Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Vượt Trường Sơn 3

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Vượt Trường Sơn 3

    Xuân Vũ

    Vượt Trường Sơn 3


    Mạng Người Lá Rụng









    sigpic


  • #2
    Vượt Trường Sơn 3

    Mạng Người Lá Rụng





    Nghe nước chảy như gần, nhưng đi hoài, dốc đổ đứng mà nước vẫn còn xa. Thu kêu:

    - Em mệt quá!

    - Tí nữa thôi mà! Cố lên!

    - Đi hoài không tới.

    - Thì anh đã có lần bảo em con đường này là con đường không đến mà.

    Thu ngồi khụyu xuống một hòn đá. Lâu nay tôi hầu như quên khuấy đi rằng Thu là một người con gái và là một vũ nữ ba-lê đẹp có tiếng ở Hà Nội.

    Bỏi vì nàng chưa bao giờ cười tự nhiên. Nàng có cười chăng nữa thì đó chỉ là những cái cười chua chát.

    Tôi ngồi xuống bên nàng. Nàng nhích ra:

    - Có người ta đi lấy nước ở dưới bên kia.

    - Đâu có ai đâu !

    Tôi nói liều chứ không xem tới xem lui gì hết. Tôi ôm quàng ngang vai Thu. Thu gạt. Tôi ôm ngang lưng nàng và hôn vào gáy nàng.

    Trời ơi, lâu quá cái cổ ngà ngọc này chưa đón nhận những cái hôn. Đáng ra tôi phải hôn nàng hằng giờ hằng phút kiaa. Bây giờ hôn, tôi mới thấy lâu nay mình đã quên một việc làm hết sức tự nhiên. Thu ngả người ra. Gương mặt nàng ngửa lên.

    Mấy đốm nắng rơi trên tóc trên vai nàng rung rinh tan vỡ. Hương tóc đẫm mồ hôi của nàng mặn nồng say đắm lạ thường. Tôi áp môi tôi lên má nàng. Làn da như rực lên vì men tình đã dậy hay vì những đốm nắng thần kỳ.

    Tôi ấn môi tôi vào môi nàng. Nàng nhắm nghiền đôi mắt và đưa tay ghì đầu tôi xuống.

    - Để anh làm cho chân em hết đau.

    - Anh… anh!

    Tôi bỏ nàng ra, quì xuống áp môi vào chân nàng, chỗ đau làm cho nàng rên siết hằng ngày. Nàng gập người xuống áp mặt vào lưng vào cổ tôi và xoa đầu tôi lia lia.

    - Anh ! Anh !

    - Em đã bớt đau chưa ?

    - Cảm ơn anh !

    Tôi đã hiểu lầm tôi lâu nay. Lâu nay tôi tưởng tới là sợi bún thiu. Nhưng hôm nay tôi mới biết tôi là lực sĩ. Tôi khỏe lắm. Bao nhiêu bệnh tật như đều biến đi hết.

    Tôi bế xốc nàng vào một lối mòn cách xa ven suối. Tôi đặt nàng lên những lớp lá vàng sắp lớp lên nhau như một chiếc nệm thần tiên.

    - Thu!

    Thu không đáp.

    Những chiếc lá như trở mình xào xạc. Những ngọn cây như rung rinh. Những rễ cây như gồng lên như những bắp thịt. Gió ngừng bay và chim cũng không còn hót.

    Tất cả đều im phắc hoặc lẩn trốn để cho không khí tuyệt vời thuộc về của chúng tôi. Hơi thở Thu thơm nồng làm tôi choáng váng. Tôi lại hôn đôi bàn chân nhỏ nhắn và tơi tả và đầy những vết trầy xước của nàng.

    Nàng nằm im lìm, mắt mở ra trân trối nhìn lên vòm lá xao động mà tâm hồn lại như dõi theo những chiếc hôn rứt thịt của tôi.

    Cơn khát nỗi lên mãnh liệt. Bỗng nàng chụp tay tôi lại và kêu khẽ mấy tiếng gì rồi trở mình nằm nghiêng.

    Nhưng một chiếc lá khi đã rơi xuống thì không bao giờ nằm nghiêng được trừ khi có một chỗ tựa. Chỗ tựa của nàng hiện giờ chỉ có thể là tôi nhưng chính tôi lại không thể để cho chiếc lá nằm nghiêng lâu hơn.

    Thu bật khóc khi nàng buông tay tôi ra vì nàng biết không thể chống cự được hay chính nàng không muốn chống cự. Nàng khóc to lên…

    … Bây giờ nàng đã nín, Nàng ngồi dậy vuốt tóc, bình tĩnh nói:

    - Cả anh lẫn em đều có tội !

    - Với ai?

    - Với chính mình. Ngoài ra, em có tội với anh ấy. Còn anh thì có tội với Phương.

    Tôi biết Thu hối hận. Nhưng tôi nói ngay:

    - Anh sẽ yêu em, yêu thêm nữa !

    - Không bao giờ! Đây là lần cuối cùng!

    Tôi nói:

    - Không phải tôi phản bội Phương một cách nhanh chóng. Và Thu cũng thế. Chúng ta đều có một quả tim trong quả tim chúng ta, nhưng em ạ, từ sau cơn sốt mà anh bi giao liên “chê,” anh thay đổi hẳn quan niệm về cuộc sống và tình yêu.

    Chúng ta bị làm những con vật hi sinh cho những tham vọng. Chúng ta có thể ăn cơm rồi chết, đêm ngủ rồi không dậy nữa, hoặc một trận bom, một mũi tên độc. Thế là xong. Anh bi quan đến cùng cực ! Tôi tiếp – Em cũng chẳng khác gì anh đâu.

    Lại còn rất may rủi hơn anh nữa. Anh chàng của em, anh xin lỗi em nghe, biết đâu ở trong rừng hai năm nay cũng đã thay đổi quan niệm về cuộc sống và tình yêu. Em vào đến nơi thì thấy rằng sự trèo đèo lội suốì của em là vô ích.

    Tôi chưa dứt lời thì nàng khóc to lên. Bỏ mẹ rồi. Ai bảo triết lý nhảm. Người ta đang yêu đắm đuối lại chọc gậy vào phá khuấy !

    Tôi không nói nữa. Để cho nàng tuôn hết suốì lệ đến giọt cuối cùng tôi khẽ đỡ nàng đứng dậy.

    Bất giác tôi nhìn lên ngọn cây. Một cặp khỉ đang ngồi lắc lẻo trên cành. Chứng đưa cho nhau những miếng mồi. Chúng vừa ăn vừa kêu chí chóe.

    Bỗng một tiếng “phích.” Tôi nhìn xuống trước mặt tôi Một quả bứa chín bị cạp dở. Tôi nhặt lấy và trao cho Thu: “Trái chín của tình yêu đây em?”

    … Con đường chập chùng rừng núi không tên đã dìm chết bao nhiêu người có tên, nhưng khi nằm xuống thì nấm mộ lại không tên.

    Con đường mà tôi đang dẫm lên đây chỉ là một nhánh trong nhiều ngánh của con đường chính. Có lẽ là con đường dễ dàng nhất dành cho dân chánh nên so với các con đường khác thì nó không đáng kể là bao.

    Sự thảm khốc của nó không phải chỉ do thiên nhiên gây ra, nghĩa là rừng thiêng nước độc mà còn do sự vô trách nhiệm của bọn lãnh đạo Hà Nội ham nghe báo cáo hồng và thích được vỗ tay.

    Bộ Tổng tư lệnh được Tổng cục Hậu cần báo cáo là đường đi tốt lắm, trang bị quân sĩ rất đầy đủ, chiến sĩ và cán bộ rất phấn khởi khi được đi Giải phóng Miền Nam.

    Một cái báo cáo đã “láo” xa vạn dậm so với sự thật như vậy, nhưng khi “Bác” hỏi về con đường mòn “được vinh dự ” đội “tên Bác” như thế nào? thì Đại tướng Tổng tư lệnh tô thêm ít phấn hồng của bà Đại tướng nữa.

    Thành ra bác ngồi trong Phủ toàn quyền thấy cái ngày bác vô thăm thành phố rực rỡ tên vàng như gần gang tấc !

    Cái gang tấc đó của giấc mơ Hồ Chí Minh dài bằng cả dãy Trường Sơn lót bằng xương trắng. Nhiều anh bộ đội mười sáu, mười bảy tuổi đã không kịp từ giã gia đình, chỉ được phát cho một hộp muối và mươi viên kí nín, dăm thìa ruốc thịt, thế là đi.

    Họ đâu biết con đường này dài bao nhiêu cây số và hiểm nguy, độc chướng như thế nào. Bác bảo đi là đi.

    Sau cái chết của Trung đội phó Thưởng, đoàn của tôi vô cùng chán nản. Một cán bộ trung đội phó bị chỉ trích quá đáng, đúng ra là bị mạt sát, nhục nhã đã tự nổ AK vào đầu.

    Sáng hôm sau, vẫn như lần trước, tôi bị đơn vị bỏ lại cùng với một đám sứt tay gãy gọng, nam có nữ có, họa sĩ có nhạc sĩ có. Và tôi là văn sĩ. Vậy là có thể thành lập một phân hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Trường Sơn.

    Sốt gì sốt vậy ? Tôi vượt được đúng ba mươi ngày thì sốt ! Và từ đó hình như cơn sốt không rời tôi nữa. Và đứa nào cung sốt không đứa nào nguyên lành. Vô sốt rét bất thành tráng sĩ Trường Sơn.

    Bạn đã từng thấy một người con gái đẹp ở Hà Nội – một vũ nữ ba lê – chẳng hạn. Sau một tháng leo núi và sốt rét, bây giờ nàng thê thảm đến mức độ bạn không còn muốn nhìn nữa.

    Tôi với nàng – Thu – quen nhau từ trong trường đi B. Thu là bạn của Phương người yêu tôi. Chúng tôi yêu nhau trong trường này…

    Mỗi lần nhìn thấy Thu tôi lại nhớ Phương. Chắc có lẽ Phương bây giờ cũng như thế này.

    Tôi nằm trên võng, mơ màng nghe tiếng nói của ai mà thức dậy. Tôi tự hỏi thầm: Sao mình côn sống?

    Mỗi lần mở mắt ra, thì đó là câu hỏi như kinh nhật tụng của Hồ chủ tịch mà mỗi người cán bộ đều xài trong kháng chiến.

    Sao mình còn sống? Sao mình chưa chết?

    Giá có Phương ở bên cạnh thì đỡ biết bao, mặc dù cả hai cùng sốt, nhưng đỡ cô đơn. Bạn đã từng biết cái cô đơn của bệnh nhân khi tỉnh giấc mà không có một ai bên cạnh hết không, hoặc có người mà người đó coi bạn như rác, hoặc không là gì cả.

    Người đó là giao liên. Họ chán cán bộ chiến sĩ đến độ là xem cán bộ chiến sĩ như cái nợ đời nợ kiếp. Nếu một người lỡ chết tại trạm cửa họ thì họ phải nhọc sức khiêng đi bỏ xa xa chỗ đóng quân.

    Tội nghiệp, họ không có sức. Họ cũng đau ốm và thiếu thốn như chúng tôi, chỉ khác là họ biết đường đi.

    Họ là người ở đồng bằng không quen thủy thổ ở đây cũng như dân Hà Nội chứng tôi vậy.

    Trong lúc tôi không còn nhờ vả được ai nữa thì một anh giao liên đến. Anh ta còn trẻ lắm, đâu hai mươi ngoài gì đó. Má hóp răng vêu, tay chân lòng khòng như tay chân vượn.

    Anh ta đến ngồi bên võng tôi. Tôi không hiểu sao anh ta lại hỏi :

    - Đồng chí có muốn ăn cháo hay uống nước gì không, tôi nấu dùm cho.

    - Tôi khát nước quá trời !

    - Mấy cữ rồi ?

    - Mấy chục cữ rồi thì có !

    - Cách nhật hay cách hằng nhật?

    - Liên miên trời đất, không còn biết đầu đuôi gì nữa !

    - Đi ông Cụ à?

    - Ừ, ông Cụ.

    - Thế thì còn khước !

    - Cậu ở đâu ta thế? Tôi dở giọng Bắc ra để bắt chuyện.

    - Nghi Tầm Hà Nội !

    - Hồ bơi Quảng Bá à?

    - Vâng! . . . Sao anh trông quen quen là !

    - Nhà cậu ở góc nào nào ?

    - Thì ở ven hồ, trên đường nhựa ngó xuống.

    - Vậy gần trại sản xuất của Hội Nhà văn ?

    - Đúng đấy. Nhà em có vườn mận.

    - Tôi nhớ ra rồi !

    Quả thật tôi đã nhớ ra. Ở cái vườn mận đó, một người bạn tôi đã yêu một cô gái. Vườn mận nhiều bóng mát và trái rất sai.

    Hoa mận có nhụy trắng và thơm như nhụy đào. Vì cái vụ đi Nam mà mối tình này lỡ dở. Tôi có biết người con gái đó.

    Nàng đẹp chất phác nhưng là một vẻ đẹp ít thấy. Ở cái nhìn đầu tiên lòng anh nhà văn kia đã nảy nở ngay mối tình nửa chợ nửa quê.

    Người giao liên lại hỏi tôi:

    - Anh cần gì em giúp cho? – Anh giao liên không gọi tôi là đồng chí nữa.

    Tôi chẳng biết cần anh ta giúp cái gì bây giờ. Cần thì rất cần nhưng cần nhất là ăn. Ăn gì ? Cháo ! Ai nấu ? Ai cũng được, nhưng nấu thì không có ai.

    Không mấy khi ai giúp ai nấu cháo hay nấu gì trên đường này. Hoặc hơn thế nữa, không ai giúp ai trong bất cứ việc gì đừng oán trách chi ai.

    Trước đây vài trạm tôi đã cùng nằm lại với ba thằng khác. Lúc đó một nhà quay phim cửa xưởng phim Hà Nội, lại cùng học chung một trường ngày xưa, đã không thèm ngó mặt tôi và đã không thèm tháp tùng vào đoàn bệnh nhân bọc hậu của tôi.

    Anh ta cũng ốm nằm lại nhưng đã vươn lên nổi. Khi gặp tôi và đám đồng hành bệnh lặc lè, anh đã làm mặt lạ và không đi chung. Anh ta giải thích như sau: “Mình bi kẹt kinh tế với mấy đứa kia !”

    Mấy “đứa kia” nào tôi không biết, nhưng dù chúng nó là mấy đứa nào di nữa anh ta vẫn phải đi với chúng tôi để giữ tính cách tập thể của đoàn mà lúc ra đi nhà trường đã dặn dò.

    Anh ta nói vậy nhưng tôi hiểu rằng anh ta sợ đi chung với đám bệnh nhân yếu hơn anh ta rồi sẽ phải cán đán nhiều việc.

    Bọn tôi cũng bất cần. Sự giúp đỡ của anh ta nếu có thì cũng chẳng đi đến đâu mà phải cầu cạnh anh ta ráp vào với mình.

    Trời còn có mắt, khi chúng tôi ngóc dậy nổi và “hành quân” một cách oai hùng thì lại gặp hắn nằm bẹp dí ở trạm trước mặt. Hắn có vẻ hối hận.

    Nhưng tôi đếch cần sự hối hận đó. Mày đã thế thì tao đáp lại mày thế. Hắn nhờ một đứa trong bọn tôi lấy dùm một lon nước ở suối dưới dốc. Hắn không bò nổi. Tôi đã từ chố thẳng thừng. Lại còn “cấm” không thằng nào được giúp hắn.

    Tôi chỉ huy có ba thằng nhưng cũng oai. Vì cái lệnh của tôi rất nhân hòa và địa lợi, có lẽ cả thiên thời nữa nên không đứa nào chống lại.

    Hắn rất biết điều. Hắn không nài nỉ thêm. Mãi hôm sau, tôi ân hận – đến phiên tôi ân hận, nên đã lấy dùm hắn một guy-gô nước để ở đầu võng hắn nhưng nhất định không nấu. Tình đồng chí đến thế cũng đã là cao rồi.

    Đó sự giúp đỡ, tình đồng chí trên con đường này đại khái nó hiện nguyên hình như thế đó.

    Cho nên tôi hết sức ngạc nhiên khi nghe lời thăm hỏi của anh giao liên. Anh ta lấy lon đi múc nước và nấu dùm tôi. Bất cứ lúc nào người Trường Sơn cũng cần nước nóng nước sôi – để uống, để đổ vào bi đông mang theo dọc đường.

    Uống nước sống là sốt ngay. Vì đó là uống vi trùng.

    - Bây giờ có được trái mận cậu nhỉ ! – Tôi kiếm chuyện nói xã giao.

    - Ý, em sắp có mận rồi đấy anh.

    - Mận gì?

    - Mận nhà em.

    - Sao cậu có ở đây được, bộ cậu phơi khô à?

    - Không, em giồng lấy chứ!

    - Làm sao trồng được, hạt đâu mà trồng?

    Cậu giao liên cười:

    - Chuyện lạ anh nhỉ, nhưng mà có thực.

    Rồi cậu ta vui miệng tiếp:

    - Em đã đọc một truyện dịch của nước ngoài rất thú vị. Như thế này: Có một anh thợ săn đi săn thú rừng. Anh chàng bắn suốt ngày, đã hết đạn nhưng không được con thú nào.

    Chiều đến, sắp đi về thì lại gặp một con nai tơ rất dạn, tưởng có thể bắt bằng tay được. Bắn thì chắc trúng trăm phần trăm rồi, nhưng không còn viên đạn nào.

    Chàng ta bèn nảy ra sáng kiến là hái một trái mận ăn rồi lấy hạt lắp vào súng thay cho đạn. Chàng ta nhắm đầu con nai mà đưa một phát. Con nai hoảng chạy mất tiêu. Mấy năm sau chàng ta lại đi săn.

    Chàng ta bất ngờ gặp một con nai trên dầu có cây mận, thay vì có bộ sừng chà gạc như những chú nai khác…

    - Hay !thỉ ! – Tôi nói.

    - Trí tưởng tượng của nhà văn thật là kinh hồn. Chỉ đọc một truyện đó thôi em cũng thấy tinh thần sảng khoái lạ thường. Đó là một sự tưởng tượng chứ nào có chuyện gì như vậy dược, nhưng mỗi khi nói đến chuyện thiếu nhi thì em nhớ chuyện “Cây mận trên đầu con nai” kể trên.

    - Rồi cây mận của cậu có ăn thua gì vô đó?

    - Không ăn thua nhưng nó cũng là cây mận mọc lên trong sự bất ngờ.

    Cậu giao liên đứng dậy nói:

    - Để em đi vào trong chòi của em !ấy đem ra cho anh một ít củi.

    - Ừ, tốt lắm. Củi ở đây còn khó tìm hơn củi ở Hồ Hoàn Kiếm !

    - Anh nghĩ coi ngày nào cũng cả trăm người quơ củi nấu nướng như thế này, củi nào còn được.

    - Cậu tên gì thế?

    - Chính. – Chính vừa đáp vừa đi nhanh vào trạm.

    Tôi nghĩ thầm. Nó là em của nàng Thơ vườn mận. Nó đâu đã đến hai mươi. Vậy mà trông như ông cụ non. Uổng quá, thằng bạn tôi đã đi vào rồi.

    Nếu nó ốm mà nằm lại đây thì anh rể và em vợ hụt đã gặp nhau. Con đường này ngoài cái chết thảm khốc, nó còn cho nhân loại những áng văn chương biệt ly không ai biết để viết ra. Cậu thanh niên này ít ra cũng mang một vết thương lòng trong khi trú ẩn tại cái hốc đá này.

    Và một cô gái Nghi Tầm cũng đã khóc thầm trong những đêm mưa hay trong những lần đi sang vườn mận.

    Chính trở ra tay cầm mấy que củi chắc. Có nghĩa là không phải nhánh cây khô mà là những thân cây tươi đốn xuống rồi chẻ ra như củi bán ở mậu dịch củi Hà Nội.

    - Cậu có cả củi ấy nữa cơ à?

    - Đây là “thuốc” chống sốt đấy anh ạ?

    - Thuốc gì lạ vậy?

    - Không phải thuốc nhưng cũng như thuốc vậy. Anh biết sao không?

    - Sao?

    - Ở đây mà cứ treo mình trên võng ngủ hoài thì dễ sốt lắm anh ạ. Anh có kinh nghiệm thế không?

    - Không! Nhưng làm sao cấm con người ta nằm võng được ?

    - Tự cấm mình tốt hơn chớ không ai cấm. Em nghiệm ra như thế cho nên tự bắt mình khổ sai.

    Ở đây đâu có việc gì làm ngoài việc chặt cây, đốn củi và chẻ ra làm củi. Vừa có lợi cho nấu nướng vừa có lợi cho sức khỏe.

    Con dao của em chắc cũng rèn ở một lò với dao anh chớ gì. Đúng là con dao của phố hàng Mã. Vậy mà em ngả nổi nhung gốc cây to bằng đùi mình.

    Thì chém bao nhiêu nhát? Phồng tay. Ba ngày. Bốn ngày. Anh biết không. Ngày nay không dứt thì ngày mai. Ngày nào cũng chém. Như vây là mồ hôi ra.

    Sốt rét không nhập vào người nổi. Ấy vậy mà cũng sốt. Còn bệnh mà nằm hoài như các anh vậy thì không bao giờ dứt cơn sốt. Sốt kéo dây thêm sốt.


    ....................................... .................................................. ..................

    Chính đã nấu sôi lon nước. Còn bao nhiêu thanh củi thừa hắn xếp lại một bên và bảo:

    - Anh nấu cháo với mớ củi này. Đủ đấy! Anh uống một miếng nước nóng đi. Anh có chuôm kí nín không? Kí nín đảng bác phát không cắt cữ nổi. Anh đã mờ mắt chưa ?

    - Chưa. Mới vàng mắt thôi ! – Tôi vạch mí mắt cho hắn xem. .

    Chính rót nước ra cái nắp gà mèn, nhưng tôi kêu: “Để pha tí trà.” Rồi móc gói trà trong ba lô ra, bốc một dúm bỏ vào lon nước, đậy nắp lại.

    Cái lon guy-gô (hộp sữa bột Hòa Lan) thế mà được việc lắm. Lúc sắp đi Nam tôi phải chạy tận chợ trời mua mấy cái. Tự nhiên loại hàng chiến lược này khan di. Dân đi B càng lúc càng đông.

    Nhà nước không có nhôm chỉ gò hộp sắt vừa nặng lại vừa rĩ sét cho nên chúng tôi đã trút cả lon muối và lon kho quẹt của đảng phát cho vào hai lon guy-gô.

    Còn hai ba cái khác thi để dành nấu nước, chứa nước đeo trong lưng như một cái bi đông thứ hai. Bi đông của Trung Quốc không đủ nước cho một chặng đường núi. Nhiều người phải chặt ống nứa chứa nước để mang theo ở những chặng dài gấp đôi chặng thường lại không có suối.

    Ống nứa tươi nặng bằng năm bi đông nước đầy. Đã yếu sức lại phải tải thêm các thứ đồ lề trên lưng cụp cả xương sống.

    Trà Chính Xuân, mỗi tháng đi Nam được mua một gói “để về tặng bà con trong Nam uống cho biết mùi xã nghĩa thơm tho.”

    Tôi dùng một que nứa cặp quanh thân guy-gô nghiêng rót trà ra nắp gà mèn và cái bát sắt tráng men made in Hungari đã xếu mếu, tróc sơn vì rớt nhiều lần trên đá và bị dẫm lên như chính chủ nó vậy.

    Hai con ma sốt rét ngồi uống trà giữa rừng. Tôi ngồi trên võng, còn Chính thì ngồi trên cái rễ cây gồ ghề.

    Gói trà đã khui ra từ lâu, đã mất nhiều hơi không được nguyên hương nữa nhưng rất tuyệt trần. .

    Tôi uống bằng tư tưởng hơn là bằng môi. Tôi tưởng tượng tôi đang ngồi ở phòng trà Phố Huế Hà Nội uống nước cau khô pha trà hay trà xác ngâm nước cau khô mà tưởng tượng rằng mình uống trà “Trảm Mã” hoặc “Vũ di Sơn” cơ,

    nhưng bất cứ bằng tưởng tượng hay bằng môi thịt thì cũng không ngon bằng trà Trường Sơn này. Cái gì hiếm đều quí .

    Nước ấm chạy vào từng mạch máu li ti. Tôi thấy ấm cả người và tỉnh cả tinh thần. Tôi hỏi:

    - Còn cây mận của cậu ở đâu?

    - Em trồng trong trạm.

    - Hạt đâu mà trồng?

    - Đó là chuyện lạ, lạ như truyện gã thợ sắn kia.

    - Cậu kể còn thiếu. – Tôi rót trà cho Chính và nói.

    - Em tên là Phẩm. Không phải Chính, nhưng vô đây em đã đổi tên Chính,

    Tôi kể tiếp chuyện cây mận trên đầu con nai:

    - Mấy năm sau gã thợ săn vô rừng. Lần này gã bắn được nhiều thú. Khi sắp sửa ra về, gã chợt thấy một chùm mận ngay trước mắt.

    Nước trong bi đông cũng cạn như bọn vượt Trường Sơn tụi này vậy. Gã bèn leo lên hái ăn. Nhưng gã chợt nghe cây mận di chuyển. Gã nhìn xuống đất thì thấy mặt đất cứ lùi lại phía sau.

    Hắn lấy làm lạ, nhưng sau khi nhìn kỹ thì thấy một con nai đang đội cây mận mà đi… Hóa ra cái hạt mận bi nhét vào sọ con vật nay đã trở thành cây. Gã lật đật nhảy xuống đất.

    - Đâu phải ! Khúc sau này là do anh tưởng tượng thêm ra… Chuyện em biết không ly kỳ như vậy đâu!

    Tôi .cười .

    Bữa trà trở nên vui vẻ và thân mật hơn. Tôi nhường lời cho Phẩm kể về cái hạt mận của cậu ta. Phẩm nói:

    - Em đang học lớp mười một thì bị động viên. Em được đưa vô thẳng trong này. Ở trên hứa sẽ cho về Hà Nội học tiếp sau sáu tháng phục vụ ở Trường Sơn.

    Em vô đến đây một hôm nằm trên võng mằn mằn trong túi quần tìm cái gì nó cấn cấn bên đùi. À này, anh có nhớ cái hạt na của Văn Cao không?

    - Hạt Na nào của Văn Cao?

    - Cái hạt na “nằm lấp dưới chiếu không chết ai nhưng mà cấn lưng khó chịu” ấy mà!

    - Không phải Văn Cao mà là Nam Cao, trong Sống Mòn, cậu muốn nói cái hạt na đó chớ gì !

    - Vâng, em nhầm Nam ra Văn, vi hai ông ấy cùng “Cao” cả.

    - Rồi hạt mận nằm dưới chiếu đâu ?

    - Không, em mò trong túi quần, bất đồ moi ra được cái hột mận nhà em. Em nảy ra ý nghĩ đem trồng nó và em đã trồng nó ở bên lều em trong kia kìa.

    Anh có rỗi, ủa anh có khỏe không, vào xem chơi cho đỡ nhớ Hà Nội.

    - Không leo lên cây được chớ!

    - Làm gì. Nó mới lên cao bằng gang tay thôi mà.

    - Ừ để chốc nữa, có khỏe thì tôi vào. Mà không sợ lộ bí mật à?

    - Không! Em có cái gì cần giữ bí mật đâu mà sợ. Nhưng dù sợ, chắc đã giữ được bí mật? Cũng như con đường này vậy, mình đã giữ được bí mật nó hay không?

    Mặc dù mình đã hết sức bí mật, đổi cả tên tuổi mọi người nhưng cả Hà Nội đều hay. Như em đây, em giấu với người yêu em nhưng cô nàng cũng biết.

    - Đã có người yêu rồi cơ đấy à?

    - Có lâu rồi chứ!

    - Rồi sao ?

    - Đi có sáu tháng phục vụ giải phóng Miền Nam mà đâu có lâu. Bố em định em hết lớp mười hai mới làm lễ cưới cho chúng em.

    - Sớm thế. Mới có mười tám.

    - Chỉ mình em là trai trong gia đình nên bố em sốt ruột. Chị em đã nhở một lần. Thầy em hơi bất mãn.

    - Nhỡ hồi nào?

    - Với anh nhà văn ở Hà Nội, người miền Nam.

    - Theo tôi biết thì mới yêu nhau sơ sơ thôi mà.

    - Sơ sơ đâu mà sơ sơ. Chị em yêu anh ấy sâu đậm rồi. Hai bên đã hứa với nhau.

    - Đi vô đây còn hứa nỗi gì ?

    - Nếu biết con đường như thế này thì chắc ảnh không hứa đâu. Anh biết đấy, đến em đây em cũng không dám hứa gì hết với người yêu của em kia mà.

    - Thế ngộ ở ngoài đó người ta lấy chồng thì sao ?

    - Em mong thế.

    - Cậu bi quan vậy.

    - Anh lạc quan lắm hở?

    - Lạc quan chứ !

    - Anh lập trường vững nhỉ !

    - Không vững mà lọt vô đây được à. Cậu cũng vững chớ thua gì tôi đâu.

    Phẩm đang vui vẻ bỗng trở buồn dàu dàu:

    - Vững gì em. Em muốn về đây chứ mà không biết làm sao !

    - Hết hạn đăng ký rồi hả?

    - Trên một năm rồi.

    - Ủa sao ở trên không cho cậu về ?

    - Ở đây chỉ còn biết kêu nài với mấy cái đá tai mèo và mấy cây cổ thụ kia.

    - Cậu thủ trại có một mình hay sao ?

    - Chứ anh nghĩ là mấy mình ?

    - Trời đất, ở như vậy chịu sao thấu?

    - Không thấu cũng phải thấu chứ không thì ai thấu cho mình.

    - Có bề gì ai tiếp cứu, giúp đỡ cho?

    - Thì cũng chỉ có hai đồng chí Cổ Thụ và Tai Mèo ! Chứ có ai đâu khác ? Nhưng mà được cái là lúc nào cũng có khách nằm ở đây.

    - Nhưng cậu coi họ là ma quỉ còn họ coi cậu là kẻ thù hoặc là trời con mà. Họ đâu có giúp cậu nếu cậu cần. Hơn nữa, cậu giữ bí mật chỗ ở của cậu, họ đâu có biết cậu ở đâu

    Phẩm ngồi im. Có lẽ gã chợt nhận ra cuộc sống quái gỡ của gã ở đây.

    - Em cũng không biết sao nhưng đã hơn một năm rồi, em sống như thế đó.

    - Cậu không sốt à ?

    - Sốt? Không mà được à! Em coi kí nín là một trong mấy đồng chí gần gũi nhất của em.

    - Xanh hay vàng?

    - Vàng là đồng chí, xanh là đại đồng chí ! Hồi mới vô bị cữ em cho một phát ba đồng chí vàng là cúp ngay. Nhưng sau vài cữ, nó lờn mặt, vàng bất lực,

    uống vô nhậm nhầy, không đi tới đâu cả. Một hôm một anh bộ đội cho ba viên xanh. Ôi chao, em bỏ hết vào mồm, tu ngụm nước . . .

    - Ấy chết ! Xanh mà cậu đi kiểu đó thì chết !

    - Để yên em kể cho nghe. Thứ xanh ác thiệt anh ạ. Không biết của nước xã nghĩa anh em nào vậy. Tọng vô được một chốc thì tai em bắt đầu nghe ù ù, mắt em bắt đầu mờ và chập sau là em nghe như lửa cháy trong người. Cả người em nghe khô lên như rơm rạ giữa đồng.

    Em tuột hết quần áo nhảy xuống suối. Em ngâm mình luôn một hồi rồi lên võng, thiếp đi hồi nào không rõ. Đến chiều tối em giựt mình thức dậy thấy mình nằm bên bờ suối! Em mang máng nhớ ra rằng lúc mê sảng, khát nước, em đã bò ra bờ suối uống nước.

    - Thế là đồng chí sốt rét không đến nữa hả?

    - Không đến sao được.. Chì cách vài hôm là đến thăm em.

    - Thế rồi cây mận làm sao ?

    - À quên ! Em đem cái hạt mận tìm chỗ có đất phân đào xới, nhặt hết đá và nhét xuống đó. Hằng ngày em tưới cho nó tí nước. Em bảo nó: “Mận ơi ? Hãy đến với anh!” Nó như nghe rõ lời than của em.

    Một hôm khi di chuyển về em ghé mắt thấy nó nứt mọng anh ạ ! Trời ơi ! Em mừng như đẻ được đứa con. Từ đó em thấy đỡ cô đơn. Lúc nào cũng dòm cũng ngó. Muốn cho nó vụt cao lên và có trái ngay cho em hái. Đó sự tích .

    cây mận của em không ly kỳ như cây mận đầu nai nhưng chắc chắn nó mang nặng tình hơn. Anh có muốn xem không, em dắt anh đi xem.

    - Để hôm nào đã, bây giờ chân cẳng đâu có bước nổi.

    Tôi hơi tiếc. Nếu biết thằng em vợ hụt ở đây, chắc anh bạn tôi sẽ đổ nhiều tâm sự. Đoán chừng như thế, Phẩm nói ngay:

    - Em nhận ra anh ấy chứ!

    - Anh nào ?

    - Anh nhà văn người yêu của chị em !

    - Trời đất, sao cậu không nói để anh em hàn huyên với nhau.

    - Em nhận ra ảnh vì sao anh biết không. Vì ảnh mới vô đây hình thể chưa thay đôi nhiều, nên trông thấy ảnh là em biết ngay.

    Còn em ở đây hơn năm rồi, hình thù không còn ra cái giống gì nữa cho nên ảnh đâu có thể nhận ra.

    Chúng tôi uống cạn guy-gô nước. Phẩm nấu thêm. Lại uống. Như rồng. Phẩm lại nói:

    - Em không muốn ảnh nhận ra em là vì em nghĩ: Để làm gì ? Con đường này, một khi đã dẫm lên là kể như phân nửa đã hi sinh cho Tổ quốc.

    Nhắc cho anh ấy một mối tình không có hi vọng gì hết thì để làm gì ? Chỉ làm ảnh thêm bận lòng khi ‘bước chân trên đường gập ghềnh xa” thôi.

    Lại uống hết guy-gô nước thứ hai. Tâm sự làm cạn mất ít nhiều nước suối. Chúng tôi bỗng trở thành bạn tri âm trong một điểm tình cảm: Hà Nội và tình yêu.

    Hơn một tháng qua đi hơn hai mươi trạm, tôi chưa gặp một anh giao liên nào dễ thương và đáng tội nghiệp như Phẩm. Chẳng hiểu bao nhiêu học sinh đã “tình ‘ nguyện” đi vào con đường này để giải phóng Miền Nam này.

    Vừa sắp sửa tiêu diệt lon nước thứ ba thì nhạc sĩ Hoàng Việt tới. Anh ta bị sái cái bánh chè, vì lội suối trợt ngã vào đá đâu mấy ngày trước. Anh đi trước tôi nhưng nằm lại đây vì cái bánh chè báo cô.

    Trên đường này, ngoài “đồng chí sốt rét” thường xuyên ngự trong tim bạn, còn không biết bao nhiêu thứ bịnh khác có thể xì ra hoặc xảy tới bất cứ lúc nào. Nhất : là các ông bà có mầm mống thấp khớp thì càng lãnh ân huệ sớm. Gương mặt Hoàng Việt trông thảm não nhất.

    Anh đi Bungari mới về. Tốt nghiệp Nhạc viện Bê la Bát tốc, vừa hoàn thành bản giao hưởng “Quê Hương” đã được giàn nhạc giao hưởng Hà Nội trình bày ở nhà hát Thành phố như một sự tiễn chân nhạc sĩ. Hồi đó – cách không lâu -chừng hơn một tháng- Hoàng Việt da dẻ hồng hào, gương mặt đỏ au, hai má phính bơ sữa nước bạn về Quê Hương chưa có thì giờ tọp lại.

    Tóc đã hoa râm nhưng còn điển trai lắm. Các cô văn công đáp tới anh Bảy liền xì, xin dĩa nhựa và xin luôn chữ ký và tặng lại anh Bảy thứ nọ thứ kia để làm kỷ niệm… mang về Nam cho chi Bảy và các cháu.

    Nhưng bây giờ thì ô hô ! Một Hoàng Việt đầu bạc như lông chó cò -Anh tự vẽ chân dung ra như thế- ống quyển như hai cây gậy, bánh chè lung lơ như bạc đạn xe ba gác còn trái tim thì tồng phộc như một trái dừa chuột khoét.

    Tuy vậy Hoàng Việt không bi sốt rét hành hạ nặng nề như mấy đứa tôi,.

    - Uống miếng trà anh Bảy! – Tôi mời một cách thiệt tình.

    Hoàng Việt quơ mấy mớ xác trà chúng tôi vừa đổ ra trên.một mẫu ni lông đợi khi uống xong cữ trà thì đem phơi lại để uống keo thứ hai. Hoàng Việt bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến và vui vẻ nói:

    - Chủ tịch Kim Nhựt Thành gởi cho tụi mình bốn mươi tấn sâm ở trạm tới. Ráng bò tới đó, mỗi đứa sẽ được lãnh một c… ủ.

    - Co… hả? – Tôi chêm vào.

    - Ê chú em? Đây là xứ nào vậy? – Hoàng Việt hỏi cậu giao liên.

    - Dạ, em cũng không rõ là xứ nào ! Em không còn nhớ em tên là gì nứa là ! Chính hay Phẩm ? Không biết cái nào là của cha mẹ đặt, cái nào là của đảng ban cho, nói gì đến địa danh, địa hình.

    - Nếu bị địch tấn công bất tử cậu chạy ra khỏi khu vực trách nhiệm của cậu thì làm sao biết đường?.

    - Không rõ ! Vì chưa xảy ra !

    Hoàng Việt về lều lấy trà thêm. Cậu giao liên có lẽ lâu lắm mới được uống trà nên thấy có trà thêm thì hăm hở đi múc nước suối. Lần này cậu ta gom tất cả được hai bi đông và ba hộp guy-gô.

    Giờ này là giờ nào ? Có lẽ trưa. Nhưng không ai còn đồng hồ nữa. Đồng hồ đã đi theo heo gà trong buôn hết cả từ lâu:

    Tôi còn một cái Movado waterproof nhưng vô tới đây hơi nước len vô bốc làm mờ mặt kiếng và cuối cùng là chết máy.

    Mặc kệ, không cần giờ giấc. Có giao liên ngồi chủ trì uống trà thì dù lửa khói mù mịt cũng chẳng ai rầy.

    Nếu người khác nấu, có một tí khói cũng bi la ó. Và nếu giao liên bắt gặp thì bị cảnh cáo nặng nề. Do đó một “hội viên” uống trà khác thấy cuộc họp có vẻ êm ấm lại vác xác tới.

    Đó là một họa sĩ trẻ. Anh ta vừa tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật thì “tình nguyện” đi Nam. Đáng lẽ để cho anh ta học thêm hơn là bắt anh ta tình nguyện. Nét bút của anh ta còn non lắm. Không biết đưa anh ta vào Nam để làm gì ?

    Anh ta rề lại chìa cái chén Hungari:

    - Cho em xin tí uống thuốc.

    - Tí thôi hả ?

    - Vâng. Uống xong là cắt cữ, mai đi.

    Anh ta tên Trịnh Văn Núi quê ở Ninh Bình đã hứa hôn với một cô gái ở quê tên là Lã Thị Đôi. Núi có cho tôi.xem ảnh hai người chụp chung trước khi anh ta vô trường đi B.

    Vào trường, anh cũng đổi tên như mọi người, anh bỏ Núi, lấy tên Đôi. Đôi ! Núi Đôi. Đầy ý nghĩa, một cái tên. Nhưng bây giờ thì núi không đôi mà chỉ toàn núi chiếc hoặc núi chập chùng núi trùng trùng điệp điệp núi không dứt,

    núi cao núi thấp núi dọc núi ngang, mở mắt là thấy núi, lội suốt ngày vẫn còn núi, ngủ trên núi, uống nước dưới chân núi, thì ra núi chỉ thơ mộng trong thơ nhưng trên mặt đất này thì núi là cái đồ mắc dịch, càng thấy càng căm thù, càng leo càng to tiếng văng tục.

    Tôi nhìn Núi, thấy cậu ta có vẻ thất sắc khác thường như thế nào ấy. Tôi bảo:

    - Ngồi đây uống vài chén đã. Ai bắt đóng thuế Nông nghiệp đâu mà sợ!

    - Cảm ơn anh, nhưng em thấy khó chịu quá, để em về uống thuốc đã.

    Tôi ngó theo, anh chàng đi xiêu xiêu tay vịn vào thân cây sợ ngã.

    Hoàng Việt nói:

    - Thanh niên gì dở hơn ông già vậy?

    Tôi nới:

    - Cái sốt của nó hơi lạ anh ạ!

    - Lạ thế nào mà lạ ! Thì cứ ba chú “đòn xốc” ghim là đủ liều vi trùng vô máu rồi chớ lạ gì !

    Còn mấy đội viên trong cái đoàn què quặt cửa tôi nữa là một họa sĩ trẻ khác tên Nguyễn Văn Ngữ. Ngữ có vợ có con. Độc đáo của anh họa sĩ này là từ bốn năm trạm trở lại đây anh ta không bao giờ dứt cữ sốt. Hết nóng tới lạnh.

    Hết lạnh tới nóng. Anh ta luôn luôn trùm phủ đầu bằng một cái khăn rằn và chụp mủ tai bèo lên, trông hì hợm như người Ả Rập.

    Đội viên cuối cùng là một minh tinh đoàn vũ trung ương tên Thu. Thu bi trặc chân. Đi núi mà lại trặc chân ! Ca múa mà lại trặc chân ! Cái sự trặc chân quả là đại phản động.

    Đúng ra nó không nên đến mà nó lại đến và lại đến cho một vũ nữ trẻ đẹp, biến nàng thành cái nợ cho tất cả mấy thằng bệnh chúng tôi.

    Khiêng không xuể một cái trọng lượng như vậy thì đã đành rồi nhưng lại cũng không thể nằm lại đây mục võng chờ cho cô hết cái bệnh trặc chân để đi chung. Bây giờ lại thêm một ông nhạc sĩ sồn sồn lung lơ bánh chè ráp vào thêm cho chiếc xe giải phóng Miền Nam vốn đã ọc ạch rồi lại càng rơ thêm nữa.

    Nào, giải phóng Miền Nam, ta cùng quyết tiến bước.

    Thế là ngũ quỷ. Một con số mà người Việt Nam đố kỵ cũng như người Pháp sợ con số mười ba, con số xui xẻo vô cùng.Chập sau Phẩm trở về vai mang, tay ôm.

    Đây, những người “yêu nước” tha hồ yêu nước suối!. Các bố có muốn ăn thịt nai không?

    Tất cả đều dựng đứng lên:

    - Đâu nào nai đâu ?

    - Cậu có cạc-bin không?

    - Nai gì ? Thợ săn bắn bằng hạt mận của cậu chắc !– Mỗi đứa một câu rộ lên.

    - Nai thiệt mà!

    - Ở đâu?

    - Người Thượng họ lóc hết thịt rồi còn cái bộ xương. Có đi thì em dẫn cho đi. Em cũng đi nữa!

    - Ở đâu mới được, cái anh này cứ giỏi đùa !

    - Em không đùa. Người Thượng họ đi săn về ngang qua suối em gặp mà.

    - Rồi sao?

    - Các anh có đi thì em dắt. Em biết hướng. Họ đi săn được, lâu lâu qua đây họ đổi cho em một ít nhưng em đâu có gì để đổi. Họ chỉ cho em cái bộ xương họ bỏ lại sau khi đã lóc hết thịt.

    - Thì mau lên. Để trì hoãn người ta quơ hết.

    - Không có ai dâu, ngoài em và các anh ! Vậy cái vụ uống trà này đình lại nghe.

    - Thì đình đứt đuôi đi rồi. Mau lên.

    Cả tháng rồi đâu có được đi chợ Cửa Nam Chợ Hôm mua cái “hai nạng dưỡi” của cô hàng thi… ịt!

    - Cái anh này, hai lạng rưỡi thịt “nợn” quốc doanh do cô hàng mậu dịch bán nhà dzăng phải nói cho chính xác, không được nập nờ hay biểu tượng hai mặt.

    Nói như mày vậy (ông nhạc sĩ lớn tuổi hơn tôi và quen biết nhau hồi kháng chiến chống Pháp nên gọi tôi như thế từ lâu) người ta tưởng cô mậu dịch bán cái hai “nạng dưỡi” của cô ấy cho mày, hiểu chưa ?

    Những bộ mặt thiếu chất nhờn đã lâu nghe câu đùa của ông nhạc sĩ đầu bạc cố cười cho vui cái không khí âm u chết tiệt.

    Phẩm chạy về trạm trong lúc bọn tôi vẫn ngồi nhâm nhi trà dão vì không có ý đinh lãng phí thêm một bình trà mới.

    Hoàng Việt nói:

    - Kiểu này khó tin lắm. Nai đâu mà bỏ vậy. Tao đã từng ăn “nai” hai lần rồi. Lần thứ nhất một thằng cũng bảo tao cái kiểu này. Tao theo gót nó tới một vùng cỏ rậm nó trỏ vào cái dấu nai mới nằm bỏ đi, nó bảo “nhặt cỏ” đó về mà luộc ăn cũng có mùi nai vậy!

    Tao quạu thấy bà, muốn tống cho nó một bạt tai. Nó cười hề hề: Thèm thịt quá mơ ước tầm bậy vậy thôi ! Lần thứ hai cũng thằng đó. Nó trỏ cho tao một cái đầu nai ở ven suốì ruồi bu xanh lè và bảo:

    Nếu mình đến sớm ba ngày có lẽ cái đầu nai này còn làm được một nồi hầm vĩ đại. Đó là hai lần ăn thịt nai của tao. Và lần này nữa, không biết nai ra sao.

    Giao liên Phẩm trở ra với dao găm giắt lưng và khẩu cạc bin trên vai. Không biết ai cho tin, nhưng khi chúng tôi vừa “hành quân” diệt xương nai thì có cả chục vị dân quân chánh đảng đuổi theo với khí thế hậm hực sát địch.

    Phẩm chạy quanh chạy quẹo khi bỏ đường mòn băng càn bụi rậm khi lướt trên đường mòn. Đến vùng được lngườl Thượng chỉ định, Phẩm dừng lại tìm kiếm hồi lâu thì thấy cái xác con nai nằm lút trong một bãi cỏ cao.

    Phẩm vừa chạy tới thì nhiều người lướt qua mặt Phẩm lao vào cái bộ xương đỏ loét của con thú ! Họ róc lấy những mảng thịt lớn, còn giò, cổ, da thì bỏ lại cùng với cái bọng gồm hai bẹ sườn và bộ đồ lòng bên trong.

    Cốp cốp cạch cạch. Kẻ chặt người lóc, người lại dùng tay bẻ lọi, dao chen tay, tay đan với dao.

    Ai ai cũng cố chộp cho được cái của trời càng nhiều càng tốt. Cuộc giành giật ban đầu đã xảy ra hăng hái cao độ và dần dần đi đến lấn lướt, người này hất người kia văng ra, người kia chen người nọ không cho chen vào.

    Bộ xương của con vật bỗng chốc trở nên bé nhỏ đối với các cái bao tử lép.

    Hì hục, mải miết, ì ạch, quyết liệt – bỗng một tiếng kêu lên:

    - Ối giời ơi, đất ơi ! Nó chém đứt tay tôi rồi.

    - Mặc mẹ mày quân tham ăn !

    Không ai tỏ vẻ thương xót người vừa thốt ra tiếng kêu bi thương kia. Quả thật có người bị chém đứt tay.

    Nhưng vẫn không lùi bước, anh “thương binh” chỉ ném con dao ra phía sau giơ cái tay bị thương lên như để cho nó được ra ngoài vòng chiến, còn tay kia thì xòe ra bịt chỗ cục xương mông gần cái đuôi nai mà anh ta chặt tự nãy giờ chưa lìa, mà miệng thì la bài hải:

    - Ê cục này cửa tôi nghe… Của tôi nghe !

    Nhưng những nhát dao cứ phầm phập bổ bén cái bàn tay đang xòe ra cố giữ phần, làm anh ta kêu lên liên tục:

    - Chặt xa ra! Trúng tay tôi… trúng tay tôi!

    Nhưng người người đang say mê chém lia lịa đâu có kể gì khác ngoài miếng thịt. Sau cùng anh ta bị lấn văng ra. Anh ta cố bươn vô tranh lấy cái mông nhưng bất ngờ bị một chàng nắm áo lôi tuột anh ta ra. Anh ta thụi cho chàng kia một quả.

    Chàng kia bi đối xử kém tình quốc tế vô sản bèn đáp lời sông núi cho đồng chí “thương binh” một phát vào giữa trán. Vị thương binh đã mang vết thương chưa kịp băng bó, lại ăn một đấm thiên lôi ngã ngửa ra, bên chộp lấy con dao lồm cồm ngồi dậy chực đâm một phát trí mạng vào kẻ thù. Nhưng cũng may, anh giao liên quát như sấm:

    “Chết ! Đánh nhau thế hả ? ” Tiếng quát có tác dụng cảnh tỉnh cả hai thằng đồng chí đang tranh nhau một cục xương mông và cũng có tác đụng làm cho các người khác càng hùng hục chiếm đoạt.

    Tôi và Hoàng Việt, hai đứa cũng đã xâu vô được tận bộ xương, chém được vài nhát nhưng chẳng nạy được tí thịt xương nào thì bi lấn văng ra, không chen vào được nữa. Cả hai đành đứng ngó.

    Một anh rứt được một khúc xương mông dài có đến năm bảy mắc xương sống còn nung núc những thịt đỏ loét ngon lành đi ngang qua mặt hai đứa tôi. Tôi bạo dạn hỏi:

    - Chia cho tí đi ta.

    Hoàng Việt tiếp:

    - Cái đuôi còn lông không hè, đồng chí giao tôi làm dùm cho, mình chia hai.

    Thằng đồng chí vô sản cùng lý tướng giải phóng Miền Nam và giải phóng toàn nhân loại như Ostrowski tác giả “Thép đã tôi thế ấy” nhắn nhủ – đã lạnh lùng quay mặt lại hất hàm:

    - Còn bộ da đó. Có nhiều thịt lắm đem về… thuộc mà làm thắt lưng!

    Mỗi người mỗi cục chiến lợi phẩm, kẻ vác cái giò trước, người xách giò sau, người một mảng bẹ sườn, kẻ lại rinh cả cái thủ cấp có cặp sừng chà gạc.

    Và đây là phần to lớn nhất mà một người có thể giật được từ bộ xương con vật.

    Một người năn nỉ:

    - Có đổi cho tôi cặp sừng lấy một bộ đồ lụa không?

    - Bậy, bố non ! Tôi sẽ nấu cao ngay tối nay đấy.

    Nhiều người được tin trễ tuy xách dao chạy tới ngỡ ngàng khi thấy trận địa đã được dọn dẹp sạch sẽ không còn lại gì ngoài cái đống da và những mớ bầy nhầy.

    Cả cái bao tử cũng bị chiếm lãnh mất hồi nào.

    Tôi và Hoàng Việt lẳng lặng trở về. Đói vẫn hoàn đói. Lại có phần khát hơn lúc chưa đi. Thành thử ra phí cả mấy lon trà giải khát.

    Phẩm cũng không được tí thịt da gì. Nó chỉ đứng ra làm trọng tài bất đắc chí:

    - Tôi không chú ý đến vấn đề đó! Tôi dẫn các bố đi để các bố kiếm ăn.

    Không biết Phẩm nói thật lòng hay vì không thể chen chúc vô đám bắt hôi quá nhiệt tình nên đành nói túng để lướt qua sự bất lực của mình.

    Trên đường về, Phẩm dắt ông “kỹ sư linh hồn,”, nhà “nghệ sĩ âm thanh” và ông “đạo diễn màu sắc” đi vào phía sau lưng lều của anh ta. Có lẽ với ý định cho tôi xem cây mận của Nghi Tàm.



    Hết Chương 1 - Xem Tiếp Chương 2


    sigpic

    Comment


    • #3
      Vượt Trường Sơn 3



      Phẩm có một mái lều cố định hẳn hoi, lợp bằng ni-lông xanh nước biển, đứng co ro dưới một tàng cây to chắc chắn máy bay không tìm thấy.

      Cái lều này giăng cố định chứ không hạ xuống hằng ngay như lều chúng tôi.

      Phẩm không phải làm như chúng tôi, tức là sáng cuốn đi chiều mắc lại, trưa chỉ được giăng võng nằm dưới nắng hoặc trong vũng bóng mát luôn luôn di động theo góc độ mặt trời, ban ngày chỉ được giăng khi trời mưa to.

      Lều của Phẩm có vẻ một cái nhà của kẻ “ăn lều” ở kiếp, không giống như bọn khách đi đường ăn xổi ở thì.

      Nó có nền đất vun cao, có đường mương chung quanh nền. Từ sợi dây căng lều đến cọc treo trên võng, nơi mắc ba-lô, thứ gì cũng tươm tất.

      Phẩm có bếp với giàn củi sấy trên giàn bếp. Cái bếp của Phẩm xây theo lò Hoàng Cầm hồi kháng chiến chống Tây.

      Đào một lỗ tròn và một ống khói ngầm để dẫn khói thoát đi và tan trong lòng đất. Đặc biệt Phẩm có một cái soong con có thể nấu được cho ba người ăn, không biết Phẩm tìm ở đâu ra cái vật quý giá đó.

      Trong lều có một hòn đá mặt phẳng vuông vắn để mỗi lần ngủ thức dậy bước xuống ngay đó đề phòng rắn chàm oạp.

      Chàm oạp ở đây khá đông. Chúng lẩn lút dưới lá khô. Mỗi một phát chàm oạp tặng cho đồng chí Trường Son thì có giá trị một cái vé tàu suốt qua bên kia thế giới Mác.

      - Mận đâu? Mận Nghi Tàm đâu?

      - Đây này! – Phẩm chỉ vào một khoảng trống giữa hai gốc cây to.

      Sau một cuộc chạy đua việt dã mà kết quả là vác dao đi lại vác dao về, sức lực tiêu tan, hai đầu gối rã rời, tôi ngồi xuống một rễ cây gần đó và đưa mắt ngó cây mận thần thoại còn Hoàng Việt thì phát cáu, đòi trở về nằm nghỉ:

      - Đường ra đâu?

      - Anh cứ đi theo con đường mòn này đến ngã ba có một nhánh cây kéo quặt che bít đường. Anh chui qua đó mà đi thì ra đến nơi đóng quân. Nhớ đừng có rẽ qua lối không có cây che nghe.

      Đi theo đó sẽ lạc không biết đường về – Phẩm giải thích thêm – Ở đây phải nghi trang hết cả. Có làm ra không có, không có ra có anh ạ. Nếu để đường trống thì khách họ mò vào bất cứ lúc nào, quấy nhiễu liên tục không nghỉ được.

      Hoàng Việt bỏ đi thẳng. Tôi nói vói theo:

      - Anh về trước, tôi nghỉ chút sẽ về sau. Anh coi chừng dùm đồ đạc của tôi nghe. Hồi nãy gấp đi không kịp nhờ con bé giữ giùm

      Phẩm hỏi tôi:

      - Anh xem cây mận có đẹp không?

      - Đẹp lắm!

      - Độ vài năm thì em được ăn trái !

      - Trời đất, cậu đinh ở đời đây sao?

      - Em không có ý định đó, nhưng rủi chuyện sẽ xảy ra như vậy thì khỏi phải bất mãn hay ngạc nhiên.

      Tôi nhìn cây mận. Thân cây như tăm hương, hai cái lá non, ba cái lá già mà một cái bị sâu ăn còn có một nửa. Phẩm đã cẩn đá chung quanh gốc cây.

      Bộ phận phụ thuộc trông có vẻ phong phú hơn cái cây, như con ngựa gầy đóng yên cương bằng vàng vậy.

      Phẩm cho biết hắn đi moi phân lá trong những bọng cây để vun cho nó, nhưng tôi xem ra nó rất yểu tướng – dù lớn đã chắc có trái.

      Nhưng điều tôi nghĩ xa hơn là cái cây bị trồng ở đất lạ, không phải đất của giống nó. Cũng như bọn Nam kỳ chúng tôi đây. Đi tập kết. Khi ra đến đất Bắc vài tháng là đã thấy muốn về. Nhưng đường đâu nữa mà về.

      Phải đợi đến nay mới phản hồi cố quốc được. Khi đi bằng tàu. Được đón rước huênh hoang. Về thì lủi trốn như phường ăn trộm.

      - Cậu ở đây có một mình à?

      - Có một người bạn nữa chứ!

      - Đâu nào ?

      - Kia kìa ! – Phẩm trỏ một con khỉ con ngồi trên thân cây ở phía trên nóc lều.

      Tôi bật cười. Nước mắt suýt trào ra. Con người bị đày đọa làm bạn với vật.

      Phẩm nói:

      - Em nhặt được nó trong một trận giông lớn. Sập cả lều, suối lũ. Cây to gãy nhánh và bật gốc. -Phẩm tiếp- loài vật này kể cũng hay anh ạ! Hồi còn đi học em có viết một bài chính tả tên là “Tình mẹ con con vượn.

      ” Bài ấy có nội dung là con vượn mẹ bị thợ săn bắn bị thương nặng nhưng không buông con. Đến chết mới thôi. Và trước khi buông con vượn mẹ kêu lên một tiếng bi thương đến nỗi anh thợ săn trong lòng không bắt con nó…

      Con khỉ con này từ khi bị bắt tới nay em không phải cho ăn. Hằng ngày mẹ nó đều đến mang trái cây cho nó. Anh thấy đấy rừng bạt ngàn mà mình không tìm ra một thứ trái gì ăn được, thế nhưng con mẹ nó luôn luôn có trái chín ngon lành cho nó.

      Lắm lúc nó đánh rơi trên nóc lều em nhặt lấy nếm thử thì thấy rất ngon. Sau đó em quen đi, hễ thấy loại trái đó rơi trên nóc lều thì nhặt lấy ăn, không sợ trúng độc gì cả.

      - Cậu ăn như thế, coi chừng sẽ mọc lông thành khỉ đó.

      Phẩm cười:

      - Em sống dưới sự bảo trợ của khỉ đột.

      Đột nhiên tôi hỏi:

      - Nè, cậu có xem phim Bạch Mao Nữ (của Trung Quốc) không?

      - Có chứ. Hồi đó em chín mười tuổi gì. Xã em đang ở bước ba cải cách ruộng đất. Tức là đấu địa chủ. Phim Bạch Mao Nữ được chiếu cho đồng bào coi để nâng cao căm thù giai cấp địa chủ. Ý nghĩa là địa chủ biến con người thành con thú còn Đảng biến thú thành người.

      - Nay mai sẽ có một cuốn phim Việt Nam tên là Bạch Mao Nam.

      - Ở đâu chiếu vậy anh?

      - Ở đây! Ở tại đường Trường Sơn. Không phải một mà hằng ngàn Bạch Mao Nam.

      Cậu thanh niên đứng ngớ ra. Tôi thấy câu pha trò của tôi hơi ác nên cũng im luôn. Vừa đến đó thì có mấy nhánh cây khô rơi xuống nóc lều. Tôi ngó lên. Phẩm nói ngay:

      - Mẹ nó đến đó !

      - Thế à?

      - Anh cứ đứng đây xem.

      Tôi thấy con khỉ ngồi trong một đám lá rậm. Hình như tay nó ôm trước ngực mấy thứ gì. Phẩm thấy con vật không xuống ngay với con nó như hằng ngày thì bảo tôi:

      - Có lẽ nó thấy người lạ nên sợ. Đâu anh trốn đi thử coi.

      Tôi bước lùi vô bụi gần đó và khẽ vạch lá nhìn lên. Một cái gai ác ó móc vào trán đau điếng. Nhưng không rên la vì muốn xem màn kịch khỉ rừng.

      Quả nhiên con khỉ tuột xuống rất nhanh và cho con nó ăn rồi vọt đi nhanh. Tôi hết sức ngạc nhiên về mối tình loài vật và quan hệ giữa Phẩm và hai con khỉ này. Phẩm vẫn đứng đó nhưng con khỉ mẹ cứ tuột xuống rất tự nhiên, không sợ sệt.

      - Vậy cậu cũng có bạn chứ nhỉ !

      - Vâng, em cảm thấy đỡ buồn ! Mặc dù chúng không biết nói, em cũng vẫn nói chuyện với chúng hằng ngày. Một ngày nào đó khi về Hà Nội, em sẽ đem nó theo như một kỷ niệm sống của những năm tháng ở Trường Sơn.

      - Ấy chết ! Tôi kêu lên – Cậu có buộc nó không vậy ?

      - Có chứ! Em đã nhặt được một khúc dây kẽm làm vòng đeo quanh cổ nó và dừng hai cái quai ba lô để buộc nó vào nhánh cây.

      - Cậu xem kìa hình như dây đứt rồi, toòng teng ở cổ nó đó.


      .................................................. .... ...........................................

      Phẩm hốt hoảng leo lên cây chụp con khỉ con. Tôi tưởng nó nhảy vọt theo mẹ nó ai dè nó vẫn ngồi im. Trong lúc Phẩm leo lên nó có thừa thì giờ để theo mẹ nó nhưng nó lại không đi.

      Khi Phẩm ôm con khỉ con xuống tới đất thì mẹ nó từ trên cao vun vút tuột xuống và kêu lên tỏô vẻ như vừa căm thù cái con người đã đem con nó đi vừa mắng trách con nó sao không chịu chạy thoát trong một cơ hội tốt như vậy.

      Phẩm dùng dây mắc võng bằng ni-lông buộc cổ con khỉ con vào cọc lều. Mặt mũi nó trông cũng dễ thương, không có vẻ phá phách. Có lẽ nó cũng mến cái người đã cứu nó trong giông bão.

      Con khỉ mẹ trên cây vẫn bò qua lại nhưng không dám xuống gần nóc lều. Phẩm vác đá ném, nó nhảy lên cao rồi dòm xuống chứ không chịu đi.

      - Cậu để con khỉ mẹ đến có ngày sẽ mất con khỉ con.

      - Em biết không gì mặn nồng hơn tình mẹ con. Nhất là loại khỉ rất gần với loài người. Nó cũng yêu mến và thù oán y như chúng ta vậy.

      Nhưng nếu một ngày nào đó, nó có đem con nó đi được thì cũng tốt thôi. Em sẽ buồn nhưng đặt ngược lại hoàn cảnh, nếu em là mẹ thì em cũng phải cứu con em và nếu em là khỉ con thì em cũng trốn theo mẹ em.

      - Cậu là triết nhân à? Cậu nên nhớ rằng ở đây là Trường Sơn và chúng mình đói thịt đói cơm.

      - Anh định quay con vật tí hon này à?

      - Không ! Tôi muốn bắt con mẹ nó cơ.

      Tôi hội ý với Phẩm và Phẩm đồng ý.

      Tôi nhanh chóng trở về lều. Hoàng Việt đang nằm queo trên võng. Hai ông họa sĩ người thì đang đi sưu tầm củi, kẻ lại đì lấy nước mới về sửa soạn nấu nướng. Cô vũ nữ thì lúc nào cũng sắp đổ suốì nước mắt ra. Cho ngập lụt trần gian. Tôi tung tin lạc quan:

      - Có thịt rồi !

      Không một ai nhúc nhích. Vì tất cả đều từ bộ xương con nai trở về. Nghệ sĩ chỉ khỏe cái tâm hồn còn thể xác -yếu tố cần thiết nhất ở đây- thì lại chẳng đủ mạnh để giành giật những mẩu xương. Nghe tôi nói không ai tin.

      - Ai muốn có thịt ?

      Vẫn không ai để ý. Tôi nói với Hoàng Việt:

      - Thịt khỉ ăn tốt chứ anh Bảy.

      - Ở đâu mà có ? Há, cái lì ỉa lâu mà cố ? – Hoàng Việt đã nghỉ khỏe có sức pha trò.

      Tôi bật cười:

      - Đến nước này rồi còn diễu !

      Tôi bèn lôi Hoàng Việt đi. Hai đứa đến lều một “nhà quân sự” bị tụt hậu có cây AK mà tôi gặp và đi chung hai trạm vừa qua.

      Hắn cũng rất chán cái vũ khí của đảng này lắm rồi. Hắn dọa “Tôi sẽ đem đổi đạn lấy gà lợn, nếu cần tẩy cả súng tôi cũng cho đi nốt!” Hắn chẳng lau chùi . Hắn thường lót đít ngồi và treo cả ngoài lều mặc cho súng dầm mưa.

      Bây giờ có cơ hội tốt cho hắn ta.

      - Trớn ! Đi với tôi ! Có thịt ăn !

      (Anh ta tên Trớn). Trớn ngồi dậy và trỏ cái gà mèn đang sôi sùng sục. Mấy cục xương nai đang nằm chìm trong bọt nước. Tôi lắc đầu.

      - Ăn thua gì ! – Tôi nói – Xách AK đi với tôi đi ! Con thịt này khá lắm !

      - Nai hả? Cái kiểu hồi nãy tôi chịu thôi. Suýt chém lộn, ớn quá !

      - Không! Cứ đi rồi sẽ biết. Không phải nai !

      Thấy Trớn miễn cưỡng, tôi bảo:

      - Vậy cho mượn AK đi !

      - Đấy! – Trớn hất hàm về phía gốc cây nơi khẩu súng đang nằm ngang dưới đất gác cái mõm đen ngòm trên rễ cây.

      - Còn đạn không?

      - Ba viên cuối cùng nằm trong băng.

      - Một viên đủ rồi, cần gì đến ba? – Vừa nói tôi vừa chộp lấy cây súng và lôi Hoàng Việt đi.

      - Có được gì, chia tớ tí nghe ! – Trớn nói với theo.

      - Chia chớ! Tứ lục! – Tôi cười vui vẻ.

      Tôi vừa đi vừa kể cho Hoàng Việt nghe về cái hi vọng bừng sáng sẽ có được thịt khỉ sau khi hụt bữa thịt nai.

      Khi vào đến sào huyệt của Phẩm thì kế hoạch đã được thực hiện xong hai bước đầu. Chỉ còn bước cuối cùng nữa là thu chiến lợi phẩm.

      Phẩm đã buộc con khỉ vào chỗ cũ. Con mẹ đang lần dò xuống với con. Tôi kéo Hoàng Việt lủi vào bụi để phục kích.

      - Thịt đó ! Tôi vừa chỉ con khỉ đang tụt xuống gần con.

      Số là Phẩm có khẩu các bin, nhưng đạn chỉ còn có một băng rưỡi. Hai băng hắn buộc vào nhau trở đầu và so le để lắp cho nhanh khỉ hữu sự. ‘ Phẩm không chịu chi một viên nào cho kế hoạch bắn khỉ.

      Lúc nãy Phẩm càu nhàu, Phẩm không muốn thực hành cái kế hoạch tàn nhẫn mà chính y đã gợi ý (một cách vô tình cho tôi) nhưng tôi bảo: Lấy vật đãi nhơn chớ ai lấy nhơn đãi vật! Nếu tôi chết đói, cậu có vui lòng khi vui đùa với cặp khỉ đó không?

      Phẩm đau khổ ít nhiều nhưng sau cùng cũng cho tôi thi hành kế hoạch. Phẩm đem chú khỉ con buộc trên nóc lều để nhử khỉ mẹ. Tôi núp vào trong bụi rậm như phục kích Tây. Mũi súng nghếch lên và khe khẽ nạp đạn.

      Tôi cũng đau khổ như hắn, có lẽ còn suy nghĩ nhiều hơn hắn. Tôi đã đọc một cái truyện của Maupassant hồi còn đi học. Có lẽ suốt đời tôi không thể quên. Đó là truyện “Tình Yêu” (L’amour). Truyện kể rằng một anh thợ săn vào rừng bắn được một con chim, con chim trống trong cặp chim đậu trên cành: một đôi vợ chồng hoặc tình nhân hạnh phúc. Con chim bị tử thương rơi xuống đất…

      Người thợ săn bước lại nhặt nó lên trong lúc con chim mái bay quầng trên đầu anh ta mà kêu lên những tiếng thảm thiết. Rồi đậu trên một nhánh cây thật thấp ngó xuống thi thể của tình nhân trên tay của kẻ thù.

      Anh thợ săn định giương súng bắn phát nữa nhưng bỗng nhiên anh ta thay đổi ý định. Anh ta bỏ dở cuộc săn và rời khu rừng không săn nữa.

      Trời đất ! Câu chuyện ác quá. Chỉ có ba trang sách. Thế mà đã gây cho tôi một vết thương lòng không lành được.

      Bây giờ tôi lại làm gã thợ săn kia, có vẻ còn ác hơn. Vì tôi đã nhẫn tâm dùng con để nhử mẹ vào bẫy mà bắn. Đây kia, nó đang từ trên cao tụt xuống.

      Nó đến với con nó nhưng hình như linh cảm nên không xuống gần như lúc nãy, chỉ ngồi ở giữa đường để nhìn con.

      Hoàng Việt không mấy hăng hái lắm trước cái cảnh đó. Anh ta du học ở Bungari năm năm nên nhiễm cái tính yêu loài vật của người Âu Châu chăng?

      - Đoàng! – Tôi nhắm mắt bóp cò.

      Khi khói tan ở mũi súng tôi không còn thấy con khỉ nữa. Chỉ thấy con nó treo toòng teng ở đầu dây và la the thé vì bị dây siết nghẹt họng. Con khỉ mẹ đã vọt tuốt lên cao ngó xuống. Tôi nã luôn hai phát.

      Con vật kêu lên. Tôi từ trong bụi vọt ra. Tưởng nó rơi xuống đất. Ai dè chỉ có máu đổ lộp độp trên lá và trên nóc lều. Thế là hết.

      - Xui lắm. Bỏ đi ! -Hoàng Việt nói- Đi về.

      Không còn đạn. Cố nhiên là phải về. Vì con vật bị thương đã chuyền lên mút ngọn cây và lần mất. Không biết nó bị thương nặng nhẹ.

      Phẩm trèo lên gỡ chú khỉ con xuống đem buộc ở cọc lều mà không nói gì. Có lẽ anh ta ân hận vì đã cấu kết với tôi trong một âm mưu đen tối

      Tôi và Hoàng Việt nhìn nhau. Phẩm nói:

      - Anh báo cho anh em ngoài đó biết sáng mai tôi ra sớm. Hãy chuẩn bị kỹ lưỡng. Nhất là đem theo nhiều nước vì đường dốc dữ lắm.

      Vừa đi, Hoàng Việt nói:

      - Còn tệ hơn cả cái đầu nai thối hôm trước.

      - Tôi bất tài nhưng lại ác hơn anh thợ săn chim.

      - Thợ săn chim nào?

      - Ở bên Tây.

      Cả hai cùng cười gượng sau hai lần chộp hụt nai lẩn khỉ


      Hết Chương 2 - Xem Tiếp Chương 3


      sigpic

      Comment


      • #4
        Vượt Trường Sơn 3



        - Thằng Núi lên cơn sốt ác quá anh ạ ! – Họa sĩ Ngữ nói ngay khi tôi vừa về tới.

        - Gì mà ác! – Tôi gắt rồi đi trả súng. Xong, đến thẳng lều Núi.

        Tôi chịu trách nhiệm đám bệnh, không ai cử, nhưng tự nhiên cả ba bốn đứa đều coi như trưởng đoàn.

        Có chuyện gì cũng gọi tôi, muốn làm gì cũng hỏi tôi. Tôi sờ đầu Núi và giật tay ra ngay. Nó nóng thật, nóng hơn cơn sốt thường.

        - Mẹ kiếp! Làm thế nào ?

        - Em cũng chẳng biết làm thế nào ! – Ngữ nản chí đáp

        Tôi sực nhớ ra: Có bác sĩ Năm Cà Dom. Anh ta tháp tùng với chúng tôi đi mấy trạm liền. Y rất có lương tâm.

        Làm gì được để giúp bệnh nhân anh ta cũng làm với lương tâm nghề nghiệp, nhưng bỗng nhiên anh ta biến đi đâu hồi nào tôi không rõ, vì anh ta chỉ là đồng hành tạm bợ với chúng tôi thôi.

        - Thế này thì mai không thể lên đường, ngoại trừ có phép tiên.

        Nguyên tắc bất thành văn trên đường này là ai bệnh cứ nằm lại. Nặng hay nhẹ cũng vậy. Và “tự trị” lấy mà bò lê theo sau. Không trị được thì chết chịu. Và xin nhớ rằng sau khi chết rồi hãy khôn hồn dẫn xác mình đi “tự táng” lấy.

        Nếu nằm chình ình ra đó thì có hai cách được giao liên đối xử. Một là giao liên dắt khách bỏ đi xa để khỏi bị mùi hôi thối lây tới, hai là giao liên, với sự hợp tác bất đắc dĩ của bệnh-nhân-khách khiêng đi ném một nơi nào đó mà họ có thể đủ sức khỏe mang tới.

        Tuy đã có cái nguyên tắc đó rồi, nhưng những thằng mạnh còn lại trong “đoàn bệnh” chúng tôi không nỡ. Nghệ sĩ trót sinh giàu cảm lụy mà. Tôi dã bị bỏ ít nhất hai lần rồi, tôi từng biết cái cảnh “dứt cơn sốt ngóc đầu dậy chẳng có ai” ngoài mấy cục đá và những cái cây vô tri.

        - Hay là vì nó uống quá liều kí-nín?

        - Nó uống có ba viên !

        - Xanh hay vàng?

        - Không rõ !

        - Tẩm khăn ướt đắp trán nó thử coi nhiệt độ có xuống không. Nóng thế này thì ít nhất cũng trên 40 độ. Ừ con Thu có nhiệt kế. Cậu bảo nó đưa đây.

        Ngữ chạy đi và trở lại. Tôi chộp lấy cái ống thủy tinh vạch áo chọc vào nách Núi.

        Núi nhắm nghiền đôi mắt, hai má đỏ rực lên như lửa than.

        Hoàng Việt coi như bậc lão thành của đoàn nên được miễn cho mọi việc nhưng cũng đến góp ý kiến. Tôi rút nhiệt kế ra đọc. Bốn mươi hai độ. Hoàng Việt nói:

        - Nó sắp mê sảng rồi !

        - Sắp gì nữa, bốn mươi hai là điên rồi !

        - Bệnh gì ác vậy ?

        - Nếu không ác tính thì có một bộ phận nào trong nó bị viêm nặng.

        - Ruột thừa ?

        - Không biết. Để tôi ấn thử coi… Đau không Núi?

        (Núi lặng thinh) Tôi ấn vào hoành cách mạc… Đau không Núi ? (Núi vẫn lặng thinh) Hay là sưng màng óc. Bố tôi cũng không biết được? Chán quá!! Phải có được một bà lang băm ở đây cũng đỡ!

        - Nấu cơm ăn đã ! Hoàng Việt bảo.

        Cơm xong tôi lại sờ Núi. Nó trở thành cục than rồi. Và vẻ mặt đờ ra. Hỏi không đáp, ngắt không đau, giật tóc mai cũng trơ trơ. Bệnh gì mau vậy? ác tính. Sốt ác tính. Fièvre galopante. Đảng chẳng có “đả thông” cho cái chứng bịnh rất phổ biến này.

        Đảng chỉ nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng Miền Nam lúc chúng tôi sắp lên đường thôi. Có lẽ vì thế đảng quên cho chúng tôi thuốc mang theo. Mà phần chắc là đảng không biết có cái chứng bịnh ác nghiệt đó trên đường này.

        Đáng lẽ người ta phải báo cáo rõ ràng nhưng người ta lại bịt đi để cho trung ương ngồi ở Chủ tịch phủ cứ tưởng con đường này vui vẻ vinh quang cực điểm mà ai vào đây cũng thấy mình trở thành anh hùng giải phóng cả.

        Đây là một thứ cải cách ruộng đất dưới một hình thức khác mà con số tổn thất cũng không thể ước tính nổi.

        Chẳng có cách gì để cứu bạn thì đành nhìn bạn rơi vào đêm đen.

        Tôi và Hoàng Việt mắc võng gần nhau, luôn mồm trò chuyện. Hết chuyện bên Tây đến chuyện bên ta. Nói mãi mấy trăm cây số đường đèo mà vẫn chưa vơi.

        Cái đám quơ được thịt nai nấu nướng như đám giỗ. Ai bắt được nấy ăn. ăn không hết thì giấu trong ba lô mai ăn tiếp. Không ai cho ai món gì.

        Không ai giúp ai điều gì. Đó lại cũng là nguyên tắc bất thành văn trên đường này. Con người đã tự hạ mình đến mức thấp nhất, kỳ cục nhất, bi thảm nhất.

        Hoàng Việt lên võng buông màn thò đầu ra hút thuốc lá. Trời đã hoàng hôn. Ruột lỏng bỏng với mấy hạt cháo loãng. Nhưng lúc nào anh ta cũng rất lạc quan.

        - Nè sao mày không xin đi Bác Kế cho có cặp ?

        - Xin mẹ gì thế mà xin ?

        - Người ta có thể chiếu cố mày chớ. Vì đây là một tên Nam kỳ tình nguyện đi Bác Kế. Thường tình, chỉ có dân đi Bác Kế xin vô ông Cụ thôi.

        - Bộ anh tưởng tôi coi quê hương tôi là đồ bỏ hả. Tôi về chuyến này là vì tôi nhớ nhà quá sá…

        - Chứ không phải để giải phóng Miền Nam à?

        - Còn anh thì chắc để giải phóng Miền Nam?

        - Hì hì… !

        - Anh ở luôn bên Bungari vài chục năm nữa thì giải phóng xong Miền Nam sẽ về có phải khoái tỉ hơn không?

        Hoàng Việt bật cười to.

        - Gì vậy cha nội ? – Tôi hỏi.

        - Tao nhớ cái chuyện ngoáy trầu.

        - Ở đâu, hồi nào, ai ngoáy, trầu gì, trầu xanh hay trầu xà lẹt… ? Tôi tuôn một hơi.

        - Mày không ở trong Sư đoàn 330 của già Cống à?

        - Có nhưng chỉ năm đầu thôi. Tôi ở Phòng Chính trị có đi lên đi xuống đó chứ không phải là lính của giả.

        - Vậy không có xem vở kịch của lính diễn vào dịp Tết đầu tiên trên đất Bắc, mình đón ông già Rô à?

        - Ông già Rô nào?

        - Cái thằng. Viết văn gì dốt quá vậy. Rồi Hoàng Việt kể luôn – Hồi đó tao còn ở đoàn Văn công Trung ương. Đoàn được lệnh vô Thanh Hóa làm một buổi biểu diễn to để đón Bác vô thăm các cháu “anh rũng” Thành Chì Tổ Quốc.

        Trời mưa phùn Tết rất nên thơ. Lính ta không được người anh em Trung Quốc tặng áo đi mưa nên dầm mình đi đón Bác. Một số đơn vị ở bên kia sông Mã phải bơi qua sông cho kịp giờ khai mạc. Thấy cảnh đó mới biết dân Nam Bộ mê tín một cách ngu muội bác Hồ.

        Cái đéo gì mà ghê gớm thế. Nghe đâu có hai ba chục thằng sưng phổi, và năm thằng đi theo ông theo bà vì chuyến đón tiếp đó ! Dân Nam kỳ ưa nóng chứ không chịu lạnh mà !

        - Sao kỳ thế hả?

        - Có gì là kỳ đâu. Mình ở trong Nam tin tưởng tuyệt đối ở Cụ Hồ nhưng khi ra đây mình học chủ nghĩa Mác khá hơn ở trong đó nên mình đi theo qui luật của duy vật biện chứng pháp. Không có gì tuyệt đối cả. Mọi việc đều tương đối tương… tàu tương.:. ta.

        - Rồi buổi đón tiếp ra sao?

        - Mưa phùn được biết thêm da thịt một giống dân mới vừa ngu muội vừa thông minh.

        - Ê cha ! Nói cái gì vậy ?

        - Mày biết tao nói gì chớ! Mày còn nhớ năm 46 có cái chánh phủ Nam kỳ Tự trị hay không? Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng đó mà !

        Tao bây giờ mới hiểu tại sao có chánh phủ đó và tại sao dân Nam kỳ lại không lưu giữ được nó ? Để tất cả dân tập kết mình phải lệ thuộc vào Bắc kỳ như thế này.

        Tôi giật mình quát:

        - Ông nội trở chứng cái kiểu gì vậy hả?

        - Mày thề với tao đi !

        - Thề cái gì?

        - Thề rằng mày không có những ý nghĩ Nam kỳ Tự trị như tao. Dám thề không?

        Tôi lặng thinh. Hoàng Việt hiểu người qua chính mình. Không có tên Nam kỳ nào còn giữ lòng thần phục Bắc phương sau một năm sống ở Miền Bắc của Bác Hồ nữa.

        Không một thằng dân Nam Bộ nào còn thấy vinh quang của Thành Đồng Tổ Quốc. Không thằng dân Nam Bộ nào đi trên con đường này với quyết tâm giải phóng Miền Nam. Họ càn rừng lội suối là để về hôn mảnh đất nhau rốn của họ đó thôi.


        ................................................. .................................................. ...........

        Tôi lọng cọng không biết phải trả lời sao thì Hoàng đã tiếp:

        - Mày là nhà văn hẳn mày phải có nhiều suy nghĩ hơn tao chứ. Mày suy nghĩ gì nào? Qua buổi đón tiếp của bọn lính thất thổ Nam kỳ, tao thấy cụ Hồ chỉ lợi dụng lòng tin mù quáng của họ để làm nên vương tướng thôi. Khi đạt mục đích rồi bèn quay lưng lại ngay. Cụ thể là buổi đó, bọn lính Nam kỳ đón tiếp Phó Thủ tướng Phan Kế Toại .

        Tội nghiệp ông đại thần triều Bảo Đại vừa được lãnh “cái ấn ốc bưu” cửa cụ Hồ ban, lại phải vào thăm bọn “sớm đầu tối đánh” chúng mình. Lính Sư đoàn 330 đã không tặng cho lão một tiếng vỗ tay. Nhưng lão phải bấm bụng đọc diễn văn của người ta soạn sẵn và ngồi lại xem buổi diễn kịch chào mừng ngài Phó… Mày biết chúng nó diễn vớ kịch gì không?

        - Vở gì?

        - Tao không nhớ tên nhưng muôn đời không quên nội dung -Hoàng tiếp- Màn một đôi vợ chồng trẻ tiễn chân nhau. Chồng đi tập kết, vợ ở lại. Chồng xuống tàu giơ hai ngón tay lên. Vợ đứng trên bờ cũng giơ hai ngón tay đáp lại. Màn hai. Cũng bến tập kết, vợ đón chồng về. Một ông già cúp bình thiếc chống gậy từ dưới tàu đi lên.

        Ở trên bờ một bà già chỏi gậy đi xuống! Hai bên nhìn nhau hồi lâu mới nhận ra nhau. Ông già và bà già đó chính là cặp vợ chồng trẻ năm xưa. Bà già móc trong lưng ra một cái ống ngoáy trầu tặng cho đức lang quân.

        - Bộ Ban Chính trị Sư đoàn không có duyệt vở kịch sao?

        - Kịch cương mà! Ai bụm họng tụi nó được. Vả lại màn một coi bộ song toàn quá. Ai đâu có ngờ màn hai lại rất kịch tính như thế đó.

        - Đúng là kịch tính !

        Hoàng tiếp:

        - Từ đó chẳng thằng nào còn mơ gặp Bác Hồ nữa !

        - Còn anh ?

        - Mày kiếm hết trong nhạc phẩm của tao thử xem có hai tiếng “Bác Hồ” không? Tao toàn ca ngợi cuộc kháng chiến thôi . Ra Bắc tao tịt mẹ nó luôn!

        - Anh vẫn sáng tác mạnh chứ.

        Khi cất lên tiếng ca gởi về người yêu phương
        Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba

        Đó là bài hát của ai ? Hà hà… Vậy mà bảo tịt…!

        - Của tao, nhưng mặc dù thanh niên hát như điên, người ta bảo đó là “tiếng nấc tiểu tư sản” khi làm xong tao đã đem lại cho mày ở ga-ra đường Lý Thường Kiệt nhờ mày gọt lại dùm lời. Và mượn cái áo pa-li-tô câu tôm của mày bận đi ăn tiệc.

        - Tôi chỉ chữa có một chữ,

        - Ờ, đúng một chữ “đau khổ.” Chữ đó trong bài Tình Ca tao là của mày. Nhưng mày có đau khổ thật không?

        - Ai biết… Hề hề… Tôi chỉ đi theo nốt nhạc của anh !

        - Tao sang Bungari học nhạc nhưng học cả chính trị nữa mày ạ !

        - Ủa sao về nước anh không vô Học viện Mác Lê?

        - Học lóm, học lén mà vô cái gì ?

        - Những gì ?

        - Nói thì dài, cả tháng chưa chắc hết. Nhưng tóm tắt là thế này. Staline là tên đồ tể.

        - Cái gì cha nội ?

        - Dân Đông Âu nói thế mà. Chúng nó đăng cả báo nữa chứ đâu có nói lén lút thậm thụt như bọn mình. Vụ Im-rê-Nát-gi mình coi là phiến loạn nhưng sự thực, dân Hung coi đó là cách mạng dân tộc anh hùng đánh đuổi Hồng quân ra khỏi nước họ mà. Nát-gi bi xử bắn, không được chôn cất đàng hoàng nhưng mồ anh hoa nở suốt từ đó đến nay.

        (Tình cờ khi tôi viết đến đây, tôi nghỉ để đọc báo hằng ngày thì lại thấy tin Janos Kadar bí thư Cộng sản Hung chết. Với lời bình luận: Dân Hungari tự do chúng tôi đã chôn chế độ hắn khi hắn hãy còn sống. Những lãnh tụ tự do đã cải táng Imre Nagy với tất cả danh dự và chỉ vài tiếng đồng hồ sau cái chết của Kadar, tòa án tối cao đã xóa bỏ các tội mà Nagy đã bị buộc và đã bị xử bắn năm 1956).

        Tiệp Khắc, Ba Lan, Nam Tư nữa, đâu có coi Staline là người thầy vĩ đại của cách mạng thế giới như bọn mình đâu. Chỉ có bác Hồ mình là xoi lỗ trên đầu Trần Hưng Đạo để cặm nhang thờ Mác Lê-nín và Staline thôi. Bên đó người ta vẫn nặn tượng anh hùng dân tộc đặt ở các công viên. Mình đã làm chuyện bịt mắt bịt tai dân quá kỹ mày ạ…

        Già Khơ đâu có ủng hộ con đường mòn này. Giả còn gạ cho hai ông Thượng tá của mình sang đó học thành lập đảng Cộng sản việt Nam do giả đỡ đầu nữa kia mà! Ối ồi ôi… Bết nhem hết cả mày ơi. Tao học bốn năm nhạc và kết quả lớn nhất là tai tao đã thay hoàn toàn màng nhỉ mới. Những gì trước kia tao nghe ở Việt Nam, qua cái màng nhì mới này đều biến thượng biến hạ hết chứ chẳng còn nguyên âm nữa.

        Hoàng nhạc sĩ nói hăng say. Dường như sự tích lũy bao nhiêu năm bị dồn ép trong người không có dịp xì ra, nay giữa hoang dại anh ta tha hồ xổ tưới mà không sợ ai báo cáo lên cấp trên.

        Tôi hơi ớn nên nhắc nhở:

        - Nè bố thằng Tương Phùng ơi ! Coi chừng nhé . Anh có nhớ câu chuyện một ông Nam kỳ nhà mình vừa đi qua ngọn sông Bến Hải đã lột nón quay lại xá lia và nói: “Con xin vái cả mũ các cụ luôn, con xin về nước tới chết con không trở lại không”? Sau đó vài hôm có công an “mời” anh ta trở ra Bắc.

        - Đầu cặc! Làm đéo gì có chuyện đó. Thằng Bắc kỳ đủn được dân Nam kỳ mình vô lò sát sanh này mừng thấy mẹ. Vì té nhà ra cho chúng nó ở, thêm gạo ra cho chúng nó ăn lại còn thừa ghế cho chúng nó ngồi, việc gì chúng nó phải bắt anh ta trở ra?

        Như tụi mình đây mà ở lại thì càng “hại” cho các em miền Bắc chứ làm gì. Để tao về gặp chị Bảy mày có phải tốt hơn không? Hề hề ….về năm trước năm sau là cậu bé Lê Tương Phùng oe oe chào đời nghe.

        Anh lúc nào cũng tâm ngẩm cái điều đó. Cái tên Tương phùng đó anh đã đinh từ lúc ở làng Ho, trạm 1.

        Tuy nói mạnh miệng vậy, nhưng khi bị tôi tốp, anh cũng bớt hăng nên nói khẽ hơn. Bỗng nghe tiếng Núi, Hoàng ngưng chuyện. Tôi lắng tai.

        Núi nói:

        - Con cá này sao lại không có đuôi mà con rồng những hai đuôi. Bà thủy mặt đỏ còn bà hỏa phải mặt xanh mới hợp âm dương khí tiết…

        - Ê, Núi khá chưa?

        - Cái con cóc của Pi-cát-xô mọc đuôi ở giữa rốn còn đầu lại ở dưới chân. Cái lão Văng-gốc thì xẻo lỗ mũi tặng người yêu. Để tao xẻo dùm cho có được không?

        Hoàng đập võng phành phạch hét:

        - Núi ! Mày nói nhảm giống gì thế hả?

        - Hố hố hố! ông hàng thịt chó chợ cửa Nam vừa qua đời để lại bao nhiêu là thương tiếc cho khán giả ở trần gian.

        Anh đi hai mươi mốt năm đúng thì sẽ về làm đám cưới em nhé.. Anh vô xứ rừng vàng bạc biển vẽ một tấm áp phích chống Mỹ chống Liên Xô Trung Quốc treo trên đồi một ngàn lẻ một sụm bà chè.

        Tôi nói với Hoàng:

        - Nguy rồi anh Bảy ơi. -Rồi gọi- Ngữ, Ngữ ơi !

        - Anh vẫn còn thức đấy à? -Ngữ hỏi lại tôi- Nó lên cơn nặng quá rồi anh ạ. Em sợ nó bị sốt ác tính…

        - Nói gở! – Tôi quát – Nó sốt thế rồi xuống nhiệt độ chứ ác tính gì. Một ngàn đứa sốt mới có được một cơn ác tính thôi.

        Đêm tối mịt mù. Làm gì ai có đèn mà thắp lên. Mà thắp để làm gì kia chớ. Con ma sốt đâu thèm sợ ánh lửa. Nó sợ kí-nin và âu-rề-ô-my-xin cơ! Nhưng bây giờ kí-nin đã lờn mặt nó rồi. Còn âu-rề-ô thì họa chăng trời ném xuống cho một ống chứ ai có nổi.

        Chỉ thứ thuốc này mới có thể hạ nhiệt độ xuống thôi. Mà dù có, thì làm sao tiêm? Đâu có ai mang ống chích theo. Tôi có chừng chục ống kí-nin 0,40 trong ba lô do một thằng bạn dược sĩ cố cựu hồi ở Cần Thơ tặng cho lúc tồi sắp rời Hà Nội.

        Đi dọc đường làm vỡ mất sáu ống. Mấy ống còn lại tôi bỏ trong tất cả áo quần cuộn lại để chống “vỡ.”

        Những lần sốt vừa rồi tôi định nhờ ông bác sĩ Cà Dom tiêm dùm nhưng thấy kí-nin viên còn đắc địa nên lại thôi. Vì ông Cà Dom ông bảo rằng nếu dùng liều nặng thì sau này liều nhẹ không tác dụng nữa, cho nên tôi không dám tiêm. Còn có mấy ống chả đi đến đâu.

        - Anh Bảy ạ !

        - Gì?

        - Tôi có thuốc. Nhưng làm sao tiêm cho thằng Núi ?

        - Thuốc gì?

        - Quinine 0,40.

        - Không biết trong đám khách có ai có ống chích không. Tao có mà không mang đi. Vì tao nghĩ là trong này có bệnh viện. Trời đất !

        Thăng Núi cứ lảm nhảm. Chốc chốc lại im. Chốc chốc lại nói. Bọn tôi chẳng nhắm mắt được, chỉ nằm chờ sáng.

        - Kỳ cục thật – Hoàng chắc lưỡi kêu – Mổ ruột thừa bằng lưỡi cạo râu còn có thuốc thì lại không kim ống. Chỉ có bọn mình mới biết nổi sự kỳ cục đó thôi.

        Hoàng lấy đèn pin xẹt qua lều Núi và quát:

        - Núi, Núi ! Mày nói gì tùm lum vậy?

        - A a a… Núi ngóc đầu lên rồi lại hụp xuống – E e e…

        Im đi, sáng tao đưa cho mày coi hình con gái Bung-ca-ri.

        - Em không có thích con gái mũi nhọn như mũi hia đâu ha ha…

        - Vậy mày thích con gái mũi gì ?

        - Em thích con gái mũi dẹp như đít ghe bầu há há… á!!

        Hoàng tắt đèn và quay sang tôi :

        - Nó đang mê sảng nhưng còn một nửa tâm trí…

        - Sao anh biết?

        - Nó nói câu trật câu trúng và còn hiểu câu hỏi để trả lời.

        Tôi muốn chứng minh cho sự ức đoán của Hoàng.

        - Núi ! Núi !

        Núi lại ngóc đầu lên trong ánh đèn của Hoàng vừa vụt sang.

        - Mày có khát nước không?

        - Có khát!

        - Có muốn uống không?

        - Em đi mậu dịch giải khát bờ hồ Thủy Tạ kem Bốn Mùa và uống luôn một chậu nước mía còn thừa bỏ túi đem về trường.

        - Trường nào ?

        - Trường Cao đẳng Mỹ thuật Tô Ngọc Vân em leo hoài chưa tới.

        Hoàng tắt đèn, thở dài, cái tiếng thở dài to đến mức tôi nghe rõ mồn một trong đêm vắng lặng như một làn khói xám phù thủy phun qua suốt màn đen của núi rừng.



        Hết Chương 3 - Xem Tiếp Chương 4


        sigpic

        Comment


        • #5
          Vượt Trường Sơn 3



          - Bà con mình thức dậy chuẩn bị đi nghe !

          Tiếng giao liên Phẩm đánh thức tôi. Thì ra trời đã sáng. Chuyến di tiếp tục. Những ai đi cứ đi, những ai nằm lại cứ nằm. Giao liên rất thích dắt người đi cho trống chỗ tốp mới sẽ tới trám vào, nhưng họ không có quyền bắt người sốt phải bò dậy theo họ, cố nhiên rồi.

          Dù vậy họ cũng không vui vì có những ông khách có thể chống gậy đi được mà không chịu đi, cứ nằm ỳ hai ba ngày thậm chí hai ba tuần. Trong cái thời gian vô tận mà khách tự cho phép này, khách sẽ quấy rầy giao liên vô kể. Nào đòi gạo đòi muối, nào hạch hỏi chuyện này chuyện nọ v.v…

          Tôi gọi Phẩm đến. Phẩm hỏi ngay:

          - Anh có đi không?

          Tôi hỏi lại.

          - Có bệnh xá gần đây không Phẩm ?

          - Cái gì chớ cái đó thì không.

          - Sao kỳ vậy?

          - Em không bao giờ nghe nói người bệnh ở đây được vô bệnh xá.

          - Hoàn toàn không có à? – Tôi gằn giọng.

          - Bệnh nhân hoàn toàn tự lực hết cả.

          - Không cả bệnh xá cho giao liên các cậu?

          - Không. Thuốc cũng không có cấp phát cho bọn em nữa anh ạ, nói chi bệnh xá. Cứ mỗi đoàn tới em năn nỉ xin được một ít kí-nin để dành.

          - Tôi có một cậu bịnh,… cái cậu xin nước trà của mình hôm qua!

          - Thấy ổng còn khoẻ quá mà!

          - Ngó bề ngoài thì vậy, nhưng bên trong thì rệu hết rồi. Nó đang mê sảng. Tôi nghi nó bị ác tính quá cậu ạ!

          Phẩm nhảy dựng lên:

          - Hả? Ác tính hả?

          - Không, tôi nghi thôi ! Nó nói nhảm từ khuya tới giờ.

          Phẩm không nói không rằng. Y như là chẳng quan trọng cái con mẹ gì một thằng cán bộ sốt ác tính. Mạng người ở đây như lá rụng. Lá rụng chỉ bồi thêm cho những gốc cây rừng trở thành cổ thụ. Cổ thụ lại rụng lá phủ gốc mình.

          Mỗi cái là rừng này là một mạng người, một mạng người đổ xuống kê cho chân ghế lãnh tụ cao hơn. Lãnh tụ ngồi trên đó đầu đội nón da loe chóp đỏ, vuốt râu le the nhìn những mạng người rụng quanh chân ghế. Nước mẹ gì! Ta là thần thánh.

          Phẩm lại nói to:

          - Các ông các bà sẵn sàng cả chưa nào ? Đi sớm tới sớm. Nhớ đem nước theo càng nhiều càng tốt. – Phẩm quay lại tôi – Này anh, anh biết sau khi anh bắn mấy phát rồi đi có việc gì xảy ra trong nhà em không? (Phẩm dùng riêng “nhà.”)

          - Việc gì ?

          - Con khỉ con kêu la quá tay. Nó cứ nhảy choi choi. Có ý muốn theo mẹ nó.

          - Còn con mẹ nó?

          - Đi mất biệt. Máu đổ tùm lum trên n6c lều. Nằm dưới võng ngó lên thấy như bản đồ năm châu méo mó.

          - Bậy quá! Đáng lẽ tôi không nên bắn mấy phát súng đó.

          - Thật tình em cũng không muốn nhưng… anh biết tại sao em để anh…

          - Tại sao ?

          - Để bù đắp cho cái bộ xương nai hụt.

          Tôi trở lại Núi:

          - Này cậu, cậu cớ cách gì giúp thằng bạn tôi không ?

          - Cách gì bây giờ. Trời kêu ai nấy dạ!

          - Thứ sốt này trở nặng nhanh như chớp. Mới qua một đêm mà thằng nhỏ đã mê sảng!

          Rồi Phẩm dẫn khách đi, coi như không có chuyện gì quan trọng.

          Phải, không có chuyện gì quan trọng cả. Những ..người đau ốm nằm như thế này đã thường xảy ra quá đỗi nên sự bất thường đó đã trở nên bình thường.

          Thu đã thức dậy từ lâu. Bộ mặt Thu trông kinh hoàng hơn bao giờ hết. Thu giục tôi:

          - Ta đi chiếm chỗ tốt đi anh !

          - Chỗ tốt gì nữa ?

          - Họ đi hết bỏ chỗ trống…

          À, tôi nhớ ra rồi. Vì cơn sốt của Núi mà tôi quên khuấy cái chiến thuật đó đi. Thường khi đoàn đến thì giao liên chỉ trỏ tay bảo: “Đóng quân ở đây, mai đi sớm” hoặc “Nghỉ ba ngày” hoặc “Đóng ở đây đến khi nào có lệnh mới thì đi.”

          Rồi mạnh ai nấy chạy đi tìm chỗ lấy. Có chỗ tốt có chỗ xấu. Kẻ đi trước giành được chỗ như ý, thằng bết bát đi sau thì đụng đâu xâu đó lắm khi đoàn quá đông không còn chỗ giăng mùng mắc võng, phải lấn rừng “tậu’ nên chỗ mới cho mình.


          ....................................... .................................................. ..................


          Bây giờ Thu nhắc tôi mới nhớ ra. Cả ba đứa: Hoàng, Ngữ và tôi chẫm rãi chia đồ đạc vai vác tay xách lôi thôi lệch thếch đi tìm chỗ tốt và nhất là sát cánh bên nhau để giúp đỡ nhau và để liên kết bảo vệ nhau chống nạn trộm cắp. Kẻ lạ người quen, cứ hễ đồ đạc hớ cái là bay phéng đi như có cánh.

          Riêng Núi thì chúng tôi phải đem hết tàn lực ra khiêng tới địa điểm mới. chỉ có ba đứa thôi còn Thu thì quảy đồ đạc cũng không nổi, nên tôi bảo không nên rớ tay vào. Rủi cô ta trợt té thì hỏng cái cổ chân lại nằm báo cô cả tháng nữa là chết một cửa tứ.

          Cũng may có sẵn cây đòn của ai dùng khiêng đồng đội vứt lại nên khỏi phải đi đốn cây mới. Tôi và Hoàng một đầu võng, Ngữ khỏe trẻ nhất đoàn chịu một đầu. Cuối cùng cũng xong. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn mà.

          Tôi chạy lăng xăng hỏi các ông bệnh còn nằm rốn lại rải rác khắp vùng đóng quân chừng một cây số bề dài, để hỏi xem có ông bà nào mang ống chích theo không.

          Ai a cũng đều lắc đầu và mỗi người pha trò mỗi kiểu.

          - Ống nứa thì có, có mượn thì tôi cho !

          - Có, nhưng cái ống của tôi khi to khi bé, gần đây thì teo mất rồi.

          - Đập ra uống mau hơn chích, mà khỏi đau, lại khỏi nấu nước luộc ống mất công!

          Tôi cáu quá, nhưng nếu mình nổi cáu thì mình lại càng lố bịch hơn những câu trả lời lố bịch kia. Thấy tôi hầm hầm, Hoàng đã không vui vẻ lại còn càu nhàu:

          - Tao đã bảo mày là xui lắm mà!

          - Cái gì xui chớ ?

          - Bắn con khỉ mẹ !

          - Chậc! Cái ông này sao ông duy tâm thế hả !

          - Tao duy vật chớ đâu có duy tâm mày. Bắt con khỉ con nhử con khỉ mẹ là duy tâm à? Khỉ là con vật chứ đâu phải là mông lung không sờ mó được.

          May quá, tiếng rên của Núi vọt lên cắt đứt đối thoại suýt xảy ra thành khẩu chiến lãng nhách. Chúng tôi chạy đến.

          Mặt Núi đỏ như trái đào, mắt nhắm tít. Tôi đưa tay trước mũi, nghe như hai ống khói nhà máy xi măng Hải Phòng, “lỗ mũi của Tổ quốc” thở phì phò.

          - Thế này thì nguy rồi anh ạ !

          - Núi, Núi ? – Hoàng lay gọi.

          Núi vẫn thở è è, không mở mắt cũng không tỏ vẻ còn cảm giác. Mồm lại nói lảm nhảm nhưng không có câu dài (mặc dù vô nghĩa hoặc phản nghĩa nhau) như hồi tối nữa. Bây giờ nó chỉ kêu lên hoặc la hai ba tiếng “ối giời ơi! Bố mẹ ơi! Nào ta đi… ” rồi tắt lịm.

          - Chắc là bị sốt rồi !

          - Sốt ác tính ?

          Ba thằng đàn ông nhìn nhau.

          Chiều hôm đó Phẩm trở về, trên vai quảy một đứa bé bọc ni lông. Tôi nghĩ thế khi nhác thấy Phẩm đi tới. Nhưng không phải. Phẩm tới gần tôi, trút vật gì xuống đất: một con khỉ hấp hối.

          Phẩm bọc nó bằng một tấm ni0 lông mà các ông giao liên thường xếp nhỏ lại đeo trong lưng như một loại áo mưa bất ly thân vì ở đây mưa gió rất bất thường – để áo quần khỏi dính máu.

          Con khỉ còn nháy mắt lia lia. Phẩm lột lấy tấm ni lông và bảo tôi:

          - Em giao cho anh đó, muốn làm gì thì làm.

          - Ở đâu vậy ? Cậu bắn hả ?

          - Không! Của anh bắn hôm qua đó chứ!

          - Sao cậu lại nhặt nó được?

          - Ở tuốt trong kia! Xa lắm ! Trên đường về đây.

          - Thế à?

          - Anh xem đấy. Hai vết thương xuyên ngực mà nó chuyền cây đi…-Phẩm đá đá vào con khỉ- xa chừng ba bốn cây số mới rơi xuống đất. Nó mạnh dạn thiệt! Trên đường về em thấy nó nằm ở gốc cây, nhưng khi em đến gần thì nó vùng dậy chạy.

          Nhưng có lẽ máu chảy nhiều nên kiệt sức. Nó không leo lên cây nổi, em đuổi theo phang cho mấy báng súng mới bắt được.

          Tôi thấy không ham ăn thịt nữa. Miếng thịt khỉ trộn trong cả một bi kịch của chúng tôi và của cả tình mẹ con hai con vật, ăn vô miệng chắc hết đầu thai.

          Tôi liếc mắt hỏi Hoàng. Nhạc sĩ nhà ta không còn hứng khởi của Tempo di Marcia mà lại rất moderato.

          Nhưng Ngữ nói:

          - Để đấy em !

          Phẩm mắc võng bên cạnh chúng tôi. Có lẽ Phẩm tìm thấy sự ấm áp, thân ái nào khi trò chuyện với chúng tôi như những người quen thân, nên Phẩm không vội về lều đắm mình trong cô đơn. Phẩm nán ở lại với chúng tôi. Phẩm ngồi ở gốc cây cầm vạt áo quạt quạt:

          - Có lẽ bữa nay đoàn ở ngoài không vô kịp.

          - Tại sao ?

          - Vì đường dốc dữ lắm. Các anh biết mà. Có khi phải dừng lại ở điểm hai phần ba đường. Sáng mai họ đến đây vào giữa trưa.

          Phẩm không hỏi tới bệnh nhân Núi một tiếng nào, nhưng tôi thẳng thắn gợi ra:

          - Thường thường nếu bệnh chết ở đây thì làm sao cậu?

          - Ối chao ! Cái đó chưa xảy ra ở đây, nên em không phải giải quyết trường hợp nào như vậy cả.

          - Nhưng nếu xảy ra thì làm sao?

          - Em cũng không biết làm sao! Tốt nhất là đừng xảy ra!

          Phẩm rút nút bi đông ngửa cổ ra ực nước và tiếp

          - Ý mà có. Có một lần nhưng không phải ở đây. Hồi đó em mới vô công tác được ba tháng. Em được một người khác đi kèm, vì em chưa đủ kinh nghiệm dẫn khách.

          Vừa dẫn được dăm chuyến thì bị một trận bom. Thiệt lãng nhách. Vừng này từ hồi nào tới bây giờ chưa bị bom vì nó còn gần Miền Bắc.

          Phải vô xa tận trong kia mới có bom. Em dắt khách về tới điểm nghỉ cho hạ trại chừng nửa giờ sau thì máy bay tới. Ba chiếc, dội liền một tiếng đồng hồ. Hai mươi lăm người chết. Bốn mươi bị thương nhẹ, mười tám bị nặng. Chả là nó dội trúng ngay chóc mà !

          - Trời đất !

          - Thì anh nghĩ coi, mình cứ ỷ y là không có máy bay nên đâu có đào hầm hố gì. Mà đất núi này có đào cũng không đào nổi. Lại nữa lấy gì mà đào? Trang bị của các đoàn dân chánh thì không có cuốc xuổng gì hết chỉ có con dao găm thôi. Riêng bộ đội mới có cuốc để đào công sự chiến đấu !

          Đoàn này gồm trên một trăm, toàn dân chánh. Bi loạt bom đầu mạnh ai nấy chạy, chạy đâu được cứ chạy. Lớp bị bom lớp bị đạn lớp bị cây ngã đè, lớp bị đá phang.

          Trời ơi ! Hết biết nói sao. Cũng may cho em là bữa đó đói quá nên vừa cho khách nghỉ em chuồn một hơi về lều của em cách địa điểm đóng quân chừng hai cây số. Chứ nếu còn la cà nói chuyện thì dính rồi.

          - Sao ở xa dữ vậy? Rủi có việc gì bất trắc khách biết đâu mà mò cho ra cậu?

          - Em đã nói với anh rồi mà ! Phải ở cho xa mới an toàn vì một điểm mà khách cứ đến rồi đi, mãi như vậy nên “hôi” mất. Các bố không hề có ý thức bảo mật. Cứ ngủ một đêm sáng ngày cuốn vó đi chỗ khác nên mặc kệ cho kẻ đến sau.

          - Rồi cậu làm sao?

          - Còn biết làm sao nữa? Anh nghĩ bằng ấy con người bị thương mà em không phải là cứu thương, một giọt thuốc đỏ để quệt chỗ trầy cũng không có nữa là chữa trị bằng ấy vết thương. Dứt bom, em mới lò dò ra chỗ đóng quân. Họ đòi bắn em. Kẻ đòi treo cổ em. Kẻ nhân đạo hơn đòi xẻo thịt em.

          - Tại sao?

          - Họ bảo em là gián điệp kêu máy bay tới bỏ bom.

          - Sao lạ vậy?

          - Thì đau chân há miệng chứ sao.

          - Rồi cậu làm sao?

          - Em nói: Muốn bắn thì cứ bắn, nhưng em bảo thẳng thừng cho các ông các bà biết là chỉnh các ông các bà gọi máy bay tới bằng khói lửa bếp của các ông các bà đấy Một trăm cái bếp nấu nướng mịt mù như vậy bảo sao nó không chiếu cố các ông các bà? Nghe vậy họ mới sáng mắt ra. Em đã bảo họ trước rồi.

          Máy bay Mỹ không có phải là bọn mù, một cái bóng nó cũng còn nhận ra huống nữa là một vùng cây bốc khói. Nhưng họ tưởng đây là Hà Nội, họ đâu cố thêm đếm xỉa tới kỷ luật đường rừng. Sau đó họ im luôn.

          Em bảo:

          - Bây giờ phải dời địa điểm !

          - Còn thương binh thì sao?

          - “Để đó tôi giải quyết!” Thế là những người sống sót ba chân bốn cẳng chạy theo em. Em bảo “Nó sẽ tới nữa đây. Tôi không có trách nhiệm gì ngoài việc dắt mấy ông đi khỏi lạc đường thôi. Máy bay có tới đợt hai tôi cũng không chịu trách nhiệm.”

          Quả tình, em vừa dắt đoàn người đi khỏi chừng hơn một cây số thì máy bay lại đến. Chúng bỏ bom tiếp. Đợt này ngắn hơn đợt trước.

          Em dắt khách chạy bất kể trời đất, càng xa cái tử địa càng tốt. Tới điểm mới em phải trở lại điểm cũ để quơ đồ đạc và nằm đó chờ đoàn ngoài vô nối liên lạc.

          - Không sợ máy bay tới đợt ba à?

          - Sợ chớ, nhưng nếu đoàn ngoài vô mà không gặp em thì lơ láo biết đâu mà cho khách nghỉ. Lớ quớ lại ăn bom. Bữa sau đoàn ngoài vô, em báo cáo cho biết thiệt hại do hai trận bom gây nên và đề nghị cho ở trên hay để giải quyết số thương binh tử sĩ’ rồi em dắt đoàn khách đi thẳng một lèo tới điểm mới. Nhiều người đã kiệt sức nhưng thấy hố bom, tản thần luôn nên phải ráng lết theo, không dám nằm vạ giao liên.

          Vô tới nơi, sáng hôm sau, mời các ông trưởng đoàn tới, em nói rõ cho cái kinh nghiệm nấu bếp. Mấy ông đòi bắn, đòi treo cổ xẻo thịt hôm qua không dám ngó thắng mặt em nữa. Vậy cho biết, để khinh thường giao liên.

          - Rồi thương binh tử sĩ giải quyết làm sao?

          - Giải quyết cái dải gì. Riêng em biết thì chẳng có ai chịu trách nhiệm cả! Giao liên bọn em đâu có phương tiện gì ngoài cặp giò và cây các-bin rất “hẻo” đạn. Rủi có đụng trận thì đánh bằng cùi chỏ chứ đạn đâu mà bắn. Cho nên chắc cấp trên của em cũng cứ để như vậy cho qua luôn.

          - Trời đất.

          - Anh tưởng em nói chơi đó hả? Anh vô vài trạm rồi sẽ biết thêm. Có cả Fulro, có cả biệt kích Kangoroo nữa chứ không phải chỉ bom thôi đâu. -Phẩm lần mò trong túi quần lấy ra một cái hình cỡ 6 x 9 đưa cho tôi- Lúc trở về lần thứ hai, em lượm được tấm ảnh này.

          Nó cài trong quyển sổ tay nhưng em gỡ ra và ném quyển sổ tay chỉ giữ tấm ảnh. Vì sau lưng tấm ảnh có dòng chữ như trối trăn. Em muốn giữ nó để khi nào có ai biết cái địa chỉ của anh ta thì trao lại, nhờ đem về giùm cho gia đình anh ta.

          Tôi cầm lấy tấm ảnh, đọc mấy dòng chữ sau lưng:

          ‘Nhà thơ Nguyễn Phục – Tiếng Súng Kháng Địch. Quê ở xã Hồ Văn Tốt giữa Vàm Cái Nứa và Kinh Cậu 13. Nếu tôi hi sinh dọc đường thì xin giao ảnh này cho hai anh ruột là Quang và Ẩn, em chú bác ruột là Thu, con của cô là cô Nga có chồng là Bạch Lý. “

          Chữ viết nhỏ rứt như đàn kiến nhưng rõ ràng từng nét và bằng mực Parker permanent nên không nhòe.

          Đọc xong nước mắt tôi ròng ròng. Tôi không ngờ nó đã chết.

          Nó là thằng Phục, bạn tôi và cùng viết cho tờ Tiếng Súng Kháng Địch Miền Tây Nam Bộ, rồi về Cần Thơ làm ở Ban Chính tri tỉnh đội chung với nhau

          - Cậu giao cho tôi nhé!

          - Bạn anh à?

          - Vâng! Bạn thân và là đồng nghiệp – Tôi xoay tấm ảnh xem mặt thằng bạn bất hạnh.

          Không cần xem, chỉ đọc mấy dòng chữ cũng có thể xác nhận nó rồi.

          Nó với tôi như ruột thịt. Gia đình nó tôi biết và mến tất cả. Cha mẹ già, em gái, anh trai, chị dâu, cháu chắt, tôi quen tất cả không trừ một ai.

          Nhà có vườn cau mênh mông vườn trầu xanh ngắt ở ven vịnh Trà Bay sông Cái Bé. Hồi kháng chiến tôi đến đây như về nhà tôi vậy. Tôi gọi ba má Phục bằng ba má.

          Đọc mấy dòng chữ, cả một khung trời hiện lên trước mắt tôi. Ba má đã già yếu khi Phục xuống tàu tập kết. Có lẽ vì vậy Phục đoán rằng ba má không còn tại đường nên chỉ ghi tên hai anh, em gái và em rể…

          Ra Hà Nội Phục làm ở Đài Phát thanh phụ trách mục Văn học Cổ điển cùng với học giả Ngô Thành Tâm ,nhạc phụ của thầy dạy Quốc văn cho tôi. Nó đi Nam trước tôi ít lâu, không nhớ là bao lâu, không có tạm biệt chia .tay chia chưn gì cả, nhưng bây giờ thì chia cách ngàn năm rồi. Phục đã chết. Nó đây chớ ai. Tôi cầm tấm ảnh trên tay mà tưởng hồn bay tan tác. .

          (Tôi đã giữ tấm ảnh này đến lúc vè tới R, nhưng không có dịp nhắn tin. Mãi khi tôi ra hồi chánh, tôi đã lên nói chuyện hằng tuần trên đài Tiếng nói Quân đội của Trung Tá Văn Quang, nhờ đó tôi nhắn tin cho gia đình Phục.

          Trước sau nó đến ba bốn lần. Không rõ anh Tư Quang anh Năm Ẩn có nghe không? Bây giờ nếu Phục đã không về quê Hồ Văn Tốt – sau mười lăm năm giải phóng thì xin hai anh hãy tin rằng giấy báo tử không bao giờ đến, mặc dù Phục đã không còn sống trên đời. Vậy hai anh đừng nên hi vọng gì nữa. Và xin những ai đọc được những dòng này, nếu có điều kiện xin hãy báo đùm hung tín cho anh em của Phục theo địa chỉ trên).

          - Nói vậy anh ấy là bạn anh à ?

          - Vâng ! Ít nhất là ngót hai mươi năm tính đến hôm nay.

          - Trong những hố bom những cây cối ngổn ngang, có những xác người nhưng em không biết quyển sổ này thuộc về ai. Nhưng em biết chắc chắn người chủ của nó đã chết -Phẩm nói tiếp.

          - Biết đâu nó sống sót trong đoàn đi vào thì sao ?

          - Điều đó không thể có.

          - Sao không?

          - Khi dắt đám người sống sót về tới điểm mới, em giơ quyển sổ ra để mọi người nhìn, nhưng chẳng có ai nhận cả.

          - Biết đâu nó chỉ bi thương nặng nằm ở đâu đó và có tiên đến cứu đem về Hà Nội.

          - Xong rồi anh !

          Tôi quay lại . Hai tay Ngữ đỏ lòm máu quơ lên:

          - Em đã làm lông nó xong.

          Tôi vọt miệng bảo:

          - Thì nấu đi.

          - Nấu gì. Thịt có vẻ tanh lắm !

          - Chật khúc ninh rừ! -Hoàng Việt ra lệnh- Cứ thế mà làm, không phải hỏi.

          Ở đây không có gia vị. Chỉ riêng Hoàng Việt có một gói muối tiêu mà anh giữ bí mật từ lâu không đưa ra xài.

          Anh trút ra một ít trong nắp gà mèn cho Ngữ. Ngữ ướp xong, gom tất cả những gà mèn xỏ vào một que gỗ dài gác lên hai nạng rồi đốt lửa như kiểu Nhật Bổn nấu cơm mà tôi thấy ở Mỹ Tho trước ngày quân Nhật chiếm thành phố này.

          Họa sĩ Núi vẫn nằm mê man, lâu lâu lại la ré lên một tiếng hoặc ngóc đầu lên ngó dáo dác như muốn tìm kiếm. Nếu Năm Cà Dom có mật ở đây thì đỡ khổ cho chúng tôi quá . Vì ở thành phố suốt đời nên bọn tôi chẳng biết cả những điều sơ đẳng trong y học thường thức.

          Núi càng ngóc dậy nhiều hơn và dợm nhảy xuống đất. Tôi nhanh tay đè cậu ta xuống nhưng tôi vừa trở lại bếp thì Núi vọt xuống vông và chạy bạt mạng.

          Tôi đuổi theo. Ngữ cũng rượt tiếp. Nhưng hắn chạy như ngựa bất kể bụi cây gộp đá, hắn cứ phóng bừa, vượt qua tất cả, dường như có mắt dưới chân.

          Hắn bỏ chúng tôi xa. Nhưng… may quá hắn bước hụt chân vào một cái hố và ngã lăn kềnh. Tôi và Ngữ ào tới bắt hắn đem trở về võng.

          Hắn rũ người ra, thở hồng hộc. Bỗng nhiên hắn ngóc lên quắc mắt:

          - Đây là một bức tranh lập thể. Pi-cát-xô vẽ con nhỏ người yêu tôi vào thời kỳ mầu Hồng. Tóc nó mọc dưng lên như chổi xể, mồm nó như cái loa ở góc phố ong ỏng tối ngày. Ngủ không được. Ngủ không được. Câm, câm, câm!

          Hắn vừa nói vừa vả mồm chan chát.

          - Đè nó xuống! Tôi bảo Ngữ – Nó mê saảng cùng cực rồi .

          - Đúng là sốt ác tính rồi anh ạ! – Ngữ lắc đầu nguầy nguậy.

          - Chẳng có quân eo quân y gì cả? Làm thế nào?.

          Phẩm đến nơi:

          - Em cũng không biết làm thế nào?

          Tôi nói:

          - Ông Tôn Thất Tùng có phương pháp hạ nhiệt độ bệnh nhân bằng cách ngâm bệnh nhân trong bồn nước đá trước khi mổ. Tôi được ông mời xem tận mất hai ba lần mổ gan và tim ở nhà thương Phủ Doãn để viết phóng sự.

          Bệnh nhân được đem lên bàn mổ giống như con mắm sống. Tôi có hỏi ông thì ông nói: Nước mình không có phương tiện khoa học nên phải làm như thế vừa giản tiện vừa tiết kiệm được tiền. Không biết mình có thể đem thằng Núi ngâm dưới suối hay không? Nếu để như thế này thì nó chết mất. Nó đã hóa rồ rồi đấy ! Tôi nói thiệt mà, tôi không có đùa đâu.

          Phẩm nói:

          - Trước đây cũng có một ông trẻ lắm. Cỡ tuổi với ông này. Cũng chết ở trạm trước đây, vì bị ác tính. Nghe nói con của một ông bà gì to lắm. À, bà Thập ủy viên Trung ương đảng.

          - Tên gì ?

          - Tên Quang. Tôi nhớ rõ lắm. Anh ta người cao lớn đẹp trai. Sốt có ba ngày…

          - Trời đất! Thằng Quang hả?

          - Đúng là Quang mà ! Chết rồi trong ba lô còn một bó sâm ‘Triều Tiên và hai trăm ống B12, em còn cất kia kìa. Các anh có dùng thì em đưa, để lâu hư hết.

          - Còn tốt không?

          - Em đâu có biết. Em còn bỏ trong lều của em hai ba củ sâm và mấy ống B12. Đâu có xài được. Mà em cũng không dám xài. Nghe người ta nói sâm vừa bổ vừa độc. Cũng như lộc nhung, còn trẻ mà dùng thì nứt da như heo quay.

          Tôi bảo:

          - Cậu về lấy đem ra một củ tôi gọt cho thằng Núi uống, họa may nó xuống nhiệt độ.

          Phẩm chạy đi ngay với nhiệt tình không thấy có ở con đường này. ..

          Sao tôi gặp toàn chuyện ác ôn không vậy? Cách đây không lâu tưởng Thu đau thương hàn nhưng không phải. Nên thay vì Thu nằm bệnh xá của bác si Cường thi lại đi tiếp với đoàn. Được ít hôm thì ông Chín kiệt sức chết.

          Rồi Thưởng của đơn vi Mạnh Rùa bị chính Mạnh Rùa đập bằng gậy, ức hiếp bò theo đơn vị cũng chết. Bây giờ tới thằng Núi nữa. Trong khi thằng Núi hóa rồ thì lại ..nghe Phẩm kể về thằng Quang.

          Tại sao ở cái trạm này có lắm nhân vật ngã ngựa quá vậy? Về sau tôi mới nghiệm ra. Đó là vì từ Hà Nội vào tới đây những người bình thường đã kiệt sức.

          Từ trạm này lá bắt đầu rụng như những mạng người ngã – như những chiếc xe hết xăng cạn nhớt. Cái nào giỏi thì bưong tới, còn bao nhiêu thì chết máy nằm lại đây đút vô ga-ra để o bế thay thế các bộ phận hỏng rồi chạy tới.

          Nhưng người của đảng thì không được như xe. Ngã xuống thì ráng bò lên, không bò nổi thì nằm mẹp và xả rác như lá rụng.

          Thằng Quang! Tôi biết nó. Nó con bà Mười Thập. Đúng rồi ! Tôi mới sực nhớ ra rằng từ lâu nó không có mặt ở Hà Nội, ngạc nhiên nhất là nó lại vô đây.

          Không có con một ông lớn bà lớn nào đi giải phóng Miền Nam cả. Chúng dành cái vinh quang cực kỳ cao vút đó cho đám con cháu bần cố nông và lũ cán bộ Miền Nam sốt ruột muốn về quê. Chúng đi giải phóng Miền Nam bên Đông Đức, Tiệp, Liên Xô, Trung Quốc có kết quả mau hơn.

          Thằng thì chê Trung Quốc nghèo đòi đi bằng được Liên Xô, thằng được đi Liên Xô lại đòi sang Ba Lan tự do hoặc Đông Đức giàu hơn v.v…

          Phẩm trở ra đưa cho tôi cái củ sâm. Sự thực thì tôi cũng có vài củ phòng thân giấu dưới đáy ba lô. Nhưng nghe Phẩm nói không dùng thì mới đề cập tới chứ nếu Phẩm không cho biết thì cuối cùng tôi cũng xài sâm của tôi Nếu có tác dụng thì về sau tôi cũng có kinh nghiệm dùng sâm hạ nhiệt độ cho bệnh nhân.

          Tôi cạo gọt củ sâm bỏ vào nước đun sôi và chờ nguội đem đổ cho Núi. Nó uống được vài lần coi có mòi khá. Tôi sờ trán nó, thấy vẫn còn nóng hãi hùng như trước, nhưng hi vọng sâm Triều Tiên là đào tiên của Thượng đế ban cho.

          - Nào thịt cà khu chín chưa? – Tôi quát một cách phấn khởi.

          - Để tôi thử chút coi ! – Ngữ nói rồi lấy thìa quệu lên một cục thịt, bốc lên tay thổi thổi rồi cắn thử. Ngữ buông trả lại gà mèn và kêu:

          - Hôi rình, chắc ăn không nổi đâu anh. Thôi ăn món cổ điển của mình cho rồi. .

          Phẩm đang ngồi ở gốc cây bèn bước lại xem rồi nói với tôi:

          - Tụi em có kinh nghiệm rồi. Thịt khỉ tanh lắm. Phải nín mũi ăn bừa. Ăn lấy sống chớ không lấy ngon. Anh chắt hết nước ra đi. Rồi đổ nước mới nấu một trận nữa. Xong vớt ra để cho ráo nước rồi mới xé nhỏ ra lấy cái nạc kho quết với muối thật mặn cho bán mùi hôi nuốt mới vô.

          Hoàng Việt đang nằm trên võng cũng bật dậy:

          - Kệ nó, dù sao nó cũng là thịt. Thịt khỉ bổ hơn thịt cọp đó !

          Mọi người cùng cười. Tôi nói:

          - Ừ, nay mai mình đi bắt cọp làm tái nghe anh Bảy.

          - Ở đây đâu có dấm mà làm tái. Mượn nước mắt của con Thu kia kìa.

          Thu cười tươi như mếu:

          - Em khổ quá mà lúc nào các anh cũng chế em !

          Tuy chê thịt hôi nhưng rồi ai cũng quơ một cục cạp gặm. Đói thịt mà. Hơn một tháng trời không có thịt vôngười, bây giờ thứ gì lại không nuốt. Cả Phẩm cũng ngoạm một cục. Tội nghiệp chỉ có họa sĩ Núi là nằm lịm không biết chuyện thế gian. Đứa nào cũng thấy khỏe người quá. Bỗng Hoàng Việt gợi ý:

          - Còn cái đầu đâu ? Để tao bổ ra ăn cái óc.

          - Ghê bỏ bố. -Ngữ nói- Anh nói làm em phát lợm.

          - Ở Chợ Lớn tụi Tàu cho óc khỉ đi kèm với Nhất dạ đế vương đó nghe tụi bây ! Óc khỉ này? …Bậy quá phải hồi nãy để tao xả cái óc nó trước.

          Tao cũng quên khuấy đi mất. Nhưng bây giờ cũng chưa muộn. Cái đầu còn tươi. Mày ném nó đâu rồi. Nè, còn mấy cái xương tụi mày đã gậm, đừng vứt nghe,

          - Để làm gì ? – Ngữ hỏi.

          - Để ổng gọt ống điếu ! -Tôi nói- Cái bánh chè của ông chưa xài được.

          - Đừng có trù mạt mày. Nè, gom hết ba cái xương khỉ lại rồi tao nấu cao dừng. Cao khỉ ở Hà Nội đâu có phải nấu bằng xương khỉ khỉ khô gì. Một bộ xương khỉ nấu chung với một gánh xương chó.

          Phẩm kêu lên:

          - Sao có chuyện kỳ vậy?

          - Gì mà kỳ. Cao Bang Long cũng nấu kiểu đó thôi. Một bộ sừng nai nấu lộn với một thúng xương chó. Vậy nó vô chai dán nhãn Công ty Dược phẩm Hà Nội.

          Tôi hỏi:

          - Sao anh biết những chuyện đó?

          - Sao mày không biết những chuyện đó?

          - Vì tôi không có điều kiện để biết.

          - Còn tao, tao có điều kiện để biết, biết chắc ! -Hoàng Việt tiếp- Đảng và Chánh phủ mình mà, cái gì không làm được mậy! Làm ẩu, làm bậy, làm lén là số dách.

          Như. con đường quái gỡ này là cái gì? Có phải là một loại bịp kiểu cao khỉ Cao Bang Long không? Nói là đi giải phóng Miền Nam kỳ thực là để thanh toán phần nào nạn đói Miền Bắc

          - Nữa, cha nội nói không có giữ mồm giữ miệng gì cả.

          - Chẳng lẽ mày lại đi báo cáo tao ư? Tao chán thấy mẹ rồi ! -Hoàng Việt ném cục xương khỉ vô gà men và nói- Hình của Nguyễn Hữu Thọ mà treo ngang với hình Cụ trước cửa Nhà hát lớn thì quả là một món Cao Bang Long tuyệt vời.

          Nè, đứa nào cạp xong, bỏ xương lại đây, rồi đi quơ củi. Tao quyết đinh sẽ nấu một mẻ cao tẩm đầu gối tụi mình. – Hoàng trỏ cái gà mèn không, bảo.

          Tình hình bi đát càng trở nền bi đát. Mới được một phần ba đường mà đứa nào cũng sụm cả rồi. Chống gậy đi giải phóng Miền Nam thì chỉ có thời đại Hồ Chí Minh mới sáng tạo ra nổi thôi.

          Tiệc thịt khỉ hầm suông rồi cũng kết thúc mỹ mãn với sáu chiếc gà men đầy xương khỉ. Hoàng Việt không nói đùa. Chúng tôi phải thi hành lệnh của đại ca mà đi quơ củi .

          Còn Hoàng Việt thì di bổ cái đầu khỉ ra lấy cái óc. Với cái dao trành, anh phải khá vất vả mới đạt được kết quả: Cái óc khỉ bằng quả bứa bị móc ra khỏi sọ đặt trên nắp gà mèn máu me đỏ lòm, trông khiếp quá.

          - Nó phải ăn với muối tiêu, chanh và rượu mạnh rồi tới cái “vụ” kia.

          - Vụ kia là vụ nào?

          - Nhất dạ đế… be be ! -Hoàng Việt lắc đầu- ở đây không có rượu, không xơi sống được, tớ phải chưng cách thủy thôi.

          Nói vậy rồi anh đi nấu nướng nọ kia một cách tận tụy. Xong anh bảo:

          - Cho thằng Núi nó ăn. Họa may nó mạnh mày ạ ? Đau Nam chữa Bắc có khi cũng lành. Nếu nó có gì đi nữa mình cũng không ân hận vì “Đảng và Chánh phủ đã hết lòng chạy chữa…” – Hoàng Việt nhại lại câu cáo phó công thức chỉ dành cho các ông kẹ từ trần đăng trên báo Nhân Dân.

          - Còn ba củ sâm này, còn những ống “Bê đui” này nữa. Sâm thì tao bỏ lộn vô Cao khỉ uống chắc ác lắm. Còn Bê đui thì phải đập ra uống thôi. Chứ không có ống chích thì làm sao cho nó vô mạch máu được ? Nằm đây chờ nấu xong mẻ cao khỉ để tẩm bổ?

          Biết tôi băn khoăn Phẩm nói:

          - Đường còn xa lắm anh ạ! Chẳng vội gì mà đi. Vào các trạm trong cũng khó đi hơn ở ngoài này. Vô đó còn đụng các thứ khác, như biệt kích, fulrô nhiều hơn. Nằm lại, chừng nào khỏe rồi hãy đi.

          Tôi không nói ra, nhưng biết đó chỉ là lời khuyên suông thôi. Bịnh nằm lại ngày nào thì càng lún xuống ngày ấy chứ khỏe gì được mà khỏe !

          Phẩm từ giã bọn tôi đi về cái lều cô đơn cửa nó. Nó không muốn đi, nó chùng chình như có chuyện gì muốn nói. Và cuối cùng nó nói:

          - Chắc mấy anh có mang máy ảnh theo ! Vậy cho em xin một pô.

          - Sao cậu biết tôi có máy ảnh?

          - Thì anh nói anh là nhà văn nhà báo nên em nghĩ như thế!

          - Ở đây chụp ảnh làm gì ! Mặt mũi như ma trơi ai coi cho !

          - Kệ nó, anh cứ chụp cho em !

          - Ừ, chụp thì tôi chụp cho. Tôi có máy ảnh. Bây giờ còn chút nắng, mau lên !

          Thấy tôi sốt sắng, Phẩm vội trút nước trong bi đông ra tay vuốt vuốt lên tóc, bắt vạt áo lên lau mặt rồi đến đứng giữa vệt nắng còn vàng ệnh trên mật đất lởm chởm.

          Tôi nhanh nhẹn moi ba lô lấy máy ảnh ra. Để làm quái gì, cái tấm ảnh?

          Tôi vừa bước dấn trước mật Phẩm vừa bảo:

          - Cười tươi lên đi !

          Phẩm nhếch mép.

          - Muốn chụp từ vai lên, hay nguyên người ?

          Phẩm ngần ngừ một chút rồi hỏi:

          - Anh cho em xin hai pô được không?

          - Được !

          - Vậy anh chụp một cái bán thân một cái nguyên người.

          - Được rồi. Cười lại đi !

          Phẩm lại run run nhếch môi. Tôi bấm. Rồi bảo:

          - Đứng cho oai đi . Chống nạnh lên ! Có cần mang các-bin không?

          - Thôi đừng cho cái của quỉ đó vào.

          Tôi lại bấm.

          Thế là xong hai pa cho cậu bé.

          - Chừng nào thì anh cho em xin hình được ?

          - Á à . ạ!

          Đó là vấn đề. Ai cũng thích chụp hình, kẻ xấu người đẹp đều thích cả. Chụp xong muốn xem mặt mình ngay. Nhưng làm sao tôi có ảnh mà đưa cho nó.

          Phẩm nói:

          - Cái bán thân thì em gửi về bố mẹ em, còn cái nguyên người thì em tặng cho cô bé của em.

          - Vậy à ?

          - Vâng. -Phẩm rơm rớm nước mắt- Lâu quá rồi anh ạ, em không có thư từ gì cả. Em đã gửi đi hằng chục lbức thư nhưng không có hồi âm. Em nghi người ta hủy bỏ hết chứ không cho đến tay người nhận đâu !

          Phẩm tiếp:

          - Từ lúc cái anh gì bị bom chết, cái hình ảnh em đưa cho anh đấy, em cứ bị ám ảnh bởi một trận bom khác. Ở đây thưa bom nhưng vì khách làm lộ quá rồi, thế nào cũng phải ăn thêm. Nếu em có bề nào thì ở nhà cũng còn tấm ảnh của em.

          Cũng như anh kia vậy, ảnh không đi tới nơi, nhưng anh mang ảnh về tới gia đình thì cũng như ảnh về tới nhà vậy.

          Tôi khẽ thở dài, cố không cho Phẩm nghe. Rồi bảo:

          - Chừng nào tôi rửa phim tôi gởi ra cho. Bây giờ chưa hết cuộn, chưa rửa được. .

          - Vâng, anh nhớ dùm em ! – Phẩm bắt tay tôi thật chặt rồi quay lưng đi.

          Tôi đoán thằng bé khóc.

          Còn tôi, tôi chẳng biết nói sao, vì thực tình thì cái máy ảnh đã hỏng từ lâu. Tôi tính vứt đi, nhưng Năm Cà Dom bảo đưa cho y dùng làm dụng cụ “mần ăn,” khai thác… nọ kia.

          Trên đường này cái gì cũng kỳ cục. Cái máy này của một người con gái tặng tôi, và tôi mang nó như một kỷ vật Trong ba lô tôi chẳng có món gì nặng đến thế ngoài quần áo chăn màn võng và thức ăn. Lúc khởi hành tôi chụp hăng lắm.

          Với ý đinh là về tới trong Nam sê rửa ra hình làm một cuốn album đặc biệt để ghi dấu một cuộc leo núi độc nhất trong đời mình, có thể để lưu lại cho con cho cháu. Tôi đã chụp đến trên chục cuốn phim, trong đó có những cảnh leo núi đêm, ngày, đít người trước ịnh trên mũi người sau hoặc mồm người sau hôn gót người trước, cảnh nấu cơm dưới mưa, cảnh quần áo bị chê nặng mắc trên nhánh cây hai bên đường,

          cảnh qua ngọn sông Bến Hải, cảnh đi cầu dây lắc lẻo qua suối, những pô cuối cùng tôi chụp được trước khi cái máy ảnh rã bành tô -(trong một lần giao liên dắt đoàn lội suốì ngâm mình dưới nước suốt nửa ngày trời), những pô đó là hình ảnh một “tù binh” Mỹ bị nhốt trong củi heo ngất ngư gần chết.

          Cái buồng tối tróc keo dán, cái nút bấm bị sét ống kính mờ và rễ tre, nên chỉ còn có cái hình thức. Thế nhưng Năm Cà Dom dùng nó để gạ gầm đổi cái này cái nọ với những pô ảnh không bao giờ rửa ra hình. Anh ta làm có vẻ tự nhiên, và chiếm được những chiến lợi phẩm một cách dễ dàng.

          Một lần hạ trại mưa liên miên không moi đâu ra củi, Năm Cà Dom “chụp” cho một đơn vị bộđội vài “pô” và gởi ba phần gạo của chúng tôi vào các soong to của đơn vị. Anh nuôi có tăng che và bộ đội xốc vác đi tìm củi rất tài. Do đó tụi tôi có cơm chín mà ăn.

          Đại khái như vậy. Kể cũng không phải là bất lương lắm. Khi Năm Cà Dom trả lại cho tôi, tôi cất trong ba lô, không có ý định sẽ kế vị Năm Cà Dom nhưng lại cũng không chịu ném cái máy đi, mang nó như một khối sắt nho nhỏ trên lưng, trong khi các mẩu giấy mang nét chữ người yêu Hà Nội cũng đều bị tôi giản chính đến tàn nhẫn bằng cách làm đóm dóm bếp.

          Những cuộn phim tôi chụp được, tôi cũng cho chung số phận với các mẩu giấy kia vào một chiều không tìm ra củi. Thế nhưng cái máy thì lại yên thân. Chẳng ngờ bây giờ lại có tác dụng.

          Tôi moi nó ra chụp cho Phẩm một cách tự nhiên, không có ý lợi dụng hoặc gạt gẫm gì cậu ta.

          Tôi thấy tội nghiệp cậu thanh niên qua tâm trạng của tôi trong những ngày gần đây, có lẽ cũng là tâm trạng của mọi người trên đường này: Sợ mình chết mà gia đình không hay biết.

          Do đó, thay vì hối hận, tôi lại thấy vui. Tôi có lừa chăng nữa thì sự lừa bịp của tôi cũng chẳng chết ai. Có kẻ lừa chúng tôi đến hai lần đi vào chỗ chết mà vẫn ung dung ngồi trên cao và được ca ngợi là anh minh đó thì sao: một lần tập kết bằng tàu biển và lần này hồi kết bằng trèo núi.



          Hết Chương 4 - Xem Tiếp Chương 5


          sigpic

          Comment


          • #6
            Vượt Trường Sơn 3



            Đêm xuống nặng nề ảm đạm đến chết người. Chúng tôi đã xa Hà Nội ngót bốn mươi ngày. Cứ hễ đêm đến là sự sợ hãi tăng lên. Bởi vì đêm thường có chuyện bất ngờ mà chẳng làm sao đối phó được.

            Và đêm nay chúng tôi đụng phải sự bất ngờ đó. Vào lúc gần nửa đêm, Họa sĩ Núi bỗng nhiên ngâm thơ:

            Đường đá chập chồng đồi cao thấp
            Núi vẫn đôi mà anh thiếu… em!

            Tôi đang thức trăn trở vì cái dạ dày đồng khởi. Có lẽ vì mấy cục thịt khỉ ngoan cố chăng. Đau thì cắn răng chịu chứ không kêu ai mà cúng không có thuốc. Còn mấy chục viên át-pi-rìn nhưng không dám uống, sợ hết, khi cần chính nó thì lại không có. Tham thực cực thân, quả có đúng !

            Tôi đâm ra hối hận vì đã nuốt càn ba cái thịt con khỉ chết oan. Nhưng ai lại có thể tự chế mình trong một tình huống như vậy ? ..

            Tôi nằm nhìn dãy gà mèn mập mờ ngoài lều, trong đó nằm yên giấc ngàn thu những cái xương khi đã được cụ Hoàng ta gọt rửa sạch những gân và thịt còn sót ở những đầu xương.

            Cụ ta hăng hái tuyên bố nấu cao vậy thôi chứ thực cự thì chắc không ai có đủ kiên nhẫn và có sức nấu. Phải hai ba ngày đêm liền chi đó thì mới có thể biến mớ xương này tan ra nước chứ đâu phải như nấu cơm nấu cháo. Rồi còn phải pha chế nó mới thành cao… khỉ!

            Đang nằm suy tính tìm sáng kiến giúp cụ Hoàng thì nghe ông họa sĩ trẻ ngâm thơ. Giọng ngâm khá hay, nó uốn éo ngắt quang rất đúng điệu và lại đúng chữ nữa.

            Đặc biệt lại có một sự chơi chữ đầy ý nghĩa trong câu cuối “Núi” vẫn “Đôi.” Đôi là người yêu của Núi. Có lẽ hai câu thơ này chàng ta đã làm để tặng người yêu, nhưng sao lại “thiếu em?”

            Như vậy chắc Núi ứng khẩu ngâm lên.

            Nghĩ đến đây, tôi rùng mình. Thằng bé này sắp theo ông theo bà đây! Tôi nghĩ vậy vì lúc còn đi chung với Năm Cà Dom, anh ta có nói cho tôi biết đại khái về sốt ác tính. Đặc tính của nó là bệnh nhân nóng đến phát khùng và nói nhảm. Chỉ trong vòng từ ba đến năm ngày thì ác bệnh nhân bị vi trùng đột nhập.

            Có khi nằm liệt câm luôn rồi chết nhưng cũng có khi nói năng tỉnh táo như người thường. Tình trạng này rất ít xảy ra nhưng hễ xảy ra thì chắc chết. Người bị sốt ác tính ít khi sống sót, nếu có thì cũng trở thành phế nhân.

            Chứng bịnh ngặt nghèo này vừa mới thấy xuất hiện ở núi rừng, hiện ở Hà Nội người ta đang nghiên cứu cho nên chưa có cách chữa trị hiệu quả. Cách tốt nhất là làm cho bệnh nhân xuống nhiệt độ. Nhưng đó là nói chuyện ở Hà Nội, trong các bệnh viện cơ, còn ở đây lấy gì ?

            B12 của Phẩm đem ra cho tụi này có thể giúp Núi khá lên lắm nhưng lại không có kim và ống chích. Chẳng lẽ lại đập ra mà uống ư?

            Bên lều của Núi, tiếng ngâm thơ lại lè nhè:

            Anh muốn đưa em đến cổng trường
            Cho đời em hiểu nghĩa yêu đương
            Ngờ đâu sóng gió đời tôi đã
            Giam hãm thân trong bốn mảnh tường.

            Trời đất, y như người khỏe. Nó còn nhớ thơ Tố Hữu, bài Tặng Nàng Trinh Nữ. Trong đêm tối mịt mùng, giữa rừng sâu câm lặng, tôi tưởng như nghe tiếng tình yêu. Tôi đập võng quát:

            - Núi ! Núi !

            -…

            - Núi, Núi ! Ngủ đi ! Khát nước không?

            Biết chăng em hỡi lòng anh hận
            Anh đã. . . chẳng đưa em đến cổng trường

            Nó lại ngâm tiếp nhưng lần này lại sai một chữ. Có lẽ vỏ não của nó bi vi trùng tấn công nên hư hỏng rồi. Nó chỉ còn như cái máy ghi âm cũ được quay lại được khúc nào hay khúc ấy, cho nên không phản ứng với những câu hỏi của tôi.

            Tôi cố trắc nghiệm thêm:

            - Mày có muốn uống cao khi không Núi ? Mày có định sáng mai hành quân không Núi?

            Lần này nó không ngâm thơ nữa, cũng không ư e. Tôi sợ quá bèn đập võng kêu Hoàng nhạc sĩ.

            - Anh Bảy ? Anh Bảy ! Anh có nghe không ?

            - Có, tao nghe tự nãy giờ.

            - Làm sao anh?

            - Còn biết làm sao ! -Một chốc- Để sáng coi chứ bây giờ thì chịu thôi. Không có cách gì !

            Cả hai nằm chờ sáng để xem cái chết đến với bệnh nhân chứ chẳng phải để chữa chạy bệnh tật.

            Tôi không có trách nhiệm gì với Núi. Tôi cũng chỉ là một kẻ vượt Trường Sơn bi bỏ rơi như nó. Những thằng bi bỏ rơi tự dán ghép lại với nhau bằng một thứ hồ đặc biệt muốn dính bao lâu thì dính, muốn rã lúc nào thì rã như đối với một tên đồng hành tôi đã kể ở trên kia.

            Núi vẫn Đôi anh thiếu em !

            Câu thơ đó có thể là lời trăn trối của nó ! Tôi đang miên man suy nghĩ thì bỗng đâu trời gầm to làm tôi giật mình suýt bật ra khỏi võng. .

            Chớp nhoáng nhì nhằng một chập rồi mưa đổ như trút ở vùng này mưa thường đến nhanh, to và kéo dài. Có lẽ hơi nước từ biển Đông trôi lên đây bi núi chặn lại và rơi xuống thành mưa, không phải châu du đi đâu, nên giọt mưa hơi mặn mặn.

            Tôi ngồi bật dậy và bước xuống đất giật ngay mấy sợi dây căng lều rồi ôm ba lô ngồi lên.võng trùm chiếc lều lên. Đó là kinh nghiệm chống mưa đêm trên đường này. Nếu không mở lều thì gió sẽ giật đứt hết các góc buộc dây căng, có thể nó bi xé toạc ra làm nhiều mảnh.

            (Vài đứa trong đoàn đã bi rồi. Chúng nó phải dùng kim chỉ vá víu bậy bạ xài đỡ). Cái kinh nghiệm này cũng đắt giá như kinh nghiệm chặt của người đi biển khi gặp gió to có thể lật úp thuyền.

            Nếu không mở lều cứ nằm võng thì càng bị ướt và lều bị xé nát, còn trùm kiểu này thì cũng ướt nhưng ướt ít hơn và chắc chắn không bi hư hao tài sản. Ngoài ra chiếc ba lô cũng như chủ nó sẽ khỏi dầm mưa. Ba lô mà ướt thì sáng mai hành quân chủ nó sẽ mang nó như “đeo đá” trên lưng vậy.

            Tôi ngồi trên võng với chiếc lều phủ kín mà nghe mưa nện trên đầu như những ngón tay gõ loạn trên phím dương cầm. Nhưng sự hưởng lạc đó không kéo dài được bao lâu: Nước mưa từ hai đầu võng trút xuống đáy võng.

            Vì võng kaki nên nước đọng lại và dâng lên dần, Số nước chảy ra chậm hơn số nước xuống cho nên nửa người tôi bị ngâm trong nước. Lâu lâu tôi phải đè mép võng nghiêng qua để trút nước ra. Đó là một cách chống úng của dân Trường Sơn bắt chước theo kiểu hợp tác xã “nghiêng đồng đổ nước thay trời làm mưa” do báo Đảng phổ biến.


            .................................................. .. .................................................. ...........

            Chống úng như vậy không nhớ được mấy lần thì trời tạnh. Tôi mừng quá tốc tấm ni lông ra, bước xuống đất, vừa mắc chiếc ba lô lên đầu võng vừa hỏi:

            - Anh Bảy có ướt không? – Tôi ngó bốn bề thì thấy nhiều chiếc lều bị gió lật, có cái bị tốc hẳn treo trên nhánh cây, có chiếc một đầu thì chụp lên võng một đầu lại còn treo trên cành cây giống như chiếc xuồng chìm còn nghếch mũi lên.

            Té ra không có mấy người rút kinh nghiệm như tôi. Cũng có thể họ biết nhưng họ lười, cứ năm lỳ ra, tới đâu hay đó. Nhất định là họ bị ngâm trong cái võng nước như con mắm sống. Tiếng “mắm” trong ý nghĩ làm cho tôi nhớ đến cách làm hạ nhiệt độ của ông Tôn Thất Tùng trước khi đưa bệnh nhân lên bàn mổ.

            Và tôi nghĩ tới thằng Núi. Tôi vội vàng bước sang với ý nghĩ hãi hùng: Nó đã chết trong cơn mưa đêm qua.

            Tấm tư ni lông nâu của nó đứt cả dây căng một bên che bít cả chiếc võng. Tôi buộc căng lại và nhìn nó. Các bạn hãy tưởng tượng cảnh vật nào hiện ra trước mắt tôi. Thằng Núi nhắm tít đôi mắt. Và cả người nó ngâm trong nước. Chiếc võng kaki hữu nghị không biết của nước bạn nào tặng, vải thật tất. Nước mưa không rỉ ra được nhiều, cho nên nó như nằm trong chiếc xuồng nước ngập lé đé đến be.

            Tôi sờ đầu nó và kêu thét lên:

            - Anh Bảy! Anh Bảy ! Thằng Nú…úi!!

            Ngữ tốc lều chạy sang, Hoàng vọt tới. Thằng bé chỉ còn thoi thóp thở. Chúng tôi nhìn nhau. Tót sờ trán sờ ngực nó lần nữa. Như tìm được một phát minh mới, tôi nói:

            - Nhiệt độ nó xuống rồi. Sờ coi !

            Ba bàn tay chìa vào mình vào đầu Núi:

            - À à nó nguội bộn !

            - Chắc bình thường rồi !

            - Coi chừng nhiệt độ xuống quá thấp lại phải hơ lửa cho coi!

            Chúng tôi bàn luận oang oang rồi đi đến kết luận khá rõ rệt là nhờ ơn Trời mưa móc nên thằng nhỏ đã xuống nhiệt độ rất nhiều. Nhưng vẫn còn mê man, gọi không thưa, cũng không mở mắt.

            Chúng tôi cứ để cho hắn tắm biển nước mưa như thế.

            Cái cục nợ thứ hai là Thu. Thu trông bèo nhèo như cơn gà té mương. Lúc nào cũng rên rẩm xuýt xoa cái chân đau. Bây giờ lại càng thê thảm.Lều của Thu rách toạc một góc. Đây là một vấn đề. Vá thì không có chất liệu để vá, còn buộc túm góc thì cái lều không thành cái lều như trước nữa.

            Dù sao ban ngày thì phải cuốn lều và võng. Bữa nay thì phải phơi võng cho khô để tối ngủ. Rồi còn cái ba lô nữa. Tuy được bảo vệ kỹ lưỡng như thế nhưng không còn một vật gì khô. Áo quần, chăn màn phải lôi ra cả tìm nơi kín đáo mà căng ra, trông như những cửa hàng chợ trời trình bày của quí. Tất cả khách đều làm y một kiểu cho nên cái chợ trời kéo dài cả cây số.

            Ai có món gì muốn giấu cũng phải xổ hết bầu tâm sự hết ra cho người khác xem. Nếu cái ba-lô là tâm tư của mỗi người thì mỗi lần mưa trời đều bắt những người Trường Sơn này phản tỉnh, phản tỉnh một cách thật thà, muốn che giấu cũng không che giấu được.

            Không có món gì khô và không có món gì còn nguyên, cũng như tư tưởng và tình cảm con người. Tất cả đều rã bèng – từ những lưỡi dao cạo râu tới những trang ký sự viết lỡ dở, từ những mớ bông gòn tới những viên ký-nín trong túi thuốc cá nhân được bọc ni lông hai lần.

            Tội nghiệp chiếc máy ảnh mà tôi đã mang trên lưng lâu nay đã tróc hư, nay càng hư tróc. Các thứ đều phải được phơi khô trước khi tôi dồn chúng trở vào cái “bao tử trâu”.

            Qua một đêm mưa, con người già hẳn lên. Tôi nghe như có tóc bạc và nhìn Hoàng nhạc sĩ tôi thấy tóc anh ta như bạc hơn nhiều.

            Tôi nói:

            - Thế này thì mai làm sao hành quân anh Bảy!

            Hoàng Việt hiểu tôi muốn nói gì, nên lắc đầu:

            - Cứ giữ “nguyên tắc” cũ thôi.

            - Bỏ nó lại đây thì nó chết mất !

            - Vậy làm sao bây giờ ?

            - Nó có mạnh thì cũng hai tuần lễ mới leo núi dược, ấy là nói trường hợp nó được bồi dưỡng, còn như tình trạng hiện giờ thì có hai tháng nó cũng chưa lại sức. Ngược lại càng sụp xuống thêm. Nói tới đó, tôi thấy càng đau khổ.

            Những đồ vật bi ướt không đáng kể, cái vật đáng kể nhất là ruột tượng gạo. Gạo còn có một nửa ruột tượng bị ngâm nước suốt đêm, bây giờ lấy tay bóp đã thành bột. Cố phơi nắng để cứu vãn tình thế nhưng không kết quả.

            Ngữ là tay hay chế biến thức ăn, nên đề ra một kết hoạch cấp tốc để giải quyết mớ gạo mắc mưa kia. Bọc từng nắm vào ni lông dùng đá đập cho nát ra rồi phơi để dự trữ. Chỉ có cách đó mới giữ được lâu, băng không thì phải ăn cho hết ngay, nếu để tới ngày mai nó sẽ sình và phải bỏ.

            Thế là mỗi một người đều biến thành một cái nhà máy xay bột mà số lượng bột được sản xuất chưa được hai cân.

            Nhưng trong lúc thi hành ý kiến của Ngữ thì có người gặp khó khăn. Ông nhạc sĩ đổ số một về dương cầm và sáng tác ở Bungai tưởng hòn đá cũng nhẹ nhàng như ngón dương cầm của chàng nên bọc gạo vào mảnh ni-lông dùng làm áo đi mưa rồi phệnh cật lực một nhát. Ni- lông vỡ, gạo tóe ra. Ông nhạc sĩ nổi doá nói mát:

            - Ê nè Ngữ, mày đem cái sáng kiến của mày thi đua với các sáng kiến của nhà máy dệt kim 8 tháng 3 được đấy!

            - Sao thế hả?

            - Ngó đây nè, đổ mẹ nó cả chén gạo lộn với đất, sỏi làm sao lượm lên ?

            - Nện khẽ thôi bố!

            - Nện khẽ cũng không được đâu. Mày bọc gạo bằng cái giống gì đó?

            - Bằng ống quần !

            - Cái thằng! Sao không phổ biến cho người ta với .

            - Tự động thay đổi kế hoạch lấy chứ ai biết ông cần gì.

            - Thủng mẹ nó cái áo mưa của tao rồi !

            Thế là mọi người thất kinh, bên bỏ ni lông xoay qua kế hoạch dùng ống quần làm “cối” để giã gạo.

            Gạo giã nát xong rồi, tôi và Hoàng vốn vụng về nên chỉ biết đem ra phơi khô, riêng Ngữ thì nhồi thành bánh rồi thái ra như con phở, còn Thu thì tay mềm thân yếu lại khuấy hồ bỏ tí đường cát, cái mớ đường mà mỗi đứa được phát cho hai lạng rưỡi khi xuất phát.

            Tôi và Hoàng đã gần hết từ lâu, nhưng Thu thì còn đến những nửa hộp. Cũng may Thu đựng nó trong hộp, nếu không thì cũng đã tiêu ra nước… đường rồi.

            Thu hơi ngại vì mình còn được cái của quý đó. Chẳng có lẽ tình đồng chí đồng đội đồng hành đồng bệnh ngọt ngào trong các bài học ở trường đi B như vậy mà trong tình hình thiếu chất ngọt này, nó lại đâm ra nhạt phèo.

            Thấy Thu không được tự nhiên khi giở nắp hộp ra xúc tí đường cho vào nắp gà mèn khuấy khuấy, tôi nói:

            - Thu cất cho kỹ để bồi dưỡng cái chân. Tụi anh chân cẳng khỏe cả, không cần đường!

            Kỳ thực thì nghe mùi đường phảng phất tí ti trong không khí tôi thèm phát khóc lên được. Mấy hạt đường của mẻ hồ làm ta nhớ đến cái ba lô của tháng họa sĩ trẻ.

            Tôi nói với Ngữ:

            - Cậu có rỗi phơi đồ đùm cho nó chút !

            - Vâng, để em xong việc của em đã!

            - Cậu xem nó còn đường khuấy cho nó tí.

            - Nó không có đường đâu anh ạ !

            - Tại sao vậy?

            - Khi lãnh xong nó gởi về cho gia đình vợ chưa cưới của nó !

            - Trời đất!

            - Nó nghĩ và nó khỏe như vâm, cày hợp tác xã nó kéo còn nổi mà anh. Em cũng vậy, em đâu có ngờ vô đây sức khỏe tiêu tán nhanh đến thế!

            Cái hiệu phở của Ngữ làm mọi người tiếc ngẩn tiếc ngơ: Nếu còn tí nước hầm con khỉ gió thì hay quá. Hôm qua lại chê đem đổ hết, chi ăn cái xác. Bây giờ cần để làm nước dùng nấu phở thì không còn chút nào.

            Thế mới biết cái gì cũng có thời thế của nó, dùng sai chỗ không bật giá trị lên được như cái anh nhạc sĩ tài hoa kia…

            Đi vô con đường này anh ta chửi đổng toàn gamme majeure với dấu biến thượng. Nhiều lúc leo mệt quá, anh quát:

            - Ê, tụi bây nói với giao liên đằng trước đi chậm chậm nghe. Con người không phải là máy, không phải là thú vật ! Địt mẹ chứng nó, đi đứng gì như thế này !

            Nhìn ông nhạc si ngồi bên gốc cây cặm cụi vá tấm tămg bị gió giật rách đêm qua tôi hết biết nói sao. Tôi kiếm chuyện đùa:

            - Bây giờ mà rủi gặp chi Bảy ở đây thì làm sao anh Bảy?

            Hoàng nhạc sĩ cười giọng Tenor một tràng dài tưởng chừng vô tận. Rồi nói:

            - May chứ sao lại rủi, chú e…em!

            - Còn thấy đường xỏ chỉ không?

            Hoàng nhạc sĩ giơ cây kim lên rồi cười:

            - Mới sốt dăm cơn mà nhìn cái gì cũng vàng khè.

            - Vấn đề không phải là vàng hay trắng mà là có xe chỉ luồn kim được không?

            - Cũng tạm được chớ! Hớ! Hớ hớ ớ!

            - Vá rồi đi ăn phở khi nghe ! Thằng Ngữ nấu gần xong rồi .

            - Mẹ ! Cái món phở này, hiệu Tư Lùn cá thể ở ga Hàng Cỏ nghe qua cũng chạy tét.

            - Nè, rồi cái vụ nấu cao của anh có tính thực hiện không? ?

            - Thực hiện chớ! – Hoạng ngó về phía mấy cái gà mèn còn treo đó – Để tao trút ra phơi rồi mang tới trạm tao nấu cho mày coi.

            - Ừ để rồi coi.

            Bỗng thằng Núi rên lên làm mọi người giật mình. Nó còn nói rõ từng tiếng:

            - Khát nước !

            Cả thằng Ngữ lẫn tôi đều đứng bật lên và chạy lại. Trời đất ơi ! Thằng nhỏ đã mở mắt. Trời cứu nó rồi. Mi mắt nó chớp chớp. Đôi môi nó mấp máy. Tiếng nó thều thào:

            - Uống nước !

            Ngữ chụp lấy chiếc bi đông trên đầu võng lắc lắc, nghe còn tí nước, Ngữ mở nút kê miệng bi đông vào mồm Núi khe khẽ rót.

            Núi thở khì một tiếng rồi nhắm mắt. Tôi hoảng vía, vì nghĩ là nó hồi dương một chút rồi đi luôn. Ngữ vừa đậy nắp bi đông vừa hỏi:

            - Mày uống nữa thôi Núi ?

            Mi mắt Núi động đậy rất khẽ.

            - Nè, nước nè, nghe không?

            Mi mắt Núi lại động đậy như trước. Môi nó hé mở.

            Ngữ nghiêng bi đông rót nhẹ và hỏi:

            - Nữa thôi ?

            Núi ngậm miệng lại. Ngữ lại hỏi:

            . Mày có lạnh không?

            Núi không đáp.

            - Mày biết ai đây không?

            Núi cũng không đáp.

            Chúng tôi bàn đến việc thay quần áo cho Núi, nhưng câu chuyện không ngã ngũ. Tôi là kẻ đã từng trông thấy tận mắt mấy bệnh nhân được Bác sĩ Tùng hạ nhiệt độ bằng cách cho vô bồn nước đá, tôi cho là nhờ bi ngâm trong võng nước mưa mà Núi tỉnh dậy tí ti và nhiệt độ thì không cao hãi hùng như hôm qua –

            Nhiệt độ vừa mới xuống, nếu bệnh nhân thay đổi môi trường, nó có thể lên cao trở lại.

            Nhưng Ngữ và Hoàng thì cho là nếu để Núi nằm trong sự ướt át, cá võng lẫn quần áo, và dưới nắng như thế sẽ bi cảm dễ dàng nhất là cơ thể của Núi đang kém sức đề kháng.

            Cuối cùng phe Ngữ thắng thế. Hai người thay quần áo cho Núi với sự vắng mật có hạn đinh của Thu.

            Núi là người đã vẽ Thu nhiều nhất trên đường này. Hai bên tỏ ra rất yêu nghệ thuật hội họa.



            Hết Chương 5 - Xem Tiếp Chương 6


            sigpic

            Comment


            • #7
              Vượt Trường Sơn 3



              Bận rộn chuyện gì chẳng ra chuyện gì, nhưng cuối cùng rồi cũng hết một ngày. Lúc gần tối, thì từ ngoài giao liên dẫn tới một đoàn rất đông, gồm đủ các hạng quân dân chánh.

              Bây giờ chúng tôi mới nôn nao nghĩ tới việc đi. Chậm mất một ngày rồi. Trừ Núi ra, tất cả đều có thể đi. Phải đi dù thế nào thì cũng gần với quê hương hơn.

              Ngữ nói với tôi bằng một giọng đầy nước mắt:

              - Các anh và Thu cứ đi đi, để em ở
              Lại với Núi, nếu nó cố mệnh hệ nào thì cũng có em bên cạnh, như vậy nó đỡ tủi thân. Còn Trời Phật mà phù hộ nó khỏe lên được thì em sẽ dìu nó đi dần tới đâu hay tới đó.

              Luật lệ của đường dây là chỉ đưa người vào không cho người ra, mình không thể cưỡng lại được.

              Tôi nói :

              - Đã đành là các anh phải đi rồi, nhưng trong lòng thấy nó kỳ cục thế nào ấy cậu ạ !

              - Thì cũng như lần trước, anh ốm nằm lại chúng em cũng cứ đi đó thì sao? Đó là ý định của ở trên mà. Ai bịnh cứ nằm lại, ai khỏe cứ việc đi. Cách mạng Miền Nam đang chờ mình như chờ nước uống !

              Thế là chúng tôi dứt khoát chia tay. Tôi và Hoàng, Thu sửa soạn để mai lên đường. Thu lúc nào cũng nhăn nhó với cái chân đau. Nàng tìm một cây gậy thật chắc, Hoàng thì lo băng đầu gối như cầu thủ bóng tròn trước khi ra sân cỏ.

              Riêng tôi thì không cần gậy, còn cái bao tử loét thì không thể băng bó gì được cứ để thế mà đi, được khúc nào hay khúc ấy. Chừng nào mửa ra máu cục thì cách mạng cho nghỉ ngơi.

              Trong đoàn mới vào tôi nhận thấy có một tốp rất phân biệt với mọi người. Tốp này độ chừng một tiểu đội, nhưng những chiến sĩ thì mang rất nhiều máy móc khác hẳn với bộ đội thường. Khi đi xuống suối lấy nước, tôi nghe toán chiến sĩ xầm xì với nhau thì tôi biết đây là đội bảo vệ cho một ông kẹ.

              Nhưng không biết ông kẹ đó tên gì. Lượt trở lên, khi đi ngang chỗ họ đóng, tôi giả vờ đánh rơi gà mèn nước và ngồi xuống, tay nhặt gà mèn mắt ngó vào cái võng mà tôi ngờ là ông kẹ đang nằm. Quả nhiên tiếng gà men rơi lầm ông ta giật mình ngóc đầu dậy nhìn ra. Tôi nhận ra ngay ông ta.

              Tưởng ai lạ. Một bộ mặt sắt có dấu bấm như vết móp trên chiếc hộp lon chứ không phải cái sẹo. Ông ta nhìn người bằng cặp mắt lúc nào cũng trợn lên trắng dã như muốn nuốt sống đối tượng.

              Nếu trên sân khấu cần một vai tướng cướp thì cứ đưa y phục cho ông ta, còn mặt mũi thì khỏi cần vẽ nanh hoặc đeo râu thêm. Một số cán bộ rất sợ ông ta, nhưng ngược lại một số khác thì lại coi ông ta là một tên chăn bò đắc thời được một bàn tay quyền lực bốc lên ngồi ghế cao và trao cho cây gậy chỉ huy ba quân với cái ga-lông bốn sao và nhành dương liễu rũ.

              Tôi đã từng nghe ông ta nói chuyện nhiều lần. Lần sau cùng tại Viện Văn học -cũng còn được nghệ sĩ gọi là Sở Mạ Kền- của bà già trầu móm Hoài Thanh. Hoài Thanh cũng có một bộ mặt móp một bên như ông kẹ này.

              Lần đó ông kẹ đập thêm vài búa vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm vốn đã bẹp dí dưới sức đè của đảng rồi – như những “nhát ân huệ.”

              Ông ta nói rổn rảng, múa tay tít thò lò, nhưng nghệ sĩ che tay cười nhếch mép khi ông ta tuyên bố.

              - Dù phải chống Mỹ năm năm, mười năm, hai mươi năm hay một triệu năm chúng ta cũng chống tới cùng.

              Một triệu năm ? Sau khi tan buổi họp, Nguyễn Tuân và tôi đạp xe song song trên đường Phan Thanh Giản, ông hỏi tôi:

              - Anh có nghe gì không?

              - Dạ nghe gì ạ?

              - Chống Mỹ một triệu năm ! Anh không nghe à?

              - Dạ, tôi có nghe.

              - Anh nghĩ thế nào về “cái một triệu năm đó?

              - Dạ tôi không nghĩ thế nào cả.

              - Rõ một khái niệm kỳ quặc về con số! Tôi chưa nghe ai nói như vậy bao giờ.

              - Tôi cũng thế. Đây là lần đầu tiên.

              Cái ông mặt sắt kia coi nghệ sĩ như rác. Và nghệ sĩ cũng coi ông ta không như gì cả. Ông ta hò hét thì to nhưng sau khi ông dứt lời thì người ta chẳng biết ông muốn nói gì. Bây giờ ông lại vô đây chắc hẳn là đi giải phóng Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam rồi. Hợp tác xã là cái chắc!


              .................................................. .... .................................................. .....

              Tôi chợt nghĩ ngay như thế khi tôi nhác thấy bộ mặt sắt kia. Tôi nhặt chiếc gà mèn trở xuống suốì múc nước rồi trở về chỗ cũ. Tôi đến rỉ tai Hoàng, Hoàng cười:

              - Dân Nam kỳ mình chuyên môn gậm cùi bắp mà cứ tưởng nhân sâm.

              - Thằng cha Tài Lé (tức Sơn Nam) nói Nam kỳ là thuộc địa của Bắc kỳ, đúng vô cùng. Đúng từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc vào Nam.

              - Ông ta mà vô trỏng thì hợp tác xã, chỉnh huấn, lập trường giai cấp là gốc rồi. Hồi tao ở Bưngari mới về, tao có đọc bài “Cây đa bến cũ con đò khác đưa” của ông.

              - Ừ, lúc đó ổng đang phụ trách Trưởng ban Nông thôn của Trung ương đảng. Do đó ông cỡi ngựa xem hoa các hợp tác xã hàng mã một vòng rồi về nói cho thư ký viết phứa ra bài đó.

              - Văn chương hay ra phết đấy chứ nhi ?

              - Văn chương mà nói làm chi. Lập trường kia mới đáng kể. Bọn nhà văn chúng tôi phải lấy bài đó ra làm phương hướng sáng tác đấy. Bên Hội Nhạc sĩ của ông gặm không vô phải không?

              - Ai thì tao không biết, chứ tao rặn không ra nốt nào cho hợp tác xã cả !

              - Nói đùa cho vui, chứ thực tình là tôi nghĩ đến số phận của Miền Nam qua câu nói bất hủ của Tài “lé”. Anh chàng này chỉ có một khuyết điểm là cặp mắt lé. Nhưng dù “lé,” Tài vẫn nhìn sự vật rất chính xác.

              Ông kẹ mặt sắt này làm cho tôi nhớ câu nói của Tài. Nó đã được chứng minh từ hồi kháng chiến. Nam Bộ là miếng thịt bít tết tươi roi rói mà đám Bắc kỳ từ Trung ương vào là một lũ kên kên, chúng chia nhau không dành cho dân địa phương một thẻo nhỏ.

              Ra Bắc cũng thế. Thằng Bí thư tỉnh ủy ngoài Bắc trong kháng chiến thì hòa bình được vô Trung ương, ngược lại thằng Bí thư của Thành Đồng Tổ Quốc nghe lời cụ Hồ dụ dỗ đi tập kết hai năm về, thì nay đã mười năm mới trốn chui trốn nhũi như ăn trộm trở lại quê hương. Mười năm trên đất Bắc thằng Tỉnh ủy đi cạo muối, nhà cửa thì ga-ra tư sản.

              Ông Chủ tịch tỉnh tôi ở một cái ga ra tệ hơn cả chuồng heo. Bây giờ Nam kỳ lại bị “Bắc kỳ thuộc” lần thứ hai. Người cầm cán cho hai lần Bắc thuộc này chính là cụ Hồ. Dân Nam kỳ hận tràn lòng, đau như hoạn, nhưng lỡ tin nên mắc, gái Nam ngồi phải cọc Bắc, không dám kêu.

              Sáng hôm sau hành quân. Giao liên Phẩm ra địa điểm đóng quân sớm lắm. Cậu ta cũng “đả thông” cho khách những điều cần thiết rồi bắt đầu dắt đoàn người đi.

              Tôi đến sờ trán thằng Núi, thấy nó bớt sốt, nhưng vẫn mê man. Không biết ở trên đưa một anh chàng học vẽ chưa ra họa sĩ như thế này vô Nam để làm cái giống gì?

              Nhìn qua nét vẽ của anh ta, tôi thấy anh ta cần phải học ít nhất là ba năm nữa mới vẽ đúng hình khối và anatomy. Rủi nó chết ở đây, ai khổ ai đau chứ Trung ương đâu có đau khổ chút nào. Hơn nữa Trung ương đâu có biết tới.

              Chúng tôi được đi sát với giao liên nghĩa là đi đầu đoàn. Nhưng vì Thu đi chậm nên bị lính kêu, Phẩm lại đẩy chúng tôi xuống khúc giữa. Đến lúc nghỉ trưa, cũng do yêu cầu cửa lính, đám dân chánh chúng tôi lại bị cho xách đèn đỏ bọc hậu, nhưng rồi vẫn cứ rơi dần lại phía sau. Con nhà lính còn cực khỏe đi vượt lên phía trước hết cả.

              Người dẫn đầu của toán sau cùng là tôi. Người đi sau cùng của toán sau cùng là Thu. Người đi giữa cố nhiên là nhạc sĩ họ Hoàng. Thỉnh thoảng nhà nhạc sĩ dừng lại gục trên đầu gậy (tôi phải dừng lại chờ) quắc mắt về phía trước càu nhàu:

              - Mày hỏi chuyền dùm thằng Phẩm xem nó dẫn có lạc đường không mậy ?

              - Đường gì mà lạc. Nó đi hàng ngày mà!

              - Đường gì kỳ cục thế này chứ. Không bước được một bước trên mặt đất bằng !

              - Đường giải phóng miền Nam chớ đường gì mà ky cục! Đây Trường Sơn vinh quang mà!

              - Đường gì đi hoài không đến. Vinh gì mà vinh?

              - Vì nó là đường đi không đến ! Vinh thì có vinh nhưng nó không đến vẫn không đến.

              Nói pha trò vần lân một chút vậy rồi đi tới nữa. Cái điệp khúc này nhà nhạc sĩ cứ lặp đi lặp lại với giọng tenor.

              Bỗng được lệnh của giao liên truyền lại: “Nghỉ mười phút.”

              Hoàng ném cái gậy ngồi phệch xuống đất ngay tựa lưng vào chiếc ba lô soải hai chân ra thở phào:

              - Tưởng mày quên cho nghỉ chớ!

              - Uống nước uống non đi cha nội, ở đó mà càu nhàu. Nó lại bắt đi nữa bây giờ!

              Tôi quay lại Thu:

              - Thu này, em có thấy cái ông mặt sắt đi ở giữa đoàn không ?

              - Không, ủa mà có, cái ông môi thâm sịtt đầu vuông như tảng đá kê cột nhà phải không?

              - Ừ chính là ông kẹ đấy !

              - Để làm gì?

              - Em có muốn xin về Hà Nội thì xin ông ấy ngay bây giờ đi!

              - Thôi đi anh đừng có đùa ! – Thu hơi cáu.

              - Anh nói thật mà. Ông mà đồng ý là giao liên phải kiệu em ra Hà Nội đấy.

              Từ ngày thằng Hồng trốn mất, Thu không còn tí hy vọng gì quay lại nữa, nên đành phải “đi giải phóng Miền Nam… cùng quyết tiến bước” vậy.

              Hoàng tợp ngụm nước rồi nói:

              - Vô tới trạm trong anh Bảy sẽ nấu mẻ cao khỉ cho lem gái tẩm chân là trèo núi như thần thôi.

              - Anh có mang theo đó à ?

              - Tao nhất định thắng lợi mà !

              Lệnh giao liên truyền xuống:

              - Tiếp tục đi. Còn một chặng ngắn tới trạm. (Đây chỉ là lối động viên của giao liên thôi. Một chặng của họ là vô tận. Có khi lội hộc máu cũng chưa tới

              - Lệnh nghỉ vừa truyền xong thì lại có lệnh đi !- Hoàng nhạc sĩ quát với cặp mắt nảy lửa- Nghỉ chưa hết thúi cái đít thì bắt đi ! Thằng phải gió mày có khùng không hả?

              Tuy giận dữ như vậy nhưng họ Hoàng vẫn gượng chỏi gậy đứng đậy lụm cụm di theo. Được một quãng tôi bị “đút đuôi,” đoàn đã bỏ tôi xa lắc, tôi quay lại thì họ Hoàng cách tôi một quãng khá xa và không thấy Thu đâu nữa. Tôi đứng chờ Hoàng tới và hỏi:

              - Thu đâu ?

              - Còn múa Hồ Thiên Nga ở đằng sau. Mày là Hoàng tử trở lại rước.

              - Hồi mới xuất phát giao liên bảo cố nhiều đường mòn “ngánh” coi chừng lạc, mình lớ quớ bị lạc cho coi.

              - Mày trở lại rước nó đi !

              - Khổ quá! – Tôi ngóng phía trước: Đoàn đi mất hút, không chờ. Nhìn phía sau: Không thấy Thu. Tôi bèn tụt ba lô ném xuống đất bảo:

              - Anh ngồi đây chờ.

              - Ừ, đi cho lâu lâu nghe !

              - Đứt đuôi thế này còn bảo lâu lâu.

              - Kệ mẹ nó. Tao cần nghỉ cái đã. Mà nè ! Tao bảo nè!

              Tôi vừa đi được ít bước thì quay lại gắt:

              - Gì?

              - Mày tới đó nếu nó bi cọp ăn thì quơ ít xương đem về cho tao nấu cao nghe chưa?

              Tôi phát quạu, làm thinh, đi thẳng. Được một quãng xa chừng nửa cây số thấy Thu ngồi ở ven đường. Tôi quát:

              - Sao ngồi đó? Có đi mau lên không?

              Thu không nói không rằng. Tôi vẫn chưa hết giận:

              - Người ta đi mất đất rồi, mau lên.

              Thu vẫn không nhúc nhích. Trời ơi, trông mặt nàng mới thảm hại làm sao. Tôi đỡ nàng đứng dậy bảo:

              - Đưa ba lô đây anh mang cho.

              Nàng chỏi gậy đứng lên và bước từng bước một như xẩm bó chân. Tôi cũng chẳng oai phong gì. Chỉ được cái may là bao tử chưa đồng khởi.

              Tôi đi chậm chậm bên nàng, cố tìm cách đưa nàng đi tới, chậm như rùa cũng được, miễn là đừng ngồi lại, vì Mác có dạy: “Mọi vật đều tiến triển;, cái giống đếch gì đứng lại thì có nghĩa là thụt lùi !”

              Đứng lại mà đã là thụt lùi rồi, thì ngồi như Thu còn thụt lùi bao nhiêu nữa?

              Tôi nhìn xuống gót chân Thu, định hỏi: “Cái cổ chân củaa em có đỡ không?” (Đỡ gì mà đỡ! Biết vậy nhưng vẫn cứ hỏi). Nhưng tôi chợt nhận ra mấy lớp băng nhuộm máu đỏ lòm.

              Tôi kêu lên:

              - Chân em bị thương à?

              - ….

              - Bị thương hồi nào, sao không kêu?

              - ….

              - Vấp đá hả ?

              Thu không nói một tiếng. Mắt nàng bật ra nước mắt. Nàng úp mặt vào đầu gậy mà oà lên.

              - Cái gì vậy? Tôi quát om lên. Tiếng quát vang lên dội lại từ sườn núi.- cái gì thì nói, khóc khóc cái gì ? Cứ khóc rồi tới nơi hay sa…o? – Tôi dậm chân đồm độp.

              Thu vẫn gục đầu vào cây gậy mà nức nở, đôi vai gầy gò run lên. Tôi chợt hiểu ra rồi. Nàng có kinh.

              Từ cái lần lấy đường thủy làm đường bộ ngâm mình dưới suối cả ngày, nàng thường hay khó ở. Đàn bà con gái, cái gì cũng rắc rối cả. Biết thân như vậy thì làm B quay phứt đi hồi ở mấy trạm ngoài, lại còn lê vô tới đây làm gì kia chứ!

              Tôi hậm hực nghĩ. Nhưng khi trông thấy gương mặt nàng đầm đìa nước mắt tôi hối hận. Tôi đến bên nàng khẽ hôn vào vệt nước mắt và nói:

              - Anh cho chân em một lá bùa sẽ hết đau ngay.

              Thu đưa tay ra vẫy vẫy:

              - Đưa ba lô đây cho em !

              - Đi đã không nổi, còn mang ba lô !

              - Không, em đi nổi. Em hết đau rồi !

              - Thì đi đi xem nào !

              - Anh cứ đưa ba lô cho em. Em khỏe lại rồi ! Em không muốn ai giúp em hết.

              Nàng bi chạm tự ái vì những câu không dịu ngọt của tôi . Tôi thấy có chút hối hận nên dỗ dành. Tôi nói như viết tùy bút:

              - Em cố đi lên chút nữa đi. Sắp tới nơi rồi. Mình sẽ nghỉ hai ba ngày. Nghỉ chừng nào chân em hết đau ta lại đi, đi được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

              Anh chẳng cần tới nơi nữa. Không có em tới, một mình anh chẳng thú vị gì. Anh sẽ tới trong giấc mơ hồi hương, trong thực tế và chỉ trong mộng, anh phải có em. Đi, di em!

              Tôi tưởng văn chương mồm của tôi đã vuốt nhẹ được trái tim đau, lau khô được dòng nước mắt của nàng chẳng ngờ lại ngược lại.

              Nàng càng khóc to lên và đứng lại. Quờ lấy quai ba lô giật ra khỏi vai tôi buông xuống đất và nói đứt quãng:

              - Anh đi đi, đi… cho tới quê nhà… Còn em… em chết ở đây! Nói xong nàng ngồi khuỵu xuống.

              Tôi nắm tay lôi nàng đứng lên. Mặt nàng trắng bợt ra, đầm đìa nước mắt. Tôi nói cũng hết ra tiếng:

              - Đi em ! Cố lên. Tới chỗ anh Hoàng sẽ nghỉ. Kia kìa cách đây có vài… chục thước! – Tôi lại cũng cái lối động viên của giao liên. Đứng ra đó là cái lối cổ điển cửa đảng, cái lối treo bó cỏ trước đầu ngựa muôn năm.

              Tôi lại mang ba lô lên vai và dìu Thu đi, vừa đi vừa “viết” thêm mấy chục đoạn tùy bút. Có lẽ đó là những đoạn văn chương hay nhất của tôi, những đoạn được viết ra từ sự rung động cực kỳ mãnh liệt, từ một khung cảnh bi thương nhất mà tôi chưa từng sống cho đến cái buổi chiều hôm ấy.

              Tôi nói như thằng điên, tôi nói như một thi sĩ ngâm thơ trước dân chúng yêu mến mình, tôi nói như diễn thuyết, như một thằng láo toét, tôi nói những điều phản lại chính lòng tôi: “Cố gắng đi em rồi ta sẽ tới ! Cách mạng Miền Nam đang mong chờ… ! ! “

              Nàng bước theo tôi, mỗi bước một giọt nước mắt, không phải “Lệ” 1 của Xuân Diệu, “rách đau thương đi giữa cuộc đời,” cũng không phải Lệ của kịch sĩ bôi cù-là trong vở Lu ba 2, mà là lệ của một nữ nghệ sĩ đẹp tuyệt trần rơi thấm đá Trường Sơn không phải để nở thành một đóa thơ, mà là để ghi dấu một tội ác.

              Tôi cố hết sức dìu nàng đi tới, lưng nặng như núi đè, tay đẩy lưng nàng như đẩy một chiếc xuồng mắc cạn. Tôi đã lê cái thân tàn của tôi không nổi mà còn phải đèo cái của quí này, trời hỡi, còn có sự bất công nào bằng?

              Nhưng trời cũng thương người. Cuối cùng rồi tôi cũng đưa nàng tới chỗ Hoàng ngồi đợi. Hoàng đang sửa lại cái “giơ- nui-de” cầu thủ trên đầu gối.

              Tôi cố gượng pha trò:

              - Sút có vô quả nào không??

              - Có vớ hai quả !

              - Nào, “đứng lên đi, người của núi sông, nặng lòng chi ngày xưa vương vấn. ” 3 “‘

              - Nứng thế đéo nào nổi.

              - Xuỵt! – Tôi trợn mắt vào Hoàng.

              - Đứng lên hay nằm xuống cho khỏe thân ?

              - Người ta đi xa ba ngàn dặm rồi. – Tôi giục, và khoác luôn chiếc ba lô của tôi lên vai, như một anh hùng giết giặc sắp được Bác bắt tay và gắn huân chương chiến công và một tay đẩy Thu, một tay lôi Hoàng. Vì biết chắc nếu để Thu ngồi xuống thì cả hai người đều sẽ đồng tình mà đóng chốt luôn tại đây.

              Cũng may, hai người giác ngộ khá cao nên “thề quyết tiến bước.” Đi được một quãng thì đụng ngã ba. Cái ngã ba này to lớn thênh thang hơn bất cứ ngã ba nào trên đường từ Làng Ho vô đây.

              - Đi ngả nào anh ? -Tôi hỏi Hoàng- Không khéo mình đi xuống Bác Kế thì hỏng.

              - Ừ nhỉ ! Đi ngõ nào bây giờ, tớ không biết mô tê!

              Tôi hoang mang không biết đi đường nào. Nếu đi sai sẽ chẳng đến trạm, việc đó đã hẳn rồi ! Nhưng còn thêm cái nguy hiểm là có thể đụng vào chướng ngại hoặc lọt vào khu tử địa thì nguy.

              Tôi đã bi lạc vô trại tù binh một lần và bi các ông cai ngục xét giấy, gằm ghè dữ quá, làm như mình là do thám không bằng.

              Hoàng và Thu chộp lấy cơ hội ngồi xuống nghỉ. Ngồi xuống thì đứng lên, có khó gì ! Nhưng đó là đối với những người bình thường kìa, còn ở đây lại khác. Ở đây ngồi xuống được là đít dính với đất, mọc rễ ngay tức khắc chẳng đứng lên nổi.

              Phải đấu tranh tư tưởng, phải hát thầm bài Giải Phóng Miền Nam của trại cưa Kim Hữu mới đứng lên được !

              - Đi ngả nào? – Hoàng hỏi.

              - Có thể ngả này -Tôi trỏ – Ngả phía bên trái.

              - Ngả nào thì tùy mày đấy’ Tao không biết ngả nào là ngả đéo nào!

              - Hình như có dấu chân.

              - Dấu chân gì in trên sỏi đá được.

              - Thì tôi tưởng tượng ra thôi! -Tôi thở phào- Mệt quá! Đủ thứ rắc rối. Thôi đi mẹ nó ngả đó đi.

              - Không được! Nguyên tắc của giao liên đề ra là nếu rủi bi lạc thì cứ ngồi tại chỗ họ sẽ trở lại tìm. Đi bậy bạ họ không tìm được.

              Tôi nói :

              - Đó là nguyên tắc xưa rồi. Bây giờ mình đi lạc họ bỏ 1uôrl, họ không có trở lại tìm đâu.

              - Thằng Phẩm nó tình cảm với bọn mình mà !

              - Tình thì tình, cảm thì cảm nhưng nó mệt nó không đi tìm đâu.

              - Vậy thì làm gì bây giờ?

              Thu buột miệng nói:

              - Mình cứ ngồi ở tại đây, chốc nữa anh ấy trở ra thế nào cũng gặp mình.

              - Biết đâu nó lại đi đường khác.

              - Đường khác là đường nào ?

              Cãi với nhau một lúc, cả ba thấy cái biện pháp ngồi ỳ lại đây là phúc lợi hơn cả và hợp lý cho bộ giò nên ai nấy đều tìm chỗ mắc võng nằm chờ và tự giải lao bằng số nước còn lại trong bi đông, mỗi người bận rộn một kiểu.

              Thu mở băng ra xem lại cái cổ chân, Hoàng thì củng cố cái bánh chè còn tôi thì ngủ. Nắng chiều nóng như thiêu, quần áo đã đẫm mồ hôi như tắm. Khi thức dậy thấy mình nằm giữa nắng vàng…

              chẳng có thơ mộng một chút nào, ngược lại tưởng đang bi cảm… nắng và có ý nghĩ mình sẽ phải đi nhà thương Biên Hòa.

              Tôi nhảy xuống đất chạy vào một mép núi có bóng mát, tuột cả áo ra dùng làm quạt và quạt bất đếm bằng cái áo đẫm mồ hôi kia. .

              Quả thật một chập sau thì Phẩm trở lại. Cả hai bên đều mừng rỡ như những tình nhân tái ngộ.

              - Tôi tưởng các anh đi lạc rồi.

              - Đứt đuôi thôi .

              - Vâng, hễ đứt thì cứ ở tại chỗ chờ, đi bậy nguy hiểm lắm.

              - Từ đây tới trạm còn xa không?

              - Hơn tiếng đồng hồ.

              - Vậy thì không sao. Bây giờ còn sớm. Tôi nói.

              - Còn sớm gì nữa, mặt trời sắp lặn rồi ! -Thu cãi lại.- Em làm sao lết cho kịp

              - Em cứ coi như múa một lớp Hồ Thiên Nga là tới chứ gì .

              Hoàng pha trò nhưng Thu không cười nổi. Phẩm đến bên tôi, giọng cảm động

              - Thôi các anh đi, mạnh giỏi nhé! Anh có gặp anhnhà văn gì, nói em nhắn lời thăm anh ấy. Tiếc quá anh có đi ngang đây mà em không… gặp để hàn huyên.

              Cậu bé rưng rưng nước mắt bắt tay tôi. Tồi bỗng thấy thương tôi thì ít, thương cậu bé thì nhiều. Nó ở lọt tỏm giữa hoang dại đầy đe dọa, một loại “Bạch Mao Nam” do đảng tạo ra.

              Cũng như ngày trước, lúc tôi còn ở Hà Nội, tôi đã đi công tác ra tận các hải đảo trong chòm đảo Hạ Long. Ở đấy có những hòn đảo không tên. Ở đấy có những thanh niên “tình nguyện” công tác. Mỗi đợt là sáu tháng.

              Công tác của họ chỉ là đốt một ngọn đèn cho tàu ngoài biển vào bến Hòn Gai ăn than và trở ra. Họ ở trong những cái nhà đá chung quanh không có cây cối gì hết, cũng không trồng trọt được ngọn rau dây bí nào hết.

              Đặc biệt là không có liên lạc bằng điện đài. Những ngày bão to họ vào nhà đóng cửa khóa chặt và ngồi bên trong nghe sóng tràn qua nóc nhà hoặc nhìn qua cửa kính biển động sôi lên trùm phủ nhận chìm tất cả những cụm đảo lớn nhỏ.

              Những cậu thanh niên thất tình muốn trốn đời, những cậu khác thì hăng máu vịt đinh tỏ lòng yêu tuyệt đối với chủ nghĩa xã hội, hoặc vì lý do này nọ khác mà xung phong ra đây, đều vái cả mũ những hòn đảo cô đơn giết người này.

              Tôi đã hết sức ngạc nhiên khi bước lên những hòn đảo đó, tôi tự hỏi không hiểu các chàng trai đầy nhựa sống và mộng mị đó, đã sống làm sao một trăm tám mươi ngày và một trăm tám mươi đêm không thấy một mái tóc mềm, không nghe một tiếng thân yêu bên tai. Vậy mà báo và đài luôn luôn ca ngợi và nói rằng có nhiều cậu đoàn viên “xung phong ở lại thêm một nhiệm kỳ nữa ! ”

              Thì cũng như thằng Phẩm “xưng phong” vô làm giao liên Trường Sơn này. Nhưng so với cái thâm sơn cùng cốc này, ở hải đảo hãy còn là hạnh phúc chán.

              Ở hài đảo, cuộc sống chỉ cô đơn nhưng không bệnh tật, không bom đạn, không trộm cắp, không giật giọc, không thổ phỉ, không thú dữ rắn độc. Còn ở đây thì có đủ, có nhiều các thứ này.

              Tôi như thấy rõ nỗi u uất trong lòng cậu thanh niên xung phong trong một thoáng nhìn gương mặt cậu ta. Tôi vỗ vai Phẩm và nói, giống y như cụ Hồ huấn thị các cháu:

              - Em ở lại cố gắng công tác cho tốt nhé. Giải phóng Miền Nam xong ta về xây dựng lại đất nước tươi đẹp hơn mười lần xưa ! Chừng đó anh sẽ ghé lại ăn mận của em!

              Phẩm đi khuất, tôi còn đứng nhìn theo. Đêm nay nó ngủ một mình chắc nhớ bọn tôi lắm, nhớ con bé ở Nghi Tầm nhớ cả Hà Nội. Tất cả đều thấy đó mà lại xa vời. Cây mận của nó thì chừng nào mới trổ trái?


              Hết Chương 6 - Xem Tiếp Chương 7


              sigpic

              Comment


              • #8
                Vượt Trường Sơn 3



                Chúng tôi cuốn võng và đi ngược chiều với Phẩm. Đến nơi trời chưa tối. Nhưng chiều nay khác với những buổi chiều khác khi chúng tôi hạ trại.

                Bữa nay ở địa điểm trú quân rất nhộn nhịp. Hỏi ra mới biết rằng đêm nay có Văn Công diễn phục vụ chiến sĩ. Tôi bảo Thu:

                - Em đóng góp một màn đi !

                - Thôi anh ơi. Em không múa nổi đâu.

                - Mới hôm trước múa Hoa Champa…

                - Đó là hồi em chưa trặc cổ chân kìa.

                Tôi giúp nàng căng lều mắc võng. Tôi và Hoàng cũng mắc võng nằm dưỡng lão. Chuyện ăn uống chưa tính tới. Bỗng nghe tiếng loa vang vang (không có micro) giới thiệu các tiết mục. Tôi chưa kịp nói gì thì Hoàng đã bảo:

                - Mày lại gặp “ẻn” rồi. Coi chừng lại đổ nợ!

                Quả thật, đoàn Văn Công đang biểu diễn là đoàn của Sư đoàn 330 là lính Nam kỳ quốc của Chúng tôi. Người yêu cũ của tôi đang làm “biên đạo” vũ của đoàn này. (Biên đạo tức là viết và đạo diễn).

                Tôi không vui cũng không buồn, nhưng lại rất ngạc nhiên. Văn Công biểu diễn phục vụ ai ở đây? Trong khi lính cần gạo, thịt và thuốc men thì không đem tới, trái lại đem cho những thứ họ không cần – Nghe hát xướng mà no được sao ?

                Không biết ai có sáng kiến này, một sáng kiến lạ lùng không kém sáng kiến của Tào Tháo gạt quân sĩ đang khát nước gần chết bằng cách bảo rằng ở phía trước có vườn quít.

                Nhà nước có nhiều sáng kiến kinh hoàng. Tôi còn nhớ thời kỳ Không quân Mỹ !eo thang ra Miền Bắc, Tố Hữu bắt văn nghệ sĩ phải đi thực tế bom đạn ở khu IV.

                Tôi đi ra đi vào Quảng Bình và Vinh đến những bốn lần trong lúc một văn nghệ sĩ chỉ cần đi một lần là đủ “tiêu khuẩn.” Một lần tôi đi cùng với đoàn Văn Công Trung lương đi vô Quảng Bình mảnh đất đang là mục tiêu đánh phá của Không quân Mỹ. Phương tiện vận tải là một chiếc xe Skoda của Hungari loại dùng làm xe bus ở Hà Nội. Ban ngày sợ máy bay đánh nên phải chui trốn và ngủ lấy sức đợi tối mới đi.

                Nhưng đi đêm xe phải mở đèn pha đèn cốt, nếu không thì làm sao chạy được. Để tránh làm mục tiêu cho máy bay, anh tài xế (quân sự của Bộ Quốc phòng đưa sang. Vì ở trên sợ lái xe dân sự không có kinh nghiệm) dùng một cần câu trúc dài gắn ở đầu xe và chuyền một bóng điện nhỏ ở đầu cần câu thay vì mở đèn xe. Và anh ta lái xe trên dường với cái ánh sáng to hơn con đom đóm đó. Bọn chúng tôi hỏi:

                Như vậy có ích lợi gì ? Anh ta bảo đó là sáng kiến của Cục Vận tải phổ biến khắp các đoàn xe để thi hành, không làm khác được ! Không hiểu Cục Vận tải quan niệm tầm sát thương của bom đạn như thế nào mà xài cái sáng kiến đó trong lúc máy bay của Mỹ không phải dùng mắt thường để tìm mục tiêu và nếu một quả bom ném đúng ngay vào cái đầu cần câu thì chiếc xe vẫn chạy an toàn?

                Cũng may chứng tôi không bị máy bay tấn công lần nào nhưng từ Hà Nội vào Quảng Bình, bình thường chỉ đi một ngày, chúng tôi phải mất năm đêm. Cái sáng kiến thật rất khoa học có một không hai.

                Bây giờ lại gặp cái sáng kiến đem Văn Công vô phục vụ cho chiến sĩ Trường Sơn. Nghệ sĩ biểu diễn không sân khấu không có micro.

                Người xem ngồi chung quanh như lửa trại hồi thời kháng chiến. Tôi mệt bã người ra, nhưng vì công việc này có dính tới nghề nghiệp mình nên cũng ráng lê chân tới ngồi tựa gốc cây xem, còn Thu và Hoàng nhất định không đi xem coi “cái tụi nhảy cóc nhảy nhái” đó, vì Thu là diễn viên ưu tú của đoàn Ca múa Trung ương, Hoàng là thầy của thầy các diễn viên này.

                Tôi cố ý tìm xem ông kẹ có mặt ở buổi biểu diễn này không. Cuối cùng tôi thấy ông ta nằm võng và có người đem nước lại cho ông trong khi Văn Công biểu diễn ở ngay trước mặt ông như dành riêng cho ông vậy.

                Không biết trước khi chúng tới đến, đoàn đã diễn những tiết mục gì, nhưng bây giờ thì đang sửa soạn đồng ca bài Chiến thắng Điện Biên Phủ cửa Đỗ Nhuận.

                Chắc lâu lắm chiến sĩ mới thấy con gái đẹp tô son điểm phấn trước mặt mình nên họ nhìn trân trối. Nói nào ngay “chất tươi” trên đường này cũng có chứ không phải là không, nhưng nó không tươi tắn mà có vẻ nhếch nhác nên không thích mắt,

                hơn nữa những nữ cán bộ không biết làm bộ làm tịch như Văn Công. ‘Kìa xem, họ nghiêng qua, ngả 1ại như một đám cây rừng trong gió bật ra tiếng hát.

                Những người lính ngồi nghe mê mẩn. Sau những ngày, những tháng tiêu pha sức khỏe với các em “đá tai mèo” họ được những giây phút giải lao.

                Hết bài Chiến Thắng Điện Biên, tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Tiếp theo, họ được xem “Kéo pháo” lên Điện Biên với bản nhạc nổi tiếng của Hoàng Vân, một anh nhạc sĩ rau muống được đặc ân đi học Trung Quốc nhưng khi về nước, được vinh quang đi giải phóng Miền Nam thì lại thụt lùi.


                ................................................. .................................................. .......


                Bài Hò Kéo Pháo cũng được hoan nghênh bằng những tràng pháo tay ròn rã. Sau những phút sống lại chiến thắng hào hùng xưa, chiến sĩ ta được xem một hoạt ảnh bằng thơ có ba diễn viên. Hoạt cảnh này được viết bằng thơ tám chữ, lục bát có điểm xuyết vài đoạn bài chòi khu Năm.

                Tôi xem hoạt cảnh đó đến nay đã hai mươi lăm năm rồi nên không còn nhớ lời thơ, chỉ ghi ra đây đại ý.

                Màn Một: Một anh chiến sĩ nghĩa vụ quân sự được người vợ chưa cưới tiễn chân đi giải phóng Miền Nam vào một buổi sáng tươi đẹp của đồng quê miền Bắc. Hai anh chị quyến luyến nhau rất lâu và rất tình tứ pha lẫn buồn đau, nhưng hai người đều giác ngộ cách mạng cao nên đều dứt khoát nghe theo tiếng gọi của Miền Nam đau khổ.

                Chị hứa ở lại Miền Bắc tăng gia sản xuất và làm theo khẩu hiệu của đảng: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.” Còn anh thì hứa hẹn sẽ làm tròn nhiệm vụ nơi chiến trường để trở về cưới em với vòng hoa chiến thắng.

                Màn Hai: Người thanh niên đi đến Cầu Hàm Rồng thì thối chí. Ra đi từ Hà Nội, thay vì được chở chuyên bằng xe, đơn vị lại phải hành quân bộ. Đến quá Nho Quan mới được đi tàu hỏa. Với sức lực hao mòn; với những gian nan đã vượt qua, chàng hình dung trước mật cảnh tượng máu lửa hãi hùng của Miền Nam.

                Khi tàu hỏa đỗ lại ở ga Hàm Rồng thì chàng nhảy tàu chạy trốn nhưng bi đồng đội đuổi theo bắt lại được. Chàng phản tỉnh và tình nguyện đi giải phóng Miền Nam. Qua khỏi giới tuyến một đổi thì chàng dùng súng bắn vào chân để có lý do ở lại trong lúc đơn vi đi tới.

                Màn Ba: Người thanh niên len lỏi trốn ngược ra Bắc và về tận gia đình, thú thật mọi nỗi gian truân với người vợ.. Lần này lại có thêm bà mẹ vợ. Cả hai dùng hết lời và lập trường cách mạng để giác ngộ anh chàng.

                Thêm vào đó anh chàng lại nhớ đến cha đá hi sinh anh dũng trong kháng chiến. Để xứng đáng là cháu ngoan bác Hồ và con của một người cách mạng, chàng thanh niên quay trở về một đơn vị bộ đội nhận sai lầm và lại tiếp tục vào Nam chiến đấu.

                Khi hoạt cảnh bắt đầu diễn thì bộ đội còn ngồi xem như trước, nhưng khi diễn tới màn “ga Hàm Rồng” lác đác có người kêu mệt và bỏ về.

                Khi diễn sang màn ba thì chỉ còn có ông kẹ và đoàn tùy tùng của ông. Tôi cố nán lại để gặp mấy thằng bạn trong đoàn Văn Công. Tôi né mặt để khỏi bị ông kẹ nom thấy.

                Buổi biểu diễn trở nên lễnh loãng, có vẻ như muốn dứt ngang với lý do là trời đã tối , nhưng nhiều người còn thích xem nên lấy đèn pin ra thay cho ánh sáng mặt trời. Tất cả được hơn mười chiếc mà phần lớn là của đoàn tùy tùng ông kẹ.

                Họ bấm công tắc rồi để ghếch dầu đèn lên ba lô hoặc đít soong chảo chiếu thẳng vào “sân khấu.” Họ chơi ngông vậy có lẽ vì họ có đủ sức chơi. Riêng bộ đội thường thì đến Ban Chỉ huy cũng không có đèn pin đừng nói chi tới lính lãi.

                Với ánh sáng của mấy chiếc đèn pìn vẫn tiếp tục màn ba của hoạt cảnh. Có lẽ người ta đói nên phải ăn mặc dù là món ăn là thứ gì đi nữa cho nên người ta ngồi “ăn” cái món hoạt cảnh này, càng cạn tới đáy soong nó càng nhạt ra – Có lẽ khi vét soong húp muỗng cuối cùng thực khách ân hận vi đã ăn phải ngồi đau lưng để được đãi cho một cái mơ-nuy vô bổ như thế còn đầu bếp thì tự hứa lới mình đây là lần cuối cùng nấu món “canh” hoạt cảnh này.

                Tôi trông nét mặt mấy thằng quen bới hết son phấn tội nghiệp. Chắc chúng nó tự thấy trơ trẽn nên xách đàn và vác đồ lề khác lủi nhanh. Nhưng ông kẹ đã cho người gọi chúng lại. Anh trưởng đoàn đến yết kiến ông kẹ, để cho diễn viên đi rửa mật dưới suối.

                Ông kẹ – tạm gọi là ông Mặt Sắt cho để nhớ. (Sau này độc giả sẽ lại gặp ông ấy ở cục R với vợ của ông anh hùng X. có nhiều pha vui lắm). Ông Mặt Sắt là dân Bình Trị Thiên khói lửa còn anh trưởng đoàn Văn Công là người cùng quê với Bác.

                Hai bên nói chuyện với nhau bằng những dấu nặng chình chịch nghe mệt quá, nhưng tôi cũng nán lại xem họ nói với nhau những gì. Chắc anh trưởng đoàn Văn Công biết ông kẹ là ai nên nói năng thưa dạ răng rắc.

                Ông Mặt Sắt hỏi:

                - Đoàn Văn Công của anh đi vô đây được bao lâu rồi ?

                Anh trưởng đoàn đáp:

                - Dạ mới có vài tuần !

                - Anh chị em khỏe cả chứ?

                - Dạ không được khỏe lắm ạ!

                - Mới vô mà đã không được khỏe rồi cơ à?

                - Dạ sốt rét nhiều quá! Có đến gần một nửa bị sốt !

                - Thế cơ à? Sao không uống thuốc. Để tôi bảo bác sĩ cho anh chị em một ít kí-nin.

                - Dạ vâng !

                - Sao các anh đi vào đây mà không có chuẩn bị gì hết vậy ?

                - Dạ, đoàn đang phục vụ ở giới tuyến mười bảy rồi được lệnh ở trên nên phải đi luôn, thành ra không có thuốc men gì hết.

                - Rồi lương thực làm sao?

                - Dạ có muối thôi ạ, còn gạo thì khi có khi không.

                - Thế cơ à? Bộ mấy cái anh quân khu này coi chuyện vô đây như đi Hà Nội hay cao? Này! – Ông Mặt Sắt quay lại một anh đang đứng ở sau lưng – có lẽ là trưởng đội tùy tùng hay bí thư riêng – Anh gọi cho anh Nam Long lâp tức tiếp tế đầy đủ cho đoàn Văn Công phục vụ đường dây nghe chưa?

                - Dạ ! – Người kia đáp to.

                - Gọi ngay bây giờ. Tôi muốn ngày mai đoàn Văn Công phải được trang bị đầy đủ.

                - Dạ! – Người kia quay ra đi làm nhiệm vụ.

                Ông Mặt Sắt hỏi tiếp anh trưởng đoàn Văn Công:

                - Anh lấy đề tài cho cái hoạt cảnh ở đâu thế?

                - Dạ ở cơ sở ạ!

                - Cơ sở nào, hợp tác xã hay bộ đội ?

                - Dạ bộ đội ạ !

                - Bộ đội nào ở đâu ?

                - Dạ bộ đội ngay trên đường này, ở cách đây vài ba trạm.

                - Có thực vậy hay sao?

                - Dạ, những chuyện như thế này còn nhiều ạ. Chúng tôi chỉ chọn chuyện đơn giản nhất để sáng tác. Chính đơn vị đã kể cho chúng tôi nghe để sáng tác.

                Ông Mặt Sắt thở dài:

                - Quái nhỉ, sao Trung ương không biết gì hết cả?

                - Dạ chúng tôi cũng không biết, chỉ thấy chuyện đó là chuyện thật như bao nhiêu chuyện thật khác Tổng cục Chính trị phát động viết đề tài “Người Thật Việc Thật” và có giải thưởng cho tác giả trúng giải ạ. Những chuyện như thế này, sau khi ghi chép xong chúng tôi có đề nghị thủ trưởng đơn vị chứng nhận rồi mới dám sáng tác ạ.

                - Để làm gì?

                - Dạ để khi nào ở trên có hỏi chuyện xảy ra ở đơn vị nào thì chúng tôi có chứng cớ trả lời ạ. Nếu không , ở trên sẽ nói chúng tôi phịa và chúng tôi bị khiển trách.

                - Anh có ghi đơn vị anh lấy được đề tài đó không?

                - Dạ có!

                - Đâu đưa cho tôi xem.

                Anh trưởng đoàn Văn Công móc túi áo lấy một quyển sổ tay mở ra đưa cho ông Mặt Sắt.

                Ông Mặt Sắt cầm lấy. Một anh chiến sĩ đứng gần đó rọi đèn pin vào.

                Anh đoàn trưởng trỏ vào trang giấy có ghi nào chữ nào số đặc nghẹt.

                Ông Mặt Sắt xếp lại ngay kêu lên và trả quyển sổ lại cho người chủ:

                - Quái lạ, sao lại có những hiện tượng như thế này nhỉ!

                Anh chiến sĩ bấm tắt đèn. Tất cả chìm trong bóng tối. Ông Mặt Sắt làu bàu:

                - Thế mà các anh văn sĩ và phóng viên viết toàn chuyện anh dũng. Những chuyện như thế này thì lại bịt mất tiêu.

                Rôi ông hỏi anh đoàn trưởng:

                - Hồi nãy anh có nói đây chỉ là chuyện đơn giản, vậy còn những chuyện không đơn giản là những chuyện gì?

                - Dạ nhiều lắm ạ, tôi không ghi nên không nhớ.

                Ông Mặt Sắt ngoảnh lại anh chiến sĩ đang cầm đèn pin ở tay:

                - Anh đi tìm cho tôi một ban chỉ huy đơn vị đang đi vào Nam và một anh giao liên.

                - Vâng.

                Ông Mặt Sắt trở lại với anh đoàn trưởng Văn Công:

                - Các anh sáng tác hoạt cảnh ấy à?

                - Vâng, chúng tôi hưởng ứng phong trào “tự biên tự diễn” của Tổng Cục vừa đề ra.

                - Vừa leo núi vừa viết được như thế à?

                - Vâng, chúng tôi họp lại bàn luận đề tài để thống nhất ý kiến rồi phân ra thành nhiều nhóm, mỗi nhóm viết một màn, xong rồi ráp lại ạ.

                Đó là lối sáng tác tập thể. Viết xong diễn vài lần rồi bỏ ạ. Chúng tôi toàn áp dụng phương pháp đó.

                - Cái màn ba, cha mẹ vợ và vợ xây dựng anh lính trở lại đơn vị, các anh lấy ở đâu?

                - Dạ, màn này thì chúng tôi tưởng tượng ra rồi phóng tay sáng tác ạ! Thật ra như thế cũng rất hợp lý cách mạng và đúng chánh sách ạ.

                - Ở ngoài kia các anh có áp dụng phương pháp sáng tác tập thể đó không?

                - Dạ có chứ ạ! Phương pháp này giúp cho chúng tôi tránh được chủ nghĩa sùng bái cá nhân ạ. (Ông Mặt ắt “hả” to lên) Nghĩa là không có đề tên tác giả cũng như các nghị quyết của Trung ươong để là Bộ Chính Trị chứ không đề tên ai cả.

                - Ai bảo anh thế? – Ông Mặt Sắt cười gượng – Chính trị khác văn nghệ khác chứ!

                - Dạ chúng tôi học tập chỉ thị của Tổng Cục đấy ạ!

                - Sao tôi không biết gì hết cả vậy?

                - Dạ thì tôi cũng không biết gì hết. Nhưng ở trên bảo rằng sáng tác tập thể thì vừa biểu đạt phong phú hơn sáng tác cá nhân vừa tránh được cá nhân chủ nghĩa gạ! (Ông Mặt Sắt kêu lên: Quái nhỉ!)

                Dạ, nếu có anh chị em nào sáng tác được một vở kịch hay một bài hát thì cũng đều mang ra tập thể xây dựng chung rồi sau đó đưa ra diễn thì giới thiệu tên của tác giả trước rồi kèm theo phải nói là “với sự đóng góp của tập thể đoàn Văn Công” ạ.

                Đến đây thì anh thư ký riêng trở lại báo cáo:

                - Thưa anh Sáu, đồng chí Nam Long nhận khuyết điểm đã điều động văn ông vào mà không trang bị cho họ đầy đủ vì đồng chí ấy bận bố phòng các trận địa pháo ngày đêm di chuyển luôn.

                Ngày hôm nay hai tàu gạo của ta bị máy bay Mỹ đánh chìm tại Vinh, hiện đồng chí đang huy động dân và bộ đội mò moi gạo lên và cho không dân chúng ai móc được bao nhiêu lấy bấy nhiêu.

                - Có chuyện đó nữa à?

                - Dạ thưa có ạ! Chính đồng chí Tu lệnh Nam Long trực tiếp nói với tôi như thế. Đồng chí còn bảo ước gì đem được số gạo đó vô đây cho anh em binh sĩ thì hay biết mấy.

                - Còn việc tiếp tế cho Văn Công ? Ông Mặt Sắt gạt ngang, gắt.

                - Dạ, đồng chí Nam Long nói là gạo muối thuốc men thì có đủ nhưng nếu đem vô tới đây ít ra cũng một tháng, nhanh lắm cũng ba tuần lễ, vì ta không có phương tiện gì hết.

                Xe hơi chỉ đến làng Ho là phải ngừng lại. Ngoại trừ có trực thăng thì mới đem được gạo muối cho Văn Công nhanh chóng .

                - Thôi được ! Cảm ơn đồng chí Văn Công nhé! Sáng mai đồng chí đến gặp tôi.

                - Vâng!

                - Các anh lấy thịt kho và thuốc men dành cho tôi đưa cả cho đồng chí trưởng đoàn – Ông Mặt Sắt bảo đoàn tuỳ tùng và làu bàu – Con người đâu phải con vật mà muốn ném đâu thì ném.

                Hậu cần như thế này có nghĩa là tự mình chuốc lấy nhục và bại thôi. Này, nói với anh chị em nghệ sĩ rằng tôi tặng huân chương Giải Phóng cho đoàn về việc biểu diễn bữa hôm nay.

                - Vâng! Xin cảm ơn anh Sáu .- Anh trưởng đoàn bắt mò được cách xưng hô do anh thư ký lộ bí mật vừa rồi.

                Người chiến sĩ cầm đèn pin đưa anh giao liên và hai người trong ban chỉ huy một đơn vị luồn vào Nam đến trình diện anh Sáu.

                Anh Sáu hỏi:

                - Hai đồng chí là chỉ huy?

                - Vâng, chúng tôi là D trưởng và D phó ạ!

                - Còn chánh trị viên đâu?

                - Dạ đã hi sinh rồi ạ!

                - Tại sao?

                - Dạ, cây ngã đè chết ạ!

                - Lạ nhỉ!

                - Dạ trong một cơn bão ạ. Thưa cũng không lạ gì ạ. Chúng tôi đã có kinh nghiệm khi có mưa to gió lớn thì bảo chiến sĩ chớ có mắc võng gần cây cao. Cây cao dễ tróc gốc.

                - Đơn vị các anh còn đủ quân số không?

                - Dạ…

                - Các anh hãy nói thật để tôi biết, không nên giấu giếm. Giấu giếm có tôi!

                - Dạ, tôi là tiểu đoàn trưởng, tôi phải nói trước! … Thưa đồng chí chủ nhiệm Tổng Cục…

                - Ấy đừng gọi tôi thế. Tôi chỉ là chiến sĩ Trường Sơn thôi.

                - Dạ thưa đồng chí…

                - Cũng không dạ thưa…

                - Tôi phải báo cáo với đồng chí sự thực là đơn vị tôi còn già nửa quân số!

                - Tại sao?

                - Dạ, tại vì… lính trốn nhiều quá!

                - Tôi, tiểu đoàn phó, xin bổ sung! – Một giọng khàn khàn tiếp theo – Thưa đồng chí, chúng tôi được đảng giao phó cho chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh nhưng vào đến đây thì phải dừng lại chờ gạo. Không có gạo, núi non như thế này lại mang súng đạn, không trèo nổi. Trong lúc chờ gạo lính trốn khá đông.

                - Bao nhiêu?

                - Mười bảy chiến sĩ.

                - Họ đi đâu?

                - Họ trở về Hà Nội.

                - Tại sao?

                - Họ bảo đi nam không có tương lai… Dạ ngoài ra họ còn tự bắn vào đùi hoặc vào chân để có lý do nằm lại. Như đồng chí thấy trong hoạt cảnh…

                - Đó là sự thực à?

                - Vâng!

                (Tôi thầm bảo: còn nhiều sự thực bi đát hơn, định xía vô câu chuyện nhưng chưa chưa kịp nói thì viên tiểu đoàn phó nói tiếp.)

                - Họ còn tự sát nữa cơ!

                - Có chuyện đó nữa cơ à?

                - Dạ tôi đâu dám bịa tạc những chuyện tày trời như thế.

                Ông Mặt Sắt thở dài rất to. Im lặng hồi lâu.

                - Rồi các đồng chí giải quyết như thế nào?

                - Dạ nếu có gạo thì mới giải quyết được, ngoài ra không có cách gì khác.

                Anh giao liên lên tiếng sau khi nghe mọi chuyện của tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó.

                - Họ đã từng đánh tôi, thưa đồng chí thủ trưởng!

                - Vì sao?

                - Tại vì tôi dắt họ đi lãnh gạo, đến kho thì quản kho không còn ở đó.

                - Tại sao?

                - Dạ không rõ. Còn khi thì không còn gạo. Chắc có lẽ đồng chí sợ bộ đội đánh.

                - Tại sao?

                - Dạ, giận cá chém thớt vậy thôi. Cũng có khi họ cho là quản kho giấu gạo để ăn riêng không phát. Họ giận lây họ đánh cả giao liên.

                Lại tiếng thở dài.

                - Này gọi Tư lệnh Nam Long cho tôi nói chuyện.

                - Vâng!- Người thư ký dáp rồi gọi người chiến sĩ mang máy bồ-đàm tới (đây là loại tê-lê-phôn của nhà binh mang trên lưng, tôi không hiểu vì sao có cái tiếng bồ-đàm này. Cũng như cái bình thủy được gọi là cái “phuých” nước.)

                Người chiến sĩ cầm ống gọi. Một chập, trao cho ông Mặt Sắt và nói:

                - Dạ đây là Tư lệnh Nam Long, xin anh Sáu cho chỉ thị.

                - Alô! Đồng chí Nam Long đấy hả… Tôi đang trên đường vào … Gạo nước thế nào? Không có đủ cũng phải kiếm cho đủ. Để các đơn vị khác thiếu cũng được. Riêng trên đường này không được thiếu. Chiến sĩ ở đây không có gạo.

                Giải phóng Miền Nam sẽ không thành công nêu không có gạo cho bộ đội ăn. À, thuốc men nữa… Không có thì chạy đi tìm. Hai tàu gạo…đồng chí cho bảo vệ thế nào lại bị đánh chìm thế hở…?

                Hừ, thì phản lực nhanh nhưng nếu ta có pháo phòng không giữ kỹ thì nó đâu có đến được… Núi Quyết nữa cơ à? Có thiệt hại gì không? tốt lắm. Tôi nhắc lại: Gạo và thuốc men cho đường này ưu tiên một nghe không?…

                Tôi phải vào…chưa biết chừng nào mới đến… Tưởng là đi xe suốt, nhưng vào đến đây, đường bị phá không đi xe được . Cố gắng nhé. Tôi còn nằm ở đây… Chưa biết bao lâu!..

                Ông Mặt Sắt đưa ống nói cho anh chiến sĩ và nói với các người khác:

                - Cảm ơn! Các đồng chí về nghỉ, mai đến gặp tôi.



                Hết Chương 7 - Xem Tiếp Chương 8


                sigpic

                Comment


                • #9
                  Vượt Trường Sơn 3



                  Tôi mò về đến võng thì có tiếng của Hoàng:

                  - No chưa?

                  - Vấn đề gạo sẽ được giải quyết nay mai anh ạ! Tôi nghe trộm nên biết thế.

                  - Ai nói thế?

                  - Ông kẹ gọi và chỉ thị trực tiếp cho Đại tá Tư lệnh Quân Khu IV, tôi nghe bằng chính lỗ tai tôi.

                  - Có chắc không?

                  - Thì nó đã được Bộ trông thấy tận mắt. Lính đói rõ rồi chứ phải chỉ nghe đâu!

                  - Gạo tiếp tế cho Bà Thủy hết rồi!

                  - Hả ! – Tôi giật mình – Sao anh nói vậy?

                  - Thì hai tàu gạo đó là gạo tiếp tế cho đường này chứ ai. Bị đánh chìm ở Bến Thủy – Hoàng tiếp – Lúc ổng nói với ông Tư Lệnh tao có ở đó. Tao đến xem văn công lúc gần xong màn ba.

                  Tôi nói:

                  - Anh không nghe ổng nạo ông Nam Long hay sao?

                  - Vấn đề không phải là “nạo” mà là “gạo”. Nạo thế mấy mà ông Nam Long không có gạo cũng không tài nào tiếp tế được !

                  Sáng hôm sau tôi còn đang ngủ thì một bàn tay đập đập võng tôi. Tôi tốc mùng ra nhìn thì ra thằng nhạc sĩ của đoàn, bạn của tôi từ thời chống Pháp ở Miền Tây Nam Bộ:

                  - Ông kẹ gọi mày!

                  - Kẹ nào? – Tôi bật dậy hỏi.

                  - Còn ông kẹ nào nữa?

                  - Sao mày biết tao ở đây?

                  - Lúc tao diễn cái họat cảnh tao nom thấy mày ngồi gần gốc cây.

                  - Ủa mày đổi nghề rồi sao?

                  - Mấy đứa trong tổ kịch sốt rét, tao phải thế vai, không có chó bắt mèo ăn cứt.

                  - Ổng gọi tao làm gì?

                  - Không rõ thằng nào mách mà ổng biết có tụi bây ở đây. Ổng tính mở một buổi họp để nghe tố khổ. Nè.

                  - Gì?

                  - Muốn thăm con bé của mày không?

                  - Thôi! Còn gì để nói mà gặp.

                  - Phải rồi, gặp cũng chẳng làm gì. Nó đang bị “lập trường đè”. Một cổ hai tròng mày ạ! Nó đang sốt rét rên hù hù đằng kai.

                  - Khổ quá, họp thì họp, gọi tụi này làm gì.

                  Thằng nhạc sĩ bạn tôi đi, tôi quay ra gọi Hoàng. Hoàng đáp:

                  - Mày có đi thì đi, tao cử mày đại diện cho tao và con Thu đó.

                  - Làm biếng hoài cha nội.

                  - “Phương tiện giao thông” của mày còn khá thì ráng chút đi, coi ổng có cho cái gì không?

                  - Nói thì nhất định có nói rồi nhưng cho thì chắc là không.

                  - Sẵn dịp mày tố khổ luôn. Mấy khi được nói thẳng vào lỗ tai kẹ.

                  Tôi đến thì thấy một lô người ngồi trước võng của ông Mặt Sắt. Ông đang ngồi trên võng hai tay giăng ra nắm hai đầu võng như con chim gi soải cánh. Ông đang cà gục cà gặc cái mặt sắt về phía đám người.

                  Thú thực là nếu ở Hà Nội thì tôi không đến cái buổi họp vì hai lần tôi gặp ông Mặt Sắt. Một lần ở Viện Văn Học mà tôi đã kể ở trên kia.

                  Lần thứ hai tôi đọc bài “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa” trên báo Nhân Dân. Cái lối của ổng là bất chấp đối tượng và bất chấp lý lẽ. Cái lối của ổng là bắt người khác nghe theo lý lẽ của mình mặc dù lý lẽ đó chưa hẳn đã là chân lý.

                  Ông đang nói:

                  - … Cách mạng Miền Nam đang gặp khó khăn. Quân Mỹ đang đổ bộ thêm vào Sàigòn. Chúng tăng cường cho bọn Sàigòn hai ngàn trực thăng và rất nhiều dụng cụ truyền tin. Miền Bắc chúng ta phải hi sinh nhiều hơn nữa. Trận Pleime là trận thử sức giữa ta và nó…

                  Ông ngưng lại, không nói cái kết quả của cuộc thử sức đó ra sao nhưng ai cũng biết nó ra sao rồi. Ông nói sang những vấn đề trên đường dây:

                  - Đảng và Chính Phủ không phải là không thấy những khó khăn về gạo thóc thuốc men ở đây. Trong lúc Miền Bắc mất mùa nhân dân phải thắt lưng buộc bụng thêm nữa. Đảng và Chính Phủ đã cho chở vào Vinh hai tàu gạo để đưa vào đây, nhưng rủi ro đều bị đánh chìm ở Bến Thủy. Đồng chí Tư Lệnh Quân Khu IV cho tôi biết hiện giờ đồng chí đang động viên dân và bộ đội lặn moi lên. Nước mặn gạo ngâm một đêm là hỏng hết cả.

                  Ở dưới hầm tàu, dễ gì moi lên. Tôi nói rõ cho các đồng chí nghe một sự kiện quan trọng như vậy để các đồng chí thấy Đảng và Chính Phủ rất quan tâm tới con đường này chứ không phải để các đồng chí ăn đói ăn khát rồi thối chí nản lòng. Làm cách mạng, không ai được thối chí nản lòng.

                  Những lúc đảng gặp khó khăn thì chính là những lúc đảng cần bàn tay và khối óc của đảng viên và quần chúng yêu đảng chia sẻ gánh nặng với đảng chứ không phải là lúc chửi đổng và phá đám như bọn Nhân Văn Giai Phẩm.

                  (Cái câu cùng này đúng y nguyên văn tới nghe ở Viện Văn học mấy năm trước )

                  Ông tiếp:

                  - Bây giờ gạo thiếu thốn, các đồng chí chỉ huy không điều khiển đơn vị được. Như tôi xem thấy trong họat cảnh tối qua, chiến sĩ đào ngũ, tự sát thương, vô kỷ luật ..

                  chúng ta nhìn nhận hiện tượng đó nhưng là người Cộng sản chúng ta phải đặt vấn đề khắc phục nó như thế nào, chứ không nên đứng nhìn nó hoặc xuôi tay cho nó tràn ngập chúng ta.

                  Tôi thay mặt Trung ương đảng, Tổng quân ủy, xin gởi lời chào thân ái và quyết thắng của Hồ chủ tịch đến các đồng chí. Các đồng chí còn có ý kiến gì không?

                  Mọi người im phăng phắc.

                  Ý kiến gì bây giờ? Té ra làm cách mạng với đảng thì không cần gạo. Dù có phải trèo non vượt biển, cứ hễ thiếu gạo thì tìm cách khắc phục lấy, không được thối chí nản lòng.

                  Các vi quân dân chánh đảng lẳng lặng ra về, tôi cũng gầm mặt mà rút lui cho được việc. Về vừa đến võng Hoàng đã hỏi:

                  - Chừng nào gạo tới ?

                  - Tới rồi ! Tới dưới lòng sông Bến Thủy !

                  Đáng lẽ giao liên đã đưa đoàn đi vào trạm trong, nhưng ông Mặt Sắt cho nghỉ lại tất cả để ông nói chuyện và chấn chỉnh tổ chức.

                  Chúng tôi không buồn vì cách mạng Miền Nam chậm tiến một ngày mà lại mừng vì được nghỉ ngơi hợp lý và không bị giao liên gắn cho là nằm ỳ ăn vạ.

                  Vấn đề nấu cao khỉ được tôi đặt ra. Nhưng Hoàng gạt ngang:

                  - Cách mạng chưa cần cao khỉ !

                  Cả hai cùng cười. Riêng Thu thì rưng rưng nước mắt.

                  Tôi gắt đùa:

                  - Cách mạng Miền Nam không cần nước mắt ! Rõ chưa?

                  Nhưng Thu vẫn cứ rên rẫm trong nước mắt:

                  - Giá lúc này mà thằng Hồng trở lại thì em đi theo nó.

                  - Sao hôm đó không đi ?

                  - Nó gạt em. Nó nói nó đi rồi nó trở lại. Mà nó không trở lại -Thu tiếp- Còn cái ông Kiếm ông Kiết gì có một ba lô K54 đó, ổng hứa cho em tháp tùng nhưng rồi cũng lẩn mất. Ai cũng sợ gánh nặng đeo lên lưng.

                  - Chỉ mình anh là không sợ thôi !

                  - Anh nữa, anh cũng sợ chịu trách nhiệm về em chớ gì!

                  - Sao em nói vậy?

                  - Anh luôn luôn khuyến khích em làm B quay.

                  Tôi lặng thinh. Quả nàng nói có đúng. Tôi yêu nàng là vì tôi, không phải vì nàng. Nàng biết tôi vừa tạm biệt người yêu ở ngả rẽ xuống Bác Kế cách đây hơn mười ngày. Người yêu tôi, Phương là bạn nàng.

                  Tôi cũng biết nàng đi Nam để gặp người yêu trong đó. Thế nhưng trong hoàn cảnh bi thương hai đứa cần nương tựa nhau về vật chất lẫn tinh thần hằng ngày. Và hai đứa đã vượt biên giới của tình bạn và càng lúc càng đi sâu hơn. Nàng khổ lắm.

                  Tôi biết vậy, nhưng tôi cho là nỗi khổ đó chính là hạnh phúc. Còn tôi, tôi là thằng đàn ông như mọi thằng đàn ông khác, chẳng bao giờ cưỡng lại những cử chỉ thân ái của đàn bà. Tôi chẳng những tạo hoàn cảnh để làm nảy ra những cử chỉ ấy mà lại còn tấn công bằng một chiến thuật có vẻ như vô tình mà thực ra là cố ý.

                  Và bây giờ Hoàng cũng biết tôi và Thu yêu nhau. Chúng tôi tỏ vẻ thân ái với nhau hơn những người đồng hành một cách không ngần ngại. Chúng tôi tự cho mình chẳng có tội gì. Trước những giờ phút mà thân thể và tinh thần bị dày vò cực độ, người ta cần có sự an ủi.

                  Chúng tôi an ủi và giúp đỡ nhau để đưa nhau đi trên con đường cách mạng gian khổ và đi tới đích của nó. Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, Lê Hồng Phong và Mình Khai…đã yêu nhau trong công tác…



                  .................................................. ...... .................................................. ....


                  Nhưng bây giờ Thu trách tôi. Thu trách tôi cũng như trách bao nhiêu người khác: Sợ chịu trách nhiệm về Thu cho nên muốn Thu làm B quay.

                  Nói cho cùng, Thu đã trách đúng. Tôi đã không dám chịu trách nhiệm về Thu. Tôi chỉ muốn Thu có mặt với tôi để tôi được vui vẻ nếu Thu mạnh khỏe không gây trở ngại cho tôi, không trở thành gánh nặng của tôi. Nếu Thu bệnh họan thì tôi tránh né hoặc chối từ trách nhiệm một cách khéo léo.

                  Tuy bị nói trúng tim đen nhưng tôi vẫn cố chống chế:

                  - Thì em lúc nào cũng nằng nặc đòi về Hà Nội, vậy anh còn làm gì được !

                  - Sao anh không lấy quyền gì của anh mà cấm em. không cho em làm thế. .

                  - Quyền gì, anh có quyền gì đối với em ?

                  - Em đã cho anh cái quyền tối cao rồi, anh không biết ư?

                  - Em chỉ cho anh tình yêu chứ cho quyền gì ?

                  - Tình yêu là quyền lực mạnh mẽ nhất, mạnh hơn bất cứ quyền lực nào cả.

                  Tôi lặng thinh. Nàng tiếp:

                  - Giá bây giờ em từ giã anh để trở và Hà Nội thì chắc anh cũng chỉ hơi buồn tí thôi rồi khi quay lưng anh chẳng đau khổ tí nào. Phải không ạ?

                  - Anh không thể biết được vì chuyện đó chưa xảy ra!

                  - Thế thì bây giờ anh muốn em như thế nào ?

                  - Anh muốn thế nào được mà muốn.

                  - Thấy không? Đáng lẽ ra anh quát em: “Em không được quay lại, em phải đi với anh. Không có em anh sẽ chết đọc đường. Anh muốn nếu chẳng may anh chết dọc đường, anh có được bàn tay em vuốt mắt !

                  ” Nếu anh nói thế thì dù gì đi nữa em cũng không quay lại. Nhưng anh lại không nói gì hết, anh lại còn tán thành việc em quay lại. Thế nghĩa là anh yêu em đó phải không?

                  - Thu ạ ! -Tôi đành dịu giọng- Chúng ta có hai quê hương khác nhau, cùng nằm trên một nước nhưng là hai mảnh đất xa nhau nghìn dậm.

                  Em không muốn rời quê hương và mồ mã ông bà thì anh trên đường về quê hương thăm lại mồ mã ông bà, lẽ nào anh bắt em phải nghe anh. Đối với anh tình quê hương nặng hơn bất cứ tình nào khác kể cả tình yêu. Nếu khác đi thì anh đã đi với Phương về Bác Kế rồi chứ không đi một mình về Nam Bộ. Em biết anh và Phương yêu nhau như thế nào.

                  Chỉ một bước nữa là thành vợ chồng. Nếu ở Hà Nội thì Tết này có thể cưới nhau rồi. Bố mẹ Phương rất thương anh và anh cũng rất yêu bố mẹ Phương. Anh không về được lần này thì không còn lần nào khác nữa! Nếu em muốn đi vào thì anh sẵn sàng đi với em đến nơi nào em muốn, nhưng ngược lại em muốn trở ra thì anh cũng không muốn cản ngăn em.

                  Tình yêu là điều cao cả nhưng không phải là tất cả ! Em thấy đó, nếu đối với anh tình yêu là tất cả thì anh đã ở lại Hà Nội, cưới vợ sống muôn năm trong hòa bình rồi, lựa là phải lê xác vô đây ! Và không phải đợi đến yêu Phương, nếu muốn thế, anh đã lấy vợ từ lâu rồi.

                  Tuy tôi giải bày cặn kẽ và rất có lý như thế, nhưng Thu vẫn không vui lòng. Đàn bà không mấy khi nghe lý luận, họ nghe tình cảm nhiều hơn. Nếu không thế chẳng có nhiều bi kịch cho đàn bà hơn đàn ông, trong đó đàn bà là nạn nhân của tình cảm.

                  Tôi nói:

                  - Cái ông vừa gọi anh đến đó có thể cho em về Hà Nội được đấy.

                  - Anh đi xin giấy phép của ổng dùm em đi.

                  - Thật không?

                  - Thật mà ! Em chán tất cả rồi. Em muốn về ngay Hà Nội bây giờ, bây giờ!

                  Nàng gào lên và ôm mặt nức nở.

                  Tôi rối lọan tâm thần không biết nàng dỗi mà nói thế hay là nói thật. .

                  Đang lúc hoang mang thì Hoàng nói vọng sang :

                  - Đúng đấy, mày đến trình bày vấn đề của nó và đề nghị ổng cho nó trở lại thôi. Tao lấy con mắt chuyên môn mà nhìn thì cái chân của nó không thể leo núi nổi đâu và dù có đến nơi cũng không công tác như cũ được.

                  Tôi thấy Hoàng có lý, nên chẳng suy nghĩ gì thêm, tôi đến chỗ ông Mặt Sắt để trình bày vấn đề. Giá mà ở Hà Nội thì còn lâu mới trông thấy mặt ông ta được, nhưng trên con đường này ranh giới giai cấp, theo nghĩa nào đó, đã bị xóa mất: Tất cả đều cùng một giai cấp, giai cấp “chân đất.”

                  Tôi đến nơi gặp lúc ông đang thuyết giảng vấn đề gạo. Tôi đứng xa xa đợi một hồi rồi nhờ một chiến sĩ trong đoàn tùy tùng bẩm dùm.

                  Nghe nói cô nữ văn công có vấn đề, ông gọi tôi đến ngay. Ông vui vẻ hỏi:

                  - Đoàn các anh đi được bao nhiêu người ?

                  - Dạ trên bốn chục.

                  - Gồm các bộ môn nào?

                  - Dạ đủ hết cả.

                  - Bộ môn nào đi đông nhất ?

                  - Dạ nghệ sĩ biểu diễn.

                  - Sáng tác cũng cần. Anh thuộc bộ môn nào?

                  - Dạ, Văn.

                  - Thế à? Anh đã in được mấy quyển sách rồi.

                  - Dạ, ba quyển.

                  - Nhiều thế, giỏi thế.

                  - Dạ còn hai quyển to hơn nữa nhưng không in !

                  - Sao không in ?

                  - Dạ nhà Xuất bản Quân đội hứa in rồi không in!

                  - Tại sao kỳ vậy?

                  - Dạ chuyện hơi dài nhưng tóm tắt có thế này. Dạ mà, tôi nghĩ anh Sáu đang còn bận nhiều việc không nên làm mất thì giờ của anh Sáu.

                  Ông Mặt Sắt xua tay một cách dễ thương:

                  - Không mất thì giờ đâu. Ở đây tôi dư thì giờ. Muốn làm gì cũng không làm được. Đại khái như nghe hai tàu gạo bị máy bay Mỹ đánh chìm ở Bến Thủy nhưng tôi làm gì được bây giờ. Tôi cảm thấy như mọi khuyết điểm của cách mạng được bộc lộ trên con đường này.

                  Nào, anh cứ nói cho tôi nghe vấn đề sách của anh xem! Mà này, năm trước tôi có đến nói chuyện với anh em văn nghệ sĩ ở Viện Văn Học anh có đến dự không ?

                  - Dạ có!

                  - Anh nghe thế nào?

                  - Dạ, anh Sáu nói thế nào tôi nghe thế ấy.

                  - Tôi muốn biết là câu chuyện của tôi có giúp cho các anh được gì trong phương hướng sáng tác hay không?

                  - Dạ có ạ, có rất nhiều.

                  - Nhiều như thế nào?

                  - Dạ thì như anh Sáu nói lúc đảng gặp khó khăn thì mọi người nên góp tay vào…

                  - Đúng! Đó là thái độ đúng đắn nhất. Anh có đọc bài “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa” của tôi không?

                  - Dạ có!

                  - Có thật không?

                  - Dạ có thật ạ, bài đó đăng hai ba kỳ báo Nhân Dân mỗi kỳ bốn trang. Anh Sáu ký tên.. Trưởng ban Công Tác Nông thôn…

                  - Đúng đó. Anh thấy nó thế nào?

                  (Sự thực thì nội dung của bài báo là ca ngợi tổ chức Hợp Tác Xã, đả phá lối làm ăn riêng rẽ. Kết luận của nó là tất cả nông dân Miền Bắc đều sẽ phải vô hợp tác xã để làm mẫu mực cho Miền Nam giải phóng sau này. Quả tình tôi có đọc bài ấy thật. Tôi đọc nó trong một hoàn cảnh điễn hình. Hồi đó tôi đang tìm đường trốn về Nam. Tôi đang ở trong nhà một anh nông dân.

                  Tôi có hỏi về đời sống gia đình anh. Anh nói thẳng ra là cuộc sống bây giờ khó khăn hơn thời Pháp. Anh không chịu vô hợp tác xã. Hợp tác xã đã bao vây anh bằng mọi cách, nhưng anh nhất định không vô. Ruộng nhà anh là ruộng do chánh phủ cấp trong Cải cách ruộng đất. Ở ranh ruộng có một cái ao mà tiền kiếp là một hố bom trong thời kỳ chống Pháp.

                  Anh đã thả rau muống, thả chà để nuôi cá nhưng éo le thay, một nửa cái ao nằm bên ruộng nhà anh, còn một nửa thì lại nằm bên ruộng hợp tác xã. Vì rún ép mãi mà anh không vô hợp tác xã cho nên xã viên gai con mắt, chẳng phải vì chánh sách, mà vì cái ao đem lợi lộc cho anh chàng cá thể kia.

                  Một hôm thừa lúc anh đi rừng đốn củi- ban quản trị cầm đầu một nhóm xã viên ra tát cái ao. Sắp bắt cá thì anh gánh củi về ngang. Thấy cớ sự lạ lùng, anh bèn chất vấn những người đang làm ẩu kia. Những người này lên mặt thầy đời mạt sát anh là tên lạc hậu.

                  Anh không nhịn thua. Anh mắng trả lại. Hai bên xô xát nhau bằng lý lẽ rồi dùng đến tay chân. Cuối cùng là vũ khí. Bởi là ăn cướp nên đám xã viên có mượn súng du kích đem theo để phòng thân. Họ dọa bắn .

                  Và anh ta đã nhanh tay dùng dao rừng chém một nhát, người xã viên cầm súng dọa anh bị đứt lìa một chân sát đầu gối. Khi tôi chạy đến nơi thì cả xóm đã bu đen quanh miệng ao. Anh chủ nhà bị trói, bị giải đi. Rồi ở tù. Ở nhà ruộng đất anh bị tịch thu chia chác.

                  Vài tháng sau tôi đi ngang vùng này, tôi có ghé thăm gia đình anh. Người trong xóm rỉ tai tôi rằng ông phó chủ nhiệm hợp tác xã tới lui nhà anh thường xuyên để “giúp đỡ” vợ con anh lắm khi ngủ luôn tại nhà… Đúng là một bức minh họa sống cho bài “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa” của ông Trưởng ban Công Tác Nông Thôn Trung ương đảng Nguyễn Chí-Bần-Cố-Hỉ.

                  Tôi có được chi tiết “cái ao” đó tôi khoái lắm, định viết thành truyện ngắn, nhưng thấy truyện ngắn không chứa nổi, bèn dựng truyện dài lấy tên “Một nửa bên này” nhưng đem nó đi trình bày trong tổ đi thực tế nông thôn của Hội Nhà Văn thì có hai ý kiến trái ngược.

                  Ý kiến thứ nhất cho rằng đề tài vô cùng phong phú, chưa có sách nào viết về hợp tác xã mà có được chi tiết (cái ao) lý thú đến như thế, nên viết ngay ra để cho Trung ương thấy rằng hợp tác xã là một thất bại trong quan hệ sản xuất.

                  Ý kiến thứ hai cũng cho rằng chi tiết rất lý thú nhưng nếu viết ra thì vô cùng bất lợi cho chính sách hợp tác xã vì ý thức sản xuất cá thể mạnh quá lấn át cả đường lối của đảng. Cho nên hợp tác xã không giác ngộ anh cá thể được mà phải cưỡng bách và cuối cùng áp bức (tát ao ẩu). Rồi lại bắt anh cá thể đi tù.

                  Như vậy hoá ra chánh sách chỉ là một cái khuôn đẫm máu chụp trên đầu nhân dân. Vì ngoài các luật lệ của hợp tác xã, hợp tác xã còn có chánh quyền đứng sau lưng… Nói chung chi tiết hay, nhưng “rất khó” viết.

                  Cuối cùng tôi đành “ngâm cứu” luôn cho đến ngày đi B không hỏi ý kiến ai nữa cho đến ba mươi ba năm sau (1988) tôi mới viết nó ra trên xứ Hoa Kỳ – cho Mỹ xem chơi.

                  Câu chuyện Cây đa Bến đò nó lằng nhằng như thế đó, cho nên khi ông Mặt Sắt hỏi gắt:”Có không?” thì tôi đáp “Có!” . Mà tôi có đọc nó thật!

                  Nhưng khi ông hỏi tiếp: Anh thấy nó thế nào, thì tôi ngắc ngứ. Nếu tôi kể chuyện “Cái ao” cho ông ấy nghe thì sẽ có một cuộc tranh luận mà trong đó chiến thuật lấy thịt đè người chắc chắc sẽ bị áp dụng và người bị đè không phải là ông. Như vậy vừa mất thì giờ vừa mất sức khoẻ cho nên tôi đáp như máy:

                  - Dạ tôi vốn là người Miền Nam nên không hiểu nông thôn Miền Bắc lắm ạ!

                  - Theo anh trong Hội Nhà Văn ai hiểu nông thôn Miền Bắc nhất?

                  - Dạ theo tôi thì có ba người: anh Kim Lân, anh Tô Hoài và anh Nguyên Hồng. Anh Kim Lân thì hiểu nông thôn đến mức độ chúng tôi gọi đùa là chuyên gia mắm cáy, anh Tô Hoài thì chuyên gia nông thôn nhưng đặc biệt là giới thủ công nghiệp và dân nửa chợ nửa quê, anh Nguyên Hồng thì là bạn của dân nghèo thành thị.

                  - Các anh ấy có viết gì về Cải cách ruộng đất không ?

                  - Dạ không, ủa có! Hai anh Tô Hoài và Nguyên Hồng thì không, nhưng anh Kim Lân thì có viết một truyện.

                  - Một truyện thôi à? Bao dai?

                  - Dạ chừng năm trang sách.

                  - Có thế thôi ư?

                  - Vâng! Đúng ra thì có cả một quyển chừng hai trăm trang, nhưng chỉ có một truyện được nhắc nhở.

                  - Truyện nào, tên gì?

                  - Dạ “Cu Ế”.

                  - Nội dung như thế nào?

                  - Dạ đại khái là một thanh niên bần cố nông nghèo đói suốt đời, không ai chú ý tới, các cô nàng không dòm ngó nên không lấy được vợ, cho nên được gọi là “thằng Cu Ế”. Nhưng nhờ đội Cải cách ruộng đất về bắt rể, Cu Ế đứng lên tố khổ địa chủ và được chọn làm cốt cán gương mẫu, sau đó thì lấy được vợ.

                  Ông Mặt Sắt nhăn mặt:

                  - Chỉ đơn giản thế thôi à?

                  - Dạ, vâng, chỉ có thế.

                  - Nếu chỉ có thế thì có gì để mà các anh nhắc nhở?

                  - Dạ anh em nhà văn nhắc nhở là vì thằng Cu Ế của anh Kim Lân mô tả lại rất giống anh Kim Lân, nó gầy gò xấu xí! Giống đến đỗi anh em gọi luôn anh Kim Lân là Cu Ế.

                  - Thế kia à! – Ông Mặt Sắt cười gượng. Chập sau ông lại hỏi – Ngoài ra không có quyển nào khác viết về Cải cách ruộng đất à?

                  - Dạ có nhưng không được nhắc nhở bằng Cu Ế . Ủa, có một quyện trọn bộ ba cuốn. Quyển này được Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc tới.

                  - Thế cơ à? Quyển gì?

                  - Dạ quyển “Đất sụp”, “Đất lở” gì đó tôi không nhớ!

                  - Thế anh Tô đọc rồi ảnh nói sao?

                  - Dạ, Thủ tướng bảo là nhà văn non tay.

                  - Nghĩa là thế nào?

                  - Dạ đồng chí Thủ tướng không có nói trực tiếp với tôi (tôi làm sao được cái hân hạnh vĩ đại đó) nhưng tôi có nghe anh em nhà văn đồn rằng Thủ tướng bảo : ” Nhà văn tả địa chủ như tả con vật. Địa chủ cũng là người. Nó cũng yêu vợ con nó chứ!”

                  - Chỉ có thế thôi à?

                  - Dạ tôi chỉ nghe được có thế.

                  Ông Mặt Sắt gật gù, hồi lâu lại nói:

                  - Đấu tố càng hăng càng tốt nhưng viết văn mà y như đấu tố thì lại không chắc tốt. Tôi bận quá không có thì giờ đọc sách, để khi tôi trở ra Hà Nội, tôi tìm sách nói về Cải Cách đọc thử xem, nhưng anh Tô nói thì chắc đúng. Ảnh gần với nhà văn hơn tôi.

                  Tôi sực nhớ ra rằng tôi đi đến ông Mặt Sắt không phải với sứ mạng văn học nên thừa lúc kết thúc được câu chuyện, tôi bèn trình bày về trường hợp của Thu. Nghe xong, ông kêu lên:

                  - Bọn giết người! Bọn giết người! Chúng nó tưởng một diễn viên ca múa như thế dễ kiếm lắm chắc. Ở Liên Xô một diễn viên ba-lê đứng cao bao nhiêu vàng chồng lên cao bấy nhiêu, ở đây sao mình coi như đồ bỏ vậy? Đâu nào, đem cô ấy lại đây tôi xem. – Ông quay lại mấy người tùy tùng đang đứng quanh chờ sai bảo. Tôi nói luôn:

                  - Cô ấy đang ở cuối dãy lều. Tên là Thu.

                  Ông Mặt Sắt quay lại tôi. Tôi bỗng thấy cái mặt ông bớt đi màu sắt, dễ thương hơn.

                  - Anh đã ghi chép được nhiều chưa?

                  - Dạ có ghi nhưng không còn gì hết.

                  - Ủa, tại sao kỳ vậy.

                  - Dạ, tôi nhóm lửa nấu cơm hết. Tôi dùng luôn cả cái bản thảo mà nhà xuất bản Quân Đội hứa in rồi không in! Tôi định mang về Nam in, nhưng giữa đường thì nặng quá…

                  - Tại sao họ hứa rồi không in?

                  - Dạ, họ đòi một nhân vật có uy tín Nam Bộ đọc, nếu nhân vật này đồng ý, họ sẽ in. Nhưng nhân vật đó đã khen sách hay, có nhiều tính chất Nam Bộ, họ vẫn không in.

                  - Nhân vật đó là ai?

                  - Dạ là đồng chí Nguyễn Văn Trấn, Tư lệnh kiêm Chính ủy khu IX hồi chống Pháp.

                  Ông Mặt Sắt cúi mặt một chốc rồi ngóc lên:

                  - Ai là giám đốc nhà xuất bản Quân Đội?

                  - Dạ, Trung tá Lữ Giang!

                  - Sao lại thế nhỉ! Anh này thì phải cho làm hậu cần sao lại phụ trách xuất bản?

                  - Dạ, chính ông ấy đấy ạ!

                  Vừa đến đây thì Thu tới. Ông Mặt Sắt kêu lên:

                  - Trời đất! Con người ta vầy mà… Ông quay lại bảo – Anh Thuần đâu?

                  - Dạ, đồng chí bí thư văn hoá đang sốt.

                  - Thôi được, anh nào đó, gọi cho tôi anh Lành, anh Vịnh, bảo chấm dứt gởi diễn viên văn công vào đây! – Ông càu nhàu – Nhất là nữ diễn viên.

                  - Dạ!

                  Ông nói tiếp:

                  - Tôi không hiểu đầu óc các người ấy như thế nào mà họ gửi các cô con gái mảnh mai như thế này vô Nam. Để làm cái gì mới được chứ? Trông kia, chân của một nữ diễn viên ca múa trên sân khấu phải lót bằng nhung, đâu có phải chân voi như chân tôi mà múa trên đá ta mèo được!… Cô đi vào đây bao lâu rồi?- Ông hỏi Thu.

                  - Dạ hơn một tháng.

                  - Cô đau chân bao lâu rồi?

                  - Dạ hơn mười ngày chi đó.

                  - Sao cô không nằm lại mà cứ đi thế này?

                  - Dạ nằm lại thì không có ai giúp đỡ cả thành ra cháu phải cố đi.

                  Tôi tiếp thêm:

                  - Dạ chúng tôi đi cùng đoàn với cô ấy, nhưng không thể nằm lại được. Vì nếu nằm lại thì coi như phạm kỷ luật của đường dây.

                  Ông Mặt Sắt ngoảnh lại. Một chiến sĩ biết ông cần ai, bèn thưa ngay:

                  - Đồng chí bí thư chính trị sẽ đến gnay, thưa anh Sáu.

                  - Bảo anh nhắc tôi vấn đề kỷ luật đường dây nghe!

                  - Dạ!

                  Rồi ông quay lại tôi:

                  - Kỷ luật thế nào, ai đặt ra?

                  - Dạ cái kỷ luật này bất thành văn, nhưng tóm tắt nó như thế này thưa anh: “Ai mạnh cứ đi, ai ốm cứ nằm lại.”

                  - Được rồi! – Ông hỏi Thu – Cô học nghề múa ở đâu vậy?

                  - Dạ ở Trung Quốc rồi sang Liên Xô.

                  - Cô đã đến hai mươi chưa?

                  - Dạ, cháu đã hai mươi hai.

                  - Ai bảo cô đi Nam vậy?

                  - Dạ ở trên, đâu Bộ Văn Hoá hay Ban Thống Nhất cháu không biết, chỉ thấy cơ quan bảo đi.

                  - Họ có nói vô Nam cô sẽ làm gì không?

                  - Dạ họ nói là vô Nam sẽ biểu diễn ở Sàigòn!

                  Ông Mặt Sắt bảo:

                  - Gọi bác sĩ lại đây. Nhanh lên.

                  Tôi thở phào. May quá! Phải chi hôm trước mình gặp được ổng thì thằng Núi có thể bớt khốn nạn hơn nhiều. Tôi như thấy nó nằm trên cái võng kaki xâm xấp nước theo kiểu hạ nhiệt độ của ông Tùng. Sẵn dịp tôi tố luôn:

                  - Chúng tôi còn hai đồng chí cũng đau không đi nổi.

                  - Ở đâu? Sao kỳ cục thế nhỉ? Họ coi văn nghệ sĩ như rác thế này là nghĩa làm sao?

                  - Dạ một đồng chí thì đang ở đây, một đồng chí tụt ở trạm sau. Đồng chí ở đây thì còn đi được, nhưng đồng chí nằm tại trạm sau thì ốm nặng.

                  - Cho mời đồng chí ở đây! Còn đồng chí ốm nặng kia thế nào?

                  - Dạ chúng tôi sợ đồng chí ấy bị sốt ác tính.

                  - Thế cơ à?

                  Tôi kể lại bệnh tật của Núi cho ông nghe. Nghe xong ông kêu trời luôn ba bốn tiếng rồi nói:

                  - Một họa sĩ đã học Cao Đẳng Mỹ Thuật lại bị ném vào đây như thế ư? Anh nào gọi đồng chí Lành và đồng chí Vịnh từ nãy đã được chưa?

                  - Dạ Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh thì đi vắng còn đồng chí Tố Hữu thì không có điện đài liên lạc với chúng ta.

                  - Vậy gọi về Tổng Cục bảo cho hai cơ quan Bộ Văn Hoá và Ủy Ban Thống nhất ngưng hẳn gởi nữ văn công và văn nghệ sĩ vào đây nữa, rõ không?

                  - Vâng ạ!

                  (Tôi giật mình đánh thót. May mà mình đã lọt vào đây rồi. Nếu không thì sẽ kẹt ngoài đó mười năm mưa phùn gió bấc nữa!)


                  Hết Chương 8 - Xem Tiếp Chương 9


                  sigpic

                  Comment


                  • #10
                    Vượt Trường Sơn 3



                    Bác sĩ tới, ông Mặt Sắt bảo:

                    - Anh xem chân cẳng diễn viên múa ba-lê của con người ta đó. Anh chữa dùm đi!

                    Viên bác sĩ dắt Thu đi. Tôi nói tiếp:

                    - Cô ấy muốn trở ra Hà Nội thưa anh. Không phải vì cô mất tinh thần mà vì cô không thể nào đi nổi nữa- Luôn dịp tôi kể lại những việc cô và thằng Hồng định tổ chức trở về Hà Nội cùng với một anh sĩ quan có một ba-lô K54.

                    Nghe xong ông ngồi lặng ra.

                    Đến đây thì Hoàng nhạc sĩ tới.

                    - Anh đau chân à? – Ông hỏi.

                    - Vâng. Trặc cái bánh chè, thưa đồng chí.

                    - Có sốt không mà da vàng thế?

                    - Thưa anh, tôi chỉ bị trặc cái bánh chè thôi.

                    - Cái chân chỉ có đầu gối là quan trọng nhất, trặc bánh chè rồi còn đi đứng làm sao?

                    - Thưa anh, cũng phải cố gắng thôi!

                    - Quê anh ở đâu?

                    - Dạ, Sàigòn!

                    Tôi chêm vào:

                    - Anh là nhạc sĩ Hoàng Việt mới tốt nghiệp Học Viện Âm Nhạc Bungari về, thưa anh Sáu, nhạc sĩ nổi danh nhất của Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp. Và là nhạc sĩ duy nhất có tác phẩm giao hưởng ở nước ta.

                    - Nhạc giao hưởng là nhạc gì?

                    - Dạ là nhạc chỉ dùng âm thanh và tiết tấu để diễn tả chứ không có lời.

                    - Vậy lâu này tôi tưởng bài Sông Lô Trường Ca của anh Văn Cao là nhạc hay nhất rồi.

                    - Dạ hay nhất nhưng nó không phải là nhạc giao hưởng như nhạc biểu diễn ở Nhà Hát Lớn vừa rồi.

                    - Tôi bận quá rồi không biết cái gì ngoài hợp tác xã cả.

                    Ngẫm nghĩ hồi lâu, ông hỏi Hoàng:

                    - Anh ở quân đội phải không?

                    - Dạ khi ra đây tôi còn ở quân đội.

                    - Cấp bậc gì?

                    - Da, tiểu đội phó!

                    - Trời đất! Một nhạc sĩ như thế mà đeo cấp bậc tiểu đội phó nghĩa là sao?

                    - Da, tôi đâu có đòi hỏi gì!

                    - Lữ Giang là trung tá hậu cần lại phụ trách văn hóa xuất bản toàn quân còn một nhạc sĩ như anh lại chỉ là tiểu đội phó là sao?

                    Tôi chêm vào:

                    - Do đó khi vô đây, anh chỉ được cấp phát theo tiêu chuẩn cán bộ sơ cấp, tức là muối trắng, võng kaki. Không được thịt kho và võng ni-lông.

                    - Có chuyện đẳng cấp trong sự cấp phát trên đường này như thế nữa sao?

                    - Dạ có chớ. Mưa ướt võng anh ấy không mang nổi. Vì nó nặng như sắt cục vậy!

                    - Anh bao nhiêu tuổi?

                    - Dạ bốn mươi bốn – Hoàng đáp.

                    - Sao tóc bạc dữ vậy?

                    - Dạ không biết!

                    Tôi chêm vào:

                    - Anh ấy xa gia đình đến nay là chẵn hai mươi năm. Mười năm kháng chiến và mười năm tập kết.

                    - Bây giờ anh có muốn trở ra không?

                    - Dạ, chết sống gì tôi cũng đi về cho bằng tới nơi.

                    Ông Mặt Sắt nhìn anh nhạc sĩ hồi lâu rồi nói:

                    - Tôi coi bộ anh yếu lắm, không đi tới nơi nổi đâu. Thôi để tôi cho anh trở ra nghe. Tôi sẽ phong cho anh chức trung tá và làm việc ở Cục Tuyên Huấn của anh Lê Chưởng.

                    - Cám ơn anh Sáu, tôi quyết tâm về xứ.

                    - Các anh căm thù Miền Bắc phải không?

                    Hoàng và tôi đứng im. Ông nói tiếp:

                    - Tôi biết các anh căm thù Miền Bắc lắm mà, phải không? Có nhiều anh đi qua khỏi ngọn sông Bến Hải bèn lột nón quay lại xá Miền Bắc mấy xá.

                    Tôi nói:

                    - Họ đùa thôi, thưa anh Sáu!

                    - Trong đùa có thật!

                    - Nhiều người bị rắc rối vì xá như thế!

                    - Rắc rối gì?

                    - Bị kiểm thảo! Nghe đâu có người bị gởi trả lại Miền Bắc.

                    - Làm gì ác thế! Đường này có người dám đi thì đã tốt lắm rồi. Bất cứ họ có tư tưởng gì. Sao lại gởi họ trở ra?

                    - Dạ, không rõ!

                    - Các anh có tưởng tượng được con đường này nó như thế trước khi vô đây không?

                    - Dạ, ông Ủy Ban Thống Nhất báo cáo toàn chuyện ngon lành hết cả.

                    - Vì báo cáo kiểu đó Bác mới phải khóc trong Cải cách ruộng đất.

                    Có lẽ ông vô đến đây mới sáng mắt ra mà thấy một tình trạng thê thảm của quân dân chánh đảng đi Giải phóng Miền Nam. Tôi đoán là ông và đoàn tùy tùng không lội bộ từ Làng Ho vô đây. Có lẽ ông đi bằng một đường đặc biệt.

                    Cho nên gương mặt ông còn đầy đặn và không vàng vọt. Chỉ phải cái màu “sắt” . Nhưng màu đó vốn là màu cố hữu của ông. Ở Hà Nội nước da của ông vẫn luôn luôn là “nước da lãnh đạo” như thế đó.

                    Cả ba đứa tôi trở về lều như sắp lên thiên đàng.

                    Ông kẹ đã ra lệnh cho tất cả các đoàn có mặt ở trạm dừng lại, không đi vào nữa để chấn chỉnh tinh thần lẫn vật chất.

                    Riêng Thu và Hoàng được bác sĩ của anh Sáu săn sóc. Cả hai đều được chích thuốc và băng bó đúng quy cách như ở nhà thương. Riêng Thu thì ôm một gói gì nho nhỏ đi vào lều rồi dúi liền vào ba-lô.

                    Nhìn những làn băng mới trắng tinh ôm cổ chân Thu, tôi có cảm giác nàng khỏi bệnh ngay.

                    - Bác sĩ tiêm thuốc cho em, anh ạ!

                    - Thuốc gì?

                    - Pê-nê-xi-lin. Ổng bảo cứ ba tiếng đồng hồ ổng lại tiêm cho một mũi.

                    Còn anh Hoàng thì ổng cho một ống thuốc, một lọ kem thoa. Ổng bảo cổ chân em đã sai khớp. Lớp da bên ngoài có thể bị mưng mủ. Nếu để nó làm mủ thì phải mổ. Eo ôi! Nếu mổ thì em chết mất!

                    - Bây giờ thì còn kịp hả?

                    - Còn kịp, nhưng phải có đủ pê-nê-xi-lin.

                    - Rồi bác sĩ có cho đủ không?

                    - Ổng nói sẽ trị cho em lành bệnh.

                    - Em phải nằm lại đây à?

                    - Ổng nói bác Sáu ra lệnh ngưng mọi cuộc hành quân đi vào. Ngoài ra bác sẽ ngưng mọi cuộc đi vào đường này. Bác sẽ đề nghị với Trung Ương thảo luận lại để có một tổ chức tốt hơn.

                    Xế chiều hôm đó Phẩm lại đưa vào một đoàn đông nghịt . Chẳng có chỗ đóng quân.

                    Họ phải càn rừng để tậu chỗ mắc võng. Hoạt động ào ào, hối hả giành giật chen lấn bát nháo làm nên một không khí loạn.

                    Tôi mừng lắm. Để cho ông kẹ biết một thực tế của Trường Sơn. Nếu không, các ông ấy cứ tuởng là mọi việc ở đây đều tốt đẹp.

                    Từ ngày hoà bình lập lại, Trung Ương chui rúc vào cái vỏ chiến thắng kiên định là các villa ở đường Trần Phú, Quan Thánh và những cái villa lưu động là những chiếc xe hòm kính lộng lẫy cực kỳ xa hoa để không còn biết dân sinh dân trí ra sao nữa, do đó có Cải cách ruộng đất tang thương.

                    Nếu Trung Ương đi sát với dân như thời kỳ chống Pháp thì đã không có chuyện đau lòng này. Cải cách ruộng đất như một vết thương toang hoác được băng bó bằng một miếng giẻ rách sửa sai, chưa kín miệng thì bây giờ lại đẻ ra con đường vinh quang quái gỡ này.

                    May mà có một đồng chí Bộ Chính Trị, nhân vật đứng hàng số 5 trong đảng đã không đi trực thăng tới đây mà đi chân đất.


                    .................................................. ........ .................................................. ..


                    Chiều hôm đó, sau khi “cơm nước” xong, Thu gọi tôi sang lều của nàng và bảo:

                    - Em sẽ cho anh xem một kỳ quan.

                    - Thứ chín? – Tôi cười _ Kỳ quan thứ tám là cái cổ chân của em kia rồi.

                    Thu lấy cái gói con lúc trưa đưa ra trước mặt tôi:

                    - Đố anh biết vật gì?

                    - Anh đâu có phải ông “đồng” mà em đặt vật?

                    - Anh nói trúng em sẽ…

                    - Thưởng?

                    - Ừ, thưởng…

                    Thấy tôi định đòi một phần thưởng đặc biệt, nàng vội xua tay:

                    - Không! Không! Anh đừng có nói ra. Thôi, để em cho anh xem này.

                    Thu từ từ mở cái gói và chỉ cho tôi thấy cái cạnh hộp tròn sáng loáng. Tôi nói:

                    - Cái hộp lon hả?

                    - Cầm thì biết!- Nàng đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và thấy nặng. Tôi hỏi nàng:

                    - Nguyên hộp sữa à?

                    Nàng chỉ gật, đôi mắt rực lên.

                    Một hộp sữa đặc. Trời đất! Ở đâu mà có nếu chẳng phải rơi từ trời, nếu chẳng phải tiên cho. Cảm ơn anh Sáu, cảm ơn Bác Đảng, cảm ơn phe xã hội chủ nghĩa, cảm ơn phe đế quốc, cảm ơn cả và thiên hạ đã bồi dưỡng chúng tôi bằng cả một hộp sữa! Nhưng hộp sữa lại làm nảy ra một rắc rối:

                    Chờ đến tối chúng tôi mới xầm xì bàn luận uống thế nào cho đúng với ba nguyên tắc: Thiên thời, Địa lợi và Nhân hoà. Về mặt Thiên thời thì chẳng bị trở ngại gì, bởi vì uống sữa vào mùa Đông hay mùa Hè sữa vẫn là sữa và rất ngon, không có ai chết hoặc ốm vì uống sữa cả.

                    Ở Hà Nội cả chục năm, tôi chỉ được uống sữa vài lần, bây giờ mới lội Trường Sơn có hơn một tháng, đã được một hộp. Ở Hà Nội muốn có một hộp sữa phải là cán bộ có bìa phiếu hạng A.

                    Cái phiếu này sẽ dắt bạn qua cửa ngõ số 4 Tôn Đản, trong đó bạn sẽ tìm thấy một cái thiên thai thức ăn giữa Hà Nội nghèo đói mạt rệp bần cùng nhếch nhác như một mảnh đất cằn bị những bánh xe Volga chạy qua chạy lại cắt như những đường chém trên mặt thớt.

                    Nếu không có cái phiếu hạng A thì bạn phải là bệnh nhân sắp chết, mà là bệnh nhân của bệnh viện Việt-Xô hữu nghị cơ, chứ còn bệnh nhân bệnh viện Việt Đức tức Phủ Doãn cũ, bệnh viện C, bệnh viện 108 tức Đồn Thủy cũ,- thì chưa chắc. Có khi hộp sữa được phát tới, bệnh nhân chỉ nhìn thấy cái mỏ con chim vàng thì hồn đã lìa đời rồi, hoặc ngược lại khi nhìn thấy nó, bệnh nhân phấn khởi cách mạng quá mức nên vượt chết mà khỏe hẳn lên.

                    Nếu bạn không lọt vào hai trường hợp trên thì bạn phải là bà con của các ông các bà có cái phiếu hạng A hoặc là em út của ông bà giám đốc cái cửa hàng Tôn Đản ấy. Chỉ có thế bạn mới được diễm phúc làm chủ của một hộp sữa Con Chim mà Lang Sa nó gọi là lait condensé. Cái thứ này thì không thấy nhập cảng từ Liên Xô. Liên Xô chỉ đưa sang sữa hộp bột chua lét.

                    Do những điều kiện quan trọng kể trên mà vấn đề tiêu thụ một hộp sữa ở đây trở thành vô cùng quan trọng. Giữa lúc ba quân ăn đói nhịn khát mà mình lại uống sữa thì lương tâm nào không cắn rứt ?

                    Giữa lúc mình chưa phải là bệnh nhân sắp chết mà lại được cả một hộp sữa thì những người sống trong chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà đang tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa chết đi mà chưa kịp biết mùi sữa chắc sẽ oán gận ganh tị với mình vô biên.

                    Nhưng thôi, đó là vấn đề tình cảm hoặc duy tâm. Chúng tôi là những kẻ thờ chủ nghĩa duy vật. Vật chất đẻ ra tinh thần. Có sữa uống, cái gân cái cốt sẽ khoẻ lên, cách mạng sẽ sớm thành công! Vấn đề ở chỗ đó. Không ngại gì! Không ngại gì! Cứ uống! Cứ uống!

                    Nhưng uống bằng cách nào mới được ? Uống phải bí mật. Bí mật cách nào?

                    Tôi đưa ý kiến:

                    - Nên để dành khi bệnh hãy xài. Bây giờ ta chưa đến nỗi nào. Uống nó phí đi. Lại nữa đó là của anh Sáu tặng cho Thu.

                    Thu phản đối ngay:

                    - Đây là của chung, em muốn mỗi người uống một chút. Và uống ngay trong lúc miệng mình còn biết ngon biết ngọt. Anh Hoàng thấy thế nào?

                    Hoàng cười hắc hắc:

                    - Tôi ba phải. Ai sao tôi vậy!

                    Thu tiếp:

                    - Em nhất định ta nên uống ngay. Bây giờ em đề nghị hai phương pháp: một là nấu nước sôi rồi khuấy đầy một gà mèn, sớt ra mỗi người một ít đem vô mùng tự túc, đường của ai nấy bỏ lấy mà uống. Hai là luộc nguyên hộp sữa rồi khui ra cứ lấy muỗng múc ăn dần.

                    Ăn kiểu này ít lộ bí mật hơn vì sữa luộc chín không bốc hơi đi xa còn sữa khuấy thì người ở cách ba bốn lều có thể ngửi thấy.

                    Tôi cười:

                    - Phương pháp nào cũng hay cả nhưng mắc công lửa củi. Cứ để vậy chọc hai lỗ trút ra chén mỗi người một ít đem vô mùng uống sống quách nó cho xong.

                    - Hay! Hay!

                    Hoàng vỗ đùi đôm đốp, và đá vào võng phành phạch:

                    - Sáng kiến này phải được báo Nhân Dân phổ biến cho mọi người đã từng hoặc chưa từng là “khổ chủ” của một hộp sữa.

                    Tôi bỗng phá ngang:

                    - Nói đùa vậy chớ không uống cách nào cả. Đó là phần của em và của anh Hoàng. Hai người là bệnh nhân nên anh Sáu mới ưu tiên cho như vậy. Chứ còn anh mạnh khù mà uống sữa cái gì.(Nói vậy chứ cái bao tử thủng của tôi cũng cần sữa lắm.)

                    Cứ cãi giằng dai hoài không ai chịu ai. Rốt cuộc hộp sữa chưa đầu thai thành cái hộp lon được.

                    Bỗng tôi nghe có tiếng hỏi:

                    - Có anh nhà văn nằm đâu đây không?

                    - Để làm gì? – Hoàng hỏi lại.

                    - Tôi quen anh ấy mà!

                    - Tôi đây! – Tôi đáp.

                    - À, mày đó hả?

                    - Ai đó?

                    - Thuần! Thuần đây! (Tôi không nhớ tên nào) Thuần Đại học Thái Hà đây!

                    - Ủa, mày cũng đi đây nữa a?

                    - Tao làm bí thư trưởng cho anh Sáu.

                    - Bảnh vậy à?

                    Thuần rọi đen pin qua lại mấy nhát tìm cội cây rồi mắc võng nằm song song với tôi. Thuần nói ngay:

                    - Ổng ra lệnh ngưng cái vụ vô Nam này rồi.

                    - Tao có nghe nói.

                    - Ai nói?

                    - Ông bác sĩ của đoàn mày.

                    - Ờ đúng đó. Hồi trưa tao có thấy mày nhưng tao bận quá… Ủa, tao sốt.

                    - Cơm nước mầy đâu có phải nấu mà bận.

                    - Không. Vụ khác cơ.- Thuần kề tai tôi – Tao phải dắt một đội bảo vệ đi liên lạc với các đồng chí Pathet tìm voi cho ổng đi! Nè đừng có nói lộ ra, chết chém nghe!

                    - Thôi đừng có nói gì thêm, tao không muốn nghe!

                    - Ừ, nhưng mà nè! Nghe tao bảo.

                    - Gì?

                    - Đoàn của tao đi võ trang khủng khiếp lắm, toàn là thứ dữ và nhân sự như mày thấy đó toàn là lực sĩ. Tao mách cho tụi mày một việc hay lắm!

                    - Việc gì? – Tôi ngồi dậy sốt sắng – Việc gì hay dữ vậy. Hay bằng cái hộp sữa Con Chim không?

                    Thuần lận trong lưng ra rồi ấn một vật gì lạnh và nặng vào ngực tôi. Tôi cầm lấy.

                    - Nhưng mà chưa hết đâu! Mày đề nghị cho đoàn của mày đi chung với ổng. Ổng có vẻ chiếu cố tụi mày lắm. Nhất là con bé ca vũ trặc chân.

                    Tôi nói:

                    - Đi chung thì chân ai nấy đi chứ khác gì!

                    - Tầm bậy mậy! Mày kêu rêu mang đồ không nổi, ổng sẽ cho người mang cho tụi mày. Hiểu chưa? Con không khóc mẹ không cho bú.

                    - Vậy mày mại hơi dùm tụi tao trước đi!

                    - Không được! Phải tỏ ra là tụi mình không quen nhau mới được.

                    - Nhưng tao đâu có gặp được ổng nữa?

                    - Thì chừng nào hành quân mày tìm cách đi ngang qua mặt ổng cho ổng thấy.

                    - Ừ, được rồi.

                    - Nói cho mày biết, một tiểu đoàn theo hộ giá ổng đấy. Còn đám xây lố cố đứng chung quanh võng của ổng là ngự lâm quân và quân sai vặt mày hiểu chưa.

                    Ba thằng bí thư: một thằng bí thư chính trị, một thằng bí thư quản trị, một thằng tham mưu. Tao là xếp ba thằng đó. Ổng chọn tao vì tao là dân Nam Kỳ. Hừ hừ phen này “về nước” nghe.

                    - Mày đi Liên Xô mất mấy năm?

                    - Ba năm rồi! Còn ba năm nữa! Về Hà Nội nghỉ hè, mấy ổng “ách” lại không cho đi nữa, bảo sửa soạn đi B.

                    - Sao không vô trường tụi tao mang gạch đá?

                    - Tao không có thực tập ngày nào hết ráo.

                    - Bơ sữa xẹp hết rồi hả. Coi bộ mày càng ngày càng lún xuống và trắng đỏ ra như đồng chí Khu vậy. Chắc ở bển khoái lắm hả mậy?

                    - Sướng thì có sướng hơn bên mình, nhưng nghèo lắm.

                    - Sao hồi đấu Nhân Văn Giai Phẩm tao thấy mày ở trong trường rồi biến đâu mất, tao không gặp mày nữa.

                    - Thì mày biết cái trường Đại Học Nhân Dân đâu có ông bà sinh viên nào. Chỉ toàn là bàn ghế và vách tường thôi. Cho nên anh Bảy mình ảnh cho tao đi học, để ở nhà tốn cơm. Chính ảnh cũng chán cả ảnh mà.

                    - Nè, mày có biết tại sao hồi cướp chánh quyền ở Sàigòn, ảnh là Trời Con, trong kháng chiến ảnh vẫn là Trời Con mà ra Bắc ảnh tuột dênh hết ráo vậy mậy?

                    Thuần làm thính. Có lẽ đó là câu hỏi mà mọi người Nam Kỳ tập kết đều muốn đặt ra công khai, muốn được trả lời rõ ràng như câu nói bất hủ của Bác là:

                    Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi! hoặc là : Miền Nam luôn luôn trong tim tôi! hoặc hơn nữa là : Nam Bộ Thành Đồng Tổ Quốc!

                    Vâng, cái câu trả lời đã rõ như ban ngày. Nguyễn Văn Trấn, Tư lệnh kiêm Chánh ủy khu IX Miền Tây Nam Bộ từng là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ thời Mặt Trận Bình Dân, Chủ bút báo Cộng sản tiếng Pháp Le Peuple! Ra Bắc mất hết áo mão cân đai,

                    đạp xe đạp chạy rong Hà Nội như con chó đói, ai mà không biết, ai mà không xót xa não lòng khi thấy một “đứa con Thành Đồng Tổ Quốc” được cưng đến mức đó?

                    Tại sao?

                    Có lẽ Thuần cũng bất ngờ khi tôi đặt ra câu hỏi. Đúng ra không phải bất ngờ. Bởi vì thằng Nam Kỳ tập kết nào dù đang ngủ mê bị đập dậy bất thình lình cũng có thể trả lời ngay một cách đúng đắn nhưng Thuần làm thinh hồi lâu không đáp.

                    Thuần làm thinh không phải vì Thuần không đáp ngay được mà vì Thuần muốn tìm một sự trả lời khác với ý nghĩ chân thật của mình.

                    Thuần gãi đầu gãi tai:

                    - Có lẽ…Có lẽ thôi, vì thành phần ổng là địa chủ!

                    - Cái đách !

                    - Há há … há! – Thuần cười to một cách khoái trá.

                    Tôi để cho hắn cười đã đời rồi mới hỏi:

                    - Sao mày cười chớ?

                    - Mày đã trả lời thay cho tao rồi đó.

                    - Hả?

                    - Thì mày không đồng ý với tao tức là mày cũng đã có câu trả lời của mày rồi. Vậy mày nói cho tao biết xem!

                    Tôi nói ngay:

                    - Địa chủ thì khối ông trong Trung ương thành phần địa chủ; quan lại nữa là đằng khác. Tại sao? Khối ông trong hàng cao cấp được đề bạt, tại sao ảnh bị trù? Tại sao ảnh bị coi như con chó ghẻ?

                    - Mày hỏi tức là mày đã trả lời rồi! – Thuần gạt ngang – Bỏ đi mày! Lôi mấy chuyện đó ra mệt lắm. Bảo vệ sự trong sáng của đảng như bảo vệ con ngươi của mắt. Đó là nguyên tắc của Lê Nin. Ở Liên Xô bảo vệ sự trong sáng đó bằng bàn tay thô bạo của Staline, hết bàn tay của Staline rồi đến cái mồm thằng già trọc.

                    Ở Việt Nam cũng bảo vệ sự trong sáng đó bằng thưởng cho Dương Bạch Mai chai nước ngọt tại Quốc Hội ngã lăn đùng, bằng cho Trần Văn Giàu cái con vít Đại học Tổng hợp để tự khoá miệng, bằng cho anh Bảy Trấn ôm cái bục Đại học Nhân Dân không có học trò. Đó, hỏi nữa chưa thằng mắc dịch.

                    - Thôi bỏ đi! Tao cũng không muốn nói tới những chuyện tâm tư đó làm gì, nhưng nằm trong rừng đâm ra nhớ vớ vẩn vậy đó. Mày vô đây được bao lâu rồi?

                    - Vài ngày thôi.

                    - Đi xe hơi à?

                    - Xuỵt!

                    - Ê, mày đi Liên Xô học cái giống đách gì?

                    - Triết!

                    - Triết gì?

                    - Đạo đức học!

                    - Là cái đéo gì?

                    - Lãng xẹt thôi mày ơi!

                    - Vậy sao phải mất một ngàn ngày cho nó?

                    - Mày nghĩ, tao ở cái trường Đại học Nhân Dân Thái Ấp Hoàng Cao Khải Phó vương Bắc Kỳ để làm cái gì chứ? Tối ngày đi ra đi vô ngó cái chân bàn xẹo, sửa cái bục sút ván, ra ngoài sân lượm nhãn rụng, đến hồ bán nguyệt coi lao công vứt cứt trâu cho cá tra ăn, hay là gì?

                    Tao là Phó Giám Đốc của anh Bảy mất hai ba năm, thấy mình vô tích sự hơn bao giờ hết. Nếu không đi Liên Xô thì làm gì? – Thuần nghỉ một hơi rồi tiếp – Mày chưa vợ con, mày không biết gì hết đâu.

                    - Giỡn hoài mậy!

                    - À, không, tao nói về cái tình cảm xa vợ xa con kia, chứ không phải cái sự ấy đâu. Bọn văn sĩ Nam Kỳ tụi mình nổi tiếng như cồn ở Hà Nội về cái sự ấy, tao biết mà. Nhưng tao nói về cái tình cảm xa vợ con kia. Tao được một đồng chí Liên Xô khen là “Thần Thánh” nghe mậy.

                    - Về cái gì?

                    - Về sự xa vợ con.

                    - Thế à?

                    - Tụi nó sang mình chỉ vài tuần là đã mang vợ con theo bên cạnh rồi. Bọn Nam Kỳ ra Bắc xa vợ hai mươi năm. Con c..c chỉ làm có nửa sứ mạng là đái thôi còn một nửa sứ mạng kia quan trọng hơn thì lại không làm được .

                    - Vậy mày qua Liên Xô không có dịp cho nó thi hành sứ mạng đó à?

                    - Có thì kể ra cũng có, nhưng mình thấy hơi kỳ.

                    - ..Hơn nữa là sinh viên môn Đạo Đức Học phải không?

                    - Không phải chỉ có thế. Nhiều ông to tổ bố giảng đạo đức cho toàn đảng học nhưng có coi đạo đức là cái mẻ…ơ gì. Tao là cái thá gì mà tao sợ mất đạo đức.

                    - Mua một cục thịt bò khoét lỗ như Tây vậy là vẹn toàn!

                    - Không phải vậy đâu mày ạ! Tây nó bậy bạ trong vụ đ… cũng nhiều, nhưng nó vẫn có đạo đức cổ truyền của nó. Ne fais pas à autrui ce que tu ne veux pas qu’on te fasse. Đừng làm cho người khác việc gì mày không muốn người khác làm cho mày.

                    Thì tại sao tao viết thư về cho vợ tao bảo “ẻn” đợi chờ chung thủy nọ kia đủ thứ thì mình lại tự cho phép mình lang bang? Một trăm bài học không bằng một hành động thực tế, phải không?

                    - Vậy mày nắm chắc bài học dữ rồi đó. Chừng nào lấy bằng cấp?

                    - Ba năm nữa.

                    - Bằng gì?

                    - Phó tiến sĩ “giấy”.

                    - Bỏ ngang thế này thì bằng gì?

                    - Bằng cạo giấy.

                    - Thế còn bảnh hơn khối thằng! Có viết sách chưa?

                    - Viết một cuốn “Đạo đức Cộng Sản và Luân lý Việt Nam”.

                    - Mày muốn qua mặt Lưu Thiếu Kỳ cơ à?

                    - Cái đách! Tao đưa cho anh Bảy xem, ảnh bảo thẳng: “đem đi mà chúi đít”. Há há há! Tao tức cười quá!

                    - Tại sao?

                    - Tại vì tao đưa cho tụi bạn Liên Xô coi, nó bảo là “độc đáo”.

                    - Hoá ra độc đáo của nó là đồ chùi đít của mình à? Viết làm cái gì cho mệt.

                    - Không hẳn như vậy, nhưng cái đó là tao làm bài thi nửa khóa.

                    - Mày viết bằng tiếng Liên Xô à?

                    - Viết bằng tiếng Việt rồi đưa cho ban thông dịch của đại sứ quán ta dịch ra.

                    - À nè, mày có quen với ông Sáu Ú không?

                    - Ông đầu bếp của anh Mười Kỉnh đại sứ hay Ú nào?

                    - Ở toàn cõi Việt Nam có một Ú đó thôi chứ còn ông nào nữa?

                    - Để làm gì?

                    - Hồi đó tao có cô bạn đi Liên Xô nhờ vay tiền của ổng mua được cái radio và một cái quạt tai tượng.

                    - Quyền hạn của ổng còn to hơn anh Mười mình.

                    - Ổng sắp thay anh Mười à há há…

                    - Bậy mậy! Thằng nào muốn gì nói với ảnh đều được hết!

                    - Ổng sắp làm Chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng thay cho ông Thọ rồi đấy!

                    - Thiệt hả? Ai nói với mày?…Nếu quả thật vậy thì đây là lần đầu tiên dân Nam Kỳ tập kết được ngồi ghế cao.

                    - Còn gì nữa, ông ta đi đúng đường lối cổ điển của đảng mà.

                    - Đường lối gì?

                    - Bồi, Bếp! Ngày xưa Bác là bồi tàu bây giờ là Chủ tịch nước, còn ông Sáu Ú là bếp của đại sứ quán ta ở Liên Xô thì sẽ lên Chủ tịch Mặt Trận. Vậy chẳng đúng đường lối là gì? Bồi và Bếp là thành phần cơ bản mà!

                    - Cái thằng phạm thượng quá mậy!

                    - Đó là sự thực, tao có phạm thượng phạm hạ gì đâu!

                    - Nằm gần đây có ai không? – Thuần quét đèn pin chung quanh – Thằng nào nghe, nó báo cáo là đứt đầu.

                    Tôi cười:

                    - Những gì mình không nói được ở Hà Nội, vô đây mình xổ ra cho núi đá nó nghe mày ạ. Chẳng lẽ mày để cho cái miệng như con c…, chỉ làm được một nhiệm vụ là ăn thôi, còn nhiệm vụ kia là nói thì lại không làm được?

                    - Cái thằng!

                    - Tao không có được đi Liên Xô học “duy vật biện chứng pháp” nên tao toàn nói “dương vật biện nứng bá láp” cho sướng cái miệng, mày có nghe thì nghe, không nghe thì nhét lỗ tai lại.

                    - Cái thằng!

                    - Thằng gì? Thằng Ngốc! L’idiot phải không?

                    - Thôi đi mày! Tao ớn mày quá!

                    - Mày gặp ông “Tiếng còi trong sương đêm” còn ớn hơn nữa. “Bún-cà-ri” năm năm đấy!

                    - Chả quê ở đâu vậy?

                    - Sài Gồng! Cũng xa vợ có bằng cấp hai mươi năm như mày, nhưng chưa được ai khen là thần thánh cả. Mày nên chia nửa cái bằng cấp xa vợ của mày cho chả đem về treo cho vui cửa vui nhà.

                    - Thôi cha, tui không có nhận đâu! – Hoàng lên tiếng và cười há há.

                    - Ê, cái bánh chè đỡ chưa?- Thuần bắt chuyện sang Hoàng.

                    - Đỡ chớ! Nè về chi sớm vậy? Hoàng hỏi.

                    - Ở bên đó thì quì hai gối chống hai tay, về bên này cũng thế thôi, nhưng thực tế hơn.

                    - Về tới trong Nam thì còn thực tế hơn nữa! – Hoàng tiếp – Nãy giờ tớ nằm nín he nghe cậu giảng “đạo đức” cho “nhà dzăng” tớ ớn cậu quá!

                    - Ớn cái gì, đó là sự thật mà ta!

                    - Ê, cho tui xin nghe! Các em tóc vàng đâu có để cho cậu đỗ phó tiến sĩ đạo đức chậm vậy! Tui qua Bungari chỉ vài tháng đầu là “đỗ” luôn hai ba cái! Há há há!

                    Cả ba cùng cười. Tôi thò đầu qua võng Thuần:

                    - Nè, tốp đi! Có cô em gần kia kìa!!

                    Thuần ngồi dậy:

                    - Thôi, để mình về coi ổng có gọi gì không .

                    - Khoan đã. Tôi níu Thuần lại – Để tao hỏi câu cuối cùng.

                    - Gì?

                    - Mày biết tụi tao đi còn mấy tháng nữa không?

                    - Bố tao cũng không biết.

                    - Cho tụi tao đeo vè được không?

                    - Thì tao đã mách kế hồi nãy rồi đó! Cứ thế mà làm! Tao “nội ứng” cho!

                    Nói vậy rồi Thuần nhảy xuống đất cuốn võng quảy lên vài rồi mằn mằn túi quần móc ra một vật gì đưa cho tôi.

                    - Biếu mầy bửu bối phòng thân.

                    - Gì vậy?

                    Thuần rọi đèn rồi tắt ngay:

                    - Một rúp chín mươi tám kô-péc đó nghe mày!

                    - Mắc dữ vậy!

                    - Đồ của đế quốc mà!

                    - Liên Xô không sản xuất được à?

                    - Được nhưng không bảo đảm bằng của đế quốc. Với lại của đế quốc cải tiến hơn, mày mở ra xài rồi biết! Hơn nhau chỉ chút xíu thôi!

                    - Sao mày đem thứ này vô đây làm gì?

                    - Lúc nào tao cũng có một hộp ba cái cất kỹ trong bóp, đề phòng xáp chiến thì có ngay.

                    - Mày có đem ba “cái đế quốc” này vào luận án phó tiến sĩ của mày không?

                    - Chưa…

                    - Nhưng …

                    - Nhưn nhị gì – Thuần rỉ tai tôi – Tao thấy mày có chất tươi đi bên cạnh, tao biết mày là thằng bén nhạy và sáng tác ác lắm nên tao mới tặng mày để khỏi bị “tai nạn” dọc đường. Các em ở bển kỹ lắm. Không có…, các “ẻm” không cho đâu.

                    - Tao hết xí quách rồi. Mã tấu mài hoài không bén được.

                    - Ậy! Cũng có khi! Mày không nhớ đồng chí Trường Chinh nói vấn đề Miền Nam ở hội nghị Văn Nghệ Thái Hà Ấp à? “Chưa mưa nhưng ta vẫn phải mang dù theo. Chừng có mưa ta đã sẵn áo mưa” vậy đó, hiểu chưa nhà “răng”?

                    Thuần đấm vai tôi một cái rõ đau rồi đi.

                    Hoàng cười toé ra giữa bóng tối như một trái phá con:

                    - Đúng là một phó tiến sĩ đạo đức tương lai.

                    Tôi và Hoàng tán gẫu một hồi thật khoái khẩu.



                    Hết Chương 9 - Xem Tiếp Chương 10


                    sigpic

                    Comment


                    • #11
                      Vượt Trường Sơn 3



                      Nếu chặng đường đã bị đạp lùi lại phía sau lưng là chặng đường của đôi chân thì con đường phía trước là con đường của suy tư. Cái gì cũng bắt bộ óc làm việc. Thắc mắc, bất mãn, so sánh, lý luận, vấn đáp, kết luận rồi lại kết luận.

                      Nếu ở Hà Nội, người ta từng quen sống với cái khuôn của cuộc sống với nếp nghĩ của báo Nhân Dân và cái vòng lẩn quẩn của bánh xe đạp và mép bờ hồ méo méo tròn tròn thì vào đây đầu óc như được núi rừng giải phóng hẳn. Cái gì cũng dám nói, cái gì cũng dám nghĩ, cả những điều mà trước kia mình cho là rất bậy bạ cũng cứ nói phứa ra.

                      Thì ra, cái lập trường chỉ giữ được khi ta bị chăn dắt kỹ càng. Buông lỏng nó ra nó quay ngoạm ngược lại kẻ đã tạo ra nó.

                      Đường này là đường cách mạng? Đi chừng nào thì tới? Không tới thì sao? Quê hương, cha mẹ, người yêu, lập trường, thành tích, thâm niên, sáng tác, dĩ vãng, tương lai… tất cả tâm tư trở thành một món xà bần vĩ đại sau đám giỗ.

                      Món ngon nhất là thịt kho tàu, món dở nhất là chuối chát, món trung bình là cá nướng, tất cả còn lại đều trút vài cái trả to, tất cả đều trở thành một món “kho” có cái tên là xà bần.

                      Tư tưởng con người vượt Trường Sơn ỏ những chặng vừa qua là quyết phấn đấu giải phóng Miền Nam. Sau trên một tháng ý chí phấn đấu đó bị đá tai mèo cạp, bị muỗi đòn xóc hút, nay chỉ còn lại một cục bất mãn bao quanh bởi một lớp mây suy tư cho có vẻ triết học để tự lừa mình: Mình đang phấn đấu đây! Sự thực thì mình đang rũ xuống.

                      Có tiếng người khá hách dịch:

                      - Có ông nào là nhà văn nằm ở đây không?

                      - Tôi đây – Nghe cái giọng khá quan trọng tôi đáp ngay.

                      - Anh Sáu cho mời ông lại gặp. Nhanh nhé! – Rồi tôi nghe bước chân đi trở lại.

                      Tôi mọc ốc đầy người. Anh Sáu mời! Làm gì quan trọng đến thế. Cái thằng nhà văn này mười năm nay không được ai mời thỉnh cả. Cả mấy nàng mậu dịch cũng không mời, chỉ hất mặt như hỏi “ông cần gì?”.

                      Nếu ông không cần gì thì đừng tới đây! Chỉ có các cô hàng bán xôi cá thể hay mấy bà bán bún riêu vỉa hè quen mặt biết tôi là “ông nhà báo” thì còn lễ độ chào mời. Hay bà chủ nhiệm hợp tác xã cơm tháng mà tôi giao cả cái bìa phiếu cho bà muốn bán buôn đổi chác làm gì thì làm – thì cũng còn biết trọng vọng tôi, ngoài ra…!!

                      Làm gì có đến một ông lớn – mà là một ông mặt rằn trong các ông mặt rằn to nhất Hà Nội mời?

                      Bỏ mẹ rồi! Cái thằng Thuần là tên “gián điệp hai mặt”. Nó đến giả đò bất mãn nói nhảm để moi ruột mình rồi về báo cáo cấp trên.

                      Thằng tệ thật. Không khéo mình bị gởi trả lại Miền Bắc thì chịu thêm luôn mười năm mưa phùn gió bấc nữa!

                      Tôi đến thì thấy anh Sáu đang nằm. Anh bấm đèn pin rọi vào một hòn đá rồi nói:

                      - Anh ngồi đó nghe! Xin lỗi tôi mệt quá. Giải quyết bao nhiêu công việc suốt ngày hôm qua với các đồng chí chỉ huy đơn vị…

                      Này, anh cho tôi biết vấn đề B quay và vấn đề lính mình làm thổ phỉ, tự sát thương có thật không? Anh cho tôi biết sự thực với con mắt quan sát của anh.

                      - Dạ… – Tôi ngập ngừng.

                      - Anh cứ nói đi. Không việc gì đến anh cả. Anh là nhà văn anh đi trên con đường này đã hơn một tháng rồi. Anh có thấy những hiện tượng đó thật không?

                      - Dạ cái đó thì…

                      - Tôi đã bảo anh là anh cứ nói thật. Đảng cần biết sự thực. Tôi đã gạn hỏi các trưởng đơn vị nhưng họ chỉ nói là mặc dù đói la liệt nhưng chiến sĩ vẫn giữ kỷ luật rất nghiêm minh của quân đội cách mạng. Tôi có hỏi vấn đề thổ phỉ và B quay thì họ nói đó là lời đồn thôi.

                      Tôi hỏi sang vấn đề quân số thì anh nào cũng nói là trừ số lính bệnh, thì không có ai đào ngũ cả. Anh thấy thế nào? Các anh đã nói đi hôm qua, nay đều nói lại hết!

                      - Dạ, những điều đó tôi chắc là …không có.

                      - Anh có chắc thật không?

                      - Dạ ít nhất là tôi không thấy ai sát thưong hoặc ai làm B quay cả!

                      Tôi mà không thấy thực ư? Có chắc như thế không hở cái thằng TÔI – NHÀ VĂN. Trời ơi! Tôi nói láo sao mà tài thế. Tôi nói xong, tôi giật mình vì không ngờ mình nói láo tài hơn viết văn.

                      Mà đúng ra không phải Trời cho tôi hoặc tôi bẩm sinh mà chính là đảng đã dạy tôi cách nói đó. Cái trắng nói đen, cái đen nói trắng.

                      Tôi đã từng thấy lính chết trên võng mắc tận ngọn cây, tôi đã từng thấy xương rũ trong hốc đá, từng thấy những anh B quay trộm heo của trạm làm thịt và bị trạm bắt quả tang, tôi đã từng thấy những vụ cầm nhầm của nhau từ quai dép đến bi-đông, tôi cũng đã nói chuyện với một tên thổ phỉ là em trai của Thu trên đường này. Cớ sao tôi không dám nói cho ông Mặt Sắt nghe chứ ?

                      Bởi vì tôi đã kinh nghiệm bản thân rồi. Đảng chỉ thích nghe tung hô vạn tuế. Đảng chỉ thích nghe vỗ tay hoan nghênh.

                      Đảng không có muốn ai chỉ trích phê bình những sai lầm của đảng ngoại trừ những sai lầm đó đã tầy uầy ra không bụm laị được, bởi vì đảng lấy “Phê bình tự phê bình làm qui luật tiến bộ” nhưng cái qui luật ấy chỉ được đảng dùng như cái roi để quất vô mặt ai khác chứ không ai được dùng cái roi ấy chạm khẽ tới lông chân của đảng.

                      Do đó mà những thằng ngu nhất cũng không nói sự thực cho đảng nghe, mà nó nói theo kiểu đảng muốn nghe: đảng là thần thánh.

                      Ở Thái Hà Ấp, trong cuộc học tập chỉnh huấn đấu Nhân Văn, có một anh nhà văn, nhà văn Nam Kỳ Đoàn Giỏi đã phát biểu về tình hình thống nhất nước nhà một cách chân thành như sau:

                      “Tại mình tham lam quá, cái gì cũng muốn quơ cả, chứ nếu mình trung lập như thằng Sia-núc thì có phải dễ dàng hơn không?) (Anh là bạn học với Sihanouk ở Chasseloup Laubat hay trường nào đó, tôi không nhớ). Chỉ vì một câu nói đó thôi mà anh bị kiểm thảo trần ai lai khổ. Bị chụp cho một lô mũ chồng cao tới nóc nhà.

                      Nhưng trời lại dun rủi làm sao mà sau đó, Trung Ương lại sáng mắt ra (chẳng lẽ nhờ câu nói ấy) đảng lại chủ trương “Hoà bình trung lập thống nhất đất nước”.

                      Cái khẩu hiệu chiến lược này được kẻ dọc bờ tường từ Câu Lạc Bộ Thống Nhất cặp theo bờ hồ đến gần tới Nhà Thủy Tạ, chữ nào chữ ấy to hơn người và bề dài của nó phải đạp xe mười bốn phút năm mươi chín sơ-gồng mới hết.

                      Vậy mà đảng đâu có lời gì xin lỗi cho mát lòng mát dạ nhà văn. Cho nên sự nói láo thượng cấp của tôi kể ra cũng lô-gích lắm vậy.

                      Ông Mặt Sắt phàn nàn:

                      - Tôi chỉ nhìn thấy đoàn hôm qua hạ trại mà tôi phỏng đoán là các đồng chí ấy đã không nói sự thực.

                      - Dạ nếu họ không nói sự thực thì sự thực đó đã không có gì đáng nói thưa anh!

                      - Không phải thế đâu! Chẳng có con voi nào nằm im trong thúng được!

                      Anh Sáu lặng thinh.

                      Tôi càng giữ sự im lặng cho chắc chắn. Tôi muốn ghì giữ tôi lại chớ có lạc lòng mà nói tung hê ra. Chưa chắc được cái giống gì! Chỉ chuốc hoạ vào thân thôi. Nhân Văn Giai Phẩm há chẳng nói sự thực về Cải cách ruộng đất hay sao? Đảng đâu có chịu nghe.

                      Đã bảo đảng thích ngọt mật mà! Thằng Phùng Quán chết lên chết xuống vì cái bài thơ Lời Mẹ Dặn. Nó chỉ viết : “Yêu ai cứ nói là yêu. Ghét ai cứ nói là ghét!” Thế mà các hợp tác xã đã từ chối không dám nấu cơm cho nó ăn. (Không phải vì ghét nó mà chính vì sợ liên lụy với một anh nhà văn có tư tưởng Nhân Văn)


                      ................................................. .................................................. .............


                      Cái sự đời xã nghĩa không mấy gì đơn giản như người ta tưởng ngay cả trong việc nói lên sự thực cho đảng nghe với lời yêu cầu của đảng.

                      Tôi còn biết một sự thực rất ác hơn cũng trên con đường này. Cách đây vài trạm trên đường rẽ xuống Bác Kế, tôi được thấy một cái giấy bán đất. Người bán hiện đang ở Hà Nội, người mua đất đang trên đường về Nam.

                      Tiền mua đất được chồng ở Hà Nội nhưng người về Nam có đến khu V thì mới nhận đất, nếu chết dọc đường thì sao?… Không ai biết được. Vì khi tôi thấy tờ giấy bán đất đó thì người cầm giấy còn sống và sắp về tới nơi!

                      Nếu sự kiện này được nêu ra ở Hà Nội thì toàn đảng sẽ ngồi cụp xương sống mà học tập cái “tư tưởng bóc lột phản động của địa chủ, tư bản” này, nhưng ở đây không ai phát hiện ra nổi. Và người mua đất đó là một huyện ủy viên.

                      Tôi không ngần ngại gì mà giấu luôn cái chuyện đó với đồng chí Trưởng ban Công Tác Nông Thôn của Trung ương đảng, tác giả “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa“.

                      Sau khi thấy thái độ “chân thành” của tôi, anh Sáu bèn hỏi sang chuyện khác:

                      - Bao giờ các anh lên đường?

                      - Dạ cô diễn viên ca múa còn yếu chân quá!

                      - Không đi được à?

                      - Dạ cô ấy cứ lấy nước mắt thay chân.

                      - Nghĩa là sao?

                      - Dạ, thấy cô khóc, anh em chiến sĩ mỗi người mang ba-lô dùm một quãng.

                      - Chỉ vậy thôi à?

                      - Dạ đối với chúng tôi lúc này một tờ giấy cũng nặng như núi.

                      - Thôi được. Nghỉ vài hôm đã, rồi tôi cho người mang ba-lô cho cô ấy. Được không?

                      - Dạ nếu được thế thì cô ấy phấn khởi lắm

                      - Thôi, anh về nghỉ đi, sáng mai tôi bảo bác sĩ tới trị tiếp cái chân cô ấy và cái đầu gối của anh nhạc sĩ. Hãy yên tâm. Mọi việc trên đường dây rồi phải khá lên. Như thế này thì không thể được! Hai tàu gạo, ác quá!

                      - Dạ, cám ơn anh Sáu.

                      Tôi lững thững đi về như đi trong mơ!

                      Hai tàu gạo, anh Sáu nhắc lại, tôi nghe cũng xót xa lắm. Gạo đó đáng lẽ đắp đầu gối nay lại trút cả vào mồm Bà Thủy.

                      Tôi về đến lều thì quơ đúng cái gà-mèn trên đầu võng. Nó còn âm ấm.

                      Tôi cầm lấy giỡ nắp ra. Mùi hương bốc lên bát ngát như một thứ tiên dược tôi chưa được biết bao giờ: sữa!

                      Thu và nhạc sĩ đã làm thịt hộp sữa. Tôi nâng lên miệng nốc mấy hơi liền, tưởng mình bay bổng thành tiên. Sữa xuống cổ họng chạy vào dạ dày mát như nước sông chảy vào ruộng hạn. Bao nhiêu đất cằn cỏ khô đều vươn ngóc dậy, tôi nghe từng sớ thịt tươi lên, đầu óc sáng sủa lạ lùng.

                      - Anh về đấy à?

                      - Ừ!

                      - Có gì lạ không?

                      - Sẽ có người giúp em đi đến nơi.

                      Tôi sang lều Thu, ngồi phệch ở cái rễ cây đầu võng, thủ thỉ:

                      - May quá! Nếu không gặp anh Sáu anh không biết em sẽ làm sao mà đi.

                      - Em được sự săn sóc của bác sĩ tự nhiên em thấy những ý nghĩ trước đây của em tiêu tán hết.

                      - Em thấy phấn khởi cách mạng trở lại rồi hả?

                      - Anh lại ngạo em rồi!

                      - Lần này em về luôn quê anh nghe!

                      Thu lặng thinh. Tôi nghe hương tóc Thu bay loáng thoáng như những mảnh lụa bé tí vô hình trong bóng đêm.

                      Một vài ánh lửa bếp của mấy anh chiến sĩ nấu nướng muộn lập loè sau những bụi rậm làm cho không khí âm u của rừng vỡ ra thành một tấm màn ma quái rùng rợn.

                      Tôi bỗng thấy mình hoá thành một thư sinh trong Liêu Trai, thân mình lâng lâng nhẹ nhỏm.

                      Tôi bước đến võng Thu, run run giọng:

                      - Anh lạnh quá.

                      - Anh có thấy gà-mèn sữa không?

                      - Uống hết rồi! – Tôi vén màn lên và chúi mũi vào tóc Thu, hai tay ôm quàng lấy cả chiếc võng. Tôi hôn, tôi hít miên man.

                      Thu đẩy tôi ra nhưng tôi vẫn ghì chặt, ôm nàng đầy tay tôi.

                      Sao bữa nay nàng thơm thế. Sao bữa nay gương mặt nàng không hiện rõ trong bóng đêm mà tôi vẫn thấy đẹp thế? Tôi không ngăn được tôi nữa.

                      Tôi ngồi ghé lên mép võng làm hai cây cọc mắc võng rung chuyển mạnh.

                      - Ây chết! – Thu vừa xô tôi ra vừa kêu.

                      - Để anh lấy tí hơi ấm trong em.

                      Tôi cứ ngồi lên võng. Tôi đã quen mùi da thịt của Thu lâu rồi, nhưng mỗi lần gần nàng tôi vẫn thấy rụt rè hồi hộp như mới lần đầu.

                      Cái võng đã từng là chiếc thuyền không bến đưa tôi và Phương lên những khoảng không của vũ trụ, ru hồn hai đứa lạc vào những rừng tinh tú không tên.

                      Chiếc võng là cái lá trong chuyện thần thoại nào mà người đời chưa biết. Mỗi lần tôi ngồi lên võng Thu tôi lại nhớ đến Phương. Một chiếc võng nhỏ bé mong manh nhưng chứa chan hạnh phúc, nặng trĩu những nguồn tình.

                      Chiếc võng của Thu khua xào xạc khi tôi ngả người lên, một nửa người tôi đè lên tấm thân bát ngát của nàng. Tất cả dây và võng đều chuyển mình tưởng đứt vỡ tung ra. Chiếc võng nằm một người thì thơ mộng biết bao nhiêu.

                      Hai người nằm chung thì càng thơ nhưng lại khó mộng. Nó chập chờn, lắc lư như con thuyền nhỏ cỡi trên đầu sóng to. Một tí cử động cũng làm như cả lều trại sắp đổ ụp.

                      - Thôi anh ạ! Anh không nhớ à?

                      - Nhớ em lắm chứ.

                      - Em ở đây mà nhớ gì! Anh phải nhớ người ở xa mới phải!

                      - Dù có nhớ mấy cũng không làm gì. Anh nói thật với em nhé. Nhưng em phải hứa.

                      - Hứa gì?

                      - Hứa là đừng chê anh.

                      - Chê gì?

                      - Phương đã muốn anh và Phương có một kỷ niệm cụ thể hơn những cái hôn.

                      - Phương tỏ ý đó với anh hay sao?

                      - Không tỏ ra nhưng anh đoán thế.

                      - Anh chỉ phịa.

                      - Phương đưa cho anh đôi giày hài nhi trắng như tuyết.

                      Thu thở dài. Không biết trời đã khuya lắm chưa nhưng rừng đêm im bặt. Tiếng thở dài của Thu vang to, rõ mồn một.

                      Tôi hỏi Thu:

                      - Em nghĩ gì?

                      - Em không nghĩ gì cả. Em đau khổ…

                      Nàng chưa thốt hết câu thì môi tôi đã cắt ngang lời nói. Nàng vùng ra. Tôi thấy mình khoẻ hẳn lên. Sốt rét, đau bao tử và các thứ bệnh nặng bệnh nhẹ đều tản đi hết. Tôi cũng không ngờ.

                      Trong giấc mơ trần tục của tôi có một con suối ấm chảy qua, có một ngọn đồi phơn phớt cỏ xanh mát rượi và hai quả đào chín treo lơ lửng trước môi tôi. Mùi thơm ngây ngất. Tôi không dám cắn chỉ hưởng lấy mùi hương.

                      - Anh đi ngoài sương, không khéo bị cảm cho coi. – Thu rủ rỉ.

                      - Không bị đâu! – Tôi vừa nói vừa ngả nằm xuống.

                      - Gãy cọc mắc võng cho coi!

                      - Không sao đâu mà.

                      - Đứt võng.

                      - Hồi nãy không đứt, bây giờ đứt gì mà đứt? – Tuy nói thế, hai tiếng “đứt võng” vẫn dựng lên trong tôi caí hình ảnh lần trước hai ông bà làm tình vụng trên võng bị đứt võng, người con gái rơi xuống đất, xương sống bị cấn một mũi đá nhọn bị thương nặng.

                      Người đàn ông bỏ trốn. Đến sáng khi giao liên đến dắt khách mới tìm thấy người con gái đã hấp hối.

                      Hai tiếng “đứt võng” làm tôi “ớn xương sống”, tôi bèn bảo Thu đưa đèn pin rọi dưới đít võng xem có đá hay không. Chỉ có lá khô.

                      - Em đừng lo. Anh lấy làm hạnh phúc được chết vì em hay chết chung với em.

                      Nàng tát mạnh vào mồm tôi:

                      - Nói gở.

                      - Thật mà ! Anh thấy ấm lắm Thu ạ.

                      - Anh thiệt à! Cứ phí sức.

                      - Anh còn trèo núi như Fulro vậy mà.

                      Chiếc võng bé quá mà cũng rộng quá. Trời đất như run khe khẽ. Đầu núi nghiêng nghiêng như sắp đổ.

                      Một chập.

                      Thu phàn nàn:

                      - Cái ông đạo đức học đến thăm anh làm gì?

                      - May nhờ nó, em không phải lo!

                      - Lo gì?

                      - Lo chuyện nọ chuyện kia cho em chứ chuyện gì.

                      - Chuyện nọ chuyện kia là chuyện gì?

                      - Những chuyện em không thể biết mà cũng không nên biết.

                      - Em nghe hết cả rồi.

                      - Vậy sao còn hỏi?

                      Thu lặng thinh.

                      Con người kể cũng không khó nuôi hơn con lợn là mấy. Chỉ có tí sữa loãng mà đã làm cho sức khoẻ vượng lên trông thấy. Chẳng khác gì uống cao đại sâm nhung hổ cốt của Thái Thượng Lão Quân bào chế cho các tiên ông tiên bà ăn tiệc trên Thiên đình.

                      Một buổi trưa, tôi đang đi quơ củi để chuẩn bị cơm chiều thì tôi gặp thằng bạn nhạc trưởng. Tất cả đoàn đến đây đều được lệnh của anh Sáu dừng lại để chỉnh đốn tổ chức.

                      Còn văn công thì phải chữa lại cái màn hoạt cảnh lính bắn vào chân thành ra lính chỉ bất mãn chung chung thôi. Nếu để như cũ thì chẳng khác nào xúi giục lính bắt chước.

                      Hơn nữa, một anh lính đã liều đến mức đó rồi và đã về tới ngoài Bắc rồi thì không ai có thể giác ngộ cho anh ta trở vào đây nữa hoặc có giác ngộ thì không thể chỉ trong một sớm một chiều như đã diễn ra trong hoạt cảnh.

                      Do đó đoàn Văn Công có cơ hội ăn hút. Thanh Cao (gã nhạc trưởng) nói:

                      - Con Nguyệt nó muốn gặp mày ghê lắm.

                      - Sao cô ta biết tao ở đây?

                      - Nó thấy mầy chớ sao! Nó đóng vai con tẻng người yêu của thằng mắc dịch bắn vào chân đó. Nó bảo nó trông thấy mầy nó mất tinh thần, nó diễn không nổi nữa.

                      - Đếch họ. Cô ta có thằng Ba Ke nào đó “kèm” chặt mà!

                      - Đó là chuyện xưa rồi. Bây giờ nó đã trống chân! – Thanh Cao tiếp – Nó than với tao ghê lắm.

                      Hai đứa tìm cái bóng mát ngồi nói chuyện. Cao tiếp:

                      - Nó nói nó nghĩ tầm bậy về giai cấp. Lúc cải cách nó bị truy kích dữ quá nên nó bấn xúc xích nó phăng teo hết thảy mọi quan hệ bất cứ với ai, cho khoẻ cái thân. Kể cả chị ruột của nó, nó cũng không tới lui.

                      Còn mày, nó biết mày đi kháng chiến từ 45 nhưng thành phần của mày lại không “hẩu”. Cả hai đứa cùng loài “đụ chỉa” cả nếu yêu nhau thì nặng chình chịch cất đầu lên không nổi. Hơn nữa, tổ chức đâu dễ gì chấp nhận cho hai bên lấy nhau.

                      Tôi phát cáu:

                      - Vậy sao sau đó có thằng đáp vào mà tổ chức lại “giúp đỡ” nghĩa là sao?

                      - Thì mày còn lạ gì nữa chứ! Phép vua thua lệ làng, trâu buộc ghét trâu ăn. Cái thằng đáp vô này là thằng trung đoàn trưởng, tuổi đáng bố tụi mình nhưng nó là “loại chưn xanh mắt ếch” mày rõ chưa? Thời nào cũng có Ông Trượng – Tiên Bửu cả…

                      chứ không phải chỉ thời xưa mới có. Tình ca bây giờ đâu có dệt bằng “tơ lòng” mà xây dựng trên lập trường.- Cao tiếp – Thằng trưởng đoàn văn công được thằng trung đoàn trưởng đãi trà buổi sáng, đãi rượu buổi chiều.

                      Ăn xôi chùa thì phải mở miệng. Cho nên nó xây dựng con Nguyệt cho thằng kia. Mày không nhớ vụ con Thu Hồng ở Ông Dèo gần Hoả Lựu nhà tao à? Lão Tư lệnh Lé đá thằng Sơn Lâm một cú nhẹ nhàng và quơ nàng Hồng bỏ xuống ghe bốn chèo cái một. Thằng Sơn Lâm tức giận chửi địt mẹ cách mạng rồi au revoir kháng chiến hồi 1950 mày nhớ không?

                      - Nhưng tên Lé là Tư lệnh cho cũng được đi, còn thằng trung đoàn truởng thì nước mẹ gì kia chứ?

                      - Nó không nước mẹ gì, nhưng thằng trưởng đoàn cứ rù rì rủ rỉ mãi rồi con Nguyệt thấy “giày cộp” và súng ngắn cũng oai. Hơn nữa nó lại có xe đạp riêng. Muốn đi Thanh Hoá chơi là nó đèo khỏi phải ngồi xe cây đau đít.

                      - Thì cứ mà ngồi xe đạp và khoái súng ngắn! Tao có ý kiến gì đâu!

                      Cao nói:

                      - Nhưng con nhỏ bị trong đoàn chế diễu quá xá nên chưa cắn câu đã cho thằng trung tá sụt cà lui té xuống Nông giang luôn.

                      - Thôi bỏ đi mày ơi! Tao chẳng thiết gì tới nàng ta nữa đâu! – Tôi gạt ngang – Nói chuyện bá láp nghe còn mát lỗ tai hơn.

                      Cao cười:

                      - Thì đây cũng là chuyện bá láp chớ chuyện hay ho gì! Nhưng chưa hết đâu. Sau khi hạ màn trung tá, tới lớp Ba Ke. Thằng Ba Ke này ở ngoài Tổng Cục đưa vào. Tao đang phụ trách đoàn, nó vào tự nhiên được bổ nhiệm thay tao để tao đi học ngoài Hà Nội. Thôi cũng được. Cái nghề này tao cũng chán thấy mẹ rồi… Đọ, nó vào hôm trước hôm sau đã “biểu diễn” một màn “chỉ huy đồng ca”. Chả là nó có đi học Trung Quốc mà.

                      Thế là nó để ý con Nguyệt. Con Nguyệt là biên đạo vũ nên có cơ hội học tập ở nó. Rồi đó hai bên thân nhau đến mức độ trong đoàn phải “ách” lại. Rồi có thêm đề tài “Rau muống mà cấy ruộng Nam. Ba năm chết héo biết làm sao đây“. Con Nguyệt tự ái đá luôn phát thứ hai. Lúc đó tao đi học Hà Nội đã về. Tao xin chuyển ngành.

                      Cởi áo lính, trở ra Hà Nội. Kỳ đó tao gặp mày, tao “tường thuật” cả cho mày nghe, nhớ không? Và có nói là con Nguyệt nó đang ân hận về cái lập trường kênh gân của nó, nó muốn gặp mày nhưng mày phớt lờ đi. Thiếu chi con “ghé” Hà Nội mà phải lụy vào một cái nơi bầm dập như vậy chứ!

                      - Thì tao có lụy đâu. Tao có lo ế đâu mà!

                      - Để tao nói nốt. Có lần nó ra Hà Nội, nó nhờ tao tìm mày dùm. Nhưng tao bảo là tao không biết chỗ ở của mày. Nó rầu lắm. Kể từ đó không có “chưn xanh mắt ếch” hoặc Ba Ke Bốn Ke nào vô được mà tụi trong đoàn thì lại chẳng thằng đực rựa nào sánh được với “nhà…à…dă..ăng”. – Cao dịu giọng

                      – Thôi chín bỏ làm mười đi mày ạ. Cột kèo cũ coi vậy chớ vẫn hay hơn cái mới. Để nó âu sầu hoài, kể cũng tội nghiệp.

                      - Thôi đi mày ơi! Tao bây giờ lo đi “rải” phóng Miền Nam, chuyện lăng nhăng xin gác lại hết.

                      Cao cười hềnh hệch:

                      - Tàng hoài cha nội!! Vậy còn ngôi sao nào lấp lánh bên hông mày đó.

                      - Nó đi cùng đoàn với tao.

                      - Tao biết con nhỏ mà. Nó múa ba-lê cho đoàn Múa Trung ương chớ gì.

                      - Rồi sao?

                      - Thì đâu có sao, nhưng mà rau muống vô trong mình “trọ trẹ” nghe mệt lỗ tai lắm mày ơi. Các “via” nhà mình không “đắc co” cho đâu.

                      - Tao có gì mà phải “đắc co”.

                      - Mày là con quỉ mà! Tao không biết ư. Hở hở ra là bị mày. Láng cháng là mày yêu thôi. Đi như thế với mày, đố khỏi!

                      Hai đứa làm thinh. Một chập Cao nói:

                      - Nó muốn gặp mày được không? Tùy ý, tao không ép. Nhưng nó nhờ tao. Đây là lần thứ hai. Mày nên an ủi nó chút.

                      Tôi thở dài:

                      - Để về tới trỏng hãy tính.

                      - Mày dìa chớ “nàng” có dìa đâu mà tính.

                      - Vậy khỏi tính.

                      - Cái thằng ba trợn quá mậy! Chán mày quá!

                      - Ừ, chính tao cũng chán tao nữa là ai! – Tôi quơ ba que củi đứng dậy – Thôi đi về đằng chòi tao nấu nước trộm uống trà nói dóc. Trời nắng, củi khô, ít khói.

                      Thế là hai thằng kéo đi về lều của tôi. Trời nắng như thiêu. Mặc dù ngồi trong bóng mát mà mồ hôi vẫn đổ ròng ròng mồm thở như gà toi, há cả mồm ra mà không đủ.

                      Hoàng Việt và Thanh Cao cũng biết nhau từ lâu trong kháng chiến ở Miền Tây. Thấy Cao tới, Hoàng reo lên:

                      - Còn kí-nin đủ uống không chú em?

                      - Anh “rơ” cái bánh chè hả? Hừ hừ, tháo nó ra, gởi qua Bungari cho người anh em vô dầu mỡ rồi gởi trả về ráp lại mấy hồi.

                      Ba thằng ngồi dụm đâu uống trà nhu ba ông táo.

                      - Nè! Anh Bảy! – Cao gợi chuyện – Anh có gởi thơ về cho chị Bảy thường xuyên không?

                      - Mỗi năm 2 chiếc. Đi đường “Pa-Ghi” dô Sài Gòng.

                      - Hôn trên giấy rách hết cả giấy hả?

                      - Còn chú mày tài gì hơn tao?

                      - Hà hà… Mười năm chưa có cái nào! Phải được hai chiếc một năm cũng đỡ khổ.

                      Trong những thằng bạn tôi đi tập kết có hai thằng tôi cho là gan cùng mình. Cả hai đều là nhạc sĩ nổi tiếng cả. Một là nhạc sĩ Hoàng Lưu. Con nhà giàu, con một của gia đình. Lưu vừa cưới vợ được hai tháng là bỏ vợ đi ra Bắc.

                      Không tin tức gì cả. Làm ở đài phát thanh với tôi. Đau gan, ở một mình, trong một cái hang không có số nhà. Nửa đêm bị chảy máu nội tạng. Hai ngày sau cơ quan đến đập cửa (vì tìm mãi không biết Lưu ở đâu), Lưu đã chết cứng.

                      Thằng thứ hai là Thanh Cao. Vợ là tiểu thư đài các, học trường đầm về quê ở Cái Đuốc Lớn (Cần Thơ) ở với ông ngoại là đại phú hộ trong vùng ai cũng biết danh. Chị tên Tuyết Hoa. Con trai nhà giàu đi hỏi rất đông lại không ưng.

                      Gia đình gả ép. Đêm động phòng chị bỏ đi theo chàng nhạc sĩ nghèo rớt mồng tơi không có xu dính túi. Nhưng gia đình cưng con cháu nên đem cây gỗ cất nhà cho chị và Thanh Cao ở với nhau. Nhà trên bờ kinh Hoả Lựu. Chúng tôi về nghỉ ngơi ở đây luôn và nhờ sự tiếp tế của ông ngoại vợ mà vợ chồng Thanh Cao sống rất đầy đủ và hạnh phúc. Cao bảo vợ gọi cô em gái đang học ở trường đầm trên Sàigòn về để “làm cột chèo” vói tôi cho đủ cặp.

                      Nhưng không hiểu sao hồi đó tôi lại lơ là không quyết tâm, hơn nữa, coi vợ con là một sự vướng bận làm cho mình không tung cánh được. Còn mê kháng chiến quá mà. Tuổi xanh như lúa mai! Đời thanh niên sáng tươi! - Không muốn ai ràng buộc! Cho nên tôi đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng.

                      Khi đình chiến Cao đã có hai trai. Hai cháu bé thật xinh đẹp, bụ bẩm. Chị Hoa có đưa hai đứa bé xuống bến Chắc Băng để từ giã chồng. Tôi thấy chuyện chồng đi vợ ở lại có hai năm, ăn thua gì. Cả ngàn người như thế, không phải một mình Cao. Ra Hà Nội, Cao đến tôi chơi. Anh chàng mới ân hận.

                      Khi gặp tôi ở Trường Sơn thì Cao đã bước đi bước nữa với một ca sĩ nào đó. Trước khi hai bên ở với nhau, Cao có đến hỏi ý kiến của tôi, gần như xin thông cảm và muốn tôi gật đầu như một sự “cho phép”. Nhưng tôi nhất định không đồng ý “Mày muốn làm gì tùy mày, nhưng tao không chứng nhận vụ này. Về trong đó, nếu chị hỏi tao, tao nói tao không biết.”

                      Cao ở liều với nàng ca sĩ. Và tôi không lui tới nữa. Có đến ba bốn năm liền. Bây giờ gặp nhau ở đây. Cao nói vụ cô Nguyệt với tôi nhưng cũng là để nói về tình duyên của chính mình.

                      Tôi biết Cao sẽ mở màn và lại yêu cầu tôi thông cảm cho nên tôi nói trước:

                      - Mày coi anh Bảy cũng như mày, ảnh có lăng nhăng gì đâu!

                      - Dề! Mày biết ảnh không lăng nhăng bên Sophia hả?

                      - Nhưng đó là cỡi ngựa xem hoa. Còn mày, mày làm thiệt.

                      Cao ngồi tự nhiên, bắp thịt má giật giật. Hồi lâu mới nói:

                      - Sẵn có anh Bảy ở đây, tao xin công khai hóa vấn đề.

                      Hoàng Việt xua tay:

                      - Thôi tao không có muốn làm quan toà để về sau ăn chổi chà, cũng không muốn làm biện hộ sư để ăn đạp ăn đá. Chuyện của mày mày làm mày biết và mày chịu lấy. Tao biết mày đã có con với cô ca sĩ rồi, nhưng khu phố không chịu khai sinh phải không?

                      - Tôi không cần! Khai hay không nó cũng là con tôi, tôi nuôi! – Cao nói tiếp – Nhưng hôm nay sẵn có bạn bè tôi xin đưa ra một bức thư. -Vừa nói Cao vừa móc túi lấy ví và moi ra một bì thư. – Đây mày đọc đi, Vũ.

                      Tôi tiếp lấy mở ra đọc. Đó là bức thư của một người chú của Cao ở Sàigon gởi ra cho Cao. Và một bức thư của chị Tuyết Hoa. Thư của chị Hoa viết rằng chị không thể sống cô đơn lâu hơn nữa vì những khó khăn mà chị không vượt nổi. Cho nên chị đến nhà chú ruột của Cao để trình bày (cha mẹ Cao đều qua đời khi Cao hãy còn bé) và xin phép chú đi lấy chồng nuôi con.

                      Lá thư của chú Cao viết:Chú đồng ý vì đàn bà không thể không có chồng nhất là người đàn bà còn quá trẻ lại có hai con, v.v.. mà ngày chồng về thì không có hạn. Vậy việc “cháu Tuyết Hoa tái giá trong lúc cháu vẫn còn sống là điều có vẻ trái nghịch nhưng theo chú lại rất hợp lý…”

                      Tôi như thấy trời đất xoay vần. Bản tình ca khởi đầu đẹp đẽ biết bao, đoạn giữa cũng phong phú biết bao! Nhưng kết thúc lại vô cùng bi đát.

                      Tôi trao trả hai bức thư cho Cao. Cao lặng lẽ đút vào túi.

                      Nước trà đang ngon bỗng nhiên đắng lạ lùng. Cao rưng rưng nói:

                      - Tao không muốn cho mày biết để mày khỏi buồn lây. Tao biết mày mến gia đình tao, thương mấy đứa nhỏ dữ lắm. Sự đổ vỡ của đời chúng tao làm mày khổ. Do đó tao giấu biệt.

                      Nếu trong lúc đó (1959-60) tao cho mày coi hai bức thư này thì mày sẽ cho răng tao mạo ra để dựng cớ mà làm càn. Bởi vì có rất nhiều đứa “lập hồ sơ giả” để xin tổ chức cưới vợ. – Cao tiếp- Trong số bạn bè mình, có thằng đã chơi mững đó rồi.

                      - Thằng Duy! Bạn chúng mình! Nó làm ở Bộ Công Nghiệp!

                      - Phải đó! Ba bốn năm liền nó lặn mất tiêu không đến với tao.- Cao nói.

                      - Nó bịa một bức thư gởi từ Paris. Nói rằng vợ nó đã lấy chồng. Nó cũng đem thư đến cho tao xem để tao “thông cảm” nhưng tao nhìn ra ngay tuồng chữ của nó. Tao nói thẳng ra, không sợ nó giận. Vì tao biết vợ chồng nó đã hục hặc với nhau hồi ở Rạch Ba Ngọn kia mà.

                      Nó muốn thôi mà vì Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh bắt gắt quá nó thôi không được. Khi nó về cất nhà ở địa phương xong, nó bỏ vợ lăn lóc và đi lêu bêu, kháng chiến cà nhõng với chức chánh trị viên đại đội hồi xưa. – Tôi nói để cho Hoàng Việt biết một trường hợp lừa gạt của một ông cán bộ tập kết luôn. – Nó đã ăn ở với một người đàn bà goá rồi nó mới đến thanh minh với tôi anh Bảy ạ! Thế đó! Hồi ở trong Nam, chị Hằng, vợ nó than với tôi luôn.

                      Chị ấy nói:”Anh Duy làm gì kỳ quá! Ở với tôi nữa thì ở, không thì tôi cho ảnh tự do! Đã có hai mặt con rồi, làm vậy chị em cười tôi chết. ” Khi chị sanh đứa bé thứ hai, một đứa con gái rất đẹp, anh ta về nhà kiếm chuyện gây lộn rồi ẳm con bé lội qua rạch đi…

                      - … Hắn đi qua nhà tao ở Hỏa Lựu và bảo vợ tao cho con bé bú dùm. Bà già vợ nó cho người đi tìm bắt đứa cháu về!… Một thằng khùng!

                      Tôi tiếp:

                      - Nó không khùng đâu. Nó vặn nài bẻ ổng như vậy là nó muốn nói gì đó chớ. Bởi vậy khi nó đưa “bức thơ Paris” ra cho tao xem là tao gạt ngay.

                      Hoàng hỏi Cao:

                      - Rồi mày tính sao?

                      - Thì tính như vậy đó! Tính rồi còn tính sao gì nữa!

                      - Không! Tính vụ vợ con mày ở trong Nam kìa.

                      Cao thở dài:

                      - Bây giờ chúng nó đâu còn là vợ con của tôi nữa anh Bảy!

                      - Tuy “lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. – Hoàng cười gượng gạo – Vợ tào khang đâu có bỏ được chú em! Anh Bảy đây có chết bỏ xác dọc đường thì thôi chớ còn sống thì nhất định phải lết về tới nơi thăm con mẹ xề bằng được.

                      - Trường hợp anh khác trường hợp của tôi.

                      - Sao hồi đó không đem vợ con đi?

                      - Thì tưởng hai năm về. Anh Bảy ơi, tui đâu có dè cái sự đời nó thế này.

                      - Mày có định về không?

                      - Tôi ấy à? Xin về làm cái con mẹ gì nữa chứ?

                      - Mắc gốc rau muống rồi phải không?

                      - Không phải vậy đâu anh Bảy ơi! Lỡ dỡ như thế này rồi, tôi không muốn về nữa. Tôi ở luôn ngoài này thôi!!!

                      - Thôi mà, đừng có nói lẩy . Mày bỏ vợ chứ bỏ con được sao?

                      - Con không bỏ được mà vợ cũng không bỏ được, nhưng hoàn cảnh nó thế… Tôi phải đành nhắm mắt đưa chân. Tới đâu thì tới!

                      Cao uống thêm tí trà rồi nói với tôi:

                      - Tao nhờ mày một chuyện.

                      - Chuyện gì?

                      - Mày đem thư về cho vợ tao được không?

                      - Biết còn ở Hoả Lựu không?

                      - Nếu không thì mày hỏi bà con lối xóm. Trong vườn dừa có nhiều bà con biết và mến chúng mình. Chắc chưa ai quên mình đâu. Mày nhớ cái ông học đàn ghi-ta với tao không? Với ông Ba bên kia rạch, mỗi lần mày về nhà tao mày hay sang đó ngủ để nghe ổng đàn bầu. Vợ tao đi đâu bà con cũng biết mà.

                      - Ừ viết mau đi.

                      - Tao viết lâu rồi, nhưng không gởi được! Với nhờ mày đem cái hình tao về cho mấy đứa nhỏ coi . Nói đây là thằng cha khốn nạn của nó. Không biết tụi nó bao lớn rồi?

                      - Đứa mười hai , đứa mười tuổi.

                      - Không biết có học hành gì không hay chăn trâu chăn bò?

                      - Ông bà nó giàu có thế mà…

                      - Còn khỉ mẹ gì. Bộ đội và cơ quan ăn tàn mạt hết. Cô của vợ tao đã bỏ về thành hồi trước hoà bình. Phải hồi đó mày chịu làm cột chèo với tao có hai đứa hủ hỉ với nhau đỡ khổ biết mấy.

                      Cao nói vậy rồi gục đầu khóc mùi. Tôi hết biết nói sao. Cái thằng coi vậy mà yếu quá. Tôi không muốn nói gì thêm.

                      Hồi lâu Cao hỏi:

                      - Mà mày định không gặp con Nguyệt thiệt hả. Để tao trả lời dứt khoát cho nó kẻo nó chờ đợi hoài.

                      Tôi nói:

                      - Mày bảo cô ta là coi như tao không có ở đây. Nào, đưa hình và thư đây. Tao hứa với mày là khi về tới nơi tao sẽ tìm cách đến gặp vợ con mày.

                      (Nhưng khi về đến nơi tôi không giữa được lời hứa. Không phải vì tôi là thằng bạn quen thói thất tín nhưng vì không thể nào đi nổi xuống Miền Tây.

                      Nếu đường đi suông sẻ thì tôi cũng ráng tìm hiểu một sự thực để có thể sau này viết tiểu thuyết, nhưng khi về R thì lại được phân công đi Bến Tre quê tôi. Từ Bến Tre mà xuống tới Cần Thơ thì phải vượt qua không biết bao nhiêu sông và lộ mà hồi kháng chiến tôi đã vượt và suýt chết không biết bao nhiêu lần rồi.

                      Bây giờ xương đầu gối đã khô, túi mật không còn đầy, một đoạn đường gian nan như vậy, tôi không thể đi nữa, nhất là sau khi đã lội suốt Trường Sơn rồi… Trên đường về Bến Tre tôi có gặp một đoàn về Miền Tây, tôi có nói rõ địa dư của vùng nhà chị Tuyết Hoa và nhờ một anh bạn – nếu có dịp đi qua đó thì tìm đến trao thư và ảnh dùm. Không biết kết quả thế nào.

                      Nhưng khi hồi chánh về Sàigòn, tôi có lên Tivi nhắn tin. Tôi tin chắc chị Tuyết Hoa có nghe…)

                      Cao nói:

                      - Để tao viết thêm ít hàng. Chừng nào mày đi?

                      - Chừng nào có lệnh anh Sáu thì đi. Ảnh đang cho vô từng đợt sau khi chấn chỉnh lại đội ngũ.

                      - Được rồi! Tao sẽ đưa thơ cho mày trước khi đi.

                      Cao đứng dậy ra về.

                      Trời nắng chang chang như lửa xối xuống những ngọn cây rừng nhưng tim tôi nghe lạnh buốt.

                      Tôi trèo lên võng nằm lắc lư cho cái không khí nặng nề chuyển động tan bớt đi sự ảm đạm do câu chuyện gây nên.

                      Hoàng Việt cũng nằm thườn ra thở dốc.

                      - Thế là tiêu tùng một cặp uyên ương. Cũng vì tập kết mà ra cả. Còn một vài thằng nhạc sĩ nữa cũng đang treo mõm ngoài Hà Nội. Lâu nay mày có gặp thằng Phạm Văn không?

                      - Chừng ba tháng trước khi vô trường đi B.

                      - Nó còn khùng khùng nữa hết?

                      - Vẫn thế thôi!!

                      - Còn thằng Lưu Kiều?

                      - Thằng này thì lo buôn lậu đâu có thiết gì tới vợ con.

                      - Còn thằng đại uý gì, rể ông Mười Huệ?

                      - Tôi không quen nhiều, nhưng thấy chiều thứ bảy nào nó cũng chở cô em vợ đi Bờ Hồ. Cô em thì ăn mặc bảnh tẻng còn y thì áo quần nhổm nha.

                      - Còn thằng Quốc Hiên, mày có nghe tin gì mới về nó không?

                      - Tin gì mới?

                      - Sau khi nó “cấy” con Lịch Dzung ở xưởng phim rồi nó còn “ghép” con nào nữa không?

                      - Ồ, hắn đi học hát ở Hungari mà anh không có liên lạc sao?

                      - Có nghe nó đi nhưng tao không biết tin gì về nó cả.

                      Rồi Hoàng thở dài:

                      - Như mày vậy mà khoẻ! Có vợ có con mệt lắm mày ơi!

                      - Không “hoạt” hai cái lỗ tai được hả?

                      - Không phải chuyện đó đâu. Tao nói nghiêm túc đấy. Mấy đứa con tao hồi tao đi tập kết thì đứa đã mười tuổi, đứa bảy tuổi. Nay lớn lắm rồi.

                      Mẹ nó chụp hình gởi cho tao, tao đâu có nhìn ra. Mẹ kiếp, mình chống đế quốc mà đế quốc lại nuôi vợ con mình. Thế mới lạ!

                      - Đế quốc nào mà nuôi vợ con anh?

                      - Thì mình đi hết chín năm, rồi đi luôn mười năm nữa, bỏ vợ con lại Sàigòn. Vợ làm mướn, có tiền, nuôi con, còn con thì đi học nay có đứa chắc đã đỗ tú tài. Đế quốc không nuôi là gì?

                      - Tụi Sàigòn nó không biết anh đi tập kết à?

                      - Sao không biết, nhưng nó không khó dễ gì. Bạn bè tao ở Sàigòn cùng chơi nhạc cho các “bar” ngày trước thằng nào lại không biết tao đi kháng chiến, nữa là công an mật thám – Hoàng Việt thở dài sườn sượt –

                      Tao nghe chuyện thằng Cao mà tao ớn lòng. Tao không hiểu nếu trường hợp của nó mà xảy ra cho tao thì không biết tao làm sao.



                      Hết Chương 10 - Xem Tiếp Chương 11


                      sigpic

                      Comment


                      • #12
                        Vượt Trường Sơn 3




                        Nếu chặng đường đã bị đạp lùi lại phía sau lưng là chặng đường của đôi chân thì con đường phía trước là con đường của suy tư. Cái gì cũng bắt bộ óc làm việc. Thắc mắc, bất mãn, so sánh, lý luận, vấn đáp, kết luận rồi lại kết luận.

                        Nếu ở Hà Nội, người ta từng quen sống với cái khuôn của cuộc sống với nếp nghĩ của báo Nhân Dân và cái vòng lẩn quẩn của bánh xe đạp và mép bờ hồ méo méo tròn tròn thì vào đây đầu óc như được núi rừng giải phóng hẳn.

                        Cái gì cũng dám nói, cái gì cũng dám nghĩ, cả những điều mà trước kia mình cho là rất bậy bạ cũng cứ nói phứa ra. Thì ra, cái lập trường chỉ giữ được khi ta bị chăn dắt kỹ càng. Buông lỏng nó ra nó quay ngoạm ngược lại kẻ đã tạo ra nó.

                        Đường này là đường cách mạng? Đi chừng nào thì tới? Không tới thì sao? Quê hương, cha mẹ, người yêu, lập trường, thành tích, thâm niên, sáng tác, dĩ vãng, tương lai… tất cả tâm tư trở thành một món xà bần vĩ đại sau đám giỗ.

                        Món ngon nhất là thịt kho tàu, món dở nhất là chuối chát, món trung bình là cá nướng, tất cả còn lại đều trút vài cái trả to, tất cả đều trở thành một món “kho” có cái tên là xà bần.

                        Tư tưởng con người vượt Trường Sơn ỏ những chặng vừa qua là quyết phấn đấu giải phóng Miền Nam. Sau trên một tháng ý chí phấn đấu đó bị đá tai mèo cạp, bị muỗi đòn xóc hút, nay chỉ còn lại một cục bất mãn bao quanh bởi một lớp mây suy tư cho có vẻ triết học để tự lừa mình: Mình đang phấn đấu đây! Sự thực thì mình đang rũ xuống.

                        Có tiếng người khá hách dịch:

                        - Có ông nào là nhà văn nằm ở đây không?

                        - Tôi đây – Nghe cái giọng khá quan trọng tôi đáp ngay.

                        - Anh Sáu cho mời ông lại gặp. Nhanh nhé! – Rồi tôi nghe bước chân đi trở lại.

                        Tôi mọc ốc đầy người. Anh Sáu mời! Làm gì quan trọng đến thế. Cái thằng nhà văn này mười năm nay không được ai mời thỉnh cả. Cả mấy nàng mậu dịch cũng không mời, chỉ hất mặt như hỏi “ông cần gì?”.

                        Nếu ông không cần gì thì đừng tới đây! Chỉ có các cô hàng bán xôi cá thể hay mấy bà bán bún riêu vỉa hè quen mặt biết tôi là “ông nhà báo” thì còn lễ độ chào mời. Hay bà chủ nhiệm hợp tác xã cơm tháng mà tôi giao cả cái bìa phiếu cho bà muốn bán buôn đổi chác làm gì thì làm – thì cũng còn biết trọng vọng tôi, ngoài ra…!!

                        Làm gì có đến một ông lớn – mà là một ông mặt rằn trong các ông mặt rằn to nhất Hà Nội mời?

                        Bỏ mẹ rồi! Cái thằng Thuần là tên “gián điệp hai mặt”. Nó đến giả đò bất mãn nói nhảm để moi ruột mình rồi về báo cáo cấp trên. Thằng tệ thật. Không khéo mình bị gởi trả lại Miền Bắc thì chịu thêm luôn mười năm mưa phùn gió bấc nữa!

                        Tôi đến thì thấy anh Sáu đang nằm. Anh bấm đèn pin rọi vào một hòn đá rồi nói:

                        - Anh ngồi đó nghe! Xin lỗi tôi mệt quá. Giải quyết bao nhiêu công việc suốt ngày hôm qua với các đồng chí chỉ huy đơn vị… Này, anh cho tôi biết vấn đề B quay và vấn đề lính mình làm thổ phỉ, tự sát thương có thật không? Anh cho tôi biết sự thực với con mắt quan sát của anh.

                        - Dạ… – Tôi ngập ngừng.

                        - Anh cứ nói đi. Không việc gì đến anh cả. Anh là nhà văn anh đi trên con đường này đã hơn một tháng rồi. Anh có thấy những hiện tượng đó thật không?

                        - Dạ cái đó thì…

                        - Tôi đã bảo anh là anh cứ nói thật. Đảng cần biết sự thực. Tôi đã gạn hỏi các trưởng đơn vị nhưng họ chỉ nói là mặc dù đói la liệt nhưng chiến sĩ vẫn giữ kỷ luật rất nghiêm minh của quân đội cách mạng.

                        Tôi có hỏi vấn đề thổ phỉ và B quay thì họ nói đó là lời đồn thôi. Tôi hỏi sang vấn đề quân số thì anh nào cũng nói là trừ số lính bệnh, thì không có ai đào ngũ cả. Anh thấy thế nào? Các anh đã nói đi hôm qua, nay đều nói lại hết!

                        - Dạ, những điều đó tôi chắc là …không có.

                        - Anh có chắc thật không?

                        - Dạ ít nhất là tôi không thấy ai sát thưong hoặc ai làm B quay cả!

                        Tôi mà không thấy thực ư? Có chắc như thế không hở cái thằng TÔI – NHÀ VĂN. Trời ơi! Tôi nói láo sao mà tài thế. Tôi nói xong, tôi giật mình vì không ngờ mình nói láo tài hơn viết văn.

                        Mà đúng ra không phải Trời cho tôi hoặc tôi bẩm sinh mà chính là đảng đã dạy tôi cách nói đó.

                        Cái trắng nói đen, cái đen nói trắng.

                        Tôi đã từng thấy lính chết trên võng mắc tận ngọn cây, tôi đã từng thấy xương rũ trong hốc đá, từng thấy những anh B quay trộm heo của trạm làm thịt và bị trạm bắt quả tang, tôi đã từng thấy những vụ cầm nhầm của nhau từ quai dép đến bi-đông, tôi cũng đã nói chuyện với một tên thổ phỉ là em trai của Thu trên đường này. Cớ sao tôi không dám nói cho ông Mặt Sắt nghe chứ ?

                        Bởi vì tôi đã kinh nghiệm bản thân rồi. Đảng chỉ thích nghe tung hô vạn tuế. Đảng chỉ thích nghe vỗ tay hoan nghênh.

                        Đảng không có muốn ai chỉ trích phê bình những sai lầm của đảng ngoại trừ những sai lầm đó đã tầy uầy ra không bụm laị được, bởi vì đảng lấy “Phê bình tự phê bình làm qui luật tiến bộ” nhưng cái qui luật ấy chỉ được đảng dùng như cái roi để quất vô mặt ai khác chứ không ai được dùng cái roi ấy chạm khẽ tới lông chân của đảng.

                        Do đó mà những thằng ngu nhất cũng không nói sự thực cho đảng nghe, mà nó nói theo kiểu đảng muốn nghe: đảng là thần thánh.

                        Ở Thái Hà Ấp, trong cuộc học tập chỉnh huấn đấu Nhân Văn, có một anh nhà văn, nhà văn Nam Kỳ Đoàn Giỏi đã phát biểu về tình hình thống nhất nước nhà một cách chân thành như sau: “Tại mình tham lam quá, cái gì cũng muốn quơ cả, chứ nếu mình trung lập như thằng Sia-núc thì có phải dễ dàng hơn không?)

                        (Anh là bạn học với Sihanouk ở Chasseloup Laubat hay trường nào đó, tôi không nhớ). Chỉ vì một câu nói đó thôi mà anh bị kiểm thảo trần ai lai khổ. Bị chụp cho một lô mũ chồng cao tới nóc nhà.

                        Nhưng trời lại dun rủi làm sao mà sau đó, Trung Ương lại sáng mắt ra (chẳng lẽ nhờ câu nói ấy) đảng lại chủ trương “Hoà bình trung lập thống nhất đất nước”.

                        Cái khẩu hiệu chiến lược này được kẻ dọc bờ tường từ Câu Lạc Bộ Thống Nhất cặp theo bờ hồ đến gần tới Nhà Thủy Tạ, chữ nào chữ ấy to hơn người và bề dài của nó phải đạp xe mười bốn phút năm mươi chín sơ-gồng mới hết.

                        Vậy mà đảng đâu có lời gì xin lỗi cho mát lòng mát dạ nhà văn. Cho nên sự nói láo thượng cấp của tôi kể ra cũng lô-gích lắm vậy.

                        Ông Mặt Sắt phàn nàn:

                        - Tôi chỉ nhìn thấy đoàn hôm qua hạ trại mà tôi phỏng đoán là các đồng chí ấy đã không nói sự thực.

                        - Dạ nếu họ không nói sự thực thì sự thực đó đã không có gì đáng nói thưa anh!

                        - Không phải thế đâu! Chẳng có con voi nào nằm im trong thúng được!

                        Anh Sáu lặng thinh.


                        .................................................. . .................................................. ............

                        Tôi càng giữ sự im lặng cho chắc chắn. Tôi muốn ghì giữ tôi lại chớ có lạc lòng mà nói tung hê ra. Chưa chắc được cái giống gì! Chỉ chuốc hoạ vào thân thôi. Nhân Văn Giai Phẩm há chẳng nói sự thực về Cải cách ruộng đất hay sao?

                        Đảng đâu có chịu nghe. Đã bảo đảng thích ngọt mật mà! Thằng Phùng Quán chết lên chết xuống vì cái bài thơ Lời Mẹ Dặn. Nó chỉ viết : “Yêu ai cứ nói là yêu. Ghét ai cứ nói là ghét!” Thế mà các hợp tác xã đã từ chối không dám nấu cơm cho nó ăn. (Không phải vì ghét nó mà chính vì sợ liên lụy với một anh nhà văn có tư tưởng Nhân Văn)

                        Cái sự đời xã nghĩa không mấy gì đơn giản như người ta tưởng ngay cả trong việc nói lên sự thực cho đảng nghe với lời yêu cầu của đảng.

                        Tôi còn biết một sự thực rất ác hơn cũng trên con đường này. Cách đây vài trạm trên đường rẽ xuống Bác Kế, tôi được thấy một cái giấy bán đất. Người bán hiện đang ở Hà Nội, người mua đất đang trên đường về Nam.

                        Tiền mua đất được chồng ở Hà Nội nhưng người về Nam có đến khu V thì mới nhận đất, nếu chết dọc đường thì sao?… Không ai biết được. Vì khi tôi thấy tờ giấy bán đất đó thì người cầm giấy còn sống và sắp về tới nơi!

                        Nếu sự kiện này được nêu ra ở Hà Nội thì toàn đảng sẽ ngồi cụp xương sống mà học tập cái “tư tưởng bóc lột phản động của địa chủ, tư bản” này, nhưng ở đây không ai phát hiện ra nổi. Và người mua đất đó là một huyện ủy viên.

                        Tôi không ngần ngại gì mà giấu luôn cái chuyện đó với đồng chí Trưởng ban Công Tác Nông Thôn của Trung ương đảng, tác giả “Cây đa bến cũ, con đò khác đưa“.

                        Sau khi thấy thái độ “chân thành” của tôi, anh Sáu bèn hỏi sang chuyện khác:

                        - Bao giờ các anh lên đường?

                        - Dạ cô diễn viên ca múa còn yếu chân quá!

                        - Không đi được à?

                        - Dạ cô ấy cứ lấy nước mắt thay chân.

                        - Nghĩa là sao?

                        - Dạ, thấy cô khóc, anh em chiến sĩ mỗi người mang ba-lô dùm một quãng.

                        - Chỉ vậy thôi à?

                        - Dạ đối với chúng tôi lúc này một tờ giấy cũng nặng như núi.

                        - Thôi được. Nghỉ vài hôm đã, rồi tôi cho người mang ba-lô cho cô ấy. Được không?

                        - Dạ nếu được thế thì cô ấy phấn khởi lắm

                        - Thôi, anh về nghỉ đi, sáng mai tôi bảo bác sĩ tới trị tiếp cái chân cô ấy và cái đầu gối của anh nhạc sĩ. Hãy yên tâm. Mọi việc trên đường dây rồi phải khá lên. Như thế này thì không thể được! Hai tàu gạo, ác quá!

                        - Dạ, cám ơn anh Sáu.

                        Tôi lững thững đi về như đi trong mơ!

                        Hai tàu gạo, anh Sáu nhắc lại, tôi nghe cũng xót xa lắm. Gạo đó đáng lẽ đắp đầu gối nay lại trút cả vào mồm Bà Thủy.

                        Tôi về đến lều thì quơ đúng cái gà-mèn trên đầu võng. Nó còn âm ấm.

                        Tôi cầm lấy giỡ nắp ra. Mùi hương bốc lên bát ngát như một thứ tiên dược tôi chưa được biết bao giờ: sữa!

                        Thu và nhạc sĩ đã làm thịt hộp sữa. Tôi nâng lên miệng nốc mấy hơi liền, tưởng mình bay bổng thành tiên. Sữa xuống cổ họng chạy vào dạ dày mát như nước sông chảy vào ruộng hạn. Bao nhiêu đất cằn cỏ khô đều vươn ngóc dậy, tôi nghe từng sớ thịt tươi lên, đầu óc sáng sủa lạ lùng.

                        - Anh về đấy à?

                        - Ừ!

                        - Có gì lạ không?

                        - Sẽ có người giúp em đi đến nơi.

                        Tôi sang lều Thu, ngồi phệch ở cái rễ cây đầu võng, thủ thỉ:

                        - May quá! Nếu không gặp anh Sáu anh không biết em sẽ làm sao mà đi.

                        - Em được sự săn sóc của bác sĩ tự nhiên em thấy những ý nghĩ trước đây của em tiêu tán hết.

                        - Em thấy phấn khởi cách mạng trở lại rồi hả?

                        - Anh lại ngạo em rồi!

                        - Lần này em về luôn quê anh nghe!

                        Thu lặng thinh. Tôi nghe hương tóc Thu bay loáng thoáng như những mảnh lụa bé tí vô hình trong bóng đêm.

                        Một vài ánh lửa bếp của mấy anh chiến sĩ nấu nướng muộn lập loè sau những bụi rậm làm cho không khí âm u của rừng vỡ ra thành một tấm màn ma quái rùng rợn. Tôi bỗng thấy mình hoá thành một thư sinh trong Liêu Trai, thân mình lâng lâng nhẹ nhỏm.

                        Tôi bước đến võng Thu, run run giọng:

                        - Anh lạnh quá.

                        - Anh có thấy gà-mèn sữa không?

                        - Uống hết rồi! – Tôi vén màn lên và chúi mũi vào tóc Thu, hai tay ôm quàng lấy cả chiếc võng. Tôi hôn, tôi hít miên man.

                        Thu đẩy tôi ra nhưng tôi vẫn ghì chặt, ôm nàng đầy tay tôi.

                        Sao bữa nay nàng thơm thế. Sao bữa nay gương mặt nàng không hiện rõ trong bóng đêm mà tôi vẫn thấy đẹp thế? Tôi không ngăn được tôi nữa. Tôi ngồi ghé lên mép võng làm hai cây cọc mắc võng rung chuyển mạnh.

                        - Ây chết! – Thu vừa xô tôi ra vừa kêu.

                        - Để anh lấy tí hơi ấm trong em.

                        Tôi cứ ngồi lên võng. Tôi đã quen mùi da thịt của Thu lâu rồi, nhưng mỗi lần gần nàng tôi vẫn thấy rụt rè hồi hộp như mới lần đầu.

                        Cái võng đã từng là chiếc thuyền không bến đưa tôi và Phương lên những khoảng không của vũ trụ, ru hồn hai đứa lạc vào những rừng tinh tú không tên.

                        Chiếc võng là cái lá trong chuyện thần thoại nào mà người đời chưa biết. Mỗi lần tôi ngồi lên võng Thu tôi lại nhớ đến Phương. Một chiếc võng nhỏ bé mong manh nhưng chứa chan hạnh phúc, nặng trĩu những nguồn tình.

                        Chiếc võng của Thu khua xào xạc khi tôi ngả người lên, một nửa người tôi đè lên tấm thân bát ngát của nàng. Tất cả dây và võng đều chuyển mình tưởng đứt vỡ tung ra. Chiếc võng nằm một người thì thơ mộng biết bao nhiêu.

                        Hai người nằm chung thì càng thơ nhưng lại khó mộng. Nó chập chờn, lắc lư như con thuyền nhỏ cỡi trên đầu sóng to. Một tí cử động cũng làm như cả lều trại sắp đổ ụp.

                        - Thôi anh ạ! Anh không nhớ à?

                        - Nhớ em lắm chứ.

                        - Em ở đây mà nhớ gì! Anh phải nhớ người ở xa mới phải!

                        - Dù có nhớ mấy cũng không làm gì. Anh nói thật với em nhé. Nhưng em phải hứa.

                        - Hứa gì?

                        - Hứa là đừng chê anh.

                        - Chê gì?

                        - Phương đã muốn anh và Phương có một kỷ niệm cụ thể hơn những cái hôn.

                        - Phương tỏ ý đó với anh hay sao?

                        - Không tỏ ra nhưng anh đoán thế.

                        - Anh chỉ phịa.

                        - Phương đưa cho anh đôi giày hài nhi trắng như tuyết.

                        Thu thở dài. Không biết trời đã khuya lắm chưa nhưng rừng đêm im bặt. Tiếng thở dài của Thu vang to, rõ mồn một.

                        Tôi hỏi Thu:

                        - Em nghĩ gì?

                        - Em không nghĩ gì cả. Em đau khổ…

                        Nàng chưa thốt hết câu thì môi tôi đã cắt ngang lời nói. Nàng vùng ra. Tôi thấy mình khoẻ hẳn lên. Sốt rét, đau bao tử và các thứ bệnh nặng bệnh nhẹ đều tản đi hết. Tôi cũng không ngờ.

                        Trong giấc mơ trần tục của tôi có một con suối ấm chảy qua, có một ngọn đồi phơn phớt cỏ xanh mát rượi và hai quả đào chín treo lơ lửng trước môi tôi. Mùi thơm ngây ngất. Tôi không dám cắn chỉ hưởng lấy mùi hương.

                        - Anh đi ngoài sương, không khéo bị cảm cho coi. – Thu rủ rỉ.

                        - Không bị đâu! – Tôi vừa nói vừa ngả nằm xuống.

                        - Gãy cọc mắc võng cho coi!

                        - Không sao đâu mà.

                        - Đứt võng.

                        - Hồi nãy không đứt, bây giờ đứt gì mà đứt? – Tuy nói thế, hai tiếng “đứt võng” vẫn dựng lên trong tôi caí hình ảnh lần trước hai ông bà làm tình vụng trên võng bị đứt võng, người con gái rơi xuống đất, xương sống bị cấn một mũi đá nhọn bị thương nặng. Người đàn ông bỏ trốn. Đến sáng khi giao liên đến dắt khách mới tìm thấy người con gái đã hấp hối.

                        Hai tiếng “đứt võng” làm tôi “ớn xương sống”, tôi bèn bảo Thu đưa đèn pin rọi dưới đít võng xem có đá hay không. Chỉ có lá khô.

                        - Em đừng lo. Anh lấy làm hạnh phúc được chết vì em hay chết chung với em.

                        Nàng tát mạnh vào mồm tôi:

                        - Nói gở.

                        - Thật mà ! Anh thấy ấm lắm Thu ạ.

                        - Anh thiệt à! Cứ phí sức.

                        - Anh còn trèo núi như Fulro vậy mà.

                        Chiếc võng bé quá mà cũng rộng quá. Trời đất như run khe khẽ. Đầu núi nghiêng nghiêng như sắp đổ.

                        Một chập.

                        Thu phàn nàn:

                        - Cái ông đạo đức học đến thăm anh làm gì?

                        - May nhờ nó, em không phải lo!

                        - Lo gì?

                        - Lo chuyện nọ chuyện kia cho em chứ chuyện gì.

                        - Chuyện nọ chuyện kia là chuyện gì?

                        - Những chuyện em không thể biết mà cũng không nên biết.

                        - Em nghe hết cả rồi.

                        - Vậy sao còn hỏi?

                        Thu lặng thinh.

                        Con người kể cũng không khó nuôi hơn con lợn là mấy. Chỉ có tí sữa loãng mà đã làm cho sức khoẻ vượng lên trông thấy. Chẳng khác gì uống cao đại sâm nhung hổ cốt của Thái Thượng Lão Quân bào chế cho các tiên ông tiên bà ăn tiệc trên Thiên đình.

                        Một buổi trưa, tôi đang đi quơ củi để chuẩn bị cơm chiều thì tôi gặp thằng bạn nhạc trưởng. Tất cả đoàn đến đây đều được lệnh của anh Sáu dừng lại để chỉnh đốn tổ chức. Còn văn công thì phải chữa lại cái màn hoạt cảnh lính bắn vào chân thành ra lính chỉ bất mãn chung chung thôi. Nếu để như cũ thì chẳng khác nào xúi giục lính bắt chước.

                        Hơn nữa, một anh lính đã liều đến mức đó rồi và đã về tới ngoài Bắc rồi thì không ai có thể giác ngộ cho anh ta trở vào đây nữa hoặc có giác ngộ thì không thể chỉ trong một sớm một chiều như đã diễn ra trong hoạt cảnh.

                        Do đó đoàn Văn Công có cơ hội ăn hút. Thanh Cao (gã nhạc trưởng) nói:

                        - Con Nguyệt nó muốn gặp mày ghê lắm.

                        - Sao cô ta biết tao ở đây?

                        - Nó thấy mầy chớ sao! Nó đóng vai con tẻng người yêu của thằng mắc dịch bắn vào chân đó. Nó bảo nó trông thấy mầy nó mất tinh thần, nó diễn không nổi nữa.

                        - Đếch họ. Cô ta có thằng Ba Ke nào đó “kèm” chặt mà!

                        - Đó là chuyện xưa rồi. Bây giờ nó đã trống chân! – Thanh Cao tiếp – Nó than với tao ghê lắm.

                        Hai đứa tìm cái bóng mát ngồi nói chuyện. Cao tiếp:

                        - Nó nói nó nghĩ tầm bậy về giai cấp. Lúc cải cách nó bị truy kích dữ quá nên nó bấn xúc xích nó phăng teo hết thảy mọi quan hệ bất cứ với ai, cho khoẻ cái thân. Kể cả chị ruột của nó, nó cũng không tới lui.

                        Còn mày, nó biết mày đi kháng chiến từ 45 nhưng thành phần của mày lại không “hẩu”. Cả hai đứa cùng loài “đụ chỉa” cả nếu yêu nhau thì nặng chình chịch cất đầu lên không nổi. Hơn nữa, tổ chức đâu dễ gì chấp nhận cho hai bên lấy nhau.

                        Tôi phát cáu:

                        - Vậy sao sau đó có thằng đáp vào mà tổ chức lại “giúp đỡ” nghĩa là sao?

                        - Thì mày còn lạ gì nữa chứ! Phép vua thua lệ làng, trâu buộc ghét trâu ăn. Cái thằng đáp vô này là thằng trung đoàn trưởng, tuổi đáng bố tụi mình nhưng nó là “loại chưn xanh mắt ếch” mày rõ chưa?

                        Thời nào cũng có Ông Trượng – Tiên Bửu cả… chứ không phải chỉ thời xưa mới có. Tình ca bây giờ đâu có dệt bằng “tơ lòng” mà xây dựng trên lập trường.- Cao tiếp – Thằng trưởng đoàn văn công được thằng trung đoàn trưởng đãi trà buổi sáng, đãi rượu buổi chiều. Ăn xôi chùa thì phải mở miệng.

                        Cho nên nó xây dựng con Nguyệt cho thằng kia. Mày không nhớ vụ con Thu Hồng ở Ông Dèo gần Hoả Lựu nhà tao à? Lão Tư lệnh Lé đá thằng Sơn Lâm một cú nhẹ nhàng và quơ nàng Hồng bỏ xuống ghe bốn chèo cái một. Thằng Sơn Lâm tức giận chửi địt mẹ cách mạng rồi au revoir kháng chiến hồi 1950 mày nhớ không?

                        - Nhưng tên Lé là Tư lệnh cho cũng được đi, còn thằng trung đoàn truởng thì nước mẹ gì kia chứ?

                        - Nó không nước mẹ gì, nhưng thằng trưởng đoàn cứ rù rì rủ rỉ mãi rồi con Nguyệt thấy “giày cộp” và súng ngắn cũng oai. Hơn nữa nó lại có xe đạp riêng. Muốn đi Thanh Hoá chơi là nó đèo khỏi phải ngồi xe cây đau đít.

                        - Thì cứ mà ngồi xe đạp và khoái súng ngắn! Tao có ý kiến gì đâu!

                        Cao nói:

                        - Nhưng con nhỏ bị trong đoàn chế diễu quá xá nên chưa cắn câu đã cho thằng trung tá sụt cà lui té xuống Nông giang luôn.

                        - Thôi bỏ đi mày ơi! Tao chẳng thiết gì tới nàng ta nữa đâu! – Tôi gạt ngang – Nói chuyện bá láp nghe còn mát lỗ tai hơn.

                        Cao cười:

                        - Thì đây cũng là chuyện bá láp chớ chuyện hay ho gì! Nhưng chưa hết đâu. Sau khi hạ màn trung tá, tới lớp Ba Ke. Thằng Ba Ke này ở ngoài Tổng Cục đưa vào. Tao đang phụ trách đoàn, nó vào tự nhiên được bổ nhiệm thay tao để tao đi học ngoài Hà Nội. Thôi cũng được. Cái nghề này tao cũng chán thấy mẹ rồi…

                        Đọ, nó vào hôm trước hôm sau đã “biểu diễn” một màn “chỉ huy đồng ca”. Chả là nó có đi học Trung Quốc mà. Thế là nó để ý con Nguyệt. Con Nguyệt là biên đạo vũ nên có cơ hội học tập ở nó. Rồi đó hai bên thân nhau đến mức độ trong đoàn phải “ách” lại. Rồi có thêm đề tài “Rau muống mà cấy ruộng Nam. Ba năm chết héo biết làm sao đây“.

                        Con Nguyệt tự ái đá luôn phát thứ hai. Lúc đó tao đi học Hà Nội đã về. Tao xin chuyển ngành. Cởi áo lính, trở ra Hà Nội. Kỳ đó tao gặp mày, tao “tường thuật” cả cho mày nghe, nhớ không? Và có nói là con Nguyệt nó đang ân hận về cái lập trường kênh gân của nó, nó muốn gặp mày nhưng mày phớt lờ đi. Thiếu chi con “ghé” Hà Nội mà phải lụy vào một cái nơi bầm dập như vậy chứ!

                        - Thì tao có lụy đâu. Tao có lo ế đâu mà!

                        - Để tao nói nốt. Có lần nó ra Hà Nội, nó nhờ tao tìm mày dùm. Nhưng tao bảo là tao không biết chỗ ở của mày. Nó rầu lắm. Kể từ đó không có “chưn xanh mắt ếch” hoặc Ba Ke Bốn Ke nào vô được mà tụi trong đoàn thì lại chẳng thằng đực rựa nào sánh được với “nhà…à…dă..ăng”. – Cao dịu giọng – Thôi chín bỏ làm mười đi mày ạ. Cột kèo cũ coi vậy chớ vẫn hay hơn cái mới. Để nó âu sầu hoài, kể cũng tội nghiệp.

                        - Thôi đi mày ơi! Tao bây giờ lo đi “rải” phóng Miền Nam, chuyện lăng nhăng xin gác lại hết.

                        Cao cười hềnh hệch:

                        - Tàng hoài cha nội!! Vậy còn ngôi sao nào lấp lánh bên hông mày đó.

                        - Nó đi cùng đoàn với tao.

                        - Tao biết con nhỏ mà. Nó múa ba-lê cho đoàn Múa Trung ương chớ gì.

                        - Rồi sao?

                        - Thì đâu có sao, nhưng mà rau muống vô trong mình “trọ trẹ” nghe mệt lỗ tai lắm mày ơi. Các “via” nhà mình không “đắc co” cho đâu.

                        - Tao có gì mà phải “đắc co”.

                        - Mày là con quỉ mà! Tao không biết ư. Hở hở ra là bị mày. Láng cháng là mày yêu thôi. Đi như thế với mày, đố khỏi!

                        Hai đứa làm thinh. Một chập Cao nói:

                        - Nó muốn gặp mày được không? Tùy ý, tao không ép. Nhưng nó nhờ tao. Đây là lần thứ hai. Mày nên an ủi nó chút.

                        Tôi thở dài:

                        - Để về tới trỏng hãy tính.

                        - Mày dìa chớ “nàng” có dìa đâu mà tính.

                        - Vậy khỏi tính.

                        - Cái thằng ba trợn quá mậy! Chán mày quá!

                        - Ừ, chính tao cũng chán tao nữa là ai! – Tôi quơ ba que củi đứng dậy – Thôi đi về đằng chòi tao nấu nước trộm uống trà nói dóc. Trời nắng, củi khô, ít khói.

                        Thế là hai thằng kéo đi về lều của tôi. Trời nắng như thiêu. Mặc dù ngồi trong bóng mát mà mồ hôi vẫn đổ ròng ròng mồm thở như gà toi, há cả mồm ra mà không đủ.

                        Hoàng Việt và Thanh Cao cũng biết nhau từ lâu trong kháng chiến ở Miền Tây. Thấy Cao tới, Hoàng reo lên:

                        - Còn kí-nin đủ uống không chú em?

                        - Anh “rơ” cái bánh chè hả? Hừ hừ, tháo nó ra, gởi qua Bungari cho người anh em vô dầu mỡ rồi gởi trả về ráp lại mấy hồi.

                        Ba thằng ngồi dụm đâu uống trà nhu ba ông táo.

                        - Nè! Anh Bảy! – Cao gợi chuyện – Anh có gởi thơ về cho chị Bảy thường xuyên không?

                        - Mỗi năm 2 chiếc. Đi đường “Pa-Ghi” dô Sài Gòng.

                        - Hôn trên giấy rách hết cả giấy hả?

                        - Còn chú mày tài gì hơn tao?

                        - Hà hà… Mười năm chưa có cái nào! Phải được hai chiếc một năm cũng đỡ khổ.

                        Trong những thằng bạn tôi đi tập kết có hai thằng tôi cho là gan cùng mình. Cả hai đều là nhạc sĩ nổi tiếng cả. Một là nhạc sĩ Hoàng Lưu.

                        Con nhà giàu, con một của gia đình. Lưu vừa cưới vợ được hai tháng là bỏ vợ đi ra Bắc. Không tin tức gì cả. Làm ở đài phát thanh với tôi. Đau gan, ở một mình, trong một cái hang không có số nhà. Nửa đêm bị chảy máu nội tạng. Hai ngày sau cơ quan đến đập cửa (vì tìm mãi không biết Lưu ở đâu), Lưu đã chết cứng.

                        Thằng thứ hai là Thanh Cao. Vợ là tiểu thư đài các, học trường đầm về quê ở Cái Đuốc Lớn (Cần Thơ) ở với ông ngoại là đại phú hộ trong vùng ai cũng biết danh. Chị tên Tuyết Hoa. Con trai nhà giàu đi hỏi rất đông lại không ưng. Gia đình gả ép.

                        Đêm động phòng chị bỏ đi theo chàng nhạc sĩ nghèo rớt mồng tơi không có xu dính túi. Nhưng gia đình cưng con cháu nên đem cây gỗ cất nhà cho chị và Thanh Cao ở với nhau. Nhà trên bờ kinh Hoả Lựu. Chúng tôi về nghỉ ngơi ở đây luôn và nhờ sự tiếp tế của ông ngoại vợ mà vợ chồng Thanh Cao sống rất đầy đủ và hạnh phúc.

                        Cao bảo vợ gọi cô em gái đang học ở trường đầm trên Sàigòn về để “làm cột chèo” vói tôi cho đủ cặp. Nhưng không hiểu sao hồi đó tôi lại lơ là không quyết tâm, hơn nữa, coi vợ con là một sự vướng bận làm cho mình không tung cánh được. Còn mê kháng chiến quá mà. Tuổi xanh như lúa mai! Đời thanh niên sáng tươi! - Không muốn ai ràng buộc! Cho nên tôi đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng.

                        Khi đình chiến Cao đã có hai trai. Hai cháu bé thật xinh đẹp, bụ bẩm. Chị Hoa có đưa hai đứa bé xuống bến Chắc Băng để từ giã chồng. Tôi thấy chuyện chồng đi vợ ở lại có hai năm, ăn thua gì. Cả ngàn người như thế, không phải một mình Cao. Ra Hà Nội, Cao đến tôi chơi. Anh chàng mới ân hận.

                        Khi gặp tôi ở Trường Sơn thì Cao đã bước đi bước nữa với một ca sĩ nào đó. Trước khi hai bên ở với nhau, Cao có đến hỏi ý kiến của tôi, gần như xin thông cảm và muốn tôi gật đầu như một sự “cho phép”. Nhưng tôi nhất định không đồng ý “Mày muốn làm gì tùy mày, nhưng tao không chứng nhận vụ này. Về trong đó, nếu chị hỏi tao, tao nói tao không biết.”

                        Cao ở liều với nàng ca sĩ. Và tôi không lui tới nữa. Có đến ba bốn năm liền. Bây giờ gặp nhau ở đây. Cao nói vụ cô Nguyệt với tôi nhưng cũng là để nói về tình duyên của chính mình.

                        Tôi biết Cao sẽ mở màn và lại yêu cầu tôi thông cảm cho nên tôi nói trước:

                        - Mày coi anh Bảy cũng như mày, ảnh có lăng nhăng gì đâu!

                        - Dề! Mày biết ảnh không lăng nhăng bên Sophia hả?

                        - Nhưng đó là cỡi ngựa xem hoa. Còn mày, mày làm thiệt.

                        Cao ngồi tự nhiên, bắp thịt má giật giật. Hồi lâu mới nói:

                        - Sẵn có anh Bảy ở đây, tao xin công khai hóa vấn đề.

                        Hoàng Việt xua tay:

                        - Thôi tao không có muốn làm quan toà để về sau ăn chổi chà, cũng không muốn làm biện hộ sư để ăn đạp ăn đá. Chuyện của mày mày làm mày biết và mày chịu lấy. Tao biết mày đã có con với cô ca sĩ rồi, nhưng khu phố không chịu khai sinh phải không?

                        - Tôi không cần! Khai hay không nó cũng là con tôi, tôi nuôi! – Cao nói tiếp – Nhưng hôm nay sẵn có bạn bè tôi xin đưa ra một bức thư. -Vừa nói Cao vừa móc túi lấy ví và moi ra một bì thư. – Đây mày đọc đi, Vũ.

                        Tôi tiếp lấy mở ra đọc. Đó là bức thư của một người chú của Cao ở Sàigon gởi ra cho Cao. Và một bức thư của chị Tuyết Hoa. Thư của chị Hoa viết rằng chị không thể sống cô đơn lâu hơn nữa vì những khó khăn mà chị không vượt nổi. Cho nên chị đến nhà chú ruột của Cao để trình bày (cha mẹ Cao đều qua đời khi Cao hãy còn bé) và xin phép chú đi lấy chồng nuôi con.

                        Lá thư của chú Cao viết:Chú đồng ý vì đàn bà không thể không có chồng nhất là người đàn bà còn quá trẻ lại có hai con, v.v.. mà ngày chồng về thì không có hạn. Vậy việc “cháu Tuyết Hoa tái giá trong lúc cháu vẫn còn sống là điều có vẻ trái nghịch nhưng theo chú lại rất hợp lý…”

                        Tôi như thấy trời đất xoay vần. Bản tình ca khởi đầu đẹp đẽ biết bao, đoạn giữa cũng phong phú biết bao! Nhưng kết thúc lại vô cùng bi đát.

                        Tôi trao trả hai bức thư cho Cao. Cao lặng lẽ đút vào túi.

                        Nước trà đang ngon bỗng nhiên đắng lạ lùng. Cao rưng rưng nói:

                        - Tao không muốn cho mày biết để mày khỏi buồn lây. Tao biết mày mến gia đình tao, thương mấy đứa nhỏ dữ lắm. Sự đổ vỡ của đời chúng tao làm mày khổ. Do đó tao giấu biệt.

                        Nếu trong lúc đó (1959-60) tao cho mày coi hai bức thư này thì mày sẽ cho răng tao mạo ra để dựng cớ mà làm càn. Bởi vì có rất nhiều đứa “lập hồ sơ giả” để xin tổ chức cưới vợ. – Cao tiếp- Trong số bạn bè mình, có thằng đã chơi mững đó rồi.

                        - Thằng Duy! Bạn chúng mình! Nó làm ở Bộ Công Nghiệp!

                        - Phải đó! Ba bốn năm liền nó lặn mất tiêu không đến với tao.- Cao nói.

                        - Nó bịa một bức thư gởi từ Paris. Nói rằng vợ nó đã lấy chồng. Nó cũng đem thư đến cho tao xem để tao “thông cảm” nhưng tao nhìn ra ngay tuồng chữ của nó. Tao nói thẳng ra, không sợ nó giận. Vì tao biết vợ chồng nó đã hục hặc với nhau hồi ở Rạch Ba Ngọn kia mà. Nó muốn thôi mà vì Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh bắt gắt quá nó thôi không được.

                        Khi nó về cất nhà ở địa phương xong, nó bỏ vợ lăn lóc và đi lêu bêu, kháng chiến cà nhõng với chức chánh trị viên đại đội hồi xưa. – Tôi nói để cho Hoàng Việt biết một trường hợp lừa gạt của một ông cán bộ tập kết luôn. – Nó đã ăn ở với một người đàn bà goá rồi nó mới đến thanh minh với tôi anh Bảy ạ! Thế đó! Hồi ở trong Nam, chị Hằng, vợ nó than với tôi luôn.

                        Chị ấy nói:”Anh Duy làm gì kỳ quá! Ở với tôi nữa thì ở, không thì tôi cho ảnh tự do! Đã có hai mặt con rồi, làm vậy chị em cười tôi chết. ” Khi chị sanh đứa bé thứ hai, một đứa con gái rất đẹp, anh ta về nhà kiếm chuyện gây lộn rồi ẳm con bé lội qua rạch đi…

                        - … Hắn đi qua nhà tao ở Hỏa Lựu và bảo vợ tao cho con bé bú dùm. Bà già vợ nó cho người đi tìm bắt đứa cháu về!… Một thằng khùng!

                        Tôi tiếp:

                        - Nó không khùng đâu. Nó vặn nài bẻ ổng như vậy là nó muốn nói gì đó chớ. Bởi vậy khi nó đưa “bức thơ Paris” ra cho tao xem là tao gạt ngay.

                        Hoàng hỏi Cao:

                        - Rồi mày tính sao?

                        - Thì tính như vậy đó! Tính rồi còn tính sao gì nữa!

                        - Không! Tính vụ vợ con mày ở trong Nam kìa.

                        Cao thở dài:

                        - Bây giờ chúng nó đâu còn là vợ con của tôi nữa anh Bảy!

                        - Tuy “lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. – Hoàng cười gượng gạo – Vợ tào khang đâu có bỏ được chú em! Anh Bảy đây có chết bỏ xác dọc đường thì thôi chớ còn sống thì nhất định phải lết về tới nơi thăm con mẹ xề bằng được.

                        - Trường hợp anh khác trường hợp của tôi.

                        - Sao hồi đó không đem vợ con đi?

                        - Thì tưởng hai năm về. Anh Bảy ơi, tui đâu có dè cái sự đời nó thế này.

                        - Mày có định về không?

                        - Tôi ấy à? Xin về làm cái con mẹ gì nữa chứ?

                        - Mắc gốc rau muống rồi phải không?

                        - Không phải vậy đâu anh Bảy ơi! Lỡ dỡ như thế này rồi, tôi không muốn về nữa. Tôi ở luôn ngoài này thôi!!!

                        - Thôi mà, đừng có nói lẩy . Mày bỏ vợ chứ bỏ con được sao?

                        - Con không bỏ được mà vợ cũng không bỏ được, nhưng hoàn cảnh nó thế… Tôi phải đành nhắm mắt đưa chân. Tới đâu thì tới!

                        Cao uống thêm tí trà rồi nói với tôi:

                        - Tao nhờ mày một chuyện.

                        - Chuyện gì?

                        - Mày đem thư về cho vợ tao được không?

                        - Biết còn ở Hoả Lựu không?

                        - Nếu không thì mày hỏi bà con lối xóm. Trong vườn dừa có nhiều bà con biết và mến chúng mình. Chắc chưa ai quên mình đâu.

                        Mày nhớ cái ông học đàn ghi-ta với tao không? Với ông Ba bên kia rạch, mỗi lần mày về nhà tao mày hay sang đó ngủ để nghe ổng đàn bầu. Vợ tao đi đâu bà con cũng biết mà.

                        - Ừ viết mau đi.

                        - Tao viết lâu rồi, nhưng không gởi được! Với nhờ mày đem cái hình tao về cho mấy đứa nhỏ coi . Nói đây là thằng cha khốn nạn của nó. Không biết tụi nó bao lớn rồi?

                        - Đứa mười hai , đứa mười tuổi.

                        - Không biết có học hành gì không hay chăn trâu chăn bò?

                        - Ông bà nó giàu có thế mà…

                        - Còn khỉ mẹ gì. Bộ đội và cơ quan ăn tàn mạt hết. Cô của vợ tao đã bỏ về thành hồi trước hoà bình. Phải hồi đó mày chịu làm cột chèo với tao có hai đứa hủ hỉ với nhau đỡ khổ biết mấy.

                        Cao nói vậy rồi gục đầu khóc mùi. Tôi hết biết nói sao. Cái thằng coi vậy mà yếu quá. Tôi không muốn nói gì thêm.

                        Hồi lâu Cao hỏi:

                        - Mà mày định không gặp con Nguyệt thiệt hả. Để tao trả lời dứt khoát cho nó kẻo nó chờ đợi hoài.

                        Tôi nói:

                        - Mày bảo cô ta là coi như tao không có ở đây. Nào, đưa hình và thư đây. Tao hứa với mày là khi về tới nơi tao sẽ tìm cách đến gặp vợ con mày.

                        (Nhưng khi về đến nơi tôi không giữa được lời hứa. Không phải vì tôi là thằng bạn quen thói thất tín nhưng vì không thể nào đi nổi xuống Miền Tây.

                        Nếu đường đi suông sẻ thì tôi cũng ráng tìm hiểu một sự thực để có thể sau này viết tiểu thuyết, nhưng khi về R thì lại được phân công đi Bến Tre quê tôi. Từ Bến Tre mà xuống tới Cần Thơ thì phải vượt qua không biết bao nhiêu sông và lộ mà hồi kháng chiến tôi đã vượt và suýt chết không biết bao nhiêu lần rồi.

                        Bây giờ xương đầu gối đã khô, túi mật không còn đầy, một đoạn đường gian nan như vậy, tôi không thể đi nữa, nhất là sau khi đã lội suốt Trường Sơn rồi… Trên đường về Bến Tre tôi có gặp một đoàn về Miền Tây, tôi có nói rõ địa dư của vùng nhà chị Tuyết Hoa và nhờ một anh bạn – nếu có dịp đi qua đó thì tìm đến trao thư và ảnh dùm.

                        Không biết kết quả thế nào. Nhưng khi hồi chánh về Sàigòn, tôi có lên Tivi nhắn tin. Tôi tin chắc chị Tuyết Hoa có nghe…)

                        Cao nói:

                        - Để tao viết thêm ít hàng. Chừng nào mày đi?

                        - Chừng nào có lệnh anh Sáu thì đi. Ảnh đang cho vô từng đợt sau khi chấn chỉnh lại đội ngũ.

                        - Được rồi! Tao sẽ đưa thơ cho mày trước khi đi.

                        Cao đứng dậy ra về.

                        Trời nắng chang chang như lửa xối xuống những ngọn cây rừng nhưng tim tôi nghe lạnh buốt.

                        Tôi trèo lên võng nằm lắc lư cho cái không khí nặng nề chuyển động tan bớt đi sự ảm đạm do câu chuyện gây nên.

                        Hoàng Việt cũng nằm thườn ra thở dốc.

                        - Thế là tiêu tùng một cặp uyên ương. Cũng vì tập kết mà ra cả. Còn một vài thằng nhạc sĩ nữa cũng đang treo mõm ngoài Hà Nội. Lâu nay mày có gặp thằng Phạm Văn không?

                        - Chừng ba tháng trước khi vô trường đi B.

                        - Nó còn khùng khùng nữa hết?

                        - Vẫn thế thôi!!

                        - Còn thằng Lưu Kiều?

                        - Thằng này thì lo buôn lậu đâu có thiết gì tới vợ con.

                        - Còn thằng đại uý gì, rể ông Mười Huệ?

                        - Tôi không quen nhiều, nhưng thấy chiều thứ bảy nào nó cũng chở cô em vợ đi Bờ Hồ. Cô em thì ăn mặc bảnh tẻng còn y thì áo quần nhổm nha.

                        - Còn thằng Quốc Hiên, mày có nghe tin gì mới về nó không?

                        - Tin gì mới?

                        - Sau khi nó “cấy” con Lịch Dzung ở xưởng phim rồi nó còn “ghép” con nào nữa không?

                        - Ồ, hắn đi học hát ở Hungari mà anh không có liên lạc sao?

                        - Có nghe nó đi nhưng tao không biết tin gì về nó cả.

                        Rồi Hoàng thở dài:

                        - Như mày vậy mà khoẻ! Có vợ có con mệt lắm mày ơi!

                        - Không “hoạt” hai cái lỗ tai được hả?

                        - Không phải chuyện đó đâu. Tao nói nghiêm túc đấy. Mấy đứa con tao hồi tao đi tập kết thì đứa đã mười tuổi, đứa bảy tuổi. Nay lớn lắm rồi. Mẹ nó chụp hình gởi cho tao, tao đâu có nhìn ra. Mẹ kiếp, mình chống đế quốc mà đế quốc lại nuôi vợ con mình. Thế mới lạ!

                        - Đế quốc nào mà nuôi vợ con anh?

                        - Thì mình đi hết chín năm, rồi đi luôn mười năm nữa, bỏ vợ con lại Sàigòn. Vợ làm mướn, có tiền, nuôi con, còn con thì đi học nay có đứa chắc đã đỗ tú tài. Đế quốc không nuôi là gì?

                        - Tụi Sàigòn nó không biết anh đi tập kết à?

                        - Sao không biết, nhưng nó không khó dễ gì. Bạn bè tao ở Sàigòn cùng chơi nhạc cho các “bar” ngày trước thằng nào lại không biết tao đi kháng chiến, nữa là công an mật thám – Hoàng Việt thở dài sườn sượt – Tao nghe chuyện thằng Cao mà tao ớn lòng.

                        Tao không hiểu nếu trường hợp của nó mà xảy ra cho tao thì không biết tao làm sao.




                        Hết Chương 10 - Xem Tiếp Chương 11


                        sigpic

                        Comment


                        • #13
                          Vượt Trường Sơn 3




                          Thấy Hoàng đau khổ lo âu thực sự, tôi không đùa nữa. Tôi cảm thấy buồn.

                          Thằng Lưu chết, vợ con không hay, gia đình không biết, mà chết ngay giữa thành phố Hà Nội. Riêng nhạc sĩ họ Phan thì tôi biết nhiều.

                          Tôi và hắn rất tương đắc trong nhiều nhạc phẩm. Hắn làm nhạc bài nào cũng ném cho tôi làm lời, hoặc nhạc và lời của hắn thì hắn đưa cho tôi chữa tiếp.

                          Hắn có cô vợ Nhật Bổn lai đẹp lắm. Hồi ở trong Nam hai đứa được một cái giải thưởng hạng nhất về Âm Nhạc, hắn lãnh tiền chia cho tôi rồi về cất nhà ở Bạc Liêu chữa bệnh. Một lần gặp hắn ở Thái Bình, từ trong tiệm nước Chú Xồi đi ra. Hắn nói:

                          - Tao vừa làm xong một bài hay lắm!

                          Tôi nói ngay:

                          - Đưa tao làm lời kiếm một giải thưởng nữa ăn bánh bao với hủ tiếu Chú Xồi chơi.

                          Hắn xua tay:

                          - Mày không làm được .

                          - Bài gì mà dữ vậy??

                          - Rimifông tiến hành khúc!! Mày đâu có làm được!

                          Tôi hỏi:

                          - Ai bảo mày thế?

                          - Bác sĩ bảo phổi tao lủng hai ba lỗ rồi!

                          Khi ra Hà Nội hắn làm ở Đài Phát Thanh với tôi một lúc. Độ khoảng 1958, một buổi sáng, hắn lên gặp Ban Giám đốc Đài đòi giải thích cho hắn nghe: Tại sao Tổng tuyển cử hiệp thưong qua đã lâu mà không thấy nói gì?

                          Ban Giám đốc – không rõ là ông nào, có lẽ Huỳnh Văn Tiểng – không biết cách nào làm cho hắn bớt nổi khùng, bèn bảo hắn chờ Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến nói chuyện cho toàn cơ quan nghe rồi đả thông tất cả. Nhưng hắn nổi khùng ngay nói tạt vào mặt Ban Giám đốc: “L..n vợ mấy ông là l…n người còn l…n vợ tôi là l…n bò. Các ông muốn tôi bỏ đi bao lâu cũng được!”.

                          Rồi bất ngờ, hắn chụp lấy con dao rọc giấy trên bàn, vạch áo ra rạch sả ngực và cánh tay mặt của hắn. Rồi cứ để máu chảy ròng ròng ướt áo, hắn đi xuống phòng làm việc. Ai thấy cũng phải kinh tâm. Chỉ có mấy thằng Nam Kỳ …cục mới làm chuyện đó thôi.

                          Nhưng câu nói của hắn đã loan đi khắp Hà Nội. Nhất là ở Đài Phát Thanh ai cũng “ớn” ông nhạc sĩ “hăng xờ máu” này.

                          Ít hôm sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến nói chuyện về tình hình Miền Nam và hiệp thương tổng tuyển cử. Có một anh cán bộ Nam Kỳ… cục đứng lên chất vấn thẳng thừng không ai bụm miệng kịp:

                          - Xin thủ tướng cho chúng tôi biết… vậy chớ tại sao hồi chúng tôi xuống tàu, Trung ương có hứa hai năm về, nay đã bốn năm rồi! Thủ tướng có thể cho chúng tôi biết là chừng nào chúng tôi về Nam được không?

                          Thủ tướng Phạm Văn Đồng giận dữ, đáp:

                          - Làm cách mạng chứ phải làm thầy bói hay sao mà nói rõ ngày tháng cách mạng thành công? – Rồi ông ngoe nguẩy bước xuống bục không nói nữa.

                          Tôi có dự cái buổi nói chuyện đó. Bị hỏi bất ngờ, thủ tướng lúng túng nên đáp lời không được “biện chứng” lắm. Điều đó làm cho Ban Giám đốc xanh mặt.

                          Sau khi thủ tướng ra về, Ban Giám đốc bèn mời ông cán kỳ cục lên văn phòng không rõ để làm gì, nhưng sau đó anh chàng biến đi đâu mất.

                          Từ đó mỗi lần có ông lớn tới Đài Phát Thanh nói chuyện, Ban Giám đốc đả thông trước: ” Các đồng chí có thắc mắc vấn đề gì, xin cho Ban Giám đốc biết trước, chúng tôi sẽ ghi chép từng câu và bẩm lên đồng chí trả lời chung một lúc, không nên hỏi lẻ tẻ!”

                          Trước đó cũng có một vụ động trời làm cho Đài Phát thanh trở thành một cơ quan nổi tiếng bê bối nhất Hà Nội. Tác giả vụ động trời này chính là tôi.

                          Tôi đã viết về vụ ấy rải rác ở nhiều báo hải ngoại, lần này xin ghi lại đầy đủ nhất vì vụ đó có dính liền tới vụ vượt Trường Sơn của tôi ngót mười năm sau.

                          Số là hồi chuẩn bị xuống tàu tập kết, tôi được cho đi làm phóng viên của tờ Quân Đội Miền Tây để viết những bài tường thuật về sự đón tiếp nồng nhiệt dân Nam Bộ tập kết của nhân dân Miền Bắc và của Bác Đảng ở bến Sầm Sơn.

                          Mỗi chuyến đi ra vào chừng hai tuần lễ. Trong thời gian qui định cho cuộc chuyển quân ở bến Chắc Băng là ba tháng, tôi có thể làm con thoi ra vào ít nhất là năm chuyến, viết năm bài động viên quân dân Miền Tây mạnh dạn rứt áo ra đi.

                          Không vương thê nhi
                          Ra Miền Bắc nước tuyết rét mướt.

                          Tôi ra tới Sầm Sơn đi tìm tài liệu xong, chuẩn bị theo tàu trở vô viết bài cho toà báo lúc bấy giờ còn đóng ở Chắc Băng và hãy còn in báo rào rào. Giữa lúc đó thì tôi bị ở trên giữ lại, với lý do: Không cần loạt bài ấy nữa.

                          Tôi chới với ngay vì cái “lệnh phản lệnh” bất ngờ ấy. Tôi buồn lắm. Vì hai lẽ: lẽ thứ nhất là hứa với bạn bè còn trong Nam sẽ nhậu một trận đái ra rượu, mửa tới mật xanh trước khi xuống tàu.

                          Lẽ thứ hai là gặp một số người Nam vừa ra còn nằm ở Sầm Sơn đã tỏ ý chán nản do đó tôi hoang mang và trong đầu, nói nào ngay chưa có ý định ở hẳn lại không đi tập kết, nhưng đã manh nha cái ý định đó rồi. Bây giờ bị giữ lại thì hết phương cục cựa.

                          Sau này tôi mới đoán ra ý đồ của ở trên là sợ tôi trở về Chắc Băng nói tùm lum chuyện này chuyện nọ làm nản lòng ba quân.

                          Cái ý đinh manh nha ấy lớn dần khi tôi vào làm ở Nông trường Trình Môn tỉnh Nghệ An và khi tôi ra công tác ở Đài Phát thanh.

                          Tôi cảm thấy tôi không thể nào sống nổi trên đất Bắc. Cho nên một buổi sáng kia, tôi lấy chiếc xe đạp nội hóa sơn màu vàng hiệu Alpha của cơ quan, tôi đạp thẳng một hơi ra trụ sở Ủy Ban Quốc tế ở đường Đinh Lê gần Bắc Bộ Phủ, cạnh đường Ngô Quyền.

                          Tôi dựng xe đạp vào cái chòi gác trong đó đang thòi ra một cái đầu đội mũ sao vàng.

                          - Đồng chí đi đâu đây? – Người lính hất hàm hỏi,

                          - Tôi muốn gặp Ủy Ban Quốc tế.

                          - Có việc gì ?

                          - Theo Hiệp đinh Giơ-ne thì trong vòng… tháng (tôi không nhớ rõ thời gian được ấn định này), người Nam lẫn người Bắc đều có quyền ra vào với sự giúp đỡ của Ủy Ban Quốc tế để định cư. Tôi muốn nhờ Ủy ban đưa tôi về Nam.

                          Người lính ngập ngừng một chốc rồi chồm qua cửa chòi gác ngó chiếc xe đạp. Xong, anh ta vui vẻ:

                          - Bữa nay… Ủy Ban đi vắng cả. Vậy phiền đồng chí trở về cơ quan. À mà quên, đồng chí làm ở cơ quan nào ?

                          - Đài Phát Thanh.

                          - Ờ, ờ, ờ, từ đó tới đây cũng gần. Vậy đồng chí trở lại ngày mai, sẽ có người tiếp mà… đồng chí muốn Gia Nã Đại, Ba Lan hay Ấn Độ?

                          - Ai cũng được miễn Ủy Ban Quốc Tế thì thôi. Chào đồng chí.

                          Tôi lên xe đạp về cơ quan một hơi yên chí lớn mình sẽ được gặp Ủy Ban Quốc Tế ngày mai. Thực tình, từ ngày ra Miền Bắc tôi thấy không thể sống được. Cái Miền Bắc Độc lập Tự do sao nó không Hạnh phúc một tí nào, Hạnh phúc.

                          Đó là cái gì? – Cơm ăn áo mặc, nhưng không phải chỉ có thế. Còn Tự do nữa chứ. Tự do là cái gì? Tôi không biết nhưng tôi cảm thấy cuộc sống ở đây không thoải mái. Nó như thế nào ấy, không phải cái mà mình mơ ước khi khởi đầu kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra tôi còn nhớ nhà quá sức, không chịu nổi.

                          Ở trong Nam tôi vẫn đi xa nhà – liên tục chín năm – nhưng tôi còn được thư từ, còn được nhắn nhe còn được biết cha mẹ tôi mạnh khỏe hay đau yếu thế nào. Còn ra đây bịt bùng bốn phía. Mà ngày về thì không có. Tương lai chỉ là một dấu hỏi không ai trả lời. Thế nên con đường lên Ủy Ban Quốc tế là con đường vừa nhanh vừa rẻ lại vừa hợp pháp.

                          Tôi vừa đạp xe về tới cổng Đài Phát Thanh ở số 52 Quán Sứ thi đụng một lô nào là trưởng phòng trưởng ban đứng giàn chào tôi.

                          - Đồng chí đi đâu đấy ?

                          - Tôi đi tìm đề tài.

                          - Đồng chí ra Ủy Ban Quốc Tế phải không?

                          Tôi thấy không thể chối được nên chịu thật.

                          Tôi phải lên Ban Giám đốc. Tôi vẫn nói thật không chối quanh một chút nào. Mọi người đều ngẩn ngơ. Tôi hơi sợ nhưng vẫn không nguy biện gì về việc làm của tôi cả. Và đến giờ phút này tôi mới hiểu ra là đồng chí gác cổng người anh em Ủy Ban Quốc Tế đã “giúp đỡ” tôi, báo cáo bằng điện thoại về Đài Phát Thanh.

                          Ngay chiều hôm đó, một cuộc họp mặt toàn cơ quan. Người đông đến nỗi không có đủ chỗ, phải đứng cả bên ngoài hành lang. Một cuộc kiểm thảo vĩ đại. Có sự chứng kiến của toàn ban Giám đốc Đài: Trần Lâm, Nguyễn Kim Cương, Huỳnh Văn Tiểng (hai ông Phó là dân từ Nam tập kết ra Bắc). Chủ tọa phiên họp là Nguyễn Thanh Đạm, Thư ký Công Đoàn của Đài.

                          Tôi giơ mặt ra chịu đấm. Nhưng thật bất ngờ. Chẳng có “cú đấm” nào cả. Chỉ toàn “cú vuốt.” Nghĩa là không ai nói mạnh hoặc sỉ vả chỉ trích lập trường quốc tế của tôi. Đúng ra đó là chủ trương của Ban Giám đốc.

                          Các ông ấy không muốn làm mạnh, sợ tôi liều mạng. Dân Nam Cờ mà. Bất mãn rồi thì gì mà không dám làm. Ngoài ra cũng có thể là vì trước đây ít tuần có một anh bạn của tôi cũng làm ở Đài này đã chui bằng đường nào không biết mà qua Lào, xổng tuốt về Sài Gòn. Đài Phát thanh Sài Gòn la om lên…

                          Anh ta nói với tôi: “Tao nhớ vợ quá, chịu hết nỗi rồi”. Ít hôm sau thấy anh ta mất tiêu. Sau nghe ra anh ta đi đường Nghệ An lên Đô Lương.

                          Do “năm bảy xôi nhồi thành một chõ” như thế nên tội của tôi đáng lẽ phải đi cải tạo mút mùa nhưng lại chẳng hề chi. Chỉ có một tiếng nói nặng của anh Phạm Tường Hạnh (bây giờ là nhà văn kêu rêu xã nghĩa to tiếng nhất nhì Sài Gòn), Hạnh nói rằng tôi “khờ khạo!” Thế thôi còn ngoài ra không ai nói gì kể cả các vị cò mồi được mớm trước cũng thun cổ… cò.

                          Nhưng như thế đâu đã yên thân cho cái thằng lên UBQT! Đâu vài hôm sau tôi lại được Ban Giám đốc mời. Ông Huỳnh Văn Tiểng, Phó Giám đốc Đài (bây giờ là tay tổ trong Câu lạc bộ Kháng chiến chống đảng kịch liệt ở Nam Kỳ Ha… ha… Té ra nhờ thời gian (ba mươi hai năm! Cũng hơi nhiều ! mà tôi được minh oan.

                          Vì rằng tôi trốn chạy xã nghĩa hồi đó là phải lý lắm – trước ông Phó Giám đốc những ba mươi hai năm!). Ông Tiểng đưa cho tôi xem một tờ báo của Sài Gòn tường thuật về vụ lên UBQT của tôi với dòng chữ tít rất to – (Rất tiếc tôi không được ông Tiểng cho xem tên tờ báo mà chỉ cho tôi xem bài báo: “Xuân Vũ lên UBQT đòi về Sài Gòn – VC đã được và đày đi nông trường!” Tôi nhớ nhất là chữ ĐÀY!!

                          Bằng một giọng rất nhỏ nhẹ gần như vỗ về. (Đó cũng là cá tính của ông. Ông rất to con nhưng nói rất nhỏ và câu rất ngắn. Khi cười chỉ nhếch môi). Ông Tiểng nói với tôi:

                          - Trong Sài Gòn địch đã biết hết, vậy anh phải lên đài nói vào trong đó để đính chánh cho Miền Bắc.

                          Một bài đã được ai đâu viết sẵn đưa đến cho tôi. Đại ý “Tôi, Xuân Vũ không có lên UBQT cũng không có bị đày.” Bài này phát đi phát lại suốt tuần trên làn sóng phát vào Nam từ 10 đến 10:30 đêm.

                          Cái sự đời như vậy đó. Khổ một nỗi là Phan Văn, kẻ rạch ngực đâm tay bằng dao rọc giấy và tôi, kẻ lên UBQT là đồng tác giả của một bản nhạc (Niềm Thương Mến) được giải thưởng Cửu Long năm 1950-51 chi đó, cho nên vô tình chúng tôi lại đồng tác giả của một bản “Niềm Ai Oán” sáng tác giữa lòng Hà Nội xã nghĩa không được giải thưởng nào, nếu có chắc chắn là giải thưởng Hỏa Lò.

                          Gần mười năm sau khi tôi được gọi vào trường đi B, sau khi bị các thứ tổ chức duyệt lý lịch từ đời ông cố tới đời con tôi (lúc đó tôi chưa có vợ, nếu không con tôi sẽ liên lụy), tôi vẫn còn nơm nóp lo sợ cho cái “gáp” UBQT của tôi đã tưởng bị xóa nhòa bằng một trăm thứ công tác phóng viên do tôi đảm nhận để chuộc tội tổ tông – nào dè đến cửa ải chót để lọt qua cổng trường đi B, anh thẩm vấn viên “mác” Năm Eo còn cười mũi với tôi:

                          - Hồi năm 56… đồng chí có lên UBQT xin về Nam phải không?

                          Tôi giật nẩy người, ú ớ. Hắn tiếp:

                          - Nhưng mà đồng chí đã công tác tốt liên tục một thời gian dài, (Tôi hú vía) cho nên tổ chức mới gọi. Về trong đó đừng tái phạm nữa.

                          - Vâng ạ !

                          Thế là lọt. Nhưng sự huấn luyện còn kéo dài ba tháng. Trong vòng ba tháng đó biết đâu tôi sẽ chẳng bị thẩm vấn tiếp nữa? Tôi cũng khôn. Tôi bèn tìm cách gặp hắn. Chiều thứ bảy không ai được ra khỏi trường mặc dù là người Hà Nội đi nữa.

                          Nhưng tôi được ra. Mà tôi lại được xe hơi của Ủy Ban Thống Nhất của Trung tướng Nguyễn Văn Vinh tới chở đi công tác đặc biệt do đồng chí Năm Eo kể trên (có lẽ là bà con của Võ Văn Mờ, em của Võ Văn Mịt bán đất quê nhà mà lấy tiền tại Hà Nội – xin xem Xương Trắng Trường Sơn). Đồng chí Năm Eo ngồi xe ra khỏi cổng để đưa tôi về tận nhà…

                          công tác đặc biệt. Chả có cái đếch gì đặc biệt cả. Tôi “hiến” cho đồng chí tất cả đồ đạc của tôi mua sắm trong vòng mười năm ở đất Bắc (Trước đây tôi cho anh Kim Lân nhưng ảnh không nhận món nào hết cả trừ hai cái chậu sành xưa để trồng kiểng chơi) gồm giường, tủ áo, võng và vô số bút giấy đặc biệt có đôi giày da nâu tôi mới đóng. Hắn xỏ vào và đi luôn. Rất vừa! Rồi gói đôi dép cao su cặp nách.

                          Thế là xong. Xong tất. Tưởng vậy ai dè chưa. Một hôm hắn lại gọi tôi lên văn phòng để phụ nhĩ một vấn đề cơ mật. Tôi sợ quá. Tôi nghi là cho gà ăn xong, gà quẹt mở…nhưng không, đồng chí ta chưa đến đỗi tệ như gà. Hắn cho tôi xem hồ sơ khám sức khỏe và nói:

                          - Bác sĩ Việt Xô bảo đồng chí có áp huyết cao, không leo núi được.

                          - Vậy hả đồng chí !

                          - Thì đây nè, đồng chí đọc thử.

                          - Đồng chí “lo” dùm tôi được không?

                          - Được mà. Để tôi bảo nó. Cái thằng bác sĩ Tào cà thọt chân, nó là em út của tôi. Nó đến Ban Thống Nhất khám cho cán bộ đi B. Nó dưới quyền tôi mà.


                          .................................................. ....... .................................................. .....


                          Đồng chí nói vậy có lẽ là để cho tôi biết là mọi việc ra vào trường đi B này là phải qua tay đồng chí cả và để cho tôi hiểu rằng số đồ tôi “hiến” cho đồng chí để lọt vô đây không nhiều lắm đâu – Nhất là đối với một người chạy trốn Miền Bắc xã nghĩa mười năm trước như tôi thì bao nhiêu lại không dám hiến để đi cho lọt.

                          Quả thật tôi đã lọt và đã về tận đây rồi, nơi chỗ tôi gặp ông Mặt Sắt và vừa uống trà nói chuyện bất mãn Hà Nội mà không sợ ai báo cáo lên trên vì những người ngồi quanh bình trà đều bất mãn như tôi hoặc hơn tôi.

                          Câu chuyện lúc nãy tới đâu rồi nhỉ ?

                          À, tới chỗ nhạc sĩ Hoàng Lưu chết cứng trong hang không ai biết.

                          Lúc đó ai cũng bất mãn, ai cũng muốn về Nam. Không ai thiết tha với cái gọi là chủ nghĩa xã hội kỳ cục. Những anh chàng có vợ ở trong Nam thì ân hận nhưng không làm gì được, như ông bạn nhạc sĩ Phan Văn của tôi.

                          Sau vụ ăn vạ không ăn thua chi với Ban Giám đốc Đài Phát Thanh, tôi không thấy anh ta tới đây nữa. Một hôm gặp gặp anh ta đi xích lô chạy loong toong trên đường Tràng Thi, tôi ngoắc lại. Anh ta ngồi ôm một chiếc “contre basse” tổ bố. Đầu chải Tango ba tàu, quần áo trắng như tuyết. Giày cũng trắng. Kính trắng như thường lệ. Anh ta nheo mắt hỏi:

                          - Đi với tao không ?

                          - Đi đâu ?

                          - Hoà nhạc.

                          - Nhạc gì ?

                          - Nhảy! Rồi tiếp – Tao ra khỏi đài lâu rồi. Này mày xem tao mang giày gì đây?

                          - Giày Bata chợ trời chớ giày gì mậy!

                          Anh ta giơ chân lên, cười:

                          - Peau de daim nghe (da con mang).

                          - Giày gì dã man vậy ?

                          Anh ta cười khì khì:

                          - Nghèo quá. Kiếm ăn bữa đực bữa cái. Cho tao xin vài hào mua thuốc lá ! .

                          Nghèo lắm nhưng nể tình bạn cũ, tôi móc hào bạc cho người “đồng tác giả” năm xưa. Từ đó tới sau không gặp nữa. (Mãi đến khi tới về Sài Gòn nghe anh em hồi chánh sau tôi cho biết Phan Văn cũng đã vô tới R. Tôi nghĩ:

                          Đó là người Nam Kỳ cuối cùng trên đất Bắc được về quê bằng đường rừng. Nhưng tiếc thay chúng tôi không làm sao đứng chung tên cho một bản hát nào nữa. Nó mà “được” đi Nam, thì đúng là chuyến tàu vét.)

                          Đúng như ông Mặt Sắt nói hôm nào: “Đường Trường Sơn là nơi bộc lộ tất cả những khuyết điểm của đảng ta!” Chẳng những khuyết điểm mà còn những nỗi niềm tâm sự không dám nói ra trên đất Bắc.

                          Nằm ở đây, ghê rợn vô cùng. Ngoái ngược lại mười năm trên đất Bắc lại càng ghê rợn. Quá thật! Ghê rợn vô cùng. Kẻ nào đã nói rằng: “Chế độ ta vĩ đại, sống một ngày trong chế độ ta bằng sống hai mươi năm trong chế độ tư bản!”

                          Có đúng như vậy không? Đúng rất đúng! Sống một ngày ở chế độ xã nghĩa đau khổ bằng sống hai mươi năm trong chế độ tư bản. Đói rét, ốm đau, bệnh tật, ly tán,… đủ thứ. Một ngày gộp lại bằng hai mươi năm. Sống một ngày già đi hai mươi năm. Đúng với cái nghĩa đó đó!

                          Tôi nghĩ bậy chơi vậy, khi nằm phơi nắng tuổi thanh xuân trên lưng đèo 1001, khi phơi sương tóc xanh trên đỉnh Cardamomes, khi vùi sâu nhiệt tình trong lòng suối độc. Vậy mà bây giờ – sau bốn mươi lăm năm xây xã nghĩa, mười lăm năm giải phóng, dân Việt Nam ở Miền Bắc còn thèm miếng cơm trắng còn dân Miền Nam thì vượt biên ào ào . Đúng là một ngày xã nghĩa bằng hai mươi năm tư bản.

                          Bạn đọc thân mến,

                          Có nhiều độc giả của Đường Đi Không Đến và Xương Trắng Trường Sơn “than phiền” rằng tại sao tác giả không ngăn chương mà cứ viết luôn một mạch 450 trang đọc mệt quá mà không buông sách được vì “không có chỗ nghỉ xả hơi.”

                          Xin cảm ơn độc giả đã “than phiền” nhưng kẻ cầm bút này cũng vẫn không ngăn chương gì hết ráo, vì cuộc sống ở Trường Sơn chỉ có trạm, có đồi, có dốc, có suối , có đói, có chết, có bom đạn, có kiết lỵ và thương hàn, có quáng manh và phù thủng,… mà những thứ này thì nó giống nhau hết cả. Ngày nào cũng thấy cũng chịu bấy nhiêu đó thôi, cho nên chương nào cũng giống chương nào, ngày sau giống ngày trước, ngày trước nữa lại giống ngày chưa tới.

                          Bạn đọc, đọc những quyển hồi ký Vượt Trường Sơn không cần phải đọc từ trang đầu trang cuối, mà đọc từ trang cuối lộn ngược ra đầu cũng được, hoặc giở đâu đọc đấy, nó cũng y chang như nhau và nó cũng cho bạn một cảm giác kinh hoàng như nhau.

                          Một thằng bạn nối khố cửa tôi – cũng thuộc loại chồng Bắc vợ Nam – trong một “bữa chiêu đãi sữa trâu” của Viện Nông Lâm Súc ở Gia Lâm – hắn là Kỹ sư Nông Lâm Súc – (Chúng tôi gọi hắn là “Kỹ sư súc vật”) trong buổi “tiệc” sữa trâu (bổ hơn sữa bò! Báo Nhân Dân bảo thế!), nó đã nói với tôi một câu:

                          “Muốn đất nước thống nhất thì chỉ có một cách. Đó là: Bắt vợ con của Ban Chấp hành Trung ương đảng quăng vô Nam hết thảy…” Là một tên độc thân nên tôi chưa lĩnh hội được ý tưởng cao siêu của hắn. Tôi hỏi:

                          - Nghĩa là sao ?

                          - Mấy chả không có đồ chơi, mấy chả quýnh lên mấy chả tìm đủ mọi cách tiến hành. Còn như thế này mấy chả hưởng lạc tì tì, cao hổ cốt tẩm gân, sâm Triều Tiên bổ thận, thống nhất hay không thì cũng thế thôi ! “

                          Đúng là một câu đùa… y như thật. Đảng, người nói: Lo trước dân, hưởng sau dân. Mô Phật ! Tôi chưa bao giờ thấy câu này được đảng – tức là từ bác Hồ trở xuống đảng viên quèn – thi hành. Ngược lại: Hưởng trên đầu cha dân, dân kêu thây kệ mẹ ! Hai mươi, ba mươi năm trước ở Hà Nội vẫn thế, bây giờ cũng cứ như thế và muôn đời sau, đảng còn, còn thế mãi.

                          Hai mươi năm sống trong chế độ “tư bổn bổn xứ Sài gòn đến chạy sang tư bổn kếch xù: Hoa Kỳ” tôi cũng có đau khổ chứ không phải chỉ có hạnh phúc, nhưng đau khổ của hai mươi năm ấy chưa bằng một góc tí tẹo của nàng Kiều Việt Nam.

                          “Thanh lâu ba lượt, thanh y hai lần”. Vậy, tự do độc lập hạnh phúc có nghĩa gì ? Ai cho ta các thứ ấy? Không cần phải trả lời. Hãy nhìn bốn mươi ngàn dân “boat people” của Việt Nam xà nghĩa đang ở Hồng Kông.

                          Đảng, tay phá hoại dân tộc lớn nhất lịch sử . Với cái búa Cải Cách Ruộng Đất hằng triệu sinh mạng hi sinh vô tội vạ, với cái liềm tập kết hằng mấy triệu gia đình ly tán, với cái đường mòn Hồ Chí Minh lại hằng triệu bộ xương phơi.

                          Rồi tới “Giải phóng Miền Nam” đảng đã phá nát tan sự phồn thinh của một nửa đất nước và làm tan nát hằng chục triệu gia đình. Sáu mươi năm có đảng, có bác trên cõi đời này, dân tộc Việt Nam điêu linh cùng cực. Hãy nhìn, hãy nhìn thôi, hãy nhìn cũng đủ rồi, không cần phải suy nghĩ.

                          Hai mươi lăm năm trước tôi nằm trên dãy Trường Sơn mà đau hận cho dân tộc Việt Nam khôn cùng, bây giờ càng hận. Viết lại những dòng này, tôi mệt lắm, không khỏe khoắn nhanh nhẹn như viết bất cứ truyện nào khác.

                          Vì sao? Vì tôi thấy lại tôi trên dốc, trên đồi, dưới suối, trong bệnh tật, trong lê lết, trong bi thương. Tôi như võ sĩ tả xung hữu đục giữa cái trùng vây đó. Tôi thấy tôi đang khát, đang sốt, đang run khi viết lại tập hồi ký đã mất này. .

                          Tôi và Hoàng Việt cùng cô vũ nữ ba-lê được phái đoàn ông Sáu Mặt Sắt giúp chừng ba bốn chặng đường. Rồi họ rẽ sang lối khác. Có lẽ họ được xe hơi chở hay đi con đường nào đặc biệt khác không biết được. Nhưng có một điều – không biết may mắn hay rủi ro cho tôi, cho Thu! Đoàn ông Mặt Sắt cho Thu đi theo cùng với “anh Sáu.”

                          Trước đây có nhiều lúc tôi muốn Thu quay ra Hà Nội với Hồng, em trai của Thu gặp ở mấy trạm trước cùng với Thiếu tá Kim – Như vậy tôi sẽ nhẹ gánh dễ đi hơn. Nhưng bây giờ có người muốn nhấc cái gánh đó khỏi vai tôi thì tôi lại thấy nao nao tấc lòng.

                          Sáng mai Thu sẽ xa tôi .

                          Đêm nay là đêm không ngủ của hai đứa. Cơm chiều xong, Thu lên võng nằm, tóc nàng buông xõa xuống chiếc võng lắc lư như nhịp theo bài hát buồn não nùng.

                          Trời thương đôi ta đây, còn cho ta suốt đêm nay

                          Những ngày đôi lứa chia tay. nước mắt rưng rưng vì chua cay

                          Rồi mai đây xa nhau, ồ, em yêu dấu !

                          Anh khóc cho đêm này qua

                          Đêm nay là đêm cuối cùng của… đôi ta. …

                          Sao nàng chọn đúng bài hát và đúng lúc để hát vậy? Đó là tâm tư của nàng và của tôi. Chúng tôi sắp xa nhau và chỉ còn có đêm nay.

                          Tôi không thể ngồi yên nghe tiếng hát cứa đứt từng mạch tim tôi nữa.

                          Tôi sang ngồi ở đầu võng nàng. Mớ tóc đen huyền vẫn lắc tư phảng phất hương. Nàng vừa gội đầu dưới suối. Nàng muốn nhờ gió hong tóc cho mau khô.

                          Tôi khẽ nói:

                          - Thu ! Mai em đi. Chúng ta xa nhau rồi.

                          - Đành thế thôi !

                          - Em có giận anh chuyện gì không?

                          - Có anh giận em thì có. – Tiếng nàng rơm rớm nước mắt – Em đã nghĩ kỹ rồi. Em đi với anh thì chỉ khổ cho anh thôi. Để em đi với đoàn ấy.

                          Rồi vào trong kia cũng gặp nhau. Rồi lại khổ nữa. Nhưng chừng đó em là kẻ đau khổ nhất giữa hai chúng ta. Em biết anh yêu em, nhưng chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu. Vậy nên buổi chia tay này tuy có gây buồn cho anh lẫn em, nhưng sẽ vui về sau.

                          Tôi nâng tóc nàng lên tay tôi và thổi từng hơi dài.

                          - Anh làm cho tóc em mau khô nhé. Anh là gió đây !

                          - Không ? Anh là “Mưa” mà.

                          - Ừ thì mưa? Tôi ôm quàng cả võng và người nàng vào tay tôi. Tôi nghiêng cả chiếc võng để áp mặt nàng vào mặt tôi. Gương mặt trắng như một mảnh giấy chờ tôi đề lên những câu thơ.

                          - Thu ! Em đừng giận anh nghen !

                          Nàng ôm chặt đầu tôi vào ngực nàng, thổn thức khóc.

                          Trời tối hãi hùng. Rừng núi sâu thăm thẳm. Chúng tôi như hai hạt bụi hoang gặp nhau ghép vào nhau trong một cơn gió lạ. Tôi lên võng nàng, nhẹ tay buông màn. Không một hơi thở nào thoát ra khỏi vòm trời riêng của hai đứa tôi.

                          Bỗng nhiên tôi quay đầu lại ôm riết hai ống chân mềm mại của nàng vào mặt tôi và đặt vào làn da mát rợi đó những chiếc hôn nồng nàn và thầm thì. Vừa thầm thì vừa hôn như mưa. Cả chiếc lều như chực đổ theo nhịp võng lắc lư.

                          - Thu! Thu! Chúc em chân cứng đá mềm. Anh sẽ gặp em ở cuối đường này.

                          Nàng ôm lấy tôi và nấc lên:

                          - Anh yêu em đi. Và đây là lần cuối !


                          Hết Chương 11 - Xem Tiếp Chương 12


                          sigpic

                          Comment


                          • #14
                            Vượt Trường Sơn 3



                            Chúng tôi còn nằm lại trạm này: Hoàng Việt và tôi, hai thằng “sĩ ” Nam kỳ trên đường về xứ. Đường lại kẹt.

                            (Có lẽ vì kẹt đường cho nên giao liên đặc biệt đến đưa đoàn ông kẹ đi lối khác).

                            Hoàng Việt mở bản đồ Quốc Văn Giáo Khoa Thư ra coi để đoán mò. Nên nhớ rằng Miền Bắc không có xuất bản một tấm bản đồ chi tiết sông rạch núi non nào mà chỉ dùng bản đồ Indochine Française để giảng dạy ở các trường.

                            Những lần tôi đi công tác dưới tàu biển cũng không có hải đồ. Thuyền trưởng chỉ dùng hải đồ kẽ lòng biển Việt Nam dọc bờ biển Việt Nam của một Thủy Sư Đô Đốc người Anh vẽ đâu hồi thế kỷ mười chín.

                            Cho nên cái bản đồ của Hoàng Việt mò mẫm để tìm tọa độ của đoàn chỉ to bằng bàn tay, một chấm bằng đầu chân nhang có thể là một dãy đất chúng tôi lội ba ngày không giáp và nguyên cả khu Năm chỉ to bằng nửa cái lá rau thơm. Tuy vậy nhưng ông nhạc sĩ cũng tỏ ra thành thạo trỏ tay vào bản đồ mà nói:

                            - Mình đang ở đây này !

                            - Nghĩa là đầu hay cuối khu Năm vậy?

                            - Có lẽ quá nửa rồi. Chắc là Quảng Nam quê con Phương của mày.

                            Trạm này khác với các trạm trước. Ở tận trong sâu dọc theo đường dây chính, khắp một đoạn dài có những lều trại cửa cán bộ khu Năm dựng ở đây lâu đời nên đã thành một loại buôn của người thiểu số. Có nhiều láng giống như nhà.

                            Có nhiều nhà đã trồng được rau cải. Có vài nhà nuôi gà. Có cả một nhà nuôi được lợn. Người ở đây mặc quần áo thường như ở đồng bằng. Sinh hoạt của họ khác hẳn chúng tôi, chỉ có nước da là giống nhau thôi: vàng và bủn.

                            Tuy vậy chúng tôi cũng thở được cái không khí bình thường. Cho nên Hoàng Việt gợi ý treo giò ở đây một thời gian để dưỡng lão.

                            Thấy tôi hơi miễn cưỡng, Hoàng đùa: “Đường K… kách mệng còn rài chú em chớ có rội nghe chưa… Cái bao tử rách của mày đâu đã vá xong mà hăng hái ! “

                            Thế là chúng tôi tìm chỗ treo võng giăng lều và ngụy trang thật kỹ để khỏi hạ xuống dựng lên hằng ngày nữa.

                            Tôi buồn lắm: Vắng Thu! Tôi đâm ra nghĩ ngợi. Thu đã hết yêu mình. Đang đi chung, gặp ngả rẽ ngon lành là đi ngay không hỏi ý kiến mình. Con gái đứa nào cũng thế. Cứ hễ thấy chỗ nào sướng, khỏe là bỏ chỗ cực nhọc.

                            Nhưng rồi tôi tự vấn tôi: Còn mình thì sao?? Nếu ông Mặt Sắt cho mình tháp tùng chưa chắc mình đã từ chối huống chi đối với Thu ! Nhiều lúc mình coi Thu như một cái nợ đời, chẳng những trong ý nghĩ của mình mà lộ cả ra ngoài Thu cũng nhận ra điều đó.

                            Bằng chứng là khi thằng Hồng và Thiếu tá Kim định quay về Hà Nội, Thu đòi đi theo mình không có lấy một câu ngăn cản. Thì bây giờ Thu đi với người khác – (đi vào Nam, tốt hơn trở ra nhiều) – cũng thế thôi. Mình rảnh nợ.

                            Lòng ích kỷ muôn thuở của con người là thế. Cho thì muốn cho ít, được thì muốn được nhiều.

                            Thấy tôi sầu tình lộ ra da, Hoàng chọc:

                            - Nó ở lại với tụi mình, mày có cõng được không?

                            Tôi hết đường trả lời. Câu hỏi “duy vật” trăm phần trăm làm tôi tét mắt, sáng ra. Cố nhiên là chân ai nấy bước. Thương nhau lắm cũng chỉ chờ dăm ba lần, vác ba-lô hộ một quãng, thế thôi ! Nhiều hơn nữa, nổi cáu. .!

                            Một buổi trưa nằm đong đưa trên võng, tôi bỗng nghe một giọng quen quen. Tôi bèn ngóc dậy nhìn. Ngơ ngẩn một lúc rồi kêu lên:

                            - À. . Thiệp! !

                            - À kia…

                            Chúng tôi nhìn nhau.

                            - Vợ mày đâu ?

                            - …

                            - Mấy đứa kia đâu? ..

                            Hoàng Việt đi đâu về cũng hỏi tới tấp:

                            - Sao lại trở lên đây ? Bộ đường xuống Bác Kế bị kẹt à?

                            Thiệp tuột ba-lô ném xuống đất và ngồi phệt lên một cái rễ cây, rút nút bi-đông ngửa cổ uống một hơi dài, quệt mồm, đậy nút bi-đông rồi lắc đầu, chẫm rãi nói:

                            - Hi sinh hết rồi !

                            - Trời đất ! – Tôi và Hoàng kêu lên – Hả hả ? Mày nói gì Thiệp?

                            - Lớp chết, lớp bị bắt !

                            - Thiệt hả?

                            - Không thiệt thì bịa à? – Con Phương cũng chết rồi .

                            Tôi chưa kịp hỏi thì Thiệp đã nói. Tôi như bị một mũi tên xuyên tim.

                            - Chết rồi. Chết cả rồi, mày nghe không?

                            Tôi ngồi trên võng trân trân. Tôi cũng cảm thấy chết nửa thân người. Hoàng buông xụi con dao và mớ củi xuống đất kêu lên:

                            - Bộ mày nói giỡn sao mầy?

                            Thiệp lặng thinh. Ba người nhìn nhau lặng thinh. Trời đất xoay vần. Chẳng còn hiểu sao nữa.

                            Hoàng ngồi xuống gom củi dóm bếp uống trà cho đỡ khổ. Chớ còn kêu la than thở gì bây giờ? Thiệp lột cái mũ tai bèo xuống lau mồ hôi quanh cổ rồi quạt quạt.

                            Mặt trời ác quá ! Giá đừng có mặt trời thì chúng tôi dễ sống hơn.

                            Thiệp tựa lưng vào gốc cây. Đoàn người cùng đi với Thiệp, kẻ thì ngồi gần đó, kẻ tản ra trong các láng, tìm ngườl quen địa phương của họ

                            - Sao mà hi sinh dữ vậy ?

                            - Trên đường luồn về đồng bằng bị phục kích !

                            - Còn con Phương?

                            - Nó bị một mảnh cà-nông bằng ngón tay trúng ngay tim, chết liền. Tình hình ác quá. Mình chờn vờn hoài mà không đi xuống được. Đến chừng quyết định đi thì bị phục kích.

                            - Đi đêm à?

                            - Thì đi đêm chứ đi ngày sao lọt ! Đường sá đâu có biết chút nào. Giao liên dắt đi thì cứ đi. Vợ tao từ nhỏ tới lớn chân giày chân dép. Lội về tới đây đã hết sức kiệt lực rồi. Tưởng đã tới nơi. Ai dè đường đi xuống còn gian khổ gấp chục lần đường đi vào: Đi từng chặng ngắn một, có chặng chỉ leo vài tiếng đồng hồ rồi không bò được nữa. Leo núi còn tàn nhẫn hơn trên đường này. Lại phải chui trốn địch liền liền.

                            Máy bay nó biết lạch mình đi nên cứ bay rè rè quan sát. Rồi lại còn dân Thượng nữa. Không biết được họ theo mình hay theo “tụi nó” nên cứ mỗi lần gặp dân Thượng là phải chui trốn ngay. Ác lắm tụi bây ơi. Không được ngồi yên như ở đây đâu. Ba-lô lúc nào cũng gọn gàng, hễ báo động là quơ chạy, hoặc lủi vô hang núi hoặc chạy xa. Đâu có hầm hố gì. ….

                            - Đất ở đó không đào hầm được à?

                            - Đâu có đất, chỉ toàn đá thôi ! Không thọc cuốc chỗ nào được hết. !

                            Hoàng rót trà cho Thiệp. Thiệp bưng cái chén sắt tổ bố ực một hơi, chép miệng, buông cái chén như rụng xuống đất:

                            - Chết cả đoàn rồi ! Thiệt ! Thiệt ! Không phải chiêm bao!

                            - Trời đất ! – Tôi kêu lên, vẫn còn sững sờ, ngây dại.

                            - Nó phục kích, ban đêm, chạy đường nào? Nó thuộc đường. Mình thì mò từng bước.

                            - Không lấy thây được à?

                            - Tao đoán là phải chết đến hai phần ba. Còn lại thì bị bắt sống.

                            - Trời đất ! !

                            - Vợ tao đang đi trước tao, ngã đánh huỵch một cái, chỉ kêu được một tiếng “anh ơi” rồi tắt luôn. Tao chạy thối lui. Đạn bắn vét đỏ như tàn đuốc rát cả mặt. Máy quay phim không biết tao đã liệng hồi nào. Khi chạy ra xa khỏi chỗ phục kích, tao ngã lăn không nghĩ là mình còn sống !

                            - Còn những thằng kia đâu ?

                            - Đâu có biết thằng nào sống sót thằng nào chết đâu. Tao chỉ biết có mình tao còn tại thế đây thôi.

                            - Còn giao liên?

                            - Giao liên đi đầu chắc lĩnh nguyên băng trung liên rồi chớ gì !

                            - Bị phục kích hôm nào?

                            - Ba hôm trước – Thiệp tiếp – Cái chỗ này là khúc eo. Từ trên núi đổ xuống thì có nhiều lối đi như rẽ quạt, đường rộng, nhưng đến ngang đây thì nó thắt lại. Muốn xuống đồng bằng nhất thiết phải qua cái Eo này. Tục gọi là Eo Máu.

                            Qua được cái eo này thì mới luồn vào đồng bằng được, nếu không thì ở trên núi tu luôn. Ngược lại những đoàn người của mình ở đồng bằng chui lên núi thì có phần dễ dàng hơn. Chúng cũng phục kích nhưng rất thưa, chỉ lấy lệ thôi.

                            - Tại sao? .

                            - Tao cũng không rõ. Nhưng theo giao liên nói, thì chúng đó để mình thoát ra khỏi đồng bằng rồi “nhét nút” không cho trở lại. Đóng đô trên này thì lúa gạo đâu mà sống?

                            - Sao tao thấy cả một làng ở đây toàn dân Eo ?

                            - Thì ở dưới không còn đất sống, một số phải chui lên đây, ăn gì ăn miễn sống thôi. Đó là một lối. Còn một số thì lại cứ bám riết dưới đồng bằng, cái chết như nháy mắt, nhưng có cơm ăn, được ở trong nhà hoặc núp ngoài vườn cây, khỏi phải trở thành cà khu.

                            Hai loại người, hai chủ trương. Loại người lên rừng “lập làng” đây tuy ngủ yên như lại không có gì ăn . Lâu lâu vẫn phải mò về đồng bằng xin tiếp tế. Thì cũng phải bò qua cái Eo Máu đó, năm ăn năm thua thôi. Giao liên bỏ trạm hết.

                            Họ không dám dắt khách đi đúng chuyến nữa. Cho nên những người ở vùng cao tự lực về đồng bằng tiếp tế lấy. Người thì tới nơi nhưng khi trở lên tới Eo Máu thì bị bắn chết với gùi ngô sống trên lưng, còn người khác về chưa tới đồng hằng đã ngã gục với chiếc gùi không.


                            .................................................. ........ .................................................. ......



                            Tôi hỏi:

                            - Con Phương chết ở đâu?

                            - Chết lảng nhách ! Không ai tưởng tượng được ! Chúng tao đang nấu cơm chiều ăn để chuẩn bị vượt Eo Máu. Nó đang đứng bên bờ suối, bỗng một trái cà-nông nổ. Tụi tao chưa quen nên bò lăn trên đất, nhưng giao liên cười bảo: “Ăn thua gì ! ” Vừa dứt lời thì nghe tiếng kêu: ‘”Chết tôi !” Chúng tao nhìn lại thì thấy con Phương ngã xuống đất.

                            Tao chạy lại trước nhất. Tay nó bịt chặt ngực. Máu rỉ ra không nhiều. Nhưng nó đã tắt hơi. Mảnh đạn có bằng đầu ngón tay, nhưng nó ác quá, lại ghim ngay tim. Con nhỏ chết tươi không kịp trối trăn gì hết.

                            Thiệp ngồi lặng ngắt. Một chốc, tiếp:

                            - Nó bảo sắp về tới quê nó rồi. Ở đó nó còn ông nội, bà cô, cậu, dì đủ hết. Nó bảo về đến nơi sẽ thết đoàn một con lợn! Nhưng không phải riêng nó mà thôi. Những thằng trong đoàn quảy đờn, trống và áo mão định về quê làm một đoàn vừa hát bội vừa bài chòi đều thấy quê nhà trước mắt. Bỗng vứt tất cả, xuôi tay.

                            Trưa nắng muốn điên đầu, lại còn nghe một cái tin bể óc, thần kinh của tôi chắc phải dai như dây chão dây thừng của hợp tác xã thì tôi mới khỏi ngất xỉu.

                            Thiệp nói tiếp:

                            - Thế nhưng con Phương còn may mắn chán mày ạ. Vì nó được chôn cất tử tế.

                            - Như thế nào ?

                            - Ít nhất cũng được gói ghém kỹ lưỡng bằng vải và ni lông. Ít nhất cũng có một cái huyệt để nằm cho ấm thân và một nấm đất lè tè với một khúc gỗ đánh dấu. Còn vợ tao, đâu biết thân xác ra sao !

                            - Mày chắc thế thật à?

                            - Đúng là trúng đạn. Tao nghe tiếng kêu thì biết chắc. – Thiệp lắc đầu – Bình thường tiếng kêu không như thế.

                            … Tôi nhớ lại cả cái khung cảnh trường đi B. Vui lắm. Tài tử giai nhân lớp lớp nói cười. Hầu hết các trái tài gái sắc của các đoàn Văn công Trung ương đều được tuyển chọn để vào Nam tiếp thu Sài Gòn và Đà Nắng giải phóng. Tiếp thu Sài Gòn thì có đoàn chúng tôi gồm trên bốn mươi người; tiếp thu Đà Nẳng thì có đoàn khu Năm có trên ba mươi người.

                            Đoàn tiếp thu Sài Gòn thì chia làm nhiều cán bộ chuyên môn, trong đó có nhạc sĩ sáng tác, nhạc sĩ cho quân nhạc (chúng tôi gọi là đám cai kèn), đông nhất là các vũ nữ dân tộc và ba-lê, nhà quay phim tài liệu và phim truyện, nhà văn, nhà báo, v.v… Riêng đoàn khu Năm thì trọng tâm là hát bội và bài chòi.

                            Vợ chồng Thiệp xin đi Ông Cụ nhưng ở trên lại cho đi Bác Kế. Ý định chéo ngoe, nhưng phải bóp bụng mà đi. Đi, nhưng không phấn khởi. Người Bắc thích con người và đất địa Nam Bộ hơn, trước đây cũng vậy mà bây giờ càng như vậy. .

                            Thiệp có cô vợ rất xinh – nhỏ nhắn như búp bê, môi đỏ như son, mắt sắc như dao cau. Còn Thiệp thì khoẻ như lực sĩ. Chúng tôi gọi đùa cô nàng là Hélène “tiểu thư nhỏ nhắn” như trong tiểu thuyết “Chiến Tranh và Hoà Bình” của Tolstoi. Cô nàng không biết múa hát gì cả nhưng “chàng đi vì nước thiếp theo chàng.”

                            Thiệp biết chiến trường gian khổ, chết chóc, không muốn cho vợ theo. Nhưng nàng nhất định xung phong “Vô đó, nấu cơm, quét nhà cũng được.” Thiệp khỏe như trâu, mang tất cả đồ lề cho vợ. Cô nàng chỉ mang có cái bi-đông và cầm gậy chỏi đi, rất thảnh thơi. Đã vậy những lúc qua suối, Thiệp sang bờ bên kia xong, trút cả ba-lô và trở lại cõng vợ. Chúng tôi bảo: “Coi chừng mày ngã mày nhúng nước, vợ mày rã ra như giấy đấy!” Tội nghiệp! Vậy mà vẫn đi với nhau tới ngả rẽ xuống Bác Kế. Ở đầu ngả rẽ, thấy tôi bận bịu với Phương, Thiệp bảo:

                            - Tao sẽ giúp đỡ con Phương cho ! Đừng lo !

                            - Cảm ơn mày ! , . . Nhưng mày đã mệt đừ với cô Hélène của mày rồi còn tay chân đâu nữa mà giúp !

                            - Tuy không giúp được nhưng nó có vợ tao, hai đứa hủ hỉ với nhau!

                            Bây giờ cả hai đứa cùng hủ hỉ dưới suối vàng.

                            Cách mạng nghĩ cũng kỳ. Tôi không có duyên với cách mạng hay cách mạng không hấp dẫn được tôi không rõ nữa. Nhưng đi theo cách mạng, hễ tôi yêu ai thì hỏng nấy ! Không sinh ly thì cũng tử biệt. Cho đến lúc tôi leo núi hồi hương hôm nay đây, tôi đã có ba mối tình – có thể gọi là Tình yêu – nhưng không đi đến đâu cả.

                            Với Phương tôi định sẽ nên vợ nên chồng. Ngoài ba mươi rồi, chưa lập thân còn chờ gì nữa. Nhởn nhơ hoài mang tiếng mang tai phóng túng, mình tự làm phiền mình không ít. Khi vào trường đi B thì tôi đã gác lại một cách đàng hoàng các mối tơ Hà Nội ở ngoài vòng rào: “Em đi đường em, anh đường anh!” Định vào đây “tu” ba tháng để về quê cho nó nhẹ nhàng cái tấm thân nam nhi chi chí. Nhưng trời không cho trái tim tôi ở không. Tôi gặp Phương, một vũ nữ ba-lê chói sáng trong những vũ nữ chói sáng của sân khấu Hà Nội.

                            Nàng có yêu một người nhạc trưởng (của đoàn nàng) trước khi gặp tôi. Nhưng gia đình nàng, gốc người Quảng Nam, bố là nhà giáo, anh làm Trung đoàn trưởng, tất cả đều nhất định không tán thành mối tình của hai người. Ông bố nghiêm khắc bảo: “Bố không gả con cho người đó!” Chỉ có thế thôi. Chỉ có thế mà nàng không vượt nổi. Và hai bên phải chia tay. Vào trường đi B lại gặp tôi. Nước mắt tình cũ chưa khô lại thấy lố dạng tình mới. Chúng tôi yêu nhau dễ dàng không ai dắt đường không ai nói ra nói vào cả. Coi như đó là một lẽ tự nhiên trên đời: Hễ bị thương thì phải chữa chạy vết thương.

                            Với đàn bà thì thuốc men hữu hiệu nhất là đàn ông. Với đàn ông thì thuốc men hữu hiệu nhất là đàn bà. Lấy đàn ông trị vết thương do đàn ông gây nên. Lấy đàn bà trị vết thương do đàn bà gây nên. Lúc đó tôi hầu như không bị thương tích gì, nếu có thì cũng nhẹ.

                            Cái khổ của chúng tôi là kỷ luật của trường đi B. Ở trên nói rõ toèn toẹc ra trước mặt ba quân rằng: “Vào đây là để rèn luyện thể chất và tinh thần đi giải phóng miền Nam chứ không phải để yêu đương. Những đồng chí đã yêu nhau thì hãy tốp lại, những đồng chí chưa yêu nhau xin đừng tiến tới !”

                            Mặc dù giám thị răn đe hằng ngày, chúng tôi vẫn có mánh lới để trao đổi tình cảm. Mỗi tối ngồi vào hội trường nghe lên lớp, tôi chia hai cái lỗ tai cho giảng viên còn trái tim và khối óc thì để dành viết thư cho Phương. Trong chín mươi ngày đêm ở trường, tôi viết ít ra là chín mươi bức thư, nếu in ra chắc thành một tập Tình Thư.

                            Viết thì dễ nhưng gởi lại khó, khó lắm. Vì giám thị có tai mắt công khai, còn có cả tụi “nội ứng.” Đó là bọn cùng đi B hoặc bọn được tổ chức cho khoác áo đi B sinh hoạt lẫn lộn với đám đi B thứ thiệt để theo dõi mọi người.

                            Tôi nhờ một người rất thân tín. Đó là họa sĩ Diệp Minh Châu, người cùng quê, biết nhau ở Nam Bộ. Anh Châu thuộc tuổi nghề và tuổi đời đàn anh và là một loại người “ưu tiên” của trường đi B này. Anh muốn tập thì tập muốn học thì học, không thì thôi, giám thị không dám động tới.

                            Cho nên mỗi buổi sáng anh qua phòng tôi giả bộ: “Ê mày còn hào cho tao mưa thuốc hút!”.

                            Thế là tôi đưa cho anh hoặc “hào bạc” hoặc “nửa bao thuốc lá”. Riết rồi thành thói quen, không ai để ý nữa, ảnh bỏ túi, cười hề hề: “Ê, thuốc ngon để ăn cơm rồi tao sẽ hút nghe mậy?” Thế là trong giờ xuống nhà ăn anh tìm mâm cơm ngồi ăn chung với Phương hoặc sau khi ăn cơm anh chận đường Phương mà thi hành nhiệm vụ liên lạc.

                            Dù thực hành công tác bí mật còn hơn “Tỉnh ủy Bí mật” của bác dịch, nhưng tôi và Phương vẫn bị gọi lên văn phòng cảnh cáo hai lần. Lần thứ ba lời cảnh cáo rất nghiêm khắc: Nếu tái phạm sẽ ngưng vụ đi B. Nhưng sợ gì ? Tôi là thằng coi kỷ luật như trò hề. Nó nghiêm chỉnh với người này nhưng lại dây thun với kẻ khác.

                            Do đó tôi đổi chiến thuật trao thơ. Tôi bảo anh Châu đọc sách. Thơ từ của tôi và của Phương qua lại trong những trang sách. Nói tóm lại, khi yêu chỉ có trời níu được chân và cấm được… thơ từ.

                            Dằng dai như thế, cho đến kỳ nghỉ phép cuối cùng. Một tuần lễ. Ai nấy đều được về nhà ăn Tết với gia đình và ngày mồng năm Tết, đúng sáu giờ phải có mặt tại trường để lãnh đồ trang bị sửa soạn lên đường.

                            Trong bảy ngày đó, ngày nào tôi cũng tới nhà Phương, một thứ nhà kho biến chế thành nhà ở, đường Bà Triệu gần Tòa án Nhân Dân của ông Cựu Chủ tịch Ủy Ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam bây giờ bị đá ra rìa một cách êm ái. Phương đòi giới thiệu tôi với bố mẹ và gia đình. Tôi không muốn cái “lễ nghi” ấy, vì sợ ông già lại bảo “Bố không gả con cho người này” nữa thì tôi chui đi đằng nào? Nhưng Phương cứ nằn nì giận lên giận xuống mãi. Bảy ngày nghỉ phép hóa ra bảy ngày giận hờn không ngớt.

                            Cuối cùng tôi phải nhận lời. Cũng may, cả gia đình đều đồng ý. Ông già lại còn đưa tôi đến nhà bà con để giới thiệu: “Đây là fiancé của con Phương!” Tôi mắc cỡ tím cả người. Nhưng Phương liếc .. tôi lấy làm đắc chí: “Thấy không, em biết mà. Đâu có ai ghét dân Nam kỳ… (cục) của anh đâu!” Người anh rể làm Trung đoàn trưởng chạy đi tìm những đồ nhà binh như thắt lưng, vải bạt, vải dù để tăng cường trang bị cho tôi.

                            Chúng tôi xem như đã hứa hôn với nhau trước mặt gia đình rồi. Không có còn lăng nhăng nữa đấy nghe!- Phương bảo tôi. (Cô nàng cũng ớn các ông nhà văn lãng mạn chúng tôi lắm!)

                            Phương đưa cho tôi một chiếc nhẫn vàng, một đôi giày trẻ sơ sinh màu trắng như tuyết và bảo: “Anh cất đi để sau này cho con đeo!” Tôi không có gì để tặng nàng làm kỷ vật cả nên chạy đi bán cái xe đạp mua cho nàng cái đồng hồ. Chỉ có thế.

                            Trở lại trường, chúng tôi bình tĩnh coi nhau như bạn thường.

                            Khi vào đến Trường Sơn mới bắt đầu ngửi thấy không khí chia ly trên thực địa.

                            Nghĩ cũng kỳ! Đang sum họp và sắp thành vợ chồng bỗng chốc mà chia ly. Y như đùa. Tôi thì nhất định không đi Bác Kế với nàng rồi. Nếu “ở trên” khôn ngoan mà thông cảm với hai chúng tôi thì đã để cho Phương cùng đi Ông Cụ với tôi. Nhưng họ nhất định cứng rắn, không thay đổi. Họ mất gì nếu để cho Phương đi Nam Bộ? Không mất gì cả, ngược lại còn được, được rất nhiều.

                            Đó, cách mạng vô sản! Cũng là vô lương, vô bổ. Tôi đá bỏ là phải lắm! Khi tôi hồi chánh, tôi có đi ra nói chuyện ở Đà Nẵng một lần. Tôi có đi tìm gia đình và bà con của Phương, nhưng vì tôi đánh mất địa chỉ nên không tìm được.

                            Tôi có người bạn cũ cùng học trường quận với nhau nay làm tới tướng. Anh ta ngỏ ý sẽ giúp cho trực thăng và lính đổ bộ đi bốc xác người yêu về cải táng trong thành phố nhưng rừng núi điệp trùng, biết người yêu vùi thây nơi nào mà tìm đến được? Hơn nữa Eo Máu không phải là một địa danh có trên bản đồ. Do đó mà ý nguyện cuối cùng đối với Phương cũng không thực hiện.

                            Đâu chừng ba, bốn năm sau…

                            Một buổi trưa, tôi đang ngồi trong văn phòng Giám đốc Trung tâm Chiêu Hồi Trung ương ở Thị Nghè (tôi là Giám Đốc) bỗng người tùy phái vào trao cho tôi một mẩu giấy con. Tôi cầm lấy đọc. Thì ra có người quen cũ đến tìm. Tôi cho mời vào.

                            Đó là nhà đạo diễn Xưởng Phim Truyện Hà Nội cũng là đạo diễn Đoàn Kịch Nói Trung ương. Anh ta đi vào một lượt với tôi và rẽ xuống Bác Kế. Chính anh ta là một trong những người bị phục kích ở Eo Máu trên đường luồn xuống đồng bằng! Tên anh ta có hằng chục. Nhưng anh thích nhất chữ L. nên xin gọi anh ta là L.

                            Tôi đãi anh bạn chết hụt một chầu la-de tại văn phòng. Anh ta nói:

                            - Tao được trao đổi tù binh ở Xuyên Mộc mày à! – L. nói khi đã uống tới cha 33 thứ tám.- Địt mẹ! Tao mà còn sống đây là nhờ Trời. Chỉ có Trời mới cứu tao khỏi chết thôi.

                            - Mày đâu có sốt rét trận nào. Khoẻ như voi mà! Hì hì, con gái đứa nào cũng o mày cả để cho mày cộ đồ dùm chúng nó.

                            - Không sốt rét nhưng cái vụ Eo Máu đáng một ngàn cơn sốt!

                            - Những đứa nào sống sót với mày?

                            - Một thằng đờn Bài Chòi, ba thằng Hát Bội và mấy thằng địa phương. Còn bao nhiêu chết hết. Mày tưởng tượng xem, thế này nhé! – L. xếp các chai và cốc thành một hàng dài và tiếp – Địa hình hành quân của đoàn là thế đó. Đường đi độc đạo. Nó kê súng máy trước mặt. Mình cứ đâm sầm đi tới. Mày nghĩ xem, sống sót sao được kia chứ! Hừ hừ.. vậy mà tao lọt. Hừ hừ.. tao không hiểu là đạn mù hay tao có mắt.

                            - Rồi sao?

                            - Rồi nó xách óc đem bỏ tù chớ sao nữa. Mấy thằng Bài Chòi và Hát Bội khóc rưng rức vì mấy cô đào thương chết cả. Tao ngồi trong khám, dửng dưng. Hồn bất phụ thể năm sáu ngày liền. Ai kêu tên cũng không lên tiếng. Con Phương của mày, nếu không bị đạn buổi chiều thì tối hôm đó cũng không thoát. Tụi tao chôn nó chớ ai? … Trời đất!…Đ.m. Tao hết biết nói sao!… Trong đêm lập loè ánh đèn pin, tao bị đẩy đi còn ngó ngoái xem bao nhiêu thằng mình vừa gục.

                            - Rồi sao mày ra được vậy? – Tôi hỏi.

                            - Còn sao mày ra được đây? – L. hỏi vặn lại.

                            - Tao “dông” chứ còn sao.

                            - Tao có nghe trên đài. Lúc đó tao được tự do nghe đài và coi báo! … Còn tao, không hiểu sao chúng nó bắt tao ra làm đồ vật đổi chác! Khi ra đến địa điểm đổi tù, tao nói ngay: “Tôi không lấy thân tôi đổi với ai cả. Và tôi cũng không muốn trở về với Miền Bắc. Tôi muốn được một đặc ân của Chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà.

                            Cho tôi cải danh ‘tù binh’ ra ‘hồi chánh’. Phía các ông Sàigòn ngạc nhiên. Còn tụi Hà Nội chúng nó lõ mắt trợn nhìn tao như muốn nuốt sống tao. Tao nhìn lại thách thức: “Lõ con cặc! Tao chào tụi bay luôn!” và tao được làm hồi chánh viên khoẻ ru như cu bà bóng. Hà hà bây giờ Mỹ nó thuê tao. Lương tháng xài thấy mẹ không hết…

                            Ngặt một nỗi là vợ con ở cả ngoài Bắc, mình ăn uống gì cũng không ngon! Thằng Burchett nói đúng. Đất nước chia đôi, chia đôi đến một làng, một gia đình cả đến một vợ một chồng.

                            ° ° °

                            Thiệp ngồi giữa nắng chang chang mà cơ hồ không hay biết. Trái tim của nó đã chín nhừ trong biển lửa mênh mông.

                            Tôi hỏi:

                            - Bây giờ mày tính sao?

                            - Còn tính cái gì nữa chớ?

                            - Công tác thế nào?

                            - Tao đâu còn cái gì mà công tác. Mà công tác ở đâu kia chứ?

                            - Vậy cơ sở của mày là ai?

                            - Là cậu giao liên mười sáu tuổi dắt đường đêm trước. Cậu ta đi đầu. Chắc là lãnh nguyên băng súng máy rồi. Khách chạy bạt mạng mạnh thằng nào thằng nấy chui. Đó, mấy đứa cùng đi với tao lúc nãy đó! Họ là dân khu 5 chứ không phải người trong đoàn đi từ Hà Nội. Trong đó có một ông Huyện ủy viên.

                            Ông ta bảo ông ta chết hụt lần này là lần thứ mấy chục rồi. Ổng tởn luôn rồi. Ổng bảo với tao là kỳ này chắc phải xoi đường khác mới dám “hạ san”, nếu không xoi được có lẽ phải tu luôn trên núi.

                            - Rồi sao?

                            - Chẳng có sao cả! Thằng chả đâu có trách nhiệm gì đối với tao. Mà tao cũng đâu có giấy tờ gì để trình ra. Có cái giấy đi B con con, đóng cái mộc nâu nâu méo méo tròn tròn. Ừ thì biết là dân đi B vậy thôi, chứ ở đây ai lại ách giữa đàng mà đem mang vào cổ. Khoai bắp đâu cho ăn? Ở vùng này mày thấy đống cứt nào toàn lá cây, khoai, bắp còn nguyên hột đó là có cán bộ ở gần đó.

                            Hoàng buột miệng:

                            - Đi mẹ nó vô Nam Bộ với tụi tao cho rồi!!!

                            - Đi đâu cũng được nhưng bây giờ tao phải nghỉ ít lâu cái đã.

                            - Nghỉ bao lâu mà không được.

                            - Chịp! Tao muốn mò trở lại gần Eo Máu tìm vợ tao. Mày ơi …

                            Thiệp đang nói bỗng dứt ngang, gục đầu xuống khóc như con nít.

                            Hoàng đứng dậy, đi tránh… Tôi ngồi lặng ngắt. Nước mắt chảy ròng ròng nóng ran trên má. Tôi quệt ngang và bảo Thiệp:

                            - Thôi, quên đi là xong.

                            - … Hu hu hu…

                            - Chớ còn làm gì được! Tao hỏi mày!

                            - Hu hu hu…

                            - Để thong thả rồi tụi mình tính, Thiệp à! Bây giờ hãy mắc võng nằm cái đã ! – May sao tôi cũng còn được chút bình tĩnh. Tôi lục ba-lô của Thiệp, moi lấy võng mắc cho nó nằm. Nó lịm đi trong đau đớn, trong quằn quại.

                            Những ngày dưỡng sức của chúng tôi ở cái “buôn” này không mấy gì yên ổn với anh chàng mất vợ. Và tôi nữa, mỗi lần Thiệp than thở thì tim tôi cũng động lây. Đồng bệnh tương lân là thế. Tôi mất Phương như mất vợ. Một người con gái đã giới thiệu mình với gia đình và gia đình cũng đã chấp nhận, thì trong tinh thần nàng đã là vợ của tôi rồi. Chỉ còn gang tấc là mọi việc đã thành.

                            Bây giờ thì không có gì thành cả. Tất cả thành mây khói.

                            Thiệp không lúc nào quên đi được cô bé Hélène của nó. Chốc chốc Thiệp lại than: “Trời ơi, phải viên đạn đi chệch qua một chút thì vợ tao đâu có sao!” Một chốc, lại chắc lưỡi: “Lúc chiều giao liên bảo có triệu chứng bị phục kích, nên nó bàn với khách không nên đi, để chờ dò xét cho kỹ rồi sẽ đi – Nhưng có lắm ông sốt ruột bảo “Không chết bữa nay thì mai cũng chết! Chết trước được mồ được mả!” Thế là đi! Cho nên mới chết hết! Có ai được mồ được mả đâu nào!”

                            Chập sau, Thiệp lại tự trách: “Tại tôi không cương quyết. Tôi đã bảo với vợ tôi đừng có đi. Nhưng nó cãi lại: Để em đi cho biết cách mạng ra sao! Ở Hà Nội nay “xây” mai “chống” em chán lắm! Không đi B thì ở nhà em cũng lên Bắc Thái khai hoang chớ đâu có được yên thân. Thế là đi. Và chết như thế đó!”

                            Chập nữa, Thiệp lại nói nhảm một mình: “Bây giờ thì thân xác đã rã nát rồi! Có ai chôn cất gì đâu. Ở Hà Nội yên thân, không chịu, vô đây cho diều tha quạ xớt! Người chết đã yên, người sống lại khổ. Làm sao mà trở lại đó bây giờ.” Thiệp cứ lèm bèm không ngớt mồm. Thiệp cứ nhắc cứ than, bất kể có ai nghe hay không có ai nghe.

                            Cái sướng độc nhất ở chặng đường này là chúng tôi được lãnh gạo. Và gạo chỉ phát cho “dân” đi B, còn “dân” địa phương thì không được dấm dớ.

                            Kẻ nào chìa cái thẻ con con ra thì được lĩnh mười sáu kí gạo. Mèn đét ơi! Đó đâu phải chuyện giỡn chơi. Hạt gạo giữa Trường Sơn phải hiểu ra là một ống B12.

                            Chiều hôm đó, ông Huyện ủy tới lều tôi, tự giới thiệu và ngồi lại nói chuyện rất lâu như để tự bào chữa cho chuyến đi đau đớn vừa rồi. Rằng việc đó thường xảy ra và không thể nào ngăn ngừa được. Ông nói:

                            - Mình không có cơ sở đường dây ở đồng bằng. Từ trên núi xuống cũng như đi mò, may nhờ, rủi chịu vậy. May thì thoát, rủi thì chết. Không có ám hiệu gì từ đồng bằng như thời chống Pháp. Tụi Ngụy bây giờ khôn gấp trăm lần thằng Pháp. Chúng nó lập vành đai trắng rộng mấy cây số sát chân núi. Phải vượt vành đai đó mới xuống tới làng.

                            - Làng này tên gì, đồng chí? – Tôi hỏi.

                            - Xin lỗi đồng chí! Chúng tôi không được phép nói tên địa phương cho các đoàn đi B.

                            - Tại sao?

                            - Vì đã có trường hợp xảy ra rồi…

                            - Trường hợp gì?

                            - Họ nghe tên một làng một quận là họ có thể đoán ra hướng đi và … Tôi nói vậy đồng chí thông cảm! – Ông Huyện ủy tiếp – Lắm khi qua lọt Eo Máu rồi vào xóm thì gặp tụi Bình Định, ớn lắm. Chúng nó nằm trong dân. Một tiếng chó sủa khang khác cũng không lọt khỏi tai chúng nó. Tôi từng kháng chiến chín năm chống Pháp.

                            So với bây giờ, kháng chiến chống Pháp chỉ là trò đi chợ Tết… Đồng chí ơi! Thiệt hại của mình vô kể. Không còn chi bộ địa phương. Hầu hết các chi ủy đều bị bắt và tù Côn Đảo cả. Lứa trẻ bây giờ không có kinh nghiệm và cũng không gan góc như cha anh chúng. Đã vậy lại đụng với một đối tượng vừa có huấn luyện vừa đầy đủ kỹ thuật.

                            - Kỹ thuật gì? – Tôi hỏi.

                            - Tôi nói ví dụ như cái vụ hầm bí mật. Ngày trước xuống hầm bí mật đem thức ăn thức uống xuống đó, tối ngày ăn hút khoẻ lắm. Tối bò lên đi từng nhà rỉ tai chuyện nọ chuyện kia. Bây giờ xuống hầm bí mật năm ăn năm thua. Chúng nó có chó. Trời đất, những con chó mang đâu từ bên Mỹ sang đây. Con nào con ấy to bằng con bò con. Chỗ nào nó nghi, nó thả chó đi tìm thì “bật nắp” hết. Chó đã đánh hơi thì không sót một hầm nào!

                            - Rồi mình hoạt động làm sao?

                            - Chưa biết. Hiện giờ cứ sống cái đã. Kỳ rồi tôi định luồn về để phổ biến những nghị quyết quan trọng nhưng không lọt.

                            - Đồng chí định công tác sắp tới thế nào?

                            - Trước mắt là tổ chức đi lấy xác.

                            - Đồng chí dám trở lại sao?

                            - Tụi này ác thì rất ác nhưng nhân cũng rất nhân.

                            - Nghĩa là sao?

                            - Nghĩa là nó bắn ai chết, nếu là người trong vùng mà nó biết thì nó cho gia đình hay để đến lấy xác. Còn nếu nó không biết thì nó để cho năm ngày ai muốn đến lấy xác thì lấy, nó để yên, không phục kích. Sau năm ngày không ai lấy xác thì tụi nó cho trực thăng tới bốc đi, đem về chôn ở một bãi đất hoang. Bãi này ở rìa thành phố nghe dân đồn rằng nay đã hết chỗ.

                            - Ủa, có chuyện đó nữa sao? – Thiệp nhảy tưng lên.

                            - Bởi thế nên tôi muốn tổ chức người trở lại lấy xác và tìm kiếm những đồng chí thất lạc của mình nhưng không ai muốn đi hết. Riêng đồng chí thì thế nào? – Ông Huyện ủy hỏi Thiệp.

                            Thiệp đáp:

                            - Các đồng chí có đi thì tôi mới theo được, chứ nếu các đồng chí không đi, tôi làm sao dám tới đó ?

                            - Để tôi thuyết phục các đồng chí xem sao!

                            Chúng tôi nấu cơm với gạo (ở vùng này nói là nấu cơm nhưng thực sự trong nồi chỉ có bắp, khoai) và mời ông Huyện ủy ăn luôn cho vui. Chả là mới lãnh được gạo mà. Dân Nam Kỳ như thế đó. Nhà có đám giỗ mời luôn cả xóm. Huống chi mình đang ở trong “đất” người ta. Biết đâu sẽ còn nhờ vả.

                            Tội nghiệp, ông Huyện ủy ăn có vẻ ngon miệng hơn chúng tôi. Ông thú thực:

                            - Lâu lâu mới ăn được bữa cơm trắng các đồng chí ạ. Cơ quan ở đây phải tự túc tám mươi phần trăm, bộ đội năm mươi phần trăm lương thực. Nhiều rẫy bắp sắp được ăn, chúng nó phá sạch.

                            Riêng Thiệp thì không ăn một lượt với chúng tôi. Nhờ chìa ra cái thẻ chứng nhận đi B Thiệp cũng lãnh được gạo trắng. (Sau vài tháng đồng hoá với địa phương thì phải ăn bắp hoặc lãnh lúa về vọt lấy mà ăn như người Thượng).

                            Thiệp lui cui nấu nướng. Đợi chúng tôi ăn xong, Thiệp mới lấy cái bàn bện bằng cây rừng của tôi để gác ba-lô, trải ni-lông lên và bới cơm ra chén. Hỏi nó làm gì vậy? Nó móc túi lấy một tấm hình cỡ 4×6 dựng bên chén cơm rồi bệu bạo nói:

                            - Tao cúng cơm vợ tao! – Rồi Thiệp đứng trước bàn lâm râm khấn vái – Em là Phạm Thị Xuân Anh đi công tác chẳng may bị nạn, hi sinh giữa đường, sống khôn thác thiêng xin về phù hộ cho anh và các đồng chí đi đến nơi về đến chốn – Vái xong, xá xá, nước mắt ròng ròng và khóc rống lên.

                            Tôi cũng cầm lòng không đậu. Hoàng và ông Huyện ủy ngó ngang như không muốn nhìn cảnh bi thương diễn ra trước mặt: Cái bàn thờ tang và ông cán bộ giải phóng khấn vái.

                            Tôi thấy lòng quặn đau như vò. Lời van vái đơn sơ của Thiệp, chạm tới tâm can tôi. Ừ nhỉ! Mình cũng mang một nỗi đau như nó, nhưng mình không biết làm như nó. Tại sao? Mười năm qua, tôi đã sống trong những “cái nhà” không có bàn thờ, những cái nhà không có ông bà cha mẹ, những cái nhà chỉ treo hình cụ Hồ và đám mặt mo, những tên lạ hoắc lạ huơ mà phải gọi là ông nọ ông kia, gọi là tiên tổ.

                            Sự thờ cúng đã vắng mất trong đời sống của tôi một quãng thời gian mười năm. Gia đình và dòng họ tôi cũng như gia đình và dòng họ những người Việt Nam hằng năm, đều có những lễ giỗ, những dịp cúng tế. Tôi đã hít thở hương khói thiêng liêng quanh bàn thờ, đã sống và lớn lên trong phong tục đó.

                            Xã nghĩa văn minh đã gạt bỏ những phong tục “lạc hậu”. Cho nên bây giờ tôi thấy Thiệp cúng vợ mà ngạc nhiên và tự xấu hổ thầm. Không có một cọng nhang, một tờ giấy vàng mã nhưng chắc lời nó khấn sẽ bay lên cao đến tai vợ nó.



                            Hết Chương 12 - Xem Tiếp Chương 13


                            sigpic

                            Comment


                            • #15
                              Vượt Trường Sơn 3




                              Đang nằm toòng teng trên võng bỗng nghe tiếng máy bay đến. Máy bay dọ thám. Có tiếng thét to cảnh giác mọi người, vang lên đây đó:

                              - Đầm già! Dẹp quần áo vô!

                              - Tắt lửa!

                              Mọi người ngửa mặt lên nhìn: Con “đầm già mang guốc” (loại máy bay tuần thám, bay chậm rì, có hai bánh xe thòi ra như cặp chân mang guốc. Bọn tôi chế diễu nó là “đầm già mang guốc”. Danh từ này có từ thời chống Pháp.

                              Sau này về Nam “đầm già” bay đen trời. Nó tới đâu là bom tới đó, khác hẳn với thời chống Pháp, nhưng nó vẫn giữ nguyên tên: đầm già mang guốc.)

                              Con đầm già bay rè rè trên cao, vòng quanh khu rừng, không có vẻ gì nguy hiểm cả. Nhưng ông Huyện ủy bảo:

                              - Thằng này khó chịu lắm đó, các đồng chí phải đề phòng. Nó lên tới đây tức là nó đi tìm cái gì đó chứ chẳng chơi đâu.

                              Mười năm ở Hà Nội, tôi không còn nhớ các trận bom của đám “cồng cộc lửa” (spitfire) nay thấy máy bay thì cũng hơi gờm. Chiếc đầm già chao qua liệng lại một chốc rồi từ trên không có tiếng vang lên. Tiếng người nghe rõ từng câu một:

                              - Nghe đây! Anh em cán binh Việt Cộng hãy nghe đây. Đoàn văn nghệ xâm nhập xuống đồng bằng gồm có cán bộ Trung ương và cán bộ địa phương đã bị bắt đêm…

                              Họ đã được đối xử tử tế và họ tự nhận ra công việc làm của họ là phi nghĩa, cho nên họ có đôi lời nhắn nhủ cùng đồng đội cũ của họ. Mời các bạn hãy lắng nghe những lời tâm tình của họ.

                              Chiếc máy bay bay chậm lại rồi hạ thấp xuống.

                              Tôi bảo ông Huyện ủy :

                              - Mình có bộ đội sao không chơi nó?

                              - Ấy chết! Ấy chết! Mình bắn một phát là lạy ông tôi ở bụi này ngay!

                              Chiếc máy bay lừ lừ bay thật chậm và tiếng nói lại phát ra:

                              - Cùng các bạn Hà Nội. Tôi là nhà nhiếp ảnh Bùi Văn Ánh. Tôi là người đã từng chụp ảnh bác Hồ đăng trên báo Nhân Dân, các bạn còn nhớ không? Trong chuyến đi vào đồng bằng đêm trước đây tôi đã bị bắt sống trên đường đột nhập.

                              Tôi được đối xử tử tế, được trị bịnh sốt rét, hiện nay đã lành mạnh. Mỗi ngày tôi được ăn uống đầy đủ có cá thịt, nước ngọt, la-de, muốn thứ gì có thứ đó. Các bạn, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Chúng ta chiến đấu, hi sinh cho cái gì và cho ai? Nếu cho lý tưởng Thiên đàng Cộng sản thì hiện tôi đang sống trên Thiên đàng Cộng Sản!

                              Hà Nội luôn luôn tuyên truyền rằng Miền Nam phồn vinh giả tạo, nhưng Miền Nam dưới mắt thật và cả trong ống kính máy ảnh của tôi nữa là một miền trù phú giàu có thực sự…

                              Sau bài phát thanh của nhiếp ảnh gia họ Bùi, có một bản nhạc. Trời đất! Bản “Kinh Cầu Nguyện” của Lưu Hữu Phước, bản nhạc tôi hát đến mòn lưỡi:

                              “Trời mây u ám gió cuốn tả tơi hoa cỏ
                              Thời xưa lưu dấu, âm vang nỉ non trong gió…”

                              Nghe nó, nhớ tổ tiên ông bà ông vải gì đâu không biết nữa. Mấy cái bộ mặt móp méo nhìn nhau mà chán nhau đến hết muốn thấy nhau nữa. Bỗng vang lên một giọng eo éo:

                              - Tôi là Phạm Thị Xuân Anh bị bắt cùng với nhà nhiếp ảnh Bùi Văn Ánh trong chuyến đi đồng bằng. Tôi là người Hà Nội, đi theo chồng là nhà quay phim Nguyễn Thiệp. Tôi không biết chồng tôi hiện giờ ở đâu còn sống hay bị thương bò lết rồi gục trong hang đá nào … hu hu…

                              Tiếng khóc của người đàn bà vang lên giữa trời xanh mà nắng lại chang chang như đổ lửa. Thiệp dựng đứng dậy nép mình bên thân cây, ngước lên khoảng lá trống như để nhìn cho rõ chiếc máy bay.

                              Phạm Thị Xuân Anh vẫn nói đi nói lại mấy câu ấy… Cũng giọng ấy rồi lại khóc. Tiếng khóc như làm vỡ cả trời đất.

                              Chập sau chiếc máy bay bay mất. Thiệp còn đứng mặt ngơ ngác tay chân không cử động giữa rừng như một cái cây khô. Ông Huyện ủy nói:

                              - Chúng nó bịp đấy, đừng có tin !

                              - Mày nghe có phải giọng nói của vợ mày không?

                              Thiệp ngồi phệch xuống lẩm bẩm:

                              - Nghe có lúc đúng có lúc không!

                              - Nhưng sao nó biết tên vợ mày và thằng Ánh nó nói trúng phông phốc cả vậy ?

                              Ông Huyện ủy gạt ngang:

                              - Nó có sở tâm lý chiến, nó biết hết mà!

                              - Nhưng làm sao nó biết chồng của bà Anh là Thiệp?

                              Ông Huyện ủy im vì không gạt được nữa. Tôi nói với Thiệp:

                              - Vấn đề là mày có nghe ra giọng của bả hay không thôi. Nó bịp cái gì thì bịp chớ giọng người thì không bịp được.

                              Thiệp bứt đầu bứt tai:

                              - Nghe có lúc đúng lúc không!

                              Ông Huyện ủy nói ngay:

                              - Đàn bà con gái thì giọng hơi giống nhau cả mà!

                              Vừa dứt lời thì chiếc đầm già trở lại. Cũng vẫn lời tâm tình của nhiếp ảnh gia họ Bùi rồi đến trời mây u ám, xong, đến Phạm Thị Xuân Anh.

                              Thiệp ngước lên như hớp từng ngụm nước mưa vô hình. Phạm Thị Xuân Anh nói xong thì khóc. Mọi sự đều y như lúc nãy.

                              - Tao nghe giống lắm – Tôi buột miệng nói.

                              - Vâng, khúc đầu tôi nghe cũng giống lắm. Tiếng khóc cũng giống. Chỉ có khúc giữa thì hơi khang khác – Thiệp phụ hoạ – khang khác chứ không khác lắm!

                              Tôi từng làm ở Đài phát thanh Hà Nội, nên có ít nhiều kinh nghiệm về công việc thu âm. Tôi nói:

                              - Có thể là đoạn đầu nó thu âm trực tiếp, còn đoạn giữa là nó thu lại từ đoàn đầu nên âm thanh không hoàn toàn trung thực.

                              Với lại có thể là phát ra giữa tầng cao, âm thanh bị gió và sức chuyển động của phi cơ làm méo mó đi nhiều.

                              Ông Huyện ủy lại gạt ngang một cách vui vẻ.

                              - Tôi bảo đảm đó chỉ là trò bịp. Chúng tôi đã bị nhiều lần rồi. Có cả một lần thằng “cán binh Việt Cộng ngồi trên máy bay đang kêu gọi đồng đội cũ lại là thằng đang ngồi chong ngóc dưới đất với chúng tôi”. Thằng đó lại chính là tôi.

                              Hà.. hà… Các đồng chí biết sao không? Nó giả giọng nói của tôi. Chả là tôi có bị chúng bắt một lần và trốn thoát, nên nó có lời khai của tôi trong máy ghi âm. Nó chọn một người có giọng gần giống giọng của tôi… Thế đó! Nó làm cả xã, cả huyện hoang mang, vợ con tôi khóc hết nước mắt chứ phải chơi đâu!

                              Tôi gật gù miễn cưỡng. Hoàng chêm vào:

                              - Cái bọn chơi ngón độc thật. Lấy bạn gọi bạn, lấy vợ gọi chồng.

                              Tôi nói:

                              - Thì nó cũng “học” cái ngón của mình thường dùng thời kháng chiến chống Pháp chớ sao! – Tôi vỗ vỗ đùi – Tôi bị bốn vít cũng vì ham săn đề tài nội ứng để viết truyện cho chiến dịch trung tâm công tác năm 1952 ở Cần Thơ đấy cha! Kỳ đó tưởng hốt trọn ổ, ai dè mình bị phản thùng.

                              Còn đang cãi chuyện hư chuyện thực thì một tờ giấy rơi đúng vào giữa cái bàn thờ tang của vợ Thiệp: Bà Phạm Thị Xuân Anh. Cơm chưa nguội. Hồn Bà bay về hưởng của cúng!

                              Tôi thấy tấm giấy hình chữ nhật to bằng bàn tay trắng toát mà nghĩ như vậy. Tôi không tưởng tượng ra được ở giữa rừng laị có một mẩu giấy trắng đẹp đến thế.

                              Ở đây cái gì cũng xù xì, thô lỗ, bần tiện, khốn cùng, làm sao có một tấm giấy thế kia? Vì ngồi gần đấy, nên tôi đưa tay cầm lấy. Tôi kêu lên:

                              - Trời đất! Vợ mày Thiệp!

                              Thiệp chụp lấy tờ giấy từ trên tay tôi. Rồi ông Huyện ủy cướp lấy. Ông ngoẹo đầu:

                              - Thôi, thế bỏ mẹ rồi! Thiệt rồi!

                              Tôi chẳng nói chẳng rằng gì hết. Còn Thiệp thì giật lại tờ giấy nâng lên mắt. Tôi chẳng ngờ được một câu chuyện như thế đã xảy ra kịch tính giống in như trong Shakespeare.

                              Đúng là vợ thằng Thiệp, bà Phạm Thị Xuân Anh, tôi quen ở trường đi B mà. Một tấm ảnh của bà in bên góc trái, còn bên góc phải là ảnh của hai vợ chồng chụp chung nguyên người. Thiệp kênh đồ Tây, cà vạt hẳn hoi. Còn vợ thì áo dài tha thướt. Cả hai cùng cười hạnh phúc.

                              Thiệp lắc đầu:

                              - Ảnh này chụp trong ngày cưới. Mỗi đứa bỏ ví một tấm đề phòng khi vô đây công tác xa nhau.

                              Chẳng còn ai nói thêm câu gì. Cả đến ông Huyện ủy có thói quen gạt ngang hết mọi sự đời cũng im luôn. Ông ta cứ chắc lưỡi như thằn lằn. Thiệp chỉ đọc đi đọc lại những dòng chữ trên giấy. Cũng y như lời phát thanh. Chữ to, đậm ở phía dưới cùng lại có cả chữ ký tên Phạm Thị Xuân Anh. Tôi hỏi:

                              - Mày xem có phải chữ ký của bả không?

                              - Chứ còn của ai nữa!

                              Có lẽ sau một phút suy nghĩ, ông Huyện ủy tìm ra được cái “chà gạt” mới, nên nói:

                              - Nhưng mà bà ấy bị ép buộc nên phải làm thế thôi!

                              - Có ép buộc gì đâu. Mấy câu của bà ấy chỉ cho biết bả bị bắt, cho biết tên chồng, cho biết gốc gác, công tác của vợ chồng, thế thôi!

                              Ông Huyện ủy trở tờ giấy đọc mặt bên kia.

                              - Đồng chí này cũng bị bắt buộc. Ai bị bắt cũng nói y như vậy thôi!

                              Tuy miệng nói vậy nhưng mắt ông vẫn đọc. Tôi theo dõi, liệu chừng ông đọc xong, tôi giật lấy.

                              Liếc sơ qua cũng thấy lời lẽ phát thanh và chữ in trên giấy đều giống nhau. Còn ảnh của anh phó nháy thì cũng in bên góc trái. Đúng là hắn rồi chứ không phải ảnh “mượn” được của ai mà lại giống đến thế.

                              Cả mấy người đều ngơ ngẩn nhìn nhau, chưa ai có đối sách như thế nào thì chiếc đầm già lại trở lại. Cũng phát thanh những lời lẽ thống thiết như trước . Ông Huyện ủy lại xua tay:

                              - Kệ xác nó nói gì nó nói, mình đừng thèm nghe.

                              (thiếu một trang vì nhà in sắp nhầm.

                              …ổn định dân của ông nên ông chạy lại chỗ có tiếng ồn kia.

                              Tôi ngoái cổ nhìn theo thì thấy một nhóm người đang túm tụm vào nhau giành giật lia lịa. Rồi mấy người chạy thụt lùi về phía này. Tôi thấy trên tay mỗi người có mấy cái hộp vuông dẹp hoặc hộp tròn bóng loáng.

                              - Hộp thịt! – Tôi nói với Hoàng.

                              - Thịt gì?

                              - Thịt Mỹ. Loại mình đã từng lượm được và ăn dọc đường ngoài kia!

                              Chập sau lại có tiếng kêu ở xa xa.

                              Ông Huyện ủy trở lại ngồi xuống và lắc đầu:

                              - Tụi nó chơi mình tới gáo!

                              - Cái gì vậy đồng chí ?

                              - Chúng nó ném thịt hộp, đồ Mỹ!

                              - Trời đất! Thiệt vậy sao?

                              - Thì càng khoái! Buồn ngủ lại gặp chiếu manh! – Tôi nói – Để tôi đi kiếm một hộp về ăn cơm trắng coi! Loại này tôi có ăn rồi! Béo lắm!

                              Ông Huyện ủy lại gạt ngang:

                              - Không được đâu! Ăn của nó là “dính” nó đấy!

                              - Nó bỏ thuốc độc à?

                              - Không ?

                              - Vậy dính cái gì?

                              - Ăn của nó phải suy nghĩ về nó. Rồi so sánh với mình. Rồi hoang mang. Hại lắm.

                              Hoàng Việt cười:

                              - Ăn thì ăn nhưng mình vẫn giữ vững lập trường thì thôi chứ gì mà dính.

                              - Miếng thịt hộp nó có liên quan với tư tưởng của mình chứ đồng chí !

                              - Vậy những người lượm kia thì sao?

                              - Tôi không chặn kịp!

                              - Giá đồng chí chặn kịp thì đồng chí sẽ giải thích thế nào?

                              - Ở đó mà giải thích! Tôi chỉ ra lệnh: Không được ăn đồ của địch! Thế thôi!

                              - Hồi nào tới giờ đã xảy ra vụ thả đồ ăn như thế này chưa?

                              - Có rồi chớ!

                              - Rồi đồng chí làm sao?

                              - Đâu có làm gì kịp họ. Họ lượm rồi giấu đút ăn lén, hoặc đổi chác.

                              Tôi chíp trong bụng cái tiếng “đổi chác” đó rồi. Mình đang cần, Mỹ lại tiếp tế! Câu chuyện bảng lảng rồi nhạt phèo. Ông Huyện ủy tuy mồm nói rất cứng nhưng cặp mắt ông lại láo liên. “Tư tưởng có vẻ không tập trung” Tôi nghĩ thầm: Xét ba-lô cha này nếu không có “đặc sản” thì cạo đầu tôi bằng con dao găm Hàng Mã này.

                              Tôi biết tỏng chúng nó hết cả. Càng lớn đầu càng ăn vụng tợn. Lão Hồ thì thiệt tình tôi không biết, nhưng từ Lê Duẫn tới tận thằng bí thư xã, tất cả, không có một thằng nào liêm chính và yêu dân thực sự. Chúng nó toàn một loại đeo mặt nạ để lừa người. Và tôi cam đoan lời nói của tôi không sai. Chuyện về chúng nó tôi viết mãn đời cũng chưa hết.

                              Cái thằng cha Huyện ủy này nói miệng tài thế nghĩa là trong ba-lô của hắn đã có vài hộp thịt của người ta lót, biếu, hoặc đổi cho hắn rồi.

                              Mỗi người ai về lều nấy. Thiệp thì nằm ngất ngư mặt ngó cái bàn thờ có tấm ảnh dựng bên chén cơm. Tôi thì quèo Hoàng Việt:

                              - Ê, kiếm vài hộp thịt về ăn cơm trắng uống trà khao quân một bữa cha nội.

                              - Ở đâu mà có?

                              - Ở đâu có thì thôi.

                              Thế là hai đứa làm một cuộc phiêu lưu đi đổi đồ….ăn Mỹ!

                              Chúng tôi đi theo một con đường mòn nhỏ. Càng đi xa con đường chính càng có thêm đường mòn và càng gặp chòi trại, lều võng, núp, giăng lềnh khênh dưới những tàng cây. Một xã hội mới hình thành nơi đây, có cả trẻ con 6,7 tuổi và có cả đàn bà chửa.

                              Như đã nói trên kia, lên núi thì dễ, trở xuống đồng bằng thì khó. Chúng mở cổng Eo Máu cho đi lên, hầu như thả lỏng không làm gì, nhưng bịt đường trở xuống.


                              .................................................. ....... .................................................. .........



                              Tôi lại tình cờ gặp anh bạn gì mua đất trong Nam nhưng ký giấy và trả tiền ở Hà Nội. Và đã đổi cho tôi hộp muối lấy bộ quần áo lụa đen.

                              Ông cũng là một Huyện ủy viên ra Hà Nội bị phân công làm đủ thứ việc táp nham, nay trở về quê, bỏ vợ con ở lại Hà Nội. Ông ta mua đất của một đồng hương tên là Võ Văn Mịt. Ông Mịt có đất ở quê nhưng lại không về quê bèn bán cho ông Huyện ủy và nhận tiền của ông này ở Hà Nội.

                              Giấy đã ký do ông Huyện ủy cầm tay. Khi về đến nơi trao giấy cho ông em là Võ Văn Mờ đang cư ngụ trên mảnh đất đó, ông Mờ sẽ cắt một phần “giao” cho ông Huyện ủy ở Hà Nội mới về.

                              Cuộc mua bán dự định sẽ diễn ra như thế…

                              Trông thấy tôi, ông Huyện ủy nhớ ra ngay, niềm nỡ như gặp lại cố tri:

                              - Mới tới đây thôi à?

                              - Tới đây là tài lắm rồi, còn muốn gì nữa cha non. Con cha sao trồi lên đây?

                              Vừa nói tôi vừa bước vào lều của ông bạn, còn Hoàng Việt thì xăm xăm đi theo đường mòn tìm kiếm như một nhà thám hiểm đáy biển.

                              - Nó đánh ác lắm! Ngồi còn không yên, nói chi chuyện mua đất mua đai.

                              - Vậy là đồng chí trở thành vô sản hoàn toàn rồi đó! – Câu pha trò của tôi đâm ra vô duyên. Ông Huyện ủy không vui lên chút nào. Tôi ngồi bệt xuống gốc cây.

                              Ông bạn trỏ quanh lều:

                              - Tài sản của tôi đó.

                              - Định chừng nào gặp bà con?

                              - Có gặp được đâu! Từ Eo Máu này mà về tới chỗ tôi còn phải vượt mấy cái lộ mấy con sông máu nữa. Khu 5 rộng lắm chứ đồng chí tưởng nhỏ à?

                              - Vậy trong bản đồ xem có bằng lóng tay! – Tôi tiếp – Rồi định kế hoạch ra sao?

                              - Địch “móc” gia đình nhưng chưa biết móc cách sao!

                              - “Móc” là thế nào? – Lần đầu tiên tôi nghe cái tiếng này nên tôi hỏi.

                              - Theo địa phương thì “móc” có nhiều cách. Một là móc để xin tiếp tế gạo muối quần áo, hai là móc người địa phương lên lãnh mình về công tác.

                              - Rồi đồng chí định móc kiểu nào?

                              - Kiểu nào cũng không móc được cả! Tụi nó kiểm soát gắt lắm. Tôi đã lọt được Eo Máu, trầy vi tróc vảy, nhưng vô đến làng đồng bào ở, đâu có ai dám chứa.

                              - Cơ sở hồi đánh Pháp không còn à?

                              - Người ta đều làm ăn khá cả nên không còn nhớ chuyện xưa nữa. – Ông bạn ngồi lên võng và tiếp – Tôi có nói chuyện với một vài gia đình, họ có vẻ lơ là với cách mạng. Không giống như hồi đánh Tây nữa.

                              Họ nói là Tây đi, độc lập rồi, giải phóng rồi. Người mình cai trị nước mình rồi. Còn nô lệ đâu nữa mà giải phóng. Do đó họ coi mình vô tích sự. Và không chịu chứa. Nhưng họ không đi báo cho tụi chính quyền mà chỉ yêu cầu mình đi nơi khác. Thế mới bỏ bố kia chứ!

                              - Đồng chí có cho bà con biết đồng chí từ Hà Nội về không?

                              - Có chứ!… Tưởng mình xưng ra như vậy họ niềm nỡ tiếp nhận mình, chẳng ngờ họ nói như tạt nước lã vô mặt – Một ông tập kết mới về tới làng ra hồi chánh ngay và được tụi nó đối đãi tử tế quá sức. Rồi anh ta đi nói chuyện khắp trong tỉnh. Thế đó. Cái uy tín mình tưởng từ Hà Nội cõng về đây là ăn tiền lắm, nhưng ngược lại, người ta sợ mình mất hồn!

                              - Sợ thế nào?

                              - Hễ ai chứa cán bộ Mùa Thu, chúng bắt được chúng tịch biên gia sản và bỏ tù. Còn gia đình nào có chồng con đi tập kết mà trở về kiểu đó thì thưởng to lắm. Tôi chưa thấy nhưng nghe người ta nói thế. Đó chánh sách của tụi nó.

                              Đồng chí có nghe máy bay nó la om trên trời đó không? Nếu vợ con bè bạn mình ở trên trời gọi mình như thế mình nghĩ thế nào? Mình chơi nó hết ga thì nó chơi lại mình cũng tới đáy. Mình có phép nó cũng có bùa. Mình mấy nó mấy chớ nó có chịu xuôi tay cho mình nuốt à? – Ông Huyện ủy tiếp – Còn cái bùa ác lắm ông bạn ơi!

                              - Bùa gì?

                              Ông Huyện ủy lấy thuốc ra quấn bằng giấy nhựt trình đốt hút rồi chậm rãi tiếp:

                              - Tụi nó biết chồng tập kết thì nó bắt vợ tái giá thấy mẹ hết.

                              - Vậy à?

                              - Ác lắm ông bạn ơi! Nó không có bắt buộc gì nhưng nó tâm lý chiến. Nó dỗ dành nay một tiếng mai một tiếng. Ngọt mật chết ruồi. Lửa gần rơm không tròm thì cũng trẹm. Đồng chí nghĩ coi mười năm không thư từ, không tin tức.

                              Bưu thiếp mình gởi từ Bắc qua Paris đâu có vô thấu đây. Đàn bà có con hay không có con cũng vậy, không có đàn ông, sống làm sao? Những người từ hai mươi đến ba mươi tuổi đi lấy chồng mới, có đến chín mươi phần trăm.

                              Tôi lặng thinh. Ông Huyện ủy tiếp:

                              - Ở ngoài đó mình tưởng tượng tình hình một cách chủ quan, về đây đụng thực tế mới ngã ngửa ra cả đám.

                              Tôi nói:

                              - Trung ương đã nhận định tình hình đúng chớ. Cho nên chúng mình đều được chuẩn bị chịu đựng gian khổ cả mà!

                              Ông Huyện ủy bặp bặp điếu thuốc tắt queo. Tôi tưởng ông ném quách nó đi nhưng ông lại vói tay dán nó lên cọc mắc võng – Để phòng khi ngặt có mà đốt cho thơm râu…

                              - Đồng chí ơi, cái gian khổ mà Trung ương chuẩn bị cho mình là cái gian khổ vật chất. Tôi nói thật, tôi không ngán ăn bờ ngủ bụi đâu! Tôi chỉ sợ mình vào nhà đồng bào, đồng bào “đuổi khéo” mình kìa! Đuổi khéo mình ra vườn. Còn một cái gian khổ nữa, thiệt kêu trời không thấu.

                              - Không có hầm bí mật hả?

                              - Không! Cái khổ này là các đồng chí mình không ưa mình.

                              - Đồng chí nào không ưa mình?

                              - Các đồng chí địa phương.

                              - Tại sao mình về tiếp tay với các đồng chí mà các đồng chí lại không thích mình?

                              - Thế mới lạ! Ban đầu tôi cũng không hiểu tại sao. Nhưng qua thái độ và lời nói của họ thì dần dần tôi hiểu ra hết. Họ không phân công công tác cho mình.

                              Ở ngoài Bắc, trước khi đi, Trung ương có nói là các đồng chí ở cấp ủy nào, trước kia nếu không phạm kỷ luật trong mười năm xây dựng xã hội chủ nghĩa thì về trong Nam sẽ giữa nguyên cấp bậc cũ và góp sức củng cố cấp ủy địa phương. Nghĩa là nếu trước đây đồng chí là tỉnh ủy viên thì về tỉnh cũ đồng chí bổ sung cho tỉnh uỷ tỉnh nhà, nếu là huyện ủy viên thì bổ sung cho huyện ủy nhà…

                              Tôi là huyện ủy lúc chúng nó chưa vô đảng và có đứa do chính tôi kết nạp. Bây giờ tôi về có một đứa là huyện ủy viên. Gặp tôi chúng nó không mừng lại có vẻ khinh khỉnh. Chúng nó bỏ tôi nằm lỳ không tiếp xúc, không phân công công tác. Đường đi nước bước bây giờ khác hết, hớ một tấc đường là chết ngay. Vậy nên mình đâu dám cục cựa.

                              Tôi băn khoăn hỏi:

                              - Tại sao họ lại có thái độ kỳ lạ vậy?

                              - Họ cho tôi là thằng hưởng lạc mười năm, lạc hậu nọ kia. Có lẽ vậy!

                              Là một người viết văn, làm báo, đi kháng chiến chống Pháp, sống mười năm trên đất Bắc, tôi chưa hề nghĩ tới cái tâm lý này. Cho nên khi nghe ông huyện ủy kể, tôi không khỏi ngạc nhiên. Ông ta tiếp:

                              - Tôi ngót năm mươi rồi. Về kinh nghiệm đời, tôi đâu có kém chúng nó và cắt đi mười năm “hưởng lạc” miền Bắc, thành tích của tôi cũng chưa kém chúng nó mà.

                              Còn tuổi đảng thì khỏi phải nói rồi, thế thì tại sao chúng nó không xài tôi ? Tôi về đây đâu phải để nằm ỳ ăn hút? Xa vợ, xa con, để làm gì kia chứ?

                              Có lẽ tâm sự của ông huyện ủy lâu nay chất chứa trong lòng không xổ ra được với ai nên nay gặp tôi, một người lạ, mà ông coi như một người thân.

                              Tôi còn biết khuyên bảo gì ? Vả lại tôi trẻ hơn ông ta ít ra là mười lăm tuổi. Tôi đã từng biết cái tâm lý của người Bắc cạnh tranh – và luôn luôn thắng thế- với người Nam kỳ. Tôi từng biết sự bạc đãi của Trung ương đối với dân Nam kỳ.

                              Cụ thể là những lãnh tụ kháng chiến của Miền Nam Việt Nam và của Nam Bộ đều cho đứng xa khỏi những chức vụ quan trọng của Trung ương.

                              Như ông Phạm Văn Bạch và ông Phạm Ngọc Thuần hai nhà đại trí thức (cả hai đều là luật sư danh tiếng ở Nam Bộ) là Chủ tịch và Phó Chủ tịch ủy ban Kháng chiến kiêm Hành chánh Miền Nam Việt Nam, tức là, ngoài Nam Bộ ra hai ông còn lãnh đạo luồn ra các tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Chức Phó Thủ tướng và Bộ trưởng (bất cứ Bộ nào) cũng xứng đáng cho hai ông cả.

                              Nhưng hai ông chẳng được xơ múi gì. Ông Bạch thì làm Chủ tịch Tòa án Tối cao nghĩa là không làm gì hết. Còn ông Thuần thì bị gởi đi làm Đại sứ ở Đông Đức, một hình thức tù đày sang trọng.

                              Cái tâm lý Bắc cai trị Nam kỳ, Bắc kỳ nuốt sống dân Nam kỳ có trong tôi và trong toàn dân tập kết. Nó xảy ra từ sau hòa bình. (Tôi tưởng tôi sai lầm. Chẳng ngờ bây giờ sau ba mươi lăm năm, tôi thấy tôi nghĩ đúng lắm).

                              Thế nhưng tôi chưa từng biết tới vụ người địa phương chống người địa phương đi tập kết về. Và đây là lần đầu tiên tôi được nghe cái tâm lý đó. Mẹ kiếp! Không khéo, mình về trong đó lại cũng gặp cái rắc rối này nữa cho coi.

                              (Đúng thật, tôi thấy lời ông huyện ủy kể là một thực tế rất phổ biến mà có lẽ Trung ương cũng “khơi” nốt)


                              Hết Chương 13 - Xem Tiếp Chương 14


                              sigpic

                              Comment

                              Working...
                              X