Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Quê Nam Một Cõi

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Quê Nam Một Cõi

    Hồ Trường An

    Chương Một

    Hồ Biểu Chánh, ánh hoàng hôn cựu trào qua
    truyện dài "Tơ Hồng Vương Vấn"




    Nhắc tới Hồ Biểu Chánh, chúng ta nghĩ tới một tiểu thuyết gia theo khuynh hướng "văn dĩ tải đạo", lấy việc răn đời làm gốc. Nhưng đây cũng là kẻ viết theo khuynh hướng tâm lý ái tình, tuy nhiên đó là thứ tâm lý đóng khung trong lễ giáo, chết cứng và hóa thạch trong luân lý Khổng Mạnh, không thể vượt thoát ra một khung trời cao rộng gồm thiên hình vạn trạng nhân sinh quan phóng khoáng hơn và cởi mở hơn.

    Hồ Biểu Chánh, bậc tiền bối của các cây bút Nam Kỳ chúng ta khởi nghiệp văn chuơng vào những năm cuối của thập niện 20 (của thế kỷ20). Đuờng lối viết lách của tiên sinh trước sao sau vậy, qua tới giữa thập niên 50 vẫn không thay đổi một mảy lông sợi tóc nào trong vấn đề nhân sinh quan, lý tưởng, trong cuộc sống phồn tạp và tiến bộ về văn hóa, tư tưởng, trong đường lối giáo dục của mọi tầng lớp hậu sinh của cụ.

    Chúng ta phải tự hỏi, sau bao nhiêu vận nước nổi trôi, trải qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu thế hệ, vậy mà văn chương của Hồ Biểu Chánh vẫn còn được nhiều lớp độc giả hậu sinh chiếu cố? Có phải chăng tài hoa của cụ vượt dòng đào thải của thời gian? Có phải nó là tiếng đồng vọng lảnh lót và vang xa của cái thời đại mà cụ đã sống, đã cầm bút?

    Thật khó mà trả lời. Như chúng ta cũng thừa biết cái cấu trúc và cách dựng truyện của Hồ tiền bối cẩu thả, cách diễn tả của cụ thật bộc trực nếu không bảo là luông tuồng. Cụ ít khi viết văn, ít khi tả cảnh tả người chu đáo, thường là vài nét khái quát. Cũng như nhà văn Lê văn Trương, cụ hay thuyết lý, ưa trình bày cái nhân sinh quan của mình. Nhưng nhân sinh quan của cụ lâu lâu mới le lói một vài nét đặc thù của mình.

    Tuy nhiên, khi đọc tiểu thuyết của cụ, cớ sao người thưởng ngoạn bị cụ thôi miên hồi nào không hay. Cái chân tình, cái nhiệt thành của tình ý cụ lẫn cái nồng nàn của của bút pháp cụ quyến rũ người đọc một cách dị kỳ; cái thô vụng của cụ trở thành đậm đà tuyệt vời, cái bộc trực, cái xí xọn trong những lời đối thoại của từng nhân vật trở nên duyên dáng mặn mà khó tả.

    Cái ngôn ngữ dí dỏm, chót chét trong văn phong của Hồ Biểu Chánh thường làm cho chúng ta bật cười một cách thống khoái, dù cụ có cằn nhằn chì chiết nhân tình thế thái đi nữa. Chúng ta cảm nhận ngay sự thành khẩn của cụ. Chúng ta vụt cảm thấy tận đáy sâu của ngôn ngữ cụ, tận cái thiết tha của tình ý cụ có một hấp lực kỳ đặc, không dễ gì tìm gặp ở bút pháp kẻ khác:

    Thợ trời thiệt là khéo léo, hóa sanh muôn loài, không bỏ sót loài nào, đã sanh con voi to, mà còn sanh con muỗi nhỏ, đã sanh con cọp để giết người, mà còn sanh bò heo để nuôi người. Mà thợ trời cũng thiệt trớ trêu, mỗi loài lại sanh nhiều thứ, hình dáng, màu sắc tánh chất đều không giống nhau, sanh rắn độc mà cũng sanh rắn hiền, sanh hoa thơm mà cũng sanh hoa thúi.

    Sanh loài người, Tạo hóa cho có mặt, có tay, có chưn, có gan, có ruột như nhau, mà cắc cớ sơn cho nhiều màu da, người thì trắng, kẻ thì vàng, người thì đen, kẻ thì đỏ. Mà dầu đồng một màu da với nhau đi nữa, tâm tánh cũng bất đồng, kẻ hiền người dữ, kẻ ngay người gian, kẻ dại người khôn, kẻ sáng nguời tối.

    Có một điểm, loài người dù đen, đỏ, trắng, vàng, dầu dữ, hiền, khôn, dại, phần nhiều đều giống nhau. Ấy là thói say mê tiền bạc, say mê đến nỗi không kể tội lỗi, không biết thúi hôi, không sợ chê khen, không màng phải quấy, áp nhau bu lại mà giựt dành, nếu giựt cho được rồi chết cũng vui lòng, mà nếu giựt không được lại phải chết cũng không sợ.

    (Tơ Hồng Vương Vấn, các trang 148, 149)

    Viết theo văn dĩ tải đạo, bên Pháp đã có Delly, bên Anh đã có nữ sĩ Barbarra Cartland; họ ăn khách kinh khủng. Delly là bút hiệu của bà Jeanne Petitjean de La Rosière (sanh tại Avignon năm 1875, chết tại Versailles năm 1947) và ông Fréderic Petitjean de La Rosière (sanh tại Vannes năm 1875 chết tại Versailles năm 1949).

    Cả hai sáng tác lối 30 tác phẩm. Còn Barbarra Cartland viết lối 400 quyển tiểu thuyết. Nhưng đọc tác phẩm của họ, độc giả chỉ tìm được dăm ba tiếng đồng hồ để giải trí, rồi quên luôn những thú vị của mình đã trang trải trên những trang sách. Cặp Delly thường lấy tinh thần Bác Ái và Bao Dung của đạo Thiên Chúa làm nền tảng của câu chuyện, để đánh bóng thêm cho các nhân vật hiền lương mà Cộng Sản gọi là các nhân vật chánh diện thêm phần lộng lẫy.

    Nhưng đa số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh thì không như thế. Ngoài chuyện tôn vinh quan niệm tích ác phùng ác, tích thiện phùng thiện, chúng còn có nhiều điều gì khác làm độc giả sống lại một đoạn đời quá khứ của mình hay giúp độc giả mường tượng cách sống của những lớp người thuộc những thế hệ trước thế hệ mình.


    * * *


    "Tơ Hồng Vương Vấn" là một cuốn tiểu thuyết thấm nhuần đạo Phật lấy chuyện luân hồi quả báo làm căn bản để triển khai cái sở trường văn dĩ tải đạo của Hồ Biểu Chánh. Vai chánh là cậu học sinh Phan Vĩnh Xuân sinh vào thời Nho mạt nơi chợ Giồng Ông Huê (Gò Công). Cậu là họ trò của ông Giáo Huân, một thầy đồ Nho khả kính.

    Cậu được sư phụ mình cho biết vận nước biến suy, dù phải chuyển qua Tây học để gọi là kiếm cơm nuôi mẹ, dù gì thì dù cũng phải giữ tấm lòng chính trực, liêm khiết. Nước mất nhà tan, ham chi hư danh quyền tước để hãnh diện với thiên hạ. Bạn học của cậu là cô Lý Thị Tư, được thầy ban cho cái biệt danh Cúc Hương, vốn là gái chánh trực, lại thông minh, xinh đẹp.

    Vĩnh Xuân và Cúc Hương yêu nhau, lén lút tư ước với nhau. Cả hai hẹn hò gặp nhau ở nhà chị Hai Tỷ, một phụ nữ Việt kết hôn với tài phú Sấm, người Trung Hoa. Ngờ đâu cha mẹ Cúc Hương tham giàu ép buộc Cúc Hương lấy chàng công tử bột xuất thân gia đình giàu có ở hương thôn. Cúc Hương quyết tâm bỏ sinh mệnh để giữ tròn đạo nghĩa. Truớc ngày vu quy, cô giao 50 đồng bạc cho Hai Tỷ, bảo rằng với số tiền này , cộng với tiền trợ cấp của chánh phủ, Vĩnh Xuân có thể ăn học trong vòng 3 năm cho đến khi thành tài.

    Cô cũng gửi tấm lụa có viết chữ nho "Xả Thân Nhi Thủ Nghĩa" (bỏ thân để giữ tròn đạo nghĩa) cho chàng để chàng nhìn bút tích mà nhớ tới cô. Cô cũng không quên gửi một xấp lãnh và một xấp xuyến cho bà Hương văn Thanh , mẹ của Vĩnh Xuân may quần áo, gọi là quà tặng của cô dâu ...hụt. Cô dặn Hai Tỷ phải khuyên Vĩnh Xuân chí thú ăn học, để cô được toại nguyện. Rồi cô uống nha phiến pha trộn với dấm thanh để tự tử.

    Vĩnh Xuân tuy đau khổ nhưng nhờ lời khuyên của ông Giáo Huân và Hai Tỷ nên theo lời dặn của Cúc Hương chí thú ăn học, đậu bằng Thành Chung, rồi thi vô ngành ký lục cũng đậu luôn. Chàng về nhà vào ngày 25 tháng chạp tức là ngày 23 tháng Janvier. Bữa sau chàng đi viếng mộ Cúc Hương thì vào quá 12 giờ khuya, chàng nằm chiêm bao thấy Cúc Hương từ giã chàng đi đầu thai và cho chàng biết kiếp sau nàng sẽ được tái ngộ cùng chàng, để kết hôn với chàng.

    Vĩnh Xuân được thuyên chuyển qua Mỹ Tho làm việc ở Tòa Bố(tức là Tòa Hành Chánh về sau). Chàng kết thân với ông Kinh Lịch Lương, đuợc ông dạy đàn, dạy làm thơ để rồi cả hai trở thành đôi bạn vong niên thân thiết. Chàng từng thố lộ với bà Kinh như sau:

    - Thưa bà, vì nghèo cực nên cực chẳng đã tôi phải theo tân học đặng làm việc lãnh lương nuôi mẹ. Tôi muốn ngồi yên trong một góc bàn mà biên chép, chờ cuối tháng lãnh lương ăn vậy. Tôi thưa thiệt với ông bà, tôi không ham danh lợi, ham lợi, nhứt là danh không chánh đáng và thứ lợi không hạp nữa. (trang 187)

    Bà Kinh rất thuơng mến Vĩnh Xuân cố tình làm mai cho chàng cưới cô Cẩm Nhung, con gái út của Bà Chủ Thiệu ở Chợ Cũ (bên kia Cầu Quây). Vi sợ mẹ buồn nên chàng phải cưới Cẩm Nhung, một cô gái xuất thân từ gia đình giàu có, lại có bóng sắc chói chang. Đây là một cuộc hôn nhân miễn cưỡng vì chàng không sao quên được Cúc Hương. Còn Cẩm Nhung không quen làm vợ và làm dâu trong một gia đnh thanh bạch mà cách ăn ở sinh sống thiếu tiện nghi, nên cô đâm ra thất vọng.

    Lại nữa, gặp ông chồng thiếu nồng nàn, tình tứ nên cô thường về ở bên nhà mẹ, rồi sanh tâm ngoại tình, có thai với tình nhân. Vĩnh Xuân không muốn làm cho gia đình bên vợ mang tiếng xấu vì dầu sao Cẩm Nhung cũng đã sanh cho chàng một đứa con trai. Cho nên chàng khuyên Ba Khai, người anh trưỏng của vợ buộc Cẩm Nhung đút đơn vô tòa án xin ly dị, như thế cái tội ngoại tình của nàng sẽ được giấu nhẹm. Bà Chủ Thiệu và Ba Khai cảm cái đức quân tử của chàng nên âm thầm giúp đỡ chàng, vẫn xem chàng như con rể trong gia đình họ.

    Chàng vẫn gọi bà Chủ Thiệu bằng má trước sao sau vậy. Bà Chủ Thiệu và Ba Khai âm thầm giúp đỡ cách sống cho chàng được tiện nghi. Họ trừng phạt Cẩm Nhung, cấm không cho nàng ra khỏi nhà, cấm không cho nàng léo hánh lên nhà trên (tức là trung đường), cấm không cho nàng mặc quần hàng áo lụa, phải mặc vải bô thô xấu.

    Nhờ giỏi tiếng Pháp, tại Tòa Bố chỉ một thời gian ngắn Vĩnh Xuân làm thông ngôn cho quan Phó Tham Biện người Pháp, rồi làm thông ngôn cho quan Chánh Tham Biện (về sau gọi là Tỉnh Trưởng) cũng người Pháp. Rồi chàng thi đậu trong cuộc thi tuyển tri huyện. Trong bữa tiệc ăn mừng Vĩnh Xuân thành công trên đường hoạn lộ do bà Chủ Thiệu khoản đãi, Vĩnh Xuân xin bà và Ba Khai rộng dung hình phạt cho Cẩm Nhung. Chàng nhận lỗi rằng chính cái cách cư xử dung túng nhưng thiếu nhiệt tình của mình đối với vợ đã xô đẩy Cẩm Nhung vào con đường quấy.

    Sau đó ít lâu, Vĩnh Xuân được vinh thăng tri phủ phải qua Cần Thơ nhận nhiệm sở mới. Mọi việc sắp đặt chỗ ở mới cho quan huyện Vĩnh Xuân do chính Ba Khai đảm nhiệm. Trước khi qau Cần Thơ, bà Hương Văn Thanh và Vĩnh Tân (con của Vĩnh Xuân)có đến Chợ Cũ từ giã bà Chủ Thiệu. Tại đây, Cẩm Nhung ra mặt nhìn con của mình. Thấy nàng dâu cũ của mình hương phai phấn lợt vì bao năm bị gia pháp trừng phạt lại thấy cô bi lụy thảm thiết, bà Hương Văn Thanh an ủi Cẩm Nhung hứa sẽ dạy dỗ Vĩnh Tân không quên công sinh thành của mẹ và hứa hễ có dịp là cho Vĩnh Tân về Chợ Cũ thăm mẹ và bên ngoại.

    Năm đó quan Phủ Vĩnh Xuân lúc đó đã 40 tuổi, trong buổi nhàn du tình cờ ông gặp cô Hưởng, con gái ông Hương Nhì Tồn từ hình dung tiếng nói đến dáng đi cử chỉ đều giống hệt Cúc Hương. Ông dò la biết được cô Hưởng sanh vào lối 3 giờ khuya, đúng là hai giờ sau lúc nửa đêm Cúc Hương từ giã ông để đi đầu thai.

    Tin chắc cô Hưởng là hậu kiếp của Cúc Hương nên ông xin cưới cô. Và muốn cho chắc ăn điều nhận nhận xét của mình, sau đám cưới chàng đưa vợ về quê hương của mình để xem nàng có nhớ được gì không? Quả nhiên vừa tới Chợ Giồng thì người vợ trẻ của quan Phủ Vĩnh Xuân nhớ hết những người thân trong quá khứ trong đó có vợ chồng ông Giáo Huân và chị Hai Tỷ.

    Trong truyện dài "Tơ Hồng Vương Vấn", người xấu (mà bọn Cộng Sản gọi là nhân vật phản diện) chỉ có vợ chồng Hai Mỹ (song thân của Cúc Hương). Họ vô tình giết con gái mình vì họ chuộng thói tham phú phụ bần. Còn ngoài ra người tốt thì đông đảo hùng hậu. Ngoài mẹ con của bà Hương Văn Thanh, còn có Cúc Hương, vợ chồng ông Kinh Lịch Lương, bà Chủ Thiệu, Ba Khai, bà Giáo Huân, chị Hai Tỷ đều là những kẻ mến đức chuộng tài. Họ mở tấm lòng hào hiệp đối đãi với Vĩnh Xuân.

    Còn ông Giáo Huân thì ra công rèn luyện đức dục cho Vĩnh Xuân, vun quén thiên lương và đức độ của chàng được mãi mãi sáng rực rỡ như gương. Cẩm Nhung cũng không phải là người xấu. Nếu cô sống vào thập niên 60 trở về sau thì cô sẽ đuợc người đời không cho cô là tội nhân mà là một nạn nhân của nền luân lý cổ quá cay nghiệt khắc khe.

    Luân lý ấy dìm cô vào mặc cảm tội lỗi làm cô nghĩ rằng mình có tội nặng, chứ thật ra chẳng những tội cô quá nhẹ mà cô còn đáng cho chúng ta ai hoài thương xót. Rất may, dù bị ảnh hưởng luân lý của Nho Giáo, nhưng Vĩnh Xuân cảm thông được nỗi éo le của vợ nên xin mẹ vợ và anh vợ nương tay trừng phạt cho vợ.

    Chuyện duyên nợ theo vòng luân hồi quả báo không phải chỉ có Hồ Biểu Chánh tiên sinh là kẻ tiền phong xướng ra trong văn chương. Vào thuở tiền chiến, trong hai quyển "Kho Vàng Sầm Sơn" và "Đồng Tiền Vạn Lịch", nhà văn Tchya đã viết cuộc tình của Nguyễn Anh Tề, con trai của Nguyễn Hữu Chỉnh, và Quận Chúa Võ An Trinh, con gái Võ văn Nhậm vào thời Tây Sơn dựng nghiệp.

    Cả hai trắc trở việc hôn nhân nên cùng sống thác với tình, hẹn kiếp sau sẽ thực hành cuộc tình duyên dang dở. Câu chuyện đó được gói ghém trong quyển "Kho Vàng Sầm Sơn". Khi qua quyển "Đồng Tiền Vạn Lich" thì Nguyễn Anh Tế thác sinh vao dòng dõi Nguyễn Hữu Chỉnh trở thành Nguyễn Hữu Tề, còn Quận Chúa Võ An Trinh đầu thai vào dòng họ Võ Văn Nhậm trở thành Võ Ái Trinh.

    Sau bao phen xung đột để chiếm đồng tiền Vạn Lịch mà họ cho rằng đó là cái chìa khóa mở kho vàng mà Nguyễn Anh Tề và Võ An Trinh chôn giấu ở Sầm Sơn. Nhưng họ chỉ tổ hoài công thôi. Họ không tìm được kho tàng mà tìm được dấu vết tình yêu giữa đôi bên với nhau từ thuở tiền kiếp.

    Nữ sĩ ngươi Anh Elizabeth Goudge có viết trong quyển "Tiếng Gọi Của Quá Khứ" ("L'Appel du Passé") cặp tình nhân dang dở thời tiền kiếp chết đi. Qua kiếp tái sinh chàng vẽ bức họa phong cảnh lâu đài mà cả hai đã từng sống. Nhờ vậy, hậu thân của nàng được phục hồi ký ức, nhớ lại cố nhân và cuộc sống xa xưa bên kia nẻo luân hồi để tìm đến chàng.

    Tin hay không tin thuyết luân hồi và thuyết thác sinh, nhưng nó cũng đã đóng góp cho văn nghiệp nữ sĩ Elizabeth Goudge một tác phẩm diễm lệ và cực kỳ thơ mộng. Nó đã giúp cho Tchya và Hồ Biểu Chánh thuyết phục một số độc giả suy nghĩ về cái thần bí của bánh xe luân hồi di chuyển không ngừng nghỉ trên vạn pháp và trên các hiện hữu.


    * * *


    Hồ Biểu Chánh viết tiểu thuyết theo lối thuyết thoại (la narration). Như đã nói, cụ kể chuyện tuồn tuột, ngon ơ, ít khi dùng óc quan sát để tả cảnh vật, tả ngoại hình các nhân vật. Thường là những nét phác thảo sơ sài, khái quát.

    Đây là cảnh đi đò dọc từ chợ Mỹ Tho qua chợ Giồng Ông Huê (thuộc tỉnh Gò Công):

    Đò lui. Hành khách chỉ có bốn người nên rộng rãi ai cũng nằm được. Gặp nước xuôi lại có gió xuôi bởi vậy ra khỏi vàm rồi trạo phu trương buồm mà chạy, khỏi chèo. Mặt trời vừa trịch bóng, đò đã tới Vàm Giồng, gặp nước lớn đi vô vàm, đi xuôi nữa. Chủ đò đoán trước bữa nay về tới chợ Giồng sớm lắm, chừng nửa buổi chiều.

    Vĩnh Xuân nghe nói vậy bèn ngồi dậy. Bây giờ đò vô rạch Vàm Giồng, hai bên cây cối tập rạp, án gió không bọc buồm lên được. Trạo phu hạ buồm rồi gay chèo mà chèo, nhờ nước xuôi nên ghe đi lẹ lắm. (trang 93)

    Đây là cảnh quan phủ Vĩnh Xuân đi chơi chợ Bình Thủy tình cờ gặp cô Hưởng (hậu thân của Cúc Hương) nên ông heo dõi cô thiếu nữ kia đến cầu Rạch Cam:

    ... Vĩnh Xuân vẫn theo coi nhà cô ở chỗ nào. Đi chừng một trăm thước thì tới một thớt vườn không lớn nhưng sạch sẽ dựa lộ, có hàng rào bằng cây trà, trong sân có trồng hoa, rồi sau sân ấy có một nhà lá ba căn xông, vách ván, cửa ván, nền cao, hai bên nhà dừa với mận trồng sum suê, còn phía sau thì cau chuối tịch mịch. (trang 406)

    Những bối cảnh do tác giả dựng lên để lót nền cho cuộc tình sử giữa Vĩnh Xuân vá Cúc Hương cũng không được miêu tả chu đáo. Vẫn là nghệ thuật thuyết thoại theo lối văn chương trong các quyển địa dư, trong các quyển địa phương chí. Nhưng chính ở những dòng kể chuyện ấy, độc giả cũng có thể mường tượng những nét tạo hình ẩn trong cuộc bút trình của tác giả:

    Rạch Vàm Giồng bên Cửa Tiểu, nhờ có kinh đào đi ngang qua chợ Giồng rồi thông với rạch Gò Công bên sông Bạo Ngược là sông Vàm Cỏ, bởi vậy địa thế giúp cho chợ Giồng biến thành một thị trường lúa gạo trong hạt Gò Công. Ở đây có nhiều người cất vựa trử lúa, trử gạo, từ ngoài đồng đem vô bán. Họ mua để bán lại cho những lúa gạo chở lên Chợ Lớn mà bán ngay cho mấy nhà máy hoặc cho mấy tàu khậu làm trung gian cho nhà máy.

    Hồi đó, hễ đến mùa gặt lúa, thì chợ Giồng phồn thạnh lắm. Dưới kinh, ghe mua lúa đậu chật. Còn trên bờ, từ nửa buổi chiều cho tới canh một, ở ngoài đồng họ gánh gạo vô bán kể đến máy trăm người, mỗi xóm đi chung một tốp, lại có năm ba xe bò chở lúa đem vô nữa. Chợ lúa gạo nầy buổi chiều nhóm tại dốc cầu sắt. Đờn bà con gái dọn ngồi bên đường mà bán dầu lửa, nước mắm, hộp quẹt, trà tàu, cá khô, bánh trái, thúng rỗ, nón guốc, nia đệm, nghĩa là bán đủ thứ cần dùng ở chốn thôn quê. (trang 37)

    Hồ Biểu Chánh ưa bàn luận nhân tình thế thái theo một bình diện phẳng, tức là dựa vào cái chung chung của cuộc sống rồi triển khai rộng ra, ít khi đào sâu vào những gì mà cụ tư duy.

    Tự căn bản, "Tơ Hồng Vương Ván" chỉ là một pho diễm tình trà trộn bóng dáng tâm linh huyền hoặc. Cái giá trị văn chương của nó chẳng có bao nhiêu, nhưng bối cảnh lịch sử của nó làm chúng ta phải lưu ý. Đó là giai đoạn giao thoa giữa nền Nho mạt và văn hóa Tây phương sau khi Pháp thuộc-địa-hóa đất Nam Kỳ và đặt nền Bảo Hộ lên Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

    Hồ Biêu Chánh là con bậc thâm nho. Lúc nhỏ, cụ theo Nho học, nhưng sau đó cụ chuyển qua Tây học, rồi ra làm việc cho chánh phủ Thuộc địa. Do đó, cụ bị các bậc cựu nho eo sèo mai mỉa. Chính cụ cũng áy náy và ngờ ngợ hành xử và cuộc mưu sinh của mình có điều gì không ổn. Chính ở quyển "Tơ Hồng Vương Vấn" cụ mới có thể giải bày tâm sự và những điều khoắc khoải của mình:

    Thế cuộc vần xoay, hết suy tới thạnh, nhơn quần tấn hóa, đổi cựu ra tân. Đó là định luật dĩ nhiên, dầu muốn dầu không ai ai cũng phải chịu, không làm sao sửa được.

    Nhớ lại mà coi sau khi đánh phá đại đồn Chí Hòa rồi, binh đội Pháp lần lần xâm chiếm tất cả sáu tỉnh của đất Gia Định. Từ hạng nông phu cho tới học thức thảy đều tức tửi mà quay đầu về Phú Xuân, thì triều đình dường như im lìm bỏ xụi; còn chong mắt ngó vào đám anh hùng nghĩa sĩ thì các cụ Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân lần lượt thất bại tiêu tan.

    Đứng trước ngả ba đường như vậy đó, phải đi ngả nào? Nếu cương quyết giữ

    nền nếp cũ thì lấy chi mà nương náu, còn nếu đổi thái độ cho xuôi dòng thì lỗi với tổ tiên, mà thẹn cùng cây cỏ. Trong lúc dân trí phân vân như vậy, nhà cầm quyền Php khôn ngoan, nên chăm lo gây thiện cảm với nhân dân. Người ta biết thâu phục đất đai thì dễ, nhứt là gặp xứ không có binh đội tổ chức hoàn bị; còn như thâu phục nhơn tâm là điều khó khăn, phải hay đổi văn hóa, phải un đúc tâm hồn, mấy viẹc đó phải dầy công phu, phải nhiều thế kỷ thì mới làm nên được. (các trang 7, 8)

    Xin nghe cuộc đối đáp giữa quan Phủ Vĩnh Xuân và thầy Cai Tổng, tại một khách sạn tỉnh Cần Thơ:

    - ...Tôi nghe nói thuở xưa quan thanh liêm đi phó nhậm chỉ có một cây đờn cầm với một con hạc thế mà tới đâu cũng bố đức cho dân lạc nghiệp an cư. Đời nay không có hạc thì quan lớn đi phó nhậm với một cây đờn, tôi tưởng cũng đủ rưới âm đức cho nhơn dân xứ Cần Thơ nhuần gội.

    - Thầy Cai đem tôi mà sánh với quan đời xưa sao được. Nước đã mất chủ quyền, dân đã thành tôi mọi. Tôi làm quan, song cũng là tay sai của người ta, lịnh trên dạy phải làm sao tôi phải làm như vậy. Tôi cũng như anh đầu bếp nấu canh. Chủ nhà đưa mắm muối biểu nêm cho thiệt mặn. Tôi tráo trở làm cho lạt bớt đặng để ăn. Đó cũng đã đủ nát trí khôn rồi. Khỏi bị quấy rầy, bị quở phạt ấy là may, mong gì làm cho ngươi ăn khen canh ngon ngọt được. (trang 393)

    Cúc Hương và Vĩnh Xuân tuy học theo đàng cựu dở dang nhưng cũng đã từng học các quyển "Minh Tâm Bửu Giám", Ấu Học Tầm Nguyên", "Tứ Thơ Thể Chú", "Đại Học",

    "Trung Dung", "Luận Ngữ"... Vĩnh Xuân có thể giải nghĩa rành rọt sách Mạnh Tử cho Cúc Hương nghe. Nhưng vì nhà nghèo, nếu đeo đuổi theo cái học của thời mạt điệp của ngành Nho học thì làm sao chàng kiếm tiền nuôi mẹ khi mẹ già yếu? Chàng chuyển sang Tân học. Vào thuở đó tại tỉnh Gò Công tình trạng Tân học ở bậc tiểu học như sau:

    Trong khoảng đó, người ta nhận thấy tại Châu Thành Gò Công nhà nước có một trường sơ đẳng học, gồm năm lớp có một quan Đốc học người Pháp với năm giáo viên người Việt. Từ lớp nhứt đến lớp tư thì dạy Pháp văn nhiều hơn Việt văn, còn lớp năm là lớp chót thì giao cho một thầy nho biết chữ Quốc ngữ dạy trẻ đồng ấu học vần xuôi, vần ngược, rồi tập đọc, tập viêt quốc văn.

    Học trò cả thảy chừng một trăm rưỡi, lớp chót được lối năm mươi trò, còn mấy lớp trên chung vài ba chục, tới lớp nhứt chỉ còn mười đến mười lăm là nhiều. Lại học trò toàn là con trai, chớ không có con gái, cha mẹ ở tại chợ, hoặc trong mấy xóm làng xung quanh cách chợ lối vài ba ngàn thước.

    Muốn lấy thêm học trò đông, lại cũng muốn Pháp ngữ được thông dụng trong mấy làng xa, Tham Biện mới mở tại bốn chợ trong bốn tổng, mỗi chợ một làng dạy Pháp văn gọi là "Trường tổng" gồm hai lớp: lớp nhỏ dạy cho biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, rồi lên lớp lớn bắt đầu dạy Pháp văn. Trong lúc nói đây, trong hạt có bốn trường tổng đặt tại bốn chợ: Rạch Giá (Đồng Sơn), Giồng Ông Huê (Vĩnh Lợi), Cửa Khâu (Tăng Hòa) và chợ Tổng Châu (Tân Niên Tây)...(các trang 10, 11)


    * * *


    Trong sự nghiệp văn chương nguy nga đồ sộ của Hồ Biểu Chánh, bút giả HTA chọn quyển "Tơ Hồng Vương Vấn" thay vi những quyển tiểu thuyết nổi tiếng lừng lẫy khác của cụ như "Nặng Gánh Cang Thường" (phóng tác theo vở bi kịch "Le Cid" của Corneille), "Ngọn Cỏ Gió Đùa" (phóng tác theo quyển "Le Misérables" của Victor Hugo), (phóng tác theo quyển "Chút Phận Linh Đinh" của Hector Malot),"Cay Đắng Mùi Đời" (phóng tác theo cuốn "Sans Famille" cũng của Hector Malot), "Kẻ Thất Chí" (phóng tác theo quyển ("Crime et Châtiment" của Dostoievski)...

    Bút giả nhận thấy "Tơ Hồng Vương Vấn" ngoài chuyện gay cấn éo le đã từng thôi miên và mê hoặc độc giả mà còn phản ảnh được một giai đoạn lịch sử, một chuyển biến gần như lột xác về phương diện văn hóa.

    Tác giả đã xắn ra một mẩu đời của mình để đưa vào tác phẩm. Tác giả lại còn xắn tim óc của mình để rải vào tác phẩm. Cái văn dĩ tải đạo của cụ có thể đã lỗi thời. Nhưng người thưởng thức có đầu óc sáng suốt, cótinh thần tìm hiểu chuyện quá vãng theo kiểu "ôn cố nhi tri tân" sẽ chấp nhận mọi cách giải bày tâm sự, hoài bảo, khuynh hướng, lý tưởng của cụ. Ngoài ra song song với tấm lòng thành khẩn của cụ, người ta còn bắt gặp cái tinh thần tồn cổ một cách khả ái của cụ, chứ họ không kinh hãi cái nệ cổ đi đến mức cuồng tính một cách ngoan cố của các bậc hủ nho khác.

    Trong quyển "Le Pavillon des Femmes" ("Ngôi Nhà Lầu Phụ Nữ"), nữ sĩ Pearl S. Buck có bàn về quyển "Kim Bình Mai". Đại ý rằng nếu ai thích tìm thú nhục cảm thì "Kim Bình Mai" là quyển dâm thư đúng nghĩa. Nhưng nếu ai muốn tìm xã hội tham nhũng thối nát dưới triều đại Nam Tống do Hoàng Đế Tống Cao Tôn trị vì thì quyển truờng giang tiểu thuyết này cũng sẽ đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của đương sự.

    Như thế, tùy theo mục đích thưởng ngoạn của kẻ đọc sách. Riêng về quyển "Tơ Hồng Vương Vấn" của Hồ Biểu Chánh, nếu ai muốn tìm thú giải trí theo thị hiếu bình dân thì đây là quyển diễm tình hấp dẫn. Còn nếu ai muốn biết xã hội Việt Nam vào buổi giao thời thì đây là quyển sách bồi bổ kiến thức cho đương sự. Có điều đáng chú ý là vào thời Pháp thuộc, Hồ tiền bối của chúng ta không dám bộc bạch tâm trạng kẻ sĩ của mình qua nhân vật Vĩnh Xuân vì cụ sợ chánh quyền Thực dân gây trở ngại cho bước tiến thủ trên hoạn lộ của cụ. Phải đợi tới thuở bình minh của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, cụ mới dám bộc bạch mọi nỗi niềm u ẩn của mình.



    Hết Chương 1 - Xem Tiếp Chương 2


    sigpic


  • #2
    Quê Nam Một Cõi

    Hồ Trường An

    Chương Hai

    Xuân Vũ, Ngòi Bút Tái Sinh Cuộc Đời
    Một Danh Kỹ Qua Truyện Dài "Cô Ba Trà"





    Xuân Vũ viết về cuộc xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt; bọn chúng vượt Trường Sơn để vào đánh phá và cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam. Xuân Vũ viết tiểu thuyết đồng quê về cuộc đất Nam Kỳ vào thời tiền chiến. Xuân Vũ đặt thơ lai rai nhưng không cho xuất bản thành sách.

    Anh là một cây bút sáng tác có sức mạnh vũ bão nhất, có vốn liếng đi và sống phong phú nhất. Sách anh bán chạy thuộc hàng đầu, tạo cho anh một ngôi vị cao chót vót và lộng lẫy nguy nga, làm vẻ vang cho tập đoàn các cây bút gốc Nam Kỳ từ trong nước, trước năm 1975 và các cây bút gốc Nam Kỳ ở bốn phương trời hải ngoại.

    Chưa hết đâu. Xuân Vũ còn moi móc tài liệu trong các xó xỉnh của lịch sử cận đại để viết quyển tiểu thuyết nửa sống thực nửa giả tưởng về cuộc đời một danh kỹ sắc nước hương trời chói rạng Hòn Ngọc Viễn Đông và lan ra khắp ba miền Nam Bắc Trung. Đó là cô Trần Ngọc Trà mà thời nhân gọi là cô Ba Trà, còn giới ăn chơi gọi cô là Yvette Trà và báo giới gọi là Huê Khôi Nam Kỳ, là Ngôi Sao Sài Gòn.

    Cô Ba Trà khi chui vào tác phẩm truyện dài của Xuân Vũ có một cuộc đời như sau: Má cô xuất thân từ một gia đình khiêm tốn và thanh bạch. Cha cô xuất thân gia đình khá giả, có lễ giáo. Nhưng cha cô hay ghen. Tình cờ ông ta bắt được thư rơi cho biết má cô ngoại tình với một kẻ khác mới sanh ra cô. Thế là vì ghen tương, ông ta thổ huyêt, rồi hành hạ vợ. Má cô không chịu nổi sự rẻ rúng và sự trừng phạt của chồng nên đưa cô về tá túc ở quê ngoại cô. Nhưng ông bà ngoại không chứa mẹ con cô.

    Túng thế, má cô gá duyên với ông Khách trú xấu xí, làm nghề mở tiệm hút thuộc phiện lậu. Vì thù hận người chồng cũ nên má cô ghét bỏ cô, đày xắc và hành hạ cô rồi bán cô cho người Chà-và để lấy 400 đồng qua trung gian mụ tú bà mà tác giả gọi là dì Hảo. Khi tên Ấn kiều về nước, dì Hảo dàn cảnh để gả cô cho con trai một nghiệp chủ Hoa kiều giàu sụ nhờ nghề buôn cá phơi khô. Nhưng người Tàu vốn ưa lấy vợ còn trinh, cho nên cậu con ông nghiệp chủ kia dù có mê say nhan sắc cô Ba Trà, nhưng vẫn bị sự mất trinh của cô trước khi về làm vợ hắn ám ảnh hoài hoài nên hắn đâm ra khinh khi cô và cặp xách với nhiều cô gái đẹp khác. Cô Ba Trà bỏ trốn và về tá túc nhà dì Hảo.

    Dì lập mưu lập kế để đưa cô vào nghề mãi dâm. Dì gạt gẫm cô để cô bị lính kiểm tục băt giam, rồi tống cô đi khám bịnh phong tình (đi lục xì) tại nhà thương Bạc Hà tức là bịnh viện bài trừ bệnh hoa liễu. Đó là cách rúng ép cô ký giấy giao kèo hành nghề mãi dâm, để biến cô thành con điếm có môn bài ( une fille publique cartée). Thời may, cô đuợc ông bác sĩ bệnh viện đứng tuổi cứu giúp cô thoát khói lưới bẫy của mụ đàn bà bất lương kia. Rồi cô trở thành tình nhân ông ta.

    Trong cuộc thi sắc đẹp tại Sài Gòn, ông ta có đưa cô đến xem. Ai ngờ cô gái dự thi trúng giải hoa hậu tên Lê thị Liễu lại xin nhường chức nữ hoàng các mỹ nhân cho cô. Ban giám khảo không biết tính sao vì lời đề nghị cô Liễu sái nguyên tắc. Rồi theo lời quan Biện Lý Thành Phố (người Pháp), họ chỉ bằng lòng tặng cho cô Ba Trà cái danh hiệu Ngôi Sao Sài Gòn. Tên tuổi cô bắt đầu lừng lẫy từ đó.

    Ông bác sĩ nhân từ kia lại muốn cô Ba được kết hôn với kẻ xứng lứa vừa đôi nên bằng lòng nhường cô lại cho người con trai ông giám đốc Đông Dương Ngân Hàng thuộc chi nhánh ở tỉnh Cần Thơ. Nhưng anh ta có vợ nên khi công việc bí mật đổ bể, hắn phải hủy hôn với cô. Cô lại được một họa sĩ nghèo say mê, chọn cô làm tình nhân kiêm người mẫu.Thế rồi tranh có vẽ chân dung cô đưọc trưng bày tai Đại Lục Lữ Quán do cựu danh kỹ Tư Hồng Mao cai quản. Cô Tư này còn gọi là Tư Ăng-lê vì theo lời đồn chồng của cô ta là người Anh-cát-lợi.

    Những bức tranh này bị cô Tư Hồng Mao làm trành làm tréo sang đoạt, rồi lại được Bạch Công Tử mua hết. Bạch Công Tử tên là Lê Công Phước mà thời nhân gọi là Phước Georges. Cậu vốn là con quan Đốc Phủ Sứ Lê Công Sủng ở Mỹ Tho vốn là đại điền chủ. Quan Đốc Phủ Sủng ngoài những bât động sản to tát khác, còn là chủ nhân Cù Lao Rồng, thuộc hạng tiền rừng bạc biển.

    Trong dịp tiếp đón quan Thống Đốc Nam Kỳ tại Đại Lục Lữ Quán có đại điền chủ Trần Trinh Trạch, đại thương gia Quách Đàm (người Tàu), thì cô Ba Trà xuất hiện ký tên tặng tranh cho quan Thống Đốc. Từ đó, tên tuổi cô Ba Trà vang lừng khắp Đông Dương. Cô được chuyền từ tay Bạch Công Tử rồi sang tay Hắc Công Tử và tay Sáu Ngọ...

    Hắc Công Tử tên là Trần Trinh Qui, con ông Hội Đồng Quản Hạt Trần Trinh Trạch. Ông Trạch là chủ nhân 20.000 mẫu ruộng lúa và 2.000 mẫu ruộng muối ở Bạc Liêu. Còn Sáu Ngọ là vua các sòng bạc ở Sài Gòn và ở các thành phố vùng phụ cận Sài Gòn có thể tặng nhiều lần cho cô Ba rất nhiều tiền, mỗi lần gồm cả bao to đựng giấy bạc. Ông ta còn tặng cho cô kim cương thuộc loại hảo hạng nữa .

    Cô Ba còn được ông Hoàng Ngự Đệ bên nước Xiêm La đề nghị cưới cô làm vợ, nhưng cô không ưng. Trong thời gian làm việc ở Đại Lục Lữ Quán, có cô danh kỹ Tư Nhị từ Nam Vang xuống xin làm em kết nghĩa với cô Ba. Lại thêm cô Quế Anh vừa đẹp vừa có học thức, cô đầm rặc Danielle vốn là em chồng cô Tư Hồng Mao cũng nhập bọn đàn em cô Ba. Chính Tư Nhị dạy cô Ba dùng ngãi nghệ để rù quến khách tìm hoa.

    Thế rồi trong chuyến theo Bạch Công Tử ra viếng Hà Nội, cô Ba gặp cô Đốc Sao nổi tiếng là nữ hoàng sắc đẹp trong giới hát ả đào ở khu phố Khâm Thiên. Nhưng trước đó không lâu, cô Đốc Sao giải nghệ để kết hôn với nhà báo Hoàng Tích Chù. Tuy ông ta không giàu có gì, nhưng có thể xây dựng cho đương sự một đời sống lứa đôi hạnh phúc, một cuộc hoàn lương vững vàng.

    Gặp cô Ba Trà, cô Đốc Sao khuyên cô nên tìm cách xa lánh cuộc đời bán dạng thuyền quyên để sau này tránh khỏi thảm cảnh bị khách tìm hoa bỏ rơi khi hương phai phấn lợt. Rồi cô Ba Trà gặp tên thầu khoán giàu sụ cưới cô làm "vợ hờ", xây cất cho cô một chốn ăn chơi đồ sộ và huy hoắc tên Nguyệt Tiên Cung. Nơi đây, cô tuyển lựa các giai nhân mỹ nữ để tiếp khách thuộc hạng tiền giàu nức vách đổ tường.

    Nhưng thét rồi cô đâm ra chán ngán cuọc sống dật lạc. Bỗng cô sực nhớ lời khuyên cô Đốc Sao nên cô tìm một người chồng công chức bậc trung, lương tháng 120 đồng. Chàng rất thành thật và chất phác. Đó là thầy Cò-mi họ Vương, người đã yêu cô từ khi chàng hãy còn là học sinh trường Pétrus Ký và đã từng chiêm ngưỡng hình cô chưng tại tiệm Saigon Photo.

    Thế là cô Bà Trà vì muốn che đậy cái dĩ không đẹp của cha mẹ mình và cái thân thế điếm nhục của mình nên tạo ra cuộc đám cưới có cha giả mẹ giả, mà bà mẹ không ai khác là dì Hảo. Dì này sau khi để cô Ba Trà vuột khỏi tay mình, bị chồng bội bạc, chịu cảnh nghèo vô gia cư, vô định sở nên túng thế đến Nguyệt Tiên Cung tìm cô Ba và được cô dung thứ, nuôi duỡng tử tế.

    Về sống với Vương ít lâu, cô Ba Trà mời mẹ và hai em chàng lên ở chung. Cô tìm được hạnh phúc trong cảnh làm vợ hiền, dâu thảo, và chị dâu tử tế... Nhưng ông cậu vợ phát giác được tung tích của cô Ba Trà và tung tích cha mẹ giả của cô nên ông ta xuối mẹ của Vương tìm cách cắt đứt duyên chồng vợ chồng của cô.

    Thế là cô ra đi, rồi trở về Nguyệt Tiên Cung với niềm tuyệt vọng. Cô dùng độc dược để quyên sinh. Đoạn cuối, cô được tỉnh dậy, nhưng tác giả không cho độc giả biết cô có đưộc cứu sống hay không? Hay là có phải đó là phút hồi dương ngắn ngủi để rồi sau đó cô khép mắt thả hồn vào giấc ngủ thiên thu? Tác giả để mặc cho độc giả đoán già đoán non ra sao cũng được

    Thật ra, trong tiểu sử của cô Ba Trà, thì cô được cứu sống để rồi rước khách, để rồi thua bạc nhiêu lần, rồi tự vận mấy phen nữa. Rồi có một lần, cô ăn bạc to. Lần này cô xuất tiền ra tìm một người chồng trẻ hơn cô rất nhiều tuổi, chẳng những đẹp trai mà lại có học thức, có tư cách. Anh ta tuổi Thìn, nên cụ Vương Hồng Sển trong cuốn "Sài Gòn Tả Pín Lù" gọi là Thìn để giấu tên thật của đuơng sự. Nhưng cuộc sống lứa đôi của cặp vợ già chồng trẻ không bền.

    Sau đó, Thìn qua Pháp du học. Còn cô Ba Trà gá duyên với ông Trưởng Tòa Trương Văn Tỷ cũng thuộc hạng Vương Khải, Thạch Sùng. Cô tiếp tục đánh bạc cho tới khi nhan sắc héo úa, phải bỏ nhà ông Tỷ và mai danh ở tích ở nơi cùng thôn tuyệt tái bí mật nào đó. Cho nên từ đó về sau, kẻ quen biết coi cô như bóng chim tăm cá, không tìm gặp được dấu tích của cô.


    * * *


    Ở bài "Đôi Lời Tác Giả" trong quyển truyện dài "Cô Ba Trà"xuất bản vào năm 1996, Xuân Vũ cho biết:

    Cô Ba Trà sinh năm 1906, cách đây gần 100 năm. Sắc đẹp của cô được các nhà văn nhà báo mô tả như "Ngôi sao Sài Gòn" (Étoile de Saigon) hoặc "Huê khôi Nam Kỳ"; người tình của Cô Ba cũng là những nhân vật thật như các đại điền chủ, đại công tử như cậu Tư Phước Georges biệt hiệu Bạch Công Tử, con trai quan Đốc Phủ Sứ Lê Công sủng, chủ nhân Cù Lao Rồng ở Mỹ Tho, cậu Ba Qui biệt hiệu Hắc Công Tử con trai của đại điền chủ Trần Trinh Trạch ở Bạc Liêu mà Thống Đốc Nam Kỳ goị băng Papa (bố).

    Bên cạnh hai công tử kể trên còn có công tử Bích, con chủ nhà băng Đông Dương (chi nhánh Cần Thơ) một người dám cho cô Ba 70.000 đồng trong lúc lúa 2 cắc 1 giạ. Các đại trí thức như quan tòa Trần Văn Tỷ, Thầy Kiện Dương văn Giáo, Bác Sĩ Lê Quang Trinh, Nguyễn Văn Áng, Vua Cờ Bạc chủ các sòng bạc Sài Gòn: Sáu Ngọ v. v... Đó cũng là những nhân vật lịch sử như cô Ba đã tạo nên những giai thoại được ngưòi đời truyền tụng cho đến ngày nay.

    Sở dĩ tôi nói vòng vo Tam Quốc như vậy là để xin thưa lại một điều này: Viết về Cô Ba Trà DỄ mà KHÓ. Dễ là vì cốt tượng cũ mỹ nhân đã có sẵn, chỉ cần tu bổ sơn phết lại là thành bức tượng. Nhưng làm sao cho bức tượng hoạt động, nói năng như người thật hoặc trở thành người thật? Cũng không khó.

    Cái khó là mỹ nhân đó phải là Cô Ba mà không được ai khác. Đọc sách xong, độc giả phải nghĩ đó là cô Ba chứ không ai khác thì mới được. Người viết tiểu thuyết về Cô Ba - nói nôm na, giống kẻ chèo đò giữa hai bờ sông, một bên là SỰ THẬT, một bên là BIA ĐẶT (nói theo văn học là sáng tạo, hư cấu). Phải chèo cách nào cho người ngồi trên xuồng thấy cây cỏ bên này lẫn đồng ruộng bên kia. Muốn làm cho khách hài lòng kẻ chèo đò không được đụng bờ bên này hoặc chạm bờ bên kia sẽ bể mũi xuồng, mà phải luôn luôn chèo giữa dòng.

    (các trang 10, 11)

    Đúng vậy, Xuân Vũ kiến trúc nhân vật Trần Ngọc Trà thật tinh vi, thật sống động, dù đôi lúc vì cao ứng anh pha chút xíu cường điệu đi nữa. Nhưng phần cốt lõi, anh tương đối thành công.

    Sau đây là cảnh Tư Nhị giúp Ba Trà đưa bùa ngải vào thân thể:

    - ... Còn bùa nầy nữa. Em chỉ chuộc đuợc có một ít thôi, em nhường cho chị. Chị vén bắp vế lên đi.

    - Chi vậy?

    - Để em vẽ bùa rồi đeo. Ông thầy ổng không cho một miếng vải dính da em. Ổng vẽ bùa khắp người em, mà ổng vẽ bằng lưỡi. Lưỡi ổng tẩm ngải chị ơi! Ổng vẽ tới đâu em nghe nóng rực tới đó, nhứt là ổng vẽ gần tới đây. Em rùng mình, ổng nói đó là ngải nhập vô mình em rồi.

    - Xí, vẽ bùa mà bằng lưỡi, thuở nay tao mới nghe!

    - Chị vén bắp vế lên đi, em vẽ bằng tay thôi. Em nói rõ tên tuổi của chị rồi ổng dạy em để về truyền lại cho chị. Chị hổng tin bùa ngải thiệt hả?

    Trà ngồi im. Nhị lại moi thêm một lá bùa, nói:

    - Để em đọc thần chú vô bùa thử, chị có tin không?

    Nói xong bèn bắt ấn quyết, hớp một hơi khí thổi vào mặt Trà và lâm râm đọc :

    Tam nguyên chi hạ, hình ảnh du du

    Giai nhân cử bộ giản phàn du du

    Ngô lịnh do nhữ vô kế khả câu

    Suy khí nhất khẩn, lõa thể xuất tu

    Ngô phụng : tam sơn cửu hầu tien sinh luật lịnh niếp.

    Xong rồi lấy bùa buộc vào lưng Trà, bảo:

    - Chị ngồi yên nghe bùa nhập!

    Xong Nhị lập lại câu thần chú đến lần thứ 9 thì Trà bắt đầu thấy ngứa ngáy. Nhị quơ tay hít thở phù phù vào ngực vào lưng Trà liên tục. Trong chốc lát Trà vùng đứng dậy chầm chậm cởi lưng nút áo, tuột áo vứt xuống đất rồi ôm chầm lấy Nhị. Nhị tiếp tục đọc thần chú và làm phép.. Chỉ một thoáng sau, Trà hoàn toàn lõa thể và làm những cử chỉ ân ái với Nhị như với nam giới. Nhị thấy thân hình Trà tuyệt diệu thì vồ vập và rên rỉ:

    - Chị ba ơi! Sao chị đẹp làm vầy! Em còn phải mê huống hồ đàn ông! Chị

    để em thưởng thức chút nghe! Kẻo để người ta chiếm hết thì uổng quá!

    Và Nhị ắt đầu vẽ bùa theo kiểu ông thầy. Từ trên núm cặp đào tiên xoáy vòng khu ốc hồi lâu rồi vạch một đường ngoằn ngoèo xuống đúm cỏ xanh ngăn ngắt và dừng lại hai mép ngọc tuyền. Trà đang đê mê bỗng kêu lên:

    - Em làm... gì vậy... Nhị?

    - Chị để e...em coi chú..út!

    - Coi cái gì?

    - Coi chị có ngọn "cỏ hồng" mọc ngược như của em không?

    - Cỏ gì mọc ngược?

    - Chị mở mắt ra coi nè...! Chị không có "cỏ hồng" nhưng có nốt ruồi ở một bên, thấy chưa ?

    - Thôi đi ! Mày làm tao phát khùng lên ! Buông tao ra !

    Miệng Trà nói vậy nhưng tay lại ôm đầu Nhị không buông, nên Nhị cứ tấn tới. Nàng nói :

    - Con Quế Anh nó có nốt ruồi bên trái, còn chị bên phải. Em không biết nó

    nghĩa gì ? Để bữa nào em đi hỏi mấy ông thầy tướng.

    (các trang 417, 418)

    Cái pha hai cô danh kỹ từ trước đã giao hợp với đàn ông, bây giờ làm tình với nhau thì đối với độc giả hơi vô lý. Nhưng mà vào Thời Đại Mỹ Lệ (thập niên 10 của Thế kỷ 20), hai nàng danh kỹ thượng thặng là Liane de Pougy và Émilienne d'Aleçon đã từng ăn nằm với các vua chúa, các nhà quý tộc, các kỹ nghệ gia Mỹ thuộc hạng tỷ phú, triệu phú.

    Thế mà họ có nhiều dịp ăn nằm với đàn bà. Có thể họ là những kẻ lưỡng tính luyến ái (les bisexuelles) chẳng những xơi tái đàn ông mà còn thiếm xực cả đàn bà. Có lẽ ở thể chất họ có cái gène dị tính luyến ái (l'hétérosexualité / thích làm tình với kẻ khác phái tính) và có luôn cái gène đồng tính luyến ái ( l'homosexualité / thích làm tình với kẻ đồng phái tính) chăng? Dù gì thì dù, đây là thứ cường điệu thật dễ thương, pha một chút huơng vị nồng mặn của tình dục.

    Ngoài ra, cuộc sống tình cảm, tính nết, nhân sinh quan của nhân vật Ba Trà đều được tác giả khai thác chăm chút. Xã hội hoặc nghiệp lực gì đó đã đưa đẩy cô vào xã hội ăn chơi trác táng, nhưng thật ra cô la người phụ nữ có thiên lương có tấm lòng rộng rãi với kẻ giúp việc, với người khốn khó. Ngoài ra, cô không thù dai những kẻ xô cô vào cạm bẫy đoạn trường, không oán cha oán mẹ dù mẹ cô đày đọa cô rồi bán đứng cô.

    Lúc nào cô cũng muốn về sống với mẹ. Trong truyện, Xuân Vũ thêm một vận sự như sau: có một ông già đến nhận là cha thật của cô. Đương sự vốn là bạn của cái người gọi là chồng đầu tiên của mẹ cô Đương sự say mê mẹ cô khi mẹ cô chưa xuất giá. Rồi vì thấy người mình yêu trở thành vợ của bạn mình nên đương sự tức tối muốn chiếm đoạt lại mẹ cô nên dùng bùa ngải cốt để gây cho vợ chồng mẹ cô xào xáo nhau, rồi dụ dỗ mẹ cô bỏ nhà theo đương sự.

    Nhưng bùa ngải vô hiệu nghiệm nên đương sự dùng thơ nặc danh để phá cuộc hôn nhân của mẹ cô. Ở đây, tác giả thuật chuyện rất mơ hồ, độc giả không hiểu đương sự làm cách nào để giao hợp với mẹ của cô Ba Trà và để bà sinh cô ra vì bùa ngải vô hiệu nghiệm, mẹ cô đâu có dịp nào gặp đương sự. Tuy nhiên, đương sự tìm gặp cô Ba Trà để thú tội ăn năn trước khi dọn linh hồn chờ ngày chết thì vẫn được cô tha thứ, được cô gọi bằng ba và được cô chầm lấy khóc sướt mướt. Như vậy, dù là kẻ chỉ biết đục đẻo tiền bạc của khách làng chơi, nhưng cô vẫn là người có tấm lòng vàng ngọc, có tâm hồn bao la, có trái tim mẫn cảm.

    Ngoài ra, cô Ba Trà là kẻ biết người biết ta, có sự công bình từ trong tư tưởng ra ngoài hành động. Sau đây là câu chuyện tâm tình giữa Ba Trà và Tư Nhị sau chuyến Ba Trà đi viếng thăm Hà Nội trở về Sài Gòn:

    Trà vui vẻ trở lại:

    - Ở ngoải có nhiều người đạp ghê mầy à!

    - Mấy người mà nhiều?

    - Để coi nè! Cô Bạch Yến, cô Thục Oanh, cô Thái trắng Lô Lô, cô Bùi Tuông, cô Chinh, cô Mường Vin. Nhưng tao cho rằng cô Đốc Sao đẹp nhất. Tao chưa thây ai đẹp bằng.

    - Đẹp như thế nào? Đẹp bằng chị không?

    - Tao chỉ đứng dưới gót người ta thôi. Nét đẹp của chỉ tao không nói được.

    - Sao không rủ bả vô trong nầy nhập bọn với mình cho vui?

    - Người ta có chồng con, ai đi lang thang như mình mà rủ? Gặp chỉ tao hết muốn cái cảnh nầy rồi.

    - Bộ chị muốn chồng lắm hả?

    - Con quỉ nầy!

    - Thì thộp ông Hoàng Xiêm La đi. Muốn chồng mà ai cũng chê hết ráo!

    - Không phải tao chê mà người ta có vợ.

    - Vậy mấy cậu Ba, cậu Tư, thầy Sáu không có vợ sao?

    - Mấy ổng có đòi cưới tao bao giờ đâu! Họ chỉ xạo qua đường.

    - Chị hổng chịu sao chị cứ đi chơi với người ta hoài?

    - Đi thì đi, bộ mầy tưởng hễ đi với ai là ưng người đó làm chồng à?

    - Vậy ông thầu khoán muốn cưới chị, cất nhà, mua nhà hàng cho chị thì sao?

    - Ổng mua nhà hàng, xây nhà cho tao là vì ổng muốn dùng tay tao hốt bạc cho ổng, hơn nữa ổng cũng có vợ con dùm đề rồi chớ phải tay trơn đâu mà tao nhào vô!

    - Thì chị bảo ổng thôi vợ phức đi!

    Trà lõ cặp mắt:

    - Chuyện thất đức như vậy mà mầy bảo tao làm à? Hồi trước chồng tao có

    vợ bé tao biết ghen, tao tìm tới ẩu đả một trận, bây giờ tao lại đi quơ chồng người ta sao? Của mình ôm tro tro, của người lấy mo mà hốt. Ở đời sao có chuyện lạ vây?

    - Chị đi ngoài đó kỳ nầy bị ông nào bỏ ngải rồi, nên ca Xàng Xê câu nào

    cũng đâm hơi hết.

    (các trang 423, 424)

    Viết một quyển tiểu thuyết một ngoại sử hay một quá khứ có thật, Xuân Vũ cũng đã tốn công tra cứu biết bao tài liệu lịch sử Xin đọc ở trang 490 tức là trang cuối của quyển "Cô Ba Trà", chúng ta sẽ thấy những gì đã cung cấp cho tác giả hoàn thành văn phẩm ấy?

    Chân thành cảm tạ các vị cho tôi nguồn tài liệu phong phú sau đây để viết quyển sách này:

    1 -"Nam Hải Dị Nhân" của Phan Kế Bính,

    2 -"Hơn nửa đời hư" của Vương Hồng Sển,

    3 -"Năm mươi năm mê hát" của Vương Hồng Sển,

    4 -"Sài Gòn tả pín lù" của Vương Hồng Sển,

    5 -"Nam Kỳ lục tỉnh I" của Hứa Hoành,

    6 -"Nam Kỳ lục tỉnh II" của Hứa Hoành,

    7 -"Nam Kỳ lục tỉnh III" của Hứa Hoành,

    8 - "Nam Kỳ lục tỉnh IV" của Hứa Hoành,

    9 - "Sau bức cấm thành nhà Nguyễn" của Hứa Hoành,

    10-"Bùa mê ngải lú" của Lê văn Lân,

    11 "Văn minh miệt vườn" của Sơn Nam,

    Và thơ riêng của Hứa Hoành, Hồ Trường An, Lê văn Lân.

    Tôi không biết nhà văn Nguyễn Triệu Luật khi viết "Bà Chúa Chè" (tức là Tuyên Phi Đặng Thị Huệ), "Chúa Trịnh Khải" cùng nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi viết "Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp" (tức là bà Nguyễn Phù Cừ , sủng thiếp của Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ) lấy tài liệu ở đâu mà viết thật sống động từ bối cảnh lịch sử, đến chuyện trong triều chính, trong quân cơ, trong lễ lạc tế đàn, trong thâm cung lẫn trong hương khuê tú các.

    Nguyễn Triệu Luật và nữ si Mộng Tuyết viết tỉ mỉ hơn, văn chuơng hơn anh Xuân Vũ. Bất cứ chi tiết lịch sử nào khi được họ miêu tả cũng được chăm sóc kỹ lưỡng và đào sâu hơn. Việc làm của họ cũng giống như việc làm của nữ sĩ Kathleen Windsor (người Anh) khi viết quyển "Ambre" ( "Nàng Hổ Phách"). Bà nữ sĩ này đã bỏ ra hằng năm sưu tầm và nghiên cứu tài liệu lịch sử và bối cảnh dưới triều đại vua George Đệ Nhị của Anh Quốc.

    Tài liệu trong quyển "Cô Ba Trà" qua các biến chuyển, các vận sự quá tươi rói, quá phồn thịnh, nhưng hơi tiếc một điều là Xuân Vũ trám vào sách quá nhiều cuộc đối thoại dí dỏm, những vận sự trào lộng nên không có thời giờ đào sâu và mổ xẻ những điều thâm thúy một cách chi ly, tỉ mỉ.

    Vào thập niên 10 ở Sài Gòn hoa lệ, ngoài cô Ba Trà là nữ hoàng trong hàng danh kỹ, còn có thêm 3 vương hậu trong giới ăn chơi (société demi- mondaine) như Tư Nhị, Hai Thời, Sáu Hương. Nhưng Xuân Vũ chỉ nói tới cô Marianne Tư Nhị, tuy nhiên trong tác phẩm của Xuân Vũ, vai trò cô Tư chỉ là vai phụ, không mấy đặc sắc.

    Cô ta theo phò tá cô Ba Trà, cười đùa giỡn hớt nhộn nhàng mà không có cuộc sống riêng tư, không có một tiểu sử huy hoàng trong việc chài bẫy các vương tôn công tử. Ngoài ra, Xuân Vũ còn thu hẹp vai trò của cô Tư Ăng-lê. Cô ta vẫn còn có một cuộc sống riêng tư rất sôi nổi, làm tổn thương biết bao con tim say mê cô ta. Bằng cớ là Bạch Công Tử Phước Geoges ăn ở với nữ minh tinh kịch trường Bảy Phùng Há, sau đó say mê cô Tư Ăng-lê, không ngó ngàng tới gánh hát Huỳnh Kỳ mà ông ta gầy dựng cho cô Bảy.

    Ông ta bỏ mặc luôn hai đứa bé gái song sinh của ông ta và của cô Bảy đang vật lộn rồi đầu hàng với Tử Thần trong cơn bịnh thương hàn. Khi Nhật đảo chính Pháp để chiếm ĐôngDương, Cô Tư Ăng-lê cặp xách với nhiều công chức cao cấp cùng các tướng cá tá của Nhật.

    Nhân vật Quế Anh vẫn là một gái giang hồ phóng đảng, tuy thuộc hạng tân học, lại biết làm thơ thất ngôn bát cú một cách rựa ràng. Nhưng nhan sắc cô ta chỉ giúp cô ta quyến rũ các công chức bậc trung thôi. Nếu không nhờ một thời dan díu với học giả Vương Hồng Sển, được họ Vương đua vào quyển "Năm Mươi Năm Mê Hát" thì làm sao có ai biết tới cô ta?

    Dù gì thì dù, đã là viết tiểu thuyết, tác giả có thể bỏ người này, viết thả giàn cho người kia. Nhưng một khi đã biến họ thành nhân vật trong tác phẩm mình, thì tác giả phải chăm sóc họ, ban cho họ một đời sống đặc thù, dù họ là nhân vật chánh hay nhân vật phụ đi nữa. Độc giả sành điệu sẽ rất tiếc không được theo dõi hành trình của cô Tư Ăng-lê, của cô Marianne Tư Nhị hay của cô Quế Anh.

    Trừ cô Tư Ăng-lê ra, Marianne Tư Nhị và Quế Anh vì quá truy hoan trác táng nên hương sắc chóng phai tàn. Cô Tư Nhị phải đi ăn mày, tay chân đầy ghẻ lở. Còn cô Quế Anh trở nên khật khùng, nhưng cô vẫn còn sáng suốt, không trở lại ông Vương Hồng Sển để được ông bao che, đùm bọc. Cô sợ cuộc đời lầm lỡ xấu xa của mình phương hại đến cuộc đời vẻ vang của người yêu nên cô rời khỏi Sài Gòn và chui rút ở một xó xỉnh tối tăm nào mà giới phong lưu của thủ đô hoa lệ Sài Gòn không tìm gặp dấu tích.

    Trong quyển tiểu thuyết "Cô Ba Trà", tác giả chỉ lấy 3 phần 4 cuộc đời của cô đưa vào sách. Có lẽ vì mải mê theo dõi chuyện ngồi lê đôi mách của các cô bán phấn buôn hương, chuyện ngải nghệ, chuyện bài bạc khá dài nên tác giả đành phải chấm dút khi quyển sách leo lên tới gần 490 trang.

    Trong quyển "Gone With The Wind", bà Margaret Mitchell cũng đã làm thiên hạ sốt ruột qua những loại chuyện ngồi lê đôi mách dài dòng, nhất là chuyện châm chích cãi lẫy nhau giữa chàng Rhett Butler và cô nàng Scarlette O'Hara vốn là hai nhân vật chánh nên không khí lẫn khí hậu cốt truyện loãng mất tánh chất nghệ thuật đi.

    Tác giả "Cô Ba Trà" cũng đi theo ít nhiều dấu vết nữ sĩ Margaret Mitchell, nhưng các cuộc ngồi lê đôi mách của các nữ nhận vật của anh tuy có làm độc giả sốt ruột thật đấy , nhưng ít ra chúng cũng còn có thể giúp họ ít nhiều kiến thức về cuộc sống bí mật của các cô gái chơi bời.

    Ngoài ra, tác giả Xuân Vũ quên công việc tái lập một Sài Gòn của giới ăn chơi phóng đảng vào thập niên 20, 30 với Cột Cờ Thủ Ngữ (nơi tụ họp các nhà báo, các giới phong lưu đến uống rượu), như Lăng Tô, suối Xuân Trường, hồ tắm An Đông, tiệm bách hóa Charner... là những nơi các dân trưởng giả du hí và mua sắm... Lại còn có xe điện (le tramway), xe kiếng (xe có cửa kiếng) do con ngựa kéo, xe xì-gà thuộc loại thể thao của nhân vật Hoàng Ngọc Ẩn trong cuốn tiểu thuyết trinh thám "Châu Về Hiệp Phố" của Phú Đức nữa chi.


    * * *


    Cô Ba Trà sống oanh liệt trong xã hội mông-đen tức là trong xã hội ăn chơi xài tiền như nước của giới thượng lưu vào thập niên 20 của thế kỷ 20. Bên Pháp, thời nhân gọi là Những Năm Điên Cuồng (Les Années Folles), nhưng các cô danh kỹ trên đất Pháp không còn hoạt động lẫy lừng nữa.

    Những nàng danh kỹ của nước Pháp nói riêng, của Âu Châu nói chung có Trà Hoa Nữ (la Dames aux Camélias, tên là Alphosine Plessis) dưới triều đại vua Louis Philippe, có Cora Pearl, Giulia Barucci, Mogador, Blanche d'Atigny, Anne Deslions, Alice Orzy, Valtesse de la Bigne vào thời Đệ nhị Đế Quốc do Hoàng Đế Napoléon Đệ Tam trị vì. Bước sang thời Đệ Tam Cộng Hòa thì đã có Liane de Pougy, Caroline Otéro, Emilienne d 'Aleçon, Lina Cavalieri...

    Những danh kỹ cầm bút viết văn, làm thơ đã có Mogador, Valtesse de la Bige, Liane de Pougy (văn) Émilienne d'Aleçon (thơ). Caroliene Otéro nổi danh ca múa, Lina Calieri là một nữ danh ca có tài nghệ căn bản... Tuy nhiên các nàng viết văn làm thơ chỉ đứng ngoài vòng văn học sử nước Pháp. Riêng hai nàng danh kỹ Trung Hoa vào thuở Thịnh Đường là Tiết Đào và Ngu Huyền Cơ chẳng vạn cổ lưu phương trong lịch sử thi ca mà còn gây biết bao truyền kỳ và huyền thoại cho các phong lưu tài tử hậu thế trong buổi trà dư tửu hậu.

    Ba Trà, Tư Nhị, Hai Thời, Sáu Hương, Tư Ăng-lê chẳng có tài nghệ gì trong giới văn học nghệ thuật. Nhưng họ đã gợi hứng cho Hồ Biểu Chánh tạo ra nữ nhân vật Hai Thục trong quyển tiểu thuyết "Nợ Đời", cho Phú Đức tạo ra nữ nhân vật Lệ Thủy trong cuốn "Châu Về Hiệp Phố", Sim Xờ Rây trong cuốn "Bách Si Ma Hiệp Liệt", cho Lê Văn Trương tạo ra nữ nhân vật tên Nữ trong "Một Trái Tim".

    Cuộc đời của cô Ba Trà đã được Vương Hồn Sển và Hứa Hoành viết theo kiểu biên chép . Nhưng chính Xuân Vũ mới chính thức đưa cô vào quyển tiểu thuyết, không thay tên đổi họ cô, làm sống lại khá nhiều biến cố trong cuộc đời cô song song với các vận sự hư cấu để tiểu thuyết hóa một tác phẩm hiện thực.

    Và chính ở quyển "Cô Ba Trà", nhà văn Xuân Vũ lột trần ít nhiều cái mặt nạ huy hoàng đã từng ngụy trang cái xã hội ăn chơi tàn nhẫn và điếm nhục của giới thượng lưu vào thập niên 20. Đó là cái xã hội phù phiếm u mê, mà kẻ lặn ngụp trong đó không đếm xỉa gì đến tổ quốc dưới ách đô hộ của Thực dân Pháp.


    Hết Chương 2 - Xem Tiếp Chương 3


    sigpic

    Comment


    • #3
      Quê Nam Một Cõi

      Hồ Trường An

      Chương Ba

      Phi Vân, nhà văn mở rộng dải Đất Tân Bồi
      qua tập truyện phong tục "Đồng Quê"




      Độc giả khó tính thường cho rằng văn chương các nhà văn gốc Nam Kỳ như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu (còn có bút hiệu Mộng Huê Lầu), Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình 1, Phi Bằng Cao Minh Chiếm, Nam Đình, Phú Đức viết tiểu thuyết phi văn chương. Họ chỉ kể truyện chứ không dựng những khung cảnh sống thực trong tác phẩm của mình, cho nên họ không thể là những nhà văn đúng nghĩa, đúng mức.

      Thế có nghĩa là họ là những người kể chuyện (les narrateurs) hay người biên chép (les chroniqueurs). Những cái tai hại đó Nguyễn Ngọc Ngạn, Võ Kỳ Điền đã từng vấp phải. Cả Kiệt Tấn trong truyện dài độc nhất "Lớp Lớp Phù Sa"cũng chưa dựng được những khung cảnh nơi Cột Cờ Đỏ (Bạc Liêu), nơi mà đương sự mở mắt chào đời.

      Vào năm 1943, Hội Khuyến Học Cần Thơ có trao giải thưởng cuộc thi văn chương cho cuốn "Đồng Quê"của Phi Vân. Nhưng tác giả khiêm tốn cho rằng đây là những bài phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của mình góp chung thành một tập.

      Dù thể loại của tác phẩm ra sao đi nữa, nhưng "Đồng Quê" vẫn là tác phẩm văn chương đúng nghĩa. Nó đã từng khai sáng cho văn chương đất nước Nam Kỳ, mở đầu cho những cây bút lừng danh sau này như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên,Vân Trang 2, Nguyễn thị Thụy Vũ... Đây là một tác phẩm phong tục có thể đương đầu với các tác phẩm phong tục của Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư vào thời tiền chiến trên đất Bắc.

      Phi Vân có dựng khung cảnh lẫn bối cảnh lịch sử cho tác phẩm mình. Anh còn soi rọi tâm tình, cá tính các nhân vật bằng những nét khái quát. Nhưng những nét tạo hình của anh, những diễn tả nội giới các nhân vật của anh vẫn đập mạnh vào ấn tượng độc giả, mở con đường rộng để cho họ nhìn vào cái thế giới mường tượng bao la của họ.

      Xin đọc một đám rước dâu bằng đò máy trong truyện ngắn "Trao Thân Con Khỉ Mốc":

      Tàu chạy hôm nay là hai hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, Đầm Cùn, kinh xáng Thọ Mai, nhưng xóm Kiến-Vàng hãy còn xa lơ xa lắc.

      Họ đàng trai đã mệt nhọc ngồi trong chiếc tàu chật hẹp. Người ta đã ăn ba lượt bánh mì với thịt quay mua ở Cà Mau. Chú rể ngày đầu còn khăn đóng áo dài, hôm sau đã cổi dẹp qua một bên, mặc chiếc áo thun giả ngồi ở truớc mũi tàu ngong ngóng, thỉnh thoảng vươn vai hít không khí rồi cú- rủ nhìn lũ trẻ trong xóm chạy theo tàu trên bờ sông vỗ tay reo: "Ê! Đám cưới!...

      "Đi họ"còn có ba cô gái: áo tím, áo xanh, "bọt -đê" dài thườn thượt.

      Các cô tỉ-mỉ từng chút, luôn sẽ nhặt sống áo và lai quần hàng thẳng bóng để đôi giày cuờm khỏi vương mà làm lấm hư đi.

      Hôm xuống tàu, ba cô chọn một chỗ sạch, ngồi nói chuyện với nhau khe khẽ, ai mời gì cũng từ chối, thỉnh thoảng đưa cái bóp đầm lên soi kiếng, sửa lại cái vành môi.

      Nhưng hôm nay ông Chánh Khá đã vắt cái áo đen trên vai và gói cái khăn đóng lại; ông chủ hôn Cai Sót đã nằm ngáp trên chiếc sập con, thì các cô đành chia nhau ăn mấy khúc bánh mì còn sót lại.

      Son môi đã hoen ố, phấn trên má cũng phai đi từng khoảng. Chiếc khăn mù-soa đã được nằm trong túi, không còn đeo-đẳng với tay nữa. Vì hai bên bồ, rừng tràm và dừa nước, muỗi nó kêu vang như khát máu, đập bằng tay có hiệu nghiệm hơn, chớ cầm khăn mà chặm chặm thì nó không thấm tháp vào đâu cả. (các trang 36, 37)

      Cũng xin đọc luôn tâm trạng người tù trở về quê quán trong đoạn kết của phần tiểu thuyết. Đây là nhân vật tá điền xưng tôi can tôi giết cường hào ác bá.

      Năm năm tù và mười năm biệt xứ không dài bao nhiêu, nhưng nó thay trọn cuộc đời tôi. Tôi muốn người ta cho tôi ngồi trong khám mãi để mà quên đi, quên biệt, còn hơn cho tôi trở về với người đời.

      Năm năm trong tù, tôi học rành chữ quốc ngữ và mon-men được chút đỉnh chữ Tây. Mười năm biệt xứ khiến tôi có dịp dày dặn với cuộc đời và nới rộng tầm con mắt.

      Tù hạn trả xong, tôi lần về làng cũ. Cảnh vật không còn như xưa nữa. Ông và bà thầy pháp đã vào cảnh Tiên, Phật; thằng Út đi theo cải lương, con tám Én đã có chồng với một dọc con dài, chồng nó là thằng tư Bồ.

      Tôi cất tạm một căn nhà trên hòn Đá-bạc. Ở đó, ngày ngày nghe tiếng gió thét sống gầm mới an-ủi được lòng tôi.

      Và chiều chiều, khi vừng thái-dương sắp chìm vào nước biển, tôi leo lên một mỏm đá cao chót-vót đứng nhìn về phía đất liền.

      Sau rặng cây xanh bên ấy, chạy dài đồng nầy sang đồng khác. Trong những đồng rộng mênh-mông, hiền-lành đó, ẩn-trú biết bao nhiêu là tá điền, chủ điền...

      Mà thôi, dĩ-vãng đã chết, còn nhắc lại làm gì nữa!...

      Họ không phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn-nhân của một hoàn-cảnh xã-hội và của một thời-kỳ. (các trang 233, 234)

      Phi Vân có một bút pháp dí dỏm và lôi cuốn. Nó đượm hơi hướm ngôn ngữ của các cô thiếu nữ ưa chót chét xí xọn rất duyên dáng, của các thím, các mợ đỏng đảnh dễ thương , của các bà già trầu tía lia tuy đắng ngoài mà lại ngọt trong, của các bợm nhậu khề khà bộc trực, của các ông già ống vố ó đâm nhưng cận nhân tình thế sự.

      "Đồng Quê" gồm có 2 phần: phần đầu là "Phóng Sự Ngắn", phần thứ hai là "Tiểu Thuyết Phóng Sự". Nhưng dù là lối diễn tả của Phi Vân tuy gảy gọn, tuy không chuốc lọc, nhưng rất gợi hình lẫn gợi tình. Đây là một tác phẩm văn chương được xếp loại vào truyện ngắn phong tục và tiểu thuyết phong tục.

      Phần truyện ngắn phong tục gồm có những bức tranh đồng quê thuộc loại tả chân hoặc thuọc loại hoạt kê gồm những nét hí họa lẫn biếm họa.

      * Hai truyện ngắn"Muốn Ăn Trứng Nhạn" và "Tiếng Hò Trong Đêm Vắng": viết về bọn cướp trên sông rạch, nhắm vào những chuyến thủy trình của lương dân. Truyện đầu xảy ra trong dịp đám cưới rước dâu bằng ghe thuyền. Truyện thứ nhì trong dịp hai chiếc ghe hò đôi đáp trên sông, ghe cô gái là ghe bọn cướp, ghe chàng nam nhân là ghe thương hồ.

      * Hai truyện ngắn"Đổng-Trác Biết Sập Giàn" và "Chợ Hay Quê,": viết về các gánh hát bội địa phương khi họ trình diễn vở tuồng "Phụng Nghi Đình". Truyện đầu vì khán giả chen chúc trên sân khấu quá đông nên giàn phải sập. Nam nghệ sĩ đóng vai Đổng Trác phải ngưng diễn tuồng để hét la báo động.

      Ở truyện thứ hai, cô đào chánh đóng vai Điêu Thuyền bị mang thai nên có cô đào khác kém sắc hơn thay thế nên bị một khán giả thuộc loại hàm hồ kêu lên: "Ê! Cái mặt Chung Vô Diệm". Cô đào thay thế kia liền tạm ngưng trình diễn, trả đũa liền: "Xin lỗi quý ông quý bà, khốn nạn cái anh nào nói tôi là Chung Vô Diệm!".

      * Hai truyện ngắn"Châu-Xương Cử Thanh-Long Đao!" và "Ông Tướng "Thầy Ba": Ở truyện đầu tác giả phơi bày chuyện mê tín của dân quê. Có ông ở Rạch Cóc xưng là xác của mình được hồn của Đức Quan Thánh Đế Quân (QuanCông) nhập vào để trị bịnh tà ma cho bá tánh. Mỗi khi trong nhà có kẻ ngã bịnh, gia chủ luôn nghĩ rằng bịnh nhân bị vong linh tà má quấy nhiễu nên rước y ta về nhà để đuổi tà ma ra khỏi thân xác người bịnh.

      Cứ mỗi lần rước y ta về nhà như thế, gia chủ phải nạp cho y ta một con heo quay nặng đúng một tạ. Tên Năm Quấy (bạn của tác giả) biết y ta mị dân dối thế để bóc lột dân quê nên thừa lúc y ta xưng là hồn Quan Công nhập xác để múa đao nên Năm ta cũng nhảy vào, xưng là hồn Châu Xương (tùy tướng của Quan Công) nhập xác mình. Rồi Năm ta huơi đao múa loạn xạ nhưng đẹp mắt như Sơn Đông mãi võ, và thì thầm với xác Quan Công đòi chia hai con heo và được ông xác kia phải nhượng bộ.

      Ở truyện thứ hai, Năm Quấy được thể, nhảy ra làm thầy pháp trị bịnh con nít lẫn người lớn vì theo y ta thì các bịnh nhân bị "con sát" hoặc "con trùng" (thuộc loại tà thần ác quỷ) khuấy phá. Hắn bảo rằng nhờ có "ông tướng thầy ba" mà y có thể chữa cho các nạn nhân lành bệnh. Nhưng khi chữa trị cho một nữ bệnh nhân, Năm Quấy động lòng dơi dạ chuột, trổ thói dê đực ôm siết cô ta, bị cô ta phang guốc lên đầu. Thế là Năm Quấy cùng tác giả nhục nhã, phải bỏ làng Rạch Cóc để đến chỗ khác tha phương cầu thực.

      * Truyện ngắn "Trao Thân Con Khỉ Mốc": đây là một vụ cưới gả khá phức tạp ; ông trưởng tộc đằng gái làm khó, bắt chẹt đàng trai trong giờ rước dâu đủ mọi điều. Cho nên ông Hương Ba (rể phụ) sau phần lạy họ, bảo ông tộc trưởng tộc đằng trai xin kiếu từ ra về liền, không cần ở lại ăn tiệc. Cho nên khi cô dâu chú rể lễ lạy vừa xong, đằng trai quây quần hộ tống cô dâu xuống tàu thủy ra về . Ông tộc truởng đàng gái tru tréo bảo phải đợi làm lễ trao thân gởi phận xong đã... Chàng rể phụ Hương Ba khi cùng đằng trai và cô dâu sau khi xuống tàu, trả lời cộc lốc: "Trao thân con khỉ mốc!".

      * Truyện ngắn "Cành Tre Cũ Cặp Giò Xưa": Trong đêm tối, nghe bên nhà ông điền chủ Bá có tiếng báo động: "Ăn cướp! Ăn cướp!", nhân vật xưng tôi núp sau bụi bông phướn, khi thấy bóng đen chạy đến anh ta bèn dùng cành tre quất mạnh vào giò đương sự. Nhưng đó không phải là kẻ gian phi mà là cô con gái anh Bá. Nhân vạt xưng tôi đành cõng cô ta về nhà để cô ta dưỡng thương, chờ coi tình hình động tịnh trong xóm ra sao.

      Thì ra ông Bá lợi dụng thằng Tư Rổ ở rể để bắt nó làm tôi tớ không công suốt một thời gian dài rồi đuổi nó đi, không chịu gả con cho nó. Tức quá, nó xông vào nhà, hăm dọa giết ông rồi bắt cô con gái ông theo nó. Nhưng khi cô gái vừa chạy ra khỏi nhà thì bị nhân vạt xưng tôi dùng cành tre phang vào chân té quỵ. Nội vụ được giải ra thầy hương quản, rồi được giải lên quận để phân xử. Cô gái không hề hé răng khai rằng mình bị nhân vật xưng tôi đánh nặng. Nhưng từ đó hễ gặp nhân nhân vật xưng tôi là cô gái cười chúm chím rất ngụ ý ngụ tình làm anh ta phải bỏ làng ra đi. Có lẽ anh ta sợ mình sẽ gặp hoàn cảnh éo le của thằng Tư Rổ chăng?

      * Truyện ngắn "Đạo": Trong bữa tiệc rượu, ông Chủ vốn là nhà Nho lỡ vận cùng Phó Xã Việt bàn bạc và giải thích chữ ĐẠO. Họ có nhiều ý kiến lẫn kiến thức khác nhau Họ giai thích chữ ĐẠO bằng cách chiết tự, và moi móc những ý nghĩa ẩn mật thâm thúy trong chữ ấy. Các thính giả dần dà ngấm men say, nghe riết rồi lăn đùng ra ngủ mê mệt. Riêng ông Chủ cho nhập cảng rượu và mồi nhắm vào miệng không hiểu ít hay nhiều trong lúc giải hích chữ ĐẠO, nhưng vào lúc mọi người đang ngáy ồ ạt thì ông cho mấy thứ vào mồm lúc nảy xuất cảng ra hết ngoài cửa khẩu. Chuyện có vẻ đơn giản, nhưng rất ngậm ngùi thời mạt điệp của giới đàng cựu nói chung, của Nho học nói riêng.

      * Truyện ngắn "Quỷ Vương": Trong cách dựng truyện, vấn đề thời điểm vẫn là vấn đề then chốt. Ở đây, tác giả chỉ nói tới "điểm" tức là làng Thới Bình bên dòng sông Trẹm, Nhưng về vấn đề "thời" thì câu chuyện xảy ra trong khoảng thời gian mù mịt. Thường ông già bà cả Nam Kỳ hay bảo nhau lúc Việt Minh (cái tên đầu tiên của Cộng Sản ở Việt Nam) ra đời là thời Quỷ Vương lộng hành có nắng lửa mưa dầu.

      Đêm đêm, chúng gỏ cửa xét nhà rồi bắt người (hào phú, địa chủ) cho mò tôm (một hình thức thủ tiêu). Chuyện đó xảy ra trước khi Nhật rút lui khỏi Đông Dương và Việt Minh lên nắm chánh quyền. Đó cũng là lúc Việt Minh tuyên truyền truyền dân chúng ở đô thị lẫn ở thôn quê nếp sống tự do dân chủ. Tuy nhiên, tác giả không nói rõ khoảng thời gian ấy.

      Quỷ vương ghé lại chợ Thới-Bình với gương mặt đầy kiêu hãnh.

      Làng Thới-Bình không còn vang lặng như xưa.

      Người ta lấy làm lạ sao thằng Chột con ông Bính đổi tên là Hoàng Hoa, lần lần thằng Phinh cháu ông Phó Tám đổi tên là Tuấn Nghĩa, thằng Tích em Tuần Danh là Vân Mộng, cho đến con Đẹt con gái chú Phồi cũng xưng là Thúy Liễu và con Út con ông Phó Cao là Kiều Nga.

      Chúng thường đi cặp từng năm lũ ba thả rểu quanh chợ bất cứ đêm ngày, và hễ gặp nhau là cúi đầu rất sâu, chìa tay ra siết chặt:

      - Vân-Mộng xin kính chào Kiều-Nga!

      Hay:

      - Thúy Liễu nầy đa tạ huynh ông Tuấn Nghĩa!

      Rồi họ cùng nhau bàn-tán vang trời những tiếng Văn-minh, Hủ-lậu, Nữ-quyền, Giác ngộ v.v... (các trang 86, 87)

      Cái văn minh tân tiến của bon Quỷ Vương địa phương làm gai mắt phụ huynh của chúng. Nên thừa lúc bọn chúng tụ họp đàn đúm với nhau, họ xông vào đánh tan chúng như phá nát chòm ong lũ kiến. Từ đó làng Thới Bình trở lại nếp sống hiền hòa yên tĩnh.

      *Truyện ngắn: "Các Trò Ơi, Thầy Phen Nầy Thọ Tử": Câu chuyện xảy ra thuộc ấp Kiến Vàng, làng Tân Hưng Đông. Nhân vật xưng tôi đến dạy học tại đây gặp lũ học trò tinh ma quỷ quái, thạo chuyện bắt chim và các loài bò sát (ếch, rùa, rắn, kỳ nhông, rắn mối). Chúng còn giỏi nghề bắt cá. Như thế, trên đất hoặc dưới nước, nơi nào cũng để cho chúng săn tìm món ăn phong phú ê hề.

      Sau bao phen bị chúng thử thách tài nghệ trên đất duới nước, đương sự khắc phục được chúng và chúng coi anh ta như Tổng tư lịnh. Nhưng trong dịp săn được con heo rừng có thai, tai họa lại đến. Thai heo được các cụ Nam Kỳ ta gọi là heo hà nàm, được móc ra tiềm với thuốc Bắc cho nhân vât xưng tôi tẩm bổ. Nhưng khi ăn xong, anh ta ngã bịnh, tưởng toi mạng nên trối trăn với bọn đồ đệ của mình. Tuy nhiên, khi bọn học trò rước lang y trị bịnh cho đương sự thì mới hay heo hà nàm là món thuốc bổ, có tánh hàn. Đương sự ăn thứ đó không tiêu, lại uống rượu nhiều. Rượu và thai heo kỵ nhau nên đương sự mới thọ bịnh như thế.

      * Truyện ngắn "Sanh Nghề Tử Nghiệp": "Mét Văn Quang" (Maitre Văn Quang) là thầy bói ở tận mũi đất Cực Nam của đất nước Nam Kỳ, dùng cái miệng lanh lợi, cái lưỡi uyển chuyển tráo trở, lấy việc đoán quá khư vị lai để gạt gẫm nguơi mê tín. Công việc làm ăn của đương sự đang xuôi mát mái, bỗng gặp tai nạn: đương sự đoán vận mệnh cho một tên điền chủ hung hăng, bảo rằng y ta lừa bạn giật tiền, trong vòng 2 ngày sau sẽ bị nắm chóp. Tên điền chủ nổi giận đánh "mét Văn Quang" chí chết. Hai ngày sau, y ta chưa bị ai nắm chóp. Nhưng "mét Văn Quang" không đoán nổi vận số của mình: Hai ngày đương sự trút linh hồn vì trận đòn quá nặng tay, gây chấn thương trong lục phủ ngũ tạng.

      Vào thời tiền chiến, các tay thầy bói nổi danh như Tư Nên, Fraçois Lư đều xưng mình là "professeur" ( professor/ giáo sư) nên khách hàng gọi họ bằng "thầy" (maitre). Trong thời chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh có "maitre" Khánh Sơn từ ngoài Bắc và Sài Gòn mở phòng bói toán nên dân Nam Kỳ Lục Tỉnh gọi đương sự bằng "maitre Khánh Sơn". Thật ra thiên hạ gọi các luật sư bằng "maitre", chớ nhưng kẻ không mê tín không bao giờ gọi mấy ông mấy bà lốc-cốc-tử bằng "maitre" một cách trọng vọng như thế.


      * * *


      Phần thứ hai là phần phóng sự tiểu thuyết (nói theo tác giả) có cái tựa là "Dưới Đồng Sâu". Thật ra đây là quyển tiểu thuyết đồng quê thuộc loại phong tục và tả chân xã hội. Nó gồm có những truyện ngắn dưới hình thức từng chương một như sau: "Câu Cá", "Cá Mắc Câu", "Tôn Sư", "Đạo Phù Thần", Ôm Ma Xơ Rốp...", "...Ma Ha Xơ Rốp", "Oan...!","... Nghiệt!", "Muộn Màng", "Tử Thù", "Hận Nghìn Đời", "Đoạn Kết".

      Truyện rằng: Nhân vật Sáu Đờn Kìm đến nhà ông Chủ Trần Háo Nghĩa xin mưón ruộng. Nhưng chàng ta bị tên điền chủ ác ôn này bóc lột thẳng tay Xin cùng đọc:

      Tờ lãnh làm ruộng giao

      Nay tôi có lãnh làm 50 công ruộng cho ông chủ Trần Háo Nghĩa tiền công tôi lấy trước phân nửa là 20$. Còn 20$ chờ đã cấy xong, giao ruộng, tôi lãnh tất.

      - Bẩm Chủ, tôi xin mướn ruộng, chớ không lãnh ruộng giao.

      - Ậy, việc mướn chác thì mình biết với nhau, còn giấy-tờ phải làm như vậy cho đúng phép. Phỏng như làm tờ mướn rồi nửa chừng mầy trốn có phải lòng-dòng cho tao thêm không? Làm như vầy mầy lãnh làm công, rồi có muốn trốn, ruộng của tao, bất quá tao gặt trừ. Tao ngừa như vậy, tá điền tao đứa nào có kêu-ca gì đâu! Bây giựt của tao thì có, chớ tao, ruộng đất minh-mông, chẳng đời nào tao giựt của bây!

      - Bẩm Chủ, còn tiền lấy thêm: Hai chục đồng, tôi đâu có hỏi?

      - Mầy quê lắm. Tiền đó lá tao buộc phải vay, tới mùa, tao đong lúa trừ. Tao tính mỗi giạ, năm cắc. Phải vay mới có mà ăn đặng chớ, không lẽ mầy cạp đất mà cày ruộng sao?

      - Nhưng... giá lúa bây giờ đến hai đồng một giạ.

      - Thì hai đồng bây giờ. Đây ra giêng còn tới bốn năm tháng nữa, chừng đó giá lúa lên cao tao nhờ, sụt tao chịu. Tao dám "cho" như vậy mà mầy còn chê mắc chê rẻ... Thôi, không bằng lòng, để ruộng đó lại cho tao! (các trang 147, 148)

      Sáu Đờn Kìm chịu làm ruộng giao cho ông Chủ Trần Háo Nghĩa. Dè đâu ông ta thấy mẹ của chàng ta hãy còn bóng bẩy nên ve vãn ráo riết. Một hôm, thừa lúc Sáu Đơn Kìm vắng nhà, ông ta toan bề cưỡng bức mẹ của Sáu thì thình lình bà vợ ông ta nhảy vào đánh người đàn bà đáng thương kia một trận đòn chí mạng. Sáu Đờn Kìm khi trở về thì thấy mẹ mình đang hấp hối. Chàng ta thề quyết báo thù.

      Ở đoạn kết, chúng ta được thấy Sáu Đờn Kìm trở về cố hương sau 5 năm tù, 10 năm biệt xứ vì can tội sát nhân. Giết ai? Giết ông Chủ Nghĩa hay giết vợ ông ta? Hay giết chết cả hai? Tác giả không nói rõ.

      Trong phần tiểu thuyết, tác giả có lồng vào bốn mối tinh và bốn tâm sự. Cô Yến con ông thầy phù phép yêu Sáu Đờn Kìm. Chàng ta cũng có chút vấn vưong với cô, nhưng cô ta lại yểu mệnh. Cô Tám Én yêu Sáu Đờn Kìm; tình yêu đôi bên nẩy sinh sau hận thù và ngộ nhận.

      Thằng Tư Bồ yêu đơn phương cô Tám Én, nhưng khi Sáu Đờn Kìm sa vào vòng tù tội thì cô ta trở thành vợ của nó. Ngoài ra thằng Út, em trai cô Yến cũng say mê Sáu Đờn Kìm, vắng mặt chàng ta là nó nhớ thương khắc khoải. Bản chất mối tình của nó ra sao? Tác giả không phân tích rõ. Có thể là nó mê giọng hát ngọt, ngón đàn tươi của Sáu. Mà cũng có thể đây là thứ đồng tính luyến ái mù mờ mà nó không nhận định ra (l'homophilie latente).

      Chuyện tình yêu được coi như một bản nhạc đệm (musique de fond) cho một vở kịch hay một cuốn phim. Nhưng đây là một khúc giao hưởng thống thiết (symphonie pathétique).

      Ngoài ra, còn có vụ bùa chú ngải nghệ. Ông Thầy, cha cô Yến nổi danh là thầy pháp cao tay ấn trong việc tróc quỷ trừ yêu Nhưng ông không thể cứu sống con gái ông chết vì bệnh mà ông đổ hô là cô Yến bị Quỷ Vương ám nhập để hành bịnh con mình. Sáu Đờn Kìm là học trò môn bùa chú của ông.

      Còn Tư Bồ là học trò môn võ thuật của ông Cho nên khi xáp trận với Tư Bồ, lần nào Sáu Đờn Kìm cũng đại bại, mình mẩy mang đầy thương tích, thần chú không giúp ích cho chàng được chút nào cả. Trong bóng tối rừng tràm và vùng mới hai hoang, tác giả không giăng mắc không khí huyền bí, mà soi rọi ý thức vào những mê tín đáng thương của lớp người đang ở vào thời kỳ xa ánh sáng văn minh của thị thành.


      * * *


      Ở truyện "Đồng Quê", Phi Vân thực sự viết văn một cách nghiêm chỉnh, dù anh dùng một bút pháp dí dỏm, những ngôn từ đơn giản đến chỗ thiếu chăm sóc, thiếu chọn lựa tỉ mẩn. Diễn biến mọi truyện không có chút sắp đặt mọt cách công phu nhưng giả tạo nào. Mọi việc tuần tự xảy ra một cach hồn nhiên. Điều này khác hẳn những cấu trúc tiểu thuyết của những cây bút tiền bối của anh như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Phi Bằng Cao Minh Chiếm, Bửu Đình, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Nam Đình...

      Trong "Đồng Quê", truyện ngắn "Quỷ Vương" sẽ làm bọn Cộng Sản nhột nhat xốn xang vì truyện ngắn này móc xỏ, nhạo báng sự ra đời của chủ nghĩa của chúng. Nhưng chúng cũng có thể lợi dụng truyện ngắn "Cành Tre Cũ Cặp Giò Xưa" và truyện vừa (tiểu thuyết phong tục) "Dưới Đồng Sâu" để làm lợi khí tuyên truyền của chúng. Rằng: lớp địa chủ là loại giai cấp thống trị chuyên môn bóc lột giai cấp bị trị là thành phần tá điền đáng thương.

      "Đồng Quê" là cái chìa khóa mở đường cho các cây bút đi sau Phi Vân hình thành loại tiểu thuyết phong tục hay loại tiểu thuyết hiện thực rất văn chương đúng nghĩa sau này.

      --------------------------------
      1 Chánh quán và sinh quán ngoài Huế, nhưng trưởng thành ở Sài Gòn, cưới vợ
      Gò Công và bị nam-kỳ-hóa 100%. Ông chống Pháp bị đày ở Con Đảo rồi kết bè vượt biển qua Xiêm, nhưng mất tích luôn ngoài biển khơi. Ông sáng tác 2 truyện dài nỏi danh là "Mảnh Trăng Thu" và "Cậu Tám Lọ".

      2 Nhà văn nữ, gốc ngưòi Rach Giá, đã từng cọng tác cho hai tạp chí Bách Khoa, Mai trong 2 thập niên 50, 60. Bà gom các truyện ngắn đã đăng báo của mình in thành tác phẩm "Một Lá Thư Tình" do Phù Sa Xuất bản.


      Hết Chương 3 - Xem Tiếp Chương 4


      sigpic

      Comment


      • #4
        Quê Nam Một Cõi

        Hồ Trường An

        Chương Bốn

        Sơn Nam, ngòi bút thả trôi trên dòng mực qua
        quyển tạp bút "Một Mảnh Tình Riêng"





        Độc giả chúng ta yêu thích Sơn Nam qua những quyển tập truyện phong tục như: "Hương Rừng Cà Mau", "Hai Cõi U Minh", "Vọc Nước Giỡn Trăng".... Nhưng anh còn viết những truyện dài có nghệ thuật cao hơn, cảm hoài thân thế cho những kẻ sinh bất phùng thời, làm cho người đọc không sao khỏi ngậm ngùi như "Chim Quyên Xuống Đất", "Hình Bóng Cũ"...

        Sơn Nam là một nhà văn rất sâu sắc về nhân tình thế thái. Tư tưởng và ý tình trong văn chương của anh không cần dựa một hệ thống tư tưởng triết học nào, một sở tri về tâm linh của một tôn giáo nào.

        Anh đi đây đi đó nhiều, nhất là đi ngao du khắp miền Hậu Giang, thu thập rất nhiều kinh nghiêm sống. Anh chiếm nghiệm những lời nói các bô lão về cuộc khai hoang khẩn đất ở miền Cực Nam và Tây Nam đất nưóc qua các quyển "Tìm Hiểu Đất Hậu Giang", "Đồng Bằng Sông Cửu Long", "Văn Minh Miệt Vườn", "Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam"...

        Anh rút tỉa những nhận xét đầy kinh nghiệm sống của họ, đầy sự luyện đạt nghệ thuật sinh tồn và ý chí khắc phục thiên nhiên của họ trong công việc mở rộng chiều dài của đất nước. Rồi đó anh đưa những điều ghi nhận của mình gán vào miệng những cụ già của ống vố dễ thương hay trám vào mồm những nhân vật cà chớn.

        Nhưng những lời của kẻ thông minh tinh nhuệ hay những ý nghĩ của kẻ thật thà chất phác một khi được Sơn Nam đua vào tác phẩm của anh cũng giúp cho chúng ta suy nghĩ về công trình của lớp tiền nhân trong cuộc Nam tiến để tìm đất mới. Cái thâm trầm sâu sắc của Sơn Nam trong nề nếp tư duy tương phản cái bộc trực thành khẩn của Bình Lộc quá rõ rệt.

        Sau những quyển sách mà bút giả HTA đã kể trên, tài nghệ của Sơn Nam giảm thiểu rõ rệt. Các quyển "Vạch Một Chân Trời", "Bà Chúa Hòn" là những quyển tiểu thuyết phiêu lưu, phóng tác theo kiểu mượn đầu cá vá đầu tôm các cuốn truyện hay các cuốn phim phiêu lưu ngoại quốc, phần kể truyện húng hiếp và lấn át phần viết văn.


        o0o


        "Một Mảnh Tình Riêng" do nhà xuất bản Văn Nghệ Thành Phố HCM (1993) trình làng. Đây là một cuốn tạp bút , không đề cập những vấn đề cùng chung một chủ đề hay cùng chung một hệ thống vận sự. Đây chỉ là quyển sổ tay văn nghệ được chi tiết hóa, ghi nhận những điều gì thoáng qua đầu óc tác giả, vần vũ khá lâu rồi sa mưa trong cõi cảm hứng của anh. Cho nên Sơn Nam phân trần:

        Tập sách nầy, tôi tạm gọi là bút ký, nhớ chuyện xưa rồi viết theo sự nhận định theo tình cảm ngày nay. Hồi ký thường là loại sách dành cho người làm chính trị. Về phần tôi chưa bao giờ được ai giao phó cho ký tên, đóng dấu văn kiện nào cả (nếu được giao ắt làm không xong). Về văn chương, sự nghiệp văn là "sương khói mờ nhân ảnh".

        Tôi cố gắng giữ cái gọi đại ngôn là "dũng cảm nhỏ", tức là cái liêm sĩ tối thiểu, qua nhiều hoàn cảnh éo le. Khổ nhất là văn chương phải in thành sách, in công khai cho người đương thời đọc. Làm văn chương mà mãn đời không viết một chữ, để giữ tiết tháo đuợc chăng? Nên tin độc giả. (các trang 152, 153)

        Lời trần tình (hay lời biện hộ đây?) chứng tỏ Sơn Nam viết cuốn sách này lâm vào thế kẹt. Muốn nó được Nhà Xuất Bản Thành Phố HCM chấp nhận xuất bản, anh phải vâng theo chỉ thị của Nguyễn Quốc Thủ (chịu trách nhiệm xuất bản) và Đinh Quang Nhã (chịu trách nhiệm bản thảo). Cho nên Sơn Nam dùng nhiều tiếng khó nghe, chẳng hạn ngày Sài Gòn bị bọn Cộng Sản cưỡng chiếm, anh dùng tiếng "ngày miền Nam được giải phóng". Anh gọi phe Quốc gia là "địch". Và anh không quên chêm vào đoạn tố chính quyền Quốc Gia:

        ... Nhớ lại trước ngày Giải Phóng, vụ ký giả ăn mày, tôi bị bắt vì tình nghi cán bộ nằm vùng, thật ra, về tổ chức, tôi chẳng bao giờ nằm vùng, chẳng qua tôi làm nghĩa vụ con dân. Địch tra tấn, nhắc lại làm gì. Tra tấn để cho mình mất nhân phẩm, đã mất nhân phẩm rồi thì phải khai (để bảo vệ cái gì đây?). Ấy thế mà phải ký tên thú tội vu vơ. Tôi nghĩ rằng giới chuyên điều tra thuở ấy không bao giờ tin lời khai của tội nhân nếu chưa tra tấn. Tra tấn, ắt khai thác được thêm điều bất ngờ. Bị tra tấn rồi mình khai là chúng yên tâm... (trang 74)

        Đây rõ ràng là sự nhượng bộ, sư hy sinh phế bỏ cái "dũng cảm nhỏ" của anh Sơn Nam. Anh phải ngắt véo phe Quốc Gia chút đỉnh để đuợc in sách. Cái liêm sĩ của anh bị trầy trụa hay bị sứt mẻ, nhưng chưa mất sạch sành sanh. Công bình mà nói, chính quyền ở các nước tự do nào cũng có việc thận trọng khi lập ra pháp lý luật lệ.

        Song song đó vẫn đầy nhan nhản kẻ hành pháp vi phạm luật lệ vì sai lầm hoặc vì hối mại quyền thế. Anh không chửi thẳng tay chính quyền cũ và ca tụng chế độ mối một cách trơ trẻn và đê tiện, khác biệt với Xuân Diệu và Huy Cận đã từng nã súng cối vào xã hội Miền Nam Việt Nam để đánh bóng chế độ Cộng Sản. Anh chỉ viết cảnh anh bị nhốt tù vì tội xuống đường theo giới báo chí nổi loạn chống ông Hoàng Đức Nhã. Chúng ta cũng thừa biết ông Nhã đã từng hà hiếp báo giới làm cho các ký giả phải điêu đứng trong việc hành nghề mưu sinh, sắp chống gậy ăn mày.

        Ở "Một Mảnh Tình Riêng" tác giả phân trần và giải thích về công việc viết chuyện xưa của mình. Quan niệm và nhận định của anh giúp anh trội hơn nhân sinh quan trong các tác phẩm của những cây bút gốc Nam Kỳ kỳ cựu:

        Viết lại chuyện xưa, theo ngẫu hứng, như người say rượu đời, bổng dưng muốn đốt ngọn nến nhỏ để lục lạo trong hang tối của ký ức. Gặp nào mảnh giấy vụn, cây bút cũ, những tấm thiệp của bạn bè mời đám tiệc, quyển sách nào đó bị chuột, dán gậm nhấm vài trang. Đi tới đi lui, như bóng ma, vách hang ẩm ướt, thỉnh thoảng đạp nhằm cái búa, cây đinh chẳng biết đó là món gì vì đã sứt gãy nhưng không đành ném bỏ, nhưng để dành mà làm món đồ chơi cho trẻ con, vân vân và vân vân...

        Ngọn nến đã tắt, nhưng bóng ma của ta cứ lầm lũi bước tới, bỗng dưng sẩy chân, rơi vào hố thăm thẳm. Ta đi suốt cái hố sâu ấy, dè đâu lại trở lên mặt đất. Đôi mắt hoa lên, như kẻ mất hồn, ngỡ hồn mình còn bị giam hãm trong hang. Hang động nầy cạn nhưng xoáy trôn ốc, đủ chiều, chợt bắt gặp quyển Agenda mà năm tháng đã mờ nhạt, trong ghi lung tung vài địa chỉ, số điện thoại ai đó.

        Gặp cái đồng hồ đã ngừng chạy, nhưng thử đặt sát vành tai, như đứa bé dạo chơi bãi biển, bắt gặp cái vỏ ốc, đặt vào tai nghe tiếng nhạc, ngỡ là tiếng ru của biển cả. Đứa bé cười thỏa mãn: mình phát hiện một hiện tượng độc đáo mà những người lớn tuổi đang đùa giỡn với sóng biển, đang bấm máy ảnh chưa bao giờ biết thưởng thức. Một kiểu tham quan chốn chốn âm phủ. Cái Thiên đàng mà mình mơ ước có hay không có? Nó ở đâu? Làm sao tham quan?

        Cái Thiên đàng ấy là hiện tại cuộc sống, và địa ngục cũng xen lẫn trong đó. Trong bài tán đức Phật có câu: "Tọa bồ đề tòa, đại phá ma quân" Ngồi bên gốc

        bồ đề ngài đánh tan lũ ma quái, những dâm nữ lõa lồ múa ca uốn éo. Nghệ thuật, trong đó có bộ môn văn thơ, kịch... là cách nói láo dựa vào chút ít thực tế, cho ra láo để rồi ta dựng nên một tác phẩm thật hơn sự thật, một thế giới riêng bay lơ lửng trong không gian với những hình ảnh khi mờ khi tỏ, tan hòa vào trong tiềm thức của con ngưòi là độc giả, khán giả. Kiểu đúc kết nầy có lẽ nhiều nhà lý luận đã nói hết rồi, nhưng tôi tâm đắc theo kiểu của tôi. Cuộc sống hằng ngay là một Thiên đường, nhưng là Thiên đuờng nát ra từng mảnh vụn, không trọn vẹn, may ra đến chết ta mới ráp lại được. (các trang 36, 37)


        o0o


        Gặp bất kỳ quyển sách nào của Sơn Nam, loại truyện dài, loại truyện ngắn hay loại biên khảo, chúng ta chỉ muốn tìm hình ảnh vùng Hậu Giang vì có ai khai thác vùng đất ấy trong văn chương bằng anh? Quyển tạp bút "Một Mảnh Tình Riêng" cũng có nhắc tới một vài địa danh ở đất Hậu Giang, nhưng tác giả áp dụng cách diễn tả bằng văn chương trong các quyển địa phương chí. Văn chương như thế không làm thỏa mãn những độc giả chuộng cách hành văn miêu tả đầy nét tạo hình mà chỉ làm phì nhiêu mảnh đất kiến thức của độc giả mà thôi. Xin đọc một đoạn tác giả nói về quê quán của mình. Đó là một xóm nhỏ ở rạch Tràm Chẹt:

        Mẹ tôi đi làm dâu nơi xa nhà hàng năm mươi mấy cây số ngàn, đường giao thông hồi đầu thế kỷ khó khăn, vượt rừng, qua hai con sông đầy sóng gió. So với rừng U Minh là quê cha tôi, xứ của mẹ tôi tương đối văn minh hơn, nhờ ảnh hưởng của nước ngọt quanh năm từ sông Hậu đổ xuống.

        Gọi thứ nước ấy là "nước bạc", theo nghĩa trắng đục, không đỏ vì phù sa sông Hậu đã lắng bớt dọc đường; nhờ nước ngọt mà trồng được cây cảnh, thí dụ như nguyệt quí, ngâu, vạn thọ. Dưới rạch thêm vài loại cá nước ngọt như cá tra, cá mè vinh mà phía nước mặn không có. Lâu năm lắm mẹ tôi mới về quê thăm xứ một lần, tình trạng nầy tôi thử hư cấu, qua truyện ngắn Gả Thiếp Về Rừng, "Má ơi đừng gả con xa, chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?".

        Qua sông Cái Bé thì dễ, nhưng gian nan nhứt là qua sông Cái Lớn, hai bên rừng rậm với cây bần cổ thụ. Tôi nhớ rõ: Khỉ và gà rừng ra đến tận mé sông, khỉ dạn dĩ đến mức ném trái bần xuống để xua đuổi ghe xuồng đậu bên bờ lúc ăn cơm. Lại đồn rằng thỉnh thoảng sóng thần hiện lên, nhận chìm ghe lớn nhỏ. Sông Cái Bé và sông Cái Lớn chảy song song nhau, khi gần ra biển có con rạch nhỏ ăn thông qua lại gọi là Tắc Cậu, rạch Tắc này nổi danh với ngôi miếu thờ Cậu, tức là thờ con bà Chúa Xứ, ghe buôn khá giả khi ngang qua thường đốt pháo để xin phép, cầu xin Cậu ban ơn.

        Vượt qua sông Cái Lớn vẫn là nan giải, vàm sông khá rộng, gần đấy, mặt biển dâng cao, luôn đầy sóng gió. Qua được nửa sông, rủi gặp giông, chẳng tài nào trở vào bờ cho kịp. (trang 8)

        Theo dõi cuộc bút trình của Sơn Nam qua quyển tạp bút "Một Mảnh Tình Riêng", đối với độc giả thích tìm thú giải trí trong các quyển tiểu thuyết diễm tình, trinh thám, kiếm hiệp... họ sẽ thấm mệt đến hụt hơi. Trong 150 trang sách với kiểu chữ vừa (corps 10), anh gói ghém biết bao là vận sự, biết bao là vấn đề, biết bao là nhân sinh quan.

        Anh bàn qua Phật giáo ở quyển "Trường Bộ Kinh", ở "Diệu Pháp Liên Hoa Kinh" (tức là "Kinh Pháp Hoa"), rồi bàn đến cái nét tiêu cực của dân tộc Việt Nam qua mẩu chuyện bà Phiếu mẫu biếu cơm cho Hàn Tín khi ông ta chưa gặp thời thanh vân đắc lộ. Và từ đó, anh nhảy qua việc đi khẩn hoang, rồi chuyện anh hùng Nguyễn Trung Trực kháng Pháp, chuyện sáng tác văn chương, chuyện cụ Phan Bội Châu, chuyện bà vú Miên của anh, chuyện quê ngoại của anh, chuyện đứa bé ngồi bất động trong căn chòi lá bên dòng rạch Trâm Bầu, chuyện bão lụt năm Thìn... Tới đây, chúng ta nhìn kỹ lại số trang, mới hay chúng ta chưa đọc hết 10 trang sách.

        Nẻo về của ý của tác giả có nhiều lối rẽ, có nhiều khúc quanh theo kiểu dây chuyền, hết chuyện cây cà bắt qua dây rau muống, hết đầu Ngô bước qua đuôi Sở. Cái nguồn cảm hứng của anh chuyền từ vấn đế này sang vấn đề khác như con vượn chuyền cành. Cái ý tưởng của anh phóng vùn vụt như con tuấn mã phi nưóc đại trên dăm ngàn thênh thang, băng qua miền thảo nguyên bao la.

        Cách viết những mẫu chuyện vụn vặt theo kiểu địa phương chí như chuyện chào đời và cáo chung của tạp san Nông Cổ Mín Đàm, chuyện Phan Xích Long dùng bùa phép khởi nghĩa chống Tây... đã từng đưọc Vương Hồng Sển nói tới trong quyển "Sài Gòn Ngày Nay" và do Hứa Hoành đưa vào bộ "Nam Kỳ Lục Tỉnh", cho nên đối với độc giả tìm hiểu chuyện xưa không còn là chuyện lạ nữa.

        Ở quyển "Một Mảnh Tình Riêng", chúng ta bị Sơn Nam quyến rũ không ở cái nghệ thuật tái sinh nếp sống Hậu Giang từ thuở khai hoang dựng đất cho tới 5 năm đầu của thập niên 40. Chúng ta có cơ hội thích thú theo dõi những nhân sinh quan của anh một cách thống khoái. Những nhân sinh quan ấy bắt nguồn từ những kinh nghiệm sống của anh.

        Và cũng có thể là những ý nghĩ vụn vặt mà anh đã gặt hái trên sách vở để rồi anh phân tích hoặc tổng hợp thành ý tình và quan niệm riêng của anh. Tuy nhiên những nếp suy nghĩ dù là của ai, nhưng một khi đuợc anh tổng hợp thành ý nghĩ và được anh đưa vào trang sách cũng phải dựa vào kinh nghiệm của anh, chúng phải được lột xác để gần gũi với cái Chân, cái hợp lý và cận nhân tình.

        Về tập tục và tín ngưỡng, Sơn Nam viết:

        Người nông dân Việt trong số có người từ khắp miền đến lập nghiệp, lần hồi trở thành dân Sài Gòn, trọng Trời đất quỉ thần. Thờ nhiều vị thần như chư vị ngũ hành, bà chúa Xứ, cá Ông. Điểm nầy khác hẳn với tín ngưỡng phương Tây. Tin nhiều vào quỉ thần đến mức mê tín vẫn là đồng nghĩa với "không quá tin vào cái gì cả". Nhiều vị cai tổng, đốc phủ sứ hoặc Việt gian hạng nặng vẫn bám giữ thần thánh để tìm nơi nưong tựa.

        Từng làm nô bộc cho thực dân Tây Phương, hưởng bổng lộc nhưng khi về già họ lại tin vào đình miếu, Lăng Ông Bà Chiểu, sát nách Sài Gòn phải chăng để cân bằng với nhà thờ Đức Bà ở đầu đường Catinat và những chùa Ông, chùa Bà ở Chợ Lớn? Nhiều người theo thực dân nhưng vẫn thích hát bội, hát cải lương, ăn cơm với đũa, với tô canh công cộng, không thích muỗng nỉa và cái lệ trải náp bàn ăn.

        Thích ăn bánh mì thịt vào buổi sáng (không tốn chén đũa, nước mắm), thích thụt bi-da như người Pháp vì gọn gàng, hấp dẫn, nhưng chỉ đến mức ấy mà thôi. Ngày Tết đốt pháo, rước ông bà, chưng nhánh mai vàng, ăn bánh tét, bánh in. Ăn Tết cổ truyền, đi đình chùa nhưng vui chơi, dịp lễ Noel, ăn sinh nhật cho con, bắt chước thổi tắt mấy ngọn nến. Để tang màu trắng, với nhà sư tụng kinh. Hiếu thảo với cha mẹ, giữ nghĩa với bạn bè... (các trang 103, 104)

        Quan niệm về nghệ thuật của Sơn Nam vẫn là quan niệm vừa sâu sắc vừa dí dỏm như quan niệm của Võ Phiến. Anh không phải là nhà văn tư tưởng. Nhưng văn chương anh rất cận nhân tình, gây lý thú bất ngờ cho người đọc qua những lồi khề khà của một bợm nhậu hào sảng trong lúc rượu vào lời ra. Nhưng coi chừng đó, những lời theo hơi men tuôn ra từ cửa miệng anh thưòng làm chúng ta nghĩ ngợi:

        Nàng Nghệ thuật luôn giữ nụ cười ỡm ờ, mơ hồ. Hỏi: Tôi xứng đáng là nghệ sĩ chưa? Nàng Nghệ thuật cười. Hỏi thêm: Tôi không xứng đáng là nghệ sĩ, phải vậy chăng? Vẫn nụ cười, nhưng lạnh lùng, đối với tất cả mọi người. Đã dấn thân rồi, người nghệ sĩ không thể rút lui. Có lẽ khi gần nhắm mắt mới thấy nàng nghệ thuật từ xa, đến với nụ cười khó hiểu. Xin hẹn kiếp sau.

        Vì vậy từ ngàn đời trước đến ngàn đời sau, Nghệ thuật vẫn còn đó, đỉnh cao vẫn chưa ai đạt đến. Người leo núi kiểu nầy, theo con đường này, kẻ theo kiểu khác quanh co. Như những nhà khoa học, những bác sĩ nghiên cứu bịnh SIDA . "Tôi muốn được chết một cách tuyệt vọng, trong cơn tuyệt vọng". A Gide đã viết như thế.

        Ý nghĩ tự sát đã đến với vài nhà văn. Gérard de Nerval đã cao hứng, thắt cổ ngoài đường cái. Nhưng khi chết vì tự sát, có gì chắc được nàng Nghệ thuật đón rước, tặng bằng khen? Bởi vậy, nhiều người thích sống, ăn uống, rượu thịt bất chấp nhục vinh, dư luận để... tự tử chậm, kiểu tự tử nầy dường như dễ chịu hơn. Vừa hèn nhát, vừa can đảm. (trang 60)

        Còn về vấn đề tài năng văn chương mà người đời tâng bốc lên mức thiên tài thì sao? Sơn Nam trình bày cho chúng ta thấy góc độ cái nhìn của anh như sau:

        Về đời tư người làm văn nghệ, thỉnh thoảng tôi nghe vài người bình phẩm: Chàng nầy bịp bợm, thiếu khiêm tốn, cô hay bà nọ thích lăng nhăng, thế kia Người làm văn nghệ ưa uống rượu, nhưng đâu phải chàng say nào cũng là nhà văn, nhà thơ giỏi. Một bạn trẻ bất hạnh, mắc bịnh phong (cùi, hủi) đã nói trong lúc vui miệng: "Nếu làm thơ, mình sẽ là nhà thơ quá dở, nhưng lấy làm hân hạnh là Hàn Mặc Tử cũng từng mang bịnh phong.

        Cũng là bằng cớ khiến cho thiên hạ thấy kẻ bịnh tật lắm khi có tài năng lớn!". Cách đây vài mươi năm, chưa ai nói đến trăm năm, nước nào cũng có vài nghệ sĩ xuất sắc, bỗng dưng im hơi lặng tiếng. Vài nhà phê bình đã chứng minh chẳng qua nghệ sĩ ấy bi quan, bị hành hạ vì bịnh "hoa nguyệt". Trước khi có phát sinh thuốc trụ sinh, bịnh nầy là nan y . Chẳng lẽ ta đặt giả thiết nếu không mang bịnh ngặt, chàng nọ sẽ là kẻ bất tài vô tướng.

        Trong giới văn nghệ, vài bạn đầy thiện tâm, thiện chí nhưng chọn lầm con đường: thay vì làm giáo viên dạy Việt văn xuất sắc, anh ta lại sáng tác rồi trở thành nhà phê bình cay đắng, hằn học, với thái độ tự tôn. Rằng nếu ta chịu làm văn nghệ, ta sẽ giỏi hơn người đã bị ta phê bình. Trường hợp vài người đã lớn tuổi, có con, có cháu, làm ăn không khá, nhưng khoe khoang: Thằng Giáp nọ thằng Ất kia hồi ở Việt Nam làm ăn dở, còn thiếu nợ tôi, nếu tôi vượt biên, tôi sẽ làm giàu gấp mười nó. (các trang 115, 116)


        o0o


        Trong quyển " Một Mảnh Tìng Riêng" có hai vận sự đáng chú ý như chuyện gánh Kim Thoa vừa sau Hiệp Định Genève trình diễn vở "Lấp Sông Gianh" bị một quân nhân tung lựu đạn trên sân khấu, chuyện nhà văn Bình Nguyên Lộc sáng tác truyện ngắn "Rừng Mắm".

        Hình như vào năm 1955 thì phải, nữ nghệ sĩ Kim Thoa một trong 4 cô đào chánh đại ban ca kịch cải lương Phụng Hảo (gồm Phùng Há, Thanh Tùng, Kim Thoa, Bích Thuận) sau khi gánh này giải thể, cô ta bèn dựng nên đoàn ca kịch Kim Thoa.

        Vở tuồng khai trương là "Lấp Sông Gianh". Nhưng vừa trình diễn thì trái lựu đạn tung lên sân khấu, giết chết nam nghệ sĩ Ba Cương và làm cho soạn giả kiêm kịch sĩ Duy Lân bị thương nặng phải cưa một giò. Kỳ trình diễn khai trương áy, Sơn Nam theo thi sĩ kiêm soạn giả cải lương Kiên Giang Hà Huy Hà được mời vào xem. Theo anh tường thuật thì:

        ... Lấp Sông Gianh, tự cái nhan đề gợi ý thức xóa bỏ phân chia Bắc-Nam, người Việt cùng chung dân tộc. Trên sân khấu, từng đoàn người dùng thúng đựng đất đổ xuống con sông tượng trưng rồi một diễn viên nói to: "Chúng ta là nạn nhân của một chế độ đau lòng" Tức thì một tiếng nổ ầm, lóe sáng, đèn sân khấu vụt tắt. Có tiếng kêu rú.

        Tôi nắm tay anh Kiên Giang: " Lạ quá, mình chạy ra". K.G nói tỉnh táo: "Ảo thuật trên sân khấu". Nhưng rồi mọi ngươi ùn ùn tuôn ra đường cái. Lựu đạn nổ! Ai là thủ phạm? Dễ hiểu quá. Hôm sau, phía "Quốc Gia" tung dư luận, đó là sự căm thù tự phát của một anh "lính Quốc gia", lén đem lựu đạn vào rạp. Sau đó, chẳng nghe truy tầm, công bố tên họ thủ phạm. (trang 26)

        Như chúng ta biết, Bình Nguyên Lộc sinh trưởng ở Tân Uyên (Biên Hòa). Cho nên văn chương của anh lấy những địa danh miền Đông Sài Gòn làm bối cảnh như: Biên Hòa, Tân Uyên, Đất Bái, Bình Dương, Lái Thiêu, Lò Chén Chòm Sao ở xã Hưng Định (Lái Thiêu). Thế mà trong truyện ngắn "Rừng Mắm", anh lại lấy khung cảnh vùng duyên hải Cực Nam đất nước. Truyện nầy gây tiếng vang dữ dội, thắp sáng huy hoàng cho văn nghiệp của anh. Xin hãy nghe Sơn Nam kể lại hành trình ngòi bút của Bình Nguyên Lộc từ thuở thai nghén và sinh đẻ ra truyện ngắn bất hủ này:

        ... Truớc kia trong tuần báo Nhân Loại, anh (tức là Bình Nguyên Lộc) hỏi về khung cảnh vùng biển phía Tây, đặc biệt là mũi Cà Mau. Và thú nhận anh chỉ đi đến chợ Cần Thơ, bờ sông Hậu mà thôi. Vì yêu mến phía Rạch Giá, Cà Mau mà nhiều người cho rằng kém cỏi về văn hóa, anh nhờ tôi cung cấp vài tư liêu cần thiết về cây đước, cây măm.

        Tôi bảo rằng mắm là lính tiên phong giữ đất, cây đước xuất hiện sau lưng cây mắm. Và để gây không khí, tôi tìm đến anh bạn Trần Tán Thanh từ chiến khu về, từng là chủ lò than ở Cà Mau. Anh Thanh bèn tìm giấy bồi thứ cứng, loại cạt-tông cách nhiệt ; vài hôm sau anh trao cho tôi bức tranh đơn sơ: nước gần bờ đục ngầu, ngoài khơi thì xanh, thấp thoáng bóng dáng Hòn khoai, vẽ miễn phí.

        Đem ức tranh tới nhà anh B.N.L, tôi thấy mình đã làm xong sứ mạng, giữa bạn bè văn nghệ, tạo cho nhau nguồn hứng là sự đóng góp quí giá nhất. Một tuần sau, anh viết xong chuyện Rừng Mắm, tôi nhớ lần đầu tiên ra mắt ở tạp chí Bách Khoa, anh ghi lời: "Tặng họa sĩ Trần Tấn Thanh". Như tiếng sét vang, truyện nầy tạo thanh thế cho anh, bạn bè nể mặt, mãi đến nay, người thuộc lứa tuôi 60 cứ nhắc nhở... (trang 24)


        o0o


        Sơn Nam là một nhà văn có tài, một nhà văn lớn. Vào hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, anh mang tiếng là kẻ nằm vùng. Nhưng hoạt động của anh cho Cộng Sản không mấy quan trọng, hầu như không có.

        Vào cuộc đổi đời chắc anh cũng sáng mắt vì dù được bọn Cộng Sản đãi ngộ, nhưng anh vẫn không được tự do cầm bút như thuở xưa. Vẫn phải sống theo chế độ, nhưng anh không hoàn toàn buông xuôi. Anh gắn gượng níu lại chút liêm sĩ cuối cùng để khỏi ca tụng xả láng chủ nghĩa mà anh đã từng lầm lạc theo đuổi từ đầu mùa khói lửa vào giữ thập nien 40.

        Sơn Nam không có cái sĩ khí lẫm liệt như nhà văn Lao Xá trước bạo lực của cuộc Cách Mạng Văn Hóa do Giang Thành cầm đầu. Anh cũng không hèn nhát như Quách Mạt Nhược chạy theo bạo quyền, ca tụng mụ Giang Thanh và nhóm Vệ Binh Đỏ không hề biết tiết kiệm lời tâng bốc, để rồi khi Giang Thanh bị hạ bệ, Quách văn gia quay lại công kích kẻ mà ông đã từng suy tôn ca tụng.

        Bút giả nghe nói gần đây nhà cầm quyền Cộng Sản cho phép dựng tượng Sơn Nam trong đô thành Sài Gòn, nhưng không rõ ở đâu. Ước mong sau này, nếu phe Quốc Gia chúng ta giành lại chủ quyền trên đất nước, tượng ấy sẽ không bị phá hủy. Sơn Nam là kẻ đáng thương hơn đáng ghét đáng khinh dù phẩm tiết anh vấy bùn lam nham đi nữa. Cái tài hoa cùng cái công trình văn chương của anh làm sao chúng ta có thể phủ nhận ?

        Các quyển biên khảo chế độ cũ đã từng dựng tượng cho Sơn Nam trong khu vườn văn chương của Miền Nam Việt Nam từ lâu rồi. Dù cái tượng bằng đá hoa cương hay bằng xi-măng cốt sắt của anh có bị phá hủy đi nữa thì những trang sách viết về Sơn Nam cũng đủ làm thành những bức tượng nguy nga tráng lệ cho anh rồi.




        Hết Chương 4 - Xem Tiếp Chương 5


        sigpic

        Comment


        • #5
          Quê Nam Một Cõi

          Hồ Trường An

          Chương Năm

          Song Thi Với Tâm Sự Thiết Tha Qua
          Tuyển Tập Thơ Văn "Dỗ Giấc Đêm Dài"





          "Dỗ Giấc Đêm Dài" là tác phẩm văn chương thứ hai của nữ sĩ Song Thi. Đây là một tuyển tập thơ văn bát ngát tình người, tình quê hương tổ quốc. Và dưới ngòi bút của chị, tiềm lực đấu tranh chống bạo lực luôn luôn thao thức; ngọn lửa chính khí vẫn cháy âm ỉ, hễ gặp cơ hội thuận tiện là chúng bùng lên, soi rõ cái hoài bảo và cái tâm nguyện của tác giả đối với đất mẹ quê cha.

          Dù dưới hình thức thơ hay văn xuôi, dù là ở mỗi tác phẩm nào, Song Thi vẫn là một cây bút đem tấm lòng nhân hậu, đem thiên lương ra chống đối cái Ác, cái dối láo bất lương. Chị không chạy theo cam ngôn mỹ từ ngụy trang những điêu ngôn xảo ngữ, hay những tư tưởng uốn éo cầu kỳ để nhận định tình trạng khốn cùng của đất nước và hoàn cảnh lầm than của dân tộc.

          Có như thế, chị khỏi rơi vào lưới bẫy của kẻ thù chúng ta là bọn Cộng Sản. Chị nhìn thời cuộc, chủ nghĩa, chính kiến bằng trái tim chân thành, bằng ý thức đơn giản nhưng rất thù thắng, bằng một trực giác trong sáng tuyệt vời. Những cây bút đấu tranh như chị càng ngày càng hiếm hoi. Nhưng dân tộc chúng ta nói chung, kiều bào chúng ta nói riêng không hoàn toàn tuyệt vọng đâu.

          Trước đây chúng ta đã có Tạ Ty, Bắc Phong, Vũ Kiện, Lê Khắc Anh Hào, Hồ Công Tâm, Nguyễn Mạnh An Dân, Võ Kỳ Điền, Diệu Tần, Vũ Nam... (nam), Thanh Phương, Vi Khuê, Nhã Ca, Điệp Mỹ Linh, Linh Linh Ngọc, Trần Mộng Tú, Hoàng thị Đáo Tiệp... (nữ). Gần đây, bên các đấng râu mày bỏ cuộc rất nhiều chỉ còn Hồ Công Tâm, Hải Bằng, Lê Khắc Anh Hào, Thy Lan Thảo... Riêng bên nữ giới còn có thêm Song Thi, Trương Anh Thụy, Ngô Minh Hằng, Dư thị Diễm Buồn, Ý Nga... Niềm tin tất thắng, sự tồn tại của chính nghĩa, sự bại vong của cái Ác làm sao tắt lịm trong cuộc bút trình của Song Thi và của những bạn đồng hành của chị được?


          o0o


          Trước hết chúng ta hãy bàn về thơ của Song Thi trong "Dỗ Giấc Đêm Dài".

          Về hình thức, "Dỗ Giấc Đêm Dài" không phải gồm nhiều bài thơ suông đuột. Tác phẩm vẫn có tình ý sâu sắc, có ngôn từ không trơn nhẵn tầm thường. Trong văn chương của vài cây bút đấu tranh cho chính nghĩa, những tình ý, những ngôn từ tuy đã vào được cõi thơ nhưng vẫn không vùng vẫy được trong môi trường thơ, không thể thắp hào quang cho thơ được.

          Song Thi vốn không chọn nhiều ngữ pháp hoa lệ, không nhiều cụm từ mới lạ, không có luôn cách diễn tả cầu kỳ. Nhưng chị vẫn săn tìm những tình ý rất đặc biệt làm cho thơ lồng lộng nét sáng tạo, làm cho từng câu theo reo lảnh lót trong cõi ấn tượng và cõi thưởng ngoạn của độc giả. Như thế khi làm thơ hay viết văn xuôi, Song Thi không làm một người thợ thêu, đưa đẩy từng mũi kim tinh xảo trên nền lụa óng ả.

          Chị không thích hình thành những bức tranh thêu kết hợp bằng thứ chỉ ngũ sắc lòe loẹt . Chị cũng không làm một nghệ nhân kim hoàn chạm trổ những nét ti mỉ chăm chút trên món trăng sức bằng bạc, bằng vàng hay bằng bạch kim. Chị làm thơ trơn ngọt, thống khoái như con én đưa thoi trong ánh thiều quang tươi sáng, thoải mái như con cá vẫy vùng dưới lớp nước trong vắt, làm cho độc giả không vật lộn một cách quá mệt nhọc với chữ nghĩa và với ý tưởng của chị.

          Anh đừng tìm anh trong thơ tôi viết

          Góc hồn hoang không có mặt anh đâu

          Vần tên anh tôi quên mất từ lâu

          Dấu hỏi ngã không dấu nào ghi đúng

          Vùng kỷ niệm anh như trang giấy mỏng

          Gió sang mùa cũng đủ chóng bay đi

          Khúc sông dài tôi không thấy vết ghi

          Mặt biển rộng sao vết tăm chẳng thấy?

          ("Chớ Tìm", trang 77)

          Một vùng sương muối mênh mông

          Một vùng gió lạnh, một vùng thông reo.

          Một vùng chân núi lưng đèo

          Mây thương khắc khoải còn treo ngọn ngành.

          Rưng rưng cất bước viễn hành

          Một trời ảo ảnh ai dành cho tôi!

          Buồn sao thương nhớ không nguôi

          Tôi qua biển Bắc nhắn người biển Nam.

          Nhắn cồn cát mịn giùm thăm

          Dã tràng giúp đếm, sóng gầm giúp nghe?

          Non cao nhắc đón gió hè

          Suối sông nhắc đợi chuyến về hồi hương...

          Sầu riêng nghìn mối trăm thương

          Miên man trở giấc đêm trường ngẩn ngơ.

          ("Ẳo Ẳnh", trang 152)

          Chớ dẫn tôi về trên đường xưa

          Rợp bóng tre già che nắng trưa

          Gió chao tà áo người yêu cũ

          Nước đọng ân tình trên vũng mưa.

          *

          Đừng vội bảo tôi thăm suối sông

          Nuối tiếc hương xưa lạc giữa giòng

          Đem lưới chài trăm câu ước hẹn

          Vớt ngàn thương nhớ buổi chiều đông.

          *

          Tôi chưa về thăm biển của tôi

          Vết bước chân xưa đã mất rồi

          Mượn dấu dã tràng mong vẽ lại

          Thủy triều rồi cũng xóa mà thôi.

          ("Ngủ Yên", trang 80)

          Thư xưa vỏn vẹn mấy hàng :

          Báo tin Mẹ mất ngút ngàn từ đây !

          Áo tang không đủ vải may

          Khăn tan không xé, củi thay hương trầm

          Ván thô sáu miếng vừa tầm

          Khít khao đủ lịm Mẹ nằm duỗi chân.

          Mẹ đi không tiếc dương trần,

          Em đi chỉ tiếc một lần tiễn đưa.

          ("Thư Chị", trang 148)

          Ngôn ngữ của thơ Song Thi không bí hiểm, ý tình trong trẻo. Nhưng ngôn ngữ không quá dễ dãi, ý tình không quá hở hang bộc tuệch. Bởi đó, đọc phớt qua thơ chị, chúng ta không bắt gặp ngay những điều gì chị muốn nói. Phải bỏ một chút thời gian, chúng ta mới tìm ra những gì tác giả đang nói và sắp sửa nói. Chỉ cần một chút suy nghĩ, chúng ta mới bắt gặp trọn vẹn những ý tình chị đã diễn tả.

          Như vậy, chị đã thành công một phần nào trong công việc sáng tác. Nếu đọc thơ của ai đó, chúng ta hiểu ngay tức khắc ý tình của tác giả, chúng ta không còn thú vị nữa. Miếng cơm càng nhai lâu chúng ta mới khám phá ra cái hậu vị ngọt ngào của nó. Nhưng nếu gặp loại thơ hủ nút, ý tình chôn giấu kỹ quá, chúng ta chỉ có nước nhức đầu và mệt hốc hác mà thôi.

          Thời tiền chiến, nếu đọc thơ của các bà Hằng Phương, Vân Đài, Anh Thơ, Thu Hồng, ta hiểu tức khắc thế giới thi ca của họ. Nhưng khi đọc thơ của Mộng Tuyết, Ngân Giang và Mộng Sơn, chúng ta phải ngẫm nghĩ mới tìm thấy cái ẩn mật kỳ thú trong ngôn ngữ của thơ họ.

          Lại nữa, chúng ta thấy gì qua những đoạn thơ mà bút giả vừa trích ở trên. Phải chăng điệu thơ lục bát của Song Thi chẳng những rất tha thiết mà còn đượm một chút ngọt ngào của tình ý ca dao, một chút đậm đà của thơ Nguyễn Bính?

          Thử hỏi chúng ta khi làm thơ lục bát, nếu thơ chúng ta không đượm hơi hướm mộc mạc của ca dao và của Nguyễn Bính thì thơ chúng ta cũng phảng phất một chút khói sương của thơ Huy Cận, của thơ Cung Trầm Tưởng. Cho nên, chỉ có loại thơ tám chữ mới hoàn toàn là thơ của Song Thi, mới thuần chất sáng tạo của chị. Dù sao, thơ lục bát của chị vẫn phản ảnh trung thực tâm tình của chị (qua bài "Ẳo Ẳnh") và cũng vẽ nên một cách sống động những cảnh bi thảm trên quê hương (qua bài "Thư Chị").

          Trong thế giới thi ca của Song Thi, chúng ta đôi lúc bắt gặp một không gian bao la lồng trong thơ. Hoặc cũng có thể thơ của chị mở một không gian bát ngát trong tâm hồn và trong trái tim người đọc:

          Triều dâng sóng cuốn xa khơi

          Tôi đi giữa sóng mồ côi một mình

          Triều dâng sóng dậy bình minh

          Tôi đi giữa sóng với nghìn nhớ thương

          Triều dâng sóng vọng quê hương

          Tôi đi giữa sóng vấn vương nỗi niềm...

          ("Sóng Triều", trang 52)

          Không gian rộng khi tấm lòng thương yêu của nhà thơ mở rộng. Song Thi họa hoằn lắm mới viết về tình yêu đôi lứa. Chị trải nguồn cảm hứng của mình lên tình yêu những đối tượng rộng rãi hơn, những đề tài lớn hơn: đó là non sông nước Việt nằm bên bờ Thái Bình dương:

          Tôi vẫn yêu một người yêu bé nhỏ

          Nằm trải dài đón gió muôn phương

          Tình kết chung muối mặn đại dương

          Xõa tóc rối cho Thái Bình nổi sóng

          Tôi yêu Người vì Người là mộng

          Là Biển xanh, là Mây bổng trên trời

          Là Núi cao, là Sông nước quê tôi

          Là chữ S ân tình ghi nét đậm

          Ngưòi Yêu ơi, dẫu cách xa vạn dặm

          Tôi yêu Người, Người cũng vẫn yêu tôi...

          ("Tôi Có Người Yêu", trang 32)


          o0o


          Về phần nội dung, thơ của Song Thi trong "Dỗ Giấc Đêm Dài" vẫn là phần nội dung trong thi tập "Đất Tạm Dung". Có thể bảo phần thơ ở quyển sau là phần nối dài của quyển trước. Bởi vậy đường lối sáng tác của chị là đuờng lối nhất quán, trước sao sau vậy. Quân thù của chúng ta hãy còn lộng hành trên đất nước Việt Nam. Dĩ nhiên một kẻ ưu thời mẫn thế như chị Song Thi thì làm sao không còn thao thức trong đêm đen của lịch sử bị tổn thương? Làm sao không chờ đợi hoài hoài một bình minh tươi sáng của dân tộc?

          Chẳng lẽ đi hoài đêm ba mươi?

          Lạc lõng chân mềm có hổ ngươi?

          Đếm thêm tóc bạc sầu vong quốc

          Pháo đón giao thừa hận chẳng vơi.

          *

          Chẳng lẽ đi hoài đêm ba mươi?

          Bao nhiêu năm bảng lảng qua rồi?

          Nén nhang ai đốt đêm trừ tịch?

          Gió quyện hương cùng mây nước trôi...

          *

          Khắc khoải buồn ơi, đêm ba mươi!

          Nhà ai kín cửa dửng dưng thôi

          Khói sương đan phủ lòng thương nhớ

          Tuyết lấp hồn đau tê cứng môi.

          *

          Chẳng lẽ đi hoài đêm ba mươi

          Ngày mai rạng sáng ở bên trời

          Quê xa rực rỡ mùa sum họp

          Trở bước tôi về non nước tôi.

          ("Đêm Ba Mươi", trang 162)

          Quê hương còn dưới bạo quyền, nhưng kiều bào chúng ta đa số quên quốc hận, lơ là với quốc nhục. Tuy vậy Song Thi vẫn không quên. Tinh yêu nước của chị trước sau như một. Đó là thứ giấy hồng cẩm tiên điểm sao kim nhũ dùng để viết liễn Tết, dù gió mưa sương giá vẫn không làm nó phai lạt sắc thắm rực rỡ như nước mực son tươi.

          Trong khi đó, lòng ái quốc của đa số nhà thơ bừng lửa tranh đấu lúc đầu và trong một thời gian ngắn ngủi, tắt lịm dễ dàng. Lòng son của họ giống như giấy hồng đơn đằm thắm màu đỏ trộn sắc xám trân châu, hay như giấy kim tương lộng lẫy màu hồng quê, cũng điểm sao kim nhũ; nhưng cả hai thứ giấy này không dẻo dai và mau chóng phai màu lợt sắc.

          Đếm những lần xuân... Lại đếm thêm!

          Bao nhiêu Xuân gối mỏi chân mềm

          Ghe neo bến lạ mong trừ tịch

          Thuyền ghé lạc bờ đợi nửa đêm.

          Hỏi nước, nước đau niềm cá nổi

          Gạn non, non xót cảnh chim chìm

          Đón đưa Xuân sắc thêm lần nữa

          Nhốt kín giao thừa tận cuối tim.

          ("Đếm Những Lần Xuân", trang 195)

          Song Thi và những người bạn chung tâm huyết với chị làm sao khỏi đau lòng trước đa số những kẻ khi ra hải ngoại chỉ với mục đích trốn cộng mà không có ý nghĩ chống cộng? Khi an cư lạc nghiệp hoặc vinh thân phì gia trên đất nước tạm dung rồi thì họ chỉ nghĩ tới hưởng thụ. Nhục nhã nhất là bọn lòn cúi kẻ thù để được về thăm Việt Nam cốt khoe của cải và cốt chơi bời trụy lạc chứ không phải cốt viếng thăm, giúp đỡ người thân còn sống sót hay viếng thăm mái từ đường xưa cùng mồ mả tổ tiên.

          Về cầm bó bạc trên tay

          Mua Thương bán Khó kéo dài khổ đau

          Xua tình cốt nhục đi mau

          Đón tên cướp nước chia nhau miếng đường.

          Em về đón gió một phương

          Em về dẫm nát mảnh vườn quê cha

          Em mang gấm vóc lượt là

          Nối tay cho giặc cướp nhà tổ tiên.

          Em đi cho hết ba miền

          Vỗ tay cười cợt vung tiền làm vui

          Thù chung năm cũ đã vơi.

          Hận chung em cũng đã nguôi lâu rồi.

          ("Hỏi Thăm", trang 106)

          Đối với những kẻ vong bản ấy, chị chỉ than van, bộc lộ nỗi niềm của mình tuy bằng một giọng chì chiết đắng cay, nhưng chị không để tình cảm bung vỡ thành những lời gào thét phẩn nộ. Chị biết tự chế để khỏi vừa bù lu bù loa vừa nguyền rủa, chửi bới bọn chúng. Vốn là một nhà thơ tình lý đồng cân, chị giải bày cho họ hiểu nỗi đau khổ lầm than của đồng bào chủng tộc, những u uất mang nặng canh cánh bên lòng của mình:

          Em có thương về cho núi sông

          Mười lăm năm nước chảy xuôi dòng

          Mười lăm năm đá chau mày khóc

          Mây phủ ngang trời, em biết không?

          *

          Em có thương và em có hay

          Bao nhiêu năm nước mắt đong đầy

          Cây xanh héo úa vì cay nghiệt

          Ruộng bỏ hoang tàn em có hay?

          *

          Em có thương và có xót xa

          Phong ba vùi dập chốn quê nhà

          Đau thương loang lổ tươm thành máu

          Cùng cực in hằn trên lớp da.

          *

          Em đã xa và em đã quên

          Hai mươi năm chửa cạn ưu phiền

          Thêm bao năm đá tan thành cám

          Nước chảy xuôi dòng trôi mất tên.

          *

          Em ngất ngư chìm trong biển quên

          Buồn cho phố cũ đổi thay tên

          Xóm thôn thay xác nên tù ngục...

          Em sống quê người, thương gác bên.

          ("Em Có Thương?", các trang 90, 91)

          Có những kiều bào về thăm Việt Nam, thấy các thành phố có những chung cư nguy nga, những tòa kiến trúc tráng lệ nên đổ hô là đất nước đã phú cường, đã lột xác thành đất nước văn minh tân tiến. Họ có biết đâu ở thôn quê hay ở các xó xỉnh tối tăm trên đất nước, đa số lê dân nghèo khó, ốm đói, sống lây lất như lũ ma đói.

          Cái thiên đường mà họ rêu rao đối với tác giả Song Thi vẫn chỉ là một thiên đường giả. Đó cũng như khuôn mặt rỗ chằng chịt của một cô gái già được lớp son phấn dầy cui tô trét lên. Đó cũng như tấm thân còi cọc đầy vết sẹo của cô gái xấu xí được y phục bằng nhung gấm lộng lẫy, được nữ trang bừa bộn hào nhoáng đấp điếm lên.

          Cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa được xây dựng trên ảo tưởng điên khùng của ông Karl Max, trên ác mộng của dân lành thì thực tế làm sao đáp ứng cho bọn Cộng Sản hoang tưởng và cuồng tín thành sự thật? Đó chỉ là cái phù du giả tạo ẩn núp sau những hình người cười toe toét trong những tấm tranh cổ động, trong khi đó tác giả những tấm tranh ấy nghèo túng thiếu ăn. Chúng chỉ gợi cho kẻ nhẹ dạ, kẻ mê muội cái hình bóng phất phơ của thiên đường, cái ảo ảnh rực rỡ trong giấc mơ phù phiếm mà thôi.

          Thành quách em đang thấy ở xa

          Chừng như đô thị sắc nguy nga

          Em ơi có biết thiên đàng đó

          Là chốn âm hồn chứa bóng ma.

          *

          Bước lại gần đi, mở mắt trông

          Em ơi có thấy máu loang hồng

          Khổ đau thấm ướt vành khăn lệ

          Người khóc cho người giữa hố chông.

          *

          Sặc sỡ cờ treo như rủ rê

          Sáng đèn nhung lụa chốn âm mê

          Hồn trơn, ý trợt, tình đi lạc

          Giận kẻ ngu ngơ hối hả về.

          *

          Thảm máu em về cứ dẫm lên

          Máu từ đồng nội góc trời quên

          Máu trên thành phố người đông đúc

          Đó chốn "thiên đàng" không có tên.

          ("Thiên Đàng Giả", trang 121)

          Cái thiên đường đích thực xa xưa đã thật sự mất rồi. Người lưu vong trở về thaăm lại ngơ ngác trước cuộc đổi thay; Xin đọc:

          Có người đứng giữa cơn mưa

          Dang tay đứng đợi nắng mưa trở về.

          Ngõ hoang xóm vắng cận kề

          Soãi chân muốn bước bên lề phố đông.

          Chèo ghe trên nước ngược dòng

          Đêm đen tối mịt tưởng trong ánh đèn.

          Ngẩn ngơ giữa chợ đua chen

          Ngỡ như đóng cổng cài then quanh mình.

          Bước chân lên thác xuống ghềnh

          Tưởng đi suốt cuộc hành trình gấm nhung.

          Dò đây hỏi đó mông lung...

          Có ai biết được tên khùng mất quê.

          Ra đi mất lối quay về

          Thất thơ giữ một chân hề lưu vong.

          ("Hề Lưu Vong", trang 102)


          o0o


          Rải rác đâu đó những hình ảnh thân thương trên đất nước, những kỷ niệm hạnh phúc len lỏi vào thi ca của Song Thi. Đó là những ám ảnh không nguôi trong ký ức của chị như vết xâm bám chặt suốt đời trên da. Và đó cũng là những ngọn lửa thiêng giúp chị nuôi vững bền tình yêu đối với giang sơn chủng tộc để chị tranh đấu chống bạo quyền không bằng súng ống giáo gươm mà bằng ngòi bút nhiệt thành vấn vương linh hồn Tổ Quốc. Chị xứng đáng là kẻ đi theo những bậc thi nhân ái quốc tiền bối trong đo có nhà chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu với hai câu thơ lục bát bất hủ: "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm"/ "Đâm mấy thằng gia bút chẳng tà".

          Nhớ gốc đa bên bờ dậu xanh

          Làng xưa ẩn bóng khóm tre lành

          Một mái hiên đình sơn thếp bạc

          Một rặng dừa đón ánh trăng thanh.

          *

          Nhớ tiếng chuông chùa ngân vẳng xa

          Trầm hương thơm thoảng cõi ta bà

          Áo nâu cung kính bên bàn Phật

          Bài kinh chiều gợi nhớ thiết tha.

          *

          Nhớ cánh đồng trải ngàn lúa non

          Hồn quê ấp ủ chén cơm ngon

          Áo ai tay xắn trong mùa gặt

          Chiều mục đồng ca hát véo von.

          *

          Nhớ đô thành con đường Duy Tân

          Đường mang tình ái tuổi thanh xuân

          Gốc me đón đợi giờ tan học

          Lá rụng vàng non, lá bâng khuâng 1.

          *

          Nhớ nhịp cầu bắc nối sang sông

          Hôm xưa áo trắng có còn không?

          Có đủ sáu vày mười hai nhịp

          U uất tràn khuấy đục nước trong 2.

          *

          Nhớ biển xanh nước trời bao la

          Ngút ngọn thùy dương trên bãi xa

          Bọt biển có tràn trên cát mịn ?

          Có dã tràng đợi ngắm sao sa 3.

          *

          Nhớ gió đồi thông thoảng mặt hồ

          Non cao rày phủ đắp khăn sô

          Có ai lên viếng vùng cao đó

          Hái giúp nụ hồng đã héo khô 4.

          ("Thư Tình Đêm Xuân", các trang 164, 165)

          Đã có những ngày xa xưa, có lẽ vào thuở tác giả đang độ hoa niên hay vào thời kỳ thanh xuân, chị đã từng tuần tự phơi lụa tím, lụa xanh, lụa đỏ trong nắng đẹp miền Nam, đã sống trong tình yêu thơ mộng, đã bơi lội trong biển hạnh phúc bao la với ngươi yêu. Nhưng rồi giông bão tràn tới quê hương đất nước, chị phải ra hải ngoại. Kỷ niệm cũ vẫn sống mãi trong ký ức của chị.

          Nhưng trên đất khách chị không còn phơi những thứ lụa có màu thuở trước nữa. Chị phơi lụa trắng với tâm nguyện để tang cho Tổ Quốc. Chị phơi lụa vàng với hoài bão dựng lại ngọn cờ xưa. Với tấm lòng thành khẩn thiết tha, chị mong rằng khi bóng cờ đỏ không còn trên giang san gấm vóc của chúng ta, chị sẽ trở về Việt Nam, làm lại từ đầu, tức là phơi màu khăn tím trong xóm cũ làng xưa.

          Bạt gió trời lên cơn bão giông

          Giây phơi khăn đỏ máu loang hồng

          Tình ngưng không kết thành mơ ước

          Nắng trở đem buồn cho nhớ mong.

          *

          Khăn trắng mang phơi thấy xót xa

          Ai phơi tang khó trắng quê nhà?

          Dung xứ tạm người chan chứa hận,

          Nhục nhằn dầu dãi bước Kinh Kha.

          *

          Đất tạm hong phơi tấm lụa vàng

          Cờ bay trong gió nắng xuân sang

          Sào giây nối thẳng ba đường máu

          Quốc hận vơi đầy chung ý mang.

          *

          Ai mơ chút nắng buổi hoàng hôn

          Nắng chở mây xa trở nước nguồn

          Khăn đỏ đi rồi thôi ác mộng

          Tôi về phơi lụa tím cô thôn.

          ("Phơi Lụa", các trang 108, 109)

          Chúng ta đã từng đọc loại thơ văn dĩ tải đạo nói chung, loại văn thơ ái quốc nói riêng, chúng ta chỉ bắt gặp những đường cũ lối mòn, những ngôn từ quen thuộc, những ý tình như đúc cùng một cái khuôn. Ở thi ca của Song Thi, chúng ta vẫn thấy những yếu tố, những tính chất mà tôi vừa kể. Nhưng chị vẫn tạo cho thơ mình những cái kỳ đặc hơn, le lói thần trí sáng tạo lấp lánh hơn. Chị biết trồng vài thứ kỳ hoa dị thảo hai bên đương cũ lối mòn.

          Chị canh cải đôi chút ngôn từ cho đặc sắc hơn mà khỏi cần thêu hoa dệt gấm. Chị nhìn sâu vào niềm rung cảm của mình để tìm những ý tình thâm thúy hơn. Nhưng dù gì thì dù, chị vẫn giữ nguyên vẹn cái văn dĩ tải đạo của mình như một tín đồ ngoan đạo giữ vẹn tấm lòng tín nguỡng kiến cố của mình. Như người trinh nữ trong điện thánh Hỏa Giáo bên xứ Ba Tư giữ mãi vết thủ cung sa đỏ thắm trên cánh tay trắng nõn như ngó sen ngó cần của mình.

          Sau đây là bài "Áo Thêu" nói lên nỗi niềm tha thiết, cái tâm nguyện của kẻ hướng về một lý tưởng, một đất nước và một ngọn cờ. Xin đọc:

          Chị gửi cho em chiếc áo dài

          Thêu cành hoa bướm với mây bay

          - Hoa tươi có nở trời bên ấy

          Bướm có sụt sùi, mây có bay?

          *

          Chị gửi cho em chiếc áo vàng

          Thêu cành hoa cúc đón xuân sang

          - Sao không thêu áo màu tơi tả

          Loang lổ trên nền thước gấm sang?

          *

          Chị gửi sang em chiếc áo rồng

          Đếm bao nhiêu vẩy, mấy chờ mong

          Thiên Long uốn khúc vờn châu ngọc

          - Thừa chỉ kim nào thêu núi sông?

          *

          Một chiếc áo thêu màu lúa thơm

          Đồng xanh vương thắm buổi chiều hôm

          Lụa thêu trên áo tròn như mộng...

          - Lúa lép bên nhà có đủ cơm?

          *

          Chị gửi sang em tà áo bay

          Của người thiếu phụ mắt hoen cay

          Khóc con vượt biển mồi cho cá

          Chồng chốn lao lung vướng đọa đày

          *

          Xin chị thôi đừng gửi áo thêm

          Quê hương bày bán dưới đèn đêm

          Te tua vá víu màu sang cả

          Gạt lũ chim non yếu cánh mềm.

          *

          Chị nhé thôi đừng gửi áo thêu

          Lầm than phủ giấu lớp nhiễu điều

          Gấm nhung không ấm lòng cô lữ

          Chị gửi sang giùm tiếng quốc kêu.

          *

          Chị nhé xin thôi đừng gửi áo!

          Giữ gìn mà phủ bọc giang san

          Đau thương kết chỉ luồn trong máu

          Kim nào thêu được nét tan hoang?

          (các trang 84, 85)


          o0o


          Bước sang tản văn, Song Thi vẫn không buông bỏ đường lối, khuynh hướng đả phá cái Ác để duy trì và phát huy cái Thiện của mình. Giọng điệu văn chương miền Nam thường véo von, bộc trực, xí xọn đượm hơi hướm của ngôn ngữ dân quê. Văn phong của Hồ Biểu Chánh, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, bà Vân Trang, bà Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhất là của Lê Xuyên đều quê rít quê rang nhưng rất quyến rũ mặn mà, gây cho độc giả ngoài cái kiến thức uyên bác, còn thêm niềm thú vị đậm đà.

          Văn phong của lớp sau như Xuân Vũ, Phạm Thăng, Hồ Trường An, Kiệt Tấn, Nguyễn Văn Sâm, Võ Kỳ Điền, Phùng Nhân, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Tấn Hưng, Sĩ Liêm...(nam), Phượng Khánh, Phương Hoài Nam, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Tiểu Thu, Hồng Lan, Dư Thị Diễm Buồn... (nữ) cũng quê mùa không thuốc chữa, nhưng vẫn mở đầu tiếng nói của một thế hệ đau thương mất mát vì chiến tranh, vì hoàn ảnh vong gia khứ quốc.

          Đó cũng phản ảnh được tiếng nói vang vọng từ lòng đất nước Nam Kỳ Lục Tỉnh thân thương. Cho nên họ cũng không cần thuốc chữa làm gì. Trái lại, dù áp dụng ngôn ngữ Nam Kỳ nhưng văn phong trong thơ Song Thi, bút pháp trong văn xuôi của chị, chẳng những không quê mùa mà đôi lúc còn đượm âm sắc cao sang thanh thoát. Chị không cần chuốc lọc mà văn phong bút pháp chị vẫn trong sáng như pha lê và óng ả như mặt gỗ cẩm lai, gỗ giáng hương, huỳnh đàn giồi bóng. Chị không õng ẹo mà bút pháp vẫn quyến rũ ở giọng điệu đoan trang thùy mị.

          Phần văn xuôi có những bài tùy búy như "Kỷ Vật Trong Đời", với tính chất thuyết thoại (la narration) trộn lẫn hồi ức (flash back), nhắc lại thuở học trò với quyển lưu bút cùng các khuôn mặt bạn bè của tác giả. Chị cũng nhắc lại quyển lưu bút ghi bút tích các văn nghệ sĩ , nhắc luôn thời kỳ tác giả viết văn, làm báo, làm phóng viên chiến trường và vài món kỷ vật lúc chi cùng chồng con vượt biên.

          Tập lưu bút thuở học trò mang cái tên "văn vẻ đượm mùi học trò": Lưu Bút Ngày Xanh mà thời kỳ tôi còn trung học gần như đứa học trò nào cũng có. Tập lưu bút của tôi thật dầy với hàng trăm nét bút kỷ niệm, ngay trang đầu là ảnh của "chủ nhơn" với mái tóc kết hai chiếc bím dài và nụ cười thật tươi, thật vô tư. Bạn bè của tôi suốt những năm trung học hầu hết đều có mặt trong đó.

          Ẳnh người nào cũng được trang trí hoa hòe bằng những tấm carte postale thuở đó có cảnh tuyết mùa đông, lá mùa thu, có hoa mùa hè sáng rỡ lấp lánh đày kim tuyến. Miền NamViệt Nam của tôi không có bốn mùa nhưng tập lưu bút có đủ hình ảnh Xuân Hạ Thu Đông! Cho đến bây giờ, đã mấy mươi năm qua, từng trang lưu niệm vẫn hiển hiện rõ trong trí nhớ tôi: ảnh Cao thị Nhung, bạn lớp nhì, đôi mắt mơ màng, tô màu son thật đậm; ảnh Nguyễn thị Chỉnh, cũng môi son đậm nhắc tôi tiếng cười trẻ hơ năm học lớp nhất; ảnh "học trò ngoan nhất lớp" Đào thị Lê trong bộ y tá trắng có chữ thập trên mũ (dạo đó có phong trào chụp ảnh giả trai, giả tá v.v...,

          không ngờ sau này Lê cũng đi vào ngành y tế để trở thành nữ hộ sinh bệnh viện Từ Dũ); ảnh Lý thị Thảo, hai chị em Nguyễn thị Nâu và Nguyễn thị Kim Liên, ảnh Hồ thị Ngọc, Nguyễn Ngọc Ninh và nhiều lắm, nhiều lắm... Các bạn nam cũng đầy đủ : Trưởng lớp Nguyễn Huy Phú đội nón hướng đạo cười vui; Nguyễn Hiếu Tín nước da bánh mật, "đi khu" trong Phong Trào Bảo Vệ Hòa Bình, sau anh trở về Sài Gòn trở thành con sâu rượu vì bất mãn lỡ ngu dại lao đầu vào " đảng cướp"; Lý Thanh Điền vắn số chết trận, có cặp chân mày châu lại rất gần; Phạm văn Ne, Nguyễn Hữu Kỳ, Nguyễn văn Hội và Giang văn Vui bốn "yên hùng" không bao giờ thiếu mặt trong những cong tác văn nghệ xã hội...Còn nhiều, nhiều nữa..., những bạn học trò mà ngày nay có đứa còn ở lại quê nhà, có đứa trôi giạt khắp Năm Châu, có đứa thất lạc mất tung mất tích...

          Thời gian "lăn lộn" trong làng báo và giới văn nghệ, tôi có thêm một tập lưu bút khác. Tập lưu bút này rất trang nhã không có ảnh nhưng có thủ bút các nhà văn, nhà thơ, nhà báo như Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Ang Ca, Giang Tân, An Khê, Lý Cẩm Tâm, Ngô Tỵ, Anh Quân, Ngọc Linh v.v... Tập kỷ niệm đầy những trang chưa viết thì biến cố 75 xảy đến.

          ("Kỷ Vật Trong Đời", các trang 314, 315)

          * "Chuyện Những Dòng Sông" cũng là thiên tùy bút nhắc nhở người bạn gái đồng nghiệp tên Phương khi cả hai cộng tác cho Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ ( đài VOA ). Chúng ta thừa biết đó là nữ sĩ Thanh Phương, người cầm bút hơn 3/ 4 cuộc đời. Tác giả và chị Thanh Phương trước kia ở bên nhánh sông Đồng Nai từ sông từ Biên hoà chảy ngang thành phố Sài Gòn, ra Nhà Bè rồi tuôn ra biển. Chẳng biết có phải con sông có nối liền số mệnh cả hai trong việc cầm bút, trong côn việc làm phóng viên cho Đài Tiéng Nói Hoa Kỳ hay không? Nhưng nó nối liền tấm lòng cảm thông của cả hai với nhau dù tác giả sống bên bờ biển thuộc tiểu bang Oregon (Hoa Kỳ), còn chị Thanh Phuơng sống bên bờ sông Seine trên nước Pháp:

          Hai đứa tôi ở cách nhau hai đầu cầu và một dòng sông. Phương ở bên kia cầu Trương Minh Giảng, tôi ở bên này sông cầu Kiệu. Dòng sông thì không có tên nào nhất đinh: ở hướng Càu Kiệu thì gọi là sông Cầu Kiệu, hướng Trương Minh Giảng thì cứ gọi là sông Trương Minh Giảng. Tựu trung, đây là nhánh sông nhỏ chi lưu của sông Đồng Nai, đổ từ Biên Hòa xuống Thủ Đức, Cầu Sơn, mạch lớn chảy qua Thị Nghè, hợp lưu với sông Sài Gòn chảy vòng dưới dạ cầu Tân Thuận, qua Nhà Bè để ra cửa Soài Rạp và tuôn ra biển.

          Mạch sông nhỏ len lỏi đổi hướng chảy về Càu Bông làm gạch nối giữa Đa kao và Gia Định, men về phía Tân Định làm ranh giới cho Xóm Chùa và một vùng ruộng lúa nhiều lau lách. Tôi biết rõ đám ruộng này vì thuở học lớp Đệ Thất, Đệ Lục, tôi vẫn thường theo mấy đứa bạn vào Chùa Vạn Thọ trong Xóm Chùa để lạy Phật mỗi khi chuẩn bị kỳ thi lục hay tam cá nguyệt. Chúng tôi kéo nhau ra sân sau chùa ngồi học bài. Chùa ở sát bờ sông, nhìn qua bên kia đám ruộng lúa, ở tít mù xa, đám bạn tôi nói đó là hướng đường Chi Lăng Phú Nhuận, và có vài lần, chúng tôi mạo hiểm mướn xuồng băng qua sông hái lúa trộm, ép trong sách học trò..., nhưng chứa bao giờ tôi được đi ngả tắt đó mà đến Phú Nhuận cả.

          Từ Xóm Chùa, con sông nhỏ tiếp tục chảy luồn dưới gầm cầu Kiệu, lằn gạch nói giữa Tân Định và Phú Nhuận, như mối liên hệ giữa đường Hai Bà Trưng và Võ Di Nguy. Nhánh sông nhỏ càng đi tới càng khó khăn khi phải chen lách giữa những khu nhà sàn càng ngày càng bành trướng. Khúc sông cuối cùng bị nghẽn lối sau khi đã cố gắng chui qua cho được thêm hai chiếc cầu Công Lý và Trương Minh Giảng.

          (các trang 273, 274)

          Gặp lại nguời bạn gái đồng nghiệp năm xưa bên dòng sông Seine chảy thao thao, có thuyền chở du khách ngoạn cảnh hai ben bờ sông (bateau- mouche), tác giả được chị Thanh Phương cho biết con sông chảy qua khúc cầu Trương Minh Giảng đã nghẹt ứ vì rác rến lấp đầy. Cả hai cùng buồn cảnh quốc phá gia vong và cảnh tha hương ngộ cố nhân. Dòng sông bị bít lối ở đây ẩn dụ hay tượng trưng cho một điều gì? Có phải là mạch cảm thông của tình đồng bào, của mạch sống dạt dào của Đất Mẹ thiêng liêng bị ngăn chận bởi bạo quyền của chế độ hiện tại trên cố quốc hay không?

          * "Người Bán Trăng": nói về cảnh khốn cùng của một người mù hát dạo trong chuyến xe buýt sau cuộc đổi đời. Anh hát bài thơ "Hàn Mặc Tử" của Trân Thiện Thanh với 2 câu mở đầu: "Ai mua trăng? Tôi bán trăng cho"/ "Không bán tình duyên ước hẹn hò".Sau đó, anh ta hát trong Sở Thú bên cạnh loại ác thú bị giam cầm. Đất nuớc nghèo, thú trong chuồng thiếu ăn, ngưòi ăn mày ốm đói. Chỉ có các anh nón cối thấy loài thú lạ mà từ bấy lâu nay dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa ở ngoài Bắc không có, tỏ ra thích thú thôi.

          * "Người Nghệ Sĩ Tên Nhơn": Chàng họa sĩ tên Nhơn tuy cùng vợ đã đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ, nhưng anh không thích ứng với đời sống hiện tại ở đây. Anh không đủ sức làm phu khuân vác, anh không có vốn liếng Anh ngữ để học ngành điện tử. Anh đành thất nghiệp, vẽ tranh bán lai rai. Anh rất ghét màu đỏ vì đó là màu cờ Cộng Sản nên anh cố tránh đưa màu máu dữ dằn này vào các họa phẩm của anh. Cuối truyện, anh lại chết vì bạo bệnh.

          "Người Nghệ Sĩ Tên Nhơn" cũng như "Người Bán Trăng" là hai bức tranh xã hội rất sống động trên hai xứ sở khác nhau. Nhưng cả hai truyện ngắn đều có một mẫu số chung: sự điêu đứng của những kẻ mất nước.

          * "Con Thằn Lằn": Nhân vật tên Lân mắc bịnh suyễn kinh niên, chạy chữa thuốc Tây, thuốc ta đều vô hiệu nghiệm. Khi chàng đi quân dịch, có một lần nhờ ngườii bạn tên Ánh giúp chàng qua cơn bệnh suyễn ngặt nghèo bằng cách cho chàng nuốt con thằn lằn bạch. May mắn cho Lân vào ngày hấp hối của chế độ Cộng Hòa của Miền Nam Việt Nam, chàng cùng Ánh qua đảo Guam và rồi định cư ở Hoa Kỳ.

          Ở hai nơi này, chàng không có con thằn lằn bạch để trị suyễn. Trên đất nước Hoa Kỳ chỉ có con thằn lằn xanh vì đưọc nuôi bằng rau cỏ, trông gớm ghiếc, không thể nuốt trôi. Ánh gửi thư về Việt Nam xin thằng bạn khác tên Sơn gửi qua con thằn lằn bạch cho Lân. Nhưng Sơn chỉ gởi xác khô con thằn lằn dán ở góc bức thư? Sơn cho biết ở Việt Nam bây giờ, thằn lằn khó kiếm. Các nhà tối tân có máy điều hòa không khí rất kín mít nên thằn lằn không thể chui vào. Còn trong các nhà nghèo, người không có đủ cơm ăn thì đâu có gì để dành cho loài vật.

          * "Sợ Chuột": Đây là chuyện tai nạn nhưng là chuyện vui. Tác giả sợ chuột từ nhỏ, dù là thứ chuột đồng nuôi sống bằng lúa nếp có thịt tinh khiết thơm ngon. Khi định cư trên đất nướcHợp Chúng Quốc, tác giả khổ vì chuột hí lộng trong nhà mình nên chị tìm cách trừ chuột. Nhưng không ngờ, chị giết được vợ chồng con chuột cuối cùng bằng thứ thuốc làm chúng khát nước nên rời tổ để uống nước tới căng bụng mà chết.

          Chúng dể lại lũ con trong ổ chuột dưới sàn ván trong căn bếp. Bầy chuột con chết vì thiếu sữa mẹ, mùi thối tha bốc lên khó chịu. Trải bao ngày vợ chồng chị phải chịu trận, không kiếm được chỗ nào để tìm ra chuột chết. Sau cùng, cạy sàn ván lên, chị mới hay nguyên do tự sự. Cơn ác mộng chấm dứt, nhưng dù trong cơn ác mộng hay vào lúc kết cuộc của cơn ác mộng ấy chị diễn tả bằng lối văn ôn nhu lẫn dí dỏm để thay đổi khong khí u trầm, thê thiết của các mẩu truyện khác.

          * "Học Trò": Nhân vật xưng tôi (có thể là tác giả) ngày xưa đi dạy lớp bình dân học vụ cho các bậc lão nhiêu mù chữ, được họ "dạ thưa cô" một cách cung kính dù đương sự van xin họ nên gọi mình băng con hay bằng cháu. Nhưng họ không nghe vì họ tôn trọng lời dạy Đức Khổng Tử qua câu "quân sư phụ", làm cô thầy thì chỉ có dưới vua mà thôi.

          Trên đất Mỹ, nhân vật xưng tôi dạy tình nguyện miễn phí tiếng Việt cho lũ choai choai thuộc hạn đầu bò bướu cổ. Nhưng nhờ sụ tận tâm và sự tế nhị của đương sự mà lớp học được suông sẻ. Không hiểu có phải do hồn thiêng Tổ Quốc và do tiền nhân phù hộ, hoặc do dòng máu chủng tộc luân lưu trong huyết quản của lũ học trò hay không mà chúng học mau giỏi tiếng mẹ đẻ, chẳng những chúng nói rựa ràng tiếng Việt mà còn có đứa viết thư về Việt Nam cho bà ngoại bằng tiếng Việt nữa. Món quà thưởng tinh thần này làm nhân vật xưng tôi hạnh phúc đến nỗi không sao cầm được nước mắt.

          * "Sue": Đây là người bạn đồng nghiệp Mỹ của tác giả tên Sue khi cả hai làm việc tại hảng điện tử Textronix tại Oregon. Đây là người phụ nữ da trắng giàu lòng từ thiện, không phân biệt chủng tộc màu da. Chị ta lấy chồng gốc người Phi Châu. Chị ta giúp đỡ dân tị nạn Đông Dương và những ai đang khốn khó. Chị ta đã nuôi đứa bé Căm-bốt mồ côi, nuôi luôn hai thằng bạn lạc loài của nó. Hơn 10 năm trước, Sue đã ly dị chồng vì anh ta đã tằng tịu với một phụ nữ khác. Nhưng chị vẫn ở vậy để nuôi ba đứa con ruột, ba đứa con nuôi và một bà mẹ già.

          Khi tác giả viết truyện ngắn này thì Sue đã thiên cư về New York. Mẹ chị ta đã chết. Chị ở chung với cô trưởng nữ cũng lấy chồng gốc Phi Châu như chị ta. Rồi một hôm, Sue gọi điện thoại cho tác giả để hàn huyên, để nhắc nhở những ngày cùng làm việc chung với tác giả ở hảng Textronix.

          Đây là một khúc hoan ca tán tụng một tâm hồn thu nhỏ tự ái (kết hôn với người đàn ông da màu mà không mặc cảm, giúp tha nhân mà còn bị eo sèo bởi miệng lằn lưỡi mối, ly dị người chồng phản bội mà không thù oán). Sue thu nhỏ tự ái vẫn chưa đủ mà còn nới rộng tình bác ái thêm bao la. Một nhân vật như thế chúng ta khó gặp ở trong cuộc đời. Nhưng đối với cây bút tin cậy cuộc đời như Song Thi thì mới có được cơ duyên kỳ diệu đưa đẩy tới để chị kết bạn với đương sự . Có vậy, tác giả mới có dịp viết về cuộc đời của đương sự để rọi ánh sáng tin yêu vào tâm hồn độc giả giữa cuộc sống lọc lừa, dối trá và tàn ác này.

          * "Thư Không Niêm": Đây là chuyện tình bạn bè của 5 học sinh gồm có Tin, Vui, Ne, Kỳ, Hội và cô nữ sinh Phạm thị Minh Trí (tên cúng cơm của tác giả). Họ là những học sinh tràn trề nhiệt huyết, thường làm công tác từ thiện cho xã hội và công tác văn nghệ cho nhà trường. Thật ra, Tín hoạt động hăng say cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, bị bắt, trốn tù và chạy vào mật khu. Sau ngày sụp đổ của Miền Nam Việt nNam, Tín trở về Sài Còn với thân vóc gầy gò, khuôn mặt tiều tụy, thường xa lánh các bạn cũ.

          Vui, Kỳ, Hội nghĩ rằng Tín không muốn dây dưa với bạn cũ vì hắn không muốn họ lợi dụng tình bạn cố tri để khỏi bị họ xin xỏ điều này điều nọ với hắn. Nhưng thật ra, Tín chán ngán chế độ mà trước kia hắn cho là lý tưởng cao quý của đời mình. Khi tác giả vượt biên và được định cư trên đất nước HợpChúng Quốc, được nghe bạn cũ kể lại rằng Tín bây giờ dùng rượu để quên nỗi thất vọng vì đi sai lầm đường để rồi đút đầu vào một chủ nghĩa không đáp ứng được cái lý tưởng xa xưa của mình.

          Bức thư không niêm của tác giả viết cho Tín vẫn là bức thư thông cảm để chị chia sớt nỗi khổ tâm của người bạn cũ. Niềm thông cảm của chị đối với người bạn xưa không vì chính kiến, chủ nghĩa mà hao hớt, lụn tàn. Nguyễn Hiếu Tín, Phạm văn Ne, Nguyễn Hữu Kỳ, Giang văn Vui được tác giả nhắc lại trong truyên ngắn "Kỷ Vật Trong Đời".

          * "Chiếc Quan Tài Quỳnh Đàn": người bác của tác giả là một trưởng giả có hai đứa con trai đầu theo Cộng Sản. Nhưng người con thứ ba là một chiến sĩ phe chủ nghĩa Quốc Gia. Cô con gái kế là giáo sư Hội Việt Mỹ; còn cô út thuộc thành phần tiểu tư sản, có sạp vải ngoài chợ Đa Kao. Người bác chỉ mong có ngày đất nước thanh bình, con cái bác sẽ quay về dể bác chia gia tài gồm ngôi nhà đồ sộ của mình. Nhưng khi Cộng Sản bạo chiếm Miền Nam thì nhà bác bị sung công, tụi chúng dành cho bác căn phố nhỏ có thể bày cổ hậu sự bắng gỗ huỳnh dàn. Tác giả đã nhắn nhủ với người bác ấy như sau:

          Con vẫn nhớ rõ một buôi trưa nắng cháy, lũ nửa người nửa ngợm thao dượt "đánh trận trong thành phố" đã leo theo ống máng xối lên nóc nhà Bác và trổ xuống theo đường nhà tắm, cầu tiêu. Bác giận dữ đi tìm tên chỉ huy để phản đối, khiếu nại về hành động xâm nhập gia cư mà không xin phép, thằng chỉ huy tuổi đáng cháu ngoại Bác đã hách dịch hỏi ngược Bác: ngày chúng tôi đánh vào Sài Gòn chúng tôi có cần xin phép "chú" hay không?

          (trang 284)

          Đây chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ điển hình của bọn cướp được chủ nghĩa tồi tệ ủng hộ (cướp đất, cướp nhà, cướp gia sản, cướp cả tự do suy nghĩ, tự do tín ngưỡng...). Xưa kia, nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine có bảo: "Lý luận kẻ mạnh bao giờ cũng thắng thế".Có lẽ câu ấy đúng trong trường hợp của tên chỉ huy kia

          * "Đóa Hồng Cho Quê Hương": Đó là thời gian tác giả làm việc cho hảng

          điện tử Textronix. Vào chiều 30 tháng Chạp, chị nhớ cái Tết nơi quê nhà nên khóc tức tưởi các bạn đồng nghiệp ngơ ngác không hiểu vì sao chị khóc như thế. Tới chừng rõ nguồn cơn tự sự, ông Ted Wollam, xếp của chị hôm sau đến chị một bình có cắm hai đóa hồng vàng và tấm thiệp Happy New Year.

          Hai mươi năm sau, tác giả về hưu. Ông Wollam cũng đã hồi hưu trưóc đó khá lâu. Các bạn đồng nghiệp của chi phân rẽ tứ tán, nhưng hai đóa hồng còn sáng mãi trong ký ức và trong niềm cảm khái sâu xa của chị. Lại nữa, đây là một câu chuyện tin yêu giữa con người với con người, nhất là con người có tổ quốc đối với con người mất nước sống nơi khách địa với tâm trạng bơ vơ lạc loài.

          * Sau hết, chúng ta có thể xem các truyện ngắn "Thư Gửi Chị", "Chị Hai Tôi", "Hiếu Bình", "Mối Lo Của Người Chị" thành 4 chương của một truyện vừa. Chuyện kể: người chị lớn của tác giả (trong truyện gọi là Chị Hai) khi còn ở Việt Nam, sau cái chết của anh học sinh Trần văn Ơn, chị cùng nhóm sinh viên học sinh chống chính quyền Thuộc địa Pháp. Nhưng chị sa vào lưới bẫy của bọn Việt Minh, thứ Cộng Sản trá hình mượn chiêu bài chống Tây để dụ dỗ những kẻ ái quốc chân chính theo chủ nghĩa chúng .

          Chị Hai bị chánh quyền Tây bắt giam, nhưng nhờ ông thân sinh của chị vốn là bạn thân của Thủ Tướng Nguyễn văn Tâm dàn xếp, chị được phóng thích và được sang Pháp du học. Trên đất Pháp, chị vẫn mê say chủ nghĩa Việt Cộng để chống Mỹ mà chị cho rằng đó là bọn Đé Quốc bởi vì chị nghe lời tuyên truyền xảo trá của Việt Công về vụ Mỹ dội bom B 52 trên đất Bắc. Sau khi đỗ bằng kỷ sư ngành dêt, chị về Miền Bắc với tinh thần phục vụ quê hương. Trước đó, chị lấy chồng ở Pháp, nhưng sinh đứa con độc nhất là Hiếu Bình trên đất Bắc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Miền Nam rơi vào tay giặc Cộng, chị trở về Sài Gòn phục vụ cho "bọn họ". Chị có vẻ thất vọng vì những lý do như sau:

          Hai vợ chồng chị ở trong một chung cư chỉ tiêu vừa rộng hơn một sàn gỗ trải chiếu đủ hai người nằm; chiếc thùng dựng xe đạp chở từ Pháp về được dựng lên vừa làm vách phòng, vừa làm kệ tủ. Bếp là một lò duy nhất kê sát tường lâu ngày ám khói đen kịt. Cầu tiêu là cầu công cộng để người ta lấy phân bón rau cải. Chị vui, hãnh diện vì thời gian đầu "nhà nước" đưa chị và các bạn Việt Kiêu yêu nước" của chị lên mút tầng mây bằng những lần tuyên dương các chị là những "phụ nữ bắn máy bay Mỹ" Suốt thời gian ở Hà Nội, chị không hề được ăn nước mắm, nước mắm của chị là loại nước tương pha thêm muối, chị không dám ăn một miếng thịt vì chỉ tiêu của hai vợ chồng gom lại chỉ đủ mua thịt cho thằng con cưng Hiếu Bình.

          Cũng theo lời chị tiết lộ trong những lúc vui miệng: chỉ "tuyên dương" được vài năm đầu, "nhà nuớc" bắt đầu bỏ rơi những "Việt kiều yêu nước". Không những "nhà nước" làm lơ với những hy sinh cao đẹp của chị cùng các bạn chị, mà cứ đôi ba tháng, công an cứ "gọi" chị đến văn phòng để vấn nạn chị một câu được lập đi lập lại nhiều lần: "Chị ở Pháp được đầy đủ tiện nghi, đời sống sung túc... Chị về đây làm gì? Chị là thành phần cộng sản Pháp, có phải chị về để làm gián điệp cho Pháp chăng?".

          ("Chị Hai Tôi", trang 302)

          Chị Hai có phải người Cộng Sản thuần túy không? Có lẽ là không. Chị vẫn còn nặng óc gia đình, đó là cái óc lụn bại của thành phẩn tiểu tư sản đối với Cộng Sản. Chị vẫn thương yêu cô em Minh Trí ương ngạnh của mình vì đương sự luôn tôn thờ chủ nghĩa Quốc Gia. Chị sau khi định cư ở Sài Gòn, vẫn tìm việc làm cho tác giả nhưng tác giả không thấy thích hợp ngành nghề nào mà chị Hai đề nghị. Riêng tác giả vẫn thương yêu thằng cháu Hiếu Bình của mình, vẫn vừa thương vừa giận người chị ruột của mình. Thế rồi tác giả cùng chồng con vượt biên, được định cư ở tiểu bang Oregon, trên đất nước Hợp Chúng Quốc.

          Tác giả vẫn thừa biết một điều: trong tận cùng sâu kín của ý thức, chị Hai vẫn thấy mình lầm. Nhưng tác giả cảm thấy thất vọng vì người chị ấy luôn bám riết cái lý tưởng sai lầm của mình và vào cái ảo ảnh của thiên đường cộng sản. Cho nên trong truyện "Thư Gửi Chị", tác giả đã viết:

          Tiếc rằng hai chị em mình chọn hai con đường khác nhau, hai ý thức hệ đối nghịch, hai chị em mình cách biệt hai chiến tuyến, dù chị Hai biết sự chọn lựa mình là sai lầm chị vẫn tiếp tục nhắm mắt phục vụ, không "phản bội đảng", sự lì lợm, ương ngạnh đó là do giòng máu của Ba chúng mình để lại, em không chấp nhận con đường chị đi nhưng đôi khi em phân vân không biết mình nên chê trách hay nghiêng mình kính phục chị ở sự trung thành, dù biết mình lầm nhưng vẫn không đón gió, trở cờ. Thôi đành vậy, đường ai nấy đi, em vẫn tự hứa "nhất định không về khi CS còn ngự trị trên đất nước Việt Nam của chúng mình".

          Hai mươi lăm năm, chị em mình như người xa lạ, không một bức thư thăm hỏi, không một gói quà chia xẻ những khó khăn chật vật mà em nghe về chị Hai, có nhiều lúc em tàn nhẫn tự bảo lòng: chị đã chọn thì chị phải chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của mình...

          ("Thư Gửi Chị", trang 294).

          Nhưng bởi sợi dây huyết thống thiêng liêng, bởi lòng vị tha mãnh liệt, bởi niềm thông cảm dạt dào, cho nên khi nghe thằng cháu Hiếu Bình của mình điện thoại báo tin chị Hai nằm bệnh viện chờ chết, tác giả vội vã về Việt Nam thăm chị lần chót để khỏi ân hận suốt đời. Và đương sự vẫn thương yêu thằng cháu như hồi 25 năm về trước.

          Chị Hai lạc đường là do lý tưởng tôn thờ sự công bình nhân ái đối với nhân loại, do sư yêu chuộng nền tự do độc lập dành cho xứ sở của chúng ta mà ra. Ở đây có một vận sự đau lòng mà chị Song Thi không nêu ra. Trên đất Pháp, sinh viên của nền Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã từng khổ sở điêu đứng bởi bọn đại sứ và bọn ngoại giao của hai nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa gây ra. Đó là bọn ngu xuẩn với căn tính ti tiện trên đội dưới đạp, làm nhơ nhuốc danh nghĩa ngành Ngoại Giao của đất nước Miền Nam Việt Nam.

          Chúng khinh rẻ sinh viên Việt Nam nghèo, ưa làm khó dễ đối với họ để nịnh bợ bọn con ông cháu cha. Trong khi đó, bọn đại sứ và bọn ngoại giao của phe Cộng Sản luôn o bế và giúp đỡ các sinh viên nghèo, dụ dỗ họ vào đảng hoặc gieo cho họ lý tưởng và mầm mống thiên tả, hay gieo cái ảo tưởng thiên đuờng được xây dựng tên Xã Hội Chủ Nghĩa của bọn chúng. Do đó mà các sinh viên Việt Nam trên đất Pháp bị lừa phỉnh. Kẻ nào hồ hỡi về phục vụ Việt Nam sau khi bọn giặc phương Bắc cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam, mới bật ngửa ra: mình đút cổ vào tròng dây thòng lọng. Như thế, cái nguyên nhân chính yếu, cái gốc rễ của hậu quả đắng cay đó có phải là do bọn ngoại giao, bọn đại sứ phe quốc gia gây ra không? Hỏi tức là trả lời vậy.


          o0o



          Thưởng thức văn chương của Song Thi, tôi liên tưởng tới văn chuơng của nũ sĩ Pearl S; Buck (đoạt giải Noobel văn chương năm 1939). Cả hai đều có bút pháp thiết tha, văn phong điềm đạm. Cả hai lại còn chân thành và thằng thắn, nhìn cuộc sống bằng trực giác, bằng thiên lương. Cho nên lối diễn tả của họ đều dồi dào trực tính, không ngụy trang lời dối gian hay che đậy những điều giả tạo.

          Thế có nghĩa là họ thấy sao viết vậy, không dùng lối văn uốn éo ruột rồng, lòng vòng rột rắn, lắn quắn ruột dê để làm dáng trí thức, hay ca tụng cái phù phiếm, cái se sua thối tha, hoặc vun quén cái thói đê tiện ác tâm của kẻ ngụy quân tử. Chúng ta thử đọc toàn bộ"Good Earth' gồm 3 quyển; "Good Earth ("Đất Lành", năm 1931), "Sons" (Những Người Con Trai", năm 1932), " và "A House Divided" ("Ngôi Nhà Chia Cắt", năm 1935).

          Chúng ta thấy nữ sĩ Pearl S. Buck ca tụng cái đảm đang hiền lành của lớp nông dân, sự tận tụy của những bà vợ quê mùa, những thanh niên ưu tư với vận mạng tổ quốc. Song song đó, bà công kích kẻ đầu cơ trục lợi, bọn thổ phỉ, bọn mất gốc chỉ thích hưởng thụ truy hoan, những kẻ cuồng tín theo Cộng Sản v. v....

          Song Thi không cốt ý theo dấu chân của Pearl S. Buck khi chị làm thơ mang nặng trách nhiệm với quê hương chủng tộc. Nhưng chị giống bà Pearl S. Buck là không ưa thi ca ủy mị, thi ca tán tụng cái đẹp phù phiếm, hời hợt, rổng tuếch. Trong cuốn thứ ba của bộ "Đất Lành", bà Pearl S. Buck đả kích thơ của anh chàng Wang Seng (Vương Tiên ) khi anh ta sáng tác loại thơ ca tụng cái đẹp chết chóc của cô gái tóc vàng trên một hải đạo tưởng tượng nào đó dưới ánh trăng.

          Song Thi cùng với Nhã Ca, Linh Linh Ngọc, Ngô Minh Hằng, Ý Nga, Tạ Tỵ, Diệu Tần, Hà Thúc Sinh, Lê Khắc Anh Hào, Hồ Công Tâm, Bắc Phong, Vũ Kiện, Phạm Quang Ngọc, Nguyễn Mạnh An Dân, Vũ Nam... là những chiến sĩ can trường trong cõi văn chương cũng như Nguyệt Ánh và Việt Dũng, Trương Sĩ Lương, Nguyễn Quyết Thắng... là các chiến sĩ đầy nhiệt huyết trong thế giới âm nhạc.

          --------------------------------
          1 Sài Gòn
          2 Huế
          3 Nha Trang
          4 Đà Lạt



          Hết Chương 5 - Xem Tiếp Chương 6


          sigpic

          Comment


          • #6
            Quê Nam Một Cõi

            Hồ Trường An

            Chương Sáu

            Tiểu Thu, Nhà văn nữ đi vào
            khu vườn kỷ niệm qua tập truyện
            "Tiếng Hót Vành Khuyên"





            Tiểu Thu là một nhà văn gốc Nam Kỳ, chuyên viết về kỷ niệm những ngày chị sống ở Cao Lãnh, Kontum và Ngả Năm Bình Hòa (Sài Gòn). Lác đác có vài truyện xảy ra trong khung cảnh thành phố Montréal (Gia-nã-đại). Nhưng từ thành phố định cư ấy, chị không quên viết những ngày hoa mộng ở trên 3 địa danh của đất nước Việt Nam mà tôi vừa kể.

            Tập truyện "Tiếng Hót Vành Khuyên" là tác phẩm thứ hai của nhà văn nữ Tiểu Thu, sau quyển "Sóng Nước Tình Quê" xuất bản vào năm 2003. Trong khi giao cho tôi bản thảo của tác phẩm thứ hai vừa đóng thành tập rất đẹp, tác giả có cho biết rằng chị đang đem in nó thành sách. Đây là công trình thập thúy tầm phương (gom góp lông chim trã và tìm hoa thơm) của tác giả.

            Chị đã kết tập những truyện ngắn đăng trên vài tạp san ở Canada, đặc biệt là tam cá nguyệt san Cỏ Thơm ở Virginia. Đây là sự đóng góp tích cực vào mùa văn chương ở hải ngoại dù đang lúc suy thoái, nhưng dù sao cũng vẫn còn tiềm lực như mớ than hồng âm ỉ cháy dưới lớp tro mỏng.

            Cũng như ở tác phẩm đầu tay, mạch văn của Tiểu Thu ở quyển sau vẫn trơn tru và thơm ngát tình quê gợi trên dòng liên tưởng người đọc các loại hương du như dầu mù u, dầu dừa chẳng hạn, khi dùng chúng thắp đèn thì ngọn lửa sáng trắng và tỏa hương thơm man mác. Văn phong của Tiểu Thu thao thao như nước khe ngòi ở đồng rưộng, từ gò nổng nhấp nhô tuôn xuống trũng thấp, xuống ao, bàu, lung, vũng, bật tiếng reo thánh thót và trong sáng.

            Chị viết văn rất dễ dàng, rất thoải mái, tràn đầy hứng khởi như cánh diều, dải phướn, lá cờ uyển chuyển bay trong cơn gió giữa thinh không bát ngát. Chị ít khi dùng tới lối viết miêu tả (la description) mà thường dùng lối thuyết thoại (la narration). Cũng như cụ Hồ Biểu Chánh hay cụ Vương Hồng Sển , chị kể chuyện tuồn tuột và ngon ơ, như nước trà Huế từ bình tích được rót ron rỏn vào chén sứ mỏng tráng men bạch ngọc.

            Lối kể chuyện của chị thật hồn nhiên, thật nhí nhảnh và duyên dáng. Nhưng trong lối kẻ chuyện ấy, biết bao hình ảnh kỷ niệm thân thương được hiện ra từng nét tượng hình tuy khái quát mà thật sắc sảo; những lời thuật sự tía lia, vo vảnh một cách nồng mặn.

            Đây là đoạn văn trong truyện ngắn "Dấu Ấn Cuộc Đời"; hai người bạn gái tâm sự dưới mái nhà ở thành phố Montréal, sau nhiều năm xa cách. Họ nhắc lại thời trung học:

            Trầm ngâm một chút Lan chợt hỏi Thư:

            - Mầy còn nhớ con Lệ Quân không? Nhà nó gần kho gạo.

            - Tao lạ gì. Hồi xưa nó học lớp tao. Rất thông minh. Cặp mắt nó vừa đen vừa sáng, lóng lánh như hai viên ngọc.

            - Tội nó lắm mầy ơi. Sau 75, tụi tao đã khổ mà nó còn khổ hơn. Vì chồng nó sĩ quan, lương còn chưa đủ sống, sau đó bị đi cải tao, nó làm vất vả nuôi con, bữa đói bữa no. Thằng chồng nó được thả về bèn vượt biên, hứa sẽ bảo lãnh vợ con sang sau. Ai ngờ qua được bên Mỹ, gặp mụ nặc nô cũng bỏ chồng. Hai đứa hạp nhau về cái món ... "gì" thì mầy biết rồi đó, bèn bỏ luôn vợ con bên nhà, đang mong ngóng từng ngày.

            Sau cùng con Lệ Quân rứt ruột cho con gái theo dì vượt biên. Chẳng hiểu lên tàu làm sao, mà con nhỏ rớt xuống biển hồi nào không ai hay! Thảm một cái là tới giờ, mỗi lần em nó viết thơ về, vẫn phải nói dối là con bé bình yên, khỏe mạnh. Không ai dám nói thật, vì nó có thể chết đi được Tôi nghiẹp, nó đâu còn trẻ trung gì để làm lại cuộc đời hả mầy. Cả đám tròm trèm nửa thế kỷ hết trơn rồi!

            - Ừ, ngày xưa nhìn nó lúc nào cũng cười, khoe hai cái răng khểnh, cặp mắt có đuôi. Ai ngờ đời nó thảm thương như vậy.

            - Chưa đâu mầy ơi! Mầy còn nhớ con Lan Đài bên lớp tao không? Con nhỏ tóc dài tới thắt lưng, điệu rơi điệu rụng đó. Sau này lấy tên Thanh, anh của nhỏ Hoàng lớp mầy. Sau 75, tên Thanh chạy tuốt qua Mỹ. Gia đình nhỏ Hoàng bị kiểm kê hết. Nghèo khủng khiếp! Mẹ nó từ một bà mệnh phụ phải gánh hàng ra chợ bán. Nhưng sau chịu không thấu, hai ông bà đều bịnh nặng. Túng cùng, con Lan Đài phải hy sinh lấy cán bộ dể đem tiền nuôi bố mẹ chồng. Nghe cứ như là chuyện cổ tích mầy há?

            Thư bùi ngùi:

            - Tao chỉ mong đây là những chuyện không có thật.

            Sau những tiếng thở dài sườn sượt thương cho số phận không may của đám bạn còn kẹt bên quê nhà. Cả hai im lặng một lúc, chợt Lan cười hi hí:

            - Con Lan Đài mặt coi hiền mà một cây đó mầy ơi. Tao nhớ năm đệ lục,

            đứa nào cũng ngố ơi là ngố ! Một bữa, giữa giờ ra chơi, bốn năm đứa vây quanh nó, dĩ nhiên trong đó có tao, nó bèn lấy giọng nghiêm trọng: -- Tụi bây phải nhớ cho kỹ. Đừng bao giờ để cho tụi con trai hôn lên má. Biết tại sao không? -- Cả đám ngố lắc đầu, nó giơ một ngón tay lên điểm điểm trong không khí và gằn từng tiếng cốt để cho những lời vàng ngọc của nó đi sâu vào đầu óc ngu ngơ đang chờ đợi kia: -- là vì khi được hôn lên má bên nầy, nó sẽ hôn tiếp má bên kia. Rồi nó sẽ hôn xuống miệng và lần lần xuống cổ... và sau đó (con bé dài giọng ra)... mình sẽ không biết gì nữa..! -- Cả đám ngố nhìn nó một cách vừa khâm phục vừa sợ hãi.

            Thư hình dung ra cái cảnh một lũ nhóc hỉ mũi chưa sạch, mặt nghệt ra vì sợ trước cái viễn ảnh bị con trai hôn mà cười chảy nước mắt. Nhứt là sự diễn tả của nhỏ Lan Đài tếu không chịu được. Chẳng bù với tụi nhỏ thời nay. Ở phòng mạch bác sĩ Quân, nhiều đứa mới 12 tuổi đầu mẹ đã phải dẫn tối xin thuốc ngừa thai.

            Lối miêu tả một vận sự dưới ngòi bút chạy thoăn thoắt như ngựa phi nước đại của Tiểu Thu chỉ gồm vài nét khái quát rồi bắt chuyền qua lối miêu tả một vận sự khác. Cũng có thể chúng ta nghĩ rằng tác giả trong lúc kể chuyện, có áp dụng một nghệ thuật tả cảnh tàng hình, nghĩa là chị không trình bày những nét tạo hình biểu kiến (có thể để cho chúng ta thấy được) của bối cảnh. Nhưng trong lúc kể chuyện, chị vẫn có đủ năng lực đưa độc giả đứng trước một khung cảnh hay một hoạt cảnh linh động, một và nhân vật sống thực v.v....

            Cứ như thế, chị có thể lần lượt tập hợp thành một bức tranh dù đơn sơ nhưng vô cùng linh hoạt. Đó là cách viết văn của các cây bút gốc Nam Kỳ rất hợp với tầng lớp độc giả có khiếu thưởng ngoạn đơn giản: họ chỉ cần thưởng thức cốt truyện, chỉ muốn thả tâm tư mình trôi theo từng diễn biến cốt truyện, không cần đi sâu vào những chi tiết miêu tả chi ly, tỉ mẩn đến độ mà họ cho là rườm rà vô ích. Với lối hành văn như thế này, Tiểu Thu đã có bạn đồng hành như Hải Bằng, Nguyễn Văn Ba... (nam), Phương Hoài Nam, Phượng Khánh... (nữ).

            Rồi vừa làm bếp, Thư vưa hồi tưởng lại thuở còn con gái, ở cái xứ Kontum xa tít mù khơi. Quãng đời đo sao mà êm đềm, vô tư lự! Ai chưa ghé qua Kontum, sẽ tưởng rằng nơi đó chỉ có núi rùng trùng điệp, cùng đám người thiểu số (mà dân Việt thường gọi là Mọi cà răng căng tai). Nhưng nếu ở qua, thì sau này, dù có đi tận chân trời góc biển nào, một phần trái tim cũng đã bị xứ Kontum nhỏ bé đó giữ lại! Dân nơi đây là một sự pha trộn của ba miền Nam- Trung - Bắc. Phong cảnh đẹp một các thơ mộng với con song Dakbla bao bọc chung quanh thành phố (có thể thật hiền hòa vào mùa nắng và rất hung hãn vào mùa mưa.

            Những cơn lũ lụt lắm khi cuốn trôi cả nhà cửa lẫn súc vật hai bên bờ) và thật hùng vĩ với những núi xa xa, mau xanh lam, thuộc dãy Trường Sơn trùng điệp. Cảnh đẹp và lòng người hiền hòa. Cao nguyên lạnh nên con gái cũng da trắng má hồng, không thua gì các tiểu thơ xứ Hoa Anh Đào. Điểm đặc biệt nữa là Kontum cát trắng, không giống Pleiku, dù chỉ cách 50 cây số, mà đất lại đỏ quạch. Mùa mưa rât dơ, mỗi bước đi, cặp chân cứ muốn dính chặt xuống mặt đuờng. Thư theo ba mẹ lên Kontum năm 12 tuổi, đúng lúc vào Đệ thất trường sơ. Những ngày đầu phải diện chiếc áo dài trắng, bước chân đi sao vướng lạ lùng.

            Đối với bé Thư ngây thơ đó, các chị Đệ ngũ, Đệ tứ, chị nào cũng đẹp như tiên. Nhưng vì tinh lẻ, nên sau lớp cao nhất là Đệ tứ, phần lớn các chị... theo chồng bỏ cuộc chơi hết trơn! Chẳng là Kontum có sư đoàn 22 Bộ Binh đóng. Sĩ quan đông, nên chỉ cái e lệ gật đầu là các cô trở thành bà úy, bà tá ngay ( học nhiều làm gí cho nó mau tàn phai nhan sắc! ).

            Nếu đã từng đọc qua "Sông Nước Tình Quê" rồi đọc "Tiếng Hót Vành Khuyên", chúng ta sẽ thấy Tiểu Thu yêu thích tuốt luốt những địa danh, những xứ sở mà chị đa từng định cư như Cao Lãnh (Sa-Đéc), Kontum, Ngả Năm Bình Hòa (Sài Gòn), Montréal (Canada). Bất cứ địa danh nào mà chị cư ngụ trong một thời gian dù dài dù ngắn cũng cho chị nhiều kỷ niệm thân thương, niềm lưu luyến sâu đậm huống hồ la những món trân cam giai nhục cùng thổ sản thủy sản ở những nơi đó.

            Trừ Montréal ra, các địa danh kia khi đi vào văn chương của Tiểu Thu mang ít nhiều bóng dáng tuổi trăng lên hoa nở của chị. Trăng phì mỹ và sáng như gương chiếu trọn tấm lòng thanh thản, hoa phô sắc bừng hương khắp một góc nhỏ của vườn đời của một cô nữ sinh yêu nồng nàn cuộc sống.


            o0o


            Tập truyện " Tiếng Hót Vành Khuyên" gồm 10 truyện ngắn. Xin tóm lược mỗi truyện ngắn như sau:

            * "Cô Nam Kỳ Đáng Yêu": Đây là cảnh gia đình bà quả phụ Tân thuộc hạng địa chủ. Bà có 3 người con: Cậu trai lớn lưu học ở Sài Gòn. Cô cô gái kế tên Trang sau khi học xong lóp nhứt, lại phải ở nhà lo trau giồi nữ công phụ xảo theo truyền thống của các thiếu nữ theo lễ giáo gia phong thuở cựu trào. Còn cô con gái út tên Cúc thì còn ở quê nhà học bậc tiểu học. Vào dịp nghĩ Tết, Thanh rủ anh ban thân người Bắc tên Huy xuống quê mình ăn Tết với gia đình mình.

            Tại đây, Huy và Trang phải lòng nhau. Dù ngôn ngữ bất đồng, dù có thành kiến lệch lạc, nhưng cả hai vẫn yêu nhau và đi đến cuộc hôn nhân hạnh phúc. Kết cuộc câu chyện đẹp như chuyện cổ tích Đông Phương lẫn Tây phương hay như chuyện thiên phương dạ đàm của xứ Ba Tư. Ở đây, tác giả làm sống lại cái Tết cổ truyền trên dải đất Nam Kỳ Lục Tỉnh:

            Những ngày sau đó Thanh, Huy dọn dẹp nhà cửa đón Tết. Trước sân nhà ông nội có cây lão mai. Năm nào Thanh cũng xin một cành cắm vào cái độc bình da rạn có vẽ bát tiên màu xanh, đặt bên cạnh bàn thờ ông Tân. Chiéc lư đồng được đánh bóng ngời. Mâm ngũ quả chưng trái cây tuơi hực hỡ.

            Trang o bế nồi thị kho nước dừa với trứng, cá lóc thiệt ngon để ba ngày Tết ăn với bánh tét. Vui nhứt là chiều ba mươi, cả nhà thức canh nồi bánh. Bánh tét nấu trong chảo đụn. Hai người mới khiêng nổi cái chảo đặt trên ba ông đầu rau ngoài sau hè. Phải canh chừng cẩn thận vì đôi khi bánh không cánh mà bay đi mất tăm, chủ nhà chỉ có nước đứng chửi đổng cho đỡ tức! Bốn người ngồi chung quanh nồi bánh.

            Củi khô nổ tí tách, thỉnh thoảng văng tàn đỏ như pháo bông. Thanh và Huy thay nhau kể chuyện vui khiến Trang và nhỏ Cúc cười lăn chiêng, quên cả buồn ngủ. Tới giao thừa thì bánh vừa chín. Bà Tân cúng giao thừa đón năm mới, rồi mọi người đi ngủ.

            Sáng hôm sau khỏi cần kêu réo, ai cũng tự động dậy thiệt sớm để sửa soạn. Hai tên đực rựa chỉ diện quần tây, áo sơ-mi là xong. Thanh pha hai ly cà phê rồi ngồi nhâm nhi với Huy trong khi chờ đợi phái nữ làm đẹp. Bà Tân coi cũng khá mặn mà trong chiếc áo dài gấm màu huyết dụ, nổi bông mai lan cúc trúc vàng ánh. Cổ đeo chuỗi hột vàng, bông tai vàng. Chiếc cà rá hột xoàn chiếu lấp lánh nơi ngón áp út Mái tóc muối tiêu bới như thường ngày, chỉ có giắt thêm cây trâm vàng tám cẩn hột trai óng ánh. Nhỏ Cúc từ trong phòng chạy ào ra như cơn lốc:

            - Anh hai, anh Huy coi em đẹp không nè?

            Thanh chọc em:

            - Nhỏ nầy miệng còn hôi sữa... bò mà đã điệu quá trời!

            Cúc chu mỏ:

            - Xí em mà còn hôi sữa hả? Cho anh hay trong lớp em...

            Huy lật đật chen vô:

            - Anh Thanh trêu bé thoi. Bảo đảm bé Cúc của anh xinh nhát. Chiếc áo đầm

            thêu hoa cúc tuyệt quá. Trông bé xinh như cô Công Chúa Bạch Tuyết.

            Cúc ngơ ngác:

            - Công Chúa Bạch Tuyết là ai vậy anh Huy?

            - Là cô Công Chúa trong chuyện cổ tích. Thôi, để lần sau anh sẽ mang về tặng Cúc quyển "Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn".

            Đang nói chợt Huy ngưng ngang, mắt nhìn sững về phía buồng của hai cô gái. Trang từ trong đó bước ra. Huy nhắm mắt lại rồi mở to ra tự nhủ có thể nào là cô Trang của những ngày trước đây??? Cô nàng thấy Huy nhìn mình đăm đăm thì mắc cở hai má đỏ hồng. Thanh quay qua thấy mặt Huy thộn ra coi thiệt tức cười, bèn đưa bàn tay quơ qua quơ lại trước mặt bạn, miệng hô lên:

            - Bớ ba hồn chín vía thằng Huy. Có lạc ở đâu thì về cho mau.

            Trang mắc cở:

            - Anh hai. Bộ hổng chọc người khác anh ăn mất ngon hả?

            Huy đập vai ban:

            - Thôi mày. Bữa nay mồng một, cấm chọc giận người khác.

            Thanh làm bộ ngó trời ngó đất:

            - Thiệt la quá, đâu có mưa gió gì mà sao có người bị sét đánh trúng vậy kìa? Phải không Huy?

            Huy cười đáp lững lờ:

            - Ừ, thì cũng có chút chút!...

            Từ trước tới giờ, Thanh vẫn coi hai cô em còn nhỏ dại lắm. Bữa nay thấy thằng bạn thân bị em mình hớp hồn, Thanh mới để ý dòm kỹ và bỗng cảm thấy lần đầu chàng mới thật sự nhìn thấy em. Cái áo nhung màu hồng đào tôn làn da trắng mịn của Trang đẹp lên bội phân. Cặp lông mày nhổ khéo khiến đôi mắt đen huyền như to hơn. Nàng đánh phớt một lớp phấn hồng lên má và đôi môi cũng được tô lớp son hồng lợt.

            Cổ chỉ đeo cây kiềng vàng trơn. Tai đeo đôi bông hột xoàn nhỏ nhưng chiếu lấp lánh. Ngón tay giữa đeo chiéc cà rá nhận hột trai thật đơn sơ. Tóc chải kiểu tango phồng trước trán và mái tóc bữa nay được kẹp bằng chiếc nơ cùng màu áo. Ử, con nhỏ coi cũng đẹp quá, hèn chi...

            * "Tiếng Hót Vành Khuyên": Đây là hồi ức của cô Mai, sau khi nghe bài hát "Trường Làng Tôi" trong buổi tối văn nghệ trường Chu Văn An.

            Khi còn thơ ấu, cô bé Mai học ở các trường tại làng Tân An thuộc quận Cao Lãnh. Trường gồm hai lớp chót do thầy Tánh đảm nhiệm. Muốn đi đến truờng phải trẩy đò ngang do người cha nuôi của Mai đưa đò. Sau đó là ngôi trường chỉ có lớp năm do chú họ của Mai tên Thuận dạy. Chú vừa dạy học vừa hành nghề xem mạch hốt thuốc.

            Năm sau, Mai không rõ vì nguyên nhân gì mà chú Thuận dẹp trường. Nguời chú họ khác tên Sáu Lân mở trường gồm ba lớp. Trường có cô giáo Bích và cô giáo Liêu. Cô Bích và ông hiệu trưởng Sáu Lân phải lòng nhau. Nhưng cha mẹ chú bắt chú cưới cô gái nhà giàu tên Thu làm vợ. Chú đành chiều theo cha mẹ, nhưng vẫn còn thậm thụt dan díu với cô Bích. Bà vợ nổi ghen đánh ghen một trận, cô Bích phải xin đổi đi tỉnh khác.

            Khi Mai lên lớp nhì, phải theo mẹ qua Phong Mỹ để tiếp tục việc học. Trường có bốn lớp năm, ba, tư, nhì. Thầy Hiệu trưởng Lương người Bắc tốt nghiệp trường Sư Phạm, khi đổi về Phong Mỹ có mẹ theo. Bà cụ nhứt định cưới cô Bạch thùy mị đoan trang cho con trai mình. Nhưng thầy đang tự tình với chị Kim Sa cùng ngồi lớp nhì với Mai. Đám cưới vừa tổ chức thì gia đình Kim Sa thưa với Hội Đồng Xã là thầy Lương dụ dỗ chị Kim Sa tơi nỗi chị mang bầu.

            Thầy bằng lòng bãi hôn với chị Bạch và chịu cưới Kim Sa, chịu trách nhiệm là tác giả cái bầu... giữa tiếng khóc bù lu bù loa của bà mẹ. Thì ra thầy âm mưu với Kim Sa tạo ra cái bầu chỉ ở cái miệng gia đình của Kim Sa mà không hề có cái thai nằm trong cái bầu. Và chẳng hiểu cả hai có làm cái vụ tiền dâm hậu thú hay không? Thế là bà cụ đành cưới chị Kim Sa cho con trai mình.

            Truyện ngắn này được diễn tả bằng lời thuật véo von, nêm thêm mắm muối, rắc thêm tiêu tỏi hành ớt, đủ cả... Tác giả không quên kể luôn thằng bạn trong lớp ve vãn Mai, ngoài cách vẽ hình hoa lá rất đẹp mà còn ngó lén cô bé nũa. Văy Mai là ai? Hỏi tức là trả lời rồi. Vì có ai ngoài cô bé tiền thân của nữ sĩ Tiểu Thu chớ ai trồng khoai đất nầy?

            * "Thằng Luợm": Đây là đứa con nuôi của vợ chông Sáu Hiến. Vợ thì thương yêu nó bằng tám lòng ngưòi mẹ, còn chồng thì chẳng đối xử khắc bạc gì với nó, phiền một nỗi mỗi khi say rượu ưa về nhà đánh chưởi vợ con. Chú Sáu không có việc làm nên ngày ngày đặt trúm, nôm cá để kiếm ăn. Còn thím Sáu giúp việc cho ông bà Hội Đồng Vị. Bạn thơ ấu của Lượm là con Hiếu. Cha của Hiếu nuôi rẻ con trâu của Hương Quản Cư.

            Trâu chết, cha của Hiếu không có tiền bồi thường, phải ngồi tù. Mẹ Hiêu bắt con chị lớn của Hiếu ở đợ dể lấy tiền độ nhật Đã vậy mụ sanh tâm ngoại tình với chú Tư Lầu. Biết Hiếu nghèo khổ, bữa đói bữa no, Lượm tìm cách giúp đỡ con Hiếu bằng cách san sẻ miếng ăn cho Hiếu.

            Tình cờ trong lúc gây gổ với thằng bạn cùng lớp, Lượm bị nó chửi là con hoang Về nhà Lượm hỏi mẹ. Thím Sáu xác nhận vì không con nên bà xin đúa con trai người bạn của anh mình trên Nam Vang để nuôi lấy hên, để mai sau mình sẽ được chửa ghén sanh nở. Thằng con nuôi đó chính là Lượm vậy.

            Nhà ông bà Hội Đồng Vị có cô con gái tên Tố Oanh cùng chồng con từ Sài gòn về chơi, lại còn rủ thêm bà bạn tên Ái Loan. Lượm được đề cử lau chùi bàn ghế để đón khách và nhứt là bậu bạn với con gái bà Ái Loan tên Cúc Phương lên mười cùng hai con cô Tố Oanh là con bé Tố Ái lên tám và thằng bé Linh lên mười.

            Lượm bày đủ trò chơi cho 3 đùa trẻ nên được chúng nó mén. Riêng bà Ái Loan cũng cảm thấy mình quyến luyến thương yêu thằng Lươm mà không hiể tại sao? Một hôm nọ vì muôn hái bông sen cho Tố Ái, Lượm ngã xuống ao sen, mình mẩy ướt mem. Bà Ái Loan cổi áo nó, lau mình mẫy cho nó, khám phá cái bớt son trên ngực nó. Bà sực nhớ thuở xưa mình là người đẹp tỉnh Bình Dương đã từng yêu một thanh niên tên Sơn; cả hai dan díu nhau, cô thiếu nữ Ái Loan kia có bầu.

            Cha mẹ nàng bảo bà vú đưa nàng lên Đà Lat sanh nở rồi đem con trai tư sinh kia cho một cặp vợ chồng ở tận Nam Vang và bắt buộc nàng phải lấy Thuần, bạn của Hưng (anh của nàng) vì cha mẹ Thuần và cha mẹ Ái Loan đã đính hôn cho hai trẻ.

            Vụ cưỡng hôn chỉ tạo tấm thảm kịch đồng sàng dị mộng cho Ái Loan. Ròi sau đó Ái Loan mang bầu, Thuần khám phá ra vợ mình đã có con với người khác trước khi kết hôn với mình. Đứa con trong bụng nàng không phải là con đầu lòng của nàng, mà là thứ con rạ. Ái Loan sanh cho Thuần đứa con gái đặt tên Cúc Phương. Cả hai cứ gay cấn lục đục với nhau đi đến chỗ ly dị khi Sơn cùng dạy chung trường trung học với Hưng và tìm cách thăm Ái Loan với tư cách người bạn. Thuần ghen tưông dằn thúc nàng nên nàng xin ly dị, sống quãng đời cô đơn với con gái.

            Thấy được bớt son trên ngực Lượm, bà Ái Loan liền về Sài Gòn hỏi bà vú của mình về việc cha mẹ mình đem con mình cho người khác ở nơi thật xa. Bà vú khai thiệt mọi sự. Á i Loan tìm gặp lại Lượm. Tác giả Tiểu Thu đã thay thế Ngọc Hoàng Thượng Đề giũ sổ một cuộc hôn nhân cưỡng ép và làm cho mẫu tử được trùng phùng. Chưa hết đâu, trong lúc Lượm đi ra đám bắp, chị thay Ngọc Hoàng bày cho nó gặp một cảnh đánh đô vật ạch đụi giữa chú Tư Lầu và má con Lượm trong ruộng bắp. Eo ơi, chị có bao giờ để cặp mắt nghịch ngợm của chị thoát khỏi chuyên lạ lùng đối với trẻ nít nhưng rất... hấp dẫn đối với người lớn đâu?

            ... Ăn cơm trưa xong, thằng Luợm theo lời dan của má nó, đi ra ruộng bắp của chú Tư Lầu mua một chục. Nó băng qua lộ mới thì tới ruộng bắp xanh rờn. Những trái bắp no tròn nằm xiên xiên trên những cái lá dài, uốn éo, phất pho theo chiều gió. Lượm tới cái chòi lá nhưng không thấy chú Tư Lầu đâu cả. Nó nghĩ chắc chú đang hái bắp đâu đây, nên cứ vạch lá đi theo luống dất giữa hai hàng cây thẳng tắp.

            Đang đi bỗng nghe có tiếng gì là lạ nên nó dừng lại ngó dáo dác. Hình như có tiếng rên rỉ đâu đây. Lượm vảnh lỗ tai lên nghe, rồi lần lần theo tiếng rên đi tới. Bỗng nó sựng lại vì cách chừng đó hai ba luống bắp, thấp thoáng sau những cây bắp sai oằn trái, rõ ràng là chú Tư Làu và má con Hiếu đang... dánh nhau! Hình như tiếng rên đau đớn là của má con Hiếu. Thằng Lượm hoảng hốt thối lui ra khỏi ruộng bắp, chạy một mạch về kiếm con Hiếu. Con nhỏ đang ngồi truớc hàng ba nhìn vơ vẩn ra đường, mặt lộ vẻ buồn thiu. Thằng Lượm vừa kéo tay con nhỏ vừa lắp bắp:

            - Theo tao lẹ lên. Má mầy với chú Tư Làu đang vạt lộn ngoài đám bắp.

            * " Mình Ơi!". Đây là hai câu chuyện hôn nhân của một người đẹp tên

            Thanh Mây ở Đốc Vàng. Cô là con của bà Hương Hào Bá, chủ nhân tiệm bán hàng vải khá giàu. Qua cô bạn Ngọc Châu, cô được quen với cậu Út Nhơn, con ông bà Hội Đồng Đáng ở Long Xuyên nổi tiếng giàu có danh giá. Cậu tìm cách ve vãn Thanh Mây và kỳ kèo với mẹ để cưới Thanh Mây cho bằng đưọc. Bà Hội Đồng Đáng cũng chiều con nên đi dạm hỏi Thanh Mây cho con. Nhưng bà Hội Đồng Đáng tỏ lời chê bai với má của Ngọc Châu rằng bên bà Hương Hào Thi không môn đăng hộ đối với gia đình mình.

            Lời chê đó lọt vào tai cô Kim Anh, cô nầy từ lâu vốn thèm thuồng được làm vợ cậu Út Nhơn. Kim Anh tìm cách thuật lại lời miệt thị của bà Hội Đồng cho Thanh Mây nghe. Vì tự ái và cũng vì chưa yêu Út Nhơn sâu đậm nên Thanh Mây buộc mẹ hồi hôn. Sau đó ít lâu, qua trò mai mối của người bác dâu, Thanh Mây được bà Cả Trọng dắt con trai là cậu Tư Tân đến nhà bà Hương Hào Bá để coi mắt Thanh Mây cho cậu Tư. Cậu Tư nầy quá đẹp trai gặp một cô nàng Thanh Mây yêu kiều diễm lệ thì dĩ nhiên hai bên gây cú sét nổ rầm rĩ cho nhau. Thế là cuộc hôn nhân thành tựu tốt đẹp.

            Nhưng khi về nhà bà Cả Trọng làm dâu, Thanh Mây mải mê lo việc quán xuyến tề gia nội trợ mà thiếu mặn nồng với chồng. Cậu Tư Tân ngoại tình với cô Kim Phụng. Cô này là con người tá điền của ông Cả Trọng. Mợ Tư Tân được cô em chồng thóc mách nên tìm cách bắt quả tang chồng mình tổ chức làm đám... cưới lén lút với Kim Phụng mà lễ cưới chỉ có chú rể và cô dâu. Mợ toan làm dữ thì ông chồng lẹ tay xớt vợ lên xe đạp đưa vợ về nhà để năn nỉ xin vợ tha tội.

            Thấy vợ chịu mở miệng, cậu Tư mừng húm, đi bằng hai đầu gối, sấn tới:

            - Thôi, thôi mình tha thứ cho anh nghen mình. Anh thề mà. Cô Phụng thì

            cũng là chơi qua đường. Anh chỉ thương một mình thôi. Anh nói láo Bà bắn.

            Mợ Tư trề moi, xí một tiếng dài thòn đượm mùi khinh bỉ:

            - Thiệt tình, Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê hồi xưa chắc cũng còn thua

            anh xa. Bữa nay rán mà suy nghĩ lại đi. Hồi nào tới giờ anh hứa, anh thề có bao nhiêu lần, mà có lần nào anh giữ lời được hay không?

            Mợ càng nói càng tức tưởi. Cậu Tư vẫn còn quỳ, thấy vợ nói vậy thì lật đật ôm giò của mợ đang thòng dưối đất:

            - Không không, lần nầy anh nói thiệt. Anh thề độc cho mình tin.

            - Thôi đi. Độc tới cỡ nào tui cũng đã nghe đầy hai lỗ tai rồi. Nếu lần nầy anh thành tâm thì rán quỳ đó cho tới sáng.Tui mệt lắm rồi. Bây giờ để yên cho tui ngủ.

            Mợ nói xong thì nhẹ hất cặp giò để rút khỏi vòng tay ông chồng đang ôm cứng ngắt. Không ngờ cậu cũng quyết bám trụ tới cùng, không chịu buông ra. Hai bên giằn co níu kéo một hồi, cái quần lãnh Mỹ A lưng thun láng mướt chống cự không nổi... Cậu thừa thắng xông lên , vì biết đây là cơ hội cuối cùng có thể làm xiêu lòng bà vợ đang giận cậu tái tê! Con bé Thanh My ra đời chín tháng mười ngày sau đó.

            Vẫn là một đề tài cũ của các cây bút viết truyện đồng quê, vẫn là cách diễn tả nghịch ngợm với giọng điệu líu lo trong bút pháp của tác giả, nhưng cái hấp dẫn của câu truyện như lúc nào cũng mới đối với kẻ tha hương ôm nặng tình cố hương thuở còn bán khai với tập tục cổ truyền và với thứ tình cảm đơn giản mà lại đượm đà niềm thiêt tha của dân tộc.

            * "Thoáng Hương Xưa": Cùng với "Dấu Ấn Cuộc Đời", truyện ngắn này

            là đề tài sâu sắc nhất trong tập truyện. Truyện đầu như sau: cô Kim, thư ký của Bác sĩ Thanh. Trong cuộc du ngoạn ngắn, cô đi ngang qua ngôi nhà đóng cửa kín mít của cặp vợ chồng bổn xứ là Jacques và Marie Trudeau. Họ đã lần lượt qua đời cách đây ba tháng. Cả hai cứ cãi vả hà rầm suốt trên 60 năm chung sống. Thế mà sau khi chôn cất chồng xong , bà Marie nhứt định không ăn uống để từ từ theo chồng về bên kia thế giới.

            Trở về phòng mạch, Kim gặp người da đen tên Valentin làm việc ở Caisse Populaire đến xin khám bịnh nhức đầu vì theo lời hắn, dù làm việc siêng năng, nhưng tại sao hắn vẫn bị mấy cô bạn đồng nghiệp da trắng chê hắn ta lười biếng. Hắn nhứt đầu vì lời chê bất công ấy đã đành mà cũng có thể hắn nhức đầu vì tại sao người da trắng khinh thường người da đen.

            Người đến thứ hai là ông già Phan. Ông cho Kim biết vợ chồng ông về viếng tỉnh Châu Đốc, nổi tiếng có nhiều mắm ngon nhất Việt Nam. Bà vợ mê ăn đủ thứ mắm nên bị đứt mạch máu chết đi để ông ở lại cô đơn.

            Rồi tên Jacques Gagné vốn là dân Canadien 100 % và cũng vốn là thứ ký sinh trùng ăn bám xã hội. Thân thể, tóc tai hắn bẩn thỉu; mùi hôi nồng nặc tỏa ra tùm lum tà la. Hắn đến xin thuốc ngủ vì từ ngày chí tối, hắn chỉ coi Tivi và uống bia lu bù.

            Đang lúi húi xếp hồ sơ thì Kim nghe cô bạn Mai báo tin gia đình vợ chồng cô Nga tan nát vì bà mẹ chồng ó đâm dèm pha để gây xào xáo cho vợ chồng con trai mình. Cho nên từ chỗ cãi vả đi đến chỗ thằng con điên tiết đánh đập vợ thừa chết thiếu sống. Nga phải nhờ cảnh sát can thiệp và được cùng đứa con tạm trú nơi cơ quan bảo vệ phụ nữ. Còn ông chồng bị đưa vào bịnh viện tâm thần. Ác nghiệt cho hoàn cảnh hơn nữa là Nga đang mang bầu được 3 tháng.

            Về những tấm thảm kịch gia đình kiều bào, Kim nhớ lại một ông già nọ được con bảo lãnh qua Canada. Ông vui sống với công việc làm vườn. Dè đâu một ngày nọ ông bị cảnh sát hỏi tội vì ông đái bậy trên sở vườn của mình nên bị người hàng xóm thưa với các đấng "bạn dân" rằng ông cốt ý "khoe của". Ông già tức giận đòi về Việt Nam để được tự do "tưới cây", chẳng sợ ai làm mỏng làm dầy, làm khó làm dễ...

            Người khách sau cùng là cô nữ quái bụi đời vốn dân bản xứ đến xin thuốc ngủ lẫn thuốc an thần vì thằng bồ của ả đánh cướp nhà băng bị tù nên thần kinh ả căng thẳng.

            Cuối truyện là Kim bắt gặp mùi nước hoa ở đâu thoảng đến. Kim nhớ đến cô bạn chí thân ngày xưa tên Lệ Hồng. Cô ta chỉ thích nước hoa hiệu Tabu, không chịu thay dổi thứ nào khác. Kim nhớ luôn bao kỷ niệm giữa Kim và cô ta trên đất nước quê hương trong tuổi thanh xuân lãng man mộng mơ.

            *"Dấu Ấn Cuộc Đời:' Trong truyện ngắn này, tác giả Tiểu Thu dựng hai cảnh chị em thỏ thẻ trong đêm dưới mái nhà của cô Thư tại thành phố Motréal (Gia-nã-đại). Lần đầu, Thư và Lan đôi bạn cũ học trường sơ ổ Kontum sau nhiều năm xa cách được dịp hàn huyên trong chuyến Lan đến Montréal viếng Thư. Lan kể hoàn cảnh bi đát của hai cô ban chung là Lệ Quân và Lan Đài. Xin xem lại đoạn kể được bút giả trích ra ở phần đầu bài viết này. Trong đêm tâm sự đó Thư có nhắc tới Kim Ánh, cô bạn chung thứ ba vốn là đầm lai xinh đẹp. Trước đó, Kim Ánh có phone từ Mỹ cho Thư có hẹn qua Motréal thăm Thư.

            Ít lâu sau đó, cũng lại có màn chị em thỏ thẻ đêm thanh vắng. Kim Ánh kể lại cuộc đời ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh của mình cho bạn nghe. Truyện kể như sau: Kim Anh nghe lời đường mật và tin tưởng cái xảo kế điêu mưu của Minh để gặp cảnh chồng chúa vợ tôi, gặp bà mẹ chồng lựu đạn nên cực nhục trăm bề.

            Khi Cộng Sản xâm lăng miền Nam, Minh đi học tập. Bà mẹ chồng sợ con dâu lai Âu của mình sẽ gây cho bọn Cộng Sản làm khó dễ mỉnh nên đuổi 8 mẹ con Kim Ánh ra khỏi nhà. Sau thời gian điêu đứng, Kim Ánh gặp quới nhơn giúp đỡ buôn bán thuốc Tây nên sống khá vững. Cô gặp được anh chàng quân tử tên Phương giúp cho hai đứa con trai đầu của cô vượt biên bằng đuờng bộ. Còn hai đứa con kế trong chuyến 6 mẹ con vượt biên bằng đường biển thất bại, bị mất tích.

            Sau đó, Kim Ánh được Hội Hồng Thập Tự cho biết hai đứa con mất tích kia đã được một gia đình bên Mỹ bảo lãnh. Lần vượt biên thứ ba, Kim Ánh lại bị thất bại, bị tù, nhưng nhờ chàng quân tử tên Phương kia tim cách giúp cô được phóng thích để cùng nhau trở thành vợ chồng và cùng vượt cbiên trót lọt qua Mỹ. Sau thời gian lận đận trong cuộc mưu sinh tại xứ người, nhờ nghề bán fastfood với các món ăn Việt Nam mà Kim Ánh trở nên giàu có dể nuôi 10 đứa con (8 đứa con em, 1 đứa con anh và 1 đứa con của chúng ta).

            Bao giờ cũng vậy, Tiểu Thu không bao giờ ly khai lối viêt tếu đậm tếu lợt. Xen giữa từng đoạn kể lể từng tấm thảm kịch kinh hoàng trong cuộc đời, hễ được dịp tốt là chị xỉa vài câu trào lộng, vài cụm tu hoặc vài ngữ pháp nghịch ngợm, ranh mãnh ranh mương. Cho nên những kẻ nào "lỡ" đọc văn chương của chị, bút giả bảo đảm chẳng có ai có thể ngủ gục trên trang sách cả. Đó là cái triết lý vui sống luôn luôn tươi rói của chị: Dù đời có ra sao thì hãy cứ vui lên, vui được lúc nào hay lúc ấy, dù vui một ngày, dù vui một giờ, "dẫu một phần ba phút, góc tư giẫy" (nói theo Nguyễn Bính) đi nữa.

            * "Dưới Cội Sung Già": Truyện gồm hai thế hệ: đời bố mẹ và đời con. Số

            là Hậu và Lãng là đôi bạn thân; cả hai cùng đeo đuổi Cẩm Vân. Rốt cuộc, Hậu chiếm được trái tim người đẹp và cưới Cẩm Vân làm vợ. Lãng đau khổ, cưới Mai làm vợ nhưng không yêu vợ. Cẩm Vân sanh cho Hậu một trai, đặt cho nó cái tên Tú . Còn Mai sanh cho Lãng một trai tên Đức và một gái tên Liễu Nhu. Nhưng khi sanh đứa thứ ba xong, Mai chết trong lúc Lãng ở sòng bạc.

            Chàng quyết tâm báo thù Hậu, dụ dỗ Hậu bài bạc. Cẩm Vân tìm Lãng năn nỉ Lãng đừng đưa chồng mình ngã vào bức tường thứ ba trong tứ đổ tường (tửu, sắc, tài phiến). Nhưng vốn đa lập tâm báo thù thì Lãng vẫn tiếp trục đẩy bạn vào con đường cùng của thú đỏ đen. Rốt cuộc, vì tiêu tan sự nghiệp và thiếu nợ như chúa Chổm, Hậu tự tử. Cẩm Vân kìa khỏi tỉnh nhà, sau khi thống trách Lãng dữ dội. Ngôi nhà của Hậu bỏ hoang, người trong xóm đồn rằng đêm đêm có vong linh Hậu hiện về.Vài năm sau, Cẩm Vân tái giá với một phú thương Hoa Kiều ở Nam Vang, nuôi con trai là Tú ăn học thành tài.

            Tú trở về sửa sang căn nhà của thân phụ, nhưng giấu người lối xóm tên thật của mình. Chàng xưng là Hoàng, tìm cách quen biết Liễu Nhu, con gái của Lãng và Mai. hiện giờ cô thiếu nữ ôn nhu xinh đẹp kia đang ở chung với bà nội và người vú. Vtrong khi quyết chiếm đoạt trái tim của nàng. Tú nhận thấy Liễu Nhu là một cô thiếu nữ hiền hậu, giàu lòng nhân từ, thường giúp đỡ dân nghèo trong xóm.

            Lúc đó chàng mới thú thật mình là Tú rắp tâm về Sa Đéc để quyến rũ nàng ô danh xú tiết bằng cách đưa nàng vào cảnh mang hoang thai để báo thù kẻ làm hại cho chàng tự tử, cua nhà chàng tan nát. Chàng còn cho Liễu Nhu biết rằng sau khi suy đi nghĩ lại, việc báo thù rửa hận chỉ gây thêm cái ác nghiệp oan oan tương báo mà thôi; huống hồ chàng chân thành yêu nàng bằng cả con tim nguyên vẹn. Vả lại, Tú cũng đuọc biết ông Lãng cũng đã từng tỏ lời hối hận với bà Cẩm Vân trước khi bà bồng con đi xa. Tú xin cưới Liễu Nhu làm vợ và được nàng nhận lời.

            Cốt truyện hơi giống các cuốn phim tình cảm xã hội Ý-đại-lợi đã từng đưa tên tuổi các diễn viên Ý và diễn viên Âu Châu, Mễ-tây-cơ lên đài vinh quang như Marta Toren, Maria Félix, Yvonne Sanson, Yvonne Furneaux, Nadia Gray, Anna Maria Ferrrero, Gianna Maria Canale, Lucia Bose, Eleonora Drossi Drago, Eva Bartok, Rossana Podesta, Silvanna Pampanini, Antonella Lualdi... (nữ), Amédéo Nazzari, Ettore Manni, Jacques Sernas, Franco Interlenghi, Tomas Milan, Pierre Crossoy, Vittorio Gasmann, Pedro Armendariz (nam)...

            Nhưng ở đây, tác giả tiết kiệm súng đạn, gươm giáo, máu me và ác mộng hơn. Nhờ cái kết cuộc chói chan màu hồng hạnh phúc nên các độc giả bà già trầu têm cho mình một miếng trầu ngon, các độc giả ông già ống vối nhồi thêm thuốc lá Gò Vấp vào tẩu thuốc, các người trẻ tuổi trổi giọng du dương ; họ vừa hút thuốc hoặc ăn trầu, ca hát vừa hả hê thưởng thức cái hậu tốt lành của truyện kể dưới ngòi bút của nhà văn nữ đất Cao Lãnh này.

            * "Đời Còn Có Nhau": Đây là tình sử của cậu Út Hào, con ông Hội Đồng

            Phú, tốt nghiệp trường Đại Học Dược Khoa về quê vinh quy bái tổ. Cha mẹ cậu đã chọn cô Thu Thảo dung nhan sắc sảo, con gái bác sĩ Đương cho con mình cưới làm vợ. Nhưng khi về quê nhà, cậu nhận thấy Lụa, con gái mụ tớ Hai Nhiên trổ mã mỹ miều , đâm ra thèm khát cô ta nên tìm cách quyến rũ cô ta, chiếm đoạt tấm băng trinh cô ta. Sau đó, cậu cưới Thu Thảo. Hai vợ chồng chẳng những môn đăng hộ đối, lại còn đẹp đôi nên cả hai mê man tàng tịch với nhau. Lụa sau lần ân ái với cậu Út Hào lỡ mang thai. Ông bà Hội Đồng cho mẹ con thím Hai Nhiên một số tiền bảo họ bỏ đi cho thật xa.

            Ai dè trong chuyến đi ra Vũng Tàu hứng mát, cậu Út Hào bị tai nạn xe hơi, rồi bị chứng bất lực sinh lý. Từ đó vợ chồng cậu sống trong cảnh đồng sàng dị mộng. Thu Thảo thường vắng nhà để lui tới với người ban trai cũ. Bà Hội Đồng Phú buồn rầu lo sợ con mình bị tuyệt tự và hối hận đã đuổi Lụa ra đi nên gia đình bà bị Trời trả báo. Về phần Lụa, nàng đã yêu Hào khi vừa mới lớn. Tuy bị Hào đánh trống bỏ dùi nhưng nàng tự hứa sẽ ở độc thân suốt đời để nuôi con nên người.

            Không được làm vợ Hào, nhưng có một đứa con với Hào là nàng đủ mãn nguyện rồi. Lụa sanh một đứa con trai đặt tên là Hiệp. Ai ngờ má con của thím Hai Nhiên ăn nên làm ra, có cơ ngơi vững chắc, tuy không giàu có gì. Tình cờ, Hào gặp Lụa, hiện làm chủ sạp vải ở ngoài chợ Bến Thành. Cuộc tái ngộ dần dà đi đến chỗ thông cảm nhau, mọi sần sưọng gút mắc tan rã. Nhưng Hào nghĩ mình bất túc sinh lý nên không dám đòi hỏi gì ở Lụa, chỉ mong được nhìn nhận Hiệp là con chính thức của mình. Nhưng Lụa gieo cho chàng một hy vọng rằng nàng sẽ đưa chàng tới ông danh y giỏi khoa cham cứu để giúp chàng lấy lại một thể chất bình thường. Câu chuyện chấm dứt ở đây.

            Ở truyện ngắn này, Tiểu Thu đề cao tấm làm cao đẹp của mẹ con thím Hai Nhiên. Chị không đả kích hay buộc tội Thu Thảo. Hào dưới ngòi bút chị là kẻ không luyện đạt nhân tình thế thái. Khi du học ra ngoại quốc, chàng đã làm tình với Mylène, em gái của bạn chàng, sống cuộc đời tình dục phóng khoáng, không yêu nhau nữa là anh đi đường anh, tôi đuờng tôi. Với Lụa, chàng chơi hoa cho biết mùi hoa, rồi bỏ mặc nàng gánh vác hệ lụy mà chàng quên rằng ở xứ ta, người đàn bà sa ngã khó làm lại cuộc đời.

            Vậy mà Lụa can đảm gánh vác cái tình yêu đơn phương của mình, không oán trách Hào. Còn thím Hai Nhiên bị tên hào phú cưỡng bức mới sinh ra Lụa, cũng không oán trời trách đất. Gặp được chú Hai Nhiên cưới làm vợ rồi ít lâu lại gặp cảnh góa bụa, thím nhận nuôi thằng Cầm, đứa con riêng của chồng, coi nó như con ruột. Và dù bị bà Hội Đồng cho một ít tiền rồi đuổi đi, thím cũng không oán trách bà vì thím chỉ nghĩ lúc thím chửa hoang đẻ lạnh, bà đã ra tay cứu giúp thím.

            Đàn bà Việt Nam dưới ngòi bút của Tiểu Thu trội hơn đàn ông Việt Nam nhiều.

            * "Hạnh Phúc Nơi Nào?": Đây là cuộc đời của Hoa, một thiếu nữ bạc phuớc, đa truân đa khổ lụy. Sớm mô côi mẹ phải ở với cậu ruột, bị mợ dâu ngược đãi. Sau đó, đuợc bà Năm, một nghiệp chủ giúp đỡ cưu mang nên khi lớn lên, từ con Xíu ốm o lu lít trở thành một cô Hoa xinh đẹp. Rồi cô yêu một tên

            Chệt lai đẹp trai tên Hiếu, bị bà mẹ y ta chửi mắng bêu xấu nên cả hai phải chia tay. Cô yêu hắn chân thành sâu đậm, còn hắn yêu cô hòi hợt. Sau đó cô yêu tên Hưng, cũng bảnh trai, cũng hời hợt. Khi cô mang thai, hắn toan bỏ mặc cô với cái bào thai, nhưng nhờ bà Năm can thiệp, hắn phải cuới cô, rồi lén lút đi đêm với một cô chiêu đãi viên ở quán Chiều Tím. Sự tan vỡ không sao tránh khỏi. Bà Năm giúp Hoa mở cái sạp bán cơm ngoài góc chợ. Rồi cô lại yêu một tên trung sĩ từ Nha Trang đổi vào.

            Hắn có vợ nhưng bảo rằng vợ chết. Cả hai ăn ở nhau rất hạnh phúc. Rồi mụ vợ hay đuợc đến phá tan nát ổ uyên ương. Văy là mối tình thứ ba kết liễu một cách tức tưởi. Trong số thực khách ăn cơm ở sạp có chàng đạp xích-lô tên Minh thì rrái lại yêu Hoa chân thành. Cảm tình của hai nhen nhúm dần dà mới tượng hình thành tình yêu. Cả hai toan đi tới hôn nhân. Nhưng Minh gặp tai nạn xe cộ : một chiếc quân xa đụng chiếc xích lô của Minh. Đầu Minh bị đập vào chân cột đèn. Tác giả buông lửng ở ây, không cho biết Minh sống chết ra sao.

            Đây là một truyện ngắn duy nhất có cái kết cục bi thảm trong tập truyện "Tiếng Hót Vành Khuyên". Hoa, cô gái luôn đi tìm kiếm hạnh phúc không nhàm mỏi. Nhưng hạnh phúc như bức thư trao lầm hết địa chỉ nầy sang địa chỉ nọ. Nhưng tới khi thư trao trúng địa chỉ thì người nhận thư chưa kịp đọc hoặc chỉ đọc sơ qua thì bị định mệnh tàn ác giáng xuống đương sự một cú ngã quỵ. Trong pham vi truyện ngắn, tác giả có nhiều tài liệu, nhiều chất liệu nên khó phô diễn văn tài. Cho nên chị đành dùng văn pháp thuyết thoại. Nếu "Hạnh Phúc Nơi Nao?" được trình bày tỉ mẩn hơn và diễn tả chi ly hơn sẽ hành một truyện dài.

            * "Đời Vẫn Đẹp" : Chàng thanh niên tân học tên Phát và cô Xẩm lai (cha Tàu mẹ Việt) yêu nhau. Phát muốn cưới Mỹ Linh, nhưng ông bố Chệt Xương đã hứa gả con gái mình cho anh chàng Chệt Quân. Vả lại, người Tàu vốn chủ trương thà cưới vợ dị chủng cho con trai mình , còn con gái mình thì phải kết hôn với người đồng chủng.

            Dù được bà vợ năn nỉ cho tới gảy lưỡi, dù Mỹ Linh có kháng cự cách nào đi nữa, nhưng lão Chệt Xương vẫn giữ lòng dạ cứng hơn gang và dẻo hơn thép. Túng thế, Tâm người anh con nhà bác của Phát bày kế cho Mỹ Linh khai dối với cha rằng nàng đã có mang với Phát. Văy là nhờ cách liều lĩnh của Mỹ Linh mà ông cha đành hồi hôn với Chệt Quân.

            Đề tài của truyện ngắn này cũng chỉ tầm thường thôi, nhưng tác giả xen lác đác trong lối kể chuyện của mình vài đoạn tả cảnh, tả người. Vả lại, lối diễn tả mọi tình tiết của tác giả rất duyên dáng nên câu chuyện có một hấp lực mặn mà. Như vậy, chị Tiểu Thu cho chúng ta biết rằng: trong lối hành văn, chọn đề tài không quan trọng bằng diễn tả đề tài. Đề tài dù có hay ho cho cách mấy thì cũng như một miếng thịt tươi ngon mà cách diễn tả vụng về thì món ăn sẽ dở tệ. Còn đề tài xoàng xĩnh mà được diễn tả khéo léo thì đó cũng như miếng thịt kém phẩm chất nhưng nhờ gặp tay đàu bếp cừ khôi, nó sẽ biến thành một món ăn ngon như đuợc làm bằng giai nhục trân cam.


            o0o



            Cái đặc điểm trong văn chương của Tiểu Thu là cảnh vợ chồng âu yếm nhau. Thường là bà vợ nũng nịu còn ông chồng thì mơn trớn vuốt ve, vỗ về. Cảnh lứa đôi mùi mẫn với nhau một cách mặn nồng như diễn ra trước mắt người đọc làm họ có thể liên tưởng đến Điêu Thuyền õng ẹo với Lữ Bố trong tuồng "Phụng Nghi Đình", đến màn Tây Thi giỡn nhột vua Ngô Phù Sai trong vở "Tây Thi Gái Nước Việt". Tác giả dùng lối đối thoại đậm đà kịch tính để thêm mặn muối cay gừng và xông ướp thơm tho mùi trầm hương ngọc quế vào câu chuyện.

            Đây là một pha vợ Nam chồng Nam đùa cợt nhau trong truyện ngắn "Cô Nam Kỳ Đáng Yêu". Tác giả không vẽ ra một hoạt cảnh với những cử chỉ những động tác gơi hình, mà chỉ dùng lời nói bông đùa, pha lửng một cách nghịch ngợm. Đó là những lời đối thoại trong các vở hài kịch nhẹ nhàng, nhưng ý tình nào kém nồng mặn:

            Cúc như chọt nhớ ra điều gì, cặp mắt chợt sáng như hai đèn pha:

            - Anh ơi, em nhớ ra rồi. Năm nay vừa đúng 40 năm đám cưới chị Trang.

            Tụi mình sẽ dành cho ảnh chỉ một "sự ngạc nhiên" thích thú. Em sẽ tổ chức một bữa tiệc kỷ niệm tưng bừng. Mời đám bạn bè của tụi mình tới hát karaoké cho vui. Anh thấy vợ anh có sáng kiến hay chưa?

            Hưng giở giọng Út Trà Ôn:

            - Hỡi ơi, có ai hiểu vợ anh hơn anh nữa??? Ừa, anh thấy cái hổn danh mà

            hồi anh Thanh với chị Trang đặt cho em "nhỏ Cúc xí xọn" sao mà đúng "một chăm phần chăm"...

            Cúc véo vô bắp vế Hưng một cái đau điếng:

            - Cho chừa cái tật nói xấu vợ! Thôi, ra coi hockey đi cho em dọn dẹp.

            Chuyện chị Trang hạ hồi phân giải.

            Hưng đứng lên một cái rột:

            - Xin tuân lịnh... bà lớn!

            Cúc trợn mắt:

            - Nè, bộ muốn có... bà nhỏ hay sao mà bữa nay phong tui lên chức bà lớn vậy cà? Nói thiệt đi cho tui liệu... mua xăng!

            - Chi vậy cưng?

            - Chèn đéc ơi! Bộ anh quên chuyện cô Hườn rồi hả?

            Nghe tới đây Hưng vội vàng đưa tay lên trời:

            - Xin Thượng Đế làm chứng cho con. Đời con chỉ yêu có một nàng. Đó chính là "cô Cúc xí xọn"!

            Cúc cười xòa:

            -Thôi được rồi. Tha cho anh.

            Hai đứa nhỏ đưa mắt nhìn nhau: Thiệt hết ý hai cái ông bà già nầy!!!

            Còn đây là cảnh vợ Nam chồng Bắc đang âu yếm cũng bằng ngôn ngữ ỡm ờ, vui nhộn trong truyện ngắn "Tiếng Hót Vành Khuyên". Ông chồng có lẽ là Bắc di cư sống lâu ngày trên đất nước Nam Kỳ Lục Tỉnh, cố tập nói tiếng Nam Kỳ cho đẹp lòng người vơ gốc Nam Kỳ. Nhưng đương sự nói không hoàn toàn bằng ngôn ngữ Nam Kỳ, thỉnh thoảng chen một vài tiếng Bắc. Điều đó cũng như trong mớ giá sống có lẩn lộn vàisơi rau muống chẻ:

            Sáng hôm sau dậy trễ, Mai ra bếp đã thấy Tiến đang ngổi nhâm nhi ly cà phê phin bốc khói thơm lừng, vừa đọc báo. Thấy vợ ra Tiến buông tờ báo xuống hỏi:

            - Làm gì mà đêm qua cứ lăn lộn hoài vậy cưng?

            Mai bưng ly cà phê của chồng uống một hớp:

            - Nghe bài "Trường Làng Tôi", em nhớ tới những mái trường xưa dưới quê lúc còn nhỏ. Nhớ muốn chết luôn!

            Tiến giả bộ hốt hoảng:

            - Ấy ấy, nhớ thì cứ nhớ nhưng đừng chết. Bỏ tui cu ky một mình tội lắm à nha!

            Mai xì một tiếng:

            - Người ta nói vậy thôi, chớ bộ ngu sao chết ! Còn anh nữa, sao không bao giờ em thấy anh nói nhớ về miền Bắc ?

            Tiến lấy giọng bi thảm :

            -Ối giời, bà xã yêu quí, bộ bà tưởng ông chồng bà có trái tim bằng sắt hay sao chứ? Nhiều khi tui nhớ da nhớ diết cái xứ Hưng Yên. Nhất là vào mùa hè, mỗi khi bà mua nhãn về ăn, là lòng tui đứt ra từng đoạn (?!) vì nhớ tới mấy cây nhãn ngon không thể tả trong vườn bà ngoại ngày xưa...

            - Thơ mộng dữ hôn! Nhớ gì mà không nhớ, chỉ nhớ mấy cây nhãn!

            Tiến cười hà hà:

            - Cưng ơi, cổ nhân có phán rằng: có thực mới vực được đạo. Chà, nói đến đây anh lại cảm thấy đói bụng. Thôi, đi hâm nồi bún riêu đi cưng.

            Mai vừa mở tủ lạnh vừa nói:

            - Thưa ông tướng có ngay. Trong khi chờ đợi, gọi dùm mấy nhóc tì ăn luôn.

            Tiến đứng dậy cái rụp:

            - Xin tuân lệnh bà nội... tướng!

            Ngôn ngữ và nghệ thuật đối thoại trong các tác phẩm truyện ngắn của Tiểu Thu là thứ ngôn ngữ phổ thông trong giới trung lưu cấp thấp trở xuống, nhưng vì chúng duyên dáng quá đỗi nên giới thượng lưu dùng để đùa nghịch cùng với những bạn bè chí thân hay trong khuê phòng với người yêu của mình. Chỉ có Lê Xuyên hồi trước 1975 và Nguyên Đức Lập ở hải ngoại mới đạt được thứ ngôn ngữ và nghệ thuật đối thoại thắm thiết hồn thiêng đất nước Nam Kỳ như thế. Bên phái nữ chỉ có Tiểu Thu mà thôi. Xin đọc tiếp đoạn chót của truyện ngắn "Mình Ơi!":

            Tối đó, dọn dẹp xong xuôi, mợ Tư vô buồng ngồi trước bàn phấn, xõa mớ tóc đen mun ra chải. Cậu Tư vô sau, rón rén tới đứng sau lưng vợ, đưa tay vén mớ tóc, cúi xuống hôn lên cái gáy trắng ngần như ngó sen. Mợ Tư dựa đầu vô ngực chồng, cặp mắt lim dim, cảm thấy niềm hạnh phúc dâng lên rào rạt. Có tiếng cậu thì thầm bên tai:

            - Anh có cái này tặng cho mình. Anh đưa trước để tới Tết mình đeo.

            Nghe nói vậy mợ Tư bừng mắt, ngồi thẳng lên. Trên tay cậu Tư có cái hộp bằng nhung đỏ. Cậu mở nắp hộp, đưa tới trước mặt vợ. Đôi bông tai nhận hột xoàn chiếu lóng lánh. Mợ Tư cầm cái hộp từ tay chồng mà cảm động đến nghẹn lời. Cặp hột xoàn nhỏ hơn đôi bông hồi xưa bà Hội Đông Đáng đi cho mợ rất nhiều.

            Nhưng đây là quà tặng của người chồng mà mợ thương yêu nhứt đời. Nhớ lại hồi đám hỏi rồi đám cưới với cậu Tư, bà Cả cho mợ đồ trang sức bằng vàng y. Bạn bè, chị em trong gia đình ai cũng chê là nhà quê, nhưng mợ đâu có thèm để ý. Miễn mợ lấy được cậu Tân là hạnh phúc rồi. Những thứ khác chỉ là chuyện nhỏ! Bây giờ mợ đã có hột xoàn để chưng diện với chị em. Có thua gì ai đâu? Hột xoàn lớn nhỏ thì quan trọng gì, miễn cậu yêu thương nhau nồng nàn là đủ.

            Mợ Tư đưa cặp mắt ướt rượt nhìn chồng thỏ thẻ:

            - Mình ơi, Tết nầy em là bà vợ sung sương nhứt. Em sẽ đeo đôi bông nầy cho mấy con em xí xọn của em hết chê bai nhún trề. Tụi nó chê em đeo vàng quê quá là quê! Cám on mình.

            - Cám ơn suông thôi sao? Phải có cái gì cụ thể hơn mới được.

            Cậu Tư vừa nói vừa mơn trớn bờ vai tròn trịa của vợ. Mợ Tư đặt cái hộp nhung lên bàn phấn, quay lại đưa hai cánh tay nuột nà ôm lấy cổ chồng nũng nịu:

            - Mình biết lúc nào em cũng chìu mình mà... Mình thích là em vui rồi.

            - Vậy anh tắt đèn à nghe.

            Cău vừa dứt lời thì ngọn đèn ống khói để trên bàn tắt phụt. Trong phòng vẫn còn sáng lờ mờ của ánh trăng mươi sáu chiếu qua rèm cửa sổ. Còn mười lăm ngày nữa là Tết, mợ nghĩ thầm. Chưa bao giờ mợ mong cái Tết đến sớm như bữa nay. Cău Tư nửa dìu nửa ẳm vợ lại giường.

            Có tiếng mợ Tư cươi khúc khích, rồi kêu lên: Mình ơi!!!

            Vẫn là một đề tài cũ của các cây bút viết truyện đồng quê, vẫn là cách diễn tả nghịch ngợm với giọng điệu líu lo cua tác giả, nhưng cái hấp dẫn của câu truyện như lúc nào cũng mới đối với kẻ ta hương ôm nặng tình cái cố hương thuở còn bán khai với tập tục cổ truyền và với cái tình cảm đơn giản mà lại đượm đà tình ý thiêt tha của dân tộc.


            o0o


            Những truyện ngắn của Tiểu Thu giống như truyện dài của Hồ Biểu Chánh, của Duyên Anh, của Nguyễn Đình Thiều đều có ngôn ngữ điện ảnh (langage cinématographique) từ diễn biến câu chuyện đến lời đối thoại. Nếu nhà viết kịch bản (le scénariste) nào đó có thể kéo dài một ít chi tiết trong truyện thì có thể đưa cho điện ảnh gia thực hiện thành một cuốn phim với đủ hỉ, nộ, ái ố. Điều này thì đâu phải là vấn đề khó khăn.

            Những truyện dài án mạng của nữ sĩ Agatha Christie có thể thực hiện thành phim dễ dàng đã đành, mà truyện ngắn "Le Miroir"của bà chẳng hạn khi thực hiện thành phim qua sự diễn xuất của nữ minh tinh Jane Seymour cũng hay luôn!

            Những nhà văn nữ thường có vài tật chung: nếu sắc diện họ không ngoạn mục, để bù đắp sự hụt hẩng về phương diện tâm lý, họ chăm sóc và trang điểm câu văn nếu không làm dáng trí thức cũng o bế cho ngôn từ hoa lệ, chuốt ngót văn phong cho uốn éo cầu kỳ. Và có nhiều bà rất tiện tặn về cách ăn xài, nhưng không bao giờ tiết kiệm về chuyện phô trương kiến thức lẫn phong độ trí thức của mình.

            Tiểu Thu không như thế. Khi viết văn chị không thích lối văn uyển chuyển đến độ ưỡn ẹo, chị không tô điểm màu sắc đến độ lòe loẹt rườm rà cho văn phong của mình. Đúng là lối viết Nam Kỳ, hơi cẩu thả một chút, nhưng cực kỳ phóng khoáng. Chị nghĩ sao viết vậy, văn viết gần giống văn nói 80 %. Chúng ta có thể liên tưởng đó là những loại man thảo bò chằng chịt trên mặt đất hoặc leo trên lùm bụi cây khô còn trơ những nhánh chà.

            Nhưng mà, man thảo có loại dẻo dai hơn thép như dây choại, dây mây trong rừng tràm Cà Mau âm u. Man thảo có những loại trổ hoa đẹp như dây bìm, dây sắn với bông hoa hình chuông màu xanh thúy ngọc hay mau tím nhạt, như dây phấn trang trổ hoa màu hồng đào kết từng chùm. Man thảo cũng có loại trổ hoa thơm ngát không kém lá loài phương thảo; đó là dây thiên lý với chuông hoa màu xanh nõn, như dây dạ lý hương trổ từng chùm hoa ngọc thạch lún phún như pháo bông...

            Trong cuộc bút trình trơn như mỡ, lưu loát như tuôn mưa rào rào trên mái ngói mái tranh, Tiểu Thu dựa vào kỷ niệm thời con gái để làm sống lại hình ảnh cố hương. Trên đất nước định cư ở hải ngoại, rất có thể vì cuộc sống hối hả, chúng ta quên biết bao hình ảnh giang sơn gấm vóc trên cố hương. Nhưng chúng như những mảnh thủy tinh của lọ, của chén dĩa bị vứt đâu đó trong bụi rậm hoang sơ, mà bình thường chẳng ai để ý đến. Nhưng rồi một phút hoài niệm hiển linh nào đó đến mạch cảm hoài chúng ta.

            Nó như ánh nắng tơ vàng, như ánh trăng trắng êm dịu chiếu sáng lên những mảnh vụn thủy tinh ấy. Chúng nổi bật lên, sáng lóng lánh như được giát vàng giát bạc. Những cái vụn vặt hèn mọn kia trong lúc được ánh nắng hay ánh trăng chiếu cố tới, kêu gọi chúng ta nghĩ về sự hiện hữu và sự trường tồn của chúng. Cũng thế, văn chương của Tiểu Thu đúng là ánh nắng, ánh trăng soi từng mảnh vụn của cuộc đời chị, biến chúng thành mẫu số chung cho biết bao hồi ức và tình hoài hương của kiều bào trên đất khách.



            (Hồ Trường An. Quê Nam Một Cõi - Chương 9: Tiểu Thu, Nhà văn nữ đi vào khu vườn kỷ niệm qua tập truyện "Tiếng Hót Vành Khuyên")


            Hết Chương 6 - Xem Tiếp Chương 7


            sigpic

            Comment


            • #7
              Quê Nam Một Cõi

              Hồ Trường An

              Chương Bảy

              Phương Triều, Người Lữ Hành Đi Vào Bí Nhiệm
              Cuộc Sống Qua Tập Thơ






              Sa Đéc là một tỉnh nhỏ xinh xinh nằm bên bờ Sa Giang êm đềm, một phụ lưu của dòng Tiền Giang. Tôi không nghĩ rằng đây là một chốn địa linh nhân kiệt. Nhưng về nghệ thuật sân khấu, nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc được vang danh khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. Bà nổi danh từ bộ môn hát bội, rồi hát cải lương, sau hết là ở lãnh vực thoại kịch và điện ảnh. Bà là kiện tướng của nghệ thuật trình diễn không nhờ thanh sắc mà ở nghệ thuật diễn xuất.

              Nhắc tới bà, chúng ta nghĩ tới nữ nghệ sĩ Françoise Rosay của Pháp, hay nữ nghệ sĩ Marguerith Rutherford của Anh, Judith Anderson của Mỹ. Và ngoài ra, vào đầu thế kỷ 20 có 2 tay kiện tướng khoa bản như Luật sư Trần Ngươn Hanh, Kỷ sư Lưu văn Lang (xuất thân từ trường Đại Học Bách Khoa Trung Ương tại Pháp). Về văn chương trước năm 1975 có Sa Giang Trần Tuấn Kiệt nổi tiếng về thơ. Bên văn xuôi có chị Linh Trang (tác giả tập truyện Mưa Chiều) và Phương Triều. Nhưng lúc đó công việc sáng tác của họ chỉ như hoa chớm nụ, trăng vừa tròn gương. Cả hai chỉ tung hoành bên báo chí nhiều hơn.

              Vận nước đổi thay, cơ trời xoay chuyển. Khi ra hải ngoại, bên văn xuôi, hai nhà văn gốc tỉnh Sa Đéc là Nguyễn văn Ba, nữ sĩ Tiểu Thu tung ra những tập truyện viết về phong tục trên đất nước quê hương với bút pháp dí dỏm nồng mặn. Còn Phương Triều bắt đầu khởi sắc ở nghệ thật sáng tác thi ca. Bởi anh không cộng tác với các báo văn học nổi tiếng như Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Khởi Hành v.v... nên không đuợc giới sành điệu biết đến nhiều.

              Văn nghiệp của Phương Triều gồm có : Còn Nhớ Còn Thương (tập truyện, 1966), Tiếng Hát Hoàng Hôn (tập truyện, 1966), Sầu Hương Phấn (tập truyện, 1972), Thơ Phương Triều (thi tập, 1995), Trăm Bài Thơ Xuân (thi tập, 2000), Xóm Mộ (thi tập, 2001), Giọt Sữa Đất (thi tập, 2002). Và sau hết là Xương Rồng Đen (thi tập, 2004).

              Xếp lại tập thơ Xương Rồng Đen, tôi bất đầu ngáp dã dượi. Không phải tôi không thích thú khi đọc nó. Không phải tôi chán ngấy với cái ý tình huyền bí mông lung của anh. Không phải thơ anh không mở cho tôi một cánh cửa, một lối đi, một dòng sông để tôi viễn du vào trong đó. Tôi chỉ sợ khi bình thơ anh, tôi không đủ khả năng diễn tả cái cảm nhận của tôi đối với thơ anh.

              Những bạn văn của tôi như 2 nhà thơ nữ Thụy Khanh, Nguyễn Thị Thanh Bình và anh Vũ Tiến Lập có cho tôi biết Phương Triều là một trong các nhà thơ trội nhất trong các nhà thơ gốc Nam Kỳ hiện định cư khắp bốn phuơng trời hải ngoại. Anh dù không thể song hành với Trần Tuấn Kiệt, Tô Thùy Yên khi còn ở trong nước, nhưng anh vẫn bước vào loại thơ có lác đác một vài tư tưởng mà vẫn giữ nguyên vẹn vóc dáng và cốt tủy của thơ.

              Anh không có sở tri thâm hậu về Phật pháp như Võ Chân Cửu qua các tập thơ Đại Mộng và Thảng Lai Thi, không thuần túy sáng tác loại thơ bề ngoài là Trử Tình Ca, nhưng bên trong chói rạng tinh thần Bát-nhã chẳng hạn như Như Chi Lê Thị Hiền (qua thi tập Thơ Hiền). Tuy nhiên, thơ anh vẫn phảng phất bóng dáng tư tưởng về cái ảo ảnh của cuộc phù thế, về cái khao khát niềm hạnh phúc vĩnh cửu của con người qua thơ của Ngô Nguyên Dũng, của Đặng Thị Quế Phương.

              Có một điều đáng nói là các thơ gốc Nam Kỳ là Phan Ni Tấn và Lâm Hảo Dũng dù không phải là thơ tư tưởng mà là thơ cảm hoài, nhưng thơ của cã hai phản ảnh được tâm trạng thế hệ của một lớp người khổ đau, chịu nhiều hệ lụy, chứng kiến biết bao cảnh tang thương và chịu nhiều mất mát về phương diện tinh thần. Cũng vậy, cái đề tài của thơ Phưong Triều cũng không thoát ra ngoài cái quỹ đao của hai anh Phan, Lâm để tạo cho mình một cương vị sáng sủa trong thi giới.

              Một lẽ dễ hiểu: anh đã từng sống đọa đày dưới chế độ mới, đã nghiệm chứng được cái đau khổ của con người mình bị tướt đoạt, đã chứng kiến mọi giá trị tinh thần bị cơn bão thời đại làm sụp đỏ. Anh cũng đã đau khổ vì mọi cái quý báu của lý tưởng, của những giấc mưa vừa chớm hình thành mà vẫn chưa có cơ hội nào thực hiện nổi nên đành bị dập tắt một cách tức tưởi. Riêng thi tập Việt Nam Thương Khúc của Kiệt Tấn là một tác phẩm của dân tháp ngà học đòi làm giang hồ kiếm khách, làm chiến sĩ xông pha trước mũi đạn lằn tên.

              Đương sự chỉ dùng lối thơ song thất lụcbát viết lại những thảm trạng trên quê hương qua các sách vở, chớ không có dịp dấn thân vào cuộc sống vào thời giông bão nhiễu nhương. Đó là đương sự làm thơ qua đống tài liệu chết, qua những câu truyện truyền khẩu dược tượng trưng bằng những cái xác ướp lâu đời trong các ngôi cổ mộ. Đã vậy, ngôn từ của thơ anh ta ít có công phu sáng tạo, ngôn ngữ thơ thiếu chất men quyến rũ. Tập thơ này thua xa tác phẩm đầu tay rất dễ thương của đương sự là tập thơ Điệp Khúc Tình Yêu Và Trái Phá .

              Trở về thi tập Xương Rồng Đen, trong số chúng ta sẽ có ngưòi tự hỏi: Những tư tưởng nào mà được Phương Triều đưa vào thơ? Triết lý hiện sinh hay triét lý nhân bản? Phật pháp hay triết học Lão Trang? Thật khó xác định được. Thơ anh bàng bạc nhiều thứ tư tưởng triết học lẫn tâm linh, không có tư tưởng nào rõ nét và kéo dài tràng giang đại hải.

              Có như thế tư tưởng trong thơ anh khỏi trở thành một thứ vay mượn lộ liễu. Song moi tư tưởng anh đi vào thơ không nhắm vào cái rối reng khuc khuỷu của hiện tượng, mà như những mũi tên nhắm vào bản thể hiện hữu. Nếu nhà văn hay nhà thơ cứ đào xới cái uyển chuyển, cái éo le, cái phức tạp của hiện tượng thì chỉ có thể khai thác những nhân sinh quan của mình. Đi vào bản thể, người cầm bút mới đào sâu vấn đề triết học và tư tưởng tâm linh.

              Chúng ta thử đọc bài khai đề cùng tựa với thi tập của Phương Triều: Hoa Xương Rồng Đen :

              Bụi xương rồng trong chậu

              Nở được nụ hoa đen

              Mong đợi kẻ thắp đèn

              Soi mặt mình hớn hở!

              *

              Mùa đông tưới nước sôi

              Mùa hè dội nước đá

              Hoa xương rồng nghiêng ngả

              Theo vận đời nổi trôi...

              *

              Buổi tối ma vương về

              Nhìn quanh cuời hả hê

              Gai xương rồng có thật

              Nhưng hoa là cơn mê !

              (trang 3)

              Đây có phải là bản tuyên ngôn ẩn núp sau bài thơ giáo đầu cho ý tình trong toàn thể thi tập chăng ? Hoa đen chỉ là cơn mê biểu tượng cho cái gi và điều gì ? Gai nhọn có thật thì lại được ẩn dụ cho cái gì và điều gì ? Có phải chăng cuộc đời dưới ánh sáng Bát-nhã của nhà Phật là cơn đại mộng dẫy đây hoàn cảnh đen tối để trở thành ác mộng đói với kẻ lún sâu vào cơn mê lầm ? Cuộc đời vốn là huyễn mộng Và bởi nó là mộng nên các chúng sinh mới thấy nỗi đau khổ, mọi tai ương hoạn nạn (những gai độc đấy! ) đều là có thật.

              Trong thi tập Xương Rồng Đen, tư tưởng nhà Phật bảng lảng ở rất nhiều câu thơ hoặc ở nhiều đoạn trong bài thơ. Tác giả không đè đầu đè cổ Phật pháp để ép uổng chúng vào thi ca đâu. Một khi ngọn bút anh nở hoa, bóng Phật và bóng Bồ-tát nuờm nượp hiện về. Dù là cái bóng, dù dưới thiên hình vạn trạng khác biệt nhau đều sản sinh từ một thực thể cả.

              Xuôi mút dòng sông chưa thấy biển

              Nghe chừng chân trợt hóa hư vô

              Lỡ tay moi hết từng mê hoặc

              Từ đáy hồn reo tiếng bão xô!

              *

              Rót bao nước đủ cho đời khát ?

              Rửa mât hiền nhân đặc sáp khô

              Kéo thêm chỉ nối diều hoan lạc

              Dẫu một trùng dương cũng hải hồ !

              *

              Cho chút trăng xưa về bến cũ

              Mắt già thôi lạnh nếp khăn sô

              Tiếng ai ầm ỉ ngày chiêu niệm

              Còn chút từ tâm cũng ý đồ !

              *

              Ghé qua hương gió cười xanh mộng

              Ngọn tóc hài nhi nắng nhấp nhô

              Đời bắt đầu dư năm tháng lạnh

              Như đời có thật giữa hư vô!

              (Có Thật, trang 57)

              Cái mà chúng ta thấy biết qua năm giác quan, qua khái niệm chỉ là cái thấy biết dựa trên cái vô thường huyễn hoặc. Cho nên tác giả hoài nghi những khuôn mặt thánh hiền chỉ là cái mặt nạ bằng sáp. Con người vốn có dục vọng to tát và bất tuyệt thì làm sao họ nắm bắt sự thật tuyệt đối.

              Ngay cả cái chút từ tâm của con người chưa chắc phải là lòng bác ái chân thật mà là một ý đồ cầu danh hay cầu lợi gì đó. Cuộc đời ở cõi Ta bà nầy không phải là cái có thật tuyệt đối vì trong sắc có không, trong không có sắc (như đời có thật giữa hư vô). Nếu hiểu được như thế, chúng ta mới có thể khởi hành vào chứng ngộ.

              Lộn đêm thành giấc ngủ ngày

              Kéo theo bóng mộng mệt nhoài giữa trưa

              Nắng vàng chưa kịp xanh dưa

              Đã rơi rụng xuống chỗ vừa mưa qua!

              *

              Mời trăng ngủ nán hiên nhà

              Tiếng thơ thủy mạc hương trà thủy tiên!

              *

              Bút đâu vấy mực hảo huyền

              Vung tay vẽ lối đào nguyên kẹt đường!

              Xe đò chạy sớm tinh sương

              Bồn binh kẻ chợ thảm thương vật vờ

              *

              Lạc từ ngọn cỏ phất phơ

              Từng con bướm mộng bơ vơ giữa đời...

              (Bóng Mộng, trang 8)

              Bài thơ nói lên cái trái trắc đảo điên trong cuộc sống Trong cõi phù du nhốn nháo và trái trắc đó, có những điều chưa kịp thành hình mà phải chịu cảnh dập tắt một ách tức tuởi (Nắng vàng chưa kịp xanh dưa / Đã rơi rụng xuống chỗ vừa mưa qua). Ở đây chúng ta có thể nghĩ đén những con người chưa kịp trưỏng thành mả phải yễu mệnh chết non.

              Và cũng trong cõi ấy, mọi thưởng ngoạn, mọi sáng tác của người nghệ sĩ cũng trở nên huyễn hoặc và sa vào ngõ bí (xin đọc phân đoạn thứ 2 của bài thơ). Nhưng dù có bị đưa đẩy bởi nghiệp lực như ngọn cỏ phất phơ trong gió, con người vẫn cứ mộng, chưa thúc tỉnh để nhận diệni cái bản lai diện mục của hiện hữu (xin đọc hai câu cuối của bài thơ).

              Từ đó vong thân vào nghiệp chướng

              Mặt đời ràn rụa bóng chiêm bao

              Đêm đen tròng mắt ngày râu trắng

              Từng lớp môi khô bật máu đào.

              *

              Xúm nhau diễn tới cùng im lặng

              Rồi bật cười như mới được đau!

              Neo hồn thương tích vào thương tật

              Rồi lại buồn như chẳng thể nào....

              (Nẻo Hồn, trang 85)

              Như thế, còn mê là còn trầm luân trong bể khổ. Đây là hồi chuông cảnh tỉnh gióng giã của Đức Phật đưa con người tránh khỏi Neo hồn thương tích vào thương tật / Rồi lại buồn như chẳng thế nào... .

              Con người nếu có cuộc sống bình ổn, nếu mọi ao ước của ai đó được thực hiện bằng cách này hay cách khác, đương sự thường săn tìm những mộng ước mới. Y ta không có thời giờ nhìn sâu vào những hiện tượng của mọi hiện hữu trong cuộc đời huống hồ là cái bản thể chung của mọi hiện tượng.

              Chính những con người đau khổ mới có dịp tư duy, mới có dịp nhìn sâu vào những hiện tượng tiêu cực của đời sống: những tai ương, những đau khổ, những tan vỡ của mọi ước vọng, những tranh chấp và mâu thuẩn trong xã hội, cái phù du huyễn hoặc của kiếp nhân sinh... Do dó, họ tìm tòi ra cái nguồn gốc tiêu cực lẫn tích cực chung của vạn hữu. Từ đó, vấn đề tâm linh và vấn đề triết học mới được họ quan tâm.

              Ở truờng hợp Phương Triều, dưới chánh thể Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, anh sống tương đối thoải mái. Nhưng sau cuộc đổi đời kể từ sau ngày 30/ 4/ 1975 cho tới khi ra hải ngoại, cuộc sống của anh đã trở thành khổ ải lầm than. Anh mới có dịp nìn sâu vào cái góc rễ của niềm bất hạnh mình, cái trầm luân của nhân sinh.

              Dù có tiếp xúc với 2 bộ môn triết học và tâm linh hay không, anh vẫn phải tìm cho mình một hệ thống nhân sinh quan nào đó để trực diện với hoàn cảnh mới, để đương đầu với mọi trắc trở truớc một cuộc sống tối đen đầy cạm bẫy. Do đó, thơ anh không còn đơn giản và thấm ướt mạch trữ ình lãng mạn nữa. Nó lột xác thành một loại thi ca có chiều sâu hun hút, choáng ngợp cái bí nhiệm của cuộc sống.

              Khi giấc ngủ không còn mộng được

              Trái trời xanh rụng trắng mặt đêm hoang

              Tiếng trống vọng xôn xao vào ngõ ruột

              Vỗ hồn khon thảng thốt gọi trăng tàn!

              *

              Cuối lưu vực sỏi chao dòng nghịch thủy

              Vác nhục nhằn sông lặng xuống đa mang

              Tay cõi thế nối mưa vào đọt nõn

              Bởi kỳ dư gốc gác đẫm sương tan!

              *

              Tay vấy đậm những lần rơi rớt vụn

              Người vô tư ngồi giữa mộng vô vàn

              Miếng vinh nhục mấy khi mà lơ láo

              Chút dây thòng sao thắt đủ nghiệt oan?

              *

              Tiếng trống chợ tưỏng đâu mùa tựu học

              Cắt trầm luân chia đủ giọng rao hàng

              Ông Tám hôm qua bà Ba bữa trước

              Tắm rửa bao lần chưa tới được cao sang!

              *

              Chơi bản ruột sao đờn theo trật ý?

              Rớt nhịp mơ hồ sao cất giọng lên ngang?

              Bao tội vạ đổ lên đầu tội nghiệp

              Nước sông đầy sao đáy ruộng khô khan?

              (‘Bản Ruột, 50, 51)


              o0o


              Chúng ta hãy ngưng bước viễn du vào các lãnh vực tư tưởng, hãy hượm đừng vội vào các môi trường nhân sinh quan của nhà thơ Phương Triều. Bây giờ có nhiều người tự hỏi: Phương Triều oằn vai gánh vác tư tưởng vào thơ, nhưng thơ có chấp nhận chúng không? Thơ anh có bị dị ứng với những ý tưởng chỉ có thể hiện diện trong các cuốn biên khảo triết học và tâm linh không?

              Có phải đó là những ý tưởng không thể phù hợp với môi trường thi ca làm cho thi ca không thể tiêu hóa chúng nổi và phải thượng thổ hạ tả chúng ra ngoài không? Xin thưa, Phương Triều trước khi đưa tư tưởng hay nhân sinh quan vào thơ của mình thì anh đã biến ngôn ngữ của hai môn học khô khan ấy thành ngôn ngữ tạo hình rất gợi cảm và thơ mộng, tức là ngôn ngữ của thơ. Như thế, đã là ngôn ngữ thơ thì lẽ nào lại chui vào thơ một cách khó khăn hay sao? Lẽ nào con cá không thể chuồi vào nước để được bơi lội vẫy vùng hay sao?

              Nhưng mà ngôn ngữ thơ của Phương Triều không quá giản dị, bôc trực và nhất là không suông đuột như thân thể cô gái già ốm yếu chẳng có ngực, không có mông tức là không có nét gồ ghề ngoạn mục gì ráo trọi. Trái lại, nó được canh tân, được cải tiến, được mỹ lệ hóa để đuợc trở thành một thứ ngôn ngữ thuần óc sáng tạo, thuần túy... phương triều, không trùng lẫn ngôn ngữ thơ của ai khác.

              Xé một chỗ mọc lành trăm ghẻ lạnh

              Đêm địa cầu da thịt đất đâm gai

              Bẫy rập vô tư khuôn vàng thước ngọc

              Chân đạp nhằm bóng mộng xác xanh phai.

              *

              Mưa hào sảng hư từ trên miệng thế

              Nụ cười đen xối xả mặt u hoài

              Một lẽ sống có muôn vàn nhiễu sự

              Thân nhọc nhằn lê lết nỗi chua cay!

              *

              Người dở chết mím môi ghìm ngấn lệ

              Kẻ tồn sinh hồi hộp thở hương phai

              Mặt thỏ hôm qua mặt mèo hôm trước

              Thêm miệng lằn lưỡi mối giọng bi ai!

              *

              Cá ngộp thở ngậm rong vàng giữa bụng

              Kịch trường đen chợt trắng mặt bi hài

              Nối tao võng ru xanh ngày tĩnh mịch

              Chút tàn tro lồ lộ máu xương ai!

              *

              Chưa kịp tới tưởng đâu còn kịp lúc

              Tới kịp rồi hồi hộp chỗ lung lay!...

              (Nụ Cười Đen, trang 148)

              Đây là một bài thơ đưa chúng ta đối diện với cái bi đát của con người, cái ngang trái nhục nhằn của cuộc sống, cái thảm thương của những kẻo lao thân vào cạm bẫy tai ương, chắc có lẽ vì mê say một ảo ảnh nào đó. Ngôn ngữ thơ mờ mờ nhân ảnh, xen vài câu thơ huyền bí rất thơ rất mộng chẳng hạn như : Nối tao võng ru xanh đời tĩnh mịch. Nhưng nó cũng không hủ nút như thơ của nhóm Xuân Thu Nhã Tập, như thơ của Bùi Giáng.

              Nó được che phủ bởi một màn sương mỏng, vừa đủ để hiện le lói những chấm đèn lửa quạnh hiu. Có vậy, nó mới làm cho hơi thơ thêm se sắt ngậm ngùi, làm cho ý tình thêm thâm thúy, và nhất là khơi dậy óc liên tưởng của người đọc thêm dằng dặc bao la. Chúng ta ngờ ngợ ẩn sau mặt chữ, tác giả còn có điều gì muốn nói mà không thể nói ra vì chữ nghĩa vón bất lực, chưa đủ khả năng diễn tả những ý tình, những thâm u ẩn mật của sự thật toàn vẹn và rốt ráo.

              Vũng đựng trăng nghiêng ngày nước cạn

              Mặt bùn ửng lại sắc nghi trang

              Dò ra tăm tích đường đô hội

              Vỡ vụn trăm lần một nát tan!

              *

              Có phải thềm xưa thành vũng mới

              Hay bóng đời trôi vào ngõ hoang

              Bàn tay buồn bã rời guơng lược

              Mà hốt đầy vơi chút bụi tàn?

              *

              Nhặt cánh hồn trôi vào vất vưởng

              Gói tròn cơ cực ủ lầm than

              Mắt vô sinh ngó trời hoang mộng

              Sao bật rèm mi ngấn lệ tràn?

              *

              Chân mây chạm rát triền vai gió

              Làm bật đường tơ khúc lỡ làng

              Mặt bùn nhuộm ánh trăng khuya lạnh

              Người gượng vui cùng khóc lạc quan!...

              (‘‘Chân Mây , trang 73)

              Ở đây, ngôn ngữ thơ đen đậm đặc hơn, nhưng cách sắp xếp chữ vẫn tinh vi và gợi cảm như ngôn ngữ trong toàn thi tập, hình ảnh được săn tìm và chọn lọc cho thơ vẫn quyến rũ như tự bao giờ. Đó là ngôn ngữ dành riêng cho thơ, mà phải là thơ của Phương Triều. Chẳng hạn: Bàn tay buồn bã rời gương lược / Mà hốt đầy vơi chút bụi tàn.

              Và chẳng hạn: Nhặt cánh hồn trôi vào vất vưởng/ Gói tròn cơ cực ủ lầm than. Tôi đố ai giải thích những câu thơ đẹp ấy cho đúng ý tình của tác giả. Và dù chúng ta không HIỂU THẤU nhưng ai cấm chúng ta không CẲM NH

              N? Cái hiểu thấu chắc gì thù thắng băng cảm nhận dù hai cái đều là những cái tiếp thu hay hấp thụ vạn hữu bằng trực giác.

              Mai đi mốt lại ngập ngừng

              Quay ra chưa kịp nửa chừng trở vô

              Ván đầu đâu đã tri hô

              Chút thương tích cũ hồ đồ kêu oan!

              *

              Bé em nhỏ nhẹ tiếng đàn

              Sao tưng bừng những rộn ràng tới lui?

              Nén buồn nhẫn nhịn mua vui

              Tới khi vui lại bùi ngùi nỗi riêng!

              *

              Ghép lòng theo mảng biến thiên

              Thấy nhau hồi hộp ngửa nghiêng tấc lòng

              Nửa ngoài còn ở ngoải không

              Nửa trong ở trỏng sao còn trống trơn?

              *

              Nỗi đời chỗ thiệt chỗ hơn

              Chút hơn thiệt cũng giận hờn thiệt sao?

              Không từ không thể có nhau

              Nên không dẫu có thế nào cũng không!

              (Cũng Không, trang 151)

              Đi hay ở, được hay thua, đừng vội hồ đồ la toáng lên. Buồn hay vui đều tùy lúc, có khi buồn mà phải giả bộ vui ; cái vui đó không thật. Có khi vui, nhưng trong cái vui đó còn lởn vởn cái ngậm ngùi riêng tư. Thôi thì hãy tùy theo cái biến thiên của hoàn cành, của thế sự. Vì sao? Vì dưới mắt tác giả cái gì cũng có cái phân nửa ở ngoài và cái phân nửa ở trong. Nhưng anh lại tự hỏi: cái ở ngoài lẫn cái ở trong quả có thật hay không? Ngoài và trong là 2 điều mà tác giả cho chúng ta cái ý niệm về hư vô, về huyễn hoặc


              o0o


              Lác đác đâu đó, một vài cảnh nghèo cực trong một góc phố u buồn xen vào thơ. Chẳng hạn bài Con Phố Đen vẫn chỉ là một hình ảnh cư ngụ của lớp người ở cấp bậc thấp trong cái xã hội chốn thị thành. Nhưng nó đựợc diễn tả bằng một phong thái mới với ngôn từ mới :

              Con phố màu đen ngủ mùa đông xám

              Ngách hẹp ngõ tàn chuột chạy bơ vơ

              Con phố đêm đêm xong mùi chua rác

              Người vắng hơi người thương nhớ ngẩn ngơ !

              *

              Con phố màu đen ngủ ngày vất vả

              Cơn bệnh mùa đông nhuốm mặt xuân sơ

              Trên lớp phấn son có màu gió bụi

              Ngày xuân xanh... tím lạnh vết bơ phờ !

              *

              Con phố màu đen vặn mình trốn bão

              Bếp lửa xuân về leo lét thờ ơ

              Chút cháo hâm chiều húp lại bâng quơ!

              *

              Con phố màu đen rêu dài lưng ngói

              Nỗi nhớ thương khô cháy vào ngấn lệ

              Đêm gục đầu âm vọng gió se tơ!...

              (trang 77)

              Bài thơ Hơi Cơm Cháo cũng là một hột trong xâu chuỗi thơ hiện thực của Phương Triều. Trước đây, văn hào Dostoievski sông trong hoàn cảnh khó khăn về mặt tài chánh. Ông mới có dịp được gần gũi người thất bại, những kẻ thất thời thất chí ; ông lân la với những kẻ bần hàn và nhất là những bậc trí thức có cuộc sống đạm bạc.

              Đó là những kẻ có óc chống đối với hoàn cảnh hiện tại, chống đối với niềm tin tưởng về phương diện tâm linh, mặc dù các đương sự ấy yêu thương cuộc sống, yêu thương tha nhân và hay thắc mắc những vấn đề siêu hình cùng vấn đề thần linh. Điều này báo hiệu cho chúng ta biết trước cái thế giới văn chương của Dostoievski đầy dẫy những nhân vật khó thể thỏa hiệp với đời sống.

              Họ sống bằng những bản năng thô bạo, bằng khao khát những vấn đề siêu hình; trong bọn họ có lắm kẻ thác loạn thần kinh. Cái phần tối tăm, dữ dằn của họ chiếm rộng trong cái nội giới bị ít nhiều thương tích của họ. Riêng Phương Triều trước năm 1975 chỉ viết những truyện ngắn hiền lành.

              Sau thời gian bị tù đày dài dằng dặc, anh còn phải sống thiếu thốn cơ cực dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, gánh vác biết bao hệ lụy oan khiên. Sau khi ra hải ngoại, anh vẫn còn bị ác mộng kinh hoàng trên quê hương ám ảnh. Thi ca của anh lúc đầu còn bát ngát niềm hoài cảm, nhưng dần dần những cơn ác mộng trong tiềm thức đen sâu trồi ra đưa đẩy nguồn sáng tác của anh vào trong cái thế giới đen tối hơn, có những cái bí nhiệm kỳ đặc hơn, tạo cho anh một loại thi ca làm bàng hoàng người đọc.

              Bài thơ Nước Đen vẫn nằm trong đề tài nói về cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Nhưng ở trường hợp này, nó không phải chỉ là bức tranh xã hội để tác giả triển lãm cho độc giả ưa thích thơ văn hiện thực hay thơ văn tân hiện thực thưởng ngoạn mà là để cho những ai thích tìm về những cái siêu hình trong cuộc sống, trong mọi cá thể của thế nhân. Anh đưa bức tranh xã hội vượt cao hơn thơ của trường phái hiện thực hay trường phái tân hiện thực nhiều cung bậc. Xin đọc:

              Có loài cỏ còn cao hơn cỏ dại

              Nhánh chìa tay đơm những giọt sưong tan

              Chao ngọn gió thổi ngang bình địa mộng

              Dắt hồn lên đường ngược cõi điêu tàn!

              *

              Nên bất chợt lãnh nguyên đòn trái trắc

              Đời chơi khăm hay đời vẫn ngược ngang

              Người keo kiết trách than người biển lận

              Vớt trăng tàn soi lại ngõ đêm hoang...

              *

              Nên tự tiện kề môi lên khóe mộng

              Hôn phù du níu vội bóng mây ngàn

              Mưa gõ lá lại nghe chừng long óc

              Rỗ mặt đời xanh ngọn gió cường toan!

              *

              Bao đói lạnh cứ mong kỳ ngộ lúa

              Hột trời cho thành mộng ước cao sang

              Đem bán rẻ tuổi vàng cho kẻ chợ

              Rồi hồn nhiên ăn uống bữa đàng hoàng:

              *

              Từ vực kiếp vang vang lời phẩn nộ

              Suối hồn đơn cuồn cuộn nước đen tràn...

              (trang 128)

              Bài thơ Giấc Lúa phơi bày vài nét khái quát cảnh thiếu thốn của những kẻ ở thôn quê, nhưng nếu ta xếp nó vào loại thơ hiện thực thì không mấy xứng cái tài sáng tạo ngôn ngữ vừa mới mẻ vừa truyền cảm của Phương Triều. Đọc xong bài thơ này, chúng ta có thể nhìn sâu vào cảnh ngộ, vào thân phận con người hơn loại thơ hiện thực:

              Thêm nhưn nặng chỗ tay bồi

              Hột muối tiện dịp đắng đời khổ qua

              Đắng dùm cho ngọt xót xa

              Miếng cơm đất lạnh đắng ra miệng người!

              *

              Thêm vui trên miệng thiếu cười

              Trẻ thơ bú mớm nửa vời rụng răng!

              Hạ về dắt gió xua trăng

              Miếng bánh không tuởng cũng bằng không ngơ!

              *

              Thêm mơ vào mộng vật vờ

              Ngủ quên giấc lúa sân chờ thóc xưa

              Tay chiều chải mượt tóc mưa

              Trán sơn thủy ướt chỗ vừa rát đau!

              *

              Se chung gốc ngọn hồi nào

              Tơ duyên rời rã dính nhau chỗ buồn!

              (trang 54)

              Bài thơ Bóng Tối cũng phơi bày sơ sơ cảnh nghèo, cảnh lọc lừa gian trá, cảnh đổi thay ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông mà tác giả vừa làm chứng nhân vừa lặn hụp sống trong đó. Chính những cảnh đau thương như vậy chẳng những tạo cho anh lối thơ hiẹn thực có tầm vóc mà còn đẩy nếp tư duy anh đi xa hơn, vào một khung trời tư tưởng để nguời đọc có dịp chia sẻ với anh:

              Đêm ru đường chia nhau bóng tối

              Không chắc gì... no đói bữa sau!

              Người tất tả đi để không còn ngồi lại

              Thêm bước lạc loài đâu vội có nhau!

              *

              Thân trúc chẻ ra làm cây tăm nhỏ

              Manh áo thời danh mưa gió cũ nhàu

              Vệt máu mênh mông chảy từ vết bụi

              Hồn bút vật vờ rỏ mực thương đau!

              *

              Kẻ sĩ xuôi tay kê đầu lên sóng

              Mẹ trùng dương về rửa mộng hư hao

              Đứa trẻ năm xưa mặt mày non nớt

              Giờ nhăn nheo cằn cỗi giống quân nào!

              *

              Treo bảng phấn bán rao đồ giả hiệu

              Thiếu viện mồ côi thơ ấu bôn đào

              Lão pháp sư buồn sửa câu thần chú

              Lờn mặt từ trong tiếng gọi mày tao!

              *

              Ngưòi xếp ga chiều đón thêm tàu chợ

              Thiên hạ âm thầm bán rẻ đời nhau

              Két học đôi ngày thành danh hốt bạc

              Chúa chổm quay về vay nợ ăn khao!

              *

              Khói cay rộ niềm đau của củi

              Tre già khô che ngọn bích đào

              Thế kỷ hoang mang từ năm thứ nhứt

              Người sống thiệt thà giống chuyện tào lao!

              *

              Người còn đốt lá soi tìm thanh sử

              Bảng hiệu đèn khuya sáng rộ chỗ nào?

              (các trang 136, 137)


              o0o


              Thơ Phương Triều trong thi tập Xương Rồng Đen có rất nhiều vấn đề để tác giải bày giải nỗi ư tư của mình. Nói thế các bạn sẽ thắc măc bút giả: Ủa ngộ dữ không! Làm thơ là để hưởng cái đẹp của cuộc đời, để được hạnh phúc trong nếp sống thường nhật , để tinh thần được thăng hoa vào cõi mộng tuyệt vời, vào bầu tâm cảnh không còn liên lạc với đời sống bon chen, hổn độn và lầm than này.

              Cớ sao ông lại dám cho rằng Phương Triều tròng cái trọng lương nặng nề vào thơ như người nông phu tròng cái ách vào cổ con trâu? Làm thơ và viét văn là để thưởng ngoạn chớ đâu phải để suy tư. Sao ông cầu kỳ, phiền phức và rườm rà như vậy? .

              Xin thưa, khiếu thiếu ngoạn của những kẻ sành thơ bây giờ đã đổi khác, đâu quá đơn giản như kẻ làm loại thơ tô hồng chuốc lục cho ảo tưởng mình độc giả như thơ của truờng phái duy mỹ vào thời đại xa xưa nào đó. Nó thích những cái gì phản ảnh được những điều bí nhiệm của cuộc sống, ngoài cái sinh hoạt của xã hội hiện tiền.

              Nắm bắt được những đièu đó, chẳng những người sáng tác sung sướng ở công trình khám phá của mình mà những độc giả cũng khoái lạc vì kiến thức mình được bồi bổ. Độc giả lại còn tưởng chừng mình có thể tìm được một vài cánh cửa để phóng mắt vào những chân trời mới mà trong cuộc sống trước đó họ đã từng đóng chúng bưng bít.

              Ngay những chuyện tầm thường trong cuộc sống gối chăn của anh cũng đã có vài vấn đề nho nhỏ, tuy không làm anh tổn thương hay bực dọc, nhưng làm anh bỡ ngỡ sơ sơ và lo nghĩ chút chút nên anh phải bật ra những câu dí dỏm:

              Phía bên kia khóc là cười

              Ở trong rộn rịp có người ngủ quên

              Ta từ xác mộng khiêng lên

              Làm con bướm rụng cánh trên vai đời...

              *

              Đêm chơi trò ngủ hai nơi

              Nhọc nhằn phiên thức ru người gối chăn

              Cứ đêm mỏi gối hai lần

              Ăn gian mấy được một phần nghỉ ngơi!

              *

              Nhân danh tình nghĩa không dời

              Trái tim ngàn lượng rụng rời năm trăm!

              Ái ân lỡ dịp ăn nằm

              Nằm ăn đứng ngủ bởi nhằm phiên quên!...

              (Hù, trang 130)


              o0o


              Còn vô số vấn đề quan trọng hơn, bi đát hơn buông vô số câu tra vấn, vô số phiền não cho con người có ý thức về sự hiện hữu. Có ý thức đươc sự đau khổ trong cơn đại mộng trên trần thế, con người mới bắt đầu tìm kiếm cái chân hạnh phúc đồng hóa với cái bản thể của hiện hữu. Đó là sự giải phóng vĩ đại để chúng ta thoát ra bể khổ, để chúng ta tìm gặp sự an lạc vĩnh viễn.

              Nhưng ở đây, Phương Triều chỉ ở chặng đầu của con nguời ý thức về cuộc sống. Cho nên anh ngơ ngác trước bao hệ lụy tràn ngập trên đường đời. Đó là cái đau khổ chung cho những nhà thơ mới tiếp nhận một tia lóe sáng trong đêm tối bao la vốn đã từng che lấp tâm thức con người sống lêu bêu, không thèm đặt vấn đề về cái ẩn mật trong cuộc sống.

              Điểm mặt hồn nhiên nét mộng cười

              Đốm trăng huyền thoại gạt người chơi

              Nai lưng mà vác từng cơ cực

              Rồi tận tình vui tới hụt hơi !

              *

              Quán nhỏ bâng khuâng chiều thở bụi

              Ngó người ảo mộng thịt da phơi

              Chút chi gai góc trên tròn trịa

              Như nỗi buồn dư giữa thắm tươi!

              *

              Gõ trống bày thêm trò thưởng phạt

              Tiện tay vẽ lai kiểu môi cười

              Có khi đau quá đời vô vọng

              Mà vội vàng rao bán mặt người!

              *

              Đất cũ đêm hoang ùn gió bão

              Cội mai nào hé nụ xinh tươi?

              Miếng cơm vừa nuốt chưa qua cổ

              Đã nghẹn lòng đau tận rã rời!

              *

              Đâu một lần Xuân không vội Tết

              Đời qua như thể hết Xuân người!...

              ( Xuân Người, trang 5)

              Tác giả vẽ nên cảnh cô đơn của một ông lão đờn cò đã góa vô, đã giải nghệ, hiện sống trong cảnh tuổi già yếu, thiếu thốn vật chất và rất cô đơn. Ông chia sớt nỗi lòng cùng con dế tật nguyền vì đã gảy cánh nên gáy không ra tiéng. Sự tuơng lân tương ái nẩy sinh giữa người và con côn trùng trong đêm mưa gió. Hoàn cảnh bi đát có thể nối liền qua sự giao cảm tuyệt vời của cả hai chỉ có một nhân chứng tuyệt vời duy nhất như Phương Triều mới hiểu thấu bằng trực giác thần diệu. Trực giấy ấy hóa thân thành bài Đốm Sương :

              Ông lão đờn cò cười khô miệng móm

              Chiếc răng cuối cùng dính bọt cháo hoa

              Hột muối mặn xé buồn trong ruột lạnh

              Ông lão bâng khuâng ngồi nhớ lão bà!

              *

              Nấm mộ sần sùi trên vồng đất lở

              Con dế thẩn thờ gặm đốm sương sa

              Đôi cánh tật nguyền gáy không thành tiếng

              Từng đêm thao thức như đôi bạn già!

              *

              Ông lão sững nhìn đôi tay tĩnh vật

              Sợi dây đờn xưa giờ ở đâu xa

              Âm hưỏng mơ hồ điệu ru của gió

              Từ trong mịt mờ vọng tiếng mưa qua...

              *

              Sấm nối đuôi về gầm rung lều cỏ

              Thân vẫn như người hay đã tiêu ma

              Tấm thân từ đất còn nhiều nợ đất

              Tay đất ôm người lẩn lộn thịt da!

              *

              Đôi bạn già chơi trò câm lặng

              Đất vặn mình đau bao nỗi ruột rà

              Cây lá lộn hồn từ phương thất thổ

              Mưa lại chợt về cho cỏ đơm hoa!...

              (trang 30)

              Hoàn cảnh giữa lão già và tác giả Phương Triều vốn khác biệt nhau. Nhưng một kẻ hay nhìn sâu vào những thân phận cô đơn của tha nhân, nên tác giả nhiều lúc cảm thấy mình cũng khốn khổ cô đơn vì tưởng chừng mình mất một số điểm tựa tinh thần nào đó. Những lúc ấy, trong tâm tưởng, anh cũng cảm thấy mình hóa thân thành lão già.

              Theo thói thường của những kẻ cô đơn khốn khổ thường mượn men rượu giải sầu. Phương Triều thì mượn men rượu để thắt chặt tình bạn đồng nghiệp trong giới làng văn trận bút. Thét rồi anh đâm ra nghiện.

              Cái hậu quả của men say vẫn có khía cạnh tiêu cực lẫn tích cực. Men rượu đưa người vào cơn nghiện trầm kha để phá hỏng cuộc đời họ. Nhưng men rượu cũng có thể giúp cho các nghệ sĩ biết bao cảm hứng lai láng và phồn thịnh. Thuở truớc, thi hào Omar Khayyam xứ Ba-tư và thi hào Lý Bạch xứ Trung Hoa há không phải thuộc hạng túy tửu phiên vương hay sao? Văn hào Francis Scott Fitzgerald há không phải là ông thần ve chai cự phách hay sao?

              Các nhà văn Việt Nam nổi tiếng như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Thanh Nam cùng nhạc sĩ Phạm Đình Chương há không phải là nhưng tên tuổi sáng chói trên văn đàn nhạc giới hay sao? Riêng ở trường hợp Trần Tuấn Kiệt và Phương Triều, rượu dìu họ vào một thế giới thi ca lạ lẫm và bí nhiệm mà ít có nhà thơ nào can đảm lẫn kiên nhẫn ghé mắt tới

              Người ngủ đêm vàng trên sóng rượu

              Không thấy ngày thức vội hôm sau

              Ngàn cân rót nhẹ ly hồ hải

              Buồn vạn lần đổi một vui sao?

              *

              Gối đá nằm co say tĩnh vật

              Nhà hoang tưởng dậy bước chiêm bao

              Nắng khô lá nõn màu vàng đọt

              Biển dội tràn sông ngọn sóng nào?

              *

              Khép đôi tay ấm vào chân lạnh

              Chút nhiệt tình dư ủ hụt hao

              Tiếng mộng vo ve từng huyễn hoặc

              Xương tàn cốt rụi cỏ xanh xao!

              *

              Dạo chơi vào ngõ hồn hiu quạnh

              Thây chữ nằm co lại dáng đau

              Thơ như vần điệu tuôn nhầm chỗ

              Nên vận vui buồn xiên xỏ nhau!

              *

              Đất trú chiều dâng chân gió bão

              Ngựa qua cầu nhỏ nắng lao xao

              Môi lạt thèm thơm hơi lục bát

              Vần đau ghép vội nỗi đau nào?

              (Đất Trú, các trang 110, 111)


              o0o


              Các bạn độc giả thân mến, nhà thơ Phương Triều của chúng ta dù mê say dong ruỗi trên những ngã rẽ hào hứng của thi ca, nhưng anh không bao giờ quên các bạn, quên cái tuổi trẻ mộng mơ của chúng ta, không quên luôn thời kỳ tình tự yêu đương khi tóc anh còn xanh mướt, khi mắt anh vẫn long lanh sáng với ý tình khi một bóng ý trung nhân đang đi sâu ào khắp ngỏ ngách của trái tim anh. Do đó, những bài thơ lãng mạn mới có dịp hồi sinh trong quyển thi tập chuyên chở quá nhiều tư tưởng như thi tập Xuơng Rồng Đen này.

              Nhưng anh kiến thiết ngôn ngữ tình yêu trong thơ. Mỗi bài thơ vẫn có như câu và những chữ lẩm cẩm rất thơ, xen vào đó là những câu có ngôn ngữ tân kỳ. Những câu, những chữ lẩm cẩm ấy biểu dương nồng độ yêu đượng thật đậm đà, thật thắm thiết. Trong cơn yêu dấu, ai đó nói những câu quá tỉnh táo, những câu sáng suốt thì ý tình sẽ nguội lạnh và loãng nhạt đi.

              Một lần đi tưởng đi luôn

              Vừa qua gặp mặt lại tuồng như quên !

              *

              Tưởng rằng được vậy đã hên

              Dè đâu bởi vậy cho nên mới buồn !

              Dẫu gì cũng lỡ nhớ thương

              Dẫu rằng lỡ vậy, vậy luôn mới buồn!

              *

              Bột về thắc mắc hỏi khuôn

              Sao trên mặt bột rải đường khác nhau?

              (trang 4)

              Cái thời thơ mộng và hiền như mực tím (nói theo Nhã Ca) là thời cắp sách đến trường, vào ngưỡng cửa tuổi hoa niên. Những mối tình học trò lấy bối cảnh sân trường lớp học, bảng phấn tường vôi đã được nhiều nhà thơ từ tiến chiến tới nay khai thác bấy bầy rồi. Bây giờ vẫn có Vũ Thi An tiếp tục viết những vần thơ tình học trò qua hai thi tập Tình Quê Tình Thơ và Cuối Đường Hạnh Phúc. Thường là những bài thơ rất...

              học trò, nếu không săn tìm được những hình ảnh độc đáo, những tứ hơ kỳ đặc, và nếu không canh tân ngôn ngữ cho thơ thì nên đưa những bài thơ ấy vào quyển nhật ký hay quyển lưu bút mới thích hợp hơn. PhươngTriều dù đã gần tuổi thất tuần, nhưng anh không dị ứng với loại thơ thời mơ tuổi mộng, không ngại quay về dĩ vãng để khơi lại nguồn thơ đầu mùa của mình.

              Mưa về cho nắng hạ trong

              Cho thắm phượng hồng đỏ sắc môi em !

              Góc ngồi tay múa que kem

              Nhìn ra mộng mị đời lem luốc buồn !

              *

              Điệu ve nhịp guốc sân trường

              Mực xanh lưu bút dễ thương chừng nào?

              Ngõ đời sóng chợt lao xao

              Bạn từ hôm đó lạc nhau lần hồi...

              *

              Trăng nào thắp đuốc tuổi tôi

              Nhởn nhơ đom đóm ngồi chơi khắp vườn

              Se lòng nhăn gió nhủ sương

              Ngóng em chừng đỗi dễ thường nguôi ngoai!

              *

              Mưa dầm không ướt kẽ tay

              Còn chen chân chỗ khô ngoài ướt trong!...

              (trang 20)

              Để mai lỗi hẹn thành ra mốt

              Ta lạc nhau từ hẹn bữa qua

              Người đi như thể không về kịp

              Mà kịp về không kịp cách xa !

              *

              Xô nhau thức giữa ngày Thu ngủ

              Một chút trăng non bỗng sáng lòa

              Người đưa tay hứng sương Thu tới

              Mà tưởng chưa hề Hạ chớm hoa!

              *

              Nên chi phượng cũ không về nữa

              Trường lớp mưa giăng bóng nhạt nhòa

              Tiếng trống trường xưa dồn tĩnh mịch

              Nghiên sầu bút lạnh giữa phôi pha...

              (Lỡ Hẹn, trang 26)

              Những bài thơ tình của Phương Triều chẳng những có vóc dáng riêng biệt mà còn có ý tình đặc thù. Loại thơ này không mặc đồng phục với các bài thơ tình yêu của kẻ khác. Thuần chất sáng tạo là đây!

              Những kẻ có tình yêu đơn phương hay trong tình yêu nhạt nhẽo thường tra vấn cái nguyên do tình cảm của mình lẫn của người đối tượng. Họ còn thắc mắc hoàn cảnh nào mà cái cung không đáp ứng trọn vẹn cái cầu, cái hệ lụy nào khiến cho hạnh phúc dậm chân tại chỗ hay cất cánh bay đi. Nói theo Xuân Diệu là: Cho rất nhiều song nhẫn chẳng bao nhiêu/ Nguời ta phụ hay thờ ơ chẳng biết. Các đương sự cứ hỏi lung tung, cứ thắc mắc liên tu bất tận, nhưng rồi ra vẫn ở trong ngõ bí, trong mê cung hoặc trong bát quái đồ hình.

              Yêu lâu rồi mà như chưa yêu

              Cho bao nhiêu mà như chưa nhiều

              Lấy ra đếm lại rồi đem cất

              Nên bấy nhiêu thành chẳng được nhiêu!

              *

              Dẫu cho thí tỉ mà như vậy

              Thì cứ yêu dầu chẳng được yêu

              Dẫu gì cũng chẳng buồn cho lắm

              Thì chút buồn kia chẳng đáng nhiêu!

              *

              Hết yêu đâu lẽ còn yêu được

              Dẫu có yêu hoài cũng bấy nhiêu!

              Dẫu rằng đã vậy thì thôi vậy

              Mà chút yêu thôi cũng lụy nhiều !

              *

              Hỏi rằng tới tuổi bao nhiêu

              Thì quên được hết những điều chưa quên!...

              (Nhiêu, trang 78)

              Tác giả cứ o bế ngôn ngữ lẩm cẩm dễ thương của một kẻ chưa có kinh nghiêm sâu sắc và dồi dào trong tình yêu. Điều này rất dễ làm mủi lòng người đọc. Và hình như bởi lẽ đó mà anh hơi lãnh đạm với ngôn ngữ của thơ. Bài thơ thiếu nét tạo hình, thiếu cảnh vật lót nền cho bài thơ. Ngôn ngữ thơ ít quá! Nhưng ở bài Dư tác giả chuộc lại điều sơ sót của mình bắng cách nâng thơ tình yêu lên vài cung bậc cao, đưa thơ vào cái bí nhiệm, cái thắc mắc siêu hình. Xin đọc:

              Em thiệt tình quên không thể nhớ

              Mà ta tình thiệt lại không quên!

              Dẫu cho chỉ một lần không nhớ

              Mà ngỡ mình thành thương nhớ thêm !

              *

              Ghé qua gặp lúc không còn gặp

              Chút nghĩa tình thôi chắc chẳng bền

              Ta thiệt tình cho nên mất thiệt

              Chút tình đâu đủ nghĩa nhân duyên !

              *

              Cứ như điệp khúc đời đơn điệu

              Người dắt nhau vào cuộc ngửa nghiêng

              Tới đêm lẩn lút về thăm mộng

              Chợt thấy tiền thân rời căn nguyên !

              *

              Biển đi còn vết sầu trên cát

              Chân dã tràng chao bóng đảo điên

              Hồn ủ vào miên trường tĩnh vật

              Tay một đời dư chỗ tật nguyền !

              (trang 140)


              o0o


              Trong nghệ thuật thi ca, Phương Triều lột xác từ từ, chậm chạp. Nhưng những bước chân thẳng tiến trên lộ trình bằng phẳng hay những bước đăng sơn của anh thật vững chắc. So với thi tập Thơ Phương Triều gồm những bài thơ cảm hoài, thơ hiện thực, rồi thì tới thi tập Xóm Mộ, anh bắt đầu chổi dậy để hưởng ứng những loại thơ viễn thâm tình ý, loại thơ khám phá cái bí nhiệm của cuộc đời.

              Những bài thơ trong 2 thi tập áp chót (Xóm Mộ và Giọt Sữa Đất) bắt đầu sửa soạn một cuộc hóa thân ngoạn mục nên có tầm vóc khả quan. Như thế, tập thơ Giọt Sữa Đất như vầng chiêu dương đỏ ối trồi lên góc biển phương Đông, nhuộm hồng chân mây, còn thi tập Xương Rồng Đen như mặt trời vừa leo lên đỉnh ngọ, tỏa sáng khắp sum la vạn tượng.



              Hết Chương 7 - Xem Tiếp Chương 8


              sigpic

              Comment


              • #8
                Quê Nam Một Cõi

                Hồ Trường An

                Chương Tám

                Anh Vân, Một Chứng Nhân Lịch Sử Ưu Tư Qua
                Văn Phẩm "Ác Mộng Đêm Dài"




                Anh Vân là một cây bút nhiệt tình với thời cuộc trong và ngoài nước, với mỗi biến động của lịch sử. Anh cũng là một cây bút trữ tình, tâm hồn rất bén nhạy với tình yêu đôi lứa, đôi khi tình yêu có lỡ trượt ngã vào tình dục đi nữa, nhưng chẳng những tình yêu không dâm uế mà lại thắm thiết sắc son tươi rực rỡ.

                Quyển trường thiên Ác Mộng Đêm Dài là phản ảnh một giai đoạn lịch sử từ những ngày tháng Miền Nam Việt Nam sắp rơi vào tay bạo quyền Cộng Sản cho tới giai đoạn những nhân vật chánh hay một vài nhân vật nòng cốt trong truyện ra hải ngoại. Ở nơi khách địa, kiều bào chúng ta hòa hợp vào cuộc sống xa lạ với người bản xứ đã là khó khăn.

                Vậy mà còn vì nhiệt thành yêu nước, họ lại bị bọn tổ chức kháng chiến ma với những cái tên Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh, Nguyễn Xuân Nghĩa... và tên đầu sỏ Hoàng Cơ Minh đưa những kẻ hăm hở với đại cuộc vào cơn hỏa mù để bọn chúng thu hoạch tiền yểm trợ do kiều bào đóng góp.

                Trong War and Peace ( Chiến Tranh và Hòa Bình ) của Leo Tolstoi, trong cuốn Gone With Wind ( Cuốn Theo Chiều Gió ) của nữ sĩ Margaret Mitchell, cuộc chiến chỉ kéo dài chẳng bao lâu, trên một năm hoặc vài năm là cùng . Còn cuộc nội chiến giữa Quốc Cộng chẳng những kéo dài 15 năm (từ 1960 đến 1975) mà còn gây cho những người chiến bại Miền Nam Việt Nam biết bao lầm than oan trái.

                Người còn kẹt lại trong nước sống trong cảnh nghèo đói, bị bức hiếp, bóc lột, tù đày. Người vượt biên ra hải ngoại còn bị bọn đầu cơ chánh trị lừa đảo và còn bị bọn Cộng Sản len lỏi vào các cộng đồng để phá tan hàng ngũ đoàn kết của kiều bào để đưa họ tới giai đoạn nghi kỵ thù ghét nhau.

                Nguyên do nào, động cơ nào thúc đẩy tác giả viết quyển Ác Mộng Đêm Dài? Xin đọc một đoạn trong Lời Tựa:

                Tôi là một nhân chứng sống của cuộc chiến, tôi từng cầm súng chiến đấu trong hàng ngũ quốc gia. Sau 30-4-1975, tôi là tù binh của chế độ lao tù cộng sản. Tôi nghĩ chỉ có những kẻ trực tiếp tham dự cuộc chiến mới cảm nhận được hết nỗi đau đớn đến biến thành căm hận, nỗi sợ hãi đến kinh hoàng của những kẻ trong cuộc.

                Là một nhân chứng sống, tôi nghĩ, tôi có bổn phận phản ảnh lại một giai đoạn lịch sử bi thảm của đất nước, cũng để trả món nợ mà tôi đã cưu mang trong đời sống, món nợ đối với quê hương, đối với đồng bào tôi đang sống khắc khoải trong chủ nghĩa cộng sản, món nợ đối với các chiến hữu tôi đã nằm xuống trong cuộc chiến Việt Nam, món nợ đói với các bạn tù tôi đã chết lặng lẽ trong những trại giam được mệnh danh là "trại cải tạo", món nợ với đồng bào tôi đã vùi thây trong lòng biển lạnh.

                (các trang 9, 10)

                Bộ trường thiên Ác Mộng Đêm Dài được trình làng vào năm 2003, sau khi Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do Hoàng Cơ Minh làm chủ tịch bị lột mặt nạ gian trá, sau khi bọn chớp bu đê tiện của cái gọi là mặt trận ấy bị thua kiện tại pháp đình, hết dám sừng sõ với những kẻ dám vach trần tội lường gạt của chúng đối với kiều bào nhiệt tâm yêu nước .

                Nhưng vận sự nhuốc nhơ bỉ ổi đó đâu đã hết. Bọn thành viên gia đình trị và băng hữu trị của Hoàng Cơ Minh còn gom góp nhóm tàn binh của chúng để lập ra tổ chức khác, với danh xưng khác để bành trướng cái thối thân của cái gọi là mặt trận ấy.

                Bây giờ cái tên của nó thun ngắn lại còn có hai chữ Việt Tân cụt ngủn và nhỏ xíu như con đuông. Bọn đầu sỏ của chúng cứ tìm cách cũng cố nó hoài hoài để mong nó lớn mạnh như xưa. Nhưng kiều bào dại gì góp tiền mua thuốc tẩm bổ cho nó. Nó chỉ còn là thứ hữu danh vô thực mà thôi.

                o0o


                Sau đây là cốt truyện của tác phẩm tâm huyết Ác Mộng Đêm Dài của Anh Vân. Nó chứng minh rằng tác giả là một nhà văn ưu thời mẫn thế trước những khuynh hướng chính trị đảo điên ở hải ngoại.

                Câu chuyện bắt đầu vào năm cận kề ngày Miền Nam Việt Nam bị làn sóng đỏ tràn ngập. Lê Quốc Nam vốn là một sĩ quan tác chiến thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh, được một tuần lễ nghỉ phép, từ tiền đồn về tỉnh nhà Bạc Liêu thăm mẹ và thăm luôn Hiền người yêu của chàng.

                Mẹ Nam là một phụ nữ có kiến thức, ham đọc sách, ưa suy nghĩ về vận nước thăng trầm điên đảo. Bà có 5 người con. Cô Hai đã bỏ mạng trong kỳ Tổng Tấn Công của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân. Cậu Ba là một sĩ quan của ngành Cảnh Sát. Cậu Tư và cậu Năm theo phía bên kia, tập kết ra Bắc sau Hiệp Định Genève; cậu Năm chết dưới trận oanh tạc bom B 52 của Mỹ. Người con út của bà là Trung úy Lê Quốc Nam.

                Hiền là con của bà Ngởi và cũng là em củaVinh (bạn chí thân của Nam). Bà Ngởi là quả phụ trẻ đẹp của một sĩ quan cao cấp. Khi chồng qua đời vì viên đạn thù, bà vẫn phây phây giao thiệp phóng túng để móc nối với các sĩ quan cao cấp phe Quốc Gia, để lươn lẹo buôn bán vũ khí cho Việt Cộng.

                Còn Vinh là một sĩ quan phòng 1 ( phòng Quân Số) của Tiểu Khu. Vinh không hay biết một chút gì về việc làm tác tệ của mẹ. Nhưng Sử, sĩ quan Phòng Tình Báo Tiểu Khu, bạn chung của Nam và Vinh biết đã có lần cho Nam biết đuợc hành tung mờ ám của bà,

                Rồi ngày chung cuộc Miền Nam Việt Nam tới. Vinh và Nam phải đi học tập cải tạo. Sử không chịu đăng ký với ban Quân quản để đi học tập như mọi sĩ quan khác vì chàng thừa biết một sĩ quan ngành tình báo như mình là kẻ thù không đội trời chung của Cộng Sản; nếu chàng lọt vào tay chúng thì chàng chỉ có nước bị tù đày tới chết rụt xương.

                Sử móc nối với tên cán bộ trưởng công an tỉnh tên là Tư Thống. Tên này là chồng của người chị họ của Sử. Sử giúp hắn tổ chức các cuộc vượt biên cho bọn Hoa Kiều để nhận vàng của họ. Chẳng nhũng chàng được Tư Thống chia vàng mà còn cấp giấy chứng nhận chàng có công với cách mạng trước năm 1975.

                Hiền một lòng chung thủy, đợi ngày Nam được phóng thích. Nhưng bà Ngởi vì muốn bảo vệ tài sản của mình nên giao du với Tư Thống. Bà bắt buộc nàng thành hôn với Bác sĩ Việt Công tên Đức, con trai của Tư Thống. Hiền phản đối mẹ và thường đến nhà mẹ của Nam để chăm sóc cho bà. Về riêng phần mẹ của Nam thì thằng Ba trưởng nam của bà cũng phải đi học tập cải tạo như Nam.

                Còn thằng Tư nhất định không giúp Nam được phóng thích. Hắn viện lý do em Năm của hắn bị chết vì bom oanh tạc của Mỹ, cậu út Nam đã làm tay sai cho Mỹ Ngụy thì Nam đắc tội với nhân dân, phải trả nợ máu cho nhân dân. Từ đó tình mẹ con giữa bà mẹ và thằng con bên kia hàng ngũ Quốc Gia coi như đoạn tuyệt.

                Bà Ngởi và Hiền đi thăm nuôi Vinh. Bà tỏ ra lạnh nhạt với Nam. Riêng Hiền thì vẫn thiết tha gắn bó với Nam. Rồi Vinh đuợc phóng thích trước Nam vì mẹ của Vinh có công với cách mạng. Hỏi ra, Vinh mới biết việc làm tác tệ của bà Ngởi. Vinh nhục nhã và đau khổ vô cùng.

                Khi Nam được phóng thích thì bà Ngởi đổi thái độ tỏ ra niềm nở với Nam và có đến thăm mẹ chàng. Sử rủ Vinh, Nam và Lan (một cựu nữ quân nhân ) cũng đã đi học tập cải tạo trở về cùng các bạn đồng chí khác lập một tổ chức kháng chiến chống bạo quyền Cộng Sản. Lan yêu Nam với mối tình đơn phương.

                Sử cũng yêu thầm thương trộm Lan nhưng không dám ngõ lời với Lan tâm sự bí ẩn của mình. Tổ chức kháng chiến của họ trước hết lập mưu giải vây Hà, một thành viên của tổ cùng vợ con Hà. Gia đình Hà bị bắt trong chuyến vượt biên và hiện giờ họ bị giam ở trạm kiểm soát Sóc Đồn. Cuộc giải vây thành công, chẳng những cứu thoát Hà và vợ con Hà mà còn giết vài tên địch. Nhưng Vinh phải thiệt mạng. Sử ra tay giúp Nam vượt biên để tránh hậu hoạn vì địch đang truy nã Nam gắt gao.

                Nam vượt biên vào hải phận Mã Lai và tấp vào Pulau Kapas. Lính Mã Lai vơ vét tiền bạc và nữ trang của bạn đồng hành với chàng. Tại đây họ chờ ngày được đưa đến định cư tại Đệ tam quốc gia. Và cũng tại Pulau Kapas, Nam có quen một cự quân nhân tên Trạc vốn người thẳng thừng ruột ngựa, nhưng rất sáng suốt trong lãnh vực tình hình thời cuộc và mọi biến chuyển tráo trở thuộc vấn đề chính trị đã và đang xảy ra trên đất nước.

                Mẹ Nam bệnh nặng, phải vào bệnh viện thì đã có Lan thăm nom chăm sóc. Bà qua đời thì được bà Ngởi và Hiền chôn cất tử tế. Sử giúp Hiền vượt biên. Trên chuyến hải trình, Hiền bị bọn hải tặc Thái Lan cưỡng hiếp tả tơi tới nỗi phải hôn mê bất tỉnh và may mắn được người Tây phương đi trực hăng bay ngang qua đó đưa đến bịnh xá dành cho người tị nạn ở trại Tanjung Unggat thuộc tỉnh Tanjung Pinang (Nam Dương).

                Bà Ngởi bị chiếm nhà. Sau cái chết của Vinh, bà căm thù bọn Cộng Sản tận xương tủy nên không muốn tài sản của mình mà bao năm bà đã từng chắt chiu để rồi lọt vào tay chúng. Bà phục rượu bọn chúng cho say rồi rưới xăng châm lửa đốt nhà và tự thiêu trong đám cháy.

                Sử bị Tư Thống nghi ngờ về vụ Sóc Đồn. Sau cuộc tranh biện với tên anh rể, chàng trở về nhà thì bị bọn công an áo vàng sát hại. Trong cơn hấp hối, Sử đuợc Lan ôm trong tay. Chàng ngõ lời yêu Lan. Lan mới khám phá ra rằng sau khi Nam đi rồi, nàng cùng Sử hoạt động bên nhau, tấm can trường và sự thông minh quyền biến của Sử đã chinh phục trái tim của nàng. Nàng chỉ kịp bảo rằng nàng cũng yêu Sử thì Sử mỉm cười tắt nghĩ. Chàng chết trong niềm hạnh phúc cuối cùng.

                Nam được định cư trên đất nước Hợp Chúng Quốc. Chàng vừa đi làm vừa đi học. Chàng gặp lại Trạc, người bạn tâm đầu mà chàng đã gặp gỡ tại Pulau Kapas. Chàng cũng có nhận thư của Lan báo tin mẹ chàng qua đời, nhận luôn lá thư của Hiền viết từ Nam Dương, trong đó Hiền kể rõ nguồn cơn chuyện tai nạn ô nhục của nàng. Chàng làm giấy bảo lãnh để Hiền qua Mỹ sum họp cùng chàng.

                Hiền được tái ngộ cùng Nam, được sống những ngày hạnh phúc diễm ảo với chàng. Trong dịp từ Tanjun Pinang qua Sinapour, để rồi sau cùng đến San Francisco, Hiền gặp Quỳnh, một cô bạn đường cùng đến định cư trên đất Mỹ. Cả hai mến nhau, để rồi sau này cả hai kết làm chị em với nhau. Quỳnh kết hôn với Dương, chủ thầu may quần áo, nên Hiền có việc làm để phụ giúp chồng trong việc chi tiêu.

                Trong khi chờ đợi cùng Hiền sum họp, Nam và Trạc nghe được tin cựu Trung Tá An Ninh Quân Đội Lục Phương Ninh thành lập tổ chức kháng chiến với cái tên Lực Lượng Quân Nhân Việt Nam Hải Ngoại (về sau đổi lại là Lực Lượng Quân Dân Việt Nam Hải Ngoại) có những khuông mặt "vĩ đại" quen thuộc như Đại Tá Phạm Văn Liễu, Đại Tá Trần Minh Công, Đề Dốc Hoàng Cơ Minh, Tướng Nguyễn Chánh Thi bên cạnh.

                Trạc và Nam đi San Diego dự lễ tuyên thệ và xin gia nhập vào lực lượng. Chưa chi mà đã có sự phân hóa trong hàng ngũ lực lượng. Lục Phương Ninh muốn theo cánh Trương Như Tảng, một tên đầu sỏ trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị đá đít ra hải ngoại, muốn tìm sự giúp đỡ của Trung Cộng. Bị Hoàng Cơ Minh phản đối, Lục Phương Ninh ra quyết nghị khai trừ 6 tên đầu não: Phạm Văn Liễu, Trần Minh Cong, Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Chánh Thi, Lê Hồng, Lê Văn Trực.

                Hoàng Cơ Minh cùng nhóm người bị Lục Phương Ninh sa thảy nhảy ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam có Phạm Văn Liễu năm vai trò Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại, nhưng tiền bạc kiều bào yểm trợ thì lọt vào tay Hoàng Cơ Định, em ruột của Minh (tên nay giữ chức Vụ Truởng Vụ Tài Chánh kiêm chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Vụ Hải Ngoại).

                Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam phát triển nhanh chóng làm rúng động kiều bào khắp bốn phương trời hải ngoại . Nhưng lần lần nó lộ bộ mặt hư ngụy ra. Cuốn video Đồng Tiến trình chiếu cho kiều bào xem tại Nam California đã cho kiều bào nào có óc nhận xét tinh tế như Trạc và Nam thấy các hoạt động của kháng chiến là một sự dàn cảnh cẩu thả vụng về.

                Cái căn cứ kháng chiến không phải ở trong rừng núi Việt nam mà ở bên này phần đất Thái Lan. Các kháng chiến quân chỉ là người Thái hay người Lào. Tuy vậy mà đa số kiều bào vẫn tin là thật, vẫn tặng tiền yểm trợ xối xả. Từ đó, những ai mà lớn tiếng công kích cái dổm dang, dối láo của tổ chức mặt trận như ký giả Đạm Phong, vợ chồng Lê Triết, Hoài Điệp Tử, Cao Thế Dung đều bị ám sát. Chỉ có Cao Thế Dung không bị thiệt mạng mà thôi.

                Trạc biết được cái lươn lẹo bất chánh của gia đình họ Hoàng Cơ. Nhưng Nam không tỏ thái độ bất tín nhiệm mặt trận một cách minh bạch và dứt khoát như Trạc. Nhân dịp cựu Trung Tá Lê Hồng với cái tên mới là tướng Đặng Quốc Hiền và với chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Võ Trang từ Thái Lan về Cali báo cáo tình trạng kháng chiến thì Nam đi dự cuộc diễn thuyết của tên Đặng Quốc Hiền kia và theo hắn vào chiến khu, sau khi điện thoại từ giã vợ.

                Hiền không biết chồng mình đi vào ngày nào. Nàng vẫn làm việc cho xưởng may của vợ chồng Dương, sống ấm áp trong gia đình bạn, theo dõi tin tức mặt trận cho tới lúc nó tan rã thanh bọt thành bèo, ghi vết nhơ nhuốc trên lịch sử định cư của kiều bào khắp bốn phương trời hải ngoại.

                Hiền sinh được đứa con trai đặt tên là Lê Quốc Việt. Nàng nhận được lá thư nặc danh mà tác giả bức thư ấy xưng là bạn của Nam, báo tin Nam cùng Hoàng Cơ Minh đã tử trận trong chiến dịch Đồng Tiến II vào ngày 28/08/1987. Nàng nhờ Quỳnh điện thoại tới Văn PhòngTổng Vụ Hải Ngoại thì bên kia đầu dây điện thoại có người không chịu xưng tên và chức vụ của hắn trong mặt trận cho biết rằng đó la cái tin vịt do Cộng Sản tung ra để phá rối mặt trận, rằng Nam vẫn khỏe mạnh, vẫn chiến đấu bên cạnh Hoàng Cơ Minh.

                Hiền tuy ghét Hoàng Cơ Minh và mặt trận của hắn, nhưng vẫn tin Nam vẫn còn sống. Nàng chiều chiều ra bờ biển để ôn lại những ngày sống hạnh phúc bên Nam và kiên quyết đợi chàng trở về sum họp với nàng.

                Cái thọ mạng của kế hoạch bòn tiền của kiều bào qua danh xưng Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam do bè lũ Hoàng Cơ Minh chủ trương đã kết thúc như sau:

                Thế rồi sau ngày ký Quyết Định cách chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại Phạm Văn Liễu, chỉ mười tám ngày sau, tức là ngày 29 tháng 12 năm 1984, ngày Đại Hội toàn bộ đoàn viên của Mặt Trận do Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công triệu tập tại Santa Ana, trình bày về quỹ kháng chiến cho các đoàn viên.

                Sau phiên họp, coi như Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam tan vỡ, lòng nhiệt thành của các đoàn viên, những đứa con yêu của tổ quốc tan vỡ, giấc mơ nhìn thấy một nước Việt Nam tự do, hạnh phúc, thoát đuợc tai ách cộng sản của người Việt tị nạn tan vỡ, giấc mơ của những bà mẹ già được nằm xuống trên mảnh đất quê hương yêu quý ngàn đời tan vỡ, chỉ riêng tiền quỹ kháng chiến đã bỏ vào túi gia đình họ Hoàng Cơ còn nguyên.

                Người thắng lớn trong trận đánh nầy là Phan Vụ Quang tức Hoàng Cơ Định, em ruột Hoàng Cơ Minh. Người vô tình hay cố ý đã làm lợi cho Việt cộng trong việc phá vỡ Mặt Trận là Nguyễn Xuân Nghĩa. Lòng tin của người Việt tị nạn cộng sản, thêm một lần nữa bị Mặt Trận Hoàng Cơ Minh bị chà đạp tan tành.

                (trang 772)

                Nguyễn Xuân Nghĩa là cháu của tên Mười Cúc, tức là Nguyễn Văn Linh. Tên Linh này là Tổng bí thư của đảng Cộng Sản. Dưới chánh thể Đệ nhị Cộng Hòa, Nghĩa đã từng làm phụ tá cho Tổng truởng kinh tế ngân hàng. Sau ngày miền Nam lọt vào tay bọn Cộng Sản miền Bắc, Nghĩa không đi học tập cải tạo. Y ta cho mọi người quen biết rằng bọn Cộng Sản muốn khai thác kiến thức về ngân hàng của y ta nên tạm dùng y ta, tha cho y ta cảnh tù tội. Trong mặt trận của bè lũ Hoàng Cơ Minh, Nghĩa đứng vào hàng thứ ba.

                o0o


                Ác Mộng Đêm Dài là một tác phẩm lớn cũng như quyển trường giang Chuyển Mùa của nữ sĩ Trương Anh Thụy. Tiếc thay, tác giả không có đội kèn trống quân nhạc để khua chiêng gióng trống ầm ỉ trong chièn dịch quảng cáo nên nó cam phận mặc áo gấm đi đêm.

                Vả lại, nó chào đời trong giai đoạn suy thoái của nền văn chương hải ngoại nên nó chịu số phận hẩm hiu, bị rẻ rúng của lớp độc giả quen coi phim tập Hồng Kông và phim tập Đại Han hoặc các chương trình ca nhạc Paris By Night, Asia, Vân Sơn v.v... Nhưng với thức giả thì khác. Nó sẽ mãi mãi là một pho phương cảo để họ suy nghiệm cái sân khấu chính trị do phường hám lợi ở Hoa Kỳ dựng nên.

                Về kỹ thuật dựng truyện, Anh Vân tỏ ra khéo léo trong việc dàn xếp mọi chi tiết để tác phẩm có một bố cục chặt chẽ. Mọi tình tiết được xỏ khoen vào nhau một cách tinh tế như những khoen của sợi dây lòi tói (sợi xích sắt). Mọi diễn biến tuần tự được trình bày một cách trơn tru óng ả như dòng mật rót vào chén sứ mỏng tanh, dù đôi lúc có xen vài đoạn hồi ức đi nữa. Độc giả có thể lao từ trang đầu tới trang cuối thoăn thoắt như con thoi mà không cảm thấy mệt nhọc vì đầu óc họ khỏi phải đánh đô vật với chữ nghĩa.

                Nhưng thật ra, để có được mạch diễn tả dễ gây thống khoái cho người đọc như thế, tác giả phải ra tay chăm sóc từng cách sắp xếp mọi chi tiết một cách tỉ mẩn chi ly. Anh làm cho chúng ta nghĩ đến người chơi hoa lan sành điệu như bà Thục Nhân, một cung tần của Hoàng Đế Minh Mạng. Chẳng những bà chăm bón, tỉa đẹp cho khóm lá mà còn dùng bút cọ mềm mại để phủi bụi bám trong lòng đóa hoa. Lại nữa bút pháp của anh đơn giản và trong sáng như nước sông thu chiếu lấp lánh ánh nắng. Sự diễn tả của anh dạt dào tình cảm mà không ướt sũng cảm tính đến mức cường điệu và thái thậm.

                Cái đơn giản, cái trong suốt, cái điềm đạm của anh trong văn phong làm chúng ta nghĩ đến văn chương của Thạch Lam trong các tập truyện Gió Đầu Mùa, Nắng Trong Vườn vào thuở tiền chiến, hoặc văn chương của Nguyễn Thị Vinh trong truyện dài Thuơng Yêu, Cô Mai, Nổi Sóng, Vết Chàm trước năm 1975 hay văn chương của Trương Anh Thụy trong bộ trường giang tiểu thuyết (le roman fleuve) Chuyển Mùa vào tân niên kỷ ở hải ngoại.

                Quyển Ác Mộng Đêm Dài đầy ăm ắp những biến cố, những chất liệu cần thiết để xây dựng nên một giai đoạn lịch sử máu xương trong văn chương. Tác giả không dùng một nhúm gạo nhỏ để nấu một nồi cháo to. Anh viết quyển Ác Mộng Đêm Dài như làm một cái bánh bao với nhân to bột mỏng, rất ngon miệng.

                Thường những kẻ có vốn sống ít oi, một khi cầm bút viết văn thường kể lể chuyện dạy đời xoàng xĩnh chẳng có chút giá trị gì cho nhu cầu kiến thức của độc giả. Hoặc gặp những tay khéo léo hơn là độc giả mệt ngất ngư truớc lối diễn tả cảm xúc theo kiểu một anh thợ chạm điêu khắc khúc gỗ bé tí những hình thù vô vị vô duyên. Cho nên muốn đưa hết những vận hành của thời cuộc, những khúc quanh của lịch sử vào tác phẩm, tác giả hy sinh một phần cách dựng hoạt cảnh (tả người, tả vật, tả tâm trạng nhân vật ).

                Anh nghiêng về thuyết thoại (la narration) hơn. Tuy nhiên, anh vẫn không quên công việc miêu tả, dù đôi lúc chỉ bằng vài nét phác thảo, vài nét khái quát, Nhưng những đoạn ấy được diễn tả bằng lối văn đôn hậu, thuần phác và ngập tràn sinh lực như cây dừa tơ, khóm chuối xanh tươi đang sức lớn nên dễ khắc ghi vào cảm quan lẫn ấn tượng độc giả những dấu ấn tuyệt vời.

                Xin cùng đọc một đoạn đời thơ mộng trong hồi ức của Nam được chàng ghi vào lá thư gửi cho Hiền. Đây là đoạn tác giả đem nghệ thuật tả cảnh nhập vào lối kể truyện, chứ không phải chỉ là đoạn miêu tả, hay chỉ là đoạn kể truyện suông trơn mà thôi.

                Có những đêm trăng, nằm trên chiếc võng nhà binh, nhìn bầu trời đầy sao, xanh mát, nhìn ánh trăng nhuộm vàng những ngọn dừa, những mái lá, những ngọn trâm bầu, anh nhớ vô cùng những đám cỏ dại xanh um điểm hoa vàng, viền theo hai bên lề con đưòng đất đỏ dẫn tới căn nhà lá nhỏ, chung quanh được bao bọc bằng hàng giậu cây me tây, nơi đó có một bà mẹ già sống trong lo âu, sợ hãi hằng ngày cho sự bình yên của anh.

                Anh nhớ cái ao súng sau nhà, sóng sánh ánh trăng nghiêng với những con cá chép vàng rực rỡ lượn vòng quanh. Và anh cũng nhớ rất rõ, nơi đó một thời anh đã lớn lên và cắp sách đến trường trong tình thương yêu của bà mẹ hiền lành. Anh cũng nhớ vô cùng ngôi nhà ngói đỏ khang trang ở ngay góc một ngả tư đường, nơi đó anh đã sống và lớn lên, nơi đó chúng ta đã gặp nhau, yêu nhau và cũng nơi đó có những buổi trưa hè chúng ta ngồi dưới gốc cây mít Tố Nữ, nhìn bầu trời xanh ngắt mơ ước chuyện mai sau. Những hình ảnh đó sáng ngời trong anh vào những đêm trăng sáng vằng vặc trên chiến trường, chỉ riêng một mình anh thao thức nhớ em...

                (trang 112)

                Cõi Quê Nam chúng ta đáng yêu như thế, bút pháp Anh Vân diễn tả những hình ảnh thân thương như thế nhất định là phải xứng hợp với nhau. Nhưng khi quê hương rơi vào tay bọn xâm lược Bắc phương thì nó đổi khác. Bút pháp của Anh Vân cũng đổi khác. Bút pháp đó trở thành u trầm buồn bã hơn, tiếng thở dài của anh trên những dòng diễn tả tuy nhẹ mà thấm sâu vào mọi hẻm hóc của nội tâm chúng ta.

                Cảnh bờ sông bến phà Mỹ Thuận sau ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam ít lâu cũng được trình bày vài nét tạo hình chung chung, nhưng cũng đủ gieo vào tâm hồn người đọc biết bao se sắt ngậm ngùi:

                ... Những cái cầu tiêu công cộng cất bằng gỗ và ván dọc theo bờ sông từ trước 1975, nay đã xiêu vẹo, đổ nát nhưng không được cất lại, không có chỗ tiêu tiểu cho phụ nữ khiến họ phải tiểu bên vệ đường. Mỗi lần có chuyến xe qua bắc là có cả chục người đàn bà, con gái vén quần tiểu tiện, cạnh những lùm cây, trông thật tội nghiệp!

                Một luồng gió thoảng qua khiến Nam nhăn mũi. Mọi người mải mê làm việc như quên mùi hôi hám đến muốn nín thở, bốc ra từ những đống rác đổ vất bên lề đường và những đàn ruồi xanh đánh ầm ầm trên những đống xác mía bên cạnh những xe nước mía. Nam lắc đầu thở dài trước cảnh đất nước hoang tàn khác hẳn thời kỳ còn chiến tranh. Bao nhiêu máu xương đã đổ ra để đổi lấy một đất nước nghèo khổ đến tận cùng.

                Những kẻ chiến thắng tự hào đã giựt sập ngôi nhà cũ, vẫn còn ở được nhưng họ không xây được ngôi nhà mới khiến toàn dân phải chịu cảnh màn trời chiếu đất. Nam nhìn quang cảnh nhộn nhịp chung quanh, mọi người tất bật làm việc mà trên người chỉ có manh áo tả tơi, vài cụ già đang xin ăn gần đó, những đứa trẻ ở lứa tuổi đến trường đang mang những thùng cà-rem, những bọc nước mía, những ly trà đá chạy tới chạy lui, rã họng mời gọi khách. Sự tàn phá của chiến tranh vẫn còn để lại trong ánh mắt mọi người dấu vết mệt mỏi, chán nản và tuyệt vọng.

                (các trang 299, 300)

                Cảnh phụ nữ vượt biên bị bọn hải tặc Thái Lan cưỡng bức mới ghê tởm thế nào! Chăng hiểu tác giả Anh Vân có chứng kiến cái thảm nạn đau lòng đó hay không? Hay là anh nghe các nạn nhân kể lại rồi dùng óc tưởng tượng tinh nhuệ vẽ vời thêm? Sao sao cũng được. Sao sao đều không quan hệ. Anh đã viết theo lối tường thuật trộn lẩn lối miêu tả thật linh động, như vậy cũng đã đưa đoạn văn này vào nghệ thuật văn chương, cũng đủ thuyết phục độc giả đang theo dõi từng bước diễn tả của anh rồi.

                Đêm xuống dần, nỗi kinh hoàng phủ trùm lên hòn đảo nhỏ. Mọi người im thin thít, chỉ còn nghe tiếng u u của muỗi rừng và tiéng oang oác của loài chim ăn đêm, tiếng sóng gào ngoài xa. Địa ngục trần gian là đây! Trong lúc những người đàn bà bất hạnh đang sợ hãi giấu mình trong bóng đêm thì những tiếng reo hò man rợ thình lình nổi lên từ bờ biển.

                Ánh sáng của những ngọn đèn măng-sông chói lòa trên trên những chiếc tàu đánh cá, cho thấy rõ những tên cướp biển đã trở lại, đang từ trên tàu nhảy xuống. Bọn chúng, mình trần trùng trục, miệng ngậm dao găm, một số, tay cầm dao dài, cầm búa vừa chạy vừa rú lên từng hồi man rợ. Chúng chạy cùng khắp, tìm những nhánh chà, những cành khô, chất lại thành nhiều đống rồi nổi lửa lên. Lửa thắp sáng một vùng hoang dã.

                Cuộc săn ngưòi bắt đầu. Chúng đưa tay lên che miệng, hú từng tràng dài man rợ, vừa chạy đến những bụi cây, những hốc đá kéo những nguời đàn bà bất hạnh ra gần đống lửa. Chúng lột trần truồng những người đàn bà ra, thi nhau hãm hiếp. Trong cảnh hỗn mang đó, Hiền cũng bị lôi đến gần đống lửa.

                Nàng chỉ muốn lao người vào đống lửa, chết đi cho khỏi tủi nhục, nhưng cơ thể nàng đã rủ liệt, không sao cất nhấc nổi tay chân. Những tên Thái Lan lại bắt đầu thay phiên nhau thỏa mãn trên thân xác nàng đến lúc Hiền chỉ còn thoi thóp, không kêu la nổi nữa. Dưới những ánh lửa bập bùng, bọn cướp la hét, chạy tới chạy lui, nói năng bi bô những tràng dài bằng ngôn ngữ lạ tai, những tràng cười khoái trá hòa lẫn với tiếng khóc van xin tạo nên một khung cảnh man rợ chưa từng thấy.

                Đến khuya, bọn chúng bỏ đi thì mỗi người đàn bà phải qua tay năm ba tên mọi rợ trong đó có cả những đứa bé gái mới mười hai, mười ba tuổi.

                Hai ngày trôi qua trong kinh hoàng. Những người đàn bà bất hạnh đã mất hết sinh lực. Họ tiều tụy một cách đáng sợ với đôi mắt trũng sâu, thâm quầng, trên gương mặt nhợt nhạt xanh xao như người chết. Vài người không quần áo mặc, ngồi co ro hai tay ôm ngực vừa khóc lóc tỉ tê. Họ chỉ biết khóc nhưng một phần lớn, im lặng không khóc, cố nuốt nỗi đau đớn tủi nhục vào lòng.

                Buổi trưa một người đàn bà nổi cơn điên, cổi hết quần áo đi lang thang dọc theo bờ biển vừa đi vừa ca hát. Một chiếc trực thăng vô tình bay qua, nhìn thấy cảnh đó, lập tức quay lại, bay quanh nhiều vòng. Nhiều người trên đảo còn tỉnh trí, vội vàng chạy ra vừa kêu gào la hét. Chiếc trực thăng từ từ hạ xuống.

                Ba người Tây phương mặc thường phục, gồm hai người đàn ông, một người đàn bà tức tốc nhảy xuống. Họ mang lên trực thăng những người bị thương nặng chở về chuyến đầu tiên. Người đàn ông tay cầm súng trường ở lai để săn sóc những người bị thương nặng và cũng để cho người đi chuyến sau yên lòng. Hiền may mắn được đi chuyến đầu tiên trong lúc còn mê man, bất tỉnh và được đưa ngay vào bịnh xá dành cho người tị nạn ở trai Tanjung Unggat thuộc tỉnh Tanjung Pinang, Nam Dương.

                (các trang 461, 462, 463)

                o0o


                Những nhân vật chính diện trong Ác Mộng Đêm Dài như Nam, Vinh, Sử, Trạc, Lan, Hiền đều có mẫu số chung: tình yêu nước và niềm tôn thờ chính nghĩa. Nam yêu nước một cách trong sáng và nhiệt thành ; với nhiệm vụ một sĩ quan tác chiến, anh cầm súng đứng bên hàng ngũ Quốc Gia để chống Cộng cứu nước một cách hồn nhiên, không coi đó là bổn phận mà là muốn bảo vệ chính nghĩa và thắp sáng tình yêu nước trong chí tang bồng hồ thỉ của mình để xứng đáng là một công dân thời loạn.

                Sau ngày mất nước, chàng lao vao tổ chức kháng địch nhỏ nhoi dù biết đó chỉ là việc làm châu chấu chống xe, nắm chắc phần thua thiệt trong tay, biết đâu mình phải chịu thiệt mạng. Nhưng chàng muốn gióng lên một tiếng chuông cảnh cáo bạo quyền rằng mầm mống phản kháng chính sách hà khắc của họ không thể trường tồn vững chải vì trong dân chúng sự chống đối vẫn là ngọn lửa tiềm sinh cháy âm ỉ ở những tấm can trường giống như hòn than vùi dưới lớp tro mỏng.

                Độc giả tức đến nghẹt thở trước hành trạng và sự chọn lựa của Nam. Có kẻ sẽ tự hỏi: "Có phải Nam cuồng tín và nhiệt thành tới độ ngu si đần độn không? Chàng há chẳng biết cái mặt thật của tổ chức kháng chiến ma qua lời nhận định và phân tích của Trạc hay sao? Nếu chàng không biết cái trí trá của bọn Hoàng Cơ Minh thì cũng đã xem cuốn video Đồng Tâm, cũng đã tỏ rõ tiền trợ của kiều bào đang nằm trong tay Hoàng Cơ Định hay sao?". Duy có một điều đáng chú ý: trước khi bỏ Hiền theo mặt trận, Nam chưa kịp nghe thấy sự chia rẻ, tranh đoạt quyền lực trong mặt trận mà con mãng xà hung hăng Phạm Văn Liễu đang kình chống với bầy lang sói có cái họ Hoàng Cơ.

                Nam được tác giả cấu trúc bằng nét ngoại hình khôi vĩ, bảnh bao. Cách cư xử mềm mỏng của chàng đối với mọi người, cách chiều chuộng phụ nữ của chàng tạo cho chàng một hấp lực say sưa lôi cuốn họ. Nhưng Nam không phải là hạng sở khanh xỏ lá, thích ve gái, thích hưởng thụ, lánh trốn trách nhiệm khi nước nhà đang lúc ngửa nghiêng. Chàng có một trái tim nhân ái, một tấm lòng yêu nước thương nhà thật đậm đà, thật kỳ diệu và đơn giản.

                Chàng là một chiến sĩ dũng cảm nhưng không thể nào có sự bén nhạy và quyền biến để lao vào lãnh vực trí trá, uyển chuyển và phức tạp của chính trị được. Chính Sử là cái đầu óc trong nhóm kháng chiến chống Cộng, còn Nam là ngưòi thừa lệnh để hoàn thành sứ mạng mà Sử giao phó một cách vuông tròn. Chàng tư duy về tình hình thời cuộc theo một chiều xuôi, không hề đặt vấn đề trước mọi biến chuyển, mọi ngã rẽ của sự việc. Chàng khi trở thành một thành viên vận động cho mặt trận, dám bỏ công ăn việc làm, bỏ việc học ngành kỷ sư cơ khí, chỉ còn hơn một năm nữa là tốt nghiệp.

                Trái tim mẫn cảm của chàng, tài văn chương tiềm tàng ở chàng chỉ giúp chàng trở thành một nhà văn có địa vị trên văn đàn. Chàng không thể là một cây bút viết những tác phẩm văn chương pha trộn chính trị đuợc. Vả lại, trong lãnh vực văn chương, một khi có chính trị len lỏi theo cách rón rén bước vào, tác giả đừng nên để nó bành trướng để khỏi hy sinh ít nhiều tính chất nghệ thuật. Đương sự phải dùng chính trị như một phương tiện để khai thác tâm tình, nhân sinh quan, niềm khao khát của nhân vật, chứ không nên dùng chính trị như mục đích huy hoàng để nhắm tới.

                Khi dựng lên nhân vật Nam, tác giả đã in cái phóng ảnh của mình vào Nam: Nam tức là hình ảnh của anh qua một khía cạnh nào đó. Anh Vân dùng mặt trận của bè lũ Hoàng Cơ Minh để đào sâu nhân vật Lê Quốc Nam của mình, chứ không phải nhắm vào mặt trận để làm đề tài chánh cho quyển Ác Mộng Đêm Dài. Do đó, quyển trường thiên tiểu thuyết này không bị giảm sút tinh thần văn chương đúng nghĩa.

                Những người có đầu óc tôn thờ lý tưởng thường là những kẻ nhiệt tâm nhiệt huyết; nhưng bầu nhiệt huyết nhiều khi che mờ óc phán đoán của họ. Cho nên họ thường bị kẻ gian tà lợi dụng hoặc bị đưa vào cạm bẫy của chúng.

                Duới cặp mắt nhận xét của Hiền, Nam là một nhân vật đáng yêu. Nàng không cho cái lý tưởng của chàng thấp thoáng đôi chút mầm mống cuồng tín, mà đó là sự hy sinh thuần khiết phát xuất từ cái căn tính bất vụ lợi:

                Nhìn Nam cắm cúi làm việc, Hiền thấy Nam là một con người nhiều nghị lực. Duờng như trong mỗi con nguời có những thao thức riêng tư được ấp ủ và giấu kín dưới gương mặt bình thản như lòng ham muốn giàu sang, danh vọng, địa vi, khát vọng tình yêu hoặc đeo đuổi theo một lý tưởng nào đó. Trong tình yêu, Hiền biết rõ Nam là kẻ đam mê.

                Trong những lần làm tình với nàng, Nam như một ngọn lửa đốt cháy nàng, như muốn lột da nàng để nhìn rõ tường tận trong cõi sâu thẳm của nàng. Ngoài ra Nam còn ấp ủ một hoài bão là được góp công và nhìn thấy quê hương an bình, trong đó đồng bào anh được sống hạnh phúc. Với Nam, dưòng như tiền tài không quyến rũ được anh. Nam say sưa viết lách, dàn trải tâm tình, ước vọng của anh lên trang giấy. Anh kết tội chủ nghĩa cộng sản đã làm kiệt quệ đất nước, đã vắt cạn sinh lực và tinh hoa của người dân, làm thui chột mấy thế hệ tuổi thơ. Nam viết say sưa, viết bằng tất cả sự rung cảm chân thành và tấm lòng yêu nước của anh. Đọc Nam, Hiền cảm nhận được hết những điều đó.

                (các trang 702, 703)

                Trạc nhận định Nam cũng qua một khía cạnh bao dung khoan hồng, không gán cho Nam cái tật cuồng tín:

                Nhìn khuôn mặt trầm ngâm của Nam, Trạc thở dài. Anh hiểu Nam lắm. Nam, bạn anh, con sư tử lãng mạn đâu chịu nằm yên trong cũi. Anh đâu còn lạ gì về đức tính hy sinh của Nam, khó ai bì kịp. Bỏ nước, bỏ mẹ già ra đi trong nhục nhã, cái chết của Vinh, của Sử, những ngày tháng đen tối trong tù, cảnh nô lệ của người dân vẫn còn là một vết thương rướm máu trong lòng Nam.

                Mối hận này chưa rửa được, Nam sẽ sống những ngày khắc khoải không yên; nhưng về chiến khu trong lúc nầy, theo Trạc nghĩ là một hành động vội vã, thiếu cân nhắc. Một tổ chức đấu tranh mà hầu hết anh em gia đình ho Hoàng đều giữ chức vụ quan trọng, trong đó tiền bạc giao trọn cho Hoàng Cơ Định, một tay tham nhũng khi còn giữ chức Giám Đốc trường Cao Đẳng Hóa Học ở Việt Nam. Sau đó bị đưa ra Giám Sát Viện xét xử và bị cách chức. Hoàng Cơ Định đi đến đâu cũng thúc giục các trưởng cơ sở phải tận dung khả năng quyên tiền đồng bào bằng mọi cách.

                (trang 738)

                Việc bỏ chốn định cư để vào chiến khu của Nam phải có thêm một động cơ nào khác nữa thôi thúc, chớ không phải chỉ vì yêu nước bồng bột. Cái đó, tác giả Anh Vân không nói ra, độc giả cũng không đoán ra. Nhưng cái bí ẩn vẫn thấp thoáng sau lưng sự việc mà tác giả cùng Hiền và Trạc đã trình bày. Cái chết của Nam lại càng kỳ bí hơn. Chuyến ra đi cùng cái chung cuộc thê thảm của chàng bị gói trọn trong lớp màn tối đen huyền bí.

                Lịch sử trong vòng 10 năm hay 20 năm có thể sẽ trả lời chúng ta đâu là sự thật hay một bóng dáng hoặc một khía cạnh của sự thật. Nhưng Nam thì vẫn là một cái bóng thấp thấp trong huyền sử mờ mờ nhân ảnh từ khi chàng sửa soạn vào khu chiến cho tới cái chết của Hoàng Cơ Minh đã bị tiết lộ. Vè phương diện nghệ thuật, Nam làm cho chúng ta nghĩ ngợi nhiều hơn các nhân vật khác. Chàng hiển thánh trong ánh sáng nghệ thuật trong khi tông tích về sau của chàng trở thành bóng chim tăm cá giữa cái thế giớ u hiển mập mờ.

                o0o


                Những nhân vật phản diện như Tư Thống và một vài tên quản giáo trong Ác Mộng Đêm Dài xuất hiện trên diễn tiến quyển sách quá ít. Còn những nhân vật trong mặt trận kháng chiến ma của bọn Hoàng Cơ Minh chỉ được xuất hiện trong lời tường thuật của tác giả qua đống tài liệu đăng rải rác trên các sách báo ở hải ngoại mà anh thu thập được Trái lại, bên cạnh Nam hoặc bên cạnh hay chung quanh Hiền, nhân vật chính diện xuất hiện nườm nượp. Xin được lần lượt kê khai:

                * Vinh là con một viên sĩ quan cao cấp chỉ biết ăn chơi và một người đàn bà phóng đảng hám lợi. Chàng yêu nước với tấm lòng ngay dạ thẳng và niềm son sắt thiết tha như tấm lòng dũng tưóng Triệu Tử Long thờ chúa của mình là Tây Thục Tiên Chúa Lưu Huyền Đức ( tức là Lưu Bị ). Chàng đau khổ và cảm thấy nhục nhã khi biết mẹ buôn lậu vũ khí cho địch.

                Và chàng còn ân hận sao mình trước kia với tinh thần yêu nước cao độ mà không đi tác chiến mà lại chịu làm việc Phòng 1 của Tiểu Khu Bặc Liêu. Cho nên muốn chuộc lại lỗi lầm của mẹ và sự chọn lựa cầu an của mình, dù không có kinh nghiệm về chiến trường mà chàng vẫn tham gia vào tổ chức kháng chiến do Sử và các bạn đồng tâm chung hướng của chàng tổ chức. Chàng hy sinh cản địch vào hôm tấn công căn cứ Sóc Đồn nên phải bỏ mạng.

                Trại tù vắng vẻ đến lạnh lẽo, chỉ một mình Vinh và một anh tù binh đang đau nằm ở cuối trại. Vinh nằm dài xuống chiếu hút thuốc, nghĩ vẩn vơ, chờ đợi tới giờ lên ban giảng huấn. Vinh rùng mình. Trời nầy mà ngâm mình dưới nước, móc đất là một khổ hình. Cuộc chiến nầy đã mang đến những gì tốt đẹp, chưa thấy, chỉ thấy toàn quân dân mình Nam đang trả một cái giá quá đắt.

                Vinh nuối tiếc những ngày tháng cũ và có cảm tưởng những gì tốt đẹp đã đổ nát, hoang tàn trong tim anh. Vinh thấy phục Nam. Nam đã sống hết mình với cuộc đời, hi sinh và chịu đựng gian khổ ngoài chiến trường một cách can đảm và bây giờ Nam chấp nhận một cách thản nhiên kiếp sống đọa đày của một tù binh. Vinh biết, Nam đã hết sức cố gắng luyện tập yoga hằng đêm để giữ vững tinh thần, không tỏ ra hèn yếu trước kẻ thù. Không bao giờ Vinh nhìn thấy Nam khúm núm trước mặt những tên bộ đội hay cán bộ giảng huấn như một vài tù binh khác. Anh phục thái độ sống của Nam, muốn được như Nam. Anh thèm khát được cầm súng chiến đấu nhưng tất cả đã muộn màng.

                (các trang 213, 214)

                *Sử khi còn làm việc ở Phòng Tình Báo Tiểu Khu là một kẻ mặt sắt, một hung thần với bọn địch trà trộn vào dân chúng hay địch nằm vùng. Chàng thâm trầm nhiều mưu mẹo và có óc quyền biến tinh nhuệ. Nhưng chàng không phải là hạng người dùng cái lợi khí thiên bẩm của mình để kiếm tư lợi hay để phụng sự cho cái Ác, cho bạo quyền.

                Chàng là một kẻ ái quốc chân chính. Cái tổ kháng chiến của chàng do chàng coi sóc mọi việc quan trọng đòi hỏi sự thông tuệ lẫn kiến thức. Chính việc tấn công Sóc Đồn do chàng đặt kế hoạch và chỉ huy. Giúp Nam và Hiền vượt biên cũng do chàng chớ do ai? Chàng yêu thầm kín Lan mà không dám thố lộ, để tới phút lâm chung mới bày tỏ nỗi lòng với Lan. Chàng tuy là vai phụ trong Ác Mộng Đêm Dài, nhưng chói sáng có phần hơn Nam.

                ... Âm thầm yêu Lan nhưng Sử không chịu ngỏ lời. Anh biết tỏ tình trong lúc tâm hồn Lan đầy ắp hình ảnh Nam, chỉ chuốc lấy sự bẽ bàng. Tỏ tình không đúng lúc, anh sẽ mất Lan vĩnh viễn vì tình yêu không thể ngỏ lần thứ hai. Sử biết Nam có những điều hơn hẳn anh. Nam có dáng dấp cao ráo, guơng mặt dễ nhìn và nhất là Nam lúc nào cũng dịu dàng và tỏ ra săn sóc đàn bà. Những yếu tố đó anh không thể có được. Bây giờ Nam bỏ đi, Sử định một thời gian sau khi tình cảm của Lan dành cho Nam nhạt dần, anh sẽ tỏ tình cùng Lan và hi vọng sẽ thành công.

                (trang 495)

                Nắng hôm nay như vàng hơn, rực rỡ hơn. Cuộc đời bỗng dưng rực rỡ dưới mắt Sử. Từ ngày Nam bỏ đi cho tới giờ, Sử mất đi một cánh tay đắc lực, gánh nặng của tổ chức sẽ đè nặng hơn trên vai Sử. Tất cả vấn đề quan trọng Sử chỉ biết thảo luận với Lan. Hoạt động bên nhau, cùng gánh vác một việc và cùng chia sẻ hiểm nguy với nhau, tình cảm giữa anh và Lan càng ngày càng khắn khít.

                (trang 496)

                * Nhân vật Trạc, một nhân vật xương sống, một chứng nhân sáng suốt trong tác phẩm Ác Mộng Đêm Dài. Khi Lục Phưong Ninh đuổi bọn Hoàng Cơ, Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công ra khỏi Lực Lượng Quân Dân Việt Nam hải ngoại, anh có nhận xét như sau :

                Trạc thở dài, một lúc rồi nối tiếp :

                - Nghe nói tổ chức đang rạn nứt. Lục Phương Ninh theo Đinh Thạch Bích, sắp

                kéo lực lượng ủng hộ Trương Như Tảng, tìm sự yểm trợ của Trung Cộng. Cánh thứ hai gồm có Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công. Mẹ! Chưa làm việc gì đã chia năm xẻ bảy. Nóng lòng nhập cuộc rồi mình chỉ làm viên gạch lót đường cho tham vọng của họ.

                Nam nhìn Trạc một giây, anh thấy trong mắt người bạn thân một chút bơ vơ, lạc lỏng. Nam biết trái tim Trạc bắt đầu nguội lạnh. Một con người giàu nhiệt tình với đất nước như Trạc đã bắt đầu mất hết niềm tin. Dường như Trạc nhập cuộc để khỏi bị lương tâm cắn rứt, để được yên lòng sống những ngày còn lại trên xứ người...

                (các trang 611, 612)

                Sau khi xem cuốn phim video Đồng Tâm trình chiếu ở nhà một chiến hữu tại Santa Ana (Nam California), Trạc không tin căn cứ khu chiến đặt tại quốc nội. Xin cùng đọc:

                Trạc nhìn ra ngoài xe, chửi thề :

                - Đ.m! Chưa gì Mặt Trận đã lừa gạt anh em và buộc mình lừa gạt đồng bào.

                Tao lặn lội khắp nơi, tao cá với mầy đó không phải là rừng Việt Nam.

                Nam yên lặng lái xe, một lúc sau mới lên tiếng:

                - Thôi, để trình chiếu cuốn video xong, xem phản ứng của đồng bào ra sao.

                Việc tạo niềm tin trong đồng bào để tìm sự yểm trợ là điều cần thiết trong giai đoạn đầu.

                Trạc lớn tiếng:

                - Tại sao không dám nói thẳng với đồng bào là khu chiến đặt tại Thái Lan? Việc

                giải phóng đất nước trong tay giặc là chuyện đội đá vá trời có phải như lấy đồ trong túi ra đâu. Giai đoạn đầu tìm được một nơi để lập khu chiến đã là hay lắm rồi. Tại sao phải nói láo? Nói láo được một lần, họ sẽ không dừng lại ở đó đâu. Chưa gì đã lọt về Việt Nam và lập chiến khu. Làm như tụi Việt cộng đã chết hết và họ đã coi tụi mình như những đứa con nít.

                (trang 624)

                Vào ngay 30/4/1983, tại Washington D.C, chủ tịch Hoàng Cơ Minh của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đã tuyên bố: từ khi thành lập mặt trận vào ngày 30/4/1980 cho đến ngày 8/3/1982 mặt trận đã liên lạc và kết hợp 36 tổ chức kháng chiến khác nhau trên toàn quốc, Trạc chì chiết liền :

                - Mẹ! Nội cái chiến khu quốc nội nghe đã không ổn rồi, nay lại kết hợp được 36

                tổ chức kháng chiến với số kháng quân khoảng hơn mười ngàn người, ngồi đó vẽ cũng còn không kịp. Bọn nó coi chúng mình như lũ con nít. Chắc tao sẽ ra khỏi Mặt Trận một ngày gần đây. Đời tao, không thằng nào có thể coi tao như con nít được. Mẹ! Thằng anh thì làm Chủ Tịch, thằng em thì làm thủ quỹ, toàn quyền trong việc chi thu.

                Có tổ chức nào lạ đời như tổ chức nầy không? Tao sẽ không thu tiền của đồng bào và anh em trong chi bộ nữa để khỏi hối hận sau nầy. Nếu cần tao sẽ giải tán chi bộ luôn. Tổ chức nầy không đổ vỡ vì chuyện tiền bạc, tao thề sẽ đi bằng hai tay. Cả Liễu, Công cũng chỉ là hai thằng ngu. Tên nào cũng nói là mình phục vụ Tổ Quốc nhưng khi nhìn thấy thái độ hống hách và chuyện tiền bạc thiếu minh bạch của Hoàng Cơ Định, không tên nào dám lên tiếng. Con c...tao không làm gì cho cá nhân tao, tao cóc ngán thằng nào.

                (các trang 747, 748)

                * Hiền là cô gái mới lớn chỉ biết yêu Nam, chỉ biết chung thủy với Nam, chỉ biết cầu nguyện Chúa Ki-tô phù hộ mình thoát khỏi hoạn nạn tai ương để hưởng hạnh phúc vuông tròn. Ngoài ra, nàng chẳng hề biết những chuyện trọng đại khác. Tai nạn trong chuyến vượt biên càng làm nàng gần gũi Chúa hơn. Linh mục Antonio là kim chỉ nam cho nàng tìm về sự cứu rỗi của Chúa, soi rọi tâm hồn bình an và tìm gặp hạnh phúc ẩn núp sau tai ương.

                Nhưng khi Nam bỏ đi theo mặt trận, Hiền bắt đầu tìm hiểu về thời cuộc và về diễn biến hoạt động của họ. Đó cũng chỉ là động lực do tình yêu thôi thúc mà thôi. Hiền là hiện thân của một thiên thần, sống trong tuân phục ý Chúa. Nàng hoàn toàn quá, thuần khiết quá nên không có cá tính mãnh liệt nào ngoài niềm chung thủy đối với mối tình đầu và Đức Tin. Ánh sáng thiên lương không hướng dẫn nàng theo chuyện nào khác hơn là vấn đề tâm linh hướng về Chúa để noi gương Chúa vác cây Thánh Giá khi nàng phải gồng mình gánh vác hệ lụy:

                Kính lạy Chúa! Cha nhân từ của con. Chúa ôi !Kính xin Chúa thương xót, tha thứ cho con mọi tội lỗi. Xin Chúa cứu vớt con, đừng rơi bỏ con, nhất là trong lúc nầy. Xin Chúa ở cùng con luôn, giúp con vượt qua những cảnh đời mà sức con không còn kham nổi. Cả tháng nay, con đã và đang sống trong bóng tối sâu thẳm của địa ngục, giữa lằn ranh của sự sống và nỗi chết.

                Con đã nhận lãnh bao ngọn roi đời tàn bạo trên thân xác yếu đuối và tâm hồn đã rướm máu của con. Hiện con đang chết dần mòn và sự sống như sắp rời khỏi con. Con không xin Chúa cất chén đắng ra khỏi môi miệng con. Tát cả đã muộn màng vì con đã uống chén đắng đó. Con chỉ xin Chúa giúp con nếm giọt đắng cuối cùng một cách can đảm, không lúc nào bằng lúc nầy, con đến để cầu nguyện cho những vết thương trên thánh thể Chúa cũng như những vết thương trong tâm hồn và thể xác con.

                Những vết thương đau đớn trên thân thể con đã giúp con cảm nhận đuợc nỗi đau tột cùng mà Chúa đã phải chịu đựng trên thập tự giá vì tội lỗi của nhân loại và cũng vì tội lỗi của riêng con. Chúa nhân từ của con ôi ! Trên con đường khổ nạn của dân tộc mà con đang đi, một điều mà con nhất thiết van xin Chúa, cho con gặp lại Nam. Xin Chúa mở rộng tấm lòng Nam, đừng để Nam khinh ghét con vì những đau đớn tủi nhục đó đâu phải do con gây ra mà nó đến từ những tấm lòng độc ác của loài người.

                (các trang 466, 467)

                * Lan là một nữ quân nhân có tâm huyết. Không phải chỉ có tình yêu của

                nàng dành cho Nam thúc đẩy nàng tham gia vào tổ chức chống Cộng mà nàng cần phải làm một cái gì đó cho tổ quốc, cho công bằng, chính nghĩa. Lý tuởng nàng rất sâu sắc và hào hùng hiếm có ở một phụ nữ chân yếu tay mềm.

                Xin đọc đoạn nói về ý kiến của Lan trong dự định tổ chức kháng chiến, trong đó Lan sẽ tham gia :

                Nam hỏi :

                - Lan nghĩ gì về việc làm của chúng mình ?

                Lan đáp với giọng bùi ngùi :

                - Lan chỉ nói ý nghĩ của Lan với anh thôi. Làm thì làm, làm cho thỏa mãn con

                người phản kháng bên trong tâm hồn mình nhưng Lan thấy nản lòng lắm. Vài chục tay súng thì làm được gì trong lúc nầy nhưng anh em đã góp phần chẳng lẽ mình đứng ngoài. Bây giờ có anh nhập cuộc. Lan thấy như được khích lệ hơn. Thôi thì một kiếp người, sống thế nào để không phải hổ thẹn với mình là đuợc.

                Nam nhìn Lan với ánh mắt trìu mến. Anh thấy thương Lan, thương Sử, thương mến những chiến hữu của anh đã can đảm, coi nhẹ mạng sống, coi thường hạnh phúc riêng tư của đời mình, kết hợp để gầy lại cuộc chơi với hai bàn tay trắng. Cuộc chơi mà mọi ngưòi gần như biết trước, khó mà thắng được, nhưng ở đời người ta làm những việc xét ra phải làm và chấp nhận chết cho những điều mình tin tưởng.

                Nam hỏi:

                - Lan không nghĩ rằng, ở nhiều nơi khác cũng có những anh em đang âm thầm chiến đấu như chúng mình sao? Việc gom anh em lại để làm một cái gì cho đất nước trong lúc nầy, giống như mình đốt lên một ngọn lửa và cố gắng giữ cho nó đừng tắt. Biết đâu sau đó sẽ có nhiều người tiếp tay với minh.

                - Lan có nghĩ đến điều đó nên còn nấn ná ở lại, bằng không em đã tìm đường ra đi rồi.

                (các trang 286, 287)

                Tâm lý của Lan được tác giả diễn đạt theo một tiến trình rất lớp lang, rất hợp lý. Nàng yêu Nam ở cái lý tưởng sáng ngời chính nghĩa lẫn cái phong cách hào hoa của chàng. Nhưng đó chỉ là tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Nhưng rồi xa Nam, không hy vọng sẽ có ngày gặp lại Nam, mà dù gặp lại Nam thì chàng vẫn thuộc về Hiền, cho nên nàng nhìn lại Sử thường xuyên ở cạnh nàng, cùng nàng hoạt động cho đại cuộc .

                Cái quyền biến, cái tài đứng vững ở đầu sóng ngọn gió, lẫn cái tâm địa rộng rãi và phong độ hào hùng của Sử dần dà chiếm đoạt trái tim nàng bằng từng bước tuy chậm chạp mà vững chắc. Ôi, cái tình yêu đó lúc Sử còn sinh tiền âm thầm đến Lan bằng những bước chân nhẹ quá, rón rén và mong manh quá nên nàng chưa cảm nhận rõ rệt. Nhưng đến giây phút chàng chết trong tay nàng, mối tình ấy như một bông hoa ánh ánh nở tung ra, soi rọi khắp nội giới nàng.

                Khác với Hiền, Lan tuy không phải là kẻ vô thần, vô tín ngưỡng, nhưng nàng hoài nghi về linh hồn, về cõi chết. Bình thường nàng không đặt nặng vấn đề này. Nhưng trong lần đi viếng mộ Sử, ánh sáng tâm linh dù bạc nhược vẫn len lỏi vào nội giới nàng, để nàng đối diện với nó, đặt vấn đề về nó. Có lẽ nàng đã gặp một vài biến cố thần bí không sao giải thích trên con đường hành hương tìm những kẻ tuẩn đạo cho chính nghĩa, trong đó có sự hiện diện của Sử. Xin cùng đọc những giờ phút hoài niệm cùng những dòng tư duy thuộc lãnh vực tâm linh của Lan trong lần nàng đi viếng mộ Sử :

                Đến nơi, Lan ngồi cạnh nấm mộ nghỉ mệt, mắt nhìn chăm chăm vào tấm mộ bia. "Tạ Thành Sủ" sinh năm 1948, mất năm 1979". Sử chết vào năm 31 tuổi, cái tuổi mà người Việt Nam cho là xuôi xẻo. Lan lấy trong cái giỏ xách miếng vải nhỏ, lau chùi tấm mộ bia. Lau xong, Lan ngồi thừ bên cạnh mộ, mắt nhìn về phía trời xa. Một con chim lẻ loi, kiếm ăn về muộn đang mệt mỏi vỗ cánh bay về tổ.

                Chung quanh Lan giờ nầy hoang vắng quá, chỉ mình Lan với nấm mộ cô đơn. Tự nhiên Lan cảm thấy mình già đi, tâm hồn cằn cỗi, tràn ngập nỗi buồn, như vạt nắng chiều đang hấp hối ở cuối trời xa thẳm. Lan tự hỏi : "Con người thật sự có linh hồn chăng ?". Sử vẫn quan niệm rằng "chết là hết". Thật sự có phải chết là hết không ? Nếu có linh hồn thì thân xác đã về với cát bụi rồi, linh hồn nương tựa vào đâu ?

                Khi còn sống Sử lúc nào cũng nóng nảy bồn chồn. Dường như Sử không có một giây phút an bình, những âu lo thay phiên xuất hiện trong đời sống. Và bây giờ Sử đã chết, tấm thân đã vùi xuống lòng đất lạnh, liệu ở thế giới bên kia, linh hồn Sử có được bình an không ? Một thứ bình an vĩnh cửu hay còn vương mắc với những vay trả cuộc đời mà lúc sống, Sử chưa thanh toán được.

                Quốc gia, cộng sản, dân chủ, độc tài, tự do, nô lệ, những thứ đó có làm bận lòng Sử không? Nếu linh hồn còn đó, liệu Sử có nhìn thấy những giọt nước long lanh niềm khổ hận dưới mắt nàng không ? Giọt nước mắt của một cuộc tình mà khi nhận ra đã quá muộn màng để khổ hận cho người sống cũng như kẻ chết...

                (các trang 572, 573)

                o0o


                Trong Ác Mộng Đêm Dài còn có hai nhân vật đáng chú ý. Đó là mẹ của Nam và bà Ngởi (mẹ của Vinh và Hiền).Mẹ của Nam là người đàn bà thuộc hạng trí tuệ, hiểu rõ tình hình và thời cuộc. Tác giả không nói rõ do đâu mà bà có được một kiến thức viễn thâm ấy, ngoài sự ham mê đọc sách. Trong những ngày Nam và Vinh vừa rã ngũ tan hàng, bà nhận định như sau:

                - Các con rồi sẽ không yên với họ đâu. Mẹ lo lắm! Nếu giết được hết thành phần

                như các con mà không mang đến hậu quả xấu nào, họ sẽ làm ngay. Họ không nhân đạo mà nghĩ "cùng là người Việt với nhau" như các con nghĩ đâu. Các con còn nhớ các mồ chôn tập thể ở Huế tết Mậu Thân, những lần họ ném lựu đạn vào các chợ hay rạp hát. Đó là những việc làm có chủ trương cả. Họ đâu có nghĩ đến sinh mạng của những người dân vô tội kể cả đàn bà và trẻ thơ.

                Họ tự phong cho họ cái quyền giết người vì hạnh phúc con người, giết người để cứu người. Họ được dạy dỗ như vậy, giết một số người nhỏ để cứu một số người khác đông hơn. Vì vậy mà họ giết người không gớm tay đâu, nhưng họ giết người mà có cứu được nguời không? Đó là chuyện khác. Họ cần đạt được mục đích, cướp được miền Nam và bằng mọi giá phải giữ được miền Nam.

                Giết các con thì họ không làm vì vì thành phần tập kết khá đông. Đem con cháu của của những người tập kết ra giết hết, sẽ có loạn ngay và kéo theo sự nổi loạn dây chuyền của những gia đình có con em là sĩ quan. Thời phong trào Việt Minh, nhiều người ra thành, chỉ mua một hộp sữa đặc cho thân nhân đang bịnh uống mà chúng khám xét gặp, chúng tra khảo đến chết rôi quăng vào bao bố, cột miệng lại, ném xuống sông mà họ gọi là "cho đi mò tôm".Vì vậy mà mẹ lo cho các con lắm!

                Chuyện tàn ác nào mà họ không dám làm. Cái chiến thắng nầy vẫn còn làm họ ngỡ ngàng như đang sống trong mơ như các con. Cái mà họ phải làm ngay bây giờ là gom các con lại để ổn định tình thế. Ngày bắt giữ các con sẽ gần đây thôi, còn ngày về của các con thì không ai có thể đoán được. Sau lần chiến thắng ở Trung Quốc một số sĩ quan cao cấp của Trung Hoa quốc gia bị giết, một số vẫn còn bị giam giữ cho tới giờ nầy. Họ sẽ không giết các con ngay, nhưng họ sẽ giết dần mòn các con ở trong tù. Việc làm nầy còn tàn ác hơn nhưng đối với người ngoại quốc, họ vẫn được tiếng nhân đạo vì không có cảnh tắm máu ở miền Nam như nhiều người dự đoán.

                (các trang 129, 130)

                Trong văn chương Việt Nam của chúng ta, hình ảnh bà mẹ của các nhân vật chính diện thường đuợc lồng trong các bà lão nếu không quê mùa thì cũng không có vốn liếng kiến thức và không có trình độ học vấn bao nhiêu. Bà mẹ củaNam là một nhân vật đặc biệt mà ngay phần đầu câu chuyện tác giả Anh Vân đã giới thiệu là bà thích đọc sách. Cho nên gặp một bà già như thế trong Ác Mộng Đêm Dài chúng ta không bỡ ngỡ. Kiến thức của bà không phải chỉ nhặt nhạnh ở sách vở mà còn ở kinh nghiệm sống dồi dào của bà nữa. Bà còn làm cho chúng ta lạnh xương sống hơn nữa khi khuyên Nam trước khi đi học tập cải tạo:

                Nam hỏi:

                - Sao mẹ lo lắng như vậy? Thông cáo đã nói rõ ràng là chuẩn bị đồ ăn

                trong mười ngày.

                Mẹ Nam thở dài:

                - Nếu được như vậy là điều may mắn.

                - Mẹ có vẻ không tin.

                Mẹ Nam nghiêm mặt :

                - Mẹ đã dặn các con bao nhiều lần, những gì người cộng sản nói thì không nên tin. Con lại quên lời mẹ dặn rồi.

                - Họ đã ra thông cáo và người dân đã nghe rõ thông cáo đó. Chẳng lẽ, họ dám nói láo hay sao?

                - Chuyện gì họ cũng dám làm miễn có lợi cho họ.

                Nhìn sắc mặt có nét giận của mẹ, Nam không dám nói thêm.

                Giọng mẹ Nam dịu dàng hơn:

                - Dù không tin thì mình không biết phải làm sao nhưng nhớ, trong tù, họ sẽ kêu

                con khai lý lịch và những việc làm của con trong quân đội. Con đã khai gì, phải nhớ ghi lại để khai lần sau cho giống. Nhớ khai trong bản lý lịch, hai người anh của con đi tập kết vào năm 1954. Họ sẽ bắt các con khai đi khai lại nhiều lần để xem những lời khai có mâu thuẫn không. Phải dùng cái khôn ngoan của mình đối phó với kẻ thù.

                Phải nhớ lần đầu tiên, con khai những gì thì lần thứ hai cũng chỉ có thế. Nếu mỗi lần khai, con thêm một số chi tiết thì họ cứ bắt con phải khai hoài để tìm hiểu thêm những việc con đã làm. Chuyện gì giấu được thì cứ giấu. Thà họ chụp tay mình còng chớ đừng tự ý đua tay cho kẻ thù còng. Con nhớ chưa?

                (các trang 161, 162)

                Có thể mẹ của Nam nhờ đọc hồi ký của các tù nhân chánh trị dưới chế độ Cộng Sản nên có sự hiểu biết sâu rộng như thế. Nam quả thật có một bà mẹ tuyệt vời. Bà là ngọn đuốc soi sáng cho Nam đi trên con đường yêu nước, soi cho Nam nhận diện bộ mặt tàn ác nhưng luôn giả nhân giả nghĩa của Cộng Sản. Nhưng tiếc thay vì còn ở trong vòng phong tỏa của Cộng Sản nên bà không soi được cái trí trá của bè lũ con buôn chính trị bên phía Quốc Gia của chúng ta ở hải ngoại.

                Riêng bà Ngởi, mẹ của Vinh và Hiền có học lực cao hơn mẹ của Nam, nhưng không có nhận định sâu sắc như mẹ của Nam. Hoàn cảnh và tâm sự của bà lại có chỗ ngắc ngoéo, éo le. Bà có người yêu tên Ngân theo phe Việt Minh chống Tây. Đương sự hoạt động ở thành phố, bị Tây bắt đưa về bót Catinat tra khảo cho đến chết. Do đó bà ghét Tây, ghét luôn Mỹ và phe Quóc Gia. Bà nghiêng cảm tình về phe Việt Cộng vốn là thối thân của phe Việt Minh.

                Bà kết hôn với Thiếu Tá Nghiêm (thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa), cha của Vinh và Hiền để có chỗ che chở. Hôn nhân không có tình yêu làm bà thất vọng. Cho nên bà ham tiền, làm đủ mọi cách để có tiền, dù phải lén lút làm ăn với bọn Cộng Sản để bán đứng Miền Nam Việt Nam đi nữa.

                Lỗ hổng tâm lý của bà phải có tiền trám đầy mới tạo cho bà sự thăng bằng. Sau ngày 30/4/1975, lúc đầu bà chạy theo chánh thể mới để bảo vệ tài sản của mình. Nhưng sau bao lần chứng kiến cái cách cướp nhà đoạt của do các cán bộ miền Bắc lộng hành, bà bắt đầu suy nghĩ và đặt lại vấn đề. Cái chết của Vinh làm cho bà khám phá một sự thật đau lòng: người con trai yêu quý của bà muốn chuộc lại lỗi lầm của bà nên hy sinh dấn thân vào tổ chức kháng chiến chống bạo quyền, không ngại hiểm nguy đến sinh mệnh.

                Với hành động đốt nhà của mình rồi tự thiêu luôn, bà Ngởi chứng tỏ sự phản kháng của mình là cách phản kháng song đôi, tiêu cực và tích cực, chủ động lẫn thụ động. Trong truyện, sau khi phục rượu cho bọn công an say như chết, bà nổi lửa tự thiêu, nhưng tác giả không nói rõ bọn công an có thoát khỏi biển lửa hay không? Nhưng người đọc tin rằng, men rượu cực mạnh làm cho tứ chi bọn chúng rũ liệt, nếu chúng không biến thành tro than thì cũng bị quay bị nướng như lợn như gà.

                Sau đây là tâm sự của bà Ngởi vào đêm cuối đời của bà:

                Cái chết của đứa con thương yêu vẫn còn rỉ máu trong tim bà. Nhu cầu tình cảm hiện giờ của bà là hai đứa con, nay chúng đã bỏ ra đi thì bà cần gì nữa? Sợ gì nữa? Trong đời sống, điều làm nguời ta sợ hãi là sự chết, nhưng với bà bây giờ cái chết không còn làm bà sợ thì bà sợ gì mấy thằng trong Ủy Ban Hành Chánh.

                Cái chết đối với bà là lối thoát êm đẹp nhứt, một mơ ước quái đản mà bà đã nghĩ ngợi tới luôn và bà đã chuẩn bị tất cả cho bà. Sở dĩ bà vẫn còn nấn ná đến ngày hôm nay cũng chỉ để chờ tin tức Hiền, xem con bà đã đến bến bờ tự do chưa để bà yên tâm ra đi. Bây giờ tình thế bắt buộc phải đi sớm hơn dự định thì đi, có gì mà sợ. Biết đâu trong cõi thiên thu đó, bà sẽ gặp lại Vinh, đứa con trai thương yêu của bà và biết đâu trong cõi sống không thù hận đó, con bà sẽ tha thứ cho bà.

                Đến lúc tuổi già, bao nhiêu bất hạnh xảy đến, bà mới hối hận là trong quá khứ, bà đã sống với quan niệm sai lầm, coi tiền bạc mới là điều đáng kể. Bà đã không ngần ngại gây ra bao tội lỗi với chồng con, với đất nước. Những ngày tháng cuối đời, bà đã ý thức được điều đó nên chẳng còn tha thiết gì đến sản nghiệp nầy và cũng lần đầu tiên trong đời bà cảm thấy hối tiếc về những chuyện đã làm. Bà muốn quay về với Chúa một lần nữa, nhưng chiếc cầu liên lạc giữa bà và Chúa đã gảy.

                Thuở trẻ, nhiều lần bà đứng cầu nguyện trong Hội Thánh, xưng mọi tội lỗi ra với Cha để được thảnh thơi vì tin rằng tội lỗi đã được tha. Bà muốn được trong sạch, không một vết nhơ tội lỗi nào để được giống như Chúa, nhưng đồng tiền đã đẩy bà xa cách Chúa. Bà đã có một thứ thần tượng khác để tôn thờ. Đó là tiền!

                Là Tiền! Đồng tiền là tất cả. Bà đã không ngần ngại tiếp tay với kẻ thù để đặt một thứ chủ nghĩa phi nhân lên đầu lên cổ đồng bào bà, cái thứ chủ nghĩa coi mạng sống con người như rơm rác và đang biến đồng bào bà thành những con người không có trái tim. Bà từng chuyển vũ khí, thuốc tây trên đường thủy bằng những chiếc thuyền bán hàng bông trên sông. Bà đã từng tổ chức những đám tang mà trong quan tài không có người chết, chỉ chứa vũ khí và thuốc tây rồi ban đêm kẻ thù đến đào mang lấy về. Trong lúc tiền bạc tuôn vào như nước, bà say tiền, không nhìn thấy tội lỗi. Càng ngày bà càng đi sâu vào tội lỗi hơn.

                (các trang 479, 480, 481)

                o0o


                Có thể bảo ngòi bút của Anh Vân làm một cuộc viễn du hào hứng qua bốn giai đoạn lịch sử: ngày tàn của Miền Nam Việt Nam, giai đoạn đầu của nền cai trị độc ác của bọn giặc đỏ sau khi cưỡng chiếm miền Nam, giai đoạn nhục nhằn khốn khổ của những kẻ vượt biên phải trả giá tự do rất đắt. Và sau hết là sinh hoạt của lũ mị dân và của những kiều bào nhiệt tâm yêu nước ở hải ngoại.

                Đa số những nhà văn có tâm huyết thường đem tâm tình viết lịch sử. Sử gia thì chỉ có việc ghi chép mọi lớp sóng phế hưng của lịch sử dân tộc sao cho trung thực, cho chính xác. Thỉnh thoảng, họ phê phán các chính sách của các triều đại, của các chế độ, phê phán hành động của các nhân vật lịch sử, chứ không dám đá động tới nhân sinh quan, cảm nghĩ của các nhân vật lịch sử đó. Còn nhà văn thì dùng một giai đoạn lịch sử nào đó để làm đề tài cho tác phẩm của mình.

                Họ có quyền sửa đổi chút ít hành động của các nhân vật lịch sử mà họ dùng làm nhân vật cho tác phẩm mình. Họ có quyền thêm thắt vai nhân vật giả tưởng có liên quan tới các nhân vật lịch sử để đôi bên cùng hoạt động hay tương tranh trên các ván cờ lịch sử. Và để tác phẩm tươi mát hoặc ướt át sương mưa trữ tình lãng mạn, tác giả lịch sử tiểu thuyết có thể nặn ra những giai nhân tưởng tượng để cho họ bắt liên hệ cùng nhân vật anh hùng dân tộc.

                Đó là trường hợp Lan Khai đã cấu tạo cô nàng nữ hiệp giả trai mặc áo xanh để bắt tình với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ trong quyển Chàng Áo Xanh. Nữ sĩ Kathleen Windsor trong quyển Ambre đã tạo ra nàng Ambre sắc nước hương trời để dan díu với vua George Đệ Nhị nước Anh. Tác giả cuốn Phản Đường hay tác giả quyển dâm thư Như Ý Quân đã tạo ra chàng Tiết Ngao Tào với tài sành điệu trong thú gối chăn để làm thỏa mãn tình dục cho Nữ Hoàng Vũ Tắc Thiên...

                Ác Mộng Đêm Dài nếu trình làng trước đây 15 năm là một cuốn tiểu thuyết hiện thực phản ảnh sinh hoạt các cộng động kiều bào ở hải ngoại. Bây giờ nó trở thành một cuốn dả sử tiểu thuyết với các nhân vật hư cấu chường mặt ra sân khấu cuộc đời, còn những nhân vật có thật như Hoàng Cơ Minh và bè lũ của mặt trận chỉ được xuất hiện trên những dòng thuyết thoại đơn sơ và gảy gọn... Hay đúng ra đây là quyển tiểu thuyết hiện thực lấy bốn giai đoạn lịch sử khác nhau để dựng nên bối cảnh khác nhau trong bốn giai đoạn thời gian kế tiếp nhau.

                Tác giả Anh Vân viết tác phẩm Ác Mộng Đêm Dài bằng nước mắt, bằng trái tim thành khẩn. Anh như nhập vào mỗi nhân vật và đồng hóa với họ để cảm xúc, để tư duy theo mệnh nước nổi trôi, theo sự tráo trở của bọn người giả danh đi làm lịch sử bằng cách buôn người ái quốc, bằng cách hủy diệt truyền thống tin yêu của dân tộc.

                Đây cũng la bản cáo trạng đen, một bản tường trình đẫm máu để chúng ta suy gẫm, để những thế hệ mai sau nắm vững sự thật đau lòng về những kẻ trưởng thành từ cuộc nội chiến Quốc Cộng cho đến khi họ thoát ly địa ngục Cộng Sản để dịnh cư ở hải ngoại.

                Và tác phẩm còn cho chúng ta thấy tác giả là một kẻ yêu đương nồng nhiệt thiết thành khi anh hóa thân nhập cuộc vào các nhân vật xương sống trong tác phẩm như Nam, Sử, Hiền và Lan, làm cho tác phẩm đa dạng tình người và tươi mát mạch sống. Ngoài ra, anh còn chứng tỏ mình là một tác giả ưu tư với căn phần thê thảm của tổ quốc qua hành động và nếp tư duy của các nhân vật ấy.


                Hết Chương 8 - Xem Tiếp Chương 9


                sigpic

                Comment


                • #9
                  Quê Nam Một Cõi

                  Hồ Trường An

                  Chương Chín

                  Tổng Quan Văn Chương
                  Của Nguyễn Thị Thụy Vũ




                  Từ khi khởi nghiệp vào năm 1967 cho tới năm 1975, Nguyễn thị Thụy Vũ đã trình làng 10 tác phẩm như sau: "Mèo Đêm" (tập truyện), "Lao Vào Lửa" (tập truyện),"Ngọn Pháo Bông" (truyện dài), "Thú Hoang" (truyện dài), "Chiều Mênh Mông" (tập truyện), "Khung Rêu" (truyện dài), "Như Thiên Đường Lạnh" (truyện dài), ' Nhang Tàn Thắp Khuya" (truyện dài), "Chiều Xuống Êm Đềm" (truyện dài), "Cho Trận Gió Kinh Thiên" (truyện dài).

                  Chị chường mặt trên văn đàn giữa lúc Nhã Ca viết chuyện anh tiền tuyến em hậu phuơng pha một chút bóng dáng văn chương thời thưọng, giữa lúc Túy Hồng le lói văn chương hâm hấp tình dục, giữa lúc Trùng Dương và Nguyễn Thị Hoàng mải miết chạy theo văn chương hiện sinh...

                  Văn chương Thụy Vũ thật khó xác định. Chị viết về tâm sự cô đơn của các cô gái già, chị viết về xã hội các cô gái buôn hương bán phấn, chị viết về sinh hoạt của gia đình nhiều biến cố có liên quan đến thời cuộc và đến những khúc quanh của lịch sử. Đó là thứ văn chương hiện thực xã hội pha trộn một chút bóng dáng văn chương nổi loạn vốn là tàn dư sót muọn của văn chương hiẹn sinh.

                  Trừ Nhã Ca ra, bốn nhà văn nữ Trùng Dương, Túy Hồng, Thụy Vũ và Nguyễn Thị Hoàng xiển dương thứ văn chương tình yêu truợt qua tình dục, không cần miễn cưỡng, không cần chống đói sự trượt ngã ấy. Văn chưong của họ phải tách ra phong cách cô giáo, phải phản ảnh trung thực cái ước vọng của họ, không cần ngụy trang nếp suy nghĩ của mình. Họ sống sượng, ngang ngược, rồi bù lu bù loa, rồi tru tréo, rồi dẩy đành đặch với thứ cảm tính bung vỡ như trái lựu đạn rút chốt nổ tứ tung.

                  Nhưng Nhã Ca vẫn có những truyện ngắn khá nổi loạn, tách rời lối văn những kẻ đi trước mình như Thụy An, Mộng Sơn Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Đặng Thị Thanh Phưong, Minh Quân, Minh Đức Hoài Trinh... Cho nên Nhã Ca, Túy Hồng, Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng trở thành 5 cây bút phụ nữ thời danh lẩn thời thượng gây biết bao dao động trong văn giới. Nhã Ca cũng dùng bút pháp khi thì rống la khóc lóc, khi thì mơn man quá trớn, chị cũng tô đậm sắc thái tình cảm một cách cẩu thả, buông lung.

                  Nhưng cả năm mở rộng cách yêu đương đôi lứa rồi đặt lại vấn đề về yêu cái tự do cá nhân, sự mến chuộng cuộc sống riêng tư. Họ xiên dương sự thành khẩn với chính mình, sự can đảm đạp nhầu lên cách thưởng ngoạn cổ truyền của thành phần đa số độc giả có đầu óc bị đóng khung trong lề thói đạo đức. Đó là một đặc điểm rất kỳ đặc, rất lộng lẫy trong văn giói làm chấn động một thời đại của nền văn chương Miền Nam Việt Nam trong bối cảnh ngập tràn khói lửa máu xương.

                  o0o


                  Xin điểm qua các cuốn sách của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã xuất bản: * "Mèo Đêm": Khi quyển sách này nhà xuất bản Thời Mới trình làng thì chỉ gồm có 4 truyện ngắn. Hai truyện ngắn " Một Buổi Chiều", "Đợi Chuyến Đi Xa" nói về tâm trạng ray rứt thèm thuồng tình yêu lẫn tình dục của một cô gái già. Hai truyện ngắn " Mèo Đêm", "Nắng Chiều Vàng" viết về các cô bán snack bar dan díu với bọn lính Mỹ.

                  Khi được nhà xuất bản Kim Anh tái bản thì có thêm 2 truyện ngắn " Bóng Mát Trên Đường" và "Miền Ngoại Ô Tình Lẻ"; hai truyện ngắn này cũng chỉ nói lên niềm cô đơn của tác giả được thể hiện qua hai nữ nhân vật chánh. Văn chương tình tự của tác giả êm dịu, đôi lúc thơ mộng nữa là khác, nhưng đôi lúc lại le lói mầm mống nổi loạn.

                  * "Lao Vào Lửa": Đây là quyển sách thuần túy viết về nếp sinh hoạt của các cô điếm trá hình các cô chiêu đãi viên trong các snack bar. Hai truyện ngắn "Chiếc Giường" và "Lao Vào Lửa" lấy bối cảnh tại một snack bar ở Sài Gòn, còn truyện ngắn "Đêm Nổi Lửa" lấy bối cảnh ở nhà thương khám bịnh hoa liễu mà thời nhân gọi là Nhà Thương Bạc Hà. Nhân vật chánh bị bắt đi 'lục-xì" và bị giam lỏng ở nhà thuơng ấy.

                  Muốn thoát ra khỏi nhà thương ấy, đương sự thông đồng với kẻ bị giam đồng cảnh ngộ với mình và người tình nhân Việt Nam ở bên ngoài. Đợi vào tới đêm cận Tết, cả bọn nổi lửa gây hỏa hoạn để thừa lúc hổn loạn chạy thoát ra ngoài.

                  * "Chiêu Mênh Mông": Tập truyện này gồm có một truyện tả tâm trạng những nhân vật cô đơn như truyện ngắn "Chiều Mênh Mông"(cùng tựa với tập truyện). Truyện ngắn"Tiếng Hát" miêu tả cái bỡ ngỡ cô thiếu nữ lạc loài theo kiểu tha phương cầu thực. Tình cờ cô bước vào cái xã hội văn nghệ sĩ thời thượng và chịu ăn nằm với một chàng du ca mà không thể nghĩ sự dan díu sẽ đi tới đâu sau cuộc làm tình không mấy hào hứng đó.

                  Truyện ngắn" Lìa Sông" mô tả cô gái già may mắn tìm được tấm chồng rồi đi đến cuộc hôn nhân ở phần kết thúc câu chuyện ; nhưng trong cuộc hành trình của cây bút, tác giả cho cô gái rên siết dẩy dụa, than thân trách phận nghe mà ớn óc. Truyện ngắn "Cây Độc Không Trái" mô tả cô gái bán snack bar đi phá thai.

                  Cách phá thai được tác giả mô tả đến nơi đến chốn làm người đọc rùng mình. Rồi tác giả mô tả luôn mặc cảm phạm tội của cô gái cùng cái ý tưởng mai sau mình sẽ tuyệt tự. Truyện ngắn "Trôi Sông" và truyện "Đêm Tói Bao La" với bút pháp dữ dằn, với cốt truyện phanh phui tàn nhẫn cái bản năng giông bão của hạng cùng đinh trong xã hội. Bút giả sẽ khai thác 2 truyện ngắn này sau.

                  * Thú Hoang: Mô tả cái thế giới nữ sinh trong trường công lập tại tỉnh lẻ. Các độc giả đừng hòng gặp cái thời kỳ thơ mộng quý báu của thuở học trò. Ba nữ nhân vật chánh, cô thứ ba thì bị tên nam sinh trường khác cưỡng dâm, cô thứ hai thì dan díu với tên nam sinh sở khanh đến đỗi ôm hoang thai và ả ta lại phải phá thai, còn nữ nhân vật thứ nhất xưng tôi vì chán không khí u trầm nơi tỉnh lỵ cố hương nên bỏ nhà lên Sài Gòn để làm cuộc đời mới. Nhưng trong chuyến xe đò, y thị gặp tên nam sinh sở khanh, cảm thấy mềm lòng lõng dạ khi được hắn ve vãn. Tới đây tác giả chấm dứt câu chuyện. Không ai có thể đoán biết cuộc đam mê sẽ đưa đẩy y thị tới đâu.

                  * "Ngọn Pháo Bông": Đây là truyện dài mô tả tâm trạng một cô gái buôn hương bán phấn về chiều, nhưng vẫn còn hấp dẫn mấy anh lính G.I trẻ trung. Khốn nỗi cô ta lại yêu loại trai đồng chủng bị chúng rút rỉa bòn tiền. Rồi cô ta bị đâm chết trong căn appartment mà nhà chức trách không sao tìm ra thủ phạm. Đây là một nhân vật có thật tên Yến có hổn danh là Yén Ngựa mà giới "chị em ta" và giới vũ nữ trong các vũ trường hoa lệ ở Sài Gòn đều biết tiếng. Nhưng tác giả đổi tên cô ta là Thắm Ngựa. Cái chết của cô ta được báo chí xôn xao cả tuần.

                  * "Như Thiên Đường Lạnh" : Chuyện đời sống của đôi vợ chồng định cư trên một giang đảo (cù lao An Thành đối diện với chợ tỉnh Vĩnh Long qua nhánh sông Cổ Chiên). Chồng là thầy giáo tiểu học, tánh lông bông, ưa ngoại tình, không hẳn là người tham thanh chuộng lạ, không hẳn là thứ ưa thú vui tửu sắc, mà là chán cái lập đi lập lại rất vô vị của cuộc sống không biến cố.

                  Vợ là người đàn bà đảm đang, ghen tương, hổn hào nhưng hết dạ yêu chồng. Người chồng vốn thích cuộc sống thay đổi, nhưng không dám sống dù có gặp sự thay đổi thực sự đi nữa. Y ta cảm thấy cuộc sống hầu như ngưng đọng ở vùng nửa chợ nửa quê, rồi vì tinh thần bạc nhược nên y ta vẫn giữ nghề gõ đầu trẻ, lóng ngóng một sự thay đổi, nhưng sự thay đổi không hề xảy đến. Cuốn sách toát ra không khí chán nản, uể oải như không khí trong truyện dài "Băn Khoăn" của Khái Hưng.

                  * "Nhang Tàn Thắp Khuya" : Đây là câu chuyện người vợ đảm đang yêu

                  chồng, gánh vác hoàn bị giang sơn nhà chồng vốn là đại gia thuộc thành phần trưởng giả. Nhưng không ngờ, một ngưòi bạn chồng hiện đến. Y ta bạc nhược tinh thần, trái hẳn cái vững chải lành mạnh của chồng. Người vợ vốn cảm thông, rất bao dung và hay mềm lòng đói với kẻ yếu đuối.

                  Nàng không ngờ từ tấm lòng hào sảng của mình, nàng lún sâu vào tình yêu. Người bạn chồng và nàng đều hiểu nhau rằng họ đã yêu nhau, người bạn hăm hở tiến tới, còn người vợ vì lễ giáo nên chỉ biết đau khổ trốn vào bổn phận vợ hiền. Song song với tình yêu chồng, người vợ có một niềm bí mật vạn phần lộng lẩy để cất giấu trong kho tàng kỷ niệm của riêng mình.

                  * "Chiều Xuống Êm Đềm": Truyện xảy ra vào thập niên thập niên áp chót

                  của thế kỷ 19. Đôi vợ chồng già trưởng giả ở làng Đạo Thạnh, tỉnh Mỹ Tho sống cô đơn, nương tựa vào nhau. Hồi xưa, vào tuổi hoa niên, người chồng đã từng chứng kién người cô ruột hãy còn là xử nữ của mình trong chuyến hải trình từ Huế vào Nam Kỳ bị làm lễ tế thủy thần cầu cho biển lặng sóng êm.

                  Chủ thuyền và cả bọn hành khách mê tín trong thuyền nhẫn tâm liệng người thiếu nữ ấy xuống biển cho Long Vương làm vợ bé. Khi trưởng thành, đương sự cưới một người thiếu nữ họ hàng với ngài Tả Quân Lê Văn Duyệt làm vợ. Nhưng nghiệt thay, sau đó Lê văn Khôi, con nuôi ngài Tả Quân khởi loan, rồi bị triều đình tiêu diệt. Họ hàng của ngài Tả Quân đều bị xử tử theo án tru di tam tộc. Người vợ họ Lê dùng bột tỳ sương tự vận để khỏi bị lôi ra pháp trường xử chém. Người chồng khốn khổ đó sau đó ít lâu tái hôn với một thiếu nữ khác.

                  Dù được người vợ sau yêu thương và tận tụy săn sóc, nhưng hai vết thương trong tâm khảm người đàn ông khốn khổ kia không thể nào phai mờ. Người vợ sau chỉ sinh hai cô con gái. Cả hai đều xinh đẹp và hiếu hạnh, đều được lấy chồng có địa vị cao sang trong xã hội, làm vẻ vang cho cha mẹ. Con gái lần lượt theo chồng. Dưới mái nhà cổ kính âm u chỉ còn đôi vợ chồng già. Đây là lúc lão ông sống hoàn toàn với dĩ vẫng đau thương. Và đây là lúc lão bà lo sợ cái chết cướp mất một ai trong hai vợ chồng để người ở lại chịu cảnh lẻ loi trong buổi hoàng hôn cuộc dời.

                  * "Cho Trận Gió Kinh Thiên": Đây là một xã hội thu nhỏ ở một xóm lao động ở chặng giữa Chợ Đũi và bót cảnh sát Quận 3 của Thủ Đô Sài Gòn. Khu xóm ở gần đình Phú Thạnh và tòa Đại Sứ Căm-bốt trước năm 1975. Trong xóm ấy có nhà chứa điếm, có các chiếu bạc sòng bài, có quán nhậu, có chỗ hút nha phiến...

                  Trong khung cảnh có tứ đổ tường ấy, trừ hai nhân vật chánh có ăn học là đôi tình nhân Đồng và Nguyệt, còn ngoài ra thì gồm những nam nhân vật thuộc hạng đá cá lăn dưa, những nữ nhân vật thuộc hạng Chằn ăn trăn quấn. Mỗi nhận vật đều có cá tánh riệng, có cuộc sống riêng tư bê bối riêng. Đàn bà gặp lúc phong trào Mỹ qua Việt Nam tham chiến, đua nhau lấy Mỹ. Rồi còn vụ ngoại tình, vụ tham dâm chuộng dục, chuyện mê bài bạc sa đà, chuyện buông thần bán thánh.

                  Tác giả dùng ngòi bút của mình đập mạnh vào hoàn cảnh và nội tâm mỗi nhân vật để họ lòi ra nguyên vẹn cái bản năng đê tiện lẫn một vài căn tánh được thiên lương soi sáng. Nhiều chi tiết sinh động làm cho tác phẩm lồ lộ nét sống thực tươi rói. Trước đó, quyển truyện dài "Thềm Hoang" của Nhật Tiến dù đoạt giải nhất về văn chương của giải Văn Hoc Nghệ Thuật Toàn Quốc lại thiếu chi tiết đặc thù và sống thực. Cho nên khi được tái bản ở Việt Nam dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa thì nó bị chê bai dè bĩu là tác giả chỉ viết được vài chuyện chung chung hoặc chuyện hư cấu mà ai ai cũng đã biết qua rồi. Văn hào Léon Tolstoi cho rằng chi tiết làm nên đại cuộc.

                  Nhật Tiến không có chi tiết đặc sắc theo nhu cầu đòi hỏi của văn chương. Trái lại Thụy Vũ tìm gặp những chi tiết ấy trong một cái xã hội có thật nên nét đặc thù của chúng được hiển lộ toàn vẹn và được khai thác triệt để. Chắc chẳng có ai chịu khai thác chuyện bà mẹ trong căn gác xép ngồi niệm Phật thì cô con gái lợi dụng đêm tối không trăng, chỗ khuất cột đèn nen đem tình nhân của mình hì hục làm tình ở ngoài bao lơn khiến bà ta than thở rồi rầy rà : "Mèn ơi, mỗi khi mình mở miệng niệm Phật thì ở ngoải tụi nó làm đùng đùng như cù dậy".

                  Lại có một vận sự nữa. Đôi vợ chồng già chỉ ở chung với nhau vì nghĩa, hết còn vì tình. Ông chồng đau ốm dây dưa làm phền bà vợ trong khi bà mê sa bài bạc. Khi ông hấp hối, đứa cháu đến sòng bài tứ săc báo tin cho bà hay. Bà nhứt định đánh cho tới đứt chến mới về nhà lo ma chay cho chồng. Bà già này có đứa em gái vừa câm vừa điếc. Văy mà y thị tìm đâu được vài tên đàn ông vô danh nào đó gieo giông để y thị lần lượt đẻ hai đứa con cho chị mình nuôi. Đến khi y thị lăn đùng ra chết, bà già mê bài bạc kia vẫn tiếp tục đánh tứ sắc trong khi xác em gái mình còn nằm trên gác chưa tẫn liệm.

                  o0o


                  Nếu bình tâm mà xét, trong mười tác phẩm gồm truyện ngắn lẫn truyện dài thì chỉ có "Cho Trận Gió Kinh Thiên" (truyện dài) cùng ba truyện ngắn " Trôi Sông", "Đêm Tối Bao La" và "Lòng Trần" là đáng nói hơn vì những tác phẩm này đập mạnh vào cõi ấn tượng độc giả bằng những nhát búa khốc liệt.

                  Những truyện ngắn lẫn truyện dài khác, kể cả quyển "Khung Rêu" đã từng đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc năm 1970 cũng chỉ xây được cái nền mống và các rường cột cho ngôi nhà văn chương của Nguyễn Thị Thụy Vũ mà thôi. Chính 1 truyện dài và 3 truyện ngắn mà tôi vừa kể mới thắp hào quang cho văn nghiệp kia, mới làm rạng ngời thần trí sáng tạo của tác giả. Nhã Ca viết về cảnh hậu phương xa tầm lửa đạn khói súng. Văn chương quá hiền. Túy Hồng rống la tru tréo thân phận đàn bà bị thiệt thòi.

                  Cũng còn hiền thôi. Trùng Dương và Nguyễn Thị Hoàng chạy theo gót văn chương mệt mỏi, chán chường, bồn nôn, bợn dạ, ói mửa lung tung của chủ nghĩa hiện sinh. Cũng vẫn còn hiền. Nhưng Nguyễn Thị Thụy Vũ qua 3 truyện ngắn và 1 truyện dài kia có thể cứa mạnh vào tâm khảm độc giả những nhát dao độc địa, những lằn roi tàn nhẫn. Còn ngoài ra những tác phẩm truyện dài truyện ngắn khác chỉ đọc dược thôi, không khởi sắc, không làm khách thưởng ngoạn sành điệu khác khởi hứng bao nhiêu.

                  Những cây bút phụ nữ ở hải ngoại chỉ có Hàn Song Tường, Nguyễn Thị Thanh Bình và Lê Thị Thấm Vân với các tác phẩm xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 là triển khai cái dữ dằn của Dostoiecski, của Yukio Mishima nên văn chương họ đôi lúc làm bàng hoàng và xây xẩm người đọc. Họ đã trở thành ngoại lệ.

                  Họ thăng hoa bằng một tốc độ khủng khiếp. Họ tràn lướt qua 5 cây bút thời danh vào thập niên 50 của thế kỷ vừa qua như Lê Thị Huệ, Phan thị Trọng Tuyến, Trần Diệu Hằng, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Nguyễn Thị Hoàng Bắc bằng những bước chân khua động hơn. Còn những nhà văn nữ khác hoặc đồng thời hoặc hậu bối với quý bà có lối văn chương dữ dằn kia, lớp thì lỡn vỡn chút khói sương lãng mạn như Hoàng Nga, lớp thì gọt dũa và chạm trổ cảm xúc hoặc thêu thùa hoa lá cành trên cái mặt ngoài của cuộc sống; đó là trưòng hợp của Đặng Mai Lan, Lê Thị Minh Hà.

                  Còn lớp thì còn nắm nuối loại văn chương hiện thực đang hồi héo úa như Trần Thị Diệu Tâm. Tìm không ra, kiếm không nổi nhiều cây bút phụ nữ khác dám đương đầu với những cái thô bạo, cái nhám nhúa sần sùi trong cuộc sống. Lại còn không có cây bút phụ nữ nào khác dám lột trần lớp ngụy trang cái bình diện an lành dối trá, cái thỏa hiệp hèn mọn đối với cuộc sống giả tạo.

                  Ở hải ngoại, 4 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thụy Vũ được các báo đăng đi đăng lại nhiều nhất là : "Đêm Tói Bao La", "Lòng Trần" và "Quê Nhà". Truyện ngắn "Lòng Trần" đạt đến pham vi Duy Thức Hoc của Phật giáo. Điều đó đã đưa tên tuổi tác giả lên cao trong khoảng đầu thập niên 70 của Thế kỷ 20.

                  Nguyễn Thị Thụy Vũ không hề nêu tình ý gì rõ ràng trên mặt chữ. Chị viết khơi khơi, chỉ trình bày diễn biến của sự việc. Nhưng ở truyện ngắn "Lòng Trần", ẩn sau mặt chữ của chị thấp thoáng bao điều làm chúng ta ray rứt bàng hoàng khiến chúng nghĩ ngợi không thôi. Một chân trời tư tưởng mênh mông và thăm thẳm? Một bí nhiệm nằm sau lưng cuộc sống hay ở ngay trong cuộc sống? Làm sao chúng ta nắm bắt được trọn vẹn ý tình của chị? Tuy nhiên, chúng ta vẫn cứ tiếp tục ray rứt bàng hoàng, vẫn cứ tiếp tục suy gẫm...

                  * "Trôi Sông": Truyện ngắn này gồm 2 nhân vật bị hất ngoài lề của xã hội giàu sang mà họ dã từng ao ước. Một lão già có cô gái làm hầu thiếp cho một viên quan tri phủ về hưu. Lão chỉ được cấp dưỡng bằng số tiền quá ít oi, ăn uống đạm bạc theo bực tôi tớ trong nhà. Một mụ đào hát bội già nua đã hết thời từ lâu, phải về cái xóm ngoại ô tỉnh Vĩnh Long hẩm hút cháo rau cho qua ngày đoạn tháng.

                  Nhưng ai cấm lão già mơ vào một ngày đẹp trời nào đó, con gái lão được Trời ngó lại để xui khiến cho quan phủ sủng ái y thị, chu cấp tiền bạc bộn bàng cho y thị?. Ai cấm mụ đào hát bội nhớ tiếc vào thời dĩ vãng vàng son, mình được các bậc hào phú trưởng giả đưa đón và nuông chiều ?

                  Trong lúc quăng mình thăng hoa vào ảo tưởng chói lọi ánh vinh quang, họ tưởng chừng mình hóa thân vào một người hào hoa khác hẳn con người hiện tại. Họ cần phải hưởng thụ. Cho nên họ cụp lạc với nhau. Lão già trong lúc hành dâm, chết trên mình mụ đào hát bội già. Tới sáng, mụ mới biết người bạn chăn gối với mình tối hôm qua đã cưỡi ngựa gió chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế rồi. Mụ nổi cơn điên la hét khủng khiếp.

                  * "Đêm Tối bao La": Khi được đóng góp vào quyển tuyển tập truyện ngắn

                  của nhiều tác giả"Ba Miền Mười Khuôn Mặt", truyện ngắn này có cái tựa là "Bà Điếc". Khi được vào tập truyện " Chiều Mênh Mông" của Nguyễn Thị Thụy Vũ' thì cái tựa của nó được đổi thành "Đêm Tối Bao La". Cốt truyện như sau : Trong ngôi nhà cổ kính của một gia đình địa chủ đang hồi suy sụp có cô gái già mập ú tên Linh ở chung với bà đầy tớ già điếc lác được gọi là "bà Điếc". Cha mẹ cô Linh đi làm ăn ở xa.

                  Cô mòn mỏi đợi có người đến hỏi cưới, nhưng chẳng có anh chàng nào tình nguyện cho cô trao thân gửi phận Túng thé cô dan díu với một người đàn ông tên Duy xấu trai, gia thế và tung tích mơ hồ, tư cách và tâm địa chẳng có gì đặc sắc. Bên cạnh cô, bà Điếc sống náo nhiệt hơn cô với tâm tánh quái dị, với tình trạng dở điên dở khùng. Với thân phận tôi tớ không thể lấy chồng được, không có tiền ăn diện lại già nua xấu xí, cho nên bà Điếc dù rụng răng cũng tỏ ra mình văn minh tân thời như ai.

                  Bà mua kem chà răng... để đánh nướu răng, chắt mót tiền đi uốn tóc, nhưng vì biết bà khùng nặng nên các tiệm uốn tóc từ chối. Bà yêu một ông già có vợ, nhưng ông ta chỉ cặp xách bà qua đường mỗi khi từ dưới quê lên chợ tỉnh mua sắm. Rồi bỗng dưng cái ảo tưỏng (les illusions) muốn làm trẻ đẹp, muốn có cuộc sống người tân thời, muốn có tình yêu của bà ta vụt biến thái thành những khải tượng (les visions) quái đản. Bà thấy giữa ngày có ác thú hoặc cơn lụt lội hay cơn hỏa hoạn xảy đến.

                  Có đêm bà thấy Linh bị kẻ lạ cưỡng bức. Kết cuộc câu chuyện, bà Điếc chết vì chứng xơ gan, còn Linh bị tên Duy tặng cho cái bầu, nên cô phải phá thai và dự định lên Sài Gòn để xa lánh cuộc sống hẩm hiu trong ngôi nhà quạnh vắng tại miền ngoại ô tỉnh lỵ.

                  Xin đọc đoạnchót trong truyện "Bà Điếc" tiền thân của "Đêm Tối Bao La" đã đăng trên đặc san Phù Sa Sông Cửu vào dịp Tết năm Giáp Tuất (2004) do Hội Ái Hữu Vĩnh Long & Vĩnh Bình & Sa Đéc ở Houston, Texas thực hiện :

                  Anh Duy! Sau vụ phá thai, em sụt mất mười hai ký thịt. Em gầy gò, xanh xao. Đàn ông như anh là kẻ vô trách nhiệm. Anh chớ tưởng sức mấy mà em trả đũa chuyện anh bỏ em bô vơ với cái bào thai trong bụng được ba tháng. Đêm đêm, em giựt mình, có cảm tuởng mình là kẻ sát nhân. Mai sau xuống âm ti địa ngục, cũng riêng mình em chịu tội. Càng tội hơn là lúc đầu, em chẳng mảy may bị lương tâm cắn rứt.

                  Bà Bảy Điếc đã chết. Tới phút lâm chung, bà chịu rửa tội để về với Chúa. Lẽ nào, một cô gái trẻ như em ở bên lề cái thế giới âm hồn như vầy mãi sao anh?

                  Bây giờ em chỉ còn hai lượng vàng và và cái máy may. Đợi cho đỏ da thắm thịt để che mắt thế gian, em sẽ tiếp tục may thuê cho thiên hạ. Đời em chưa hẳn tàn như cảnh chợ chiều. Em sẽ chắt mót từng đồng để tìm bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ. Em sẽ cho bơm cái ngực teo trở thành cái ngực vĩ đại, sẽ nhờ ông ta vá lại màn trinh. Để rồi anh xem. Em sẽ lấy chồng sĩ quan Thủ Đức. Nhứt định đời em chưa lâm vào ngõ bí đâu. Trả thù anh, chẳng lẽ em mướn du côn đánh anh. Em sẽ làm một người đàn bà phong nhã. Đôi lúc em còn mơ đi học hát để trở thành ca sĩ phòng trà.

                  Giờ đây thì em cô đơn quá. Ba má em trị cái tội lầm lỡ của em bằng thái độ hắt hủi, bỏ liều. Quần áo em giờ đây rộng phùng phình. Phải sửa sang lối ăn mặc, trang diện, em mới báo thù anh, cho anh sáng mắt ra là con Linh nầy không phải là thứ gái gặp chuyện rủi ro là đem nước mắt ra giải quyết.

                  Nhìn trẻ con lối xóm, em đau lòng. Phải chi anh chịu làm cha thì con chúng ta sẽ chường mặt với thế gian. Trời sẽ phat em. Mai sau dù có chồng đàng hoàng, em sẽ tuyệt tự. Em vốn hiền lành, nhân đạo, tại anh, tại anh đó, em mới làm kẻ sát nhân.

                  Em sẽ đi r a khỏi tỉnh nhà, chạy trốn ám ảnh quá khứ. Mùa nầy có ốc gạo và xoài tượng. Các bà mang bầu tha hồ ăn cho thỏa thích bù tới lúc nằm giường cữ chỉ ăn cơm trắng với cá kho khô. Bây giờ em bịnh hoạn, chẳng ăn gì ngon, lại ngủ không được. Nhắm mắt lại em thấy đứa nhỏ bò qua bò lại, nhe hai cái nướu trống trơn ra cười với em. Lại nữa hình ảnh bà Điếc ám ảnh em từng giây phút, ban đêm lẫn ban ngày. Biết đâu em sẽ là phản ảnh của bà sau nầy, điên cuồng vì khát vọng mà quên mất tuổi già.

                  Ôi! Em sẽ chết trong êm vắng, trong ám ảnh vầy vò chăng ? Em phải đi, phải đi...

                  (trang 140)

                  o0o


                  Truyện ngắn "Lòng Trần" trong tuyển tập truyện ngắn gồm nhiều tác giả "Những Truyện Ngắn Hay Nhất Trên Quê Hương Chúng Ta" do Sóng xuất bản vào năm 1973. Trước đó, hình như vào năm 1969 thì phải, truyện ngắn nầy được đăng trên tập san Văn do Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm, nó có cái tựa là "Muổng Nước Mắm".

                  Truyện kể như sau: Năm Thàng là cô đào hát bội, thanh sắc lẫy lừng được một ông phú hộ say mê. Ông tình nguyện gia nhập gánh hát để được theo bước lưu diễn của cô. Ông săn sóc cô và soạn tuồng để cô diễn. Cảm động tấm chung tình của ông, cô bỏ nghề hát để làm vợ ông. Rồi đó, ông chồng chết vì tai nạn sét đánh, đứa con của cả hai cũng chết sau đó ít lâu. Cô Năm Thàng cắt tóc đi tu, lấy pháp danh là Diệu Tâm, sống khổ hạnh, giữ trai giới rất nghiêm nhặt cho tới tuổi già bóng xế.

                  Ngờ đâu, trong phút hấp hối, sư nữ Diệu Tâm đòi húp một muổng nước mắm. Nhưng họ hàng thân tộc của bà cho rằng bà sắp thành chánh quả mà còn bị quỉ ma theo khuấy phá để bà bị tội phạm giới. Cho nên họ nhất định không chiều theo ý của bà. Bà chết trong cơn hành hạ của thể xác, trong cơn thèm thuồng không được thỏa mãn. Càng chua xót hơn, trong phút lâm chung, bà quên mình là kẻ tu hành mà chỉ nhớ mình là cô đào hát bội Năm Thàng:

                  ... Tất cả đứng im lặng chung quanh giường chờ đợi phút nghiêm trọng của ni cô trong khi ni cô vật vã từng đợt với Tử thần. Tiếng nói của bà vụt sang sảng như lúc còn trên sân khấu. Giọng nói trong trẻo, tỉnh táo nhưng đôi mắt bà vẫn nhắm nghiền:

                  - Tôi mới biết thương mình, mấy năm mình khổ công theo đuổi tôi, mình đặt tuồng cho tôi hát.

                  - Con gắng học hành cho đỗ đạt làm quan nghe con cưng của má.

                  - Tôi chỉ thích sắm vai Đoàn Hồng Ngọc hơn làm Phàn Lê Huê. Mình thích tôi diễn vai nào nhứt?

                  - Bớ nầy Tiết Giao! Ớ nầy bạc tình lang! Mặt chàng đẹp mà làm chi? Lời chàng ngọt ngào làm chi? Để thiếp ngày nay mất ngọc, thân thiếp bơ vơ.

                  Cả một ký ức trồi nhanh lên óc bà rõ rệt và nhanh như một phim quay hết tốc lực của nó. Bà độc thoại từ quãng đời sân khấu đến quãng đời làm vợ ông phú hộ Thọ. Giọng bà đang sang sảng vụt dừng lại, dưới ánh đèn hiu hắt, ni cô mở trừng trừng đôi mắt trắng nhợt như cố thu hình ảnh sau cùng của đời sống và ni cô quờ quạng hai bàn tay trơ xương với lời van vỉ đứt nối:

                  - Hãy cứu tôi, cho tôi một muỗng nước mắm thôi.

                  Cô cháu dâu nhìn bà em họ:

                  - Mợ ơi! Mợ nhờ sư sãi đọc kinh trừ tà nghen. Cần nhứt là canh giữ đừng cho ai đem nước mắm lại. Bà em họ tức mình:

                  - Để tôi đọc kinh cứu khổ. Hồi xưa Phật Thích Ca gần đắc đạo thì ma vương

                  tới phá. Còn chị nầy sắp về Tây Phương tới nơi cũng chưa yên thân.

                  Tác giả trình bày sự việc theo lối kể truyện ở đoạn hồi ức về dĩ vãng vàng son của ni cô Diệu Tâm. Nhưng ở đoạn tả cảnh chùa trong phần nhập đề, ở đoạn bà nằm trên giường bệnh, tác giả mới thật sự viết văn. Bút pháp của chị đơn giản, đôn hậu và chân phương qua lối dụng ngữ miền Nam Kỳ Lục Tỉnh rất hồn nhiên và linh hoạt.

                  Từ nếp sống lưu diễn vinh quang, kinh qua nếp sống khuê các trên nhung lụa để đi đến nếp sống tịnh trai khổ hạnh trong chùa, ni cô Diệu Tâm (hậu thân của nữ nghệ sĩ Năm Thàng) phải gồng mình khép mình trong trai giới. Đó không phải bà tu vì giác ngộ lẽ vô thường mà là để trốn tránh nỗi bất hạnh đau thương.

                  Từ khởi điểm, bà đã đi lạc đường lối tâm linh. Bà trốn tránh cái thất vọng chứ không chịu quán niệm về cái Tánh Không của vạn hữu để thấy cái phù ảo huyễn hoặc của thuận cảnh hay nghịch cảnh trong kiếp sống. Bà không dám đối diện với thất vọng đau thương để phá mê diệt khổ. Đau thương, thất vọng, đam mê, đắc ý, khoái lạc, tất cả đều là phiền não do cái Ngã tạo nên.

                  Càng trốn tránh cái Ngã, nó chỉ tạm thời lặn sâu dưới Tàng Thức chúng ta. Nhưng hễ có cơ hội thuận tiện là nó trồi lên bình diện của ý thức. Nó vùng vẫy, hung hăng đánh phá tâm thức chúng ta. Đó cũng giống như cái lò so mạnh bạo bị dồn nén tối đa. Nhưng đến một khi nào đó, sự dồn nén lơi đi, nó bung ra với sức vùng vẫy cũng không kém dữ tợn. Trong trường hợp ni cô Diệu Tâm, bà càng gồng mình trì giới, thì càng bị sức quyến rũ của giới cấm thu hút.

                  Khi còn mạnh khỏe, bà còn đủ sức áp đão nó bằng ý chí kiên cố. Nhưng khi đau yếu, ý chí đó trở nên bạc nhược nếu không tiêu tan rời rã đi. Nó vùng lên như họng hỏa diệm sơn khạc lửa và tuôn phúng xuất thạch không ai cưỡng nổi. Nó như quả bóng ném mạnh vào bức tường để rồi dội ngược vào người ném một cách thô bạo.

                  Thân xác bà mòn mỏi trong giấc hôn mê chập chờn, bà nghe tiếng tụng niệm ngoài chánh điện. Trong bóng tối mù mờ, loáng thoáng có tiếng muỗi vo ve, đột nhiên ni cô Diệu Tâm cảm thấy miệng mình lạt quá, lạt kinh khủng! Phải chi có một chút nước tương để bà nếm thử. Trí óc bà dán chặt vào ý nghĩ đó, lưỡi bà khô đi đồng thời nước dãi tuôn ra đầy miệng. Thế rồi ý nghĩ bà trôi xa hơn, nước tàu vị iểu, rồi tới nước mắm. Cơ thể bà vụt bùng lên. Nước mắm! Nước mắm! Ni cô Diệu Tâm nuốt ực nước miếng. Một nỗi xót xa là nước mắt bà ướt đẫm. Có cái gì chống đối trong từng thớ thịt, khớp xương của bà.

                  Bà vụt nghĩ, nếu có một muổng nước mắm chui vào bao tử của bà thì có lẽ những chấn động, phản đối trong cơ thể mòn mỏi sinh lực của bà sẽ dịu xuống, và muổng nưốc mắm sẽ đem lại cho bà cái khỏe khoắn để bà ngủ một giấc thật ngon và ngày mai bà sẽ tiếp tục sinh hoạt lại như cũ dưới mái chùa nầy.

                  - Nước mắm! Muổng nước mắm!

                  Ni cô hoàn toàn quên mất cái hiện tại trong chùa, quên cả mười năm tu hành. Bà rơi trong ý thức mù mờ chỉ có hình bóng muổng nước mắm bằng sứ trắng chứa một thứ nước vàng trong suốt như nước trà. Kê miệng mà nếm thử phải biết. Ni cô Diệu Tâm co rúm lại, thở hổn hển. Ba tiếng "muổng nước mắm" như ba nhát búa đập vào đầu óc bà làm bà lảo đảo.

                  Bà phải uống một muổng nước mắm. Ngày mai dầu có phải đọc kinh sám hối, bà cũng không màng. Bà tin chắc chắn rằng dầu đọc kinh cứu khổ cứu nạn với Đức Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát cũng chưa chắc mầu nhiệm bằng một muổng nước mắm. Nước mắm sẽ là món thuốc tiên làm cho cây khô trổ bông, làm cho bao nhiêu sinh lực của bà bừng sống lại. Cố gắng hết tận hơi, bà thều thào gọi chú tiểu kiếm cho bà một muổng nước mắm. Tất cả những người có mặt quanh giường đều ngạc nhiên lẫn hốt hoảng.

                  Diệu Tâm lập đi lập lại mấy lần:

                  - Mô Phật! Cho tôi một muổng nước mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền.

                  Tiếng kêu gọi van vỉ, thê thảm. Hai tay Diệu Tâm chìa ra tuyệt vọng. Chú tiểu bưng đến gần bà tách trà ướp sen, kề gần miệng bà. Ni cô khép chặt môi phản đối:

                  - Tôi chỉ cần uống một chút nước mắm cho mặn mòi.

                  Nói xong, ni cô dìm hồn vào cơn đồng thiếp; hai cánh tay gầy guộc còn giương ra quờ quạng van xin.

                  Đè nén quá khứ đau buồn vào quên lãng, đè nén thất vọng vì những mơ ước không thành. Đó không phải là tu hành đúng phép, đúng cách. Tu là dùng ánh sáng trí tuệ để soi bản thể vạn pháp trong vòng tham sân si rồi đưa tất cả vào Tuệ Giác, vào Tánh Không (cái Không tuyệt đối, cái gốc rễ rốt ráo) của chúng.

                  Có vậy, bậc hành giả sẽ tu hành một cách hạnh phúc và thảnh thơi. Đè nén dĩ vãng và niềm đau khổ, nhưng có ai giết chết được chúng đâu? Chỉ có xoa dịu chúng, âu yếm vỗ về chúng và để rồi quán chiếu cái gốc rễ của chúng, xem chúng không có thật để ta không bám víu vào chúng nữa.

                  Nếu được vậy, hành giả sẽ thành công như người thợ săn bắt được con trăn bằng cách nắm chặt cổ nó, khác hẳn trường hợp kẻ nắm đuôi trăn bị trăn quay đầu lại quật ngã. Chỉ có ánh sáng Tuệ Giác trong nhưng phút quán niệm, lần hồi ni cô Diệu Tâm sẽ giác ngộ rằng cái quá khứ vàng son của mình là vô thường, nỗi đau khổ của mình cũng là vô thường do sự giả hợp của nhiều yếu tố mà hình thành. Ánh sáng Tuệ Giác sẽ cho bà thấy tất cả đều là không thật, đều là như huyễn, do đó bà sẽ giác ngộ.

                  Tôi xin lập lại: tu là tìm phương cách giác ngộ chứ không phải để tránh đau khổ. Đau khổ sẽ đuổi theo người u mê lánh khổ cho tới tận cùng dù nó có bị dìm sâu vào đáy thẳm tận cùng của tiềm thức đương sự đi nữa.

                  Phật gọi đó là thức thứ 8, Tàng Thức hay là A-lợi-da thức, kho tàng bao la không ngằn mé chất chứa những kỷ niệm, biến cố, thiện nghiệp hay ác nghiệp từ vô lượng kiếp đến hiện kiếp. Mỗi tác nhân, mỗi tác nghiệp dù nhỏ như mảy lông sợi tóc vẫn còn tồn tại mãi trong cái Tàng Thức ấy, không bao giờ mất đi. Đến cơ duyên chín muồi là chúng tuần tự hiện hành.

                  Muổng nước mắm đâu thể làm cho ni cô Diệu Tâm mang tội sát sanh. Nhưng nó là đầu mối, là cánh cửa mở ra để bà thấy lại con đường phàm phu thế tục quyến rũ vụt hiện bày trở lại trước mắt bà. Dù bằng ý thức chưa rõ rệt đi nữa, nhưng bà vẫn còn muốn đi trở lại trên con đường ấy, sau nhiều năm bà phải buộc mình sống trai giới chốn cửa Thiền. Nói rõ hơn, vì không còn phương tiện, cơ hội, sức khỏe và nghị lực, cho nên bà không thể trở lại đường cũ nên bà phải tiếp tục nương náu chốn chùa chiền để tìm chỗ nương thân và điểm tựa cho tinh thần mình.

                  Lại nữa, tu hành mà ép xác thái quá thì tinh thần cũng bị dồn ép theo lẽ thân tâm tương ứng. Đức Phật chủ trương Trung Đạo trong đó có phần Trung Dung trong cách tu hành: đừng nuông chiều xác thân trong những thú khoái lạc, nhưng cũng không nên ép xác thân đến độ hành hạ khốc liệt xác thân. Dây đàn chùng quá sẽ không nẩy bật ra âm thanh. Nhưng nếu căng thẳng nó quá, nó sẽ đứt.

                  Qua truyện ngắn "Lòng Trần", tác giả Nguyễn thị Thụy Vũ trình bày một khía cạnh tâm linh khá đặc thù: lánh tục bằng cách nương náu chốn am vân chưa chắc là ngộ. Vấn đề mê và ngộ vốn phức tạp và phiền toái. Mê vốn dễ bao trùm giăng bủa khắp mỗi loại chúng sinh. Các bậc hành giả nếu đi sai một lằn tơ kẽ tóc là bước qua đường tà có nhiều biển khổ bến mê đón đợi.

                  Tu hành phải dựa vào nền tảng Chánh Kiến và phải do Chánh Tư Duy soi sáng hướng dẫn. Con đường đưa tới bờ chứng ngộ thấp thoáng nhiều bóng ma. Bóng ma ! Đó chỉ là cách nói những chuớng ngại nội tâm tuy vi tế nhưng mãnh liệt kinh khiếp được cụ thể hóa bằng hình ảnh ghê rợn để cảnh giác các hành giả đề phòng và xa lánh. Còn chướng ngại ở ngoại giới dễ tránh hơn vì nó thô tháp và diễn biến nhãn tiền nên dễ làm cho hành giả nhận chân được chúng ngay.

                  Trong quyển tuyển tập "Những Truyện Ngắn Hay Nhất Trên Quê Hương Chúng Ta", có lẽ truyện ngắn "Lòng Trần" của Nguyễn thị Thụy Vũ được nói tới nhiều. Không hiểu các nhà biên khảo và các nhà phê bình khi đề cập tới truyện ngắn ấy đã nắm bắt những gì qua khía cạnh tâm linh? Tuy nhiên, hình như chẳng có ai nhìn nó qua lăng kính Duy Thức Học, trong đó có một phần nói về Tàng Thức. Họ chú ý tới nó vì hồi kết cuộc của câu truyện quá bất ngờ, như trái lựu đạn nổ tung vào tín ngưỡng và vào ảo tưởng của họ.

                  o0o


                  Nhà văn Võ Phiến không bắt gặp được cái nét đặc thù dữ dằn trong vài tác phẩm mà bút giả vừa kê khai. Nhưng cái tổng quan của ông về đặc tánh chung trong văn chương của Nguyễn Thị Thuy Vũ rất là sắc bén. Xin cùng đọc bài viết về Nguyễn Thị Thụy Vũ trong quyển 2 của bộ biên khảo "Văn Học Miền Nam" do Văn Nghệ xuất bản:

                  ... Đàn bà cầm bút, đa số viết chuyện tình ái hoặc lâm ly hoặc éo le, chuyện vui chuyện buồn loanh quanh trong gia đình, giữa các chàng với các nàng v. v... Bà Nguyễn xông vào cơn gió bụi, phanh phui những cảnh đời lầm than, làm lắm kẻ sững sờ, nhăn mặt. Ở nước ta, từ trước tới nay chuyện bà Nguyễn làm là chuyện của đàn ông. Nam phái vẫn xông xáo hơn nữ phái. Chuyện kéo xe, người ngựa ngựa người, chuyện làm đĩ, chuyện lục-xì, móc túi, đánh cướp, buôn lậu v.v... thường do các ông tìm hiểu và kể lại cho nhau nghe.

                  Các bà các cô không tiện tìm, không tiện kể, mà cũng không mấy thích nghe. Bà là người đàn bà khác thường. Tôi ngờ không hẳn do năng khiếu, chẳng qua do một trường hợp ngẫu nhiên. Có một độ, hình như lúc từ duói tỉnh về Sài Gòn, bà dạy Anh văn cho những cô gái có công việc làm ăn giao thiệp với Mỹ, hay có chồng Mỹ. Nhiều người trong số ấy đem tâm sự tỉ tê với bà.

                  Cuộc đời và tâm sự của họ xúc động bà, thành đề tài sáng tác của bà. Người đọc nhận thấy trong các truyện của bà Nguyễn thỉnh thoảng có một cô giáo Anh văn xuất hiện. Tình cờ, vì lý do sinh kế, mà bà Nguyễn làm cây bút tả chân đầu tiên ở xứ ta, về phía nữ phái, mạnh dạn phơi bày một phương diện của thực trạng xã hội ta vào một thời điểm đặc biệt. Bà có vị trí riêng trong thời kỳ văn học bấy giờ.



                  Hết Chương 9 - Xem Tiếp Chương 10


                  sigpic

                  Comment


                  • #10
                    Quê Nam Một Cõi

                    Hồ Trường An

                    Chương Mười

                    Hoàng Xuyên Anh, Người Cô Phụ Rơi Dòng Dư Lệ
                    Trên Những Bài Thơ Sầu Vạn Cổ




                    Tỉnh Trà Vinh (từ hồi Đệ nhất Cộng Hòa của Miền Nam Việt Nam được gọi là thị xã Vĩnh Bình) là một thành phố gần biển. Đất đai ở đó không có sông rạch chằng chịt chảy qua nên đa số nóc gia phải đào giếng. Trà Vinh có nhiều người Miên cư ngụ, có Ao Bà Om là nơi thắng cảnh, có dưa hấu ở Cầu Ngang ngon như dưa hấu Trảng hoặc dưa hấu Trà Bang.

                    Dòng nước lợ tức là nước ngọt và nước biển trộn nhau chảy qua những địa danh nào trong lãnh thổ của tỉnh đều có loại cá thác lác và cá chái ngon nổi tiếng. Cá chái thịt béo lại có hai thỏi trứng to, được đem nấu ngót để chan lên bún và rau xắt ghém là một món ngon hiếm quý. Nhưng món bún nước lèo mới là một món ăn độc đáo của người Miên được biến cải đôi chút để hợp khẩu vị người Việt.

                    Đó là món mắm sặt kho chan lên bún, bắp chuối thái nhuyễn điểm lất phất rau quế , rồi được đơm thịt phay, tôm luộc và rắc hành ngò, tiêu, ớt. Đến viếng Trà Vinh mà không ăn món bún nước lèo cũng như đi qua vùng Champagne nước Pháp mà quên thưởng thức món dồi heo và rượu sâm banh.

                    Tôi viếng Trà Vinh vài lần. Lần chót vào năm 1961. Bây giờ nghĩ về tỉnh ấy, tôi có thể mường tuợng những mái chùa Miên vàng rực với những ngôi tháp nhọn trong ánh nắng tơ vàng, những cây sa-kê cao khẳng khiu xõa chùm lá mềm mại trong đêm trăng, những giếng nước ngọt trong mát, những trái dưa hấu Cầu Ngang khi được bổ ra phơi ruột đỏ lòng son lộng lẫy và điểm hột đen lánh trong lớp vỏ xanh màu ngọc thạch óng mượt.

                    Tôi nào biết nơi đó là chốn sinh quán cô nữ sinh kiều diễm Ôn Quế Anh đa sầu đa cảm để rồi cô lên Vĩnh Long, tỉnh lỵ sinh quán của tôi để làm cô bạn hàng xóm của tôi, để tiếp tục việc học tại trường Sư Phạm Vĩnh Long... Và rồi năm tháng trôi qua, khi bước chân ra đời, cô phải nhận lãnh gánh hệ lụy đè nặng vai mềm.

                    Con đường oan trái lại trải rộng ra, định mạng khốc liệt xô cô dấn bước vào. Tuy nhiên định mệnh oái oăm ấy chẳng những không giết chết nổi Ôn Quế Anh, mà biến cô thành nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, một tên tuổi quen thuộc trong chi hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại - Bắc Cali.

                    Tôi xin giới thiệu hai thi tập "Nỗi Lòng Cô Phụ" và "Khung Trời Kỷ Niệm" của Hoàng Xuyên Anh trong niềm cảm thông giữa tác giả và bút giả. Đọc thơ chị, tôi nghĩ rằng đó là loại thơ đơn giản về ngôn ngữ lẫn tình ý. Chúng vẽ lên tấm chân dung một cuộc đời đáng lẽ phải bình thường, nhưng tai ương và thống khổ đã đưa nó vượt lên cái tầm thường, biến cái bình thường đó thành một cuộc sống tuyệt vời trong cõi thi ca.

                    Cuộc đất Trà Vinh đã sản sinh thi sĩ Khổng Dương 1 vào thời tiền chiến, thi sĩ Truy Phong 2 vào thời chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, cùng hai nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh và Vũ Thi An 3 nơi hải ngoại. Và Trà Vinh được nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh vẽ lên tấm chân dung của nó qua bài "Nhớ Tỉnh Trà Vinh" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm".

                    "Biển Ba Động nước xanh, cát trắng,

                    Ao Bà Om thắng cảnh miền Tây,

                    Xin mời du khách về đây,

                    Xem qua thì rõ chốn nầy thần tiên".

                    *

                    Làng tôi nghèo bên cạnh dòng sông Cửu,

                    Trà Vinh buồn trồng đủ lúa, ngô, khoai.

                    Miền Tây vựa lúa quanh con sông dài,

                    Dân quê chất phác miệt mài đồng áng.

                    *

                    Biển Ba Động hoàng hôn rơi bảng lảng,

                    Tiếng ai hò man mác khúc tình ca.

                    Bóng dừa cao lẩn khuất trong sương nhòa,

                    Ôi! Đẹp quá! Chiều tà trên bãi biển.

                    *

                    Lượn sóng nhấp nhô đưa thuyền cặp bến,

                    Bao dân chài gác mái trở về dinh.

                    Hàng tre xanh ấp ủ mộng yên bình,

                    Niềm hạnh phúc chan tình lên sức sống.

                    *

                    Ao Bà Om khắc ghi đôi hình bóng,

                    "Khà-Me" tình trai gái thuở xa xưa.

                    Yêu quê hương, nói sao hết cho vừa,

                    Ao sen trắng giữa bùn nhơ vẫn đẹp.

                    *

                    Trung học Vĩnh Bình nữ sinh khép nép,

                    Nón lá che nghiêng, áo trắng tung bay.

                    Trần Trung Tiên đào tạo bậc anh tài,

                    Tình giao hảo, tuổi ô mai đầy mộng.

                    *

                    Ngả Ba Đuôi Cá thênh thang gió lộng,

                    Vườn dừa trĩu trái in bóng hằng nga.

                    Gái trai làng vui hát khúc hoan ca,

                    Đêm thôn dã, tiếng "dù kê" rộn rã.

                    (các trang 82, 83)

                    Bài thơ đầy những hình ảnh thân thương, những nét tạo hình óng chuốt. Ngôn ngữ thơ bình đạm. Ý thơ trong vắt như nước giếng sâu và đầy sinh lực như cây dừa, khóm chuối, rẫy mía, vồng dưa sau cơn mưa mát mẻ.

                    Chỉ có tình quê hương mới nâng bước chân nhà thơ vào lối hoa mộng của quá khứ. Trong giây lát nào đó, chẳng hạn lúc cất bút làm những bài tình tự hoài hương, tác giả mới tạm quên cuộc sống ngang trái đau thương. Ý thơ chị tươi hẳn lên, sáng lấp lánh như sóng biển Ba Động dưới bầu trời ngát xanh màu lam ngọc.

                    Vườn quê hương trái ngọt,

                    Bóng mát rặng cây xanh,

                    Gió ru giấc mộng lành,

                    Đàn chim xa về tụ.

                    *

                    Cánh đồng vàng bát ngát,

                    Khúc khuỷu con đê dài,

                    Nhộn nhịp tiếng gái trai,

                    Mùa vụ vui gặt hái.

                    *

                    Dòng sông xanh uốn khúc,

                    Xuồng ba lá lênh đênh,

                    Đàn vịt bầu rỉa rúc,

                    Mặt trời bóng xế nghiêng.

                    *

                    Nhớ chiều xưa.. thu vàng,

                    Gặp anh nơi cố quận,

                    Nhìn nhau... mắt chứa chan,

                    Tình yêu vừa chợt hiện.

                    *

                    Xanh xanh màu mạ mới,

                    Tình ta giấc mộng đầy,

                    Thoáng hương đồng cỏ nội,

                    Ân tình ấm vòng tay.

                    *

                    Mây trời trôi lãng đãng,

                    Tiếng hạc buồn kêu sương.

                    Ngẩn ngơ đàn cò trắng,

                    Biển tình ngát yêu thương.

                    *

                    Gió lao xao lá cành,

                    Vũ trụ đẹp như tranh.

                    Tim em hồng dĩ vãng,

                    Ngàn hôn đọng môi xinh.

                    *

                    Tình Quê xao xuyến lạ,

                    Hoa bướm quyện thiết tha.

                    Men tình say giấc điệp,

                    Triền miên lịm hồn ta.

                    *

                    Hoàng hôn lau lách tím,

                    Quê hương cõi xa mờ.

                    Xao xác bìm bịp gọi,

                    Xứ người em bơ vơ.

                    (các trang 77, 78)

                    Qua những đoạn thơ trích dẫn trên đây, chúng ta có thể tìm phong vị thơ quê

                    hương đất nước của Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, Đoàn văn Cừ vào thời tiến chiến. Chúng ta có thể bắt gặp hơi hướm âu yếm thiết tha trong thơ quê

                    hương của Tường Linh 4 và của Kiên Giang Hà Huy Hà 5 vào hai thời Cộng Hòa của Miền Nam Việt Nam, sau Hiệp Đinh Geneva. Chúng ta có thể gặp lại tình ý trong thơ Lê Ngọc Hồ, Dư Thị Diễm Buồn nơi hải ngoại.

                    Nhưng cái thú vị của người đọc là tìm gặp trong khung cảnh đồng quê trên đất nước thân thương chúng ta có lồng mối tình của đôi lứa thiéu niên. Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội 6 quê ở Hà Tiên có núi rực sắc thúy màu lam, có hồ mộng trải gương trong, có Bách Phương Viên và Úc Viên với hoa quỳnh, hoa cúc, có Tân Nguyệt Hiên để bà đêm đêm ngắm vành trăng non thượng tuần và ngôi sao hôm sáng long lanh.

                    Thế mà bà không thể làm một bài thơ tình yêu mà chỉ làm vài bài thơ vịnh cảnh. Hoàng Xuyên Anh có một quê hương ven biển với khung cảnh đồng ruộng bao la, nhưng không có kỳ hoa dị thảo, không có thanh sơn thủy tú, cũng không có nhiều địa linh nhân kiệt. Vậy mà chị có một mối tình để dệt thành những bài thơ kỷ niệm.

                    Từ tình yêu lứa đôi, chị phóng chiếu nó lên tình yêu non nước, tức là phóng đại nó vào một tình cảm vĩ đại hơn, hùng tráng và thiêng liêng hơn. Xin đọc bài "Trường Ca Nỗi Nhớ" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm" :

                    Đã từ lâu không còn gì để nói,

                    Giấu cuộc tình vào đêm tối mênh mông,

                    Đời u buồn như xuân, hạ, thu, đông,

                    Cố chôn lấp sau bức rèm phủ kín.

                    *

                    Hai bốn năm quốc hận đành câm nín,

                    Dấu vết tình áo não tím buồng tim,

                    Cảnh phù du anh trôi nổi kiếm tìm,

                    Em nức nở hồi sinh trong kiếp nhớ.

                    *

                    Quốc lộ một dặm dài còn bỡ ngỡ,

                    Nối tình thương giữa Hà Nội Sài Gòn.

                    Dòng giống Tiên Rồng xanh biếc núi non,

                    Giang san gấm vóc cha ông gìn giữ.

                    *

                    Bắc, Trung, Nam lời ca dao tình tự,

                    Con đường làng sỏi đá uốn quanh thôn

                    Hàng dừa cao che mát chợ chiều hôm,

                    Em réo gọi tình hồng in đáy mắt.

                    (trang 88)

                    Hai tập thơ "Nỗi Lòng Cô Phụ" và "Khung Trời Kỷ Niệm" là hai môi trường để tác giả ký thác nỗi đau thương của mình. Nhưng ai biết đâu ở một con người thi sĩ thường có hai ba cuộc sống, nếu bỏ qua cuộc sống thực tế thường nhật qua một bên. Ở Hoàng Xuyên Anh, chị sống bằng ba cuộc đời buộc chặt vào thi ca: cuộc đời đẫm lệ của người cô phụ, cuộc đời của kẻ hoài vọng quê hương và cuộc đời ngưỡng vọng ánh vinh quang của Tổ Quốc và Dân Tộc.

                    Nhưng cuộc sống tâm tình mới chiếm rộng lớn trong vòng sinh hoạt của chị. Tâm hồn và trái tim chị chia ra làm ba ngăn: ngăn tình cảm ủy mị tràn ngập nhân tính, ngăn bát ngát phong vị cố huơng cách xa đất nước nửa bán cầu và ngăn rực sáng lửa thiêng của nòi giống.

                    o0o


                    Bước vào cõi thi ca của Hoàng Xuyên Anh, khách thưởng ngoạn có thể tưởng tượng như buớc vào mảnh sân truớc hay mảnh sân sau của một ngôi thảo am trong vùng châu thổ nằm giữa dòng Tiền Giang và dòng Hậu Giang.

                    Mảnh vườn nào cũng nho nhỏ xinh xinh, có trồng những loại hoa phổ thông như hoa chuối nước màu vàng tái lấm tấm chấm đỏ; hoa móng tay đỏ viền vàng; hoa trúc đào và hoa đông hầu (tức là hoa mười giờ) màu hồng đào; hoa sao nháy màu hoàng yến; hoa trang màu vàng mỡ ngỗng; hoa sơn chi (tức là hoa dành dành) cùng hoa bạch ngọc (tức là hoa lài trâu), và hoa mộc đều có màu trắng tinh anh như tờ giấy ngọc cốt; hoa huệ lan màu hồng ửng tía ngọt lịm; hoa cẩm nhung vốn là loại cẩm chướng với màu trắng có sọc tím...

                    Cạnh vuông đất trồng hoa là khu trồng rau với các loại sơ thái như cải diếp, cải ngồng, cải ngọt, cải cúc cùng là các loại rau thơm như húng, quế, kinh giới, rau răm, ngò gai, tía tô v. v... Hoa và các loại sơ thái tuy rất phổ thông, nhưng trong khu vườn thưởng ngoạn của những kẻ yêu quê mến đất, chúng luôn muôn tươi ngăn ngắt, mát dịu như tẩm sương mưa. Chúng rất gần gũi tâm tình và khẩu vị những dân miệt vườn an phận thủ thường, quen thanh thưởng các bữa cơm rau đạm bạc.

                    Nhưng mà các bạn độc giả chớ quên: Khu vườn của Hoàng Xuyên Anh dù gợi trong cõi mường tượng chúng ta những hoa đẹp cỏ thơm, dù vẽ trong óc tưởng tượng chúng ta biết bao cây lành trái ngọt, nhưng các bạn chớ quên tưởng tượng thêm trong đó còn có những cây gợi nên niềm bi ai thống khổ. Đó là những cây lệ liễu buông nhánh la đà xuống mặt đất như những dòng lệ tóc tang khóc người tình quá cố.

                    Những cây thùy dương vi vút trong gió như trổi giọng than thở thiết tha. Những dây ti-gôn trổ hoa có hình quả tim vỡ đôi đã gieo cho nhà thơ TT. Kh biết bao hoài cảm ngậm ngùi, biết bao tâm sự cay đắng. Những cây mua hoang dại (giống như cây sim) trổ hoa tím man mác bâng khuâng cùng những trái tím than gội nên những vết thương dập nát mà máu bầm vẫn còn ứ đọng chưa tan...

                    Xin đọc bài "Dòng Sông Kỷ Niệm" trong thi tập "Nỗi Lòng Cô Phụ" 7:

                    Xa vắng đôi bờ cách núi sông

                    Tơ tình anh có bận lòng không?

                    Em thờ thẫn đọc dòng thơ cũ,

                    Thương nhớ người ơi! Lệ đổ dòng.

                    Mỗi chiều về lặng đứng bên sông,

                    Nhặt ánh tà duơng nhạt sắc hồng.

                    Nguồn nước yêu đương, ôi! Ngọt quá!

                    Bầy chừ vẩn đục những rêu rong.

                    Sao em thấy trong dòng sông ấy,

                    Có dáng anh ngồi mỏi mắt trông,

                    Em khẽ gọi anh qua nắng nhạt:

                    "Mình ơi! Cá lội có xuôi dòng?

                    Có đem trăng nước về bên ấy?

                    Thả cánh buồm yêu ấp ủ lòng.

                    Có ngược thời gian về dĩ vãng?

                    Giòng sông bẽn lẽn vẫn chờ mong;"

                    (trang 111)

                    Những kẻ bất hạnh trong tình yêu, trong hôn nhân thường ưa trở về thời dĩ vãng của cuộc hạnh ngộ. Bài "Ai Biết... Tình Ai?" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm" mở cho người đọc một thuở yêu đương thơ mộng của tác giả Hoàng Xuyên Anh giữa cảnh hoa bướm xôn xao màu sắc và ngào ngạt hương xuân.

                    Nhưng cái thửa ấy đã bị lớp tro dĩ vãng phủ lên tuy không để lại trong lòng chị một vết thương khó lành lặn, nhưng vẫn giăng mắc trong tâm hồn chị một lớp mây xám thê lương của cảnh tiêu sơ:

                    Thuở ấy yêu xuân ai biết nào?

                    Trầm trồ anh ngắm áng mây cao,

                    Nắng xuân dìu dịu tươi hồng má,

                    Nắng ở trên mây, nắng nghẹn ngào.

                    *

                    E ấp làm sao một đóa hồng!

                    Nụ xuân biêng biếc đợi chờ mong.

                    Bướm ong bay lượn phương trời lạ,

                    Một chút tình xa chẳng ấm lòng.

                    *

                    Lan, mai, cúc, trúc dáng khoe xinh,

                    Xuân đợi chờ ai? Xuân hữu tình.

                    "Xuân khứ, xuân lai, xuân bất diệt",

                    Xuân nào vương vấn chuyện đôi mình?

                    *

                    Bây chừ anh chở nỗi sầu cay!

                    Sao để ngày qua lại tháng ngày?

                    Héo hắt nàng xuân lạc lối mộng,

                    Bao mùa thu đổ lá vàng bay.

                    *

                    Ai biết tình anh có trắng trong?

                    Có yêu... nhưng sợ xuân phai hồng?

                    Ngắm nhìn cũng đủ lòng vui suớng?

                    Ca tụng muôn lời thỏa ước mong?

                    (trang53)

                    Bài "Tâm Sự Đêm Trăng" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm" không vẽ bối cảnh chập chờn phiêu diễu dưới ánh trăng, mà chỉ nói tới cái hạnh phúc trong phút vai kề má tựa. Ngoại cảnh thiếu vắng, nhưng cái lẩn thẩn, cái lẩm cẩm của kẻ đang yêu và được yêu làm cho bài thơ thập phần thơ mộng. Hãy nghe:

                    Hãy xích gần nhau chút nữa anh

                    Vỗ về em nhé suốt năm canh,

                    Cho vơi tâm sự nhiều cay đắng,

                    Cho mắt thôi buồn lệ chảy quanh.

                    *

                    Anh hãy lau khô giọt lệ sầu,

                    Xây thành vọng nguyệt chống thương đau.

                    Đêm trăng đàm đạo hồn tha thiết,

                    Bóng nguyệt xuyên mành, ta có nhau.

                    *

                    Hãy nói đi anh chuyện nước non,

                    Nghìn năm thanh sử mãi lưu son,

                    Anh hùng, hào kiệt trong kim cổ,

                    Vị quốc vong thân dạ sắt son.

                    *

                    Hãy nói đi anh chuyện đất trời

                    Khai thiên lập địa một lần thôi.

                    Adong, Evà cùng chung bước,

                    Vườn địa đàng. Ôi! Cảnh tuyệt vời.

                    *

                    Rồi chuyện tương lai của chúng mình,

                    Ông bà ghi dấu thuở lưu sinh,

                    Cho em một chút niềm hy vọng,

                    Vườn mộng huy hoàng, xinh thật xinh!

                    (trang 56)

                    Bài "Đợi Tình" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm" cũng là phút hồi tưởng quá khư thơ mộng để rồi phải đối diện cái hiện tại áo não chán chường. Đây là cái bóng phản chiếu thơ của các thi nhân thời tiền chiến khi phong trào thơ văn lãng mạn dâng cao, làm ngập lụt và ướt sũng những tâm hồn thanh xuân khao khát sống.

                    Anh ạ, hôm nay chiều thứ bảy,

                    Đường phố xôn xao lắm tiếng cười,

                    Tài tử giai nhân đi tấp nập,

                    Em ngồi chờ đợi một niềm vui.

                    *

                    Nghĩ thầm anh sẽ đến thăm em,

                    Tiếng sáo nhà ai trải khúc êm,

                    Dấy động tâm tư niềm hạnh phúc,

                    Xiêm y yểu điệu dáng tơ mềm.

                    *

                    Soi gương, điểm phấn hồng đôi má,

                    Kẽ mắt, mày xanh thắm nét tươi.

                    Thấp thỏm tim lòng nôn nóng lạ,

                    Đứng lên, ngồi xuống, ngóng xa xôi.

                    *

                    Chiều nhẹ trôi nhanh phủ bóng mây,

                    Sương khuya lành lạnh cánh hoa gầy.

                    Chập chùng ảo mộng theo sương khói,

                    Mờ mịt chân trời dáng chim bay.

                    *

                    Đường mây cánh nhạn dạo nơi nao,

                    Bến vắng tơ vương ngọn trúc đào.

                    Cành liễu nhớ ai buồn rũ rượi?

                    Đêm dài tĩnh mịch bóng trăng sao.

                    (trang 50)

                    Những kẻ bắt hụt tình yêu hoặc tìm gặp được tình yêu nhưng để nó trơn trợt vuột khỏi tay mình thường sống trong cái ảo ảnh lộng lẫy được vẽ vời trong trí tưởng tượng của mình. Xin đọc bài "Tắm Ánh Trăng Vàng" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm". Ở đây, tác giả pha vào thơ trử tình một chút hơi hướm của thơ siêu thực, một chút phấn hương của loại thơ ấn tượng.

                    Ta về tắm ánh trăng mơ,

                    Đường hoa lối mộng ngẩn ngơ mắt nhìn.

                    Thuyền trăng bóng nước lung linh,

                    Chứa bao ân ái kết tinh tụ hồn.

                    Nhạc lòng thổn thức tình son.

                    Sóng xao ánh mắt xoay mòn tim em.

                    Đắm say trong phút trao duyên,

                    Tâm tư giao động rộn thềm trăng yêu.

                    Tình ơi! Giấc mộng diễm kiều,

                    Một vầng trăng tỏ vạn điều ước mong.

                    Trăng xưa, đêm cũ tình nồng,

                    Bướm hoa chung lối, tiếng lòng thân thương.

                    Tơ trời giăng mắc muôn phương,

                    Nụ hôn ngọt mật ướp hương men tình.

                    Vườn lòng một đóa hoa xanh,

                    Vùng trời thuơng nhớ phiêu linh mơ màng.

                    Gió ơi! Đừng thổi tình tan,

                    Để em tắm ánh trăng vàng yêu thương.

                    (trang 116)

                    Tuy nhiên bài "Tình Trong Ẳo Mộng" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm" là bài tiêu biểu tiếng lòng của một nhà thơ bất hạnh dù có ước mơ hoang tưởng, nhưng đây là một bài tâm sự của kẻ cô đơn gợi lên mối thương tâm sâu đậm cho người đọc đúng hơn :

                    Bên anh lòng thấy vui tươi,

                    Mấy ngày thơ mộng bằng mươi năm sầu.

                    Thời gian nước chảy qua cầu,

                    Thúy đình hiên trúc vương màu nhớ nhung.

                    Hắt hiu ngọn gió lạnh lùng,

                    Người trong sương gió mịt mùng khuất xa.

                    Con tàu hò hẹn nhạt nhòa,

                    Bóng đêm đen thẳm mình ta độc hành.

                    Lạc đàn tiếng hạc mong manh,

                    Chạnh lòng cô lữ mắt xanh lệ tràn.

                    Bơ vơ kiếp sống lang thang,

                    Thoáng vui phút chốc võ vàng canh thâu.

                    Dở dang ôm ấp mộng đầu,

                    Ve u buồn trổi khúc sầu đơn côi.

                    Thuận Hòa thung lũng ngậm ngùi,

                    Dù trong ảo mộng trọn đời nhớ thương.

                    (trang 68)

                    o0o


                    Hoàng Xuyên Anh đến với độc giả khắp bốn phương trời hải ngoại bằng tâm sự thiết tha của nữ sĩ Lý Thanh Chiếu vào thời mạt điệp nhà Tống để khóc thời hạnh phúc lứa đôi ngắn ngủi.

                    Chị đến bằng giọt lệ của nữ sĩ Tương Phố 8 khóc người chồng yểu mệnh. Nhưng cả hai bà kia chỉ khóc chồng. Đằng này, nữ sĩ Hoàng Xuyên Anh còn phải khóc con, khóc luôn cái dung nhan bị tai nạn phi cơ tàn phá.

                    Ngày nay, dù chị được các nhà giải phẩu thẩm mỹ tái thiết trùng tu lại gương mặt. Nhưng họ làm sao trả lại cho chị một khuôn mặt bén nhạy với cảm xúc? Làm sao trả lại cho chị cái chân dung phản ảnh một tâm hồn thơ mộng và tràn ngập phong vị trử tình? Làm sao trả chị một ánh mắt âu yếm, một nụ cười tươi đẹp vì hạnh phúc trong sáng dịu lành ?

                    Cho nên thơ của chị là những khúc bi ca dội sâu vào nội giới người đọc một nỗi buồn bén nhọn để họ đối diện với căn phần oan nghiệt đã lạnh lùng giáng xuống cuộc đời một phụ nữ có một thời thanh xuân hạnh phúc hiền hòa như chị.

                    Xin đọc bài thơ "Kiếp Sau" trong thi tập "Nỗi Lòng Cô Phụ" để được nghe những lời tâm sự chân thành của người cô phụ đất San Jose:

                    Nếu kiếp trước em nhiều tội lỗi,

                    Kiếp này xin làm trâu ngựa đền bồi.

                    Đày đọa làm chi thân tàn tật,

                    Đêm dài không ánh trăng soi.

                    Không hương, không sắc, không danh vọng,

                    Và cũng không niềm tin cuộc đời.

                    Gió hờn rít khẽ qua môi,

                    Rêu phong phủ kín một đời sầu đau.

                    Đường đời lỡ bước chân vào,

                    Say mê bến đục tính sao bây giờ?

                    Gió hỡi gió bao giờ hết kiếp?

                    Trăng hỡi trăng có biết cho chăng?

                    Kiếp này đày đọa xác thân,

                    Kiếp sau chẳng làm thông rét muớt,

                    Cũng không làm người,

                    Không làm bướm lạ lả lướt vườn hoa.

                    Không làm màu sắc kiêu sa,

                    Không làm ve ru mùa hạ,

                    Không làm nhà thủy tạ,

                    Cho thiên hạ thóc mách xem chơi.

                    Mà làm thần gió chơi vơi,

                    Thảnh thơi đi khắp chân trời em yêu.

                    (các trang128 129)

                    Phật bảo rằng có hình thể, có săc tướng là có hoại diệt theo vòng sinh, lão, bệnh, tử. Trước hết là cái già làm cho nhan sắc tàn phai, thân vóc lệch lạc héo úa Rồi sau khi bất cứ một mỹ nhân nào hoặc là ta chết đi, hình hài xương cốt ta tan rã, trở về với cát bụi. Cái tai nạn khủng khiếp xưa đã cố tình hủy hoại nhan sắc tác giả, nhưng nó vẫn gieo vào tâm thức chị một tia sáng về sự khởi sinh và sự hoại diệt.

                    Cho nên chị không muốn kiếp sau mình mang nặng tấm chân dung và tấm hình hài nữa. Và chị muốn làm thần gió vô ảnh vô hình, thong dong tự tại lưu hành khắp bốn phương trời bao la khoáng đạt. Ở đây, từ khái niệm tư tuởng Phật Giáo chị đưa thơ bước sang lãnh vực Lão Trang.

                    Nhưng đó chỉ là giấc mơ thì bao giờ cũng vẫn... là giấc mơ. Giấc mơ ấy vuợt qua sức nguời và vẫn ở trong bàn tay Tạo Hóa thì dễ gì giúp cho nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh của chúng ta thực hiện nổi. Bất hạnh xưa, tang tóc cũ đã khắc ghi vào tâm khảm chị một vết thương sâu đậm và dù giờ đây nó đã lành lặn nhưng nó vẫn để lại cho chị một vết sẹo khó phai. Cho nên ở bài "Muời Năm Tình Nhớ" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm", chị cho chúng ta biết rằng chuyện tai ương cũ và cái chết của người chồng yêu quý vẫn là một ám ảnh khó phôi pha đối với chị:

                    Mười năm tình tự còn nguyên,

                    Mười năm nhung nhớ triền miên nỗi sầu.

                    Gọi anh đâu? Tìm anh đâu?

                    Trăng soi bến lạnh, nương dâu bẽ bàng.

                    Đường trần lê gót dở dang,

                    Mưa tuôn, nắng hạ, lệ tràn trăng thanh,

                    Còn đâu những chuỗi ngày xanh,

                    Phượng loan ríu rít trên cành yêu đương.

                    Tìm đâu tiếng ngọt thân thương,

                    Đất trời nghiêng ngã theo đường anh đi.

                    Đam mê ôm mối tình si,

                    Bao nhiêu kỷ niệm khắc ghi trong lòng.

                    Thẫn thờ gối chiếc phòng không,

                    Nhìn qua di ảnh mặn nồng lứa đôi.

                    Vì sao tình phải chia phôi,

                    Nghìn năm em mãi ngậm ngùi bóng mây.

                    (trang 75)

                    Bài thơ chan hòa "giọt lệ thu" của Tương Phố, soi lại một đoạn đời nổi dậy "mưa gió sông Tương" của bà nữ sĩ ấy. Tiếng khóc chồng trong thơ của Hoàng Xuyên Anh là bức phóng ảnh tiếng khóc trong thơ của nữ sĩ Tương Phố. Nhưng câu kết lại khéo léo hơn, đưa độc giả đến ý niệm cái hạnh phúc thời quá khứ trôi qua không bao giờ trở lại.

                    Như bóng mây trôi qua để rồi sa mưa hoặc tan theo gió, nếu có trở lại chăng nữa thì nó đâu còn hình hài nguyên vẹn thuở xưa. Nó gợi lên ý tình trong bài thơ "La Fuite de la Jeunesse" ("Tuổi Xanh Trôi Mất") của Joachim du Bellay; bài này được đưa vào quyển giáo khoa trung học "Les Auteurs du Noveau Programme" ( "Những Tác Giả Chương Trình Mới"). Ngày xanh trôi qua mang theo luôn hạnh phúc thắm tươi của những tâm hồn lành mạnh trẻ trung.

                    Người chồng yêu dấu của tác giả đã ở bên kia cõi sống, cuộc gặp gỡ chỉ có thể trong cơn đồng thiếp và trong giấc chiêm bao, nếu vong hồn của chàng hiển linh, nếu giấc chiêm bao là phản ảnh của thực thể. Tuy vậy, chị vẫn mơ một cuộc gặp gỡ nên chị ký thác tâm sự mình cho tâm sự người cô phụ tìm chồng khắp nơi chân trời góc biển như nàng Mạnh Khương thuở xa xưa tìm chồng bên Vạn Lý Trường Thành ngoài biên ải. Xin cùng đọc bài "Tìm Anh" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm":

                    Tim anh khắp quả địa cầu,

                    Tuyết sương trắng phủ con tàu đong đưa.

                    Tìm anh giải nắng dầm mưa,

                    Rừng thay bao lá, người chưa thấy về.

                    Tìm anh khắp nẻo sơn khê,

                    Cầu bao nhiêu nhịp lê thê nỗi sầu.

                    Gập ghềnh mỗi bước về đâu?

                    Đường đi muôn ngả, niềm đau chất chồng.

                    Tìm anh xuân, hạ, thu, đông,

                    Vết thương loang lở lạnh vòng tay tiên.

                    Lang thang em mãi kiếm tìm,

                    Mênh mông nỗi nhớ triền miên ngập lòng.

                    Tìm anh bóng xế hoàng hôn,

                    Sương pha màu tóc, sóng cồn dậy khơi.

                    Tìm anh suốt cả cuộc đời,

                    Duyên đi sai hướng, tình trôi sai chiều.

                    Âm thầm trong cảnh cô liêu,

                    Sông dài, bến vắng, đò chiều ngẩn ngơ.

                    Kiếp tằm thì phải nhả tơ,

                    Em tìm cánh nhạn mịt mờ khói sương.

                    (trang 74)

                    Tâm sự tóc tang được thể hiện rõ rệt nhất trong bài "Tình Người Cô Phụ" trong thi tập "Nỗi Lòng Cô Phụ". Đây là ném tâm hương để tác giả thắp lên, hoài niệm người quá cố mà cũng ghi lại giai đoạn cáo chung của thời kỳ hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi. Và đây cũng là một trong những bài thơ bung vỡ cảm tính của tác giả.

                    Bao nhieu thống khổ, mất mát trước đó dồn chị vào một con đường tối đen, không một tia sáng bạc nhược nào lóe bên chân trời viễn ảnh. Cho nên giờ đây, chị không thể để cho đôi dòng lệ tuôn chảy âm thầm. Ngọn trào lòng phải bật ra thành tiếng mới làm cho chị bớt bị đè nén bởi sự đau đớn tuyệt vọng nghìn cân đè nặng lên nội giới của chị.

                    Tình em như áng mây ngàn,

                    Phương trời vô định thênh thang dặm dài.

                    Tình nào cho kẻ đắng cay?

                    Bẽ bàng duyên kiếp đọa đày xác thân.

                    Tình tròn cho kẻ chinh nhân,

                    Sơn hà xã tắc dấn thân bụi mờ

                    Tình thương cho kẻ không bờ,

                    Con thuyền lạc bến bơ vơ giữa dòng.

                    Tình thơ cho kẻ long đong,

                    Thi nhân, kiếm khách vẫy vùng dọc ngang.

                    Tình hờ cho kẻ lỡ làng,

                    Con đò bến cũ ngỡ ngàng chào nhau.

                    Tình đầy cho kẻ thương đau,

                    Nửa chừng xuân mộng lao đao trọn đời.

                    Tình mơ theo kẻ ra khơi,

                    Nhớ người viễn xứ lệ rơi đôi hàng.

                    Tình non, tình nước, tình chàng,

                    Tình người nồng ấm phủ quàng đôi vai.

                    Bao nhiêu tình ấy hôm mai,

                    Gom hoa phủ trắng quan tài cho anh.

                    Nén hương khấn nguyện lòng thành,

                    Môi son má phấn trơ cành cây khô.

                    Sao trời lạc bến hư vô,

                    Tiếng than ai oán, tiếng thơ ngân sầu.

                    Mưa tuôn nuớc cuốn lệ trào,

                    Bao nhiêu tình nghĩa chôn vào mồ anh.

                    Còn đâu ân ái ngày xanh?

                    Trời gieo tang tốc vây quanh nấm mồ.

                    Anh đi tan tác cơ đồ,

                    Em nào có khác cùng mồ với anh.

                    Trầm luân vũ điệu thông hành,

                    Kiếp hoa mảnh hạt sương mành treo chuông.

                    Dật dờ khói trắng chiều buông,

                    Bao giờ hết kiếp đoạn trường trần gian?

                    (các trang 36, 37)

                    Nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh không nghĩ rắng mình là nạn nhân của định mệnh mà là mình phải chịu trả cái nghiệp quả của thời tiền kiếp khi chị nhìn cuộc đời xuyên qua giáo lý nhà Phật. Chị còn tin rằng mình phải tuân theo ý Chúa khi chị quỳ dưới tượng Nữ Thánh Đồng Trinh Maria.

                    Cho nên chị không oán Trời, không trách đất, không chửi đời hay nguyền rủa thế nhân. Ở bài "Hồi Chuông Chiêu Mộ" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm", chị cầu xin Phật Tổ soi đường đạo pháp cho chị trước là cầu cho vong linh người quá cố tỉnh "giấc mê thường" (sic) và sau là cầu cho mình lánh xa phiền não để được sống an vui.

                    Ta về gióng một hồi chuông,

                    Gọi anh tỉnh giấc mê thường mông lung.

                    Lời kinh như sóng trùng dương,

                    Bao la bát ngát tỉnh đường tu thân.

                    Giọt sương hồi hướng trong ngần,

                    Đời anh sương gió hồng trần đam mê.

                    Điệu ru man mác sơn khê,

                    Tay nâng tràng hạt bồ đề từ tâm.

                    Nam mô Phật Tổ cao thâm,

                    Soi đường đạo pháp thấm nhuần người thương.

                    Mau mau về dưới Phật đường,

                    Hồi chuông chiêu mộ tìm đường an vui.

                    (trang 117)

                    Ở bài "Thì Thầm Cầu Mẹ La Vang", cũng trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm, tác giả cầu Đức Mẹ Maria giúp chị tìm lại chuỗi ngày an lạc và hạnh phúc xa xưa vói trái tim nguyên vẹn không tì vết. Như thế, chỉ có vấn đề tâm linh mới làm những điểm tựa tinh thần kiên cố cho tác giả:

                    Thì thầm cầu mẹ LA VANG,

                    Làm sao tẩy sạch vết hằn trong tim?

                    Đời con đau khổ triền miên,

                    Sóng xô biển dập, ướt mèm lá hoa.

                    Thở than dưới ánh trăng tà,

                    Mẹ ơi! Ban chút lụa là thương yêu.

                    Sông Ngân một giải đìu hiu,

                    Hồng trần ô trọc dập dìu quỉ ma.

                    Tình, tiền vun vút bay xa,

                    Hồn con vất vưởng la đà gió lay.

                    Chắp tay khấn mẹ van nài,

                    Xin cho con được chuỗi ngày yêu xưa.

                    Quyền năng của mẹ dư thừa.

                    Xin cho con hết nắng mưa dãi dầu.

                    Con quỳ lạy mẹ ơn sâu,

                    Tình yêu của mẹ nhiệm mầu đời con.

                    (trang 118)

                    o0o


                    Trên con đường đưa vào thi ca lãng mạn êm ái như gương mặt hồ, bát ngát cảm khái trử tình như khói tỏa sương lan, đôi lúc HoàngXuyên Anh theo lối cũ rêu phong, trở về lối thơ thất ngôn bát cú đẹp như cảnh đình viện cổ kính trong ánh nắng bàng bạc không khí vào hai triều đại Đường Tống bên Tàu.

                    Thuờng là những bài thù tạc giữa tác giả với kim bằng thân hữu hoặc với kẻ thân tộc ruột rà. Thường là những bài chúc tụng những cái đẹp của những tâm hồn thiết tha với văn hóa xã hội.

                    Xin đọc bài "Mừng Sinh Nhật Lương Anh Thư" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm":

                    Mừng con sinh nhật tuổi trăng tròn,

                    Chân sáo tung tăng hót véo von.

                    Mắt biếc long lanh ươm sắc mộng,

                    Tóc huyền óng ả xõa vai thon.

                    Xuân xanh tuổi dại chưa tròn giấc,

                    Dáng ngọc môi khờ ửng nét son.

                    Mơn mởn vườn hồng tươi tắn nụ,

                    Khung trời diễm tuyệt ngọt măng non.

                    (trang 124)

                    Vóc dáng thơ bỗng đổi ra đài các, đẹp như gấm, óng ả vóc nhung tơ, đuợm âm sắc thơ thất ngôn bát cú thuộc loại tân cổ điển của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội.

                    Và cũng như hai nữ sĩ gốc Nam Kỳ Lục Tỉnh hồi cuối thế kỷ 19 và bước qua thập niên 10 của Thế Kỷ 21 là Trần Ngọc Lầu và Trần Kim Phụng 9, nhà thơ đất Vĩnh Bình Hoàng Xuyên Anh song song vơi thơ cảm hoài thân phận, nhưng vẫn không quên trách nhiệm một công dân vào thời thế nhiễu nhương mà những anh hùng hào kiệt hiếm hoi, bao thánh hiền triết gia tịch mịch. Chị mượn bài thơ "Xuân" cũng theo thể thức thất ngôn bát cú trong thi tập "Nỗi Lòng Cô Phụ" để nhắn nhủ kẻ lưu vong hãy nuôi ngọn lửa thiêng dành cho ơn nhà nợ nước.

                    Xuân này mười chín cái xuân qua,

                    Nuôi mộng chinh nhân trở lại nhà.

                    Bút luyện đường thơ phơi tấc dạ,

                    Mực mài gan thép rạng đời hoa.

                    Năm canh, nhớ nước, quê người lạ,

                    Đôi hướng, thương mình, lối xóm xa.

                    Xa cách nghìn trùng non với nước,

                    Đạt thành chí lớn quyết xông pha.

                    (trang 92)

                    Cũng vậy bài "Xuân Tha Hương" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm" cũng là bài thơ để tác giả ký thác tâm sự ái quốc của mình trước cảnh luu vong biệt xứ. Đây cũng là tâm sự phổ thông, là mẫu số chung của những nhà thơ tuy có thích ứng cuộc sống trên đất nước định cư, nhưng không tìm ra điểm tựa tinh thần đích thực kiên cố và trường cữu.

                    Én lượn trời xa luống ngỡ ngàng,

                    Quê người hoài vọng mấy quan san.

                    Chạnh lòng tưởng nhớ xuân năm cũ

                    Lưu niệm bâng khuâng mắt lệ tràn.

                    Một phút sa cơ anh hùng lụy,

                    Nghìn năm hỉ hạ lũ gian nhân.

                    Thiêng liêng anh gọi hồn xuân ngự,

                    Thắp sáng dùm anh ngọn đuốc vàng.

                    (trang 93)

                    Nhưng rồi cũng ở hình thức thơ cổ kính ấy, tác giả vẫn thả vào thơ biết bao tình ý bi ai não nuột như theo một dòng cảm xúc có hữu bất biến. Thơ chị trở nên đơn giản và quen thuộc về phương diện ngôn từ, như bao nhiêu bài than thân trách phận của các bà quả phụ xa xưa trong thi giới như Cao Ngọc Anh, Đào Vân Khanh 10, Tương Phố... Đây là bài "Nhớ Ai?" trong thi tập "Khung Trời Kỷ Niệm":

                    Hồn đơn, tủi phận, nhớ thương ai?

                    Gió lạnh xuyên song, bóng nguyệt cài,

                    Sông nước đầu nguồn lờ lửng chảy,

                    Mây trời cuối nẻo lửng lờ bay.

                    Đêm sâu nhớ bướm, hoa còn thức,

                    Ngày cạn trông người, phấn nhạt phai.

                    Tuyết phủ vườn xuân, tim giá lạnh,

                    Dầm sương bốn bể đợi tương lai.

                    *

                    Dầm suơng bốn bể đợi tương lai,

                    Cánh nhạn trời xa mãi miệt mài.

                    Giấc bướm Trang Chu chưa thức tỉnh,

                    Hồn thơ Lý Bạch vẫn mê say.

                    Chập chùng mây khói mờ nhân ảnh,

                    Khúc khuỷu đường tình lạc bến nhai.

                    Héo hắt hoa tàn trôi viễn xứ,

                    Tương tư gầy guộc mảnh hình hài.

                    (trang 73)

                    Ở cái thế hệ của Hoàng Xyên Anh, thử hỏi có mấy ai làm thơ Đường luật vững vàng niêm luật như Hoàng Xuyên Anh?

                    o0o


                    Hoàng Xuyên Anh là một nhà thơ xắn từng mảnh tim của mình rải vào thơ. Chẳng những thế, chị còn vắt những dòng dự lệ sau bao mùa tang tóc cùng máu thắm của con tim mình để rưới chan hòa vào thơ. Tiếng thơ chị chân thành, phản ảnh nguyên vẹn cuộc sống tâm tình của chị. Chị không cần tìm kiếm một chân trời mới sáng rực thần trí sáng tạo cho thơ. Chị cần viết lên những câu thơ bằng sóng lòng lai láng cùng những rung cảm hồn nhiên của mình.

                    Chị cũng không cần chăm sóc lời thơ, không cần thêu thùa chạm trổ những câu thơ tinh xảo, cũng không cần nạm khảm những ngôn từ hoa lệ kiêu sa cho thơ. Trên bước đường hành hương đưa về thế giới thi ca, chị đi chậm rãi, ai hồ hào cổ vỏ cái đổi mới, cái trào lưu tiếp diễn không ngừng của thi ca thì mặc ai. Chị có một cõi thơ nguy nga và tráng lệ riêng, như một tòa thánh điện được kiến trúc đồ sộ dành cho một thánh nữ giữ ngôi vị chưởng môn coi sóc.


                    --------------------------------

                    1 Khổng Dương là nhà thơ tiền chiến, sinh quán ở quận Càn Long, tỉnh Trà Vinh. Xin xem tập biên khảo " Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến" của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng.

                    2 Truy Phong quê ở Trà Vinh là tác giả tập thơ "Nửa Thế Kỷ Một Vần Thơ", là giáo sư môn Việt văn của trường trung học tư thục Trần Trung Tiên.

                    3 Vũ Thi An người Vĩnh Bình, em họ của 3 nhà văn Nguyễn thị Thụy Vũ , Hồ Trường An, Trần Long Hồ, cháu của hai nhà thơ Mặc Khải và Phương Đài, chị dâu của nhà văn Ngô Nguyên Dũng. Đương sự đã cho xuất bản hai thi tập "Tình Quê Tình Thơ" và "Cuối Nẻo Đường Hạnh Phúc".

                    4 Tường Linh là nhà thơ gốc người Quảng Nam, tác giả những thi tập "Trăng Treo Đầu Súng", "Nghìn Khuya"...

                    5 Kiên Giang Hà Huy Hà gốc người tỉnh Rạch Giá, là nhà thơ kiêm soạn giả các tuồng hát cải lương. Ông có hai thi tập "Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím" và "Lúa Sạ Miền Nam". Về tuồng cải lương ông có các vở nổi tiếng như "Người Đẹp Bán Tơ", "Người Vợ Không Bao Giờ Cưới", "Tiếng Còi Trong Bão Tuyết"...

                    6 Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội gốc người tinh Hà Tiên, là tác giả các tác phẩm như sau: "Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp" (tiểu thuyết giả sử) ,"Dưới Mái Trăng Non" (tùy bút), "Gầy Hoa Cúc" (thi tập). Bà đoạt giải thi ca do nhóm Tự Lực Văn Đoan chủ trương qua thi tập "Phấn Huơng Rừng" vào năm 1939. Nhưng thi tập này không được xuất bản thành sách.

                    7 Bài thơ này, tác giả không có phân từng đoạn thơ riêng biệt (les strophes).

                    8 Tương Phố là nhà thơ nổi danh đầu thế kỷ 20. Bà có 2 tác phẩm "Giọt Lệ Thu" (văn xuôi lẫn văn vần) và "Mưa Gió Sông Tương" (thi tập).

                    9 Hai nữ sĩ Trần Ngọc Lầu và Trần Kim phụng là hai nhà thơ đất Nam Kỳ Lục Tinh, đồng thời với nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Nhà biên khảo Thái Bạch vào năm 1948 có viết quyển bút khảo về thi ca ái quốc của ba vị nữ lưu ấy. Sách có nhan đề là "Sương Nguyệt Anh, Trần Kim Phụng, Trần Ngọc Lầu".

                    10 Cụ bà Cao Ngoc Anh là tác giả thi tập "Khuê Sầu Thi Thảo". Cụ Bà Đào Vân Khanh là tác giả thi tập "Khúc NhànNgâm". Hai cụ được nữ sĩ Phương Lan đưa vào quyển bút khảo "Anh Thư Nước Việt".



                    Hết Chương 10 - Xem Tiếp Chương 11


                    sigpic

                    Comment


                    • #11
                      Quê Nam Một Cõi

                      Hồ Trường An

                      Chương Mười Một

                      Ngọc An, Thế Giới Thi Ca Trữ Tình
                      Trong Mùa Thu Diễm Ảo Của Cuộc Đời




                      Đối với đa số những kẻ bước vào tuổi trung niên thì quả thật khó làm một bài thơ tình mặn mà xúc cảm. Có lẽ những rung động của con tim trong tuổi hoa niên hay trong tuổi thanh xuân của họ bị rơi rụng ít nhiều trên những nẻo đường đời mà họ đã trải qua. Lại nữa, gánh mưu sinh hay gánh hệ lụy làm tâm hồn họ mất sự tươi mát, làm trái tim của họ chai lì không còn mẫn cảm nữa.

                      Song có một điều lạ lẫm: khi đọc một vài bài thơ của Ngọc An in trong "Tuyển Tập Thơ Mùa Tình Yêu" do cơ sở Cảo Thơm thực hiện vào mùa Xuân 2000, tôi ngạc nhiên một cách kỳ thú: Thơ chị vẫn ăm ắp rung động, vẫn dạt dào tình ý, vẫn bát ngát men hương nồng đượm say sưa.

                      Dường như chị sinh ra để làm loại thơ này Tuy không ướt sũng cảm tính như thơ tình yêu của của T.T.Kh, lại cũng không như loại thơ trữ tình rất dễ thương về phương diện nhân sinh quan của nữ sĩ Thu Hồng 1 thời tiền chiến, nhưng tình ý chân thành và đôn hậu trong thơ của chị cũng đã ghi nhiều dấu ấn đậm đà trong tâm hồn khách thưởng ngoạn không quá dễ dãi mà cũng không quá khó tánh.

                      Khuynh hướng thi ca, Ngọc An đã xác định ở bài "Màu Thời Gian" trong thi tập "Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng".


                      Người làm thơ để giải sầu thế sự,

                      Em làm thơ vắt cả máu tim mình.

                      Đem niềm đau từ thuở tuổi sơ sinh,

                      Gởi hết cả đời mình theo giấy mực.

                      *

                      Em đã viết với những điều rất thực,

                      Với ước mơ sâu kín của riêng mình.

                      Với tình yêu trong trắng thuở nguyên trinh,

                      Thuyền định mệnh đã vô tình đưa đẩy.

                      (trang 85)

                      Vào một buổi sáng chớm hạ, tôi nhận được một bưu kiện kết xù do Ngọc An gửi tặng gọi là món quà văn chương gồm có: 1 tuyển tập thơ văn "Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ" (1998), 2 thi tập "Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng" (1997), "Từ Miền Biển Sóng" (2000), 2 tuyển tập thơ văn gồm của nhiều tác giả trong đó có thơ của Ngọc An như "Hoa Vàng" (2003), "Nam Phong" (2005).

                      Và đặc biệt là tập thơ của Ngọc An được phổ nhạc. Mỗi một tác phẩm là một công trình rực rỡ về hình thức: ruột được trình bày khoáng đãng, sáng sủa và đầy hình ảnh văn gia thi sĩ ở Bắc California và hình ảnh những văn hữu thi hữu từ bốn phương trời xa xăm đến viếng Thung Lũng Hoa Vàng.

                      Còn bìa được tráng giấy láng bóng như vóc lãnh, vóc sa-teng và được trang hoàng bằng những tranh ảnh với màu sắc cực kỳ ngoạn mục. Nhìn những bìa sách, tôi có cảm tưởng màu sắc của trăm hồng nghìn tía lộng lẫy trong hoa viên ngự uyển nào về tụ họp để mở hội quần phương trong ánh thiều quang tươi sáng. Càng đặc biệt là quyển "Ngàn Năm Mây Trắng" (2002) gồm những bài thơ di cảo của cố thi sĩ Yên Bình, người bạn đồng tâm đồng điệu của Ngọc An và gồm thơ hoài niệm của chị cùng các bài thơ ai điếu của các tác giả khác.

                      Đọc qua tác phẩm này, tôi liên tưởng đến giai thoại đẹp đẽ và u buồn hồi 38 năm truớc. Số là thi sĩ Đông Hồ thất lộc vào năm 1969. Vợ của ông là nữ sĩ Mộng Tuyêt 2 gom hết di cảo của ông để cho in thành những quyển: "Úc Viên Thi Thoại", "Bội Lan Hành", "Hương Gây Mùi Nhớ", "Dòng Cổ Nguyệt", "Đăng Đàn", "Thiên Địa Gian"... Đó là những nén nhang tưởng niệm đấng truợng phu của bà quả phụ tài hoa kia.

                      Cũng vậy, sau khi nữ sĩ Louise de Vilmorin từ trần, cứ mỗi tuần người tình muôn thuở của bà là đại văn hào André Malraux vào nghĩa trang thăm mộ bà và đặt trên mộ một bó hoa hồng đỏ thằm gọi là kỷ niệm mối tình say đắm của cả hai có sợi dây văn chương nối kết...

                      Tôi chưa hề được diện kiến Ngọc An, chỉ được ngắm chân dung chị qua nhiều tấm ảnh, đặc biệt là 2 tấm ảnh in trên bìa trước và trên bìa sau quyển "Từ Miền Biển Sóng". Ở tấm ảnh in trên bìa trước, chị có mái tóc cắt ngắn chải bảy ba như mái tóc Nữ Thần Điện Ẳnh Greta Garbo vào thập niên 30 của Thế Kỷ 20. Chị mặc áo ngắn tay và chiếc maxi jupe màu đen đứng bên ghềnh đá ven biển gợn sóng màu xanh thẳm. Nét mặt chị buồn bã đăm chiêu. Ở tấm ảnh in trên bìa sau, chị có mái tóc rối rắm một cách nghệ thuật.

                      Chị mặc áo hở cổ màu đen nổi hình tròn màu lam ngọc, khoác bên ngoài chiếc áo veste màu đỏ của hoa phượng vỹ, hoa vông đồng. Cặp môi chị tô son màu hồng ngọc rực rỡ. Miệng chị vẫn khép kín nụ cười. Dưới đôi chân mày cong cong như viền trăng mỏng, cặp mắt của chị cũng lộ vẻ đằm chiêu, như chìm đắm vào giấc mộng xa xăm, như không còn liên hệ với thực tại trong cuộc sống.

                      Đây là chân dung của một nhà thơ nữ kiều diễm không tuổi tác và cũng có thể là người đẹp gợi hứng cho các thi nhân (une inspiratrice) như bà Récamier dưới triều đại Hoàng Đế Na-phá-luân Đệ Nhất . Vậy xin các bạn hãy đọc thơ tình yêu của Ngọc An để trong một giây phút nào đó, chúng ta có thể sống lại cái thời trẻ trung với trái tim mơn mởn tinh khôi. Đây bài "Giọt Nước Mắt Em" trong "Tuyển Tập Thơ Mùa Tình Yêu":

                      Em đã khóc... một chiều bên gối nhỏ

                      Mưa ngoài kia như nặng hạt ru mềm

                      Gió ngoài kia như cất tiếng ru đêm

                      Chia nỗi nhớ mây dâng sầu ảm đạm...

                      *

                      Em đã khóc... vòm trời nghiêng sắc xám

                      Bão điên cuồng như dừng bước phiêu du

                      Hoa Phong Lan thẹn mặt với sương mù

                      Sao Bắc Đẩu cũng sa dòng lệ nhỏ...

                      *

                      Em hãy khóc cho thành nghiêng quách đổ

                      Giọt sầu em là bão tố đời anh

                      Lệ em rơi là mầm mống xây thành

                      Cơn thác nổi trong tim anh từ đó

                      (trang 7)

                      Khi Em Hỏi

                      Rồi một hôm tình cờ anh đến hỏi

                      Em là ai, từ đâu đến nơi đây?

                      Và tìm hiểu về em thêm chút nữa,

                      Cuộc tình riêng ngang trái tự bao ngày.

                      *

                      Em vội vã gom hồng lên bếp lửa

                      Gọi tim về nhen nhúm chuyện ngày xưa

                      Ôi! Chóng quá thời gian trôi lặng lẽ

                      Hai mươi năm đau xót mấy cho vừa.

                      (trong thi tập "Tiếng Thơ Là

                      Những Đường Tơ Của Lòng", trang 111)

                      Lời thơ lẫn ý thơ sao mà sáng loáng như pha lê, trong vắt như dải suối mà kẻ vãn cảnh có thể nhìn suốt đáy để thấy những hòn cuội xinh xinh, những cụm rong mềm mại. Thơ của Ngọc An đơn giản, lưu loát, nhạc thơ êm như mộng, dịu như nhung. Ý thơ không thần bí, không ngoắc ngoéo, rối reng. Ngôn từ không kiêu sa, không nhiều ngữ pháp diêm dúa, không có những cụm từ (groupe de mots) phức tạp.

                      Có người sẽ bảo thơ như thế này không đặc sắc, như một tời giấy trắng, như một tấm lụa bạch trơn, cần phải vẽ, phải thêu một chút gì đó cho mặt giấy, mặt lụa thêm phần ý nhị, thêm phân sinh sắc hơn. Tôi thiết nghĩ không cần.

                      Cái đơn giản, cái trơn nhẳn của ngôn từ có thể làm hiển lộ cái chân tình và bộc lộ niềm tha thiết của tác giả hơn, nhất là ở những bài thơ lục bát, chẳng hạn như bài "Bâng Khuâng Nỗi Nhớ" trong thi tập "Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng". Đọc bài thơ này, chúng ta có thể liên tưởng đến giọng điệu trong thơ lục bát của nhà thơ nữ Hằng Phuơng 3 vào thời tiền chiến .

                      Bỗng dưng lòng cảm thấy buồn,

                      Nhớ quê, nhớ phố, nhớ nguồn, nhớ sông.

                      Nhớ trời phương cũ mênh mông,

                      Bao nhiêu kỷ niệm sầu chong ngọn đèn.

                      Nhớ bàn tay ấm thân quen,

                      Nhớ lần tiễn biệt bạn hiền năm xưa.

                      Sài Gòn sớm nắng chiều mưa,

                      Đường khuya phố nhỏ, chân khua nhịp buồn.

                      Chuyện đời ôm giấc cô miên,

                      Người đi còn lại ưu phiền trong tim.

                      Tháng ngày in dấu chân chim,

                      Buồn theo nỗi nhớ chìm vào hư không!

                      Mộng xưa chôn chặt trong lòng,

                      Người đi biền biệt vời trông bóng hình.

                      Đêm nay trời, nước lặng thinh,

                      Bâng khuâng nỗi nhớ riêng mình ai hay!

                      (trang 96)

                      Bài "Biển Vắng Thì Thầm" trong "Tuyển Tập Thơ Mùa Tình Yêu" vẫn là bài thơ tình yêu. Ở đây, tác giả không cần nhìn sâu vào nội giới và vào tình cảm của mình. Chị hiểu tâm tình mình bắng một trực giác kỳ diệu giữa khung cảnh giá lạnh bên bờ biển:

                      Biển vắng tiếng thì thầm

                      Cội thông già im lặng

                      Xa rồi... tình trăm năm

                      Còn đây bờ môi mặn...

                      *

                      Lá còn đâu ấp ủ

                      Cây mùa đông trơ cành

                      Biết tìm đâu người cũ

                      Giữa tinh cầu mong manh!

                      *

                      Vẫn giọt nắng thủy tinh

                      Xuôi thuyền xa bến đổ

                      Lữ khách vẫn vô tình

                      Đạp vỡ lá vàng khô...

                      *

                      Người con gái đợi chờ

                      Đã chín mùa đông phong

                      Chín mùa hoa mai nở

                      Xuân sắc nhạt môi hồng.

                      *

                      Còn gì nữa... người ơi!

                      Biển tương tư rã rời

                      Vết tình in trên cát

                      Sóng xô bờ cuốn trôi ...

                      (trang 8)

                      Qua các đoạn trích dẫn của hai bài thơ trên, chúng ta đã thấy gì trong thi ca của Ngọc An? Có phải thơ của chị đầy hình ảnh, được kiến trúc bằng những nét tạo hình hay không? Thơ mà thiếu hình ảnh, âm thanh, hương vị, hoặc những gì khơi dậy xúc giác, tình cảm chúng ta tức là thiếu những cái va chạm vào năm giác quan và cõi nội giới chúng ta thì chúng không còn là thơ nói riêng , không còn là văn chương nói chung.

                      Nữ tiến sĩ Helen Keller bị mù mắt, bị câm điếc từ thuở nhỏ, nhưng bà vẫn viết văn được. Dù thế giới màu sắc và hình ảnh cùng thế giới âm thanh đóng chặt cánh cửa đối với bà, tách rời bà với thế gian, xô dẩy bà vào cõi tối tăm im lặng suốt đời. Tuy nhiên, còn xúc giác của bà vẫn mở rộng để bà viết những bài tùy bút đẹp tuyệt vời khi bà sờ đến những cánh hồng êm dịu, những giò huệ mảnh mai, những lượn sóng lăn tăn mát rượi trong dòng suối.

                      Và còn khứu giác nữa chi. Mũi bà có thể tiếp nhận những mùi hương của cỏ cây, hoa lá, gió biển v.v... đem lại cho bà biết bao cảm hứng phong phú để bà viết văn. Như thế, xúc giác và khứu giác của bà chẳng những tạo cho bà trở thành một bậc vĩ nhân trong công cuộc tìm ra lẽ sống mầu nhiệm, mà còn giúp bà trở thành một hiện tượng rực rỡ trong lãnh vực văn chương.

                      Vậy thì những nhà thơ của chúng ta hãy còn tiếp xúc với thế giới màu sắc, hình dáng, âm nhạc, tiếng động, hương vị thì lẽ nào chúng ta chỉ biết sáng tác những câu thơ khô khan, chữ nghĩa vô vị vô hồn như cái thây ma khô đét, như gỗ đá vô tri hay sao? Thơ mà thiếu những cái va chạm vào giác quan người đọc là loại trái cây thiếu sinh tố, là thứ lá héo úa mất hết lục diệp tố.

                      Ở thơ Ngọc An, chúng ta thường bắt gặp những hình ảnh rất thơ, những nét tạo hình nhịp nhàng và hài hòa trong thiên nhiên: nào mưa rơi giọt mềm, bóng đêm đen, hoa phong lan, sao BắcĐẩu, nào cảnh biển vắng, cội thông già, cây mùa đông trụi lá, nào nắng thủy tinh, lối đi trải lá vàng khô, nào vết tình in trên cát, cuộn sống tràn trên cát... Như thế, ai mà dám bảo Ngọc An là thợ thơ? Ai mà dám bảo chị không tìm bắt được ngôn ngữ riêng biệt của thơ?

                      Xin đọc bài "Đêm Mơ" trong thi tập "Từ Miền Biển Sóng":

                      Hồn em là cả trời mơ mộng

                      Dẫu biết ngàn năm mây vẫn bay

                      Dâu bể trần ai trong cõi tạm

                      Vững lòng tin tưởng ở ngày mai.

                      *

                      Anh đến lòng em cơn bão dậy

                      Quỳnh tương em cạn chén tình say

                      Thiên thu mật ngọt như huyền thoại

                      Xao xuyến lòng này anh có hay?

                      *

                      Anh là ảo mộng giữa mùa đông

                      Nửa kiếp phù sinh vướng bận lòng

                      Gom cả tình anh vào giấc ngủ

                      Mơ thuyền cặp bến một dòng sông...

                      (trang 110)

                      Đây là hình ảnh nửa hư nửa thực, chập chờn phiêu diễu mà chúng ta thường gặp trong cõi thi ca thời tiền chiến. Chúng được Lưu Trọng Lư sử dụng để đưa thơ mình vào một cõi riêng biệt trong thi giới. Bài thơ này của Ngọc An dù không hoàn toàn ảnh hưởng thơ ông ta, nhưng được phản ảnh một vài mảnh vụn lấp lánh trong một vài câu rải rác ở đâu đó. Cũng như nhà thơ họ Lưu, chị đưa bài thơ này vào cõi mộng cơn say trong cuộc tình của mình.

                      Xin đọc thêm bài "Tâm Sự Với Xuân 2000" trong thi tập "Từ Miền Biển Sóng" :

                      Nắng đã hồng thêm con phố lạnh

                      Lung linh từng đợt gió heo may

                      Mình ta lạc bước khung trời vắng

                      Xác lá bên đường lất phất bay...

                      *

                      Xác lá như hồn thu vấn vương

                      Chiêm bao mộng mị cõi vô thường

                      Bóng dài nghiêng đổ trên hè lạ

                      Chỉ một mình ta giữa phố phường!

                      *

                      Nắng đã lui dần vào cõi tịch

                      Trả nhân gian màu xám âm u

                      Bàn tay níu vội thời gian lại

                      Chân bước mà nghe sóng dập vùi...

                      *

                      Biển ở quê hương biển có hay

                      Từng cơn xao động trái tim này

                      Lòng thuyền muôn thuở không dời đổi

                      Chia sớt cùng ta chút đắng cay!

                      (trang 47)

                      o0o


                      Cuộc tình nào nếu không có nụ cười thì cũng có giọt nước mắt. Nụ cười là nguyên nhân tạo nên những bài Nhạc Thiều Ca (les Hymnes). Còn giọt nước mắt khơi thần trí sáng tạo của thi nhân để hình thành những bản Trữ Tình Ca (les Odes).

                      Toàn bộ thi ca của Ngọc An không thiếu Trử Tình Ca đâu. Chị yêu say đắm như trôi lênh đênh trong men rượu nồng ngát say sưa để rồi quên thực tại, quên bóng tối dĩ vãng sau lưng, quên viễn ảnh tương lai cuối chân trời xa thẳm trước mắt. Xin đọc bài "Sóng Tình" trong thi tập "Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng":

                      Một sớm mai thức dậy

                      Không giống như mọi ngày

                      Hoa nở rộ trong tim

                      Hoa cưòi trong ánh mắt

                      *

                      Ta yêu anh thật rồi

                      Bởi lòng ta se sắt

                      Nhớ người yêu xa xôi

                      Để ta mòn mỏi đợi

                      *

                      Ngày đầu mới gặp nhau

                      Ngỡ như trong tiền kiếp

                      Quen nhau tự thuở nào

                      Thương nhau tình thắm thiết!

                      (trang 113)

                      Giọt lệ không tạo cho Ngọc An sáng tác những khúc bi ca (les poèmes saturniens). Bi ca vốn là loại thơ để tác giả nhìn sâu vào đời sống, vào các tấn bi kịch trong cuộc đời. Chúng ta hãy đọc bài thơ "La Déesse du Soleil Couchant" ("Nữ Thần Tà Dương") của nữ sĩ Renée Vivien. Bài thơ này tả cái đẹp chết chóc với sắc thái cường điệu. Đây là bài bi ca đúng hơn bài trữ tình.

                      Tóc em giống lá thu

                      Hỡi Nữ thần của chiều hôm, của những phế tích, của buổi tối

                      Máu buổi hoàng hôn là màu đỏ của mủ triều thiên của em

                      Em chọn vùng đầm lầy tù đọng làm tấm gương soi.

                      *

                      Mùi hoa huệ héo tàn và mùi cành cây ung thối

                      Bốc hơi từ tấm áo với những làn xếp biếng trễ của em; đôi mắt em

                      Theo dõi một cách uể oải những cơn mơ mộng xanh xao

                      Trong giọng nói hãy còn vọng tiếng thổn thức của những cuộc vĩnh biệt 4.

                      Giọt lệ chỉ khơi dậy cho Ngọc An nỗi buồn cô quạnh, những bài ca trữ tình. Xin đọc bài "Hải Âu" trong thi tập "Từ Miển Biển Sóng".

                      Tản mác về đâu những áng thơ

                      Thời gian như huyệt lạnh sương mờ

                      Cố tâm nung nấu trong tiềm thức

                      Gợi nhớ riêng mình một ước mơ...

                      *

                      Ước mơ một kiếp là chim biển

                      Tung cánh Hải Âu khắp mọi miền

                      Côn đảo xa vời, đồng cát mịn

                      Chẳng nghe tâm não nặng ưu phiền.

                      *

                      Em sẽ đùa trăng trong bóng đêm

                      Rong chơi mỗi buổi nắng chiều lên

                      Dang tay ôm cả khung trời rộng

                      Nghe gió vi vu tiếng gọi thầm

                      *

                      Người yêu bé nhỏ của ta ơi!

                      Ta nhớ thương em suốt một đời

                      Dù kẻ chân mây người góc biển

                      Thuyền tình mang mãi chẳng hề vơi.

                      *

                      Em ước em là chim Hải Âu

                      Bao la tung cánh giữa ưu sầu

                      Cơ duyên tao ngộ người yêu cũ

                      Anh hỡi... bây giờ anh ở đâu ?

                      (các trang 106, 107)

                      Vết thương trong tim tác giả không nhức nhối lan rộng, nhưng mà sâu sắc dằng dai. Nhà thơ than vãn nhưng không rên rĩ, gào thét. Chị biết tiết chế tình cảm khi đối diện với cuộc tình đã mất, với niềm hạnh phúc đã phôi pha. Thơ như thế mới gây xao xuyến rất lâu trong lòng người đọc. Đây là bài "Tình Biển" cũng trong thi tập "Từ Miền Biển Sóng".

                      Hỏi lòng đã thấy đủ chưa ?

                      Ba mươi năm chẵn có thừa đắng cay

                      Chữ tình vượt khỏi tầm tay

                      Xuân xanh theo với tháng ngày rong rêu

                      Bụi tình bám vết chân kiêu

                      Nụ hôn gửi gió một chiều thu sang

                      Biển tương tư, biển ngỡ ngàng

                      Để thuyền tách bến lỡ làng duyên nhau

                      Thuyền đi đâu, thuyền về đâu?

                      Biển sâu lặng lẽ niềm đau mong chờ

                      Biển hờn biển giận vu vơ

                      Đẩy cơn sóng dữ xa bờ cát trôi

                      Biển bao la, biển ngậm ngùi

                      Chỉ thuyền mới biết một đời biển đau

                      Thuyền lênh đênh giữa biển sầu

                      Đêm đêm biển hát ngàn câu vỗ về

                      Ai đi xin nhớ lời thề

                      Một thời gặp gỡ đam mê nửa vời

                      Gởi theo sóng nước trùng khơi

                      Tình yêu nồng thắm bên trời ly hương.

                      (trang 64)

                      Sau đây là bài "Xuân Lẻ Bạn" khóc người tình thiên cổ trong thi tập "Ngàn Năm Mây Trắng". Nhà thơ không thắp nén nhang trên bàn thờ hay trước mộ người quá cố mà chỉ thắp nén tâm hương trong nỗi hoài niệm thiết tha của mình .

                      Ở đây, nhà thơ cố mường tượng cái thế giới bên kia cõi sống mà vong linh của người bạn lòng của mình đang lạc lõng trong đó. Bài thơ không vang vọng tiếng nức nở huyên náo, tiếng sụt sùi bi ai. Đó chỉ là những giòng lệ âm thầm trong cõi tịch liêu của một góc đời sâu kín:

                      Người ở đó bên kia vùng đất lạ

                      Có đón chờ mùa xuân đến hay không?

                      Có giai nhân má thắm với môi hồng

                      Để ấp ủ tình quân đêm giá lạnh.

                      Người ở đó một thiên đường bất hạnh

                      Lặng lẽ buồn biết than thở cùng ai

                      Đón xuân sang nơi thế giới lạc loài

                      Ru điệp khúc cùng sương khuya tẻ nhạt

                      Người ở đó côn trùng vang khúc hát

                      Điệu bi ai trong cõi sống vô thường

                      Để xuân này lòng mang nặng sầu thương

                      Xuân lẻ bạn, người ơi... người có hiểu???

                      (trang 99)

                      o0o


                      Ngọc An không chỉ thu hẹp thơ của mình vào tình yêu đôi lứa dù trong thứ tình yêu ấy, chị quẫy lộn như con lý ngư gặp nước trong mát của đầm sâu ao rộng, như chim én nhào lộn trong bầu trời cao rộng tràn ngập nắng xuân tươi. Tuy nhiên, tình yêu của chị lại thăng hoa lên một cung bậc cao hơn, lan rộng trong một lãnh vực có ý nghĩa đẹp hơn hay trong một không gian bao la hơn. Đó là tình yêu hướng về mẹ cha, tổ quốc, chính nghĩa.

                      Đó cũng là tiếng thơ thời đại mà những nhà thơ vong gia khứ quốc nào một khi định cư trên một đất nước mới cũng xem như là một sứ mạng, một điểm tựa tinh thần để khơi nguồn cảm hứng đang tràn ngập tâm hồn của mình. Ngọc An đâu thể chỉ yêu đương sa đà, đâu thể chỉ đắm đuối trong nỗi đam mê thần tượng tình yêu đôi lứa của mình.

                      Dù sao khi tìm cách dung thân trên đất nước mới, vết thuơng lòng của chị và vết thương tổ quốc chưa hẳn lành lặn. Ác mộng thời chiến tranh để chống Cộng cứu nước và ác mộng trong những ngày sông dưới chế độ Cộng Sản làm sao hết ám ảnh chị được? Cho nên tâm sự u hoài của Ngọc An được ký thác vào thi tập "Ngàn Năm Mây Trắng".

                      Khởi đầu những bài thơ nhớ nước thương nhà là những bài thơ tìm về dĩ vãng gồm có thời hoa niên và tuổi thanh xuân của Ngọc An. Khoảng thời gian ấy được các thi nhân, văn gia dùng rất nhiều sáo ngữ thời đại nào là tuổi hoa, tuổi hồng, tuổi ngọc, tuổi ô mai, thuở dậy thì v.v...

                      Nhưng giờ đây độc giả kiều bào đã vào tuổi trung niên, đã thu mình vào mùa thu cuộc đời trên đất khách rồi thì chẳng những họ không thấy những ngôn từ ấy rổng sáo nữa ; mà trái lại chúng trở nên thân thuơng đối với tấm lòng hoài niệm của họ. Chúng gợi nên một chặng đời mộng ảo mơ hoa vô cùng kỳ thú của mình.

                      Chiều trở lại trên con đường tuổi ngọc

                      Tôi quay về một dĩ vãng mờ xa

                      Hình ảnh ngôi trường, tà áo thướt tha

                      Hàng phượng đỏ ven đường tươi nắng ấm...

                      *

                      Trong hoài niệm hiện về từ xa thẳm

                      Của một thời thơ dại sống hồn nhiên

                      Bên thầy cô, sách vở, lũ bạn hiền

                      Tôi có cả mưa xuân và nắng hạ...

                      ("Một Dĩ Vãng", trang 163)

                      Đường về kỷ niệm đâu phải chỉ ngừng lại ở ngôi trường lớp học mà ở quê hương của tác giả. Đó là Vũng Tàu, một thành phố du lịch danh tiếng, một thị trấn hoa lệ bên bờ Nam Hải của đất nước Nam Kỳ Lục Tỉnh. Không gian nơi đó bao la khoáng đạt dễ mở rộng nội giới những kẻ mang sẵn nòi thơ, đưa cảm khái bát ngát và cảm hứng lai láng vào tâm hồn họ.

                      Vũng Tàu biển sóng vây quanh

                      Em về tìm lại ngày xanh tuổi hồng

                      Bao nhiêu năm cuộc phiêu bồng

                      Quê hương vời vợi đau lòng đỗ quyên

                      *

                      Rì rào gió cát hàn huyên

                      Từ em cất bước truân chuyên dập dồn

                      Rặng dừa rũ bóng hoài mong

                      Mà người đi mãi cánh hồng bay xa...

                      *

                      Thôi đành dấu mộng hải hà

                      Thuyền neo bến đợi trăng tà quạnh hiu

                      Bao nhiêu hạnh phúc chắt chiu

                      Đào Nguyên một thuở Nguyễn Lưu lạc đường!

                      *

                      Ai về gối mộng tơ vương

                      Ai đi biền biệt một phương ngóng chờ

                      Con đường kỷ niệm ngẩn ngơ

                      Tương lai, hiện tại, thẫn thờ... chiêm bao...

                      ("Biển Nhớ", trang 146)

                      Từ niềm nhớ thương cố hương Vũng Tàu, tâm hồn tác giả bay xa hơn để đến những địa danh mà chị đã đến viếng thăm hay chỉ biết qua sách vở hay qua lời đồn đãi. Nhưng dù thì dù, tất cả địa danh ấy đều nằm trong non sông tổ quốc chúng ta mà nơi xứ lạ quê người tác giả luôn ấp ủ một niềm thương mến luôn tươi thắm đậm đà .

                      Sáng hôm nay nghe gió về lành lạnh

                      Thu đã chuyển mùa, anh có biết không?

                      Mây lang thang, hồn trĩu nặng nhớ mong

                      Nắng dìu dịu, lòng em buồn man mác...

                      *

                      Em bỗng nhớ mùa Thu xưa Đà Lạt

                      Mây Lam Viên mờ ảo phủ rừng thông

                      Mi-mô-sa từng hạt lệ rưng rưng

                      Bên hồ biếc, xôn xao cơn sóng gợn.

                      *

                      Em chưa có mùa Thu sông Hương núi Ngự

                      Huế mơ màng ôm cung điện nghìn xưa

                      Huế của ai... sao nhiều nắng lắm mưa

                      Em ao ước được một lần hạnh ngộ!

                      *

                      Em nghe nói: trời mùa Thu Hà Nội

                      Heo may về từng đợt gió buồn hiu

                      Lá vàng rơi trên đường phố cô liêu

                      Hồ Lãng Bạc, dấu tích xưa huyền sử...

                      *

                      Thế là đã hơn mười Thu cô lữ

                      Lá quê người sắc vàng đỏ mênh mang

                      Nhưng trong em, bao kỷ niệm úa vàng

                      Niềm cố quốc... quê hương xa vời vợi...

                      *

                      Anh biết đó, em vẫn hằng mong đợi

                      Một mùa Thu... ta nhặt lá vàng rơi!

                      ("Dấu Chân Thu", trang 145)

                      Dù Đà Lạt có đôi lần tác giả thăm viếng, dù Huế và Hà Nội có nhiều lần chị mơ tưởng, nhưng đó là những hình bóng xa xăm hay những hình bóng trong cõi mường tượng mà thôi. Tuy nhiên, mấy nhịp cầu tre, mấy nhánh sông trên mảnh đất miền phù sa Sông Cửu vẫn là những hình ảnh gần gũi với tâm tình chị hơn.

                      Dù là những hình ảnh tầm thuờng, nhưng vẫn ghi biết bao dấu ấn kỷ niệm yêu dấu và nhất là hình ảnh song thân của chị trong trái tim của chị. Chị nhân cách hóa con sông cái như người mẹ hiền (sông Mẹ). Còn những nhánh sông phụ lưu, chi lưu là đàn con. Tuy nhiên, tác giả còn ví những dòng sông (sông cái lẫn rạch con) là những dòng sữa của Đất Mẹ nuôi dưỡng những đứa con của Tổ Quốc thân yêu nữa.

                      Một bài thơ mà hàm chứa nhiều ẩn dụ lớn lao như vậy vẫn là một bài thơ sản sinh từ thần trí sáng tạo tuyệt vời. Nhưng những nhịp cầu tre thì tượng trưng cho cái gì đây? Tác giả dù không nói ra, nhưng chị đã mở cho chúng ta những dòng liên tưởng đến những niềm cảm thông nối liền những tâm hồn hòa hợp và đồng điệu với nhau, những niềm gắn bó da diết giữa những tình người đồng chủng đồng hương với nhau. Xin đọc "Mấy Nhịp Cầu Tre Mấy Nhánh Sông" trong thi tập "Từ Miền Biển Sóng" :

                      Có ai còn nhớ dòng sông Mẹ

                      Sinh trưởng đàn con nay lớn khôn

                      Chắp cánh đoạn trường nơi đất lạ

                      Quê nhà Mẹ khóc tạ dòng sông...

                      *

                      Ra đi con Mẹ có vui gì

                      Giọt lệ tuôn tràn phút biệt ly

                      Đau xót nghẹn ngào chân bước vội

                      Âm vang nhạc khúc biệt kinh kỳ...

                      *

                      Mấy nhịp cầu tre mấy nhánh sông

                      Như dòng sữa ngọt Mẹ nuôi con

                      Nặng tình sông núi bao xa cách

                      Thao thức từng đêm nát cõi lòng!

                      *

                      Nửa mảnh trăng buồn như vấn vương

                      Chim Quyên khóc bạn buổi lên đường

                      Dòng sông tức tưởi đau lòng nước

                      Mấy nhịp tình sầu biệt cố hương...

                      (trang26)

                      Ở các đoạn sau của bài thơ "Mấy Nhịp Cầu Tre Mấy Nhánh Sông" hình như tác giả không chỉ tự than vãn hoàn cảnh bất lực của mình vì chị nghĩ rằng mình không làm được cái gì cho quê hương trong cảnh quốc phá gia vong. Hình như chị nhắn nhủ những người cựu chiến binh, những kẻ nuôi bền lửa thiêng ái quốc hãy góp tay góp sức vào đại cuộc. Xin đọc tiếp:

                      Phong sương đã nhuộm trôi màu tóc

                      Tuyết lạnh trời Tây bạc mắt môi

                      Ý chí quật cuờng không thể mất

                      Nhưng... cao niên kề một bên rồi!

                      *

                      Còn đâu anh dũng hiên ngang ấy

                      Góp mặt sa trường lướt gió mây

                      Vượt sóng trùng dương cơn bão tố

                      Còn đây... những dòng lệ đêm ngày !

                      *

                      Thôi rồi một mảnh tàn y

                      Súng gươm trả lại, oai nghi trao người

                      Hai lăm năm, chẳng nụ cười

                      Hồn thiêng sông núi, đất trời chứng minh

                      Đàn con vì kế mưu sinh

                      Vì hờn non nước điêu linh một thời

                      Ra đi góp gió phương trời

                      Mong ngày trở lại rạng ngời quê hương

                      Hai lăm năm, khóc đoạn trường

                      Mộng cao chí cả như sương dật dờ

                      Gửi hồn vào những vần thơ

                      Niềm riêng canh cánh đợi chờ bình minh

                      Soi gương chợt thấy bóng hình

                      Da nhăn tóc bạc giật mình Mẹ ơi...

                      (trang 27)

                      Nỗi niềm nhớ nước nhớ quê có thể hiện diện qua địa danh, hình ảnh trong bài thơ "GiòngTâm Sự Nhỏ" trong thi tập "Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng". Tâm sự hoài hương vẫn là tâm sự chung cho kiều bào. Nó tầm thường, phổ thông, nhưng mà nó gìn vàng giữ ngọc cho những con người còn thương tưởng tới cố quốc, không vì bã lợi danh ở hải ngoại mà mất gốc mất rễ.

                      Bài thơ hoài hương càng có nhiều hình ảnh quê hương càng chứng tỏ tâm tình hoài vọng của tác giả càng tha thiết, càng thắm đượm và thâm thúy biết ngần nào! Niềm yêu quê làm cho tác giả thấy địa danh nào cũng đẹp, hình ảnh nào cũng nên thơ cả. Chị cố tình gọt sạch gai góc của xã hội phiền phức tại các địa danh ấy, chỉ giữ lại cái gì có khía cạnh tích cực và tốt đẹp trong tâm khảm của mình mà thôi.

                      Quê ta đó phía bên kia bờ biển,

                      Thái bình dương nay xa cách nghìn trùng

                      Ôi! Vũng Tàu nỗi nhớ thật mênh mông,

                      Những thành phố, đồng bằng và sông núi...

                      *

                      Ta ra đi với bao niềm hờn tủi,

                      Bởi quê hương đang nặng dưới gông xiềng.

                      Và Tự Do tiếng gọi quá thiêng liêng,

                      Mang ta tới nơi chân trời xa lạ.

                      *

                      Mảnh hành lý đầy thương yêu nỗi nhớ

                      Người ra đi tung đôi cánh thênh thang.

                      Bỏ lại sau lưng những lũy tre làng,

                      Con phố cũ, đường trơn màu đất đỏ.

                      *

                      Nhớ Đà Nẳng, Nha Trang chiều lộng gió,

                      Huế Cố Đô với thành quách rêu phong

                      Đà Lạt mờ sương che phủ đồi thông,

                      Cần Thơ đó, bến Ninh Kiều sóng gợn.

                      *

                      Phố biển Vũng Tàu, một thời mới lớn,

                      Dấu chân xưa trên cát có còn chăng?

                      Những giòng sông êm ả tắm màu trăng,

                      Con đò nhỏ khua chèo trên bến cạn.

                      *

                      Và tất cả nhạt nhòa trong ánh sáng,

                      Hòn Ngọc Viễn Đông sắc thắm Sài Gòn

                      Thủ đô một thời tình nghĩa sắt son,

                      Bao chiến sĩ vì quê hương nằm xuống.

                      *

                      Ta nhớ rõ như in trong tâm tưởng,

                      Những con đường, dãy phố, những dòng sông.

                      Những cái tên quen thuộc đến nằm lòng,

                      Từ Bình Triệu chạy dài vô Chợ Lớn.

                      *

                      Dinh Độc Lập, nhà thờ Đức Bà, Bưu Điện,

                      Chợ Bến Thành, Cầu Muối, chợ Bình Tây...

                      ChùaVĩnh Nghiêm vươn tháp nhọn, ai xây?

                      Lăng Ông đó, những mùa xuân hái lộc!

                      *

                      Bao thương nhớ lòng ta thêm thổn thức,

                      Những dấu yêu, kỷ niệm một thời xa.

                      Việt Nam ơi! Hỡi đất tổ quê nhà,

                      Xin trang trọng gửi giòng tâm sự nhỏ.

                      (các trang37, 38, 39)

                      Tổ quốc giang sơn là một vấn đề to rộng. Chúng ta yêu nó qua hồn thiêng Mẹ Tổ Quốc, qua anh linh các đấng tiền nhân đã đành. Nhưng cái ràng buộc chúng ta ngoài mảnh đất cố hương còn có gia đình chúng ta. Hai đấng sinh thành của chúng ta mới là hai mãnh lực mầu nhiệm để chúng ta gắn bó với cố quốc.

                      Cũng như bao nhiêu nhà thơ nữ nặng óc gia đình khác, cũng như bao nhiêu đứa con thương mến mẹ cha mà phải chịu cảnh lạc loài khác, Ngọc An vẫn không quên song thân của mình dù ở một phương trời hải ngoại chị bận bịu với cuộc muu sinh phức tạp để đạt thành quả tốt đẹp đi nữa.

                      Có tình yêu thương sâu sắc đối với cha mẹ, chị mới vững chải bước vào đời, mới giữ niềm tin yêu trong cuộc sống. Có tình yêu thắm đượm của người tình anh dũng, tâm hồn chị mới tràn ngập hoài cảm, ngòi bút chị mới nở hoa.Trong những tác phẩm thi ca của Ngọc An, hình cha bóng mẹ hiện diện rất nhiều.

                      Mẹ cha chẳng những đã khơi nguồn cảm hứng tràn trề cho thơ chị mà còn là một ám ảnh không nguôi đối với chị. Cho nên trong thơ, khi chị viết chữ Cha hay chữ Mẹ thì hai chữ đầu (chữ C và chữ M) đều là chữ hoa.

                      Bài thơ "Hãy Vì Tôi" trong thi tập "Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ"nói lên niềm hoài vọng của tác giả đối với nghiêm phụ của mình, trong bài có hai đoạn nhắc tới từ mẫu của mình. Ý thơ đơn giản, tình thương yêu của chị đối với song thân chị bao giờ cũng đơn giản, cũng hồn nhiên, nhưng rất nồng đượm, rất chân thành. Bài thơ của kẻ nào đó dù có vụng về thô tháp cách mấy, nhưng bản chất chân thành của nó vẫn đưa thơ đi sâu vào tâm hồn độc giả một cách dễ dàng, trơn ngọt :

                      Nếu có dịp ghé qua vùng biển mặn

                      Hãy vì tôi, xin đôi phút dừng chân

                      Thăm dùm Cha tôi, tuổi sắp cửu tuần

                      Thăm dùm Mẹ, mộ phần nơi hoang lạnh...

                      *

                      Cha của tôi... tóc phủ màu sương trắng

                      Một thân gầy lặng lẽ sống cô liêu

                      Vì non sông người vẫn chắt chiu

                      Ôm hoài bão dẫu da mồi tóc bạc !

                      *

                      Đường đấu tranh trên nẻo đời luân lạc

                      Bước công danh sáng tỏ một phương trời

                      Bao đêm rồi con thao thức Cha ơi !

                      Mong tuổi thọ của Cha dài thêm nữa...

                      *

                      Người hãy vì tôi nhóm lên bếp lửa

                      Nấu nước pha trà đôi chén mời Cha

                      Con gái không về trong dạ xót xa

                      Ngụm trà nóng cho lòng Cha ấm lại!

                      *

                      Đồng cát trắng đã từng đêm khắc khoải

                      Ôm nỗi sầu, Mẹ hát khúc thiên thu

                      Mẹ đã về trong thế giới hoang vu

                      Con xa vắng để mộ phần lạnh lẽo...

                      *

                      Tha thứ cho con đường xa vạn nẻo

                      Giải Ngân Hà cách trở tháng ngày qua

                      Hãy vì tôi, vì tình bạn chúng ta

                      Đốt hộ tôi những tuần nhang trên mộ!

                      *

                      Hồn mẹ tôi sẽ linh thiêng phù hộ

                      Hương nhang thơm quyện đến cõi trời Tây

                      Cho chúng ta duyên tao ngộ một ngày

                      Trên đất khách pháo hoa bừng nở rộ...

                      (các trang 70, 71)

                      Nhưng rồi cha tác giả cũng chết theo người bạn trăm năm của mình. Đó là vào tháng sáu, nhưng tác giả không nói rõ năm nào, tháng sáu dương lịch hay tháng sáu âm lịch? Nhưng chắc chắn lúc đó trên đất nước Miền Nam Việt Nam, mùa mưa dầm đã vào sâu.

                      Nhưng cũng tháng sáu ấy, cũng không rõ vào năm nào, người tình chiến sĩ của chị đã vùi thân vào lòng đất lạnh. Hai cái tháng sáu thống khổ đã ghi vào cõi hoài niệm nhà thơ nữ Ngọc An, nên chị chiêu niệm anh linh họ về trong phút hồi tưởng bi thương của chị.

                      Xin đọc bài "Tháng Sáu Ta Buồn Tim Tái Tê" trong thi tập "Từ Mièn Biển Sóng".

                      Năm nào tháng sáu ta rong chơi

                      Ánh nắng chiều nghiêng dưới mặt trời

                      Đuổi bướm vờn quanh hàng dậu tím

                      Thả diều theo ngọn gió chơi vơi...

                      *

                      Lần lữa bao mùa Xuân nở hoa

                      Mấy đông trở giấc đọng sương pha

                      Thả trôi mơ mộng vào hư ảo

                      Ôm chuỗi ngày buồn lẫn xót xa!

                      *

                      Tháng sáu nào mưa bão ngút ngàn

                      Tiễn người chiến sĩ vượt quan san

                      Đưa người yêu mến vào lòng đất

                      Ta đã một thời lệ chứa chan...

                      *

                      Tháng sáu này ta đếm tủi hờn

                      Cha vào huyệt lạnh với cô đơn

                      Hôm nào bên cửa Cha còn đứng

                      Vẫy vẫy tay chào để tiễn con!

                      *

                      Tháng sáu con buồn tim tái tê

                      Còn đâu Cha đứng đón con về

                      Âm dương cách biệt rồi Cha nhỉ?

                      Vĩnh viễn ôm sầu trong giấc mê...

                      *

                      Con thấy Cha từ trong bóng đêm

                      Bạc phơ mái tóc, ngủ êm đềm

                      Giấc ngủ ngàn năm không trở dậy

                      Cho con chua xót nghẹn ngào thêm!

                      *

                      Từ đây cho đến cuối đời con

                      Một bóng đơn côi giữa xứ người

                      Con khóc khi đời dâng bão tố

                      Con cười... nhưng giọt lệ đầy vơi...

                      (các trang 33, 34)

                      Trót yêu quê hương khốn khó, trót không thể cho tâm tình hòa điệu với cuộc sống trên xứ sở định cư, dĩ nhiên những nhà thơ luôn mơ một ngày về vinh quang khi đất nước dựng lại ngọn cờ xưa. Nhưng giấc mơ ấy, họ thầm biết chỉ mãi mãi là giấc mơ.

                      Và dù ngọn cờ xưa có tìm lại trên cố quốc chăng nữa, nhưng chắc gì họ còn sống sót để trở về nhìn lại nó vẫy lộng trong bầu mây tạnh trời trong. Song họ vẫn tiếp tục mơ. Tâm trạng đó là tâm trạng chung của kiều bào nặng tình nghĩa, trong đó có tâm trạng của nhà thơ nữ Ngọc An. Xin đọc bài thơ "Sẽ Có Ngày" trong thi tập "Từ Miền Biển Sóng":

                      Sẽ có một ngày ta trở lại

                      Núi sông hùng vĩ mượt màu xanh

                      Giòng thác reo vui mừng khách lạ

                      Hoa Xuân đua nở rộ trên cành

                      *

                      Sẽ có một ngày tay siết tay

                      Mừng mừng tủi tủi rượu, thơ, say

                      Tàn đêm thức trắng niềm tâm sự

                      Thân phận ly hương những tháng ngày !

                      *

                      Sẽ có một ngày ta với ta

                      Đồi cao vang dậy khúc hoan ca

                      Chim muông cầm thú cùng vui hót

                      Chào đón mùa xuân đẹp thái hòa...

                      *

                      Sẽ có một ngày bao chiến binh

                      Trở về đất Mẹ giữa bình minh

                      Thuyền xưa bến cũ dang tay đợi

                      Lệ đá rưng rưng khóc chuyện tình...

                      *

                      Chuyện tình của những kẻ ly hương

                      Quên mất mùa Xuân chốn dặm trường

                      Bỏ ngõ tim hồng nơi xứ lạnh

                      Nhìn nhau bỡ ngỡ, tóc pha sương!

                      *

                      Sẽ có một ngày con của Mẹ

                      Tìm về giòng máu chảy trong tim

                      Thiết tha nguồn cội bao ngăn cách

                      Dựng lại non sông kiến thái bình...

                      (trang 23)

                      o0o


                      Trong cõi thi ca, nữ sĩ Ngọc An có hai khuôn mặt: khuôn mặt của một người tình nhu mì âu yếm thường tâm sự với người yêu của bằng lời mềm mỏng, gắn bó. Đó là những lời thoát thai từ tấm lòng tha thiết và bền sắt tươi son. Khi hạnh phúc, chị không reo vang tưng bừng tở mở, không ba hoa với ngọn trào lòng lai láng của mình.

                      Khi đau khổ, chị không bù lu bù loa, tru tréo như Nguyễn thị Hoàng, không dảy đành đạch như Túy Hồng, không khinh bạc kiêu kỳ như Linh Bảo (bên văn xuôi). Chị chỉ than thỉ một cách dịu dàng. Tiếng thở dài của chị mỏng nhẹ, ngắn ngủi, nhưng dễ thấm sâu vào lòng người.

                      Khuôn mặt thứ hai của chị trong thi ca là khuôn của một người phụ nữ gắn bó với tổ quốc quê hương và chính nghĩa. Chị không nguyền rủa, không đả kích trắng trợn chế độ đương thời ở quê nhà, không hằn học với những kẻ làm đất nước điêu đứng lầm than.

                      Chị vẫn giữ thái độ điềm đạm rất thục nữ và rất thùy mị khi viết những bài thơ cho quê hương, cho những người vị quốc vong thân, cho những kẻ gánh vác hệ lụy sau cuôc đổi đời trên đất nước.

                      Sáng tác thơ chị không cần gò gẫm, cứ để cho mạch thơ tuôn tràn lưu loát như chất mật ong ngọt ngào rót vào chén sứ mỏng tanh. Chị không gọt tỉa trau chuốt ngôn từ một cách tỉ mỉ như người sành điệu gọt tỉa củ thủy tiên thành hình trân cầm thụy thú trong dịp Tết.

                      Chị cũng không cần thoa son đánh phấn cho ngôn từ, không cần chạm trổ những ngữ pháp tân kỳ. Có vậy tình cảm trong thơ được hồn nhiên chân thực. Bởi đó chúng ta không lấy làm lạ tại sao thơ chị thật truyền cảm.



                      --------------------------------


                      1 Thu Hồng là nhà thơ nữ thời tiền chiến, vốn là một tôn nữ đất Thần Kinh. Bà là tác giả thi tập "Sóng Thơ". Bà mất tích trong thời chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh. Sau đây là đoạn thơ tiêu biểu của bà trong thi tập "Sóng Lòng" :

                      Mầm chán nản chớ len vào niên thiếu
                      Chớ len vào sớm quá tội em mà!
                      Em như nghe thời ấy vẫn còn xa,
                      Em chậm chậm để mong còn xa mãi;
                      Hãy là hoa, xin khoan là trái,
                      Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua.

                      2 Mộng Tuyết là nhà thơ nữ đất Hà Tiên, là vợ của thi sĩ Đông Hồ. Bà đoạt giải văn chương do nhóm Tự Lực Văn Đoàn chủ trương vào năm 1939 qua thi tập "Phấn Hương Rừng". Vào năm 1960, bà cho xuất quyển tiểu thuyết "Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp" qua bút hiệu Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội. Vào năm 1972, bà cho xuất bản thêm thi tập "Gầy Hoa Cúc".

                      3 Hằng Phương là con gái nhà chí sĩ Sở Cuồng Lê Dư và là vợ phê bình gia Vũ Ngọc Phan. Bà cùng 3 nữ sĩ Vân Đài, Mộng Tuyết và Anh Thơ cho xuất bản chung quyển hợp tuyển thi ca "Hương Xuân". Vào thời tiền chiến, các nhà thơ nữ như Hằng Phương, Vân Đài, Mộng Tuyết, Anh Thơ, được Hoài Thanh và Hoài Chân đưa vào quyển biên khảo "Thi Nhân Việt Nam". Về sau ít lâu còn xuất hiện thêm Ngân Giang và Mộng Sơn. Sáu nữ sĩ này vào thời kỳ Đệ nhất Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam được Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng đưa vào quyển biên khảo "Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến". Sau đây là bài thơ tiêu biểu "Lòng Quê"của Hằng Phương trang tặng Vũ Ngọc Phan đã đăng trên tạp chí Hà Nội Tân Văn:

                      Xưa kia em ở bên trời,
                      Ngây thơ chưa rõ cuộc đời là chi.
                      Mặc cho ngày tháng trôi đi ,
                      Tóc mây nào biết có khi bạc đầu.
                      Chim non ở chốn rừng sâu,
                      Quanh mình chỉ thấy một màu xanh xanh.
                      Bình minh buổi ấy gặp anh,
                      Rủ em ra chốn thị thành xa khơi
                      Yêu anh em hóa yêu đời,
                      Theo anh chắp cánh tung trời bay cao.
                      Anh đưa em đến vưòn đào,
                      Màu tươi sắc thắm em nào dám chê.
                      Nhưng em luống nặng hồn quê,
                      Nhớ thương cảnh cũ bốn bề núi non.
                      Nhớ nơi làng xóm con con,
                      Nhớ hương cây quế chon von trên đồi.
                      Bạn xưa, nhớ yến tha mồi,
                      Cành xưa, em đỗ những ngay còn thơ...
                      Đường xa, ngoảnh lại ngẩn ngơ,
                      Trông theo mây trắng thẫn thờ mắt xanh.

                      4 Đây là bài thơ của nữ sĩ Renée Vivien tặng người đẹp Eva Palmer, một phụ nữ trí thức ưa khảo cứu văn minh Hy-lạp. Nàng có mái tóc hung hung đỏ như sắc mây hoàng hôn, thường gợi hứng cho các thi nhân vào Thời Đại Mỹ Lệ (la Belle Époque, tức là vào thập niên 10 của Thế kỷ 20). Cho nên thời nhân gọi nàng là "Nữ Thần Tà Dương".

                      Tes cheveux sont pareils aux feuillages d'automne
                      Déesse du couchant, des ruines, du soir !
                      Le sang du crépuscule est ta rouge couronne,
                      Tu choisis les marais stagnants pour ton miroir.

                      *
                      L'odeur des lys fanés et des branches pourries
                      S'exhale de ta robe aux plis lassés ; tes yeux
                      Suivent avec langueur de pâles rêveries ;
                      Dans ta voix pleure encor(e) le sanglot des adieux.


                      Hết Chương 11 - Xem Tiếp Chương 12


                      sigpic

                      Comment


                      • #12
                        Quê Nam Một Cõi

                        Hồ Trường An

                        Chương Mười Hai

                        Dư Thị Diễm BuồnTìm Gặp Dư Ẳnh Quê Xưa Qua
                        "Một Góc Trời Thôn Dã" và "Thời Biển Lặng




                        Dư Thị Diễm Buồn là cây bút tình tự dân tộc. Chị chuyên viết về quê hương đất nước, nhất là những nơi chị định cư.

                        Tuy nhiên ở truyện dài Ngoài Ngưỡng Chiêm Bao chị lấy bối cảnh trại tiếp cư nơi quần đảo Nam Dương dành cho các thuyền nhân vượt biên tìm tự do và chị lấy thành phố Chicago thuộc tiểu ban Illinois dành nơi định cư cho kiều bào làm bối cảnh cho tác phẩm này.

                        Những địa danh trên xứ sở Nam Kỳ Lục Tỉnh mà chị nói đến nhiều nhất là 2 thành phố Mỹ Tho và Cần Thơ cùng quận Cai Lậy. Thật ra, chị thích cái không khí tỉnh lỵ êm đềm và những vùng nửa chợ nửa quê thơ mộng.

                        Chúng ta chưa hề gặp trong các tác phẩm chị một vùng nào quê rích quê rang, chó ăn đá gà ăn muối như miệt Năm Căn, Chắc Băng hoặc các vùng Cực Nam đất nước vào thuở tiền chiến.

                        Một Góc Trời Thôn Dã xảy ra vào thuở tiền chiến, có thể vào thập niên 20 hay thập niên 30, tức là vào khoảng thời gian mà tác giả chưa chào đời. Như thế, chị phải moi móc sưu tầm tài liệu vào khoảng thời gian ấy, tức là thuở mà trường Gia Long được dân gian gọi là trường Áo Tím và trường Trương Vĩnh Ký được gọi là trường Pétrus Ký.

                        Vào thuở đó, dù là dưới chánh thể Thuộc Địa của Pháp, hạng điền chủ bậc lớn hay bậc nhỏ đều sống phong lưu. Còn quyển truyện dài Thời Biển Lặng Sông Trong tiếp theo quyển đầu xảy ra vào thuở bình minh của chánh thể Đệ nhất Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thuở đó, nhờ sự viện trợ dồi dào của Hoa Kỳ mà toàn dân Miền NamViệt Nam từ bên này sông Bến Hải tới mũi Cà Mau được sống sung túc an bình.

                        Truyện dài Một Góc Trời Thôn Dã là một truyện tình phản ảnh sự giao tiếp giữa thế hệ đàng cựu gặp hồi suy tàn và thế hệ tân học chỉ vừa như hoa chớm nụ. Nữ nhân vật chánh là Cẩm Hương sinh quán ở Lái Thiêu (thuộc tỉnh Thủ Dầu Một / Bình Dương) vừa tốt nghiệp trường Sư Phạm được bổ về dạy học ở Cai Lăy ( thuộc tỉnh Mỹ Tho). Nàng ở trọ tại nhà bà Tư Hiền, vợ bé ông Hai Cung.

                        Ông này là chủ nhân nhà máy chà gạo. Nguyên bà Tư Hiền trước kia là cô thôn nữ nhà nghèo, phải đi ở mướn cho ông bà Hương Cả Cần, song thân của cậu Hai Cung. Cô lãnh phần chăm sóc hai cô con gái Kiều Lan và Kiều Liên của cậu Hai Cung. Cậu Hai dù có vợ nhưng vì không yêu vợ, vì mê cảm nhan sắc cô tớ gái xinh đẹp nên cưỡng dâm cô ta. Không ngờ Hiền có thai, rồi sanh đứa con trai đặt tên Thiện Tố.

                        Bà Cả Cần phải tìm cách hợp thức hóa thân phận đứa con hoang của cậu quý tử của mình. Hiền phải cam tâm làm vợ bé cho cậu Hai Cung, phải chịu sự xéo xắt bắt nạt của người vợ lớn. Mụ này, sau đó ít lâu, sanh thêm đứa con trai đặt tên là Thiện Cảm.

                        Năm qua tháng lại, lũ con dòng lớn và đứa con dòng nhỏ trưởng thành. Kiều Lan và Kiều Liên chanh chua, xí xọn, hay ghen ghét cái hạnh phúc và cái may mắn của tha nhơn. Thiện Cảm thì đẹp trai, tánh nết lông bông, lười học nên thi hoài mà vẫn rớt bằng Thành Chung. Thiện Tố thì chăm học, đỗ bằng Tú Tài, rồi ở nhà làm quản lý cho cha để coi sóc nhà máy chà gạo đang hồi thịnh vượng.

                        Khi tác giả đưa độc giả vào một phần tư quyển truyện thì ông bà Hương Cả Cần đã qua đời. Kiều Lan và Kiều Liên đã có chồng và theo chồng ra ở riêng. Thiện Cảm cưới một cô vợ tên Hồng Ánh vốn đảm đang, biết phải quấy, cư xử mềm mỏng với mẹ con bà Tư Hiền. Thiện Tố theo mẹ ra ở ngôi nhà gần nhà từ đường của ông bà Hương Cả Cần.

                        Cẩm Hương trong thời gian ở trọ nhà ba Tư Hiền, được tiếp xúc nhiều lần với Thiện Tố, lúc đầu nàng hơi ác cảm với chàng, nhưng nàng không ngờ đó là mặt trái của tình yêu.



                        Chàng thanh niên nầy cao lớn, có khoảng 1 thước 75 phân chớ không chơi. Chắc là Từ Hải trong truyện Kiều bay vọt ra ngoài đời chớ gì? Vừa nghĩ tới đây, Cẩm Hương cảm thấy vui vui.

                        Nhưng nàng vẫn bực vì nụ cười hắn ngạo nghễ, khuôn mặt hí hởn trong dễ ghét làm sao ấy! Hắn có dáng hiên ngang, vai rộng, mặt rắn rỏi, tay chân cứng cáp, đi đứng chững chạc. Đây là mẫu người vừa trí thức vừa phong trần. Nhỏ Ái Mỹ và nhỏ Ánh Nguyệt, Thục An thường ca tụng mẫu thanh niên như vậy. Ái Mỹ vo vảnh:

                        - Tao ưa tài ử Clark Gable trong phim "Cuốn theo Chiều Gió" vừa trí thức

                        vừa phong trần, trong có vẻ thạo đời. Đó mới là đấng quân vương trong mộng của tao.

                        Thục An lim dim cặp mắt ốc bươu:

                        - Tao cũng vậy Những thanh niên hiên ngang, hùng trai như vậy mà chịu

                        cưới tao, chắc tao ăn chay một tháng 15 ngày để cám ơn Trời thương Phật độ.

                        Ánh Nguyệt bình tĩnh hơn:

                        - Tao có đọc áo Ciné Miroir, biết được anh chàng Clark Gable đó học hành

                        dở ẹc và miệng mồm hắn có vấn đề, nên đạo diễn phải bắt hắn giữ vệ sinh tối đa khi đóng những màn cụp lạc hun hít với nữ diễn viên. Nhưng nếu gặp chàng có bằng Thành Chung mà bảnh trai, xinh trai, dễ thương trai, lại có cái miệng thơm mát, thì con Ánh Nguyệt nầy không niêm phong trái tim đâu nghen.

                        Bỗng dưng, hôm nay chợt nhớ tới lời ba con xảnh xẹ đó, Cảm Hương tức cười quá. Nàng vội nghiêm mặt kẻo "đối phương" coi thường mình. Nàng cũng nhận thấy tên nầy có cái mỉm cười láu cá, cặp mắt sáng ngời, nụ cười ngạo nghễ, trông hao hao giống Clark Gable thiệt đó.

                        Nếu đứng bên cạnh hắn, nàng cảm thấy mình mềm mại như cây lệ liễu đứng bên cây thanh tùng hùng tráng. Nhưng nàng chợt thấy mình ví von như vậy là đề cao "địch thủ" quá đáng. Hắn mà là cây thanh tùng hả? Còn khuya! Hắn đâu xứng đáng làm cây có tên đẹp như vậy. Hắn phải là cây cốc, cây còng, cây môn ngứa, cây mù u... có tên xấu xí như vậy mới đúng chớ bộ!...

                        ( MGTTD, các trang 53, 54)

                        Rồi Cảm Hương và Thiện Tố thông cảm nhau, yêu nhau say đắm. Kiều Lan và Kiều Liên từ lâu cay cú vì chị em họ không có khoa bảng trong khi Thiện Tố ăn học thành công. Nay, thấy Cẩm Hương trội hơn họ về nhan sắc, học thức và tánh nết nên họ quyết phá đám để cho mối lương duyên sẽ rả tan trước khi hình thành.

                        Nhân trong xóm có cô Ngọc Huệ vốn là gái xinh đẹp, duyên dáng, tốt bụng, chánh trực dù có tật ăn hàng như chim mỏ khoét; cô ta trở thành công cụ để hai nàng Kiều ra tay phá hoại cuộc tình của thằng em khác mẹ kia:

                        Cô tươi mát trong chiếc áo dài nhung màu tím, cổ cao, quần lụa trắng. Tóc cô vấn bính, quấn nhiều vòng và kẹp bằng chiếc nơ bướm bằng nhung đen phía sau ót. Cô đeo suu bộ ngọc trai màu ngà voi, gồm có: bông tai, chuỗi, cà rá và vòng tay... Ngọc Huệ tô son hồng đào, giồi phấn sương sương, dậm phấn hồng phơn phớt. Trông cô đẹp hẳn lên.

                        Nhưng ai có thể ngờ sau cặp môi trái tim cười đẹp như hoa nở đó, lại là cái miệng ăn hàng hết chỗ chê! Cô ăn xàm xạp tối ngày. Thịt phay nhai ngấu nghiến, thịt gà thiến ăn tràn miệng vẫn còn thèm, chả nem ních sạch bách, tôm kho gạch cũng chẳng chừa, dừa cô cũng ưa, dưa cô cũng thích, mít cô không chê...

                        Ai biết được đôi mắt viền đen kia sáng ngời lóng lánh khi nghe chuyện tiếu lâm, chuyện ngồi lê đôi mách... Đây là mẫu thiếu nữ hạnh kiểm thưa thớt, tánh tình bông lông nhưng tâm địa hiền lành, giàu lòng từ thiện, kẻ dữ người hiền đều mến chuộng:

                        ( MDTTD, trang 338)

                        Hồi Thiện Tố và Ngọc Huệ còn nhỏ, trong cuộc chuyện trò thân mật, ông bà Hương Cả Cần có bảo ông nội bà nội Ngọc Huệ rằng khi cả hai lớn lên, họ sẽ cưới Ngọc Huệ cho Thiện Tố. Do đó, Kiều Lan và Kiêu Liên bảo Cẩm Hương rằng Ngọc Huệ là hôn thê của Thiện Tố. Cho nên Cẩm Hương đau khổ quyết chặt đứt mối tình với người yêu, dù Thiện Tố năn nỉ nàng cho tới cạn lời, dù ông Hai Cung và bà Tư Hiền đính chánh cho thế mấy đi nữa.

                        Nhưng về sau, tình cờ gặp lại Ngọc Huệ, Cẩm Hương được cô ta cho biết rằng trong vòng ít lâu cô ta sẽ vu quy, người chồng tương lai cô ta trước kia ở Cai Lậy, gần nhà cha mẹ cô ta, về sau thiên cư về Vĩnh Long lập nghiệp. Đó mới chính là người yêu của cô ta, còn Thiện Tố chỉ là bạn cùng lớp hồi cả hai ngồi bậc tiểu học vậy thôi. Tới chừng đó, Cảm Hương mới yên lòng để cho Thiện Tố cưới nàng làm vợ.

                        o0o


                        Song song mối tình giữa Cẩm Hương và Thiện Tố, còn có lối sống thay đổi của Thiện Cảm. Vốn quen thói phong lưu, ăn chơi bạt mạng, Thiện Cảm vụt cảm thấy chán nản lối sống truy hoan của mình. Tình cờ đọc quyển Bùn Lầy Nước Đọng của Hoàng Đạo trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Chàng sanh ra cảm khái, quyết sống cuộc đời có ý nghĩa: giúp đỡ người nghèo khó, cải thiện nếp sống dân quê.

                        Chàng viết văn theo tôn chỉ xây dựng cuộc tân sinh hoạt theo chủ trương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn; chàng kiến tạo ấp mới theo bước chân của Hoàng Đạo. Hai công việc đó đều nhờ sự giup đỡ và khích lệ của vợ chồng Thiện Tố. Không ngờ chàng thành công trên văn đàn và rồi ấp mới của chàng được thực hiện đúng như niềm mơ ước của chàng.

                        Nghe vợ chồng Thiện Tố đi thăm ông bà nhạc ở xa và dự đám cưới cậu em út của vợ trở về chiều hôm qua, vợ chồng Thiện Cảm đến chơi, chồng khoe với Thiện Tố:

                        - Toa ơi, moa vừa mới lập cái ấp mới cho tá điền. Nhà nhà trong ấp đều

                        thoáng khí, mặc dù là vách bùn trộn với trấu hay rơm, mái lợp lá xé hay lá chầm, nhưng cũng che mưa che nắng được mấy mùa. Ở giữa ấp moa cất cái trạm để mỗi tuần có y tá vào phát thuốc cho dân, còn những thứ thuốc thông thường như chữa nhức đầu, đau bụng, trầy giò, đứt tay chảy máu thì lúc nào cũng chứa trong thùng để ở nhà ông trưởng ấp. Có lớp Bình Dân Học Vụ nữa. Hôm nào vợ chồng toa có rảnh, mời ghé qua, coi có góp thêm ý kiến gì không ?

                        Thiện Cảm đưa cho Cẩm Hương ấn bản quyển tiểu thuyết mới ra. Cẩm Hương ngắm nghía cái bìa màu lam có tranh vẽ cảnh thôn quê dưới vầng thái dương chói rạng, bảo:

                        - Cái tựa sách Ánh Sáng Đồng Quê của tác phẩm, chắc là muốn nói lên ánh

                        sáng văn minh tân tiến rọi đến cảnh đồng ruộng quê mùa chớ gì?

                        Hồng Ánh hớt chồng trả lời:

                        - Chị nói đúng đó. Cái ấp mới do chồng em chắt chiu xây dựng phần lớn

                        nhờ anh Thiện Tố đỡ đầu từ vật chất lẫn tinh thần Hôm nay tụi nầy đến đây ngoài việc tặng sách còn để báo tin ấp đã tạm xong và cám ơn anh chị.

                        Cẩm Hương vui vẻ hỏi:

                        - Thím có thai được mấy tháng rồi?

                        Hồng Ánh cười:

                        - Hơn 5 tháng nay thôi. Khi em sanh xong nhờ anh chị làm cha mẹ đỡ đầu

                        cho đứa nhỏ.

                        Cẩm Hương cười tươi, sốt sắng:

                        - Rất sẵn lòng

                        Cẩm Hương nhìn chăm chú Thiện Cảm rồi nhìn chồng. Hai anh em họ có vài nét giống nhau. Thiện Tố cao ráo, khỏe mạnh, hùng tráng bao nhiêu thì Tiện Cảm mảnh khảnh, văn thái tinh hoa tao nhã bấy nhiêu. Từ khi thành công trên con dường văn nghiệp, Thiện Cảm chững chạc hơn, không còn đía dóc ba hoa nữa. Chàng trầm mặc hơn. Nàng tự hào là vợ chồng nàng biết khơi dậy một thiên thần trong một con ngưòi hư hỏng.

                        Nàng nhìn qua Hồng Ánh. Cô ta biêt ăn diện chải chuốc để làm đẹp lòng chồng. Nhưng cô ta vẫn hồn nhiên giản dị, không kiểu cách điệu đà, không đánh lưỡi sửa giọng khi nói chuyện. Cô hồn nhiên, hịch hạc, cười nói véo von,

                        pha trò duyên dáng và có chừng mực.

                        Khi khách ra về, Cẩm Hương làm mặt lạnh và liếc xéo chồng rồi nghiêng bình tích rót trà ra uống. Thiện Tố áy náy nhìn vợ cười cầu tài, rồi ôm choàng lấy vai nàng. Nàng lách khỏi vòng tay chồng, mắt xoáy vào mặt chàng. Thiện Tố nhìn vợ ngập ngừng:

                        - Anh giúp Thiện Cảm làm em phật lòng sao?

                        Cẩm Hương ngún nguẩy:

                        - Hỏng biết!

                        Thiện Tố nắm tay vợ tha thiết, khổ sở:

                        - Xin lỗi em!

                        Thấy dáng điệu chồng thiểu não, Cẩm Hương bật cười thành tiếng:

                        - Sao anh lại xin lỗi? Anh đã làm những gì mà em định khuyên anh làm.

                        Anh biết không? Bấy lâu nay, thấy Thiện Cảm đổi tánh tình, làm việc thiện nguyện. Còn anh thì êm ru bà rù làm em mắc cở thầm. Bây giờ em mới cảm thấy thoải mái khi gặp Hồng Ánh. Anh làm em hãnh diện với chính mình không chọn lầm nguời chồng và còn là người bạn đồng tâm...

                        (MTTD, các trang 365, 366, 367)

                        Trong quyển Một Góc Trời Thôn Dã, có 6 cô cựu nữ sinh trường Áo Tím là Thục An, Ái Mỹ, Thụy Châu, Ánh Nguyệt hợp với Cẩm Hương thành nhóm Ngũ Nữ La Sát. Về sau có thêm Nguyệt Mi trở thành nhóm Lục Nữ La Sát.

                        Sáu vai phụ ấy làm cho tác phẩm trở nên xôn xao tuổi dậy thì và gợi lại tuổi mộng mơ trong khung cảnh sân trường, lớp học, bảng phấn, cửa gương. Không khí tác phẩm trở nên sinh động khi tác giả dựng lên cảnh họp mặt của họ. Trong đó, Ánh Nguyệt hoạt náo nồng mặn duyên dáng nhất:

                        ... Con chằng lửa Thục An bảo:

                        - Làm đờn bà thì phải thương chồng hơn cha mẹ. Ông bà mình thường

                        nói: "Vông đồng trổ đỏ bờ sông/ Mẹ kêu con dạ, thương chồng con theo".

                        Con ma nương Ái Mỹ tán đồng:

                        - Mầy nói đúng đó Thục An. Cha mẹ nuôi mình chừng 20 năm hoặc hăm

                        mấy năm thôi. Còn chồng mình thì nuôi mình tới già, tới chết.

                        Con nữ tặc Thụy Châu chợt nhớ ra:

                        - Mấy cô xẩm trước khi lấy chồng, cứ khóc ra rả trong buồng, khóc rống

                        lớn lên cho thiên hạ biết mình đau xót sắp xa cha mẹ...

                        Con hồ ly tinh Ánh Nguyệt trề môi dài cả thước :

                        - Lấy được ông chồng toại ý, tao đương thèm khóc. Còn kết hôn với cái thứ

                        ôn hoàng dịch lệ thì tao khóc rỉ rả, khóc nỉ non để trù ẻo cho đám cưới trở hành đám ma chơi !

                        Cẩm Hương cười ha hả :

                        - Ánh Nguyệt ơi, lòng da mầy hiền lành như bông bí, như dưa leo, như rau

                        lang rau muống luộc. Vậy mà mầy ăn nói nghe dữ tợn, gớm ghiếc không hà. Coi chừng mắc khẩu nghiệp đó nghen.

                        Ánh Nguyệt trề môi nói rán, nói thêm:

                        - Kệ em! Chớ sống với kẻ không yêu, bị nó nài hoa ép liễu thì em chỉ còn

                        có nước trù ẻo nó chết sớm để em rảnh nợ. Chôn nó rồi em đi xe kiếng.

                        Cả bọn trợn mắt hỏi đi xe kiếng để làm chi? Nhỏ cười ngỏn ngoẻn rồi cất giọng thẻo thợt hò: "A ơi... Bước lên xe kiếng đi viếng mộ chồng" / "Mộ chưa cỏ mọc tron lòng thọ thai... à ơi...".

                        ( MGTTD, các trang 46, 47)

                        Kiều Lan và Kiều Liên cũng là hai nhân vật làm cho không khí câu chuyện trong tác phẩm sinh động hẳn lên. Tác giả dùng họ làm nhân vật phản diện để tạo sự mâu thuẩn cho cả một hệ thống tình tiết của câu chuyện và cũng để bày tỏ cái óc khôi hài tinh nhuệ của mình khi nhận xét tình đời. Hai cô Kiều ghen ghét cái hạnh phúc của thằng em khác mẹ đã đành mà còn không mấy hoan nghinh cái thành công của thằng em ruột:

                        Lúc hay tin Thiện Tố khéo tay trang hoàng ngôi nhà mới của mình, hai cô Kiều liền rủ Thiện Cảm tới thăm. Kiều Lan chê bai:

                        - Thằng Thiện Tố dại dột, lo trang Hoàng o bế sách vở, khong để dành tiền

                        mua gach tráng men lót nền nhà.

                        Kiều Liên phụ họa chị:

                        - Đúng rồi, gạch tàu dùng để lót sân đúng điệu hơn, chớ đâu để mà lót nền

                        nhà!

                        Bà Tư Hiền mời lũ con chồng uống trà. Thiện Tố không trả lời hai chị, vì trong mắt họ, có cái gì mà chàng làm tốt làm đẹp bao giờ đâu. Thiện Cảm săm soi tủ sách tắm tắc:

                        - Từ khi đọc sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, tui mới biết quý sách báo.

                        Thật là tao nhã, tui thiệt tình phục lăn Thiện Tố!Thế nào tui cũng sắm cái tủ như vậy.

                        Kiều Liên nguýt thằng em ruột, mỉa mai:

                        - Thôi cho tao can đi. Dòng họ mình đã có một học giả rồi. Ai cần mượn

                        cái mặt mẹt mầy đóng vai trí thức rồi bày đặt viết văn. Mầy chẳng có bằng cấp nào lận lưng hết.

                        Thiện Cảm sừng sộ lại:

                        - Chị bớt chót chét lại đi. Bằng cấp có dính dáng gì đén việc viết văn? Có

                        bằng cấp mới viết văn được sao ? Thật là đầu óc nhỏ hẹp như cái vú cau!

                        Kiều Lan õng ẹo:

                        - Tui cấm chồng tui coi tiểu thuyết. Thời buổi nầy mấy ông bà văn sĩ hay

                        đề cao tình yêu. Chồng tui nhẹ dạ. Nếu rủi ảnh nhiễm tư tưởng lãng mạn trong tiểu thuyết, ảnh sẽ mềm lòng lõng dạ mỗi khi gặp con lành con lủng nào đó ở ngoài chợ thì phiền toái cho tui lắm. Lòng dạ tui chặt chịa, cứng cỏi thì tui có quyền coi tiểu thuyết.

                        Kiều Liên bị em nạt không cự lại, vo vảnh:

                        -A -di-đà Phật! Chồng tui thích coi đá banh thôi. Nhưng hễ ảnh gặp mấy

                        con lành tốt mã, mấy con lủng lẳng lơ thì cặp mắt ảnh chớp lia chớp lịa, thấy thật ứa gan!

                        ( MGTTD, các trang 210, 211)

                        o0o


                        Trong Một Góc Trời Thôn Dã có thêm một vận sự: Trong tai nạn xe cộ, Cẩm Hương được người hành khách cùng một chuyến xe đò cứu giúp. Chàng ta yêu thầm nhớ trộm nàng, xây mộng lứa đôi với nàng. Nhưng mối tình đó chỉ là mối tình đơn phương vừa tượng tình mà chưa kịp thành tựu đến ngưỡng cửa hôn nhân thì phải tan rã vì Cẩm Hương báo tin nàng kết hôn với Thiện Tố. Nếu bỏ vận sự nầy cũng không sao.

                        Còn có nó, tác phẩm thêm phần hào hứng đôi chút vì mối ẩn tình của người đồng hành cùng chuyến xe đò với Cẩm Hương không có gì đặc sắc lắm. Lại nữa, cuộc hờn ghen của Cẩm Hương kéo quá dài làm cho độc giả sốt ruột. Đáng lẽ tác giả để dành giấy viết về nếp sống và nhân sinh quan của hạng tân học vào buổi giao thời như hai cậu em của Cẩm Hương, của Nguyệt Cúc (hôn thê của cậu em út ) thì chị đào cho tác phẩm một chiều sâu đáng kể hơn.

                        Sự thành công của tác phẩm ở chỗ tạo cho mỗi nhân vật một cá tánh khác biệt, trừ hai chị em Kiều Lan và Kiều Liên như đúc từ một cái khuôn. Xin kể các nhân vật quan trọng xoay chung quanh hai nhân vật chánh (Cẩm Hương và Thiện Tố) và những nhân vật then chốt (hai cô Kiều, Thiện Cảm, Hồng Ánh và Ngọc Huệ).

                        Bà Cả Cần tôn trọng huyết thống, ông Hai Cung dù đã sa ngã nhưng vẫn là người có lương tâm, bà Tư Hiền tuy hiền lành nhẫn nhục nhưng vẫn vướng tật chì chiết lúc tâm sự với Cẩm Hương, bà Hai Cung vẫn là người có căn tánh tốt đẹp chớ không hoàn toàn xấu xa ác độc, cha mẹ bà Tư Hiền hiền lành và chất phác.

                        Tác giả rất thích miêu tả: tả người, tả cảnh, tả tâm tình, tức là tạo đầy đủ chất liệu để đúc kết cái nền mống lẫn cái lâu đài văn chương vững chắc.

                        Về nghệ thuật tả người, xin cùng đọc đoạn hai cô Kiều phục sức và trang điểm trong dịp đám cưới Thiện Tố:

                        Kiều Lan và Kiều Liên muốn nổi bật hơn cả cô dâu nên trước đám cưới cả tháng, hai cô hẹn nhau xuống chợ tỉnh đặt may mỗi người một chiếc áo dài "mốt" bằng gấm đỏ, bâu áo cao chống cổ, tay phùng cao. Hai cô đều mặc trang phục giống nhau. Họ đeo bông tòn teng, dây cổ, dây tay bằng hột xoàn chiếu lấp lánh...

                        Trông họ đẹp và lạ mắt thật. Nhưng áo quần và trang sức nầy nếu trên một thân hình có dáng dấp thanh cảnh thì tuyệt! Khổ một nỗi hai nàng Kiều đã nhiều lần sanh đẻ, ăn uống không giữ gìn, dù cái bụng không lớn lắm, nhưng thân thể lệch lạc, tướng đi hai hàng, ngó vào là biết hai mụ xề ngay.

                        Trước đó cả tháng, hai nàng nhịn ăn đễ giữ eo thon, mông gọn. Nhưng khổ nỗi cái bụng dưới, tức là cái nây bụng phồng ra như có độn trái dưa hấu cắt đôi. Hai nàng còn nhờ thím xẩm Lầy Phá (Lệ Hoa), vợ bé ông Bang Quảng Đông dùng chỉ se trên da mặt để lấy lông mang, cùng tỉa cặp mày cong như viền trăng non, như cái mống chuồng vậy. Hai nàng biết tướng đi của mình không đẻo, nên uốn éo mình xà, mông đưa qua bên trái, rồi sàn qua bên mặt làm mấy bà mấy cô dọn đám dưới bếp có dịp nói hành nói tỏi rồi cười khúc khích.

                        (MGTTD, các trang 337, 338)

                        Tác giả Dư Thị Diễm Buồn rất khoái phần tả cảnh. Cho nên trong tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã, cảnh vật cứ nườm nượp hiện dưới ngòi bút liến thoắng và trơn tru của chị. Ít có nhà văn gốc Nam Kỳ có cái mẫn cảm với phần miêu tả như chị.

                        Trong những thủa ruộng loang loáng nước, ngăn cách nhau bởi những bờ mẫu ngoằn ngoèo chia ruộng ra có miếng hình vuông, hình chữ nhựt, hình xéo... còn rộng hay hẹp là tùy theo diện tích của mỗi miếng ruộng. Những bụi lúa mập, tua tủa lá vươn cao rậm rạp và xanh lặt lìa như đỡ nâng bông lúa đòng đòng ngậm sữa quằn nặng hột.

                        Những bụi lúa trồng san sát nhau thành những hàng ngang hàng dọc thẳng tắp chạy dài đến tận chân vườn xa lắc xa lơ. La đà trên ngọn lúa, bầy chuồn chuồn xanh, đỏ, tím, vàng, cam, hồng... đủ màu sắc, bay qua lượn lại tìm bắt muỗi. Thỉnh thoảng cây lúa rung rinh, hay quặn lên làm chao động mặt nước do lũ cá rô, cá sặc, cá lóc... hám ăn nhào lộn, rượt đuổi nhau, hoặc tranh giành đớp mồi. Những chú cào cào, sâu, bọ vô tình rơi xuống.

                        Những con ốc bươu đen, sùi bọt trắng đeo từng hùm từng đám trên cụm lác, cụm đuơng mọc từ đáy nước. Nước ruộng trong veo, nhìn thấy rõ bầy cá bãi trầu, cá lòng tong, cá bạc đầu lội nhởn nhơ.... Gió sáng mát rượi. Trên gò nổng xa xa, đàn vịt trời, le le, chằn nghịch... đang rỉa lông. Bầy chim áo dà, chích chòe gọi nhau bên chòm bông cỏ, bông gạo. Ven ao có hàng cây điên điển nở từng chùm hoa vàng phơi phới, nghiêng nghiêng in bón dưới lòng ao, mặt bằng phẳng nước.

                        (MGTTD, trang 179)

                        Cảnh nhà của song thân của cô thôn nữ Hiền dưới mắt bà Cả Cần đuợc tác giả trình bày như sau:

                        Bà Cả dòm khắp nhà. Tuy là nhà lợp lá xé, vách tre, nền đất nện, nhưng đâu đó đưọc quét tước sạch sẽ. Bàn thờ, bàn ghế, tủ áo, cái đi-văng... đóng bằng gỗ rẻ tiền như thao lao, mít, nhưng được lau chùi bóng láng. Chiếc bàn dài đặt giữa nhà, hai ghế trường kỷ đặt hai bên có vẻ tươm tất hơn.

                        Ba con Hiền cho biêt, bàn ghế đó do người bác ruột qua đời để lại cho. Bàn thờ có bát cắm nhang tráng men xanh vẽ bát tiên ngồi chơi cờ bằng mực chàm đậm. Dĩa quả tử vẻ tám thứ trái cây ở thành dĩa: lệ chi (trái vải), long nhãn, phật thủ, đào tiên, mộc lý, mộc qua, lựu, trái xá lị. Bàn thờ không có lư hương, chân đèn, đèn lưu ly gì cả. Chỉ có bài vị thờ cha mẹ và ông bác sơn son thếp vàng.

                        Trên bàn dài là bình trà bằng sành lớn, cỡ 4 bàn tay vòng có vẽ hình con đại cẩm kê (gà trống cồ, mồng đỏ, lông màu lửa, cổ và ức giát lông màu xanh). Trên khay có 6 cái tách sành lại vẽ gà tre, có lẽ không cùng một bộ với bình tích, nhưng nhìn chung thì tất cả như cùng chung một thứ men, cùng một kiểu vẽ. Trên 4 cột nhà ở giữa chỉ treo liễn kiếng Lái Thiêu. Còn trên vách thì treo liễn giấy bồi màu vàng nghệ, màu cánh sen, màu đọt chuối gợn sóng ngân nhũ. Trên nền ngân nhũ là bài thơ chữ Nho viết bằng lối chữ thảo.

                        Mà con Hiền bảo là do ông bác để lại để vào ngày Tết trang hoàng nhà cửa. Trên mỗi tấm tranh là một bài cổ thi chúc xuân mà vợ chông bà không biết đọc chữ Nho nên không biết nghĩa thú trong thơ ra sao.

                        (MTTD, các trang 94 95)

                        Sự mô tả khung cảnh mộc mạc quê mùa của tác giả Dư Thị Diễm Buồn mang một ý nghĩa sâu xa. Chị muốn gợi lại khung cảnh gần gũi và thân thương cho những kiều bào cùng thế hệ hoặc cùng trang lứa với chị trở lên để tất cả cùng nhau trên nẻo thời gian tìm lại, được đắm hồn sống trong một chặng nếp sống cổ truyền của dân tộc đã từng ghi biết bao dấu ấn trong tình hoài cố hương vọng cố quốc. Trong lúc miêu tả, chị quăng mình trọn vẹn vào đối tượng, vào chủ đề một cách nồng nhiệt thành khẩn, bằng tâm tư hoài vọng.

                        o0o


                        Bước sang qua quyển Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả đưa câu chuyện lớp con của hai nàng Kiều, của Thiện Tố và của Thiện Cảm vào thời kỳ nước Việt Nam bị con sông Bến Hải ngăn đôi, dân Miền Nam Việt Nam được sống sung túc dưới chánh thể Đệ nhất Cộng Hòa.

                        Thế có nghĩa là, chị bỏ qua thời kỳ chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, cái thời kỳ gay go nhất mà những cây bút phụ nữ sinh vào đầu thập nien 50 không thể nào thấu hiểu qua những chúng nghiệm máu xương của dân tộc.

                        Trong truyện này, đại gia đình ông Hai Cung có đủ con trai, con gái, dâu và rể sống cùng xã hay cùng quận Cai Lậy. Vợ chồng Kiều Lan, vợ chồng Kiều Liên và vợ chồng Thiện Tố từ quyển Một Góc Trời Thôn Dã đã ở riêng, chỉ trừ vợ chồng của Thiện Cảm vẫn ở dưới mái nhà thừa tự của cha mẹ.

                        Về lũ cháu của ông Hai Cung, thì con của hai nàng Kiều Lan và Kiều Liên và con của Thiện Cảm đa số đã sinh cơ lập nghiệp ở phương xa, duy chỉ có hai cô con gái của cặp Thiện Tố & Cẩm Hương là còn ở với cha mẹ đầy đủ. Sống với vợ chồng của Kiều Lan chỉ có cô con gái út tên Kiều Nga. Sống với vợ chồng Kiều Liên chỉ có con gái út tên Kiều Phương. Sống với vợ chồng Thiện Cảm là cậu con trai áp út trong hàng ngũ lũ con tên Thiện Cần và cô con gái út tên Hồng Nguyệt.

                        Kiều Phương khá xinh đẹp, giỏi đóng kịch và ca hát trong những kỳ văn nghệ do nhà truờng tổ chức vào dịp phát lễ phần thưởng. Tố Tâm kiều nhược, hiền lành, khép kín với người lạ, nhưng cởi mở với người thân. Tố Tiên, khỏe mạnh, sinh động, cởi mở với tất cả mọi người, thường ao ước được du học ở ngoại quốc.

                        Kiều Nga hiền lành, thùy mị, có năng khiếu làm thơ từ thuở 13 tuổi. Hồng Nguyệt có văn tài tự bẩm sinh; nhưng cô tật ở chân, mặt rỗ. Nhưng cô thông minh và đôn hậu, biết khắc phục cái bất hảo của thể chất và ở dung mạo để thành công rực rỡ trên đường đời.

                        Thiện Cần bảnh trai, liến láu, ưa bông đùa nghịch ngợm. Cậu giống cha ở chỗ đắc mèo, tán gái thành công, nhưng không thọ hưởng một chút văn tài nào của cha. Cậu là một điểm tươi sáng rực rỡ, gây cho không khí u trầm trong gia tộc một sinh dộng hào hứng.

                        Ngoài ra thân với chị em Tố Tâm và Tố Tiên còn có Tuyết Mai, bạn chung lớp với Tố Tâm. Cô này mồ côi mẹ, bị bà kế mẫu, các người con gái riêng của bà và lũ em cùng cha khác mẹ xéo xắt đày đọa. Cuối niên học năm đó, Kiều Phương, Tố Tâm, Thiện Cần và Tuyết Mai cùng đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, Còn Kiều Nga thi đậu vào lớp Đệ thất. Tố Tâm theo Tuyết Mai về chơi quê ngoại của bạn.

                        Đó là làng Hòa Lộc thơ mộng nằm ven sông Mỹ Lương êm đềm. Tại đây, cả hai gặp Khải Tuấn, anh chàng sinh viên đẹp trai sắp tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng Tố Tâm lẫn Tuyết Mai không cảm thấy mình bị cú sét ái tình. Tại làng Hòa Lộc cả hai được ăn những món thổ sản địa phương, được hưởng thú vui thôn dã như cảnh đập lúa trong đêm trăng. Trong chuyến thủy trình về Cai Lậy, chiếc tàu thủy bị chìm vì chở quá khẳm. Hành khách đều được cứu sống.

                        Nhưng Tố Tâm làm cho bà nội, cha mẹ và cả đại gia đình phải một phen điêu đứng vì lo lắng. Nhưng chính nhờ tai nạn này mà Tố Tâm gặp được anh chàng Quận trưởng Đào Vũ Kỳ Trân để rồi cả hai gặp cú sét ái tình tuy không nổ ầm ỉ nhưng vẫn làm cho tim họ bàng hoàng dao động.

                        Trong dịp lễ phát phần thưởng cuối năm cho các học sinh ưu tú trường Đốc Binh Kiều, đạo diễn điện ảnh Hoàng Tâm chợt thấy các cô nữ sinh tham gia vào các tiết mục văn nghệ trình diễn rất vừa ý. Cho nên ông ngõ lời chọn một số nữ sinh mà ông ta cho rằng có thể đóng phim được, trong số đó có Tuyết Mai, Kiều Phương và hai chị cô Tố.

                        Nhưng cả bọn phải lên Sài Gòn để trải qua cuộc thử test gay go theo cách thức dự một cuộc thi tuyển do hảng phim tổ chức. Tuy nhiên, Tố Tâm lẫn Tố Tiên từ chối vì cả hai muốn tiếp tục việc đèn sách. Chỉ có Tuyết Mai và Kiều Phương nhận lời. Tuyết Mai không có tiền sắm sửa y phục và các món trang sức trước khi đi dự thi tuyển lựa tài tử thì vợ chồng Thiện Tố và bà Tư Hiền bỏ tiền ra giúp cô .

                        Vì ban giám khảo bị một áp lực nào đó do bạo quyền thúc đẩy nên vào kết quả cuộc thi thì Tuyết Mai đứng hạng nhì, Kiều Phương đứng hạng ba. Còn giải khôi nguyên thuộc về Nhan Như Thúy Ngọc, một cô thiếu nữ nhan sắc kém cỏi. Điện ảnh gia Hoàng Tâm bực tức lắm. Cho nên khi nắm vai trò vừa viết kịch bản vừa làm đạo diễn cho phim Tấm Cám, tuy ông phải giao vai Tấm cho cô Nhan Như Thúy Ngọc, nhưng khi viết kịch bản, ông cố tình đôn vai Cám do Tuyết Mai đảm nhiệm lên cao, tạo thêm một vai nòng cốt cho Kiều Phương.

                        Kết quả: Nhan Như Thúy Ngọc chẳng những bị Tuyết Mai lấn át bóng sắc lẫn nghệ thuật diễn xuất mà còn bị Kiều Phương làm lu mờ ở nghệ thuật diễn tả hồn nhiên. Thế là từ đó tên tuổi Tuyết Mai và Kiều Phương lên vùn vụt như diều tung hoành trong gió lộng, còn cô Nhan Như Thúy Ngọc phải âm thầm rút lui vào bóng tối. Tuyết Mai và Kiều Phương còn luyện giọng để hành nghề ca hát nữa.

                        Trong buổi khánh thành Viện Dưỡng Lão do ông Tỉnh Truỏng tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) tổ chức, Tuyết Mai được mời cắt băng khánh thành vì cô ta đã tặng cho ban thành lập viện một số tiền to. Tuyết Mai nhã ý mời gia đình Thiện Tố đến dự buổi tiếp tân lẫn dạ yến và dạ vũ tại dinh Tỉnh Trưởng. Chỉ có Cẩm Hương cùng Tố Tâm và Tố Tiên đến dự.

                        Tố Tâm gặp lại Đào Vũ Kỳ Trân và Khải Tuấn. Trong khi nàng và Kỳ Trân xoắn xít nhau thì Tố Tiên và Khải Tuấn quyến luyến nhau. Nhưng sau đó, cả hai không liên lạc nhau. Tố Tiên học cho xong bậc trung Học Đệ Nhị Cấp và thi đỗ Tú Tài. Còn Khải Tuán thì ra trường, trở thành công chức và làm việc ở Sài Gòn.

                        Hồng Nguyệt trở thành nhà văn chuyên nghiệp, có kết bạn văn chương với một ký giả Pháp gốc người Ba-lan tên Ilya Polanski. Anh chàng này hành nghề tự do, không cộng tác nhất định với một tờ báo nào hay một hảng thông tấn nào, mà người trong nghề gọi là ký giả "free lance".

                        Kiều Nga trong chuyến về thăm quê nội ở Bình Chánh, vào dịp dự lễ ở Thánh thất CaoĐài, gặp anh chàng Tây lai vốn là thợ nguội xuất thân ở sở Ba-son (Hải Quân Công Xưởng) có lương lậu cao. Mẹ chàng vốn có đạo Cao Đài nên chàng tháp tùng theo bà dự lễ. Cả hai bắt đầu yêu nhau và hứa hẹn thực hiện cuộc sống lứa đôi.

                        Đào Vũ Kỳ Trân ráo riết tìm cách chiếm đoạt trái tim của Tố Tâm và đi đến cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hai người bạn thân của chàng là Lê Phước Nghiệp và Hoàng Khiết Tịnh về sau trở thành thân bằng quyến thuộc của Tố Tâm và Tố Tiên.

                        Lê Phước Nghiệp kết hôn với Tuyết Mai. Hoàng Khiết Tịnh se duyên chỉ thắm với Kiều Phương dù chàng ta góa vợ và có con riêng.

                        Còn Thiện Cần quyến rũ hai cô nữ sinh, tặng cho mỗi cô một cái bầu nên song thân cậu phải đem họ về nuôi. Cả hai ghen tương nhau, dậy giặc hà rầm làm cậu bực tức đau khổ, không biết cách nào làm cho cảnh nhà dược trong ấm ngoài êm.

                        Tố Tiên lên Sài Gòn lưu học và ở chung với Tuyết Mai. Tình cờ cô gặp lại Khải Tuấn. Cả hai yêu nhau say đắm. Nhưngsau bao lần bất đồng ý kiến, sau bao cơn cãi cọ vì tự ái, Tố Tiên qua Mỹ du học. Khải Tuấn vẫn bền lòng đợi nàng trở về.

                        Bốn năm sau, Tố Tiên hồi hương. Bà nội nàng ở ngôi nhà từ đường để săn sóc ông nội nàng vì bà chánh thê của ông đã qua đời. Kiều Nga đã kết hôn với anh chàng Tây lai tên Yves Ronsin mà cô ta gọi trài trại là Yêu Rồng Xanh. Hồng Nguyệt vẫn độc thân để tâm trí thảnh thơi phụng sự văn nghiệp đang hồi lừng lẫy của mình.

                        Tuyết Mai vẫn hành nghề trình diễn ca nhạc và đóng phim. Kiều Phương giải nghệ để cùng chồng khuếch trương việc thương mãi đang hồi bành truớng và thịnh vượng. Riêng hai cô vợ không giá thú của Thiện Cần đều bồng con về cha mẹ ruột, lấy chồng khác, nhưng vẫn cho con mình lui tới với ông bố hào hoa lẫn đào hoa của chúng.

                        Chàng cưới một cô vợ khác ôn nhu và hiểu biết hơn hai cô vợ sư tử Hà Đông kia. Chàng mở tiệm bán và sơn sửa xe gắn máy, tìm được hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi chung lòng chung hướng, đồng sàng đồng mộng cùng người vợ có giá thú.

                        Kết cuộc, Tố Tiên sau bao năm bôn ba trên con đường sự nghiệp, thành hôn với Khải Tuấn.

                        o0o


                        Trong tác phẩm Thời Biển Lặng Sông Trong, các nhân vật thuộc giai cấp trung lưu và thuộc thế hệ đang độ hoa niên vào 5 năm chót của thập niên 50 đã bước vào một thế hệ được ánh sáng văn minh tân tiến soi rọi.

                        Phụ nữ đã ý thức sự bình quyền với các đấng tu mi nam tử, họ từ bỏ khuê phòng để ra đời mưu sinh. Khi lớn lên, họ không quá chú trọng vào công việc trao giồi công dung ngôn hạnh rồi đợi chồng đến cưới hỏi. Họ chọn ngành nghề để đeo đuổi trước khi kết hôn.

                        Vận hội mới bắt đầu. Các trường tiểu học đuợc mở mang khắp mọi quận lỵ và ở các xã ấp gần quận lỵ hay gần các miền ngoại ô tỉnh lỵ. Các tỉnh bậc trung đã có một trường trung học công lập và vài trường trung học tư thục. Còn các tỉnh lỵ nhỏ thì chỉ có một trường trung học tư thục mà thôi.

                        Quận Cai Lậy là một địa danh cách trung tâm thành phố tỉnh Mỹ Tho 23 cây số. Nó nằm bên Quóc Lộ 9, tức là trên tuyến đường quan trọng đưa đón du khách và các tay buôn bán xuôi ngược từ Sài Gòn xuống vài tỉnh vùng Tiền Giang và tất cả tỉnh miền Hậu Giang. Từ thuở bình minh nền Đệ nhất Cộng Hòa nó đã là một nơi thị tứ khá hoạt náo và phồn thịnh.

                        Cư dân ở đây tiếp xúc khá nhiều nếp sống theo cao trào văn minh tân tiến nên họ không chênh lệch với thị dân ở Thủ Đô Sài Gòn bao nhiêu. Cho nên các nam sinh, các nữ sinh cùng các công chức ở đây đều là những kẻ thấm nhuần óc tiến thủ, đều có thể thu góp một cách dồi dào những kiến thức về một nền văn hóa trên đà phát triển thuận lợi.

                        Bởi đó, nữ sĩ Dư Thị Diễm Buồn thường tạo ra các nhân vật bậc trung lưu đù cấp bậc cao thấp lớn nhỏ. Chị không thích tạo những nhân vật nông phu cày sâu cuốc bẳm và những nhân vật thôn nữ chân lấm tay bùn.

                        Tạo những nhân vật cổ lổ hay những nhân vật quê rít quê rang thì quá xa vời với cái xã hội và cái thế giới mà chị đã sinh ra và lớn lên. Những nhân vật chậm tiến như thế thì cái xã hội của họ dưới ngòi bút của chị không thể sinh động được; chị phải nhờ óc tưởng tuợng thêu dệt thêm ít nhiều chi tiết. Vả lại qua tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã và tác phẩm Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả muốn nói lên cái hay, cái đẹp của Miền Nam Việt Nam tự do.

                        Lẽ dĩ nhiên, cảnh đồng quê chỉ nên lót nền mờ nhạt cho những cô cậu học sinh yêu nhau da diết chứ không nên xen nhiều lần, chui lắm lượt vào cuộc sống của họ. Họ phải được huởng ánh sáng văn minh để tình yêu của họ thêm mới mẻ như tình yêu của lớp thanh thiếu niên trong phim ảnh Hoa Kỳ đang chiếm rộng rải trên thị trường Việt Nam.

                        Dư Thị Diễm Buồn thương yêu cưng chiều những nhân vật hiền lương hoặc những nhân vật thông minh và biết cư xử vuông tròn, ăn ở phải đạo. Họ đâu thể nghèo hèn mà dẫu có nghèo như Tuyết Mai thì cũng không được dốt nát và phải có ăn học chút đỉnh hoặc phải có tài hoa. Nhất là họ phải có nhân diện và vóc dáng trội hơn bàng dân thiên hạ.

                        Đào Vũ Kỳ Trân, Lê Phước Nghiệp và Tố Tâm dù có mảnh khảnh thì hai chàng kia vẫn được chị ca ngợi là đẹp rắn chắc theo kiểu trượng phu nam tử, còn nàng nọ cững được chị so sánh vẻ thướt tha của cây lệ liễu. Chàng Hoàng Khiết Tinh tuy mập mạp nhưng được tác giả tặng thêm vẻ bảnh trai như nam tài tử điện ảnh Rod Taylor.

                        Còn cô Hồng Nguyệt có chân thấp chân cao và mặt rỗ hoa mè hồi nhỏ, nhưng vì cô ta hiền lành, tài hoa lỗi lạc nên tác giả thay thế Ông Trời cho cô gặp ông thầy bó ngải Chiêm Thành kéo dài cái chân thấp vài phân để nó xấp xỉ với chân cao, và chị đóng cho cô ta đôi giày đế mỏng đé dầy để cô ta có dáng đi thăng bằng, thướt tha và uyển chuyển. Chưa hết! Chị còn truyền lịnh cho những vết rỗ trên khuôn mặt cô ta phải theo thời gian mà lì đi để da mặt cô ta trơn láng.

                        Chân dung và cách phục sức của các nhân vật trong Thời Biển Lặn Sông Trong tuy không được miêu tả chăm chút, nhưng cũng khá chu đáo. Xin đọc đoạn hai chị em Tố Tâm và Tố Tiên đi dự cuộc dạ yến và dạ vũ tại Dinh Tỉnh Trưởng:

                        TốTâm Tố Tiên như cặp sanh đôi. Hai chị em có những đường nét khuôn mặt thanh tú và hao hao giống nhau. Hai cô chỉ khác Tố Tâm mảnh mai có mái tóc để dài lưng chừng lưng, còn Tố Tiên nồng nàn sinh lực với mái tóc đen ngắn đến cổ, vén gọn hai bên mép tai. Đêm nay hai cô ăn mặc và trang sức cũng giống nhau, áo dài tay phùng bằng gấm Thượng Hải màu hồng, nổi những cành bạch mai trên nền gấm rập rờn ánh bạc.

                        Cả hai đeo bông giọt mưa bằng ngọc trai, vòng cổ, vòng tay bằng ngọc trai. Quần lụa trắng, mang giày bít mũi với gót cao. Mái tóc đen như nhuộm mực nằm trong chiếc "băng-đô" hồng xõa bồng trên bờ vai thon gầy mảnh khảnh của Tố Tâm. Làn da trắng của cô đuợc dậm lên lớp phấn hồng nhẹ, dưới ánh đèn điện trông cô hết sức bình thuờng. Nhưng trước cái vẻ cao sang và nét quý phái trời ban đó, ai trông thấy, cũng khó lòng mà quên đi trong giây lát.

                        Còn Tố Tiên dáng thanh thoát không bằng chị, cô hơi thấp hơn, nhưng có vẻ tươi mát hơn chị bởi nước da trắng như gà bóc, nụ cười vui tươi hớn hở đi với đôi mắt to ngời sáng. Cái nhìn vô tư cô đầy tự tin. Và lúc nào trên miệng cô cũng sẵn sàng chớm nở nụ cười càng lâu càng cảm thấy cô rất dễ thương tạo cho người đối diện nhiều mỹ cảm lẫn thiện cảm.

                        (TBLST, các trang 241, 242)

                        Còn chân dung của Khải Tuấn, một chàng thanh niên thuộc thành phần ưu tú của xã hội trung lưu cấp cao được tác giả phác họa như sau:

                        Khải Tuấn có tướng khỏe mạnh, cao ráo phải một mét bảy chứ không ít. Nước da ngăm, cái ngăm khỏe mạnh hồng hào như da rái lựu rám nắng. Mái tóc anh bồng bềnh trên vầng trán vuông, cao và rộng. Chân mày rậm. Cặp mắt to, tròng đen ngời sáng nhiều hơn tròng trắng như phớt màu xanh lợt của men sứ.

                        Anh đi đứng thong thả, nói cười vui vẻ, tế nhị. Hôm đó, Khải Tuấn mặc chiếc áo tay ngắn màu kem, quần nâu sậm. Cái mốt thời nay, các cô cậu thường hay đeo dây chuyền mỏng, bằng vàng 18k, dài gần tơi rún và miếng mề-đai hình bầu dục có lồng ảnh giữa hai mặt kiếng. Chiếc đồng hồ mạ vàng lớn mặt, dây cũng mạ vàng gồ ghề tương xứng với mặt đồng hồ. Anh mang giày da bóng loáng, miệng luôn cười tươi, ưa pha trò nên trông trẻ trung hơn trong bộ veste màu xanh đậm đêm dạ tiệc năm nào.

                        (TBLST, trang 305)

                        Đặc điểm chót trong văn chương của Dư Thị Diễm Buồn là chị hào sảng với độc giả. Chị thết đãi các nhân vật trong mọi tác phẩm của mình những món ăn quốc túy quốc hồn rất thường xuyên, rất phong phú ê hề, không tiện tặn, không bỏn sẻn. Độc giả nhờ vậy cũng đuợc... ăn hàm thụ luôn. Nhưng có điều hơi lạ lùng là không bao giờ chị cho các nhân vật mình ăn bất kỳ món mắm nào. Hỏi ra, chị vốn dị ứng với món quốc túy quốc hồn đậm tình dân tộc này.

                        Thỉnh thoảng, chị biểu diễn tài nữ công gia chánh của mình bằng chỉ vẽ cho độc giả làm một vài món ăn địa phương ( như các món ăn cỏ truyền ở quận Cai Lậy). Và cũng hình như chị chỉ đãi độc giả ăn các món ăn Nam Kỳ Lục Tỉnh chứ không đãi các món ăn miền Bắc hay các món ăn miền Trung. Có lẽ về ẩm thực, chị có dị ứng hoặc kỳ thị với các món ăn ngược lên hướng Bắc xa xôi chăng?

                        o0o


                        Trong truyện có thêm hai mối tình quan trọng nữa. Đó là mối tình giữa Đào Vũ Kỳ Trân và cô Thoại Hoa. Cô này có học thức, giỏi việc mưu sinh, thông minh, quyền biến, cư xử theo con nhà thượng lưu trong xã hội. Nhưng Đào Vũ Kỳ Trân chỉ thương mến cô ta, chứ không yêu đương say đắm như đối với Tố Tâm. Không hiểu Thoại Hoa có vì tự ái hay vì nhút nhát mà không chịu tỏ tình trước với Kỳ Trân?

                        Nàng mòn mỏi đợi chàng bật đèn xanh trước, nhưng chàng cứ bật đèn đỏ, rồi bật đèn vàng, nên nàng đành đậu chiếc xe tình ái tại chỗ. Sau cùng,Thoại Hoa đi qua Pháp học tu nghiệp (tác giả không nói tu nghiệp về ngành nghề gì ) cốt nhờ không gian và thời gian chôn mối ẩn tình của nàng.

                        Mối tình thứ hai là mối tình giữa Khải Tuấn và nữ dược sĩ Vân Trang. Cô này là chị ruột của Vân Hạnh, mà cô Hạnh lại là bạn tâm đầu của Tố Tiên. Cả hai chia tay mà cả cô Trang lẩn Khải Tuấn chẳng ai ngậm ngùi lưu luyến huống hồ là đau khổ tổn thương?

                        Mối tình này gượng gạo, lỏng lẻo, chẳng những không dậm chân tại chỗ mà coi bộ đang hồi suy thoái. Cho nên Vân Trang cương quyết cắt đứt cuộc tình phai thắm lạt hương kia đi. Có như thế, Vân Trang thảnh thơi đi lấy chồng, còn Khải Tuấn tha hồ vẫy vùng trong cuộc đùa bóng giỡn trăng với Tố Tiên để rồi trầm lụy si mê nàng.

                        Nếu bảo rằng Thời Biển Lặng Sông Trong là tiểu thuyết đồng quê theo trường phái văn chương hiện thực thì chưa chắc đúng. Ở đây, trong bối cảnh nửa chợ nửa quê, tác giả thăng hoa vào những giấc mơ danh vọng chói chang, những ước vọng đến những địa vị nguy nga tráng lệ dưới bóng mặt trời, rồi rủ rê độc giả bơi lội trong những ảo tượng lộng lẫy do chị un đúc, sản sinh .

                        Những giấc mơ, những ước vọng ấy được thể hiện ở hai cô gái tỉnh lỵ, một liệt vào bậc trung lưu cấp thấp (Kiều Phương), một còn cựa quậy trong cảnh nghèo hèn (Tuyết Mai), nhưng bỗng dưng nhờ tài năng thiên bẩm vụt trở thành minh tinh màn bạc. Chúng còn thể hiện qua cô gái có tật chân và xấu xí từ lúc nhỏ (Hồng Nguyệt) và qua cô gái hiền lành khờ khạo, không có cá tính (Kiều Nga) ; rồi đó cô đầu trở nên một nhà văn lừng danh, cô sau trở thành một nhà thơ lỗi lạc.

                        Hai cô gái lao vào vực văn nghệ trình diễn và hai cô gái lao vào môi trường văn chương thi phú, nếu không được trai tráng xun xoe ve vãn thì cũng lấy chồng giàu. Còn hai nữ nhân vật vai chánh là Tố Tâm và Tố Tiên đều lấy chồng nhà giàu, học giỏi, đẹp trai hoặc bảnh trai. Riêng cô chị thì đậu tú tài vào đầu mùa nền Đệ nhứt Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam, bằng đó rất hiếm quý vào thuở đó, huống chi bằng cao học của cô em đa từng du học ở Mỹ.

                        o0o


                        Dư Thị Diễm Buồn vốn chủ trương văn dĩ tải đạo. Chị chịu ảnh hưởng nền luân lý cổ truyền của nhà sĩ Nguyễn Đình Chiểu: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Nhưng vào thời đại nam nữ bình quyền, chị không đành lòng để cho nàng phục tùng chàng theo truyền thống gọi dạ bảo vâng.

                        Lúc còn đá lông nheo với nhau, lúc yêu nhau và lúc hứa hôn với nhau, nàng có thể cải vả với chàng rầm rĩ, chì chiết chàng dằng dai bởi tự ái ổn thương, bởi ghen tuông sa đà. Nhưng khi cả hai nên vợ nên chồng rồi thì nàng trở nên mềm mỏng ngọt ngào với chồng.

                        Trong hai truyện dài Một Góc Trời Thôn Dã và Thời Biển Lặng Sông Trong ít có nhân vật gia nhập vào quân ngũ, trừ Đào Vũ Kỳ Trân, Lê Phước Nghiệp và Hoàng Khiết Tịnh vì thuở đó dân miền Nam an hưởng thái bình, chưa có ngòi lửa chiến tranh ngún cháy khắp phần đất nước tự do nên chưa có lịnh Tổng Động Viên.

                        Cho nên dù vốn yêu lính nhưng tác giả chỉ có thể tạo ra những lính kiểng lính huê, ngồi ngoáy bút ở văn phòng và họ chưa thể tỏ ra anh dũng trong các cuộc hành quân diệt địch.

                        Dư Thị Diễm Buồn cũng chủ trương luôn chuyện ở hiền gặp lành. Trong hai tác phẩm này, người ác đúng nghĩa rất hiếm. Bà Hai Cung xéo xắt đày đọa tình địch lúc đầu, nhưng về sau lại tỏ ra tử tế với bà Tư Hiền và đứa con của chồng.

                        Hai nàng Kiều quyết lòng chia uyên rẽ thúy thằng em khác mẹ của mình vì mặc cảm hơn vì hiểm ác. Tuy nhiên khi con gái của Thiện Tố gặp nạn, cả hai tỏ ra thông cảm với Cẩm Hương, ân cần an ủi nàng.

                        Còn thêm một đặc điểm nữa, bao giờ các nhân vật chánh của Dư Thị Diễm Buồn cũng được trời ban thưởng: nam nhân vật thì hùng tráng ở sắc vóc và trượng phu ở cách sống, còn nữ nhân vật thì diễm lệ yêu kiều, tâm tánh hiền lương.

                        Lại nữa, họ còn được Thượng Đế lì xì một hậu vận tốt đẹp hiển vinh giống như hậu vận các nhân vật chánh trong cổ tích, trong truyện thơ, trong các tác phẩm diễm tình của nữ sĩ Barbarra Cartland (Anh) hoặc của đôi uyên ương tiểu thuyết gia Delly (Pháp).

                        Dư Thị Diễm Buồn ưa viết những lới mắng mỏ và chì chiết với các nhân vật ác độc (nhân vật phản diện), ưa nói xóc hông xóc óc họ. Nhưng điều đó chứng minh tâm địa chị rất tốt lành, rất can đảm. Có lẽ chị nghĩ rằng mình chẳng cần các độc giả trí thức rởm rang khó tánh, hạng ưa chê bai văn chương nêu lên cái Thiện.

                        Thứ văn chương dưới tầm mắt cao ngạo của họ là lỗi thời. Con đường văn chương tải đạo của chị đã mở sẵn từ khi chị bắt đầu cầm bút và chị tha hồ hăm hở xông pha lên đường, trối kệ những miệng lằn lưỡi mối được ngụy trang đó là miệng lưỡi thông minh uyên bác của bọn ngụy trí thức.

                        Nếu chị nghĩ như thế thì các tác phẩm của chị lot vào quảng đại quần chúng dễ như bỡn và sẽ trường tồn với cảm quan trong sáng của hạng độc giả thuần hậu và đơn giản trong cách suy nghĩ.



                        Hết Chương 12 - Xem Tiếp Chương 13


                        sigpic

                        Comment


                        • #13
                          Quê Nam Một Cõi

                          Hồ Trường An

                          Chương Mười Ba

                          Vũ Nam, Kẻ Lữ Hành Tìm Kỷ Niệm Trên Các Vùng Đất Lạ
                          Qua Tập Truyện "Một Đêm Ở Genève"




                          Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi bắt gặp một bút trình lột xác của Vũ Nam sau đọc xong tập truyện Một Đêm Ở Genève. Cũng vẫn là những truyện ngắn dựa trên tình yêu. Cũng vẫn là những truyện ngắn săn tìm kỷ niệm. Cũng vẫn là những truyện ngắn thấp thoáng bóng dáng hiện thực xã hội.

                          Nhưng ở tập truyện này, văn phong và bút pháp anh biến dạng một cách đáng ngạc nhiên, đánh dấu một cuộc lột xác ngoạn mục. Đề tài của anh tươi mát, sự diễn tả của anh linh hoạt, khí hậu trong truyện không căng thẳng và gay cấn. Đây là một thứ văn chương tròn trịa, óng chuốt, không làm độc giả nhức đầu hay làm họ chán ngán ủ ê, thiếu điều ngáp dã dượi hay ngủ gục trên từng trang sách.

                          Ngòi bút Vũ Nam từ quyển Một Đêm Ở Genève cho đến khi anh cộng tác cho những tạp chí văn học hàng đầu Gió Văn qua các truyện ngắn đăng trên đó biểu dương một phong độ khởi sắc, dám thọc sâu vào những nhân sinh quan kỳ đặc. Đã vậy, Vũ Nam còn cho độc giả chúng ta thấy luôn cả sự tìm tòi tuyệt vời của anh đối với cái bí ẩn của con người.

                          Môi Ngữ có mùi mặn, dù không có gió biển nơi chàng vàThiên đang đi. Cũng không có nước mắt. Đâu ai dễ đổ nước mắt cho một chuyện tình đã qua mười tám năm? Cũng không ai tốn nước mắt cho chuyện văn nghệ văn gừng đã muời lăm năm chưa kết nụ. Môi Ngữ có mùi mặn có lẽ vì tính tình Thiên. Bây giờ nàng trở nên cứng cỏi quá! Đất Mỹ mười mấy năm đã làm nàng trở nên cứng cỏi, từng trải?

                          Thiên đã không còn vẻ nồng nàn yếu mềm ngày xưa. Suy nghĩ lại, Ngữ thấy nhiều khi chính mình đã không thực tế, không nắm bắt những đổi thay. Nhắm mắt một giây, như nuốt vội những chuyện không vui ở trần thế, Ngữ muốn biến mình cho nhanh chóng trở thành một lâu đài nào đó đứng sừng sững trên đồi núi cao ở miền trung Âu Châu. Đứng sừng sững với những ngạo mạn riêng và những kỳ bí riêng cho một thời đã từng là thành quách của những vị chúa tể một vùng.

                          Đầu ngất ngưởng đội trời cao, tay đưa lên bắt mây trắng bay qua, dưới chân đạp lên những tên du khách lục đục kéo lên đồi để chiêm ngưỡng mình. Lâu đài chắc chắn không có gì để sợ.

                          Nhưng sau ý tưởng nhân cách hóa mơ hồ ấy, Ngữ lại sợ những khám phá bên trong lâu đài sẽ làm cho những người khách uất nghẹn vì những tầm thường đã chứa đựng bên trong.

                          Có gì bên trong lâu dài hay chỉ còn lại là những thanh đao kiếm và áo giáp sắt của những thời đại cổ xa xưa. Có gì bên trong những nhà thơ, như ý tưởng đẹp bên trong Thiên đang có, hay như là những thanh kiếm và những chiếc áo giáp sắt loang lổ mà người trông nom phải lo chùi bóng mỗi ngày để làm vui lòng những du khách sắp bước chân vào lâu đài để thăm viếng?

                          Những mộng mơ bao giờ cũng đi xa và đi ra ngoài những cuộc đời chân thật và tầm thường. Rốt cuộc con ngưòi vẫn cố chạy theo những hư ảo ngoài tầm tay, mà quên đi những điều thiết thực cho cuộc sống. Tấm tranh đẹp và bài thơ hay sẽ không còn đẹp và hay khi chúng ta không cho nó một mái che nắng che mưa và những ngăn tủ kín đáo để bảo tồn, sau khi tác giả đã tung nó vào cho giới thưởng ngoạn, bao gồm kẻ thanh cao và người ô trọc.

                          Đời sống của họa sĩ ở Paris trong quyển Of Human Bondage của Somerset Maugham lúc còn tại thế thì ngày nay người Việt mình không mấy còn ai dám sống như vậy nữa. Ngữ thấy mình đã hành động không theo suy nghĩ của mình. Chàng sống hiện tại theo cái cá tính mạnh mẽ của người đàn ông, nhưng lại có luồng gió từ đâu mang về trong lòng một nỗi niềm lo âu bất chợt... (các trang 49, 50, 51)

                          Những nhà văn gốc Nam Kỳ ở hải ngoại có khả năng đem nhân sinh quan vào văn chương không phải là hiếm hoi đâu. Kiệt Tấn, Ngô Nguyên Dũng, Anh Vân, Trần Long Hồ, Trần Nghi Hoàng... (nam), Phan thị Trọng Tuyến, Nguyễn thị Ngọc Nhung, Trần thị Kim Lan... (nữ).

                          Và mãi tới Nơi Cuối Dòng Sông và vài truyện ngắn trong Một Đêm Ở Genève, Vũ Nam mới bắt đầu lên đường, đào sâu tác phẩm mình bằng những nhân sinh quan thật khởi hứng.

                          Doãn Quốc Sĩ với bộ trường giang tiểu thuyết Khu Rừng Lau, Nguyễn Mộng Giác với bộ trường giang Mùa Biển Động có xen lác đác vài nhân sinh quan rất phổ thông, không đặc sắc lắm, thỉnh thoảng lại có chêm vô vài dòng tả cảnh lưa thưa.

                          Cho nên chúng ta xót xa mà nghĩ rằng: tại sao cuộc tiêu khổ kháng chiến của dân Nga chống Hoàng Đế Nã-phá-luân Đệ Nhất trong War and Peace của Léon Tolstoi, chỉ hơn một năm với gươm súng tầm thường, thế mà sau khi đọc tác phẩm của nhà đại văn hào này, chúng ta hết muốn đọc tác phẩm của Doãn Quốc Sĩ và tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác nữa. Nên nhớ:

                          cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh trong Khu Rừng Lau với vũ khí văn minh và kéo dài gần 10 năm, còn cuộc nội chiến Quốc Cộng trong Mùa Biển Động với vũ khí tối tân hơn nữa và kéo dài gần 15 năm. Như thế, họ Doãn và họ Nguyễn có nhiều chất liệu tuyệt vời cho tác phẩm hơn Léon Tolstoi chứ.

                          Nhưng tác phẩm của họ vẫn không phải là loại kiệt tác. Tiểu thuyết trường giang của họ chỉ đọc được thôi và chỉ dành cho các phê bình gia có kiến thức bị giới hạn nếu không bảo là eo hẹp vì chưa quen hoặc chưa có khả năng đọc tác phẩm có tư tưởng (triết học, tâm linh) như hai phê bình gia Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Vy Khanh...

                          Có phải bút giả HTA có căn tính nộ lệ, thấy cái gì của cường quốc cũng ưu việt hơn cây nhà lá vườn chăng? Có phải bút giả có tinh thần vọng ngoại hết thuốc chữa chăng? Không đâu. Chúng ta nhận thấy một điều không thể chối cãi rằng, đại văn hào Nga là một chiến sĩ, rành rẻ về trận mạc và về cuộc đời cầm vũ khí đánh giặc. Trong khi đó, họ Doãn chỉ là một cán bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp chứ không phải là một bộ đội khi tham dự các trận mạc chống với binh sĩ Liên Hiệp Pháp.

                          Còn họ Nguyễn chỉ là nhà giáo, dân tháp ngà, nhìn bên ngoài qua khung cửa hẹp và chỉ biết cuộc chiến Quốc Cộng qua đống tài liệu trong sách vở báo chí. Hơn nữa, Léon Tolstoi chăm sóc từng chi tiết quyển truyện, ít khi để phần kể chuyện húng hiếp phần văn chương của tác phẩm. Nghệ thuật tả cảnh tỉ mẩn và chi ly của Léon Tolstoi đẹp mê hồn. Lại thêm, chẳng những ông cho mỗi nhân vật một nhân sinh quan cá biệt mà còn cho 3 nhân vật chánh là Bá Tước Bézoukhov, Hoàng Thân André Bolkonski, Quận Chúa Maria Bolkonski tư duy về tâm linh, tôn giáo và những vấn đề siêu hình.

                          Đằng này, ông Doãn và anh Nguyễn diễn tả cẩu thả, và lười lĩnh trong việc phơi bày tâm trạng các nhân vật, huống chi dám động tới vấn đề tâm linh siêu hình vốn là hai lãnh vực mà họ mù tịt. Nên nhớ, khi viết bộ Khu Rừng Lau, Doãn Quốc Sĩ chưa tìm hiểu về Phật giáo, nhất là chưa nắm bắt được pháp môn Thiền học.

                          Chúng ta hãy nghe tiếp Vũ Nam trình bày nhân sinh quan của mình khi anh nhận định vè tâm trạng và hoàn cảnh một nữ nhân vật:

                          Cuộc sống nàng như thành phố Austin nằm dưới lớp sương mù trong sáng nay khi Ngữ đáp phi cơ để chuyển chuyến bay đi Cali. Nàng đâu có biết, chỉ chừng cao độ hai ngàn mét nàng đã thấy nắng ấm và vùng trời xanh dương lồng lộng phía trên.

                          Hóa ra con người vẫn và lúc nào cũng có những điều ngoài tầm mắt, mà triết lý một chút người ta gọi đó là sự vô minh Nhưng đâu phải chỉ Thiên là như vậy mà Ngữ trách nàng. Còn chồng nàng và cả chàng không đang cùng một lúc đang quay tròn trong đám mây mù đang bay thật thấp đó sao?

                          (trang 51)

                          o0o


                          Trong tác phẩm Một Đêm Ở Genève, Vũ Nam tuy không chăm chút ở nghệ thuật miêu tả (tả cảnh, tà người, tả vật, tả tâm trạng nhân vật), nhưng anh vẫn không bỏ sót vấn đề này. Có nhiều nhà văn mang tiếng nhà văn đã thành danh (như Nguyễn Xuân Hoàng) hay nhà văn lớn (như Nguyễn Mộng Giác) mà lại viết những truyện ngắn cóc cần miêu tả.

                          Trong truyện ngắn Một Người Ngồi Trong Ghế Bành, anh Hoàng không dựng được khung cảnh xung quanh chiếc ghế bành. Trong truyện ngắn Giếng Ước, anh Giác kể chuyện tuồn tuột ở quán nước về đứa con gái của ông ta. Như thế, hai anh rơi vào cái lối làm văn chương bằng cách kể truyện mà Nguyễn Ngọc Ngạn, Võ Kỳ Điền đã từng làm.

                          Chúng ta thử đọc các tác phẩm của Hermann Hesse (chẳng hạn cuốn Demian) hay các tác phẩm của Dostoievski (qua các cuốn L Idiot, Les Possédés) thì phần tả cảnh hơi ít, nhưng không hề vắng bặt thiếu sót. Ông Hesse lẫn ông Gide phải bận bịu giải bày tư tưởng tâm linh hay những vấn đề khúc mắc uyển chuyển như thái độ sống, nhân sinh quan thấp thoáng tinh thần minh triết (giải phóng toàn diện con người, khuynh đão hoặc đặt lại vấn tín ngưỡng, tìm chân lý ở chính mình) nên họ không có thời giờ đặt cái quan sát ngoại giới các nhân vạt trong tác phẩm của họ.

                          Họ chỉ thích đặt cái nhìn vào trong đáy vực thẳm thẳm của tâm khảm con người, vào cái bí nhiệm của đời sống. Như thế, họ có quyền lơ là ngoại cảnh và chỉ đem vài nét tiêu biểu của ngoại cảnh vào văn chương mà thôi. Đằng này hai anh Nguyễn chỉ viết truyện tâm lý hoặc truyện có hơi hướm truyện dị thường (conte extraordinaire) mà chỉ kể chuyện thao thao, không chịu tả cảnh, tả người.

                          Như thế thì hai truyện ngắn thường thường bậc trung về giá trị văn chương nghệ thuật như Giếng Ước, Người Ngồi Trong Ghế Bành kia khó mà lọt vào lãnh vực văn chương, không tìm được chút gì gỡ gạc hay cứu vãn được chúng lên cung bậc cao hơn. Và chắc hẳn anh Hoàng chưa quên, dù viết truyện dị thường nhưng nhà văn Mỹ Edgar Allen Poe vẫn chăm chút tả cảnh.

                          Những nhà văn gốc Nam Kỳ ở hải ngoại đa số chưa nắm bắt nhận định minh bạch thế nào là viết văn, thế nào là thuyết thoại; cho nên họ lười biếng chểnh mảng việc mô tả. Nhưng bù lại, họ kể truyện rất duyên dáng mặn nồng như trường hợp Nguyễn Đức Lập, NguyễnVăn Ba, Phượng Khánh, Phương Hoài Nam, Tiểu Thu, chẳng hạn.

                          Đó cũng là trường hợp của Lê Xuyên. Có nhiều khi khung cảnh hoặc tư liệu văn chương dù không được xuất hiện trên những dòng miêu tả, nhưng lại hiển hiện ở những câu đối thoại. Riêng Vũ Nam trong Một Đêm Ở Genève khung cảnh được mô tả trong phút hồi ức của nhân vật, chớ ít khi được mô tả ngay trước mặt nhân vật khi nhân vật đóng vai trò dự khán.

                          Ngày bước chân vào xứ Đức trong mùa hè, buổi chiều được vị giám mục đưa lên xe hơi, đi dạo cảnh. Trời mát và hơi lạnh, tôi thấy lòng mình rộn ràng với quang cảnh đồng quê vùng Trung Âu này. Những đám ruộng, đồng cỏ xanh rì, chạy lượn, uốn mình lên xuống, trong ánh nắng chiều vàng nhạt, cùng cơn gió heo may.

                          Những con bò Hòa lan đứng nhơi cỏ. Những căn nhà có mái đỏ tươi như gạch cua chín... Hình ảnh mà hai mươi mấy năm ở quê nhà chỉ thấy qua sách báo và lịch treo tường. Phút chốc thấy được hình ảnh thật hỏi sao lòng không nao nao hạnh phúc? Khi mùa đông đến. Khi nhặt những bông tuyết rơi thật sự đầu tiên trong đời, cứ y như là được chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên thuở cái tuổi mười hai lí lắc, nhỏ dại.

                          Nhưng dần dà khi mùa đông về, và mỗi năm đều phải bắt buộc nhìn lại bầu trời và quang cảnh mang màu chì và trắng như bông gòn, dù công nhận tuyết phủ tuyệt đẹp trên các cành cây và từng cánh hoa dồng cỏ nội, tôi cũng cảm thấy từ từ được sự giá băng nào đó trông đời sống ở đây rồi! Ngoại cảnh cùng ngay cả trong tâm hồn.

                          (trang 92)

                          Trong mấy tác phẩm trước như Nơi Cuối Dòng Sông, Bên Dòng Sông Donau.., Vũ Nam mô tả rất nhiều khung cảnh Quê Huơng Nước Ngọt, chốn sinh quán của anh. Nhưng trong tác phẩm Một Đêm Ở Genève, anh thích mô tả khung cảnh ở ngoại quốc, nơi anh định cư (miền Tây Nam nước Đức) hay những nơi anh đặt bước chân vãn cảnh.

                          Xin đọc khung cảnh cổ thành trên đảo Rodos và khung cảnh trên dỉnh núi Folimot xứ Hy-lạp. Ở đây, nét tạo hình hiện trong nhãn quan người viếng cảnh chỉ được diễn tả bằng vài nét phát thảo sơ sài, nhưng những đường nét tạo hình ấy được xuất hiện trong các giai thoại, các câu chuyện truyền kỳ nhiều hơn. Tuy nhiên, dù gì thì dù, những khung cảnh dưới ngòi bút anh vẫn làm xao xuyến tâm tư người đọc.

                          ... Cổ thành rất rộng ở bên trong. Xem chừng dân cả phường, cả xã có thể ở được. Các lối đi đều rải lót bằng những viên đá tròn trịa, nho nhỏ, màu thẫm đen. Trong cổ thành đầy những phòng lớn nhỏ. Chắc là ngày xưa, phòng vua chúa, quan quân và cung tần mỹ nữ đều được phòng thủ chặt trong này. Và hiện nay, hàng quán du lịch, cả những khu gái điếm, đèn đỏ đèn xanh, cũng nằm chật bên trong.

                          Lựa một ngày có nắng, trời mát dịu, bạn đưa tôi lên xem trên đỉnh núi Folimot. Đỉnh núi cao, có nhà thờ lớn và cây thánh giá thật to. Từ đây nhìn xuống sẽ thấy được một phần lớn quang cảnh, phố xá của đảo Rodos. Nghe nói, đôi tình nhân ngoại quốc nào du lịch đến đây, nếu sắp đến ngày làm lễ hỏi, sẵn dịp, họ đều lên trên ngôi thánh đường cao trên đỉnh núi này để cử hành cuộc lễ. Họ tin vào một phép mầu nào đó ở đây, cho cuộc tình họ được muôn đời bền chặt. Một niềm tin tốt đẹp!

                          Tôi còn nghe được bạn kể, ở Rodos vào tháng bảy, ngày hè, có những vùng rộng lớn toàn là bướm và bướm. Không biết tại sao, và từ đâu chúng sinh ra, đổ về đây với muôn màu và tung tăng bay lượn. Chắc là như những ngày hội hay ngày Tết xứ mình. Lễ Đền Hùng. Đi Chùa Hương. Tết Nguyên Đán. Cũng đông và mặc quần áo đẹp như vậy.

                          Ngoài ra tôi còn nghe kể về làng treo cổ Kemmati, về dấu tích của bức tuợng người đàn ông trần truồng, thật khổng lồ, nếu không bị động đất chôn vùi khoảng hai trăm năm trước Tây lịch, có lẽ nó được xếp vào một trong những kỳ quan của thế giới. Và nghe nói Rodos cũng đã từng bị động đất chôn vùi, và sau đó lại nổi lên.

                          Ngày cuối cùng trước khi lên phi cơ về lại Đức vào chín giờ đêm, tôi đi dạo phố một lần cuối. Nắng vàng rực rỡ trong ngày. Chóp ngôi thánh đường đạo Hồi ngất ngưỡng, nhưng cô đơn, trong xóm vắng người Thổ. Những hàng cá mực tươi rói được dựng lên dã chiến bên đường để bán cho khách vãng lai. Những chiếc xe lên xuống đồi phản chiếu đầy những ánh nắng như kim tuyến. Hôm ấy nắng thật đầy, khung cảnh thật ấm, nhưng vẫn gợi trong tôi nỗi ngậm ngùi, tự nhủ với lòng rằng nơi đây cũng là nắng ấm, nhưng ấm sao bằng nắng ấm Quê hương...

                          (các trang 97, 98)

                          o0o


                          Một Đêm Ở Genève gồm 11 truyện ngắn gồm có dăm ba truyện tình, vài truyện hiện thực. Nhưng bài Đoản Văn Cho Quê Hương Và Cho Luyến cùng bài Nắng Nơi Đây Cũng Là Nắng Ấm không có cốt truyện dồi dào biến động như các truyện ngắn, nhưng với lối hành văn đẹp, gợi trong ấn tượng độc giả những hình ảnh buồn man mác, chúng có thể thăng hoa và hóa thân thành những bài thơ đẹp bằng văn xuôi.

                          * Nắng Đây Cũng Là Nắng Ấm nói lên chuyến du lịch của tác giả trên đảo Rodos của xứ Hy-lạp, một xứ có niều đảo nhất thế giới. Đây là một bài du ký nho nhỏ nói lên chí phấn đấu lập nghiệp của người bạn tác giả. Khi thoát ly khỏi bức màn tre của Cộng Sản, đương sự bắt buộc phải chọn Hy-lạp làm xứ sở định cư mà đương sự không hề biết tiếng bản xứ cùng phong tục, lối sống và trạng thái tinh thần của dân Hy-lạp.

                          Vậy mà bây giờ đương sự đã là chủ nhân tiệm ăn, có thể nói trôi chảy tiếng Anh, tiếng Hy-lạp. Tuy nhiên tùy theo nhu cầu mùa du lịch, đương sự có thể theo bước chân du khách di chuyển từ đảo này sang đảo nọ trên vùng biển Địa Trung Hải để mở nhà hàng .

                          Xứ Hy-lạp nổi danh từ thời Thượng Cổ có một nền văn minh rực rỡ. Trong lãnh vực văn chương, truyện Thần Thoại Hy-lạp (La Mythologie Grecque) với một ông Thượng đế giả tưởng Jupiter và các vị thần giả tưởng như Nữ thần Thiên hậu Junon, Nữ thần Nhục cảm Vệ Nữ, Nữ thần Hòa bình Hạnh phúc Minerve Nam thần Thái dương Apollon.

                          Nữ thần Thái âm Diane, Nam thần Chiến tranh Mars, Nam thần Ngoai giao và Thương mãi Mercure, Tửu thần Baccus... Tất cả đều ở trên Thiên cung tọa lạc tận tuyệt đỉnh của núi Olympia. Dù là Thượng đế hay thần tiên giả tưởng như Bà Chúa Thượng Ngàn, Bà Chúa Đền Sòng, Cô Ba Thoải Phủ, ông Hoàng Bơ bên Việt Giáo ngoài đất Bắc xứ ta, nhưng trong thói mê tín của dân Hy-lạp thời Thượng Cổ, họ được sùng bái lập đền thờ.

                          Bây giờ trên đất nước Hy-lạp hay trên các đảo nhỏ vẫn còn nhiều di tích đền thờ các vị thần trong thần thoại và truyền kỳ, tất cả đều đổ nát, chẳng hạn như đền thờ Athène (đền Nhã- diển) thờ nữ thần Minerve.

                          Thần thoại cùng Thượng đế và chư thần giả tưởng dù là bịa đặt, dối láo nhưng tất cả kết hợp thành cái nôi vĩ đại và diễm kiều cho các nghệ sĩ đủ bộ môn nghệ thuật bên Âu Châu và tràn qua Mỹ Châu. Ngày nay dân Hy-lạp theo đạo Thiên Chúa Chính Thống (l Orthodoxe). Cho nên về phương diện tín ngưỡng và tâm linh, họ không thích nhắc những bậc siêu phàm giả tưởng ấy nữa.

                          Theo bước nhàn du của Vũ Nam, độc giả chúng ta sẽ thấy xứ Hy-lạp nghèo nàn, sống bằng nghề đón tiếp khách vãn cảnh trong những chuyến du lịch mà thôi. Nhưng Rodos chỉ là một hải đảo trong vùng hải phận của hai xứ sở thù ngịch là Hy-lạp và Thổ-nhỉ-kỳ. Nhưng anh có thể viếng thăm cổ thành, có thể sưởi nắng ấm và hứng gió biển mát mẻ, có thể mường tượng tới bươm bướm từng đàn bay về theo lời người bạn của anh kể.

                          * Đoản Văn Cho Quê Hương Và Cho Luyến tuy là một đoản văn về phương diện hình thức, nhưng lại có tinh thần và phong thái của một bài thơ bằng văn xuôi. Các bạn nữ độc giả nào có tâm hồn được tuới tẩm bằng cơn mưa trữ tình, bằng hơi sương lãng mạn có thể xem đây là một truyện tình với một cuộc tình mới tượng hình mà chưa kịp thành hình để rồi tan biến trong thời cuộc nhiễu nhương.

                          Cốt truyện chẳng có gì hấp dẫn đâu. Tác giả không cho độc giả biết tình yêu của nhân vật xưng anh (có thể là tác giả) với cô giáo tên Luyến xảy ra từ lúc nào. Nhưng khi từ Sài Gòn về Bà Rịa trên chuyến xe đò, nhân vật xưng anh đã gặp Luyến cưỡi xe đạp ngược gió về tỉnh. Hình ảnh đó ghi một ấn tượng sâu đậm vào ký ức đuơng sự.

                          Xe chạy qua rồi anh còn cố gắng quay lại nhìn em. Và chắc một điều là em không bao giờ thấy anh. Xe chạy bằng máy nên nhanh quá, trong khi đó em phải dùng sức để lăn chuyển bánh xe của đời em thì làm sao nhanh được. khi em từng biết em là kẻ chân yếu tay mềm! Vì thế mà không bao lâu sau đó em đã bỏ đất nước này, bỏ thị xã nhỏ bé đó để lên đường ra biển.

                          Ngay chiều hôm ấy anh muốn kêu người tài xế cho anh xuống để cùng đạp với em trên quãng đường còn lại, như anh đã từng ao ước được đạp cùng với em những chông gai cho cả cuộc đời của hai đứa mình, nhưng sao anh lại cứ ngập ngừng y như ngập ngừng không dám nói lời cầu hôn với em, và chiếc xe đạp cứ lao đi chứ có chờ đợi ai đâu!

                          Phải chi anh xuống để đạp chở em đi một đoạn đường, chắc có lẽ anh đã biết ý định của em sẽ ra đi trong những ngày sau đó. Dù sao thì nếu biết trước anh vẫn thấy đỡ xót xa hơn, lòng đỡ quặn thắt hơn.

                          (các trang 68, 69)

                          Đó là buổi gặp gỡ sau cùng của cả hai. Nhưng Luyến không thấy đương sự trong xe. Rồi Luyến vượt biên. Sau đó đương sự cũng vượt biên. Luyến định cư trên đất nước Hợp Chúng Quốc, còn đương sự định cư trên nước Đức. Nhưng suốt 18 năm qua, mỗi lần viéng các tiểu bang đông đúc kiều bào, đương sự có thể gặp dân vùng ven biển Bà Rịa.

                          Trong vùng đó có cái ấp sinh quán của anh là ấp Nước Ngọt mà anh thường gọi một cách âu yếm là Quê Hương Nước Ngọt Nhưng không bao giờ anh gặp lại Luyến. Nàng đâ trở thành bóng chim tăm cá trong cuộc đời anh mất rồi!

                          * Những Áng Mây Ngày Cũ không phải là một truyện ngắn mà là một đoạn hồi ký tuổi thơ và tuổi hoa niên của tác giả lồng trong cái bối cảnh vào thuở bình minh cuộc nội chiến Quốc Cộng. Ở giai đoạn đầu, gia đình tác giả ở ấp Nước Ngọt thuộc xâ Long Hải, một vùng bất an ninh mà có một dạo dân chúng Miền Nam Việt Nam gọi là vùng xôi đậu. Ông trưỏng ấp bị Việt Cộng buộc phải bỏ chức trưởng ấp.

                          Nhưng ông ta không nghe lời bọn hắn nên bị bọn hắn chém đầu. Còn cha tác giả thì bị ở tù vì tội bán nhu yếu phẩm cho Việt Cộng. Vào lúc tác giả 7 tuổi, gia đình anh phải bỏ ấp sang định cư tại xã Long Hải, nơi đây thuộc vùng được phe Quốc Gia kiểm soát, nên tương đối an ninh hơn. Mẹ tác giả phải bương chải buôn gánh bán bưng để nuôi năm đứa con (bốn gái một trai).

                          Sau một năm ngồi khám, cha tác giả được trở về với gia đình, làm nghề đi biển. Khi có vốn khá, ông mới mở tiệm bán cà phê cho dân vùng biển. Và khi Phước Hải trở thành vùng xôi đậu thì bọn Việt Cộng đêm đêm về thu thuế cư dân, bắt họ đi dân công. Có người bị bắt đi luôn. Có kẻ được cho về nhà, trong số người được may mắn có một người chị của tác giả.

                          Dù sống trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng của một góc trời nhỏ bé tưởng chừng như bị thế nhân lãng quên ngờ đâu lại bị xáo trộn trong giai đoạn nhiễu nhương của lịch sử, vậy mà tác giả vẫn vui sống, hồn nhiên hưởng một thời thơ ấu thơ mộng bên bờ vùng biển mặn.

                          Nhưng tai họa gia đình chưa chấm dứt đâu. Người chị thứ tư của anh, một cô nữ sinh lớp Đệ Lục chết vì chứng bịnh phong đòn gánh (người Bắc thì gọi là sài uốn ván). Rồi cuộc sống lại tiếp tục sau một thời gian tang tóc. Tác giả cùng trẻ nít xóm giềng bày nhiều trò chơi hấp dẫn, cùng dàn trận đánh lộn với lũ chăn trâu.

                          Trong khi đó, chung quanh họ thời cuộc tiếp tục căng thẳng. Lại thêm một sự bất hạnh. Người chị trưởng trong gia đình sinh một lượt ba đứa bé gái, nhưng chúng chỉ là những hài nhi hữu sinh vô dưỡng.

                          Thời hoa niên của tác giả chấm dứt khi anh học xong lớp Đệ Lục. Thế là anh phải lên tỉnh Bà Rịa tiếp tục học hành. Nhưng đất nước lại càng xảy ra nhiều cơn khủng hoảng khi chiến tranh toàn thể Miền Nam Việt Nam càng ngày càng gia trọng.

                          o0o


                          Những truyện ngắn trong Một Đêm Ở Genève thường lấy đề tài những người đàn ông chạnh nhơ tình xưa, tìm về kỷ niệm bên cạnh người yêu đầu đời. Kỷ niệm được gói trong cuộc tình ít khi tạo cơ hội cho tác giả có cái nhìn rộng lớn phóng chiếu lên cuộc sống phồn tạp và đa dạng.

                          Nhưng Vũ Nam vẫn làm cho chúng ta bàng hoàng trước lớp sóng phế hưng dâu bể kéo tràn lên lịch sử dân tộc ta để chúng ta hoài niệm đến bài Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan với hai câu thơ: Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt / Nước còn cau mặt với tang thương .

                          * Truyện ngắn cùng tựa với tập truyện Một Đêm Ở Genève nói về mối tình giữa nam nhân vật tên Thanh và nữ nhân vật tên Phương lớn hơn Thanh 4 tuổi Thưở ấy Thanh 15 tuổi nên Phương xem đương sự nhu một cậu em ngoan. Còn Thanh yêu nàng bằng mối tình đơn phương thầm kín. Trong cuộc cắm trại, Thanh được Phương cho ngủ chung, Nhung rồi:

                          Nửa đêm, không biết có phải từ giấc mơ, hay một hành động vô tình Thanh ôm ấp chị Phương trong người, bàn tay tìm kiếm... Khi chị Phương tỉnh giấc, cậu bé cũng chợt tỉnh từ cơn mơ. Từ đó, kể từ đêm đó chị Phương không bao giờ nói chuyện với Thanh nữa. Khi đi ngang qua nhà Thanh chị chỉ cúi đầu để đi.

                          (trang 16)

                          Rồi đó, cả hai cùng bước vào đời, dĩ nhiên chuyện cũ cũng đã bị mài dũa hết những sần sượng gai góc, những góc cạnh thô nhám và tác giả cho biết: ...

                          Mỗi khi hai người gặp nhau, chị Phương làm như đã quên chuyện cũ, chuyện trò đằm thắm với Thanh như thuở nào. Còn Thanh, lần vuốt ve chị Phương trong đêm tối như một vết thẹo. Vết thẹo đầu đời, trần tục, đớn đau.

                          (trang 17)

                          Sau đó Thanh cưới vợ cùng trang lứa với chàng. Chị Phương kết hôn với một sĩ quan hải quân. Sau khi Mièn Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng quân miền Bắc, chồng chị Phương bị đi học tập cải tạo, chết trong tù. Thanh cùng vợ con vượt biển truớc, sang định cư bên Tây Đức.

                          Còn chị Phương vượt biên sau, được người bạn chồng bảo lãnh nên chị định cư bên Thụy-sĩ. Chị kết hôn với đương sự. Chị viết văn, xắn từng mảnh đời khổ lụy của mình đưa vào tập truyện ngắn của mình. Hôm chị ra mắt sách có mời Thanh qua Thụy-sĩ tham dự.

                          Sau đó, Thanh được vợ chồng chị mời về nhà nghỉ ngơi. Tối hôm đó vào lễ Quốc Khánh của nước Thụy- sĩ, hai chị em cùng xem lễ đốt pháo bông. Chị Phương kể lể chuyện đất nước cùng chuyện gia đình của mình cho Thanh nghe.

                          Hôm sau, Thanh về nhà vào lối 10 giờ tối, bắt gặp mọt cảnh tuợng kỳ thú:

                          ... Cả nhà đã đi ngủ. Chỉ cậu con trai mười bốn tuổi còn thức, đang đứng bên cửa sổ nhà nhìn xuống đường xem hai cô gái Đức khoảng mười sáu tuổi đánh vũ cầu. Trời mười giờ, trong mùa hè chưa tối hẳn, nhưng đèn đường đã được bật lên, ánh sáng đèn đường vàng chiếu rọi xuống con suối bên cạnh nhà, phản chiếu lại làm khung cảnh chơi của hai cô gái đẹp lạ lùng.

                          Cậu bé hơi ái ngại khi thấy ba mình bắt tại trậnmình đang nhìn trộm hai cô gái. Thanh lại bắt gặp hình ảnh mình qua hình ảnh đứa con trai cách đây hai mươi lăm năm. Nhưng ở dưới kia không ai là chị Phương cả! Thanh mong sao con trai mình đừng có những mộng mị tầm thường như mình khi tuổi vừa mới lớn.

                          (trang 37)

                          Cái đề tài mối tình ngây thơ của cậu bé trai đang độ hoa niên yêu cô thiếu nữ lớn tuổi hơn mình đã có nhiều nhà văn khai thác rồi. Ở đây, tác giả Vũ Nam dàn dựng một chị Phương có thái độ úp mở cực kỳ quyến rũ. Chị có thực tình giận Thanh sau đêm ngủ chung không? Hay chỉ là phản ứng bề ngoài của cô thiếu nữ con nhà lễ giáo?

                          Cớ sao chị lại quay mặt lạnh nhạt với Thanh lúc đầu để rồi sau đó ít lâu lại đối xử với Thanh thật hồn nhiên thân ái như thuở trước? Tác giả để độc giả tự phán đoán lấy. Mỗi người có một phán đoán riêng, một giải thích riêng. Do đó truyện ngắn có một chiều sâu hun hút và tâm hồn chị Phương có một chút bí mật kỳ diệu riêng.

                          * Truyện ngắn Buổi Chiều Trên Thành Phố Lạ cũng vẫn là một chuyện tình xa xưa mà đôi tình nhân gặp lại nhau dưới bầu trời nắng ấm Nam Cali. Sau khi đất nước đổi cờ, cả hai cùng vượt biên. Ngữ, nam nhân vật định cư bên Thụy-sĩ, sính làm thơ, nhưng tác giả không khẳng định nghề tay mặt của chàng là nghề gì.

                          Thiên, nữ nhân vật định cư ở Nam Cali. Nàng là vợ một doanh thương khá giả. Nàng phiền muộn vì ông chồng không bao giờ tìm hiểu nỗi niềm cô đơn của nàng. Cho nên nàng tìm sự an ủi ở mối tình xưa qua sự trao đổi thư từ với Ngữ. Tối hôm đó, nàng muốn chàng nghỉ đêm ở nhà vợ chồng nàng. Nhưng chồng Thiên có thể vì ghen một phần, nhưng cũng muốn cắt đứt những giây mơ rễ má đang vướng víu loạn xạ trong trái tim của Thiên nên bảo Ngữ:

                          - Từ lâu tôi đã có đọc đưọc thư từ qua lại của anh và nhà tôi, dù nhà tôi cố giấu. Lúc đầu thì tôi hơi ghen, nhưng thú thật với anh rồi từ từ tôi thấy không có gì để ghen tức nữa. Nhà tôi cứ sống trong mơ mộng. Gặp anh cũng là người mà theo tôi chỉ biết mộng mơ. Nhà tôi âm thầm chê tôi là người kém hiểu biết hơn nàng, thì ắt hẳn phải khen anh.

                          Nhưng anh đến đây rồi anh mới thấy. Ở Mỹ không chỉ khư khư ôm chuyện mơ mộng, chuyện văn chương làm lẽ sống. Phải thực tế một chút chứ! Con cái đã lớn rồi. Nhưng cái tôi không ngờ là anh cũng cố gắng ghé thăm vợ tôi, trong khi đáng lẽ anh không nên ghé thăm. Có ích lợi gì? Đúng như trong thư anh hay viết hai chữ phù phiếm.

                          Đúng, anh phù phiếm lắm! Hôm nay tôi về trước một giờ là để muốn cho anh một bài học. Có thể chuyện viết thư tôi dở hơn anh, nhưng chắc chắn là tôi không mơ mộng lẩm cẩm như anh đâu. Vợ của người khác mà các anh cũng đem lòng thương nhớ mới thật là kỳ. Những mối tình thời học sinh ai lại không có, bao giờ lại không đẹp. Nhưng đừng có lấy nó để làm tan hoang hạnh phúc hiện tại của kẻ khác...

                          (các trang 52, 53)

                          Cái tình ý ẩn giấu sau lưng mặt chữ của câu chuyện là cái mơ mộng phù ảo đẹp lộng lẫy chạm trán với cái thực tế cứng cỏi, thô tháp và phũ phàng. Cái bạc nhược làm sao chống chọi nổi với cái thô cứng? Cho nên Ngữ đành trở về khách sạn mà chàng đã thuê phòng trước khi tìm gặp Thiên. Chàng không hờn chồng Thiên, chỉ giữ lại trong ký ức mình giọt nước mắt của Thiên vào phút đầu tiên gặp chàng.

                          * Truyện ngắn Tìm Lại Hư Không là tryện tình thơ mộng ở 4/5 câu chuyện. Phần còn lại là câu chuyện có thể là quái dị mà cũng có thể là nói lên cái ám ảnh hay cái tự kỷ ám thị của nam nhân vật chính.

                          Truyện rằng từ Âu Châu (tác giả không nói rõ nước nào) Đạt qua Houston (tiểu bang Texas) rồi đến tiểu bang Florida để tìm Xuyén, người tình cũ của chàng khi cả hai còn ở Bà Rịa. Đây cũng là dịp chàng tìm một cuộc tình mà đoạn cuối lại có cảnh ly tan.

                          Xuyến có chồng một sĩ quan Hải Quân, để rồi sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm Miềm Nam Việt Nam, cả hai (Đạt và Xuyến) lạc loài nhau, mỗi người định cư trên một đất nước riêng trong bốn phương trời hải ngoại. Tìm người yêu cũ vẫn là vấn đề then chốt trong cuộc bút trình của Vũ Nam. Nhưng sau lưng những nhân vật thường có bối cảnh Bà Rịa lót nền và chung quanh họ nổi bật biết bao kỷ niệm của ngày xưa thân ái, của cuộc tình đầu đời thơ mộng trong vùng trời nước bao la:

                          Thị xã nhỏ bé Bà Rịa lại trở về với Đạt. Hình ảnh Xuyến lại trở về. Những con đường nhỏ có lá me bay. Với Phòng Thông Tin đầy én lượn. Thị xã tí hon nầy như một nhịp cầu cho khách nhàn du trong những ngày cuối tuần khi từ thành phố Sài Gòn muốn đi về tắm biển Vũng Tàu, Long Hải. Khách nhàn du qua rồi lại, đến rồi đi, chớ ít có ai để ý hay nhớ gì đến nó một khi đã đi qua. Và chỉ ai có lớn lên trong cái thị xã bé nhỏ này, khi xa nó mới nhớ đến nó.

                          Cũng giống như ai đã từng lớn lên ở Vũng Tàu, Nha Trang thì khi xa lại nhớ về miền thùy dưong cát trắng, có sóng biển nhấp nhô, với Hòn Chồng, với Cầu Đá...; ai đã ở Đà Lạt mới nhớ đến những đồi thông, thác nước, bầu trời buổi sáng ẩm ướt mù sương...

                          Còn Đạt và Xuyến chắc khi nhớ đến Bà Rịa duy chỉ còn nhớ đến những con đường nho nhỏ, những hàng quán im lìm, thơ mộng, thậm chí có một vài hàng quán trông tồi tàn với những ngọn đèn trong đêm hiu hắt: tiệm hủ tiếu, quán chè, quán cà phê, và những con đường, công sở, tàn cây, ngôi trường học..., đâu đâu trong thị xã vẫn nổi hằn nét nhỏ nhắn, bình dị, êm đềm.

                          (trang 151)

                          Tại một thành phố biển của tiểu bang Florida, Đạt và Xuyến vừa dạo chơi vừa ôn chuyện cũ. Nhưng khi tới chỗ người câu cá sát ven tưòng, Xuyến giục chàng rời khỏi ngay. Nàng kể luôn, cũng tại chỗ này, nàng đã xô chồng mình xuống biển lởm chởm đà để giết chết chồng.

                          Thế rồi trong chuyến trở về nhà, Đạt chớt thấy một cảnh tượng quái dị:

                          Đạt đâm ra sợ như không còn muốn ngồi gần bên Xuyến nữa. Trong bóng đêm giờ Đạt tưởng tượng ra chắc gương mặt Xuyến bây giờ mang vẻ hung tợn lắm. Với giọng nói có âm hưởng cộc cằn, dữ tợn. Chàng vì uất ức, dù là sợ nhưng cố làm gan để hỏi Xuyến cho ra lẽ:

                          - Nhưng tại sao em lại giết Tường?

                          - Tại ảnh đào hoa quá! Hết cô tình nhân này, đến cô tình nhân khác. Tại vì ảnh đã phụ bạc em. -- Té ra mọi chuyện cũng chỉ vì tình. Nhưng em có thể xin ly di kia mà.

                          - Thôi bỏ chuyện cũ đi. Chuyện dông dài. Ly dị với không ly dị. Trời đã khuya rồi. Hay bây giờ anh muốn xuống lại biển?

                          - Thôi cô! Tôi sợ biển rồi!

                          - Ha...ha... ha.

                          Giọng cười Xuyến, Đạt nghe sao lảnh lót!

                          Chiếc xe bỏ cảnh biển ban đêm sau lưng. Đến một khúc quanh, đường không còn một ánh đèn, trong xe tối như đêm ba mươi, Đạt quay qua thấy người ngồi bên cạnh mình bây giờ không phải là Xuyến nữa, mà là Tường. Rõ ràng là Tường. Mặt đầy máu me. Đạt ú ớ la lên.

                          (các trang 164, 165)

                          Đây là một truyện ngắn tuyệt vời trong những truyện ngắn hay nhất của Vũ Nam. Nhưng nó làm cho chúng ta bàng hoàng dao động tâm tư nếu không bảo là thảng thốt kinh dị ở đoạn cuối. Đứng chung với các truyện ngắn êm đềm, buồn bã và thơ mộng khác, nó có vẻ lạc loài thế nào ấy! Có lẽ anh nên xếp nó vào cuốn tập truyện khác gồm toàn những truyện dị thường (contes extraordinaires) hay truyện quái dị (contes fantastiques) thì đúng chỗ hơn.

                          * Truyện ngắn Những Vì Sao Lạc nói về cái đam mê của ông Tham đối với một thiếu phụ trẻ đẹp người Đức tên Himmel. Số là Himmel, Tâm và ông Tham cùng làm việc trong hảng Hugo. Cả ba đều có gia đình.

                          Nhưng Himmel có tánh đong đưa, bắt tình với Tâm cùng trang lứa với nàng. Tâm thạo khoa ăn nói, thạo viết thư tình rất mùi mẫn du dương. Còn ông thì nhút nhát. Himmel có một cuộc sống song đôi (double vie) rất kỳ lạ. Xin đọc :

                          ... Lúc ở nhà Himmel xứng đáng là một người vợ, người mẹ, ai cũng nói như vậy. Trong hảng nàng có tiếng là người nữ công nhân tốt, siêng năng và đầy trách nhiệm. Nhưng nếu là người tình trong đêm họp mặt cuối năm vui chơi trong hãng, hay những đêm về nơi quán vắng cùng những bạn đồng nghiệp, mà trong đó có hiện diện một bóng người tình thì sao ? Mọi người đều cho rằng Himmel rất tuyệt vời trong tất cả các vai, và vì thế nếu nàng có bị chồng ghen thì ít hay nhiều cũng có cái lý do của nó !

                          Nàng yêu Tâm, Tâm yêu nàng, cả hai đều biết, ai ai trong hãng cũng đều biết, dù họ có lén yêu nhau. Nhưng nàng sẵn sàng lả lơi liếc mắt đưa tình ngay với một người đàn ông đồng nghiệp nào đó, nếu ông ta hoặc anh ta tỏ ra quá si mê nhan sắc nàng, ngay cả trước mặt Tâm hoặc các xếp lớn. Đến đỗi đôi khi Tâm còn phải tâm sự với ông Tham, nàng có quyền yêu bất cứ ai nếu nàng thích, mình có phải chồng nàng đâu mà ghen...

                          (các trang 136, 137) ...

                          Nghe Tâm kể, lúc anh còn làm việc ở đây, đã có lần anh rủ Himmel đi Paris chơi trong hai ngày cuối tuần, nhưng nàng không bằng lòng. Nàng nói với Tâm : Tôi rấr sợ đi xa như vậy vì ông xã tôi ghen ! Chúng mình chỉ yêu nhau trong giới hạn ! Cũng như Tâm đã thất vọng khi hẹn sẽ gặp Himmel vào một ngày hè nào đó trên bờ biển ở đảo Kreta của Hy-lạp, vì theo Himmel đó là một sự phiêu lưu mạo hiểm cho Tâm, cả cho nàng.

                          Tâm vội bỏ Đức Quốc, bỏ Himmel, mang vợ con đoàn tụ với cha mẹ ở Úc theo diện di dân như thể trốn chạy những lời trêu ghẹo có thể xảy ra của bạn đồng nghiệp trong hãng. Hoặc trước sau gì mọi việc rồi cũng đến tai người vợ đã cùng chung với mình vui buồn, chăn gối trong gần mười năm qua.

                          (các trang 138 ; 139)

                          Tâm bỏ đi, rồi Himmel cũng đổi chỗ làm vì tiếng đồn bất lợi lan rộng trong hãng. Ông Tham chuẩn bị ve vãn nàng, thường đến thăm nàng ở một siêu thị mà nàng làm việc với chức vụ bán hàng. Lần sau cùng, khi nàng tan việc trong ngày, ông rủ nàng đi uống cà phê thì nàng hẹn hôm khác. Nhưng...

                          ... Trước khi chia tay, như một sự lợi dụng mơ hồ, ông nắm vội bờ vai Himmel, để đôi má hơi nhăn nheo của mình lên đôi môi hồng hào son phấn của nàng. Nàng chấp nhận thật an nhiên với nụ cười thật tươi. Có thể nàng xem đó như một nụ hôn từ giã, hay một dấu hiệu mối tình vừa chớm nở. Nhưng cùng lúc ấy cặp đèn xe của người nào sáng hoắc rọi thẳng vào hai người đang đứng.

                          Một người đàn ông Đức to lớn bước xuống xe và tiến lại phía hai người. Himmel nói nhỏ : mein Mann ! Chồng tôi ! Ông tham chỉ còn kịp nghe người này nói với ông một câu : Ông T..T..a..a..m, tôi nghe đến ông lâu rồi nay có dịp gặp ! Chào ! Hẹn tái ngộ! Sau đó chồng Himmel nắm tay Himmel dẫn nàng đi khuất vào bóng đêm. Ông Tham không nhận ra kịp chồng Himmel đã kêu tên ông hay tên Tâm. Trong đời, chưa bao giờ ông thấy đêm nào trời lạnh như đêm nay ! Trên trời, mùa đông không có sao, nhưng ông thấy hình như có một vì sao vừa băng.

                          (trang 146)

                          Người Âu Châu hay Hoa Kỳ đều gọi tên Tâm và tên Tham bằng Tham như nhau. Ở đây, có lẽ Himmel thường hay nhắc nhở Tâm hoặc nhắc nhở ông Tham hay nhắc nhở cả hai trước mặt chồng mình, coi như nhắc nhở những người đồng nghiệp, thế thôi. Sau khi vợ chồng Himmel đi khuất, ông Tham có thể nghĩ rằng mình gỏ cửa gọi Tình Yêu không đúng chỗ vì mình tìm sai địa chỉ nên không tới gặp ngôi đền Tình Ái mà chỉ gặp nhà xác.

                          Nhưng tác giả lại cho biết, sau khi đặt má mình kề đôi môi Himmel, ông Tham lẫn Himmel bàng hoàng. Độc giả cũng bàng hoàng theo họ. Ông Tham bàng hoàng vì say tình. Himmel bàng hoàng vì lẽ gì không ai hiểu rỗ. Con độc giả bàng hoàng vì băn khoăn tự hỏi, cử chỉ đột ngột của Ông Tham liệu có chinh phục trái tim Himmel không? Hay là nàng cảm ứng động tình trong giây phút ngắn ngủi để rồi sau đó nàng lấy lại sự thăng bằng cho chính mình. Himmel không phải là gái cao sang quyền quý hoặc có học vấn cao hay có trình độ kiến thức vượt bực hơn kiến thức các cô gái thuộc thành phần trung lưu cấp thấp.

                          Nàng không nết na, khi ra khỏi nhà và khi tan sở là hiện nguyên hình một phụ nữ thác loạn về tình dục (la nymphomane) . Nàng có thể nhận biết mối tình si của ông Tham mỗi lần ông đến thăm viếng nàng. Nhưng nàng không tỏ thái độ gì ngoài sự ân cần thân mật. Không ai có thể hiểu nàng cho nên không ai có thể đoán đưọc số phận cuộc giao du của cả hai sẽ có sắc thái gì khác hơn và sẽ kéo dài được bao lâu. Hay tới đây cái thọ mạng nó coi như chấm dứt ? Đây là một kết cuộc lửng lơ con cá vàng rất thú vị.

                          o0o


                          * Truyện ngắn Cuối Xuân là câu chuyện thời đại. Mừng và Hà gặp nhau ở Tiệp-khắc. Cả hai cùng là lao nô, đồng hội đồng thuyền, đồng thanh tương ứng nên yêu nhau. Trong khi đó, Mới, hôn thê của Mừng ở quê nhà vẫn kiên trinh đợi ngày chàng về sẽ kết hôn với mình.

                          Ở khách địa, Mừng bị tai nạn xe cộ, phải nằm nhà thương và khi xuất viẹn được Hà ân cần săn sóc. Sau đó cả hai từ Tiệp chạy sang Tây Đức khi bức tường Bá-linh sụp đổ. Nhưng chánh phủTây Đức phải trả chàng về Việt Nam, còn Hà được ở lại vì có người đàn ông Đức cưới nàng làm vợ. Mừng về quê, tưởng rằng Mới sẽ mừng ở cuộc tái ngộ trùng phùng. Nhưng Mới bảo:

                          Chị Hà nào đó có viềt thư cho tui ! Tui có ý định gặp anh mới nói. Bây giờ tui rút lại lời hứa hẹn của tui lúc truớc ới anh, để anh yên tâm. Chị Hà nói chỉ lấy chồng Đức vì việc riêng của chỉ, nếu hợp chỉ ở, còn không chỉ sẽ xin ly dị. Khi đó chỉ sẽ bảo lãnh anh qua Đức đoàn tụ.

                          Chỉ mong tui nhường anh lại cho chỉ hoặc chờ chỉ vì chỉ thật lòng thương anh, có nhiều kỷ niệm với anh từ lúc hai người còn ở Tiệp lận. Tui thấy giải quyết như vậy là tốt nhất. Đời sống của một người như anh, ở đây rất khổ. Anh biết ở đây, bây giờ mà ! Ở Đức còn hơn. Tui quyết định là sẵn sàng hy sinh...

                          (trang 62)

                          Mừng có hai người tình tuyệt vời. Cuộc đời dưới mắt Vũ Nam dù có móng vuốt chông gai cũng được cái nhìn nhân hậu của anh chà láng. Truyện thì ngắn, phần kể ruyện hơi lấn lướt phần miêu tả, nhưng đọc đến đâu chúng ta đều ngậm ngùi đến đó. Nhưng trong nỗi dao động se sắt của tâm tư, lòng chúng ta dấy lên khúc hoan rộn ràng niềm tin yêu đối với thế nhân nói chung đói với dân tộc ta nói riêng.

                          Những truyện ngắn ở phân đoạn trên lấy bối cảnh ở ngoại quốc. Truyện ngắn Một Đêm Ở Genève lấy bối cảnh ở Thụy-sĩ, còn những truyện ngắn kia lấy bối cảnh tren đất nước Hợp Chúng Quốc như Nam California, Texas, Florida...

                          Những truyện ngắn còn lại lấy bối cảnh trên đất nước Việt Nam. Nhưng truyện ngắn Cuối Xuân chỉ lồng bối cảnh Việt Nam ở phần cuối, còn các phần đầu lại lấy bối cảnh bên Tây Đức. Tuy nhiên, các bối cảnh nầy không hiện trước mắt độc giả bằng những nét tạo hình.

                          Nó chỉ được nhắc nhở ở một vài câu sơ sài. Tác giả chỉ lo săn sóc cốt truyện tình sao cho ướt át tâm sự, sao cho tâm hồn nhân vật thêm cao thượng nên anh hơi rẻ rúng phần miêu tả. Khi Mừng hồi hương về nơi chôn nhau cắt rún, tác giả cũng không nói rõ ở địa danh nào.

                          Xin cùng đọc đêm Mừng và Hà từ biệt nhau, cùng ngắm những nét tạo hình trên bức tranh vẽ bãi đất trống, nơi hẹn hò của cặp tình nhân ấy. Bức tranh được diễn tả bằng lối phác thảo nguệch ngoặc nhưng vẫn ghi sâu vào ấn tượng người đọc vì trong cảnh có tình, trong tình có lồng bối cảnh :

                          ...Tuyết trắng xóa còn đọng cả khu vực. Xa xa đám trẻ nhỏ Đức đang ồn ào với trò chơi trượt tuyết. Nhưng nơi hai người đang đứng thật yên tĩnh và lạnh. Mừng nắm tay dẫn Hà vào nơi căn nhà gỗ nhỏ nơi để trẻ em trốn những cơn mưa bất thần. Lúc đầu anh chỉ nghĩ nơi này kín đáo, dễ dàng cho hai người tâm sự, nhưng khi vừa vào trong lều, như có sức mạnh vô hình nào thật mãnh liệt lôi kéo anh sa ngay vào thân thể Hà.

                          Anh để nụ hôn dài trên môi cô. Anh hồ đồ ham muốn vì anh biết anh không còn dịp nào nữa để gặp Hà khi cảnh sát Đức đến trại chở anh đi ra phi trường trong ngày mai như họ đã gửi giấy hẹn. Hà đứng yên chấp nhận nụ hôn thật bình thản, y như chấp nhận cuộc hôn nhân mới trong nay mai khi Mừng rời khỏi đất nước đầy sương tuyết này để trở về vùng nắng ấm.

                          Rời căn nhà gỗ, đêm ấy hai người cứ đi lang thang ngoài đường dù trời đang lạnh cắt da. Đi để mà đi chớ không có mục tiêu. Gặp một chòi tranh trong vườn ai họ ngừng lại vào trong, rồi ôm nhau hôn hít, trò chuyện. Sau đó hai người lại tiếp tục đi trên những bờ ruộng.

                          Càng xa đường xe chạy càng tốt. Gặp những cuộn rơm, mặc dù chung quanh đóng đầy tuyết, họ cũng ban sạch tuyết rồi ngồi xuống dựa vào, lại tiếp tục hôn hít, trò chuyện. Cảm giác họ như là trời không bao giờ sáng, mặt rời sẽ không lên, và đêm sẽ xuyên suốt. Trong đêm, những âm thanh từ xa thỉnh thoảng vọng về nhưng vẫn không kéo được hai người về thực tại phũ phàng của ngày mai đang chờ đón.

                          (các trang 60, 61)

                          * Truyện ngắn Gánh Chè Ngày Cuối Năm nói lên tấm lòng lưu luyến của người tình cũ. Thoa là cô gái thuộc giai cấp bình dân, tuy muốn thành đào hát cải lương, nhưng vì không có tiền trả học phí cho lớp đào tạo ca cổ nhạc nên chị đành dẹp mộng đẹp qua một bên, cam phận bán chè độ nhật. Thoa và Liêu yêu nhau. Trước ngày 30/4/1975 vài hôm, Liêu rủ Thoa vượt biên. Nhưng Thoa từ chối.

                          Liêu đã chạy đi Mỹ vào ngày hai mươi tám tháng tư năm bảy mươi lăm. Ngày đó anh có rủ chị nhưng chị nào có chịu đi. Đã cưới hỏi gì đâu mà theo trai nhu vậy, ông bà già la chết. Bác Sáu cũng biết việc của chị và con trai bác, nên sau ngày đó mỗi khi gặp mặt, chị và bác chào hỏi bình hường, nhưng đặc biệt chị chưa bao giờ hỏi tin túc gì về Liêu, con của bác. Chị coi đó là chuyện của quá khứ.

                          (các trang 79, 80)

                          Nhưng rồi sau 20 năm xa đất nước, Liêu về quê nhà thăm mẹ, đem cả vợ con theo để ăn một cái Tết đoàn viên. Thoa bán chè đi ngang qua nhà bác Sáu. Vợ chồng và con cái Liêu kêu mua chè. Thoa không nghĩ ngợi xa xôi gì hơn là bán chè, không buồn tiếc vì để lỡ cơ hội theo Liêu sang Mỹ và để được làm vợ Liêu. Nhưng Liêu lựa lúc vợ vắng mặt, tăng 100 Mỹ kim cho Thoa.

                          Năm sau Liêu không về xóm cũ ăn Tết, nhưng anh không quên người tình đầu của mình. Cũng vào ngày cuối năm, Thoa gánh chè ngang qua nhà bác Sáu, vẫn không nghe có tiếng ai gọi mua.

                          Thế là cái hy vọng của chị đành tieu tan theo mây khói! Chị lại cảm thấy mắc cỡ. Nghèo mà ham ! Chị tiếp tục gánh chè đi, đành bỏ nhà bác Sáu lại sau lưng. Thình lình bác Sáu từ trong nhà người hàng xóm kế bên nhào ra chận đường chị lại :

                          - Thoa ! Chờ bác một chút ! Có cái này cho cháu đây.

                          Chưa hết giây phút ngạc nhiên, bác Sáu vừa vô nhà lại ra ngay, trên tay có cầm cái bao thơ :

                          - Đây, của thằng Liêu gởi cho cháu. Định nhờ người mang qua nhà cháu thì cháu tới. Thiệp chúc Tết... lại có... Thôi, cháu mở ra rồi sẽ biết. Bác chúc cháu vui vẻ trong năm mới nha. Bác phải vô ngay để mấy bả khỏi chờ. Đánh tứ sắc cho vui trong ba ngày Tết mà cháu.

                          Gánh chè rời khỏi nhà bác Sáu, lựa một chỗ vắng rồi chị Thoa mới dám đứng lại để mở bao thơ ra coi. Chị hồi hộp quá chừng. Bỗng nhiên chị hoa mắt bởi tờ giấy bạc một trăm Đô mới tinh, được kẹp trong tấm thiệp xuân màu mè xanh đỏ.

                          Bên cạnh một tờ giấy trắng nằm riêng, trong đó có tuồng chữ của Liêu: Trong năm nay anh phải về quê vợ để ăn Tết, ở Sa Đéc lận! Anh có nghe ba má kể về hoàn cảnh của em từ năm ngoái. Vì tình cũ nghĩa xưa, năm nay anh lại gửi tặng em một trăm Đô để ăn Tết. Chúc em năm mới nhiều vui vẻ với chồng con. Anh Liêu. Người tình cũ.

                          (các trang 83, 84)

                          Trong truyện Gánh Chè Ngày Cuối Năm, chúng ta cũng không biết nơi ăn chốn ở của cô Thoa tại đâu. Có lẽ đó là chốn thị thành sầm uất kẻ bán người buôn, như thủ đô Sài Gòn hay như tỉnh lỵ nào hoặc như quận lỵ nào đó.

                          Chuyện nghĩa cũ tình xưa thường làm cho độc giả ngậm ngùi, man mác, nhất là phải đẹp phải thủ sẵn khăn mù-soa để lau nước mắt. Nhưng nếu tác giả gán cho Thoa cái tâm trạng lưu luyến tình xưa thì câu chuyện rập khuôn với mọi tác phẩm văn chương theo ý tình hai câu ca dao: Tóc mai sợi ngắn sợi dài / Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm. Đằng này, chị ta chỉ nghĩ tới bán hết nồi chè và được tặng tiền. Cuộc sống thiếu thốn vật chất biến đổi con người có tâm tình gọn gàng đơn giản như thế sao?

                          Nhân vật Thoa không làm cho độc giả phải tốn công xót xa ai hoài lâu lắc đậm đà. Nhưng chúng ta vẫn buồn bã vì lý do: chế độ xô đẩy dân tộc nghèo đói, nên mài dũa khá nhiều nhân phẩm con người hà huống chi tâm sự, tình cảm của thời yêu đương hoa mộng cũ. Nhân vật Liêu xuất hiện trước gánh chè chỉ nói chuyện với vợ và nháy mắt với Thoa. Nhưng trong khi ăn chè, anh buồn bã xót xa.

                          Thái độ đó cùng bức thư kèm theo tờ giấy 100 Mỹ kim và tấm thiệp xuân cũng đủ giúp độc giả vui vẻ ăn Tết nếu truyện Cuối Xuân này được đăng trên bất cứ tờ đặc san Xuân nào. Qua truyện ấy, Liêu chiếu sáng trong tâm tư độcgiả một người tình tuyệt vời. Nhân vật này xuất hiện thì ít, chỉ được nhắc nhở loáng thoáng đôi ba dòng trong câu chuyện kể, nhưng anh làm cho toàn thể truyện ngắn có không khí nồng nàn ấm cúng như nhang khói đêm giao thừa.

                          *Truyện ngắn Những Cánh Chim Di lại là câu chuyện tình buồn.Tác giả lấy bối cảnh quận Cai Lậy (thuộc tỉnh Mỹ Tho). Không hiểu có phải là vào năm nào mà nơi đây bắt đầu lột xác, cảnh đồng không mông quạnh đổi thành nơi thị tứ mới.

                          Xe lại qua những con đường cũ mà ngày xưa vận đã có lần đi qua. Bây giờ đã đuợc sửa sang, rộng hơn và đổi khác. Những ngày xưa, trên con đường này là đồng ruộng và gió chiều man mát, bây giờ đầy ngập cửa nhà, có cả những nhà máy to lớn, chạy ầm ĩ. Đất nước vươn mình và dân số cũng tăng theo dữ dội!

                          Ở cuối đường khác, ngày xưa là những vườn chuối thỉnh thoảng xen lẫn với những cánh rừng chồi, cỏ cây hoang dại, nay cũng đầy những mái nhà. Buổi trưa hè nơi đây vẫn oi nồng, lòng đường vẫn đầy bụi khi có một chiếc xe hơi chạy qua.

                          (các trang 125, 126)

                          Tại Cai Lậy này, sau khi đất nước Miền Nam Việt Nam bị bọn giặc cờ đỏ miền Bắc bạo chiếm, Vận theo vợ người Việt gốc Hoa về đây làm vườn. Nhưng vợ anh lại bỏ chồng và hai con (một trai một gái) đi vượt biên theo diện bán chính thức. Anh vẫn an phận gà trống nuôi con, không hề phiền trách vợ. Nhưng rồi, anh lại tự mình đưa mình vào một ngả rẽ mới:

                          Vận đã ghé thămTính khi nghe tin chuyện chồng vợ nàng gãy đổ. Ban đầu, anh không có ý định hàn gắn một cuộc tình đã qua đi hơn hai mươi năm. Anh chỉ ghé thăm vì nghĩ rằng dẫu thế nào thì Tính cũng là cô gái đã bước vào đời anh với những đêm thao thức vì những giấc chiêm bao đầy hình ảnh của nàng.

                          Lần đến thăm này trong đầu Vận mang ý nghĩ để cám ơn cô gái đã cho anh những giấc ngủ đầy mộng mị nhưng êm đềm của thời mới lớn. Bạn bè nói không sai. Chồng Tính đã đi Mỹ từ tháng tư bảy mươi lăm, để lại cho nàng một đứa con. Mãi đến giờ vẫn không bảo lãnh Tính đoàn tụ, vì thế mà nàng vẫn còn ở một mình nuôi con gái đang học trung học.

                          (trang122)

                          Vậy là bắt đầu một cuộc tình muộn màng giữa hai kẻ cô đơn và bất hạnh trong tình yêu lẫn trong hôn nhân. Tuy nhiên, Vận lại được tin vợ của anh ở nước Pháp muốn bảo lãnh hai con qua Pháp đoàn tụ với nàng. Anh không biết tính sao cho phải. Anh cũng toan hỏi Tính làm vợ, nhưng sau đó thì cuộc diện lại xoay chiều, hoàn cảnh lại lượn qua một khúc quanh khác:

                          Một tuần sau Vận gọi điện thoại lại nhà Tính. Không gặp Tính, chỉ gặp má nàng. Không biết là ý nghĩ của ai, chỉ biết rằng Vận đã nghe rõ ràng giọng nói từ má Tính:

                          - Con Tính nhờ tôi nói với cậu là đừng tìm nó nữa! Nó vừa nhận được tin là chồng nó sẽ về Việt Nam trong mùa hè tới để bảo lãnh hai mẹ con nó đi Mỹ.Thôi, chào cậu!

                          Nghe xong Vạn thấy tim mình như ngừng đập, lòng bồi hồi. Nhưng sau ít phút, bình tĩnh lại chàng thấy vậy mà hay. Chàng không từng ao ước cho cuộc đời Tính được tốt đẹp hay sao. Giờ nàng sắp được những điều tốt đẹp tại sao Vận lại không mừng cho nàng. Cuối cùng rồi Vận cũng thấy như đã từng thấy trong bao năm nay, cứ ai sắp có tin được phép rời khỏi đất nước này để ra đi ở luôn ở ngoại quốc thì đó là niềm vui vô cùng vô tận cho họ.

                          Họ sẵn sàng bỏ tất cả những gì còn ở lại nơi đây để chỉ ra đi, huống hồ gì những chuyện tình cảm lăng nhăng nhỏ mọn. Bây giờ thì chính chàng cũng bắt được chiếc chìa khóa để giải quyết vấn đề mình. Chàng sẽ để hai con ra đi đoàn tụ với mẹ chúng, để hai con được hòa mình vào dòng sống bao la đầy niềm vui của nhân loại. Riêng chàng, chàng sẽ sống suốt cuộc đời còn lại của mình trên đất nước này và cố sống vui, vì chàng nghĩ đó chẳng qua là sốphận đã an bài.

                          (các trang 130, 131)

                          Nếu chúng ta bắt gặp một anh chàng Vận ích kỷ, nhẹ dạ, dở chịu dựng thì chúng ta không thể an tâm khi đọc xong truyện ngắn này vì chúng ta sẽ lo sợ anh tự tử vì khó kham nhẫn trước số phận bị bỏ rơi của mình.

                          Anh chàng Vận ở đây được lý trí và lòng vị tha soi sáng nên anh sống an phận một cách hồn nhiên, không cố gắng. Độc giả cảm phục anh dù anh có kéo cờ trắng đầu hàng số mệnh khốc liệt trái ngang của anh; nhưng cuộc đầu hàng ở đây không bị người đời cho là yếu hèn nhục nhã mà là một thái độ quên mình để chia sẻ niềm vui của tha nhân.

                          Cuộc sống gay go bất trắc thường bộc lộ bản năng của hai hạng người. Hạng đầu thì oán trời, trách đất, thù hằn người đời và đôi khi nhúng tay vào tội ác để báo phục cái thua thiệt của mình. Còn hạng sau thì biết tự chế để tìm lối thoát trong hoàn cảnh bế tắc. Và hơn nữa họ đem cái Thiện trị cái Ác ; họ biết vui với cái may mắn của tha nhân.

                          Trong pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm của Phật giáo là Từ, Bi, Hỷ, Xả thì họ đạt được cá tâm thứ ba tức là Tâm Hỷ. Họ tìm ra cái hạnh phúc của chính mình trong cái hạnh phúc của kẻ khác để soi sáng lý tưởng của mình. Vận đạt được cái Tâm Hỷ ấy dù tác giả không nói anh có tu theo pháp môn Tứ Vô LượngTâm hay không. .

                          * Truyện ngắn Tình Già nói lên cái đam mê ám ảnh của một nhân vật tên Lân, 55 tuổi, quê làng Nhơn Trạch thuộc thị xã Vinh, hiện đang định cư trên đất nước Hợp Chúng Quốc, và được thành công về phương diện sinh cơ lập nghiệp.

                          Vào thời trẻ trung, khi đi đại tiện ngoài đồng, đuơng sự thường bắt gặp cô thiếu nữ tên Hoàng ngồi phóng uế, quần cô trật ra, phơi bày cái mông trắng nõn. Do đó mà hình ảnh cái mông đẹp kia chiếm một khoảng quá rộng trong tâm tư, trong nội giới ông ta suốt gần nửa chặng đời.

                          ... Năm mươi lăm tuổi qua nhanh như giấc mộng. Lại hơn nửa đời người mà ông Lân vẫn chưa có người hôn phối, quả là việc làm ông càng lo lắng hơn. Mộng không thành ở lứa tuổi thanh xuân đã gậm nhấm những ước mơ để tạo cho mình một đời sống ngừng lại và ổn định. Cộng mối tình thời mới vừa lớn lại dở dang làm ông điêu đứng mấy chục năm.

                          Ước gì bây giờ xem lại được mông của con Hoàng ! Ông nói như rít một mình. Xem mông của con Hoàng thì không có gì thích bằng. Tổ cha chỉ ghét mấy thằng phu đi nhặt cứt làm sao mà sớm thế! Phải ôm đít mà chạy cả lũ. Nhiều buổi sáng chưa được xem gì cả!.

                          Những ngày ỉa đồng xa xưa, và cái mông trắng toát ngày ấy ông Lân lấy làm tiếc còn hơn công danh ông không đạt được trong tuổi đời. Và chắc chắn cái mông cô Hoàng ngày nào bây giờ sẽ không bằng cái mo cau khô của một bà già đang giữ cháu cho đứa con gái đi làm ở làng Nhơn Trạch, Nghệ Tĩnh xa xưa. Ở Mỹ mấy năm mà khi nghĩ về tình yêu thời niên thiếu ông Lân đã không nghĩ gì khác hơn được ngoài những ngày đi ỉa đồng để xem đít con Hoàng .

                          (các trang 167, 168)

                          Vậy là ông Lân tìm về thăm làng Nhân Trạch. Cảnh vật đổi thay, khác với tình yêu do niềm si mê hóa thân của ông. Ôngchẳng tìm về kỷ niệm nào khác hơn cái mông trắng toát của cô Hoàng. Nó trở thành một hình ảnh da diết thân thương trong tâm tưổng ông; ngoại cảnh của địa danh Nhơn Trạch không dội vào tâm thức ông những dao động gì nhiều.

                          Con đường làng ngày xưa rộng thênh thang giờ còn chỉ đủ cho hai người đi song song . Tượng Đức Mẹ ngày đó được cất thành kính trang nghiêm trên vuông đất rộng rãi, giờ mái bếp của nhà ai đã tiếp sát vào lưng người. Chính bức tượng cùng chung gánh vác những biển dâu thay đổi của trần thế!

                          Ngôi trường ngày xưa ông học giờ vẫn còn y nguyên. Vẫn cũ kỹ và không lớn hơn một chút nào, nhưng sao trẻ con đâu mà đông thế? Ngày xưa làng đã không đủ lớp cho bọn học trò như ông để học. Giờ con nít chạy đầy như ong vỡ tổ thì lấy gì mà đàn đúm chữ nghĩa cho nhau đây?...

                          (trang 170)

                          Ông Lân gặp lại một bà Hoàng ốm yếu, tay bồng đứa cháu ngoại. Ngoài ra còn một lũ cháu khác, thấy khách túa ra xem. Sau đây là câu chuyện giữa hai người:

                          - Cám ơn Hoàng tôi vẫn mạnh. Trở về lại đây chỉ vì tôi muốn thăm lại Hoàng! Gần bốn mươi năm còn gì!

                          Bà Hoàng khóc. Mấy đứa nhỏ đã ra sân giờ nhìn bà ngoại khóc lại tò mò đứng ngay cửa ra vào để nhìn vô hai người. Đứa cháu trên tay thấy bà ngoại khóc nó lấy tay vuốt nước mắt cho bà.

                          - Anh được mấy mụn con rồi? Chị nhà đang ở Mỹ? -- Anh vẫn chưa có vợ thì nói gì đến chuyện có con.

                          - ! ?

                          - Hoàng, tôi muốn hỏi thật Hoàng một câu. Và Hoàng phải trả lời thật với tôi. Đồng ý chứ?

                          - Đồng ý.

                          - Ngày xưa tôi yêu Hoàng chắc Hoàng đã biết. Còn Hoàng có yêu tôi không?

                          - Có.

                          - Thôi như vậy là đủ rồi. Tôi sẽ trở về Mỹ và sẽ... cưới vợ.

                          - Tôi cầu chúc cho anh. Cưới xong có dịp anh lại dẫn chị về đây để giới thiệu với tôi và bà con ở trong làng.

                          (trang 172)

                          Nhưng ông Lân về Mỹ lo thủ tục giấy tờ để cưới bà Hoàng, để đem bà qua Mỹ. Câu chuyện cũng khá ly kỳ. Bà Hoàng về làm vợ ông Lân chắc gì đem cái mông trắng phau phau của mình làm của hồi môn. Nhưng ông Lân vẫn yêu bà, vẫn ghi khắc hình ảnh cái mông đẹp năm xưa của bà vào tận chỗ sâu kín của tâm tư mình. Và suốt đời, ông chỉ thờ phụng cái hình ảnh ấy.

                          Ngày xưa Lan Khai có viết một truyện ngắn đại khái là anh chàng nọ say mê một cô gái. Nhưng khi thấy cô gái tốc váy tênh hênh để tiểu tiện thì cái hình ảnh toàn diện của cô ta bị cử chỉ phàm tục kia bôi rửa cậu thả khỏi ấn tượng của y ta.

                          Hình ảnh đẹp đẽ của cô ta trở nên nham nhở, lem luốc. Trái lại, trong truyện ngắn Tàn Cơn Mộng Ẳo, đại thi hào Rabindranath Tagore viết về một nàng công chúa của vương quốc Hồi Giáo bên xứ Ấn Độ đã chứng kiến một vi sa-môn thuộc Bà-la-môn giáo mỗi sáng đọc kinh và trầm tư bên bờ sông Hằng rồi tắm trong nước con sông thiêng kia. Nàng si mê chàng, đeo đuổi theo chàng trong cuộc chiến giữa hai đạo Bà-la-môn và Hồi Giáo cho tới khi nàng già nua phai úa dung nhan, còn chàng thì nghèo nàn yếu đuối già khụ và đã có cháu nội rồi.

                          Vậy thì một hình ảnh nào đó tuy tầm thường hoặc thô tục mà vẫn có thể khuấy động một cái mãnh liệt sâu xa trong nội giới của người ngắm hay ngưòi bất chợt thấy được. Riêng ở truyện Tình Già, nhà văn Vũ Nam kết luận:

                          Hóa ra đôi khi những kỷ niệm thật nhỏ nhặt vẫn có thể làm cho một người nào đó nhớ hoài đến gần như đổi cả một đời người chỉ đổi lấy những điều nhỏ nhặt như thế. Nhưng hề gì. Chẳng ai là không thương cảm cho tấm lòng thủy chung như nhất.

                          (trang 173)

                          o0o


                          Vũ Nam là mẫu người điềm đạm, hiền lành. Hai đức tính đo hiện rõ rệt ở văn phong và ở đường lối cùng khuynh hướng văn chương của anh. Các nhà văn bên nhà thơ Đức cũng khá phồn thịnh, chẳng như: Mai Vi Phúc, Đan Hà, Tùy Anh, Huy Giang , Thế Dũng, Lê Trọng Phương...(thơ), Thế Giang, Ngô Nguyên Dũng, Thế Dũng, Vũ Nam, Lê Minh Hà, Hoàng Nga (văn). Tuy nhiên, hiện giờ chỉ có Ngô Nguyên Dũng, Thế Dũng, Vũ Nam (nam), Lê Minh Hà và Hoàng Nga (nữ) vừa có chân tài căn bản lại còn dài hơi để đeo đuổi văn nghiệp của mình.

                          Trong nhóm dài hơi thừa sức ấy, Vũ Nam đi khoan thai, nhưng cần mẫn và miệt mài nhất. Văn chương anh không khua động để rồi sớm nở tối tàn. Anh viét văn bằng phong thái đôn hậu, không cần phô trương kiến thức, chữ nghĩa gì ráo. Nhưng cùng với Thế Dũng anh có vốn liếng đi và sống vô cùng phong phú. Không uyên bác như Ngô Nguyên Dũng, không tinh vi xảo diệu như Thế Dũng và Lê Minh Hà, không truyền cảm thiết tha như Hoàng Nga, nhưng anh dàn rải tấm lòng nhân hậu bao la cùng niềm chân thành hiếm quý trong mọi tác phẩm của anh.

                          Văn chương anh không cần màu mè riêu cua mà vẫn đạt tới một nấc thang khả quan của nghệ thuật. Và cùng với Ngô Nguyên Dũng, Thế Dũng, Lê Minh Hà, Hoàng Nga, anh cộng tác với các tạp chí văn chương có giá trị ở hải ngoại như Văn, Gió Văn, Thế Kỷ 21, Làng Văn ( khi nguyệt san này vào thời cực thịnh trong 5 năm cuối của thập niên 80 cho tới 5 năm đầu của thập niên 90). Cho nên anh không chôn vùi tên tuổi ở các tờ báo lá cải và các tờ báo biếu thuộc loại quảng cáo thương mãi bá láp tầm phào.




                          Hết Chương 13 - Xem Tiếp Phần Cuối


                          sigpic

                          Comment


                          • #14
                            Quê Nam Một Cõi

                            Hồ Trường An

                            Chương Mười Bốn

                            "Chú Tư Cầu" Của Lê Xuyên, Một Kho Tàng
                            Ngôn Ngữ Của Đất Nam Kỳ Lục Tỉnh




                            Troyes ngày, 19 tháng 08 năm 2007

                            Bạn hiền thân mến,

                            Trong một bức thư, bạn có bảo tôi rằng bạn đang thèm nghe một ngôn ngữ miệt vườn trên dải đất Nam Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta mà phải là một giọng rặc ròng thổ ngữ từ miền Bình Định vào tận miền Nam trước năm 1975, tức là vào thời kỳ khởi đầu cơn gió bụi trên dải đất Đông Dương.

                            Hôm nay, tôi có dịp tâm sự với bạn đây.

                            Khi viết xong quyển bút khảo Quê Nam Một Cõi thì tôi cũng vừa nhận được một ấn bản của quyển Chú Tư Cầu của Lê Xuyên do chị Dư Thị Diễm Buồn từ Sacramento gửi tặng. Quyển sách do nhà xuất bản Tiếng Vang tái bản, in trên giấy quý màu vàng tái của hoa kim liên.

                            Tôi sẽ không nhận xét chi ly tỉ mỉ quyển này trong cuốn bút khảo Quê Nam Một Cõi của chúng ta đâu. Tôi phải để dành nó cho một cuốn bút khảo khác vào một vào dịp khác, cũng vẫn viết về văn chương của các cây bút gốc Nam Kỳ.

                            Tôi nhớ mang máng vào năm 1964 1965 gì đó, các làn sóng dư luận xôn xao về các cuốn tiểu thuyết của các nhà văn Chu Tử, Văn Quang, Thanh Nam, Tuấn Huy và những cuốn võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung chưa lắng dịu hẳn.

                            Thì đùng một cái, những truyện dài đăng từng kỳ của Lê Xuyên đăng trên các nhật báo nổi tiếng ở Thủ Đô Sài Gòn bắt đầu gây một tiếng vang dữ dội. Cho nên trong cuộc viếng thăm nhà văn Võ Phiến, tôi được nghe họ Võ bảo :

                            - Viết đối thoại rặc tiếng Nam Kỳ có ai bằng Lê Xuyên đâu.

                            Ông Lê Châu, chủ bút kiêm chủ nhiệm tạp san Bách Khoa đã tấm tắc với Thụy Vũ và tôi trong dip tôi theo chị tôi đến tòa soạn Bách Khoa lấy tiền nhuận bút :

                            - Lê Xuyên viết đối thoại quyến rũ nhất. Eo ơi, hễ đọc tác phẩm của ông ấy là như gặp lời ăn tiếng nói mọi tầng lớp người Nam Kỳ.

                            Quyển tiểu thuyết của Lê Xuyên mà tôi đọc trước nhất là Vợ Thầy Hương, sau đó mới tới quyển Chú Tư Cầu, và sau hết là quyển Rặng Trâm Bầu. Không khí trong 3 quyển đó căng thẳng, khí hậu ngột ngạt. Nếu không nhờ lối viết đối thoại tinh tế tuyệt vời thì các tác phẩm của anh tuy đạt được phẩm chất nghệ thuật cao nhưng chỉ quyến rũ độc giả một cách chừng mực mà thôi.

                            Vào năm 1966, tôi tháp tùng chị Thụy Vũ tôi và ký giả Lê Phương Chi đi xi-nê tại rạp Rex để xem phim gì mà tôi quên tựa mất rồi. Hôm đó Lê Xuyên đi chung với cặp Nhã Ca & Trần Da Từ. Từ khi quyển Mèo Đêm của chị tôi trình làng thì cặp Từ Nhã và chị tôi là chỗ đồng nghiệp quen thân. Lê Xuyên có vóc dáng nho phong, khuôn mặt dịu dàng của một nhà mô phạm, nụ cười hiền lành, nhưng ánh mắt thật linh hoạt.

                            Anh ăn mặc quá đơn giản : quần màu vỏ trái ô-liu đậm, áo sơ mi cụt tay trắng, đôi giày màu sô-cô-la, cườm tay trái đeo đồng hồ. Con người mát lành ngọt dịu như vậy mà văn chương lại cuồng phong bạo vũ đầy dao súng, máu me, ác mộng và tinh khí. Luôn tiện chị Nhã giới thiệu cho chị em tôi biét nhà văn Lê Xuyên.

                            Để tỏ ra thân mật, chị tôi gọi anh bằng chú Tư Cầu. Còn anh gọi chị tôi bằng Mèo Đêm. Nếu gặp những bà nữ sĩ ưa cố chấp như chị Đỗ Phương Khanh (vợ Nhật Tiến) hay chị Thanh Phương thì họ sẽ bắt lỗi anh dám liệt họ vào hạng gái bán snack-bar cho lính Mỹ.

                            Trong Mèo Đêm, Thuỵ Vũ có hai truyện ngắn viết vê các cô gái buông hương bán phấn hoặc gái gọi (call girls) trá hình các cô chiêu đãi viên trong các snack-bar ở Sài Gòn. Và chị ban cho họ cái hổn danh "mèo đêm", tức là những kẻ săn tình vào lúc đêm về. Hôm đó, chị tôi vẫn cười nói vui vẻ với Le Xuyên :

                            - Chú Tư, hẹn hôm khác mình gặp nhau, nói chuyện nhiều hơn. Phim sắp

                            chiếu rồi. May quá, hôm nay tình cờ Thụy Vũ mới gặp một chú Tư Cầu bằng xương bằng thịt.

                            Anh Lê Xuyên vui vẻ :

                            - Hôm khác nghen cô Mèo Đêm.

                            Khi xem phim xong, tôi bảo Lê Phương Chi :

                            - Ông Lê Xuyên có vẻ hiền lành mà viết văn dữ dằn. Đây là thứ nước trà

                            màu vàng lợt mà là thứ trà quạu... Uống nó vào là chúng ta sẽ mất ngủ vì nó sẽ trở thành trà Thái Đức làm ẩm khách thức đái suốt đêm.

                            Trong cuốn 3 của bộ Văn Học Miền Nam, Võ Phiến nhận xét tổng quát về văn chương như sau :

                            Trong thời kỳ 1954-1975, các nhà văn gốc Nam khi nói đến chiến tranh trên đất nước thường chỉ nói về cuộc chiến chống Pháp mà tránh cuộc chiến chống cộng. Viết truyện như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, viết ký như Vũ Bình, đều thế. Đến lượt Lê Xuyên, ông cũng thế. Mặt khác, các vị gốc Bắc thì chuyên về cuộc sống và con người đô thị, còn các vị gốc Nam thường viết về nông dân nông thôn. Lê Xuyên cũng thế.

                            Chuyện ấy dễ hiểu. Người Nam chưa biết qua chế độ cộng sản thì không mặn nồng với việc chống cộng ; người Bắc di cư, bao nhiêu văn nhân, nghệ sĩ trí thức vào Nam đều sống ở đô thị nên chỉ biết viết về đô thị.

                            Như vậy cốt truyện Lê Xuyên, thường xảy ra trong kháng chiến trước Genève, thường diễn ra ở miền quê, nhân vật thường là những nam nữ nông dân chất phác, ít học.

                            Lê Xuyên đặt các chuyện trong khung cảnh kháng chiến không phải là để nói về kháng chiến. Không có vậy đâu. Ông không hợp với các vấn đề chính trị. Trong khung cảnh thời đánh nhau với Pháp ông nói chuyện nam nữ yêu nhau thôi.

                            Trong chuyện yêu nhau ông không chú trọng tới lòng thầm kín giấu giếm trong các ngóc ngách của quả tim, như các ông Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng khi viết Tố Tâm, Hồn bướm mơ tiên. Lê Xuyên, ông ấy chủ về phía tình yêu xác thịt theo cung cách hồn nhiên nhất (nhân vật nông dân mà).

                            Về chuyện xác thịt, ông không chủ trương những phô bày bạo tợn như D.H. Lawrence, Henry Miller... Lê Xuyên không làm mích lòng sở Kiểm duyệt. Ông chú trọng nhất là ở những màn biểu diễn bằng mồm.

                            Đừng nên lẩn lộn ông Lê với chuyện giữa Clinton và Monica Lewinsky ; cái yêu đương bằng mồm của ông Lê tức là những trang đối thoại dài dằng dặc xung quanh mục tiêu chính của ái tình. Khi nam nữ đã dàn binh bố trận xong thì tác giả lánh mặt. Trong những Chú Tư Cầu, Vợ thầy Hương, Rặng trâm bầu v.v..., sự tình rộn ràng ríu rít, đầy lời như thế.

                            Văy Lê Xuyên viết truyện có chiến tranh mà không phải truyện chién tranh, có nông dân lầm than mà không phải truyện xã hội, có ái tình mà không phải truyện tình cảm. Chẳng qua là chuyện "gay cấn" để độc giả đọc chơi lúc buồn tình, đọc cho nóng máy trong chốc lát rồi bỏ qua thôi chứ gì.

                            (Chương Lê Xuyên, các trang 843, 844)

                            o0o


                            Chú Tư Cầu là tác phẩm đầu tay của Lê Xuyên. Chàng viết về cuộc đời tình ái của một chàng nông dân ngây thơ, nhân hậu, có số đào hoa, không ve vãn gái mà gái vẫn chạy theo quyến rũ chàng rần rần. Trước hết là cô Phấn, bạn gái cùng quê của chàng ở Rạch Chiếc (gần quận lỵ Trà Ôn). Cô vốn táo bạo, dám hiến thân cho chàng không cần lịnh mẹ, rồi rủ chàng lên Sài Gòn để xây tổ uyên ương, cốt tránh cuộc hôn nhân cưỡng ép do mẹ cô sắp đặt khi bà chưa qua đời. Nhưng khi tới Cần Thơ, cô bị tên Khách Trú trẻ tuổi tên Lâm Sanh quyến rũ.

                            Hắn bàn điều hơn lẽ thiệt cho cô nghe vì chốn thị thành không phải làm chốn dung thân của một kẻ đôn hậu, quê mùa như Tư Cầu. Cho nên vì tương lai của Tư Cầu, Phấn dùng kế gạt chàng xuống tàu để trở về quê. Dè đâu , chàng đi lộn tàu lên Nam Vang. Còn Phấn không còn mặt mũi nào để trở về quê nên đành theo làm vợ người Khách Trú kia. Thật ra, trước phong vận thanh tân của kẻ thị thành như tên ngoại kiều kia, Phấn cũng xiêu lòng làm vợ hắn.

                            Dọc đường, Tư Cầu gặp một ông khách đồng hành đứng tuổi xưng là chú Bảy. Chú ta cám cảnh thương tình Tư Cầu nên khi tới Nam Vang chú giới thiệu chàng giúp việc cho tiệm cơm người chị ruột chú là cô Năm. Tại Nam Vang, Tư Cầu có nhiều dịp tiếp xúc với phường trộm cắp, phường dao búa, và được lòng cô Ba Xá Lỵ một gái nặc nô xinh đẹp, uy trấn một góc xã hội du côn nho nhỏ trên đất Chùa Tháp này .

                            Cô ta mê chàng vì tấm lòng nhân hậu và hào hiệp của chàng, tìm mọi cách để quyến rũ chàng. Rồi cả hai tằng tịu say mê nhau. Nhưng sau một thời gian sống hạnh phúc trên đất Chùa Tháp, vì nhớ quê, Tư Cầu xin trở về quê; chàng có rủ cô Ba theo, nhưng cô ta biết rằng chốn ruộng đồng không phải là chốn môi sinh thích thú của mình nên từ chối.

                            Tư Cầu về quê, được mẹ chàng cho chàng biết Phấn lấy chồng Khách Trú giàu, có về đây vài lần và lần nào cũng đến thăm hỏi chàng. Cô ta giúp đỡ gia đình chàng trong cơn ngặt nghèo nên bà rất cảm kích cô ta lắm. Rồi cha mẹ chàng buộc chàng phải cưới cô Thơm làm vợ. Cô này vốn là gái Việt gốc Miên rất được chàng yêu thương quý trọng. Cuộc sống lứa đôi của chàng tạm bình yên hạnh phúc.

                            Nhưng cơn gió bụi bắt đầu xảy ra trên đất nước. Sài Gòn bị dội bom. Phấn về quê để gặp Tư Cầu, rủ chàng đến chỗ khác xây dựng lại cuộc sống lứa đôi đã từng dang dở. Cô cũng cho chàng biết đứa con trai của cô vốn là con ruột của chàng. Cô Thơm bắt gặp quả tang cả hai lén lút tâm sự nhau nên ghen lồng lộn. Rốt cuộc Phấn phải trở về Sài Gòn, tiếp tục sống với người chồng ngoại kiều của mình như cũ.

                            Rồi đó, trong các Sóc Thổ, người Miên nổi dậy phong trào "cáp duồng" (với mục đích giết sạch người Việt). Cô Thơm dù vốn là gốc Miên nhưng đã từng được cha mẹ Việt Nam nuôi từ thở ấu thơ, rồi khi lớn lên lấy chồng Việt Nam nên cũng bị người Miên cho là thứ Miên gian. Trong một chuyến về quê thăm cha mẹ nuôi, cô bị bọn miên hãm hiếp và bị chúng hạ sát. Tư Cầu điên tiết giết chúng để báo thù cho vợ.

                            Rồi Tư Cầu nghe theo lời Ba Kiên gia nhập vào nhóm du kích kháng chiến, bị bắt giải lên Sài Gòn, rồi được chuyển qua dinh cơ của một trung úy người Pháp có phận sự canh giữ các tù nhân trước khi giải họ đi Côn Đảo. Không ngờ viên sĩ quan này là chồng hờ của cô Ba Xá Lỵ.

                            Tình cũ gặp nhau, cô Ba Xá Lỵ hết lòng giúp đỡ Tư Cầu để được gần gũi ân ái với chàng.

                            Chàng chỉ làm tạp dịch nhẹ nhàng thôi. Nhưng rồi một hôm nọ, Tư Cầu theo nhóm tù nhân đến tiệm bán cây mà viên trung úy đã đặt tiền mua để chất cây lên đoàn vận tải quân xa đem về nhà hắn. Tình cờ Tư Cầu gặp Phấn, vợ tên Khách trú Lâm Sanh, bây giờ hắn ta trở thành chủ nhân tiệm bán cây ấy. Phấn gạn hỏi nguồn cơn người yêu cũ của mình, rồi hiệp cùng cô Ba Xá Lỵ giúp đỡ Tư Cầu vượt vòng phong tỏa của viên trung úy chồng hờ của cô Ba.

                            Tại nhà riêng do Phấn thuê, Tư Cầu bị lính tuần tiễu bố ráp nên bị bắt đưa về bót cảnh sát Catinat để cho bọn bao bố nhìn mặt. Những tên chỉ điểm đội bao bố kia (để khỏi bị ai biết mặt) vì không biết chàng có dính dáng với bọn Việt Minh công tác ở thành phố hay không nên không thể xác nhận chàng là Việt Minh nội thành và cho nên chàng được tha.

                            Tư Cầu lại về quê. Tình hình ở đây căng thẳng nên chàng nhập vào toán du kích kháng chiến địa phương. Trong cuộc tấn công quân xa của lính Tây, Tư Cầu cùng đồng bọn hạ sát được tên chồng sĩ quan hờ của cô Ba Xá Lỵ. Nhưng chàng không cứu được cô. Tên chánh trị viên giết cô ta. Tư Cầu toan báo thù cho người yêu của mình nhưng hắn đã kịp thời cao bay xa chạy mất rồi.

                            Nhớ lồi dặn chú Bảy trên chuyến tàu đi Nam Vang năm xưa, Tư Cầu lên Châu Đốc tìm chú và làm vườn cho chú. Chàng chiếm được trái tim cô Thắm, và được chú Bảy gả con gái cưng của chú cho chàng. Nhưng rồi chàng đi theo lực lượng kháng chiến để rồi chết trong trận đánh Tây theo chiến thuật du kích. Trong khi đó ở quê nhà, cô Phấn mang thai. Rồi đứa con trai của chàng chào đời. Nhưng dù sao chàng cũng đuợc an ủi vì trong lúc lâm chung, thằng em vợ của chàng đọc cho chàng nghe bức thư báo tin mừng của vợ.

                            o0o


                            Như bạn biết: theo truyền thống các cây bút Nam Kỳ Lục Tỉnh của chúng ta, Lê Xuyên dù không có khuynh hướng tải đạo, nhưng anh thường cho các nhân vật chánh của anh ăn ở theo đạo nghĩa, phô bày tấm lòng nhân hậu, bao dung một cách hồn nhiên, không cố gắng.

                            Trên đất Nam Vang, Tư Cầu chống cự với kẻ mạnh độc dữ để binh vực kẻ yếu hiền lành.

                            Chàng bao dung kẻ thù toan hãm hại chàng làm cho kẻ thù hồi tâm kính mến chàng.

                            Tư Cầu vốn dốt nát, chỉ biết đọc quọt quẹt năm ba chữ quốc ngữ, nào có biết nhân, nghĩa, lễ, trí tín hay tam cang ngũ thường do ông Khổng Tử bày ra đâu. Anh không đọc kinh Phật bao giờ, nhưng anh không làm ác, không lấy oán trả oán. Vợ anh bị bọn Miên cưỡng hiếp và hạ sát, nhưng khi thấy cô gái Miên bị Ba Kiên, anh trai của chàng toan bề cưỡng dâm chàng phản kháng ngay, không muốn anh mình gây ác nghiệp.

                            Cho nên Ba Kiên phải buông tha cô thiế nữ Miên. Trong thời kỳ Nhật đảo chánh, có hai tên lính Tây bị chìm tàu tắp vào Rạch Chiếc, Ba Kiên toan đi báo cho nhà chức trách, nhưng Tư Cầu hợp cùng nhóm người nhân từ đòi phóng thích lính Tây. Khi được Cô Ba Xá Lỵ giúp chàng vượt ngục, chàng nằng nặc cô giúp luôn chú Tám, người bạn tù đã cùng cùng đồng cam cộng khổ với chàng.

                            Tư Cầu theo toán du kích kháng chiến chống Tây là cảm thấy mình phải làm theo thiên lương soi sáng mình một cách hồn nhiên, không nghĩ xa, không nghĩ gần, cũng không được ai huấn luyện lòng ái quốc thương dân. Do đó, chàng gần ông Thích Ca Cồ Đàm cùng ông LãoTử và ông Trang Tử hơn ông Khổng Tử.

                            Chàng lạc loài với các ông chuộng trí thức Tây Phương cùng dân khoa bản. Chàng cũng không thể là thần tượng huy hoàng cho các cô ôm lý tưởng môn đăng hộ đối và có thói ưa chuộng phi cao đẳng bất thành phu phụ. Chàng là người tình lý tưởng của các cô gái táo tợn, liều lĩnh, nhưng có thiên lương trong sáng, biết nắm bắt được cái giá trị chân thật của con người, không cần tính toán chi ly, không cần so sánh dài dòng.

                            Hồ Biểu Chánh khi viết văn theo kiểu văn dĩ tải đạo còn dựa theo khuôn nếp, nguyên tắc, lời khuyên răn dạy bảo của các bậc thánh hiền. Lê Xuyên không theo ông hiền triết nào, không nương tựa rêu rao theo khuynh hướng đạo nghĩa nào. Anh viết khơi khơi mà vẫn làm cho độc giả xúc động, yêu mến lớp dân quê hiền làngh, lòng ngay dạy thẳng, không có chút ý nghĩ quanh co đo đắn trước những công việc phải làm.

                            Lê Xuyên không viết văn dài dòng : không cần tả cảnh, tả người, tả vật, tả tâm tâm trạng, tức là không tả những cái mà giới bình dân cho là lòng vòng không hợp với khiếu thưởng ngoạn của lớp độc giả với lòng dạ rổng rang, suông thẳng nhưng ống nứa ống tre. Anh thích kể chuyện, ưa cho các nhân vật của mình chuyện trò vòng vo Tam quốc, cằn nhằn dai dẳng, cà khịa rỉ rả, cãi lẫy tưng bừng, có khi chửi bới huyên náo. Anh không cần viết văn đâu. Anh cũng thích kể chuyện lắm đâu.

                            Anh chỉ thích cho các nhân vật của mình có nhiều dịp đối thoại tuồn tuột, ngon ơ. Lời nói của các nhân vật biểu lộ cá tính của các đương sự luôn cả chân dung của họ cùng bối cảnh chung quanh họ hiện mập mờ vài nét tạo hình khái quát, nhưng cũng đủ chạm khắc vào ấn tượng độc giả sành điệu. Trong Chú Tư Cầu, Lê Xuyên dùng ngôn ngữ Nam Kỳ Lục Tinh vào thuở tiền chiến, không pha ngôn ngữ của thời Đệ nhất Cộng Hòa hay vào thời Đệ nhị Cộng Hòa.

                            Thí dụ : rắc rối không biết đâu mà rờ (tức là không thể đoán trúng được), làm cho xất bất xang bang (tức làm cho khổ sở điêu đứng), đụng đâu xâu đó (tức là hễ gặp dịp là nắm lấy ngay không cần biết tốt xấu, lợi hại), mấy con nập nợn (tức là mấy cô thiếu nữ dâm đảng lẳng lơ), anh làm cái điệu đó thì mụ nội em cũng lìa (tức là làm cho em điêu đùng, gặp cảnh gia đình ly tán) ...

                            Anh không pha thêm những tiếng lóng ( les patois) mà người Bắc di cư và người Nam bản xứ pha trộn nhau như : sức mấy, bỏ qua đi Tám, lấy le, thằng cà chớn, oan ôi ông Địa, lạng quạng, mút mùa lệ thủy, đi ăn chè ở nhà Bè (tức là lén lút đi ngoại tình, cụm tư này lấy sự tích nhạc sĩ Phạm Duy cùng nữ ca sĩ Khánh Ngọc đi Nhà Bè để ngoại tình ; nhưng khi bi lính kiểm tục và thừa phát lại bắt đuợc, cả hai khai rằng họ đi Nhà Bè để ăn chè) ...

                            o0o


                            Ngôn ngữ miền Nam chánh gốc, thuần túy hay ngôn ngữ phối hợp của người Bắc di cư và của người Nam bổn xứ đều quyến rũ như nhau : sống động và gợi cảm gấp đôi ngôn ngữ kiều diễm cao sang trong các tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn vì chúng dễ đi sâu vào tâm hồn dân tộc ở mọi cấp bậc và mọi thành phần trong xã hội. Hồ Biểu Chánh viết văn mà không hề lộn ngôn ngữ Bắc Kỳ. Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam cũng vậy.

                            Nhưng hai anh Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam chỉ thành công về phương diện kỹ thuật viết văn, ở sự diễn tả tình tiết, nhưng ngôn ngữ và cách đối thoại trong văn chương họ không có linh hồn sống động, không có sức hấp dẫn bằng ngôn ngữ trong văn chương và cách đối thoại của Lê Xuyên. Họ Lê chịu khó lắng tai nghe ngôn ngữ trong dân gian, nhất là nơi sinh hoạt của lớp bình dân, lớp người ở cấp bậc thấp nhất trong giới hạ lưu của xã hội.

                            Cái thành công của anh nhất định là phải có. Trong giới điện ảnh của nước Pháp, người viết đối thoại tài hoa lỗi lạc nhất là Michel Audiard. Ông này chị khó đi tìm ngôn ngữ trong dân gian nên mới chiếm một địa vị cao chót vót trong ngành viết đối thoại như thế.

                            Ở Miền Nam Việt Nam của chúng ta, trước năm 1975, những cây viết gốc Nam Kỳ như Ngọc Linh, Sĩ Trung không viết thuần túy văn chương Nam Kỳ. Những đoạn đối thoại dài ngoằng của họ càng làm độc giả bực mình, cho nên tên tuổi họ chỉ đứng bên lề văn học sử. Duy người Bắc như Thanh Tâm Tuyền trong truyện dài Cát Lầy, Viên Linh trong truyện dài Mã Lộ đều viết đối thoại bằng ngôn ngữ Nam Kỳ, đều thành công khả quan.

                            Nhà văn Võ Phiến gán cho các nhân vật người Nam trong truyện dài Đàn Ông và trong truyện dài Một Mình cái ngôn ngữ Nam Kỳ cực kỳ quyến rũ. Giờ đây, ở hải ngoại, dù là cha Quảng Ngãi (nhà chí sĩ Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy), mẹ Quảng Nam (nữ sĩ Tùng Long), nhưng được sinh trưởng ở Sài Gòn nên nhà văn Nguyễn Đức Lập viết giọng điệu Nam Kỳ cực kỳ duyên dáng bỏ xa các cây bút gốc Nam Kỳ khác.

                            Tuy nhiên, tất cả những nhà văn này làm sao tìm lai cái ngôn ngữ Nam Kỳ trước cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh như Lê Xuyên với các ngôn ngữ mà giới phu phen ở đô thị, giới nông dân ở thôn quê, giới thương hồ trên sông nước phù sa thường dùng như : nằm chàng hảng chê hê, chữ nghĩa quọt quẹt, nói tiếng Tây ba xí ba tú, làm chuyện gì cũng ba trật bốn vuột, ai ai cũng hít hà chắt lưỡi khen hay, ăn ở bầy hầy như chồn hôi chó vật...

                            Thôi thì, nhưng kẻ sanh sau đẻ muộn như chúng ta, đã trưởng thành vào 5 năm cuối của thập niên 50, chúng ta có thể chắc mót, lượm lặt ngôn ngữ Nam Kỳ của chúng ta vào thời biển lặng sông trong xa xưa được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Có còn hơn không, phải không bạn ?



                            Cổ Nguyệt Đường, hè năm Đinh Hợi (2007),

                            Tiết thịnh hạ

                            Hồ Trường An


                            HẾT


                            sigpic

                            Comment

                            Working...
                            X