Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Ngàn Giọt Lệ Rơi - Yung Krall Đặng Mỹ Dung

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Chương 17


    Ban biên tập của chương trình phát thanh gồm có: đại uý Thịnh, chủ bút; thiếu uý Nguyễn Triệu Nam, cây viết và linh hồn của chương trình: và ba cô thơ ký đánh máy. Xướng ngôn có Thảo, một người đẹp không biết từ đâu giảng xuống Cần Thơ. Mỗi lần Thảo bước vô cổng trại Lê Lợi, xe Jeep ngừng chạy, gác cổng bị trặc cổ, lính Mỹ ở các văn phòng huýt gió, chim trên cành cũng phải giựt mình vỗ cánh bay xa.

    Tôi được làm đệ tử của thiếu uý Nam. Chúng tôi ngồi cái bàn viết của ông đại uý Mỹ. Ông là nhiếp ảnh viên trưởng, nên với ba tuần ông mới về Phóng V một lần. Khi ông về, thiếu uý Nam và tôi chuyển ra cái bàn bên ngoài, hoặc chúng tôi đem giấy xuống câu lạc bộ làm việc. Tuần lễ đầu tiên, thiêu uý Nam cho tôi đọc báo quân đội do ông lựa chọn. Tôi phải đọc những bài ông làm dấu X bằng mực đổ. Đó là những bài bình luận của cấp chỉ huy các binh chủng, và những bài của những cây viết “có tiếng” của Nha chiến tranh tâm lý. Tôi còn là học trò thò lò mũi xanh, làm sao biết được những cây viết “có tiếng” trên Sài gòn. “Có tiếng”, với tôi thời đó là Khái Hung, Nhất Linh, Hồ Biểu Chánh, chuyện ma. Lê Xuyên nổi tiếng như cồn, nhưng má cấm tôi cam đọc. Tôi chỉ được đọc những sách má cho phép mac thôi.

    Thiếu uý Nam muốn tôi bỏ cách viết văn má tôi đã học ở trường. Ông muốn tôi hít thở cái không khí của tuyên truyền. Vì vậy, suốt tuần lễ đầu tôi phải cố gắng “nuốt” những bài báo viết khô khan trong đống báo quân đội mà thiếu uý Nam giao cho. Ông muốn tôi mau chóng “trưởng thành” như một người lính. Tôi thầm tự hỏi, một cô gái mới 18 vừa chân ướt chân ráo ra khỏi trường, dù có ăn gian thêm một tuổi cũng mới có 19, làm sao có thể rượt thời gian để trưởng thành như một người lính được. Rồi ai hưởng cái tuổi mới dậy thì giùm tôi đây? Mà làm sao tôi có thể trưởng thành như một người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng hoà được? Các anh ra chiến trường, luôn luôn nằm kề bên cái chết với cây súng, gối đầu bằng cô đơn, với những giấc mơ gia đình, đất nước và hòa bình? Tôi biết cái can đảm của tôi lớn bằng hai lá gan, những chưa thể so sánh với cái can đảm của người lính chiến. Nghĩ vậy, tôi tự nhủ phải ráng học với ông thiếu uý để làm việc.

    Tôi gọi thiếu uý Nam bằng “ông Nam”, dù ông không bằng lòng, vì tôi chưa quen dùng cấp bậc để gọi một người trong quân ngũ. Ông rất kiên nhẫn, tử tế, và thích dậy học. Sau những giờ gấp rút để hoàn tất một chương trình cho có Thảo thâu gởi xuống đài phát thanh Sóc Trăng, thiếu uý Nam và tôi thật sự làm quen với nhau. Ông sanh trưởng trong một gia đình Nho giáo ở Hà Nội, di cư vào Nam cùng với hơn 800.000.000 người muốn sống tự do. Tôi không biết gì nhiều về quá khứ của ông, nhưng tôi có cảm tưởng ông không có nhiều cảm tình với đàn bà. Mỗi khi nói đến đàn bà, ông thường có giọng cay đắng. Một hôm, thấy tôi nhăn mặt khi nghe ông kể một chuyện tinh, ông vội nói:

    - Cô là con gái, chưa phải là đàn bà. Dù có già thêm vài tuổi cô vẫn giũ được cái ngây thơ của cô.

    Thỉnh thoảng, ông cho tôi xem những bài thơ ông ca ngợi đàn bà. Có bài nói về một người con gái với lời tha nhẹ nhàng, có bài với những lời âu yếm đành cho một mối tình. Ông là người đa tình, đa cảm, nên dễ rung động trước vẻ đẹp của phụ nữr. Có người đáp lại tình ông, mà cũng có người đã phụ tình ông. Tôi cũng vẫn nghĩ rằng đa tình như thơ của ông có vẻ “mết quá”. Những mối tình của ông, tôi ví như những sợi dây trói buộc ông lại, làm cho ông héo hắt. Nếu cứ mới lần yêu là “chết trong lòng một ít”, không biết lòng ông còn sống được bao lâu nữa? Hèn chi vọng cổ mới có câu hát “yêu là đau khổ, tình là dây oan”. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng tình yêu đẹp như trăng rằm, sáng như sao trên trời, vui như những ngày hội lớn, thơm như hoa bưởi, hoa cam… Khi thấy con gái Cần Thơ định nghĩa về tình yêu như trên, thiếu uý Nam chỉ nói:
    - Chúc cô may mắn.

    Ông hút thuốc liên miên, nên hai ngón tay vàng khè, môi thâm sì. Sau tuần lễ đầu, ông hỏi tôi có ghét khói thuộc không? Tôi nói gì bấy giờ, vì tôi biết nếu không có khói thuốc lá không có thầy, mà “không có thầy, đó mày làm nên”. Tôi trả lời:
    - Miễn ông đừng đổi hiệu thuốc khác là tôi chịu đựng được.

    Từ ngày đó, ông bớt nghiêm nghị với tôi, ông tỏ vẻ thân mật với tôi hơn, coi tôi như mấy ông thượng sĩ, thiếu uý ở phòng V. Nhưng ông vẫn còn nghiêm nghị với ba có thơ ký đánh máy và cô xướng ngôn viên. Ông cho tôi đề tài để viết; còn tin tức, tôi sẽ lấy trong báo cáo bên Trung tâm hành quân. Tôi viết bình luận những trận đánh trong vùng Chương Thiện, Sóc Trăng. Mỗi khi viết xong, tôi đưa cho thiếu uý Nam duyệt. Trong khi ông đọc, tôi ngầm theo dõi phản ứng của ông. Có lúc ông nhíu mày, có lúc ông lắc đầu nhẹ nhẹ. Điều làm tôi mắc cỡ nhứt, là cây viết mực đỏ của ông không ngừng di chuyển trên những trang giấy tôi viết. Có trang ông vo tròn liệng vô thùng rác, sắp những trang còn lại cho ngay ngắn, rồi cất vào tủ của ông.


    Ngày qua ngày như vậy cả một tháng dài. Tôi không biết ai thử tánh kiên nhẫn của ai, nhưng tôi vẫn nhớ “không thầy đố mày làm nên”. Vậy là tôi cứ tiếp tục viết, thiếu uý Nam tiếp tục liệng thùng rác, và cất giữ.

    Một hôm, sau khi đưa chương trình phát thanh cho cô Thoa, thiếu uý Nam kêu tôi theo ông xuống câu lạc bộ uống nước. Tôi thấy ông ôm một xấp giấy dầy cộm. xếp trong một bìa cứng, tôi đoán xấp giấy đó là những bài tôi viết; tôi hồi hộp đi theo ông. Một là tôi lên đoạn đầu đài; hai là tôi chính thức trở thành biên tập viên. Tôi tự trấn an: “Hổng sợ. Mình đã từng sống trong rừng U Minh, muỗi cắn không chết, rắn, cá bông chưa cắn chết, cũng không bị máy bay của thằng Tây lấy bỏ bom trúng, thì những khó khăn sắp tới nên coi nhẹ như lông hồng.

    Thiếu uý Nam phê bình những bài tôi viết một cách thẳng thắn, chính đáng, và xây dựng. Vấn đề lớn nhứt là tôi viết như viết báo cáo, nghĩa là quá trung thực. Ông nói:
    - Chúng tôi có cả ngàn, cả vạn tay viết báo, những tiếng nói của Quân Lực Việt Nam Cộng hoà tại vùng 4 Chiến thuật cần họ. Nếu cô chưa biết gì về cộng sản, tôi sẽ dậy cho cô biết về chúng. Nếu cô không thù ghét cộng sản, cô cũng phải cho cả ngàn cả vạn thính giả biết quân ta nơi chiến trường can đảm mức nào để diệt chúng. Không những thế, cô còn phải cho người ta thấy rõ bộ mặt thật tàn bạo của Việt Cộng. Chúng không phải là bạn của người dân, vì chúng thẳng tay giết hại đàn bà con trẻ con.


    Thiếu uý Nam chỉ một tấm hình lớn của trung sĩ Mai Hoà chụp mấy ngày trước. Đó là hình một người đàn bà nằm trên vũng máu với một bầy con nít, đứa lớn nhất chừng mười tuổi, đứa nhỏ nhất chưa biết đi, đang khóc bên xác mẹ. Tôi đã từng nếm mùi chia ly, đã chứng kiến cảnh nhà tan cửa nát, và đã thấy những xác nạn nhân chiến tranh trôi lềnh bềnh trên sông. Vậy mà chưa bao giờ tôi phải đứng trước cảnh mấy đứa con nhỏ khóc bên xác mẹ. Tôi cắn môi, cúi mặt để cố nứn cơn xúc động trong lòng, và gật đầu.


    Thiếu uý Nam nói tiếp:
    - Cô viết được, nhưng tôi muốn cô nhớ rằng cô không phải là một nhà báo, mà là một cán bộ tuyên truyền. Chúng tôi có phóng viên chiến trường, tin tức được chuyển thẳng từ mặt trận về. Cố khai thác những tin đó để cổ vũ, động viên tinh thần người lính Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Đồng thời, cô phải làm nản bọn cán binh Việt Cộng bằng cách cho chúng thấy tương lai của chúng mờ mịt, vì chúng tranh đấu cho một Chánh phủ ma.
    Tôi giựt mình khi nghe thiếu uý Nam gọi Chánh phủ của ba tôi là “Chánh phủ ma”. Nhưng tôi không dám phát biểu một lời nào. Thiếu uý Nam không biết gì về lý lịch của tôi. Ông nói tiếp:
    - Cô giầu tưởng tượng, nên ngòi bút của cô có thể trở thành vũ khí sắc bén để đánh giặc này.
    Tôi nhìn thiếu uý Nam bằng cặp mắt cương quyết, rồi hỏi:


    - Ông muốn nói là đánh thằng giặc này?
    Tôi muốn cho ông biết tôi đã hiểu nhiệm vụ của tôi.
    - Cô nói đúng! - Ông trả lời bằng một giọng nửa ngao ngán, buồn rầu - Đôi khi tôi thấy mình quen với chiến tranh như quen với cái áo cũ, hay với một người đàn bà đã chung sống lâu dài, đến độ chán ngấy, nhưng nếu không có cô ta thì tôi lại không sống được.
    Ông lắc đầu nhìn xuống ly café, nói thêm:
    - Thật ra tôi cũng chả biết làm gì khi hết giặc!
    Tôi dò ý ông:
    - Ông có thể xuất bản thơ của ông hoặc ông viết tiểu thuyết và sống một cuộc đời hạnh phúc bên người đàn bà ông yêu.
    Quả thật, viễn tưởng một cuộc sống như vậy cũng làm tôi ham muốn, ao ước. Sống thanh bình bên người mình yêu không phải là một cuộc sống chứa chan hạnh phúc sao? Nhưng thiếu uý Nam vẫn có giọng buồn buồn:
    - Tôi làm thơ chỉ để giãi bầy tâm sự của riêng tôi. Tôi cũng không biết sống hạnh phúc là sống làm sao?.
    Tôi nói:
    - Là không có những trái hoả châu ban đêm, không có phục kích giữa ban ngày, không còn nhận được tin những người thân của mình chết bất ngờ tức tưởi…
    Thiếu uý Nam khẽ thở dài, chán nản:
    - Cuộc chiến này sẽ không bao giờ dứt.


    Thiếu uý Nam dậy tôi về tuyên truyền như sau:
    - Tuyên truyền là một nghệ thuật, làm với đầu óc chớ không phải làm với con tim.


    Rất may là tuyên truyền không làm với con tim, vì trái tim nhà thơ Nguyễn Triệu Nam mềm xèo.


    Một buổi sáng, tôi ngồi ngoài phòng thâu băng để nghe Thảo đọc bản tin tôi mới viết. Tận đáy lòng, tôi hãnh diện vô cùng. Rồi tôi cũng được chấp nhận góp sức với quốc gia mà tôi đã lựa chọn và hết lòng tin cậy. Trước đó, dù được đi học trường công, nhưng lúc nào tôi cũng thấy hai chân tôi chưa đứng vững trong xã hội này. Bất cứ lúc nào người Quốc gia cũng có thể hất chân con cái của Việt Cộng ra khỏi cuộc sống. Bất cứ lúc trường Phan Thanh Giản cũng có thể đuổi con cái của Việt Cộng ra khỏi trường.


    Tôi đem về nhà 6,000 đông kỳ lãnh lương đầu tiên sau tháng làm việc. Tôi đặt xấp tiền trên bàn trước mặt má tôi nói:
    - Tiền này của má, con xin 200 để tụi con đi ăn bánh mì chú Lý Ngầu.


    Nhưng má tôi đưa cho tôi 500, rồi cắt số còn lại vô hộc của bàn máy may. Mà nói hai tiếng “cảm ơn” rồi tiếp tục việc. Tôi không ngạc nhiên khi thấy mà không vui, vì tôi biết má cũng không muốn tôi đi làm mà phải tiếp tục học, nhưng vì hoàn cảnh gia đình, mẹ côn tôi phải chấp nhận.
    Trưa hôm đó ở Phòng V, chúng tôi nhận được tin khẩn cấp từ Quân y viện Cần Thơ cho biết thương binh từ mặt trận Chương Thiện chuyển về qua nhiều, nên bệnh viện thiếu máu. Bác sĩ Hiếu kêu gọi tất cả dân quân trong các trại chung quanh hiến máu. Tôi hưởng ứng lời kêu gọi, nên xin về sớm để tới Quân Y viện.


    Tới cổng nhà thương, một rừng người nôn nóng chờ giờ mở cửa được vô thăm thân nhân. Đó là những người từ trong ra chen chúc bên những người từ những tỉnh khác đến. Có những ông bà già mệt mỏi ngồi phệt xuống đất chờ. Có mấy bà khóc lóc vì biết thân nhân đang ở trong tình trạng nguy ngập, thất sinh. Nghe họ than thở, tôi biết rằng có người đã không được gặp chồng hoặc con cả năm trời: khi được tin thì lại tin dữ.


    Lính gác cổng mở hé cổng bệnh viện cho tôi, khi biết tôi đến hiến máu. Tôi xếp hàng sau bốn người đàn ông. Khi thấy mũi kin của cô y tá đâm vô tay một người đang nằm trên bàn, tôi rùng mình, nhắm mắt lại. Sao cây kim dài hơn kim vá bao cả ròn. Mùi nhà thương cũng làm tôi bủn rủn tay chân. Tôi thầm nghĩ rằng nếu bị bịnh tôi cũng không dám vô đây, vì có thể không có ngày về. Một cô y tá vội vàng chạy vô lấy bịch máu vừa hiến, rồi biến mất tiêu. Một cô y tá giả nở nụ cười rồi hỏi tôi về loại máu. Tôi chỉ biết lắc đầu, vì tôi không biết. Cô y tá thở dài nói:
    - Khó quá! Không ai biết máu mình loại máu gì.


    Sau lưng tôi có tiếng một người đàn ông nói lớn:
    - Loại máu tui là loại máu dê.


    Mọi người trong phòng cười rần lên làm bầu không khí nặng và khó thở tan biến. Tôi quay lại nhìn mặt người đàn ông vô truyền đó. Tôi buột miệng nói với cô y tá:
    - Máu của cháu nữa Mông Cổ, nửa Việt Nam.
    Tôi muốn dằn mặt người tự nhận có máu dê này cho bõ ghét. Cô y tá nhận ra tôi, vì cô là bạn học của má tôi trước kia. Cô là Tám Quán, làm y tá trưởng bên dân y viện. Nay quân y viện thiếu người, mời cô qua giúp. Có nói với tôi:
    - Thôi, ngồi xuống đây!


    Tôi vâng lời cô. Trong khi sửa soạn lấy máu của lời, cô than thở:
    - Cả tuần nay cái gì cũng lộn xộn, ngổn ngang hết. Cô thức trắng đêm hôm qua tới giờ.
    - Sao cô không ngủ? - Tôi ngây thơ hỏi.
    Bà thở dài đáp:
    - Làm sao mà ngủ được. Cái gì cũng thiếu: thiếu bác sĩ, thiếu máu, thiếu giường…
    Tôi nằm chờ bà lấy máu mà không dám nhìn lên cánh tay. Tôi sợ quá nên khi cô Tám đâm kim vô tay, tôi cũng không biết đau. Rồi việc lấy máu xong lúc nào tôi cũng không hay.


    Tối đó tôi trở lại quân y viện, vì tôi tò mò kiếm cô Tám Quán, muốn biết người lính nào đã được tiếp máu của tôi, cũng muốn biết sự hiến máu của tôi có cứu sống được ai không. Một lát sau, cô Tám Quan cho tôi biết số phòng và số giường của người lính đã nhận máu của tôi. Nhưng tôi đến thì đã trễ, vì tôi bước vô phòng, thấy tấm vải trải giường trắng loang lổ máu phủ lên xác một người. Tôi cảm thấy bơ vơ, tuyệt vọng và yếu đuối trước những cái chết mà biết bao nhiêu người đã có cấp cứu cũng không kịp. Chiến tranh như những cơn giông, cơn bão, những đợt sóng thần, cuốn đi không biết bao nhiêu sinh mạng.


    Mười tám tuổi, tôi không có thì giờ làm con gái; cả ngày đêm chỉ suy nghĩ chuyện nước non. Tôi muốn đi lính, ma không cho. Tôi muốn làm nhiếp ảnh viên chiến trường, lại nhút nhát không dám lao mình ra khỏi máy bay trực thăng.


    Trong phòng, có một người đàn bà ngồi dưới đất, cạnh chân giường. Bà gục đầu lên hai cánh tay để trên đầu gối và rung theo tiếng nấc rên rỉ, thảm thiết. Tôi muốn ra khỏi phòng nhưng lại không nỡ bỏ bà ta một mình. Tôi nhẹ đặt tay lên vai bà. Bà liền ngước lên hỏi:
    - Cô quen con tôi hả?
    Rồi bà kéo tà áo dài lên chùi nước mắt. Tôi đáp:
    - Dạ không. Cháu chỉ tới thăm.
    - Làm sao có biết con tôi?


    Nỗi thất vọng hiện lên trên gương mặt người mẹ. Tôi có cảm giác bà muốn gặp một người quen của con bà, để tìm một kỷ niệm con bà để lại, tôi lại phải đính chính, tôi nói tôi không biết con của bà, nhưng tôi cho bà biết tôi đã hiến máu cứu thương binh.


    Người mẹ vịn thành giường sắt đứng dậy, bước tại đầu giường giở tấm vái, vuốt tóc người con trai. Tôi không dám nhìn nỗ thương tâm đó.


    - Nếu có mặt ba nó ở đây, người ta người ta cứu sống con tôi rồi. Nó 20 tuổi. Trời ơi, sao lại bắt con tôi đi? Tôi chỉ có một mình nó thôi.


    Tôi không biết nói gì. Má tôi có 7 đứa con, chỉ một người theo ba tôi ra Hà Nội mà má tôi đã héo hắt cả cõi lòng vì nhớ thương rồi. Đằng này người mẹ ngồi trước xác con của mình mà không hẹn ngày trở lại.


    Bà mẹ cho tôi biết chồng bà là một sĩ quan đang tham dẹ hành quân ở Chương Thiện. Chính trong cuộc hành quân này, người lính 20 tuổi đã hy sinh. Khi nhân viên của nhà thương đem băng ca tới. Họ chuyển người lính sang băng ca. Bà mẹ chạy theo, đưa hai tay âu phụ đỡ lấy băng ca. Tiếng nói của bà đứt quãng trong tiếng khóc. Bá đứng đó một hồi, tay vịn giường sắt nhìn người ta thay vải giường một cách nhanh nhẹn và vô tình, như họ đã làm việc này liên tục mỗi ngày mỗi tháng. Chiến tranh làm con người quen với cái chết. Không biết người ta có trân quý sự sống hay không, trong cái nhà chứa toàn những thương binh này? Tôi, đứa con gái vừa lớn lên với nhiều tình cảm chất chứa, dễ xúc động trước sinh ly tử biệt, không thể cầm lòng được. Tôi lặng người trước cái chết của người lính trẻ vừa rồi. Tiếng khóc than của người mẹ làm tôi mất tinh thần. Khi người ta thay xong tấm vải, tôi định bỏ đi, nhưng tình cờ nhìn sang giường kế bên. Một người lính bị băng bó kín đầu, để hở hai con mắt, cái mũi, và miệng. Thân anh ta đắp một tấm vải mầu kaki. Khi thấy tôi gần, anh nhìn tôi bằng đôi mắt lờ đờ như vô thần. Tôi hỏi thăm:
    - Anh có khoẻ không?
    Anh không trả lời tôi mà hỏi lại:
    - Nó đi rồi hả, cô? Thằng nhỏ đi rồi hả?
    - Đã. Còn anh khoẻ không?
    - Việt Cộng… cái kiếp chó đẻ này.


    Anh thương binh vừa chửi thề vừa quờ quạng cánh tay lên thành giường làm cho giường rung rinh, rồi hậm hực nói:
    - Mắt đui a? Giò tui cụt, cổ tui gãy, làm sao mà khoẻ được!.


    Nghe anh nói, tôi mới biết anh bị thương nặng như vậy.


    Tôi không biết nói gì với người thương binh này, và bước nhanh ra cửa. Ra khỏi khu đó, thấy có một nhà thờ nhỏ trong sân nhà thương, tôi rón rén bước vô. Tôi biết biết nói gì với Chúa đây? Một đứa con của Chúa vừa chết yểu; một đứa đang giẫy giụa vì những vết thương trầm trọng. Tôi chợy nhớ lại lời của ông ngoại tôi hồi nào: “Chúa thương yêu các con của ông, nhưng ông không có xen vô chuyện của mình ở đây”.

    Comment


    • #17
      Chương 18


      Ở đời, tôi đã trải qua nhiều nỗi đau buồn, lo sợ. Vậy mà khi nghe tin chị Yvonne bị công an bắt, tôi sợ run, như một góc nhà của tôi đổ sập. Chị Yvonne là người con thứ sáu của cậu Tư Diệp, anh của má tôi. Mợ Tư qua đời chừng hai năm trước ngày cậu tập kết ra Bắc cùng với ba tôi và cậu Chín Thuỷ.
      Chị Hai Yến là con chim đầu đàn của bảy người con của cậu Tư. Chị là một cô giáo trường làng ở Cái Cui; trường do một chương trình của viện trợ Mỹ. Chồng chị Yên đi tập kết. Anh là Nguyễn Hoàng Phát, sau này cầm đâu trận tấn công vô Cần Thơ vào ngày Tết Mậu Thân. Gia đình tôi biết chị Yvonne đang bị giam ở bót công an trên đường Ngô Quyền, cách nhà chị Yên vài mét. Đó cũng là nơi chị Yvonne ở, để đi học và hoạt động. Mặt trận ra chỉ thị cấm không ai được đi thăm chị. Gia đình chúng tôi quây quần bên nhau trong lo sự. Tôi biết, trong gia đình tôi mỗi người có một mối lo sợ khác nhau. Riêng tôi, tôi có cảm tưởng cả bầu trời trên đầu chúng tôi nặng nề đầy mây xám, báo trước một cơn giông bão sắp đổ ập lên đầu. Tất cả chúng tôi đều im lặng, chờđợi. Tôi thầm tự hỏi, rồi cơn bão sẽ cuốn đi những cái gì, và còn lại gì không?


      Ngày chị Yvonne ra toà, không một ai trong gia đình chúng tôi có mặt. Chị bị kết án 5 năm.


      Năm năm! Dù chị và tôi không chung một lý tưởng, nhưng mang tình bà con ruột thịt, tôi đau đớn từng thớ thịt, khi tôi nghĩ tới cửa nhà tù, nơi mà chị sẽ bị giam giữ suốt năm năm. Tôi nhắm mắt cố hình dung ra chiều dài của quãng thời gian đó. Suốt bậc tiểu học là năm năm, tức 1.825 ngày, 43.800 giờ và hơn hai triệu rưỡi phút. Trời ơi! Chị sẽ làm gì trong chuỗi ngày đó trong tù? Nếu người ta xúc phạm tới tiết trinh của chị, tôi tin chắc chị sẽ cắn lưỡi tự tử, chớ không chịu nhục. Tôi cầu trời để chị được yên thân trong những ngày buồn tủi, cô đơn trong tù. Tôi vái van cho má chị, ông ngoại, bà ngoại linh thiêng, về phù hộ cho chị.


      Một hôm, một người đàn ông là ghé tiệm may, đưa cho má tôi một bức thơ. Mọi người đều nhận ra ngay chữ viết của chị Yvonne. Má tôi vội đem thư vô buồng đọc. Tất cả đi theo, rồi chuyền tay nhau đọc lá thư ngắn ngủi của chị. Chị viết: “Khi nào mọi người đọc được thư này, có thể người ta đã sửa soạn đưa tôi ra ngoài đảo. Đừng lo cho tôi. Đừng thăm viếng. Tôi sẽ không nhận bất cứ một cái gì từ bên ngoài gửi vô. Hay giữ gìn sức khoẻ”.



      Tôi biết chị Yvonne muốn bảo vệ gia đình và tổ chức và không cho ai vô thăm nuôi. Đó là hảo ý của chị, nhưng tôi, tôi không thể làm ngơ được. Dù khác chính kiến, tôi là em của chị, không nỡ để chị ra đi mà không có một lời giã từ hay một lời hứa hẹn. Ông nội của chị là ông ngoại của tôi. Chị dậy tôi viết chữ hoa, xài mực tím, theu point de croix. Lúc còn sống chung với nhau, đi học với nhau trong trường làng.


      Tôi không muốn má tôi lo, nên đã lén đi thăm chị. Đề phòng bắt trắc, tôi tiết lộ cuộc viếng thăm này cho một mình Hải Vân biết. Nếu chẳng may không thấy tôi về, nó phải đến chỗ cậu Hai Định, ba của anh Nguyễn Hồng Tuyền, một sĩ quan không quân lúc bấy giờ. Tôi dò hỏi mấy thầy đội trong phòng giam, được biết những tù nhân sắp bị đầy ra đảo bị nhốt trong khám lớn, bên cạnh dinh tỉnh trưởng Cần Thơ.


      Tôi chuẩn bị một vài thứ cần thiết để đem vô cho chị, nhưng tôi đã hoàn toàn thất vọng, vì chị cương quyết không muốn gặp tôi. Vì vậy, không một ai trong gia đình tôi thấy mặt chị, cho tới ngày chị mãn tù sau đúng năm năm. Trong thời gian ở đảo, chị được coi là một tù nhân “gương mẫu”. Nhưng tôi bằng người ta chỉ có thể cầm tù cái thân chị, chớ không tiêu diệt tinh thần của chị. Dù sao cũng phải công nhận rằng chị là một con người can đảm. Khi ở trong tù, chị vẫn hoạt động. Chị kết nạp đồng chí và dần móc nối với những cán bộ cộng sản, chờ ngày được trả tự do, lại tiếp tục tranh đấu. Rồi cũng như ba của chị, khi được tự do chị “mạnh” hơn trước và trưởng thành. Chị bình tĩnh tiếp tục công cuộc “chống Mỹ cứu nước”. Từ khám lớn Cần Thơ chị đi bộ về nhà chị Hai Yến ở đại lộ Ngô Quyền, rồi sau đó đi thẳng vào mật khu.


      Chị Yvonne bị tù, nhưng tinh thần chị được tự do, thoải mái. Trong khi đó, tôi lại bị ám ảnh về nỗi đau khổ của chị. Người xưa nói “Nhứt nhựt tạt tù, thiên thu tại ngoại”. Thế mà chị bị giam suốt năm năm dài. Tôi có cảm tưởng chính tôi mất tự do hay ít ra tự do của tôi cũng đi đe doạ. Với tinh thần khủng bố đó tôi bấy giờ chán việc làm, không còn thích viết những bài mang tính cách tuyên truyền nữa. Hậu quả của cuộc khủng b này là mấy bài bình luận của tôi “mất hẳn sắc bén”. Một lần thiếu uý Nam tỏ vẻ bực mình, hỏi tôi:
      - Cô đang yêu hay thất tình?
      Tôi ngạc nhiên nhìn ông, không nói gì. Ông nói tiếp:
      - Bái cô viết bệt lắm đó… Chuyện tinh phải để ngoài công việc, nghe cô!


      Nghe ông nói vậy, tôi giựt mình vì chưa yêu ai, mà cũng chẳng có ai xứng đáng để tôi thất tình. Có một người con trai đi sau lưng, đi trước mặt, đi bên bên cạnh tôi mấy tháng này, không biết ba tôi đi tập kết, anh ta giận, rồi tôi không còn bận tâm nữa. Ba không có ở nhà, ông bà đã về với tổ tiên, vườn đất vào tay Việt Cộng, bạn bè có người chết trận, có kẻ trốn lính. Trốn không được, đã có cậu phải đi Quang Trung hoặc bị đi Thủ Đức. Bạn gái thì có đứa lấy chồng, có đứa lên Sài gòn học tiếp, có đứa ra bưng “chống Mỹ cứu nước”. Tôi hoàn toàn bơ vơ. Tôi nói với thiếu uý Nam cho tôi viết tin tức một thời gian nữa. Ông chấp thuận ngay.


      Một thời gian ngắn sau khi tôi vào làm cho Phòng V quân đội, đại uý Thịnh được lên thiếu ta. Chúng tôi chưa kịp ăn mừng lên lon, đã nghe tin ông được đổi về Sài gòn. Đại uý Nguyễn Văn Chánh từ Sài gòn xuống thay thế.


      Sau đó vài ngày, vào một buổi sáng, tôi vừa ngồi xuống bàn thì có tấm giấy mời lên phòng nhì “lập tức”.


      Phòng II đối diện với Phòng V, chỉ qua con đường lót sỏi trong trại Lê Lợi. Trong khi đi tới phòng nhì dưới ánh nắng chói chang, tôi tự trấn an không việc gì phải sợ hay hoảng hốt, nhưng khi nhìn thấy hai chữ “Phóng II”, cô tôi khô và miệng tôi đắng ngắt. Nhưng tôi vẫn thầm tự nhủ: “Việt Cộng mình không sợ, sao lại sợ Phòng II”.
      Tại đây, tôi được gặp trung uý Chương. Ông chỉ ghế cho tôi ngồi rồi tiếp tục đọc tập tài liệu dầy cộm trên bàn viết. Tôi ngồi đợi ông chừng hai mươi phút. Tôi nhớ lời má dậy phải kiên nhẫn để đạt tới điều mình mong muốn, và cũng để dằn sự lo sợ vừa nảy sinh trong lòng. Chị Yvonne đi tù năm năm vì chị theo Việt Cộng. Bây giờ phòng II gọi tôi tới để điều tra, nhưng tôi theo quốc gia. Đó là khác biệt giữa tôi và chị. Không biết trung uý Bắc kỳ này co hiểu được sự khác biệt đó không? Người Bắc kỳ có hiểu nổi tâm trạng của người Nam không?


      Khi trung uý Chương ngẩng lên nhin tôi, mặt ông nghiêm trokng, nhung tôi nhận ra ngay cái vụng về của một người mới học diễn xuất. Ông bỗng cất tiếng hỏi một cách sống sượng:
      "Này, cho tôi biết Đặng Văn Quang là ai?
      Tôi bình tĩnh đáp:
      - Ông Đặng Văn Quang là ba của tui.
      - Cô chắc không?
      - Tui hổng hiểu câu hỏi của ông.
      Tôi đối đáp bằng một giọng nói nhà quê Nam kỳ để đối lại giọng Bắc kỳ của ông.
      - Khai sanh của cô ghi là "Cha vô danh" - Ông gay gắt nói.
      - Ông Đặng Văn Quang là ba của tui. - Tôi nhỏ nhẹ nhắc lại câu trả lời cũ.
      - Đặng Văn Khôi la cai gì của cô?
      - Là anh ruột tui.


      Trung uý Chương đưa cho tôi một tờ giấy và một cây viết, rồi nói như ra lệnh:
      - Cô ghi địa chi của mấy người này cho tôi.
      Tôi liếc nhanh tờ giấy rồi trả lời:
      - Tui hổng có địa chi của họ, thưa ông.
      Trung uý Chương bỗng ngồi thẳng người lên rồi nạt tôi:
      - Láo! Cô nói láo!"
      - Tại sao ông dám nói tui nói láo?
      Tôi là con gái mới lớn lên, chưa hề nạt nộ ai, mà cũng chưa bi một người đàn ông nạt nộ bao gờa. Nay ông trung uý này nạt nộ to tiếng, khiến mặt tôi nóng lên. Tôi cho rằng ông ta là người thô lỗ, thiếu lịch sự. Tôi không còn nể nang, sợ sệt nữa. Muốn lấy lại bình tĩnh, tôi thầm đếm ngược: "Mười, chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một”.


      Trung uý Chương đập mạnh tay lên bàn khiến cây viết nảy lên, rơi xuống đất, rồi la lớn:
      - Trả lời câu hỏi của tôi lên giấy ngay!


      Tôi bỗng nhớ lại một chuyện cũ từ hồi còn ở trong chiến khu chống Tây. Một nông dân bị tình nghi là Việt gian, ngồi trước mặt người làm việc dưới quyền ba tôi. Lúc đó, tôi mới năm tuổi, còn Hải Vân lên hai. Chi giữ em hối thúc chị em tôi ăn cho xong bữa để đi coi "Việt gian" đang bị điều tra. Thì ra, khi thì kiến ăn cá. khi thi cá ăn kiến. Trước kia, ba tôi là cá sống, bây giờ tội lại trở thành kiến rớt xuống sông, trước một con con cá mang lon trung uý. Đúng là cái nợ đồng Iần. Nghĩ vậy, tôi sửa soạn tinh thần để đối phó với ông trung uý này. Tôi bình tĩnh nói:


      - Tui hổng có địa chỉ của ba tui, mà cũng hổng có địa chỉ của của anh tôi nữa.
      - Họ có bảo cô nói láo nhà cầm quyền không? - Trung uý Chương gằn giọng hỏi. Tôi chưa kip trả lời, ông đã quát to:
      - Trả lời tôi ngay!
      Tôi bình tĩnh đáp:
      - Hổng cô ai xúi biểu tôi điều gì hết.
      - Láo! Cô đừng có nói láo với tôi! Lần chót cô được tin tức của ba cô và anh cô là hồi nào?
      Tôi bấm đốt ngón tay, rồi đáp:
      - Đã chín năm rồi, thưa trung uý.
      - Cô nhận được mấy cái thư của họ?
      - Dạ, không có một cái nào hết"
      - Cô có chắc không?
      - Chắc.
      - Thế là bố cô hết thương mẹ cô và chị em cô kể từ ngày ông gia nhập đảng cộng sản?


      Câu nói này tôi không bao giờ muốn nghe chút nào, vì tôi lo sợ cái ý nghĩ đó vô cùng. Không biết vô tình hay cố ý, trung uý Chương đã đụng chạm tới cái điều thiêng liêng nhất trong gia đình tôi. Thế là tôi nghe mặt nóng bừng vì giận. Tôi muốn đứng bật dậy để chửi thẳng vào mặt ông, nhưng tôi chợt nhận ra tình huống khó khăn của mình, của một con cá đang naằ trên thớt. Rủi người ta chặt tôi một nhát, rồi liệng tôi cho cả lớn ăn thì sao? Rồi tôi sẽ không bao giờ có thể gặp lại má tôi nữa thì sao? Tôi nắm chặt thành ghế để nén giận, cố gắng trả lời một cách bình tĩnh:
      - Tui nghĩ là ba tui có viết thơ cho gia đình, nhưng thư không tới tay gia đình tui.
      - Cô có thưong ba cô không?


      Tôi mỉm cười. Lần đầu tiên tôi nhìn thẳng vào mắt viên sĩ quan, đáp:
      - Dạ, tui thương ba tui nhiều lắm.
      - Dù ông ấy không viết thư cho cô và cho má cô 9 năm trời. Những người có chống, có cha ở ngoài Hà Nội đã nhận được thư của người thân của họ, cô có biết vậy không?
      - Họ may mắn hôm tui. - Tôi nói nhỏ.


      Như một con chó săn, trung uý Chương giờ trò siết cổ con mồi:
      - Theo hô sơ lý lịch này, thì bố cô mới có 55 tuổi, còn trẻ có quyền hành trong tay, chắc ông phải nổi tiếng ngoài ấy lắm. Nổi tiếng mà độc thân thì không biết bao đàn bà con gái sắp hàng chờ đợi. Cô có hiểu ý tôi nói không?
      Tôi bèn lớn tiếng là:
      - Ông đã xúc phạm tới danh dự gia đình tui!
      Trung uý Chương làm ngơ trước lại phản đối của tôi, tiếp tục nói:
      - Cô hãy trả lời câu hỏi của tôi. Cô có nghĩ là ba cô bây giờ đã có một người đàn bà khác không?
      Tôi hậm hực hỏi lại:
      - Ông muốn tui nói cái gì?
      - Cô là con gái cưng của ba cô. Chắc cô sẽ ngoan ngoacn nối gót bố cô chớ gì?
      - Tui hãnh diện vì ba tui lắm, nhưng tui không nối gót được.
      - Như vậy cô là đứa con mất dậy.
      Tôi thản nhiên chấp nhận:
      - Việt Cộng chê tui là đứa con bất hiếu. Ông biểu tui là con mất dậy. Nhưng tui chỉ hành động theo lương tâm của chính tui thôi, thưa ông.
      - Mà tại sao có không đi theo con đường của bố cô?


      Tôi trả lời chậm rãi và rành rọt từng tiếng:
      - Tôi có thể cho ba tui một cánh tay, một cái chân, một lá gan, một trái thận, hay cả cuộc đời tui, nhưng tui không bao giờ dâng cho cộng sản linh hồn của tui, dù người đó là ba tui.


      Trung uý Chương cười nhạt:
      - Cô nói láo giỏi đây. Nào, bấy giờ cô cho tôi biết ai đã giao công tác cho cô làm việc tại Phòng V?


      Vừa nói ông vừa đi vòng quanh cái bàn tôi ngồi, nlur con thú dữ bao vây, doạ nạt con mồi. Khi ông đi sát tôi quá, mùi đâu thơm làm tôi bực mình. Cả cái cứ chỉ phách lối và cái giọng Bắc vẻ nhà quê cũng làm tôi khó chịu. Tôi đã ở trong rừng sâu nước độc với thợ củi, thợ làm than, với dân đánh cá, với những người nuoi gà vịt, với bộ đội của Việt Minh, và với những tù nhân, tôi chưa bao giờ gặp ai có những lời nói, cứ chỉ thô bỉ như ông trung ý này. Nhưng tôi vẫn phải bình tĩnh trả lời:
      - Tôi không biết tuân lịnh, mà cũng chưa bao giờ học cách tuân lịnh ai.


      Trung uý Chương trở lại bàn giấy của ông, rồi cầm một xấp ảnh thẩy lên mặt bàn trước mặt tôi, ra lệnh:
      - Coi kỹ những bức ảnh này, rồi cho tôi biết họ là những ai?


      Tôi thấy tự ái bị xúc phạm nặng nề, nhưng tôi vẫn phải cố nén giận, giữ bình tĩnh. Tôi liếc nhìn xấp hình, thấy ngay đó, hình tôi ngồi trên xe bus, hình trên xe Lambretta đi về Bang Thạch thăm ông bà ngoại. Có một tấm hình tôi đi Cái Răng mua bánh mì Lý Ngầu với một thằng nhỏ cùng trường; anh nó là một Hiến binh. Tôi cũng nhận ra hình vườn ổi với sáu đứa bạn chụp ngày bãi trường năm 1963. Tôi kể tên đứa bạn trong tấm hình này, nhưng trung uý Chương không chú ý tới tên của bạn tôi, mà ông muốn biết những hành khách trên xe Lam hay xe bus là những ai. Làm sao tôi biết họ được, vì họ là những hành khách xa lạ đối với tôi, chỉ tình cờ gặp trên xe mà thôi. Nhưng trung uý Chương không tin tôi. Người của ông theo dõi tôi và những người hành khách này.


      Bấy giờ tôi mới biết, tôi bị cả Quốc gia lẫn Việt Cộng theo dõi. Tôi thầm nghĩ, mình có làm gì quan trọng đâu mà sao người ta tốn công chú ý tới mình như vậy? Lúc học ở trưởng tiểu học Cần Thơ tôi chỉ là chân sai vặt của bà hiệu trưởng, đến các lớp đọc chỉ thị của bà cho học trò nghe. Lên trường trung học Phan Thanh Giản, tôi được thầy Trần Ngọc Nhung cho làm trưởng ban thể thao. Trong khi đó, chị Hiệp, trưởng lớp, bắt tôi làm trưởng ban quét lớp. Sau đó, tôi được “thăng quan tiến chức” lên làm trưởng ban trật tự. Những “chức” này tôi giữ không lâu vì hay nói chuyện trong lớp, bị mấy thầy cho đi “công-xin” nhiều lần, nên phải trở lại làm học sinh quèn. Vậy mà cả một bầy cá mập lội theo tôi hoài?


      Tôi đang suy nghĩ trong im lặng, một sự im lặng nặng nề, thì trung uý Chương bất ngờ cho tôi về Phòng V để làm việc. Tôi biết ông rình, nên tôi đi thằng về văn phòng của mình. Rồi buổi trưa hôm ấy, tôi như con mèo mắc mưa, ngồi nghe tim mình đập trong lòng ngực, mà không sao tập trung tư tưởng được. Đến đêm, tôi không ngủ được, vừa lo lắng vừa nghĩ ngợi, đầu óc rối beng. Tôi biết rằng buổi gặp gỡ sáng này giữa tôi và trung uý Chương chỉ mới bắt đầu; rồi sẽ còn có nhiều buổi nữa.


      Đúng như tôi đoán, sáng hôm sau, phòng nhì lại kêu tôi nữa. Lại cũng như hôm qua, trung uý Chương thẩy xấp hình lên bàn. Nhưng hôm nay, xấp hình không cột dây thung, nên hình văng đầy mặt bàn. Rồi ông tằng hắng, hạ thấp giọng, bắt đầu hỏi những câu hỏi mà tôi nghĩ ông đã biết câu trả lời qua điều tra của sở Bốn.


      Cuộc thẩm vấn sáng này kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ. Tôi vừa hồi hộp vừa lo sợ lại thêm cái bụng đói vì từ sáng chưa có miếng nào dằn bụng. Đến gần trưa, tôi bắt đầu buồn nôn. Trong thâm tâm, tôi muốn mửa ngay trong văn phòng, trước mặt trung uý Chương cho đã giận. Nhưng tôi chơi nghĩ đến Hải Vân, em của tôi. Nếu biết được cử chỉ thiếu lịch sự này, em sẽ trách tôi không biết chịu đựng. Tiếng giầy của ông trung uý vang lên trên sàn gạh trong căn phòng im lặng, làm tôi càng hồi hộp thêm, rồi thình lình ông đứng khựng lại ngay cạnh tôi, nói bằng giọng đe doạ:
      - Tôi xẽ gọi cô trở lại đây, nhưng chưa biết ngày nào. Thôi, cô về đi!


      Tôi nửa muốn chạy ra khỏi cái văn phòng hắc ám đó ngay, nhưng nữa muốn ông tiếp tục thẩm vấn tôi cho đến hết, dài và lâu cũng được. Tôi muốn cho xong đi, vì mỗi lần bị phòng II gọi là mỗi lần tôi bị nhân viên trong phòng V chú ý. Mấy chị xù xì với nhau. Tôi coi chuyện này như một món nợ phải trả. Rồi khi thấy trung uý Chương không có ý giữ tôi thêm nữa, tôi đành trở về Phòng V để làm việc. Nhưng từ phút đố tôi tưởng tượng ra những chuyện thật kinh khủng có thể xảy ra cho tôi. Biết đâu có một ngày nào đó tôi sẽ bị trung uý Chương treo ngược tôi lên nóc nhà, rồi đổ nước vô mũi tôi để biết nhận hết cả những điều tôi không biết hay không nói. Nếu tôi không khai (vì có biết gì đâu mà khai!) ông bắn vô đầu tôi, để mặc cho máu chảy ra hết. Một con bạn học cũ của tôi làm việc cho Ty Công an trên đường Ngô Quyền thường kể cho tôi nghe những đòn tra tấn khủng khiếp của các công an đối với các cán bộ Việt Cộng, nhất là các nữ cán bộ. Nghe nói họ treo ngược mấy cô lên, rồi nhét nước đá. Không một ai chịu nổi, nên phải khai hết. Không lẽ trung uý Chương sẽ dùng biện pháp đó với tôi?


      Tôi cũng còn nhớ lời khuyên của bà ngoại: “Tuỳ cơ mà ứng biến”. Hoàn cảnh hiện tại, tôi biết ứng biến ra sao đây? Từ đố tôi ăn ngủ không yên. Lúc nào tôi cũng hồi hộp lo sợ. Vậy mà tôi không dám hở môi cho ai biết, tôi giấu luôn cả má tôi, vì không muốn bà lo sợ lây; bà đã có cả hàng trăm hàng ngàn mối lo, ông bà ngoại tôi qua đời, nguồn tiếp tế chánh đó bị dì Bảy chia cho các cán bộ Việt Cộng hết. Ngoài ra, má còn lo ăn học cho bốn đứa con và hai đứa cháu nữa. Hàng ngày má tôi phải làm việc tới khuya mới đi ngủ. Hậu quae của sự làm việc vất vả và lo nghĩ nhiều là bịnh đau bao tử. Bác sĩ cho biết má tôi đã mắc bịnh này. Vì vậy, tôi không thể cho bà biết chuyện khó khăn của tôi ở sở.
      Tôi đành tự gồng mình lên để chịu đựng. Tôi tin là tôi có đủ nghị lực làm việc này. Không ai có thể hiểu tôi bằng tôi; mà cũng không ai dám tin tôi bằng tôi tự tin. Nghĩ như vậy, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Tôi bèn ghi vào nhật ký của tôi như sau: “Mảnh đất này thuộc quyền sở hữu của tôi và của tất cả những người yêu nước, cũng như mặt trời là của những mảnh đất phì nhiêu và của những bàn tay nông dân. Không ai có thể phủ nhận được điều này.


      Mấy ngày sau đó, tôi lại phải ngồi trước mặt trung uý Chương. Lần này ông có vẻ bồn chồn và nghiêm túc hơm, tôi ngạc nhiên khi nghe ông giở lại giọng Bắc ra nói chuyện với tôi, dù lần trước ông nói giọng Nam. Nhưng, với giọng nào ông không bẻ gẫy được cây tre ốm yếu này, ông bắt đầu:
      - Sao, có đã nói với mẹ cô vẻ cuộc gặp gỡ giữa tôi và cô chưa?


      Tôi nhún vai, đáp bằng một giọng phách lối, như để tự trấn an:
      - Tôi thấy không cần phải nói cho má tôi biết. Tôi không có thói quen kể lại những chuyện xảy ra ở ngoài đường cho gia đình biết.
      Ông trung uý chớp mắ như đang suy nghĩ một điều gì, rồi nói:
      - Tất cả đàn ông trong gia đình cô theo cộng sản. Trong nhà bây giờ chỉ có đàn bà và con nít thôi, phải không?
      Tôi mỉm cười, đáp:
      - Sẽ có một người đàn ông trong gia đình tôi khi em tôi lớn.
      Tôi cũng ngạc nhiên về giọng hãnh diện của tôi khi tôi nhắc đến Hải Vân. Trong khi đó, trung uý Chương có giọng nghi ngờ:
      - Làm sao có dám nói chắc như vậy? Nó là trẻ con?


      Tôi bình tĩnh đáp:
      - Bởi vì tôi biết chúng tôi là ai. Chỉ có ông là người không muốn biết về gia đình tôi thôi. Cộng sản thường nghĩ rằng đứa con của các cán bộ cộng sản sẽ trở thành cộng sản như cha mẹ nó. Nhưng rồi họ sẽ thất vọng đối với chị em chúng tôi.
      - Em trai của cô bấy giờ ở đâu?
      - Nó ở với chị tôi trên Sài gòn để được yên tâm học hành.
      Tôi trở về Phòng V làm việc trước những cặp mắt tò mò đang nhìn tôi. Tôi cảm thấy khó chịu, và nghe như có khoảng cách giữa họ và tôi rộng thêm chút nữa.
      Một hôm, trung uý Phước, người bạn duy nhất của tôi ở phòng V, mời tôi xuống câu lạc bộ uống café. Trong khi nói chuyện, tôi cho ông biết tôi đang gặp khó khăn với phòng II. Ông tỏ ý muốn giúp tôi giải quyết những khó khăn đó, nhưng tôi dứt khoát từ chối. Ông đã giúp tôi xin được việc làm ở đây, thì tôi có bổn phận phải bảo vệ việc đó. Trung uý Phước khuyên tôi:

      - Đừng có thọc tay vô miệng cọp.


      Tôi chỉ cười và im lặng. Nhưng trong bụng tôi thầm nghĩ trung uý Chương chỉ là một con mèo rừng, chưa đủ khả năng trở thành cọp. Tuy nhiên, ngay lúc này, mèo rừng cũng có thể làm đời tôi điêu đứng.


      Một đêm, không ngủ được, tôi xuống bếp lục nồi tìm đồ ăn, khi má tôi còn đang ngồi may. Trong một giây phút yếu lòng, tôi cho bà biết việc tôi đang bị phòng II điều tra. Má tôi chăm chú nghe tôi kể, rồi bà bình tĩnh nói:
      - Con nên kiếm người người nào sẵn sàng tin con, chớ đừng có bảo đảm với người chú tâm buộc tội mình. Con phải tìm gặp ông nào lớn nhứt của ông trung uý đó. Thằng trung uý nó muốn ăn hiếp con của Việt Cộng để lên đại uý.
      Tôi chợt thấy con đường mới hiện ra trước mặt. Lời khuyên của má tôi thật hợp lý. Từ lâu tôi giấu bà vì không muốn làm bà buồn lòng, lo lắng, trong lúc bà có quá nhiều việc phải lo. Nhưng tôi quên rằng má tôi là một người can đảm và tháo vát, với bản tánh rất cương nghị. Một mình bà vừa làm mẹ, vừa làm cha trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn của đất nước. Tôi muốn bảo vệ má, trong khi tôi kg một khí giới nào trong tay.
      Lời khuyên của má tôi làm cho tinh thần tôi lên cao như diều gặp gió. Từ ngày gặp trung uý Chương, chưa bao giờ tôi vui như đêm hôm đó. Tôi ngủ một giấc ngon lành tới sáng,


      Sáng hôm sau, với tâm hồn thanh thản, tôi đi làm sớm để tìm gặp trung uý Phước. Nhờ ông, tôi biết giám đốc Sở Bốn An ninh quân đội là đại uý Trần Duy Bính, ông là người Bắc di cư, theo Thiên Chúa giáo. Tôi vội xin gặp ông ngay. Nhưng muốn gặp một ông giám đốc, nhất là giám đốc an ninh quân đội, đâu phải chuyện dễ. Tôi phải ghi tên tuổi và lý do. Cái tên Trần Ngọc Dung không nói lên được điều gì hết. Muốn cho ông giám đốc đặc biệt chủ ý, tôi phải ghi vào mục lý do: “Con gái của Đặng Văn Quang”. Tôi còn nói với nhân viên văn phòng, là tôi có tin mật muốn nói riêng với đại uý giám đốc. Quả nhiên, tôi đi được mời vào văn phòng ông giám đốc.


      Đại uý Bính trạc ngoài 30 tuổi. Tóc ông chải brillantine đen mượt. Bộ quân phục của ông được ủi thẳng nếp, ngay ngắn, không nhàu nát như bộ quân phục của thiếu uý Nam, ông xếp tôi. Tôi nghe thoáng mùi nước hoa cologne đặc biệt và mùi thuốc thơrn. Một tay cầm ống điếu, một tay ông đưa ra bắt tay khi tôi vừa bước vào phòng. Cặp mắt sáng của ông làm tôi hơi bối rối. Nhưng ông cười nói cởi mở, làm cho bầu không khí bớt căng thẳng ngay. Sau mấy câu xã giao, tôi đi thẳng vào vấn đề ngay:
      - Thưa đại uý, tôi tin là đại uý biết tôi đang bị điều tra.
      Ông trả lời:
      - Tôi chưa được báo cáo kết quả.


      Giọng Bắc của ông nghe hay hơn giọng Bắc của trung uý Chương. Là dân Nam kỳ nên tôi không biết ai ở tỉnh nào xứ Bắc.
      Tôi có hết sức bình tĩnh nói:
      - Thưa đại uý, theo ý tôi, cuộc điều tra này không giông như những cuộc điều tra lý lịch nhân viên khác trong phòng V.
      Thật ra, tôi cũng không nghe nói có nhân viên nào cùng làm việc với tôi bị điều tra cả, những cứ nói liều để chứng tỏ tôi bị đối xử khác biệt.
      Đại uý Bính chậm rãi trả lời:


      - Trung uý Chương cho tôi biết là ông ta sẽ hỏi cô về ba cô.
      - Thưa đại uý, ông ấy biết về ba tôi nhiều hơn tôi biết về ba tôi, nhưng thật sự ông không điều tra ba tôi, mà có ý buộc tôi về cái tội nằm vùng! Điều đó rõ ràng cố tìm cách vu cáo và doạ nạt.


      Tôi nói bằng một giọng trách móc, giận hờn, khiến đại uý Bính có vẻ khó chịu. Nhưng tôi nghĩ rằng có thể ông hiểu người Nam chúng tôi là những người thật thà, chất phác và ngay thẳng, nghĩ gì cứ nói toạc ra hết. Vì vậy, tôi nói tiếp:


      - Thua đại uý, đây là xứ sở của chúng tôi, nơi chôn nhau cắt rún của người miền Nam. Tôi là con dân của đất Cần Thơ, Chánh phủ quốc gia có bổn phận phải tôn trọng quyền làm dân của tôi chứ. Vì vậy, không nên khơi khơi két tội mà không có một bằng chứng cụ thể nào, như trung uý Chương đang làm. Đó là một hành động ăn hiếp dân hiền lành vô tội như tôi trong mấy hôm nay.

      - Trần Thị Tố Loan có phải bà con của cô không? - Bất ngờ đại uý Bính hỏi, tôi bình tĩnh trả lời:
      - Dạ, chị ấy là bà con cô cậu của tôi.
      - Tôi có gặp cô ấy sau khi cổ bị bắt. Một người con gái quá lì lợm! - đại uý Bính lắc đầu.
      - Chị tôi bị kêu ăn 5 năm tù!


      Tôi nhìn thẳng vào mặt ông, rồi chậm rãi nói:
      - Thưa đại uý, tôi tin rằng qua các cuộc điều tra và các hồ sơ An ninh đang có, đại uý đủ biết hết về gia đình, bà con của tôi. Tôi xin cam đoan với đại uý là tôi vô tội. Tôi không phải Việt Cộng mà tôi cũng không phải là tay sai của cộng sản. Vậy, xin đại uý giúp tôi.
      Tôi nói vừa thầm khấn Trời, Phật phù hộ cho tôi.
      Đại uý Bính yên lặng nghe tôi nói, rồi chợt hỏi:
      - Cô có thích việc làm của cô ở Phòng V không?


      Tôi không dám nói thật dù thích muốn chết, sợ người ta nghi ngờ, mà sợn nói một tiếng “dạ” không thôi thì lại sợ không đủ, rủi họ đề nghị làm việc khác thì sao? Nhưng tôi biết nói gì bấy giờ? Tôi còn nhỏ quá, mà hành trang vào đời của tôi lại nhẹ tâng, chỉ có mấy lời giáo huấn của ông bà tôi, ba má tôi… Nào là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, nào là lòng ái quốc, nào là cách cư xử với bà con trong làng Bang Thạch…
      - Cô có còn tin tưởng ở Quốc gia sau khi chị cô bị bắt không? - Đại uý Bính hỏi.
      Tôi đáp ngay:
      - Thưa đại uý, tôi thương chị tôi lắm, nhưng lời biết, thời gian trong tù chỉ là một trở ngại nhỏ cho bước đi lớn của chị. Đối với tôi, chị là chị Tố Loan, mà tôi vẫn là tôi, người tin ở Quốc gia.


      Ông đứng dậy trong khi tôi vẫn ngồi yên trên ghế, rồi nói:
      - Được rồi, tôi sẽ nói chuyện với trung uý Chương.


      Đại uý Bính tiễn tôi ra cửa. Ra khỏi sở An ninh quân đội II tôi thấy đời thật đáng yêu, đáng sống; lòng tôi nhẹ như được cất cánh. Tôi vội vàng về nhà báo tin mừng cho má hay. Trước khi gặp đại uý Trần Duy Bính, tôi cứ tưởng ông công an nào cũng có nanh, có vuốt. Ngược lại, đại uý Bính có hàm răng trắng thật đẹp và nụ cười thật hiền.
      Sáng hôm sau, khi tôi vừa bước chân vô sở, đã thấy thiếu uý Nam có mặt trước mọi người như thường lệ. Sự có mặt rất sớm của ông khiến tôi đôi khi thắc mắc, không biết ông có về nhà ngủ, hay ông ngủ luôn trong văn phòng vì có máy lạnh.


      Vừa thấy mặt tôi, thiếu uý Nam đưa cho tôi một tờ giấy hồng. Khỏi nói, tôi cũng biết cái gì đang chờ đợi tôi từ sáng tới giờ. Đó là lệnh “trình diện tại văn phòng trung uý Chương ngay lập tức!”. Chữ viết tay của đại uý Chánh. Buổi gặp đại uý Bính khiến tôi bạo dạn ngồi xếp tờ giấy mầu hồng thành chiếc máy bay, rồi cho bay vô thùng rác. Thiếu uý Nam trợn mắt nhìn tôi, nói:
      - Con trai của Chúa Jesus đòi gặp cô mà!
      Tôi dí dỏm đáp:
      - Nhưng con gái của Chúa Jesus hôm nay bận việc.
      Tôi vừa nói vừa nhìn vào chồng tin tức mà thiếu uý Nam lấy từ bên trung tâm hành quân về, rồi tiếp:
      - Con trai của Chúa đành phải chờ bữa khác vậy.
      Thiếu uý Nam ngạc nhiên nhìn tôi một lát, rồi lắc đầu, trở về bàn làm việc của ông.


      Những ai trong văn phòng biết chuyện tôi đang bị điều tra hồi hộp chờ xem tôi lăn lóc trong bão tố, rồi sẽ trôi giát đến đâu. Còn tôi, tôi cũng mệt lả người, nên suốt ngày hôm đó tôi không tập trung được tư tưởng. Ngoài mặt tôi giả bộ bình thản, nhưng ý tưởng bụng, tôi cũng hồi hộp chờ chiếc xe thùng mầu đen đến hốt tôi đi. Nhưng ngày đi qua, đi qua một cách êm ả như tỉ nhỏ Cần Thơ. Rồi tới những ngày sau cũng không có chuyện gì xảy ra.
      Cuộc sống trở lại bình thường; trung uý Chương vẫn mang lon trung uý.


      Một hôm, tôi cùng trung uý Phước tới câu lạc bộ, thay trung uý Chương đang ngồi ở đó. Nhưng vừa thấy tôi, ông liền bỏ đi ngay. Tôi nhớ câu nói của Hải Vân: “Sau cơn mưa, trời lại sáng”.
      Mà trờ sáng thật. Mỗi khi đi ngang qua phòng nhì, tim tôi không còn đập như trống lảng nữa. Rồi hình ảnh trung uý Chương cũng mờ dần. “Con ma” Chương không còn theo ám ảnh tôi nữa.

      Comment


      • #18
        Chương 19

        ai giờ sáng, trời không trăng, tối đen như mực. Nhờ ngọn đèn đường leo lét dọc đường Võ Tánh, tôi chạy hết con đường dài mà tìm không được một chiếc xe lôi nào. Tôi đành liều đập cửa nhà chú “Đức xe lôi” trong hẻm ông Cả Đài, để xin chú đưa má tôi vô nhà thương. Khi chú còn lui cui đi tìm đôi dép, tôi phải chạy bay về nhà, dặn dò chị Thuận nhớ cho hai đưa em ăn đúng giờ để kịp đi học. Sau cùng, tôi viết mấy chữ nhờ một học trò của má trong nom giùm khi mà phải nằm nhà thương. Má tôi đau bụng, nhắm mắt, nằm rên khe khẽ, hai tay ôm chai nước nóng trên bụng, còn chai thuốc cốm trị bao tử cũng nằm lăn lóc trên giường.


        Luật lệ nhà thương không cho “con nít” vô phòng khám. Tôi đành đứng chờ bên ngoài, trong bụng nóng như lửa đốt. Đầu tiên tôi giận ba tôi. Bây giờ ba ở đâu? Ba “chống Mỹ cứu nước”, bỏ mặc vợ con sống lay lắt. Trong cơn nguy ngập, tôi ước gì có ba ở cạnh má, ba sẽ biết cách xoa dịu nỗi đau đớn của má. Tôi nhớ hồi năm tuổi, tôi chơi dao rồi bị đứt tay thật sâu, thịt lòi ra, vậy mà tôi không khóc, chỉ vì ba xua thuốc đỏ lên vết thương, băng lại rồi hun lên ngón tay tôi một nụ hun dài. Nhờ nụ hun này, vết thương lành rất nhanh mà lại không có thẹo. Tôi nhớ hoài nụ hun đó. Sao bây giờ ba không ở bên cạnh má, để má khỏi cơn đau ngặt nghèo này?


        Tôi đứng ngồi không yên ngoài hành lang, chỉ cách má tôi có một cái cửa, mà sao tôi thấy xa vời vợi như hai miền Nam-Bắc cách nhau con sông Bến Hải. Mỗi lần nghe tiếng má rên, tôi nôn nóng muốn nhào vô, bất chấp cả luật lệ nhà thương, nl tôi phải tự kiềm chế, không thôi người ta ghét lấy qua bịnh nhân. Tôi phải đợi một hồi rất lâu; cửa phòng mở lớn, hai cô y tá đẩy một cái giường sát, má tôi nằm trên. Vừa thấy họ, tôi hoảng hốt tưởng má tôi đã “làm sao”. Những khi định thần nhìn kỹ thấy tấm mền trắng chỉ đắp tới ngực, chớ không che kín mặt. Lúc đó tôi mới hoàn hồn. Vội chạy theo má, nắm lấy tay bà, gọi khẽ:
        - Má, con nè, mà! Mà có nghe tiếng con không?


        Má tôi chỉ đáp lại bằng một tiếng rên khẽ. Hai cô y tá đưa má vào một phòng khác, rồi chuyển má sang một chiếc giường nhỏ hơn, không có bánh xe. Trước khi bỏ đi, một người chỉ cái nút bấm trên tưởng, nói:
        - Chỉ nhấn nút này chừng nào má đau dữ dội thôi nhen.
        Tôi tự hỏi: “Con trận đau nào dữ dội như trận đau hồi khuya nữa”.
        Tôi vái trời cho tôi khỏi phải dùng tới cái nút này. Họ đi đến, rồi đẩy cái giường cũ ra khỏi phòng.
        Má tôi nằm thiêm thiếp, nhưng tay chân động đây không yên, miệng nói mê sảng không thành tiếng. Tôi nắm tay má, rồi nói:
        - Má, má còn đau lắm không?
        Má vừa rên rỉ vừa nói:
        - Má sợ quá, con ơi.


        Giây phút đó, tôi tưởng như cái cột trụ cuối cùng của nhà tôi trở thành một đống gạch vụn. Từ ngày bà tôi ra đi, chị em chúng tôi hoàn toàn trông cậy vào má. Má là người can đảm, chẳng bao giờ than thở, chẳng sợ bất cứ ai, vừa làm cha vừa làm mẹ, nuôi con thơ, cho ăn học nên người. Bấy giờ má nắm nhà thương, đau đớn đâu vì cơn bịnh, và lo sợ cho mạng của chính mình.


        Má tôi nói, giọng khàn khàn yếu ớt:
        - Con đánh dây thép cho chị Kim, chị Cương, Hải Vân hay má đau.
        Hai chị của tôi mới sang được căn phố trân lầu lâu rạp hát Kim Châu. Bác Phạm Ngọc Thảo là đồng chí cũ của ba tôi, nên đã nhiệt tình giúp đã cho hai chị được nhận vào làm cho Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Việt Cộng đã vỡ mộng về tôi, nên sau đó họ nhằm Hải Vân. Đã nhiều lần các cán bộ Việt Cộng nửa khuyên, nửa ép họ Hải Vân vô bưng đi học. “Để có một đứa con nối dõi anh Quang”, họ nói như vậy. Nhưng má tôi phản ứng ngược lại. Sau đó, má cho Hải Vân lên Sài gòn ở với hai chị Kim, Cương.


        Tôi quỳ xuống đất, kề miệng, nói nhỏ bên tai má tôi:
        - Má phải mạnh. Lát nữa con vô sở, xin lãnh lương sớm hơn để thuốc thang cho má.
        Mắt nhắm nghiền, má đưa tay sờ soạng kiếm tay tôi, nắm chặt:
        - Con phải coi sóc tiệm may, đừng để mấy chị học trò phải gánh vác hết, tội nghiệp người ta.


        - Má đừng lo cái tiệm, con biết coi trong coi ngoài; con săn sóc mấy đứa nhỏ nữa, má yên làm.


        Lúc đó, tôi sẵn sàng hứa bất cứ cái gì cho má tôi yên lòng. Nhưng má tôi có đòi hỏi gì nhiều đâu.


        Rồi cơn đau trở lại. Người má tôi cong lại, hai đầu gối co lên ngực. Nhưng má tôi cắn môi chịu đựng, không rên rỉ. Tôi nút chuông nhiều lần; chừng năm phút sau, một cô y tá nhanh nhẹn nước vô. Có bắt mạch, rồi chích cho má tôi một mũi thuốc. Trước khi ra khỏi phòng, cô khuyên tôi đừng quá lo; sáng bác sĩ sẽ vô coi bịnh cho má.


        Chỉ mấy phút sau, má tôi ngủ thiếp đi, hơi thở điều hoà. Tôi đoán người ta vừa chích thuốc giảm đau cho má. Tôi thở ra nhẹ nhõm, ngồi dựa lung vô vách tường cạnh chân giường. Tôi nhớ lại những lời dặn dò của ông ngoại lúc ông còn sống: “Các cháu phải nghe lời má, phải săn sóc má thay ông”. Chị em chúng tôi nhiều lần hứa với ông là chúng tôi sẽ vâng lời. Nhưng giờ tôi muốn nói lại với ông: “Ngoại ơi, bây giờ chỉ có ông trời mới giúp được nổi má cháu thôi!


        Ngày xưa mỗi lần đi công tác xa, ba tôi dặn anh Khôi, chị Kim, chị Cương phải “săn sóc má cho tới ngày ba đi công tác về”. Bấy giờ, chỉ có mình tôi với má, tôi biết làm sao đây?


        Hừng sáng hôm sau, dưới đường Bã Đậu, tiếng xe cộ qua lại tấp nập, ồn ào; tiếng người vùng lên cũng không đánh thức má tôi dậy được. Đến giờ làm việc, tôi phải xuống văn phòng làm tờ nhập viện cho má. Trước khi rồi khỏi phòng, tôi đưa cái tay lên mũi má nghe ngóng. Tôi mừng khi thấy má thở đều. Tôi an tâm ra đi. Tôi không tới văn phòng bịnh viện ngay, đến bà bạn học cũ của má tôi, hiện đang làm y tá ở đây. Trong khi đau ốm phải vào nhà thương, mà có bạn làm y tá, còn hay hơn có bạn làm tổng thống. Tôi đi thẳng tới nơi làm việc của cô Tám Quan, y tá trưởng. Khi biết má tôi mới nhập viện đêm qua, có hứa lo hết mọi việc cho má tôi.


        Tôi an tâm chạy ra bưu điện gởi điện tín cho hai chị tôi. Từ khi các chị xa gia đình, tôi gởi điện tín hai lần, hai lần đều báo hung tin hết. Lần thứ nhứt, ông ngoại tôi qua đời. Lần thứ hai bà tôi ốn nặng, sắp mất. Lần này là lần thứ ba, báo tin má tôi nằm bệnh viện. Chắc chắn sẽ làm hai chị lo lắm. Tôi viết: “Má đau nặng, tụi em cần hai chị về gấp”


        Chị Kim, chị Cương và Hải Vân về tới Cần Thơ chiều hôm sau. Hai chị và em của tôi đâu có biết họ là vị cứu tinh của tôi trong những ngày đó. Mấy tháng trước, một người quen của má tôi bị xuất huyết trong bao tử, tưởng là không có gì quan trọng, ai dè mấy tháng sau bà chết. Khi má tôi bị đau bao tử, cái chết của bà ám ảnh tôi hoài, suốt ngày đêm, nhưng tôi không dám cho ai biết, sợ bị quở là nghĩ bậy. Trong khi đó, Hoà Bình cứ đòi nó và Minh Tâm vô thăm má, nhưng tôi sợ hai đứa còn nhỏ quá, thấy má đau lại vô tình nói những lời xui xẻo. Nhưng tôi không cho vô, hai đứa lại càng nghi ngờ má đã chết rồi. Đã làm chị, tôi phải bình tĩnh và can đảm để làm gương cho lũ em, nhưng tôi cũng lúng túng, yếu mềm như con mèo ướt. Trong hai ngày vừa qua, mỗi lần thấy hai đứa nhỏ khóc, tôi lại bí mật đi chỗ khác để giấu nước mắt. Mỗi lần hai đứa nhỏ hỏi: “Má chết phải không không chị?”, tôi nghẹn ngào không biết trả lời ra sao. Mà chính những câu hỏi đó cũng thỉnh thoảng hiện ra trong óc tôi. Hoà Bình khóc hoài, rồi không chịu đi học.


        Khi hai chị tôi về, mọi việc được thu xếp tạm ổn định. Hoà Bình buông tôi ra mà đeo theo chị Kim, vì chị là thần tượng của nó thuở nhỏ. Chị Cương kiên nhẫn, dịu dàng với Minh Tâm, nó vui lên mà tạm quên má. Tối hôm đó, hai chị ở nhà em, tôi vô nhà thương mướn cái ghế bộ để ngủ cạnh má. Vì tôi không có kinh nghiệm gì về việc nuôi người bịnh, cách làm của bác sĩ và y tá trong nhà thương. Có Tám Quan cho biết má tôi có sạn ở một. Họ cho má tôi uống thuốc giảm đau bao tử, và đã lấy máu để thử nghiệm. Bao giờ có kết quả mới biết chắc bịnh gì. Có Tám Quan kề tai tôi nói nhỏ:
        - Yên tâm. Cô có đây, người ta săn sóc má con chu đáo lắm. Má con có bể gì, khi ba con về ông bắt thường cô thì cô chết!


        Đêm thứ tư trong nhà thương, má tôi ngủ yên nhứt, không còn nghe tiếng rên rỉ nữa. Còn tôi thì cũng mệt quá nên ngủ như chết. Đến nửa đêm mà tôi kéo áo đánh thức tôi dậy, rồi vừa cười vừa nói:
        - Đức Mẹ nói mà sẽ hết bịnh con ơi. Đức Mẹ để tay lên bụng má, rồi chỗ đau biến mất.
        Má tôi chỉ tay lên tường, nơi có treo hình Đức Mẹ Maria, mấy hôm này tôi không để ý. Tôi ngái ngủ, nói:
        - Con mong chiêm bao của má thành thiột.
        Má tôi có giọng tin tưởng, đáp:
        - Thiệt con ạ. Không phải chiêm bao đâu.


        Sáng hôm sau, tôi không đi mà chạy xuống cầu thang, nhảy lên xe lôi, về nhà báo tin lành cho gia đình biết, đặc biệt là hai chị Kim. chị Cương, vì từ lâu hai chị đặt hết lòng tin vào Đức mẹ Maria. Khi tôi kể xong, hai chị liền quỳ xuống, làm dấu thánh và đọc kinh Kinh Mừng.
        Bác sĩ nói rằng má tôi hết bịnh là một sự “mầu nhiệm”, chính ông cũng không hiểu tại sao. Má tôi phải nằm thên hai ngày nữa mới được về nhà. Trước khi rời phòng, má tôi bước tới vách tường để tay lên hình Đức Mẹ, rồi nói:
        - Cảm ơn Đức Mẹ.


        Hai chị tôi đồng tình nhìn nhau.

        Comment


        • #19
          Chương 20



          Chị Kim, chị Cương ở lại Cần Thơ một tuần để săn sóc mà, tôi biết má đang ở trong tình cảnh đơn chiếc, những mà lại muốn các chị lên Sài gòn làm việc để lo cho tương lai, hơn là ở với má; má không muốn hai chị nối nghiệp nghề thợ may của má. Hai chị về ở lâu mới hiểu rõ cuộc sinh hoạt của gia đình, thấy tận mắt má cực khổ, gian lao như thế nào, để trông nom tiệm may vá lớp dậy may. Má giao cho tôi việc tìm thêm học trò, giao hàng, trả hàng và cung cấp kim chỉ, vải vóc, dụng cụ cho tiệm may…


          Trong một buổi cơm vào ngày Chúa Nhựt, ngày mà học trò của má vô quê thăm nhà, chị tôi bàn với má, là cả nhà dọn lên Sài gòn. Hai chị em đi làm, tiền lương cộng lại, tài chánh sẽ rộng rãi, má nên nghỉ nghề may. Suốt ngày hôm đó, mọi người đều bàn “lên Sài gòn” nhiều lần.


          Lòng tôi náo nức không yên khi nghĩ đến chuyện bỏ Cần Thơ mà ở hẳn trên Sài gòn. Dù cho chuyện đó là chuyện rất hay, nên nữa, để má tôi được nghỉ ngơi, nhưng tôi vẫn quyến luyến Cần Thơ nơi chôn nhau cắt rún. Tôi vẫn nghĩ rằng Cần Thơ là của tôi hay ngược lại, tôi là của Cần Thơ. Đã vậy, tôi đang có việc làm yêu thích đến mức độ thỉnh thoảng lại tự hỏi đây là thệt hay mộng. Việc làm rất vừa ý tôi; lương lại cao hơn một cô giáo. Phải công nhận rằng tôi đã được người Quốc gia tin tưởng, điều mà tôi mong mỏi, có gắng để đất được trong xã hội đó. Không phải vì đồng lương không, mà nó là một sự lựa chọn lý tưởng, để bà con của tôi biết, tôi chọn đứng về phía Quốc gia. Nghĩ đi thì như vậy, nghĩ lại thì mộtmình tôi và lý tưởng không thể gánh vác nổi gia đình. Không lẽ để má tôi vất vả cực khổ. Cả nhà bàn đi tán lại mà chưa đi đến một quyết định. Má tôi hứa với hai chị là sd suy nghĩ kỹ.


          Ông bà không còn, về thăm lăng mộ ông bà cũng không dám về, ban tối thì Việt Cộng chiếm, sáng thì Quốc gia đi bố, má tôi thôi mới, má tôi quyết định dọn lên Sài gòn ở với hai chị.


          Trước khi từ biệt nơi chôn nhau cắt rún, tôi đi qua tất cả con đường của Cần Thơ để nhìn nó lần cuối. Tôi cũng muốn về thăm mộ ông bà ngoại, để hưởng lại chút hơi ấm của mảnh vườn đã nuôi sống má và chị em tôi khi chúng tôi mới từ trong bưng biền trở về vùng quốc gia. Những dì Bảy đã cấm không cho tôi về, khi dì biết tôi làm cho phòng V quân đoàn 4 và hiến máu cho một thương binh quốc gia.


          Hồi mới về Bang Thạch với ông bà ngoại, mỗi lần nhớ ba và anh Khôi, tôi lại nhắc tới những vùng đã sống trong bưng biền như: Ong Vèo, Ba Ngọn, Kim Qui, Cảng Chú Hàng… Thấy tôi nhắc hoài tới những địa danh đó, ông ngoại tôi khuyên tôi không nên sống trong dĩ vãng, mà hãy để dĩ vãng sống trong lòng mình. Sau này tôi mới hiểu lời khuyên đó. Nhờ vậy mà tôi thấy mình minh mẫn; tôi nhớ chuyện đã qua, nhưng không tiếc nuối những gĩ đã đánh mất trong đời. Tôi nghĩ mình không có mất cái gì hết, ngược lại, dĩ vãng đó làm cho đời sống của mình thêm phong phú.


          Tôi gặp đám bạn trước khi chia tay. Họ tặng tôi một món quà trong hộp thiếc bọc giấy đỏ. Bạn tôi ai cũng biết tôi thích mầu đỏ. Tôi thích mặc áo mầu đỏ; tập vở phải có bìa đó; ngay thước trong cặp tôi cũng sơn mầu đỏ. Họ trêu tôi là “Việt Cộng” vì mầu đỏ, những họ biết ý nghĩa mầu đỏ của tôi. Sở dĩ tôi thích mặc áo mầu đỏ là vì tôi tưởng niệm mấy người cũng trường chết trận. Rồi từ đó, mầu đỏ đối với tôi có ý những giống máu chảy trên quê hương của người lính Việt Nam Cộng hoà.


          Về nhà, tôi mà hộp thiếc, mới biết các bạn tôi tặng tôi hộp đất lấy ở liếp vườn bông mà hỏi học đệ thất chúng tôi vun xới.

          Comment


          • #20
            Chương 21

            hà thờ Đức Bà ở Sài gòn là nơi tôi hay đến, tìm một nơi yên lặng để suy nghĩ. Tôi không phải là một tín đồ Công giáo, cũng không phải là một Phật tử. Tôi chẳng theo một tín ngưỡng nào, trong khi hàng ngày phải đối diện với biết bao nhiêu thực tế phũ phàng, nào chiến tranh, nào chết chóc, luôn luôn ám ảnh mọi người, nên cũng không biết đặt niềm tin tôn giáo vào đâu. Dù không có một lòng tin như những tín đồ Thiên Chúa giáo. mỗi lần bước vô ngôi nhà thiêng liêng này, tôi bỗng cảm thấy an tâm rất nhiều. Nơi đây, tôi có thể nói ra và nghe được hết những gì chứa chất trong lòng tôi: những mong ước, tình thương cho gia đình, cho đất nước.
            Đôi khi tôi giận cả ông Trời, vì ông đã ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau thương, cực khổ của người dân Việt Nam.
            Thỉnh thoảng, tôi nhìn lên tượng Chúa Jesus trên cây thánh giá thâm khấn:
            - Xin Chúa bảo vệ ba và anh Khôi con…
            Không bao giờ tôi cầu xin Chúa cho hoà bình trở lại, hay đưa ba tôi về gia đình, vì ông ngoại tôi đã nhiều lần nhắc nhở: Trời đất hiền lánh lắm, không có xía vô việc chánh trị vì chánh trị là tàn ác, lừa dối, xảo trá.
            Một chiếu thứ sáu, tôi đến nhà thờ Đức Bà, thấy các con chiên ngoan đạo đang đứng sắp hàng chờ xưng tội. Tôi không cái gì để xưng, mà chỉ muốn xin Chúa cho tôi có đủ can đảm và sức mạnh quyết định một việc có thể làm phật lòng má tôi và gia đình. Tôi biết tôi đã làm má tôi buồn lòng nhiều lần như hồi tôi còn đi học,. Vào những đêm trăng sáng chị Thuận về tôi đã chui khỏi mừng khi mọi người đã ngủ yên. Chúng tôi ra để ngồi nói chuyện với con Mai Bắc Kỳ, con Lê và thằng Tiểng hàng xóm, rồi còn bắc ghế cho Tiểng bẻ mận của nhà hàng xóm. Có lần Mai và tôi dám đổi ổi để lấy vú sữa trên bàn thờ của nhà nội Tiểng. Nhưng đó chỉ là những chuyện con ranh nghịch ngợm, bỏ qua được. Bấy giờ là chuyện người lớn, chuyện làm ăn đàng hoàng. Từ ngày lên Sài gòn, tôi thấy cuộc sống thành thị khó khăn hôm sức của tôi. Thành đô náo nhiệt, ồn quá, tôi không chịu được, nên muốn trở về Cần Thơ để đi làm cho phòng V. Chị tôi đã xin cho tôi vào làm nhà in Đông Nam Á, lương thấp không đủ chung phần với các chị trong “công ty” của gia đình. Đã vậy, tôi lại không thích làm việc dưới quyền ông già quan liêu, khó tánh. Sau nhiều lần tìm việc khác không được, tôi đã ngỏ ý muốn trở về Cần Thơ, nhưng má tôi khó yên tâm cho tôi ra khỏi nhà một mình. Tôi năn nỉ:
            - Cần Thơ là đất của mình; nếu ở đó không yên, thì còn chỗ nào yên ổn hơn được?
            Hai chị tôi hậm hực cho biết, nếu tôi trở về Cần Thơ là phụ lòng hai chị. Nhưng nếu vì hai chị mà tôi ở lại Sài gòn, thì tôi sẽ sống trong buồn bực, và lúc nào cũng bị mặc cảm, vì làm lương không đủ phụ với gia đình. Tôi quen sống nơi tỉnh nhỏ không ồn ào náo nhiệt, không thích ứng được với đời sống nơi đô thị ồn ào, chụp giựt. Thế nào tôi cũng phải trở lại Cần Thơ. Dù sao tôi hiểu rõ Cần Thơ hơn Sài gòn. Đời sống ở Sài gòn có muôn hình vạn trạng. Kể giầu người nghèo quá chênh lệch. Có những nhà sang trọng, cao chót vót. Trong khi đó, không thiếu những cái chòi cất tạm của những người nghèo từ dưới tỉnh chạy loạn lên. Dân Sài gòn ăn hối lộ như cơm bữa. Kiếm được việc phải mất tháng lương đầu tiên cho người giới thiệu … Biết không thể sống được ở cái đất Sài gòn đây dối trá, lưu manh, tôi quyết định trở về Cần Thơ, rồi mỗi tháng lãnh lương, sẽ gởi về cho giáo sư. Tôi đã sống nhiều năm bên má để giúp đỡ má phần nào, bây giờ tới phiền hai chị tôi lo cho má.
            Tôi rời nhà thờ Đức Bà, ghé mua hai chục hạt vịt lộn đem về nhà “ăn lấy hên”. Trong bữa cơm, tôi nói với má và hai chị:
            - Hồi chiều, đi làm về, còn tới nhà thờ Đức Bà…
            Mới nghe tới đây, hai chị tôi mắt sáng lên, vì tưởng tôi nghe lời hai chị mà vô đạo. Tôi mỉm cười nói tiếp:
            - Con hỏi Chúa về quyết định của con và Chúa đã phán cứ làm theo ý muốn của con. Vì vậy, con sẽ trở về Cần Thơ.
            Má và các chị đều giữ im lặng trước giọng nói cương quyết của tôi. Mấy ngày sau đó, má tôi đi chợ mua thức ăn dder làm bữa cơm tiễn đưa tôi. Hôm ấy có đủ mặt chị em trong nhà, nhưng nhiều tiếng cười, tiếng giỡn của mọi người.
            Hôm tôi chia tay với mọi người, con chó của Hải Vân bỗng tru lên, khiến ai cũng ngạc nhiên.
            Về đến Cần Thơ, tôi gặp may mắn liền, vì được đại uý Chánh lời trả lời làm việc ở phòng V. Sợ ông đổi ý, sáng hôm sau, tôi đi làm liền. Nhưng tôi lại gặp khó khăn trong việc tìm chỗ ở. Má muốn tôi ở nhà chị Yên và chị Hồng Nga trên đường Ngô Quyền. Tôi không muốn ở đó, vì tôi biết chị Hồng Nga là Việt Cộng. Chị là con gái thứ ba của cậu Tư. Người yêu của chị là anh là một cán bộ Việt Cộng, chết cách đây 5 năm. Chị không nghĩ đến chuyện chồng con nữa, mà dành hết cuộc đời cho ý thức. Trong gia đình tôi, chị em bà con rất thương yêu nhau. Chị Hồng Nga sẵn sàng cho tôi ở với chị. Các chị không từ bỏ đứa em nào, dù cho đứa đó không theo Việt Cộng, làm việc cho Quốc gia. Tình máu mủ trước sau như một. Chỉ có dì Bảy là người không tha thứ, không chấp nhận đứa cháu nào từ chối phục vụ cho Mặt trận. Hồi tôi còn nhỏ, chị đã dậy tôi thêu thùa, làm thủ công, khi tôi học lớp nữ công gia chánh ở trường Đoàn Thị Điểm. Nhưng làm sao tôi có thể ở với chị được, khi tôi làm việc cho quân đội Việt Nam Cộng hoà, còn chị “Chống Mỹ cứu nước”.
            Lúc còn đi học, Mai Bắc Kỳ và tôi bị bạn bè trong lớp đặt tên “Trưởng ban lục lạo”. Các thầy cô mới từ Sài gòn hay tỉnh khác đổi về muốn tìm nhà trọ, đều phải nhờ hai đứa tôi. Ngày cả những sĩ quan, hay lính tráng cũng vậy. Bây giờ trở về Cần Thơ, tôi tới ngay một nhà trọ ở gần sân banh. Mới đấu, bà vợ không nhận cho tôi ở trọ, viện cớ bà chỉ cho mấy ông sĩ quan thuê thôi; “nam nữ thok thọ bât thâan”. Bà Năm suy nghĩ như thế, nhưng tôi hứa sẽ khoá cửa kỹ lưỡng, sẽ nhìn trước ngó sau trước khi vào phòng của tôi, vả lại, tôi chỉ là đứa con nít, ai mà để ý. Con gái bà Năm nói: “Em ơi, em chưa biết mấy ông đàn ông đó nhá”. Cuối cùng chị thuyết phục ba má chị cho tôi ở, rồi biểu hết sức trông giùm tôi.
            Bà Năm clui nhà trọ trạc ngoài 60, tướng cao ráo, có dáng đi phong luu. Bà mang kiếng gọng đen, tóc muối tiêu.
            Tiếng cười của bà trong vắt và trẻ trung như tiếng cười của một người con gái. Bà ăn trầu, nhổ nước cốt trầu vào một cái ống nhổ bằng đồng. Ông Năm hơi thấp hơn bà một chút, và lớn hơn bà Năm ba tuổi, ông mạnh khoẻ, trang kiện; mỗi bước đi của ông chắc nịch, đi như có mục đích. Ông Năm hút thuốc liền tay. Lúc bận sửa xe, ông để điếu thuốc ở gần, thỉnh thoảng ngưng tay, kéo một hai dài, rồi nheo mắt tận hướng khói thuốc.
            Gia đình ông bà Năm ở trong một nhà Tây làm, có garage sửa xe. Những căn cho thuê, là nhà cao cẳng mới cất thêm ở phía sau. Dưới những căn nhà này có vườn rau, và sân sau có cả mấy chục sợi dây phơi quần áo. Bà Năm chỉ cho tôi nhà tắm của người trọ, nhưng chị Hai con gái của bà kêu tôi đừng xài những nhà tắm đó, mà xài nhà tắm của gia đình. Chị chỉ cho tôi chỗ giặt quần áo và cái bếp khổng lồ. Tôi có thể hình dung ra được cảnh tấp nập vào buổi chiều. Cái bếp đó làm cơm cho hai chục người, gồm mười bốn dân ở trọ và sáu người của gia đình ông bà Năm. Ở chung với ông bà có vợ chồng người con gái, người rể và hai đứa cháu ngoại.
            Bà Năm cho tôi ở căn phòng ngày đầu cầu thang, bà cho biết không ai chịu ở phòng này, vì người ta đi lên đi xuống đều đi ngang qua đó. Bà lại nói như để an ủi tôi:
            - Phòng này “chắc ăn nhứt” vì ở ngay phía ngoài, không ai dám chọc ghẹo con.
            Nhưng bà đâu biết, tôi tuy là gái Cần Thơ mà cũng dữ như sư tử Hà Đông; ai mà dám chọc ghẹo tôi. Phòng tôi nhỏ xíu, vuông vắn chừng 4 thước; cửa sổ nhìn xuống vườn rau. Giường nằm nhỏ như cái băng-ca, thể nào cũng có đêm tôi sẽ lọt xuống sàn nhà. Cái bàn viết chân cao chân thấp rung rinh. Cái tủ để quần áo cao hơn đầu tôi, nên tôi chỉ dùng hai ngăn dưới cùng. Tôi miễn cưỡng nhận căn phòng này làm nhà.
            Tôi ngả lưng xuống chiếc “băng ca”, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, cho đến khi chị làm bếp gõ cửa cho hay đã tới giờ cơm chiều. Tỉnh dậy, trong khoảnh khắc tôi không biết mình đang ở đâu.
            Người Mỹ có câu danh ngôn: “You can't go home again”. Câu này thật đúng cho hoàn cảnh tôi lúc này. Tôi trở lại Cần Thơ trong buồn bã, trơ trọi, vì bạn bè đã đi hết. Thằng Tiểng đi lính. Hai người em bà con của tôi là Hàn Quang Truyền và Hàn Quang Thoạt, lên Sài gòn làm việc cho nhà thương Cơ Đốc. Lê Thị Bạch Tuyết lấy chống Không quân, cũng đã lên Sài gòn rồi.
            Cô giáo Thái Lan được đổi về Sài gòn, nên cả gia đình con Mai Bắc kỳ cũng dọn đi luôn. Chị Thuận về làm dâu nhà Huỳnh Võ. Chị lấy Thanh, con trai thứ năm của gia đình này. Bây giờ tôi phải kêu “thằng nhỏ” này bằng anh rể. Thế là “thằng nhỏ” lên “chức”, có phước lấy được chị tôi rất hiền lành, chung thuỷ. Chỉ có một điều là cộng sản luôn luôn có thành kiến với thành phần tư sản, nên dì Bảy của tôi không chấp nhận cuộc hôn nhân này. Ngày chị tôi về nhà chồng không có xe hoa, không có bà con hai họ.
            Tôi rất buồn, khi trở về Cần Thơ mới biết tin này, vì sau ngày vu quy, chị bị dì Bảy ruồng bỏ, chị Thảo của chị muốn gặp em thì lén lút dì Bảy. Lúc mới về, tôi cũng không biết chị ở đâu. Còn chị Thảo, chị của chị Thuận, lại quyết tâm theo gót cha, đem hết tuổi dâng cho cách mạng.
            Hồi đi học, tôi nuôi mộng trở thành một tráng sĩ, hoặc một nhà văn. Còn mong ước của chị Thuận rất khiêm nhường và giản dị. Chị chỉ muốn làm một người vợ hiền, một người mẹ hết lòng vì con. Hồi còn đi học, chị hay giành ủi những cái áo cưới mầu hồng, mầu đỏ trong tiệm may của má, rồi chị mơ ước ngày đám cưới của chị, má tôi sẽ là người may áo cưới. Nhưng rồi Việt Cộng làm tan vỡ mộng ước của người con gái mồ côi cả cha lẫn mẹ này.
            Trong căn phòng nhỏ xíu, yên lặng, tôi nghe tiếng con thằn lằn chặc lưỡi. Tôi ghét thằn lằn cũng vì cái tiếng chặc lưỡi kêu than buồn đứt ruột của nó, lại thêm những cực cứt tí tẹo, đen rơi vung vãi trên giường. Tôi lấy sợi dây thun băn lên trần nhà, con thằn lằn rớt xuống đất một cái “độp”. Tôi không dám nhìn kỹ nó, chỉ lấy miếng giấy túm nó liệng ra cửa sổ.
            Chiều thứ sáu, nằm một mình ở đây, tôi nhớ gia đình trên Sài gòn, Nhà tôi ở trên lầu, cạnh rạp hát Kim Châu trên đường Nguyễn Văn Sâm. Chắc giờ này má và Minh Tâm ra đứng ngoài balcon nhìn xuống đường xem người đi coi hát qua lại dập dìu.
            Từ ngày ba tôi đi tập kết, má tôi khép mình không tiệc tudng, không ăn tiệc cưới, không đi coi hát. Mà chỉ ở nhà chờ ba về, nên khi ở Sài gòn, má tôi hay đứng ngoài balcon nhìn người đi kẻ lại má cùng đủ vui rồi. Chắc giờ này, hai chị của tôi đi chơi với bạn trai. Tôi không biết Hoà Bình đang làm gì, nhưng tôi biết Hải Vân đang tập tạ. Tôi biết em lúc nào cũng mơ ước hai việc: học giỏi và có một thân mình tráng kiện. Nhà không nhiều tiền, nhưng Hải Vân được đi học Nhu đạo, được đi học vẽ. Vào buổi chiều thứ sáu quạnh hiu này, tôi cũng nhớ đến ba và anh Khôi. Nhưng tôi không hình dung được cái thế giới xa vời, sâu thẳm đó. Chúng tôi không những cách nhau vì con sông Bến Hải, mà còn khác biệt cả về tư tưởng lẫn đời sống. Có một điều tôi biết rõ về ba tôi: ông là một người yêu nước thương nòi, và lãng nạn. Lòng chung thuỷ của ông với má tôi không thua lòng trung thuỷ của ông với Hồ Chí Minh. Ba tôi chưa bao giờ ra lịnh hay khuyên nhủ con cái làm điều gì, nhưng ông lúc nào cũng nêu gương sáng của một người đàn ông yêu nước. Ông quyến rũ không biết bao nhiêu thanh thiếu niên đi vào con đường của xã hội chủ nghĩa. Có lần tôi đến thăm bác Chín của tôi, người anh cùng cha khác mẹ của ba tôi. Trên giường bịnh, bác Chín cho tôi cho biết con nhà họ Đặng chúng tôi ai cũng yêu quê hương xứ sở, và tha thiết với gia đình. Anh em nhà họ Đặng khăng khít yêu thương nhau. Bác cũng cho rằng bác yêu và quý người “em Việt Minh” của bác lắm. Tuy nhiên, bác không chấp nhận sự lựa chọn của người em yêu quý này, sau khi em bác theo Cộng sản. Rồi bác nắm tay tôi và khuyên: “Bác không biết con theo bên nào, những con phải để tình phụ tử trên hết. Có như vậy, con mới nhận thức được sự khác biệt rắc rồi trong gia tộc của mình.
            Một buổi trưa thứ Bảy, năm tháng sau ngày đến ở trọ nhà ông bà Năm, tôi ra sân sau phơi quần áo, bất ngờ thấy bà Năm nằm bất tỉnh dưới đất. Lúc đó ông Năm đi vắng, chị Từ nấu ăn vừa mới đi ra chợ Tham Tướng. Vì là ngày thứ Bảy, nhà vắng vẻ, các ông sĩ quan ở trọ đều về Sài gòn thăm gia đình, chỉ còn lại bà Năm và tôi. Có muốn cầu cứu cũng chẳng kêu ai biết này, tôi đành luồn tay ôm lấy bà, bồng thẳng ra đường. Rất may là bên đường, dưới bóng cây xơ-ri, một ông già ngồi ngủ bên chiếc x lôi. Đến lúc đó, tôi bỗng thấm mệt và mỏi tay, đành phải đặt bà Năm xuống, rồi kêu xe lôi inh ỏi. Ông già lái xe ôm tỉnh giấc, vội chạy về phía chúng tôi, ông giúp tôi bồng bà Năm lên xe.
            Bà Năm bị đứt gân máu. Kết quả là bà bị bán thân bất toại và cấm khẩu. Không có bà quản lý, ông Năm quyết định định đóng cửa nhà trọ. Nhưng ông và con của ông vẫn muốn tôi ở lại. Họ coi tôi như người ơn của gia đình, nên không nhận tiền cơm tháng cũng như tiền trọ. Tôi cảm thấy áy náy không yên, về phòng ngồi và nghĩ miên man, chợt nhớ tới má tôi. Tánh đặc biệt của má, là không làm phiền hay nhờ vả ai. Người thích tự lập và rấ sòng phẳng. Nếu mà biết tôi ăn và ở nhà ông bà Năm mà khỏi trả tiền, bà không bằng lòng. Tôi xuống nhà gặp ông Năm để cảm ơn lời đề nghị của ông.
            Tạm thời tôi vẫn ở đó, chờ tìm một nơi trọ khác. Mỗi lần đi làm về, tôi vào thăm bà Năm. Tôi có cảm tưởng như bà vẫn chờ. Tôi thầm tự hỏi, không biết bà chờ đợi cái gì? Chờ đợi một phép lạ làm cho cơ thể bà phục hồi như xưa? Hay bà chờ đợi tử thần đưa bà đi, để bà thoát khỏi cái kiếp tàn phế buồn tủi. Đôi lúc tôi lại tự hỏi, nếu trưa thứ bảy ấy tôi không ra phải phơi quần áo ở sân sau, bà Năm có chết không? Cuộc đời của một con người mong manh quá! Bà đã gục ngã khi không có một người ruột thịt nào ở gần. Rồi tôi nghĩ đến má tôi. Người mẹ đã lớn tuổi, đau ốm bất thường. Tôi nhớ tới cái đêm má tôi phải vô nhà thương Cần Thơ. Bất cứ lúc nào má cũng có thể bị lại. Rủi chị tôi không có nhà, em tôi đi học… thì ai sẽ lo cho má đây. Những cái “rủi” ấy làm tôi lo sợ. Thế là tôi quyết định trở về sống bên má.
            Hôm sau, tôi cho phòng V biết trước một tháng, là tôi lên Sài gòn. Tôi nói cho ông Năm biết tại sao tôi về Sài gòn.
            Ông Năm cảm thông mà nói:
            - Con đi thì ông nhớ; con về ở với má con là phải.
            Rồi tới ngày tôi thu xếp để về với gia đình ở Sài gòn. Một buỏi tối, tôi bỗng có linh cảm rằng tôi sẽ không bao giờ trở lại Cần Thơ nữa. Tôi không giải thích được tại sao tôi lại có lính cảm như vậy. Nếu không trở lại Cần Thơ, chắc tôi cũng vĩnh viến phải xa Bang Thạch. Suốt đêm hôm đó, tôi trằn trọc, bồi hồi nghĩ tới mảnh vườn của ông bà ngoại tôi.
            Tôi phải về Bang Thạch một lần nữa, trước khi lên Sài gòn với gia đình. Rủi mai này xa cách ngàn trùng, tôi cũng còn giữ được những kỷ niệm ấm áp của quê cha đất tổ trong tâm hồn. Tôi phải về thăm mà của ông bà ngoại, của cậu Nam Sắ, cậu Út Thế. Sẽ phải leo lên cây ổi gần mả của bà Mười một lần nữa coi có còn bị ma chó cắn không? Lần nào treo lên cây ối đó cũng bị ma chó cắn bầm hai cái đùi; cả trăm lần như vậy. Tôi không sợ cộng sản có thể bắt hồn tôi được, nhưng tôi lại tin có ma chó cắn chân tôi.
            Sau khi chia tay với các nhân viên phòng V, tôi lên đường đi Bang Thạch bằng xe đò. Đến bót 18, tôi xuống xe. Cảnh quen thuộc đầu tiên mà tôi gặp, là cây cầu ván dân vô chợ Bang Thạch. Cái cây cầu quen thuộc trong tri nhớ. Hồi nhỏ, mỗi lần về thăm bà ngoại, chị em chúng tôi đều chơi trò của tôi. Tôi bắt chị Thuận hay chị Thảo lấy khăn bịt mắt tôi lại trước khi bước lên cầu. Hai chị nắm tay tôi dẫn đi trong chợ. Tôi nghe được những tiếng nói, mùi hương quen thuộc. Trong chợ có ba tiệm hàng xén, nhưng tiệm của ông Sau Èm có mùi đường the nặc nồng, và mùi cá mặn nghe mà chảy nước miếng. Hai tiệm kia thì cá mặn ở phía trong, đi ngang không nghe mùi cả. Chị Thảo dẫn tôi tới một ngôi nhà mà tôi nhận ra ngay, vì sờ vô vách, tay liền đụng mấy lỗ mắt cao; đó là Nhà Việc, nơi cậu Hai Trứ làm xã trưởng. Chị Thảo bắt tôi mở khăn ra, rồi cả đám con nít vào Nhà Việc chào cậu Hai.
            Tôi ghé qua tiệm ông Sáu Èm mua gói đường cát cho dì Bảy. Có mấy người trong tiệm nhận ra tôi là con gái cô Tám Phàm cũng đon đả hỏi thăm sức khoẻ má tôi. Ông Sáu Èm chờ khách hàng ra khỏi tiệm mỗi hạ giọng hỏi nhỏ: “Có tin gì của ba không cháu?”. Câu trả lời của tôi làm ông chau mày thất cọng.
            Khi vừa bước khỏi chợ Bang Thạch, tôi có cảm tưởng một nửa khung trời vừa sụp đổ trước tôi. Cây cầu ván bắc từ chợ qua đồn 18 không còn nữa. Bây giờ chỉ có cây cầu khỉ lắc lơ với ba khúc tre nối đuôi nhau làm tay vịn. Cái đồn kiên cố đã bị sụp đổ tan tành, không còn người lính gác cầu, gác chợ như trước kia. Tôi nín thở đi qua cây cầu khỉ. Bên dưới nước ròng, nên tôi thấy được bóng tôi, vừa đi vừa sợ té xuống sình. Hai bên đường đất trước kia cây cối xanh tươi, bây giờ cây khô trụi lá, có mầu vàng. Chiến tranh đã lan rộng khắp nước, nhưng có bao giờ thành phố biết được chiến tranh đã tàn phá xóm làng của mình như thế nào không?
            Trời ơi! Bang Thạch trong điêu tàn khiến lòng tôi tan nát, còn đâu những vườn trái cây xanh mướt, ngọt ngào! Bang Thạch của thời thơ ấu nay còn đâu.

            Comment


            • #21
              Ngàn Giọt Lệ Rơi

              Chương 22
              Vốn liếng Anh văn của tôi chỉ đủ để coi phim câm của Mỹ, vậy mà chị Kim, chị Cương của tôi cứ khuyên tôi, hay nói đúng hơn là ép tôi, phải xin việc ở một sở Mỹ. Thật ra, cả nhà sợ tôi ngồi không lâu thì chán Sài gòn, rồi lại bỏ đi lần nữa. Mà đúng vậy, chỉ mới ở có mấy ngày, tôi đã bắt đầu chê Sài gòn đủ thứ. Nào là nóng nực, nào là bụi bặm, nào là ồn ào quá… Người bán hàng ở chợ Sài gòn dữ dằn quá, khiến tôi không dám đi chợ một mình, sợ không biết trả giá, sẽ mua lầm, hoặc trả giá thấp quá bị nghe chửi. Tôi không ưa Sài gòn chút nào, nhưng tôi lại không muốn xa má tôi. Vì vậy, tôi đành phải kiếm việc làm.


              Chị tôi giới thiệu cho tôi một lớp học Anh văn, học phí chừng 1.500 đồng, thời gian học khoảng ba hay bốn tháng. Tôi cho chị biết: “Em không có 1.500 đồng đâu, mà cũng không có ba tháng để học”. Hai chị hứa sẽ cho tôi học phí, và khuyên tôi nên dành thì giờ để học, vì ba bốn tháng qua đi rất mau.


              Vào thời gian đó, chị Kim có người bạn trai: đó là thầy Vệ Hoàng. Thầy Hoàng dậy Anh văn ở một trường trung học. Chị Kim nhờ thầy kèm thêm cho tôi và Hải Vân ở nhà. Vì chị Kim, thầy đồng ý dậy tôi sau giờ tan trường của thầy. Rồi thời gian học Anh văn qua mau. Thầy Hoàng là một giáo sư tuyệt vời; tôi tiến bộ rất nhanh. Chỉ tiếc rằng sau này, khi đi làm cho Mỹ, tôi mới biết giọng của thầy là giọng Anh, hơi khác chút ít với giọng Mỹ. Thật ra, sự khác biệt này cũng chẳng có gì quan trọng. Nếu tôi tìm không thấy WC, cứ vô đại Toilet hay Bathroom cũng xong. Nói cho ngay, tôi thích giọng Anh của thầy Hoàng hơn. Học Anh văn của thầy, tôi còn học được chút giọng Bắc kỳ của thầy nữa. Tôi không quên ơn thầy Hoàng, nên khi biến cố 30-4-1975 xảy ra, tôi đã đi kiếm thầy ở nhiều nơi như Guam, Wake, Phi Luật Tan, những mái cho đến bay giờ tôi vẫn chưa biết thầy ở đâu. Sau bốn tháng học Anh văn, tôi theo chị Kim đến sở việc làm. Chị dẫn tôi đến phòng nhân viên trong Chợ Lớn. Chị phải điền giùm tôi cả chục tờ giấy, trong khi tôi ngồi thừ ra như người ngoài cuộc. Làm đơn xong, chúng tôi phải tới nơi khác để lăn tay, để lập hồ sơ điều tra lý lịch. Tôi phải công nhận rằng chị Kim rất kiên nhẫn, nên tôi cứ phải xin lỗi chị đã mất nhiều thì giờ cho tôi, trong khi trong bụng tôi nguội ngắt, chẳng hứng thú gì khi nghĩ tới đi làm sở Mỹ. Chắc chị vừa thông cảm cho một đứa em thất nghiệp, vừa muốn chiều một đứa em nhõng nhẽo, nên không phàn nàn, trách móc gì.
              Sau khi lăn tay và nộp đơn, tôi được biết họ sẽ điều tra lý lịch: quyết định có mướn tôi hay không. Nhìn có thơ ký nhận đơn, tôi đã thấy chán. Tôi nói với chị tôi là thể nào cô thơ ký cũng lấy đơn của tôi để lót ghế ngồi. Thơ ký gì mà vừa tiếp khách nhai kẹo cao su, vừa giũa móng tay dài đỏ chói. Chị cười:
              - Cưng không mê đi làm sở Mỹ, nên chê nọ chê kia.
              Tôi liền đáp:
              - Tại em tốn cả ngày trời lo làm đơn, thì ít nhứt con nhỏ cũng phải sốt sắng nhìn đơn của em chớ.
              Chị Kim cười vị tha.
              Nhưng nói vậy thì nói, tôi cũng phải lo đến chuyện điều tra lý lịch. Tôi từng đi làm cho Quân đoàn IV, tôi được đại uý Nguyễn Đạt Thịnh nâng đớ. Bây giờ tôi không quen một ai ở cái đất Sài gòn này ngoài hai chị của tôi và thầy Hoàng. Làm sao tôi có thể qua mặt của tình báo Mỹ được? Tôi vụt nhớ tới đại uý Trần Duy Bính, người đã giúp tôi giữ được việc ở phòng V. Nếu lý lịch của tôi được đại uý Trần Duy Bính thông qua, chắc không một nhân viên tình báo Mỹ nào mà không chấp thuận. Tôi cũng còn nhớ, trước khi rời Cần Thơ, tôi có đến sở 4 chào từ biệt đại uý Bính. Ông rất vui vẻ và tiếp đón tôi niềm nở. Ông còn cho tôi địa chỉ em trai ông là trung uý Trần Duy Hình, đang làm việc ở Sài gòn. ng dặn tôi nên liên lạc với trung uý Hinh khi có chuyện cần. Nhớ tới đây, tôi lên tinh thần, vì tôi tin rằng lý lịch của tôi mà do anh em của thiếu tá Bình cung cấp thì thằng Mỹ nào cũng sẽ tin tôi là một công dân gương mẫu của Việt Nam Cộng hoà.
              Hôm sau, tôi đi taxi đến Cục An ninh quân đội trên đường Trần Hưng Đạo để gặp trung uý Hinh. Một người lính quân cảnh đưa tôi vào phòng đợi ở cạnh văn phòng của trung uý. Chắc ông Hình không bao giờ có khách, nên tất cả các ghế bằng nhựa mầu da cam trong phòng chờ đợi đều phủ một lớp bụi dầy.
              Một người đàn ông, mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, vẻ nghiêm nghị, bước ra đón tiếp tôi. Vừa thấy nụ cười của ông, tôi biết ngay ông là em thiếu tá Trần Duy Bính. Sau khi tôi tự giới thiệu, trung uý Hinh mỗi tôi vô văn phòng, rồi hỏi tôi cần ông giúp vì gì? Tôi cho ông biết về chuyện điều tra lý lịch, vì tôi đang xin việc ở sở Mỹ. Tôi cũng nói thêm, rằng anh của ông ở Cần Thơ biết rất rõ về trường hợp của tôi. Nghe tôi nói xong, trung uý Hinh không hỏi thêm chi tiết gì nữa, đưa cho tôi một tờ giấy, để tôi ghi tên tuổi tôi, và sở Mỹ mà tôi đang xin việc làm. Trước khi chia tay, ông cho biết ông sẽ gọi xuống Cần Thơ để nói chuyện với ông Bính, và nếu không có gì trục trặc, ông sẽ giúp tôi có đầy đủ giấy tờ điều tra lý lịch. Tôi đi về, nhớ giọng nói Bắc kỳ trầm ấm quyến rũ của ông trung uý, và hy vọng ông sẽ gọi anh của ông ở Cần Thơ cho tôi.
              Ba tuần sau, tôi được biết cuộc điều tra lý lịch đã hoàn tất. Rồi tôi được phòng nhân viên của sở Mỹ gửi đến khách sạn để phỏng vấn. Khách sạn Rex có một phòng là câu lạc bộ hải quân Mỹ. Tại đây, tôi gặp ông Hiệp, người phỏng vấn tôi. Nhưng ông đã làm tôi thất vọng, vì ông cho biết hiện câu lạc bộ không tuyển người làm việc. Tôi rất ngạc nhiên, vì phòng nhân viên trong Chợ Lớn đã cho biết câu lạc bộ Rex đang cần một người làm cashier, và một người phụ văn phòng kế toán. Nhưng rồi mấy tuần sau đó, ông Hiệp gọi tôi lại, cho việc làm trong phòng kế toán.
              Đúng là “ghét của nào trời trao của đó”. Tôi vốn dốt toán nên sợ toán, ghét toán. Khi còn đi học, đêm đêm, ác mộng của tôi là những bài toàn. Bay giờ đi làm, tôi lại làm ngay nói phải dùng đến toán. Hàng ngày, tôi ngồi bên cuốn sổ dầy cui, rồi công, trừ, nhơn, chia… Nào tiền lương của nhân viên, nào tiền thu, tiền chi ra… Những con số cứ nhảy loạn, cứ múa may trước mắt tôi. Chúng còn theo tôi vào cả những giấc ngủ ban đêm nữa. Nhưng nhờ có nó tôi mới được lãnh lương mỗi tháng hai lần.
              Tôi nhớ, mỗi lần tôi than thở khi gặp khó khăn rắc tôi, ông ngoại tôi lại khuyến khích tôi bằng câu: “Làm người khó, làm chó dễ, cháu muốn làm gì?”. Vậy mà cũng có lần, vì làm biếng, sợ khó khăn, tôi đã liều nói với ông tôi: “Thôi, bữa nay ông cho cháu làm chó đi”. Ông nhìn tôi một lúc, tỏ vẻ thất vọng, rồi dịu dàng nói: “Hễ muốn làm chó, cháu phải đi bốn chưn, rồi được ăn, được ngủ, được vui chơi, khỏi học bài, khỏi làm việc trong nhà, chị em và cả ông bà hầu hạ suốt ngày”. Tôi mắc cỡ không dám đòi chó nữa.
              Nhớ lại lời ông ngoại, tôi không còn thắc mắc về chuyện đi làm khó khăn nữa. Tôi từ an ủi rằng đi làm sở Mỹ để sống, chớ không phải sống để đi làm cho Mỹ, rồi thứ sáu lãnh lương. Việc làm không có lý tưởng chút nào.
              Năm 1966, má tôi 50 tuổi. Nhiều đêm, tôi xót xa nghĩ đến cảnh cô đơn của má. Tôi nhìn lại quãng đời của má, từ ngày ba má có anh Khôi cho tới ngày ba đi tập kết, tôi không nhớ má có bao giờ được vui trọn một ngày không? Rồi từ khi má đau, phải đi bệnh viện Cần Thơ, cho đến ngày cả gia đình chuyển hết lên Sài gòn, tôi không thấy má vui như những người bạn của má. Vậy mà má không hề than thở một lời, hay oán trách hoàn cảnh, hay giận hờn ba. Thì thôi, chị em tôi cũng phải tế nhị, không trách móc ông già trước mặt má.
              Sau nhiều năm chị em tôi sống xa cách nhau, nay mới được xum họp, chúng tôi muốn tận hưởng niềm vui ấm cúng của sự xum họp này. Cuối tuần, trước khi đi chơi với bạn, hai chị tôi dẫn tôi đi ăn sáng, rồi về nhà quây quần bên cạnh má. Không khí gia đình thật êm đềm.
              Tôi tiếp tục đi làm sở Mỹ. Hải Vân mua được chiếc xe Honda, có tiền đóng học phí lớp Nhu đạo. Em học trường Bổ Để. Bạn thân của em là mấy cậu nhỏ ở gần trường bên chùa Bà Lai. Ali là bạn thân nhứt của em. Ali thường chuyển từ nóc nhà này sang nóc nhà khác, trong đó có cả nóc chùa và rạp hát Kim Châu, để tới gặp Hải Vân.
              Nhưng chỉ có tiếng cười, tiếng vui đùa của năm đứa con gái, tiếng đàn guitar của Hải Vân, làm cho má tôi vui thôi.

              Comment


              • #22
                Chương 23




                Sau bốn tháng làm việc trong văn phòng ở Rex, tôi được sở đổi qua làm cho Brink BOQ. Ông xếp ở Brink là một trung uý hải quân Mỹ trẻ tuổi, tên là Richard Salter. Ông Satter đã được học tiếng Việt trước khi sang Việt Nam, nên khi làm việc tại Brink ông quyết định nói tiếng Việt với hơn sáu chục nhân viên người Việt. Tiếng Việt của ông có tiếng bể, tiếng gẫy, thiếu sót rất nhiều. Tôi nói với những người làm chung sở rằng có lẽ khi ngủ mơ ông cũng nói tiếng Việt. Nhân viên Việt Nam ít người hiểu ông, vì ông đã dùng sai chữ, lại phát âm không đúng, người ta không kiên nhẫn để tìm hiểu ông định nói gì. Khi nào phòng ăn vắng khách, ông tại trước quầy thu ngân để nhờ tôi dậy thêm tiếng Việt. Rồi tôi trở thành cô giáo của ông xếp.


                Trung uý Satter là một học trò ngang bướng, lúc nào cũng thích ra lịnh, dù ông làm học trò. Học tiếng Việt và cai quản câu lạc bộ, đối với ông đều quan trọng như nhau. Là nhân viên của ông, lại nhỏ hơn ông một tuổi, nên tôi đành chịu lép vế. Vì vậy, làm cô giáo mà tôi chẳng có một chút quyền hành gì với học trò. Nhưng tôi cũng có một niềm vui, là ông “học trò” này rất thông minh và có khiếu về sinh ngữ, học tới đâu nhớ ngay tới đó. Ông thường tìm hiểu nguồn gốc của mỗi chữ, hay mỗi câu nói, hoặc tiếng địa phương. Chẳng hạn, tại sao có người nói là “về”, lại có người “dìa”. Tại sao có người nói “vâng”, lại có người “dạ”. “ “muỗng” lại là “thìa” v.v… Có lần tôi dậy bài học đi chợ, ông bắt tôi phải đi chợ với ông ngay. Tôi đành phải đưa ông đi chợ Sài gòn, để ông thực hành bài vừa học. Đến khu bán cá, ông hùng hồn nói: “Tôi muốn mua thằng cả lóc”. Mọi người cười rộ lên. Người ta nhìn tôi chằm chặp, làm tôi mắc cỡ muốn độn thổ. Nào có ai biết tôi là cô giáo của ông; tôi nghĩ người ta tưởng tôi là bạn gái của anh chàng lố bịch này. Tôi vội đứng xích ra xa, ông trung uý kêu tôi lại gần, để dậy ông cách trả giá. Chỉ tiếc tôi chưa kịp “hành nghề” cô giáo, bà già bán cá đã khen ông học trò của tôi là dễ thưong, và tặng không ông hai con cá. Ông Satter tức lắm, vì không được thi thố tài năng. Đến khi chúng tôi sắp ra khỏi chơh, ông bỗng gọi một người đang đi vô, để cho hai con cá, quay ngược trở lại hàng cá. Tôi không chịu theo ông, viện cớ ông đã nói giỏi tiếng Việt, có thể mua bán một mình. Tôi đợi ông ở ngoài cửa chợ. Nửa giờ sau, ông trở ra, mỗi tay xách một “ông gà” và một “con gà”.


                Không biết bỏ hai con gà này vô đâu, tôi đành đề nghị đem đến nhà tôi cho dì giúp việc làm thịt. Nhưng về đến nhà tôi mới biết ý kiến này sai bét; vì ông đi theo tôi về nhà, khiến đám con nít hàng xóm bu lại nói chuyện với “ông Mỹ”.
                Rồi từ đó ông Satter trở thành người bạn của gia đình tôi. Khi nhớ nhà, ông lại tới nhà tôi cho khuây khoả. Gia đình ông ở Hampshire bên Mỹ, nên về cuối năm ông thường nhắc đến tuyết, Tuyết khắp mọi nơi: trên nóc nhà, trên đồi, trên sân cỏ, và nơi ông truợt tuyết. Khi nhắc đến quê hương, mắt ông mơ màng nhìn vào xa xôi. Đôi khi tôi ngầm ganh tỵ với ông, khi tôi bằng ông cũng trạc tuổi tôi, mà sao ông có tuổi thơ tươi đẹp trong khi tôi lận đận đủ mọi bề. Tôi mơ ước được đi học lại, cũng như ông trung uý Mỹ mong cho hết nhiệm kỳ ở Việt Nam để trở về New Hampshire tiếp tục học đại học.
                Cuối năm 1966, Hải quân bàn giao tất cả câu lạc bộ cho lục quân quản trị; ông xếp của tôi được về Mỹ. Tôi mất ông học trò, Brink BOQ cũng mất đi bầu không khí vui vẻ, sang trọng của hải quân. Vào dịp đó, BOQ Splendid có chỗ trống, tôi liền xin đổi đến đó để được gần nhà hơn một chút.
                Xếp mới của chúng tôi là một ông chuẩn uý chừng 45 tuổi. Ông làm việc không ngừng. Ông lại nghĩ là ông có bổn phận phải “quản” nữ nhân viên trẻ chúng tôi. Ông cấm chúng tôi đi chơi với sĩ quan Mỹ. Ông nhắc nhở chúng tôi: đi với họ rồi hết hạn trở về Mỹ, các cô ở lại một mình. Lỡ có cô nào mang một “bầu tâm sự”, thì thật là một tai hoạ. Ông cấm nhân viên dưới quyền không được nhờ các sĩ quan mua hàng trong PX.
                - Nếu các cô muốn gì trong PX cứ ra chợ trời là có hết. - Ông mỉa mai.
                Nhân viên đều kính trọng và tuân lệnh của ông. Ông rất tử tế và thành thật với tất cả mọi người.
                Tôi còn độc thân, lại khá tiếng Anh hơn những người cùng làm; ông xếp thay đổi giờ làm việc của tôi mấy lần, để đáp ứng nhu cầu của những người có gia đình, bận bịu con cái. Cuối cùng ông cho tôi làm supervisor của 5 có giữ két.


                Một trong những việc làm của tôi, là bán phiếu cho sĩ quan để họ dùng phiếu đó trả tiền ăn uống. Tất cả các câu lạc bộ Mỹ vào thời đó không xài tiền Mỹ kim, vì nạn chợ đen. Suốt hai tuần lễ liền, một đại uý Hải quân trẻ, ngày nào cũng ghé qua quầy tôi mua phiếu 10 Mỹ kim, đi thẳng vào bar uống rượu, rồi không thấy ông ghé phòng ăn bao giờ. Ngày qua ngày, ông đại uý ốm đi. Bộ đồ bay của ông mỗi ngày một rộng hơn. Tôi thắc mắc, không ăn, chỉ uống rượu thôi, làm sao có đủ sức khoẻ để bay.


                Một hôm, ông lại mua một phiếu 10 đồng để uống rượu. Tôi cất 10 Mỹ kim vô tủ, nhưng không đưa phiếu cho ông, nói:
                - Ông đi ăn trước đi, rồi tôi sẽ đưa phiếu cho ông đi uống rượu.
                Đôi mắt xanh như nước biển Thái Bình của ông nhìn vào mắt tôi, làm tôi choáng váng, vội nhìn xuống bàn. Ông nói:
                - Tôi không thích ăn một mình.
                - Thì ông nói mấy bạn nhậu của ông đi ăn với ông.
                - Ồ, mấy thằng đó xấu như ma. Nếu cô hứa mai đi ăn trưa với tôi, chiều nay tôi sẽ vào phòng ăn ngay cho cô vui.
                Ông vừa nói vừa nhìn chằm chặp vô mắt tôi, hai bàn tay đặt nhẹ lên bàn, như hối thúc tôi phải trả lời ngay. Tôi lúng túng đáp:
                - Tôi không thể đi ăn với ông được.
                - Tại sao?
                - Tôi không được phép đi ra đường với người Mỹ.
                - Lịnh của ai?
                Vừa lúc đó, ông chuẩn uý Lugent, xếp của tôi, vô phòng và đi lại bực cashier của tôi. Tôi chỉ ông, đáp:
                - Lịnh của ông này.
                Ông đại uý bèn nhìn thẳng mặt ông Lugent, rồi đột ngột nói:
                - Ngày mai, ông cho phép cô này đi ăn trưa với tôi nhen? Tôi hứa sẽ trả cô về đây an toàn và nguyên vẹn.
                Ông Lugent cười, đưa tay sửa cặp kiếng cận thị dầy cui của ông, và có vẻ hơi lủng củng, đáp:
                - Đại uý Krall cứ hỏi thẳng có ấy coi!
                Đại uý Krall trịnh trọng nói:
                - Tôi có thể sẽ nhịn đói cho tới khi cô chịu đi ăn với tôi. Bấy giờ, xin cô đưa phiếu cho tôi.
                Tôi lúng túng không biết nên phản ứng thể nào. Đại uý Krall làm cho ông xếp của tôi khó chịu, lại vừa làm tôi sượng người. Giá lúc ấy có thể độn thổ được, tôi đã chui ngày xuống đất. Tôi lúng túng nói để ông đi cho khuất mắt:
                - Sợ chết đói, tôi nhận lời đi ăn trưa với ông, ngày mai.
                Hôm sau, tôi đến sở sớm 2 tiếng, mặc cái áo đẹp hôm áo đi làm hàng ngày. Tôi vừa bước chân lên thềm của BOQ Splendid, đại uý Krall đã đứng khoanh tay dựa lưng ở cửa, một chân dựa vách tường, một chân dưới đất. Ông nhanh nhẹn dẫn tôi lại gần xe Jeep mui trần đậu ngày trước cửa, gần chỗ người quân cảnh Mỹ đứng gác. Mặt tôi nóng hơn vỉa hè buổi trưa nắng đó. Tôi vừa bối rối, vừa vui vừa sợ, vừa tự trách mình đã nhận lời đi với người lạ, ngang hơn cua. Rồi tôi thầm tự hỏi, tại sao mình mặc đẹp, trong khi người ta chỉ mặc bộ đồ phi công rộng thùng thình? Nhưng dù thế nào, tôi vẫn nghĩ đến cặp mắt xanh như Thái Bình Dương. Đôi mắt làm cho mặt ông sáng rỡ lạ kỳ.
                Tôi ngồi trên xe Jeep mà cứ phấp phỏrng sợ người quen bắt gặp. Nhưng tôi lại nhớ ngay ra rằng, ở cái đất Sài gòn này tôi có quen ai đâu mà sợ. Rồi tôi lại nghĩ tới các em tôi. Rủi Hải Vân trông thấy tôi ngồi cạnh một sĩ quan Mỹ thì sao? Có thể nhỏ sẽ đòi hối lộ: “Chị biểu anh chàng sĩ quan Mỹ practice tiếng Anh với em đi”. “Không được, cưng ơi. Chị chỉ đi ăn trưa bữa nay thôi để cứu mạng anh ta, không có lần thứ hai đâu. Kiếm thằng Mỹ khác để practice tiếng Anh cưng nhe”. Đại uý John Krall vừa lái xe vừa bắt tay tôi, rồi từ giới thiệu:
                - John, John Krall.
                Tôi đang ngầm nổi sung, cũng không biết tại sao lại nổi sung. Tôi cầm thẻ của sở Mỹ đưa lên cho John biết tên tôi. Ông liền nói:
                - I already know your name. Cô Dung.
                Ông phát âm tên tôi thật đúng. Tôi liền hỏi:
                - Tại sao ông nói tên tôi đúng quá vậy?
                - Biết mà. - Ông trả lời bằng tiếng Việt lơ lớ.
                Tôi nói một tràng tiếng Việt, vì nghĩ rằng ông cũng giỏi như người học trò cũ của tôi là Richard Satter trước kia. Nhưng John lắc đầu tỏ vẻ không hiểu. Ông đề nghị tôi gặp ông hàng ngày và dậy ông tiếng Việt. Tôi trả lời liền: “Không có chuyện đó ông ơi”. Nhưng ông không hiểu.
                Xe vừa tới cổng Cercle Sportif thì tôi cảm thấy bực mình, vì tôi ghét cái gì có dính líu tới thằng Tây. Ở cái thủ đô Việt Nam này, hết chỗ ăn trưa sao, mà lại chui đầu vô tiệm của thằng Tây. Nhưng ngay sau đó, tôi lại nghĩ rằng, tha chui đầu vô đây còn hơn là chạy dông dài ngoài đường phố. Tôi đã từng thấy nhiều cô gái Việt đi với Mỹ. Họ ngồi đầy trong các nhà hàng, như tiệm Đô Thành trên đường Hàm Nghi, hay tiệm Mỹ Cảnh bên bờ sông Sài gòn.
                Sau lần ăn trưa hôm đó, tình cảm của tôi đối với đại uý phi công John Krall đã thay đổi rất nhiều. Vì thế, tôi nghĩ rằng John có mua hai ổ bánh mì thịt, rồi rủ nhau ra ngoài đồng cỏ ngồi ăn, tôi cũng sẽ đi theo ông hết ngày này qua ngày nọ.
                Vào mùa thu năm 1967, Hải Vân bỗng trở thành phát ngôn viên của trái tim tôi. Nó tuyên bố:
                - Chị Dung yêu rồi. Đừng có ai lo chị ế chồng nữi. Chị làm cách mạng, yêu một anh chàng Mỹ mắt xanh. Em ghét Mỹ lắm, nhưng cái anh chàng Mỹ này là phi công, nên cũng OK.
                Cho tôi lúc này, John chỉ biết sơ về gia đình tôi, vì mỗi lần anh hỏi, tôi lại nói lảng sang chuyện khác. Nhưng tôi biết, đã đến lúc tôi phải, hoặc là nói thật về ba tôi, hoặc là tôi cắt đứt hoàn toàn với John. Đằng nào thì mối tình này cũng phải chết yểu. Có thể anh đại uý phi công Mỹ sẽ hết hồn, khi biết ba tôi là một cán bộ cộng sản. Không chừng anh xin về Mỹ sớm hơn thời hạn. Nhưng làm sao tôi có thể nói dối với người tôi yêu được. Thì thôi, phó mặc cho ông trời; tôi không nên ôm cái bí mật này nữa. Tôi quen với John cũng gần một năm rồi, chớ đâu phải mới hôm qua hôm kia!
                Hôm đó, tối thứ sáu, John đến nhà rước tôi đi ăn ở nhà hàng La Cigale, trên đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao. Chúng tôi vui vẻ nói cười suốt buổi. John còn lên yêu cầu cô nhạc sĩ đàn cho tôi nghe bài Greensleave. Trong lúc chúng tôi ngồi cho ăn tráng miệng. John nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói:
                - Cô không bao giờ nói về ba cô cho tôi nghe?
                Tim tôi thắtt lại. Bây giờ phải nói gì đây? John vô cùng quan trọng đối với tôi. Nhưng tôi không trả lời anh ngay mà xin phép vào toilet rửa tay. Đóng cửa lại, tôi nhìn tôi trên kiếng, tìm một câu trả lời. Tôi nhớ, đã có lần một người trong gia đình cho là tôi “muốn chết”, vì tôi nhứt định không bao giờ chịu nói ba tôi chết, khi ai hỏi tới Người. Các chị tôi nói “ba chết” một cách dễ dàng. Bây giờ a, khoảng cách giữa tôi và câu trả lời đó chỉ có một bức tường. Chắc là tôi sẽ chết thiệt cho không phải “muốn chết”, vì tôi không thể nói dối được với John.
                Khi tôi trở về bàn, John đứng dậy kéo ghế cho tôi. Anh im lặng chờ tôi trả lời. Khi bão tố nổi lên trong lòng tôi, thì vẻ mặt anh cũng tươi vui như đứa con nít trong ba ngày Tết. Tôi bối rối cầm ly rượu chát uống cạn, rồi vội vàng nói thật nhanh:
                - Ba tôi hiện đang ở ngoài Hà Nội. Ông là đảng viên cao cấp Đảng cộng sản. Nếu anh không muốn gặp tôi nữa, tôi sẽ hiểu.
                John bình tĩnh vừa cười vừa nói:
                - Tại sao tôi lại muốn làm cái việc dại như vậy?
                Rồi anh hôn lên ngón tay trỏ của anh, đặt ngón tay đó lên trán tôi. Đó là một cử chỉ quen thuộc anh vẫn thường làm, khi anh gặp tôi ở sở, trước mặt đông người.
                Đám mây đen bao phù thế giới nhỏ bé của tôi từ lâu, hôm nay bỗng tan biến nhanh chóng. Tôi say sưa nói về ba tôi. Từ 1954 cho tới năm 1967, tôi không kể cho ai nghe về ba tôi và anh Khôi. Nhưng tối nay, một đại uý phi công Mỹ có đôi mắt như biển Thái Bình, phải ngồi im lặng nghe tôi nói! Thỉnh thoảng, trong khi kể, tôi ngừng lại, tìm trong mắt anh một tia nghi ngơ, nhưng không thấy. Anh chăm chú nghe như nghe một chuyện thần thoại, một chuyện khó tin nhưng có thật. Mà nghe thì cứ nghe, còn có dám chấp nhận không lại là chuyện khác. Chấp nhận, có nghĩa là tiếp tục đi bên cạnh tôi suốt cuộc đời này.
                Với anh John, tôi có thể vui cười, nghiêm trang, bướng bỉnh, hay ngây thơ một cách tự nhiên. Bay giờ, ngoài An ninh quân đội, chỉ có anh biết về gia đình tôi, mà tôi không sợ bị phán đoán hoặc nghi ngờ, hoặc bị vu oan cho cái tội làm tay sai cho VViệt Cộng, đặc công, nằm vùng.
                Tôi chợt nhớ tới lời em trai tôi có lần đã nói: “Anh Mỹ kiểu này thông minh hơn em, chị ơi”. Thỉnh thoảng tôi thấy John khai toán, lý, hoá cho nó. Thì ra hai người đã thích nhau nhưng tôi không biết. Có một lần, hai chị em đi chơi với John Hải Vân hỏi mượn xe Jeep của John để “chạy thử một vòng”. Tôi biết em tôi chưa biết lái xe. Tôi nhìn nó, thì nó nói nó không biết lái xe cho nên nó mới mượn xe để học lái. Nửa tiếng đồng hồ sau, Hải Vân trở lại, mắt sáng trưng “em lái được rồi đó”. Lúc đó John mới hiểu, và mới hết hồn vì đã đưa xe của nhà binh cho thằng nhỏ chưa biết lái xe. Tôi không dám kể lại cho má chuyện này, mà Hải Vân cũng không méc tôi đi chơi với John.
                Đêm đó, John và tôi là hai người khách cuối cùng của nhà hàng La Cigale. Vợ chồng ông Tây đi tới bàn chào chúng tôi để họ đóng cửa. John vội nâng ly, nói:
                - Tôi sẽ không đi hỏi cưới ông bỏ cộng sản của cô, nhưng tôi rất muốn cưới con gái của ông. Làm ơn “dạ“ cho tôi nhờ.
                Tôi không rõ anh đã học được ở đâu cái câu nói đó. Đêm hôm đó và nhiều đêm tiếp theo, tôi thức giấc khuya, rồi băn khoăn tự hỏi: “Đây là thật hay là mộng”. Rồi tôi từ trả lời: “Mà dù cho là mộng, rồi nó cũng sẽ biến thành sự thật ”. Tôi tin như vộiy, vì nhiều mộng của tôi đã thành sự thật. Nhưng tôi là con người lệ thuộc gia đình rất nhiều, vì thế tôi không thể không hỏi ý kiến má, dù má lúc nào cũng sẵn sàng cho chúng tôi tự do quyết định cuộc đời mình.
                Vào một buổi trưa nóng nực của mùa xuân Sài gòn, má và tôi ngồi nói chuyện trên bậc thêm trước nhà, trong khi mọi người đang ngủ trưa. Hai mẹ con nói đủ mọi thứ chuyện, bắt đầu từ chuyện thời tiết, so sánh giữa Sài gòn với Cần Thơ. Rồi chuyển sang chuyện chánh trị. Mà chánh trị là thể nào cũng có ba tôi. Má nhắc lại lời của ông ngoại, cho rằng các cậu và ba tôi bị Hồ Chí Minh và đàn em của ông ta lừa gạt. Các cậu và ba đều những người yêu nước, thật thà, chỉ biết chống Tây để giành độc lập cho nước nhà. Cũng theo ông ngoại, cộng sản phá vỡ mọi luân lý gia đình, rồi sẽ đưa Việt Nam đến suy tàn… Má cũng biết Hải Vân có ý định gia nhập Không quân. Khi tôi đang loay hoay tìm cách đổi hướng câu chuyện sang vấn đề hôn nhân giữa tôi và John, nói lòng vòng mà không nói được hết ý trong lòng mình, má tôi nhẹ nhàng nói:
                - Con lập gia đình với ai cũng được, miền đừng có lấy chồng vì tiền, thì ba không trách ai được.



                Comment


                • #23
                  Chương 24



                  Tết năm nay là năm tuổi của chị Thuận. Chị cầm tinh con khỉ, tuổi thân. Tôi thường chọc chị là “Tuổi thân Con khỉ ở hiền, trèo qua trèo lại té ùm xuống sông”. Ước gì chị chưa có chồng để được tự do lên Sài gòn sắm Tết. Nhưng, cuộc đời chị đã đi vào một khúc quẹo buồn thương. Từ ngày lấy chồng, chị gặp những phản ứng của cả hai bên gia đình. Phía bên gia đình tôi, dì Bảy và mấy chị con cậu Tư không nhìn chị nữa, vì chồng chị sinh trưởng trong gia đình “cường hào ác bá”. Trong khi đó, bên chồng chị, người ta ghét chị, vì gia đình chị theo Việt Cộng. Chị không phải là người họ coi là “môn đăng hộ đối”. Vì vậy, vợ chồng chị và đứa con gái sống trong sự ghẻ lạnh của cả hai phía, rất nghèo, nghèo cả tình thương lẫn vật chất.


                  Tết năm nay gia đình tôi cũng có nhiều thay đổi. Mấy tháng trước, chị Cương theo chồng con đi Mỹ. Rồi đến lượt chị Kim cũng đi Mỹ luôn. Chị dậy tiếng Việt cho quân đội trong Bộ quốc phòng Mỹ. Gia đình tôi còn má, ba đứa em và tôi. Chúng tôi sống cheo leo trên đất Sài gòn, không một người bà con ruột thịt. Cho đỡ cô đơn, chị em chúng tôi tính ăn Tết thật lớn, như chưa bao giờ ăn Tết. Hải Vân mua pháo. Tôi đi chợ bông Nguyễn Huệ ở Sài gòn với má, không nhớ là mấy lần, bánh kèo đầy bàn từ dưới bếp đi lên nhà trên, ở đâu cũng có mặt của Tết. Tôi và má rinh về nhà hai cây mai để hai bên cửa, để được may mắn suốt năm. Hải Vân đòi dĩ Dẽ và con Vân, con Sang làm dưa củ kiệu và phải nhớ mua tôm khô cho nó. Hải Vân mua bia, nhưng giấu không cho má biết. Chờ mà ngủ, chị em tôi xuống bếp khoá của lại, uống bia, ăn củ kiệu và tôm khô.


                  Con Vân, con Sang ngồi cắt một thau củ kiệu, khiến tay nhăn nheo và đỏ rát vì nước phèn chua. Nhưng, làm cho anh Hải Vân ăn, thì có lở bàn tay, hai đứa “học trò” của Hải Vân cũng bằng lòng. Hải Vân bắt hai đứa giúp việc nhà phải biết đọc, tập viết, biết tính toán. Con Vân hiếu học, còn con Sáng thì thường viện cớ phải làm công chuyện để trốn học. Nào là “cô Tám kéo em”, nào là “em phải ủi quần áo cho mấy chị”, v.v… Con Vân rất giỏi toán; con Sang thì vươn cổ cọp bài của bạn. Có khi nó còn nhờ cô Tám làm bài giùm. Có lần, Hải Vân la con Sang: “Mù chữ thì con trai biết chữ không thèm ngó tới”. Con Sang cứng đầu nói ngay: “Vậy em lấy thằng mù chữ cũng được”. Hải Vân bèn doạ: “Má không gả máy cho mấy thằng mù chữ đâu”. Dì Dẻ không biết chữ, nhưng dì là em bà con có cậu ruột của má, nên Hải Vân kính nể, không dám bắt dì học.


                  Tết này, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho dân chúng đốt pháo mấy ngày Tết. Hải Vân và tôi thích nhứt là không có giới nghiêm. Tết này, chúng tôi có nhiều bạn bè tới họp rất vui vẻ, cả John cũng tới nữa. Đây là lần đầu tiên anh ăn Tết Việt Nam. Từ ngày ba tôi đi tập kết, đây là cái Tết đầu tiên tôi không nhìn ra cửa với tia hy vọng, như tôi đã từng làm cả chục năm qua, nhắm mắt lại vài giây, mở ra sẽ thấy ba đứng ngoài cửa sổ. Nhưng tôi đâu có ngờ, ba tôi về trong một hình thức khác.


                  Mười một giờ khuya, John và tôi phải đưa Hạnh, một người bạn tôi, về Hoà Hưng để kịp có mặt ở nhà trước giờ giao thừa. Bạn của Hải Vân cũng từ từ ra về hết, chỉ còn một mình cậu bạ Ali uống hết nửa chai bia, say nằm trên divan. Vì Hạnh thích đi xe mui trần, John gỡ cái mui xe Jeep xuống. Trên đường đi, chúng tôi nói cười vui vẻ. Tôi nghe lòng rộn rã mỗi khi tiếng pháo nổ ran ở chung quanh. Tôi bỗng thấy yêu đời, vì được tự do đi trong đêm khuya, không có giới nghiêm. Tôi thầm tự hỏi, phải chăng đất nước từ đây sẽ thanh bình, và người dân sẽ được sống trong hạnh phúc, bình an.


                  Khi chúng tôi tới Hoà Hưng, Hạnh chỉ đường cho John chạy tới hẻm nhà Hạnh. Nhưng chúng tôi không vô hẻm được, vì ở ngay đầu hẻm, trước mũi xe có đám con nít và vài người lớn vây kín một toán lính mặc đồng phục kaki. Họ chặn đường hẻm và chặn đường trước mặt chúng tôi nữa. Lúc đầu, tôi tưởng đám đông là người trong xóm ra đường đốt pháo. Khi nhìn kỹ, tôi thấy mấy người lính đeo súng AK và đội nón cối. Hình ảnh người bộ đội của tiểu đoàn 307 hiện ra trước mắt tôi. Tôi rừng mình. Hạnh và tôi kêu trời, rồi nó nhảy vội xuống xe, cúi gầm mặt chạy biến vô hẻm. Trong khi đó, toán lính đeo AK chặn đầu xe, khiến John phải bấm kèn inh ỏi, rồi cho xe chạy từ từ. Toán lính và bọn con nít phải dạt sang hai bên, để nhường lối cho xe đi qua. Riêng tôi, lúc đó tôi nhắm mắt, vì tưởng sẽ bị lính Bắc Việt ria cho một tràng súng. Nhưng rồi tôi mở mắt, run quá, tôi đánh hò cạp hỏi John:
                  - Có phải hai đứa mình thấy…
                  - Đúng là tụi nó rồi cưng ơi!
                  Anh từ từ lái chiếc xe Jeep ra khỏi đám đông. Khi chúng tôi đã ra tới đường cái, anh cho xe chạy như bay trong bóng đêm.
                  Trên đường về nhà ở đường Nguyễn Văn Sâm, chúng tôi giữ im lặng. Tôi thì bối rối tựr hỏi làm sao bộ đội Bắc Việt đã vào trung tâm Sài gòn mà không có một tiếng súng nổ? John im lặng, vẻ mặt lo lắng, căng thẳng. Khi tới nhà, anh dắt tay tôi lên lầu, dặn tôi khoá cửa thật kỹ và đừng đốt pháo, đừng ra đường. Trước khi từ biệt, anh con chúc: “Happy Tet!”. Tôi ra balcon để nhìn hút theo anh khuất ở ngã tư Lê Công Kiều, mong cho anh trở về BOQ bình yên.
                  Bạn bè về nhà hết, đem theo cả tiếng nói tiếng cười. Nhà chỉ còn Ali nằm ngủ trên divan. Má ngồi với Hải Vân ở dưới bếp, nhìn nó ăn chè đậu xanh cho giã rượu. Tôi cũng cố đi cho thẳng thớm để mà không biết tôi cũng say như hai thằng nhỏ kia. Thói quen trong gia đình, là khi nói tới Việt Cộng, chúng tôi thấp giọng xuống. Tôi ngồi xuống cạnh má, rồi nói thật nhỏ, đủ để má và Hải Vân nghe thôi:
                  - Con không có nói xàm, nói bậy, nhen. Hồi nãy tụi con thấy lính Bắc Việt đứng trước hẻm vô nhà con Hạnh.
                  Má, Hải Vân cùng nhìn tôi bằng đôi mắt nghi ngờ. Trong khi má đưa cho tôi một chén chè đậu xanh, “mày cũng cần chén chè này nữa, con gái mà uống rượu, tao buồn hai đứa bay lắm!”
                  Hải Vân nói:
                  - Chị giầu tưởng tượng quá!
                  Tôi khoát tay, nói với má:
                  - Con không có say như mấy thằng này. Để dành chè cho tụi nó. Thiệt mà má, con thấy lính Bắc Việt bận đồ kaki rõ ràng; đồ lính này giống y như đồ của bộ đội hồi xưa vậy đó!
                  Hải Vân ngước đầu lên, mắt lim dim:
                  - Chị tưởng tượng rồi!
                  - Không tin, mai hỏi John đi. Anh cũng điếng hơn luôn. - Tôi trả lời.
                  Hải Vân ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:
                  - Trời ơi, em nhớ rồi. Tháng trước chị Thảo lên đây, chị nói trước sẽ có một biến cố lớn trong dịp Tết này, nhớ chưa? Chị dặn tụi mình đừng đi đâu xa ba ngày Tết, về Cần Thơ cũng không được, ai ở nhà nấy, đừng ra ngoài đường. Chị dặn tích trữ đồ ăn để phòng hờ, nhớ chưa?
                  Bấy giờ má và tôi mới nhớ ra, hôm chị Thảo lên Sài gòn để đi bác sĩ khám mắt. Chị dặn dò nhiều lắm, nhưng bọn tôi nghe rồi bỏ qua, vì gia đình này cũng “không nghe những gì cộng sản nói”, mà còn nghĩ chị Thảo nghe lời Việt Cộng, gây lo sợ, hoang mang trong lòng người dân đang sống trong sự bình yên.
                  Bất thình lình, một tiếng nổ long trời ngay gần đâu đây, rồi sau đó là những tràng súng liên thanh, át cả những tiếng pháo đì đẹt. Như đã được huấn luyện trước, chúng tôi vội nằm xuống sàn nhà. Con Vân bò quýnh quáng tôi ôm má tôi, run sợ khóc:
                  - Dì Tám ơi, đừng để con chết không thấy mặt má con, dì Tám ơi.
                  Tôi nói lớn:
                  - Bây giờ tin tui thấy lính Bắc Việt chưa?
                  Hải Vân lên tiếng:
                  - Mà tại sao mấy thằng lính Bắc Việt nhìn chị mà không làm gì hết? Mà, sao nó không bắn anh John? Chắc tụi nó còn chờ chỉ thị. Thấy nó bắt chết là phải chết, cho sống mới được sống. Chị có nghe tụi nó bị xiềng vô trong xe thiết giáp, đánh tới hơi thở cuối cùng không? Biết đâu số mạng anh phi công của chị được sống lâu hơn một chút, là nhờ kỷ luật của ba mình. Chờ cho hết trận này, rồi chị coi xem, em đoán có đúng không nhen.
                  Vừa nói Hải Vân vừa lấy tô chè đạu xanh ăn tiếp tục.
                  Má tôi chạy lên nhà trên, vì hai đứa em đang ở nhà trên. Bà ra dấu cho tụi tôi giữ im lặng để nghe tiếng súng gần xa từ hướng nào bắn tới. Tiếng súng máy băn bên kia đường Lê Công Kiều.
                  Tiếng pháo kích rền trời, không một ai biết đâu là đâu mà có biết súng bắn từ đâu, cũng phải nằm sát đất, cũng phải chun dưới gầm ghế lánh nạn. Tôi thấy mình bât lực, thấy mình nhỏ nhoi như con kiến, khi nằm dưới sàn, giữa hòn tên mũi đạn.
                  - Rủi tao chết vì pháo kích, may phải bắy chị Thảo thường nhen. - Tôi nói nhỏ với Hải Vân.
                  Mà liền nạt tôi, khiến đám con nít cười khúc khích.
                  Dì Mận nói:
                  - Miệng ăn mắm ăn muối nói bậy, không nên Dung à.
                  Tôi vì sợ quá nên nói bậy nói bạ cho quên sợ. Tôi lại khêu Hải Vân: “Tụi mình đi thay quần lót mới đi, rủi có chết, vô nhà xác người ta không cười mình.
                  Dì Dẽ giận cái miệng mắm ăn muối của tôi lắm.
                  Các em tôi khóc thút thit, trong khi Hải Vân và tôi cứ nói lớn miệng cho đỡ sợ. Bỗng một tiếng nó dữ dội phát ra từ bên kia của khu phố nhà tôi, cạnh rạp hát Kim Châu. Hải Vân liền ra ban công để quan sát. Má nắm áo nó lôi lại, những không kịp. Khi chạy trở lại, nó nói lớn:
                  - Chưa sập hotel.
                  Cách nhà tôi chừng 400 thước có cái hotel đang xây cất. Hotel này cất để cho Mỹ mướn làm BEQ cho hạ sĩ quan Mỹ.
                  Người hàng xóm của chúng tôi, một ông thượng sĩ không quân, tới nhà, căn dặn chúng tôi đừng ra đường, vừa có lịnh giới nghiêm. Ali nóng lòng muốn về chùa Bà Lai. Nó nói rằng giới nghiêm hay không nó cũng phải về để ba má nó khỏi lo, người hàng xóm còn nói thêm, là không phải đảo chánh, mà Việt Cộng tấn công.
                  Hải Vân liền vọt miệng nói:
                  - Đảo chánh sướng hơn!
                  - Cái nào cũng chết dân hết, cháu ơi! - Ông hàng xóm than.
                  Hải Vân nói nhỏ đủ cho tôi nghe:
                  - Đảo chánh mình còn tự do, Việt Cộng mà thằng thì mình chết.
                  Tiếng súng thưa dần khi mặt trời ló dạng. Dưới đường, tiếng xe, tiếng người kêu réo nhau inh ỏi. Hàng xóm của chúng tôi phần đông là người Bắc, người Hong Kong, người Đài Loan, nhốn nháo nhưng không ai biết đi đâu, về đâu, hay lánh nạn gì?
                  Những người sống trên cái lầu này, đi làm ở các nhà ngân hàng trên đường Hàm Nghi. Chợ Cũ, bến Chương Dương. Họ là những người dống trên đất Sài gòn mà chiến tranh hay chánh trị không bao giờ bén mảng tới thềm nhà của họ. Họ sống trong hoa che chở của người lính Việt Nam Cộng hoà. Họ là những người có liền gởi con trai ở tuổi lính đi Hong Kong, đi Đài Loan, để trốn quân dịch. Họ là những người có tiền đi lính kiếng, và là những người đã một lần bỏ chạy vô Nam lánh nạn cộng sản.
                  Khi tiếng súng thưa dần, có mấy người ở lâu một lên, hỏi em tôi:
                  - Cậu Vân ơi, chuyện gì xảy ra vậy? Lại đảo chánh, phải không?
                  Hải Vân cho biết là Việt Cộng đã xâm nhập trung tâm thành. Ai nấy đều sợ hãi, chạy vội về nhà, đông kín cửa.
                  Má tôi sang nhà kế bên, nhà của bà Tơ và ông Tọong để hỏi tin tức. Hết nhà tôi tám người, kéo nhau đi theo má, vì không ai muốn ở nhà một mình. Má day lại nhìn cái đuôi dài, nở nụ cười khoan dung, rồi má cho theo má. Nhà bà Tơ chật cứng con nít. Có đứa sợ cắn vạt áo, có đứa ôm bình sữa khóc tức tưởi, lại có đứa cười khúc khích với Hải Vân.
                  Đến gần 7 giờ sáng, phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ lên đài phát thanh báo cho dân chúng biết cộng sản đã tấn công vô thành phố Sài gòn. Chúng tôi trở về nhà quây quần bên má. Chúng tôi dồn dập hỏi mà:
                  - Bây giờ mình phải làm cái gì?
                  - Rủi Việt Cộng chun vô nhà mình thì làm sao?
                  - Đóng kín cửa, khoá chặt lại, và cứ bình tĩnh. - Mã tôi dặn đi dặn lại.
                  Một lần có tiếng dài bác vọng tới, cái tủ kiếng rừng rinh. Con chim cúc-cu trong cái đồng hồ chun ra kêu cúc-cu, rồi lại chun trở về.
                  Thấy tình hình có mỏi quan trọng, má tôi thu dọn mấy thứ quý giá cất vô cái túi bằng nhung xanh. Hình cháu Christina, con chị Cương, hình ông bà ngoại tôi và cậu Năm Sắc trên bàn, hình má tôi chụp chung với anh Khôi, chị Kim, chị Cương gửi ra Côn Đảo cho ba tôi vào những năm 1940 đến 1945, đó là những kỷ vật quý báu của má tôi. Ai cũng lo, cũng sợ mà giữ hết những điều quan trọng cần thiết trong đời sống. Hải Vân nghĩ tới việc dự nước và đồ ăn, vì chúng tôi ở lầu ba, mỗi ngày người giữ máy bơm nước phải bơm mấy tiếng đồng hồ mới đủ cho mọi người trên lầu một và lầu hai có nước xài. Hải Vân vội đi tìm bà Hai bơm nước, nhưng bà không đi làm. Hải Vân phải lấy cưa để cưa ống khoá mới mở máy bơm được. Sau đó, nó chạy lên cả hai lầu, khuyên mọi nhà nên trữ nước. Mọi người mừng rỡ, cảm ơn “Chú Vân”.
                  Việt Cộng tưởng kế hoạch tấn công trong ba ngày Tết sẽ làm tê liệt Sài gòn, nhưng dân Sài gòn giỏi tháo vát, nên lướt qua được những khó khăn mà chúng gây nên vào mấy ngày đó. Riêng gia đình tôi, nhờ bọn chúng tôi đòi ăn Tết lớn, nên đồ ăn trong nhà còn nhiều. Nguyên món dưa hấu, chúng tôi có 10 trái. Ngoài ra, nào bánh ít, bánh tét, bánh chưng, thịt heo kho, thịt bò kho, ca thu kho… còn nguyên vẹn cả nồi. Bốn con gà cồ, còn nhốt trong lồng. Nếu Việt Cộng chun dưới ống cống của thành phố cả nửa tháng, dân Sài gòn vẫn chẳng có ai chết đói.
                  Chúng tôi ngồi quây quần bên nhau, bình tĩnh vui cẻ, Hải Vân trêu má tôi, hỏi:
                  - Việt Cộng làm tiêu cái Tết của mình, như vậy có phải suốt năm mình bị tiêu tùng hả má?
                  Má tôi cười buồn:
                  - Họ làm mình tiêu tùng 14 nắm nay, chớ đâu đợi mùng một Tết Mậu Thân, con.
                  Tôi sực nhớ là tôi phải đi làm ca chiều, từ một giờ rưỡi tới chín giờ rưỡi tối. Nhưng, vừa giới nghiêm vừa đạn bay súng nổ không biết cô có thâu ngân nào dám đến sở làm sáng nay không? Cả những người làm bếp, hầu bàn, quét dọn… chắc cũng kẹt ở nhà luôn. Tuy vậy, tôi vẫn nghĩ mình có trách nhiệm với sở, với chủ, với khách hàng. Tôi nhớ lại hồi khách sạn Brink bị Việt Cộng đặt mìn, có những dân sự người Mỹ không biết tuỳ cơ ứng biến, họ cứ tưởng rằng mặt trời mọc riêng cho họ. Dưới lầu của nhà bị mìn, người ta chưa quét dọn xong, mà khách đã bắt tôi phải cho họ gặp ông chủ, để trách là cầu thang máy chạy chậm, máy lạnh ở phòng ăn không đủ lạnh, nên họ vừa ăn vừa toát mồ hôi. Tôi không dám nói thẳng với họ, chỉ day qua người bạn làm cùng: “Biểu Mỹ đánh tan Việt Cộng đi, máy lạnh sẽ chạy lạnh hơn”. Không biết hôm nay mấy người Mỹ ấy sẽ nghĩ gì khi thấy cái chết gần kề?
                  Lúc này này muốn liên lạc với bên ngoài, chỉ có điện thoại. Má không cho chúng tôi có điện thoại, vì mà nói nhà mình không cần điện thoại, chỉ có con gái của má cần điện thoại để nói chuyện với con trai thôi. Rốt cuộc, nhà không có điện thoại khi có việc cần.
                  Trước cửa rạp hát Kim Châu có nhà hàng Hồng Mai. Tiệm này có điện thoại. Tôi ra balcon nhìn sang nhà hàng, chờ ông chủ người Tàu nhìn lên. Ông hay nhìn lên balcon nhà tôi, vì nhà tôi rõ đông con gái. Rồi khi ông vừa ngước nhìn lên, tôi liền hỏi to:
                  - Ông chủ ơi! Điện thoại của ông xài được hông? - Tôi vừa nói vừa ra dấu.
                  Ông gật đầu, vui vẻ đáp với giọng lơ lớ:
                  - Giới nghiêm cô Hai à. Đi qua lộ người ta cấm mà!
                  Tôi vội hay quần áo, rồi phóng qua bên kia đường. Tôi muốn hỏi xếp có cần tôi không? Nếu có, làm sao tôi có thể đến sở vào giờ giới nghiêm này? Đi khơi khơi giữa đường, quốc gia không bắn thì Việt Cộng cũng cho phơi thay. Nếu tôi bị Việt Cộng chấm dứt cuộc đời son trẻ, chị Thảo sẽ khóc và kể là tôi đã chết cho cách mạng. Trời ơi! Nếu tôi chết, thì tôi chỉ chết vì miếng cơm manh áo cho gia đình, vì tinh thần trách nhiệm đối với sở làm, mà đó là sở Mỹ, chớ tôi không phải đặc công hay gì ráo!
                  Tôi liện hệ được với ông Lugent, ông cho biết cả 150 nhân viên Việt Nam không có ai vô sở. Hiện ông và ba ông thượng sĩ Mỹ đang ở trong bếp để nấu cho tất cả các sĩ quan đang ở trong Splendid. Rồi sau đó họ sẽ làm đồ ăn gởi tới một vài nơi khác. Tôi liền đề nghị ông cho MP đến đón tôi, tôi sẵn sàng giúp một tay. Mới đầu ông tỏ vẻ ngần ngại, nhưng rồi ông đổi ý. Hoà Bình, em tôi, còn đi học, chỉ làm thâu ngân viên bán thờigian trong sở tôi. Tôi hỏi em có dám đi làm với chị không? Em đáp:
                  - Má cho thì em theo chị!
                  Hai chị em tôi cho má biết chúng tôi sẽ đi làm. Lúc đầu má không bằng lòng, nhưng chúng tôi đã thuyết phục được má. Chúng tôi nói rằng tất cả 150 nhân viên người Việt không đến làm việc. Má đã dậy chị em tôi cố tinh thần trách nhiệm. Chúng tôi đã học bài học ăn cây nào rào cây nấy. Chắc chắn người Mỹ đủ phương tiện đảm bảo an ninh bảo vệ cho mình. Má tuy không hài lòng mấy, nhưng cuối cùng má cho hai chị em tôi đi làm
                  Khi hai người lính quân cảnh Mỹ đậu xe Jeep trước rạp hát Kim Châu, người nào cũng mặc áo giáp và mang súng. Má tôi buồn lắm, miễn cưỡng xuống bếp lấy cho chị em tôi bánh ít, rồi dặn đến đó nếu thấy “không êm” phải xin quân cảnh đưa về liền. Tôi hứa sẽ về thăm nhà, nội trong ngày hôm đó. Hai quân cảnh đưa cho chúng tôi hai cái nón sắt, và bắt chúng tôi phải cúi thật thấp, dù xe đã kéo mui kín mít. Xe phòng như bay trên những con đường vắng như nghĩa địa. Khoảng 10 phút, chúng tôi đến sở làm. Trước cửa sở, những bao cát chất cao từ đất lên tới nóc nhà, bên ngoài lại có thêm mấy vòng giây kẽm gai giũ an ninh cho căn cứ. Cửa ra vào có hai quân cảnh đứng gác, ngoài súng M-16, họ đều đeo súng lục và giắt lựu đạn trên dây lưng. Trước khi vô trong, hai chị em tôi trả nón sắt cho quân cảnh.
                  Ông xếp giao việc giữ két cho em tôi, còn tôi phải lao vào bếp để lo việc nấu ăn. Khoảng 4 giờ chiều, ông Lugent nhớ đến việc mở cửa bar, vì có nhiều sĩ quan uống rượu trong giờ cơm. Ông đẩy tôi ra bàn rượu. Mà tôi có biết chai rượu nào với chai rượu nào đâu mà bán. Đi ngang qua chỗ Hoà Bình ngồi giữ cash, tôi vừa cười vừa nói với em tôi:
                  - Bấy giờ tao đi bán bar.
                  Hai chị em tôi cười rũ rượi.
                  Khi ông Lugent mở cửa bar, mấy chục sĩ quan mừng lắm, vỗ tay vang dội, rồi tràn vô. Nhưng tôi thì lúng túng, vì tôi đâu biết pha rượu. Ông Lugent phải chỉ dẫn giúp tôi chừng 15 phút đầu tiên. Sau đó, một mình tôi phải tự lo lấy. Để công việc trôi chạy nhanh chóng mà các sĩ quan không phải chờ đợi lâu, tôi cho biết tôi chỉ có thể bán bia, rượu rum pha với coke, Gin và Tonic, rượu Whisky và rượu chát. Tôi yêu cầu khách hãy thật thà tự động bỏ tiền vô một cái hộp cho tôi, vì tôi không có thì giờ thu tiền. Ngoài việc pha rượu tôi còn phải vô kho lấy thêm rượu, và lấy thêm chanh, muối, nước đá… Hai chị em tôi làm việc liên miên quên cả ăn trưa; đến chiều thì bắt đầu mệt mỏi rã rời, trong khi đó trong nhà bếp, chỉ có 4 người, mà làm công việc của 10 nhân viên.
                  Buổi tối, sau khi phòng ăn đóng cửa, đáng lẽ quân cảnh lại đưa tôi về nhà thăm má để má yên tâm, rồi sáng hôm sau đến đón chúng tôi, nhưng chúng tôi thấy việc đi về trong tình hình này rất nguy hiểm, như giỡn mặt với tử thần, nên chúng tôi xin phép má cho chúng tôi ở lại sở làm; khi tình hình bớt nguy hiểm, chúng tôi sẽ về thăm nhà. Nói vậy thì nói, chúng tôi cũng nhớ Hải Vân. Minh Tâm lắm, nhứt là trong lúc loạn lạc này. Vì thế mỗi khi có dịp, chúng tôi lại nhờ mấy ông quân cảnh đưa xe về thăm nhà. Họ cùng chiều chị em tôi, nên sẵn sàng chở đi. Khi về thăm nhà lần thứ ba, chúng tôi kêu quân cảnh chạy chậm để chúng tôi có thể quan sát hai bên đường. Thật là ghê sợ, không thể tưởng tượng được! Trên đường Công Lý, từ góc Lê Lợi tới Hàm Nghi, có nhiều nhà bị trúng đạn và người chết nằm rải rác trên lề đường. Hàng cây me cũng bị đạn, có cây đổ nghiêng, có cây gẫy nhiều cành. Nhưng chúng tôi chú ý nhất đến của hai cha con người dân An Lộc tỵ nạn lên Sài gòn từ mấy tuần trước. Sau cuộc chiến An Lộc, gia đình này gồm ba người, hai vợ chồng và đứa con gái, chạy lên Sài gòn. Cả ba đều bị thương nên phải vô bệnh viện Sài gòn, trước chợ Bến Thành, chữa trị. Người chồng và đứa con gái bị thương nhẹ nên được ra viện sớm. Hai cha con không có họ hàng thân thích gì ở Sài gòn phải dựng một túp lều bên hàng rào của một biệt thự dưới một cây bông giấy mầu tím trên đường Công Lý, giữa Hàm Nghi và Lê Lợi. Thấy họ quá nghèo khổ, mỗi khi đi làm, chúng tôi đều ghé thăm để giúp đỡ, lúc thì tiền bạc, lúc thì đồ ăn. Khi cuộc Tết Mậu Thân bùng nổ, họ không biết trốn đi đâu, nên đành ở đó chịu trận. Xác của hai cha con bị văng tứ tung trước cổng biệt thự. Cái chân đang bị bó bột bắn ra giữa đường. Xác đứa con gái nằm úp mặt trên vũng máu khô. Trong khi đó, Sài gòn vẫn ầm tiếng súng, lúc gần lúc xa; thần chết vẫn còn đang rình rậo nơi đây. Tôi bấm bàn tay để coi đây là mộng hay đây là thật.
                  Đây là thật. Tôi đi giữa đổ nát và chết chóc. Tôi trách ông trời sao không bảo vệ được người ta. Nhưng cũng không quên cám ơn ông trời, cho gia đình tôi được bình yên.
                  Chỉ mới có một đêm không về nhà, không được ăn cơm nhà, vừa nhớ nhà vừa thèm mấy món ăn của ngày Tết. Nào nước thịt dim nước dừa ăn với dưa cái; cả lóc kho tiêu kiểu của dì Dẻ vừa ngọt, có tiêu sọ nguyên hạt, dì kho đặc kẹo. Không ai kho cá lóc ngon bằng dì Dẻ… Tôi thầm tự hỏi, nếu sau này đi xa, không có nước mắm, không có những món ăn Việt Nam, làm gì tôi sống nổi đây?
                  Về nhà, hai chị em tôi không những ăn cho đã thèm, mà còn trấn an được má. Suốt từ lúc chúng tôi rời khỏi nhà, má đứng ngồi không yên. Má thuật lại, là trước đó một ngày, lúc 9 giờ sáng, không còn giới nghiêm nữa, Hải Vân liền chạy ra chùa Bà Lai gặp Ali, rồi hai đứa đi giúp đỡ người dân bị nạn. Hải Vân có vẻ căm thù cộng sản lắm. Nó tuyên bố nhứt định vào không qussn, để đi diệt Cộng. Nó cho biết, chưa bao giờ nó thấy Việt Cộng tàn ác như bây giờ. Nó thấy người chết dưới nhiều hình thức, chớ không phải chết vì súng đạn.
                  Vì giờ giới nghiêm đã giảm bớt, dân chúng bắt đầu đi lại, mặc đủ tiếng súng của hai bên vẫn còn át cả tiếng xe chạy trong thành nhỏ. Kể từ lúc Hải Vân quyết định vô không quân, má có vẻ buồn, nhưng không nói một lời. Tháy má buồn, chúng tôi cũng không vui, nên bàn nhau không ngủ lại sở làm nữa. Tết chưa kịp đón, mà mấy ngày đầu năm đã có nhiều lộn xộn, không một chút hứa hẹn một năm mới được “An khang thịnh vượng”.

                  Comment


                  • #24
                    Chương 25


                    Mấy tháng sau Tết Mậu Thân, Hải Vân thường vắng nhà, và lúc nào cũng có vẻ suy tư. Mỗi lần tôi thắc mắc hỏi nó đang lo lắng chuyện gì, nó nói:
                    - Em lo chuyện tương lai của em, chớ em không nhớ tới con bé nào đâu, đừng có tò mò lộn xộn. Thằng nhỏ trả lời cộc lốc mỗi lần tôi hỏi: - Cưng nghĩ cái gì? Em tôi còn hăm he trước, là nó sẽ không để cho gia đình ngăn trở những quyết định quan trọng sắp tới của nó. Một vài lần tôi hỏi có phải Hải Vân là con trai duy nhứt trong gia đình, nên có thể được miễn quân dịch nếu nó tiếp tục đi học không? Hải Vân hậm hực trả lời: - Không có ai được miễn phục vụ gia đình, thì làm sao mình được miễn phục vụ đất nước? Dù Hải Vân là con, là em trong gia đình, những em được mọi người kính nể vì Hải Vân xứng đáng được như vậy. Có lần lần nó tâm sự với tôi: - Trước khúc quanh của đời người, hoàn cảnh không những thay đổi con người mình, mà còn ảnh hưởng tới tình của mình với cha mẹ. Chị đã quyết định cho cuộc đời chị, bây giờ chị phải giúp em. Chị phải thuyết phục má, để mà tin là em thương má, mà em cũng thương em. Tội nghiệp em tôi quá! Nó bị giằng co giữa bổn phận làm con của má và bổn phận người trai yêu nước trong thời loạn ly. Một lần nó nói: 0 Trong đời, em đã có nhiều lần làm cho má vui, má hãnh diện về thằng con của má. Nhưng em chỉ có một dịp làm tròn bổn phận của người trai thôi. Bây giờ, là dịp đó tới với em rồi đó. Hải Vân đã quyết định gia nhập không quân. Tôi không ngạc nhiên, vì đã nhiều lần tôi nghe em nói chuyện với John về máy bay. Em tôi ít nhắc tới người đi xa; vậy mà trong thời gian gần đây nó nghĩ hoài tới ba và anh Khôi. Có lần em nói với tôi: - Chừng em bay được rồi, em sẽ bỏ bom hết mấy thằng Việt Cộng bò từ ngoài Bắc vô đây. Vái trời cho bom của em không trúng ba với anh Khôi. Khi Hải Vân đang dự lớp huấn luyện Quang Trung, tôi được tin em được gia nhập không quân nhưng không được bay.

                    Cũng như má, con của má tôi không người nào chịu thua hay bỏ cuộc nửa chừng. Hải Vân đi tìm con của cậu Hai Định, đại tá không quân Nguyễn Hồng Tuyển. Chúng tôi có mối ngại, là chỉ sợ anh Ba không thèm nhìn chúng tôi, vì chúng tôi nhỏ bé, trong khi anh là một “ông lớn” trong không quân. Nhưng má tôi rầy, là chúng tôi chỉ lo sợ vẩn vơ. Má nói, anh Ba có đi đâu cũng không quên bà con gia đình. Má hỏi Hải Vân, chắc chắn là muốn đi bay không, chớ đừng bồng bột, rồi mai mốt đổi ý thì không được. Hải Vân nói giấc mơ làm phi công mạnh đến nỗi trong chiêm bao thấy được làm phi công, chớ không phải đó là giây phút bồng bột. Đêm đêm, nó mơ thấy nó được lái trực thăng. Nó rất thích trực thăng, nên nghiên cứu am hiểu nhiều về loại máy bay. Nghe tiếng động cơ trên trời, nó có thể đoán biết loại trực thăng nào đang bay. Nó thích được làm phi công lái Huey.

                    Tôi khuyên Hải Vân dùng vội thất vọng, vì chính tôi cũng đã từng bị cơ quan tình báo làm khó làm dễ. Thôi thì đành làm sĩ quan không quân “bò” cũng được, không sợ chết sớm. Em không chịu, nhất quyết phải được bay. Biết không thể lay chuyển nói ý muốn của Hải Vân, tôi khuyên nó nên đi tìm anh Ba Tuyển để biết nguyên nhân tại sao nó không được vô trường bay. Anh Ba Tuyển cho biết hồ sơ của Hải Vân bị An ninh quân đội giữ lại. Anh hứa anh sẽ đi gặp đại tá Nguyễn Ngọc Loan. Là con nít ke từ Cần Thơ lên, chị em tôi nào có biết ông Nguyễn Ngọc Loan là ai, nên nghe lời anh Ba. Nhắc tới An ninh quân đội, chúng tôi liền nghĩ ngay tới đại uý Trần Duy Bính. Nhưng không biết ông đã lên chức gì, và đổi đi đâu sau một thời gian lâu; chúng tôi dọn lên Sài gòn, rồi ít có dịp gặp lại ông. Con của người tập kết, làm gì dám gặp. An ninh quân đội, nếu không có chuyện dính líu tới an ninh mình. - Ông Bính có lên đến chức ông Trời, chị cũng phải giúp em gặp ổng. Dò hỏi, chúng tôi biết ông vẫn còn ở Cần Thơ, và lên chức trung tá. Hải Vân vội về Cần Thơ đi tìm trung tá Bính. Ông trung tá Bình kiên nhẫn nghe em tôi trình bày trường hợp của em, rồi một lần nữa, ông lại giúp con của má tôi ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của An ninh quân đội i. Hải Vân được vào Không quân, được vào trường bay. Mộng của em đã thành. Cả nhà hãnh diện vui lây với em, mà quên hết những hiểm nguy của người phi công trong thời chiến. Chuyện nước, chuyện nhà đi xong, bấy giờ đến chuyện của tôi. Ngày 20 tháng 3 năm 1968, John sẽ hết nhiệm kỳ 18 tháng ở Việt Nam. Anh muốn làm đám cưới với tôi trước khi về Mỹ. Sau nhiều đêm suy nghĩ, chuyện này nó không giản dị như chuyện một người con gái khác đi lấy chồng, vì cưới xong tôi sẽ phải theo anh về Mỹ. Lúc đó, tôi sẽ phải xa má và các em; xa nửa vòng trái đất. Đêm nằm, tôi hát nho nhỏ bài ru em xa lắc xa lơ:
                    “Em ơi, con chim đa đa đậu nhánh đa đa, chồng gần không lấy, đi lấy chồng xa. Một mai cha yếu, mẹ già… Chén cơm đôi đũa, bộ ký trà ai dưng”. Hồi xưa, hát ru em như con két hát. Nhưng bây giờ nghe lại, thậ là đau xót trong lòng. Rồi ai săn sóc hai đứa em con nhỏ quá! Tôi đã chứng kiến cạnh chia lìa của ba má.
                    Má can đảm chịu đựng nuôi chúng tôi thành người. Tôi đã không rời má suốt bao nhiêu năm trải vui buồn, đầy đủ, thiếu thốn có nhau. Bây giờ tôi để má lại, đi theo một người đàn ông khác họ, khác nòi giống, khác hết, mà đi xa cả 10 ngàn dặm: tình có đậm, có nồng, thì cũng vừa thôi, chớ làm gì bỏ má mình đi. Đâu có người đàn ông trên đời này xứng để cho tôi bỏ má tôi đi xa như vậy! Anh hết nhiệm kỳ thì về Mỹ, còn tôi, tình tôi đối với má, với gia đình, đâu có nhiệm kỳ nào hết. Nó là tình bất diệt mà. Má thì khuyên, lớn lên ai cũng đi lấy chồng, sống gần hay xa gia đình không phải là điều quan trọng để quyết định cuộc hôn nhân, mà có thương nhau đủ để dám đi xa với chồng không, mới là suy nghĩ đúng. Cuối cùng, tôi khuyên John nên đi trước, vì vấn đề lý lịch của tôi vẫn còn rắc rối. Tôi không còn mặt mũi nào mà cầu viện trung tá Bính nữa. Theo tôi đoán trước, nếu John cưới tôi trước khi trở về Mỹ, anh có thể bị rắc rối với Hải quân; nhẹ cũng vĩnh viến không được bay, mà nặng thì có thể mất chức hay bị gán lấy con gái của cán bộ Cộng sản. Giải pháp hay nhất, John trở về Mỹ, tôi sẽ tìm cách sang sau, và hẹn sẽ gặp anh ở California vì hai chị của tôi đang ở Monterey, California. Chắc có bàn tay sắp đất của ông Trời, chớ làm sao mà hai người từ hai phương trời xa lạ, bỗng gặp nhau rồi hợp tánh hợp tình, gắn bó với nhau, rồi nên duyên chồng vợ. Mà khuyên tôi nên bắt đầu lo giấy tờ xuắt ngoại. Đang lẽ tôi phải mừng lắm, nhưng tôi cảm thấy mình tội lỗi vì toan tính xa má khi gia đình mới thoát khỏi những khó khăn, vừa mới được chút thoải mái. Hay vì đứng trước sự rộng lượng vô biên của lòng can đảm của má khiến tôi mủi lòng? Tôi quyết định viết thơ cho John, huỷ bỏ cuộc hôn nhân. Tôi chỉ viết vài câu vắn tắt để anh hiểu, là tôi không thể bỏ má tôi ở lại một mình. Tôi cảm ơn anh đã cho tôi biết tình yêu, cho tôi yêu, và cho tôi được yêu. Nếu chết tôi cũng mãn nguyện, nhưng tôi chưa có chết đâu, vì tôi phải sống cho má tôi và em tôi. Tôi mong anh thông cảm, cả hiểu giùm phong tục của gia đình tôi, là quá gần gũi với mẹ mình bởi vì mẹ đã sống cô đơn với chúng tôi. Viết thơ xong, tôi để vô hộc tủ, không gởi đi, rồi khóc suốt một tuần. Khi có ai trong gia đình hỏi tại sao khóc, tôi còn khóc dữ hơn nữa. Một buổi tối, đi làm về, tôi không ăn như mỗi bữa, chui ngay lên giường ngủ.

                    Mà dựng tôi dậy đẻ nói chuyện. Tôi khai ra đủ các thứ bịnh, má đều không tin, cuối cùng tôi phải theo má xuống bếp để nói chuyện. Má tôi nói mấy câu, mà tôi tan nát cả cõi lòng: - Con à, cách đây mấy năm, một người bạn học của má nói là má có bông mà không có bình để chưng bông; nhớ câu nói đó má buồn lắm. Mấy lần con có bạn, tụi nó biết ba con đi tập kết nó sợ thấy bá. Thằng John nó khôn, nó hiểu, nó không sợ. Lấy chồng khôn, đừng lấy chồng dại, khổ thân con lắm. Tôi ôm mặt khóc vì má tôi nói trúng tim đen của tôi. Hai lần bạn trai, vừa nghe tôi nói ba tôi đi tập kết, một anh cắn môi suy nghĩ, anh khác thì khuyên đừng nhắc tôi ba với anh ấy…
                    - Con biết thằng John là người tốt, thì lấy nó đi con. Con được hạnh phúc, má rnừng, má biết má làm tròn bổn phận của người mẹ! Rồi ngày ra đi chờ tôi bên ngạch cửa. Hàng xóm tới chúc tôi “thượng lộ bình an”. Mấy ông Tàu Đại Loan chặn đường chúc tôi may mắn. Ngay cả chú Hai đạp xích lô cho tôi đi làm hàng ngày cũng nhắn nhủ: “Cô Hai đi Mỹ đừng quên tui nhen!”. Làm sao tôi quên được người chở tôi đi làm khi tôi dậy trễ. Chú phải chạy như bay cho tôi đến sở đúng giờ. Chị Mùi bán bánh mì thịt ở nhà tôi cũng nói:
                    “Cô Hai đi Mỹ đừng quên bánh mì xá xiếu của em nhen”. Tôi làm sao quên được, bánh mì xá xiếu ngon nhứt đường Nguyễn Văqn Sâm của chị. Lúc ấy tôi như cái xác không hồn. Cho đến nay, tôi không còn nhớ phút chia tay với má ra sao. Mỗi lần nghĩ lại buổi tiễn biệt ấy, tôi chỉ còn giữ lại được hình ảnh má bịn rịn nâng vạt áo lên quẹt mắt, rồi vội vã chạy lên lầu. Tôi cũng chỉ nhớ em tôi ngồi taxi với tôi, mà không nhớ có ai nói gì không. Bây giờ, hồi tưởng lại, chuyến ra đi ấy như một cuốn phim quay lẹ, không còn đủ chi tiết. Trên máy bay, tôi ngồi bên cạnh cửa sổi, âm thầm khóc cho đến lúc mệt thì ngủ thiếp đi, khi bên ngoài đã tối đen như mực. Khi thức dậy, tôi ngỡ ngàng thấy đã sáng, mà máy bay vẫn còn bay trên những cụm mây trắng, tôi hốt hoảng nhận ra rằng tôi đã xa má và các em tôi đúng nửa vòng trái đất. Hồi tôi còn nhỏ, ít có chuyện gì làm tôi sợ, trừ sợ ma, vì ba thường kể chuyện ma h ay lắm.

                    Mỗi lần ông kể, nhiều cán bộ trẻ còn sợ, nói chi tôi, một đứa con nít. Có anh phải đốt đuốc để về cơ quan, có anh nhát quá, xin ngủ lại qua đêm. Rắn rết quanh nhà, ai cũng sợ, chỉ có tôi là không. Có lần tôi đã một mình đập chết một con, vì nó nuốt con gà của dì Bảy. Vậy má tôi rất sợ cô đơn. Giờ đây, tôi đã xa tất cả mọi người trong gia đình.

                    Tôi xa những gì tôi đã biết, đã quen, trìu mến. yêu thương, gắn liền với đời tôi 23 năm qua. Tôi nhìn qua vai, cố hình dung lại những kỷ niệm đã qua mà tôi đã bỏ lại đằng sau bên kia bờ đại dương trong đó có gia đình tôi, có dân tộc Việt Nam mến yêu, và có nơi chôn rau cắt rún của tôi. Rồi tôi thầm tự hỏi, không biết “người nhà quê lên tỉnh” này sẽ sống thế nào ở một nước mà hầu hết bà con giòng họ của tôi gọi nó là kẻ thù của dân tộc?

                    Comment


                    • #25
                      Chương 26



                      hững ngày đầu của tôi trên đất Mỹ như đi qua trong sương mù dầy đặc, dưới bầu trời không trăng không sao, như những ngày cuối cùng tôi ở Việt Nam. Tôi không còn nhớ gì nhiều quãng thời gian ngắn ngủi ở nhà chị Cương ở Monterey, California. Hai chị Kim, Cương dẫn tôi đi mua áo cưới ở Carmel. Chi cho biết đây là một nơi nên thơ, tình tứ, cho các cô dâu đi sắm áo cưới. Tôi chỉ lẳng lặng đi theo hai chị, vì sợ các chị lại tưởng tôi không yêu John. Tôi yêu John lắm chớ! Vì yêu ma tôi bỏ quê hương, bỏ má và ba đứa em mà bay sang xứ sở xa lạ này, xa hơn mười ngàn dặm!


                      Những ngày đầu ở Mỹ, tôi cứ bị câu hát ru em ám ảnh: “Con chim đa đa đậu nhánh đa đa, chồng gần không lấy, đi lấy chồng xa. Một mai cha yếu, mẹ già… Chén cơm đôi đũa, bộ ký trà ai dưng”. Trong khi đó, chị Cương nhắc đi nhắc lại: “Cánh cửa này chỉ mở một lần, cưng không bước vô, nó đóng lại để tới lượt người khác”. Nghe chị tôi nói hoài, tôi bèn nói chơi: “Đứa nào muốn vô phải bước qua cái xác của em.


                      Chị Kim dẫn tôi đi nhiều tiệm bán áo cưới lắm, nhưng tôi chỉ một tiệm. Tôi không nhớ thử áo cưới nào, chỉ nhớ chị tôi nói áo quá dài phải lên lai, về siết eo cho nhỏ. Tôi cũng không nhờ ai trả tiền áo cho tôi. Chị tôi vui khi đi sắm sửa cho em đi lấy chồng, còn tôi thì như cái xác không hồn, đi mà miễn cưỡng, đi ở Carmel mà nhớ nắng Việt Nam, nhớ má, nhớ ba đứa em. Tỉnh Carmel nhiều cảnh đẹp, nhà đẹp, có biết bao nhiêu là du khách tôi cũng không ngắm. Chị tôi hơi bực mình vì cử chỉ thờ ơ và tôi. Tôi chỉ nhớ, khi đem áo cưới về nhà, tôi đứng trước gương cho các chị ngắm nghía, rồi việc cắt xén các chị là, tôi không có ý kiến.


                      Tôi không gởi thiệp hồng mời ai đự đám cưới, vì tôi không có một người bạn nào ở Mỹ cả. Bạn tôi đều ở Cần Thơ, người nào cũng đã có gia đình, sống êm đềm trong hạnh phúc. Chỉ có mình tôi dám mạo hiểm đi lấy chồng xa.
                      Bạn của hai chị tôi phần đông là các anh các chị người Việt ở trường sinh ngữ Monterey Presidio và các sĩ quan Việt Nam Cộng hoà du học ở trường Naval Postgraduate School. Bạn của John là những phi công Hải quân và Người nhái Mỹ. Họ cùng vợ con ở những phi đoàn xa tới dự. Rể phụ Goldstein, một bác sĩ quân y. Anh là bạn thân của John của họ còn tung hoành bay nhảy ở các căn cứ trong vùng Đông Nam Á..
                      Ngày cưới của tôi không có ba má chứng kiến. Cái cảnh ba tôi vui vẻ bắt tay chú rể và má tôi rưng rưng nước mắt sung sướng cho con, chỉ là mộng mơ của tôi thôi. Tôi nói với chị Kim “Không có ba má chứng kiến đám cưới, biết vậy em theo trai khác rồi”. Tôi bị hai bà chị lườm trách móc. John và hai chị tôi cứ giới thiệu với tôi từng người khách, mà tôi đâu có biết ai là ai, ngoài tên, tay bắt mặt mừng, đi qua rồi, họ chỉ là một người lạ.
                      Cha Fritzpatrick của nhà thờ trường Monterey Postgraduate School bắt chúng tôi quỳ suốt hai tiếng đồng hồ để nghe lời giảng về hạnh phúc gia đình, đạo làm người, trách nhiệm với bạn bè, với đất nước và với Thiên Chúa. Sau đó, rể phụ, người nước Thái, nửa đùa nửa thật, nói với chúng tôi là từ đây anh không làm rể phụ cho đám cưới của người Thiên Chúa giáo nữa, với ông cha là người Ái Nhĩ Lan. Hôm đó, cha uống rượu hơi nhiều với một cha từ Trung Quốc sang thăm; 40 năm trước, họ là hai đứa nhỏ giúp lễ ở một nhà thờ nhỏ ở Trung Quốc; hôm nay ngày đoàn tụ, hai cha đã chúc tụng nhau qua nhiều chai rượu.
                      John đã sắp xếp trước: anh nghỉ phép một tháng, để chúng tôi vừa hưởng tuần trăng mật vừa cho tôi biết quê hương anh. Chia tay với hai chị của tôi ở Monterey, California xong, chúng tôi bắt đầu cuộc hanh trình bằng xe từ California đến Minnesota bên chồng, rồi từ đó lại về Johnsville, Pensylvania, nơi căn cứ Hải quân của John. Chúng tôi đã tôi nhiều nói trên đất Mỹ, viếng danh lam thắng cảnh, mà John hãnh diện cho tôi thấy cảnh thanh bình, trù phú của quê hương anh, nhưng lúc nào trong tôi cùng hướng về quê hương ngàn trùng xa cách, nói có má và các em tôi. Nơi ấy, khói lửa đang ngập trơdi. Nhưng tôi cũng còn bổn phận làm vợ của tôi. Hai chữ “làm vợ” thật xa lạ với tôi, xa lạ như đất Mỹ mênh mông này. Mỹ thật bao la; ánh sáng văn minh chói loà khắp nơi, nhưng không chói loà đối với tôi. Tôi không biết John có thất vọng vì tôi dửng dưng mọi thứ? Đối với tôi lúc bấy giờ, chỉ có một thứ hấp dẫn tôi, đó là hệ thống giao thông tuyệt vời, và đêm nghủ không nghe tiếng bom đạn. Những lần cắm trại trong bóng đêm; chỉ có trăng sao, tiếng côn trùng hoà nhịp, không nghe tiếng súng. Không có lính chặn đường hỏi thẻ căn cước, không có một ổ gà nào; tất nhiên không có đắp mô hay xẻ rãnh. Ông trời cho xứ này nhiều quá, mà quên không nghĩ đến xứ sở của tôi! Hồi đó, xăng dư thừa, giá rẻ rể, các cây cạnh tranh nhau, tặng quà cho khách. Cứ mỗi lần cần xăng, ghé qua cây xăng Shell đổ, thì chọn được một cái đĩa, mấy cái tách uống café; cứ như vậy, từ California tới Pensylvania, chúng tôi có được một bộ chén đĩa.
                      Chúng tôi về thăm má của John và bà con giòng họ của anh ở tỉnh Ely nhỏ bé của tiểu bang Minnesota. Ở Ely, ngày nào má của John cũng tổ chức ăn uống, picnic, đi hái trái cây, câu cá, săn nai, tắm ở các hồ lạnh như nước đá. Tôi có dịp gặp bạn bè, thầy cô của John từ lớp 1 cho tới lớp 12. Ai cũng dặn dò John “take good care of this young lady”, làm tôi rất cảm động. Không biết người ta thương tôi vì tôi chỉ có một thân một mình nơi xứ lạ quê người? Hay là sau tuần trăng mật, tôi sẽ biết nước Mỹ lạnh lùng, cô đơn hơn nữa. Những ngày ở Ely, đêm nào tôi cũng khóc bên cạnh người chồng nằm ngủ ngon lành như một cậu nhỏ vô tư. Chúng tôi ở đó mười ngày, rồi từ giã mọi người, và hứa sẽ trở lại vào màa câu cá tháng 5 tới.
                      Tháng 9 năm 1968, chúng tôi tới Johnsville, Pensylvania, một căn cứ hải quân trong một tỉnh nhỏ; nơi đây, nhiệm vụ là John là lái thử những chiếc máy bay F-8 với những dụng cụ mới lạ.
                      Mỗi tuần tôi viết ba, bốn lá thơ về nhà cho má, cho mấy em, dì Dẽ, con Vân, con Sang. Thơ nào tôi cùng cho gia đình biết tôi vui, tôi hạnh phúc lắm, và đang học hỏi về đời sống ở Mỹ để hội nhập. Nhưng thật ra, đó chỉ là những lời không thật, hoàn toàn không thật, để làm yên lòng gia đình. Tôi đang buồn vô cùng, buồn như con chó đi ngoài xa lộ ồn ào, buồn như con chó Nô lúc chúng tôi rời Cảng Chú Hàng đi nơi khác. Tôi ngủ với nhilrng chiêm bao, mộng mị, cứ thấy mình ở Sài gòn. Có đêm tôi nghe tiếng nhạc Việt Nam khi ngủ. Lại có nhiều đêm tôi gặp ác mộng, thấy Việt Cộng âm thầm phá vỡ hạnh phúc của John và tôi. Có đêm chợt thức giấc về khuya, tôi nghe có mùi thức ăn Việt Nam quen thuộc. Nhưng khi tỉnh dậy, chỉ thấy tuyết trắng rơi ngoài cửa sổ. John đã đi từ sáng sớm. Tôi ôm gối, rồi ngồi khóc. Vì ở nhà một mình, không sợ ai biết, không làm phiền ai, mới đầu tôi còn khóc nho nhỏ, sau khóc lớn lớn, nức nở. Khóc tới mệt, rồi ngủ hồi nào không biết. Chiêm bao như vậy hết đêm này đến đêm khác. John không biết, má và các em bên nhà cũng không Một hôm, tôi gọi chị Cương:
                      - Em nhớ má, cho em về Việt Nam đi, chị. - Tôi nói bằng một giọng năn mỉ như hồi nhỏ tôi đòi chị đi theo lên Sài gòn.
                      Chị liền an ủi:
                      - Chị thông cảm cưng. Hồi trước qua Mỹ, dù có anh Wray và Tina chị cũng nhớ má, nhớ tụi cưng muốn bịnh luôn. Nhưng táng đi cưng. Lớn rồi, mình phải lập gia đình cho má vui. Cưng may mắn là được John thương cưng. Nhớ kỹ điều này: Có thằng điên nào mà quý cưng như vàng, khen cưng không tiếc lời, nào thông minh, nào can đảm… Có anh chàng sĩ quan ngoại quốc nào dám lấy cưng khi cưng nói thiệt cho họ biết ba mình là ai không. Hai đứa gặp nhau là cười, là vui như hội. Trời cho thì nhận, ráng gìn giữ hạnh phúc, nghe cưng. Cưng mà trở về Việt Nam bây giờ là mất hết. Cưng phủi ơn Thượng đế nếu cưng trở về Việt Nam bấy giờ.
                      Chị tôi tha thiết khuyên tôi. Tôi lắng nghe để chị khỏi buồn. Nhưng những lời của chị không thuyết phục nổi tôi, vì vậy tôi nghĩ tôi sẽ rủ John về Việt Nam với tôi.
                      - Em về thì má vui hơn. - Tôi cãi.
                      - Má vui khi thấy mặt cưng, nhưng rồi mà sẽ buồn lắm khi biết con của má yếu tinh thần. Má sẽ trách má, vì chắp cánh chim bay không nổi. - Chị tôi nói bằng một giọng vừa năn nỉ, vừa ru đe doạ.
                      Tôi vẫn ngoan cố:
                      - Em bay tới đây là xa lắm rồi. Em biết bay xa như vậy đủ rồi, chớ không phải tuổi con chim, mà bắt em bay tiếp.
                      Chị kiên nhẫn nói tiếp:
                      - Cưng đừng nghĩ vậy. Hồi đó, má cũng thương ông ngoại bà ngoại mình lắm, vậy mà má cũng theo ba vô trong bưng, chịu cực thân, làm cho ông bà xót xa thương má lắm. Khi má nghe nói mình ở bên này hạnh phúc má vui lắm, mà không đòi hỏi mình lấy chồng giầu nuôi má, mà má chỉ mong cho mình hạnh phúc. Cưng trả ơn má, là cưng phải sống hạnh phúc cho mình. Sau này chị em mình sẽ tìm cách rước má với mấy em qua chơi với chị em mình.
                      Nghe nói đến chuyện bảo lãnh má và các em qua Mỹ sống, tôi chợt thấy một chân trời mới, có tia hy vọng sáng ngời. Lời chi Cương có một sức mạnh khiến tôi ra khỏi trạng thái buồn bã. Tôi tính ngay trong bụng: một đàng tôi về với má và các em, một đàng má và các em sang Mỹ với tôi, đang nào hay hơn? Tôi đồng ý với chị Cương. Nếu sang Mỹ được, má tôi sẽ thoát khỏi tầm tay của Việt Cộng. Lúc đó mà sẽ không còn hát: “Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê bên bên luỹ tre. Nắng vàng hoe, đến bên luỹ tre, vườn rau trước hè vui đón người về”.
                      Một hôm, John đi công tác ở Bermuda, tôi lại chiêm bao thấy mình đi trên những con đường quan thuộc ở Sài gòn, ghé qua tiệm sách trên đường Lẽ Lợi, rồi mở cửa nhà hàng chị Kim Hoa nhìn vào. Trông thấy anh Nguyễn Đạt Ihịnh, ông Thái nhà in, ông Nguyễn Thanh Hoàng (bao Văn Nghêh Tiền Phong), anh Đặng Văn Huấn và mấy ông nhà văn bạn nhậu của anh. Tôi trở ra, tiếp tục đi nghe tiếng ồn ào quen thuộc của Sài gòn, tiếng người nói, có cả mùi đốt rác phảng phất đâu đây. Tôi giựt mình thức giấc, thấy mình vẫn đang ở trong căn nhà mới lạ. Tôi soi gương, thấy mình đổi khác. Đứa con gái tinh nghịch, ranh mãnh, thông minh biến đâu mất. Trong im lặng, tôi nghe như chính tôi cũng tự trách mình đã bỏ bê mình. Từ mấy tháng nay, tánh nết của tôi đã thay đổi nhiều. Tôi đang từ một con người chăm chỉ, thích tự lập và cứng rắn, đã trở nên lười biếng, yếu đuối, vô trách nhiệm. Tôi tự nhủ phải cố gắng vươn lên, để trở lại con người bình thường cũ. Nếu cứ tiếp tục sống trong ươn hèn, yếu đuối sẽ bị John coi thường. Hồi chúng tôi mới quen nhau. John hãnh diện về tôi, vì anh tin là trong bất cứ hoàn cảnh nào tôi cũng đối phó được, dù phải sống xa anh. Nghĩ vậy, tôi quyết định trở về với bản tánh cũ của tôi: không thể uỷ mị, yếu hèn được, phải chấp chấp nhận xa gia đình, lìa bỏ quê hương để xây dựng tương lai hạnh phúc thì phải đi trên con đường mình đã chọn.
                      ***
                      Vào đầu mùa thu năm 1970, chúng tôi nhận được một tin mừng. Hải Vân sẽ được đi Mỹ học lái máy bay, Em sẽ học ở Lackland, tiểu bang Texas, và sau đó sẽ đi trường khác để học lái trực thăng.
                      Em đã miệt mài học ngày học đêm để thi vào không quân. Giấc mơ của em là lái trực thăng, và được ở căn cứ Biên Hoà. Có lần tôi hỏi em sao không về Cần Thơ, quê hương mình? Em cho biết Cần Thơ không phải là đất lành, nên chim không đậu được. Tôi mới nhớ rằng gia đình tôi cũng đã tìm cành khác mà đâu, và Cần Thơ cũng không còn là “đất lành” nữa.
                      Vào trường huấn luyện, Hải Vân tiếp tục được bằng “xuất sắc” suốt thời gian em học. Em làm bản sao những giấy khen này để gởi cho chị Kim, chị Cương và tôi. Bản chánh cho má. Hải Vân là người thông minh, học giỏi. Hồi còn học ở trường nam Tiểu học Cần Thơ, em cũng mang nhiều giấy khen về cho má coi, sau đó má gởi bản chánh về cho ông ngoại giữ. Tôi nhớ có lần ông ngoại tôi mở ngăn tủ bàn thờ, nơi ông cất những giấy tờ quan trọng, và giấy khen của anh Quốc và Hải Vân, rồi ông nói:
                      - Học trong vùng quốc gia, không giúp được nước cũng được nhà. Tụi bay mà học theo đồ “chó đẻ” ngoài Bắc thì lại làm cộng sản; nó chờ con nít có xương có thịt lớn lên một chút, thì cho học giết người, cướp của cho thằng Hồ. Nhớ ăn cây nào rào cây nấy. Đừng có nghe đám lớn trong nhà này; cả lũ vừa đi vừa hát trong họng “Ơn cách mạng bằng trời bằng bể, công Cụ Hồ phải kể bao năm”. Ơn cháu mang là ơn của má cháu, công cũng là công của má cháu, chớ không phải của thằng già chó đẻ kia đâu, nhớ không?
                      Sau khi Hải Vân nhập ngũ, tháng 5 năm 1969, tôi rước má và Minh Tâm qua Mỹ thăm chúng tôi, với hy vọng là má sẽ thích nước Mỹ và ở lại: sau đó chúng tôi sẽ bảo trợ Hoà Bình. Hải Vân được tên thân vào không quân. Má không còn lo thức khuya dậy sớm lo em đi chơi về nữa. Bây giờ tôi lượt trung tâm huấn luyện canh giờ “giỏi nghiêm” của nó thay má tôi.
                      Minh Tâm sang Mỹ chỉ một vài tháng thì có tin Hải Vân cũng tới Mỹ. Chúng tôi ra gặp em. Không quân cho gia đình và em ra đi chơi nữa ngày. Chúng tôi dẫn em đi Knock Berry gần đó để tiện việc trở về đúng giờ với nhóm lính của em.
                      Vừa đi, hai chị em vừa líu lo chia xẻ niềm vui của mình. Tôi cho Hải Vân hay, khoảng tháng 12 em được lên chức làm cậu. Nó rất mừng, câu cổ tôi mà xúc động vô cùng. Em dặn: “Suốt đời chị lo cho má và tụi em. Bây giờ có chồng có con, mình lo mình đi nhen”.
                      Rồi Hải Vân lên đường tiếp tục bay qua Kackland, Texas. Mấy tuần sau, nó viết thơ không có nói gì nhiều về trường huấn luyện, mà nói đàn anh tử tế tế, chỉ huy trưởng rất tốt với mấy con em mới. Dăhn gia đình đừng lo, nó đang ở thiên đàng. Rồi em nói đến những cô con gái Mỹ tóc vàng, tóc đỏ, mắt xanh nó gặp trong bữa tiệc, trong những buổi đi picnic do nhà thờ bảo trợ. Sinh viên Việt Nam được đưa đến các tư gia để biết đời sống gia đình Mỹ. Em tôi lọt vô mắt xanh của cô con gái ông mục sư. Thằng nhỏ phải đi nhà thờ mỗi chúa nhứt để sau đó được về nhà mục sư gặp cô con gái. Em vừa cười vừa khoe:
                      - Con nhỏ mê em quá rồi!
                      Tôi nửa đùa nửa thật hỏi:
                      - Cưng có muốn cưới nó rồi ở lại Mỹ luôn không?
                      Em liền trách tôi:
                      - Em chưa đánh giặc ngày nào, đừng có xúi bậy. Chị đi lính không được, em đi thế cho chị nè. Được con gái mê thì cũng thích, cái tôi lớn hơn một chút cho vui, chớ ai lại để con gái làm hư đời mình!
                      Hải Vân nóng lòng đem những gì học được sau kỳ huấn luyện về phục vụ đất nước. Tôi thì khoe rằng cái thai trong bụng tôi khoẻ lắm, đạp tôi liên hồi. Chắc thằng nhỏ sau này thành một cầu thủ tài ba.
                      Từ Lackland, Texas, lớp của Hải Vân được chuyển tới Hunter Airfield ở Savannah, Georgia, để thực tập lái Huey. John và tôi rất vui mừng và hãnh diện khi Hải Vân ra trường hạng nhất. Lớp của em có nhiều sinh viên các nước, như Canada, Đại Hàn… Trung tướng giám đốc trường viết thơ riêng cho tôi. Ông khen má tôi có thằng con học giỏi. Má tôi đã quen với những giấy khen của các thấy, cô giáo, mà lần nào má cất và thưởng Hải Vân. Nhưng kỳ này, nhận được giấy khen của trung tướng Không quân Mỹ, má tôi lại không nhắc gì đến nó trong những lá thơ viết cho tôi hàng tuần. Khi tôi hỏi thì má tôi hỏi, má nói:


                      - Khó cho má vui được, khi nhận được cái giấy khen này. Em của con lớn lẹ quá. Trong khi tôi, ba và anh Khôi con ở ngoài Bắc. Mà thôi, Hải Vân nó chọn con đường đó, là mình chánh thức cho mấy người ngoài kia biết mình không có theo họ. Tụi con chán cộng sản hoài đâu có ai nghe; Hải Vân đăng vô không quân và tiếng đồn chắc ra tận ngoài Bắc rồi.


                      Ngày 9 tháng 12, 1970, con tôi chào đời ở nhà thương Fort Ord, một căn cứ Lục quân. Nơi này giáp với tỉnh Monterey California. John đặt tên nó là Lance David Krall, Lance là tên một người bạn thân trong đội bơi lội hồi học trung học. David là tên chú rể phụ David Goldstein.




                      Giáng sinh năm đó Hải Vân được đi phép, tôi rủ em đến California gặp mặt thằng cháu mới ra đời. Những Hải Vân biết chị Kim tá Washington D.C, đẹp quá, hấp dẫn quá, em phải qua thăm vì chỉ có dịp này thôi. Hải Vân còn hẹn gặp tôi với Lance vào dịp Tết sắp tới ở Việt Nam. Tôi thất vọng, vì chắc phải lâu lắm tôi mới có thể bồng con về Việt Nam thăm gia đình

                      Những nỗi thất vọng ấy chỉ là một mối buồn nhỏ, không đáng kể so với cái tin khủng khiếp tôi nhận được sau Giáng nhinh đó. Hải Vân tử nạn! Ngày 11 tháng Giêng, năm 1971, chị Kim gọi từ Washington D.C, cho biết chiếc Huey do Hải Vân lái bị rớt trong một trận bão tuyết hiếm có ở Savannah, tiểu bang Georgia. Chị tôi và tôi, mỗi người một nơi, cùng ôm cái điện thoại mà không nói được lời nào nữa. Chúng tôi như chết nửa thân người, còn hồn tê dại đến độ không sao khóc được.
                      Chị tôi chờ niên trưởng của Hải Vân gọi lại. Tôi phải đưa Lance cho John bồng, vì lúc đó tôi không dám ôm nó trong lòng, cũng không muốn gần ai trong giờ phút đó.
                      Mấy tiếng đồng hồ sau, chị tôi gọi lại. Không quân chánh thức xác nhận em tôi và một phi công khác tên là Nguyễn Văn Bé tử nạn.
                      Tôi nghe như có tiếng la hét trong đầ tôi: “Không, không phải em tôi chết đâu. Không phải Hải Vân chết đâu. Người ta lộn tên rồi. Em tôi mới 21 tuổi, chỉ mơ ước được về nước đánh giặc. Giấc mộng chưa thành, em không thể chết được. Tôi ngồi co quắp dưới chân giường, cầu xin Trời, Phật, van nài Chúa Jesus cho tôi được sống, tôi sẵn sàng chết thế, sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời tôi cho em. Tôi đã sống trên đời này nhiều rồi, đã từng cay đắng, gian truân, từng lao đao, cực khổ, từng nem mùi ngon ngọt của hạnh phúc; tôi đã yêu và đã được yêu, tôi sẵn sàng chết để em tôi được sống. Tôi xin cho em lá gan, lá phổi, cánh tay, cái chân, con mắt để em được sống. Tôi tới một nhà thờ nhỏ trong khuôn viên trường Monterey Postgraduate là nơi chúng tôi đã làm hôn lễ, để cầu xin Thượng đế hãy cho biết tôi phải làm gì bấy giờ. Tôi có nên về Việt Nam với má trước khi Không quân đưa xác em về không? Hỏi Chúa, Chúa không trả lời. Tôi chạy tới nhà thờ lớn hơn ở Pacific Stewe xin cha cho tôi một người hướng dẫn, vì tinh thần tôi đang sa sút, bấn loọn. Từ khi nhận được hung tin, tôi chẳng biết gì, cứ ngồi trong xe chạy loanh quanh, lúc thì dạt vào bãi cỏ, lúc thì chạy ngoài đường tìm nhà thờ, tìm Chúa, mà không về nhà. Tôi mới sanh con có 32 ngày, tôi sợ tôi phát điên mất. Đã có lần, vì đâu đớn quá, tôi đã có ý tưởng điên rõ là má và tôi cùng chết một lượt để tránh nỗi đau thương này. Nhưng tôi lại nhận ra chết như vậy là vô trách nhiệm, là hèn nhát, là tàn nhẫn với tất cả mọi người trong gia đình. Để gạt bỏ những ý nghĩ điên rồ, tôi vô nhà thờ dung thân.
                      Cha trả lời tôi một câu thật ngắn gọn. Dường như ông đã biết hết nỗi lòng của tôi, biết rõ mọi chuyện trong gia đình tôi và cũng hình như ông đã nghe Đức Chúa Trời phán hồi tối hôm qua.
                      - Thượng đế đã chọn em của con, một đứa con xứng đáng để phục vụ Ngài.
                      Đã nhiều lần tôi tìm tới Chúa, tôi mong mỏi được gần Chúa, muốn đem Thiên Chúa vào đời sống của tôi, vì má tôi rằng muốn cho gia đình có hạnh phúc, vợ chồng nên mất đạo. John chắc không bỏ đạo Thiên Chúa, còn tôi nên theo đạo của anh để cho gia đình được hoà thuận. Tôi đã vâng lời. Bay giờ cần tới Chúa, tôi cảm thấy mình lạc lõng hơn! Không biết cha nói có đúng như vậy không? Có phải Chúa chọn đứa con xứng đáng, hay là cha chỉ muốn an ủi tôi? Có thật là Chúa chọn Hải Vân không? Nếu thật, Chúa đâu có quyền bóp chết linh hồn của gia đình tôi, của má tôi. Chúa toàn năng thì lẽ nào Chúa cho rồi nửa chừng lấy lại. Má tôi là người phàm, mà khi chờ ba, má cho luôn làm hành trang vào đời để sống, má có đòi gì đâu!


                      Nếu trong đời, má tôi cần tới con cái và gia đình, thì lúc này má tôi cần nhứt. Nỗi đau tôi mang trong lòng, không sao sánh được với nỗi đau của má tôi. Tôi muốn về với má và ba đứa em, nhưng tôi không về được. Visa nhập cảnh Mỹ chỉ có một lần. Về Việt Nam rồi trở qua sẽ không được vô Mỹ nữa. Ngay việc xuất cảnh khỏi Việt Nam lần thứ nhì cũng không được, trường hợp của chị Kim tôi cũng vậy. Chị em tôi còn mang quốc tịch Việt Nam.


                      May mắn là anh Wray, chồng chị Cương, đang phục vụ cho Lục quân Mỹ ở Thái Lan, nên chị vế được, và chị đã cho hay chị sẽ về với má và các em. Chị Kim sẽ đi Savannah nhìn Hải Vân lần cuối, và trường của em sẽ làm lễ truy điệu trước khi đưa em về cho má.
                      Thời gian như đông lại. Thế giới bên ngoài gia đình dường như đã tan biến hết. Bây giờ tất cả chỉ có cái chết của má tôi. Chúng tôi chờ tin Không quân cho biết ngày nào sẽ đưa Hải Vân về Việt Nam. Chờ để làm gì? Để thấy má tôi ôm cái quan tài khóc cho thằng con chết yểu? Chờ để biết rằng vận hạn không may đã chôn vùi tương lai của một thẳng con trai thông minh, yêu nước, yêu gia đình? Chờ để biết rằng ước mơ của gia đình tôi đã bị chôn vùi, chôn tiếng cười, tiếng đàn guitar của em; và một phần đời của chúng tôi cũng chôn theo em. Bảy ngày chờ đợi dài vô tân. Nhưng rồi cũng người ta đưa quan tài của em về Việt Nam.


                      Tim tôi tan vỡ. Tôi quá cô đơn, thấy mình yếu đuối, bé nhỏ trong tay định mệnh. Cho tới ngày nay, đã 39 năm qu, tôi vẫn còn giận khi nhớ tới lời nói của ông linh mục, vẫn còn thương nhớ em tôi mỗi lần nghĩ tới nó. Tôi đoán. Ở bên kia thế giới, em cũng giận, cũng tiếc, vì chưa một ngày nào được phục vụ đất nước. Em tôi chết rồi, mà cộng sản còn lợi dụng cái chết của nó để tuyên truyền. Chúng báo cho ba tôi biết là CIA đã giết Hải Vân vì chúng biết em là con của ba tôi. Tôi giận sôi gan, vì ba tôi tin lời tuyên truyền đó, tin cho tới ngày ông lìa khỏi cuộc đời.


                      Tôi thất vọng, vì ba tôi nhìn đàn con lớn lên qua lăng kính cộng sản. Vì vậy, ông không thấy được rằng ngoài người con trai kỹ sư tên lửa, ông còn một thằng con trai khác nữa, thông minh, lanh lợi không kém anh nó.


                      Cuộc điều tra tai nạn máy bay của Hải Vân đã diễn ra rất chu đáo. Không có gì đáng nghi cả. Sau này chồng tôi được đổi về Ngũ Giác Đài, làm việc cho cơ quan tình báo của Hải quân. Anh xem bản kết quả của cuộc điều tra. Hải Vân bay quá thấp, và khi bão đến, muốn bay cao hơn không kịp nữa, nên bị đụng dây điện trong rừng thông.
                      Phải nói là em tôi bất hạnh, gia đình tôi bất hạnh, nhưng tôi không phải là nạn nhân của bất cứ ai.

                      Comment


                      • #26
                        Chương 27



                        John thường phải công tác xa nhà cả mấy tháng trời. Tôi phải ở nhà một mình với đứa con nhỏ. Mỗi tháng có tới chín ngày không có chồng, không có má, không người thân thuộc. Tôi có gia đình hải quân, với các bà vợ sĩ quan của cùng phi đoàn. Có mấy lần John đi vắng tới sáu tháng: anh đưa mẹ con tôi về Sài gòn với má.


                        Tôi không giỏi như các bà vợ trong phi đoàn VP-4 của anh. Mỗi lần anh đi vắng, tôi sợ ma, sợ kẻ gian; nên dù sáng trưng chung quanh nhà. Cây súng PPK nạp sẵn sáu viên đạn tôi giấu dưới nệm giường ngủ.
                        Tôi thích đọc tiểu thuyết Việt Nam. Đối với tôi, đó là cách về thăm Việt Nam mà không tốn tiền. Cuốn sách đọc là cuốn “Tôi Nhìn Tôi Trên Vách” của Tuý Hồng - nhà văn Việt Nam. Tôi có thể đi qua mấy chục nơi trong thành phố Sài gòn, nhận ra những hình dáng quen thuộc, những con đường đại lộ trong trí nhớ. Trời ơi, không gì sung sướng bằng được về nhà.
                        Một hôm, tôi vừa định đi rước Lance cr lớp mẫu giáo, điện thoại bỗng reo. Một người đàn bà tổng đài hỏi tôi có nhận điện thoại collect của một người đàn ông tên là Jean Kaplan ở Paris không? Cái tên Kaplan lạ hoắc đối với tôi, nên tôi không ngần ngại từ chối. Nhưng chỉ may giây sau, điện thoại lại reo. Một người đàn ông nói tiếng Anh giọng Pháp. Câu nói đầu tiên của ông làm tôi kinh ngạc:
                        - Mỹ Dung, tôi là bạn của ba cô. Tôi muốn có phải lắng nghe tôi nói. Rất quan trọng.
                        Tay tôi run rẩy, cố nắm chắc máy điện thoại khi người đàn ông gọi tôi là Mỹ Dung, cái tên chỉ có ba tôi gọi thôi. Chín năm trước, tôi đã thay tên này, nên không còn ai nhớ! Tiếng người đàn ông lại vang lên trong máy:
                        - Tôi muốn cô phải thu xếp gấp cho má và các em cô rời Sài gòn ngay lập tức!
                        Tôi ấp úng nói:
                        - Từ lâu tôi cũng muốn mà.


                        Kaplan cắt lời tôi, giọng ông càng có vẻ gấp rút hơn:

                        - Cô phải đưa má có ra khỏi Sài gòn ngay. Chiến tranh sẽ bùng nổ bất cứ lúc nào.


                        Dù rất ngạc nhiên vì cái tên cũ, tôi vẫn cảnh giác, cho rằng đây là lối làm tiền của người lạ. Cách đây mấy năm, tôi về Việt Nam xin cho một đứa cháu tôi đi Mỹ. Tôi đến Bộ nội vụ để xin xuất cảnh. Một nhân viên cao cấp của bộ này đã đòi tôi đưa tiền cho ông và một vài người trong bộ. Có lẽ họ nghĩ tôi từ Mỹ về, không có thì giờ tố cáo họ, nghĩ như vậy, tôi nói với người đàn ông trong điện thoại:
                        - Chiến tranh đã có mặt ở Việt Nam kể từ ngày thằng Tây của ông đặy bàn chân lông lá lên quê hương của tôi. Tây về Tây rồi, nhưng chiến tranh vẫn không chấm dứt sau trận Điện Biên Phủ, ông ạ!
                        - Cô nghe đây! - ông bỗng nói lớn hơn - Tánh mạng của má cô đang bị đe doạ. Có phải đem má cô ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt!
                        Tôi đáp ngay:
                        - Xin cám ơn ông, nhưng tôi không có 50.000 đồng để mua giấy xuất cảnh cho má tôi đâu.
                        0 Những người bạn của ba cô sẽ tới Sài gòn trong nay mai. Như vậy má cô và các em cô sẽ không được an toàn. Cô có hiểu không?
                        Ông ta nhấn mạnh từng tiếng. Câu cuối cùng có giọng gắt gỏng.
                        Vậy mà tôi vẫn cố cãi:
                        - Tôi hiểu, nhưng nếu họ là bạn của ba tôi thì làm sao gia đình tôi lâm nguy khi họ vào Sài gòn?
                        Ông ta vẫn kiên nhẫn nói:
                        - Đừng giả bộ ngây ngô với tôi! Cô phải tin tôi. Hãy đem má và các em cô qua Mỹ hay qua Pháp cũng được. Họ phải đi khỏi Việt Nam!
                        - Xin ông chỉ cách làm sao tôi có thể đem má tôi ra khỏi Việt Nam. Bây giờ đâu có ai được phép xuất ngoại. - Tôi nói.
                        - Bảo chồng có tới gặp ông đại tướng Hải quân Gaylor là Tổng tư lệnh Hải quân ở vùng Thái Bình Dương. Ông ta mới là người có thể giúp cô việc này. Nghe tôi không, cô Dung?
                        Bấy giờ thì tôi biết ông ta nói thật và đứng đắn. Thế là tôi bắt đầu lo. Tôi ngồi bệt xuống đất, dựa lưng vô cửa. Hai lòng bàn tay tôi ướt dám mồ hôi, tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực như muốn nhảy ra ngoài. Bỗng tiếng điện thoại lại reo vang. Tôi vội chụp lấy máy nghe. Lần này, tôi nghe giọng nói vòi vĩnh của thằng con tôi ở đầu dây bên kia:
                        - Mom, sao không tới rước con? Con đói bụng rồi!
                        Tôi giựt mình nhớ đến việc tôi phải làm lúc này. Tôi rước Lance ở trường mẫu giáo. Thế là đã trễ năm phút.
                        Sau khi đã cho Lance ngủ trưa, tôi lục hộc tủ để thơ và nhật ký, cố tìm cho ra một cái gì có liên hệ tới tông tích ông Kaplan. Bỗng tôi thoảng thấy một bao thơ mầu vàng dầy cộm trong ngăn kéo bàn viết của tôi. Bao thơ dán tem và đóng dấu Paris, người gởi là Jean Kaplan, nhưng lại không có địa chỉ. Tôi không biết ông ta, chỉ nhớ rằng ba năm trước ông đã gởi bao thơ cho tôi. Trong bao thơ, có hình của năm người: ba tôi, anh Khôi, chị Thu Vân, anh Trung và một người con gái lạ cỡ tuổi tôi. Hình chụp vào một mùa đông trước điện Cẩm Linh đầy tuyết phủ, với nên trời mầu xám ngắt, xám như mầu quần áo của những người trong hình. Ngoài ra, còn có cả hình ba tôi cưỡi ngựa ở Mông Cổ, hình ba tôi uống trà với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, và nhiều người khác đứng sau lưng họ mà không biết là ai. Khi được những tấm hình này, tôi vừa mừng, vừa thất vọng, vì người gởi không viết một chữ nào; cũng không có cả địa chỉ người gởi nữa. Hồi đó tôi nghĩ rằng không có địa chỉ người gởi là may, vì khỏi phải liên lạc với người xa lạ. Bây giờ tôi lại nghĩ khác, thất vọng vì không biết liên lạc cách nào để có thể hỏi thêm về gia đình tôi. Suy nghĩ thêm về lời nói của Jean Kaplan, tôi bắt đầu quan tâm đến tình hình chiến sự ở Việt Nam. Đêm đêm, tôi chờ Lance ngủ, rồi nhón gót ra khỏi phòng, xuống nhà bếp ngồi một mình ôm mối lo sợ. Tôi muốn biết tình hình Việt Nam qua báo chí Mỹ, nhưng tôi lại biết các ký giả Mỹ vốn nông nổi, hời hợt, nên không tin tưởng ở họ. Từ đầu năm 1975, tình hình Nam Việt Nam mỗi ngày một tồi tệ. Đầu tiên là việc mất Ban Mê Thuột, rồi cuộc rút quân từ Pleiku ra biển theo lệnh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bỏ ngỏ miền cao nguyên. Cuộc triệt thoái này gây tổn thất trầm trọng cho cả quân lẫn dân miền Nam.
                        Sau đó tình hình miền Nam mỗi ngày thêm suy sụp. Rồi quân Bắc Việt tràn qua Bến Hải, chiếm Quảng Trị.
                        Trong khi tôi lo lắng về tình hình Việt Nam, John được nghỉ phép. Anh về nhà đã mười ngày, mà tôi không dám đả động tới cú điện thoại của Jean Kaplan. Nhưng tôi vẫn tìm cách cho anh biết những tin tức liên quan đến Sài gòn. Thế rồi, một buổi tối tôi tâm sự với anh về sự sống còn của miền Nam. Tôi chỉ dám nói nho nhỏ với anh:
                        - Em nghĩ mình sẽ mất miền Nam.
                        John ngạc nhiên nói:
                        - Cưng ơi, lúc nào cưng cũng ca tụng người lính Việt Nam Cộng hoà, mà sao bây giờ lại nói miền Nam sắp mất? Như vậy là cưng coi thường họ quá. Cưng phải tin tưởng họ, vì chính anh biết họ là những chiến sĩ can cường.
                        Tôi bật khóc. Hai bên cằm tôi đau nhức, tim tôi tan nát khi phải nói thật với John:
                        - Mất miền Nam là một chuyện vô cùng đau khổ, những nó sẽ xảy ra. Chưa bao giờ, kể từ ngày ba em bỏ đi Bắc, em tin miền Nam lọt vào tay cộng sản. Nhưng mà bay giờ em phải tin. Em không biết nói sao và cắt nghĩa thế nào cho anh hiểu. Em cũng tin là các chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà đánh giặc rất giỏi, nhưng họ chỉ giỏi khi được cấp trên cho phép đánh. Bây giờ họ bị trói tay rồi. Mình sẽ mất Sài gòn vì ông Thiệu không cho phép đánh, vì mấy người Mỹ của anh xỏ lá, chơi trò chính trị. Làm sao người lính có thể xông pha diệt dịch, khi mà tướng và tổng thống của họ ra lịnh rút lui? Hãy coi tin tức trong TV thì rõ. Bản đồ miền Nam mỗi ngày nhuốm thêm mầu đỏ.
                        Tôi nói một hơi dài, khiến John trố mắt nhìn tôi đầy vẻ kinh ngạc. Anh lẳng lặng đi một ly rượu. Chờ anh trở lại, tôi định đề cập tới cú phôn của Jean Kaplan. Nhưng tôi chợt nghĩ rằng nếu anh có tin thì tin lời tôi chớ không tin lời người xa lạ. Tôi rụt rè nói:
                        - John, anh cố tìm cách đưa má và hai đứa em rời khỏi Sài gòn nhen.
                        John liền nắm lấy tay tôi, bắt tôi nhìn thẳng vào mắt nói:
                        - Má và hai em của em cũng là má và hai em của anh. Anh sẽ lo chuyện này.
                        - Cám ơn John! - Tôi vừa mừng vừa cảm động, nên chỉ nghẹn ngào nói được có bấy nhiêu thôi.
                        John nói tiếp:
                        - Em có điên mới nghĩ rằng anh ngồi đây mà bỏ mặc má và hai em nhỏ bên đó khi miền Nam lọt vô tay cộng sản. Bổn phận của anh là bảo vệ em, mà bảo vệ em tức là bảo vệ gia đình em. Em lấy chồng khôn, chứ không lấy phải thằng ngu đâu. Chỉ thằng ngu mới để gia đình em kẹt lại Việt Nam. Sẽ không ai sống được với em, nếu má và hai em không qua Mỹ được.
                        Tôi cười ra nước mắt.
                        Lần đầu tiên, kể từ sau ngày nhận được cú điện thoại Jean Kaplan, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người, như muốn bay bổng. Như vậy là tôi an tâm rồi.
                        Sau đó, vừa làm bếp tôi vừa nghĩ đến Jean Kaplan. Phải chăng ông ta là một gián điệp? Ông muốn nhờ John đưa tin cho Bộ tư lệnh hải quân Mỹ? Nếu đúng, John nên báo cho ông tướng Gaylor, Tổng tư lệnh hải quân ở Thái Bình Dương.
                        Nghĩ vậy, trong bữa ăn, tôi đột ngột nói:
                        - Em muốn cho anh biết một chuyện mà em giấu mấy ngày nay.
                        John liền đoán:
                        - Em có bầu?
                        - Không phải. Em ước gì em có bầu, sanh năm, sanh ba gì cũng được, em không sợ. Nhưng chuyện này mới đáng sợ.
                        John lại đoán mò:
                        - Em lại bị ticket chạy quá tốc độ trong trại, phải không?
                        Tôi lắc đầu, ra hiệu cho anh lắng nghe, rồi tôi từ từ kể lại cú điện thoại của người đàn ông bên Pháp. John bỏ dao, bỏ nĩa xuống bàn, chú ý lắng tai nghe, rồi tỏ vẻ bực mình tại sao tôi lại giấu kín một tin động trời như vậy.
                        Quả thật, tôi đã giấu kín chuyện này. Ngay cả chị Cương ở nhà chỉ cách có 5, 7 dặms, tôi cũng không cho biết. Anh Wray, chồng chị phục vụ bên Lục quân, trên đảo Hawaii này. Chị cũng giấu chồng về ba tôi. Theo lời yêu cầu của chị, John cũng không cho người anh cột chèo biết sự thật về ông già vợ.


                        John thắc mắc, tại sao bạn của ba tôi lại báo tin cuộc tấn công miền Nam? Nếu ba tôi trở về, lại sao phải đưa má tôi ra đi khi hai người đã sống xa nhau 19 năm trời? Tuy thắc mắc như vậy, nhưng anh không tin là quân cộng sản Bắc Việt có thể chiếm miền Nam, vì anh rất tin tưởng ở người lính Việt Nam


                        Trong những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4, chúng tôi theo dõi sát tình hình chiến sự Việt Nam. Rồi càng ngày càng thất vọng. Khi tổng thống Thiệu ra lệnh rút khỏi vùng cao nguyên, quân dân bỏ chạy hỗn loan. Khi quân cộng sản Bắc Việt tràn qua sông Bến Hải mà không gặp một phản ứng nào của quân đội Việt Nam Cộng hoà thì chúng tôi biết rằng tình hình đã tuyệt vọng. Lúc đó John mới vội vã tìm đường về Việt Nam đón má tôi và hai em.


                        John vào sở, trong căn cứ hải quân ở Pearl Harbor để xin 30 ngày nghỉ phép. Việc xin phép không có gì khó khăn, những viên thượng sĩ đánh máy cho biết Hải quân vừa có lệnh không cho ai đi Việt Nam kể từ hạ sĩ quan trở lên, nếu không có sự vụ lịnh. John hối thúc anh ta cứ đánh máy cho xong giấy phép. Anh ta vâng lời. Thế là John về nhà với tấm giấy phép còn bỏ trống nơi đi. Khi đã có giấy phép trong tay, John bắt đầu gọi điện thoại tới cứ không quân Hickam hỏi các chuyến bay đi Thái Lan, Thái Lan và Việt Nam. Anh sẽ quá giang máy bay quân sự. Tôi thì gọi cho toà lãnh sự Việt Nam ở San Francisco để hỏi thủ tục nhập cảnh. Nhân viên toà lãnh sự cho biết người có quốc tịch Mỹ phải có giấy nhập cảnh nếu muốn ở Sài gòn từ ba ngày trở lên, và phải đợi chừng ba tuần sẽ được cấp visa. Nếu phải đợi tới ba tuần thì nước mất rồi. Chúng tôi phải tính xem con đường nào có thể vô Sài gòn mà không cần giấy nhập cảnh. Chúng tôi nghĩ rằng bấy giờ người đi ra thì khó, chả có ai lại dám vô Sài gòn nữa. Chắc lúc này hỗn quân hỗn quan, ai mà đi xét coi John có ở quá hạn 3 ngày không. Chúng tôi nghĩ như vậy cho tạm an tâm để lo việc khác. Việc khác đó là tìm chỗ trên máy bay nhà binh để bay về Sài gòn.
                        Trưa hôm đó, John trở lại phi trường của không quân Hickam để thăm dò các chuyến bay một lần nữa. Anh được biết chuyến bay thường xuyên hàng tuần cho nhân viên của toà đại sứ Mỹ sẽ cất cánh ngày hôm sau, nhưng có thể không còn chỗ, vì tình hình biến chuyển ở Việt Nam mà nhiều dân sự lẫn quân sự phải bay qua Sài gòn để chuẩn bị. John chợt nhớ đến ông sĩ quan hải quân. Ai cũng biết rằng ông thượng sĩ của hải quân. Ông thượng sĩ của hải quân cũng tháo vát, sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi mắc kẹt. May mắn là ở đơn vị của Military Airlift Cơmmand ở căn cứ Hickam có một ông thượng sĩ của Hải quân. John vội tới gặp ông ta. Anh ghé tai thân mật nói nhỏ, anh cần đi Việt Nam gấp để đem gia đình vợ ra khỏi Sài gòn. Vừa nói anh vừa đưa giấy phép cho ông ta coi.
                        Ông thượng sĩ bèn đứng thẳng người lên, lấy giọng nghiêm trang nói:
                        - Tôi tin là thiếu tá có đủ giấy tờ cần thiết để trình cho bên kia. Chỉ ai có công vụ mới được ưu tiên qua Sài gòn trong lúc này.
                        Dù biết John chẳng có giấy tờ gì, ông cũng cho anh một chỗ trong chuyến bay ngày hôm sau; ông còn chỉ cho anh nơi lấy chỗ ngồi trong máy bay.
                        Người lính không quân ngồi ở quầy xét vé chau mày khi xem giấy đi đường của John, và giấy mầu đỏ mà ông thượng sĩ hải quân vừa phát cho John. Nhưng anh không nói gì, chỉ im lặng. Trong khi đó, John nhịp 8 ngón tay lên mặt quầy. Đó là thói quen cố hữu của anh. Hồi nhỏ anh chơi kèn clarinet nên bây giờ quen tay, hễ rảnh là bấm kừn. Có lẽ anh lính bị tiếng nhịp đều đều đó làm khó chịu, những không dám nói gì, chỉ vội vàng trao giấy tờ cho John.
                        Đêm đó John mới bắt đầu sửa soạn tinh thần cho chuyện đi mà chúng tôi không biết đặt cho nó cái tên gì? Anh nôn nao và mong cho mau sáng để lên đường. Trước khi rồi khỏi nhà, anh nói với tôi:
                        - Họ có thể đẩy anh trở lại máy bay khi tới phi trường Tân Sơn Nhứt; nhưng nếu vô thẳng Sài gòn không được, anh sẽ bay sang Bangkok xin visa. Thế nào chồng của em cũng sẽ có mặt ở Sài gòn tuần này.
                        Bỗng John có vẻ đăm chiêu, rồi nghiêm giọng nói:
                        - Anh cần biết hai địa chỉ: một là đại tá Trần Duy Bính; và cô nhi viện Minh Trí. Anh sẽ nhờ đại tá Bính cung cấp cho một xe Jeep, một khẩu súng và một người giúp anh khi cần.
                        Tôi giựt mình hỏi:
                        - Chi vậy? Tại sao lại đến cô nhi viện?
                        Anhh vui vẻ hỏi lại:
                        - Bộ em em không muốn mấy đứa con nít mồ côi được đi ra nước ngoài nếu có dịp?
                        Tôi nhớ lại mấy năm về trước, lúc John được biệt phái qua hơn sáu tháng, anh đưa hai mẹ con tôi về Sài gòn ở với má tôi. Khi rảnh rỗi tôi thường đến viện mồ côi để giúp đỡ. Có nhi viện Minh Trí là nói tôi đã tới nhiều lần, đã đem tiền của các bà vợ sĩ quan trong phi đoàn của John để mua giường ngủ, thuốc, áo, sữa, và cất vườn chơi cho các em. Ở đây có hơn 3ô em. Bây giờ nghe anh nhắc tới viện mồ côi, tôi rất xúc động. Tôi không ngờ anh lại nghĩ tới trẻ mồ côi trong giờ phút hiểm nguy này. Tôi không biết nói gì hơn là cảm ơn anh rối rít. Anh nói:
                        - Đừng có cám ơn. Hãy lấy giấy bút ghi địa chỉ cho anh đi, lẹ lên!


                        John có thói quen của một phi công, là làm việc gì cũng đúng giờ. Vì thế, anh luôn luôn có một cuốn sổ tay để ghi những việc phải làm theo thự tự thời gian. Tôi vội lấy giấy ra ghi số điện thoại của đại tá Trần Duy Bính. Không những thể, tôi ghi luôn cả số điện thoại của bạn tôi, George Esper, hiện đang làm cho Thông tấn xã Asssociated Press. Sau đó chúng tôi đồng ý với nhau là sẽ dùng văn phòng của AP làm nơi liên lạc bằng điện thoại. Hơn nữa. John sẽ phải tới nhà báo thường xuyên để nghe yin tức thời sự. Tôi cũng cho anh địa chỉ của bà sơ Nguyễn Thị Trọng, người quản trị cô nhi viện Minh Trí lúc bây giờ. John cất cuốn sổ tay vào một cái cặp dẹp bằng dã đựng tài liệu, rồi đưa cho tôi hai tờ giấy, biểu tôi viết bằng chữ Việt như sau:
                        “Tên tôi là John Krall. Tôi về đây để che chở cho gia đình của vợ tôi, chờ ngày ông Đặng Quang Minh tức Đặng Văn Quang từ Hà Nội về. Ông Minh là ba vợ của tôi. Các ông nên kiếm tôi với đại tá Nguyễn Hoàng Phát, hay với gia đình bên vợ tôi là ông Trần Văn Diệp, Trần Văn Thuỷ. Họ cũng sẽ từ Hà Nội về. Tôi sẽ không nói chuyện hay thương lương với bất cứ ai ngoài người kể trên”.
                        John tin đây có thể coi như một cái bùa hộ thân, phòng khi anh bị cộng sản bắt. Viết xong mấy chữ trên, tôi bỗng rùng mình lo sợ. Nếu anh bị bắt thì chuyện gì sẽ xảy ra? Mảnh giấy viết tay này có được kí lô nào không? Chúng sẽ làm gì anh, nếu chúng không tin? Trong lúc hỗn quân hỗn quan, chúng nó cứ làm liều bắn chết anh thì sao? Vì lo lắng như vậy, tôi không muốn anh đi Việt Nam nữa. Tôi ngỏ ý đó với anh, nhưng anh trấn an tôi. Anh nói:
                        - Anh chỉ đề phòng thôi; anh không tin sẽ có chuyện gì xảy ra cho anh, vì anh cố gắng giải quyết mọi việc trước khi cộng sản tấn công Sài gòn.
                        Tôi đành tin lời anh, những vẫn không yên lắm. Mọi việc bây giờ trông vào sự may rủi và tài tháo vát của anh thôi. Tôi không quên thầm vái van những người khuất mặt, khuất bóng trong gia đình, xin phù hộ cho John, để anh rước được má và hai em tôi qua Mỹ.
                        Để tinh thần bớt căng thẳng, tôi đưa cháu Lance đi bộ ra biển ngày trước cửa nhà. Trời đêm nay không trăng không sao tối đen. Xa xa, bờ bên kia là hải cảng Pearl Harbor, đèn sáng trưng. Tôi nắm bàn tay nhỏ bé của thằng con. Hình như nó biết được nỗi lo sợ của tôi, nên tối nay nó nắm tay tôi thật chặt, không đòi chạy đua với tôi trên bãi cát.
                        - Má sợ hả má? - Bỗng Lance hỏi.
                        - Không, má không có sợ. - Tôi cố lấy giọng bình tĩnh trả lời một cách yếu xìu.
                        - Ba nói mình phải can đảm, sợ quá mình sẽ thành ngu!


                        Thằng nhỏ năm tuổi thích dùng chữ “ngu”. Cái gì cũng “ngu”, món ăn dở cũng “ngu”, chó sủa làm nó sợ, con chó cũng “ngu”. Nhưng nếu tôi quá sợ, chắc sẽ thành ngu thiệt. Tôi nắm tay con đi trên bờ biển, nhìn lên bầu trời tối đen. Vừa đi tôi vừa khấn thầm:
                        Hải Vân ơi, chị cần cưng lắm. Cưng đi theo để phò hộ anh John để đưa được má và hai em Hoà Bình, Minh Tám sang Mỹ với chị. Hãy bảo vệ má như hồi cưng con sống nhen, Hải Vân.


                        Năm 1954, khi ba tôi tập kết ra Bắc, tôi mới chín tuổi. Bây giờ năm 1975, con trai tôi năm tuổi, ba nó phải liều mạng về Việt Nam ể cứu bà ngoại nó chạy qua Mỹ, vì ông ngoại nó và cộng sản Hà Nội sắp xâm chiếm miền Nam. Làm sao nó mà cắt nghĩa bây giờ. Rồi con tôi sẽ hiểu Cộng sản trong đời sống của gia đình này. Tôi không sợ con tôi lạc đường, lạc lối khi trưởng thành đâu.
                        hết: Chương 27, x

                        Comment


                        • #27
                          Chuơng 28




                          Ngày 15 tháng Tư năm 1975, John lên đường về Sài gòn tìm cách rước má và hai em tôi qua Mỹ. Sau này anh kể lại với tôi rằng dù anh lúc nào cũng lạc quan, đó là bản tánh của anh, thế mà khi máy bay cất cánh khỏi phi đạo Hickam, anh cũng nôn nao, hồi hộp, vì không đoán trước được chuyện gì xảy ra bên kia bờ đại dương, trên quê hương của vợ. Quân cộng sản sắp tràn vô Sài gòn; biết anh có đủ thời gian và phương tiện đưa mẹ và hai cô em vợ ra khỏi vòng nguy hiểm không? Kinh nghiệm của một sĩ quan hải quân phi công có giúp anh được gì không? Dù sao, lái một chiếc máy bay mới sáng chế cũng đỡ nguy hiểm hơn xông vào lò lửa đầy bất trắc. Anh chỉ biết tin vào tài tháo vát của mình mà thôi.

                          Lộ trình của chuyến bay này sẽ ghé qua mấy nơi như căn cứ không quân Clark của Mỹ ở Phi Luật Tân, Sài gòn và trạm cuối cùng là Bangkok.
                          Nhưng khi đến Guam, đáng lẽ chỉ nghỉ có một tiếng, lại kéo dài gấp ba, khiến John càng bồn chồn, nóng ruột, nhưng chả biết làm thế nào hơn.
                          Khi mọi người trở lại máy bay và đã an vị, John thấy trong đám hành khách mới lên ở Guam có một ông tướng hải quân. Qua đồng phục, hai người nhận ra nhau ngay, họ cùng là phi công. John gật đần chào ông tưởng, nhưng anh không biết có nên nói chuyện với ông không, khi anh ghé Sài gòn một cách bất hợp pháp. Nhưng chính ông tướng lại tới bắt tay John, và tự giới thiệu ông là trung tướng Oberg, một sĩ quan tham mưu của Lực lượng Thái Bình Dương. Thì ra hai người cùng đi Sài gòn. Tướng Oberg hỏi anh sĩ quan trẻ có nhiệm vụ gì ở Sài gòn. John nói thật là đi rước gia đình vợ ra khỏi Việt Nam
                          Suy nghĩ hỏi lâu, ông tướng luu ý John là chỉ có những người có công vụ mới được qua Việt Nam. John cúi nhìn xuống đất, chỉ khẽ gật đầu mà không nói một lời. Từ đó hai người giữ im lặng.
                          Khi máy bay đáp xuống phi trường Clark ở Phi Luật Tân, ông Oberg nói với John:
                          - Tôi không nói cho ai biết hết, nhưng anh cần nhiều may mắn hơn đó!


                          Ông còn cho John biết ở phi trường Clark, quân cảnh sẽ kiểm tra chặt chẽ. Hành khách phải xuống máy bay để hoàn tất thủ tục đến Sài gòn.
                          Khi máy bay còn nằm trên trên phi đạo ở Clark, John bắt đầu xem các loại giấy tờ. Anh không có sự vụ lịnh, giấy chiếu khán nhập cảnh Việt Nam. Anh nghĩ sẵn những lý do thật sự và khả sĩ để thuyết phục quân cảnh. Nhưng anh biết, chẳng có lý do nào khả dĩ thuyết phục bất cứ ai. Vì thế, anh lo lắm, lo có thể bị quay trở lại Guam. Nhưng có một phép lạ đã cứu anh. Vì chuyến bay đã quá trễ sau khi đã ngừng ở Guam đến ba tiếng đồng hồ, nên tất cả hành khách xuống máy bay phải đứng chở ở một góc được giữ an ninh trật tự, không ai được ra khỏi vùng đó, nên quân cảnh không mất nhiều thì giờ xét giấy tờ lần thứ hai. John thở một hơi dài như muốn trút ra khỏi lồng ngực tất cả sự lo âu. Ông Oberg nheo mắt cười với anh, như muốn tỏ vẻ chúc mừng anh đã gặp may mắn. Máy bay cất cánh sau ba mươi phút xuống đổ xăng. Bay giờ, giữa anh và Việt Nam không còn gì xa cách nữa. Chỉ có vài trăm dặm của biển Thái Bình phía trước.


                          Khi chỉ còn vài phút nữa là tới phi trường Tân Sơn Nhứt, anh vô phòng vệ sinh chất cứng thay quần áo. Anh xếp bộ đồng phục xuống tận đáy va ly. Anh mặc một bộ quần áo kaki, hoá trang thành một nhà báo dân sự, giống các nhà báo ở Sài gòn. Sau khi máy bay đáp xuống, hành khách sửa soạn đi ra, anh chưa nghi ra cái mẹo nào có thể qua mặt đám quân cảnh xét giấy tờ ở phía dưới. Khi bước ra khỏi máy bay, còn ở gần cầu thang, anh chợt trông thấy tướng Oberg bước vào một chiếc xe mầu đen có bảng hiệu VIP, tài xế là một quân nhân. Khi chiếc xe lướt đi trong ánh nắng tháng Tư của Sài gòn, anh chợt nảy ra một ý nghĩ táo bạo. Anh bỗng la lớn:
                          - E, họ lấy xe của tôi! Bắt họ ngừng lại!


                          Nhiều người nhìn anh rồi kéo nhau vô phòng trình giấy thông hánh. Một người lính quân cảnh đứng dưới đất ngước nhìn anh với vẻ ngạc nhiên, rồi nhìn hút theo chiếc xe mầu đen đã chạy một khoảng xa. Người lính trẻ với gương mặt thật thà hỏi anh:
                          - Ông tướng Hải quân lấy xe của ông?
                          John ra vẻ là một nhân vật quan trọng của toà đại sứ la lối om xòm, rồi anh bắt một người lính quân cảnh phải tìm cho anh một chiếc xe khác. Người lính hoảng sợ, chạy vô gọi DOD tìm xe cho “ông lớn”. Khi người lính vừa đi, John vội lẻn qua giữa các building, đi bộ ra khỏi cổng phi trường và mất dạng trong đám đông của Sài gòn. Khi biết chắc chẳng còn ai bắt được mình nữa, anh đi taxi về khách sạn Brink ở đường Hai Bà Trưng. Xuống xe, anh kêu cyclo về nhà má tôi ở đường Nguyễn Văn Sâm. Cả nhà vừa mừng vừa sợ khi thấy John xuất hiện, dù tôi đã gọi điện thoại về báo trước, những không biết chắc ngày nào anh về tới. Má và em tôi có cả ngàn thắc mắc để hỏi John về chị em, con cháu chúng tôi đang ở Mỹ. Người Sài gòn lại hỏi người bên Mỹ về tình hình Sài gòn. John chợt hiểu vì thấy gia đình bên Sài gòn không có đàn ông trong nhà. má ở nhà nghe lỏm tin tức với bạn bè hàng xóm. Một ông thượng sĩ Không quân là lính kiếng ở kề bên. Ông làm sao biết tình hình đất nước lúc bấy giờ, trong khi cả tuần ông chỉ ở trường đua Phú Thọ, và lê la trong các phòng trà về ban đêm. Em tôi còn được sống ở Sài gòn, được người lính Việt Nam Cộng hoà bảo vệ, chưa nếm mùi giặc giã bao giờ. Tôi có hai em, một đứa đã đi làm, còn một đứa đang đi học.
                          John cho má và em tôi biết anh về để rước ba người đi Mỹ. Nghe nói vậy, mọi người giữ im lặng. Ai cũng muốn bám lấy Việt Nam theo những lý do riêng của họ, cùng mối tâm sự hoang mang mang. Má tôi thì nghĩ tới chuyện được gặp ba tôi và anh Khôi. Tôi nghĩ rằng có thể má cũng nghĩ đến một ngày được an hưởng tuổi già bên cạnh chồng con. Hoà Bình thì nhứt định đi Mỹ, Minh Tâm cũng vậy. Con Vân, người giúp việc của má, muốn đi Mỹ. Má tôi vội viết thơ để lại cho anh Khôi. Trong khi đó, con Vân cũng đổi ý, muốn về Cần Thơ sống với má nó. Má tôi cho nó một số tiền đủ xài hai tháng và một số đồ đạc trong nhà, kể cả bàn máy may. Mà cũng không quên ghi rõ trong thơ là cho anh Khôi nhà của má. Sở dĩ má cho Vân tiền đủ xài trong hai tháng, vì má cho rằng vào khoảng thời gian đó, ba tôi cũng đã vào Sài gòn. Ngoài số tiền mặt, mà cũng cho nó hầu hết đồ đạc trong nhà, chỉ dành lại cho anh Khôi có bộ chén kiểu Noritaki.
                          Tối hôm đó John gọi tôi, cho hay anh đã tới nơi và đang xúc tiến những chuyện cần thiết. Đoạn đường trước mặt còn gian nan hàng trăm ngàn lần đoạn đường từ Mỹ qua Việt Nam. Trong khi ở Mỹ tôi i lo sợ từng giờ từng phút. Có lúc tôi lại hối hận đã để John dấn thân vào cho nguy hiểm, mà nơi đó người ta đang tìm đường trốn đi.
                          Kể từ ngày John đi Sài gòn, tôi chầu chực bên cạnh điện thoại suốt ngày, trừ những giờ phải đưa Lance đi học và đón nó. Mỗi lần điện thoại reo tôi lại giựt bắn người lên. Chị Cương ở cách tôi chừng năn, bẩy dặm, thấy tôi quá lo lắng, ban ngày tới nhà tôi chơi. Ban đêm, chị muốn tôi về nhà chị ngủ, nhưng tôi từ chối, ở nhà trông ngóng tin Sài gòn.
                          Chị Cương và tôi đã tới sở ngoại kiều làm giấy bảo trợ má và hai em Hoà Bình và Minh Tâm. Tôi báo cho John biết số hồ sơ giấy tờ quan trọng cần cho việc đưa má và hai em ra khỏi Việt Nam.
                          Có một lúc John ngừng gọi cho tôi mấy ngày liền khiến tôi nóng ruột muốn phát điên lên. Tôi phải gọi ông Esper ở văn phòng Thông tấn xã The Associated Press. Nhưng tôi lại gặp xui, vì tổng đài của hãng thông tấn quá bận, nên tôi không liên lạc được với ông. Tôi phải chờ mất hơn ba tiếng đồng hồ mới nói chuyện được với ông. Như muốn trấn an tôi, ông cho biết sẽ gặp John, nhưng không có tin tức gì mới lạ. Ông cũng nói thêm rằng John sẽ làm đủ mọi cách để có thể đưa gia đình tôi sang Mỹ, ông khuyên tôi cứ an tâm chờ đợi.
                          Vì lo lắng cho má, cho Sài gòn, tôi mất ngủ, mất ăn. Một buổi sáng, tôi nhìn tôi trên kiếng, bỗng thấy tôi già hẳn đi, dù lúc đó tôi mới 29 tuổi đầu. Sài gòn có thể mất trong nay mai. Người miền Nam sẽ đạp lên nhau mà chạy đi tìm tự do. Rồi đây, những di cư từ miền Bắc năm 1954 sẽ lại phải dắt díu vợ con chạy trốn cộng sản một lần nữa. Người miền Nam sẽ phải chịu cảnh chia ly như người miền Bắc 20 năm trước. Trăm ngàn nỗi khổ, người dân của các nước tự do làm sao hiểu nổi. Nghĩ đến những nỗi buồn thảm trong tương lai, tôi thấy xót xa trong lòng nên không dám nghĩ tiếp nữa.
                          Tôi ngước nhìn lên cao, hỏi ông trời: “Không lẽ dân tôi cứ đau khổ triền miên mái như vậy sao?
                          Tôi theo dõi tình hình miền Nam trên truyền hình từ sáng đến khuya. Lance đi học về đòi coi truyền hình, tôi phải tìm nhiều đồ chơi khác cho con chơi, nhưng cũng phải nhường TV cho nó khi có phim hoạt hoạ của Nhựt. Đó là hai phim Kikaida và Rainbor Man. Có lần Lance hỏi:
                          - Sao nhà mình không mua ba cái TV cho ba người, như nhà thằng Mark, thằng Zachery?
                          Tôi phải trả lời khéo:
                          - Tại má muốn coi TV chung với Lance.
                          - Má thằng Mark coi movie hay lắm, con mà coi tin tức chắc muốn chết!
                          Tôi lại phải giải thích:
                          - Tại bà ngoại của thằng Mark ở Ohio, bình yên, không chiến tranh, chỉ cần tin thời tiết là đủ. Còn bà ngoại của Lance ở Việt Nam, giặc đánh tới nơi, má muốn biết tin tức bên Sài gòn.
                          - Giặc là ai? - Lance hỏi.
                          - Là VC.
                          - Oh!


                          Lance đành xin qua nhà thằng Mark, thằng Zachary chơi. Đúng nửa tiếng đồng hồ sau, theo đúng như lời hứa thì Lance trở về về, vì gần tới giờ Lance được coi phim hoạt hoạ.
                          Trong khi ngồi chờ TV, thình lình Lance hỏi:
                          - Sài gòn không yên sao mà biểu Daddy đi tới đó?
                          Thông thường, câu hỏi vô tư của đứa bé năm tuổi không khó trả lời, nhưng câu hỏi này của con tôi làm tôi cứng họng. Tôi cảm thấy mình tội lỗi với John, với má của anh. Tôi đay mặt đi chỗ khác để lau nước mắt. Thật tình, tôi nghĩ tới hiểm nguy cho má nhưng không nghĩ tới hiểm nguy cho tánh mạng của John. Chúng tôi chỉ nghĩ làm sao đưa má và hai em ra khỏi Việt Nam trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản. Không biết tôi vô tình hay điếc không sợ súng, hay chúng tôi đang sống ở một nước bình yên, tự do, nên muốn người thân yêu của mình cũng được cuộc sống như mình? Cũng có thể là tất cả những lý do này.
                          Thấy tôi khóc. Lance lấy miếng Kleenex cho tôi chùi mất, rồi gỏi:
                          - Má có sợ Việt Cộng bắt bà ngoại không?
                          Tôi vội la cháu:
                          - Đừng có nói bậy!
                          - Chừng nào nào bà ngoại qua. Lance xin ngủ với bà ngoại được không?
                          - Không, Lance lớn rồi, phải ngủ riêng.
                          - Sao má nói Lance còn nhỏ, không được ra bờ biển một mình. Bây giờ má lại nói Lance lớn rồi, phải ngủ một mình? Người lớn không công bằng, lúc thì nói con nhỏ, lúc thì nói con lớn.


                          Nói chuyện với thằng bé ngây thơ, tôi cũng bớt lo lắng phần nào.


                          Trong khi đó, ở Sài gòn, John đã tìm đủ mọi cách để đưa má và hai đứa em tôi đi chánh thức. Anh tđến Bộ nội vụ xin giấy xuất cảnh, nhưng ông chánh văn phòng bộ này nói không còn ai làm việc nữa, ai cũng bỏ trốn hết rồi. Ông còn đề nghị anh đưa gia đình ông đi cùng với má và hai em; ông sẽ trả tiền cho John. Nhưng anh từ chối.


                          Một hôm, John gọi về cho hay bữa nay anh số nói chuyện với người “sửa điện thoại” để biết còn cái gì hư hao nữa không; “sửa điện thoại” là mật hiệu riêng giữa chúng tôi. John đi “sửa điện thoại”, có nghĩa là anh sẽ vào toà đại sứ Mỹ để gặp nhân viên CIA cho biết ba tôi là ai. Nếu John bảo tôi đi “sửa điện thoại”, là tôi phải đi gặp đại tướng Gaylor.


                          John cố tránh tại toà đại sứ Mỹ, vì anh là người đến Sài gòn bất hợp pháp. Chỉ một cú điện thoại, là anh có thể bị lính thuỷ quân lục chiến n ở toà đại sứ bắt, rồi đưa anh lên phi trường, đuổi về Hawaii ngay lập tức. Trước khi quyết định gặp nhân viên CIA, John gọi điện thoại cho đại tá Trần Duy Bính. Bây giờ là tới lúc John trả cái ơn của gia đình tôi cho đại tá Bình. Anh nói với đại tá Bình là anh biết chắc quân bảo vệ sẽ vô Sài gòn, nên đề nghị đại tá Bình chuẩn bị gấp cho ông và gia đình ông đi Mỹ. Anh sẵn sàng giúp đỡ mọi phương tiện. Những đại tá Bính chỉ cảm ơn mà không có ý định bỏ chạy. Ông vẫn còn lạc quan, tin là chưa đến nỗi nào. Sau đó, John nhờ đại tá tìm cho một cây súng. Đại tá Bính đưa liền cho John một cây revolver. Anh tháy súng lớn quá, khó giấu trong người, nên xin một cây nhỏ hơn. Đại tá hứa sẽ tìm cho trong vòng vài ngày. Những tình hình không cho phép “vài ngày”.
                          John tới cô nhi viện Minh Trí gặp sơ Nguyễn Thị Trọng, sơ cho biết một số trẻ mà John và tôi đã gặp, chết vì bị bịnh hoạn. Một số khác còn sống, nhưng không khóc. Sơ cũng cho biết, nhiều người Mỹ muốn đưa trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam, chẳng hạn như ông Ed Dailey, chủ hãng máy bay World Airways. Ông xin phép toà đại sứ Mỹ cho ông dùng máy bay riêng của ông để đưa trẻ mồ côi đi Mỹ, nhứt là những đứa con lai. Những toà đại sứ không cho phép.


                          Một hôm, John may mắn gặp bà Shirley Clark, nhân viên của tổ chức từ thiện Friends Service Cơmmittee. Ba khuyên John kiên nhẫn chờ đợi; trong vài ngày sắp tới có thể có tin vui với anh. Đúng như lời bà, hai ngày sau, ông Ed Dailey tổ chức chuyến bay cho trẻ em mồ côi, mà không có phép của toà đại sứ Mỹ. Việc này làm cho nhân viên của toà đại sứ Mỹ tức giận. Họ kêu ông Ed Dailey là người bắt cóc con nít, giống như giọng điệu của cộng sản Bắc Việt.


                          Nhưng sau đó, nhờ vận động khéo, ông Ed Dailey được đại sứ cho phép đưa con lai ra khỏi Việt Nam. Ông cấp tốc chuyển các trẻ mồ côi lên phi trường, trong đó có cả các em ở cô nhi viện Minh Trí.


                          Chuyến đầu tiên, gồm có 300 em ở cô nhi viện Minh Trí, tới Úc Đại Lợi. Các nhà báo Uc chê mấy em này dơ dáy, bịnh hoạn, thế mà vẫn có cả ngàn gia đình xin nhận nuôi. Mọi người đều mừng rỡ, vui vẻ.





                          Nhưng chuyến thứ hai không may mắn. Ở Mỹ, tôi xem TV, được biết chiếc máy bay C-5A chở 243 em và chừng 45 người lớn, cất cánh ở phi trường Tân Sơn Nhứt bị rớt. Tôi lặng người đi, đau đớn đến tê dại, không khóc được.
                          TV cũng cho biết Đà Nẵng rơi vào tay cộng sản. Hàng vạn người tỵ nạn từ miền Trung đổ tới các tỉnh miền Nam. Già trẻ, em bé hè nhau đi, dẫn theo cả súc vật. Họ gồng gánh một nhúm tài sản nhỏ nhoi. Họ cõng mẹ già, con thơ. Trong thật thê thảm đáng thương. Như vậy, rõ ràng trái với lời tuyên truyền láo của cộng sản là dân miền Nam hân hoan đón chờ cuộc “giải phóng” của họ. Tôi nhớ hồi 1954, có hơn 800.000 người từ miền Bắc di cư vào Nam. Trong khi đó, chỉ có khoảng 180.000 cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc.
                          John có thói quen từ ngày cưới, kêu tôi bằng “Nhà” (phát âm tiếng Việt). Anh cho biết anh thích chữ “Nhà”, vì nó có vẻ ấm cúng và bình an trong tâm hồn.


                          Một hôm, từ Sài gòn, anh đến văn phòng của hãng thông tấn AP (Associated Press) để gọi điện thoại cho tôi. Với giọng mệt mỏi, anh cho biết không có tin gì hay. Nhưng muốn trấn an tôi, anh nhó:
                          - Nhà ơi, anh sẽ làm tất cả những gì anh làm được”.


                          Nhưng anh đâu có biết rằng, nghe được tiếng anh lúc đó, là quá tốt rồi. Tôi an tâm vì biết chắc má tôi và hai đứa em không có mặt trên chiếc máy bay C-5 gẫy cánh mấy ngày trước đó, mà tất cả hành khách đều bị thiệt mạng. Nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn an tâm khi nghĩ đến những cảnh chạy loạn ở Việt Nam mà TV Mỹ chiếu hàng ngày. Dân miền Trung lếch thếch, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn làn sóng tấn công của giặc cộng. Từ đó, tôi liên tưởng đến má tôi và hai em. Vì vậy tôi nói với John, giọng năn nỉ:
                          - Cưng ơi, đừng về Mỹ mà không có má và hai đứa nhỏ nhen.
                          Nói xong, tôi nhận ra ngay là mình đã lỡ lời một cách ngu ngốc. Rất may là John hiểu rõ tâm trạng tôi lúc bấy giờ.

                          Comment


                          • #28
                            Chuơng 29



                            Cửa toà đại sứ Mỹ đóng kín để giữ an ninh, nên công việc đi lại và liên lạc với nhân viên bên trong càng khó khăn cho John. Đã nhiều lần người lính thuỷ quân lục chiến gác cổng rất lịch sự phải mời anh đi chỗ khác, vì biết các nhân viên không muốn tiếp anh. Họ chỉ làm tròn nhiệm vụ của họ, nên John không giận. Nhưng anh phải vô được toà đại sứ thì mới hoàn thành nhiệm vụ… do tôi uỷ nhiệm. Một hôm, anh nghĩ ra một kế để có thể lọt vô bên trong. Anh ngồi chờ cho đến khi có một chiếc ce chở đầy người Mỹ chạy tới cổng. Những người này bước xuống đều có vẻ là nhân viên của toà đại sứ. Họ mặc bộ safari vàng, cũng xách cặp da như John. Thế là anh nhập với bọn họ vô toà đại sứ. Khi đã vô được bên trong, anh phải tỏ ra mình là người quen thuộc trong toà đại sứ. Anh tìm ngay ra được văn phòng của ban tình báo. Anh mới ló đâu vô, thì một nhân viên ngẩng đầu lên nhìn anh với một vẻ rất ngạc nhiên. John mạnh dạn bước vô, tự giới thiệu về mình. Khi nhân viên ngồi trong phòng chưa hết ngạc nhiên, anh nói:

                            - Ba vợ tôi là đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Moscow.
                            Câu tiết lộ này đã làm cho anh nhân viên tình báo tên Joe McBride chú ý. Thế là anh mời John ngồi xuống ghế để họ nói chuyện. John kể hết mọi chuyện liên quan đến gia đình tôi, bây giờ từ cuộc điện đàm của tôi với người tên Jean Kaplan, cho đến công việc của anh tại Sài gòn lúc này. Anh còn nói thêm cho biết, chỉ còn không tới 30 ngày nữa thì toà đại sứ Mỹ sẽ trở thành villa của quân Bắc Việt. Joe đồng ý với anh, nhưng ông nói nhỏ là toà đại sứ cấm nhân viên không được tiết lộ sự thật này. Ông vừa nghe vừa đánh máy ghi lại lời John, để báo cáo thẳng lên cho xếp của ông. Sau mấy lần tới lui để bổ túc chi tiết về trường hợp của gia đình bên vợ, John được cấp trên của toà đại sứ mời vào để nói chuyện. Nhưng anh thất vọng, vì cả ông “xếp lớn” lẫn ông Shep Lowman là phó đại sứ đều không biết ông Đặng Quang Minh là đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam ở Liên Xô. Như vậy, làm sao John có thể chứng minh má tôi - bà Trần Thị Phàm - là vợ chính thức của ông Minh, và đã có 7 con với ông. Từ bao nhiêu năm nay, Mỹ đánh nhau với kẻ thù mà ông biết rõ kẻ thù kể cũng lạ. Ông Lowman còn cảnh cáo John, không được tiết lộ cho dân Sài gòn biết tin cộng sản Việt sẽ chiếm Sài gòn trong một thời gian ngắn. Nếu không, họ có thể nổi loạn. Lời cảnh cáo này đã làm John ngỡ ngàng, vì toà đại sứ Mỹ cố tình lừa gạt người Việt Nam trong cơn hấp hối của Sài gòn. Trong giờ phút này, người làm ngoại giao không còn chỗ đứng nữa; các nhân viên trong toà đại sứ chỉ chú trọng việc bảo vệ toà đại sứ.
                            Trong suốt cuộc chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam, ai cũng nghĩ các nhân viên tình báo Mỹ CIA “đi trên nước, bước trên lửa”. Nhưng thiệt ra, họ là những kẻ mộng du, lúc nào cùng mơ mơ màng màng, không nắm vững tình hình thực tế. Họ không biết kẻ thù của họ là những ai.
                            Nhưng may quá, khi CIA ở Sài gòn gửi điện về trung ương ở Langley, Virginia, tường trình cuộc gặp gỡ giữa họ với John, thì một sĩ quan cấp thấp, tên là Robert Hall, nhận ra ba tôi. Thế là việc đưa má và hai em tôi bắt đầu tiến nhanh hơn xe tăng của Bắc Việt tiến vào dinh Độc lập.
                            Sau này tôi mới biết, người sĩ quan CIA này đã nhiều năm liền nghiên cứu về hoạt động của Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng rồi không biết vì lý do gì, ông chuyển sang mặt trận Lào, khi nước này rơi vào tay cộng sản, ông về làm việc ở trung ương. Ông là người sĩ quan tình báo làm việc với tôi sau này.
                            Trong khi dân Sài gòn nhốn nháo tìm đường chạy ra khỏi nước, thì John cũng không biết làm cách nào cho má và hai em đi Mỹ được, dù đã được toà đại sứ chấp thuận. Tôi hay, nói cho John biết, xứ sở tôi, người dân phải nghe lời đồn ở ngoài đường, rồi suy diến để biết tin tức chính xác hơn. John nhớ lại lời tôi, nên bắt đầu la cà tại mấy cái bar hay quán rượu, nơi má các nhà báo, cả Việt lẫn Mỹ, cùng người dân ngồi lê đôi mách của Sài gòn tung ra những tin nóng hổi và đặc biệt. Nhờ vậy, chỉ một thời gian ngắn, anh có đủ tin tức về việc bốc các nhân viên sở Mỹ và gia đình của họ, khi Sài gòn bước vào giai đoạn nguy khốn.


                            John mang theo hai ngàn Mỹ kim, giấu kín trong giầy, nhưng anh biết rằng vào giai đoạn đó, số tiền nhỏ nhoi ấy không giúp được việc gì hết. Những ngày cuối cùng của Sài gòn, người ta tiêu tiền như trong cơn mê loạn. Ai ai cũng sẵn sàng vung tiền ra để mua hai chữ “tự do”. Nỗi lo sợ hiện ra trên gương mặt người dân Sài gòn. Cho đến nay, John vẫn không quen được những gương mặt lo sợ ấy.


                            Nhiều hôm, đứng từ balcon nhà má tôi, John để ý bên kia đường Nguyễn Văn Sâm, to một người đàn ông thường ngồi cái bàn đầu tiên của nhà hàng Hồng Mai, thỉnh thoảng nhìn lên nhà má tôi. John lo lắng nói cho má tôi biết. Má kể lại chuyện một cán bộ của Mặt trận giải phóng miền Nam, hồi tháng Ba đã lén gặp má tôi, mời bà đi theo hắn để nhận tin của ba tôi từ ngoài Bắc gởi vô. Má tôi không đi, chỉ nói nếu có tin gì thì hay nói cho bà biết. Cuối cùng, hắn khuyên má tôi không nên bỏ Sài gòn đi, đừng lo sợ gì, vì hắn có trách nhiệm bảo vệ má tôi cho tới ngày ba tôi trở về. Người ngồi ở quán Hồng Mai chính là tên cán bộ cộng sản, đang làm nhiệm vụ canh gác của hắn.


                            Trong khi đó ở Mỹ, tôi xem TV, thấy người ta loan tin cộng sản có thể phá hệ thống dẫn nước của Sài gòn. Tôi vội báo cho John hay, và đề nghị anh khuyên má tôi dùng hết nồi niêu xoong chảo, các thùng và các lu để chứa nước, phòng hờ bị phá hoại. Tôi vừa nói dứt lời, thì một người đàn bà trong tổng đài của Tiger bỗng lên tiếng, hỏi tin đó có chắc không? Thì ra bà ta nghe lén chuyện của chúng tôi. Tôi chắc hôm đó nhà bà ta cũng vội vàng tích trữ nước. Bấy giờ nhắc lại chuyện 34 năm cũ, chúng tôi còn cười.
                            Ông George Esper cho John xem những phân tích của hãng thông tấn. Hai người đồng ý về những biến chuyển sắp tới. Họ bắt tay nhau như để cũng thương tiếc trong im lặng một thành phố sẽ mất tên trong chớp nhoáng. Họ cũng thông cảm lẫn nhau, vì cả hai đều có một nhiệm vụ nặng nề. Ông Esper phải đưa tất cả vợ con và nhận viên, cả Việt lẫn Mỹ, ra khỏi Việt Nam. Trong khi đó, ông định ở lại để chứng kiến cái chết của Sài gòn.
                            John thì vẫn đi tới đi lui toà đại sứ Mỹ để gặp ông Joe McBride. Trong khi anh như người ngồi trên đống lửa, thì nhận viên toà đại sứ lại lạnh lùng một cách quan liêu. Phải chăng đó là tính chung của những người làm ngoại giao nhà nghề? Rồi một hôm ông McBride đưa cho John số dĩện thoại của một người tên là Grant Ichikawa; ông nói nhỏ cho anh biết họ cùng làm việc chung cho một tổ chức. John liền liên lạc với ông Ichikawa và kể hết mọi chuyện gia đình tôi. Ichikawa hứa sẽ cho John biết những dự tính của họ.
                            Trong khi đó, ở Hawaii, ngày nào tôi cũng ngồi bên cạnh điện thoại để chờ nghe tin tức bên nhà. Đã mấy trăm lần tôi gọi cho má và hai em, thì cả mấy trăm lần đường dây bạn. Rồi một hôm, vào khoảng nửa đêm, tôi đánh thức má tôi dậy. Nghe tiếng nói yếu ớt, xa xôi của má, tôi có cảm tưởng như má tôi ở một nơi xa xôi nào đó, và tôi sẽ không bao giờ được gặp má nữa. Má tôi nói: “Con ơi. John phải về bên đó với tụi con. Nó đã ráng hết sức rồi. Bây giờ ở đây không còn an ninh nữa. Nếu có chuyện gì xảy ra cho má và mấy em, ít nhứt con còn John và Lance.
                            Đêm đó, John ngủ lại nhà má tôi, nên cả nhà đánh thức anh dậy để nói chuyện với tôi. Anh nhẳn tôi một điều mà tôi đã chờ tôi ra lịnh cả mấy tuần này. Anh bảo tôi phải “sửa điện thoại”, nghĩa là đi gặp trung tướng Gaylor. Bấy giờ John không còn gì để giấu hải quân nữa, bởi vì toà đại sứ Mỹ và CIA đã biết sự rõ ràng về người sĩ quan hải quân và cái gia đình “không bình thường” của anh rồi. Chúng tôi cũng không biết ông trung tướng sẽ giúp gì được cho gia đình tôi, hay ông lại xé thây làm thịt người sĩ quan của ông, khi anh trở về Mỹ? Những, thôi thì chuyện tới đâu cứ giải quyết tới đó. Lậy trời cho tôi sáng suốt để đối phó với thử thách, với khó khăn.
                            Trong những ngày tàn của một đồng minh của Mỹ trong Đông Nam Á, ông trung tướng Tổng tư lệnh Thái Bình Dương dĩ nhiên là một nhân vật quan trọng và bận rộn nhứt hơn hòn đảo thần tiên này. Sáu giờ sáng sớm hôm này, tôi thấy ông họp báo tại Pearl Harbor. Theo ký giả của NBC, trung tướng đã mệt mỏi sau gần 17 tiếng đồng hồ theo dõi tình hình Việt Nam, cần về nhà nghỉ ngơi mấy tiếng, trước khi điều khiển cuộc di tản nhân viên Mỹ ra khỏi Việt Nam. Tôi nghĩ tôi không nên gọi ông khi đang cần một giấc ngủ. Tôi biết người thiếu ngủ thường quạu quọ, như tôi chẳng hạn. Nhưng nếu tôi không liên lạc với ông đúng lúc ông vừa tỉnh táo, để ông trở lại căn cứ hải quân thì khó có dịp nói chuyện với ông. Tôi chợt nhớ tới bà Gaylor. Tôi đã từng nghe các bà vợ sĩ quan hải quân ở Hawaii ca tụng bà Gaylor rất dễ thương; bà quan tâm tới gia đình hải quân. Tôi hu vọng lời đồn đó sẽ là sự thật khi tôi quyết định gọi cho bà lúc 10 giờ sáng này.
                            Sau khi đưa Lance tại trường, tôi chạy vội về nhà, ngồi bên máy điện thoại. Tôi nhìn đồng hồ, đã 10:05. Tim tôi đập hơn, cổ tôi khô, khi tôi quay số tư gia của ông tưởng. Người hầu cận là một thượng sĩ trả lời, giống của người Phi Luật Tân, hạ thấp giọng nói nhỏ:
                            - Ông tướng còn ngủ, tôi không dám đánh thức ông.
                            Tôi xin được nói chuyện với phu nhân của trung tướng. Viên thượng sĩ cho biết phu nhân cũng đang bận, tôi đành năn nỉ:
                            - Thưa ông, tôi cũng là vợ của sĩ quan hải quân. Tôi cần sự giúp đỡ của trung tướng. Tôi cũng biết trung tướng mới về nhà nghỉ ngơi sau một đêm không ngủ. Thì thôi, ông cứ cho tôi nói chuyện với bà Gaylor đi.
                            Viên thượng sĩ ngập ngừng một lát, rồi tôi nghe tiếng của bà Gaylor bên kia đầu dây. Bà hỏi tôi có chuyện gì cần? Tôi biết vào giờ phút này không ai có thì giờ nghe tôi nói dông dài. Vì thế, đi thẳng vô vấn đề một cách đột ngột, với giọng nói hấp tấp, lủng củng:
                            - Tôi là con gái của một ông đại sứ tại Liên bang Xô Viết. ba tôi ở Hà Nội.
                            - Ba của bà là người nước nào?

                            - Ba tôi là người Việt Nam. Tôi biết bà sẽ ngạc nhiên lắm, nhưng tôi phải nói chuyện với trung tướng, cho ông biết một tin quan trọng liên quan tới Việt Nam, và tôi cũng cần ông cứu gia đình tôi.
                            Ba Gaylor nói với giọng điềm tĩnh và ân cần:
                            - Hãy an tâm. Tôi sẽ đánh thức ông. Khi có chuyện quan trọng như thế này, ông phải thức dậy.
                            Trung tướng Gaylor tằng hắng, giọng khàn khàn trong điện thoại, tôi bỗng có cảm tưởng mình nằm mơ. Tôi lính quýnh xin lỗi vì đã đánh thức ông dậy, ông vui vẻ nói dù sao ông cũng phải dậy để trở lại căn cứ ở Pearl Harbor, rồi hỏi tôi:
                            - Bà cho biết tôi có thể giúp bà được chuyện gì?
                            Tôi mừng qua khi nghe ông hỏi, vội và đáp:
                            - Thưa trung tướng, ba tôi là đại sứ của Mặt trận Trận Giải phóng miền Nam tại Liên Xô, còn chồng tôi là một sĩ quan hải quân của trung tướng.


                            Rồi tôi nói tiếp ngay:
                            - Tôi nhận được tin là quân đội Bắc Việt sẽ chiếm miền Nam. Họ vô tới thì k má tôi sẽ ở trong một hoàn cảnh rất ngặt nghèo.
                            Sau hiệp định Paris, năm 1973, khi Hà Nội trao trả tù binh, trung tướng Gaylor là người đầu tiên ra tận phi trường Honolulu chào đón tù binh. Tôi còn nhớ hôm đó là ngày đau buồn của dân tộc Mỹ. Như mọi người ông cũng không khỏi xúc động cùng cực khi nhìn bạn đồng ngũ của ông, lính và sĩ quan ông. xơ xác trong bộ bà ba đen bước xuống máy bay. Người què phải chồng nạng gỗ, người đi không nổi phải nằm trên băng ca. Tất cả tù binh đều được ghé Hawaii để khám sức khoẻ, rồi ai về nhà nấy với gia đình. Tôi nghĩ rằng khi nhắc đến Hà Nội, ông sẽ nhớ lại hình ảnh những người tù binh trở về từ Hà Nội Hilton, sẽ có phản ứng mạnh.
                            Trung tướng Gaylor vội ngắt lời tôi:
                            - Một trong những phụ tá của tôi sẽ liên lạc với bà nội trong hôm nay.


                            Đúng như lại trung tướng hứa, chỉ trong vài giờ đồng hồ sau, trung tá Dave Smith gọi tôi, ông muốn tôi vào căn cứ hải quân ở Pearl Harbor để gặp ông. Nhưng khi nghe tôi nói tôi phải đi đón con cho chị tôi rồi mới có thể ghé qua văn phòng của ông, thì ông đổi ý, hẹn sẽ đến nhà tôi buổi chiều hôm đó.


                            Khi trung tá Dave Smith nghe tôi kể đến cú điện thoại của Jean Kaplan thì bỗng ngồi thẳng người lên với vẻ chú ý, bởi vì lời báo trước của Jean Kaplan quá đúng. Miền Nam Việt Nam sẽ rơi vào tay cộng sản. Tôi nói tới đâu trung tá Smith ghi nhanh vào một tập giấy mầu vàng tới đó. Ban đầu ông viết chữ thường, sau đó ông phải dùng tới tốc ký vì tôi càng đi sâu vô vấn đề càng mau lẹ hơn. Ông hứa là ông sẽ báo cáo tất cả với trung tướng Gaylor. Ông chưa biết trung tướng sẽ giúp tôi và gia đình tôi ở Sài gòn bằng cách nào, nhưng ông tin rằng trung tướng sẽ có cách giúp chúng tôi.
                            Tôi tin là trung tá Smith không hứa hão hứa huyền, bởi và là vợ của một sĩ quan, tôi biết phụ tá của một ông tướng có trách nhiệm trong hành động và lời hứa. Những lúc đó, tôi quá nóng lòng, chỉ mong có một lời hứa chắc chắn hơn. Tôi đánh liều.
                            - Thưa trung tá, tôi muốn má tôi thoát khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt! Tôi sẵn sàng hợp tác với chánh phủ Mỹ nếu chánh phủ cần.
                            Trung tá Smith không giấu được sự ngạc nhiên, khi nghe lời tinh nguyện hợp tác. Ông hứa sẽ báo cáo với trung tướng ngay.
                            Tôi đã đánh hết những lá bài có trong tay. Tôi không còn hồi hộp hay lo sợ nữa. Bây giờ ngồi chờ. Nếu má và các em đi không được là do định mệnh ăn bài. Nghĩ như vậy, tôi đã ngủ được sau nhiều ngày lo lắng, ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi đánh một giấc dài không mộng mị. Nhưng đến gần sáng, Lance bỗng thức giấc vừa khóc vừa nói:
                            - Con thấy Việt Cộng chạy lên tới lầu nhà bà ngoại rồi.
                            Thế là tôi thức luôn tới sáng. Tôi gọi chị Cương để nói cho chị nghe về giấc mộng của Lance. Chị trấn an tôi:
                            - Tại cưng lo lắng quá làm con lo theo. Thằng nhỏ vừa thông minh, vừa nhiều tình cảm, nên bị ảnh hưởng mối lo của cưng. Đừng có tin mộng mị mà điên, cưng ơi.
                            Khoảng hơn 24 tiếng đồng hồ sau khi tôi gặp trung tá Dave Smith, một người đàn ông đến tìm tôi. Ông ta cho biết ông là người của ông Smith gọi tới. Ông đã trọng tuổi, người cao lớn, tóc bạc trắng, giọng nói đầy thiện cảm. Ông giới thiệu tên là Bob Jantzen. Bấy giờ nhớ lại, tôi thấy ông Jantzen có vẻ mặt và cao lớn như tổng thống Reagan. Ông không nói ông là sĩ quan CIA, nhưng hồi đó, tôi cứ nghĩ rằng đã ở trong quân đội mà không mặc quân phục, lại đến nói chuyện với tôi về cha mẹ tôi, ắt phải là nhân viên của CIA. Ông Bob Janten cho biết, ông đã nghe “câu chuyện khá thích thú” của tôi. Ông cũng cho biết ông có trách nhiệm đưa má và hai em tôi đến nơi an toàn, chớ ông không quan tâm đến người cha cộng sản của tôi, ông cần tên, ngày sanh và địa chỉ của má và hai em tôi.
                            Tôi liền cho ông biết là chồng tôi đã về Sài gòn để tìm cách đưa gia đình tôi ra khỏi Việt Nam, và hiện giờ anh ấy vẫn còn ở đó. Điều hay nhứt là nhân viên của ông nên gặp chồng tôi để biết đầy đủ mọi chi tiết. Ông tỏ vẻ rất ngạc nhiên và bối rối khi tôi nói như vậy. Ông có vẻ lo lắng:
                            - Chắc bà biết là chồng bà mạo hiểm lắm mới dám đi Việt Nam trong lúc này?


                            Ông cũng biết John không có cả sự vụ lịnh. Ông để tách trà xuống bàn, rồi nói tiếp:
                            - Tôi muốn bà biết là chúng tôi rất quan tâm đến sự an toàn của má bà. Chúng tôi sẽ làm hết sức để giúp má bà thoát khỏi Việt Nam.
                            Giọng nói chắc nịch của ông khiến tôi tin tưởng ngay, nên an tâm. Tối hôm đó, nghĩ lại cuộc nói chuyện với ông Bob Jantzen tôi hơi thắc mắc rnột chút, vì ông không có vẻ phong trần của một sĩ quan hải quân. Ông có dáng dấp của một người có dia vị trong xã hội. Từ ngày lấy chồng cho tới lúc bấy giờ, Hải quân đối với tôi là một đại gia đình, không lẽ nào trung tướng Gaylor lại gởi người tới mưu hại gia đình tôi.
                            Mấy tuần sau tôi mới biết rõ Bob Jantzen là ai, ông chính là “trùm” CIA, người điều khiển mạng lưới tình báo khắp Đông Nam Á, mà văn phòng thường trực đặt tại Honolulu, Hawaii. Tôi còn được biết, ông đang lo chuyện di tản những người làm việc cho CIA tại Việt Nam. Lào và Cao Miên. Trong cái nhìn hạn hẹp của tôi lúc bấy giờ, tôi nghĩ ai cũng sợ CIA, nhưng ai cũng muốn làm quen với CIA, và ai cũng… ghê tởm CIA. Riêng tôi, tôi không hối tiếc đã quen biết với nhân viên CIA, vì tôi đang cần họ. Tôi hiểu rằng, trên cõi đời này cái gì cũng có cái giá của nó. Tôi thầm tự nhủ sẽ tìm cách trả nợ cho CIA sau khi má và hai em tôi thoát nạn.
                            John đã liên lạc chặt chẽ với CIA ở Sài gòn. Bấy giờ chỉ còn chờ ông Bob Jantzen ở Hawaii bật đèn xanh là công việc được tiến hành mau lẹ. Ông Grant Ichikawa đã quả quyết với John trong lần gặp mới đây:
                            - Khi có người được đưa ra khỏi Việt Nam, mẹ và em vợ anh cũng sẽ được đi.
                            Không những thể, ông còn cho biết, hai vợ chồng ông cùng chuyến bay với má và hai em tôi, vợ chồng ông còn mời John tới nhà riêng của họ ở gần Tân Sơn Nhứt dùng cơm. Sau này John kể lại, buổi tối hôm đó, ai cũng lo lắng cho tương lai miền Nam Việt Nam. Bà Ichikawa nhiều lần tỏ vẻ thương xót khi bà thắc mắc về số phận của những người bị kẹt ở lại. Sau bữa cơm tới đó, John mới an tâm, dù anh sẽ phải về Mỹ một mg trước.
                            Ngày hôm sau, thấy mọi việc kể như đâu vào đó, John đi một vòng để “nhìn Sài gòn lần cuối”. Anh ghé qua Hotel Rex, trước đó là câu lạc bộ của sĩ quan Mỹ. Anh ăn trưa ở Continental rồi thong thả đi qua Brink trên đường Hai Bà Trưng, với ý định lên bar uống rượu và nghe thêm tin ngoài hành lang, nhưng bị hai người lính quân cảnh Mỹ chặn hỏi thẻ căn cước và sự vụ lịnh. Dĩ nhiên anh không có đủ giấy tờ để có thể vào nơi này. Anh chỉ mơ hồ nói với họ là anh tới Sài gòn với công tác mật. Hai người lính quân cảnh bèn liên lạc với bộ chỉ huy của họ MACV. John nhận được lệnh phải trình diện với một trung quân cảnh ở đó. Ông trung tá nổi giận khi biết lý do có mặt ở Sài gòn của anh. Ông ra lịnh cho anh phải rời khỏi Sài gòn ngay ngày hôm sau. Ông còn cho biết ông đã báo cáo với hải quân những hành động bất hợp pháp của anh.
                            Sau này anh cho biết, lúc đó anh không sợ gì hết, nên không tuân lịnh của MACV. Dù thế nào anh cũng phải làm tròn nhiệm vụ rồi mới có thể rời Sài gòn. Trong khi đó, ông trung tá muốn buộc anh phải rời Sài gòn; nếu không tuân lịnh, ông sẽ biện pháp. Anh nói:
                            - Nếu ông bắt giam tôi, tôi sẽ trốn.
                            Ông trung tá lại ra lệnh:
                            - Phải rời Sài gòn trong chuyến bay tới.


                            Tám ngày sau, tức là ngày 10 tháng 4, 1975, John biết chắc khi toà đại sứ Mỹ bắt đầu di tản người Việt, má và hai em tôi sẽ có người đến tận nhà rước đi. Anh dặn má và hai em không được ra khỏi nhà, mà cũng không cho ai biết mình sẽ di tản, dù thân thiết. Ngoài ra, mỗi người chỉ được xách một valise nhỏ. Khi mọi chuyện đã sắp xếp đâu vào đó, anh nghĩ rằng anh có thể rời Sài gòn trước ngày di tản, với ý định nhường chỗ của anh cho người khác trên một chuyến bay chạy trốn. Anh đi thằng ra phi trường Tân Sơn Nhứt, kiếm một chỗ ngồi trên một máy bay của không quân Mỹ, bay tới đâu cũng được, miễn là ra khỏi Sài gòn.
                            Trước khi lên máy bay, John gọi cho văn phòng quân cảnh ở MACV để nhờ người nhắn lời với ông trung tá, là anh sắp bay về Mỹ trong vài phút nữa.

                            Comment


                            • #29
                              Chương 30





                              Tôi không bao giờ có thể quên được cái ngày 23 tháng năm 1975, là ngày tổng thống Ford tuyên bố người Mỹ chấm dứt cuộc tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Đó cũng là ngày tôi nhận được điện thoại của Hoà Bình, em tôi, báo tin má và hai em tôi đã ra khỏi Sài gòn. Giọng nói của em buồn như em khóc. Mấy tuần lễ trước, tôi nóng lòng mong đợi cái tin này, và cứ nghĩ rằng tôi sẽ reo hò mừng rỡ. Vậy mà bây giờ tôi lại cảm thấy tê tái trong lòng. Hai chị em tôi im lặng một hồi lâu. Tôi đang ở Honolulu, em tôi ở bên kia ba đại dương. Cả hai chúng tôi cùng có nỗi buồn mất nước. Cuối cùng, tôi hỏi để cho có hỏi:

                              - Má với tụi cưng mạnh ha?
                              Hoà Bình cho biết là tất cả đã tới nơi bình yên. Má mong sớm được gặp con cái của má ở Hawaii. Tôi cho Hoà Bình rất có thể tất cả phải ở Guam một thời gian ngắn để lo thủ tục nhập cảnh. Em cho biết đã ra khỏi Sài gòn thì ở đâu cũng tốt, và chờ đợi bao lâu cũng không sao. Nhưng tôi nghe trong tiếng nói em chứa chất một điều gì mà em con giấu kín trong lòng. Tôi hỏi thì em đáp:
                              - Em bỏ lại hết trơn chị Dung ơi!
                              Em tôi khóc. Tôi an ủi:
                              - Rồi mình sẽ có nhau.
                              Tôi không biết nói gì khác. Hoà Bình bật khóc nức nở.
                              - Mình mất Việt Nam vĩnh viễn rồi!
                              Tôi nghe được niềm đau đó, vì tôi cũng như em, khóc cho đất nước lọt vào tay con cháu bác Hồ. Tôi cũng biết má tôi còn đau hơn chị em tôi nhiều. Vì trong một buổi sáng má tôi đã bỏ Sài gòn hai mươi năm chờ đợi, ước mong ngày tái ngộ cùng chồng và người con trai đầu lòng của má. Không những thế, bà còn bỏ lỡ cơ hội gặp lại anh em ruột và các cháu của bà. Họ trở về trong chiến thắng, trong khi bà phải vội vã chạy trốn cộng sản. Rồi từ nay, hàng tuần má tôi sẽ không còn có thể đi thăm mộ Hải Vân ở nghĩa trang quân đội được nữa. Trái tim tôi nghẹn ngào, cổ họng tôi khô rát, xót thương cho má. Những trong thâm tâm, tôi phải kính phục má là người can đảm ra đi.
                              Em tôi chết; chỉ trong một thời gian ngắn, má tôi già đến hai chục tuổi. Bây giờ bỏ lại mồ mả không thể viếng thăm được nữa, làm sao má tôi có thể sống vui được. Gia đình tôi ai cũng biết trước, rồi đây cộng sản sẽ làm gì mồ mả kẻ thù của họ.
                              Tin tức về Việt Nam đều là hung tin, nhưng chúng tôi vẫn thức khuya dậy sớm theo dõi từng giờ. Đêm đêm, vợ chồng tôi thường thức giấc nửa khuya, mở TV nghe tin một vài phút, rồi đi ngủ lại. Ai cũng biết rằng hôm này, ngày mai hay một vài tuần nữa, Sài gòn sẽ hoàn toàn thay đổi. Rồi Sài gòn sẽ mất những tên đường cũ, mất cả những tượng đài ghi nhớ công ơn các bậc anh hùng dân tộc. Lá cờ chính nghĩa của dân tộc Việt cũng sẽ không còn nữa. Rồi từ đây, người Việt Nam của tôi sẽ phải dùng ngôn ngữ của kẻ thù, thay vào đó là lá cờ đỏ sao vàng.
                              Có khi nằm trên giường tới hai giờ sáng mà tôi vẫn chưa ngủ được, suy nghĩ lan man đủ mọi chuyện có thể xảy ra sau khi miền Nam sụp đổ.
                              Năm ngày sau khi má và hai em tôi tới Guam, chúng tôi nhận được điện thoại của Hoà Bình lúc nửa đêm, báo tin má và hai em đã tới phi trường Honolulu, vợ chồng tôi vội vã thay quần áo, rồi gọi cho chị Cương, hẹn gặp nhau ở phi trường. Tội nghiệp Lance, nửa đêm bị dựng dậy, nhưng nó còn tỉnh táo hơn cả tôi, nó reo lên:
                              - Sướng quá! Bà ngoại qua, con được ngủ với bà. Ngày mai được nghỉ học, phải không mommy?
                              Tôi cố nhịn cười hỏi:
                              - Bà ngoại qua có dính dáng gì tới việc đi học của con đâu mà đòi nghỉ học?
                              Nó vừa cầm đôi giầy sandale vừa chạy nhanh ra garage như để trốn tôi, rồi đáp:
                              - Tại mommy bắt Lance thức dậy nửa đêm, sang mai Lance buồn ngủ lắm, sao đi học được!
                              Trong những ngày cuối cùng buồn thảm của Việt Nam, nếu không có thằng con kháu khỉnh và thông minh này, chắc vợ chồng tôi chơi vơi lắm. Nhờ nó mà trong nhà vẫn có tiếng cười, nhất là những tiếng cười vô tư của tuổi thơ.


                              ***


                              Khi đến phi trường, tôi thấy má và hai em tôi đang xếp hàng bên quầy của sở di trú. Má tôi trông già hẳn đi, già hơn hồi tháng 2 vừa qua tôi mới về ăn Tết. Hình như tất cả những đau thương, phiền muộn đã hiện lên mắt má. Tôi bỗng chột dạ, tự hỏi không biết tất cả những cố gắng của vợ chồng tôi từ mấy tuần nay để to cho má qua Mỹ có phải là một việc làm đúng không? Tôi muốn ôm má tôi, nhưng nhân viên sở di trú ngăn lại. Chị Cương thì bật khóc khi vừa nhìn thấy má và hai đứa em. Trong khi đó, bọn con nít, như Lance, con chị Cương Tina, Ten và Kenneth bất chấp nhân viên sở di trú, chui luồn xuống dưới để ôm bà ngoại và hai dì của chúng nó. Cả nhân viên sở di trú lẫn hải quan bất lực trước đám con nít, nên đã cho má và hai em đi ra một cách mau chóng, hành lý chỉ phải xét qua loa. Gọi là hành lý, chớ thật ra cũng chẳng có gì.
                              Ba cãi vã-li nhỏ xíu chỉ vỏn vẹn có mấy thứ như: hai bộ quân phục không quân của Hải Vân, một kaki, một mầu xanh, một cái nón, một cuốn tập vở của Hải Vân hồi em học lớp Đệ thất, có cả cuốn truyện “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, mấy cuốn dậy nấu ăn, hình của ông bà ngoại tôi mà má lấy trên bàn thờ, một cây đàn guitar cũ của Hải Vân… Nhìn những đồ vật đó, tôi nghẹn ngào, tim tôi rã rời. Tôi ôm mặt để giấu tiếng khóc, rồi vội bước ra khỏi đám đông. Chị Cương kêu tôi trở lại, nhưng John nói:
                              - Để cho Dung yên vài phút.
                              Tuy nói vậy, những John lại dìu tôi trở lại với má và hai em Hoà Bình và Minh Tâm. Tôi chỉ đứng cách mà có vài bước, mà sao tôi thấy chân tôi nặng nề không bước nổi. Tôi không muốn chứng kiến nét đau đớn trên gương mặt già nua của má. Thật tôi cũng không biết nói gì với má, không lẽ hỏi thăm những câu tầm thường khách sáo. Mất nước, mất nhà, mất mồ mả cha mẹ. Tôi ôm lấy má, nhưng hai mẹ con không nói nên lời một hồi thật lâu… Rồi chúng tôi lên xe đi về nhà.
                              John và Wray, anh rể của chúng tôi, đi một xe. Còn tất cả chui vô ngồi chung một xe với má. Chỉ có Minh Tâm ngồi băng trước với tôi, mọi người còn ngồi chồng lên nhau ở băng sau, Kenneth và Lance mỗi đứa ngồi một bên bà ngoại. Kenneth, lúc đó mới bốn tuổi, ôm cánh tay bà ngoại rồi nói:
                              - Ken mừng bà ngoại sống.
                              Hoà Bình khóc:
                              - Dì Bình cũng vậy nữa, Ken ơit!
                              Tôi nhìn má tôi qua kiếng chiếu hậu, rồi hỏi:
                              - Má à, mình có làm đúng không, má?
                              - Mình đâu con đường nào nữa, con. Má sẽ tự vẫn trước khi cộng sản hành hạ má. Ai cũng biết, không ai có thể lọt khỏi bàn tay của cái đám Hà Nội khi họ chiếm được miền Nam của mình!
                              - Con nghĩ tới ba. - Tôi nói.
                              - Ba con có đảng của ông. Ông sẽ bình yên với Cách mạng ông. - Má tôi trả lời, giọng buồn hiu. Tôi nói:
                              - Mấy đêm con ngủ không được, cứ nghĩ tới ngày về của ba. Chắc ba đau khổ và thẹn thùng với họ lắm, vì khi về tới thì má đã đi rồi!
                              - Con dằn vặt lương tâm của con không trúng chỗ. Khốn nạn, mình phải bỏ đi. Tụi con tin má đi. Đây là một quyết định khôn ngoan nhứt trong gia đình mình. Tốt cho má, cho tụi con; nhứt là cho ba của tụi con nữa. Nếu má ở lại, má sẽ tiếp tục chỉ trích, phê bình Chánh phủ của ông. Rồi có thể vì má, ba bị mất mặt, sẽ khó ăn khó nói với đảng, với đồng chí của ông, vì vợ con toàn là một đám chống cộng.
                              Từ hôm đó cho tới ngày Sài gòn rơi vào tay cộng sản, chúng tôi cùng ngồi dựa vào nhau trước cái TV mà ngậm đắng nuốt cay, cái đắng cay của người bị cướp nước. Mỗi chiếc trục tháng bị đẩy xuống biển từ các chiến hạm, là một lần tim chúng tôi tan nát, trực thăng gợi cho chúng tôi nhớ đến Hải Vân. Em yêu nó và đã từng lái nó. Nó chính là biểu tượng lòng yêu nước của em với ý chí diệt quân thù.
                              Khi tướng Nguyễn Cao Kỳ dang tay cho người lính Mỹ xét thân thể của ông, lần đầu tiên tôi nếm cái đắng cay, nhục nhã của kẻ đưa hai tay đầu hàng. Tôi thầm tự hỏi: “Ở lại để chiến đấu đến cùng, hay ra đi rồi phải chịu nhục trước đồng minh của mình. Đàng nào hơn?”. Rồi tôi tự đáp: “Danh dự của một con người, liêm sỉ vẫn quan trọng”.
                              Tôi thao thức nhiều đêm, nghi hoài đến tương lai, đất nước sau khi cộng sản chiếm trọn miền Nam. Rồi tất cả mọi người sẽ phải sống dưới gọng kim sắt máu của cộng sản. Tôi thầm hận “đồng minh” Mỹ. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy nhục nhã đã làm công dân của một nước tháo chạy trước nguy cơ.
                              Bốn tuần sau ngày cuối cùng của Việt Nam, ông Bob Jantzen mời hai vợ chồng tôi đến sở của ông. Văn phòng của ông trong căn cứ hải quân ở Pearl Harbor. So với văn phòng của các sĩ quan cao cấp của John khác xa nhau, như một trời một vực, nhà trải thảm dầy mầu cam sáng rực. Bàn ghế toàn bằng gỗ quý, chớ không phải bàn ghế kiểu nhà binh bằng sắt mầu xám. Trên bàn trong phòng tiếp khách có một bình bông tươi, chân dung bà Từ Hi thái hậu chiếm khoảng một phần ba bức tường.
                              Đây là lần đầu tiên ông Jantzen bắt tay John. Ông khen John đã thành công trong việc cứu má tôi. Rồi quay về phía tôi, ông nói thêm:
                              - Vợ anh cũng là người can đảm.
                              Tôi ngạc nhiên về lời khen này, vì có thấy mình can đảm đâu. Chẳng lẽ nói chuyện với một sĩ quan tình báo là hành động can đảm? Hay còn một cái gì nguy hiểm chờ đợi tôi đây? Tôi nghe những chuyện đường rừng thú vị do các chị bà con Việt Cộng kế về tội ác của CIA. Tôi cũng đã đọc sách và tiểu thuyết về tình báo Mỹ v.v…


                              Sau vài lời thăm hỏi xã giao, ông Jantzen hỏi tôi có lòng gặp “case officer” của CIA không? Kinh nghiệm của tôi lúc bấy giờ là sáu năm làm vợ một phi công đã từng vào sanh ra tử. Ngoài ra, tôi cũng có kinh nghiệm nuôi dưỡng thằng con chưa đầy sáu tuổi. Tôi hỏi ông về “case officer”, ông cho biết đó là một sĩ quan có trách nhiệm cộng tác với một người thường dân hoạt động cho CIA; là một người gián điệp của CIA. Nghe xong tôi gật đầu đồng ý.


                              Hôm sau, vợ chồng tôi trở lại văn phòng ông Jantzen, tôi được giới thiệu với ông Robert Hall, gọi tắt là Rob. Ông Jantzen bỏ đi, để chúng tôi ở lại nói chuyện với nhau. Có điều tôi thắc mắc, là trước đây ông Jantzen cho biết ông Robert Hall là “case offfcer” của CIA, bây giờ ông Robert Hall lại tự giới thiệu là thiếu tá không quân? Tôi sẽ tìm cách để hiểu rõ ông ra.


                              Sáng hôm sau, chúng tôi lại gặp nhau để tôi nói hết về gia đình tôi. Đến 12 giờ trưa thì ông đã rành về gia đình tôi hơn cả những người quen biết chúng tôi từ mấy chục năm này. Tôi cho ông biết về đời sống của ba tôi. Ông làm nghe dậy học, những bí mật hoạt động chống Pháp, nên bị Tây đầy ra Côn Đảo. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông đi thẳng vô bưng, rồi trở thành tỉnh uỷ Cần Thơ. Anh vợ, em vợ của ông đều là đồng chí của ông. Sau đó tất cả cùng đi tập kết ra Bắc. Mãi mới dậy tôi mới biết ông làm đại sứ của của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Moscow. Tôi cũng cho ông Hall biết những ai là bạn chí thân, là đồng chí của ba tôi, gồm các “chú”, các “bác”: Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Lê Đức Mai… và nhiều người khác nữa. Tôi nói nhanh khiến ông viết không kịp, nhưng tôi cứ tiếp tục nói. Tôi tưởng chỉ nói qua một lần là đủ, không ngờ ngày kế tiếp ông hỏi tôi nhiều câu ông đã từng hỏi hôm trước. Trí nhớ của ông thua tôi hay ông là cái máy dò sự thật? Dù sao tôi cũng không ngại, vì những điều tôi kể đều là sự thật. Chuyện gì không muốn cho CIA biết, tôi không nói ra. Tôi không dại gì mà nói không thật với những người này.


                              Tôi không muốn má tôi biết có sự đổi chác với CIA để má và hai em tôi được thoát khỏi Sài gòn, nên mấy ngày gặp ông Hall, tôi đưa má và hai em tôi sang nhà chị Cương ở Pearl City, để má và chị Cương tâm tình với nhau.
                              Sau nhiều ngày nói chuyện với ông Hall, tôi như cuốn sách để ông lật trang nào cũng tìm thấy sự thật thà của một người không có kinh nghiệm đương đầu với CIA. Tôi chỉ biết ông có vợ và hai con, một gái, một trai. Ông là một trong những nhân viên CIA từng hoạt động tại Lào, Việt Nam và Cao Miên. Chúng tôi không còn khách sáo nữa, mà gọi nhau là Rob và Dung.


                              Cuối cùng, tôi cho Rob biết một điều quan trọng, mà không hỏi tới trong những buổi phỏng vấn: tôi hãnh diện làm con của một nhà cách mạng chống Pháp, nhưng tôi là người Việt Nam yêu nước, chưa bao giờ nối giáo cho giặc cộng sản Việt Cộng, và cũng sẽ không bao giờ phản bội dân tộc hay đất nước của tôi. Tôi cũng cho ông biết, tôi mang ơn CIA suốt đời, vì đã cứu má và em tôi. Những cũng không vì vậy mà tôi sẽ làm một điều gì có hại đến ba tôi và anh tôi. Ngoài ra, nếu làm gì hại cho cộng sản để cứu người dân Việt Nam, tôi sẵn sàng phục vụ cho CIA, đến khi nào họ không cần tôi nữa. Rob hứa là ông giữ liên lạc; khi nào cần sẽ cho tôi biết. Ông cũng dặn tôi phải chuẩn bị sẵn sàng để có dịp thuận tiện bay tới Washington, D.C. dự một lớp “huấn luyện”. Nhưng, qua mấy ngày họp với Rob, biết một điều: lời hứa vội vàng với trung tướng Gaylor trong những ngày hấp hối của Sài gòn đã như một định mệnh; chỉ trời mỗi thay đổi được hướng đi này.

                              Comment


                              • #30
                                Chương 31



                                Hàng trăm chuyến bay đưa người tỵ nạn từ các đảo Guam và Wakee lên các trại tỵ nạn trên đất liền, đều phải ghé Hawaii để làm thủ tục nhập cảnh. Sau khi Rob rời Honolulu, tôi ghi tên tình nguyện cho Hội Hồng Thập Tự để ra phi trường giúp đồng bào chạy giặc. Tôi đã ngồi ở phi trường từ sáng tới chiều. Có nhiều hôm, thiếu thông dịch viên buổi tối cho nhân viên Sở di trú, tôi sẵn sàng ở lại để giúp đỡ họ. Cứ như vậy cả mấy tuần liền, khiến tôi buồn ngủ rã rời cả người. Thỉnh thoảng, tôi phải vô văn phòng của nhân viên Hồng Thập Tự, ngồi xuống đất, dựa lưng vô vách chợp mắt độ 5, 10 phút, rồi lại phải trở ra làm việc. Tôi không muốn bỏ rơi những người tỵ nạn lạc lõng, bơ vơ. Vì không rành tiếng Mỹ, nhiều người như câm, như điếc. Trong khi đó, nhân viên sở ngoại kiều tưởng nói lớn thì đồng bào của tôi sẽ hiểu. Có bà tay bồng con, chẳng có hành lý gì, mà cũng không biết chồng ở đâu, kẹt lại hay đã thoát nạn rồi. Lại có những sĩ quan không quân hót ha hớt hải đi tìm vợ con. Một số trẻ em được các chiêu đãi viên hàng không dẫn xuống máy bay, ngơ ngác vì lạc mất cha mẹ, chị em. Có một thằng bé chừng bảy tuổi, ngẩn ngơ như người mất hồn; tôi dẫn em đi tắm, rồi cho em ăn. Khi đã hơi tỉnh táo, em hỏi tôi: “Rồi con đi đâu?”. Tim tôi đau nhói. Tôi cũng không biết dân tộc của tôi sẽ đi về đâu! Không biết trả lời em, tôi hỏi lại: “Cưng muốn đi đâu?”. Em đáp: “Con muốn tìm má con”. Tôi dẫn em lên máy bay để em vô đất liền với trăm ngàn người lạc mẹ, lạc cha, mất chồng, mất vợ, mất cả đất nước.


                                Có một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, cầm cặp Samsonite nặng trĩu. Khi ông mở cặp cho nhân viên hải quan xét, những người đứng gần đều trố mắt nhìn. Cái Samsonite đầy ắp Mỹ kirn. Người chủ của đống tiền ngượng ngập nhờ tôi thông dịch: “Số tiền này của nhiều người bên đảo nhờ tôi giữ hộ, vì họ là đàn bà chân yếu tay mềm không dám giữ tiền trong người, sợ bị cướp giật”. Tôi thông dịch rồi nói thêm: “Chắc cha này tưởng tụi mới mới đẻ ngày hôm qua”. Ông bị giữ lại, không được vào đất liền ngày hôm đó. Còn biết bao nhiêu cảnh trái ngang trong hàng vạn người đi tỵ nạn. Tôi cầm đầu phục vụ, bỏ qua những chướng tai gai mắt của những người Việt mà tôi cho là không đáng được đến bờ tự do.


                                Không phải chỉ một mình tôi giúp những người di tản, mà gia đình tôi xúm vào, mỗi người một tay. John đãng trên báo Honolulu Star Bulletin để xin quần áo cho người tỵ nạn. Lúc đầu chúng tôi tưởng là chuyện nhỏ, ai ngờ hưởng ứng nồng nhiệt khiến chúng tôi bận túi bụi. Chúng tôi không thể vừa trả lời điện thoại, vừa đến nhà những người hảo tâm để lấy quần áo, lại vừa phải chờ người ta mang đến tận nhà. Mấy hôm sau, vì đã có kinh nghiệm, chúng tôi đổi chiến lược. John sai mấy người lính để một cái thùng, để trước đài khí tượng ở Honolulu cho người ta bỏ quần áo, giầy dép vô đó. Mỗi ngày tan sở, John ghé lấy quần áo đem về nhà. Ở nhà, má và các em lựa quần áo xếp theo từng loại đàn bà, đàn ông, trẻ em… Giầy dép cũng được phân loại. Có điều rất cảm động, là có nhiều quần áo, giầy dép mới toanh, còn nhãn hiệu. John và nhiều người hàng xóm của chúng tôi sốt sắng chở lên phi trường hết ngày này qua ngày khác, cho đến khi hết người tỵ nạn ghé phi trường Honolulu và Hickam.


                                Tinh thần của những người tỵ nạn có lẽ giống nhau. Được thoát nạn cộng sản, tới được bờ tự do, khó mà đo lường được vui mừng đó. Nhưng khi nỗi vui mừng lắng đọng, niềm vui trở thành dĩ vãng, thì hiện tại là một mối lo lớn. Rồi sẽ đi đâu, làm gì gì trên đất lạ này? Mấy tuần qua, tôi ở phi trường với người tỵ nạn nhiều hơn ở nhà. Ngày ngày, tôi chia sẽ niềm đau với người tỵ nạn. Tôi khóc với người mất nước, chia sẽ với người bị lạc mất gia đình. Tôi thấm thía nỗi đắng cay với người bị đồng minh phản bội. Tôi thấy thân tôi chia ra thành nhiều mảnh, không mảnh nào trọn vẹn cho ai hết. Mảnh cho John thì nhỏ xíu, cho Lance con nhỏ hơn nữa. Phần đành cho má cũng không nhiều, cho Minh Tâm thì chẳng được bao nhiêu. Hoà Bình tháo vát, tự lập, nên em rời Hawaii mà bay qua Atlanta định cư với chị Kim. Chị Cương cho tôi nhiều hơn là nhận của tôi. Chị cho tôi sự ân cần, sự cảm thông. Thỉnh thoảng chị hỏi:
                                - Cưng có OK không, Dung? Chị biết cưng đau lắm; chị chịu không nổi như cưng. Nên chị đành ở nhà xếp quần áo cho họ thôi. Thông cảm cho chị nhen!


                                Làm sao tôi có thể “OK” được, nhưng tôi phải gật đầu. Chớ tôi cần tình thương của chị.
                                Mấy tuần đó tôi cũng quên mất ông Robert Hall, người của CIA từ Washington, D.C. qua, tìm hiểu mọi chi tiết về gia đình tôi. Rồi bỏ đi biệt tăm.


                                Một buổi sáng, tôi vừa về tới nhà, sửa soạn đi ngủ sau 16 tiếng đồng hồ ở phi trường Hickam, làm đủ mọi thứ việc để giúp người tỵ nạn, thì Rob Hall gọi, cho hay ông vừa đi công tác vùng Á châu về. Ông ghé qua Hawaii, vì ông có một tin đáng chú ý mới chia sẻ với tôi. Thật ra, giờ phút đó đối với tôi, không có gì đáng chú ý bằng giấc ngủ, nên tôi hẹn Rob đến chiều mới gặp ông. Tôi bỏ điện thoại ra ngoài để được ngủ yên. Mà tôi trong Lance giùm tôi.


                                Buổi chiều, Rob tới nhà tôi, đưa cho tôi tờ Japan Times xuất bản ngày hôm trước. Tôi chỉ liếc qua, rồi cảm ơn ông, và hứa sẽ đọc sau. Nhưng ông cười:
                                - Hãy coi trang bốn, vì tôi nghĩ bà sẽ phải đọc liền bây giờ.
                                Bên tay mặt của trang bốn, tôi thấy có tựa đề: “Nhóm Hà Nội, Sài gòn tham gia Hội nghị chống bom nguyên tử”. Tôi nhún vai, nói:
                                - Tôi là người yêu chuộng hoà bình, nên tôi tán thành những người biểu tinh chồng chiến tranh.
                                Tôi vừa nói vừa xếp tờ báo lại. Rob ra dấu cho tôi tiếp tục đọc.


                                “Độ chừng 80 phái đoàn từ 21 quốc gia sẽ tham dự cuộc biểu tình chống bom nguyên tử, do Hộ đồng Nhật Bản chống bom nguyên tử tổ chức hàng năm tại Hiroshima và các tỉnh lân cận vào ngày 5 tháng 8, 1975.
                                Trong đó có năm hội viên của phái đoàn Hà Nội và bốn người trong phái đoàn của Chánh phủ cách mạng lâm thời miền Nant Việt Nam. Đây là lần đầu tiên hai phái đoàn từ Hà Nội và miền Nam Việt Nam cùng tham gia cuộc biểu tinh chống bom nguyên tử. Trưởng phái đoàn Hà Nội, ông Phạm Xuân Oánh, sẽ tới Tokyo vào ngày 27 tháng 7 qua ngả Bắc Kinh. Trưởng phái đoàn miền Nam do ông Đặng Quang Minh, uỷ viên trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam…



                                Đọc tới đây tôi ngừng lại, hốt hoảng la lên:
                                - Ông này là ba tôi! Đúng là ba tôi rồi! Tôi phải đi Nhật gặp ba tôi mới được!
                                Ước sức lúc ây tôi có thể leo lên nóc nhà để reo mừng, tôi cũng dám leo ngay.
                                Tôi cố bình tĩnh lại để tiếp tục đọc bài báo, tim tôi đập mạnh, hai lòng bàn tay tôi đổ mồ hôi.
                                “... sẽ tới Tokyo vào ngày 26 tháng 7 qua ngả Moscow. Ngoài ra. còn có phái đoàn Mỹ gồm 10 người, trong đó có điêu khắc gia Ethel Taylor hội viên của tổ chức “Phụ nữ đấu tranh cho hoà bình” và Sean McBride. người được giải thưởng Nobel năm 1974”.
                                Sau khi ông Hall ra về tôi vô phòng gặp má tôi để cho bà biết tin ba tôi sắp sang Nhật. Tôi cũng ngỏ ý là tôi sẵn sàng cùng Lance sang Nhật gặp ba tôi. Tôi rất tiếc là má tôi không thể đi cùng, một phần vì giấy tờ của mã cũng chưa ổn định. Bà chưa có thẻ xanh. Một phần tôi cũng không đủ tiền cho ba người cùng đi.
                                Ước gi tôi có cách giữ được nụ cười của má trong cái bình pha lê để qua Nhựt cho ba tôi. Đó là nụ cười sau khi bà thấy tên ba tôi trong tờ báo. Nhung máa tôi có veử lo lắng khi tôi bàn đến cuộc hành trình của mẹ con tôi. Má tôi nắm lấy hai bàn tay tôi, như muốn kéo tôi ra khỏi giấc mơ đoàn tụ, mà suốt hai mươi năm qua gia đình tôi chưa tỉnh. Bà ôn tồn nói:
                                - Con phải chờ John về để tính toán kỹ càng. Hai mẹ con mình không nên tự tung tự tác rồi hư chuyện. Con phải nhớ, nó là sĩ quan của Hải quân Mỹ. Ba con là người của họ. Chánh phủ Mỹ mới cho má qua đây tỵ nạn, rồi bây giờ con lại đi gặp một ông kẹ của Việt Cộng. Không có giản dị như gia đình người khác đâu, con.
                                Nghe tới đây thì tôi ngỡ ngầfng, vì má tôi không biết gì về Rob, tưởng ông ay là bạn của John. Nhưng tôi như một đứa con nít đòi đi gặp ba, tôi nói:
                                - Ba của con, con muốn gặp thì gặp, đâu cần xin phép ai?
                                Má tôi bèn nắm chặt tay tôi hơn, rồi nhìn thẳng vào mắt tôi, nghiêm giọng nói:
                                - Hối đó tới giờ, má biết con thương ba con tới chừng nào rồi. Mã nghĩ là không có cái gi ngăn cách tình cha con của con được. Nhưng con đừng có quên, ba con không phải là người cha bình thường như trăm ngàn người cha khác. Con phải chờ John đi công tác về rồi bàn tính với nó”.


                                Hai giờ sáng hôm sau, tôi vô căn cứ hải quân ở Barbers Point để rước John về. Thấy anh vừa bước ra khỏi máy bay P-3 Orion,, tôi đã muốn báo tin mừng ngay, nhưng anh ngừng lại để nói chuyện với những người bảo trì máy bay. Mỗi lần John trở về sau những chuyến bay xa, khi thấy anh bước ra khỏi máy bay còn nguyên vẹn, dù lúc đó là 2, 3 giờ sáng, tôi vẫn thấy như có ánh hồng ló dạng nơi chân trời. Những nắm John đóng ở căn cứ hải quân Barbers Point, Lance còn nhỏ xíu. Thỉnh thoảng đi học về, nó kể lại chuyện ở trường, đám con của mấy ông phi công nói với nhau rằng, ba thằng này bị rớt máy bay, ba thằng kia sẽ được về đất liền ehôn cất. Tôi cố trấn an nó, nhung trong lòng không khỏi lo âu mỗi lần thấy John bước lên máy bay. Còn Lance thì nhiều khi chơi một mình ngoài sân rồi oà lên khóc, tôi tưởng nó bi ông đánh hay kiến cắn, chạy ra hỏi tại sao thì thằng nhỏ vừa khóc vừa nói “Lance không muốn Daddy chết!”.
                                Tôi cho John biết vệ chuyện ba tôi sẽ sang Nhựt, và tôi muốn Lance sang gặp ba tôi. Anh tán thành ngay, vì anh muốn cho Lance được e gặp ông ngoại.
                                Sáng đó, khi John còn ngủ, tôi đã mua vé máy bay, rồi gọi điện thoại cho lãnh sự quán của Nhựt để xin chiếu khán. Đến trưa, thì mọi việc xong xuôi, tôi đã có vé máy bay và cả ca chiếu khán.
                                Buổi chiều tôi hối hả xếp va-li. Tôi muốn tới Tokyo vài ngày trước khi khai mạc hội nghị để quen đường đi nước bước với cái thành phố mà tôi chưa bao giờ đặt chân tới. Thêm vào đó, tôi không biết một tiếng Nhựt nào ngoài tiếng chào tạm biệt “Sayonara”. Chị Cương viết thơ cho ba, kèm tấm hình của vợ chồng chị. Mấy đứa con chị, Tina, Ten và Kenneth gởi mấy món quà thủ công mà các cháu làm trong trường để tặng ông ngoại. Mỗi cháu viết tên, tuổi, ghi rõ ràng lớp các cháu đang học: Tina lớp Hai, Teri lớp Một và Kenneth lớp mẫu giáo; và viết thêm chữ “I love you, Ông ngoại”. Các cháu cũng gửi kèm mỗi đứa một tấm hình mới nhất. Trước ngày tôi lên đường, má thức rất khuya để viết thơ cho ba. Trong thơ, má chỉ gửi kèm hình Minh Tâm, Hoà Bình và Hải Vân.
                                Vì Lance còn nhỏ, nên tôi và cháu được lên máy bay trước các hành khách khác. Nhưng mỗi bước đi, tôi thấy nặng nề như vương vấn người ở lại. Rob đi cùng một chuyến máy bay với chúng tôi, nhưng tôi và Rob đã dặn nhau là sẽ không nhận nhau trên máy bay. Sau khi máy bay cất cánh. Lance được tự do vì không còn phải đeo seat belt nữa. Nó đi một vòng rồi nói với tôi:
                                - Momma, Lance thay ông Rob ngồi đằng sau mình kia.
                                Tôi vội dặn nó:
                                - Đừng làm phiền ông, để ông ngủ.
                                Thỉnh thoảng Lance đứng lên ghế nhìn xuống phía sau, rồi yên lặng ngồi xuống. Khi máy bay đã bay được nửa đường, Lance nói nhỏ:
                                - Lance nghi ông Rob theo dõi mình.
                                Tôi cười thầm, không nói gì, rồi giả bộ nhắm mắt ngủ. Lòng tôi lúc đó náo nức, rộn ràng nghĩ đến ngày được gặp lại ba tôi nếu mọi việc suôn sẽ.
                                Ba tôi đã bỏ tôi và cả gia đình để đi theo một chủ nghĩa, mà khi tôi lơn lên với dân tộc và đất nước, thì hiểu rằng chủ nghĩa này trái lòng dân, nghịch ý trời. Suốt tuổi ấu thơ, tôi đã ngưỡng mộ ba tôi, coi ông như một thần tượng. Ngày nay, tôi là người đàn bà đã trưởng thành, hai người hai chiến tuyến, nhưng dù thế nào tôi cũng muốn gặp lại người cha, với ước mơng ba mình vẫn như xưa.
                                Tôi nhớ, má tôi hay lấy câu nói của nhà văn kiêm nhà giáo Nguyễn Bá Học ở đấu thế kỷ 20 mà khuyên chúng tôi như sau “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi, e sông”. Tôi đã đi tới Tokyo thì kể như từ đây không còn núi sông nào ngăn cách hai cha con tôi nữa, mà chỉ còn những chặng đường quanh co. Ý muốn gặp ba tôi mạnh hơn tất cả những gì nguy hiểm trong cái thế giới gián điệp mà Rob nhiều lần nhắc nhở phải cẩn thận. Ông sợ tôi bị KGB theo dõi, sợ phản gián Nhựt rình mò, rồi bắt tôi. Trong khi đó, tôi ngây thơ hỏi:
                                - Tại sao con đi tìm cha sau 20 năm xa cách, mà mọi người theo dõi, rình mò để bắt?
                                Rob trả lời ngày:
                                - Bởi vì người cha này là đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Moscow, và người con gái này cách đây gần hai tháng đã ký giấy hợp tác với một cơ quan tình báo không thua gì KGB.
                                Sự thật này đắng cay quá, những nó là sự thật. Từ đó, tôi bắt đầu cẩn thận, dè dặt hơn trong việc liên lạc với Rob.
                                Tại Tokyo, tôi không biết bao giờ phái đoàn của Mặt trận giải phóng miền Nam sẽ tới Tokyo, và cũng không biết họ sẽ ở đâu. Rob cũng không hơn gì tôi, ông và CIA ở toà đại sứ Mỹ cũng không có tin tức gì.
                                Trước khi tôi lên đường, John đã dặn dò kỹ lưỡng: khi tới Tokyo, tôi phải ở Sanyo Hotel, vì khách sạn này là khách sạn của hải quân Mỹ Ở đây đã an ninh, mà tiền phòng chỉ bằng nửa các khách sạn lớn như Sheraton hay Hyatt Regency. Ở đây lại có tình cách gia đình. Nếu phải ở Tokyo lâu, Lance cũng có con nít Mỹ để chơi. Nếu cần, khách sạn này lại có người trông trẻ em. Mấy ngày đầu, hai mẹ con tôi còn lạ lẫm với thành phố Tokyo, ồn ào, phố phường người đông như kiến, đi xe điện như đi chạy đua mới lên xe được. Vì vậy, hai mẹ con tôi ít ra đường, chỉ ngồi trong khách sạn dò hết mấy trang báo để tìm tin ba tôi, cả báo sáng lẫn báo chiều. Ngày nào cũng dài vô tận. Thêm vào đó, tháng 7 trời Tokyo oi bức hơn Sài gòn. Rạp chiếu bóng trong khách sạn chỉ có hai phim hoạt hoạ. Tôi đã coi The Pink Panther ba lần, và Ronald Duck hai lần. Khi Lance chán xi-nê thì đòi ra hồ tắm. Tôi vừa đọc báo để tìm tin ba tôi vừa trong chừng Lance dưới hồ chơi giỡn với con nít khác.
                                Trưa thứ hai, 28 tháng 7, CIA tìm được lộ trình của ba tôi. Rob cho tôi biết là phái đoàn của Mặt trận giải phóng miền Nam sẽ tới Tokyo ngày 30 tháng 8, và có thể họ sẽ ở khách sạn Prince. Rob nói người của ông ở toà đại sứ Mỹ sẽ cho tôi biết ngày giờ nào tôi được liên lạc với ba tôi; lúc đó tôi mới được phép đi tìm. Tôi im lặng nghe, và cũng không tỏ vẻ bất bình. Nhưng trong bụng, tôi đã có một chương trình riêng. Khi tôi hành động, chỉ có ông trời mới cản được tôi lúc này.
                                Tôi thay quần áo cho Lance, rồi hai mẹ con tôi lên xe đi thẳng tới khách sạn Prince, không một chút do dự. Khi taxi ngừng, tôi nắm tay Lance khoan thai đi thẳng vô cửa, tới gặp cô Nhựt ngồi sau quầy tiếp khách. Tôi nói chậm rãi cho cô biết tôi muốn đặt 15 phòng cho nhóm của tôi ngày hôm đó, cho đến ngày 15 tháng 8. Người đàn bà Nhựt nhìn vào sổ, rồi lịch sự trả lời:
                                - Thưa bà, chúng tôi rất tiếc là không còn phòng trống đến ngày 15 tháng 8.
                                Hồi còn đi học, tôi thưởng nói chơi với bạn bè rằng ông trời cho tôi giác quan thứ sáu, để biết chừng nào thầy cô kêu trả bài. Cái giác quan thứ sáu đó vẫn còn tốt, nên hôm này tôi cứ tới đây là nơi hai cha con tôi sẽ gặp nhau.
                                Tôi cảm ơn người đàn bà Nhựt, rồi xin một tấm danh thiệp hẹn sẽ gọi lại. Tôi đi về phía cửa mấy bước, chợt quay lại hỏi phòng vệ sinh ở chỗ nào. Tôi muốn làm quen với khung cảnh ở đây, để lần sau trở lại không bị bỡ ngỡ. Lúc đó, tôi có thể đi thẳng lên phòng của ba tôi như một người khách đang trọ nơi đây, để không bị ai chặn hỏi, nhứt là những người giữ an ninh cho các phái đoàn.
                                Khi đã biết sơ đường đi nước bước trong khách sạn, mẹ con tôi ra về. Tới đường chính, tôi chợt trông thấy một khách sạn lớn hơn ở gần đó, sang trọng hơn Prince. Tôi liền dắt Lance đi về phía khách sạn tên là Takanawa Prince Hotel. Ngay lúc đó, tôi nghĩ nếu tôi ở khách sạn này, tôi sẽ được gần ba tôi, lại rộng rãi sang trọng hơn khách sạn Sanyo. Mấy hôm này,. Lance tỏ vẻ khó chịu vì nóng bức và chật hẹp. Nếu chỉ có một mình tôi, ở đâu cũng được, vì tôi đã ở trong rừng U Minh một năm rồi, tất cả chỉ là tạm bợ mà thôi. Nhưng tôi đang nuôi thằng Mỹ con, sợ chán mà đòi về nhà với ba nó thì khó cho tôi lắm. Than phận con của một nhà cách mạng chống Pháp thua xa đứa bé con của sĩ quan Mỹ.
                                Hai mẹ con tôi dọn đến ở khách sạn Takanawa Prince ngay chiều hôm đó. Phòng ngủ ở đây thật rộng, giường ngủ lớn, mặc sức cho Lance nhảy nhót trên giường. Nhảy chán rồi nằm lăn quay ra. Nhìn nó ngủ một cách vô tư, tôi nhớ lại hồi chúng tôi còn ở trong bưng biền. Tôi cũng năm tuổi như nó bây giờ. Tây bỏ bom xuống Ong Vèo tơi tả. Ba tôi hăng hái đánh Tây. Con tôi cũng năm tuổi, được nằm ngủ, mặt ngây thơ không một chút lo âu. Qua cửa phòng, tôi có thể nhìn thấy khách sạn Prince, nơi tôi sẽ được gặp ba tôi, người đã góp công “giải phóng” quê hương tôi. Bỗng dưng tôi thấy công của ba tôi là công dã tràng, vì người miền Nam chúng tôi đang cần một cuộc cách mạng khác, để thoát khỏi nanh vuốt của cộng sản Hà Nội.
                                Trong những giờ phút chờ đợi để được gặp ba tôi, tình phụ tử, nỗi nhớ nhung hoà với kỷ niệm mà tôi đã từng ấp ủ trong đời với ba và gia đình bỗng dưng nhẹ hơn tình yêu tôi dành cho quê hương và cho dân tộc. Rồi tôi cảm thấy tội nghiệp ba tôi và đất nước vô cùng. Trong khoanh khắc, tôi không thấy chuyện gặp ba tôi là cần thiết nữa.
                                Ngày 30 tháng 8, báo Japan Times đăng hình ba tôi tươi cười, hớn hở bước xuống máy bay. Cùng đi với phái đoàn, có bá Ngô Bá Thành, cầm cờ Mặt trận giải phóng miền Nam tung bay trước gió. Tôi nhìn hình này một hồi lâu, rồi thấy mình xa lạ với người trong hình. Tuy vậy, tôi vẫn vui khi thấy ba tôi còn tráng kiện, mái tóc vẫn chải qua một bên như hồi tôi còn nhỏ. Nụ cười thân thiện, đưa hàm răng hô ra trước, như ngày xưa ông cười với người chèo ghe, với các đồng chí và với những người trong làng.
                                Sau khi ăn điểm tâm, tôi và Lance vừa về phòng thì ông sĩ quan CIA đã gõ cửa. Rob tươi cười khoe bài báo của Japan Times với tôi. Lance nhanh nhảu cam tờ báo của tôi, rồi nói:
                                - Look Rob, my ông ngoại is in the paper. We are going to see him, my Mom said.
                                Như diều mất gió, mặt Rob bị xị, ông tưởng ông đem tin lành đến cho hai mẹ con tôi, nào ngờ chúng tôi đã biết trước. Ông nghiêm giọng nói với cháu Lance:
                                - 1 don't think it's a good idea.
                                - Why not?
                                - Because your ông ngoại may be tired.
                                - Not too tired to see his grandson. - Lance trả lời một u nhiên, vô tư.
                                Buổi trưa hôm đó tôi đứng ngồi không yên, chỉ sợ mình nóng nảy rầy oan con. Tôi dụ dỗ cho nó ngủ trưa để “mau lớn”, khi đó sẽ được thường một chai nước ngọt trong tủ lạnh.
                                Cầm tám thiệp có số dĩện thoại của Prince Hotel, tay tôi run, cổ khô, miệng đắng. Tôi nghe tim đập mạnh trong lòng ngực. Tôi chợt nghĩ tới má tôi. Bà đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn trong cuộc đời, dầu có nhiều thời gian hay hoàn cảnh do dự hay rụt rè. Đời của chúng tôi trôi nhanh như thác lũ, khôn sống, dại thì chết. Hồi ba tôi chuẩn bị đi tập kết, chỉ có một tháng để sửa soạn. Má tôi đã quyết định ở lại miền Nam. Như vậy, chúng tôi đã được sống trong tự do. Hình ảnh của má tôi làm tôi thêm sức mạnh.
                                Tôi cầm điện thoại lên, gọi Prince hotel. Với một giọng nghiêm chỉnh và nhanh, tôi nói với nhân viên trực của khách sạn:
                                - Tên tôi là Trần, nhờ cô gọi phòng của ông Minh giùm.
                                Bên kia đầu dây, một người đàn bà Nhật lịch sự trả lời:
                                - Xin bà đánh vần tên của ông ấy.
                                - M.I.N.H, còn họ là D.A.N.G.
                                Trong hơn hai phút chờ đợi, kể cũng hai lâu, tôi bỗng có nghi ngờ. Có thật người đàn bà Nhựt đang tìm phòng của ba tôi hay bà báo với sở phản gián Nhựt tới bắt mình? Hay đặt máy cài nghe lén cuộc nói chuyện của mình với ba? Hay là họ sẽ tìm cách ngăn cản mình, không cho vô khách sạn? Vừa hồi hộp vừa nóng lòng, tôi tự nhủ thầm:
                                - Trời ơi, nếu mỗi lần muốn nói chuyện với ba mà phải chờ như vậy, chỉ vài lần là mình hết bạc đầu luôn.
                                Nhưng vừa lúc đó, nữ nhân viên khách sạn trả lời:
                                - Phòng của ông Minh là phòng 421, xin bà ghi nhớ. Tôi sẽ gọi cho bà ngay bây giờ.
                                Điện thoại tiếp tục reo, nhưng không ai trả lời.


                                Tôi cùng hơi rnừng là ba tôi không trả lời điện thoại lúc đó vì trong bụng tôi chen lẫn những hồ hộp, lo âu, sợ hãi. Sợ không biết bức tường của không gian, thời gian, chính kiến nó cao bao nhiêu trong lòng người cha cộng sản của mình, tôi cũng không còn sức để bình tĩnh nữa. Tôi vừa hồi hộp vừa lo sợ, vì không biết phải an ủi ba tôi như thế nào. Lỡ ba không muốn gặp tôi thì sao?
                                Chiều hôm đó, hai mẹ con tôi không được vui vẻ. Tôi cau có, gắt gỏng với Lance. Hai mẹ con buồn hiu. Một lát sau, tắt TV, Lance hỏi tôi:
                                - Tại sao Daddy đi bay về Lance vui lắm, còn Mommy được gặp ba mà quạu với Lance nhiều quá vậy?
                                Hồi nhỏ nói được được tiếng Việt, mà tiếng “quạu” của nó có nghĩa ll ghét, không ưa, không thích, bị rầy, bực mình.
                                Tôi xin lỗi Lance. Thằng nhỏ trả lời y như chúng tôi trả lời nó:
                                - I forgive you.
                                Rồi vui vẻ lại như thường. Tôi yêu cái tính vị tha của nó. Lớn lên cũng vậy, cũng vị tha, cũng gần gũi, yêu thương cha mẹ, binh người yếu đuối.


                                Chiều đó, tới phiên Lance chọn ăn trong phòng, vừa được ăn, vừa coi TV. Sau đó, tôi đọc sách dỗ cho Lance ngủ. Nhìn đồng hồ, tôi nghĩ nên chờ cho ba tôi về phòng nghỉ mệt một lát, sau một ngày hội họp, rồi mới gọi. 9 giờ 30, con tôi ngủ, tôi rón rén đóng cửa phòng, rồi đi ra ngoài phòng khác, nhắc điện thoại gọi khách sạn Prince. Kỳ này tôi gọi thẳng về phòng 421 không qua máy tổng đài.

                                Comment

                                Working...
                                X