Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

BÊN THẮNG CUỘC - Huy Đức

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • BÊN THẮNG CUỘC - Huy Đức

    BÊN THẮNG CUỘC
    Tập I. Giải Phóng

    BÊN THẮNG CUỘC
    Tập I. Giải Phóng
    Huy Đức
    Smashwords Edition


    *****
    Published by
    OsinBook∘2012
    Copyright 2012 by Huy Đức & OsinBook∘2012
    ISBN: 978-1-4675-5790-0
    Huy Đức & OsinBook∘2012 giữ bản quyền
    Thiết kế bìa và trình bày:
    Phùng Văn Vinh & Trần Minh Triết
    Bản giấy in tại California, USA
    ISBN: 978-1-4675-5791-7
    Phát hành toàn cầu


    All rights reserved. Without limiting the rights under copyright reserved above, no part of this publication may be reproduced, stored in or introduced into a retrieval system, or transmitted, in any form, or by any means (electronic, mechanical, photocopying, recording, or otherwise) without the prior written permission of both the copyright owner and the above publisher of this book.

    Bảo lưu toàn bản quyền. Không in lại, sao chép, tái bản, phân phát, một phần
    hay toàn bộ cuốn sách, dưới dạng điện tử hay giấy, khi chưa có sự đồng ý bằng văn
    bản của tác giả và nhà xuất bản.

    Smashwords Edition License Notes

    This ebook is licensed for your personal use only. This ebook may not be re-sold
    or given away to other people. If you would like to share this book with another
    person, please purchase an additional copy for each person you share it with. If you
    are reading this book and did not purchase it, or it was not purchased for your use
    only, then you should return to Smashwords.com and purchase your own copy.
    Thank you for respecting the author’s work.

    Chỉ được phép sử dụng sách điện tử này cho mục đích cá nhân. Không được bán lại hay chuyển cho người khác. Nếu bạn đọc muốn chia sẻ cuốn sách này cho người khác, xin mua thêm một ấn bản cho từng người bạn muốn chia sẻ với. Nếu bạn đọc cuốn sách này và không mua nó, hoặc không mua cho riêng bạn, thì bạn nên trở lại Smashwords để mua ấn bản của mình. Chân thành cám ơn bạn đọc đã tôn trọng quyền sở hữu bản quyền của tác giả.

    xxx

    “Bên Thắng Cuộc của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết.” – Trần Hữu Dũng, Đại học Wright, Ohio, USA

    “Cuốn sách này nói về những sự thật khốc liệt, nhưng vì rất trung thực nên nó khiến ta bình tĩnh hơn trong thế giới và giữa đất nước khốc liệt ngày nay.” - Nguyên Ngọc, Đại học Phan Châu Trinh, Hội An, Việt Nam

    “Bên Thắng Cuộc là tác phẩm ‘thực’ nhất, cho đến thời điểm này, ghi lại một giai đoạn lịch sử khốc liệt, thông qua tư liệu, của dân tộc từ biến cố 1975 đến nay.” – Đinh Quang Anh Thái, Nhật báo Người Việt, California, USA

    “Cuốn sách phân tích tình hình Việt Nam từ năm 1975 - của một nhà báo sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản - một cách chuyên nghiệp và công bằng hiếm có. Nó là một kho tàng dữ liệu quý báu, có thể làm ngạc nhiên cả những chuyên viên theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên qua.” – Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason, Virginia, USA

    "Huy Đức viết công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước. Có công minh lịch sử mới có hòa giải dân tộc thưc sự" – Chu Hảo, Nhà Xuất bản Tri Thức, Hà Nội, Việt Nam

    Thương yêu tặng Mỹ Đức
    và hai con Thạch Thảo, Đức Trung


    “Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
    Bên nào thắng thì nhân dân đều bại”
    Nguyễn Duy



    Mục lục

    Mấy lời của tác giả
    Lời cám ơn

    Phần I: Miền Nam

    Chương I: Ba Mươi Tháng Tư
    Đi từ bưng biền
    Xuân Lộc
    Tướng Big Minh
    Trại Davis
    Nguyễn Hữu Hạnh
    Sài Gòn trong vòng vây
    Xe tăng 390
    Đầu hàng
    Tuẫn tiết

    Chương II: Cải tạo
    Những ngày đầu
    “Ngụy Quyền”
    “Ngụy Quân”
    “Đoàn tụ”
    “Phản động”
    Tù và cải tạo
    “Thăm Nuôi”
    “Học Tập”

    Chương III: Đánh tư sản
    “Chiến dịch X-2”
    Đổi tiền
    “Gian thương”
    “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”
    Hai gia đình tư sản
    Kinh tế mới

    Chương IV: Nạn Kiều
    Đội quân thứ năm
    Hiệp định Geneva
    “Chổi ngắn không quét xa”
    Hoàng Sa
    Sợ “con ngựa thành Troy”
    “Nạn Kiều”
    “Phương án II”
    “Ban 69”
    Vụ Cát Lái

    Chương V: Chiến tranh
    Biên giới Tây Nam
    Pol Pot
    Đi dây
    Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ
    “Kẻ Thù Lịch Sử”
    Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)
    “Nhất Biên Đảo”
    “Áo lính lại khoác vào ngay”

    Chương VI: Vượt biên
    “Vượt biên”
    Từ “trí thức yêu nước”
    Đến “thường dân”
    Trước khi tới biển
    Đường tới các trại tị nạn

    Chương VII: “Giải Phóng”
    Sài Gòn thay đổi
    Kinh tế mới
    Đốt sách
    Cạo râu
    “Cách mạng là đảo lộn”
    Lòng người
    Những người được sinh ra không đúng cửa
    “Cánh cửa” Thanh niên Xung phong
    “Nổi loạn”
    “Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”

    Phần II: Thời Lê Duẩn

    Chương VIII: Thống nhất
    Nước Việt Nam là một
    “Bắc hóa”
    Chủ nghĩa xã hội
    “Con đường của Bác”
    “Mỗi người làm việc bằng hai”
    Lê Duẩn và mối tình miền Nam
    Chấp chính và chuyên chính

    Chương IX: Xé Rào
    Bế tắc
    Mậu dịch quốc doanh
    Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng
    Tháo gỡ
    Nghị quyết Trung ương 6
    Bù giá vào lương
    Cắm cờ xé rào
    Khoán chui
    Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn
    “Ai thắng ai”

    Chương X: Đổi mới
    Hội nghị Đà Lạt
    Nhóm giúp việc mới
    Người của những khúc quanh lịch sử
    Từ chính sách Kinh Tế Mới
    Đến chọc thủng thành trì bao cấp
    Giá-Lương-Tiền
    Nã pháo vào bộ tổng
    Khép lại trang sử Lê Duẩn
    Vai trò của Mikhail Gorbachev
    Tuyên ngôn đổi mới
    Bàn tay Lê Đức Thọ
    Phút 89

    Chương XI: Campuchia
    “Pot ở đầu phum ta cuối phum”
    “Xuất khẩu cách mạng”
    Tư tưởng nước lớn
    Bị cô lập
    Phương Bắc
    Hội nghị Thành Đô
    Campuchia thời hậu Việt Nam

    Phụ lục 1. Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384
    Phụ lục 2. Tướng Big Minh sau 1975
    Tác giả
    Danh mục sách tham khảo


    xxx

    Mấy lời của tác giả:


    Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm. Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra. Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “hai mươi năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối. Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy, thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu
    hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.

    Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn. Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày1, Thép Đã Tôi Thế Đấy2. Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của
    chúng tôi.

    Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam, rồi chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.

    Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong3, một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù đã kiệt quệ sau tám năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy.

    Mùa hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ, gồm Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Tuấn Khanh, Huỳnh Thanh Diệu, Huy Đức. Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Phan Xuân Loan... Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích. Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Không ai để ý đến câu nói này của Tuấn Khanh, nhưng tôi lại bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi
    kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.

    Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975 đã trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình. Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay
    đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”4, như “Z30”5 cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ Chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm. Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 - ngày nhiều người tin là miền Bắc
    đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế, chính trị học, và xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này.

    Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.

    Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm. Trong vòng ba năm, từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012, tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có năm nhà sử học uy tín của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.

    Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, và sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra, và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.

    Sài Gòn – Boston, 2009-2012

  • #2
    Lời cám ơn


    Trong quá trình thu thập tư liệu để viết cuốn sách này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ chí tình của nhiều nhân vật lịch sử, sự hợp tác của các nhân chứng, sự đóng góp của các đồng nghiệp, và sự ủng hộ của rất nhiều bè bạn.

    Tác giả đặc biệt cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời phỏng vấn trực tiếp cho cuốn sách này: Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ chính trị Phạm Thế Duyệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Trung ương Đảng Hoàng Tùng, các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Đình Liệu, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Hà Phan, Bí thư Trung ương Đảng Phan Minh Tánh, Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung tướng Võ Viết Thanh…

    Xin cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời các cuộc phỏng vấn của tác giả với tư cách là một nhà báo mà một phần nội dung được sử dụng trong cuốn sách này: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Đại tướng Đoàn Khuê, Đại tướng Phạm Văn Trà, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Phan Diễn…

    Cuốn sách không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ, hợp tác và tư vấn của những người giúp việc, những người có nhiều năm gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng như ông Trần Việt Phương, ông Vũ Kỳ…; của nhóm giúp việc Tổng Bí thư Lê Duẩn: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân, thư ký tổng bí thư, ông Đống Ngạc; của nhóm giúp việc và chuyên gia tư vấn của Tổng Bí thư Trường Chinh: Tiến sỹ Hà Nghiệp, Giáo sư Trần Nhâm, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Giáo sư
    Dương Phú Hiệp, Giáo sư Đào Xuân Sâm, ông Trần Đức Nguyên…; của những người giúp việc Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: ông Trần Văn Giao, ông Hồng Đăng, ông Dương Đình Thảo, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh; của những người giúp việc Tổng Bí thư Đỗ Mười: Thống đốc Lê Đức Thúy, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam; của những người giúp việc Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Trợ lý Vũ Quốc Tuấn, Trợ lý Nguyễn Trung, Trợ lý Vũ Đức Đam, ông Phạm Văn Hùng, ông Nguyễn Văn Huấn, Bác sỹ Đinh Trần Nhưng, Thư ký Nguyễn Văn Trịnh…; của những người giúp việc Thủ tướng Phan Văn Khải: Trợ lý Nguyễn Thái Nguyên, Trợ lý Nguyễn Đức Hòa, Thư ký Nguyễn Văn Kích; của người viết tự truyện cho Đại tướng Lê Đức Anh, Đại tá Khuất Biên Hòa.

    Xin chân thành cảm ơn bà Nguyễn Thụy Nga, phu nhân Tổng Bí thư Lê Duẩn, bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Phan Lương Cầm, phu nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trả lời phỏng vấn và cung cấp thông tin, tư liệu. Xin cám ơn sự giúp đỡ của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể, và Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con trai Tổng Bí thư Lê Duẩn; bà Võ Hiếu Dân, con gái, và ông Phan Thanh Nam, con trai Thủ tướng Võ Văn Kiệt; Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, con trai Tổng Bí thư Trường Chinh.

    Cuốn sách cũng nhận được sự cộng tác rất tận tình của các vị từng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành chính sách ở các giai đoạn khác nhau của Việt Nam như Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe (1946-1960), Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc (1992-2002), Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Trần Xuân Giá, Tổng Cục trưởng Địa Chính Tôn Gia Huyên, các đời chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Đoàn Trọng Truyến, Lê Xuân Trinh, Lại Văn Cử, Đoàn Mạnh Giao, Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương Hữu Thọ…

    Đặc biệt cám ơn các tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam từng đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh như Cục trưởng Tác chiến, Trung tướng Lê Hữu Đức, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Lê Phi Long, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Phan Hàm, những người trong gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn, Cục trưởng Tình báo Quân đội Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tá Nguyễn Văn Huyên…

    Xin chân thành cám ơn các nhà cách mạng lão thành đã cung cấp cho tác giả hơn năm mươi cuốn hồi ký, phần lớn chưa từng xuất bản. Có những cuốn có giá trị tham khảo đặc biệt quan trọng, như các tập hồi ký của Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, một người từng gần gũi với Tổng Bí thư Trường Chinh, từng chỉ huy mạng lưới tình báo miền Bắc ở miền Nam và từng là trưởng Ban Bảo vệ Trung ương Đảng. Có những cuốn rất thẳng thắn của Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV Nguyễn Thành Thơ, người từng chỉ đạo kinh tế mới và hợp tác hóa ở miền Nam. Có những cuốn tiết lộ xung đột đảng phái thời kỳ ngay sau 1945 của Đại tá Công an Trần Tấn Nghĩa, người nhận lệnh trực tiếp ám sát và bắt giữ các thành viên đảng
    phái không cộng sản trong các năm 1945, 1946. Có những cuốn nói về thời kỳ “giúp bạn” Campuchia của Đại sứ Ngô Điền, Đại sứ Trần Huy Chương. Cũng có những cuốn rất thú vị, giúp tiếp cận với những góc độ khác của các nhà lãnh đạo tối cao như tự truyện của bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hồi ký của bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của Tổng Bí thư Lê Duẩn.

    Tác giả xin chân thành cám ơn các sỹ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa: Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người chỉ huy trận hải chiến Hoàng Sa tháng 1-1974; cám ơn Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Hảo, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Dân biểu Ngô Công Đức; cám ơn nhà văn PhanNhật Nam, các nhà thơ Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, nhà văn Uyên Thao; cám ơn Giáo sư Lê Xuân Khoa, bà Khúc Minh Thơ, những người đã giúp tác giả hiểu thêm về những nỗ lực của cộng đồng để giúp những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ.

    Tác giả cũng chân thành cám ơn Giáo sư Thomas Bass (Đại học Albany-SUNY), người đã thu xếp cuộc phỏng vấn cựu ngoại trưởng Henry Kissinger tại Boston vào tháng 2-2006; chân thành cám ơn các nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, Yên Ba, Nguyễn Khoa Diệu An, Trần Chí Hùng, Nguyễn Giang, Đinh Quang Anh Thái, Nguyễn Khanh, Lê Thiệp, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà ngoại giao Đinh Hoàng Thắng, nhà nghiên cứu Lưu Thu Hương, Tiến sỹ Trần Tố Loan đã giúp tác giả tiếp cận với nhiều nhân vật và nhiều tài liệu lịch sử quan trọng.

    Tác giả cũng xin chân thành cám ơn hàng trăm chính khách, sỹ quan, nhà tư sản, nhà báo, thường dân, các thuyền nhân và nạn nhân của những biến động sau năm 1975, những
    người đã giúp tác giả có được những câu chuyện sinh động. Những trích dẫn không có chú thích trong cuốn sách này được lấy từ những cuộc trò chuyện do tác giả thực hiện trực tiếp với các nhân chứng.

    Xin cảm ơn nhà thơ Bùi Khương Hà, người đã đọc những chương đầu tiên trong bản thảo đầu tiên và có những ý kiến xác đáng giúp tác giả điều chỉnh nội dung và cấu trúc cuốn sách.

    Tác giả cũng xin chân thành cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc, nhà sử học Dương Trung Quốc, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hậu, Giáo sư Trần Hữu Dũng (Đại học Wright, Ohio), Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason, Virginia), nhà sử học Sophie Quinn Judge (Đại học Temple), Giáo sư Shawn McHale (Đại học George Washington), Giáo sư Hồ Huệ Tâm (Đại học Harvard), Giáo sư Peter Zinoman (Đại học UC Berkeley), Giáo sư Ngô Thanh Nhàn (Đại học New York) đã đọc và tận tình góp ý để tác giả hoàn chỉnh bản thảo cuốn sách này.

    Cuốn sách cũng không thể hoàn thành nếu không có nhóm giúp việc gồm một số trí thức trẻ, một số sinh viên mà trong lần xuất bản này tác giả chưa thể nêu tên họ. Trong quá trình thực hiện cuốn sách tác giả đã luôn nhận được sự động viên, giúp đỡ của những người bạn như Nguyễn Thanh Toại, Đặng Cao Thắng, Lê Hải, Đỗ Trung Quân, Hà Tân Cương, Nguyễn Quang Lập, Đặng Tâm Chánh, Bùi Nguyên Cẩm Ly, Trần Minh Khôi, Võ Văn Điểm, Huỳnh Kim Phụng, Đào Ngọc Lâm, Bùi Đức Thịnh, Nguyễn Văn Diễn, B.V.D, N.T.H, Nguyễn Đức Quang, Trần Ngọc Phong, Mai Kỳ, Xuân Bình, Nguyễn Hải Phong, Lê Thị Hoàng Anh, Phùng Văn Vinh, Trần Minh Triết …

    Tác giả hy vọng tiếp tục nhận được sự góp ý chân thành để hoàn chỉnh cuốn sách này trong những lần xuất bản tới.

    Comment


    • #3
      Phần I: Miền Nam



      Chương I: Ba Mươi Tháng Tư


      Ba mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vứt đi là sẽ có hòa bình.

      Đi từ bưng biền

      Sáng sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời” thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh6, đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối hợp với quân chủ lực.

      Từ R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa biên giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến lên thời cơ đã đến rồi”.
      Thời cơ đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần này chắc ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước ém quân ở đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu, mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền lãnh đạo Sài Gòn - Hòn Ngọc Viễn Đông.

      Sáng hôm sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía bên kia cánh đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”. Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới biết đó là
      thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày 29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.

      Trưa 29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu cơm. Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở không làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với ông Mai Chí Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép anh em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.

      Tới khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh chiếc radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng
      bào”.

      Lời Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ quân phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách, sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn. Quân Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của chế độ Sài Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí tìm cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.

      Chín Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía Sài Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi tôi vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai “chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái chiếc xe quay lại. "Đại quân" lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên.
      Chín Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến vào Sài Gòn.

      Ông Võ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người đã suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe, mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.

      Xuân Lộc


      Trong khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành, chính những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối cùng của một trang sử. Kế hoạch “bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc thủng tuyến phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm. Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.

      Cho đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn đã được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.
      Hãng UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.

      Theo Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh đều đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng ngự, nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế so
      với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững luôn… thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.

      Để chuẩn bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều từ miền Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi nhưng xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh. Cán bộ tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần ngày thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.
      Ngày 18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch duyệt lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đã bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng sáng ngày 21-4, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng hòa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng máy bay lên thẳng.

      Đầu tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên đặt vấn đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nói chuyện với Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không tin là tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời nhiệm sở”12. Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger đều đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin nói bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.
      Nhà Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với miền Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ với Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những gì tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày 21-4-1975, khi không còn Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là ông từ chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công khai quyết định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.

      Lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng”14.

      Ngày 26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà di chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng tới. Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn toàn bị vây hãm. Phía Tây, Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên đến Cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai Lậy. Cũng từ ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngã ba Trung Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn Cái Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long bị băm nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn cứ
      huấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị xã Bà Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công 116 bắt đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước Khánh đến ngã ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị bắn phá bằng pháo 130 ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với tòa lãnh sự Mỹ ở thị xã Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.


      Tướng Big Minh

      Đầu tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương án Big Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”16. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy ban Kiểm soát Bốn bên nói Hà Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị loại thì Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự của Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô Đình Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng
      chấp chính.

      Đại tướng Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ Dương Văn Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết” ra Bắc năm 1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách mạng tháng Tám đã từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lãnh đạo bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã yêu cầu Cục trưởng Cục Địch vận Võ Văn Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn Minh. Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền Nam, và tới tháng 8-1962 thì móc nối được với cậu ruột và vợ là Sử Thị Hương.

      Ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân danh chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống. Năm 1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty qua Paris; trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn Minh, nhưng cả hai lần đều không gặp18.

      Giữa tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm trong rừng cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương Văn Minh tổ chức họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng thay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình cho miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã đến Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo chí Sài Gòn bình luận là cố tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai lập trường của Pháp đối với tình hình chính trị miền Nam.

      Sau khi từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đình vẫn sống trong Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài Gòn là “Chính phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và Tướng Big Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt công khai, chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là “công cán”.

      Buổi chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của một sỹ quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu dinh”, nơi ở của gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư gia. Sau đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói “Tổng thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi nào Tổng thống họp xong thì trình. Theo ông Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết: “Thưa cụ, theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các quốc gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên, Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong, Tướng
      Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ Tổng. Khi họ quay lại thì bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ tục cho chuyến bay. Khoảng 9 giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường bằng ba chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu, thay vì rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt, không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng tới cầu thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ đưa tiễn. Đêm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.

      Những ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh với ông Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như vô tận”. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử thủ dù Sài Gòn có phải tắm máu”. Tướng Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó thì làm, nếu ông Hương cứ kéo dài hoài thì moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận hiểu đại từ tiếng Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói “moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới giờ đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ: “Ông Tướng đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống chén đắng cho tới cặn sao”20.

      Sau đó, trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên Tướng Big Minh “thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa còn nói đâm bang!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương Văn Ba sau đó theo lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận, người ta sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt động của chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi không muốn đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể từ đó, ông Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù nhiều người muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một
      dân biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô trưởng”.

      Ngày 27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên tổng số 219 của lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra nước ngoài. Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã đến để thuyết trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các nghị sỹ mới biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu hòa bình cho dân tộc”.

      Ngày 28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ: Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống; luật sư Vũ Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm một thành viên chính thức nữa là Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.

      Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT “mật - hỏa tốc” với nội dung: "Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.



      Trại Davis

      Sáng 29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp ông Huyền hỏi: “Chính quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để hòa giải dân tộc, vậy các anh đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định Paris.

      Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.

      Phái đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Đình Đầu, Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ gặp rất nhiều trở ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng tiếp họ nhưng nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao đổi không chính thức, vị cán bộ này gợi ý: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố ngày 26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”22.

      Trở về từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền. Sau khi có tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn Đình Đầu về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và ngay sau đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền trình lên Tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đã công bố bản này trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975.

      Cũng trong ngày 29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong lực lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Liễng, một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn pháo của quân Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận không chống cự thì tôi lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào Sài Gòn, tránh cho nhân dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng đi đi”. Khoảng 15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách mạng Võ Đông Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không chống cự” từ ông Liễng. Do tình hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới khi quân Giải phóng vào đến Sài Gòn.

      Trước đó, một người trong nhóm của Luật sư Trần Ngọc Liễng đã được tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm vào chức giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia Định, một “đảng viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã kịp thi hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.


      Nguyễn Hữu Hạnh
      Trong khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo dõi tình hình, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách mạng gần chục năm qua mang về kết quả. Ông Hạnh với ông Minh đã có hơn ba mươi năm biết nhau trên nghĩa thầy trò. Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người Pháp đưa vào một đơn vị nơi
      ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba tháng huấn luyện với sự dìu dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong trung sỹ. Trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm 1956, ông Minh bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.

      Ông Hạnh có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành - thường gọi là Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24, phụ trách.

      Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề nghị “ra căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham gia lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu; ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo Cách mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông thầy Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định nắm lấy cơ hội cuối cùng. Ông kể: "Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng khi ấy vẫn còn ở nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ nói với tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là một con người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ suy nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang phòng bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội về vấn đề thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.

      Hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về. Họ quyết định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không đi xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng không nắm nổi tình hình mà còn phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ trách mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ huy quân đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói: ‘Tôi về hưu rồi đi coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’. Ngay lúc đó ông Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”. Ông Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra nước ngoài. Trung tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm Văn Phát giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc đầu, chửi thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.

      Tình hình ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi ông Minh gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, thì Tướng Vĩnh Lộc từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi còn thấy nó ở Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng ý. Nhân khi ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục Vĩnh Lộc chấp nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia đình chuẩn bị “di tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đã phải giành giật nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.

      Comment


      • #4
        Sài Gòn trong vòng vây

        Theo Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần lớn việc di tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đã cộng tác với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã “chấp thuận yêu cầu” của Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend parole) cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000 người thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).

        Từ ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên tục cất cánh từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000 người Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện khác”. Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng tên lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ vẫn còn đang tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã phải tạm ngưng vì đám đông hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến những đợt rút chạy cuối cùng của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới
        đất bắn lên, tức giận.

        Ba giờ chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham mưu Sài Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá thất thủ vào chiều 28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa, Trung tướng Toàn cho biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút Biên Hoà bị bao vây ba mặt.

        Tối 29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông đang bị bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh thì giọng Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5 trấn giữ đã bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.

        Khi quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập tuyến phòng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của quân Giải phóng từ phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cho biết đã lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài sự phòng thủ thì cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn với Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không được di chuyển quân để chờ ông thương thuyết”. Trước khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình quân sự với Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân của Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng phải chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt
        trận phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ. Tôi e trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại báo cáo với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay cuối cùng”. Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi hoàng tộc này đã cùng gia đình “di tản” bằng đường thủy.

        Ông Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm xe, tài xế đã bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe riêng đón chúng tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh, Tướng Có trình bày lại toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói. Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói thêm: ‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp’. Ông Minh quay lại hỏi: ‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng về quân sự thì Đại tướng phải giải quyết, tình hình quá nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị được đi theo,
        ông Minh đồng ý”. Ông Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại tòa đại sứ
        Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129 lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở tòa Đại sứ.

        Ông Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của tổng thống đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền. Ông Đầu thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông Đầu một câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).

        Tình hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là đơn phương tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên bố này được phát đi trên sóng. Những người như ông Võ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài Gòn. Vào khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi âm, trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong phòng khách với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu tướng người Pháp đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ Mỹ đi với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với Hà Nội để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi Vannuxem về rồi, ông Dương Văn Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng sao”.

        Theo kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7 Thống Nhất thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số họ đã di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi. Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi
        Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác. Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
        Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu. Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu cầu nói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.


        Xe tăng 390

        Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của Trung tá Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843 đi theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa cuối cùng của cuộc chiến.

        Vào lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh “giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn tăng 203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà ông luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu An, luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được chiến thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối cùng.

        Đêm 29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung tá Bùi Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy chiếc tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận đặc công của 116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội hình của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới Sài Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành khẩn trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh Tổng
        thống - Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung ương tình báo./An”.

        Trước đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”25.

        Rạng sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy đến căn cứ Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng xe 390, vẫn chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn còn gang tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số hai của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su, bắn cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc
        tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.

        Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng tại một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203: “Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô, cậu Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên Xô khi kết thúc Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt cuối cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”.
        Ngay sau đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng Nguyễn Hữu An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng theo đường Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của Lê Văn Phượng tiến lên. Thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi vào cổng chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát cánh cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng nhô lên nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau, Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh
        không có thời gian để tìm xem chị ở đâu. Đến thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi Quang Thận thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ, loại cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng nào lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn một phát đạn nào26.
        Khi chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống, chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm Dinh trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh đã hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể vì quá căng thẳng và có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ, Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời vào. Bùi Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không biết phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ
        cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng27.

        Khi ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi công Nguyễn Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài Gòn, ném bom làm hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện mà đối với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. Bùi Quang Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như... cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy. Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc
        vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận”28.


        Đầu hàng

        Khi Bùi Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng Toàn ở lại tầng hai. Trung úy Toàn viết: "Tôi dồn toàn bộ nội các Dương Văn Minh vào một chỗ. Dồn xong thì ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương Văn Minh ra chào. Khi ông Minh vừa ra thì anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ lý đến. Anh Thệ nói: 'Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66'”. Borries Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng hòa Liên bang Đức, người châu Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó, tường thuật:
        “Tay Thệ cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả. Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi Văn Tùng, xuất hiện”29.

        Ở cửa Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đã nghe báo cáo: “Có Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng thống cơ à!”. Tổng thống Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao lớn, bước vào, thì lịch sự chào: “Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đã lâu rồi để bàn giao chính quyền”. Ông Bùi Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có gì để bàn giao cả mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh: “Đường giây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư hết rồi”. Ông Tùng quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài phát thanh.

        Khi xe tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập, lái xe 390, cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm ngoảnh lại thấy vắng quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe mình thì sao?”, bèn quay lại nhảy vào ghế lái ngồi thò đầu ra ngoài. Chỉ một lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội các Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh Tập chỉ nhận ra thủ trưởng của mình là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có lẽ liên hệ đến bức ảnh của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du kích nhỏ dương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên: “Thủ trưởng ơi, thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn Tùng nói: “Việc ấy là
        của tớ”.

        Chiếc xe Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến trường Đại Lộc, Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng để chở Tổng thống Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc Vận30 kể: “Tôi thấy Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770 mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một người ngồi hàng ghế phía trên, người kia ngồi phía dưới, cùng Trung úy Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Mãi sau này tôi mới biết người to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên cạnh mình là Tổng thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi
        trắng ngồi phía sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.

        Nhà báo Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi chạy giữa thành phố lúc ấy - một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên được làm dịu đi - qua Tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài Phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu
        hàng trên một mảnh giấy màu xanh”31.

        Trung tá Bùi Văn Tùng nhớ lại: "Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng một băng ghế dài. Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt rã người. Nhưng một ý nghĩ chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh thì chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra như tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Tổng thống Dương Văn Minh nói: “Ông muốn gì hãy ghi ra”. Trung tá Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”. Tướng Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy ghi âm: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng
        không điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”32.

        Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để phát biểu và đây, có lẽ, mới là “chính kiến” của nhóm ông: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi - giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng - kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”33.

        Ông Võ Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đã được tiếp quản bởi một lực lượng của Quân đoàn IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt Nam đầu tiên đến Dinh Độc Lập. Ông Kiệt nắm thêm tình hình quân sự và nhắc nhở chỉ huy các đơn vị chiếm đóng đối xử tốt với những người trong chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ lệnh. Ông Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự “đứng đầu” ở Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất hiện trong vai trò đứng đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày 1-5-1975, khi đang ở Sở chỉ huy tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà được ông Lê Đức Thọ và ông Phạm Hùng thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói Bộ Chính trị quyết định cậu làm chủ tịch
        Uỷ Ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định. Đi ngay cho kịp”.

        Ông Võ Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lý. Sài Gòn mới tiếp quản cần một quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ với dân chúng. Tướng Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi Hiệp định Paris. Năm 1973, ông đã có một thời gian khá lâu ở Sài Gòn, và đã từng được báo chí Sài Gòn nhắc đến.

        Ngày 2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể 34: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà từ hôm giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở đây. Tôi chỉ gặp những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống, Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền, giải thích cho họ chính sách của cách mạng là quang minh, chính đại, độ lượng, khoan hồng. Tôi đã nhấn mạnh: Tất cả những việc làm đã qua chúng tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào thái độ và hành động từ ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng lợi vĩ đại của dân tộc vừa rồi mà tự hào rằng mình cũng là người Việt Nam. Có vẻ họ tỏ ra xúc động. Dương Văn Minh đã phát biểu: Tôi vui mừng được là công dân của một
        nước Việt Nam độc lập”35.


        Tuẫn tiết

        Với năm cánh quân Giải phóng áp sát Sài Gòn trong sáng 30-4, không ai có thể đủ sức cưỡng lại chiến thắng của quân đội miền Bắc. Tuy nhiên, ‘Việt cộng” chỉ thực sự nắm được miền Tây vào chiều tối 30-4-1975.

        Vào thời điểm ấy, không chỉ có sỹ quan chỉ huy hai tiểu đoàn Lôi Hổ xộc vào Dinh Độc Lập chất vấn tổng thống về quyết định buông súng. Từ mấy ngày trước, các sư đoàn không quân còn lại của Việt Nam Cộng hòa đã di chuyển xuống Trà Nóc và các sân bay lân cận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng bay xuống, nhóm họp với các tướng lãnh, các tỉnh trưởng của Vùng IV với sự tham gia của Phó đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh, người khi ấy đang làm tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bố trí Đoàn 232 của Tướng Lê Đức Anh ở hướng Long An nhằm phòng ngừa khả năng lực lượng của Tướng Nguyễn Khoa Nam từ Cần Thơ lên ứng cứu là có cơ sở. Tuy nhiên, ngay trong đêm 29-4-1975, gần như tất cả lực lượng hải quân đều bỏ trốn.

        Theo Thiếu úy Dương Đức Dũng, phóng viên mặt trận của Sư 21 không quân: “Tướng Nguyễn Khoa Nam ra lệnh oanh tạc những kẻ đào ngũ nhưng anh em không quân không chấp hành”. Sáng 30-4-1975 vẫn còn lệnh bay. Máy bay bắt đầu trút hết bom vào đồng trống. Một số phi công nói với Thiếu úy Dũng: “Tụi tao được lệnh di tản sang U-Tapao (Thái Lan), mày có đi thì lên”. Dũng đã ở lại. Bầu trời Cần Thơ từ lúc ấy không một phút yên tĩnh. Đầu tiên là các khu trục A1E, A1H, sau đó là A37 rồi C123. Trực thăng túa lên trời như châu chấu.

        Bảy giờ sáng ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân đoàn IV báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu bằng điện thoại: “Tôi bị tấn công mạnh ở ba nơi: Vĩnh Bình, Bạc Liêu và một nơi cách sân bay Trà Nóc ba cây số. Nhưng tôi đã đẩy lùi được cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ giữ các vị trí còn lại. Các lực lượng Quân đoàn và Quân khu IV, mặc dầu có bị tấn công vài nơi, nhưng vẫn còn nguyên vẹn”36. Phó tướng của Nguyễn Khoa Nam khi đó là Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, người mà năm 1972 đã từng tử thủ ở An Lộc. Từ Bộ Tổng Tham mưu, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhắc Tướng Nam: “Anh cố gắng thi hành lệnh của Tổng
        thống”.

        Năm giờ 30 phút chiều 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng rời Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV, về Bộ Chỉ huy phụ. Khi đại diện bộ đội miền Bắc vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu “đầu hàng”, Tướng Nam và Tướng Hưng chỉ chấp nhận “bàn giao”. Khi vị đại diện miền Bắc này qua khỏi cầu Cái Răng, Tướng Hưng liên hệ với Tướng Mạch Văn Trường và ra lệnh điều động hai chi đội thiết giáp ra án ngữ cầu Cái Răng và chiếm lại đài phát thanh rồi cho mời Mạch Văn Trường và chỉ huy các đơn vị đóng xung quanh vành đai thị xã Cần Thơ về họp. Sáu giờ 30 phút chiều, khi các vị sĩ quan về tới cổng Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng, một nhóm nhân sĩ Cần Thơ đến gặp Tướng Hưng, xin ông đừng phản công để tránh bị “Việt Cộng pháo kích vào thị xã”.

        Tại Vĩnh Long, các lực lượng của miền Nam vẫn không thôi kháng cự. Theo ông Phạm Văn Trà37: “Chiều ngày 30-4, sau khi bộ phận trinh sát kỹ thuật của Bộ Tư lệnh tiền phương quân khu bắt được sóng đài của địch, anh Ba Trung đã sử dụng điện đài tuyên bố với viên tỉnh trưởng Vĩnh Long rằng tính mạng của y đã nằm trong tay quân Giải phóng. Nếu đầu hàng, cách mạng sẽ khoan hồng, tha thứ lỗi lầm trước đây, tính mạng, tài sản của bản thân và gia đình, vợ con được bảo toàn; bằng không, y sẽ phải đền tội và vợ con, gia đình cũng khó bề bảo toàn tính mạng, mặc dù Cách mạng không muốn điều đó. Sau 30 phút suy tính, vào lúc 17 giờ ngày 30-4, tỉnh trưởng Vĩnh Long chấp nhận đầu hàng và xin anh Ba Trung giữ lời hứa
        bảo toàn tính mạng”38.

        Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc39.

        Sáu giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến lúc ấy vẫn định phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều biết là quá trễ. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày càng mạnh, các Trung đoàn 31, 32, 33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ huy sư đoàn ngụy đã tự động vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ áo lính trở về nhà. Chỉ còn một số sĩ quan ngụy cao cấp ở lại để xin đầu hàng ta vào lúc 20 giờ cùng ngày”40.

        Bảy giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

        Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-4- 1975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.

        Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

        Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.


        Chú thích chương I

        1Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
        2 Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
        3 Đạo diễn điện ảnh.
        4 Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
        5 Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).
        6 Ngày 14-4-1975.
        7 Trước năm 1973, Daisy Cutler và CBU vẫn được dùng để dọn bãi cho trực thăng.
        8 Trần Văn Trà, 1982, trang 254.
        9 Trần Văn Trà, 1982, trang 255.
        10Sđd, trang 258.
        11Sđd. Trang 261.
        12Kissinger, 2003, trang 536.
        13Kissinger, 2003, trang 543.
        14Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 167.
        15Trần Văn Trà, 1982, trang 281-282.
        16Larry Berman, 2001.
        17Năm 1964 khi bị "chỉnh lý" bởi Tướng Nguyễn Khánh, "Quốc trưởng" Nguyễn Khánh phong cho ông hàm đại tướng, nhưng ông Minh và những người của ông không thừa nhận nên về sau có người gọi ông là đại tướng có người vẫn gọi ông là trung tướng.
        18Sau khi ông Dương Văn Minh rời Việt Nam, Mười Ty đã có những báo cáo với tư cách là Đại tá Dương Thanh Nhựt, nói rằng anh mình đã biến chuyển rất nhiều bởi “binh vận”.
        19Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, mất tại Boston, Mỹ.
        20Trong cuốn Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, Tướng Trần Văn Trà đánh giá: “Còn Minh, có lẽ do bản chất có phần thật thà, tin vào phù phép của tả phò Martin và hữu trợ Mérillon, nên đã bị chúng gạt ra rìa từ lâu mà đến giờ chót còn cố vươn vai gánh chịu cái đầu hàng vô điều kiện”(trang 283).
        21Là một nhà nghiên cứu lịch sử có nhiều công trình khảo cứu hết sức giá trị, ông Nguyễn Đình Đầu cho đến tận cuối đời vẫn giữ được tờ Sự Vụ lệnh do cụ Hồ Chí Minh ký, cử ông vào Nam mua gạo cứu đói năm 1945. Về sau, ông theo những người Công giáo di cư vào Nam. Hành động gợi ý và nhận lãnh vai trò “đi sứ” vào trại Davis của ông có lẽ nhờ sự mẫn cảm
        thời cuộc hơn là được giao nhiệm vụ. Về sau khi có tờ báo nói ông là tình báo viên của miền Bắc, ông Nguyễn Đình Đầu nói ông cảm thấy như là bị xúc phạm.
        22Tuyên bố ngày 26-4 gồm hai nội dung chính: “Mỹ phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris (ngừng bắn), tôn trọng quyền dân tộc căn bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xóa bỏ bộ máy chiến tranh và bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam”.
        23Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
        24Sau 1975 là phó giám đốc Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh.
        25Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 176.
        26Xem Phụ lục 1: Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384.
        27Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng, sinh viên Nguyễn Hữu Thái và nhà báo Cung Văn đến Dinh Độc Lập sau khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố ngừng bắn trên đài phát thanh. Họ là những người hoạt động bí mật hoặc hoạt động trong các phong trào do phía Cách Mạng lập ra trước năm 1975.
        28Theo Đại tá Bùi Văn Tùng: “Những ngày đầu đài báo của mình không nói rõ ai là người cắm cờ, nên đã xảy ra tranh chấp giữa Bùi Quang Thận và đại úy Phạm Xuân Thệ. Trung tá Lữ đoàn trưởng 203 Nguyễn Tất Tài, lúc này đã trở thành Phó Bảo Tàng Quân đội, hỏi anh Thệ: ‘Vậy anh có giữ lá cờ Ba que không?’. Anh Thệ đưa ra một lá, anh Thận đưa ra một lá, cả
        hai cùng rách diềm. Ông Tài, trong ngày 30-4 đã cẩn thận leo lên nóc Dinh, gỡ diềm ‘cờ Ba Que’ còn vướng lại rồi lặng lẽ cất đi. Ông Tài cho trải cả hai lá cờ ra, ráp diềm vào mới xác nhận được lá cờ anh Thận giữ là lá cờ cuối cùng được Chính quyền Sài Gòn treo trên nóc Dinh Độc Lập”.
        29Tạp chí Xưa & Nay, số 258, tháng 4-2006, và số 264 tháng 7-2006
        30Sau chiến tranh là công nhân Phòng Thị chính, Thị xã Thanh Hóa.
        31Xưa & Nay, số 258 và 264, 2006.
        32Giữa năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ, lúc này đã đeo quân hàm thiếu tướng lên tiếng trên báo Quân đội Nhân dân nhận rằng chính ông là người bắt sống nội các Dương Văn Minh và tự tay thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh đọc.
        Ngày 19-10-2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Quân sự đã tổ chức “Tọa đàm khoa học xung quanh sự kiện đánh chiếm Dinh Độc lập ngày 30-4-1975" nhưng không mời các nhân chứng có mặt trong Dinh và Đài phát thanh tại thời điểm trưa 30-4-1975; không mời các cán bộ, chiến sỹ của Lữ 203 và đơn vị đặc công 116. Để rồi, ngày 17-1-2006, Viện Lịch sử Quân sự đã ra kết luận cho rằng “Tại Đài phát thanh đồng chí Phạm Xuân Thệ cùng các cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 66 tổ chức soạn thảo lời Tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh. Văn bản đang được soạn thảo thì trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn tăng 203 xuất hiện, Từ đó, bộ phận cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Bùi Văn Tùng tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh lời Tuyên bố đầu hàng”. Ngay sau khi công bố, Kết luận của Viện Lịch sử Quân sử đã bị ông Bùi Văn Tùng, các các sỹ quan, chiến sỹ trên xe tăng 390 và kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, người có mặt tại Đài phát thanh trưa 30-4-1975, phản đối (nhiều ý kiến đăng trên hai số báo Xưa & Nay, 258- tháng 4-2006, và 264 tháng 7-2006).
        33Người ghi âm những tuyên bố lịch sử này là ông Nguyễn Nhã. Lúc bấy bấy giờ, ông Nguyễn Nhã là giáo sư sử địa Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, thuộc Đại học Sư phạm Sài Gòn, chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san Sử Địa, Đại học Sư phạm.
        34Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 1996, có tham khảo hồi ký “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” của Thượng tướng Trần Văn Trà.
        35Xem Phụ lục 2: Tướng Big Minh sau 1975.
        36Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
        37Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đơn vị đánh vào Cần Thơ, Vĩnh Long trong ngày 30-4-1975.
        38Phạm Văn Trà, 2009, trang 237-238.
        39Theo Văn Tiến Dũng: “Chán nản và tuyệt vọng, Trần Văn Hai tự sát vào lúc 3 giờ sáng ngày 1-5-1975”, tuy nhiên những người thân cận Tướng Trần Văn Hai nói ông tự sát vào chiều 30-4.
        40Văn Tiến Dũng, 1976, 305.

        Comment


        • #5
          Chương II: Cải tạo


          Sau hai mươi năm chia cắt, lịch sử đã đặt nhiều gia đình miền Nam vào những tình huống vô cùng nghiệt ngã. Có những gia đình trong khi vui mừng đón đứa con “nhảy núi” trở về thì đứa con “nguỵ” đang phấp phỏng nằm chờ trên gác; có những cán bộ cao cấp từ Hà Nội vô mới biết đứa con mà khi tập kết mình để lại đã trở thành “lính nguỵ”. Dù 175 nghìn khẩu súng các loại đã được giao nộp ngay trong mấy ngày đầu tiên sau 30-4, nhưng hơn nửa triệu sỹ quan, binh lính Việt Nam Cộng Hòa tan rã thì vẫn đang nhà ai nấy ở. Tất cả đều căng ra chờ đợi.


          Những ngày đầu

          Lữ đoàn 203 được lệnh rút về Long Bình lúc 5 giờ chiều ngày 30-4, nhường công việc chiếm đóng Dinh và bảo vệ Sài Gòn cho Quân đoàn IV. Nhưng, theo ông Bùi Văn Tùng, gần một trăm chiếc tăng của ông đã không thể di chuyển, vì giờ đó người dân Sài Gòn bắt đầu đổ ra đường. Sau những giờ phút căng thẳng nhất, như sợi dây căng hết cỡ đã đứt tung ra, mọi người Việt Nam, kể cả những người lính, cho dù ở phía nào, đều cảm thấy chiến tranh kết thúc!

          Chiến tranh kết thúc. Cái cảm giác ấy, thoạt tiên cũng im ắng như thành phố lúc vừa thôi tiếng súng, đột nhiên vỡ tung. Dòng người òa ra, tràn ngập đường phố. Một vài thanh niên, học sinh mạnh dạn tiến vào vườn hoa trước Dinh Độc Lập, sờ vào những chiếc tăng T54, những chiến xa bấy giờ đã không còn phải bắn, đang nằm lặng lẽ. “Việt Cộng” trên những chiếc xe tăng vừa húc đổ cánh cổng cuối cùng, giờ đây, vừa có cái cảm giác viên mãn của những người chiến thắng, vừa có cái nhẹ nhõm của những người lính đã bước qua ngưỡng của sự khốc liệt, trở nên độ lượng, hiền lành. Thái độ này của các “chú bộ đội” đã kéo đoàn người đến với những chiếc T54 đông dần lên. Họ bắt đầu tìm hiểu những khái niệm về “Việt Cộng”, nhiều người “tiến lên”, hỏi thêm về “miền Bắc”. Chưa ai thực sự biết điều gì sẽ xảy ra cho thành phố, cho mình, nhưng vẫn thấy nhẹ nhõm và có không ít người còn cảm thấy mừng.

          Đêm 30-4, ở khu vực trường Petrus Ký mất điện một lúc. Một vài chiếc tăng của Quân Giải phóng được lệnh chạy ra đường để “thị uy”. Sáng 1-5, mới khoảng 7 giờ, công chức, giáo viên Petrus Ký thấy “Cách mạng” đóng trong trường, lục tục ra “trình diện”. “Quân quản” lúc bấy giờ ai nấy vẫn còn bận đồ bà ba đen, tỏ ra rất lúng túng. Ông Kiệt giao cho ông Dương Minh Hồ, cán bộ Văn phòng Thành ủy, đi kiếm bộ đồ “coi được” ra tiếp các thầy cô giáo.
          Ngay trong đêm 30-4, những cán bộ của Đài Phát thanh Giải Phóng từ trên R về đã tiếp quản Đài Phát thanh Sài Gòn và phát sóng những mệnh lệnh đầu tiên của Ủy ban Quân quản về trật tự, an ninh, về thu nạp vũ khí chất nổ. Đa số các “lệnh” đã được ông Hà Phú Thuận, chánh Văn phòng Trung ương Cục, “soạn thảo” theo chỉ đạo của Đảng Uỷ Đặc biệt từ khi còn ở trên R.

          Không chỉ có niềm vui của những người đi từ trong rừng ra. Trong những ngày đầu, một số quan chức của Chính quyền Sài Gòn cũng nuôi hy vọng. Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo là một trong số đó. Trưa ngày 30-4-1975, ông Hảo có mặt ở Dinh Độc Lập vì cho đến khi chiếc tăng 390 cán lên thềm Dinh, Chính phủ của Tổng thống Dương Văn Minh vẫn chưa kịp nhận bàn giao. Khi ấy, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã di tản. Ông Hảo, Phó thủ tướng, trở thành người còn lại có cương vị cao nhất trong Chính quyền Trần Văn Hương.

          Trước đó ít hôm, ông Hảo có kêu ông Hồ Ngọc Nhuận. Khi ông Nhuận tới nhà, ông Hảo bỏ bữa cơm tối, đưa ông Nhuận lên lầu và nói: “Tôi có việc muốn nhờ ông truyền đạt đến Cách mạng. Một là về mười sáu tấn vàng, người ta nói ông Nguyễn Văn Thiệu mang đi, nhưng thật sự là tôi đã giữ lại được 41. Hai là về nạn thất thoát chất xám. Tôi đã thuyết phục được một số anh em chuyên viên, trí thức ở lại, nhưng không xuể. Cách mạng phải làm gì đó, phải nói cái gì đó càng sớm càng tốt”.

          Sáng 3-5-1975, Ủy ban Quân quản ra thông báo: “Cuộc tổng tiến công nổi dậy của quân dân miền Nam ta nhằm đập tan ngụy quyền tay sai Mỹ đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã hoàn toàn giải phóng. Để nhanh chóng ổn định trật tự an ninh trong thành phố, xây dựng trật tự cách mạng mới, củng cố và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để nhanh chóng khôi phục và ổn định đời sống bình thường của các giới đồng bào trong thành phố Sài Gòn - Gia Định. Căn cứ quyết định của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, chúng tôi xin thông báo danh sách Uỷ ban Quân Quản thành phố Sài Gòn - Gia Định”.

          Ủy ban Quân quản lúc ấy gồm chủ tịch - Thượng tướng Trần Văn Trà, và các phó chủ tịch - Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Thiếu tướng Hoàng Cầm, Thiếu tướng Trần Văn Danh và ông Cao Đăng Chiếm. Khi chiến dịch bắt đầu, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam đã tuyên truyền
          về việc sẽ lập ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần”. Tuy nhiên, khi cờ đã được cắm trên Dinh Độc Lập, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định dẹp bỏ ý tưởng này. Ngày 1-5-1975, Tố Hữu đã chuyển “lệnh” tới Trung ương Cục: “Gửi anh Tám, anh Bảy [Nhờ Trung ương Cục chuyển anh Tám]. Xin báo để các anh biết: Theo ý kiến anh Ba42, về Chính phủ, không còn vấn đề ba thành phần. Cấu tạo Chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho quần chúng thấy rõ sức mạnh, thế mạnh của cách mạng; ta vừa phát động quần chúng lại vừa buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược. Chính phủ thể hiện tinh thần đó phải gồm ta và những người yêu nước, thật sự tán thành lập trường hoà bình độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc, thống nhất Tổ quốc của ta. Bộ Chính trị chủ trương đối với những người đã đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn thì không bắt, nhưng cần có cách quản lý, giám sát, ta chỉ trừng trị bọn phá hoại hiện hành… trong khi phát động phong trào quần chúng hành động cách mạng, chú ý chọn lọc, bồi dưỡng cốt cán trong quần chúng. Để có đủ cán bộ kịp tung ra phát động quần chúng, nên chọn một số cán bộ của Đảng, đoàn thể và cán bộ quân đội, huấn luyện ngắn ngày về chính sách, về phương pháp công tác, về kỷ luật. Khi tổ
          chức lễ mừng trong cả nước, theo ý kiến Bộ Chính trị, nên có đoàn đại biểu miền Nam ra dự mít tin ở Hà Nội và có đoàn Miền Bắc vào dự ở Sài Gòn. LÀNH43”.

          Ngày 6-5-1975, ông Võ Văn Kiệt đi cắt tóc chuẩn bị lễ ra mắt Ủy Ban Quân quản. Người thợ cắt tóc thấy một ông đứng tuổi đi xe U-oát tới, trong khi cắt tóc có bộ đội đứng chờ, tuy không biết rõ ông là ai, nhưng cắt tóc cho ông xong, đã lễ phép cúi chào, ông trả tiền thế nào cũng không chịu lấy. Xe U-oát của ông Kiệt đi tới đâu, người dân tránh ra nhường chỗ rộng rãi cho đi. Những xe khác của “Quân Giải Phóng” cũng được cư xử như vậy. Nhiều tuần sau đó, “các chú bộ đội” đi xe buýt không phải trả tiền và người dân bắt đầu làm quen với những chiếc xe quân sự chạy vô đường cấm. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Lúc đó, uy thế của cách mạng trùm lên tất cả”. Ngay cả những “tên ác ôn”, kẻ cướp giật, các băng nhóm cũng chỉ lo giữ thân hoặc xem xét, theo dõi. Nhưng cũng có những người quá hăng hái. Hầu hết đàn ông trong cư xá Ngân hàng tại An Phú, Thủ Đức nơi ông Huỳnh Bửu Sơn cư ngụ giờ đó đã di tản hoặc bị đưa đi cải tạo. Một người gác-dan, lâu nay vẫn được gọi là “thằng Vàng”, bỗng dưng
          xưng một cái danh rất kêu, nhảy ra nắm lấy chức Trưởng ban Quản trị Cư xá. Những phụ nữ còn lại trong Cư xá, vốn lâu nay được coi như là các mệnh phụ phu nhân, không chịu. Họ họp lại và bầu ông Huỳnh Bửu Sơn lên thay. Ông Sơn nhanh nhảu gửi lên xã báo cáo kết quả ông được bầu chọn là Trưởng Ban. Báo cáo được đóng dấu từ con dấu mà Cư xá vẫn dùng từ trước. Lập tức, ông Huỳnh Bửu Sơn bị triệu tập. Ông vừa ngồi xuống ghế, đã có hai bộ đội xách AK ra hỏi: “Anh biết tội gì không?”. “Dạ không”. “Cách mạng đã giải phóng rồi mà anh vẫn còn sử dụng con dấu của Ngụy. Tội anh đáng bắn. Nhưng thôi, từ nay, ông này là Trưởng Ban”. Người bộ đội nói rồi chỉ tay qua ông Vàng, hình như đã có mặt ở đấy từ trước. Câu chuyện của ông Huỳnh Bửu Sơn không phải là hy hữu. Ngày 29-6-1975, một cuộc “đấu tố” với hơn “2000 dân” đã được nhóm họp trước chợ Thanh Đa: “Đồng bào đã sôi nổi tố cáo những tên Lô trưởng Cư xá, điển hình là Lê Văn Minh, Trưởng Lô 9, nguyên là một viên chức Ngụy quyền, nay tự xưng là người của Cách mạng… Phát huy tinh thần làm chủ Cư xá, đồng bào đã yêu cầu chánh quyền loại bỏ 24 tên lô trưởng phản động do Ngụy quyền để lại”44.

          Cuộc cướp chính quyền sớm nhất ở Sài Gòn được nói là đã diễn ra vào lúc 7 giờ sáng ngày 30-4-1975 tại phường Trần Quang Khải, quận Một. Chi bộ Đảng bí mật ở đây đã cho vây bót Tân Định, tước vũ khí của những cảnh sát vào giờ ấy chỉ mong sớm được về với gia đình. Ngay sau khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố Bàn giao chính quyền, ở Quận 11, cờ cũng được cắm trong Dinh Quận trưởng. Tiến trình “cướp chính quyền” và xây dựng chính quyền thường được bắt đầu như trường hợp ở phường Cây Bàng: “Khi tiếng súng của quân Giải phóng bắn tới tấp vào các căn cứ quân sự của địch, nhân dân Phường Cây Bàng đồng lòng nổi dậy phá kềm, truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay mình và tràn ra đường đón
          chờ quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo, hoan hô nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tự quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng. Đến nay, 2-5, Phường Cây bàng đã thành lập xong Tổ An ninh, Hội Mẹ giải phóng, Tổ Thông tin Tuyên truyền, Tổ Y tế và Uỷ ban tự quản. Đang xúc tiến thành lập Tổ Cứu đói và Phòng chống Hoả hoạn”45.

          Trước 30-4-1975, tại Sài Gòn có 735 đảng viên tại chỗ. Trung ương Cục bổ sung thêm 2.820 cán bộ đảng viên từ trong các cơ quan của R về. Nhưng đến cuối tháng 5-1975, số đảng viên đã nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Những chiến sỹ cách mạng nằm vùng, những người từ trong các căn cứ kháng chiến ra và các “cán bộ 30-4”, nhanh chóng nắm giữ các vị trí then chốt của thành phố, kiểm soát Đài Phát thanh, thành lập báo Sài Gòn Giải Phóng và điều hành một hệ thống đoàn thể xuyên suốt từ Thành phố cho đến các thôn ấp.

          Không chỉ có “Cách mạng 30-4”, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, không ai trong số những người tiếp quản Sài Gòn năm 1975 có kiến thức về quản lý nhà nước. Mục tiêu lớn nhất đặt ra trong những ngày đầu là nhanh chóng ổn định trật tự xã hội, ổn định chủ yếu bằng các giải pháp chính trị. Riêng các cơ sở kinh tế, giáo dục, y tế… thì dự định từ trong R là sẽ để cho các ngành, chủ yếu từ miền Bắc vào, tiếp quản những cơ sở có liên quan đến ngành mình.


          “Ngụy Quyền”

          Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục: “Khi tiếp quản miền Bắc, cụ Hồ cho lưu dụng hầu hết các viên chức trong bộ máy hành chánh cũ và bảo lưu mức lương cũ còn cao hơn cả lương chúng tôi. Cụ Hồ còn đảm bảo tính kế thừa nhà nước bằng cách công nhận hiệu lực tiếp tục của một số sắc luật có từ thời Pháp. Công việc xây dựng chính quyền mới, vì thế không nặng như khi chúng tôi làm ở Sài Gòn”.

          Hệ thống hành chánh của Sài Gòn bắt đầu được thiết lập quy củ từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông Diệm vốn là một quan Thượng thư Triều Nguyễn, nhưng khi nắm quyền đã thay đổi phương thức tuyển chọn quan lại thông qua các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, bằng việc thành lập trường Quốc Gia Hành Chánh. Trường Quốc Gia Hành Chánh đào tạo: tham sự, hệ hai năm cho các chức vụ như trưởng ban, trưởng phòng của các ty; đốc sự, hệ bốn năm cho các chức vụ phó quận, trưởng ty; và bậc cao học cho các viên chức hành chánh cấp bộ. Cho đến năm 1960, chức tỉnh trưởng thời ông Diệm vẫn là một viên chức chính trị.

          Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời, đường lối Cách mạng miền Nam được xác định là phải bằng “con đường bạo lực”, ông Diệm đáp lại bằng cách “quân sự hoá bộ máy”, bổ nhiệm các quân nhân đứng đầu cơ quan hành pháp cấp tỉnh, cấp huyện. Một viên chức từ trường Quốc Gia Hành Chánh ra, đương là quận trưởng, nếu muốn tiếp tục, phải ra Nha Trang học một khóa quân sự sáu tháng. Ngược lại, một thiếu tá tiểu đoàn trưởng có năng lực có thể được bổ nhiệm quận trưởng sau khi trải qua một lớp về bộ binh cao cấp và một lớp sáu tháng về khoa học hành chánh, và sau đó về thực tập sáu tháng dưới quyền một viên phó quận
          trước khi được bổ nhiệm làm quận trưởng.

          Tuy nhiên, hành chánh vẫn được coi là một vấn đề cực kỳ chuyên môn, nên dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã có những trì trệ trong việc xử lý nhu cầu hành chánh cho dân, bởi các vị quận trưởng quan tâm đến quân sự hơn. Thủ tướng đã cùng với Bộ Nội vụ ký một hướng dẫn, theo đó, các tỉnh trưởng, quận trưởng phải ủy quyền bắt buộc cho cấp phó. Dưới chế độ Sài Gòn, cấp tỉnh, cấp quận chỉ có một cấp phó và người này phải là đốc sự tốt nghiệp từ Quốc Gia Hành Chánh ra. Ở cấp phường xã, tuy không đòi hỏi phải tốt nghiệp từ trường này, nhưng một xã trưởng, ấp trưởng sau khi được bầu hay một trưởng phường sau khi được bổ nhiệm đều phải đi học sáu tháng ở Trường Đào tạo Cán bộ Xã Ấp. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đánh giá cao vai trò của cán bộ phường xã tới mức ông thường xuyên có mặt trong lễ khai giảng và bế giảng các lớp học này và nói với các học viên: “Tôi là tổng thống trung ương, các anh là tổng thống địa phương”.

          Tuy nhiên, “Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà từ Trung ương tới địa phương” trước khi có tuyên bố của Đại tướng Dương Văn Minh đã bắt đầu “tan rã”. Khoảng gần 200 nghìn người có quan hệ với người Mỹ hoặc đang làm việc trong bộ máy chính quyền cũ đã kịp thời “di tản” trong vài tuần lễ trước “30-4”. Số còn lại gần như cũng đã ý thức được tình thế của mình, tự động “bỏ trống nhiệm sở”. Nhưng cho dù họ có ở lại, thì với mục tiêu của cuộc chiến tranh kể từ sau Hiệp định Paris là “đập tan bộ máy của chính quyền tay sai”, việc những người chiến thắng sử dụng chuyên môn của những viên chức có trình độ cao trong bộ máy Sài Gòn là điều khó xảy ra. Công Điện ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư xác định đối tượng làm việc trong
          chính quyền cũ được lưu dụng: “Ta cần có chính sách mạnh dạn sử dụng những người thật thà phục vụ cách mạng, nhất là công nhân, lao động, cán bộ kỹ thuật, trừ những phần tử thù địch, bọn mật vụ, bọn phá hoại hiện hành…”. Theo Chỉ thị ngày 19-4-1975, cũng của Ban Bí thư, với cấp nhân viên, sau khi “được giáo dục” tại phường, xã: “a, Đối với những tên thật thà hối cải thì tạo điều kiện cho họ tiến bộ, lập công chuộc tội; b, Đối với số cảnh sát, cứu hoả thì có thể sử dụng, trừ bọn ác ôn phản động và ta phải đưa cán bộ cốt cán vào để quản lý giáo dục…”. Từ cấp quận phó trở lên, và hầu hết các chỉ huy cảnh sát từ cấp đội trở lên… đều thuộc
          diện đưa đi tập trung cải tạo dài hạn.

          Một “đồng chí” được giới thiệu là “trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền” đã từng công khai tuyên bố: “Việc học tập cải tạo đối với công chức, nhân viên nguỵ quyền sẽ phải công phu và gian khổ về tinh thần hơn so với nguỵ quân vì công chức cao cấp nguỵ quyền là những người trực tiếp hoặc tham gia tích cực vào bộ máy kềm kẹp nhân dân. Họ được huấn luyện kỹ càng do đó, ảnh hưởng chế độ cũ về mặt nhận thức và tư tưởng khá sâu”46.

          Sau ngày “giải phóng”, các chủ trương của nhà nước cũng chủ yếu được vận hành thông qua các phong trào chính trị, cho dù có sử dụng “ngụy quyền” lưu dụng thì kiến thức chuyên môn của họ cũng không biết để làm gì. Chưa kể, trong con mắt của chính quyền, theo “đồng chí Trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền”: “Họ được huấn luyện kỹ càng để tham gia tích cực vào bộ máy kìm kẹp nhân dân”47.

          “Ngụy Quân”

          Một tuần sau, ngày 5-5-1975, Ủy Ban Quân quản Sài Gòn ban bố: “Mệnh lệnh số 1 về việc ra trình diện, đăng ký và nộp vũ khí của sĩ quan, binh lính, cảnh sát, và nhân viên ngụy quyền: Điều I: Tất cả các sĩ quan, binh lính, cảnh sát, tình báo mật vụ, nhân viên ngụy quyền trong thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định đều phải ra trình diện và đăng ký. Thời hạn bắt đầu từ ngày 8-5-1975 cho đến ngày 31-5-1975 là ngày cuối cùng. Điều II: Cấp tướng và tá trình diện và đăng ký tại số nhà 213 Đại lộ Hồng Bàng, cấp uý trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng quận, cấp hạ sĩ và binh lính trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng phường. Cảnh sát, công an tình báo mật vụ trình diện và đăng ký tại trụ sở Ban an ninh nội chính thuộc Ủy ban Quân Qủan thành phố Sài Gòn. Nhân viên công chức làm việc tại nhiệm sở nào trình diện và đăng ký tại nhiệm sở nấy. Điều III: Khi ra trình diện và đăng ký nhất thiết phải mang nộp chứng minh thư, các loại giấy tờ cá nhân, tất cả vũ khí, trang bị, hồ sơ tài liệu, phương tiện, ngân quỹ… Điều IV: Người nào, nhà nào, tập thể nào, cơ sở nào có giữ vũ ,khí chất nổ và các phương tiện, khí tài thông tin đều phải tới khai và nộp tất cả. Điều V: Mệnh lệnh này phải được triệt để chấp hành đến 24 giờ ngày 31 (ba mươi mốt) tháng 5 (năm) năm 1975, những người không ra trình diện cố tình lẩn trốn sẽ bị nghiêm trị, những người đã ra trình diện, đăng ký nhưng còn khai gian, giấu diếm võ khí tài liệu, phương tiện nghĩa là chưa thành thật, sau này phát hiện ra thì xem như chưa tuân lệnh, người nào đăng
          nạp vũ khí, tài liệu, khí tài vật tư quý giá và phát hiện nhiều vấn đề có giá trị khác sẽ được xem xét khen thưởng xứng đáng. Tất cả những người đã ra trình diện đăng ký tạm thời trước khi có lịch này đều phải làm đăng ký chánh thức lại theo mệnh lệnh này. Sài Gòn, ngày 5-5-1975/Thay mặt Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn- Gia Định/Chủ tịch/Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ.”

          Việc ra trình diện không kéo quá dài như dự kiến. Chỉ trong vòng năm ngày, đã có 23 viên tướng có mặt tại Sài Gòn tự động đến Trung tâm Dự bị Viện Đại học Sài Gòn: Tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3; Tướng trẻ Trần Quốc Lịch, 40 tuổi, tư lệnh Sư 5; Tướng Phan Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động Quân khu II; Tướng Hồ Trung Hậu, nguyên phó tư lệnh Sư Đoàn Dù… Nhưng chủ yếu là những viên tướng đã nghỉ hưu từ trước: Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Sằng, Trung tướng Lê Văn Nghiêm… Cũng có những người đã thôi chức từ rất lâu như Trung tướng Lê Văn Kim, về hưu từ năm 1964; Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ, nguyên Tổng trưởng Quốc phòng, về hưu từ năm 1972; Thiếu tướng Lâm Văn Phát, người từng bị Sài Gòn kết án tử hình vắng mặt từ năm 1965…

          Trong thời điểm khắc nghiệt nhất của chế độ Sài Gòn, những người “ngoan cố” đã ra đi hoặc đã tuẫn tiết như Tướng Lê Văn Hưng, phó tư lệnh; Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV và một số tỉnh trưởng Miền Tây khác. Những người còn lại ở lại và chấp nhận những gì sẽ đến với mình48.

          Ở Sài Gòn, 443.360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9.306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4.162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.

          Gần một tháng sau sau Lệnh Trình diện, ngày 10-6-1975, Uỷ Ban Quân quản ra thông cáo “Về việc Học tập Cải tạo Sỹ quan, Hạ sỹ quan, Binh lính và Nhân viên Quân đội Ngụy, Tình báo, Cảnh sát và Ngụy quyền đã trình diện đăng ký”. Theo đó: Tất cả hạ sỹ quan binh lính và nhân viên quân đội Nguỵ thuộc các quân binh chủng tại Sài Gòn-Gia Định, tình báo cảnh sát và nhân viên Nguỵ quyền quận, phường, khóm, xã, ấp đã trình diện đăng ký phải đi học tập cải tạo trong ba ngày kể từ ngày 11-6-1975 đến ngày 13-6-1975. Nhân viên Nguỵ quyền từ trưởng phó phòng trở xuống thuộc các phủ, bộ, vụ, viện, nha, sở, ty… đã đăng ký đi học tập từ ngày 18 đến ngày 20-6-1975. Thời gian học tập liên tục từ 7 giờ đến 16 giờ [giờ Đông
          Dương] trưa nghỉ một giờ. Người đi học tự mang thức ăn trưa và chiều, sau khi học, về nhà nghỉ. Lệnh học tập này phải được tuyệt đối chấp hành ai không đi học tập cải tạo đúng thời hạn coi như phạm pháp.

          Cũng trong ngày hôm ấy, lệnh học tập cải tạo được thông báo đến các sỹ quan theo đó, “sỹ quan quân đội Nguỵ, cảnh sát, tình báo biệt phái từ thiếu uý đến đại uý” được hướng dẫn: “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật dụng cá nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong mười ngày kể từ ngày đến tập trung”. “Sỹ quan cấp tướng, tá”, được hướng dẫn mang theo “thực phẩm, lương thực đủ dùng trong một tháng”.
          Từ ngày 11-6, tất cả hạ sỹ quan binh lính đã đến các địa điểm trong Thành phố học tập và họ cảm thấy yên tâm khi thời gian học tập chỉ có ba ngày, đúng như thông báo và cách tiến hành thì mang tính “học tập” nhiều hơn là “cải tạo”. Báo chí bắt đầu được sử dụng để trấn an những sỹ quan còn có chút băn khoăn lo lắng trong lòng.

          Bài xã luận “Tiếp tục cải tạo để trở thành người công dân chân chính” đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 17-6-1975 viết: “Đợt học tập cải tạo của binh lính, hạ sỹ quan nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền mở ra đã được mấy ngày. Trong các thu hoạch của các học viên, có một điểm chung làm mọi người chú ý: hầu hết đều phát biểu thừa nhận mình trước kia dù làm bất cứ việc gì trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền, đều là những người có tội với nhân dân, với cách mạng. Họ đều hứa sẽ tự cải tạo mình thành những con người tốt. Cuộc học tập này đã làm cho phần lớn binh sỹ nguỵ biết phân biệt ai là địch, ai là ta. Sự phân biệt này rất quan trọng. So với trước khi học đây là một bước tiến bộ đầu tiên của binh lính nguỵ quân và nhân
          viên nguỵ quyền. Nhưng cũng chỉ là một bước tiến đầu tiên mà thôi. Phân biệt được địch, ta, hứa phấn đấu để trở thành người tốt, mới chỉ là tiến bộ về mặt nhận thức, mới chỉ là sự bày tỏ thái độ. Họ có thật sự tiến bộ hay không? Thái độ của họ có thành thật hay không? Hay giả vờ tiến bộ, giả vờ hứa hẹn cốt cho qua cửa ải này, rồi trà trộn vào cộng đồng dân tộc với những tư tưởng thù địch với dân tộc? Đối với những con người đã từng bị giặc Mỹ nhồi nhét những tư tưởng xấu xa, ý thức chống nhân dân, chống cách mạng trong suốt hai mươi năm qua thì làm sao họ có thể gột rửa hết trong ba ngày học tập? Vì vậy, cách mạng tạo cho họ điều kiện để chứng minh sự tiến bộ của mình bằng hành động. Nhân dân ta đã có kinh nghiệm: đánh giá một con người phải căn cứ trên hành động của họ. Ta giáo dục họ những tư tưởng đúng, là cốt để họ làm đúng chứ không chỉ để nói đúng mà thôi”.

          Một bài báo khác dẫn lời anh Trần Văn Lành, một trung sỹ quân nhu, nói: “Trước khi đi học tập, tôi đã tưởng là sẽ bị ngược đãi, bị hạ nhục và có thể bị đánh đập nữa”49. Nhưng, “điều đó đã không xảy ra” và sau học tập, anh Lành đã được cấp “Giấy công nhận hoàn thành học tập cải tạo” - tờ giấy có giá trị công nhận những người “lính Ngụy” bắt đầu được “trở lại làm người” trong chế độ mới. Một người khác, được giới thiệu là “Binh nhất Lê Công Đắc”, thì cho rằng: “Qua cuộc học tập này, chính quyền cách mạng đã dắt chúng tôi ra khỏi nơi tối tăm, đưa chúng tôi về với nẻo chính nghĩa”50. Những phát biểu này được các sỹ quan theo dõi sát và khi thấy sau “ba ngày học tập” binh lính được trở về nhà, thấy “cách mạng đã làm
          những gì cách mạng nói”, các sỹ quan đã yên tâm hơn.

          Không ai biết rằng, từ ngày 18-4-1975, Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư đã quy định: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sỹ quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu cầu của ta và tuỳ theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo an ninh quân đội, sỹ quan tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sỹ quan hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ”51.

          Ở nhiều địa phương, một số “tên ác ôn đầu sỏ” đã được “xử lý” ngay và chỉ vài ngày sau 30-4, các sỹ quan gần như đã được đưa đi cải tạo. Tuy nhiên, Sài Gòn, nơi tập trung gần nửa triệu sỹ quan và binh lính chế độ cũ, nơi tập trung sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước, nên mọi quyết định đều được Trung ương Cục và Đảng ủy Đặc biệt bàn bạc lên kế hoạch.
          Ngay trong phòng làm việc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung ương Cục đã bàn cách đưa các sỹ quan của ông đi “cải tạo lâu dài”. Kế hoạch được gọi là Chiến dịch X-1. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: Việc công bố ba mức thời gian học tập - hạ sỹ quan binh lính, ba ngày; cấp úy, mười ngày; tướng, tá, một tháng - là có ý để cho các đội tượng ngầm hiểu rằng, thời gian học tập tối đa của các sỹ quan chỉ là một tháng. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, năm ấy là một sỹ quan biệt phái với quân hàm đại úy, thuộc diện “học tập mười ngày” viết: “Hầu hết đều bình thản đến cổng, xin vào. Có người cưng con gái đi theo đỡ đần con rể. Có người thuộc diện “ba ngày” tiễn đưa bạn, ngồi quán nhậu ngà ngà cũng theo bạn vào cổng cho vui. Có người giải ngũ nằn nì xin ‘đi học để có cái giấy về dễ làm ăn’. Nhưng, qua con ngựa sắt là
          dòng sông không trở lại”52.

          Nơi tập trung của ông Tạ Chí Đại Trường là một trường học, ông viết: “Sáng 23- 6-1975, tôi đi vòng giã từ phố phường rồi cầm khúc bánh mì đến công trường Taberd. Mười giờ 30 sáng. Hai viên sỹ quan cầm súng lặng lẽ chỉ lối vào. Ngoài đường vắng, cổng trường kín chỉ chừa chỗ lách, không thể biết bên trong có gì”53. Những “sỹ quan cấp úy” ấy đã bình thản đến guichet (quầy) nộp “tiền ăn mười ngày”, lấy biên lai… cho đến khi vào hành lang, cán bộ tới ra lệnh bỏ đồ kim khí ra, mới thấy có “cái gì nặng nề lảng vảng”, rồi khi “trời càng về khuya, mưa tầm tã” thì “bắt đầu mới rùng mình”. Đại úy Tạ Chí Đại Trường viết: “Tôi mang mùng giăng trên tầng gác hội trường nhưng không ngủ được. Từ trên gác nhìn ra bóng tối nhiều hơn ánh sáng… Ánh đèn pha trải dài trên sân nước. Một vài người lính đi lại mang B40 lắp đầu đạn khiến cái bóng càng dài ra”54. Tối 25-6, Đại úy Trường cùng các chiến hữu nhận được lệnh di
          chuyển, “Có người dẫn ra đường. Vắng ngắt. Xe đậu dài ngút”. Rồi, thay vì “học tập mười ngày”, ông thầy dạy sử Tạ Chí Đại Trường đã phải trải qua các trại từ hôm ấy cho đến tháng 6-1981.

          Mười ngày, một tháng qua nhanh. Không ai nhận được bất cứ tin tức gì liên quan đến những người thân bị đưa đi học tập. Rồi đột nhiên, một sỹ quan được tha về, người đó là Cựu Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Nguyễn Văn Vỹ. Vừa ra khỏi trại, Tướng Vỹ phát biểu: “Chúng tôi ăn còn ngon hơn bộ đội. Tôi mong những người có thân nhân đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tưởng Cách mạng, đừng tin ở những lời đồn vô căn cứ”55. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà ngay hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: “Tôi hiểu rõ quân đội trong này lắm, tệ
          lắm, xấu lắm; và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội Cách mạng rất kỷ luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát gì hết. Cách mạng vào yên ổn, thanh bình ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng”56.

          Ở thời điểm Tướng Vỹ phát ngôn trên báo, dân chúng không cần phải nghe tin đồn, chồng con họ bặt vô âm tín đã hơn ba tháng cho dù “Cách mạng nói” sĩ quan cấp úy chỉ đi học tập “mười ngày”, cấp tá chỉ đi “một tháng”. Tuy nhiên, đấy cũng chưa phải là thời điểm mà những người ở nhà hay ở bên trong hàng rào dây kẽm gai tuyệt vọng. Chính quyền biết điều đó và Tướng Vỹ được tha để nói những lời có giá trị trấn an. Đồng thời, “các sỹ quan và nhân viên ngụy quyền” bắt đầu được phép và được động viên viết thư về nhà.

          Đầu tháng Bảy, báo Giải Phóng, tờ báo trong R của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, cho đăng lá thư của ông Trần Văn Tức “nguyên là đại úy cảnh sát ở Côn Sơn”, gửi vợ là bà “Nguyễn Bích Thủy, ở số 52-54 Nguyễn Khắc, Sài Gòn 2”. Khi cho đăng lá thư, tờ Giải Phóng nói rõ là “để bạn đọc hiểu thêm cuộc sống hiện nay của các sĩ quan (trong quân đội ngụy trước đây) đang học tập cải tạo” 57. Thông điệp mà Chính quyền muốn gửi qua bức thư này được lồng vào một cách vụng về: “À, ở thư trước anh quên dặn em là đừng tin lời đồn nhảm của bọn phản động của bọn ngụy tuyên truyền làm cho em và ba má ở nhà hoang mang lo sợ. Nếu người nào nói xuyên tạc đó là bọn lưu manh thừa dịp để làm tiền hoặc bọn ngụy phản cách mạng, em nên đến chánh quyền cách mạng tố cáo họ. Anh cố gắng học tập cải tạo
          tốt để chánh phủ cách mạng khoan hồng cho những đứa con lạc lối được thành người công dân chân chính và sớm về đoàn tụ với gia đình tăng gia sản xuất”58.

          Hơn một tháng sau, tờ Tin Sáng có bài phỏng vấn bà “LQL”, người vừa trở lại Sài Gòn sau chuyến thăm chồng là “Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến Ngụy”. Tờ Tin Sáng không nói rõ chị L thăm chồng ở trại nào và chồng chị là ai, chỉ giới thiệu: “Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27-3 vừa qua”. Câu chuyện ở trại cải tạo được tờ Tin Sáng dẫn dắt cho thấy không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè59. Bài phỏng vấn kết thúc bằng lời dặn dò của người chồng: “Em yên trí về lo làm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và gái, đã làm hai đứa thường mất hạnh
          phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất điều hòa và lành mạnh như em đã thấy, chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước”.

          Người phỏng vấn, phóng viên Phan Bảo An, sử dụng những ngôn từ như “tên tướng ngụy…”, khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn từ “R” về hoặc từ Bắc vào. Nhưng Phan Bảo An là bút danh của ông Phan Xuân Huy, một cựu dân biểu Sài Gòn. Ông Phan Xuân Huy nói rằng cuộc phỏng vấn ông thực hiện được là tình cờ chứ không phải do Chính quyền sắp xếp 60; tuy nhiên, về sau ông mới phát hiện ra “người vợ” là con của một gia đình Cách mạng.

          Cho đến tháng 9-1975, chỉ những người có nhân thân rất đặc biệt mới có thể vào trại thăm thân nhân. Lá thư của “ông Trần Văn Tức gửi vợ là bà Nguyễn Bích Thủy” trùng hợp với thời gian mà ở các trại cải tạo, “ngụy quân, ngụy quyền” được yêu cầu viết thư về nhà. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thời gian này đang cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh, kể: “Thư hàng tháng được coi như là một ân huệ của Nhà nước ban cho người có tội phải cải tạo,‘dựa trên ý thức truyền thống thông cảm với tình gia đình đậm đà của người dân Việt Nam’… Thư gửi được quản giáo kiểm duyệt. Nội dung thư cứ phải nói ‘học tập tốt, lao động tốt’ và phải động viên gia đình”61.

          “Đoàn tụ”


          Có lẽ không mấy gia đình ở miền Nam không đồng thời có người thân vừa ở phía bên này vừa ở phía bên kia. Và có lẽ không có ở đâu, ý thức hệ lại chia cách tình thân đến thế. Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam Tổng Phát hành, có cậu ruột là một cán bộ cộng sản nổi tiếng, ông Mai Văn Bộ, nhưng vẫn không thoát vòng lao lý. Ở đề lao Gia Định, ông Bộ có vào thăm nhưng người cháu đang bị liệt vẫn tiếp tục bị giam cầm.

          Nhà văn Doãn Quốc Sĩ là con rể của nhà thơ Tú Mỡ - người có tác phẩm được miền Bắc đưa vào sách giáo khoa phổ thông - nhưng vẫn phải đi tù. Doãn Quốc Sĩ bị tù tổng cộng mười bốn năm, trong thời gian đó ông không được gặp mặt bố mẹ đang sống ở Hà Nội, thậm chí không được gặp cả người anh ruột Doãn Nho là một nhạc sĩ con cưng chế độ.

          Trung tá Phan Lạc Phúc62 cũng có cùng hoàn cảnh như nhà văn Doãn Quốc Sĩ. Ông Phúc có một người em ruột là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, năm 1962 tham gia đảo chính bất thành, đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Nhưng sau năm 1975, ông Phan Lạc Phúc vẫn phải chịu hơn mười năm cải tạo.

          Đại úy Dù Phan Nhật Nam63 có cha là ông Phan Văn Trình, vốn là một sỹ quan tình báo được Việt Minh đánh vào Sở Mật thám Liên bang Đông Pháp. Ngày 2-9- 1950, ông Trình đã lập công bằng cách lấy hồ sơ của Sở Mật thám mang ra Việt Bắc. Nhưng, như số phận của nhiều nhà tình báo khác, ông Phan Văn Trình đã không được tin dùng. Ông chỉ là một cán bộ nhỏ công tác ở Hải Phòng và sau năm 1975 về Nam chỉ nhận được chức phó chủ tịch một phường ở Sài Gòn. Đại úy Phan Nhật Nam biết trước là không thể nhờ vả được gì vào bố mình. Bởi chính ông, năm 1973, đã từng gây khó khăn cho bố64. Theo ông Phan Nhật Nam: “Năm 1981, ở Mỹ, khi Mặt trận Hoàng Cơ Minh trao giải cho cuốn sách của tôi, Tù binh và Hòa bình, ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa, từ ngày 7-9-1981, tôi bắt đầu bị cùm trong phòng biệt giam. Trong hoàn cảnh đó, ngày 8-5-1985, khi ba tôi lên thăm, ông vất vả ra Hà Nội chờ xin giấy thăm nuôi tôi ở Cục Quản lý trại giam, thay vì có thể xin ở trại như các tù nhân khác. Cuộc thăm nuôi lại chỉ được diễn ra trong vòng mười lăm phút. Cho dù đó là lần đầu tiên gặp nhau sau hơn ba mươi năm, tôi vẫn nói với ông: Ba vất vả quá, thôi đừng thăm nuôi nữa, đợi khi ra tù, con về”65.

          Cũng có không ít quan chức Cách mạng thay vì bảo lãnh, đã vận động ngay chính những người trong gia đình mình đi “học tập”. Có người muốn chứng minh với Đảng sự “chí công vô tư”. Có người tin là cần thiết đối với người thân của họ. Thiếu úy Việt Nam Cộng Hòa Lưu Đình Triều có ba mẹ là cán bộ cao cấp của Cách mạng. Năm 1954, lúc Lưu Đình Triều một tuổi, chị gái Triều ba tuổi, anh đã được ba mẹ để lại cho bà ngoại để đi tập kết. Trong suốt hơn hai mươi năm, hai chị em Lưu Đình Triều đã lớn lên như những đứa trẻ mồ côi trong khi ba mẹ mình sống ở Hà Nội trong một phần căn biệt thự trên đường Điện Biên Phủ với sổ mua hàng
          “Tôn Đản”. Ba anh là ông Lưu Quý Kỳ, vụ trưởng Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương kiêm tổng thư ký Hội Nhà báo. Còn anh, năm 1972, khi Chính quyền Sài Gòn tạm đóng cửa các trường đại học và hạ bớt tuổi hoãn quân dịch của sinh viên, như nhiều sinh viên khác, Lưu Đình Triều bị động viên vào lính. Năm 1975, ông Lưu Quý Kỳ trở về, Lưu Đình Triều nhớ lại: “Bao lần tôi đã nằm tưởng tượng ra cảnh hội ngộ này và nghĩ rằng lúc ấy tôi sẽ hét vang cái tiếng gọi mà tôi đã thèm khát hàng chục năm trời: Ba ơi! Má ơi!”. Nhưng, ngay trong ngày
          gặp lại, Lưu Đình Triều đã cảm nhận được một “hố sâu thực sự”. Lúc đó, do tình hình đi lại khó khăn, ông Lưu Quý Kỳ về Nam trước, vợ và con ông, những người sinh ra ở Hà Nội, đã gửi gắm tình cảm vào chiếc máy ghi âm mà ông Kỳ mang theo. Cô em gái Triều sau khi thăm hỏi anh chị, hồn nhiên hỏi: “Từ hôm giải phóng tới giờ anh chị biết bài hát nào mới chưa. Em và con Thảo, con chú Tân, hay hát lắm. Để bọn em hát cho anh chị nghe nhé”. Rồi hai cô gái Hà Nội cất giọng lanh lảnh hát trong máy ghi âm: Sài Gòn đó, quê ta ơi / Trong biển lửa vẫn
          ngời ngời / Ta đi như sóng căm hờn dâng trào / Xô lên trên xác quân thù hung bạo / Giành một mùa xuân tươi sáng khắp miền Nam… Lưu Đình Triều viết: “Khi nghe tới đó, tim tôi như thắt lại. Một ‘quân thù’ đang đứng cạnh ba đây. Ba có biết không? Có căm hờn nó không? Từ giờ phút đó, niềm vui hội ngộ trong tôi giảm hẳn. Chỉ có nỗi lo âu, thắc thỏm là mới dâng trào”. Vài tháng sau, Lưu Đình Triều vẫn phải đi cải tạo. Trong thời gian ở trại, Lưu Đình Triều kể: “Ban ngày chúng tôi phải học lý luận, ban đêm học hát những bài như Bão Nổi Lên Rồi, Rầm Rập bước Chân Ta Đi Trên Đường Phố Sài Gòn… Sau khi được “lên lớp” về Truyền thống Chống Ngoại xâm, Đường lối Sáng suốt của Đảng Ta, Cuộc Chiến tranh Chính nghĩa, Chính sách Khoan hồng của Chính phủ Cách mạng…, các trại viên phải tập trung thảo luận, theo hướng: phải phân tích được âm mưu của Mỹ - Ngụy; phải nhận ra Ngụy quyền không chính nghĩa, chỉ có Cách mạng mới chính nghĩa. Học xong lại phải “soi rọi bản thân”, kể ra những tội lỗi của mình, mỗi người phải nghĩ cho ra một điều phi nghĩa của Quân đội Việt Nam Cộng
          hòa”. Lưu Đình Triều nói: “Tôi dẫn chuyện lính Sư 7 hành quân bắt gà, bắt heo của dân. Có người là lính tài vụ, cả đời chỉ đi phát lương, với mong muốn được Chính phủ khoan hồng, đã nhận phát lương cũng coi như tạo điều kiện cho lính đi càn quấy. Có người than, tao nghĩ không ra tội, chúng mày ạ”.

          Từ tháng thứ ba, Triều kể: “Mỗi tháng, trại viên được thăm nuôi một lần. Trong số những người thăm nuôi có người quê Biên Hòa, tôi nhắn chị tôi đi thăm. Hóa ra, khi ấy chị tôi đang đi Hà Nội. Khi chị tôi về, lên trại đúng lúc trại cấm thăm nuôi vì một sự cố do trại viên gây ra. Tôi nhìn thấy chị tôi, khoát tay bảo về nhưng chị tôi cứ đứng bên kia đường không chịu. Một người quản giáo tốt bụng tới vỗ vai, nói: ‘Đi theo tôi’. Đi ra, vệ binh chặn lại; nhưng người quản giáo can thiệp. Hai chị em nhìn nhau khóc, khiến người quản giáo cũng khóc”. Chỉ huy trại khi ấy cũng biết Lưu Đình Triều là con cán bộ cao cấp nên chủ động gửi thư cho ông Lưu Quý Kỳ, nói: “Chúng tôi biết anh, nếu được, anh lên trại chúng ta nói chuyện về cháu”. Ông Lưu Quý Kỳ có lên nhưng thay vì gặp con và bảo lãnh, ông chỉ viết thư khuyên “con cố gắng học tập tốt”. Lưu Đình Triều nhớ lại: “Tôi vừa đọc thư ba tôi vừa xé và vừa cay đắng khóc”.

          Có những quan chức Cách mạng không bảo lãnh cho con cháu của mình bởi họ tin rằng những đứa con, đứa cháu lầm đường của họ cần có thời gian cải tạo. Có những quan chức cẩn trọng biết rằng tờ bảo lãnh đôi khi sẽ là một trong những cái cớ để khi cần, các đồng chí của mình đem ra “xử lý”. Ông Trần Quốc Hương nguyên là một nhà chỉ huy tình báo, từng là cấp trên của “ông cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ và “trưởng văn phòng báo Time” Phạm Xuân Ẩn. Năm 1950, ông Hương “đánh” từ Hà Nội vào Nam một cán bộ tình báo có tên là Từ Câu. Vì hoạt động trong lòng chế độ Sài Gòn nên con cái của ông Từ Câu cũng phải đi lính như những gia đình khác. Sau 1975, họ cũng phải đi “học tập”. Khi ông Từ Câu mất, các con ông - thiếu úy Từ Dũng và thiếu úy Từ Tuấn - đang bị cải tạo ở Minh Hải, gia đình có đơn xin cho con về để tang cha. Ông Mười Hương phê đơn, chuyển Giám đốc Công an, xin cho họ “được về để tang rồi vào trại lại”. Trước Đại hội V, ông Trần Quốc Hương 66 bị tố cáo “bốn vấn đề”, trong đó, “một đồng chí trong tiểu ban bảo vệ Đảng” tố ông đã can thiệp cho “hai thiếu úy Ngụy ra khỏi trại giam”.



          “Phản động”

          Một diễn biến khác, xuất hiện ngay từ những ngày Trung ương Cục nhóm họp để triển khai “Chiến dịch X-1, X-2”, được quan tâm đặc biệt vì liên quan đến an ninh chính trị. Ngày 3-9-1975, Trung ương Cục được báo cáo: “Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên; dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lý, đi 46 tên; dự kiến 500 cảnh sát đã chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; Tình báo dự
          kiến 1000 chỉ đi 142 tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi 130 tên; Bình Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là 10.200 nhưng chỉ đi 4.800 tên; còn lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn cơ sở, tình báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên. Theo báo cáo thì việc tổ chức học tập là tốt. Hội nghị chủ trương: Đối với bọn tuyên úy công giáo, phật giáo và tin lành giáo, Ban Mặt trận Thành mới tới nói chuyện động viên khuyến khích đi học; các tôn giáo trở về phải có ý kiến với từng người để họ đi học. Sau cuộc nói chuyện sẽ tổ chức bắt nếu họ không chịu đi trình diện. Đối với biệt kích, gia hạn đăng ký một thời gian; đề cao bọn ra trình diện; kêu gọi gia đình động
          viên con em họ đi học sau đó tổ chức truy bắt”67.

          Chính sách cải tạo cũng đã đi vào lịch sử Tòa thánh Vatican từ ngày 15-8-1975, khi Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời tới Dinh Độc Lập, tại đây ông bị bắt giữ và trong ngày hôm ấy được di lý ra trại giam Cây Vông, Phú Khánh. Việc Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận, người gọi ông Ngô Đình Diệm là cậu ruột, làm giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn vào ngày 25-4-1975 (chỉ chưa đầy một tuần trước khi “giải phóng”) đã làm cho Cách mạng lo lắng. Bản thân nội bộ công giáo cũng có những hoạt động được cho là “mờ ám”; một số linh mục được coi là “cấp tiến” đã ám chỉ các tín hữu của Đức Cha Thuận là “phản động”. Ngày 13-5-1975, một nhóm sinh viên công giáo đã đột nhập vào Tòa Tổng Giám mục đòi Đức Cha Thuận phải từ chức. Ngày hôm sau, 14-5, chính họ lại cũng đột nhập vào Tòa Khâm xua đuổi Đức Khâm sứ Henri Lemaitre.

          Chính quyền không đứng ngoài những hoạt động “cấp tiến” này, nhưng Chính quyền cũng đã hoang mang khi những hành động quá khích như vậy tác động trở lại. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là trong buổi chiều bắt Đức Cha Thuận, Chính quyền đã triệu tập tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ tới tòa nhà Quốc hội Sài Gòn để nghe “nói chuyện”, nhằm tránh những phản ứng khiến cho tình hình phức tạp thêm. Người dân Sài Gòn quan sát những diễn biến ấy trong nỗi lo sợ rất rõ ràng, nhưng thái độ của mỗi người thì một khác. Nhà báo Đoàn Kế Tường kể: “Sáng 29- 4-1975, tôi và một người bạn gặp nhau trên cầu Sài Gòn, anh hỏi: ‘Đi không?’. Tôi
          nói không lưỡng lự: ‘Không. Tôi còn mẹ già ở Quảng Trị’. Anh chia tay tôi xuống Tân Cảng, một chiếc tàu hải quân đang đợi chúng tôi ở đó. Nhưng tôi không thể ngờ được là mọi thứ sau 30-4 nó lại đảo lộn lên như thế”. Đoàn Kế Tường sinh năm 1947 tại làng Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Vì cha từng đi lính Tây nên năm 1960 khi mới mười ba tuổi, ông được đưa vào học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, được huấn luyện trở thành
          lính Biệt kích. Từ năm 1965 được đưa lên tác chiến ở vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long. Là lính trận thật sự, hai lần bị thương, nhưng chàng trai trẻ mười tám tuổi vẫn có chút máu Quảng Trị, làm thơ từ trong rừng sâu gửi về các tờ báo ở Sài Gòn rồi được kết nạp vào Hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội. Năm 1969, nhân Đại hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường nhờ Chu Tử68 xin cho về lại Sài Gòn làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều nhân vật có thế lực, đã nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường cuối năm ấy về Sài Gòn làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm cho báo Điện Tín. Tường kể: “Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám”. Nhưng, sau cái ranh giới 30-4-1975, Ớt và Tường không bao giờ có thể “binh xập xám” với nhau. Huỳnh Bá Thành là một cán bộ An ninh T4, biết những người như Đoàn Kế Tường ở lại và “tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp”. Trong Hội nghị ngày 3-9-1975, Trung ương Cục lưu ý “các đối tượng làm việc cho các cơ
          quan Mỹ, văn nghệ sĩ, báo chí, ký giả” và phân công: “An ninh phối hợp với Hoa vận, tình báo nghiên cứu đề xuất phương án đối với Quốc Dân Đảng, Tàu đặc vụ và nhân viên làm việc với nhân viên Mỹ. Tuyên Huấn Thành và Thông tin Văn Hóa nghiên cứu kỹ đối với văn nghệ sỹ, ký giả”69. Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Tôi trốn trình diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích
          rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục quốc70... Chúng tôi in truyền đơn, in lời kêu gọi và phát tán chúng. Ngày 29-4-1975, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã lấy trực thăng bay ra hàng không mẫu hạm Midway mà chúng tôi vẫn nghĩ là ông lên rừng lập chiến khu. Chúng tôi cùng nhau hát: Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng của dân / Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng rừng xanh71. Khi đó, tôi còn quá trẻ lại đầy máu nghệ sỹ, cứ nghĩ những việc làm của mình cũng như một cuộc chơi mà sinh viên Sài Gòn vẫn làm hồi trước 1975”.

          Nhưng Sài Gòn đã không còn như “hồi trước 1975”. Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Trong những ngày ấy, Huỳnh Bá Thành có gặp tôi hỏi, nếu muốn làm báo Tin Sáng thì Thành sẽ giúp, nhưng tôi chỉ đáp cụt lủn: Không! Tôi sẽ vào rừng!”. Đêm 22-10- 1975, Huỳnh Bá Thành đến nhà Đoàn Kế Tường còng tay người bạn từng binh xập xám hôm nào. Trong đêm ấy, Dương Đức Dũng, Thái Sơn và giáo sư Lê Việt Cương cùng bị bắt.

          Gần bốn tháng sau, ngày 10-2-1976, Nguyễn Việt Hưng, Trần Kim Định bị bắt. Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh Thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng 3 người khác bị bắt.

          Vụ nhà thờ Vinh Sơn chưa kịp lắng xuống thì ngày 1-4-1976, xảy ra một vụ nổ ở Hồ Con Rùa72 làm cho một người chết, bốn người bị thương và phá hủy hoàn toàn con rùa làm bằng đồng đặt giữa hồ. Hai ngày sau, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bản tin có tựa đề, “Tóm gọn tại chỗ bọn phản động và phá hoại”, với mấy dòng ngắn gọn: “Ngày 1-4, bọn phản động và phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Một tên trong bọn chúng bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”73. Cùng ngày, tờ Giải Phóng, cũng đăng bản tin với độ dài và nội dung: “Trừng trị tại chỗ bọn phản động và phá hoại: Tối 1-4-1976, bọn phản động và phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Công trường này ở ngã tư đường Duy Tân, Võ Văn Tần và Trần Cao Vân; ở giữa có một vườn hoa nhỏ, đồng bào ta thường ra ngoài hóng mát. Một tên trong bọn phản động bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”74.

          Vụ nổ xảy ra lúc 8 giờ tối, được Huỳnh Bá Thành kể lại là “vang dội từ phía sau lưng đuổi tới, nhà cửa hai bên đường rung chuyển và đó đây tiếng kính vỡ rơi lổn cổn, khô khốc”75. Khi “trinh sát” đến hiện trường, theo Huỳnh Bá Thành: “Mùi thuốc nổ vẫn còn khét lẹt. Một cảnh tượng hãi hùng trước mắt Trường Sơn: một thây người đầy máu, bay mất cái đầu và đôi bàn tay, đang được anh em cảnh sát khiêng lại để gần chỗ đặt chất nổ. Bốn thanh niên bị thương máu me đầy mình được xe cảnh sát tức tốc đưa đi cấp cứu. Bên cạnh cảnh tượng chết chóc và thương tích rùng rợn ấy, con rùa bằng đồng to tướng bị chất nổ làm banh ra từng mảnh nhỏ, văng ra vung vãi. Theo giám định hiện trường của các đồng chí cán bộ cảnh sát thuộc bộ phận khoa học hình sự đã xác định sơ bộ: chất nố được đặt ngay ở thân con rùa đồng, loại TNT có sức công phá ước chừng mười đến mười lăm kilogam”76.

          Việc Chính quyền vội vàng kết luận trên báo chí người chết là “một tên trong bọn phản động” là chưa có căn cứ. Huỳnh Bá Thành, người mà báo Tuổi Trẻ nói rằng đã “tham gia điều tra từ đầu cho tới khi kết thúc vụ án”77, cũng thừa nhận rằng: “Không tìm thấy giấy tờ tùy thân nào trong người hắn… khó mà kết luận tuổi tác chính xác khi người chết không còn mặt mũi và hai bàn tay. Nạn nhân mặc chiếc quân jean Mỹ bạc màu, chiếc áo kaki đã sờn, chân đi dép nhựa mòn sát gót. Cũng thật khó mà kết luận thành phần xã hội của kẻ đặt chất nổ”78.

          Theo Huỳnh Bá Thành thì có ít nhất ba trường hợp đã đến công an đầu thú, một số kẻ khác đã bị bắt khi đang ba hoa ở quán café rằng mình là chủ mưu, nhưng “hóa ra bọn họ đều là những kẻ háo danh hoặc có vấn đề về tâm thần”. Nhiều vụ “bắt bí mật” đã được ngành an ninh thực hiện, một trong số đó là Lỗ Hung 79. Lỗ Hung khai nhận và theo Huỳnh Bá Thành, trong người anh ta có một mảnh giấy ghi: “Làm thêm ba thẻ tổ viên tổ hợp ván sàn”. Theo Thành thì vợ chồng nhà văn Trần Dạ Từ và Nhã Ca80 cũng có một tổ hợp ván sàn và Lầu Phá Xấu, theo đặc tình của Thành là Đặng Hoàng Hà81, người mà nữ đặc tình này biết là thường xuyên qua lại với vợ chồng nhà văn Nhã Ca.

          Trên thực tế, cho dù mãi tới ngày 6-4-1976 vụ án mới “được làm sáng tỏ”, nhưng ngày 2-4-1976, tức là chỉ mười hai giờ sau vụ nổ, những người như Nhã Ca, Trần Dạ Từ đã bị bắt. Nhà văn Duyên Anh kể: “Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa kịp vô bìa, thì Sài Gòn mất. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà 82, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Cũng đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Mạnh Côn lên đường trực chỉ Sở Công an”83.

          Một chiến dịch bắt bớ văn nghệ sỹ được kéo dài cho đến ngày 28-4-1976. Duyên Anh kể tiếp: “Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ sĩ. Hôm sau, cả Sài Gòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3- 4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra hai khách lạ nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn ngoái lại, hai khách công an đã phóng ra vỉa hè. ‘Nó đến bắt Mai Thảo’, Côn nói. Tôi đi tìm dấu vết Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo. Công an không bắt được Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo”84.

          Đến chiều ngày 8-4-1976 thì chính Duyên Anh cũng chịu chung số phận. Ông kể: “Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang băm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông tổ trưởng dân phố của tôi dẫn ông phường trưởng và công an phường đến thăm gia đình tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo dưới bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về. Mười phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn luôn chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ỏ nhà, họ mới đến bắt… Cảnh tượng gia đình tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi đang đau nặng, vụt tỉnh, tung mền chạy ra phòng khách. Tôi nhìn cái còng nhãn hiệu Mỹ do cộng sản siết dính trên tay mình, nhìn vợ tôi mặt mày tái mét, nhìn ba đứa con tôi ngơ ngác, nước mắt chảy ròng ròng. Tôi đợi công an đến bắt tôi sau khi tôi hay tin họ đã bắt Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doãn Quốc Sĩ…”85.

          Lý do “bọn phản động cho nổ Hồ Con Rùa” được Huỳnh Bá Thành thuật lại trong cuốn sách mà báo Tuổi Trẻ khẳng định là “một câu chuyện hoàn toàn có thật” là nhằm phá con rùa “ếm đuôi rồng” để cho đuôi rồng quậy phá chế độ mới86. Duyên Anh, một nhân vật của cuốn sách Vụ Án Hồ Con Rùa, nhận xét: “Bỏ qua thứ văn chương hạng bét và thứ kiến thức tình báo giày dép của Huỳnh Bá Thành, cộng sản khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường Công Lý (sau này đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở lui tới họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống.
          Đằng Giao là Đỗ Gia. Chu Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ là Lê Dạ, Tú Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long… Cộng sản đề cao Hoàng Hà Đặng (tên thật Đặng Hoàng Hà) như một ‘lãnh tụ’ ghê gớm, ngang cơ với Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết tình báo là cái gì. Đưa chúng tôi lên mây, trao mìn về cho chúng tôi, cho chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với các đại cố vấn Mỹ trước 1975 rồi khi ‘tóm’ được chúng tôi thì mô tả chúng tôi là những thằng ‘ăn mày’, những thằng ‘đói thuốc phiện thất thểu’ vào tù đền tội, và ‘xưng em’ với nữ công an ngọt xớt”87.

          Trên thực tế, trong những ngày ấy cũng có rất nhiều những người chống đối chính quyền bằng hành động, có những người - nhất là giới văn nghệ sỹ - chống đối bằng những lời nói cho sướng mồm, có những kẻ lợi dụng lòng tin, bày đặt chống đối để lừa đảo tiền tình của những người dân không ưa chế độ. Nhưng cũng có những cái bẫy được đặt ở đâu đó. Ngày 6-04-1976, Chính quyền quyết định tấn công vào nơi được coi là “sào huyệt của bọn phản cách mạng”, đặt trong một khu rừng ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, bắn chết sáu người, bắt sống “Chủ tịch Trần Duy Ninh và tám tên khác”. Ngày 8- 04-1976, bốn mươi ba mục tiêu ở Sài Gòn bị đồng loạt tấn công: “bắt thêm năm mươi tên, thu giữ một điện đài, hai máy in bạc giả, một máy phát điện, toàn bộ máy móc để xây dựng đài phát thanh, tám mươi súng các loại, 100kg thuốc nổ TNT và một số tài liệu phản động”88. Hành động này còn mang ý nghĩa trấn áp, vì ngày 29-4-1976, trên cả nước sẽ diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của Chính quyền Cách mạng: Tổng tuyển cử bầu Quốc hội Thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Chính quyền muốn đảm bảo rằng sẽ không xảy ra sự cố. Nhiều người đã bị bắt mà cho đến tận khi nhắm mắt lìa đời vẫn không biết lý do là gì89.

          Ngày 7-4-1976, họa sỹ Chóe bị bắt. Họa sỹ Chóe tên thật là Nguyễn Hải Chí, trong thời gian “đi trung sỹ” tại Phòng III, Bộ Tổng Tham mưu, Chóe nổi tiếng với những tác phẩm biếm họa phản chiến đăng trên báo chí Sài Gòn chế diễu từ Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger, Tổng
          thống Nixon cho tới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; tranh của Chóe cũng châm biếm cả bà Nguyễn Thị Bình và ông Lê Đức Thọ… Ở cơ quan Tổng Tham mưu: “Hạ sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại gấp nghìn lần Cao Văn Viên”90. Trong chiến tranh, biếm họa của Chóe được các tờ báo nổi tiếng ở Mỹ đăng. Chính quyền Sài Gòn cũng không ưa gì Chóe. Cuối năm 1974, ông bị bắt do vi phạm lệnh “cấm những người đang phục vụ trong quân đội làm báo”. “Khi đại tướng Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc Huấn thị, Nhật lệnh, nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở phòng giam của Cục An Ninh quân đội”91. Ngày 30-4, chính Cách mạng đã mở cửa nhà tù cho Chóe. Họa sỹ Chóe nhớ lại: “Một hôm đi ngang qua quán cà phê 104 Công Lý của Chu Thị Thủy - Đằng Giao, tôi nghe Nhã Ca kêu, nên có vào ngồi một lúc. Đó là lần duy nhất tôi ngồi với họ kể từ sau ngày 30-4”92. Nhưng sự liên đới của Chóe không chỉ bị Huỳnh Bá Thành lưu ý trong lần cà phê ấy.

          Trong Vụ Án Hồ Con Rùa, Thành đã viết về mối quan hệ của Tú Dung - Nhã Ca với Barry Hilton: “Viên sĩ quan CIA người Mỹ tên là Barry Hilton cầm tay chỉ việc cho Tú Dung, thì nữ văn sĩ này biến thành một ‘nữ biệt kích’ chống cách mạng một cách hoàn toàn không còn lương tri của một người trí thức”. Cách nói đó không chỉ cáo buộc Nhã Ca. Huỳnh Bá Thành, cũng từng là một họa sỹ biếm, biết Barry Hilton đánh giá cao tài năng của Chóe. Barry Hilton đã tuyển tranh của Chóe in thành tập The World of Choe. Sách đã in nhưng vì Barry Hilton là công chức thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ nên phải chấp nhận không phát hành tập sách đả kích Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó. Chóe bị bắt khi đang làm việc ở tòa soạn báo Lao Động Mới. Ông bị dẫn về nhà ở số 52/8 Quang Trung, Gò Vấp, lúc đã 6 giờ chiều; công an khám xét tới 9 giờ đêm thì giải ông về trại “tạm giam”. Huỳnh Bá Thành là người bắt Chóe.

          Ba ngày trước tổng tuyển cử, 26-4-1976, An ninh ra lệnh bắt tiếp Luật sư Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không bao giờ biết vì sao mình bị bắt93. Ông từng làm cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương trình “cấp căn cước cho người từ mười sáu tuổi trở lên” và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận được học bổng đi học thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là “chuyên viên đặc nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.

          Những cuộc bắt bớ tương tự kéo dài tới năm 1978. Một trong số đó là nhà trí thức cách mạng Hồ Hữu Tường. Từ giữa thập niên 1920 khi du học ở Paris, ông Hồ Hữu Tường từng tham gia phong trào Đệ tứ Quốc tế cùng với các ông Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu. Mặc dù năm 1939, ông Tường từ bỏ chủ nghĩa Marx và phong trào Đệ tứ nhưng năm 1940 ông vẫn bị người Pháp bắt và đày ra Côn Đảo cho tới năm 1944. Ra tù, với tư cách là một nhà trí thức, ông Tường có nhiều bài viết nổi tiếng về cả chính trị, kinh tế và văn hóa phổ biến ở Hà Nội. Năm 1946, ông làm cố vấn cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông là một trong những người biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc trung học của nước Việt Nam, lúc ấy, vừa tuyên ngôn độc lập. Ông Hồ Hữu Tường bị người Pháp bắt lại năm 1948 và năm 1957, sau khi về sống ở Sài Gòn, bị chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên án tử hình vì làm cố vấn cho Mặt trận Thống nhất của Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Nhờ có sự can thiệp của những nhân vật nổi tiếng trên thế giới như Albert Camus, Nehru, ông được giảm
          xuống khổ sai. Ông được trả tự do sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Ra tù, ông được mời làm phó viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và năm 1967, ông tham gia chính trường với tư cách là một dân biểu đối lập. Ông Hồ Hữu Tường không phải đi cải tạo cho đến khi ông có một vài “sáng kiến chính trị” vào năm 1978, năm ông Tường sáu mươi tám tuổi94. Ba lần ông thoát khỏi nhà tù, của người Pháp và của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng tới lần thứ tư thì không. Ngày 26-6- 1980, ông Hồ Hữu Tường được đưa từ trại Z30D ở Hàm Tân về Sài Gòn, nhưng trên đường đi thì ông mất.

          Năm 1981, trong khuôn khổ một hoạt động của US-VN Reconciliation Project, bà Luật sư Ngô Bá Thành được mời tới Đại học Harvard. Tại đây, bà cho rằng, những người được đi cải tạo là may mắn vì nếu họ bị đưa ra một phiên tòa như Nuremberg thì có thể họ đã bị xử bắn. Luật sư Ngô Bá Thành không biết rằng con gái của ông Hồ Hữu Tường, người tù cải tạo vừa mới chết một năm trước đó, Giáo sư Hồ Tài Huệ Tâm lúc ấy đang dạy lịch sử ở Harvard cũng được người tổ chức chương trình, ông John McAuliffe, mời dự95. Lập luận của bà Ngô Bá Thành không mới đối với Hà Nội nhưng rất ngạc nhiên khi nó được nói ra bởi một luật sư. Việc đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm súng, không bằng một bản án của tòa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt, câu chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau đây, thật khó để nói là may mắn.

          Trưa 29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng thống Dương Văn Minh ký cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện chuyến di tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa sông, đã bị B40 bắn theo, giết chết nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm Nhật báo Sống. Con tàu Việt Nam Thương Tín và hàng nghìn người nằm đợi ở đảo Guam gần năm tháng. Sự chờ đợi trước một tương lai vô định trong khi vợ con, cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đã khiến cho nhiều người muốn quay lại Việt Nam, nơi mà họ tin là đã bắt đầu thống nhất và chắc chắn có hòa bình. Một trong số ấy là Đại úy tình báo Võ Tính 96. Ông Võ Tính được người Mỹ tạo điều kiện đưa toàn bộ gia đình di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ đến ngày đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”. Còn cha vợ ông thì khi đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm 1954 trở lại. Ông Võ Tính đã định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày cuối tháng 4-1975, người Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính được đưa ra Phú Quốc và khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông được đưa ra Hạm đội 7 để rồi sau đó tới Guam. Cũng như nhiều người lính khác, Đại úy Võ Tính không chắc có bị “Việt Cộng” trả thù trong khi, từ trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt Nam mới là tổ quốc. Không tìm được lý do hợp lý để bỏ nước, bỏ cha mẹ già, người vợ trẻ và 3 đứa con thơ, Đại úy Võ Tính đã tham gia vận động để người Mỹ cho phép
          những người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.

          Ngày 29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ý của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín rời Guam trong một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo dài, chào cờ và được truyền hình Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ được ủy nhiệm chỉ huy chuyến trở về của con tàu này.
          Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu. Mãi tới hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và dừng lại cách tàu Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải quân dùng ống nhòm quan sát rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt Nam Thương Tín chạy ngược ra phía miền Trung. Những người trở về bắt đầu linh cảm điều gì đó bất thường nhưng họ vẫn còn hy vọng và vẫn còn chờ đợi. Tới Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi người đều bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II thì mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào phòng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy 7 tuổi, tất cả đều phải đi tù, người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất - Trung tá Trần Đình Trụ - phải ở tù tới 13 năm.



          Tù và cải tạo

          Cho dù ở tù hay cải tạo thì đều là thân phận của những người mất tự do. Nhưng được chuyển từ Đề lao Gia Định hay Chí Hòa ra trại “cải tạo” vẫn là những gì mà những “người tù” thèm khát. Duyên Anh viết: “Nếu tôi đã phục vụ (trong quân đội) như Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên…97, tôi sẽ đóng một khoản tiền ăn mười ngày cho đơn vị tôi trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe Molotova, xe GMC, xe đò nữa, chở tôi đến trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra, hai ba năm đầu, bộ đội họ quản lý tôi cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm cửa phòng tôi không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu vinh hạnh làm sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi là nhà văn phản động và công an đã đến còng tay tôi, đưa tôi đi một mình”98.

          Khi đã vào những nhà tù như số 4 Phan Đăng Lưu, số 3c Tôn Đức Thắng hay Chí Hòa thì mới thấy được đi cải tạo cũng là một ân huệ. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích kể: “Sau một năm ở xà lim, tôi được đưa ra phòng giam tập thể, giam chung với sáu mươi chín người khác trong một phòng. Mỗi người được một phần sàn xi măng rộng 60cm dài hai mét và được phát một chiếc chiếu. Trong phòng, có các tướng lĩnh, các bộ trưởng và các viên chức cao cấp của Sài Gòn. Tôi nhận ra trong đó có những người cùng bị bắt đợt tháng 4-1976 với tôi”. Bên cạnh những người tù không có án như Đoàn Kế Tường, Linh mục Thiện, Luật sư Vũ Đăng Dung, Dân biểu Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân, Như Phong, Lâm Văn Thế, Nguyễn Ngọc Tân, Lê Xuyên… ở các đề lao cũ của Sài Gòn còn có các nhà “tư sản mại bản” mà trong đó có một số người có được “vinh dự” ra tòa như Phạm Quang Khai, Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài, Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng, Nguyễn Văn Trương (Khai Trí), Trương Văn Khôi… và cả những “tên phản động” bị bắt trong vụ Nhà thờ Vinh Sơn như Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn
          Văn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp…

          Cuối thập niên 1970, ngay cả người Sài Gòn cũng không mấy khi có gạo trắng, cá tươi, cơm tù không thể nào tránh được cá thịu, gạo hẩm. Nước cũng là nỗi khát khao của các tù nhân. Ở Chí Hòa, tù nhân Đoàn Kế Tường đã từng tổ chức biểu tình “đòi đi tắm”. “Họ bị cai ngục dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Hòa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc đầu, thở dài”99.

          Nhiều thứ bệnh đi theo người tù như tiêu chảy, kiết lị… nhưng thuốc men gần như không có; những năm đó, ngay cả công an, bộ đội và dân chúng cũng đều phải dùng “xuyên tâm liên chữa bá bệnh”100. Nhưng, không có gì làm khổ người tù như ghẻ, lở. Theo Duyên Anh: “Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè ‘của quý’ mà lập chiến khu. Tù nhân này cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Bôi xong, vội vàng lấy quạt lia. Vì thuốc xót vô cùng” 101. Trong hoàn cảnh ấy, những người tù ở Đề lao Gia Định, Chí Hòa coi việc được đưa tới các trại cải tạo là giảm nhẹ.

          Trước Tết 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả, trong đó có Nhã Ca, được tập trung tại khu A, Chí Hòa, học tập một tháng rồi được thả về. Những người như Doãn Quốc Sĩ, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Trần Dạ Từ, Chóe, Duyên Anh… phần lớn vẫn “ở tù”; cá biệt, những người cứng đầu như Đoàn Kế Tường thì bị giữ lại suốt 10 năm ở Chí Hòa. Trong khi đó, một số khác được chuyển từ chế độ tù sang “cải tạo”.

          Nhưng đấy là câu chuyện xảy ra trước năm 1978. Khi Chiến tranh Biên giới Tây Nam xảy ra và ở phía Bắc, Trung Quốc bắt đầu đe dọa, các trại cải tạo được chuyển giao từ quân đội sang cho công an. Theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Chúng tôi bắt đầu chịu cảnh tội tù khắc nghiệt”.

          Ngày 8-5-1975, sau khi trình diện, ngoại trừ Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị bệnh nặng, các sỹ quan cấp tướng102 và cấp tá bị giữ lại để học tập đợt một tại Ðại học xá Minh Mạng, Chợ Lớn trước khi đưa về Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Sau đó, các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay trong khi các sỹ quan cấp thấp hơn được đưa ra Bắc bằng tàu thủy và xe lửa. Nơi đến của những người bị coi là “nguy hiểm” này là các trại giam Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ An. Như những người tù thâm niên khác, Trung tá Phan Lạc Phúc đã trải qua những nhà tù gian khổ nhất: Trại Long Khánh - Suối Máu, Liên trại 2 Sơn La, Trại Yên Hạ (Sơn La), Trại Tân Lập (Vĩnh Phú), Trại Thanh Phong (Thanh Hóa), Trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Trại Ba Sao (Hà Nam Ninh), Trại Xuân Lộc (Đồng Nai). Yếu tố chính để Phan Lạc Phúc chịu cải tạo lâu là vì ông đã từng học thông tin báo chí tại Hoa Kỳ, từng làm chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau một năm bị giam ở trại Long Giao và Suối Máu, ngày 10-6-1976, ông Phúc được đưa ra Bắc trong đợt đầu tiên. Ông viết: “Chúng tôi đang ngồi ở sân tập kết trại Suối Máu thì người bạn thân cùng ngành của chúng tôi là Tạ Ty chạy hốt hoảng: 'Đi chuyến này hở. Ra Bắc đấy. Thế là năm niên đấy. Có nhắn gì về nhà không?' Tôi và Hùng nhìn nhau cười nói với bạn: 'Nói hộ với gia đình là tụi tôi đi ra Bắc ngày hôm nay. Ở lại khỏe nha'. Người bạn họa sĩ tài danh của miền Nam ngậm ngùi tạm biệt 'Hẹn gặp lại nhau sớm ở Sài Gòn…'”103.

          Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận nhớ lại buổi tối ông bị đưa ra khỏi Sài Gòn: “Ngày 1-12-1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình tôi bị gọi cùng với vài tù nhân khác. Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên một xe cam nhông. Cuộc hành trình ngắn đưa chúng tôi tới Tân Cảng. Chúng tôi thấy một con tàu trước mặt, hoàn toàn chìm trong bóng tối để dân chúng khỏi để ý. Chúng tôi bị đưa lên tàu đi ra miền Bắc… Tôi bị đem xuống hầm tàu, nơi chứa than. Chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cháy. Chúng tôi tất cả là 1.500 người, trong một tình cảnh không thể tả được… Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt
          vọng của các tù nhân khác. Bầu không khí sầu thảm như đám tang. Một tù nhân đã tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh”104.

          Trung tá Phan Lạc Phúc cũng được đưa ra Bắc bằng tàu và chuyến đi của ông cũng gian khổ không kém gì chuyến tàu của Đức cha Nguyễn Văn Thuận, nhưng những gì mà họ gặp trong quãng đường chuyển tù chỉ mới là những thử thách ban đầu105.


          “Thăm Nuôi”

          Thời gian cải tạo càng tăng thêm thì tiền bạc của người nhà tù nhân cũng như ngân sách của “Cách mạng” càng dần cạn kiệt. Từ Tết năm 1976, các suất ăn bắt đầu bị cắt bớt; đến cuối năm 1977, lương thực của tù nhân được thay bằng lúa mạch, thường gọi là bo bo. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường, tới mùa Thu năm 1978, mỗi người chỉ còn 300g gạo một ngày. “Rau muống, rau lang không kịp ra đọt non, rau dại cũng bị vặt khi vừa mới nhú. Củ chuối bị đào hết lên”. Không phải học viên cải tạo nào cũng biết rằng lúc ấy ở “ngoài xã hội”, cái bao tử của thường dân cũng không no đủ hơn. Chính quản giáo, ban ngày “hắc” thế nhưng đêm xuống cũng tìm gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tý mỡ”. Những ngày có đồ thăm nuôi là những ngày trong trại tưng bừng. Những lá thư viết từ trại những năm tháng về sau chủ yếu là liệt kê các “nhu yếu” thăm nuôi.

          Ông Tạ Chí Đại Trường kể: “Cũng có người vẫn giữ được tiền, mỗi lần thăm nuôi lại có khuân có vác, nhưng cũng có người chỉ có thể mang theo mấy ổ bánh mì, lủi thủi với chồng: Không biết lần sau có còn vay được tiền đi thăm anh”. Dần dà, những người tù bắt đầu biết thăm nuôi đang trở thành một gánh nặng cho những người mẹ, người vợ ở quê cũng đang đói khổ. Để đi đến các trại cải tạo thăm chồng, thăm cha, những người con lính, vợ lính đã phải nếm biết bao tủi nhục. Từ năm 1978, họa sỹ Chóe bị đưa lên trại Gia Trung, Gia Lai. Hai năm ở trại
          “tạm giam” của cơ quan An ninh Điều tra, số 4 Phan Đăng Lưu, Chóe chỉ được nhận đồ chứ không được gặp người nhà. Hai năm ấy, do phải nằm trên sàn xi măng, chân ông, vốn phong thấp, đã gần như bị liệt. Đến Gia Trung, được thăm nuôi thì đường sá lại quá xa xôi, cách trở.
          Vợ Chóe, bà Nguyễn Thị Kim Loan, năm ấy phải một mình nuôi bốn đứa con, đồ đạc trong nhà gần như đã bán hết. Cũng như hàng triệu gia đình Sài Gòn, nhà bà cũng được Chính quyền cấp cho “sổ gạo”, nói là gạo nhưng những năm ấy thường chỉ có bo bo hoặc khoai; tiêu chuẩn một ký gạo được Nhà nước bán thay thế bằng 2 ký khoai. Không chỉ những người vợ có chồng bị đưa đi cải tạo, trong “chế độ mới” đàn ông trở thành vai trò thứ yếu vì không có việc làm, cuộc sống chỉ còn có thể trông cậy vào tài xoay xở, mua bán lặt vặt của những người phụ nữ. Bà Loan lả một phụ nữ công giáo di cư từ Phát Diệm, đã từng làm thư ký trong Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng hòa, từng sống hết sức phong lưu nhờ nhuận bút những bức tranh biếm của chồng đăng trên các báo Sài Gòn, báo Mỹ. Từ khi chồng “đi Gia Trung”, bà Loan phải mua từng bộ đồ cũ, từng bịch xà bông, chen chúc trên xe đò, giấu giếm đem về An Giang quê chồng, bán, kiếm từng đồng chênh lệch giá. Kiếm tiền để đi thăm nuôi đã khó, mỗi một chuyến đi từ Sài Gòn lên Gia Lai là cả một “đoạn trường”. Trước hết, phải “chạy” xin cái giấy của Phường, rồi từ 3 giờ chiều đã phải ra bến xe xếp hàng. Chính sách “cải tạo nhân đạo” đã biến những hãng xe đò tư nhân như Phi Long, Phi Hổ một thời khoanh tay mời khách mua vé, mời khách lên xe, trở thành những “chuyến xe bão táp”. Có mặt từ chiều ở bến xe,
          đợi đến 3 giờ sáng “xe khách quốc doanh” bắt đầu bán vé, chen chúc, la ó, nhưng có khi đến lượt mình thì vé hết vì xe ít, nhà nước ưu tiên bán trước cho cán bộ có “giấy công tác”. Không đi được là bi kịch vì tiền bạc giành dụm mua cá, mua thịt kho để lâu không được. Nhà nước sợ tù tích trữ thực phẩm trốn trại nên không cho thăm nuôi đồ khô, ngay cả mắm ruốc, muối mè. Lên xe được rồi cũng vô cùng thắc thỏm, những năm ấy nền kinh tế không còn “lệ thuộc nước ngoài”, phụ tùng không có, xe cộ hỏng hóc giữa đường là chuyện thường. May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước Tài thì đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.

          Theo bà Nguyễn Thị Kim Loan: Từ chỗ xe dừng vào tới trại hơn ba cây số. Quản giáo không cho thuê người gánh. Họ nói, “Giờ này mà các chị vẫn không bỏ được cái thói tiểu tư sản à”. Dân Sài Gòn gánh không quen, đau vai, đành cứ phải xách. Xách giỏ thứ nhất lặc lè đi lên chừng trăm thước, quay lại xách giỏ thứ hai. Đi ba cây số mà mất tới hơn hai giờ. Những hôm xe chết máy, lên tới trại đã là nửa đêm thứ hai, trời tối như bưng, lũ đàn bà, con nít cứ nhắm mắt mà đi không nhận ra lối rẽ, bước thẳng vô mấy nấm mồ mới, hét lên. Quản giáo chạy ra mới biết đã lạc vào trại khác, phải ngủ lại đấy, chờ sáng hôm sau tìm đến chỗ giam chồng. Lặn lội xa xôi như vậy nhưng rồi cũng chỉ được nhìn thấy mặt chồng mười lăm phút. Trên một
          cái bàn cây dài, quản giáo ngồi hai đầu, một bên là “phạm”, một bên là thân nhân, họ chỉ kịp trao đổi với nhau những lời vội vã.

          Năm 1978, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cũng đang học tập ở trại Gia Trung, kể: “Có người xách bịch đồ thăm nuôi về phòng mà băn khoăn không biết ở ngoài làm sao vợ nuôi nổi mấy đứa con lại còn chạy được tiền đi thăm mình. Nhưng cũng có người thản nhiên, phần vì đã quen đòi hỏi, phần vì không hình dung hết những gì đang xảy ra, liên tục gửi thư về giục gửi cho thứ này, thứ nọ. Thảm cảnh gia đình xảy ra từ đó”.

          Đại úy Đỗ Duy Luật, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 248, Sư 18. Ngày 19-4-1975, đơn vị ông được điều từ Bình Tuy về Long Khánh, tham gia trận Long Khánh gây tổn thất nhiều cho quân Giải phóng. Hai ngày sau khi ra trình diện, ông Luật bị đưa lên Long Giao. Từ tháng thứ hai, ông được viết thư về nhà nhưng chỉ cho khai số hiệu trại là “L2T2” chứ không cho nói rõ địa danh. Vợ ông, cũng như vợ của nhiều người lính khác, phải đi hết trại này sang trại khác, nấp sau những bụi cây cạnh bờ rào dò hỏi với hy vọng mong manh tìm chồng. Những chuyến đi như vậy làm khánh kiệt dần chút gia tài mọn của những người vợ lính. Từ năm 1978, ông Luật được di lý từ Sơn La về trại Ba Sao, Phủ Lý. Mãi tới cuối năm 1979, vợ ông mới tìm được ra thăm. Đó là lần gặp nhau cuối cùng của hai vợ chồng. Khi trở về bà phát bệnh ung thư rồi chết vào đầu năm 1980. Cũng trong năm ấy, ông được chuyển từ Ba Sao về Hàm Tân, vào trại Z30D. Tháng 6-1981, ông được tha với lý do là vợ chết. Khi ông Luật trở về, căn nhà nhỏ của ông ở số 2 Duy Tân không còn nữa, vợ ông đã phải bán, trang trải chi phí cho những chuyến đi thăm chồng và nuôi ba con nhỏ.

          Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường: “Có những người vợ đã phải đi bán thân. Có những người vợ đã phải sử dụng thế mạnh của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và trẻ em, lại phải tìm cách qua mặt công an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ thất ngay cả trên đường xa… thì không thể nào trách những người phụ nữ ấy. Chuyện một bà tứ tuần có mang với anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ trời cặp với anh lính cũ của chồng mình… cũng không có gì bất ngờ khi nó được đưa vào trại”106.

          Cũng có những người tù cải tạo thương vợ thật lòng viết thư về nói: “Thôi, đời anh như vậy là hết rồi, em nên đi tìm hạnh phúc mới, coi có người bộ đội nào…”. Điều đó lại chạm vào tự ái của một số người quản giáo duyệt thư, nhiều anh đã kiêu hùng, mắng: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ gia đình, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các anh!”107. Có lẽ, nếu có ai mất vợ thì cũng chỉ vì thời thế. Vợ của nhà thơ Tạ Ký đã đi lấy chồng “Việt Cộng” khi ông còn bị giam ở trại T6, Long Khánh, cùng với nhà sử học Tạ Chí Đại Trường và họa sỹ Trịnh Cung.

          Trại T6 có một nhà xí hai ngăn nằm ngay rìa đường vào rẫy của dân, sát bờ rào dây kẽm gai. Thời gian đầu, thân nhân chưa được chính thức thăm nuôi, các trại viên T6 có sáng kiến dùng nhà xí để nhận tin gia đình và trò chuyện với người thân mà không bị quản giáo phát hiện. Các trại viên thường thay phiên nhau ra ngồi “trực” ở đó để chờ nhận tin nhắn, nhiều tù nhân đã gặp được người thân, những người cất công đi tìm chồng, tìm con, tìm cha, dù chỉ để nhìn thoáng thấy mặt nhau trong giây lát hay nói thật nhanh một câu báo tin nhà. Họ thường phải lên đấy trước, mượn quần áo làm đồng, cuốc xẻng của những nông dân sống gần trại để
          ngụy trang và nhờ chính những nông dân này che giấu, men theo hàng rào kẽm gai như những người dân đi làm ruộng tình cờ ngang qua hố xí. Cũng chính nơi đó, những người tù nôn nao ngồi chờ…

          Một ngày cận Tết năm 1976, đúng vào phiên “trực hố xí” của họa sỹ Trịnh Cung, ông nhận được tin nhắn: Tạ Ký gặp mẹ lúc 2 giờ trưa nay!”. Trịnh Cung vội báo tin cho Tạ Ký. Khi đó, theo ông Trịnh Cung: “Đó là một tin vui bất ngờ của Tạ Ký vì đã nửa năm chưa được thăm nuôi. Nhưng thông tin mà anh nhận được từ mẹ chỉ là: Vợ con nó lấy thằng Việt cộng rồi. Ở nhà có mẹ lo sắp nhỏ, con yên tâm. Khi được phép, mẹ sẽ đi thăm”108. Không riêng Tạ Ký, không ít sỹ quan “Ngụy” từ trại cải tạo, khi đột ngột trở về đã phải đột ngột bước ra khỏi nhà mình, vì “đứa con ngày chia tay còn thơ không còn nhận ra mình, trong khi trong nhà lại treo cái nón cối”109.


          “Học Tập”

          Đầu tháng 4-1865, khi viết thư đầu hàng gửi Đại tướng Tư lệnh Quân miền Bắc Ulysses S. Grant, Đại tướng Robert E. Lee đã xin cho những người lính của ông được mang lừa ngựa, mà họ đã đem từ nhà tham chiến, trở về quê cũ làm ăn. Còn Đại tướng Dương Văn Minh, cuối tháng 4-1975, đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Trong những động thái chính trị trước đó, không có dấu hiệu nào cho thấy Tướng Minh và “bộ tham mưu” của ông đã lo lắng cho số phận của hàng triệu binh sỹ miền Nam. Cũng thật khó để trách tướng Minh. Trước khi tuyên bố đầu hàng, ông đã không có cơ hội nào để thương lượng với những người chiến thắng. Nhưng sự khác nhau căn bản giữa hai cuộc chiến tranh nằm ở chỗ: ở Mỹ, năm 1865, những chiến binh miền Nam được các tướng thắng trận mô tả như “một đoàn quân tả tơi, nhưng hiên
          ngang”, còn ở Việt Nam, năm 1975, những người lính miền Nam Việt Nam bị những người Chiến thắng gọi là “tay sai”, là “dã thú”.

          Chưa bao giờ Chính quyền cho công bố chính xác số lượng người bị đưa đi cải tạo 110. Theo số liệu dẫn trong Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, tính tới tháng 9-1982 chỉ riêng ở Sài Gòn, Chính quyền đã tha về hơn ba vạn sỹ quan đã từng là tù cải tạo. Tháng 1-1988, hàng ngàn tù cải tạo đã được tha. Từ đó, gần như toàn bộ số tù cải tạo ở tất cả các trại giam, kể cả từ trại Nam Hà, khoảng 210 người, đều được đưa về trại Z30D. Họ gồm các sỹ quan cấp tướng, cấp tá, hoặc những người từng phục vụ trong các lực lượng như an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, tình báo. Nhiều người trong số họ đã phải ở tù tới đầu năm 1992111.

          Tướng Trần Văn Trà và ông Cao Đăng Chiếm, hai đại diện của quân đội và công an trong Ủy Ban Quân quản, đảm trách việc chuẩn bị “Chiến dịch X-1”. Tuy nhiên, theo ông Võ Văn Kiệt, Đảng ủy Quân quản và Trung ương Cục cũng đã bàn luận rất nhiều, không chỉ là tính những thủ thuật để hàng trăm nghìn sỹ quan quân đội miền Nam tự mang khăn gói vào tù, mà còn đề ra mục tiêu chính trị cho việc tập trung cải tạo. Chủ trương đưa những sỹ quan cao cấp, những người có “nợ máu” đi cải tạo lâu dài cũng không hẳn là để “trả thù” mà, theo ông Kiệt, còn “để họ thấy sai, thấy sự lầm lạc và hiểu cuộc chiến tranh của Cách mạng là chính nghĩa”112.

          Có thể đọc được suy nghĩ ấy của những người như ông Kiệt trong các bài xã luận đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngay trong những ngày “Chiến dịch X-1” đang diễn ra113. Ngày 11-6-1975, hạ sỹ quan, binh lính bắt đầu ngày “học tập” đầu tiên. Ngày 12-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng có bài “Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt nam”, xã luận: “Cách mạng thắng lợi, giải phóng đồng bào ta, đồng thời cũng giải phóng luôn cả người lính nguỵ. Cuộc đời làm lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ đã chấm dứt. Họ khỏi phải chết. Họ thoát khỏi kiếp sống cực nhục trong đội quân chống lại tổ quốc. Đó là hành vi nhân đạo đầu tiên rất căn bản của cách mạng đối với họ. Giờ đây, dù họ có bị bắt giam hay không, họ vẫn là những tù, hàng binh trong tay các lực lượng vũ trang giải phóng… Tuy nhiên, nếu chúng không chống cự thì ta cũng không giết chúng. Chúng cũng là con người Việt Nam. Đế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính”114.

          Ngày 15-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng xã luận tiếp: “Hòa hợp là một chính sách lớn của cách mạng. Muốn hoà hợp dân tộc thì điều cơ bản và đầu tiên là phải làm sao cho mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc có một lập trường thống nhất làm cơ sở. Giặc Mỹ và bọn tay sai bán nước dã dùng một chính sách chia rẽ tệ hại nhất. Chúng gây thù hằn giữa các thành viên của dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa các địa phương. Chúng cố tình chia cắt nước ta… Nguy hiểm hơn cả là chúng đã dùng mọi thủ đoạn để nhồi nhét vào đầu óc của một số người chủ nghĩa chống cộng điên cuồng để làm bình phong che dấu mục đích xâm lược. Bởi vì chúng biết rằng những người cộng sản là những người yêu nước nhứt, là những người chống đế
          quốc quyết liệt nhứt… Làm sao có thể hoà hợp giữa những người yêu nước với những người chống lại tổ quốc, dù dưới bất cứ hình thức nào và nhãn hiệu nào? Súng đã nộp mà tư tưởng chống cách mạng vẫn còn thì hoà hợp làm sao được?... Vì vậy, hoà hợp dân tộc là trước hết, họ phải gột sạch những nọc độc tư tưởng giặc Mỹ đã gieo rắc, từng bước tiếp thu ánh sáng chính nghĩa của dân tộc. Đợt học tập tổ chức cho binh sỹ nguỵ quân, nguỵ quyền hiện nay đã mở ra cho họ một cơ hội tốt để làm việc đó. Qua học tập, họ phải thấy cho rõ âm mưu và tội ác của giặc Mỹ và tay sai, phải nhận ra chính sách khoan hồng đầy nhân nghĩa của cách mạng, phải thấy hết lỗi lầm của mình đối với dân tộc và con đường tất yếu họ phải đi từ đây để làm lại cuộc đời, trở thành người công dân Việt Nam chân chính. Đó là con đường duy nhất đưa họ đi đến hoà hợp với đông đảo các tầng lớp nhân dân”115.

          Cho tới đầu thập niên 1990, quan điểm của Đảng về việc tập trung cải tạo vẫn còn khắc nghiệt. Thông báo ngày 20-2-1991 của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương “Về những luận điệu xuyên tạc của Bùi Tín trên đài BBC” viết: “Việc cải tạo những phần tử đã gây nhiều tội ác hoặc còn mang nặng tư tưởng chống cộng, thù địch quyết liệt với cách mạng thì hoàn toàn không phải là vi phạm nhân quyền, càng không phải là việc làm trái với chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc mà chính là việc làm cần thiết để bảo vệ cuộc sống hòa bình, yên vui của nhân dân, bảo vệ nhân quyền cho mọi người và để tăng cường hòa hợp dân tộc”.

          Đúng như ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, đòi hỏi những sỹ quan thua trận “tiếp thu ánh sáng chính nghĩa” từ những người đưa mình vào tù là một yêu cầu quá cao. Cán bộ quản giáo miền Bắc, những người trực tiếp giáo dục lại các “ngụy quân và ngụy quyền” là những người lớn lên trong một xã hội hoàn toàn khép kín. Những giai thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài Gòn giàu có, đã giữ tư thế cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa bằng cách khoe: “Ngoài đó, ti vi tủ lạnh chạy đầy đường”, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt thự, cao ốc, nhìn thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau vào, giật
          nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: “Bọn tư bản nó gài bẫy” cũng không hẳn là tiếu lâm chính trị. Hầu hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Đến khi vào tới Sài Gòn thì đến Đài Tiếng nói Việt Nam cũng ít có dịp được nghe, sách báo thì ngay cả Thép Đã Tôi Thế Đấy, Rừng Thẳm Tuyết Dày… cũng không đủ đọc. Họ được dạy rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc trong ngày 30-4-1975 còn ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những thanh niên lầm đường lạc lối. Không ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của miền Nam đã nhận ra sức hiểu biết của mình đang ở đâu. Cũng có những người vì mặc cảm đã dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung thành với những gì được dạy. Sự say sưa làm “thầy” của họ đã tạo ra không ít tình huống trớ trêu.

          Theo ông Nguyễn Văn Trân116, người được bổ sung vào Trung ương Cục đầu tháng 4-1975, chủ trương từ trước của Bộ Chính trị là: Số nguy hiểm thì đưa ra miền Bắc cải tạo, số không nguy hiểm thì để lại trong Nam. Bản thân những người trong cuộc cũng nhận thấy những người được cải tạo ở miền Nam thì cuộc sống có phần nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Những người “tù nặng, tù lâu” thì ra Bắc. Những năm đầu việc cải tạo do bộ đội quản lý, kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới 17-2-1979, tù cải tạo được chuyển dần sang các trại ở Nam Hà, Thanh Hóa.

          Không chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lý giải vì sao những người chiến thắng lại giam giữ những đối thủ đã đầu hàng mình lâu như vậy. Cho tới đầu thập niên 1990, những người lính biệt kích bị bắt hồi đầu thập niên 1960, những tù binh “Ngụy” bị bắt hồi Mậu Thân (1968), hồi Chiến dịch Hạ Lào 1971 vẫn còn phải đang “cải tạo”.

          Nhà thơ Tô Thùy Yên, sau mười năm ở tù về đã viết:

          Ta về cúi mái đầu sương điểm
          Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
          Cám ơn hoa đã vì ta nở
          Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
          Ta về như lá rơi về cội
          Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
          Chút rượu hồng đây xin ruới xuống
          Giải oan cho cuộc bể dâu này…


          Cải tạo không chỉ là câu chuyện của từng số phận mà còn là một phần trong “cuộc bể dâu” cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.

          Comment


          • #6
            Chú thích chương II

            41Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, ngay trong ngày 1-5-1975, Cách mạng đã biết trong kho có số vàng này, nhưng phải khi ôngđi học tập về thì mới chính thức bàn giao. Ông Huỳnh Bửu Sơn là một trong hai người nắm giữ chìa khóa kho vàng và trực tiếp giao vàng cho hai người, một người bộ đội tên là Duyệt, một người về sau làm giám đốc ngân hàng Cần Thơ. Kho dự trữ chứa 15,7 tấn vàng, gồm: vàng thoi FRD của Mỹ, vàng thoi Montagu của Nam Phi và vàng thoi Kim Thành, có nguồn gốc là vàng lậu do hải quan bắt tịch thu về đưa cho hãng Kim Thành đúc lại. Ngoài ra còn có các đồng tiền vàng của Mỹ, Double Eagle, mệnh giá 20 USD nhưng được làm từ một lượng vàng trị giá 420 USD; đồng Pesos của Mexico; đồng vàng
            Napoleon… Ngoài số vàng hiện vật, 15,7 tấn, Ngân hàng Quốc gia còn bàn giao 5,5 tấn vàng khác đang được giữ tại Thụy Sỹ (được lấy ra sau khi người Mỹ bỏ cấm vận).
            42Tên gọi thân mật của Lê Duẩn.
            43Tố Hữu.
            44Sài Gòn Giải Phóng, 2-7-1975.
            45Sài Gòn Giải Phóng, 6-5-1975.
            46Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 8-11-1975.
            47Sài Gòn Giải Phóng, 8-11-1975.
            48Gần như hầu hết nhân viên tình báo và sỹ quan cảnh sát đều bị kẹt lại. Theo ông Phan Ngọc Vượng, cán bộ làm việc trong Ban R, Nha Nghiên cứu, Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo: Ngày 21-4-1975, Phủ nhận được điện từ phía Mỹ cho biết, theo kế hoạch di tản của Kissinger, ngày 24, 25-4-1975, tất cả cán bộ tình báo và các sỹ quan cảnh sát sẽ được đưa đi. Bức điện
            được chuyển cho Chuẩn tướng Nguyễn Khắc Bình, tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm đặc ủy trưởng Đặc ủy Trung ương Tình báo. Ngày 22-4-1975, khi họp để bàn về vấn đề di tản, Tướng Bình tuyên bố: “Tình báo và cảnh sát phải ở lại đến phút cuối cùng chứ không thể di tản trong tình hình này”. Mọi người đều cho rằng đó là một quyết định cần thiết. Nhưng, ngày 23-4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam. Ngày 24-4-1975, Nguyễn Khắc Bình lặng lẽ di tản không một lời bàn giao cho thuộc cấp. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương bổ nghiệm ông Nguyễn Phát Lộc (đi cải tạo cho tới khi chết ở trại giam Nam Hà), phụ tá kế hoạch của ông Bình, làm đặc ủy trưởng. Ngày 26-4, ông Lộc cử ông giám đốc Trung tâm thẩm vấn quốc gia qua tòa Đại sứ Mỹ liên hệ việc thực hiện kế hoạch di tản. Ông giám đốc thay vì chuẩn bị kế hoạch cho các đồng sự đã tìm đường di tản với gia đình. Ngày 28-4, ông Lộc cử tiếp giám đốc nha tình báo quốc ngoại đi, ông giám đốc nha cũng âm thầm di tản nốt. Chiều ngày 28-4-1975, tòa Đại sứ Mỹ yêu cầu tất cả nhân viên Phủ Đặc ủy tập trung ở số 3 Bạch Đằng chờ. Đến chiều hôm sau, lại có yêu cầu chuyển sang số 2 Nguyễn Hậu. Tại đây, mọi người được yêu cầu phải nộp lại tất cả súng ống. Nhưng, tới 1 giờ sáng ngày 30-4-1975 thì tất cả liên lạc giữa Tòa Đại sứ và Phủ Đặc ủy đều bị cắt. Gần sáng, chuyến máy bay cuối cùng chở Đại sứ Mỹ rời khỏi Sài Gòn. Hầu như tất cả cán bộ của Phủ Đặc ủy tình báo, lực lượng được ưu tiên di tản khỏi Sài Gòn, đều bị kẹt lại.
            49Sài Gòn Giải Phóng, 14-6-1975.
            50Sài Gòn Giải Phóng, 14-6-1975.
            51Hiểu biết của chính quyền mới trước cách gọi các chức danh trong chế độ cũ đã gây ra không ít tình trạng trớ trêu. Sự suy diễn của những người chiến thắng trước những ngôn từ rổn rảng mà Chính quyền Sài Gòn thích dùng đã làm điêu đứng biết bao số phận. Chữ “chiêu hồi” bên cạnh chức năng “dân vận, thông tin” của cơ quan Thông tin Chiêu hồi đã khiến cho các
            quan chức thuộc loại “văn nghệ” này phải cải tạo lâu hơn những “ngụy quyền” đồng cấp. Số phận của nhiều “sỹ quan biệt phái” cũng khá là bi đát. Có người trong số họ do có tiền bạc hoặc ô dù, “chạy” được cái “biệt phái” từ một đơn vị tác chiến sang văn phòng. Có khoảng 15.000 người là giáo chức, viên chức y tế, sau Mậu Thân, sau “Mùa Hè Đỏ lửa 72”, bị động
            viên vào Trường Sỹ quan Thủ Đức, huấn luyện một thời gian, nhận “lon” như một thứ quân dự bị rồi về dạy học hay chữa bệnh. Khi bị tập trung cải tạo, tên gọi “sỹ quan biệt phái” đã làm cho họ bị nghi ngờ: Nếu không phải “CIA” thì chắc cũng thuộc thành phần ghê gớm lắm. Đặc biệt, các sỹ quan ở cơ quan “Chiến tranh Chính trị” vốn chỉ đi cùng các em văn công xuống đơn vị đàn hát, đã bị tưởng là các “chính trị viên”, nên nhiều người đã phải chịu hơn mười năm tù tội. Những người tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành chánh cũng suýt bị “mục xương” vì, theo Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu, mới đầu Cách mạng tưởng trường này cũng có vai trò như “Trường Đảng”.
            52Tạ Chí Đại Trường, 1993, trang 53-54.
            53Sđd, trang 54.
            54Sđd, trang 55.
            55Sài Gòn Giải Phóng, 19-8-1975.
            56Sài Gòn Giải Phóng, 15-5-1975.
            57Bức thư nói là của ông Trần Văn Tức viết: “Em mến... Anh lúc này mạnh khỏe lắm, ăn uống nhiều hơn ở nhà, mỗi ngày ba bữa ăn, học tập cải tạo vui vẻ lắm, nhất là học tập về lao động để quen với nếp sống đồng quê như làm rẫy cuốc giống, trồng tỉa chung với chúng bạn nên cảm thấy vui vẻ. Chiều ra xem mấy luống rau cải xanh um tươi tốt cũng như lúc ở nhà
            anh làm ruộng làm rẫy chiều chiều dẫn em và các con đi xem vậy. Sau ngày mãn khóa về chúng ta sẽ tìm lại nếp sống ruộng rẫy ở quê nhà... Ngày 29-7-75, Trần Văn Tức”.
            58Giải Phóng, 7-8-1975.
            59“Hỏi: Trên đường đi thăm anh, chị nghĩ thế nào về anh ấy? Đáp: Hồi trước anh ấy là “cây nhậu”, nên về nhà thường bỏ cơm, cho nên da vàng và thân hình ốm mảnh khảnh. Tôi nghĩ khi phải học tập lao động, sợ anh chịu không nổi. Hình ảnh lởn vởn trong đầu tôi là một anh L ốm o, gầy mòn thân hình tiều tụy, đuổi ruồi không bay. Hỏi: Khi đã gặp anh L chị thấy anh ấy như thế nào? Đáp: Anh L bây giờ da sạm nắng, thân hình rắn chắc hơn trước. Tôi thấy anh ấy mập gấp đôi trước kia cho nên nghi anh ấy bị bịnh phù thủng, tôi có thử bấm vào cánh tay, bắp đùi coi thử có thiệt không nhưng thấy các bắp thịt rất cứng do đó tôi mừng vô cùng. Hỏi: Khi đến trại chị gặp anh L đang làm gì? Đáp: Khi đến trại tôi gặp anh C tiểu đoàn trưởng đang ở trần chơi vô lây (bóng chuyền). Tôi đã òa lên khóc vì vừa mừng vừa tủi, đến 11 giờ anh L đi làm về gặp tôi. Anh L đã bỏ ăn trưa để được nói chuyện, hỏi thăm tin tức bà con ở Sài Gòn. Hỏi: Chị thấy anh em ăn uống như thế nào? Đáp: Tôi không dự buổi ăn tập thể, nhưng anh có đem cho tôi bắp nấu, cơm thịt chả bông cho tôi. Tôi hỏi có hụt phần ăn của anh không? Anh L cho biết, ở đây ăn uống rất đầy đủ, ở đây gần suối nên anh em câu được cả cá lóc nữa. Trưa tôi ở đó thì anh em câu được một con và quyết định nấu cháo vào buổi chiều. Hỏi: Chị thấy anh em cán bộ tập huấn như thế nào? Đáp: Các anh ấy rất tốt. tôi có mang theo mấy số Tin Sáng, các anh ấy và anh em học tập cùng chia nhau đọc. Mấy anh cán bộ cứ hỏi thăm tôi về Sài Gòn hoài. Trên nguyên tắc, mỗi người thăm chồng được hai giờ, nhưng thông cảm tôi từ Sài Gòn ra, hơn nữa vợ chồng lâu ngày mới gặp nên các anh cán bộ đã tế nhị sắp xếp cho vợ chồng tôi được gặp riêng và nhiều giờ hơn.
            60Trả lời phỏng vấn tác giả.
            61Trả lời phỏng vấn tác giả.
            62Ký giả Lô Răng.
            63Nhà văn, nổi tiếng với tác phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa, viết về Chiến dịch Quảng Trị 1972.
            64Sau Hiệp định Paris năm 1973, Đại úy Phan Nhật Nam là trưởng Ban Hoạt vụ của Ban Trao trả Tù binh thuộc phía Việt Nam Cộng hòa trong Ủy ban liên hiệp bốn bên thi hành Hiệp định Paris. Ông Nam kể: “Hàng tuần, vào ngày thứ Sáu, tôi lại bay ra Hà Nội để nhận tù binh. Thứ Sáu, ngày 4-3-1973, khi tôi ra Hà Nội, Thiếu tá Bùi Tín, lúc ấy là sỹ quan báo chí của Tướng Lê Quang Hòa, gặp và vận động tôi ở lại miền Bắc. Tôi nhận lời. Ông Phạm Văn Đồng viết tư văn gửi xuống Hải Phòng mời ba tôi lên. Bùi Tín cho tổ chức một cuộc họp báo tại sân bay Gia Lâm. Khi mọi người đã an tọa, ước có khoảng hơn hai mươi nhà báo trong đó có các nhà báo Đông Âu và có cả một nhà báo Pháp. Tôi mở cặp, lấy cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa và một tập nhạc, rồi nói: Tôi sinh ra ở Huế, nơi năm Mậu Thân, các ông cộng sản đã thảm sát hơn 3.000 người. Còn đây là cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa, viết về Quảng Trị, nơi, vào ngày 29-4-1972, tôi đã chụp những hình ảnh chết chóc trên Đại lộ Kinh hoàng. Đây là mười hai nhạc sỹ du ca, không có ai trong họ ca ngợi chiến tranh. Chúng tôi không gây chiến tranh… Tới đó, ông Bùi Tín bảo tôi: Thôi Nam, về”. Về Sài Gòn, theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Tôi viết cuốn Tù binh và Hòa bình, xuất bản năm 1974 bởi nhà xuất bản Hiện Đại, tại trang 174, tôi cho rằng: Rồi đây, chúng ta sẽ là tù binh trong một nền hòa bình ngụy danh. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sẽ lần lượt đóng hết vai trò đoản kỳ của nó. Và trận cuối cùng vẫn là giữa chúng ta với những sư đoàn chính quy chủ lực Bắc Việt qua tấm đệm ba mầu, lá cờ Mặt trận - thứ phế phẩm sẽ nhanh chóng bị vất bỏ khi trận chiến tàn cuộc”.
            65Ông Phan Nhật Nam phủ nhận các nguồn tin nói rằng ông cự tuyệt gặp người cha cộng sản.
            66Ủy viên Trung ương khóa IV, VI.
            67Biên bản giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975.
            68Một nhà báo quê Hải Phòng, chủ nhiệm báo Sống tại Sài Gòn trong thập niên 1960, sinh năm 1917. Ngày 30-4-1975 ông bị chết bởi một trái đạn B40 ở cửa biển Cần Giờ khi đang rời Việt Nam trên con tàu Việt Nam Thương Tín.
            69Biên bản giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975.
            70Lực lượng Dân quân Phục quốc do Thượng sỹ Nguyễn Việt Hưng thành lập vào tháng 8-1975. Một số linh mục di cư đã tham gia như linh mục Nguyễn Hữu Nghị, nhà thờ An Lạc, linh mục Nguyễn Quang Minh, nhà thờ Vinh Sơn. Lực lượng này còn thu nhận một số sỹ quan trốn học tập cải tạo khác như trung tá Phạm Văn Hậu, trung tá Trần Kim Định và một người mà Cách mạng gọi là CIA, ông Nguyễn Khác Chính. Ông Nguyễn Việt Hưng tự phong cho mình quân hàm “thiếu tướng”, giữ chức “Tư lệnh quân đoàn biệt chính và biệt khu thủ đô”.
            71Theo Dương Đức Dũng, bài hát do Hùng Cường sáng tác.
            72Hồ Con Rùa là một trong những vị trí được xây dựng sớm nhất ở Sài Gòn. Vào năm 1878, người Pháp xây ở đây một tháp nước. Đến năm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu cung cấp nước nữa và con đường, chạy từ sau lưng nhà thờ Đức Bà, được mở rộng và nối dài đến đường Mayer (về sau đổi Hiền Vương, nay là Võ Thị Sáu) , từ đó
            vị trí này trở thành giao lộ với tên gọi là Công trường Maréchal Joffre. Người Pháp đã từng cho xây ở đây tượng đài ba binh sĩ Pháp bằng đồng với một hồ nước nhỏ, biểu tượng của việc người Pháp làm chủ Đông Dương. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Từ 1970 đến 1974,
            Hồ Con Rùa thực sự được trùng tu và chỉnh trang, được dựng thêm và điều chỉnh năm cột bê tông cao có dạng năm bàn tay xòe ra đón đỡ giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa, mang tên Công trường Quốc Tế.
            73Sài Gòn Giải Phóng, 3-4-1976.
            74Giải Phóng, 3-4-1976.
            75Huỳnh Bá Thành, 1983, trang 106.
            76Sđd, trang 106.
            77Sđd, trang 3.
            78Huỳnh Bá Thành, 1983, trang 106-107.
            79Lỗ Hung khai: “Lầu Phá Xấu và tôi đã đột nhập vào thành phố bằng các ngả đường do chúng tôi điều nghiên trước, và có chở theo 10 kí chất nổ TNT lấy từ Bàu Hàm, Đồng Nai. Lúc đến thành phố, Lầu Phá Xấu đưa cho tôi một số tiền khá lớn để thực hiện việc đặt chất nổ, đồng thời hắn bảo tôi đến nhà thờ Đức Bà để gặp một thanh niên mặc áo bộ đội ngồi ngay dưới chân tượng Đức Mẹ. Lầu Phá Xấu giới thiệu Rănggô - tên kẻ bụi đời cho tôi… Tôi chỉ cách cho hắn đem cái hộp để dưới bụng con rùa đồng và chỉ cách rút tờ giấy mười đồng ra khỏi cái hộp. Tôi cũng giao ước một cách chắc chắn rằng khi hắn đem tờ giấy 10 đồng ấy lại đưa cho tôi thì tôi sẽ thưởng cho hắn 2.000 đồng. Rănggo nghe đến tiền thì mắt sáng lên, hắn vui vẻ nhận lời không một chút đắn đo… Lúc nhắc điều ấy tôi biết rất chắc hắn sẽ chết không toàn thây vì tờ giấy 10 đồng chỉ là một vật cách điện mong manh, rút nó đi, chiếc hộp đựng đầy TNT sẽ phát nổ tức khắc!”. Theo Huỳnh Bá Thành: “Cấu tạo kíp nổ để giết luôn kẻ đặt chất nổ là phương pháp bịt đầu mối dã man mà bọn chuyên trách vũ trang phá hoại của CIA và bọn biệt kích Mỹ thường sử dụng” (Huỳnh Bá Thành, Sđd, trang 108).
            80Người mà trong cuốn sách Huỳnh Bá Thành gọi là Lê Dạ và Tú Dung.
            81Người trong cuốn sách của Huỳnh Bá Thành được đổi thành Hoàng Hà Đặng.
            82Đặng Hoàng Hà bị bắt, sau khi ra tù thì vượt biên. Tuy nhiên, trong “Vụ Án Hồ Con Rùa”, nhân vật Hoàng Hà Đặng không phải bị bắt mà chạy thoát vào rừng. Đây là một vụ án có nhiều nghi vấn, nếu Đặng Hoàng Hà là thủ phạm của vụ nổ thì Chính quyền hoàn toàn có thể ngăn chặn vì “Ba Sơn”, một người do công an cài vào, biết trước từng đường đi nước bước của “tổ chức” này.
            83Duyên Anh, 1987, trang 48.
            84Sđd, trang 49.
            85Duyên Anh, 1987, trang 18-19.
            86Trà Mi, đặc tình trong “Vụ án Hồ Con Rùa”, nói: “Anh biết tại sao bọn phá hoại đặt chất nổ tại hồ Con Rùa không? Theo Đặng, lúc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên nắm chính quyền, Thiệu đã cho một cố vấn chính trị qua Đài Loan mời một thầy địa lý về giúp Thiệu coi hướng để xây Dinh Độc Lập. Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã giới thiệu một thầy địa lý nổi tiếng có một không hai trên thế giới. Thầy địa lý đó đã qua Sài Gòn ở trên sáu tháng. Trong thời gian ấy, Giáo sư Chung Chen Kim - tên thầy địa lý - đi xem xét vùng đất ngay Dinh Độc Lập và xung quanh Dinh Độc Lập, đã phát hiện một ‘long mạch’ rất tốt dưới mặt đất. ‘Long mạch’ đó có cái đầu ‘long’ nằm ngay phần đất Dinh Độc Lập và có cái đuôi “long” ở công trường chiến sĩ… thầy địa lý Đài Loan bày Thiệu xây một cái dinh đồ sộ ở đầu rồng. Để cho Phủ Đầu rồng tức Dinh Độc Lập được yên ổn, tổng thống Thiệu cai trị được muôn năm, đồng thời phải xây một cái hồ ở đuôi rồng và ếm một con rùa để cho đuôi rồng khỏi quật lật, vùng vẫy. Nếu đuôi rồng vùng vẫy thì đầu rồng lắc lư dễ sụp đổ ngai vàng. Thiệu tin, công trường Chiến sĩ được phá đi để xây Công trường Quốc tế tức hồ Con Rùa. Nhóm Hoàng Hà Đặng mê tín như Thiệu.
            Chúng tin rằng nếu đặt chất nổ làm bay con rùa đồng, không còn ếm được đuôi rồng nữa, ắt đuôi này sẽ quẫy và chế độ cộng sản phải sụp đổ! Chính lòng mê tín của Đặng và đồng bọn, em tin rằng kế hoạch phá hoại hồ Con Rùa có sự tham gia của Hoàng Hà Đặng và Hoàng Sơn Cước” (Huỳnh Bá Thành, 1983, trang 120-121).
            87Duyên Anh, 1987, trang (?).
            88Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, 1975-1995, cuốn I.
            89Trong chiến dịch từ 2-4-1976 đến 28-4-1976, giới nhà văn, nhà thơ bị bắt gồm: Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Thế Viên, Thái Thủy, Mặc Thu, Vũ Hoàng Chương, Duyên Anh, (ngoài ra còn có: Nguyễn Sĩ Tế bị bắt trước chiến dịch vì bị “tình nghi trong tổ chức phản động”; Hồ Hữu Tường bị bắt năm 1977;
            Hoàng Hải Thủy bị bắt năm 1977, can tội gởi bài vở ra nước ngoài; Nguyễn Đình Toàn bị bắt năm 1977, can tội âm mưu vượt biên; Nguyễn Thụy Long bị bắt năm 1977, can tội phản động; Nhà thơ duy nhất được đưa ra tòa kết án 18 năm khổ sai lao động là Tú Kếu “trong tổ chức chống phá cách mạng”); Nhà báo bị bắt gồm: Đằng Giao, Chu Thị Thủy và đứa con mới
            sinh được vài ngày, Hồng Dương, Thanh Thương Hoàng, Văn Kha, Hồ Nam, Đào Xuân Hiệp, Như Phong, Nguyễn Văn Minh, Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Xuyên Sơn, Cao Sơn, Đặng Hải Sơn, Đặng Hoàng Hà, Lê Vũ Bắc Tiến, Sao Biển, Nguyễn Văn Mau, Hồ Văn Đồng, Lê Hiền, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Tô Ngọc, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên, Vương Hữu Đức, Mai Thế Yên, Tô Kiều Phương, Mai Đức Khôi, Lê Trọng Khôi, (Ngoài ra còn Nguyễn Tú bị bắt từ đêm 30-4- 1975 và đã chết ở khám Chí Hòa vì bại liệt; Trần Việt Sơn cũng bị bắt trước chiến dịch 2-4-1976, được tha sau 3 năm tù đày và đã chết trong khoảng tháng 9-1983). Đạo diễn điện ảnh bị bắt gồm: Hoàng Vĩnh Lộc, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Đặng Minh Khánh; Soạn giả cải lương bị bắt gồm: Mộc Linh; Giám đốc các nhà phát hành bị bắt gồm: Nam Cường, Đồng Nai, Độc Lập, Khai Trí (Nhà sách Khai Trí); Họa sĩ bị bắt gồm: Nguyễn Hải Chí (Chóe); Dịch giả bị bắt gồm: Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Hữu Trọng.
            90Duyên Anh, 1987, trang 51-52.
            91Duyên Anh, Sđd, trang 51-52.
            92Trả lời phỏng vấn tác giả năm 1999.
            93Tháng 2-1976, ông Nguyễn Ngọc Bích được mời lên cơ quan công an. Cán bộ hỏi cung đặt vấn đề: “Tại sao 15-4 mới được nhận vào mà Tổng cục đã cho làm chuyên viên đặc nhiệm ngay?”. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích bị giam trong xà lim loại dành cho tử tù suốt một năm và khi bị hỏi cung: “Anh biết gì về kế hoạch hậu chiến; trong đó, anh được giao nhiệm vụ
            gì?”, ông đoán ra, “Cách mạng nghĩ ông là người do Mỹ cài lại”. Hai năm sau, khi đã được đưa ra phòng giam chung, khi “được” thẩm vấn, luật sư Nguyễn Ngọc Bích phân bua: “Lưng tôi bị gù thế này làm sao được tuyển làm tình báo!”. Khi ấy, những người hỏi cung dường như vô tình nói ra lý do khiến ông bị bắt: “Anh là người do Mỹ đào tạo, anh sẽ chống chúng tôi đến cùng”.
            94Theo nhà báo Đinh Quang Anh Thái, “Ba ngày ở phòng 2 khu A trước khi chuyển sang trại giam T30 Chí Hòa... về việc bác và tổ chức của bác Năm (tên thân mật của Hồ Hữu Tường) bị bắt, bác cho biết, ngay khi cộng sản chiếm miền Nam, bác đã in một tập tài liệu của Việt Nam Độc Lập -Thống Nhất-Trung Lập Đồng Minh Hội, rồi gởi trực tiếp bằng đường bưu điện cho tất cả giới lãnh đạo Đảng Cộng sản, từ Bộ Chính trị cho đến các trung ương ủy viên và tỉnh ủy các tỉnh. Trong tài liệu, bác nói rõ về nhu cầu bắt buộc Việt Nam phải trung lập trong bối cảnh tình hình của khu vực Á Châu. Bác khẳng quyết rằng, trung lập là giải pháp duy nhất cho Việt Nam, và bác là người đầu tiên của Việt Nam kiên trì đeo đuổi lập trường này. Nên, một mai khi tình thế bị o ép, cộng sản Hà Nội phải nhượng bộ để chấp nhận trung lập thì họ sẽ bắt buộc phải cậy nhờ đến bác...”.
            95Theo Giáo sư Hồ Huệ Tâm.
            96Đã đổi tên theo đề nghị của nhân chứng.
            97Những văn nghệ sỹ phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa đi trình diện học tập từ tháng 6-1975: Thanh Tâm Tuyền, Mai Trung Tĩnh, Dương Hùng Cường, Hà Thượng Nhân, Phan Lạc Phúc, Tô Thùy Yên, Văn Quang, Thảo Trường, Duy Lam, Phan Nhật Nam, Huy Vân, Đặng Trần Huân, Hoàng Ngọc Liên, Diên Nghị, Phan Lạc Giang Đông, Vũ Đức Nghiêm, Vũ Văn Sâm (Thục Vũ), Đỗ Tiến Đức, Minh Kỳ, Thế Uyên, Vũ Thành An, Dương Kiền, Đinh Tiến Luyện, Nhật Bằng; Những người chết trong trại cải tạo: Minh Kỳ, Thục Vũ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Tú, Huy Vân; Những người chết sau khi được tha: Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh, Trần Việt Sơn; Những người được tha rồi bị bắt lại: Hoàng Hải Thủy, Dương Hùng Cường, Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Đình Toàn; Những người mới bị bắt từ
            tháng 4-1984: Nguyễn Hoạt, Phạm Thiên Thư (danh sách của nhà văn Duyên Anh).
            98Duyên Anh, 1987, trang 47.
            99Duyên Anh, 1987, trang 417.
            100Một loại dược phẩm chế từ một thứ cây có tên gọi là xuyên tâm liên.
            101Duyên Anh, Sđd, trang 245-247.
            102Gồm hai mươi bảy tướng ra trình diện và Tướng Lý Tòng Bá bị bắt tại Củ Chi.
            103Phan Lạc Phúc, 2000, trang (?).
            104Bài giảng nhân tuần tĩnh tâm cho Giáo triều Roma, theo chỉ định của Đức Giáo Hoàng John Paul II, ngày 18-3-2000.
            105Ông Phan Lạc Phúc viết: “Anh em từ trong Nam ra cứ yên trí là “học tập một tháng”, nên quần áo mang đi theo làm gì nhiều cho nặng. Ra đây, đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh càng thêm thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ các thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo… Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay (1976). Đúng là ‘Giậu đổ bìm leo’, vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn…Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có quan hệ ‘hữu cơ’ với nhau. Càng đói thì càng rét-mà càng rét thì càng đói. Anh em đã có người ‘nằm xuống’ vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng sáng 17-11- 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay ngày 13 tháng
            giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Qúy Thuyết, Tòa án Quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của anh Ngô Qúy Thuyết, có nói rằng: ‘Anh Ngô Qúy Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo.
            Chắc là bị ngộ độc nên đã chết’… Trước khi đi cải tạo, tháng 6-1975, tôi cân nặng 64 ký. Một năm cải tạo trong Nam, qua trại Long Giao và Suối Máu, tôi còn 56 ký. Ra Bắc đến trại 1, liên trại 2 Sơn La này được hơn một năm, tôi còn 44 ký. Trước đây ở Sài Gòn, sáng nào tôi cũng phải tập thể dục để cho cái bụng bớt mỡ, nhỏ đi. Bây giờ ra Bắc lao động cải tạo, nhờ ơn Cách mạng bụng tôi không những nhỏ đi mà còn xẹp lép. Trước đây ăn uống sợ mỡ, sợ đường thì bây giờ sao mà thèm đường thèm mỡ đến thế. Thèm suốt ngày, suốt đêm, thèm cả vào trong giấc ngủ” (Bạn Bè Gần Xa, trang 60-67, Văn Nghệ California, US, 2000).
            106Tạ Chí Đại Trường, 1993, trang (?).
            107Sđd, trang (?).
            108Trịnh Cung, trả lời phỏng vấn tác giả.
            109Tạ Chí Đại Trường, 1993, trang (?).
            110Theo tài liệu lưu giữ tại Bảo tàng Việt Nam ở San Jose (California, Mỹ), tổng số quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa năm 1975 là 980.000 người, trong đó, hạ sỹ quan binh sỹ chiếm 890.000 người. Số sỹ quan bị giam giữ trong các trại cải tạo: cấp tướng, 32 người (ở thời điểm 30-4, có 112 tướng tại ngũ; 80 tướng đã rời Việt Nam vào cuối tháng Tư); cấp đại tá,
            366 người (trên tổng số 600 người tại ngũ); cấp trung tá, 1.700 người (trên tổng số 2.500 người); cấp thiếu tá, 5.500 người (trên tổng số 6.500 người); cấp úy, 72.000 người trên tổng số 80.000 người. Ngoài ra, theo số liệu đăng ký trên toàn miền Nam còn có khoảng 15.000 hạ sỹ quan an ninh, tình báo và nhân viên thuộc Bộ Nội vụ và Phủ Tổng thống; 1.200 viên chức
            và cán bộ “Phượng Hoàng”; 4.553 cán bộ Xây dựng Nông thôn; 19.613 cảnh sát viên; 2.700 cán bộ tâm lý chiến; 315 nghị sỹ, dân biểu; 4.451 đảng viên các đảng đối lập với Chính phủ Sài Gòn; 101 lãnh tụ chính trị và thành phần đối lập; 380 văn sỹ, ký giả (Trần Trung Quân, Việt Nam 20 Năm 1975-1995, Đông Tiến xuất bản).
            111Ngoài bốn vị tướng và đại tá được hưởng ân huệ cải tạo dưới ba năm như: Thiếu tướng Quân y Vũ Ngọc Hoàn; Chuẩn tướng Quân y Phạm Bá Thanh; Ðại tá Nguyễn văn Lộc, Tư lệnh Sư đoàn 106 Biệt Ðộng Quân vừa thành lập cuối tháng 4- 1975; Ðại tá Dương Thanh Sơn, em ruột Tổng thống Dương Văn Minh. Ðại tá Ðàm Trung Mộc, cựu viện trưởng Học viện Cảnh sát Quốc gia, mất tại trại Hà Tây vào ngày 14-11-1982. Có bốn vị bị cải tạo trên mười năm: Cựu Trung tướng Nguyễn Hữu Có; Cựu Ðề đốc Trần Văn Chơn; Cựu Thiếu tướng Nguyễn Chấn Á; Cựu Thiếu tướng Phan Ðình Thứ. Có ba mươi sáu vị bị cải tạo tập trung từ 12 đến 17 năm: Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị bắt khi Phan Rang thất thủ; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, bị bắt cùng Tướng Nghi; Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm; Chuẩn tướng Lê Trung Tường; Chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc; Thiếu tướng Lê Minh Ðảo; Chuẩn tướng Mạch Văn Trường; Thiếu tướng Lý Tòng Bá; Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh; Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai; Chuẩn tướng Phạm Duy Chất; Ðại tá Nguyễn Thành Trí; Ðại tá Lê Hữu Ðức; Chuẩn tướng Lê Văn Thân; Chuẩn tướng Lê Trung Trực; Ðại tá Nguyễn Xuân Hường; Ðại tá Nguyễn Đức Dung; Chuẩn tướng Trần Quang
            Khôi; Ðại tá Trần Ngọc Trúc; Thiếu tưóng Trần Bá Di; Chuần tướng Vũ Văn Giai; Chuẩn tướng Lê Văn Tư; Thiếu tướng Văn Thành Cao; Thiếu tướng Ðoàn Văn Quảng; Trung tá Bùi Thế Dung; Ðại tá Hải quân Nguyễn Văn May; Ðại tá Hải quân Nguyễn Bá Trang; Ðại tá Hải quân Nguyễn Văn Tấn; Thiếu tướng Cảnh sát Bùi Văn Nhu (chết tại trại Nam Hà); Cựu Thiếu tướng, Nghị Sĩ Huỳnh Văn Cao; Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu; Ðại tá Nguyễn Khắc Tuân (chết tại trại Nam Hà); Ðại tá Lại Ðức Chuẩn; Ðại tá Phạm Bá Hoa; Ðại tá Ngô Văn Minh; Ðại tá Vũ Ðức Nghiêm.
            112Trả lời phỏng vấn tác giả.
            113Trong năm 1975, báo Sài Gòn Giải Phỏng không chỉ đặt dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh mà còn đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Tác giả những bài xã luận viết trong giai đoạn này là ông Võ Nhân Lý, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng. Ông Lý lúc ấy còn là phó Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, cơ quan do ông Nguyễn
            Văn Linh làm trưởng ban. Những bài xã luận, theo ông Tô Hòa, phó Tổng Biên tập Sài Gòn Giải Phóng từ 5-1975, thường được ông Võ Nhân Lý viết sau khi dự giao ban trong Dinh Độc Lập và quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Cục.
            114Sài Gòn Giải Phóng, 12-6-1975.
            115Sài Gòn Giải Phóng, 15-6-1975.

            Comment


            • #7
              Bên nào thắng cuộc?
              Trần Văn Giang

              “Bên nào thắng cuộc?”
              Một cuộc chiến tranh, theo đúng nghĩa, chỉ được xem là thực sự chấm dứt, có bên thắng và bên thua khi một bên không còn đánh (fight) được nữa; hay ít ra những nỗ lực, những cố gắng tiếp tục đánh của một bên hoàn toàn không còn nữa (no longer exists).

              Trong cuộc chiến chống cộng ở Việt Nam, mặc dù về mặt quân sự tiếng súng đã im từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng các nỗ lực chiến đấu của người Quốc gia trên nhiều địa bàn phi quân sự khác như chính trị, ngoại giao, văn hóa , kinh tế… không (chưa) hề có một dấu hiệu nào để khả dĩ gọi là đã “ngừng” lại. Thực tế, sự chiến đấu phi quân sự liên tục này của phe Quốc gia mỗi lúc thấy càng mạnh mẽ, qui mô, công khai hơn là đàng khác.

              Tôi xin kể ra ở đây một vài thí dụ thắng-bại điển hình. Công luận thế giới đồng ý là năm 1945, đồng minh đã thắng Nhật và Đức quốc xã trong trận thế chiến thứ 2 bởi vì Nhật và Đức ngoài việc buông súng đầu hàng, đồng loạt ngừng tất cả những hình thức chống đối, bên thua cuộc, dân Nhật và dân Đức, còn sáng suốt, can đảm xin hợp tác và đón nhận sự giúp đỡ của bên thắng cuộc trong công cuộc canh tân đất nước họ từ đống tro tàn thành đại cường quốc. Kế đến, Bắc quân Mỹ thắng Nam quân trận nội chiến 1861-1865. Cuộc nội chiến đẫm máu đã làm cho hơn 750 ngàn lính của 2 phe bị chết, kết thúc bởi tướng Robert Lee của Nam quân chính thức đầu hàng tướng Ulysses Grant của Bắc quân vào ngày 9 tháng 4 năm 1865. Sự chiến thắng của Bắc quân trong cuộc nội chiến Nam-Bắc Mỹ này cũng cũng có thể so sánh với sự chiến thắng của quân đội đồng minh năm 1945. Bên thắng cuộc và bên thua cuộc đã được nhận diện rõ ràng. Sau các trận chiến, thế giới văn minh không hề có các đòn thù man rợ áp dụng cho bên thua cuộc.

              Trường hợp chiến tranh Quốc-Cộng ở Việt Nam thì hoàn toàn khác hẳn. Tiếng súng đã ngưng 37 năm, nhưng sự chiến đấu của phe VNCH vẫn mỗi ngày mỗi mạnh mẽ thêm làm cho phe cs mặc dù đã vội vàng tự nhận mình là “bên thắng cuộc” phải lo sốt vó… Một ngày rất gần, đám lãnh đạo csvn sẽ lại phải theo chân Thoát Hoan tìm ống đồng để chui; hoặc Gaddafi tìm một ống cống để kết thúc cuộc đời một cách nhục nhã…

              “Giải phóng cái gì?”

              Động từ “Giải phóng” theo tự điển tiếng Việt phổ thông có nghĩa là:
              1- Làm cho được tự do, cho thoát khỏi tình trạng bị nô dịch, chiếm đóng.
              Thí dụ: Giải phóng thủ đô. Đất nước được hoàn toàn giải phóng.
              2- Làm cho được tự do, cho thoát khỏi địa vị nô lệ hoặc tình trạng bị áp bức, kiềm chế, ràng buộc.

              Thí dụ: Giải phóng nô lệ.

              Từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, cs đã làm thay đổi ý nghĩa của hai chữ “giải phóng.” (và còn nhiều chữ khác mà cs gần như dành lấy làm của riêng như “nhân dân,” “tổ quốc.” “nhà nước, “ cán bộ,” “công an…”) Cs lạm dụng, “hấp diêm,” biến chữ “giải phóng” trở thành các nghịch lý trơ trẽn, hoàn toàn trống rỗng vô nghĩa. Thành ra khi nghe cs nói phải trái về vấn đề gì, chúng ta chỉ cần suy nghĩ ngược lại 180 độ là có phần đúng đến 99 phần trăm…

              Ngay trong lời giới thiệu của cuốn sách “Bên thắng cuộc,” ông Huy Đức đã viết:

              “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.”

              Như vậy 3 chữ “Bên thắng cuộc” đã có hàm ý một sự mâu thuẫn, một sự mỉa mai: nói vậy mà không phải như vậy đâu. Hãy mở mắt ra là vừa, nếu đã bị đóng kín từ trước tới giờ..

              Năm 1954, kết quả cs giải phóng miền Bắc là một triệu người miền Bắc phải di cư vào miền Nam để tránh nạn cộng sản. Năm 1975, kết quả giải phóng miền Nam là có gần 3 triệu người dân Việt phải bỏ nước đi tị nạn cộng sản ở các nước trên thế giới, bất kể là nước nào… Các cuộc bỏ phiếu bằng chân vĩ đại này đã là bằng chứng sống giải thích rất thỏa đáng chữ “giải phóng” lập lờ của cs.

              Cs chỉ dùng đúng nghĩa của chữ “giải phóng” khi cs đã tàn nhẫn “giải phóng” bao nhiêu sinh mạng đồng chủng chỉ vì họ không đồng ý hoặc ít ra không có ý kiến gì về cái thuyết khát máu cs.

              Nhìn lại lịch sử Việt Nam cận đại, trong công cuộc tàn hại vô bờ bến gọi là “giải phóng,” cs đã “cướp” đi những con người giỏi nhất, lương thiện nhất, dũng cảm nhất của đất nước. Công cuộc “giải phóng” của cs đã làm cho cả một dân tộc bị bại trận chứ không phải chỉ riêng dân miền Nam và vài ba triệu dân tị nạn cs.

              “Đánh Mỹ cứu nước nào?”

              Mỹ không hề chính thức công nhận là họ thua ở Việt Nam. Theo họ, trong bàn cờ lớn thế giới, Mỹ chỉ bỏ một cuộc chiến mà họ thấy không còn cần thiết nữa. Trên phương diện quân sự, bên thua trận phải lâm vào một hay cả 2 trường hợp sau: Một là quân đội phải tan rã; Hai là không còn đủ khả năng để tài trợ (funding) cho một lực lượng quân sự chống đối. Cả hai lý do này đều hoàn toàn không áp dụng được cho Hoa kỳ. Hoa kỳ vẫn có một lực lượng quân sự lớn mạnh nhất hoàn cầu và họ thừa khả năng viện trợ quân sự cho nhiều nước, nhiều mặt trận khác nhau cùng một lúc trên thế giới như Nam hàn, Ai cập, Iraq, Pakistan, Afghanistan…

              Nhìn lại “bên thắng cuộc” vi-xi hôm nay. Vi-xi mỗi ngày càng tỏ vẻ mà chẳng cần dấu diếm úp mở là cs muốn đến gần Mỹ hơn là Mỹ muốn đến gần vi-xi. Mặt khác, Mỹ lại càng làm tàng, cóc thèm đếm xỉa gì đến anh vi-xi trông rất xấu xí, buồn cười, đang “nhiệt liệt” tự sướng 24/7 cả ngày lẫn đêm. Đến giờ phút đang tụt hậu thê thảm hôm nay - đứng sau Singapore 97 năm - mà vẫn còn ráng ra rả “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng” thì người nước ngoài họ tưởng cs bị khùng.

              Nhìn lại lịch sử toàn cầu từ thế chiến thứ 2 đến nay xem Mỹ có chiếm lấy một tấc đất nào của các quốc gia trên thế giới mà họ đặt chân đến hay không mà cs bảo “nhân dân” phải hy sinh tận mạng chống giặc Mỹ cướp nước? Trong khi Trung công chưa kịp cướp thì csvn đã kính cẩn dâng đất, biển, đảo rồi còn lấy đâu ra mà cứu “lước”? Lê Duẩn đã từng công khai tuyên bố là “đánh Mỹ là đánh cho Liên sô và Trung quốc.” Còn việc “cứu nước” là chỉ một sự lừa phỉnh lấy thúng úp voi. Bây giờ không còn có Mỹ để đành vậy mà nước vẫn còn tệ hơn bao giờ hết… không cứu vãn được. Cứu làm sao được khi tập đoàn cs vẫn còn “cướp” chính quyền.

              Thật buồn, thật khó hiểu khi thấy cả môt dân tộc cứ tiếp tục oằn oại chấp nhận một chính sách cai trị cs man rợ, dốt nát, ngang ngược, lếu láo. Có lẽ theo chu kỳ tuần hoàn của trời đất, vận nước chắc đã đến lúc phải thật mạt rồi mới lại ngóc lên được.

              Tóm lại, bàn ra tán vào mãi về cuốn sách “Bên thắng cuộc” cũng chẳng tìm được ra cái giải rút gì. Sau bao năm “giải phóng,” “Bên thắng cuộc” với những chính sách từ “đổi mới” đến kinh tế thị trường định hướng XHCN…” vẫn chưa tạo được một tiến bộ, một xây dựng nào cho cuộc sống của người dân nghèo – cs không ngượng mồm gọi họ là “thành đồng cách mạng” - Những cái chúng ta nhìn thấy hôm nay chỉ là sự sa sút tột bực của giáo dục, văn hóa, xã hội, kinh tế… trong nước.

              Tôi đề nghị là tựa cuốn sách nên được đổi thành “Bên thua cuộc” để các cụ không thích nó có lỡ phải vất vào thùng rác thì cũng đỡ làm bẩn cái thùng rác. Tôi cũng không hoàn toàn đồng ý với cái nhận định về cs ở thời chiến tranh lạnh (Cold War): “Chỉ có những tên cs chết rồi mới là cộng sản tốt.” (“The only good communist is a DEAD communist.”) bởi vì nói như vậy thì phải xem các trùm cs khát máu đã chết rồi như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Hồ Chí Minh. Lê Duẩn.. là người tốt hay sao? Theo như ý tôi, câu nói này nên sửa lại cho thích hợp là: “Dù sống hay chết, những tên cộng sản đều thối hoắc như nhau.” (No matter alive or dead, all communists stink).

              Bây giờ, tôi xin mượn lời của một ông bạn thân của tôi để kết thúc bài này:

              “Một khi đã là vi-xi thì sẽ mãi mãi muôn đời sẽ là vi-xi. Chớ vội vàng mà tin bọn vi-xi này. Thấy quan tài rồi hãy đổ lệ cũng không bao giờ muộn.”

              Trần Văn Giang

              Comment


              • #8
                Còn tiếp không chị Poupi ?

                Comment


                • #9
                  Còn nhiều chương lắm, mà lúc này đang cày bừa , tối về là muốn lăn đùng ra khò luôn ah

                  Hôm nào chị post tiếp nhen,

                  Ráng kiên nhẫn tí nha hihi

                  Comment


                  • #10
                    Nguyên Văn Bài Viết Của Poupi View Post
                    Còn nhiều chương lắm, mà lúc này đang cày bừa , tối về là muốn lăn đùng ra khò luôn ah

                    Hôm nào chị post tiếp nhen,

                    Ráng kiên nhẫn tí nha hihi
                    Cày bừa chi cho mệt vậy poupi, đưa cái cày cho ông xã đi, ở nhà xài tiền chính phủ sướng hơn
                    "Life is like a river, let it flow.
                    Cuộc đời giống như một dòng sông. Cứ để nó trôi."

                    Comment


                    • #11
                      Chef nói vậy cũng khg được đâu

                      Làm cho đủ giờ, đủ ngày để về già hưởng hưu chứ hihih

                      Comment


                      • #12
                        Bên thắng cuộc

                        Phần I: Miền Nam

                        Chương 3

                        Đánh tư sản


                        Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.
                        “Chiến dịch X-2”
                        Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm
                        gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê…”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.
                        Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách “tư sản mại bản” bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu về “Chính sách hậu chiến” được viết năm 1974 của Chính quyền Sài Gòn, trong đó có phần ánh giá vai trò lũng đoạn thị trường của các “vua” người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của Chiến dịch X-2 lúc đầu được định là 5 giờ sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc trong “hợp đồng tác chiến”, tin tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ khuya ngày 9-9-1975. Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đã được điều động áp át các mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây áp lực về dư luận118.
                        Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”. Tài liệu đãdẫn viết tiếp: “Phản ứng của địch nói chung là yếu. Tư sản mại bản đối phó chủ yếu bằng cách phân tán tài sản cho bà con thân thuộc. Số đã bị bắt thì tuy hoangmang, sợ sệt nhưng lại tiếc của nên ngoan cố, không chịu khai ra của chìm, tiền bạc, hột xoàn”119.
                        Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.
                        Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9- 1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Trân, ủy viên thường vụ, cùng các lãnh đạo Quân quản nhưNguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm.

                        Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng so với số chúng đã có thì chưa bao nhiêu. Vì vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát hơn nữa trong nhà chúng để truy vàngbạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần chúng, người làm công ở mướn phát động họ để phát hiện nơi giấu cất”. Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăngquá cao, chính quyền đã “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường, nhất là thị trường bột ngọt121.
                        Đổi tiền

                        Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.

                        Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chínhphủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.

                        Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiềnhơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
                        Chập tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư lệnh thành huy động 17.921 bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất cả được đưa đến các quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao nhiệm vụ gì. Họ phải kê khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người và từ đó, “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2 giờ sáng ngày 22-9-1975, họ được triển khai xuống các “bàn đổi tiền”.
                        Theo kế hoạch, đúng 5 giờ sáng, mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất. Tuy nhiên, “do điều động một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài liệu xuống tận các ‘bàn’, nhân sự lại chỉ được tập huấn vội, trong khi lại phải kê khai và xét duyệt mất nhiều thời gian, nên công tác kê khai, đăng ký cho đến 11 giờ ngày 22-9-1975 vẫn chưa xong. Trước tình đó, Ban thu đổi Thành phố quyết định kéo dài thời gian đăng ký kê khai tới 21 giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận coi đây là khâu quan trọng nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền. Đến ngày 23-9-1975, các nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào nhưng do tình hình phức tạp, đồng bào vẫn kéo tới đăng ký kê khai với nhiều lý do: hai ba hộ, trong một nhà [hộ ghép] chỉ mới hưởng được tiêu chuẩn của một hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên đổi tiền làm không kịp… Trong tình hình đó, Ban thu đổi tiền phát hiện được âm mưu phân tán tiền của tư sản nên quyết định chấm dứt việc đăng ký kê khai tại bàn”124.
                        Có những sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông báo đổi tiền mới giật mình vì không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm ngày sau, Chính phủ đã phải lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có sỹ quan từ trại cải tạo đã được đưa về tận nhà để chỉ cho gia đình nơi giấu tiền.
                        Quyết định đổi tiền được báo Sài Gòn Giải Phóng coi là để kết thúc “30 nămsống dơ và chết nhục của đồng bạc Sà i Gò n”125. Đồng tiền Sài Gòn bắt đầu được phát hành ngà y 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho nhiều tội lỗi126. Ba ngà y sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài Gòn viết: “Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhận dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang”127.
                        Không biết “tủi nhục” đã mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.
                        Kể từ sáng 23-9-1975, những ai còn đồng bạc của chính quyền Sài Gòn cũ mà chưa đăng ký thì coi như hết giá trị. Sáng sớm ngày 23-9-1975, ông Phạm Văn Tư chở vợ, bà Võ Thị Mai, từ thị trấn Sông Mao, Hải Ninh, Bình Thuận vô Phan Thiết sinh. Vừa rạng sáng thì xe ông bị chặn lại. Du kích cho biết là có lệnh không cho bất cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi thấy một bà bầu đang ôm bụng, họ hội ý rồi cho đi.
                        Đưa vợ vào nhà bảo sanh xong, để cô con gái Phạm Thị Mai Hoa128, năm ấy lên tám tuổi ở lại, ông Tư nhanh chóng quay về nhà.Do thường xuyên cần tiền cho trại cưa hoạt động nên khi ấy nhà ông có tới ba bao tải tiền mặt trị giá gần 7.000 lượng vàng. Đến nhà, ông Tư phân tán tiền định nhờ bà con mỗi người đổi giùm một ít nhưng kế hoạch bị bại lộ. Du kích bao vây nhà ông, bắc loa tuyên bố: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Hôm sau, những bao tiền đó bị ném tung ra, bay trắng cả vườn.
                        Ông Phạm Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị trấn Sông Mao, nên khi ở Sài Gòn, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương bắt đầu quản lý trại cưa của ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Ký, mua lại trại cưa này năm 1964, khi “Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu rừng, dân kinh doanh liên quan đến gỗ phải đi dây để không làm mất lòng hai phía. Chiến tranh càng lan rộng, thị trấn Sông Mao trở nên nhộn nhịp khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, công việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.
                        Vào những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Ký ,người đã chạy khỏi Trung Quốc năm 1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ gì từ bỏ một sản nghiệp đã gây dựng cả cuộc đời, không dễ gì ra đi không biết nơi đến thế nào vớibảy người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt Cộng mà ông Tư gặp trong rừng cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn pin, đá lửa, thuốc ký ninh, họ đã trấn an ông rằng ông vẫn được tiếp tục làm ăn như cũ. Khi những người có máu mặt trong vùng lặng lẽ tới Phan Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn ở lại. Ngày 10-9-1975, Chính quyền ập vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, vòng bi trong nhà ông và tuyên bố quản lý xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ý thức được là tài sản của ông đang bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang xuống xưởng một ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người thợ chặn lại: “Trại cưa này không còn là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông không được đến đây nữa”129. Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông từ từ méo đi. Hơn mười ngày sau thì xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như phát điên. Cô em vợ nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài bìa ruộng, nhìn thấy anh rể mình cứ cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết một mình lặng lẽ khóc.

                        Ở Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tri Phương Trần Kiêm Đoàn130 được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn trường Đồng Khánh, dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội. Trước khi đi, Thành đoàn ra lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày, sẵn sàng chiến đấu”.

                        Ông Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài Gòn nổi dậy? Tới 3 giờ sáng thì mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi còn trẻ, hào hứng với những cái mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị bằng 500 đồng tiền cũ cũng có cái gì đó tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành nhiệm vụ”. Nhưng, tới trưa, theo ông Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu gào thất vọng. Ba giờ chiều, tôi tranh thủ về nhà, thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước mắt lưngtròng: Anh! Mình trắng tay rồi!”. Mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa 100 nghìn tiền Sài Gòn trong khi tiền mặt trong nhà vẫn còn tới gần mười triệu. Không chỉ nhà ông Đoàn, nhiều gia đình buôn bán ở cửa Đông Ba, hàng xóm của ông, cũng đang kêu khóc.
                        Những người càng tin tưởng vào chế độ mới càng mất mát lớn hơn, vì khi chiến tranh kết thúc, họ đã đào vàng lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông Đoàn kể: “Tôi trở về Đại Nội. Một vị chỉ huy lực lượng đổi tiền biết chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi bao nhiêu cũng được nhưng phải chia 5:5. Về xóm coi có ai thì kêu họ đổi luôn’. Tôi về lấy tiền và móc nối với mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng được thật”.

                        Gần một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đã ký Nghị định “Đình chỉ vĩnh viễn 16ngân hàng tư nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng thông báo việc “rút tiền tiết kiệm”, theo đó, “những người có trương mục dưới một triệu có thể rút dần tiền về, số trung bình mỗi nhân khẩu có thể rút là 10 nghìn đồng/tháng”, còn những trương mục trên hai triệu “sẽ được ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”.

                        Trên thực tế, không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9- 1975.
                        Cũng trong ngày 3-9-1975, Ngân hàng Quốc gia tuyên bố “Công khố phiếu không còn giá trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đã mang tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lý tài sản của toàn dân, không lý gì và không có quyền lấy tiền nhân dân trả nợ thế cho Nguyễn Văn Thiệu”131.
                        Người dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ lấy kìm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ailường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như… đổi tiền. Nếu như “đánh tư sản mại bản” chỉ liên quan đến mấy trăm gia đình, thì đổi tiền và chính sách mới về số tiền gửi cũ trong các ngân hàng liên quan đến mọi người. Tiền bạc cũng giúp những người như ông Đoàn hiểu thêm về con người trong chế độ mới.

                        “Gian thương”

                        Tháng 8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột ngọt, tăng vọt. Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối các phương tiện truyền thông, đã cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư bản”. Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt đã làm cho đồng bào nhận rõ bọn trùm gian thương đầu cơ tích trữ”.
                        Không chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng 6-1975, một ký muối bột giá bảy mươi đồng, đến tháng 8-1975, giá đã lên tới 300 đồng một ký; một viên đá lửa đỏ, giá tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau đã lên đến sáu mươi đồng; giá một chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100 đồng; một bộ vỏ, ruột xe Hondatăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày 30-4-1975, một ký bột ngọt giá chỉ 3.000- 3.500 đồng, đến tháng 8-1975 đã tăng lên 17.000-18.000 đồng.

                        Ngay trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đã có bài “điều tra”, khẳng định: Nói bột ngọt khan hiếm là vì “đã đưa hết ra Bắc” là một “luận điệu tuyên truyền ác ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận: “Bọn gian thương chứ không ai hết. Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao động như thế quen rồi”. Cũng theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn trong bài báo này thì, “tội ác của bọn chúng, phải tử hình mới thoả mãn ý chí của nhân dân”. Ở các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng có tới “hơn năm mươi tay gộc tư sản mại bản đã bị bắt giữ”.
                        Tài liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam, đăng trên các báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại bản132. Để phân biệt tư sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam Lộc, ủy viên Tuyên-Văn- Giáo của Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở đây ta không đi sâu vào giải thích danh từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc đại để là những người bỏ vốn ra kinh doanh vừa có lợi cho họ vừa có lợi cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực kinh tế chính trị của ngoại bang hay tay sai của ngoại bang”133.
                        Khi bị Tòa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư sản mại bản”, trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đã bị xử “hai mươi năm tù, tịch thu toàn bộ tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn kết luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy] gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao Ngụy thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho chiến tranh Việt Nam Hóa của Mỹ đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu tư khai thác mỏ dầu ở thêm lục địa Việt Nam. Quy đã suy nghĩ và hành động như một tên xâm lược Mỹ với ý thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền Nam để duy trì chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đã không mơ hồ về mưu đồ của đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của nhân dân ta. Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng làm đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc lột của y phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới”134.
                        Cũng với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư sản mại bản” Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm mưu xảo quyệt” của “đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy quyền”135. Tiến trình cơ giới hóa của nền nông nghiệp miền Nam được Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua viện trợ Mỹ về nông nghiệp, chúng tìm cách tạo ra cảnh phồn vinh giả tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ ra khỏi ảnh hưởng của Cách mạng”136. Phiên tòa diễn ra theo thủ tục đặc biệt. Cho dù, “với bản chất ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung tìm cách nói quanh co để che lấp phần nào tội trạng của y”137, nhưng mọi lập luận kể cả của bào chữa viên nhân dân đều bị “tòa bác bỏ”.
                        Những “tên tư sản mại bản” khác như Lý Sen, kinh doanh sắt thép, Trương Dĩ Nhiên, “nhập cảng và sản xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều lần lượtlãnh án tù. Người dân Sài Gòn khi ấy mới chỉ nghe qua Marx-Lenin, chưa được trang bị “trình độ lý luận” để hiểu về “tích lũy giá trị thặng dư thông qua bóc lột sức laođộng”, để hiểu vì sao một người mua bán máy nông cơ như Lưu Trung lại liên quan đến một âm mưu sâu xa “làm dư ra lực lượng lao động nông thôn để cho Chính quyền Sài Gòn bắt lính”.
                        Chính quyền Cách mạng đánh giá: “Nhìn chung, các tầng lớp quần chúng cơ bản, tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều phấn khởi và tán thành việc đánh tư sản mại bản vì ai cũng căm thù tầng lớp tư sản mại bản hại dân, hại nước”138.
                        Những đánh giá ấy không dựa trên bất cứ một kết quả thăm dò dư luận nào mà chủ yếu căn cứ vào những phát biểu của lãnh đạo Thành. Theo ông Mai Chí Thọ: “Trong giới nghèo lao động có dư luận bàn tán cộng sản lấy tiền nhà giàu cho nhà nghèo”139.
                        Trước Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu sỏ, đã mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và một tự sát” 140. Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trongđó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt”141.
                        Năm 1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày 10-9-1976, vợ chồng nhà tư sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt “trong lúc đang dồn tiền và của quý vào 8 va li để chạy trốn”. Sáng sớm hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt, “các lực lượng quân đôị , an ninh võ trang đã bắ t giữ nhiều tên tư sả n maị bản lũng đoaṇ, đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường” như Lý Hơn, Lâm Huê Hồ , Dương Hả i, Trang Triṇ h Nguyên, Mã Tuyên, Trầ n Thanh Hà , Trầ n Liêṭ Hồ ng, Lý Hấ n. Ngay sau khi bắt giữ các nhà tư sản, chính quyền lập tức trấn áp trên diện rộng về mặt dư luận.

                        Sá ng 11-9-1976, hà ng ngà n ngườ i Hoa taị Chợ Lớ n đã được chính quyền huy động cho một cuộc biểu tình được báo chí mô tả là “sôi sục căm phẫn tố cáo tội ác của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ bài trừ tận gốc”. Tối cùng ngày, gầm ba mươi cuộc mít tinh đã được tổ chức ở nhiều nơi trong thành phố.
                        Sài Gòn lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí thế cách mạng”.
                        Chính một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại bản Hoakiề u cà ng già u bao nhiêu thı̀ chúng tôi cà ng cơ cực bấ y nhiêu. Phả i trừ hế t boṇ nà y, ngườ i Hoa mớ i có thể số ng yên ổ n và haṇ h phúc”. Họ đòi “chá nh quyề n cá ch maṇ g nghiêm khắ c trừ ng tri ̣boṇ tư sả n maị bả n luñ g đoaṇ , đầ u cơ tıć h trữ , phá rố i thi ̣trườ ng, là m già u trên xương má u nhân dân”142. Những hoạt động quần chúng này, không chỉ lý giải cho các hành vi bắt bớ mà còn chuẩn bị dư luận cho một chính sách mới sắp sửa ban hành.
                        “Thể hiện ý chí, tình cảm và nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta”, trong kỳ họp thứ nhất khóa VI, “trên cơ cở hoàn toàn toàn thành bản báo cáo chính trị của đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”, Quốc hội chung cả nước đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Hoà n thà nh thố ng nhấ t nướ c nhà , đưa cả nướ c tiế n nhanh, tiế n maṇ h, tiế n vữ ng chắ c lên chủ nghıã xã hôị . Miề n Bắ c phả i tiế p tuc̣ đẩ y maṇ h sự nghiêp̣ xây dựng chủ nghıã xã hôị và hoà n thiêṇ quan hệ sả n xuấ t xã hôị chủ nghıã ; miề n Nam đồ ng thờ i tiế n hà nh cả i taọ xã hôị chủ nghıã và xây dựng chủ nghıã xã hôị ”143.
                        Ngà y 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã ký “Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp tư bả n tư doanh ở miề n Nam”. Theo tuyên bố này: “Chıń h phủ chủ trương xây dựng nề n kinh tế xã hôị chủ nghıã trong cả nướ c ta và tổ chứ c cho nề n kinh tế ấ y thố ng nhấ t trong cả nướ c; xó a bỏ dầ n dầ n nhữ ng sự khá c biêṭ của mỗi miề n: taọ ra nhữ ng cơ sở kinh tế cơ bả n cho nề n kinh tế đôc̣ lâp̣ , không bi ̣phụ thuôc̣ và o nướ c ngoà i; tổ chứ c laị lao đôṇ g và taọ ra môṭ sự phân phố i mớ i công bằ ng, bả o đả m đờ isố ng nhân dân, nhấ t là nhân dân lao đôṇ g; xó a bỏ moị bấ t công trong xã hôị và lố i là m ăn gian dố i, phi phá p”.
                        Cho dù đòi “xó a bỏ tư sả n maị bả n và nhữ ng tà n dư bó c lôṭ phong kiế n” ở miền Nam, trong giai đoạn này, chính quyền vẫn chủ trương “sử dụng những nhà tư sản có vố n liế ng, có kỹ thuâṭ , nhữ ng ngườ i là m ăn riêng lẻ , cả nhữ ng ngườ i buôn bá nnhỏ ”. Thời gian đầu, các nhà tư sản nhỏ vẫn có thể tự mình kinh doanh trong một số ngành nghề nhất định nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của mình thành công tư hợp doanh144. Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các ngành nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh”145 rất hạn chế.
                        Theo bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ đều phải“do nhà nướ c và cá c tổ chứ c quầ n chúng chiụ trá ch nhiêṃ”. Nhà nước bắt đầu độc quyền “nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong nướ c và hầ u hế t hà ng hó a thiế t yế u”. Nhà nướ c sẽ “nắ m hầ u hế t xuấ t nhâp̣ khẩ u và cả bá n buôn trong nướ c”. Nhữ ng tư nhân là m thương nghiêp̣ “sẽ được choṇ loc̣ và sử duṇ g môṭ phầ n là m đaị lý cho mâụ dic̣ h quố c doanh; cò n nhữ ng ngườ i khá c, nhà nướ c sẽ giúp đỡ chuyể n sang sả n xuấ t”. Bản tuyên bố viết: “Dướ i chế độ ta, thà nh phầ n kinh tế quố c doanh giữ điạ vi ̣lãnh đaọ . Đố i vớ i công thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, kinh tế quố c doanh có trá ch nhiêṃ hướ ng dẫn, giúp đỡ … đi dầ n từ ng bướ c lên chủ nghıã xã hôị thông qua con đườ ng cả i taọ ”.
                        Bản tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang của Tổ quố c, cá c nhà tư bả n tư doanh hãy nhâṇ rõ nhiêṃvụ lic̣ h sử lúc nà y, nhâṇ rõ con đườ ng phá t triể n tấ t yế u của dân tôc̣ ta, nhâṇ rõ tiề n đề xá n laṇ của Tổ quố c Viêṭ Nam, mà tiế p thu tố t sự cả i taọ xã hôị chủ nghıã ”. Đồng thời tuyên bố khuyến cáo: “Cùng vớ i nhân dân lao đôṇ g đi lên theo con đườ ng ấ y, cá c nhà tư bả n sẽ có cơ hôị tự cả i taọ mıǹ h trở thà nh ngườ i đứ ng trong hà ng ngũ đaị gia đıǹ h dân tôc̣ Viêṭ Nam. Đó là con đườ ng mở ra môṭ tương lai tố t đep cho bả n thân mıǹ h và cho con cháu”.
                        Mãi tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã mang tên Hội trườngThố ng Nhấ t, Chính quyền mới tổ chức Hôị nghi ̣Liên tic̣ h Ủ y ban Măṭ trâṇ và cá c đoà n thể cấ p trung ương và thà nh phố để phổ biế n bả n tuyên bố ngày 25-9-1976. Không phải là những người cộng sản từ Hà Nội vào, đoàn chủ tịch hội nghị gồm: Luâṭ sư Nguyễn Hữ u Tho, khi ấy là phó chủ tic̣ h nướ c kiêm chủ tic̣ h Ủ y ban Trung ương Măṭ trâṇ Dân tôc̣ Giả i phó ng Miề n Nam Viêṭ Nam; Hoà ng Quố c Viêṭ , chủ tic̣ h Tổ ng Công đoà n Viêṭ Nam; Luâṭ sư Triṇ h Đıǹ h Thả o, chủ tic̣ h Ủ y ban Trung ương Liên minh cá c Lực lượng Dân tôc̣ , Dân chủ và Hò a bıǹ h Viêṭ Nam; Hò a thượng Thıć h Minh Nguyêṭ … Trưở ng ban Cả i taọ Công thương nghiêp̣ tư doanh Trung ương, ông Nguyễn Văn Trân, bı́ thư Trung ương Đả ng, người được bổ sung vào Trung ương Cục trước khi Sài Gòn sụp đổ, cũng có mặt trong hội nghị.
                        Luật sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đã đề ra chính sách hợp tình hợplý đố i vớ i cá c nhà công thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, giúp cho họ thấ y rõ hơn con đườ ng tiế n lên của Cá ch maṇ g và taọ cho họ điề u kiêṇ đó ng gó p công sứ c cùng vớ i toà n dân xây dựng Tổ quố c Viêṭ Nam già u maṇ h, văn minh và haṇ h phúc, trong đó có quyề n lợi chıń h đá ng của họ và của con chá u họ”. Còn Trưởng ban Cải tạo Nguyễn Văn Trân thì ngắn gọn: “Bả n tuyên bố của Chıń h phủ đã mở ra môṭ tương lai tố t đep̣ , môṭ tiề n đề xá n laṇ cho các nhà tư sả n công thương nghiêp̣ ” 146.
                        Từ ngày 21-11-1976, giới công thương chỉ phải “đăng ký kinh doanh công thương nghiêp̣ và dic̣ h vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “cá c đơn vi ̣và hộ sả n xuấ t kinh doanh, dic̣ h vu”̣ đã khai trıǹ h và 93% số hộ nà y đã được chính quyền cấp quận “xét” cấp giấy chứng nhận “đã đăng ký kinh doanh”. “Nhiều người khai trıǹ h đúng đắ n (nhưng) cuñ g cò n khá nhiề u ngườ i, nhứ t là cá c hộ kinh doanh lớ n đề u khai trıǹ h thiế u, sai biêṭ xa vớ i tà i sả n họ có thâṭ . Môṭ số ngườ i tım̀ moị cá ch phân tá n tà i sả n nhiề u nơi, thâṃ chı́ có ngườ i dùng xe chở hà ng tẩ u tá n sang quâṇ khá c đã bi ̣bắ t quả tang cả ngườ i lẫn hà ng. Có ngườ i gây cả n trở , vu khố ng cá n bộ đi thẩ m tra hay dùng thủ đoaṇ mua chuôc̣ cá n bộ, trá o hà ng xấ u và o hà ng tố t”147.
                        Chính quyền đã gia hạn việc “đăng ký” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo rằng:“Nhữ ng hộ nà o đã được chá nh quyề n kêu goị , giá o duc̣ lợi ıć h chung xây dựng đấ t nướ c mà … vẫn cò n tiế p tuc̣ nhiề u lầ n nhưng không thấ y có thá i độ chố ng đố i, giấ u diế m, phân tá n, không chiụ khai trıǹ h bổ sung là tự mıǹ h tá ch khỏ i hà ng ngũ nhữ ng nhà công thương chấ p hà nh đúng chá nh sá ch của Nhà nướ c và bi ̣coi là bấ t hợp phá p”148.
                        Sau khi kê khai, các hộ kinh doanh vẫn được cấ p giấ y chứ ng nhâṇ đã đăng ký kinh doanh và vẫn hoaṭ đôṇ g gần như bıǹ h thườ ng. Nhưng kể từ đây, ranh giới của một nhà tư sản dân tộc với “gian thương phá rối thị trường, phá hoại chủ trương” bắt đầu trở nên mong manh, nhất là đối với một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân”. Một trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và quyết liệt hơn là ngành giao thông vận tải.
                        Trước 30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên doanh vận tải ô tô chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận tải ô tô là 1%, tiểu chủ hơn 95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các tỉnh phía Nam từng đánh giá: “Trong lực lượng tiểu chủ, đại bộ phận có lòng yêu nước, có cảm tình với Cáchmạng, nhiều người đã là cơ sở tốt nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào thành phố, ủng hộ vật chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo lời kêu gọi của Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đã tự nguyện mang hàng trăm xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích địch ởphía Nam”149. Những công lao được ghi nhận này đã không giúp họ giữ được nghề nghiệp và xe cộ.
                        Ngay từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra chỉ thị: “Công tác cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với lực lượng vận tải tư doanh ở miền Nam đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp”150. Một thứ trưởng của Bộ Giao thông được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ, kể cả xe của các “quần chúng yêu nước”, đều bị sung công. Đây không chỉ là một chính sách riêng lẻ của chính quyền Việt
                        Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, phải do nhà nước thống nhất quản lý.
                        Từ tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đã “trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân151. Nói là mua và trưngmua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô”152.
                        Trước ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thành153 là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung. Cuộc sống gia đình ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và cuối tuần thường đi mua sắm”. Sau “giải phóng”, gia đình ông phải vạ vật trong những chuổi ngày khó khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tảitrên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng dầu, bơm vá”154.
                        Nhưng sự thiếu thốn chưa phải là tất cả những gì mà những người kinh doanh trong ngành phải chịu đựng. Từ lái xe, năm 1973 ông Thành mua được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng155. Nếu thời cuộc không thay đổi, công việc kinh doanh thuận lợi có thể giúp ông Thành lập được một hãng xe. Nhưng cũng như các chủ xe khác, ông Thành đã phải “bán” xe cho Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe thì được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định. Ai không biết lái xe thì coi như mất xe… Có những ông chủ hãng xe 30-40 chiếc, cai quản hàng trăm lái, phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không mua được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin mãi mới được làm phụ xe, rồi còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ý”156.
                        “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”
                        Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.
                        Lý do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày 23-3-1978 của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương nghiệp, bằng hoạt động đầu cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt đã lũng đoạn kinh tế và thị trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối việc thu mua của nhà nước, gây cảnh hỗn loạn thị trường để làm giàu bất chính, thậm chí tung hàng giả ra thị trường để gạt gẫm và bóc lột người tiêu dùng. Họ dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt móc hàng của xí nghiệp, kho tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật kinh tế quốc gia, nhằm đục khoét kinh tế xã hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng và làm hư hỏng một số cánbộ nhân viên nhà nước, rồi qua đó mà nói xấu chế độ”157. Cơ sở pháp lý của đợt “cải tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”, được nói là theo Quyết định số 100 CP ngày12-4-1977, nhằm “xây dựng nền thương nghiệp xã hội chủ nghĩa” theo hướng “chấm dứt kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản, chuyển các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất”.
                        Trước đây, khi Trưởng Ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa Trung ương Nguyễn VănLinh gặp giới công thương, “nhiều anh chị em công thương” khi phát biểu ý kiến, đã “hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Thậm chí có những ý kiến đã “nói lên những tồn tại của giới công thương”, chỉ trích “một số nhà công thương còn theo lối kinh doanh cũ, vi phạm các chính sách luật lệ của chính quyền cách mạng”. Lần ấy, sau khi “nêu lên chính sách đúng đắn, có tình, có lý củađảng và nhà nước”, ông Nguyễn Văn Linh đã “kêu gọi các nhà công thương… ra sức cải tạo bản thân, đem hết khả năng và những hiểu biết của mình để tham gia xây dựng tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”158. Sau hai ngày làm việc ấy, ông Linh “hẹn sẽ có dịp nói chuyện” một cách đầy đủ hơn về chính sách cải tạo.
                        Nhưng bản thân ông Nguyễn Văn Linh cũng chưa hình dung được ý đồ cải tạo của ông Lê Duẩn. Đầu năm 1978, chức trưởng Ban Cải tạo mà ông Linh đang nắm giữ được Tổng Bí thư Lê Duẩn trao lại cho ông Đỗ Mười. Ngày 16-2-1978, sau khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “Chỉ thị 115”, ông Đỗ Mười đưa quân tập kết vào Sài Gòn để bắt đầu kế hoạch.
                        Sáng 23-3-1978, khi người dân Sài Gòn chưa kịp thức dậy thì trước những cửa tiệm, lớn có, nhỏ có, đã lố nhố từng tốp thanh niên, mặt mày nghiêm trọng. Họ chỉ chờ chủ nhà thức dậy là ập vào, kiểm kê, niêm phong hàng hóa và bắt đầu chốt giữ. Đêm hôm trước, toàn bộ lực lượng thanh niên đã được Thành đoàn huy động: sinh viên các trường đại học thì nghỉ học, công nhân trong các nhà máy thì nghỉlàm, những người chưa có công ăn việc làm thì được phường trưng dụng.
                        Cũng trong buổi sáng hôm đó, các báo cho đăng Quyết định 341/QĐ-UB của Ủy Ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, công bố năm điều quan trọng của chính sách cải tạo: Đình chỉ mọi hoạt động kinh doanh thương nghiệp của tư nhân; ra lệnhkiểm kê hàng hóa tồn kho; cấm các nhà tư sản làm nghề buôn bán và “khuyến khích” họ chuyển sang sản xuất159.
                        Người ký Quyết định 341, ông Vũ Đình Liệu160, thừa nhận: “Quyết định được ký nhân danh Ủy ban, lực lượng nói là của Thành phố, nhưng nòng cốt là Trung ương đưa vô, kế hoạch Trung ương đưa vô. Ở cấp Thành phố cũng có Ban Cải tạo nhưng từ thành phố cho tới quận huyện đều có người được ông Đỗ Mười đưa từ Hà Nội vào. Họ mới là người đưa ra quyết định. Đau xót nhất là họ cứ theo tiêu chí tư sản Hà Nội để áp dụng cho Sài Gòn. Quy sai thành phần đã khiến cho cải tạo trở thành cuộc chiến trên diện rộng”161.
                        Theo ông Nguyễn Văn Trân, viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương: “Khi bắt đầu chiến dịch, Bộ Chính trị chuyển anh Nguyễn Văn Linh sang làm Dân vận rồi đưa anhĐỗ Mười vào vì anh Đỗ Mười đã làm cải tạo công thương nghiệp ở Hà Nội. Anh Mười vào Sài Gòn áp dụng y chang những gì đã làm ở miền Bắc trong năm 1960”. Theoông Hoàng Tùng: “Năm 1955, khi đánh tư sản ở Hải Phòng, Đỗ Mười cũng cho xóa sạch”. Ông Hoàng Tùng thừa nhận là thoạt đầu ông đã cùng ông Đỗ Mười vào Nhà khách Trung ương tại Sài Gòn (T78), viết bài ủng hộ chiến dịch này, nhưng sauthấy Đỗ Mười đánh cả tiểu thương ông bỏ về. Ông Mười hỏi: “Sao về?”. Hoàng Tùng nói: “Tôi theo anh, tôi sa lầy”.
                        Trong suốt thời gian đặt “Tổng hành dinh” tại Thủ Đức, ông Đỗ Mười ít khi xuất hiện công khai. Nhưng quyền lực của ông là bao trùm và cách mà ông tiến hành thì cứng nhắc đúng như những giai thoại về ông lúc đó162. Theo ông Đỗ Hoàng Hải, đại biểu Quốc hội Khóa IX, người được phân công “phát động giai cấp công nhân tham gia” lực lượng cải tạo: Cứ “đánh” xong ngành nào thì các ngành tương ứng từ Trung ương – phần đã vào từ trước, phần mới vào theo ông Đỗ Mười – lập tức nhảy vào tiếp quản. Ví dụ Bộ Công nghiệp nhẹ tiếp quản ngành Dệt; Bộ Giao thông tiếp quản các cơ sở liên quan đến xe cộ, bến cảng; Liên hiệp Công đoàn Giải phóng thì tiếp quản số 14 Cách Mạng Tháng Tám, nơi vốn là trụ sở Liên đoàn Lao động của Trần Quốc Bửu.
                        Ông Đỗ Hoàng Hải nói: “Lực lượng công nhân do tôi chỉ huy lúc đó hết sức phấn khởi vì Thành ủy dành 35% quỹ nhà cải tạo chia cho giai cấp công nhân, coi như đó là một chính sách lớn của Đảng đối với thành phần nòng cốt. Ngày cao điểm, chúng tôi huy động tới 3000 công nhân, sáng ra phát cho mỗi người một ổ bánh mì rồi khi có lệnh là lên xe đến ‘chốt’ nhà của ‘tư sản’. Trước đó, những lực lượng khác đã xộc vào các cửa hàng, phát hiện, kê biên hàng hóa, đồng thời ‘đấu tranh chống cáchành vi xấu”.
                        Cán bộ làm công tác cải tạo được mô tả: “Đã nhã nhặn, đúng mực, nhưng rất cương quyết, dứt khoát, trong sạch; đã làm thất bại một số vụ mua chuộc xấu xacủa giai cấp tư sản. Nhiều công nhân lao động chẳng những phát hiện các hộ tư sản thương nghiệp lọt sổ, tố giác các kho hàng cất giấu, mà còn cương quyết từ chối và đấu tranh chống lại hành động hối lộ của một số hộ tư sản”163.
                        Một nhân viên cải tạo từ chối nhận hối lộ đã được Ban Chỉ đạo “thông báo cho toàn quận và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản vào tối ngày 26-3-1978 ngay tại nơi cô tham gia công tác cải tạo”. Người dân cũng được phát động để “kịp thời phát hiện, phê phán, đấu tranh, tố giác, chống những hành vi xấu như hối lộ, tẩu tán hàng hóa, tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ của một số hộ tư sản không thức thời”164.
                        Hầu như không có chống đối, chỉ một số tư sản người Hoa phản ứng ở mức thăm dò. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 23-3-1978, khi xuống một phường ở Quận 5, ông Mai Chí Thọ được báo cáo: “Nhiều nhà tư sản biết trước lệnh cải tạo đã khóa cửa bỏ đi, cán bộ tới không có chủ nhà để đưa lệnh kiểm kê tài sản”. Ông Mai Chí Thọ suynghĩ rồi ra lệnh: “Cho niêm phong tất cả cửa ra vào, cho một tổ chốt trước nhà những người đi vắng. Thông báo cho họ một thời hạn, nếu không tự giác thì các đồng chí cứ cho phá cửa vào lập biên bản”165. Trừ một số trốn đi luôn, phần lớn đã trở về chịu để chính quyền kê biên tài sản.
                        Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.
                        Những năm sau 1975, cứ mỗi khi có một thành phần nào đó trong xã hội trở thành đối tượng của Chính quyền, lại có một thành phần khác, gọi là quần chúng,được đưa đứng ra lên án. Chín mươi hai nhà tư sản mại bản vừa bị đánh vào rạng sáng ngày 10-9-1975 thì sáng hôm sau, 11-9-1975, đã có “1.200 nhà tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ mở đại hội bất thường” tại rạp Rex để “bày tỏ quyết tâm bài trừ bọn tư sản mại bản, đầu cơ tích trữ, lũng đoạn, phá rối thị trường”166.
                        Thậm chí, “giới người Hoa tỏ ý muốn Chánh quyền công bố đầy đủ danh sách và tội trạng của tất cả các tên gian thương đã bị sa lưới. Giám đốc một xí nghiệp tại Chợ Lớn (xin giấu tên) là người Hẹ, cho biết, theo ông nên tịch thu toàn bộ tài sản của bọn gian thương, đem xử công khai trước nhân dân và cho bọn này đi cải tạolao động lâu dài để chúng biết giá trị của lao động”. Ông giám đốc người Hẹ này khi ấy chắc không ngờ có ngày mình cũng trở thành đối tượng của “nhân dân laođộng”.
                        Hai gia đình tư sản
                        Tuy không sơ khai như thời kỳ Cải cách ruộng đất, nhưng phương thức “đấu tranh giai cấp” của thế hệ cộng sản sau năm 1975 cũng có những điểm tương đồng. Ngay từ tháng 9-1975, Đoàn Thanh niên Cộng sản đã “đánh tư sản mại bản” bằng chính tiếng nói của con cái các nhà tư sản.
                        Trên báo Tuổi Trẻ, Anh Thanh Tùng, một học sinh người Hoa học lớp 12, trường Lý Phong, nói: “Bản thân tôi thấy rõ chính sách của chính phủ là đánh bọn gian thương bóc lột nhân dân chứ không đánh vào người Hoa. Tư sản mại bản đầu cơ tích trữ thì dù là Việt hay Hoa đều có tội với nhân dân, là kẻ thù của nhân dân”. ÔnĐường, học sinh lớp 9 trường Việt Tú, thì cho rằng: “Chúng ta phải phát động quần chúng đứng lên tiêu diệt bọn gian thương”. Còn Lý Mỹ, học sinh lớp 10, trường Lý Phong, thì nói: “Tôi nghĩ rằng những nhà tư sản nào muốn hợp tác với chính quyền cách mạng để xây dựng kinh tế thì đó là điều tốt. Nhưng phải tiêu diệt bọn tư sản mại bản, có như thế mới ổn định đời sống nhân dân”167.
                        Năm 1978, thay vì chỉ tuyên bố, Lý Mỹ, con gái một nhà tư sản người Hoa, vừa trở thành đoàn viên, đã dẫn các “đồng chí” của mình vào nhà, chỉ cho họ những tài sản mà cha mẹ mình đang cố giấu. Cô được ca ngợi trên báo chí: “Hai năm qua đất nước ta chuyển mình đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng như nhiều bạn trẻ khác, Lý Mỹ đã hòa mình trong ngọn lửa triều thời đại ấy”168. Chính Lý Mỹ cũng viết trên trangđầu tiên của nhật ký: “Hãy đấu tranh để giành hạnh phúc”. Nhưng qua những dòng ghi chép của cô, cuộc đấu tranh ấy không chỉ mang về hạnh phúc169.
                        Lý Mỹ thuộc thế hệ trưởng thành trong khuôn viên Thành đoàn170, đọc Pavel Korchagin và được nghe các nhà lý luận từ miền Bắc vào giảng giải luận điểm của Marx về kinh tế. Một bên là những niềm tin mới của cô về một xã hội tốt đẹp, một bên là kế sinh nhai của gia đình. Từ tháng 6-1977, khi cải tạo chưa bắt đầu, Lý Mỹ đã phải “nuốt nước mắt” để thuyết phục cha mẹ mình nghe theo những gì cô được Đoàn dạy bảo. Lý Mỹ nói với má: “Sống như vậy con thấy phi pháp quá”. Gia đình Lý Mỹ khi ấy có một cửa hàng kinh doanh vải trên đường Cách Mạng Tháng Tám. Khi Nhà nước “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Lý Mỹ đang là học sinh lớp 12C, trường Trần Khai Nguyên. Ngày 23-3-1978, khi “nhiều toán thanh niên đóngchốt ở những cửa hàng lớn” trên con đường mà cô đi qua, Lý Mỹ viết: “Rồi đây cuộc sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay – ngày mở đầu một cuộc đấu tranh lớn”.
                        Trong những ngày sau đó, Lý Mỹ đã “bám từng giây, từng phút để vận động gia đình kê khai tài sản”. Báo Tuổi Trẻ theo sát, tường thuật từng lời nói, hành động của cô. Cái ngày mà toàn bộ gia sản của gia đình bị kê biên, Lý Mỹ đã không giấu được niềm vui hoàn thành nhiệm vụ: “Mỹ kêu mẹ đi ngủ để mình làm công việc kê khai cùng với toán công tác đang chốt tại đấy. Đêm 24-3-78, Mỹ thức đến ba giờ khuya – không phải để thao thức, trăn trở trong sự khổ sở – mà để sao bốn bản kê khai trong một sự vui sướng tràn trề. Lòng Mỹ rộn ràng như lần đầu tiên biết mình được đứng vào hàng ngũ của Đoàn” 171.
                        Cuốn Nhật ký của Mỹ khép lại vào lúc 3 giờ sáng ngày 25-3-1978: “Má đã yên tâm rồi. Còn mình lại càng yên tâm hơn khi gia đình mình đã chấm dứt quá khứ từ ngày hôm qua để chuẩn bị bước vào tương lai. Mình không còn mặc cảm với bạn bè, nhân dân lao động vì gia đình mình không còn sống bằng nghề bất chính. Mìnhđã đấu tranh, đã thực hiện được lý tưởng, ước mơ của mình. Hãy cất cao tiếng hát, hãy tiến lên. Không có gì có thể ngăn cản được bước tiến của mình. Mình trở lại phấn khởi rồi, vui quá!”. Nhưng điều mà lúc ấy Lý Mỹ tưởng là niềm vui, rồi sẽkhoét vào lòng cô một như vết thương – một vết thương không bao giờ có khả năng khép lại.
                        Cho dù được báo Nhân Dân172 ca ngợi, được đoàn viên từ khắp nơi trong cả nước viết thư thăm hỏi, động viên và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, Lý Mỹ cũng chỉ là một sản phẩm hy hữu của Thành đoàn. Con cái của các nhà tư sản khác, trong những ngày ấy, đã bị buộc phải trưởng thành để cùng cha mẹ bảo vệ tài sản gia đình trước nguycơ cải tạo. Gia đình ông Võ Quang Trữ, một trong những người giàu có ở Sài Gòn lúc bấy giờ, là một ví dụ.
                        Năm 1960, ông Trữ đưa gia đình di cư từ Quảng Nam vô Sài Gòn. Thời gian đầu, chồng làm thư ký cho một công ty, vợ làm thợ dệt. Khi đó, xứ Bảy Hiền còn rất hoang sơ. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông Võ Quang Trữ cùng một số người di cư bàn bạc khôi phục nghề dệt của Quảng Nam. Bắt đầu là dệt, kế tiếp là hồ, rồi tiến tới buôn bán hàng tơ sợi. Từ tay trắng, họ nhanh chóng trở thành những người giàu nhất.
                        Sáng 30-4-1975, giữa khi súng đạn vẫn còn đùng đoàng, ông Trữ đã chở con bằng xe Vespa từ nhà riêng ở 177C Lý Thường Kiệt lên Bảy Hiền lấy gần một trăm lá cờ Giải phóng về phân phát cho hàng xóm. Nhưng sự hào hứng này của ông không kéo dài được bao lâu. Một hôm đi làm về, ông thấy, tấm biển “trụ sở công an phường” tự nhiên được treo lên trước một ngôi nhà của mình ở Bảy Hiền. Khi ông đi vắng, mấy người “Cách mạng 30-4” mang bảng tới, nói: Chúng tôi muốn dùng tầng trệt làm trụ sở công an, rồi treo lên mà không chờ chủ nhà đồng ý.
                        Sau Chiến dịch X-2, quan sát bạn bè bị “đánh tư sản mại bản”, ông Trữ đi trước một bước bằng cách đưa nhà máy với hơn 5.000 công nhân của mình “hiến” choNhà nước dưới danh nghĩa lập xí nghiệp “công tư hợp doanh”173, rồi nhận chức phó giám đốc trong nhà máy của mình theo sự phân công. Một số lớn máy móc và tiền bạc khác được ông Trữ đưa về quê, xây thêm hai nhà máy công tư hợp doanh, rồi hiến cho Đà Nẵng.
                        Ngay trong ngày 23-3-1978, một tổ cải tạo năm người đã đến chốt trước tiền sảnh ngôi nhà số 57 Hồ Tấn Đức nơi gia đình ông Trữ đang cư ngụ. Họ ở đó hai đợt, tổng cộng sáu tháng. Võ Quang Dũng, con trai ông Trữ, sinh năm 1964, kể: “Hàng ngày bắt đầu từ sáng sớm, họ thẩm vấn từng thành viên trong nhà, lặp đi lặp lại gần như chỉ một câu: tiền vàng giấu ở đâu?”. Không ai, kể cả vợ con, biết vàng ông Trữ giấu ở đâu. Gần như không có một viên gạch nào ở trong nhà là không bị cạy lên. Nhưng những mưu sâu kế dày mà trước đây các gia đình Cách mạng đã dùng để qua mặt cảnh sát Sài Gòn, nuôi giấu cán bộ, giờ đây được chính nhân dân áp dụng một cách triệt để thoát khỏi Chính quyền Cách mạng.
                        Ngay từ rất sớm, ông Trữ đã có các phương án đề phòng. Ngày 26-11-1975, một toán năm tên cướp có vũ khí đột nhập vào ngôi nhà 177C Lý Thường Kiệt của ông, bắn chết bà mẹ già tám mươi tuổi. Vợ ông khi đó đang bị tai nạn, nằm trên giường, chứng kiến cuộc đấu súng kéo dài giữa công an và tên cướp cố thủ trong nhà cho đến khi hắn ta bị công an bắn hạ. Sau đó, ông Trữ quyết định chuyển nhà lên Bảy Hiền. Chính trong thời gian xây nhà 57 Hồ Tấn Đức ở vùng Bảy Hiền, ông Trữ đã cho làm hai căn hầm bí mật có nhiều tầng: một dưới gầm cầu thang, một ngay dưới bàn ăn gia đình. Hơn mười nghìn lượng vàng đã được ông xếp trong những lon guygoz, bọc giấy dầu rồi xếp xuống hầm.
                        Quan sát thấy lực lượng cải tạo chỉ khám người, túi xách của hai vợ chồng ông Trữ và của người giúp việc chứ không khám người mấy đứa con – đặc biệt là hai đứa trẻ: Võ Quang Dũng, mười bốn tuổi; Võ Thị Anh Đào, mười hai tuổi – ông Trữ bắt đầu cho thực hiện kế hoạch. Mỗi đêm, ông mang lên khoảng năm mươi lượngvàng. Tới giờ đi học, ông cho vàng vào ruột tượng, buộc ngang bụng Dũng và Đào, rồi để các con tự đi ra ngoài.
                        Võ Quang Dũng kể: “Chúng tôi bị tước mất tuổi thơ từ đó. Vốn là những đứa trẻ vô tư, nhưng hàng ngày hai anh em đều phải đóng kịch, giả vờ vui vẻ ra khỏi nhà, khi thì với quả bóng, khi thì với một món đồ chơi, để qua mặt tổ cải tạo đang đứng canh trước cửa. Từ cổng, khi thì xích lô, khi thì taxi, khi thì một bác xe ôm đứngđón. Họ chở tôi đi một đường, em gái tôi đi một đường. Mỗi ngày, chúng tôi đi đến một địa điểm mà ba tôi cho biết chỉ vài phút trước khi ra khỏi nhà. Ở đó, một người được ba tôi đặc biệt tin cẩn và huấn luyện trước đã chờ sẵn, đón chúng tôi, nhận hàng rồi đi ngay lập tức”.
                        Công việc vận chuyển vàng ra khỏi nhà trước mắt lực lượng cải tạo trong suốt sáu tháng trời đã khiến cho cha con ông Võ Quang Trữ trở thành những người có vẻ ngoài lạnh lùng. Năm 1979, anh em Dũng vượt biên không thành trở về, gặp nhau ngoài ngõ nhưng cha con chỉ khẽ gật đầu như vừa đi đâu đó ngoài đường về. Mãi tới khi vào bên trong nhà, ông Trữ mới ôm lấy các con và cả mấy cha con cùng bật khóc.
                        Kinh tế mới
                        Không chỉ bị “tước đoạt tài sản”, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng “hỏi-đáp”, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.
                        Các nhà tư sản thương nghiệp bị phê phán là chỉ biết “làm giàu, ăn chơi phè phỡn, bóc lột người lao động và ăn cắp của nhà nước, coi khinh lao động và nói xấu chế độ” trong khi “ba năm qua trên 700.000 nhân dân lao động hồi hương lập nghiệp”174. “Về những hành vi tội lỗi đó, nhân dân lao động và chính quyền cách mạng đã không bắn giết, không bắt giam, không đày ải, không đấu tố, không tịch thu mặc dù có đầy đủ sức mạnh và lý lẽ để làm như vậy. Nhân dân lao động và chính quyền chỉ buộc họ chấm dứt những hành vi đó, chấm dứt triệt để và vĩnh viễn… Không những các nhà tư sản thương nghiệp phải chuyển sang sản xuất nông nghiệp, nghề cá, nghề rừng là chuyển về các tỉnh, mà cả sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng chuyển về các tỉnh, theo sự bố trí màng lưới công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở địa phương”175.
                        Hai ngày sau khi báo Đảng đăng bài “hỏi-đáp” này, một cuộc “hội thảo” kéo dài hai ngày, 12 và 13-4-1978, với sự tham gia của “hơn 200 trí thức” đã được chínhquyền tổ chức. Phát biểu trong “hội thảo” 176, Bác sỹ Lê Cửu Trường nói rằng: “Lề lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa không thể tiếp tục kéo dài trong một xã hội đang tiếnlên con đường xóa bỏ chế độ người bóc lột người”. Ông Phương Kiến Khánh, người được giới thiệu là đang công tác ở Phân Viện Nghệ thuật, cho rằng: “Chuyển cácnhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất là trả họ về với thiên chức con người, là giải phóng họ khỏi kiếp ăn bám, bóc lột”.
                        Tối 17-4-1978, tại sân vận động Thống Nhất, “40.000 công nhân viên chức đại biểu cho gần nửa triệu công nhân lao động” đã “hưởng ứng chủ trương xóa bỏ kinh doanh của các tư sản thương nghiệp”. Phát biểu trên sân vận động Thống Nhất, Chủ tịch Vũ Đình Liệu nói: “Chúng ta đang ở trong giai đoạn đấu tranh giai cấp có phần gay gắt và cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục”177.
                        Ngày 10-6-1978 là “hạn chót để các nhà tư sản thương nghiệp rời thành phố đi sản xuất”. Chính quyền ca ngợi những người tích cực đăng ký các chương trình kinh tế mới nhưng đồng thời cũng nói với họ rằng: “Đây là một chính sách lớn… nhằm giúp các nhà tư sản tự giải thoát khỏi con đường bóc lột, biến họ từ một lực lượng phi sản xuất gây tác hại cho xã hội thành một lực lượng sản xuất có ích cho xã hội”178. Không ít nhà tư sản được trích lời trên báo nói, họ chuyển sang sản xuất là để “tẩy rửa cái mặc cảm bóc lột tội lỗi” của mình. Nhưng, như phát biểu của ông Vũ Đình liệu, “cuộc đấu tranh giai cấp” diễn ra ở bên trong từng gia đình đúng là đang “có phần gay gắt”.
                        Nhật ký ngày 8-6-1978 của Lý Mỹ cho thấy không khí trong gia đình cô “thật lạ và căng thẳng”. Ba cô tuyên bố “sẽ đi kinh tế mới” nhưng giọng nói của ông làm cho cô “nghi ngờ”. Cũng như nhiều gia đình tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa khác, gia đình Lý Mỹ biết rõ, “kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ không thể nào sống được”. Phần lớn các nhà tư sản sau đó đã vượt biên. Nhật ký của Lý Mỹ viết: “Cùng gia đình bỏ trốn hay ở lại. Tôi nghĩ, tôi phải can đảm lên, chấp nhận đấu tranh và mất mát, tôi sẽ không trốn đi nơi nào cả. Nếu gia đình
                        không lay chuyển, tôi bằng lòng ở lại sống cô đơn, không tài sản của cải gì của cha mẹ để lại, tôi sẽ gặp vất vả, khó khăn và sóng gió. Đồng chí Paven ơi, nỗi khổ và sự phấn đấu của tôi có nghĩa gì so với đồng chí”179.
                        Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệpmà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn.
                        Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn”.
                        Ngay trong thời gian đang cải tạo, những cuộc tranh cãi nổ ra gần như thường xuyên giữa ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh với ông Đỗ Mười. Nhưng khi ấy Đỗ Mười đang nắm trong tay “thượng phương bảo kiếm”. Ông Vũ Đình Liệu thừa nhận: “Họp Thường vụ chúng tôi cũng có ý kiến, đi cơ sở về chúng tôi cũng có ýkiến, nhưng bị bên anh Đỗ Mười cự”180. Tuy tranh cãi phương thức, nhưng cả ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh vẫn thống nhất với ông Đỗ Mười về chủ trương. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu tôi nhận thức, cải tạo là chuyện tất yếu và coi nhưđó là con đường để đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho tới lúc ấy, tôi chỉ đi các nước Đông Âu, thấy cuộc sống của họ so với mình đã là những gì mà mình ước mơ. Tôi nghĩ, phải kinh qua những bước như mình đang làm bây giờ mới có ngày đạt được như những gì họ có”. Nhưng rồi khi nhìn cả thành phố vốn là một trung tâm thương mại trở nên tiêu điều, tan hoang, nhất là khi nhìn thấy chính những ân nhân của cách mạng cũng trở thành nạn nhân, những người đã từng bám trụ ở miền Nam, ở Sài Gòn bắt đầu nhìn lại những gì mà mình đang thực hiện.
                        Khi ông Đỗ Hoàng Hải mới về 14 Cách Mạng Tháng Tám chuẩn bị “cải tạo tư sản”, ông Trần Văn Đước – một cơ sở đã từng nuôi giấu và cứu mạng ông Hải trong Mậu Thân 1968 – ngày nào cũng nấu cơm rồi cho người mang sang. Cũng như trong chiến tranh, ông Đước không biết rõ ông Hải đang làm gì, chỉ giúp đỡ vì biết ông Hải là người “bên Cách mạng”. Khi ông Trần Văn Đước chạy đến báo: “Bác bị người ta mang xe tới chở hết kiếng đi rồi”, ông Hải vẫn tưởng rằng: “Chắc là có sự nhầm lẫn”.
                        Con trai ông Trần Văn Đước là liệt sỹ. Tiệm kiếng của ông mở tại nhà riêng ở số 12 Ngô Tùng Châu chỉ là một ngôi nhà cấp 4, chiều ngang bốn mét, dài mười bốn mét, tường gạch, lợp ngói. Nhưng ông Đước vẫn bị quy vào diện tư sản thương nghiệp, kiếng hàng hóa và cả nhà riêng của ông đều bị “sung công”. Không chỉ cótrường hợp ông Trần Văn Đước. Năm 1957, ông Lai Ninh đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng, lái xe đưa ông Lê Duẩn đào thoát sang Phnom Penh trong sự truy lùnggắt gao của Chính quyền Sài Gòn. Năm 1978, khi ông Lê Duẩn đưa ông Đỗ Mười vào Nam, nhà máy xay lúa của gia đình ông Lai Ninh đã bị sung công. Con gái ông, bà Lai Kim Dung, một tư sản người Hoa, cũng bị xếp vào thành phần cải tạo. “Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Nam, tiến hành từ sau 1975, đã cải tạo 3.560 cơ sở tư bản tư doanh công nghiệp, trong đó có1.354 cơ sở của tư sản mại bản bị công hữu hóa, tịch thu, 498 cơ sở bị chuyển thành công tư hợp doanh; chuyển 5.000 tư sản thương nghiệp sang sản xuất; chuyển chín vạn tiểu thương sang sản xuất; sử dụng 15.000 người vào mạng lướithương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sau Cải tạo, dưới dạng kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh, Nhà nước nắm: 100% ngành năng lượng; 45% ngành cơ khí; 45% ngành xay xát lương thực; 100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá; 45% trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật; 60% ngành dệt; 100% ngành sản xuất giấy; 80% ngành sản xuất bột giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh nắm 80% nguồn hàng công nghiệp; 92% số xã trên toàn miền Nam có hợp tác xã mua bán181.
                        Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, nhà nước đã tìm mọi cách để tập trung mọi nguồn hàng vào tay mình. Không chỉ có sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh phải tiêu thụ qua thương nghiệp của nhà nước, “các xí nghiệp tư bản, các hợp tác xã, các tập đoàn và cơ sở sản xuất thủ công, cá thể, được nhà nước cung cấp lương thực, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, điện; cho vay vốn…(cũng) phải bán sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh”182. Chính quyền tin rằng: “Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn dân, là người nội trợ của toàn xã hội”183. Chẳng bao lâu sau, niềm tin này sẽ nhanh chóng tan thành mây khói.


                        chú thích
                        117 Sài Gòn Giải Phóng, 10-9-1975.
                        118 Diễn biến “Chiến dịch X-2” được mô tả: “Ta đã huy động hơn một vạn nhân lực, kết hợp giữa lực lượng an ninh, quân sự, kinh tài, tuyên huấn và đội ngũ cán bộ dân chính đảng, thành lập 7 đoàn, 60 đội và 10 ngàn công nhân lao động, học sinh, sinh viên trực tiếp tham gia đánh vào mục tiêu đã định. Ta đã bắt được các đối tượng chủ yếu, chiếm lĩnh các cơ sở xí nghiệp, kho tàng. Chỉ trong hai ngày 10 và 11-9-1975, ta đã huy động hơn 70 vạn quần chúng nội, ngoại thành, cả người Việt lẫn người Hoa, từ tầng lớp quần chúng cơ bản đến tiểu thương, tiểu chủ và tư sản dân tộc, tổ chức mít- tin, biểu tình, sôi nổi lên án và yêu cầu trừng trị bọn tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ, tích trữ…” (Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20).
                        119 Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20.
                        120 Một người, rất có thể là con gái của chủ “hãng gà 7.000 con”, là chị Nguyễn Thị Ngọc Dung. Tháng 9-1975, khi đang học tại trường Đại học công San Francisco (Mỹ), chị Dung nhận ra “trang trại nuôi gà” của nhà mình trong một phóng sự do các nhà báo nước ngoài bị kẹt lại Sài Gòn thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động được Chính quyền tổ chức nhằm tuyên truyền về "hoạt động tốt đẹp bình thường sau chiến thắng". Chị Dung viết: “Tôi chắc, vì đấy là trang trại của gia đình tôi gần Thủ Đức. Khi bất ngờ nhìn thấy, quả thực tôi có hốt hoảng vì đấy là chuyện tình cờ không bao giờ ngờ được… Tôi lo tới quặn đau cả người. Lo vì những người gọi là coi trại không có mặt nào tôi quen cả. Những gì mình không biết, không được biết chỉ khiến nỗi lo thêm nặng, thêm lớn. Cái đau này không phải là cái đau tưởng tượng hay cái đau tâm tưởng mà người ta hay nói, ở tôi nó là cái đau thể chất”.
                        121 Kết quả “đánh tư sản” trước Chiến dịch X-2: “Về bột ngọt, hộ Đào Mậu, Hứa Quang, ta bắt được 4 đối tượng chính và bắt thêm 8 tên thư ký và tài phú, có khai thác nhưng chưa được gì thêm. Số lượng bột ngọt cũ là 2 tấn và 60 tấn nguyên liệu.
                        Nhưng đã phân tán nhuyễn nhiều lần khắp các đại lý nhỏ nên không còn nhiều hàng hóa trong kho, để trốn thuế, chúng chuyển nợ cho đại lý, mỗi đại lý nợ công ty đến 600 triệu – ít nhất là 100 triệu. Ta có sơ hở trong việc triển khai nghị quyết đối với đại lý 1000kg trở lên... Vì đã động ổ, chúng đã phân tán hết dự trữ, do đó đang tiến hành nghiên cứu để gắn vào đánh trong đợt X-2 tiếp. Cần liên hệ với Tư Pháp Tòa án để hình thành các tòa án xử công khai trước khi ta vô đợt... Cần tập trung truy đối tượng ta bắt giữ, trong số này phải lọc một vài tên đầu sỏ để khui coi nó giấu vàng ở đây. An Ninh và Hoa Vận (Sáu Lâm), tổ chức bắt ngay, bắt tên chủ hàng Việt Hoa trong vụ tàu để khai thác. Chú ý con đường xuất cảnh của ngoại kiều, An Ninh, Ngoại vụ Thuế Quan cần kết hợp kiểm soát chặt. Vừa qua có phát hiện lọt lưới một số CIA, đi rồi mới biết, có hiện tượng hối lộ cán bộ để đi. Khai thác thêm 2 tên Y và Phôi buôn vàng lậu hồi ngụy qua mặt Thiệu, có thể đó là bọn CIA... Đối với số vàng tư trang đem đến tiệm mướn làm. Nếu có hóa đơn thì trả lại cho chủ. Nếu có tình nghi thì điều tra xong sẽ giải quyết. Đồng ý xuất tiền đã giao ngân hàng để trả lại các đối tượng chi tiêu tiền ăn, tiền điện nước” (Biên Bản Giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975, Thư ký Hà Phú Thuận ghi).
                        122 Những Sự kiện Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 23.
                        123 Sđd, trang 25.
                        124Những Sự kiện Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 25.
                        125 Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975.
                        126 Bài báo viết: “Ngay khi ra đời, tờ bạc Sài Gòn đã không hề có được một chức năng kinh tế nào… Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ… Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta” (Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975).
                        127 Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975.
                        128 Diễn viên điện ảnh nổi tiếng trong phim “Đời Cát”, đầu thập niên 2000, từng tham gia một vai phụ trong phim The Quiet American của đạo diễn Phillip Noyce.
                        129 Theo Mai Hoa, tài sản của gia đình cô chỉ chính thức bị mất vào tháng 3-1978 trong đợt cải tạo công thương nghiệp tư doanh, khi đó, cha cô bị buộc phải ký giấy “hiến” trại cưa cho Nhà nước.
                        130 Ông Trần Kiêm Đoàn hiện định cư tại Sacramento, California, Mỹ.
                        131 Báo Sài Gòn Giải Phóng, 3-9-1975.
                        132 “Cùng với Mỹ lũng đoạn kinh tế Miền Nam, xuất ít, nhập nhiều làm vật giá leo thang, lao động thất nghiệp; dùng đồng tiền đặt tay chân vào bộ máy chính quyền; đầu cơ tích trữ, mua rẻ bán đắt; thông qua đại lý tổ chức buôn lậu; xuyên tạc phá hoại các chủ trương của chính phủ; hối lộ, mua chuộc, gây chia rẽ đội ngũ cách mạng; vơ vét rồi tuồn hàng ra chợ trời; mua vàng, hạt xoàn tích trữ và in bạc giả; tung tin ‘Bột ngọt bị đưa ra Bắc’, ‘Xăng dầu sẽ cạn’; thông đồng với bọn phản động chính trị…” 133 Tin Sáng, 10-9-1975.
                        134 Sài Gòn Giải Phóng, 28 & 29-7-1977.
                        135 Nội dung luận tội của Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn với “tên tư sản mại bản” Lưu Trung: “Trong thời gian tiến hành chiến tranh xâm lược đất nước ta, một số chính trị gia Mỹ, trong đó nổi bật là Guy Pao-ơ, đã vạch ra âm mưu xảo quyệt gọi là “liên minh giữa quân đội và nông dân”. Âm mưu này dùng viện trợ kinh tế để biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy quyền, mua chuộc và lừa mị nông dân. Chúng đã tính từng đường đi nước bước rất thâm độc: một là, chúng đưa máy móc vào nông thôn, bước đầu cơ giới hóa một số khâu, đưa năng suất tăng lên. Hai là, khi sản lượng lúa gạo tăng, chúng tìm mọi cách vơ vét, kể cả thủ đoạn mở những cuộc hành quân càn quét cướp bóc, để phục dịch cho quân đánh thuê ngày càng phình to tới hàng triệu người. Ba là, nhờ có cơ giới hóa nông nghiệp, chúng làm giảm đi một lực lượng lao động lớn ở nông thôn và với chính sách đôn quân bắt lính, bổ sung nguồn lính đánh thuê để kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược...” (Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977).
                        136 Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977.
                        137 Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977.
                        138 Biên bản giao ban tối 10-9-1975 của Ủy Ban Quân quản, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh 139 Tài liệu đã dẫn.
                        140 Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.
                        141 Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.
                        142 Sài Gòn Giải Phóng, 12-9-1976.
                        143 Tuyên bố ngày 25-9-1976 của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
                        144 Theo Tuyên bố ngày 25-9-1976: “Xí nghiệp công tư hợp doanh là một xí nghiệp trước đây là của tư nhân, nay do Nhà nước và người chủ cũ (hoặc người đại diện) của xí nghiệp cùng nhau quản lý. Nhà nước giữ địa vị lãnh đạo; quyền lợi hợp pháp của các cổ phần tư nhân được Nhà nước bảo hộ. Các quyền lợi cơ bản của công nhân, viên chức trong xí nghiệp được nhà nước đảm bảo” (Phó thủ tướng Nguyễn Duy Trinh ký).
                        145 Danh mục các ngành nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh gồm: “Tư bản tư doanh được khuyến khích, đầu tư vào các ngành khai thác, chế biến nông sản, lâm sản, hải sản, thổ sản, các ngành công nghiệp, tiểu công nghiệp khác theo sự hướng dẫn của Nhà nước”. Trong lĩnh vực nông nghiệp: “Tư bản tư doanh được tiếp tục kinh doanh, khai thác các đồn điền, trồng cây công nghiệp, cây ăn trái, được duy trì và mở rộng các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm, cơ sở nuôi cá… công nghiệp tập trung, được tiếp tục kinh doanh các loại máy móc nông nghiệp, đào giếng, khoan giếng, thi công các công trình nông nghiệp, thủy lợi”. Trong lĩnh vực xây dựng: “Tư bản tư doanh được hướng dẫn kinh doanh khai thác và sản xuất các vật liệu xây dựng, được duy trì chế độ nhà thầu tư nhân dưới sự quản lý của nhà nước”. Trong lĩnh vực vận tải: “Ngoài các ngành đường sắt, đường biển viễn dương, đường hàng không thuộc phạm vi độc quyền kinh doanh của Nhà nước, tư bản tư doanh được kinh doanh trong các ngành vận tải đường sông, một phần đường ven biển (thuyền, ca-nô) và đường bộ (ô tô chở khách, chở hàng hóa), dưới sự quản lý và hướng dẫn của Nhà nước; được duy trì các xí nghiệp để đóng mới hoặc sửa chữa phương tiện vận tải, hoặc nhận thầu làm cầu, đường phục vụ nhu cầu dân sinh, kinh tế địa phương”. Trong lĩnh vực “thương nghiệp và dịch vụ phục vụ: “Việc bảo đảm phân phối các mặt hàng thiết yếu và quan trọng cho đời sống của nhân dân là do Nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu trách nhiệm. Vì vậy phải phát triển mạnh thương nghiệp quốc doanh và mạng lưới rộng rãi hợp tác xã mua bán và các hình thức tổ chức khác của quần chúng để tham gia việc bán lẻ. Nhà nước nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong nước và hầu hết hàng hóa thiết yếu để có kế hoạch bảo đảm sản xuất và đời sống. Nhà nước sẽ nắm hầu hết xuất nhập khẩu và cả bán buôn trong nước”. (Tóm tắt Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam, ngày 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh ký).
                        146 Sài Gòn Giải Phóng, 3-11-1976.
                        147 Sài Gòn Giải Phóng, 29-12-1976.
                        148 Thông báo ngày 27-12-1976 của Ủy ban Nhân dân Thành phố (Sài Gòn Giải Phóng, 29-12-1976).
                        149 Lịch sử Giao thông Vận tải Đường bộ, Nhà Xuất bản Tổng cục Đường bộ, (?), trang 276-277.
                        150 Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 606.
                        151 Cụ thể: Trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu 1.202 xe ô tô các loại; 58 tàu thuyền đường sông, gồm tàu chở hàng, tàu chở khách và tàu kéo - số phương tiện vận tải này chủ yếu thuộc người dân Sài Gòn và các tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang…; Tịch thu ba tàu biển, trưng mua 14 chiếc; Quốc hữu hóa hai đoàn hoa tiêu; Cho phép một số công ty xây dựng tư nhân, các nhà thầu chịu cải tạo và chịu sự điều hành của nhà nước; Trưng mua tài sản của một số công ty như: Công ty Huỳnh Như Hoa, các cổ phần trong Công ty Nguyễn Văn Tấn, Công ty Lodisbagco; Tổ chức công ty hợp doanh đối với Công ty Vinameco, Trần Dương và Trần Văn On (Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 606-607). Tính đến khi hoàn thành “công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam”, Chính quyền đã: “Trưng mua, trưng thu được 3.287 xe ô tô loại 5T và 40 ghế hành khách trở lên, hợp với các đoàn xe từ khu giải phóng, xe ngoài Bắc vào là 1.105 chiếc, tổng cộng: 4.393 xe tổ chức thành 14 xí nghiệp quốc doanh… Nhà nước cải tạo và xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về công cụ sản xuất được 14.059 xe tổ chức thành 45 xí nghiệp công tư hợp doanh vận tải ô tô… Tổng cộng cả trưng mua, trưng thu, cải tạo được 17.346 xe loại trọng tải lớn tổ chức thành 59 xí nghiệp vận tải quốc doanh và xí nghiệp vận tải công tư hợp doanh… Số xe vận tải nhỏ (từ 2,5T và 25 ghế trở xuống) đã được cải tạo là 28.856 xe, tổ chức thành 281 Hợp tác xã, ở hầu hết các quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh hoặc thành phố…” (Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 276-277.).
                        152 Trích Chuyện thời bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn, 2009, trang 53-54.
                        153 Cư trú tại 26C, ấp 4, xã Tân Kiên, Bình Chánh, Sài Gòn.
                        154 Trích Chuyện thời bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn 2009, trang 53.
                        155 Tương đương 100 lượng vàng.
                        156 Sđd, trang 53-54.
                        157 Sài Gòn Giải Phóng, 23-3-1978.
                        158 Sài Gòn Giải Phóng, 1-8-1977.
                        159 “Điều 1, Từ nay các nhà tư sản thương nghiệp không được tiếp tục làm nghề buôn bán nữa và được nhà nước khuyến khích giúp đỡ chuyển sang sản xuất. Điều 2, Khi nhận được lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh thương nghiệp, các nhà tư sản thương nghiệp phải kê khai theo bản mẫu quy định, cùng với tổ công tác của quận hoặc huyện, tiến hành kiểm kê hàng hóa tồn kho, cơ sở, phương tiện kinh doanh của mình và làm bản đăng ký chuyển sang sản xuất để đóng góp phần xây dựng đất nước. Điều 3, Sau khi kiểm kê xong phải lập biên bản có chữ ký của cán bộ, nhân viên kiểm kê, đại diện của Ủy ban nhân dân phường, xã và chủ hộ hoặc đại diện hộ. chủ hộ được giữ 1 bản. Điều 4, Cơ quan chủ quản, ngành, hàng thuộc sở thương nghiệp hoặc công ty vậ tư tổng hợp thành phố có trách nhiệm trưng mua hoặc mua lại hàng tồn kho. Cơ sở và phương tiện kinh doanh đã kiêm kê theo lệnh của chủ tịch Ủy ban nhân dân TP, để đưa vào phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Điều 5, Những người vi phạm các quy định trên đây, tùy theo đối tượng, tính chất và mức độ vi phạm, sẽ bị xử lý về hành chính, kinh tế hoặc bị truy tố ra tòa án nhân dân theo luật pháp hiện hành…” (Vũ Đình Liệu, Quyết định 341/QĐ- UB, SGGP, 23-3-1978).
                        160 Năm 1978 là Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh.
                        161 Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 4-12-2004.
                        162 Để mô tả tính nguyên tắc của ông Đỗ Mười, đồng thời minh họa cho tính khắc nghiệt của thời bao cấp, trước năm 1975, ở miền Bắc từng có giai thoại: “Một lần Đỗ Mười vào cửa hàng ăn uống quốc doanh gọi một tô phở, khi cô mậu dịch bưng ra, ông ngồi đếm từng miếng thịt, phát hiện có ăn bớt bèn cách chức ngay cửa hàng trưởng”. Giữa thập niên 80, theo ông Lê Văn Triết: “Một lần ông Đỗ Mười ghé qua Long Hồ, Vĩnh Long, thăm gia đình ông Phạm Hùng, người nhà ông Phạm Hùng ở quê biếu ông Đỗ Mười 10kg gạo. Trên đường về Sài Gòn, xe của ông Đỗ Mười bị một trạm kiểm soát địa phương chặn lại. Khám xe thấy có một bao gạo, bèn quyết định tịch thu. Người lái xe bảo, đây là gạo của đồng chí Đỗ Mười. Viên trạm trưởng trả lời, Đỗ Mười chứ Đỗ Mười Một cũng giữ”. Giai thoại kể thêm: “Đỗ Mười lập tức khen thưởng người trưởng trạm”.
                        163 Sài Gòn Giải Phóng, 27-3-1978.
                        164 Sài Gòn Giải Phóng, 27-3-1978.
                        165 Theo Tống Văn Công, Tổng Biên tập báo Công Nhân Giải Phóng, người tháp tùng chuyến đi của ông Mai Chí Thọ.
                        166 Tin Sáng, 12-9-1978.
                        167 Tuổi Trẻ, 14-9-1975.
                        168 Tuổi Trẻ, 31-3-1978.
                        169 Nhật ký Lý Mỹ: “Chủ nhật 7-3-76: Tại sao mình yếu đuối thế này? Qua cơn bệnh, lại bị gia đình rầy rà, mình khổ tâm quá. Thôi, hay là mình xin ra khỏi Đoàn vậy, bởi vì mình cảm thấy chưa xứng đáng là một đoàn viên khi gia đình mình vẫn còn sống trong cảnh bóc lột. Nhưng như vậy mình xin vào Đoàn để làm gì, đọc Pa-ven để làm gì trong khi chỉ một ít khó khăn trong gia đình thì mình lại chùn bước. Suy nghĩ như thế thật tồi. Không, hãy ngẩng đầu lên, hãy kiên nhẫn vượt qua mọi khó khăn” (Tuổi Trẻ, 31-3-1978).
                        170 Số 4 Duy Tân, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh.
                        171 Trích nhật ký Lý Mỹ: “Ngày 23-3-1978: Hơn 6 giờ chiều, đèn đường đã bật sáng cả con đường từ trường đến nhà. Con đường hôm nay nom có vẻ khác lạ hơn những ngày khác. Có nhiều toán thanh niên đang đóng chốt ở những cửa hàng lớn dọc trên con đường. Rồi đây cuộc sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay- ngày mở đầu một cuộc đấu tranh lớn. Mỹ vui và phấn khởi khi nghe đồng chí Thường vụ Thành đoàn tập huấn. Đây đúng là thời cơ để thuyết phục gia đình chuyển sang sản xuất, thời điểm chấm dứt cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong gia đình, một thời điểm mà mình đã mong ước từ bấy lâu nay… Ngày 24-3-1978: “Mình nắm lấy thời cơ nầy để tuyên truyền đường lối, chính sách cải tạo thương nghiệp tư sản cho gia đình. Mình phải kiên trì thuyết phục cha mẹ, phải bám gia đình từng giây, từng phút, giúp đỡ gia đình kê khai tài sản”. Ngày 24-3-1978 của Lý Mỹ được báo Tuổi Trẻ tường thuật: Đi kèm bên mẹ, Mỹ luôn nhắc nhở mẹ nên kê khai những món hàng gì, thỉnh thoảng động viên người mẹ đang buồn rầu, hoang mang bởi những tin đồn thất thiệt. “Tịch thu tài sản rồi phải không? Mầy hãy lo lấy thân mầy đi, còn ăn học gì nữa”. “Đâu có ai tịch thu tài sản của mình đâu má. Mình kê khai đúng, đầy đủ, nhà nước sẽ trưng mua, với số vốn đó gia đình mình chuyển sang cách làm ăn mới. Vấn đề là mình có thành thật kê khai không”. “Vậy hả”. Rồi: Má Mỹ trở nên yên tâm hơn, sự bình tĩnh đã bắt đầu lộ rõ trên gương mặt. Trong lúc đó, Mỹ liến thoắng: “Tư trang, tư liệu sinh hoạt phải viết vào mục nào hả đồng chí?”. Miệng nói, tay viết, mà mắt Mỹ vẫn liếc vào những chiếc tủ đựng đầy ắp những món hàng để xem chừng mình đã khai đầy đủ chưa. Bây giờ, Mỹ đã trở thành một người chủ quản của gia đình. Mỹ thấy tự hào và sung sướng lạ. (Tuổi Trẻ, 31-3-1978).
                        172 Số ra ngày 8-4-1978.
                        173 Xí nghiệp “Bình Minh 9”.
                        174 Trong giai đoạn 1975-1980, Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa hơn 832 nghìn người hồi hương hoặc đi kinh tế mới ở các tỉnh từ miền Tây, miền Đông Nam Bộ cho tới Tây Nguyên. 90% số này rời khỏi Thành phố trong giai đoạn 1975-1980, thời gian tư sản bị cải tạo và chính sách sổ gạo bắt đầu được thắt chặt. Bằng những quyết định hành chánh ấy, dân số Sài Gòn đã giảm từ 3,391 triệu người năm 1976 xuống còn 3,201 triệu người năm 1980. 7% lượng người nhập cư mới có nơi sinh là Sài Gòn, họ là những người từng bị đưa đi kinh tế mới trong thời kỳ 1975-1980. Cho đến cuối thập niên 1990, vẫn còn 24% số người không có hộ khẩu thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh vốn là người Sài Gòn-Gia Định. Họ là nạn nhân của chính sách kinh tế mới trong giai đoạn 1975-1980.
                        175 Sài Gòn Giải Phóng, 10-4-1978.
                        176 Sài Gòn Giải Phóng, 13-4-1978.
                        177 Sài Gòn Giải Phóng, 18-4-1978.
                        178 Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Lê Thành Nhơn phát biểu trước lễ tiễn 200 nhà tư sản thương nghiệp đăng ký đi kinh tế mới Gia Lành, Lâm Đồng, sáng 18-4-1978- SGGP 19-4-1978.
                        179 Tuổi Trẻ, 23-6-1978.
                        180 Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 4-12-2004.
                        181 Đào Duy Tùng, 2008, trang 216-217-218.
                        182 Chỉ thị 147, năm 1977, của Thủ tướng Chính phủ.
                        183 Sài Gòn Giải Phóng, 14-7-1977.

                        Comment


                        • #13
                          Chương 4

                          Nạn Kiều

                          Năm 1978, Hà Nội phát hiện Bắc Kinh hậu thuẫn cho Pol Pot quấy phá biên giới Tây Nam. Hơn một triệu người Hoa ở Việt Nam đã trở thành mối lo “con ngựa thành Troy” cho một cuộc chiến tranh khi ấy được tin là không tránh khỏi. Ba “phương án” đưa người Hoa ra khỏi Việt Nam đã được triển khai. Bắc Kinh tố cáo Việt Nam gây ra vụ “nạn Kiều”. Việt Nam tố cáo Bắc Kinh “kích động”. Ở giữa “hai làn đạn”, cộng đồng người Hoa ở Việt Nam đã phải trải qua cơn biến động không kể hết đau thương.
                          Đội quân thứ năm
                          Đầu năm 1978, ông Lê Duẩn đưa Đỗ Mười vào miền Nam thay thế Nguyễn Văn Linh chỉ huy công cuộc “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”. Sau năm 1986, sự kiện này đã được nêu lên như là một bằng chứng để nói ông Nguyễn Văn Linh là người chống lại cải tạo tư sản. Tuy nhiên, theo ông Trần Phương, người có sáu tháng làm phó cho ông Nguyễn Văn Linh ở Ban Cải tạo công thương nghiệp Trungương: “Trong vấn đề cải tạo, Mười Cúc chỉ khác Đỗ Mười ở cách làm chứ không khác ở quan điểm cải tạo hay không cải tạo. Ở thời điểm ấy, Lê Duẩn chọn Đỗ Mười và đứng sau lưng Đỗ Mười vì ông muốn giải quyết vấn đề người Hoa gấp. Điều mà Lê Duẩn không tin là Mười Cúc làm được”.
                          Ông Trần Quốc Hương, khi ấy là phó bí thư Thành ủy, kể lại: Vào Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Lê Duẩn mời ông đến T78, hỏi về tình hình người Hoa. Cảnước khi ấy có khoảng một triệu hai trăm ngàn người Hoa. Ở miền Nam chiếm một triệu và riêng Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng hơn nửa triệu. Ông Mười Hương báo cáo: “Người Hoa ở Thành phố hoạt động trên nhiều mặt, nhưng mạnh nhất là về kinh tế. Từ sau khi ta chủ trương đánh tư sản mại bản, hoạt động kinh tế của người Hoa có bị giảm sút, nhưng họ vẫn có vai trò. Giá cả vàng và ngoại tệ cứ mỗi sáng sớm lại được quyết định bởi người Hoa ở một số nơi trong Chợ Lớn”. Ông Lê Duẩn nói: “Không thể thế được. Ngô Đình Diệm cấm người Hoa không được kinh doanh mười một ngành nghề, theo tôi chỉ cần một thôi là cấm người Hoa không được kinh doanh buôn bán. Nhân có nhiều người đang di tản, thành phố nên có cách đưa người Hoa ra đi”.
                          “Người Hoa không được kinh doanh buôn bán” được ngầm hiểu như một tư tưởng chỉ đạo của chiến dịch “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”. Giữa tháng 3- 1978, ông Đỗ Mười nhanh chóng tập kết lực lượng tại các biệt thự trong khu Thảo Điền, Thủ Đức. Trưởng Ban Hoa vận Thành ủy, ông Nghị Đoàn, kể: “Ông Đỗ Mười vào là kêu tôi lên báo cáo ngay, ông nói cho tôi biết, Chợ Lớn là trọng điểm của đợt cải tạo”.
                          Chợ Lớn là trung tâm buôn bán lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam. Theo ông Phạm Văn Hùng, thường gọi là Ba Hùng, Thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt: “Trung ương cho rằng thật bất lợi khi giữ 500.000 người Hoa trong thành phố. Họ sẽ nắm kinh tế và rồi họ sẽ trở thành đội quân thứ năm. Trung ương chủ trương đưa bớt người Hoa ra khỏi thành phố”. Ông Hùng nói: “Cả anh Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương đều không đồng ý, nhưng Trung ương giữ ý kiến, Trung ương muốn ‘xé’ người Hoa ra, đưa về các tỉnh”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh, về mặt chính sách, chủ yếu nhắm vào giới buôn bán, nhưng trên thực tế buôn bán lại là sở trường của người Hoa, do đó, mặc nhiên họ trở thành số đông trong đối tượng dính vào cải tạo. Cũng có lúc có chủ trương đưa bớt người Hoa ra khỏi Thành phố, bố trí người Hoa sống xen với người Việt theo kiểu ‘xôi đậu’, không để họ tập trung. Việc này được làm mạnh tay hơn do căng thẳng của mình và Trung Quốc”.
                          Theo thống kê đến tháng 3-1979 của Thành phố Hồ Chí Minh: Trước ngày 30-4- 1975 có 200 nhà tư sản lớn người Hoa bỏ chạy khỏi Sài Gòn – Chợ Lớn; chín mươi tám tư sản người Hoa trong số 161 tư sản mại bản còn lại ở Sài Gòn đã bị “đánh” trong khoảng từ tháng 9-1975 đến năm 1977. Hơn 4.000 hộ tư sản người Hoa khác đã bị cải tạo trong khoảng hai tuần đầu sau khi ông Đỗ Mười bắt đầu chiến dịch. Trong số 28.787 hộ bị quy là tư sản thương nghiệp và bị cải tạo, ngoài 2.500 hộ “có công với Cách mạng” hoặc là “cơ sở Cách mạng” được “ở lại thành phố theo diện chính sách”, một số chuyển sang sản xuất tại chỗ, một số “được bố trí vào mạnglưới phân phối xã hội chủ nghĩa”, 3.494 hộ bị đưa đi các tỉnh dưới danh nghĩa “đăng ký đi kinh tế mới”.
                          Cũng có một số thương nhân dự tính “chuyển sang sản xuất” thật. Nhưng khi đến Lâm Đồng hay xuống Đồng Tháp Mười, nhìn những căn lán vách lá tuềnh toàng, bên trong nền nhà, cỏ cây mô đất không kịp cắt dọn, các nhà tư sản hiểu ra mục tiêu của chính quyền. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy đang là một thanh niên xung phong, kể: “Chúng tôi được giao nhiệm vụ xây dựng các làng kinh tế mới để đón đồng bào. Cũng là những thanh niên mới từ thành phố xuống, chúng tôi chặt cây, cắt tranh dựng cấp tốc hàng loạt… Nhưng, làm xong nhìn lại, thấy đến thanh niên xung phong cũng khó lòng mà ở trong những túp lều như thế”. Nhiều người trở lại thành phố ngay, nhiều người tạm dừng lại ít bữa để nghe ngóng. Ít lâu sau, các nhà tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa, được móc nối, kêu nộp vàng để được ra đi “bán hợp pháp”.
                          Ông Trần Quốc Hương nói tiếp: “Lần thứ hai, Tổng Bí thư Lê Duẩn cho gọi tôi đến T78. Lần này ông không nói gì nhiều, chỉ nhắc, tình hình giữa ta và Trung Quốc thêm xấu đi, Thành phố cần khẩn trương đưa người Hoa ra đi”. Sau buổi làm việc đó với Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quốc Hương nói ông đã có “nhiều đêm không ngủ”. Trong những năm 1938-1940, các nhà lãnh đạo Đảng như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, khi từ Trung Quốc về Sài Gòn, nhiều lúc đã phải dựa vào người Hoa Chợ Lớn. Trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn có rất ít những liên hệ cá nhân với các nhà lãnh đạo Trung Hoa Cộng sản. Nhưng người cận vệ vào sinh ra tử nhất mực trung thành của ông là một người Việt gốc Hoa, ông Năm Hoành. Người lái chiếc xe Ford bốn chỗ chở ông Lê Duẩn từ Sài Gòn theo đường công khai sang Phnom Penh cũng là một nhà tư sản người Hoa, ông Lai Thanh. Người được phái từ Hà Nội vào Phnom Penh chuyển lá thư của ông Phạm Hùng gửi cho ông Lê Duẩn cũng là người Việt gốc Hoa, nữ tình báo Hồ Anh. Người nhận lá thư này từ Hồ Anh, ông Q.M., lại là một cán bộ thuộc Hoa Kiều vụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động tại miền Nam Việt Nam.
                          Năm 1949, Q.M. đã gặp ông Lê Duẩn ở Đồng Tháp Mười. Từ Phnom Penh, Q.M. trong vai một người cháu dẫn “ông cậu” Lê Duẩn “chui” xuống một hầm tàu chật chội và nóng bức, trong suốt năm ngày, xuôi dòng Mekong ra biển rồi đi tớiHongkong. Từ Hongkong, cán bộ lễ tân của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chờ sẵn, dẫn “hai cậu cháu” ông Lê Duẩn đi làm giấy tờ nhập cảnh theo diện “kiều dân Trung Hoa về nước”. Ngày 23-5-1957, phái viên Trung Quốc đã cùng với Hồ Anh đưa ông Lê Duẩn về Tỉnh ủy Quảng Châu. Theo bà Hồ Anh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đón tiếp ông Lê Duẩn rất trọng thị. Trên đường bay trở lại Việt Nam, những đồngchí Trung Hoa tinh tế đã lấy lý do “thời tiết xấu”, cho dừng máy bay chở ông Lê Duẩn ở Nam Ninh. Tại đó, các “đồng chí Trung Quốc” sắp xếp để ông Lê Duẩn có cuộc đoàn tụ cảm động với Lê Tuyết Hồng, người con gái được sinh ra khi ông Lê Duẩn đang ở trong tù. Tuyết Hồng khi đó đang được Trung Quốc nuôi ăn học ở ký túc xá Quế Lâm.
                          Hiệp định Geneva
                          Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngồi vào bàn đàm phán Hội nghị Geneva một ngày sau khi Tướng Giáp bắt sống Tướng De Castries cùng với 16.000 quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Những người Việt Nam Cộng sản lúc ấy tin rằng họ sẽ giành được cả nước nếu tiếp tục chiến đấu.
                          Ở Nam bộ, Hiệp định Geneva được coi là “xên non”. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tướng Đồng Văn Cống đánh một đêm giải phóng hàng chục đồn; Tây, Ngụy hoang mang tột độ, cứ hù là chạy. Chỉ cần giữ thêm một tháng nữa là mình sẽ làm chủhết vùng nông thôn Nam bộ”. Ông Kiệt nói: “Tụi tôi tiếc không thể tưởng tượng được”. Khi thay mặt Trung ương triển khai Nghị quyết thi hành Hiệp định Geneve ở miền Nam, ông Lê Duẩn nói: “Ta không tán thành, đây là do Trung Quốc và Liên Xô ép”.
                          Hành động của Chu Ân Lai tối 22-7-1954 cũng khiến cho nhiều nhà ngoại giao miền Bắc Việt Nam “để bụng”. Hôm ấy, sau khi ký Hiệp định Geneva, Chu tổ chức một dạ tiệc chia tay, mời cả Ngô Đình Luyện, người của phía Việt Nam Quốc gia. Trong bữa tiệc, Chu còn đề nghị chính quyền Sài Gòn mở cơ quan đại diện ngoại giao ở Bắc Kinh: “Tất nhiên, về mặt ý thức hệ thì Phạm Văn Đồng gần gũi chúng tôi hơn, nhưng điều đó không loại bỏ việc có đại diện từ miền Nam. Suy cho cùng, chẳng phải tất cả các đồng chí đều là người Việt Nam, và chẳng phải tất cả chúng ta đều là người châu Á hay sao?”.
                          Trong hồi ký được công bố chính thức trên báo Nhân Dân184, thư ký kiêm phụ trách báo chí của đoàn Việt Nam trong Hội nghị Geneva, ông Nguyễn Thành Lê, gọisự kiện Chu Ân Lai mời Ngô Đình Luyện mở tòa lãnh sự tại Bắc Kinh là “câu kết với Pháp và tay sai”. Ông Lê cho rằng “Bắc Kinh đã ép buộc Hồ Chí Minh phải chia đôi Việt Nam theo Vĩ tuyến 17”. Theo ông Hoàng Tùng, ngày 3-7-1954, sau khi đạt
                          được thỏa thuận với Mỹ và Pháp, Chu rời Geneva về gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tại Liễu Châu, thông báo với Hồ Chí Minh ý kiến của Molotov và của ông ta, dự định chia cắt Việt Nam thành hai miền ở Vĩ tuyến 17.
                          Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh nhất quyết đòi, dẫu có lùi cũng chỉ Vĩ tuyến 15 hoặc tối thiểu là 16. Một mặt, Chu Ân Lai “dọa”, Hoa Kỳ có thể nhảy vào vòng chiến và khi đó, Liên Xô và Trung Quốc sẽ không thể hỗ trợ cho Hồ Chí Minh. Một mặt, ông ta mềm dẻo: “Ghi nhớ lời dặn của Hồ Chủ tịch, nhưng xin phép, tướng ngoài biên ải được căn cứ vào tình hình thực tế mà quyết định”. Theo ông Việt Phương, một thư ký trong Đoàn đàm phán Hiệp định Geneva của Việt Nam: “Về sau Phạm Văn Đồng thừa nhận, khi Chu Ân Lai nói sông Bến Hải sẽ được lấy làm giới tuyến, ông Phạm Văn Đồng không biết là Việt Nam có con sông ấy. Họ đã nghiên cứu kỹđến như vậy để ép chúng ta”.
                          Trung Quốc, Liên Xô rõ ràng đã không làm hết sức mình cho Việt Nam trên “tinh thần quốc tế vô sản”, nhưng Việt Nam không thể nào độc lập khi không chỉ lệ thuộc“hai ông anh lớn” về vũ khí để đánh nhau với người Pháp ở Điện Biên Phủ mà còn lệ thuộc cả phương tiện đàm phán trong Hội nghị Geneva. Theo ông Việt Phương, lúc đó đoàn đàm phán không có điều kiện để trao đổi với Đảng và Chính phủ. Tất cả mọi thông tin liên lạc đều phải nhờ qua Trung Quốc. Từng cuộc họp một, Phạm Văn Đồng báo cáo về cho Hồ Chí Minh đều phải sử dụng điện đài và mật mã của Đoàn Trung Quốc. Trong thời gian nghỉ, Chu Ân Lai lại bay về gặp Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Mọi tính toán của Đoàn và chỉ đạo ở nhà đều ở trong tay Trung Quốc.
                          Ý thức hệ đã từng tạo ra sự gần gũi giữa Hà Nội với Bắc Kinh. Nhưng mối quan hệ quá tin cậy lẫn nhau đôi khi lại rất dễ gây nghi kỵ. Trung Quốc, Liên Xô khi xử lý vấn đề Việt Nam, và ngay cả Việt Nam trong mối quan hệ với người Khmer cũng phải ưu tiên lợi ích quốc gia. Trong khi đó, những nhà lãnh đạo các đảng “đàn em” lại chờ đợi các “ông anh” bảo bọc trong tinh thần vô sản. Chính ý thức hệ đã làmcho những người cộng sản ở nước nhỏ tự huyễn hoặc về sứ mệnh “tiền đồn”185 đi đến chỗ bị hụt hẫng khi bị đem ra mặc cả cho quyền lợi của các siêu cường khác. “Chổi ngắn không quét xa”
                          Nếu như khi ở miền Nam, ông Lê Duẩn chỉ nghĩ đến người Mỹ và kẻ thù trực tiếp của ông, “chính quyền tay sai” Ngô Đình Diệm, thì khi ra tới Hà Nội, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba đánh giá, muốn đánh Mỹ thì trước tiên phải có ba cái không sợ: không sợ Mỹ, không sợ Liên Xô, không sợ Trung Quốc. Ông Hoàng Văn Hoan nghe, tròn mắt: sao nói không sợ Trung Quốc?”. Ông Hoàng Tùng xác nhận: “Cụ Hồ lúc ấy cũng ở trong tình trạng ‘ngoảnh mặt sang Tề e Sở giận, quay đầu sang Sở, sợ Tề ghen’”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể tiếp: “Trước khi họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, anh Ba mất ba đêm không ngủ để suy nghĩ về thái độ của Liên Xô, Trung Quốc; họ giúp mình nhưng có chi phối đường lối chiến tranh của mình không? Đó là cái gay gắt nhất”.
                          Theo bà Nguyễn Thụy Nga – vợ thứ hai của ông Lê Duẩn, người mà từ năm 1957-1962, khi đang học ở Bắc Kinh, thường tháp tùng Lê Duẩn vào Trung Nam Hải và được Mao Trạch Đông gọi là “Lý Phu nhân” – năm 1973, từ Khu IX ra Hà Nội, bà được ông Lê Duẩn tâm sự: “Khi ta chủ trương giải phóng miền Nam, hai ông bạn lớn đã làm anh rất đau đầu. Liên Xô sợ mình đánh sẽ nổ ra chiến tranh thế giới thứ III; Trung Quốc muốn mình trường kỳ mai phục ‘chờ Trung Quốc mạnh sẽ đẩy Mỹ xuống Biển Đông’. Anh không để mất lòng ai nhưng lúc nào cũng phải giữ cho đúng tính chất độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam”186. Trên thực tế, lập trường của Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã thay đổi vào giữa thập niên 1960.
                          Cuối thập niên 1950, khi ông Lê Đức Anh cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến Trung Quốc, xin súng trung liên, đại liên và ĐKZ để đưa vào Nam, Trung Quốc chỉ cho “toàn súng trường K44 bắn phát một, họ bảo để trang bị cho dân quân du kích miền Nam phòng chống càn”187. Nhưng, cuối năm 1966, khi tháp tùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc, ông Lê Đức Anh thấy Đoàn đã được đón tiếp bởi Mao Trạch Đông cùng đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại thương.
                          Theo ông Lê Đức Anh: “Khi Mao hỏi: ‘Quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam đông, tư tưởng của người dân và chiến sĩ thế nào? Hiện nay cách mạng ở Miền Nam của các đồng chí có khó khăn gì?’, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đề nghị để ông Lê Đức Anh trả lời. Tướng Lê Đức Anh nói: ‘Mỹ vào đông vậy chứ đông hơn nữa thì bộ đội và nhân dân miền Nam cũng quyết đánh. Hiện nay, xe tăng và máy bay của Mỹ rất nhiều nhưng Việt Nam thiếu vũ khí chống tăng, bắn máy bay và bắn tàu thủy, thiếuđô la để mua gạo, vì từ trước đến nay cách mạng Miền Nam Việt Nam vẫn mua gạo ở Campuchia và Thái Lan là chủ yếu, mà mua bên đó phải mua bằng đô la’. Nghe báo cáo vậy, ông Mao liền chỉ tay vào các quan chức, những người dưới quyền ông đang có mặt tại đó: Hãy giải quyết cho các đồng chí Việt Nam”188.
                          Trên thực tế, mỗi khi miền Bắc điều chỉnh đường lối “cách mạng miền Nam” đều phải sang bàn với Trung Quốc. Theo ông Hoàng Tùng: “Không bàn thì họ không viện trợ”. Ông Nguyễn Nhật Hồng xác nhận: “Trung Quốc giao ngoại tệ viện trợ theo phương thức rải đều từng tháng, từng quý. Nhu cầu viện trợ được B29 lên kếhoạch trình ông Phạm Hùng và Lê Thanh Nghị duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch thường bị Trung Quốc thay đổi theo ý định của họ”. Trong những năm chiến tranh, ngoài vũ khí, trang bị kỹ thuật189, Trung Quốc còn viện trợ rất lớn về tiền mặt. Theo Báo cáongày 25-11-1979 của B29, cơ quan đặc trách chi viện cho miền Nam, phần tiền mặt do Trung Quốc trực tiếp viện trợ từ năm 1964-1975 chiếm tới 626.042.653 USD. Năm 1973, khi ông Võ Văn Kiệt ra Bắc gặp ông Lê Duẩn, Lê Duẩn hỏi: “Có tiền mua súng đánh được không?”. Ông Kiệt mừng rỡ: “Mua được súng Mỹ mà đánh Mỹ thì quá đã”. Ông Lê Duẩ n hỏ i Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghi: “Có tiề n đưa Sá u Dânkhông?”. Theo yêu cầu của Lê Thanh Nghị, ông Nguyễn Nhật Hồng kiểm tra quỹthấ y cò n trên hai triêụ USD tiề n măṭ . Ông Hồng nói với ông Nghị: “Muố n nhiều hơn thı̀ cầ n thờ i gian để xin”. Lê Thanh Nghi nó i: “Hai triêụ là anh Sá u mừng lắ m rồi”. Số tiền trên được giao cho thư ký mới của ông Võ Văn Kiệt là ông Phạm Văn Hùng. Lần đầu tiên cầm hai triệu USD tiền mặt, ông Ba Hùng nói: “Thôi khỏi đếm”. Trong sổ của B29 chỉ lưu lại chữ của ông Phạm Văn Hùng ghi: “Nhận đủ 2 tấn A”.
                          Quỹ tiền mặt đặc biệt này được Trung Quốc chi khá hào phóng. Nhiều khi, ông Nguyễn Nhật Hồng chỉ cần đến một ngân hàng do Trung Quốc chỉ định, vào phòng giám đốc là được giao luôn cả một va-li tiền. Một lần khi ông Hồng cầm chiếc va-licó một triệu USD đi tàu từ Quảng Châu về Hà Nội, khi tới Thẩm Dương cả con tàu bị Hồng Vệ Binh bắt giữ. Ông Hồng bị giữ lại đấy một tuần mới liên lạc được với Hà Nội để can thiệp Bắc Kinh giải thoát. Mặc dù đã chi khá hào phóng cho các nhu cầu chiến tranh, năm 1975, quỹ tiền mặt nằm tại két của B29 vẫn còn năm mươi triệu triệu USD; của Chiến trường B2 và Khu V vẫn còn năm mươi ba triệu190.
                          Sự hào phóng đó của Trung Quốc không làm cho ông Lê Duẩn lơ là cảnh giác, có lẽ đó là phản xạ của một người đã sống nhiều năm bị truy lùng gắt gao. Ông Hoàng Tùng cũng xác nhận, mỗi lần Quân ủy bàn chủ trương đều họp trong Bộ Tổng Tham mưu, những ủy viên Bộ Chính trị có mối liên hệ mà ông Lê Duẩn cho rằng là “quáthân với Trung Quốc”, hoặc có giai đoạn là “quá thân với Liên Xô”, đều được biết rất ít đến các kế hoạch chiến tranh.
                          Theo một trợ lý của Bí thư Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân, gần như các cuộc họp quan trọng, anh Ba đều triệu tập khi ông Hoàng Văn Hoan đang công tác hoặc nghỉ mát ở nước ngoài. Thỉnh thoảng, ông Hoan lại thắc mắc với ông Vũ Tuân, chánh Văn phòng Trung ương: “Răng Bộ Chính trị không bàn chuyện quân sự hè?”. Ông Vũ Tuân nói: “Anh sang Bác mà hỏi”. Theo ông Trần Phương: “Biết Hoan như vậy
                          mà phải sau khi giải phóng miền Nam, ở Đại hội IV, Lê Duẩn mới dám đưa Hoan ra khỏi Bộ Chính trị”.
                          Trong chỗ riêng tư, vợ Lê Duẩn, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh (Lê Duẩn) nói: ‘Lần Việt Nam xin đạn pháo để chuẩn bị giải phóng miền Nam, Trung Quốc nóikhông có, nhưng Việt Nam đã dự trữ từ lâu đủ đạn để đánh. Khi xin 2.000 chiếc xe vận tải Giải phóng thì Trung Quốc ra điều kiện ‘phải cho 500 lái xe Trung Quốc theo’. Anh nói: ‘Một thằng tôi cũng không cho, nếu không có xe thì chúng tôi vác
                          bộ, thồ bằng xe đạp’. Các anh khác bảo: ‘Anh làm gì mà căng thế?’. Anh nói: ‘Trung Quốc nói làm đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ họ muốn thăm dò ta về đường Trường Sơn thì nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn. Về chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế cả Đông Dương, cho nên mình phải tính”191.
                          Những người thân của Tổng Bí thư Lê Duẩn thường có khuynh hướng mô tả ông như là một người cảnh giác với các âm mưu của Trung Quốc ngay cả khi đang xin viện trợ. Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng, phải sau năm 1972 thái độ của Lê Duẩnđối với Trung Quốc mới bắt đầu thay đổi192. Theo ông Trần Phương: “Năm 1972, khi Trung Quốc tiếp Nixon, Lê Duẩn nói, chúng ta đã bị bán rẻ cho Mỹ để người Trung Quốc thay Đài Loan ngồi vào chiếc ghế ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Năm 1954, Liên Xô có lợi ích khi hòa hoãn với Mỹ còn Trung Quốc thì muốn Việt Nam bị chia cắt để vĩnh viễn ở thế chư hầu”.
                          Cũng năm 1973, ông Lê Duẩn kể với bà vợ Nguyễn Thụy Nga: “Khi Nixon thương lượng với Trung Quốc, nó ra điều kiện nếu Trung Quốc để cho Mỹ ném bom B52 ra miền Bắc thì Mỹ sẽ nhường hòn đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc. Trước kia Trung Quốc có hứa nếu Mỹ đánh miền Bắc thì Trung Quốc sẽ can thiệp, nhưng sau chuyến đi của Nixon, Trung Quốc tuyên bố ‘mi không đụng đến ta, ta không đụng đến mi’. Do đó, Mỹ cho máy bay bắn phá liên tục mười hai ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng, đánh các đê điều ở miền Bắc, với ý đồ đưa miền Bắc vào thời kỳ đồ đá. Mỹ dùngB52, dùng F111A, hai loại máy bay hiện đại nhất. Sau đó, Chu Ân Lai sang gặp anh ở Hồ Tây. Ông đi dưới bậc thang lên đưa tay, anh không bắt. Anh nói: ‘Các đồng chí đã bán đứng chúng tôi. Các đồng chí lấy xương máu của dân tộc Việt Nam để trả giá với Mỹ. Chúng tôi biết nhưng chúng tôi không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến cùngvà nhất định chúng tôi sẽ thắng’ ”193.
                          Sau cuộc gặp này với Lê Duẩn, Chu Ân Lai tới nhà khách Lê Thạch để gặp Hoàng thân Sihanouk, khi ấy cũng đang ở Hà Nội. Theo Sihanouk: “Chu trông mệt mỏi và có vẻ bị kích động bởi cuộc thảo luận mà ông vừa tiến hành với các đồng chí Bắc Việt Nam của ông. Hình như ông đang cáu”194. Theo Sihanouk thì đây là chuyến đi mà Chu Ân Lai muốn giải thích chính sách mới của Trung Quốc với người Mỹ. Chu đã nói với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam “gay gắt và cứng rắn” rằng mối quan hệ mới đó sẽ dẫn tới hòa bình ở Đông Dương.
                          Không chỉ phản ứng trong hội đàm, khi đưa tiễn Chu Ân Lai, thay vì đi cùng thầy trò Chu ra tận chân cầu thang máy bay, Lê Duẩn đã dừng lại ngay cửa nhà ga sânbay Gia Lâm. Các quan chức Việt Nam tất nhiên cũng phải đứng lại. Chu Ân Lai và người phiên dịch, Lương Phong, gần như phải lủi thủi bước lên máy bay đi về. Lương Phong cho rằng hành động đó của ông Lê Duẩn là rất phản cảm195. Sau chuyến đi này của Chu, Trung Quốc bắt đầu “kiếm chuyện” trên vùng biên giới.
                          Ngày 05-06-1973, Chu Ân Lai lại đến Hà Nội khuyên ông Lê Duẩn nên thư giãn và xây dựng lực lượng, trong khoảng năm đến mười năm tới nên để miền Nam Việt Nam, Lào, và Campuchia hòa bình, độc lập, và trung lập. Trong số các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thời bấy giờ, Chu Ân Lai được đánh giá là khá chân thành. Nhưng theo ông Trần Phương, về sau, khi kết nối các sự kiện, “anh Ba cay lắm vì Trung Quốc khuyên Việt Nam làm theo những gì mà họ đã thỏa thuận với Mỹ”196.
                          Phó Thủ tướng Trần Phương nói tiếp: “Năm 1972, khi Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn Đồng: Chổi ngắn không quét được xa, Lê Duẩn đã bắt đầu hiểu lòng dạ của người Trung Quốc. Họ chỉ muốn cung cấp vũ khí để Việt Nam chiến đấu giữ chân người Mỹ ở miền Nam thay vì có thể tiến gần họ. Năm 1973, khi Chu Ân Lai khuyên giữ trung lập miền Nam, Lê Duẩn biết, nếu cứ giải phóng miền Nam thì không thể nào tránh làm cho Bắc Kinh tức giận”.
                          Hoàng Sa
                          Câu chuyện mặc cả giữa Mỹ và Trung Quốc về “phạm vi mười hai hải lý” được ông Lê Duẩn nói với vợ từ năm 1973, chứng tỏ tin tức tình báo mà Hà Nội nắm được là khá tốt.
                          Ngày 4-4-1972, khi quân đội miền Bắc đang tấn công dữ dội vào Quảng Trị, người Mỹ cần một áp lực từ phía Bắc Kinh với Hà Nội, Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để traomột “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách mười hai dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa”197.
                          Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo mà các Chúa Nguyễn đã đưa người ra khai thác từ thế kỷ XVII. Năm 1816, vua Gia Long chính thức thiết lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, bản vẽ năm 1838của Nhà Nguyễn đã thể hiện hai quần đảo với tên gọi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.
                          Năm 1920, Chính quyền Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ ở Đông Dương, đã tuyên bố chủ quyền và hiện diện liên tục trên cả Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 4- 1946, quân Pháp đưa quân đội ra kiểm soát cụm phía Tây Hoàng Sa. Tháng 11- 1946, quân Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, và tháng 12- 1946 đổ bộ lên Itu Aba thuộc Trường Sa. Năm 1950, quân Tưởng rút khỏi hai quần đảo này. Một năm sau Chính quyền Mao Trạch Đông mới tuyên bố “bảo lưu chủ quyền của Trung Quốc”.
                          Năm 1954, theo Hiệp định Geneva, Hoàng Sa ở phía Nam Vĩ tuyến 17 sẽ thuộc về chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng đến tháng 4-1956, khi lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra tiếp quản, hai đảo lớn nhất đã bị “quân giải phóngTrung Quốc” thừa cơ chiếm mất. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trên thực tế cai quản liên tục bốn đảo chính: Pattle (Hoàng Sa), Robert (Cam Tuyền), Duncan (Quang Hòa Đông) và Drummond (Duy Mộng). Riêng trên đảo Pattle, Việt Nam còn có một đài khí tượng thuộc hệ thống quốc tế. Từ năm 1956, việc tranh chấp phần bị Trung Quốc chiếm đóng vẫn tiếp tục diễn ra giữa Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc.
                          Sáng 16-1-1974, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phát hiện tàu cá Trung Quốc xuất hiện trong vùng đảo chủ quyền Việt Nam. Khi người nhái của hải quân ViệtNam đổ bộ lên đảo Duncan và Drummond thì ở đó đã có một toán quân nhân Trung Quốc. Hôm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang “kinh lý miền Trung”. Trong bữa cơm tối tại một căn cứ của quân đội ở Mỹ Khê, Tổng thống được Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trình bày sơ bộ “biến cố Hoàng Sa”. Theo Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại: “Nghe xong, Tổng thống quyết định sáng hôm sau sẽ đến Vùng Một Duyên hải để xem xét tình hình”.
                          Sáng 17-1-1974, Hạm đội HQ16 báo cáo tiếp: “Hai tàu đánh cá Trung Quốc không tuân lịnh ra khỏi lãnh hải. Ngoài ra, hai tàu khác chở quân Trung Cộng đang đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ Trung Cộng”. Hạm trưởng HQ16, Trung tá Lê Văn Thự, cho một toán đổ bộ lên đảo, nhổ cờ Trung Quốc thay bằng cờ Việt Nam Cộng Hòa. Toán đổ bộ gặp nhiều người Trung Quốc nhưng đôi bên đều kềm chế.
                          Bộ Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn sau khi nghe Tướng Thoại cập nhật tình hình đã phái Khu trục hạm Trần Khánh Dư của Trung tá Vũ Hữu San ra tăng cường. Toàn bộ tình hình được trình Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc 8 giờ sáng cùng ngày khi ông trực tiếp tới Bộ Tư lệnh Vùng Một. Nghe xong, Tổng thống ngồi xuống lấy giấy bút trực tiếp viết “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng Một: Tìm cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Quốc ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này. Nếu họ ngoan cố thì toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa”.
                          Ngày 18-1-1974, theo ủy nhiệm của Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Đại tá Hà Văn Ngạc lên tuần dương hạm Trần Bình Trọng của Trung tá Phạm Trọng Quỳnh, trựcchỉ Hoàng Sa. Vì là sỹ quan có cấp bậc cao nhất trong vùng chiến sự lúc đó, Đại tá Ngạc trở thành người chỉ huy cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa. Cùng đi có Hộ tống hạm Nhật Tảo của Thiếu tá Ngụy Văn Thà. Khi hải đội của Đại tá Ngạc đến Hoàng Sa, có ít nhất bốn chiến hạm của Trung Quốc có mặt. Trước thái độ khiêu khích của cáctàu Trung Quốc, Đại tá Ngạc báo với Tướng Thoại qua bộ đàm, “việc chạm súng chắc là không sao tránh khỏi”. Sáng 19-1-1974, các chiến hạm của đôi bên đều gây áp lực nặng nề lên nhau. Đại tá Ngạc đồng ý với Tướng Thoại “khi tình hình căng thẳng quá thì sẽ khai hỏa trước để giảm thiểu thiệt hại”.
                          Khoảng 10 giờ 30 phút sáng 19-1-1974, Đại tá Ngạc báo cáo: “Bắt đầu khai hỏa”. Máy vô tuyến vẫn để “on”, Tướng Hồ Văn Kỳ Thoại nghe rõ những tiếng nổ chát chúa của cuộc chiến đấu. Khi chứng kiến tàu Trung Quốc bốc cháy, “toán đổ bộ thuộc tàu HQ16 đang ngồi trên xuồng cao su đã cùng cất vang bài hát “Việt Nam, Việt Nam”.
                          Trận đánh bất cân sức ấy diễn ra chỉ trong vòng ba mươi phút. Phía Trung Quốc: hai hộ tống hạm bị bắn chìm, hai trục lôi hạm bị bắn hỏng, một đô đốc, sáu đại távà hàng chục sỹ quan cấp tá, cấp úy khác tử trận. Phía Hải Quân Việt Nam: hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, Thiếu tá Ngụy Văn Thà cùng với hai mươi bốn chiến sỹ khác hy sinh, hai mươi sáu chiến sỹ mất tích; khu trục hạm Trần Khánh Dư bị hư hại, hai chiến sỹ hy sinh; tuần dương hạm Trần Bình Trọng bị hư hại, hai chiến sỹ hy sinh cùng với hai nhân viên người nhái; tuần dương hạm Lý Thường Kiệt bị trúng đạn, nghiêng một bên; mất liên lạc với toán đổ bộ gồm mười lăm thủy thủ (về sau, chiếc xuồng chở mười lăm thủy thủ này trôi dạt nhiều ngày về Quy Nhơn, được thuyền đánh cá cứu vớt, một người chết vì kiệt sức); hai mươi ba thủy thủ khác cũng trôi dạt trên biển, may mắn được tàu Skopionella của hãng Shell (Mỹ) cứu vớt.
                          Ngày hôm sau, 20-1-1974, mười chiến hạm Trung Quốc bắt đầu đổ quân lên hai hòn đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa, bắt đi bốn mươi ba người, gồm hai mươi tám quân nhân và các nhân viên khí tượng. Một người Mỹ, Gerald Kosh, tình cờ theo tàu Lý Thường Kiệt ra Hoàng Sa chơi hôm 15-1-1974, cũng bị bắt. Trong thời điểm ấy, theo Tướng Thoại: “Các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam”. Trước khi trận chiến xảy ra, Bộ Tư lệnh Hải quân nói với Đề đốc Thoại là “yên tâm”; nhưng trong suốt cả quá trình sau đó, Hạm đội Bảy của Mỹ đã không làm gì kể cứu vớt các đồng minh lâm nạn. Hoàng Sa của Việt Nam bị Bắc Kinh chiếm đóng kể từ ngày 19-1-1974. Còn miền Bắc Việt Nam, khi ấy đang dựa vào Trung Quốc như một đồng minh để tiến hành cuộc chiến tranh ở miềnNam, cũng gần như im lặng.
                          Tướng Giáp nói rằng ông nhận được tin mất Hoàng Sa khi đang điều trị bệnh sỏi mật ở Liên Xô. Ngày 25-3-1975, sau “chiến thắng Buôn Ma Thuột”, Tướng Giáp với tư cách là bí thư Quân ủy Trung ương kiến nghị Bộ Chính trị “tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”198. Ngày 2-4-1975, Tướng Giáp trực tiếp chỉ thị cho Tướng Lê Trọng Tấn lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng: tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Trước đó, ngày 30-3, Quân ủy cũng điện cho Võ Chí Công và Chu Huy Mân yêu cầu chỉ đạo thực hiện. Chiều 4-4-1975, Quân ủy điện tiếp cho Quân khu V: “Kịp thời đánh chiếm các hòn đảo vùng Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết”199.
                          Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo có tin quân đội Sài Gòn rút khỏi các đảo, Quân ủy gửi điện “tối khẩn” cho Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái: “Các anh cho kiểm tra và hành động kịp thời… Nếu để chậm, có thể quânnước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm”200. Ngày 13-4-1975, Tướng Giáp nhắc thêm: “Chỉ đánh các đảo quân ngụy miền Nam chiếm đóng”201. Từ ngày 14-4-1975 đến ngày 28-4-1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam lấy xong những hòn đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ, nhưng tránh đụng tới các đảo ở Hoàng Sa đang ở tay Trung Quốc.
                          Tháng 9-1975, trong chuyến đi đầu tiên đến Bắc Kinh, sau khi giành thắng lợi ở miền Nam, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn tới Trung Nam Hải. Ông Duẩn đã đến tận giường bệnh của Mao Trạch Đông để nói lời cám ơn với Mao Trạch Đông: “Nước chúng tôi chưa có bao giờ vui như hôm nay. Nếu chúng tôi không có Trung Quốc là hậu phương lớn bao la, không có đường lối của Mao Chủ tịch, không có sự viện trợ của các đồng chí cung cấp, chúng tôi không thể thành công được”202. “Với nụ cười khó nhọc trên gương mặt người mang bệnh, Mao Trạch Đông hơi vẫy tay, tỏ ra hiền hòa thân thiết… Người đã dùng những câu nói không được mạch lạc lắm để nói với Lê Duẩn: Nhân dân Việt Nam thắng lợi rồi, Nam Bắc đã thống nhất rồi, tôi rất phấn khởi, rất phấn khởi”.
                          Chắc hẳn là Lê Duẩn đã không chỉ xử sự theo phép tắc ngoại giao khi đến tận giường bệnh của Mao Trạch Đông để xác nhận: “Không có viện trợ của Trung Quốc, chúng tôi không thể thành công”. Không mấy người dân Việt Nam là không biết đến súng AK, nón cối, lương khô, gạo sấy, thịt hộp… được cung cấp từ Trung Quốc. Bộ đội miền Bắc thời chiến tranh có thể nói là đã được Trung Quốc trang bị đến từng “cái kim, sợi chỉ”. Nhưng ngoài chuyện ân nghĩa với đồng minh, ông Lê Duẩn còn phải chịu trách nhiệm trước quốc gia mà ông lãnh đạo. Trong chuyến đi Trung Quốc ấy, ngày 24-9-1975, khi gặp Đặng Tiểu Bình, ông Lê Duẩn đã yêu cầu Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình đàm phán vấn đề Hoàng Sa nhưng đã bị Đặng Tiểu Bình từ chối. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã làm cho người dân Trung Quốc nghĩrằng Hoàng Sa đã thuộc về Trung Quốc.
                          Ngày 5-5-1975, khi nghe Đài Tiếng nói Việt Nam công bố, “Ngày 11-4-1975, Hải quân Việt Nam đã giải phóng quần đảo Trường Sa”, một phóng viên Tân Hoa Xã tên là Lăng Đức Quyền (Ling Dequan) – khi ấy đang chuẩn bị rời Hà Nội vào miền Nam – đã cảm thấy “như một cú sốc”. Quyền giải thích với nhà báo Mỹ Nayan Chanda: “Vì trước đó họ đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên những hòn đảo ấy”.
                          Người Trung Quốc cho rằng: “Từ năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai rõ ràng xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng hiện nay họ tiền hậu bất nhất ngang nhiên tuyên truyền đây là lãnh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ hai quần đảoHoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam”203. Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng, trong vai trò đồng minh, có công hàm ủng hộ Tuyên bố của ChuÂn Lai về “hải phận mười hai hải lý kể từ đất liền của Hoa Lục”204. Tuyên bố này được đưa ra trong tình trạng chiến tranh với Mỹ bắt đầu leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động trên eo biển Đài Loan có dấu hiệu vi phạm vùng biển chủ quyền Trung Quốc.
                          Đây là một giai đoạn mà mối quan hệ quốc tế vô sản với Bắc Kinh được tin cậy hơn mối quan hệ giữa những người Việt Nam với nhau mà không có cùng ý thức hệ. Theo ông Dương Danh Di205: “Hai năm trước đó, Trung Quốc đã chủ động trả lại cho Việt Nam đảo Bạch Long Vĩ mà họ giữ giúp từ năm 1954 khi được trao trả từ tay người Pháp. Lúc đầu, Việt Nam chưa nhận vì than phiền là không có phương tiện ra đảo. Thế là Trung Quốc tặng luôn hai chiếc ca-nô. Niềm tin vào sự vô tư của Trung Quốc tăng lên, tâm lý để bạn giữ (đảo) cho còn hơn để trong tay ‘Ngụy’ không phải là không xuất hiện”.
                          Ông Trần Việt Phương, người có hai mươi lăm năm làm thư ký riêng cho Phạm Văn Đồng, thừa nhận: “Lúc bấy giờ quan hệ Việt-Trung đang rất tốt. Việt Nam đang có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan niệm ngây thơ từ người cao nhất của ta chứ không phải ở cấp độ vừa206. Trung Quốc hiểu ra sự ngây thơ đó và đã có ý đồ không tốt. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam có trong máu hàng nghìn năm kinh nghiệm với Trung Quốc, cho dù có sự ‘ngây thơ quốc tế vô sản’ cũng không đến mức có thể dẫn tới sự nhầm lẫn hoàn toàn. Việt Nam đã có kinh nghiệm về sự lợi dụng của Trung Quốc trong Hiệp định Geneva. Nhưng ở thời điểm ấy, Việt Nam đang cần họ”. Cũng theo Việt Phương, trước khi ký công hàm này, Phạm Văn Đồng có bàn bạc với Hồ Chí Minh và vấn đề còn được đưa ra bàn ở “cấp cao nhất”.
                          Về thực chất, không thể coi những tài liệu ấy có đủ giá trị pháp lý để công nhậnchủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trước ngày 30-4-1975, miền Bắc không có thẩm quyền để nói về Hoàng Sa và Trường Sa, bấy giờ đang là phần lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia đang hiện diện ở Liên Hiệp Quốc.
                          Sợ “con ngựa thành Troy”
                          Trước ngày 30-4-1975, tại khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn có một số đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động. Theo nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản, đảng viên cộng sản bất cứ là người nước nào, đang sống ở đâu thì phải tham gia hoạt động với đảng nơi nước mình đang ở. Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã có một số đảng viên cộng sản Trung Quốc ở Nam Kỳ hoạt động dưới quyền của Xứ ủy Nam Bộ.
                          Từ năm 1959, theo đề nghị của Bắc Kinh, những đảng viên thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Sài Gòn như Lâm Lập, Trịnh Nam, sẽ chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở trong giới “người Hoa lớp trên”, còn đảng viên người Hoa thuộc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì xây dựng cơ sở trong giới “người Hoa là công nhân, lao động”. Theo ông Nghị Đoàn, trưởng Ban Công Tác Người Hoa: “Nhóm Lâm Lập, Trịnh Nam, Trầm Nhan… từ Trung Quốc chạy sang Việt Nam hồi cuối thập niên 1940 sau khi bị Quốc Dân Đảng khủng bố”. Ngay trong ngày 30-4-1975, Lâm Lập đã cho một lực lượng có vũ trang tới chiếm tòa Đại sứ Đài Loan nằm trên đường Hai Bà Trưng207. Thành ủy phải thuyết phục rất khó khăn, Lâm Lập mới chấp nhận giải giới. Ông Phạm Văn Hùng kể: “Họ có lực lượng, có những đảng viên của Lâm Lập có chân trong các quận ủy”.
                          Khi ấy, những cơ sở đảng người Hoa thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam như Ngô Liên, Nghị Đoàn, cũng phải đấu tranh với Lâm Lập. Lâm Lập không muốn bàn giaocác cơ sở của mình cho Đảng Cộng sản Việt Nam mà muốn duy trì các hoạt động tại Sài Gòn-Chợ Lớn với tư cách là những cơ sở đảng nhận lệnh từ Trung Quốc. Đòi hỏi đó không được Việt Nam chấp nhận. Khi Lâm Lập đến 41 Tú Xương để gặp ông Võ Văn Kiệt, ông Kiệt giao thư ký Phạm Văn Hùng tiếp, với nhiệm vụ là làm sao phải truyền được thông điệp cho Lâm Lập: “Hết nhiệm vụ, mời các đồng chí về”. Đếncuối năm 1976, nhóm Lâm Lập mới chấp nhận trở về Trung Quốc.
                          Những tổ chức cộng sản vẫn còn chân rết tại Sài Gòn là một trong những nguyên nhân khiến cho Hà Nội luôn trì hoãn việc cho phép Bắc Kinh mở lãnh sựquán tại Thành phố Hồ Chí Minh cho dù Trung Quốc đã cho Việt Nam lập ở nước họ tới ba tòa lãnh sự.
                          Mãi tới ngày 15-6-1978, khi sự kiện người Việt-gốc-Hoa nổ ra, Bộ ngoại giao Việt Nam mới gửi công hàm thông báo cho phía Trung Quốc biết: Chính phủ ViệtNam đồng ý để Trung Quốc đặt tổng lãnh sự quán tại Sài Gòn vào đầu quý 4-1978. Thông báo này chỉ còn giá trị lưu trữ. Ngay ngày hôm sau, 16-6-1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc gởi công hàm cho biết quyết định của Chính phủ Trung Quốc: “Đóng cửa ba tổng lãnh sự quán Việt Nam ở Quảng Châu, Côn Minh, Nam Ninh và yêu cầu toàn bộ cán bộ nhân viên Việt Nam ở ba tổng lãnh sự quán này rút về nước trong thời gian ngắn nhất”.
                          Theo ông Trần Phương, với mức độ cảnh giác quá cao đối với cán bộ gốc Hoa, năm 1978, Ban Bí thư có Chỉ thị 53, theo đó: “Những vị trí quan trọng không giao cho người gốc Hoa”208. Việc thi hành Chỉ thị 53 đã tạo ra một không khí chính trị vô cùng ngột ngạt, tổ chức đã rất mạnh tay với những cán bộ có cha ông đến từ Trung Quốc.
                          Ông Trần Phương, năm ấy là bộ trưởng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch, kể: “Phó Văn phòng Ủy ban là con ông Hoàng Mậu, bí thư Thành ủy Hải Phòng, nhưngbố Hoàng Mậu lại là người Hoa, dù ông cũng có tham gia cách mạng. Cậu ấy cùng ông Chánh Văn phòng đến gặp tôi nói: ‘Em xin anh, cho em chuyển về một vụ không quan trọng’. Tôi lấy chỉ thị ra nói: ‘Cậu cứ ngồi đấy, cậu là ai, bố cậu là ai tôibiết’. Nhưng, cậu ấy vẫn khăng khăng: ‘Thôi, anh cứ cho em đi, em ngồi đây nhỡ có người nghi ngờ gì thì chết em’. Về sau tôi chuyển cậu ấy sang Vụ Văn xã. Nhiều địa phương, nhiều cơ quan làm rất rốt ráo. Ở trường con tôi học có một ông giáo gốc Hoa, mình khuyên ông ở lại nhưng ông vẫn đi Canada, ông nói: ‘Em thấy, em đi thì nhẹ nhàng hơn là ở lại’”.
                          Thành phố Hồ Chí Minh đã làm nhẹ Chỉ thị 53 bằng cách giữ hầu hết cán bộ người Hoa ở cương vị cũ, trừ người đứng đầu các cơ quan nội chính. Tuy nhiên, lý lịch của hầu hết cán bộ đã bị lục tung, trong đó có cả lý lịch của ông Tư Kết, cựu thư ký của ông Mai Chí Thọ. Tư Kết ngay lập tức bị buộc thôi chức trưởng Phòng An ninh Bảo vệ Nội bộ PA 25 về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Thành phố. Nghe tin thư ký cũ của mình là người Hoa, chính ông Mai Chí Thọ cũng phải kêu lên: “Tao có thấy thằng Tư Kết Hoa chút nào đâu!”. Bản thân ông Tư Kết cũng chỉ biết rõ gốc gác của mình khi Chỉ thị 53 được thi hành. Ngày xưa, do nhà nghèo, bà ngoại đã phải gả mẹ ông, một cô gái hai mươi tuổi, cho ông La Đức, một tiểu chủ người Hoa chuyên luyện thuốc phiện, năm ấy đã sáu mươi tuổi, để giúp những người con trai khác của bà ngoại có việc làm. Ông La Đức mất khi Tư Kết hãy còn trong bụng mẹ.
                          Không có một chỉ thị thành văn nào nói rõ phải trục xuất người Hoa. Nhưng theo nhà nghiên cứu Dương Danh Di, các cấp ủy được triển khai: “Để người Hoa ở lại, đảng bộ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả an ninh chính trị”. Sự sợ hãi của những cán bộ gốc Hoa trong thời gian ấy lớn tới mức một trí thức cách mạng từnglàm bộ trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ như ông Kha Vạng Cân mà năm 1979, khi con trai ông sinh cháu, ông Cân đã khuyên con nên cho cháu mang họ Việt của mẹ đểvề sau nó không còn bị kỳ thị209.
                          Chỉ thị 53 không chỉ ảnh hưởng tới người Hoa. Ông Hoàng Chính, người vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1937, đã bị bắt năm 1978 khi đang công tác ở Văn phòng Chính phủ. Lý do theo ông Vũ Cẩm, phó chủ tịch Quảng Ninh: “Khi làm bí thư tỉnh Hải Ninh, ông Hoàng Chính đã chủ trương để Hải Ninh kết nghĩa với mộttỉnh của Trung Quốc và có quan hệ với Triệu Tử Dương, thời ấy đang là bí thư tỉnh Tứ Xuyên”.
                          “Nạn Kiều”
                          Tháng 8-1978 tại Ga Hàng Cỏ, và sau đó ở Lạng Sơn, đã nổ ra hai cuộc biểu tình của người Hoa. Chính quyền nhanh chóng dập tắt, tuy nhiên, chuyện “gián điệp Trung Quốc” được nói đến gần như vào mỗi tối thứ Bảy hàng tuần trong tiết mục “Kể chuyện cảnh giác” của Đài Tiếng nói Việt Nam.
                          Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thừa nhận: “Ban đầu phía Trung Quốc gây ra việc dụ dỗ ép buộc người Hoa ở Việt Nam về nước để tìm cớ xa lánh Việt Nam, bắt tay với Mỹ… Nhưng nói cho khách quan, phía lãnh đạo của ta cũng thành kiến và nghi ngờ người Hoa sẽ là đội quân thứ năm của Trung Quốc nên cũng muốn tống người Hoa đi cho rảnh”. Ở một số địa phương, vấn đề người Hoa đã ngấm ngầm xảy ra từ trước đó.
                          Năm 1955, sau khi tiếp quản Quảng Ninh và Hải Phòng, Ban Hoa vận đã vận động người Hoa bỏ chữ “kiều” trong tên gọi các cộng đồng ngoại kiều khác để trở thành một dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Họ đã phải “bình đẳng” chịu “cải tạo” trong chiến dịch cải tạo công thương nghiệp tiến hành ở miền Bắc cuối thập niên 1950 và bắt đầu chịu áp lực nhiều hơn kể từ sau ngày Bắc-Nam thống nhất.
                          Từ cuối năm 1976, người Hoa ở Hải Phòng, Quảng Ninh, đã không được làm những nghề “có thể làm gián điệp” như thợ cắt tóc, thợ điện gia dụng, không được
                          quan hệ với người nước ngoài… Ông Trịnh Văn Trọng có vợ, nhà thơ Dư Thị Hoàn, là người Hoa ở Hải Phòng. Ông Trọng kể khi chiến dịch “nạn Kiều” bắt đầu, người Hoa ở Quảng Ninh, Hải Phòng, ra đường thì bị kêu là “thằng Hán gian”, về nhà thì gặpcán bộ phường tới phân tích: “Tình hình Việt Nam-Trung Quốc rất căng, nếu ở lại không biết điều gì sẽ xảy ra. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho người Hoa trở về Tổ quốc”.
                          Các chính sách áp dụng ở Quảng Ninh còn cứng rắn hơn bởi bàn tay của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm. Giữa thập niên 1970, Quảng Ninh có hơn mười sáu vạnngười Hoa nói các thứ tiếng khác nhau, mỗi dân tộc có một trường riêng để dạy con em họ. Người Hoa sống thành từng cộng đồng riêng biệt. Ông Vũ Cẩm, khi ấy là trưởng Ty Giáo dục Quảng Ninh, nói: “Tôi xuống các trường cũng phải cần phiên dịch”. Năm 1976, theo ông Vũ Cẩm, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm gọi ông lênyêu cầu: “Anh phải xóa hết trường Hán, tiếng Hán”. Ông Cẩm đề nghị ông Tâm xem lại vì các trường sở này hình thành ở đây đã từ lâu đời, nhưng ông Tâm không chịu.
                          Ông Vũ Cẩm nói: “Tôi không rõ ông Tâm nhận chủ trương này từ ai nhưng ông nói như ra lệnh bằng một chỉ thị mồm chứ bản thân ông cũng không dám ra nghị
                          quyết. Tôi nghĩ mãi và cuối cùng do ông Tâm thúc ép đành phải thảo một văn bản, không nói là giải tán các trường của người Hoa mà nói là thống nhất hệ thống giáo dục, một xã chỉ có duy nhất một trường phổ thông dạy bằng tiếng Việt. Soạn rồi, tôi không dám ký, giao cho các phó Ty, các phó của tôi cũng không anh nào chịu ký. Tôi lên báo cáo Bộ Giáo dục, Bộ bảo tùy địa phương nhưng cũng không dám ra văn bản. Cuối cùng, tôi phải ký. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống cho đội ngũ giáo viên người Hoa, tôi quy định: các giáo viên người Hoa được hưởng nguyên lương để đi học tiếng Việt”.
                          Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng như mười sáu vạn người Hoa khác, điều đe dọa đối với những giáo viên này không còn là vấn đề việc làm. Năm 1978, theo ông Vũ Cẩm: “Ông Nguyễn Đức Tâm gặp các tỉnh ủy viên người Việt nói, thái độ TrungQuốc đối với Việt Nam không tốt, chúng ta không nên bầu người gốc Hoa vào cấp ủy. Khi đó, trong tỉnh ủy Quảng Ninh vẫn còn hơn mười người gốc Hoa, có những người rất có công như anh Lý Bạch Luân đã từng là phó bí thư tỉnh Hải Ninh, sau khi nhập tỉnh, anh Luân làm phó chủ tịch tỉnh mới – tỉnh Quảng Ninh”. Khi Trung Quốcrút các kỹ thuật viên giúp Việt Nam khai thác mỏ, họ vận động anh hùng lao động Voòng Nải Hoài, một kỹ thuật viên giỏi, bỏ Việt Nam về Trung Quốc. Theo ông Vũ Cẩm: “Nhân đấy, ông Nguyễn Đức Tâm có sáng kiến, anh rút về thì tôi cho người Hoa về hết luôn”210.
                          Trong lịch sử di dân của loài người, cuộc di dân cưỡng bức của người Hoa năm 1978 ở Quảng Ninh có lẽ là một trong những chương bi thương nhất. Nhiều người Hoa đã đến đây từ nhiều đời, đã chọn Việt Nam làm quê hương; nhiều người không nói tiếng Hoa, không hề nhớ gốc gác mình từ đâu. Tất cả đều bị khép vào thành phần phải trở về Trung Quốc.
                          Bị ép quá, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, ông Voong Hổi, đã tự sát bằng cách tự mổ bụng. Theo ông Vũ Cẩm, ông Hổi sau đó được cứu sống, tuy không còn bị đuổi đi nữa nhưng phải chịu kỷ luật khai trừ Đảng. Ông Vũ Cẩm kể: “Một cán bộ của tôi, anh Lâm Anh Văn, đang là trưởng Phòng Giáo dục huyện
                          Quảng Hà, cũng bị công an bắt phải trở về Trung Quốc. Anh ta gặp tôi nói, buộc đi thì đi chứ anh sẽ không sang Trung Quốc đâu”.
                          Ở xã Hà An, huyện Yên Hưng, có một gia đình, chồng là Trần Vĩnh Ngọc, hiệu trưởng một trường phổ thông, vợ là Chu Thị Họa. Chị Họa quê ở Thái Bình, là người Việt Nam. Anh Ngọc sinh ở Việt Nam, có mẹ là người Việt, cha là người Hoa, nhưng ông chết từ khi anh còn nhỏ. Trần Vĩnh Ngọc được xếp vào diện người Hoa. Theo ông Vũ Cẩm: “Bị công an yêu cầu phải trở về Trung Quốc, Ngọc tới gặp tôi xin ở lại vì nó có biết quê quán ở đâu đâu, tiếng Hoa cũng không biết. Tôi gặp Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Đức Tâm báo cáo. Ông Tâm lạnh lùng bảo tôi đừng can thiệp vào, để cho công an người ta làm. Bế tắc, Ngọc về bắt ba đứa con quàng khăn đỏ đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, buộc nằm lên giường rồi lấy chăn bông đè lên cho tới chết. Xong, anh ta lấy búa đập vỡ đầu vợ rồi lấy dao tự đâm vào tim mình. Nghe tin, tôi chạy xuống thì cả gia đình đều đã chết. Tôi bảo cậu Trưởng Phòng Giáo dục phải làm tang lễ tử tế rồi đi báo Nguyễn Đức Tâm. Tưởng Tâm sẽ phải suy nghĩ ai dè ông ta sắt đá nói ‘kệ’, gương mặt gần như vô cảm”.
                          Ông Võ Văn Kiệt kể: “Năm 1978, tôi ra Quảng Ninh khi anh Nguyễn Đức Tâm đang ở Móng Cái trực tiếp chỉ đạo vấn đề người Hoa. Tôi có cảm giác như ở đây
                          cũng có không khí ‘cải tạo’, rất nhiều người Hoa đã sống lâu đời ở Việt Nam bị đưa về Trung Quốc. Quảng Ninh, Móng Cái vắng ngắt”. Theo cuốn Địa chí Quảng Ninh Tập 1, người Hoa vốn sống tập trung ở chín huyện trong tỉnh, nhưng sau năm 1978 chỉ còn lại 5.000 người; 160.000 người Hoa ở Quảng Ninh đã phải ra đi trong vụ “nạn kiều”. Những anh hùng lao động một thời được báo chí ca ngợi tưng bừng như Voòng Nải Hoài, Mừu Nhịp Mùi cũng phải về Trung Quốc.
                          Người dân Quảng Ninh vẫn nhớ, ngay cả khi Trung Quốc đã đóng cửa khẩu, xe công an vẫn chở người Hoa đi về biên giới. Theo ông Vũ Cẩm, mỗi làng mỗi xã như vậy may ra chỉ còn sót lại một hai gia đình người Hoa. Khi vụ người Hoa xảy ra, ông Nguyễn Việt Lân, nguyên bí thư Tỉnh đoàn Hải Ninh211, nguyên phó bí thư Móng Cái, tuy không bị đuổi nhưng bị buộc phải vào sâu bên trong. Ông Vũ Cẩm kể: “Cậu ấy vào Hạ Long làm nghề cán mì sợi. Tôi muốn giúp nên thỉnh thoảng lại mang bột mì đến cho cậu ấy gia công. Cậu ấy hỏi: ‘Ông không sợ tôi bỏ thuốc độc à?’. Tôi biết cậu ấy bị o ép lắm. Công an rình rập kín, hở suốt ngày. Một đêm cậu ấy mở ti-vi oang oang trong nhà, bật đèn sáng để đánh lừa công an rồi đưa cả nhà xuống tàu vượt biên sang Úc”.
                          Hải Phòng là địa phương tiếp theo áp dụng chính sách khá thẳng tay với người Hoa. Ông Đoàn Duy Thành, năm 1978 là phó chủ tịch Thành phố Hải Phòng, thừa nhận: Hơn ba mươi nghìn trong số ba mươi bảy nghìn người Hoa ở thành phố nàyđã phải ra đi. Đặc biệt, ở Cát Bà, trước có gần mười nghìn người Hoa, năm 1978 chỉ còn vài chục người ở lại. Nhà thơ Dư Thị Hoàn viết về cảnh ra đi ở Hải Phòng: “Tết thanh minh năm ấy, không ngờ lại là bữa tiệc cuối của sum họp đại gia đình, hìnhảnh má và các em các cháu tôi chen lấn trong dòng người lũ lượt ra ga, leo lên tàu hỏa. Thê thảm nhất là đàn bà con trẻ, họ lếch thếch, hỗn loạn, và yếu ớt, họ giao phó nỗi hốt hoảng cho bất kỳ ai có mặt hôm đó, giao phó cho đoàn tàu chở họ tới một đất nước được gọi là tổ quốc trong muôn vàn bất trắc và mong manh? Họ trở về quê hương và không hiểu tại sao, vì lẽ gì? Chị chồng tôi ra tận nhà ga ôm lấy ba mẹ con tôi đang gào khóc nhìn đoàn tàu mất hút trong đêm tối”.
                          Ở Sài Gòn, theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Trần Quốc Hương: “Chúng tôi không đuổi mà thông báo ai muốn rời Việt Nam thì đăng ký, hơn 90% người Hoa ở Thành phố đã đăng ký ra đi”. Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, năm ấy là phó Phòng chống phản động bành trướng bá quyền Công an Thành phố Hồ Chí Minh, thừa nhận: “Công an cũng đã mạnh tay cô lập những đối tượng tình nghi là còn quan hệ với Trung Quốc”. Một trong những “đối tượng” mà ông Nguyễn Đăng Trừng trực tiếp thụ lý lúc ấy là ông Lý Ban.
                          Ông Lý Ban thuộc một trong số các đảng viên Việt Nam chạy sang Diên An sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931. Sau Cách mạng tháng Tám, từ căn cứ của những người cộng sản Trung Quốc, Lý Ban cùng các đồng chí Việt Nam khác của ông ở Diên An trở về trong đợt đầu như Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Ông đã từng là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, thứ trưởng Bộ Ngoại thương.
                          Năm 1978, nhiều thông tin nói rằng ông Lý Ban có những mối liên hệ chặt chẽ với Trung Quốc. “Tinh thần chỉ đạo” là phải có “biện pháp đặc biệt, không để các đối tượng ở trong điểm nóng, khi tình hình xấu diễn ra thì phát huy tác dụng”. Ông Lý Ban bị bắt. Sau một thời gian cách ly để điều tra, ông Trừng thừa nhận: “Té ra ông Lý Ban là một người rất trung thành với Đảng”. Nhạc sỹ Lâm Âm đang là biên chế ở Sở Văn hóa Thông tin cũng bị bắt dù sau đó không tìm thấy bất cứ bằng chứng “phản động” nào. Một thời gian sau, Phòng chống phản động bành trướng bá quyền yêu cầu Sở Văn Hóa Thông tin “bảo lãnh”, ông Lâm Âm được tha. Nhưng, theo ông Tư Kết: “Vừa có lệnh thả ra thì nhạc sỹ Lâm Âm bị tai biến và chết”.
                          “Những tháng đầu năm 1978, thành phố phá năm mươi hai vụ nhen nhóm chính trị, phản động, bắt 1.106 tên (gấp ba lần năm 1977); số trốn đi nước ngoài cũng
                          tăng gấp ba lần (2.130 vụ với 8.139 người)”212. Trong số 8.139 người bị bắt đầu năm 1978 có ông Lý Tích Chương, cha của Lý Mỹ – “tấm gương điển hình” trong chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”.
                          Khi ông Lý Tích Chương bị bắt, Lý Mỹ đang được “Đảng và Nhà nước đưa đi Cuba” tham gia Liên hoan Thanh niên Thế giới. Theo Lý Mỹ: “Khi tôi ở Cuba, ba tôi ốm phải vào bệnh viện Saint Paul. Một chiều cô em út của tôi lúc ấy mới chín tuổi mang cơm cho ba, vào tới nơi, gọi tên không thấy, nhân viên bệnh viện nói, trong phòng của ổng giờ toàn công an, hôm ấy họ vào và bắt đi nhiều bệnh nhân người Hoa đang điều trị trong bệnh viện”. Sau một tháng ở Cuba, khi Lý Mỹ về, ông Mai Chí Thọ đưa xe đến Thành đoàn đón, nói là cho đi thăm ba nhưng vào trại giam thì ông Lý Tích Chương được thả. Ở tù ra, sức khỏe ông Chương suy sụp, gia đình quyết định “đi”.
                          Trên các phương tiện truyền thông, Bắc Kinh gọi người Việt-gốc-Hoa là “nạn kiều”; Hà Nội nói Bắc Kinh “bịa đặt”. Báo Tuổi Trẻ ngày 30-6-1978 viết: “Bị tác
                          động bởi chiến dịch cưỡng ép di cư của phía Trung Quốc [người Hoa] đã kéo nhau hàng loạt đi Trung Quốc một cách bất hợp pháp”. Cũng theo bài báo này: “Ta đãbắt quả tang một số tên thực hiện chiến dịch này dưới sự chỉ đạo của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội như Lý Nghiệp Phu, Trần Hoạt, Tô Minh Nguyên, Ôn Thịnh Nàm, Lã Giang Đông, Quan Gia Nghĩa, Lý Đào Lê”. Cũng theo Báo Tuổi Trẻ: “Ngày 30-4, chủ nhiệm Văn phòng công việc Hoa kiều thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Liêu Thừa Chí, công khai lên tiếng, gián tiếp đổ trách nhiệm cho Việt Nam”. Ngày 4-5-1978, Bộ Trưởng Ngoại giao Xuân Thủy tuyên bố: “Đảng và Chính phủ Việt Nam trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một số bà con người Hoa trốn đi Trung Quốc, đó là do bọn xấu tác động”. Ngày 24-5-1978, người phát ngôn Văn phòng công việc Hoa kiều Quốc vụ viện Trung Quốc ra tuyên bố chính thức phản đối Việt Nam “bài xích, khủng bố, xua đuổi Hoa kiều”. Ngày 28-5-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Bộ ngoại giao Trung Quốc yêu cầu chấm dứt tuyên truyền kích động; đại diện hai nước gặp nhau càng sớm càng tốt, có thể vào đầu tháng 6-1978, để cùng nhau bàn bạc, giải quyết những bất đồng về vấn đề người Hoa ở Việt Nam, và bàn cả đề nghị của Trung Quốc đưa tàu sang Việt Nam đón người Hoa về Trung Quốc. Ngày 2-6, Bộ ngoại Trung Quốc gởi công hàm cho Bộ ngoại giao Việt Nam khước từ các đề nghị nói trên của Việt Nam, đồng thời tuyên bố Trung Quốc “đã quyết định” đưa tàu sang thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 8-6-1978 để đón người Hoa về nước. Bộ ngoại giao Việt Nam “phê phán thái độ ngang ngược nói trên của nhà đương cục Trung Quốc”. Ngày 5-6, Bộ Ngoại giao Việt Nam một mặt “kêu gọi bà con người Hoa hãy yên tâm ở lại Việt Nam làm ăn bình thường”, mặt khác đưa ra cam kết: “Bà con nào muốn rời khỏi Việt Nam đi Trung Quốc thì sẽ được chính quyền Việt Nam giúp làm các thủ tục xuất cảnh để ra đi thuận tiện”.
                          Trước tháng Giêng năm 1979, có khoảng 30.000 người Hoa chạy sang Việt Nam, chủ yếu là từ Campuchia. Ngoài ra còn có hơn 4.000 người Khmer khác. Số người Hoa về nước trên hai con tàu của Trung Quốc chỉ mang tính tượng trưng, theo ông Mai Chí Thọ, trong chuyến đầu họ chỉ chở được 2.400 người. Một dòng người khác đã phải gồng gánh về phía bên kia theo đường bộ213.
                          Tại cuộc họp báo ngày 15-6-1978, Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ nói: “Chúng ta tự hỏi, nếu họ thực tâm muốn chăm lo cho Hoa kiều, tại sao họ lại không lên tiếng đối với việc Hoa kiều bị bọn cầm quyền phản động Campuchia xua đuổi tàn ác, ngược đãi… Đáng lý những Hoa kiều họ cần phải rước trước hết là người Hoa đang sống đau khổ, tủi nhục dưới chế độ tàn bạo của bọn cầm quyềnphản động Campuchia. Thái độ trái ngược của phía Trung Quốc không khỏi làm cho mọi người nghi ngờ việc họ tổ chức rước Hoa kiều về nước chẳng qua là nhằm thực hiện một ý đồ khác. Thực tế họ chỉ muốn gây khó khăn cho Việt Nam mà thôi”214. Câu chuyện của Tằng Dục Hính, đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 23-6-1978,cho thấy tương lai trở về “tổ quốc” của người Hoa cũng khá tối tăm: “Chúng tôi đáp xe lửa Hà Nội đi Lào Cai, từ ga Lào Cai đến Cầu Kiều chúng tôi phải qua một trạm công an Việt Nam. Tại đây họ thu lại tất cả những giấy tờ mà chính phủ Việt Nam cấp cho người Hoa chúng tôi từ trước đến nay… Nhìn về phía Trung Quốc tôi nghe được rất rõ tiếng loa, tiếng nhạc quen thuộc của Đài Phát thanh Bắc Kinh và nhìn thấy rất đông người đang chờ đón tiếp… Ngày thứ ba ở trên đất Trung Quốc, 3-6- 1978. Buổi chiều, sau khi nộp xong bản khai lý lịch, chúng tôi được một ông cán bộ người Trung Quốc nói giọng Bắc tiếng Việt Nam rất rành cho biết chúng tôi phải đăng ký đi nông trường trồng cao su Mông Xi, nếu ai chậm trễ thì phải đi Tây Tạng!”.
                          Theo Tằng Dục Hính, vì sợ đi Tây Tạng, anh và người bạn Chí Tiền Thành cùng hai thanh niên Hải Phòng nữa đã lội qua sông Hồng ngay trước khi nước chảy rất xiết để trốn về Việt Nam vào ngày 7-6-1978, và được “các đồng chí công an ViệtNam giúp đỡ” cho về thành phố. Tằng Dục Hính nói tiếp: “Ở Hà Khẩu, tôi biết là có 80 đến 90% bà con muốn trở về lại Việt Nam nhưng không dám”215.
                          “Phương án II”
                          Cũng trong những ngày ấy, ở miền Nam, công an bắt đầu triển khai “Phương án II”. Theo ông Nguyễn Đăng Trừng, phó Phòng chống phản động bành trướng bá
                          quyền, Phương án II cũng là một trong những biện pháp “nghiệp vụ” nhằm đưa “đối tượng ra khỏi điểm nóng” – vấn đề là đối tượng của phương án này là cả triệu người Hoa đang sống ở Việt Nam.
                          Chỉ rất ít người được biết đến Phương án II. Tuy là phó bí thư thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Quốc Hương cũng chỉ được nghe giám đốc Sở Công an thành phố cho biết, Phương án II là một kế hoạch được “phổ biến miệng để giữ bí mật”, theo đó: Người di tản được đóng vàng để công an mua thuyền hoặc đóng thuyền cho đi mà không sợ bị bắt hay gây khó khăn. Việc thực hiện Phương án II chỉ do ba người là bí thư, chủ tịch và giám đốc công an tỉnh quyết định. Công an được giao làm nhiệm vụ đứng ra thu vàng và tổ chức cho người di tản.
                          Ngày 19-11-1978, ông Lý Tích Chương đưa gia đình rời Việt Nam theo Phương án II. Cuộc đấu tranh đi – ở bắt đầu diễn ra trong nhà Lý Mỹ khi cô đang học năm thứ nhất, khoa Lý, tại Đại học Sư phạm. Theo Lý Mỹ thì một trong những lý do cô không vượt biên cùng gia đình là vì khi sang Cuba và Liên Xô cô cảm thấy “nước ngoài” rất xa lạ với những gì mà cô đang sống. Nhưng Lý Mỹ cũng không phủ nhận một lý do quan trọng khác là khi ấy “Thành đoàn cũng tập trung giành giật cô”.
                          Bí thư Thành đoàn Phạm Chánh Trực và các “đồng chí” khác trong Thường vụ đã trực tiếp động viên; bạn trai khi ấy của cô cũng là một mẫu người cộng sản lý tưởng. Đích thân Chủ tịch Thành phố Mai Chí Thọ nhiều hôm cũng đưa Lý Mỹ về nhà ăn cơm. Bên cạnh Lý Mỹ lúc ấy còn có những bạn bè người Hoa không vượtbiên cùng gia đình như Lai Kim, Đỗ Long. Họ cũng được ông Mai Chí Thọ quan tâm, ông nói: “Mấy chú cũng rất đau lòng khi tụi bây phải lựa chọn như vầy, nhưng, vì tổ quốc, vì tình thế”. Khi ấy, nếu những người như Lý Mỹ mà vượt biên thì cái thần tượng mà Thành đoàn dựng lên sẽ sụp đổ. Thành đoàn đã thắng, Lý Mỹ ở lại.
                          Đó là những ngày tháng mà Lý Mỹ nói là “nên quên đi trong cuộc đời”, nhưng những gì đã xảy ra cũng chưa phải là cay đắng nhất. Gia đình vừa đi được mấy hôm thì một tối, khi Lý Mỹ đi học về đến nhà, thấy khóa cửa bị đập, trong nhà có khá đông người. Lý Mỹ hỏi thì được nói họ có quyết định vào “chốt” căn nhà của Mỹ. Nếu việc ông Lý Tích Chương bị bắt có thể vì lọt vào trong một chiến dịch “đại trà” thì “tịch thu nhà” lại là điều ít ai nghĩ Cách mạng sẽ làm với một “điển hình” như Lý Mỹ. Nó xảy ra trắng trợn và quá mau lẹ. Lý Mỹ cắn răng đi tìm đồ đạc thì thấy hầu như trong nhà không còn gì quý giá. Căn nhà 531A Cách Mạng Tháng Tám của gia đình Mỹ vốn là một cửa hàng bách hóa lớn và sang trọng, giờ ấy tan hoang. Cô báo Thành đoàn, báo ông Mai Chí Thọ. Những người đã từng ở bên Lý Mỹ khi cô nhiệt tâm “cải tạo” gia đình đến giờ đấy bỗng dưng im lặng.
                          Lý Mỹ đã mất nhiều năm để xin lại căn nhà của cha mẹ mình mà không kết quả. Năm 1985, Thành phố cấp một căn nhà khác cho cô ở Quận 5. Trường hợp của Lý Mỹ là rất đặc biệt, trong khi hàng ngàn người vượt biên theo Phương án II đã không đi được mà còn mất cả vàng lẫn nhà. Ông Nguyễn Thành Đệ, ngụ tại 21-23 Tô Hiến Thành, Quận 10 là một ví dụ.
                          Ngày 29-4-1975, khi người em rể – sỹ quan Việt Nam Cộng Hòa – kêu di tản, ông Đệ đã không đi. Ông nói: “Thôi, Cộng sản dù gì cũng là người Việt, qua bển toàn Mỹ”. Cũng như nhiều người khác, ông Đệ đã trả giá đắt cho quyết định xuấtphát từ quan niệm đồng bào. Cho dù không phải là người Hoa, nhưng năm 1979, ông Đệ vẫn được móc nối đăng ký “xuất cảnh bán chính thức”. Gia đình ông chín người, phải đóng cho chủ “tàu 224” tổng cộng 200 lượng vàng thay vì chỉ đóng tám lượng một người theo quy định.
                          Ngày 17-6-1979, gia đình ông Đệ xuống Minh Hải để chuẩn bị lên tàu, nhưng không may cho ông, vừa xuống tới nơi thì có lệnh tạm ngưng thực hiện Phương án II. Nghĩ mình ra đi theo hướng dẫn của nhà nước hẳn hoi, gia đình ông cùng nhiều người khác ráng nán lại để đòi lại số vàng đã nộp. Nhưng, “bắc thang lên hỏi ông giời”.
                          Sau gần hai tháng chờ vàng, gia đình ông quay lại Sài Gòn, mới biết ngày 23-6- 1979, tức là chỉ sau sáu ngày ông Đệ về Minh Hải, căn nhà 21-23 Tô Hiến Thành đã bị Quận 10 “quản lý”. Gia đình ông được “xét sử dụng tầng trệt nhà 23” và được “chiếu cố” không phải trả tiền thuê nhà… mình. Chính quyền Quận 10 “quản lý” căn nhà 21-23 là chiểu theo Chỉ thị 14 ngày 2-4-1977của Thành phố, theo đó: “Xử lýtạm thời tài sản của những người trốn đi nước ngoài bị bắt”.
                          Tuy nhiên, gia đình ông Đệ không phải “trốn đi nước ngoài” cũng như chưa hề “bị bắt”. Nhà ông cũng chưa thuộc diện “nhà vắng chủ” theo Thông tri số 201-BXD/ NĐ, ngày 23-6-1978 của Bộ Xây dựng. Ngày 4-8-1980, ông Đệ quay lại Minh Hải làm đơn xin xác nhận là ông “xuất cảnh đàng hoàng”. Tính tổ chức của Phương án II được địa phương xác nhận rõ ràng bằng mực đen, giấy trắng216.
                          Theo Báo cáo kiểm tra việc thực hiện Phương án II của Ban 69 thì ở thời điểm ấy, số người có hoàn cảnh như ông Nguyễn Thành Đệ ở các tỉnh miền Nam, tức là đã “làm nghĩa vụ” nộp tiền và vàng mà không đi được vì lệnh ngừng, lên tới 18.435 người. Từ cuối năm 1979, ông Nguyễn Thành Đệ bắt đầu hành trình đòi lại nhà và cũng kể từ năm đó, gia đình ông gồm mười hai người phải sống ở tầng trệt nhà 23 Tô Hiến Thành với diện tích tổng cộng 35m2.
                          “Ban 69”
                          Theo ông Trần Quốc Hương, khi Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban 69, ông Trần Văn Sớm (Hai Sớm), ủy viên Trung ương Đảng, thành viên Ban 69 cho biết
                          Ban đã có buổi làm việc với Chủ tịch Nước Trường Chinh để báo cáo tình hình cụ thể những địa phương “thu vàng nhiều và nộp lên trên ít”. Chủ tịch Trường Chinh choBan biết: “Chủ trương này chưa bao giờ được đưa ra Bộ Chính trị để bàn và quyết định, cho nên khi vào Thành phố Hồ Chí Minh nghe được thông tin về Phương án II, Chủ tịch đã đề nghị họp Bộ Chính trị cho ngưng ngay và thành lập Ban Kiểm tra xem xét việc thi hành”.
                          Ban 69 được Ban Bí thư quyết định thành lập ngày 20-3-1981 nhằm “kiểm tra các tỉnh Miền Nam” với ba nội dung: “Việc cho người Hoa đi nước ngoài (gọi tắt là Phương án II – PA2); việc buôn bán lậu với tàu nước ngoài của một số tỉnh; việc bắt giữ vượt biên trái phép”. Tuy nhiên, Ban 69 chủ yếu xem xét việc thực hiện Phương án II.
                          Báo cáo ngày 20-10-1981 của Ban 69 phân tích: “Cay cú trước thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc của nhân dân ta, bọn bành trướng Bắc Kinh sử dụng bọn Pôn-pốt đánh phá ta từ phía Tây nam, đồng thời âm mưu dùng đội quân thứ năm để gây bạo loạn lật đổ từ bên trong phối hợp với hành động chiến tranh từ bên ngoài, gây ra vụ ‘nạn kiều’ tạo nguyên cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc. Phối hợp với các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chúng mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta; vừa kích động người Hoa chạy về Trung Quốc với cái chúng gọi là ‘nạn kiều’. Để phá tan một nguy cơ có thể gây ra tình hình phức tạp về chính trị, Trung ương chủ trương giải quyết đối với người Hoa với ba phương án: cho họ ra nước ngoài theo con đường Liên Hợp Quốc HCR (gọi tắt là PA1); cho họ ra nước ngoài làm ăn (gọi tắt là PA2); cho họ đi các địa phương sản xuất theo khả năng của họ (gọi tắt là PA3). Nhưng họ chọn con đường đi làm ăn ở nước ngoài, Trung ương giao cho Bộ Nội vụ trực tiếp tổ chức thực hiện PA2 này”.
                          Theo Ban 69: “Có địa phương lúc đầu thấy thực hiện có nhiều khó khăn, dẫn đến do dự, lừng chừng, nhưng sau đều quyết tâm thực hiện. Theo chỉ đạo của Bộ Nội vụ thì các tỉnh được phép tổ chức thực hiện PA2 ngay từ đầu gồm có: Quảng Nam-Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Bến Tre, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Minh Hải; các tỉnh không được phép làm nhưng sau đó xin làm: Sông Bé, An Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Long An”. Cũng theo Báo cáo của Ban 69: “Sau 1 đợt ta tổ chức cho người Hoa đi có xảy ra tai nạn, bọn đế quốc và phản động quốc tế mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta. Để tạo thuận lợi cho công tác chính trị ngoại giao đối với thế giới, Thủ tướng Chính Phủ đã có mệnh lệnh vào tháng 12-1978 ngưng việc cho người Hoa đi nước ngoài. Vì còn một số người và tàu đã đăng ký đóng nghĩa vụ bị kẹt lại chưa đi được gây ra những khó khăn phức tạp cho địa phương. Tháng 4-79 Thủ tướng cho phép tiếp tục đi đến hết tháng 5-79 phải chấm dứt. Một số nơi có xin phép cấp trên cho đi 13.000 người nhưng thực đi 7-8 vạn người mà vẫn còn đọng lại hàng vạn người và hàng trăm tàu thuyền”.
                          Báo cáo của Ban 69 thừa nhận: “Là một công việc hệ trọng có quan hệ đến chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhưng Ban Bí thư trung ương Đảng không có một văn bản nào về lãnh đạo và chỉ đạo các cấp ủy Đảng lãnh đạo và thực hiện PA2 này, các cấp ủy Đảng ở địa phương rất lúng túng. Bộ Nội vụ có kế hoạch 244 nhắc các giám đốc sở, trưởng ty công an các tỉnh, thành báo cáo ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy để xin ý kiến lãnh đạo, nhưng khi phổ biến trực tiếpthêm câu nói do yêu cầu bí mật nên công tác này chỉ có bí thư, chủ tịch và trưởng ty công an biết. Vì vậy, việc thực hiện PA2 này, hầu hết ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy đều không biết. Tỉnh ủy, thành ủy lại càng không biết, chỉ có ba đồng chí bí thư, chủ tịch, trưởng ty công an biết thôi”.
                          Thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt thời điểm đó, ông Phạm Văn Hùng, nói: “Cũng như ông Mười Hương, ông Kiệt không đồng ý với nhận định của Trung ương, coi người Hoa ở Chợ Lớn là ‘đạo quân thứ năm’, nhưng khi chính sách cải tạo đẩy đến chỗ người Hoa phải vượt biên thì ông Kiệt thấy rằng để họ ra đi có tổ chức vẫn tốt hơn là ra đi hoàn toàn bất hợp pháp, nên ông tán thành Phương án II”.
                          =Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành phố cũng chỉ tổ chức rất hạn chế. Ông nói: “Tôi báo cáo là Thành phố không có khả năng đóng tàu, để các tỉnh thực hiện Phương án II thì tốt hơn”. Báo cáo của Ban 69 cho biết: “Đồng chí Võ Văn Kiệt, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, có lần mời các bí thư tỉnh ủy lên chỉ thị về việc tổ chức cho người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh đi nước ngoài”. Chính vì cách làm này mà tuy con số người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh ra đi chỉ “phối kiểm” được trên 10.000 người, nhưng theo Ban 69, thực tế đi được “khoảng 70.000 người”.
                          Kết quả kiểm tra của Ban 69 cho thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa báo cáo của Bộ Nội vụ và thực tế thực hiện Phương án II. Báo cáo của Bộ nội vụ nói rằng: “Từ tháng 8-78 đến 6-79, mười lăm tỉnh, thành đã cho người Hoa đi nước ngoài bằng tàu, thuyền gồm 156 chuyến với số người là 59.329 người, đã thu 5.612 kg vàng, năm triệu đồng Việt Nam, năm mươi bảy ngàn đô la Mỹ, 235 ô tô, 1.749 nhà và gian nhà”. Nhưng, số liệu sau khi Ban 69 kiểm tra cho thấy: “Số tàu đã cho đi: 533; Số người đã đi: 134.322; Thu vàng: 16.181kg; Ngoại tệ: 164.505 đô la; Tiền ngân hàng VN: 34.548.138 đồng; Một số tài sản khác: 538 ô tô, xe du lịch; 4.145 nhà và gian nhà”217.
                          Báo cáo của Ban 69 nhận xét: “Tuy đối tượng cần đưa đi ở các tỉnh trước hết là Thành phố Hồ Chí Minh chưa giải quyết hết yêu cầu, việc phối hợp đưa 70 ngàn người Hoa ở Thành Phố Hồ Chí Minh trong tổng số gần 140 ngàn người Hoa đã đi là một thành tích lớn. Việc thu vàng và tài sản của PA2 cũng là một thành tích rấtlớn”. Tuy nhiên, qua kiểm tra, Ban 69 “đã rút ra được một số kinh nghiệp về nguyên tắc lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ Đảng cũng như trong tổ chức thực hiện và công tác quản lý của chính quyền”. Theo đó, “khuyết điểm bao trùm” gồm: “Về chính trị nhiều nơi xét duyệt danh sách khôngthẩm tra xác định để lọt người Việt, người không đối tượng cho đi mà kẻ địch đang tìm mọi cách tổ chức, sử dụng để thực hiện âm mưu lâu dài là đánh phá trở lại chúng ta. Các địa phương phối kiểm chưa chặt số người Hoa ở tỉnh khác đến đăng ký đi ở tỉnh mình”.
                          Đặc biệt, theo Báo cáo của Ban 69: “Nhiều tỉnh vận động cho người đi nước ngoài, khi họ xuống tàu rồi tổ chức bắt thu tài sản (Bến Tre, Quảng Nam-Đà Nẵng). Nhiều tỉnh cho đi sau khi có lệnh cấm tháng 5-79 (Minh Hải, Đồng Nai, Bến Tre,Cửu Long, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Long An, Sông Bé) do nặng vì lợi ích chính trị và kinh tế của địa phương… Về khách quan do địch tích cực phá hoại mua chuộc.
                          Nhưng về chủ quan do ta quản lý không chặt chẽ về tư tưởng và do cán bộ hư hỏng. Một số cán bộ công an, cán bộ các ngành có liên quan đến PA2 có sai phạm. Trong lực lượng vũ trang ở mười bốn tỉnh đã có 105 sĩ quan từ thượng tá đến chuẩn úy vi phạm (kể cả chống bắt vượt biên)”.
                          Theo Ban 69 thì Bộ Nội vụ “quy định chế độ, nguyên tắc, quyền hạn không chặt chẽ, làm cho một số cán bộ tham ô, hối lộ, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, làm quỹ riêng địa phương, buôn bán với nước ngoài, gây thất thoát lớn”. Báo cáo của Ban 69 cho biết: “Sau khi Bộ Nội vụ tổ chức rút kinh nghiệm và hướng dẫn mức đóng nghĩa vụ thống nhất vào ngày 20-11-1978, nhiều địa phương không chấp hành đúng. Người ra đi có khả năng đóng góp mà ta chưa tích cực thu cùng mộtquy định của Bộ Nội vụ, có địa phương thu đủ, có địa phương thu không đủ. Bọn trung gian, đầu mối, thu của người đi nhiều nhưng nộp cho ta ít. Tính hết các khoản trên đây thì chỉ số thất thoát cũng gần bằng số thu được. Con số thất thoát lớn chưa từng thấy… Là công cụ sắc bén của Đảng, của lực lượng chuyên chính vô sản, nhưng tính tổ chức kỷ luật của cán bộ công an làm Phương án II rất yếu: quá trình thực hiện PA2 cấp dưới không báo cáo đầy đủ lên cấp trên; không sơ tổng kết; báo cáo gian dối… Một số cán bộ chủ chốt ở các ty công an sai phạm, cán bộ và lực lượng ngành một số hư hỏng, thoái hóa, tham ô tập thể khá rõ, có nhiều dư luận xấu, nội bộ nghi ngờ nhau. Kẻ địch, phần tử xấu đả kích lực lượng chính quyền vô sản”.
                          Một số “vấn đề nổi lên” khi thực hiện Phương án II, được Ban 69 chỉ ra trong Báo cáo: “Đối tượng cần đưa đi chưa đưa đi hết. Để lọt người Việt trốn đi, một số nơi đã kiểm tra cho thấy: Bến Tre có 81 người Việt; Phú Khánh có 466 người Việt; Thuận Hải, 29 người Việt; Nghĩa Bình có 32 người (mới kiểm tra ở hai phường); Quảng Nam-Đà Nẵng, 2; An Giang, 8; Cửu Long, 43; Sông Bé, 30. Thả can phạm đang bị giam để cho đi, không trao đổi để có sự nhất trí với các cơ quan tòa án và viện kiểm soát nhân dân cùng cấp: Hậu Giang, 17; Phú Khánh, 22; Đồng Nai, 63; Minh Hải, 80; Bến Tre, 11; Quảng Nam-Đà Nẵng, 40. Danh sách không được thẩm tra kỹ, chủ yếu dựa vào tự khai của chủ tàu. Số ở TP Hồ Chí Minh đăng ký đi ở các tỉnh, các tỉnh không phối hợp thẩm tra: 70.000 người Hoa ở TP Hồ Chí Minh đã đi mới phát hiện được 10.000 người”.
                          Đặc biệt, theo Ban 69, “nguy hiểm ở chỗ không xét duyệt kỹ để lọt đối tượng ra đi rồi trở lại hoạt động (ở Minh Hải, tháng 6-79 có 60 người xuất cảnh sang Mã Lai, sau 20 ngày lại trở về) cho đại diện móc tàu nước ngoài không quản lý hết để nó móc nối tổ chức đường dây đưa người vào, người ra (TPHCM), để lọt hộ của Hồ Thị Út có quan hệ đến chỉ đạo của bọn ở Hong Kong (Bến Tre). Việc miễn giảm không được tập thể Ban chỉ đạo PA2 thông qua, hầu hết các nơi đều miễn giảm cho trẻ em từ 4 tuổi đến 12 tuổi có nơi còn giảm cho người 15 tuổi. Sửa tuổi để miễn giảm đóng nghĩa vụ: Hậu Giang, 179 trường hợp; Bến Tre 102; Cửu Long 20… Công an đốt xé, sửa đổi sách vì gian dối số tàu, người, vàng, tiền: Hậu Giang, Kiên Giang, Ninh Hải, Bến Tre, Nghĩa Bình, Đồng Nai, Phú Khánh, Thuận Hải, Quảng Nam-Đà Nẵng. Dùng nghiệp vụ để đối phó với kiểm tra: bắt một số người để bịt đầu mối như Kiên Giang, Minh Hải”.
                          Có nhiều trường hợp “giữ tiền Phương án II làm của riêng. Nghiêm trọng hơn, phòng bảo vệ chính trị Ty Công an tỉnh An Giang đã cấp biển xe, chứng nhận họ là
                          nhân viên nhà nước, làm giấy ký hợp đồng với họ về việc tổ chức để cho người Hoa đi lại hoạt động. Cấp bao nhiêu giấy chưa rõ, hậu quả của nó chưa lường hết được”. Theo Ban 69, “một số nơi có nhận văn bản 244, có được phổ biến nhưng không thu đúng quy định của Bộ Nội vụ gây thất thu như: Hậu Giang, 4.866 lượng; Minh Hải, 48.195 lượng; Bến Tre, 3.789 lượng; Cửu Long, 27.000 lượng; Nghĩa Bình, 27.000 lượng; Phú Khánh, 10.987 lượng; Thuận Hải, 1.220 lượng; An Giang, 1.445 lượng”. Theo Báo cáo của Ban 69, Ban đã phát hiện ra một số cơ quan cấp tỉnh lập quỹ đen trái phép218.
                          Vụ Cát Lái
                          Đặc biệt, báo cáo của Ban 69 cho biết: “Do kiểm tra không chặt chẽ về công tác bảo đảm an toàn, đã có chín tàu bị tai nạn chết 902 người: Đồng Nai, một tàu; Bến Tre, một tàu, chết năm mươi bốn người; Sông Bé, một tàu hư, tàu Liên Xô kéo vào; Tiền Giang, ba tàu, chết 504 người; Long An, một tàu, chết ba mươi tám người; Thành phố Hồ Chí Minh, một tàu, chết 227 người; Nghĩa Bình, một tàu, chết bảy mươi tám người”.
                          Vụ chìm tàu Phương án II chết hàng trăm người ở Thành phố xảy ra vào giữa năm 1979, gần bến phà Cát Lái, Thủ Đức, nhưng gần như rất ít người sống ở Sài Gòn vào thời bấy giờ nghe nói tới câu chuyện đau lòng này. Đại tá Phạm Ngọc Thế, khi ấy là phó Phòng Hậu cần Công an Thành phố, người đảm trách việc tìm xác và chôn cất các nạn nhân, kể: Hôm ấy là ngày thứ 7, đúng giờ G, chủ tàu bắc loa kêu những người đã có danh sách ra đi xuống tàu. Đêm hôm trước họ đã bí mật tập kết ở xung quanh đó, công an canh phòng cẩn mật cho họ ở vòng ngoài. Vì ai cũng sốt ruột chờ đón giây phút ấy nên hàng trăm người tranh nhau xuống tàu rất nhanh.
                          Tàu có ba tầng, những người mua chỗ ở tầng dưới, rẻ hơn, khi tàu chưa chạy thấy ngột ngạt quá leo lên, ngồi cả trên mui, khiến cho con tàu chòng chành. Càng
                          chòng chành, họ lại càng chạy qua, chạy lại, khiến cho tàu nghiêng hẳn và nhanh chóng bị chìm. Ông Thế nói, nếu con tàu ấy không chìm tại bến thì khi ra khơi nó cũng sẽ không chịu nổi vì nó vốn chỉ là một chiếc tàu kéo.
                          Trên thực tế, nói Phương án II là do công an tổ chức, nhưng gần như mọi việc từ thu tiền, mua tàu đều khoán hết cho “Ban liên lạc những người ra đi bán hợp pháp”. Theo Đại tá Thế, họ nghĩ một con tàu có thể kéo được hàng chục chiếc ghe thì cũng có thể chở được hàng trăm người, nên họ mua và thiết kế lại trong ba tháng. Con tàu dài khoảng 30m, rộng 10m, khoang chứa đá giữ cân bằng được sửa lại để trữ nước, thay máy, thay cấu trúc các khoang. Đóng xong, nhìn con tàu có vẻ rất ngon, nhưng nó cứ như là một cái hột vịt. Khi chìm, tàu chúi xuống, cắm mũi xuống bùn,những người đã chui vô khoang không có cách nào để ra. Phần lớn những người đi trên chuyến tàu này, kể cả trưởng tàu, đều là người Hoa làm nghề buôn bán, không hề có chút kinh nghiệm sông nước gì.
                          Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế thì khi ấy Thành ủy phải điều hai cần cẩu sáu mươi tấn từ Vũng Tàu vô để “kéo rị rị từng chút”. Cũng phải tới ngày thứ ba thì mới đưatàu lên được. Con số người chết theo báo cáo của Ban 69 là 227 người. Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế: “Có khoảng hơn bốn mươi người sống sót. Cứ mỗi cái xác được đưa ra, chúng tôi chỉ dám để hai mươi phút để bộ phận nghiệp vụ lấy dấu tay rồi chuyển qua ngay cho bộ phận mai táng, vì đã bắt đầu nặng mùi. Cứ hàng chục xác một được xếp lên xe, phủ bạt, rồi chạy từ Cát Lái về mai táng ở khu đất cách đấy chừng ba cây số”.
                          Đại tá Phạm Ngọc Thế kể: “Chúng tôi vét sạch hòm ở các quận. Khâm liệm xong vẫn còn dư mấy cái vì có bốn trường hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết ôm chặt lấy con mà chúng tôi thì không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia lìa tình mẫu tử”. Ông Thế nói: “Thành ủy ra lệnh cho chúng tôi chôn cất họ rất chu đáo ở một khu vực cách cầu Giồng Ông Tố, Thạnh Mỹ Lợi, khoảng 500m”. Theo ông Thế thì những người sống sót cũng cứ như mất hồn vì chứng kiến xác người thân của mình đang trương lên, phải khó khăn lắm mới đưa ra được khỏi con tàu đã chìm ba, bốn ngày dưới nước.
                          Tuy gây ra những hậu quả như vậy nhưng Phương án II vẫn “là một chủ trươnglớn của bộ chính trị, nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, có quan hệ đối nội, đối ngoại, tiến hành trong thời điểm có chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Thù trong giặc ngoài, bọn phản động quốc tế tìm mọi cách đánh phá ta trên mọi lĩnh vực, do tính chất bí mật, không phổ biến rộng, chỉ giao phó Bộ Nội vụ tổ chức thực hiện”. Vì thế, Ban 69 đề nghị “thành công và thiếu sót đều phải được đánh giá trongđiều kiện lịch sử đó”. Ban 69 cũng lưu ý: “Việc thực hiện PA2 hầu hết đều thuộc các Đảng bộ Miền Nam. Nếu cứ có sai phạm là kỷ luật thì các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, các cấp ủy ở Miền Nam phải chịu. Nếu việc xử lí kỷ luật nhiều cấp ủy, nhiều đồng chí chủ chốt ở các Đảng bộ Miền Nam thì trong lịch sử Đảng ta sẽ để lại một ấn tượng cho thế hệ mai sau. Vì vậy việc xử lý kỷ luật trong thực hiện PA2 cần được cân nhắc theo tính chất đặc biệt của nó”.
                          chú thích
                          184 Nhân Dân, 25-3-1984.
                          185 “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” (điểm 3, mục II, phần thứ nhất, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 – tháng 1-1959).
                          186 Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang (?).
                          187 Lê Đức Anh, 2005, trang 60.
                          188 Sđd, trang 73.
                          189 Theo phía Trung Quốc, tổng số viện trợ quân sự không hoàn lại của Trung Quốc cho Việt Nam gồm: 2,160 triệu khẩu súng cá nhân; 37.500 khẩu pháo; 12,9 tỷ viên đạn; 180 máy bay, 145 tàu; 1.500 xe tăng, thiết giáp; 16.330 xe tải; 16 vạn tấn lương thực thực phẩm quân đội; 22 vạn tấn nhiên liệu (Mân Lực, 10 năm Chiến tranh Trung - Việt, Nhà Xuất bản Đại học Tứ Xuyên, 2-1994, Bản dịch của Tổng cục II, trang 129).
                          190 Theo hồ sơ của B29, nếu như lượng tiền mặt từ “Tổ chức X” - mật danh chỉ Trung Quốc - được đưa vào miền Nam năm 1964 chỉ là một triệu USD; năm 1965 đã lên đến 6.232.667 USD; năm 1967: 22,4 triệu; năm 1973: 101,5 triệu… Lúc đầu, việc tiếp nhận khoản viện trợ này chủ yếu theo phương thức: Ông Nguyễn Nhật Hồng, trưởng phòng B29, nhận tiền USD ở Hong Kong rồi mua các loại biệt tệ như đồng riel của Campuchia, đồng kip của Lào, đồng baht của Thái Lan, đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, quy trình “chế biến” kể từ khi mua biệt tệ đến khi đưa được tiền tương thích vào chiến trường có khi mất sáu tháng, đồng tiền đã bị mất giá. Năm 1968, khi Phó Thủ tướng Phạm Hùng được cử vào Nam làm bí thư Trung ương Cục thay ông Nguyễn Chí Thanh, ông cho lập Ban Kinh tài Đặc biệt mang bí danh N2683. Phụ trách Ban này là ông Huỳnh Văn Lập, tên thường gọi là Mười Phi. Thay vì mua biệt tệ ở Hong Kong, USD được chuyển vào Nam để ông Mười Phi đổi tiền Sài Gòn mua các loại nhu yếu cho kháng chiến. Đến năm 1970 thì B29 của ông Nguyễn Nhật Hồng “đánh” được ông Lữ Minh Châu vào Sài Gòn. Ông Châu trước đó được đưa qua Liên Xô đào tạo nghiệp vụ ngân hàng. Sau, về Phnom Penh, lấy hồ sơ của một Việt Kiều ở Campuchia đã chết, làm căn cước giả, “chạy loạn” về Sài Gòn xin làm việc trong một ngân hàng. Từ vị trí này, ông Châu đã làm dịch vụ chuyển ngân lậu cho các đại gia và đặc biệt là các quan chức Sài Gòn theo phương thức ông Châu nhận tiền Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn, sau đó, khách hàng của ông sẽ nhận USD ở Hong Kong hoặc ở một ngân hàng Thụy Sỹ. Bằng dịch vụ chuyển ngân lậu này, B29 đã chuyển được 161,8 triệu USD vào chiến trường. Theo ông Nguyễn Nhật Hồng, B29 không thể làm tốt việc này nếu không được Trung Quốc giúp: Tại Hong Kong, Bank of China thu xếp để một ngân hàng con có biệt danh là “Anh Bảo” làm nơi giao dịch cho B29; Khi có lệnh chi ký tên Nguyễn Nhật Hồng, “Anh Bảo” sẽ chuyển tiền vào tài khoản bất kỳ mà B29 muốn. “Anh Bảo” cũng thu xếp để khách hàng của ông Lữ Minh Châu có thể nhận được tiền mặt thông qua một cơ sở ở Hong Kong, với chỉ một tờ lịch mà cơ sở này có thể đọc được số tiền thông qua ngày tháng ghi trên ấy. Quỹ tiền mặt mà B29 nhận được từ Bắc Kinh rồi chi cho các chiến trường, không chỉ để mua súng mà còn mua được những thứ bị cấm vận ở miền Bắc như máy móc thông tin, xe Honda Sport loại có thể chạy trong R, ngoài ra 350.000 USD đã được dùng để “Cách mạng” làm căn cước giả cho những cán bộ vào ra “vùng tạm chiếm”.
                          191 Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 188.
                          192 Theo tài liệu của Trung Quốc, từ tháng 6-1965 đến tháng 8-1973 Trung Quốc đưa sang Việt Nam tổng cộng 320.000 “quân tình nguyện” bao gồm phòng không, thợ máy, thông tin, công binh… Quân số lúc đạt mức cao nhất lên tới 170.000.
                          Báo cáo nói có khoảng bốn nghìn người Trung Quốc chết tại Việt Nam trong khi một số học giả Trung Quốc ước tính có hàng chục nghìn. Năm 1966, khi Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình gặp Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh than phiền, lính Trung Quốc tỏ thái độ ngạo mạn như đội quân xâm lược trước đây, tuy nhiên khi Chu và Đặng nói sẵn sàng rút thì Việt Nam không đưa ra yêu cầu nào. Năm 1978 khi tới Singapore, Đặng Tiểu Bình nói với Lý Quang Diệu, trị giá hàng hóa mà Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam đánh Mỹ lên tới hơn 10 tỷ đô-la, cao hơn chi phí cho chiến tranh Triều Tiên (Ezra F. Vogel, Deng Xiaoping and the Transformation of China, trang 271-272).
                          193 Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 188-189.
                          194 Sihanouk & Bernard Krisher, 1999, trang 131.
                          195 Lương Phong trả lời Dương Danh Di tại Hà Nội năm 2004.
                          196 Ngày 1-2-1975, sau khi thăm Trung Quốc, Thượng nghị sĩ Mỹ, ông Mansfield, báo cáo trước Quốc Hội: “Trung Quốc tán thành để hai nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất, trung lập là điều chủ yếu trong một Đông Dương ổn định”.
                          197 Henry A. Kissinger, 2003, trang 246.
                          198 Võ Nguyên Giáp, 2000, trang 295.
                          199 Sđd, trang 300.
                          200 Sđd, trang 301.
                          201 Sđd, trang 302.
                          202 Mân Lực, 1994, bản dịch của Tổng Cục II, trang 127.
                          203 Mân Lực, 1994, bản dịch của Tổng Cục II, trang 55.
                          204 Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công hàm 14-9-1958. Toàn văn Công hàm được đăng trên báo Nhân Dân ngày 22-9- 1958: “Thưa đồng chí Tổng lý/ Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận mười hai hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.
                          205 Nguyên tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu 206 Sách giáo khoa Địa lý lớp 9 phổ thông của Nhà Xuất bản Bộ Giáo dục năm 1974 viết: “Từ những hòn đảo quần đảo Nam Sa, Tây Sa, đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, cụm đảo Bành Hồ, cụm đảo Chu Sơn là một hình cánh cung tạo nên bức trường thành bảo vệ Trung Quốc’. Những bản đồ trong sách giáo khoa đều in rõ những hòn đảo của Nam Sa, Tây Sa đều là lãnh thổ của Trung Quốc” (Mân Lực, Mười năm Chiến tranh Trung-Việt, Nhà Xuất bản Đại học Tứ Xuyên 2-1994, Bản dịch của Tổng Cục II, trang 138).
                          207 Từ năm 2011 là Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc.
                          208 Nghị quyết của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành sau Chỉ thị 53, về vấn đề “cán bộ người Việt gốc Hoa” viết: “Cay đắng trước thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, ngay từ những ngày đầu đất nước ta được độc lập và thống nhất, tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh đã coi Thành phố Hồ Chí Minh như là một địa bàn chiến lược trọng điểm, dùng mọi thủ đoạn thâm độc mưu toan lôi kéo một bộ phận quần chúng người Hoa chống lại đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta, đưa tay chân chui vào Đảng và Nhà nước ta để phá hoại từ bên trong”.
                          209 Theo ông Hoàng Văn Hoan, có hơn 300.000 cán bộ người Hoa trên cả nước đã bị thanh lọc (Giọt Nước Trong Biển Cả, 1987).
                          210 Ông Vũ Cẩm cho rằng, chính nhờ sáng kiến này mà năm 1982, Nguyễn Đức Tâm được Lê Duẩn đưa vào Bộ Chính trị giữ chức trưởng Ban Tổ chức.
                          211 Tỉnh Quảng Ninh được nhập từ Hải Ninh và Hồng Quảng.
                          212 Theo số liệu dẫn trong Thông tri 59 của Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29-8-1978.
                          213 Theo số liệu ghi trong Báo cáo Hội nghị 9 của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31-7-1979.
                          214 Tổng số người Hoa bị giết bởi Khmer Đỏ trong khoảng thời gian từ 1975-1979 tại Campuchia là 215.000 người, bằng 50% tổng số người Hoa sinh sống tại Campuchia lúc đó (Ben Kiernan, The Pol Pot Regime, Nhà Xuất bản Đại học Yale, 1996, trang 458).
                          215 Tuổi Trẻ, 23-6-1978.
                          216 Ngày 8-8-1980, ông Võ Thanh Tòng, phó Ty Công an Minh Hải bút phê: “Hộ ông Nguyễn Thành Đệ và Nguyễn Thị Thành (gồm chín người) đến Minh Hải đăng ký xuất cảnh hồi đầu năm 1979 nhưng có lịnh đình không cho đi phải ở lại”.
                          Ngày 25-6-1980, Tòa án Nhân dân Minh Hải chứng nhận, nguyên văn: “Giải quyết hộ của Nguyễn Thị Thành và Nguyễn Thành Đệ đăng ký đi xuất cảnh con tàu 224 tại thị xã Minh Hải ngày 18-6-1979. Do nhà nước ngừng ông đã đến công an thị xã Minh Hải và Tòa án Nhân dân tỉnh Minh Hải kiện công ty chủ tàu 224 đòi lại số vàng ông đã nạp. Ông đến tạm trú tại thị xã Minh Hải, nay ty công an tỉnh Minh Hải đang bắt chủ tàu Tôn Thục giam giữ để xét hỏi. Vậy theo yêu cầu của ông xin trở về Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi cư trú của ông cũ. Đề nghị quận và phòng nhà đất quận xét giúp đỡ gia đình ông có nhà ở… Ủy viên Thẩn phám, (đã ký) Ngô Quốc Kha”.
                          217 Trung Quốc ước tính có khoảng 160.000 người Hoa đã phải rời Việt Nam trong khoảng thời gian này (Shen Baoxiang, Zhenli biaozhun wenti taolun shimo, trang 370-371). Những người sống ở Sài Gòn-Chợ Lớn và các tỉnh phía Nam là người Quảng, người Tiều, người Hẹ và người Phúc Kiến, đến Việt Nam từ thời “Phản Minh, Phục Thanh” với Hoàng Tiến, Dương Ngạn Địch ở mạn Đồng Nai; với cha con Mạc Cửu ở xứ Hà Tiên. Một số khác đến gần hơn thì cũng từ thời Nhật cai trị một phần Trung Quốc. Vốn là dân phiêu bạt, người Hoa đến Việt Nam đã khai hoang, lập ấp, lấy vợ Việt. Họ không chỉ là một lực lượng kinh tế sinh động mà còn gắn với lịch sử Việt Nam, chính họ cũng đã cống hiến cho bản xứ những giá trị văn hóa vượt thời gian: Mạc Cửu với Thi Đàn Chiêu Anh Các; Trịnh Hoài Đức với Gia Định Thành Thông Chí… Cho dù vẫn mang trong mình dòng máu Hoa, phần lớn người Hoa ở Việt Nam đã không còn coi đại lục là tổ quốc; khi rời Việt Nam, họ đã không về Trung Quốc.
                          218 Cụ thể: “Ở Kiên Giang: Ngoài số 1.413 lạng vàng và 96.913 đồng ngoại tệ (trong đó có 26000 đô la) do các đồng chí Hai Cầu, Năm Thức, Chín Kỳ chủ trưởng báo Ty Công an đưa qua Thường vụ Tỉnh ủy làm quỹ riêng, một số đồng chí trong Thường vụ không nhất trí nên đồng chí báo Phòng Ngân sách Tỉnh ủy, đã đem nộp cho ngân hàng. Một số đồng chí Thường vụ Tỉnh Ủy Kiên Giang đã lấy 158 lạng vàng đem bán lấy tiền cộng với số tiền của PA2 và tiền bắt vượt biên, tất cả là 671.921 đồng, đã chi một số còn lại 234.398 đồng đưa qua xây dựng trụ sở Tỉnh ủy. Ở Sông Bé: Lấy 185.511 đồng tiền lời (mua gỗ của lâm nghiệp về xẻ bán cho người Hoa (đóng tàu) đi PA2) để chi cho Đại hội Đảng bộ Tỉnh, một số còn để ngân sách địa phương. Ở Hậu Giang: Công an Vũ trang lấy 148.942 đồng, Ty Công an lấy 76.254 đồng thuộc tiền PA2 làm quỹ cho đơn vị, cơ quan mình. Minh Hải: Ty công an mua hàng nước ngoài bán lấy lời 190.715 đồng, bán tôm lời 847.370 đồng, tổng cộng là 1.038.085 đồng làm quỹ. Quảng Nam-Đà Nẵng: Ty công an lấy 14.500 đồng; Công an Thành phố Đà Nẵng lấy 53.547 đồng; Huyện Tam Kỳ, 40.000 đồng; Ty thủy sản, 53.399 đồng”.

                          Comment


                          • #14
                            Chương 5

                            Chiến tranh


                            ặc dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng ma áo đen, đêm đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây Nam, nhưng người dân Việt Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, tình trạng chiến tranh được Chính phủ công khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đất nước trải qua ba mươi năm chiến tranh liên tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một ngày thực sự yên vui, trai tráng lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh nhau với những “người anh em” Cộng sản.
                            Biên giới Tây Nam
                            Ngày 25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao, chủ trì họp báo, cho biết nhà cầm quyền Campuchia đã huy động phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc biên giới, mở những cuộc tiến công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư đoàn vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Cuộc họp báo của ông Ngô Điền diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết thúc một cuộc tấn công kéo dài trên vùng biên giới Tây Nam. Từ ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn Khmer Đỏ đã đánh vào vùng Tịnh Biên, Phú Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế, sâu hơn 3km trong lãnh thổ Việt Nam. Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành, thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng chung quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa và tài sản của nhân dân Việt Nam”219. Ông Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người Việt Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot” và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một”220. Khmer Đỏ đã khai chiến một ngày sau khi họ chiếm được Phnom Penh. Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun, chỉ huy trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt Nam vì mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày 19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc. Quân đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30- 4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi. Ngày 10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết và bắt đi 515 người. Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển”221. Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới Phnom Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên đã để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót”222. Pol Pot nói vậy, nhưng mãi cho tới ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Trọc, phía Campuchia gọi là Poulo Vai. Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được ký. Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành lập. Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km về phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi cát vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ223. Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol Pot một bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ý trả lại Poulo Wai cho Campuchia. Ngày 4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ trang Việt Nam không còn ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ hứa: “Sẽ giải quyết”224. Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515 người dân Việt Nam này. Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào tháng 6 năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới225. Cuộc đám phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết: “Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn, củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là anh em cách mạng”226. Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đã không phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dã man của bọn diệt chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot – Ieng Sary. Tôi thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lãnh đạo địa phương”227. Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những người gốc Việt, hàng chục nghìn người Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại. Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị các Angkars đặt dưới dao, dưới búa228. Hàng trăm người thân của những người Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm 1970, cũng đã bị giết khi đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh giải phóng”.
                            Pol Pot
                            Cuối tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép đến Campuchia. Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, dẫn đầu. Tuy vẫn rất lịch lãm, thân thiện và tỏ rõ “tình hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng trong suốt quá trình làm việc, Pol Pot vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với ông Xuân. Không ai biết, trong thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người Khmer cộng sản khác, Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục cơm nguội. Ở Paris, nhà ông Xuân được những người Khmer coi như một cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không anh?”. Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham gia các trò chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot – đứa con út của họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar – thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.
                            Sau một năm sống trong môi trường khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth Sar bắt đầu sáu năm trong một trường dòng quý tộc. Năm mười sáu tuổi, Saloth Sar quay lại Kongpong Thom học trung học. Lúc ấy, Phnom Penh đang náo động bởi các phong trào đòi độc lập của giới thanh niên học sinh. Thành phố lớn nhất mà Saloth Sar đặt chân tới là Sài Gòn, chặng nghỉ trước khi xuống tàu sang Pháp sau khi nhận được học bổng học ngành vô tuyến điện. Năm 1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu hoạt động cho dù được người anh trai làm việc ở Hoàng cung khuyên là không nên dính dáng tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp Yeng Sary, một sinh viên người Khmer sinh ra ở Việt Nam.
                            Trong đám cưới của Yeng Sary với Khieu Thirith – một sinh viên đang học về văn chương Anh tại Sorbonne – Saloth Sar đã gặp và sau đó cưới Khieu Ponnary, chị gái Thirith. Họ cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng Cộng sản Pháp. Trong thời gian đó, chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được coi là một con người lịch lãm, khiêm tốn. Bạn bè có cảm giác cậu ta không giết nổi ngay cả một con gà. Tháng 1-1953, Saloth Sar trở về Campuchia vì bị cắt học bổng sau ba năm liên tiếp thi rớt. Những ngày đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong trào đòi độc lập đã trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth Chhay, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng Saloth Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba – một đảng viên người Việt Nam – đồng ý cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer. Sau Đại hội lần thứ II – tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam – những người cộng sản Lào, Khmer trong năm ấy đã được giúp đỡ để lập ra đảng riêng. Ngày 21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn Thành Sơn triệu tập các đảng viên người Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân Dân Cách mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều với cái tên Việt Nam là Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch. Sơn Ngọc Minh là người sáng lập Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào có ảnh hưởng trên địa bàn bốn tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản trên đất Khmer lúc ấy vẫn được lãnh đạo bởi những đảng viên người Việt. Saloth Sar và một số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong một chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư. Những người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những công việc tạp vụ; điều này đã để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt. Người Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính phủ Hoàng gia đã ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người Khmer Cộng sản có được một vùng “tập kết” như những người kháng chiến Issara của Lào. Hơn 1.000 đảng viên người Khmer được đưa ra miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, trong đó có Sơn Ngọc Minh. Những đảng viên ở lại hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu Heng và Tou Samouth, chịu sự truy lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm 1959, Sieu Heng đầu hàng, nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp. Tháng 9-1960, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer tổ chức đại hội bầu Tou Samouth, một người có quan hệ tốt với miền Bắc Việt Nam, làm bí thư. Nhưng, năm 1962, Tou Samouth đã “mất tích” khi vừa từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là phó bí thư, đương nhiên trở thành bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc nông dân và các Phật tử ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay thế bởi những người đã từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù khi ấy Khmer Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào những người Việt Nam Cộng sản.
                            Đi dây
                            Norodom Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong nửa cuối thế kỷ 20, không chỉ có ông – vị vua của một một quốc gia thờ thần bốn mặt – các bên dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có những mối quan hệ phức tạp với nhau. Trong khi trục lợi vai trò trung lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc cho Pol Pot phát triển nhanh phong trào Khmer Đỏ.
                            Kể từ khi người Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu nhìn thấy vị trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc gia. Hoàng đế Minh Mạng đã từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế chống lại quân Xiêm. Người Pháp cũng đã không dừng tham vọng thuộc địa của họ ở Việt Nam mà đưa quân ngược dòng Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi gộp chung ba quốc gia khác biệt về văn hóa thành một xứ gọi là Đông Dương. Trong chiến tranh chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi “Đông Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến trường”. Khi miền Bắc xác định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”, một con đường men theo lãnh thổ Lào, Campuchia – thường được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh – bắt đầu được thiết lập. Người Mỹ biết rất rõ miền Bắc Việt Nam sử dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở Campuchia như một bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Khi chưa chính thức vào Nhà Trắng, Nixon đã yêu cầu “báo cáo chính xác về những gì kẻ địch có ở Campuchia”, đồng thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây dựng ở đó”. Người Mỹ cũng biết khá chính xác việc miền Bắc sử dụng cảng Sihanoukville để nhận vũ khí từ Liên Xô. Trong thập niên 1960, Sihanouk đã khá thẳng tay với Cộng sản, Chính phủ Hoàng gia tuyên án tử hình vắng mặt Saloth Sar; năm 1967, ba bộ trưởng cánh tả – Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim – đã phải bỏ vào rừng với Khmer Đỏ. Nhưng Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt Nam lập căn cứ trên lãnh thổ của mình. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với Hà Nội, Bắc Kinh và các quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gây lo ngại cho Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm được nói là đã ủng hộ lãnh tụ đối lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa Ngô Trọng Hiếu từng bị cáo buộc đứng sau lưng một vụ mưu sát Sihanouk bằng bom. Tháng 8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với miền Nam Việt Nam và sau đó từ chối viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ. Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ với Mỹ và sang tháng 6-1965, ông công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam đánh giá cao vai trò của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối năm 1964, khi Pol Pot theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đã được đề nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đã ghi điều này vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đã không hết lòng với ông ta. Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ mà là cầm quyền, nhưng làm sao có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia vững mạnh. Từ Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời gian đó, Cách mạng Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia sẻ nhiều mục tiêu của cuộc cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong con đường cách mạng của Pol Pot và Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những hoạt động du kích lẻ tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk. Một số cuộc nổi dậy do Pol Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc. Du kích Khmer Đỏ xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể đáp ứng vì khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk. Sihanouk, tất nhiên, phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà các bên đánh giá. Một mặt, ông làm ngơ cho miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt khác, ngày 10-1-1968, khi gặp Chester Bowles, phái viên của Tổng thống Mỹ Johnson, Sihanouk nói: “Chúng tôi không muốn có người Việt Nam nào ở Campuchia. Chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề này. Chúng tôi không phản đối việc truy tìm ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các ngài sẽ giải phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng”229. Nhà Trắng đã “dịch” câu nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào những căn cứ ấy. Hai tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969, trong một cuộc họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng trong đợt ném bom này, không có người Campuchia nào cả”230. Năm 1969, Sihanouk tìm cách nối lại quan hệ ngoại giao với Washington, nhưng trước khi việc thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.
                            Ngày 7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một người rời thủ đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo phì, bệnh máu, và chứng tiểu tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các tướng tá và chính trị gia – những người năm 1963 đã phản đối việc ông từ chối viện trợ kinh tế của Mỹ và sau đó, năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại giao – bắt đầu buộc tội ông bất lực khi để quân đội Bắc Việt Nam “tràn ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại Svay Rieng, một cuộc biểu tình chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng 20.000 thanh niên Campuchia đã cướp phá tòa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom Penh. Lẽ ra, ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát tình hình, nhưng ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch Xô-Viết Tối cao Nikolai Podgorny đã khuyên ông về nước ngay, nhưng Sihanouk đã ở lại đó năm ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế truất chức quốc trưởng của ông. Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn ông ra sân bay. Không ai trong đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả. Tất nhiên, miền Bắc Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn Nhật Hồng, người thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả Campuchia, xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ sau năm 1970, cảng Sihanoukville không còn được miền Bắc dùng để cung cấp vũ khí cho miền Nam nữa. Ông Hồng kể: “Khi Trung Quố c và Liên Xô xung đột với nhau, đó ng cử a biên giớ i, hàng hóa từ Liên Xô không thể chuyển bằng tàu liên vận qua biên giới Trung Quốc, miền Bắc phải thuê tàu viễn dương chở vũ khí viện trợ của Liên Xô về cảng Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và Lonnol đồng ý”. Đổi lại, một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ được chi cho hai người. Phòng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol mỗi người một tài khoản bí mật ở Thụy Sỹ231. Trong những năm 1966-1969, lượng hàng hóa mà miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng Sihanoukville gồm: 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấ n quân trang, 731 tấ n thuố c men, 65.810 tấ n gaọ , 5.000 tấ n muố i, và 4.115 tấ n thực phẩ m hôp̣ và khô.
                            Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969, Lonnol yêu cầu khoản 10% của ông phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích tình báo của ta có thể đoán biết được ý đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng thay vì lấy tiền”. Theo ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót đường” này được bản “Báo cáo Tổng kết công tác ngoại hối đặc biệt” do ông Mai Hữu Ích ký ngày 25-11-1979, ghi là “chi phı́ vâṇ tải tuyệt mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD.
                            Lịch sử dường như đã xếp đặt để ông Hoàng Sihanouk kết thúc một chặng đường chính trị của mình tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo nghi thức của một ông hoàng đang trị vì. Thủ tướng Chu Ân Lai đã ra tận cầu thang máy bay ôm hôn, và phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt. Sau khi lên chiếc xe cắm cờ cả của Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với Sihanouk: “Đêm qua, tôi đã cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính phủ Trung Quốc vẫn coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi cũng cho họ biết là tôi rất mong muốn tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại sân bay”232. Sự tinh tế của người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai đã tặng Sihanouk một dinh thự vào loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh là Bắc Triều Tiên, cũng chỉ trong vài tháng, xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự kiểu cung điện nhìn ra mặt hồ. Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân Kim Nhật Thành thường xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và rượu vang Pháp. Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về sau khi xem xong đều chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đã đưa đội sỹ quan cận vệ người Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử dụng. Trong cuộc “hội đàm” ngày 19-3-1970, Chu chuyển lời của Mao Trạch Đông nhắn với Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đã rồi và quyết định lãnh đạo một phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng Campuchia thì Trung Quốc sẽ ủng hộ và sẵn sàng trợ giúp những gì có thể”233. Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông khi ấy chưa ai nghĩ đến khả năng bắt tay giữa Pol Pot và Sihanouk. Ngày 21-3-1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng bí mật tới Bắc Kinh, cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp tác. Hai hôm sau, ngày 23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay với Khmer Đỏ, những người đã từng bị chính ông ta “xử tử hình vắng mặt”. Sihanouk cũng tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất dân tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người Cộng sản Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh, “Chính phủ Sihanouk” được cung cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một nguyên thủ quốc gia234. Ngày 24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên giới” để tham gia Hội thảo Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng với Thái tử Souvanouvon của Pathet Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm Văn Đồng. Khi trở lại Bắc Kinh vào ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố chung cam kết “hỗ trợ có đi có lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế quốc Mỹ”. Trước đó, lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đã tổ chức rải truyền đơn và phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện giúp Sihanouk một lực lượng gọi là Khmer Rumdo.
                            Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ để Pol Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó gây ra cuộc chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ thành hiện thực thì đó chính là Hà Nội”235. Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng236.
                            Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa, vừa kích động lòng căm thù Mỹ và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đã tuyển được hàng trăm nghìn thanh niên tham gia lực lượng của họ237. Năm 1974, mọi thanh niên từ mười sáu tuổi trở lên bị buộc gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết. Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng trong giai đoạn này đã trở nên vô cùng hung hãn. Khi đàm phán Hiệp định Paris, Lê Đức Thọ đã đòi loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản ở Campuchia. Khi ấy, ông Thọ và các đồng chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ, chính “ông anh” Trung Cộng không hề mong muốn một chiến thắng về ý thức hệ ở Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Trung Quốc muốn ở Lào và Campuchia có một kết cục trong đó ‘các nhân tố tư bản’ có thể tham gia trong chính phủ và giới cầm quyền truyền thống có thể là người đứng đầu quốc gia”238. Chu nói thẳng với Kissinger: “Chúng tôi có thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người đứng đầu nhà nước ở Campuchia và người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà vua”239. Tháng 2-1973, khi Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông nhận ra: “Các lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông Dương có thể là một thắng lợi về ý thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị đối với Trung Quốc”240. Campuchia càng ngày càng trở thành một ván bài phức tạp, có quá nhiều người chơi mà không ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng cũng sợ Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng con bài Sihanouk. Thật khó để định lượng trong chính sách thù địch với Việt Nam của Pol Pot có bao nhiêu lý do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4- 1970, khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp giữa Khmer Đỏ và lực lượng ủng hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội, đã thẳng thừng từ chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất lòng Pol Pot mà còn khiến cho những người Khmer tập kết chạnh lòng. Kể từ khi lưu vong, năm nào Sihanouk cũng sang Việt Nam ăn Tết. Để làm đẹp lòng ông Hoàng, những khi Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở Thủ đô đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ tướng Chăn Si, một cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về điều này đã rơm rớm nước mắt, trách ta coi nhẹ những người cộng sản Campuchia mà đề cao quá mức vua chúa”241.
                            Năm 1973, Việt Nam đã đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về danh nghĩa ông là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ nắm. Sihanouk đã nhiều lần đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này nhưng Chu Ân Lai từ chối. Sau Hiệp định Paris, Sihanouk gặp trực tiếp Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, nhưng cũng bị Yeng Sary lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đã cầu cứu Hà Nội và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đã nhờ Bắc Kinh tác động thêm để Pol Pot chấp nhận chuyến đi của Sihanouk242. Khmer Đỏ đã khai thác được triệt để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại, nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt, Khmer Đỏ đã tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanouk243.
                            Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ
                            Người Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đã trang bị pháo binh hạng nặng và trợ giúp công binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào Phnom Penh. Tướng Giáp xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đã từng bước phá vỡ sức đề kháng của quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom Penh. Được ta trợ giúp đạn súng lớn, bạn đã nã pháo vào trung tâm thành phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc hành quân mang tên Diều Hâu, di tản cố vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng đường không. Ngày 17-4, Phnom Penh được giải phóng”244. Đêm trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”, Phnom Penh gần như không ngủ, phần vì cả thành phố chìm trong tiếng súng, phần vì người dân chờ đợi một biến cố mới cho dù không ai lúc ấy có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.
                            Vào lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu hàng. Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu là thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đã tới ngày hòa bình. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự. Khoảng 1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của Chính quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc” bắt đầu bị ném ra đường và đốt. Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong tòa Đại sứ Pháp còn Long Boret thì gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết. Sáng sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những người ra trình diện được định đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic, các quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể thao. Hai anh em nhà Lonnol, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech Saugh, các tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng cũng bị giết. Chính quyền ở các địa phương cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4- 1975, ở Battambang, các sỹ quan được Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón Sihanouk nhưng kết quả là họ đã bị hành quyết ở một nơi hoang vắng.
                            Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các đô thị trên cả nước thì người dân mới biết rõ trong số các nạn nhân của chế độ gồm có cả mình. Nếu như trong ngày 18-4-1975, dân chúng ở Phnom Penh còn có thể hỏi han khi nghe lệnh sơ tán thì ngày hôm sau, họ phải đối diện với những tên lính mười bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn.
                            Không chỉ có cảnh cáo, những người phản đối đã bị bắn chết trước mắt người thân. Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc phải bỏ lại đằng sau. Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận ra tài sản không đáng giá so với những gì sẽ mất. Nhiều gia đình phải li tán, vợ chồng, con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi. Họ đã phải đi bộ nhiều ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các vùng mà Pol Pot dự định xây dựng các hợp tác xã bậc cao. Những người ốm yếu bị vất lại. Người dân bắt đầu nhìn thấy tương lai của mình qua những xác chết nằm la liệt trên đường. Khoảng 0,53% số dân Phnom Penh đã bị chết trên đường đi245. Tính cả số các quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do không chịu chấp hành, hơn hai mươi nghìn người đã bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol Pot nhận được “tin chiến thắng” khi đang ở Oudong với Khieu Samphan. Khieu Samphan nhớ lại: “Khi ấy, chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng súng chào mừng hay điều gì tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông ta nói đơn giản đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành được”246. Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh đưa toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn. Ngày 17-4-1975, Yeng Sary đang ở Quảng Trị. Thay vì theo đường Hồ Chí Minh đi Rattanakiri, Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa trở về Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng chính “máu xương của nhân dân” đã viết nên “trang sử chói lòa của dân tộc”247. Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn thường trực trên môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám điểm: di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền tệ; buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; hành hình các nhà lãnh đạo Lonnol; thành lập các hợp tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn tập thể; trục xuất toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là biên giới Việt Nam248. Trong số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ của Khmer Đỏ, giải thích việc đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải lao động chân tay như những người nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta mạnh hơn và có ảnh hưởng hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”. Việc bãi bỏ sử dụng đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản, mà: “Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào tay tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ dùng tiền để hối lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm, hai mươi năm nữa, cái xã hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt Nam”249. Khát vọng vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tái lập đế chế Angkor, đã biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt trở thành một tên giết người điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ ba mươi năm”250. Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc 12- 15 giờ mỗi ngày, trong khi ăn không đủ no vì gạo phải để dành cho chỉ tiêu xuất khẩu hai triệu tấn trong năm 1977.
                            Trong tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau Đại hội Toàn quốc Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước vĩ đại” và vẫn được giữ vị trí đứng đầu nhà nước. Trong thời gian ấy, Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng, nơi Kim Il Sung xây cho ông một tòa lâu đài nhìn ra mặt hồ Chhang Sou On. Tháng 9-1975, Pol Pot gửi Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith, vợ Yeng Sary, tới Bình Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với ông: “Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa xã hội”251. Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp tùng Sihanouk và bà hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Mao lúc ấy tám mươi hai tuổi “gần như trần truồng trên giường bệnh”252 nhưng có vẻ như ông vẫn hình dung được những gì học trò ông đang làm ở Campuchia. Mao chỉ thị cho đại diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân Sihanouk và bà Hoàng tới công xã”.
                            Những lời của Mao đã có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy cũng đang ở trên giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu Samphan và Yeng Thirith với giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin hãy đi từng bước lên chủ nghĩa cộng sản. Đừng đi theo mô hình đại nhảy vọt sai lầm của chúng tôi”. Sihanouk nhớ lại là cả Khieu Samphan và Thirith đều “cười ranh mãnh”. Khmer Đỏ không cho rằng họ có học tập ai đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây dựng một xã hội chưa từng có trong lịch sử. Ngày 9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng Tiểu Bình gọi đây là “sự trở về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã từ hồi tháng 4-1975, ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong suốt chuyến đi New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển tiếp tại Paris, không ai trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi ở của ông để được gặp ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đã nhận ra không khí chết chóc ở Campuchia, nhưng vì “trách nhiệm và niềm kiêu hãnh” cá nhân, tháng 12-1975, Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ và hai mươi hai người con, cháu của ông đã trở lại Phnom Penh. Kết cục là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk đã trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đã bị Angkar đưa đến các công xã để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ có hư danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành phần chủ yếu là các bí thư quân khu và chi khu của Khmer Đỏ. Theo hiến pháp mới, Campuchia sẽ có một hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk phải đệ đơn từ chức để cho Khieu Samphan làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai là hai vị tư lệnh quân khu: So Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân khu Tây Bắc. Ngày 12-4-1976, Pol Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai trò thủ tướng, Yeng Sary làm bộ trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc phòng. Ngày 22-7-1975, trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên toàn thế giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời, không ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên cuối cùng và giành thắng lợi hoàn toàn”253 như Khmer Đỏ; còn Pol Pot cho rằng: “Đây là một thắng lợi mẫu mực cho nhân dân thế giới”.
                            “Kẻ Thù Lịch Sử”
                            Từ ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của Đảng trong hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ vừa là công trường lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính sách thù địch với Việt Nam mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định kiến lịch sử được dồn nén qua nhiều thế kỷ, mà còn bằng cả mối quan hệ ngắn ngủi giữa những người cộng sản khi cùng sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo lệnh Quốc tế Cộng sản, thay bằng một đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy là Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng ngay cả những phái bộ ở Lào hay Campuchia đều có lượng đảng viên người Việt Nam chiếm số đông. Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương” bắt đầu được những người theo đường lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới. Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối” 254. Từ năm 1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo biên giới Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định là lực lượng của Khmer Đỏ. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng được Việt Nam huấn luyện. Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần còn lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy ra. Mấy tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Võ Hồng Thắm, thư ký riêng của ông Kiệt, đã bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng qua biên giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái chết của ông Thắm không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị nhỏ lẻ của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ sau khi các đơn vị miền Bắc Việt Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới tạm hạn chế quấy rối. Năm 1970, hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia đã bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu vì coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Một số chạy thoát sang Việt Nam, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt: “Thoạt đầu, Trung ương Cục chủ trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ khi về tới cứ của Pol Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot, phía Việt Nam chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer Đỏ”. Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng, những chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá đúng mức và các nhà lãnh đạo, trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ là ai, và đã không có ấn tượng đầy đủ trước không khí chết chóc đang bao trùm quốc gia chùa tháp. Ngày 2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ đụng độ ở các đảo Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh trước khi tiến đến thủ đô, nhưng ông đã không nhận thấy dấu hiệu khác thường gì. Đúng hai tháng sau, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến Campuchia trong một chuyến thăm đáp trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của Pol Pot, Nuon Chea và Yeng Sary. Một thành phố Phnom Penh vắng tanh đã không trở thành mối băn khoăn của ông và tùy tùng. Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn nhà báo Việt Nam đi đến nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng vẻ lạ thường” ở Phnom Penh nhưng rồi đã choáng ngợp khi Pol Pot trình diễn “tình anh em giữa hai đảng và hai dân tộc”255. Theo một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol Pot- Yeng Sary đã tái hiện “tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng một đêm trình diễn văn nghệ tại nhà hát lớn thủ đô Phnom Penh. Còn Thủ tướng Pol Pot thì tiếp đãi đoàn vô cùng nồng thắm256.
                            Chỉ mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh trừng những nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol Pot tiến hành. Năm ấy, một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ thời Đảng Cộng sản Đông Dương như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Đảng Campuchia, tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà tại Việt Bắc, lãnh tụ Sơn Ngọc Minh tuyên bố thành lập Đảng Campuchia. Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà Pol Pot không muốn dính líu. Mười ngày trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ niệm, đồng thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lãnh đạo cao cấp khác. Họ bị đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến khi “nhận tội” rồi bị giết chết. Pol Pot đã viết lại lịch sử bằng cách ra một văn bản, xác định thời điểm thành lập Đảng không phải là năm 1951 mà là 1960, năm Đảng Campuchia tổ chức đại hội và, sau đó, bầu ông ta làm phó bí thư. Pol Pot giải thích: “Chúng ta cần đặt lịch sử Đảng vào trong những gì trong sạch và hoàn hảo, vạch ra đường lối độc lập và tự chủ cho chúng ta”257. Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về Phnom Penh. Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc gia đình”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu Samphan đã làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải thích với Sihanouk: “Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ”258. Tháng 12-1976, khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một đại lễ mừng chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay vì cử đại biểu đến Hà Nội như hai mươi chín “đảng anh em” khác259. Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên phòng; trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé.
                            Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)
                            Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân tình lo lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn. Chiến tranh bắt đầu leo thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V. Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại chuyển sang làm kinh tế – Sư 4 ở tứ giác Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh260. Tinh thần của bộ đội, vì thế, cũng có những “diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau bao nhiêu năm chiến đấu liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân đội chưa được giải quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh em chưa được giải quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm chí cả chục năm biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ đội đang từ thành phố, thị xã… nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh tế, trần mình suốt ngày với cỏ dại, cây hoang, sình lầy, chua phèn; thiếu thốn cơ cực đủ bề”261.
                            Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên khi Pol Pot tấn công thì ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu tổn thất lớn. Tướng Lê Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu, biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng về đánh theo lối chính quy hiệp đồng binh chủng nên tiêu hao đạn dược thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Tháng 9- 1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải quyết tình hình biên giới Tây Nam”. Đêm 30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt một dải biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến sự. Trên tuyến biên giới do Quân khu IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến Hà Tiên, Kiên Giang, Pol Pot dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng địa phương thuộc quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-An Giang. Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt. Các đơn vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đã nỗ lực tác chiến, nhưng theo ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế, chưa chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị động, lúng túng, thậm chí bị tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra trên đường biên. Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, vòng về tiêu diệt phần lớn lực lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xã Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng Phạm Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi phục tuyến biên giới Hà Tiên thì Khmer Đỏ tràn qua cửa khẩu Vịnh Bà, đánh sâu vào lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số khu vực, trong đó có khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê Đức Anh lại phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp”262. Sau khi Trung đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng Anh, một hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần địa bàn của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ thì Ba Chúc, Tịnh Biên của An Giang lại bị Khmer Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4 buộc phải lùi về phía sau, Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải điều Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh Vĩnh Tế. Không lâu sau, khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh Ba Chúc với quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được. Trung tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đã thi hành phương thức phòng thủ mà Tướng Trà gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt thời chống Tống. Sư đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng hai tiểu đoàn địa phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113, đánh thẳng vào khu vực cố thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som sâu trong đất Campuchia từ hai mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến phòng thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu khi người dân Campuchia đã vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tới263. Các lực lượng của Quân khu IX đã ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi ngày. Chưa đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol Pot tiến đánh ồ ạt vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, thuộc huyện Châu Đốc, An Giang. Đặc biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn 14 cùng với Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc và núi Phú Cường thuộc huyện Tịnh Biên. Sư đoàn 4 và lực lượng địa phương của An Giang lại một lần nữa không giữ được địa bàn, để quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên năm cây số, phá sập hai cây cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi tới đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người già và ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng Phật. Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba bề. Lính Khmer Đỏ lại mặc sức sát hại người dân Ba Chúc. Lính Khmer Đỏ không chỉ ném lựu đạn, xả súng bắn chết hàng nghìn thường dân ở hai ngôi chùa, nhiều thường dân khác còn bị giải ra đồng, xả súng bắn chết264. Theo ông Trà: “Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí chết chóc bao trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi đánh tan lực lượng Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, bãi chiến trường được giữ lại gần một tuần lễ để các nhà báo trong nước và quốc tế đến quay phim. Chiến tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công bố265.
                            “Nhất Biên Đảo”
                            Hơn hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975 tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi, với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do”266. Bí thư Lê Duẩn nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100 năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được hưởng hòa bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy cũng nhất định có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đã gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam Á”267. Ngay sau đó, Bộ Quốc phòng cho giải thể hàng loạt các đơn vị chiến đấu. Tháng 10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội làm kinh tế”, xác định: “Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được thay bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hà Nội gần như không có phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đã cho đánh tới quy mô cấp sư đoàn268. Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa phương tăng dần lên. Ông Nguyễn Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Cần Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn phòng Huyện ủy đã khoảng 12 giờ, anh Ba nói, “Mệt quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc rồi nói: “Các anh có gì hỏi, tôi giải đáp”. Anh em chúng tôi có khoảng ba mươi người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời: “Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”. Cuối năm 1977, khi đánh sâu vào đất Campuchia, theo ông Trần Phương, quân đội Việt Nam phát hiện nhiều tài liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot. Tháng 1-1979, khi tiến vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam còn thu được văn bản hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ký với Son Sen tại Phnom Penh ngày 10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp cho Khmer Đỏ pháo binh, pháo phòng không, thuyền tuần tiễu… Đặc biệt, 500 chuyên gia quân sự Trung Quốc đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng những vũ khí, khí tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn gặp cả người của lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên269. Làn sóng người Khmer tị nạn, nhất là những người tị nạn qua ngả Thái Lan, đã giúp thế giới biết được phần nào nội tình Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất chấp dư luận quốc tế để ủng hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành vi chiến tranh, nếu Việt Nam không để cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ rơi vào tay Trung Quốc. Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với đồng chí Fidel, tôi rất muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí Fidel thông cảm”.
                            Theo ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đã bất ngờ trước tư duy mềm dẻo này của ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ Chính trị bàn về vấn đề ‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài Gòn cũ có tham gia không?’, có người nói: ‘Ta mà kế thừa Nguỵ à?’, có người lưu ý: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh Ba quát: tại sao không!”. Đặng Tiểu Bình đã đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về sau sẽ ví Việt Nam là Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những nỗ lực bất thành nối lại bang giao với Mỹ. Ông Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau khi làm chủ Sài Gòn, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng270. Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa”. Các đại diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank, được mời họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được thông báo rằng họ có thể ký kết tìm dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Đáp lại những tín hiệu này, ngày 7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “bình thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra lộ trình ba bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra điều kiện để nối lại bang giao: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi bằng được Mỹ phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi ký Hiệp định Paris được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “Bình thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu đâu”. Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã giảm điều kiện “làm đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống còn “làm đầy đủ trong khả năng có thể”. Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc nối lại bang giao. Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock. Cùng ngày, Woodcock đến chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những nỗ lực bình thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi phút sau khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên trong tòa nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông ký lệnh ân xá cho những người Mỹ đã từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Carter thừa nhận đó là “một quyết định khó khăn” và ông đã phải nhận những lời chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi đầu việc hàn gắn và đưa chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn”271. Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương bình thường hóa vô điều kiện. Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đã diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Ông Trần Quang Cơ272, người tham gia cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm phán là do chúng ta cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh”. Số tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố vấn Lê Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Paris273. Khoản tiền này đã từng được những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt Nam tính toán như một nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch. Trước khi đoàn lên đường sang Paris đàm phán bình thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đã cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đòi Washington phải trả. Ông Trần Quang Cơ nhớ lại: “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi thì cứ đặt ‘phòng quyền lợi’ đi, cứ bình thường hóa cái đã rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ tìm cách viện trợ sau. Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được”. Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong tình huống chiến tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai trò của việc quan hệ bình thường với một siêu cường như Mỹ. Đầu năm 1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần như đã nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo đề nghị của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa nhận: “Yêu cầu lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh theo một số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đòi hỏi này. Điều phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân đàm phán bình thường hoá với Trung Quốc. Những cuộc hội đàm giữa Israel và Ai Cập lúc ấy cũng đang diễn ra tại trại David. Tôi phải nói rằng, năm 1978, vấn đề Việt Nam không còn là ưu tiên hàng đầu của tôi nữa”274. Cùng thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên của Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội Việt-Mỹ, bị bắt vì lấy cắp mấy bức điện tín được coi là không quan trọng lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất. 19-5-1978, một ngày trước khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: Trung Quốc là NATO phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một “tiền đồn của Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Cyrus Vance đi thăm Bắc Kinh. Ngày 21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa do Hạ nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà Nội. Việt Nam đã cố bày tỏ thiện chí bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và cử ông Trần Quang Cơ đích thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ nghị sỹ Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài Gòn kể từ sau 30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức do phía Mỹ đưa ra “bình thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đã là quá muộn. Cuối tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ sau một thời gian ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện với Liên Xô. Cuộc đàm phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh nhạt. Theo ông Trần Quang Cơ, người có mặt trong cuộc đàm phán này, Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á, Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh”. Lúc đó, theo dự đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn Liên Xô đang có mặt ở Việt Nam275. Những ngày sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Duẩn đã khá thận trọng trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng độc lập luôn bị thách thức trong mối quan hệ với những người “anh em cộng sản”. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một bên. Ngày 31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần Tích Liên, ủy viên Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đã không đi thẳng tới Hà Nội mà dừng chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy đang được xây dựng bởi Trung Quốc này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu gọi “chống bá quyền” mà ai cũng biết là chống Liên Xô. Hà Nội đã khá mềm dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn “ôm hôn thắm thiết” Trần Tích Liên, nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam không nói gì tới bài diễn văn “chống bá quyền” của Trung Quốc.
                            Cuối tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, người mới được phục chức phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi Trung Nam Hải, nêu vấn đề “chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam liên kết với Bắc Kinh chống lại Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đã tránh đề cập tới “bá quyền” đồng thời “cám ơn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm Liên Xô. Sự né tránh đứng hẳn về phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đã khiến cho chuyến đi của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ chối thảo luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ. Trung Quốc càng ngờ vực Việt Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi tới Moscow, Lê Duẩn có một “Thông cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong đường lối đối ngoại. Đây là một thay đổi lớn. Tháng 3-1976, khi tham dự Đại hội XXV của Đảng Cộng sản Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng sản có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nước276. Liên Xô đã từng bất ngờ khi Việt Nam từ chối gia nhập khối Comecon277 trong khi xin gia nhập IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ IV, Suslov được mô tả là đã giận dữ khi lần thứ hai thất bại trong việc thuyết phục Việt Nam vào Comecon278. Nhưng để “tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại rất cần tiền bạc. Trong khi đó, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy vọng vào 3,2 tỷ đô la “bồi thường chiến tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn Đồng bị các nước lớn như Anh, Đức cự tuyệt và người Pháp thì lạnh nhạt. Ở trong nước, từ năm 1977, chính sách “sản xuất lớn” áp dụng vội vàng lại gây ra đói kém, mất mùa. Ngày 2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh, nhưng người đối đẳng với ông là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm Anh đã không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt chuyến đi này279. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng đối với Công hàm 1958”. Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh. Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc được đổi bằng một đồng tiền mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một đồng. Không có biến động đáng kể vì lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư sản”. Lý do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”. Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc. Sự căng thẳng giữa Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của nữ nghệ sỹ Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh Nga rời rạp hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, thì bị một kẻ lạ mặt dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ Thanh Nga, luật sư Phạm Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe honda, nhảy vào bắt con của Nghệ sỹ Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh Nga chống trả quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ lạ mặt nổ súng bắn chết. Thanh Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ mặt tẩu thoát. Cái chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước vì khi bị bắn, chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực lửa chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đã nhận được một số thư từ đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh và đã từng bị ném lựu đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án Thanh Nga vì thế lúc đầu được coi như là một chuyên án chính trị. Quan tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc Thảo thu hút hàng vạn người Sài Gòn280. Sự cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đã đặt Việt Nam vào thế “nhất biên đảo”. Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô bắt đầu đến các căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977, chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot. Giữa tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba “trở ngại” mới: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia, mối quan hệ với Liên Xô, và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam. Sau một tháng trời chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không, ông chuyển tiếp ở Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đã rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên Xô. Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong vòng hai mươi lăm năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như một căn cứ quân sự, đã được ký kết. Hiệp ước đã như một “món quà” đối với Đặng Tiểu Bình. Hai ngày sau, ông ta đến Thái Lan, bắt đầu chuyến công du ASEAN, thuyết phục các quốc gia ở đây coi Việt Nam và Liên Xô, thay vì Trung Quốc, là mối đe dọa chính. Trong khi đó, vững tin vào mối quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu xử lý mối bận tâm ở phía Tây Nam đất nước.
                            “Áo lính lại khoác vào ngay”281
                            Từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội nghị Bộ Chính trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề Campuchia. Tính từ tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội Việt Nam bị hy sinh, 23.742 bị thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết. Trung ương xác định phải giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt. Ngày 13-12-1978, 10/19 sư đoàn của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đã đánh vào Bến Sỏi hòng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh vào Hồng Ngự, Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn đánh vào Hà Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang. Ngày 23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với nòng cốt là ba quân đoàn chủ lực cùng với lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Trọng Tấn, bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ lùi dần về phía Tây. Khmer Đỏ không bất ngờ trước những phản ứng này. Nhưng thay vì tập hợp lực lượng để đối phó với Việt Nam, Pol Pot đã tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả nhân dân, để có những “người Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và nòi giống”282. Những cuộc thanh trừng của Pol Pot đã đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông phải chạy vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những người này về sau đã tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào Nam để chuẩn bị cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lãnh đạo gồm bảy người do Lê Đức Thọ lựa chọn từ số những người Khmer tập kết còn sót lại và số vừa chạy sang từ Khu 203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Cứu nước” gồm mười bốn người rồi đưa về Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot vào ngày 2-12-1978. Một lực lượng đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để tìm Hoàng thân Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung Quốc khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đã nghe lời khuyên của Bắc Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành động xâm lược của Việt Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đã lên chiếc Boeing 707 của Bắc Kinh bay sang BangKok. Ngày 7-1-1979, Quân đội Việt Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh tới mức lực lượng Khmer Đỏ chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một giờ. Ngày 11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội Thái đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary bị Đặng Tiểu Bình trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol Pot. Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk bí mật tìm gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.
                            Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ- Việt về bình thường hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”283. Ngày 15-12-78, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1-1-79. Ngày 29-1-1979, Jimmy Carter đón Đặng Tiểu Bình tại Washington bằng hai mươi phát đại bác. Đặng Tiểu Bình biết ảnh hưởng quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam nên đã thông báo với Tổng thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công. Tuy khuyên Đặng “không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng giữa hai người, Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang giao của hai nước. Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn đã dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 nghìn quân284 và sử dụng 200 nghìn quân trong ngày đầu xâm lược285. Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn286. Các lực lượng tự vệ ở khu vực Hữu Nghị Quan hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ những phút đầu tiên. Phụ nữ, trẻ em chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng trăm người dân đã phải chạy vào hang núi tránh pháo và sáng ra, họ nhìn thấy quân Trung Quốc í ới gọi nhau ngay sát dưới chân.
                            Tháng 2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh nhuệ, trong khi ở phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác chiến, lực lượng vũ trang Việt Nam tổng cộng chỉ còn khoảng mười một sư đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh tế ấy đã phải phản công trong điều kiện hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng tại Lạng Sơn, ngày 15-2-1979, còn được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn vào ngày 22-2”287. Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn trưởng biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau, khi họ cố tìm về đơn vị thì Trung Quốc đã tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của thị xã Cao Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng B41. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung Quốc, người dân mới hay đất nước lại chiến tranh. Chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc đã sử dụng tới sáu sư đoàn, ở Lạng Sơn ba sư đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng Trung Quốc
                            áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lực288. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã. Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát từ các nhà máy cho đến các thiết bị, máy móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc Đa và Làng Pèng bị phá tan hoang; chiếc cầu nối đường sắt qua con suối chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính Trung Quốc đánh sập. Sapa chỉ còn là một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà, từng công trình và trước khi rút lui đã ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Ở Bát Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút quân, lính Trung Quốc đã giết bốn mươi ba người, gồm hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi trẻ em, trong đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pot. Mười người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi người khác, bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt hai bên bờ suối. Bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Con đường tiến vào thị xã Cao Bằng đã được quân Trung Quốc gọi là những “khe núi đẫm máu”289. Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Mãi tới ba tuần sau quân Trung Quốc mới chiếm được thị xã Lạng Sơn, trong khi đây là nơi mà Đặng muốn chiếm được ngay trong tuần đầu tiên hòng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà Nội. Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung Quốc là 22,3 tỷ. Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt Nam một bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới là người đã dạy cho Trung Quốc bài học” 290. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân Việt Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi, quân đội Trung Quốc đã bộc lộ là một đội quân đã quá lâu không ở trong tình trạng sẵn sàng tác chiến. Ngày 2-3-1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của mình bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát đi một tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt Nam… Những tên xâm lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, thì sẽ càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu” 291. Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên”. Lời kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại”. Ngày 5-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”. Trên báo Nhân Dân, Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân đoàn II lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn. Ngày 6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.
                            Chú thích
                            219 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
                            220 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
                            221 Phạm Văn Trà, 2009, trang 260.
                            222 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
                            223 Phạm Văn Trà, 2009, trang 252-260.
                            224 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
                            225 Năm 1939, biên giới Campuchia - Việt Nam đã được xác lập theo lằn ranh Brevié, theo đó: Một đường thẳng vẽ từ biên giới đất liền, theo một góc 140 độ về hướng vịnh Thái Lan; khi tới đảo Phú Quốc thì lệch ra ba cây số về hướng Bắc, đặt Phú Quốc trong phần lãnh thổ Việt Nam. Sau năm 1954, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa định một “đường ranh tuần tiễu” khác, xác lập lãnh thổ Việt nam bao gồm đảo Trọc. Cũng trong thập niên 1960, miền Bắc Việt Nam công nhận đường Brevié với Chính quyền Sihanouk, nghĩa là không bao gồm đảo Poulo Vai. Trong cuộc họp trù bị tại Phnom Penh bắt đầu từ ngày 4-5-1976, Trưởng Đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền, công nhận tất cả các đảo phía Bắc lằn ranh Brevié thuộc quyền Campuchia, nhưng đề nghị đàm phán lại về “lằn ranh tuần tiễu”. Cuộc đàm phán kéo dài đến ngày 18- 5-1976 thì phía Campuchia đề nghị tạm hoãn để có thời gian “xin chỉ thị của các Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng đang đi công tác xa Phnom Penh”.
                            226 Trong năm 1976 mà Nuôn Chea nhắc đến “tình anh em cách mạng” đó, Khmer Đỏ đã gây ra 250 vụ xâm lấn lãnh thổ, pháo kích, tập kích, gài mìn, cắm chông, cướp trâu, cướp bò và giết hại vô cùng dã man nhiều người dân vùng biên giới… Từ tháng 12-1975, Khmer Đỏ đã tiến hành hàng loạt vụ gây hấn: lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam ở vùng Sa Thầy hơn 10km; chiếm kho thóc X 114 rồi đóng luôn lại đó; bắt, mang đi toàn bộ 113 người dân làng Xộp, thuộc tỉnh Gia Lai- Kon Tum; tập kích đồn Biên phòng số 8, tỉnh Daklak… Thế nhưng, Phnom Penh vẫn nói, đó là những hành động gây ra “do hiểu lầm ở các địa phương” (Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978).
                            227 Ngô Điền, 1992, trang (?).
                            228 Có khoảng 1.671.000 trên tổng số 7.890.000 dân Campuchia đã bị giết trong khoảng thời gian từ 1975 đến năm 1979, (21%). Trong đó, có 215.000 người Hoa trong tổng số 430.000 người Hoa ở Campuchia (50%); 20.000 người Việt Nam trong tổng số 20.000 người kẹt lại ở Campuchia; 4,000/10,000 người Lào; 2.000/5.000 người Khmer Krom; 90.000/250.000 người Chàm; 8.000/20.000 người Thái; 9.000/60.000 người thượng (Ben Kiernan, The Pol Pot Regime, Nhà Xuất bản Đại học Yale 1996, trang 458).
                            229 Henry Kissingger, 2003, trang 67.
                            230 Sđd, trang 68.
                            231 Khi ở cảng Sihanoukville, vũ khí được chở về gần tới nơi thì ở Hà Nội, Đại tá Lê Xuân Ba, trưởng Phòng Kế hoạch của Tổng Cục hậu cần hẹn ông Nguyễn Nhật Hồng ra một vườn hoa, khi thì Chí Linh, khi thì vườn hoa đối diện Cột Cờ Hà Nội.
                            Đại tá Ba kẹp tờ vận đơn mà Liên Xô cung cấp, liệt kê chủng loại vũ khí được chở trên những con tàu sắp về trong một tờ báo. Ông Hồng cũng cầm một tờ báo bên trong kẹp bảng đơn giá vũ khí. Họ tính toán giá trị tổng số vũ khí rồi tính ra khoản tiền 10% chi cho Lonnol, 10 % chi cho Sihanouk, báo cho hai người biết khối lượng hàng hóa, khoản tiền mà họ sẽ được trả; B29 chuyển tiền vào tài khoản bí mật của hai người. Sihanouk, Lonnol kiểm tra thấy có đủ tiền thì đồng ý cho tàu vào cảng. An ninh được bảo đảm gần như tuyệt đối vì, theo ông Hồng, chính Lonnol cử một tiểu đoàn bảo vệ trong quá trình bốc dỡ ở cảng và sau đó áp tải vận chuyển từ cảng về các căn cứ của quân Giải phóng.
                            232 Sihanouk và Bernard Krissher, 1999, trang 133-134.
                            233 Sđd, trang 137.
                            234 Trung Quốc đã dành cho Sihanouk một khu gồm những dinh thự đẹp, chỉ cách Thiên An môn một quãng ngắn, để làm trụ sở Chính phủ. Ở Bắc Kinh, các lãnh tụ cộng sản Trung Hoa trong khi đưa Cựu hoàng Phổ Nghi của họ đi làm vườn đã cung cấp cho Sihanouk nhiều nhân viên phục vụ và cả một đội đầu bếp tài giỏi, một ban thư ký lớn và các dịch vụ thông thường của một Hoàng cung, kể cả nhân viên văn phòng, một đội xe con, một trung tâm thể thao và một phòng chiếu phim riêng. Theo Sihanouk: “Chu không bao giờ cho phép tôi đi tàu hỏa thông thường hoặc máy bay chở khách đến các tỉnh của Trung Quốc kể cả khi đi thăm nước ngoài. Ông luôn dành cho tôi những chuyến tàu đặc biệt có một toa rất xa hoa dành cho tổng thống hoặc thuê chuyên cơ cho tôi, kể cả một máy bay phụ để chở những thùng quà ngoại giao mà tôi sẽ tặng trong các chuyến thăm hữu nghị” (Sihanouk và Bernard Krissher, Hồi ký Sihanouk, Trần Chí Hùng dịch, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 1999, trang 124). Trước và sau những chuyến đi, Chu Ân Lai - vị Thủ tướng của quốc gia hơn 800 triệu dân - bao giờ cũng đích thân đưa và đón một ông hoàng thất thế bằng những nghi thức mà Bắc Kinh vẫn dành cho hàng nguyên thủ.
                            235 Theo Kissinger: “Chính Hà Nội đã cự tuyệt đề nghị của Mỹ phục hồi tư cách trung lập của Campuchia khi tôi trao đổi với Lê Đức Thọ trong một cuộc gặp bí mật ngày 4-4-1970. Chính Hà Nội từ chối đàm phán hòa bình với điều kiện tiên quyết phải loại trừ tất cả những cơ cấu phi Cộng sản. Chính Hà Nội đã bác bỏ các đề nghị đình chiến vào tháng 10-1970, 5- 1971, 10-1971, 10-1972 cho đến tháng 1-1973. Chính Khmer Đỏ được Hà Nội tổ chức, trang bị và hậu thuẫn đã ngăn cản việc đưa Campuchia vào Hiệp định Paris, điều mà Mỹ nhiều lần mong muốn” (Henry Kissingger, 2003, trang 470).
                            236 Ben Kiernan, 1996, trang 16.
                            237 Trong khoảng thời gian từ tháng 2 cho đến tháng 8-1973, người Mỹ đã ném 257.465 tấn bom xuống các khu vực nói là của Khmer Đỏ. Pol Pot cho rằng miền Bắc Việt Nam có phần trách nhiệm khi ký Hiệp định Paris để Mỹ rảnh tay tiêu diệt Khmer Đỏ. Nhưng Kissinger thừa nhận “việc ném bom là con bài mặc cả” giữa Bắc Kinh và Mỹ, vì “Chu Ân Lai cần hoạt động quân sự của Mỹ ở Campuchia để chính sách của mình đạt hiệu quả” (Kissinger, 2003, trang 484). Chu Ân Lai biết ngay cả Trung Quốc cũng khó khiến cho Khmer Đỏ chấp thuận trừ khi chúng bị thuyết phục là “chúng không thể chiếm ưu thế về mặt quân sự khi tiếp tục bị ném bom” (Kissinger, 2003, trang 484).
                            238 Henry Kissingger, 2003, trang 475.
                            239 Henry Kissinger, 2003, trang 475.
                            240 Sđd, trang 474.
                            241 Ngô Điền, 1992, trang (?).
                            242 Để tổ chức chuyến đi kéo dài từ 27-2 cho đến 17-4-1973, tháng 2-1973, Việt Nam thành lập “Đoàn Thắng Lợi”, trong đó có hai cán bộ nữ phục vụ riêng bà hoàng Monique, tổng cộng 89 người. Một quan chức của Bộ Ngoại giao được cử làm Trưởng Đoàn; Cựu Đại sứ Việt Nam tại Campuchia Nguyễn Thương và Đại tá Lê Đình Xoàn, Phó Tư lệnh 559, Phó Đoàn.
                            Ngày 27-2-1973, Đoàn đi xe vào Đồng Hới để ngày hôm sau đón Sihanouk cùng bà Hoàng và “cố vấn” Yeng Sary, được đưa từ Hà Nội vào bằng máy bay AN 26. Từ Đồng Hới, Đoàn đi qua Lao Bảo, theo Đường 9 Nam Lào qua Khe Sanh, Bản Đông, Sê Pôn… đi hết phạm vi quản lý của 14 binh trạm 559. Đến Trạm F470, nơi được mô tả là một khu rừng nằm cạnh sông Mekong, Đoàn Việt Nam “bàn giao” Sihanouk cho Khmer Đỏ rồi ở đấy chờ đón ông quay về Hà Nội.
                            243 Theo lời Sihanouk kể lại với nhà báo Nayan Chanda, trong suốt chuyến đi gần một tháng trên lãnh thổ Campuchia, Son Sen, một lãnh tụ Khmer Đỏ, nói với ông: "Lính Việt Nam vẫn thường trộm cắp trong các phum, hãm hiếp phụ nữ và đặt các căn cứ, tuyển quân người Khmer trợ chiến cho họ". Còn Khiêu Samphan thì nói: “Việt Nam đang chuẩn bị lập ra một chính phủ người Khmer nhưng phụ thuộc vào người Việt”.
                            244 Võ Nguyên Giáp, 2000, trang 320.
                            245 Ben Kiernan, 1996, trang 48.
                            246 Philip Short, 2004, trang 7.
                            247 Ben Kiernan, 1996, trang 2.
                            248 Sđd, trang 55.
                            249 Sđd, trang 96.
                            250 Ben Kiernan, 1996, trang 97.
                            251 Nayan Chanda, 1993, trang 42.
                            252 Sđd, trang 43.
                            253 Ben Kiernan, 1996, trang 94.
                            254 Ben Kiernan, 1996, trang 10.
                            255 Trong loạt phóng sự đăng trên báo Giải Phóng, ba số báo đầu tháng 8-1976, một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên viết: “Nếu hơn một năm trước đây, Phnom-Pênh tấp nập ồn ào… thì ngày nay thủ đô Chùa Tháp trở nên vắng vẻ, yên tĩnh lạ thường. Cảnh tượng vắng lặng hầu như bất động này bắt gặp ngay từ đêm đầu tiên chúng tôi từ ngoại ô qua cầu Mô-ni- vông cũ vào trung tâm thành phố. Những dãy đèn điện cao áp vẫn soi ánh mặt đường nhưng trên đường không thấy bóng người đi lại. Thỉnh thoảng mới thấy hắt ra ánh đèn nê-ông từ các cửa sổ của một vài ngôi nhà. Ban ngày, luớt qua các khu phố, chúng tôi cũng thấy phần lớn các dãy nhà đều đóng cửa hoặc bỏ trống không người ở. Ở một vài góc đường gặp các chiến sĩ cầm súng đứng gác, lâu lâu nâng bổng cây tre sơn màu đỏ trắng chặn ngang đường cho xe chạy qua. Buổi sớm và buổi chiều vào giờ làm việc, vài chiếc honda, năm ba chiếc ô tô vận tải đủ loại chở đầy nguời mặc áo đen, trùm khăn rằn đỏ chạy qua đường phố, bóp còi inh ỏi khi gần đến ngã tư... Để chúng tôi có thể hiểu được vì sao Thủ đô và các thành thị sầm uất trở nên vắng vẻ, thưa thớt như hiện nay, các bạn Campuchia đã giới thiệu đôi nét về tình hình vừa qua và chủ trương đưa dân về các vùng nông thôn sản xuất... Các lãnh tụ Khmer Đỏ nói: “Các đồng chí đến nước chúng tôi cứ coi như trong gia đình vì chúng ta từ lâu đã là bạn chiến đấu”... Và suốt 15 ngày ở thăm đất nước Campuchia anh em, đến bất cứ nơi nào chúng tôi cũng nhận được những tình cảm hết sức thân thiết, nồng nhiệt của bạn. Các bạn Campuchia đã coi chúng tôi như những người anh em một nhà đi xa mới về. Sự chăm sóc hết sức chu đáo, tỉ mỉ của bạn cho từng bữa ăn, giấc ngủ tại chỗ cũng như trong suốt cuộc hành trình qua tám tỉnh của đoàn làm chúng tôi vô cùng cảm động. Qua chuyến đi này, đúng như lời của Phó Thủ Tướng Yêng Sary trong buổi chiêu đãi: “Đoàn càng hiểu hơn nữa những tình cảm cách mạng sâu sắc và tinh thần đoàn kết chiến đấu và hữu nghị của nhân dân Campuchia chúng tôi đối với nhân dân Việt Nam, không có trở ngại nào có thể làm lay chuyển nổi”.
                            256 Trên số báo Giải Phóng ra ngày 10-8-1976, ông Tô Quyên viết: "... Đặc biệt, từ khi nước Campuchia dân chủ thành lập, đây là lần đầu tiên Thủ tướng Pol Pot chính thức tiếp khách nước ngoài. Với giọng nói đầy tình cảm, Thủ Tướng nhắc lại:“Chúng tôi dành ưu tiên cho đoàn báo chí Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc đoàn đi thăm nuớc Campuchia Dân chủ là một sự cổ vũ đối với nhân dân chúng tôi”. … Chúng tôi rất cảm kích nhớ mãi lời phát biểu đầy tình nghĩa của đồng chí Thủ tướng Polpot: “Tình đoàn kết hữu nghị giữa cách mạng Campuchia và cách mạng Việt Nam, giữa hai nước Campuchia và Việt Nam là một vấn đề vừa là chiến lược, vừa là tình cảm thiêng liêng. Tình đoàn kết hữu nghị đó có tốt thì cách mạng cả hai nước chúng ta mới phát triển tốt được. Không có con đường nào khác”.
                            257 Nayan Chanda, 1993, trang 82.
                            258 Sđd.
                            259 Hoa Quốc Phong, chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí còn không trả lời thư mời dự Đại hội Đảng lần thứ IV của Việt Nam.
                            260 Theo ông Phạm Văn Trà, khi ấy đang là tham mưu trưởng sư đoàn 330: “Cuối năm 1976… Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, Pol Pot bắt đầu cho quân hoạt động vũ trang ở biên giới. Lúc này, Sư đoàn 4 chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; Sư đoàn 8 thực hiện biểu biên chế rút gọn, cho bộ đội phục viên, xuất ngũ hàng loạt. Trước yêu cầu tình hình mới, Quân khu IX được trên chấp thuận cho tổ chức Sư đoàn 330 cơ động sẵn sàng chiến đấu” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 272). Theo Tướng Trà, có một số nơi đã làm tốt hơn Quân khu IX của Tướng Lê Đức Anh, ví dụ như ở Quân đoàn II, khi cho bộ đội ra quân, Quân đoàn giữ lại một số cán bộ khung, nhân viên kỹ thuật và một tỷ lệ cựu binh nhất định nên khi có chiến sự chỉ cần đưa tân binh vào, lính cũ kèm cắp lính mới, trong một thời gian ngắn là chiến đấu tốt.
                            261 Phạm Văn Trà, 2009, trang 269.
                            262 Phạm Văn Trà, 2009, trang 286.
                            263 Theo ông Phạm Văn Trà: “Khi bộ đội ta truy kích, địch bỏ chạy tán loạn. Nhân dân bạn bị giam cầm trong các trại tập trung, tựa đại hạn gặp mưa rào; xem bộ đội Việt Nam như vị cứu tinh xuất hiện, cứu sống họ. Nhân dân bạn tha thiết mong bộ đội Việt Nam ở lại một thời gian để bà con được nhờ. Khi bộ đội ta buộc phải rút về, hàng nghìn người dân Campuchia nằng nặc đòi đi theo. Nhiều người vừa khóc vừa nói: Bộ đội Việt Nam là bộ đội nhà Phật, đã sang cứu sống chúng tôi. Nay bộ đội rút về, hãy cho chúng tôi về theo, nếu ở lại sẽ bị ăngca giết mất… Cảm thương nhân dân bạn vô cùng, nhưng chúng tôi không thể để bà con theo về được” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 292).
                            264 Theo Tướng Phạm Văn Trà: “Khi quân Pôn Pốt tràn qua kênh Vĩnh Tế, đánh vào Ba Chúc, bà con vô cùng khiếp sợ.
                            Hàng nghìn người trong xã hoảng sợ kéo vào hai ngôi chùa lớn để nương nhờ cửa Phật, hi vọng kẻ thù dù có dã man, tàn bạo mấy cũng nương tay trước Đức Phật từ bi. Nhưng lính Pôn Pốt đã ném lựu đạn, xả súng giết hại hàng nghìn Phật tử - phần lớn là người già, trẻ nhỏ. Một số người trốn chạy vào các hang đá trong núi cũng bị quân Pôn Pốt sục sạo sát hại. Sau khi tổ chức cho Sư đoàn tiêu diệt gọn gần một sư đoàn quân Pol Pot, chiếm lại núi Phú Cường và Ba Chúc, tôi cùng một số cán bộ, chiến sĩ đã vào các hang đá tìm cứu bà con mình. Trong hang có rất nhiều xác chết không đầu. Thấy chúng tôi tìm vào hang, có mấy người sống sót tưởng chúng tôi là lính Pôn Pốt, bèn quỵ sụp lạy như tế sao. Sau khi được anh em ân cần giải thích, bà con mới trấn tĩnh, kể lại nỗi kinh hoàng ngày 15-1-1978” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 293).
                            265 Ngày 25-1-1978, chiến sự trên Biên giới Tây Nam được công bố trong cuộc họp báo do ông Ngô Điền - Vụ Trưởng Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao - chủ trì được nói ở đầu Chương.
                            266 Người “chấp bút” bài diễn văn nổi tiếng này, ông Đống Ngạc, nhớ lại: “Năm 1978, khi Pol Pot gây hấn ở Tây Nam và năm 1979, khi Trung Quốc đánh ta ở biên giới phía Bắc, có người nói với tôi: Khi đó cậu viết thế là mất cảnh giác”. Ngay sau ngày 30-4, khi các đồng sự khác hăm hở theo ông Lê Duẩn vào Nam, ông Đống Ngạc được giao ngồi lại thủ Đô để chuẩn bị, ông được dặn: “Cậu phải viết sao cho giống Bình Ngô Đại Cáo”.
                            267 Bài thơ mà năm 1976 Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy làm, về nội dung chỉ “văn vần hóa” tuyên bố nói trên của ông Lê Duẩn: “Bốn nghìn năm ngoảnh lại thuở Văn Lang/ Ta đang tới đỉnh cao nhân loại”.
                            268 Nếu như năm 1976, khi nghe Lực lượng Công an Võ trang báo cáo nguy cơ chiến tranh xảy ra ở vùng Biên giới ông Lê Duẩn có thể gạt đi thì năm 1977, trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Phương kể: “Đi khảo sát Biên giới, chúng tôi nhận ra xung đột vũ trang không phải do cấp dưới vô kỷ luật như Pol Pot giải thích nữa. Khmer Đỏ đã tác chiến bằng sư đoàn, cấp mà địa phương không thể tự ý điều binh được”.
                            269 Cũng trong khoảng thời gian này, Khmer Đỏ cho người sang gặp Ya Duck, “Phó Thủ tướng thứ nhất phụ trách nội an và ngoại giao” của Fulro (Mặt trận thống nhất đấu tranh các dân tộc bị áp bức - Front Unifié de Lutte des Races Opprimées - thành lập năm 1964 bởi một số người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Chăm và người Khmer Krom, chống chính quyền Sài Gòn và chính quyền Việt Nam sau năm 1975. Phong trào Fulro tan rã năm 1992 khi 407 binh sỹ nộp vũ khí cho UNTAC tại Campuchia). Theo ông Ya Duck: “Họ đi một đoàn hơn 10 người, nói thẳng là cần sự hợp tác để chống Việt Nam”. Ya Duck sau đó đã sang Campuchia gặp Pol Pot và ông được cả cố vấn Trung Quốc tiếp. Pol Pot cũng như “cố vấn Trung Quốc” hứa sẽ giúp Fulro mọi mặt chứ không chỉ giúp đất đai làm căn cứ.
                            270 Theo ông Trần Quang Cơ, nội dung của thông điệp là “Lãnh đạo Việt nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ”.
                            271 Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.
                            272 Khi ấy là vụ trưởng vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao Việt Nam.
                            273 Hiệp định Paris ghi: “Thể theo truyền thống hào hiệp của mình, Hoa Kỳ sẽ tham gia giúp đỡ tái thiết (Việt Nam) sau chiến tranh”. Nhưng, sau khi đôi bên hoàn thành việc ký tắt, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ đã thỏa thuận được với Kissinger con số viện trợ 3,250 tỷ đô-la Mỹ, ngoài ra, Mỹ sẽ viện trợ biếu không mỗi năm 650 triệu đô-la. Kissinger còn trao cho ông Lê Đức Thọ một bản dự thảo công hàm về việc xây dựng lại Miền Bắc, bản chính thức đã được trao cho Việt Nam ngày 1- 2-1973.Theo Kissinger: “Cuộc họp bắt đầu vào lúc 9:35 sáng thứ Ba, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ vẫn thành công ngay cả tại những dịp trang trọng trong việc biến mình thành một người rất khó chịu bằng cách yêu cầu phía Mỹ đảm bảo chắc chắn về việc viện trợ kinh tế cho Bắc Việt Nam. Tôi nói với ông ta rằng điều đó chỉ được thảo luận thêm khi Hiệp định đã được ký kết; điều đó còn phụ thuộc vào việc Quốc hội thông qua bản Hiệp định và việc tuân thủ Hiệp định” (H. Kissinger, 2003, trang 429).
                            274 Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.
                            275 Vogel, 2011, trang 281.
                            276 Theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ.
                            277 Council for Mutual Economic Assistance, một tổ chức thương mại của các quốc gia cộng sản.
                            278 Theo Trần Quang Cơ.
                            279 Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể: “Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm tỉnh Cương Sơn cùng với đoàn tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì.
                            Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa trở về, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, họ dọn cho đoàn cả một chiếc bát mẻ miệng”.
                            280 Bốn tháng sau đó, khi bắt được kẻ chủ mưu giết Thanh Nga - Nguyễn Thanh Tân, đồng thời cũng chính là kẻ chủ mưu trong vụ bắt cóc con trai nghệ sỹ Kim Cương - Cảnh sát không tìm ra bằng chứng nào liên quan tới các “âm mưu chính trị”.
                            Nhưng trong phiên tòa đặc biệt xử “vụ án Thanh Nga” vào ngày 4-12-1979, Hội đồng xét xử vẫn thêm vào phần luận tội: “Ai cũng thấy là Tân có một ý đồ sâu xa thâm độc hơn là những điều y nhận tội... Nghệ sĩ Thanh Nga là người có tài, có lòng yêu nước, là một chiến sĩ dũng cảm trên mặt trận văn hóa. Trước khi vụ án này xảy ra, chị đã bị bọn phản động khủng bố. Nhưng, bất chấp sự đe dọa, nghệ sĩ Thanh Nga vẫn dũng cảm làm tròn trách nhiệm của mình trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Trong lúc đang xảy ra cuộc chiến đấu gay gắt giữa nhân dân ta và bọn “Bành trướng Bắc kinh”, trong lúc người nghệ sĩ yêu nước Thanh Nga đang thủ diễn những vai cổ vũ tinh thần yêu nước của quân đội ta sẵn sàng chiến đấu chống bọn “Bành trướng phương Bắc”, rõ ràng hành động của bọn Tân cố ý giết chết nghệ sĩ Thanh Nga đã gây tổn thương rất lớn và sự phẫn nộ rất lớn trong lòng quần chúng” (Sài Gòn Giải Phóng, 6-12-1979).
                            281 Lời “Bài ca tạm biệt”, một bài hát thời chiến tranh biên giới.
                            282 Trong năm 1977, Tướng Nhim Ros, tư lệnh Quân Khu Tây Bắc, kiêm phó chủ tịch Hội Đồng Nhà nước bị giết. Tiếp đó là Bộ trưởng Hu Nim. Trung Quốc quan sát và tỏ ra muốn Khmer Đỏ bớt tàn bạo hơn. Tháng 4-1978, một người Trung Quốc ôn hòa là Đặng Dĩnh Châu được cử tới Phnom Penh, khuyên Pol Pot nên sử dụng Sihanouk để tranh thủ ủng hộ của dân chúng và quốc tế; gợi ý đàm phán với Việt Nam trên nguyên tắc “chung sống hòa bình”. Nhưng, trong những ngày Đặng Dĩnh Châu đang ở Phnom Penh, Pol Pot đưa ba sư đoàn quân Trung ương xuống Quân Khu Đông, bắt giữ gần năm trăm cán bộ, chủ yếu từ cấp tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng và các chi khu trưởng, đưa tới trung tâm khủng bố Tuol Sleng. Tư lệnh Quân Khu Đông, còn gọi là Khu 203, Đệ nhất Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước So Phim, thông gia với Nhim Ros, cũng bị Pol Pot cho là không nên tồn tại. Giữa tháng 5-1978, Tướng Ke Pauk, Tư lệnh Quân Khu Trung ương cho mời So Phim tới họp. So Phim thận trọng chỉ cử đại diện đi và không ai trong số họ trở về. Ngày 24-5-1978, Ke Pauk đưa một lữ đoàn thiết giáp tới bao vây Bộ tư lệnh Quân Khu Đông, bắt giam các sỹ quan, So Phim trốn thoát. Viên tướng được Bắc Kinh đánh giá cao này vẫn còn hy vọng giải tỏa những “hiểu lầm” nên đã chạy về Phnom Penh, cho người liên lạc với Pol Pot. Ngày 2-6-1978, khi So Phim tới điểm hẹn, thay vì gặp Pol Pot những tay súng đã đón ông. So Phim tự sát. Vợ con ông bị giết. Lực lượng từ Quân Khu Trung ương và Tây Nam tràn tới, tàn sát gần như toàn bộ binh lính và thường dân sống trong các công xã Khu Đông. Con số người Khmer bị giết bởi Pol Pot trong dịp này lên tới hơn một trăm nghìn người.
                            283 Cho dù sau đó, ngày 30-11-1978, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Oakley vẫn nói với ông Trần Quang Cơ, khi ấy đang được ông Thạch để ở lại New York để “giữ cầu” và ngày đêm thúc giục Mỹ bình thường hóa, rằng: “Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và người di tản”, nhưng theo ông Trần Quang Cơ: “Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ với Việt Nam từ khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký hiệp ước với Liên Xô”.
                            284 Việt Nam ước đoán lực lượng Trung Quốc có khoảng 600 nghìn tham gia chiến dịch này.
                            285 Vogel, 2011, trang 529-531.
                            286 Cục trưởng Cục Tác chiến lúc bấy giờ là ông Lê Hữu Đức thừa nhận: “Chúng ta hoàn toàn bất ngờ, ở Quân khu I, trước đó, Đàm Quang Trung đã cho tập trung súng ống vào kho, làng xã không hề chuẩn bị gì cho chiến đấu”. Tướng Đức nói tiếp: “Trong một hội nghị quân sự, Đại tướng Văn Tiến Dũng thừa nhận chúng ta bị bất ngờ cả mặt trận Tây Nam và phía Bắc. Khi bắt đầu rục rịch chiến tranh, anh Văn Tiến Dũng gọi tôi tới nhà riêng, bảo tôi lên Quân Khu II nói với anh Vũ Lập: Phải tiêu diệt được vài đại đội, trung đội quân Trung Quốc. Khi đó có ai nghĩ Trung Quốc sử dụng tới sáu quân đoàn để đánh ta đâu”.
                            287 Theo Đại tá Hà Tám, lúc đó là trung đoàn trưởng Trung đoàn 12 Biên phòng, đóng ở Lạng Sơn.
                            288 Mân Lực, 1993.
                            289Mân Lực, 1993, trang (?).
                            290 Vogel, 2011, trang 533.
                            291 Nhân Dân, 3-3-1979.

                            Comment


                            • #15
                              Phần I: Miền Nam

                              Chương 6

                              Vượt biên


                              Ngày 7-8-1987, khi Trần Minh Triết292 lên thuyền, anh kể: “Tôi thấy chuyến vượt biên còn có hai thầy giáo và hai người bạn học cùng lớp của mình”. Những năm ấy, người dân miền Nam nói: “Nếu cây cột đèn mà biết đi chắc nó cũng đã bứng đất mà đi mất”. Nếu như những gì xảy ra trong các trại cải tạo có thể được giữ kín, thì vượt biên lại là vấn đề gây chú ý ngay sau khi có các thuyền nhân tới được vùng biển quốc tế. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhoi chở hàng trăm người đối chọi với sóng dữ, với cướp biển, với sự thờ ơ của các quốc gia lân bang đã gây rúng động dư luận.
                              “Vượt biên”
                              Vụ vượt biên đầu tiên bị bắt và bị đưa ra công khai do “đám chủ công ty vàng lá Kim Thành” tổ chức. Nhưng, do tính đơn lẻ của nó, chính quyền và dư luận chưa đánh giá vượt biên thực sự là một vấn đề. Báo chí Sài Gòn, kể cả tờ báo của của nhóm các dân biểu đối lập trước 30-4-1975 như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, cũng coi những người vượt biên này như tội phạm.
                              Vụ việc được nhật báo Tin Sáng viết: “Lực lượng võ trang giải phóng quận Nhà Bè vừa tóm được trọn ổ bọn người định vượt biên trốn ra nước ngoài đem theo một số lượng lớn vàng và kim cương vào ngày 22-8 vừa qua. Được biết kẻ chủ mưu là đám chủ công ty vàng lá Kim Thành. Đám này đã đứng ra tổ chức cho một số tài phiệt Hoa kiều và một số sĩ quan chế độ cũ trốn ra nước ngoài. Hiện nay cả bọn đang bị câu lưu và chờ ngày ra tòa xét xử”293. Báo Sài Gòn Giải Phóng còn cho biết thêm: “Phần lớn số này là những sĩ quan ngụy ác ôn, trốn tránh học tập cải tạo”294.
                              Tờ Tin Sáng viết tiếp: “Sau khi cả bọn bị bắt, Ủy ban Quân quản đã đến tiếp thu căn nhà lầu hai tầng tại số 39 Phan Châu Trinh vào lúc 4 giờ 15 phút ngày 26-8.Đây là tiệm vàng Kim Đô, bán các loại nữ trang bằng vàng ở phía ngoài, nhưng phía trong là cả một cơ sở đúc vàng”.
                              Biên bản họp Trung ương Cục do ông Hà Phú Thuận lập vào ngày 3-9-1975 cho biết chi tiết vụ vượt biên đầu tiên này: “Ta còn bắt giữ chín tên: La Quang, SầmHào Tài, Đặng Ngôn, Đào Hưng, Huỳnh Diệu Quang, Lê Văn Y và Nguyễn Văn Thôi. Hai tên sau cùng là nhân viên hàng không, nhiều lần tổ chức mua bán vàng lậu từ Hong Kong – Sài Gòn và Sài Gòn – Hong Kong thời Ngụy. Khi bắt Lê Văn Y ta lấy được 200 lượng vàng. Sơ kết, ta đã lấy được 8.437 lượng vàng 24 cara; 70 hột xoàn từ một đến năm ly; 182 triệu tiền miền Nam; 10.550 đôla, 1.700 tiền Thái Lan. Toàn bộ tiền vàng đã kiểm kê và giao cho ngân hàng”. Chính quyền quân quản đã tịch thu nhà của chủ tiệm vàng Kim Thành. Quyết định này về sau sẽ có giá trị như một án lệ.
                              Biên bản ngày 3-9-1975 còn nhắc đến một vụ vượt biên nữa do “chủ hãng Việt Hoa, công ty Kiến Trúc tổ chức” mà chính quyền biết được qua lời khai của “cơ sở”. Những người vượt biên trong vụ này khi bị phát hiện đã “đổ vàng xuống sông và xé đô la”. Đặc biệt, theo biên bản: “Cơ sở ta cho biết, nó nói đã hối lộ cán bộ hai triệu nên nó được thả. Được về, nó tỏ ra hối tiếc với số vàng và đôla. Nó nhận xét có thể mua chuộc được cán bộ, cán bộ ta cũng ăn hối lộ nhưng ăn ít mà hở hang – thua Ngụy, ăn nhiều mà kín, những vụ hối lộ lớn hai ba năm sau mới bị lộ. Hiện nay chúng chuyển tiền ra miền Bắc về Hong Kong qua trung gian cán bộ. Chúng chủ trương có hai hy sinh: hy sinh tài sản còn sinh mạng thì tìm mọi cách để trốn ra đi bằng mọi đường chủ yếu là hối lộ… Có mấy vụ liên quan đến cán bộ như sáu cán bộ Ban Thống nhất ở không đăng ký và sau đó trốn đi. Một cán bộ Thông tấn xã Trung ương tên Lương Mạnh ở đường Nguyễn An Ninh đã làm biên nhận lấy hai triệu bạc cho cơ quan Thông tấn xã”.
                              Đến tháng 11-1977, cuộc họp Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu ghi nhận hiện tượng vượt biên. Nghị quyết 44/NQ-77 của cuộc họp này viết: “Trên lĩnh vực an ninh chính trị nổi lên các hiện tượng đáng chú ý như số vụ, sốngười bỏ Tổ quốc chạy trốn ra nước ngoài vẫn tiếp tục tăng trong đó có cả cán bộ, nhân viên đang công tác trong các cơ quan nhà nước… Đối với một bộ phận nhân dân, thậm chí cả một số ít cán bộ, đảng viên, trước khó khăn về đời sống kinh tế… đã xuất hiện tâm lý dao động, băn khoăn, hoài nghi, đặc biệt là giới trí thức và tầng lớp trung gian, thiếu tin tưởng ở tiền đồ của Cách mạng”.
                              Ngày 7-5-1979, tại Hội nghị Cải tạo Công thương nghiệp Tư doanh diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh với thành phần gồm lãnh đạo các tỉnh thành từ Bình Trị Thiên tới Minh Hải, ông Võ Văn Kiệt nói: “Tôi xin nêu vài con số về số người trốn ra nước ngoài: Từ tháng 10-1978 đến tháng 3-1979, có trên 20.000 người, không kể số người Hoa ta cho họ đi sau khi cải tạo. Trong số này có trên 1.500 cán bộ, nhân viên, cán bộ khoa học, kỹ sư, bác sỹ… Đáng chú ý, có trên ba mươi vụ cướp tàuđánh cá trốn, mười lăm vụ cướp chúng ta ngăn chặn được”295. Nhưng ngay sau đó, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những con số trên đây còn thấp so với sự thật”.
                              Chỉ tính riêng những người may mắn được cứu vớt đưa tới các trại tị nạn, con số đã cao hơn nhiều số được báo cáo. Năm 1975 mới chỉ có 377 người; năm 1976 đã tăng đến 5.619 người; năm 1977 tăng lên 21.276 người; năm 1978, con số cao gấp tám lần so với mức thống kê của chính quyền, 106.489 người; năm 1979, chỉ tính đến tháng 7, đã là 292.315 người296.
                              Không chỉ có vượt biên bằng thuyền, một số không nhỏ khác thậm chí còn đến Thái Lan qua ngả Campuchia trong những năm tháng Quân đội Nhân dân Việt Nam đang đánh nhau với Khmer Đỏ. Năm 1981, khi nhà văn Phan Nhật Nam đang ở trong tù, vợ và hai con ông, một chín tuổi, một mười bốn tuổi đã theo đường bộ qua ngả Campuchia. Ông Nam nói: “Không hiểu nhờ phép màu nào mà vợ con tôi trốn thoát. Ở biên giới Campuchia – Thái Lan có đêm giày lính Pol Pot gần như đạp ngay trước mặt”.
                              Tháng 11-1985, sau chín lần vượt biên bằng thuyền bất thành, và sau khi gia đình được chính phủ Thụy Điển bảo lãnh nhưng không được Việt Nam cho phép, chàng trai hai mươi mốt tuổi Lê Phương Đông đã đi bộ suốt bốn tháng theo ngả Campuchia. Anh bị quân đội của Son Sann297 bắt cùng bốn người Việt Nam khác. Cả bốn người bị giam giữ tại trại lính của Son Sann và bị buộc phải lao động khổ sai.
                              Sau mấy tháng, Đông và ba người cùng đi được một người lính Thái Lan giúp trốn thoát. Tháng 4-1987, Đông được đưa sang Thụy Điển.
                              Lê Phương Đông là con trai của nữ nhà văn Nhã Ca và nhà thơ Trần Dạ Từ. Cả hai đều bị bắt, và cho tới khi Đông tới Stockholm, ông Trần Dạ Từ vẫn đang ở trong tù. Từ trường hợp của vợ chồng nhà văn Nhã Ca, năm 1981, chính phủ Thụy Điển và Hội Văn bút Quốc tế bắt đầu gây áp lực lên chính quyền Hà Nội yêu cầu thả những nhà văn bị giam giữ. Năm 1984, Thụy Điển cũng đã bảo lãnh cho hơn 700 người Việt Nam ra đi.
                              Trước đó, ca sỹ Mỹ Joan Baez, người đã từng phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam, năm 1979 đã dẫn đầu một cuộc biểu tình lên tới 12.000 người, đốt nến và đi bộ đến Nhà Trắng, cho công bố một thư ngỏ “phản đối chính sách tàn bạo của Chính phủ Việt Nam”. Ngày 20-7-1979, Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị về thuyền nhân Việt Nam tại Geneva với sáu mươi quốc gia tham dự. Tại
                              hội nghị, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Cơ Thạch, nói “thuyền nhân” chỉ là “những phần tử bất mãn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động”.Khi về nước, ông Nguyễn Cơ Thạch lại có thái độ khác. Ông Trần Quốc Hương (Mười Hương), bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, kể: “Tôi ra Hà Nội, Nguyễn Cơ Thạch chửi: các anh làm ăn thế nào để người ta vượt biên. Trong khi đó, anh Lê Đức Thọ lại nói, các anh phục kích bắt vượt biên là không nên. Tội gì làm cho mang tiếng. Không thể giữ được họ đâu, ngày xưa vợ con lính sống bằnglương Mỹ, giờ họ sống bằng cái gì. Tôi biết quốc tế có Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), tôi chỉ thị cho công an, phối hợp với họ làm chương trình cho họ ‘đoàn tụ’ đi. Cho đi hết. Ta không giữ cái đó làm gì. Đây là tội chúng nó, phải để chúng nó gánh”298. Ở thành phố, những nhà lãnh đạo như ông Mười Hương biết, “thuyền nhân” không phải là “những kẻ nợ máu hay đĩ điếm”.
                              Từ “trí thức yêu nước”
                              Nhiều trí thức Sài Gòn cũ, không phải vô cớ, đã trở thành thuyền nhân. Con đường để họ phấn đấu trở thành “con cưng” của chế độ mới không hề bằng phẳng. Họ vừa có thể bị khinh rẻ bởi các đồng nghiệp cũ, vừa bị kỳ thị bởi các “trí thức xã hội chủ nghĩa” vừa từ miền Bắc vô, vừa bị bế tắc bởi môi trường làm việc thiếu thốn và không được chế độ mới hoàn toàn tin cậy.
                              Khi tình hình kinh tế trở nên khó khăn, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm tới các trí thức Sài Gòn cũ bằng cách trợ cấp thêm mỗi tháng mấy lít xăng, mấy chục ký gạo, một ít than củi, nhưng lại không thể giúp họ phá vỡ những bứcbách để có thể làm những điều mà người trí thức mong muốn. Vậy mà theo ông Võ Văn Kiệt: “Một số trí thức từ miền Bắc vào hoặc đi tập kết về than phiền, ‘Thành ủy nuôi mấy ông cũ, tụi này heo nuôi’. Anh em ở ngoài vô cũng đòi tái đánh giá để cấp bằng lại đối với những trí thức trong Nam, kể cả những người đã làm tiến sỹ ở Pháp, Mỹ”.
                              Những ngày ấy, tiến sỹ học ở Liên Xô về được tính hệ số 1, tiến sỹ ở Pháp được tính hệ số 0,9, còn tiến sỹ ở Mỹ thì chỉ được tính hệ số 0,8. Trong đợt đầu, một người từng lấy bằng tiến sỹ ở Mỹ, từng được phong giáo sư trước năm 1975 nhưông Chu Phạm Ngọc Sơn cũng chỉ được nơi ông giảng dạy đề nghị phong phó giáo sư299. Ông Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhà tôi, năm 1954 di cư từ Bắc vô, rất sợ, vì đang là trưởng Phòng Xét nghiệm của Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Giải phóng vô nói bả là giai cấp áp bức phải giao lại chức cho người khác không có chuyên môn lên thay. Cái bàn cũng không có ngồi mà bả không dám kêu ca gì cả”.
                              Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác thường không câu nệ khi nhận các đơn đặt hàng thực hiện những công trình “khoa học” phục vụ nhu cầu chính trị. Theo Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.
                              Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước đây năm nào tôi cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm 1980, trong thời gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên không thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự bị y khoa. Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện, khi hiểu thêm nội tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn bổn phận”.
                              Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào Sài Gòn, sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông nói: “Nãy giờ có một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là lực lượng trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là không có xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức chủ yếu là “làm kiểng”.
                              Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là hiệu phó Đại học Khoa học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có vai trò gì trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói vớiông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.
                              Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã được trải nghiệm trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền Nam đã được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba, người tham gia tổ chức lớp học này, kể: “Chính quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ yêu mến và phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đã từng được các trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học thì giờ đây họ lại nghe những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể, những người đứng lớp còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự tôn, tự đắc”. Những đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng thừa nhận: “Trước giới trí thức Sài Gòn, chính quyền đã thất bại ngay trong lần trình diễn đầu tiên”.
                              Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học nổi tiếng của Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”, đã coi cộng sản cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng hình thức “kiểm điểm” mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường lối, ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đã đúng vào năm 1916, nhưng sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”. Còn Giáo sư Châu Tâm Luân thì khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản” đã mỉa mai: “Sao không tìm hiểu xem sau chủ nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ qua, mình bỏ qua luôn hai, ba bước”. Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp ở Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai trường đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức phản chiến hàng đầu, bị chế độ Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 mới được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis300 và được giữ lại ở đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện “người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
                              Về phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng nhiều vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong khi dân tình lo âu thì ông lại cho là giá tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải thích thời ấy của chính quyền301. Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại tệ để nhập hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn bọn tay sai đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết kiệmtối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc gia… Vì vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng cầnkềm hãm bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…”302.
                              Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức Sài Gòn, ông đã không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm Luân không được đứng lớp vì kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn còn được để ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy trường nhận xét ông muốn “tranh giành lãnh đạo với Đảng”.
                              Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”, mà là những ý kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ý kiến của chi bộ. Trong một cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải đưa những người bần cố nông lên làm lãnh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ”, Giáo sư Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu mà… những ‘cái đầu’ thì như thế”. Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu Tâm Luân được đưa về Viện Khoa học Xã hội.
                              Không chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu Tâm Luân là trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về các chương trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận, một đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc cãi vã, và lớn tiếng: “Các chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại biểu đó tư cách gì mà đòi sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn lòng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi như vị đại biểu vừa nói, đã có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi thì chúng ta chỉ còn là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì phiên họp, ông Mai Chí Thọ không nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông Luân không giơ tay, ông Mai Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn thể chấp thuận, một phiếu trắng”.
                              Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ tuổi này, một trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn xem tôi như con nít, phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước’. Ông Xuân Thủy nghe, nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi’. Tôi trả lời ông Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh phải nghe chứ sao lại cần người đỡ đầu?’.
                              Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp quá, làm sao chúng tôi quản lý được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu’”.Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu; phải ‘phá vỡ’ để áp dụng kinh tế thị trường chứ không thể phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc: ‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai thì còn sửa được chứ mất chính quyền là mất hết’. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đã nói rất thật lòng, họ đã ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm sao họ để mất cái mà họ vừa giành được đó”.
                              Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đình ông đã định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau năm năm cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một cơ may thay đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài, nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài phóng viên, nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi đều được chính quyền trả lời là Giáo sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.
                              Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài Gòn, ông Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù nhìn, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự trong chuyên môn. Sau giải phóng, chính quyền được nói là của mình nhưng trí thức gần như chỉ được dùng như bù nhìn, trong khi đa phần họ là những người khảng khái”.
                              Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Biểu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy thi y khoa đã bị ông đánh rớt dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, vì cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.
                              Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức hiệu phó. Trường sợ mang tiếng không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt vai trò “chim kiểng” của mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.
                              Còn Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới nhà chơi, đã đưa cho Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình hình kinh tế nông nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng vì bản báo cáo này của mình đã được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước thì họ không chịu đánh máy. Nhưng, Võ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh thành mặt trận ông ạ”. Mấy hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì thấy cửa đóng, bên trong thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang tới Thái Lan ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt, mình vẫn thấy đi là đúng”.
                              Trong số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân mình rất thích vì ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng khi đất nước hòa bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển nền nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế thì không thể nào đóng góp được”.
                              Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt nhưng cũng phảivượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Võ Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này thì không làm được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp thì họ không chịu được. Tôi cũng không biết làm gì hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.
                              Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí thức ấy ra đi, nhưng biết là nếu họ ở lại thì cơ chế hiện thời cũng chưa cho phép mình sử dụng họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công trình sư cầu cống, thủy điện, nói với ông Võ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật. Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được”.
                              Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe ngóng, nếu có anh em trí thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về”. Khi nhận được tin công an Bình Thuận bắt giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông Báu ra Bình Thuận xin “di án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an Bình Thuận thấy giấy của Thành ủy thì cho nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đã phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta chụp đầu cả tôi”.
                              Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức.
                              Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của ông, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đã ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”.
                              Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát.
                              Đến “thường dân”
                              Sau ngày “giải phóng”, dồn dập các sự kiện xảy ra trên khắp miền Nam: hết sỹ quan, công chức bị đưa đi “học tập”, đến cải tạo tư sản, đến đổi tiền rồi đưa dân đi kinh tế mới. Người dân miền Nam vừa chịu cảnh gia đình ly tán, vừa bắt đầu phải đứng xếp hàng mua những thực phẩm vốn chưa bao giờ thiếu ở vùng đất màu mỡ này.
                              Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ303 kể: “Ba tháng sau ngày 30-4, cha tôi mất sau khi nhìn cảnh đời thay đổi khác hẳn với những gì mà ông chờ đợi. Cảnh nhà đơn chiếc sau khi ông anh thứ hai của tôi di tản, hai ông anh còn lại bị đưa đi cải tạo. Mẹ tôi rơi vào khủng hoảng. Những người bà con từ Nghệ An vào đều hỏi tôi đúng một câu: chúng mày có ăn học tại sao lại không đi Mỹ. Những người giữ chức vụ lớn trong chính quyền dạy chủ nghĩa cộng sản, trước đám đông nói khác, nhưng ngồi trong gia đình thì không giấu được khi nói về một miền Bắc xã hội chủ nghĩa điêu tàn. Họ cảnh cáo tôi về những chuyện đấu tố sắp xảy ra. Trong tổ dân phố của tôi cũng bắt đầu ám chỉ việc gia đình có người đi Mỹ, nhà cho Mỹ mướn, con có liên hệ đến Nguyễn Văn Thiệu… Mẹ tôi nghe rồi trở bệnh”.
                              Nhưng điều mà một bác sỹ như ông Nguyễn Đức Tuệ cảm thấy đụng chạm trực tiếp tới mình là khi chứng kiến chính trị chen vào mọi mặt. Những buổi học tập chính trị, những buổi họp tổ là dịp để các bác sĩ thiếu tay nghề bù đắp bằng cách cố tranh đấu được đứng vào “hàng ngũ Đảng”. Phương châm “hồng thắm hơn chuyên” đã khiến cho trình độ y khoa của các bác sĩ ngày càng đi xuống. Bác sỹ Tuệ kể: “Trong những buổi sáng giao ban ở bệnh viện Bình Dân, chúng tôi đã phải ngồi chịu trận nghe các đồng chí y sĩ từ rừng ra răn dạy các thầy tôi như đại Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Giáo sư Trần Ngọc Ninh! Bệnh viện Bình Dân, nơi tôi làm việc, vốn là một bệnh viện nổi tiếng về giải phẫu, càng ngày càng thiếu thuốc men phương tiện, các cuộc mổ xẻ thiếu thuốc mê và thiếu dụng cụ”.
                              Sau vụ “nạn kiều”, chiến tranh lại xảy ra ở hai đầu đất nước. Giặc giã, đói kém, sự sợ hãi đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài, khiến cho lượng người vượt biên tăng vọt trong khoảng cuối năm 1979, đầu năm 1980. Một trong những người bắt đầu vượt biên sau chiến tranh là Lục Phương Mai.
                              Cha Mai, ông Lục Văn Sáu, là một kỹ sư Tây học nổi tiếng trong ngành xây dựng, gia đình có nhiều người nắm những chức vụ có nhiều quyền lực trong chế độ Sài Gòn, nhưng vợ ông Sáu lại là Việt Cộng. Anh em Lục Phương Mai không thể nào di tản theo các thành viên khác của đại gia đình vì vào đúng chiều 28-4-1975 thì ông Lục Văn Sáu mất. Khi đó, mẹ Mai vẫn còn đang bị chính quyền Sài Gòn giam trong một nhà tù ở Thủ Đức. Sáng 30-4-1975, khi anh chị em Mai đang cúng “mở cửa mả” cho cha thì “Việt Cộng vô”, mẹ Mai một mình lê lết đi bộ ra khỏi nhà tù. Mãi tới khoảng 3 giờ chiều mấy anh em mới tìm thấy mẹ.
                              Ba mươi tháng Tư, với gia đình Mai, không phải là một ngày đoàn tụ, và những ngày tiếp theo thì còn khốn khổ hơn nhiều. Trước đây, ngoài thu nhập của ông Lục Văn Sáu, gia đình còn có thể sống phong lưu nhờ vào khoản tiền mà cuối thập niên 1960 chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu trả cho ông nội Mai, địa chủ Lục Phương Giản, sau khi trưng mua ruộng đất của ông để thực thi chính sách “người cày có ruộng”. Sau 30-4-1975, khoản tiền nằm trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín ấy không còn giá trị.
                              Mẹ Lục Phương Mai dù có công nuôi giấu nhiều cán bộ cao cấp của Cách mạng, nhưng khi ra tù thì cũng không còn sức để nhận được bổng lộc, chức tước gì. Mấy cô tiểu thư họ Lục bắt đầu nhìn những “con phe” tới nhà khênh ra từng chiếc tủ lạnh, cây đàn. Năm 1979, anh rể Lục Phương Mai là Thượng sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Ngọt, một “chuyên gia tổ chức vượt biên”, thu xếp để mấy chị em ra đi.
                              Vượt biên khi ấy là lối thoát của những gia đình đã từng dính dấp tới “ngụy” như Thượng sỹ Trần Văn Ngọt. Trong khi những người vợ sỹ quan đi học tập phải son sắt đợi chờ thì con cái họ được gửi lên những chiếc “thuyền” của bạn bè. Theo ông Phan Lạc Phúc: “Khi tôi đi cải tạo, con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã mười lăm tuổi, bắt đầu thiếu nữ. Các chị nó vượt biên hết cả chỉ còn nó ở lại với mẹ cháu đợi tôi”.
                              “Ra đi” cũng là một quyết tâm mãnh liệt của những người trở về từ các trại cải tạo. Mặc dù ai ra trại cũng được nhận xét trong tờ lệnh là “đã nghiêm chỉnh chấp hành chính sách cải tạo khoan hồng độ lượng của Đảng và Nhà nước”, nhưng họ bắt đầu cảm thấy mình lại đang bước vào một nhà tù lớn hơn, bởi trên thực tế, họ vẫn không thực sự có tự do. Cả con cái và gia đình đều không nhìn thấy tương lai. Không có một chỗ đứng nào cho họ ở trong chế độ.
                              Năm 1977, ông Vượng304 được ra khỏi trại cải tạo. Sau khi trình diện ở phường, ông được một sỹ quan an ninh “rất dễ thương” tới gặp và yêu cầu hợp tác. Công việc tưởng như đơn giản: Mỗi tuần một lần báo cáo gặp ai, đi đâu, có ai từng là tình báo của chế độ cũ mà trốn học tập không. Ông Vượng nói: “Tôi hợp tác một tháng để không gây nghi ngờ rồi trốn khỏi Sài Gòn và từ lúc đó bắt đầu tìm đường vượt biên”. Không tính một lần có ý định vượt biên qua ngả Campuchia, bốn lần khác bị lộ trước khi lên thuyền nên chỉ kịp chạy thoát thân, đến lần thứ sáu ông Vượng mới tới được Malaysia.
                              Tháng 2-1985, họa sỹ Chóe trở về sau gần chín năm nằm sàn xi măng ở số 4 Phan Đăng Lưu và lao động giữa rừng Gia Lai, bệnh phong thấp và bệnh tiểu đường bắt đầu nặng thêm. Nhưng sức khỏe không phải là thứ có thể dễ dàng quật ngã con người khát khao làm việc của Chóe. Từ một cây cọ phản chiến, ông giờ đây phải “đeo” tờ giấy xác nhận thành phần là “văn nghệ sỹ phản động”. Bà Kim Loan, vợ ông, nhớ lại: “Không có công ăn việc làm, ông ấy càng ngày càng phẫn uất rồi trở thành u uất”. Một trong rất ít người tới thăm họa sỹ Chóe lúc bấy giờ là Huỳnh Bá Thành, nhưng Chóe từ chối tất cả những đề nghị giúp đỡ của Thành, kể cả việc nhập lại hộ khẩu305.
                              Ngày 7-4-1976, khi an ninh tới tòa soạn tờ Lao Động Mới306 bắt Chóe, ông Tổng Biên tập Tống Văn Công nói với người chỉ huy tên là Đô: “Tôi thấy Chóe làm bất kể giờ giấc, anh ấy muốn đóng góp, muốn hòa nhập. Tôi xin lấy sinh mạng chính trị của mình ra đảm bảo”. Ông Đô liền nói: “Anh biết gì mà đảm bảo”.
                              Năm 1985, Chóe đến nhà Tống Văn Công: “Bạn bè cũ tránh tôi như hủi, anh có dám tiếp tôi không?”. Họ ngồi với nhau rất lâu, cho dù Chóe không nói ra nhưng ông Công biết người họa sỹ tài ba này đang bế tắc, ông nói: “Mình tự thấy không đủ tư cách khuyên Chóe điều gì, vì chín năm trước mình đã không bảo vệ được bạn. Mình chỉ góp ý, nếu đi thì đi chính thức, vượt biên nguy hiểm lắm”. Sau lần gặp ấy, Chóe biến mất. Gần hai năm sau, một ngày đầu tháng 8-1987, Chóe đột ngột xuất hiện trước mặt Tống Văn Công, áo quần nhếch nhác. Tống Văn Công chưa kịp hỏi, Chóe đã nói: “Mới ra tù. Hồi đó, tôi vượt biên, bị bắt”.
                              Sau gần mười năm ở Khám Chí Hòa, năm 1985, nhà báo Đoàn Kế Tường cũng được ra tù. Mặc dù biết vợ ông đã bán nhà, vượt biên, quyết định tha của Trại vẫn trả ông về căn nhà ở đường số 2, làng Báo Chí Thủ Đức. Ông Tường về, bấm chuông, một người phụ nữ trung niên ra mở cửa nhìn ông ái ngại, nói: “Căn nhà này xui lắm, em tù tội, lại bị vợ bán nhà bỏ đi. Chồng chị đi kháng chiến về, chị mua nhà này ở chưa được bao lâu thì ổng bỏ chị đi lấy vợ khác. Thôi, nếu không có chỗ nào để về thì cứ ở đây với chị”. Đọc được sự chia sẻ khá chân thành của người chủ mới, nhưng ông Đoàn Kế Tường chỉ cám ơn rồi về nhà chị gái mình.
                              Bà chị gái thương em, nhưng trong cái không gian chính trị ngột ngạt lúc đó, chứa trong nhà “một thằng tù phản động” như Tường là điều không phải dễ dàng, nhất là mấy đứa con của bà chị đã có mấy năm “hòa nhập vào chế độ mới”. Bà chị dặn: “Cậu nên ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng và về sau 11 giờ, đừng để công an khu vực nó thấy thằng cậu đi tù về, khó cho mấy đứa”.
                              Vào đúng rằm tháng Tám năm 1985, Đoàn Kế Tường nhảy xe Kamaz lên Đaklak. Trời tối, mưa như trút, Tường lang thang từng rẫy cà phê xin việc. Ông kể: “Tờ giấy tùy thân duy nhất mà tôi có là giấy ra tù, không ai dám nhận. Đến nửa đêm thì gặp rẫy của một thiếu tá cảnh sát đi học tập về, ông nhận. Ông cựu thiếu tá dựng cho
                              tôi một cái chòi trên hai mẫu cà phê đang phục hóa. Cực nhọc nhưng dù sao cũng có việc làm. Được ít lâu thì anh Trần Hữu Thọ con trai Đại tá Việt Nam Cộng hòa Trần Hữu Dũng đi qua thấy tôi khổ quá, kêu về nhà ông ở cùng, ngày làm rẫy, tối dạy học cho mấy đứa con của anh”. Làm được gần một năm thì, một buổi sáng, ông Thọ ra phố ăn sáng về kể, đội Cảng Sài Gòn lên đá ở Buôn Mê Thuột, ông gặp huấn luyện viên Tam Lang ở đó. Tường buột miệng: “Tam Lang là bạn tôi”. Sáng hôm sau, ông Thọ lại ra phố thuật lại với Tam Lang, Tam Lang xác nhận: “Mai nếu anh lại ra thì đưa nó đi cùng cho tôi gặp”. Gặp nhau, Tam Lang khuyên Tường: “Sài Gòn thiếu gì việc. Về đi, ở đây làm gì”.
                              Sài Gòn đúng là có rất nhiều việc, nhưng tù phản động như Đoàn Kế Tường thì cho dù trình độ cỡ nào, lúc đó cũng chỉ có thể đạp xích lô. Một người bạn giới thiệu với Hội thánh Tin Lành để nơi này cho mượn một chiếc xích lô, Tường và một người bạn chia nhau đạp. Đoàn Kế Tường kể: “Sau đổi tiền, kinh tế càng xuống tận đáy, ăn còn không đủ lấy đâu tiền đi xích lô”. Đấy là những năm Sài Gòn đầy những ông đạp xích lô trong khi ngóng khách ở các ngả ba, ngả tư, tranh thủ đọc các cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhiều người trong số họ cũng vừa mới đi tù về.
                              Ông Tường kể: “Một bữa dong xe cả buổi mà không có người khách nào, tình cờ gặp thằng bạn thân chạy chiếc Honda tới. Tôi muối mặt hỏi: Tao đói quá, mày cho tao xin mười đồng. Thằng bạn nói đợi chút tao quay lại. Tôi đợi tới trưa không thấy. Về nhà, bà chị cho một lượng vàng, bảo vượt biên đi”.
                              Đoàn Kế Tường xuống Cà Mau, tham gia vào chuyến vượt biên do một cựu tù cải tạo, ông Nguyễn Thụy Quế, tổ chức. Ông Tường kể: “Chúng tôi lên một chiếc ghe chở heo chạy từ Năm Căn ra Ngọc Hiển. Gặp con nước ròng, ghe phải tấp lại chờ.
                              Trên bờ, từ một quán cà phê, bài hát Quê Hương307 cứ được phát lặp đi lặp lại. Năm ấy, Quê Hương nổi như cồn, tôi ở Sài Gòn nghe, nghĩ: tào lao. Nhưng lúc chuẩn bị rời quê hương, tự nhiên xúc động quá. Tôi trốn ghe quay về, chị tôi chửi quá trời. Tôi chủ động tìm gặp Đỗ Trung Quân tính khen. Không ngờ Quân bảo: em mắc nợ anh, anh đi thì tốt hơn. Khi đó tôi chưa hiểu hết lời Quân nói”.
                              Những ngày sau đó của Đoàn Kế Tường là ra ga Hòa Hưng xếp hàng để sau đó bán chỗ cho người đi tàu mua vé; đêm thì cho khách đợi tàu thuê chiếu và bán cho họ vài xô nước rửa mặt. Theo ông Tường, điều đó vẫn chưa phải là bi kịch. Một dịp trước ngày 30-4 năm 1987, như thường lệ, công an “truy quét tệ nạn xã hội”, bắt
                              tất cả về công an Quận 3. Sáng hôm sau, công an sàng lọc, ai có chứng minh thư, có hộ khẩu thành phố thì cho về, ông Tường chỉ có giấy ra trại thì bị giữ lại để chuẩn bị đưa đi tập trung cải tạo.
                              Ông Tường kể: “Đang đứng xớ rớ trong sân công an Quận 3 thì thấy Huỳnh Bá Thành308 chạy xe Vespa vô. Anh ta dừng lại trước trước đám can phạm. Tôi cúi mặt xuống tránh. Lúc sau, ngẩng lên thấy ông vẫn nhìn trừng trừng, rồi hỏi: Đoàn Kế Tường à? Có lẽ thấy tôi tàn tạ quá, Huỳnh Bá Thành khóc, bảo công an tha tôi rồi
                              cho tôi năm mươi đồng, dặn: mai mốt qua báo Công An gặp tao, có cả thằng Từ Kế Tường nữa. Tôi về, vào chùa Liên Trì gặp nhà sư Thích Không Tánh, hỏi nên không, nhà sư gật đầu rồi nói: Tao đã phản động, thêm mày phản động nữa, cái chùa này sẽ không phật tử nào dám đến. Thầy Thích Không Tánh lúc ấy cũng chỉ mới ra tù”. Ông Tường kể tiếp: “Tôi lên, Huỳnh Bá Thành mua cho hai bộ quần áo rồi hỏi:
                              ‘Ông muốn đi thì tôi lo cho đi’. Tôi nói không, lúc này không vì bài Quê Hương nữa mà vì không muốn lại bị tù đày. Thành nói: ‘Ông có một tuần để suy nghĩ’. Một tuần sau tôi cũng nói không đi. Thành hỏi: ‘Muốn làm báo lại không, tôi đang cần những người có nghề’. Tôi nhận lời. Rồi Thành thu xếp dẫn tôi tới gặp ông Mai Chí Thọ309, nhân một lần ông Thọ vào Sài Gòn. Sau khi ông Thành giải thích, ông Thọ hỏi: ‘Chú mày dám bảo lãnh không?’, ông Thành nói: ‘Dám’. Ông Thọ kêu người đem giấy bút ra cho Thành cam kết. Thế là tôi trở thành người của Công an Thành phố Hồ Chí Minh, một tờ báo đang ăn khách lúc đó”.
                              Bài báo đầu tiên đăng lên, tôi ký Đoàn Thạch Hãn nhưng bạn bè cũ vẫn biết đấy là tôi. Chị tôi mừng vì ngoài chuyện tôi có công ăn việc làm, từ một thằng tù phản động, tôi trở nên có thế ăn thế nói trong chế độ. Nhưng ngay sáng hôm báo ra,
                              Đinh Viết Mâu, cựu thiếu úy biệt kích, là bạn thân trong Chí Hòa, đạp xe tới nhà chị tôi. Mâu lặng lẽ bước vào tát vào mặt tôi hai tát rồi nói: ‘Thằng phản bội’. Rồi, giữa trời mưa như trút, Mâu đạp xe đi luôn. Tôi đưa bài báo cho ông Khai Trí310, một bạn tù khác, ông nói: “Cậu viết không có gì xấu nhưng tôi đọc có cái cảm giác như cậu đang cầm quạt lông ngâm Kiều của Nguyễn Du trong động đĩ”.
                              Ông Tường kể tiếp: “Có lẽ những người ca ngợi sự kiên cường của tôi khi còn ở trong Chí Hòa muốn tôi mãi mãi là người hùng trong mắt họ. Còn những người ở phía khác thì cũng nhìn tôi khinh miệt như nhìn một kẻ chiêu hồi. Khi nghe Đỗ Trung Quân nói ‘em mắc nợ anh, anh nên đi’, tôi chưa hình dung hết. Càng về sau, tôi càng hiểu vì sao phần lớn những người tù như tôi phải tìm lối thoát bằng cách vượt biên”.
                              Năm 1982, ngay sau khi ra khỏi trại cải tạo, Trung úy Trần Quang Phước lo cho cả gia đình gồm mười bốn người vượt biên. Khi vừa ra cửa biển thì một lốc máy tàu bị hỏng. Chủ tàu đề nghị mọi người gom tiền để họ vào bờ mua phụ tùng sửa máy. Ai dè họ đi luôn. Mấy giờ sau thì tàu công an ra. Người tài công cố cho thuyền chạy bằng lốc máy còn lại. Trần Minh Triết, con trai ông Phước, năm ấy mười sáu tuổi, nhớ lại: “Một loạt đạn bắn thẳng vào buồng lái, xác người tài công văng xuống biển”. Sau một thời gian chờ thanh lọc, vợ con ông Phước cũng như những đứa trẻ khác, chỉ bị giam hai ngày rồi được tha về. Ông Phước bị giam tại trại giam Trần Phú.
                              Trần Minh Triết kể: “Một hôm, tôi đang thụt bida thì bà già sang, ngoắt ra, dắt đi ngay lên chùa Tĩnh Hội, Nha Trang. Đi không kịp mang quần áo. Mấy thầy chùa đưa về xóm Bóng gửi chờ bắt tàu vô Sài Gòn. Lúc đó mới hay, ông già trong khi được ra khỏi buồng giam đã tìm cách trốn trại. Từ đó, hai anh em tôi mỗi đứa được gửi một nơi, hai ông bà già cũng trốn chui, trốn nhủi. Cả nhà hiếm khi mới được
                              gặp nhau. Dượng tôi đi tập kết về, là bác sỹ một bệnh viện lớn quen biết rất nhiều những người trong chế độ mới, nhưng cũng không thể giúp gì hơn. Một hôm ông bảo với ba má tôi: Anh nghĩ các em nên đi, ở đây sống không nổi đâu”.
                              Nữ nhà văn Nhã Ca chỉ bị tù hơn một năm. Nhưng trong thời gian hai vợ chồng bà ngồi tù, chính quyền địa phương đã trục xuất ba người con của bà ra khỏi nhà.
                              Căn biệt thự của ông bà trên đường Ngô Tùng Châu, Bình Thạnh, bị chính quyền lấy giao cho hợp tác xã mây tre lá. Ra tù, Nhã Ca đưa các con về nhà bà ngoại ở số 142 Tự Do. Bà chỉ định buôn bán làm ăn, nuôi con và chờ chồng – nhà thơ Trần Dạ Từ – đang bị đưa đi “cải tạo” trên trại Gia Trung. Nhưng áp lực đến với gia đình bà càng ngày càng thêm dồn dập.
                              Năm 1977, hai đứa con của bà, một mười bốn tuổi, một mười một tuổi, bị đuổi khỏi Nhạc viện Thành phố. Năm 1978, ngôi nhà dùng làm cửa hàng ở số 142, bấy giờ gọi là đường Đồng Khởi, bị niêm phong. Bị ép và lo sợ bị “xe cây” tới nhà “hốt đi kinh tế mới” như số phận của nhiều nhà tư sản khác, nửa đêm, Nhã Ca phải đưa các con về Cần Thơ ở nhờ nhà người thân. Bức bối và bế tắc, Nhã Ca đã phải để cho ba đứa con lên tàu vượt biên. Chuyến đi bất thành. Cả ba con của bà bị bắt. Trước khi tới biển
                              Thời ấy, thường có hai dạng tổ chức vượt biển – tự túc, nghĩa là không dính líu gì đến công an, và mua bãi. Dạng thứ nhất thường gặp nguy hiểm hơn lúc xuống tàu rời đất liền. Mọi thứ đều lén lén, lút lút trong màn đêm. Những người này thường chọn những đêm không trăng, và chấp nhận bị bắt bất kỳ lúc nào. Dạng thứ hai, thường được mấy người tổ chức móc nối, sắp xếp ngày giờ trùng với ca trực của “tay trong” để đưa người xuống tàu. Không có dạng nào là chắc chắn, nhưng những người đã “móc nối” thì khả năng bị công an xông ra từ trong các lùm cây là ít hơn.
                              Không phải ai cũng có tiền có vàng để đóng cho các chủ tàu: “đĩ điếm” thì coi như đã hết thời sau ngày 30-4-75; những “gia đình ác ôn” không phải đi học tập thì trước đó không phải ai cũng có chức tước tiền bạc; những người mà chồng con đang ở trong trại thì còn phải mang gánh nặng thăm nuôi – đối với nhiều người vợ tù, nước có thể bỏ nhưng chồng trong trại giam thì không thể.
                              Trở lại câu chuyện của Thượng sỹ Trần Văn Ngọt và cô em vợ của ông, Lục Phương Mai. Ngày 7-6-1979, từ nhà, mấy chị em, dì cháu Mai đi xích lô máy ra bến xe miền Tây rồi đi xe đò xuống Tiền Giang. Họ “ém” trong nhà một nông dân, chờ đêm ập xuống thì nhảy lên một chiếc xuồng con chạy ra ghe lớn đang đậu chờ ngoài cửa sông. Theo dự kiến, 12 giờ đêm chiếc ghe lớn ấy sẽ bắt đầu hành trình. Nhưng khi vừa thấp thoáng thấy cửa sông thì bỗng từ trong bờ dừa nước, một chiếc bo bo xé nước phóng ra, ép sát con xuồng. Thượng sỹ Trần Văn Ngọt chưa kịp phản ứng đã ăn một báng súng khuỵu xuống. Tất cả trai tráng lẫn đàn bà con gái bị đưa về trại giam Tiền Giang. Ngay trong đêm, đoàn bị chia hai: nam một bên, nữ một bên. Và lập tức, quản giáo quát: “Cởi áo ra”; rồi, “Cởi quần ra”; rồi, “Cởi luôn quần lót”. Quần áo, giày dép đều bị sờ nắn tới từng đường chỉ.
                              Trước khi ra đi, những người vượt biên đều đã dự liệu tình huống này nên khi chiếc bo bo vừa phóng ra, hạt xoàn, vàng, đô la đều đã bị ném không thương tiếc
                              xuống nước. Với nhiều người, “thà để cá ăn, dứt khoát không để vàng bạc rơi vào tay Việt cộng”. Nhưng Lục Phương Mai vẫn cố giữ lại hai lượng vàng. Trước khi cởi đồ, chị lén lút chuyển hai lượng vàng ấy cho cô cháu gái tên là Thùy, Thùy chuyền cho em gái là bé Tí Hương, năm ấy mới lên sáu tuổi không bị quản giáo để ý. Tí Hương nhét vàng vào bụng để rồi khi mấy dì cháu về buồng giam liền đưa lại cho dì giấu trong một tuýp thuốc đánh răng.
                              Chín anh em, dì cháu nhà Lục Phương Mai nằm khoảng hơn một tháng thì được mẹ viết thư lên Quận ủy “nhận lỗi là đã không giáo dục tốt con em để chúng nó làm điều sai quấy”. Xét gia đình “có công với Cách mạng”, mấy chị em Mai được tha, riêng Thượng sỹ Trần Văn Ngọt thì bị kêu án ba năm tù311.
                              Nếu như chiếc thuyền vượt biên của Lục Phương Mai bị chặn ngay từ cửa sông thì thuyền của chị em nhà Ngô Hồng Ngọc312 lại đã đi được nhiều giờ trên biển.
                              Ngày 26-12-1983, Ngọc, lúc đó hai mươi ba tuổi, vượt biên cùng với một đứa em, hai người dì và bốn chị em họ khác. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi được đón bằng xe buýt lớn, giống như một đoàn người hành hương, được đưa tới lăng Ngọc Hà – Bà Rịa, vào một nhà dân đợi tới đêm thì lên một thuyền nhỏ. Chiếc thuyền taxi này chạy khoảng một giờ thì tới địa điểm đón, từ đó chúng tôi được đưa vào một thuyền đánh cá.
                              Chiếc thuyền nhỏ này – ngang khoảng 2,5m, dài 15m – do sáu gia đình hùn tiền:
                              Gia đình bác sĩ Vận cùng vợ và hai con trai nhỏ (bác sĩ Vận và vợ là y sĩ, họ có trách nhiệm lo sức khỏe cho mọi người cùng đi); một người hoa tiêu cùng gia đình; ông tài công cùng ba gia đình chúng tôi. Thế nhưng, khi được đưa vào thuyền lớn, một nhóm người đông hơn cả số đóng tiền, ém sẵn trước ở đấy, nhân lúc lộn xộn, cùng lên tàu. Thế là con tàu phải chở tới 126 người, lớn, bé, già, trẻ. Từ các tai mắt ở khu vực cho đến lực lượng thường xuất hiện ngoài “bến bãi” đều được “lo bao”, lại đi vào dịp cận Tết, nên việc khởi hành diễn ra suôn sẻ”.
                              Ngô Hồng Ngọc kể tiếp: “Hai chị em tôi được mẹ đưa cho một túi sâm cắt lát với lời dặn, lúc khát và mệt thì lấy ra ngậm. Mẹ cũng may lẫn trong gấu áo, gấu quần tôi 1 số tiền đô la Mỹ, trên tay đeo bốn nhẫn nhỏ loại một chỉ, với hi vọng khi tới đảo có thể dùng liên lạc về cho bố mẹ. Xuống thuyền, đàn bà và trẻ em được đưa vào dưới boong, chúng tôi nằm chen chúc lên những thanh gỗ đan vào nhau quét đầy nhựa đường. Mỗi đợt sóng đánh, ruột gan ai nấy quặn lên và ói. Em gái nhỏ của tôi đói và khát, những miếng sâm nhỏ mẹ cho chúng tôi đã nhấm hết mà vẫn không hết mệt. Anh Lê, một người bạn của gia đình tôi, phải đi ‘ngoại giao’ để mang về từng bát nước cháo cho chúng tôi chia nhau. Ngày thứ ba trên biển, lâu lâu anh Lê dìu hai chị em tôi lên boong để hít thở chút ít rồi phải quay lại hầm tàu”.
                              Ngày thứ tư, thuyền bị cháy máy do tài công ngủ quên, cậu con trai châm nhớt không kịp. Một người em họ của Ngô Hồng Ngọc, Ngô Quang Hưng313, năm ấy mới hơn mười tuổi, nhớ lại: “Trong mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, mọi người cố lấy chăn mền căng ra làm buồm, cố ra được ngoài hải phận quốc tế. Có những đêm, nhìn thấy đèn tàu lớn ở phía xa, mọi người kêu gào, dùng đèn pin đánh tín hiệu
                              SOS kêu cứu nhưng tàu lớn vẫn không vào. Có hôm, thấy máy bay bay ngang đầu, lại hò hét, lại hy vọng. Một chị đi tiểu trong cái ‘toilet’ được khoanh bằng một tấm bạt sát bên mạn thuyền, bị sóng đập rơi xuống biển… Cứ đêm đến là lại nghe tiếng sóng dập hòa lẫn với những lời cầu nguyện”. Theo Hồng Ngọc: “Thuyền càng lắc mạnh tôi càng nắm chặt tay em gái, chúng tôi chỉ muốn sống chết có nhau. Xung quanh, con gọi cha mẹ, vợ kêu chồng… Không ai còn hy vọng tới bến bờ tự do mà chỉ còn hy vọng sống”.
                              Cuối cùng, mọi người thở phào khi nhìn thấy đảo. Nhưng khi con thuyền dạt vào cách đảo chừng 300m thì bị đâm vào đá ngầm, thủng đáy. Mọi người bò hết lên boong. Dân đánh cá và một số người bơi giỏi thì nhảy xuống để bơi vào bờ thoát thân. Ngô Quang Hưng kể: “Khi nhảy xuống, bác sỹ Vận bị bánh lái tàu đập vào đầu, chết. Cái chị đi toilet rơi xuống biển đêm trước, khi ở ngoài khơi thì cứu được, lần này lại bị chết khi cố bơi vào bờ”. Theo Ngô Hồng Ngọc: “Hai mươi lăm người, cả nam lẫn nữ bị đập mạnh vào đá và bị sóng dập, chết ngay trước mắt chúng tôi: đàn ông nằm sấp, đàn bà nằm ngửa, xác họ nổi lên chỉ sau hai ba phút”.
                              Con thuyền từ từ chìm. Một số người nhanh trí, lấy dây buộc vào các mỏm đá để phụ nữ, trẻ em bám vào, từng bước leo qua từng phiến đá lớn, quanh những xác chết. Thêm một số người chết do sóng đánh mắc kẹt vào kẽ đá. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chừng một giờ sau, một đợt sóng lớn ập tới, từ đảo nhìn ra, thuyền của chúng tôi vỡ vụn thành những tấm gỗ mỏng trôi lênh đênh, cùng với xác người và một vùng loang của máu”. Theo Ngô Quang Hưng: “Một ấn tượng cực kỳ khó quên là trên bờ có cơ man nào là dép Lào. Và nhiều mảnh gỗ không biết từ đâu dạt đến”. Ngọc nói: “Có lẽ, không chỉ thuyền của chúng tôi lâm vào cảnh ngộ này”.
                              Điều ám ảnh những người sống sót nhất, theo Ngô Quang Hưng: ““Khi các thuyền nhân đang đấu tranh với sóng, đá ngầm, bánh lái, để tìm cách lên bờ thì cũng là lúc thủy triều đang dâng. Cái mỏm đá mà chiếc ghe kẹt lại càng lúc càng xa bờ, chìm dần xuống. Không hiểu thế nào mà còn một cậu bé đứng trên mỏm đá đó khi những người còn sống sót đã lên hết trên bờ. Sóng thì quá mạnh. Vách đá dựng đứng. Ba bốn ngày đói khát. Khát khủng khiếp! Không ai có khả năng bơi ngược lại mỏm đá càng lúc càng xa bờ. Tất cả thẫn thờ đứng nhìn. Những cái xác bồng bềnh. Đàn ông sấp. Đàn bà ngửa. Biển ngập dần lên mỏm đá mà cậu bé đứng, lúc này chỉ còn là một cái chấm ngọ nguậy. Mọi thứ biến mất như chưa từng tồn tại trên đời:
                              cái ghe, mỏm đá, cậu bé. Đoàn thuyền nhân quay lưng trèo lên đỉnh núi trước khi mặt trời lặn”.
                              Gia đình Ngô Hồng Ngọc và gia đình người tài công may mắn còn nguyên vẹn.
                              Vách núi, về sau mọi người mới biết là hòn Bảy Cạnh, dốc đứng, nhưng mọi người vẫn cố gắng trèo lên vì nước thủy triều. Ngô Hồng Ngọc nói: “Chúng tôi nắm tay nhau cho qua cơn đói khát… Đau buồn nhất là gia đình bác sĩ Vận, ông chết trước mắt vợ con. Người vợ của ông giờ đó đã trở thành góa phụ lại bị gãy chân. Chị Thảo, em gái bác sĩ Vận, vừa dìu chị dâu vừa lo kéo hai thằng cháu nhỏ. Chúng vừa nhớ bố vừa đói khát, chốc chốc lại kêu: ‘Bố ơi! Con đói quá. Bố ơi! Con lạnh quá’.
                              Tối như đêm ba mươi. Không mấy ai để ý đến thời khắc giao thừa. Chúng tôi chỉ đợi trời sáng để leo qua đỉnh núi, hy vọng ở phía bên kia có người”.
                              Nhưng ở phía bên kia vẫn chỉ là đảo hoang. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi bẻ củi, chất thành đống lớn, đợi trời tối để sưởi cho bớt lạnh và hi vọng tàu đi ngoài xa có thể nhìn thấy và tới cứu. Thêm một đêm ngóng trông. Khi đống lửa đã sắp tàn thì nghe có tiếng ca nô chạy vào bờ, tiếng súng bắn và sau đó tiếng loa phóng thanh: ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam… Công an nhân dân Côn Đảo… Yêu cầu bỏ vũ khí…đầu hàng!’. Vẫn là ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam’. Không gì có thể làm chúng tôi đau đớn hơn. Sáng mùng Ba Tết, chúng tôi được một xà lan lớn đưa ra biển và đưa vào núi lớn Côn Đảo”.
                              Theo Hồng Ngọc: “Từ hôm đó chúng tôi được phát mỗi người hai bộ quần áo tù màu ghi đậm, vải thô xù xì rồi được đưa vào trong một phòng giam lớn, hai bên có hai bệ bê tông dài, ở giữa là lối đi. Chúng tôi nằm xếp lớp trên đó, không chăn, không gối. Hàng ngày, được phát hai lần cơm, lâu lâu mới có muối mè hay rau luộc. Sau giờ điểm danh sáng, cửa phòng mở, chúng tôi được đi lại, tắm rửa, hay lòng vòng quanh mấy hàng hiên. Một số người sẽ được gọi đi ‘làm việc’. Đối diện với trại nữ là khu trại nam. Các tù nhân nam bị nhốt trong nhà, trừ những giờ ra ngoài đi lao động, trồng rau hay dọn vệ sinh. Khi chúng tôi tới, Côn Đảo không còn tù chính trị. Những người đang ở đây, phần lớn là dân vượt biên, những người bị giữ lâu nhất thường là dân ‘có tóc’ như chủ ghe, tài công”.
                              Các thuyền nhân bị giữ ở Côn Đảo bốn tuần thì được đưa lên một xà lan lớn, chở vào trại giam Cỏ May, Vũng Tàu. Khác với Côn Đảo, trại giam Cỏ May giam đủ loại tù, tù chính trị hạng nặng bị nhốt riêng. Hồng Ngọc bị nhốt chung với các nữ tù chính trị và hình sự. Ngọc kể: “Trong phòng, có người tên là Dì Ba, nghe đâu từng làm sĩ quan tâm lý chiến thời Việt Nam Cộng Hòa, đã vượt biên sáu lần, cả sáu lần đều vô khám”. Ngọc bị giam bảy tháng ở trại Cỏ May. Một người lính hải quân Việt Nam Cộng Hòa vì tội tổ chức vượt biên đã bị nhốt năm năm trong trại.
                              Năm 1985, Bộ Luật Hình sự của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lần đầu tiên ra đời, coi vượt biên là một tội hình sự, xếp chung vào nhóm tội “xâm phạm an ninh quốc gia”. Trước đó, những người vượt biên bị bắt có thể bị giam mà không cần xét xử hoặc bị xử theo Pháp lệnh Trừng trị các tội Phản Cách mạng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1967. Theo Luật sư Trương Thị Hòa, người đã từng bào chữa cho một số bị cáo “vượt biên”, tòa áp dụng khá linh hoạt các quy định trong Pháp lệnh 1967, tuy nhiên, phần lớn bị xử tù theo Điều 9: “Tội trốn theo địch hoặc vì mục đích phản cách mạng mà trốn ra nước ngoài”.
                              Trại Gia Trung đã dạy cho Chóe những bài học dài ngày trong buồng biệt giam, để khi vượt biên bị bắt, anh thôi không “cãi” là mình vô tội nữa. Tại trại giam Công an Long An, anh đã rất “ngoan” nên “án” ba năm chỉ ở hai năm là được tha. Nhưng bị bắt ngày ấy vẫn được gọi là may.
                              Anh Phùng Văn Vinh314 nhớ lại: “Mùa hè năm 1981, ở bãi biển Thanh Bình Đà Nẵng, có bốn người vượt biên bị bắn chết, xác trôi vào được xếp ngay hàng trên bờ chờ người tới nhận… Trên xác họ, đầy kín những lỗ đạn đen xỉn, ruồi vo ve bay… Một xác là của một người thanh niên lai Mỹ với mái tóc vàng óng, nằm dài ngoằng so với những người còn lại. Nghe đâu sau đó có ba người được thân nhân tới nhận xác đưa về chôn, còn anh thanh niên lai Mỹ vì không có ai đến nhận, nên đã bị đưa đi mất vì dân chúng quanh đó không chịu nổi mùi thối… Tôi nghe những người lớn lúc đó thầm thì bàn tán, chính quyền cố tình để vậy để răn đe dân chúng trong vùng. Chẳng là dân Đà Nẵng có tiếng về chuyện liều mạng vượt biển”. Nhưng đó chỉ là những cái chết được nhìn thấy.
                              Đường tới các trại tị nạn Trong suốt một thập niên rưỡi sau 1975, vượt biên với nhiều người miền Nam là lối thoát duy nhất, nhưng cũng là lối thoát đắt giá nhất. Hàng nghìn người đã phải trả bằng chính sinh mạng của mình. Hàng ngàn người khác tuy “tới được bến bờ tự do” nhưng sự bình yên không bao giờ trở lại sau những nỗi kinh hoàng trên biển. Ngày 24-10-1977, toán vượt biên của Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ315 bước sang ngày thứ năm của hải trình thì xà lan bị hỏng máy. Họ phải gom hết “pông-sô” làm buồm
                              lái về phía Thái Lan. Hai ngày sau, thực phẩm dự trữ mang theo bắt đầu cạn. Bác sỹ Tuệ kể: “Ban tổ chức cuộc vượt biên họp ‘mở rộng’ đưa ra ‘chính sách công xã’, gom thực phẩm của tất cả các nhóm trên xà lan, tập trung và chia đều khẩu phần hàng ngày. Thùng nước trên xà lan được khử trùng bằng chlorine, đun nấu ăn và nước uống. Mỗi gói cơm sấy được nấu thành cháo chia cho gia đình mười người… Ngày thứ mười, có bốn chiếc thuyền buôn lớn đi qua, chúng tôi đốt lửa báo hiệu, chúng tôi vẫy tay, chúng tôi đánh cờ semaphore bằng quần áo… Nhưng những chiếc thuyền ấy đã bỏ đi mặc dù thấy nhóm người chúng tôi bơ vơ giữa biển trên chiếc xà lan nhỏ bé”.
                              Chiều ngày thứ mười một của chuyến hành trình, theo Bác sỹ Tuệ: “Biển êm sóng lặng, chúng tôi chợt thấy một chiếc thuyền đánh cá neo lại từ phía xa chân trời. Hy vọng lại vươn lên trong buổi chiều trên biển. Chúng tôi vẫy tay, chúng tôi la hét, chúng tôi phất quần áo làm cờ ra hiệu nhưng không thấy những người trên thuyền đáp ứng. Cuối cùng, sự may mắn đã đến khi lưới đánh cá của chiếc thuyền đó trôi ngay gần chiếc xà lan! Hai người bạn trẻ tuổi, Đức và Thành, can đảm nhảy xuống biển, bơi đến, bám chặt lưới cho đến khi các ngư phủ Thái Lan kéo cả hai lên thuyền. Mọi người trên xà lan nhìn theo hồi hộp chờ đợi… Chiếc xà lan được những ngư dân Thái kéo vào thành phố Pattani ở bờ Đông Thái Lan vào ban đêm. Những ánh đèn thành phố nhìn từ ngoài biển là những ánh sáng hy vọng. Xà lan bị cô lập ở bến Pattani. Cảnh sát lên kiểm tra, chúng tôi không chánh thức được lên đất liền,
                              nhưng được phép tiếp xúc với dân địa phương, được mua hàng và lần đầu tiên được uống Coca Cola sau hai năm kể từ ngày được giải phóng”.
                              Toán vượt biên của bác sỹ Tuệ chỉ được ở lại Pattani hai ngày để mua thêm thực phẩm. Sửa chữa máy xong, xà lan của họ bị tàu Thái hộ tống đưa ra biển hướng về phía Songkhla nơi có trại tị nạn cho người Việt. Xà lan đi hai ngày, đến Songkhla, thấy bến nhưng bị tàu tuần Thái chĩa súng đuổi ra. Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ kể tiếp: “Một ngày sau, xà lan lại chết máy. ‘Pông sô’, áo mưa lại kết lại làm buồm, xà lan trôi nổi bảy ngày, cuối cùng nhờ có luồng nước kéo trở lại Songkhla. Xà lan tấp bến. Chúng tôi bồng bế nhau, già trẻ lớn bé lội xuống biển. Cùng lúc, dân Thái Lan tràn lên quăng hành lý xuống và cướp đi luôn, máy tàu bị họ phá và giật xuống biển. Cả đoàn phải ở ngoài bờ biển, màn trời chiếu đất, ban đêm chúng tôi đào những hố cát để làm giường tránh gió và canh chừng cho các bà các cô, sợ dân Thái Lan hãm hiếp. Ban ngày dân địa phương bu quanh nhìn chúng tôi bị rào bởi vòng rào dây thừng như đi xem sở thú. Họ quăng đồ ăn, quăng trái cây vào như cho khỉ ăn. Tự do chưa thấy chỉ thấy cướp”.
                              Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkhla xuất hiện với lính cận vệ. Họ dẫn theo sáu mươi bảy thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến Songkhla. Chính sách Thái lúc bấy giờ không nhận người tị nạn. Những người này bị đuổi ra bãi để nhập chung với nhóm của Bác sỹ Tuệ. Ông Tuệ kể: “Tôi biết chút tiếng Mỹ, đứng nói chuyện với tỉnh trưởng Songkhla xin ở lại. Tỉnh trưởng Songkhla cầm gậy chỉ huy đánh vợ tôi đang bồng con trên tay, miệng thì la ‘let’s go’. Các con của những phụ nữ khác cũng bị giằng ra khỏi tay mẹ, ném từng đứa một lên xà lan, các bà mẹ đành phải theo con. Lính Thái đánh anh Hải chảy máu mũi. Tôi đứng bên cạnh ông tỉnh trưởng, nổi nóng tiến gần ngay cạnh ông ta, cận vệ sợ tôi đánh ông tỉnh trưởng, một người vội vàng rút khẩu súng Colt lên đạn chĩa vào đầu tôi. Một trung sĩ cận vệ tử tế, nói nhỏ: bác sĩ đừng chống cự, họ sẽ bắn ông thật đấy”.
                              Bác sỹ Tuệ kể tiếp: “Ở trên xà lan hơn mấy tuần, khói dầu diesel đóng lên mặt mũi, thân thể chúng tôi đen như mọi, đầu tóc ngứa ngáy, chải thì thấy chí rận rơi xuống. Nhiều trẻ em da bị lở loét vì nắng và dầu. Con bé Ngọc của chúng tôi, ngày xuống xà lan ăn mặc tươm tất, quần áo đẹp đẽ tự tay bà ngoại may, khi bước ra khỏi khoang xà lan đã thành ‘cô bé lọ lem’, quần áo dính nước sét hầm xà lan đổi thành màu cháo lòng… Một tuần ở Narathiwat, vợ chồng tôi thân với vợ chồng một y tá trẻ ngành quân y Thái. Biết chúng tôi sẽ phải ra đi chứ không được đưa về trại tị nạn ở Thái Lan như chúng tôi tưởng, họ nói với tôi là họ không nghĩ chúng tôi sẽ có thể sống sót trong cuộc hành trình sắp đến nên xin cho bé Ngọc ở lại làm con nuôi, nếu chúng tôi may mắn đến được đất liền, qua Mỹ lúc ấy chúng tôi có thể làm giấy tờ hội ngộ. Đề nghị tử tế và thành thật này làm chúng tôi bâng khuâng và suy nghĩ. Em tôi, Hồng và Hiến họp lại đêm hôm ấy nói rằng: Sống chết có nhau, nay đã đi đến đây chỉ còn một quãng đường ngắn, anh em có xui xẻo thì xui xẻo cùng. Vợ chồng tôi đã quyết định để bàn tay Trời định đoạt”.
                              Ngày 19-10-1977, nhóm vượt biên của Bác sỹ Tuệ đến Trengganu, Thái Lan, sau bốn mươi ngày lênh đênh. Cho dù có lúc sống chết chỉ còn trong gang tấc, chuyến đi của họ được coi là may mắn. Đoàn có 168 người, gồm sáu mươi phụ nữ và sáu mươi trẻ em, không bị nạn hải tặc, không có người bị bệnh nặng, không có người phải bỏ xác trên biển.
                              Chuyến vượt biên thứ sáu cũng đã đưa Thiếu úy Phan Ngọc Vượng tới được một trại tị nạn ở Malaysia. Nhưng trước đó, chuyến vượt biên thứ năm của ông vào cuối năm 1978 đã bất thành dù có nhiều tình cờ may mắn. Chiếc ghe đưa họ ra khơi là loại ghe bầu chạy trên sông Tiền, thường được gọi là ghe cà dom. Đi được ba ngày, ba đêm thì chết máy, chiếc ghe trôi vô định ngoài hải phận quốc tế, gặp gần năm chục chiếc tàu chạy qua mà không có một chiếc nào cứu giúp. Ngày thứ tư, vào khoảng 5 giờ chiều, xuất hiện một chiếc tàu tên là Hegenburger, chạy gần. Ông Vượng quyết định nhảy xuống biển bơi ra chặn đầu.
                              Con tàu đồ sộ kéo còi giận giữ trong mấy phút rồi thả một chiếc ca-nô cùng một sỹ quan và ba người lính xuống. Ca-nô vừa chạm nước, viên sỹ quan rút súng, đạn găm ngay sau lưng ông Vượng. Rồi chiếc ca-nô chạy nhanh tới, trong tích tắc, ông Vượng được kéo lên. Viên sỹ quan hỏi: “Ông là ai?”. Ông Vượng: “Tôi là người tị nạn Việt Nam! Còn các ông?”. Viên sỹ quan: “Chúng tôi từ Đông Đức”. Ông Vượng: “Sao ông bắn tôi?”. Viên sỹ quan: “Ông không thấy hai con cá mập nó đang dí sau lưng à?”.
                              Trước khi gặp thuyền trưởng, ông Vượng được đưa vô nhà hàng trên tàu, ông được đặt ngồi trước một đĩa thịt bò và một lon Coca. Đó là bữa ăn ngon nhất trong cuộc đời của ông Vượng. Những người trên tàu đã rất lịch sự nhưng không chịu đưa những thuyền nhân đến Hong Kong. Thoạt đầu, họ đã bỏ đi, nhưng sau khi biết cơn bão tới gần có thể nhận chìm con tàu hỏng máy chở các thuyền nhân Việt Nam, tàu Hegenburger đã quay trở lại và sau khi thương lượng, những người vượt biên chấp nhận quay trở vào bờ tránh bão.
                              Gần sáng thì họ nhìn thấy bờ biển Vũng Tàu. Thủy thủ tàu Hegenburger báo cho chính quyền rồi quay đầu. Khoảng 5 giờ sáng, tàu công an xuất hiện. Thuyền trưởng chiếc ghe vượt biên, nguyên là một trung úy hải quân vừa đi học tập về, nhảy xuống biển. Ông Vượng biết, nếu bị bắt lại, những người như ông và viên trung úy sẽ phải mục xương trong tù. Ông Vượng cũng nhảy xuống biển. Mới bơi được mấy sải thì một thằng nhỏ trên ghe ném cho ông miếng xốp khá lớn. Chính miếng xốp đó đã cứu mạng ông. Viên trung úy hải quân lần ấy đã không thể bơi vào bờ.
                              Vài giờ sau, ông Vượng được mấy người Nga kéo lên một chiếc cano nhưng thái độ của họ khiến ông Vượng e rằng sẽ bị giao cho công an nên khi thấy một chiếc ghe câu nhỏ đi qua, ông Vượng gọi: “Ơi! Cứu anh!”. Hai thiếu niên trên ghe câu hỏi: “Vượt biên à? Nhảy đi!”. Ông Vượng nhảy xuống. Ông Vượng được hai cậu bé đưa về nhà trong một làng chài. Nghỉ ngơi, ăn uống xong, hai cậu bé đưa ông về Sài
                              Gòn với giá một lượng vàng. Lúc đó, đi honda không hẳn là an toàn, nhưng đi xe đò thì chắc chắn không thoát vì công an sẽ xét, nếu không có giấy đi đường là bắt liền. Chập tối, họ lên đường, và tới 11 giờ đêm thì về tới nhà mẹ ông Vượng ở Gò Vấp. Bà mẹ già bật khóc: “Sao lần nào đi cũng không tới nơi vậy con?”.
                              Toàn bộ số người còn lại trên chiếc ghe cà dom bị đưa về Vũng Tàu, mọi người khai hết “tội” cho Phan Ngọc Vượng. Họ bị giam giữ tại trại Cỏ May hai tháng rồi được phóng thích. Câu chuyện Phan Ngọc Vượng một mình tổ chức vượt biên, tuy không trót lọt, nhưng với trình độ ngoại ngữ và khả năng ứng phó trong những tình huống hiểm nghèo khá tốt đã được dân vượt biên đồn thổi. Ông Vượng sau đó đã được những người giàu có chi tiền đề nghị ông chủ trì một cuộc vượt biên cho gia đình họ. Chuyến đi ấy tổng cộng bốn mươi chín người trong đó có năm người em của ông Vượng. Khác với năm lần trước, chuyến vượt biên thứ sáu của ông may mắn bất ngờ.
                              Chập tối ngày thứ tư, một tàu đánh cá Thái Lan cặp vào mạn của chiếc ghe vượt biên. Ông Vượng kể: “Tôi kêu tất cả phụ nữ chui xuống hầm, đề phòng. Phía tàu đánh cá cho một đại diện lên gặp thuyền trưởng nói chuyện. Vào, thấy trong phòng ông thuyền trưởng trang trí đầy tượng Phật, tôi đã thấy mình may mắn. Ông thuyền trưởng hỏi: ‘Các anh cần gì?’. Tôi nói: ‘Cần một ít nước uống và xin chỉ đường giùm’. Ông cho nước uống và chè đỗ xanh, rồi hỏi: ‘Còn dầu không?’. Tôi nói: ‘Thưa còn’. Ông chỉ tay và nói: ‘Cứ đi theo hướng này thì chiều mai mày sẽ tới Malaysia’. Khoảng bốn giờ chiều hôm sau, chúng tôi nhìn thấy một rặng dừa”.
                              Thay vì được chào đón, khi chiếc ghe vượt biên tới gần bờ, điều mà họ nhìn thấy là những họng súng đen ngòm trên tay mười hai cảnh sát mặc đồ rằn ri đang chĩa thẳng vào những người tị nạn. Ông Vượng, khi ấy chỉ mặc một chiếc quần jeans,
                              quyết định nhảy xuống biển, vừa giơ hai tay, vừa đi vào. Cảnh sát quát: “Stop!”.
                              Ông Vượng nói: “Refugees”. Cảnh sát: “Bao nhiêu người?”. “49”. “Có vàng, đô-la không?”. “Có”. “Ok, ra mang vàng vào đây tao cho vô”. Ông Vượng đi ra, chủ tàu lấy năm lượng cùng một ít nữ trang đưa ông Vượng mang vào bờ. Sau khi nhận vàng, cảnh sát nói: “Đục tàu đi rồi cho vô”.
                              Vào bãi, bốn mươi chín người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất. Các viên cảnh sát thỉnh thoảng qua gặp nói đưa tiền, muốn mua gì họ mua cho. Bốn ngày sau, có thêm một tàu của người Hoa “vượt biên bán chính thức” đến. Họ có 140 người đa số là người Việt. Thêm một tuần lễ sau đó, 189 người phải tự xoay xở trên bãi, đào giếng kiếm nước, lượm củi nấu ăn. Ngày thứ mười một, một người bận quân phục sỹ quan, đầu đội nón bê rê xanh đến, gặp ông Vượng, người duy nhất biết tiếng Anh, nói: “Tôi là người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc”. Không phải ai vượt biên cũng có cơ hội gặp được người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.
                              Ngày 27-5-1989, chỉ cần biên phòng khám xét lâu thêm vào tiếng nữa là Phạm Thanh Tùng316 cùng chín mươi sáu người khác có thể bị đông cứng trong khoang chứa cá. Sau một hành trình dài từ Sài Gòn về Châu Đốc giống như những người đi vía Bà, nhóm vượt biên của Tùng lần lượt được xếp nằm trên những chiếc xuồng
                              chở dừa. Chủ thuyền lấy lá dừa tươi tấp lên những người vượt biên rồi chở về hướng Bắc Mỹ Thuận. Bốn giờ sáng thì tàu cặp ghe lớn lúc đó đang neo đậu giữa dòng.
                              Tổng cộng chín mươi bảy người, gồm cả vợ con người chủ tàu, được xếp vô khoang cá. Hàng chục cây đá được xếp chồng lên nhiều lớp để che. Ra tới cửa biển thì đụng tàu biên phòng, cuộc khám xét kéo dài cho đến khi da một đứa trẻ trên tàu đã bắt đầu tím tái. Chủ tàu cho chạy thêm khoảng một giờ, cầm chắc đã ra khỏi tầm truy đuổi, mới huy động những thanh niên còn khỏe liệng hết đá cây xuống biển. Khi đó nhiều người đã lịm đi vì rét cóng. Đó là chuyến vượt biên lần thứ mười một của Phạm Thanh Tùng. Ngày 1-6-1989, con tàu của Tùng vào tới đảo Talampuru (Philippines).
                              Chỉ đi sau chuyến tàu của Tùng một ngày, ngày 2-6-1989, có một chiếc tàu vượt biên khác cũng vào gần tới đảo Talampuru. Thay vì đậu ngoài xa chờ dẫn đường, khi thấy một cơn bão đến gần, con tàu tiến nhanh vào đảo. Tàu của họ bị kẹt vào bãi san hô và ngay sau đó, con tàu bị sóng lớn đánh vỡ ra từng mảnh. Khi bão tan, chỉ có năm người sống sót bơi được vào bờ. Họ nói, con tàu khởi hành với 117 người.
                              Ngày 7-8-1987, để tránh bị biên phòng phát hiện, ông Trần Quang Phước, một cựu trung úy hải quân Việt Nam Cộng hòa, quyết định ra đi khi Nha Khí tượng dự báo có bão cấp 7. Con tàu chở hai mươi bảy người trong đó có bốn người trong gia đình ông Phước. Con trai ông, anh Trần Minh Triết kể: “Con tàu đi tới khuya thì bắt đầu bão. Cả tàu say sóng nằm la liệt chỉ còn lại hai cha con. Ba tôi cầm lái. Đi tới trưa hôm sau thì ra tới ngoài khơi xa. Ba tôi giao tay lái cho tôi. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy những con sóng tiếp nối những con sóng, cứ ập tới con thuyền nhỏ bé như những ngọn núi. Tôi chỉ còn biết nghe lời cha tôi mà tiếp tục đi, chỉ biết trao thân cho đại dương, lúc nào cũng có cảm giác mình sắp bị những con sóng nhấn sâu xuống lòng biển”. Như có phép màu, chỉ bốn ngày sau, con tàu nhỏ đi tới Malaysia. Trần Minh Triết nói: “Sau mười lăm lần vượt biên không thành kể từ năm 1982, cha con chúng tôi được đưa vào trại Sungeipesi”.
                              Tại trại tị nạn Sungeipesi, cuối năm 1987, Trần Minh Triết ở chung nhà với một phụ nữ trẻ. Triết kể: “Chiều chiều, xuống cầu thang, tôi thấy chị ấy cứ nép người vào một góc tối, khóc lên rưng rức. Chúng tôi phải để cho chị ấy khóc bởi chỉ cần đụng vào là chị ấy hoảng lên, co rúm lại. Không ai dám hỏi han. Trên biển, chị ấy đã bị hải tặc hiếp dâm nhiều lần”.
                              Khi chuyển vào trại Paulo Bidong, Triết gặp một cô gái khác trạc tuổi mình. Cô cùng một người khác được vớt lên và được coi là hai người sống sót trên một con tàu vượt biên bị hải tặc trên vùng biển Thái Lan. Cô gái bị hãm hiếp nhiều lần trong khi chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc. Trần Minh Triết kể: “Chiều nào cô cũng rủ tôi ra biển. Nhưng chỉ khi ánh mắt chúng tôi chạm tới biển là cô lại lăn
                              đùng ra đất, mắt trợn ngược lên, miệng cứng lại”. Dung, tên cô gái, chỉ ở Paulo Bidong bốn mươi lăm ngày, thay vì ở gần hàng năm như những thuyền nhân khác. Cô được một tổ chức thiện nguyện bảo lãnh đưa đi chữa bệnh.
                              Ông Nguyễn Văn Mai317 kể: “Trong thập niên 1980, tôi bay đến các trại tị nạn nhiều lần và chứng kiến hàng ngàn câu chuyện đau lòng. Ở một trại tị nạn ở Thái Lan, tôi gặp một phụ nữ bị hải tặc cưỡng hiếp nhiều lần, khi được Hội Chữ thập đỏ giúp chữa trị, những vết thương của chị đã mưng mủ. Mùi hôi thối lựng một góc lán. Các bác sỹ còn phát hiện ra là chị bị dính thai. Thai đôi và không bình thường. Theo các bác sỹ thì giữa các ngón tay của hai đứa trẻ có các màng dính, họ khuyên nên bỏ. Người chồng là một nông dân chất phác, đã có bốn đứa con, nói: đứa nhỏ này không có tội, ông trời định cho nó cái nghiệp ở trong vợ tôi thì không có lí do gì để tôi phá”. Ông Mai kể tiếp: “Không ai có thể ngờ người chồng đã quyết định như thế. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc đã cầm mã tấu bắt anh và các con đứng xem”. Không ai biết chắc có bao nhiêu nạn nhân của hải tặc Thái Lan trong những ngày tháng đó. Cho đến ngày 16-4-1989, tại vùng biển Malaysia, một thuyền chở 130 người tị nạn vẫn bị hải tặc tấn công. Theo Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, sau khi hãm hiếp phụ nữ, hải tặc đã phóng lửa đốt tàu, chỉ có một người sống sót trên chuyến vượt biên xấu số đó318.
                              Tại Hội nghị Quốc tế lần II về người Tị nạn Đông Dương, tổ chức trong hai ngày 13 và 14-6-1989, UNHCR cho biết: Chỉ trong vòng từ cuối năm 1988 cho đến tháng 6-1989 đã có hai mươi tám tàu cùng 590 thuyền nhân được ghi nhận là mất tích319.
                              Theo số liệu của UNHCR, con số thuyền nhân Việt Nam đã từng cập bến các quốc gia lên đến gần một triệu người: Australia 1.750 người; Macau 7.128 người; Singapore 32.000 người; Philipines 51.722 người; Thái Lan 117.321 người; Indonesia 121.708 người; Hong Kong 195.833 người; Malaysia 254.495 người; một số không nhiều lắm cũng dừng chân ở Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn320… Nhưng, biển mênh mông, những gì thống kê được chưa phải là toàn bộ sự thật.
                              Nhiều thuyền nhân còn nhớ, tại trại Palawan, Philippines, có chiếc thuyền gỗ được đặt trước cửa văn phòng Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc. Khi chiếc ghe này bị tấp vào bờ, bên cạnh những xác chết trương phình, người ta thấy chỉ còn một phụ nữ mang thai sắp đến ngày sinh. Không ai hiểu bởi phép mầu nào, bà mẹ này cho đến lúc ấy vẫn còn thoi thóp. Bà đã sống sót cho đến khi sanh hạ đứa bé và kịp cho biết, con thuyền khi khởi hành có tất cả năm mươi người. Không phải chuyến vượt biên nào cũng có người sống sót để nói đến số phận của những nạn nhân còn lại. Vĩnh viễn không ai biết có bao nhiêu người Việt Nam vượt biên trong giai đoạn từ 1975 đến đầu thập niên 1990 đã bỏ mình trên biển, bao nhiêu con tàu đã bị biển nhận chìm, bao nhiêu con tàu đã bị hải tặc cướp và giết hết, bao nhiêu phụ nữ và trẻ em đã bị chúng hãm hiếp.
                              Lịch sử thuyền nhân Việt Nam bắt đầu khép lại từ năm 1996, khi Liên Hiệp Quốc quyết định đóng cửa các trại tị nạn trong khu vực và khi cuộc sống trong nước bắt đầu dễ thở hơn, chấm dứt một bi kịch kéo dài suốt hai thập niên trên biển.
                              Chú thích
                              292 Phóng viên báo Người Việt, định cư ở Orange County, California, Mỹ.
                              293 Tin Sáng, 28-8-1975.
                              294 Sài Gòn Giải Phóng, 28-8-1975.
                              295 Bản lược ghi ý kiến của ông Võ Văn Kiệt, tài liệu lưu trữ riêng của ông Kiệt.
                              296 Bruce Grant, 1979.
                              297 Thuộc phái Khmer Tự do trong Chính phủ 3 phái Campuchia do Sihanouk cầm đầu kháng chiến chống Việt Nam.
                              298 Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 8-3-2005.
                              299 Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn du học ở Mỹ từ năm 1959, học Lý-Hóa ở Delaware, lấy Ph.D. năm 1962 rồi về Việt Nam dạy học. Tuy nhiên Hội đồng Quốc gia đã xét phong cho ông giáo sư, học hàm mà ông đã được chế độ cũ công nhận từ năm 1967.
                              300 Trụ sở của Phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ủy ban Liên hợp Bốn bên thi hành Hiệp định Paris 1973.
                              301 Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Tháng 8 giá bột ngọt đang ổn định, bỗng tăng vọt lên 4.000 một ký rồi 5.000 đồng và trong vài ngày đã lên 8.000… Mặc dù chánh quyền đã lên tiếng cho biết bột ngọt không thiếu, một số đồng bào cứ tranh nhau mua. Thậm chí, có người không có sẵn tiền vẫn vay mượn để mua thật nhiều ở giá 15.000đ một ký để mong kiếm lời khi giá tăng cao hơn nữa; để rồi phải than vãn thở dài khi giá hạ nhanh xuống 5.000đ, rồi ổn định lại ở mức 3.800đ một ký, khi chánh quyền tung bột ngọt ra bán. Sau vụ bột ngọt lại đến muối .v.v… Thật ra thì trong tình thế mới, nhiều mặt hàng, nhất là những hàng không phải là nhu yếu và lại là hàng nhập cảng, sẽ phải tăng giá vì chúng ta còn ở trong giai đoạn phục hồi sau chiến tranh và cũng không thể tiếp tục cho nhập cảng ồ ạt như lúc trước được” (Tin Sáng, 9-9-1975).
                              302 Tin Sáng, 9-9-1975.
                              303 Vượt biên ngày 19-10-1977, đang định cư ở Houston, Taxes, Mỹ.
                              304 Đổi tên theo yêu cầu của nhân chứng.
                              305 Họa sỹ Chóe kể: Khi nghe tin Huỳnh Bá Thành đột ngột mất, ông đã bỏ buổi cà phê sáng với bạn bè ở 81 Trần Quốc Thảo, về nhà kêu vợ chuẩn bị xe rồi hai vợ chồng đi lên Đà Lạt. Cho đến nhiều năm về sau, bà Kim Loan cũng không hiểu vì sao mình được chồng chăm sóc bất ngờ như thế. Chóe chỉ giải thích với một vài người bạn thật tâm giao: “Sẽ là không thật lòng nếu mình đi đến đám ma viếng Huỳnh Bá Thành”.
                              306 Tiền thân tờ báo Người Lao Động.
                              307 Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân. Bài thơ có tựa là Bài Học Đầu Cho Con, in lần đầu, năm 1986, trên báo Khăn Quàng Đỏ, bị cắt đi một số đoạn. Năm 1991, tác giả cho in lại bản đầy đủ trong tập thơ Cỏ Hoa Cần Gặp, Nhà Xuất bản Thuận hóa. Bài Học Đầu Cho Con được nhà thơ Đỗ Trung Quân viết như một món quà tặng thôi nôi cho con gái đầu lòng của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh - cháu Nguyễn Nhật Quỳnh Anh, sinh 1985. Cũng trong năm 1986, khi phổ nhạc, nhạc sỹ Giáp Văn Thạch đã đổi tựa thành Quê Hương. Bài hát được hát trở nên có vai trò chính trị trong giai đoạn đó, nhất là khi báo Khăn Quàng Đỏ thêm vào sau câu kết của Đỗ Trung Quân: “Quê hương nếu ai không nhớ…” câu “Sẽ không lớn nổi thành người”.
                              308 Lúc bấy giờ là phó tổng biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
                              309 Bộ trưởng Nội vụ 1987-1991.
                              310 Tên thường gọi của ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách Khai Trí.
                              311 Mãi tới năm 1989, ông Trần Văn Ngọt mới vượt biên thành công, hiện định cư tại Houston, Texas.
                              312 Hiện đinh cư tại Đức.
                              313 Hiện là giáo sư tại Đại học SUNY-Buffalo, tiểu bang New York (Mỹ).
                              314 Anh Vinh vượt biên đến Hong Kong năm 1989, hiện định cư tại Florida, Mỹ.
                              315 Từng làm việc tại bệnh viện Bình Dân, đang định cư ở Houston, Texas, Mỹ.
                              316 Hiện định cư tại Orange County, California (Mỹ).
                              317 Một thuyền nhân vượt biên từ Nha Trang từ năm 1975, hiện định cư tại Chicago.
                              318 Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 23-7-1989.
                              319 Cho đến đầu thập niên 1990, người dân Việt Nam vẫn tiếp tục vượt biên trong khi bắt đầu đã có những người vượt biên trước đó trở về thăm nhà. Chính sự phong lưu của Việt Kiều được trọng vọng bởi chính quyền và xã hội lại nung nấu thêm quyết tâm ra đi của nhiều người Việt Nam, nhất là những người từ các địa phương phía Bắc. Lúc ấy, chính sách đổi mới chưa đủ thời gian gây ảnh hưởng để giữ chân người dân. Đầu thập niên 1990, Liên Hiệp Quốc đưa ra chương trình “tự nguyện hồi hương”, theo đó, mỗi thuyền nhân đồng ý quay trở lại Việt Nam nhận được 360 USD tiền trợ cấp. Chương trình này được nói là đã kích thích làn sóng vượt biên vì nếu không được đến một nước thứ ba định cư, một gia đình 4-5 người có thể nhận được một khoản tiền không nhỏ để hồi hương.
                              320 Theo UNHCR: Những người vượt biên lần lượt đã định cư ở các quốc gia: Australia 110.996 người; Canada 103.053 người; Pháp 27.071 người; Đức 16.848 người; Netherlands 7.565 người. Anh quốc 19.355 người; Mỹ 424.590 người; các quốc gia khác hơn 55.000 người.

                              Comment

                              Working...
                              X