Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Đời tị nạn

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đời tị nạn

    ĐỜI TỊ NẠN

    Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải
    Thể lọai: Hồi ký



    1. Tới đảo


    Chiếc ghe vượt biên tôi đi cặp vào đầu cầu jetty của đảo Pulau Bidong vào xế chiều ngày 1 tháng 6 năm 1989, sau hơn 50 giờ rời cửa Sò Lưới, gần mũi ông Trang, Cà Mau.

    Cũng khó quên được mối cảm xúc khi đặt chân lên chiếc phà ở đầu cầu. Mặt phà bằng sắt, “nóng như lửa”, ấy là cách nói thông thường. Bị mất đôi giép trên đường ra cửa sông, tôi kéo hai bó củi - loại củi phát cho người tị nạn để nấu nướng, - đạt chân lên đó cho đỡ nóng. Bỗng tôi cúi xuống, chống hai tay lên hai bó củi khác, và… nước mắt trào ra.

    Tại sao tôi khóc?!

    Tôi khóc vì 14 năm sống dưới chế độ Cộng Sản với 7 năm 10 ngày trong trại cải tạo, Kinh Quá! Trong chế độ đó, tôi gánh đầy đủ mấy tiếng Đày Đọa và Đói Khát, về cả hai mặt: Vật chất lẫn Tinh thần. Vì vậy, bây giờ, khi đặt chân lên đầu cầu, tôi cảm nhận một cách đầy đủ và sung sướng hai tiếng “Giải thoát”. Đã lên được đầu cầu là chính quyền Mã Lai không còn đuổi ra khơi được nữa, là được vào trại tị nạn, là được định cư ở một đất nước tự do, v.v… và v.v…

    Nhưng nghĩ lại, tôi thầm nói với tôi: Không được khóc! Không được khóc! Rồi trong cơn xúc động đó, tôi nhớ ngay đến mấy câu thơ của Karl Marx, trong cuốn “Tuổi Trẻ Karl Marx” do Cao Xuân Hạo dịch, cuốn sách tôi đọc nhiều lần trong cái gọi là “Trại Cải Tạo”:

    Chỉ có ai bằng chiến đấu hiên ngang,
    Giành cuộc sống tự do từng giờ từng phút,
    Mới đáng hưởng tự do và cuộc đời chân thật.

    Tôi không là người chiến sĩ hiên ngang của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi chỉ là người cần cù và chăm chỉ với công việc của mình, khi còn là dân sự - day học - và khi ở trong quân đội, chính quyền. Điều an ủi với tôi là khi rời trường tôi dạy để nhập ngủ, bạn đồng nghiệp và học trò thương mến, “tiếc” một ông thầy bỏ phấn bảng, và khi tôi rời binh chủng Thiết Giáp để được biệt phái, thì xếp trực tiếp của tôi, đại tá Nguyễn Mạnh Lâm, tiển tôi bằng một câu khiến tôi… nở lỗ mũi và muốn ở lại: “Anh là người không ai bỏ anh.”

    Vậy mà suốt 14 năm sống dưới chế độ Việt Cộng, họ không dùng tôi. Họ đúng đấy. Họ không dùng vì không phải họ biết tôi có khả năng chống họ bằng “xiết cò súng”, hay bằng “Mồm mép đỡ chân tay” - câu tôi nói đùa khi tôi phục vụ trong ngành Chiến Tranh Chính Trị” mà chính là vì bản chất con người tôi. Họ không thể nào chấp nhận một con người có bản chất như tôi: “Tiểu tư sản thành thị”, không dính líu bất cứ “một đời vô sản” nào trong “ba đời khai báo”. Như thế, làm sao tôi có thể giác ngộ “hận thù giai cấp” để đi theo con đường Mác - Lê được?!

    Khi những “thứ tiểu tư sản” như tôi, nếu không lột xác để giác ngô Mác thì sẽ chống ngầm, và chống triền miên. Chống ngầm là một phương cách chống đối tiềm ẩn, rất nguy hiểm. Nó không biểu hiện trên bề mặt để có thể đàn áp, triệt tiêu, kết tội. Tuy nhiên, Cộng Sản vẫn có một cái án tù cho những người đó. Cái án tù gọi bằng nhiều cách khác nhau: “Nguy hiểm cho chế độ”, “Không thích hợp cho chế độ”, “Phần tử nguy hiểm”, “Phần tử phản động ngấm ngầm.” Và ở tù không có án, không có ngày về. Và nếu có tha về, lại cũng tiếp tục chống đối. Đó là “bọn” - như Việt Cộng gọi – ngoan cố. Bọn chống Cộng Sản giai dẵng, chống triền miên.

    Để độc giả có thể tin tôi, tôi xin đưa ra một ví dụ: Ông Tôn Thất Tần trong “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên chẳng hạn. Ông ta là nhân vật có thật ở ngoài đời đấy, không phải do ông Vũ Thư Hiên tưởng tượng ra. Ông ta là người “ở tù muôn năm”, tù cho đến chết. Có thể độc giả không biết ông đó là ai? Con nhà Tôn Thất? Dòng dõi vua chúa? Dòng dõi con quan? Có thể đấy. Quan trọng không kém, chính ông ta là em (hay anh) vợ ông Hà Thúc Ký, lãnh tụ đảng Đại Việt, và là người chống Cộng bền bĩ, kiên trì… Làm sao ông ta có ngày về?! Bề ngoài, ông ta có cái tù 20 năm, nhưng cái án tù ấy được nhân lên nhiều lần, cứ hết 20 nầy lại tới 20 năm khác, cho đến khi ông ta không còn sống để nhận án 20 năm nữa! Chúng ta, những người “tù cải tạo” là “Tôn Thất Tần (1) thứ hai”, thứ ba, là thứ một triệu… nếu không có Mỹ can thiệp, yêu cầu thả, và nếu không có Tàu đem quân đánh dọc 6 tỉnh biên giới…. thì có thể bây giờ hoặc sau nầy, con cháu chúng ta sẽ thành Mán, Mường, Lô-lô, Tày, Nùng, v.v…Như vậy thì “Giặc ngoài xâm lăng, toàn dân hớn hở!” hay sao?! Đó là cái nghịch lý đau đớn của thời đại chúng ta!

    Thế rồi tôi sắp vào hàng theo lệnh của Cao ủy Long, một người Tàu-Mã. Tôi đứng cuối, trước mặt tôi là vợ và đứa con gái út. 26 người. Tàu tôi có tất cả 26 người, kể cả tài công và hai anh em con người chủ tàu.

    Cao ủy Long vừa đi vừa đếm từng người. Tới tôi là chót. Tôi nhìn ông. Ông nhìn tôi. Tôi nhớ hình ảnh ông kỹ lắm, lớn con, đẹp người, còn trẻ. Điều tôi muốn nói ở đây là lời cám ơn vì ông là người đầu tiên của Cao Ủy Tịn Nạn, hay có thể gọi là người của Thế Giới Tự Do cũng được, đón tôi ở nơi nầy, nơi, nói một cách văn hoa là “Bến bờ Tự do.” Vì vậy, hai năm sau, trước khi rời Bidong, tôi mời ông ra ngay chỗ bến tầu nầy chụp chung với gia đình tôi một tấm hình. Trước khi chụp, tôi nói với Cao Ủy Long tôi muốn chụp hình với ông vì ông là người đầu tiên đón tôi khi tôi vừa thoát khỏi chế độ Cộng Sản Việt Nam.

    Sau khi đếm người xong, chưa lấy tên họ gì cả, 26 người chúng tôi được đưa vào một gian nhà tôn, bên cạnh đầu cầu jetty. Lúc ấy, “cô Cao ủy Delle” - người ta thường gọi như thế, một người lai: Cha Thái Lan, mẹ Việt Nam, sinh đẻ ở Chợ Lớn, lớn lên ở Bangkok, nói tiếng Việt không sõi lắm, thường tự xưng với bất cứ ai bằng “Mình”, chẳng hạn như có lần nói với tôi sau nầy: “Mình gởi lời thăm vợ mình.” khiến tôi phải cười. Cao ủy Delle lập danh sách từng người, hỏi rất kỹ mấy đứa con gái bị tụi ngư dân Mã Lai xàm xở như thế nào. Bọn chúng chỉ xàm xở, không làm gì quá hơn.

    Xong, tất cả được cấp phát quần áo, mỗi người hai bộ, chăn màn, chiếu và sang phòng bên, có chia đôi nam nữ để tắm rửa. Mấy ngày “ém quân” nơi ấp Đậu Sấu, huyện Cái Nước, tỉnh Minh Hải, xứ nước mặn, chẳng được tắm táp gì. Hai ngày ở trên ghe nước rửa mặt còn không có, nói chi tới tắm rửa. Vì vậy, bữa nay tắm thoải mái, không hạn chế nước ngọt; sướng thật!

    Có điều buồn cười!

    Khi vượt biên, vợ tôi có mang theo một tượng Phật tạc bằng đá cẩm thạch núi Non Nước. Tượng to bằng hai nắm tay. Trước khi vào buồng tắm, tôi nói vợ tôi để cái tượng trên lan can, hành lang đi thẳng lên bờ. Đem tượng Phật vào buồng tắm là không nên. Nhưng khi tắm xong trở ra, ai lấy mất tượng rồi! Vợ chồng tôi băn khoăn vì mất tượng Phật mà không biết hỏi ai. Vợ tôi khóc!

    Nhà bếp đem cơm xuống cho chúng tôi, cũng có đủ chén bát, muỗng đũa cho tất cả mọi người. Ăn xong, để một chỗ, nhà bếp sẽ xuống lấy.

    Gần tối, một linh mục người Úc, cha Quentin xuống thăm. Ông thăm hỏi từng người, rất ân cần. Cuối cùng, vợ tôi than phiền bị mất tượng Phật. Ông bảo yên tâm, để ông đi tìm. Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, ông trở lại, tượng Phật ông bồng trong tay, đưa cho chúng tôi.

    Hỏi ông tìm thấy ở đâu? Cha Quentin nói: “Ở chùa!”. Té ra có một đám thanh niên làm việc cho “supply”. Họ xuống lấy củi ở cầu tàu. Thấy tượng Phật, họ bèn lấy đem lên chùa. Họ theo đạo Phật, thấy tượng Phật để trên hành lang thì họ đem về chùa! Có gì lạ đâu! Nhưng tôi thì thấy buồn cười. Ở nước tôi, nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Việt Cộng thấy tượng Phật thì nắm quẳng ra hàng rào, cho là thứ thuốc phiện, có hại. Nếu là người có đạo Thiên Chúa, có lẽ họ không tôn trọng, không tin tưởng. Ở đây, đất nước tự do khác lạ: Một ông linh mục, đi lên chùa tìm tượng Phật đem vè cho người tị nạn. Người ta không có sự phân biệt tôn giáo như quê nhà!!!

    Khi trời gần tối, tôi đứng ở cửa sổ nhìn lên đảo. Trên đảo lại có một ngọn đồi. Người ta gọi là “Đồi tôn giáo”. Chùa, nhà thờ, chùa Cao Đài, chùa Hòa Hảo, quây quần với nhau trên ấy, hòa hợp vui vẩy, không kỳ thị nhau như ở quê hương tôi!!!

    Khi ấy lễ nhà thờ vừa xong, con chiên của Chúa từ trong nhà thờ túa ra, phần đông là các bà, các cô, mặc áo trắng. Họ đi theo con đường xuống chân đồi, vòng qua phía tượng “Ông Già Bidong” rồi quẹo qua phía đầu cầu jetty, đi ngược lên đảo. Họ đông lắm, đi liền nhau, như một con rắn trắng, uốn mình theo con đường cong. Tại sao người ta đi nhà thờ đông thế? Tại vì ở quê họ không được đi nhà thờ, hoặc có đi mà còn sợ Công An. Có thể ở đây vì không khí tự do, người ta cần cầu xin cho mình một tương lai. Dù với lý do gì, thấy họ đi đông, lòng tôi vui lên, trước một cảnh tượng đẹp, không kém phần trang nghiêm của tôn giáo và sự tự do.

    Đêm đó, ngày 1 tháng 6 năm 1989, tôi ngủ ngon trong chăn ấm, dù ngôi nhà đó nằm trên bờ biển, gió thổi suốt đêm!

    Hôm sau, ăn uống xong, thay vì được đưa lên đảo, chúng tôi được đưa xuống tàu sắt Su-Ma, tàu của trại tỵ nạn, để vào dất liền, thuộc tiểu quốc Terrenganu.

    Từ bến tàu chúng tôi được đưa lên xe bus để về trại Marang. Mã Lai nguyên là thuộc địa cũ của Anh nên xe chạy bên trái thay vì bên phải như ở nước. Vì vậy, mỗi khi thấy có chiếc xe chạy ngược, tôi hơi ngờ ngợ. Sau nầy, quen thân với ông Di, người cùng đi chuyến tàu vượt biên, tôi hỏi đùa ông về cái cảm giác xe chạy ngược chiều, ông bảo: “Tôi cứ đạp thắng phụ cho tài xế hoài, nhưng xe vẫn chạy. Điều nầy, đối với người quen đi bên phải, pjải ngỡ ngàng. Trong cuốn đi Tây của Nhất Linh, ông kể rằng khi tới Aden, thuộc địa của Anh, ông viết đùa là phải tính nhẩm bên trái, bên phải để tránh xe.

    Trại Marang là một ngôi nhà lớn, đã cũ, có lẽ do Cao Ủy Tỵ Nạn thuê lại của chủ, làm nơi tạm trú cho người tỵ nạn được tấp vào bờ ở bán đảo Mã Lai, trước khi đưa ra đảo Bidong hoặc cho đồng bào tị nạn ở đảo vào đất liền có công việc gì đó, thường là khám bệnh do bệnh viện Sickbay của đảo chuyển vào.

    Ngôi nhà có mấy cái sàn lớn để làm chỗ ngủ, có chỗ nấu bếp, và một phòng y tế. Sau nhà là một vườn dừa lớn, khoảng hơn 50 cây. Dừa đã có trái, cấm hái. Tuy nhiên, nhiều thanh niên vẫn chờ đêm khuya, hái trộm ăn chơi. Chính nhân viên Mã Lai cũng bao che cho họ, hái trộm dừa.

    Trại có vòng rào kẽm B-40 rào quanh. Cổng trại luôn đóng kín, cấm người tỵ nạn ra khỏi trại. Phía bên hông ngôi nhà là bờ biển, phẳng, nhưng cát hơi vàng. Vòng rào quanh nhà cũng ngăn không cho người đi ra biển.

    Trước khi tôi tới đảo khoảng một vài tháng là thời gian người vượt biển đến đông, ngôi nhà nầy không đủ chỗ để ở. Chính quyền Mã Lai dựng thêm nhà bạt hay phát các tấm nylong để người tỵ nạn che chỗ ở quanh vòng rào. Bây giờ thì người đã ít đi. Hôm tôi tới, chỉ có 26 người của ghe tôi đi.

    Chiều hôm chúng tôi tới thì có một toán thuộc Lực lượng Đặc nhiệm Mã Lai đến lấy danh sách. Ghi tên từng người xong, họ hòi: “Muốn định cư ở đâu?” Ai cũng mừng, cứ tưởng như vài hôm nữa sẽ được thỏa ý nguyện. Kẻ nói đi Úc, người đòi đi Mỹ. Tôi thì phân vân. Con gái thứ hai của tôi ở Mỹ nhưng tôi chẳng muốn đi Mỹ. Tôi có định kiến!

    Hai cuôc chiến tranh Đông Dương kéo dài từ 1945 đến 1975 là 30 năm. Ai gây ra cuộc chiến tranh nầy, nếu không phải là 4 anh đầu sỏ: Mỹ, Pháp, Nga, Tàu hay sao? Vì vậy, chắc chắn không ai muốn định cư ở Nga và Tầu. Đi tìm tự do mà định cư ở các nước Cộng Sản nầy thì có khác chi cô Kiều “Hết nạn nọ đến nạn kia”. Còn như Pháp, Mỹ thì họ có tội với dân tộc Việt Nam đấy. Pháp tái xâm lăng Việt Nam với súng đạn Mỹ, còn Mỹ thì chính là “đồng minh chạy làng” của chúng ta. Chơi vậy thì chơi với ai.”

    Hôm sau, khoảng 80 người của một chiếc tàu khác, tấp vào bán đảo, được chuyển đến đây ở chung. Chiếc tầu nầy cũng bị hải tặc Thái Lan tấn công, nhưng thoát được. Ai nấy hú hồn.

    Ở trại Marang có ba hôm, chẳng làm gì ngoài các thủ tục vô bổ như thế, hôm sau, 26 người chúng tôi lại được xuống tầu đưa về lại đảo Bidong. Hôm ấy đúng là ngày 4 tháng 6 năm 1989, vụ thảm sát ở Thiên An Môn đang xảy ra.
    ***************

  • #2
    2. Phòng SB



    Về tới Bidong, như thủ tục, chúng tôi được đưa thẳng vào phòng SB (Special Branch) để khai báo sơ lược lý lịch. Nhân viên ở đây kêu từng người vào bàn làm việc của họ, hỏi sơ lược quá trình từng người. Người phỏng vấn tôi, trước khi xếp hồ sơ, nói với tôi:

    - “Ở đây đang cần người có khả năng như anh, mai mốt anh lên đây làm việc với chúng tôi.”

    Tôi cười và “Cám ơn.” ...

    Phòng SB là một chi nhánh của cơ quan tình báo Mỹ, do ông đại tá Bill phụ trách. Ông Bill không ở thường xuyên tại đây. Văn phòng chính của ông ở Bangkok. Cứ vài tháng, ông ta qua Bidong một lần, đọc lý lịch từng người rồi ghi vào một cái máy xách tay. Hồi ấy, tôi chưa biết computer là cái gì. Trước 1975, ở Saigon thì chỉ nghe nói máy IBM. Bộ Tư lệnh Cảnh Sát có một máy IBM để làm căn cước cho đồng bào. Bộ Tổng Tham Mưu một máy IBM để lập hồ sơ quân nhân, hình như phủ thủ tướng cũng có một máy IBM khác nữa. Khoảng các năm 1973, 74, học sinh đi thi tú tài, làm bài bằng cách khoanh a, b, c. để máy IBM chấm bài nên hồi đó, người ta gọi đùa là “tú tài abc”, hay “tú tài IBM”. Một máy IBM chiếm một gian nhà. Trước khi vượt biên thì có nghe người ta nói “Tin học”, nhưng tin học là cái gì thì biết đâu!

    Còn ông Bill, ông có cái máy xách tay, bề mặt bằng tờ giấy photocopy, dày hơn cuốn sách thông thường. Có lẽ đó là cái lap top, nhưng hồi đó cũng chưa ai biết laptop là cái gì, có lẽ nó chưa phổ biến như bây giờ. Suốt mấy ngày ông Bill ngồi đánh máy vào laptop. Xong, ông xách máy về Bangkok, thế là rồi việc. Coi như ông ta mang hết hồ sơ đi.

    Sau nầy, sau khi tôi vào làm ở phòng SB nầy một thời gian, ông xuống chỗ tôi ở ăn cơm chơi với vợ chồng tôi, ông “bật mí” vài chi tiết về đời tư.

    Ông Bill qua Việt Nam năm 1954, khi mới ra trường, mang lon thiếu úy. Hồi ấy, ông ta học tiếng Việt do người Bắc dạy, nên ông nói tiếng Việt theo giọng Bắc. Có một thời gian, ông sống ở khách sạn Morin Huế, khi khách sạn nầy chưa trở thành cơ sở của viện đại học Huế. Khoảng trước tết Mậu Thân, ông cưới vợ Huế, tên Dung, nhà bán thuốc lá Cẩm Lệ ở phố chợ An Cựu. Sau nầy, khi ở Mỹ đã lâu, gặp nhiều nhân vật cố cựu ở An Cựu, nay định cư ở Mỹ, tôi biết thêm vài việc vui vui. Té ra, cô Dung, vợ ông Bill, là học trò cũ của tôi mà tôi không biết. Thứ hai, bố vợ ông Bill, cũng như cha con ông Thiên Tường (người ta hay đùa, nói ngược lại là Thương Tiền), nhà kế cận nhà cô Dung, đều có hoạt động cho Việt Cộng. Bố cô Dung, có lẽ nhờ là bố vợ ông Bill, nên không có gì phiền hà nhiều, vã ông ta chỉ bị “mang tiếng” vậy thôi, chớ chẳng thấy hoạt động gì, còn cha con ông Thiên Tường thì đều bị Quốc Gia xử tử ở cầu Kho Rèn, ngay sau tết Mậu Thân vừa xong vì hoạt động cho Việt Cộng. Ông Bill là bạn đồng nghiệp với ông Bell. Ông nầy cũng cưới vợ Huế, bà Nam Trân, người làng Hiền Lương, cùng quê nội với tôi. Về vụ cha con ông Thiên Tường, nếu độc giả muốn biết thêm, xin đọc hồi ký của tôi viết về Mậu Thân ở Huế. Xứ An Cựu nầy, cùng trang lứa với cô Dung nầy, còn có thêm một quái kiệt nữa. Đó là Lê Văn Tống. Bởi vì tiếng Mỹ viết ngược nên tên Lê Văn Tống đươc viết là Tong Le. Đọc ngược lại một lần thứ hai nữa, ra tiếng Việt thì thành Lý Tống.

    Vì cái IBM và laptop nầy mà nhiều người bị “bể dĩa”. Người ta nói là trước 30 tháng Tư- 1975, Mỹ rời Việt Nam với 2 cái dĩa IBM là trong đó có đủ hồ sơ lý lịch toàn thể quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nay có người nào khi gian lý lịch, vì dụ như trung sĩ khai trung úy, ông Bill chỉ cần đối chiếu lý lịch người ấy khai ở đảo ghi trong laptop của ông ta với lý lịch trong dĩa IBM là xì ra ngay. Khai gian như thế thì dễ bị “Phái đoàn Mỹ” từ chối, nghĩa là không được định cư ở Mỹ, chờ phái đoàn các nước khác như Úc, Hòa Lan, Nay Uy, Thụy Điển tới xét cho đi theo “diện nhân đạo”.

    Ông Trần Văn Chính Mù có kể câu chuyện, một anh Việt Cộng khai là đại tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Anh tình báo nầy “điều nghiên” kỹ lắm nên khai dúng y chang lý lịch một ông đại tá nào đó. Cuối cùng, xong rồi, anh nhân viên Mỹ mới hỏi “Đại tá có còn gì để khai nữa không?” Anh chàng tình báo Việt Cộng trả lời rằng khai thế là xong, đầy đủ hết rồi. Bấy giờ nhân viên Mỹ mới ngồi ngữa người ra mà cười ha hả, nói rằng, còn một điều mà “đại tá” chưa khai, đó là “Ông đại tá nầy đã chết vào ngày 28 tháng Tư- 1975 rồi.” Té ra anh tình báo Việt Cọng bị tổ trác, ông đại tá nầy chết vào những ngày cuối cùng, hồ sơ chưa kịp cập nhật mà anh ta không hay!!!

    Lại có anh lính địa phương quân, khai rằng 30 tháng Tư anh ta về quê nuôi vịt, ấp hột vịt lộn. Cái nầy hơi rắc rối vì người Mỹ không ăn hột vịt lộn, nên tiếng Mỹ đâu có danh từ nào nói tới nghề ấp hột vịt lộn đâu! Cái đó chưa đau! Nhân viên Mỹ Mỹ hỏi ấp trứng vịt xong bán cho ai? Cho hợp tác xã. Hợp tác xã là tổ chức của Việt Cộng, có nghĩa rằng anh lính địa phương quân hợp tác với Việt Cộng nên anh ta bị “phái đoàn Mỹ từ chối.”

    Ngay trong nhà tôi ở cũng có một trường hợp hơi đặc biệt. Nguyên ông nầy là cán sự lâm nghiệp, làm trưởng hạt kiểm lâm. Xe be từ trong rừng ra, ông ta chỉ việc lấy thước đo gỗ súc mà tính tiền, nên cũng giàu có. Xe be vào rừng lấy gỗ thì đương nhiên gặp Việt Cộng, đóng thuế hay tiếp tế cho Việt Cộng là việc không thể tránh được, dù là gỗ của đức cha, hay của bà Nhu, hay của ông Đỗ Cao Lụa ở Biên Hòa. Ngược lại, do Mỹ yêu cầu, ông cán sự kiểm lâm cũng lấy tin từ các xe be về việc Việt Cộng tới lui, di chuyển giờ giấc nào, đông hay ít, ở trong rừng mà báo cho họ biết. Sau 1975, anh ta còn được Việt Cộng “lưu dung” một thời gian vì “khả năng chuyên môn”. Trước khi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn, anh ta tin chắc rằng anh sẽ được đi Mỹ vì trước kia có hoạt động cho Mỹ, trao tin Việt Cộng ở trong rừng, v.v…Nhân viên Mỹ hỏi sau 1975 anh ta có làm gì không? Anh ta trả lời có làm việc cho chế độ mới một thời gian. Như vậy, có nghĩa là có hoạt động cho Việt Cộng nên bị từ chối đi Mỹ. Gặp “phái đoàn Mỹ” xong ra về, tới nhà, anh ta chưởi Mỹ không biết bao nhiêu mà kể. Anh ta đâu có biết, trên nguyên tắc, từng làm việc cho tình báo Mỹ, mà sau đó có hợp tác với Việt Cộng thì coi như xong, chịu khó định cư ở Úc, Canada hay châu Âu vậy!

    Tầu tôi được đặt tên là MC 483.

    Làm thủ tục xong, tôi được đưa về chỗ ở. Sau khi có “đổi mới”, Việt Cộng nới lỏng cho người vượt biển được thêm đông để sau nầy làm “Việt kiều hồi hương”. Ở Bidong lúc ấy là 14 ngàn người. (Thời kỳ đông nhất là hồi nạn kiều, Bidong chứa tới 40 ngàn người). Tất cả các longhouse đều chật ních. Tôi, vợ tôi và đứa con nhỏ được chia một chỗ nằm bằng một chiếc chiếu đôi. Chúng tôi phải gởi gạo ăn chung với một gia đình khác ở longhouse khác.

    Lại phải nói tiếp về phòng SB.

    Tàu tôi vượt biên có ba sĩ quan. Ông Cao Dai, thiếu tá, ông Nguyễn Văn Di, đại úy, và tôi.

    Về ông Cao Dai thì tôi biết ông từ lâu, năm 1960, năm thứ hai tôi dạy ở trường Trung Học Đệ Nhị Cấp Bán Công Huế. Tôi dạy ở lớp đệ tam, bên cạnh là lớp “đệ nhị học lại”, gồm những học sinh thi hỏng tút tài 1, nay học lại để thi thêm keo nữa. Thầy dạy lớp nầy gồm toàn các “cụ”, tức là mấy cụ già ở trường, từng nhiều năm kinh nghiệm trong ngành giáo dục như cụ Đinh Thành Chương (Năm sau ông vào làm hiệu trưởng trường sư phạm Qui Nhơn), cụ Lâm Toại, cụ Trần Điền (sau nầy là thượng nghị sĩ). Học trò thì gồm nhiều người nổi tiềng như một nữ danh ca đất thần kinh, một nam ca sĩ, quê ở Quảng Trị, cũng nổi tiếng ở Saigon đi học lại, và không ít giai nhân như Vĩnh Th., Nguyễn Cửu Thi Th. Và một vài quái kiệt khác. Anh Cao Dai là một trong những học sinh cũng nổi tiếng. Trong các buổi họp hội đồng giáo sư, tôi nghe các giáo sư dạy lớp nầy nhắc tới tên ông, có khi là Cao Đài, có khi là Cao Đại, hoặc Cao Đãi bởi vì không ai ngờ rằng có người có cái tên Dai thay vì Giai. Do đó, hồi ấy, tôi có nghe tên anh ta mà chưa thấy mặt. Cũng may, anh ta biết tôi. Khi còn ở trại Marang, anh ta tới hỏi tôi:

    - “Anh có dạy Bán Công phải không?”

    Nhớ tên anh ta, tôi cười:

    - “Ông cũng học ở đó rồi đi Thủ Đức, nay mang cấp bậc gì rồi?

    - “Thiếu tá!” Ông ta trả lời.

    Tôi nói đùa:

    - “Vậy ông là cấp trên của tôi.” Rồi tôi kiếm chuyện làm quà:

    - “Xem ra tướng ông cũng tốt đấy. Hậu vận không đến nỗi gì đâu!”

    - “Tướng tôi sao?” Anh ta hỏi.

    - “Anh học hành ra sao tôi không rõ, tướng không đẹp trai nhưng tốt!”

    - “Không đẹp trai mà tốt nỗi gì?” Anh ta phản bác.

    - “Ậy! Ông Khổng Tử có đẹp trai đâu, nhưng tướng ông là tướng tốt! Anh biết không?” Tôi giải thích.

    - “Vậy tướng tôi sao?” Anh ta lại hỏi.

    - “Ông có thấy cái mũi ông to hơn bình thường không? Đó là một. Trong ngũ nhạc, mũi to là tốt!”

    - “Ngũ nhạc là cái chi?” Anh ta hỏi.

    - “Ngũ nhạc gồm có trán, hai gò má, mũi và cằm. Mũi ở giữa, cao và to hơn các gò khác là tốt.” Tôi giải thích.

    - “Tui khổ vì cái mũi cà chua của tui. Soi gương thấy kỳ cục quá!” Anh ta than.

    - “Ông Khổng Tử trán dồ, ông ta có than như anh đâu!”

    - “Trán dồ thì sao?” Anh ta lại hỏi.

    - “Mấy người trán dồ bướng lắm.” Tôi nói.

    - “Tui có cái chi tốt nữa!” Anh ta lại hỏi.

    - “Giọng nói. Đàn ông phải có tiếng nói lớn mới tốt. Sách tướng nói đó là tướng chỉ huy, ra lệnh cho người khác.” Tôi trả lời.

    Điều tôi nói có thể đúng. Sau nầy, ở Bidong, anh ta làm trưởng Khối An Ninh của trại.

    Vào trại được hai hôm, Cao Dai lên làm việc ở phòng SB vì quen với Trần Đình Khánh. Ngay chiều hôm đi làm việc về, anh tìm gặp tôi nói:

    - “Tôi có đề nghị với anh Khánh gọi anh lên làm việc. Anh ta ừ rồi. Mai mốt anh lên làm với tui cho vui.”

    Hôm sau, có loa gọi tôi lên phòng SB. Tôi gặp ông Lã Quí Tr. Và cả ông Trần Đình Khánh nữa. Rồi họ đưa cho tôi một xấp giấy, bảo khai lại lý lịch, khai thật đầy đủ. Tôi làm y lời, khai từ khi nhỏ đến ngày vượt biên.

    Theo tôi biết, hai ông Khánh và Tr. thì ông Khánh là trưởng phòng vì ông Khánh tới đảo trước, làm trưởng. Ông Lã Qui Tr. đến sau, tức làm phó phòng. So cấp bậc, ông nào cũng thiếu tá. Ông Khánh thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, ông Tr. thuộc binh chủng Dù.

    Khi tôi nạp bản khai, ông Tr. nói với tôi: “Tôi là trưởng phòng SB.”

    Tôi hỏi:

    - “Ông Khánh sao?”

    - Ông Khánh cũng trưởng phòng. Tôi sắp lên trung tá.”

    Trời ơi! Tôi than thầm. Tới nước nầy rồi, đi ăn cơm xin mà còn mơ thiếu tá với trung tá. Chắc hai con cọp nầy ở chung một rừng không lâu. Quả vậy, tháng sau, ông Khánh bàn giao trưởng phòng SB cho ông Lã quí Tr. Ông Tr. liền đuổi ông Khánh ra khỏi phòng, xuống ở dưới longhouse, không cho ở tại phòng SB nữa. Trưởng phòng SB ở ngay tại chỗ, khỏi ở chung với đồng bào tỵ nạn. Ai nói đời không bạc như vôi!

    Làm lý lịch xong rồi, tôi chờ mấy ngày không thấy phòng SB kêu lên nhận việc. Cao Dai hỏi tôi, tôi nói: “Có thấy kêu lên đâu!” Cao Dai lên hỏi Trần Đình Khánh, mới biết bản khai lý lịch của tôi ông Lã Quí Tr. đọc xong đem cất riêng, không đưa cho ông Khánh. Ông Tr. kỵ gì tôi khi ông ta đọc lý lịch tôi!? Ông Khánh hỏi ông Tr. lấy hồ sơ lui, rồi cho gọi tôi lên nhận việc.

    Sau nầy, biết lý lịch của Tr. Tôi nói với Nguyễn Dương Hảo, nguyên là kỹ sư canh nông, cũng làm việc tại phòng SB, rằng Lã Qui Tr. là tay rất thủ đoạn.

    Hảo nói với tôi:

    - “Khi còn ở Việt Nam, em là “vua thuốc tây” chợ trời Saigon, mỗi ngày giá cả lên xuống là do nơi em. Lã Qui. Tr. cũng buôn thuốc Tây, mỗi ngày, nó chạy Yamaha dame tới quán caphê, chỗ em thường ngồi, chờ em ra giá xong, nó chạy mối kiếm tiền còm. Qua đây, thấy em, nó gọi em lên phòng SB làm việc liền, đâu có chờ như anh.”

    - “Nó trám miệng ông đấy! Nó sợ ông nói chuyện cũ về nó. chớ gì! Ông biết vậy không?” Tôi nói.

    Hảo trả lời tôi:

    - “Biết rõ hơn chớ, nó làm phó phòng 3 Sư Đoàn Dù mà cải tạo có bốn năm rưởi thì về. Răng về sớm thế!”

    Sau nầy, qua vài người quen, tôi biết thêm, Lã Quí Tr. có vợ bé là con gái bà Hòa Khanh hay Hòa Khánh gì đó, tiệm bán võ xe hơi ở góc đường Nguyễn Cư Trinh và Ngô Tùng Châu, Saigon. Bà nầy là em ông chủ hiệu Rồng Vàng ở Huế. Ông nầy làm kinh tài cho Việt Cộng, còn bà nầy, sau 30 tháng Tư, mang “lon” thiếu tá Công An. Đó là lý do tại sao Lã Quí Tr. đi tù cải tạo về sớm, cùng một lần với trung tá Hải Quân LKL, cháu gọi Lê Đức Anh bằng chú. LKL đi H.O. còn Lã Quí Tr, thì vượt biên. Anh ta là thiếu tá, sắp lên trung tá, vậy phải là sĩ quan giỏi, và qua cái giỏi đó, có bao nhiêu tin tức từ Sư Đoàn Dù qua tay vợ bé của y mà tới tay Việt Cộng?!

    Cũng chưa hết, Lã Quí Tr. vượt biên theo đường giây của Nguyễn Khoái ở Bến Tre. Khoái là đại úy Dù, không đi cải tạo, lại về Bến Tre tổ chức vượt biên, cho vợ đi trước, mở cửa hàng siêu thị ở Mỹ rồi Khoái đi chuyến chót, móc Lã Qui Tr. đi theo.

    Thiên địa ơi! Chuyện gì mà kỳ vậy nè? Đại úy Dù đã không đi tù cải tạo mà lại còn tổ chức vượt biên. Không phải là Trời cũng đoán biết chuyện gì xảy ra. Tr. vượt biên cùng với Khoái cũng chỉ là “ngưu tầm ngưu” mà thôi!

    Do có tì vết, Lã Quí Tr., bắt dò đại tá Bill rất chặt, để được che chở, nào yêu cầu ai làm việc ở phòng SB góp tiền tổ chức mừng “Happy Birthday” đại tá Bill, nào cơm nước điếu đóm và… chuyện gì nữa thì xin hỏi cô Lan, quê Vĩnh Bình, sau nầy lấy một ông bác sĩ người Thụy Điển làm việc ở bệnh viện SickBay trên đảo Bidong. Cô nầy cũng khó thoát khỏi tay Lã Quí Tr.

    Chưa hết đâu!

    Một hôm có chuyến vượt biên tới, trời đã tối. Tôi được gọi lên lập lý lịch cho đồng bào mới tới đảo. Tàu nầy, có hai nhân vật đặc biệt. Một là Bùi Thị Mi, vợ Nguyễn Văn Hiệp, trung tá giám đốc sở Công An tỉnh Đồng Nai. Hiệp là người thay chức Mười Vân bị bắt và bị xử bắn vì tổ chức vượt biên ở Xuyên Mộc. Việc nầy, ở Việt Nam, nhiều người biết.

    Việt Cộng dùng Hiệp để lật Vân, nay họ lại lật Hiệp. Vợ Hiệp, Bùi Thị Mi, sợ vạ lây, hay thị là đồng bọn? bỏ chạy, tới Bidong. Cùng vượt biên với Bùi Thị Mi có Văn Thúy Sang, sinh viên đại học Vạn Hạnh trước 1975, con của Văn Văn L., trước 1975 là nghị viên hội đồng thị xã Vũng Tầu. Sang gọi thị Mi bằng mợ, hai mợ cháu củng vượt biên, hay cháu đem mợ vượt biên, hay cả hai cùng đi trốn vì cùng là đồng bọn cả. Hôm đó, tôi không lập hồ sơ sơ khởi cho hai người nầy.

    Hôm sau, khi uống nước, chúng tôi nói với nhau về hai tay vượt biên mới tới đảo nầy: Bùi thị Mi và Văn Thúy Sang, Tống Văn Thừa, nguyên đại úy Cảnh Sát, cùng làm SB, nói với tôi:

    - “Anh Hải biết không? Hai người nầy ở trong vụ N-3.”

    - “Vụ án hình sự ở Đồng Nai, báo Saigon có đăng?” Tôi hỏi.

    - “Vụ đó chớ chi nữa. Thằng thay chưn Mười Vân làm y như Mười Vân, bị bắt rồi!”

    - “Tui có đọc báo, biết sơ sơ! Ông lưu ý ông Khánh chưa?”

    - “Chưa! Ông Khánh sắp rời đảo đi định cư rồi, nói làm gì. Tôi sẽ nói với ông Tr., nhưng mấy chả nầy biết mẹ gì về tình báo đâu mà làm! Anh với tui phải làm mới được.”

    - “Được, tui chẳng giỏi gì về tình báo đâu, nhưng làm chi cũng được, biết sao tui làm vậy.” Tôi nói.

    Hôm sau, có lẽ do đại úy Tống Văn Thừa nói với ông Tr., nên Bùi Thị Mi và Văn Thúy Sang bị gọi lên phòng SB. Tống Văn Thừa điều tra Bùi Thị Mi còn tôi điều tra Văn Thúy Sang.

    Văn Thúy Sang khai:

    + Về Nguyễn Văn Hiệp, quê ở Đất Đỏ, Đồng Nai, khoảng các năm 1950, 51 là học sinh trường Nguyễn Văn Khuê, gần chợ Cầu Muối (Sau nầy là trường Bồ Đề Saigon), bỏ học trốn theo Việt Minh, năm 1954 tập kết ra Bắc, sau 1975 về nam, làm phó giám đốc cho Mười Vân. Có công trong vụ tố cáo Mười Vân nên được thưởng, lên thay Mười Vân làm giám đốc Công An Đồng Nai. Đầu năm 1989, bị điều tra về việc tổ chức vượt biên ở Xuyên Mộc. Theo tôi hiểu đây là vụ tranh ăn giữa Công An (Saigon) và Công An Đồng Nai. Khách vượt biên phần nhiều là dân (Saigon), trong đó không ít là bạn học cũ của Văn Thúy Sang (thị chối, không khai là do thị móc nối vượt biên để ăn chia với cậu của thị). Dân Saigon mà đem vàng đóng cho Đồng Nai ăn ngon, mấy ông Công An (Saigon) đâu chịu thua. Thế là họ bí mật theo dõi, xin lệnh trung ương về tận Xuyên Mộc bắt vượt biên, Nguyễn Văn Hiệp bị tù.

    + Hôm Nguyễn Văn Hiệp bị bắt, Bùi Thị Mi đang ở Hà Nội. Thị khai về thăm gia đình. Khi thị Mi vào Saigon, biết tin, không dám về nhà, tìm tới Văn Thúy Sang. Cả hai mợ cháu cùng đi trốn và vượt biên. Hiệp đang ở tù, các con ở với nhau, không cha, không mẹ.

    + Bùi thị Mi khai không biết gì về việc làm của chồng, coi như vô tội nhưng sợ Việt Cộng quá, bắt lây, bèn vượt biên cùng Sang.

    + Sang khai như đã nói trên: Sinh viên văn khoa đại học Vạn Hạnh, trước 1975. Sau 1975, Sang về Vũng Tầu ở với cha là Văn Văn L., nghị viên hội đồng thị xã, có cửa hàng buôn bán xe Honda ở Vũng Tầu nhưng đã dẹp tiệp sau khi bị đánh tư sản. Văn Văn L. không bị bắt đi cải tạo, đã vượt biên định cư ở Canada. Văn Thúy Sang cũng vượt biên, đi cùng người yêu, một thiếu úy Quân Đội VNCH, nhưng chuyến vượt biên không thành. Tuy nhiên, đến khi ông bố bảo lãnh cho cả hai người, Sang và người tình, khai là chồng, thì Sang lại không đi, người tình đi một mình. Thị ở lại, quan hệ với bác sĩ Ái, người Quảng Nam, chuyên sửa sắc đẹp ở Saigon. Trong đám nầy, ở đảo còn có Vĩnh Việt Phước, sau đi Úc. Nhờ vậy, theo Sang khai, thị làm ăn khá, và có nhà riêng, trên đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) và có một số của hiện chôn dấu nhưng nhất định, chết thì thôi, không chịu khai cho ai biết nơi thị chôn dấu.

    Tôi lấy lời khai của thị đến đó thì ngưng, Lã Quí Tr. bảo để xem lại. Mấy hôm sau, hồ sơ của thị được chuyển cho Dương Văn Hiếu, trung úy, nguyên nhân viên phòng 2 Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3, tiếp tục hỏi cung.

    Tôi không ngạc nhiên việc nầy, bởi vì, sau hôm thị Sang khai có một số của cải hiện chôn dấu ở Saigon, thì chiều hôm đó, cơm nước xong, tôi cùng vợ tôi ra bãi biển khu C ngồi chơi. Bãi biển khu C tương đối vắng và sạch. Ngồi ở đó, ngồi nhìn ra biển là thấy Hòn Cá Mập, đảo hoang, không có người ở. Hòn đảo có hình giống như con cá mập vừa trồi nửa lưng lên mặt nước.

    Gần bãi biển khu C, cò một cái longhouse nằm riêng, ít ồn ào, thiếu tá Nguyễn Văn Ngh., khóa 20 Đà Lạt, cùng gia đình ở trong longhouse đó cùng người tỵ nạn. Ông Ngh. nguyên là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1… Dù (mới thành lập), là khóa đàn em ông Tr., khóa 18 Võ Bị. Ông Tr., chuẩn bị thay ông Khánh, và đưa ông Ngh. thế vào chức phó phòng của ông. Vậy là hai mặt tiền hậu, Lã Quí. Tr. khóa kỹ, không ai vào SB để trình báo, tố cáo, moi hồ sơ vợ lớn, vợ bé, bà mẹ vợ bé là thiếu tá Công an, v.v… và v.v… Coi như “an toàn trên xa lộ” đi… Mỹ của ông ta.

    Khi tôi đi ngang gian nhà nầy, phía trước có một cái bàn đóng liền ghế, vài người và ông Ngh. đang ngồi nghe BBC. Từ hồi vượt biên tới giờ, tôi không có radio nên không nghe được đài nào. Vã lại, đài BBC là đài tôi nghe rất quen, từ năm học đệ nhị cấp 1955 cho tới ngày đi tù cải tạo, nên tôi chào ông Ngh., xong ghé lại ngồi nghe ké. Được môt lúc, tôi có cảm tưởng như ai đang nhìn tôi. Quay lại thì thấy Bùi Thị Mi và Văn Thúy Sang đang đứng chờ, không phải chờ tôi mà chờ ông Ngh. Tôi biết ý, bèn chào, cùng vợ con đi ra bãi biển. Tôi nghi hai mợ cháu nhà nầy sợ, đang chạy thuốc. Hôm sau, tôi không còn điều tra Văn Thúy Sang nữa. Tôi nói với Thừa việc ấy. Thừa cũng nói anh ta cũng không còn phỏng vấn Bùi Thị Mi, hồ sơ giao cho ai đó tiếp tục, tôi không nhớ tên.

    Đã vắt giò lên cổ chạy trốn Việt Cộng, cũng không chừa thói cũ. “Có ba trăm lạng việc nầy mới xong.” Nghe nói không phải ba trăm lạng mà hai ngàn tiền Mã Lai đấy! “Tổ quốc ơi! Ta yêu người mãi mãi” vì tổ quốc của thời loạn lạc nầy, không khác chi Tổ Cò. Với lại, chú ba Lã Quí Tr., gốc Tầu thì tổ quốc của anh ta đâu phải là… Việt Nam.

    Văn Thúy Sang còn khai thêm về “Vợ bé của ông Thiệu” thường gọi là bà “Sì Nốc”, viết đúng chữ Tây là Cirnos.

    Đây là một restaurant nổi tiếng ở Vũng Tầu, của ông Tây tên là Cirnos. Khoảng giữa thập niên 1950, ông Tây về Tây, sang tiệm lại cho bà Kim Anh. Bà vẫn giữ tên tiệm ăn như cũ để khỏi mất khách.

    Hồi trước 1975, báo chí Saigon cũng nói xa gần, mà người ta cũng đồn rằng bà Kim Anh là bồ của tổng thống Thiệu. Một người bạn của tôi làm chuyên viên ở phủ tổng thống thì nói rằng việc ấy không có. Chẳng qua, ông Thiệu tính tình hay vui đùa, nên trong những lần ông ra thăm Vũng Tầu, trong các buổi tiệc tùng, người ta “cặp đôi” ông Thiệu với bà Kim Anh vậy thôi.

    Hỏi Văn Thúy Sang việc nầy, vì bố cô ta là ông Văn Văn L. với bà Kim Anh là đồng viện, hội đồng thị xã Vũng Tầu. Văn Thúy Sang khai là bà Kim Anh có một đứa con trai với ông Thiệu, đặt tên là Thiếu. Tại sao đặt tên Thiếu, chắc là không phải thiếu tiền mà thiếu tình đó chăng?

    Sau 1975, bà Kim Anh bị bắt đi tù cải tạo, vì tội gì Văn Thúy Sang không biết. Tôi cũng không nhớ Văn Thúy Sang khai bà Kim Anh bị giam ở trại nào. Tuy nhiên, có lần cậu Văn Thúy Sang là Hiệp, trung tá Công An đến thăm trại, nhân viên trong trại giới thiệu một người đàn bà tiều tụy, xấu xí, đang giữ việc nuôi heo là “tình nhân cũ của thằng Thiệu” (Viết như thế cho đúng ngôn ngữ của Việt Cộng). Hiệp thấy cũng tội nghiệp. Ấy là Văn Thúy Sang kể lại như thế! Ít lâu sau, bà Kim Anh được tha, và trong một lần bà đến thăm Mười Vân, đi ngang văn phòng Hiệp, lúc đó đang làm phó cho Vân, Hiệp giật mình khi biết đó là người đàn bà nuôi heo mà Hiệp đã gặp mấy tháng trước. Hiệp không ngờ trên đời nầy có người đẹp và sang trọng đến thế. Nếu không có người nói cho Hiệp biết thì Hiệp không thể nghĩ ra đó là người đàn bà Hiệp từng gặp trong trại tù.

    Từ đó trở đi, bà Kim Anh đến văn phòng Mười Vân rất nhiều lần, và cuối cùng Mười Vân bị bắt.

    Bấy giờ Saigon bàn tán xôn xao về vụ Mười Vân và bồ cũ của ông Thiệu. Bà ấy chơi một đòn độc quá, nhưng cũng chẳng ai thương hại Mười Vân. Sau nhiều chuyến vượt biên ở Xuyên Mộc do bà Kim Anh và Mười Vân hợp tác với nhau, thu không biết bao nhiêu vàng mà kể, thì trong một chuyến gần chót, không biết bà Kim Anh thuyết phục Mười Vân như thế nào mà Mười Vân để cho bà ấy rời Việt Nam.

    Người ta đồn bà Kim Anh đem theo tất cả những tài liệu gì cần thiết để kết tội Mười Vân, kể cả những tấm hình bà ấy ăn nằm với Mười Vân. Những tài liệu nầy, khi bà Kim Anh ra tới hải ngoại rồi, được bà gởi thẳng cho Mascơva. Sư phụ Liên Xô bèn gởi những tài liệu ấy cho đệ từ Hà Nội, không quên kèm theo lời khiển trách, và Mười Vân bị bắt, bị đưa ra tòa xử tử hình.

    Bấy giờ báo chí Việt Cộng mạnh dạn tố cáo Mười Vân, lôi cả dòng họ cha ông Mười Vân ra tố khổ, nào bảo rằng Mười Vân là con chủ tiệm vàng ở Biên Hòa ngày trước. Từ một chủ tiệm vàng trước 1945 thì cũng chẳng có gì gọi là giàu có lắm, báo chí Việt Cộng nâng lên thành tiệm kim hoàn để kết tội Mười Vân là con nhà tư sản thành thị, theo “cách mạng” cũng chỉ là theo hùa, kiếm ăn, thiếu ý thức giác ngộ chủ nghĩa Mác, là nòi bóc lột, phản động v.v… và v.v…

    Dân Saigon có người lại vắt chân ngồi chưởi đổng. Biết người ta là con nhà tư sản bóc lột, không phải là tam đợi bần nông, tại sao lại cho theo “cách mạng” mà không loại trừ ngay lúc ban đầu, nâng cao tới chức giám đốc sở Công An, quân hàm đại tá rồi mới hạ bệ, bôi lọ không thiếu chỗ nào!

    Dân Saigon lại đồn hôm ra tòa, hỏi Muời Vân thu bao nhiêu vàng, chôn dấu nơi nào, Mười Vân trả lời tỉnh khô:

    - “Hỏi ông Lê Duẫn thì biết!”

    Tại sao lại hỏi ông Lê Duẫn? Ông Lê Duẫn làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, có làm quản gia cho Mười Vân đâu mà có nhiệm vụ cất vàng cho Mười Vân. Có người nói mỉa như thế, nhưng ai ai cũng biết Mười Vân tổ chức vượt biên thu vàng có ăn một mình đâu. Cứ “xuân thu nhị kỳ” Mười Vân ra thăm tổng bí thư Lê Duẫn, đi bằng xe hơi riêng và có mang theo va-li nặng nhẹ như thế nào, làm sao biết được. Bây giờ Lê Duẫn theo chân “bác” xuống…. địa ngục rồi, đâu còn chứng cớ. Bà Bảy Vân tuy còn sống đấy, Lê Kiên Thành còn sống đấy, nhưng liệu có hỏi tới thì họ cũng hô to: “Đồng chí tổng bí thư Lê Duẫn muôn năm”, không khác chi “Hồ chủ tịch muôn năm.” Đời người ta không dại nói thiệt đâu! Tục ngữ bảo rằng “Thật thà là cha dại” mà.

    Có người kể rằng bà con đến thăm vợ Mười Vân, thấy bà ta tỉnh khô, làm như chồng bà ta vẫn yên hàn vô sự, không có chuyện chi xảy ra cả. Người ta đòi đi thăm mộ thắp nhang cho Mười Vân thì bà ta gạt đi mà cười. Vậy là sao?! Không lý người bị đem xử tử không phải là Mười Vân mà lại là một tên tù vô danh nào đó thế mạng. Có người không tin, có người tin. Có việc gì xảy ra trong chế độ Cộng Sản mà khiến người ta tin được.

    Phỏng vấn Văn Thúy Sang hai hôm, tôi moi được chừng đó tin tức. Tôi háo hức hy vọng còn moi thêm nhiều tin hay nữa, nhưng bỗng nhiên, tôi được lệnh ngưng phỏng vấn người đẹp hay nói nầy, đã có lần khiếu nại với tôi rằng tôi hay hỏi những câu “bắt thóp” khiến cô ta không khai cũng không được.

    Sau nầy, khi ông Ngh. lên thế ông Tr. rời đảo đi định cư, có lần ông Bill xuống longhouse ăn cơm với vợ chồng tôi và một người cháu vợ ông Bell, mà cũng là cháu của tôi tên là Trương Thị Quí Ph., nhân lúc uống nước trà ăn bánh ngọt, tôi hỏi ông Bill về cái kho tàng của Văn Thúy Sang còn dấu lại ở Saigon. Ông Bill trả lời tôi trong lời khai của Văn Thúy Sang, ông ta có thấy nói gì tới kho tàng đó đâu! Tài thật, cũng khá khen cho chú ba Lã Quí Tr. có tài âm binh hủy bỏ những bản cung tôi ghi nhận ở Văn Thúy Sang và thay vào đó những trang lý lịch “sạch sẽ”. Nói chuyện đó với Nguyễn Dương Hảo, bấy giờ Hảo mới chịu đồng ý với tôi rằng tay ấy là ma đầu. Một mình y, từ nịnh trên nạt dưới, dẫn gái, ma cô, mà xoay chuyển bao nhiều người như không!

    Làm việc ở SB tôi thấy có nhiều cái hay. Nếu cứ nghiên cứu tất cả những lời khai của các binh lính sĩ quan chế độ cũ, người ta có thể vẽ ra một bức tranh ảm đạm những ngày cuối cùng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Cứ như thế mà làm, người ta có thể thấy không khí ngày 30 tháng tư ở Saigon hay đâu đó như thế nào. Nếu cứ nghiên cứu những lời khai của cán binh Việt Cộng, tình báo Mỹ có thể biết tình hình quân đội Việt Cộng sau 30 tháng tư như thế nào, hiểu được những gì Việt Cộng đã làm trước và sau khi tấn công Kampuchia. Cứ nghiên cứu lời khai của cán bộ đảng viên, công nhân, cán sự, kỹ sư vượt biên tới đảo, tình báo Mỹ sẽ hiểu rõ tình hình miền Nam Việt Nam hay Saigon nói riêng hiện đang diễn tiến như thế nào.

    Có điều đáng tiếc, khi hỏi những người vượt biên có học thức, bằng cấp về tình hình các trường đại học ở Saigon như thế nào, thì vì những lý do rất riêng tư, phe nhóm, những người làm việc ở phòng SB lại chưa từng học đại học bao giờ lại đảm nhận việc phỏng vấn ấy. Như truờng hợp hai anh em ông Hà, hai anh em ông nầy mới đậu tú tài 1 rồi đi Thủ Đức, chưa bước chân vào ngưỡng cửa đại học thì biết gì về ngành nầy để phỏng vấn các kỹ sư, bác sĩ khi họ vượt biên tới trại tỵ nạn. Trình độ hiểu biết hạn chế đã thu hẹp khả năng làm việc của họ và ảnh hưởng đến kết quả công việc. Họ được chỉ định làm những việc đó chẳng qua họ là “đệ tử” ruột của các ông trưởng phòng SB.

    Đối với đồng bào tỵ nạn trên đảo - tôi dùng chữ “đồng bào” với đầy đủ nghĩa đen, nghĩa bóng của nó – thì phòng SB và khối An Ninh là nơi họ rất ngại, nếu không muốn nói là sợ. Tuy gọi là An Ninh nhưng thực ra công việc của nó chỉ là giữ trật tự, ngăn chận hoặc bắt giữ những người phạm pháp, quậy phá, du côn, du đảng - thường gọi là “bồ tạt” – khối An Ninh tự phân xử lấy, nếu trường hợp không có gì nghiêm trọng, có thể giam giữ ít hôm ở phòng giam gần khu làm việc của Cao ủy Tỵ Nạn. Trường hợp nghiêm trọng thì mời Cao ủy đặc trách về an ninh, thường là ông Francesco, người Ý, đến phân xử. Còn những vụ án mạng thì phải giải qua Terrenganu cho tòa án Mã Lai xử tội. Có lẽ họ áp dụng theo luật Mã Lai, tôi không rành về các việc nầy vì tôi không làm việc ở khối An Ninh.

    Riêng về phòng SB, người tỵ nạn coi nó như là môt cơ quan tình báo, mật vụ, đảm trách các vụ chính trị, Việt Cộng len lỏi vào trong số đồng bào tỵ nạn để hoạt động sau nầy.v.v…

    Tôi không hiểu sao đồng bào sợ phòng SB đến thế, ngay cả môt số sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước đây. Họ có “tì vết” gì chăng? Có hợp tác với chế độ mới chăng? Có người đi tù cải tạo, không ít người bị đưa ra Bắc, có người đi tù về chẳng làm gì hết, hoặc đạp xích lô, hoặc thợ chụp hình, vá xe đạp, buôn thuốc Tây lậu, hoặc thợ hớt tóc, thợ may, hoặc làm việc cho hợp tác xã, cho công ty, xí nghiệp, v.v…. và v.v…

    Nếu chỉ chừng đó thì có chi đáng sợ?

    Người đáng sợ chính là ông Lã Quí Tr., trưởng phòng SB. Ông ta là phó phòng 3 (Hành quân) Sư đoàn Dù, “sắp lên trung tá” - như ông ta nói, đi tù 4 năm rưởi thì về - người khác thì chắc là ngồi gở trên 10 cuốn lịch đấy -, có mẹ vợ bé là “Việt Cộng nằm vùng”, sau 30 tháng Tư đeo “loon” thiếu tá Công An. Hay như bạn ông, ông Nguyễn Kh., người chủ tàu cho ông đi “free”, đại úy Dù, không học tập cải tạo, lại còn tổ chức vượt biên ở Bến Tre, quê hương ông ta. Những người như thế mới có nghi vấn, mới có câu hỏi chứ. Còn như người nào có làm việc cho hợp tác xã, công ty, xí nghiệp thì cũng chẳng có gì đáng ngại cả. Mắc chi sợ bóng, sợ gió vậy?

    Những người làm việc ở phòng SB hầu hết tham gia chế độ cũ, ít nhiều có đi tù, nên oán hận và thù ghét Việt Cộng, và “hình như” – tôi nói hình như - họ đem cái oán hận đó đổ lên đầu những người vượt biên có ít nhiều quan hệ đến Việt Cộng.

    Chẳng hạn như có hôm tàu vượt biên xuất phát từ Bến Tre tới, đồng bào sắp hàng dọc, ngồi bệt trên sàn nhà chờ gọi làm lời khai sơ khởi, nên có nhân viên SB nhìn họ, gọi mỉa “À! Tàu quê hương Đồng Khởi!” Một bà thuộc tầu nầy trả lời: “Bây giờ Đồng Khổ rồi ông ơi!” Nghe lời đối đáp, tôi hiểu cả hai bên nói và trả lời, và thấy thương cho người dân Bến Tre.

    Trong tập thơ “Nước Non Ngàn Dặm” của Tố Hữu có mấy câu:

    Hỡi ngươi chị của Bến Tre,
    Quê hương Đồng Khởi bốn bể đó chăng?!
    Miển Nam gan dạ ai bằng,
    Đội quân đầu tóc khăn rằn vắt vai.

    Người chị của Bến Tre là bà Nguyễn Thị Định, chức chưởng là Tư lệnh phó Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đứng sau ông Trần Văn Trà. Nhưng chức của Trà hay Định cũng là cái chức “dỗm”, nói ra nghe buồn cười và đau lòng cho người miền Nam dễ tin, nhẹ dạ. Cả tỉnh Bến Tre, đâu có phải ai cũng là Nguyễn Thị Định hay “đội quân đầu tóc” của bà Định cả hay sao? Họ cũng như toàn thể dân miền Nam vĩ tuyến 17 vậy, có người theo quốc gia, có người theo cộng sản. Không phải hễ cứ ai là Bến Tre đều là Việt Cộng cả. Trong trại tù Cải Tạo, khi tôi bị đưa vào “trại Đá” - tức là trại A của Z30-A, trại có xây hàng rào cao và giam kỹ lắm, Việt Cộng sợ chúng tôi trốn trại, thì tôi gặp không biết bao nhiêu sĩ quan chế độ cũ quê ở Bến Tre, bị đưa từ “trại Vườn Đào” từ Cai Lậy lên. Thường hay đùa chơi với tôi thì có Đỗ Trọng Khiêm, chi khu phó Trúc Giang (Không phải bố Trúc Hồ đâu!), Lê Khắc Thiệu, Lê Văn Tào, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thành Trung, (Trung méo, không phải Trung phi công theo Việt Cộng, cũng quê ở Bến Tre), Huỳnh Văn Trí (chúng tôi thường gọi đùa là Tư Thiềng liềng), hầu hết là tiểu đoàn trưởng Địa phương quân. Còn nhiều nữa, có dịp xin kể lại sau. Nếu bây giờ họ có vượt biên tới trại tỵ nạn, nhân viên SB cũng coi họ “quê hương Đồng Khởi” là thân Cộng, theo Việt Cộng cả hay sao?

    Khi lập hồ sơ, nếu ai có đi bộ đội, hay làm việc cho Việt Cộng thường bị nạt nộ, có khi chưởi bới nặng lời. Có lần Nguyễn Văn Cường, kỹ sư luyện kim, ở chung longhouse, than phiền với tôi: “Em học đại học nửa chừng thì Việt Cộng chiếm miền Nam, nên tốt nghiệp sau 1975. Tốt nghiệp rồi Việt Cộng kêu đi làm thì phải làm. Chán chế độ, em đi vượt biên. Em có phải là Việt Cộng đâu mà SB làm dữ vậy!” Còn nếu như ai là bộ đội, thì bị nạt nộ, hăm dọa dữ dằn, cứ bảo là khai gian, khai láo. Xem hồ sơ, tôi thấy họ bị bắt đi “nghĩa vụ quân sự”. Nó cũng giống như ngày trước bị “quân dịt quân gà” vậy, cũng chỉ là kẻ cầm súng nhưng làm bia đỡ đạn cho chế độ, họ có là quan quyền gì đâu mà ghét bỏ, thù hận họ dữ thế!? Có một thanh niên, chỉ nói quê quán thôi, độc giả thừa biết anh ta là người như thế nào. Quê quán là ấp Mò Ó, xã Đại Ngãi, quận Long Phú, tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng cũ). Sinh sống ở ấp Mò Ó thì rõ ràng anh ta mới thấy “đèn điện” - ngọn đèn treo ngược, như cụ Phan Thanh Giản nói - sau khi anh ta tới trại tị nạn. Còn vượt biên: xã Đại Ngãi gần biển, dễ vượt biên, nhất là sau khi Việt Cộng “thả lỏng”, người ta đi thì anh ta “canh me” mà đi. Xứ anh ta dễ “trốn nghĩa vụ” nên anh ta trốn. Vậy mà SB không chịu hỏi cho kỹ, cho là có đi bộ đội mà không khai, nên Lã Quí Tr. giải giao cho Mã Lai, đem giam vào khám. Anh ta bị Mã Lai đánh cho mặt mũi sưng vù lên. Giam mấy hôm, đem anh ta về, anh ta cứ một mực “Tui biết chi bộ đội mà khai.”

    Cũng là nạn nhân Cộng Sản cả, làm gì mà bức bách nhau dữ thế?!

    X X X

    Thật ra, có những sự kiện thuộc lãnh vực tình báo, dân chúng trên đảo nhiều người biết, lại biết rõ, mà phòng SB lại chẳng biết gì hết cả. Tôi có thể cầm chắc tình báo Mỹ không có tài liệu nào nói tới tầu MC 522, là tầu “đi lạc” tới Bidong.

    Câu chuyện đầu đuôi như thế nầy:

    Chiếc tầu MC 522 là tầu mới đóng ở Bình Triệu Saigon, do sở Công An Thành phố (Saigon) chủ trương, đóng để “gài” sở Công An Long Xuyên tổ chứcvượt biên.

    Khi tầu đóng xong, sở Công An thành phố (Saigon) cho người giả dạng móc nối với công an Long Xuyên, tàu được đưa về Long Xuyên, “khách” phần đông là dân Saigon, được người của Công An Long Xuyên móc nối để lên “ghe lớn”, ghe đậu ngay tại “Ngã Ba Lộ Tẻ.”

    Kế hoạch vạch ra là khi “khách “ lên ghe xong đâu đó rồi, công an Thanh phố (Saion) sẽ bao vây, bắt ghe, lập biên bản, truy tố Công An Long Xuyên tổ chức vượt biên.

    Để nắm gọn toàn bộ “khách” không cho ai chạy thoát, thì tài công là người của Công An thành phố gài vào. Bên cạnh tài công, còn có một tay làm điểm chỉ cho công an, tên nầy là con của Ba Trí, nhà ở phía ngoài cư xá Thanh Đa, kế “Nhà Nghỉ Thanh Đa” Saigon. Tên nầy được cấp một cây Carbine, chờ hễ khi Công An bao vây, y sẽ đứa súng lên, bắt tất cả mọi người ngồi im, không được trốn chạy.

    Ở Thanh Đa (phường 27, quận Bình Thạnh), nhiều người biết Ba Trí. Trước 1975, y là tên du đãng nổi tiếng ở ngã năm Bình Hòa, Gia Định, trốn quân dịch. Ngày 30 tháng Tư, 1975, y dẫn đường cho Việt Cộng từ cầu Banky vào tiếp thu tòa hành chánh tỉnh Gia Định. Sau đó, y được tuyển dụng làm tài xế cho sở Công Nghiệp Thành phố (Saigon). Vì bản chất là một tay du thủ du thực, một gốc với “thằng Cảnh”, tức Trần Quốc Hoàn, y được chế độ mới ưu đãi. Con trai của y chẳng đứa nào phải “thi hành nghĩa vụ quân sự” và làm chỉ điểm cho công an địa phương.

    Tài công là người miền Nam, nhưng vợ tài công là con gái cán bộ, hợp tác với con trai Ba Trí trong vụ “gài vượt biên” nầy. Chồng của thị, không biết việc làm của vợ.

    May mắn cho chuyến tàu vượt biên MC 522 nầy là khi “khách” đã lên tầu xong xuôi, đầy đủ, thâu hết vàng của khách rồi, thì Công An Long Xuyên ra lệnh nhổ neo, theo kinh núi Sập ra biển, có Công An Long Xuyên hộ tống, trong khi Công An Thành phố chưa kịp về tới.

    Dĩ nhiên, đến Bidong, phần đông “khách” đi tầu không ai biết việc nầy. Người bị kẹt là con trai của Ba Trí, y là người do Công An thành phố gài vào chứ đâu có muốn vượt biên. Y khai là cây súng Carbine do người tổ chức vượt biên trao cho y, đề phòng hải tặc Thái Lan. Sau đó, y xin được hồi hương, và suốt ngày trốn trong nhà. Y biết ở đảo, không ít người gốc ở Thanh Đa, nhận ra y là con Ba Trí. Mãi đến khi y được cao ủy cho rời đảo để hồi hương, việc y được Công an thành phố gài vào tổ chức vượt biên mới bật mí nhiều người biết. Và tôi cũng biết, biết rõ hơn những ngươi khác vì trước khi vượt biên, tôi cũng ở Thanh Đa, một xóm với Ba Trí.

    Trường hợp Phan thị Hương cũng khá đặc biệt. Trước 1975, thị Hương là sinh viên, hoạt động cho Việt Cộng. Khi Cộng Sản chiếm Saigon, thị Hương là cán bộ, đội nón cối, mặc đồ bộ đội màu xanh, hằng ngày đi làm có xe hơi đưa rước. Cán bô cấp trung, cấp cao lui tới nhà thị tấp nập, rồi thi có bầu. Năm 1988, thị vượt biên tới Bidong với đứa con trai khoảng 1 tuổi là con không có tên cha. Có lẽ thị Hương không chọn được tên cha là cán bộ nào trong số lui tới nhà thị. Khi có người tố cáo quá trình của thị cho phòng SB, thị Hương bị điều tra. Thị cứ một mực khai sau “giải phóng” thị bán thuốc Tây ở chợ trời. Phòng SB cũng chịu thua. Sau đó thị Hương được định cư ở Canada.

    Dĩ nhiên, tôi chán làm việc ở đây. Tôi thấy mình thừa! Ông Tống Văn Thừa, sau vụ Bùi Thị My, Văn Thúy Sang cũng thấy thừa, đúng như tên ông là Thừa, nên ông bỏ không đi làm, đi chơi lang thang “mà còn hơn” như ông nói với tôi vậy. Nguyễn Dương Hảo cũng qua làm việc ở phòng Phát Triển Cộng Đồng. Có lẽ qua Hảo giới thiệu, một hôm ông cố vấn Trương Mạnh Hùng qua phòng SB gọi tôi ra, yêu cầu tôi qua làm việc ở phòng Phát Triển Cộng Đồng với ông ta.

    Tôi trả lời:

    - “Tôi đi rồi, các con tôi ở Việt Nam đang chuẩn bị vượt biên theo cha mẹ. Tôi muốn làm việc ở phòng SB để được là người đón các con khi chúng vừa đến đảo.”

    Cố Vấn Trương Mạnh Hùng cười:

    - “Anh yên tâm. Làm việc ở đây, anh chỉ được đón con anh khi chúng đến phòng SB. Còn tôi, tôi sẽ đưa anh ra tận cầu jetty, đón các con anh khi chúng vừa bước chân lên đầu cầu.”

    Nghe thế, tôi cũng khoái trong bụng, nhưng chưa quyết đoán. Đến gần Noel, chiếc ghe vượt biên của các con tôi đến đảo nhưng không có đứa con nào của tôi trên ghe đó cả. Tôi chỉ nhận được một lời nhắn của đứa con trưởng nhắn lại với người đi cùng chuyến: “Em qua nói với ba chị, Bi chết, chị và các em phải quay trở lui để tìm xác Bi.”

    Ghe chúng nó bị lật trên đường ra chiếc ghe lớn. Chúng lên được ghe lớn rồi mà phải quay trở lui.

    Bỏ việc, tôi ra về. Tôi và vợ tôi nằm ôm mặt khóc suốt buồi chiều hôm đó!
    ***************

    Comment


    • #3
      3. Hải Tặc Thái Lan




      Tại sao tôi gọi “Hải Tặc Thái Lan!”

      Dễ hiểu thôi bởi vì hầu như tất cả các vụ cướp biển, chận bắt tầu vượt biên, giết người, bắt đàn bà con gái, lục soát cướp đoạt tài sản người vượt biên, đánh đắm tầu, không cho ai sống còn để khai báo, v.v… là do ngư phủ Thái Lan cả. Ngư phủ Mãi Lai chỉ xàm xở với đàn bà con gái, cướp dầu, mì gói, lương thực, chứ không giết người, bắt người như ngư phủ Thái Lan.

      Bọn ngư phủ nầy tung hoành trong vịnh Thái Lan, không ai làm gì chúng được, vì chúng có dù che!!!???

      Để ngăn chận tệ nạn nầy, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hợp Quốc, mỗi năm chi ra một triệu đô la cho chính phủ Thái Lan để chính phủ nầy có thêm phương tiện hoạt động, nhưng từ khi có thêm tiền thì tệ nạn hải tặc không bớt đi mà lại gia tăng! Ấy là tại sao? Xin đọc hồi sau sẽ rõ.

      Cô cao ủy Delle, như tôi giới thiệu trong phần trên, là người đặc trách về hải tặc của cao ủy tỵ nạn, là người rất có lương tâm, rất tận tâm, cũng phải sợ những cái dù của đám ngư phủ hải tặc Thái Lan.

      Việc truy tìm hải tặc Thái Lan không thuộc sơ trường của cao ủy Delle, nên cô không tìm được nhiều những tên hải tặc do các nạn nhân, thoát chết, tới được đảo, khai báo với cô. Thường lời khai các nạn nhân thì có: nhân dạng (mặt mũi, mầu da, tóc tai, tuổi tác, v.v…). Nhận dạng người và nhận dạng tầu.

      Người thì nhỏ nhưng dễ nhận dạng vì khi chúng nhẩy qua tầu vượt biên, chúng không cần phải che dấu mặt, nghênh ngang cầm dao lớn hay mã tấu, đi tới đi lui trên ghe, lục soát, nạt nộ người nầy, đâm chém người kia, bắt con gái đàn bà mà không sợ ai cả. Còn ghe của chúng thì to lắm, gấp ba gấp bốn ghe vượt biên, nhưng người ta không rõ tầu gì. Bọn hải tặc lấy các tấm bạt nylon che mất số tầu. Người ta chỉ nhìn cách chúng nó trang trí ghe như thế nào, sơn mầu xanh mầu đỏ gỉ đó, vẽ hình những con vật gì đó để khai với cao ủy Delle.

      Khi tôi tới đảo, anh Võ Thế Long, cựu đại úy Cảnh Sát, sau khi du học ở Mỹ về, hoạt động trong ngành Interpol của bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa, tới đảo trước tôi ít lâu, đã giúp việc cho cao ủy Delle một thời gian. Ông Long dùng những phương pháp chuyên môn trong ngành như phân tích nhân dạng, phân tích tầu, đối chiếu, v.v… và tìm ra được một số tầu, một số người để các cô gái nạn nhân nhận dạng người và tầu. Nhờ vậy, cô cao ủy Delle dẫn các nạn nhân qua Bangkok để nhận mặt các tên hải tặc, một số bị tòa án Thái Lan xử tù.

      Từ đó, bọn hải tặc Thái Lan không vào bờ. Khi tầu của chúng đánh cá xong, trở vào bờ, gần tới nơi, chúng nhảy qua những tầu ra khơi để đi tiếp, Cảnh sát Thái Lan có biết tên tuổi chúng, cũng không làm gì được.

      Vã lại, chủ tầu đánh cá Thái Lan là “bọn” tướng tá quân đội và cảnh sát Thái Lan. Tôi dùng chữ “bọn” không phải là sai đâu! Vì quyền lợi đánh cá, “bọn” tướng tá nầy bao che cho “bọn” hải tạc, ngăn chận và hăm dọa những người hoạt động trong công việc chống hải tặc, nên những người nầy sợ chúng, chẳng dám làm gì hơn.

      Chính cao ủy Dellle, người Thái Lan, biết chuyện đó, cũng sợ chúng. Mỗi lần đi Bangkok, khi cao ủy Delle tới biên giới Mã Lai - Thái Lan, cô phải cải dạng, ăn mặc như một người đàn bà Thái Lan bình thường, để khỏi bị chúng nhận ra và ám hại.

      Kể từ khi Cảnh Sát Thái Lan bắt giữ và đưa một số ngư phủ hải tặc Thái Lan ra tòa, hành động của chúng càng tàn ác và hung tợn nhiều lắm. Thay vì cướp của, bắt đàn bà con gái, giết những ai chống lại chúng rồi thả cho ghe vượt biên đi. Bây giờ cướp ghe nào, sau khi lấy hết những gì chúng muốn, bắt những ai chúng muốn, giết những ai chúng muốn, còn lại, chúng đánh chìm ghe vượt biên, cho chết hết, ở ngoài biển khơi, để không còn ai sống sót mà khai báo với Cao Ủy Tị Nạn.

      Tàu chúng thì to, mới và rất tốt, ghe vượt biên thì nhỏ, cũ, mong manh. Chúng chỉ cần cho tàu của chúng đâm thẳng vào ghe vượt biên, ghe vở toang ra, chìm xuống biển, chẳng ai sống sót.

      Ghe của tôi mang số MC 483. Ghe trước tôi, không nhớ rõ, hình như MC 482 hay MC 481 khoảng 130 người vượt biên trên ghe, bị chết đuối trên biển hết trọi, sau khi bị ghe hải tặc Thái Lan đánh cướp, bắt đi mấy người con gái, đàn bà. Những người bị bắt nầy bị chúng đem về nhốt ở một hoang đảo nào đó, rồi trước sau cũng chết vì đói khát, vì bị chúng hảm hiếp liên miên, hoặc bị chúng giết, thả xuống biển, sau khi chúng đã chán chê.

      Khi tôi đang ở đảo, báo Đường Sống, báo của di dân hải ngoại viết về thuyền nhân, có kể chuyện một cô gái, hình như con của một đại úy phi công chế độ cũ, bị hải tặc bắt, đem về giam ở một hòn đảo hoang, sau có một tên đem cô về đất liền Thái Lan để làm vợ. Cô gái ấy trốn được, lên tận Bangkok, tố cáo với Cao Ủy Tỵ Nạn. Mấy tên hải tặc bị bắt, bị tòa xử tù. Cô gái thoát nạn được định cư ở Mỹ, và tuyên bố cô ta sẽ xây dựng lại đời cô, sẽ thành một bác sĩ. Tôi ước mong cô ta sẽ toại nguyện. Con người can đảm như thế, khí phách như thế, sẽ đạt được ý nguyện của mình thôi!

      Khi tôi còn làm việc ở phòng SB, một hôm, thấy có năm hoặc sáu người vượt biên mới tới, từ Văn Phòng Lực Lượng Đặc Nhiệm Mã Lai đưa sang. Nhìn họ, tôi nói với kỹ sư Nguyễn Dương Hảo, ngồi làm việc bên cạnh tôi:

      - “Ông xem, mấy người nầy trông ghê quá!”

      Da họ đen xạm, nhiều chỗ nứt nẻ, rướm máu. Họ đi không vững, có người phải có người đỡ.

      Ông Hảo ra đứng xem, hỏi chuyện với họ. Sau đó tôi được biết:

      Tầu họ khoàng 120 người, bị hải tặc Thái Lan tấn công. Sau khi bắt đi mấy cô gái, chúng cho tầu của chúng đâm vào ghe vượt biên. Ghe vỡ, phần đông chết đuối cả. Mấy người nầy ôm những tấm ván vỡ, trôi lềnh bềnh trên biển hai đêm hai ngày, may nhờ tầu đánh cá Mã Lai vớt được, đưa vào Terrenganu. Hai ngày hai đêm trên biển, vừa đói vừa khát, vừa đuối sức nhưng cũng cố bám vào tấm ván nên sống sót. Trên thì nắng nhiệt đới, dưới là nước biển, da họ bị sưng lên, rồi vở ra, nứt nẻ nên trông khiếp như vậy. Tôi nhớ ghe của họ được đặt tên là MC 513.

      Hôm sau, lại thêm ba người nữa được đưa tới, cũng tình trạng y như những người đến ngày hôm qua, đuối sức, da nứt nẻ, đi không vững. Hỏi ra, họ đi cùng ghe với những người ngày hôm qua, nhưng được vớt trễ hơn một ngày, có người vướng vào lưới đánh cá của ghe ngư phủ Mã Lai, được lưới kéo lên. Những người nầy được đặt tên là MC 514, tuy cùng ghe với những người trước.

      Ngư dân hải tặc Thái Lan không phải là những tên gan dạ. Chẳng qua vì người vượt biên sợ hãi quá, nhát gan quá, lại không ai chỉ huy, thống nhứt để chống lại nên chúng mới lộng hành như thế. Có một ghe vượt biên, phần đông là thanh niên Saigon, gan lắm. Khi ghe hải tặc Thái Lan đến gần họ, họ cùng đứng lên, gặp gì, thấy gì, họ cầm lên, cương quyết chống cự. Có người thì quăng nồi, quang thùng sang tầu hải tặc, có người lăm cầm cây sào chờ bọn hải tặc nhảy qua tầu họ là họ sẽ tấn công. Thấy “khí thế” như vậy, bọn hải tặc Thái Lan quay mũi tầu chạy mất.

      Trường hợp đại úy Nguyễn Văn Trọng cũng buồn cười. Trước 1975, đại úy Trọng làm quản lý câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc của bộ Tư Lệnh Không quân VNCH trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Do đó, ông biết mặt nhiều nhân vật nổi tiếng, nhứt là trong giới không quân. Sau 1975, tù cải tạo về, Việt Cộng không cho ông ở lại Saigon, nhà ông ở khu vực cuối đường Nguyễn Tri Phương, gần chợ cá Trần Quốc Toản, buộc ông đi kinh tế mới. Khó khăn quá, ông bèn vượt biên. Biết ông là sĩ quan chế độ cũ, người chủ vượt biên giao cho ông nhiệm vụ xem bản đồ để định hướng cho ghe đến đúng Bidong, và giao thêm một cây súng Carbin M-1 (bắn từng phát một) để phòng, hễ bọn hải tặc tới thì phản ứng.

      Ông Nguyễn Văn Trọng, người ốm nhom, đứng nhiều khi muốn té, cười cười kể (cho tôi nghe):

      - “Tôi đứng ở phía sau cabin của tài công, chỉ đường cho ghe chạy. Một hôm, mới tảng sáng, tôi thấy ghe Thái Lan đuổi theo. Trời sáng, tụi nó thấy rõ ghe mình mới đuổi theo còn trong đêm, tôi biểu tài công tắt đèn mà chạy để bọn Thái Lan không thấy ghe mình. (Ghe tôi đi, tài công là “Phong dưa hấu” cũng làm y như thế, tắt đèn chạy trong đêm để tránh hải tặc nhận ra ghe vượt biên). Tui bình tĩnh đứng sau cabin chờ ghe hải tặc tới. Tay tôi thủ cây súng Carbin, đạn đã lên nòng, khóa an toàn. Mấy ngày nay, ngày nào, tôi cũng chùi súng, rất kỹ. Tui chùi nòng cho thật sáng, xem lại cơ bẩm, kim chích hỏa. Tui chờ ghe Thái Lan tới cách khoảng năm chục thước, bèn đưa súng lên, mở khóa an toàn, nhắm cho đầu ruồi đúng vào chỗ tài công tụi nó. Xong, tui nổ một phát. Súng cũ quá, cơ bẩm văng ra khỏi súng, rơi xuống sàn đánh bụp một cái, rồi dội lên, văng tuốt xuống biển đánh ùm. Tôi lo lắm, than thầm: “Chết cha rồi!” Nhưng khi ngó lại, tui thấy ghe hải tặc bỏ chạy mất. Mừng rúm!”

      Người Thái Lan theo đạo Phật, nhưng theo tôi thấy, họ không giống người Việt theo đạo Phật chút nào. Đạo Phật Việt Nam ở trong truyền thống dân tộc, ai chăm thì đi chùa thường, học kinh học kệ, nói ra thì đầy những kinh sách, Phật dạy thế nầy, thế kia. Ngoài ra, giới bình dân, người ta ít đi chùa hơn, mỗi năm vài ba lần trong những ngày vía, rồi thôi. Đạo Phât của họ là trong cách sống thường nhựt, ăn hiền ở lành, thương người nghèo khó, hoạn nạn, ăn mặn nhưng tránh sát sanh, v.v… nên người ta ít cuồng tín. Người Thái Lan đi chùa rất thường, rất cung kính, cầu nguyện, xin xỏ, mong cầu, phù phép, và rất tin, phần đông cuồng tín. Họ tin Phật như vậy mà tại sao ác thế. Hay cứ làm ác rồi vào chùa cầu xin là xong. Họ cũng chẳng hiền hòa như người bình dân Việt Nam.

      Với tôi thì “Tận tín thư bất như vô thư” cho nên chẳng bao giờ tôi có thể trở thành một tín đồ ngoan đạo, đạo nào cũng vậy. Nhưng tôi tin ở Bác ái Công giáo và Từ bi Hỷ xã Phật giáo. Những điều ấy thật là vĩ đại, là cần nhứt cho nhân loại mà thôi!

      Trên đồi tôn giáo, tại sân trước nhà thờ, Cao Ủy Tỵ Nạn và chính quyền Mã lai đồng ý cho Văn Phòng trại và đại diện các tôn giáo xây một tượng đài kỹ niệm những người đã bỏ mình trên biển.

      Kiến trúc khá hiện đại: Trên một bệ đá hình tròn là hình dạng một chiếc ghe vượt biên tơi tả với ba cánh buồm, cao thấp không bằng nhau, vươn cao lên. Tượng được xây theo lối vẽ cách điệu, nhìn dáng cách thì biết chứ không rõ đường nét như tranh thường.

      Bên cạnh đài tưởng niệm là một bức tường đá. Những tầư đến từ mấy năm trước, người ta muốn để lại một kỹ niệm nên khắc tên tàu mình lên một tấm bảng gỗ hay ximăng, hay bằng đồng rồi đặt lên đó, cái cao cái thấp bên cạnh nhau. Kể hàng trăm tấm bảng như thế! Tôi cố tìm tấm bảng kỹ niệm của ghe con gái thứ ba (kể theo trong Nam) của tôi đến đây 5 năm trước. Tôi vui mừng khi thấy nó: MB 475.

      Buổi chiều, leo lên ngồi trên bệ đá nhìn ra khơi: Phía bên nầy biển khơi mù mịt, phía bên kia là rặng núi cao, là xương sống của bán đảo Mã Lai, làm tôi nhớ tới rặng Trường Sơn ở quê nhà. Khi mặt trời chiều đỏ ối như một khối lửa nghiêng xuống, đụng vào đỉnh núi tóe ra muôn vàn tia mặt trời đỏ như hình nan quạt, rồi chìm khuất sau những đỉnh núi hình răng cưa, là tôi nhớ nhà da diết. Người xưa ra đi khi còn trẻ, già trở về cố hương, ấy là “Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi”. Tôi nay đã “lão đại hồi” mới “ly gia”, rồi mai đây học nói tiếng Anh, tiếng Mỹ, làm sao mà còn “hương âm vô cải” và chắc chắn không hát được câu “Tung cánh chim tìm về tổ ấm.” Mà về làm gì, nơi đầy đọa ấy, nơi quê hương là “Chùm khế chua.” Tôi chợt nhớ ngày xưa, khi báo chí phỏng vấn tướng Nguyễn Văn Hinh, hỏi ông nghĩ gì về Việt Nam và Pháp, ông ta trả lời: “Việt Nam là nơi xua đuổi tôi, Pháp là nơi cho tôi hạnh phúc.” Vậy muốn sống, người ta phải tìm nơi hạnh phúc là lẽ đương nhiên, sao tôi vội trách ông là người mất gốc. Nay nghĩ lại câu nói của ông, tôi thấy hối hận với lòng mình. Ở đời đừng vội chê ai!

      Ở Bidong, có thêm một đài kỹ niệm nữa là tượng “Ông Già Bidong” Sự tích ông già Bidong là một huyền thoại, được thêm bớt tùy theo người kể. Tuy nhiên, Ông Già Bidong là người tỵ nạn tiên phong, tới Bidong trước nhất, so với đám hậu duệ là những người như chúng tôi. Ông là tài công chiếc tầu sắt đến đây từ lâu lắm, trước khi có các đợt vượt biên, người Việt bỏ nước ra đi. Ông ta đến đây với mấy chục thuyền nhân trên tàu của ông. Lúc đó Bidong hoàn toàn là đảo hoang, không có người ở. Thỉnh thoảng ngư dân Mã lai dừng lại đây ít hôm, tránh gió hoặc chờ qua cơn bão lại để tiếp tục ra khơi bỏ lưới. Chính quyền Mã Lai hoàn toàn vắng mặt nơi đây, và ngay cả Liên Hợp Quốc cũng chưa có chương trình cứu trợ những người Việt Nam chạy trốn Cộng Sản, để làm thuyền nhân, và ngay cả hai tiếng “boat people” mà người ta dịch là thuyền nhân cũng chưa có tên trong tự điển.

      Thế mà Ông già Bidong đến đó. Thuyền ông nằm trên bãi cát. Thuyền thì hết xăng dầu, người cũng hết lương thực, đói lã. Có người đi hái những trái dừa trên đảo hoang để kiếm nước uống và ăn cơm dừa. Nhưng đâu có phải ai cũng làm được như vậy. Một buổi chiều, Ông Già Bidong ra ngồi dưới gốc dừa ngó mông ra biển. Đứa cháu gái đã chết trên tay ông. Và ông già, - có người thêm thắt cho ly kỳ, ngộ nghĩnh, - bị một quả dừa khô rơi trúng đầu, và ông cũng trút hơi thở cuối cùng nơi gốc dừa đó, với đứa cháu gái còn trên tay ông.

      Câu chuyện Ông Già Bidong có thật đấy, bởi vì, khi thấy chiếc tầu sắt đã rữa mục nằm trên bãi cát khu A, là chiếc tầu do Ông già Bidong lái tới đây, như một lời chứng cho huyền thoại về ông già đáng thương đó. Tuy nhiên, vì hồi đó, những người cùng đi với ông, đâu biết ai còn ai mất, sau khi một số người được chính quyền Mã Lai cứu giúp, rồi Bidong trở thành đảo tỵ nạn, có khi đông nhất lên tới bốn chục ngàn người, thì câu chuyện Ông Già lái tầu tới biển được thêm vào trong kho tàng văn chương chuyện kể Việt Nam.

      Có thực hay không - nhưng ít ra cũng có một ông già lái tầu như thế - đã đến đây và chết ở đây, trở thành một câu chuyện linh thiêng, có người khấn vái ông để được đi định cư, và thuyền nhân lần lượt được định cư thật, thì câu chuyện thêm phần huyền bí linh thiêng.

      Độc giả nhớ cho rằng, những thuyền nhân tiên khởi ấy, khi họ bỏ nước ra đi, chưa có chương trình tỵ nạn của Liên Hợp Quốc, chưa có chương trình giúp dân tỵ nạn của chính quyền các nước Đông Nam Á thì nỗi lo sợ của các bậc tiên khởi của chúng ta lớn biết bao nhiêu! Chưa có lời hứa hẹn của chính phủ các nước cho định cư, chưa có các trại gúp người tỵ nạn, số phận các bậc tiên phong đó, bồng bềnh như cánh bèo trên sông, biết đi đâu và dừng lại nơi đâu?! Thành ra, nỗi bơ vơ lạc lõng của họ hồi ấy thật là vô bờ bến, không như nhưng kẻ đi sau, biết chính phủ Mỹ, chính phủ Úc và các nước Châu Âu mở vòng tay đón đợi, yên tâm hơn nhiều.

      Thế rồi vì nhớ ơn Ông Già linh thiêng ấy, người tỵ nạn họp với nhau lại bàn bạc, có văn phòng trại hưởng ứng, giúp đỡ, tượng Ông Già Bidong được dựng lên: Một ông già râu tóc dài, đứa cháu gái chết nằm trên tay, đặt gần bờ biển, phía chân đồi tôn giáo. Mỗi ngày, nơi tượng Ông Già Bidong khói hương nghi ngút vì người ta tiếp nối nhau cầu nguyện ông phù hộ cho mau định cư, hoặc định cư nơi muốn chọn, hoặc cầu nguyện cho gia đình ly tán mau sum họp, hay cầu nguyện anh nầy chị kia được kết duyên Tấn Tần, v.v…. Càng về sau nầy, khi có chương trình “Thanh lọc người tỵ nạn”, sợ bị “hỏng thanh lọc”, sợ bị “cưỡng bức hồi hương”, tượng Ông Già Bidong càng thêm nghi ngút khói, cho đến một ngày thuyền nhân đi hết, trại Bidong giải tán, trở lại thành đảo hoang. Và Ông Già Bidong vẫn còn ngồi lại đó, đứa cháu gái chết rồi vẫn còn nằm vắt trên tay ông. Mắt ông nhìn ra biển khơi.

      Ông Già Bidong kính mến!

      Có lẽ ông nhớ về cố quận, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông bỏ đi khi tuổi đã già, bơ vơ nơi đất khách, bỏ mình nơi đảo hoang, một thời được gọi là “Đảo Rắn.” Đảo Rắn là tiếng dịch từ hai chữ Bidong trong ngôn ngữ người Mã Lai.

      Dù gì thì người tỵ nạn vẫn cám ơn người dân và chính quyền Mã Lai đã đón tiếp thuyền nhân, cho một nơi tạm trú, trong khi chờ định cư ở quốc gia thứ ba.

      Dù gì thì cũng phải cám ơn dân chúng Mã Lai, mặc dù, về sau, khi có chương trình cưỡng bức hồi hương, chính quyền Mã Lai, muốn người tỵ nạn về nước cho mau, đã không nương tay khi lôi kéo, xô đẩy, đánh đập những người kém may mắn, buộc phải hồi hương theo chương trình của Liên Hợp quốc.

      Tấm lòng nhân ái, phát xuất từ lòng nhân đạo của người Mã hay từ đạo Hồi là tôn giáo của số đông người Mã. Tuy nhiên, nói ra là thấy đau lòng. Tại sao chính quyền Mã Lai lại cho đập phá bia kỹ niệm của người Việt dựng lên ở Bidong sau khi người tỵ nạn đã đi hết và Bidong lại trở thành một đảo hoang.

      Bia kỹ niệm thuyền nhân của người Việt dựng lên ở Bidong có hai ý nghĩa. Họ ghi nhớ những thuyền nhân đã đến đây, đã đi định cư hoặc bỏ mình trên đảo.

      Bên cạnh đó, ý nghĩa thứ hai của bi kỹ niệm là ghi nhớ công ơn của chính quyền và nhân dân Mã Lai đã có lòng nhân đạo, giang tay đón rước người Việt Nam tỵ nạn, bỏ quê nhà ra đi. Ơn ấy, rất khó trả, và bia kỹ niệm ấy nói lên ơn ấy, lòng nhân đạo ấy.

      Chính quyền Mã Lai nghe ai mà đập bỏ bia kỹ niệm ấy đi. Đập bỏ nó chính là chính quyền Mã Lai đã phủ nhận lòng nhân đạo của mình! Phủ nhận cái hay cái tốt của chính phủ mình, nhân dân mình. Điều ấy có hay ho gì đâu!

      Lẽ nào vì một ít quyền lợi buôn bán mà phủ nhận lòng nhân ái của mình. Phủ nhân chính mình! Buồn cuời thay! Người có lương tri ai làm thế bao giờ.
      ***************

      Comment


      • #4
        4. Phòng Phát Triển Cộng Đồng (PTCĐ)



        Khi tôi nhận việc ở phòng Phát Triển Cộng Đồng thì một vài anh em trước kia làm việc cho phòng SB nay cũng đã qua làm việc cho phòng PTCĐ rồi, như kỹ sư Nguyễn Dương Hảo, anh Hồ Đắc Liệu, nguyên trung úy phòng 2 Sư Đoàn 1/BB. Những người mới vô làm thì có Bửu Tộ, kỹ sư canh nông. Ông Nguỵ Vũ, ông Lê Vĩnh Tường, hai người nầy phụ trách ban Văn Nghệ. Người cũ thì tôi không biết ai không, ngoại trừ cô Nguyễn Thị Mỹ Duyên. Ông Vĩnh Việt Phước, không làm gì ở đây nhưng là người đứng sau lưng Cố vấn Truơng Mạnh Hùng, ưa giựt giây ông nầy.

        Ngay sáng hôm tôi nhận việc, ông Cố vấn Trương Mạnh Hùng kêu mọi người lại họp ngay tại bàn tôi làm việc. Họp ở dây rất tiện. Đó là một cái bàn dài bằng gỗ ép, hai cái băng dài đặt hai bên. Tôi ngồi trong góc, sát cửa sổ.

        Nội dung buổi họp là bàn về việc phát thanh, làm tờ đặc san, v.v…

        Truớc hết, tôi nói chuyện làm tờ đặc san.

        Khi tôi mới tới đảo ít lâu, nghe trên loa gọi chung, ai có nhiệt tình hay khả năng gì đó, đến văn phòng trại tham dự buổi họp để bàn việc làm một tờ đặc san cho trại.

        Tại buổi họp đó, trước hết, người ta bàn về việc đặt tên cho đặc san. Ông cựu đại tá Nguyễn Thiều thì đề nghị một cái tên nghe rất kêu: “Khát Vọng Tự Do.” Một người ngồi bên tôi, không nhớ là ai, nói đùa: “Mấy hôm ở trên ghe, không có nước uống, khát thiệt! Nay tới dảo rồi, mỗi ngày Mã Lai phát cho mỗi người môt xô nước ngọt, khát gì nữa.” Có người đề nghị đặt tên là “Vượt Sóng”. Và người ta còn đề nghị nhiều tên nữa, tôi không nhớ hết.

        Về nội dung, tờ báo nói cái gì, không nghe bàn kỹ, chỉ nghe kêu gọi ai có bài nào xin gởi tới, sẽ có ban tuyển chọn để cho đăng vô đặc san. Tôi không có ý kiến chi cả, họp cho biết và cũng không nghĩ rằng tôi sẽ gởi bài.

        Từng viết bài viết bung hồi còn đi học, tôi thấy việc làm báo làm bung thường “phe đảng”, chọn bài phe ta, và hay “mặc áo thụng vái nhau.” Thứ hai nữa, không tìm được những người có khả năng để mời cộng tác, thì tờ đặc san sẽ rất “tào lao”, nội dung chẳng nói lên được chi cả.

        Tuy nhiên, trong số những người đến họp, tôi để ý một ông già, - cũng chưa già lắm, nhưng vì gầy nên trông già vậy thôi -, nói năng mạch lạc, rõ ràng, giọng Quảng Nam. Tôi nghĩ thầm: “Mấy ông ngũ phụng tề phi, Quảng Nam hay cải (2), nhưng có khả năng lắm đây.” Ấy là kinh nghiệm hồi còn đi học với mấy anh “trong Quảng ra thi” (3). Hồi ấy Quảng Nam chưa có đệ nhị cấp, mấy tay Quảng Nam phải ra học chung với dân Huế và Quảng Trị ở Khải Định, sau vài năm đổi tên trường Quốc Học Ngô Đình Diệm; và hồi cộng tác với tờ “Mùa Lúa Mới”. Các ông Võ Thu Tịnh, Đỗ Tấn, Vũ Hân, Kỳ Quang là dân Nam Ngãi Bình Phú hết. Sau khi ông Võ Thu Tịnh vào Nam, tờ báo giao lại cho giáo sư Lê Hữu Mục, đổi tên là Rạng Đông, mấy ông Nam Ngãi Bình Phú không cộng tác nữa, tờ Rạng Đông như đứa bé thiếu dinh dưỡng, không mấy hồi thì “tiêu diêu.”

        Kiểu nầy thì Khát Vọng Tự Do hay Vượt Sóng, chưa sinh đã chết, mặc dù ông Cô vấn Trương Mạnh Hùng hứa hẹn giúp đỡ in ấn.

        Về tờ báo, tôi phát biểu:

        “Về in ấn, có tiền thì đưa qua đất liền in, không thì quay roneo cũng được. Việc ấy hay đấy nhưng không quan trọng lắm. Trước hết là mục đích của tờ báo và người tham gia viết bài. Làm báo để làm chi? Làm cho đồng bào có cái đọc. Họ muốn đọc gì? Trước hết là tin tức sinh hoạt trên đảo; thứ đến là việc định cư; thứ ba, điều bây giờ ai cũng lo lắng là phải thanh lọc. Thanh lọc như thế nào chưa ai biết! Vậy tờ báo phải đáp ứng những cái đó.

        Ấy cũng là kinh nghiệm hồi tôi nhận lại tờ “Kỵ Binh”, viết cho lính Thiết Giáp đọc, từ tay ông bạn học cũ giao cho: Lương Thúc Trình, khi ông nầy biệt phái về bộ Giáo Dục.

        Thứ hai là giáo dục. Không phải dậy chữ nghĩa hay tiếng Anh, tiếng Pháp. Điều ấy có khối Giáo Dục của Cao ủy lo. Giáo dục chúng tôi nói ở đây là vệ sinh, trật tự. Phải phối hợp với khối Vệ Sinh, cổ động, tuyên truyền cho công việc của họ. Longhouse nào cũng phải sạch sẽ, tránh bệnh, tránh dịch. Phát động một phong trào diệt chuột, chuột nhiều quá, đông gấp ba gấp bốn số người tỵ nạn, kinh quá. Phối hợp với khối An Ninh trong việc giữ gìn an ninh trật tự, gìn giữ văn hóa phong tục của người Việt Nam. Mấy bà mấy cô ở đảo, không ít người hiểu lầm “giải phóng người phụ nữ” và “tự do”, “tự do” và “lang chạ”, nên việc phá thai xảy ra thường ngày, bừa bãi, vô luật pháp, không hợp y tế vệ sinh… Cuối cùng mới là văn nghệ văn gừng, đọc giải trí, sinh hoạt văn chương, văn nghệ, v.v… Liệu chừng đó việc có làm được không với chừng nầy người, hay phải tìm thêm người có khả năng viết lách. Tôi nói khả năng viết lách, không hy vọng có nhiều nhà văn nhà thơ. Nếu có thì cũng chỉ vài ba người, không có nhiều đâu.

        Sau khi bàn bạc, mọi người đồng ý với cái tên tôi đề nghị, lấy tên tờ báo là “Sinh hoạt Cộng Đồng” (SHCĐ) vì mục đích tờ báo là nói tới các “Sinh hoạt” của “Cộng đồng”. Đặt những cái tên nghe thật gồ ghề mà nội dung không có gì, sợ người ta cười cho. Thứ hai là tìm người cộng tác, chừng nầy người không làm nỗi.

        Tìm người?

        Tôi qua văn phòng trại tìm “ông già” tôi để ý hôm trước, mới biết đó là ông Hoàng Vũ. Tôi mời ông Hoàng Vũ lên phòng PTCĐ, nói rõ mục đích việc ra tờ báo. Ông Hoàng Vũ lôi thêm một người đi theo, còn trẻ, là ông Nguyễn Mạnh Dạn, tức nhà văn Nguyễn Mạnh An Dân.

        Tôi trình bày với hai người nầy việc làm tờ “Sinh hoạt Cộng Đồng” và việc phải “tấn công” vào cách sinh hoạt của một số đông đồng bào trên đảo, từ vệ sinh, quan hệ trai gái, thậm chí không ít cô chịu “làm tiền” với đàn ông trên đảo, với nhân viên Mã Lai, v.v… Ông Nguyễn Mạnh Dạn hứa sẽ viết một bài.

        Tôi nói:

        - “Những bài về mục đích nầy, anh em mình sẽ phát thanh trước, trong buổi phát thanh hằng ngày, cho nóng, thời gian tính. Đăng báo sợ chậm vì còn phải in ấn lôi thôi.”

        Chiều hôm đó, ông Nguyễn Mạnh Dạn đưa một bài, nhan đề là “Tự Ái Dân tộc”. Bài viết không những hay mà sát với thực tế nên hôm sau phát trong chương phát thanh. Tôi đề nghị với cô Mỹ Duyên, người phụ trách chương trình đọc, là nên đọc đi đọc lại nhiều lần, người ta mới “thấm”. Bài ấy đăng ngay trong tờ “SHCĐ số 1, cùng với một bài thơ hay của Hoàng Vũ, “Chùm Thơ treo đỉnh gió” Bài thơ chỉ có 4 câu nhưng hay lắm. Tiếc rằng, tôi đã để lạc tờ SHCĐ nầy đâu đó, tìm mãi không được. Không rõ nhà văn Nguyễn Mạnh An Dân còn giữ các bài nầy không. Về bài thơ, tôi chỉ nhớ có 3 câu:

        ….
        “Chúa, Phật ngài đang ngự nơi nào
        Muốn mượn chùm thơ treo đỉnh gió
        Gọi tình người bốn biển năm châu.”

        Hoàng Vũ làm bài thơ nầy lúc tình trạng đồng bào tỵ nạn đang lơ lững, chưa biết tương lai sẽ ra sao! Ở hải ngại, người ta đang vận động để bỏ thanh lọc, ai tới được đảo rồi sẽ cho đi định cư. Tuy nhiên, xem ra tình hình cũng khá tuyệt vọng.

        Bidong là một hòn núi nổi lên giữa biển. Khu định cư ở phía đông đảo, ít gió. Nhưng khi ai trèo lên tới đỉnh núi thì gió bên phía Tây thổi tới lồng lộng nên người ta gọi là “Đỉnh gió.” Không rõ ai đặt ra cái tên nầy. Chữ đỉnh gió trong bài thơ trên là nói tới cái đỉnh núi ấy.

        Ông Hoàng Vũ chỉ làm thơ, không viết văn. Ông Nguyễn Mạnh Dạn thì viết văn, không biết có làm thơ hay không. Có lẽ ở Bidong, ông chưa từng cho đăng bài thơ nào lên tờ SHCĐ. Thấy cần thêm người tham gia, ông Hoàng Vũ, ông Nguyễn Mạnh Dạn cũng như vài anh em khác tìm tòi ai có khả năng thì mời tham gia viết báo. Sau đó, cũng có thêm một ít vị nữa, trong đó có hai người cháu của ông Hoàng Vũ, cũng thuộc quê hương “hay cải” (2). Tuy nhiên, người làm thơ thì nhiều mà người viết văn thì ít nên việc ra một tờ báo hàng tháng, dày không bao nhiêu trang, cũng khá vất vả cho tôi.

        Tôi liên lạc được với ông Phạm Đình Chiến, tu xuất, cử nhân Anh Văn, một người rất năng nổ trong công việc thiện nguyện, hợp tác với tờ báo, nhưng anh ấy chỉ tham gia những gì cần có Anh ngữ mà thôi.

        Một hôm, đoàn Thanh Niên Thiện Chí của cô Mỹ Duyên làm công tác dọn vệ sinh ở con suối từ trên nuí chảy xuống, ngang giữa khu B và khu D. Con suối nầy dơ lắm vì người Việt có thói quen rất “truyền thống”, hễ cái gì dư thừa, không muốn giữ trong nhà mình nữa thì quẳng ra đường, nơi công cộng, sân bóng, công viên và con suối như ở Bidong.

        Tôi nói với cựu trung úy Hồ Đắc Liệu:

        - “Ông xuống coi người ta làm như thế nào rồi viết một bài phóng sự đi. Tụi mình cần mà!”

        Liệu nói:

        - “Tui mà viết cái gì. Xưa tới giờ, tui có viết khi nào đâu!”

        - “Ông cứ viết như hồi mình còn đi học viết văn tả cảnh vậy. Thấy chi viết nấy! Khó gì đâu!”

        - “Lỡ mình viết tối nghĩa, viết sai chữ, dùng “danh từ Việt Cộng” để người ta chưởi cho.”

        Tôi khuyến khích:

        - “Cứ viết đi, tui sẽ xem lại, cần thì tui sửa giúp ông. Mình cứ ngại ngùng thành thấy khó.”

        Nghe tôi xúi, Liệu cầm cuốn sổ tay đi. Trưa, ông ta về, ngồi bên cạnh tôi, lúi húi viết. Tôi giả bộ làm lơ, tránh không nhìn, sợ ông ta mắc cở.

        Chiều ông Liệu cho tôi xem bài viết. Xem xong, tôi cười:

        - “Thấy chưa! học trò Huế viết văn hay lắm! Viết vậy chớ còn gì. Tui chỉ sửa vài chỗ, ông sợ “danh từ Việt Cộng” thôi.

        Quả thật bài phóng sự ông ta viết hay lắm. Đọc ở trong phòng, ai cũng khen hay. Sau đó, đem phát thanh và đăng báo SHCĐ.

        Sau đó thì ông Liệu hăng hái lắm. Hễ đâu có những sinh hoạt gì, như “Phong trào diệt chuột”, các buổi họp của trại, của Cao ủy tỵ nạn giải thích về thanh lọc, v.v… ông Liệu tham dự về viết lại đầy đủ, chi tiết. Đồng bào ai đi họp về quên mất hay muốn tìm hiểu trở lại thì tìm trong báo SHCD mà đọc. Việc ấy khiến tôi phải xin Cố vấn Trương Mạnh Hùng gia tăng số lượng in, từ 150 lên 300 cho đồng bào khỏi mất công chạy quanh tìm báo hay lên xin ở phòng SHCĐ.

        Sau đó, có lần kỹ sư Nguyễn Dương Hảo nói với tôi:

        - “Thằng Liệu (Liệu với Hảo là bạn thân, Liệu bỏ phòng SB về phòng PTCĐ là nghe lời Hảo) nó nói làm việc với anh học được nhiều cái hay lắm. Anh chịu khó và tận tình với công việc, với anh em.”

        Tôi nói:

        - “Bây giờ là lúc mình có thể làm việc cho người khác, cho đồng bào mà mình khỏe re. Ở Việt Nam hay mai mốt đi định cư, lo làm lo ăn, không còn thì giờ đâu! Ở đây cơm ngày ba bữa có Cao ủy lo, áo quần cần bao nhiêu có bấy nhiêu, có lo gì đâu!”

        Sau đó, trong một buổi họp đông ngưòi, tôi nói lại ý kiến ấy để khuyến khích anh em tham gia những việc thiện nguyện. Quả thật, nhận xét tôi không sai. Sau nầy, khi đồng bào phải thanh lọc, nhiều người hướng dẫn giúp đồng bào, hoặc khi đồng bào hỏng thanh lọc, phải làm “request” (bằng tiếng Anh) nhiểu người tôi quen như anh Phạm Đình Chiến, kỹ sư Bửu Tộ, Trương Như Thanh Tùng… (gọi tôi bằng chú) đẵ làm giúp cho đồng bào; đọc, dịch các bài request liền tù tì ngày nầy qua ngày khác, chẳng nhận của ai một đồng bạc hoặc ly cà phê mà cũng chẳng than van bao giờ.

        Do công việc, chỗ tôi ngồi thành nơi của nhiều anh em đến phòng PTCĐ ngồi nói chuyện chơi. Tôi cũng là người ưa thích bạn bè, chuyện trò nên tôi rất vui khi có ai tới chơi. Có bận lắm thì tôi vừa làm việc vừa nói chuyện.

        Sau khi tờ SHCĐ ra số 1, anh em đến chơi nhiều hơn. Chúng toi cũng có nhiều chuyện để nói, để bàn.

        Một hôm, anh Lê Vĩnh Tường, phụ trách phần cải lương của ban Văn Nghệ. Ban văn nghệ do hai người phụ trách: Ông Ngụy Vũ phụ rách bên tân nhạc. Anh Tường tính tình chất phát, thật thà, tuy đôi khi cũng có “nổ”. Tôi từng làm trong nghề tình báo, đôi khi cũng xem tướng người để dùng nười hay quan hệ công việc. Không hiểu vì sao, tôi có cảm tình với anh Lê Vĩnh Tường hơn. Do đó, đã có lần, trong một buổi họp, ông Ngụy Vũ có phê bình tôi gay gắt vì tôi không giúp đỡ gì cho băn Văn nghệ củ ông cả. Một lần ông Cố vấn Trương Mạnh Hùng chê ca sĩ của của ông Ngụy Vũ hát nhạc quốc sai be bét cả. Tôi nói: “Họ mới học tiếng Anh, hát sai là đương nhiên. Ông cố vấn nên mời họ lên, tập cho họ hát cho đúng tiếng Anh.”

        Tuy nhiên, việc tôi đề nghị vẫn không xảy ra.

        Lê Vĩnh Tường ngồi chơi, bỗng nói:

        - “Tiếng Việt mình không hay như tiếng Anh.”

        Tôi cười:

        - “Ông là nghệ sĩ cải lương, lại có viết tuồng. Ông nói vậy là chết rồi! Tiếng Việt tinh tế lắm.”

        Tường nói:

        - “Cháu viết tiếng Việt, nhiều khi thấy nó dễ dàng, không như tiếng Anh.”

        Tôi giải thích:

        - “Viết thoại kịch nhiều khi dễ mới đúng hơn. Người ta viết những tiếng thông thường. Trong cải lương, nhiều khi người ta viết theo cách xưa, dùng nhiều danh từ Hán - Việt mới khó hơn chứ! Tại sao ông lại nói vậy. Tiếng Việt tinh tế lắm.”

        - “Tinh tế là sao?” Tường hỏi.

        Tô lại giải thích:

        - “Tôi ví dụ. Tiếng Anh black là đen.Con ngựa đen gọi là gì?”

        - “Black horse.” Tường trả lời.

        - “Mèo đen gọi là gì?” Tôi hỏi tiếp.

        - “Black cat!” Tường nói.

        - “Ông dịch chữ black horse ra tiếng Việt là gì?” Tôi hỏi.

        - “Con ngựa đen.” Tường trả lời.

        Tôi nói:

        - “Ông dịch trật lất! Vậy black cat là gì?”

        - “Con mèo đen.”

        Tôi cười to:

        - “Lại trật nữa.”

        Lúc ấy có nhiều người đến chơi ngồi quanh, thấy tôi hỏ đố Tường, ai cũng cười. Bửu Tộ, ngồi sát tôi, nói nhỏ với tôi:

        - “Anh để tôi dợt thằng cha nầy một trận cho nó trắng mắt ra.” Xong Tộ hỏi Tường:

        - “Con gà đen, tiếng Việt gọi là gì?”

        Lúng túng môt lúc, Tường nói:

        - “Thì con gà đen chớ gì?”

        Tộ cười:

        - “Gà quạ ông ơi!”

        Tôi nói một hơi:

        - “Mèo mun, đũa mun, gà quạ, ngựa ô, chó mực. Thằng

        Mỹ nào học tiếng Việt, nội một chữ đen nầy cũng đủ điên đầu.”

        Hảo hỏi Tường:

        - “Ông có rành danh từ Hán Việt không? Trong Nam người ta học Việt Văn ẩu tả lắm. Chữ Hán, một gạch thì gọi là gì?”

        - “Một gạch là nhứt.” Tường nói ngay.

        - “Hai gạch là gì?” Hảo hỏi tiếp.

        - “Là nhị.” Tường cười.

        - “Ba gạch là gì?” Hảo cười hỏi.

        - “Ba gạch là tam.” Tường trả lời ngay.

        - “Gạch gạch một đống là gì?” Hảo hỏi.

        Tường cười ha hả:

        - “Gạch gạch một đống là đống gạch.”

        Ai cũng cười. Tôi nói:

        - “Mấy ông ăn cắp bài bản của Phi Thoàn. Cái nầy Phi Toàn diễn hài.”

        Rồi tôi nói:

        - “Tôi hỏi tất cả mấy ông. Con cò có lông cổ đỏ thì người ta gọi là gì?”

        - “Cò lửa.” Tộ trả lời, rồi cười nói tiếp: “Tui cử nhân canh nông mà anh.”

        - “Chưa xong đâu,” Tôi nói. “Vậy chớ con cóc, đầu mình chân da gì cũng cóc mà không gọi là con cóc thì con gì?”

        Tường cười:

        - “Cũng Phi Thoàn nữa! Cóc con chớ gì!”

        - “Ông thấy không. Tiếng Mỹ người hay vật gì đều gọi là

        Children. Mình thì khác. Con gà, gà con. Con tôm, tôm con. Có gọi là children đâu. Chỉ cần đổi vị trí trước ra sau, gọn bưng.” Tôi nói.

        Tộ cười:

        - “Đâu phải lúc nào cũng vậy. Con bò con không gọi bò

        con, gọi là con bê. Con trâu con gọi là con nghé. Mình cũng điên cái đầu, nói chi tới người ngoại quốc.”

        - “Người ngoại quốc chớ không phải người nước ngoài.

        Mấy ông viết bài, nhớ cẩn thận, đừng dùng danh từ Việt Cộng, người ta chưởi cho.” Tôi nói.

        -“Đề nghị anh Hải viết một bài về đề tài nầy, nhắc chừng mọi người. Không chừng mai mốt thay vì “Hải ngoại thương ca” người ta sửa thành “Nước ngoài thương ca” thì nguy quá.”

        Câu cuối của Hảo làm ai nấy cùng cười. Tôi cũng vậy và nghĩ bụng, chắc phải viết một bài về đề tài nầy.

        Nhưng đó là chuyện “Xem hồi sau sẽ rõ.”
        ***************

        Comment


        • #5
          5. Phòng Phát Triển Cộng Đồng (tiếp theo)




          Sau khi anh em chúng tôi nói chuyện với nhau về việc viết bài phải hết sức tránh dùng “Danh từ Việt Cộng”, một hôm, ông Ngô Văn Quảng gọi tôi tới, lưu ý tôi tờ báo phải tránh dùng những “từ Việt Cộng.”

          Bực mình vì cái ông Quảng nầy, tôi hỏi ông:

          - “Anh thấy bài nào trong tờ SHCD có dùng “danh từ Việt

          Cộng”?

          - “Chưa thấy!” Anh ta trả lời, thật thà.

          Tôi hỏi tiếp:

          - “Theo anh nghĩ, những tiếng nào là “danh từ Việt Cộng”?

          - “Chẳng hạn như “đảm bảo, “bảo đảm.” Anh đưa ví dụ.

          - “Anh còn thấy tiếng nào nữa không? Anh cho tôi ví dụ đi!”

          Anh ta lúng túng, không trả lời thêm được.

          Tôi tự kềm chế cho khỏi nổi nóng bất tử:

          - “Khi anh nói “Từ Việt Cộng” là anh đã dùng “danh từ Việt Cộng.” Hồi trước, khi còn đi học, tôi chỉ nghe thầy cô giảng “danh từ” chớ không nói trổng “từ”. Từ “danh từ” mới nảy sinh thêm “chủ từ”, “đông từ”, “túc từ”, v.v… Ở vùng Quốc gia, sau nầy là miền Nam, chúng ta nói theo cách hồi xưa. Ngoài Bắc, họ gọi chung là “từ” sau đó mới có “danh từ”, “đại từ”, “túc từ”, v.v… Tôi không nói ai đúng ai sai, nhưng khi chúng ta bỏ cách nói của ngươi miền Nam mà nói theo cách của người miền Bắc là chúng ta đã bị “Việt Cộng hóa” rồi đấy. Vì tự ái, tôi không nói “Từ Việt Cộng” như anh. Tôi nói “Danh từ Việt Cộng” theo cách của chúng ta ngày trước. Sau nầy, khi không còn Việt Cộng, chính quyền Việt Nam có nhiệm vụ lập ra những hội đồng để xét lại việc nầy, mới thống nhứt được. Bây giờ, tôi không tự động “thống nhứt” với Việt Cộng như anh được.”

          Nghỉ một lúc, tôi nói tiếp:

          - “Thật ra, tôi đã viết một bài như vầy để lưu ý anh em. Bây giờ, không ít người dùng “Danh từ Việt Cọng” mà họ không hay. Này nhé:

          - “Trước gọi là Sự việc, bây giờ gọi là Vụ việc,

          - “Trước gọi là “Khoảng cách”, bây giờ gọi là “Cự ly”. Anh biết cự ly là cái gì không?” - Thấy ông trưởng phòng ngồi ngẫn mặt ra, tôi giảng giải: “Cự ly là khoảng cách giữa hai cái cựa gà. Đó là danh từ Hán Việt. Việt Cộng không ưa dùng danh từ Hán Việt, không gọi “máy bay trực thăng” mà gọi “máy bay lên thẳng”, nhưng tại sao không dùng “khoảng cách” cho dễ hiểu mà lại dùng “cự ly”?

          Tôi ít ưa ai dạy tôi một cách trịch thượng như thế. Ngồi ở văn phòng, gọi tôi tới trình diện, dạy tôi một cách ngớ ngẩn như vậy, làm sao tôi chịu được.

          Khi tôi tới làm việc ở phòng PTCĐ, tôi chỉ nghĩ tới việc làm phát thanh, làm báo, v.v… chớ tôi có nghĩ tới cái ghế trưởng phòng. Các anh em tôi quen, như Hảo, Tộ, Liệu, Tường, ngoài việc nghĩ tới những công việc như tôi nói, chẳng ai xúi tôi làm trưởng phòng, chẳng ai đề nghị Cố vấn Trương mạnh Hùng để tôi làm trưởng phòng cả. Cái chức trưởng phòng nầy là do đề nghị của Vĩnh Việt Phước. có lần Phước nói với Hảo: “Để ông Quảng làm trưởng phòng PTCĐ vì ông ấy thiếu tá, anh Hải mới đại úy.” Hảo cũng chẳng quan tâm tới việc đó, vì Hảo muốn tôi làm đúng việc tôi ưa thích mà thôi. Vì vậy, sau khi ông Quảng làm trưởng phòng, Hảo nói với tôi:

          - “Đ. mẹ, cái thằng Phước nầy lưu manh. Tụi nó nói với tui thằng cha Quảng nầy khóa 12 Thủ Đức, mới loon đại úy mà nó phong thằng chả lên thiếu tá để cho làm trưởng phòng.”

          Tôi cười, nói với Hảo:

          - “Yên tâm học tập cải tạo đi” – tôi thường nhại câu cán bộ Việt Cộng thường nói ở trong các trại “tù cảo tạo”. Gì mà nóng rứa! Thằng cha Phước nầy chưa từng đi lính mà sao nó rành “lấy loon đè người” trong chế độ cũ. Nó làm gì thì làm, đừng đụng tới công việc của mình là được rồi.”

          - “Nó mới gọi anh tới dằn mặt về việc “danh từ Việt Cộng” chớ sao không? Nó biết con mẹ gì? Nó dám dạy anh cách làm việc. Tui nóng chớ!”

          - “Kệ mẹ nó, vui thì làm chơi, không vui thì nghỉ, ngày ngày ra thư viện đọc sách, có sao đâu!”

          Thật ra, tôi cũng bực mình việc làm của Quảng. Tôi đi dạy từ năm 1958, không ít học trò của tôi đi Thủ Đức từ khóa 11, 12. Tới 1975, có người đã là thiếu tá, phần đông đại úy. Ngô Văn Quảng cũng khóa 12 Thủ Đức, cũng đại úy, tính chuyện “lấy chức đè người”, gọi tôi dằn mặt để chứng tỏ anh ta có quyền thì anh ta dại lắm, không biết mình, biết người chút nào cả. Tuy nhiên, cũng từ đó về sau, không bao giờ anh ta nói gì với tôi nữa, nhất là sau khi tờ báo SHCĐ đăng bài tôi viết “Danh Từ Việt Cộng”. Bài nầy tôi gởi cho báo Lửa Việt ở Canada. Họ cũng đăng trên báo ấy. Họ thường gởi báo cho phòng PTCĐ.

          Thật ra, tôi quá lo xa, cứ sợ thiếu người viết cho tờ SHCĐ. Dĩ nhiên, văn hào thi hào thì khó kiếm nhưng người có khả năng viết thì cũng không thiếu. Hôm anh Nguyễn Ngọc Bảy thay ông Lê Chiêu Thông (không rõ ông nầy có trùng tên với ông Lê Chiêu Thông trong vụ còi hụ Long An hay không (4) tình cờ tôi gặp cô Thủy, bạn ông Bảy. Qua nói chuyện công việc, cô Thủy nói hồi còn đi học, cô có viết tập san cho trường, tôi nói:

          - “Đã viết báo hồi trước! Sao bây giờ lại không?”

          Cô Thủy hứa sẽ gởi cho tờ SHCĐ một bài.

          Không ngờ bài báo cô ta viết hay quá.

          Câu chuyện thì không có gì hay. Một người đàn bà đến đảo với một đứa con 5 tuổi. Ngày ngày, người mẹ lên làm thông dịch viên cho Cao ủy Tỵ nạn. Một hôm, trời nổi cơn bão nhẹ. Thấy gió thổi quá, người mẹ nghĩ tới con ở nhà khôg ai chăm sóc, đâm lo, không rõ thằng bé đang ở nhà hay bỏ đi chơi đâu đó, lỡ có chuyện gì xảy ra thì sao?! Người mẹ bèn xin phép Cao ủy về với con. Về tới nơi, té ra thằng mẹ đi chơi đâu đó, không có nhà. Người mẹ bỗng hốt hoảng đi tìm con, từ longhouse nầy qua longhouse khác, cứ “Cún ơi! Cún!” tên đứa con trai mà gọi. Người mẹ đi giữa cơn bão biển, gió thổi ào ào, cây cối rung chuyển. Nhứt là những cây dừa lão, cây nào cũng trên dưới 50 tuổi, cao ba bốn chục mét, ngọn dừa lắc lư, những trái dừa cao gần muốn rớt. Lỡ có một trái rớt trúng đầu thì cũng không khác chi bị thiên lôi giáng cho một lưỡi tầm sét. Trong cơn giận dữ của ông trời như thế, người mẹ vẫn chịu khó đi tìm con, bồn chồn, lo lắng, sợ hãi, mệt mõi.

          Cái hay của câu chuyện là tác giả mô tả được tâm lý của người mẹ đi tìm con, vừa sâu sắc, vừa chi tiết, vừa cảm động, đầy tình mẫu tử.

          Tôi đăng truyện ngắn ấy. Khi đem báo tới tặng cô Thủy làm việc ở văn phòng Cao ủy, tôi yêu cầu cô ta viết tiếp, không hiểu tại sao cô ta “lặn” luôn, không có bài thứ hai.

          Tôi lại đi tìm người viết!

          Nhớ hôm đầu tiên đi họp về việc làm tờ đặc san, khi còn làm việc ở phòng SB, ngồi trước mặt tôi là hai cô gái còn trẻ. Trước khi họp có người đến bắt tay tôi, thấy người gọi tên tôi, một cô quay lại hỏi:

          - “Bác là ba của Hoàng-Hà Long?”

          - “Vâng”, Tôi nói: “Hà Long là con gái đầu của tôi.”

          - “Cháu là Hồng, bạn với Hà Long ở trường sư phạm.” Cô ta nói.

          Tôi cười:

          - “Cháu cũng ở trong nhóm “lục bình trôi”?

          Cô ta cười:

          - “Bác cũng biết, cháu ở trong nhóm. Hà Long thứ tám.”

          Bọn chúng có 8 đứa, chơi với nhau rất thân vì hai lý do: Ngụy, mà lại ngụy ròng, “ngụy chăm phần chăm”, tức là không có đứa nào bà con chi với “cách mạng” cả. Thứ hai, chúng nó thi vào y khoa. Điểm đậu là 18, chúng nó đứa nào cũng trên 20 nhưng không được học y, bị đầy qua sư phạm, như người ta đẩy lục bình nên 8 đứa chúng nó tự đặt tên là lục bình. (Việt Cộng gọi là lý lịch số 13). Lớn tuổi nhứt, đẹp nhứt, và điểm đậu cao nhứt là Phạm Thị Thanh Mai, con gái bác sĩ chuẩn tướng Phạm Hà Thanh. Hoàng Hà Long, nhỏ tuổi nhứt, nhỏ con nhứt, - vào đại học mới 17 tuổi, được bọn chúng đặt tên là Tám. Đám nầy hao mòn lần lần: Vượt biên, bỏ học, ODP, v.v….

          Hồng ở trong nhóm nầy, qua bạn bè, biết tên tôi nên quay lại chào hỏi tôi. Ngồi bên cạnh là Mỹ Liên, cùng trạc tuổi.

          Tôi cũng lên Cao ủy, tìm hai “đứa” nầy, khuyến khích viết bài về phụ nữ. Mấy cô làm bên Trung Tâm Phụ Nữ của cô Cố vấn Hồng Bích, tôi đã thăm dò, không có khả năng viết. Phụ nữ trên đảo đông hơn đàn ông. Làm báo bỏ qua họ làm sao được. Trong hai cô nầy, Mỹ Liên viết được lắm, nhứt là những nhận định, phê bình, giải thích về gia đình, vệ sinh, ăn uống, chăm sóc trẻ con, v,v…

          May mắn, tôi được nhiều người viết: Tự động họ đem bài đến cũng có, tôi đi tìm, yêu cầu viết, khuyến khích cũng có. Người viết càng ngày càng nhiều. Đó là vị: Vương Quân, Hồng Sơn, Hoài Ân, Hà Giang, Hồ Quang Đặng (Cựu hiệu trưởng QĐ Quang Trung), Thúy Mỹ, Quỳnh Tân, Nguyễn Bình Định, Hoài Nhân, Trần Đình Nghị, Phạm Nam Quan, Nguyễn Phan Thái, Hoài Minh, Việt Cường - Bửu Phôi (nhạc), Xuân Minh, Vũ Nga, Nhật Di, Định Nhơn Hương (Cố vấn Trương Mạnh Hùng), Vương Quân, Đỗ Xuân Nguyên, Bảo Quốc, Hải Hồ, Long Huyền Thông, Ngọc Long, Hoàng Ngọc, Nguyễn Huy Phước, Trần Ngọc, T. Mỹ, Mỹ Liên MC 404, Phù Sa, Ngũ Liêm, Nguyễn Vĩnh Ngọc, T. Sơn, Tây Thành, Khôi Nguyên, Nguyễn Thanh Hoàng, T. Hải, Hoài Vân, Lam Thi, Minh Nam, Thế Nguyễn, Phạm Trần, Nhất Lam, K. Hùng, Phan Bình, Hùng Long. Việt Linh, Đại Bường, Hồng Gấm, Vi Vu, Lam Thi, Trần Nguyên Hãn, Ái Khanh, Như Hạnh, và nhạc sĩ Trường Sa (cựu Hải quân thiếu tá Nguyễn Thìn).

          Xin nói đôi điều về Trường Sa. Con người ông và cá tính ông rất tương phản. Ông có thân hình cao lớn; thông thường, ít ra, cao hơn người khác nửa cái đầu. Thân mình cũng “dềnh dàng” (Nói theo kiểu người Nam), nhưng cách nói năng, giọng điệu, bộ tịch thì bao giờ cũng nhỏ nhẹ, dịu dàng. Làm chung phòng SB với ông, tôi chưa từng thấy ông nói to với ai bao giờ. Nói to chứ đừng nói là “lớn tiếng”. Hôm tầu MC 516 cặp cầu Jetty Bidong, giữa chính quyền Mã Lai và Cao ủy tỵ nạn tranh chấp: phía Cao ủy yêu cầu cho đồng bào lên bờ, phía Mã Lai không đồng ý, phải chờ cấp cao hơn của Mã Lai giải quyết. Nó có một nguyên tắc rất “kỳ cục”: Ghe tuy cập vào cầu, nhưng chưa có ai lên cầu hay bờ biển. Nếu có một thuyền nhân nào đó, nhảy xuống biển, bơi vào cầu hay đất liền, là coi như Mã Lại “thua”. Còn ghe tuy cặp vào cầu, nhưng mọi người còn ở trên ghe thì coi như chưa tới đảo, có thể bị đẩy ra khơi. Người lái chiếc ghe vượt biên nầy là cựu Hải Quân trung tá Châu Ngọc Tuấn, bạn thân của Trường Sa. Thương bạn, lại sợ ghe bạn bị đẩy ra khơi, khi chưa ai được lên bờ cả, Trường Sa cứ loay hoay, lo lắng suốt ba hôm tàu bị neo ngoài đầu cầu jetty như thế. Trông ông ta, nói theo thông tục, như “gà mắc đẻ”, vừa tội nghiệp cho ông (hơn là bạn ông còn ngoài ghe) vừa buồn cười. Trường Sa tìm mọi cách, kể cả việc nhờ mấy em thanh thiếu niên làm việc cho khối tiếp liệu, hay cho tàu buôn hàng Mã Lai đem hàng từ đất liền ra cho “Cửa hàng Mã” (tiệm chạp phô trên đảo), những người nầy có thể ra tận đầu cầu jetty, tiếp tế lương thực và nước ngọt cho ông Tuấn đang kẹt trên ghe vượt biên.

          Cũng thời gian nầy, thấy người ta tiễn đưa nhau đi định cư, ra tới cầu jetty, kẻ vui người khóc, nhạc sĩ Trường Sa sáng tác bài hát “Tiễn Em Ra Cầu Nhung Nhớ”. Có lẽ tôi là một trong những người đầu tiên, hân hạnh được ông ta tìm tới (ở văn phòng) hát cho nghe bản nhạc mới của ông.

          Trường Sa thì đã nổi tiếng từ trước 1975, và bài hát mới nầy, cũng hay lắm. Phải chi có Lệ Thu hát nhạc Trường Sa thì hay quá. Đằng nầy, chính Trường Sa hát nhạc Trường Sa bằng cái giọng ồ ề của anh cái hay mất đi 90%.

          Nghe xong, tôi nói với anh ấy: “Hay lắm. Tôi nói thiệt, không phải lấy lòng. Mai mốt có nhạc hội, anh nhờ cô Vũ Nga hát cho. Anh đừng hát. Khó mà được người ta vỗ tay.”

          Nghe tôi nói, Trường Sa cười hền hệt, như cái cười thông thường của anh. Những người chung quanh, nghe chuyện, chẳng ai không cười.

          Cũng xin nói thêm vè anh Trần Đình Nghị. Anh Nghị nguời Bắc, đại úy Biệt Động Quân, nhà ở khu cư xá trên đường Trần Quí Cáp, gần ngã tư Hai Bà Trưng Saigon. Anh Nghị rất khoái làm phóng viên, bất cứ sinh hoạt quan trọng nào trên đảo, anh đều có mặt, chụp hình, viết bài. Viết bài xong, đưa tôi đánh máy, cho phát thanh và đăng lên báo, còn hình anh chụp thì chịu, in ra làm sao được, anh đành cất đem theo khi đi định cư, làm kỹ niệm. Sau khi định cư ở Úc, anh vẫn giữ liên lạc với tôi, vẫn làm phóng viên truyền hình. Hình anh chụp ở Úc, vác camera trên vai, to như một cái vali.

          Ban Biên Tập tờ báo thì ghi:

          Chịu trách nhiệm tổng quát: Hoàng Long Hải, Hoàng Vũ, Phụ trách ban biên tập: Nguyễn Mạnh An Dân,

          Thường trực tòa soạn: Đỗ Xuân Nguyên, Hà Giang, Ngọc Hảo, Thanh Hữu.

          Bìa: Hồ Kim Phong.

          Minh họa: Hồ Kim phong, Kim phượng.

          Việc chọn thơ thì nhân bài nào, tôi đưa cho ông Hoàng Vũ chọn lấy.

          Văn, tôi đưa cho ông Nguyễn Mạnh An Dân, cũng làm như ông Hoàng Vũ

          Trên thực tế, chẳng ai chịu đánh máy bài (Không biết “đã tự” hay không có thì giờ… gì đó). Tôi là người cuối cùng, vừa chủ bút, vừa chủ nhiệm, chủ đánh máy, chủ đánh dấu, chủ ấn loát (đem đi quay roneo) , chủ đóng tập, chủ phân phối. Cái gì tôi cũng “chủ” hết. Tôi nói đùa: “Nhân dân làm chủ chính là tui. Tôi cũng làm chủ nên tôi là nhân dân…

          Tôi tự đánh máy vào giấy stencil, tự đánh dấu vì máy chữ ở trại tỵ nạn không có dấu chữ Việt, đem đi quay Roneo ở văn phòng Cố vấn Tieou, phụ trách giáo dục, sắp trang và đóng thành tập, đem phân phối cho các cơ quan và các khu A, B, C, D. Thật ra, ngoại trừ đánh máy và đánh dấu, các việc khác đều có anh em phụ giúp, làm việc chung với nhau nên thật vui! Có một việc tôi không làm được, tôi mù tịt về việc nầy là vẽ bìa và vẽ trang trí các trang trong, phải nhờ các anh em có hoa tay vẽ giúp.

          Sau khi ra số đầu, tôi bàn với anh em số tới phải có hình của trại Bidong. Bidong cũng có nhiều cảnh đẹp và hùng vĩ vì một bên là núi, một bên là biển. Có tới ba bốn bãi biển mà bãi khu C là đẹp nhứt. Đứng nơi bãi C, nhìn ra khơi là hòn Cá Mập, đảo hoang vì không có nước ngọt. Gọi là hòn Cá Mập vì hòn đảo kéo dài ra, một đầu cao, một đầu thấp như con cá mập đang ngóc đầu lên. Ngồi ở bãi biển khu A nhìn ra biển thì phía trước mặt, xa xa là dãy núi dài, tôi không biết tên, xương sống của bán đảo Mã Lai. Tuy nó không gần như khi tôi còn trẻ ngồi bên bờ sông Thạch Hãn nhìn lên rặng Trường Sơn, nhưng dãy núi nầy hùng vĩ cũng không kém gì Trường Sơn ở nước ta. Nhìn rặng núi ấy, tôi thấy nhớ nhà da diết, nhất là nhớ thời niên thiếu, khi 14, 15 tuổi, chưa xa xia đình, ngày ngày vui chơi cùng bạn bè, tắm táp, đùa dỡn trong giòng nước trong xanh của sông Thạch Hãn.

          Về chuyện vẽ hình cho trang bìa số báo sắp tới, tôi nói với anh em:

          - “Nên có hình “Ông già Bidong”. Hình đó có ý nghĩa nhứt.”

          Thế rồi ông Nguyễn Mạnh Dạn nhận đảm đương công việc ấy. Không rõ anh ấy tự vẽ lấy hay nhờ ai vẽ giúp, mấy hôm sau, chúng tôi có được bức vẽ hình Ông già Bidong và đứa cháu gái nằm chết vắt trên tay ông. Hình vẽ đẹp lắm, nhưng khi “can” vào tờ stencil để in, thì bức hình không còn đẹp như trước. Khi in ra thì hình lem nhem, không rõ nét. Phương tiện in ấn khó khăn đành chịu vậy. Nếu như bây giờ thì khỏe quá, scan vào máy là xong. Bức hình ấy, sau đem triển lãm, rồi không biết nó thất lạc về đâu. Bất cẩn làm xảy ra nhiều điều đáng tiếc là vậy!

          Một hôm, anh Hồ (bút hiệu Hà Giang), người thường cộng tác bằng các bài báo, vì không tham gia từ đầu nên không biết những ý tôi đã trình bày về tên tờ báo, hỏi tôi:

          - “Sao anh không đặt tên tờ báo nghe cho hay hơn một chút.”

          - “Tên gì bây giờ?” Tôi hỏi.

          - “Niềm tin.” Anh Hồ nói.

          - “Niềm Tin.” Tôi nhắc lại. Bỗng tôi hát đùa với anh câu hát trong một “Bài không tên số mấy đó” của Vũ Thành An. “Tôi biết tin ai bây giờ!!!” Rồi tôi nói tiếp: “Thời đại chúng ta, người ta gọi là thời đại khủng hoảng niềm tin, không ai tin ai được cả. Anh tin ai mà anh muốn đặt tên là “Niềm Tin”?

          Hồ cười:

          - “Tôi tin tôi!”

          - “Anh tin anh thì quí lắm.” Rồi tôi nói đùa: “Nhiều khi tôi cũng chẳng tin tôi. Có điều chắc chắn là không bao giờ tôi tin “bác” hay “đảng”. Bọn xạo không!”

          Ông Hồ cứ cải:

          - “Nhưng người ta sống là phải có niềm tin chứ?”

          Tôi nói:

          - “Niềm tin là lẽ sống, mất niềm tin là mất lẽ sống, là tuyệt vọng, là đi tới cái chết. Không có niềm tin làm sao người ta định hướng cuộc đời. Không có niềm tin, “Tôi biết tin ai bây giờ” thì dễ phản bội.”

          Một lúc tôi nói tiếp:

          - “Kẹt một cái là khi nói niềm tin thì cái “tin” ấy, nội dung nó không phải là nhỏ. Nó ở trong tâm lý học, trong văn chương, trong giáo dục… mà tôi thì tấy khả năng chúng ta hạn chế. Viết như ông Dạn “Tự ái dân tộc” là cao lắm rồi. Thành phần tỵ nạn ở đảo thì anh biết rồi đấy, độc giả ở đảo của mình là ai? Tôi muốn thực tế, cứ “Con Trâu” (5) của Trần Tiêu mà viết là thiết thực hơn cả. Vì vậy, tôi mới lấy tên là “Sinh hoạt Cộng Đồng.”

          Có lẽ nhiều người không đồng ý với tôi về cái “tính thực tế” đó. Họ muốn cái gì cao hơn, đẹp hơn, nên sau khi tôi rời tờ báo, thì nó được đặt tên là “Niềm Tin.”

          Về chương trình phát thanh hằng ngày, tôi lấy tin, đánh máy rồi đưa cho cô Mỹ Duyên. Cô ta có vài “đệ tử” làm xướng ngôn viên. Họ cũng chịu khó tập nên đọc ít bị vấp váp khiến cho nhiều người vừa lòng. Đọc tin vấp váp, đọc trật, gián đoạn nhiều khi sai lạc cả ý nghĩa. Những bản tin do thông cáo của Cao ủy hay Task Force (lực lượng đặc nhiệm Mã Lai) hay của Khối An Ninh, Vệ Sinh, v.v… thì cứ nội dung của họ mà đọc. Về tin tình hình quốc tế, Việt Nam, mỗi đêm, tôi nghe đài BBC, đài VOA, đài Úc, thu băng rồi sáng hôm sau, lên phòng làm việc, tôi vừa nghe lại, vừa đánh máy. Công việc chỉ một mình tôi làm, cũng vất vả. May mắn, một người quen rời đảo, đi định cư, cho tôi một cái radio cassette hiệu Sony, còn mới nên tôi có phương tiện làm tin. Vã lại, tôi có thói quen nghe radio từ mấy chục năm nay, ngoại trừ hơn 7 năm trong trại tù Việt Cộng, nên tuy vất vả mà cũng thích thú.

          Làm công việc phát thanh, tôi khám phá ra một điều mới lạ và thích thú khác. Lúc bấy giờ đang có tranh giải bóng tròn Euro. Làm bản tin, tôi cũng ghi lại các cuộc tranh giải ngày hôm trước, các đội gặp nhau, đội nào thắng, đội nào bại, thua bao nhiêu bàn, ai đá hay nhất, ai làm bàn nhiều nhứt, ai vua phá lưới... Cứ Xuân Hồng, Vĩnh Phúc, Đỗ Văn nói như thế nào, tôi ghi lại y chang như vậy

          Sau khi phát thanh, có lẽ vì những lý do nào đó, người ta nghe không kịp, nhứt là đám thanh niên. Họ tranh Cải nhau và kéo nhau lên phòng PTCĐ hỏi lại cho rõ. Tôi bèn xin ông Cố vấn Hùng kéo ra ngoài hành lang của phòng một tấm bảng đen có chân đứng, rồi dán bản tin trong ngày lên đó, để ai muốn xem thì cứ đến đó đọc lại. Vậy rồi cứ mỗi sáng sớm, đám thanh niên chen nhau đọc bản tin thể thao tranh giải, rồi họ cải nhau, khen chê, rất vui. Tất cả anh em chúng tôi vui lây cảnh đó. Để họ khỏi chờ đợi, tôi phải đi làm sớm, làm bản tin sớm, dán bản tin lên bảng sớm để “khán giả bóng đá hàm thụ” khỏi chờ đợi. Giờ phát thanh thường trễ hơn, 11 giờ trưa.

          Sự kiện nầy cũng chứng minh lòng ham chuộng môn bóng đá của người Việt Nam.

          Việc phát thanh cũng gây đụng chạm. Một hôm tôi nhận một bài, phê phán một cách gay gắt một số người, nhờ có thân nhân ở hải ngoại gởi tiền về nhiều, sinh ra ăn chơi, nay cặp cô nầy, mai cặp cô khác. Một số người chế độ cũ, thay vì làm gương, phải chứng tỏ rằng mình là người đi tìm tự do, chống Cộng sản thì cũng lại sinh tật. Câu cuối trong bài viết đại ý là “Chúng ta không phải là những người đi tìm lại “thời hoàng kim”. Tôi để ý câu nầy lắm và trước khi cho phát thanh, tôi có trình bày với ông Cô vấn Trương mạnh Hùng rằng câu nầy sẽ có người phản ứng đây. Có thể ai đó cho rằng mình nói xấu họ, nhưng đây là thực tế của trại.

          Việc “sinh tật” nầy đáng phê phán lắm. Ông Cố vấn Hùng bảo cứ phát đi, đừng ngại. Hễ ai có phản ứng, ông ấy sẽ giải thích với họ. Cô Mỹ Duyên, người phụ trách phát thanh cũng đồng ý như thế. Quả nhiên, phát thanh lúc 11 giờ trưa. Chưa đầy nửa giờ đồng hồ sau, ông cựu đại tá Nguyễn Thiều, gặp ông Cố vấn Hùng yêu cầu bỏ câu ấy. Ông Cố vấn Hùng không đồng ý, khi về phòng nói lại với chúng tôi. Ai nghe cũng cười.

          Cô Mỹ Duyên nói: “Sợ thì đừng làm.” Không rõ cô ta nói ai? Dĩ nhiên khi chúng tôi đã cho phát thanh là không sợ mấy ổng. Còn mấy ổng sợ bị người ta phê phán thì mấy ổng đừng sinh tật. Vậy có phải là hay không???!!!

          Đang ngồi nghe, tôi bỗng nhớ một câu trong Lục Vân Tiên, bèn đọc to cho mọi người nghe:

          “Ở đây nào phải trường thi,
          Ra đề, hạn vận, một khi buộc ràng.

          Bửu Tộ, vốn hay đùa, nói to lên:

          “Tới đảo rồi ông ơi! Tới đảo rồi, đâu còn Việt Cộng nữa!”

          Thấy vui, các anh em khác cũng nhao nhao lên: “Tới đảo rồi! Tới đảo rồi.” Đó là câu reo vui của người vượt biển khi tàu vượt biên tới được đảo tỵ nạn.

          Khi mới tới đảo, tôi có đi xem một buổi triển lãm do phòng Phát Triển Cộng Đồng tổ chức. Bây giờ, tôi đề nghị với cố vấn Hùng tổ chức thêm một lần nữa. Phương tiện như giấy, bút, màu, v.v… do phòng PTCD cung cấp cho ai muốn tham gia. Phần đông là những tranh vẽ, hoặc hàng thủ công như những chiếc ghe vượt biên bằng gỗ mỏng, v.v… Phòng Dịch Vụ của Nguyễn Dương Hảo và chính anh ấy đảm trách việc triển lãm nầy. Hôm khai trương, tôi thấy nhiều hàng thủ công làm rất kheo tay. Nhiều người tỏ ý muốn mua để khi đi định cư mang theo làm kỷ niệm. Cũng từ đó, nhiều người phát triển việc làm thuyền gỗ thủ công tại chỗ ở để bán cho người đi định cư.

          Về tranh vẽ, bức tranh đoạt giải nhứt rất có ý nghĩa. Bối cảnh bức tranh là nửa nước: màu xanh đậm; nửa trời: màu xanh nhạt, không có núi non hay bờ bến gì cả, mênh mông giữa biển trời. Ở giữa là hình ba bàn tay màu trắng hồng có ba vị thế khác nhau: Bàn tay thứ nhứt, buông các ngón ra, coi như chịu thua số phận; bàn tay thứ hai là nắm đấm, bàn tay thứ ba là hai ngón tay hình chữ V: Thắng lợi. Buông xuôi thì chết, đấu tranh sẽ thắng lợi. Đó là số phận người tỵ nạn trước “rào” cản thanh lọc.
          ***************

          Comment


          • #6
            Rất hay

            Comment


            • #7
              6. Phòng Phát Triển Cộng Đồng (PTCĐ) (Văn bút Bidong)

              Nhà thơ Hoàng Vũ là một người rất yêu thơ, thích hoạt động văn nghệ. Mới đến đảo chưa lâu, ông tìm gặp những người yêu thơ để thành lập nhóm “Thi Bút Bidong”. Ông cùng vài anh em gặp cố vấn Trương Mạnh Hùng, xin giúp đỡ trong việc sinh hoạt. Việc nầy xảy ra trước khi tôi làm việc ở phòng nầy.

              Sau khi tờ Sinh Hoạt Cộng Đồng ra số đầu tiên, việc sinh hoạt của nhóm thi bút Bidong được xúc tiến mạnh hơn. Tôi không có công gì trong việc nầy. Đó chỉ là công việc giữa Hoàng Vũ, Nguyễn Mạnh Dạn và cố vấn Hùng. Sự có mặt của tôi ở phòng nầy chỉ có tác dụng làm cho anh em sinh hoạt văn nghệ văn gừng mạnh dạn đến với phòng PTCĐ, không e ngại đến sự dòm ngó của phòng SB như anh em dã từng e ngại. Cũng vì sự xuất hiện của tờ SHCĐ, vì cần người viết, nên số anh em viết văn có mặt nhiều hơn nên anh Hoàng Vũ thay đổi tên nhóm “Thi bút Bidong” thành “Văn bút Bidong” cho phù hợp với tình hình thực tế lúc đó.

              Hoàng Vũ không những làm thơ hay mà còn rành chữ Nôm, chữ Nho. Hôm nhóm “Văn bút Bidong” tổ chức sinh hoạt ở một lớp học của trường sinh ngữ, đến tham dự, tôi thấy trên bảng đen lớp học, có một bài thơ viết theo hai cách chữ Nôm của anh Hoàng Vũ, do anh viết sẵn lên đó, bằng phấn, chữ viết rất đẹp. Tôi đứng nhìn bài thơ đó, hỏi anh:

              - “Một bài thơ nhưng anh viết theo hai cách khác nhau, phải không anh?”

              Hoàng Vũ cười:

              - “Tôi viết theo hai cách. Bài nầy,” – Anh chỉ bên phải, - “tôi viết chân phương. Bài nầy.” –anh chỉ bài bên trái – “viết theo lối thảo.”

              Nhìn hai bản viết một lúc, tôi nói:

              - “Nhìn cách nào, anh viết cũng đẹp. Tôi thích lối viết thảo, bay bướm hơn. Đúng là “Hoa tay thảo những nét, như phượng múa rồng bay.”

              - “Đúng là người ta thường ưa cách viết thảo, bay bướm lắm. Chân phương là theo đúng bài bản. Viết thảo thì tùy hoa tay mỗi người.” Anh Hoàng Vũ giải thích.

              Cách viết thảo, sau nầy, ở hải ngoại, người ta thuờng mô phỏng theo để viết chữ quốc ngữ mà danh họa Vũ Hối gọi là “Thư họa”. Tôi cũng có một bản thư họa do anh Vũ Hối viết cho, về mấy câu trong kinh Hoa Nghiêm: “Từ nhãn thị chúng sanh.”

              Vì phục tài của ông, tôi thường hỏi chuyện ông khá lâu, mỗi khi Hoàng Vũ ghé lại chỗ tôi làm việc chơi. Có một buổi tối, nghe trên dài RFI, nhà phê bình văn học Thụy Khuê giới thiệu thơ Quách Tấn, bà Thụy Khuê cho rằng Quách Tấn là người cuối cùng làm thơ theo lối cổ điển. Đem chuyện ấy hỏi anh Hoàng Vũ, anh bảo rằng Thụy Khuê nói sai.

              Hiện giờ (khoảng các năm 1989, 90) ở Việt Nam còn rất nhiều người làm thơ theo lối cổ. Họ thành lập các nhóm thơ, có tên hội và sinh hoạt thường xuyên, tuy phải lén lút vì sợ Việt Cộng. Xin phép chính quyền Cộng Sản thì các vị nầy không muốn vì phải sinh hoạt theo đường lối, chủ trương, làm thơ theo … chỉ thị nên họ phải sinh hoạt lén lút.

              Hoàng Vũ kể cho tôi nghe một số người, và hội thơ, cũng như sinh hoạt của họ, như tôi có thuật lại trong bài “Những nhà làm thơ cổ điển”, xin trích lại một đoạn:

              “Những thi sĩ âm thầm làm thơ cổ điển hiện nay ở Việt Nam không phải là ít: Lạc Nam, Trương Sư Xuyên, Nam Hà, Vọng Chi (tức Thái Can, thi sĩ, bác sĩ, đã đi Pháp), Vũ Khắc Văn (Trác Ngọc), Trúc Khê (mới, không phải Trúc Khê Ngô văn Triện, cũ) Trúc Phong (đã đi Pháp), Trình Xuyên, Thu Vân (nữ), bà Song Hường, bà Mỹ Linh, Liên Huê (nữ), Trương Duy Hy (có lẽ đã qua Mỹ theo chương trình HO), Tuyết Ngọc, Toại Khang, Đan Phượng, Hành Sơn Lưu Vĩnh Thuật (đã qua đời), Vũ Hân (đã qua đời) Chính Hà (cháu 7 đời Ôn như hầu Nguyễn Gia Thiều) , Thường Quân Vĩnh Mạnh, Hoàng Vũ ... Họ còn sống ở khắp cả ba miền Trung, Nam, Bắc và sinh hoạt trong các hội thơ như Thạch Động Tao Đàn, Hồng Đô Thi Các, Tao Đàn Thái Hòa ...

              Để tránh sự theo dõi, chú ý và có thể bắt giữ của chính quyền Cộng sản Việt Nam, họ sinh hoạt không thường xuyên. Theo Hoàng Vũ, buổi họp thơ cuối cùng của ông trước khi trốn khỏi nước là vào năm 1988, tại Saigon, nhà của Thường Quân Vĩnh Mạnh, có Lạc Nam, Chính Hà (từ Bắc vào dự) và có cả Tô Kiều Ngân, nữ sĩ Cao Mỵ Nhân, mới “cải tạo” về.” (Xin xem toàn bài ở phần phụ lục)

              Mười ba ngàn người tỵ nạn. Lúc ấy, tổng số người tỵ nạn, tính chung là bằng con số ấy. Tuy nhiên, trong đó, không ít là “tinh hoa” của ngườì Việt: Bác sĩ, kỷ sư, giáo sư, nhà thơ, nhà văn, ca sĩ… Trong cái tổng số ít ỏi đó, so với mấy chục triệu dân Việt Nam, không ít là người có tài, không phân biệt tuổi tác, giới tính.

              Vì vậy, tôi xin trích lại đây vài bài thơ hay. Tôi không thể trích hết thơ và cũng không trích lại văn vì… dài quá. Các quí vị định cư đâu đó, nếu các bài thơ bài văn của quí vị đã thất lạc, muốn có lại để làm kỷ niệm, xin liên lạc với tôi. Tôi sẽ photocopy, gởi đến quí vị.

              Dĩ nhiên, bài thơ tôi trích lại đầu tiên là của Hoàng Vũ. Ông ta làm thơ hay. Sau khi định cư, ở Cali, ông có xuất bản một tập thơ. Tôi có được tặng, nhưng rồi, ba năm trước, ba lần lên bàn mổ, tôi mang theo để đọc sau khi mổ xong. Việc di chuyển trong bệnh viện từ phòng nầy qua phòng khác, trong khi tôi chưa tỉnh thuốc mê, tập thơ ông tặng lạc mất, nay chỉ còn một bài, trích trong tờ SHCĐ.

              Với bóng
              Hoàng Vũ
              Ta cám ơn mình đó bóng ơi!
              Bên nhau từ thuở mới ra đời
              Ngày xa cố quận không đành bỏ,
              Buổi tếch trùng dương chẳng nỡ rời
              Gắn bó một lòng chung số mệnh.
              Bôn ba hai đứa khắp phương trời
              Lâu nay ta đã vô tình quá!
              Chẳng vỗ về nhau lấy nửa lời
              Pulau bidong, 1990

              Bài Thơ Trong Nỗi Đau
              Nguyễn Mạnh An Dân

              Trường học đã vắng người
              Thư viện đìu hiu như ngày đóng cửa
              Nụ cười từ lâu đã hiếm hoi mới nở
              Giờ tắt hẵn trên môi
              Mười ba ngàn trái tim cùng nói một lời
              Hãy để chúng tôi làm người
              Hãy cho chúng tôi được sống
              Những giọt lệ buồn như lòng phải dấu
              Sao tràn đổ bây giờ?
              Này chị - Này anh - cụ lão - trẻ thơ
              Ôi đồng bào tôi! Những người khốn khổ
              Chúng ta muốn sống bình thường như tất cả
              Sao đồng loại chối từ?

              *
              Sáng hôm nay điều ấy đến rồi!
              Thảm họa - nhẹ nhàng gọi tên Thanh lọc
              Rất ít nụ cười! Rất nhiều nước mắt!
              Tám mươi phần trăm làm lại từ đầu
              Hy vọng mịt mờ! Rất thật khổ đau!
              Trăm tai biến đang thật gần, trước mắt!

              *
              Buồn có thể chia khi xảy ra khoảnh khắc
              Rồi sẽ qua, sẽ hết trong đời!
              Đồng bào tôi – Bidong – và khắp mọi nơi
              Tai biến sẽ mang suốt trong cuộc sống

              *
              Thế giới Tự do - Đồng loại có người
              Sao đủ cả mà như không ai cả
              Pulau Bidong, 18-5-1990


              Nếu Có Một Ngày
              Mỹ Liên MC 404

              Nếu có một ngày
              Tôi trở về bên ấy
              Tôi xin làm một cánh bèo trôi
              Dòng nước chảy xuôi
              Cánh bèo trôi giạt!
              Tôi chẳng bao giờ hỏi han, thắc mắc
              Vì một lần
              Tôi đã ra đi!
              Cũng không biết thế nào là Giải Thoát
              Phải mua bằng Nước Mắt
              Đốt cháy tháng ngày
              Vẫn không thấy đâu là bờ bến
              Quê hương ơi!
              Sao tôi chạy trốn Người?
              Có phải Người là nơi để thương để nhớ
              Hay vì tôi đầu kiếp lầm nơi?

              Sóng

              Sóng mơn man bờ cát
              Gió hôn làn tóc em
              Vầng trăng soi sóng biếc
              Thấm ngọt ngào hương đêm
              Phương nào đi mỏi mắt
              Lối về ngàn dặm xa!
              Đường trường nhiều sương gió
              Có gì nhắc nhở ta?
              Mỹ Liên MC 404


              Màn Sương Biển Động

              Có màn sương giá buốt ngoài kia
              Ngoài khơi của biển đông thăm thẳm
              Có linh hồn người đi viễn xứ
              Giăng lên cánh buồm nhỏ nhoi
              Chờ cơn gió - Ngọn sóng xô đi
              Vào biển trời mênh mông
              Có ray rứt kỳ lạ cõi lòng
              Ôi! Đêm nay ta ra đi
              Sau mười mấy năm trường mòn mỏi

              Có thể là:
              Tôi đã sống sót - Đất liền còn mịt mờ xa xăm!
              Hay hải đảo xanh rì giữa biển mênh mông
              Có Tự do - Phố chợ thị thành nhộn nhịp!
              Và có những cánh chim lượn quanh hải đảo

              Con thuyền
              Đang tê buốt trong màn sương
              Lẫn quất đi tìm thị thành làng mạc…
              Tìm mua thực phẩm để làm Tiệc
              Mừng Tự do tỏa ánh sáng Bình minh

              Hỡi!
              Banthat, Bidong, Galang Bataan, Whitehead
              Đang vui hay buồn? Đang lên cơn sốt!
              Vì tình người băng giá lạnh lùng
              Sao thầm lặng ẩn mình trong lãng quên

              Hôm nay!
              Tôi cúi xuống, trong đêm trường hải đảo
              Nhìn thân phận – thân xác phủ rong rêu
              Những xác thân còn thở mà trái tim đã vỡ
              Đang cúi gập trên thân thể, nơi bến bờ Tự Do
              Tôi cúi xuống trong sương giá biển đông!
              Đang dày đặc cho mất cả tương lai
              Đang che mất con đường vào thế giới
              Và che kín khốn khổ - những mảnh đời lưu vong

              Tôi cúi xuống đếm tháng ngày trôi qua
              Đợi chờ thanh lọc! Đợi chờ những lá thư
              Đợi chờ Hội nghị! - Đợi chờ Phái đoàn
              Và đợi chờ khai sinh lại trong Tự Do

              Tôi cúi xuống - tạc thơ vào hải đảo
              Để rêu xanh ôm kín những thuyền nhân
              Khi quê hương không còn lẽ sống
              Những mảnh đời rướm máu, dưới Độc Tài

              Hỡi ngày 14 sao nghiệt ngã đắng cay
              Sao ghì chặt đội chân ta vào hải đảo
              Làm rã rời đôi cánh vừa thoát khỏi ngục tù
              Sao nỡ rào hải phận, - Sao nỡ xua đuổi đồng minh.
              Hỡi mây: Bay ngang đồi Bidong
              Cho ta gởi: Lời thơ vào mầu trắng Tự Do
              Ta gởi lời:
              - Kêu gọi lòng nhân đạo, có lẽ đã ngủ quên ở: Luân Đôn, Hồngkông, Bangkok
              Hỡi tình người
              Tôi đi tìm tự do bạn đang có
              Hãy chia xẻ cùng tôi bầu trời
              Một chỗ đứng dung thân
              Vì quê hương tôi dã biến thành ngục tù vây hãm
              Hỡi tình người! Hãy mở cửa
              “Thế Giới Tự Do”
              1990 – Phù Sa

              Bởi vì 13 ngàn người tỵ nạn hiện đang sống trên đảo Bidong, kể từ tàu MC. 326 là đến sau 12 giờ đến ngày 14 tháng 3 là ngày “đóng cửa đảo” (Cut off date) nên phải qua “thanh lọc” (Screening). Ai “đậu thanh lọc” (được xác nhận là người tỵ nạn chính trị) mới được đi định cư ở nước thứ ba, còn như “hỏng thanh lọc” thì có nguy cơ phải hồi hương, không sẽ bị “cưỡng bức hồi hương”.

              Thành thử, các bài thơ trích dẫn ở trên đều là tâm rạng, nỗi lo lắng, sợ hãi, v.v… trước tình trạng thanh lọc. Về sự kiện nầy, tôi sẽ nói tiếp sau.

              Trong các tác giả trích dẫn ở trên, có những người lớn tuổi. Riêng Mỹ Liên MC. 404 thì còn rất trẻ. Cô ta vượt biên cùng một người em gái tên Cầm. Thân phụ của họ là bạn đồng ngũ với cựu thiếu tá Trần Văn Lễ, người sau nầy là trưởng phòng SB thế cho ông Nghiêm.\

              Phụ lục:

              Nói Chuyện thơ:

              Những Nhà Làm Thơ Cổ Điển

              Hồi cuối năm 1990, bà (hay cô) Thụy Khuê của đài RFI (tiếng nói Quốc tế từ nước Pháp), nhân dịp thi sĩ Quách Tấn qua đời ở Việt Nam, có bài nói về nhà thơ cổ này và nhận định rằng: “Quách Tấn là nhà thơ cổ điển cuối cùng của thi ca Việt nam ở thế kỷ 20 này.”

              Nói vậy là không đúng đâu!

              Thời tiền chiến, trong khi phong trào thi ca lãng mạn đang lan rộng ở nước ta, người ta đua nhau làm thơ mới, từ hình thức đến nội dung, chịu ảnh hưởng không ít của thi ca lãng mạn Pháp thì Quách Tấn đi ngược lại. Ông làm thơ cổ điển, xuất bản một tập thơ cổ điển (tập “Mùa Cổ Điển”). Ông là đóa hoa cô đơn và nổi bật trong thời kỳ đó về những bài thơ làm theo lối cổ của ông, mà nổi tiếng nhất là bài “Đêm Thu nghe quạ kêu”, với nhiều thành ngữ, điển cố - lối làm thơ chứng tỏ sự uyên bác cổ văn mà rõ nhất là “Cung Oán Ngâm Khúc” của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều. Đây là một bài thơ hay, tôi xin ghi lại như sau:

              Đêm Thu Nghe Quạ Kêu

              Từ Ô Y Hạng rũ rê sang
              Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
              Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
              Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
              Bồn chồn thương kẻ nương sông bạc
              Lặng lẽ nhà ai rụng giếng vàng
              Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
              Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
              (Quách Tấn - Mùa Cổ Điển)

              Ô y hạng: Ngõ áo thâm, tức là ngõ nhà quan, người trong họ mặc cùng một màu áo. Tỷ dụ như giòng họ ông Phan Đình Phùng (12 đời, đời nào cũng có người đổ đại khoa - tiến sĩ), giòng họ đại thi hào Nguyễn Du, giòng họ Thân Trọng, Hà Thúc, Nguyễn Khoa ở Huế, nhiều đời đổ đại khoa và làm quan to trong triều.

              Bến Phong Kiều: Ý từ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Phong Kiều Dạ bạc” của Trương Kế.

              Xích Bích: Chỗ đóng quân của Tào Tháo trên sông Trường Giang. Khổng Minh bày mưu hỏa công cho Tôn Quyền đốt cháy thuyền của Tào.

              * * *

              Tôi không rõ bà Thụy Khuê rời Việt Nam năm nào và trong thời gian ở xứ người, dù bà thường hay bàn đến thơ văn Việt Nam, không chắc bà có dịp để tìm hiểu thêm về những nhà làm thơ cổ hiện đại. Tôi không nghĩ bà ấy cho rằng họ là người kém tài, không xứng để bà nói đến họ. Có thể bà chưa có dịp nói đến họ nhưng khẳng định Quách Tấn là “Nhà thơ Cổ Điển cuối cùng” thì hoàn toàn sai.

              Những người làm thơ chân chính thì không về hùa với ai để dùng thơ làm nấc thang danh vọng như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, và cũng không làm thơ theo “Đơn Đặt hàng” của Hội nhà văn, nhà veo, của đảng (Cọng Sản). Bởi vậy, ngoài những nhà thơ và người ái mộ thơ với nhau, thơ của họ không được phổ biến rộng rãi và những Hội Thơ (Tao Đàn) của họ, đối với “Bác và Đảng” đều “Phi Pháp”. Họ phải hoạt động âm thầm, nhiều người không biết tới, nhất là “người nước ngoài”, “người có quốc tịch nước ngoài” thì không chắc biết tới.

              Những thi sĩ âm thầm làm thơ cổ điển hiện nay ở Việt Nam không phải là ít: Lạc Nam, Trương Sư Xuyên, Nam Hà, Vọng Chi (tức Thái Can, thi sĩ, bác sĩ, đã đi Pháp), Vũ Khắc Văn (Trác Ngọc), Trúc Khê (mới, không phải Trúc Khê Ngô văn Triện, cũ) Trúc Phong (đã đi Pháp), Trình Xuyền, Thu Vân (nữ), bà Song Hường, bà Mỹ Linh, Liên Huê (nữ), Trương Duy Hy (có lẽ đã qua Mỹ theo chương trình HO), Tuyết Ngọc, Toại Khang, Đan Phượng, Hành Sơn Lưu Vĩnh Thuật (đã qua đời), Vũ Hân (đã qua đời) Chính Hà (cháu 7 đời Ôn như hầu Nguyễn Gia Thiều) , Thường Quân Vĩnh Mạnh, Hoàng Vũ ... Họ còn sống ở khắp cả ba miền Trung, Nam, Bắc và sinh hoạt trong các hội thơ như Thạch Động Tao Đàn, Hồng Đô Thi Các, Tao Đàn Thái Hòa ...

              Để tránh sự theo dõi, chú ý và có thể bắt giữ của chính quyền Cọng Sản Việt Nam, họ sinh hoạt không thường xuyên. Theo Hoàng Vũ, buổi họp thơ cuối cùng của ông trước khi trốn khỏi nước là vào năm 1988, tại Saigon, nhà của Thường Quân Vĩnh Mạnh, có Lạc Nam, Chính Hà (từ Bắc vào dự) và có cả Tô Kiều Ngân, nữ sĩ Cao Mỵ Nhân, mới “cải tạo” về.

              Năm 1989, sau khi đến Bidong một thơi gian ngắn, Hoàng Vũ thành lập ở đó nhóm “Thi Bút Bidong”, tổ chức nhiều buổi nói chuyện thơ. Chủ tọa là Hoàng Vũ, người điều khiển chương trình rất khéo là Trịnh Hí Phùng. Nghe thông báo, tôi có đến nghe và rất ngạc nhiên trước nét chữ Nho bay bướm của Hoàng Vũ. Ông ta viết được cả 2 loại: viết thảo và chân phương. Với loại nào, ông cũng tỏ ra là người tài hoa. Tôi trích in lại sau đây cả ba bản: Bản chữ Nho viết theo lối Chân Phương, Bản dịch âm và Bản dịch nghĩa để độc giả nhàn lãm, cùng với một số thơ khác của ông. Đây là những bài thơ đầu tiên, tôi hy vọng sẽ có dịp giới thiệu với độc giả nhiều bài thơ khác làm theo lối cổ điển nữa.
              ***************

              Comment


              • #8
                7. Phòng Phát Triển Cộng Đồng (Lại nói về những bài thơ hay)

                Sau khi tờ SHCĐ đăng bài thơ “Với Bóng” của Hoàng Vũ, tôi ghé thăm anh và mời lại chỗ tôi làm việc chơi. Anh đến thật. Thấy anh, mời ngồi chơi, tôi nói: “Bóng không có quyền lợi, không vì quyền lợi nên theo anh tới cuối đời. Vậy người ta gọi là chung thủy.”
                Anh Hoàng Vũ trả lời:
                - “Đời sống không thể có vô thủy vô chung. Hễ có thủy phải có chung. Có thủy mà không chung là vì ích kỷ. Người ta bỏ nhau là vì ích kỷ.”
                - “Tôi nhớ người xưa có nhiều nhận định rất hay về con người. “Gia biến biết con thảo, nước loạn biết tôi trung.” 30 tháng Tư, không chỉ đau cho công cuộc chống Cộng của người miền Nam mà đau cho cả tình người. Vợ chồng, cha con, anh em, bạn bè, chiến hữu, thầy trò. Nỗi đau đó kể sao cho hết.”
                - “Bỏ ngoài việc gia đình, chuyện riêng. Ngoài xã hội, anh biết những ai còn nhau?” Hoàng Vũ hỏi tôi.
                - “Chịu! Theo anh thì ai?” Tôi nói.
                - “Những ai đến với nhau không vì quyền lợi vật chất. Chỉ bằng tinh thần.”
                - “Anh muốn nói bạn văn? Bạn văn nào? Mấy cha háo danh, bỏ nhau lẹ lắm.” Tôi cười, nói.
                - “Háo danh thì đâu còn là văn chương đích thực. Tôi muốn nói theo ý nghĩa đích thực, chân chính của văn chương.”
                - “Vậy anh còn lại ai? Nói như anh thì không ít đâu.” Tôi nói.
                - “May mắn, tôi còn đông.”
                Rồi anh kể tên, kể người để tôi viết bài trước, “Những người làm thơ cổ.” Nhưng tôi muốn anh cho tôi xem thơ của họ, đăng thơ của họ. Đó là nguyên ủy của những bài thơ sau đây:

                Khóc Vũ Hân
                (Vũ Hân, quê Quảng Nam, bị tật bẩm sinh, là một nhà thơ, - tác giả thi phẩm “Diễm Trang”, nhà giáo nổi tiếng ở trường Bồ Đề Huế. Sau 1975, ông bị buộc phải thôi dạy học, sống lây lất ở Saigon, vợ bỏ. Ông chết trong cảnh nghèo khó. Bài thơ nầy Hoàng Vũ khóc Vũ Hân khi nghe tin Vũ Hân qua đời).

                Ức Vũ quân hề lệ mãn khâm
                Trường Sơn Quảng địa nhất tinh trầm
                Yên hoa phong bút, hồn như tại
                Hà huống tao nhân ảo tỵ trần

                bản nôm:
                Thấm bâu lệ nhớ bao lần
                Quê hương bỗng xót một vì sao rơi
                Bút hoa gởi lại với đời
                Đành sao anh vội về nơi chia đường.

                Nhất phiến tài tình vạn cổ thương
                Nhàn văn độc khứ thệ hà phương
                Ô hô! Thế sự mai trường mộng
                Hốt kiến trần khôi sở đoạn trường

                bản nôm:
                Tài hoa một kiếp thân thương
                Cánh mây biền biệt cuối đường phiêu du
                Mộng trường chôn chặt nghìn thu
                Màu tro xám lạnh bùi ngùi tâm can
                Hoàng Vũ


                Bạch Hạc Qui Sào
                (Bài thơ nầy Hoàng Vũ làm lúc cùng đi với thi sĩ (bác sĩ) Thái Can, thi sĩ Thường Quán đến thăm thi sĩ Chính Hà mới từ Bắc vào, phải nằm bệnh. Chính Hà là cháu 7 đời Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, tác giả Cung Oán Ngâm Khúc)

                Lân cư bất thức hạc qui sào
                Hạnh ngộ thi tình khởi hứng cao
                Giả trí, giả năng, đô bạch phát
                Nhi chung, nhi tứ thị hồng mao
                Hoàng tâm nhất điểm thôi trần để
                Thanh hải không chu nhận thủy trào
                Lãm thúy ngô quân ưng trúng tuyết
                Kim bằng lai khứ thưởng phong tao.
                Hoàng Vũ
                (bài nầy tôi không có bản dịch nôm)

                Bài họa của Thái Can:
                (Thái Can (1910- 1998) là một trong 40 nhà thơ được giới thiệu trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh. Thơ Thái Can phần nhiều đã đăng ở Phong Hóa, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Hà Nội Báo, Văn Học Tạp Chí, 1935. Ông sinh ra và lớn lên tại xã Đức Lâm, Đức Thọ, Hà Tĩnh, tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Đông Dương, hành nghề bác sĩ tại Đà Nẵng, sau đó sang Hoa Kỳ.
                Ngày 22/04/1998, nhà thơ, bác sĩ Thái Can qua đời tại California.

                Ý nhi hạnh ngô phụng lai sào
                Thanh khí giao tình trác vận cao
                Thế sự hồi đầu song bạch mấn
                Công danh đáo để nhất hồng mao
                Ngã tri kim nhật duy tân phái
                Thùy thức đương xuân quán cựu trào
                Kim cốc chi lan nghinh đối ẩm
                Đáp tình, sổ vận ký phong tao
                Thái Can tự Vọng Chi.

                Giải thích (của Hoàng Vũ):
                1- Chim ý nhi gặp chim phượng hoàng đến thăm nhà
                2- Niềm thanh khí đã gởi lại bài thơ với vần điệu trau chuốt đẹp đẽ.
                3- Việc đối đầu lúc mãn cuộc đời đều không tránh hai chòm tóc mai bạc thếch
                4- Công danh cuối cùng như sợi lông bay
                5- Tôi biết học phái ngày nay chọn tân học
                6- Nhưng ai ngờ trong lứa tuổi trẻ trung nầy lại quán thông nền cổ học nữa,
                7- Xin thân mời đến vườn kim cốc, chúng ta uống rượu và làm thơ với nhau.
                8- Vài vần thơ thanh tao xin đáp lòng gởi đến bạn.

                Ghi chú người viết: Hoàng Vũ thường dịch ra quốc ngữ các bài thơ của thi hữu ông. Tôi không rõ hai bài nầy tại sao ông không dịch nôm, chỉ giải thích để tôi chép lại.


                Hoàng Vũ đến thăm
                nhạc sĩ giáo sư âm nhạc Bửu Lộc.
                (Trước 1975, nhạc sĩ Bửu Lộc phụ trách chương trình Ca Huế trên đài phát thanh Saigon mỗi trưa thứ sáu. Những người Huế lưu lạc vào tận miền Tây Nam Bộ như tôi, nghe ca Huế, có ai không buồn, không nhớ Huế không?!

                Bên ngoài vũ trụ bao la
                Bên trong vũ trụ là ta với đàn
                Bên ngoài sông nước Hương Giang
                Bên trong sông nước là đàn với ta
                Còn non nước, còn cỏ hoa
                Còn người tri kỷ, còn ta còn đàn.

                Thơ Nhạc Sánh Ngôi

                Đàn ai động phiếm thả hồn bay
                Cùng với thơ ta quyện chốn nầy
                Đàn gợi niềm vui đời lãng tử
                Thơ ta vang dội khắp cung mây

                Khanh với ta quen tự thuở nào
                Quên rồi, việc ấy nghĩa gì đâu!
                Đường tơ khanh gởi vào vô tận
                Qua biển lòng ta những dạt dào

                Đã trót làm thơ nên thẩn thơ
                Quen nhau trong bước hẹn không ngờ
                Ta đang nhặt lá mùa thu rụng
                Nghe tiếng đàn khanh trẩy tiếng tơ

                Trời bắt làm quen ta với người
                Phải chi duyên nợ đã lâu rồi
                Từ khi trái đất còn hoang vắng
                Thì nhạc với thơ đã sánh ngôi


                Tiễn Người Đi
                Kính viếng hương linh thi sĩ Bàng Bá Lân
                Hoàng Vũ

                Hạc trở về non, bỏ cuộc rồi
                Đường trần gởi lại chuyện buồn vui
                Mảnh thân dù liệm trong lòng đất
                Hương bút còn bay giữa cõi người
                Dìu dặt “Đàn Thu” cung phiếm loạn
                Bàng hoàng thi xã lệ tâm rơi
                Trăm năm là mấy! Sao anh vội?
                Khóc tiễn người đi, bút nghẹn lời

                (Ghi chú: Khi bài thơ nầy được phổ biến trên tờ Sinh Hoạt Cộng Đồng, có một cô gái đến chỗ tôi làm việc, tự xưng là con gái thi sĩ Bàng Bá Lân, gởi lời cám ơn thi sĩ Hoàng Vũ. Tôi thật vô ý, không ghi tên cô ta, cũng không ghi địa chỉ. Sau nầy thanh lọc, không biết cô ta đậu hay hỏng, cũng không biết bị cưỡng bức hồi hương hay định cư ở quốc gia thứ ba nào!!!)

                Viếng Mộ Song Thân
                Vì chinh chiến, tôi xa quê hương 20 năm, sau mới được về thăm mộ, xúc cảm công ơn cha mẹ, tôi làm bài thơ nầy để tạ tội với Hai Vị Song Thân – Hoàng Vũ)

                Tích niên thử địa song đường tại
                Kim nhật hoàng vân nhất đóa qui (1)
                Nhất kiến song phần khô cảo lý
                Cam đường đoạn đoạn bất thăng bi!

                dịch nôm:
                Năm xưa bố mẹ nơi nầy
                Giờ con mỗi một trong bầy về thăm
                Nhìn đôi mộ, Cỡ mầu tang
                Lòng đau như cắt, ruột đau rối bời.
                Hoàng Vũ (1983)

                Năm 1990, mùa hạ, rằm tháng Tư, thầy Nguyên Đạt chùa Phật giáo trên Đồi Tôn Giáo tổ chức lễ Phật Đản rất trọng thể, trước nay chưa ai từng làm.
                Trước khi có thanh lọc, các sư sãi nhanh chóng được đi định cư ở Úc, ở Mỹ hoặc Canada. Ai cũng lo đi cho nhanh, nên ít ai để tâm lo tổ chức ngày vía cho Phật tử. Thầy Nguyên Đạt tới đảo sau ngày “đóng cửa đảo”, biết mình còn ở lại trại tỵ nạn lâu nên thầy lo tổ chức lễ Phật đản cho đồng bào Phật tử. Vã lại, thầy Nguyên Đạt là người có nhiều sáng kiến, có óc tổ chức nên trong suốt thời gian còn ở đảo, mỗi năm, mấy kỳ vía lớn, thầy tổ chức lễ rất trọng thể, ai nấy đều nô nức tới lễ chùa và ca ngợi công đức thầy Nguyên Đạt không tiếc lời.
                Năm đó (1990), tôi có ra số SHCĐ đặc biệt về lễ Phật đản. Anh Hoàng Vũ gởi tới đăng bài thơ hay:

                Hoa và Đạo
                Hạ chí liên thành diễm khả lân
                Khẳng tương hoa đạo ngoại khinh trần
                Đạo khai trí tuệ thường an định
                Hoa hướng tâm linh tự nhập thần
                Đạo pháp như như hề quảng đại
                Nhất chân lãng lãng thị huyền thâm
                Nê trung bất nhiễm sương đầu thảo
                Ý ngoại mê đồ sử tử xuân

                Hoàng Vũ (tự) dịch:
                Tháng hạ sen khoe lộng lẫy màu
                Vườn trần Hoa Đạo khác chi nhau
                Đạo đưa trí tuệ vào viên mãn
                Hoa hưóng tâm linh đến nhiệm mầu
                Phật pháp rõ ràng duyên rộng lớn
                Chân như bàng bạc lý cao sâu
                Trong bùn không nhiễm sương đầu cỏ
                Lòng nhẹ căn trần đẹp xiết bao!

                Khi nhân bài thơ nầy, đọc xong, tôi hỏi Hoàng Vũ một câu, bây giờ nhớ lại, thấy mình còn ngớ ngẩn, không biết chi về đạo cả:
                - “Anh theo đạo Cao Đài, tại sao còn làm bài thơ về lễ Phật?”
                Hoàng Vũ cười:
                - “Nếu đã đạt tới Đạo thì đâu còn là Phật hay không Phật, là Cao Đài Tiên Ông hay chúa Giê Su, Mô-ha-Mát. Khi người đi tu tìm về tới Chân Nguyên, đạt tới sự huyền vi của Đạo, có nghĩa là Đạo cũng không còn, không còn gì cả, là hư vô, nói chi tới Chúa hay Phật”
                Tôi rất tâm đắc câu trả lời của anh. Vì vậy, khi viết bài “Mùa Sen” tôi đưa bài thơ của anh làm phần kết.
                Làm báo và phát thanh ở phòng Phát Triển Cộng Đồng tôi được nhiều cái vui. Trước hết là anh em bạn văn, bạn thơ, nghệ sĩ đến chơi đông đảo, chuyện trò, mặc dù chẳng có chuyện chi quan trọng cả, chỉ là đến chơi với nhau. Các anh em có máu văn nghệ văn gừng cũng đến góp bài, góp ý. Thậm chí, những anh em chẳng có văn nghệ văn gừng gì cả như anh Cao Dai, anh Kỳ (Khối Vệ Sinh), anh Khoa (Khối An Ninh), anh Võ Văn Loan (Khối Giáo Dục), anh cựu thiếu tá Trần Ngọc Bảy (bệnh viên SickBay), dĩ nhiên không thiếu nhạc sĩ Trường Sa và bạn thân của anh là cựu Hải Quân Trung tá Châu Ngọc Tuấn. Và mấy giáo sư dạy ở trường sinh ngữ, trường Pháp cũng đến chơi. Có hai người đàn bà thường đến và cho uống càphê, là một người gọi tôi bằng cậu: Phan Thị Bạch Yến, trước kia là hoa khôi trường Đồng Khánh, vợ bác sĩ Lê Văn Tập. Bạch Yến vượt biên cùng các con, bác sĩ Tập còn ở trong tù, vừa được Việt Cộng giảm án tử hình. Một người cũng nổi tiếng đẹp là Trần Như Minh Nguyệt, vợ Bửu Hạp, bạn đồng nghiệp với tôi khi tôi chưa nhập ngũ.

                (1) Kinh thi có câu: “Hoàng vân nhất đóa phi, Du tử hà thời qui?” Nghĩa là: Nhìn mây bay, không biết bao giờ con về.
                ***************

                Comment


                • #9
                  8. Sân Khấu Khu B


                  Sân khấu Khu B là một rạp hát lộ thiên. Người ta lợi dụng một cái lòng chảo của ngọn núi Bidong, sườn núi hình vòng cung như một nửa cái nón lá lật ngữa, chôn lên đó những tấn sắt lớn, cũng hình vòng cung để cho khán giả ngồi hoặc đứng, ngó xuống dưới kia, chỗ thấp là một cái sân khấu bằng gỗ khá rộng.

                  Các cánh gà đã làm sẵn bằng ván ép, vẽ tranh. Phông màn thì chỉ khi nào có trình diễn mới dựng nên. Thời gian đầu, khi chưa có các cuộc thanh lọc “tàn sát” người tỵ nạn, lòng người tỵ nạn còn vui và nhiều hy vọng thì chương trình văn nghệ diễn ra đều đều, tháng nào cũng có, để đồng bào được vui.

                  Sau khi có thanh lọc rồi, người hỏng thì buồn, khóc và lo lắng cho tương lai, có người tuyệt vọng, tự tử; người chưa thanh lọc cũng đâm ra bâng khuâng, lo lắng, nên chẳng còn văn nghệ văn gừng gì nữa. Sân khấu khu B vắng hoe, như là chứng tích của “một cuộc hí trường”, nơi cũng từng diễn ra cảnh vua quan, binh tướng, tuy là trên sân khấu, không phải là đời thực, cũng làm vui buồn cho bao nhiêu người!

                  Tôi định cư chính thức ở đảo ngày 4 tháng Sáu năm 1989. Chỉ mấy hôm sau, là được xem trình diễn văn nghệ ở sân khấu khu B.

                  Vào chương trình, mọi người đứng nghiêm chào cờ. Nhạc và tiếng hát cất lên: “Nầy công dân ơi…” Và tiếp theo Quốc ca là bài “Việt Nam! Việt Nam! nghe từ vào đời…”

                  Và tôi xúc động đến nỗi, có lúc, bỗng chốc, nước mắt tự dưng trào ra.

                  Quí vị không tin tôi!?

                  Có thể!

                  Nhưng chỉ có ai từng sống trong cảnh đọa đày đau khổ, trãi qua những giờ phút nguy khốn nhứt trong cuộc đời. Những ai từng cầm từng lát khoai mì mốc cố ăn để mà sống. Những ai cầm cái cuốc không muốn nỗi, cũng phải giơ cao cuốc lên để làm cho xong, cho qua một ngày khổ sai. Những ai cầm dao đốn những cây rừng to để biến đất rừng thành trại tù giam hãm bạn bè mình. Những ai từng thấy bạn tù của mình hấp hối trong cơn bệnh hoạn ngặt nghèo mà không có thuốc thang, bác sĩ. Những ai từng thấy những ông già tù ngồi không vững, đi muốn xiêu té, chết dần từng ngày, từng giờ vì thiếu ăn… Những người đó sẽ cảm nhận một cách sâu sắc rằng thế nào là sống, thế nào là được sống, thế nào là thoát vòng lao lý, là không còn bị kềm kẹp, đe dọa, là những hãi hùng khi còn trong trại tù, là hy vọng, là tự do.

                  Giờ đây, tất cả những buồn phiền, đau đớn, tuyệt vọng đó đã mất đi, đã biến khỏi tâm tư, tình cảm, chỉ còn lại những vui mừng, sung sướng vì “giải thoát”, vì được “giải phóng” đích thực, thật sự, không còn dối trá, lừa đảo, thủ đoạn, gian manh thì mới thấm thía như tôi khi nghe lại những bài ca quen thuộc, những lời ca mình từng hát, lời ca từng nung nấu, hun đúc tình cảm của mình đối với quê hương, xóm làng, với bà con, đồng bào, dân tộc, từ khi còn thơ ấu, thì sẽ thông cảm tôi, tại sao tôi khóc khi nghe lại tiếng hát bài Quốc ca sau một thời gian dài sống trong cảnh ảm đạm, u tối, kềm kẹp, đau xót của một chế độ cai trị dã man và gian trá bậc nhứt trong lịch sử dân tộc.

                  Đối với những đêm văn nghệ, có đơn ca, hợp ca, hợp xướng, hài kịch, ca kịch, tuồng tích cải lương, với sự giúp đỡ của Cao ủy Tỵ nạn, phương tiện không thiếu, nhưng ca sĩ, kịch sĩ, đạo diễn, tuồng tích, hóa trang, việc may sắm y phục, v.v… Tôi nghĩ là thiếu, là gặp khó khăn.

                  Gặp khó khăn là điều không thể tránh, nhưng thiếu thì không thiếu. Không có những ca sĩ đệ nhứt hạng, đệ nhị hạng, nhưng người hát hay thì không thiếu: Vũ Nga, Thu Thủy, Thanh Thảo, Ngụy Vũ, v.v… Cũng có những người từng hoạt động trong lãnh vực văn nghệ trước 1975. Cũng có người mới được đào tạo mới đây, dĩ nhiên không phải ở thủ đô Saigon mà ở thành phố Hồ Chí Minh như Ngụy Vũ, những người vì yêu thích mà trở thành nghệ sĩ, đạo diễn cải lương như Lê Vĩnh Tường. Những buổi trình diễn văn nghệ nầy trên một phương diện nào đó, rất thành công. Có nghĩa là khi buổi trình diễn xong rồi, đồng bào ra về vui vẻ, bàn tán náo nức, khen ca sĩ nầy, nghệ sĩ kia, cả nữ nghệ sĩ nhưng không chừng đó lại là một anh “đực rựa”, giả đóng vai khác giống, v.v…

                  Tình trạng sinh hoạt ở đảo, về mặt quản lý có nhiều điều không đàng hoàng. Khi tôi tới trại thì ông cựu thiếu tá Nguyễn Văn L. đang làm trại trưởng. Ông nầy mang tai tiếng nhiều về các vụ quan hệ với mấy bà, nay bà nầy, mai bà khác. Cái chức vụ ấy như một phương tiện để mấy ông quan hệ tình ái bê bối. Lúc ấy, ông cựu trung tá Bùi Văn X. làm trưởng khối an ninh, cũng mang tiếng không kém về các vụ dung chứa bọn làm bậy, như bao che cho những người nấu rượu lậu, bọn “bồ-tạt” (tiếng Mã Lai) là bọn du côn trấn lột, v.v…

                  Đúng ra, ông Nguyễn Văn L. rời đảo đi định cư sớm - ông nầy tới đảo trước ngày “đóng cửa đảo”, khỏi bị thanh lọc, nên đi định cư sớm - nhưng, tuy làm trại trưởng, thường làm việc với Cao ủy nhưng văn phòng nầy không giúp đỡ ông ta khi ông ta bị phái đoàn Mỹ từ chối, không cho định cư ở Mỹ. Ông ta phải đi Úc, kéo luôn bà Đ. đi theo, sau khi tặng cho bà nầy một cái bầu. Bà Đ. là “người quen cũ” của Trường Sa ở Bidong. Vì tế nhị, sau nầy, tuy gặp Trường Sa nhiều lần, tôi chẳng bao giờ hỏi ông về chuyện “Con sáo sổ lồng” mà ông đã từng “Đem sáo sang sông.”

                  Khi ông Nguyễn Văn L. rời đảo, ông cựu thiếu tá Ngô Văn Thu lên thay. May mắn, ông Ngô Văn Thu là người chăm việc, đàng hoàng, có tư cách, nhiều người có cảm tình với ông, nhưng ông ta lại bị “đấu tố” ở Sân Khấu Khu B vì “không phải là người phe ta.”

                  Hôm ấy, chẳng có văn nghệ văn gừng gì cả, chỉ là vì cái chức trưởng trại, nên các ông chế độ cũ bày loa, máy phát thanh ra sân khấu và đấu tố ông trại trưởng.

                  Ông ta mới lên chức, đã có gì đúng sai đâu mà đấu tố? Không có lỗi gì cả? Dễ thôi! Muốn thì tìm, tất phải có… tì vết. Ấy là việc mà tổ tiên gọi là “Bới lông tìm vết.” Vậy là có ông cựu sinh viên trường Đại Học CTCT lên cầm micro tố cáo ông Thu nào là nay “Anh” lên làm trại trưởng, có nhà ở riêng, rộng rãi, mát mẽ, có quạt máy, có radio, có ngược ngọt xài thoải mái, quên mất anh bạn chiến hữu, chiến tả gì đó, v.v…

                  Buồn cười chưa?

                  Những thứ ấy do Cao ủy chu cấp cho, người trước sinh sống ra làm sao, ông Thu tiếp tục sinh sống theo đúng tiêu chuẩn của Cao ủy cho như vậy. Tại sao lại đem bêu rếu ở đây?

                  Thế là đồng bào, tưởng tới sân khấu Khu B coi văn nghệ, té ta “mấy ổng chơi nhau” nên đồng bào bất mãn, bàn tán, chê bai mấy ông chia phe, v.v…

                  Hôm sau, trên đường đi làm, tình cờ gặp ông cựu đại tá Nguyễn T., chào nhau xong, tôi nói:

                  - “Hôm qua, vụ sân khấu Khu B., người ta cho rằng ông đúng đằng sau vụ tố khổ ông Thu đấy. Ông là người có cấp bậc cao nhứt trên đảo, là huynh trưởng, phải đứng ra dàn hòa thôi.”

                  Thay vì trả lời tôi, ông cựu đại tá Nguyễn T. quay ngoắt bỏ đi, không nói gì cả.

                  Lên tới phòng PTCĐ, tôi thấy nhiều người đang bàn tán sôi nổi chuyện sân khấu Khu B. tối qua, phê phán khá nặng nề, cho là gây chia rẽ nầy nọ.

                  Tôi không tham gia, ngồi vào chỗ làm việc.

                  Bửu Tộ tới ngồi trước mặt tôi, nói:

                  - “Mấy cha nầy kỳ ghê, có gì cái chức trại trưởng tạm thời mà chơi xấu nhau dữ vậy!”

                  - “Ham chức, háo danh là tâm lý thông thường. Ở loanghouse tôi, ông thiếu úy L., bạn ông đại úy Khoái, được chuyển đến trại Marang. Trại nầy là trại chuyển tiếp, chỉ ở tạm vài hôm, có cần chức chưởng gì đâu. Ai biết ít nhiều tiếng Anh thì xí xô xí xào với mấy thằng lính Mã Lai để lãnh gạo, lãnh củi giúp đồng bào. Cả trại nầy, lúc ấy phần đông là dân Long Phú (Sóc Trăng) và Bình Đại (Bến Tre), chữ nghĩa không có, ông ta chỉ đứng ra lãnh đồ giúp. Vậy mà khi tôi mới tới đảo, ông ta khoe: “Tôi là trại trưởng Marang.” Huống gì cái chức trại Bidong nầy là to lắm. Dù là cục xương, tranh nhau cũng không có chi lạ cả.”

                  Thực ra, càng về sau, người ta càng thấy khả năng và thiện chí của ông Thu với đồng bào, cả người sống, lẫn người chết. Ngoài việc chăm sóc đời sống thường nhựt của người tỵ nạn, ông ta tổ chức nhiều đợt, kêu gọi đồng bào tham gia đi làm cỏ và sửa sang các khu nghĩa địa. Mộ nào có bia thì lấy sơn vẽ tên lại cho rõ. Mộ nào chỉ là nắm đất, ông cho lấy đá đắp chung quanh cho ra hình dáng mộ phần. Xong khu nghĩa trang ở gần khu Đ. ông lại cho lên sửa lại những ngôi mộ trên sườn núi Bidong, nơi nầy ít ai biết. Hơn cả chục năm trước, có một đợt dịch tả, Cao ủy lo không kịp, chết hơn chục người, chôn ở trên sườn núi đó.

                  Hầu hết những ngôi mộ nầy không có thân nhân. Họ vượt biên một mình hay thân nhân định cư đã lâu, chưa có dịp trở lại thăm viếng mồ mả người đã khuất.

                  Mấy ông đối thủ thấy vậy, biết mình làm không xong gì, mới chịu nằm im.

                  Sau đó ít lâu, ông cố vấn Hùng cho chúng tôi biết là ông cao ủy Francesco yêu cầu thay ông cựu trung tá Bùi văn X., trưởng khối An Ninh. Theo cố vấn Hùng thì ông cao ủy Francesco phê bình ông Bùi văn X., cho rằng làm việc không hữu hiệu. Không hữu hiệu chỉ là cách nói khéo.

                  Tôi đề nghị:

                  - “Ông cố vấn nên cho tổ chức bầu cử đi, khỏi mang tiếng phe đảng.”

                  Cố vấn Hùng nói:

                  - “Tôi cũng nghĩ vậy, để cho đồng bào quen với đời sống dân chủ.”

                  Cô Mỹ Duyên góp ý:

                  - “Nếu đi định cư được, qua nước người ta có bầu bán, đồng bào cũng có ý niệm về bầu cử tư do. Còn như phải về, đồng bào có dịp so sánh bầu cử tự do với bầu cử độc tài. Đằng nào cũng có lợi.”

                  Cô Mỹ Duyên là con gái bác sĩ Nguyễn Hữu Phần, người từng theo học “hậu đại học” ở Mỹ, trước 1975, là giám đốc bệnh viện Từ Dũ. Cô Mỹ Duyên học giỏi, nhưng không vô y khoa được vì lý lịch số 13, phải học trung học y tế. Buồn tình, cô vượt biên với cậu em, tên Nhân. Anh nầy làm việc thiện nguyện ở văn phòng ông Bill, coi sóc các em “mi-no”, tức là bọn trẻ con vượt biên một mình, không có thân nhân cùng đi.

                  Hai chị em cô nầy hiện định cư ở Úc.

                  Cô Mỹ Duyên là người làm việc giỏi, rất nhiệt tâm, thân cận với cố vấn Hùng. Cô có thành lập một đoàn gọi là “Thanh niên Chí nguyện” chuyên đảm trách các công việc xã hội, giúp đỡ các gia đình neo đơn. Gọi là “chí nguyện” nên không nhận thù lao bất cứ của ai, về việc gì. Công việc họ thường làm là đi dọn rác, hốt rác, vét cống rảnh nước dơ cho thông, từ các longhouse chảy ra suối, sửa sang những ngôi nhà bị hư hỏng. Tuy các công việc nầy do khối Vệ Sinh và Xây Dựng đảm trách, nhưng các khối nầy thường làm những công việc thường nhựt, có đám “Thanh niên Chí nguyện” giúp sức, các khối giải quyết được những vấn đề lớn hơn, khó khăn hơn. Hôm tôi sửa nhà, mặc dù tôi không còn làm việc ở phòng PTCĐ nữa, bày tỏ yêu cầu với cô Mỹ Duyên, cô cho mấy “Thanh niên Chí nguyện” đến giúp đỡ, dựng mái hiên nhà rộng ra, buổi chiều có chỗ ngồi chơi.

                  Việc bầu trưởng khối An Ninh được tổ chức rất chu đáo. Văn phòng trại cho người vận động đồng bào tham gia đông đảo. Còn những người ra ứng cử thì tự họ lo. Việc in ấn truyền đơn của các ứng cử viên thì thì do cô Mỹ Duyên đảm trách. Cô ấy thực hiện công việc nầy đứng đắn, công bằng, không ai trách cứ vào đâu được.

                  Lần ấy, ông Cao D., cựu thiếu tá, đắc cử trưởng khối An Ninh, cùng với ông Khoa, cựu trung úy, làm phó khối.

                  Việc ông ta đắc cử cũng dễ hiểu thôi, bởi vì mọi người đã ngán ông cựu trung tá Bùi Văn X, lắm rồi. Ngay chính cao ủy Francesco cũng nói trong buổi hội nghị: “Mùa cũ đã qua rồi, nên cày xới đất đai lên để gieo hạt cho mùa mới.” Dĩ nhiên, ông phải nói khéo như thế.

                  Tuy vậy, chỉ 1 năm, người ta lại ngán mùa mới nầy. Mùa mới cũng như mùa cũ. Hạt giống đã như thế rồi, mùa mới hay mùa cũ cũng chỉ gặt lên những sản phẩm như thế mà thôi. Lại bầu lại, ông CD thất cử. Ông nầy cũng chẳng cao thượng gì hết. Đang khi kiểm phiếu, - cũng tại sân khấu Khu B. – phiếu đối thủ của ông càng ngày càng nhiều, vượt cao lên. Biết chắc mình thua, ông trưởng cùng ông phó, chui ra ngõ sau, lặn mất, không ở lại đó mà chúc mừng đối thủ như người Âu Mỹ thường làm. Ai cũng cười. Người ta cười ông C.D. làm thợ lặn hay người ta cười cho “Văn minh Việt Nam”?

                  Bấy giờ, vì thấy số phận mình còn dan díu với trại tỵ nạn lâu dài, người ta càng tổ chức nhiều hội đoàn: Nào là “Hội cựu tù nhân chính trị” hy vọng với hội gốc ở bên Mỹ, bên Tây có giúp đỡ gì cho mình được chăng? Các hội cựu quân cán chính như hội Không Quân, hội Hải Quân, hội Sư Đoàn Bộ Binh, hội Biệt Động Quân, hội Thiêt Giáp… Không thấy hội Nhày Dù hay Thủy Quân Lục Chiến, có lẽ số cựu quân nhân thuộc các binh chủng nầy không bao lăm người, không lý chỉ một hai người mà vừa làm hội trưởng, hội phó và hội viên…?

                  Lại cũng có người liên lạc với các “chính phủ” bên Mỹ. Các chính phủ nầy thì tôi không có ý kiến, - cũng có thể là không dám có ý kiến – nhưng cũng có người ở trại được phong chức. Ông Nguyễn Bửu Th., trại trưởng được chính phủ… gì đó ở Cali phong cho chức “Đại biểu Chính phủ” ở Malaysia. Tôi không rõ mấy tiếng “đại biểu chính phủ” nầy có ý nghĩa như thế nào, có giống chức đại biểu chính phủ của nước Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 hay không? Nếu thế thì lãnh thổ và dân chúng ở đâu? Không lý dùng lãnh thổ và nhân dân Mã Lai mà làm “đại biểu”.

                  Sau khi đọc báo “Đường Sống?” thấy chính phủ công bố chức nầy chức kia cho người nầy người nọ, tôi hỏi ông Nguyễn Bửu Th,. thì ông ta khoe cho tôi thấy cái giấy chứng nhận của chính phủ cấp riêng cho ông. Cách đây 20 năm ông ấy được cái chức “đại biểu chính phủ”, lâu ngày thăng quan tiến chức, không rõ bây giờ ông ta lên tới cái chức gì rồi. Còn cái giấy chứng nhận, như bọn tôi nói đùa “Cất cho kỹ, lỡ khi đau bụng, bỏ vào nồi sắc uống cho bớt đau.”

                  Bên cạnh sân khấu Khu B là khu thanh nữ, tức là khu dành riêng cho các cô gái vượt biên một mình. Khu nầy hơi nghiêm nhặt, cấm đàn ông con trai léng phéng vào đây. Thành ra, ở cái sân khấu nầy, bên phía nhìn vào khu thanh nữ là nơi “phát tín hiệu truyển tin.”

                  Longhouse tôi ở phía bên nầy sân khấu, phía bên kia là khu thanh nữ. Cứ mỗi sáng, tôi thấy hai cha con, hết người cha lên đứng bên hông sân khấu ra “tín hiệu” cho một cô nào trong đó. Sau cha là đến phiên anh con trai. Anh nầy cũng đến phát “tín hiệu” cho một ai đó trong khu trên. Sau nầy mới vỡ lẽ, người nhận tín hiệu của người cha có biệt danh là “Dung nhỏng nhẻo” cùng quê với Nguyễn Thị Định. Theo người ta nghĩ, cô nầy phải rớt thanh lọc vì là con cán bộ hiện dang tại chức ở Việt Nam, con cái có lý do gì mà gọi là “bị ngược đãi chính trị” như trong luật tỵ nạn chính trị của Cao Ủy Liên Hợp quốc qui định? Nhưng nhờ người cha là sĩ quan chế độ cũ, khéo vẽ phù phép mà lọt qua lưới của Cao ủy tỵ nạn, sau định cư ở Úc. Thế còn anh con trai? Anh nầy có vợ đi theo nên hai bên vợ và bồ xảy ra… đánh ghen. Việc phải nhờ cao ủy gian xếp. Ôi! đời tỵ nạn, cũng không thiếu gì chuyện vui cười…

                  Như tôi nói ở phần trên, do hoàn cảnh phải ở lại trại tỵ nạn lâu ngày, do tâm lý khi khó khăn thì người ta tìm đến nhau, do hy vọng những tổ chức của cộng đồng người Việt hải ngoại có thể giúp đỡ trong việc thanh lọc, các hội đoàn cựu quân cán chính được thành lập.

                  Một hôm, nghe thông báo, tôi đi họp hội Thiết Giáp vì tôi vốn là sĩ quan Thiết Giáp trước khi biệt phái. Hội khoảng trên 10 người, gồm từ ông cựu thiếu tá Thái Văn S., khóa 12 Thủ Đức, cho tới anh binh nhứt, binh nhì nào đó, tôi không nhớ tên.

                  Sở dĩ tôi nhớ ông cựu thiếu tá nầy, nói thật lòng, cũng bởi ông có loon lá nầy nọ, thứ nữa ông cũng thuộc hàng quái kiệt khó chơi. Trong một trận đánh nào đó, dĩ nhiên trước 1975, có lẽ M-113 của ông bị bắn cháy. Dấu tích còn lại trên mặt ông vì ông chưa kịp đi thẩm mỹ viện. Điều đó thì đáng thương cho ông, nhưng quả thật tôi không ưa ông là vì ông thuộc hàng đệ tử của cựu thiếu tá (sắp lên trung tá - như ông ta khoe - ) phó phòng 3 Sư Đoàn Dù nhưng cải tạo có hơi ít - chỉ 4 năm rưởi, nhờ giác ngộ cách mạng trước 1975 nên được về sớm. Quí vị có thể xem lại ở bài số 2, phòng SB thì rõ. Ngoài ra, ông nầy cũng thuộc hàng, như tôi có nói trong phần phát thanh hằng ngày trên đảo, cũng là người đi tìm lại “thời hoàng kim”. Tạm thời, ông tìm lại thời ấy ở mấy cô trong khu thanh nữ trước đã.

                  Thế cũng cho qua đi. Nhưng hôm họp mặt “chiến hữu” lần đầu tiên, mỗi người tự giới thiệu mình cho mọi người biết tên họ cấp bậc, đơn vị, v.v... thì ông cựu thiếu tá Thái Văn S. tự giới thiệu như sau:

                  - “Tôi là người anh em ai cũng biết…”

                  Sau buổi họp, trên đường về nhà, cùng đi với ông Tuyên, cựu trung úy Thiết giáp, tôi nói với ông ta:

                  - “Tới đảo rồi, mấy ông chế độ cũ nhiều người thấy mình lớn quá, cứ tưởng rằng ai cũng biết mình, ai cũng phải biết mình…”

                  Từ đó, tôi chẳng họp hành “hội đoàn hội đúm” gì nữa cả, và cũng chẳng tham gia “cộng đồng, cộng kẽm” gì nữa cả, cứ lo làm báo, phát thanh cho thiên hạ đọc chơi, cho thiên hạ nghe chơi…cũng đỡ buồn nhiều lắm. Thời gian chờ đợi đi thanh lọc nhờ vậy cũng ngắn lại nhiều.

                  Tuy nhiên, tôi biết có nhiều anh em rất tốt, thật lòng thương nhau. Ông Lê Hữu Thu, nguyên là thượng sĩ Cảnh Sát, tham gia hội Cảnh Sát Quốc Gia. Khi ở trại, ông cũng góp ý với những người chuẩn bị thanh lọc, giúp đỡ họ làm sao trình bày cho rõ ràng, mạch lạc những khó khăn vì chế độ trước khi vượt biên. Sau nầy, khi đi định cư rồi, từ Hạ Uy Di, nơi ông ở với các con đã định cư trước, nhiều lần gởi tiền về cho hội ở đảo để giúp đỡ các anh chị em gặp khó khăn.

                  Ở phòng Phát Triển Cộng Đồng, nhiều việc phải đưa lên sân khấu Khu B như văn nghệ, bầu bán (kết thúc và công bố kết quả). Việc tôi làm, - báo bung và phát thanh -, chẳng phải lên sân khấu, cũng đỡ. Lên chỗ “hí trường” ấy, cũng ngại. Biết đâu lại có người tìm ra tôi có cái lỗi gì đó - Chắc gì tôi không có lỗi, mà còn lỗi nhiều lắm cũng nên - người ta đưa lên đó đê phê phán, phải tẻn tò, không ngán sao được!?

                  Đời, quả thật là “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường!”







                  sưu tầm
                  ***************

                  Comment

                  Working...
                  X