Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Vượt Trường Sơn 3

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Vượt Trường Sơn 3




    Hoàng trở lại. Anh ta một tay cầm hai hộp thịt, một tay cầm mớ giấy. Hoàng xòe giấy ra cho tôi:

    - Ác quá mày ! Đọc coi !

    Tôi đọc và kêu lên:

    - Thế này thì chúng mình phải cuốn gói đi ngay !

    Ông huyện ủy giật mình hỏi:

    - Gì thế đồng chí ?

    - Chúng nó kể tên từng đứa một trong đoàn chúng tôi.

    - Ồ tưởng cái gì chớ cái vụ đó thì ăn thua chi đâu. Chúng nó in tên các cấp tỉnh ủy huyện ủy xã ủy kể lai lịch từng người một và kêu gọi hồi chánh mà. Chúng rải truyền đơn khắp nơi để dân chúng biết mà tìm gọi mình nữa.

    Người dân nào đem được một cán bộ cỡ nào thì được thưởng một số tiền bao nhiêu, còn cán bộ cỡ nào tự mình tìm đường về nộp mạng thì được tặng bao nhiêu tiền.

    - Làm vậy mà có kết quả à?

    - Có mạnh chớ sao không !

    - Thế à ?

    - Ngày nào cũng có. Hễ có là chúng cho loa tên tuổi người đó. chụp hình in kèm với lời kêu gọi rồi rải đi khắp nơi ! Đồng chí nghĩ coi nó đánh mình thế đó, mình đành chịu thôi không đỡ gạt nổi.

    Tôi thấy ngồi lâu sẽ bi ông Huyện ủy tuyên truyền về chánh sách hồi chánh rồi nhiễm mất (và tôi bị nhiễm thiệt, nhưng chưa nhiễm ngay bây giờ mà mấy năm sau) nên nháy Hoàng đi về lều. Vừa đi, tôi hỏi:

    - Ở đâu mò ra vậy?

    - Thiếu gì ! Hầu như ai cũng được một vài hộp. .

    - Tụi ngu bỏ mẹ ! Đáng lẽ chúng nó để mình chết đói, lại ném thịt cá cho ăn !

    - Nó khôn thấy bà !

    - Khôn gì ! “Khôn liền” thì có !

    - Ăn hết hộp này nó không liệng nữa đâu ! Mình thèm! Ăn quen nhịn không quen. Thế là bò về tìm thịt. Thế là nộp thịt. Phải không?

    Tôi cười :

    - Anh học trường tâm lý chiến của tụi nó hồi nào vậy ?

    - Mới vừa rồi đó ! Cái ông đó đã dạy mình một bài học tâm lý chiến khá chi tiết.

    - Đổi với cái gì vậy?

    - Cái áo thun ba lỗ.

    - Mới cũ?

    - Cũng còn mới ! Chỉ sợ không còn đồ đổi thôi, chứ thịt thiếu gì !

    - Bây giờ mà trở lại được trạm 1 quơ ba cái đồ mắc trên cây ném trên vách đá đem vô đây đổi thịt ăn hé !

    - Bố tao bảo trở lại tao cũng không trở. Xe tăng lôi tao cũng bứt xích chạy ngược lại.

    Hoàng là người gương mẫu trong trường đi B, nhưng đi qua khỏi ngọn sông Bến Hải anh mới bắt đầu hiện nguyên hình: “bất mãn chúa, tấu nhạc toàn chói tai.”

    Tôi nhớ lại lúc mới đi chặng đầu tiên của con đường này. Vui vẻ, hào hứng, phấn khởi vô cùng. Mọi người coi giải phóng Miền Nam như trở tay. Lấy đồ trong túi còn khó hơn. Trên trời không có máy bay. Dưới chân tuy đồi dốc khá nhiều, nhưng sức lực còn dồi dào. Thanh Niên Xung Phong vừa đi hằng đoàn vừa hát.

    Cơm ăn với muối nhưng rất ngon miệng. Và tự cho mình đang nằm gai nếm mật cùng với nhân dân khi ngủ giữa trời dưới một tấm tăng bằng cái… lá đa rách nát. Giản chính tư tưởng và giản chính những thứ kềnh càng.

    Cuộc sống bị “giản chính” một cách không thương tiếc. Dọc theo đường đi, nào áo len, nào mũ dạ, quần ga-bạc-đin, giày bố, khăn mặt, cặp da v.v…. treo mắc như một cửa hàng chợ trời đầy màu sắc.

    Người đi trước vứt bỏ, người đi sau nhặt lấy hoặc đổi lấy cái tốt của người vừa bỏ vứt cái xấu của mình. Cứ thế, cho đến vài trạm sau thì chẳng còn thấy món đồ nào treo mắc hai bên đường nữa. Con người đã giản chính tối đa.

    Ở trạm 3, tôi thấy một anh chàng đập cây ghi ta của mình ra mà nhóm lửa vì trời mưa to quá, củi ướt vả lại giữa ban đêm, không còn cách nào khác hơn là hi sinh món nhạc cụ yêu quí đã từng được cõng từ Hà Nội vào đây. .

    Nghe Hoàng nói có lắm thịt hộp thì tôi mê lắm nhưng biết chắc trong ba-lô không còn được bao nhiêu món có giá trị để đổi chác. Ở đây thì đồ vật đổi chác phải là thứ thiệt chứ không thể đem dây chuyền mạ, cà rá giả ra mà đổi lợn, gà như đối với đồng bào Thượng.

    Đí “ruồng” thịt hộp và nói chuyện khào, tâm thần sảng khoái. Về đến lều thấy Thiệp nằm gác tay lên trán thở hắt ra mà rầu. Hoàng nói:

    - Chắc cậu không còn giữ ý định vô Nam kỳ quốc với tụi này nữa phải không?

    - Tôi phải trụ hình ở lại đây rồi anh ạ! Chờ xem tình thế thế nào !

    - Đã rõ rồi, còn xem tới xem lui cái gì nữa !

    - Nhưng mà… Khổ quá anh ơi !

    - Thôi, để nấu cơm ăn cho khoẻ cái đã rồi sẽ tính tới – Tôi cắt ngang.

    Đợi đến sẫm tối chúng tôi mới bắt đầu nổi lửa nấu cơm. Lửa khói đốm đỏ đốm xanh khắp cả một dãy rừng. Tiếng chí choé í ới nghe thiệt vui tai.

    Suốt ngày đói meo uống nước cầm hơi, ngồi nhao nháo ngó lên trời không thấy trời, trông xuống đất chỉ thấy toàn sỏi đá mong cho chóng tối để nấu cơm.

    - Các anh ăn đi ! Tôi ăn không vô đâu!

    Chúng tôi biết Thiệp ngại không muốn ăn chỗ thịt của Hoàng vừa đổi được. Không phải Thiệp sợ mất lập trường mà “ăn của anh em rồi lấy gì trả lại. Ở đây một hạt muối cũng phải đổi chác mà ! ” Tôi bèn nói :

    - Tớ ăn cơm Miền Bắc mười năm, nay cậu ăn lại miếng thịt mà gì dữ vậy?

    Tôi nói cà rỡn cho nguôi buồn thằng bạn đồng hành để nó ăn no chôn lấy nỗi buồn của nó, cũng là của tôi, chẳng ngờ nó òa lên khóc.

    - Các anh tốt bụng quá ! Xin cảm ơn! Tôi tưởng các anh thành kiến với tụi tôi nặng lắm !

    - Thành kiến với tụi lớn đầu không nên nết kìa ! Chớ tụi tao đâu có thành kiến với cả đồng bào Miền Bắc. Mày hiểu không? Chúng mình cùng là nạn nhân của những chánh sách lạ kỳ hết cả mà.

    Hoàng Việt nói xong đi lấy tấm hình vợ Thiệp:

    - Dẹp bàn thờ được rồi chứ! – Rồi đem mấy chén cúng trút vào gà mèn trộn cho đều.

    - Ừ ừ tôi quên khuấy đi.

    Chúng tôi ngồi dưới đất ăn cơm trắng và thịt nghiền đóng thành bánh xắt lát mỏng.

    - Thịt nạc Mỹ đây ! – Tôi vừa gắp một miếng vừa nói – Kê vô mát cả răng!

    Hoàng Việt tiếp tục khuyên lơn Thiệp:

    - Cậu cho là cô Anh đã hi sinh rồi phải không? Thế mà bây giờ cô cấy còn sống. Đó là một cái may không ngờ được. Cậu còn muốn gì nào? Chắc cậu muốn cổ được thả dù xuống đây chắc.

    Chuyện đó thì không thể có. Vậy ta hãy vui với cái ta đang có là cô Anh còn sống. Đó là phần cô Anh. Còn cậu, hãy so sánh với ông bạn nhà văn của chúng ta đây thì sao? Cậu sung sướng hơn nhiều phải không?

    Nếu chẳng may cô Anh lâm vào trường hợp cô Phương và chính tay cậu gói liệm, chôn người yêu như cậu đã liệm và chôn cô Phương thì sao? Cô Phương vĩnh viễn nằm lại đó, mưa gió sẽ khỏa tan nấm đất.

    Có ai còn biết tới nữa đâu. Trước khi chết không trối được một lời, chết rồi không được người yêu nhìn xác.

    Thiệp đang bưng chén cơm bỗng đặt xuống, gục đầu xua tay:

    - Thôi … thôi, anh đừng nói nữa! Tôi hiểu vậy, nhưng tôi đau quá anh ạ ! – Rồi bỏ lên võng nằm – Tôi xin lỗi các anh, tôi đã làm cho bữa cơm mất ngon.

    Hôm sau, tiếp tục đi ruồng thịt hộp tôi lại gặp quá nhiều người quen, toàn dân Nam Cờ. Đúng là khúc ruột…thừa Miền Trung.

    Tất cả rác rến cặn cáu của dân Nam Bộ mang từ ngoài xứ xã nghĩa vào đến đây đều xì bật ra .

    Trong sáu người có ba người tôi quen từ trong kháng chiến Nam Bộ. Còn ba người kia không quen nhưng cũng là dân Thành Đồng. Tất cả đều là cán bộ trung cấp nghĩa là từ Tiểu đoàn phó lên tới Trung đoàn phó. Ai nấy đều mang giò heo oai phương lấm lét.

    Quý, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 chuyên gia đào gốc lim ở nông trường Lam Sơn tóc bạc phếu như bọt biển, Mật, Tiểu đoàn phó thuộc đội Công binh Sư đoàn 330 và Trữ, Tiểu đoàn trưởng kiêm Tham mưu phó Trung đoàn 2 đóng ở Bãi Thượng nơi tôi từng tới lui để tìm ngõ chui qua Lào về Nam mà không lọt.

    (Nếu lọt tôi đã không phải bị muỗi đòn xóc tiêm cho thuốc bổ sốt rét rừng trên đường này).

    Các tay tổ này cũng đang lùng tìm thịt hộp. Tôi và Hoàng khoái tỷ vì đã gặp được bồ tèo. Dù thế nào cũng xin tháp tùng với họ đi cho vững bụng. Khi tôi bày tỏ ý ấy ra thì Mật nói ngay:

    - Ê, tụi này là một lũ tội nhơn đây nghe ta ! Bộ muốn không còn chỗ đội nón hay sao mà dính vào ?

    - Tại sao là tội ?

    - Chuyện Tam Quốc ba mươi sáu cuốn kể sao cho hết.

    - Tóm tắt “Hồi thứ năm mươi” nghe thử coi.

    - Đại khái là ở trên phân công tụi này về khu Sáu !

    - Trời đất! Thiệt sao cha?

    - Không thiệt thì bịa à?

    Hoàng nói:

    - Thì ở mấy trạm ngoài mình cũng nghe một vụ tréo cẳng ngỗng như vậy mà.

    Tôi lại hỏi Mật:

    - Ông đã nếm mùi khu Sáu chưa?

    - Mới nghe hin hỉn là đã chạy sốt vó rồi, nếu phải nếm chắc ói tới mật xanh.

    Hoàng Việt hỏi:

    - Nói vậy đây là khu Sáu rồi sao cha? Vậy gần qua ranh Nam Cờ mình rồi !

    Mật xua tay:

    - Chưa, chưa đến khu Sáu đâu mẹ đĩ ! Nhưng khu Sáu không có đường xuống. Phải xuống “Khu Eo” rồi mới luồn vô “khu Éo” (Có một số ngôn ngữ sáng tạo trên đường dây như khu Eo, khu éo là khu Năm, khu Sáu). Đừng có mừng vội.

    Đoàn người rẽ theo những đường mòn khác nhau đi ruồng thịt hộp. Tôi và Mật cố tri nên bắt cặp với nhau đi chung một đường. Tôi hỏi tiếp:

    - Rồi các cha làm sao?

    - Một số chống lệnh một số thỉ hành lịnh.

    - Họ không nói gì à?

    - Nói chớ sao không nói ! Họ bảo là phạm kỷ luật quân đội sẽ ra tòa án binh khu.

    - Ớn vậy à?

    - Chống lệnh cấp trên đâu phải chuyện đùa ta! Chắc họ bảo sẽ cho các trạm phía trong bắt giữ chúng tớ lại. Nhưng chưa thấy ai bắt cả.

    - Nếu họ cho người bắt thì làm sao?

    - Làm sao thì mặc làm sao, dẫu có bề nào cũng chẳng có ghê mà ! Tụi tôi về quê chiến đấu chứ có theo giặc đâu mà sợ tội !

    Tôi vẫn còn thắc mắc:

    - Nhưng lệnh đâu lại có lệnh lạ kỳ vậy hả?

    - Người ra lệnh cứ việc ra còn dưới này có thế nào cũng mặc. Cậu chưa rõ đầu đuôi, để tôi kể cho nghe. Số là ở khu Sáu vừa lập một trung đoàn mới chỉ có lính, rất thiếu cán bộ cậu biết không? Cho nên họ điện ra Hà Nội xin cán bộ.

    Sẵn dịp bọn này đang đi ngang qua đây, thế là bộ Tổng ra lệnh cho chúng tôi xuống Bác Kế để nhận công tác, tức là lắp vào cái trung đoàn mới đó và chỉ huy nó luôn.

    - Sẵn ổ đẻ, sướng thấy bà, còn đòi gì nữa!

    - Ổ gì mà đẻ sướng, cha non ! Có sướng mấy tôi cũng không đẻ mà ! Ổ tôi phải lót ở trong Nam thì tôi mới đẻ. Mà ở trong đó tôi có sắn ổ rồi. Tôi mong về tới đó. Tôi phải về trong đó cơ! Sống chết cũng về mà! Chứ theo ông, ông bị phân công xuống khu này, ông có đi không ông nội “Thành bùn Tổ cò?”

    Câu hỏi như một đột biến trong tâm tư tôi.

    Ừ nhỉ. Đó là lương tâm con người đối với Quê hương. Tôi có người yêu quê ở khu Năm đi về khu Năm. Sao tôi không đi với nàng.

    Nếu tôi xin đi khu Năm thì chắc chắn được ngay. Vì khu Năm, khu Sáu, ngoài người địa phương, không ai đi. Ngược lại người ở khu Năm mà được đi Nam Bộ thì lấy làm sung sướng. Chao ôi ! Cũng thời là con cháu Thành đồng Tổ quốc, nhưng đứa thì con cháu ruột, đứa lại ghẻ. (Cái Thành đồng Tổ quốc này có một thời bị cà nanh dữ dội.

    Số là cái “thành” này già Hồ tặng cho Nam kỳ không phải cho khu Năm khu Sáu. Đây là lời phỉnh vĩ đại nhất đối với dân Nam kỳ. Do sự phỉnh này mà dân Nam kỳ mới đưa ngực ra đỡ đạn cà-nông trong mười năm trời và lấy làm tự “hìu” so với các miền đất kháng chiến khác. “Tụi tao anh “rũng” nên mới dược cái vinh dự to bằng bồ ấy.” Do đó khu Năm khu Sáu phân bì.

    “Miền Nam đi trước về sau ! ” Cùng với Nam Bộ, khu Eo khu Éo cũng anh “rũn” nào có kém ai ? Tại sao già Hồ không tặng gì hết. Già Hồ thấy hơi khó xử, nên lập lờ nói tráo rằng: “Hồi đó tui tặng cái “thành” đó chung cho Miền Nôm” (từ vĩ tuyến mười bảy trở dzô!! Ô hô hô!) Nhưng cái huy hiệu thành đồng nhỏ hơn hai ngón tay tréo chỉ được phát không cho dân Nam kỳ chứ không phát cho dân khu Năm khu Sáu.

    Nhưng dù được nhận mặc lòng, dân Nam kỳ cũng không có đứa nào thèm đeo trên ngực vì cái ngực bằng xương thịt thì lổ chỗ dấu đạn mút-canh-tông và cà nông, còn áo thì tả tơi nên không còn chỗ đeo. Còn một chỗ khả dĩ được cái huy hiệu đó nhưng không thể đeo vì đeo ở đó, không ai nhòm thấy.

    Vinh quang cũng có lắm thứ vinh quang, thứ vinh quang thiệt tình là ghế ngồi, đất đứng thì dân Nam Kỳ không được cấp phát bao giờ. Còn vinh quang hàng mã thì được cấp phát nên không nhận. Đại khái cái Thành Đồng nó như vậy đó, cho nên dân Nam Kỳ trên đường này và trong thời kỳ chống Mỹ ở Nam Bộ có những danh từ nhại lại: Thành bùn Tổ cuốc, Thành bùn Tổ cò).


    ............................................... .................................................. ..................


    Câu hỏi của Mật làm tôi chạnh lòng, một sự chạnh lòng cho những bầy con cháu ghẻ mà tưởng mình là con cháu ruột hằng mấy chục năm trời. Mật tiếp:

    - Ông mần nghề văn chương, ông không bị ai xỏ lá, chèn ép, bạc đãi, vùi dập khốn nạn như tụi tôi nên ông không biết nỗi nhục của những người đeo cái tấm Thành Bùn trên lưng ông văn sĩ ạ. Bọn này được người ta xài như cái nùi lau vậy.

    Khi cần lau chân, xách ra lau cho chân, khi cần lau mặt cầm lên lau mặt, khi cần lau háng cứ lau háng một cách vô tội vạ. Tôi đang đào gốc lim, ở trên bảo trở về làm Công binh, đang làm Công binh ở trên bảo sang Lào, sang Lào về ở trên bảo dzề Nam, đi nửa đường vô Nam, bảo xuống khu Sáu.

    - Vinh quang thấy mẹ còn rên !

    - Ừ vinh quang thấy ông cố nội, nên tóc rụng gần hết vì đội các thứ vinh quang đó ! – Mật giở chiếc mũ tai bèo – Gì đây ! Thấy vinh quang chưa ? Da tôi ngày nay có giống da Pha-thét không? Đó lại là một thứ và vinh quang quốc tế đấy!

    - Ủa, có sang đồng Chum nữa hả?

    - Có chớ ? Chum, hũ, lu, mái gì có đi hết cả. Trước khi đi được “hấp da” cho giống người anh em.

    - Có vụ đó nữa sao ? Tôi nhìn Mật trân trối – Vậy tôi tưởng đen này là do ông “rầu rãi ró sương” biến nước da tạch tạch xè (tiểu tư sản) ra nước da lãnh đạo chớ!

    - Bây giờ có môn bắt nước sôi mà cạo như cạo heo vậy mới mong lấy lại nước da Hồng Lạc ông ạ !

    - Trời đất !

    - Cho nên ai có bắn tôi thì bắn, tôi cũng càn về xứ thôi ông ạ !

    - Năm nay băm mấy cái xuân tình rồi?

    - Sao không hỏi bốn mấy!

    - Ối mà lo gì, về trong đó cây nhà lá vườn, các cô trừ cho mười tuổi mà. Ủa ! Tôi nói thiệt nghe cha ! Con gái hơ hớ ở trong bây giờ chỉ chờ tụi mình về làm đám cưới tập thể thôi, Tui có đọc thơ ở trong gởi ra tại Ban Thống Nhứt mà cha!

    - Tôi lạy ông ! Con gái Nam Kỳ không có lấy thằng mặt lọ như tôi đâu !

    - Mặt lọ nhưng huy chương đỏ ngực, lo gì không có đứa mê.

    - Ông nội ơi ! ông lãng mạn cách mạng dữ he! Tôi thì thực tế thôi. Nè, tôi kể cho ông nghe. Một lần nọ tôi đến dinh Sư đoàn Bộ ở Thọ Xuân, tôi trông thấy một cảnh tôi chán tới bây giờ.

    - Cảnh bộ đội mình rước ông Già Rô mà tưởng Cụ Hồ phải không?

    - Không đâu. Cảnh khác, nhưng cũng ớn lắm. Một ông Trung tá mặt non bấm ra sữa đại điện Bộ Tổng tư lệnh vào kiểm tra Sư đoàn mình. Ông Đại tá nhà mình đầu bạc trắng đứng nghiêm chào và nhận huấn thị của ông Trung tá con nít đáng con !

    - Cấp bậc quân đội thì phải vậy chứ sao ! Người ta đại diện Bộ Tổng mà.

    - Nhưng nó làm gì mà lên Trung tá mau vậy kia chứ? Mười năm ông Đại tá nhà mình có lên đâu! Ổng là Đại đoàn phó hồi năm 1947 kia mà. Còn tôi Tiểu đoàn trưởng, mười năm trên đất Bắc vẫn còn nguyên!

    - Xin lỗi nhé, cách mạng quên đồng chí ! Ủa không! Cách mạng thử thách đồng chí đấy Hổng sao đâu! Về tới trỏng thăng hai ba cấp một lúc.

    - Này ông Bảo, Chính ủy Sư đoàn được đi về làm Chính ủy Quân khu Sàigòng Chợ Lớn…

    - Ủa, ổng dzô rồi sao ?

    - Lâu rồi và đền xong nợ nước cũng lâu rồi.

    - Vậy hả. Trời đất! Ổng có cho tôi ngồi ngồi xe jeep lên nông trường Lam Sơn một lần.

    - Nhưng giấu kỹ nghe !

    - Ừ thì giấu !

    - Chết lãng nhách !

    - Đánh với Mỹ chết là vinh quang chứ sao lãng nhách?

    Hai đứa nói chuyện khào cũng qua hết nửa ngày. Khi đổi được thịt hộp chúng tôi quay lại. Tôi hỏi ngay:

    - Chừng nào di cho hay để tôi móc cái rờ-mọc của tôi theo với.

    - Mai!

    - Sớm vậy ?

    - Hễ có chuyến thì đi chớ sớm muộn gì. Cái “làng” khu Eo này bê bối lắm. Nằm lại một ngày teo… một ngày. Vừa rồi máy bay phóng thanh có nghe không?

    - Có !

    - Nó kêu đích danh từng tiên ông tiên bà trong bảng Phong Thần. Hình như có tên ông nữa đấy! Kêu xong, nó cho ông ba bốn ngày để “về với chánh nghĩa” ông hiểu không? Nếu có người về thì nó lại kêu tiếp, nếu không ai chịu về là nó chơi mạnh.

    - Sao ông chắc vậy?

    - Thì phải đoán bụng thằng địch chứ. Ngồi chờ nó tới à? Nó không biết những cán bộ từ đồng bằng hết đất sống chạy đi đâu à? Máy bay nó nghiêng cánh liếc thấy hết tất cả lều trại dưới này ông nội ơi ! Nó chỉ ném cho ba trái bom napal thì rụi lẻng beng hết ráo thôi. Liệu mà “cuốn vó chạy dài” đi thôi cha non.

    Nghe ông quân sự Mật bàn như thế, tôi về thuật lại cho Hoàng nghe Hoàng gạt phắt:

    - Mấy tay đó trốn xâu lậu thuế sợ bí nắm đầu nên phóng nhanh, cậu chớ có tin! Mình lợi dụng tình hình hòa bình này bồi dưỡng và bỏ lưng một mớ lương thực nữa rồi sẽ đi. Đi một cuốc nữa phải vô tới ranh Nam Bộ. Có chết cũng bò cho tới ranh rồi chết mới nhắm mắt.

    - Tùy anh ! Tối thấy mấy chả cũng có lý lắm .

    - Không bao giờ có chân lý cho mọi người, ai có chân lý nấy! Và cũng không có chân lý nào cố định. Chân lý cũng như con kỳ nhông. Nó đổi thay theo hoàn cảnh. Mấy chả phải đi ngay vì ở lâu sợ lậu sự, còn cậu Thiệp thì ban đầu định quất ngựa chuối vô Nam với mình nhưng sau khi biết vợ còn sống thì ở lại đây muôn năm. Phải không?

    Còn mình thì chừng nào đi được thì đi, muốn ở đến chừng nào thì ở. Riêng với mấy ông bà ở đồng bằng thoát chết lên đây mắc võng căng lều ngủ ngon giấc thì đây là đất sống, chỗ nào mắc võng căng lều được thì chỗ đó là Thánh địa ! – ông nhạc sĩ chơi một hơi “andantino” làm tôi thối chí và hết muốn đi theo mấy nhà quân sự lậu vé nữa.

    - Ở thì ở! – Tôi nói xụi lơ, rồi hỏi – Anh đổi được cái giống gì không?

    - Không!

    - Lấy gì “liên hoan” chiều nay?

    - Ráng đào ba cái rễ cây vô nấu cà-ri ăn đỡ rồi mai sẽ tính!

    - Cha nội giỡn hoài? Đổi được cái gì đưa ra coi.

    - Có được một con cầy, nhưng nó đòi mắc lắm. Tao phải về bàn kế hoạch với mày. Nếu được thì minh sẽ làm lương khô bỏ theo lưng đắp dầu gối khỏe nhất!

    - Còn ba cái xương “Tổ tiên” nữa ông nội !

    Hoàng vỗ đùi kêu:

    - Thấy mẹ ! bỏ quên hỗm rày trong ba lô chắc thành dòi hết cả rồi.

    Vừa nói Hoàng vừa chạy lại moi ba lô, lôi cái gói xương khỉ ra ném đánh bạch xuống đất rồi giở ra một cách cẩn thận như sợ hơi bom nguyên tử xì.

    - Thối rùm!

    - Không, không thối chút nào !

    Hoàng đem xuống suốì rửa ráy rồi đem lên bỏ vô gà-mèn, nói:

    - Tao nấu liền ba ngày ba đêm.

    - Khoan đã !

    - Sao?

    - Để mai ăn thịt chó lấy xương nấu luôn một mẻ!

    - Ai bảo mày vậy ?

    - Thì theo công thức quốc doanh do anh phát hiện chớ ai !

    - Cái thằng!

    Cơm nước xong ai leo lên võng nấy. Cơm no thật nhưng lại cảm thấy vẫn còn đói vì ăn với hộp ruốc mặn và uống nước trà tráng miệng. Hoàng lại trở lại với mẻ cao khi tưởng tượng.

    - Mày nhớ hồi thuở nhỏ đi học, thầy giảng cho nghe vụ nấu sơn của Bernard Palissy không? Ông ta chụm hết củi mà cũng chưa tìm ra sơn.

    Ông ta bèn lấy bàn ghế làm củi. Đốt hết bàn ghế cũng vẫn chưa ra cái giống gì cả. Ông ta giở luôn cả nhà. Sau khi thiêu đến mảnh ván cuối cùng của ngôi nhà ông ta tìm được chất sơn dầu.

    - Ông muốn làm Palissy hay “Palisse” – không “sy” ?

    - Đừng giỡn mày! Nấu sơn thì còn tìm công thức chứ nấu cao khỉ cứ già lửa là xương nó mềm ra, nó hóa thành nước, thế là đạt yêu cầu.

    - Ừ thì cứ nấu xem. Mẹ, đây rồi khỉ, dọc, cà khu, lọ nồi trên đường này trốn mất hết đó anh Bảy! Vì chúng sợ cái phát minh của anh.

    Suốt ngày nói liền miệng, chân đi không nghỉ, tay hoạt động không ngưng cho nên không nhớ không suy nghĩ gì hết. Khi màn đêm buông xuống mới thấy rêm nhức từ thể chất đến tâm tư.

    Thiệp nằm ngất ngư bên cạnh cứ thở dài não nuột, mỗi một hơi thở của hắn có tác động làm tan hết cả khí phách còn sót lại trong người tôi. Tôi nhớ Phương! Mới hôm nào, nay đã nằm rã mục dưới đất giữa rừng.

    Tôi nhớ những đêm vác gạch đi trong khu vực nhà Phương. Chỉ có hai đứa. Chúng tôi đi sánh đôi nhau trên những quãng đường khi thì lát gạch khi thì đầy cỏ đẫm sương. Tình yêu đến thật nhanh và bất ngờ.

    Chúng tôi hình như đã cho đây là lần quyết định, không còn lần nào khác nữa. Một gia đình con con đã vẽ ra trước mặt với một hài nhi oe oe trên tay mẹ.

    Phương đã có ý thức đó từ lúc nào không biết, nhưng một hôm Phương đưa cho tôi đôi giày trắng tinh nhỏ tí xíu và bảo tôi: “Anh giữ lấy nhé ! Mình sẽ mang cho con. Em mang một chân, anh mang một chân!” Nàng hôn tôi mãnh liệt và nói: “Không có con, em không chịu được!”

    Một đêm chúng tôi tập xong, vào nhà; mẹ của Phương đã quay sẵn một con gà cho chúng tôi ăn. Phương cứ liếc nhìn tôi như bảo: “Mẹ thương anh lắm đó.

    Em nhỏng nhẽo ghê cơ ! Mẹ lúc nào cũng chìu em ! Em về là mẹ phải để dành cho em món gì cơ! Chị em cũng cưng em ghê lắm.” Rồi Phương òa khóc: “Em không muốn xa mẹ và chị một ngày nào ! ”

    Phương khóc suốt đọc đường. Chỉ qua ba trạm đầu Phương đã rên rẩm.

    Đoàn khu Năm của Phương cùng với đoàn Nam Bộ của tôi hợp thành liên đoàn hành quân theo đội hình hàng dọc. Một chiều, Phương đi lạc không một người nào chịu trở lại tìm dùm. Của đáng tội, ai cũng mệt nhừ, mong tới nơi hạ trại để mắc võng nằm hoặc lo cơm nước ăn rồi nghỉ, có ai thừa sức khỏe mà đi làm một công việc như vậy Chỉ có tôi. Tôi ném ba lô và chạy, bò, leo ngược lại và tìm gặp Phương ngồi bên một bụi lau đang gục đầu khóc.

    Tôi quảy ba lô cho Phương và kè nàng đi từng bước. Nàng nói ngay: “Người ta đem con bỏ chợ!” Đó là lời than thở đầu tiên tôi được nghe trên đường Trường Sơn. (Và tới nay, đã hai mươi sáu năm qua, tôi như còn nghe văng vẳng bên tai khi tôi ngồi viết những dòng này). Tôi hỏi: Nếu anh không trở lại, em làm sao? – Em cứ ngồi đây chứ còn biết làm sao nữa. – Sao hồi theo kịp em không kêu lên? – Em vấp ngã, em bi trặc chân. Em biết ngay vì em không đứng dậy được.

    Em có kêu, nhưng người đi trước em quay lại vẫy vẫy tay quát: “Đi cố lên!” Rồi mấy người đi sau em đi tới, người thì hỏi một câu, người thì sờ đầu, rồi đi qua luôn ! – Bộ họ không biết em đau chân sao? – Họ biết chứ!

    Chúng tôi về đến điểm hạ trại. Tôi nấu cơm cho Phương ăn, nấu nước cho Phương ngâm chân. Tôi ở lại với Phương, săn sóc nàng tới khuya. Nàng khóc không dứt nước mắt.

    Từ trạm đó trở đi, tôi như kẻ tùy tùng của nàng, lúc vác ba-lô lúc dìu nàng qua suối. Nàng rất tự hào về đôi chân đẹp của nàng. Đôi chân nàng đẹp thật. Có lẽ vì biết thế, nên mỗi lần qua suối nàng cố tình đi chậm lại và để cho “kẻ tùy tùng” lùi lại phía sau nàng. Nàng xắn quần lên dò dẫm lội từng bước và chốc chốc ngoái lại lườm tôi: Anh nhìn gỉ thế? – Anh xem em múa trên mặt nước!

    Một đêm mưa, tôi đến tìm hơi ấm ở nàng. Hai đứa nằm trên một chiếc võng, nước mưa đổ ngập cả lưng…

    Một lần khác trời khô ráo, ai nấy đều ngủ say. Nàng bảo:

    - Giá mà bây giờ chúng mình đã có với nhau một đứa con !- Rồi nàng bảo: Anh cho em một đứa con đi!… Bây giờ này ! Rồi nàng khóc. Mấy hôm sau chúng tôi chia tay. .

    Bây giờ này!

    Bây giờ thì tất cả đều chấm dứt. Chấm dứt không còn một thứ gì. Đôi giày con tôi vẫn còn cất trong ba lô. Tấm hình nàng nằm trong ví nhưng tôi không dám dở ra xem từ khi Thiệp báo hung tín. Tôi sợ nhìn thấy nàng. Tôi nhìn thấy tôi trong mắt nàng. Bức thư nàng viết cho má tôi – tự nhận mình là con dâu trước khi làm lễ cưới – tôi vẫn còn giữ chung với hình nàng, bọc trong giấy bóng. Sau bao nhiêu lẩn lội suối, dầm mưa, tôi đã đem phơi nắng hoặc hơ lửa.

    Tôi sợ tất cả những gì của nàng còn lại trong tôi. Tôi như nghe lại lời than trách giữa buổi chiều lạc đường “Người ta đem con bỏ chợ!” Lời ấy quả thật không quá đáng !

    Tôi nằm trăn trở mãi cho tới khuya. Thiệp cũng không ngủ. Đồng bệnh tương tri.

    - Anh có định làm gì cho chị Phương không?

    - Tôi ấy à? Làm gì được bây giờ? – Tôi giật mình trả lời như máy rồi hỏi lại – Còn cậu, cậu định làm gì cho bà chị?

    - Tôi hoàn toàn bí lối.

    Sương khuya nặng hạt rơi đầm đìa trên mái lều.

    Sáng hôm sau, thức dậy thân thể đau như dần, tâm thần nhẹ bông như vừa đầu thai kiếp khác. Giao liên đến ra lệnh tập họp để chuẩn bi lên đường. Giao liên, đó lại là một chàng trai. Giao liên toàn là người trẻ, hoặc từ Bắc vào hoặc từ Nam ra. Họ phải là những người “giỏi gìò, mau chân” trước nhất.

    Họ là những cái máy biết đi và thuộc đường đi. Họ không có tình cảm thương xót hoặc có mà không hề để lộ ra trước những cảnh huống bi đát của khách đi đường. Cho nên giữa khách và giao liên không có cả “chất nhờn xã giao.”

    Trái hẳn với những buổi sáng lên đường khác, anh giao liên này cho tập họp từng đoàn một và đứng thành một hàng dọc, những ai chưa lên đường thì không được bén mảng tới. Khách lao nhao phản đối. Anh ta cứ mặt lạnh như tiền đi tới đi lui la quát, chỉ chỏ khách thi hành điều này điều nọ. Rồi cuối cùng đến từng đoàn một, yêu cầu trưởng đoàn cho xem danh sách đoàn viên của đoàn mình .

    Đoàn đầu tiên được anh ta chiếu cố là đoàn cán bộ thuộc Bộ Công nghiệp nặng. Một người trong đoàn nói ngay:

    - Trưởng đoàn nằm lại trạm ngoài.

    - Ai thay thế?

    - Chẳng có ai thay thế cả!

    - Các đồng chí có bao nhiêu người ?

    - Khởi đầu thì bốn mươi, bây giờ còn hơn ba chục.

    - Rụng bao nhiêu?

    - Bảy, tám gì đó !

    - Bảy hay tám nói rõ dùm cha nội ?

    - Bảy hay tám, tám hay chín, chín hay mười, không rõ được. Muốn rõ đồng chí chịu khó đếm.

    - Vậy mỗi người cầm giấy ra tay cho tôi kiểm tra!

    - Giấy gì?

    - Giấy đi B chứ giấy gì.

    - Nào, lấy giấy ra cho người ta xét ! – Người kia bảo những kẻ cùng đoàn.

    Tức thời có tiếng nhao nhao lên khắp đoàn. Có người ném cả ba lô xuống đất.

    - Giấy đầu còn mà xét!

    - Còn bộ xương sườn đây có đếm mấy cọng thì đếm!

    - Cho đi vô thì đi, không cho thì trở ra chẳng xét con mẹ gì cả.

    Ở đằng sau, cũng có tiếng la ó.

    - Làm gì lâu vậy? Sáng sớm đi khỏe mà không cho đi bắt ngâm chân ở đây!

    Anh giao liên cáu tức, quát trả:

    - Yêu cầu các đồng chí giữ dùm kỷ luật chút !

    Có tiếng đáp lại to hơn:

    - Đồng chí xét cái gì mới được chớ?

    - Có người đi lậu vào Nam!

    Mọi người cười rộ lên. Một người nói:

    - Vào Nam sung sướng quá nên có người ham chúng bay ạ !

    Anh giao liên bị chọc tức, nói to:

    - Có một số đồng chí được phân công xuống Bác Kế lại không đi mà chuồn vào Ông Cụ đấy ! Ở trên bảo chặn họ lại. Vậy đoàn nào có người lạ mặt không phải là đoàn viên của mình xin báo cáo cho tôi biết ngay, nếu không, tôi sẽ xét giấy từng người một.

    À ra thế! Tôi giật mình và lo cho các ông bạn vàng của tôi. Tôi đảo mắt khắp các đoàn nhưng không thấy các ngài thuộc đoàn nào và đứng ở đâu. Nếu xét gặp chắc rắc rối to. Các tay này không phải là loại người dễ bị bắt nạt.

    Một hồi lâu, tôi không thấy ai báo cáo với giao liên cả Bỗng một người nói:

    - Có cả chục đoàn, mỗi đoàn có vài chục người, đồng chí hỏi khơi khơi như vậy làm sao moi ra dân đi lậu. Ít nhất đồng chí cũng phải biết mặt mũi dấu riêng, vóc dáng và tên tuổi chứ đại khái chủ nghĩa vậy ai biết ai là ai?

    - Biết thế nào được mà biết. Ở trên không cho biết gì hết !

    - Thế thì chịu thôi .

    - Ở trên bảo là: Mật, Trừ Trử Trữ hay Trứ gì đó, còn một dọc năm, sáu ông nữa trong đó có tên Quỳ hay Quy Quý gì đó tôi không nhớ.

    - Vậy ai mách cho đồng chí những cái tên ấy ?

    - Trạm ngoài !

    - Họ có nói thêm chi tiết nào nữa không?

    - Họ nói toàn là cán bộ trung cấp.

    Bỗng bật lên một tiếng cười:

    - Bọn tôi là cán bộ trung cấp đây ! Đồng chí lại xem có phải là dân đi lậu thì cứ bắt giữ lại.

    Tôi nhìn ra Mật. Cái thằng cha ba trợn thật. Nó moi không ra lại chường mặt tự giới thiệu. Nhưng anh giao liên đi đến rồi xua tay:

    - Đùa hoài !

    - Giấy đây có xem thì xem — Mật tiếp.

    - Dân đi lậu không như các đồng chí. Họ không thể nào đàng hoàng như các đồng chí vậy!

    Mật nói:

    - Vô Ông Cụ sướng ích gì mà họ phải trốn chui trốn nhủi vậy?

    - Các cha ấy nhớ nhà các cha ấy không chịu đi khu Eo khu Éo. Tôi đoán thế!

    Cả đoàn cười rần. Anh giao liên, hơi ngượng, ra lệnh:

    - Thôi, ta đi – Nhưng còn bực tức – Trong khi đi đồng chí nào phát hiện được những ông ấy, báo cho tôi biết.

    Mật cười:

    - Họ đi mất đất rồi ở mà xét.

    - Sao đồng chí biết?

    - Đã đi lậu thì phải đi lén chứ đứng ra tập họp để đồng chí nắm đầu à?

    - Thôi, tất cả theo tôi ! – Anh giao liên nói xong bước nhanh tới phía trước.

    Tôi thở phào. Bất giác tôi nhảy xuống đất chạy ra nắm tay Mật, rưng rưng:

    - Ông về trước cho tôi gởi lời thăm bà con nghe ông!

    - Ừ ráng mà lết nghe ! Mật nắm tay tôi thật chặt – Tôi nhắn dùm cho. Mà nhớ đừng chết dọc đường! Có tệ lắm cũng ráng bò tới Bà Rịa nghe cha !

    Tôi nhìn đoàn người lom khom đi khuất ở ven rừng, nước mắt đổ trào không ngăn được. Tôi cảm thấy quê hương còn xa quá! Mình tới đây mới được hơn phần ba đường. Rồi mai mình cũng đi về, nhưng thấy người ta đi sao buồn vậy .

    Tôi về võng nằm. Hoàng đã thức dậy ló đầu ra gác trên mép võng hồi nào. .

    - Các cha lậu đi lọt rồi hả?

    - Làm đếch gì bắt được họ !



    Hết Chương 14 - Xem Tiếp Chương 15


    sigpic

    Comment


    • #17
      Vượt Trường Sơn 3




      Một tiếng gà gáy. Trời đất! Gà ở đâu mà gáy vậy? Một âm thanh làm tôi điếng người. Có một làng quê ở đâu đây hay sao ?

      Trời đã trưa trờ rồi mà nó lại mới báo bình minh. Lâu nay mình không nghe tiếng gà gáy tiếng chó sủa, không biết tới mái nhà, không biết sự êm ấm.

      Toàn hóc búa, thô lỗ, hấp tấp, giành giật, chen lấn, bòn mót, liều mạng.

      Cuộc sống mọi rợ hoàn toàn nảy lên giữa đám người tự khoe văn minh.

      Tôi bỗng buột miệng hỏi:

      - Anh biết thằng Quang không anh Bảy?

      - Con bà Mười “Thép” ủy viên Trun ươn?

      - Nó chết rồi.

      - Ừ, thằng Phẩm nói cho mày biết chớ ai !

      Im lặng một chốc, Hoàng lại nói:

      - Nó chưa tới số chết mà tại nó muốn chết !

      - Tội nghiệp !

      Hoàng lặng thinh, một chốc:

      - Tụi quí tộc đỏ hư hỏng hết. Tao biết chúng nó rành hơn mày. Tao gặp tụi nó ở ngoại quốc cơ. Không có đứa nào học hành nên thân hết. Toàn chơi bời phá phách, Đại sứ quán của mình lo trị tụi này mệt hơn cả làm việc nước.

      Chúng nó phá nát kỷ cương của sinh viên du học. Con ông cháu cha thời nào cũng vậy. Hễ cha làm thầy thì con bán sách. Có thằng lấy con gái người ta có bầu. Con gái ở bên đó dễ “gà” lắm, không có phải như con gái Hà Nội đâu.

      Gái Hà Nội mình nắm tay được cũng còn là khó huống nữa là cái sự kia. Còn đám đó thì dễ thôi. Đá lông nheo vài phát là ăn thua rồi. Nhưng bọn sinh viên thường, bậc trung có dấm dớ cũng phải kỹ lưỡng, mày hiểu không? Nếu không kỹ để “lộ ra da” thì chết! – Hoàng bị khui trúng tủ, xổ như liên thanh – Đại sứ quán kêu lên kiểm thảo rồi cho “về xứ trồng khoai lang” ngay. Còn tụi quý tộc thì không nhằm gì.

      “Lập thành tích vĩ đại” ở Bungari xong thì được thuyên chuyển qua Đông Đức, lại “lập thành tích vẻ vang” thì lại đưa qua Liên Xô chạy tang!

      - Thế là lai giống Tiên Rồng thành quốc tế chớ sao?

      - Cái thằng Quang này là thằng đạo đức, đàng hoàng một cây. Tao chưa thấy thằng nào như nó.

      - Dân Nam Kỳ mà không lang bang à?

      - Bậy hoài mậy! Bộ hễ dân Nam Kỳ thì lang bang hay sao? Như tao nè, đạo đức số dzách! Hí … hí … hí … Để yên , tao kể chuyện thằng quý tộc cho mày nghe.

      Nó sang Liên Xô ba tháng học môn chính trị xã hội gì đó. Nó chán! Nó đòi về. Bà Mười cho nó sang Tiệp. Ba tháng nữa, lại đòi về.

      - Không “lập thành tích” gì ráo à?

      - Không! Nó về vì nó chán! Nó bảo học năm năm về cũng chả làm được cái gì hay ho ngoài cái bằng cấp phó tiến sĩ giấy. Nó về nước hẳn chứ không đi nước nào nữa cả. Bà Mười chỉ có nó là con trai. Bà chăm chút nó dữ lắm. Em nó là con Thư mày biết không ?

      - Nghe nói!

      - Coi cũng được lắm! Nhưng nó lại mê thằng kép cải lương Nam Bộ. Thằng này đóng
      vai Lữ Bố! Mày biết nó mà. Già khú rồi. Mặt nhăn như da ổi. Hổng biết nó mê thằng nọ chỗ nào? Con nhỏ mê man tàng tịch, bà già rấy la không nổi!

      - Mê cái chỗ đó chớ chỗ nào?

      - Thằng nọ vợ con đùm đề rồi chớ phải chân trơn hay sao mà nhảy vô? Hai đứa hẹn nhau ở hội sân khấu đường Ngô Văn Sở. Nó mang tới đủ thứ đồ bổ. Tao gặp và được thằng Lữ Bố mời một lần. Mẹ! Ăn rồi chạy rong khắp ba mươi lăm phố phường như chó điên, đụng ai cũng muốn ngoạm.

      - Thứ bổ gì mà dữ vậy cha?

      - Đồ bổ của Kim Nhựt Thành tẩm gân mày biết không?

      - Sâm à?

      - Củ nào của nấy bằng củ củ … cải..ải vậy mày ơi! Mình cả đời không nếm được một lát còn nó đem hầm bồ câu cho thằng Lữ Bố ăn.. để nó múa lang ba cây kích sắt!

      - Ở đâu mà nó có nhiều vậy?

      - Cái thằng! Nó lấy phiếu của bà Mười vô Tôn Đản cái gì mà hổng có chớ! Muốn hốt bao nhiêu mà hổng được? Còn nhiều thứ khác còn ác hơn nữa mày ơi!

      - Thứ gì mà ác hơn nữa?

      - Bòi, dái, cừu Mông Cổ!

      - Trời đất! Có các thứ đó nữa sao?

      - Đại lãnh chúa mới có phiếu mua các thứ này mày ơi! Nó đã vô hộp đặc biệt hết rồi dán nhãn đỏ chữ mạ vàng. Ăn chưa hết đã lật màn làm tại mâm mà! Cho nên tới lui chẳng bao lâu, con nhỏ mang cái bụng thè lè, cần cổ cao nhòng lên. Bà Mười rầy nó, nó vác mùng vác chiếu lại ở luôn với thằng Bố…

      - Vợ nó đâu?

      - Dân Nam kỳ làm gì có tiêu chuẩn mang vợ ngoại trừ mấy thằng xếp.

      - Rồi ở luôn à?

      - Bả tới bắt về. Nó tự vận bằng dầu nóng. Đem vô nhà thương… giấu kín lắm, nhưng ai mà chẳng biết. Có một mình mày không hay gì hết thôi.

      Tôi cười:

      - Cha nhầm rồi ! Con nhỏ không phải mê thằng Lữ Bố. Nói vậy tội chết. Nó khoái thằng họa sĩ vẽ phông màn cải lương vì thằng này có vẽ cho nó một bức chân dung. Vẽ xong anh chàng đề ngay dưới bức ảnh một câu: “Người đẹp tôi tôn thờ suốt kiếp.

      ” Do câu đó mà nàng cảm… gió mạnh! Còn một chi tiết nữa ông kể cũng sai. Nàng không đem chăn màn tới ở chung với thằng Bố. Cơ quan đâu có chỗ chứa. Hai đứa đi mướn nhà riêng hè hè… Còn khúc sau thì đúng y vậy.

      Hoàng tiếp:

      - Thằng Quang đi nước ngoài về nhà đụng ngay cái màn cải lương đó. Đã chán nước ngoài về “nước trong” lại càng thêm ngấy. Bà Mười cũng rầu nhưng bà nghĩ tới tuổi già trên sáu mươi rồi không có cháu bồng. Bà bèn chạy hỏi vợ cho nó.

      Bà tìm ra chỗ đồng chí cựu trào. Bà mừng gặp được con giòng cháu “giống.” Bà làm đám cưới tức thì…

      Hoàng đang kể hăng say thì có tiếng la oai oái. Hai đứa nhìn về phía có tiếng kêu, thì ra máy bay tới. Người ta kêu dập lửa và lấy quần áo dẹp vô trong lều.

      Tôi và Hoàng ngồi im trên võng nhìn mặt nhau, chờ xem loại máy bay nào. Thình lình trên không có tiếng phát ra vang vang:

      - Allô, allô nghe đây ! Tôi là Trung tá Nguyễn Văn Hàm, Tham mưu trưởng Trung đoàn X3 bị bắt ở trên đường mòn cách đây ba trạm về phía Nam. Đơn vị của tôi bị phục kích bất ngờ nên chống cự không được. Trên năm mươi binh sĩ trong Trung đoàn bị thiệt mạng và trên hai mươi binh sĩ bị bắt sống.

      Tôi mang theo ba thứ tiền Việt Miên Lào để mua thực phẩm cho đơn vị. Tôi biết hiện giờ anh em còn trốn tránh trong rừng vậy nên tôi đã ném trả lại số tiền đó để anh em chi dùng. Hiện giờ tôi có đầy đủ thức ăn thức uống… Allô, allô! Anh em thân mến ! Có khi nào anh em tự hỏi mình chịu đói chịu khát để ai hưởng không ?

      Có bao giờ anh em trông thấy một đứa con đứa cháu nào của mấy ông to bà lớn đi trên con đường này không? Chúng nó đi giải phóng Miền Nam bên Liên Xô, Tiệp, Đông Đức. Thậm chí có đứa sang tận Cu Ba để giải phóng Miền Nam…

      Hoàng nói ngang:

      - Tụi này đểu thật ! Nó chơi mình mười cú không sai một.

      - Hôm trước một cú, đã xính vính, nay bồi thêm cú nữa !

      - Mặc mẹ nó, đừng có nghe nữa uổng lỗ tai.

      Chiếc máy bay vòng vòng phát hết bài bản rồi rải giấy và biến đi.

      Hoàng quơ lượm và nói:

      - Thứ này mình đang cần đây. Nhóm lửa là nhất !

      Tuy nói vậy Hoàng vẫn đọc.

      Tôi giục Hoàng:

      - Mình đi ăn cơm rồi giải quyết vụ con chó xem sao !

      Cơm đã nấu hồi hừng sáng, để tới bây giờ cứng quánh như đá nhưng ráng nuốt.

      Hai đứa dặn Thiệp ở nhà coi chừng đồ đạc cho kỹ rồi dắt nhau đi đến lều có con chó mà chủ nhà đã hứa đổi cho hôm trước.

      Dọc đường, Hoàng nhặt được thêm vô số “thứ nhóm lửa tốt.” Hoàng chắc lưỡi:

      - Mình bị “đẽo” hết nhát này tới nhát khác.

      - Đi đâu coi bộ cũng không khỏi. Nó ở trên đầu mình nó bổ xuống mà.

      Đến chỗ ông chủ nhà đổi chó, chúng tôi chìa ra một cái đồng hồ và một cái blouson da. (Chiếc áo này Hoàng mua từ nước ngoài, định đem về làm quà cho con trai).

      Chủ nhà là một người đàn ông tóc hoa râm. Ông có cả một cái lều gần giống cái nhà lợp bằng lá rừng chớ không phải căn lều ni-lông như tụi tôi, – một loại nhà đá nhà đạp nhưng khéo léo và tươm tất hơn cái nhà của anh giao liên Phẩm.

      Bên cạnh ông ta cũng lại một cái nhà khác to hơn nhưng xập xệ hơn trong đó ẩn nấp hai vợ chồng và một đứa bé. Chồng đang chẻ củi. Vợ ôm con hát trên võng.

      Ông chủ chó nói ngay:

      - Tui thì tui muốn đổi nhưng anh tê lại can. Anh với tui ở chung một thôn. Chạy lên đây có hai anh em. Lúc chạy chị ấy có thai. Mới sanh được hơn một tháng. Anh ta nói để con chó lại cho vui cửa vui nhà. Ở trong rừng có tiếng chó sủa nó ấm áp, cũng như thêm đứa con nít vậy. Hôm qua tôi tính sai…

      Nghĩ rằng ông ta chê cái đồng hồ và chiếc áo chưa cân với con chó – của đáng tội, nó chỉ bằng bắp chân thôi – tôi móc túi, định đưa thêm bửu bối, nhưng ông ta khoát tay:

      - Không đâu, mấy tui cũng không đổi! Tôi chạy lên đây, vợ con bỏ hết, ôm được nó theo làm bạn. Tưởng là vô dụng nhưng khi lên đến đây rồi, thấy nó hữu ích lắm. Nhìn cây rừng tối ngày, thấy nó cũng vui và đỡ nhớ nhà.

      Có chút gì ăn cũng chừa cho nó. Đi đâu nó cũng chạy theo chân. Bây giờ vì miếng ăn mình lại bán nó ư. Ra mình ác quá !

      Nếu ông ta đòi cò kè bớt một thêm hai thì hai tên công tử bột này sẵn sàng phình bụng, mấy cũng đổi, miễn có chút thịt bồi dưỡng, nhưng đây là vì lý do triết lý luân lý của một con người ly hương, nên hai đứa tôi đành rút lui ý kiến. Hoàng hỏi:

      - Đồng chí hoạt động ở xã à ?

      - Tất cả các lều chung quanh đây đều là xã ủy cả. Cái xã chúng tôi địa dư ác lắm. Trước mặt thì biển, sau lưng là núi. Nó bịt hai đầu, nó ruồng khúc giữa là có môn bay lên trời thôi chứ không còn lối nào thoát cả.

      - Vậy làm sao đồng chí hoạt động được ?

      - Có hoạt động gì đâu. Sống được đây đã là thắng lợi rồi. Bi bắt hết ráo, sót mình tôi. Lớp nào còn sống thì dần dần ra đầu thú rồi xin giấy chứng nhận để làm ăn, mỗi ngày trình diện ấp một lần, ba ngày trình diện xã một lần. Nó nêm mình khít rim như nêm cối không cục cựa được.

      - Các anh về Nam hả? – Ông ta hỏi lại tôi.

      - Vâng

      - Không biết ở trong đó có dễ thở hay không?

      Đứng nói chuyện tình hình một lúc, tôi hỏi:

      - Đồng chí biết chung quanh đây có ai đổi món gì không?

      - Có cái đồng chí kia có con gà trống, đâu các đồng chí đến hỏi xem.

      Tôi nhìn con chó Vàng ốm nhom nằm bên gốc cột. Mõm nó đen, bốn chưn cũng đen: Hình như nó hiểu lời chủ nó phân trần với chúng tôi.

      Ở khóe mắt nó tôi thấy dường như có một ít nước mắt. Tôi thấy tội nghiệp con vật. Chiến tranh làm cho người cả vật đều khổ. Tôi bật ra câu hỏi bất ngờ:

      - Mà làm sao đồng chí lại bế nó theo được ?

      Ông chủ lều nghẹo đầu sang bên và nói:

      - Cái số nó khổ ông ạ ! Tôi đi trong đêm mù mịt, đâu có thấy gì. Qua một xóm nọ, giao liên bảo ngồi nghỉ ở mép đường chờ cho đám nhân dân tự vệ đi qua rồi sẽ tiếp tục. Đang ngồi dẫu tai nghe tiếng động thì lại nghe có tiếng rên rỉ và vật gì nhồn nhột bên chân. Tôi quờ thì đụng nhầm nó. Tôi chẳng suy nghĩ gì cả.

      Tôi cởi khăn choàng ở cổ bọc nó luôn, quảy bên nách và bảo thầm: Tao sống mày sống. Tao chết mày giữ mả cho tao. – Ông trỏ con vật – Ba tháng rồi mà mới bây lớn đó. Có cái gì ăn mà lớn được !

      Hai đứa men tới chỗ chủ gà. Con gà bi xiềng chân vào gốc cột. Mào đỏ chóe, lông xước xù xì. Chúng tôi ngỏ ý đổi đồ nhưng người chủ, một ông già đầu .bạc trắng đáp:

      - Để nó gáy cho ấm làng.

      - Sao cụ lên đây vậy?

      - Chúng nó treo giá đầu tôi một trăm đấu thóc, không đi để nó bắt à?

      - Cụ làm gì mà nó treo giải thưởng vậy .

      - Tôi chỉ huy ám sát tụi thôn trưởng ác ôn nhưng thất bại. Mình giết người thì người giết lại. Tôi chẳng hận gì cả. Chi có cái buồn. Buồn chết người đi được. Các anh về Nam hả.

      - Vâng.

      - Tôi là dân Ba Tơ của Nguyễn Chánh đây các anh ạ. Ông ấy bỏ chúng tôi thế này cũng hơi khó coi. Ổng ra ngoái đóng lon Trung tướng phải không?

      - Đúng! Nhưng ổng đau nặng và chết rồi !

      - Thế à? Chúng tôi ở trong này mắt mù, tai điếc, có biết gì đâu !

      - Sao cụ già yếu rồi lại không đi tập kết?

      - Ông Chánh ổng bảo phải ở lại giữ cơ sở. Cố chịu hai năm là tương lai rực rỡ. Mười năm còn chịu được. Hai năm nữa là bao. Ở thì ở! Đến nay là mấy “hai năm” rồi ? Tôi không còn nhớ nữa. Hừ ! Cách mạng đang thắng lợi ngon như gỏi, bỗng nhiên chúng tôi ra thế này, thật chẳng hiểu sao. – Lão già nổi nóng ngang – Các anh có ở trong này thì mới biết nỗi khổ của thằng cán bộ. Sau khi tàu tập kết lui rồi, chúng nó tố Cộng ngay. Đêm nào cũng tố. Không một ngoe nào lọt lưới. Anh nào không bị bắt thì ra đầu thú.

      Không đầu thú không bị bắt thì mau mau lên rừng. Ở dưới đó sớm muộn gì cũng bị nó thôi. Chúng tôi có tổ chức một chuyến ra Bắc bằng đường biển để báo cáo tình hình nước sôi lửa bỏng ở trong này. Liều chết mà đi. Nhưng không biết có ra tới không?

      - Chắc đã tới rồi cụ ạ ! Vì thế cho nên mới có con đường này. Hoàng nói.

      - Người có về thật nhưng khó xuống dưới đó lắm !

      Không muốn vướng vào những thắc mắc thâm căn của ông chiến sĩ Ba Tơ, tôi trỏ chú gà:

      - Cụ nuôi nó lâu chưa vậy cụ ?

      - Nó là gà rừng. Tôi đi kiếm củi bắt được cái trứng khảy mỏ. Tôi đem về để gần bếp cho ấm. Nở ra nó đấy. Ba tháng rồi chi to bằng ấy thôi. Tuy bé người nhưng tốt giọng và siêng gáy lắm. Ban đêm nó gáy là cả làng này được nghe.

      Tôi hôi:

      - Bà con ở đây đông lắm sao cụ?

      - Chừng hơn trăm. Ngày nào cũng có người lên. Ở dưới mình mất hết. Mất người, mất đất. Có nhiều anh về nhà, vợ đuổi kìa mà. Nói thế các anh biết là tình hình nguy ngập đến mức nào. Các anh cố đi bươn về trong đó, nếu muộn, không cứu chữa được đâu.

      Cụ Hồ ngày xưa đang hóa ra Cụ Ngô rồi đó! Có ca dao chạy trong dân rồi cơ mà ! – Ông già chớp chớp mắt như để nhớ ra câu ca dao – À, nó như thế này:

      Một mai mưa rã tan “hồ”
      Lúa lên ngô tốt ăn “ngô ” no lòng. .

      Tôi bấm Hoàng.

      - Chào cụ ạ!

      - Chúc các anh chân cứng đá mềm nghe. Chớ già này thì hết mong thấy mặt bà con làng xóm rồi.

      Đi kiếm ăn chẳng ngờ gặp toàn chuyện rủn chí. Chẳng có hi vọng đổi được món gì, hai đứa đành trở về lều. Về lều lại gặp cái cục bi quan nằm chình inh trên võng. Thiệp hỏi ngay:

      - Các anh có nghe tên gì loa trên máy bay không?

      - Có ! Rồi sao ?

      - Nhiều người lên máy bay kiểu đó quá nhỉ !

      - Bị nó bắt, nó bảo làm gì mà không làm !

      Hoàng săm soi mẻ cao khỉ. Đó là hi vọng cuối cùng. Tôi bảo:

      - Mai ta đi thôi, anh Bảy!

      - Ừ đi quách. Tới đâu tới. Ở đây mỗi ngày mình nghe như lún xuống với ba cái ông khu Eo này. Tập kết cả vợ con nội ngoại láng giềng xa láng giềng gần mà cũng than . Vô đây, đụng mấy ổng, lại nghe mấy ổng than.

      - Thôi, nghỉ cho khỏe đi rồi mai ta cùng nhau “xông pha lên đàng” quách !

      - Nè cái ông chủ trại cưa Kim Hữu chắc vô tới trỏng rồi hả?

      - Tới lâu rồi! Ổng vô để sửa soạn làm Bộ trưởng mà !

      (Chủ trại cưa Kim Hữu là nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Số là khi chúng tôi vô trường đi B thì gặp ông ở đây. Ông cũng vác gạch tập quân sự ì ạch như bọn tôi. Riêng tôi thì ngủ chung một phòng bốn người với ông. Ông có tật ngáy như sấm.

      Không đứa nào ngủ được. Lần lượt chúng tôi chuồn đi hết, bỏ ông chiếm lãnh một mình. Do tiếng ngáy hùng hồn của ông mà chúng tôi đặt cho ông là cái trại cưa. Còn Kim Hữu là cái tên lậu của họ Lưu. Vô đây thằng nào cũng thay tên đổi họ.


      .................................................. ..... .................................................. ............



      Ông chủ trại cưa Kim Hữu được ở trên chỉ định làm trưởng đoàn để dìu dắt ngót bốn mươi văn nghệ sĩ vào tận R giao cho Hội Văn nghệ Giải phóng.

      Nhưng vào giờ phút cuối cùng, ngay trong đêm xuất phát, ông nhạc sĩ lại “đau bụng”, ở trên bèn chỉ định một anh khác thay thế ông chủ trại cưa. Chúng tôi thừa biết đó là một màn hài hước không ăn khách.

      Ông chủ trại cưa đi máy bay vô Phnom Pênh và ra rừng bằng xe mô tô của Khiêu Samphan) .

      - Ngày mai lên đường? Demain on partira hả !- Hoàng cười – Đừng có cái kiểu demain on mangera sans payer (mai ăn khỏi trả tiền) nghe!

      - Tùy anh thôi! Anh đừng có bàn ra nữa! Tôi nghe ớn ớn rồi.

      - Lại sốt hả?

      - Không phải? Nghe mấy ông quân sự bàn về tình hình ở đây, tôi ớn lắm ! Máy bay nó liếc hằng ngày như vậy là nó ra hiệu cho rồi đấy. Sớm muộn gì nó cúng tái sụn cái làng này thôi.

      - Tụi nó đểu thật nhỉ! Nó mở cửa cho đi, tưởng thoát, ai dè lại vô rọ.

      - Nó đánh một phát là diệt hết gốc rễ xã thôi.

      - Thằng Núi thằng Ngữ không biết đã đi chưa hay còn nằm đó?

      - Tội nghiệp thằng Phẩm quá nhỉ. Nó làm bạn với con khỉ con mồ côi.

      - Mình ác quá! Bắn chết con khỉ mẹ…

      - Người mình bây giờ làm bạn toàn với gà, chó, khỉ . Nay mai rồi họ cũng ăn thịt chúng nó thôi. Đói quá còn kể gì tình nghĩa. Đến như tình đồng chí thiêng liêng thế mà còn choảng nhau bạt mạng nữa là.

      - Cái thằng! Mày đâm ra triết lý rởm quá mậy!

      - Thiệt chớ rởm. Đánh nhau bằng sư đoàn có cả xe tăng để giành mấy tấc đất hoang mà là rởm à?

      - Chậc . Đó là phe ta thử sức mạnh cho đế quốc biết mặt mà ghê răng chơi thôi !

      - Tôi nghi thằng Núi không đi nổi quá anh ạ ! Tội nghiệp con bé ở Hà Nam !

      - Mày lo tội nghiệp cho cái con Phương của mày kia đi!

      Hoàng nói chơi mà động thật. Câu nói đã đâm vào tim của tôi lẫn Thiệp.

      Nhưng tôi gượng nói lấp cho qua:

      - Thôi, cậu ở lại nhé Thiệp. Cậu còn hi vọng hơn mình nhiều ! Người sống đống vàng cậu ạ! Tớ chỉ mong được như cậu mà không được !

      Thiệp lặng thinh. Hoàng lui cui trút mớ xương tổ tiên gói bằng ni-lông bỏ vô ba-lô.

      Đúng là khạc không ra, nuốt không vào. Bỏ thì uổng mà ăn thì không ăn được.

      Hai hôm sau sẽ có chuyến đi. Chúng tôi phải chuẩn bị từ bây giờ. Số gạo mười sáu kí lô mà chúng tôi vừa lãnh đã ăn hết độ một phần tư.

      Còn lại trên dưới mười kí. Mười kí lô trên đường Trường Sơn nằm trên lưng một tên ốm đói, chán nản như tôi, như Hoàng Việt không phải là chuyện đùa.

      Người ta cho biết số gạo lãnh kỳ này là để chi dụng trong một thời hạn vô định, nghĩa là không biết chừng nào sẽ được lãnh nữa, vì từ đây vào trong thì bom đạn xảy ra thường trực, ngoài ra còn biệt kích. Người đi đường phải luôn luôn ở trong tư thế chiến đấu chứ không có thể lè phè lắc lư như từ trước nữa. Bằng chứng là viên tham mưu trưởng trung đoàn gì đó bị bắt và lên máy bay tuyên truyền giở giọng xuống đất.

      Tôi sực nhớ mấy câu chót của ông ta mà chợt thấy đúng quá! “Các con ông lớn đi giải phóng Miền Nam ở bên Tiệp Khắc Liên Xô! Chỉ có chúng ta đi giải phóng Miền Nam bằng con đường tử đạo này.”

      Cách mạng này thành công nhờ sức dân, nhưng dân ăn cám, ăn khoai, ăn củ chuối thấy mẹ còn các lãnh tụ thì tha hồ vì dân, ông thì vợ bé, ông thì chôm vợ người, ô-tô nhà lầu, lính gác khít như răng, ông nào ông nấy mặt đỏ như gấc ngồi xe volga nặng sát nhíp.

      Tôi buột miệng nói:

      - Thằng Quang con bà Mười là thằng kỳ cục, hả anh Bảy !

      - Nó có cái lý của nó !

      - Ở ngoài Hà Nội cưới vợ rồi kiếm bậy chân giám đốc dễ như chơi mà không chịu để lăn thân vô đây làm giống máu gì cho chết sốt rét?

      Hoàng Việt ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

      - Mày nghĩ theo chủ quan của mày còn nó có hoàn cảnh của nó.

      Hoàng Việt kể tiếp câu chuyện về Quang:

      - Bà Mười tìm được con gái của một ông đồng chí cựu trào. Bèn nhờ ông Hùng làm mối. Ông Hùng làm mối là chắc như bắp rồi ! Hai nhà cách mạng kỳ cựu làm suôi gia với nhau môn đăng hộ đối biết bao nhiêu, nhưng cái thằng công tử Quang lại vô phúc. Khi cưới xong con vợ thì mới biết là cô nàng đã mang bầu với đồng chí ta… Nó không nói gì hết cứ bỏ nhà đi.

      - Bầu của ai vậy ?

      - Cả Hà Nội biết mà mày lại không à?

      - Hà Nội có một ngàn lẻ một trái bầu hoang chớ phải một hay sao ông?

      - Bầu với ai không bầu lại bầu với thằng lái xe của ông già tía nó.

      - Thấy bà chưa ! Vậy mà tôi đâu có biết. Tôi có đến chơi nhà đó hoài mà ! Ổng cũng là tay bán trời không mời thiên lôi nên con ổng noi gương ổng chớ sao!

      - Mày có “thêm chưn thêm tay” gì không?

      - Không! Tôi thề có thánh thần làm chứng. Tôi đến là tôi nhắm vô con em thôi. Con em có vẻ nhu mì dễ thương hơn. Con chị cũng đẹp nhưng là cái đẹp hỗn, beauté brutale, tôi có muốn cô ta thật, nhưng tôi hơi sợ. Còn.cưới cô ta làm vợ thì tôi không bao giờ có ý nghĩ đó. Tại bà Mười bả không biết coi tướng nên bả mới nhảy vô chỗ đó.

      Hoàng Việt gạt phắt:

      - Tướng tá cái khi meo. Tại bố nó ăn hết lộc con. Bố nó già rồi mà còn “hoạt” mạnh lắm. Ổng quơ luôn một loạt mấy bà góa của các cựu đồng chí nhà mình. Mấy trái dừa khô để lâu ngày mọc mọng mày biết không? Cho nên gặp ổng xới đất trồng là rung rinh ngay.

      - Đời cha ăn mặn đời con khát nước ! Quả có đúng!

      Hoàng Việt tiếp:

      - Thằng Quang lên Ban Thống Nhất xin về Nam. Lần này thì không có ai cản được nó nữa. Nó đi giải phóng Miền Nam mà. Lấy lý do gì cản nó?

      - Tội nghiệp, cái thằng chết mà trong ba-lô đầy sâm và B12.

      - Gặp sốt ác tính có thuốc tiên cũng không chữa nổi !

      - Tội nghiệp bà Mười. Vllla rộng mênh mông mà không có con cháu gì ở chung hết, trong lúc bọn mình thì lại không có cái ga-ra chui rúc.

      Buổi sáng, giao liên lại làm thủ tục trước khi dắt khách đi. Hắn nói:

      - Mấy tay trung cấp không biết đã lọt chưa? Các đồng chí để ý dùm. Ở trên đốc thúc tìm cho ra. Nhưng bố tôi cũng không tìm được. Cứ nói đại khái như vậy thì lấy gì làm bằng chứng để xác nhận từng người khách chớ!

      Tôi từ giã Thiệp với những cảm xúc nghẹn ngào. Tôi bắt tay Thiệp:

      - Thôi cậu ở lại nhé. Phải bình tĩnh giải quyết vấn đề. Chúng ta không có khả năng gì trước một thực tế như vậy. Chỉ cầu mong sự may mắn xảy ra cho chúng ta thôi !

      - Tôi thiệt tội nghiệp cô Phương. Nếu tôi biết anh còn ở đây tôi sẽ lấy lại một vật gì cho anh giữ làm kỷ niệm. – Thiệp rơm rớm nước mắt nói.

      - Kỷ niệm cũng không thay đổi được gì. Mang thêm kỷ niệm càng thêm nặng bước đi.

      - Tôi ở lại đây vì không thể đi, chứ ở lại làm gì chính tôi cũng không hiểu,

      - Thiếu gì những chuyện mình làm mà mình không hiểu gì hết. Phải không?

      - Anh nghĩ rằng nó có thể đem vợ tôi về Sài Gòn không?

      Câu hỏi của Thiệp làm tôi chới với. Có thể lắm chứ. Nó đi bằng máy bay mà. Nhưng dù ở Sài Gòn hay ở đây, nàng vẫn xa cách chàng. Một ngàn cây số hay chỉ một bức tường con thì sự xa cách vẫn là xa cách. Tôi hỏi lại :

      - Nhưng nếu nó đưa cô ấy vào Sài Gòn thì cậu sẽ làm gì nào?

      - Tôi sẽ đi với anh vào trong đó !

      - Thì cũng thế thôi !

      Thiệp lặng thinh.

      Hoàng Việt xuất hiện như một cứu tinh:

      - Tôi biết sự đau khổ tận cùng làm cậu quẩn trí. Bây giờ tôi đề nghị cậu dùng biện pháp của tôi là tốt nhất.

      - Biện pháp gì anh?

      - Cậu coi như cậu đi công tác xa để vợ ở nhà. Đúng! Cũng như tôi vậy. Tôi đi kháng chiến hồi 46, không có hẹn gì với vợ tôi cả. Tôi nói chừng nào hết kháng chiến thì về. Thế là đi. Mới ban đầu vô chiến khu Đ. Vợ tôi còn ra vào tiếp tế nọ kia. Vài năm sau tình hình găng quá, chạy xuống Tháp Mười, bả vẫn còn mò xuống đem cà phê, sữa, tẩm bổ cho tôi và ở chơi vài ngày rồi về.

      Nhưng Tháp Mười bi càn nát bét, tôi chạy xuống miền Tây, cũng còn móc ngoéo được vài chuyến. Thế nhưng sau khi tập kết thì dứt đường tương chao. Bưu thiếp cũng không gởi được. Đến chừng tôi đi Bungari thì mới gởi được thư từ qua đường Paris. Gần hai mươi năm trời. Bây giờ tôi mới thấy le lói cái hi vọng gặp lại bả.

      – Hoàng Việt nói trôi chảy nhưng tôi biết đó là một kiểu đau chân há miệng thôi chứ Thiệp không thể xài được cái biện pháp của ông ấy. Vì hoàn cảnh của Hoàng Việt và của Thiệp khác hẳn nhau. Sống trong lòng giặc và bi giặc bắt không thể coi là một hoàn cảnh.

      - Tất cả lên đường! – Giao liên ra lệnh.

      Tôi bắt tay Thiệp không muốn buông ra hay chính Thiệp không muốn buông tay tôi ra. Hai niềm đau cộng lại thành ra một biển đau thương. Hai đứa nước mắt ròng ròng, nhưng không thể đứng lâu hơn, tôi đành phải chia tay với Thiệp. Nếu dùng dằng tôi có thể ở lại và Hoàng Việt sẽ tán thành không chút đắn đo.

      Đường bắt đầu dốc và dốc cao. Hoàng Việt la ngay:

      - Mẹ nó, giết mình quách cho xong!

      Đoàn bây giờ vỏn vẹn chỉ còn có hai đứa đi chung với nhau ở đây. Thằng Núi và thằng Ngữ còn ở trạm ngoài không biết sống chết thế nào.

      Trời lại bắt đầu đổ mưa. Đường gồ ghề với những mô đá lẫn trong bùn, vừa đi vừa trợt. Mọi người đều lấy vải ni-lông ra trùm từ đầu trở xuống không cho ba-lô ướt, vì nếu ướt thì nó sẽ trở thành một quả núi đè trên lưng không thế nào đi nổi. Lưng người nào người ấy gồ lên như những con lạc đà một bướu.

      Người đi đằng trước tôi chuyền lệnh:

      - Đi khít nhau kẻo lạc đường.

      Tôi quay lại để nói cho Hoàng Việt thì không thấy anh nữa. Nhìn xuống phía dưới cũng không thấy anh mà toàn là những người lạ. Nhưng tôi không thể dừng lại được vì nếu dừng lại sẽ đứt đuôi và không biết đường đi. Tôi đành phải lội bươn tới cho kịp người đi trước. Đã một lần tôi bị đứt đuôi ở tại một ngã ba.

      Đoàn người phía sau tôi đi tới nhưng tôi không biết phải rẽ sang ngả nào. Nhiều người sừng sộ suýt đánh tôi. Tôi nổi doá để cho họ đi trước và tôi bọc hậu cuối cùng. Như thế dù tôi có đứt, thì cũng chỉ lạc mình tôi, không phương hại gì đến ai.

      Trời mưa càng lúc càng to, nước tuôn xối xả đến mức độ hai người chỉ cách nhau mươi thước là không còn trông thấy nhau nữa. Nước từ trên trời đổ xuống như dội, vuốt mặt không kịp, nước từ trên đỉnh dốc tuôn theo đường mòn xuống ào ào như một dòng suốì nhỏ chực cuốn phăng những bàn chân run rẩy đang dấn bước lên.

      Tôi đang mò mẫm tìm một nơi chắc chắn để đặt bàn chân thì bỗng một bàn tay nắm ống chân tôi lôi xuống.Tôi trượt ngã và rơi lên đầu người ở phía dưới cuốn theo một loạt người nữa. Tất cả đều lăn long lóc trên sườn núi như những quả bóng cho đến khi mỗi người có chỗ bám lại mới thôi. Tôi quờ quạng bò lên, đứng dậy và vừa vuốt mặt vừa quát:

      - Đồng chí nào chơi kỳ cục vậy.

      Một người hỏi:

      - Chơi gì mà kỳ cục.

      Tôi nói:

      - Tôi đang leo thì đồng chí nào lôi chân tôi.

      - Ai lôi đâu? Té trên đầu người ta còn nói.

      Tôi cố tìm xem thủ phạm là ai nhưng vì ai cũng trùm ni-lông và ni-lông do chính phủ phát nên chỉ một màu xám. Do đó không biết thủ phạm là ai.

      Cuối cùng lại lóp ngóp bò lên đi tiếp. Tôi đi mà cứ bị ám ảnh bởi một bàn tay ở phía dưới nắm chân mình. Tôi biết họ không có bụng xấu nhưng vì họ suýt ngã nên chụp ẩu ống chân tôi để gượng lại như níu một gốc cây, nhưng gốc cây lại tróc luôn theo người gượng.

      Người giao liên cho cho cả đoàn lên đến đỉnh dốc rồi bảo:

      - Các đoàn kiểm điểm lại người của mình, nghỉ một chút rồi đi xuống.

      Chẳng có ông đoàn trưởng nào kiểm điểm cả. Mà cũng chẳng còn ai là đoàn trưởng nữa. Mạnh ai nấy đi. Có khi đoàn trưởng lại nằm ờ trạm ngoài kia. Và chẳng có ai lên thay đoàn trưởng. Cuộc hành quân vô cùng hỗn tạp. Đặc biệt các đoàn dân chánh thì cứ như là loạn đến nơi. Thằng nào khỏe thằng ấy sống. Tôi chờ mãi không thấy Hoàng Việt tới, bèn nói với giao liên:

      - Đoàn tôi có hai người. Tôi và một đồng chí nữa. Bây giờ lạc mất một người.

      - Đoàn gì kỳ cục vậy.

      - Hai đứa tôi bi tụt hậu, còn đại bộ phận thì đã đi trước.

      - Rồi sao? – Anh giao liên gắt.

      - Bây giờ chỉ có mình tôi. Còn đồng chí kia đâu mất.

      Anh giao liên nói một câu xanh dờn:

      - Tôi không có trách nhiệm gì hết !

      - Đồng chí nói vậy sao được ?

      Anh giao liên nổi cáu ngay:

      - Tôi đã bảo rồi. Ai đi nổi thì đi, không đi nổi thì nằm lại. Ở đây không có trạm giữa đường, không có cứu thương y tá gì hết. Nếu bị lạc thì tự tìm đường đi về trạm chớ nếu tôi bỏ đại bộ phận ở đây để trở lại tìm một người thì không dân chủ. Thiểu số phải phục tùng đa số.

      Dân chủ !? Tôi không còn biết nói gì. Cãi với họ thì càng mệt mà chẳng có ra ngô ra khoai gì. Nên khi anh ta bắt đầu dẫn đoàn đi thì tôi đứng lại đi ở cuối hàng, vừa đi vừa ngóng lại phía sau xem ông bạn vàng có tới không.

      Trời tạnh mưa. Mặt trời hiện lên như một ân huệ vĩ đại. Những con người khoác áo mưa lột tung cả ra như lột vỏ.

      Lên hết dốc, bắt đầu xuống dốc. Lên cũng mệt mà xuống cũng mệt. Lại có phần nguy hiểm hơn.

      Tôi nhìn sườn núi đổ hun hút mà tê tái cả tâm can. Đi đứng gì kỳ cục quá vậy. Càng đi càng buồn nản vô cùng.

      Như một trò chơi thí mạng con người.

      Đường trơn, chuyện đó đã đành, nhưng đá lởm chởm và hố sâu vực thẳm, không phải suông sẻ. Tôi đã từng trông thấy hai anh bộ đội khiêng pháo ban đêm đổ dốc. Vì không có đèn nên anh đi đầu bước hụt chân xuống hố lới theo anh đi sau.

      Cả hai lăn xuống hố với khẩu pháo đè. Tiếng kêu từ dưới hố vọng lên nghe rợn tóc gáy. Mọi người dửng dưng đi qua, nhưng luôn luôn bị câu hỏi sau đây ám ảnh tôi: “Làm sao lôi hai anh ấy lên?” Có quân đội nào hành quân kỳ cục vậy không?

      Lần này tuy trời chưa tối nhưng đường trơn. Cái ba-lô ướt trên lưng đè xuống mà ven đường không có tay vịn để giảm sức lao của khối nặng toàn thân. Có lúc phải chạy ào xuống đến lúc ngã thì đó là lúc dừng lại, ngoài ra, mỗi một người là một chiếc xe không “phanh” thả dốc một cách mạo hiểm.

      Đi được một vài chặng thì nảy ra kinh nghiệm. Người ta ngồi xuống và lết. Như vậy không bi ngã, nghĩa là tránh được mọi thứ tai nạn. Ở những chặng có bùn sền sệt thì người ta đi patin, tuột một hơi đến chỗ nào không tuột được nữa thì đứng dậy đi từng bước.

      Tội nghiệp mấy người đàn bà con gái không thể đi được, mà chơi kiểu phiêu lưu patin thì không dám. Nhiều cô nhiều bà đứng khóc ròng.

      Nhiều chặng không có bùn nhưng dốc rất ác. Đi thì nhất định phải ngã và mất rất nhiều thì giờ. Nhiều người chơi trò mạo hiểm. Nhìn thấy cái cây ở dưới kia cách chừng ba bốn tầm đất, ngắm cho kỹ, chuẩn bị dép cho chắc, rồi lao đầu một hơi xuống ôm chặt lấy gốc cây để đứng lại. Nếu ai bám được gốc cây thì sẽ đứng lại, còn nếu ôm hụt hoặc vuột ta sẽ lao luôn hoặc ngã lăn toành, toé máu là cái chắc.

      Cái cách này đã được nhiều người còn sức khoẻ khá áp dụng và thành công chớp nhoáng nhưng cũng đã xảy ra lắm tai nạn. Có kẻ gãy rằng, có người tét trán. Nhiều ruột tuợng gạo vỡ tung, gạo bay, đổ xuống bùn như gieo.

      Số đông chỉ dòm như coi hát xiệc rồi áp dụng phương pháp của Lê-nin: “Kiên nhẫn, kiên nhẫn, kiên nhẫn nữa.” Tuy có mất thì giờ nhưng không mất máu. Chưa đánh giặc mà máu đã đổ, kể ra không hợp lý lắm!

      Ở một chặng trò xiếc này được biểu diễn một cách ngoạn mục. Số là ở phía dưới có một cái cây nhỏ bằng cổ chân. Cả chục người lần lượt lao xuống và ôm vào đó một cách mỹ mãn. Đến một anh hơi to béo lao xuống và ôm vào cây thì cây trốc gốc.

      Cả người và cây đổ sầm. Cũng may anh chàng chỉ rác toạc áo và xước ba sườn. Từ đó về sau, mỗi lần trượt dốc kiểu đó, người ta bảo chàng béo:

      - Ê, cậu xung phong trước đi, nếu cây còn đứng vững thì những thằng ròm ôm mới bảo đảm.

      Khi đến chân dốc thì trời đã về chiều hẳn. Tưởng mình vừa đầu thai kiếp khác. Quần áo người nào người nấy rách cả, mặt mũi quần áo bê bết bùn như vừa bắt hôi đìa. Chưa bao giờ bờ suối vui nhộn như hôm nay: Tắm tập thể! Cả trăm con người ta ùa xuống suối một lúc.

      Vừa tắm vừa giặt, giặt quần áo, giặt ba-lô. Tất cả đang khô ráo bỗng trở thành lấm và ướt. Cả một khúc suối dợn sóng ba đào, nước suối đục lên như nước trong ao có một bầy vịt quậy mò cá, nhưng sự ồn ào thì lại làm cho người ta có cảm tưởng chợ đang họp phiên lớn.

      Riêng phái nữ thì rất đáng tội nghiệp. Họ luôn luôn bị động. Biết thân không thể sống chung với bầy “sói đói”, những con thỏ con tìm một quãng cách xa ở phía trên nguồn, nhưng bọn đàn ông lại ré lên phản đối:

      - Xui lắm, xui lắm!

      - Tắm dưới nguồn rụng tóc hết!

      - Tắm dưới nguồn mất đầu thai luôn đó tụi bây!

      Thế là đám đực rựa ào ào vác đồ đạc chạy lên phía trên nguồn để khỏi bị mất đầu thai. Nhưng cũng có số đông chống lại một cách vui vẻ:

      - Ở dưới này mới đi đầu thai mau hơn.

      - Nước này mới bổ chớ ạ! Mấy thằng đầu bạc gội thử coi, sáng mai tóc xanh lại. Khỏi cần uống Hà thủ ô của Cuốc Roanh Rượt Phẩm!

      Tiếng cươì, tiếng chế diễu râm ran cả lòng suối. Một tiếng nói oang oang dội lên:

      - Đàn ông thì phải ở trên,chứ ở dưới rồi làm sao mần ăn?

      - Ở dưới thì phải ngoi lên.. hà hà…!

      - Các ông cứ ngoi lên thử coi nào? – Một người trong phái yếu đáp lời sông núi – Tắm dưới các ông tụi tui cũng rụng tóc, cũng mất đầu thai vậy! Bộ mấy ông là tiên hả?

      - Tiên không tiên thì tục chớ gì các bà ơi!

      - Mà các bà muốn tiên hay tục? Nè, tôi cho hay, tiên chỉ biết đánh phép, biết bay thôi chớ chẳng có được cái tích sự gì đâu! Đừng có ham!

      - Bây giờ mà có được một ông tiên ở đây thì tôi ưng ngay.

      - Để làm cái gì ba cái thứ đó?

      - Để tôi bắt cõng tôi và vác ba-lô tôi bay cho mau vô tới trỏng.

      - Tui cõng được không? – Một ông đứng gần đó ra miệng – Tui cõng có lợi hơn tiên. Há há há !

      - Thôi chị ơi, đừng có đấu khẩu với mấy ông đó.

      - Bộ sợ hả?

      - Sợ gì mà sợ ?

      - Không sợ thì đấu thử một trận coi ! Hà hà….

      Một bà sồn sồn nguýt và nói to:

      - Đuổi ruồi còn không nổi kia, đòi đấu.

      - Đuổi ruồi không nổi chứ đấu thì hăng lắm ! Không tin thì cứ làm giao kèo. Hễ tôi thua thì tôi cõng đằng ấy và vác luôn ba-lô vô tới Bà-Rịa, còn nếu đằng ấy thua thì tính lẽ nào?

      - Thôi mấy cha ơi, đừng có nói xầy, về tới trong Nam gặp bả rồi tha hồ đấu. Tôi sợ e chừng đó lại than xin xỏ đầu hàng chớ!

      Mấy nàng trẻ cúi gầm giặt giũ nhưng tai thì dường như lắng nghe. Đói khát, nhưng ai cũng thích những chuyện trần tục đó cả. Nhờ vậy mà buổi tắm tập thể có vẻ lạc quan yêu đời và rất “biện chứng nói bá láp”.

      Mấy chàng trai thì vừa tắm vừa liếc những cặp đùi trắng lộ ra dưới nước, những bộ ngực vun lên sau làn áo ướt, những làn cong được phô diễn rất đầy đủ và những “ưu” điểm những “khuyết” điểm cũng được trông thấy lồ lộ hơn.

      Để che mắt sói đói, những cô những bà quây phòng thay quần áo bằng những tấm ni-lông. Vì không có trụ cột nên bốn người căng bốn tấm ni-lông đứng bốn phía cho một bà chui vào. Khi bà xong xuôi thì trở ra làm nhiệm vụ dừng vách cho mỹ nhân khác vào thay xiêm y.

      Cứ thế cho đến hết một nhóm. Sáng kiến này được áp dụng cho phía nữ một cách mỹ mãn.

      Bọn nam giới ngó lom lom nhưng mắt đâu có xuyên được ni-lông. Mặc dù vậy vẫn cứ ngó cho đỡ ghiền. Ngó và tưởng tượng. Mười năm ở Miền Bắc chẳng hoạt động gì được nên rất khao khát của trời. Mong thấy mặt “cụ Đề” được chút tí thôi thì cũng bằng uống một củ sâm Triều Tiên.

      Bỗng có tiếng cười ré lên.

      Mỗi người mỗi giọng, mỗi kiểu, mỗi tình cảm.

      Số là một cô đang cầm ni-lông căng ra bỗng vuột tay. Tấm ni-lông bị rơi xuống một góc. Bà hoàng hậu ở trong cung bị phô bày trọi lỏi từ đầu đến chân không thiếu chỗ nào. Bà hoảng hốt la ré lên.

      Mấy cô kia yếu bóng vía nghe tiếng la thì tưởng là rắn rết hay có chuyện gì nguy hiểm bèn nhảy cà tưng, cô thì buông ni-lông, cô thì chạy vọt qua tránh né. Bà hoàng hậu đứng giữa bốn bức tường sụp đổ bị cả chục cặp mắt xoi mói từ bốn phía. Bà hoàng chạy loạn như đạp lửa và giật một tấm ni-lông quấn quanh mình.

      Đáng lẽ thẹn thùng trước cái tai nạn hiếm có đó, bà hoàng lại vui vẻ và cười như nắc nẻ, đấm vào lưng mấy cô bạn thùm thụp:

      - Bây hại tao ! Bây hại tao !

      - Cho người ta coi chút, mất màu sao mà sợ.

      - Ừ tới phiên bây, tao tốc màn lên cho thiên hạ xem

      - Tốc màn lên thì phải bán vé. Hay cho coi khôngl’- Một người đàn ông lên tiếng.

      Cả bọn cười rộ lên. Một người đàn bà gắt: .

      - Các ông lúc nào cũng như cọp đói rình mồi ấy. Chờ người ta sơ hở một chút là chọc ghẹo.

      - Chọc thì chọc thẳng vô chớ ai có ghẹo mần chi cho mất công!

      Từ đó tới mãn cuộc, bọn đàn ông không có gặp cơ hội may mắn nào để xem “u khuyết” của đối phương nữa.

      Tắm xong, tôi mang tất cả đồ lề lên tìm chỗ mắc tăng giăng võng. Vì không có Hoàng Việt nên tôi không hợp tác xã với ai được.

      Nếu để ba-lô xí phần giành chỗ như người ta giành chỗ ở chợ trời, thì đi tắm lên, cái ba-lô sẽ không còn ở chỗ đó nữa. Chủ nghĩa Mác Lê không có chương mục nào dạy thuỗn đồ đạc của đồng chí nhưng vì thiếu thốn quá nên tay chân sanh ra quơ quào.

      Khi tôi lên bờ tìm chỗ mắc võng thì rừng đã kín đặc. Những đoàn vô trước, đến đây thì ùn lại không đi vô được nữa. Đang bực mình thì người ở ngoài lại đùn vào. Họ đang bực lại càng thêm bực. Sự ứ đọng này có lẽ do trận phục kích mà hậu quả là ông tham mưu trung đoàn ngồi trên máy bay loa ong ỏng xuống đất hôm nọ.

      Loay hoay một hồi rồi tôi cũng tìm được một chỗ. Tuy không như ý lắm nhưng phải chấp nhận, cũng như mười năm qua ở Miền Bắc không có một người Nam Bộ nào như ý về bất cứ vấn đề gì, nhưng họ vẫn phải chấp nhận để sống chờ ngày về nước.

      Vấn đề lớn nhất của mọi người trong chuyến này là gạo ướt. Ở trạm vừa rồi, những người đi Ông Cụ như chúng tôi được lãnh mười sáu kí lô. Chúng tôi ăn xài đổi chác cũng hết một số kha khá. Còn lại thì cộ theo mình. Bây giờ ướt hết vì mưa.

      Không biết làm sao ăn cho hết cả chục kí gạo còn lại kia. Nhưng nếu để cách đêm thì nó sẽ thối ra không ăn được nữa. Đang thừa mứa bỗng nhiên thiếu thốn. Tôi bèn trải ni-lông và trút cả chỗ gạo ra, banh mỏng để cho nó mau khô.

      Vô lý thật. Mới ở chặng rồi, nghe ông Mặt Sắt khiển trách ông Tư lệnh Khu 4 không bảo vệ nổi hai tàu gạo để phản lực Mỹ đánh chìm. Cho không cũng chẳng ma nào dám lặn mò. Ở đây chẳng ai cần lặn mò nhưng vẫn có thừa gạo mà không biết làm sao tiêu thụ. Dưới sự lãnh đạo anh minh của bác đảng, xảy ra toàn những sự vô lý.

      Mắc võng qua loa xong tôi bèn bày ra nấu cơm. Tôi thấy cô đơn chết người đi được. Chưa bao giờ tôi phải sống một mình, chung quanh không có bè bạn, như thế này. Nói chuyện với một người bạn là một nhu cầu không thể thiếu, nhất là trên đường này. Mỗi buổi chiều hạ trại, chúng tôi đều đấu mép, pha trò, chọc ghẹo nhau vang trời. Như thế cũng đỡ mệt.

      Chiều nay người bạn cuối cùng của đoàn cũng đã rời tôi . Tôi nhóm lửa mà bụng cứ nhớ Hoàng Việt. Không biết ông bạn nhạc sĩ bây giờ ở đâu. Đang đi patin hay làm trò xiếc ôm gốc cây trên dốc xuống?

      Không còn một thứ gì còn khô trong ba-lô. Sau khi soạn tất cả đồ đạc ra tôi phát rầu. Bao nhiêu hình ảnh kỷ niệm, mặc dù đã gói hai ba lớp cất trong ba-lô cũng ướt, nói chi đến những vật cất trong bóp bỏ ở túi quần. Lết rách cả đáy quần thì hình ảnh nào còn được .

      Sau bao nhiêu trận mưa và lần lấy thủy làm bộ, các tấm hình đã chớm tróc. Đến phen này thì gỡ đến đâu rách đến đó. Tất cả chỉ còn là những tấm giấy trắng loang lỗ bông hoa trắng trắng đen đen không còn rõ ai là ai nữa.

      Trong một cái gói khác, tôi moi ra đôi giày trẻ con nhỏ xíu như hai đóa hoa huệ.

      Bất giác tôi kêu thầm một tiếng, không biết tiếng gì, nhưng là tiếng đau đớn nhất. Vết thương quá sâu bây giờ mới bắt đầu chảy máu, máu từ tim tôi tóe ra.

      - Phương!

      Quần áo ướt, võng chăn ướt, gạo ướt, bây giờ đến lượt tâm hồn ướt và nát ra từng mảnh vụn như chiếc bánh tráng bị nghiến dưới sức bóp của một bàn tay thô bạo. Một cái thằng Tôi như thế đó !

      - Phương !

      Đây là đôi giày trẻ thơ, nàng đã trao cho tôi và thầm thì: “Em muốn có với anh một đứa con ! Giày của con mình đấy!”

      Tôi cất từ bấy đến nay không lần nào giở ra xem lại, kể cả những lần đồ đạc ướt hết tôi cũng chỉ phơi rồi ngó phớt qua chứ không cầm lên săm soi như những món đồ thân yêu khác trong ba-lô. Ấy vậy mà đôi giày ấy lại là kỷ vật thân yêu quí giá nhất của tôi.

      Tôi không dám nhìn nó là vì mỗi lần trông thấy nó tôi đau buốt tâm can, là vì tôi thấy hi vọng của chúng tôi như tan vỡ hoàn toàn kể từ khi nàng gục đầu vào cội cây ở ngả rẽ xuống Bác Kế mà khóc như rung chuyển cả đất trời.

      Bây giờ thì cái hi vọng ấy mới thật tan vỡ hoàn toàn: Phương đã nằm dưới bao lớp đất. Một người con gái xinh đẹp mơn mởn đào tơ duyên dáng và tài hoa như vậy bỗng nhiên vùi xác giữa rừng không cho cái gì cả, chỉ vì một sự ngông cuồng của những thằng điên. Bao nhiêu mộng tưởng, bao nhiêu lời âu yếm trong tim nàng chưa thốt ra cho tôi đều đã chôn chật dưới kia rồi.

      - Phương!

      Bên cạnh đôi giày, còn có một xấp thư của nàng gởi lén cho tôi lúc ở nhà trường. Chúng đã bị nhúng nước bao nhiêu lần, chữ đã nhòe, giấy đã rách, tôi vẫn giữ nguyên, dù không có gì để nhóm bếp. Tôi đã đốt cả bản thảo của tôi – bản thảo của tôi có đốt thì tôi viết cái khác – còn chữ của nàng đốt đi ai viết lại được, cho nên tôi cứ giữ hoài, những dòng chữ đã mất hẳn trên mặt giấy nhưng còn in mãi trong đầu tôi, trong tim tôi.

      “Anh ơi ! Em cảm thấy như đời em thuộc về anh hoàn toàn. Anh đi đâu thì em đi đấy. Nhưng không hiểu tại sao người ta chia rẽ chúng ta. Đất nước ta bị quân thù chia cắt còn chúng ta yêu nhau, sao ai nỡ tách làm đôi …! Người ta ký lệnh cho anh đi một nơi, em một ngả…”

      - Phương !

      Em chẳng bao giờ còn nói được tiếng nào nữa. Em chẳng bao giờ còn viết được chữ nào nữa mà sao tai anh vẫn cứ như nghe em nói, mắt anh vẫn cứ như đọc chữ em viết.

      Nước mắt ràn rụa. Tôi không còn thiết đến gà-mèn cơm đang sôi sùng sục trên bếp nữa. Tôi leo lên võng nằm.


      Hết Chương 15 - Xem Tiếp Chương 16


      sigpic

      Comment


      • #18
        Vượt Trường Sơn 3




        Trời ơi! Tôi mới biết cái lạnh ở đây là cái lạnh gì. Quần áo ướt, chăn võng ướt và tâm hồn lạnh cứng. Tôi liệm tâm hồn và thể xác tôi vào cõi băng giá mênh mông.

        Con đường này không những là con đường đau ốm bệnh tật đói khát nhọc nhằn mà còn là con đường dày vò, khổ ải , tinh thần rẽ phân, ly tán.

        Nó chưa xóa được những giọt nước mắt chia ly của tập kết giờ nó gây ra những vĩnh biệt ác độc hơn.

        Người với người là đồng loại cũng như thú vật với thú vật là đồng loại.

        Người cùng một dân tộc là đồng bào. Người cùng đảng phái là đồng chí.

        Nhưng khi người nắm được quyền bính trong tay thì người quên mọi điều cao cả, người quay trở lại ăn thịt đồng loại, đồng bào và đồng chí của người. Chữ “người” này có lẽ phải viết hoa.

        Tôi giật mình thức dậy không biết do mùi cơm khét hay do chiếc võng bị lắc. Có lẽ cả hai.

        - Mơ tiên dữ hả mậy?

        Tôi mở mắt và nhận ra Cao, anh bạn nhạc sĩ trong đoàn Văn Công phục vụ đường dây tôi gặp hôm trước.

        - Mày đã vô đây rồi à? – Tôi hỏi.

        - Hai ba ngày rồi.

        - Đi đường nào, sao tao không thấy?

        - Tao cũng không biết đường nào, người ta biểu đi thì đi, biểu đứng thì đứng, biểu hát thì hát, biểu đừng hát thì giữ miệng câm. Biết cái gì là cái gì đâu !

        - Hát xướng gì ở đây chưa?

        - Không dám hát. – Cao nhìn tôi rồi tiếp – ướt hết hả?

        - Nhúng trong nước, khô sao được..

        - Để tao về lấy quần áo khô cho thay, mặc đồ ướt cảm chết.

        - Biết chừng nào giao liên cho đi mà cho mượn!

        - Còn lâu ! Cứ tin tao đi ! Tụi nó nhét nút bịt kín rồi , đường đâu mà đi ! – Nói vậy rồi Cao quay đi nhanh.

        Chập sau trở lại với quần áo trên tay và… một ông bạn.

        - Mày biết thằng nào đây không?

        Tôi nhìn thằng người kia một thoáng mới nhớ ra.

        - Mày cũng đi nữa à? – Tôi gắt yêu.

        - Cả hai vợ chồng ! Thế mới độc đáo !

        Anh chàng kia là dược sĩ. Anh ta làm ở Quân y viện Cần Thơ hồi kháng chiến chống Pháp. Tôi và Cao thỉnh thoảng ghé qua được nó bê cho một chai nhau ngâm mật ong để tẩm bổ hoặc khi có cấy Phì-la-tốp (là nhau khô, rạch da, cấy vào, nghe nói tăng “sức bật” dữ lắm nhưng tôi ớn quá không cấy lần nào.

        Ông nhà văn Sơn Nam có viết một bài tuyên truyền cho môn thuốc này tựa là “Rủ nhau đi cấy” đăng ở báo Kháng Địch khu 9) thì cho hay để đến cấy.

        Tên nó là Vân, nhưng tên khai sanh của nó là Quách Tích Hích. Bọn tôi gọi nó là Chệt lai, bi phê bình mất đoàn kết Hoa Việt, vì nó là cháu bác Mao lẫn bác Hồ.

        Cao bảo:

        - Thôi dẹp ba cái chòi trại của mày, quảy tất cả lại đằng lều họ Quách, ta liên hoan đồng hương một bữa !

        Cao vừa nói vừa quơ quào mọi thứ đồ đạc và lôi tôi đi mau mau.

        Vừa đi, Cao nói:

        - Mày có tưởng tượng rằng nó “vào” rồi lại trở ra cõng vợ nó vào luôn không?

        - Trời đất ! – Tôi kêu lên và quay lại nhìn Vân.

        - Tao không có sáng tác đâu ! – Cao tiếp – Nó đi trước mày mà. Rồi trở ra Hà Nội rước vợ vào đấy. Không tin mày lại đằng đó coi có bà Phụng hay không.

        Chúng tôi tới gần lều thì Quách kêu:

        - Phụng ơi, Phụng, có người quen tới nè!

        Một người đàn bà từ trong chiếc lều “kín cổng cao tường” ló mặt ra hỏi:

        - Ai đó?

        - Không nhìn ra ai hả chị ?

        Phụng chớp chớp mắt giây lâu rồi kêu lên:

        - Anh Xuân Vũ hả ?

        - Chớ còn gì nữa! – Vân nói – Nó đi lạc đường em ạ!

        Cả ba cùng vào lều, một cái lều khác hắn lều Trường Sơn. Nó có vách che bốn bên nhưng cũng đều bằng ni-lông.

        Tuy bằng ni-lông vẫn còn hơn trống rỗng trống lơ như lều của bọn này, nằm trong lều mà tưởng nằm giữa trời.

        Tôi buông đại đồ đạc gạo thóc ba-lô xuống đất. Cao bảo:

        - Đi thay quần áo đi cái đã !

        - Nó có sốt không? – Vân hỏi- Có sốt tao cho uống thuốc ngay cắt cử cái một.

        Tôi như người té dưới sông vừa được vớt lên. Tôi xách bộ đồ quân sự của Cao ra rừng thay rồi vào nhanh. Tôi ngó quanh quất cái lều rồi nói:

        - Bộ muốn trụ hình ở đây luôn sao mà làm nhà kỹ vậy.

        - Ở đây có hai tuần lễ rồi ! Đường kẹt nặng. Đơn vị đi trước mình bi phục kích. Nghe nói ông trung đoàn phó hay tham mưu trưởng gì đó bị bắt.

        - Tao có nghe máy bay loa! – Tôi cứ nhìn ngó chiếc lều hoài – ấm quá!

        - Nó có kinh nghiệm lần vô trước nên kỳ này nó cải tiến cái lều bảnh quá mày thấy chưa? Có vách hẳn hoi. Mưa gió đâu có tạt. Ngủ như trong nhà.

        Tôi chưa từng biết ai khỏe mạnh, siêng năng, tĩ mỉ và cưng vợ như cái thằng dược sĩ này. Hồi ở trong Nam, nó có chiếc ghe tam bản nhỏ có hai tấm rèm dựng lên xếp xuống. Đó là cả cái giang san của nó. Nó không khi nào ăn cơm cơ quan.

        Bao giờ cũng ăn riêng hai vợ chồng hoặc trên nhà dân hoặc dưới ghe. Cơm kháng chiến đạm bạc nhưng rất tươm tất. Thỉnh thoảng đi ngang qua Y viện của nó ở Vườn Cò, bọn tôi thường tắp lại ghe của nó để ăn cơm.

        Không có gì, ăn cũng ngon nhờ nước mắm tỏi ớt, củ cải muối hoặc tương nếp do chị Phụng sáng tạo. Ăn xong nấu trà uống, nói dóc một hồi cho tiêu cơm rồi đi.

        Mỗi khi cơ quan di chuyển, nó ở trần trùi trụi vác hết thùng đồ này tới thùng đồ khác chèo ghe chất đầy đồ đạc của Viện tới địa điểm mới rồi trở lại rước vợ.

        Không bao giờ nó để vợ chèo một phút. Con hai đứa, đứa gởi về ngoại nuôi, đứa giao cho nội giữ. Hai vợ chồng đi kháng chiến một cách thong dong và hồn nhiên.

        Bây giờ gặp lại nhau ở giữa rừng núi này quả là hạnh ngộ. Tôi nói với chị Phụng về tình trạng gạo của tôi. Chị Phụng đưa sáng kiến ngay:

        - Lỡ xuống nước rồi, anh có phơi cũng không ăn được trừ khi anh nấu liền nó mới không hôi. Chỉ có một cách là ngâm luôn rồi xay bột.

        - Nhưng lấy gì mà xay?

        Đang bàn việc xay gạo bỗng Cao kêu lên:

        - Ông Hoàng Cò đâu rồi ?

        - Tụt hậu hồi ở nửa đường!

        - Rồi sao? Không ai vớt ông hết à?

        - Tao đang đi bỗng quay lại thì không thấy ảnh nữa. Mấy người đi phía sau bươn lên nói là ảnh tuột biệt đằng sau. Trời mưa tầm tã.

        Tao đâu có sức mà trở lại tìm, còn nếu ngồi lại chờ thì sợ lạc đường ma dắt vô bụi cho ăn đất sét bỏ mạng!

        - Mày không báo cáo với giao liên à? – Cao gặn hỏi.

        - Báo làm mẹ gì. Chân thằng nào thằng ấy đi. Nó có dư chân cho mình đâu mà báo cáo.

        - Hoàng Cò là ai ? – Vân hỏi. Tên gì lạ hoắc vậy.

        - Hoàng Việt đó! Tụi tao nói “cò” cũng như “diệc,” kêu bằng Hoàng Cò nghe vui hơn. ..

        Vân kêu lên:

        - Hoàng Việt hả? Trời đất ! Ổng ốm yếu vậy mà cũng lội vô đây à?

        - Ốm cũng đi. Xa bà xã đã hai chục năm rồi đó mày .

        Vân đưa tay vẹt tấm vách ni lông ngó trời rồi nói:

        - Bây giờ còn sớm, để tao đi rước thằng chả coi. Bỏ “chả” dọc đường cọp tha uổng cái “Lá Xanh” chớ tụi bây!

        - Lá xanh ăn nhằm gì, Đại hòa tấu Giao hưởng kia đấy !

        - Thôi, tụi bây ở nhà lo cơm nước, tao đi chút coi.

        - Cứ đi theo dấu bùn nát nhừ là gặp ổng thôi. Bây giờ ổng giỏi lắm là đã lên tới đỉnh dốc. Mày mang ba-lô dùm cho ổng thì ổng bay nhẹ thôi.

        Vân nai nịt gọn gàng, lưng đeo súng lục đi nhanh như chạy.

        Tôi và Cao đứa đi “túm” nước về ngâm gạo, đứa đi tìm củi nấu cơm. Trong khi chị Phụng soạn thức ăn. Cao lo nấu cơm còn tôi bỏ gạo vào bọc ni lông nước buộc túm lại và để vào một hốc đá, một kiểu ngâm gạo mới phát minh.

        Tôi bỗng nhớ lại tất cả cái sinh hoạt kháng chiến của chúng tôi. Vô tình hôm nay là buổi họp của những cựu học sinh đi kháng chiến cùng một lúc.

        Tôi buột miệng hỏi:

        - Chị có cho thằng “kỹ sư súc vật” hay trước khi đi không chị ?

        (Lối xưng hô của chúng tôi hơi kỳ cục, gọi chồng thì bằng thằng mà gọi vợ lại bằng chị)

        Chị Phụng nói:

        - Trước khi đi anh Vân có cho ảnh biết, để ảnh tiếp thu “tài sản” của chúng tôi.

        - Coi bộ cái “nghề chăn bò” của nó không khá lắm. Có lần nó mời tôi sang uống sữa trâu của sở nó, ý nó muốn tôi viết bài tuyên truyền sữa trâu ngon và bổ hơn sữa bò Hòa Lan.

        - Sao tôi không thấy bài đó trên báo?

        - Tôi có viết đâu mà chị thấy được. Nó pha cho tôi một cốc tôi hớp một hớp ngậm hồi lâu mới trợn trắng lên mà nuốt. Tanh bỏ mẹ. Vì tình bạn, nếu không tôi phun ra ngay!

        Chị Phụng nói:

        - Ảnh có đem cho anh Vân một bình để nhờ anh Vân phân chất.

        - Ông dược sĩ phân chất thấy chất gì trong đó ?

        - Tôi không nghe kết quả, nhưng chắc không khả quan lắm nên ảnh im luôn.

        - Hắn đi tập kết bỏ vợ ba con ở lại. Vào lứa tuổi tôi ai cũng vợ con đùm đề, chỉ mình tôi là còn độc thân. Khi ra Hà Nội, gặp tôi, hắn mới tỏ ra ân hận chị ạ!

        - Ảnh sang tôi chơi lần nào ảnh cũng than. Ảnh nói với anh Vân một câu, tới bây giờ tôi còn nhớ: “Muốn mau thống nhất bắt vợ con mấy thằng trung ương đem vứt vô Sàigòn hết cả thì có kết quả ngay!” Anh Vân hỏi tại sao vậy, ảnh nói: “Có thế thì chúng nó mới điên tiết lên!

        Chứ còn để chúng bữa nào cũng ăn ngon rồi vợ sẵn bên đó, còn “thống” cái giống gì kia chứ.

        Muối xát lòng ai nấy xót. Phải không ? ”

        Tôi hỏi:

        - Không biết nó có xin về nước không?

        - Vợ ảnh ra được rồi.

        - Trời đất! Làm sao mà ra?

        - Ảnh có đưa mấy đứa nhỏ và chị ấy sang thăm vợ chồng tôi. Chị thuật lại chuyện đi gian nan lắm. Trước nhất phải lén đi lên Cao Miên, ở Cao Miên đi làm thuê làm mướn hai ba năm rồi mua giấy căn cước sao đó, lẹo tẹo ớn lắm mới đi từ Cao Miên ra Hà Nội.

        Cao nói:

        - Bây giờ thì nó cũng hết cần thống nhất rồi. Vì nó đã “thống nhất với vợ nó” rồi. – Cao tiếp- Nè, ông bác sĩ Cư nhà mình ra Hà Nội rồi đâu biệt tăm chị Phụng?

        - Ông Trung, ông Thành, ông Nghiệp còn lặn mất tiêu, ông Cư ăn nhằm gì ! Ông Thành thì đi học Liên Xô, ông Trung thì làm bác sĩ ở tỉnh nào đó, còn ông Nghiệp thì làm Ủy viên trung ương đảng Xã hội, anh không biết à?

        - Có biết chớ! Tôi có gặp ổng xếp hàng đi ăn cơm ở hợp tác xã sau lưng Mậu dịch Quốc doanh ăn số 1 ở Tràng Tiền.

        Chị Phụng lắc đầu khe khẽ:

        - Mấy ông lớn trong mình ra ngoài này lu mờ quá!

        - Lu mờ gì. Tiêu tùng hết ráo. – Tôi xen vào – Hồi kháng chiến, ông Nghiệp từ Bắc vô Nam với chức Tổng Thanh tra Quân y Toàn quốc, oai như trời, đi đâu tiền hô hậu ủng rầm rầm.

        Ổng mở lớp đào tạo y tá sáu tháng ở tại nhà tôi chớ đâu. Tôi ghét nghề thầy thuốc nên không học.

        - Anh Vân đã từng làm ở quân y hồi các ông Bờ ông Thầm cưa tay chân thương binh bằng cưa thợ mộc. Công của ảnh đóng góp cho nghề biết bao nhiêu, thế mà ra Bắc cũng chỉ lãnh chức Phó.

        Ảnh chán ảnh mới ghi tên xung phong về xứ. Ảnh nói về trong mình kháng chiến như hồi trước vậy mà vui hơn. Ra Bắc bon chen ganh tị ti tiện qua. Cục muối chia hai, cục đường nuốt hết. Biết vầy ai có mong kháng chiến thành công làm gì để đi tập kết ly hương.

        Kể đến đây, chị Phụng lại hỏi tôi: .

        - Anh Hoàng Lưu bệnh sao mà chết ác vậy anh ?

        - Nó đau gan lâu rồi. Vì ở riêng và bị chảy máu nội tạng không ai hay.

        - Ảnh có con chưa ?

        - Lúc tập kết thì vợ có thai.

        - Vậy mà cũng đi !

        - Hai năm về mà chị! Không nhớ mình giơ hai ngón tay lên để từ giã đồng bào ở bến Chắc Băng à?

        - Trong lúc tụi Tây ngồi trên mui tàu há mồm thì xòe hai tay và giơ cả hai cẳng. Nghĩa là hai chục năm !- Cao tiếp – Tụi đế quốc nói ẩu vậy mà hổng chừng đúng đó ! Mười năm rồi! Mười năm nữa là tiêu tùng hết ráo! Mại dô!

        Tôi thở dài:

        - Tội nghiệp chị Kim Minh vợ thằng Hoàng Lưu! Có lẽ bây giờ chị cũng chưa biết chồng chết. Chậc ! Gia đình nó có một mình nó. Lúc bà già nó vô cưới vợ cho nó, tôi có gặp bả. Đám cưới nó ở Phú Hữu, tôi có dự.

        Ba người im lặng một hồi như để cho dĩ vãng tươi đẹp hiện lên rõ hơn.

        Bỗng chị Phụng nói:

        - Còn anh, tính sao?

        - Tính sao gì, chị ?

        - Ai cũng vợ con cả rồi. Anh từ Nam ra Bắc, từ Bắc về Nam vẫn cứ chân không hoài à?

        - Ngán ngẩm lắm chị ơi ?

        - Người ta còn đợi anh kia kìa!

        Tôi quay sang chuyện khác. Tôi hỏi Cao:

        - Sao mày biết tao vô đây mà tìm, hay mày chỉ đi hờ cơ rồi gặp tao?

        - Mấy cha quân sự đi lậu mách cho tao. Họ quen mặt tụi tao quá mà. Ông Trữ, ông Mật và ông Quý đóng quân ở vùng Thọ Xuân Bái Thượng chớ đâu. Các chả nói có gặp mày nằm ở trạm ngoài. Tao chắc thế nào mày cũng vô đây. Hễ có đoàn vô thì tao rảo đi kiếm.

        - Vậy hả? Mấy chả đâu hết rồi ?

        - Cũng lẩn quẩn đâu đây thôi.

        - Các chả đi lậu đó nghe !

        - Nhiều thằng được gọi tên đập bệnh để ở lại, mấy chả đi lậu là sao?

        - Mấy chả bị phân công xuống Bác Kế!

        - Thế à? – Cao nhảy dựng lên – Cái gì quái gỡ vậy?

        - Mấy chả không xuống đó mà đi thẳng. Trạm có xét giấy sơ sơ… ăn thua gì. Chẳng thằng nào vuốt nhớt được mấy chả hết.

        Chị Phụng trở lại chuyện lúc nãy:

        - Anh Cao chờ đón anh ở trạm này rất có ý nghĩa đấy.

        - Thì để nói chuyện khào chơi cho đỡ buồn. Ngoài ra nó còn nhờ tôi đem thư và hình về cho… con nó ở Cần Thơ

        - Hình cho con chứ không cho chị Tuyết Hoa à?

        Cao nháy tôi. Tôi nhanh miệng đáp:

        - Hồi chưa có con thì nhớ vợ. Có con rồi thì nhớ con. Cho con cũng là cho vợ chứ gì, chị!

        - Anh Cao có con chín mười tuổi rồi, còn anh, anh không lo cha già con muộn hay sao ?

        - Đã muộn rồi, cho muộn luôn.

        - Ai nói như anh vậy. Phải vớt vát lại chứ. Ông già bà già mong có cháu bồng. Bộ anh bị dính gốc rau muống rồi hay sao?

        - Tôi tuốt bỏ hết cả không có dính rau dính cà gì hết. Đi là đi, nhẹ như không!

        - Nếu có người ta chờ anh thì sao?

        - Ai mà chờ tôi ?

        - Vậy mà có mới lạ chứ!

        Lúc nãy khi chị vừa gợi ý thì tôi đã ngửi thấy vấn đề nên đánh trống lảng ngay, bây giờ tôi nói thẳng:

        - Chuyện đó hãy quên đi cho rồi chi ạ !

        - Anh có quên thật không kia chớ!

        - Chị có nhắc thì tôi mới nhớ! Nếu không tôi đã quên, quên lâu rồi.

        - Anh quên nhưng người ta không quên.

        Tôi biết là chị muốn nối tôi và Nguyệt lại với nhau. Chắc là Cao gặp chi ở đây đã thuật lại đầu đuôi sự phản ứng cửa tôi ở trạm ngoài. Hắn nhờ chị tiếp tay.

        Nguyệt cũng là người cùng cơ quan Y viện của chị. Lúc đó tôi theo bộ đội tìm đề tài “trong máu lửa” nên bị thương. Vào y viện mổ lấy đạn. Nguyệt và tôi quen nhau vào dịp đó. Chị là xếp của Nguyệt.

        Chị đã tạo cơ hội cho chúng tôi gặp nhau. Ra Bắc khi nghe chúng tôi tan vỡ, chị có rầy Nguyệt, nhưng lúc đó vấn đề lập trường giai cấp và tự ái cá nhân là tối thượng. Tôi chẳng chịu xuống nước năn ni còn Nguyệt thì tự ti về thành phần bóc lột. Do đó chân ai nấy bước.


        .................................................. ......... .................................................. ........



        - Bây giờ nó ăn năn rồi anh ạ, anh cũng nên thấy sự tiến bộ của nó chứ.

        Cao vọt miệng:

        - Tóm lại là nó còn yêu mày ! Nó muốn gặp mày để nói cho mày nghe mọi chuyện. Mày không nên quá khắt khe!

        Trời tối mịt hồi nào không hay. Mải mê ôn lại chuyện cũ mà quên cả bước đi của thời gian.

        - Chắc anh Vân đã tìm được anh Hoàng Việt rồi – Vừa nói, chị Phụng vừa khoác tấm ni lông nhìn ra rồi lấy đèn pin xẹt ra ngoài.

        Thì đúng y như thần linh độ mạng. Có tiếng kêu to:

        - Tụi mày ơi ! Hoàng Việt đây này !

        Chị Phụng đưa đèn cho Cao. Chúng tôi chạy ra. Trong vệt sáng xanh lét tôi thấy một cây cột bùn đang di động về phía chúng tôi.

        - Tôi kêu lên “Anh Bảy” – rồi chạy nhào tới ôm lấy Hoàng Việt.

        Vân nói:

        - Tao thối chí muốn trở về rồi, may sao tao còn ráng đi thêm một chặng nữa…

        Cái lều trở nên nhộn nhịp rối rít tiếng người nhưng không chật chội.

        Hoàng Việt ngồi phệt xuống đất, hai chân duỗi thẳng. Vân bảo như ra lệnh:

        - Nhúng khăn ướt lau sơ thay quần áo, rồi cho ảnh lên võng nằm đắp chăn nghỉ trước đã. Không cho ăn gì bây giờ cả. Không ai hỏi han gì.

        Để cho ảnh ngủ một giấc. Thức dậy sẽ tính tới. – Vân vừa nói xong thì chị Phụng cũng vừa đưa bộ quần áo khô cho Hoàng Việt.

        Hoàng Việt ra ngoài thay rồi trở vào. Vân trỏ chiếc võng của chị Phụng vừa mắc xong:

        - Anh lên võng ngủ đì. Bất cần đời nghe !

        Hoàng Việt ngã đánh vật lên võng, chỉ nói một câu:

        - Tao đã định ngủ lại giữa đường rồi tụi mày ạ !- rồi lịm luôn. ..

        - Mấy thằng giao liên ác thiệt ! – Cao buột miệng nói – Bỏ con người ta như thế à?

        Tôi nói:

        - Chớ mày bảo nó làm gì bây giờ? Có nó dắt tới nơi là quí lắm đó.

        - Ở đâu cũng thế hay sao ?

        - Khác thế nào được. Ác là cái thằng nào tổ chức con đường này này! Đến nỗi anh Sáu còn bật ngửa ra. Chính ảnh cũng không ngờ đường đi lại tệ hại như thế này mà.

        - Ủa, con nhỏ gì đi với mày ở trạm ngoài đâu rồi ?

        - Ông Mặt Sắt cho theo đoàn của ổng rồi.

        - Sao không thấy đi chung với tụi tao?

        - Có thể họ đi con đường nào khác mày không biết. Tao nghe nói có nhiều đường lắm !

        - Đường nào tao không biết chứ con đường tụi tao đi diễn thì chết vô số kể. .

        - Ai chết? Khách à?

        - Lính công binh chứ khách gì !

        - Đánh chát gì với ai mà chết?

        - Đánh núi, đánh cây nên núi đánh cây đánh lại. Một bãi chôn đặc những mả.

        - Mày có hỏi thử dân Nam Kỳ mình có nằm ở đó không?

        - Toàn dân mình chớ dân nào nữa. Ra đi bằng tàu, mở đường về bằng mìn. Ra tàu Liên Xô, về cỡi mìn cũng Liên Xô. Ra an toàn, về tan xác. – Cao nói giọng chua chát – Bọn Nam Kỳ mình tưới nước mắt ngập bến tập kết,

        bây giờ rắc máu xương mở đường về trên mỗi tấc đất Trường Sơn . Đi trước về sau ! Vinh quang quá cỡ ! Đi cũng vinh quang mà ở cũng vinh quang! Địt mẹ vinh quang một phát đi !

        Tôi biết Cao trong mười năm kháng chiến. Vợ con Cao toàn sống nhờ bên nhà vợ. Áo rách, xuồng nát, chèo gãy mà đời vẫn như bay. Chưa bao giờ phàn nàn về nỗi nghèo đói.

        - Thôi mày ơi! Mày có muốn về thì trốn về, chớ cằn nhằn mẹ gì ! – Tôi nói.

        Vân bật lên:

        - Ừ đó, về với tụi tao đi ! Cái thằng Xuân Vũ luôn luôn là vô kỷ luật. Nổi tiếng Hà Nội. Nhưng sự vô kỷ luật của nó hình như đúng cả. Đấy, ý kiến của nó hay lắm. Hễ mày đồng ý, tao lo trang bị cho. Thế là đi luôn với tụi tao!

        - Trang bị gì ? Tôi hỏi .

        - Thuốc men, đao búa. Tao có sẵn cả. Nếu cần thì mầy lấy hết trang bị của vợ tao. Vợ tao với tao “hùn vốn” xài chung. “Cùng chia sớt khi cùng đói lòng, từng miếng khô từng vắt cơm” [1] mà mậy.

        Tôi nói:

        - Nó đi công tác trên đường này thì trang bị cũng đủ hết cả, phải không Cao?

        - Ngoài tăng võng ra thì thêm một gói thuốc gồm có quinine, thuốc đỏ, thuốc rắn và một hộp muối ruốc chớ có cái gì quí giá đâu!

        - Tụi tao cũng chỉ có thế, thêm một con dao trành bằm chớ có gì khác !

        Vân nói:

        - Vậy là đủ rồi. Ngoài ra tao còn mười “em ngái” thồ cả tủ thuốc đi theo tao kia. Bảo đảm cho tụi bây không chết vì sốt rét dọc đường.

        - Đó là một ưu tiên “rỉ đại” duy nhất đúng rồi, còn đòi gì nữa ?

        Vân tiếp:

        - Không tin tao kêu các em lại đây trình diện cho chúng mày xem. Tao về trong đó làm xếp phòng dược của quân y Nam Kỳ quốc mà ta.

        - Ủa, leo lên được chức trưởng rồi hả?

        - Vô Nam khói lửa, Bắc kỳ nó đùn cho mình, nên nó mới phong cho mình chức trưởng, chứ nếu còn ở ngoài đó thì ôm cái phó cối muôn năm, đâu có leo lên nổi.

        - Nói vậy sẵn “ổ” trong đó rồi hả? Về cái là “đẻ” phải không?

        - Tao lo đủ hết các thứ rồi. Hễ về là… đẻ – Vân vừa nói vừa liếc vợ – Hả bà?

        Phụng nói:

        - Bỏ hai đứa nhỏ ngoài Hà Nội em phát rầu đây nè!

        - Thì chúng nó ở với cậu nó chớ ai mà bà rầu. Lớn lên đứa đi Liên Xô đứa đi Đông Đức như con anh Hai Hùng anh Ba Khiêm vậy.

        Tụi nó về làm thủ tướng bộ trưởng, con mình làm bậy phó phòng vệ sinh trưởng ban ủ phân xanh thôi !

        Tôi hỏi:

        - Mấy đứa ở trong Nam lớn đại hết rồi hả chị Phụng?

        - Đứa mười bốn đứa mười sáu ! Con gái lớn, con trai thứ ba.

        - Nhờ cậy được cả rồi ! À mà ngoéo tay làm suôi với thằng Cao đi !

        Cao không vui, nhưng cố gượng:

        - Con trai tao còn nhỏ hơn.

        - Thì kết bạn với con trai của thằng Vân.

        - Anh không lo cho anh đi! Về riết để người ta cưới hết con gái ở trỏng – Chị Phụng nói – Hay là còn tơ vương Hà Nội ? Anh mà khỏi, tôi thua luôn !

        Bữa cơm ăn dưới đất nhưng trong lều kín, ngon miệng vô cùng. Vân chơi sang treo ngược chiếc đèn pin. Ánh sáng vòng tròn chụp xuống vừa đủ soi sáng mâm cơm.

        - Không món gì có xương đâu mà sợ – Vân nói – Ăn khô ăn hạn tạm bữa nay đi, sáng mai vợ tao nấu canh cho mà húp!

        - Còn ba cái gạo ngâm kia thì làm sao ?

        - Mày lo ba cái vụ sáng tác đi, tao xay cho mà coi !

        - Trên mười ký gạo đó nghe mày ! Trạm ngoài cho mỗi thằng lãnh mười sáu kí lô một phát.

        - Ấy chết! Vậy vạch ba-lô của Hoàng Việt ra coi có gạo không. Hay là ổng vứt rồi.

        - Không dám vứt đâu! Ảnh bảo là không biết chừng nào mới tới kho gạo, phải ăn tiết kiệm ! Vậy hồi cậu ngang trạm đó, nó phát bao nhiêu?

        - Mười hai ký.

        - Mà nó có dặn ăn nhín không?

        - Không dặn cúng phải nhín.

        - Gạo không có cho lính, nhưng chúng nó dư cho lợn. .

        - Hả?

        - Bác Mao bảo quản lý ba năm đem chặt đầu. Quản kho ở Trường Sơn ba tuần đem treo cổ. Tôi nói – Tụi bây không biết gì hết đâu. Tao đã từng đi ăn cướp gạo kia đấy.

        - Ăn cướp ở đâu?

        - Cách đây chừng vài trạm. Bộ đội bị cúp gạo kéo đến kho bắt trói quản kho, khai kho cho lính lấy tha hồ.Tụi mày biết không, chúng nó lấy gạo nuôi lợn và đổi chác các thứ với đồng bào thiểu số.

        - Có chuyện đó nữa à?

        - Ôi thôi chỗ nào có cơ quan chỗ đó có tham ô. Mày không nhớ vụ Cao Xà Lá à?

        - Cái tụi ghê gớm thật.

        - Tụi nào mà chẳng ghê gớm! Hễ có quyền chức trong tay là ghê gớm cả. Ghê gớm nhất là cái bọn tham ô mà chẳng ai dám nói năng gì,

        chẳng ai dám kiểm soát, cái bọn ăn xương uống máu cửa dân mà lúc nào cũng bô bô cái miệng: của dân, vì dân, do dân.

        Vân bỗng ngoặt ngang hỏi Cao và chị Phụng:

        - Ở nhà nãy giờ mày và vợ tao có nói cái vụ con Nguyệt chưa ?

        - Em nói rồi ! – Chị Phụng đáp.

        Không đợi ai thêm câu nào, tôi cười:

        - Thôi được, gặp thì gặp nhưng tao không hứa gì trước cả.

        Cao cười. Vân và chị Phụng cũng cười. Cao nói:

        - Hội nghị Giơ-ne giải quyết vấn đề chính ở ngoài hành lang với bộ râu của Mandes France mal rasée mày hiểu không?

        - Tao không hiểu gì cả? Nhưng mày cứ kèo nèo hoài, biết đâu…

        - … lại chẳng tốt cho mày! – Vân tiếp.

        - Ừ, anh đi gặp nó đi. Con nhỏ đó dữ và khó tính lắm… Hồi nó ở chung Y viện với tôi, mấy cô phơi quần áo cùng một sào với nó rồi hốt vô chung,

        nó lấy của nó ra sông giặt lại và phơi riêng đó. Nó mà còn yêu anh và xuống nước như vậy là chuyện không hèn.

        Để Hoàng Việt ngủ trong lều của vợ chồng Vân, tôi đi theo Cao. Cao cầm cái đèn pin của Vân rọi đường cho tôi đi Chị Phụng vén màn nói với theo:

        - Ông mai ráng ăn cho được cái đầu heo nghe !

        - Đầu heo rừng chắc gặm rách mép !


        Hết Chương 16 - Xem Tiếp Chương 17


        sigpic

        Comment


        • #19
          Vượt Trường Sơn 3




          Về đêm, trạm trong rừng trông như con rắn ngủ im. Không biết đầu đâu, đuôi đâu. Những lều nối tiếp những lều. Mỗi một cái lều là một trời riêng tâm sự. Phần lớn nằm ngủ ở đây là dân Nam kỳ.

          Trước mặt họ là cha mẹ vợ con quê hương làng mạc gắn bó, sau lưng họ là miền Bắc lừa dối bạc bẽo mọi rợ xã nghĩa, một thứ đất đai đổi thay hình đổi dạng dần dần và sẽ biến thể không còn cái gì đặc sắc của Việt Nam. Ngay cả cái Tháp Rùa!

          Bây giờ đây cũng phải cụp cổ độ; một ông Sao to tổi bố nặng như xích như cùm. Hồ Gươm bây giờ là nơi người Hà Nội uống bia để than thở vận nước mạt rệp chứ không phải để ngắm di tích của ông cha.

          Những thắng cảnh ở bãi biển Đồ Sơn, Sầm Sơn là nơi để cho các đồng chí Liên Xô phơi đùi phơi rốn, để cho Bộ Chánh trị đem vợ nhỏ xuống hú hí với nhau, để cho thủ trưởng đem gái con nuôi đến âu yếm,

          còn những thằng tập kết hai chục năm đi lính, những bần cố nông khố rách áo ôm không được bén mảng đến. Đã có lính xua họ như đuổi ruồi.

          Những thằng Nam Bộ ra đất Bắc ăn mười cái Tết như đưa mười cái đám ma. Cụ Hồ đâu? Hồi ở trong Nam nghe lời kêu gọi của cụ chúng con coi lửa đạn như trò chơi, quyết chí xông pha giành độc lập cho Tổ quốc. Nguyễn Đình Chín tức Chín Heo sắp ra trường bắn lãnh đạn của thực dân vào ngực,

          còn cắn ngón tay lấy máu viết thư gởi Cha già dân tộc, bây giờ Cha già dân tộc ở trong hoàng cung, thăng “con” nào léo quéo tới lính cận vệ đặc biệt của cụ bắn thấy mẹ: “Cha già không có vợ, không có con?”

          Địt mẹ chúng mày. Thực dân trở lại lần nữa để cho chúng mày kháng chiến. Ông trỏ c…, nằm không, chờ thực dân tới làm “dân nô lệ sướng hơn làm chủ nhân ông đất nước xã nghĩa quái gỡ !”

          Bất thình lình tôi hỏi Cao:

          - Mày tính về hay không mậy?

          - Để coi !

          - Coi gì nữa. Mười năm coi chưa đã sao, từ đầu đến háng, từ háng xuống chân mày còn coi thiếu cái gì nữa hả ?

          - Tao chỉ ngại một điều là về trong đó gặp lại vợ tao.

          - Sao ngại ?

          - Tao không muốn nhìn thấy sự tan vỡ ở ngay trước mặt mình.

          - Thì nó đã tan vỡ, ở trước mặt hay sau lưng cũng vậy thôi.

          - Đã đành, nhưng nghe dễ chịu hơn thấy.

          - Thấy rõ thì mới giải quyết được, còn nghe mơ hồ, chẳng giải quyết được gì. Mày gởi hình và thư mày về tức là mày chưa dứt được tình vợ chồng. Chi Hoa là một người đàn bà hiếm có. Phải không? Đêm tân hôn bỏ nhà ra đi theo mày. Mày còn đòi gì và với ai mà được như thế?

          - Tao làm gì nào?

          - Mày bỏ gia đình luôn từ đó đến nay!

          - Tao đi kháng chiến mà!

          - Đã đành là đi kháng chiến, nhưng đàn bà không có đàn ông trong nhà, điều đó, bây giờ tao mới nghĩ ra, là một tội lỗi… của thằng chồng.

          - Nhưng đâu phải tao muốn làm nên tội lỗi đó..

          - Mặc dầu mày không làm nhưng đó là tội lỗi của mày.

          Cao thở dài đau đớn. Hồi lâu. Ánh đèn loạng choạng trong tay, bước chân gập ghềnh trên những mô đá đất dưới chân.

          -Tao không biết làm sao bây giờ! Cao sịt mũi hai ba cái liền.

          - Về đi, rồi sẽ có cách ! – Tôi quả quyết.

          Cao đưa tôi đến lều bảo:

          - Nằm đó đi, tao đi triệu bà tới cho mày.

          Tôi nằm, nghe rã rời cả tứ chi lẫn tâm thần. Tôi như một gốc cây mục bi xô ngã một cách hạnh phúc.

          Rầm rầm rầm…! Rầm rầm rầm! Rầm rầm!

          Tôi lăn xuống đất. Khi tôi tỉnh hồn dậy thì bốn phía rộ lên tiếng kêu thét hãi hùng. Hoàn hồn lại tôi mới hiểu ra đó là tiếng bom. Máy bay bỏ bom. Ban đêm !? Hay cà nông? Hay là cái gì khác?

          Tiếng bom rền còn e e trong tai tôi. Có lẽ một trái bom rơi gần lắm cho nên hơi bom đánh bật tôi ra khỏi võng.

          Tôi định thần lại một chốc rồi chạy bạt, mạng trở lều Vân. Vì tôi nghĩ có thể sau trận bom này giao liên đến di chuyển đoàn đi chỗ khác. Mình phải có mặt.

          Đứng là tôi chạy bằng cặp “mắt cá” ở chân giữa trời tối như mực ngửa bàn tay không thấy. Vậy mà cuối cùng tôi vẫn đến nơi.

          - Thằng Cao đâu? – Vân hỏi khi nhận ra tôi.

          - Nó đi về đoàn chưa trở lại lều – Tôi hỏi lại – Cái gì vậy mậy?

          - Bom trộm !

          - Là bom gì ?

          - Là nó trút một phát cả chục trái lên đầu mình rồi đi chứ không chơi kiểu như cồng cộc bỏ bom ban ngày vọt lên lao xuống, bỏ từng chập chỉ chết ba con rắn mối.

          - Cha chả, Mỹ chơi kiểu mới hả!

          - Tại mình tụ họp ở đây nấu nướng tùm lum. Đấy hồi chiều, máà có thấy không, mỗi lều mỗi bếp, lửa đỏ như đèn bán hàng bông chợ Tết trong mình.

          - Bom dội khúc đằng kia.

          - Mày ở đâu?

          - Gần đó.

          Chập sau tôi mắc võng ướt ngoài lều, trải một tấm ni lông lên võng. Vân đưa cho tôi cái khăn khô của nó. Tuy lạnh lắm nhưng nước không thấm áo nên nằm một chốc là lại ngủ trong tiếng nhao nháo văng vẳng xa xa đằng kia.

          Một chập. Tôi nghe có người đi ngang và hỏi:

          - Ở đây có ông nào là y tá hay bác sĩ gì không các cha.

          Tôi cố gắng trả lời :

          - Tụi tôi là nhạc sĩ và nhà báo !

          - Đồ ăn hại. Cút mẹ mày đi. Người ta bị thương, được cái ích lợi gì nhạc với báo.

          Rồi đi thẳng. Tôi nằm im thin thít.

          Tôi thiếp đi tới sáng. Vẫn còn nghe tiếng nhốn nháo. Tôi tỉnh lại hoàn toàn và nhớ lại câu chuyện đêm qua. Tôi muốn trở lại tìm Cao, nhất là để biết xem nó có hề hấn gì hay không. Rủi nó có mệnh hệ gì thì tôi ẩn hận suốt đời .

          Giao liên tới mắng mỏ một chập, nào là ăn ở bừa bãi, nào là vô kỹ luật, nào là chủ quan khinh địch – rồi ra lệnh đi theo anh ta sang chỗ mới.

          Anh ta dặn:

          - Hai mươi mấy người chết và bị thương đó, các ông các bà liệu mà ăn ở có lợi cho cách mạng và cho bản thân. .

          Tôi hỏi: .

          - Đồng chí có biết đoàn Văn Công bị thiệt hại gì không?

          - Tôi không biết, nhưng tôi thấy bộ đội bị nặng nhất.

          Người giao liên bảo bây giờ phải phân tán mỏng mỗi đoàn mỗi nơi cách nhau xa xa càng thưa người càng ít thiệt hại.

          Bạn cứ tưởng tượng trong xóm có mười lăm, hai chục cái đám ma xảy ra cùng một lúc! Nó phải náo động cả xóm làng, nó phải tràn ngập nước mắt và khăn tang. Cỏ cây cũng phải rúng động, trời đất cũng thảm sầu. Ấy vậy mà ở đây không gì cả. Cả đến việc chôn cất !

          Tôi không biết ai sẽ đảm nhận hay cứ bỏ đó mà đi. Ai chết cứ nằm đó hưởng vinh quang. .

          Đến chỗ mới, chứng tôi lại bày cái cửa hàng xén của chúng tôi ra. Mặc dù tai nạn suýt chết nhưng người vẫn thản nhiên. Ai chết thì cứ việc chết. Ai sống cứ lo ăn uống như thường.

          Vấn đề trước tiên cửa tôi và Hoàng Việt là xay bột. Vân nói ngay:

          - Mấy ông thấy Chệt tán thuốc bắc làm cao đơn huờn tán không? Một là đâm như đâm tiêu, hai là nghiền trong cái cối giống hình chiếc mo nan dừa. Thằng Chệt đứng trên cái bánh xe sắt chạy lên chạy xuống, tay thì vịn gốc cột cho khỏi té.

          - Nhưng mình tìm đâu ra cái “mo nan” đó?

          - Túm gạo trong vải rồi kê lên đá, cầm hòn đá mà nện. Thế là gạo thành bột gạo chớ gì !

          Theo kế hoạch của ông dược sĩ chúng tôi biến thành hai cái máy nện gạo. Tay kềm túm gạo, tay đập bình bịch, coi không giống đánh đàn piano chút nào hết.

          Nhìn Hoàng Việt, tôi bật cười:

          - Anh đinh ngủ với cọp đêm qua à?

          - Thì liều mạng chớ biết sao bây giờ.

          - Sao hồi vừa đứt đuôi anh không kêu lên cho người ta chờ.

          - Mày chờ tao nhưng người ta đâu có chờ mày. Đứt chỗ nào cho đứt một chỗ. Nguyên tắc của đường dây là ai đi được cứ đi, ai đau ốm cứ nằm lại, ai chết cứ chết mà !

          Đập xong cả chục kí gạo, cả hai cũng rã rời. Tôi mới biết sức khỏe của mình tiêu tán đi nhiều vì leo đá tai mèo cũng có mà vì nọ kia cũng có.

          - Vụ mày tới đâu rồi ?

          - Vụ nào ?

          - Vụ con Nguyệt!

          - Sao ông nghe ?

          - Tao nằm nghe mơ màng thằng Cao bàn với mày.

          - Chẳng tới đâu cả. Tôi cũng muốn gặp Nguyệt nhưng Nguyệt chưa tới thì bản đại hòa tấu nổ loạn xà bì hất tôi ra khỏi võng. Chắc trời không cho anh ạ.

          Nhờ chị Phụng giúp sức mà chúng tôi có hai bòng bột khá to. Nhưng bột thì được cái gì ? Chỉ để dành khuấy hồ và nấu chè trôi nước chạy lạt với nước suối theo kiểu bột mì Liên Xô ở các hợp tác xã ăn ở Hà Nội thôi. Chúng tôi sẽ phơi khô rồi mang theo như một thứ lương khô.

          - Mớ xương tổ tiên anh còn giữ đó không?

          - Còn chứ! Bỏ sao được mậy!

          - Đưa cho ông dược sĩ nấu dùm cho.

          - À, phải. Ngồi buồn lại gặp chiếu manh. Mày thấy không, nếu tao bỏ đi thì bây giờ ân hận biết mấy.

          Vân nghe nói xương khỉ thì rất khoái chí.

          - Anh đưa đây tôi coi. Còn đủ bộ xương không?

          - Còn đủ cả móng, chỉ có c… Hoàng Việt thấy chị Phụng ngồi gần đấy nên tốp lại kịp – chỉ có bộ đồ lòng thi thiếu thôi. – Hoàng Việt moi ba lô lấy gói xương đưa cho Vân.

          Ông dược sĩ cầm cái gói vừa mở gói ra:

          - Ở Hà Nội thì tôi nấu ra một ngàn chai cao bang long bán…

          - Biếu cho Bộ Chính trị.

          - Mấy lão đó thì phải uống cao hổ cốt mới nhảy lang ba nổi chớ cao khỉ nhằm gì!

          - Hổ cốt cũng chưa đủ phải cao sư tử kia.

          Vân hỏi:

          - Bộ anh có nấu rồi hay sao vậy?

          - Tôi mới nấu có vài tiếng đồng hồ thôi, thấy không ăn thua gì cả.

          - Tôi có thuốc, bỏ vô nấu độ chừng một đêm thì rục !

          - Vậy thì còn gì bằng!

          Vân đem xuống suối cạo rửa thật kỹ rồi trở lên tìm chỗ nắng trải ra phơi.

          Một cuộc chuyển quân lao nhao khắp vùng. Đoàn này đoàn nọ kéo qua địa điểm đóng quân của chúng tôi liên tục. Họ vừa đi vừa bàn về vụ bom trộm đêm qua, râm ran, hầu như vui vẻ như đàn bà đi chợ, không tỏ vẻ gì xót thương đồng đội vừa hi sinh.

          Cuộc đời ở Trường Sơn là như thế. Văn minh vô cùng. Cái chết cũng chỉ đáng cười. Người ta có thể giở một chiếc mùng mắc trùm lên võng, thấy một mạng người nằm trong đó, hố mắt đã lọi nhọi những dòi mẹ dòi con,

          và bịt mũi quay mặt chạy như tránh một bãi phân, người ta thấy một bàn chân lòi ra dưới mô đất lê tè và cứ lạnh lùng đi qua, cũng như người ta thấy những bộ xương rũ trong hốc đá và chẳng có cảm xúc gì ngoài sự gớm ghiếc.

          Chính tôi cũng thế. Cái chết, xác chết, xương người, tai nạn chết người, thấy như cơm bữa nên thần kinh chùng dần, không run nữa.

          Và ai cũng có ý nghĩ nay mai là sẽ tới phiên mình nằm trên võng chết bị dòi đục hố mắt, nay mai xác mình sẽ bi dập lòi chân ra, nay mai mình sẽ rũ xương trong hốc đá, ai sẽ khóc mình ?

          Chẳng ai khóc ai. Con đường này một khi đã vào, không có lối trở ra mà càng đi tới thì càng thấy sự bi thảm mà cự bi thảm cuối cùng là cái chết.

          Với mọi người, ai cũng như ai, tất cả đều không được thương xót và tất cả không phải thương xót ai. Xin thủ một cửa “Huề Vốn” cho canh bạc Trường Sơn này.

          Tôi vừa “giã” gạo vừa có ý nhìn các đoàn đi qua để tìm đám Văn Công của ông nhạc sĩ nhưng không thấy.

          Tôi nói với Hoàng Việt:

          - Mình rủ thằng Cao đi lậu đi anh Bảy !

          - Nó đám đi không?

          - Gì mà không dám. Mình đã thấy mấy ông tướng đi lậu ở trạm ngoài rất kết quả!

          - Sợ nó còn vướng rau muống ngoài đó chớ!

          - Đó chẳng qua là một trạm thu mua thôi.

          - Nó có con với người ta rồi, giỡn hoài mậy?

          - Thì chánh phủ và đảng nuôi ! – Vợ tào khang còn bỏ đi tập kết được, thứ vợ chùm gởi không bỏ được để về xứ về với vợ tào khang hay sao?

          - Mày chưa có vợ mày nói vậy chớ nếu mày có vợ rồi, lại có con nữa, mày sẽ biết là việc bỏ một người đàn bà không phải là chuyện dễ như ở trạm thu mua, nữa là một người đã biết mình có vợ, mà còn lấy và lại có con với mình.

          - Tôi rủ nó, coi mòi nó xiêu xiêu rồi !

          - Nó nói sao?

          - Nó nói nó không muốn về để nhìn thấy sự tan vỡ. Nghe tan vỡ nhẹ lòng hơn thấy tan vỡ.

          - Ở đó mà triết lý !

          - Thì cũng như cái vinh quang vậy. Đời mình có những hai lần vinh quang. Lần thứ nhất, tập kết “Đi cũng vinh quang, ở cũng vinh quang!” Bọn mình đã cong lưng vì đội cái vinh quang “đi,” gia đình mình ly tán vì cái vinh quang “ở.” Mười năm cái lưng còng như vành nia, lại tới cái vinh quang Trường Sơn này.

          - Ai bảo mày Trường Sơn vinh quang?

          - “Đây Cửu Long hùng tráng, đây Trường Sơn vinh quang, thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù…” Phải không? Hì hì… ông chủ trại cưa Kim Hữu mần nhạc do Bộ Chính tri trẹo họng mớm lời. Không vinh quang là gì.

          Cái vinh quang này có lẽ nặng hơn cái vinh quang tập kết ! Nghe vinh quang không nặng bằng đội, cõng, đạp, đèo vinh quang trên lưng trên đầu trên cổ.

          - Cái thằng, mày viết văn hả?

          - Đêm qua nếu không có ông dược sĩ đi rước anh thì có lẽ cái vinh quang đó nặng cả tấn đấy ạ.

          - Đâm hơi hoài mầy ?

          - Vinh quang quá sá nên thằng nào được gọi đi Nam cũng mừng thấy mẹ ! Mừng vì được về quê. Về tới hay không là một chuyện nhưng được về là đã mừng rồi !

          Mừng quá, mừng như Tôn Tẩn tái sinh.

          Tôi được kêu đi Nam như một tin sét đánh vỡ tan nấm mộ kiên cố của tôi đắp bằng ai oán u buồn và hoài hương ở Miền Bắc.

          - Anh biết tôi được gọi đi Nam trong hoàn cảnh nào không ?

          - Trong hoàn cảnh nào ?

          - Tôi đang công tác tại vinh, trong thời kỳ Mỹ leo thang ra Miền Bấc. – Tôi tiếp – Anh biết không? Nguyễn Tuân viết câu này: Trời đất gì cứ giềnh giang ra mãi!

          - Là thế nào ?

          - Là ông ta chán đời, ông ta muốn trái đất nổ tung đi cho rảnh. Tôi cũng vậy. Tôi muốn có một cái gì xảy đến quậy lên cái dĩa rau muống chính tri nhàm chán Miền Bắc mà các cái loa rỉ rắc tiêu lên hằng ngày.

          Chán đến cái mức độ tôi hết sức khoan khoái khi nghe có vụ tàu Mỹ vô Hạ Long và máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Hòn Gai Cẩm Phả.

          - Cái thằng !

          - Tôi nói thiệt mà. Tôi muốn cuộc kháng chiến chống Pháp tái sanh. Tôi muốn đi kháng chiến, sống trở lại cái không khí vinh quang và sáng ngời tinh thần dân tộc đó. Tôi thấy tôi vĩ đại vô cùng.

          - Còn ra Miền Bắc xây dựng Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa không vinh quang à?

          - Anh đi học nước ngoài anh không biết sự đời ở trong nước. Rồi khi tốt nghiệp về nước anh được gọi đi Nam ngay, anh không sống những bước đường gieo neo khổ ải của dân Nam kỳ quốc như bọn tôi.

          - Thì cũng lãnh phiếu xếp hàng mua gạo mua thịt mua rượu là cùng chứ gì ? Nhưng như thế chẳng hơn trong kháng chiến bữa đói bữa no hay sao?

          - Bữa đói bữa no nhưng chí khí ngang trời, còn phiếu thịt phiếu gạo phát đều nhưng con người cong xuống như những con vật.

          Tôi căm ghét xã hội chủ nghĩa. Tôi cảm thấy chủ nghĩa xã hội là cái cùm đeo trên cổ dân tộc ta mà kẻ tạo ra nó chính là đảng.

          - Tại sao ?

          - Tổ quốc Việt Nam là một cái, chủ nghĩa xã hội là một cái khác, không thể nhập hai thành một. Tôi yêu Miền Bắc, dù nghèo đói đến đâu tôi cũng coi đó là quê hương tôi nhưng tôi không thấy có một chút tình cảm nào

          – ngay cả sống một ngày trên đó, – với Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tôi đã có ý đinh chui trở lại tàu Liên Xô trở về Nam ngay khi còn ở bến Sầm Sơn kia đó anh

          - Hồi đó xã hội chủ nghĩa đâu đã ló đuôi ra !

          - Vâng! Nhưng tôi không chịu nổi sự nhớ nhà. – Tôi tiếp – Cho nên sau khi sống ở Miền Bắc chưa đầy năm tôi đã lên Ủy ban Quốc tế xin về Nam.

          - Ái dà ? Cái đó bậy dữ à, chú em !

          - Tôi là thằng kỳ cục khó chỉ huy mà anh Bảy. Chuyện không ai làm, tôi lại làm. Chuyện mọi người làm, tôi không làm !

          - Như chuyện gì người ta làm mày không làm đâu?

          - Khi ông Tố Hữu đến nói chuyện thì ai nấy đều đứng dậy, tôi không đứng. Hoàng Văn Hoan nói chuyện ở Thái Hà ấp, thiên hạ vỗ tay, tôi ngồi im rơ. Đến đỗi có người trừng mắt nhắc tôi đứng lên và vỗ tay. Mặc, tôi vẫn ngồi lỳ bất động.

          Tôi kể tiếp về trường hợp tôi được gọi đi B.

          - Kỳ đó tôi đang ở Vinh. Vinh đã trở thành một đống gạch vụn tua tủa những xương sườn xương sống nhà phố sập chĩa lên trời.

          Trường đại học Vinh đã di tản ra các làng lân cận. Tôi đang ở tại trận địa pháo thì nhân viên bưu điện đến báo cho tôi có điện khẩn từ Hà Nội. Tôi hỏi nội đung bức điện. Y bảo không biết nhưng là điện tối khẩn. Tôi không có cách nào đến bưu điện để xem mặt bức điện. Thành phố đang báo động cấp một. Pháo thủ đang ngồi trên mâm pháo chuẩn bi bắn. Cơm phải đưa tới cho họ ăn tại mâm pháo.

          Lúc bấy giờ đã mười hai giờ trưa. Tôi định liều mạng đi thì máy bay tới. Sau khi đánh bến tàu, nhà ga, phà, trường đại học, nhà tù bây giờ đến bưu điện. Sau trận bom, tôi vác xe đạp chạy đến bưu điện. Chẳng còn gì để gặp. Tôi trở về trận địa pháo. Nhờ điện lên Bộ Tư lệnh hỏi Hà Nội dùm. Ở trên bảo không có loại điện cho cá nhân.

          Tôi nghĩ: Có lẽ tòa báo muốn tôi sẵn ở Vinh đi luôn ra Cồn Cỏ chăng? Như thế sẽ đỡ tốn tiền và tốn máu cho một người đi từ Hà Nội vào tới Vĩnh Linh, trong lúc máy bay đã đánh gục cầu Hàm Rồng ở Thanh Hoá rồi. Nhưng anh tiểu đoàn trưởng bảo: “Cồn Cỏ không ai ra đó được trong lúc này. Tiếp tể cho chiến sĩ ngoài đó còn năm ăn năm thua nữa là chở nhà báo…hại !”


          .................................................. . .................................................. ................



          May sao tôi nhớ lúc ở Hà Nội sắp đi công tác, có thằng bạn ở Ban Thống Nhất tới chơi, rỉ tai cho biết tên tôi đã lọt vào “chung kết” và chừng một tháng thì có “trát” gọi. Hôm nay là trên dưới một tháng. Vậy là đi B chắc rồi!

          Tôi bèn từ giã khẩu đội pháo, nơi tôi dầm sương dãi gió với các chiến sĩ và đã trông thấy họ bắn máy bay như thế nào. Rồi xách xe đạp lên đường phản hồi cố đô. Tôi đâm đầu chạy như cua-rơ. Cũng may là cặp lốp mới nên không ăn-panh dọc đường.

          Tôi tưởng mình đang gần lại quê hương mặc dù bánh xe lăn càng xa phía Nam đi về hướng Bắc. Trời lại mưa dầm dề. Tôi choàng ni-lông rồi tiếp tục đạp. Qua những đoạn đường bị bom cắt đứt, tôi phải làm “xe” cho xe cỡi ngược lại.

          Những cây cầu bị đánh gục chỉ bắc tạm bằng những mảnh ván lung lơ cho bộ hành đi tạm. Xe hơi đùn đống ở hai đầu cầu. Phà kéo tay không cung ứng nổi những chuyến đi cho xe quân sự. Mặc! tôi len lỏi tìm mọi cách qua được tất cả các chặng đứt.

          Trời tối, xe đạp không có đèn, tôi lấy đèn pin ra xẹt lên tay rọi đường tay lái xe, chân đạp vun vút tưởng như đẩy lùi cả chục dặm trong một phút.

          Lòng yêu Quê Hương Tổ Quốc được thấy lại trong tôi như mười mấy năm trước. Với một chiếc xuồng với cặp chèo gãy chắp, tôi đã chèo qua cả sông Cái và vượt hằng trăm sông rạch từ miền Trung đến Tây Nam Bộ, coi cái chết như lông.

          Ra đi ra đi bảo tồn sông núi,
          Ra đi ra đi thề chết chớ lui!

          Hùng tráng biết bao anh Bảy bày trẻ ơi!

          Hoàng Việt cười:

          - Tao ở chiến khu D cũng gian khổ chứ mậy!

          - Để khoan, tôi kể tiếp cái vụ cầm đèn pin chạy xe đạp cho anh nghe.

          - Sao không chờ sáng hãy đi?

          - Chờ sáng à? … Cũng được thôi nhưng mà tôi nôn nóng không ở lại được. Nếu bức công điện bảo tôi đạp xe qua cầu Hiền Lương tôi cũng đi mà. Ngủ sao được với một cái điện gọi về Nam mà ngủ? Tôi đạp tới Cầu Giát, tức là quá Diễn Châu một đỗi xa xa, gần Quỳnh Lưu. Anh không biết vụ Quỳnh Lưu đâu. Để đó tôi kể cho anh nghe sau.

          Tới Cầu Giát thì đèn hết cháy. Pin Văn Điển hơi yếu công suất nên mới có hai tiếng đồng hồ đèn đã trở thành đom đóm. Ủa tôi quên nói cho anh rõ tại sao không chờ sáng hãy đi. Là vì đi đêm an toàn hơn ban ngày. Chả là máy bay nó đang “băm” khúc đường từ Vinh ra Thanh Hoá mà. Ban ngày không có bóng người trên Quốc Lộ 1.

          Tôi té nhiều cái nín thở anh ạ! Những cái hố ở giữa đường mình thấy đâu có rõ. Cứ việc tông ngay xuống đó. Xe văng một nơi, người một ngã. May là bị nạn mấy lần mà đèn không đứt bóng.

          Về đến Cầu Giát chừng ba giờ sáng. Tôi tắp vào một cái quán đèn đóm leo heo ở vệ đường. Ngọn đèn đón khách xe thồ và xe quân sự để bán bánh ú và chè xanh. Tôi tấp vào ngay ném chiếc xe bên hè và rứt bánh ú ăn, không cần hỏi giá cả. Nhưng lại cũng may. Tôi gặp may luôn luôn mà anh Bảy.

          - May gặp bánh ú khi đói rã ruột hả?! Chà bây giờ mà có ba cái bánh ú o ở đây tao dám mua bạc ngàn! – Hoàng Việt chép miệng.

          - Nhưng không chỉ gặp bánh ú mà thôi đâu. Tôi gặp cả người bán bánh ú nữa chứ. Một cô gái quê Bác chứ lỵ…Hí hí!!

          - Cái thằng quỷ. Mày lúc nào cũng vậy!

          - Thì anh đi bên Bún-cà-ri anh trả thù bố mẹ bằng cách rủ mấy em tóc vàng mắt xanh vô rừng thông hát song ca văn minh ra phết, còn em ở xứ mình em cũng cò lã trống quân ở trong nhà tranh vách đất có cái ổ rơm đầy dân tộc tính chớ sao anh Bảy bầy trẻ…ẻ!

          Không trả thù được để bây giờ ân hận sao? Số là hồi ra dưỡng lão ở đoàn 78 tại Sầm Sơn để chuẩn bị cởi áo lính, em đã xin đi Nông trường Trình Môn để viết một cái Đất Vỡ Hoang như Sô-lô-cốm.

          - Cholokhov!

          - Cốm với cốp với cột, cộm, côm, cốp gì thì cũng dissonant như nhau thôi anh Bảy. Khi vô nông trường này em được phong cho chức thư ký của một khu vực lớn nhất của nông trường. Trong số nhân viên văn phòng có một em coi khớ lắm, nhưng vì chức vụ cao cả, ông thư ký không dám bỏ ngón mi-nơ ma-giơ với nhân viên.

          Khổ cái là em đá lông nheo với đồng chí thư ký luôn. Hồi đó em mới hai mươi ngoài. Còn cô em thì lại chưa hai mưoi mà có thằng chồng đang độ quàng khăn đỏ. Tức mình thằng cu con chẳng nên cơm cháo gì nên cô em mới xin vào nông trường cho rảnh nợ. Trời xui đất khiến làm sao hôm nay ông cựu thư ký của nông trường lại đi công tác ghé vào quán cô em ăn bánh ú. Chả là cái nông trường này sau hai năm hoạt động thì dẹp luôn vì không có trồng được một cái cây gì kể cả cây lúa.

          Cô em lại trở về nhà và bán quán. Sống vất vưởng cho qua ngày. Gặp tôi, em mừng không thể tả. Em chẳng nói gì ý nhị nhưng ý cứ quấn quít bên tôi. Khi tôi ăn xong, cô trỏ cho tôi cái ổ rơm trong nhà và nói:

          - Cầu Rừng bị đánh sập rồi. Anh không đi được đâu. Về đêm lại có cướp đấy. Lắm khách đi buôn đi xe thồ bị bóc sạch, chạy lùi về đây gọi công an, nhưng công an đi “chống Mỹ..ỹ” hết cả rồi. Anh chờ sáng hãy đi!

          Tôi đang mệt nhừ lại còn có cướp chặn đường nữa, ở lại ngủ khoẻ rồi mai đi. Đó là sự hợp lý quá cỡ rồi. Không ở lại thì còn đi đâu.

          - Cô em muốn hát tuồng dưng dưa cho vua Đường rồi!

          - Ấy, anh nóng quá, để tôi nói hết đã. Tôi ngả lưng trên nệm rơm thơm phức. Hương rơm khô làm cho tôi nhớ thuở nhỏ chơi trò “vợ chồng” trên những đống rơm ở sân đạp lúa nhà tôi hết sức. Tôi ngủ lịm đi với giấc mơ lạ lùng anh ạ.

          Tôi mơ thấy tôi trở về quê. Tôi đã lớn và tôi thành chồng, cô bạn thuở xưa thành vợ. Chúng tôi làm đám cưới. Và tôi thấy chúng tôi trở thành vợ chồng thiệt, tôi thấy hạnh phúc thiệt, nghe rêm hết cả người.

          - Đồ quỷ, nói bóng nói gió, hạnh phúc thiệt trong ổ rơm chớ mơ mộng gì, phải không? Mười bảy mười tám lấy thằng cu con sáu bảy tuổi. Nó gãi lưng con chị không đã ngứa, chị chịu sao nổi. Gặp ông thư ký xếp cũ cô em tặng cho cặp bánh ú nước tro đậu xanh là lô-gích lắm rồi.

          Tôi ngó quanh không thấy vợ chồng ông dược sĩ ở trong lều nên không úp mở nữa:

          - Sáng ra cô không e lệ tí nào cả. Cô nói: “Cầu Rừng vẫn chưa chữa được. Đêm qua lại có kẻ bị cướp. Ban ngày máy bay Mỹ đến liên tục, anh đi không được đâu. Để tối hãy đi.

          - Mệt nhừ lại còn ăn bánh ú chắc mệt dữ hả? Ú o hay ú nguyên?

          - Ngược lại anh ạ! Tôi không thấy mệt gì cả! Cứ như là không không ấy.

          - Có hát đi hát lại Điệp Khúc không?

          - Không hát Điệp Khúc nhưng bản nhạc có ba đoạn chính đàng hoàng. Mỗi đoạn hát xong nghỉ xả hơi bằng một bát chè xanh rồi lại hát. Hát xong đoạn ba, cô em tát vào má tôi mắng yêu: “Thế mà hồi ở nông trường cứ ra cái điều đạo đức.

          Người ta nhìn lại cứ lờ ra lạnh như tiền ấy!” Tôi bảo:” Có thằng cu đeo sau lưng nếu anh động tới em, nó khóc rinh lên làm sao?” Cô em bảo: “Em tống nó đi rồi em mới vô nông trường đấy.”

          - Hèn gì ở Thanh Hoá dân bảo là một sư đoàn Nam Bộ uống rượu bằng một triệu dân Thanh Hoá, còn anh đội thì khoẻ nhu vâm, đánh ba ván liền không bỏ dở ván nào! Quả danh bất hư truyền. – Hoàng Việt cười nói.

          - Nhưng mặc dù cô em cầm chân, sắc có ba đào đi nữa cũng không dìm được anh đội Miền Nam. Nàng khóc anh ạ! Nàng nói: “Em đã cho anh trinh tiết của em nhưng em không ân hận. Em biết anh không bao giờ trở lại đây nữa nhưng em vẫn toại nguyện vô cùng.” Tôi nói: “Anh sẽ trở lại đây đón em cùng về Nam với anh.” Nàng lắc:

          “Em không đi đâu.” -”Tại sao?” – “Vì anh không bao giờ giữ lời hứa. Người Nam không yêu người Bắc. Chỉ có người Bắc yêu người Nam thôi.” “Tại sao?” ” Người Nam bộc trực và nồng nhiệt. Người Bắc khéo léo nhưng xảo quyệt. Hai vợ chồng giống tính nhau không sống được với nhau, có chăng cũng thủ thế” .

          Tôi tưởng cô gái mộc mạc chỉ biết yêu đơn giản thôi, chẳng ngờ có nhận xét lạ lùng thế. Quả thật vậy, tôi biết nhiều cô gái Miền Bắc lấy chồng Nam Bộ lớn hơn mình mười lăm hai mươi tuổi mà vẫn hãnh diện và có hạnh phúc.

          - Bị chúng níu áo rồi mày làm sao dãy cho thoát?

          - Tôi chỉ hứa. Hứa theo kiểu lãnh tụ hứa với chúng ta. Đại khái tập kết hai năm. Tổng tuyển cử thống nhất đất nước trở về…

          - Tội nghiệp con nhỏ bị mất trắng ba bàn hả?

          - Đành thôi. Tại cô em khiêu chiến chứ tôi đâu có bụng gì. Tôi đang ngủ ngon, bỗng trở mình thì đụng làn da là lạ và hương tóc lẫn hương rơm nồng ấm rất thần tiên. Tôi tấn công như máy, trong mơ say như trong mộng vậy.

          - Cha chả! Thôi đi ông nội. Mộng gì mà hát đến ba đoạn? Chắc là sáng bữa đó đạp xe trên đường, dây xích nghiến cót két, ổ đạn khua như xe ba gác hả??

          - Không sao cả. Tôi đạp như bay ấy mà.

          - Chút tí nữa ẵm một em Huế chính gốc Xô Viết Nghệ An đem về xứ, nói toàn dấu nặng nghe mệt điếng hồn, he!

          - Dấu nặng nghe cũng êm tai chứ anh!

          - Ừ vui lắm. – Hoàng Việt bật cười rồi tiếp – Để tao kể chuyện cái dấu nặng cho mày nghe về cái dấu nặng nghe êm tai. Hồi tao ở Chiến khu D bị ruồng bố liên miên nên ở trên chủ trương quân sự hoá cơ quan,

          Phòng Chính Trị được tổ chức thành một đại đội lính cậu. Đại đội do một ông Huế Nghệ chánh hiệu Nai Vàng tên là Vũ Sơn làm đại đội trưởng. Buổi sáng nào cũng thức đậy, bốn bộ phận tập họp thành bốn trung đội hàng dọc. Đại đội trưởng Vũ Sơn đứng trước quân hàng dõng dạc ra lệnh:

          - ” Cạc trụng đội một, hai, ba bộn kiệm điệm quận sộ xọng bạo cạo”

          Lần lượt các trung đội trưởng báo cáo. Khi các trung đội báo cáo xong, đại đội trưởng quát:

          - “Trụng đội nạo đụ rội thị cho vệ trại, trụng đội nạo chựa đụ thì đựng đọ, trụng đội vệ trại xẹm cọ ạnh chị ẹm nạo bệnh khộng?”

          Trừ các anh Huế Nghệ còn kỳ dư thì Nam lẫn Bắc đều cười rộ lên. Đại đội trưởng không biết chuyện gì , càng quát to:

          - “Đụ rồi thì vệ trại lậy cuộc đi sạn xuật, chị riệng nhựng trụng đội chựa đụ thị đựng lại đọ chợ ạnh chị ẹm rạ đụ đạ rội hạy vệ trại sạu.”

          Mọi người lại bịt miệng cười, riêng các bà thì đỏ mặt tía tai. Một anh Nam Kỳ vọt miệng nói:

          - “Đụ rồi mệt lắm đại đội trưởng ạ, không đi sản xuất nổi, cho nghỉ một bữa.”

          Đại đội trưởng gắt:

          - “Tự rạy cạc trụng đội tự động kiệm điệm lại trại, hệ trụng đội nạo đụ rội thị cự cho đị sạn xuật, khộng cận lệnh đại đội nựa. Rọ chựa nạo?”

          - Rõ! Hễ đụ rồi thì đi cuốc đất, chưa đụ thì đứng đó chờ đụ rồi mới đi.

          Cả đại đội cười ì ì như vỡ chợ. Ông đại đội trưởng ngơ ngác không hiểu lý do gì. Mãi về sau, khi rõ ra thì cái dấu nặng đã thành trò đùa khắp cơ quan. Và ông đại đội trưởng hạn chế việc tập họp toàn đại đội, nhưng lại xảy ra chuyện dấu nặng khác.

          Chuyện “nước mắm đổ lộn mỡ”. Ông đại đội trưởng là Huế Nghệ rồi ông anh nuôi cũng Huế Nghệ. Hồi đó mỡ heo rất hiếm. Bữa cơm nào có tí mỡ pha với nước mắm thì môi người nào cũng láng láng béo béo. Anh nuôi đứng trước ba quân hãnh diện tuyên bố: Hôm nay thay vì muối muôn năm, anh em được xơi “nước mắm độ lộn mợ.” Từ tiếng “lộn mợ” anh em lại bỏ một dấu huyền thành ra anh em được ăn nước mắm đổ

          “l…mợ”! Bữa nào ăn muối, anh em lại hỏi: Chừng nào mới có nước mắm đổ “l… mợ” cho anh em xơi đây anh nuôi? Nước mắm đó ăn béo phải biết. Đó – Hoàng Việt cười – Dấu nặng nghe êm tai chưa?

          Tôi hỏi:

          - Anh húp được mấy lần?

          - Biết mấy lần mà nói!!

          - Giá bây giờ có mợ để mình đổ nước mắm!!

          - Ngã mặn hả các cha? – Ông dược sĩ từ dưới suối đi lên vuốt đuôi.- Chuyện nước mắm đổ lộn mỡ đó mới báo động cấp hai về sự bất đồng ngôn ngữ. Để tôi kể cho hai ông nghệ sĩ câu chuyện báo động cấp một. Bà xã tôi còn ở dưới suối giặt giũ lâu lắm, tụi mình thừa cơ hội này mà tiếu lâm cách mạng một bữa.



          Hết Chương 17 - Xem Tiếp Chương 18


          sigpic

          Comment


          • #20
            Vượt Trường Sơn 3




            Ông dược sĩ bỏ hai bọc ni-lông nước vĩ đại xuống đất rồi rề lại ngồi bên Hoàng Việt, soán ngôi giã gạo của ông ta và nói:

            - Cái vụ này không phải là nghề của anh. Đưa cho tôi sáng tác thuốc tán cho. Rồi tiếp – Hồi mới ra Hà Nội, tôi bi đày vô Ty Y tế Hà Tĩnh, một cái ty nhỏ bằng cái bẹn l… con nít. Công tác ở đây hai năm, chẳng thu thập được một kinh nghiệm hoặc kiến thức nghề nghiệp gì, nhưng tôi có nghe được một chuyện thiệt ngộ.

            Số là ở Ty Y tế tỉnh có một nữ bác sĩ mới ra trường. Một hôm có một cặp vợ chồng Nam Bộ tập kết đến. Anh chồng vào phòng trình bày với bà bác sĩ như sau: “Không biết tại sao tôi cứ địt liên miên không ngưng được, cứ mười lăm hai mươi phút lại… một phát. Vợ tới nằm bên cạnh không chịu nổi phải bỏ đi. Không tin bà hỏi vợ tôi xem có đúng không?” Bà bác sĩ đỏ mặt tía tai nhưng cũng gượng mời bà vợ vô xác nhận.

            Bà vợ cũng khai thật như vậy: Đàn ông nhà tôi địt liên tục bà bác sĩ ạ. Tôi không có ngủ nghê gì được, bà bác sĩ có thuốc gì ngưng bớt lại không, nếu cứ thế này thì tôi ốm mất. Bác sĩ hỏi: Anh ấy thường bữa ăn những món gì. Chi vợ đáp: Dạ thì cơm cơ quan đâu có gì cho lắm, cho nên tôi mua đậu phộng rang mặn để trong hộp ghi-gô, mỗi bữa ăn xúc ra vài muỗng thêm với thức ăn

            - Vậy còn tệ hơn nước mắm đổ lộn mỡ nữa! – Tôi vọt miệng nói.

            - Đâu có tệ gì ! Bà bác sĩ đã chắc mẽm là đã phát hiện một phương thuốc mới cho nhân dân nhất là cho mấy ông Bộ Chính Trị già cúp rồi mà còn ham hầu non. Bà bảo anh chồng: Đấy là vấn đề sinh lý lẫn tâm lý.

            Vậy ta phải dùng khoa tâm lý lẫn thuốc men, nhưng phải lấy tâm lý làm chính. Đồng chí có biết khi Hồ chủ tịch yếu đôi mắt, Hồ chủ tịch tập nhìn vào bóng tối để tự luyện nhãn lực hay không. Và phương pháp này đã thành công. Bây giờ Hồ chủ tịch đã có cặp mắt sáng vô cùng. Về bệnh… của đồng chí, đồng chí nên biết tự chế. Khi muốn… cái vụ đó thì đồng chí nên tự bảo thầm là không nên…

            làm thế nữa, chẳng những có hại sức khỏe cho đồng chí mà còn hại sức khỏe cho vợ đồng chí, như vậy năng suất công tác sẽ xuống thấp, sẽ có ảnh hưởng cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà…

            - Và Hòa bình thế giới nữa chứ! – Hoàng Việt chêm vào – Bốn kí lạc bằng kí thép mà!

            - Bà bác sĩ không cho thuốc men gì cả mà bảo anh chồng về thi hành phương pháp đó, ba hôm sau trở lại khám ! Hôm sau có một cặp vợ chồng người Bắc đến khám. Ông chồng thú thật là mình yếu sinh lý không thỏa mãn được vợ.

            Anh ta còn thú thật rằng khi ở nhà trọ hợp tác xã anh có nghe qua tấm vách cót thưa thớt hai vợ chồng một anh cán bộ cãi nhau. Người vợ than phiền “Anh đ. gì đ. không nghỉ vậy ai chơi cho nổi ! Bác sĩ bảo anh nghỉ ăn đậu phộng mà anh không chịu nghỉ thế nên vẫn bệnh nào tật ấy! Mai tôi đem quăng cái hộp đậu phộng thế là anh dứt cái vụ ấy ngay.

            ” Kể xong câu chuyện đó, bệnh nhân nhờ bác sĩ xác nhận xem đậu phộng có phải là củ lạc ở xứ ta không và có phải lạc rang chữa bịnh yếu sinh lý một cách hiệu quả không? Bà bác sĩ gật đầu lia lia và ghi liền một đơn thuốc: “Mỗi ngày cung cấp cho bộ phận tiêu hóa hai thìa vun lạc rang mặn liên tục, trong hai tuần lễ, khám lại.” Hai tuần lễ sau, bệnh nhân đến báo cáo kết quả không mấy gì lạc quan.

            Bác sĩ gia tăng liều lượng gấp đôi. Hai tuần sau lại đến, vẫn không lạc quan. Bác sĩ lại gia tăng lên gấp bốn của lần thứ nhì ! Không đợi đến tuần sau mà chỉ hôm sau, vợ bệnh nhân tới than thở: Anh ấy nằm mẹp không dậy nổi ! – Bác sĩ gắt – ” Cái gì quá lố đều không tốt cả. Phải biết tự chế lấy mình chứ. Tôi đã cho liều cực mạnh, nên anh ấy ham hố cái vụ kia quá mức kế hoạch cho nên bây giờ mới ngóc đầu dậy không nổi chớ gì. Nếu anh ấy điều độ như mấy ngày đầu vậy thì đâu có đến nổi ?” Vợ bệnh nhân nói:

            “Mấy ngày đầu anh hoàn thành kế hoạch gia đình cũng như cơ quan hoàn thành kế hoạch nhà nước vậy ạ!” Thấy không? Năm trăm phần trăm – Bà bác sĩ suýt kêu lên vì mừng rỡ nhưng sực nhớ lại năm trăm phần trăm của cơ quan là báo cáo ma nên tốp lại kịp và gắt: “Vậy ra ba cái củ lạc không ra cái củ… gì ráo à?” – “Dạ ảnh toàn đánh dấm ạ!” Ối giời ơi ! – Bà bác sĩ kêu lên – Thằng cha Nam Bộ hại tôi rồi.

            Đánh dấm không nói đánh dấm mà nói đ… có chết người không? May cho tôi là tôi chưa báo cáo sáng kiến lên Bộ Y tế (*) chứ nếu tôi nhanh nhẩu đoản thì tôi bay chức rồi.

            (*) Bà bác sĩ ơi, bà chớ có ngây thơ, dù bà đã tìm ra cái sáng kiến lạc rang kia nữa thì các lão Bộ Chính Trị cũng không có dùng đâu. Các lão có dái bò Mông Cổ và sâm Triều Tiên. Cũng như năm nay 1989 các lão hô hào nhân dân ta uổng nước tiểu để tri bệnh, nhưng các lão và dòng họ thi xài thuốc Mỹ thuốc Tây mút mùa cu xanh thôi

            Ông dược sĩ kể xong thì buông hòn đá cuội dùng làm chày giã gạo từ nãy giờ, kêu:

            - Ngôn ngữ bất đồng, kẻ nói “dấm” người hiểu “ớt” làm thế nào thống nhất đất nước được !

            Tôi cười:

            - Thì cả hai thứ đó cũng bỏ chung vô “nước mắm đổ lộn mỡ” cả chứ gì !

            Cả bọn cùng cười. Hoàng Việt ngẫm nghĩ một hồi rồi tiếp:

            - Tao đang nghĩ xem bên Bungari có thể dịch cái chuyện đó của mình không?

            - Cái “sự” đó bên Bungari gọi là gì anh Bảy?

            - Tao không biết !

            - Ở bên đó lâu vậy mà anh không biết cái tiếng phổ thông đó sao ? Vậy mỗi khi anh dắt mấy em vô rừng nhậu pícnic rồi đi tới cái sự đó anh nới làm sao ?

            - Đâu phải nói bằng mồm nữa mà nói bằng tay bỏ ngón sol đố mì chớ mậy!

            Có lẽ ông dược sĩ ở gần bên vợ luôn nên phải giữ mồm giữ miệng và có cả một bầy tiên nữ đi theo nên càng giữ đạo đức, bao nhiêu tiếu lâm y tế đều bị ém chặt trong dạ dày, kỳ này gặp các nhà nghệ sĩ tha hồ ngã mặn.

            Ông ta hăng hái tiếp:

            - Còn một chuyện nữa ác lắm!

            - Chuyện “anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí” chứ gì ! Hoàng Việt xen vào.

            Tôi cười lăn ra:

            - Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó chắc tôi đã ghi sổ tay rồi. Đâu kể nghe coi giống không?

            - Thì cũng đại khái đó là hên như cô nông trường của mày chớ gì. Thằng cu con hoàn thành kế hoạch năm trăm phần trăm bỏ chỉ tiêu nằm trơ trơ mà chạy làng.

            Vân tiếp:

            - Nhưng may cái là có anh đội Miền Nam.

            - … được điện khẩn về ghé qua, phải không?

            - Nàng ta kêu ” anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí ! ” Thế là anh đội tiến vào cái chỉ tiêu và nghiến răng: Muốn chết tao cho mày chết. Nó . .ào !

            - Ba ván không bỏ dở ván nào !

            Ba thằng đang cười thì có tiếng từ dưới suối vọng lên:

            - Anh Vân ơi 1 Giúp em tí !

            Bọn này lại cười ầm lên! Vì đó là tiếng của chị Phụng. Tôi bảo Vân:

            - Đi xuống giúp vợ mày đi. Đạt kế hoạch nhanh nhanh nhé! Đứng lên…nà…ào ! !

            - Không đạt nổi đâu cha non !

            Vân “giúp em tí” mang đồ lề lên lều nào nước, nào quần áo ướt lùm đùm lề đề. Chị Phụng trách yêu chồng:

            - Anh bảo anh lên rồi trở xuống liền sao ở trên này lâu thế. Em đợi mãi.

            - Mà nó có “giúp” chị tí nào không?

            - Dạ có ạ, ảnh giúp nhiều chứ ạ!

            Tôi và Hoàng Việt cười ngặt nghẹo. Hoàng Việt hỏi:

            - Thím biết tại sao nó ở trên này lâu vậy không?

            - Chắc ảnh uống trà với anh chớ gì !

            - Không, nó mắc rang đậu phộng đó chị ơi !

            - Đậu phộng ở đâu mà có !

            Tôi và Hoàng Việt cười ầm lên. Chị Phụng không hiểu chuyện gì. Vân nói:

            - Hộp đậu phộng lương khô của mình đấy em.

            Chị Phụng gật đầu:

            - Ừ phải rồi, đem ra cho mấy ảnh uống trà đỡ đỡ!

            - Ủa vậy chú Vân có món thuốc quý đó nữa sao thím ? — Hoàng Việt hỏi .

            - Có chứ anh, đeo dính trong lưng mà. Anh ấy bồi dưỡng bằng hộp đậu rang đó.

            - Mỗi ngày chú uống mấy thìa vun?

            - Dạ đậu phộng mà, đâu có uống được anh !

            - Tôi nghe ông dược sĩ nói đó là thuốc quí. Bác sĩ nào viết toa cho chú ấy vậy thím ?

            - Bác sĩ nào đâu anh? ảnh tự “cho toa” ảnh đó chớ!

            Vân cười :

            - Anh mới vừa kể cho các ông nghe xong cái vụ bà bác sĩ ở Hà Tĩnh.

            Chị Phụng đỏ mặt và quay đi:

            - Hết chuyện rồi sao anh kể chuyện đó ? Các ảnh ngạo anh cho coi !

            Nhờ lều của ông dược sĩ kín đáo nên chị Phụng nấu cơm bên trong, khói ít bay lên. Cơm xong Vân bắt đầu nấu cao khỉ .

            Hai cái nhà máy nghiền gạo đã hoàn thành kế hoạch. Bột gạo rây rắc tùm lum trắng một vùng đất sỏi. Cả hai đều phồng tay. Vân nói:

            - Vợ tôi có thể làm bánh chiều nay ăn chơi .

            - Bánh gì ?

            - Bánh bèo, bánh bò, bánh lá, bánh xếp, các thứ bánh làm bằng bột gạo, kể cả bánh xèo.

            - Bánh xèo ! – Tôi reo lên – Chị cho ăn một bữa bánh xèo đi ! Nhưng mà… Tôi giật mình rút ý kiến lại – Ở đây đâu có phải là Vườn Cò hoặc Ông Dèo Cần Thơ mà chị làm được các món đó. Làm sao có chảo? Mỡ đào ra? Đâu có nghệ để pha bột?

            Vân xua tay:

            - Mày đừng có lo ! Tao có cả.

            - Trời đất ! ăn một miếng bánh xèo ở giữa Trường Sơn này còn hơn ăn yến với Ngọc Hoàng nữa đó.

            Vừa dứt lời thì anh giao liên tới. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ anh ta. Một anh chàng gầy như những chàng giao 1iên khác mà tôi đã gặp từ Làng Ho tới đây, nhưng anh chàng này lại mang giày ba ta, loại giày mà quân đội Nhân Dân Việt Nam dùng ở Hà Nội khi duyệt binh. Anh ta nói:

            - Trận bom đêm qua tôi tưởng vừa chết vừa bị thương trên hai mươi người, nhưng các đoàn báo cáo tổng cộng lại, trên ba chục. Hiện đoàn đang đi tim người mất tích của họ.

            Tôi vọt miệng hỏi :

            - Hồi nào tới giờ mình có bị trận nào như vầy chưa đồng chí.

            Anh giao liên nói:

            - Đây là lần thứ nhất.

            - Thứ này không đề phòng được !

            - Trời kêu ai nấy dạ thôi ! Đang ngủ chết luôn không biết gì hết! – Anh ta nói tiếp – Chúng tôi yêu cầu mỗi một đoàn cho một vài người đến tiếp với chúng tôi thu dọn chiến trường. Ở đây ai trưởng đoàn ?

            - Tôi ạ! – Vân đáp.

            - Đoàn đồng chỉ có bao nhiêu người ?

            - Mười hai người, nhưng toàn là nữ giới ! Chỉ mình tôi là sồn sồn đây thôi.

            - Các bà thì làm gì được.

            - Không sao, tôi xung phong ! Tôi là bác sĩ !

            - Thế thì hay lắm. Đồng chí cứ lại đằng trạm kia !

            - Trạm nào ? Trạm cứu thương à ?

            - À! Không có trạm nào cả, lại đằng chỗ thương binh tập trung chờ cứu thương.

            - Ở đây không có trạm xá trạm gì hết sao đồng chí ?

            - Một cuộn băng còn không có nữa là trạm xá. Người ta bị lùa vô đây và tự lực sống, tự lực chết. Đồng chí xem, tất cả tài sản trang bị của một tên giao liên, tôi đi đâu cũng mang dính theo người, có thế này thôi.

            Trước tình thế này, tôi giải quyết cách nào? Tôi chỉ trốn. Nếu không, họ đánh tôi. Họ đã dọa bắn bỏ rồi.

            - Tại sao đánh ?

            - Họ điên họ đánh bậy vậy thôi ! Đồng chí là bác sĩ thì hãy đến đó dùm đi. Tôi không dám trở lại. Họ hạch sách đủ thứ. Tôi không có thứ gì. Họ nổi sùng lên.

            - Rồi có chuyện thì ai dẫn đường?

            - Tôi ở luẩn quẩn quanh đây chứ có dám đi đâu. Tôi cũng còn có trách nhiệm với các đồng chí.

            - Hiện giờ có chừng bao nhiêu người ở đây?

            - Cứ đến ào ào, tôi đâu có biết.

            - Không có kiểm điểm quân số gì hết, rồi làm sao đồng chí biết ai còn ai mất.

            - Cái đó tôi không chịu trách nhiệm !

            Hoàng Việt xen vào:

            - Rủi có vài người đau đi không kịp đoàn, bị rơi lại sau rồi đồng chí làm sao?

            - Đâu có làm sao! Rủi lạc hoặc theo không kịp thì rán chịu.

            Vân nai nịt và quảy túi thuốc lên vai. Tôi cũng đi theo cho biết. Lâu quá mới thấy hố bom. Hồi kháng chiến chống Pháp tôi thấy được chục rưỡi lần. Khi máy bay leo thang ra miền Bắc thì tôi thấy dấu đạn rốc kết lẫn hố bom. Nhưng hố nhỏ thôi.

            Bây giờ hố to gấp ba lần cái hố mà tôi thấy ở Vinh. Và không phải một cái. Sáu cái liền. Cách một quãng, lại năm sáu cái liền nữa. Cái gì có thể còn được (dù cái đó là sắt đá đi nữa) ở khoảng cách giữa hai chiếc hố với nhau? Sức hủy diệt thật kinh khủng. Một vùng đất trống rộng được khai phá giữa rừng đêm qua bằng bom, trong nháy mắt. Nơi đó, trước một phút là rừng cây với tàng lá bịt bùng mặt trời không rọi thấu đất, là bếp lửa, là cơm nước, là trò chuyện, là nghỉ ngơi ,là mơ tưởng quê hương.

            Sau tiếng ầm tất cả không còn gì ngoài cát bụi. Cây bật gốc, đất đào thành hố, đất nghiền thành cám thịt xương cũng tan như bụi. Cố nhiên rồi. Nhưng những ai? Vì sao? Cha mẹ vợ con họ ở Miền Nam trông chờ. Hai năm. Không thấy. Mười năm vẫn không thấy. Và không bao giờ thấy. Cũng không bao giờ biết được tại sao người ra đi không trở về. Sẽ không có một mẩu giấy nào báo tin.

            Chính những kẻ chủ trương đẩy họ vô đây cũng không có sổ sách nhật ký của một anh đồ tể của lò sát sinh. Họ lùa vô đây đông quá. Có số triệu. Ai đếm nổi ? Nhất là tất cả đều đổi tên. Ai mò cho ra gốc.

            Khi tôi vừa trông thấy chỗ tập trung thương binh, tôi bảo Vân:

            - Mày ở đó làm việc, tao về lều.

            - Tại sao?

            - Tao không chịu nổi…

            - Mùi tanh à?

            - Không phải ! Chính là sự bi thảm.

            - Nghề của tao là thế đó.

            - Mày đã trở lại thời kỳ hai mươi năm trước. Cắt tay chân thương binh bằng cưa thợ mộc.

            Bỏ Vân ở lại, tôi quay về. Vừa đi vừa nhắm mắt, vấp ngã, mở mắt, bò càn qua những thân cây, những hố bom đất đen như than.

            Về đến nơi tôi mắc võng nằm ngay, mắt nhắm tít, cố xua đuổi những gì mắt tôi đã chụp được: toàn bộ bức tranh máu.

            Bữa bánh xèo dự định đã tan trong ý tưởng. Chỉ có bữa cơm chiều lạt lẽo.

            Tối mịt Vân mới về. Hắn đứng ngoài lều gọi vợ:

            - Em lục đưa anh cục xà bông.

            - Cần chai cồn không?

            - Cồn đâu cho đủ.

            Chờ cho Vân tắm rửa xong trở lên lều, tôi mới vào, hỏi:

            - Bao nhiêu?

            - Ai biết được !

            - Mày băng bó bao nhiêu người ?

            - Từ đó tới giờ. Không có gì hết. Xé chăn màn làm băng. Chặt cây rừng cặp nẹp xương gãy.

            - Có nghe tin đoàn thằng Cao không?

            - Không! Nhiều đoàn bay gần hết.

            - Rồi giải quyết số chiến thương thế nào ?

            - Không biết t Cứ để đó cho họ rên. Một số lớn sẽ không qua khỏi đêm nay. Một số khác vài ngày thì chết nếu không đưa kịp đến viện:

            Đưa bằng gì? Khiêng! Ai khiêng? Ai chịu trách nhiệm? Giao liên! Mà giao liên không nhận trách nhiệm đó. Và chỉ có một thằng là tao, làm gì được? Nó trốn là phải! Phải trốn.

            Ngưng một chút.

            - Sáu chục quả bom mày ạ. Vân nói. .

            - Mày đếm à?

            - Mấy chả bảo thế.

            - Ai ?

            - Tụi chết hụt!

            - Chôn cất thế nào?

            - Ai chôn?

            - Biết đâu ! Chứ không ai chôn cất gì hết à?

            - Đâu còn ai ở đó mà chôn cất.

            - Rồi để vậy hay sao ?

            - Tao biết trả lời cho mày thế nào? Ai còn sống đã bò lê đi hết ráo rồi ! – Nói xong, Vân móc túi quần đưa cho tôi một cái bóp, bảo – Đây là cái bóp của tao lượm được, rồi rút trên túi quần một xấp giấy, nói – Đồng chí này bị đứt mất một cánh tay, cánh kia còn dính da.

            Tao dùng dao mổ cắt tiện như đồng đội chặt tay La Văn Cầư trong chiến dịch biên giới. Máu đã ra nhiều quá. Nếu tao đến sớm có thể kịp Tao băng bằng cái áo của tao. Anh ta còn tinh nhưng nói hết ra tiếng rồi. Môi mấp máy và đầu gục gặc xuống ngực. Tao đoán chắc anh ta muốn tao móc đồ trong túi áo anh ta ra.

            Tao móc xấp thư vấy máu, liếc qua thấy mấy chữ Biển Bạch ở dưới cuối tờ giấy. Tao hỏi “Nhà ở xã Biển Bạch hả?” Anh ta gật. Tao hỏi: “Có vợ con gì chưa?” Anh ta lắc. Tao hỏi cha mẹ có còn đủ không? Anh ta gật. Tao nói: “Để tôi giữ mấy lá thư này, khi về tới trong Nam tôi tìm cách nhắn tin dùm cho”. Anh ta gật khe khẽ mà nước mắt ròng ròng.

            Vân cũng nghẹn ngang, không nói nữa và kêu chị Phụng lấy cơm ra ăn. Tôi không ăn được, bỏ về võng nằm, lấy đèn pin bấm lên và giở chiếc bóp ra. Một tấm hình bán thân gắn ở ngăn đầu. Tôi kêu lên. Hoàng Việt nằm im từ lúc Vân về lều tới giờ nghe tiếng kêu cửa tôi, bèn hỏi.

            - Lại một thằng quen thăng thiên hả?

            - Anh nhớ ba lão “tá” đi lậu không?

            - Nhớ chớ !

            - Cái lão đen đen trán hói hói ! Anh nhớ không?

            - Mấy chả đi đổi chó đổi gà trong làng khu Eo đó mà ! Rồi sao ?

            - Đây là cái bóp cửa chả.

            - Trời đất ! Sao mày biết chắc là của chả?

            - Hình chả đây nè. Ảnh chụp mang lon đại úy.

            Hai đứa lặng im. Tôi xếp bóp lại, tắt đèn. Cái chết đến thật là chóng vánh. Đáng lẽ mấy ông đi tuốt rồi ! Nếu không kẹt đường thì đâu có bị bom trộm.

            Bôn ba về xứ, chẳng ngờ nằm lại giữa đường. Ở mấy trạm trước đây một ông già năm mươi lăm tuổi đã kiệt sức Và cũng nằm lại trong một cái hố cạn sát và không đủ bề dài cho ông, đào bởi những cánh tay rũ liệt.

            Nhưng ông hãy còn được vùi dập ấm áp hơn nhà quân sự này. Ai biết được thịt xương ông bay về hướng nào hay văng mắc trên cành cây ngọn cỏ nào? Có thánh thần mới biết.

            Khi tôi đến đơn vi Công binh của ông ta đóng ở Bến Phà Lược gần đền Vua Lê ở Lam Sơn, để tìm tài liệu và truyện “Những Tiếng Nổ Ngầm” nói về chiến công đánh sập cầu Bến Lức trong cuộc kháng chiến chống Pháp Nam Bộ, tôi được ông chỉ huy này ưu đãi vô cùng.

            Muốn gì cũng được cả. Kể cả ăn uống ăn chung mâm với Ban Chỉ Huy. Lúc đó ông đã ngoài bốn mươi mà chưa vợ con gì. Đi kháng chiến hồi 45 lúc hai mươi hai tuổi, hòa bình ba mươi hai, mươi năm trên đất Bắc gió bấc mưa phùn gã thanh niên đã trở thành ông già tóc lốm đốm bạc. Có một lần đánh bạo hỏi một cô gái địa phương, liền bị từ chối thẳng thừng. Ông ta cũng nói trắng trợn ra:

            Về Nam kiếm ổ nào đố, “hốt” một cái, chớ con gái hết ưng mình rồi. Có lần tôi nói, cho ông biết là con gái quê mình chờ dân tập kết về đón cả hai tay và sẵn sàng trừ cho mười tuổi, nghĩa là ông còn thanh niên mới ba mươi hai xuân xanh. Ông cười khè khè: Tụi nó nói vậy thôi, chứ khi mình về, tụi nó kêu bằng “bác.” Bây giờ cả mộng hốt ổ cũng không thành. Sống cô đơn, chết cũng cô đơn.


            .................................................. ...... .................................................. ............



            Tôi đã được cậu giao kết giao cho kỷ vật của một thằng bạn ở trạm ngoài, bây giờ vô đây lại thêm một món nữa. Từ đây về đến nơi còn bao nhiêu loại kỷ vật này, hay ngược lại, một người khác cũng sẽ lượm được cái bóp của tôi.

            Không ai bảo ai, những người đi trên đường này đều ghi rõ tên mình, địa chỉ bố mẹ, hoặc vợ con sau lưng tấm hình của mình hoặc trên một mảnh giấy con cất kỹ trong bóp.

            Tôi cũng thế. Khi giã từ Hà Nội thì chưa làm, nhưng sau vài cơn sốt thì tôi làm việc đó một cách rất cương quyết. Không đợi tới bây giờ.

            Vân ăn cơm xong, tôi hỏi:

            - Mấy giờ rồi mậy?

            Chị Phụng giơ tay lên bấm đèn pin và kêu:

            - Ủa sao bây giờ mới có hai giờ.

            - Đồng hồ của chị là loại ô-tô ma… lắc chắc.

            - Xách-mác-đâm-ba nha (*) đó nghe mậy ! – Vân cười hóm hỉnh.

            (*) Đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Printania Suisse made.

            - Xách-mác gì kỳ vậy.

            Chị Phụng lắc lắc đưa lên tai nghe và nói:

            - Chết cứng rồi ! – Chị mở ra đưa cho Vân xem.

            Vân lắc lắc, vặn vặn, nhưng vẫn lắc đầu. Rồi thốt lên:

            - Thôi đúng rồi. Bom nổ chấn động hỏng trục gió.

            Hôm sau giao liên tới bảo dời địa điểm vì có mùi. Anh ta lắc đầu:

            - Nguy quá! Không biết chừng nào mới xoi thông đường. Ở tràn lan thế này nó chơi một phát nữa rụng hết.

            - Đi đâu đồng chí ?

            - Kỳ này tôi phải cho đóng xa suốì mới được.

            - Sao vậy?

            - Tụi nó biết chỗ nào có suối là có mình đóng chớ sao.

            Tất cả đoàn này đoàn nọ lôi thôi lếch thếch đi theo anh ta, không còn trông ra cái thể thống đi giải phóng Miền Nam gì nữa. Kẻ quảy, người xách, ôm, gánh một cách trăm hoa đua nở.

            Tôi hỏi Vân:

            - Đi trở ra hay sao thế này?

            - Nó dắt đi thì đi, nó bảo đứng thì đứng. Không được hỏi.

            - Mình đã qua khỏi khúc Eo chưa?

            - Ối ồi ! Qua lâu rồi , sắp tới Cà Mau!

            - Vậy qua khỏi Bà Đầm Thái Lát Ông Dèo rồi à?

            - Chưa, sắp tới ! Chừng nào qua vịnh Trà Bay là thấy lố dạng Kinh Xáng Xà No đổ qua Kinh Mười Thước thì tới Kinh Xáng Bà Đầm.

            - Thôi mấy ông ơi, đừng có nói kiểu đó, nhớ nhà đứt ruột đứt gan đi ! – Chị Phụng phản đối.

            - Tới nơi làm bánh xèo nghe chị!

            - Tôi rầu thút ruột đây xèo gì nổi mà xèo. .

            - Sống ngày nào lạc quan ngày nấy chứ chị? Sống phải no để khỏi chết đói chứ!

            Giao liên dắt đi gần nửa ngày đường mới cho hạ trại. Anh ta trỏ tay bảo: “Suối hướng đó.”

            - Chừng nào đi, đồng chí?

            - Chừng nào có lệnh thì đi ! Các đồng chí ăn ở cho cẩn thận ! – rồi biến mất.

            Bọn chúng tôi trên dưới mười lăm người, kể cả đám nữ tùy tùng của dược sĩ Vân, – ngơ ngác như một bầy vịt bị lùa tới giữa đồng hoang phải tự tìm lấy bồ cào châu chấu ốc đỉa rắn rết mà rỉa mà tự tìm lấy cách sống.

            Chúng tôi không dám kêu than gì, bởi vì hắn ta còn di chuyển nhiều đoàn khác nữa. Theo hắn nói thì lần này giàn thật mỏng rủi có ăn bom thì không bi thiệt hại nặng như vừa rồi. Dưới chân là cỏ và lá cây mục ngập đến quá mắt cá, trên đầu thì tàng lá bịt bùng.

            Nhiều thứ cây có gai, lạ lùng. Nhiều thứ dây leo cũng có gai như móng ó, chúng tôi gọi là dây ác ó. Đang lom khom chui chui bị một cái móc vào trán hoặc vành tai thì dựng ngược lại như cá bị lưỡi câu.

            Buông ba-lô và các đồ lề xuống đất, chúng tôi nghĩ ngay tới việc đi lấy nước. Vân bảo:

            - Chuẩn bị lon hộp và ni-lông, bi-đông đi một chuyến xài vài ngày.

            Vân bảo các cô nàng hãy ở tại chỗ, để đám đực rựa “mở đường khai lối trước” rồi sau hãy “theo vết người xưa”.

            Tôi và Hoàng Việt đi theo dưới sự lãnh đạo của ông dược sĩ. Đường phải mở lấy mà đi. Nước phải đi múc mà uống. Vỏ cây đó phải cạp lấy mà ăn.

            Giây ác ó rậm bi rậm bịt vạch qua được lùm này tới bụi khác. Máu đổ trên đường . Đang đi bỗng Vân quay lại.

            - Các ông có nghe gì không?

            - Nghe gì là nghe gì ?

            - Thum thủm.

            - Có à?

            - Tao nghe rõ ràng mà ? – Vân vừa nói vừa đi tới .

            Chỉ được một quãng thì mùi thum thủm đã chạm mũi tôi

            - Đúng rồi.

            - Tanh tanh ! Hoàng Việt nói sau tôi.

            Bỗng Vân dừng lại và kêu lên:

            - Xui bỏ mẹ!

            - Cái gì?

            - Thây ma ! – Vân nói tỉnh bơ.

            - Ai tới đây được mà chết ?

            - Chỉ có một cái đùi thôi !

            - Bậy hoài mậy!

            - Đây kìa! – Vân né qua một bên rồi đẩy tôi đến. – Coi kìa!

            Tôi nom theo tay Vân chỉ. Một chiếc đùi người ta mắc trên cành cây hình chữ V lật úp bàn chân còn mang dép cao su. Tôi vừa bịt mũi vừa ói:

            - Thôi, quay trở lại cha! Cái đùi bay từ đằng kia tới đây cơ à ?

            Vân quẹo sang một bên rồi đi tới và nói:

            - Chiếc dép còn tốt. Để tao mách cho đứa nào cần thì tới lột lấy xài.

            - Thằng nào dám ?

            - Mày giỡn hoài ? Mày không biết chứ. Nó lột cả mùng tăng và vứt cái xác đồng đội xuống đất để lấy cái võng.

            - Để nằm à? Còn võng của “nó” đâu?

            - Một cái võng đổi được mấy con gà hoặc nửa con heo. Mấy thằng có võng đôi xé một nửa đổi đồ ăn với đồng bào Thượng còn có nửa cái ngủ không có gì đắp, muỗi đòn xóc chích, bị sốt rét. Cái việc tuần hoàn ăn ngủ của lính ta ở đây là thế.

            Suối không xa lắm. Đã nghe nước chảy róc rách, nhưng càn rách quần áo mới tới được mé nước. Bất cứ nước gì, có nước là được rồi.

            Không có nước không làm gì được Tôi đã từng lọc nước vũng voi nằm để uống. Chỉ hôm sau là ngã bệnh.

            Chúng tôi lấy nước đầy các lon hộp và xếp ni-lông lại hai ba lớp để túm nước buộc thật chặt và vác trên vai. Hoàng Việt lão thành dược miễn vác nước, chỉ đeo bốn chiếc bi-đông và một chùm hộp lon. Chúng tôi đi tránh cái chữ V dựng ngược.

            Vì phải vạch đường mới nên một bọc nước của tôi bị gai ác ó móc rách một đường dài. Nước đổ xòa cả ra, không bụm lại kịp .Tôi la lên. Vân quay lại và có sáng kiến ngay:

            - Bỏ đi. Kỳ sau ta mang ba lô theo, bỏ bọc nước trong ba lô không gai gì móc thủng nổi, ngoài ra các túi ba lô còn chứa được nhiều lon hộp nữa.

            Ông dược sĩ bỏ hai bọc ni-lông nước vĩ đại xuống đất rồi rề lại ngồi bên Hoàng Việt, soán ngôi giã gạo của ông ta và nói:

            - Cái vụ này không phải là nghề của anh. Đưa cho tôi sáng tác thuốc tán cho. Rồi tiếp – Hồi mới ra Hà Nội, tôi bi đày vô Ty Y tế Hà Tĩnh, một cái ty nhỏ bằng cái bẹn l… con nít. Công tác ở đây hai năm, chẳng thu thập được một kinh nghiệm hoặc kiến thức nghề nghiệp gì, nhưng tôi có nghe được một chuyện thiệt ngộ.

            Số là ở Ty Y tế tỉnh có một nữ bác sĩ mới ra trường. Một hôm có một cặp vợ chồng Nam Bộ tập kết đến. Anh chồng vào phòng trình bày với bà bác sĩ như sau: “Không biết tại sao tôi cứ địt liên miên không ngưng được, cứ mười lăm hai mươi phút lại… một phát. Vợ tới nằm bên cạnh không chịu nổi phải bỏ đi.

            Không tin bà hỏi vợ tôi xem có đúng không?” Bà bác sĩ đỏ mặt tía tai nhưng cũng gượng mời bà vợ vô xác nhận. Bà vợ cũng khai thật như vậy: Đàn ông nhà tôi địt liên tục bà bác sĩ ạ. Tôi không có ngủ nghê gì được, bà bác sĩ có thuốc gì ngưng bớt lại không, nếu cứ thế này thì tôi ốm mất. Bác sĩ hỏi:

            Anh ấy thường bữa ăn những món gì. Chi vợ đáp: Dạ thì cơm cơ quan đâu có gì cho lắm, cho nên tôi mua đậu phộng rang mặn để trong hộp ghi-gô, mỗi bữa ăn xúc ra vài muỗng thêm với thức ăn

            - Vậy còn tệ hơn nước mắm đổ lộn mỡ nữa! – Tôi vọt miệng nói.

            - Đâu có tệ gì ! Bà bác sĩ đã chắc mẽm là đã phát hiện một phương thuốc mới cho nhân dân nhất là cho mấy ông Bộ Chính Trị già cúp rồi mà còn ham hầu non. Bà bảo anh chồng: Đấy là vấn đề sinh lý lẫn tâm lý.

            Vậy ta phải dùng khoa tâm lý lẫn thuốc men, nhưng phải lấy tâm lý làm chính. Đồng chí có biết khi Hồ chủ tịch yếu đôi mắt, Hồ chủ tịch tập nhìn vào bóng tối để tự luyện nhãn lực hay không. Và phương pháp này đã thành công. Bây giờ Hồ chủ tịch đã có cặp mắt sáng vô cùng. Về bệnh… của đồng chí, đồng chí nên biết tự chế. Khi muốn…

            cái vụ đó thì đồng chí nên tự bảo thầm là không nên… làm thế nữa, chẳng những có hại sức khỏe cho đồng chí mà còn hại sức khỏe cho vợ đồng chí, như vậy năng suất công tác sẽ xuống thấp, sẽ có ảnh hưởng cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà…

            - Và Hòa bình thế giới nữa chứ! – Hoàng Việt chêm vào – Bốn kí lạc bằng kí thép mà!

            - Bà bác sĩ không cho thuốc men gì cả mà bảo anh chồng về thi hành phương pháp đó, ba hôm sau trở lại khám ! Hôm sau có một cặp vợ chồng người Bắc đến khám. Ông chồng thú thật là mình yếu sinh lý không thỏa mãn được vợ.

            Anh ta còn thú thật rằng khi ở nhà trọ hợp tác xã anh có nghe qua tấm vách cót thưa thớt hai vợ chồng một anh cán bộ cãi nhau. Người vợ than phiền “Anh đ. gì đ. không nghỉ vậy ai chơi cho nổi ! Bác sĩ bảo anh nghỉ ăn đậu phộng mà anh không chịu nghỉ thế nên vẫn bệnh nào tật ấy! Mai tôi đem quăng cái hộp đậu phộng thế là anh dứt cái vụ ấy ngay.” Kể xong câu chuyện đó, bệnh nhân nhờ bác sĩ xác nhận xem đậu phộng có phải là củ lạc ở xứ ta không và có phải lạc rang chữa bịnh yếu sinh lý một cách hiệu quả không?

            Bà bác sĩ gật đầu lia lia và ghi liền một đơn thuốc: “Mỗi ngày cung cấp cho bộ phận tiêu hóa hai thìa vun lạc rang mặn liên tục, trong hai tuần lễ, khám lại.” Hai tuần lễ sau, bệnh nhân đến báo cáo kết quả không mấy gì lạc quan. Bác sĩ gia tăng liều lượng gấp đôi. Hai tuần sau lại đến, vẫn không lạc quan. Bác sĩ lại gia tăng lên gấp bốn của lần thứ nhì ! Không đợi đến tuần sau mà chỉ hôm sau, vợ bệnh nhân tới than thở: Anh ấy nằm mẹp không dậy nổi ! – Bác sĩ gắt – ” Cái gì quá lố đều không tốt cả.

            Phải biết tự chế lấy mình chứ. Tôi đã cho liều cực mạnh, nên anh ấy ham hố cái vụ kia quá mức kế hoạch cho nên bây giờ mới ngóc đầu dậy không nổi chớ gì. Nếu anh ấy điều độ như mấy ngày đầu vậy thì đâu có đến nổi ?” Vợ bệnh nhân nói: “Mấy ngày đầu anh hoàn thành kế hoạch gia đình cũng như cơ quan hoàn thành kế hoạch nhà nước vậy ạ!” Thấy không? Năm trăm phần trăm – Bà bác sĩ suýt kêu lên vì mừng rỡ nhưng sực nhớ lại năm trăm phần trăm của cơ quan là báo cáo ma nên tốp lại kịp và gắt:

            “Vậy ra ba cái củ lạc không ra cái củ… gì ráo à?” – “Dạ ảnh toàn đánh dấm ạ!” Ối giời ơi ! – Bà bác sĩ kêu lên – Thằng cha Nam Bộ hại tôi rồi. Đánh dấm không nói đánh dấm mà nói đ… có chết người không? May cho tôi là tôi chưa báo cáo sáng kiến lên Bộ Y tế (*) chứ nếu tôi nhanh nhẩu đoản thì tôi bay chức rồi.

            (*) Bà bác sĩ ơi, bà chớ có ngây thơ, dù bà đã tìm ra cái sáng kiến lạc rang kia nữa thì các lão Bộ Chính Trị cũng không có dùng đâu.

            Các lão có dái bò Mông Cổ và sâm Triều Tiên. Cũng như năm nay 1989 các lão hô hào nhân dân ta uổng nước tiểu để tri bệnh, nhưng các lão và dòng họ thi xài thuốc Mỹ thuốc Tây mút mùa cu xanh thôi

            Ông dược sĩ kể xong thì buông hòn đá cuội dùng làm chày giã gạo từ nãy giờ, kêu:

            - Ngôn ngữ bất đồng, kẻ nói “dấm” người hiểu “ớt” làm thế nào thống nhất đất nước được !

            Tôi cười:

            - Thì cả hai thứ đó cũng bỏ chung vô “nước mắm đổ lộn mỡ” cả chứ gì !

            Cả bọn cùng cười. Hoàng Việt ngẫm nghĩ một hồi rồi tiếp:

            - Tao đang nghĩ xem bên Bungari có thể dịch cái chuyện đó của mình không?

            - Cái “sự” đó bên Bungari gọi là gì anh Bảy?

            - Tao không biết !

            - Ở bên đó lâu vậy mà anh không biết cái tiếng phổ thông đó sao ? Vậy mỗi khi anh dắt mấy em vô rừng nhậu pícnic rồi đi tới cái sự đó anh nới làm sao ?

            - Đâu phải nói bằng mồm nữa mà nói bằng tay bỏ ngón sol đố mì chớ mậy!

            Có lẽ ông dược sĩ ở gần bên vợ luôn nên phải giữ mồm giữ miệng và có cả một bầy tiên nữ đi theo nên càng giữ đạo đức, bao nhiêu tiếu lâm y tế đều bị ém chặt trong dạ dày, kỳ này gặp các nhà nghệ sĩ tha hồ ngã mặn.

            Ông ta hăng hái tiếp:

            - Còn một chuyện nữa ác lắm!

            - Chuyện “anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí” chứ gì ! Hoàng Việt xen vào.

            Tôi cười lăn ra:

            - Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó chắc tôi đã ghi sổ tay rồi. Đâu kể nghe coi giống không?

            - Thì cũng đại khái đó là hên như cô nông trường của mày chớ gì. Thằng cu con hoàn thành kế hoạch năm trăm phần trăm bỏ chỉ tiêu nằm trơ trơ mà chạy làng.

            Vân tiếp:

            - Nhưng may cái là có anh đội Miền Nam.

            - … được điện khẩn về ghé qua, phải không?

            - Nàng ta kêu ” anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí ! ” Thế là anh đội tiến vào cái chỉ tiêu và nghiến răng: Muốn chết tao cho mày chết. Nó . .ào !

            - Ba ván không bỏ dở ván nào !

            Ba thằng đang cười thì có tiếng từ dưới suối vọng lên:

            - Anh Vân ơi 1 Giúp em tí !

            Bọn này lại cười ầm lên! Vì đó là tiếng của chị Phụng. Tôi bảo Vân:

            - Đi xuống giúp vợ mày đi. Đạt kế hoạch nhanh nhanh nhé! Đứng lên…nà…ào ! !

            - Không đạt nổi đâu cha non !

            Vân “giúp em tí” mang đồ lề lên lều nào nước, nào quần áo ướt lùm đùm lề đề. Chị Phụng trách yêu chồng:

            - Anh bảo anh lên rồi trở xuống liền sao ở trên này lâu thế. Em đợi mãi.

            - Mà nó có “giúp” chị tí nào không?

            - Dạ có ạ, ảnh giúp nhiều chứ ạ!

            Tôi và Hoàng Việt cười ngặt nghẹo. Hoàng Việt hỏi:

            - Thím biết tại sao nó ở trên này lâu vậy không?

            - Chắc ảnh uống trà với anh chớ gì !

            - Không, nó mắc rang đậu phộng đó chị ơi !

            - Đậu phộng ở đâu mà có !

            Tôi và Hoàng Việt cười ầm lên. Chị Phụng không hiểu chuyện gì. Vân nói:

            - Hộp đậu phộng lương khô của mình đấy em.

            Chị Phụng gật đầu:

            - Ừ phải rồi, đem ra cho mấy ảnh uống trà đỡ đỡ!

            - Ủa vậy chú Vân có món thuốc quý đó nữa sao thím ? — Hoàng Việt hỏi .

            - Có chứ anh, đeo dính trong lưng mà. Anh ấy bồi dưỡng bằng hộp đậu rang đó.

            - Mỗi ngày chú uống mấy thìa vun?

            - Dạ đậu phộng mà, đâu có uống được anh !

            - Tôi nghe ông dược sĩ nói đó là thuốc quí. Bác sĩ nào viết toa cho chú ấy vậy thím ?

            - Bác sĩ nào đâu anh? ảnh tự “cho toa” ảnh đó chớ!

            Vân cười :

            - Anh mới vừa kể cho các ông nghe xong cái vụ bà bác sĩ ở Hà Tĩnh.

            Chị Phụng đỏ mặt và quay đi:

            - Hết chuyện rồi sao anh kể chuyện đó ? Các ảnh ngạo anh cho coi !

            Nhờ lều của ông dược sĩ kín đáo nên chị Phụng nấu cơm bên trong, khói ít bay lên. Cơm xong Vân bắt đầu nấu cao khỉ .

            Hai cái nhà máy nghiền gạo đã hoàn thành kế hoạch. Bột gạo rây rắc tùm lum trắng một vùng đất sỏi. Cả hai đều phồng tay. Vân nói:

            - Vợ tôi có thể làm bánh chiều nay ăn chơi .

            - Bánh gì ?

            - Bánh bèo, bánh bò, bánh lá, bánh xếp, các thứ bánh làm bằng bột gạo, kể cả bánh xèo.

            - Bánh xèo ! – Tôi reo lên – Chị cho ăn một bữa bánh xèo đi ! Nhưng mà… Tôi giật mình rút ý kiến lại – Ở đây đâu có phải là Vườn Cò hoặc Ông Dèo Cần Thơ mà chị làm được các món đó. Làm sao có chảo? Mỡ đào ra? Đâu có nghệ để pha bột?

            Vân xua tay:

            - Mày đừng có lo ! Tao có cả.

            - Trời đất ! ăn một miếng bánh xèo ở giữa Trường Sơn này còn hơn ăn yến với Ngọc Hoàng nữa đó.

            Vừa dứt lời thì anh giao liên tới. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ anh ta. Một anh chàng gầy như những chàng giao 1iên khác mà tôi đã gặp từ Làng Ho tới đây, nhưng anh chàng này lại mang giày ba ta, loại giày mà quân đội Nhân Dân Việt Nam dùng ở Hà Nội khi duyệt binh. Anh ta nói:

            - Trận bom đêm qua tôi tưởng vừa chết vừa bị thương trên hai mươi người, nhưng các đoàn báo cáo tổng cộng lại, trên ba chục. Hiện đoàn đang đi tim người mất tích của họ.

            Tôi vọt miệng hỏi :

            - Hồi nào tới giờ mình có bị trận nào như vầy chưa đồng chí.

            Anh giao liên nói:

            - Đây là lần thứ nhất.

            - Thứ này không đề phòng được !

            - Trời kêu ai nấy dạ thôi ! Đang ngủ chết luôn không biết gì hết! – Anh ta nói tiếp – Chúng tôi yêu cầu mỗi một đoàn cho một vài người đến tiếp với chúng tôi thu dọn chiến trường. Ở đây ai trưởng đoàn ?

            - Tôi ạ! – Vân đáp.

            - Đoàn đồng chỉ có bao nhiêu người ?

            - Mười hai người, nhưng toàn là nữ giới ! Chỉ mình tôi là sồn sồn đây thôi.

            - Các bà thì làm gì được.

            - Không sao, tôi xung phong ! Tôi là bác sĩ !

            - Thế thì hay lắm. Đồng chí cứ lại đằng trạm kia !

            - Trạm nào ? Trạm cứu thương à ?

            - À! Không có trạm nào cả, lại đằng chỗ thương binh tập trung chờ cứu thương.

            - Ở đây không có trạm xá trạm gì hết sao đồng chí ?

            - Một cuộn băng còn không có nữa là trạm xá. Người ta bị lùa vô đây và tự lực sống, tự lực chết. Đồng chí xem, tất cả tài sản trang bị của một tên giao liên, tôi đi đâu cũng mang dính theo người, có thế này thôi.

            Trước tình thế này, tôi giải quyết cách nào? Tôi chỉ trốn. Nếu không, họ đánh tôi. Họ đã dọa bắn bỏ rồi.

            - Tại sao đánh ?

            - Họ điên họ đánh bậy vậy thôi ! Đồng chí là bác sĩ thì hãy đến đó dùm đi. Tôi không dám trở lại. Họ hạch sách đủ thứ. Tôi không có thứ gì. Họ nổi sùng lên.

            - Rồi có chuyện thì ai dẫn đường?

            - Tôi ở luẩn quẩn quanh đây chứ có dám đi đâu. Tôi cũng còn có trách nhiệm với các đồng chí.

            - Hiện giờ có chừng bao nhiêu người ở đây?

            - Cứ đến ào ào, tôi đâu có biết.

            - Không có kiểm điểm quân số gì hết, rồi làm sao đồng chí biết ai còn ai mất.

            - Cái đó tôi không chịu trách nhiệm !

            Hoàng Việt xen vào:

            - Rủi có vài người đau đi không kịp đoàn, bị rơi lại sau rồi đồng chí làm sao?

            - Đâu có làm sao! Rủi lạc hoặc theo không kịp thì rán chịu.

            Vân nai nịt và quảy túi thuốc lên vai. Tôi cũng đi theo cho biết. Lâu quá mới thấy hố bom. Hồi kháng chiến chống Pháp tôi thấy được chục rưỡi lần.

            Khi máy bay leo thang ra miền Bắc thì tôi thấy dấu đạn rốc kết lẫn hố bom. Nhưng hố nhỏ thôi. Bây giờ hố to gấp ba lần cái hố mà tôi thấy ở Vinh. Và không phải một cái. Sáu cái liền. Cách một quãng, lại năm sáu cái liền nữa. Cái gì có thể còn được (dù cái đó là sắt đá đi nữa) ở khoảng cách giữa hai chiếc hố với nhau? Sức hủy diệt thật kinh khủng.

            Một vùng đất trống rộng được khai phá giữa rừng đêm qua bằng bom, trong nháy mắt. Nơi đó, trước một phút là rừng cây với tàng lá bịt bùng mặt trời không rọi thấu đất, là bếp lửa, là cơm nước, là trò chuyện, là nghỉ ngơi ,là mơ tưởng quê hương. Sau tiếng ầm tất cả không còn gì ngoài cát bụi. Cây bật gốc, đất đào thành hố, đất nghiền thành cám thịt xương cũng tan như bụi. Cố nhiên rồi. Nhưng những ai?

            Vì sao? Cha mẹ vợ con họ ở Miền Nam trông chờ. Hai năm. Không thấy. Mười năm vẫn không thấy. Và không bao giờ thấy. Cũng không bao giờ biết được tại sao người ra đi không trở về. Sẽ không có một mẩu giấy nào báo tin. Chính những kẻ chủ trương đẩy họ vô đây cũng không có sổ sách nhật ký của một anh đồ tể của lò sát sinh.

            Họ lùa vô đây đông quá. Có số triệu. Ai đếm nổi ? Nhất là tất cả đều đổi tên. Ai mò cho ra gốc.

            Khi tôi vừa trông thấy chỗ tập trung thương binh, tôi bảo Vân:

            - Mày ở đó làm việc, tao về lều.

            - Tại sao?

            - Tao không chịu nổi…

            - Mùi tanh à?

            - Không phải ! Chính là sự bi thảm.

            - Nghề của tao là thế đó.

            - Mày đã trở lại thời kỳ hai mươi năm trước. Cắt tay chân thương binh bằng cưa thợ mộc.

            Bỏ Vân ở lại, tôi quay về. Vừa đi vừa nhắm mắt, vấp ngã, mở mắt, bò càn qua những thân cây, những hố bom đất đen như than.

            Về đến nơi tôi mắc võng nằm ngay, mắt nhắm tít, cố xua đuổi những gì mắt tôi đã chụp được: toàn bộ bức tranh máu.

            Bữa bánh xèo dự định đã tan trong ý tưởng. Chỉ có bữa cơm chiều lạt lẽo.

            Tối mịt Vân mới về. Hắn đứng ngoài lều gọi vợ:

            - Em lục đưa anh cục xà bông.

            - Cần chai cồn không?

            - Cồn đâu cho đủ.

            Chờ cho Vân tắm rửa xong trở lên lều, tôi mới vào, hỏi:

            - Bao nhiêu?

            - Ai biết được !

            - Mày băng bó bao nhiêu người ?

            - Từ đó tới giờ. Không có gì hết. Xé chăn màn làm băng. Chặt cây rừng cặp nẹp xương gãy.

            - Có nghe tin đoàn thằng Cao không?

            - Không! Nhiều đoàn bay gần hết.

            - Rồi giải quyết số chiến thương thế nào ?

            - Không biết t Cứ để đó cho họ rên. Một số lớn sẽ không qua khỏi đêm nay. Một số khác vài ngày thì chết nếu không đưa kịp đến viện:

            Đưa bằng gì? Khiêng! Ai khiêng? Ai chịu trách nhiệm? Giao liên! Mà giao liên không nhận trách nhiệm đó. Và chỉ có một thằng là tao, làm gì được? Nó trốn là phải! Phải trốn.

            Ngưng một chút.

            - Sáu chục quả bom mày ạ. Vân nói. .

            - Mày đếm à?

            - Mấy chả bảo thế.

            - Ai ?

            - Tụi chết hụt!

            - Chôn cất thế nào?

            - Ai chôn?

            - Biết đâu ! Chứ không ai chôn cất gì hết à?

            - Đâu còn ai ở đó mà chôn cất.

            - Rồi để vậy hay sao ?

            - Tao biết trả lời cho mày thế nào? Ai còn sống đã bò lê đi hết ráo rồi ! – Nói xong, Vân móc túi quần đưa cho tôi một cái bóp, bảo – Đây là cái bóp của tao lượm được, rồi rút trên túi quần một xấp giấy, nói – Đồng chí này bị đứt mất một cánh tay, cánh kia còn dính da.

            Tao dùng dao mổ cắt tiện như đồng đội chặt tay La Văn Cầư trong chiến dịch biên giới. Máu đã ra nhiều quá. Nếu tao đến sớm có thể kịp Tao băng bằng cái áo của tao. Anh ta còn tinh nhưng nói hết ra tiếng rồi. Môi mấp máy và đầu gục gặc xuống ngực. Tao đoán chắc anh ta muốn tao móc đồ trong túi áo anh ta ra.

            Tao móc xấp thư vấy máu, liếc qua thấy mấy chữ Biển Bạch ở dưới cuối tờ giấy. Tao hỏi “Nhà ở xã Biển Bạch hả?” Anh ta gật. Tao hỏi: “Có vợ con gì chưa?” Anh ta lắc. Tao hỏi cha mẹ có còn đủ không? Anh ta gật. Tao nói: “Để tôi giữ mấy lá thư này, khi về tới trong Nam tôi tìm cách nhắn tin dùm cho”. Anh ta gật khe khẽ mà nước mắt ròng ròng.

            Vân cũng nghẹn ngang, không nói nữa và kêu chị Phụng lấy cơm ra ăn. Tôi không ăn được, bỏ về võng nằm, lấy đèn pin bấm lên và giở chiếc bóp ra. Một tấm hình bán thân gắn ở ngăn đầu. Tôi kêu lên. Hoàng Việt nằm im từ lúc Vân về lều tới giờ nghe tiếng kêu cửa tôi, bèn hỏi.

            - Lại một thằng quen thăng thiên hả?

            - Anh nhớ ba lão “tá” đi lậu không?

            - Nhớ chớ !

            - Cái lão đen đen trán hói hói ! Anh nhớ không?

            - Mấy chả đi đổi chó đổi gà trong làng khu Eo đó mà ! Rồi sao ?

            - Đây là cái bóp cửa chả.

            - Trời đất ! Sao mày biết chắc là của chả?

            - Hình chả đây nè. Ảnh chụp mang lon đại úy.

            Hai đứa lặng im. Tôi xếp bóp lại, tắt đèn. Cái chết đến thật là chóng vánh. Đáng lẽ mấy ông đi tuốt rồi ! Nếu không kẹt đường thì đâu có bị bom trộm.

            Bôn ba về xứ, chẳng ngờ nằm lại giữa đường. Ở mấy trạm trước đây một ông già năm mươi lăm tuổi đã kiệt sức Và cũng nằm lại trong một cái hố cạn sát và không đủ bề dài cho ông, đào bởi những cánh tay rũ liệt. Nhưng ông hãy còn được vùi dập ấm áp hơn nhà quân sự này. Ai biết được thịt xương ông bay về hướng nào hay văng mắc trên cành cây ngọn cỏ nào? Có thánh thần mới biết.

            Khi tôi đến đơn vi Công binh của ông ta đóng ở Bến Phà Lược gần đền Vua Lê ở Lam Sơn, để tìm tài liệu và truyện “Những Tiếng Nổ Ngầm” nói về chiến công đánh sập cầu Bến Lức trong cuộc kháng chiến chống Pháp Nam Bộ, tôi được ông chỉ huy này ưu đãi vô cùng. Muốn gì cũng được cả. Kể cả ăn uống ăn chung mâm với Ban Chỉ Huy.

            Lúc đó ông đã ngoài bốn mươi mà chưa vợ con gì. Đi kháng chiến hồi 45 lúc hai mươi hai tuổi, hòa bình ba mươi hai, mươi năm trên đất Bắc gió bấc mưa phùn gã thanh niên đã trở thành ông già tóc lốm đốm bạc. Có một lần đánh bạo hỏi một cô gái địa phương, liền bị từ chối thẳng thừng. Ông ta cũng nói trắng trợn ra: Về Nam kiếm ổ nào đố, “hốt” một cái, chớ con gái hết ưng mình rồi.

            Có lần tôi nói, cho ông biết là con gái quê mình chờ dân tập kết về đón cả hai tay và sẵn sàng trừ cho mười tuổi, nghĩa là ông còn thanh niên mới ba mươi hai xuân xanh. Ông cười khè khè: Tụi nó nói vậy thôi, chứ khi mình về, tụi nó kêu bằng “bác.” Bây giờ cả mộng hốt ổ cũng không thành. Sống cô đơn, chết cũng cô đơn.

            Tôi đã được cậu giao kết giao cho kỷ vật của một thằng bạn ở trạm ngoài, bây giờ vô đây lại thêm một món nữa. Từ đây về đến nơi còn bao nhiêu loại kỷ vật này, hay ngược lại, một người khác cũng sẽ lượm được cái bóp của tôi.

            Không ai bảo ai, những người đi trên đường này đều ghi rõ tên mình, địa chỉ bố mẹ, hoặc vợ con sau lưng tấm hình của mình hoặc trên một mảnh giấy con cất kỹ trong bóp. Tôi cũng thế. Khi giã từ Hà Nội thì chưa làm, nhưng sau vài cơn sốt thì tôi làm việc đó một cách rất cương quyết. Không đợi tới bây giờ.

            Vân ăn cơm xong, tôi hỏi:

            - Mấy giờ rồi mậy?

            Chị Phụng giơ tay lên bấm đèn pin và kêu:

            - Ủa sao bây giờ mới có hai giờ.

            - Đồng hồ của chị là loại ô-tô ma… lắc chắc.

            - Xách-mác-đâm-ba nha (*) đó nghe mậy ! – Vân cười hóm hỉnh.

            (*) Đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Printania Suisse made.

            - Xách-mác gì kỳ vậy.

            Chị Phụng lắc lắc đưa lên tai nghe và nói:

            - Chết cứng rồi ! – Chị mở ra đưa cho Vân xem.

            Vân lắc lắc, vặn vặn, nhưng vẫn lắc đầu. Rồi thốt lên:

            - Thôi đúng rồi. Bom nổ chấn động hỏng trục gió.

            Hôm sau giao liên tới bảo dời địa điểm vì có mùi. Anh ta lắc đầu:

            - Nguy quá! Không biết chừng nào mới xoi thông đường. Ở tràn lan thế này nó chơi một phát nữa rụng hết.

            - Đi đâu đồng chí ?

            - Kỳ này tôi phải cho đóng xa suốì mới được.

            - Sao vậy?

            - Tụi nó biết chỗ nào có suối là có mình đóng chớ sao.

            Tất cả đoàn này đoàn nọ lôi thôi lếch thếch đi theo anh ta, không còn trông ra cái thể thống đi giải phóng Miền Nam gì nữa. Kẻ quảy, người xách, ôm, gánh một cách trăm hoa đua nở.

            Tôi hỏi Vân:

            - Đi trở ra hay sao thế này?

            - Nó dắt đi thì đi, nó bảo đứng thì đứng. Không được hỏi.

            - Mình đã qua khỏi khúc Eo chưa?

            - Ối ồi ! Qua lâu rồi , sắp tới Cà Mau!

            - Vậy qua khỏi Bà Đầm Thái Lát Ông Dèo rồi à?

            - Chưa, sắp tới ! Chừng nào qua vịnh Trà Bay là thấy lố dạng Kinh Xáng Xà No đổ qua Kinh Mười Thước thì tới Kinh Xáng Bà Đầm.

            - Thôi mấy ông ơi, đừng có nói kiểu đó, nhớ nhà đứt ruột đứt gan đi ! – Chị Phụng phản đối.

            - Tới nơi làm bánh xèo nghe chị!

            - Tôi rầu thút ruột đây xèo gì nổi mà xèo. .

            - Sống ngày nào lạc quan ngày nấy chứ chị? Sống phải no để khỏi chết đói chứ!

            Giao liên dắt đi gần nửa ngày đường mới cho hạ trại. Anh ta trỏ tay bảo: “Suối hướng đó.”

            - Chừng nào đi, đồng chí?

            - Chừng nào có lệnh thì đi ! Các đồng chí ăn ở cho cẩn thận ! – rồi biến mất.

            Bọn chúng tôi trên dưới mười lăm người, kể cả đám nữ tùy tùng của dược sĩ Vân, – ngơ ngác như một bầy vịt bị lùa tới giữa đồng hoang phải tự tìm lấy bồ cào châu chấu ốc đỉa rắn rết mà rỉa mà tự tìm lấy cách sống.

            Chúng tôi không dám kêu than gì, bởi vì hắn ta còn di chuyển nhiều đoàn khác nữa. Theo hắn nói thì lần này giàn thật mỏng rủi có ăn bom thì không bi thiệt hại nặng như vừa rồi. Dưới chân là cỏ và lá cây mục ngập đến quá mắt cá,

            trên đầu thì tàng lá bịt bùng. Nhiều thứ cây có gai, lạ lùng. Nhiều thứ dây leo cũng có gai như móng ó, chúng tôi gọi là dây ác ó. Đang lom khom chui chui bị một cái móc vào trán hoặc vành tai thì dựng ngược lại như cá bị lưỡi câu.

            Buông ba-lô và các đồ lề xuống đất, chúng tôi nghĩ ngay tới việc đi lấy nước. Vân bảo:

            - Chuẩn bị lon hộp và ni-lông, bi-đông đi một chuyến xài vài ngày.

            Vân bảo các cô nàng hãy ở tại chỗ, để đám đực rựa “mở đường khai lối trước” rồi sau hãy “theo vết người xưa”.

            Tôi và Hoàng Việt đi theo dưới sự lãnh đạo của ông dược sĩ. Đường phải mở lấy mà đi. Nước phải đi múc mà uống. Vỏ cây đó phải cạp lấy mà ăn. Giây ác ó rậm bi rậm bịt vạch qua được lùm này tới bụi khác. Máu đổ trên đường . Đang đi bỗng Vân quay lại.

            - Các ông có nghe gì không?

            - Nghe gì là nghe gì ?

            - Thum thủm.

            - Có à?

            - Tao nghe rõ ràng mà ? – Vân vừa nói vừa đi tới .

            Chỉ được một quãng thì mùi thum thủm đã chạm mũi tôi

            - Đúng rồi.

            - Tanh tanh ! Hoàng Việt nói sau tôi.

            Bỗng Vân dừng lại và kêu lên:

            - Xui bỏ mẹ!

            - Cái gì?

            - Thây ma ! – Vân nói tỉnh bơ.

            - Ai tới đây được mà chết ?

            - Chỉ có một cái đùi thôi !

            - Bậy hoài mậy!

            - Đây kìa! – Vân né qua một bên rồi đẩy tôi đến. – Coi kìa!

            Tôi nom theo tay Vân chỉ. Một chiếc đùi người ta mắc trên cành cây hình chữ V lật úp bàn chân còn mang dép cao su. Tôi vừa bịt mũi vừa ói:

            - Thôi, quay trở lại cha! Cái đùi bay từ đằng kia tới đây cơ à ?

            Vân quẹo sang một bên rồi đi tới và nói:

            - Chiếc dép còn tốt. Để tao mách cho đứa nào cần thì tới lột lấy xài.

            - Thằng nào dám ?

            - Mày giỡn hoài ? Mày không biết chứ. Nó lột cả mùng tăng và vứt cái xác đồng đội xuống đất để lấy cái võng.

            - Để nằm à? Còn võng của “nó” đâu?

            - Một cái võng đổi được mấy con gà hoặc nửa con heo. Mấy thằng có võng đôi xé một nửa đổi đồ ăn với đồng bào Thượng còn có nửa cái ngủ không có gì đắp, muỗi đòn xóc chích, bị sốt rét. Cái việc tuần hoàn ăn ngủ của lính ta ở đây là thế.

            Suối không xa lắm. Đã nghe nước chảy róc rách, nhưng càn rách quần áo mới tới được mé nước. Bất cứ nước gì, có nước là được rồi.

            Không có nước không làm gì được Tôi đã từng lọc nước vũng voi nằm để uống. Chỉ hôm sau là ngã bệnh.

            Chúng tôi lấy nước đầy các lon hộp và xếp ni-lông lại hai ba lớp để túm nước buộc thật chặt và vác trên vai. Hoàng Việt lão thành dược miễn vác nước, chỉ đeo bốn chiếc bi-đông và một chùm hộp lon. Chúng tôi đi tránh cái chữ V dựng ngược.

            Vì phải vạch đường mới nên một bọc nước của tôi bị gai ác ó móc rách một đường dài. Nước đổ xòa cả ra, không bụm lại kịp .Tôi la lên. Vân quay lại và có sáng kiến ngay:

            - Bỏ đi. Kỳ sau ta mang ba lô theo, bỏ bọc nước trong ba lô không gai gì móc thủng nổi, ngoài ra các túi ba lô còn chứa được nhiều lon hộp nữa.



            Hết Chương 18 - Xem Tiếp Chương 19


            sigpic

            Comment


            • #21
              Vượt Trường Sơn 3




              Chúng tôi vừa về đến lều thì chị Phụng nói:

              - Có khách !

              - Ai vậy?

              - Ai, vô đây thì biết !

              Tôi vừa ló đầu vô thì bật ngửa, ú ớ một chập mới nói được!

              - Nguyệt !

              - Anh ! – Nguyệt chỉ kêu lên một tiếng rất khẽ rồi quay mặt vào vách lều.

              Tôi đứng sựng, không biết làm gì nói gì. Vân bảo chị Phụng ra ngoài giúp đỡ nước xuống. Chị nhìn tôi, cười nháy nháy tôi và bước ra.

              Mặc dù hoàn cảnh vô cùng thuận tiện nhưng tôi vẫn cứ bàng hoàng không định tâm được May sao nghe có tiếng nhạc sĩ Cao ở ngoài, tôi bước ra và kêu lên:

              - Hồi hôm mày ở đâu ?

              - Ở đó chứ ở đâu.

              Hoàng Việt thì chưa biết gì nên bảo tôi dóm bếp nấu trà uống bồi dưỡng sau chuyến đi, nhưng Vân xua tay:

              - Tôi cho nó miễn công tác từ giờ đến… sáng mai.

              Cao nháy Hoàng Việt và nói:

              - Nó có một cái bếp khác cần nhóm lại lửa.

              - À thế hả ! – Hoàng Việt cười khắc khắc – Vậy thì lui cho mau kẻo tro nguội lạnh khó nhóm.

              Tôi đứng xớ rớ một chút rồi trở vào lều lấy gan đi lại gần Nguyệt:

              - Đêm qua Nguyệt ở gần trận bom không?

              - Trái gần nhất nổ cách em chừng năm chục thước, còn anh?

              - Cũng gần em thôi !

              Im lặng chắn ngang giữa hai người như một bức tường. Bỗng

              - Em còn yêu anh sao Nguyệt? – Tôi hỏi.

              - …

              - Anh đã là con thuyền xa bờ tình ta ngàn dặm từ lâu.

              - Em biết !

              - Anh cũng có lỗi một phần.

              - Anh không có lỗi gì t Đó chỉ tại hoàn cảnh thôi. Nếu không có vụ tập kết thì không có chuyện gì xảy ra cả.

              - Tập kết cũng chưa đến nỗi nào. Tại ba cái lập trường ! – Tôi lấy lại tự nhiên nhanh chóng, bảo – Em ngồi lên võng đi Nguyệt ! Anh mệt quá, phải nằm nghỉ chút đã.

              - Anh đi lấy nước vừa về hả?

              - Đem về nửa chừng bọc nước bị gai móc rách, đổ nước hết trơn. Đổ rồi khó hốt hả em? – Không hiểu sao tôi lại triết lý bất ngờ như vậy rồi cảm thấy mình bi sa lầy.

              Nguyệt lặng thinh và vẫn đựng quay mặt vào vách lều.

              Tôi nói:

              - Anh đã quên em lâu rồi.

              - Em biết. Chính vì em có lỗi nên em bị anh xua đuổi mà em vẫn muốn gặp anh.

              - Anh xua đuổi em hay em xua đuổi anh ?

              - Lần thứ nhất ở gần Đò Lèn.

              - Anh đến tìm em kia mà! Em biết anh lội bộ ba mươi cây số không?

              - Rồi anh giận anh bỏ về, chị Loan theo anh để nói chuyện anh vẫn bỏ đi.

              - Sao em không tiếp anh mà để chị Loan tiếp.

              - Anh không ở trong cuộc nên anh không biết chuyện gì đã xảy ra cho em trong chỉnh huấn cải cách ruộng đất. Nếu anh biết một phần nào thì anh đã đối xử với em khác đi rồi.

              - Họ đấu cái thành phần của em là cùng – cũng như anh thôi – chứ làm gì nữa?

              - Sau cải cách ruộng đất cấp ủy kêu em lên nói thẳng là em không có được dính líu gì với anh nữa. Anh đã phản tỉnh ở cơ quan của anh là anh yêu em phải không?

              - À thì đó là chuyện không thể giấu tổ chức được, em phải biết là lúc đó không những anh mà ai ai cũng vậy. Không phản tỉnh họ truy rồi cũng phải khui ra.

              - Bởi vậy người ta biết nên người ta chặn em. Em khóc ghê lắm.

              - Rồi sao anh đến, em không ra gặp anh?

              - Cơ quan bảo thế, em còn mặt mũi nào? Vả lại em cũng không dám.

              - Anh lại nghĩ là em đã thay đổi.

              - Chẳng lẽ mới hứa lại thay đổi. Người gì như vậy?

              - Sao em không cả viết thư?

              - Em cũng không dám. Vả lại người ta đã bảo vậy rồi còn thư từ gì nữa. Riêng anh nếu em không ra gặp anh thì anh phải trở lại lần nữa chớ, sao anh đi luôn ?

              - Tự ái!

              - Em không tự ái sao? Người ta đã bỏ mình. Mình còn thiết gì nữa?

              - Có thiếu gì bạn của anh trong đoàn Văn Công, sao em không bảo chúng nó nhắn anh ?

              - Em không muốn nhờ ai cả. Em là đứa cứng đầu!

              - Chị Loan có nói em là đứa con cứng đầu nhất trong gia đình. .Nhưng sao cứng đầu với anh?

              - Anh đã không tới, em lại đi tìm à?

              - Sao hồi em đi diễn ở Sầm Sơn em cũng không muốn gặp anh ?

              - Em nghe anh đã có người bạn nào rồi !

              - Chỉ là một cách trả thù em thôi. Giận cá chém thớt.

              - Thiệt không?… Anh biết không? Em luôn luôn có người muốn ngỏ lời. Trong ba năm trời. Em nhất định không. Chờ nghe cho rõ vấn đề của anh đã, để sau khỏi ân hận.

              - Rồi em nghe ra sao?

              - Anh biết đấy. Anh ở Hà Nội mà! Anh có nhiều người làm mai lắm.

              - Ai nói với em ?

              - Những người làm mai cho anh !

              - Anh không nhờ bất cứ một người nào làm mai cho anh.

              - Người ta tự nguyện. Nhưng tự nguyện hay do mai mối thì cũng thế thôi. Em muốn lập gia đình quách.

              - Với ai?

              - Em có thể chọn trong mười người chầu chực ở cửa ngoài.

              - Thì sao không chọn ?

              - Vì anh.

              - Vì anh cái gì kia chớ?

              - Vì anh chưa có vợ, anh còn đó, anh chưa thuộc về ai, em cũng không muốn em thuộc về ai khi em còn một tí hi vọng gặp lại anh.

              - Sao em không viết thư.

              - Tự ái!

              - Hừ!

              - Có cả một lần em thấy anh đi coi Văn Công ở Nhà hát lớn với người ta nữa kia mà.

              - Với ai? Kịch gì?

              - Kịch Lu Ba ! . . . Em được đoàn đưa ra Hà Nội xem để rút kinh nghiệm, nhưng gặp vụ đó, em bỏ về, không xem đêm kịch.

              - Xốn mắt à ?

              - Em muốn trả thù anh.

              - Cách nào ?

              - Thiếu gì cách ! Nhưng em nghĩ lại. Làm anh khổ thì em lại là người khổ hơn.

              - Mấy tên chạy đèn cù chung quanh em nói lén anh dữ lắm. Anh biết.

              - Mấy người bạn của anh học lại với anh chớ gì ! Cấp ủy xây dựng em cho một người lái xe…

              - Cho đúng lập trường!?

              - Em không tưởng tượng được nếu chồng em là một người lái xe, thì em sẽ nói những gì với anh ta, và anh ta sẽ nói gì với em trong lúc ăn cơm, đi dạo.

              - Em thì phản tỉnh việc mạnh dạn rứt bỏ thành phần cũ còn anh ta thì nói về những cây số lái xe an toàn, quý xe như con, quý xăng như máu hà hà…

              - Ê gặp nhau, không có đấu tranh giai cấp đa nghe ! Khi gần bên nhau thì phải vui sống trong “Niềm thương mến” (‘) đa nghe – Tiếng Hoàng Việt từ bên ngoài vọng vào

              (*) Một câu trong bài hát của Xuân Vũ – Phan Vân.

              Cao xuất hiện ở cửa, nói oang oang vào:

              - Mười năm rồi ! Giận gì dai thế. Vuốt giận đi cô dượng. Đáng lẽ có con chín mười tuổi rồi, mà bây giờ vẫn còn chân trơn.

              Tôi biết cả hai người đều tự ái chứ không có lỗi gì cả Tôi cũng biết hai người còn yêu nhau. Nếu không, kẻ đã có chồng người đã có vợ lâu rồi, chứ không còn nhùng nhằng tới bây giờ.

              Gặp nhau ở đây là vạn hạnh. Thì giờ không có nhiều. Cuộc sống như hai mặt của một tờ giấy. Thấy không? Nếu đêm qua, bom lia tới vài chục thước nữa thì chưa biết ai sẽ khóc ai. Xí xoá hết, hãy hôn nhau, hôn nhau đi, đừng hờn giận nữa, mệt lắm.

              Như tôi đây nè, muốn gần vợ mà không gần được, cô dượng gần nhau sao cứ làm cho xa ra?

              - Hà hà… Hoàng Việt tiếp – Nhạc sĩ văn hoa gớm nhỉ ! Mới mi-nơ chuyển qua ma-giơ ngọt ngào, thôi vứt bỏ nhịp chỏi đi em trai em gái.

              - Ở đây có đủ. Nè tao làm chủ hôn bên gái, ông Lá Xanh chủ hôn bên trai. Vợ tao phù dâu, thằng Cao phù rể, lấy lều tao phòng hoa chúc.

              Chiều nay làm một tiệc bánh xèo ! – Vân hăng hái vẽ thêm chi tiết – Sẵn rượu cồn chín mươi chữ đây, pha nước suối uống cho say mèm một bữa mừng tụi bây ký “hiệp định” R..rrơ….neo liền đi !

              Tôi bỗng thấy lại cả khung cảnh ngày hai đứa mới yêu nhau. Nàng ra khu sau vụ Trò Ơn với sự hướng dẫn của chị Loan là chị ruột của nàng. Lúc đó tôi bị thương về nằm Quân y xá. Cùng là học sinh xa trường, nhưng tôi đi kháng chiến trước nàng vài năm. Chúng tôi yêu nhau một cách tự nhiên không có sự gàn cản cũng không ai mai mối.

              Chỉ hục hặc từ lúc ra Bắc và sau chỉnh huấn cải cách ruộng đất.

              - Bây giờ em định sao, Nguyệt?

              - Em cũng chưa định sao cả, chỉ thấy cần gặp anh nói với anh mấy lời như vậy thôi .

              Tôi bước xuống võng đến gần bên Nguyệt. Nàng vẫn quay lưng lại tôi như từ lúc đầu. Tóc nàng trổ màu hoe và bím thành hai đuôi sam buông thả sau lưng chứ không kẹp đuôi gà như trước. Mảng da gáy vừa sạm vừa mét vì sương gió và sốt rét.

              Từ ngày yêu nhau cho đến lúc ra Bắc tôi vẫn sợ cầm tay nàng, không dám hôn nàng, cũng không nói cả mấy tiếng “anh yêu em,” nàng cũng không hề thốt ra câu “em yêu anh.” Tất cả tình yêu chỉ được chứa trong mắt và tỏa ra từ mắt.

              Tôi vịn vai nàng. Rồi bất thần nắm hai vai xoay nàng ra và hôn má hôn môi nàng. Nàng đầy tôi ra nhưng tôi không buông. Tôi hôn nàng như nói những lời thú tội. Tội gì tôi cũng không biết nữa, nhưng tôi cảm thấy mình có tội. Để cho nàng đau khổ mười năm phải chăng vô tội ?

              Đôi má nàng vừa xám vừa xanh, nhưng tôi cảm thấy làn da bừng lên đốt tan mọi nỗi niềm u ẩn, mọi thứ đau buồn chồng chất trong tôi.

              - Nguyệt ! Nguyệt. Anh vẫn yêu em ! Anh đã thầm nói với em những lời ấy từ những phút đầu gặp em. Anh chỉ nói với em!

              Nàng nhắm mắt. Nước mắt trào ra. Mặt nàng ngửa ra hứng những cái hôn mà tôi đặt lên với tất cả sinh lực, với tất cả hận thù, không biết hận thù ai.

              - Em chỉ đến với anh lần này và là lần cuối ! – Nàng bỗng mở to mắt nhìn tôi như bừng tỉnh và hốt hoảng. Nàng có vẻ không phản đối nhưng cũng không chấp nhận những cử chỉ nồng nàn của tôi.

              Tôi thầm thì bên tai nàng với sự hối hận tràn lòng. Lâu nay mình đi ta bà thế giới như con bướm lãng tử không có một lần nhớ lại hình dáng hoa xưa, chẳng ngờ hoa vẫn còn đứng còn chờ.

              - Em vẫn còn yêu anh sao, Nguyệt?

              - Em đến đây để nhận sự khinh bỉ cửa anh.

              - Không bao giờ. Anh mới là người đáng cho em xa lánh.

              - Em muốn gặp anh nhưng anh từ chối, tại sao?

              - Tự ái.

              - Nếu em cũng từ chối ? Mà em là người đáng lẽ phải từ chối và người yêu cầu là anh.

              - Từ chối vì anh không muốn chắp lại cái gì đã nát tan…

              - Trong anh thôi.

              - Thôi bỏ đi, Nguyệt ạ! Bây giờ mình đâu có thì giờ để trách móc nhau.

              Thì ra tôi vẫn còn yêu Nguyệt. Vậy mà lâu nay tôi tưởng tôi đã quên được nàng rồi. Cái tôi cố quên chính là cái tôi không thể quên.

              Mười năm qua đi trong đời một người con gái với bao nhiêu là khuấy trộn, hết ba cái lập trưởng bá láp đến những rình chụp của đám sĩ quan khát tình vây quanh nàng và nàng phải xua đuổi tất cả với hai tay yếu đuối cửa nàng để chỉ sống với những hình ảnh xa vời ngày xưa với đóm lửa tình leo lét.

              - Mời anh chị ra xơi cơm “mí” chúng em ạ! – Tiếng Cao vọng vào.

              - Có ớt đây ăn thêm một chén, (*) chú thím !

              (* ) câu chuyện hài hước trong kháng chiến Nam Bộ. Một anh cán bộ đến nhà đồng bào, chủ nhà mời ăn cơm nhưng anh ngại ngùng mãi với tìm được lý đo. “Có ớt, cháu xin ăn thêm một chén!”

              Tôi kéo tay Nguyệt đi, nhưng Nguyệt vùng ra.

              Cơm đã dọn sẵn. Trời ơi, một bữa giỗ ở Trường Sơn. Giỗ ai ? Giỗ những người Nam kỳ vừa về quê chớp nhoáng trong tiếng bom đêm qua, giỗ anh chàng thiếu tá đi lậu giải phóng Miền Nam, giỗ Phương vừa nằm xuống ở ven Eo Máu, giỗ những mối tình của tôi liệm oan sau khi bị bức từ vì chuyến xuôi Nam buôn vinh quang của tôi – và mừng, mừng sống lại mối tình của tôi và Nguyệt.

              - Chị Loan và anh Trọng công tác ở đâu, Nguyệt ? – Tôi đột ngột hỏi.

              - Ở Hà Nam.

              - Mấy cháu rồi ?

              - Hai, một trai một gái.

              Tôi nhớ chị Loan nhờ cái răng khểnh, nhớ Nguyệt nhờ cái lúm đồng tiền. Hai chị em nhưng là hai mẫu người trái ngược. Chị Loan mềm mỏng, uyển chuyển, Nguyệt thẳng thắn đến cứng đầu.

              Chị Phụng vào lều lôi Nguyệt, Nguyệt cũng không ra ăn cơm. Chí Phụng mang vào cho nàng một nắp gà mèn cơm và thức ăn, rồi ở lại rù rì với Nguyệt.

              Hoàng Việt nói:

              - Bữa nay có rượu đấy nghe mày !

              - Nó đâu cần rượu mới say – ông dược sĩ duyên dáng chêm vào – say lâu, say oắc hơn cồn chín mươi nữa !

              Hoàng Việt vừa lắc lắc chiếc bi đông vừa hỏi tôi:

              - Hội nghi Rrrơ-ne chưa kết thúc à?

              - Còn chờ giải quyết ngoài hành lang – Cao nói với bộ râu mal rasé của nó!

              Vân cười:

              - Làm cạn nửa bi đông cồn pha nước lã này thì nó “ký” thôi.

              - Hồi trước mày hay làm “hémo chó mực” (*) bây giờ còn làm không? Thứ đó bổ dữ. Phải bây giờ có tẩm gân thì đỡ biết mấy. – Tôi gợi ý.

              (*) Hemoglobine Deschiens, một loại thuốc bổ máu của Pháp trong kháng chiến Nam Bộ, cán bộ rất thích dùng để tẩm bổ.

              - Bây giờ tao có nhiều thứ “ác” hơn huyết “chó mực” nhiều.

              - Huyết khỉ hả?

              - Ấy chết cha! Nồi cao khỉ của tao… Vân chạy vô lều rồi trở ra – Chưa ăn thua. Lửa yếu quá ! Để ăn cơm xong tao đi kiếm củi già, đun một đêm thì có cao pha cồn uống lên… cân cấp kỳ.

              - Phục vụ kịp thời lắm đó ông dược sĩ.

              - Nhưng không bằng B12 đâu! – Vân nói – Tao có cả ngàn ống đây. Uống cũng không hết, đừng nói chích.

              - Làm gì đem theo dữ vậy?

              - Cho mấy ông kẹ ở trỏng chớ phải cho tao hay sao – Thấy chị Phụng vẫn còn ở trong lều, Vân nói khẽ: – Mấy cái hũ rượu sống đó cũng là đem cống hồ cho các hoàng thượng ở trỏng.

              Tôi ngó quanh và hỏi:

              - Hũ rượu nào đâu?

              - Cái thằng! – Hoàng Việt gằn và nhìn tồi – Nói vậy, thấy sờ sờ đó mà không hiểu gì hết ! Tối dạ quá mậy!

              - À ạ ! Tôi biết rồi – Thảo nào !

              - Một công hai chuyện, mày thấy trung “ươn” sáng suốt chưa nào. Vừa dùng các em như lừa tải hàng vừa dùng các em như cối giã… thịt – Vân tiếp – nhưng còn một tác dựng thứ ba nữa là các em hoá thành máy sản xuất một thứ thuốc bổ phi thường, B12, sâm chẳng ăn thua mẹ gì so với thứ “thuốc” đó !

              - Nhau ngâm mật ong và Fi-la-tốp ?

              - Cũng gần đâu đó !

              - Cái gì nữa !

              Hoàng Việt lại gằn:

              - Sao mày tối dạ vậy hả. Rồi mần răng mà “sáng toác” ?

              Vân rỉ tai tới. Tôi kêu lên:

              - Thế cơ à? Ghê thế!

              - Ghê mẹ gì. Cái vụ này có hồi thời me xừ Ba Xuẩn vô Nam. Quân y ông Cả Hát làm thí nghiệm trước rồi truyền xuống cho các Y xá các tỉnh. – Vân nhăn mặt gãi đầu

              - Sáng kiến này ở đây bên nước anh em mình học tập !

              - Tao nghe mắc ói quá!

              - Mấy ổng đâu có xé phay như gà giò hay sao. Tụi tao phải chế biến chứ lỵ. Nghiền ra cho nhỏ rồi làm cao đơn hoàn tán như chệt bán ở các tiệm thuốc Bắc ở chợ làng mình ngày xưa vậy.

              - Dã man quá!

              - Cách mạng mà mậy. Cái gì lại không dám làm. Miễn thắng lợi thời thôi. Giết non cũng được mà giết già cũng tốt.

              - Hồi đó tới giờ mày đã nghiền bao nhiêu thai nhi rồi?

              - Tao không nghiền, mà tao chỉ huy nhân viên của tao nghiền. – Vân tiếp – Khổ cái là ở Hà Nội thì có máy móc đỡ ghê tay, còn vô đây thì phải dùng tay ớn quá. Họ cho tao bắt các em, muốn bắt đứa nào đứa đó phải đi. Tội nghiệp con gái người ta mới lớn lên, muốn vinh thân nên đi vào ngành này.

              Chúng có biết đâu chúng sẽ thân tàn ma dại ! – Vân ngon trớn kể luôn – Khi tao chọn là tao vâng lệnh cấp trên. Tao bảo đi vào phục vụ ngành “Dược trẻ trung” của mặt trận. Các em phấn khởi lắm. Tuổi trẻ không biết cạm bẫy của “các bác các chú.” Nghe kêu gọi vì Miền Nam là lao đầu vào. Miền Nam gì, đây là một lũ nhà thổ cách mạng.

              Tao ra Hà Nội mười năm, có học hành được chút nào thêm về nghề nghiệp đâu, toàn pha chế loại thuốc trường sanh bất lão cho các chả không thôi. Bây giờ về Nam cũng mang tiếp cái nghiệp chướng đó chứ đâu phải phòng y dược gì ! Bí mật lắm đó !

              Nhưng với tụi mày và anh Bảy là những người hiểu kháng chiến và quen lâu với tao nên tao nói cho nghe chơi. Trên đường này đâu có cái đoàn nào kỳ cục vậy.

              Hoàng Việt hỏi:

              - Rồi ông có pha chút nào loại cao đơn hoàn tán đó vô cồn này không?

              - Không! Tao chỉ bỏ sâm bột thôi.

              Hoàng Việt rút nút bi đông kê lên mũi ngửi và nói:

              - Đúng rồi, có mùi sâm!

              Vân tiếp:

              - Mỗi em mang mười ký thuốc gồm có sâm, B12, Vitamine C,B,D, quinine, quinova, đường cát… Còn lại bao nhiêu là đồ lề cá nhân.

              Mười hai em tải được trên một trăm kilô thuốc quí! Thấy không? Ngoài ra còn loại “thuốc” mà các em sẽ phải sản xuất” sau khi vào tới trong kia. Đau đớn nhất là không có tình cảm với những kẻ ngủ với mình mà lại có con với chúng. Và đau đớn hơn nữa, chính tay các em lại nghiền xương thịt của mình để vò lọn thành thuốc tầm bổ cho những kẻ phá nát đời mình.

              - Quái gỡ thật ! Tôi kêu lên.

              - Đi theo cách mạng hai mươi năm, hôm nay tao mới hiểu cách mạng – Cao lắc đầu nói.

              - Tao ớn lắm mày ơi và anh Bảy ơi ! – Vân lại tiếp- Khi được kêu về Nam, tao đã tưởng sẽ thoát khỏi những gì mình không vừa ý. Mình sẽ trở lại cuộc đời lang bạt kỳ hồ như hồi kháng chiến chống Pháp. Làm thằng cán bộ quèn mà thấy vinh quang và thấy con người mình vĩ đại biết bao. Nhưng khi tao vào đến nơi rồi, tao thấy cũng y như ở Hà Nội.

              Cũng Bắc kỳ đô hộ, cũng tranh giành địa vị, mạt sát hạ nhục nhau để lấy một cái chỗ chẳng cao sang gì. Và rồi cuối cùng tao được giao cho nhiệm vụ bào chế “cao đơn huờn tán” cho các chả. Thôi, tàn đời rồi ! Cuộc kháng chiến chống Mỹ kỳ này có lẽ còn dài hơn cuộc kháng chiến chống Pháp.

              Tao đáng lẽ đi Liên Xô học dược sĩ cao cấp, nhưng người ta cho tao về Nam. Tao đã thấy trước vấn đề nên xin trở ra Bắc để lấy thêm “nhu cầu” cho cái phòng oái oăm của tao. Và tao đã đem vợ tao vô luôn.


              .................................................. .......... .................................................. .......



              Chị Phụng ló đầu ra nói:

              - Thôi mà, kể chuyện đời xưa cái gì hổng biết nữa. Được về xứ là mừng rồi !

              - Về “nước” chớ không phải về xứ, chị Phụng ạ! – Tôi tiếp – mười năm qua mình như ở nước nào khác không phải nước mình. Bây giờ về, là về nước, không phải về xứ.

              Bữa cơm tuy ở giữa rừng, nhưng có bàn tay đàn bà lại khác. Nhiều món ăn quá. Ruốc thịt. Canh ruốc thịt, cá chà bông.

              Rau rừng luộc. (Không biết rau gì nhưng đang thèm chất xanh, nên cứ ăn bừa. Có chuyện gì sẵn được sĩ bên cạnh). Muối tiêu, muối ớt. Và cồn pha sâm bột. Vân sắp rót rượu, bỗng kêu lên:

              - Em ơi, ra giúp anh tí ?

              Tôi và Hoàng Việt cười ré lên. Tôi nói:

              - Đáng lẽ bả phải kêu mày: “Anh đội Miền Nam ơi, giúp em tí” chớ!

              - À… à…. Chị đội Miền Nam ơi ! Ra giúp anh tí ! Chị lấy đùm cái cốc pha thuốc ra đây uống rượu cho phải điệu chút coi, uống bằng cái chén sắt Hungari này ố điệu quá em à !

              - Vậy vẫn còn ngon hơn uống “rượu ngó” ở Hà Nội.

              Ăn xong, ai nấy đều lên võng nằm ru giấc thần tiên. Chị Phụng đem nắp gà men cơm còn nguyên trở ra. Chị cằn nhằn Vân:

              - Sao không ăn để cơm nguội lạnh hết!

              Vân nói nhỏ với chị. Chi có vẻ đồng ý. Vân bước lại dặn Cao:

              - Mày ngủ đi ! Nó có kêu cũng đừng dậy. Bây giờ tối rồi. Nó không dám đi về một mình. Hiểu chưa?

              Tôi nghĩ thầm: Thằng này kinh nghiệm thật !

              Vân quay lại tôi, rỉ tai:

              - Bây giờ tới phần mày nghe ! Nên nhớ tiến một bước lùi hai ba bước để tiến thẳng tới mục tiêu nghé! Phen này mà hỏng nữa thì hết cơ hội đó.

              Tôi hơi nản. Không phải vì sợ nàng từ chối tình yêu của tôi. Nàng đã tìm đến đây trong hoàn cảnh này là vô hình trung nàng đã chấp nhận nó rồi. Nhưng tôi nản là vì chia ly rồi lại chia ly. Lần chia ly này có thể là vĩnh viễn. Tàn nhẫn vô cùng.

              Nàng đã bị bầm dập đớn đau mười năm, bây giờ vết thương có thể được băng bó, nhưng để rồi nàng lại tiếp tục mang nó cho đến bao giờ. Hằng triệu người vợ trung thành với chồng ở Miền Nam để dược tiếng khen của trung ương bâng quơ của đảng “Miền Nam đi trước về sau !

              Hằng triệu người chồng chạy quanh trên đất Bắc thèm khát một mái ấm gia đình vào chiều thứ Bảy, thấy cảnh hạnh phúc của gia đình Miền Bắc để mà hối hận vì mình đã nhẹ dạ cả tin, bỏ vợ con đi tập kết hai năm về – ông nhạc sĩ bạn tôi kia là một điển hình – để được các đồng chí chuyên gia Liên Xô khen: “Các đồng chí là thần thánh, xa vợ mười năm mà vẫn không léng phéng ái tình ? Chúng tôi thì đi sang Việt Nam một tuần cũng phải mang vợ theo rồi.”

              Tôi không muốn Nguyệt chờ tôi trên đất Bắc. Tôi cũng không thể chờ Nguyệt ở Miền Nam. Tôi đã ba mươi ba tuổi rồi . Vào tuổi này bố tôi đã có tôi mười ba tuổi học xong lớp nhất trường quận. Ông nội tôi có tôi vào lúc ông bốn mươi tuổi. Tôi thấy tôi cần một đứa con cho gia đình tôi. Hơn nữa vì tôi là con một.

              Tôi coi cách mạng là tai nạn cho tôi kể từ khi tôi leo cái dốc đá thứ nhất trên dãy Trường Sơn. Sở dĩ tôi không cưới vợ – mặc dù tôi có thể cưới đàng hoàng – trên Miền Bắc vì tôi biết chắc trước sau gì tôi cũng về Nam bằng đường Trường Sơn.

              Tôi không thể để vợ con tôi ở lại Hà Nội và chờ tôi. Có khi lại tuyệt vọng. Con đường này là một thứ route sans joies như tôi đoán. Và, thật, đúng như vậy – Vợ góa, con côi, chồng lên đài tử sĩ !

              Tôi ngập ngừng không muốn vô lều mà tôi biết trong đó Nguyệt đang bị gài mắc lại.

              Đó cũng lại là một lý do khác, tôi không hăng hái bước vào. Tôi muốn cái gì đến với tôi thì cái đó không phải do sự cướp giật hoặc thủ đoạn.

              Nhưng tôi cũng quá ngây thơ, không chịu hiểu rằng không có cái gì đến mà tự nguyện hoàn toàn. Trong tình yêu lại càng thủ đoạn, dù ít dù nhiều. Người con gái có biết nhưng vẫn vui lòng đi vào cái bẫy hạnh phúc mà chàng giăng ra cho mình.

              - Sao em không ăn cơm? – Tôi bước vào và hỏi.

              - Em không đói. Nguyệt nằm trên võng và khẽ đáp.

              Bóng chiều đã trùm phủ khắp núi rừng. Trong lều hơi tối. Tôi ngồi bên đầu võng. Nàng nói:

              - Em đến đây để từ giã anh và chúc anh về tới quê hương.

              - Chỉ có thế thôi à?

              - Vâng. Ý định của em chỉ có thế.

              - Nếu chỉ có thế thì em không phải nhọc công lặn lội tới đây.

              - Nhưng em muốn thế. Bởi vì có lẽ không còn dịp gặp nhau nữa. Anh đi một hướng còn em đi một hướng,

              Đây là câu nói “nguy hiểm” mà tôi không hiểu. Qua mấy tiếng ấy, nàng muốn nói gì ?

              - Anh với em chỉ một đường thôi.

              - Em trở ra còn anh đi vào !

              - Nhưng chỉ một mục đích giải phóng quê hương.

              - Anh về Nam trước nhất là để gặp gia đình và cưới vợ, không phải để giải phóng gì cả.

              - Sao em biết ? – Tôi suýt bật cười nhưng ghìm lại được

              - Tất cả những người đàn ông tập kết đều có ý định đó.

              - Thôi cũng được đi. Ai lại không muốn cưới một người vợ cùng quê cùng giọng nói.

              - Trừ anh!

              Tôi như bị chặn họng. Chưa kịp ú ớ để ngụy biện thì nàng tiếp:

              - Một người Bắc, rồi một người Trung, rồi…

              - Ai bảo em thế?

              - Máy bay địch!

              - Hồi nào ?

              - Mấy hôm trước đây.

              - Sao có chuyện lạ vậy.

              - Nhờ nó em mới biết chớ không em làm sao biết nổi. – Nguyệt tiếp – Anh không tin em à? Người vợ chưa cưới của anh tên là Phương người Quảng Nam phải không?

              Tôi hết cãi được. Nguyệt lại tiếp:

              - Chị Phương hi sinh trên đường về quê. Địch bắt được nhiều tài liệu trong đó có những bức thư của anh gởi cho chị ấy. Có cả hình ảnh của anh và của hai người chụp chung. Em nói thật mà. Máy bay rải tràn lan xuống đây vài hôm trước. Nhờ địch mà em có được tấm hình của anh.

              Tôi không ngờ một câu chuyện lạ lùng như thế đến với tôi

              - Dù sao thì chuyện cũng đã kết thúc rồi em ạ.

              - Còn một người nữa chứ, đâu đã hết, anh !

              - Người nào nữa? – Tôi định chối phăng.

              Nhưng Nguyệt nói ngay:

              - Hôm bữa biểu diễn kịch ở trạm ngoài, anh nhớ không.. Em nhờ anh Cao đến tìm anh, bảo rằng em muốn gặp anh. Anh Cao đến vừa nói, anh gạt ngang. Anh Cao về, em hỏi, anh Cao gắt: Thôi “phăng teo” cho rồi đi, nó có con nhỏ ba-lê đeo dính nó đằng kia, nó không có muốn bạn rộn với cô đâu ! ”

              Thế là đã rõ. Cái thằng mắc dịch hại tôi rồi. Nhưng cũng chẳng trách gì nó được. Lúc đó trái tim tôi đang đầy ngập hình ảnh của Phương lẫn Thu. Khi no ai còn thèm ăn. Bây giờ thay đổi bất ngờ. Thằng no hóa ra kẻ chết đói.

              - Em muốn xử tội anh cách nào thì cứ xử cho mát bụng em !

              - Em đâu có quyền gì. – Nguyệt ngồi bật dậy – Em phải về đoàn. Có lẽ chúng em phải trở lại Miền Bắc anh ạ. Đoàn chỉ có lệnh phục vụ mấy trạm đầu thôi nhưng anh Sáu cho đi vô thêm tới đây là quá xa rồi.

              - Tối rồi, em không đi được.

              - Anh Cao đi với em mà.

              - Nó say rượu rồi .

              - Rượu ở đâu?

              Bỗng có tiếng gọi từ bên ngoài. Giọng của Hoàng Việt:

              - Ê thằng qui, mày có cần đậu phộng rang Hà Tỉnh không ? Há há…

              - Thôi cha nội ơi !

              - Đậu phộng ở đâu vậy anh ?

              - Thôi mà, mấy anh đâm hơi hoài, để cho người ta ký hiệp đinh ! – Tiếng chị Phụng phản đối.

              - Có cần thì mai tao cho hai thìa vung. Há há… !

              Tôi nói với Nguyệt:

              - Em không về được đâu ! Bom trộm bất tử, nguy hiểm lắm. Tôi tiếp luôn – Em nghe này, Nguyệt. Đây là giây phút quyết định. Nếu em đồng ý thì anh có thể là chồng của em ngay bây giờ.

              - Anh chỉ là người yêu của em thôi.

              - Tại sao?

              - Em thấy em không yêu ai hết, ngoài anh. Anh đã hút tất cả máu trong tim em.

              Tôi với tay lên quặt đầu nàng xuống như bẻ một trái chín bất chợt tìm thấy ở một cành hoang. Lá khô làm nệm, đất sỏi làm giường, đêm tối là hoa thêu gấm dệt quây phòng cho chúng tôi. Nàng nằm im. Chỉ khe khẽ kêu một câu điệp khúc.

              - Chị Phụng cười chết. Chị Phụng cười chết !

              Tôi như không còn nghe gì nữa. Tôi là con ngựa rừng chạy tuôn gai góc và ngã bên bờ suối thỏa thuê với dòng nước tràn ngập đồng cỏ.

              Bao nhiêu dậm đường đã lùi lại phía sau những vó thần với mặt đất nát nhừ và những hố hào đào bới trong tiếng ngựa hí khúc khải hoàn.

              Tôi đã biến Nguyệt thành đàn bà trong một niềm hạnh phúc mong manh đặt meo bên hố chết.

              - Nguyệt ! Anh hứa với em một câu không thay đổi. Em có nghe không?

              - Nghe, em nghe !

              - Anh là chồng của em.

              - Vâng, chứng ta đã là vợ chồng – Nàng quả quyết nói và chấm câu bằng một cái hôn dài và cháy gò má tôi. Và khóc mùi mẫn.

              Tôi bế nàng đặt lên võng. Chiếc võng như lá đò chở khách tình khẳm đừ êm êm không trôi mà neo tại chỗ: thằng cuội nằm ôm mặt trăng hay chìm giữa mật trăng cũng không rõ.

              Nàng tỉnh tuồng móc trong túi ra dưa cho tôi chiếc khăn tôi tặng nàng khi mới yêu nhau. Không biết bây giờ là mấy giờ rồi. Sương rơi lộp độp trên nóc lều. Vắng lặng lạ lùng. Tôi nghe hạnh phúc có thực, sờ đụng và cầm được. Da, thịt, hương tóc, làn môi của Nguyệt lan tỏa, ấm đọng trong tôi.

              - Anh đừng làm em khổ nữa nhé!

              - Không bao giờ!

              - Về trên cơ quan, em sẽ xin đi B ngay với lý do theo chồng về Nam chiến đấu.

              Tôi hôn Nguyệt. Hôn mãi, hôn mãi !

              Từ bên ngoài vọng vào tiếng hát lâm ly. Của chàng nhạc sĩ vừa nối lại mối tình đứt cho tôi và lại là người có trái tim tan vỡ không phương hàn gắn. Giọng anh ta khàn khàn đau đớn.

              Chiều mênh mông còn vướng chân mây

              Bao niềm vui bay theo nắng tắt

              Bao màu tươi chết trong tháng ngày

              Người chiến binh miền núi, trầm ngâm ngắm chiều rơi

              Vương sầu thiên lý đầy vơi

              Im nghe gió chiều nay hòa dư âm ngàn lá

              … Biết khi nào tới quê hương

              Anh ta sáng tác bài này hồi nào? Có lẽ mới đây, trong chuyến đi này. Nhưng lời lẽ như vậy ai dám hát ? Chắc hắn ta nhớ vợ con, miệng hát mà tay nén chặt tim đau.

              Sáng hôm sau Nguyệt về đoàn. Tôi quảy ba lô đưa nàng đi cùng với Cao. Cả một quyển tiểu thuyết viết bằng nước mất.

              Lần thứ hai tôi có “vợ.” Lần này thì thật rồi nhưng lại phải xa nhau, ngay khi vừa sum họp.

              Nhưng đoạn kết vô cùng bi thảm.

              Bạn đọc thân mến,

              Tôi đau khổ vô cùng khi viết đến đây. Tôi muốn nói với các bạn trẻ của tôi hiện giờ. Đi theo cách mạng vô sản TẾU hăm ba năm (1945-1968) tôi chẳng được cái gì cả. Làm cách mạng để làm gì ? Tôi không phải là nhà cách mạng nhưng trong cách mạng có tôi. Tôi có cống hiến trí óc – cả máu nữa, cho cách mạng để đổi lấy bầm dập và tan nát.

              Tan nát nhất là đời tư. Hai lần suýt có vợ hai lần tan vỡ tan tành. Tôi định sẽ viết tới đoạn kết của mối tình tôi và Nguyệt trong quyển “Đến Mà Không Đến” sắp tới đây, nhưng không biết tôi có viết được không .Vì lẽ này lẽ nọ! Thôi, sẵn đây viết luôn mấy nét chính.

              Khi tôi về đến R được một ít lâu thì một người không quen tìm đến cho tôi hay rằng Nguyệt đã về tới bên Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng. Tôi mừng vô hạn. Hạnh phúc đã hiện ra rồi, gần đầy đủ mặt mũi tay chân. Đó là ân huệ độc nhất mà tôi được cách mạng ban bố : “Cho vợ theo chồng chiến đấu ! ” Nhưng ân huệ chưa hưởng hết thì tai nạn lại đến liền..

              Tôi vừa sang gặp nàng thì… một trận bão tới. Nàng chết trong cơn bão đó. Tấm thân người con gái bị đè nát dưới một cội cây cổ thụ tróc gốc. Cả cơ quan phải cưa cả ngày mới đem nàng ra được.

              Nàng được liệm bằng võng màn từ Bắc mang về và chôn trong một cái quan tài đan bằng cây nứa. Cùng bị tử nạn trong trận bão đó còn có một nhạc sĩ thổi clarinette số một miền Bắc, người Nam Bộ, tên Lập, vốn là nhân viên của đoàn Văn Công mà nàng là Chỉ huy phó.

              Thôi, thế là hết.

              Tiếp theo đó, cơ quan Văn nghệ R phải tản khai nhanh chóng vì có tin quân đội Mỹ sắp mở chiến dịch Johnson City đánh vào các cơ quan R. Tôi phải đi ngay nên không có cả thì giờ sửa sang nấm mộ cho nàng. Thế là trên con đường này tôi mất hai người yêu.

              Thế là trong vòng mấy tháng tôi mất hai người con gái sắp hoặc đã làm vợ của tôi. Một nằm ở ven Eo Máu, một an nghỉ ở rừng Miên. Phương và Nguyệt.

              Tôi còn biết sống làm sao ? Tôi thấy mình không có duyên với cách mạng hoặc ngược lại, cách mạng là cái thứ gì vô duyên nhất đối với tôi.



              Hết Chương 19 - Xem Tiếp Chương 20


              sigpic

              Comment


              • #22
                Vượt Trường Sơn 3




                Xin mời các bạn trở lại lều với các bạn tôi.

                Nhờ sự chăm sóc đúng cách và có thuốc đầy đủ của ông bạn dược sĩ mà tôi và Hoàng Việt phục sức rất nhanh.

                Cái bánh chè của nhà nhạc sĩ chừng như đã trở lại bình thường sau mấy ngày liền được bàn tay của Vân xoa nắn với thuốc rượu.

                Bây giờ máu hoài hương lại chỗi dậy trong người. Trước kia cứ một lần đến trạm thì cả Hoàng Việt lẫn tôi đều mong đường bị kẹt hoặc giao liên ốm để nằm lại dưỡng sức, nhưng bây giờ thì ngược lại, chúng tôi nóng ruột muốn đi mau.

                Nhưng đường vẫn chưa thông. Bên ngoài không có khách vào vì ở đây đang bị đùn. Mẻ cao khỉ của dược sĩ Vân thất bại như mẻ thép nấu bằng nồi đất của hợp tác xã bên Trung Quốc. Xương không tan ra mặc dù Vân đã cho vào hai ba lần chất hóa học gì đó.

                Bỏ thì tiếc, nhưng nấu hoài vẫn không thấy kết quả cũng nản lòng, nhưng không nỡ vứt đi mà cứ để đó tính sau.

                Vân cằn nhằn tôi:

                - Mày dở quá! Sao không câu nó đi luôn.

                - Cô ta là phó đoàn mà mậy, đâu có bỏ đi như thế được, nhưng sau khi về tới nơi nàng sẽ xin vào ngay.

                - Cóc mọc râu !

                Còn Hoàng Việt thì càu nhàu Vân:

                - Ông dược sĩ dở quá ! Đem đủ thứ thuốc mà quên đậu phộng Hà Tĩnh để cho nó vài thìa.

                Chuỗi ngày ăn dầm nằm dề ở đây, chúng tôi lấy ba đề tài để giết thì giờ: tiếu lâm, chuyện kháng chiến Nam bộ và chuyện bất mãn Miền Bắc.

                Tôi vốn thuộc làu truyện Tàu, nhưng các vị kia lại không hạp khẩu, còn kể tiếu lâm thì bị vướng chị Phụng, nên cả ba đứa xoay quanh đề tài cuối cùng.

                Còn công việc làm thì chỉ quơ củi, phơi bột gạo, sửa quai dép, vá quần áo, hoặc nằm khễnh ra nhìn trời qua kẽ lá.

                Muốn đi săn khỉ nhưng đoàn của Vân thì không có AK, cho nên đôi khi ba đứa rủ nhau xuống suối bắt cua đá và tìm lá bứa về nấu canh chua đổi bữa.

                Một hôm, lúc đi săn cua, tôi trở lại vấn đề bào chế cao đơn hoàn tán. Vân nói:

                - Các chả như những vua chúa vậy mày ơi ! Bề ngoài làm vẻ đạo đức, nhưng tao thấy rõ cái đạo “đứt họng” của mấy chả hết ráo. Mày nhớ đâu hồi 56, 57 gì đó có một vụ án động trời không? Một ông bự thiệt bự dùng vi trùng giết vợ để lấy con gái nuôi. Bị phát giác và lãnh án tử hình.

                Tôi nói:

                - Tao có thấy báo Nhân Dân đăng, nhưng tao thắc mắc, làm thế nào hắn có vi trùng và tiêm được cho vợ hắn.

                - Vậy mày không nhớ vụ Dương Bạch Mai uống nước ngọt mà chết tại hội trường Ba Đình sao ?

                - Đó là việc của Bộ Công An . Họ có thầm quyền bỏ thuốc độc vào nước ngọt. Còn đây là việc cá nhân của hắn.

                - Hắn mua vi trùng ở Phòng Vi trùng bệnh viện C.

                - Ai bán?

                - Thì cũng trong đám nhân viên chứ ai.

                - Rồi ai chích ?

                - Bác sĩ chích chứ ai !

                - Bác sĩ không biết đó là vi trùng à?

                - Biết mới chích chứ không biết chích làm gì ?

                - Có loại bác sĩ đó nữa à?

                - Có loại ông bự đó nên mới đẻ ra loại bác sĩ đó chứ sao ! Còn nhiều vụ lắm mày ơi Xe tàu nào chở cho hết. Nhưng mình đã lỡ đi rồi, trở lại thì đi đâu, nhưng càng đi thì càng thấy bộ mặt của cách mạng ghẻ lở.

                Nam Bộ chúng mình trung thành với cái hang “Bắt bò lạc” ể mình cả chục năm, ra Bắc thợ đấm bóp (*) không làm cho một mẻ “tẩm quất” nào cho dãn gân dãn cốt cả. Đã bịnh càng bịnh luôn.

                (*) Thợ đấm bóp đến năm 1956-57 vẫn còn làm ăn ở Hà Nội, phần lớn đi rao tìm khách ban đêm.

                - Bây giờ mình thoát !

                - Vô trong R rồi mày sẽ thấy thoát hay không ! Tao vô tới nơi mới bật ngửa. Mẹ cha nó, đi đâu cũng không khỏi bị rau muống phủ đầu. Bộ Tư lệnh Giải phóng quân Miền Nam toàn là các anh cọc cạch.

                - Anh Sáu Mặt Sắt đang trên đường “quào” làm đầu nậu.

                - Đủ bộ Già Rô, Già Cơ, Già Phích, Già Chuồn trong đó rồi. Dân Nam kỳ thủ hai ghế phó bảy và phó bét.

                - Là ai ?

                - Đồng Văn Chuột, phó nhòm, bà già trầu tỉnh mày phó cối.

                - Bị tới bảy tầng lớp áp bức vừa đè vừa nén cối chịu gì thấu !

                - Bả bị vít rồi, có “ké” nữa là khác !

                - Chày nào bén vậy?

                - Chày ba ! Đám đĩ hà nàm khoác áo hộ lý này dzô tới là cách mạng Miền Nam phất lên rào rào.

                Đến chiều, khi chúng tôi về thì chị Phụng reo lên:

                - Đường thông rồi ! Trạm ngoài vô rồi ! Mai mình đi. Giao liên vừa cho biết.

                Tôi đang loay hoay thu xếp mọi thứ cho gọn gàng thì bỗng có tiếng kêu thét:

                - Anh Bảy !

                Tôi quay lại thì thấy hai ông cán gáo đi lê lết chậm rì. Ông khỏe đèo ông yếu.

                - Anh không nhận ra em sao ? Ngữ đây ! Núi đây !

                - Trời ơi! – Tôi vất đồ đạc chạy ào ra. Hoàng Việt cũng phóng sang.

                Một hình tượng tới muôn đời tôi cũng không thể quên. Một cái xác trên tay Ngữ.

                Thằng Núi rũ xuống như cái áo rách. Tôi bảo Ngữ tiếp tay nâng nó lại võng của tôi cho nó nằm. Cứ để nguyên quần áo đầy đất cát như vậy, chỉ lột đôi dép của nó ra thôi.

                Đầu nó trọc lóc không còn một sợi tóc nào, mặt mũi xám như chì .

                Ngữ vừa thở vừa nói:

                - Giao liên họ bảo vào đây có bệnh viện lớn chứa được cả trăm người .

                Hoàng Việt lắc đầu:

                - Nhị tỳ lộ thiên thì có !

                - Tụi này suýt chết vì bom trộm mấy đêm trước đây cậu ạ!- Tôi nói xong, gọi Vân tới xem qua.

                - Bệnh gì thế này? – Vân bình thản như không có chuyện gì.

                Tôi kể sơ cho Vân nghe. Ông dược sĩ lắc đầu:

                - Sốt ác tính mà ngâm nước cho xuống nhiệt độ ? Chết như chơi !

                - Thì bị mưa rồi để vậy, coi mòi nó bớt nóng rồi để luôn.

                Vân lấy ống nghe, nghe tim, bắt mạch, chị Phụng lấy nhiệt độ. Vân bảo:

                - Thay quần áo, đắp ấm, để nó nằm yên cái đã !

                Trời đã sụp mặt. Khí lạnh lại phủ xuống dày đặc. Tiếng khỉ vượn kêu trên đầu. Chúng như cũng kinh ngạc cho cái hiện tượng dưới mặt đất này.

                - Sao cậu bắt nó đi gấp vậy? – Tôi nói với Ngữ.

                - Phải đi thôi anh ạ. Trạm dời điểm. Hình như họ bỏ trạm của thằng Phẩm vì thiếu người.

                - Nghĩa là khoảng cách giữa hai trạm dài gấp đôi?

                - Vâng. Ai đi thì đi, ai không đi nằm lại đó, cứ nằm. Trạm nó không chiếu cố một thứ gì. Chúng em hỏi: Nay mai muốn tìm trạm thì đi hướng nào.

                Nó nói chính nó hiện giờ cũng không biết đi hướng nào. – Ngữ ngưng để lấy hơi rồi nói – Còn nhiều người tệ hơn thằng Núi nữa anh ạ. Có người phù thũng. Đành nằm lại đó chờ chết thôi. Đồng đội của họ cũng bỏ đi. Mạng người cứ coi như lá rụng thôi anh ạ!

                Chị Phụng đem ra cho Ngữ chén nước trà nóng. Ngữ cám ơn lia lịa như nhận được quà tiên. Ngữ tiếp:

                - Thằng Núi mới tệ xuống ba hôm nay thôi. Trước đây nó không đến nỗi. Sau khi các anh đi, nó vượng lên khá lắm. Đi chậm nhưng qua nổi một trạm.

                - Có ghé lại cái làng khu Năm không?

                - Tụi em nằm đó ba ngày để chỉnh đốn các thứ.

                - Có bị máy bay loa không?

                - Chúng nó làm khiếp lắm anh ơi ! Ngày đêm máy bay loa rầm rầm không nghỉ ngơi được. Nó rải truyền đơn ghi tên danh sách cả đoàn mình. Có rải cả hình anh và chị Phương, anh chị Thiệp nữa.

                - À, cậu có gặp Thiệp hả?

                - Có ! Ảnh nằm chết dí ở đó. Cái làng phải di cư để tránh nhảy dù sắp tới.

                - Nhảy dù gì ?

                - Chúng nó đe sẽ quét sạch cả làng. Đồng bào và cán bộ đoán là nó sẽ cho trực thăng nhảy dù xuống nay mai. Những đoàn đi Nam còn rơi rớt lại đó cũng phải lết theo giao liên vô trạm trong để rồi tiếp tục nằm lại. Em cố lôi thằng Núi đi.

                Giao liên bảo là cố vào trong này có bệnh viện to lắm. Em vào trạm trong nữa, hỏi, thì họ lại bảo vô trạm kế ngay đây. Tức là trạm này. Thằng Núi cố lê chân.

                Nếu chỉ dốc thường thì nó không đến nỗi tệ như vậy nhưng vì dốc đứng, em phải lôi, phải đủn, còn dốc xuống thì nó ngã mấy cái khiếp quá nên có lẽ bị cả nội thương.

                - Sao nó rụng tóc hết vậy?

                - Em cũng không biết, tại sao. Cứ mỗi sáng thức đậy, nó đưa tay cào lên đầu nó bảo: Anh Ngữ xem đây này, nó đưa cho em xem từng mảng tóc.

                Trời đất em kinh hãi quá. Mới hôm nào tóc xanh ngăn ngắt bây giờ cái đầu trọi như đồi trọc!

                Tôi đã từng gặp một cậu sinh viên tóc bạc như tóc ông già sáu mươi ở trạm ngoài, bây giờ lại phải nhìn một chàng trai rụng hết tóc. Con đường này quả là con đường tóc tang của tuổi trẻ.

                - Cậu còn gạo không? – Tôi hỏi Ngữ.

                - Còn chứ anh. Mười bảy kí lô. Nặng quá! Họ phát số gạo đó cho mình là vì họ không muốn giữ lại kho. Vì tình hình ruồng bố sắp đến nơi. Chúng nó đến là đốt sạch. Thế đó, chứ không phải mình có nhiều gạo đâu.

                - Ra thế!

                - Em phải giản chính một số đồ đạc để mang gạo. Mang quàng cả cho thằng Núi.

                - Thằng Thiệp không đi à?

                - Ảnh nói ảnh phải đi tìm cán bộ địa phương móc ngoéo để xuống Bác Kế. Em không hỏi gì nữa. Mạnh ai nấy đi.

                Ma quỉ gì đâu không biết nữa. Mới khỏe được mấy hôm lại mệt. Đúng ra là tôi không có trách nhiệm gì, nhưng ai lại đang tâm bỏ đồng đội như thế này mà đi. Mai phải đi. Lương tâm cắn rứt không ít. Đi cũng cắn rứt mà ở cũng cắn rứt.

                Lương tâm con người đâu có đơn giản như chính sách. Cứ hễ ném ra là hốt lấy thành quả.


                .................................................. ......... .................................................. ........



                Tôi nghiêng nhìn thằng Núi. Mặt nó xám ngoẹt. Tôi không tin rằng kỳ này nó qua ải. Tôi bỗng nhớ tới câu thơ, hay câu nói, từ miệng nó:

                Núi vẫn Đôi mà anh thiếu em

                bây giờ thì

                Núi vẫn Đôi mà em thiếu anh.

                Vân nói :

                - Để tao tiêm cho nó mũi thuốc.

                - Tao có quinine 0,40 đây!

                - Không. Thuốc khác cơ. Tao có sérum bột nhưng lại không có nước cất.

                Tôi không chú ý và cũng không hỏi là thuốc gì. Nhưng vài tiếng đồng hồ sau thì Núi ú ớ. Tôi và Ngữ rọi đèn pin. Mắt Núi lờ đờ. Tròng mắt lăn qua lăn lại khe khẽ.

                - Đói bụng không Núi ? – Ngữ hỏi.

                Núi khẽ lắc.

                - Ăn tí cháo nghe Núi ? – Tôi hỏi.

                Núi cũng lắc.

                - Có ăn mai mới đi nổi. – Hoàng Việt tiếp.

                Núi cũng lắc luôn.

                - Đưa tay bắt tí coi. – Tôi bảo – Biết ai đây không?

                Núi chỉ giơ lên nửa chừng rồi buông xuống.

                - Mạch tim yếu quá! Để tao tiêm một mũi trợ tim.

                Chúng tôi để bệnh nhân nằm im. Tất cả đi vào lều của vân. Vân nói:

                - Từ trước tới nay tôi chưa gặp trường hợp sốt ác tính. Chỉ mới nghe nói đến khi vào con đường này thôi.

                Trong y học của Pháp có tiếng “sốt tẩu mã” tức là fièvre galopante. Không biết có phải là loại sốt này không. Tôi cũng không biết triệu chứng và sức tác hại của nó như thế nào.

                - Đại khái là nóng phát điên. Nó chạy khắp rừng. Tụi tao phải bắt nó lại, buộc lên võng. Hôm đó nhằm trời mưa… Hôm sau nó xuống nhiệt độ.

                Bây giờ rụng tóc. Nghe người ta truyền miệng thì loại sốt này mười người mắc phải, chết chín, còn một người sống sót cũng tàn tật. Đây đúng là trường hợp thằng Núi.

                - Bây giờ làm gì ? – Vân hỏi.

                - Theo mày thì làm gì ?

                - Tao có một số thuốc điều trị sốt ra rất mạnh, nhưng bây giờ nó đâu có sốt nữa. Sốt đã chuyển sang chứng khác rồi. Có thể vi trùng đã đột nhập vào não.

                Đó là tao chỉ đoán mò thôi. Nhưng nếu sự đoán mò của tao có đúng đi nữa thì tao cũng không biết phải trị như thế nào ngoại trừ tao cho tăng sức đề kháng và trợ tim.

                - Mày làm gì được mày làm, miễn nó sống thì thôi.

                Vân đưa ra một chục cách để phục sức và gia tăng sức cho bắp thịt như dùng dầu nóng xoa bóp hoặc xông hơi kiểu như bà con nông dân ta xông nóng lạnh nhức đầu ở thôn quê… nhưng chỉ có một cách là khả dĩ thi hành được: Xoa bóp bằng dầu nóng.

                Kết quả rất khả quan. Chúng tôi căng tăng mắc võng và lấy thêm ni-lông của Vân che hai bên hông. Vân lấy một gói thuốc bột khuấy trong nước ấm rồi bảo Núi hả miệng cho mình đổ thuốc. Núi biết nghe. Núi hả miệng, nuốt ực và nói “Cảm ơn” rất rõ.

                Vân giải thích:

                - Đây là thuốc toàn năng chỉ dùng cho cán bộ cao cấp và trong trường hợp tối khẩn thôi. Ví dụ trong trường hợp người yếu quá sắp chết mà chưa trối trăn thì nó có thể làm bệnh nhân khỏe lại vài tiếng đồng hồ.

                Quả thật, đến khuya, tôi nghe Núi gọi Ngữ. Hai đứa nói chuyện với nhau một chập. Tôi thò đầu ra vách mùng nói sang :

                - Bây giờ đỡ rồi hả Núi?

                - Đỡ rồi.

                - Cậu đang nói chuyện với ai đấy?

                - Anh Ngữ?

                - Còn ai đang nói với cậu đây?

                - Anh Vũ hả?

                Thấy Núi phân biệt được hai chữ “đấy và “đây” tôi yên tâm nên ngủ trở lại.

                Vì mệt mỏi nên ai nấy cũng ngủ thẳng giấc. Đến lúc mặt trời xuyên qua mùng nóng cả mặt mới thức dậy. Riêng Ngữ thì còn nằm vùi vì cuốc đi pa-tanh hôm trước. Thói quen hễ tôi thức trước Hoàng Việt thì tôi kêu hỏi:

                - Anh Bảy bày trẻ đêm qua có mơ thấy mấy em bên Bún-cà-ri không?

                Nhưng bữa nay ê ẩm quá, cả về thể xác lẫn tâm hồn, nên tôi còn nằm im để vỗ về mình trong giây phút của buổi bình minh trinh trắng.

                Da thịt hơi hám của Nguyệt còn in trong tôi. Thế mà bây giờ nàng đã xa rồi. Mai sẽ xa nữa. Mốt càng xa thêm nữa. Xa mãi. Từ xa ít tới xa nhiều.

                Nàng nói với tôi những gì. Không nhiều, nhưng nàng đã nói tất cả rồi: Một đêm vợ chồng ! Ừ nhỉ, thằng Vân nói đúng! Sao tôi không bắt nàng đi luôn.

                Đi chiến đấu, đi vào lửa khói thì dù vô kỷ luật tí cũng rất đáng hoan nghênh. Đã có biết bao nhiêu người được lệnh đi Nam mà đập bệnh để khỏi đi thì sao?

                Tôi tiếc đã không gợi ý cho nàng. Nếu tôi đặt vấn đề đó ra, biết đâu nàng chẳng nghe theo. Tôi bây giờ là tư lệnh tối cao của nàng mà. Trời ơi mới hôn nhau đó rồi lại xa đó. Một cái “mười năm” nữa trôi qua thì còn gì là đời ?

                Tôi uể oải bước xuống đất và đi lại lều Núi, chui vào, đưa tay giở mùng và gọi nhưng tôi kêu lên thất thanh:

                - Núi ! Núi ? Núi! – Tôi lắc vai nó. Tôi chụp tay vào đầu nó. Tất cả lạnh ngắt.

                Tôi buông mùng xuống và kêu Ngữ.

                - Ngữ ơi 1 Thằng Núi chết rồi !

                Tất cả bật dậy. Trừ Vân.

                Vân đủng đỉnh đi ra khỏi lều sau cùng:

                - Tôi đã biết trước là không thể cứu chữa. Cho nên tôi cho cậu ta liều thuốc hồi dương đó. Tim đã kiệt. Có lẽ não đã bị viêm nặng lắm rồi.

                Ngữ mò thấy gói kí-nín trong chăn của Núi, đưa cho tôi, không nói gì. Không còn viên nào trong đó. Chiếc bi-đông bật nút nằm dưới đít võng.

                Tôi đút cái gói không vào túi quần, đưa tay vuốt mặt thằng bé, miệng tôi như câm.

                Giao liên tới ra lệnh hành quân.

                Trước sự lưỡng lự cửa tôi, Ngữ nói trước:

                - Anh và anh Hoàng Việt cứ đi đi. Để em ở lại đây lo cho nó.

                Biết nói gì nữa! Tôi và Hoàng Việt cắn răng đi theo giao liên. Anh ta không nhìn. Anh ta đã thấy quá nhiều lần tình cảnh này rồi. Còn bi thảm gấp trăm.

                Sá gì một cái lá rơi giữa một khu rừng hoang. Như muôn đời trước và muôn đời sau, xác lá vun cho cây. Nhưng cây rừng còn hữu ích.

                Còn những cái cây sống mang tên Hồ, Duẫn, Đồng, Giáp mọc trên xác thây nhân dân chẳng đem lại cho ai một lợi ích gì. Thằng thanh niên tên Núi nằm xuống đây là để thêm hồng huyết cầu cho mặt chúng vốn đỏ như gấc, càng đỏ thêm lên.

                Đi nhưng mà lòng nặng trĩu u buồn. Trước một cái chết, coi như không.

                - Nó là học sinh năm thứ hai trường Cao đẳng Mỹ thuật mày ạ !- Tôi nói với Vân.

                - Cỡ đó vô Nam làm cái gì ?

                - Vẽ bích báo !

                - Phì ! Mày vô đó rồi sẽ thấy, cơ quan trong cuộc kháng chiến với Mỹ này không có chỗ ngồi nữa là chỗ dán bích báo.

                - Tao cũng không hiểu mấy chả bắt nó đi làm gì vậy ?

                - Còn thằng kia ?

                - Khá hơn chút.

                Ngữ ở lại với Núi. Khi về tới R ít lâu sau tôi nghe tin Ngữ đã tấp xuống khu 6 và ở đó luôn vì bị ngã, chân què, không đi được nữa. Hai cậu Núi và Ngữ rất dễ thương. Ngữ thì chí tình với bạn, chịu khó nấu nướng. Núi thì hiền như cục bột..

                Hai cậu luôn luôn xưng “em” với tôi ngọt ngào. Bây giờ chẳng biết thằng Ngữ có còn sống mà về được với quê hương hay không. Còn Núi ? Núi Đôi. Ngọn núi nào ở Ninh Bình đó sẽ ở giá trọn một ngàn năm tới. . ..



                Hết Chương 20 - Xem Tiếp Chương 21


                sigpic

                Comment


                • #23
                  Vượt Trường Sơn 3






                  Nhờ sự săn sóc của Vân và chị Phụng mà tôi và Hoàng Việt đi khá hơn trước nhiều. Ăn uống không tệ như trước. Và mỗi lần hơi chớm sốt hoặc đau bịnh gì khác thì Vân moi thuốc ra chặn bệnh ngay.

                  Chính sách của ông dược sĩ là phòng bệnh hơn chữa bệnh, và ăn ngon ăn đủ là cha thầy thuốc.

                  Đi được năm sáu trạm liền không bệnh, cũng không bỏ cuộc, tôi và Hoàng Việt phấn khởi vô cùng. Đường đi không có dốc cao.

                  Chỉ vừa đủ mệt thôi. Nhưng dọc hai bên đường thì người rụng càng đông. Không có chặng nào là vắng người treo võng nằm hai bên đường. Có người băng tay băng chân, có người phù thũng, có người vàng như nghệ từ mặt mũi đến tay chân.

                  Tôi có cảm tưởng như da họ bị thoa nghệ hoặc túi mật đã vỡ ra mà thấm tận ngoài da vậy. Thấy mà kinh hãi, không dám ngó lâu. Họ nhìn đoàn đi qua với những cập mắt hầu như không có tí xúc động vui buồn nào. Hình như họ đã chán kêu gào, van vỉ rồi, nên không buồn nữa. Tất cả: mặc kệ.

                  Một buổi chiều, giao liên dừng lại ở ven sông. Con sông không rộng cũng không nhỏ. Đối với người biết bơi như tôi thì chẳng ăn thua gì. Tôi có thể bơi “sải” vài cây số nhưng đối với các anh bạn Miền Bắc thì đó là cả một vấn đề nan giải.

                  - Sông gì đây?

                  - Đừng hỏi !

                  - Đến khu 6 chưa?

                  - Không được phép hỏi.

                  - Có kí-nin cho xin vài viên.

                  - Hết rồi.

                  - Chừng nào phát gạo?

                  - Chừng nào có thì phát.

                  - Có bệnh viện gần đây không?

                  - Không ai hỏi như vậy trên đường này. Câu hỏi là: Chết có ai chôn không?

                  - Hôm nay là ngày mấy?

                  - Ngày hôm nay giống ngày hôm qua và sẽ không khác ngày mai.

                  Đó là một mẫu đối thoại mực thước và bình thường nhất trên con đường này. Bất kỳ ở chặng nào, giữa giao liên và khách, hay giữa khách với nhau, người ta cũng đều có thể nghe đoạn đối thoại này. Tốt nhất là đừng hỏi gì hết.

                  Đừng suy nghĩ gì hết. Ngay cả chuyện Bác Mao cạo đầu và kết tội chú Lưu, – người cùng với Bác Mao thành lập Đảng Cộng sàn Trung Quốc – là phản đảng – mà chỉ nên gằm đầu đi theo câu thơ đã được thời đại này lấy làm lẽ sống:

                  Bác bảo đi là đi (Bác bảo leo là leo)
                  Bác bảo thắng là thắng (Bác bảo chết là chết)

                  Anh giao liên bảo tất cả các đoàn.

                  - Các đồng chí nằm đây, chờ giao liên trạm trong ra rước – Anh ta còn dặn thêm – Các đồng chí nên đào hầm trốn máy bay. Hai bờ sông thường bị bắn luôn !

                  Nói vậy rồi đi.

                  Tôi hỏi với theo:

                  - Chừng nào thì giao liên trong đó ra, đồng chí?

                  - Chừng nào họ ra thì họ ra tôi không biết !

                  - Ê, đụ bà thằng kia, mày nói kiểu đó một năm được mấy lần vậy mậy? Đứng lại mầy! Trở lại bảo mày. Đi, tao bắn bỏ mẹ !

                  Một ông nhà binh quát tháo.

                  Anh giao liên chầm chậm quay trở lại. Ông nhà binh nói :

                  - Cậu được Đảng giao cho dắt đường phải không? Cậu dắt mấy trăm con người ta tới đây là đâu không ai biết cả. Cậu phải mời các trưởng đoàn đến cho biết địa hình địa vật, phương hướng, vi trí của địch cách đây bao xa, nếu địch xuất hiện hướng nọ hướng kia thì phải chạy đường nào chứ. Cán bộ từ Bắc vô đây đâu có phải là cá ươn chuột chết mà cậu muốn vứt đi đâu thì vứt.

                  Anh giao liên trả lời tỉnh bơ:

                  - Tôi có biết gì đâu mà cho các ông biết. Tôi chỉ có nhiệm vụ đưa các ông từ trạm đó vô tới mé sông này rồi trở về. Địch ở đâu, xuất hiện hướng nào tôi đâu có biết. Ở trên giao tôi ở đây cũng không có nói gì cả.

                  Ông nhà binh đang giận bừng bừng bỗng xuống nước ngay:

                  - Thôi được rồi, đi đi !

                  Nhiều người đã bọc ba-lô bằng tấm ni-lông để dành choàng đi mưa ném xuống nước nổi phình như bao tử trâu rồi ôm nó đập tầm vũm qua sông. Chỉ loáng mắt là họ đã qua bờ bên kia. Tôi nói với Hoàng Việt:

                  - Chém chết, mấy thằng đó cũng là dân Nam kỳ.

                  - Sao mày biết.

                  - Để rồi anh coi. Cuối cùng mấy thằng còn sót lại ở bờ bên này đều là cá rô cây cả!

                  Hoàng Việt nói:

                  - Bắt chuồn chuồn cho cắn rún tụi nó là biết bơi ngay.

                  Chúng tôi bàn kế hoạch “vượt sông Hoài của Lưu Bá Thừa.” Vân nói:

                  - Tụi mình và bà Phụng thì qua dễ rồi, nhưng còn đám nữ binh kia kìa. Ai mà cõng lội sông cho được.

                  Tôi sực nhớ chiếc cầu dây ở mấy trạm ngoài. Nhưng khoan đã, trước khi nhắc lại chiếc cầu ấy, tôi muốn nói với những tên to đầu như thế này.

                  Chúng bay chẳng may nắm được quyền hành và điều khiển cả một dân tộc. Trước khi làm một việc gì thì hãy cân nhắc cho kỹ lưỡng và trong khi thi hành việc đó phải cho người đi kiểm tra.

                  Cái ban kiểm tra của Nguyễn Lương Bằng ăn hút ở Hà Nội có biết đâu trên đường này lính tráng và cán bộ hành quân chiến đấu như những tội đồ sắp ra bãi chém.

                  Có quân đội nào hành quân kỳ cục như lũ lính quân đội nhân dân vào những năm 1962-75 trên đường này không ? Không có một thứ phương tiện gì hết cả ngoài hai bàn tay và một con dao cùn. Vậy mà bên cạnh đó còn một bầy đàn bà con gái.

                  -Phải tìm cách sống. Phải tìm cách tự tồn. Lạ thật. Trước mặt là sông, sau lưng là núi trong ba-lô mấy viên kí nín, trong ruột tượng mấy hạt gạo còm.

                  Chúng bay là lũ sát nhân. Chúng bay là tội phạm. Con đường này mãi mãi còn là vết máu vắt ngang lịch sử . Và chừng nào chúng bay chưa đền tội thì oan hồn Trường Sơn sẽ còn réo gọi tên chúng mày. Hằng triệu oan hồn bay vất vưởng chưa tan đêm đêm vây quanh đầu giường chúng mày!

                  Chiếc cầu dây lưng lơ bắc qua hai mỏm .núi. Không biết do bàn tay gan góc nào. Đây chỉ là một sáng tác của một nhà tài tử chứ không phải của công binh. Khi hai anh lính khiêng nòng súng cối đi đến giữa cầu thì một sợi dây đứt ngang.

                  Thân cầu làm bằng một cái rễ cây hay dây gì không biết, chúng đan lại với nhau như mặt võng, trên đầu thì có tay vịn, Mỗi đầu dây được quấn nhiều lượt vào thân cây ở hai mỏm núi. Không biết nó đã được bao nhiêu tuổi rồi. Nhưng đến hôm đoàn chúng tôi dùng để qua suốì thì nó hãy còn nên thơ lắm…

                  Chúng tôi đi từng người một. Chiếc cầu lắc lư rất nên thơ. Chỉ vừa đủ để tim run thôi chứ khó ngã. Chúng tôi chụp hình, chúng tôi vỗ tay mỗi khi một đứa vừa qua khỏi cầu. Có cả máy quay phim làm việc: Dưới dạ cầu nước chảy trong veo in hình bóng của đoàn dũng sĩ.

                  Nhưng khi hai anh pháo binh tha nòng pháo đi qua thì bài thơ cầu dây cụt vận đứt ngang vần, với những âm thanh hãi hùng của những người bước hụt chân, của nòng pháo rơi xuống lòng suối đá, của những người nằm dưới nước bị vỡ đầu gẫy chân rên la. Người trên bờ dòm xuống chằng biết làm sao cứu bạn.

                  Ôi là cái cầu dây bắc ngang trời. Nên thơ lắm mà ác hại cũng ghê. Mi đã trả thù những bàn chân đạp lên thân thể mi mà tiến phải không? Họ không phải là kẻ thù của mi đâu. Họ là một đàn thú bị lùa vào tử địa mà mi chỉ là phương tiện đưa họ tới đó thôi.

                  Bây giờ tới dòng sông này. Sông vô danh hay sông Gianh ? Nước sông xanh ngắt rất nên thơ. Nhưng không khác gì chiếc cầu dây kia. Nó sẽ dìm chết người đấy. Biết đâu có những người đi trước chúng tôi đã được nước xanh xây mồ?

                  Có nhiều người bọc ba-lô bằng ni-lông làm phao bơi qua, xa trông lô nhô giống như những trái dừa khô trôi trên sông. Nhiều anh bộ đội tay ôm phao, tay giơ súng và bao đạn lên, chân đạp nước. Nước tủa lên trắng xóa một khúc sông.

                  Tiếng người la hét ra lệnh hoặc khuyến khích kẻ bơi lội vang lên hai bờ sông. Trời chiều bãng lãng. Ánh nắng rắc đầy mặt sông làm cho đoàn lữ khách thấy ấm lòng đôi chút. Đứng trên bờ nhìn chẳng khác nào xem một cuộc lội đua.

                  Vân nói:

                  - Mấy thằng nhãi ranh háo thắng nhưng không có kinh nghiệm. Đi mệt, nhảy xuống nước ngay, bị trúng nước hoặc bị vọp bẻ bỏ mạng cho coi.

                  - Sao mày không nói với mấy cha chỉ huy dùm chút ?

                  - Ai mà chỉ huy nổi chúng nó mày ơi ! Mình cứ nghỉ cho ráo mồ hôi chừng nửa tiếng đồng hồ rồi sẽ lội. – Vân bảo đội nữ binh – Các cô rút hết cả dây võng đưa cho tôi ; bỏ ba-lô vào ni-lông túm lại và buộc thật chặt để nước không vô được bên trong.

                  Buộc rất nhiều ngoai. Ra tới giữa sông mà dây sút ra thì chết chìm. Chừng nào tôi ra lệnh mới được xuống nước !

                  Rồi Vân chuẩn bị đồ đạc phổ biến kế hoạch vượt sông cho chúng tôi. Xong Vân nối tất cả những sợi dây võng lại – tất cả là hai mươi tám sợi dây ni-lông, mỗi sợi dài mười thước có thể chịu một sức kéo ba trăm kí lô. Vân buộc một đầu dây vào một gốc cây còn đầu kia thì buộc vào lưng.

                  - Nó giở súng lên hết nổi. Nó chìm rồi ! – Có tiếng la thất thanh.

                  - Cái phao bị thủng chớ gì !

                  Một ông, có lẽ là chỉ huy, dậm chân hét:

                  - Hai thằng kia trong tổ tam tam bươn lên tương trợ ! Mau lên ? – ông ta rút còi thổi om nhưng chẳng ai thi hành lệnh của ông cả.

                  Cái “thằng gì” càng ngày càng lún xuống nước. Ông chỉ huy quát:

                  - Vứt súng đi, vứt!

                  Cái “thằng gì” buông súng nhưng vẫn cứ chìm dần.

                  - Nó bị vọp bẻ rồi ! – Vân vừa nói vừa tụt quần áo, chỉ còn quần đùi, phóng ào xuống sông. Vân ra đến nơi thì cái đầu của thằng kia vừa tụt xuống khỏi mặt nước. Vân giơ tay ra nắm chỏm tóc lội xốc đứng một hơi vô tới bờ bên kia.

                  Vân kéo thẳng buộc đầu dây kia vào gốc cây rồi vẫy tay ra hiệu cho đoàn vượt sông. Chị Phụng và các cô cởi xiêm y còn lại đồ tắm biển, lần lượt xách những túm đồ đi xuống mé sông rồi từ từ trầm mình xuống nước một cách trật tự.

                  Đám lính trừng trợn chắc lưỡi hít hà, mỗi người mỗi ứng khẩu loạn xà bì cả lên, Nam lẫn Bắc, trẻ lẫn già.

                  - Họ triển lãm cả mặt cả mũi chúng mày ạ!

                  - Ối giời tiên đâu mà cả bầy thế kia.

                  - Để tao “lông-giông” theo làm cá leo như Trư Bát Giới coi !

                  - Lâu quá không thấy mấy cái bánh bò bánh bèo đó.

                  - Tao bây giờ mà nhảy xuống nước thì nghe cái “xèo” như sắt nướng.

                  - Em ơi! Có bạc lẽ cho oa mượn hai… ngà… đồng.

                  Hoàng Việt xuống áp chót, tôi mở một dây ở gốc cây buộc ngang lưng rồi đội ba-lô đi vào nước. Ở bên kia Vân cứ nắm dây rút phăng trong lúc chúng tôi như những con thủy quái rẽ nước trườn tới. Chỉ nháy mắt chúng tôi đã qua tới bờ bên kia.

                  Chúng tôi lại được nghe một loạt ý kiến của các “vô ngại tướng quân” đã qua trước nhưng chưa chịu đi, còn đứng ở đây để chào đón các tiên cô.

                  - Em gì ơi ! Em đẹp thế mà em đi chống Mỹ thì uổng quá đấy !

                  - Hai cái hường nhan phơi phới để cho ai?

                  - Các em, mới nhìn thì thấy rõ hai cái “u” điểm, còn cái “khuyết” điểm tuy giấu kín nhưng nhìn kỹ thì cũng tìm ra.

                  - Có em nào bệnh không, anh cõng dùm cho !

                  Tôi nói với Vân:

                  - Tao phục lăn mày đó!

                  - Tao đã thấy trước vấn đề cho nên tao bảo các em chuẩn bị sẵn. Mày xem đó. Vì không có kế hoạch nên mấy thằng bộ đội kia suýt chầu Diêm Vương rồi.

                  Chúng tôi kéo nhau đi theo con đường mòn vào khu rừng gần đó và tự tìm chỗ trú ẩn không dưới một sự hướng dẫn nào.

                  Chúng tôi mắc võng, căng lều và nấu cơm. Đoàn nữ binh cũng hạ trại gần bên chủ soái. Vân nói:

                  - Bữa nay tao đãi mày với ông nhạc sĩ một con gà.

                  - Giỡn hoài mậy? Mày đổi ở “buôn” nào vậy?

                  - Gà trong ba-lô chắc ! Hoàng Việt nói .

                  - Ừ gà trong ba-lô chớ đâu – rồi quay qua vợ, Vân nói – Bắt con gà ra em ! Mình ăn mừng qua sông an toàn !

                  Chị Phụng moi ba-lô lấy ra một hộp nhỏ dẹp như hộp cá mòi. Cá mòi ! Tôi trông thấy và nghĩ bụng. Nhưng Vân nói ngay:

                  - Gà chà bông đấy mày.

                  - Một con gà mà ém hết trong cái hộp con đó được à?

                  - Ông Ba Khiêm đi Giơ-ne hội nghị với thằng Bun-Ùm ổng mua về đó.

                  - Gối rơm mà chồm tới Bộ trưởng Ngoại giao kia à?

                  - Không đâu mày ơi ! Hồi lúc đó mình đâu có tới gần ổng được. Tao tới nhờ chị Ba mua sâm ở Mậu dịch Quốc tế. Chị Ba điệu lắm. Chỉ biết đứa nào về Nam chỉ cũng mua sâm dùm hết thảy. Tao quen chỉ hồi ở trong kia mà.

                  Lâu lâu tao gởi biếu cho bà cụ tức là bà già anh Ba một chai bổ huyết lô-can của tao bào chế. Bây giờ tao tới nhờ chỉ mua đồ, chỉ còn nhắc. Chỉ cho tao hộp thịt gà này đó. Chỉ nói một con gà nạc mà nó nén vô cái hộp có bằng cái hộp quẹt thôi. Leo núi lội rừng mệt chỉ cần vít một muỗng quậy trong nước sôi bỏ ít rau rừng là có canh thịt gà ăn cơm rồi.


                  .................................................. ..... .................................................. .............



                  Vân tiếp:

                  - Bả nhai trầu ngoai ngoai cặp môi, nói bà chà bà chẹc:

                  ” Các em về chỏng ráng oánh Mỹ cho mau mau để chị về nghe !

                  - Dạ. Ráng chớ chị Ba!

                  - Oánh xong Mỹ rồi oánh ai biết không?

                  - Dạ Pháp mình hạ xong, Mỹ diệt sạch thì còn thằng đế quốc nào dám hó hé nữa đâu mà oánh, chị Ba!

                  - Hạ Pháp diệt Mỹ xong tới oánh Bắc kỳ!”

                  Vân nói xong cười hô hố rồi lại tiếp: – Chỉ kể chuyện anh Ba đòi đập Hoan Đầu Vồ bể đầu tại Bộ Ngoại Giao cho tao nghe một cách hứng thú. Xong lại còn tiếp: Anh Ba em xin về Nam chiến đấu nhưng “Bộ chính chị” đâu có đồng ý.

                  Chời ơi chời ! Người ta đi oánh Mỹ mà không cho ! Mà không cho anh Ba em đi về Nam cũng phải đó em ạ. Đó chẳng khác nào thả hổ về rừng. Họ sợ anh Ba em uất ức rồi trở cờ oánh ngược lại.

                  Chúng tôi đang húp canh gà và nghe chuyện tiếu lâm xã nghĩa thì một ông nhà binh tới. Trời chưa tối hẳn nên ông ta nhìn ra Vân:

                  - Ơ, đây rồi, anh gì ơi, làm ơn giúp em tí!

                  Chúng tôi bật cười vì trong đầu chưa tan câu chuyện “ba ván liền” nhưng lại nín ngay vi thấy anh ta mếu máo muốn khóc:

                  - Nó chìm mất rồi!

                  - Cái gì chìm?

                  - Thằng lính của em !

                  - Sao không buộc dây kiểu tôi làm hồi chiều.

                  - Chúng nó bảo như thế trông thủ công nghiệp nên chúng nó túm ba-lô rồi phóng ào xuống sông bơi. Khi qua bờ bên này kiểm điểm lại thì mất một cậu.

                  - Thế thì tôi biết đâu mà tìm?

                  - Đồng chí không biết lặn à?

                  - Tôi biết lặn nhưng tôi không thể lặn mò cả một khúc sông.

                  - Thế thì em chịu thôi. Em sẽ báo cáo là cậu ấy hi sinh trong chiến đấu.

                  - Lội sông mà là chiến đấu cái gì !

                  - Thì cũng như khiêng súng lọt xuống hố vậy thôi.

                  - Quân đội không có một phương tiện nào giúp cho các đơn vị qua sông hay sao?

                  - Ối giời muối gạo còn không đủ ăn, nói gì phương tiện. Phương tiện là hai cái chân đây này. Khổ quá, chúng em đâu có biết bơi. Cũng chả biết súng ống là gì. Thấy cây súng hãi bỏ bố!

                  - Ơ kìa lính tráng gì nói thế!

                  - Chứng em là thanh niên xung phong làm cầu đường mà. Bỗng ở trên đem súng tới phát và bắt hành quân chiến đấu. Cán bộ thì bộ đội đưa qua từ đại đội xuống tới tiểu đội. Còn thao tác súng thì vừa đi họ vừa dạy.

                  - Bây giờ thì làm sao vớt cậu ấy?

                  - Em cũng không biết làm sao!- Anh ta đứng trân một hồi rồi bỏ đi không từ giã.

                  Câu chuyện làm bữa ăn có canh gà hết ngon. Toàn chuyện ma quỉ gì đâu tắp vào mình không thôi.

                  Trời vừa sụp tối thì máy bay tới. Nó bay rà sát lòng sông và bắn trái sáng đỏ rực. Bộ đội và cán bộ hai bên bờ chạy tán loạn lủi vào rừng không còn ai lảng vảng ở bờ sông nữa.

                  Những trái sáng lơ lửng trên không trung tủa ra như những con mắt đỏ chạch ngó xuống với những tia sáng lòa ước chừng nhìn thấy cả cây kim nằm trên đất.

                  - Đ.m. thế nào đêm nay cũng ăn bom trộm. Vân buột miệng thốt.

                  Bị chọc ngay tim, tôi gạt phắt:

                  - Nó không chơi cái mửng đó nữa đâu.

                  - Tại sao?

                  - Vì chẳng có thằng chì huy nào lại mang đơn vi phục kích tại nơi mình vừa đánh trận.

                  - Đó là chuyện đánh nhau. Còn đây là nó đánh mình và mình không phương gì đỡ.

                  - Nếu nó đánh đêm nay thì nó đã không bắn pháo sáng như thế. – Tôi lý luận luôn – Chẳng có tên chỉ huy nào vừa phục kích lại vừa báo cho địch biết rằng tao sắp tấn công mày. Thằng địch có đui cũng…

                  - Chỉ còn một cách là lui binh thôi. – Vân gạt ngang – Không nên chần chờ.

                  - Lui đi đâu?

                  - Đi xa bờ sông một chút! Đi mau, kẻo tối không thấy đường. – Vân vừa nói vừa quơ cuốn đồ đạc và quát đám nữ binh làm theo.

                  Hoàng Việt càu nhàu một cách vui vẻ:

                  - Mới bồi dưỡng gà lại bắt gà chạy !

                  Tôi vừa đi vừa chống chế.

                  - Đám bộ đội nó có đi đâu !

                  - Ối trời! Trông cậy vào chúng nó thì chết chùm. Tao không bao giờ hạ trại gần đám đó. Chúng là Thanh niên Xung phong bị ép cầm súng vừa bất mãn lại vừa không có một tí ý thức quân sự nào cả. Một đám người hỗn tạp như vậy vừa đi vừa rắc xác dọc đường, tới trong đó thì còn được bao nhiêu mạng. Vụ bom trộm đêm trước có lẽ cũng do sự ăn ở bừa bãi của tụi đó mà ra.

                  Cũng may cho chúng tôi là Vân biết hướng nhờ Vân đã đi ra đi vào hai lần rồi – nên chúng tôi không bị lạc đường và nhờ không có dốc, nên chúng tôi đã đi khá xa bờ sông khi trời tối hẳn. Ở đây có dấu vết đóng quân nhưng không còn một người nào. Vân nói:

                  - Từ đây vào trong thì luôn luôn phải quân sự hóa, đồ đạc phải luôn luôn gọn gàng không được phất phơ như trước nữa. Tụi nó đánh mình bằng đủ cách, kể cả biệt kích. Một trung đoàn nào đó bị phục kích, máy bay la rùm mày có nghe không? Chính tay trung đoàn phó bị bắt.

                  - Biết rồi !

                  - Nhưng chỉ còn một “cú leo” hộc máu nữa thì tới vùng thoai thoải.

                  - Hết núi à?

                  - Chỉ còn đồi.

                  - Vậy sắp tới Bà Rịia chắc !

                  - Tao đoán thế!

                  - Mình là Nhạc sĩ Mù (*) yêu cô tiểu thư nhưng không bao giờ biết mặt cô ấy.

                  ( *) “Nhạc sĩ Mù là tác phẩm của P. Pavlenko người Nga.

                  - Hồi ở bên Bún-cà-ri anh có đi thuyền trên Danube bleu không?

                  - Có chứ mày, đi với mấy em !

                  - Nó có bằng cái con sông mình vừa phăng dây qua đó không?

                  - Giỡn hoài mậy!

                  Tôi và Hoàng Việt treo võng chung một đầu cây vì không quờ tìm được nơi nào tốt cả. Phải ở xa xa lều của Vân Phụng một tí, để cặp tình già trăng mật. Cảnh đổi thì tình cũng vọt lên (nhưng ở đâu kìa còn ở đây chắc tình xẹp lép).

                  Bao giờ cũng vậy, Vân vẫn che kín bốn bên cho vợ ngủ nghê kín đáo và hợp vệ sinh, còn hơn Quan Công phò nhị tẩu nữa.

                  Tôi thấy an tâm khi nằm xa bờ sông. Cái câu đùa của tôi về sông Danube chẳng ngờ lại khơi dậy trong lòng Nhạc sĩ những nỗi niềm và hoài vọng cho nghề nghiệp và cho quê hương. Anh hút thuốc liên miên. Trước khi đi anh đã “thu mua hầu hết thuốc lá bán lẻ của Hà Nội,” xé nhỏ ra – không giữ điếu rời nữa – mà ém chặt vào một bao ni-lông.

                  Những đĩa hát của Dalida, của Yma Sumac anh mua ở nước ngoài đem về cho anh em nghe ở nhà trường đã đời rồi bỏ lại. Cái radio nhỏ xíu của ông Mariane, giáo sư dạy nhạc của anh ở Nhạc viện Quốc gia Bungari, anh cũng để nhường chỗ cho cái túi nhựa sống này. “Tao đói thì được, nhưng không có thuốc lá thì chết sướng hơn!”

                  Anh đã viết xong Giao Hưởng số một, lấy tên Quê Hương khi còn học ở Bungari. Một lần nghỉ hè, mang về đưa cho dàn nhạc Giao hưởng Hà Nội trình diễn ở Nhà hát lớn thành phố. Văn Cao khen anh là thiên tài.

                  Tính anh xuề xòa dễ dãi và lúc nào cũng vui vẻ pha trò nhưng bên trong giấu kín một niềm đau vô biên về gia đình và về cách mạng.

                  Bạn đọc thân mến ! Tôi viết những dòng này để tưởng niệm ông bạn nhạc sĩ của tôi. Hoàng Việt không còn nữa. Anh đã chết trong một trận bom ở Hậu Mỹ quận Cái Bè trên đường ra ven sông Cửu Long tìm hứng viết Giao Hưởng thứ hai của đời anh.

                  Dù ở đoạn văn này tôi có đi xa con đường mòn một tí để cùng với anh thả hồn bay về sông Cửu Long tôi nghĩ cũng không lạc đề.

                  Quả bom nào liệng trúng hầm anh quả là một quả bom không có mắt và vô giá. Cho tới nay ở Việt Nam theo tôi biết, ngoại trừ Văn Cao, không có nhạc sĩ nào sáng tác tươi và phong phú như Hoàng Việt.

                  Anh nuôi mộng lớn và ôm giấc mộng ấy xuống tuyền đài. Ở Sài Gòn hiện nay, có một nơi bán cà phê gọi là “Ca fê Hoàng Việt” tác giả của “Tiếng còi trong sương đêm” nổi danh trước 45 dưới tên Lê Trực. Bản nhạc này thuộc loại Rumba Mélodie rất được yêu mến ở các bars.

                  Hoàng Việt vào trường đi B như một anh lính quèn. Võng kaki, ba kí muối , một lon kho quẹt nén trong hộp ghi-gô. Đó là tất cả lương thực đảng cấp cho Hoàng Việt để vượt Trường Sơn, một nhạc sĩ đã viết symphonie.

                  Lúc đó hình như anh mới bốn mươi nhưng tóc đã trắng hơn đen rồi. Đi học ở nước ngoài lâu thế mà về nước không có thứ gì mang theo cả, kể cả một cái pickup để nghe nhạc cũng không. Và vẫn gầy, gầy nhom như hồi kháng chiến Nam Bộ.

                  Nước ngập đồng xanh lúa chết

                  Gió mưa sụp đô mái nhà

                  Bao nhiêu gia đình tan hoang

                  Đau thương lệ rơi chứa chan

                  Anh đi chiến đấu sa tràng

                  Còn em gánh lúa trên ngàn

                  Lúa trên ngàn nắng phơi chang chang

                  Bàn chân dẫm gai lòng không thở than

                  … Bao giờ kháng chiến thành công

                  Anh về em thỏa ước mong.

                  Nhớ vợ nhớ con, ở chiến khu D Hoàng Việt viết bài Lên Ngàn này. Cô gái gánh lúa đó là hồn của hiền thê ở Sài Gòn hiện ra chiến khu với chàng. Nhưng sự thực thì nghìn trùng xa cách. Và cách mãi.

                  Ra Hà Nội nghèo lắm. Hoàng Việt không có cả xe đạp, mỗi lần đi đâu phải mượn của ông bạn nối khố Đồng Tháp Mười và đồng hương Mỹ Tho là Đạo diễn Trần Thiện Thanh, (em thúc bá của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm). Nay cả hai đều hội ngộ dưới suối vàng. Nhà đạo diễn cũng đã chết.

                  Thanh bảo: “Nó – tức Hoàng Việt – chạy nhong nhong như con chó đói khắp thủ đô, chẳng ai thèm ngó.” Tài hoa mà chi! Kháng chiến, hi sinh, xung phong mà làm con mẹ gì cho chết thân mình, uổng công cha sinh mẹ đẻ.

                  Ra Hà Nội thế này, ông biết trước ông đéo ra! Nhưng mà đã lỡ ra rồi, về không được mà ở thì buồn đến muốn tự sát.

                  Một hôm, Hoàng Việt đến cái ga-ra của tôi (tôi ở chung với một thằng bạn cũng nhà vãn – bây giờ làm tới chủ tịch Hội Văn nghệ hay Hội Nhà văn gì đó) đưa cho tôi tờ giấy, bảo:

                  - Ê mày Xuân Vũ, coi lại dùm lời bài tình ca của tao mới làm chút, để tao đi thu kiếm sáu đồng ăn phở coi ! Cơm cơ quan xót ruột quá !

                  Tình ca ( 1956)

                  Khi cất lên tiếng ca gởi về người yêu phương xa

                  Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba

                  Chim bay giăng giăng ngoài nắng Xuân đẹp thay

                  Tan cơn phong ba lòng đất yên rồi đây

                  Em hãy nở nụ cười tươi xinh

                  Như đón chào riêng anh

                  Nói nhau ngàn lời qua đôi mắt xanh

                  Bến nước Cửu Long còn đó em ơi

                  Bãi mía nương dâu còn mãi muôn đời

                  Làm một bài tình ca của đôi lứa ta

                  Không thể xóa nhòa.

                  Còn một câu “Đập tan bao đau khổ và chia ly” nhưng tôi không nhớ nó nằm ở khoảng nào. Tôi có chữa “dùm” anh một chữ, nhưng cũng không nhớ là chữ nào.

                  Bài hát được ca sĩ số một của Đài Phát Thanh Trần Khánh hát đầu tiên và hát đi hát lại trong chương trình “Nhạc yêu cầu của thính giả” mỗi tuần.

                  Về sau “ở trên” bảo Tình Ca là “tiếng nấc của tiểu tư sản, thiếu tính chất chiến đấu” và cắt dần dần không cho hát thường xuyên nữa trong khi đó lại cho hát bài “Lực lượng ta hùng cường” cũng của Hoàng Việt, bản nhạc được giải nhất trong cuộc thi Ca Khúc của Đài Phát Thanh lúc bấy giờ.

                  Lực lượng ta hùng cường

                  Vững như núi Trường Sơn

                  Đứng bên Thái Bình Dương

                  Bao ngàn đời giữ an Tổ quốc

                  Lực lượng xây bằng máu

                  Đã giành lấy thắng lợi sau cùng

                  Theo lá cờ của Đảng tiền phong. . .

                  Một hôm khác Hoàng Việt lại đến, than thở:

                  - Kẹt quá mày ạ! Có mấy cô nước bạn đến thăm trường âm nhạc, tao phải chường mặt ra đón tiếp (Hoàng Việt rất ghét lễ lộc hội họp) nhưng tao không có quần áo.

                  Coi nè, (dép cao su, áo bộ đội ba mươi sáu đường gian khổ.

                  Hoàng Việt được phong quân hàm thượng sĩ hay chuẩn úy gì đó) như thế này mà đón tiếp ai ? Tôi bảo:

                  - Tôi không có giày, chỉ có cái áo “câu tôm” đây thôi (tức là áo Tây cũ mèm).

                  - Ở đâu mày có vậy?

                  - Mới mua ở chợ Trời để bận ngủ, lạnh quá, chịu không nổi anh ạ!

                  Hoàng Việt tròng vào. Cũng may coi tạm được. Anh mặc luôn rồi cười như nắc nẻ: Còn cái cà vạt nữa. Tìm đâu ra? Đến ông “đạo” Thanh thì chắc có.

                  Hoàng Việt mượn luôn cái áo câu tôm của tôi mấy ngày liền để đi “nhảy” đầm với mấy cô bạn ngoại quốc.

                  Bỏ cái nghèo lại Hà Nội, vào đây gặp cái đói và cái sốt. Huề vốn ! Tôi thấy Hoàng Việt hút thuốc liên miên, nên hỏi:

                  - Túi nhựa cạn nửa chưa?

                  - Quá Nửa (*) rồi Người Miền Nam (**) ơi !

                  (*) Tập truyện thứ hai của tôi, xuất bản ở Hà Nội bị cắt bài đầu tên là “Giới tuyến im lặng.”

                  Sách bắt đầu bằng trang 17 với lời xin lỗi của Nhà xuất bản: “thợ in xếp nhằm số trang!”

                  (**) Tập truyện cuối cùng của tôi in trên Miền Bắc.

                  - Chưa thấy sóng Danube Xanh sao rít hoài vậy ? –

                  - Tao đang travailler cho một cái Thème về Cửu Long Giang.

                  - Giao hưởng hay ca khúc?

                  - Hoàng Việt No 2. Há há…

                  - Trình bày ở Sài Gòn?

                  - Ở tiệm nhảy.

                  - Tiệm nào?

                  - Tiệm nhảy Hoàng Việt! Nè mày ! Mày có muốn nghe tao hút gió một đoạn không? Đã lắm. Chỗ này thì phải đi bè hai bè ba.

                  - Có lời không?

                  - Có càng hay. Vô tới nơi tao chép nhạc ra cho mày làm lời nghe.

                  Thì ra Hoàng Việt đã thai nghén từ nước ngoài và viết những chương giao hưởng trên đường Trường Sơn. Anh nói:

                  - Cửu Long của mình dài hơn Danube mày ạ! Bốn ngàn cây số phải không? Tao phải viết một cái cho ra hồn.

                  Cửu Long của mình rất đẹp và rất hùng vĩ, thế mà mình chưa có tác phẩm nào. Nước mình có nhiều sông. Sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long, sông Lô.

                  - Sông Hồng thì có Du Kích Sông Thao của Đỗ Nhuận rất hay.

                  - Nhưng chưa xứng với Sông Hồng, chỉ có Sông Lô Trường Ca là xứng với Sông Lô thôi !

                  - Anh định mần ăn to hả?

                  - Tao sẽ “chơi một tụ phộc túi” với cái giao hưởng No 2 này. Này nhé, mày sẽ nghe tiếng sóng reo, tiếng gió thổi, tiếng hò Mỹ Tho man mác trên sông với nhịp mái chèo.

                  Mày sẽ thấy cô em của mày trên sông nữa chứ?

                  - Em nào ?

                  - Trăng!

                  Hoàng Việt lại châm thuốc hút. Đốm lửa đỏ rực như tâm tình của chàng nghệ si. Khuya lắm. Chứng tôi nằm im mơ màng trong mệt nhừ nhưng nghe tâm hồn sảng khoái vì lâu quá không có ai bàn chuyện sáng tác. Tôi hầu như quên hẳn mình là nhà văn.

                  Tôi đã biến hạ thành một dấu nhạc thấp nửa giọng trên cái dòng nhạc Trường Sơn này. Tôi đã trở thành một người khác, một người suốt ngày chỉ nghĩ tới việc, cắt cử sốt, làm sao có gạo, dốc tới có cao không và v.v…



                  Hết Chương 21 - Xem Tiết Chương 22


                  sigpic

                  Comment


                  • #24
                    Vượt Trường Sơn 3






                    Bỗng rầm rầm rầm…

                    Máy bay tới. Chúng bắn rọc hai ven sông. Chúng tôi bò lăn xuống đất tìm gốc cây núp. Chẳng đầy mười phút chúng nó biến mất. Hú hồn.

                    - Thấy chưa? – Tiếng của Vân.

                    - Thấy rồi !

                    - Mình đánh nó thì nó đánh mình. Nó có cùi đâu mà mình tha hồ tung hoành được! Ít nhất là vài chục chiến thương là cái chắc.

                    - Thôi, ngủ đi sáng ngày dậy sớm! ta hành quân độc lập

                    - Nó đi mất rồi mà, sợ gì ?

                    - Nó hồi mã thương thì bỏ mạng chớ đi mất gì. Tụi Mỹ hay chơi trò “ba thoi vô một chỗ” lắm. Mình mà nhủng nhẳng ở đây thì tao phải làm lương y kiêm từ mẫu phát nữa.

                    Tụi bộ đội quen mặt tao bữa trước thế nào cũng chạy đi tìm.

                    - Họ không có cứu thương y tá gì hay sao ?

                    - Không có đơn vị nào có y tá. Nếu có thì y tá mắc sốt rét hoặc trốn bỏ đơn vị rồi. Mày biết tại sao không?

                    - Vì không có thuốc men gì hết, mà làm y tá cái gì. Y tướng cũng không xuể nữa là y tá.

                    - Y tướng, đại tướng! Đại tướng tổng tư lệnh bây giờ đang báo cáo chiến thắng trước Quốc hội và Chính phủ !

                    Sáng hôm sau vừa tờ mờ là Vân đập mọi người thức dậy tuốt võng giật tăng hối hả chạy đi như . chạy Tây ruồng hồi trước.

                    Cứ theo con đường mòn mà đi miết. Mấy em nữ binh cắn răng lết theo. Nhiều cô khóc lê mê.

                    Vân quát:

                    - Đứa nào khóc tao sẽ báo cáo không được vô đoàn. Đứa nào đà là cảm tình, chi bộ sẽ rút cảm tình lại.

                    Thế là không em nào dám sụt sịt nữa.

                    Đói rã ruột chúng tôi mới đến một khu rừng. Vân bảo tôi:

                    - Lần vào năm ngoái tao cũng ở chỗ này. Năm nay còn đường mòn tức là vùng này chưa bị đánh. Có thể trận bắn đêm qua là cú đầu tiên.

                    Chỗ này bắt đầu hôi ổ rồi đó. Chốc nữa giao liên ra, tao bảo nó phải dời trạm ngay.

                    - Nó nghe bom đạn hồi hôm chắc nó không ra đâu.

                    - Mình cứ nằm đây.

                    - Gạo còn đâu mà nằm cha nội !

                    - Ăn cháo và khuấy hồ ăn ! Giải phóng Miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước mà!

                    Ở đây hình như đất địa cây cối khác ở các trạm ngoài. Đất có màu nâu đỏ cây cối xanh tươi và nhiều mặt phẳng dưới chân hơn. Và trời như cũng rộng ra hơn.

                    Tôi có cảm giác là mình vừa chui ra một cái hang dài. Gần hai tháng qua mình bò trong hang ít khí trời. Nay thấy hai lá phổi như nở lại.

                    Chúng tôi cơm nước xong leo lên võng nằm nói tiếu lâm bồi dưỡng sức khỏe. Hoàng Việt cười mào đầu:

                    - Tui hỏi chú em một câu mà chú em phải khai thiệt nghe !

                    - Ông định đem bụt công an đặt lên tim người đấy hả?

                    - Gì mà bụt công an. Tui chỉ hỏi nhỏ thô!… Ra Miền Bắc chú em trả thù Tổ Quốc được bao nhiêu lần ?

                    - Anh đi ở bển trả thù được bao nhiêu lần phản tỉnh trước đi, rồi tôi khai phần tôi.

                    Hoàng Việt cười hố hố.

                    - Tao đâu có nhựt ký.

                    - Chục đủ đầu, hay nhiều hơn?

                    - Đâu nhớ nổi. Nhưng đại khái là tuần nào cũng đi rừng picnic. Mùa hè thì liên tù tì, mùa đông thì hơi thưa ra.

                    - Cái sự đó của các em có khác với của mấy em bên nhà mình không?

                    - Khác chớ. Aspect général thì nó vẫn chung chung như Hồ Xuân Hương mô tả vậy thôi, nhưng mà khi thả cá nạ dòng dòng vô thì vạn vật biến chuyển như Mác nói.

                    - Biến chuyển mần răng?

                    - Các em kêu gào cào cấu dữ lắm chứ không có se lệ như các em bên mình. Hễ xong là nó bảo ngay: “Hôm nay mày làm tao điên suýt chết ngất,” hoặc là:

                    “Mày hơi kém lần trước. Phải ăn thịt và uống nhiều rượu vang vào”… nhưng tao thêm xài các thứ đó, mỗi khi lực lượng ta kém hùng mạnh mà phải chiến đấu thì tao ngậm sâm. … Ê mày thằng mắc dịch, mày lấy khẩu cung của tao hả? Mày khai đi !

                    - Em đâu có dám so tài với anh Bảy. Em chỉ gà cồ ăn quẩn ba cái chả lụa bún bò và rau muống thôi.

                    - Ê, đừng nói vậy nghe chú em. Sai lập trường căn bản ! Làm gì làm, ăn gì ăn, tao vẫn nhớ miếng cơm chấm muối quả cà ròn tan mày ạ. Ra nước ngoài mới biết.

                    - Tui cũng hỏi anh một câu, anh phải nói thiệt nghe?

                    - Thôi mày ơi, để tao hạch mày cái đã. Bữa trước mày không được bồi dưỡng đậu phộng Hà Tĩnh mày có hoàn thành kế hoạch đóng thuế nông nghiệp hay không nào?

                    - Em nói thật với anh Bảy là bao giờ em cũng hoàn thành kế hoạch nhà nước năm trăm phần trăm hết rrráo!

                    - Nhưng mà về Nam, mày có để bầu tâm sự lại cho em nào không?

                    - Có.

                    - Thiệt hả mậy?

                    - Thiệt mà ! Nàng tình nguyện giữ đứa con trong bụng cho đến ngày sinh. Tôi bảo lấy ra nàng nhất định không. Đầu năm tới, tôi có con rồi đó. Ngặt nó không biết mặt bố nó.

                    - Mày đi tới đâu mày ria tới đó, bởi vậy nên con Nguyệt nó ớn mày chớ gì.

                    - Nhưng em chỉ làm tình ca trong nước còn anh làm quốc tế ca thì sao anh Bảy?

                    Chúng tôi cười khà với nhau. Nếu không cô những chuyện khào đó thì Trường Sơn này không ai có thể vượt nổi.

                    Người ta không lấy chỉ thị, chánh sách không dùng lập trường vô sản để tẩm bổ cặp giò mà người ta xài tiếu lâm, tiếu lâm phong kiến, tiếu lâm dân chủ nhân dân, tiếu lâm tân thời xã nghĩa.

                    Bỗng ầm ầm…

                    Tất cả ngồi choàng dậy. Vân quát đám nữ binh:


                    .................................................. ...... .................................................. ............



                    - Có đứa nào ngủ không? Cảnh giác !

                    Tiếng ầm ầm từ xa, không phải tiếng bom. Tôi ngó lên trời cũng không thấy máy bay. Nhưng Vân kêu lên:

                    - Trực thăng nhảy dò rồi t Cuốn đồ đạc mau !

                    Như máy, mọi người đều thi hành lệnh của chủ soái. Tay quơ giật lia lịa mà mắt ngó trời. Lù lù từ đâu trong hốc núi, một, hai, ba rồi cả chục chiếc trực thăng hiện ra thành hàng dội . (Đến đây tôi mới thực sự nhìn thấy chiếc hélicoptère bay.

                    Trước kia tôi chỉ thấy trên giấy, hoặc nguyên hình chụp hoặc sơ đồ vẽ của Léonard de Vinci). Khiếp đảm vô cùng. Chỉ nghe tiếng máy nổ thôi mình cũng đã mất hết tinh thần. Chúng bay càng gần càng sà xuống sát mặt đất.

                    Hai chiếc mình ốm nhom, đầu nhọn, (sau này về tới đồng bằng Nam Bộ, tôi gặp thứ trực thăng này luôn, chúng tôi đặt tên là “cá lẹp”) từ một hướng khác lao tới, không sà xuống mà bay vòng quanh, vừa bay vừa chúi đầu, trong lúc đó thì đuôi nó xịt khói và kèm theo tiếng “ục ục” như tù và thổi bị nghẹt.

                    - Nó làm gì vậy Vân ?

                    - Nó bắn đó chớ làm gì 1 – Vân xanh mặt đáp.

                    - Bắn sao không nghe súng nổ?

                    - Tiếng ục ục ục là tiếng súng đó. Trong một phút mỗi cây khạc ra sáu ngàn viên đạn đủ loại và nó bắn một lần bốn cây cà nông 37 ly chứ không “cắc chùm” như Tây đâu.

                    - Sao mày biết rõ vậy?

                    - Mấy cha tham mưu cửa mình nghiên cứu nói ra chớ ai. Thôi đừng hỏi nữa. Nó quây vòng rộng là bắn tới đây đó ! Kiếm gốc cây núp đi cha !

                    Tốp trực thăng kia đáp xuống đất trong lúc hai con cá lẹp vẫn quay vun vút và ục ục liên hồi. Vân quát:

                    - Bỏ đồ hết, chạy! Tụi nó đổ quân xuống bắt sống thấy mẹ !

                    Chúng tôi chạy, đám nữ binh bò lê bò càn. Vân lôi chị Phụng chạy sau cùng. Vừa chạy vừa ngoái cổ lại nhìn, vì ai cũng bị cảm giác bị cá lẹp ục sau lưng.

                    Té có cái muốn dập mật nhưng không dám dừng chân. Nhiều cô nằm luôn không bò dậy nổi nữa.

                    - Ra khỏi vòng vây rồi! – Vân vừa ngã xuống đất, buông vợ ra và nói – Đừng chạy nữa !

                    Ạch ..ạch…ạch.. Những cây thịt tự nguyện buông mình không gượng lại. Đứa tựa gốc cây, kẻ lăn kềnh trên đất.

                    Hồi lâu Vân mới lấy lại hơi và giải thích:

                    - Tụi cá lẹp vây tới đâu tức là bộ binh đi tới đó. Cá lẹp quay vòng nhỏ rồi. Mình đang ở ngoài càn khôn. Nếu mình lọt vô vòng là bị nó thộp như gắp cá kho bỏ vô chén thôi.

                    Quả thật. Chỉ mười lăm, hai mươi phút sau, chúng biến mất hết. Cả bọn lôi thôi lếch thếch trở lại chỗ cũ. May quá, đồ đạc còn nguyên, không mất món gì.

                    - Sao mày biết chiến thuật của tụi nó hết vậy?

                    - “Bủa lưới phóng lạo” là một, “Phượng hoàng vồ mồi” là hai, nhớ nằm lòng nghe. Về tới trong đó rồi biết, chú em!t Chạy một vài trận rồi kinh nghiệm như tao vậy.

                    Chúng tôi lại nấu nướng lại nói chuyện tiếu lâm coi như không có chuyện gì xảy ra cả. Đời sống ở đây vẫn thế từ lâu rồi. Chúng tôi đã quen với cái chết như đi chợ vậy.

                    Càng đì vào gần quê hương bao nhiêu càng trông thấy rõ diện mạo tử thần bấy nhiêu.

                    Kể từ con sông Danube của Trường Sơn này trở đi chúng tôi không có dịp nghỉ ngơi như ở cái làng khu Eo ngoài kia nữa.

                    Vừa lên võng nằm thì đã có tiếng léo nhéo.

                    - Cái gì thế? – Tôi làu bàu và ngóc đầu lên thì thấy mấy cái võng lù lù đi tới. Thôi bỏ mẹ rồi ! – Nhưng tôi định tâm lại và ngồi dậy bình tĩnh chờ đợi. Tất cả là sáu cái võng dưới mắt tôi. Tiếng rống, tiếng la dậy đất.

                    - Anh giúp chúng em tí.

                    Đi theo mỗi chiếc võng là một hoặc hai ba người nữa. Người nào cũng quảy hai ba cái ba lô hoặc bao đạn hoặc súng, mặt mũi xanh xám.

                    - Các cậu ở ngoài sông vào à ?

                    - Vâng!

                    - Bị bắn đêm qua có thiệt hại gì không?

                    - Ối giời ! Không thiệt hại gì cả!

                    - Các cậu đi đến cuối con đường mòn này rẽ phải đi độ ba tiếng đồng hồ nữa là tới Bệnh viện lớn của Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng. Đây là trạm tiếp nhận thương binh đầu tiên – Vân nhanh miệng nói chặn họng tôi – Các cậu cứ yên trí, vào đến đó là có bác si chữa tri chu đáo.

                    Trang bị hiện đại mới toanh của nước bạn Tiệp Khắc chở bằng tàu ngầm mới vô.

                    Đám lính trẻ măng lối mười sáu, mười bảy tuổi thật thà như đếm, nghe ông dược sĩ kháng chiến hai mùa, kinh nghiệm đầy mình, nói vậy thì mừng rơn. Cậu nào cậu ấy mặt mày sáng rỡ cả lên:

                    - Thế hả chú ! Thế thì may quá. Còn hơn mươi đứa chúng em sắp tới kia rồi. – Một cậu đối đáp với Vân và bảo đồng đội – Chúng mày khiêng nhanh lên đi ! Ta lên đường nào !

                    Cảm ơn các chú nhé. Chào thân ái và quyết thắng hoàn thành sự nghiệp giải phóng Miền Nam !

                    Thế là sáu chiếc võng nối đuôi nhau di chuyển ra khỏi khu đóng quân của chúng tôi và mất hút. Tôi nhìn Vân. Vân chắc lưỡi:

                    - Chỉ có cách đó thôi cậu ạ ! Tôi đau lòng lắm chứ ! Thầy thuốc mà bỏ bệnh nhân, không mó tay vào chữa tri, xấu hổ quá chừng, nhưng cậu thấy đó, chữa trị làm sao?

                    Người ta đâu có cho tôi trang bị của một y tá mà chỉ cho tôi mang theo các thứ “máy” để sản xuất “cao đơn huờn tán” cho các cha lớn xài. Cậu thấy không? – Vân thở dài – Thà chỉ bậy cho chứng nó đi khuất mắt còn hơn là nói sự thực.

                    Chập sau lại một đoàn võng tới. Lại hỏi đường. Lại nhờ giúp đỡ. Và cũng được giúp đỡ đầy đủ và họ cũng hăm hở đi về phía Bệnh viện Tiệp Khắc như đoàn trước.

                    Một cậu bị thương nhẹ ở chân chống gậy đi cà nhắc. Đến đây thì ngồi lại và kêu đau. Vân mở băng và lấy thuốc đỏ khử trùng rồi băng lại cho cậu ta.

                    Cậu bé ngồi tựa gốc cây không muốn đi. Thấy thế tôi mới hỏi để biết sự thực:

                    - Đêm qua bị bắn thế mà không bi thiệt hại gì hả cậu?

                    - Ai bảo thế?

                    - Mấy cậu ở đoàn trước vừa mới đi qua đây !

                    - Bố láo ! Bị thương và chết gần một nửa đại đội. Đạn nó bắn khít quá chú ạ! Chưa đầy ba tấc một viên. Có anh bị hai viên một lúc.

                    - Đại đội vừa qua sông chiều qua phải không?

                    - Vâng. Qua sông đã hi sinh một cậu rồi đến khuya lại bị oanh kích. Có ác không kia chứ. Rồi đến trưa bị nhảy dù. Khiếp, chúng đến nhanh như chớp. Mới tóm thu đồ đạc chưa kịp chạy là chúng nó đã tới nơi chỉa súng bắt lên máy bay.

                    - Bắt cả à?

                    - Không. Chúng nó chê chúng cháu là “đồ con nít đẻn” hay con nít “điển” gì đó cháu không hiểu nhưng chúng không bắt, chỉ bắt có mấy cậu lớn tuổi thôi.

                    - “Con nít đẻn” cũng như ngoài Bắc ta gọi là “lũ nhãi ranh” vậy.

                    - À thế à? Chúng béo tai em hỏi: “Mày đi vô đây làm gì?” Em bảo: Đảng kêu em đi thì em đi chứ em chẳng biết đi làm gì. Chúng cười với nhau có vẻ chế diễu rồi ném cho em hộp thịt và bảo: “ăn đi kẻo đói thấy mẹ, rồi hãy đi mà phỏng dái Miền Nam !” Tại sao chúng nói thế hả chú?

                    Tôi gạt ngang và đánh trống lảng:

                    - Rồi hộp thịt đâu? Coi chừng mìn đó!

                    - Chúng em nuốt cả rồi. Mới dầu tưởng là mìn hay thuốc nổ gì chứ. Chẳng ngờ lại là thịt hộp. Ối giáo, béo béo béo… Em chưa từng ăn gì béo đến thế.

                    - Rồi bây giờ cậu tính sao?

                    - Chú cho em ngồi tạm đây tí chờ có đứa nào đi qua em tháp tùng ạ.

                    - Thế còn chỉ huy đâu?

                    - Bi bắt cả đại đội trưởng lẫn đại đội phó! Còn chính trị viên trúng đạn chết đêm qua.

                    Thấy ba lô của cậu bé xẹp lép, tôi thương hại vô cùng. Muốn cho cậu ta chút gì để an ủi, nhưng cho cái gì bây giờ?

                    Cái gì mà tôi đang làm chủ ở đây cũng có giá trị vật chất và tinh thần cao độ hết cả. Thí dụ cái quai dép cao su đứt, ngắn bằng ba lóng tay mà tôi bỏ nó trong túi hông ba lô, tuy không dừng nhưng tôi vắn còn nhớ chắc nó nằm ở đó.

                    Trong một bữa nào đây nhóm lửa không cháy, tôi sẽ dùng tới nó. Thí dụ như cái pin đèn đã hết điện, nhưng tôi vẫn chưa chịu vứt đi vì có đứa bảo rằng “cứ để nó như thế rồi nó sẽ tự “sạc” lấy, lắp vô đèn sẽ cháy” v.v…

                    Tôi thấy không thể cho cậu bé này một món gì trong cái tài sản đeo trên vai của tôi. Cuối cùng, trước khi cậu lê chân đi, tôi nói:

                    - Chúc cậu chóng lành nhé. Ta gặp nhau ở Thành phố Hồ Chí Minh ! – Một câu giống y như cóp ý của bác Hồ: “đánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây đất nước đẹp gấp mười lần xưa” vậy.



                    Hết Chương 22 - Xem Tiếp Chương 23


                    sigpic

                    Comment


                    • #25
                      Vượt Trường Sơn 3






                      Chúng tôi chờ giao liên hai ngày liền mới có kết quả. Anh giao liên này là người lớn tuổi nhất trong số giao liên tôi gặp từ trước tới nay.

                      Và lạ lùng thay anh là người ở gần bên nhà bà ngoại tôi. Nhờ một câu chuyện hỏi thăm vớ vẩn lấy lệ xã giao mà chúng tôi nhận ra nhau.

                      Từ đó có một sự biệt đãi của trạm đối với đoàn. Anh cho biết là bắt đầu từ trạm này thì ở mỗi chặng có hai giao liên dẫn khách đi, để rủi có người hi sinh thì còn người kia dắt đường.

                      Tình hình từ đây trở vô “động” dữ lắm.

                      Mặc dù tình hình ở đây bị động trong mấy ngày liền nhưng khách ở trạm ngoài vẫn được đưa vô. Và bơi qua sông như bữa trước. Giao liên rút kinh nghiệm, bắt tất cả khách phải qua hết bờ bên này và dắt đi luôn một mạch tới chỗ đóng quân nhất định để tránh bị chụp như vừa rồi.

                      Anh bạn đồng hương biệt đãi đoàn chứng tôi. Thay vì chúng tôi ở chung với khách, thì anh cho vào khu vực riêng rất bí mật của trạm.

                      Lần đầu tiên từ mấy tháng nay tôi được trông thấy một ngôi chòi gần giống cái nhà nghĩa là nó có hai mái. Ở đây có hai người giao liên, – anh trẻ tên Bé, còn người đồng hương của tôi tên Đăng.

                      - Vậy là hai mươi năm anh mới về quê. – Đăng nằm lên võng và nói.

                      - Đúng hai mươi năm 1945-1965.

                      - Em là thằng thiếu nhi được cô Hai Triêm cho cầm cờ đi đầu mỗi khi tập đi đều ở sân chợ đó, anh nhớ không?

                      - Tôi nhớ những buổi tập thiếu nhi chứ không nhớ chú.

                      - Vậy anh còn nhớ cô Hai Triêm không nào ?

                      - Cổ là cô của tôi mà sao không nhớ.

                      - Bên ngoại sao lại cô ? Cô chỉ bằng tuổi anh thôi mà !

                      - Ừ, cổ bà con bên nội tôi. Tuy cổ ngang tuổi nhưng vai lại lớn.

                      - Bây giờ bả làm lớn lắm !

                      - Tới chức gì lận?

                      - Bí thư chi bộ.

                      - Dữ vậy à?

                      - Bả lên tỉnh rồi. Hồi em ra đây nghe nói bả vô tỉnh ủy.

                      - Tôi cũng có thằng bạn học thuở nhỏ bây giờ cũng lên tới tỉnh ủy.

                      - Quê mình bây giờ tiến bộ lắm anh ạ. Anh về mà coi.

                      - Từ đây về tới mình lội mất bao nhiêu ngày nữa?

                      - Tới R thì chừng một tháng. Từ R tới quê mình chừng hai mươi ngày. Đó là nói đường suông sẻ. Khi có bị chụp thì lại vô kể ngày tháng.

                      - Chú ra đây bao lâu rồi?

                      - Hai năm !

                      - Đồng khởi năm nào?

                      - Sáu mươi ! Giải phóng được ít lâu thì em đi.

                      - Ở nhà bà con mình mạnh khoẻ hết chớ?

                      - Dạ… mạnh hết anh ạ! Đăng lăn qua trở lại, trong bóng đêm tôi nghe tiếng võng ni lông sột soạt như sự trăn trở nội tâm của chàng trai. Một chốc Đăng nói:

                      - Có chuyện này buồn, tôi không muốn nói cho anh biết.

                      - Chuyện gì, chú cứ nói, trước sau gì tôi cũng biết.

                      - Cậu Tám bị trừ gian.

                      - Hả? – Tôi bật lên và chồm sang võng Đăng.

                      Đăng lặng im. Tôi gắt:

                      - Chú nói thật hả Đăng?

                      - Dạ thì vậy đó. Còn cậu Bảy thì bỏ đi Sài Gòn ở biệt trên đó.

                      Tôi choáng váng hết cả mặt mày.

                      Trời ! Tôi không thể hiểu được ! Tôi hỏi :

                      - Ai chủ trương vậy ?

                      - Dạ thì mấy ông chi ủy chớ ai.

                      - Cậu tôi làm gì mà bị như vậy chớ?

                      - Dạ hồi đó mình mới nổi lên thì ai cũng hăng hết. Ai cũng đòi chia đất như ngoài Bắc. Trong này cứ nghe ngoài Bắc làm sao thì trong này làm vậy.

                      - Tại sao trong này biết chuyện ngoài Bắc ?

                      - Dạ lén nghe đài chớ! – Đăng tiếp – Mấy ổng đòi lấy đất cửa Bà Tư (tức là Bà Ngoại tôi) chia cho tá điền. Cậu Tám bảo tụi chăn trâu chăn bò làm bậy chừng nào có lệnh cụ Hồ tao mới chia. Có vậy thôi rồi xảy ra chuyện đó

                      (Vậy tôi đi theo cách mạng để làm gì nhi? Tôi tự hỏi.)

                      - Thằng nào là chi ủy?

                      - Dạ ông Dinh, với mấy ông mướn ruộng của Bà Tư hồi xưa tới giờ.

                      - Nó có đong hột lúa ruộng nào đâu, kể từ hồi 45 tới 54, tới mùa là vỗ tuột.

                      - Dạ có đong! Mấy lúc sau Đồng Khởi, Mật trận bắt phải đong nhưng Bà Tư cũng như mấy người có ruộng cho mướn không dám lấy đúng qui định của Mặt trận mà một giạ chỉ lấy một lon sữa bò tượng trưng thôi.

                      Nếu lấy đúng mức là lại có chuyện. Phép vua thua lệ làng mà anh. Bây giờ tất cả đều do chi ủy quyết định hết.

                      - Rồi Bà Ngoại tôi sống ra làm sao?

                      - Dạ tôi không biết, nhưng chắc cũng không đến nỗi nào đâu anh !

                      Tôi thực sự thấy ê ẩm cả tâm thần. Và chán nản. Từ bên ngoại đến bên nội tôi không có một người nào đứng ngoài hoặc đi ngược phong trào cách mạng. Riêng về sự cống hiến vật chất thì không một gia đình nào bằng. Vì Độc lập Tự do Hạnh phúc của dân tộc!

                      Tôi có hai người chú đi Vệ quốc đoàn hi sinh hồi 1947. Một người chú làm trung đoàn phó đã về Nam và hi sinh ở Kà Tum.

                      Một người chú khác là kỷ sư nông nghiệp ở Miền Bắc. Riêng cậu Bảy tôi là Đoàn trưởng Thanh niên Cứu quốc tỉnh được chọn đi học ngoại quốc hồi kháng Pháp nhưng cậu không đi, dì Năm tôi là cán bộ huấn luyện Phụ nữ Cứu quốc có chồng là chiến sĩ Côn Đảo,

                      hai vợ chồng đã đào tạo thế hệ cán bộ lứa tuổi tôi cho cách mạng trong tỉnh.

                      Nhà ông Nội, nhà bà Ngoại tôi không có lúc nào ngớt cơ quan và bộ đội đóng ăn dầm nằm đề khui hết bồ lúa này tới bồ lúa khác…

                      Hồi còn lao đao thì cách mạng dựa vào dân, khi thành công rồi thì cách mạng quay lại ăn thịt dân. Cách mạng bên Nga bên Tàu bên ta đều thế cả !

                      Tôi không muốn hỏi gì thêm. Vì sợ nhiều chuyện không vui nữa sẽ làm cho tôi không đi nổi về tới nơi. Tôi nằm trên võng mà nghe như lơ lửng giữa mây.

                      Và lên cơn đau thực sự, đau tim, đau óc, đau cả thể xác lẫn tinh thần.

                      Đăng hỏi:

                      - Anh có thuốc rét không cho tôi đỡ vài viên ?

                      - Ở đây cũng sốt rét nữa sao ?

                      - Vừa sốt vừa chói nước anh ạ. Bụng đứa nào đứa nấy bin rỉn giống như mắc cam tích, nhưng không có thuốc gì hết, chỉ uống rễ cây bồ hòn.

                      - Có kết quả không?

                      - Thì đau chân há miệng vậy chớ nhằm gì anh! Nghe người ta nói rằng hồi trước Tây nó đày người mình lên đây uống nước suối rồi rụng tóc, bụng to mà chết dần. Mình vì nhiệm vụ cách mạng phải đi chớ ớn quá anh ơi !

                      - Sao chú lọt ra đây vậy?

                      - Mới đầu tôi chỉ xung phong đi lên khu thôi. Xã mình đi hai mươi người. Lên tới quận trốn hết phân nửa. Lên tới tỉnh còn một mình tôi. Chẳng lẽ bỏ về mất mặt Đồng Khởi nên tôi bấm bụng đi. Lên tới khu người ta đưa lên R. Lên R.

                      họ lại đưa ra đây. Ở trên nói là ra đón bộ đội Miền Bắc vào. Toàn là súng to, không phải thứ Ngựa Trời như trong tỉnh mình hồi Đồng Khởi đâu ! Nghe thế tôi phấn khởi quá chừng, nên đi thì đi. Đi tới trời cũng đi mà! Cho nên bây giờ kẹt ở đây, kêu trời không thấu. Ở trên chưa cho về.

                      - Bộ đội vô hằng ngày, thiếu gì đó !

                      - Tôi coi tướng mấy cậu này vô trong mình không chịu nổi trực thăng đâu anh.

                      - Tuy vậy nhưng rồi cũng quen đi chú ạ !

                      - Trông họ khờ quá.

                      - Ừ thì tân binh phải vậy chớ sao. Còn bộ đội thiện chiến vô sau! – Tôi hỏi tiếp – Chắc đêm qua mình thiệt hại nhiều phải không?

                      - Nghe họ bàn tán với nhau thì “đi” hết vài chục.

                      - Rồi bỏ luôn xác đó à?

                      - Chứ anh bảo tụi tôi làm gì ? Cuốc xuổng đâu mà đào đất ? Mà tay chân nào đào cho thấu. Đất ở đây không phải đất thịt như trong mình. Toàn đá sỏi. Đào chắc gãy cán cuốc hết.

                      - Nếu để vậy, mai mốt trạm ngoài đưa khách vô thấy cái cảnh người đi giải phóng chết nằm như rạ đó sao tiện ?

                      - Bể điểm rồi. Tôi phải dời ngược lên và cắt đường mới. Trạm này trụ một chỗ lâu quá không dời, nên mới lộ.

                      Ở chặng này thì những chuyến đi vô không có thời dụng biểu nhất định. Cứ khách đến đông đông thì Đăng lại cho đi. Có lẽ vì máy bay bắn bến sông và trực thăng chụp cho nên trạm ngoài đánh hơi được nên không đưa khách vô. Hai ba ngày liền Đăng đi rồi về, không dẫn người khách nào theo cả.

                      Bất cứ thứ gì trên con đường này cùng đều trợt ngoài đường rầy của sự lãnh đạo. Do sự nằm ỳ tại trạm mà nảy sanh vấn đề. Số là trong đội nữ binh có một cô học sinh Trưng Vương rất xinh, tên là Huyền. Không biết cậu giao liên trẻ (tên Bé) tò tí thế nào mà móc dính với cô Huyền. Và cậu Bé trình bày thật với thủ trưởng Đăng. Đăng bèn hội ý với Vân. Vân gọi Huyền tới hỏi đầu đuôi câu chuyện.

                      Thì Huyền thú thật là hôm bữa bọn tôi nhậu ở trạm ngoài, Huyền vô tình đến gần đó và nghe Vân kể về chuyện bào chế cao đơn hoàn tán cho mấy ông kẹ. Huyền hoang mang và tìm cách thoát ly đoàn.


                      .................................................. .................................................. .................



                      Vân gắt:

                      - Cô có nói với mấy cô kia không?

                      - Không ạ ! Em chỉ giữ trong bụng và tự lo thân.

                      - Tôi chỉ bịa chuyện chọc vui mấy ông bạn của tôi thôi chứ trong cách mạng làm gì có chuyện đó !

                      - Vâng, em cũng nghĩ là cách mạng không coi người dân ta rẻ rúng thế.

                      - Thì tại sao cô lại muốn quay ngang không đi vô nữa ?

                      - Em thấy các anh giao liên cực khổ nên em muốn chia xẻ với các anh ấy !

                      - Cô dắt khách được à?

                      - Dạ được chứ! Ở ngoài Bắc có nữ công nhân lái máy cày, nữ công nhân dệt, nữ công nhân hàn điện, tại sao em không làm được nữ giao liên trên đường này ? Thì cũng như em đi từ trạm “một” tới đây vậy thôi ! Đâu có khó gì !

                      Vân gặp tôi và kể lại câu chuyện trên. Tôi lôi Hoàng Việt đến. Ba đứa cùng ra rừng để bàn định. Cuối cùng là phải để Huyền ở lại thôi.

                      Vì đó là “lô gích cách mạng” mặc dù bên trong vấn đề thì lại rất “phản lô gích”. Huyền đã tìm đường thoát từ khi nghe lỏm được chuyện bí mật đó. Đến bây giờ mới có cơ hội. Vân thở dài:

                      - Mình lấy lý do gì để không cho nó ở lại trạm ?

                      - Nó đã biết chuyện đó rồi, nếu để nó đi, nó phụ nhĩ với đám kia thì hỏng kế hoạch của Phòng Dược của ông Dược sĩ hết ráo.

                      - Hay ta nói tung hê cả vấn đề bỉ ổi đó ra và cho các em tự tìm công tác mới ?

                      - Đâu có được nhiệm vụ của tao là đi ra Miền Bắc lấy thuốc và tuyển chọn các cô. Trở vô mà không có gì hết, tao đứt đầu à?

                      - Mày đứng ở cửa giữa: Lương tâm và Cấp trên. Né bên này đụng bên kia.

                      - Cách mạng có nhiều cái kỳ cục lắm mày ạ, chỉ trong phạm vi y tế thôi tao thấy cũng chướng rồi. Nội các bệnh viện ở Hà Nội thì mày cũng đủ rõ rồi. Bệnh viện Việt Xô dành cho ông to bà lớn. Bệnh viện 108 (tức Đồn Thủy) dành cho mấy ông tướng bà tá, bệnh viện Việt Đức (tức Phủ Doãn) dành cho cán bộ nhèm, bệnh viện C dành cho nhân dân cá kèo.

                      Vô tới trong R kỳ này mày sẽ thất vọng. Nó không có giống như thời kỳ chống Pháp nữa đâu nhé. Cùng đau một bệnh nhưng người này có thuốc, người kia lại nằm chờ chết. Nếu tao không nói thì có bao giờ mày tưởng tượng rằng trong chế độ mà người ta rêu rao là vì dân, do dân, của dân mà lại bắt con cháu nhân dân đi làm những cái máy sản xuất cao đan hoàn tán như thế này không? Trong lúc đó thì con cháu của các chả thì đứa đi Liên Xô đứa đi Đông Đức. Ở trong này thì cũng vậy.

                      Lính không có gạo nấu mày thấy chưa, nhưng mấy ông kẹ thì tẩm bổ bằng sữa, whisky và… thịt người. (Tôi giật mình nhảy nhỏm) Chứ không à? Như tao nói đó, các cô em này không bị mấy ông ăn thịt là gì? Tao chán lắm! Nếu bắt tao làm mãi cái trò “phục vụ cách mạng” như kiểu này thì chắc tao về nhà nuôi vịt Tàu thôi mày ạ.

                      Đám cưới Bé-Huyền được tổ chức ngay trong trạm. Vân đem một ít đường cát ra đãi khách. Còn các cô nữ binh mỗi người mỗi món, hoặc một chiếc khăn tay, một cái kẹp tóc tặng bạn làm kỷ niệm.

                      Tôi xé tập bản thảo đã dóm bếp gần hết, dán ba tờ làm một với hồ khuấy bằng bột gạo, dừng thuốc đỏ của ông dược sĩ kẽ cái khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ” đè lên những chú ký của tôi ở dọc đường, ghim nó lên vách lá. Cái khẩu hiệu này tôi trông thấy hai ba lần ở “Phòng Cưới” góc đường Bà Triệu dùng làm đám cưới tập thể. May sao tôi còn nhớ.

                      Nhưng khi nhìn căn chòi trống hoang chẳng có vẻ gì “vui duyên mới” cả, tôi xót thương cho cặp trai gái sinh bất phùng thời này, nên bày thêm ra cái bàn thờ Tổ quốc. Đó là cái bàn bện bằng cây rừng của Đăng dùng để ba lô. Tôi lấy tấm vải dù của tôi (do anh rể của Phương tặng cho tôi ở Hà Nội) dùng làm chăn đắp mấy tháng nay, trùm lên.

                      Mấy cô em đi hái hoa rừng cắm vào một cái lọ hoa đặc biệt: đó là vỏ đạn cà nông 37 ly của trạm dùng uống nước trà. Để cho “quan khách” biết rằng đó là bàn thờ Tổ quốc, tôi lại xé thêm hai tờ bản thảo, một tờ tôi bôi thuốc đỏ và kí-nin làm cờ một tờ tôi kẽ hai chữ “Tổ Quốc” trong hai cái vòng thật tròn và to bằng vành chén sắt Hungari như kiểu chữ Nho.

                      Vân làm chủ hôn bên gái, Đăng, bên trai. Hoàng Việt và tôi được mời làm thượng khách, các cô nữ binh vừa làm khách vừa làm người nhà.

                      Các cô nấu đến gần hai chục cái gà mèn cơm. Các cô làm bánh với một ít bột gạo của tôi và Hoàng Việt. Đám cưới gì lại không có bánh ? Chỉ có đám cưới tập thể ở Phòng Cưới Bà Triệu thôi.

                      Thật mỉa mai chua xót cho Bà Triệu phải nhìn thấy con cháu mình cưới nhau bằng nước chè xanh và thuốc lá suông với năm mẩu chuyện khào nhạt hơn cả khói thuốc và chè xanh.

                      Hoàng Việt bỗng gợi ý: “Còn rượu cồn không ông dược sĩ ? ”

                      Thế là Vân lại pha pha chế chế rượu tân hôn. Hoàng Việt cười :

                      - Tụi nó còn trẻ thì khỏi dùng “đậu phộng Hà Tĩnh hả?

                      Tôi cũng cười:

                      - Và khỏi ngậm sâm.

                      Cô dâu và chú rể mặc quần áo mới nhất của họ. Huyền thì tra chiếc áo pô-pe-lin trắng cổ bẻ bánh bèo, quần vải đen Liên Xô loại hai thước một năm cho mỗi đầu người trên mười tám tuổi, chân mang dép cao su cải tiến (tôi không biết là cải tiến như thế nào so với dép của tôi,

                      nhưng nghe gọi thế thì hay thế), tóc chải phùng và may quá, có được một cái hoa nhựa mầu hồng gắn trên tóc. Còn Bé thì mặc áo bộ đội (chắc của anh lính nào đổi chác hay tặng, quần tây của Hoàng Việt vừa cho, cái quần ni lông đi pa-tanh bị thủng đít vừa vá xong.

                      (Cũng may là chú rể không phải mặc cái quần tiều của giao liên). Tóc chàng rể được tỉa bớt bằng lưỡi lam của tôi với bàn tay ông thợ cạo Hoàng Việt.

                      Như thế là đã chu tất lắm rồi. Một cái đám cưới nếu có ở giữa rừng Trường Sơn, không thể hơn được đám này.

                      Khổ tâm nhất là ông chủ hôn đàng gái phải đứng lên công nhận đôi tân hôn và với tư cách chỉ huy, ban huấn từ cho chúng. Vân nói lại mấy cái công thức muôn đời ở các đám cưới tập thể và kết luận:

                      - Hai em nên gắn bó với nhau trong tinh thần cách mạng, sửa chữa khuyết điểm cho nhau, khuyến khích nhau hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó để đáp lại ơn Bác và Đảng. Không có Bác Đảng các em không được như ngày nay.

                      Tôi đứng bên cạnh Vân. Tôi phục lăn hắn.

                      Tôi không hiểu hắn thay lưỡi hồi nào mà nói năng trôi chảy như vậy, nói láo mà y như thiệt. Xin bạn đọc tạm ngưng uống rượu cồn pha nước suối giây lát.

                      (Về sau khi tôi về hồi chánh ở Sài Gòn, tôi gặp hắn. Hắn “dông” trước cả tôi cơ, đâu năm 1967 gì đó. Hai vợ chồng đổi tên khác, Vân ra Bảy, Phụng ra Ba.

                      Anh Bảy và chị Ba. Cộng lại thành Mười có nghĩa là – theo y giải thích- mười năm xã nghĩa có đầy đủ chứng cớ để cho vợ chồng Bảy Ba chào thua cách mạng. Anh Bảy làm cho Sở Thẩm vấn của Mỹ ở Biên Hòa, đi Honda dame, vợ có thêm hai con trai rất bụ bẫm.

                      Hai vợ chồng đến tận Trung tâm Chiêu hồi Trung ương ở Thị Nghè rước tôi và sáu anh chàng nghệ sĩ của đoàn Văn công Giải phóng mới “chia tay” với Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ – về nhà đãi một bữa thịt bò, ngồi dưới đất ăn và uống bia và say và ói suốt đêm thứ bảy và ngày chủ nhật.

                      Anh Bảy và chị Ba vui mừng vô cùng. Anh Bảy nhắc lại chuyện đám cưới Bé-Huyền. Tôi hỏi:

                      - Sao mày ban huấn từ “ngọt” vậy? . .

                      - Mày xem tao đóng kịch tài chưa ? Tụi mày làm văn nghệ thua tao xa. Tao đóng kịch suốt mười năm ở Miền Bắc, bốn năm năm trong R.

                      Tôi nói:

                      - Hồi đó nhìn cái mặt nghiêm trang của mày, tao suýt bật cười. Bây giờ đinh làm nghề gì? Mở tiệm thuốc Tây đi ! Món này hốt bạc dữ lắm !

                      - Nhưng tao đâu có bằng dược sĩ dược siết gì. Mấy chục năm trời chỉ làm ba cái huyết des chiens đó thôi. Ra Bắc thì cũng mặc bơ-lu trắng coi oai lắm nhưng chẳng biết thêm một tí gì về dược, vào R thì bào chế cao đơn huờn tán luôn ba năm. Cái thứ đó mà đem áp dụng ở SàiGòn thì ở tù mục xương.

                      Tao định làm chơi Sở Mỹ ít lâu lấy tiền mua xe nước mía điện mày ạ. Thứ này làm giàu mau lắm. Bán nước đá lạnh nêm tí nước mía. Tao có thằng bạn thuở bé học trường làng với nhau, bây giờ nó có tới ba cái nhà lầu và năm xe nước mía bán ở các rạp hát bóng, còn nhà nó có năm chiếc Suzuki và Honda, một jeep bầu, Honda để đi nhậu, Jeep để mua mía đám.

                      Tao cởi cái áo dược sĩ rỡm lâu rồi. Nè, có thằng bác sĩ Hiền mới “dzô” tao nghe đài SàiGòn nói đó. Nó ra ở Đà Nẵng. Nếu nó về Trung tâm của mày thì đưa lại nhà tao nhậu. Nó là dân “rau” nhưng chơi được lắm !)

                      Xin mời bạn đọc trở lại mâm rượu cồn của tiệc cưới.

                      Bữa tiệc khá rôm rả, thức ăn thì có ruốc, cơm trắng, thức uống thì có rượu y dược, tráng miệng được món bánh cục bánh hòn do bàn tay của nữ binh chế tạo. Còn giường và phòng cho đôi tân hôn thì hai đứa nó tự lực tạo lấy.

                      Ông trưởng trạm Đăng phải dời ra rừng để chúng chiếm hữu căn nhà, nhường cho chúng mắc võng.

                      Về lều riêng, Hoàng Việt cười với tôi.

                      - Đ.m. ngủ võng đây rồi không biết tụi nó làm sao? Hai đứa đều là “tân binh” cả !

                      - Anh không nhớ câu ca dao trào phúng rất hay của Miền Bắc hay sao ?

                      - Câu gì?

                      - Chồng còng mà vợ cũng còng. Nằm giường thì chật nằm nong thì vừa!

                      - Nằm nong là nằm ở dưới đất, nó không có “nắc nư” như thuyền thúng của tỉnh “Hà Lam Linh” mày biết không? Còn đây là võng, nó nhảy sóng như ghe bầu rồi mần ăn làm sao? Mày có kinh nghiệm gì rỉ tai thằng nhỏ tí.

                      - Anh đừng lo, nghề dạy nghề mà ! Cuối cùng nếu nằm giường không ổn thì nó lại nằm nong chứ gì ! Cũng như anh vậy, có ai dạy anh ngậm sâm không?

                      Hoàng Việt cười hắc hắc, rung rinh cả mảng tóc bạc.

                      Tôi nhận ra anh có bộ mặt quái gỡ trong cái cười. Nó giống như một mảnh đá tàn ong hình cái lá vông dựng ngược.

                      Mắt thụt mất; răng vàng ềnh khói thuốc xếu xáo mất trật tự thì lại nhô ra như dọa con nít; hai cái vành tai rộng, trái tai dài, chui trốn dưới mớ tóc bạc trắng như bông, dường như chúng không muốn đón nhận một thứ âm thanh phản âm nhạc nào trong cuộc đời này nữa, còn cái cổ thì đúng là cái cổ Hoàng “Cò.

                      ” Nó như cây que chỉ đủ sức chịu nổi chiếc kẹo con. Chiếc áo đã rộng thùng thình như áo khính.

                      - Ta lợi dụng thời gian này mà xén bớt ba cái bùi nhùi trên đầu cho nó nhẹ đi, anh Bảy bà trẻ.

                      - Ý bậy nà, để làm “quản xung cơ” khi đội bom trộm chớ ?

                      - Anh lúc nào cũng nghĩ tới cái point d’orgue (*) đó hết trọi

                      (*) Ký hiệu trong âm nhạc có nghĩa dừng lại bao lâu là tùy hứng.

                      - Hồi nào mậy ?

                      - Quản Xung Cơ là mớ tóc huyền mọc trên lạch Đào Nguyên chứ đâu phải mọc trên đầu. Đó là danh từ y tế có định nghĩa như sau:

                      “Quản xung cơ là một mớ lông thưa hoặc dày tùy từng người mọc ở bộ phận sinh dục của đàn ông hoặc đàn bà có tác dụng làm cho sự cọ xát giữa bộ phận sinh dục của hai bên gây ra nhiều cảm giác hơn là những người không có nó.

                      Nhưng người đời cho rằng nếu ai gặp loại không có “quản xung cơ” thì rất xui xẻo. Sự thực đây chỉ là vấn đề khoa học thực tế không phải khoa học huyền bí như người ta tưởng!”

                      Hoàng Việt cười ầm lên:

                      - Đọ ọ… Tao chỉ nói vắn tắt thôi còn mày thì thêm mắm dặm muối, viết cả một đoạn tùy bút, thấy chưa? Khẩu dâm tế nhị hả mậy?

                      - Nè, anh nói thiệt tui nghe quản xung cơ của mấy em mắt xanh mũi lõ ở bên xứ Bún-cà-ri nó màu gì ?

                      - Mặt sao ngao vậy. Tóc màu gì “quản” màu ấy, cũng như râu của mày vậy. Chẳng lẽ tóc mày đen, râu mày lại hoe à?

                      Tôi sực nhớ ra mấy tuần nay tôi không cạo râu mà không thấy khó chịu gì. Cái gì lặp lại trong ta vài lần đều có thể thành thói quen.

                      Thói quen ở Hà Nội là ăn khoai lang sáng ăn ngô trưa ăn bắp chiều, thói quen ở đây là sáng dậy vác ba lô lên vai, bụng đói meo nếu không để dành được tí cơm chiều qua, và leo núi v.v… Sáng ở Hà Nội, thức dậy là súc miệng, cạo râu, mặc quần áo sạch vào. Sáng ở đây là không súc miệng, không cạo râu mà vừa rút lại quai dép vừa ngóng cổ chờ giao liên.

                      Đáng lẽ tôi phải dẫy đi mớ cỏ hoang trên mặt tôi để cho cái đám cưới quang đãng hơn, nhưng tôi cũng không nhớ. Không cạo râu, đói, đã trở thành thói quen từ hồi nào cũng không nhớ nốt. Đến tên thật cũng còn quên mà ?

                      Một hôm Đăng kể cho tôi một chuyện khác ở Quê hương Đồng Khởi của tôi. Đăng nói:

                      - Anh có biết ông Nhứt Chậm không?

                      - Nhứt Chậm nào?

                      - Nhứt Chậm ở giáp ranh hai làng ở gần Cổ Cò. Anh nhớ không?

                      - Nhớ ! Rồi sao ?

                      - Ổng ở trong chi ủy đó. Hồi trước Đồng Khởi ổng có vay tiền của vợ chồng bà Hai Đối để mua trâu làm ruộng. Anh biết ông bà Hai Đối không?

                      - Biết. Ổng mần ăn và hà tiện dữ lắm.

                      - Vì vậy ổng có tiền cho Nhứt Chậm vay. Nhứt Chậm cũng có bà con với Hai Đối nữa. Vậy mà Đồng Khởi xong, Nhút Chậm bắt vợ chồng Hai Đối thủ tiêu.

                      Ai cũng thấy kỳ cục. Nhưng Nhứt Chậm bảo: Hai đứa nó là gián điệp ! Thế là không ai dám xì xầm. Vợ chồng ổng hiền như cục đất, có biết gián điệp là cái giống gì !

                      - Còn ai bị như vậy nữa không?

                      - Còn chớ. Còn nhiều. Mấy ông chi ủy mình ghê lắm. Muốn nói gì nói muốn làm gì làm. – Đăng ậm ờ một chút rồi tiếp — Tôi nói chuyện này ra chắc anh buồn lắm.

                      - Chuyện gì nữa?

                      - Anh còn người cô phải không?

                      - Phải !

                      - Cũng bị kiểu cậu Tám.

                      - Hả?

                      - Họ giết mất rồi. Cũng hồi sau Đồng Khởi.

                      - Tại sao?

                      - Vì hai lẽ. Một là cô có cái radiô. Hai là một “ông nội” chi ủy ve vãn, cô bảo “Ai mà ưng cái đồ chăn trâu ! ” Họ giết để lấy radiô và rửa thù tiếng chửi.

                      Tôi ngồi lặng im, hết biết nói sao. Lại cũng đồ chăn trâu giết hại dòng họ tôi.

                      Một buổi sáng thức dậy, Vân được mấy cô nữ binh báo cáo có ba bốn cô đi đâu mất. Vân đoán ngay nguyên nhân bèn gọi Huyền tới hạch hỏi:

                      - Cô có nói gì với mấy cô bạn không?

                      - Dạ, em không có nói gì hết.

                      - Tại sao mấy cô kia đi đâu?

                      - Dạ, em không biết.

                      - Cô thèo lẻo thì cô chịu trách nhiệm, nghe ! Tại cô thêu dệt câu chuyện nghe lóm đó nên mấy cổ sợ mà trốn chớ gì ! . . . Tôi đã bảo là cách mạng thiêng liêng lắm, không bao giờ có cái chuyện như vậy đâu.

                      Tôi bịa chuyện chơi cho vui… ý mà… chuyện đó có thiệt nhưng ở bên Tàu bên Tây gì ấy, bên mình Bộ Chính trị và các đồng chí lãnh đạo chính phủ là những người đạo đức song toàn đâu có làm chuyện quái gỡ đó.

                      Huyền cúi mặt. Vân gắt:

                      - Mấy cô ấy trốn đi đâu?

                      - Dạ họ nói họ trở về Hà Nội !

                      - Xùy ! Vô tới đây rồi không có đường về nữa đâu. Cô không thấy câu ca dao bên anh lính chết nằm dưới mô đất lòi chân ở trạm năm trạm sáu gì đó à?

                      - Dạ em nhớ chớ.

                      “Vào đây thì ở lại đây
                      Bao giờ mộ mọc xanh cây thì về!”

                      - Vậy sao còn đòi về ?

                      - Dạ, em chắc mấy chị ấy nhớ nhà!

                      Vân quát:

                      - Đi giải phóng Miền Nam không có cái vụ nhớ nhà! Nghe rõ chưa ?

                      - Dạ rõ!

                      Tuy la quát như vậy nhưng Vân không làm gì được. Đăng và Bé chia nhau đi lùng và tìm lại được hai cô. Đó là cô Thúy và cô Hương. Cả hai đều là nhân viên bệnh viện và cũng trạc tuổi Huyền.

                      Vân than với tôi:

                      - Đổ bể tùm lum rồi !

                      - Tao thấy như thế là tốt đó.

                      - Tốt à?

                      - Chứ sao! Mày nên có biện pháp tích cực để giải quyết vấn đề này.

                      - Thi hành kỷ luật ?

                      - Khồ…ồng! Kỷ luật đéo gì. Có kỷ luật chăng là kỷ luật tụi …khác kia!

                      Vân lặng thinh, đầu gục thấp. Tôi bảo:

                      - Nói toạc mẹ nó ra cho các cô ấy rõ và hứa là vô tới trong kia sẽ…

                      - … sẽ gì?

                      - … sẽ gì đó thì tùy mày hoặc tùy ở trên ở dưới nào đó. Bảo cho họ biết là cách mạng không có cái lối “ăn thịt người” như thế được.

                      Vân thở dài thườn thượt.

                      - Kẹt quá đi mất! Kẹt quá !



                      Hết Chương 23 - Xem Tiếp Chương 24


                      sigpic

                      Comment


                      • #26
                        Vượt Trường Sơn 3






                        Đám cưới đạm bạc và bất ngờ của Huyền và Bé làm tôi nhớ lại những đám cưới của dân “mốc gốc lim” của Nông trường Lam Sơn Miền Bắc, tức là lính Thành Đồng Tổ Quốc tập kết được Bác Đảng cho ân huệ lên khai phá rừng trồng mía làm lò đường và trồng cao su lấy mủ làm lốp xe đạp, cuối cùng mía không đủ kháp rượu cho lính uống còn cao su thì lên không quá lưng quần đã chết rụi.

                        Tôi thiệt tình không hiểu người ta coi dân Nam kỳ tôi là thứ dân mọi rợ gì mà họ đày đọa kinh hoàng như thế.

                        Một vạn con người ta, toàn là thanh niên và đàn ông sồn sồn tức là từ bốn mươi, bốn mươi lăm tuổi không ai có vợ con gì và ở đây cũng không có đàn bà con gái. Bên cạnh một đại đội có một cái chòi con của hai cha con một lão già.

                        Đứa con gái đâu chừng mười hai tuổi gầy nhom ngực chưa nổi trái tràm. Nhà có một cái giếng loạn, bên giếng có một cây cau già không trái, đứng là một cái cảnh tượng rụi tàn. Thế nhưng các anh lính bên đơn vi vạch đường qua bụi rậm tới luôn, mãi rồi thành đường mòn nối liền đơn vị và ngôi chòi kia. Bạn thử tưởng tượng xem họ sang đó để làm gì? – Hỏi cô bé làm vợ!

                        Khi tôi đến công tác ở đây thì ngôi chòi đã sập, chỉ còn có cái giếng và cây cau già. Nhưng cái giếng thì đã lấp và ở dưới đáy hình như có xác cô gái. Còn ông già thì đã đi đâu rồi. Người ta lén kể cho tôi biết và yêu cầu đừng viết báo, rằng, cô gái đã nhảy xuống giếng tự vận và ông già đã vác đá lấp luôn rồi đi mất. Cũng có người cãi lại:

                        Làm gì có cái vụ tự vận? Ngày nào ông già đi làm rẫy, tụi quỉ cũng mò sang, con nhỏ “chịu không nổi” nên ông già dắt con gái bỏ đi. Trước khi đi ổng vác đá lấp giếng như chửi cha bộ đội cụ Hồ đó chớ!

                        Nhiều thanh niên đi lên bản tìm mấy ông già bà già Mường có con gái, xin làm con nuôi rồi dần dà lấy con gái của họ, dắt về đơn vị xin phép che cái chòi ngoài ven suối, đêm ngủ với vợ (không cưới hỏi gì) sáng đi cuốc gốc lim ! Đồng đội chế diễu “thằng rể Mường” họ độp trả lại: “Chẳng hơn tụi bây xài chị Năm?”

                        Ở cống Bàn Thạch gần Bộ Tư lệnh Sư đoàn 330 của Đồng Văn Cống có hai mẹ con nhà nọ bi lọt vào mắt xanh của anh đội Miền Nam. Một anh đội trẻ cuỗm được bà mẹ rồi về đơn vị làm mối cho một anh già hơn đến xơi tái đứa con gái.

                        Cho nên có ca dao: “Trông cha lại trẻ hơn con. Gả mẹ cho rể hãy còn đẹp đôi.” Người ta đồn rằng để trả ơn mai mối, chàng rể già tốt số phải để cho ông bố vợ trẻ chấm mút cô vợ mình chút đỉnh.

                        Lần cuối cùng (1962) đến nông trường này, tôi thấy nó tiêu điều ủ dột lạ thường. Mải miết chôn chân ở Hà Nội tôi không biết gì hết. Những khối u hoài của dân móc gốc lim còn khó móc hơn những gốc lim. Số là đám lính Nam kỳ cởi áo lính trên bảy năm làm tù khổ sai nay được gọi trở lại lính, không lên một cấp bậc nào.

                        Có những anh đi kháng chiến ở Nam Bộ mười năm chỉ làm tới chức tiểu đội phó, ra Miền Bắc bị bác Hồ bỏ quên, vẫn làm “cai” cách mạng, bây giờ già “mọc nanh” rồi, vẫn làm cai khi được gọi đi về giải phóng Miền Nam. Toàn nông trường gần mười ngàn sinh mạng bi lùa vô lò sát sinh Trường Sơn chỉ trừ những người bệnh ra lão hoặc kiệt sức. Năm mươi còn khỏe có thể xung phong và được bác hoan nghênh kịch liệt như các cháu ngoan nhất của bác.

                        Còn vài hôm nữa lên đường, họ mở đại tiệc. Gà vịt họ mua gom hết của cả chợ Ngọc Lặc đem về chất đống trước sân. Nhậu! Nhậu và nhậu. Ai đến chơi cũng đều được mời nhậu. Rượu của tỉnh Thanh Hoá xe nông trường chở hết về Lam Sơn tưới cho những trái tim khô vừa sống lại về quê.

                        Có rất đông những đàn bà con gái yêu anh đội Miền Nam và đã có con với họ. Nghe chồng đi về quê, họ kéo đến. Chả là lâu nay họ tin tưởng rằng chồng mắc gốc rau muống tại đây rồi. Nay bất ngờ Sâm Thương đôi ngã.

                        Những ông chồng chùm gởi đã nói thẳng “Xê mi ra, ông về NƯỚC.”

                        Những người vợ khóc như mưa nhưng không lấy được địa chỉ của chồng để sau này giải phóng Miền Nam xong vào tìm. Như thế thì biết được tình cảm của dân Thành Đồng Tổ Quốc sâu sắc đối với Miến Bắc xã nghĩa là dường nào !

                        Họ tởn rồi. Một lần tập kết thì tởn tới già. Đừng mong gạt họ nữa mà… uổng công. Có một số cán bộ tôi gặp trên dường Trường Sơn như các ông tá đi lậu ở trên kia. Hành động vô kỷ luật của các ông ấy là một sự đền đáp lại “ân huệ” mà họ được hưởng từ tay Bác!

                        Ôi Miền Bắc xã nghĩa !

                        Ôi cách mạng vô sản !

                        Mi là con quỉ dạ xoa ăn hết tâm hồn và da thịt của dân Nam Bộ tao.

                        Ôi Bác Hồ!

                        Ôi đảng !


                        .................................................. ....... .................................................. ..........



                        Mi là tên bịp vĩ đại đã lừa dân Nam Bộ cả tin của tao một cách thành công trong lịch sử lừa bịp của cộng sản thế giới !

                        Nhưng hãy hượm, đừng vội mừng với những bữa tiệc máu ngoả nguê. Rồi đây chúng mày sẽ phải trả giá đắt những gì chúng mày giật được nhờ bịp .

                        Cặp trai gái Huyền Bé yêu nhau ư? Không hẳn vậy. Huyền biết mình sắp làm thứ đồ chơi cho lũ quỉ dâm dục mặc áo lãnh tụ, nên tìm ngả rẽ, nơi mà bàn tay của Bé đã vẫy gọi nàng. Còn Bé bị đưa ra đây không ngày về nên tìm hơi ấm nơi người con gái Miền Bắc mà nó quen trong vòng mấy ngày.

                        Yêu ở đây là giải thoát. Đám cưới vừa qua là một sự hùn vốn của hai người vô sản muốn sống và hưởng mùi trần thế ở một địa ngục khó thoát.

                        Vài hôm sau, khách ở trạm ngoài vô khá đông, đông nghịt những đơn vị võ trang. Đăng hoảng vía. Đăng sợ máy bay đánh hơi được thì sẽ có một trận nhảy dù thứ hai hoặc một trận oanh kích.

                        Có lẽ anh ta không sợ phải chôn xác chết, phải chuyển thương binh (anh ta có làm những việc này đâu mà sợ) mà anh ta sợ bể cái điểm của anh ta. Nếu phải dời đi, anh ta phải cất một ngôi nhà khác, anh ta phải đốn cột kèo với cái trành bằm và chằm hằng ngàn tấm lá để lợp nóc nhà.

                        Đôi khi vì một quyền lợi nhỏ nhen, người ta làm một việc lớn khác và người ta làm bộ như là hành động vì cái việc lớn này. Bọn cộng sản Việt Nam bây giờ là một ví dụ. Chúng đang cố bấu víu Quyền và Lợi kếch xù của chúng – đó là bắt sáu mươi triệu người phục dịch cho chúng và gia đình chúng như những nô lệ thời phong kiến phục dịch những đế vương

                        – Thế nhưng ngoài mặt thì chúng chạy lăng xăng nay đi xin viện trợ, mai họp đại hội lần sáu, lần bảy để “lo cho dân tộc.” Cái anh giao liên tên Đăng này là hình ảnh thu nhỏ lại của đám đầu sỏ cộng Bản. Nhưng anh ta khá hơn chúng vì anh ta không bắt ai phải phục dịch anh ta.

                        Anh ta đập khách dậy từ hừng sáng và hành quân ngay. Chu đáo hơn những trạm khác, Đăng dẫn đầu với cây các-bin, Bé bọc hậu với cái dao găm Hàng Mã và cái bay-on-nét tháo ra từ khẩu các-bin của Đăng.

                        Đi sát với Đăng là tôi, Hoàng Việt, chị Phụng, Vân và đám nữ binh. Khúc sau thì hầm bà lằn, khúc thì dân chính, khúc thì bộ đội, khúc thì bộ đội và dân chính pha chè. Ở đoạn này đường bằng phẳng nên dễ qua mặt nhau.

                        Ai qua mặt kẻ khác được cứ việc qua mặt. Ai đuối sức cứ tự nguyện tụt hậu, cho nên đi được vài tiếng đồng hồ thì cái xã hội xã nghĩa táp nham này tự xếp lại theo một trật tự mới, mà giai cấp lãnh đèn đỏ đáng thương hại nhất là những anh bộ đội què và những chàng không què nhưng lại phải khiêng nòng cối 81 và cõng đế cối 60.

                        Bạn cứ tưởng tượng một anh lính được bồi dưỡng bằng cơm-cháo-nước suối và sốt rét đã phải cõng một cái đế cối 60 cộng với ba lô của mình trên lưng và… leo núi.

                        Hôm nay ai cũng có vẻ lo lắng vì trước khi đi, Đăng cho biết là phải vượt qua một bãi pháo rất rộng. Trước đây chúng bắn có “cữ.” Một ngày ba cữ sáng, trưa, chiều, nhưng có lẽ nó rút kinh nghiệm bắn như vậy không có kết quả cũng như sốt rét, mình biết trước mình chặn cữ. Bây giờ nó bắn như thằng khùng đập bậy không có giờ giấc gì hết.

                        Có khi hai ba ngày không bắn, có khi vừa bắn xong, nửa tiếng đồng hồ lại bắn. (Bãi này phải mất một tiếng đồng hồ mới qua khỏi). Nó cũng đoán tâm lý: Hễ dứt loạt pháo là giao liên dắt khách chạy băng. Vào đúng giữa bãi nó lại bắn. Y như gài bẫy. Có lần một đoàn khách bị dính bẫy. Một nửa đoàn nằm lại bãi vinh viễn.

                        Pháo nó bắn chụp ác lắm. Mỗi phát sáu quả, rơi thành một vòng tròn bề kính chừng một trăm mét. Vô phúc một trưng đội lọt vào cái vòng lửa đó thì rụi sạch. Một đại đội chỉ cần lãnh hai vòng thì còn sót loe hoe vài mống ngất ngư.

                        Gần tới bãi thì Đăng dừng lại, bảo một cách tỉ mỉ vô cùng:

                        - Các đồng chí nghỉ một chút xem lại đồ đạc, gài các nút túi áo, thắt lại dây nịt, rút lại quai dép, buộc chặt các nắp ba-lô, gà-men dồn vô ba lô không được đeo trong lưng, bi-đông mang chéo trước ngực, đồng chí nào có súng ngắn, thì tốt nhất bỏ vào trong ba lô, đeo bên hông khi chạy nó đập vào đùi khó chạy nhanh được.

                        Cuối cũng là cái “thủ cấp” phải siết quai thật chặt vào cổ. Xong xuôi tất cả rồi thì nhảy cà tưng tại chỗ vài chục cái coi có món nào sút hoặc rơi thì chỉnh đốn lại… Tôi cho ba mươi phút nghỉ rồi bắt đầu. Ai chạy được cứ chạy, không nên chờ đợi. Qua tới bìa rừng là dừng lại tập trung ở đó, tôi sẽ dẫn đi tiếp.

                        Nửa giờ sau cuộc chạy đua bắt đầu. Vui lắm! Không có ai đuổi mà phải chạy. Tiếng kêu réo tiếng la ó vang rân. Người bị rơi lại phía sau kêu người chạy phía trước, người phía trước giục kẻ rơi ở đàng sau. Xen lẫn vào đó là tiếng quát tháo của chỉ huy các đoàn và giao liên. Đất cát mịt mù xóa bóng hình thấp thoáng giống như bãi chiến trường của một đạo quân cô-dắc không có ngựa và không có đánh nhau với kẻ thù.

                        Thế mà vẫn có kẻ bị thương vì ngã. (Không phái vì tự sát thương như ở những trạm ngoài. Lính đã vô tới đây là đã dứt khoát năm mươi phần trăm tư tưởng đi với đảng không làm bê quay cũng không tự bắn vào chân nữa. Nhưng vô tới Nam Bộ thì lại “quay” vô Sài Gòn. Con số lính Bắc Việt hồi chánh, theo tôi biết, có đến cả trăm ngàn trong vòng năm sáu năm trong đó có Thượng tá Trần Văn Đắc tức Tám Hà, Thượng tá Lê Xuân Chuyên, Trung tá Huỳnh Cự v.v .

                        May quá bữa hôm nay lính Ngụy mắc đi nhậu ở bar hay đi ăn giỗ ngoài nhà dân nên không bắn pháo. Nhờ vậy đoàn người “Cô-dắc đi chân” không bị sứt mẻ nhiều.

                        Đến mé rừng, tôi và Hoàng Việt ngả dài ra đất bất chấp trời trăng. Hai ông giao liên rất khoan hồng. Họ để cho khách tha hồ nằm ngồi và tự bồi dưỡng bằng cách hít khí trời của Đảng, không hạn chế. Đám nữ binh của dược sĩ Vân cũng tới nơi đủ mặt. Những anh lính khiêng nòng pháo 81 dường như bất chấp kẻ thù “mày pháo tao cũng pháo” nên cứ đủng đỉnh đi trên bãi trống.

                        Tôi đã thấy pháo binh dùng xe đẩy phân của hợp tác xã di chuyển pháo trên đường quốc lộ 1 và tôi cũng đã trông thấy những chiếc đế pháo cối ném ở dọc đường. Những đế cối đó nằm lót đường cho chiến sĩ bước qua hoặc ngồi nghỉ cho nên đã vắng mặt ở đây chứ gì. Nòng không đế, dựng ở đâu mà bắn ?

                        Đăng đến chúc mừng tôi sắp về đến quê hương và nhờ tôi đến gặp gia đình nói dùm anh ta ở ngoài này vẫn mạnh khỏe và phấn khởi công tác, trong lúc Bé cũng đến cảm ơn Vân và hứa hẹn sẽ dìu dắt Huyền công tác tốt.

                        Đăng nói với mọi người đang lấy lại sức nằm ngồi đầy đất

                        - Hôm nay chúng ta vượt qua bãi pháo an toàn là nhờ các đoàn chuẩn bị chu đáo và thi hành đúng kỷ luật đi đường! (!!)

                        Một người khách hỏi:

                        - Hồi trước tới giờ có đoàn nào bị nạn không đồng chí giao liên ?

                        - Có chút …đỉnh thôi. Một đoàn bị bắn trúng giữa đội hình, một đoàn khác bị vét đuôi mà chỉ vài người bị thương xoàng !

                        - Có thiệt hại gì không đồng chí?

                        - Không thiệt hại gì cả. Sơ sơ chừng vài chục.

                        - Sao mình không đổi đường?

                        - Ở trên không có lệnh, đổi sao được.

                        - Bộ đồng chí không báo cáo lên trên à?

                        - Có nhưng mà mình dẫn khách chớ ở trên đâu có dẫn khách mà ở trên lo.

                        - Đồng chí phải tự động chứ!

                        - Thì tôi cũng đdã tự động nhiều rồi ! – Đăng kể tiếp – Cái đoàn pháo binh kia kìa hôm trước họ qua sông không được. Lính các ổng toàn không biết lội, tôi bảo chặt cây rừng làm bè nhưng họ không có dao to. Họ không biết làm sao. Nếu để họ phất phơ ở ven bờ sông thì có cơ hội bi “cá lẹp” mần gỏi. Cho nên tôi bảo họ đi cặp theo bờ sông ngược lên nguồn dò xem chỗ nào cạn thì lội qua.

                        - Thế kia à?

                        - Đi tới ngọn sông mất một ngày rưỡi đường. Trở xuống ngang bến cũ mất hai ngày nữa. Tất cả là bốn ngày. Trong lúc đó thì những người không khiêng pháo đã bơi qua sông nằm chờ. Và bị bắn đêm trước. Té ra tưởng khỏe mà lại mệt.

                        Đăng kết thúc câu chuyện với một câu than thở riêng với tôi:

                        - Thà ôm súng đánh giặc mà khoẻ anh ạ ! Còn cái công tác này coi khỏe mà lại mệt cầm canh. Chết không lên đài tử sĩ được đâu !

                        Vừa tới đó thì trên nền cát trắng có một chấm đen di động về hướng này.

                        - Ông nội nào tụt biệt đằng sau vậy? – Đăng càu nhàu rồi quay lại hỏi đám người gần đó – Có phải người của các đồng chí không, ra rước dùm chút, một bước đỡ một bước.

                        Cái chấm đen càng đến gần và dần đần hiện rõ ra là một cô gái. Rồi một cô kêu ré lên:

                        - Con Huyền, con Huyền !

                        - Vợ mày hả Bé ? – Đăng buột miệng quát – Ra rước nó đi !

                        Đúng là Huyền. Huyền đến thấy chị Phụng nhào vào lòng khóc rưng rức.

                        - Cái con nhỏ lạ chưa? Bữa đám cưới hứa hẹn nghe ngon lắm, mà chồng đi chưa đầy một ngày đã vác ba-lô chạy theo.

                        Trước mặt mọi người thằng Bé đứng chết trân, có vẻ ngượng nghịu, không biết nói gì mà cũng không lại gần Huyền. Mấy anh tân binh thấy cô gái xinh xắn và biết Huyền là vợ của Bé qua câu chuyện qua lại giữa Vân và Đăng, thì tỏ vẻ bực rọc nên lên tiếng chế diễu:

                        - Ở ngoài đó bộ con trai không ai biết đánh. . . đu cả nên mới vác cái mu rùa vô đây nộp !

                        - Mặt mũi có vẻ sáng mà óc thi óc lợn!

                        - Lấy ai không lấy lại lấy nòi “niêu manh.”

                        - Ê phản động nghe ! – Một tiếng Nam kỳ quát – Tụi bây nói ai lưu manh?

                        - “C… cô hồn, l… nhà nước” thằng nào giỏi quơ thì xài chớ. Tụi bây vô tới trỏng tao cho con gái trịnh “mê thúng” lên đầu.

                        Huyền đã dứt khóc. Chi Phụng buồn rầu hỏi:

                        - Sao em lại thay đổi ý kiến mau vậy?

                        - Em tính nhầm chi ạ!

                        - Nhầm thế nào? – Vân quát.

                        - Em không dám ở lại trạm một mình đâu. Em chết mất. Em xin tự kiểm điểm và xin anh cho em trở lại công tác của đoàn.

                        Trước sự việc bất ngờ, Vân không biết nên quyết định ra sao. Còn Đăng cũng đương lặng thinh, kẹt cứng. May sao Hoàng Việt lên tiếng:

                        - Tôi đề nghị với hai ông như thế này, Đây là trường hợp cá biệt, ta phải giải quyết thế nào cho hai đứa bé không phải đau khổ mà vẫn có lợi cho cách mạng phải không nào? Theo tôi thì ông dược sĩ nên nhận cho cô em trở lại đoàn mà không phải bị một hình thức kỷ luật nào.

                        Tuy cô bé rẽ ngang nhưng so với những người tự sát thương làm bê quay và làm thổ phỉ thì cô còn tốt chán. Còn cậu Bé là nhân viên của trạm nhưng nếu cô Huyền đi theo đoàn thì Bé vừa cưới vợ lại mất vợ hay sao ? Vậy tôi đề nghị cho cậu Bé đi với Huyền luôn.

                        Đăng vung tay:

                        - Đi đâu thì đi. Tôi không cần giữ làm gì ! – Rồi tiếp – Quê nó ở Bà Rịa. Khi đi vô ngang đó, các ông cho hai đứa nó về quê cho rồi. Ở đây có ngày cũng chết lãng nhách về nạn cà-nông. Qua qua lại lại cái bãi này sớm muộn cũng dính thôi ! Xương với tóc lác đác trên bãi các ông thấy không?

                        Thế là giải quyết gọn hơ vấn đề. Nhưng lại lòi ra vấn đề khác.

                        Khi mọi người tiếp tục lên đường thì có năm sáu chú bộ đội “xin phép” nằm lại..

                        - Tôi có phép đâu mà xin ! – Đăng quát ầm ĩ – Muốn đi thì đi, muốn nằm thì nằm, ai khiển các ông cho nổi.

                        Một cậu sút dép đạp mảnh đạn đứt một vết sâu giữa gan bàn chân, hai cậu ôm bụng kêu đau. Đăng quát:

                        - Tôi không phải là bác sĩ !

                        - Lá mía em ở vào thời kỳ thứ ba. Lúc nãy em ngã cả năm phút không dậy nổi.

                        - Em cũng thế! Bụng đau quá, em không đi nổi nữa rồi!

                        Đăng bảo:

                        - Có hai cách. Một là các anh nằm lại đây tôi trở về rước ra trạm ở với tôi.

                        - Ối giời, em hãi cái bãi này lắm! Em qua được đến đây là như đầu thai kiếp khác.

                        - Một cách nữa là….- Đăng tiếp – Nằm lại đây dưỡng bệnh, hết bệnh tôi đến đưa đi tiếp.

                        - Lấy gì chúng em ăn ạ?

                        - Lấy gì thì lấy, tôi cũng không có cái gì ăn thì tôi có cái gì cho các ông ?

                        Vân lắc đầu. Tôi thấy bất nhẫn lương tâm. Vân bước đến bảo bệnh nhân:

                        - Giở áo cho tôi xem!

                        Người lính run run cởi cúc, vén áo lên. Vân chỉ mới ấn nhẹ tay, anh ta đã kêu lên oai oái. Vân lại lắc đầu:

                        - Phải nằm lại và chích thuốc. Đến thời kỳ này quinine viên không ăn thua – Vân vừa nói vừa vạch mi mắt bệnh nhân và quay đi, không nói gì.

                        Giao liên cũng không nói gì, lặng lẽ vẫy tay ra lệnh cho khách đi. Tôi vẫn đeo dính theo Đăng. Đăng vừa đi vừa trỏ tay về phía một cội cây gì đứng trơ trọi gần ven rừng, nói với tôi:

                        - Anh biết cây gì đó không?

                        - Cây gì?

                        - Cây xương người!

                        - Cây xương rồng thì có chứ cây gì lại cây xương người, chứ?

                        Đăng nói:

                        - Lúc nãy em không dám khai thiệt vì có đông người, chứ pháo bầy ác hơn máy bay anh ạ.

                        - Pháo bầy là pháo gì?

                        - Pháo bầy là pháo nó bắn một lúc cả chục trái cũng như trâu bò bầy vậy. Pháo này hại mình nặng hơn máy bay vì máy bay tới, mình biết đường mà tránh. Tôi nói thiệt với anh là các thứ máy bay, tôi chấp! Đầm già tới bắn trái khói là tôi uống hai chung trà nữa rồi mới chạy. Mà chạy ra xa ngoài vòng sát thương của bom rồi tiếp tục ngồi uống trà. Sống nhăn! Còn cái thứ cà-nông “đui” này nó phang bậy mà nhằm.

                        Nói giấu gì anh, tôi chết hụt hoài thôi. Bị cả chục trận rồi mà chưa dính phát nào. Còn khách thì bị tỉa nặng. Dưới gốc cây đó có một cái hố. Tôi với thằng Bé lâu lâu đi nhặt xương đem gom lại dưới hố đó. Kệ, tuy không được chôn cất nhưng “nằm chung” cũng ấm hơn là phơi giữa bãi hoang. Tội nghiệp, đâu có biết tên họ gì.

                        Giấy tờ bay mất hết. Đôi khi tôi nhặt được hình hay chứng minh thơ nhưng đâu biết là quê quán ở đâu. Vả lại, theo mấy ổng nói là mọi người trên đường này đều bỏ tên họ cha sanh mẹ đẻ, lấy tên họ mới cả. Và trong giấy không có ghi làng xã gì mà toàn là X2, H4, A7, B5 coi kỳ cục quá.

                        - Từ đây vào tới ranh Nam Bộ còn bao xa nữa?

                        - Cũng gần thôi, nhưng trạm trong này dài lắm. Một trạm bằng ba trạm ngoài đó. Sắp tới đây còn một cái dốc nữa. Ăn hết ráo gạo mới trèo xong.

                        - Vậy hả? – Vân đi sau lưng tôi kêu lên – Cái dốc này cũng bằng cái Vịnh Trà Bay ở Long Mỹ.

                        - Người ta đặt chuyện nói đó là cái cạnh đuôi của con rồng cái. Nó nhỏng đuôi lên để đẻ, cho nên cái dốc này cao tới mây. Tiền hung hậu cũng hung! Qua cái dốc đuôi rồng này rồi là đồng bằng tha hồ dòm ngó. Nó “chụp” liên miên cũng tha hồ chạy !

                        - Giò cẳng còn đâu nữa mà chạy ? Tôi nói và quay lại nhìn cặp giò quấc của ông nhạc sĩ giao hưởng Bún-cà-ri.

                        Trước khi băng qua bãi pháo ông bạn đã cởi quần dài buộc hai ống ngang cần cổ “cho chắc ăn” để phơi bày hai cái ống sậy mang dép giống như hai cái dấu nhạc. Không khéo nó lọi ngang có bữa. Tôi vừa vui vui nghĩ vừa quay lại bảo:

                        - Anh đi lên trước đi anh Bảy.

                        - Thôi, tao không có kéo ngọn nữa đâu. Rủi đứt đuôi mấy thằng bộ đội nó oánh tao !

                        Trông anh đến buồn cười. Cái cửa hàng xén lưu động của anh rườm rà vui mắt hơn bất cứ của ai trong đoàn. Từ các chặng này trở vô, người ta nhặt được rất nhiều hộp lon không và hộp lon đầy của quân Mỹ vứt lại.

                        Hoàng Việt lượm bỏ vô ba lô để chờ khi đắc đụng nhưng mỗi khi nhặt được cái nào đẹp hơn thì lại “được mới nới cũ ” anh giản chính bớt, nhưng ít ra anh cũng có đến bốn năm cái làm vốn.

                        Một lần anh nhặt được hộp nho nhỏ, không biết đựng thức ăn gì, nhưng anh đọc được chữ “Georgia” trên hông hộp, anh đưa cho tôi coi và nói:

                        - Đây này mày thấy không, già Khơ giúp lương thực cho tụi Mỹ ăn đánh mình đây này!

                        Tôi cầm lấy cái hộp coi tới coi lui nhưng chỉ hiểu vài ba chữ Anh học hồi học trung học, nhưng lại không biết Georgia là một tiểu bang của nước Mỹ, mà chỉ nghi đó là một trong mười lăm nước Cộng hoà Xô viết của Liên Xô, nên cũng la ầm lên:

                        - Đ m. già Trọc chơi cú tiêu lòn này hại quá! Súng thì cho bốn ngàn cây hồi thời Nga hoàng, bây giờ lại chơi cái mửng này nữa. Mình bi mình hại rồi.

                        - Lại thêm “cụ Mao” cạo đầu cụ Lưu bên Trung Quốc nữa. Toàn chuyện “xuông cựa ! “

                        - Xương máu mình rẻ hơn nước lã.

                        Mấy người bộ đội nghe chúng tôi nói chuyện bèn rề lại đòi xem cái hộp. Xem xong họ cũng kêu trời và hỏi tôi:

                        - Đồng chí nói bốn ngàn súng Nga hoàng là súng gì, ở đâu?

                        - Tố Hữu đi theo Lê Duẩn qua hội đàm bên Liên Xô về xét lại xét liếc gì đó về nói chuyện tại cơ quan tôi, ông ấy cho biết như thế.

                        - Vậy còn AK tụi tôi xài đây là ở đâu ?

                        - Già Trọc văng rồi, Kossigin lên nên mình mới có pháo phòng không và AK đó chớ.

                        - Còn đồng chí nói cụ Mao cạo đầu cụ Lưu nào?

                        - Mao Trạch Đông cạo đầu Lưu Thiếu Kỳ bằng tay bà vợ bé, chớ Mao nào!

                        - Sao có chuyện kỳ cục vậy? Mà ai nói chớ?

                        - Đài Bắc Kinh.

                        - Có thiệt không?

                        Tôi hơi cáu:

                        - Thiệt hay không tôi không biết, nhưng đó là tin của đài Bắc Kinh, tôi nghe cách đây một tháng. Hồi đó đoàn tôi có cái “đài” và tôi còn đi chung.



                        Hết Chương 24 - Xem Tiếp Chương 25


                        sigpic

                        Comment


                        • #27
                          Vượt Trường Sơn 3






                          Đúng như lời của Đăng nói, hai hôm sau chúng tôi suýt bị chụp. Giao liên dắt đoàn khách quân dân chánh chạy “ém quân”" chờ địch rút mới trở lại trạm. Khách bên ngoài lại ùn vào mỗi ngày mỗi đông.

                          Ngữ tới trong đoàn khách sau cùng.

                          - Cậu làm sao qua sông?

                          - Túm ba lô bằng ni-lông. Ối giào, từ thuở bé đến giờ em mới bơi qua sông là một.

                          - Thăng Núi… ?

                          - Em chôn nó tử tế. Nó tự vận đấy anh ạ!

                          - Tôi biết ! Tôi thấy mấy viên kí-nin rơi vãi trên mình nó và cái bi-đông sút nút nằm dưới đất, nhưng tôi không muốn cho ai nấy biết, để khỏi bận tâm vô ích.

                          - Thôi vậy cũng yên thân! Em đã giữ lại tất cả hình ảnh thư từ để sau này đưa về cho gia đình nó. Ác quá ! – Ngữ tiếp – Mấy lúc em xốc nách nó đi với em, nó đòi nằm lại luôn anh ạ. Nó cứ than nó không sống nổi hoài !

                          Em quát nó, nhưng nó vẫn cứ nói như trối. Nào là nhắn dùm con bé Đôi hãy quên nó đi mà lấy chồng, nào là nhắn bố mẹ nó đừng buồn coi như nó hi sinh cho Miền Nam cũng như ba anh nó hi sinh trong kháng chiến.

                          Nhà nó thế là cụt hết con trai. Nó nói vậy. Và nó khóc. Ngữ rưng rưng – Em đoán được ý định của nó, nên em moi lấy gói thuốc của nó để giấu nhưng nó bỏ ở túi áo trước rồi, không để trong ba lô nữa.

                          - Rồi cậu có làm dấu gì cho mả nó không?

                          - Giao liên dời trạm luôn rồi anh ạ! Ai còn đi ngang đó làm gì nữa.

                          Tôi bỗng thấy, sau câu nói của Ngữ, một sự hoang lạnh của cả trời đất đổ ụp xuống vùng núi rừng không có bóng người này, nơi có một nấm đất lè tè mà mai kia, chỉ vài trận mưa đã xóa bằng mặt và cỏ dại sẽ bò lên phủ kín trong lúc ở nhà cha mẹ và người yêu vẫn ngày ngày mong tin… chiến thắng của người đi…

                          Trên con đường này tôi đã gặp bao nhiêu nấm đất như vậy. Tôi đã gặp những bộ xương rũ trong hốc đá mà bên cạnh là ba cây AK giá dá vào với nhau như trong giờ phút giải lao ở thao trường.

                          Tuổi trẻ đã bị đem ra xài như những món đồ vật, nhưng đồ vật hỏng thì sửa chữa còn ở đây hỏng là vứt vì không có xưởng sửa chữa cho bệnh nhân.

                          Hai hôm sau khách lại đùn đông nghẹt, đa số là lính.

                          Và chúng tôi leo cái đuôi nhỏng của con Rồng đẻ.

                          Hoàng Việt đứng dưới đất ngóng lên và càu nhàu như thường lệ:

                          - Có còn sâm đâu nữa ngậm để mà trèo !

                          - Mỏi gối chồn chân cũng phải trèo hiền nhân quân tử ơi !

                          - Từ vô trường đi B tới nay tao tu, có làm gì mà mỏi gối hả thằng quỉ ? Mày mới mỏi gối chồn chân thì có !

                          - Coi vậy chớ dây xích chưa nhão đâu, chỉ mới khô dầu tí thôi !

                          Trong lúc rảo tới rảo lui chờ lệnh xuất phát, tôi gặp nhiều người quen ở Hà Nội. Tôi có cảm giác là tất cả các chiếc tàu Stavaropol và Arkhangels đã chạy trốn mất vì nhận thấy lỗi lầm quốc tế của họ đã đem những đồng chí của họ trút vào một vùng đất chết, hơn nữa một trại tù khổ sai mang tên Miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

                          Trong số người quen này, có một ông chú họ, chung đầu ông cụ, chú lớn vai nhưng nhỏ tuổi hơn tôi. Chú được cho đi Liên Xô học đỗ Phó kỹ sư nông học. Chú là em ruột của ông trung đoàn chết ở Kà Tum.

                          Tôi định nói ngay cái tin cô tôi chết với những chi tiết của Đăng kể, nhưng may sao tôi ghìm lại được nhờ tôi nhớ tới thằng bạn ở Viện Nông học của ông Lương Đình Của ở Gia Lâm đã từng cho tôi uống sữa trâu để viết bài tuyên truyền, tới nay nhắc lại còn mắc ói.

                          - Chú có gặp thằng “kỹ sư súc vật” không?

                          - Kỹ sư súc vật nào ?

                          Tôi nói tên. Chú cười:

                          - Nó được chuyển từ chăn trâu qua chăn… gà.

                          - Gà gì mà phải chăn vậy chú.

                          - Giống gà Anh Cát Lợi, mỗi con nặng tám kí lô, mỗi ngày đẻ hai trứng.

                          - Có to bằng ếch Cu-Ba không chú?

                          Chú tôi gạt ngang:

                          - Thôi bỏ mấy vụ đó đi mày ! – rồi hỏi tiếp – Tao nghe nói mày về lâu lắm rồi sao bây giờ còn ở đây?

                          - Đi được một tháng thì quẹo cu-lát nằm đường đó chú. Còn chú đi hồi nào?

                          - Tao đi đúng một tháng tám ngày.

                          - Tôi đi loạt đầu khá lắm. Sau mấy cơn sốt cứ lê từng trạm một. Mới vừa khá lại cuốc được mấy trạm liền. Chú biết cỏn bao xa nữa thì tới không?

                          - Non tháng ! Tao nghe nói vậy thôi! Chưa chắc !

                          Đoàn bắt đầu đi, câu chuyện hàn huyên bị gián đoạn. Nhưng khi leo được một phần ba dốc thì giao liên cho nghỉ một giờ để lấy sức leo một đoạn cuối ác hơn. Chú lại tìm đến tôi. Hai chú cháu mắc võng nằm tâm sự vụn không lo ai rình nghe, báo cáo lên trên.

                          - Thằng Chánh đi học điện ảnh bên Đông Đức vừa về. Còn thằng Bình em nó đã hi sinh.

                          - Hi sinh ở đâu?

                          - Đâu bên Lào, nghe nói bán chánh thức. Tụi đi Lào chết không có giấy báo tử.

                          - Rồi chú Chánh có hay không?

                          - Lúc tao về thì nó đã biết rồi, nó vô Bộ Tổng hỏi thì người ta bảo đó là chuyện quốc phòng không thể nói được. Chậc! Đám mình ra đây rắc xác khắp nơi.

                          Ở trạm 15, 16 gì đó có một đám lính Nam Bộ trôi ra trôi vô, bảo vệ đường dây, thấy đoàn tao đi ngang chúng nó khóc mùi. Chúng nó bị neo ở đây không được về. Thấy người ta về mà khóc.

                          - Tôi cũng gặp đám đó. Chú định về làm gì trong mình?

                          - Chưa biết nghề ngỗng gì. Kêu về là về cái đã.

                          - Chú đi học Liên Xô được bằng cấp Phó kỹ sư Nông học chú không có kiến thức gì sao mà nói vậy.

                          - Kiến thức thì kiến, nhưng đất người ta khác, đất mình khác, lúa má cũng khác. Người ta có cấy lúa đâu mà áp dụng cho nước mình được.

                          - Vậy chú đi làm gì cho mất năm, sáu năm ?

                          - Vậy ở bên này làm gì, nếu không đi, cũng mất cả chục năm? Có lẽ tao về làng mình để học lại mấy ông nông dân cố cựu và xin mấy ổng phát cấp bằng mới cho, trước khi làm công tác nông nghiệp.

                          - Chú nói vậy còn ông Lương Đình Của thì sao ?

                          Chú cười:

                          - Ổng cũng kẹt đạn như mấy người mình thôi, nhưng vì ổng là “sư mòng” trong Nông nghiệp nên người ta không dám bóp hung. – Ngưng một chút, chú tiếp – Ở đâu cũng vậy hè mày ơi. Vấn đề tranh giành địa vi là ghê gớm nhất chứ chẳng phải là công tác.

                          Tôi thở dài, vừa mệt cho đoạn đường này, vừa ngán ngẩm cho con đường tôi đã đi qua. Tôi có biết kỹ sư nông học Lương Đinh Của. Tôi đến chơi với ông luôn, hoặc tại Viện Nông học của ông ở Gia Lâm, hoặc ở tại nhà của ông trong cư xá Kim Liên ( ?) cách Hà Nội không xa lắm !

                          Tôi thấy mỉa mai, thật tình! Mỉa mai cho trí thức và cho đảng tiền phong (!!). Lương Đình Của là người Sóc Trăng, nòi địa chủ. Ông có ý tưởng phát minh nông nghiệp nước nhà từ thời còn ngồi ghe đi thu lúa ruộng cho ông bố. Lớn lên học tiếng Pháp nhưng lại sang Nhật đi về ngành trồng lúa, đặc biệt về cây lúa nhiệt đới. Ông đã đỗ bằng Tiến sĩ Nông học tại Nhật và làm việc tại xứ này với một địa vị rất cao. Ông có vợ Nhật.

                          Sau nhiều năm làm việc tại đây ông đã đưa ra những phát minh và luận án về Cây Lúa của Việt Nam. Với luận án này ông đã đạt đến tầm mức chưa từng có của người ngoại quốc trong nền nông nghiệp của Nhật Bản.

                          Ông về làm việc ở Sài Gòn (hình như trong Bộ Canh Nông). Rồi không biết ai móc ngoéo dụ dỗ thế nào mà ông bỏ nhiệm sở đi theo cộng sản, ra Hà Nội đâu khoảng sau 54. Tưởng là đem tài năng ra hoán cải đất đai khô cằn của Miền Bắc phục vụ nhân dân của ông. Âu cũng là một cách thực hiện giấc mơ thuở thiếu thời của ông vậy.

                          Nhưng than ôi, người Nam Bộ không bao giờ được trọng dụng dưới triều Hồ, cả những anh chàng dày công với đảng, với kháng chiến nữa là một tên kỹ sư Ngụy như ông Của.

                          Ông được cho làm Viện phó Viện Nông Lâm Súc (thằng bạn của tôi là “kỹ sư súc vật” nơi đây). Trên đầu ông là Viện trưởng Bùi Huy Đáp. Tai hại thay, Đáp lại là học trò của Liên Xô, kẻ “giảng đạo Mitchourine Lyssenko’ trong ngành Nông nghiệp Việt Nam, trong lúc ông Của lại là đồ đệ của nền Nông nghiệp Nhật Bổn.

                          Liên Xô và Nhật Bổn là kẻ thù cựa-chọi-cựa, răng-cà-răng trong chiến tranh, cũng là đối thủ của nhau trong khoa học mà tượng trưng là cặp Đáp-Của.

                          Ai thắng? Của thắng trong chuyên môn.

                          Ai thua? Đáp thua cũng trong chuyên môn.

                          Nhưng cuối cùng lại cũng Chuyên thua Hồng. Cho nên rồi:

                          Của thua, Đáp thắng. Chỉ vì Đáp là Viện trưởng, kẻ có quyền phổ biến những phát minh của Viện hoặc phủ nhận những phát minh ấy. Lương Đình Của đã lai tạo được nhiều giống lúa, trong đó tôi biết có các giống Thần Nông, Nông nghiệp 1, Nông nghiệp 2. Nhưng cái viện Nông Lâm “súc vật” của ông học trò Nga đã vùi dập luôn không cho phổ biến. Khi tôi sang gặp ông để tìm tài liệu viết bài (Hạt Giống Mới đăng trên báo Văn Nghệ) tôi gặp một ông lão Nông là người giúp việc chuyên môn cho kỹ sư Của.

                          Ông lão cho tôi biết là giống lúa của ông Của rất khỏe, ông ta đã lén đem cho nông dân vùng Gia Lâm gieo thử. Lúa rất trúng, đạt năng suất gần gấp đôi lúa thường. Do đó nông dân vùng Gia Lâm mới đòi giống NNI, NN2 của ông Của. Nhờ vậy mà vỡ lẽ ra. Bài báo của tôi đăng lên trong lúc các loại giống kể trên đã về tới đồng ruộng Thanh Hóa và được đón nhận như một thành công của Viện Nông Lâm Súc

                          Ông Của suýt được tặng danh hiệu anh hùng lao động cùng một khóa với Bác sĩ Tôn Thất Tùng (*).

                          (*) Vì viết tiểu thuyết bị bác hoài nên tôi nản chi, lẻo đẻo theo các ông anh hùng, chiến sĩ thi đua viết truyện, lấy họ làm nhân vật chính, không nhà Xuất bản nào dám bác nữa. Sau các truyện Hạt Giống Mới, Trái Tim Đầu Tiên, giải nhất truyện ngắn nói về BS Tôn Thất Tùng, tôi viết về anh hùng đường sắt, anh hùng làm phân xanh, anh hùng nuôi vịt Tàu hết xẩy.

                          Khi nghe tin này, tôi đến để mừng một người Nam Bộ được vinh dự đeo mề-đay tối cao xã nghĩa. Nhưng khi vừa đến gặp ông thì ông kêu lên: “Không biết ai trình lên trên mà “họ” đẽo tôi một cú văng tuốt, chút” Tôi ngần người ra: Ai chơi ác vậy? – Đâu có biết!… Tôi cũng tưởng là chắc ăn rồi, không ngờ bị Bác gạt tên. Chắc Bác muốn thử thách tôi thêm chớ gì !” Ông Của nói vậy rồi vẫn vui vẻ tiếp tôi và khoe:

                          “Tôi vừa đi Nhật về! Chú biết không? Họ mời tôi ở lại làm việc cho họ với số lương… (?) (có lẽ 2 đô 50 xu một tháng như lương cán bộ xã nghĩa bây giờ chăng?) nhưng tôi nói: Để tôi lo cho nước tôi trước !” Cũng nên biết thêm ông Của đã lai tạo được một loại “dưa hấu không có hột” (chính ông kể cho tôi). Thời ấy Mỹ đã mời ông sang Mỹ làm việc và chỉ trồng loại dưa hấu ấy thôi. Ông cũng không đi.

                          Mỹ mua mỗi hột “dưa hấu không hột” ấy một đô la. Đem về trồng, dưa ra quả ăn rất ngon, nhưng không có hột, cho nên muốn ăn dưa không hột lại phải mua hột dưa không hột của ông Của, mỗi hột một đô la. Nên nhớ thời đó (1940-45?) một đô la là bao lớn ?


                          .................................................. ... .................................................. ..............



                          Ông sang Nhật kỳ đó, các bạn đồng niên trong nền nông nghiệp Nhật gọi ông là “Tiên sinh” để tỏ lòng cảm phục về tài năng và về lòng yêu nước cao cả của ông. Ruộng lúa giống của Nhật – theo ông kể lại với tôi, – là một bí mật quốc phòng. Họ không cho khách ngoại quốc vào thăm. Nếu đôi khi có khách đặc biệt được đến đó thì họ cho người theo kiểm soát rất kỹ lưỡng vì khách chỉ cần “ăn cắp” một gié lúa thì đủ thay đổi cả một nền nông nghiệp rồi.

                          Thế nhưng đối với Tiên sinh Lương Đình Của thì họ mời vào thăm và tặng cho một túi gấm nhỏ đựng một ít hạt giống. Thế đủ biết họ trọng người Kỹ sư Việt Nam – cũng là người đã cống hiến cho xứ sở họ rất nhiều tâm não – như thế nào?

                          Trên đường cứu nước, cụ thể là làm giàu cho Miền Bắc, ông Của gặp không biết bao nhiêu trở ngại đáng lý không có, và chắc sẽ không có, nếu ông ở lại Nhật hay nhận lời sang Mỹ ! Một tài năng có một không hai ở nước Việt Nam như vậy mà ông Của và gia đình (vợ người Nhật) của ông gồm sáu người (lúc tôi đến chơi 1958-59 gì đó không nhớ rõ) chi được nhận một gian phòng nhỏ tồi tàn ở khu Kim Liên.

                          Ông không được cấp cho cả cần vụ để dọn đất cho ông làm thí nghiệm giống, ông phải tự tay cầm cuốc. Mỗi sáng đi làm ông phải đạp xe từ Kim Liên qua Gia Lâm. Cũng may ông được bạn bên Nhật tặng cho cái xe đạp. Nếu không, ông phải chờ ba năm để mua xe quốc doanh.

                          Tôi đã đi hơi xa con đường dốc đuôi Rồng phải không bạn đọc, nhưng có lẽ không lạc đề, bởi vì, thưa bạn, tất cả mọi người Miền Nam vượt Trường Sơn đều có một mục đích là “về tới quê nhà” nhưng mỗi người đều có một tâm sự đắng cay, não nề sau khi sống mười năm ở Miền Bắc, như tâm sự Lương Đình Của.

                          Kỹ sư Lương Đình Của không vượt Trường Sơn, ông ở lại Miền Bắc (và chết trên Miền Bắc) với một bầu tâm sự không được thoải mái trút ra như bọn vượt Trường Sơn chứng tôi. Ông phải mang nó xuống tận tuyền đài. Chủ nghĩa chủ ngỏm, lập trường lập bò đã đẻ ra chánh sách, chánh sách đẻ ra ngu xuẩn và ngu xuẩn đẻ ra ganh tị, sự ganh tị cuối cùng đã giết chết mọi tài năng, gây tai họa không lường, và dài dằng dặc như Trường Sơn, cho dân tộc.

                          Ngày nay hình như ở Sài Gòn, người ta có cho một con đường nho nhỏ nào đó cắm một tấm biển kẻ tên “đại lộ Lương Đình Của.” Để làm gì? Để tự thú tội ngu xuẩn của mình chăng?

                          Tôi thấy buồn cho nông dân Miền Bắc và buồn cho một người Nam Bộ đi lầm đường. Giá đi lầm từ đầu như tôi đây thì không đáng tiếc cho lắm. Bởi vì trong hoàn cảnh của tôi năm 1945 không có con đường yêu nước nào bằng con đường có cắm lá cờ đỏ sao vàng. Thời đó, cờ đó là Cờ Dân tộc. Nó chưa có lòi cái cán búa ra. Ai mà thấy cho được!

                          Nhưng Lương Đình Của đã đi đúng đường, đã vinh thân phì gia, đã phát triển được tài năng rồi và đã có đất để gieo giống rồi mà mắc chứng gì lại đùng đùng bỏ đi, để đến nông nỗi đó, dở mếu dở cười ? Cũng như anh bạn văn Thủy Thủ tên thật là Thái Trần Trọng Nghĩa đang ở Sài Gòn mang lon thiếu úy Hải quân bỗng đùng đùng dông theo Nguyễn Hữu Thọ. Cuối cùng, nhìn rõ mặt Giải phóng, anh đã tự phạt mình bằng một phát AK xuyên qua đầu ? (Tôi sẽ kể chuyện này ở quyển Đến Mà Không Đến” tiếp sau đây).

                          Hết một giờ được giao liên cho phép nghi, tôi không hỏi thêm chú tôi một câu nào về nghề nghiệp của chú nữa. Vì tôi đã biết trước rồi. Đến như kỹ sư nái như ông Của mà còn không làm được việc gì nữa là kỹ sư con.

                          Trước phút lên đường leo dốc tiếp, chú móc túi ba lô cho tôi xem một gói lúa giống và nói:

                          - Mười năm ở Miền Bắc tao chỉ được có mấy hột lúa Nông nghiệp 1 này. Để đem về trỏng gieo rồi cấy thử xem sao. Ở trong đó chắc không có Bùi Huy Đáp cũng không có Mitchourine và Lyssenko. Hễ lúa nào sai hột thì mấy ông nông dân mình khoái thôi.

                          Tôi vừa cuốn võng vừa hỏi:

                          - Chú có xuống dưới các hợp tác xã để giúp nông dân cày cấy không?

                          - Giúp cái gì ?

                          - Thì cách cấy lúa làm sao cho…

                          - .. mau chết hả?

                          - Ít nhất chú cũng dạy cho họ được kinh nghiệm của nông dân Liên Xô chớ!

                          Chú cuốn xong võng bỏ vô ba lô và cười:

                          - Nông dân người ta cày máy, gieo mạ bằng máy bay, cấy lúa mì, rải phân hóa học còn mình cày chìa vôi, gieo cây mạ lên bằng cọng hành, lúa lên ngang đầu gối, phân bắc phân chuồng phân xanh chắt mót từng cục một, có kinh nghiệm gì của người ta đem về xài được cho mình đâu.

                          Nông dân tập thể của người ta làm nông trường rộng cả vạn mẫu , hợp tác xã của mình bằng cái bụm tay, nông trường của người ta làm việc có kỷ cương răng rắc, xã viên của mình nay vô mai ra, tới năm nay rồi mà còn cãi như bằm bầu cái vụ cấy thưa cấy dài, gieo mạ để luôn hay nhổ lên cấy lại.

                          - Nhạc sĩ Văn Chung đã phải làm một bài hát để phục vụ hợp tác xã úng hộ phương pháp “cấy thưa” đó chớ chú !

                          - Bài hát gì ?

                          - Tôi không biết tên bài hát, chỉ nhớ mấy câu vì nghe đài hát vời vợi suốt ngày suốt đêm:.. “Cấy thưa thì thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn. Chị em ơi lại đây xem chúng tôi cấy . . . “

                          - Nhưng chẳng ai nghe theo bài hát đó. Cũng chẳng ai nghe theo mấy ông cán bộ của Viện Nông Lâm Súc của tao. Tao xuống coi họ canh tác một tháng thì tao nghĩ rằng mình đi học mấy năm chẳng có ăn nhậu gì cả. Chẳng dùng được một tí tẹo nào của Liên Xô cho Miền Bắc lẫn Miền Nam.

                          Tôi nói:

                          - Phải chú đi sớm một tuần lễ thì chú đã gặp ông Cây Đa Cũ Bến Đò Xưa rồi. Nhất định ổng sẽ hỏi ý kiến chú về Hợp tác xã.

                          - Tao sẽ bẩm là Hợp tác xã tuyệt vời như Cải cách ruộng đất vậy !

                          Có lệnh tiếp tục đi. Chú tôi trở về đoàn của chú ở phía sau.

                          Trời bắt đầu đổ mưa. Trong tiếng mưa rơi có tiếng cà nông nổ xa xa hết loạt này đến loạt khác. Tôi nghĩ thầm: Đoàn mà vượt bãi thì sẽ lượm bạc chuyến này. Hú vía cho mình !

                          Mưa tầm tã. Nước mưa bít mặt. Dốc núi trơn như thoa mỡ. Tôi và Hoàng Việt thay nhau chụp ếch lia lia. Chị Phụng phải đeo lưng chồng, vừa bước vừa kêu: “Đường gì ác thế! Đường gì ác thế!” Đường càng lên càng dốc đứng, người đi sau đội đít kẻ đi trước. Kẻ đi trước móc cái gót dép cao su thum thủm vào mồm người đi sau. Tay vuốt mặt tay bám gốc cây hoặc bám nhầm cái ống quyển người đi trước. Người đi trước kêu lên vì bị lôi lại phía sau suýt ngã.

                          Thằng nào đạo đức lắm cũng phải Đ.M. vài chục lần. Ai bảo núi là thơ, mưa là thơ, người ấy nhầm. Thơ không có họ hàng gì với núi với mưa cả. Chúng tôi đang ôm núi đội mưa đây nhưng chúng tôi hộc máu ra thì có chứ chẳng thấy thơ mộng gì.

                          Nếu ngồi trong nhà uống trà nhìn qua cửa kính thấy núi mờ trong mưa thì chắc núi và mưa trở thành thơ.

                          Chưa bao giờ chúng tôi leo núi như lần này. Dốc đứng hơn cả cái dốc chúng tôi đi pa-tanh thủng cả đáy quần ở trạm trước và lại bùn lầy, dép mắc dưới bùn và đi bước nào trợt bước nấy, đã trợt át phải té. Một người té làm mấy người té theo. Tiếng kêu ơi ới giữa mưa.

                          Tôi quay lại nói với Hoàng Việt:

                          - Đây là “Mưa Dầm” (*) đó anh Bảy.

                          (*) Bài hát của Hoàng Việt sáng tác trong thời kháng chiến.

                          - Thôi đi mày! – Hoàng Việt gắt – Đừng có giỡn !

                          Tôi và Hoàng Việt bị nhiều người qua mặt. Lần này tôi cố “đi chậm” để không lạc Hoàng Việt nữa. Chẳng có ai trở lại rước anh nữa đâu.

                          Đang thất vọng, bất mãn và muốn làm reo với giao liên thì có người nói:

                          - Đất này đỏ tươi, chắc là Bà Rịa quá ta ơi !

                          Câu nói vô căn cứ bỗng nhóm lại ngọn lửa sắp tắt trong lòng. Tôi vuốt mặt quay lại nói với Hoàng Việt:

                          - Vậy thì mình vô tới ranh xứ minh rồi đó anh Bảy ơi!

                          - Chắc không?

                          - Tôi hỏi anh có cái gì trên đời này là chắc không?

                          - Chắc một lần “hai năm” là muốn lòi đom rồi.

                          - Thôi thì chưa chắc, cứ leo cho lòi… thêm.

                          - Thôi ngậm miệng giữ hơi leo cho mạnh, nói chuyện mất sức lắm mày ơi. Tới đâu tới.

                          Vì trời mưa không đi lên nhanh được, cho nên lên đến chót núi thì đã xế dài. Không còn đủ thời giờ “hạ san” nữa. Theo giao liên nói thì trạm tới còn xa.

                          Xuống núi xong phải cuốc luôn bốn, năm tiếng đồng hồ mới “đạt kế hoạch nhà nước!” Cho nên giao liên linh động cho các tiên ông tiên bà dừng chân trên chót núi để luyện thuốc trường sanh trong một đêm. Một đêm trên non Bồng bằng một trăm năm dưới trần thế. Ngày mai khi trở lại trần gian con nít đã trở thành ông già còn tụi này thì vẫn trẻ măng như con nít.

                          Sau mưa ông trời chường mặt ra với những tia mắt quái ác. Quần áo ướt dầm. Tuột cả ra phơi tha hồ triển lãm xương sống xương sườn và cặp giò ống điếu. Lâu lâu có dịp tự nhìn lại bản thân thấy thịt không còn là mấy, da thi dùn xệu như cái vỏ banh lông xì hơi và nhăn nheo như da voi. Nhìn xuống cái của quí thì càng thảm hại.

                          Nó đã trở thành em bé tí tèo tèo teo chui mất tiêu trong đám cỏ hoang u xù. Nói cho có văn hóa văn hoa văn học thì: một khi ngọn thiết bảng cửa Tề Thiên Đại Thánh đã trở thành cây kim giắt mép tai thì chiếc bình bát bửu của các tiên cô chắc cũng teo lại bằng mảnh da lừa của Balzac tiên sinh rồi. Có lâm trận chắc không có hô giáng hô thâu nổi nữa. Lại võng ướt, chăn ướt, tất cả người ngợm đều ướt, tâm hồn cùng ướt nhẹp và rã rời như cơm nếp mắc mưa.

                          Củi cũng ướt nhưng không khó kiếm vì ở đây ít khi có đoàn dừng lại. Tôi và Hoàng Việt chung ty và tự lực các thứ, cố không làm phiền ông bạn dược sĩ nữa. Chúng tôi đã nhờ cậy vào Vân quá nhiều rồi. Trên đường này không có ai hảo tâm với ai đến thế cả. Đã có một lần tôi từ chối không cho một anh bộ đội một khúc khoai mì sống.

                          Đang sắp sửa ngả lưng an dưỡng thì Hoàng Việt kêu :

                          - Thằng Ngữ đâu rồi ?

                          Tôi cũng giật mình. Mải miết lội, leo, bò, lết mà không nhớ đến Ngữ nữa.

                          Tôi chạy tới chạy lui một lúc mới tìm được chàng họa sĩ, nhờ cái khăn rằn nâu sọc rất to của nhà trường phát cho mỗi học sinh chúng tôi. Ngữ đang nằm trên võng trùm chăn. Cái mùng màu xanh lá cây đã mắc xong nhưng chưa buông xuống. Tôi giở chăn ra, sờ trán Ngữ.

                          - Sao thế này ?

                          Ngữ ư ư hai ba tiếng, không mở mắt, và đáp:

                          - Em sốt hồi trận mưa đầu.

                          Có lẽ Ngữ biết trong đám khách này hắn không có ai quen ngoài Hoàng Việt và tôi, nên nhắm mắt mà vẫn biết người quen và miệng nói leo lẻo:

                          - Có lẽ con muỗi đòn xóc nào chích thằng Núi lại chích em hay sao ấy anh ạ.

                          - Bậy mày ! Nghe trong mình thế nào ?

                          - Như có lửa dậy trong máu ấy!

                          - Có thèm cơm nước gì không?

                          - Em chỉ khát, nhưng ở đây không có suốì. Em tìm mãi không có nên mới trở lại nằm.

                          Tôi đứng ngơ ngẩn trước đồng đội ngã sốt và trước một sự việc bất ngờ: ở đây là đỉnh núi nên không có suối.

                          Tôi nói:

                          - Lấy kí nín chặn cữ đi. ..

                          - Em không còn lấy một ngụm nước.

                          - Tao không còn một giọt.

                          (Tôi là thằng dở chịu đói mà cũng dở chịu khát. Đó là hai chứng xấu không nên có cho những ai muốn leo núi. Tôi đã ngã sốt ngay sau khi uống nước vũng voi dầm với thuốc lọc nước của Bảo Gia Lợi). Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:

                          - Lấy giấy quấn kí nín rồi nuốt, được không? Đâu mày làm thử coi. Nếu có được một trái chuối chín thì nhét thuốc vào rồi nuốt trộng. Ngoài ra thì chẳng có cách gì. Nhưng ở đây làm gì có chuối? – Tôi ngó quanh quất một chút rồi reo lên: – Phải rồi, để tao đi tìm nước cho!

                          Sau trận mưa, nước đọng đầy các hốc đá. Trong đó những cái lá đã rửa hết thịt chỉ còn lại xương và những cái lá khô lá vàng nằm sắp lớp lên nhau.

                          Tôi đưa cái lon múc nhón lớp trên cho khỏi cặn, nhưng tôi lại thấy những con loăng quăng bơi lội trong nước và có những chú bị múc vào lon. Đây là tiền thân của những anh chị “đòn xóc” nguy hiểm nhất cho đoàn lữ khách. Tôi đem về lều sớt gạn loăng quăng ra và nhóm bếp nấu mớ nước đưa cho Ngữ. Ngữ uống xong mấy viên kí-nin (và những trứng muỗi lẫn vi trùng sốt rét chưa chết hẳn, cùng một lúc).

                          Ngữ lại trùm chăn. Tôi trở về lều thì Hoàng Việt bảo:

                          - Đây là dốc Cụ Hồ mày ạ!

                          - Sao anh biết?

                          - Giao liên mới nói. Nó không thua đồi 1001. Đặc điểm của dốc Cụ Hồ là không có nước, làm sao nấu nướng?

                          Tôi thuật lại vụ sưu tầm nước mưa trong hốc đá cho Hoàng Việt nghe. Anh nói :

                          - Sao không hứng lúc trời đang mưa?

                          - Ai có ngờ tình trạng khan nước thế này mà hứng trước !

                          - Thằng giao liên này đáng treo cổ!

                          Mấy trăm con người ta nhao nhao lên vì nước! Người thì đi múc nước trong hốc đá, kẻ đi nghiêng từng cái lá vét lấy những hạt mưa hiếm hoi. Bỗng có người đề ra sáng kiến. “Ta múc lấy mây!” Cái sáng kiến ấy lan đi rất nhanh khắp các đoàn. Quả thật mây bay từng cụm dưới chân, trên đầu, dưới đít võng. Trông hay hay. Cái sáng kiến nghe cũng ngộ ngộ. Giống như một lý tưởng lãng mạn nhưng đó là một sự thực bất ngờ.

                          Khi leo, không ai nghĩ mình sẽ lên đến độ cao này.

                          Hoàng Việt cười hóm hỉnh:

                          - Đến rìa thiên đường rồi mà không hay. Nhưng mày có chìa khóa mở cửa không?

                          - Chìa thì có đây, nhưng không biết khóa ở chỗ nào.

                          Vừa nói, hai đứa vừa lấy gà-mèn ra múc mây. Mây bay phơi phới trước mặt, sau lưng. Chứng tôi cứ nhè những đám to mà quơ đại vào, hi vọng mây bị hốt vào gà men sẽ hóa thành nước. Tưởng là múc được nhiều mây thì sẽ được nhiều nước, nhưng mây thì nhiều mà nước chẳng có tí nào. Cái sáng kiến có vẻ vừa thực tế vừa ngớ ngẩn đó chẳng giúp ai.

                          Lại có người đề ra sáng kiến khác, cứ há mồm cho mây bay vào cũng như uống nước. Tự bồi dưỡng kiểu đó, xong rồi ngủ, sáng mai sẽ xuống núi tìm suối. Tôi cũng há mồm cho mây bay vào và ngậm lại, nhưng không giảm bớt cơn khát tí nào.

                          Thất vọng, tôi lắc lắc bi-đông nghe nước khua khe khẽ, bèn trút ra gà-mèn. Nói có Trời Đất chứng miên. Số nước còn sót lại được mấy chung, cái loại chung mà Cụ Hồ rót rượu mời đồng bào uống hồi toàn quốc kháng chiến năm 1946 trên nhựt trình, mãi tới bây giờ chưa có ai nếm được, và có lẽ nó đã biến thành nước lã trên dốc Cụ Hồ này.

                          Bây giờ làm gì với mấy chung nước đó cho khỏi sai lầm đối với bản thân mình để tránh sửa sai ? Mặc dù cơn khát đang thiêu đốt cơ thể, nhưng tôi cố dìm cái anh họ Trư đang lồng lên trong tôi. Nếu tôi buông lỏng, hắn sẽ tiêu diệt mấy chung nước cam lồ đó như ăn nhân sâm, nuốt xong mà chẳng biết mùi vị gì. Khi người ta vừa đói lại vừa khát mà đứng trước món ăn thức uống thì rất khó ghìm mình lại. Người ta phải bắt mình nghĩ tới lý tưởng cao cả này, chủ nghĩa vinh quang nọ để không bị cái tí bã vật chất kia cám dỗ mà sa ngã mặc dù họ là đồ đệ của chủ nghĩa duy vật.

                          Suýt chút nữa tôi quên một chất liệu quan trọng. Số là hồi trưa này khi nghỉ ở dưới dốc chúng tôi gặp một gốc bứa. Ngữ là người còn khỏe nhất trong chúng tôi và là người trông thấy nó trước nhất. Ngữ leo như một chú khỉ bị thợ săn đuổi nột. Tất cả đội nữ binh và chúng tôi vây quanh gốc cây. Các cô léo nhéo với giọng óc đáng yêu nhất:

                          - Anh cho em xin tí.

                          - Anh bẻ cho em cái búp non kia !

                          Hoàng Việt nhìn tôi và kêu với Ngữ:

                          - Anh đội Miền Nam ơi , “giúp các em tí!”

                          Chúng tôi cười nhưng không ai hiểu gì về cái điển tích ấy ! Hoàng Việt hỏi các em:

                          - Giúp thì anh đội Miền Nam thừa sức giúp, nhưng các cô muốn mấy ván?

                          - Dạ ván gì ạ?

                          - Ván tức là lá ấy mà. -Tôi nhanh nhẩu-. Tiếng Miền Nam chúng tôi hơi khác, cũng như ngoài ta gọi là thuyền nhưng trong ta kêu là ghe !

                          - Nếu thế cho chúng em xin mấy ván cũng được, càng nhiều càng tốt.

                          - Các cô nói cậu cho mấy ván cũng được. Thế ba ván nhé!

                          - Ừ ba ván không bỏ dở ván nào !

                          Chúng tôi lại cười với nhau. Nhờ vậy mà nghe đỡ mệt. Ngữ ở trên cây nói tiếp xuống :

                          - Xin lá hay cành ?

                          - Dạ lá thôi.

                          - Bứa có củ nữa, có lấy không?

                          - Ném luôn lá cả củ lẫn cành cho đủ bộ!

                          Vài cô đã biết chúng tôi trêu nên không kêu đòi nữa trong lúc các cô khác thì cứ xin rối rít.

                          Những cái đọt bứa còn bị bỏ quên trong túi ba lô. Tôi nghĩ đến canh chua. Lá bứa nấu chín rồi dầm ra trong nước húp một thìa đã ê răng, nước miếng bị kích thích sẽ tràn ra đầy mồm còn có tác dụng hơn cả vườn quít tưởng tượng của Tào Tháo. Ai cũng khéo đặt cái dốc này là dốc Cụ Hồ.

                          Chao ôi ở cái đỉnh non tiên này mà nấu món đồ chua ấy các tiên cô tiên bà ngửi được ắt phải mê mùi tục lụy ngay. Tôi đóng hai cái cọc gác một que cây ngay để treo gà-mèn sửa soạn nhóm lửa. Khắp một dãy lều trại vừa giăng mắc ấm lên với những khói và lửa bếp chiều hôm trong lúc bao tử reo lên chờ đợi với hi vọng nhá nhem như lửa ma trơi lập lòe từng đóm.

                          Nhưng bữa nay, khác với thường lệ, tôi treo cái gà-mèn nghiêng để được thấy nước kha khá trong góc, nếu treo ngay ngắn thì nước sẽ loãng ra chỉ trán đít gà-mèn và theo vật lý học thì mặt nước càng rộng sự bốc hơi càng lớn, như vậy nấu xong chỉ còn cái gà-mèn không. Tôi dự đinh sẽ nấu thật nhanh để nước không kịp bốc hơi. Tôi vừa móc bật lửa để nhóm bếp vừa hỏi sang ông bạn vàng:

                          - Anh định sáng tác món gì đó ?

                          - Khuấy hồ dán mép cấm khẩu luôn cho khỏe, còn mày?

                          - Tôi “cất” nước để pha thuốc bổ.

                          - Bổ gì?

                          - Bổ thận.

                          Hoàng Việt mang qua cho tôi một cái lá, bảo:

                          - Mày hửi xem là lá gì ?

                          - Lá Xanh (*) nhưng anh không còn trẻ ! – Tôi cười, đưa chiếc lá lên mũi ngửi rồi kêu lên – Ngò, anh Bảy ơi! Ở đâu anh có vậy ?

                          ( *) Lá Xanh, bài hát rất phổ biến của Hoàng Vệt, có câu: “Lá còn xanh như anh đang còn trẻ…”

                          Hoàng Việt lôi tay tôi qua lều của anh và trỏ vào cái gốc cây ở đầu võng. Tôi nhận ra là một bụi ngò gai có đến bốn năm lá. Tôi vò cái lá tôi đang cầm trên tay ngửi tiếp để chắc bụng. Mùi nó hăng hăng, không dịu như lá quế và rau om, nhưng nó cũng là một trong mấy thứ rau dùng để nêm canh chua ở xứ ta.

                          - Đúng nó rồi anh Bảy ! – Tôi reo lên – Buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Tôi đang nấu lá bứa làm canh chua – Tôi hỏi – Còn mấy cái Lá Xanh của anh đâu?

                          - Tao nhai hết dọc đường rồi. Nhờ nó mà tao còn chút nước để khuấy hồ đó chớ ?

                          Tôi ngồi xuống, đưa tay nhổ bụi rau ngò như tiên cô hái đào tiên. Bên cạnh chiếc lá xanh, bàn tay tôi hiện ra gầy guộc lòi những xương gu và vàng kinh khủng. Tôi tưởng như không còn đủ sức để lôi bật gốc bụi rau. Tôi cào bỏ mấy hột đất dính quanh cái rễ đuôi chuột trắng và dài không quá hai lóng tay.

                          Có lẽ nó đụng đá nên không ăn sâu nếu nó ăn sâu hơn thì có lẽ tôi và Hoàng Việt phải hợp tác xã sức khỏe mới giải phóng nó nổi. Tội nghiệp bụi rau ngò cũng như tôi, như tất cả đám dân Nam kỳ tập kết, bị đặt không đúng đất, nên nó chỉ có dăm lá giống như một cái “chông ba lá” của Giải phóng quân dùng diệt Mỹ mà tôi gặp sau này. Bụi rau ngẫu nhiên mọc giữa trời cao, dưới chân cây to và trên chót núi, nhưng nó vấn không chết rụi.

                          Bất giác tôi ngẩng nhìn trời. Mây tuôn lớp lớp qua ngọn cây. Hỡi những thuyền mây, hãy chở hồn ta về quê dùm chút. Ta đến đây như con ngựa chiến đã hết cỏ, chắc phải gục xuống với bốn vó gãy lìa, chỉ còn trăn trối với tiếng hí thê lương không vang.

                          Các ông các bà chơi trò hứng mây lấy nước phí sức mà vô ích nên tìm hốc đá múc nước loăng quăng thực tế hơn. Tôi lãng mạn, lại há mồm hớp những cụm mây bay qua bếp và bảo Hoàng Việt:

                          - Anh Bảy ! Có quán kem Thủy Tạ Bờ Hồ nè !

                          Hoàng Việt đang lui cui với cái bếp mịt mù khói, ngó sang với mắt mũi ròng ròng nước mắt nước mũi:

                          - Ê đừng có hư cấu nghe mày !

                          - Đây là hiện thực xã hội chủ nghĩa chứ đâu có hư cấu gì !

                          - Ừ, nếu thiệt, mày ăn mấy cây kem ?

                          - Tôi chỉ múc nước Hồ Gươm để nấu canh chua thôi.

                          - Nước phẩn rùa à? Bỗng Hoàng Việt đột ngột hỏi tôi: – Mày có tin rằng trong Vạn Lý Trường Chinh của anh Ba Mao, lính luộc dây nịt da mà ăn, đái ra mà uống không?

                          - Đái ra uống thì có thể, nhưng ăn dây nít là hư cấu. Bởi vì một khi da đã thuộc rồi thì dù có luộc nó cũng không có trở lại là da sống được. Thằng cha nào viết chuyện đó là viết láo, cũng như thằng bạn tôi nó kể lại rằng Lê-nin đọc sách như thế này. Ông ta cứ nhìn vào trang sách là đã đọc hết tất cả chữ trong chớp mắt, nghĩa là ông có thể đọc một ngàn trang sách trong một tiếng đồng hồ.

                          - Đời này thằng nào nói dóc giỏi thằng đó có địa vị cao. Chỉ có những thằng nghệ sĩ không nói dóc trong tác phẩm được thôi, bởi vì trái tim con người là một thực chất, không mạ cũng không làm bằng sáp được. Nếu nói dóc, tác phẩm chẳng rung động nó được. Cái sự nấu dây nịt để ăn là một sự biện chứng bá láp – Hoàng Việt ngưng lại và hỏi tôi – Mày đang sáng tác truyện gì đó hả? Chẳng lẽ lại luộc dép cao su để kính dâng Bác Mao gái à ?

                          - Nước đâu mà luộc ?

                          - Mày là thằng “yêu nước” hơn tao. Ráng nhín một chút để mai bôi bánh chè mà đi pa-tanh nghe em ? Xe hơi xuống dốc thì không cần xăng, nhưng người tuột dốc thì không có nước không được. Tao chắc bây giờ đem cái bi-đông của mày ra vắt cũng không ra giọt nào, đúng không?

                          - Còn vài chung mắt trâu.

                          - Thế mà lại đem ra nấu canh chua là thế nào? Phí của giời ! Đáng lẽ mày phải giữ gìn nó như con ngươi của mắt mày vậy, để khi sắp chết khát, mày đem ra mà nhìn như bò nhai cỏ vậy hiểu chưa?

                          Tôi ngẩn người ra. Tôi đã sử dụng mấy chung nước và mớ lá bứa một cách sai lầm. Nhưng lỡ đã nấu nó rồi, đâu có sửa sai được. Tôi bảo:

                          - Vậy thì ngày mai khi xuống núi, hễ tôi kêu khát thì anh cứ làm Tào Tháo dùm tôi vậy.

                          Hoàng Việt cười :

                          - Tào Tháo thành công là vì binh sĩ của ông ta tưởng trước mặt có vườn quít thật, nhưng với mày tao không thể làm Tào Tháo được vì mày biết rằng tao nói theo sách của Trung ương. Hồi mới đi tao đã bảo mày trên đường này có mậu dịch Việt Miên Lào bán bằng ba thứ tiền hà hà… Bây giờ cuốn sách đó đã hết trang.

                          Thấy cái gà-mèn của tôi lên khói, Hoàng Việt la:

                          - Mày không đậy nắp, nước bay hết.

                          Tôi lật đật nhắc gà-mèn canh xuống luôn. Mùi rau ngò hiếm hoi bốc lên mũi tôi. Tôi lấy nắp đậy lại để nước khỏi bay. Mùi rau làm tôi nhớ nhà vô hạn. Sao có thể một bụi rau ngò lại mọc trên núi này. Một con chim nào ngậm hạt trong mỏ nhả xuống đất hay một ngọn gió nào thổi nó ra tận đây để nó phải mọc lên trên cái đất không phải là quê hương của nó?

                          - Xong chưa, đem trao đổi văn hóa ?

                          - Đổi thì đổi.

                          Hoàng Việt xách cái gà-mèn hồ loãng sang lều tôi mà không phải qua một hữu nghị quan nào.

                          - Ăn hồ trước rồi húp canh chua sau rồi đi ngủ,

                          - Ừ, sao cũng được.

                          - Mai đi một mách tới trưa mới nghĩ đó ! Giao liên nó bảo thế – Hoàng Việt vừa sớt chỗ hồ loãng vào nắp gà-mèn cho tôi vừa tiếp – Có những chặng đi đêm nghe chú em ! Hì hì, nhưng sắp tới ranh nước mình rồi.

                          Tôi bỗng ứa nước mắt ra. Hoàng Việt tiếp:

                          - Nó bảo còn chừng hai chục trạm nữa thôi. Liệu có kham không?

                          - Lo cho cặp giò ống điếu của anh kia kìa.

                          - Ê ống điếu nhưng trường túc nghe chú em !

                          - Ừ muối hết, gạo hết mai này tuột dốc cho anh giỏi mà trườn… tu…ốt! !

                          Bản thảo quyển này bị mất hồi 1975 tại Sàigòn
                          Xuân Vũ viết lại xong tháng 12-1989 tại Hoa Kỳ



                          Xin đón đọc:

                          ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
                          (tức hồi ký Đường Đi Không Đến tập IV)
                          gồm những cảnh sống rùng rợn ở R.

                          Soạn giả Trần Hữu Trang, một số nghệ sĩ Sàigòn như Bảy Thinh.. và nghệ sĩ cải lương ở Miền Bắc về chết trong những trận B52 như thế nào?

                          Nguyễn Chí Thanh có phải là nhà cách mạng đạo đức không, trong khi ông ta "chăm sóc" rất chu đáo một goá phụ vợ của một anh hùng giải phóng (Nguyễn Văn Trổi)?

                          Thủy Thủ tức Thái Trần Trọng Nghĩa , một Đại Úy Hải Quân V.N.C.H cùng với Phan Lạc Tuyên chạy ra Khu, được đối xử như thế nào? và tại sao Thủy Thủ lại tự sát bằng AK, trối trăn những gì trong mấy giòng ngắn ngủi ở quyển sổ tay ?

                          Tác giả đã thoát chết trong trận B52 thảm khốc đó như thế nào?

                          Lưu Hữu Phước trở thành con bài hiếu hỉ trong tay Bộ Chính Trị như thế nào.?

                          Hai Thứ trưởng Văn hoá của chánh phủ Huỳnh Tấn Phát, gốc nhà văn Sàigòn bị đám cá kèo giải phóng xem thường ra sao? Hội Văn nghệ giải phóng là những ai, ngoài Lý Văn Sâm - nhà văn Sàigòn ra Khu?

                          Một số nét về Quách Vũ, Vũ Anh Khanh và nhiều hình tượng đời không thấy ở đâu ngoài R.

                          Tác giả đã cãi to với cấp chỉ huy và gởi thơ cho Trần Bạch Đằng như thế nào trước khi xin phép rước vợ con lên R rồi hồi chánh luôn, sau bảy ngày nhịn đói trong rừng Cao Miên. Ngay sau khi tác giả về đến Sàigòn, một nửa đoàn văn công giải phóng đã hồi chánh. Mười Cúc đến tiểu ban văn nghệ xạc-cà-rây ban chỉ huy và "chỉnh đốn" tổ chức như thế nào?

                          Bạn đọc đã theo dõi suốt ba quyển trước, sẽ rất thích thú khi đọc Đến Mà Không Đến. Sau một trăm ngày leo núi Trường Sơn, tác giả đến thì có đến "R" thật đấy nhưng trong tinh thần lại chẳng đến đâu! Cũng như ngày nay, quân Cộng Sản đã đến Miền Nam ..mấy mươi năm nhưng cũng thật sự chúng chẳng đi đến đâu! Mỗi cái tên tác giả đặt ra cho sách mình đều mang một triết lý: Đường Đi Không Đến, Xương Trắng Trường Sơn, Mạng Người Lá Rụng, Đến Mà Không Đến, Đồng Bằng Gai Góc.



                          HẾT



                          sigpic

                          Comment


                          • #28
                            bác Kha thiệt là chịu khó ,trình bày đẹp và ngăn nắp hơn H Kỳ nữa áh , truyện nào cũng kèm hình ảnh, nội dung rõ ràng , H Kỳ thích lắm đó , cảm ơn bác Kha nhiều nhiều

                            à 2 con chó trong hình ở sign là của nhà bác nuôi đó huh !
                            Last edited by Hiểu Kỳ; 18-03-2012, 02:55 PM.
                            ***************

                            Comment


                            • #29
                              Cám ơn Hiểu Kỳ

                              Thật ra Quận Chúa làm tốt hơn mình đấy chứ, bởi mình đã retire, nên có giờ nhiều hơn Hiểu Kỳ đó thôi.

                              Ồ, hai chú chó đó hả, mình tìm trên internet đó Hiểu Kỳ ạ, nó cùng loại với hai chú chó mình nuôi khi trước, nhưng vì Bà Xã không thích chó, nên mình đành để người khác nuôi , thật là hết cách, giờ chỉ biết cất giử hình ảnh chúng vào trái tim cho vơi phần nào nhớ nhung.

                              Cám ơn những lời khích lệ của Hiểu Kỳ, you have a nice day ....
                              sigpic

                              Comment


                              • #30
                                ..bác Kha cũng thích nuôi chó hen.....dzậy mờ H kỳ còn tưởng 2 con là chó của bác Kha nuôi ,tính đổi nghề bói 1 quẻ coi để xem tui nó là giống đực hay giống cái nữa chớ ...làm quê xệ 1 cục bự . Chúc bác Kha 1 tuần mới khoẻ mạnh , vui tươi
                                ***************

                                Comment

                                Working...
                                X