tôi có bổn phận phải kiếm cách giúp đỡ để sửa đổi. Tôi vật lộn với những ý nghĩ ấy, rồi tôi lại xin chồng tôi tiếp tôi một tay, muốn anh dàn xếp cho tôi được gặp riêng đô đốc Bobby Inman, biết đâu người phương Tây học được cái khôn của người phương Đông và tôi tin rằng tôi có thể trình bày thẳng với ông một cách rõ hơn. John chiều ý tôi, và hai vợ chồng tôi đã được gặp đô đốc của Ngũ Giác Đài. Đô đốc Bobby Inman ngồi lắng nghe cẩn thận lời trình bày của tôi về hoạt động của Cộng sản trên đất Mỹ. Ông hứa sẽ trình bày chuyện này với ông giám đốc FBI Clarence Kelley ngày hôm sau, John lại chờ tôi vô Ngũ Giác Đài để được yết kiến giám đốc của FBI.

                  Comment


                  • #39
                    Cuộc gặp gỡ này chỉ có tôi và ông giám đốc của FBI trong một phòng hội nghị có cái bàn thật dài và hơn 10 cái ghế chung quanh bàn đó. Tôi bắt đầu kể lại cho ông Kelley cũng như đã trình bày với đô đốc Bobby Inman. Ông chăm chú nghe, cuối cùng, ông bắt tay tôi với hai bàn tay của ông, to ý hài lòng về cuộc gặp gỡ này.


                    Tôi không biết rõ sau đó chuyện gì đã xảy ra giữa FBI và CIA, nhưng chỉ mấy ngày sau, Rob loan báo:
                    - Bây giờ thì cô hợp pháp rồi!


                    Rob Hall cho biết “họp pháp có nghĩa là tôi đã được Bộ tư pháp cho phép CIA và tôi hoạt động ngay trên đất Mỹ. Rồi tôi sẽ được gặp một ông nhân viên FBI. Ông là người tôi sẽ tiếp xúc thường xuyên trong những hoạt động tay ba: là FBI, CIA và tôi.
                    Ông cho tôi biết tôi sẽ phải qua một lớp huấn luyện đặc biệt, và sẽ phải làm việc với một nhân viên CIA mới. Tôi giựt mình, vì với một người khác thì tôi lại mất biết bao nhiêu thì giờ dậy ông ta về Việt Cộng nữa, như tôi đã mất biết bao nhiêu thì giờ huấn luyện Rob Hall. Tôi ngao ngán vô cùng. Tôi hỏi Rob Hall tại sao tôi phải làm việc với một người khác, ông chữa lại:
                    - Có muốn gặp nhân viên FBI, thì cô sẽ gặp, sẽ toại nguyện. Cô còn đời hỏi gì nữa?


                    Vì sẽ cộng tác với FBI, Rob Hall không được làm việc với tôi. Điều này, tôi hoàn toàn không hiểu lý do bên trong của CIA, những tôi chú trương là không hỏi, khi tôi nghi là câu trả lời sẽ không được thành thật. Thà không biết, hơn là biết tin không đúng. Rob cũng có vẻ ngạc nhiên, tại sao tôi không hỏi anh câu nói đó, mà chỉ chấp nhận làm việc với người khác. Tôi hỏi ông về người mới, thì ông cho biết người này không hiểu gì mấy về Viễn Đông, và ông ta đang chờ đợi được cử sang Bangkok làm việc.
                    Mấy hôm sau, tôi gặp nhân viên mới của CIA. Ông tên là Bill Reardon, tuổi chừng bốn mươi. Ông lịch sự, dịu dàng, ít nói. Ông không hề hỏi tôi một điều gì trong những buổi gặp gỡ. Thật ra ông đâu có quan tâm đến những hoạt động của tôi. Ông nói thằng tôi biết là ông đang chờ đợi sự vụ lịnh đổi qua Bangkok. Được đổi đi Bangkok hai năm trước khi về hưu, là một cái post lý tưởng, còn hơn là được cơ quan thưởng tiền. Có một vài lần ông đã ngủ gục, khi tôi đọc cho ông nghe những lá thơ tôi mới nhận được từ Paris và giải nghĩa cho ông hiểu. Tôi không muốn mất thì giờ với một người chỉ tạm thời làm; với tôi: thân của ông ở đây, mà tâm ở Thái Lan. Tôi cũng có cảm tình với ông, vì ông yêu gia đình. Tôi tin rằng nếu ông thực lo cho dự án của tôi, ông sẽ là một người cộng tác đắc lực. Chúng tôi vẫn gặp nhau để ăn trưa và trao đổi ít rau tươi trong vườn chúng tôi trồng. Chỉ có vậy thôi.


                    Một buổi trưa nóng nực tháng 6 năm 1976, tôi được gặp một nhân viên đặc biệt của FBI tên là William Fleshman, ông còn trẻ, trạc tuổi tôi, trầm tánh, dáng thư sinh, lịch sự. Đôi lúc trong ông có dáng dấp của tài tử màn ảnh Robert Redford, nhưng mỗi lần gặp ông, tôi lại nhớ tới một ông giáo sư dậy lịch sử. Khi đã hiểu ông, tôi rất quý ông, một con người ngay thẳng, chính xác, có tinh thần hợp tác và dễ chấp nhận các đề nghị. Ông cầò là một người chân thành hiếm có, sẵn sàng thú nhận mình không biết gì hết, và ông không ngại học hỏi rèn nghề. Ông có vẻ dịu dàng và hơi lệ thuộc vào sách vở, vào kỷ luật của FBI, những theo tôi, ông đúng là một nhân viên FBI chuyên nghiệp.
                    Hill Fleshman là một người kiên nhẫn, hiểu biết và nhạy cảm. Chúng tôi cùng quan điểm cho rằng công tác tình báo thực sự cần nhiều thời gia để đối phó với những nghiên cứu, điều tra khô khan không thú vị, từ ngày này qua tháng khác. Nó chẳng có vẻ nhộn nhịp như trong ciné (cinéma). Nó không có kết quả trong vòng hai tiếng đồng hồ như James Bond 007, và cũng không có gì vui, hay hấp dẫn. Có hồi hộp, có cô đơn, lương tâm có bị dày vò.
                    Cuộc liên lạc đầu tiên của tôi với các cán bộ nằm vùng của Việt Cộng trên đất Mỹ là việc tôi gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa ở Washington, D.C, mà Huỳnh Trung Đồng chú tâm đến rất nhiều. Tôi yêu cầu FBI bảo vệ tôi khi tôi đến chỗ hẹn gặp chị ấy, vì tôi chưa hề đến vùng này ở Washington D.C, cũng như chưa bao giờ nghe đến tên Nguyễn Thị Ngọc Thoa.


                    Cầm lá thơ giới thiệu của anh Huỳnh Trung Đồng, tôi gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa tại địa chỉ 1300 đường 18, ở lầu 2, khi Tây Bắc Washington. D.C. Lúc tôi tới, có một người đàn ông Việt Nam đang ngồi nói chuyện với chị. Những khi thấy tôi, chic tiễn ông ta ra cửa và với vẻ e ngại, dò xét, mới tôi vô nhà và cho biết ông khách vừa rồi là một người tỵ nạn muốn nhờ chị kiếm việc giùm.


                    Chị Thoa người rất nhỏ, không son phấn, ăn mặc đơn sơ, ít nói và tỏ vẻ dè dặt với tôi. Tôi ráng tỏ ra thân mật với chị nói rằng đáng lẽ tôi phải đến thăm chị từ lâu, nhưng bận dọn nhà, Lúc đầu chị chẳng nói năng gì, làm cho bầu không khí thật khó chịu, chị lẳng lặng nhìn tôi từ đầu xuống thân. Cuối cùng, chị nói:
                    - Có nhiều người tới đây nói với tôi là họ cùng phe với mình, nhưng chỉ ít lâu sau chúng tôi khám phá ra họ là những tên phản động.
                    Tôi nói:
                    - Tôi hiểu chị muốn nói gì. Chị muốn biết tôi thiệt hay giả, phải như vậy không?
                    Chị nói, trong khi vẫn nhìn tôi chăm chú:
                    - Tôi lấy làm tiếc phải cẩn thận như vậy.
                    Tôi ra giọng người trên khen người dưới:
                    - Tôi rất hài lòng khi thấy chị cẩn thận như vậy. Tôi tin rằng chúng ta sẽ cộng tác với nhau rất dễ dàng
                    Vừa nói tôi vừa mở bóp lấy lá bài tủ, là thư giới thiệu của anh đưa cho chị. Thơ này đã được nhân viên FBI chụp làm bản sao trong hồ sơ của chị. Đọc hết lá thơ, chị để lại vô bao, bỏ vô túi áo, rồi bắt tay tôi với một vẻ hài lòng.
                    Trong buổi đầu gặp gỡ này, chúng tôi không nói chuyện ng. Tôi nói với chị là tôi thường sang Paris và sẵn sàng giúp bất cứ việc gì nếu có thể. Chị ngỏ lời cảm ơn và cho biết có nhờ tôi “mang mấy thứ” qua Paris.
                    Lần thứ hai hẹn gặp chị, chị đề nghị đi ăn trưa. Chị hẹn tôi ở tiệm Old Stein, một nhà hàng Mỹ ở gần khu chị ở. Tôi báo cho FBI biết để họ cho người tới canh chừng khi chị và tôi ngồi ăn.
                    Chị cho tôi xem to nguyệt san “Người Việt đoàn kết”. Thực ra không phải là một tờ báo theo đúng nghĩa của nó, mà chỉ là những bản tin lấy từ những tờ báo của cộng sản ở Hà Nội, được cát dán in lại rất công phu. Tôi tự hỏi chị lấy tiền đâu để in và gởi cho gần 5.000 người, vì đó là tờ báo biếu. Chị không nói cho tôi biết về nguồn tài chánh, nhưng chị lại đề cập tới sự giúp đỡ của một linh mục, cha Trần Tam Tinh ở Canada. Chị nói thỉnh thoảng chị qua Canada thăm vị linh mục thân Cộng đó.
                    Chị tin tưởng hoàn toàn vô chánh phủ của Mặt trận giải phóng và hãnh diện đã tham gia vào những hoạt động của Mặt trận giải phóng trong suốt thời kỳ chiến tranh. Chị không hề quan tâm tới những tiện nghi vật chất. Chị làm việc, ăn, ngủ và hoạt động chính trị trong căn phòng nhỏ xíu đó. Tấm đệm chị ngủ để ngay trên mặt sàn nhà. Căn phòng thiếu ánh sáng, bạn ghế ọp ẹp, lung lay. Cái bàn chị viết rung rinh, chị lấy hai chân kep lại cho vững khi chị viết. Chị pha café không cần đồ lược; lược bằng răng, vậy mà cũng ngon! Quần áo thì chị cho biết toàn là đồ mua ở các tiệm bán quần áo cũ. Tất cả những thứ xa xỉ không làm chị bận tâm, miễn là có đủ sức khoẻ và cơ hội để phục vụ Mặt trận giải phóng.
                    Khi tôi mô tả chị một cách trung thực, có ý phục sự đắc lực, kiên tâm của chị, có vài người trong cơ quan FBI chau mày. Bill hỏi tại sao tôi khen ngợi “Việt Cộng ”. Tôi nghĩ rằng tôi không làm ngơ trước một con người xuất sắc, dù người đó ở một chiến tuyến khác.
                    Thoa không thích nói chuyện lâu qua điện thoại. Sau khi chúng tôi đã quen biết nhau, mỗi lần gọi tôi, chị kín đáo và ngắn gọn. Chẳng hạn như: “Nè, tôi đây. Ngày mai mình có thể gặp nhau vào giờ mọi khi và ở chỗ cũ không?”. Giờ mọi khi là 10 sáng và chỗ cũ là quán ăn Old Stein. Cứ gặp nhau hoài ở nơi này, tôi quen dần và thích đồ ăn của người Do Thái. Tôi hiểu tâm trạng chị Thoa hơn. Chị hoạt động cho cách mạng thời kỳ phản chiến ở Mỹ; bây giờ chị có cảm tưởng bị cách mạng bỏ rơi. Tôi là sợi dây liên lạc giữa chị với những người đại diện cho chánh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở Paris và cả ở Việt Nam nữa. Chị nhờ tôi nói cho Huỳnh Trung Đồng ý nghĩ và cảm tưởng của chị. Nhưng chị Thoa đâu biết là Huỳnh Trung Đồng cũng ở trong hoàn cảnh của chị, nghĩa khi Mặt trận giải phóng miền Nam giúp cho Hà Nội cưỡng chiếm miền nam Việt Nam, thì trái chanh chỉ còn có cái vỏ. Bây giờ là tới lúc Hà Nội ngồi thưởng thức nước chanh; Mặt trận giải phóng miền Nam chỉ là một đống vỏ chanh thôi.
                    Theo tục lệ Việt Nam, tôi có thể không lịch sự với chị Thoa nếu tôi không mời chị về nhà chơi, trong khi tôi vẫn đi ăn với chị. Nhưng cả hai chúng tôi cũng không muốn dây đưa đến đời tư của nhau. Về tôi, chị chỉ biết số điện thoại của tôi, và sự kiện quan trọng: ba tôi là một nhân vật trong Mặt trận giải phóng miền Nam. Không bao giờ tôi hỏi chị về chồng con, không muốn chị hỏi về chồng con tôi. Những người đồng chí của chị ở Paris đã cho tôi biết về hoàn cảnh riêng tư của chị rồi. Họ còn nói: chồng chị là một “người Mỹ tốt”. Chồng tôi chắc không được các cán bộ cộng sản đánh giá là “tốt”.
                    Sau nhiều lần nói chuyện với chị, tôi biết khá nhiều về những phần tử thân cộng ở nước Mỹ. Tổ chức của họ rất hạn chế, nhưng họ mạnh, nhiệt tình và đa số có học. Nhiều người trong tổ chức là những sinh viên trốn động viên dưới thời tổng thống Thiệu, tìm cách không về nước sau khi đã tốt nghiệp đại học, và những sinh viên được học bổng rồi kẹt lại sau 30 tháng 4 năm 1975. Hầu hết những người này tham dự phong trào chống chiến tranh vào những thập niên 60 và 70.
                    Thoa giới thiệu với tôi một người trong nhóm sinh viên đó, tên là Trương Đình Hùng. Chị cho biết, anh là con của luật sư Trương Đình Dzu. Ở Việt Nam, ông Trương Đình Dzu là một người có tiếng tăm, giầu có và năm 1967 đã từng tranh cử tổng thống với ông Thiệu. Cuộc tranh cứ này khiến ông gặp tai hoạ: ông Thiệu đã ra lệnh bắt giam ông, vì ông dám chống lại ông Thiệu. Một hơn, chúng tôi tình cờ gặp nhau ở cầu thang trong nhà của chị Thoa. Chị liền giới thiệu chúng tôi với nhau. Lúc đầu Trương Đình Hùng không thèm nhìn tôi, những khi chị nói: “Chị Mỹ Dung là người do anh Huỳnh Trung Đồng ở Paris giới thiệu”. Trương Đình Hùng bỗng rối rít bắt tay chào tôi.
                    Mùa thu năm ấy, CIA lại cứ tôi sang Paris lần nữa. Một tuần trước khi lên đường, tôi báo cho Thoa biết. Chị muốn nhờ tôi đem mấy thứ sang Pháp giùm chị. Nhưng chị không trao cho tôi ngay những thứ đó, mà hẹn tôi cận ngày đi ghé lấy. Tôi đành phải nghe lời chị dù rằng CIA và FBI đều cũng muốn biết vật đó là vật gì Tôi tin rằng hai cơ quan tình báo và phản gián này có dư khả năng đối phó với mọi hoàn cảnh, cho nên tôi không hối thúc chị Thoa đưa đồ cho tôi sớm hơn.
                    Hai ngày trước khi rời Washington, D.C. tôi tại gặp Thoa để lấy mấy “món đồ”. Thường thường, Hùng không bao giờ có mặt khi tôi gặp chị, nhưng lần này, anh đợi tôi ở đó. Tôi đậu xe ngày trước cửa, rồi chạy lên căn phòng chị ở trên lầu hai. Tôi hết hồn trông thấy món đồ chị nhờ tôi đem sang Paris. Đó là hai thùng lớn và rất nặng, toàn những giấy tờ, gồm bản tường trình các buổi họp của quốc hội và mấy chục cuốn sách bòa cứng về chính trị và kỹ thuật: có một quyển Jimmy Who? Năm đó là năm Jimmy Carter ra tranh cứ tổng thống; quyền sách viết về ứng cử viên Jimmy Carter. Trước khi tôi ra về, Hùng đưa cho tôi một bao thơ dán kín. Tuy ngoài bao thơ đề tên người nhận là ông Nguyễn Ngọc Giao, nhưng Hùng bảo tôi đưa cho anh Đồng, đừng đưa cho anh Giao.
                    Hai tiếng đồng hồ sau, các nhân viên FBI và CIA đến nhà tôi xem xét hai thùng đồ của Thoa. Họ ghi lại tên các cuốn sách, nhưng họ không mở thơ dán kín của Hùng, vì họ chưa được phép của Bộ tư pháp để mở thơ của Thoa hay Hùng. Đó là thủ tục con rùa hành chánh và cũng là luật lệ của một xã hội có nhân quyền. Tôi đành phải trao cho anh Đồng lá thơ nguyên vẹn.
                    Tháng 4 năm 1976, tôi viết thơ cho ông Nguyễn Văn Luỹ, chủ tịch Hội người Việt yêu nước ở Hoa Kỳ, người mà ông ông đại sứ Võ Văn Sung của Hà Nội muốn tôi gặp. Ông Luỹ ngỏ ý mời tôi sang San Francisco gặp ông và các hội viên điều hành tổ chức Việt kiều yêu nước do ông làm chủ tịch. Không những vậy, ông còn đề nghị tôi tới Christianburg, tiểu bang Virginia bí mật gặp hai “hội viên rất tích cực”, đang là sinh viên trường Đại học Virginia Tech. Tôi biết Luỹ điều hành tổ chức của cộng sản dưới quyền điều khiển trực tiếp của ông bộ trưởng Bộ ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó tôi muốn dồn hết nỗ lực vô việc này, và cần có người chỉ dân tích cực hơn Bill Reardon, người chỉ mơ đến chuyện đi Bangkok.
                    Tôi định thử thời vận, nên liều kêu cho cấp trên của Rob, ông Roger McCarthy, xin được gặp ông. Ông đồng ý gặp tôi ở tiệm McDonald, ở Vienna, Virginia để ăn sáng. Khi gặp ông, tôi đề nghị ông cho Rob thay Bill Reardon, dù Rob và tôi nhiều lần bất đồng với nhau về cách làm việc, cũng như về ai làm chủ tình hình, nhưng Rob rành việc, như anh rành lòng bàn tay mình.
                    Ông Roger mỉm cười và chỉ đầu hói của mình nói:
                    - Rob là nguyên nhân làm cho tôi rụng gần hết tóc rồi!
                    Tôi cười theo ông.
                    Thế là Rob trở lại làm việc với tôi. Công việc của tôi trôi chảy hữu hiệu hơn.
                    ***
                    Tháng Chạp năm đó là tôi bù đầu với cái việc của người làm gián điệp, Cứ mỗi thứ Sáu, tôi lại phải gặp hai nhân viên FBI và CIA để báo cáo về hoạt động của tôi với mấy người Việt Nam thân cộng trong vùng Virginia và Washington, D.C. Từ ngày John là một sĩ quan tuỳ viên liên lạcquốc tế, chúng tôi thường đến các toà đại sứ để dự tiếp tân, kể cả các toà đại sứ của các nước như Liên Xô, Úc, Ấn Độ, Thái Lan, Thuỵ Điển, Triều Tiên, Nam Phi, Nam Tư và Phi Luật Tân.
                    Trong khi đó, ở nhà, tôi phải sửa soạn tổ chức hai buổi kỷ niệm quan trọng. Thứ nhứt, là mừng sinh Lance lên sáu tuổi, vào ngày 9. Lance đòi rủ tất cả bạn trong lớp; có tất cả hai mươi hai đứa con nít học lớp Một. Tôi thầm nghĩ, một đứa con nít học lớp Một mà có khi chạy theo nó không kịp. thì hai mươi hai đứa, không biết có làm xuể không? Nhưng việc gì cũng bây giờ bằng lần thứ nhứt mới rút ra được kinh nghiệm. Kế đó, buổi kỷ niệm lớn nhứt là mừng lục tuần của má tôi. Em tôi phụ lập một danh sách gồm những người được mời, gồm có các bà mẹ của các bạn tỵ nạn của chúng tôi trong vùng Washington và một cô hàng xóm sát vách của chúng tôi hồi còn ở Sài gòn. Chúng tôi âm thầm tổ chức và giữ hết sức bí mật. Đến ngày 16 tháng Chạp, đại lễ. Má tôi vừa ngạc nhiên, vừa ngỡ ngàng trước đông đảo bạn bè cũ từ Sài gòn và con cháu đến chúc thọ bà.
                    Đến tuần lễ đầu tiên của tháng Giếng, tôi mệt mỏi quá, nên dặn các em tôi: nếu “Việt Cộng gian ác” kêu, thì cho họ biết tôi nghỉ ngơi, không họp hành gì trong tháng này.
                    Nhưng sự nghỉ ngơi này cũng không thể thực hiện được, vì tôi vì tôi nghe đồn rằng có một bà tên là Thu Novax đi hỏi loanh quanh tìm “người con gái của ông đại sứ Việt Cộng ở Mạc Tư Khoa”. Vào thời gian đó, ngay cả những người bạn thân của tôi cũng không biết gì về ba tôi. Tôi gọi điện thoại cho Trương Đình Hùng, hỏi anh có biết ai tên là Thu Novax không? Hùng là người biết rất nhiều. Anh khuyên tôi không nên giao du với “hạng người ấy”. Anh và chị Thoa còn nói rằng Thu Novax lợi dụng sự quen thân mật với đại sứ của Việt Cộng tại Liên hợp quốc là Đinh Bá Thi, để khoe khoang là chị thân Cộng. Cả hai còn e ngại rằng Thu Novax có thề làm những người trong tổ chức của Việt kiều yêu nước bị tai tiếng. Tôi nói với Hùng rằng tôi muốn gặp Thu Novax để tìm cách ngăn cản bà ta tiết lộ bí mật riêng của tôi. Do đó Hùng mới cho biết, Thu Novax là một thành viên trong Hội người Việt Nam yêu nước mà Nguyễn Văn Luỹ là chủ tịch. Tôi gọi ông Luỹ, xin ông số điện thoại của bà ta.
                    Tôi gọi Novax và tự nhận tôi là người bà đang kiếm, thì bà vô cùng mừng rỡ. Bà cho biết bà vừa gặp ông Đinh Bá Thi, đại sứ Việt Nam ở Liên hợp quốc; chính ông Thi yêu cầu kiếm “con gái của ông đại sứ Minh”. Ông tin rằng con gái ông đại sứ thế nào cũng hợp tác, hoạt động với những người theo phe cộng sản. Tôi yêu cầu bà từ nay đừng nhắc tên tôi với bất cứ ai, vì “tôi muốn ẩn danh”. Tôi không chấp nhận hay phủ nhận là tôi có hoạt động trong tổ chức của Việt kiều yêu nước không.
                    Bà ngỏ ý muốn gặp tôi, vì bà tin rằng tôi có thể dậy bà về xã hội chủ nghĩa. Không biết những người thân cộng có hiểu chủ nghĩa Cộng sản không là một bịnh di truyền, mà là một bịnh của xã hội? Sau khi nói chuyện với bà Novax, tôi nói với nhân viên phụ trách, là tôi có thể xâm nhập phái đoàn Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Liên hợp quốc. Rob tỏ ý không thích tôi làm việc nhiều cho FBI. Trong khi đó, tất nhiên FBI cho đó là một ý kiến rất hay. Tôi đề nghị để tôi điện thoại với ông Đinh Bá Thi xem ý ông ấy ra sao, rồi mình sẽ tính nên làm gìsau đó.
                    Khi tôi gọi ông đại sứ Thi ở New York về kêu bằng “ông” thì ông sửa ngay:
                    - Kêu bằng chú đi, vì chú là bạn của ba cháu.
                    Ông cho biết ông mới về Việt Nam và nghe các nhân viên trong Bộ ngoại giao nói chuyện về “gia đình đồng chí Đặng Quang Minh hiện ở Mỹ”. Ông đề nghị tôi đến thăm, phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc, ông nói:
                    - Cháu có thể tới càng sớm càng tốt. Tất cả các nhân viên ở đây đều biết ba cháu, là đồng chí của ba cháu. Không những vậy, chúng ta đề là người đồng hương.
                    Tôi nghĩ rằng tất cả các cơ quan tình báo Mỹ đều muốn nắm lấy cơ hội này, để biết xem các phái đoàn cộng sản hợp tác với nhau như thế nào. Nhưng một lần nữa, CIA không muốn tôi dính vô vụ này. Rob doạ sẽ “đuổi” tôi nếu tôi đi New York. Nhưng ông miễn cưỡng cho phép tôi nói chuyện với Bill Fleshman về lời mời của đại sứ Đinh Bá Thi. Tôi nói với Bill là sự xung đột giữa hai cơ quan tình báo, nên tìm cách giải quyết cho ổn thoả, đó là sự ganh ghét của hai bên có từ ngày hai cơ quan mới ra đời, không dính líu gì tôi tới, nhưng đừng để chuyện cấn đắng giữa cặp vợ chồng không xứng đôi vừa lừa này, mà cản trở việc làm của tôi. Cuối cùng, Bộ tư pháp bật đèn xanh cho tôi đi New York. Nhưng tôi tin rằng hai cơ quan đã có một cuộc tranh cãi gay go, mà tôi không được tham dự.
                    Tôi muốn gặp đại sứ Thi để phục vụ cho chánh phủ Mỹ. Ngoài ra, tôi cũng muốn gặp một nhân vật đã từng tham dự hoà đàm Paris, người mà Thái và Mimi, vợ chưa cưới của Thái, kể cả những người thân cộng ở Pháp nữa, rất hâm mộ. Tôi cũng muốn gặp các cán bộ cộng sản khác ngoài Phan Thanh Nam và Huỳnh Trung Đồng. Có lẽ tôi đang kiếm một tia sáng trong bóng tối dầy đặc, một chút nhân tánh trong đám độc tài thiển cận ấy.
                    Trước khi đem tầu ra biển đánh cá, tôi muốn biết thêm về con cá mà tôi tính đánh trong mẻ lưới tới, nên tôi kêu cho Trương Đình Hùng, hỏi anh ta có muốn tôi mang gì cho phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc không? Anh trả lời có. Anh muốn nhờ tôi đem một lá thơ khẩn cho ông đại sứ. Tôi lái xe ra Washington D.C, để gặp Hùng bên ngoài một tiệm ăn trên đường Connecticut; tất nhiên là tôi đã báo trước với CIA và FBI. Chủ trương của tôi là không một hành động nào giữa tôi và phe cộng sản thân Cộng, mến Cộng, mà không báo cho hai cơ quan này, để tránh mọi hiểu lầm, và để được bảo vệ an ninh cho cá nhân và gián điệp tôi.
                    Sau đó, tôi điện thoại cho ông đại sứ để báo tin tôi sẽ bay lên New York ngày 19 tháng Giêng, và muốn gặp ông ngay ngày đó. Ông đề nghị tôi không nên ở hotel; mỗi ngày phải vô ra trụ sở của ông, thì sẽ bị tình báo Mỹ theo dõi. Ông mời tôi cứ đến ở trọ trong nhà khách của cơ quan. Tôi vẽ ra dự tính của tôi với Fleshman và Rob Hall: trong ba ngày làm khách ông Đình Bá Thi, tôi sẽ không gọi điện thoại cho hai cơ quan tình báo của nhưng tôi sẽ liên lạc với gia đình tôi bằng điện thoại. Nếu trong ba ngày mà tôi không kêu cho gia đình được, thì cả FBI lẫn CIA phải biết là đã có chuyện gì không hay xảy ra cho tôi.
                    Tôi mong rằng sẽ không có trục trặc gì khi tôi đến thăm phái đoàn. Chỉ có năm người làm việc tại trụ sở này: ông đại sứ, ông phụ tá Phạm Ngạc, người đã từng cộng tác với ông đại sứ ở Pháp và Thuỵ Sĩ. Người thứ ba là ông Phạm Dương, chuyện viên kinh tế. Rồi đến ông Hùng, quản gia kiêm đầu bếp. Người cuối cùng ông Văn, tài xế kiêm vệ sĩ của ông đại sứ.
                    Hai ông Hùng và Văn chắc chắn không phải là nhà ngoại giao. Ông Hùng không bao giờ một mình dám ra khỏi nhà với bất cứ lý do nào, trừ khi ông đi cùng với nhân viên trong phái đoàn. Ông không biết tiếng Anh và ông thù ghét Mỹ. Ông sợ mùa đông ở New York lắm, ghét xem quảng cáo thương mại trên truyền hình, và ghét luôn cả những tiệm bán tạp hoá lớn. Còn lái xe Văn là một người hình như pha trộn cả chất Á đông với một nông dân người Anh. Ông hút thuốc xì-gà. ăn uống và lái xe đều đội một cái nón chỉ có vành chung quanh và lưỡi trai ở phía trước, như một người đang ngồi sau tay lái một chiếc xe thể thao. Ông huênh hoang khoe “ông thích New York hơn Moscow, vì lái xe ở New York là cả một vấn đề đầy thửr thách”.
                    Ngay ngày đầu tiên tôi tới thăm, tất cả chúng tôi cùng ăn trưa, rồi mọi người biến mất để đánh một giấc ngủ trưa. Qua lời đại sứ Đinh Bá Thi, tôi tưởng là cơ quan có phòng cho khách trọ, nhưng ông Văn phải nhường phòng của ông cho tôi, chuyển đồ đac sang phòng ông Hùng để ngủ. Dù phòng yên tĩnh và tôi hai tiếng để ngủ trưa, mà tôi cũng không chợp mắt được. Lâu quá rồi, tôi đã mất đi cái hạnh phúc được ngủ trưa từ ngày “Đế quốc Mỹ” sang Việt Nam. Họ thay đổi giờ làm việc của hành chánh nên ai ai cũng phải thức với người Mỹ. Tôi đành ngồi đọc tờ New Yorker cho qua giờ. Ông đại sứ Thi, sau khi ngủ trưa sang phòng gặp tôi. Ông mang theo một cái ghế để ngồi nói chuyện.
                    Ông mở đầu:
                    - Chẳng mấy khi chú có thể hỏi thăm đến má cháu. Má hồi này thế nào?
                    Tôi đáp:
                    - Sức khoẻ của má cháu tốt lắm, nhưng hoàn cảnh của ba má cháu thật éo le. Mà cháu nhớ ba cháu và anh Khôi vô cùng. Nhưng mà cháu biết rằng nếu bà về Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều thử thách lắm.
                    Tôi không hiểu sao tôi lại thành thật với ông. Có thể giấc quan thứ sáu của tôi rất nhạy, khi tôi ngồi trước mặt người đàn ông này với vẻ mặt đầy thiện cảm. Ông nói:
                    - Đây là giữa chú Thi và cháu thôi nhé. Má cháu đã làm đúng, khi không trở về Việt Nam. Không đâu có thể bình yên bằng Hoa Kỳ được. Cho tới nay, người ta vẫn bất bình với má cháu và các cháu.
                    - Có phải vì mấy chị em cháu lấy chồng người Mỹ không?
                    - Cả chuyện đó nữa, những đó chỉ là việc phụ.
                    Dù ông không nói ra, nhưng tôi hiểu rằng việc má tôi bỏ Sài gòn chạy đi Mỹ trước khi quân giải phóng vô, đã khiến Chánh phủ Việt Nam mất mặt.
                    Sau giờ ngủ trưa, ông đại sứ đưa tôi đi thăm ttụ sở Liên hợp quốc. Khi đi qua gian hàng bán các quà lưu niệm của nhiều nước, tôi buồn vô cùng, vì sản phẩm của các nước bày la liệt mà không có một món đồ nào của Việt Nam, ngoài mấy cái nón lá, búp bê mặc áo dài, đội nón lá, với tấm tranh sơn mài nhỏ: nếu nhà Thanh Lễ thấy tranh này, chắc động lòng mà bố thí cho họ, may ra để đẹp mặt cho ngành sơn mài của Việt Nam. Tôi hỏi ông:
                    - Chừng nào thì nước mình có thể trở lại bình thường như trước hả chú?
                    Ông nhìn tôi, rồi vội quay mặt đi mà không trả lời. Hôm sau, mọi người đi làm hết, nhưng khoảng 11 giờ, Phạm Ngạc trở về, và chúng tôi nói chuyện về cộng đồng người Việt ở Mỹ, những người tỵ nạn lẫn những kẻ thân Cộng. Anh đưa cho tôi xưm xấp hình của người tỵ nạn ở khắp mọi nơi trên nước Mỹ; hình người ta sắp hàng đi biểu tình chống Cộng; hình bà con đứng chờ ở các văn phòng bảo trợ tỵ nạn như USCC, IRC, v.v… Anh nhờ tôi cố gắng nhận diện những người này. Tôi nhìn hết hàng trăm tấm hình, nhìn để biết những người Cộng sản này lên lỏi trong cộng đồng người Việt tỵ nạn sâu bao nhiêu. Hình do chính những người tỵ nạn và hội viên của Việt kiều yêu nước chụp cung cấp cho phái đoàn. Tôi hỏi Phạm Ngạc mục đích của công việc này, thì anh ta cho biết đây là “kho tàng” của họ, vì qua tấm hình này ở hải ngoại, họ sẽ tìm tại những người tỵ nạn đó, vì ai cũng xó bà con thân nhân bên nhà. Hình sẽ được gửi về Việt Nam để điều tra ai có thân nhân ở Mỹ.
                    - Đây là một kho tàng của Bộ nội vụ của chúng tôi chị à!
                    Tôi thầm chửi thề trong bụng:
                    - Thằng Bắc Kỳ, nó là nhân viên của Bộ ngoại giao Hà Nội, đi chụp hình người tỵ nạn Cộng sản, đưa về cho “Bộ nội vụ của chúng tôi”.
                    Tôi kiên nhẫn xem tiếng tấm hình mà trong bụng buồn, ngao ngán vô cùng, vì tôi biết đây rồi người tỵ nạn cũng bị chia rẽ phân hoá, sẽ nghi ngờ nhau. Kẻ hèn sẽ theo Việt Cộng, người có tri thức sẽ đứng riêng biệt ra, rồi đánh nhau. Ông ngoại tôi đã phân tích hồi chúng tôi còn nhỏ. Ông nói:
                    - Thằng Tây nó tổn xương, tổn máu làm chi cho uổng, để Việt Nam mình đánh nhau vài trăm năm là mất Việt Nam, rồi ung dung vô đây mà hưởng.
                    Phạm Ngạc cho biết, ông có một người bạn làm cây cầu liên lạc cho phái đoàn ngoài giới hạn 25 dặm theo luật của Liên hợp quốc. Nhân viên của phái đoàn trong Liên hợp quốc không được hoạt động quá 25 dặm ngoài thành phố New York. Vì vậy, ông cần có người liên lạc ngoài giới hạn đó, kể cả những người trong hội “Việt kiều yêu nước”. Ông khoẻ ông có một bà bạn người Mỹ, ông cho biết:
                    - Bà ta rất tốt với chúng tôi. Bà không những là một người trí thức, mà còn có tinh thần phóng khoáng. Bạn của bà có nhiều người là triệu phú, trong đó có một ông là chủ nhiều tiệm bán quần áo đàn bà, trong hệ thống dây chuyền trên toàn quốc.
                    Ngạc cầm một lá thơ, rồi hỏi tôi về Peter Arnett, phóng viên của hãng thông tấn AP, ông này muốn được phép đi qua Việt Nam. Tôi cười mà cho ông biết rằng các nhà báo Mỹ, cũng như các chính khách Mỹ rất thích những đề tài không bình thường vậy, nếu ký giả Arnett ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam, thì giới phản chiến không thèm đọc. Tôi biết ông này đã từng ở Sài gòn mấy năm để lấy tin chiến tranh. Ngạc hỏi:
                    - Như vậy hắn phải biết rất rõ về Việt Nam, phải không?
                    Tôi trả lời ngay:
                    - Làm sao ổng có thể hiểu rõ về Việt Nam được, khi ổng qua Việt Nam cỡi ngựa xem hoa, đi giầy Tây, mặc đồ ký giả. Đa số đám ký giả Mỹ chỉ muốn tìm hiểu xem tiền người dân Mỹ được tiêu xài như thế nào, để đăng báo. Cũng có người muốn đề cập tới những nỗi đau khổ trong cuộc chiến. Cũng có những ký giả muốn cho người đọc của họ biết về cuộc chiến hấp dẫn kỳ lạ, những đau khổ mà người Việt Nam nghèo đói phải chịu đựng. Đa số dân Mỹ chỉ biết Việt Nam một cách hời hợt, qua mấy ông bà ký giả này. Nhiều người con tưởng Việt Nam toàn rừng rú, đầy bệnh tất, ruồi muỗi, sinh lầy, nơi nào cũng có mìn, cũng có bàn chông, và họ nghĩ rằng tất cả dân Việt Nam đều là hành khất, rách rưới, đĩ điếm; con nít thì đánh giầy, đàn ông thì làm cò mồi cho Việt Cộng. Những nông dân thiệt thà, chất phác đều ở trong vùng giải phóng và tất cả là Việt Cộng, chỉ muốn được bình yên.
                    Rồi tôi kết luận:
                    - Anh không cần biết lập trường chánh trị của Peter Arnett, vì khi nhận được thẻ nhà báo, thì nó phải quên đi lập trường riêng của nó rồi.
                    Ngạc nhận xét:
                    - Chị không ưa nhà báo, phải không?
                    Vào ngày thứ hai của cuộc viếng thăm, trong khi mọi người ngủ trưa, ông đại sứ Thi lại đến nói chuyện với tôi vì tôi không ngủ trưa. Tôi rất mừng được dịp này. Tôi muốn biết ông thật tình nghĩ gì về chánh phủ Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và của ông trong chánh phủ đó. Tôi và ông Thi nói chuyện về những mơ ước thầm kín của chúng tôi về tương lai nước Việt Nam. Ông tâm sự:
                    - Chũ đã sống xa vợ con cả nửa cuộc đời. Giấc mơ của chú là một căn nhà nho nhỏ có vườn để trồng rau và nuôi gà… và có thể nuôi cả heo nữa.
                    Tôi hỏi:
                    - Chú thích ở đâu?
                    - Thủ Đức, cháu à. Chú đã đi nhiều nơi xem phong cảnh đẹp ở khắp miền Nam. Cuối cùng chú mê Thủ Đức vì con sông Đồng Nai. Bao giờ xây được căn nhà trong mộng tưởng ấy, chú có thể ngắm những con gà tranh nhau ăn. Các con chú buổi chiều tan sở của Sài gòn sẽ về nhà bằng những chiếc xe gắn máy mới và cùng chú ngắm mặt trời lên trên bờ sông ngay trước nhà.
                    Ông say sưa nói với nụ cười trên môi, nhưng hai mắt đỏ hoe. Tôi cũng không giấu được tình cảm của tôi, nên tôi đặt tay tôi lên tay ông mà nói:
                    - Chú Thi, cháu hy vọng giấc mơ của chú sớm thành sự thực.
                    - Chú cũng mong được như vậy trước khi quá trễ. Thím không được khoẻ, và chú đã xin phép chánh phủ cho thím sang bên này để tìm bác sĩ chữa trị cho thím.
                    - Bao giờ thì thím sang?
                    Ông lắc đầu:
                    - Đơn của chú đã tới nơi cao nhứt trong chánh phủ rồi, chú chưa nhận được trả lời. Nước nào thì cũng có sai lầm trong hệ thống quản trị của một chánh phủ. Những ở nước ta, điều tệ hại nhứt là không tin nhau. Vợ không bao giờ được đi theo chồng khi chồng công tác ở hải ngoại.
                    Tôi nhận xét:
                    - Không riêng gì Việt Nam mình đâu, chú. Cháu thấy nhà ngoại giao Nga lẫn các nước cộng sản đều như vậy.
                    Ông cất tiếng cười, rồi hỏi:
                    - Cháu có hình dung được rằng một người ở trong địa vị của ba cháu, lại có thể bỏ trốn theo tư bản khi ba được làm việc ở nước ngoài, mà chánh phủ cho anh cháu đi theo không”
                    Ông vừa cười vừa lắc đầu, như cho đó là một chuyện không bao giờ xảy ra, nhưng nhà nước của chú thì lúc nào cũng sợ bị phản bội.
                    Lời nói của ông khiến tôi nảy ra một ý nghĩ, nên liền hỏi ông:
                    - Má cháu có thể xin phép được gặp anh Khôi của cháu ở hải ngoại không chú?
                    - Cháu cứ thử nói với má cháu viết thư cho ông Tổng bí thư Lê Duẩn xem sao; chú sẽ chuyện thư giùm má cháu.
                    Tôi buồn bã nói:
                    - Một người mẹ phải xa con trai tới hai mươi năm, đó là một thời gian dài quá chú à.
                    Ông sốt sắng nói:
                    - Nếu chánh phủ ta không đáp ứng được một nhu cầu tầm thường như vậy, thì cũng không thể thực hiện được những giấc mơ của người dân trong nước. Cháu nói với má cháu là chú sẽ hết lòng giúp má cháu.
                    Thux; sự cảm động trước tấm lòng của ông, tôi nói:
                    - Bây giờ thì cháu hiểu tại sao những người cháu gặp ở Paris đều khen chú là một người đặc biệt, có tình, không như những người i khác trong họ ngoại giao.
                    Nhưng ông nói như để cảnh cáo tôi:
                    - Cháu đừng có nghi ngờ lòng trung thành của chú với đất nước Việt Nam và con đường chú đã chọn để phục vụ tổ quốc. Nhưng, chủ nghĩa xã hội hay Cộng sản đều không ngăn cấm chúng ta đem hạnh phúc lại cho dân tộc, và đưa tổ quốc tới một tương lai rực rỡa. Chú đã thoát ly gia đình để phục vụ tổ quốc. Nay, nếu sự hy sinh đó không đem lại hạnh phúc cho dân tộc, thì chắc chắn phải có sự sai lầm nào trong hệ thống mà chú đang nói:
                    - Chú Phan Thanh Nam giải thích về đảng khác với chú!
                    - Cháu nói Nam trong phái đoàn của Mặt trận n Giải phóng ở Paris?
                    - Dạ.
                    Chú Thi lắc đầu tỏ vẻ chán nản, nói:
                    - Nam cũng là người miền Nam. Loại người theo khuôn luật, không cấp tiền trong quân đội. Chú ấy vừa được chuyển sang công tác mới nên hăng hái lắm!
                    - Cháu đã có dịp nói chuyện với chú Nam chung quanh việc “làm cái gì cho Việt Nam”. Có hai lần ông đề nghị cháu kêu chồng cháu ăn cắp những tài liệu giá trị của chánh phủ Mỹ. Ông còn nói là nếu cháu còn muốn gặp ba cháu nữa, thì cháu phải chứng tỏ cháu trung thành với Việt Nam. Chú Nam hứa sẽ bảo cấp trên ở Việt Nam là cháu đang làm việc cho chú.
                    Vẻ mặt bình tĩnh của đại sứ Thi biến mất. Ông hít một hơi dài rồi nói:
                    - Có thể má cháu biết ông Đỗ Mười, những chú chắc cháu thì không, vì hồi đó cháu còn nhỏ quá. Ông Đỗ Mười là bạn chí thân của ba cháu. Chú tin rằng ông không bằng lòng khi biết cháu liên lạc với Phan Thanh Nam.
                    Ông nói tiếp:
                    - Mỹ Dung, nghe chú nói đây. Cháu là con gái của ba cháu. Việt Nam là quê hương của chịu. Cháu không cần phải làm việc cho chú Nam để được cấp giấy thông hành về Việt Nam. Nếu chú ấy lại nhắc đến chuyện đó nữa, cho chú biết ngay. Chú Nam làm việc giỏi, nhưng đôi lúc cũng tàn nhẫn lắm.
                    Tôi thay đổi đề tài, để tìm hiểu thêm về những liên lạc của ông trong giới người Việt ở Mỹ:
                    - Chú đã gặp anh Trương Đình Hùng ở Washington chưa?
                    - Hùng và bạn của anh ta là chị Thoa, là hai người đã tiếp đón chú khi chú tới Washington. Có việc gì vậy?
                    - Cháu nghĩ anh Hùng hiện đang hoạt động cho chú Phan Thanh Nam. Thỉnh thoảng cháu có gặp anh ấy.
                    Tôi định nói, Thoa thì không còn được Hà Nội trọng dụng như trước nữa, vì đối với Cộng sản Hà Nội, chị chỉ là dụng cụ “chống Mỹ cứu nước”, chớ không phải là người được theo cộng sản. Khi còn chiến tranh, Mặt trận giải phóng và cộng sản Bắc Việt lợi dụng tất cả mọi người, tất cả các hội đoàn, đảng phái chánh trị, sinh viên, Phật giáo, Công giáo hay bất cứ ai. Bây giờ chiến tranh đã chấm dứt và họ đã thắng trận; họ thanh lọc chỉ còn bè phái băng đảng của họ thôi. Chị Thoa là một nhân vật quan trọng trong phong trào phản chiến, những bây giờ Hà Nội chỉ thích loại người như ông Luỹ, đứng đầu hội Việt kiều yêu nước. Luỹ có tiền, có sự nghiệp, có nhà ngoài bờ biển San Francisco. Ông từng là điệp viên của cộng sản từ thập niên 1960. Thoa tận tuỵ “chống Mỹ cứu nước” với hai bàn tay trắng và tấm lòng. Những quý giá này không xây được nhà lầu, không tạo ra sự nghiệp, thì hết chiến tranh rồi, nó trở thành vô dụng, về trước mặt cộng sản. Luỹ và Thoa đã từng tranh chấp quyền hành và Thoa đã thua. Anh Đồng ở Paris khuyên chị nên gia nhập tổ chức của ông Luỹ như mặt đoàn viên mới. Đã vậy, anh còn viết thơ cho tôi, nhờ tôi khuyên chị Thoa nên đi học lại để xây dựng một cuộc đời mới. Đó cũng là một hình thức chia tay nhân đạo của người Cộng sản.
                    Ông đại sứ Thi nói bằng một giọng trầm tĩnh:
                    - Chú biết Hùng. Anh ta là người có nhiều tham vọng và sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để đạt tới mục đích của anh. Hùng là người tình nguyện hợp tác với cơ quan của chú. Cháu không cần phải làm gì hết, nếu cháu không muốn. Khi nào cháu gặp Hùng thì biểu hắn cứ tiếp tục gởi những thứ đó lên trên này.
                    Tôi hỏi:
                    - Liệu anh có hiểu “những thứ đó” là cái gì không?
                    Ông Thi nhìn tôi mỉm cười gật đầu. Tôi để yên câu hỏi đó cho thời gian trả lời.
                    Ngày cuối cùng ở New York, tôi mời ông đi ăn tối và đi xem Ballet, vì hai ngày trước tôi nghe ông Thi nhắc vũ Ballet ở Pháp, và ông rất thích món giải trí này: dù tôi không thích, những cũng nhận lời. Tôi kêu cho một tiệm ăn Pháp để giữ chỗ. Tôi biết, tôi có thể mua vé xem vũ Ballet qua điện thoại, nhưng tôi muốn có dịp đi ra ngoài, để kêu cho văn phòng FBI ở New York, báo cho họ biết chương trình tối nay của tôi. Vì vậy, tôi nói với Thi, tôi phải đi lấy về.
                    Nhưng khi tôi đã sắp sửa ra đi, ông đại sứ tới phòng tôi cho biết ông rất lấy làm tiếc không thể đi ăn tôi và xem vũ Ballet ti được. Ông nói:
                    - Ông Dương nghĩ rằng chú cháu mình không nên đi riêng một mình tối nay.
                    Tôi ngạc nhiên hỏi:
                    - Tại sao lại không thể đi được chú Thi? Tiệm ăn này đâu có vượt quá hạn đã định?
                    Ông đáp:
                    - Tụi CIA và FBI sẽ chụp hình chúng ta, rồi báo chí đồn ầm lên rằng đại sứ Đinh Bá Thi đi ăn, đi uống với một người đàn bà Việt Nam ở New York.
                    Vừa nói, ông vừa đưa một tờ báo lên cao, chỉ vô hàng tit lớn.
                    Tôi liền đề nghị:
                    - Thế thì tất cả mọi người cùng đi cho vui.
                    Ông đáp ngay:
                    - Như vậy thì tốn nhiều tiền lắm. Không nên.
                    Ông đề nghị, ông Hùng và tôi đi xuống phố Tàu để mua thức ăn về nhà làm cơm ăn chung với tất cả mọi người. Thế là ông Hùng đầu bếp và tôi cùng đi với ông tài xế Văn. Tôi nhờ ông Hùng chọn mua những thứ để làm những món ăn mà ông Thi ưa thích. Ngoài ra, tôi cũng đề nghị ông mua những thức ăn khô cần thiết để dự trữ như nấm Đông cô, gạo, mì, bún, bánh tráng, nước mắm và cả những đồ gia vị. Ông Hùng ngần ngại, những tôi nói tôi trả tiền.
                    Cuộc sống của phái đoàn ở thành phố New York nhộn nhịp này thu gọn trong căn nhà cao ốc, mọi người bảo vệ nhau, gìn giữ nhau, kiểm soát nhau. Tôi có cảm tưởng như họ không quên được những thói quen ở Hà Nội; hay là họ không được tự do để thích ứng với đời sống ở một xã hội tự do.
                    Đại sứ Thi nói, ngân khoản của phái đoàn rất eo hẹp; cho nên mọi người nhịn ăn sáng. Còn bữa trưa và tối thì quá nghèo nàn, nhưng theo ông, vẫn đủ chất bổ dưỡng.
                    Nếu có ai yêu cầu tôi sáng tác một bản nhạc mô tả bầu không khí sinh hoạt trong căn nhà của năm người đàn ông này đang sống, tôi sẽ gom góp lại tất cả những âm thanh của ba máy thu hình và ba cái radio cùng mở một lúc liên tục cả ngày, cộng với đó tiếng rào rạt của mấy tờ báo được lật qua lật lại trong nhà, là âm thanh của căn nhà ấy.
                    Thời gian hấp dẫn nhứt đối với họ, là giờ tin tức sáng, trưa, tối. Đổi đài radio và TV theo giờ; giờ tin tức là công tác quan trọng của mấy ông Hùng, Văn và Phạm Ngạc. Họ thu vô băng cả những tin tức, rồi chuyển về nước.
                    Họ không có thì giờ để giải trí. Trong nhà không có một bộ bài, hay một bàn cờ tướng. Ông Thi giải thích:
                    - Những thứ giải trí ấy là xa xỉ. Chúng tôi phải làm việc vì chánh phủ gởi chúng tôi sang đây để làm việc.
                    Hầu như không bao giờ họ ra khỏi trụ sở của phái đoàn, ngoài việc đi từ nhà đến trụ sở Liền Hiệp Quốc, đi phố Tàu mua sắm. Vì vậy, những nhận xét của họ về nước Mỹ được gởi Việt Nam chỉ là những nhận xét bị đóng khung trong một căn nhà nhỏ hẹp, với những kỷ luật khắt khe. Họ xét đoán “đế quốc Mỹ” theo những gì họ thấy trong truyền hình. Họ đã làm đúng theo cương vị của các nhân viên trong một phái đoàn Liên hợp quốc. Tôi nhớ, năm 1954, khi hoà ước Geneve đề ra Uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến ở Việt Nam, ông ngoại tôi đã nhận xét:
                    - Tụi này chỉ làm được một chuyện, là cho giá mướn nhà và tiền mướn đầy tớ ở Sài gòn tăng vọt lên thôi
                    Còn ông cậu tôi thì cho rằng:
                    - Đám Uỷ hội này không làm được đách gì hết.
                    Dù tôi không có ý nghĩ hay ho nào về phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc, nhưng tôi vẫn kính phục đại sứ Đinh Bá Thi. Trước khi được nói chuyện riêng với ông, tôi đã cố gắng tìm hiểu trước, để xem có thể vạch đường cho ông đào thoát không? Nhưng sau buổi nói chuyện đó, tôi cảm thấy mắc cỡ với chính tôi, vì đã có y nghĩ đó. Tôi biết chắc rằng, với bất cứ gia nào, không ai có thể mua chuộc được ông, cũng như không ai mua chuộc được ba tôi. Vì vậy, tôi thành thực cầu chúc ông thực hiện được giấc mộng của ông, là xây dựng một căn nhà ở Thủ Đức, bên bờ sông Đồng Nai, để sống yên ổn với gia đình. Ông nhận lời chúc mừng, với một nụ cười trong mắt ông.
                    Nhưng, khi ông trở về Việt Nam, thì những ngày cuối cùng của ông khác với giấc mộng ông hằng ấp ủ.
                    Đã mười năm nay, đã có nhiều giai thoại về đại sứ Đinh Bá Thi, Tôi chỉ biết chắc chắn một điều về ông, là ông đúng là một nhà ái quốc như ba tôi. Chỉ khác hơn ba tôi, là ông dám phê bình đảng. Chỉ có người ra lịnh giết ông mới biết nguyên do cái chết của ông thôi.
                    ***
                    Từ ngày tôi làm việc cho CIA, đã nhiều lần Rob muốn tôi trắc nghiệm với máy dò sự thật. Tôi không hiểu tại sao ông ta muốn vậy. Tôi không nghĩ rằng CIA có một chút nghi ngờ gì tôi. Họ biết rõ tôi là ai, và tại sao tôi cộng tác với họ. Ngoài ra, tôi không tin cái máy với những dây điện tử có thể hiểu rõ tôi hơn nhân viên chỉ huy tôi, vì ông đã cùng đi xa với tôi nhiều lần, làm việc sát cánh với tôi, rồi cùng thảo luận với nhau hàng trăm tiếng đồng hồ trong nhiều trường hợp. Rob luôn luôn nói với tôi rằng điều đó có thể làm cho sự liên lạc giữa ông và tôi dễ dàng hơn, nhưng nếu tôi không muốn làm trắc nghiệm cũng không sao. Tôi thì cực lực phản đối cách thức tìm hiểu sự trung thực cộng tác viên theo phương pháp đó.
                    Nhưng rồi việc phải đến đã đến. Việc thử máy nói thật trở nên bắt buộc khi tôi từ New York trở về với những bản báo cáo cuộc viếng thăm đại sứ Đinh Bá Thi của tôi. Rob nói rõ phải thử máy nói thật, nếu không thì không ai có thể chấp sự kiện tôi thản nhiên ca ngợi “kẻ thù” như vậy. Theo tôi, ở quan tình báo không sao hiểu được rằng tôi có thể tách rời con người ra khỏi ý thức hệ và Chánh phủ của họ.
                    Vài ngày sau khi tôi từ New York về, Rob và tôi tới gặp Bill Fleshman để thảo luận về bản báo cáo của tôi cho FBI. Bill suy nghĩ khác. Theo anh, những nhận xét trung thực của tôi với đại sứ Đinh Bá Thi giúp cho tình báo Mỹ biết cả tánh của ông đại sứ và từng người trong phái đoàn. Nhưng, ngay sau khi Bill vừa đi khỏi bãi đậu xe, Rob đã nhắc tới việc thứ máy nói thiệt. Ông nói: “Hàng năm tôi phải làm cái việc này một lần” với ngụ ý tôi không thể ra ngoài lệ thường.
                    Tôi giận dữ nói một cách bướng bỉnh:
                    - Một năm anh làm hai lần cũng kệ anh, không mắc mớ gì tới tôi. Tôi biết tôi, nhưng có thể anh không biết anh; thì việc làm trắc nghiệm cho chắc, là phải.
                    Khi tôi đã vô ngồi trong xe, Rob còn giữ cửa mở, nói:
                    - Nè nhỏ, hãy biết điều một chút! Tôi muốn cô coi việc này một cách nghiêm chỉnh hơn. Với loại tin tức như của cô, ngay cả ông lớn nhứt trong “công ty” cũng phải thử máy nói thiệt.
                    Tôi vẫn không chịu, nói lớn:
                    - Dù có cả chục ngàn người làm như vậy, cũng không có nghĩa là điều đó đúng.
                    Trong đời tôi, tôi chưa nhìn thấy có bộ mặt nào để lộ nỗi thất vọng to lớn bằng một ông Rob lúc này.
                    Nhưng chuyện này không dễ dàng bỏ qua. Sau nhiều tuần cãi cọ, tôi bắt đầu phải nhượng bộ. Tôi nghĩ rằng đây là cái lệ bắt buộc của sở; đến ngay ông xếp lớn và các nhân viên trong sở đều phải làm, thì tôi cũng phải tuân theo cho đúng lề luật. Tôi nói với Rob:
                    - Thôi được, nếu cần, ông cứ nói chuyên viên lấy dây mà trói tôi lại.
                    Nghe tôi nói vậy, Rob tỏ vẻ mừng như muốn nhảy một vòng tango.


                    Nhưng nói cho ngay, trắc nghiệm cũng không có gì là ghê đối với tôi hay với các nhân viên CIA dù tôi đã làm cho họ hoảng sợ. Trong các câu hỏi ngớ ngẩn, có một câu đáng chú ý là:
                    - Ngoài CIA, tôi còn làm việc cho cơ quan tình báo hay tổ chức phản gián khác không?
                    Tôi trả lời:
                    - Có!
                    Thế là Rob và nhân viên điều khiển máy cũng hoảng sợ.
                    Tôi phì cười, nói tiếp:
                    - Tôi còn làm việc cho FBI nữa!
                    Nhìn vẻ mặt hai người, tôi không rõ họ có coi FBI là cơ quan bạn hay không. Nhưng hai người nhìn nhau thở phào nhẹ nhõm. Chuyên viên đặt lại câu hỏi:
                    - Giữa CIA và FBI, cô còn làm việc cho cơ quan tình báo hay tổ chức nào không?
                    Tôi đáp ngay:
                    - Không, tôi không làm việc cho ai hết.


                    Rồi từ đó, CIA không còn nghi tôi vừa làm việc cho họ vừa lén lút hoạt động cho nhóm khác, như KGB hay Mặt trận giải phóng miền Nam, cũng như cho chánh phủ Hà Nội. Có thể họ đã biết như vậy từ trước, nhưng họ vẫn muốn bắt tôi phải làm trắc nghiệm cho chắc.

                    Comment


                    • #40
                      Chuơng 40



                      Sau chuyến đưa má tôi sang Paris gặp ba tôi, Rob và tôi sang đó một lần nữa. Chúng tôi tới Paris vào giữa mùa đông giá buốt. Không có tuyết trên mặt đất, nhưng lề đường trơn trượt. Người đi đường mặc nhiều lớp áo. Những người vô gia cư chui vô các nhà ga xe điện ngầm để tránh mưa giờ lạnh lẽo. Những người hành khất này dù vẫn nguyền rủa trời đất không tiếc lời, vẫn kéo mấy đứa nhỏ ra ngoài để ăn xin. Tôi cho đứa nhỏ năm Francs, thể là cả đám chạy ùa theo tôi, nhưng tôi đành lắc đầu từ chối. Đám con nít la ó um xùm lên, rồi chạy đi tìm người khác để xin tiền.

                      Khi còn ở Washington, trước khi bay sang Pháp. Rob hỏi tôi có muốn ở khách sạn Sheraton như trước không? Tôi cho biết là tôi không muốn trở thành khách quen của khách sạn đó, vì vậy lần này tôi ở khách sạn khác. Sau khi đi loanh quanh một chút và ăn trưa, tôi bắt đầu làm việc kêu điện thoại đến trụ sở của phái đoàn Mặt trận giải phóng nói chuyện với Phan Thanh Nam.
                      Nam nóng lòng muốn gặp tôi ngay, nhưng tôi cho ông tôi phải đi đặt hàng trước rồi mới gặp ông được.
                      Tôi nói dối như vậy để ông khỏi nghi ngờ. CIA quên giúp cho tôi một “cover”, nghĩa là cho tôi đóng một vai gì để tôi đi đi lại lại Paris như đi chợ. Tôi biết chút ít về chén đĩa kiểu, nên mỗi lần tôi nói cho những người Cộng sản ở Paris, nghề của tôi là nhập cảng chén đĩa của Pháp và Anh Quốc. Hơn nữa, họ nghe tới cái nghề chán phèo này, dĩ nhiên không ai thèm chú ý chuyện của đàn bà.
                      Tôi gọi tới nhà Mimi, vợ chưa cưới của Phạm Gia Thái. Mẹ của Mimi cho biết, tôi có thể gặp Thái ở khách sạn Lutece, một nhà trọ do chánh phủ Việt Nam Cộng hoà quản lý trước khi chiến tranh chấm dứt. Bây giờ là tài sản của chánh phủ Hà Nội và Thái cai quản nó làm nơi trú cho các sinh viên Việt Nam du học.
                      Sau khi tiếp xúc với hai nơi đó, tôi ngủ một giấc để chỉnh lại giờ giấc vì Paris cách Washington 6 tiếng đồng hồ. Sau đó, tôi sửa soạn để đi gặp Rob, như chúng tôi đã định từ trước. Nhớ lời ông dặn, tôi phải hết sức thận trọng, vì lần trước tôi đã công khai tiếp xúc với các cán bộ của chánh phủ Hà Nội. Như vậy, các nhân viên của cơ quan mật vụ Pháp có thể nhận ra tôi. Tôi phải tìm cách đánh lạc hưởng họ, như đến một thẩm mỹ viện, hay bất cứ nơi nào đó, cho tới khi chắc là mình không bị theo dõi, thì mới tới chỗ hẹn.
                      Lần này, tôi quyết định không để lại chìa khoá cho nhân viên văn phòng nữa, và cũng không tới hỏi xem có thơ từ gì không, vì làm như vậy để phòng hở, nếu có ai rình rập, không thể biết tôi hiện ở đâu. Rob tất nhiên biết tôi ở đâu, nhưng tôi không bao giờ biết phòng của anh. Tôi nghĩ rằng đó là luật lệ của cơ quan, cũng có thể đó là sự cẩn thận riêng của anh ta. Tôi cũng phớt lờ những việc lặt vặt đó. Thiệt ra, nếu ở địa vị ông, tôi cũng phải sợ con gái của ông đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam.
                      Ngay hôm đầu tiên đi ra ngoài để gặp Rob, tôi thấy có hai người đàn ông Pháp khả nghi ngồi ở phòng đợi của khách sạn. Họ ngồi cách xa nhau. Tôi không rõ họ có phải là điệp viên của Tây không, nhưng tôi không muốn họ theo dõi tôi từ đường này tới đường khác trong thành phố Paris. Do đó, tôi phải đóng vai khách du lịch, hỏi nhân viên văn phòng về chuyện xe cộ để đi thăm thành phố. Rồi tôi cố ghi nhớ gương mặt một tên khả nghi. Tôi vào một tiệm bán đồ kỷ niệm và chờ cho hai tên đó bỏ đi. Nhưng mười phút sau họ vẫn ngồi lì ở đó.
                      Tôi đành vào tiệm uốn tóc trong khách sạn để làm tóc. Một tiếng đồng hồ sau, tôi ra khỏi tiệm, thấy ghế của hai tên khả nghi hồi nãy có hai người đàn bà A Rập ngồi. Tôi cũng đoán là đàn bà A Rập thôi, chứ đâu có biết họ có thật là A Rập không, sau tấm vải đen che mặt của họ.
                      Khi tôi đi về phía trạm xe điện ngầm, thì trông thấy hai thằng Tây khả nghi đi theo tôi. Tôi đi chậm lại để chờ họ. Khi họ tớ gần, tôi nhìn thẳng vào mặt họ, rồi hỏi đường đi tới tiệm Pritemps, một tiệm bán tạp hoá lớn.
                      Họ luống cuống, ngạc nhiên và giận dứ, vì tôi đã chặn đường họ lại. Một tên cáu kỉnh trả lời bằng tiếng Pháp:
                      - Đi mà hỏi cảnh sát, đừng làm mất thì giờ của tôi.
                      Tôi phản ứng bằng tiếng Anh:
                      - Chó săn.
                      Họ liền vội vã bỏ đi mất. Tôi thông thả một mình đi tới trạm xe điện ngầm.
                      Vì phải kiếm cách “thanh toán” hai tên khả nghi đó, tôi đến chỗ hẹn với Rob trễ bốn mươi lăm phút. Tôi phải đi hai chuyến xe điện mới tới trạm Trocadero, rồi đi bộ tới viện bảo tàng Museum of Moder Art để gặp Rob. Theo lời dặn dò trước của chúng tôi, nếu tôi thấy anh đang ngồi xem báo và hút ống điếu thì tôi có thể tới gặp anh, có nghĩa là từ xa anh nhìn kỹ, tôi không bị theo dõi thì cứ tới gặp anh và bắt tay tự nhiên. Nếu không, có thể thấy tôi đang bị một kẻ khả nghi theo dõi, tôi phải làm ngơ và đi thẳng.
                      Tôi thấy Rob đang ngồi trên một bực thềm trước viện bảo tàng, miệng ngậm ống điếu và đang đọc tờ báo Pháp. Tôi mừng quá, vì từ nãy giờ đi bộ mỏi chân rồi. Thấy tôi, anh nói:
                      - Ê nhỏ, an toàn rồi, không có cái đuôi sau lưng. Mà sao trễ quá vậy?
                      Tôi cho ông biết tôi bị hai thẳng Tây theo dõi, phải tìm cách chặt đứt hai cái đuôi dài đó, rồi mới leo lên xe điện được. Chúng tôi tôi vào một tiệm café nhỏ để trao đổi một số tin tức mới. Khách trong quán phần lớn là mấy ông già ngồi chơi bài quanh những chiếc bàn nhỏ. Sau khi nói chuyện, Rob đi bộ đến cầu D'Iena, còn tôi kêu taxi về khách sạn. Tại đây, tôi mua cho Phan Thanh Nam một chai Johnny Walker đen.
                      Nam tỏ vẻ rất thích khi nhận quà của tôi. Ông cất ngay rượu vào tủ, như cất đồ quý, rồi mời tôi vô phòng ăn tronh bếp. Ông mở một chai rượu chát để cùng uống với tôi. Ông nhớ lại lời hứa của tôi trước kia, là tôi sẵn sàng uống rượu với ông khi vắng mặt má tôi. Trong khi ông rót hai ly rượu, tôi để ý túi áo của ông có một gói thuốc lá hiệu Dunhill.
                      Khi ra khỏi xe taxi ở trước cửa trụ sở của Mặt trận giải phóng miền Nam, tôi không còn thấy lá cờ của Mặt trận giải phóng, mà thay vào đó là lá ờ đỏ sao vàng của chính quyền Hà Nội. Tôi hỏi Nam, tại sao có sự thay đổi như vậy, ông liền trả lời:
                      - Mỹ Dung, cháu phải nhớ rằng nhiệm vụ của Mặt trận giải phóng đã hoàn tất. Bây giờ cả hai miền Nam Bắc đã thống nhứt.
                      Tôi nghe lời ông, như một bài tuyên truyền hơn là một lời giải thích:
                      - Chú Nam, trên cương vị một nhân viên cao cấp của Mặt trận giải phóng, chú tán thành việc thống nhứt mau lẹ như vậy sao?
                      - Còn chờ đợi gì nữa?
                      Tôi liền nhắc lại lời ba tôi cho biết Mặt trận giải phóng miền Nam phải có thời gian để giới thiệu chủ nghĩa xã hội với dân chúng miền Nam, vì nếu thay đổi đột ngột sẽ gây phản ứng không hay trong lòng người dân.
                      - Cháu nói vậy là có ý gì?
                      Tôi đáp ngay:
                      - Như chú đã rõ, dân miền Nam của mình không có nhiều ý thức về chính trị. Hầu như ai cũng biết Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng rất ít người tin rằng Mặt trận đã giải phóng miền Nam. Người miền Nam cho rằng họ là nạn nhân của giải phóng. Bây giờ, nếu chánh phủ Hà Nội quyết định thống nhứt ngay hai miền, thì các cán bộ ngoài Bắc sẽ vô cai trị miền Nam. Điều này sẽ làm dân chúng sợ hãi và bất mãn trong lòng. Họ cho rằng miền Nam bị miền Bắc xâm chiếm hơn là giải phóng.
                      Nam uống một hơi cạn sạch ly rượu, rót thêm một ly khác, nhìn tôi bằng cặp mắt bực mình, khó chịu, ông nói:
                      - Vậy là cháu bị bọn đế quốc tư bản phản động nhồi sọ rồi. Thực sự không phải như cháu nghĩ đâu!
                      Tôi nói:
                      - Chú Nam ơi, cháu chỉ nhắc lại của bác Hồ thôi. Những ý nghĩ của dân miền Nam đều đáng quan tâm. Tương lai của đất nước nằm trong tay những người mà các chú cai trị, không nằm trong tay các chú đâu.
                      Ông liền hah giọng nói nhỏ:
                      - Mỹ Dung, cháu nghe chú nói đây. Chú nói riêng với cháu thôi. Chú khuyên cháu đừng nói cho ai nghe ý kiến vừa rồi của cháui. Người ta là sẽ hiểu lầm cháu dò.
                      - Nhưng cháu tin là chú hiểu cháu, vì chú là người của Mặt trận giải phóng miền Nam mà!
                      - Cháu ơi, trong khi vắng mặt ba cháu, cháu đã giao du với những người không tốt, nên cháu mới có cách suy nghĩ như vậy. Nhưng, chú hy vọng từ nay có chú hướng dẫn, cháu sẽ hiểu hơn.
                      Nói xong, ông nâng ly rượu để cụng với ly của tôi và nói:
                      - Mừng cho nước Việt Nam độc lập và thống nhứt!
                      Tôi miễn cưỡng nâng ly lên, những đặt ly xuống bàn ngay mà không uống rượu. Tôi cúi mặt xuống để tránh cái nhìn ông.
                      Trong khi đó, Nam đi vòng sang phía tôi ngồi, rồi nghiêm trang hỏi:
                      - Dung, cháu cho chú biết chồng cháu có thắc mắc gì vế cháu sang bên này không?
                      - Anh ấy rất buồn vì cuộc chia tay của ba má cháu. - Câu trả lời trật đường rầy, vì tôi không muốn nói láo.
                      - Vậy chồng cháu có hỏi cháu đã gặp những ai trong phái đoàn của Mặt trận không?
                      - Anh ấy hỏi cháu có đưa ba má cháu đi ăn tiệm không? Má cháu và cháu ở đâu? Anh ấy cũng hỏi ba cháu có hỏi gì vì sống của vợ chồng cháu không?
                      - Chồng cháu nghĩ sao về cuộc giải phóng?
                      - Lần trước, anh ấy nhờ cháu chuyển lời nói với ba cháu là anh ấy thành thật hy vọng dân tộc Việt Nam sớm hưởng hoà bình thật sự.
                      - Hai vợ chồng cháu không nói gì về chánh rrị sao? Cháu nghĩ gì về xã hội chủ nghĩa?
                      - Tụi cháu nói nhiều đến chiến tranh và hoà bình ở Việt Nam. Anh ấy hiểu được những đau buồn của cháu. Anh ấy cũng biết cháu khao khát hoà bình cho Việt Nam lắm. Anh kính trọng ba cháu và rất quý má cháu.
                      Nghe tôi nói vậy, Nam liền hỏi:
                      - Cháu có nghĩ rằng chồng cháu sẵn sàng giúp các chú khi cần không?
                      - Chú muốn anh sự giúp các chú về việc gì?
                      Nam giải thích:
                      - Chuyên môn của chồng cháu rất cần cho Việt Nam. Ngành hải sản cần các khoa học gia như anh ấy. Anh ấy có thể giúp chúng ta lập một đoàn nghiên cứu để khám phá những tài nguyên thiên nhiên. Anh ấy cũng có thể giúp chúng ta thiết lập một hệ thống phòng thủ trên bờ biển để ngăn chặn kẻ thù, chống lại tầu ngầm của kẻ địch…
                      Tin này rất đáng cho CIA biết. Phan Thanh Nam đang tìm cách thâu lượm tin tức cho chánh phủ Hà Nội i, kể cả về tin chống tầu ngầm. Tôi nghĩ, họ trao đổi bí mật với Liên Xô. Câu chuyện của chúng tôi ngưng lại ở đó, nhưng Nam tỏ ra nôn nóng muốn tôi kiếm cách nói cho chồng tôi biết là ông “cần những tin tức mà các nhà khảo cứu mới phát mình cho các công ty Mỹ” biết cách dò và khai thác dầu mở ở bở biển Việt Nam. Điều thứ hai ông muốn biết, là một bản đồ của Hải quân Mỹ và cơ quan hải dương học về bờ biển và tài nguyên thiên nhiên. Cuộc nghiên cứu bao gồm cả kỹ thuật đánh cá và những thói quen của bầy cá trong vùng.
                      Nam huênh hoang kết luận:
                      - Nếu chúng ta có tất cả những tin tức đó, là chúng ta có cả một mỏ vàng.
                      Tôi tưởng vậy là hết rồi, nhưng không, ông lại nói thêm:
                      - Còn một chuyện này nữa, Mỹ Dung à. Vì chồng cháu đang ở trong vùng Washington D.C, có thể anh ấy giúp chú tìm hiểu một số tin tức. Chỉ cho cá nhân chú mà thôi, vì từ lâu chú muốn biết, làm cách nào và thế nào Hải quân Mỹ có thể đối địch được với Hải quân Liên Xô.
                      Tôi ngạc nhiên tự hỏi, không biết Nam đang nghĩ gì về tôi, mà dám đề nghị tôi đi ăn cắp tài liệu mật của quốc phòng Mỹ cho ông? Có thể ông cho rằng, vì tôi yêu thương ba tôi quá, nên tôi sẵn sàng làm bất cứ cái gì ông muốn; hay là trong qua khứ, ai đã gặp ông, kể cả người Mỹ phản chiến, đều sẵn sàng hăng hái làm những điều ông sai bảo. Tôi chỉ trả lời rằng, tôi sẽ nói chuyện với chồng tôi khi tôi về Mỹ.
                      Sau khi trao cho tôi một bản “liệt kê công tác”, Nam tỏ vẻ muốn giữ độc quyền con cờ mới tuyển dụng này. Khi tôi cho ông biết Thái đã đưa tôi đến gặp ông chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước là Huỳnh Trung Đồng, thì ông khuyên tôi không nên giao lưu với những hội viên của hội Việt kiều yêu nước ở Paris, hay bất cứ ở đâu, để “bảo vệ ba cháu cũng như sự liên lạc giữa chú với cháu”. Ông còn nhấn mạnh, là tôi không giúp ích gì cho quê hương trong giai đoạn này nếu tôi gia nhập vào nhóm Việt kiều yêu nước, bởi vì vai trò của họ sẽ thay đổi, tôi sẽ mất nhiều thời giờ quý báu để hội họp, tuyên truyền, kết nạp đoàn viên để phục vụ cho đường hướng, mà tôi sẽ bỏ phí tài nguyên tôi đang có.
                      Ông kết luận:
                      - Hãy dành những thời giờ đó để làm việc với chú. Cháu nhớ rằng có nhiều người Việt yêu nước ở Âu châu, ở Mỹ nhiều nước khác nữa, không tham gia một hội đoàn nào, nhưng lại là những người đóng góp rất nhiệt tình. Bây giờ người ta không biết quan điểm chánh trị của cháu. Họ cũng không biết gốc gác cháu ra sao. Tốt hơn hết, bên ngoài cháu cứ để họ nghĩ cháu chống cộng, chỉ có chú và những người quan trọng trong ngành của chú biết lập trường của cháu mà thôi.
                      Tôi hiểu rằng Nam và Thái khác nhau, khi muốn tôi cộng tác với họ. Thái có ý định đưa tôi vô bộ máy ngoại vận. Còn Nam tuyển mộ tôi làm gián điệp cho Hà Nội i. Một thì muốn tôi công khai “thân Cộng”, một thì buộc tôi làm ngược lại, phải “chống cộng”. Dĩ nhiên, trước sau tôi vẫn là tôi, người Việt quốc gia ngạo nghế muôn đời.

                      Comment


                      • #41
                        Khi báo cáo cho Rob về buổi gặp gỡ giữa tôi với Nam, tôi yêu cầu là vấn đề này chúng tôi phải ngồi xuống nói cho chồng tôi biết, vì nó liên quan đến anh. Tất cả những hoạt động, sinh hoạt với FBI và CIA, tôi không đem về nhà nói với chồng tôi và các em tôi. Má tôi tin là tôi làm thông dịch cho cơ quan an ninh của Mỹ, vậy thôi. Hai lý do mà tôi không chia sẻ được: luật lệ của hai cơ quan này; hai là tôi cố tránh cho má tôi biết đến việc làm của tôi. Dì nhiên, nếu má tôi biết nhiều, má sẽ ngăn cản, mà làm sao má tôi ngăn cản việc này được, thì sẽ lo đêm lo ngày, bất cứ lúc nào tôi bước ra khỏi nhà. Cấm không được, thì má sẽ giận rồi bỏ đi ở với một trong hai chị tôi.


                        ***


                        Vừa mở cửa phòng khách sạn, tôi đứng khựng lại sững sờ vì căn phòng của tôi trống trơn. Tôi nhìn cái chìa khoá, trở ra nhìn lại số phòng, rồi bước trở vô. Đồ đạc, va-li của tôi biến mất, cái phòng đã dọn sạch. Cầu tiêu, bồn tắm sạch sẽ, láng bóng như đang chờ người khách mới.


                        Tôi đi thẳng xuống gặp người làm việc tại quầy của khách sạn. Ông ta làm bộ không nói được tiếng Anh để khỏi tiếp tôi dù biết những người làm trong khách sạn lớn này đều nói được tiếng Anh. Tôi hỏi ông:
                        - Tôi muốn biết chuyện gì xảy ra trong phòng tôi, và đồ đạc của tôi đâu mất hết rồi?
                        Ông ta không nói gì hết, nhưng có một viên thơ ký khác tè trong chạy ra, vừa cười gượng vừa hỏi:
                        - Có chuyện gì vậy thưa bà?
                        - Tôi muốn biết các anh làm gì trong phòng tôi, mà đồ đạc của tôi biến mất?
                        - Thưa bà, đây có thể là một sự lầm lẫn. - Hắn đáp với vẻ mặt như tôi là người đi lộn phòng.
                        Tôi đòi gặp viên quản lý, nếu hắn không giúp gì được tôi. Nhưng hắn cho biết viên quản lý hiện không có mặt ở khách sạn, và hắn nói sẽ đi hỏi lại nhân viên.


                        Tôi cho ông ta biết tôi đi cả ngày, tôi mệt, tôi cần nghỉ ngơi. Tôi vào quán café của khách sạn ngồi chờ. Lúc đó tôi qua bực mình, tự hỏi không biết nên uống một ly sữa hay một ly rượu mạnh để lấy lại bình tĩnh. Tôi không biết đây là một sự lầm lẫn của bồi phòng, hay là mấy thằng Tây của tình báo Pháp lục lạo va-li của tôi bằng cách thông đồng với nhân viên của khách sạn, khiêng va-li của tôi đi một nơi khác để lục, thay vì lục trong phòng của tôi, phòng hờ tôi về phòng thình lình?


                        Nửa giờ sau, tôi trở lại quầy. Viên thơ ký liền nói với vẻ mặt buồn bã một cách giả tạo, rằng có một người khách ở đó đã lâu mà không chịu trả tiền hay không có tiền gì đó, nên họ dọn đồ của người khách đó; không ngờ bồi phòng dọn lộn phòng của tôi.
                        Tôi nghe thì nghe, nhưng vẫn không tin lời hắn, nên nói:
                        - Tôi vẫn muốn gặp ông quản lý.
                        - Thưa bà, ông Charrière chiều mai mới có mặt ở đây, giờ thì đồ đạc của bà đã được đem về cho bà. Chúng tôi thật xin lỗi bà về sự lầm lẫn đáng tiếc này.


                        Tôi vẫn bực mình nói:
                        - Ngày mai, khi nào ông Charrière của ông tới, biểu ông gọi tôi ngay.
                        Nói xong, tôi hấp tấp đi về phòng. Tôi đoán, lúc đó có người đang rình ngó trộm tôi.
                        Tôi khoá chặt của phòng, còn chặn thêm một cái ghế cho chắc chắn. Tôi kiểm soát xem các cửa sổ đã đóng kỹ chưa, kéo màn kín mít, rồi mở va-li ra kiểm soát. Nhưng tôi ngừng lại thấy mình làm chuyện vô ích. Người nào lục va-li của tôi không phải là kể ăn trộm, mà là người muốn biết tôi là ai, và tôi làm gì?


                        Điều quan trọng là họ không thấy những bản nháp của các baen báo cáo tôi gởi cho CIA, vì mỗi lần viết xong, tôi thưởng đốt, bỏ tro vào cầu tiêu.


                        Tôi chỉ có một sơ suất nhỏ, là còn để trong va-li lá thơ của cha tôi, viết năm 1972 tại Milan. Y. Đó là lá thơ mà cho đến 1974 tôi mỗi nhận được, và tôi còn ấp ủ nó cho tới giờ phút đó.


                        Tối hôm đó, tôi sợ đến nỗi không dám đi tắm. Khi Rob tới, tôi cho ông biết chuyện gì xảy ra, mắt ông tái xanh, làm cho tôi càng lo sợ hơn. Ông hỏi tôi có muốn đổi khách sạn khác không, thì tôi lại giấu, nói là tôi không sợ, mà cũng không muốn khách sạn khác. Tôi nghĩ mình đã ở trên cái đất của thằng Tây rồi, chạy đâu cũng không khỏi. Hồi đó mình xuống hàm núp rồi mà nó còn ráng bỏ bom cho chết, thì bây giờ ngủ trên xứ của nó muốn kiếm, làm sao mà trốn. Chỉ có cái khác hơm thờì Tât đô hộ Việt Nam: bây giờ tôi là công dân Mỹ, và ba tôi cùng mấy ông Việt Minh đã đánh bại thằng Tây rồi. Nghĩ vậy, cho qua thì giờ cho đỡ sợ, chó quốc tịch gì, công dân của nước nào, làm gián điệp trên đất của người ta cũng đều bất hợp pháp. Thằng Tây nó bắt nó nhốt, rồi Bộ ngoại giao Pháp mới làm mầu làm mè liên lạc với toà đại sứ Mỹ, hai bên trao đổi gián điệp tép riu, rồi đâu cũng vô đó. Những ít nhứt cũng ngồi tù Tây, ăn cơm tù Tây một thời gian mới được tha trở về Mỹ. Tôi rùng mình khi nghĩ tới đó.


                        Sau khi Rob ra về, tim tôi đập muốn văng ra khỏi lòng ngực, vừa hồi hộp, vừa giâhn thằng Tây. Tôi nằm nghĩ đến việc làm của mình, nghĩ đến má, đến Lance và chồng tôi, mà thấy ngao ngán, cô đơn quá. Tôi trở cái gối không biết bao nhiêu lần đêm đó. Sáng ra, tôi quá mệt mỏi sau một đêm mất ngủ.


                        Tôi phải ráng hết sức lấy lại bình tĩnh, đi ăn một bụng điểm tâm, uống một tách café cho tỉnh táo, vì hôm dò tôi sẽ gặp kỹ sư Huỳnh Ngọc Châu. Cậu Châu là con trai của ông bà ngoại Huỳnh Ngọc Nhuận, người đã cho gia đình tôi tá túc, hồi ở Gia Định. Cậu Châu sang Pháp chữa bịnh ung thư do chính ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Chánh phủ Lâm thời miền Nam đích thân can thiệp, cho phép cậu xuất ngoại. Cuộc thăm viếng của tôi có hai mục đích: cá nhân và công tác. Tôi muốn tìm hiểu thêm về tình hình Việt Nam và những người lưu vong ở bên Pháp. Má tôi cũng muốn biết tin tức của bà ngoại Nhuận còn kẹt lại ở đường, thăm sức khoẻ của cậu. Má tôi quý mến cậu Châu lắm, biểu tôi bận rộn cách mấy cũng ghé thăm và chăm sóc cậu Châu một hai ngày giùm má.


                        Hồi xưa, cậu Châu được coi như một vị hoảng tử của gián điệp. Cậu là một kỹ sư về dầu khí, làm việc cho hãng dầu Esso. Đối với một cô bé 12 tuổi, việc cậu Châu làm gì ngoài đời là việc người lớn, nhưng tôi biết cậu là một người quan trọng ở Sài gòn; cậu đi học bên Pháp. Biệt thự của cậu ở Sài gòn nhỏ hơn biệt thự của ông bà ngoại Nhuận, nhưng tối tân, đầy đủ tiện ngho. Đó là cậu Châu mà tôi nhớ hồi tôi mười hai tuổi, cho tới lúc 29 tuổi.


                        Sau khi ăn điểm tâm ở một quán ăn xinh xắn ngang cửa khách sạn, tôi mua mấy tờ tạp chí và báo hàng ngày để làm quà cậu Hai Châu, rồi đi taxi đến đường Savoie, nơi cậu đang nằm dưỡng bịnh tại nhà của nhạc phụ, ông Cao Minh Chiếm. Đường Savoie là một con đường nhỏ, nhiều chó và mèo hơn xe cộ. Nhờ sự vắng vẻ của con đường, tôi dễ dàng nhận biết tôi đang bị theo dõi. Mỗi lần tôi quẹo ở một góc đường, tôi thấy một người đàn ông theo tôi vội quẹo sang một con hẻm, rồi chỉ mấy phút lại thấy anh ta lẽo đẽo phía sau.


                        Tôi không muốn thằng Tây biết tôi tới nhà ông Cao Minh Chiếm. Ông không phải là một ông già vợ thuần tuý như trăm ngàn ông già vợ Việt Nam khác, ông là một người thiên Cộng. Ông từng có liên lạc với Hồ Chí Minh từ khi có cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Nhưng khi đất nước chia đôi năm 1954, ông ở lại miền Nam và thành lập Phong trào nhân dân tự quyết chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm và sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Khí giới của ông là cây viết, với bút hiệu Phi Bằng.


                        Hậu qua của những người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” là việc đầu tháng 3 năm 1965, thủ tướng Chánh phủ Việt Nam Cộng hoà, ông Phan Huy Quát đã cách chức gần 50 công chức. Cao Minh Chiếm là một trong hơn 30 người bị bắt giam
                        Thủ tướng Phan Huy Quát quyết định tống ông và vài nhânvật “thờ ma Cộng sản” ra là Hà Nội để làm gương cho những người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Vài tháng sau đó, ông Minh Chiếm, bác sĩ thý y Phạm Văn Huyến và ông Tôn Thất Dương Kỵ được đưa tới cầu Hiền Lương; các bà vợ của mấy ông này còn được chánh phủ cho bay ra để chia tay chồng, trước khi họ đi qua bên kia cầu.
                        Sau đó ông Cao Minh Chiếm sang Paris. Sau khi miền sụp đổ, ông rất đau lòng vì cách đối xử tàn bạo của cộng sản Bắc Việt đối với dân miền Nam và vợ con ông tại Sài gòn. Tôi không biết rõ mục đích của ông Cao Minh Chiếm sống để làm gì đời ông và đời người, nên tôi không nói được nữa về ông, chỉ biết là ông có liên hệ mật thiết với nhóm Việt Nam thân Cộng ở Paris và ông đi lại với những người trong hai toà đại sứ của cộng sản tại Paris. Bây giờ, đào sâu để tìm sự thật về ông Cao Minh Chiếm là việc tôi không nên làm, bởi vì ông đã qua đời, và biết đâu ông và ba tôi thỉnh thoảng từng ngồi với nhau mà tiếc thương đất nước và dân tộc.
                        Muốn giữ an ninh cho ông, tôi không vô nhà ông ngay, mà đi qua luôn để tới một tiệm bán thức ăn ở góc đường gần đó.
                        Tôi biết tôi không thể cà kê trong tiệm này lâu được, vì thế tôi cũng vô đây để mua đồ ăn rồi đi ra ngay. Tôi giả bộ kiếm món ăn muốn mua, những mắt vẫn liếcra ngoài. Khi thấy người theo dõi đã đi qua, tôi mua vội hai hũ kem chua, rồi ra khỏi tiệm. Nhìn trước ngó sau không thấy bị theo dõi nữa, tôi an tâm gõ của nhà số 15.


                        Một người đàn ông trạc tuổi ba tôi, đẹp trai, cao lớn, lịch sự mở của mời tôi vô. Rồi ông vừa cười vừa nói bằng một giọng dịu dàng:
                        - Cháu tới chơi, cứ coi như một cuộc viếng thăm bình thường. Xin đừng nói chuyện chánh trị với bác, vì bác đã nói nhiều với người bịnh này suốt buổi sáng hôm này rồi nhen.
                        Dù ông tỏ vẻ rất thân mật, tôi vẫn nghe giọng nói của ông đầy chua chát.


                        Cậu Châu nằm trên giường, trong cái phòng nhỏ bé đó, đắp một cái mền cũ, cái mền rằn ri của quân đội Hoa Kỳ bán ở chợ Sài gòn Sài gòn. Tôi cúi xuống, nhẹ nắm lấy bàn tay cậu ở ngoài mền.


                        Cậu giới thiệu tôi với ông Chiếm:
                        - Thưa ba, đây là Mỹ Dung, con gái anh Minh.
                        Ông Chiếm bỗng cười lớn một cách khác thường, rồi nói:
                        - Chắc ba còn chút hy vọng đây. Không lẽ con gái của một ông cộng sản lại đi nói xấu cộng sản trước mặt một người bạn cũ của ba nó, đúng không?
                        Tôi bối rối, vì không biết trước đó hai cha con của ông đã nói gì với nhau, và chuyện gì đã xảy ra?
                        Tôi nghĩ ông chỉ nói chơi với con rể, nên tôi giữ im lặng. Sau cậu Châu cho biết hai cha con đã tranh luận với nhau kịch liệt cộng sản và cuộc “Cách mạng” ở Sài gòn. Một lát sau, ông Chiếm khoác thêm áo ấm, đội nón, và cho biết ông cần ra tiệm mua đồ, ông hỏi con rể có cần gì không? Cậu Châu liền đáp:
                        - Nếu con cần gì. Mỹ Dung sẽ có thể giúp con được, thưa ba.


                        Sau khi ông Chiêm ra đi, tôi khoá cửa rồi quay lại với người bịnh đang nằm trên giường. Trên đường đi tới đây, trong lòng tôi mong cho mau tới nơi, để gặp lại người mà tôi mến phục từ lâu. Gia đình cậu Châu đã giúp đỡ gia đình tôi rất nhiều trong thời gian ba tôi xa nhà. Nhưng bây giờ, nhìn người bịnh nằm liệt trên giường, tôi bàng hoàng te tái trong lòng. Căn phòng nhỏ xíu, ngổn ngang một vài cái nồi, một lò điện nhỏ để nấu nướng, một chai dầu ăn cũ, một ông đũa và một cái chảo. Ngoại trừ một bàn bếp và bốn cái ghế cùng cái giường của cậu Châu, không còn đồ đạc gì khác nữa. Vậy mà cũng chật cứng rồi. Tôi nhớ tới biệt thự rộng lớn của ba má cậu, với nhiều phòng, mà không còn còn nghĩ được gì cho cuộc đổi đời này.


                        Tôi quá xúc động, nhớ mới hồi nào cậu trẻ trung, đầy sức sống, vui vẻ thân thiện với má tôi. Mỗi lần cậu tới thăm bá má cậu, cậu đều ghé qua thăm hỏi má tôi. Nhưng bây giờ cậu già quá, già cả trăm tuổi, so với lần cuối cùng tôi gặp cậu. Tôi chọt nhớ lời ông ngoại Nhuận, ba của cậu, cũng bị bịnh ung thư ruột già rồi qua đời không lâu sau khí giải phâu. Bây giờ câuh cũng bị ung thư như ba cậu, và cũng đã được giải phẫu trước đó vài tháng. Nhưng ông còn sống, và tôi được thăm viếng là diễm phúc của chúng tôi rồi.
                        Căn phòng yên tĩnh, trừ tiếng nước bắt đầu sôi trong khi tôi vừa nấu để pha trà. Tôi lên tiếng hỏi để phá tan sự im lặng:
                        - Có phải bác Chiếm muốn tránh mặt cháu không cậu? Chắc cháu tới không đúng lúc?
                        Cậu Châu đáp:
                        - Cậu cũng vừa nghĩ tới ổng. Đúng, ông tránh mặt cháu cũng như tránh mặt tất cả những người sống sót sau giải phóng và có can đảm nói lên sự thật ở Việt Nam.
                        Cậu tiếp tục:
                        - Ba cháu với cháu cũng gặp khó khăn đó khi gặp nhau không? Nhắc tới ba cháu, cậu lại nhớ những ngày cậu ở bịnh viện ở Sài gòn về. Cậu biết ba cháu không hợp với chế độ mới. Theo cậu, đảng cộng sản Việt Nam thay đổi quá nhiều. Bọn cộng sản Hà Nội ức hiếp dân miền Nam. Những người trong Mặt trận giải phóng miền Nam không còn được trọng dụng. Chúng phản bội Mặt Trận vì chúng tuân lệnh bọn Nga.
                        Nói một hơi dài, ông có vẻ mệt, nên phải lấy gối kê lên đầu và chêm gối sau lưng.
                        - Ba cháu không bao giờ nói thiệt ý nghĩ của ông.
                        Cậu tiếp tục:
                        - Vậy mà cậu có may mắn được biết rõ ổng. Cậu đồng ý với cháu, là ba cháu sẽ giữ im lặng. Trong chế độ đó, nếu mình tỏ vẻ bất mãn, sẽ bị kết tội “phản bội” liền. Ba cháu sẽ không thể từ bỏ được giấc mơ đem hạnh phúc lại cho toàn dân. Ông sẽ cố gắng thực hiện điều đó cho đến ngày ông chết.
                        - Cháu rất kính phục ba cháu, nhưng cháu không tin ba cháu sẽ thành công. Một đảng có can đảm giữ vững lý tưởng của mình, một đảng người ta sẽ loại trừ những ai không theo đường lối của đảng và nhà nước. Ba cháu biết rất rõ, rằng chánh phủ Hà Nội sẽ lừa dối, cướp bóc và hãm hiếp dân miền Nam sau khi họ ngưng tiếng hát ca tụng cách mạng. Bây giờ ông vẫn cố gắng tranh đấu cho nhân dân. Thiệt là cô đơn và vô ích.


                        Cậu Châu vừa chỉ vô cái thân héo mòn bịnh hoạn vừa nói: “Cháu nhìn cậu nè. Hoàn cảnh chánh trị của ba cháu cũng giống như bịnh ung thư thời kỳ cuối cùng của cậu. Chắc chắn cậu sẽ chết. Cậu có thể tự tử cho chết luôn đi, mà cậu cũng có cứ sống để vui với những người thân yêu. Ngày nào cũng là ngày tốt đẹp đáng quý hết. Cậu đã tốn rất nhiều tiền cho thuốc men để vẫn được nhìn thấy vợ con, mẹ già dù đau đớn. Đôi khi cuộc đời dài không còn ý nghĩa gì hết nếu cậu không ăn được những món cậu thích, cậu không thể vô phòng tắm một mình như mọi người, kể cả những người đui và điếc. Nhưng cậu vẫn muốn sống, thì ba cháu cũng vậy.
                        Nghỉ một một chút rồi cậu Châu nói tiếp:
                        - Còn đối với ba cháu, nếu ông công khai tỏ vẻ bất mãn với đảng, tức là ông tự tử. Họ sẽ giam ông trong nhà thương điên, như vậy, ba cháu còn làm được gì cho những người dân mà ông tranh đấu cho họ? Bây giờ ông còn uy tín, vẫn có thể làm những điều tốt cho dân miền Nam. Ông có được sự bình thản mà hiểu rõ những nhu cầu của nhân dân Việt Nam và quyết tâm làm những điều đó. Cháu không thể đòi hỏi nhiều hơn ở một người đàn ông.


                        Chúng tôi ngồi im lặng một lát, nhấm nháp chén trà tôi vừa pha. Rồi ông cho biết ba tôi đã giúp ông sang Pháp để chữa bịnh, nhưng sự giúp đỡ lớn nhứt là ông chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ. Ông Thọ còn thúc đẩy các thủ tục tiến hành thật lẹ để vợ con của cậu Châu sớm sang Paris đoàn tụ với cậu. Cậu Châu hy vọng mẹ cậu được đi một lượt với con dâu và cháu nội. Cậu được ưu tiên là đi sớm để chữa bịnh.
                        Cậu cho biết tất cả mọi người trong gia đình cậu đã trong kinh hoàng sau chiến tranh. Khi ba cậu qua đời cách đó mấy năm, gia đình cậu đã dọn về ở chung với mẹ cậu trong biệt thự của ba ở 38 đường Chi Lăng, và sống những ngày ấm cúng. Nhưng thời kỳ “trăng mật với cộng sản” chấm dứt mùa thu năm 1976.


                        Một đoàn cán bộ cộng sản Bắc kỳ, tự mệnh danh là “quân giải phóng” của thành phố mới đổi tên “Hồ Chí Minh” bất ngờ đột nhập vô nhà. Tất cả mọi người trong nhà, kể cả mấy chị giúp việc, bị đưa hết vô phòng ăn có mấy tên mang súng AK-47 xanh chừng. Mấy tên cán bộ khác lục lạo cùng nhà. Khi chúng không kiếm thấy những gì chúng muốn, tên đứng đầu hỏi bà ngoại Nhuận giấu vàng và tiền bạc ở đâu. Khi bà cho biết không có tiền gì ráo, thì chúng đẩy bà già bảy chục tuổi té khỏi ghế ngồi, rồi bắt đầu hạch hỏi vợ chồng cậu Châu.
                        Cuộc xét nhà, lục lạo kéo dài tới tối mà không moi ra được cái gì hết, nên cả đám phát giận, quay lại nạt nộ mọi người rồi i kéo bà ngoại Nhuận ra khỏi nhà dẫn đi. Những người còn lại bị đuổi ra khỏi biệt thự, dọn vô một căn nhà ngang dành cho những người giúp việc ở. Bọn cán bộ nói với cậu Châu rằng biệt thự sẽ bị niêm phong để tìm điều tra thêm, câdm mọi người không được vô nhà, trừ các cán bộ “giải phóng”. Tới nửa đêm, đứa nhỏ nhứt của cậu Châu khóc đòi sữa, ông Châu năn nỉ cán bộ gác cửa cho phép vô nhà lấy sữa, bị người lính từ chối dù đứa nhỏ đang khóc vì khát sữa.
                        Suốt một tuần, cậu Châu không biết tin tức gì của mẹ, nên rất nóng lòng. Trong khi đó, đồ cổ và mọi thứ khác trong biệt thự bị bọn cán bộ cộng sản khuân đi hết. Khi nhà đã trống trơn, mọi người người mới được phép vô biệt thự trở lại. Nhưng chỉ mấy bữa sau “quân giải phóng” gởi cho cậu Châu một là thơ rất quan trọng “đề nghị” cậu “hiến” căn biệt thự cho chánh phủ cách mạng. Tất nhiên, ông không thể từ chối.
                        Vậy mà ông cũng vẫn không biết tin tức gì của mẹ. Ông cầu cứu chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, từng là bạn cũ của cha ông. Chủ tịch Thọ phải cho người kiếm mãi mới biết bà ngoại Nhưận bị giam ở Cần Thơ. Như vậy sau một tháng trời, ông mới được tin mẹ. Ông chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đích thân xuống Cần Thơ xin cho bà ra khỏi tù, rồi đưa bà về Sài gòn. Khi được gặp mẹ, ông Châu mới biết “Giải phóng” đã ép bà hiến hết tài sản cho họ, gồm có ruộng đất trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhà cho mướn ở Bạc Liêu, nhà may xay gạo ở Còn Thơ… Bây giờ tài sản của ba đã thuộc về của “nhân dân”.
                        Cậu Châu nói với giọng tức giận:
                        - Mất hết tài sản, cậu cũng chịu được, vì dù sao bà ngoại cũng đã phải ký để “đang hiến” cho Chánh phủ. Nhưng cậu không thể nào quên được sự tủi nhục khi bọn cán bộ hành hạ bà ngoại trước mặt các con của cậu. Tụi nó la ó với bà ngoại. Tụi nó vô lễ với mợ Hai, không cho vô nhà lấy sữa cho đứa nhỏ. Mấy đứa con cậu sẽ không bao giờ quên được hình ảnh đó.
                        Mắt tôi cay, miệng tôi đắng, ngồi nghe cậu Châu kể lại chuyện nước nhà sau ngày cộng sản vô Nam. Tôi lau nước mắt bằng hai lòng bàn tay, mà không dám nhìn cậu. Không hiểu tôi mắc cỡ vì ba tôi là một trong những người cộng sản đó, hay tôi cảm thấy thấy tội lỗi vì gia đình tôi chạy thoát nạn trước gia đình cậu Hai.
                        Lúc đó, cậu mới thú thật với tôi về một chuyện cũ, vào tháng 4 năm 1975, khi đã sẵn sàng rời khỏi Sài gòn, má tôi đến gặp cậu và bà ngoại để hỏi xem gia đình có muốn ra đi không. Cậu nói với gia đình cậu rằng:
                        - Bà để cho con lấy kẻ thù, nên bây giờ phải bỏ chạy là đúng rồi, mình phải ở lại với dân tộc và đất nước chớ.
                        Bây giờ thì cậu đã hiểu thể nào là “giải phóng”. Nhưng ông nói rằng việc ở lại cũng có ích, vì các con ông sẽ không bị cộng sản lừa gạt nữa.
                        Đến đây chúng tôi tạm bỏ qua những buồn phiền đau khổ của riêng ông, mà nói tới cuộc sống mới ở Việt Nam; tiền đổi không kịp trở tay; giá vàng, giá gạo, giá thịt, giá vật dụng, v.v… Tất cả mọi thứ đều tăng giá vùn vụt chỉ trong có mấy tháng trời. Tôi hỏi ông, tôi có thể ghi lại những gì ông vừa nói với tôi không? Ông không những không ngăn cản mà con khuyến khích tôi nên cho Chánh phủ Mỹ hoặc báo chí rõ mọi điều. Đã đến lúc phải cho người Tây phương biết họ ngu ngốc và ngây thơ đến mức nào trong cuộc chiến ở Việt Nam. Henry Kissinger nên mắc cỡ vì đã bị bọn cộng sản qua mặt và lợi dụng trong hội nghị đình chiến ở Paris. Hà Nội đã điều khiển 85% trong thời gian hội nghị.
                        Sắp đến giờ ăn trưa, tôi đề nghị tôi chạy ra chợ mua thức ăn về làm cơm, những cậu Châu khoát tay, vừa cười vừa nói:
                        - Cậu gần chết rồi, nên cậu muốn đến một tiệm ăn ở St. Michel mà cậu vẫn thích để được ngồi cùng với người của cậu.
                        Nói xong, ông ra khỏi giường, kéo tấm màn che lại để thay đồ bên trong. Tôi phải buộc dây giầy cho cậu vì bụng cậu vừa mới rút chỉ còn đau, cậu không thể cúi xuống được. Tôi giúp cậu mặc cái áo choàng ngoài khá nặng. Sau đó, chúng tôi đi bộ tới một tiệm ăn nhỏ ấm cúng. Cậu phải vịn chặt cánh tay tôi để đi cho vững.
                        Cậu Châu kêu một chai rượu Côte du Rhône. Chúng tôi nhâm nhi ly rượu mà không muốn thời gian đi qua. Tiệm ăn này ở gần khu Sorbonne, khiến cậu nhớ lại quá khứ. Cậu cho biết, nơi đây ngày xưa cậu bắt đầu làm quen với chủ nghĩa cộng sản, mà ba ná cậu cũng đã là cảm tình viên rồi. Sau đó cậu Châu cưới một người vợ cũng có cùng một chí hướng với cậu. Mợ Châu cũng đã bị công an thời ông Thiệu bắt bỏ tù, vì bà ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam
                        Với một tâm hồn đau khổ trong một thể xác bịnh hoạn. Cậu Châu lết gót đi bên cạnh tôi để trở về đường Savoie với căn phòng hẩm hiu cậu đang tá túc. Trên đường về, chúng tôi ghé qua một tiệm sách, một tiệm bán đĩa hát và một tiệm bán tranh vẽ. Trời âm u nhiều mây ảm đạm, khiến tôi nghĩ đến nỗi đau khổ mà đồng bào của tôi đang chịu đựng ở trong nước. Tôi muốn về khách sạn, đóng kín cửa để cách biệt với thế giới bên ngoài quên đi nỗi buồn xót xa trong lòng.
                        Với sự giúp đỡ tận tinh của ông Nguyễn Hữu Thọ, mẹ và vợ con cậu Châu được phép rời khỏi nước Việt Nam để sang đoàn tụ với cậu. Gần một năm sau, cậu Châu từ trần.
                        ***
                        Tôi mở tung của phòng khách sạn, làm nó đập vô tường, dội trở ra, gây nên một tiếng động lớn. Tôi làm như vậy với mục đích doạ kẻ nào đang ở trong phòng tôi. Nhưng mọi sự đều bình thường, va-li của tôi vẫn ở vị thế khi tôi ra đi. Tuy vậy, tôi vẫn cẩn thận bước vô phòng.
                        Một bình bông thật lớn, thật đẹp để trên bàn nước ở phòng khách. Ủa! Hôm nay đâu có phải là sinh nhứt tôi! Sinh nhựt Hồ Chí Minh còn những ba tháng nữa mà. Bên cạnh bình bông bằng pha lê, có một tấm thiệp của ông quản lý khách sạn Andre Francois Charriére, viết cho tôi bằng chữ Pháp như sau: “Avec compliments, nous souhaitons de continuer tres agreablement wire séjour au Paris Hilton”.
                        Đó không phải là cử chỉ xin lỗi chân thành. Hay ông quản lý đã cộng tác với kẻ lục xét đồ đạc của tôi? Tôi không biết nó là cái gì?
                        Trong khi tôi đang suy nghĩ vẩn vơ, thì Rob bỗng ghé qua. Sau khi tôi chỉ cho Rob bình bông, anh ra dấu cho tôi giữ im lặng,. Rồi anh xem xét kỹ các bông hoa, từ cánh xuống cành. Khi xem hết hoa, ông đổ nước trong bình vô bồn rửa tay để coi bình. Lúc đầu tôi nín thở, chờ xem ông kiếm thấy vật gì trong bình bông. Nhưng đến bông thứ tư thì tôi cười bò ra, vì tôi thấy hài hước quá. Nếu thằng Tây nó có muốn gài máy nghe, thì trong phòng này có cả ngàn chỗ cho nó gài, chớ làm gì mà phải tặng hoa mới có phương tiện gài máy nghe lén? Khi ông đã xem xét xong xuôi, tôi hỏi:
                        - Anh kiếm cái gì vậy?
                        Ông đáp nhỏ:
                        - Tôi nghĩ có thể người ta gài máy nghe lén.


                        Tôi lắc đầu mà cười ông trùm CIA. Tôi đổ nước vô bình rồi cắm bông trở lại. Tôi hy vọng không có gì thay đổi, để người rình rập không biết. Vừa lúc đó, lại có tiếng gõ của. Thì ra ông Rob vì mải kiếm máy nghe lén nên cũng không cho tôi biết ông xếp của ông ở Paris muốn gặp tôi. Mấy tháng nay ở trong toà đại sứ Mỹ, trong một góc phòng của CIA, người ta hay nhắc tới “ngôi sao” của gián điệp, nên hôm nay ông xếp của ông tại gặp “ngôi sao”.


                        Cuộc gặp gỡ của chúng tôi ngắn ngủi, ông Andrew muốn biết thêm về Phan Thanh Nam. Mấy ngày trước, Rob đã đem cho một bản kiểm kê nhiều câu hỏi về Phan Thanh Nam, gồm những đặc điểm về thể chất, cá tánh, thói quen, những hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Cái gì có thể làm ông sa ngã. Cái gì làm cho ông phản đảng.

                        Comment


                        • #42
                          Chuơng 41



                          Tôi suy nghĩ nhiều đến câu nhắn nhủ của đại sứ Đinh Bá Thi đến Trương Đình Hùng: gởi “những thứ đồ” lên New York. Đến lúc này thì chúng tôi biết, Tnrong Đình Hùng chuyển tài liệu của Mỹ cho cộng sản Hà Nội bằng hai con đường ngoại giao. Một là qua tay của Phan Thanh Nam ở Paris; bây giờ qua tay phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc.

                          Tôi phải biết rõ Trương Đình Hùng hơn, mới dám khẳng định anh ta là gián điệp. Vì vậy, tôi phải tích cực hơn, khi anh cần đến tôi trong công tác của anh. Tôi cũng nhớ lại lời đề nghị của Huỳnh Trung Đồng ở Paris. Anh khuyên tôi nên thành lập Chị hội Washington, D.C, của Hội Việt kiều yêu nước ở Mỹ. Muốn lập, tôi cần tìm hiểu cơ cấu và nội quy của Hội Việt kiều yêu nước đang hoạt động ở Mỹ, mà chủ tịch toàn quốc là Nguyễn Văn Luỹ. Như vậy, tôi phải gia nhập Chi Hội Việt kiều yêu nước Washington. D.C; sau đó Huỳnh Trung Đồng sẽ cử tôi làm chủ tịch Chi hội. Dĩ nhiên đó là chuyện hoang đường. Làm gì mà tôi có đủ kiên nhẫn lập hội. Cũng không có cái mặt nạ nào má tôi mang được, để đứng ra đóng vai mình là “Việt kiều yêu nước.
                          Khi tôi cho Hùng biết ý kiến của Huỳnh Trung Đồng để dò phản ứng của anh, thì anh không đồng ý ngay. Với tư cách của một cán bộ có nhiều kinh nghiệm, Hùng nói:
                          - Nếu chị muốn tiến thân trên con đường này, chị đừng dính líu với những hội viên của Hội Việt kiều yêu nước. Họ chỉ là những người cơ hội chủ nghĩa và gây rối thôi.
                          Hùng không hoạt động với hội. Anh còn cho biết anh bất hoà với ông chủ tịch Nguyễn Văn Luỹ, nhưng anh không quan tâm chuyện “nhỏ nhặt” này, vì anh giao thiệp thẳng những người cấp trên. Tuy nhiên, anh vẫn giữ một số bạn là hội viên. và những người này sẽ cho anh biết chuyện bên trong của hội. Nhiều lần Hùng khuyên tôi không nên dính líu với hội, chỉ nên làm những việc mà Nam đã giao phó. Tôi nghĩ, Hùng tưởng tôi là mậl vụ của Nam đang dò xét và kiểm soát những hoạt động của anh ta.
                          Tôi cứ trà trộn với các hội viên của chi hội trong vùng Washington. Tôi gặp họ trong những ngày cuối tuần và cả những buổi hội họp ngày thường của họ nữa. Ông chủ tịch Nguyễn Văn Luỹ bên San Francisco lại bắt đầu tỏ vẻ bực mình, vì ông không kiểm soát được tôi. Nhiều lần ông Nguyễn Văn Luỹ gởi cho tôi đơn gia nhập hội, nhưng lần nào tôi cũng từ chối. Tôi viết thơ cho ông, nói cho ông rõ tôi ủng hộ ông, và sẽ tham dự buổi họp ông khi nào thuận tiện. Như vậy sẽ an toàn cho hội cũng như cho tôi, hơn là tôi trở thành một hội viên chánh thtrc, vì tôi tiếp xúc thẳng với những nhân vật của Chánh phủ Hà Nội và những cán bộ ngoại vận.
                          Huỳnh Trung Đồng khéo léo khuyên ông Luỹ không nên thắc mắc nhiều về tính cách độc lập của tôi. Sau đó ông Luỹ mới tha cho tôi nói rằng bây giờ ông đã hiểu địa vị của lời với “đất nước”. Không những thế, ông còn viết thêm: “Sự liên lạc của chị với chúng tôi rất quan trọng. Xin cứ tiếp tục liên lạc với chúng tôi và chúng tôi hy vọng được gặp chị ở bờ biển phía Tây.
                          Ông Luỹ tưởng rằng nhiệm vụ của tôi là báo cáo cho chủ tịch Huỳnh Trung Đồng biết mọi hoạt động của Việt kiều yên nước ở Mỹ, nên được ông đón tiếp gần như một thượng khách khi tôi bay qua San Francisco gặp ông. Ngay cả khi tham dự buổi họp của địa phương, tôi cũng được mọi người trọng vọng và các hội viên đều nghĩ rằng tôi là người được Paris cử tới thanh tra và dò xét hội đoàn.
                          Mùa thu năm 1976, tôi tới San Francisco, ông Luỹ mời tôi dự buổi họp tại nhà ông vì Ban chấp hành của Hội Việt kiều yêu nước. Họ cố gắng kéo tôi vô cuộc tranh chấp giữa họ với chi hội vùng Washington. Tôi phải nói mấy lời nhận xét vô thưởng vô phạt chẳng hạn như:
                          - Họ đang chờ đợi sự chi dẫn của quý vị. Lính tráng cần cấp chỉ huy.
                          Hội Việt kiều yêu nước tại Mỹ là cây cầu cho hội viên gia nhập các hội ái hữu của Mỹ. Họ là những cán bộ yểm trợ cho ban ngoại vận của chính quyền Hà Nội. Lúc đó họ đã bắt đầu tuyển mộ các khoa học gia Mỹ và những chuyên viên khác rất có ích cho nền kỹ thuật tồi tệ của Việt Nam, cùng một số lợi ích khác nữa. Ông Luỹ tin rằng tôi nhận chỉ thị của đại sứ Võ Văn Sung và chủ tịch Huỳnh Trung Đồng ở Paris, nên ông cố gắng trình bày và báo cáo mọi chuyện mỗi khi gặp tôi, hay nói chuyện trên điện thoại với tôi. Ông cho lời biết tên của những người tham gia tổ chức chống chiến tranh trước đó, và hiện tại họ liên hệ với nhiều chương trình khác nhau, có sự yểm trợ của một số kỹ sư Mỹ, nhằm ăn cắp kỹ thuật của Mỹ cho Việt Nam.
                          Trong một chuyến đi San Francisco, có Bill Fleshman của FBI và Rob Hall của CIA cũng đi, tôi có dịp được thấy một kết quả của hội Việt kiều yêu nước này. Ông Luỹ tổ chức một buổi họp tại gia để chào mừng Tiến sĩ Edward Cooperman, một nhà vật lý học ở đại học Fullerton, tiểu bang California. Ông cũng Việt kiều yêu nước đứng ra tổ chức một “Uỷ ban khoa học kỹ thuật Việt-Mỹ” gồm bảy mươi người, nhằm bảo trợ những ai muốn đi Việt Nam làm việc trong ngành nghiên cứu y khoa và các cơ quan giáo dục.
                          Cooperman vừa đi Việt Nam về. Trong buổi họp, ông loan báo sẽ mời mọi người xem hình ảnh cuộc viễn du ấy tại một địa điểm không được tiết lộ. Tôi muốn báo cho ông Bill Fleshman, nhân viên FBI, biết ngày cuộc họp bí mật này. Tôi đang nghĩ cách để có thể tiếp xúc với ông, thì từ trong nhà, một thành niên người Việt Nam đi ra. Anh ta loay hoay mở cửa một chiếc xe classic, mui trần, mầu đỏ, hiệu Thunderbird. Tôi trầm trồ khen chiếc xe của anh ta đẹp, tỏ ý muốn lên xe đi một vòng. Chuyện thấy người ta có chiếc xe đẹp, xin đi một vòng, là chuyện trẻ con.
                          Hình như đứa bé nghịch ngợm do trong tôi không chịu rời tôi dù lúc đó tôi đã ba mươi tuổi rồi. Anh ta vui vẻ nhận lời ngay. Khi anh lái xe dọc theo bờ biển, tôi nhờ anh ghé vô một nhà thuốc tây để mua kem đánh răng. Vì xe mui trần, chỗ lạ, nên tôi biết thể nào anh ta cũng muốn ngồi chờ tôi để giữ chiếc xe quý. Đúng như vậy. Tôi vô tiệm một mình, mua cây kem đánh răng, trả thêm một đồng cho người bán hàng để được xài điện thoại của tiệm. Tôi cho Bill biết chuyện đang xảy ra, nhưng chưa biết địa điểm chiếu film ở đâu. Tôi đề nghị FBI nên theo dõi bằng trục thăng. Bill trả lời gọn khô:
                          - Đừng lo!
                          Anh cho biết hiện đã có người đang theo dõi buổi họp. Họ ngồi trong một xe “van” đậu bên kia đường nhà ông Luỹ. Do đó, họ cũng có thể biết mọi người đi đâu.
                          Tôi trở ra với cây kem đánh răng, rồi chúng tôi chạy trở lại nhà của ông Luỹ.
                          Chín giờ rưỡi, ông Luỹ bảo mọi người lên mấy chiếc xe “van” và xe hơi được chỉ định để đến địa điểm xem hình chiếu về Việt Nam. Không ai được đi xe riêng. Tôi leo lên phía trước xe “van”, thấy tiến sĩ Cooperman đã ngồi sẵn ở đó với người Việt Nam trẻ, có lẽ là đồng chí, vì hai người nói chuyện có vẻ vô thân mật. Tôi liếc thấy xe “van” của FBI chạy theo, những một một lát sau tôi không thấy xe đó đâu nữa. Rồi tôi thấy trên trời một trực thăng bay theo đoàn xe của chúng tôi. Đoàn xe tới một trường học. Chúng tôi vô phòng hội lớn của trường để xem phim.
                          Từ hồi sớm tới buổi chiếu film, những sinh hoạt có vẻ hứng thú cho điệp viên, nhưng buổi tối bắt đầu chân ngắt. Tối hôm ssó tôi phải ngồi “chịu trận” cố gắng coi cho hết những hình ảnh Cooperman chụp ở Việt Nam. Tôi đoán, ông chỉ được phép đến những nơi nào có lợi cho giải phóng mà thôi. Tôi được xem nước Việt Nam toàn một mầu xanh mướt với những nụ cười của mọi người được “giải phóng”. Cờ đỏ đầy đường, hình ảnh Hồ Chí Minh chen chúc trong thành phố, cổng làng, trong nhà người dân. Có một em sinh viên trong nhóm, chắc là cảm tình viên của Việt kiều yêu nước, khều người bạn trai, nói nhỏ:
                          - Có hình bác Hồ trong nhà vào thời điểm này như có bùa hộ mạng hả anh?
                          Tôi thầm nghĩ, con bé nhỏ mà khôn ghê.
                          Tiến sĩ Cooperman nói sơ qua về các buổi họp với các khoa học gia ở Hà Nội, và hứa sẽ cố gắng giúp đỡ Việt Nam sự yểm trợ của những thân hữu của ông.
                          Khi mọi người ra khỏi phòng hội, tôi ngạc nhiên thấy sáu “đồng chí” người Ba Tư đứng gác ở bên ngoài cửa. Ông Luỹ giải thích rằng, nếu không có người canh cửa, buổi họp thường bị “bọn phản động” phá rối, có khi gây ẩu đả. Bọn phản động là các sinh viên miền Nam Việt Nam và những người tỵ nạn.
                          Về chuyện ẩu đả này, tôi đi chứng kiến một lần. Hôm đó chúng tôi ở phòng hội của một trường đại học ở San Jose xem phim tuyên truyền của cộng sản Hà Nội. Đó là phim “Đại thắng mùa Xuân” do chính tôi đem từ Paris về, theo đề nghị của chủ tịch Huỳnh Trung Đồng. Một người tỵ nạn cộng sản Việt Nam ném một trái lựu đạn khói vô phòng họp. Khi mọi người hốt hoảng bỏ chạy, một người Ba Tư cao lớn được ông Luỹ chỉ định hộ vệ tôi đã nắm lấy tôi đưa tôi chạy ra phía sau trường. Nơi đây, tôi trông thấy cả một nhóm người Ba Tư. Sau đó, tôi được biết sự kết hợp chặt chẽ giữa những người Việt thân Cộng với người Ba Tư ở Mỹ. Người hộ vệ tôi hôm đó nói với tôi:
                          - Các bạn giúp chúng tôi về vấn đề di trú, thì chúng tôi bảo vệ các bạn khỏi bị bọn vô lại tấn công.
                          Nói chung. Luỹ thù ghét “đế quốc Mỹ”, không ưa người Mỹ, dấn thân và hy sinh cuộc đời, phục vụ cộng sản. Tôi nghĩ hồi còn nhỏ ông cũng đã được cha mẹ yêu thương. Tình yêu đó vẫn nằm trong một góc của trái tim ông. Để tưởng nhớ người mẹ đã già mà ông tin vẫn còn sống ở Mà Nội, ông mở nhà dưỡng lão ở Montana, California. Ông chăm sóc cho các ông bà già như họ là cha mẹ ruột của ông. Các bữa ăn đều được ông nghiên cứu và nấu nướng cẩn thận cho hợp với người giàa. Ông còn quan tâm đến cả những khó khăn của họ, để tìm mọi cách cố gắng giải quyết giùm họ.
                          Ông Luỹ rất ghét và không tin Trương Đình Hùng, đến cái độ ông chụp mũ Trương Đình Hùng đang hoạt động tình báo cho Mỹ; nên ông phải đề phòng để khỏi bị lôi thôi vì Hùng.
                          Tôi cười và nói thầm:
                          - Đúng là Hùng đang hoạt động tình báo, những cho Chánh phủ cộng sản ở Hà Nội, chớ đâu phải bên kia. Tôi mới là người hoạt động cho “bên kia”, ông ơi!
                          Sau khi bị loại ra khỏi cấp chỉ huy mới của phe Giải phóng, Nguyễn Thị Ngọc Thoa dọn về Santa Monica ở với chồng. Trương Đình Hùng và tôi bắt đầu gặp nhau thường xuyên. Anh tò mò về việc xuất nhập cảng của tôi, một việc làm để che giấu hoạt động tình báo. Rồi có một lần Hùng đòi tôi phải cho hắn biết tôi buôn bán gì, và lấy vốn ở đâu? Tôi cho anh ta biết việc mua bán của tôi cần rất nhiều vốn, vì đồ sứ và pha lê rất mắc tiền. Bà nội của chồng tôi đã để lại cho đứa cháu duy nhứt rất nhiều tiền khi bà mất. Nhờ vậy, chúng tôi có đủ khả năng tài chánh để buôn bán.
                          Sau khi nói cho Hùng biết như vậy, tôi cười thầm và ước gì bà nội chồng của tôi giầu thiệt! Không biết Hùng có nghi ngờ gì tôi, hay đó chỉ là tánh tò mò của anh ta, nhưng Hùng hay hỏi đời tư và những hoạt động của tôi. Đó cũng là một điểm lợi cho tôi, vì tôi có thể hỏi ngược lại Hùng những điều như anh muốn biết về tôi. Một hôm, tôi thử dò anh để biết anh muốn gì trong tương lai. Nếu hai chánh phủ Hà Nội và Mỹ thiết lập bang giao, anh có muốn trở thành trưởng ban tình báo của toà đại sứ không? Tôi biết, anh đang cố gắng tìm một địa vị quan trọng trong chính quyền mới.
                          Hùng sốt sắng trả lời:
                          - Về hoạt động tình báo ở nước này, tôi là người xứng đáng nhất.
                          Hùng còn tử tế nhắc nhở tôi:
                          - Đó là lý do mà chị và tôi không nên dính líu với Việt kiều yêu nước nữa.
                          Vào mùa Xuân năm 1976, tôi giữ liên lạc chặt chẽ với Trương Đình Hùng hơn. Anh còn có cái tên là David Trường. Năm ngoái, sau khi chuyển một số sách lớn và tài liệu của Hùng cho Huỳnh Trung Đồng, rồi lại chuyển thơ của Đồng cho Hùng, tôi thành một cán bộ giao liên tin cẩn của cả hai người.
                          Vào giữa tháng Ba năm 1976, Huỳnh Trung Đồng viết cho tôi một lá thơ với nhiều tin vui. Anh vừa mới từ “thành phố Hồ Chí Minh” trở lại Paris. Anh có đến thăm ba tôi. Anh cho biết anh được thẻ đảng viên của đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thơ, tôi nghe được niềm vui, sự phần khỏi và hãnh diện của ông chủ tịch
                          “Trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam, cho đến nay, tôi là cán bộ đầu tiên và duy nhất đang lãnh đạo hội Ái hữu người Việt ở hải ngoại được cái vinh hạnh này.
                          Tin Đồng trở thành một đảng viên cộng sản Việt Nam sẽ khiến các nhân viên CIA ở Paris và các chuyên viên phân tích ở Langley quan tâm đặc biệt. Nó không phải là một sự kiện đơn giản chỉ có ý nghĩa tầm thường rằng Huỳnh Trung Đồng đã được mang thẻ đảng viên. Địa vị và nhiệm vụ của anh phải quan trọng đến thế nào đối với nhà nước Việt Nam trước và sau năm 1975.
                          Cũng trong lá thơ này, Đồng yêu cầu tôi ráng hết sức bay qua Paris vào tháng Năm để gặp các đại biểu của các tổ chức Việt kiều hải ngoại khắp thời gian, gồm có: London, Rome, West Germany và Mỹ. Còn một điều hấp dẫn nữa, theo ông, thì thủ tướng Phạm Văn Đồng có thể sẽ nói chuyện với các đại biểu trong hội nghị này. Lạ một điểm, là anh biểu tôi cho Trương Đình Hùng biết, nếu tôi có thể đi được.
                          Tôi không phải nói tới lần thứ hai, cả Rob lần Bill đều nghĩ rằng tôi nên đi Paris, vì có lợi cho cả CIA và FBI. Thế là tôi phải sửa soạn đi Paris ngày 22 tháng Tư.
                          Cũng ngày hôm đó, tôi cho hai ông biết tôi đã gặp David Trường để báo cho hắn biết tin tức qua lá thơ của Đồng. Tôi chăm chú nhìn Hùng để dò xét phản ứng của anh ta, những dường như Hùng đã biết tin đó trước tôi rồi. Anh cũng biết cả tin thủ tướng Phạm Văn Đồng sẽ sang Paris. Nhưng điều quan trọng hơn hết, là Hùng cho tôi biết sắp có buổi họp giữa một phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ với một nhóm từ Hà Nội quá. Tôi không tỏ vẻ tự nhiên, nhưng sự thật tôi chưa biết tin này; mà tôi chưa biết thì CIA cũng clnra biết.
                          Trong bữa ăn trưa hôm đó. Hùng nói với tôi, anh sẽ nhờ tôi mang một số tài liệu sang Pháp. Kỳ này anh nhắc đi nhắc lại cẩn thận dặn tôi là trao tài liệu cho Huỳnh Trung Đồng, đừng trao cho Phan Thanh Nam. Hùng con khoe với tôi là ở Washington, gia đình tình báo rất dễ dàng, nếu mình biết tiếp xúc đúng người. Hùng có biết một người Mỹ “có thể lên lầu bảy của Bộ ngoại giao và muốn lấy gì cũng được”.
                          Đây là cái tin có thể làm cho ông Giám đốc FBI Clarence Kelley và ông thứ trưởng ngoại giao Warren Christopher chạy vắt giò lên cổ trong những tháng sắp tới. Cái tin này cũng đưa nghề phản gián của tôi đi qua một khúc quanh thật chông gai.
                          Hai ngày trước khi tôi bay qua Paris, tôi lại chiếc xe Bronco ra ngoài Washington để lấy “đồ” mà Hùng nhờ tôi đem qua Paris. Tôi ghé ngay trước cửa sổ của anh ở đường K; ba chiếc xe chạy sau tôi là xe của FBI theo dõi. Hùng đưa cho tôi một bao thơ lớn mầu vàng, thật nặng; bao thơ này Hùng dặn đưa cho Huỳnh Trung Đồng; và một bao thơ nhỏ dài, đưa cho Phan Thanh Nam. Bữa sau, Hùng lại gọi tôi, muốn tôi trở ra phố gặp anh “cùng chỗ, cùng giờ” để lấy thêm một món nữa. Hùng nói lý do làm tôi qua đi lại nhiều lần, vì anh thận trọng, không muốn tôi giữ trong xe nhiều tài liệu trong một chuyến; trong bao thơ kỳ này, không muốn tôi giữ qua lâu trước ngày tôi lên đường đi Paris
                          Thì thôi. 12 giờ 15 ngày 21 tháng 4 tôi trở lại đường K, này tôi đi bằng chiếc xe khác. Tới phiên tôi cẩn thận, vì tôi nghe có lần Hùng nói, anh có gặp một thằng Liên Xô trên bậc thang đi lên quốc hội, và “mấy thằng Liên Xô đòi hỏi quá nhiều”. Tôi nghĩ, trong kiếp làm gián điệp Hùng có đổi chác với một thằng gián điệp Liên Xô: còn trong những bao thơ Hùng trao cho tôi những tài liệu mật của an ninh quốc gia Hoa Kỳ.
                          Tôi vừa đưa cho Bill Fleshman những bao thơ của Hùng, nói:
                          - Anh đừng hỏi tại sao tôi biết nó là tài liệu mật; giác quan thứ sáu của tôi hay lắm.
                          Fill bắt đầu xúc tiến mọi thủ tục để xin Bộ tư pháp cho FBI mở thơ của Trương Đình Hùng chuyển cho cộng sản ở Paris. Sáng 22 tháng 4, tôi thất vọng vô cùng khi Bill Flesh đem tất cả bao thơ trả lại cho tôi, vẫn còn dán kỹ như hồi Hùng đưa cho tôi. Anh cho biết bánh xe hành chánh chạy chậm không kịp trước khi cho tôi lên đường đi Paris.
                          - Thì tôi hối chuyến đi này. Có ai nói tôi phải đi tối nay đâu?
                          Không biết FBI nghĩ sao, mà Bill khuyên tôi nên đi theo lộ trình. Hai giờ chiều đó, tôi có mặt tại phi trường Dulles, trong khi ngồi chờ máy bay, tôi nghe máy phóng thanh kêu tôi, yêu cầu tôi đến quầy bàn giấy của Pan Am. Tôi đi lại thì thấy Rob đứng sắp hàng, tay không có xách va-li nhưng cầm tờ báo. Tôi bước vô đứng xếp hàng sau lưng anh. Anh đưa xem đồng hồ và lẩm nhẩm nói: “Bỏ chuyến bay này. Đi về nhà nhanh lên!”
                          Về tới nhà, thì mấy phút sau Rob và Bill ghé qua, lấy cả ba bao thơ, rồi dặn tôi ở nhà chờ lịnh trên. 4 giờ 45, Rob cho biết anh và Bill sẽ đem “đồ” trả lại cho tôi. Anh kêu tôi gọi về máy bay Pan Am để đi TWA vào 6 giờ 20 tối đó.
                          Sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi học được nhiều bài học của má tôi và của người tỵ nạn. Một trong những bài học quý giá đó, là học được tánh thích ứng trong mọi hoàn cảnh. Tôi trả lời Rob “Đi thì đi”, trong khi Rob xin lỗi luôn miệng, vì suốt ngày đó họ đã quay tôi như cái chong chóng.
                          Tôi đến Paris, trời sáng còn lạnh thấu xương. Đây là lần thứ hai trong đời, tôi có mặc cảm như người phạm pháp, khi đứng chờ hải quan xét va-li. Lần thứ nhứt, là từ Sài gòn về Mỹ năm 1974, tôi lén đem qua Mỹ cây Lá Cẩm; kỳ đó qua lọt, nhờ vậy mà sau này nhiều người Việt Nam ở Hawaii trồng Lá Cẩm, xôi Cẩm bắt đầu xuất hiện trong bếp của những chị bạn khéo tay tôi ở Hawaii. Hôm đó tại phi trường Orly, hầu như tất cả mọi người, trừ mấy ông bà già, đều phải mở hành lý cho nhân viên quan thuế kiểm soát. Trong khi loay hoay mở cái va-li lớn và nặng trĩu trước mặt nhân viên quan thuế, tôi suy nghĩ lưng tung kiếm một lý do giải thích về hai bao thơ đầy những bí mật quốc gia. Tôi sẽ khai, tôi là sinh viên về khoa học chánh trị, nghiên cứu về nhân chủng học và Việt Nam là môn chánh của tôi. Nếu không tin, họ có thể làm khó dễ tôi. Lúc đó, tôi phải kêu điện thoại khẩn cấp cho CIA; chúng tôi chưa bao giờ đề cập tới chuyện khẩn cấp này.
                          Bao nhiêu lo lắng từ nãy giờ uổng sức, vì nhân viên hải quan chỉ hỏi biên lai của cây thuốc lá Black Russian tôi mua cho đại sứ Võ Văn Sung; tôi nghe anh Thái nói ông thích thuốc lá hiệ đặc biệt này.
                          Một tiếng đồng hồ sau, taxi đậu ngay trước cửa khách sạn Intercontinenlal. Người gác cửa mau mắn tới mở cửa taxi cho tôi ra phía sau đón lấy va-li của tôi từ tay người tài xế. Tôi mệt lả người, nhưng phải ghé qua cái quầy để ghi tên, lấy phòng. Mùi thơm từ phòng ăn bay ra làm tôi đói bụng. Ăn thì tôi chờ được, nhưng bây giờ tôi cần đi ngủ, vì suốt 24 tiếng đồng hồ tôi làm việc không ngưng.
                          Gián điệp cần ngủ kỹ mới tỉnh táo để chuẩn bị tinh thần. Trước mặt những cán bộ cộng sản, tôi là “phe ta” của họ, tôi phải suy nghĩ như họ để nói bằng ngôn ngữ của họ. Như con cắc ké, tôi chuyển từ một người con gái Việt Nam da vàng ngạo nghễ qua một người đầy tớ của đảng và nhà nước.
                          Một giờ trưa, Rob gọi điện thoại. Anh hỏi:
                          - Tôi có đánh thức bà không vậy?
                          - Có chớ sao không!
                          Tôi trả lời quạu đeo. Hồi con ở nhà, má và chị em, ai cũng biết cái tánh xấu của tôi, nên một lần tôi nhờ bất cứ ai trong nhà đánh thức giùm, không ai thêm nhận việc đó. Mà tôi hay nói “đưa nào dại lắm mới đánh thức cọp”.
                          Nhưng rồi tôi thức dậy, sửa soạn để bắt đầu công tác. Theo quy tắc, Rob luôn luôn gặp tôi xem có gì thay đổi bất thường trong chương trình của tôi không. Hai mươi phút sau đó, tôi gặp anh vài ba phút rồi tôi bắt đầu chuyến đi Paris bằng một bữa ăn trưa trong một quán café xinh xắn ở Rue de Rivoli; sau taxi đi thẳng tới gặp Phan Thanh Nam.
                          Trước khi ra khỏi phòng, tôi đã tìm nơi an toàn để giấu ba cái bao thơ. Cái duyên, là nhờ khách sạn đang sửa chữa, máng quần áo có một lỗ trống nhỏ đủ để người thợ điện bò vào mở miếng ván tạm đậy lỗ trống trong bức tường, thì phía trong tối như như đêm, dây điện chẳng chịt. Tôi nghĩ, hôm nay là ngay Chúa Nhứt không có thợ nào làm việc. Tôi để ba cái bao thư trong đó, rồi đậy lỗ trống lại, rồi đem quần áo trong va-li máng đầy lên.
                          Tôi cố ý chớ không phải vô tình mà không báo cho Phan Thanh Nam biết giờ nào tôi đến gặp ông. Ông chỉ được báo khoảng thời gian từ 20 tới 25 tháng Tư tôi sẽ tới Paris. Tôi muốn Nam làm gì trong một buổi chiều Chúa Nhựt. Nếu ông vẫn ở nhà, thì tôi có thể gặp bất cứ ai trong cơ quan đó. Bây giờ, ai sống trong cơ quan này cũng đã biết tôi rồi; may ra ghé vô đó để nghe chuyện thâm cung bí sử trong lúc đợi ông về. Nhưng cái duyên chưa tới, mà tôi chỉ làm Nam giựt mình khi tôi nhấn chuồng, ông ra mở cửa thấy tôi. Trong tay ông còn quyển “Cộng sản học”.
                          Chắc ông cũng như tôi, bỏ qua những lịch sự trong cách giao thiệp hàng ngày: tôi không gọi ông trước khi tôi tới, thì ông cũng không hỏi qua loa về sức khoẻ gia đình tôi, mà ông rối rít hỏi tôi có làm những công tác ông giao phó không?
                          Tối hôm đó, tôi gọi Huỳnh Trung Đồng, cho anh biết tôi đã tới Paris. Không như Phan Thanh Nam, Huỳnh Trung Đồng luôn luôn lịch sự, hoà nhã. Anh hỏi thăm sức khoẻ má tôi, gia đình tôi. Anh hỏi tôi đi đường xa có mệt lắm không. Sau đó anh mới hỏi chừng nào tôi đến gặp anh. Tôi cho anh biết, sáng hôm sau tôi sẽ ghé qua hội quán gặp anh. Anh ngập ngừng hỏi tôi:
                          - Cô tới sáng sớm. Vì … vì chúng tôi cần tài liệu đó lắm.
                          Tôi hẹn gặp anh 10 giờ sáng.
                          Sáng hôm sau tôi sửa soạn xong, chui vô cái cửa sau lưng tủ áo, lấy gói tài liệu bỏ vô cái bóp có máy ghi âm.
                          Nhiều lần vợ chồng tôi đi săn, anh John dậy tôi bí quyết săn nai. Trước hết là phải ăn điểm tâm, phải kiên nhẫn, chú ý tới những thói quen của bầy nai như: nó ra ăn giờ nào, uống nước chỗ nào. Phải ngồi trên cây chờ đợi có khi cả năm, sáu tiếng đồng hồ mà không được nhúc nhích. Hôm nay, tôi không có săn nai, mà săn cán bộ Cộng sản, xem “chúng tôi” của Huỳnh Trung Đồng là những ai. Tôi chờ họ ngồi đâu vào đó, rung đùi chờ tôi, chừng đó tôi mới thấy được hết mặt mấy ông quan cách mạng. Vì thế, tôi chần chờ một lát, ghé qua mua tờ báo, tìm một tiệm cafe, aen điểm tâm, chuẩn bị tinh thần.
                          Tôi tự dặn mình rằng, tôi đang là một công tác cho an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, một việc làm nguy hiểm, chứ không phải tôi là du khách ghé qua Paris để tận hưởng mùa Xuân Paris. Việt Cộng, KGB, phản gián Tây có thể theo dõi tôi từng giờ từng phút. Họ có thể chụp hình, họ có thể giả dạng ăn cắp, ăn mày, mà giựt bóp tôi. Dù vậy, tôi luôn luôn đi đứng tự nhiên, không để bị chú ý. Uống cafe xong, tôi thong thả gọi taxi tới hội quán của hội Việt kiều yêu nước.
                          Sáng nay, trước cửa trụ sở của hội Việt kiều yêu nước vắng hơn mọi khi; không có sinh viên và mấy ông bà già Việt kiều yên nước, dù trong trụ sở có nhiều người hơn mọi khi. Con chó vàng thường nằm ngủ trước cửa hội quán, hôm nay có vẻ ngồi đứng không yên. Nó đứng chặn cửa nên tôi không dám bước vào, người quản gia phải đá bên hông nó, nó mới tránh đường cho tôi đi vô.
                          Huỳnh Trung Đồng dẫn tôi vô phòng học tập, có ba người đàn ông trạc 40, 50 và một người đàn bà cũng trạc tuổi đó. Tất cả mặc đồng phục mầu xẫm xám, nhìn vào là biết mầu xã hội chủ nghĩa Hà Nội liền. Tất cả đều đeo hình Hồ Chí Minh trên người. Anh Đồng giới thiệu mọi người, cuối cùng là “chị Vân”. Được biết trước kia chị là phụ tá của bà Nguyễn Thị Bình trong thời gian hội đàm Paris. Thì ra, chị này đã phục vụ bà Bình, đã làm việc và sống trong cái villa mà ba má tôi đã đến đó ở một lần. Chị đón bắt tay tôi, và nói:
                          - Tôi kính trọng bác Năm, ba cô lắm. Bác dậy tôi rất nhiều.
                          Trên vẻ mặt hân hoan của mọi người, tôi biết tất cả đang chờ một điều gì, một cái gì, mà bây giờ nó đã đến. Tôi nghĩ họ chờ tôi; đúng hơn, họ chờ tài liệu của Trương Đình Hùng do tôi mang tới. Tôi trao cho anh Đồng cái bao plastic đựng ba cái bao thơ.
                          - Em có đem quà cho anh đây!
                          Vừa nói tôi vừa bấm cái nút “ghi” của máy ghi âm trong bóp của tôi. Anh Đồng nhanh nhẹn nhận lấy bọc plastic. Anh nói: “Cô đến thật là đúng lúc”. Anh liền đưa một trong những cán bộ cái bao thơ dầy nhứt. Ông như một đứa trẻ mở quá Giáng Sinh, trong khi ba người kia hăm hở chơ. Anh Đồng dẫn tôi qua phòng khác để họ làm việc. Tôi thấy chịn Vân trọn mắt rồi kêu lên:
                          - Trời ơi, chắc chúng ta phải mất ít nhứt năm tiếng đồng hồ để chuyển ngữ đống tài liệu này!
                          Tôi vừa nhìn anh Đồng vừa cười thầm:
                          - Chị có muốn lần sau thông dịch viên của FBI dịch cho chị trước khi tôi đem qua không?
                          Anh Đồng không ngớt cảm ơn tôi. Anh còn cho biết là anh sẽ báo cáo với “những người có trách nhiệm bên nhà” về những đóng góp “to lớn” của tôi.
                          - Chừng nào phái đoàn của mình gặp phái đoàn của Mỹ? - Tôi hỏi.
                          - Sắp sửa. Khi nào thuận lợi cho bên ta thôi. Chúng ta sẽ được báo trước. Cô tới quá kịp thời, đúng lúc”. Vừa nói anh vừa quay lưng lại chỉ vào bốn người cán bộ đang chia nhau tài liệu của Trương Đình Hùng gởi qua cho họ. Tôi chưa bao giờ thấy anh Đồng cười; vậy mà hôm nay anh vui ra mặt.
                          - Vậy thì bên mình sẽ nói cái gì với họ hả anh Đồng?. - Tôi ngây thơ hỏi anh.
                          - Chung quanh vấn đề Mỹ phải giữ lời hứa của tổng thống Nixon. - Huỳnh Trung Đồng nhắc lại việc bồi thường chiến tranh ba tỷ rưỡi dollars sau khi chiến tranh chấm dứt, anh tiếp tục - để hàn gắn vết thương của chiến tranh gây nên!
                          Tôi nhủ thầm:
                          - Vết thương chiến tranh trên xứ mình gẩy tổn thất gấp trăm ngàn lần ba tỷ rưỡi dollars mà cộng sản gây ra, chớ Nixon nào gây ra mà đi đòi tiền Mỹ?
                          Mỗi lần Cộng sản và những người phản chiến nhắc đến những đổ vỡ, những thiệt hại do chiến tranh gây nên, họ đều có lập luận giống nhau. Tất cả đều đổ lỗi cho “đế quốc Mỹ”. Đã một lần tôi nói với ba tôi, là suốt thời gian chiến tranh, miền Nam ở trong thế thủ để bảo vệ mảnh đất tự do, trong khi Hà Nội ở thế tấn công. Liên Xô và Trung Cộng viện trợ, xít cho Hà Nội nhuộm đỏ miền Nam. Vậy thì ai là người gây thiệt hại trong cuộc chiến này? Ba tôi chỉ nói:
                          - Con không hiểu.
                          Tôi trả lời ba tôi:
                          - Con là con nhà họ Đặng, nhưng được họ Trận nuôi dậy, chớ đâu phải cháu ngoan của bác Hồ, nên con hiểu nhiều lắm, bà à!
                          Tôi biết ba tôi thương tôi lắm, và tôi là người làm rắc rối cho ông hơn “đế quốc Mỹ”.
                          Phan Thanh Nam muốn xài tôi như người ta xài trái chanh, trong khi Huỳnh Trung Đồng thì cư xử với tôi như người ta vun vén cây chanh. Ở anh Đồng, cái thiện nó có trong tâm anh, những cái lẹ nó ở trong hành động của anh. Má tôi biết, sau khi trở về Việt Nam nhận thẻ đảng viên của đảng Cộng sản, anh trở lại Paris hai vai mang nặng nợ nước nhiều hơn thời kỳ “chống Mỹ cứu nước“. Huỳnh Trung Đồng chưa sống dưới chế độ Cộng sản một nào trước 75. Suốt thời gian chiến tranh, anh phục vụ Mặt trận giải phóng tại Paris; về Việt Nam một tháng, khi trở qua Paris, anh như người bị mất hồn.
                          Anh kể cho tôi nghe, anh xuất thân từ một gia đình khá giả ở Nam, nên anh được du học. Chị của anh là một quả phụ, tháng 4-1975, chị phải “dâng hiến” tài sản cho nhà nước, không còn nơi nương tựa, nên dọn về ở với ba của chị. Cũng là dịp ông đau nặng không còn tiền, không đủ “tiêu chuẩn” đi nằm nhà thương. Khi về nhà, thấy tình cảnh gia đình thê thảm quá, anh tôi gặp ba tôi, nhờ ông giới thiệu với chính quyền thành phố, nâng cao tiêu chuẩn của ba anh lên bậc “có cong với cách mạng” (có công vì ông là ba của Huỳnh Trung Đồng), Ngay sau đó, ba của anh Đồng được đưa vào nhà thương chữa trị. Anh không ngớt nhắc đến sự giúp đỡ của ba tôi.
                          Trong khi tôi chỉ trích nhà nước, anh Đồng khéo léo: “Rồi đâu sẽ vào đó!”.
                          Hôm đó, anh Đồng cho tôi cái giấy mời để được đi xe cùng với Việt kiều ra phi trường đón thủ tướng Phạm Văn Đồng. Chuyến công du này, trước tiên là thiết lập tình hữu nghị với nước Pháp. Ông cũng sẽ gặp các đại biểu của tất cả hội Việt kiều yêu nước ở mọi nơi, để mở đầu cho chiến dịch ngoại vận. Những hội viên, những đại biểu nào mà trước đó không Việt Nam được về một lượt với Huỳnh Trung Đồng, vì lý do chưa có đủ giấy tờ để du lịch - trường hợp những người tỵ nạn mới, chưa có thẻ xanh, trong đó có những sinh viên du học, được gặp thủ tướng trong chuyến công du này.


                          Tôi nhận cái giấy của anh Đồng, nhưng tôi không có leo lên xe bus ra phi trường phất cờ đỏ sao vàng đón ông, mà tôi cần thấy sắc thái của ông thủ tướng già để báo cáo với CIA thôi. Có giấy mời đó, tôi được đi vào toà đại sứ để dự bủoi tiếp tân, nhưng tôi lại đứng sắp hàng với mấy trăm người trước toà đại sứ. Ông Phạm Văn Đồng ra trước cửa toà đại sứ nói mấy câu chào mừng Việt kiều, hai tay nắm vào nhau đưa lên mặt không có thần, mặt nặng như chì, không nhếch mép cười với những tiếng vỗ tay của đám người chờ sắp hàng hơn một tiếng đồng hồ, trong đó có tôi, có Việt kiều đã sinh sống trên đất Pháp suốt đời, có lính Lê dương, có mấy người Corsican với mấy bà vợ Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng nói tình bạn giữa hai quốc gia rất quan trọng cho hai dân tộc Việt-Pháp, vì vậy chuyện cũ bỏ qua, lỗi lầm tha thứ hết. Tôi thầm trong bụng “Tây nó bắn, nó giết, nó đâm nó dầm dân tộc Việt Nam, nó không hề hến gì, ông bới bỏ lịch sử đó để đi ăn mày được, chớ Việt Minh của tôi không tha thứ, cũng không quên tội lỗi của đồ thực dân này đâu!”. Phạm Văn Đồng xuất hiện có mấy phút rồi trở vào trong toà đại sứ.


                          Chuyến công tác này, tôi ở Paris 18 ngày. Mười tám ngày Xuân đẹp hơn trong những tác phẩm đã ca ngợi mùa xuân ở Paris, nhưng tôi chỉ được hưởng khi tôi biết cách làm cho ngày dài hơn 24 tiếng đồng hồ, vì tôi làm việc từ 10 giờ sáng tới 12 giờ khuya. Tôi tìm gặp người tỵ nạn, tâm tình với người Sài gòn vừa chạy qua Paris. Tôi gặp Cộng sản Hà Nội, tôi thăm dò tình ý người của Mặt trận giải phóng miền Nam. Tôi được tới nhà những người Việt Nam đã sinh sống ở Paris, đã nhiệt tình ủng hộ Mặt trận giải phóng qua nhiều giai đoạn, nhưng sau 1975 họ mới thấy rõ bộ mặt thật của cộng sản Hà Nội. Những anh chị em này lập thành một nhóm để cùng nhau tẩy chay chế độ mới. Trong khi đó, hàng ngày tôi phải liên lạc, báo cáo với CIA. Nhưng không vì vậy mà Paris không mùa xuân.
                          ***
                          Trong thời gian tôi công tác ở Paris, ở nhà, FBI điều tra rối rít để tìm ra danh tánh người bạn Mỹ của Trương Đình Hùng, người mà anh đã một lần khoe với tôi là ông ấy có thể lên lầu 7 Bộ ngoại giao lấy tài liệu mật cho anh ta.
                          Thời điểm đó Bộ tư pháp không được phép mở thơ, không được nghe lén, không được đặt may ghi âm người bị điều tra, nếu người đó là công dân Mỹ hay thường trú nhân. Chỉ khi nào cơ quan điều tra có đủ bằng có, thì cuộc điều tra mới được tiến hành đến giai đoạn này.
                          Trường hợp của Trương Đình Hùng, FBI và Bộ tư pháp đã ra toà xin phép điều tra anh bằng cách nghe lén điện thoại của anh, những toà không cho. Sau đó, ông bộ trưởng Bộ tư pháp là ông Griffin Bell trình lên tổng thống Jimmy Carter. Hai ông cùng là người xuất thân từ tiểu bang Georgia. Ông Griffin Bell Bell lớn tuổi hơn tổng thống Carter, là một vị luật sư nổi tiếng thế giới, giầu kinh nghiệm. Ông đã từng phục vụ nhiều tổng thống nước Mỹ trong thời gian ông Carter còn là sĩ quan hải quân. Tổng thống Carter đã mời ông Griffin Bell giữ chức bộ trưởng Bộ tư pháp khi ông đắc cử tổng thống. Ông Griffin Bell đích thân đến Toà Bạch ốc gặp tổng thống Carter để trình bày một vấn đề có liên quan đến an ninh quốc gia. Tổng thống Carter lắng nghe và cho phép Bộ tư pháp mở cuộc điều tra Trương Đình Hùng với những kỹ thuật của ngành phản gián. Đây là lần đầu tiên Toà Bạch ốc cho phép ban phản gián dùng máy móc và nhân lực để điều tra thường trú nhân và người có quốc tịch Mỹ.


                          Bill Fleshman cho biết Trương Đình Hùng xài điện thoại liên miên, cho nên người thông dịch viên của FBI phải làm việc ngày đêm. Chỉ có mấy ngày nghe điện thoại của Trương Đình Hùng, FBI lấy được tên của người bạn Mỹ của Hùng. Ông ta tên là Ron. Một hôm, Hùng biểu Ron tới gặp anh ở chung cư anh đang ở. Tên Mỹ là tên Ron cũng như người Việt Nam tên Hồng, tên Hùng, tên Dũng… bây giờ FBI phải biết Ron họ gì mới tiếp tục điều tra xem người bạn đó của Hùng là ai?
                          Tối 13 tháng Năm, nhân viên FBI ngồi trong xe “van” ngang cửa chung cư của Hùng ở, thì thấy có một người Mỹ đi vô. Một lát sau ông đi ra và đi bộ. Những chiếc xe của FBI bố xua ra một cách kín đáo, theo gót ông đi thẳng vô Bộ ngoại giao. Nhân viên ra vào Bộ ngoại giao phải ký tên vào sổ ngoài cổng có lính gác. Khi ông Mỹ ký tên vào, thì một chiếc xe khác trờ tới, cũng đưa thẻ, cũng ký tên vào sổ, nhưng thẻ đó là thẻ của nhân viên FBI. Người này yêu cầu người gác cho xem tên của người vừa ký để vô cửa. Đó là Ronald Louis Humphrey, nhân viên của U.S. Information Agency, ghi là ông lên văn phòng trên lầu 7. Bingo!


                          Sau đó, Bộ tư pháp cho phép ban phản gián của FBI gắn máy chụp hình trong văn phòng làm việc của ông. Gắn máy ghi âm luôn trong apartment của Trương Đình Hùng.


                          Cuộc điều tra bắt đầu diễn ra trong khi tôi vắng mặt. Tôi chỉ biết được sau ngày tôi trở về Mỹ. Họ còn cho tôi biết người bạn của Trương Đình Hùng là một nhân viên cao cấp Bộ ngoại giao, cấp bực GS-14, ông có “top secret clerance”.
                          Trước khi tôi rời Paris, Phan Thanh Nam đưa cho tôi một bì thơ dán kín. Ông bộ trưởng Bộ tư pháp được tổng thống Carter cho phép mở thơ đó. Phan Thanh Nam viết: “Tôi hoan nghinh cách anh sắp đặt công việc làm ăn… Đôi khi chúng ta cũng phải dùng tới sự lừa đảo và dối trá nhau”. Chúng tôi không hiểu Nam khuyến khích Hùng lừa đảo ai, dối trá với ai, nhưng khi Hùng mở thư, anh vừa đọc vừa mỉm cười.
                          Hùng cười tươi hơn, khi tôi cho anh biết là sự đóng góp của anh tối quan trọng; anh đưa tài liệu cho tôi đem qua Paris, vừa kịp thời, vừa giúp ích cho cuộc hội nghị giữa Mỹ và Hà Nội. Tôi nói lại cho anh biết, anh Huỳnh Trung Đồng nhắn với anh, là anh nên tiếp tục công tác hăng say. Anh Đồng cũng dặn anh “phải giữ sức khoẻ”.
                          Khi tôi nhắc đến “giữ gìn sức khoẻ”. Hùng liền hỏi tôi có luật sư không? Khi tôi trả lời là không, thì anh khuyên tôi nên có sắn một luật sư giỏi. Anh còn nói là trong “nghề nghiệp” của tôi và anh, nên có một luật sư phòng khi hữu sự.


                          Một hôm, anh mời tôi đến nhà anh vào ngày Chúa Nhựt uống trà. Chúa nhựt đó là Father's Day, John dẫn Lance đi câu cá, nên rỗi rảnh. Nhà của Hùng ở đường F ngoại ô Washington, D.C, phòng anh ở sạch sẽ, yên tĩnh. Trong phòng không có cây, không có hình, không bông hoa, mà chỉ có sách và báo chí. Thế giới của anh ở không có mầu, không có sự sống, không có tiếng động, chỉ trừ một lát sau, tiếng nước sôi trên cái ấm nước anh nấu để pha trà là tiếng kêu quen thuộc.


                          Tôi nhìn quanh căn phòng của một người sống đời sống bóng tối, chờ đời sống hào quang, đời sống của một điệp viên cộng sản. Tôi nghĩ đến Hải Vân em tôi, và cuộc sống đầy ý nghĩa của em trước khi em tử nạn. Trong giây phút đó, cái thiện của con người tôi muốn bước ra nắm tay Hùng, biểu anh hãy bỏ tất cả. Hãy rước ba má của anh ra khỏi Việt Nam. Tôi muốn nói, anh nên ra khỏi cái thư phòng, đi tìm việc làm xứng hơn với học vấn của anh. Cha mẹ anh đã nuôi anh khôn lớn, cho anh du học, tổn hao biết bao nhiêu tiền, nuôi biết bao là hy vọng. Tỉnh dậy đi Hùng, không thôi anh sẽ thức với cơn ác mộng!
                          Chúng tôi ngồi uống trà. Tôi cố không khơi chuyện về việc làm của anh, bởi vì tôi biết phòng anh đang ở bây giờ đã có gắn máy ghi âm. Nhiều đêm tôi nằm nghĩ, làm gián điệp không phải là nghề của tôi, mà là cái nghiệp, bởi vì tôi cứ bị cái thiện và cái ác vật lộn với nhau trong lương tâm hoài, làm cho tôi mất trí quá.
                          Tôi báo cho Hùng biết là chồng tôi vừa được sự vụ lịnh đi qua London. Tôi không đọc được ý nghĩ trên mặt Hùng về việc tôi sẽ rời Washington, mà anh lại dặn tôi trước khi rời Washington, anh nhờ tôi lấy thêm tài liệu đem qua Paris giùm anh.
                          Hùng gặp tôi vào buổi tối sau giờ làm việc để đưa cho tôi tài liệu. Ban đêm một mình ra Washington rất nguy hiểm, nên anh vô Virginia gặp tôi. Chúng tôi gặp nhau tại bãi đậu xe trước cửa The Hetch Cơmpany trong Landmark Shopping Center. Hùng bưng ra một bọc loại bọc giấy ở chợ, đầy giấy tờ trong đó.


                          Sau khi nhận gói hồ sơ rồi, tôi định chia tay Hùng, thì anh nghị ghé vô một quán nước uống café và nói chuyện trước khi chia tay. Khi chia tay, Hùng bắt tay tôi và chúc tôi bình an. Giòng máu Con Rồng Cháu Tiên trong cơ thể làm cho tôi trắc ẩn trong lòng. Hùng là người Việt Nam dù anh làm gián điệp cho cộng sản, anh cũng mang giống máu da vàng. Tôi thương hại Trương Đình Hùng vô cùng, vội choàng tay lên với Hùng, rồi nghẹn nói:
                          - Hùng giữ gìn sức khoẻ nhen. Hết giặc rồi, hứa với tôi là Hùng nghỉ ngơi. Lên Boston thăm anh Ngô Vĩnh Long như Hùng mơ ước đi hoài mà chưa đi được đó.


                          Tôi chạy ra xe của tôi trong khi Hùng đứng nhìn theo.
                          Tôi cảm thấy tội lỗi với một người vừa chia tay tôi, người đứng nhìn cho tôi lên xe an toàn, rồi anh mới lên xe anh. Trong khi đó, tôi liếc thấy có vài ba chiếc xe của toán FBI gần đó. Tôi cố tình chạy hết tốc độ để không phải suy nghĩ hoàn cảnh éo le, để lương tâm không cắn rút, để thương hại Hùng.


                          Như đã hẹn trước với FBI, tôi chạy về Springfield, Virginia, đậu sau lưng khách sạn Holiday Inn. Bill Fleshman và toán nhân viên FBI mở cửa bốn chiếc xe, đi đến gặp tôi. Tôi đưa gói đồ Bill rồi nói:
                          - Mấy anh Mme Ly làm gì thì làm với mấy hồ sơ này! Tôi không muốn thấy mặt nó nữa.
                          Tôi lái xe về nhà. Trời không mưa, nhưng mắt tôi ướt.

                          Comment


                          • #43
                            Chương 42


                            Hải quân và CIA đã hợp tác với nhau, với sự đồng ý của chồng tôi, đổi anh qua Luân Đôn làm việc, vì những hoạt động giữa tôi và CIA tại nước Mỹ trái nguyên tắc. Trong thời gian qua, cứ ba tháng CIA phải xin gia hạn với Bộ tư pháp, cho phép CIA và tôi hoạt động trong nước Mỹ. Gửi tôi ra nước ngoài để hoạt động là thượng sách.


                            Tháng 7 năm 1977, má tôi và Minh Tâm về Atlanta, Georgia với chị tôi. Xe tải tới dọn nhà, đóng thùng bàn ghế, 90% đồ trong nhà đem gởi trong kho; khi nào chúng tôi đổi về Mỹ sẽ lấy ra. Khi qua Luân Đôn, Hải quân sẽ cho chúng tôi mướn bàn ghế xài trong thời gian ở đó. Con chó Moon Joe của Lance tạm thời gởi cho vợ chồng của một người bạn nuôi giùm trong thời gian chúng tôi đi vắng. Tội nghiệp con tôi, khóc một trận lúc chia tay con chó. Nhưng rồi Lance cũng tạm quên con chó, khi nó biết ở Luân Đôn có tiệm bán đồ chơi Hamleys lớn nhứt thế giới; vậy là từ ngày đó Lance cứ theo hỏi “chừng nào mình đi Luân Đôn?”.


                            Hải quân đã đưa chúng tôi đi nhiều nơi, sống nhiều chỗ, nơi nào cũng là nhà, nơi nào cũng sống gần gũi với những gia đình hải quân những người đặt tổ quốc trên hết, sống với nhau trong tinh thần phục vụ và bảo vệ đất nước. Nhưng chuyến công du ở Luân Đôn lần này để lại nhiều kỷ niệm cho gia đình tôi, mà tới chết cũng không quên được. Đây cũng là nơi một lần nữa thử thách lòng yêu nước, yêu tự do và chung thuỷ của gia đình tôi. Nơi đây, tôi đã trưởng thành qua những chông gai, thử thách, ngoài sức tưởng tượng của một người con gái lớn lên trong vùng giải phóng.
                            Một tuần sau khi chúng tôi dọn vào một cái nhà xinh đẹp ở số 8 Regal Lane vùng Regent Park, nhà của một sĩ quan không quân người Anh đang làm việc tại toà đại sứ Anh ở Washington, chồng tôi dẫn Lance ghi tên để Lance đi học lớp ba ở American School of London. Một đêm, tôi chiêm bao thấy Rob và Bill tới nhà hỏi tôi có chịu ra toà làm chứng khi Bộ tư pháp truy tố Trương Đình Hùng không? Sáng thức dậy, tôi kể cho John nghe; anh cười tôi, vì tôi làm gián điệp từ ban ngày cho đến giấc ngủ.
                            Một tuần sau. Bill Fleshman và Rob Hall đến gõ cửa nhà tôi. Vừa thấy Bill, tôi nói:
                            - Anh đừng có nói với tôi là người ta muốn bắt David Trường” (tên Mỹ của Trương Đình Hùng).
                            Tôi mở cửa, không chào hai người.
                            Cả hai cùng sửng sốt.
                            - Trời ơi, tôi thức hết nửa đêm để lựa lời tới đây nói chuyện với bà. Bà làm cho công việc của tôi dễ dàng quá! Tôi tới đây chính là với sứ mạng đó.
                            Chúng tôi mời Rob và Bill vào nhà. Tôi chưa muốn nghe hung tin này, nên chần chờ làm cafe. Khi mọi người ai nấy đã có ly café của mình rồi, thì Bill tằng hắng, bắt đầu cho biết là Bộ tư pháp gởi hai anh cùng hai luật sư của CIA và Bộ tư pháp tới gặp tôi, nói rõ cho tôi biết họ cần tôi hợp tác trong việc truy tố Trương Đình Hùng và Ronald Louis Humphrey, nhân viên cơ quan USIA.
                            Cuộc gặp gỡ chỉ kéo dài không hơn 20 phút. Rob và Hill hẹn sẽ gặp lại chiều đó ở một cái nhà bí mật của CIA; khi đó tôi sẽ gặp hai người luật sư của CIA và FBI. Tôi muốn có thì giờ để suy nghĩ và chuẩn bị tinh thần, nên tôi dời lại đến sáng hôm sau. Bill đồng ý.
                            Đêm đó tôi thao thức đến 2 giờ sáng. Sự lựa chọn nó lớn hơn tôi bằng nhiều hình thức. Nó không giản dị nnhư đứng giữa thiện và ác, giữa tự do và cộng sản, hay giữa thuỷ chung và phản bội. Tôi biết, nếu tôi hợp tác với Bộ tư pháp thì từ đây về sau bí mật về tôi sĩ bật mí. Nhưng điều tôi lo nhứt, là an ninh của ba con ruột thịt của tôi ở bên nhà. Ba tôi và anh Khôi ở trong tay của Cộng sản. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra cho họ? Teằn trọc hoài cái gối nóng hổi, tôi trở nó không biết bao nhiêu lần nhưng không ngủ được. Sợ ngày mai không đủ sức đi họp, tôi uống thuốc ngủ, nằm chờ giấc ngủ, mà cũng không biết nên làm được gì đây.
                            Sáng hôm sau, chúng tôi tới căn nhà bí mật của CIA có tên là Reeve House, như những villa xinh xắn có tên. Chúng tôi được giới thiệu với luật sư Tony Lapham, cố vấn luật pháp cho CIA, ông John Martin, luật sư của Bộ tư pháp. Tới giờ này tôi mới biết giới luật sư thường hay nhiều lời. Hai ông nói vòng vo, chung quy cho tôi biết là Bộ tư pháp cần sự hợp tác của tôi. Ông Tony Lapham nói câu thòng để tôi hiểu ý của CIA, là mọi quốc gia ở trong tay tôi; họ không bắt buộc tôi. Nhưng ông John Martin của Bộ tư pháp lại cho tôi biết rằng, không có tôi làm chứng thì họ không thể đưa hai tên phạm tội này ra toà được.
                            Làm sao mà tôi quyết định tại chỗ được dù tôi biết bốn người này nóng lòng chờ tôi quyết định. Hai người luật sư cho biết, họ chỉ ở Luân Đôn hai ngày nữa thôi. Tôi nghĩ đây là mánh lới của hai người, muốn dồn tôi vào ngõ bí, để vội trả lời mà không kịp suy nghĩ. Họ nóng như lửa, nhưng tôi nguội như tro tàn. Chuyện họ công tác ở Luân Đôn hai ngày nữa hay một tháng nữa, không phải là vấn đề của tôi. Tôi cáo từ và hẹn hôm sau gặp lại.
                            Hồi nhỏ, mỗi lần gặp khó khăn, tôi thường hỏi ý kiến của ông ngoại. Ông tôi hay trả lời:
                            - Làm sao mà lương tâm cho phép thì làm.
                            Sau khi rời Reeve House. John đưa tôi đi ăn trưa trong toà đại sứ Mỹ. Đó cũng là nơi anh làm việc. Tôi hỏi John tôi nên làm gì, nên hay không nên ra toà làm chứng cho Bộ tư pháp. John cố làm cho tôi vui với giọng nói nửa đùa nửa nghiêm nghị:
                            - Cô ơi, phải sống với sự quyết định của cô cho tới già. Vì vậy, nếu để anh quyết định giùm thì không công bằng. Những hãy nhớ, em đi đến quyết định nào thì chồng của em cũng ủng hộ em 100%.
                            Tôi nhìn John mà không cười nổi.
                            Nhớ có một lần hồi còn ở Mỹ, Bill Heshman có hỏi, nếu phải đưa Trương Đình Hùng ra toà, tôi có dám đứng ra làm chứng không?
                            Tôi trả lời gọn lỏn:
                            - Không, nhất định là không.
                            Phải chi bây giờ tôi cũng có thể trả lời bốn người này như vậy thì dễ quá. Nếu tôi không hợp tác để đưa Trương Đình Hùng ra toà, tôi còn triển vọng gặp lại ba tôi sau này, và có thể một ngày không xa má tôi sẽ được gặp lại anh Khôi; hơn nữa, thằng Cộng sản gian ác cũng không biết gì đến việc tôi muốn tiếu diệt chế độ cộng sản.
                            Lại một đêm trằn trọc, tôi trở cái gối không biết mấy chục lần. Sợ đánh thức John nên tôi lén qua nằm chung giường với Lance. Nếu ngày mới tôi trả lời với họ là “Không, nhứt định không”, thì hai người gián điệp này có thể tiếp tục làm nguy hại cho an ninh quốc gia của nước Mỹ. Những người hoạt động cho CIA ở hải ngoại sẽ bị lộ diện. Riêng những điệp viên của CIA ở Việt Nam trong thời chiến còn bị kẹt lại Việt Nam sau 1975, họ bị bắt, bị tra khảo, đánh đập tàn nhẫn. Tôi rừng mình khi nghĩ điều này. Ronald Humphrey đã cung cấp cho Cộng sản Hà Nội danh sách của những người này qua tài liệu mà Trương Đình Hùng đã đưa cho tôi và đã được FBI chặn lại. Luật sư của Bộ tư pháp đã lặp đi lặp lại cho tôi biết, chỉ có tôi làm chứng. Trương Đình Hùng là người trao cho tôi những hồ sơ tối mật thì hai người gián điệp mới bị kết án; còn nếu tôi từ chối thì hai người không có tội vạ gì hết.
                            Biết được trách nhiệm của mình nặng nề như vậy, liệu tôi có thể trốn được bổn phận được không? Lớn lên trong một gia đình mà người lớn ai cũng biết làm người, ai cũng có trách nhiệm, ai cũng làm tròn bổn phận: bổn phận với đất nước, với dân tộc, với gia đình, với người chung quanh; tôi không biết hành động gì khác hơn những tâm gương sáng đó. Đến khi đi lấy chồng, lại gặp người đàn ông có trách nhiệm; anh làm tròn bổn phận công dsân, bổn phận làm chồng, làm con, làm cha.
                            Tôi quyết định là sẽ hợp tác với Bộ tư pháp cho tới cùng, nhưng nhứt thời, tôi không cho chồng tôi, FBI, và CIA biết quyết định này. Tôi cần thêm thì giờ, chớ không thể nào trả lời dứt khoát với Bộ tư pháp bây giờ được. Không phải cần thì giờ để suy nghĩ, mà cần thì giờ để hoạt động. Tôi cần gặp ba tôi một lần nữa để hỏi ba tôi, có khi nào ông nghĩ tới việc hưu trí, rời Việt Nam, tìm một nơi dưỡng già với má tôi? Tôi muốn tranh luâhn lần nữa, tìm cách cho gia đình tôi đoàn tụ. Con anh Khôi, tôi phải biết anh Khôi có được an toàn không, một khi cả thế giới biết em của anh là gián điệp của CIA. Nếu anh sẽ bị liên luỵ, thì tôi phải tìm cách đưa anh ra khỏi Việt Nam trước đó.
                            Tôi gặp ông John Martin hôm sau, tha thiết nói cho ông biết nguyện vọng của tôi là gặp ba tôi một lần nữa; hay ít cho anh Khôi trốn qua Mỹ đã, sau đó tôi sẽ sẵn sàng ra làm chứng. Tôi nghĩ, dù sao ba tôi cũng sẽ không gặp khó khăn, vì ông được sự tin tưởng từ cấp trên xuống cấp dưới; ông còn là người hữu dụng của đảng: có thể ông không bị liên luỵ vì tôi. Phần anh Khôi, tôi phải bảo vệ anh tới cùng.


                            Cuối cùng, tôi quyết định cho FBI và CIA biết nguyện vọng của tôi: cứu ba tôi và anh tôi trước khi bắt Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey. Họ gởi điện văn về Washington báo tin mừng này, nhưng họ cho đó là “điều kiện” chớ không phải là sự hợp tác. Riêng đối với tôi, họ muốn dùng danh từ gì cũng được; tôi không quan tâm và cũng không giận họ. Tôi là người đã đòi hỏi họ phải có bổn phận “quét dọn sạch sẽ sân sau nhà”. Bây giờ họ lại than phiền là tôi đặt điều kiện để gây khó khăn cho họ. Tôi nhớ câu danh ngôn ông ngoại bắt chúng tôi thuộc lòng: “Đường đi khó, không phải khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Để giữ cho ba tôi và anh tôi an toàn, giờ phút này không có núi nào mà tôi không dám trèo, cũng không có một sông nào mà tôi không dám qua.


                            Tôi không ra điều kiện nào với FBI, nhưng tôi cần sự yểm trợ của họ, để ba và anh tôi được an toàn thôi. Tôi yêu cầu CIA hãy tìm cách gởi tiền về Việt Nam cho anh Khôi tìm đường vượt biên. Khi FBI đồng ý, thì CIA giành phần đó, bởi vì khi anh Khôi đào thoát được, họ sẽ khai thác anh Khôi. Một sĩ quan tên lửa, một người cựu sinh viên du học ở Liên Xô, khó khăn bao nhiêu để cũng giúp anh đào thoát, CIA cũng hỗ trợ, để sau này khai thác nguồn tin đó. Bây giờ tới phiên tôi bối rối, vì không biết gởi tiền cho anh Khôi bằng cách nào đây? CIA cho biết, vì Sài gòn mới mất, đường đây liên lạc với Việt Nam bị gián đoạn hết, người của họ bị kẹt mà họ còn không tìm được, thì vấn đề này họ chi trông cậy vào tôi thôi.
                            FBI và CIA gởi điện văn cho Bộ trưởng Bộ tư pháp, ông Martin Bell, và ông giám đốc của CIA là ông Stanfield Turner về diễn tiến này.
                            Tuần trước, anh Huỳnh Trung Đồng có nói là anh sẽ đi công tác Sài gòn trong vòng một hai tuần. Vì thế, anh cứ gọi hối thúc tôi đem gói đồ của Trương Đình Hùng nhờ tôi đem qua chỗ anh, để lâu sẽ “mất thời gian tính”.
                            Gói tài liệu còn giữ lại tại Bộ tư pháp, sau khi họ được phép mở tất cả những bao thơ của Hùng đưa cho tôi. Tôi không biết và cũng không muốn biết trong đó có những tài liệu gì, chỉ biết đó là những tài liệu tối mặt của Chánh phủ Mỹ mà thôi.
                            FBI ở Washington chuyển gói tài liệu của Hùng đưa cho tôi, trè những tài liệu có tên tuổi những gián điệp Việt Nam của CIA còn kẹt lại Việt Nam, và gián điệp của CIA hoạt động ở hải ngoại.
                            Rob yêu cầu chồng con tôi tháp tùng với tôi đi Paris kỳ này để che giấu hoạt động tình báo, làm như chúng tôi là một gia đình làm ăn bình thường, chồng con rảnh rang đi xem viện bảo tàng của Paris.


                            Sau khi John, tôi và Lance ăn điểm tâm, chúng tôi chia tay hẹn nhau trưa đó hai cha con đi xem Louvre, còn tôi thì vào đại sứ Hà Nội để gặp đại sứ Võ Văn Sung, nhờ ông thuyết chánh phủ của ông cho ba tôi qua Luân Đôn thăm má tôi, vì bà đau nặng. Đại sứ Võ Văn Sung hứa là sẽ chuyển tin về cho người cao nhứt trong chính quyền Hà Nội. Tôi rời toà đại sứ với hy vọng tràn trề.


                            Trở về khách sạn, người concierge đưa cho tôi cái note. Thì ra Phan Thanh Nam cần gặp tôi gấp. Lên phòng thì John và Lance đi chơi chưa về, tôi vội viết giấy để lại cho hai cha con biết, tôi phải đi gặp Phan Thanh Nam.


                            Phan Thanh Nam cần gặp tôi gấp, là muốn nhờ tôi đưa thơ về cho Trương Đình Hùng. Ngoài bao thơ, Nam chỉ ghi một chữ “Tâm”, một tên giả khác, như những lần ông đi ghi trên bao thơ trao cho Hùng. Sau khi tôi cho Nam biết tôi sề về Luân Đôn trước khi về Mỹ, thì Nam lấy thơ lại, xe bỏ bao thơ, đề địa chỉ của một người đàn bà Mỹ ở đường S tại Washington. Tôi nhìn qua địa chỉ này, rồi cho Nam biết tôi rành vùng đó, tôi có thể đem thơ đưa cho người đàn bà đó, nhưng Nam giựt mình và nói rằng:
                            - Cháu dán con tem Mỹ rồi bỏ vô thùng thơ giùm cho là xong.
                            - Bà ta có biết sẽ làm gì khi nhận được thơ này không?
                            Ông gật đầu. Tôi lại nói:
                            - Cháu đoán thơ này lá thơ quan trọng.
                            - Thơ nào của chú cũng quan trọng hết.
                            Tôi nói để dò xét ông:
                            - Nếu vậy để cháu trao tận tay bà cho chú?
                            - Không, không! Đừng làm vậy!
                            Ông nói mà nhìn tôi như muốn lấy lại cái bao thơ:
                            - Theo chú, cháu không cần trao tận tay bà, chỉ cần dán tem rồi bỏ vô thùng thơ là được rồi.
                            Mấy giây sau như đã qua cơn khích động, Phan Thanh Nam giải thích:
                            - Cháu không nên gặp cô này. Cháu đừng hỏi tại sao, nhưng chú có lý do của chú.
                            Vừa nói ông vừa nhìn cái bóp mà tôi vừa mới cất lá thơ vô, như có ý muốn lấy lại.
                            Một sự im lặng khó thở trong căn phòng rộng, trong đó chỉ tôi và Phan Thanh Nam. Trên vách tường, “Bác Hồ” nhìn tôi.
                            - Chiến tranh tại trên đất nước mình là chiến tranh gì hả chú Nam? - Tôi hỏi.
                            Chiến tranh đã chấm dứt rồi Mỹ Dung à. Bây giờ là đến giai đoạn xây dựng lại đất nước. Những người như cháu là tài sản của tổ quốc.
                            - Cháu sẽ cố gắng hết lòng.


                            Tôi nói mà sợ con thằn lằn trên vách nó nghe, nó xấu hổ. Nam tiễn tôi ra cửa, chúng tôi bắt tay từ giã. Khi cánh cổng gỗ khép lại, tôi vội bước nhanh ra cửa.


                            ***


                            Thời gian ở Paris, tôi luôn luôn nghĩ đến cách nào gởi tiền ở anh Khôi vượt biên. Lúc đầu, khi CIA hỏi cần chẳng bao nhiêu để vượt biên, tôi nói nhiều lắm là 3.000 dollars, đó là trường hợp có vai ba chuyến vượt biên bị bể. CIA thì nói họ nghĩ anh Khôi cần nhiều tiền hơn để hối lộ chính quyền; họ ra lịnh gởi 10.000 dollars. Tôi cãi lại: nếu được nhiều tiền quá, anh Khôi mua hết công an tại Việt Nam, chớ anh không đi nữa vì anh thương ba tôi lắm.
                            Nhưng CIA thắng, và họ cho biết họ sẽ đưa 10.000 dollars. Bổn phận của tôi là tìm cách gởi về cho anh. Vậy mà hồi con ở Việt Nam, từ Việt Cộng tới Quốc gia, nhiều người cho rằng CIA đi trên nước, bước trên mây; từ trên máy bay phi công Air America của CIA nhìn xuống biết được con rắn đực hay rắn cái nữa mà! Mà thôi, Việt Nam của tôi có biết bao nhiêu chuyện hoang đường. Biết vậy cho nên khi lớn lên tôi không tin những gì qua “nghe nói”. Trong thực tế, đây là Paris, đây là vấn đề sanh tử của anh tôi, thì nó là bổn phận của tôi, chớ không phải của CIA.
                            Khi Rob tới khách sạn tối đó để gặp chúng tôi, tôi ngồi xuống về ra một khuôn hình 8x10, dầy 1 inch. Tôi trình bày với Rob và John là khuôn hình làm bằng gỗ đẹp, cưa làm đôi theo bề đọc; cưa xong khoét để vừa đúng 100 tờ giấy 100 dollars, trong giấy nylon, sau đó dán kín lại, mà không thấy đường nào trên bốn bề của khuôn hình. Sau đó dán một bên hình của ba, bên nọ hình của má. Xong đâu đó, phết lên chừng mười lớp vernis, vừa bóng, vừa chắc khuôn hình. Khi anh Khôi nhận được khuôn hình, thể nào anh cũng rủa con em vô duyên: tại sao khuôn hình như vậy, vì chưng lên, thấy hình ba thì không thấy hình mà. Rồi lậy trời cho anh lanh trí như con em của anh, biết cái khuôn hình này ngụ ý gì. Tôi sẽ nói với anh Huỳnh Trung Đồng: đây cũng là ngụ ý sự ngăn cách của ba má.


                            Trước khi gởi hình đi đóng khung và giấu tiền bên trong, CIA yêu cầu tôi viết cho anh Khôi một câu ngắn: “Hãy trốn khỏi Việt Nam ngay.
                            Trước khi vợ chồng tôi rời Paris về Luân Đôn, tôi ghé qua trụ sở Hội Việt kiều yêu nước giao cho anh Đồng khuôn hình của má tôi gởi tặng anh Khôi, một bộ pyjama má tôi may và 4 chai thuốc bổ cho ba tôi.


                            Đó là lần cuối cùng CIA và tôi liên lạc với anh Khôi. Ba năm sau đó chúng tôi cũng không biết anh Khôi có lanh trí mà tìm ra số tiền trong cái khuôn hình đó không? Nhưng một hôm, má tôi được thơ từ Paris gởi qua, tên người gởi là Xuân Mai. Xuân Mai là người con gái yêu anh hỏi hai người trên dưới 16 tuổi. Khôi giả dạng là chị Xuân Mai. Chị viết: “Cảm ơn em đã gởì chị khuôn hình đẹp, nhưng lỡ tay, chị đã làm nó bể làm đôi.
                            Tôi mừng không thể tả, những tức mình là, tại sao có một số tiền khổng lồ trong thời buổi đó mà không trốn! Cho tới 11 năm sau, năm 1986, gia đình tôi mới được gặp lại anh Khôi sau 32 năm xa cách.


                            ***


                            Mùa thu tới, nhưng chúng tôi vẫn chưa được tin tức gì vì việc ba tôi được phép qua Luân Đôn thăm má tôi. May mắn là tôi còn bận dãn Lance ghi tên nhập học vào ngày 8 tháng 9. Chỉ hai ngày sau, thì FBI và CIA gọi tôi về Washington. D.C, để hội họp với Bộ tư pháp, chuẩn bị cho cuộc ra toà sau khi FBI bắt Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey. John phải thay đổi giờ làm việc để đưa rước Lance từ nhà tới trường, tội nghiệp thằng con tôi, ngày tưuh trường lo sợ, hồi hộp chưa dứt, thì mẹ vắng nhà; hai tuần lễ, hai cha con đi ăn nhà hàng đủ hai tuần. Nhưng cũng nhờ dịp này mà Lance học cách thức cẫm nĩa, cầm dao cho lịch sự. Khi tôi về, Lance kể lại là Lance nợ ba nó 2 dollars, vì cứ mới lần làm rớt khăn ăn xuống đất thì bị phạt 10 cents. Cuối cùng thằng nhỏ biết khôn, nên ngồi trên nửa cái khăn suốt bữa ăn, thì khăn không rớt xuống đất nữa.


                            Trong những cuộc hội họp, bàn thảo với CIA và FBI, chúng tôi đi đến quyết định phải cho má tôi biết sự thật, là khi tôi làm cho FBI, tôi làm nhiều việc khác, ngoài việc thông dịch thơ từ cho họ. Tôi đã nghĩ đến vấn đề này từ lâu, bởi vì má tôi đẻ tôi ra, má tôi nuôi tôi, má tôi đùm bọc, che chở tôi, từ mới lọt lòng, làm sao mà má tôi không nghi ngờ việc làm của tôi. Những bà không hỏi, thì tôi không nói.


                            Từ Washington. D.C, bay xuống Atlanta chỉ mất khoảng hơn hai tiếng đồng hồ, những cầm giấy đừng chờ lên máy bay mà ngao ngán không muốn đi, vì ngại núi e sông. Ngại núi, vì phải gan dạ lắm để nói hết sự thật với má tôi. E sông, vì e rằng sự việc làm cho má tôi buồn, má tôi lo sợ cho sự an toàn của ba tôi. Éo le thay, một bà già tỵ nạn Cộng sản lại lo lắng cho an ninh của người chồng là đảng viên cao cấp của cộng sản. Nhưng chúng tôi biết, má tôi không có lo sợ vẩn vơ. Mối lo sợ của má tôi có tên, có tuổi, có lịch sử, có bằng chứng trong sách vở của đảng cộng sản Việt Nam: một khi họ không tin tưởng người của họ, thì họ thủ tiêu.


                            Khi tôi và má tôi vừa tới nhà ở Luân Đôn, chưa kịp mở va-li, thì nhận được điện thoại của đại sứ Võ Văn Sung. Ông ân cần cho biết, Hà Nội đã trả lời là họ cho ba tôi tới Paris, rồi má bay qua thăm ba tôi, chớ họ không cho ba tôi sang Luân Đôn. Ông hỏi chúng tôi có khả năng đưa má qua Paris không? Ông chỉ là người đưa tin, nên tôi không có phép trách móc ông, nhưng ước sức tôi muốn nói: “Chỉ có Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới có việc người đau đi gặp người mạnh để được thăm hỏi”. Nhưng tôi cắn răng không dám nặng lời, chỉ nói cho biết là tôi phải hỏi bác sĩ của má tôi, xem bà có đủ sức đi xa vậy không? Trước khi dứt cuộc điện đàm, đại sứ Võ Văn Sung rất tử tế với tôi, khi ông nảy ra một ý kiến rất hay: ông khuyên tôi nên viết thơ cho Bộ ngoại giao Hà Nội, kèm theo một cái thơ của bác sĩ cho biết má tôi không thể bay qua Paris.
                            Tôi trân quý lời chỉ dẫn của đại sứ Võ Văn Sung, nhưng viết thơ cho Bộ ngoại giao Hà Nội là chuyện đại sự. Rồi đây, mười tám cái tai, 200 con mắt sẽ biết, sẽ nghe chuyện của đồng chí Đặng Văn Quang rồi đồng chí này phê bình, đồng chí kia soi mói, thì phiền cho ba tôi lắm. Lại tới phiên tôi bảo vệ ba tôi. Thay vì, viết cho Bộ ngoại giao, sao tôi không viết thơ cho bạn chí thân, cho đồng chí của ba tôi, lại là người lớn nhứt nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc bấy giờ.
                            Đêm đó, chờ cho mọi người ăn giấc, nhón gót trở xuống nhà dưới, tôi viết thơ. Thơ viết bằng viết mực trên giấy pelure.


                            “Kính gởi bác Lê Duẩn, bác Nguyễn Cơ Thạch và ba kính yêu,



                            Sức khoẻ của má cháu càng ngày càng tệ vì thận bị nhiếm trùng như cháu đã cho ba cháu hay trong thơ trước. Cháu đã thức nhiều đêm suy nghĩ và rất lo rằng rủi ba cháu qua gặp má cháu quá trễ thì làm sao đây?
                            Cháu mong rằng những ngày cuối đời của má cháu phải là những ngày đẹp nhứt trong đoạn đời này của bà, có nghĩa là má cháu được ở cạnh ba của cháu. Cháu mong hai bác tạo cơ hội cho ba cháu gặp má cháu càng sớm càng tốt.
                            Thưa ba, kể từ ngày ba cưới má con cho đến ngày ba tập kết ra Hà Nội năm 1954, chắc ba cũng nhớ là má con không bao giờ hỏi một điều gì ngoài khả năng của ba. Nhưng lần này, thây mặt má con, con xin cấp trên của ba một đặc ân. Trong thâm tâm, con tin tưởng rằng má con xứng đáng được gần ba và anh Khôi.
                            Ba với bác Ba Duẩn đã cùng nhau có những hy vọng lẫn thất vọng, cùng ước mơ cho đất nước thanh bình, cùng đau buồn vì những giấc mộng lớn cho dân tộc không thành: cũng như hai vị đã sát cánh nhau trong những thắng năm đên tôi nhứt của đất nước, rồi cũng cùng nhau vui mừng trong thắng lợi vẻ vang. Từ đáy lòng cháu, cháu tin rằng bác Ba sẽ không từ chối người bạn chí thân về gia đình của một đồng chí, đông tâm một khi bác biết được tình cảnh của gia đình này và vì vậy mà cháu viết thơ này cho bác.
                            Thưa ba,
                            Con gởi thơ này cho hai bác và cho ba mỗi người một bản. Con mong sẽ được gặp ba thật sớm. Chúng con đã chuẩn bị tiền vé máy bay khứ hồi cho ba. Xin cho con biết con gởi tiền mua vé máy bay về đâu.
                            Con gái của ba.
                            Đặng Mỹ Dung”



                            Tôi suy nghĩ rất kỹ, không nhờ anh Đồng chuyển thơ này vô Hà Nội, vì anh Đồng không dám “làm phiền” các ông lớn. Tôi không nhờ đại sứ Võ Văn Sung, vì đại sứ đã khuyên tôi viết thơ cho Bộ ngoại giao; tôi không nghĩ đó là thượng sách. Tôi không dám nhờ ông chuyển thơ, vì tôi làm trái với nghi thức của Bộ ngoại giao. Mà nghĩ cho cũng, tôi làm trái nghi thức của cả cái đảng và cái nhóm Cộng hoà xã hội chủ nghĩa rồi.
                            Tôi quyết định gởi thơ đó qua New York, kèm theo một cái thứ ngắn mà tôi viết cho đại sứ Thi, cảm ơn ông và nhờ ông chuyển thơ về Hà Nội hộ chúng tôi, với nguyện vọng của má, là được thấy mặt anh Khôi.
                            Sau đó, ngày 13 tháng 11, tôi được thp của anh Huỳnh Trung Đồng báo cho biết anh vừa công tác ở Sài gòn vê. Anh có đến thăm ba tôi, nhưng ông không có tin tức gì từ Hà Nội về chuyến đi thăm má tôi ở Luân Đôn. Anh nhỏ nhẹ khuyên tôi nên nhớ là trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có ai đi ra ngoại quốc thăm vợ con. Anh viết:
                            “Thơ của má cô đã tới tay người tối cao trong đảng rồi. Dĩ nhiên, sự quyết định là do chủ tịch nhà nước và ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Theo tôi hiểu thì nhà nước cho phép má cô về Việt Nam và bác có thể ở đó bao lâu cũng được”.
                            Đọc xong thớ anh Đồng, má tôi hứ một cái rồi nói:
                            - Tao không có bước chân về Việt Nam, một khi Cộng sản còn. Đừng có nghĩ tới chuyện chôn tao bên bà may như tụi con tính, hồi đó tới giờ. - Má tôi giận hậm hực.
                            Thơ anh Đồng tiếp:
                            “… bây giờ thì những người có trách nhiệm đang bàn tính về chuyến đi của ba cô. Trong thơ, tôi được nói có bấy nhiêu thôi, mong cô hiểu cho tôi. Ba của cô lo lắng về bịnh tình của má cô lắm. Cô cũng nên biết rằng, nếu ba cô thăm mà cô được, thì bác chỉ đi một mình mà không có anh Khôi cùng đi. Nhứt định là đảng và nhà nước không cho phép rồi. Tôi phải nói trước với cô, ba cô biết luật lệ của đảng, chỉ ngại là cô và má cô không hiểu luật, rồi buồn ba cô; bác lo ngại về vấn đề này lắm cô Dung à…”
                            ***
                            Đời sống ở Luân Đôn của những gia đình người Mỹ làm trong toà đại sứ Mỹ như một cuộc du lịch nước Anh dài hạn. Gia đình tôi thì cứ bị hai cái bóng ma FBI và CIA đi tới đi lui làm bất an. Giữa tháng 11 thì Rob và Bill trở lại Luân Đôn gặp chúng tôi. Kỳ này họ không có mục đích rõ ràng, nên khi hai người bất ngờ tới gõ cửa, mở cửa ra, không chào hỏi, tôi cười chua chát nói:
                            - Tôi không có chỗ nào trốn hết, bởi vì một là Liên Xô hai là Mỹ quốc.
                            Bill cười gượng như anh bị tôi nói trúng tim đen.


                            Trong chuyến đi này, hai ông không có việc gì làm, vì tất cả đứng khựng lại để chờ tin từ Hà Nội. Họ đi chơi, đi ăn, đi nhậu, đi xem thắng cảnh, mua sắm quà Giáng Sinh cho vợ con, cho ngày giờ qua mau. Chúng tôi cùng nhau đi ăn vài lần, rồi hai người trở về Washington tay không.


                            Rồi việc gì tới phải tới. Mọi buổi sáng, tôi được cú điện thoại của đại sứ Võ Văn Sung, gọi tôi từ Paris, kêu tôi liên lạc với toà đại sứ Cộng sản Việt Nam tại Luân Đôn.
                            Đã nhiều lần Rob dặn tôi, khi nào bắt liên lạc với một đảng viên mới của Cộng sản Hà Nội, tôi phải báo trước cho anh biết. Nhưng sáng đó, tôi chỉ có số điện thoại để gọi Rob khi khẩn cấp; mà gọi điện thoại cho toà đại sứ cộng sản Việt Nam đâu phải là trường hợp khẩn cấp, nên tôi không báo tin cho Rob hay trước, tự tiện gọi thẳng tới toà đại sứ Việt Nam ở đường Victoria.
                            Chắc nhân viên trong toà đại sứ này nhàn nhã lắm. Vừa mới nghe tên Mỹ Dung thì người đàn ông trả lời điện thoại biết ngay tôi là ai và tôi gọi có việc gì. Ông mới tôi đến văn phòng của ông để nói đến “vấn đề khá quan trọng này”.
                            Tại toà đại sứ, người đàn ông tiếp tôi trong điện thoại cũng là người đón tôi tại cửa, ông tên là Lại Xuân Chiểu, một “sĩ quan thông tin”. Bắt tay ông mà tôi không giữ được nụ cười, khi nhìn ông và so sánh ông với cái tên cải lương của ông.
                            Ông Lại Xuân Chiểu cho tôi biết là ông đã nhận được điện văn từ Hà Nội về việc ba tôi sẽ qua London thăm má tôi sau công vụ ở Moscow. Tôi không dám thổ lộ sự mừng rỡ vô hạn, cũng như thất vọng, vì ông không có nhắc đến tên anh Khôi.
                            - Cơ quan của chúng tôi rất hồ hởi được giúp đỡ gia đình chị theo khả năng của anh em chúng tôi.
                            Rồi ông nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi:
                            - Chị sẽ trả tiền vé máy bay cho chuyến đi của đồng chí Minh bao nhiêu? Có thể, chị cũng nên biết trước, Chánh phủ sẽ không thể trả tiền vé máy bay.
                            - Có thể có một sự hiểu lầm lớn. Tôi chỉ yêu cầu ông chủ tịch nhà nước và ông bộ trưởng Bộ ngoại giao khuyến khích ba tôi đi, và cho phép ba tôi đi. Tôi không có xin nhà nước trả tiền cho chuyến đi của ba tôi. Đây li xin phép, chớ tôi không có xin lòng từ thiện của các ông ấy.
                            - Thế thì chúng ta không có vấn đề gì… vì chúng tôi không phải lo đến vấn đề tiền bạc. - Lại Xuân Chiểu nói.
                            - Tôi cũng nghĩ, chúng ta không có vấn đề gì lo lắng. - Tôi lặp lại câu nói của anh ta mà giận trong bụng.
                            - Tôi xin báo với chị là sứ quán của chúng tôi đây sẽ tiếp đốn, phục vụ đồng chí Minh khi ông đến London. - Lại Xuân Chiểu trịnh trọng nói.
                            - Anh Chiểu, cảm ơn sự rộng rãi của anh, nhưng vợ chồng tôi sẽ tiếp đón, lo hết cho ba tôi. Chúng tôi muốn xử sự như đây là chuyện gia đình. - Tôi nói.
                            - Chị không hiểu, sự an ninh của đồng chí Minh tại Luân Đôn là trách nhiệm của chúng tôi. Chúng tôi đã được lệnh giúp đỡ gia đình chị mọi điều. Về tiền về máy bay của ba chị, thì tính thế nào đây?
                            Tôi muốn hỏi anh ta: “hỏi gì mà hỏi lãng xẹt vậy”, nhưng tôi uốn lưới bảy lần rồi trả lời:
                            - Tiền thì tôi có sẵn sàng.
                            - Chúng tôi biết cách mua về máy bay rẻ nhứt!
                            Vẻ mặt của đồng chí Lại Xuân Chiểu thay đổi từ một cán bộ cộng sản nghiêm chỉnh thành một anh mua bán dollar vụng về.
                            - Tôi không nên làm phiền anh trong việc nhỏ nhặt này. Tôi đã hỏi qua tiền vé máy bay với hãng Acroflot. Chừng 900 pounds đi từ Moscow tới Luân Đôn. Tôi có thể mua vé từ đây, rồi ba tôi lấy về từ Moscow, khi ba tôi tới đó.
                            Chiểu không chịu thua:
                            - Chị đưa tiền cho tôi, tốt nhứt là dollar Mỹ. Tôi sẽ báo cho Bộ ngoại giao, và bên ấy có người mua vé máy bay tại Hà Nội, trả bằng tiền Việt Nam. Làm như thế, chúng ta không mất một đồng ngoại tệ nào.
                            Nghe anh nói, tôi mắc cỡ cho một đại diện của cái chánh phủ mà ba tôi phục vụ, đứng đây kèn cựa với tôi về lãi lời vài ba trăm dollar cho đảng của họ. Tôi muốn chấm dứt cuộc gặp gỡ này ngay đó, nên tôi đáp:
                            - Sao cũng được, thưa anh.
                            Vậy mà trước khi ra khỏi cửa, cán bộ Lại Xuân Chiểu còn nói với thêm:
                            - Chị đem dollar Mỹ, chị nhé!
                            Tuần sau, tôi gọi cán bộ Lại Xuân Chiểu, cho hay tôi sẽ đem tiền đến cho ông. Tôi có đủ 2.000 dollas Mỹ, nhưng tôi đi theo John ra toà đại sứ Mỹ đổi ra tiền Bảng Anh của Anh quốc. John hỏi tôi làm chi cho mất thì giờ vậy? Tôi làm cho bõ ghét, vì không muốn Việt Cộng bên nhà mua bán dollar một cách ha tiện như vậy. Dĩ nhiên, cán bộ Lại Xuân Chiểu nhận số tiền đó với vẻ thất vọng, nhưng không nói lời nào.
                            ***
                            Vào thời gian này thì Rob và Bill đã trở về Washington, nên tôi viết thơ báo tin cho họ biết mọi việc được sắp xếp theo chương trình; bây giờ chỉ chờ đợi biết ngày nào ba tôi tới Moscow thôi. Tôi cũng có viết thêm cho Rob và Bill, nhờ hai anh đến gặp tận mặt ông Griffin Bell, xin với ông làm mọi thủ tục dễ dàng để sẵn sàng rước ba tôi sang Mỹ cư ngụ, trong trường hợp má tôi và con cái thuyết phục được ba tôi hưu trí, ở lại dưỡng già với vợ con. CIA cho biết là họ sẽ có máy bay sẵn sàng đưa ba tôi qua Mỹ khi ba tôi bằng lòng.
                            Suốt đời, tôi muốn ba má tôi được sống trong một mái nhà, như ông ngoại bà ngoại của tôi ngày xưa ở với nhau đến đầu bạc, răng long, như cha mẹ của bạn bè tôi, như người bình thường. Mấy tuần nay, mọi sắp đặt được diễn tiến nhanh chóng và gần như việc gì cũng theo ý muốn của tôi, cho nên tôi yêu đời một cách lạ thường. Tôi lên giường nằm kề bên má, rồi hai mẹ con mơ ước căn nhà nhỏ, yên tĩnh của ba má. Tôi không biết ba có chịu ở với con cái không, hay là ba chỉ muốn ở với má và Minh Tâm, đứa con mà ba chỉ biết mặt khi nó vừa mới ba tháng thì ba đi tập kết rồi. Chúng tôi nằm tính sắm sửa cái gì trong căn nhà đó, từ cái bàn cái ghế, cho tới cái bình trà với mấy cái chung nhỏ cho ba tôi uống trà quạu. Tôi còn nghĩ tới mùa đông phải mua cái mền điện cho ba.


                            Tình thương cho ba không phai đi với thời gian và không gian trong suốt hai mươi năm, chỉ sỡ mỗi người thờ phượng một lý tưởng, đó mới ngăn cách sâu hơn con sông Bến Hải. Ba tôi yêu thương hết bảy đứa con; thương mỗi đứa mỗi cách khác nhau. Anh Khôi là đứa con trai đầu lòng; anh là kết quả của những tháng năm trăng mật. Chị Kim giống tánh ba nhiều; như là, chị dễ bị xúc động, chị tế nhị, chị giầu tình cảm. Chị Cương tánh cương quyết, nói là làm, trọng kỷ luật, trong sạch, ngay thẳng, Tôi giống ba từ gương mặt tới tánh tình. Tôi nghĩ đến người chung quanh và đất nước, nhưng ba cũng biết, tôi với ba thờ hai ông trời khác nhau. Ba tôi không những thương yêu Hải Vân mà còn thán phục nó; nhưng ba cũng chưa biết nghĩ thế nào về sự chọn lựa của em khi nó trở thành phi công của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Hoà Bình được ngự trị ở một chỗ đặc biệt trong trái tim của ba tôi tưd lúc nó còn bé. Khi tôi nhắc đến Hoà Bình, mặt ba tôi rạng rỡ; lắng nghe như để biết và thấy hết đứa con yêu của ông trước mặt. Ba tôi ví tình thương của ba cho Hoà Bình như “một giòng sông dài vô tận, có bầu trời xanh, có hoa nở tươi thắm triền miên”. Ba chỉ biết Minh Tâm có ba tháng, mà ba tháng đó ba bận rộn chuẩn bị đi tập kết, khi ra Hà Nội, ba đổi tên Đặng Văn Quang thành Đặng Quang Minh. Tôi nghĩ rằng ông đổi tên như vậy với ý tạ lỗi vì ông không ở bên cạnh để dậy dỗ Minh Tâm.

                            Comment


                            • #44
                              Chuơng 43



                              Ngày 9 tháng 12, 1977 Lance lên 7 tuổi. Sáng này tôi dậy sớm, để kem lên mấy cái bánh ngọt cho Lance đem đến trường chia với bạn trong lớp. Còn tôi đâu có biết nó là vị cứu tinh của tôi trong những giờ phút rối beng này. Tôi còn dẫn Lance ra công viên Regent Park gần nhà liệng banh, thấy Frisbee, đi cầu tượt khi rỗi rảnh. Tội nghiệp má tôi: bà không tìm được một thứ tiêu khiển nào. Má tôi ngồi trong nhà may cái áo, cái khăn, nấu nồi cơm. Suốt ngày chỉ có bây nhiêu việc làm, trong khi thêu dệt tương lai với ba tôi ở một nơi nào tự do, không có bóng hình Cộng sản đe doạ. Chúng tôi chắc chắn 99% là ba tôi sẽ qua Luân Đôn, nhưng không biết chừng nào. Đó là câu hỏi mà Bộ tư pháp hỏi Bill ngày một, vì họ phải bắt Trương Đình Hùng và Ronald Humphrey càng sớm càng tốt, phòng khi động tĩnh, hai tên gián điệp này chuồn đi mất.


                              Đại sứ Võ Văn Sung gọi cho tôi biết là ba tôi đã rời Hà Nội tối hôm qua để bay qua Moscow. John và tôi gặp Rob và Bill, cho họ hay ngay để họ chuẩn bị. Điều này chứng tỏ toà đại sứ Hà Nội tại Luân Đôn chỉ là văn phòng đại diện cho Hà Nội chớ chưa có đại sứ. Mọi tin tức quan trọng về chuyến đi của ba tôi đều được thông qua đại sứ Võ Văn Sung. Đây cũng là một chi tiết quan trọng cho CIA. Toà đại sứ chưa có đại sứ, thì vấn đề canh gác an ninh cũng chưa được hoàn hảo, nhờ vậy CIA có thể cho chuyên viên của CIA “bảo trì” toà đại sứ với những máy móc tối tân của ngành gián điệp.


                              Một hôm, sau khi họp xong với FBI và CIA, trên đường về nhà, tôi đi ngang tiệm Selfridge's, cửa tiệm đã chưng bày hàng hoá Giáng Sinh. Tôi sực nhớ, lễ lộc năm nào cũng là những dịp buồn im lặng trong đời tôi. Ngày chúng tôi theo ba tôi vô vùng kháng chiến, trong khu không có Tết, chỉ có mừng sinh nhẹt Hồ Chí Minh, mừng thắng trận, mừng đồng chí của ba tôi từ ngoài Bắc vô Nam mà thôi. Rồi năm 1954, ba tôi đi tập kết, hẹn “Tết ba sẽ về”. Mười chín năm sau, Tết đến rồi Tết đi, hứa hẹn rồi lỗi hẹn. Tóc của má tôi thay mầu; bướm không bay trong bụng mỗi lần tôi nghe Tết đến nữa. Mai vẫn nở. Tôi lớn lên rồi, đám con trai vẫn rủ chúng tôi ra vườn hái mai đem về lấy hên cho năm mới. Nhưng gần hai mươi năm, không có cành mai nào đem may mắn tới. Tết Mậu Thân, tôi và má tôi mua hai chậu mai để trước cửa thềm nhà, thì đem giao thừa súng nổ, đạn bay, Việt Cộng tấn công. Tôi nhớ hoài, đêm đó nắm dưới sàn mà má tôi nói: “Mình có trồng một vườn mai cũng không may mắn nổi với Việt Cộng đâu”. Lâu lắm rồi, với tôi, lẽ Tết là biểu tượng của thất vọng và phản bội.


                              Giáng Sinh tới, thành phố tập nập người đi mua sắm; xe taxi không có, còn xe bus thì chật cứng, nên tôi đi bộ về nhà. Nhưng đúng hơn, tôi chưa muốn về nhà, hay là không dám về nhà gặp má tôi. Biết nói gì đây, khi tôi biết trong bụng má tôi vừa mừng vừa trách, tại sao tôi đồng ý hợp tác với FBI. Làm con, tôi đâu dám ngồi xuống nói cái câu “Tự do nó có cái giá của nó”. Má tôi đã sống nhiều, đã qua biết bao nhiêu thử thách, khỏi cần nhắc, má tôi cũng biết giá trị của tự dó. Tôi đi bộ về phía nhà thờ St. Marks. Đêm nào tôi cũng cầu trời, xin Chúa cho tôi sức mạnh, cho tôi trí tuệ để vượt qua những khó khăn. Vì vậy, tôi không gì tốt bằng vô ngay nhà của Chúa cần nguyện; tôi là khách, chắc Chúa sẽ sẵn sàng giúp tôi. Bốn mươi lăm phút tôi rời nhà thờ, đi thẳng về nhà, vừa đi vừa nhớ lại đôi mắt dịu hiền của đức mẹ Maria lúc nãy trong nhà thờ nhìn tôi.


                              Chiều hôm đó tôi gọi “đồng chí” Lại Xuân Chiểu, cho ông biết là ba tôi sẽ rời Sài gòn sáng thứ Bảy. Ông sửng số vì tại sao tôi biết lịch trình của ba tôi trước ông. Lợi dụng lúc ông đang lúng túng, tôi cho ông biết là vợ chồng tôi sẽ ra phi trường đón ba tôi. Nhưng ông không đồng ý, nói liền:
                              - Không. Đó là bổn phận chúng tôi phải ra phi trường đón khách của toà đại sứ. Ngay bây giờ, chúng tôi không có phương tiện chuyên chở, nhưng chúng tôi sẽ đi mượn xe.
                              - Sao làm rắc rồi như vậy? Chúng tôi sẵn có xe nhà, anh để chúng tôi rước ông cụ! - Tôi nói.


                              Tôi không muốn làm phiền anh đồng chí ày, nhưng theo kinh nghiệm mấy tháng nay với cán bộ cộng sản, chuyện gì tôi cũng phải tranh đấu dù nhỏ nhặt, chớ không thì sẽ bị nắm đầu nắm thóp khi có đại sự. Tôi không để Lại Xuân Chiểu xỏ mũi bắt tôi theo họ “cho đúng lệ nhà nước. Bên kia đầu dây, không nghe “đồng chí” Chiểu trả lời, nhưng tôi kiên nhẫn đợi.
                              - Như vậy không đúng luật của chúng tôi, nhưng tôi không biết tính sao cho ổn. - Chiểu nói.
                              - Tôi xin hứa sẽ đưa ông đại sứ của anh về nhà an toàn. Tôi hứa khi rước ông đại sứ về tới nhà, tôi sẽ gọi cho anh hay. Nhờ anh cho tôi số điện thoại của toà đại sứ Việt Nam ở Mạc Tư Khoa đi?
                              Tôi đỏi sang chuyện khác thật nhanh, để ông không kèn cựa vấn đề ai rước ba tôi ở phi trường. Mắc mưu tôi, “đồng chí” Chiểu hỏi:
                              - Chị không có số đó sao?
                              - Để không mất thì giờ đi tìm, anh cho tôi số điện thoại bên đó đi, để tôi hỏi cho chắc chắn giờ chuyến bay của ba tôi.


                              ***


                              Tối hôm sau, Rob và Bill lại tới nhà tôi nữa, mặc dầu hai bên là thoả thuận trước, là kể từ ngày biết ba tôi rời Sài gòn, CIA và FBI tuyệt nhiên không được lui tới nhà tôi. Sở dĩ chúng tôi đi đến quyết định đó, là vì chúng tôi tin rằng nhân viên của toà đại sứ Hà Nội tại Luân Đôn sẽ cho người thăm dò khu nhà tôi ở và có thể luôn cả nhà tôi, để giứ ăn ninh, để bảo vệ ông đại sứ của họ. Tôi cũng nói với Rob và Bill rằng, theo kinh nghiệm của tôi, các nhân viên tình báo của Việt Nam có một đặc điểm khá hơn tình báo Mỹ, là họ không bị lệ thuộc vào phép tắc và khuôn khổ. Họ chơi theo luật rừng. Khi ba tôi đến ở với chúng tôi, họ sẽ có thể chợt đến nhà tôi bất cứ lúc nào. Vì vậy, hai ông không nên lảng vảng gần nhà tôi.
                              Mọi người đều đồng ý như vậy, những bỗng một hôm có tiếng gõ cửa. Lance ra mở cửa, rồi kêu lớn:
                              - Daddy, Rob và Bill muốn gặp ba nè!
                              Tôi giận tái mặt, hỏi Rob:
                              - Nếu có người của Hà Nội đang ở đây thì chuyện gì sẽ xảy ra?
                              Hai người nhìn nhau mà không trả lời. Sau đó ông cho biết ông không bằng lòng khi bị “cấm cửa” không được gặp tốt hàng ngày trong thời gian có nhiều chuyện quan trọng đang xảy ra. Ông muốn, hàng ngày tôi phải trực tiếp báo cáo với ông, cho tới khi ba tôi rời khỏi Luân Đôn. Tôi cho đó là một đòi hỏi hầu như không thể thức hiện được, vì tôi sẽ còn phải tiếp đãi ba tôi, mấy người trong gia đình tôi, và có thể cả những nhân viên của toà đại sứ Việt Nam nữa. Làm sao tôi có thể lén mọi người để gặp Rob mà “trực tiếp báo cáo”. Như vậy, không những có hại cho công tác mà còn nguy hiểm cho gia đình tôi nữa. Tôi đề nghị một giải pháp, là hàng ngày chồng tôi đi làm sẽ gặp hai ông Rob và Bill để tường trình mọi chuyện.
                              Rob cực lực phản đối ý kiến đó, viện lẽ tôi là người làm việc với ông, không phải John. Tôi biết rằng ông tha thiết mong được cùng bay về Mỹ với người đào thoát quan trọng. Tôi cho ông biết, tôi cũng mong như vậy. Nhưng ông không thể chầu chực ở nhà tôi hàng ngày, như một đứa con nít ngồi chờ ngoài cửa, mong ông già Noel trong ngày lễ Giáng Sinh. Đó là điều phi lý và ngây thơ. Nhưng Rob không phải là người để thuyết phục, khăng khăng không chịu nghe, mà con lớn tiếng với tôi.
                              - Rob, - tôi nói với một giọng bực mình - tôi nhường anh một mét thì anh lấn một dặm. Khi ba tôi ở đây, anh không thể tìm tôi hàng ngày được. Tôi sẽ ráng thu xếp để thông báo cho anh và Bill biết kịp thời những chuyện đang xảy ra. Anh không nên ra tối hậu thơ cho tôi. Từ giờ phút này, tôi lo hết mọi chuyện và sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm.
                              Rob chửi thể, rồi lớn tiếng với tôi:
                              - Đây là lệnh của người chỉ huy công tác. Lệnh của tôi!
                              John mòi Rob ra khỏi nhà.
                              Rồi hai người bỏ đi dù công việc chưa giải quyết xong.
                              Tối hôm đó, sau cuộc tranh luận, tôi nghĩ rằng tôi đã làm việc suôn sẻ với hai người trong thời gian qua; đối với tôi không ai là cấp trên, mà ba người là đồng nghiệp. Tôi hiểu rõ địa vị của tôi và của họ. Sau khi họ bỏ đi, tôi hỏi chồng tôi:
                              - Sao hồi nãy anh không binh em?
                              - Anh kêu Rob và Bill ra khỏi nhà, suy nghĩ rồi mai nói chuyện với anh. Em đâu cần anh binh vực. Rob nó giận run, nó bị cà lăm. Em là “rồng Việt Nam”, ai ăn hiếp được mà đòi binh.
                              - Nếu em muốn liên lạc thẳng với xếp của hai thằng khỉ đột này ở Washington thì phải làm sao?
                              John đáp:
                              - Em phải viết “thơ trần tình” cho họ.
                              - Nhưng làm thế nào để gởi cho đúng người mình muốn gởi.
                              - Em cứ viết đi, rồi kêu hai thằng đó chuyển.
                              Tôi nghĩ ngợi hỏi:
                              - Viết thơ méc họ mà kêu họ gởi là cái gì? Họ có giấu đi không?
                              John trấn an tôi:
                              - Họ không dám đâu.
                              Vậy là tôi ngồi xuống, viết một “thơ trần tình”, ghi rõ là gởi hai ông Rob và Bill “để tường”, và nhờ hai ông chuyển cho đô đốc Stanfield Turnerr, giám đốc cơ quan CIA.


                              “Vì sắp tới là ngày ba tôi sang đây, sự căng thẳng mỗi lúc một tăng thêm đối với những người liên hệ, cả ở London lẫn Washington. Tôi hiểu rằng việc thông tin cấp thời và đầy đủ cho những nhân vật ở Washington là quan trọng. Chúng ta đều có cùng một mục đích và lợi ích chung nên cũng mong muốn chương trình của chúng ta thành công tốt đẹp. Cho tới lúc này, chúng ta có thể hãnh diện là kế hoạch và sẹ thrc hiện đã sắp đạt tới mục đích mong muốn.
                              Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Bộ tư pháp đã dành nhiều thời gian cho phép ba tôi, có thể có anh tôi, có cơ may được xa nước Việt Nam cộng sản. Chúng tôi cũng không quên cảm tạ Cơ quan tình báo đã hết lòng giúp đỡ và quan tâm tới những lúc dễ dàng và khó khăn trong công tác.



                              Thơ này có hai mục đích. Thứ nhứl về cũng quan trọng hơn hết là cám ơn tất cả những người có trách nhiệm vì đã hết sức trong công tác mới đây, đó là việc ba tôi sắp tới London. Mục đích thứ hai. xin quý vị lưu ý tới sự ép buộc của hai đại diện của của quý vị ở London đối với tôi và gia đình tôi, đó là hai ông Robert Hall và William Fleshman.
                              Trong buổi họp mặt tại nhà tôi ngày 10 tháng Chạp vừa qua, chúng tôi đã phải lớn tiếng với nhau khi hai ông ép tôi phải trực tiếp báo cáo hàng ngày trong thời gian ba tôi đang ở đây.



                              Sau khi tôi cho họ biết rằng tôi không thể bỏ ba tôi để đi báo cáo hàng ngày với họ được, thì họ nói rằng họ muốn nghe tất cả những gì ba tôi nói và phải chính tôi trình lại với họ mới được, chớ họ không muốn chồng tôi giúp tôi trong việc này. Ông Hall đã nặng lời với tôi. Ông cho biết ông không muốn nghe chồng tôi báo cáo vì có thể sai lầm do sự thông dịch. Lý do đó không xác đáng đối với tôi và cuộc tranh luận trở nên tồi tệ với những lời nói nặng nề. Xin hiểu cho rằng những ngày ba tôi mới tới rất quan trọng đối với tôi. Chồng tôi hoàn toàn có đủ khả năng thay thế tôi chuyển tin tức cho hai ông vì chúng tôi là một…”
                              Rồi tôi để cập tới chuyện Rob và Bill đột ngột tới nhà tôi khi chúng tôi thoả thuận rằng hai ông sẽ không nên tới nữa, viết:
                              “Nếu ba má tôi và con tôi đang ở nhà mà hai ông tới bất ngờ thì sẽ có thể gây nên một biến cố tai hại. Con trai tôi sẽ chạy ra cửa và sẽ nói lớn: “Ông Rob má ơi!”. Điều này sẽ làm cho người trong nhà vừa bực mình vừa ngạc nhiên. Vậy xin quý vị hãy ra lệnh cho hai ông nên bình tĩnh và kiên nhẫn. Ông Hall dùng áp lực với tôi, bình thường thì tôi chịu được và chấp nhận. Nhưng bây giờ tôi nghĩ rằng áp lực đó sẽ có phản ứng ngược.



                              Tôi xin các vị cao cấp cho tôi được “tự do hoạt động, đừng kiểm soát tôi nhiều quá!”. Cuối cùng, tôi khen hai ông Roll và Bill là “những người tốt và cho tới lúc này chúng tôi vẫn là bạn”. Tôi nghĩ rằng áp lực của hai ông đối với tôi chính là áp lực mà quý vị ở Washington đòi hỏi. Vậy xin quý vị hãy kiên nhẫn và tôi đoán chắc rằng kết quả của việc làm của tôi vẫn tốt đẹp như hai năm rưỡi vừa qua. Sự tính toán sai lầm sẽ có thể làm tôi hối tiếc suốt đời. Xin quý vị hay tin tưởng ở tôi và chồng tôi như quý vị đã tin tưởng chúng tôi trong quá khứ. Câu chuyện thần tiên này có thể kết thúc tuyệt vời.


                              ***


                              Nhờ số điện thoại mà Lại Xuân Chiểu đã cho, tôi kêu sang Moscow. Một phụ nữ Nga trả lời tại toà đại sứ Việt Nam. Khi tôi nói bằng tiếng Việt, ngỏ ý muốn nói chuyện với một nhân viên người Việt của toà đại sứ, thì bà ta nói bằng tiếng Nga một câu gì đó. Tôi nhắc lại lời yêu cầu bằng tiếng Anh, thì bà ta nói “Không”. Tôi hỏi thêm bà có biết tiếng Anh không, thì bà cúp điện thoại.
                              Tôi lập tức kêu lại số đó; vẫn tiếng bà ta trả lời. Tôi nói bằng tiếng Pháp:
                              - Xin bà cho tôi nói chuyện với một người Việt Nam.
                              Bà hiểu, nên cho tôi số của “Uỷ ban tiếp tân”. Lần này thì một người Việt Nam trả lời. Tôi cho biết tôi kêu từ Luân Đôn. Ông ta hỏi lại:
                              - Luân Đôn là ở đâu?
                              Khi biết tôi đang ở Anh Quốc, ông ta có vẻ thích thú lắm, không hỏi tôi là ai, mà hỏi kêu có chuyện chỉ. Tôi nói, tôi muốn biết Đại sứ Đặng Quang Minh hiện ở đâu, ông liền trả lời:
                              - Đại sứ đang đi trượt băng với các bạn. Bà có thể nói chuyện với ông ở “nhà khách” chiều này ạ.
                              Sau đó ông cho tôi số điện thoại ở “nhà khách”.
                              Mới đầu ông không hỏi tôi là ai. Sau khi cho số điện thoại của “nhà khách”, ông mới thắc mắc. Tôi ngập ngừng không muốn trả lời, nhưng tôi thầm nghĩ, tại sao phải giấu? Cả hai chục năm này, tôi vẫn muốn cho mọi người biết tôi là con của ai, nhưng không dám nói, sợ bị bắt, sợ bị mất việc, sợ bị đủ thứ. Trong những năm học trung học, tủi cho thân phận không có cha, buồn buồn tôi hay ngó lên mái ngói đỏ của phòng hiệu trường, muốn leo lên đó để la lớn cho cả tỉnh Cần Thơ biết tôi con nhà ai. Muốn lắm, nhưng ai mà dám làm như vậy, vì năm phút sau đó Công an sẽ bắt giam tôi trong khám liền, và không còn ai nghe được tiếng tôi nữa. Những bây giờ thì tôi đã có thể nói ngay với tổng thống Hoa Kỳ ba tôi là ai. Vì vậy, tôi mau mắn trả lời nhân viên toà đại sứ:
                              - Thưa ông, tôi là con gái của ông Minh.
                              Nói xong, tôi sung sướng vô cùng tận!
                              Lát sau, tôi lại kêu cho Uỷ ban tiếp tân để hỏi coi bao giờ ba tôi tới Luân Đôn. Một người khác trả lời. Ông ta có vẻ thận trọng, lịch sự hơn:
                              - Thưa bà, bà có thì cho tôi biết tôi đang được nói chuyện ai không?
                              Tôi lại phải hãnh điện giới thiệu:
                              - Thưa ông, tôi là con gái của ông Minh.
                              Người ở đầu dây bên kia im lặng một hồi lâu, nhưng tôi biết ông ta vẫn còn đó. Một lát sau mới có tiếng hỏi:
                              - Bà nói bà là con gái của ông Minh? Và bà kêu từ Luân Đôn?
                              Tôi xác nhận là dùng như vậy, thì ông ta lại hỏi:
                              - Con thật của ông Minh à?
                              Tôi cười sung sướng, rồi đáp:
                              - Dạ, đúng là con thật. Không phải con giả. - Tôi cười như đã quen nhau rồi.
                              Bây giờ thì ông ta tin tôi, nên nói:
                              - Tôi là bạn học cùng lớp của anh Khôi ở Mạc Tư Khoa Chúng tôi rất thân nhau. Tôi sắp về Việt Nam và sẽ gặp anh của chị.
                              - Anh may mắn hơn tôi, vì anh sắp được gặp anh tôi, còn tôi thì không được!
                              Ông hỏi tên tôi, tôi cho biết ngay. Ông liền reo lên:
                              - A, chị là “cô em nghịch như con trai”.
                              Như tôi nghe được tiếng reo vui của anh ta bên kia đầu dây.
                              Đến đây thì anh chợt nhớ ra rằng hiện tôi đang ở xa, nên vội nói:
                              - Mình đang nói chuyện qua đường dây viễn liên, tôi không nên dài dòng. Ông cụ hiện đi chơi trượt băng với mấy người Nga. Lúc khác xin chị gọi lại cho bác.
                              - Tôi muốn biết chừng nào ba tôi sang đây?
                              - Tôi không nhớ số chuyến bay của ông, chỉ biết trưa thứ Hai ông sẽ rời Mạc Tư Khoa, chị à.
                              - Tôi biết bấy nhiêu cũng đủ rồi. Tôi cảm ơn anh ta và chúc anh được hạnh phúc khi về Việt Nam.

                              Comment


                              • #45
                                Nhân viên văn phòng của hàng máy bay Aeroflot ở Luân Đôn cho biết mỗi ngày chỉ có một chuyến bay từ Mạc Tư Khoa tới Luân Đôn vào xế trưa và hạ cánh ở phi trường Heathrow lúc 9 giờ tối. Tôi nghĩ rằng tôi đã kêu hai cú điện thoại, có thể làm cơ quan KGB lén nghe đã rồi, nên không muốn kêu thêm nữa. Vợ chồng tôi quyết định tối thứ Hai sẽ ra phi trường để đón ba tôi. Nếu tối hôm đó ông chưa tới, thì chúng tôi sẽ tiếp tục đi đón ông tối hôm sau. Chừng nào gặp ông mới thôi.


                                Sáng thứ Hai, John vẫn đi làm như thường lệ. Rồi sau bữa cơm tối, tôi để Lance ở nhà với bà ngoại, vợ chồng tôi lấy taxi ra phi trường. Chúng tôi phải đợi rất lâu, vì máy bay từ Mạc Tư Khoa tới trễ hai giờ năm mươi phút. Rồi thêm nữa giờ nữa mới thấy hành khách đi ra. Nhưng không có ba tôi.


                                Tối thứ Ba, 13 tháng Chạp, chúng tôi lại ra phi trường một lần nữa. Chuyến bay từ Mạc Tư Khoa lại tới trễ hai tiếng. John và tôi nhìn đám khách của hãng Aeroflot lẻ tẻ đi về phía các nhân viên quan thuế. Tôi bắt đầu thất vọng khi đám hành khách ra đã gần hết. Bỗng tôi nhận thấy một dáng người quen thuộc, một người mặc bộ đồ xanh, đội nón nỉ mà tôi đã tung thấy ở Paris năm rồi. Ba tôi là người cuối cùng ra khỏi máy bay.


                                Khi đã thấy ba tôi, những gì chung quanh tôi tan biến đi hết. Tôi chỉ chăm chú vô ba tôi và khả năng có thể thuyết phục ba tôi bỏ cộng sản để sống hạnh phúc với má tôi.


                                Bỗng ba tôi đứng dừng lại, đưa mắt nhìn quanh phi trường đông nghẹt khách. Tôi nắm lấy tay John rồi kéo anh đi theo tôi. Vừa nhìn thấy tôi, ba tôi buông cái xách tay bằng da xuống đất, dang hai tay để đón tiếp tôi. Ông ôm tôi thật chặt, rồi quay sang ôm người con rể mà ông chưa từng gặp. Ông thốt kêu bằng tiếng Viết:
                                - Con!
                                Sau đó, ông quay sang tôi hỏi:
                                - Người của ba đâu con?
                                Tôi hiểu rõ ông muốn nói gì, liền chỉ John và tôi nói:
                                - Người của ba đây chứ còn ai nữa?
                                Ông nói rõ hơn:
                                - Anh tài xế và mấy nhân viên toà đại sứ đâu?
                                - Con biểu họ dùng tại đón ba, vì con đã nhận trách nhiệm lo cho ông đại sứ rồi.
                                Tôi cũng hơi buồn, vì ba tôi chỉ quan tâm tới nhân viên toà đại sứ thôi.
                                Ông tỏ vẻ bực mình, nói:
                                - Đáng lẽ con không nên làm như vậy. Ba đã báo toà đại sứ ở Mạc Tư Khoa phải báo cho Luân Đôn biết. Họ phải ra phi trường đón ba, con à.
                                - Ba ơi, ba đâu có đi công tác, ba đi thăm gia đình mà.
                                Tôi ráng làm ba tôi vui, nên ôm ngang lưng ông, kéo ông về khu lấy hành lý, vui vẻ nói giỡn:
                                - Thưa đồng chí, bây giờ đồng chí là thượng khách của con!
                                Ba tôi nói với John bằng tiếng Việt, như một nhà ngoài giao thích nói tiếng mẹ để với người ngoại quốc:
                                - Ba cám ơn con đã thương yêu con gái của ba và cháu ngoại của ba; và ba cũng xin đặc biệt cảm ơn con đã săn sóc má của Dung giùm ba.
                                Ông nói chậm chạp và rành mạch.
                                John nói với tôi bằng tiếng Anh:
                                - Em thưa với ba rằng anh rất hãnh diện được làm một phần tử của gia đình em.
                                Ba tôi lắng nghe từng tiếng John rồi mỉm cười với anh. Những hình như ông đang suy nghĩ khác.
                                Ông nhíu mày, hỏi tôi:
                                - Chắc má sẽ buồn khi không thấy anh Khôi con đi cùng ba?
                                Tôi xiết chặt tay ba tôi, rồi đáp:
                                - Má sẽ mừng lắm khi gặp ba, nhưng con hy vọng ba đã đặt sẵn câu trả lời về chuyện này với má.
                                Ông gật đầu:
                                - Ba sẽ giải thích cho má biết tại sao anh Khôi không cùng đi với ba được.
                                Tôi chọc ba tôi:
                                - Ba cần có đồng minh ba ơi. Ba có muốn con có mặt khi nói chuyện với má không?
                                - Không, con không cần phải giúp ba, vì má con là người hiểu ba nhứt trên đời này.
                                Đôi mắt ba tôi dường như đang nhìn về một nơi xa xăm, có thể là ngôi làng mà ông đã sống cùng má tôi và hoạt động cách mạng. Cũng có thể là ba nhớ Việt Nam rồi. Tôi liền nói:
                                - Ba à, ba có thể thực hiện điều mong ước đó nếu ba từ bỏ đảng của ba.
                                Tôi đã vi phạm lại hứa với John là chỉ để cập tới vấn đề này khi nào đúng lúc. Những quả thiệt, tôi bỗng cảm thấy lúc này là đúng lúc, vì tôi nghĩ rằng tôi sẽ có ít thời gian riêng với ba tôi, chỉ có lúc này cũng là thuận tiện nhứt.


                                Có thể tôi dự tính sai.


                                Đôi mắt của ba tôi tức thì trở nên nghiêm nghị. Ông tằng hắng, rồi gằn giọng nói:
                                - Con à, chuyện này không phải là chuyện để con nói giỡn.
                                Tôi biết mình đi quá xa không còn chỗ nào trở lại, nên tôi lấy hết can đảm nói luôn:

                                - Con đâu có nói giỡn. Con nói thiệt mà ba! Con hết lòng mong muốn ba về hưu, để có thể sống với má cho trọn những năm tháng còn lại của cuộc đời. Con có ý định này ngày lần gặp ba lần đầu tiên ở bên Nhựt kia. Rồi khi gặp ba ở Paris, con cũng có ý định y như vậy. Nhưng lúc đó không thuận tiện, vì ba đang háo hức về thăm Việt Nam sau ngày giải phóng. Bây giờ ba đã hưởng niềm vui thắng lợi của ba, và ba đã vui mừng cho Việt Nam, cũng như đã thất vọng khi thấy cuộc giải phóng đi lạc đường, lạc lối.
                                Ông nhìn tôi bằng đôi mắt đầy thất vọng, nói:
                                - Con à, sẽ không bao giờ thuận tiện để con nói tới chuyện này đâu. Ba yêu cầu con từ này đừng nhắc tới nữa.
                                Tôi buồn bã nói:
                                - Nghĩa là ba không bao giờ thương con, và cũng không muốn ở gần con, phải không?
                                Ba tôi hôn lên lên trán tôi, rồi dịu giọng:
                                - Như vậy là con không thương ba mới đúng. Con nên biết ssi của ba như thế nàt rất đặc biệt. Trong lịch sử của đảng, trước ba chưa có ai được phép đi như thế này. Ba đã được đảng tin cậy. Các đồng chí ở Hà Nội đã cho phép ba đi ngay cho kịp, vì con đã làm cho mọi người tin rằng cố tình trạng cấp bách. Gia đình mình ở trong một hoàn cảnh không đơn giản. Vậy con không nên toan tính làm chuyện gì để người ta phải thất vọng vì gia đình mình. Ba rất cảm động và vui sướng khi biết con yêu thương ba, con muốn được sống bên cạnh ba. Nhưng ba yêu cầu con đừng bao giờ đòi ba từ bỏ đảng, điều đó khiến ba đau lòng, vì con đã coi ba tầm thường như những người khác.
                                Tôi vẫn chưa chịu, nên nói thêm:
                                - Ba không thể chọn lựa cả hai được. Hoặc ba về ở với má, hoặc ba theo đảng, bỏ rơi má. Ba đã hy sinh cả cuộc đến ba cho đảng. Trong khi đó, má cũng đã hy sinh cả một thời xuân sắc để chờ đợi ba. Bây giờ đã đến lúc ba nghĩ tới má và gia đình thân yêu của ba. Bốn mươi sáu năm, nửa thế kỷ, ba sống với đảng, xây dựng đảng vững mạnh như ngày nay. Bây giờ gia đình này cần ba để chúng con được trọn vẹn có mẹ có cha, mấy đứa cháu có đủ ông bà. Chắc ba thất vọng về con, vì thấy con ích kỷ?
                                - Nói chung thì chúng ta đều ích kỷ. Chúng ta được quyền ích kỷ, con à.
                                John vừa chạy đi kiếm va-li của ba tôi nhưng chưa có. Anh khuyên chúng tôi nên ngồi nghỉ, vì họ chậm trễ trong việc chuyển hành lý. Chúng tôi ngồi xuống mấy cái ghế trống. Tôi trở lại chuyện bỏ đảng về với gia đình, y như một người bán hàng rong vẫn lải nhải mời mọc dù chủ nhà đã đóng sập cửa lại rồi.
                                - Mấy năm sau khi ba đi rồi, con đã đủ trí khôn để nhận ra rằng lý thuyết cộng sản hay như chuyện thần tiên, nhưng khi đưa vô thực tế thì lý thuyết đi một đàng, thực tế đi một nẻo. Con rất buồn khi hiểu được điều đó, và, con cũng buồn cho ba lắm con biết ba của con. Trước khi ba là Cộng sản, ba là người Việt Nam, ba là Việt Minh. Con biết từ đáy lòng ba, ba thành thật mơ ước một nền hòa bình và thịnh vượng cho dân tộc Việt Nam. Bạn hữu của ba, bạn của má con, các cô, các dì, các chị con, đã cho con hiểu rất rõ về ba. Vì vậy, con biết ba đã dâng hiến cả cuộc đời ba cho dân tộc, không phải chỉ riêng cho đảng. Trong một bức thơ ba viết cho con sau ngày thống nhứt đất nước, có câu: “Một con én không thể đem mùa xuân trở lại được”. Chắc ba còn nhớ?
                                Hồi đó ba tôi tỏ vẻ thất vọng vì Giải phóng đã làm cho người dân miền Nam buồn chán, nhưng ông quyết định cố gắng hết sức để thay đổi cho tốt đẹp hơn, ông thừa nhận, ông không có đủ quyền hành trong tay: ông cần các đồng chí có cùng chung sự suy nghĩ mà hành động như ông.
                                Ba tôi ngồi im lặng nghe tôi say sưa nói.
                                Mắt ông tỏ về tức giận dù ông vẫn giữ im lặng. Rất may, lúc đó John trở lại, làm cho tình hình căng thẳng giữa ba tôi và tôi dịu xuống. Anh đã lấy được hành lý của ba tôi. Chúng tôi đi ra ngoài ngay, đón taxi về nhà.
                                Khi xe rời khỏi phi trường, ba tôi nhìn thắng phía trước, rồi gỡ kiếng ra cầm tay mân mê. Đó là dấu hiệu ông đang tức giận vì lời đề nghị và chỉ trích thẳng thắn của tôi. Ông giữ im lặng một lúc, rồi hỏi tôi:
                                - Con nói hết chưa?
                                Tôi gật đầu. Ông nói bằng một giọng bình tĩnh và ôn tồn:
                                - Trước hết ba cảm ơn con đã rộng lượng đề nghị ba về ở với con. Thứ hai, ba muốn con ghi nhớ điều này suốt đời, là ba rất yêu anh Khôi và em Hoà Bình của con, nhưng con là niệm hãnh diện của ba. Ba rất vui khi được con lo lắng, săn sóc. Ba cũng rất hãnh diện khi biết con quan tâm nhiều đến dân tộc ta. Con cởi mở và cứng rắn, đồng thời con cũng dịu dàng. Con là một người đàn bà đặc biệt. Ba thương con vì con vẫn có nhiều tình thương cho đồng bào ta, dù con đã có quốc tịch Mỹ và là vợ của một sĩ quan Mỹ, mẹ của một đứa bé Mỹ. Nhưng ba biết được con vẫn yêu nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Ba sung sướng về con lắm. Ba không muốn thay đổi con dù theo phương hướng nào.
                                Ngưng một chút, ba tôi nhìn tôi với một vẻ bằng lòng, rồi tiếp:
                                - Ba chỉ muốn con ghi nhớ tận đáy lòng con một điều, là con hãy vui mừng khi thấy ba của con vẫn có nghị lực và ý chí, quyết đem lại hòa bình vĩnh cửu cho đất nước của chúng ta.
                                John ngồi cạnh tôi cũng lắng nghe cuộc nói chuyện, nhưng chắc chỉ hiểu được phân nữa thôi. Anh bỗng lên tiếng:
                                - Hãy từ tốn với ba, nghe Nhà (tiếng lóngg chi có John gọi tôi). Nên nói chuyện về má, về anh Khôi. Hỏi ba coi mấy ngày ở Moscow có dễ chịu không. Hỏi ba cuối tuần rồi đi trượt băng với các bạn có vui không? Hỏi ba có mong gặp má không. Đừng nói về chuyện Việt Nam, cũng đừng nhắc chuyện chánh trị. Bây giờ không phải là lúc nói mấy cái chuyện đó.
                                Tất nhiên là John nói đúng, tôi hối hận đã không đủ kiên nhẫn chờ dịp khác để nói. Những cũng chỉ vì tôi cảm thấy thời gian dành cho tôi có thể nói chuyện riêng với ba tôi ít quá. Lúc nào cũng có một ông già râu ria vô hình quay cho đồng hồ chạy lẹ hơn cả nhịp đập của tim tôi. Vì vậy, nếu tôi không nói ra những điều ấp ủ trong lòng, e sẽ chẳng bao giờ có dịp nói với ba tôi.
                                - Con đã cào, đã cấu, đã tìm mọi cách, đã vượt Thái Bình Dương, rồi vượt luôn Đai Tây Dương mà vẫn không được có ba. Có lẽ, cuối cùng con phải bắt cóc ba, ba ơi.
                                Ba tôi sửng sốt vì câu nói đó, ông xích ra xa tôi, rồi nhìn đường, ông hỏi:
                                - Còn bao lâu nữa thì tới nhà?
                                - Dạ, chừng hai mươi phút nữa, thưa ba! - Tôi đáp.
                                - Vậy thì muộn quá.
                                - Mà sẽ đợi suốt đêm để chờ mình ba à.
                                Ba tôi giữ im lặng chứng năm phút, hai tay vẫn mân mê cái kiếng, tỏ vẻ suy nghĩ. Cuối cùng ông lại lên tiếng:
                                - Con à, ba hy vọng con hiểu vị thế của ba hiện này. Tối nay, sau khi tới nhà, gặp má con, ôm hôn thằng cháu ngoại của ba một cái, rồi ba sẽ ra đi ngay.
                                Tôi hốt hoảng kêu lên:
                                - Con không hiểu ba nói gì!
                                Tôi quay sang John, dịch lại lời ba tôi vừa nói cho anh biết. Anh xua tay cho biết anh vẫn theo dõi câu chuyện và khuyên tôi nên nghe lời ba tôi.
                                - Nếu con chịu nghe ba nói, con sẽ hiểu.
                                Ba tôi nói tiếp, là một nhà ngoại giao thâm niên, ba cũng là một trong những người đặt ra nguyên tắc này. Nếu ba không sống theo nguyên tắc thì ba không có quyền đòi hỏi nhân viên dưới quyền của ba đúng nguyên tắc. Rất giản dị là ba phải về ngủ ở nhà của toà đại sứ sau một ngày công tác. Theo nguyên tắc, ban ngày với má con và các con, rồi ban đêm ba phải về ngủ ở nhà của toà đại sứ.
                                Ông nói một cách thản nhiên, coi đó như một luật thiên nhiên trong trái đất. Tôi hiểu rõ ràng những lời ông nói, những vẫn giận cành hông.
                                - Ba có biết tại sao các Chánh phủ cộng sản trên thế giới phải đặt ra nguyên tắc gắt gao cho đảng viên của họ không? Vì họ không tin tưởng ngay cả chế độ của họ, giống như một anh chồng có tánh ghen tuông, nhốt vợ trong tủ áo, sợ thả lỏng thì con vợ sẽ trốn đi mất tiêu.
                                Ba tôi chỉ cười. Ông hiểu ý tôi, nhưng tôi biết ông giữ vững lập trường của ông.
                                Chúng tôi về tới nhà khoảng mười một giờ rưỡi khuya. Chưa kịp gõ cửa thì má tôi đã mở ra và bật đèn của sáng choang. Với vẻ mặt rạng rỡ, bà bước ra ngoài đón chúng tôi. Bà mặc áo bà ba mới, trong bà trẻ hẳn ra và đầy sức sống.
                                Khi chúng tôi vô nhà. John và tôi đi thẳng vô bếp, nhường phòng khách cho ba má tôi. John nói nhỏ với tôi:
                                - Đang lé má phải ra dáng bịnh hoạn, chớ không nên ra ngoài đón ba như vậy, rủi VC nó thấy thì sao!
                                Tôi nghe thấy mùi cháo thơm, nên mấy phút sau quay trở ra phòng khách để mời ba tôi vô bếp. Tôi yêu cầu ông nhắm mặt lại. Ông hít một hơi rồi reo lên vui vẻ:
                                - A, đây là món cháo anh rất thích. Có mùi gan gà và hành lá nữa.
                                Tôi dọn cháo ra bàn ăn trong khi ba tôi lên lầu rửa mặt. Tôi bỗng nghe giọng ngái ngủ của Lance từ trên lầu vọng xuống:
                                - Ông ngoại. Sao ông tới trễ quá vậy?
                                - Ôm hôn ông ngoại, rồi đi ngủ đi, nghe. Mai ông sẽ tới!
                                Ba tôi hôn túi bụi lên mặt lên tóc của Lance.
                                Sau khi ăn cháo gà, ba tôi mở va-li, nói:
                                - Ba đem cho con mấy thứ lặt vặt hương vị Cần Thơ mà con thích.
                                Nói xong, ông mỉm cười. Tôi vô ngay lấy mọi thứ: bánh tráng ngọt, bánh phồng, mứt me, kẹo dừa, kựo chuối. Ba tôi khoe với má tôi mấy hộp trái cây; đó là sản phẩm của hãng làm đồ hộp mà chị Thuỷ Xinh người con nuôi của ba tôi làm giám đỗ. Trong khi chúng tôi đang vui vẻ, tôi thấy đồng hồ đã chỉ một giờ ba mươi sáng. Tôi hơi bối rối cho má. Tôi biết ba tôi không thể ngủ đêm ở nhà chúng tôi được, mà phải về nhà riêng của toà đại sứ. Phản ứng của má tôi không như tôi lúc này. Ba bình tĩnh sắp xếp lại túi xách cho ba tôi, rồi đề nghị chúng tôi đưa ba tôi đi ngay kéo quá trễ. Ba chỉ muốn cho ba tôi có một đêm ngủ ngon sau cuộc hành trình mệt mỏi. Như vậy, có phải chứng tỏ vợ hiểu chồng hơn con hiểu cha không? Tôi tự hỏi mà bối rối.
                                Sau khi ba tôi kêu điện thoại cho nhân viên toà đại sứ để báo cho họ biết ba tôi sắp tới, John và tôi chuyển hết hành lý của ba tôi lên xe, rồi cùng nhau đi trong đem tối. Đường đi không xa, chỉ chừng năm phút là tới. John ngồi đợi ngoài xe, tôi mang xách tay của ba tôi vô nhà. Đồng chí Chiểu ngái ngủ ra mở cửa, mặc bộ pyjama.
                                Trong nhà nóng một cách ngột ngạt; có lẽ máy sưởi mơ đến 80 độ. Sau khi dẫn chúng tôi tới phòng ngủ của khách, “đồng chí” Chiểu chúc ba tôi ngủ ngon, rồi trở về phòng của ông. Ba tôi sai tôi mở cửa sổ cho thoảng và mát. Trên giường có hai tấm mền, ông cất đi một. Tôi liền nói giỡn:
                                - Ba thấy chưa? Nếu ba ngủ ở nhà con, không ai dám nướng ba nóng như ở đây.
                                - Ba quen với khí hậu lạnh ở Mạc Tư Khoa rồi, dù mùa đông ở đó rất khắc nghiệt. Thôi, con về đi, dùng bắt chồng con đợi lâu quá. Sang mai, sau khi ăn điểm tâm, đến đón ba nghe. Ba cần thảo luận một vài vấn đề với mấy anh em ở đây trong bữa điểm tâm.
                                Khi tôi định đi ra của, ba tôi nói:
                                - Trước khi con về, ba muốn nói với con là ba mừng cho con, vì chồng con rất tốt.
                                - Cảm ơn ba.
                                Nói xong, tôi ôm hôn ông rồi đi ra ngoài trời đêm giá lạnh, để ba tôi ở lại với những người bạn cộng sản của ông.
                                Trên đường về, tôi nhìn lên bầu trời tối đen, cảm ơn đấng thiêng liêng nào đó ẩn sau đám mây đen. Tôi thất vọng vì ba tôi không chịu ngủ trong nhà tôi, nhưng tôi cũng mừng vì ông đã được ra khỏi nước để gặp chúng tôi. Đó là diễm phúc trời cho rồi.
                                Tôi đã lớn lên trong một hoàn cảnh mà tôi không mong muốn bất cứ người nào khác phải chịu đựng như mình. Nhưng qua biết bao khó khăn, tôi cũng hãnh diện vì đã vượt được hết, cho đến ngày hôm nay. Tôi đã thừa hưởng được ý chí mạnh từ ông ngoại, và tôi đã tranh đấu cho những nguyên tắc riêng của mình, cho quyền lợi và cho chính cuộc đời mình, trong một xã hội mà tôi tin rằng nó là của tôi. Đồng thời, ông ngoại tôi cũng dậy tôi phải chấp nhận nhu cầu và quyền lợi của người khác, nghèo cũng như giầu. Nhưng ông tôi không dậy tôi phải chấp nhận tình trạng của hai người yêu nhau tha thiết, mà phải sống xa nhau vì lý tưởng, như ba má tôi. Tôi không thể chấp nhận điều này được.
                                Đêm hôm đó, tôi muốn nói chuyện với má tôi về những khó khăn trong dĩ vãng, về những giấc mộng dở dang hiện tại và về tương lai bắt trắc. Nhưng khi chúng tôi về tôi nhớ thì bà đã đi ngủ. Tôi rón rén đi tới phòng ngủ của má tôi, thấy bà nằm quay lưng ra ngoài và ngủ ngon lành. Dù sao tôi cũng cảm thấy yên tâm, vì bà không muốn đợi tôi về để bàn tới chuyện mà ba khng thích.
                                Tôi có cảm tưởng tôi như một con cá nhỏ lội ngược dòng. Những biến cố ào tới như thác lũ, khiến tôi không sao đối phó kịp. Ý nghĩ ba tôi sẽ trở về Việt Nam làm tôi hoảng sợ.
                                Mấy ngày sau, ba má tôi có nhiều thời gian sống bên nhau. Má tôi đi đâu ba tôi đi theo đó: lúc vô nhà bếp, lúc lên lầu, lúc xuống nhà. Hai ông bà nói chuyện với nhau không ngừng, hầu hết nói về bạn cũ trong vùng giải phóng. Có lúc hai ông bà cười vui vẻ với nhau. Lại có lúc ngồi im lặng, không biết hai người nghĩ gì? Nghĩ gì cũng được, miễn hai người ngồi nghỉ bên nhau là tôi sung sướng lắm rồi. Những ngày này, ba má tôi vui tươi, hạnh phúc lắm.


                                Tôi nghĩ rằng ba tôi đã rất tế nhị, không nhắc tới sự kiện má tôi chẳng có vẻ gì là đau ốm dù rằng, tôi viết trong thơ gởi ông Lê Duẩn, là má tôi đau nặng có thể chết.


                                Hai ngày sau khi ba tôi tới, tôi để ba má tôi ở nhà một mình, dắt Lance “đi shopping”. Đúng hơn là tôi đi gặp Rob và Bill. Tôi biết hai ông rất nóng lòng, như ngồi trên đống lửa, muốn biết những chuyện gì đang xảy ra ở trong căn nhà nhỏ của chúng tôi. Tất nhiên là không có gì nhiều để báo cáo, vì cho tới lúc này chỉ có chuyện cá nhân, không có một dấu hiệu nào về việc ba tôi sẽ đào thoát.
                                Cũng như tôi, họ đều tỏ vẻ thất vọng, vì anh Khỏi tôi không được đi. Bây giờ thì bầu không khí giữa họ và tôi không còn căng thẳng như trước nữa. Có thể lý do mà họ bớt gây gổ với tôi họ sắp được gặp những người thân yêu của họ. Hai cơ quan và CIA đều cho họ biết vợ con họ sẽ có thể sang Luân Đôn đón lễ Giáng Sinh với họ. Cảm ơn Thượng đế đã cấu tạo ra người ngay từ thuở khai thiên lập địa.
                                John cho Lance được nghỉ học để cháu ở nhà chơi với ông ngoại, dù ngày nghỉ lễ Giáng Sinh cũng sắp tới. Tôi cũng lấy làm lạ khi thấy Lance thích được ông ngoại ôm vào lòng. Thường thường Lance không thể ngồi yên được hai phút, vậy mà bây giờ Lance ngồi hàng giờ bên cạnh ông bà trong khi ông bà chuyện với nhau. Lúc thì Lance bầy đồ chơi ra, lúc thì vẽ hình cho ông ngoại xem. Thỉnh thoảng ba tôi kéo cháu lại gần để Lance hỏi hôn. Thứ Năm cháu có thể dẫn ông ngoại tới trường để khoe với bạn không? Mỗi tuần, ngày thứ Năm nào Lance cũng đem đồ chơi vô khoe với lớp. Má tôi hỏi:
                                - Cháu sẽ nói về ông như thế nào?
                                Lance đáp:
                                - Cháu sẽ nói với mọi người ông làm việc cho chánh phủ Việt Nam, và ông là ba của má cháu.
                                Ba tôi lại hỏi:
                                - Nếu ông không đi, cháu đem cái gì để khoe với các bạn?
                                - Cháu sẽ mang tôi trường cái máy bay trực thăng.


                                Vừa nói Lance vừa khoe với mọi người máy bay trực thăng làm lấy bằng những miếng cây trong hộp đồ chơi.
                                Tôi nói:
                                - Con hãy đem máy bay trực thăng đi. Trời lạnh quá không đi với con được.
                                Sau đó tôi nói với ba tôi, khi được gặp ông ngoại ở trường, cháu khoe với một bà ở toà đại sứ Mỹ, ông nó là “cộng sản tốt ở Việt Nam”.
                                Ba tôi thích lắm.
                                Tôi không thể diến tả được cảm giác kỳ diệu của tôi khi được cùng ba má tôi chuyện trò vui vẻ. Tôi nhìn tôi trên kiếng, sợ lên mặt, rồi thầm nói với mình: “Đây là thật, không phải chiêm bao”.
                                Ba má tôi nói đủ mọi thứ chuyện, rồi nhắc đến sự ra đi của những người thân yêu. Ba tôi nhắc đến ông nội, ba nội. Tôi đã thấy ba tôi chùi nước mắt cho má tôi, khi ông bà nhắc tới Hải Vân, em tôi. Nhưng hai người cũng có lúc cãi lộn, đề tài tranh luận bao giờ cũng là chánh trị. Cả hai cùng giữ vững lập trường của mình, một thì tích cực bênh vực cộng sản, con một thì chống cộng kịch liệt. Đó là lý do đã khiến hai người phải xa cách bấy lâu nay. Tôi nghĩ rằng các cuộc tranh luận ấy đều có lợi cho cả hai. Má tôi thì cần nói ra nỗi niềm riêng bà đã ôm ấp hai chục năm nay. Còn ba tôi cũng nên biết nỗi lòng của một người đã bị mất nước và mất tất cả vì cộng sản.
                                Má tôi hỏi ba tôi về số phận của miền Nam. Ông trả lời rằng:
                                - Thời gian xây dựng lâu dài hơn là thời gian phá hoại. Nước Việt Nam cần có nhiều thời gian để hàn gắn.
                                Má tôi không thoả mãn với những lời hứa hẹn như vậy. Bà nói:
                                - Làm sao anh có thể đem lại hoà bình, khi mà đảng cộng sản của anh mở chiến dịch chống lại nhân dân? Dân của tôi no ấm, miền Nam của tôi phồn thịnh, rồi đảng của mấy ông cáng xã hội chủ nghĩa vô họng người ta, dân của tui mới đói, mới rách.
                                Ba tôi đáp:
                                - Anh công nhận là miền Nam phong phú, nhưng chỉ một số nhỏ được đặc ân mà giầu có, còn đa số thì trắng tay.
                                - Cả ngàn năm nay, thời nào cũng có người giầu, kẻ nghèo. Tôi bảo đảm đảng của anh sẽ làm nên lịch sử, bằng cách tước đoạt hết của cải của mọi người, san bằng mọi “bất công” trong xã hội i, quay lại đảng viên ai nấy giầu có như nhau.


                                Ba tôi nhẹ nhàng đưa tay lên che miệng má tôi, rồi ông lắc đầu nhìn bà bằng đôi mắt van xin bà hãy ngưng cuộc tranh luận, vì lập trường của hai người hoàn toàn khác biệt; hãy tận hưởng những giây phút quý báu bên nhau.


                                Bên nhau, ba má tôi cũng có những giờ phút êm đẹp. Ông ngồi yên lặng bên cạnh bà để xem bà vá áo sơ mi cho ông, may quần áo ngủ mới, và đơm lại mấy nút áo không giống nhau. Những lúc thấy mái má tôi vui và nụ cười rạng rỡ trên mặt ba tôi, tôi thầm tự nhủ: “Nếu chẳng may hôm nay mình chết, chắc mình sẽ biến thành một thiên thần sung sướng nhứt.

                                Comment

                                Working...
                                X