Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ




    Xuân Vũ

    Vượt Trường Sơn 2


    Xương Trắng Trường Sơn


    LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÀ XUẤT BẢN

    Đã ngót hai mươi năm qua kể từ quyển hồi ký Đường Đi Không Đến ra mắt độc giả ở Sài gòn. Lớp thanh niên đọc quyển sách ấy nay tóc đã hoa râm, còn lứa tuổi trung niên thì nay đã ra lão. Thời gian đi nhanh, nhưng con đường mà tác giả đã trải qua mãi mãi còn đậm nét trên những trang sách và trong lòng người

    Nếu chúng tôi nhớ khônglầm thì quyển hồi ký Đường Đi Không Đến ra mắt độc giả trước tiên năm 1969 trên nhật báo Tiền Tuyến do nhà văn Phan Lạc Phúc làm Chủ Nhiệm và nhà báo Huy Vân làm Chủ bút. Nhà văn Phan Lạc Phúc bi bắt đi cải tạo, đến nay vẫn còn trong tù. Còn nhà báo Huy Vân thì đã hy sinh cũng trong trại cải tạo của bạo quyền.

    Quyển Đường Đi Không Đến xuất bản năm 1973. Không đầy một năm, nhà xuất bản Nam Cường đã tái bản (tháng 5 năm 1974) .Ra hải ngoại cũng được in lại nhiều lần.

    Quyển Xương Trắng Trường Sơn mà chúng tôi hân hạnh cho ra mắt độc giả hôm nay là tập hai của bộ Đường Đi Không Đến gồm năm tập được biết như sau: Đường Đi Không Đến (I), Xương Trắng Trường Sơn (II), Mạng Người Lá Rụng (III), Đến Mà Không Đến (IV) và Đồng Bằng Gai Góc (V).

    Ba quyển sau cùng, theo tác giả cho biết, thì đã mất bản thảo chạy giặc trước năm 1975. Chúng tôi đã yêu cầu – và được nhà văn Xuân Vũ nhận lời- ông viết lại để chúng tôi có dịp giúp độc giả theo dõi tiếp những chương sau cùng của con đường oan nghiệt mà mỗi tấc đất đã phủ xương trắng nhuộm máu tươi của nửa triệu thanh niên Bắc Việt và cán bộ Miền Nam hồi kết. Chính tác giả là “người khách lữ hành” trên con đường ấy.

    Trân trọng.

    Nhà xuất bản Xuân Thu



    MẤY DÒNG TÂM TƯ

    Hồi năm 1945 tại chợ làng tôi thường xảy ra những cuộc diễn thuyết, diễn giả là cán bộ tuyên truyền của quận bộ hay tỉnh bộ Việt Minh. Tôi rất thích nghe vì họ nói toàn là những chuyện mà một đứa bé như tôi lúc bấy giờ không thể hiểu nổi.

    Tôi còn nhớ một hôm có một diễn giả đăng đàn. Ông ta chỉ là thôn bộ Việt Minh của làng tôi thôi. Ông ta là người không phải đạo cũng không phải đời, ông ta mặc nâu sòng tay lần chuỗi hạt. Người ông nhỏ thó nét mặt gân guốc có phần choắt lại và tay luôn luôn lần chuỗi hạt. Người nhà giàu thì sợ ông ta ra lệnh bắt giam hoặc giết chết, còn người thường thì lát mắt khiếp oai. Ông ta lên đăng đàn lần đó, nói những câu mà tôi nhớ mãi. Nếu tôi là sử gia tôi phải ghi trên vách đá.

    Ông ta tuyên bố :”Một tay tôi lần chuỗi hạt, một tay tôi chống trời.”

    Rõ thật một con người ghê gớm

    Ông ta giải thích về cách mạng cho mọi người nghe như sau:

    - Ngày mai cái nơi bùn lầy nước đọng này, (tức là cái chợ làng của tôi có lão già đánh xe ngựa đã lừa chú ngựa còm bằng một mớ cỏ non suốt hàng chục năm trời), sẽ có nước phông-tên và đèn điện. Ngày mai nơi đây sẽ thành thiên đường của thế gian.

    Tôi mê quá ! Hồi đó tôi coi ông Chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh là đệ nhất anh hùng – và không phải chỉ của riêng làng tôi.

    Rồi về sau tôi được đọc một câu tiếng Pháp cũng na ná như thế. “Chủ nghĩa Cộng sản là mùa xuân của nhân loại ! “

    Vì mê cái ” thiên đường” và cái “mùa xuân” trên chót lưỡi của hai bậc “vĩ nhân” kia cho nên tôi đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu.

    Năm 1946 thực dân Pháp đến đóng bốt ở đầu cầu chợ, ngay trong một cái chành lúa đã chứa sẵn mười ngàn giạ (chiếc cầu có hai cái dốc thật cao đã chứng kiến con ngựa còm của lão già đứt ruột trong một rân kéo xe lên dốc) .

    Dân làng tôi đã cùng với bộ đội đánh cái bốt đó. Súng của bộ đội chỉ có đến trung liên là cùng, không thể phá nổi phòng tuyến bốt xây bằng lúa bao. Nhưng dân làng tôi quyết không lùi bước.

    Người ở chợ thì giở nhà mang tới, kẻ ở ngoài vườn thì đội rơm vác lá đem vào chất chung quanh bốt và châm lửa. Lửa dậy ngất trời. Đồn bốt ra tro. Hai mươi tám tên pạc-ti-dăng bị quay sống trong bốt.

    Vì bốt xay bằng lúa bao cho nên lửa cứ ngùn cháy hoài, như một quả núi lửa, năm năm sau chưa tắt. Những lớp tro quánh lại thành cái vỏ cứng bao bọc ruột lửa bên trong. Sau những trận mưa, người ta thấy những mẩu xương phơi lẫn trong tro than như những mẩu vôi thực sự. Và ngọn khói vẫn cứ ri rỉ bay lên như oan hồn của những tên xâm lược xấu số.

    Tôi đi theo kháng chiến rồi tập kết ra Bắc. Đúng hai mươi năm thì tôi trở về làng cũ (1945 – 1965 ) . Lão già đánh xe ngựa đã chết từ lâu. Con cháu của lão không thể nối nghiệp lão vì con đường đầy ồ gà ngày trước nay đã trở thành đường tráng nhựa. Xe hơi xe lam xe gắn máy chạy vun vút xuôi ngược suốt ngày, cho nên bóng dáng chiếc xe ngựa đã biến hút đi từ lâu. Cái chợ làng tôi đã trở thành quận ly với đèn điện với ăng-ten tivi tua tủa trên các dãy phố, không còn ai ngờ rằng đây là nơi bùn lầy nước đọng ngày xưa, nơi ông Chủ nhiệm Việt Minh đăng đàn diễn thuyết, tay lần chuỗi tay chống trời.

    Nhiều người gánh nước mướn, những chú chệt bán kẹo đục nay trở thành chủ tiệm. Trong đám học trò đã từng nhóc mỏ cá kèo nghe diễn thuyết với tôi, nay không ít đứa làm nền sự nghiệp, có đứa là triệu phú !

    Ở đây không còn ai diễn thuyết nữa.

    Tôi được nghe ông chủ nhiệm thôn bộ Việt Minh cũng đi kháng chiến như tôi, nhưng ông đã bỏ nghề diễn thuyết, cũng không lần chuỗi hạt và cố nhiên tay kia cũng không dùng để chống trời nữa. Ông quay ra làm phim ảnh. Thuở đó ông lận đận nhiều. Không rõ bây giờ đời ông vui buồn ra sao ?

    Đứng trên mảnh đất ngày xưa, tôi nhìn quang cảnh ngày nay chợ búa, xe cộ hàng hóa và sắc diện con người. Tôi có biết bao dòng suy nghĩ. Tôi tự bảo: Phải chăng đây là một cái thiên đường con con ở một góc trời xa xôi của xứ sở tôi.

    Dân làng tôi hai mươi năm xưa giở nhà đốt bốt Tây, nay đã an cư lạc nghiệp. Chuyện ngày qua nay hầu như đã lãng quên.. Từ mảnh đất thực tế, nảy lên một chân lý:

    - Người ta vẫn xây được thiên đường theo ước vọng của người ta, nhưng hà tất phải đi theo con đường của ông chủ nhiệm Việt Minh. Và dù có đi theo con đường của ông chủ nhiệm,đã chắc người ta tìm được thiên đường.

    Nếu ông chủ nhiệm kiêm nhà làm phim còn sống và nếu ông trở về đây chắc ông sẽ tìm thấy hứng thú trước quang cảnh chợ làng đã đổi thành chợ quận này, để làm một cuốn phim hay hay.

    Khi đi trên đường Trường Sơn, có những đêm mưa tôi nằm ôn lại chuyện xưa. Tôi có nhớ đến quả núi tro ở quê tôi rắc đầy xương của những người lính pạc-ti-dăng.

    Một ý nghĩ đã chợt đến với tôi: Cái quả núi tro ấy chính là hình ảnh của Trường Sơn thu nhỏ lại. Còn lũ chúng tôi và hàng chục vạn quân binh miền Bắc – trên đường Trường Sơn này chỉ là những bộ xương biết đi – thì chẳng khác nào…

    Số phận của những kẻ mang quân đi đánh nước người rồi ra có khác gì nhau ?

    Tiện đây tôi xin được phép thưa cùng một số độc giả của Đường Đi Không Đến ” – hoặc bằng thư từ hoặc đã trực tiếp hỏi tôi: “Đường Trường Sơn cực khổ đến thế à ? Bộ đội miền Bắc tang thương đến thế à ? “

    Xin thưa: Đây là những chuyện xảy ra hồi 1965. Và xin lấy ý kiến của một tiểu đoàn trưởng của bộ đội chánh quy miền Bắc xâm nhập đã tìm Tự do, nay đang có mặt ở Sài Gòn, sau khi đọc quyển Đường Đi Không Đến : “Văn thì hấp dẫn nhưng chuyện khổ thì không ăn thua gì với sự chịu đựng của đơn vị tôi ! “

    Ngoài ra, có một số độc giả lo lắng cho số phận của cô Thu. Tác giả xin được phép thưa: Cô Thu, sau năm năm tình duyên và công tác chìm nổi, đã mang một chứng bịnh kinh niên mà nguồn gốc phát sinh từ lúc cô vượt sông và ngâm mình dưới suối…

    Do đó cô trở thành phế nhân, suốt năm năm không hề biểu diễn được một màn nào. Vì thề cô được “ân huệ ” cho về Bắc, cũng bằng đường Trường Sơn, với cặp chân cô ta, như lúc cô vào Nam. Tôi sẽ xin kể tỉ mỉ trong quyền cuối cùng của thiên hồi ký “Đường Đi Không Đến “.

    Sài Gòn, hè 1974

    Xuân Vũ



    LẠI THÊM MẤY DÒNG TÂM SỰ

    Trong một dịp bất ngờ tôi được quen với Anh Giám Đốc nhà xuất bản Xuân Thu. Trong dịp này tôi còn được biết thêm rằng thân phụ của anh là giáo sư trường Le Myre deVilers, thầy học cũ của tôi.

    Vừa rồi, anh có nhả ý muốn xuất bản tác phẩm của tôi. Tôi liền đưa ngay cho anh quyển Xương Trắng Trường Sơn là một tập trong bộ Đường Đi Không Đến của tôi. Thực ra tôi không mấy khi nghĩ đến việc in lại các tác phẩm của tôi hoặc viết lại những bản thảo đã mất . Bởi vì, cũng như các văn hữu khác, tôi luôn luôn nghĩ tới những truyện còn nằm trong bụng.

    Riềng quyển Xương Trắng Trường Sơn mà tôi có đề đưa cho nhà Xuân Thu là nhờ anh bạn nối khố của tôi, ông Nguyễn Tri Sử, trưởng ban Tuyên Nghiên Huấn thuộc Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu. Cũng là một dịp bất ngờ khác. Đời tô toàn gặp những bất ngờ… may mắn.

    Trên chuyến bay lưu vong từ Guam sang Hoa Kỳ, gia đình tôi đi với gia đình anh Nguyễn Tri Sử. Hai đứa định xuống trại Sacremento ở California, nhưng khi máy bay hạ cánh ở Los Angeles thì được tin trại đã chật, bèn bay sang Fort Chaffee ở Arkansas. Lạ nước lạ cái, nên hai đứa tìm nhau luôn. Một hôm, anh đưa cho tôi một quyển sách và bảo: tôi tặng lại cho anh đấy, để làm của? “

    Thì ra là quyển Xương Trắng Trường Sơn tôi đã tặng cho anh ở Sài gòn cách đây không đầy một tháng . Quyển sách này phát hành vào đầu tháng tư, nhưng tôi vẫn không đoán được những gì xảy ra vào cuối tháng tư nên gần nửa triệu bạc bản quyền tôi nhận được của ông Nam Cường (người Mỹ Tho đồng hương ? ) tôi đem trút cả vào cho ngôi nhà hai tằng sắp xây xong ở Hàng Xanh (với dự định sẽ xây lên thêm một tầng nữa để làm Thiên Thư Lầu) . Còn một tuần nữa ăn tân gia thì lại phải chạy ra Phú Quốc để đi Guam. Tác giả Xương Trắng Trường Sơn trở thành Tay Trắng Mình Không.

    Nhận quyển sách từ tay bạn cố tri trên đất Hoa Kỳ tị nạn, tôi bùi ngùi cho số phận của nó vừn ra đời vừa được độc giả biết đến hai tuần thì đã phải bay đi theo vận nước . Tôi đút nó vào chiếc cặp da cũ lưu truyền từ đời ông nội tôi đến cha tôi rồi đến tôi, món báu vật độc nhất được tôi quảy đi từ Sài gòn.

    Nếu không có nhà Xuân Thu hỏi tới chắc chắn tôi chưa có dịp giải phóng nó ra khỏi cái nhà tù tí hon kia, sau mười bốn năm giam cầm nó một cách độc đoán. Trước khi đưa nó sang nhà Xuân Thu, tôi đã liếc sơ qua, và thấy rằng nó chưa mất màu mặc dù giấy trắng đã thành vàng nẫu.

    Sau hai mươi lăm năm vượt con đường chết trên thực địa, ghé mắt nhìn lại con đường trên những trang sách, tôi hãy còn kinh hoàng.

    Vừa rồi tôi có nghe tin Tổng Cuộc Chính Trị quân lính Việt Cộng có phát động một phong trào viết Kỷ niệm Trường Sơn. Tôi biết họ bắt những người cầm bút viết theo đường lối “phải đạo” của họ tức là gọt xén tô phết làm sao cho con đường này trở thành con đường đầy hoa thơm cỏ lạ, con đường vinh quang chớ không phải con đường lót bằng xương nhuộm bằng máu của thế hệ thanh niên Hồ chí Minh. Dù sao đi nữa, những kẻ sống sót trên con đường này cũng còn khá đông, cho nên họ không thể nói láo.

    Nhân dịp nhà xuất bản Xuân Thu tái bản quyển Xương Trắng Trường Sơn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Bác Sĩ Hồ Văn Châm, người đã đề tựa cho quyển Đường Đi Không Đến của tôi (sau 1975 nó đã trở thành một trong những quyển đứng đầu bảng sách cấm) . Lời tựa này ắt hẳn đã thêm một bằng chứng để bọn cai ngục hành hạ bác sĩ thêm trong mười bốn năm trời trong trại cải tạo mà bác sĩ đã trải qua.

    Tôi cũng xin cảm ơn độc giả đ ã đón nhận nó một cách rất khích lệ cho tôi. Đặc biệt là độc giả trong nước, trước mũi súng và màng lướ dày đặc của công an mà vẫn bí mật in và phát hành quyển Đường Đi Không Đến, tuy với giá bốn mươi lăm ngàn đồng vào răm 1985 mà vẫn có người tìm mua.

    Cuối cùng xin cảm ơn Anh Nguyễn Tri Sử và Anh Xuân Thu. Nếu không có hai anh giúp tôi thì quyển Xương Trắng Trường Sơn không có cơ may đến tay độc giả.

    Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1989

    Xuân Vũ



    LẠI THÊM MẤY DÒNG TÂM SỰ

    Trong một dịp bất ngờ tôi được quen với Anh Giám Đốc nhà xuất bản Xuân Thu. Trong dịp này tôi còn được biết thêm rằng thân phụ của anh là giáo sư trường Le Myre deVilers, thầy học cũ của tôi.

    Vừa rồi, anh có nhả ý muốn xuất bản tác phẩm của tôi. Tôi liền đưa ngay cho anh quyển Xương Trắng Trường Sơn là một tập trong bộ Đường Đi Không Đến của tôi. Thực ra tôi không mấy khi nghĩ đến việc in lại các tác phẩm của tôi hoặc viết lại những bản thảo đã mất . Bởi vì, cũng như các văn hữu khác, tôi luôn luôn nghĩ tới những truyện còn nằm trong bụng.

    Riềng quyển Xương Trắng Trường Sơn mà tôi có đề đưa cho nhà Xuân Thu là nhờ anh bạn nối khố của tôi, ông Nguyễn Tri Sử, trưởng ban Tuyên Nghiên Huấn thuộc Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu. Cũng là một dịp bất ngờ khác. Đời tô toàn gặp những bất ngờ… may mắn.

    Trên chuyến bay lưu vong từ Guam sang Hoa Kỳ, gia đình tôi đi với gia đình anh Nguyễn Tri Sử. Hai đứa định xuống trại Sacremento ở California, nhưng khi máy bay hạ cánh ở Los Angeles thì được tin trại đã chật, bèn bay sang Fort Chaffee ở Arkansas. Lạ nước lạ cái, nên hai đứa tìm nhau luôn. Một hôm, anh đưa cho tôi một quyển sách và bảo: tôi tặng lại cho anh đấy, để làm của? “

    Thì ra là quyển Xương Trắng Trường Sơn tôi đã tặng cho anh ở Sài gòn cách đây không đầy một tháng . Quyển sách này phát hành vào đầu tháng tư, nhưng tôi vẫn không đoán được những gì xảy ra vào cuối tháng tư nên gần nửa triệu bạc bản quyền tôi nhận được của ông Nam Cường (người Mỹ Tho đồng hương ? ) tôi đem trút cả vào cho ngôi nhà hai tằng sắp xây xong ở Hàng Xanh (với dự định sẽ xây lên thêm một tầng nữa để làm Thiên Thư Lầu) . Còn một tuần nữa ăn tân gia thì lại phải chạy ra Phú Quốc để đi Guam. Tác giả Xương Trắng Trường Sơn trở thành Tay Trắng Mình Không.

    Nhận quyển sách từ tay bạn cố tri trên đất Hoa Kỳ tị nạn, tôi bùi ngùi cho số phận của nó vừn ra đời vừa được độc giả biết đến hai tuần thì đã phải bay đi theo vận nước . Tôi đút nó vào chiếc cặp da cũ lưu truyền từ đời ông nội tôi đến cha tôi rồi đến tôi, món báu vật độc nhất được tôi quảy đi từ Sài gòn.

    Nếu không có nhà Xuân Thu hỏi tới chắc chắn tôi chưa có dịp giải phóng nó ra khỏi cái nhà tù tí hon kia, sau mười bốn năm giam cầm nó một cách độc đoán. Trước khi đưa nó sang nhà Xuân Thu, tôi đã liếc sơ qua, và thấy rằng nó chưa mất màu mặc dù giấy trắng đã thành vàng nẫu.

    Sau hai mươi lăm năm vượt con đường chết trên thực địa, ghé mắt nhìn lại con đường trên những trang sách, tôi hãy còn kinh hoàng.

    Vừa rồi tôi có nghe tin Tổng Cuộc Chính Trị quân lính Việt Cộng có phát động một phong trào viết Kỷ niệm Trường Sơn. Tôi biết họ bắt những người cầm bút viết theo đường lối “phải đạo” của họ tức là gọt xén tô phết làm sao cho con đường này trở thành con đường đầy hoa thơm cỏ lạ, con đường vinh quang chớ không phải con đường lót bằng xương nhuộm bằng máu của thế hệ thanh niên Hồ chí Minh. Dù sao đi nữa, những kẻ sống sót trên con đường này cũng còn khá đông, cho nên họ không thể nói láo.

    Nhân dịp nhà xuất bản Xuân Thu tái bản quyển Xương Trắng Trường Sơn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Bác Sĩ Hồ Văn Châm, người đã đề tựa cho quyển Đường Đi Không Đến của tôi (sau 1975 nó đã trở thành một trong những quyển đứng đầu bảng sách cấm) . Lời tựa này ắt hẳn đã thêm một bằng chứng để bọn cai ngục hành hạ bác sĩ thêm trong mười bốn năm trời trong trại cải tạo mà bác sĩ đã trải qua.

    Tôi cũng xin cảm ơn độc giả đ ã đón nhận nó một cách rất khích lệ cho tôi. Đặc biệt là độc giả trong nước, trước mũi súng và màng lướ dày đặc của công an mà vẫn bí mật in và phát hành quyển Đường Đi Không Đến, tuy với giá bốn mươi lăm ngàn đồng vào răm 1985 mà vẫn có người tìm mua.

    Cuối cùng xin cảm ơn Anh Nguyễn Tri Sử và Anh Xuân Thu. Nếu không có hai anh giúp tôi thì quyển Xương Trắng Trường Sơn không có cơ may đến tay độc giả.

    Hoa Kỳ, tháng 9 năm 1989

    Xuân Vũ


    Chương 1

    Càng đi tôi thấy con đường càng khó khăn, hiểm trở và sức khoẻ như cái thùng không đáy, cứ rót và lại chảy tuột ra hết, đôi khi chỉ sau một cơn sốt một con người đang khoẻ bỗng trở thành bại liệt, nằm ngo ngoe như một con lươn giữa đống trấu.

    Càng đi, tôi thấy con đường này là một sự vô lý, vô lý đối với từng con người một, đối với Dân tộc ta và ngay đối với cả cái mục đích mà vì đó nó được vạch ra.

    Càng đi càng trông thấy đích ngắm càng xa, hy vọng càng mờ và lý tưởng càng ung thối ra như một vết thương nhiễm trùng bị những lớp băng bao bọc, cuối cùng máu mủ vẫn tuôn ra không bịt lại được nữa.

    Đã hơn một tháng qua, trên con đường này tôi toàn thấy những sự kêu la, oán trách, tự gây thương tích, lủi trốn, cướp bóc, trộm cắp, thậm chí cả sự tự sát hoặc chống lệnh chỉ huy. Gương tốt người tốt ít quá, hoặc không tìm thấy ở đây.

    Tôi chưa hề trông thấy một sự kiện nào chứng tỏ rằng những người có trách nhiệm xua quân vào đây, hiểu rõ hoàn cảnh của binh sĩ một khi binh sĩ đã vào con đường này. Họ không tiên đoán được, hay họ biết mà họ vẫn mặc kệ ?

    Ai đời đại liên, trọng pháo, cối 82 mà được dự định tải bằng xe cút kít, một thứ xe dùng để chở phân bón đồng của hợp tác xã ?

    Họ bắt con người phải hy sinh quá nhiều. Sự hy sinh trở thành vô bờ bến, không có thời hạn, không có điều kiện. Vì thế sự hy sinh đã trở thành những cực hình, chứ nó không mang tính chất tự nguyện của cách mạng.

    Tôi nhìn đi nghĩ lại, thấy Năm Cà Dom nói đúng, không còn cách nào cấu cào ra củi bằng cách gọt gốc cây sống lấy ra từng lát. Nhưng đây không phải chỉ là một vấn đề lao lực đơn giản mà nó thuộc về ý thức tư tưởng nhiều hơn.

    Tôi tự hỏi:

    - Cái cảnh này sẽ tái diễn bao nhiêu lần ?

    Tôi cầm con dao găm mà bổ vào cái gốc cây rừng.

    Chao ôi ! Lưỡi dao găm của một hợp tác xã ở phố Hàng Thùng Hà Nội là một con dao trên hình thức, còn thực tế thì nó chỉ là một cái trành bằm. Mép nó dày như da trâu và không đủ thép để mài cho bén. Thành ra tôi bổ lia lịa mà chưa lấy ra được một cái dăm nào bằng lát cam thảo.

    Năm Cà Dom làm cái việc gọt cây như tôi với một sự kiên nhẫn phi thường. Anh ta có kinh nghiệm nên chỉ trong giây lát anh ta lại nhìn sang tôi mà bảo:

    - Nhìn sang tôi đây này

    Còn Thu thì ôi thôi ! Tay này cầm con dao găm nom thật thảm khổ.

    Những ngón tay búp măng móng dài và nhọn hoắc, cố nắm chắc cán dao và bổ lưới dao vào gốc cây, và cứ mỗi nhát Thu lại cau mặt.

    Những ngón tay ấy xuất hiện trên sân khấu như những búp hoa ngọc lan búp trong các điệu múa Tân Cương, múa ba-lê của Nga La Tư. Mỗi cử động của ngón tay là cả một nghệ thuật… thế mà giờ đây những ngón tay ấy dùng để bồ củi.

    Vâng, đảng đã dùng con người “như cái vốn qúi nhất ” như thế đó ! Như thế đó, những “con ngườ vốn qúi nhất ” của đảng được đem ra dùng.

    Và chung quanh đây, dọc hai ven suối này, tất cả những người nằm la liệt trên phiến đá, trong hốc đá, trên võng vì bệnh tật, vì thương tật, vì đói v.v… cũng lại là những cái “vốn quí nhất” được đảng đem ra dùng…

    Năm Cà Dom cứ hét lên từng chập một:

    - Cố lên anh chị ơi ? Không có củi thì chết đói ! Chết đói.

    Tôi vừa đẻo vừa nhìn quanh quất, thấy nước đã tràn lên đến nền võng. Chỉ còn có một lõm nơi chúng tôi để ba lô. Thật ác quá, trời không ngó lại cho mình.

    Một lũ kiến bò oanh quanh trên quai ba lô, rồi chuyền lên đầu võng bò lên cây. Ô chúng nó sắp bị lụt. Chúng có đường thoát, còn chúng tôi thì cam chịu, đành nhìn nước lên tấn công mình mà không có đường rút lui.

    Chắc trên nguồn lại mưa cho nên nước đổ xuống hung hơn.

    Tôi nói với Năm Cà Dom:

    -Chỗ đâu mà bắt bếp anh ? Làm sao mà nhóm lửa ?

    - Đừng lo ! Đẽo cho ra củi cho tôi đi, rồi sẽ có bếp.

    - Không, anh phải nói đi rồi tôi mới đẽo .

    - Ta treo cà mèn.

    - Còn lửa ?

    - Ờ, ờ cũng kẹt dữ he ? Nhưng mà không sao… Rồi Năm hì hục bổ vào gốc cây với con dao găm bất hủ.

    Bỗng Thu òa lên khóc… Thu buông con dao xuống đất gục mặt vào hai đầu gối . . .

    - Gì thế em ? Tôi cũng ngừng tay hỏi.

    Thu không nói, vẫn cứ nức nở, làm cho lòng tôi càng thêm rối rắm. Tôi buông dao, đến gần bên Thu, rỉ tai nàng.

    - Cái gì thế em?

    Thu lắc đầu nguẩy nguậy Chao ôi ! Trông nàng khóc mà tôi não lòng. Nàng đẹp ra, thế mới chết !

    Đôi vai nàng run run. Tóc nàng lòa xòa phủ xuống gương mặt tuy mang đầy dấu vết bàn tay quái ác của hung thần sốt rét, nhưng nó vẫn cứ đẹp và đáng nhìn quá !

    Nàng ngước mắt nhìn tôi. Đôi mắt đẫm lệ, như đôi mắt của một con vật sắp sửa bi đem ra tế lễ, van xin tên đao phủ đừng sát hại. Đôi mắt châm chọc tim tôi.

    Tôi nhìn tay nàng. Bàn tay, ôi!… Tôi cầm lấy nó, mềm mại mong manh như làm bằng bột, những ngón tay nho nhỏ như những cái búp non. Tuy đã gầy đi, và đầy vết sẹo nhưng nó vẫn còn vẻ đẹp thanh tú, quí phái.

    Tôi nhìn cái vết phồng to, căng ứ nước trong lòng bàn tay. À, đây rồi nguyên nhân của những dòng nước mắt. Tôi khẽ bóp tay nàng và hỏi:

    - Có đau không?

    Thu lắc đầu.

    -Vậy sao em khóc?

    Thu lặng thinh và nhìn xuống.

    Tôi sực nhớ ra rằng nàng đang trong lúc khó ở.

    Chao ôi ! Có kinh mà phải lội suối ? Và nàng đã vượt con sông chiều hôm trước, chạy qua cả một vùng đất trắng không có một cái lá cây và còn hăng xè mùi chất độc, nàng đã lội suốt một ngày hôm qua và bây giờ lại sắp lội suối.

    Tôi không biết làm sao thì bác sĩ Năm Cà Dom quay sang. Anh ta đã nói từ hôm qua. Cái anh này chuyện gì cũng biết, việc gì cũng có sự tính trước. Anh ta nói thằng vào vấn đề.

    - Chốc nữa, trước khi đi phải băng lại thật kỹ. Nó mà nhiễm trùng một cái, thì ảnh hưởng tới buồng trứng là mất tương lai…

    Thu nghe nói thế lại òa lên, nước mắt của nàng như đang đựng trong những bọc thật căng bỗng nhiên bị xé toạc ra tràn trề…

    Tôi ngồi ngây ra. Tôi nghe như tương lai của chính tôi cũng bị đe doạ, vì đời sống của tôi hình như một phần đã là của nàng.

    Năm Cà Dom nói:

    - Nếu tôi biết thế, hôm vượt sông tôi đâu có cho đi. Nguy lắm. Dưới suối chưa biết chùng cũng có chất độc ?

    Tôi nói:

    - Nhưng nếu không đi thì ai chờ mình.

    - Bây giờ thì phải cố mà đi ! Phải đi… !

    Ngại quá! Mỗi người có một cái ngại khi nghĩ đến lúc mình đì trên một con đường như con đường đang trải ra trước mặt tôi đây. Con đường không phải như những con đường khác.

    Tôi thì mới cắt cử, Thu thì đang khó ở, Năm Cà Dom thì không có bệnh gì rõ rệt nhưng sau này tôi mới biết ra là ông bác sĩ này đau bao tử mà ngâm mình dưới nước thì có lẽ cũng không thuốc gì. Còn những anh kia thì đủ một trăm thứ ngại, ngoài nòng pháo nặng như núi còn cái chân gãy báo cô kia.

    Thương nhất là anh anh bị pháo đè gãy chân. Anh ta phải nằm võng để cho người ta khiêng. Người khiêng thì cực chẳng đã khiêng còn người nằm cũng cực chẳng đã phải nằm. Kìa họ đang sửa soạn để lên đường.

    Thú thực rằng tôi không đến đỗi kém thông minh, nhưng tôi không nghĩ ra một cách nào có thể giúp họ đỡ lao lực đi một tí.

    Dưới lòng suối có một người vừa bè bè đi, vừa quơ quơ tay.

    - Đi nghe bà con ! Mau lên ! Mau lên !

    Tôi nhìn kỹ ra thì nhận ra người đó là anh giao liên. Anh giao liên đang tập họp đám khách ly tán của anh bị trận mưa chiều qua làm tan tác.

    Đã bảo “nhất trạm nhì trời” mà.

    Khách có nhiệm vụ bám anh ta, đeo dính anh ta. Anh ta đi chậm thì đi chậm, đi nhanh thì phải đi nhanh, anh ta khiến gì hay nấy. Anh ta có đủ mọi thứ quyền hành, còn khách thì chỉ có nhiệm vụ là không có quyền hạn gì cả, ngoài cái quyền phải bám chặt anh ta.

    Khách không có quyền hỏi đây là đâu và sẽ đến đâu và đã qua những đâu Ơ đây không có địa danh, sông không có tên, suối vô danh và những kẻ đi trên con đường này cũng như con suối vô danh kia, đã thay đổi họ, lẩn trốn nhau, từ khi còn ở Hà Nội và vô đến đây thì đi đứng ăn ở đều lén lút như những tên ăn trộm.

    Tại sao phải lẩn lút phải đổi thay tên họ ? Phải chăng vì việc làm của mình quá ư quang minh chính đại mà mình phải che đậy như thế?

    Cho nên, xin lỗi độc giả, nếu trong thiên hồi ký này độc giả không hề thấy tác giả nêu lên một địa danh nào thì đó không phải là lỗi của tác giả mà tại nó thế đó.

    Anh giao liên vừa đi giữa lòng suối vừa vẫy gọi khách treo võng hoặc nằm la hệt hai bên vách đá.

    Nhiều người chửi ầm lên:

    - Đi cái lỗ mô giờ mới thò cái mặt mẹc ra đó ?

    - Quân bất lương !

    Tôi thấy khổ tâm cho anh Khẩu đội trưởng : một bền là cái nòng pháo, một bên là anh lính gãy giò. Nếu tôi là Khẩu đội trưởng trong lúc này thì tôi xin đổi cái chức vụ của tôi với một thìa muối.

    Tôi bảo Thu:

    - Chuẩn bị đi em!

    Thu đứng chết trân như một cái tượng đá hay chính Thu đã hóa đá ?

    Tôi cực lòng quá. Nỗi cho tôi, nỗi vì Thu. Nếu không đi nằm lại đây thì gạo đâu ăn. Cái nhúm gạo chiều qua mắc mưa không có nắng sấy, bây giờ đã thành bột rồi, nhưng tôi cũng cứ giữ nó vì dù sao nó cũng là gạo. Nếu nằm lại đây thì nằm cho đến bao giờ ? Chờ cho suối cạn thì đó là điều không bao giờ có.

    Cỏn đi thì làm sao ? Thu ngại nước hơn ai hết. Chậm một ngày suối càng dâng lên cao một ngày.

    Sự phát hiện của bác sĩ Năm Cà Dom làm tôi sợ hãi cho Thu. Đàn bà con gái mà nói tới việc không có con là họ sợ nhất. Tôi là cán bộ, còn Thu là văn công trình độ biểu diễn quốc tế. Ấy vậy mà là một đám người đi lẫn trong đám gười lô nhô lúc nhúc kia, không ai biết ai. Nói thì nghe hay quá, nào kỹ sư linh hồn gì gì, nhưng thực tế trên con đường này, những điều xảy ra cho tôi đều là minh một định lý ngược lại.


    Hết Chương 1 - Xem Tiếp Chương 2
    sigpic


  • #2
    Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

    Chương 2



    Bên kia, toán khiêng anh lính gãy chân đã bắt đầu khởi hành. Bệnh nhân nằm ngửa trên võng, cái ngực gần sát với cây đòn, vì chiếc võng mắc thật thằng để tránh cho anh ta khỏi bị ngâm xuống nước càng ít càng tốt Anh ta nằm, nhưng có lẽ không an tâm, cho nên anh ta đưa hai tay lên bám chiếc đòn đề phòng những người khiêng loạng choạng đong đưa.

    Nhưng vừa bước xuống suối là những người khiêng đã ngấm đến cổ rồi, thành thử ra cả người anh bệnh binh cũng bị ngâm dưới nước. Anh ta cố ngóc lên để thở. Chẳng còn cách nào khác để cho anh’ta thoải mái hơn.

    Anh Khẩu đội trưởng lui cui cùng với những anh đội viên của anh ta tổ chức khiêng cái nòng pháo. Trông vừa chua chát vừa muốn bật cười.

    Tổ chức chiến đấu gì kỳ cục vậy chứ ? Người ta cứ ném tất cả vô đây và ở ngoài kia cứ tổ chức ăn mừng, hoan hô sự sáng suốt của đảng và cứ cười tít mắt lên mà tưởng như chiến thắng hiển hách đã ngửi thấy đến nơi rồi.

    Họ có biết đâu những đơn vị nguyên lành của họ khi vô đến hang hùm nọc rắn này rồi, trở thành tàn quân trở thành thổ phỉ hung hãn chuyên đi cướp giật của đồng đội, thậm chí lột cả đồ đạc những người ốm mê man để làm hành trang sống lẩn lút trong rừng Và cuối cùng để quay về quê cũ, họ có biết đâu những cậu thanh niên hăng tiết vịt cắt tay lấy máu viết huyết tâm thư dâng lên đảng đòi vào Nam chiến đấu giờ đây lại là những người chửi đảng to tiếng và độc ác hơn ai hết.

    Còn lũ tôi đây thì không đánh ai, vì những người tôi muốn đánh thì không có ở quanh đây, nhưng tinh thần thì xuống thấp hơn ngọn cỏ.

    - Âm ầm ầm!

    Những người khiêng anh bệnh binh trợt chân ngã hằng loạt. Cả anh bệnh binh và những người khiêng bi nước cuốn đi. Trên mặt nước chỉ còn trông thấy những cái đầu nhấp nhô và những cánh tay quơ lên tìm cái gì để bám.

    Những người mạnh thì bơi vào bờ, còn anh bệnh binh bị nước đập tấp vào một cái nhánh của cây cổ thụ đã quay sang như chiếc cầu từ chiều hôm qua. Những người kia bò lên bờ lóp ngóp, kẻ ngồi người đứng, vuốt mặt lia lịa mà nhìn dòng suối. Kẻ mất ba lô người sút dép, mất nón, tuột áo, mất quần.

    Họ không buồn tìm cách vớt anh bạn kia lên nữa. Nhưng cũng may, anh thương binh cứ nắm chắc nhánh cây và nhô hẳn đầu lên mà gào. Tiếng gào của anh ta vang dội vào vách đá, làm như ở đằng kia cũng có một người bị nạn và đang gào kêu cứu như anh !

    - Bớ là… là… ông… nư… ức ơi !

    Mồm anh ta hả to ra, bị nước vọt vào làm tiếng kêu của anh ta đứt quãng hoặc tắt ngấm đi.

    Sự đau khổ đó làm động lòng bác sĩ Năm Cà Dom. Năm Cà Dom lại phóng xuống nước lần nữa, lôi anh thương binh lên bờ.

    Sự bi thảm đã lên mức đó, tràn ngập cả trái tim tím bầm của tôi nhưng đây chưa phải là điểm cao nhất .

    Từ dưới dòng, hai con người lần lần theo vách đá đi lên. Hai người này không dám lội ra xa bờ vì có lẽ họ sợ nước cuốn.

    Bỗng tôi kêu lên:

    - Ông Chín ! Trời ơi ông Chín !

    Tôi không trông thấy mặt mũi ông già nhưng tôi biết đó là ông Chín vì trên lưng trên đầu ông um tùm những nhánh cây. Cơ khổ ông già. Cứ hễ đi ra một bước là giắt lá cây đầy mình. Ông có ý thức che mắt địch nhưng ông lại không biết áp dụng địa hình cũng giống in như một kẻ bị lệ thuộc vào những công thức, những giáo điều mà họ chỉ biết nghe theo chớ không đời nào dám nghĩ khác đi đừng nói chi nghĩ ngược lại.

    Ông Chín đi qua rừng cây bị chất khai quang chết trụi không còn một cái lá xanh, ông vẫn giắt lá xanh, hay như bây giờ đây, lội giữa suối mà vẫn ngụy trang. Tên phi công nào đần độn nhất từ trên cao cũng nhận ra một mớ cây trôi lên, ngược dòng suối.

    Ông Chín ngước mắt nhìn tôi. Mắt ông chỉ còn bằng hai hạt tiêu. Có lẽ ông nhận ra tôi, nên ông đưa tay vẫy vẫy. Tôi gặp ông Chín ở trạm ba, cách trạm làng Ho một trạm. Tôi qua mặt ông Chín rồi tôi sốt ông Chín lại vượt qua tôi. Chiều hôm qua chúng tôi lại gặp nhau trước khi vượt sông. Khi bắt đầu lao thân vào lòng suối thì tôi không còn thấy ông Chín đâu nữa.

    Ông Chín đã lội tới chỗ tôi đứng. Tôi đưa tay lôi ông Chín lên và hỏi:

    - Giao liên không giúp cho ông nữa à ?

    - Có biết nó đi đâu đâu !

    - Thằng ác thật, nó bỏ ông già thế này.

    Tôi nhìn ông Chín. Những nhánh lá vẫn còn dính trên người ông Chín như nhũng người bạn trung thành. Tôi đưa tay rút một nhánh vứt đi và bảo:

    - Bỏ đi cụ ạ ! Cho nó nhẹ ! Lội dưới suối mà ngụy trang lá cây thế này cản nước lội mệt lắm.

    Nhưng ông già giáo điều đã xua tay:

    - Ấy chết ! Đồng chí cứ giữ mãi cái lối khinh địch đó, không chịu bỏ. Tôi bảo cho đồng chí biết từ đây trở vô, lúc nào trên trời cũng có mắt của thằng địch nó dòm mình lom lom. Mình mà sơ hở một chút là bị nó ngay.

    Tôi đã tranh luận về việc trốn máy bay với ông Chín không biết bao nhiêu lần. Ông Chín cũng bị thiên hạ phản đối không biết bao nhiêu lần, nhưng ông Chín vẫn chứng nào tật ấy nghĩa là khi ra đi thì y như một bụi cây rậm đang di động.

    Tôi nhìn thấy da thịt ông Chín đã đóng rong, đầu ngón tay móp như trái táo khô, hai vành tai tím như tai người chết , còn mồm thì thở vừa ra hơi nước vừa chảy ra nước. Tôi biết ông Chín bết bát lắm rồi, nhưng tôi làm gì được trước một cụ già như thế?

    Tôi bảo:

    - Cụ ngồi xuống đi bồi dường sức khỏe một chút rồi đi.

    - Thằng dắt đường đâu rồi ?

    - Nó vừa đi qua !

    - Nó không chờ, thì biết đường nào mà đi ?

    - Cứ đi đại lại thôi, hễ còn thấy người bệnh treo võng dọc bờ suối thì đúng là đường đi.

    -Thế hả?

    Ở phía dưới dòng một người khác bạn đường của ông Chín lúc nãy đã đến ngay chỗ ông Chín đứng. Tay anh ta với lên nắm lấy ống chân của ông Chín làm cho ông giật mình, ông rút chân lên.

    Anh bạn kia không còn chỗ bám, và rơi sụt xuống nước. Tôi nhanh tay chụp lấy tóc anh ta và kẻo xểnh anh ta lên bờ.

    Trời ơi t Tôi đã vớt đúng một cái thây ma. Tôi đã tự dưng chuốc vào mình một cái tai họa…

    Cái người tôi vừa kẻo lên là một cái xác không hồn. Hình như anh ta phải chết lúc này nhưng vì trông thấy chúng tôi ở đây như một cái đích rất gần, cho nên anh ta cố lần vách đá tới đây để mà trút hơi thở cuối cùng. Tôi gọi Năm Cà Dom:

    -Về ngay đây !

    - Gì nữa đó?

    - Về ngay đây ?

    Năm Cà Dom vốn là một người tốt bụng, một bác sĩ còn có lương tâm, cho nên nghe tiếng kêu cứu của tôi thì nhảy ùm xuống nước bơi về ngay.

    - Gì thế?

    - Đây này,bác sĩ về mà giải quyết.

    Năm Cà Dom nói ngay:

    - Đánh gió, làm hô hấp nhân tạo ngay!

    Rồi Năm móc túi ba lô lấy cù là, vạch lưng anh bệnh binh xoa, nắn bóp cạo lia lịa không hở tay. Rồi anh làm hô hấp nhân tạo. Chỉ trong vòng mười phút là anh ta cử động được ngay.

    Năm nói:

    - Anh này chưa có chết, nhưng vì ngâm mình dưới nước lâu nên bị vọp bẻ không đi được. Nếu anh không lôi nó lên nó bị nước cuốn tay chân cứng đờ không bơi được là uống nước chết đắm ngay.

    Trên khoảng đất có mấy thước vuông của tôi như cái nền nhà bị nước ngập, có đủ các giới, các thành phần, các miền, đủ cả. Cái sự có mặt của anh bị vọp bẻ làm cho số người trở nên phong phú lên. Anh ta là lính.

    Tôi mới nhận ra anh ta là cái anh chàng đi bằng hai cây gậy mà tôi và Thu gặp cách đây mấy trạm. Anh ta có chiếc khăn lông con treo ở quai nón dưới cắm lòng thòng như một bộ râu vĩ đại. Do đó, tôi và Thu gọi anh ta là ông già Noël.

    Ông già Noël còn trẻ quá. Hôm nay tôi mới nhìn tận mặt ông ta. Ông ta chỉ là một học sinh. Không biết đau ốm thế nào mà đôi chân cứ đi cà lỉa, cho nên khác hơn mọi người, ông già Noël đi với hai chiếc gậy.

    Bây giờ thì ông ta nằm đây trên tảng đá lạnh như nước đá, mà thịt ông ta cũng không ấm hơn nước đá, đang nhờ ông bác sĩ hảo tâm làm cho sống lại.

    Tôi cũng không biết làm sao nữa. Tôi biết tôi không thể giúp ai, và chắc chắn không ai có thể giúp tôi. Mỗi một người tự xem cái bản thân mình là một cái nợ đối với mình.

    Năm Cà Dom hảo:

    -Thời đi thì đi.

    - Ta đi đi…

    Ông Chín cố mở đôi mắt hẹp khổ của ông ra mà nhìn chúng tôi ngạc nhiên về sự thúc giục của bác sĩ Năm Cà Dom. Có lẽ theo ông Chín thì người ta chỉ cớ thể đi tới đây thôi. Và nằm, và ngồi và ngủ tại đây để chờ Trung ương tới, đưa ra khỏi con suối ” tuyệt long lãnh” này, bằng tàu bay xe tăng, xe lội nước hay bằng phép Tiên phép Phật gì thì bằng, chứ còn như ông, một ông lão già năm mươi bốn tuổi, dù ai nói gì thì nói, ông không thể nào xem con đường này là con đường vinh quang cho được.

    Bỗng ông Chín hắt hơi. Rồi ông Chín hắt hơi mấy cái nền. Ông Chín nhìn quanh quất rồi nói:

    - Có mùi gì lạ vậy mấy chú ?

    - Mùi gì đâu ông Chín.

    - Mấy chú không ngửi thấy à ?

    - Mùi thây ma chớ mùi gì nữa. – Năm Cà Dom vọt miệng đáp.- Ba cái thây ma kết súng thành tổ tam tam chế nằm chết thẳng cẳng trên võng bên kia gộp đá kia kìa .

    Ông Chín ngạc nhiên, ông hỏi:

    - Sao chết dữ vậy ?

    - Đói chết, bịnh chết chứ sao ông già !

    Năm Cà Dom lại giục:

    - Bởi vậy cho nên chúng mình phải rời khỏi khu vực này ngay. Chốc nữa nắng lèn, thây ma sẽ sình lên vỡ ra. Nước vàng nó chảy xuống suối mình ngâm mình dưới nước ghê lắm . Ngửi lấy cái không khí này vào người, bị dịch hạch dịch tả dịch… dịch đủ thứ dịch…

    Năm Cà Dom nhìn chỗ nào cũng phát hiện ra bệnh, ớn quá. Nào gãy giò, nào nhiễm trùng, nào dịch hạch v.v… Bệnh nào cũng chẳng hiền cả.

    Thật là buồn cười. Bây giờ kiểm điểm lại trên chặng đường này, chúng tôi cương quyết rời bỏ cái nền đá này là vì sợ bệnh dịch, chớ không phải vì nôn nóng đi vô giải phóng Miền Nam. Còn kiểm điểm lại động cơ thường trực của những người đi trên con đường này thì mỗi người một khác: tôi thì vì nhớ nhà quá mà xin về, Thu thì vì không biết gì nên xung phong đi, còn bác sĩ Năm Cà Dom về để làm cái nghề cũ là nuôi ngựa đua v.v…

    Thế nhưng những người lãnh đạo ngồi ngoài Hà Nội cứ rung đùi ngỡ rằng mình đã tận dụng, thậm chí lạm dụng, lợi dụng lòng yếu nước của mọi người để biến họ thành công cụ sống thực hiện những điều mong ước của họ một cách tốt đẹp, không ngờ rằng tất cả những người vượt Trường Sơn, không có trường hợp đặc biệt, đều oán trách, hận thù Trung ương Đảng.

    Khi chiến tranh, có lẽ một trong những vấn đề phải đặt lên hàng đầu là phương tiện. Đối với một kẻ thù quá thừa thải phương tiện như Mỹ, thì có lẽ người lãnh đạo sáng suốt phải nghĩ tới việc đó trước khi xông vào đánh đá.

    Tôi biết có những chiếc xe cút kít của hợp tác xã được cải tiến để chở phân bón lúa. Thế mà không biết do sáng kiến của ai, những chiếc xe ấy được đưa vào làng Ho để giúp cho pháo binh tải pháo !

    Tôi không hiểu những nhà chiến thuật nào đã nghĩ ra cái sáng kiến vĩ đại đó.

    Có phải chăng họ nghĩ rằng cái chiến trường mà bộ đội chánh quy của họ đang lao vào đánh nhau với Mỹ là một thứ hợp tác xã mà những xã viên bê trễ thối chí cũng dùng những chiếc xe cút kít này tải pháo trên những con đường bằng phẳng như ở làng quê ?

    Họ đã lạm dụng sức con người và lòng tin của con người đến mức độ xưa nay chưa từng có.

    Họ bắt con người hy sinh quá mức.

    Nếu có thể, tôi xin kết luận một câu: Nếu anh muốn làm chiến tranh, anh phải có đầy đủ phương tiện, nếu không, đừng làm !


    Hết Chương 2 - Xem Tiếp Chương 3
    sigpic

    Comment


    • #3
      Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

      Chương 3


      Ông Chín cứ kêu mãi về cái mùi hôi thối của thây ma:

      - Sao kỳ cục vậy he ! Sao kỳ cục vậy he ?

      Năm Cà Dom cười và hỏi:

      - Vậy từ lúc đi vô nay tới bây giờ ông Chín chưa gặp ai chết dọc đường hay sao !

      - Chưa ! Chưa gặp người nào chết hết cả !

      - Chưa gặp người chết, hay chưa gặp người chết mà không ai chôn ?

      - Cái nào cũng không gặp hết.

      Năm Cà Dom cười:

      - Tại ông không thấy, chứ thiếu gì !

      Ông Chín nói:

      - Tôi nghĩ rằng trên đường này mọi tổ chức đều chu đáo hết. Tôi không tưởng tượng được rằng có một người chết ở đây mà không có người chôn.

      - Ông muốn xem không ? Năm Cà Dom hỏi dồn tới.

      Ông Chín bị hỏi bất ngờ, hơi lúng túng:

      Năm Cà Dom nói tiếp:

      - Tại ông Chín già yếu rồi, đi đến trạm là nằm nghỉ chứ không có hay tìm tòi xoi mói cho nên không gặp những trường hợp như vậy. Chứ ông Chín có nghĩ rằng có một người treo cổ chết trên đường này không ?

      - Ối thôi thôi đừng có nói nữa. Đó là trường hợp đặc biệt mà !

      Năm Cà Dom cười:

      - Chứ chẳng lẽ lại phổ biến ?

      Ông Chín nói:

      - Theo tôi thì cái sự đó nằm trong phạm trù ngẫu nhiên chớ không phải là tất nhiên.

      Năm Cà Dom cười:

      - Nghĩa là sao ông Chín ?

      - Nghĩa là ít khi xảy ra, mà có xảy ra là cũng vì một sự bất ngờ nào đó chứ không phải là tất yếu phải xảy ra như vậy. Đồng chí hiểu chưa?

      Năm Cà Dom vẫn lắc đầu một cách trêu chọc:

      - Chưa hiểu, ông Chín ạ.

      Ông Chín hơi cáu như ông đang đứng trước lũ học trò lóc cóc của ông mà giải đáp một bài toán cộng. Ông nói:

      - Chú đi vô Nam mà chú không có được võ trang lý luận Mác làm sao mà chiến đấu được. – Rồi ông Chín kiên nhẫn giải thích những trường hợp mà Năm Cà Dom vừa trình bày. – Trong duy vật biện chứng pháp có cả thảy là năm phạm trù và năm qui luật, đồng chí hiểu chưa ?

      Năm Cà Dom lại hỏi:

      - Nhưng phạm trù là cái gì mới được chớ ?

      Ông Chín chẳng có ngờ cái thằng bác sĩ này lại hỏi câu đó. Ông lúng lúng:

      - Phạm trù là phạm vi hoạt động, là cái vòng bao bọc sự việc xảy ra đồng chí hiểu chưa ?

      Năm Cà Dom nói:

      - Vậy sao không gọi là phạm vi hoạt động , là cái vòng bao bọc việc xảy ra mà lại gọi là phạm trù chớ ?

      - Thì tại sách nó dạy là “phạm trù ” thì mình học là phạm trù chớ gọi là “phạm vi” làm sao được ?

      - Thế gọi là châu vi có được không ? Như châu vi hình chữ nhự, hình tam giác vậy đó, được không ?

      - Đâu có được đây là triết học chớ không phải toán học, đồng chí lẫn lộn rồi.

      Năm Cà Dom nói tiếp, vừa nói vừa đưa tay vẽ một cái vòng chung quanh:

      - Thế thì tôi hiểu rồi. Phạm trù là cái vòng bao bọc sự việc xảy ra, ví dụ như cái nền ngập nước mà chúng ta đang đứng đây gồm có ông Chín, tôi, ông văn sĩ này, cô văn công và anh lính bị vọp bẻ đây là một phạm trù.

      Ông Chín dậm chân:

      - Không phả… ải !

      - Vì nó cũng là cái vòng bao bọc sự việc xảy ra. Cái sự việc đang xảy ra là tất cả mọi người đang nằm ngồi đứng và nói chuyện với nhau.

      - Chậc ! Sao đồng chí lại tầm thường hóa lý luận như vậy được. Đây là duy vật biện chứng pháp chớ đâu có phải cái chuyện lơ mơ xoàng xĩnh, lề mề như đồng chí ví dụ.

      Năm Cà Dom cười ngất:

      - Thế thì tôi cũng chưa hiểu phạm trù là cái gì hết.

      Ông Chín rướn cổ sát vào mặt ông bác sĩ Năm Cà Dom:

      - Phạm trù là phạm trù. Voi là voi ! Hiểu chưa ?

      - Chưa hiểu !

      - Chưa hiểu thì thôi. Mặc kệ đồng chí, tôi không biết !

      Tôi đã từng bị ông Chín giải về Triết học Mác như bốc đất cục bỏ trên giấy cho nên tôi thất kinh hồn vía rồi.

      Tôi đã bị ông Chín khui cái mớ Triết học loam ngoam của ông ta để cãi nhau với tôi về một cuộc trốn máy bay, bây giờ lại nghe ông Chín giở nó ra để giải thích về những cái chết vô lý, tôi không giận gì ông ta, mà tôi chỉ buồn cười. Một lão già gần đất xa trời và lấm cẩm như vậy mà lại đi về Nam để “chiến đấu. “

      Tôi bảo:

      - Có đi thì đi, đi cho khỏi chỗ này nhanh lên.

      Rồi tôi làm tên quân cảm tử đi tiền phong, tôi lội xuống suối, đi trước mọi người để làm gương sáng, làm đầu tàu, làm nòng cốt cho cái đám nam phụ lão ấu đang ngại ngùng, đang đứng trên cái nền ngập nước

      Năm Cà Dom bảo:

      - Cô Thu đi đi.

      Thu cắn răng lại, nhắm mắt lại mà đưa chân dò từng bước bước xuống nước. Cái thân hình ngọc ngà của Thu ngấm dần xuống nước.

      Tôi không dám nhìn nữa.

      Trên đường này tôi đã từng quay mặt đi trước nhiều thảm cảnh mà đây là một. Tôi không muốn trông thấy sự tương phản giữa cảnh trí và con người của Thu.

      - Con người là vốn quý nhất.

      Ai đã nói câu đó, ai đã in câu đó trên sách vở và đã cho nhồi vào đầu của hàng triệu người. Bây giờ ai đã đem cái vốn quý nhất đó ra mà dùng một cách trân trọng như thế này. Cô nữ diễn viên kia xuất hiện ở đây có phải chăng cũng là một trường hợp chứng minh điều đó ?

      Tôi nghe những lỗ chân lông của tôi hút nước vào trong cơ thể, cái cơ thể vốn sợ nước, vốn đã bã ra vì nước !

      Tôi cố bước lên vài bước để lấy trớn, để quên đi cái sự giá lạnh nó đang ùn ùn vây phủ mình. Rồi tôi dừng lại để chờ Thu.

      Tôi đưa tay ra cho Thu nắm lấy. Tôi lôi Thu đi tới và ngoảnh lại nhìn. Ở hai bên bờ suối chưa có ai lội xuống hết. Anh Khẩu đội tưởng ngồi trên một hòn đá với mấy đội viên của anh ta, và cái nòng pháo vừa được lôi lên khỏi nước.

      Nét sầu tiền kiếp, và sự man rợ của những thế kỷ man rợ đã in đậm nét trên gương mặt họ.

      Năm Cà Dom đang đứng chống nạnh như một ông tướng.

      Anh ta bảo:

      - Đi trước đi ? Tôi chấp hai ông bà đi nhanh lên, rồi tôi bắt kịp cho mà coi nghe !

      Rồi Năm Cà Dom quay lại bảo ông Chín và ông già Noël:

      - Ông và đồng chí này đi đi kẻo ở sau không còn ai hết. Rơi lại phát này là không còn ai vớt nữa đâu. Theo tôi thì giao liên trong chuyến tới nó không dùng con đường này nữa, nó chờ cho đến mùa nước cạn năm tới mới quay lại dùng con đường này.

      Tôi nghe Năm Cà Dom giải thích mà ớn lòng.

      Tôi và Thu dắt nhau đi tới. Tôi cố không nhìn khi đi qua chỗ anh binh sĩ gãy chân.

      Nhưng tiếng kêu than của anh ta rền vang hai bên vách đá.

      - Ối làng nước ơi ! ôi cha mẹ ơi ! Chắc con không trông thấy mặt cha mẹ rồi ! Hồi ở nhà, cha mẹ bảo con trốn đi, đừng có đi Nam mà không thấy ngày về, bỏ cha bỏ mẹ, nhưng con không nghe, con định đi lập công dâng đảng. Ôi cha mẹ ơi, ối làng nước ơi, ối làng nước ôi cha mẹ ôi !

      Vậy là anh ta cứ gọi bố mẹ, làng nước chứ không gọi cái gì thiêng liêng khác như ngày thường anh ta gọi.

      Bất giác tôi quay nhìn anh ta. Thiệt là một hình hài làm cho tôi đau khổ suốt đời.

      Anh binh sĩ không còn là người nữa, anh ta là một cái mớ giẻ rách, biết nói, một bộ xương, một con ngợm, một con quái vật, một cái gì, ai muốn đặt tên là gì cũng được trừ hai chữ “con người”.

      Tôi nhắm mắt lại mà lội bươn qua, làm như cái cảnh tượng đó không có xảy ra trước mắt tôi, hoặc nó có trước mắt tôi mà không có dính ăn dính thua gì với tôi cả.

      Đi ngang qua những người khiêng, tôi cố gượng hỏi:

      - Sao các đồng chí không trở lại khiêng đồng chí kia ?

      - Đồng chí có giỏi thì khiêng . Một người trả lời.

      - Đồng chí đó là đồng chí đồng đội của đồng chí mà ?

      - Tôi chằng đồng gì với ai cả.

      Một người khác trong đám tiếp:

      - Không có gạo đồng chí ạ. Ba lô trôi, ruột tượng cũng tuột hết rồi. Lấy gì mà khiêng. Khi cái chân không bước nổi ?

      Tôi cũng biết vậy, nhưng sự thương tâm làm cho tương tri của bật lên tiếng nói.

      Tôi bảo:

      - Cái đó thì tùy.

      Tôi quay lại nhìn phía sau. Ông Chín và ông già Noël đang đi theo chiến thuật cũ, nghĩa là lần vách đá mà đi. Còn Năm Cà Dom thở phì phì như trâu nước. Năm Cà Dom đã đi đến ngang tôi. Năm Cà Dom hỏi:

      - Ba-lô đâu, đưa tôi quẩy đùm cho.

      - Thôi được!

      Tôi yếu sức quá, nhưng tôi sợ rủi Năm Cà Dom làm tụt mất có mà chết. Tôi bảo Thu đưa ba lô cho Năm mang giúp.

      Có lẽ cùng một ý nghĩ như tôi cho nên Thu cũng xin cảm ơn Năm. Năm trườn đi tới, tôi thấy mà thèm, nhưng không tài nào tôi như Năm được. Tôi như cái cục cơm nếp mắc mưa bây giờ đem ngâm xuống nước.

      Tôi nhìn Thu, Thu như không còn hồn phách. gì nữa.

      Tôi gắng gượng bảo Thu:

      - Cố gắng lên em. Tới phía trước có chỗ nghỉ !

      Dọc đường tôi đi, không biết còn có bao nhiêu thảm cảnh như thế nữa. Mà chính tôi và Thu đây cùng với cây cỏ chung quanh cũng là một thảm cảnh rồi, cực hình rồi.

      Bây giờ tôi cũng không cần phải tả thêm cái con suối ác nghiệt này một nét nào nữa.


      Hết Chương 3 - Xem Tiếp Chương 4
      sigpic

      Comment


      • #4
        Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

        Chương 4


        Tôi và Thu đi hết quãng đường này đúng vừa lúc Thu mệt ngất lả người ra, không còn một chút sinh lực để bước thêm một bước.

        Tôi biết là đến nơi rồi.

        Tôi vọt lên bờ, đứng dang chân ra và khom người xuống đưa tay cho Thu, Thu đã đến mé bờ nhưng Thu chỉ còn sức để đưa tay lên cho tôi nắm lấy và ngã gục mặt vào hai mũi bàn chân tôi, như một sự buông trôi cả thể xác lẫn tâm hồn Thu cho tôi.

        Tôi lấy hết sức lôi nàng lên khỏi nước và tôi buông nàng xuống đất nằm sóng soài ra đó không cần kể tới sự phải giữ gìn kín đáo cho một người con gái.

        Ở đây không ai còn tâm trí và sức lực để nhìn để nghĩ về một tấm thân của một người con gái.

        Thu nằm đây lăn lóc dưới đất, áo quần ướt đẫm, rách nhiều nơi, da nàng lộ ra nhiều mảnh trắng nhưng đâu có ai buồn nhìn.

        Tôi lắc nhẹ Thu và bảo:

        - Em ạ đến nơi rồi !

        Nhưng Thu vẫn nằm , đôi mắt Thu nhắm nghiền, Thu không tỏ vẻ hay biết về những việc xảy ra chung quanh nàng.

        Những anh bộ đội mặt mày xanh ngắt xanh ngơ cũng theo dấu chân của tôi, cố trườn lên bờ. Nhiều người nằm tại bờ suối đó, nhưng cũng có nhiều người cố vượt lên vài chục bước rồi nằm vật ra.

        - Thu ạ!

        Thu vẫn không đáp.

        Quần áo dán sát vào thân người nàng, làm lộ hẳn những đường nét đáng yêu. Tôi lặng người đi giây lâu, không còn nhớ mình là ai, cũng không còn biết đây là đâu, mà chỉ thấy rằng mình đang đứng trước một cái gì đáng yêu đáng bảo vệ quá.

        Tôi cúi xuống bế xốc Thu lên.

        Nhưng để làm gì? Nhìn quanh quất tôi không biết làm gì . Mà cứ thấy rằng mình không thể để cho một con người như thế, nằm lăn lóc dưới đất.

        Tôi ôm sát nàng vào ngực tôi như để sưởi ấm cho nàng. Trời ơi! Tôi yêu nàng, yêu cả những thói xấu và những sự bất mãn của nàng.

        Tôi biết rằng tôi yêu nàng vì tình yêu của tôi đối với nàng là động cơ mạnh nhất thúc đấy tôi đi tới, sau cái tình quê hương của tôi.

        Nếu không có Thu thì có lẽ tôi buông trôi cuộc đời tôi, để cho nó cứ trôi dạt, và rồi tôi sẽ phải chấp nhận cái bãi biển, cái bến bờ nào mà sóng gió đưa tôi đến.

        Tôi đặt Thu xuống và lấy võng mắc bừa lên rồi ẳm Thu đặt lên võng như lần trước qua khỏi con sông gì đó ! Mà chính tôi cũng không biết tên.

        Tôi lấy chăn – tấm chăn ướt – đắp cho Thu rồi lại ngồi bên đầu võng Thu, như một tên nô lệ canh giấc ngủ cho một nữ hoàng.

        Những người lính lại lôi thôi lếch thếch đi qua.

        Họ không còn là những chiến sĩ của quân đội Miền Bắc.

        Họ là những cái bộ xương còn có thể di động trong vài hôm nữa, và chỉ cần một trận mưa nữa là những bộ xương ấy sẽ rã ra, rải rác khắp trên con đường vinh quang này như những cánh hoa vô giá, làm cho con đường giải phóng Miền Nam thêm hương thêm sắc.

        Ông Chín và ông già Noël không biết làm sao mà rồi cũng tới nơi được. Trông họ còn bệ rạc, bi thảm hơn cả Thu. Ông Chín thì mắc võng nằm. Còn ông già Noël thì cứ trườn lên được trên bờ rồi lăn ra đất như một đống thịt vô tri.

        Chập sau, thấy Thu hơi tỉnh người lại, tôi hỏi:

        - Em thấy trong mình thế nào ?

        Thu lắc đầu . Đôi môi Thu khô ran như muốn nứt ra. Nước da của Thu vừa xanh vừa tái. Quần áo ướt đẫm. Tôi chú ý thấy dưới đít võng những giọt nước hồng hồng. Thì tôi biết Thu vẫn khó ở. Và có thể Thu ốm nặng vì cái trận lội suối này.

        Tôi ái ngại cho Thu vô cùng. Tôi muốn tìm ông bác sĩ Năm Cà Dom nhưng không thấy ông ta ở đâu.

        Tôi biết Thu đang khóc. Có lẽ nếu tôi không hỏi cái câu lúc nãy, cứ để cho Thu nằm im, thì Thu không khóc, nhưng vì tôi hỏi câu đó cho nên Thu tủi thân.

        Nước mắt Thu trào ra khóe mắt. Thì cũng như mọi người con gái khác hay mọi người khác khóc thôi, thế nhưng ở đây mỗi một giọt nước mắt chứa đựng rất nhiều nối niềm trong đó có sự tủi hận.

        Tủi vì tấm thân của con người “đi làm cách mạng giải phóng Miền Nam ” bị đối xử như con vật, con vật hy sinh (không biết để làm gì), hận vì trót nghe lời thiền hạ quá dễ dàng, tin chắc ba bó một giạ.

        Riêng Thu, tôi nghĩ giọt nước mắt càng phức tạp hơn trong đó không khỏi có sự tiếc thương cái sắc đẹp tiêu tan của mình trên con đường này.

        Gái Hà Nội khéo ăn, khéo mặc. Tôi đã từng biết điều đó. Mảnh vải thồ, họ cũng biến thành chiếc áo đẹp và duyên dáng. Một sợi tóc họ để lả lơi trước trán hay buông thả bên thái dương, cũng đều có ý thức chứ không “may rủi bao giờ.

        Bây giờ nằm ở đây, Thu làm sao khỏi chạnh lòng, tủi hận ? Tôi cũng không biết cách nào giúp đỡ Thu, giữ gìn sức khỏe của nàng. Trong tôi và trong ba lô tôi, cũng như trong nàng và trong ba lô nàng không còn một vật gì khô sau mấy tiếng đồng hồ ngâm nước .

        Còn gạo trong ruột tượng, chỉ vài nhúm thôi, nhưng gạo đâu còn là gạo. Nó rã mềm và nát ra như bột thối. Nhưng tôi cũng không dám bỏ. Vì dầu sao thì nó cũng là gạo. Có cái gì thay thế nó.

        Tôi đi quơ củi gom lại và bất kể sự vi phạm kỷ luật đi đường, tôi nấu cho Thu một bát cháo với số gạo đó và nấu một bi đông nước sôi để cho Thu chuờm bụng.

        Thu cứ kêu đau bụng luôn. Đáng lẽ những ngày khó ở đã chấm dứt rồi, nhưng vì bị ngoại cảnh ác nghiệt cho nên nó mới kéo dài và gây ra nhiều sự phức tạp cho Thu, mà chứng đau bụng liên miên là một.

        Thu cầm lấy bi đông nước và áp vào bụng. Qua làn áo ướt hơi nóng truyền vào cơ thể nàng, làm cho gương mặt nàng tươi dần.

        Rồi nàng húp chén cháo nấu với mớ gạo mục kia. Nàng càng tỉnh ra và nàng bắt đầu nói chuyện.

        Nàng nói gì ? Nàng nói toàn những chuyện bất mãn và những chuyện trái ngược lại mơ ước mà nàng xây đắp ở đầu đường.

        Nàng nói:

        - Em dè thế này, thì em đã không đi !

        - Thôi em ạ ! Tôi bảo. Em không nên nghĩ như vậy.

        - Em đã quyết ở lại từ phía bên kia sông. Em không muốn đi từ sau cơn sốt đầu tiên kia anh ạ. Nhưng sở dĩ em còn gắng gượng đi tiếp là vì em muốn để thử xem sự đời nó có khác hơn không. Nhưng cho đến hôm nay là đúng một tháng mười tám ngày đi trên đường này rồi. Em nhận hai điều. Một là… càng ngày những sự vô lý càng nhiều thềm và càng cao độ. Nếu cuối cùng em có hy sinh thì đó là kết thúc sự vô lý.

        Hai là em không thể đi nổi nữa. Anh cũng biết rõ sức khỏe của em. Nhất là đôi chân của em. Ở trường ra, em coi trọng đôi chân hơn cả. Bởi vì múa ba-lê mà không có đôi chân khỏe và tế nhị thì lấy gì mà múa. Nhất là cái cổ chân. Bây giờ qua bao nhiêu lần sưng bao nhiêu lần trặt thì nó sượng ngắt rồi không như xưa nữa, còn mũi chân với những cái ngón chân tòe thì cũng hết nhạy rồi !

        Thu nói tiếp:

        - Anh thấy không ? Nếu em cố mà đi cho khỏi mang tiếng thì em cũng chỉ đi được vài chặng nữa mà thôi. Rút cuộc những cố gắng hy sinh của em không đem lại cái gì cho ai cả.

        Tôi ngồi lặng thinh.

        Tôi không còn cách giải thích nào hay ho hơn mà ngược lại tôi thấy Thu nói đúng quá, đúng cho đến nỗi ngay cả những người chủ trương cuộc đi này cũng không thể cãi lại nổi.

        Hơn nữa để chứng minh cho những lời nói vừa rồi của Thu, còn có ông Chín, ông già Ngũ, anh binh sĩ bị Pháo đè gãy chân, anh Khấu đội trưởng bị đội viên đánh rớt xuống suối. Đó là những hiện tượng quá hùng hồn mà Thu đã trông thấy trước mắt để làm cơ sở cho những lời nói của Thu.

        Đàng kia, cái võng cáng anh binh sĩ gãy chân vừa ló ra dưới nước. Bốn người khiêng ngập đến ngực, người nằm trên võng thì hai tay đeo chiếc đòn, cố ngóc đầu lên cho khỏi bị nước ngập.

        Vừa đến bậc đá để trèo lên, người đi đầu nghển cổ lên quát: “Tiếp ! Tiếp ! ” rồi đưa bàn tay xanh ngắt bám lấy một mõm đá mà đứng đấy.

        Cả đám binh sĩ ngồi chung quanh cũng nghển cổ lên nhìn trả lại. Không có cậu nào chạy đến tiếp cứu cho anh bạn kia.

        Tôi bực mình quá, đứng dậy, lại quát:

        - Các đồng chí ra lôi nó lên đùm một chút.

        Một người nói:

        - Thì đến nơi rồi, ráng lên tí nữa.

        - Nó khiêng người bệnh mà. Tôi hạ giọng thiết yếu. Tội nghiệp nó.

        - Tụi tôi cũng bệnh đây, có đứa nào khỏe đâu.

        Thế thì hết chỗ nói rồi .

        Không anh nào chịu đến tiếp lồi cái cáng lên cả.

        Tôi đành phải đi làm việc đó. Tôi nắm tay của anh đi đầu và lôi tuột lên bờ. Cái cáng bị dốc ngược ra sau, hai anh khiêng phía sau bị sức nặng dồn xuống vai, té ngửa. Tôi nhanh tay chụp lấy anh bệnh binh lôi lên bờ như lôi một khúc gỗ. Nếu không có tôi anh ta sẽ rơi xuống nước và bị cuốn đi.

        Anh bệnh binh nằm dưới đất, cách mé bờ vài tấc nhưng cũng không có ai ngó ngàng tới. Tất cả đều xem việc đó như không có ở trước mắt mình. Tôi chỉ làm đến đó thôi, rồi trở lại ngồi bên võng của Thu, đưa mắt nhìn.

        Anh binh sĩ gãy chân bắt đầu kêu la thảm thiết, cũng vẫn cái giọng đêm qua, nhưng bây giờ thì đã khàn rồi.

        “Ố làng nước ôi, ối cha mẹ ôi, chắc con hết trông thấy mặt thày mẹ rồi, ối… ối…”

        Cái chân gãy của anh do bác sĩ Năm Cà Dỏm băng và cặp nẹp bằng những thanh nứa tươi hôm qua, nay đã sưng lên nước thấm vào băng chảy xuống ròng ròng. Anh để nó nằm ngay ra nó, có lẽ để cho mỗi người xem một chút chăng ?

        Bốn anh chàng hiệp sĩ khiêng anh ta cũng tìm chỗ mà nằm sải tay ra, không buồn ngó đến cái anh đồng chí này nữa. Họ tự xem như đã làm xong nhiệm vụ với anh này.

        Anh giao liên tự nãy giờ ngôi êm rơ trên một tảng đá nhìn rõ mọi sự việc xảy ra, nhưng cũng không buồn mó tới. Đợi cho mọi người không còn để ý tới anh binh sĩ gãy chân nữa, anh ta mới đến gần. Anh ta nhìn nhìn một chốc rồi lắc đầu:

        - Đau cái gì thì còn mong mỏi, chứ gãy chân thì hết phương rồi Làm sao mà đi ? Chỗ đâu mà nằm ? đường này ai mà khiêng cho nổi ? ở đây đâu có bệnh viện !

        Rồi anh quay trở lại tảng đá lúc nãy. Trên tảng đá có một mảng nắng. Anh ta đang căng cái áo phơi ở đó. Cũng trong mảng nắng đó có một mớ thuốc lá. Anh ta đang săn sóc mớ thuốc đó cho mau khô để hút lấy hơi ấm.

        Chốc chốc anh ta quay lại xốc xốc mớ thuốc lên. Rồi có lẽ không đủ kiên nhẫn chờ đợi cho mớ thuốc khô, anh ta bốc bỏ cả lên lòng bàn tay đưa lên miệng hà hơi. Tại anh ta sốt rưột chứ hà hơi thuốc đâu có khô nhanh hơn phơi nắng.

        Thấy anh ta là bợm ghiền còn tôi thì, tuy không nghiện nhưng tôi có mua mấy gói thuốc Thăng Long bỏ trong ba lô với ý định là sẽ biếu cho mấy bạn thân ở Miền Nam để cho họ nếm mùi xã hội chủ nghĩa chơi.

        Tuy định như vậy, nhưng cũng tùy cơ ứng biến. Tôi lấy ra một gói bọc trong hai ba lớp ni lông nhưng thuốc vẫn hơi i ỉ. Tôi xé bao thuốc, chỉ rút ra một điếu thôi. Tôi cầm điếu thuốc trên tay rồi đi đến tảng đá ngồi ngay xuống bên cạnh anh giao liên.

        Anh này hơi khó chịu vì cái cử chỉ đường đột của tôi, nhưng tôi chìa ngay điếu thuốc ra rước mắt anh ta và nói:

        - Làm cái này này anh bạn.

        Tức thời anh giao liên sáng mắt lên ngay. Anh nhìn sang tôi. Có lẽ anh muốn biết tôi là ai mà giờ phút này còn có ớ được cái món quí giá như vậy.

        Tôi mời thân thiết:

        - Làm điếu này đi đồng chí cho đỡ lạnh.

        Anh giao liên cầm lấy điếu thuốc đưa lên mũi ngửi ngửi:

        - Chà chà t Ngon dữ ha !

        Thăng Long hạng nhất ngoài đó đó, đồng chí !

        Anh giao liên nâng điếu thuốc lên tận mắt rồi gật gù:

        -À có chữ Thăng Long đây.

        - Hút đi ! Tôi vừa bảo vừa móc cái bật lửa ra.

        Cái ruột bật lửa cũng bị ướt cho nên tôi phải vất vả và khéo léo lãm mới bật ra lửa.

        Khói lên thơm ngát một vùng.

        Mấy người nằm bên cạnh lơ mơ, bỗng nghển cố lên:

        - Cha nào hút thuốc thơm ngon vậy

        - Ở đây mà còn thuốc, cha chả là đế vương rồi !

        Anh giao liên cứ bình tĩnhrít từng hơi vừa trang trọng vừa cẩn thận. Nét mặt anh ta có vẻ tập trung cao độ một tình cảm và ý nghĩ để thụ hưởng làn khói thơm tho ngon lành. Tôi có cảm tưởng là những nhọc mệt trong chặng đường vừa qua đã tan trong làn khói ấy.

        Tôi lân la hỏi:

        - Chặng đường sắp tới thế nào, đồng chí?

        - Hết suối rồi.

        Anh giao liên rít một hơi dài rồi phun khói ra một đợt ngắn còn bao nhiêu thì anh ta hít cả vào trong phổi. Anh ta gật gà gật gù cái đầu và nói tiếp:

        - Nhưng chưa hết khổ.

        - Khổ gì đồng chí?

        - Hết suối thì tới núi.

        - Núi thì tụi tôi cũng lội quá sá rồi.

        - Nhưng núi ở đây khác núi ở ngoài đó.

        - Khác làm sao đồng chí ?

        - Nó lầy lội khó đi lắm.

        - Trời đất! N úi gì mà lầy lội ?

        Anh giao liên làm như không chú ý đến câu hỏi của tôi. Anh ta mải mê rít thuốc. Điếu thuốc đã cháy hết quá nửa rồi. Nhất gái một con, nhì thuốc ngon nửa điếu. Nửa điếu thuốc còn lại, nhựa ngon dồn lại ở đây, làm cho sợi thuốc săn lên và đậm đà hơn.

        Anh giao liên tỏ ra rất sành. Anh ta không gạt cái tàn trắng ở đầu điếu thuốc, để cho nó bao bọc cái cục lửa giữ khói và giữ hơi ấm.

        Anh trả lời:

        - Để rồi đồng chí sẽ thấy. Lá mục từ đời Hồng Bàng tới bây giờ có ai mà cào hốt đi. Bây giờ con cháu đức Hùng Vương mới lội qua lần thứ nhất. Nó ngập đến ống chân. Đồng chí lội vào đấy rồi đồng chí có cảm tưởng là da thịt của đồng chí đã mục đi, hoặc là bị cái lớp lá mục đó cạp hết còn lại cái ống xương mà thôi.

        - Đồng chí nói gì nghe ghê vậy ?

        - Tôi nói thiệt mà ! Anh giao liên tiếp, nhưng chưa hết đâu, còn vắt nữa. Trời đất ông bà thánh thần ơi ! Vắt như mạ rải trên ruộng vậy Rất tiếc rằng mình không ăn nó được, chứ nếu ăn được thì ở vùng này không lo cực ăn.

        Tôi rùng mình. Chỉ hai cái chi tiết của anh giao liên vừa nêu lên đó cũng đã làm cho tôi hình dung ra chặng đường sắp tới.

        Anh giao liên hãy còn trẻ, nhưng gương mặt đầy vẻ phong sương dáng người xơ xác quá. áo quần thì rách mướp.

        Trong người anh không có cái gì quí giá cả, ngoài chiếc bai-on-nết của một khẩu súng cạc-bin. Vải mủ của anh dùng để che mưa thay áo mưa cũng rách nát.

        Có lẽ vì có cảm tình với tôi và trông tôi nhiều tuổi hơn anh nên anh tự xưng tên và đôi lần xưng bằng em khi nói chuyện với tôi.

        - Em tên là Tấn ! Em công tác ở đây đã hai năm.

        Tấn tiếp:

        - Trên chặng đường này chỉ có em là công tác lâu nhất. Còn ai đổi đến đây cùng chỉ chịu đựng sáu tháng là cùng. Hoặc xin đổi, hoặc trốn mất.

        Anh xem đó, khúc đường này là toàn ngâm mình dưới nước. Một năm ít ra cũng tám tháng. Cứ cách một ngày lại ngâm nước một lần như thế. Mà mỗi lần ngâm ít ra cũng từ sáu đến tám tiếng đồng hồ. Da thịt nào chịu nổi. Từ dưới nước lên bờ, đâu có quần áo mà thay !

        - Chặc! Khổ thế!

        - Em cũng biết các anh đau lắm. Nhưng không còn cách nào khác.

        - Sao không tìm con đường khác mà đi cho khỏe.

        Tấn rít đến hơi thuốc cuối cùng. Hòn lửa đã cắn đôi môi Tấn, Tấn mới chịu phun nó ra. Tấn còn luyến tiếc nhìn theo cái đuôi thuốc không thề hút thêm hơi nào nữa và lơ mơ nói với tôi:

        - Đường nào đâu mà dễ anh ?

        - Đường bộ chẳng hạn. Cho nó khô, khỏe hơn.

        Tấn nói:

        - Tôi đã lội nhẩm dấu cái vùng này. Tôi cũng đã nghĩ tới điều đó chứ không phải là không nghĩ, nhưng nếu bây giờ mà tôi dắt các anh đi đường bộ thì lập tức anh sẽ chửi tôi gấp trăm lần đi conđường này.

        - Sao dữ vậy ? Tôi lội rừng trèo núi cũng đã nhiều.

        - Ừ tôi nghe nói các anh leo đồi “ngàn linh một” là cao nhất, nhưng ở ngoài đó chỉ có một cái đồi đó thôi và lại có đường để mà đi, còn vô đây không còn đường đất gì nữa cả. Nay lối này mai lối khác Đi mãi rồi nó thành đường ra.

        - Sao cứ đổi đường như vậy cậu ?

        - Biệt kích người Thượng ghê lắm anh ạ !

        Tôi rùng mình nhớ lại có lần một cậu đã kể cho tôi nghe về bọn này. Tấn tiếp:

        - Nếu mình cứ đi mãi một con đường thì chết với nó ngay.

        Chúng tôi ngồi lặng in. Tôi thì hoang mang còn Tấn thì đăm chiêu lo nghĩ. Một chốc Tấn nói:

        - Các anh không thể đi đường bộ ở đây. Nếu tôi có dắt các đi thì trong các anh sẽ có người bị ngã chết hoặc không chịu đi. Tôi thấy trong đoàn đi kỳ này toàn thứ dữ nào phụ nữ phụ nang, nào ông già, nào nòng pháo, khiêng sao được .

        Đại khái những cái dốc leo lên mà nếu người ở trên ngã thì những người ở phía dưới cũng ngã theo, vì người đi dưới “cái mũi hôn cái gót chân người đi trên”. Không phải chỉ một quãng mà toàn bộ chặng đường này từ đầu chí cuối.

        Anh Khấu đội trưởng đến.

        Anh ta như con mèo ướt, giống như một vị chỉ huy đang đi tới tuyệt lộ cùng đồ.

        Anh ta dáo dác có vẻ như tìm đám tàn quân của anh ta. Tôi đã học được cái thái độ lạnh nhạt của anh giao liên trước mọi sự đời. Hăng hái quá chỉ chuốc thêm tai họa, ở đâu chớ ở trên con này thì như thế đó.

        Đột nhiên Tấn hỏi tôi:

        - Anh đi tập kết như vậy là mười mấy năm ?

        - Mười năm. Cậu ra đây bao lâu rồi ?

        - Mới có hai năm thôi !

        Tôi lại gặp một thanh niên Nam bộ ở đây nữa. Điều đó làm cho tôi ngạc nhiên. Tôi hỏi:

        - Sao các cậu không ở trong đó, lại ra đây làm gì vậy 7

        - Thanh niên xung phong mà.

        - Nhưng phải chọn vùng thích hợp chứ ! Tôi coi cậu bị chanh nước phải không ?

        - Thì đúng quá rồi. Ma thiêng nước độc mà. Tấn tiếp, thì tôi cũng tưởng là đi vài tháng hoặc một năm là cùng, chớ ai dè nó dây dưa thế này. Hơn nữa tuổi trẻ ham cái lạ. Tôi nghe nói vùng này cảnh đẹp lắm. Muốn ra xem cho biết.

        Với lại nghe các anh về đông lắm. Súng ống rất dồi dào. Ra đây tiếp sức vận tải với các anh không ngờ ra đây thì gặp toàn chuyện thối chí, bây giờ muốn trở lại xứ mình, không có đường về.

        Tôi ngồi lặng thinh mà nhìn cậu thanh niên. Đây lại cũng là một loại người hăng hái đi theo cách mạng như tôi thuở trước.

        Tấn thở dài:

        - Thiệt đúng là buông hình bắt bóng. Cuộc đời nó cứ đưa đẩy mình đi càng ngày càng xa quê hương mình, đi đến những nơi không biết đề làm gì và sẽ đi tới đâu nữa.

        Tôi cười:

        - Thì cũng như bọn tôi đây và cả bọn tập kết, hồi ra đi đâu có ngờ phải đi lâu dữ vậy. Hai năm trở thành mười năm, không chừng trở thành hai chục năm nữa là khác.

        - Té ra… Té ra không có gì đúng cả.

        - Ờ thì có thể ! Cách mạng mà . . .

        Ông Chín vọt miệng đáp:

        - Mấy đồng chí nói vậy thành ra cách mạng nói láo hay sao ? Nói vậy mà nghe được à ?

        - Đâu có phải tôi nói cách mạng nói láo, nhưng tôi cho rằng cách mạng không tiên đoán nổi nhiều vấn đề thành ra không đối phó được.

        - Ví dụ ? ông Chín hớp một ngụm nước trong cái bi đông Mỹ nhìn tôi chòng chọc chờ đợi tôi không tìm ra câu trả lời.

        Tôi cười và nói:

        - Thì đó.

        - Đó đâu ? Cái gì ? Hồi nào ? Và có chứng ai ? Nói thì phải có biện chứng.

        Dường như ai động tới tim gan của ông. Nhưng tôi cũng không muốn khơi lên làm gì cái sự gàn dở của ông ta. Ông ta làm như ông là người thủ thành độc nhất của cách mạng, không có ông thì cách mạng bị phá lưới ngay vậy. Cho nên tôi chỉ cười dả lả:

        - Nói cho vui vậy thôi mà ông Chín.

        Tấn có lẽ cũng biết tính ông Chín, nên vội gạt ngang câu chuyện mà sang hướng khác. Tấn nói:

        - Còn cái chuyện tình hình trong mình hiện nay tôi nói cho anh nghe. Em thì cũng lạc hậu lắm rồi, nhưng vừa có mấy anh từ trong đó ra hoặc em được thư nhà cho nên em biết được. Trong đó bây giờ nó đánh dữ lắm. Ở nhiều nơi cơ quan không có chỗ ở, ba-lô lúc nào cũng vác trên lưng.

        - Tại sao vậy ? Nghe nói vùng giải phóng bây giờ rộng hơn cả hồi đánh Pháp mà.

        - Cái đó thì ở đâu không biết chứ còn ở Cà M au, Bạc Liêu thì không thấy. Anh nên nhớ rằng bây giờ Mỹ đã nhảy vô bốn, năm trăm ngàn lính rồi, mà nó đánh mình không có đi bộ đi tàu như Tây hồi trước đâu.

        -Vậy nó đi bằng cái gì?

        - Đi bằng máy bay !

        - Nó nhảy dù hả. Nhảy dù thì không đáng sợ.

        - Nhảy dù thì ít, mà nhảy giò thì nhiều.

        - Nhảy giò là gì ?

        Tấn cười và nói:

        - Anh phải học sách tránh nhảy giò trước nhé, kẻo về trong kia bất cập rồi thì không né được đó.

        - Ừ nói đi nghe thử.

        - Đại khái là nó dùng trực thăng . Anh biết trực thăng không, một loại máy bay. Có nhiều người ở Bắc mới về khi nghe nói trực thăng thì bĩu môi ! Ôi ! Máy bay to bằng con chuồn chuồn! Đó là so sánh nổ với phản lực, chớ nó là diều hâu mà mình là gà con anh ạ!

        Ông Chín bao giờ cũng là thủ thành rất chăm chú trong khuôn gỗ, mắt của ông lom lom dòm trái bóng, để nhào ra cướp lấy trong chân đối thủ. Ông nói:

        - Đó là đánh giá địch quá cao rồi !

        - Dạ không phải vậy đây ông ngoại. Tấn vui vẻ đáp. Để con “tỏa” đầy đủ rồi ông ngoại xem con có đánh giá địch cao hay không?

        Tấn tiếp:

        - Con ví dụ mình đang hội nghi nhé ông ngoại, con ví dụ như thế, mấy chục người mình đang ngồi trong mái nhà bỗng nghe tiếng máy bay, người gác chạy vào báo. Ông ngoại xếp giấy tờ vào sắc-cốt chưa xong thì máy bay nó ào ào tới.

        Ló đầu ra xem thì máy bay nó ở ngay trên đầu mình rồi. Cánh quạt nó quạt tung cả nóc nhà rồi, chạy đi đâu ? Chiếc trực thăng như một con diều hâu thò móng ra và xòe cánh ra chụp phủ lên đầu mình. Có phải mình trở thành một lũ gà con không ông ngoại ?

        Ông Chín ngồi há hốc mồm ra nhìn Tấn.

        Tôi cũng lặng thinh. Không ai cãi được cái ý kiến gà con và diều hậu của Tấn nêu ra từ đầu. Tấn tiếp:

        - Nhưng chưa hết đâu. Khi cuộc hành quân xảy ra thì chung quanh cây cỏ cũng không rảnh rang mà nhìn. Tất cả đều quằn quại trong những loạt đạn đại liên.

        - Ở đâu bắn ? Nó không sợ bắn lầm nhau à ?

        Tấn nói:

        - Đâu lầm được. Lính chưa nhảy xuống là súng từ trên máy bay bắn xuống làm vòng đai chung quanh cuộc hành quân mà. Nghĩa là nó vây chặt, nếu mình nhát thì không chạy lọt ra được khỏi vòng vây Và nếu ở trong vòng vây thì nó bắt sống.

        Tôi nói:

        - Nhưng ai bắt sống mới được chứ ? Máy bay bắt sống thế nào được?

        Tấn cười:

        - A chết tôi chủ quan quá. Tôi quên rằng anh và ông Chín ở ngoài Bắc về chưa từng bị nhảy dò nên không biết việc đó ra làm sao. Nó như thế này. Không phải nó đi máy bay thôi đâu, mà trong ruột máy bay có lính hẳn hoi. Nó đáp xuống đất, lính nhảy xuống vừa chạy vừa bắn liền. Đấy anh coi chung quanh thì nó vây rồi , trong ruột lại có linh sục sạo và bắn như mưa bấc mình có khác nào như cá trong đăng trong lưới không ?

        Cho nên lúc bị nhảy dò, người yếu bóng viá không dám chạy thoát ra khỏi vòng vây mà cứ ngồi trong hầm thì tội nghiệp lắm, cùng một lúc với lính đổ xuống đất, mấy chiếc trực thăng yểm trợ bắn vày chung quanh, lưới lửa dầy đặc Nếu có gan thì chạy liều, rủi ro thì gãy giò, may thì chạy loát nếu nhát thì ngồi trong hầm, khi nghe tiếng súng vừa dứt loạt ló đầu ra định chạy đi thì lúc đó lính đã tới bên miệng hầm vẫy gọi, mình lóp ngóp chui ra.

        Tấn tợp một hớp trà rồi tiếp:

        - Đại khái một cuộc nhảy giò gồm có màn thứ nhất nó như vậy đó. Ông ngoại còn xí quách để chạy không ? Như vậy mình có phải trở thành như lũ gà con không ?

        Ông Chín làm thinh.

        Tôi thấy ông Chín hơi ngượng vì không làm sao vớt nổi cái khí thế mạng dưới lằn đạn trực thăng cho nên tôi đỡ cho ông khỏi ngượng.

        - Vậy ở ngoài Bắc tôi nghe chiến thuật trực thăng vận bị bẻ gãy hết rồi mà ? Bảo là mình muốn rủ nó tới rồi mình muốn diệt lúc nào cũng được mà !

        -Ai nói?

        - Thì có biết ai nói bây giờ. Nhưng đọc báo nghe đài thì thấy nói luôn. Nào chiến thuật “bủa lưới phóng lao ” nào ” Phượng hoàng vồ mồi” v.v… tất cả đều chẳng ra chi. Ở ngoài Bắc nghe nói thì tụi tôi tưởng tượng chẳng khác nào Mỹ là một lũ ngớ ngẩn. Một lũ chim non cứ đâm đầu vào bẫy.

        - Mấy thằng cha nhà báo nói dóc, có chiến thuật nào của nó mà bị phá sản đâu? Tôi biết mấy cha đó nghe một ít rồi tán ra, chẳng hiểu cái trực thăng nó ra làm sao cả. Nó gắn cả chục cây súng toàn đại liên trên đó chớ phải chơi sao mà muốn hạ thì hạ ?

        Tôi ngao ngán:

        - Ai biết đâu, ở ngoài đó nghe vậy thì hay vậy và ai cũng định về xem một vài trận quân mình hạ trực thăng chơi, tôi còn nghe nói là cả trẻ con cũng có mưu kế bắt được trực thăng.

        Tấn trề môi:

        - Toàn những chuyện chỏng cẳng lên trời dộng đầu xuống đất, chuyện nước lã khuấy nên hồ thôi ! Để anh về tới trong đó rồi anh sẽ thấy trực thăng là cái gì mà mình “bẻ gãy ” dễ dàng như vậy.

        Tấn nói tiếp.

        - Tôi nổi thật với anh, nếu Mỹ bỏ cái trực thăng rồi mình mới khỏe.

        Ông Chín thấy khó bề qui kết cho Tấn là mất lập trường và nhờ tôi mở lối ra, cho nên ông ta quay đi nấu nước không sân si nữa.


        Hết Chương 4 - Xem Tiếp Chương 5
        sigpic

        Comment


        • #5
          Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

          Chương 5


          Trưa rừng sau cơn mưa, lá cây chuyền động trong sự lặng lẽ âm thầm, những búp non nảy thêm ra. Nhựa cây chảy rạt rào trong thân cây.

          Tôi cứ quên đi những luồng thán khí do cây thở ra và làm hại đến sức khỏe con người mà tôi cứ tưởng đây là cảnh rừng thơ mộng với các áng hương thơm lâng lâng sực nức lòng người.

          Nhưng nghe câu chuyện càng rầu. Chuyện qua đã không hay ho chi . Còn chuyện sắp tới thì không như mình tưởng.

          Hồi ở Hà Nội, tôi cứ tưởng tượng qua các bài báo bốc tếu tới trời. Tưởng vé tới quê hương là toàn bầu trời xanh mát, xuồng ghe tấp nập, bộ đội hành quân bằng đò máy v.v…

          Tôi sực nhớ có một thằng nhiếp ảnh bất lương nói láo. Hẳn ta bịa tạc, giàn dựng đâu ra tấm ảnh một cô gái ” co kéo ” rất ngon lành chẳng thua đào hát bóng, vậy mà cô ta chống xuồng bằng cây sào rất dài, ở phía sau cô ta tố nhố xuồng ghe và người. Dưới bức ảnh để một câu nghe khoái chí tử:

          “Đuổi giặc trên Đồng Tháp Mười trong sương sớm”

          Ông vải ơi ! Bây giờ tôi mới vỡ nhẽ ra. Giặc đi trực thăng mà ta đuổì bằng xuồng ! Vác xuồng câu đặt trúm của Tháp Mười mà đuổi giặc đi trực thăng. Theo như cậu Tấn vừa nói thì trực thăng đâu phải là chuồn chuồn mà dễ xơi như vậy !

          Vậy mà tấm ảnh đó được các báo tranh nhau đăng trang đầu xuân, và nhà nào cũng tìm cho bằng được để đem về treo cho con cháu xem cái sự đánh giặc đánh giã ở trong Nam !

          Tôi quay lại hỏi Tấn:

          - Thế rồi bọn mình làm sao mà đối phó ?

          - Cái gì chớ cái trực thăng mình không đối phó được anh ạ ! Nó kỳ cục lắm ? Để anh về trỏng rồi nếm mùi trực thăng, chứ bây tôi nói, ông già ổng bảo là tôi đánh giá địch quá cao.

          Anh Khẩu đội trưởng gắt ầm lên làm đứt ngang câu chuyện của tôi và Tấn:

          - Đâu, cậu nào trong Khẩu đội 2 đâu, tập họp ! Mau lên !

          Chẳng có ai nhúc nhích cả.

          Anh Khẩu đội trưởng ! Đó là một hình tượng ai trông thấy cũng thương tâm. Tôi không hiểu anh là người gì, là cái gì nữa cơ! Đầu thì băng bó, mặt mũi bơ phờ, tay chân thì trắng bợt ra, những đầu ngón tay ngón chân thì tím ngắt.

          Anh chỉ còn mặc mỗi cái quần đùi. Anh vừa dưới nước trồi lên như từ dưới âm phủ hiện hiện về vậy.

          Vâng, anh cũng khá lãm. Anh còn nhớ mình là Khẩu đội trưởng phải điều động cái nòng pháo lửa đi tới, đi cho thấu tới Miền Nam. Vì thế cho nên anh mới bị linh dưới quyền của anh tẩn cho một trận thừa sống thiếu chết, có lẽ một trận tệ hại nhất trong đời làm chỉ huy của anh.

          Anh ta đi lật mặt từng người lên mà xem và gọi và quát. và…năn nỉ. Vâng, chỉ huy ở đâu chứ chỉ huy ở cái đường Trường Sơn này không có nghĩa lý cái chi, nếu không nói là nó không giống như chỉ huy ở các nơi khác. Vi sao ? Chỉ huy là khoa học, là kỷ luật.

          Nhưng ở đây thì chỉ có một vế thôi, nghĩa là chỉ bắt lính giữ kỷ luật … sắt Nhưng muốn cho nó giữ kỷ luật sắt thì ít ra phải cho nó ăn uống đầy đủ, ngủ nghê đẫy giấc, quần áo giày dép tươm tất, xe pháo đúng tiện nghi.

          Chứ cỏn một hạt muối không phát thêm cho nó, thép khối như thế kia, bảo nó khiêng nó vác làm sao? Mà lại đi dưới nước thay vì đi trên bộ, leo núi thay vì đi đường phẳng , pháo thì phải kéo bằng xe chứ chẳng có quân đội nào mà lại di chuyển pháo bằng vai, trừ ra những đạo binh hồi thế kỷ thứ 13 trở về trước .

          Thế cho nên cấp chỉ huy như anh Khẩu đội trưởng này đây phải có hai “cây gậy chỉ huy” một cây đúc trong lò “cách mạng vô sản ” hai là cây gậy làm bằng bông gòn có tẩm nước hoa , không phải dùng để quơ múa ra lệnh mà để dùng quét qua quét lại trên mũi của chiến sĩ.

          Anh Khẩu đội trưởng đã dùng cây gậy sắt đối với lính anh ta hôm qua rồi. Cây gậy đó bi những ông thần đói quật lại gãy tan tành và chính vị chỉ huy cũng no đòn, suýt chết. Vì thề cho nên anh ta phải dùng tới cây gậy bằng bông gòn. Chứ sao ? Thằng khôn ngoan là thằng phải biết xoay trở theo thời thế, nhân tâm. Cưỡng lại nó thì tan xác ngay thôi mà.

          Anh Khẩu đội trưởng đi đến một anh đang ngồi trên rễ cây. Anh ta vỗ vai cậu lính:

          - Đi cậu, trở lại tiếp một tay.

          - Tiếp làm gì ạ?

          - Khiêng pháo !

          - Chặng này đâu phải phiên em!

          - Cậu tên gì nào ?

          - Thủ tưởng quên cả tên em à ?

          - Ừ, ừ mày tên Tùng phải không ?

          - Em tên Tụng ạ. Trần Thế Tụng.

          - À, cậu đã từng …

          Cậu linh có tên Tụng cúi nhìn xuống đất. Cậu ta nói cái tên của cậu ta ra, như muốn nhắc lại cho anh chỉ huy nhớ một thành tích bất hảo của cậu ta.

          Và có lẽ anh Khẩu đội trưởng đã nhớ lạ í rồi. Anh đã nhớ ra thằng Tụng là thằng gì rồi.

          Hắn nhảy tàu nổi tiếng, và lúc nào cũng tìm cơ hội để quay. Hắn ta có cặp giò quấc và đôi mắt chim mèo. Có lẽ vì biết rõ thành tích của cậu lính này mà anh Khẩu đội trưởng không muốn tiếp tục năn nỉ nữa.

          Anh ta quay sang một cậu có gương mặt bầu bĩnh dễ thương đang treo võng nằm vắt vẻo ở một hốc đá.

          - Này, cậu tên là Thường phải không ?

          - Dạ vâng ạ.

          - Cậu còn khỏe thì trở lại khiêng tiếp cái nòng pháo với tớ. Nó còn nằm đằng kia.

          - Dạ em sốt quá, thủ trưởng.

          - Tớ cũng đang sốt đây.

          - Em đi không nổi ạ !

          - Thế thì làm sao ?

          - Có mấy cậu kia còn khỏe lắm.

          - Mấy cậu nào ?

          - Thủ trưởng bước quá vào cái bụi kia. Chúng nó đang ngồi dụm ở đó, nói chuyện râm ran.

          Anh Khẩu đội trưởng hơi nóng mặt. Anh ta lại quơ cây gậy thứ nhất lên.

          - Các cậu vô kỷ luật đến thế là cùng.

          - Dạ, em đâu dám ạ !

          - Các cậu coi chỉ huy của các cậu còn kém con b…

          - Dạ không ạ, em không dám ạ !

          - Chúng mày sẽ bị đưa ra tòa án quân sự.

          - Dạ vâng ạ, em sợ lắm ạ!

          - Đồ láo ! Chúng mày là một lũ vô dụng !

          - Dạ vâng, chúng em toàn một lũ vô dụng, ăn hại ăn bám cả cho nên bây giờ em không thích ăn bám nữa ạ ?

          - Mày đừng có lắm mồm!

          - Em sốt quá t Thủ trưởng còn kí nín không ?

          -Còn cái gì?

          - Thủ tướng còn muối không ?

          - Đây này, còn cái này này. Anh Khẩu đội trưởng văng tục.

          - Muối em chảy ra nước đổ hết cả rồi ?

          - Tao bây giờ chỉ còn trên răng dưới dế, chứ còn cái gì ?

          Nói xong, anh ta ngồi phệt xuống đất, không còn sức lực đứng để nới gì nữa.

          Tôi bèn nhắc anh ta, như cậu lính nói lúc nãy:

          - Anh nên đi lại gọi cái đám sau bụi cây kia. Mấy cậu đó trông còn khỏe.

          Tôi nói vậy mà anh ta dựng người lên như nhớ lại một điều quý báu. Anh ta xăm xăm đi về phía bụi cây, chân rảo bước, cổ nghển cao nhìn, như đặt hết hy vọng vào cái đám người ” còn khỏe ” đó !

          Tôi cũng hy vọng sao cho anh ta tìm được một số người giúp anh khiêng cái của nợ kia tới đây.

          Tôi nghển cổ nhìn theo.

          Anh Khẩu đội trưởng vừa đi tới thi đám người kia ù té chạy vứt tung cả đồ đạc và bỏ cả quần áo đang phơi ở đó.

          Anh Khẩu đội trưởng nhặt những hòn đá và những mẩu củi mục vứt bừa theo, vừa ném vừa nghiến răng chửi om tỏi:

          - Con mẹ chúng mày, đồ quân… quân…

          Quân gì, tôi cũng không nghe rõ, nhưng chắc chắn đó là “quân đội nhân dân” đồng dội của anh ta.

          Anh Khẩu đội trưởng quay trở lại, mặt tái xanh tái ngắt, ngồi xuống bên võng tôi và thở như trâu cắt cổ.

          Bây giờ tôi mới nom rõ thân hình anh ta. Những nốt thâm đen khắp người và những vết sẹo trên mặt, chân có những vết còn đỏ hỏn. Vết thương mới trên trán còn rỉ máu ra nhuộm ướt vành băng.

          Để cho anh bớt mệt, tôi mới hỏi:

          - Gì mà tụi nó chạy toán loạn vậy ?

          - Mẹ… mẹ… chúng nó!

          - Sao ? Cái gì ?

          - Lũ khốn kiếp! Mấy thằng nó đánh tôi hôm qua.

          - Thế à?

          - Tôi giết chúng nó chết cha! Anh ta nghiến răng ken két.Tôi rơi mất khẩu súng ngắn rồi. Nếu không tôi bắn chết hết . Chúng nó phản động.

          - Thôi đồng chí ạ !

          - Thôi sao được.

          Tôi nói:

          - Mình là cán bộ ! Vui hưởng sau, cực chịu trước.

          - Thì đồng chí coi tôi đây, tôi có còn ra cái thứ gì nữa hay không ? Tôi là con người hay con vật ?

          Anh ta xông tới giật khẩu AK của ai treo trên cành lên đạn và chạy vút đi Nhưng anh ta đã không tìm thấy lũ người. Họ vừa tẩu thoát.

          Anh ta quay lại, ném khẩu AK vào bụi và nói:

          - Lính tráng gì thế? Lính tráng gì đánh chỉ huy.

          Tôi nói xụi lơ:

          - Thì chúng nó đói, chúng nó khổ quá mà. Với lại theo như tôi đi gần họ tôi biết, họ cũng không muốn đi vào Nam. Đi vào Nam là tôi đây này, vì tôi ở trong đó, mồ mả tổ tiên tôi ở trong đó, còn họ, còn anh, chính anh nữa, anh cũng đâu có muốn đi, đi làm gì ? Nhưng bị bắt đi thì phải đi cho nên gặp khổ thì muốn quay lại.

          - Ừquay thì quay, thiếu gì “bê quay ” trên đường này. Nhưng sao lại đánh cấp chỉ huy ?

          Tôi sẵn trớn, nói luôn:

          - Vì cấp chỉ huy đánh nó, có phải không ?

          - Ừ đúng tại tôi đánh chúng nó !

          Anh Khẩu đội trưởng như vừa phát giác ra một vấn đề gì vô cùng quan trọng. Ừ tại anh ta đánh chúng nó t Cho nên chúng nó đánh lại, khổ quá mà còn bị đánh thì chúng đánh lại, điều đó rất dễ hiểu thôi.

          Những người tù bi giam trong khám rất khổ, và bị mất hết tự do giữa bốn tấm vách tường, sinh mạng như treo chỉ mành mà còn dám đánh lại có khi giết chết cả cai ngục thay, huống gì ở đây, họ không phải là tù.

          Anh Khẩu đội trưởng bỗng giơ hai cánh tay gầy guộc lên mà kêu thảm thiết:

          - Trời ơi t Như vầy thì tôi làm sao chì huy ? Làm sao tôi hành quân nốt con đường này được ?

          Anh ta đấm ngực thùm thụp, nhảy tưng bừng lên, hai mắt đỏ nọc hai hàm răng nhai ngấu nghiến như có vật gì trong mồm:

          - Thế này thì tôi chết, tôi chết ! Tôi nghỉ, tôi nghỉ !

          Rồi anh ta ngồi thụp xuống như đôi chân anh ta bằng sáp bị hơ lửa.

          Tôi thương anh ta quá.

          Chiều hớm qua khi xô xát nhau giữa anh ta và mấy cậu lính, tôi có trông thấy rõ màn kịch đó từ đầu tới cuối, khi mấy cậu lính đánh anh ta rơi xuống suối thì tôi lấy làm thích thú xem như sự uất của chính mình lâu nay được trả thù, được thỏa mãn, thấy vui thích cùng với các cậu lính kia, nhưng giờ đây, tôi mới hiểu thêm lòng dạ anh ta và thương hại anh ta, tội nghiệp cho cái nô tính của anh ta.

          Anh Khẩu đội trưởng bị kẹp giữa hai cái gọng kềm “lính” và “nhiệm vụ. ” Lính kiệt sức không muốn đi, không khiêng nổi nòng pháo quá nặng, còn anh ta là chỉ huy lại bắt buộc chúng nó phải khiêng và phải đi đến nơi. Vì chúng không làm theo ý anh cho nên anh đã đánh đã bắn (dọa) chúng nó. Và chúng nó sắn sàng đánh ‘lại anh.

          Anh ta khóc rưng rức.

          Tôi không biết lấy lời gì để an ủi anh ta, mà cũng không biết có nên an ủi anh ta không ? Để cho anh ta khóc, có khi vơi đi nỗi sầu.

          Tôi quay sang cậu Tấn giao liên.

          - Bao giờ thì đi tiếp hở cậu

          - Chờ cho họ tới đủ thì đi.

          - Biết bao giờ họ mới tới đủ ?

          - Bao giờ thì bao, tôi biết làm sao bây giờ ?

          - Nhưng biết bao nhiêu thì đủ?

          - Ba mươi hai người dân chánh và một khẩu đội pháo. Đó ông Khẩu đội trưởng đang ngồi khóc hu hu đó.

          - Họ đã tới đây bao nhiêu rồi ?

          - Đó họ đang ngồi rải rác đó. Anh thử đếm dùm xem ?

          - Độ hai mươi người. Nhưng nếu họ không đến đủ thì sao ?

          - Tới giờ đi mà chưa đủ rồi sẽ hay ?

          - Bây giờ cũng đứng bóng rồi.

          - Ờ nhỉ.

          Anh giao liên có vẻ thản nhiên không tỏ một sự thương xót nào đối với ai, kể cả đối với anh Khẩu đội trưởng . Anh ta dửng dưng như một người xa lạ, hoàn toàn ngoại cuộc.

          Tôi thấy vậy bèn hỏi:

          - Cậu không có cách nào giúp cho anh Khẩu đội trưởng sao ?

          - Giúp gì được mà giúp.

          - Thấy rầu quá. Đã khổ rồi, lại còn gặp những chuyền thế này, tôi đi hết muốn nổi.

          - Tôi gặp những cái cảnh này đã chán mắt. Thú thật với anh tôi không thích bộ đội trên đường này một tí nào.

          - Sao vậy ?

          - Vì họ ẩu quá, bết bát quá.

          - Thì phải thông cảm với sức khỏe và hoàn cảnh của họ chớ.

          - Ai không biết vậy, nhưng họ kỳ cục lắm !

          - Ví dụ.

          - Ví dụ như trạm tôi đang cấm không cho bắn thú rừng vì sợ lộ bí mật. Nhưng họ không tuân theo. Họ bắn tối ngày. Con gì họ cũng bắn. Thậm chí con chim bằng ngón chân cái họ cũng bắn bằng súng AK.

          - Cậu có nói thêm cho họ không? Tội nghiệp họ cậu ạ ?

          - Tôi nói gian cho bà móc mắt tôi đi.

          - Cậu thành kiến với họ quá ! Đó là vài người lính thôi chớ !

          - Nếu lính thì tôi không nói, còn chỉ huy thì anh biết sao không ? Các ông trời có súng ngắn thì bắn cả cá lòng tong dưới suối. Bắn hai ba phát chỉ được mấy con cá bằng đầu đũa ăn thôi. Thế mà cũng bắn !

          Tấn ngưng một chốc rồi tiếp:

          - Họ.bị nghẽn đường một tuần lễ, trạm tôi phải dời đi không dám ở chỗ cũ. Anh biết ở rừng mà dời chỗ ở cực nhọc biết bao nhiêu. Cồng kềnh đủ các thứ nồi niêu, tăng võng lôi thôi lếch thếch. . . Vậy mà bọn tôi có can thiệp là họ hăm bắn, hăm đánh.

          Tấn ngưng câu chuyện và hỏi tôi:

          - Mấy giờ rồi anh ?

          - Gần đúng trưa rồi ! Tôi xắn tay áo lên xem đồng hồ tay.

          Tấn nom sát vào mặt đồng hồ và kêu lên ngay:

          - Ồ, đồng hồ Liên Sô đẹp quá nhỉ. Vầy mà người ta bảo đồng hồ Liên Sô như cái cối đá, không đeo được.

          - Ai bảo?

          - Những người ngoài Bắc về như anh.

          - Họ nói hồi nào ?

          - Năm ngoái năm nay ! Em cũng không hiểu sao, nhưng em tự ái quá!

          Tôi cười:

          - Thì họ nói đúng chứ sao t Tự ái cái gì ?

          - Anh nói sao ?

          - Đồng hồ Liên Sô là đúng như vậy chứ sao !

          - Sao cái này lại đẹp thế này ?

          - Sao cậu biết cái này là đồng hồ Liên Sô ?

          - Ở ngoài Bắc về không đeo đồng hồ Liên Sô thì đeo đồng hồ gì anh?

          Tôi lại cười:

          - Vậy cậu có trông thấy cái đồng hồ Liên Sô nào không ?

          - Có thấy một cái.

          - Cậu thấy thế nào, nói thiệt đi.

          Thấy Tấn ngập ngừng, tôi nói:

          - Sợ mất lập trường hả ?

          - Quả thật là không đẹp mấy.

          - Không đẹp thì nói không đẹp, lại còn màu mè “không đẹp mấy” nữa.

          Tấn lại hỏi tôi:

          -Còn đây là đồng hồ gì đâyanh?

          - Thụy Sĩ “xách mách đâm ba nha” (Suisse made Printania) . Nói đùa chứ đây là Movado.

          - Hèn gì đẹp quá ! Ở ngoài đó cũng xài đồng hồ của phe đế quốc nữa sao anh?

          - Xài chớ sao không xài. Mình không chế được thì mình phải xài của đế quốc chớ. Nhất là đồng hồ thì phe mình đâu có ăn thua gì so với thằng Thụy Sĩ ? Nhưng không phải chỉ trong lãnh vực đồng hồ mà thôi, còn nhiều món hàng khác mình cũng thua nó xa.

          Bỏ mạng rồi ! Tôi quên rằng ở bên tôi có cái cây lập trường đang nằm chình ình ra đó. Tôi vừa tốp câu chuyện lại thì cũng vừa lúc ông Chín ra miệng. Ông Chín đang nằm, ông ngồi dậy ngay. Ông xòe bàn tay ra dấu cho tôi ngưng câu chuyện. Ông Chín nói: .

          - Các cậu nên giữ lập trường một chút. Tại sao đồ của mình lại thua đồ của đế quốc ?

          Tôi bỏ lảng ông Khẩu đội trưởng đang khóc kia mà gay vào cuộc chiến đấu với ông lập trường. Tôi nói:

          - Chuyện đó có gì mà mất lập trường ông cụ ?

          - Không mất lập trrường à, khen phe đế quốc chê phe ta mà lại không mất lập trường à?

          Tôi suýt bật cười. Tôi và Thu đã đụng với ông Chín nhiều trận trên cái chiến địa “lập lường” này nhiều rồi. Trốn máy bay ông cũng giở sách Các Mác ra mà lý luận, rồi xem đùi đàn bà, ông cũng cho là mất lập trường, bảo chân bộ đội như nhũng cái cọc màn, ông cũng cho là khinh rẻ quân đội cách mạng và những người nói như thế là mất phẩm chất, lần này khen đồng hồ Thụy Sĩ tố hơn đồng hồ Liên Sô, có lẽé tội nặng hơn tất cả những trường hợp ở trên kia.

          Tôi nói:

          - Đây là vấn đề hàng hóa rất là hiển nhiên, có gì đâu mà mất lập trường.

          - Đồng chí nói như vậy mà không ngượng mồm à ?

          - Theo như ông Chín cầm hai cái đồng hồ Wyler và Bobéda thì ông Chín dùng cái nào ?

          Ông Chín hơi ấp úng rồi đáp ngay:

          - Nếu dùng thì tôi dùng cái Wyler.

          - Đó ? Sao ông Chín lại bảo rằng tôi mất lập trường ?

          - Tôi dùng đồng hồ Wyler nhưng tư tưởng của tôi lại khác đồng chí.

          - Xin lỗi, ông Chín khác thế nào ạ ?

          - Khác là dù tôi đeo đồng hồ Wyler nhưng tư tưởng tôi vẫn cho là chiếc đồng hồ này là do sự bóc lột công nhân, bốc lột kỹ sư mà ra chớ không phải như trường hợp cái đồng hồ Bobéda.

          - Khác thế nào ông Chín ?

          - Cái đồng hồ Bobéda là do sự toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, của công nhân, kỹ sư chung đúc lại thành và vì lý tưởng Cộng sản mà nó mang cái tên đó. Bô bê đa là ý nghĩa là thắng lợi đồng chí biết không ?

          Tôi hỏi tiếp:

          - Vì toàn dân toàn ý phục vụ nhân dân và vì chủ nghĩa Cộng sản thì sao lại xấu hơn cái thằng đế quốc bóc lột công nhân và nó không vì cái gì cao siêu hết hở cụ ?

          Ông Chín chẳng ngờ tôi lại ngoan cố mà ví ông ta vào cái chân tường mà chính ông tự xây cho ông trong mọi cuộc tranh luận ” Lậptrường.”

          Ông Chín chới với, chưa tìm ra câu trả lời.

          Cũng may lúc đó Tấn đứng dậy và bảo mọi người.

          - Chuẩn bị hành quân !

          Chao ôi, nghe tiếng hành quân, tôi ớn cả xương sống, ớn cho tôi và ớn cả cho Thu. Vì ngoài cái sự lê xác của tôi đi tôi còn phải nâng đỡ Thu nữa, một cái việc phải phung phí sức lực , nhưng chẳng có lợi lộc gì cho tôi hết, mà tôi phải làm.

          Trời ơi! Con đường gì mà càng đi, càng thấy mình đi vào tử địa, vô cùng, đi vào tuyệt lộ. . Nhưng mà vẫn phải đi tới, không thể đi lùi được. Tất cả mọi người nhốn nháo, kẻ thì lơ láo nhìn quanh kẻ thì cứ ngồi lỳ ra đó, cơ hồ như cái lệnh kia không tác động chút nào đến mình.


          Hết Chương 5 - Xem Tiếp Chương 6
          sigpic

          Comment


          • #6
            Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

            Chương 6

            Không biết từ đâu, bác sĩ Năm Cà Dom xuất hiện, như một nhân vật trong truyện thần thoại.

            Năm Cà Dom nói:

            - Anh xem có giống quân thứ tư không ?

            Tôi nói:

            - Quân thứ tư là quân gì ?

            Năm Cà Dom nói:

            - Nhìn đó thì rõ, có ra cái thể thống gì hay không ? Ấy vậy mà bảo là quân chiến thắng, đi giải phóng Miền Nam đó, giải cái con mẹ tôi chớ giải sao nổi mà giải, hả ?

            Tôi hỏi:

            - Nãy giờ cậu ở đâu ?

            - Tôi mắc võng ngủ trong bụi cây chớ đâu. Tôi nghe các vị nói đủ thứ hết, nhung tôi không có lên tiếng làm chi, nhất là chống đối ông già lập trường minh nguy to. Tôi nói toàn chuyện đâm hơi không thôi mà ! Ổng chỉnh mình có mà sói đầu !

            Có lẽ Tấn thích thú vì cách ăn nói dí dỏm của Năm Cà Dom cho nên Tấn rề rà không thúc giục thiên hạ đi ngay.

            Tấn hỏi:

            - Hồi nãy anh nói quân thứ tư là quân gì anh ?

            Năm Cà Dom nhìn Tấn rồi nói:

            - Cậu không biết có quân thứ tư đâu. Cỡ tuổi tôi với ông nhà văn này thì mới biết được cái thứ quân đó. Hồi kháng chiến chống Pháp kia, cái quân đó rất nổi tiếng nhất là ở chỗ nào có “phờ nờ” thì loại quân này thường xuất hiện.

            Ông Chín gầm lên:

            - Tôi không hiểu tại sao các cậu kháng chiến chín năm rồi, ra Bắc sống trong xã hội chủ nghĩa cả chục năm mà hở miệng ra toàn nói chuyện mất lập tường.

            Năm Cà Dom cười khè khè:

            - Nói chơi cho vui cái bụng, để cái chân nó bước theo, nếu để ủ rũ như cụ thì buồn lắm, bước đi không nổi đâu, mà rồi dễ sinh bịnh hoạn lắm.

            Tôi chêm vào:

            - Bác sĩ nói cái gì cũng kèm bệnh hoạn vào đó hết.

            - Con người là sanh, lão, bệnh, tử mà. Chạy đường nào cho khỏi ! ý mà quên chớ để tôi nói chuyện quân thứ tư cho cậu Tấn nghe nhé…

            Năm Cà Dom dặng hắng lấy trớn rồi nói:

            - Số là hồi kháng chiến chống Pháp thì ta có ba thứ quân. Một là chủ lực quân, hai là địa phương quân, ba là du kích quân.

            - Còn quân thứ tư? Tấn sốt ruột hỏi. Quân thứ tư là quân gì anh?

            Năm Cà Dom vui vẻ tiếp:

            - Xin lỗi ông Chín, để cháu kể cho cậu bé này nghe chút xíu , vui chơi không có gì mất lập trường đâu !

            Số là có một gia đình nọ có một cô con gái, một hôm có bộ đội tới đóng trong nhà. Ông già cô ta thấy mấy chú em khi chiều đùa giỡn với đứa con gái thì sinh nghi, cho nên nửa đêm ổng thức dậy thắp đèn giả đò đập muỗi.

            ông ta đi vô buồng rọi mùng cô con gái thì thấy ngoài vách mùng thòi ra hai cặp chân. Ông ta lẳng lặng quay ra…

            Ông Chín cau mày, nhưng không biết làm sao mà chặn câu chuyện của Năm Cà Dom lại được. Ông bèn lảng đi chỗ khác.

            Năm Cà Dom thì cứ vui vẻ kể tiếp:

            - Ông già thấy nguy to rồi, nhưng không lẽ làm gì bây giờ. Làm to ra thì đổ bể mất thanh danh bộ đội mà chằng hay ho gì cho con gái mình.

            Cho nên, dung hòa giữa sự tức giận và thanh danh con gái, ông già bèn gọi anh chỉ huy thức dậy, đốt đèn, châm trà mời anh ta, rồi cuộn thuốc hút chậm rãi từng hơi. Hút độ nửa điếu thuốc ông ta mới bèn quay sang anh chỉ huy và bắt đầu câu chuyện.

            Năm Cà Dom cười:

            - Chắc ông Chín ghét tôi lẩm. Nhưng mà ổng cũng biết câu chuyện đó mà.

            Tấn nói:

            - Hay thật ! ông già hay thật !

            Năm Cà Dom nói:

            - Tôi cũng phục lăn ông già !

            Tấn nói:

            - Thôi các ông mình chuẩn bị đi. Đường đi sắp tới toàn leo dốc và vắt.

            Thu hỏi:

            - Vắt gì anh?

            - Con vắt nó đeo chân đeo tay nó cẩn nó hút máu mình chớ vắt gì ? Nói rõ ràng hơn là nó là một loại đĩa sống trên khô và trên cành cây.

            - Eo ôi ! Sao kỳ vậy !

            - Chớ nhỏ lớn chị không biết con vắt à ?

            - Không thấy bao giờ.

            - Thì đại khái nó đeo có chùm, nó hút máu mình. Và khó bắt khó gỡ lắm. Tấn nói tiếp với mọi người: Bây giờ tôi xin phổ biến một việc đề chống vắt nhé, bà con mình có ai làm theo thì làm, không làm thì thôi. Tùy ý tôi không ép ai hết…

            Bây giờ chịu khó vô rừng chặt cái dây bồ hòn đâm ra cho nhuyễn. Bỏ vô một cái ống trúc rồi đổ vào đó một tí nước. Đi trên ớ đường này người nào cũng làm một cái ống trúc đựng bồ hòn như vậy, để trị vắt. Vắt nhiều lắm. Tôi nói thật đấy. Nó đeo có chùm chứ không phải đeo từng con như các ông các bà tiểu thư tưởng tượng đâu.

            Các bà các cô nào nghe nói vắt cũng nghĩ rằng nó sẽ đeo cắn từng con một và muốn bắt nó chỉ cần đưa hai ngón tay nắm nhéo lấy nó như một cử chỉ sang trọng vậy thôi. Tôi báo trước là không phải như vậy đấy Nó đeo cả chùm, nó đeo kín cả bàn chân, nó đeo tới cổ, trên đầu mà cắn đấy. Tôi nghe nói có một người. bị vắt cắn vào động mạch cổ mà ngủ quên, tới sáng máu ra nhiều quá, mệt ngất không dậy nổi chớ chẳng phải chơi đâu.

            Tấn tiếp:

            - Bây giờ các ông các bà đi chặt dây bồ hòn và ống nứa bào chế một món thuốc trị vắt như tôi vừa nói đó đi. Còn ai có nhiều kí-nín thi gói kí-nín vào cái mảnh vải, làm thành một cái bọc, cứ hễ vắt đeo thì chấm vào là nó rớt xuống ngay. Nhưng tôi biết không ai lấy kí -nin mà thay bồ hòn chí nên lấy bồ hòn mà thay kí-nín thôi.

            Tôi nói vậy, không có nghĩa dùng bồ hòn để trị vắt mà thôi, mà dùng bồ hòn để trị sốt rét cũng rất tốt. Người ta nói đắng như bồ hòn, thật là đúng vô cùng, tôi đã từng uống bồ hòn thay cho kí-nin để cắt cơn sốt. Chao ôi, uống một hớp, đi tới mật xanh ! Đắng hơn kí-nin gấp một trăm lần.

            Thu lắc đầu:

            - Tôi nghe mà cũng ngán ngẩm tâm thần. Đường gì mà kỳ cục quá. Càng đi càng kỳ cục ra thêm.

            Thế là đoàn người bắt đầu đi chặt dây bồ hòn. Con suối đã ở lại phía sau lưng, nhưng cái dốc núi lại dựng lên trước mặt.

            Anh Khẩu đội trưởng tự nãy giờ vẫn ngồi sụp ở đó bây giờ mới tỉnh ra. Anh ta ngơ ngác.

            Có lẽ anh ta đang đấu tranh tư tưởng xem nên đi cùng với đoàn hay quay trở lại khiêng cái nòng pháo.

            Tội nghiệp, làm chỉ huy như anh ta cũng khó. Ở lại thì ở với ai, ai sẽ góp sức khiêng với anh ta, còn đi thì bỏ mất cái nòng pháo ấy hay sao ? Không có ông nào giải quyết giúp anh ta.

            Ông Chín biết rõ câu chuyện bèn lân la tới hỏi: .

            - Đơn vị lớn của đồng chí ở đâu ?

            - Trung đoàn của cháu đã đi trước. Nghe nói bộ phận tiền tiêu bị biệt kích tiêu hao, có cả đồng chí Trung đoàn phó trong số hy sinh.

            - Ở sau đồng chí, còn đơn vị nào thuộc trung đoàn của đồng chí nữa hay không ?

            - Dạ, đơn vị pháo của cháu là đơn vị đi sau cùng của Trung đoàn.

            Ông Chín ngẫm nghĩ một chốc rồi nói:

            - Đồng chí là người chịu trách nhiệm về cái nòng pháo đó và cả đơn vị của đồng chí trước cấp trên. Nếu đồng chí để đơn vị tan rã, mất vũ khí thì giai cấp vô sản thế giới sẽ thất vọng ngay vì có một cán bộ vô trách nhiệm như thế mà lại đứng trong đội ngũ tiền phong của giai cấp. . .

            Tôi và Năm Cà Dom nháy nhau che miệng cười. Ông lập trường lại giở sách vô sản ra rồi. Giai cấp cái gì ? Bắt con người ta è cổ ra khiêng thép khối như thế mà không cho cái gì đắp đầu gối hết cả mà cứ ngồi ở trong nhà rượu thịt đầy phè, cứ khen “chiến sĩ ta vai đồng chân sắt. ”

            Tôi nói với anh Khẩu đội trưởng:

            - Anh cứ đi tới đi. Vô gặp trung đoàn rồi báo cáo. Chứ quân số hao hụt như thế làm sao di chuyển cái nòng pháo kia nổi ? Mà anh ở lại, coi chừng mấy thằng đánh anh hôm qua, chúng gặp lại anh chúng thịt anh đấy nhé ! Lũ ấy nhất đinh sẽ trở thành phỉ chớ không có trở về đơn vị nữa đâu.

            Anh Khẩu đội trưởng lắng nghe cả ông Chín và tôi, nhưng có lẽ không có lý do nào làm cho anh đi tới bằng cái lý do tôi vừa nêu lên.Anh ta tàu bàu:

            - Lính tráng gì khốn nạn thật !

            Rồi Tấn dẫn đầu, cả đám người vừa nam phụ lão ấu vừa đau vừa mạnh lôi thôi lếch thếch đi theo sau. Vừa được ít bước thì đã đụng dốc.

            Dốc gì dốc vậy chớ. Năm Cà Dom đã chửi thề ngay:

            - …. Tôi mà có phép gì tôi sẽ san bằng hết tất cả núi non này ! – Mộtt chốc lại nói. – Tôi xin đổi cái dãy núi này với một lon gạo, ai có đổi không ?

            Tôi để cho Thu đi trước, tôi đi kế tiếp, Năm Cà Dom, ông già Noël và ông lão lập trường đi phía sau. Còn anh Khẩu đội trưởng lưỡng lự một chút rồi cũng đi theo luôn. Anh ta đi khặc khừ trông đến thương hại. Có lẽ anh ta không dứt khoát với “cái đuôi ” là nòng pháo nặng nhọc ở phía sau và với cái “đầu lập trường” là ông Chín.

            Tôi nghĩ vậy mà đúng thật. Tôi chú ý thấy ông Chín đi ít bước lại quay lại nhìn anh Khâu đội trưởng, như cật vấn:

            - Anh đi như thế, bỏ cái nòng pháo lại cho ai ?

            Dốc càng ngày càng đứng sững lên. Thu đi rất khó nhọc vì trời mưa đường trơn mà lại phải trèo. Người đi trước đã bẻ quặt nhữngcây nứa bên đường xuống để làm tay vịn cho những kẻ đi sau bám đó mà trèo lên.

            Tôi vừa đi vừa ngước cổ lên. Không thấy gì cả, ngoài cái đít ba lô của Thu.

            Cái đít ba lô và cái lưng… của Thu nữa.

            Lần nào tôi ngước lên thì mắt tôi cũng chạm vào hai cái đó. Tôi bảo:

            - Cố gắng lên em.

            Thu không nói không rằng. Bước đi nặng nhọc, day dứt. Sở dĩ tôi nói bước đi day dứt là vì tôi biết trong bụng Thu không vui. Nếu không có tôi kềm cặp nàng thì chắc nàng không đi tới. Nàng đã nhiều lần nói thật với tôi cái điều đó, không úp mở. .

            Con sông vừa vượt qua chiều hôm trước như một cái lằn mức tư tưởng của nàng. Nàng định tạm biệt tôi ở phía bờ Bắc.

            Dù hai đứa có yêu nhau thì đành hẹn nhau một cơ hội khác, có lẽ ở kiếp sau vậy. Còn trên đường đi này, yêu nhau là một cái tội, một cái khổ một cái nợ, cái nần, hay bất cứ là cái gì không phải là cái vui.

            Vì yêu nhau thì phải phí sức, phí sức một cách tự nguyện, rồi lại còn phải phí sức vì những việc khác như mang đồ đạc giúp , dìu dắt nâng đỡ v.v…

            Nhưng Thu vượt qua bờ Nam của con sông vô danh đó là vì một trận bom tơi bời. Cả trạm lẫn khách đi đường đều phải tức tốc dời qua phía bên bờ Nam để ẩn náu. Vì thế Thu phải đi cùng với tôi.

            Sang bờ Nam, Thu lại cũng định nằm lại tạm biệt tôi lần nữa. Nhưng ở bờ Nam lại không có trạm, không có ai nhận Thu. Cho nên Thu lại phải đi vào với tôi vượt con suối ác nghiệt vừa rồi và bây giờ thì trở thành chú rùa leo núi trước mặt tôi đây.

            Đấy, một con người ” đi giải phóng miền Nam” với một tâm tư như thế đó, như thế đó mà lại đi giải phóng miền Nam !

            Tôi nhìn cái gót chân của Thu ở ngay cái chót mũi của tôi. Trời, dốc đứng gì ác thế!

            Anh giao liên đứng ở trên đầu chúng tôi quát xuống:

            - Đi cho chắc, ngã một cái là rơi vào đầu người ở dưới đó nghe.

            Tôi cũng biết điều đó, nhưng khi nghe Tấn nói thì tôi càng sợ hơn. Hãy tưởng tượng một người ở phía trên rơi xuống đầu mình với tất cả ba lô, đồ đạc, có khi cả súng . Rồi người ở dưới lại rơi xuống . đầu người đi dưới nữa, thành ra hằng loạt người sẽ ngã ! Một sự đồng loạt ngã !

            Cái bàn chân của Thu cứ ở trước mũi tôi . Tôi nhìn cái bàn chân của nàng như một cái mục tiều đề nhắc chân tôi lên. Cái bàn chân thon thon nho nhỏ bị ràng trong nhũng sợi dây thun đen bó riết lại làm cho làn da nhăn nhúm đi.

            Cái bàn chân đặt trên chiếc đế cao su cũng đen và xừi xễ như nền tảng của sự đau khổ và của cái tương lai cũng đen ngòm như màu cao su đó. Cái mà đôi chân ngọc ngà của Thu phải đặt lên, phải bước lên, phải dẫm lên phải là cái nền nhung lụa, phải là gấm vóc, phải là trái tim của những chàng thanh niên say đắm nàng.

            Đôi bàn chân ấy là niềm tự hào của nàng, vì cái sự xinh xắn của chúng, vì cái tài hoa của chúng . Đôi bàn chân ấy đã đưa nàng bay lên như đôi cánh vỗ mênh mông trong nghệ thuật.

            Thế mà giờ đây, đôi chân ấy lại bị bó riết trong những sợi cao su thô kệch, đặt trên cái đế cao su cứng và chẳng có nhiệm vụ gì hơn là dẫm trên những mô đất nhấp nhô, trèo leo trên những dãy đá tai mèo.

            Đôi chân ấy chính là sự ước mơ cháy bỏng của tôi. Đôi bàn chân như hai cái búp non bay lượn lung linh trên sân khấu Hà Nội, trong sự hớn hở, chào đón của mọi người trong một giấc mơ ngắn ngủi và thú vị.

            Trong một cơn mưa mù mịt dầm dề, tôi đã làm chủ của đôi bàn chân ấy. Tôi ôm ấp chúng trong sự thỏa mãn hoàn toàn, vừa của tình yêu vừa của nghề thuật.

            Cho nên bây giờ trông thấy đôi bàn chân ấy trơ trọi ra trần trần bằng thịt xương trần tục và bị đọa đày khổ sở thì tôi đau xót khôn cùng.

            Bất thần, tôi nắm chặt lấy cổ chân nàng, nắm thật chặt làm cho nàng kêu lên và dừng lại. Nàng quay lại nhìn xuống và nói:

            - Em ngã bây giờ.

            Tôi cười:

            - Ngã đi ! Ngã đi !

            - Em ngã thì anh chết !

            - Em cũng chết.

            - Nhưng mà anh chết trước em.

            - Em chỉ chết sau anh một tích tắc thôi.

            - Như thế anh vẫn chết trước em.

            Tôi cười. Tôi nói tiếng chết với nghĩa bình thường nhưng về sau tôi lại đâm ra dùng nó trong một cái nghĩa thứ hai. Có lẽ Thu không hiểu cho nền tôi nhắc đi nhắc lại cái tiếng chết. Tôi bảo:

            - Thôi em đi lên đi rồi anh theo kẻo người ta giục.

            Mà thật, ông Chín ở phía sau đã gầm lên:

            - Đùa cái gì mà đùa giữa lúc này ? Muốn hại mấy người đi sau hả?

            Thu lại bướng lên. Tôi nói tiếp:

            - Phải rồi, con gái thì bao giờ cũng chết sau con trai, phải không em ?

            - Vâng đúng như vậy, em chẳng bao giờ chịu chết trước anh.

            - Nhưng nay mai anh sẽ có cách làm cho em cùng chết một lúc với anh hoặc chết trước anh cho mà xem.

            - Không ! Em nhất định không chết trước anh ! .

            Tôi cười ý nhị, có lẽ giọng cười làm cho Thu sực nhớ ra rằng tôi dùng cái tiếng chết với ý nghĩa tân kỳ hơn. .

            Tôi nói:

            - Em không nhớ có lần em chết trước anh à?

            - Anh chỉ bịa…

            - Anh không bịa. Em không nhớ cái lầ đó… ó… à ?

            Thu lặng thinh. Có lẽ Thu đã ngẫm ra cái nghĩa thứ hai mà tôi cố ý dùng một cách ý nhị. Thu lầm lũi đi, một chốc mới quay lại nhìn chăm chú vào mặt tôi và nói:

            - Em ghét mặt anh lắm.

            Tôi cười:

            - Ừ thì ghét. Tôi vừa nói vừa nắm cái cổ chân nàng mà ghì xuống.

            Nàng kêu lên:

            - Ây chết ! Em ngã…

            - Ừ ngã xuống đây, ngã đi nào… Ơ kìa không dám ngã à ?

            Thu càu nhàu:

            - Anh nghịch ghê cơ.

            - Ừ anh nghịch lắm cơ.

            Cái tiếng “nghịch “cũng lại là một tiếng chúng tôi hay dùng với nhau nhất là Thu hay dùng để cần nhằn tôi trong những giây phút đặc biệt của nhau. Cho nên vừa dùng nó là Thu lại sợ tôi lạm dụng nên nàng lặng thinh không nói gì nữa.

            Anh giao liên từ trên nói xuống:

            - Cố lên ! Còn một cái dốc nữa là tôi cho nghỉ xả hơi.

            Tôi nghe ù ù như muốn vỡ màng tai, mồ hôi vã ra như tắm. Hai chân tôi như sắp rời ra khỏi thân mình. Hai sợi dây chằng háng như không còn sức co dãn để lôi hai chân tôi lên nữa.

            Tôi bám từng nhánh cây, từng thân cây một, từng hòn đá, từng mô đất một, để ghì lấy mà câu cả cái khối nặng vừa thân thể vừa ba lô đồ đạc lên.

            Nhiều lúc tôi phải bò. Đúng là con vật đi bằng bốn chân của thời nguyên thủy. Con đường gieo neo, vất vả và hai bên lúc nào cũng có hố sâu vực thẳm. Tôi nghĩ. Cái gì cũng dẹp hết. Chỉ còn lại cái quê hương nhỏ bé riêng tư của mình.

            Chỉ còn lại cái mái nhà xưa cũ của mình, trong đó có hai mái tóc – ngày mình ra đi, hãy còn xanh, mà cho tới nay tôi cũng tưởng là vẫn còn xanh nhưng với thời gian những máí tóc ấy đã bạc ra từ lâu vì mong nhớ!


            Hết Chương 6 - Xem Tiếp Chương 7
            sigpic

            Comment


            • #7
              Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

              Chương 7


              Cũng trên đường này một hôm tôi ngồi nghỉ bên bờ suối, tôi móc túi ra lấy tấm ảnh của cha tôi ra đưa cho anh em xem. Một anh bạn nói ngay với tôi;

              - Anh giống in bố anh.

              - Cả bên nội bên ngoại tôi đều bảo thế. Tôi đáp.

              Nhưng anh bạn tôi lắc đầu:

              - Anh giống bố anh, chuyện đó đã đành, nhưng tôi muốn nói là anh đã bằng tuổi bố anh trong ảnh này.

              Tôi mới sực nhớ ra rằng mình đâu còn trẻ trung gì. Vậy mà cứ nghĩ rằng mình còn ngây thơ khờ dại. Đúng như lời anh bạn nói, hồi cha tôi bằng tuổi tôi bây giờ thì tôi đã mười sáu tuổi, tôi đã học gần hết ban trung học Pháp rồi.

              Còn tôi bây giờ mình trần thân trụi, đi theo cách mạng hai mươi năm vẫn cái ba lô trên lưng với cái “chí lớn ngang trời” đựng trong cái ba lô, nói thì cụ thể vậy mà mò mãi không đụng , tìm mãi không ra và đốt đuốc tìm cũng không thấy.

              Trên đời này có cái gì mà người ta phải mất bằng ấy tuổi tác tháng năm để dốc sức đi tìm mà không thấy không. Bemard Palissy thiêu đốt hết gỗ ván trong nhà nhưng đã tìm ra chất sơn. Cái chất sơn đó bù lại sự khổ tư khổ tưởng của ông ta.

              Gutenberg tìm ra được máy in, Newton tìm ra luật hút của trái đất Và tất cả những nhà khoa học vật lý, triết lý, không có ai phải mất nhiều công sức và thời gian như thế để tìm mà không thấy le lói một tí ánh sáng nào.

              Còn nhũng người đi trên đường này, không phải quãng đường Trường Sơn mà là cả con đường này từ 1945 đến 1965 hai mươi năm chẳn, thấy cái gì ở cuối đường ?

              Phải chăng:

              - Vách đá không nấc thang.

              - Suối sâu không cầu.

              - Sông rộng không đò toàn những trở ngại không có phương tiện để vượt và:

              - Gạo không có, thuốc cũng không, sốt rét triền miên.

              - Muối không đủ ăn, súng nặng như núi.

              - Quai dép đứt hết, áo quần rách ra và ở trên đầu thì luôn luôn dội xuống, nào:

              - Quyết tâm chiến thắng.

              - Nghị quyết nọ, nghị quyết kia.

              - Lời kêu gọi của ông này ông nọ, anh Ba, anh Tư. Tôi lượt kê ra đây những ” món ” mà tôi tổng kết trên con đường vinh quang này,dành riêng cho mỗi chiến sĩ, đó là chưa kể những thứ bệnh tật và thiếu thốn kỳ cục khác xảy ra bất kỳ.

              Đó, một con người đi trên con đường này gánh trên vai đội trên đầu mang trong lòng bằng bao nhiêu thứ đó, thì đi “giải phóng ” miền Nam bằng cái gì ? Và bao giờ thì giải phóng xong ?

              Cho nên tôi nhiều đêm nằm giữa sự lặng im ghê rợn của núi rừng nghĩ đến cái ngày mai của mình, mà ớn lạnh. Nó là:

              - Sốt rét.

              - Dốc đèo !

              Không có gì khác hơn. Nếu có cái gì khác hơn thứ đó là cơn sốt rét nặng hơn, dốc đèo cao hơn. Thế thôi.

              Và kiểm điểm lại cái quyết tâm còn sót lại của mình:

              - Về để gặp lại gia đình. Đó là ý nghĩ cao siêu nhất sau hai mươi năm trời đi làm cách mạng của tôi.

              Đi tìm cái gì cho xa xôi, khi cái mà mình đi tìm thì mình đã có ngay ở bên cạnh mình.

              Chủ nghĩa Cộng Sản tối kỵ với chủ nghĩa cá nhân. Cho nên chủ nghĩa Cộng Sản không bao giờ thực hiện được. Bởi chừng nào còn con người thì còn chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ có thể bị diệt vong khi trên mặt đất này chỉ còn có một con người mà thôi. Cho nên không thể có chủ nghĩa Cộng Sản khi còn loài người.

              Con người ! Đó là một sản phẩm vừa xấu vừa tốt và Bất Diệt. Còn lại trong tôi cái gì riêng tư, cá thể, sau hai mươi năm đi tìm cái thế giới Đại Đồng.

              Và quanh tôi là gia đình của tôi, cha mẹ anh em tôi. Làm người ai cũng muốn vươn lên sống có lý tưởng, nhưng lý tưởng không phải là không tưởng. ”

              Lý tưởng nào rồi không dẫn tới việc ăn ngon mặc đẹp ? Vậy thì người đã có sẵn những điều đó rồi, còn đi tìm cái gì ? Tôi cảm thấy chủ nghĩa Cộng Sản không hợp với cá nhân tôi từ khi tôi biết rõ bộ mặt thật của đảng, sau một thời gian ngần đi kháng chiến, hay nói cho cẩn thận hơn là vài năm, qua tác phong và đạo đức của một số lãnh tụ.

              Tôi vốn sinh trưởng trong gia đình không thuộc thành phần “lý tưởng” và tôi lớn lên cũng không cùng với giai cấp “lý tưởng. ”

              Vô đảng là một sai lầm của tuổi trẻ, một sự sai lầm to nhất và nó đáng giá bằng sự mất mát cả tuổi thanh xuân , một sai lầm không thế sửa chữa được.

              Nhiều kẻ đã chạy theo một thời trang, một tiện nghi, một kiểu cách (mode) chớ không phải đi theo lý tưởng nhiệt tình. Vì ai cũng thừa biết rằng có đảng thì mới mong lên chức được mà chức tước, ở chế độ nào cũng vậy, nó đi đôi với nồi gạo túi tiền.

              Vậy xin hỏi câu hỏi có vẻ thô lỗ, thử xem sao: “Anh vô đảng vì đảng hay vì tiền ? ” trong đảng có bao nhiêu đảng viên vì đảng, có bao nhiêu người vì tiền mà luôn luôn bô bô cái mồm vì đảng !

              Tôi còn nhận thấy ở một cơ quan văn hóa nọ, khi kết nạp đảng viên mới thì toàn những bồi bếp, gác cổng được chú ý còn trí thức mài mòn hết cả trí óc vì phục vụ chánh sách đường lối của đảng thì lại bị cho lùi ra xa, vì thành phần của họ không “cơ bản”.

              Tôi tin chắc có rất nhiều người không thấy vinh quang gì khi được mang cái danh hiệu chiến sĩ tiền phong của giai cấp vô sản Nhất là học sinh.

              Họ vô đảng không phải vì tiền, cũng không phải vì đảng và cũng phải chạy theo cái “mốt” nào cả, vì lúc bấy giờ họ chưa biết vô đảng là một cái “mốt”. Vậy xin hãy nói thằng ra rằng đa số người vô đảng là vì không hiểu đảng là cái gì hết’

              Sau khi kháng chiến được năm năm (1951) tôi đã bỏ cơ quan đi về Sàigòn nhưng rủi thay trên đường đi tôi lại gặp anh bạn thân mà sẽ có dịp tôi nhắc tới sau này cản tôi lại.

              Không phải vì lập trường mà vì tình cảm bạn bè với nhau, tôi đã nghe theo anh bạn này cũng không phải vì lập trường mà vì tình bạn. Vì không đi được cho nên năm 1954 tôi phải đi tập kết.

              Và cũng nhờ trời đất phù hộ cho nên sau mươi hai năm ly biệt quê hương tôi đã về Nam ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Tôi vẫn viết. Tôi viết hơn hai ngàn trang truyện và tiểu thuyết, chẳng đảng nào ngó ngàng tới cả, trong vòng ba năm.

              Tôi thấy không sao, không mất mát gì, nghĩa là vẫn vui vẻ, không khổ tâm vì không được đảng chú ý, chỉ khổ tâm vì không có tiền mua gạo. Tôi mới rút ra kết luận: nếu không là đảng viên, người ta vẫn cầm bút không hại gì cả mà lại càng được tự do hơn.

              Nhưng thôi, tôi không kể lể dài dòng. Lìa bỏ chế độ Cộng Sản để đi sống bất cứ chế độ nào khác, tôi cũng không mảy may tiếc rẻ. Đó là một sự may mắn cho cả tôi lẫn đảng.

              Trên cái con đường mà tôi đi – mà người ta nói là đi lên chủ nghĩa xã hội – thiên đường của thế gian, tôi chỉ là một kẻ bộ hành bất đắc chí.

              Cứ mỗi bước đi, tôi lại suy nghĩ, lại dằn vật, tiếc rẻ, ân hận. Tôi càng leo lên cái dốc núi đứng sững này thì tôi càng cảm thấy tôi đi xuống, hay tôi chỉ leo lên thật cao để rồi lao đầu xuống vực thẳm.

              Thu càng leo càng ục ịch, chậm chạp, càng thở ra, càng chắt lưỡi. Tôi biết rõ Thu muốn dừng lại từ bên kia bờ con sông vô danh chi đó. Sang sông vào một buổi hoàng hôn hỗn mang không tả xiết và khi vừa lên bờ là phải cắm đầu chạy khoảng bốn cây số để vượt cái vòng đai trắng chất độc, cho nên Thu lại cũng không thể nằm lại mà phải cuốn võng theo tôi.

              Chứ nếu Thu nằm lại (để làm “bê quay”) thì anh trạm trưởng sẵn sàng chứa chấp cô nàng vì anh ta nom chừng đã có ý định với cô nữ văn công rồi!

              Cho nên càng đi vào thì Thu càng khổ tâm vì khó lòng làm bê quay được nữa. Trên mặt đất thì Thu đã vượt cái lằn mức phân ranh Nam Bắc như tôi vẫn nói, nhưng một cái Bến Hải thứ hai, còn trong tâm tư thì con sông đó vẫn cứ ở trước mặt Thu, mà Thu tưởng không bao giờ vượt nổi. Bỗng Thu ngừng lại và ngó xuống:

              - Dốc gì dốc thế này anh!

              - Thi dốc núi chứ còn dốc gì ? Tôi phát cáu, trả lời cộc lốc. Đi cố lên kẻo ở đằng sau người ta quát cho.

              - Ai giỏi thì lên trước, chứ em không đi mau được.

              Tôi lặng thinh.

              Thu tiếp:

              - Em muốn làm cái đèn đỏ sau lái xe và cuối cùng tắt luôn chứ em đâu có muốn làm cái đèn pha phía trước.

              Tôi không nói nữa. Vì leo dốc mà càng nói thì càng mất sức huống chi lại những chuyện không bồi dưỡng gì cho tinh thần. Tôi nhìn hai ống chân của Thu.

              Mồ hôi tuôn xuống ròng ròng đọng trong lòng dép đẫm ướp cả bàn chân như Thu vừa mới lội dưới nước lên. Ở phía sau, phía dưới tôi là một lũ rùa, đúng là rùa leo núi.

              Ông Chín với đám lá ngụy trang bảo thủ sum suê như một cái bụi cây lào xào rung động, ông già Noël với hai chiếc gậy nhưng trên cái dốc này thì cặp gậy hầu như vô ích không dùng vào đâu được, nên ông ta phải dùng cả hai tay để bám vào rễ cây, để bò như hai chân. .

              Các bạn độc giả thử nghĩ đùm cho tôi xem những người lính phải khiêng cái nòng pháo đi trên con đường này thì họ phải đứng làm sao? Khi mà cái gót người đi trước bao giờ cũng suýt chạm vào mũi người đi sau đi sau, hay người đi sau luôn luôn bị đe dọa bằng cái tai nạn là người đi trước nếu sút tay sẽ nện nguyên cặp mông lên mặt mình.

              Anh giao liên Tấn đứng trên một cái rễ cây ngất ngưỡng ở phía chót vót trên đầu tôi. Anh ta đứng dạng háng ra, tay chống nạnh tay ngoắc lia:

              - Nhanh lên ! Nhanh lên !

              Thu cố bường lên và đưa tay cho anh ta. Anh ta xoạc hai chân ra thật rộng, rồi một tay bám chắc vào một cái rễ ở phía sau lưng, một tay thòng xuống cho Thu.

              Thu đưa hai tay lên bám chặt vào đó. Anh giao liên cố rút cái khối vừa bằng thịt xương vừa bằng vải vóc sắt nhôm đó lên, như kéo cả một quả núi.

              - Hè ! Anh giao liên hô lên.

              - Hè ! Thu cũng đáp lại để hợp đồng hai cái lực kéo và bật . Cả hai cùng đem hết sức kéo và đu người lên. Tấn đã thành công trong việc lôi tuột Thu lên. Thu nằm soài ra trên đất.

              Tôi cũng đến nơi. Tôi ngắm nghía mãi không thấy có cách nào khác giúp mình leo lên bằng cái cánh tay của. Tấn. Nhưng Tấn đã lắc đầu. Tấn nói:

              - Không được đâu anh. Anh nặng lắm ? Tôi lôi anh lên không nổi đâu mà tôi sẽ cắm đầu xuống hố.

              Tấn đi đi lại lại mãi mà không có cách nào giúp tôi. Còn tôi thì cảm thấy mình không thể trèo nổi một bước nữa để vượt lên trên cái mặt phẳng ở ngay trước mũi đó.

              Bỗng Tấn đứng sát mép đá và nói:

              - Anh bám lấy cổ chân tôi đây này ? Được không ?

              Tôi giơ tay lên bám thử vào và nói:

              - Tôi sợ cậu chịu không nổi. Cái chân sẽ như cái cây trốc gốc.

              - Thế thì chịu.

              - Để tôi coi ? Năm Cà Dom ở phía sau bò trườn lên trước mặt tôi và đưa hai tay bám vào mép đá cất bổng mình lên một cách nhẹ nhàng. Đứng lên ngay, Năm Cà Dom quay lại bảo:

              - Nắm tay tôi đây !

              - Chắc không ?

              Vút cái là Năm đã lôi bật tôi lên. Và vút vút! Năm lôi lên một hơi mấy người nữa, trong đó có cả ông Chín và ông già Noël. Hai người này ngồi phệt dưới đất gục đầu vào hai đầu gối mà thở.

              Trông ông Chín tôi càng thương hại. Mà nhìn ông già Noël tôi càng thương hại hơn. Hai người này rồi sẽ đi làm sao?

              Đầu gối ông Chín thì đã sưng lên, còn cặp giò của ông già Noël thì chỉ còn lại như hai cái cọc màn, không hơn không kém.

              Đá tai mèo đã róc hết thịt xương trên cặp chân tươi trẻ này, đã biến chúng thành cặp chân hương (nhang) tưởng như không còn chống đỡ nỗi cái thân cò lép của anh ta.

              Tấn nói:

              - Bây giờ nghỉ xả hoi một chốc đi. Chờ phía sau đi tới.

              Người nào người ấy rũ ra, không còn ai muốn nói chuyện gì, chỉ có bác sĩ Năm Cà Dom là tươi tỉnh hồn nhiên.

              Năm Cà Dom nói:

              - Bây giờ mà có một ly nước chanh he!

              Không ai nói gì.

              Năm Cà Dom không cần thiết sự hưởng ứng của những người nghe. Năm Cà Dom cứ thản nhiên nói tiếp:

              - Leo cái dốc này bằng đá một trận banh ở làng, trên một cái sân đầy lỗ chân trâu. Đá thì rất ẩu, còn cái sân thì lúc nào cũng sẵn sàng bẻ lọi cặp giò mình bằng những lỗ chân trâu đó.

              Năm Cà Dom cười hề hề:

              - Nhưng có một điều rất khoái chí là hễ đờ-mi-tăng là có nước chanh uống. Một thùng nước chanh vĩ đại được khiêng ra tận sân cỏ cho cầu thủ. Cầu thủ uống đã đành, mà những tay ba xạo cũng nhảy vô ăn ké làm một vài ly dễ dàng.

              Bây giờ mình không ước mong cái thùng nước chanh đó mà mình chỉ mong sao được một cái mẩu vỏ chanh thả lêu bêu trong thùng nước. Mình vớt ra bỏ vô miệng ngậm thì đỡ mệt xiết bao phải không các bác?

              Nghe cái hơi nước chanh của Năm Cà Dom mang đến tận miệng, mọi người như tỉnh ra dần. Năm Cà Dom nói tiếp:

              - Có những trận đá banh cầu thủ được đãi dừa nạo! Trời đất ơi! Bây giờ bất ngờ tôi mới nhớ tới trái dừa của xứ Nam Kỳ, trái dừa không ở đâu trên đất nước mình có được. Nó bổ thấu mây xanh đi! Các bạn nghĩ đang mệt mà uống một quả dừa xiêm có vắt tí chanh thì đã vô cùng!

              Nước dừa xiêm hồi thời kháng chiến chống Pháp, chính tôi đã từng dùng thay cho xê-rum, tiêm vô mạch máu kia mà! Nhưng nên nhớ trái dừa bẻ ra khỏi buồng dừa không nên quăng nó xuống đất vì có thể cơm dừa vỡ ra pha lẫn trong nước tiêm vô máu không tốt, mà phải cắn cái cuống của nó đem xuống đất. Nước dừa thật là tinh khiết, tiêm vào có thể bồi bổ cơ thể ngay.

              Tôi thầm nghĩ:

              - Thằng cha bác sĩ này thiết thực và tâm lý vô cùng. Nó ném ra câu chuyện nào cũng đúng lúc, đúng tình cảm con người… mỗi câu chuyện như điểm một cái vô yếu huyệt tình cả.

              Trái dừa Nam Bộ được nhắc đến ở đỉnh dốc Trường Sơn này và trong cơn khát cháy cổ họng phải chăng đã làm dịu đi cơn khát?

              - Thôi nhé! Uống dừa xong, bây giờ tiếp tục đi! – Tấn bảo.

              - Đi thì đi, sợ gì? – Năm Cà Dom nói.

              - Nhưng kìa anh Tấn, anh lính gãy chân đâu rồi?

              Mọi người mới sửng sốt, quay lại nhìn không thấy đoàn cáng anh lính gãy chân đâu nữa. Cả anh Khẩu đội trưởng cũng không thấy ở đây.

              Tấn nói:

              - Thì hồi nãy thấy họ cũng theo sau mình mà!

              - Họ đi nhưng vất vả lắm.

              - Anh có nhớ lúc nào không thấy họ theo mình nữa không?

              Tôi đứng sựng ra một chốc rồi nói:

              - Tôi nhớ là… hình như là…

              Năm Cà Dom cướp lời tôi:

              - Hình là hình như gì. Lúc mà chuyển qua cái rễ cây lủng lẳng ở trên vách núi đó, nhớ chưa? Nhớ rõ chưa? Đến cái chỗ đó thì đường tắt không còn lối đi nữa, mà muốn đi tiếp phải níu cái rễ đó. Trời đất ơi! Đường đi gì bất nhơn sát đức vậy? Phải níu vào cái rễ tòng teng đó, không biết nó có đủ sức treo mình không. Mà thấy người trước đánh đu sang được thì mình cũng cứ làm theo.

              Cha chả! Có hai sự nguy hiểm. Một là mình sút tay. Hai là cái rễ đó đứt đi. Rơi xuống hố thì có ngớu xương, không lượm được một miếng thịt.

              Như vậy thì làm sao mà cái đám cáng đưa anh lính gãy chân qua chỗ đó được? Hoạ may có cánh?

              Tấn đứng lặng thinh ra vẻ suy nghĩ. Có lẽ trong lúc đi vừa nhọc vừa cố gắng leo trèo cho nên anh ta đã quên khuất đi những người xấu số đó.

              - Bây giờ các anh ngồi đây chờ tôi nhé. Tôi trở lại tìm xem. Khổ hết sức.

              Năm Cà Dom nói:

              - Cậu biết trước con đường này hiểm trở như vậy sao còn để cho họ đi.

              - Không đi thì nằm lại đó à?

              - Chớ sao!

              - Nằm lại đó, ai chịu trách nhiệm?

              - Vậy chớ họ nằm cả đêm qua ở ven suối thì ai chịu trách nhiệm. Chẳng có ai chịu trách nhiệm về họ cả. Chẳng phải cậu, mà cũng chẳng phải tôi.

              Tấn lặng thinh. Tấn đưa tay lên cào đầu lia lịa bằng năm ngón tay xoè ra như cái bừa cào, như để xua đi mọi sự rối rắm trong đầu.

              - Tôi muốn bỏ phứt mẹ nó đi cho rồi.

              - Cái đó tùy cậu.

              - Tôi đi chuyến này về là xin nghỉ luôn.

              - Cái đó cũng tùy cậu nốt.

              Nói xong, Năm Cà Dom tìm chỗ mắc võng rồi ngả lưng ngon lành.

              Bao giờ nghỉ xả hơi, tôi cũng để ý xem cái chân đau của Thu, nhưng ít khi tôi dám nhắc tới cái vết thương đó. Nó vừa là vết thương vừa là vết thương lòng.

              Động tới nó, Thu vừa đau lại vừa đau trong tim…


              Hết Chương 7 - Xem Tiếp Chương 8
              sigpic

              Comment


              • #8
                Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                Chương 8


                Tôi bảo Thu:

                - Em chuẩn bị đi, sắp tới chỗ có vắt rồi đấy!

                Thu hỏi lại tôi:

                - Vắt là cái gì anh?

                - Trời đất! Em hỏi thiệt hay hỏi chơi?

                - Em hỏi thiệt mà. Em không biết vắt là gì?

                - Em biết con đĩa không nào?

                - Dạ không ạ!

                - Con đĩa mà em cũng không biết à?

                - Em không biết thật.

                - Em chưa bao giờ lội ruộng à?

                - Dạ… hình như chưa bao giờ.

                - Trời đất ơi! Đúng là nàng công chúa chuyên môn sống trong lầu son gác tía. Em không lội ruộng, nghĩa là sao? Chính tôi, tôi cũng không hiểu được việc đó.

                - Em thú thật với anh là em chưa rời Hà Nội một ngày nào, có chăng thì cũng chỉ đi bằng xe hơi, tàu hoả. Xe tàu chạy băng băng qua những cánh đồng xanh mát mắt. Và em cũng thấy vui như trong bài hát Tiếng Vọng Đồng Quê: “Cây xanh lá xanh trời xanh, chim líu lo trên cành, lom khom người đang cấy…” thế thôi!

                - Chết chữa!

                - Thú thật với anh đây là lần đầu tiên trong đời chân em lội xuống bùn.

                Tôi cười:

                - Thôi được rồi, để anh giải thích cho em hiểu “vắt” là con gì nhé !

                - Dạ vâng!

                - Vắt là một loại sâu bọ, nó có thể cắn và hút máu mình từ ba đến năm phân khối một lúc.

                - Eo ôi ! Khiếp thế!

                - Ồ, anh nói thật mà ! Để chốc nữa rồi xem. Nó đeo trên mình mà cắn có khi hằng hai ba tiếng đồng hồ mà mình không hay biết gì hết. Đến chừng mình hay gỡ nó ra được thì nó no căng ra bằng ngón tay, chích một cái thì máu xịt ra đỏ tươi.

                - Nó có nhiều không anh ?

                - Nói đến vắt thì phải nói như muỗi vậy. Nghĩa là vô số.

                -Eo ôi!

                - Nếu qua một vùng có vắt thì nó đầy đàn như mạ gieo, ở dưới đất có đã đành, trên nhánh cây cũng đầy hết.

                - Vậy làm sao đi?

                - Thì cứ đi bừa qua thôi… Đặc điểm của nó là chui rúc vào những chỗ hiểm hóc khó trông thấy.

                - Eo ôi khiếp!

                Năm Cà Dom đang lim dim ngủ bỗng lên tiếng:

                - Con vắt lợi hại lắm đó đồng chí văn công ạ ! Liệu liệu mà đề phòng. Nó nguy hiểm hơn cả cọp beo và rắn rết. Mồm nó có bộ răng hình ba chia. Sở dĩ tôi biết rõ vậy là vì tôi bị vắt cắn rất nhiều. Sau khi gỡ nó ra lau sạch máu ở da mình, tôi trông thấy rõ cái dấu răng ba chia của nó in rõ nét bằng sợi tóc như khắc trên da mình . . Cái vết thương nhỏ thế mà máu mình chảy ra rất nhiều.

                Năm Cà Dom ngồi bật dậy và tiếp:

                - Tôi nghe có một đồng chí bị vắt cắn, chẳng may lại bị cắn ở cổ mà lại trúng nhằm động mạch. Chú vắt cắn no rồi thì buông tay rơi xuống. Vết thương cứ chảy máu, cho đến lúc quá nhiều đồng chí kia ngất đi không ngồi dậy nổi. Sau đó nghe nói đồng chí đó chết, không biết có đúng vậy không ?

                - Có thật không anh ? Eo ôi ! Khiếp quá, làm sao em đi được ?

                - Nghe câu chuyện thì cũng có lý, vì động mạch bị thương thì máu chảy rất nhiều, mà hễ máu chảy nhiều thì ngất xỉu. Cái đó dễ hiểu thôi. Trong lúc mệt quá, lại ngủ say không hay. Cũng có thể chết lắm !

                Thu ngồi nghe chuyện mà cứ “eo ôi” từng chập một.

                Tôi sực nhớ một câu chuyện thời kháng Pháp của cô nữ sinh thuộc nữ học đường Gia Long vừa mới ra bưng biền Đồng Tháp kháng chiến. Một hôm tôi dắt cô bạn ra đồng để hái rau về ăn mắm. Cô đang lội , bỗng một chú đĩa trâu to bằng ngón tay cái đeo vào bắp chân. Cô bạn hốt hoảng quá, không biết làm sao gỡ nó ra. Cô cứ giơ bắp chân lên mà la bài hãi. Tôi chạy tới, nhưng không kịp.

                Sẵn con dao trong tay, cô bạn chặt đại vào con đĩa. Con đĩa thì còn nguyên, nhưng da cô bị đứt một đường rất sâu. Tôi phải xé áo băng cho cô bạn và cõng cô ta về nhà.

                Tôi kể câu chuyện đó cho Thu nghe. Tôi chủ quan tưởng rằng đó là một câu chuyện vui giải trí lúc mệt nhọc, chẳng ngờ nó làm tăng sự sợ hãi đối với Thu.

                Tội nghiệp, Thu cứ lo lắng hỏi mãi về tai hại do con vắt có thể gây ra. Tôi phải nói ngược lại. Tôi nói:

                - Nói chơi vậy chớ chẳng ăn thua gì. Mình lại đi sợ con vật bé tí ti hay sao ?

                Thu ngồi tần ngần ra, vẻ mặt vô cùng thiểu não. Tôi trông Thu mà thương hại vô ngần.

                Cái thân nam nhi của mình thì dầm mưa dãi nắng chi chi cũng được, xơ xác rách nát ra xem cũng không đến nỗi nào, nhưng một người con gái đẹp mà tung vào rừng núi thì phí phạm quá. Ví như ta đốn một cây kiêng quý đã uốn hình con rồng, con phượng làm củi chụm nấu tấm cho heo ăn vậy.

                Tôi biết giờ này Thu bước đi trong đoàn cùng với tôi về phía Nam nhưng con tim của Thu thì lao ngược về phía sau, tìm đường về Hà Nội.

                Có lẽ Thu ân hận về những tình cảm có lúc xốc nổi của mình. Tuổi trẻ sao tránh khỏi được tình cảm đó, nhất là khi nó được phỉnh nịnh tâng hót bằng những lời ca ngợi xúi giục và hứa hẹn?

                Ghê gớm thay cho miệng lưỡi con người !

                Rồi khi đổ người ta vào con đường này, họ hầu như không còn trách nhiệm gì nữa.

                Riêng tôi thì dù cái chết ở trước mắt, tôi cũng phải cố gắng mà đi. Tôi không chịu đựng được một cuộc sống gò bó, bực bội và ngạt thở nữa. Tôi phải đi về xứ sở, nguyên quán của tôi. Tôi là cây dừa. Tóc tôi là lá dừa. Da thịt tôi là sớ thịt cây dừa.

                Máu tôi là do nước dừa kết tinh. Chân tôi có triệu ngón bám vào đất như những mẩu rễ dừa muôn đời ăn sâu vào đất. Tôi đứng giữa quê hương tôi, chân lún giữa bãi phù sa của dòng sông Cửu Long thắm đỏ máu tiền nhân và đồng đội, tóc dừa tôi xanh lên vì gió nắng màu mỡ đầy sinh tố vùng nhiệt đới của quê hương Miền Nam.

                Thân cây dừa kết thành chiến lũy ngăn những vàm sông chống giặc ngoại xâm, trái dừa trở thành những chùm bom rụng xuống đầu giặc những năm kháng chiến chống Pháp. Dừa đã trở thành một giống cây thiêng liêng cao quý tượng trưng cho đất nước trù phú, cho con người bất khuất.

                Tôi lớn lên giữa những hàng dừa. Tôi mang trong tôi khí tiết của Cây Dừa. Hay tôi chính là cây dừa.

                Tôi không thể mọc lên, xum xuê hoa lá ở một cái đất núi non. Không ai đem cây dừa lên núi mà trồng cũng như không ai đem nứa mà cặm xuống nước mặn. Một giống cây có mảnh đất riêng của nó huống chi là con người.

                Cho nên tôi dù có chết tôi cũng đi về.

                Có lẽ ông già Noël, ông Chín, Năm Cà Dòm tâm trạng như tôi. Đi xa nhà xa cửa lâu quá mà, anh cố trung với đảng hiếu với dân mãi ư? Anh sẽ trở thành đứa con bất hiếu, người chồng bất nghĩa và người cha vô trách nhiệm. Cái luân lý thông thường nhất đối với người Việt Nam là phụng thờ cha mẹ, nuôi đay con cái, bảo bọc vợ hiền, mà mỗi người đi tập kết đều không làm được, còn nói chi đến những chuyền cách mạng ( !) đâu đâu.

                Tôi thèm một cách ghê gớm được trở lại nhà, đi trên bãi cỏ đầu ngõ nhà nhặt những lá khô ở thềm nhà. Tôi muốn được ngồi ăn cơm với cha tôi với mẹ tôi ở chiếc bàn đó, ở căn nhà đó, chắc nay đã xiêu vẹo … nơi tôi đã từng ngồi ăn những bữa cơm bình thường nhất trong đời, nhưng từ khi tôi xa nhà thì tôi không còn tìm ở đâu ra những bữa ăn như vậy nữa .

                Cái việc làm cao quý nào cũng phải mang lại kết quả tốt đẹp cho con người không sớm thì chầy. Ở đây những người chịu đựng quá nhiều mất mát hầu hết, cả tuổi thanh xuân, mong được hưởng một lạc thú nho nhỏ về gia đình, nhưng cũng không có.

                Những người Nam trên dưới bốn mươi tuổi đi trên đường này đều là những người xa vợ trên mười năm hoặc chưa có vợ. Hai hạng người này đều mong về tận quê nhà, có phải chăng để hy sinh cho giai cấp ? Hãy lắng lòng lại mà trả lời.

                - Không !

                Giai cấp thuần nhất là một sự bịa đặt, một điều chỉ có trong sách vở. Thực tế thì chẳng có bao giờ. Vì trong giai cấp lại có giai cấp, rồi trong những giai cấp đó lại có những giai cấp khác nữa.

                Vậy thì cái mục đích của họ đi về Nam, bị bao bọc bên ngoài bằng một cái lớp áo đấu tranh và bị hiểu lầm!

                Tôi suy từ tôi mà ra điều đó.

                Vô số người Nam tập kết bốn mươi tuổi chưa vợ? Thật vậy mà!

                Những người này bôn ba “về nước” là để cưới vợ. Họ đã cắn răng chịu đựng những trận mưa phùn những ngày nắng hạ những giông bão cùng những buổi đẹp trời là để thực hiện cái câu “ta về ta tắm ao ta, trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta”.

                Bởi vì họ đinh ninh rằng ở miền Nam những thiếu nữ mơn mởn đào tơ trong “những vùng giải phóng rộng hơn những vùng giải phóng thời kháng chiến chống Pháp” luôn luôn mơ tưởng như Joséphine mơ Nã Phá Luân, như Ngọc Hân mơ Nguyễn Huệ vậy.

                Tội nghiệp thay, họ vẫn bị lừa một cách rất khôn ngoan và rất chánh trị. Có ai đâu mơ những mái tóc hoa râm ? Trừ những mụ nạ dòng?

                Ấy đó kết quả thiết thực là nhiều đoàn người vì ở rừng cho nên vẫn không tìm ra vợ, một số người thì “hốt ổ” hai, ba con là sự thường!

                Cuộc đời, trong khái niệm thời gian thì đi nhanh như vó câu qua cửa số, còn trên dãy Trường Sơn này thì nhịp độ chậm chạp dềnh dang ghê gớm. Người ta có cảm giác rằng mình đang dẫm chân tại chỗ, và lún xuống giữa những đồi cát sa mạc của bệnh tật và bi lụy.

                Cậu giao liên Tấn đã trở về. Cậu ta lắc đầu nguẩy nguậy:

                - Các cha non đi đâu mất hết rồi !

                - Đi đâu được mà đi ?

                - Ai biết . Ai có chân nấy chớ !

                - Nhưng chân nó gãy, nó đi là nhờ chân người khác ?

                - Chân ai thì chân, nhưng nó không còn ở chỗ đó nữa.

                Tôi hỏi:

                - Cậu đã trở lại đến chỗ bờ suối đó à ?

                - Chớ sao !

                - Sao nhanh vậy kìa !

                - Tôi nói gian cho bà móc nhãn tôi mà !

                Rồi Tấn nói tiếp:

                - Dắt các anh tôi phải chờ, chớ từ đây tới bờ suối đâu có bao xa. Đường chim bay không đến hai cây số. Nhưng vì leo lên tuột xuống, đi chậm hơn rùa mà lại mệt nhọc kinh khủng cho nên tưởng như mình đã đi hằng chục cây số vậy. Hồi tôi mới ra đây, đi trên đường này tôi cũng có cảm giác như các anh vậy thôi.

                Tấn nói tiếp:

                - Cái nòng pháo họ đã đưa tới bờ suối rồi. Tôi bảo họ đi cùng tôi Nhưng họ đã không đi, lại còn chửi tôi như chửi chó. Họ bảo tôi là vô nhân đạo chọn cái con đường thất âm đức như vậy mà bắt họ khiêng pháo đi.

                Tôi vọt miệng hỏi:

                - Bộ không có con đường nào khác hay sao cậu ?

                - Chắc anh tưởng bổ khỏe cho tôi lắm sao ? Tôi sướng ích gì mà dắt các anh đi con đường mẹ rượt này chớ !

                Tôi lại hỏi tới:

                - Sao không tìm con đường nào khá khá hơn.

                - Tôi đã bảo với các anh là không có con đường nào khác mà !

                Tôi lặng thinh.

                Tấn bảo:

                - Bây giờ thì mình đi chớ. Liệu đi sớm đi. Chiều là bị mưa đó. Mưa xuống là vắt nó ra nó đón đường không qua nổi nhé các ông các bà!

                - Đi thì đi.

                Thu biết lo xa nên Thu đi trước. Rồi kế tôi đi sau.

                - Có dốc không anh ? Thu hỏi cậu giao liên.

                Tấn nói:

                - Dốc cao dốc thấp, dốc đứng dốc lài, dốc nhiều dốc ít, dốc nguy hiểm nhiều hay nguy hiểm ít, chớ không chỗ nào bằng phẳng bước sướng chân được mười lăm hai mươi bước.

                Bỗng Tấn quay lại:

                - Có vắt rồi đấy nhé !

                Rồi Tấn dừng hẳn lại bảo:

                - Các anh chuẩn bị xem cái ống bồ hòn của mình đi. Còn chị văn công thì phải túm ống quần lại cho chắc, buộc nhiều nận. Không thì… nguy hiềm đấy.

                Thu bỏ ba lô xuống, lấy dây trong ba lô ra, lấy cả đôi tất ni-lông màu da người mỏng dính. Có lần Thu đã cho tôi xem và khoe rằng lúc đi Stockholm biểu diễn Thu đã mang đôi tất cao này chống lạnh và mua nó ở Hà Nội mất chín đồng bạc nghĩa là bằng nửa tháng lương tối thiểu của một công nhân.

                Thu sợ vắt quá nên Thu dùng cả đôi tất quí này để chống vắt. Thu mang vào. Chao ôi ! Cặp chân ngà trắng muốt với những đường nét mềm mại vô cùng lại được bọc trong một lớp ni-lông mỏng dính, làm cho sự tưởng tượng của người trông thấy nó càng tăng lên gấp bội.

                Vâng, cái gì mơ màng mơ hồ thì người ta phải tưởng tượng, phải ước mơ, nhất là nó vừa hiện ra đó, nó lại biến đi như lẩn khuất sau tấm màn sương mỏng.

                Thu mang tất xong, buông hai ống quần xuống, và nghe theo lời của anh giao liên, Thu lấy dây buộc từng chặng từ dưới mắt cá lên đến đầu gối như bó bánh tét.

                - Được đấy thế mới chắc ăn. Còn ống bồ hòn đâu chị ?

                - Sẵn đây rồi !

                - Các anh nhớ nhé. Sắp sửa đánh nhau với lũ vắt đấy ! Để rồi xem ! Khiếp lắm !

                Rồi đoàn người lại đi. Tấn giải thích:

                - Trước kia, đúng ra là chỉ có một khu rừng bề dài độ hai cây số có vắt thôi. Qua nhanh cái là xong. Nhưng bây giờ nó lan tràn ra rồi. Cái trận địa vắt dài gấp ba gấp bốn lần. Là vì những đoàn từ Bắc vào Nam, khi đi qua khỏi khu vực này đã mang theo một số vắt trong mình. Mối người ít nhất là một con vắt.

                Một trăm người một trăm con mà ngày nào cũng có ít lắm là hàng trăm người vào. Ngược lại, những người từ Nam ra Bắc cũng mang theo số vắt y như vậy ra phía Bắc. Những con vắt di cư ấy hiện nay đã có đất đai, có quê hương rồi. Và nó kết thành một dãy liền với đám cố cựu chống lại những kẻ nào quấy rầy bọn nó. Những kẻ đó chính là chúng mình đây.

                Tấn dừng lại, nhìn Thu và nói tiếp:

                - Chị có dây thun nên buộc hai ống tay áo nữa.

                - Chi vậy cậu ? Ống tay áo mà ăn thua gì ?

                - Úy chị đừng xem thường nó !

                - Tại sao ?

                - Vì nó đeo cả trên nhánh cây mà. Vắt nó khôn lắm chị ơi. Nó biết đánh hơi người và biết đón người đi qua, để chốc nữa rồi chị sẽ thấy. Nó bò ra tận ngoài chót nhánh cây bỏ vòi ra. Cái vòi nó quơ quơ như cái vòi voi tí hon để tìm đối tượng. Hễ ngửi đúng đối tượng rồi, nó búng một cái tách thế là văng qua đeo vào tai, hoặc vai, hoặc tay mình. Nó cứ thế mà bò và tìm chỗ thịt ngon mà cắm vòi vào, hút máu.

                Thu rùng mình.

                Tôi bảo:

                - Thôi đi, đừng có nói nữa, cô ấy không dám đi đấy.

                Trông Thu nai nịt mà thảm thương. Vừa đáng thương lại vừa tức cười. Giống như một nữ lâu la của một đảng cướp núi.

                Tấn giục:

                - Thôi đi ! Kẻo trời mưa tới thì khổ.

                Rồi cả đoàn lôi thôi lếch thếch kéo nhau đi. Vừa leo trèo, vừa bò lê, vừa lấy tay làm chân, lấy đầu gối làm chân, và lấy chân làm tay. Đi trên chặng đường này thì càng có nhiều tay càng tốt. Tay để bám, để níu, để ôm để làm đủ mọi động tác giữ thân mình lại khỏi phải rơi xuống hố, trợt lăn xuống sườn núi.

                Khổ đời nhất là chân phải mang dép. Cái đế dép dày mo làm cho bàn chân mất cảm giác, và làm cho nó không có sức bám trực tiếp vào mặt đất. Đi dép thì hay trợt hay ngã, khó leo trèo. Thay vì đôi chân của mình phải được võ trang thêm những cái ống giác nhám đặc biệt như chân thằn lằn thì nó lại bị thay vào đó là cái đế dép trơn lỉnh.

                Tấn bảo:

                - Tới xứ vắt rồi đây nhé quí bà con.

                Ai nấy vừa đi vừa dớn dác nhìn, để tìm đối thủ, nhưng không ai trông thấy.

                Sự mệt nhọc lôi hút tâm trí của người đi đường theo một hướng khác. Cho nên không ai để ý gì cả.

                Khu rừng đặc biệt lầy lội. Những lớp lá khô chồng chất lên nhau có lẽ đến hàng trăm năm, lớp cũ lớp mới đã biến thành phân, bùn đen như than bùn ở vùng U Minh. Nhưng ở đây thì than bùn này gớm ghiếc hơn, cũng như những con suối độc.

                Lội vào những lớp bùn này người ta cảm thấy như da thịt mình bị bỏng, tuột ra theo mỗi bước đi. Chất độc trong bùn bị hút vào lỗ chân lông và thâm nhập vào cơ thể, làm cho người ta thấy gây gây sốt. Cái không khí đầy thán khí và cả một vùng cây lá dày đặc không có ánh sáng mặt trời, làm cho da thịt mình như bị vô số mũi kim châm.

                Dưới bóng những cây cổ thụ tàng lá dày đặc như mái tôn, mái sắt này không một loại cây nào nảy mầm được. Và con người lành mạnh bước vô đây thì ngã bệnh ngay. Đúng là rừng thiêng nước độc.

                Tôi cũng đã sống ở rừng U Minh, nhưng rừng U Minh đáng yêu hơn nhiều. Những cây tràm, vỏ sùi lên như những mảnh lụa màu mỡ gà ngả màu nâu. Bông tràm trổ trắng tinh khắp cả một dãy giang sơn với những đàn ong bốn phương đến hút mật bông tràm và trả lại cho đời những giọt mật tinh chế mỡ màng hơn. Lá tràm xanh cứng, chứa đầy dược chất tiết ra một mùi hương thơm bát ngát cả một vùng trời.

                Nước rừng U Minh đỏ sậm không như màu phù sa thắm tươi sông Cửu Long, chạy một dòng từ rừng sâu đổ ra sông lớn. Người đi rừng khát nước có thể vốc lên uống cho kỳ đã khát mà không sợ bệnh.

                Còn đất rừng U Minh thì sốp như phân. Cây chuối, cây mì cặm xuống đó rồi cứ bỏ quên đi, vài tháng sau trở lại đốn lấy buồng, nhổ lấy củ . Nhiều vùng trong rừng U Minh cho ta than bùn năng nhiệt rất cao. Những người đi rừng đôi khi bị sa lầy vào những vùng sình lầy này, nếu không biết cách thì sẽ bị chìm mất tích vào đáy vũng bùn.

                Còn cá tép, rùa rắn, chim chóc, sấu ở U Minh thì không sao kể xiết. Heo từng, nai cũng rất nhiều. Nếu rừng Trường Sơn mà dễ yêu và người như rừng U Minh thì chúng tôi đâu có trở thành thân tàn ma dại như ngày hôm nay.

                Đi cái rừng Trường Sơn mà nghĩ về rừng U Minh với những mơ ước vô tận.

                Chỉ cầu mong cho lá rau lá rác được hiền lành và dễ tìm như ở vùng U Minh thôi thì cũng đỡ cho chúng tôi rồi. Rau kim thất, rau tàu bay, đọt choại, đọt vừng, đọt chiết v.v. . . Nội bấy nhiêu đó cùng với giọt nước hiền lành của U Minh cũng đủ bồi đắp thịt da cho chúng tôi rồi.

                Ở U Minh có bao giờ chúng tôi bị sốt rét !

                U Minh lúc thời kỳ kinh tế khan hiếm đâu có mùng ngủ đâu có quần áo mặc. Dân U Minh toàn ngủ trần, mặc quần gai áo bố. Nhiều người đi rừng lỡ đường, tìm một gốc đớn to. Rễ dớn đan vào nhau như những lớp vải mùng, cứ dở nó lên chui vào đó, ngủ vừa ấm vừa khỏi bị muỗi đốt.

                Muỗi U Minh có đốt cũng không việc gì.

                Cho nên đất U Minh “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội lềnh như bánh canh, ” mà người dân vẫn khỏe mạnh không bệnh tật.

                - Dừng lại bắt vắt nửa giờ !

                Tấn đang đi bỗng quay lại ra lệnh.

                Mọi người dừng lại, và tự nhìn mình. Tôi đâu có thấy gì đâu:Tôi cứ nhìn sơ qua tay chân quần áo và lấy làm sung sướng vì thấy mình không bi chú vắt nào đeo hết.

                Tấn nói:

                - Xem kỹ trong quai dép và các kẽ ngón chân.

                Tôi bắt đầu thấy ngứa ngáy. Tôi bèn rút chân ra khỏi dép. Trời ơi ! Tôi trố mắt ra nhìn. Những kẽ ngón chân đều bít hết.

                Những chú vắt đỏ lưởng căng tròn như những múi bưởi chín.

                Cứ lấy bò hòn quét vào là nó rụng hết.

                Tôi sực nhớ ra cái ống bồ hòn đeo ở thắt lưng. Tôi lấy cái que nhúng vào bã bồ hòn và quét lên những kẽ ngón chân. Bọn quỉ tí hon đang chụm mỏ vào nhau hút máu tôi, bi phép thần thông rưới bất ngờ ngã lăn ra rơi xuống, nhiều con phún cả máu ra đỏ loang mặt đất.

                Tôi tiếp tục chấm nước bồ hòn vào những chùm vắt rơi rụng thưa dần. Những chú rơi xuống đất bò lổm ngổm tìm hơi người hoặc nằm im ọc máu ra không nhúc nhích.

                Còn nhiều chú cứ đeo dính trong kẽ chân mình đẫm nước bồ hòn, nhưng hình như chúng đang hút được nguồn béo bổ bất ngờ mà quên thuốc độc đang xối trên lưng.

                Tôi ngại, không dám dùng tay để gỡ bắt chúng nó, tôi bèn lấy một cái que mà gạt chúng đi, nhưng chúng đã bám chắc vào da thịt tôi hầu như chúng đã trở thành da của tôi vậy.

                Buộc lòng tôi phải bắt bằng tay. Những chú vắt nhớt nhòm trơn thột thật khó nắm và rứt ra. Tôi phải vất vả lắm mới “giải phóng” cho hai bàn chân của tôi.

                Xong tôi lại quét nước bồ hòn vào khắp hai bàn chân tôi, chờ cho nó khô lại quét thêm lớp nữa lớp nữa cho chắc ăn.

                Nhìn lại vùng đất tôi đang đứng đã thấy nhiều nơi nhuộm máu và trên những lõm máu ấy những chú vắt đang nằm hấp hối vì bị tôi rải chất độc hoặc đang bò thật nhanh tìm mồi. Chúng nó rất hăng hái vì say mùi máu.

                Thân hình của chúng như chiếc cung chưa giương đặt trên mặt đất rồi đít đun tới, khi đít vừa chạm mõm thân hình chúng cong lên như những chiếc móng ngựa thì mõm lại lập tức bổ tới ngay, thu ngắn đường đất một quãng độ ba phân tây. Cứ thế, cứ thế.

                Hàng chục chú vắt tiến tới cùng một phía, chằng khác một tiểu đội xung kích đang xông tới mục tiêu.

                Chúng quờ quạng một chốc rồi đổi hướng. Chúng lại nhắm về phía bàn chân tôi mà thẳng tiến.

                Một chú vắt màu nâu, to nhất đám, có sọc trắng trên lưng da láng ngời dẫn đầu đoàn xung kích. Chú ta vươn những bước rất dài cho nên đã bứt xa lũ em út ở phía sau. Khi đến gần bàn chân tôi thì chú ta dừng lại, không đi nhanh nữa.

                Chú ta dựng đứng lên với tất cả bề cao và quơ quơ cái vòi trong không khí như một chiếc ăng-ten có mắt thần để tìm mồi. Trông thật khiếp đảm. Ở phía sau chú ta mấy anh nữa cũng làm theo cái kiểu ấy.

                Tôi cứ lặng nhìn để xem chú to đầu làm ăn ra sao ?

                Khi chú ta đến bên bàn chân tôi thì cái mõm của chú chĩa ra hẳn phía trước nhọn hoắc như mũi con quay kéo vải. Còn đít chú to bằng dầu cây đinh thì gắn chặt dưới đất. Xong chú mới ngoặc xuống dán vào bàn chân tôi như một cái móc câu ghim vào thịt tôi.

                Nhưng lập tức chú ta rụt mõm lại ngay, thun cổ lại, và cái vòi ngoáy ha như có vẻ bực tức, khó chịu lắm. Vì nó chạm vào chất đắng bồ hòn mà lại ! Nhưng cái đít của chú ta vẫn cứ cắm chặt trên mặt đất ở nguyên chỗ cũ chứ không chịu lùi trong lúc cái vòi bỏ tới bỏ lui, hai ba lần để tìm chỗ tốt. Cuối cùng nó cắm được vào da tôi và nhấc cả thân hình lên bàn chân tôi.

                Chú ta bò xung xăng trên lưng bàn chân tôi một cách đắc thắng và kiêu hãnh. Cái vòi chú cứ quơ quơ rồi lại bập xuống kéo cái đít đi tới Chàng hiệp sĩ cơi cái lưng bàn chân tôi là một mảnh vườn hoang không người.

                Nhưng tôi đã chấm nước bồ hòn chực sẵn và chờ cho cái mõm kia quơ lên kiêu ngạo thì tôi cho một giọt thuốc rơi đúng vào đầu! Chàng hiệp sĩ bị trời giáng bất ngờ không đỡ kịp, co quắp người lại, vo tròn như một hạt đậu và lăn xuống đất mình mẩy đằm nước dơ do nhớt của chú ta và nước bồ hòn hóa hợp.

                Những tên đàn em của chàng hiệp sĩ có sọc lưng cũng nghển cổ lên và sắp đổ bộ lên cái mảnh đất mầu mỡ do chàng ta phát hiện.

                Nhưng tôi lại cho bồ hòn rơi tới tiếp xuống đầu chúng đánh tan ngay cuộc tấn công và lập tức tôi nhảy sang chỗ khác với sự yên tâm rằng mình đã dụ địch gom lại một nơi và đã tiêu diệt chúng sạch sành sanh rồi.

                Nhưng tôi tỉnh người ra ngay. . .

                Lúc nhúc chung quanh tôi, những cái cây tăm ai cẩm dày đặc mà mỗi cái đầu tăm quơ qua quơ lại rất đều nhịp như có một ngọn gió đay đưa.

                - Vắt! Trời ơi vắt !

                Vắt gì mà ghê thế. Có thể nói không có một chỗ nào trống để tôi đặt bàn chân vào hay nói khác hơn, bất cứ bước vào đâu, tôi cũng dẫm lên ít nhất là vài ba chú vắt.

                Vừa ngửi thấy hơi người chúng ào ào bò tới ngay, và cùng một lúc có đến năm, bảy chú bám vào bàn chân tôi mà leo lên. Tôi lại chạy đi. Rồi tôi lại chạy đi, không thể đứng yên ở một chỗ.

                Rõ ràng lũ vắt có tri giác. Chúng rất khôn ngoan. Từ trong những đám lá mục chúng nhoi lên và bò thẳng ra đường mòn. Khi đến mép đường mòn thì chúng dừng lại và bỏ vòi ra ngửi. Chúng quơ quơ cái vòi với vẻ thèm khát ác liệt. Nhiều con bò vào một cái dấu chân và cứ dừng ở đấy mà dò dẫm. Hình như chúng ngửi thấy hơi người để lại trên dấu chân đó, nhưng chúng rất tức vì không tìm ra da thít người.

                Tấn quát lên:

                - Mò trong nách trong háng bà con ơi !

                Nãy giờ Tấn đang tiếp sức “giải phóng” cặp chân cho cô nữ văn công. Dù Thu đã dùng tất ni-lông mang lên rất cao, nhưng vắt vẫn cứ chui hẳn.vào mà cắn, hoặc có những con chỉ chui đầu vào mà hút máu thôi.

                Thu phải cởi tất ra lấy que tấm nước bồ hòn và gạt từng con một. Đôi tất của Thu không còn tác dụng.

                Rồi cả đoàn lại đi. Càng đứng lâu một chỗ thì càng làm mồi cho chúng nó.

                Tấn lại kêu lên:

                - Coi chừng nó đeo đầy quai ba lô rồi nó bò lên chui vào tai đấy.

                Bỗng Thu kêu lên thất thanh:

                - Ối! ối! ối !

                - Cái gì vậy?

                - Cái gì la dữ vậy?

                Thu đang đi bỗng ném cái ba lô xuống đất và chạy lủi vào một bên đường.

                Tấn bảo:

                - Cứ bình tĩnh, không sao đâu, cứ quết bã bồ hòn nhiều vào là nó rụng đi thôi.

                Chúng tôi phải quay mặt đi.

                - Xong chưa ? Năm Cà Dom hỏi.

                - Bắt được chưa Thu !

                Một chập sau Thu lại kêu. Lần này thì chú vắt không tấn công chỗ hiểm hóc bằng lần trước. Nó chỉ đeo dính ở sau cạnh tai.

                Thu vừa phủi ha lịa vừa nhảy cà tưng như đạp phải lửa.

                Tôi gắt:

                - Đưa đây coi ?

                Thế là tôi bắt con vắt ra. Hắn ta đã hút no máu của cô nàng. Tôi nắm căng hắn ra và rứt hắn làm đôi và ném xuống đất. Tiện chân tôi chà dẫm lên như chân voi chà một trái cà.

                Nhưng không đúng như thế. Khi tôi rút chân lên thì hai mẩu mình con vật vẫn còn ngo ngoe.

                Tấn cười:

                - Thế là anh đã biến một con thành hai con !

                - Giỡn cậu ! Năm Cà Dom nói.

                - Ủa, tôi nói thiệt mà!

                - Ai đồn chú như vậy đó ?

                - Hồi nhỏ ở nhà, tôi nghe người ta bảo con đĩa ai làm gì nó cũng không chết , trừ ra đốt nó mà thôi.

                - Rồi sao nữa ?

                - Tôi nghe lời người ta tôi bắt một con đã, tôi lấy gai quít căng nó ra phơi nắng trên mặt đất hai ba ngày, tới chừng trời mưa xuống là nó ngo ngoe ngay !

                - Dóc tổ!

                - Dóc trời đánh nó!

                - Ừ thì trời đánh nó chứ đâu có đánh chú !

                - Anh nói tức quá t Tôi thấy, tôi làm rõ ràng mà !

                - Đẩy cây thoa mỡ bò chú em ơi.

                Tấn không chịu thua, cứ nói sấn tới:

                - Một lần khác, tôi lấy dao bằm một con đĩa ra trăm mảnh bỏ trong lá môn đổ nước vào, túm lại. Ba ngày sau tôi dở ra, thấy một bầy đĩa con.

                -Thật à?

                - Chính mắt tôi trông thấy đây mà !

                Năm Cà Dom cười khì khì.

                - Tôi cũng biết một chuyện khác nói về sự bất tử của loài đĩa. Như thế này nhé. Một nàng dâu nhà nọ đi xúc cá bị đĩa chui lọt vô lỗ tai mà không biết. Con đã ấy chun lên sọ và đục khoét phía bên trong hằng ngày để tìm thức ăn. Nàng dâu thấy ngứa ngáy da đầu, cho nên mỗi lần nấu cơm sôi nàng có thói quen lấy cái vung nồi úp lên đầu một chốc cho đỡ ngứa. Bà mẹ chồng thấy cơm thường hay sống bèn để ý.

                Thì bắt gặp cái cử chỉ đó của nàng dâu. Bà ta rầy. Cô dâu chỉ cất cái nắp vung một lúc rồi khi bà mẹ chồng vừa đi khỏi bếp thì cô nàng lại lấy cái vung úp lên đầu. Một hôm bà mẹ lại bắt gặp. Bà ta giận quá, sẵn chiếc đũa bếp của cô dâu đang sơ cơm, bà ta bèn giật lấy và gõ nhẹ vào đầu cô dâu, chẳng ngờ nó vỡ ra như một cái nồi đất, và đổ xòa ra mặt đất . Các bạn biết cái gì không ?

                - Không.

                - Óc chớ gì!

                - Không phải óc, mà là một đàn điã mẹ điã mén. Chúng bò lểnh nghểnh trên mặt đất đen ngời ngời.

                - Trời đất, kỳ lạ vậy !

                - Thì đã bảo là cô dâu bị đĩa chui vào tai mà.

                - Rồi sao kỳ vậy ? Tấn hỏi.

                - Thì nó chui vào tai, nó chui lên óc, nó đục khoét óc nó ăn óc để sống và sinh đẻ ra càng ngày càng đông chớ sao, và cái xương sọ bị khoét mỏng dần, cho nên bà mẹ chỉ gõ nhẹ một cái là nó vỡ toang ra . . .

                - Thiệt sao anh ?

                - Thiệt chớ sao không thiệt ?

                - Anh có thấy thật không ?

                - À… cha chả, cái đó thấy thì không có thấy đâu.

                - Vậy sao anh biết tỉ mỉ vậy ?

                - Còn cậu sao cậu cũng biết tỉ mỉ vậy ?

                Tấn cười xòa, biết ông bác sĩ Năm Cà Dom thấu cáy mình nên lặng im, nhưng Tấn cũng không tự ái.

                Tôi đang đi bỗng thấy một vật gì nâu nâu to bằng ngón tay cái đang ngọ nguậy trong bùn. Tôi ngỡ là con sùng, nên tiện chân, tôi dẫm lên thật mạnh. Máu từ dưới đế dép tôi bắn ra ngoài. Một làn máu in trên mặt đất. Tôi gọi Thu. Thu dừng lại. Tôi trỏ cho Thu cái xác con vật và làn máu còn tươi roi rói và hỏi:

                - Thu biết máu ai không?

                - Máu ai vậy anh ?

                - Của nhà nữ múa sĩ chớ còn của ai nữa.

                - Eo ôi ! Thu lắc đầu – ăn cả ngày không được giọt máu mà tự nãy giờ mất không biết bao nhiêu là máu.

                Năm Cà Dom xen vào:

                - Cứ xem như mình chiến đấu bị thương thôi. .

                - Chậc ! Vô lý quá !

                - Mỗi người có cái lý của mình. Những người bắt mình đi trên con đường này thì cho rằng đó là chân lý, còn mình thì lại cho rằng vô lý Nhưng cái lý của kẻ mạnh bao giờ cũng là chân lý. Cho nên lũ vất mới được những bữa tiệc no nê.

                Năm Cà Dom cười hắc hắc:

                - Những chú vắt ở khu rừng này từ mấy năm nay đã biết mùi tanh của máu thịt. Nếu không có con đường này thì chúng mãi mãi là những kẻ ăn chay trường. Còn bây giờ thì chúng đã là những kẻ sát nhân uống máu người không tanh. Chắc chúng phải cảm ơn thiên hạ lắm lắm !

                - Cảm ơn ai ? Tôi hỏi.

                Năm Cà Dom cười:

                - Muốn cảm ơn ai thì cảm! Hì hì !

                Ông Chín đi ở phía sau cũng với cái rừng cây cặm trên lưng ông. Cái rừng rậm di động ấy quến vắt rất có hiệu quả. Ông mặc quần đùi cho nên thỉnh thoảng ông dừng lại để dùng cái que gạt những chú vắt đeo trên bắp chân ông. Ông bị vắt đeo nhiều nhất, máu trên chân ông chảy xuống những dọc dài như sọc vải, như để trang trí thêm cho những bắp thịt teo tóp xệu xạo của lão già ngoại ngũ tuần.

                Ông Chín lặng thinh bắt từng chú vắt một, không kêu ca, cũng không tỏ một thái độ nào đối với chúng. Có lẽ ông cho là trong lúc này phải vận dụng lập trường giai cấp để chống lại với bọn vắt là có hiệu quả nhất.

                Còn ông già Noël thì càng đi, càng tụt hằn lại phía sau. Giờ đây hai chiếc gậy của ông ta cũng kiệt sức. Nhìn vào ông ta, tôi chỉ còn trông thấy có “bộ râu” phất phơ dưới cái quai của chiếc nón tai bèo, một màu trắng dấu hiệu của sự bệnh hoạn và không còn sinh lực.

                Anh chàng này bất cần đến ai. Tôi gặp anh ta ở rất nhiều chặng đường nhưng tôi chưa hề thấy anh ta kêu ca bất mãn về bất cứ việc gì, gạo muối, đường đi, mưa gió.

                Anh ta cứ lầm lủi đi như một cái bóng mờ nhạt giữa hoàng hôn, giữa những người khác, đồng đội đồng hành của anh. Tôi đoán chắc anh ta có một sự chịu đựng ngấm ngầm ghê gớm bên trong để cuối cùng đạt được một việc gì, mà đến một ngày nào đó sẽ có một sự bùng nổ bất ngờ.

                Đôi khi tôi cũng muốn gợi chuyện, nhưng anh ta không tỏ vẻ thích thú hoặc ưng chịu trao đối với ai bất cứ chuyện gì.

                Mưa bắt đầu đổ hột, như cậu giao liên dự đoán. Những hạt mưa rất to, rơi rất nhanh và chỉ nhoáng một cái là mưa tầm tả ồ ạt xuống đầu lũ khách yếu đuối này.

                Mọi người lấy vải mũ ra choàng. Những con người dầu ọp ẹp tàn tạ đến đâu mà khoác áo choàng vào trông cũng oai phong. Bởi vì nhìn vào họ người ta đâu có thấy được sự gầy gò, bệ rạc.

                Bỗng Năm Cà Dom kêu toáng lên:

                - Bỏ mẹ rồi ! Bắt được thằng ăn trộm!

                - Ăn trộm gì ? Đâu đâu ?

                Năm Cà Dom ném ba lô xuống đất ngoáy hẳn một cánh tay ra sau lưng và kêu lên:

                - Nó đây này ! ở chỗ “vói không tới” đấy.

                - Cái gì chớ ! Tôi hỏi.

                -Dở áo lên thì thấy!

                Tôi làm theo lời Năm. Quả nhiên một chú vắt to bóng lưởng như một quả ớt nâu. Tôi bắt lấy thủ phạm chưa kịp ban cho hắn ta một cái hình phạt nào thì Năm quay lại bảo:

                - Đưa đây cho tôi !

                - Đây !

                Năm cầm lấy con vật đầy nhớt nhau bỏ vào cái ống đựng bồ hòn và lấy cây que ấn tuốt hẳn xuống. Năm Cà Dom cười hắc hắc:

                - Mày cắn tao thì tao trị mày ở đời là thế. Nếu mày không chạm tới tao thì tao để mày yên thân.

                Tôi ghé mắt nhìn vào. Thủ phạm bị chất đắng cạo sạch nhớt trắng ra như bị trộn nước sôi, bao nhiêu máu hút được của thiên hạ ọc ra hết, và hắn ngọ nguậy một cách tuyệt vọng trong cái mớ chất độc kia.

                Năm Cà Dom cười:

                - Mày ở đây thế nào cũng bị sốt rét. Tao cho mày uống bồ hòn thay ki-nin!

                Năm Cà Dom sắp sửa mặc áo vào thì tôi phát hiện trong nách chàng một chùm vắt. Tôi kêu lên, vừa chỉ điểm cho Năm vừa bắt tiếp với Năm.

                Bắt xong lũ vắt đó, nhìn xuống chân thì thấy hai bàn chân của tôi lẫn của Năm đều bị một đám vắt khác phủ kín. Chúng bò tứ tung cái mõm chúng chìa ra vung vít như một lũ đói khát đang chạy trên một mâm cỗ vĩ đại, quýnh quáng, lóa mắt, điên dại không biết phải chĩa món thế nào trước.

                Tôi giơ chân lên rảy lia lịa, nhưng không rớt đi chú nào. Chúng rạp mình xuống và mõm chúng như những mũi dùi bắt đầu mọp xuống cắm lút vào da thịt tôi. Tấn bảo:

                - Các anh phải vừa đi vừa gỡ, chớ nếu dừng lại thì chúng đeo đầy chân ngay, không bao giờ gỡ sạch được. Đấy nhìn cái ba lô kia kìa!

                Quả thật, trên ba lô lại lểnh nghểnh những chú vắt. Chúng bò trên quai, trên miệng ba lô, không khỏi chúng đã chui vào ba lô. Tấn nói tiếp:

                - Ta cứ đi thôi. Mưa xuống chúng nó hoạt động mạnh lắm. Bồ hòn mình phết trên chân trôi hết, chúng càng đeo tợn. Nhưng dù không mưa chúng cũng không sợ, bồ hòn.đã lờn đối với chúng cũng như sốt rét không sợ kí nín vậy mà. Tôi nghĩ chúng có thể sợ một món thôi !

                - Món gì ?

                - Ớt!

                - Có thể chúng sợ, nhưng ở đây làm gì tìm ra được một trái ớt ? Nghe anh nhắc tới ớt tôi thèm rớt nước miếng.

                Rồi chúng tôi lại đi.

                Trời mưa. Đói lạnh, vắt. Bùn lầy. Cái nào cũng là cái lưỡi dao gọt đẽo sức khỏe của chúng tôi. Đầu đội mưa chân lội bùn, da thịt bị vắt cắn. Bụng lại tóp ve, bi-đông ọc ạch nước suối. Vinh quang cho lắm, người ta cũng không ham.

                Chúng tôi đến cái nơi gọi là trạm lúc mặt trời mặt trăng đều mất hết. Tôi cũng không biết giờ đó là giờ nào ?

                Không củi, không bếp núc. Ai chế tạo ra được món gì thì xơi món nấy. Nhiều người cứ để bụng đói mắc võng leo lên nằm. Trong số đó có tôi và Thu.

                Tôi cố tìm một sự nghỉ ngơi toàn vẹn sau cơn rã rời tứ chi.

                Tôi thay quần áo, mò tìm khắp nơi để lôi óc những thằng kẻ trộm định hoặc đang hút máu mình xem mình là miếng mồi ngon béo bổ cho chúng. Chúng chui rúc kỹ lắm ! Mình không ngờ máu mình lại bị tiêu xài phí phạm đến thế.

                Cái mồm chúng đỏ loét, nhưng chúng hãy còn thèm. Chúng muốn thỏa mãn cuồng vọng. Chúng đói thịt người.

                Hãy giật chúng ra khỏi mâm cỗ, nắm lấy cổ chúng mà giơ lên cho thiên hạ nhìn rõ: này là những tên thủ phạm !

                Yên trí rằng mình sẽ được nằm yên trong đêm nay. Cơn đói sẽ bị xóa nhòa vì thần kinh được thỏa mãn, nghỉ ngơi.

                Nhưng tôi nhầm. Khi bụng đói thì không một giác quan nào yên ổn được. Và khi nằm yên. tôi mới hiểu hoàn toàn cơn đói.

                -Thu ơi!

                - Dạ.

                - Em yên tâm chưa?

                - Yên tâm gì ạ ?

                - Yên tâm rằng mình đã đi qua thêm một cái ải.

                - Em không bao giờ yên tâm được. Em không muốn gì cả.

                - Về Hà Nội, muốn không ?

                - Cái chuyện đó thì ngoài ý muốn.

                - Nghĩa là em không muốn ?

                - Không phải không muốn mà muốn không được ! ..

                - Bây giờ thì em chỉ còn đi tới thôi !

                - Đó cũng là việc ngoài ý muốn ! .

                - Nghĩa là, như em vừa nói em muốn mà không được ?

                - Không, ở đây thì khác hẳn lại.

                - Em cứ thế mãi. Em không bao giờ thay đổi ý định à ?

                - Em suy nghĩ kỹ rồi.

                - Nhưng bây giờ thì làm sao ?

                - Để em xem đã.

                -Xem gì?

                - Để rồi anh sẽ thấy ! Biết đâu đấy !

                Tôi nói:

                - Anh rất hiểu em, nhưng anh không thể giúp em, cũng không ngăn em.

                Chúng tôi lặng im. Lần nào Thu đề cập tới chuyện khúc mắc này của tình cảm thì in như rằng cả hai đều bế tắc.

                Tôi biết Thu không có can đảm quay lại, nhưng đi tới nữa thì Thu quả là một kẻ bất đắc chí.

                Trời tối quá. Le lói một vài ánh lửa như linh hồn của những người hấp hối. Những đốm linh hồn còn bám víu vào trần gian bằng những sợi tơ mong manh như tơ nhện mà chỉ một luồng gió thổi qua cũng đủ tung nó vào cõi hư vô vĩnh viễn.

                Bỗng nhiên một trụ võng của tôi gẫy đổ, tôi rơi ngay xuống đất. Sình lầy đẫm dưới lưng tôi.

                Tối quá. Thán khí dày đặc không thể cho hai lá phổi thanh sạch được mà làm cho chúng càng nặng nề hơn.

                Thì ra lúc nãy trong khi mò mẫm tìm cọc mắc màn tôi đã quờ nhằm một gốc cây mục.

                Tôi phải dời chỗ. Cả chiếc tăng tôi cũng phải dời đi. Tôi mắc một đầu vào cây cọc màn của Thu. Đó là một sự mất tự do cho cả hai người nhưng tôi không biết tìm đâu cho ra một cây cọc chắc chắn..

                Rồi tôi lên võng nằm.

                Năm Cà Dom im thin thít. Anh ta sử dụng thời giờ rất khoa học như bản thân anh ta là một cái máy chịu sự điều khiển của chính anh. Có lẽ anh ta đang ngủ.

                Tôi lại tiếp tục trò chuyện với Thu. Tôi nói.

                - Có những cặp vợ chồng không yêu nhau, nhưng vẫn có con hoài hoài. Và cuộc đời cứ kéo lê mãi như thế.

                Thu thở dài:

                - Em ngán ghê cơ anh ạ!

                - Ngán nỗi gì?

                - Nỗi gì em cũng ngán cả!

                - Nhưng có gì đâu mà phải ngán ?

                -Có chứ!

                - Gì nào ?

                - Chuyên môn, đời sống cá nhân.

                - Ai chẳng thế.

                - Anh thì có gì đâu mà ngán. Anh cứ viết lách đều đều. Vượt cái Trường Sơn này rồi anh tha hồ mà sáng tác. Và khi về đến quê anh rồi thì anh gặp lại cả gia đình. Còn em thì.. . trái ngược với anh cả. Cố chân em hỏng rồi, có lành cũng sượng không nhạy và khỏe như xưa Và em càng đi vào thì càng xa gia đình. Thu bỗng hét lên thất thanh. Ớ ớ… anh ơi, anh ơi ! … Rồi Thu ngất lên.

                Tôi ngồi bật dậy.

                - Gì thế? Gì thế?

                - Ơ… Ơ… bớ bớ…

                Tiếng Thu bị tắt trong cổ họng. Tôi quờ quạng tìm lấy chiếc đèn pingìn rọi sang Thu. Trong vệt sáng xanh nhạt của chiếc đèn pin tôi nhìn thấy một mảng tuyết trắng muốt trên đó nạm một mẩu cẩm thạch đen ngời ngời.

                Tôi nhìn không chớp mắt cái hình tượng nghệ thuật đó. Nhưng Thu lại dẫy dụa và kêu lên kinh hãi. .

                Tôi chạy vọt sang và bất giác tôi đưa tay ra cào cái vật đen ngời đang bám chặt vào đùi nàng. Nhưng cái vật đó, chú vắt, đeo chắc quá .

                Tôi bắt mãi mà không kết quả. Có lẽ tôi cũng hốt hoảng vì tiếng kêu và sự vùng vẫy bạt mạng của nàng.

                - Cứu em ! Cứu em !

                Tôi quát:

                - Thì nằm êm xem nào !

                - Ơ Ơ… Chết em, chết em !

                - Cái gì mà ghê thế!

                Vừa quát tôi vừa đè chặt đùi nàng xuống võng và gỡ chú vắt ra và vút cái tôi vứt nó ra rừng. Cái thân hình tròn nung núc của nó vút đi trong không khí như một đầu đạn và rơi xuống đất như một quả dâu.

                Tôi vụt nghĩ. người thiếu nữ này tuy không bị thương nhưng máu nàng đã nhuộm thắm một hòn đất vô đanh của rừng này.

                Tôi nằm mà tay cứ mằn mò từ bụng ngực đến sau lưng. Từ chân đến mặt mũi, cạnh tai không bỏ một chỗ nào.

                Cái không khí của khu rừng này thật ẩm ướt. Ngủ phải đắp chăn mà không hết lạnh.


                Hết Chương 8 - Xem Tiếp Chương 9
                sigpic

                Comment


                • #9
                  Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                  Chương 9


                  Sáng hôm sau, mở mắt ra tôi bàng hoàng, tâm tư quay cuồng hồi lâu tôi mới lấy lại sự bình thường.

                  Một cái tin không vui đến ngay với chúng tôi trong buổi sáng đó. Kẹt đường ! Kẹt đường nghĩa là cuộc hành trình không tiếp tục được nữa. Đó là một đại họa.

                  Hôm qua khi tới đây thì tôi tưởng chỉ leo heo có mấy đứa sứt tay gãy gọng của chúng tôi chẳng ngờ sáng nay tôi thấy dầy đặc trong rừng nhung nhúc những người là người.

                  Có lẽ những chuyến trước tới đây rồi cũng nằm ỳ tại đây chớ không đi vô được nữa cho nên người mới đông đúc đến thế.

                  Tấn lân la đến chỗ chúng tôi chơi. Tôi bèn hỏi chuyện kẹt đường thử xem ra sao. Bởi vì chúng tôi đã từng bị kẹt nhiều lần rồi, kẹt vì mưa suối to, vì biệt kích. Không rõ lần này kẹt vì lý do gì.

                  Tấn nói:

                  - Kỳ này chắc nguy hiểm lắm. Vì nó nhảy dù xuống Bùi Gia Mập đến mười ngàn quân và nằm giăng ngang một tuyến dày đặc chặn ngang đường mình đi. Thế mới chết.

                  - Cha chả ! Chắc kế hoạch mình bị lộ quá !

                  Tấn nói:

                  - Vừa rồi có một đội tiền tiêu của một trung đoàn bị biệt kích Úc giết hết phân nửa. Trong đó có cả một ông trung đoàn phó, ông này bị mất tích. Ông ta mang cả kế hoạch và tiền ăn của đơn vị. Thế mới nguy. Có lẽ nó nhặt được tài liệu cho nên hôm sau đồ quân xuống ngay ở vùng này.

                  - Thế thì làm sao ? Tôi hỏi với sự sốt ruột lộ hẳn ra ngoài.

                  - Ai biết làm sao !

                  Tòi hỏi tiếp:

                  - Hồi đó tới giờ có khi nào đoàn bị nghẽn đường rồi trở ra không cậu ?

                  - Trở ra thì chưa thấy, nhưng thỉnh thoảng có một đoàn bị nghẽn nằm lại cả tháng trời không nhích được vào một bước.

                  - Thế làm sao ?

                  - Làm sao ai biết làm sao ?

                  Trời ơi, nếu phải nằm như vầy thì chết còn sướng hơn.

                  - Sao vậy, nằm nghỉ dưỡng sức chứ!

                  - Dường với cái gì hở cậu ; Với nấm độcc và vắt muỗi à ? Muối hết rồi. Lấy gì tẩm gân ?

                  - Sao anh hết sớm vậy ? Người ta phát cho ăn ba tháng mà.

                  - Đáng lý ra thì chưa hết, nhưng vì ngâm mình dưới suối đó nước vô, chảy trôi hết. Tôi còn giữ lại một ít trong hộp lon kia.

                  - Cha chả ! Tai hại quá !

                  - Ở trạm này có phát muối không ?

                  - Có. Nhưng không biết có hay không ?

                  - “Có nhưng không biết có hay không” là sao ?

                  - Nghĩa là đúng lý thì đến trạm này các anh được lãnh gạo và muối. Có cả khô, mỡ và đường nữa.

                  - Trời đất, ngon vậy à ?

                  Tấn cười:

                  - Nhưng đó chỉ là “trên nguyên tắc” thôi ? Còn thực tế là một chuyện khác. Có khi nguyên tắc và thực tế chỏi ngược nhau !

                  Năm Cà Dom xách cái bi đông sang, ngồi cùng với chúng tôi và nói:

                  - Uống bậy miếng trà chơi cho ấm bụng… khà khà… khà, văn sĩ còn nhớ hai câu đối rất phổ biến ở ngoài Bắc không ?

                  - Đối Tết hay đối gì ?

                  - Đối dán ở câu lạc bộ ấy mà !

                  - Nhiều quá biết câu nào mà nhớ !

                  - Tôi muốn nói hai câu này: “Sáng sáng trụn lòng trà giả tạo, chiều chiều súc miệng rượu khoai lang !” Nhớ chưa nào ?

                  - Tôi còn nhớ mang máng thôi !

                  - Anh viết văn mà anh không nhớ câu đó à ? Vậy thì chết một cửa tứ rồi!

                  Năm lấy mấy cái nắp gà mèn rót trà ra và mời mọi người.

                  Tấn hỏi:

                  - Nhưng tôi thắc mắc quá !

                  - Thắc mắc gì ? Sáng trong rừng được một bình trà vậy mà còn bất mãn cái nỗi gì nữa chớ.

                  Tấn nâng cái nắp gà mèn trà lên và hỏi:

                  - Trà giả tạo là trà gì 1 Có phải trà này không ?

                  Năm hớp một ngụm và xua xua tay:

                  - Không ! Không đâu. Trà này là trà Chính Xuân chánh hiệu con nai chà. Trà ngon nhất miền Bắc đấy.

                  - Vậy trà giả tạo là trà gì ?

                  - Là trà không đúng là trà. . . nhưng đó là tôi nói chuyện uống trà hồi thời 1957-58-59 kìa.

                  Tôi biết Năm Cà Dom sắp nói chuyện linh tinh, nên tôi nhìn Năm và nháy mắt. Năm cũng nhận thấy cái nháy mắt của tôi nhưng Năm vẫn vui vẻ kể tiếp sau khi hớp cạn cái nắp gà mèn.

                  - Trà giả tạo là xác trà ướp nước cau khô !

                  - Hả, cái gì ? Tấn nhìn Năm Cà Dom, rất đỗi ngạc nhiên.

                  - Thì nó vậy thật đó, chớ hả hừ cái gì ?

                  Tấn hỏi:

                  - Nhưng tại sao như vậy chớ ?

                  - Thì không có đủ trà uống, phải làm cái kiểu đó chớ sao ?

                  - Vậy sao bảo ngoài Bắc sướng lắm. Không thiếu món gì ?

                  - Ai bảo?

                  Tấn lúng túng không biết là ai đã bảo Tấn như thế. Sự thực thì có ai bảo như vậy đâu. Nhất là những người từ miền Bắc về thì họ không bao giờ nói như thế!

                  Vậy đó chỉ là do tư tưởng tượng của Tấn mà thôi. Và đó là kết quả của sự tuyền truyền của đài Hà Nội.

                  Năm Cà Dom say sưa nói tiếp:

                  - Sở dĩ tôi biết cái trà này là do một sự tình cờ. Một hôm tôi vào một quán trà ở Hà Nội, tôi cùng một thằng bạn kêu một bình trà ba hào. Hủ ki đem ra cho tôi một gói trà, một bộ bình và chung, và một “phích” nước sôi.

                  - Phích là cái gì?

                  -Trời đất, cái phích mà cậu không biết là cái gì sao?

                  - Ai mà biết!

                  - Là cái bình đựng nước nóng hoài không nguội hiểu chưa ?

                  - À, cái bình “thỉ”!

                  - Bình thủy chớ bình thỉ gì !

                  - Sửa lưng tôi hả cha nội ! Cha đi khỏi xứ mười mấy năm bây giờ trở về nói tiếng gì đâu đâu mà còn sửa mũi mấn người ở lại bám gốc cây vườn nhà ?

                  - Cậu nói tôi mới nhớ ra rồi. Đúng là cái bình thủy. Đó mới đúng là tiếng nói của xứ mình. Ra Bắc, không hiểu tôi đã xài cái tiếng đó từ lúc nào, tôi cũng không hiểu nữa. Mà chính tôi không hiểu cái tiếng “phích” là cái nghĩa quái gì ? Năm Cà Dom tiếp: Đúng ra thì người ta kêu là cái “phuých”.

                  - Nhưng “phuých” thì nghĩa gì ?

                  - Tôi cũng không rõ nghĩa gì. Có khi ông nhà văn này giải đápđược cho chúng ta.

                  Tôi lắc đầu:

                  - Tôi cũng chịu thôi ? Có những tiếng mình xài mãi rồi thành thói quen theo ước lệ chớ không chính xác nữa. Ví dụ như tiếng “kẻng”. Anh đó ăn diện “kẻng” lắm. Kẻng nghĩa là gì ?

                  Năm Cà Dom nói:

                  - Đúng lắm ? Có những chữ mình dùng sai mà mình không biết. Nhưng cứ tạm cho cái “phích” của miền Bắc là cái bình thủy của miền Nam đi ! Cũng như ở ngoài Bắc mà kêu “cái ghe” là không có được đấy !

                  - Sụyt!

                  Tôi lại nháy Năm ý bảo có Thu ngồi bên cạnh. Năm Cà Dom trở lại câu chuyện vô quán trà:

                  - Được phục vụ đầy đủ rồi, tôi bèn cầm gói trà lên ngửi ngửi ! Ngửi khá mạnh, nhưng không thấy mùi hương chi cả. Đến chừng rót ra chung, nước đen xậm mà không bốc lên một tí hương trà. Thằng bạn tôi kêu lên ngay:

                  “Nước cau khô, nước cau khô!”

                  “Thật à?”

                  “Xem đó thì biết.”

                  Nếu gặp ông văn sĩ thì ổng có thể làm một bài phóng sự được, còn tôi thì chỉ kể tắt như thế này là sau khi xác trà đã phơi khô thì họ đem tẩm bằng nước cau khô, đem phơi, lại đem tẩm, rồi lại đem phơi vài lần nữa.

                  Thế cũng chưa xong, họ bỏ lên chảo rang cho dòn rồi trút vào hộp trong đó có một ít trà nguyên chất và hoa nhài. Độ một hôm thì họ lại sớt ra, gói đem bán cho khách. Đó, đại khái là trà giả tạo.

                  Tôi lắc đầu:

                  - Tôi ớn ông bác sĩ Cà Dom quá !

                  - Ớn gì?

                  - Cái gì ông cũng biết mà toàn là những chuyện không ai biết .

                  - Ừ’ đúng toàn những chuyện của lớp hạ tàng cơ sở không thôi. Nghĩa là tui ăn no, uống đậm, đi chậm làm việc chẳng ra cái nước mã gì cả.

                  Tấn lại hỏi:

                  - Còn rượu khoai lang ?

                  - Cái đó thì rõ ràng như tôi nói đó. Nghĩa là rượu nấu bằng khoai lang uống nhức đầu bỏ mẹ!

                  Tấn lại tỏ vẻ ngạc nhiên:

                  - Rượu nấu bằng khoai lang thì nấu làm sao kia chứ!

                  Năm chậm rãi rót trà và nói tiếp:

                  - Nhưng nấu với khoai lang hãy còn khá lắm ! Người ta nấu với cùi bắp kìa.

                  Tấn kêu lên:

                  - Nấu với bắp hả.

                  Năm Cà Dom gầm lên:

                  - Khờ… ông ! Nấu với cùi bắp, cùi bắp, cậu nghe chưa ?

                  - Thế à?

                  - Chớ sao !

                  - Cùi bắp mà nấu rượu là nấu làm sao ?

                  - Làm sao ai biết làm sao ?

                  - Uống có bổ khỏe gì, cái thứ rượu nấu bằng cùi bắp ?

                  - Dẫu có bề nào cũng chẳng làm chi. Làm chi cũng chằng làm chi. Dẫu có bề gì cũng chẳng làm sao !

                  Năm Có Dom nói xong, nhướng nhướng mắt nhìn mọi người. Cái bi đông trà của Năm Cà Dom trở nên đậm đà nhờ câu chuyện của chủ nó.

                  Tôi ngồi uống trà mà nghe chuyện rượu khoai lang của Năm Cà Dom bỗng nhiên tôi thấy thèm rượu, thèm một cách đột biến và gay gắt vô cùng.

                  Năm Cà Dom vẫn chưa buông tha cái tiết mục uống trà của anh. Năm Cà Dom nói:

                  - Cái nghệ thuật uống trà kể cũng hay hay. Có nhiều lúc chính trị bị người ta cho xen vào cái chuyện vui thú riêng tư ấy.

                  Ông Chín thấy Năm nói chuyện rào rào, vừa có duyên lại vừa không ai bắt bẻ được, nhất là Năm lại nói những chuyện mà ông Chín cho rằng “mất lập trường”, ông Chín muốn rỉ tai hoặc sửa lưng anh ta một cái, nhưng lối nào cũng không tiện cả, bởi vì xem cái tính khí của thằng cha bác sĩ này, nói là nói làm là làm không ai can được, cho nên ông già đành ngồi nghe cũng gật gù như cũng hưởng ứng cùng với những người khác.

                  Năm Cà Dom nói tiếp:

                  - Có một lần tôi đi xuống Hải Phòng, lại nhà một thằng bạn làm thuyền trưởng chơi. Nhằm ngày chủ nhật, cho nên bạn bè đến khá đông. Ở ngoài đó thì các bạn cũng biết rồi, thăng Nam Bộ ở chỗ nào cũng có bạn, hang cùng ngõ tận nào cũng tìm tới mà.

                  Cùng dòng máu dễ tìm nhau. – Năm Cà Dom hớp chung trà rồi vui vẻ tiếp- Bữa sáng nào cũng uống trà nhưng trà khá cái là không phải uống trà cau khô, mà trà thật nhờ có thằng mua chợ đen ở đâu đó được một nhúm.

                  Ông Chín gầm lên:

                  - Đồng chí nói láo bỏ hết sách vở. Ngoài Bắc có xưởng chè Phú Thọ, có cả trăm ngàn mẫu chè, uống không hết đem bán ra nước ngoài, làm gì có trà cau khô với trà chợ đen ? Mình là cán bộ, ăn phải coi nồi, ngồi phải coi hướng , trước khi nói phải uốn lưỡi ba lần. Đồng chí có làm như vậy không ? Có uốn lưới trước không ?

                  Năm Cà Dom cười. Tuy hơi quạu . nhưng Năm cố nén cơn giận xuống.

                  Năm Cà Dom nói:

                  - Dạ vâng, cháu biết rõ là mình có nhà máy chè Phú Thọ, có những đồi chè Phú Thọ rộng bạt ngàn… nhưng …

                  Ông Chín được thế cắt ngang:

                  - Đồng chí biết vậy mà còn ăn nói vậy thì thiệt là không biết uốn lưỡi trước khi nói.

                  Năm Cà Dom thấy ông già khăng khăng bắt “phốt” mình, nhưng chỉ trong một cuộc giao tranh luận về “phạm trù” lần ở ven suối Năm cũng đoán được cái tính của ông già, nên Năm vẫn vui vẻ:

                  - Thưa cụ cháu nói không cần đánh lưỡi, nhưng cháu nói cái gì cũng có cân tiểu ly cân đo cả, cháu là thầy thuốc mà, một chữ sai, một mi li khối sai cũng đủ giết người rồi, huống chi cả cái nhà máy mà cháu không biết.

                  - Tôi không nói với đám các anh nữa, các anh toàn kiếm chuyện không hay. . . Lập trường của các đồng chí để ở đâu kia chứ ?

                  - Ơ hay, ông Chín nói vậy, thì chuyện trà cau khô là chuyện không nên nói ra à? Vậy để cho cái bọn con buôn đó lột da mình à? Lấp trường của tôi ở chỗ là không để cho nó cho mình uống nước cau khô mà móc túi lấy giấy bạc cụ Hồ một cách ngang nhiên!

                  - Thôi tôi không nói với đồng chí nữa !

                  - Thì thôi. Tôi nói một mình tôi. Rồi Năm Cà Dom thản nhiên kể tiếp. Buổi sáng hôm đó, có bình trà ngon uống thiệt là đã vô cùng Vi lâu lâu mới có trà thiệt. Đang uống thì bỗng có một anh ba xạo tới. Anh ta không thân, nhưng nghe hơi trà thì xông vào chắt hết nước cốt uống rồi khen trà ngon nhưng lại bảo “trà mua chợ đen phạm chánh sách”.

                  Mẹ nó cái thằng vô duyên quá. Trà của người ta nhảy vô uống càn mà lại còn lên lớp người ta. Mấy cái thằng như vậy, không nhiều chớ phải lúc nhúc như giòi thì mình sống sao nổi. Đó là cái chuyện uống trà hồi thuở 1956, hồi cái xưởng chè Phú Thọ hãy còn nằm trong kế hoạch của Bộ Công nghiệp. Hồi đó khác bây giờ ông Chín ạ ! Cháu nói chuyện gì cũng có dẫn chứng cụ thể.

                  Năm Cà Dom lại tiếp:

                  - Nhưng bây giờ lại có chuyện bây giờ.

                  Ông Chín thấy như khỏe nhẹ vì Năm Cà Dom đã kể dứt chuyện uống trà, nhưng ông lại tức giận cho cái thằng cha bác sĩ Cà Dom này, không biết chuyện ở đâu mà nó cứ lôi ra lằng nhẳng như thế, ông Chín hỏi:

                  - Chuyện bây giờ là chuyện gì chớ ?

                  - Đâu có chuyện gì đâu ông Chín.

                  - Ờ đâu có chuyện gì đâu mà nói. -ông Chín tằng hắng một cách sảng khoái rồi tiếp – Bây giờ thì nhà máy chè của mình sản xuất đều đều. Trà của mình ngon nhất thế giới rồi phải không các đồng chí ? Mỗi cán bộ hàng tháng được mua hai người một gói.

                  Năm Cà Dom xen vô:

                  - Đó là cán bộ lèm nhèm. Còn cán bộ khá khá mỗi người ít nhất được một gói chứ ông Chín. Riêng các anh lớn thì tha hồ mua. . .

                  Ông Chín lại tỏ vẻ bất bình.

                  - Lại móc lò hả?

                  - Đúng thật chứ. Ai ở miền Bắc mà không công nhận như vậy Chính tôi đây tháng nào cũng chạy sấp chạy ngửa năn nỉ người này người nọ để xin phiếu mua trà. Tôi ghiền thuốc lẫn ghiền trà. Đó là hai nỗi khổ của tôi mà. Sao tôi quên được.

                  Trà tiêu chuẩn của tôi chỉ uống được sáu ấm. Đó là gói trà Chính Xuân phân ra thật đều. Uống nhín nhín thì được một ngày. . . Mẹ kiếp cái trà Tàu thiệt là gây cho mình nhiều khốn khổ.

                  - Ấy đã đồng chí lại mất lập trường nữa. Đồng chf thiệt lôi thôi quá ! Đồng chí không có học lớp chánh trị nào sao đồng chí.

                  - Không!

                  -Ít ra trước khi về Nam đồng chí cũng phải học một lớp ba tháng chớ. Có lý nào không ngơ.

                  - Có học nhưng tôi thích vác gạch đi bộ hơn là vô lớp ngồi như tượng gỗ. Vô ngồi mà bụng tưởng đâu đâu ! Nghe lỗ bên này qua lỗ bên kia ráo trơn.

                  - Vì thế đồng chí mới dễ mất lập trường !

                  - Mất gì đâu ông Chín!

                  - Trà Tàu ! Đồng chí nói là trà Tàu. Tiếng Tàu là cái tiếng của thời đế quốc nô lệ để lại cho mình. Nó là dấu vết của sự bất bình đẳng và mất đoàn kết.

                  Năm Cà Dom cười khè khè. Có lẽ Năm Cà Dom cũng biết lão già này quá gàn. Còn tôi thì tôi càng nực cười. Lúc nào cũng lắng tai nghe chung quanh xem có ai nói cái gì “mất lập trường” không ? Giống in như ông ta là cân tiểu ly chỉ để dùng trong cái việc độc nhất ấy vậy Cho nên tôi cứ để cho ông phân tích cái tiếng “trà’Tàu” nghe chơi.

                  Năm Cà Dom hỏi: .

                  - Theo ông thì ông nói là trà gì nào ?

                  - Tất nhiên là trà Trung Quốc.

                  - Vậy nếu trà đó sản xuất ở Đài Loan thì gọi là trà gì ?

                  Ông già hơi bí, nhưng lại tìm cách giải đáp:

                  - Đại khái là trà Quốc dân đảng.

                  - Vậy thì phải gọi trà Trung Quốc là trà Cộng sản mới cân xứng và rõ nghĩa hơn. Năm Cà Dom vui vẻ nói tiếp. Theo tôi thì trà Tàu hay trà Anh Quốc, trà gì gì cũng không có lập trường ở bông trà. Cũng như uống trà không có lập trường gì cả. Uống trà là một thú vui thế thôi !

                  Ông Chín nói:

                  - Nhưng mà không thể gọi là trà Tàu được !

                  Năm Cà Dom cười:

                  - Cái đó tùy. Ai muốn gọi gì thì gọi, còn tôi thì cứ “trà Tàu” !

                  - Hừm ! Đâu có được ! Phải thống nhất ý chí chớ ! Đồng chí nói ngang như cua vậy mà nghe được à ?

                  Tôi không ngờ ở đây lại cũng có một người kiêng cái tiếng “Tàu”. Tôi đã từng dùng tiếng “Tàu” và cũng đã từng bị sửa lưng một cách ngon lành như thế nhưng khác trường hợp này là trên giấy trắng mực đen.

                  Số là hồi thuở đó tôi làm ở Bộ biên tập báo Văn Học, tuần báo của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Miền Bắc. Tôi có viết một bài, trong đó tôi có dùng hai tiếng “truyện Tàu“. Ông thư ký tòa soạn gạch đít và ngoéo ra ngoài lề sửa lại là “truyện cổ Trung Quốc” khi bản thảo sắp đưa đi nhà in, tôi trông thấy việc “sửa” văn đó.

                  Tôi bèn lên gặp đồng chí thư ký tòa soạn. Ông bảo là chữ “Tàu” ở đây không ổn cho nên phải thay bằng chữ khác. Tôi nhận và cứ để in theo những chữ ngoài lề. Tôi nghĩ. Truyện Tàu là truyện Tàu chứ không phải là truyện cổ Trung Quốc. Vả lại Tàu và Trung Quốc là mấy thứ ? Chằng có lẽ “Tàu” là Đài Loan còn Trung Quốc là Trung Hoa lục địa.

                  Hơn nữa, là một người cầm bút, tôi có sự suy nghĩ và có tình cảm của tôi khi tôi ngồi trước trang giấy. Cho nên khi tôi viết hai tiếng “truyện Tàu” là tôi nghĩ ngay đến những quyền truyện với những cái góc cuốn tròn, nhũng trang rách mướp và đẫm mồ hôi, với những hàng chứ lu mờ chỉ vừa đủ trông thấy và với những cái nẹp tre vàng thô kệch cũng cũ nát cặp ở lưng sách.

                  Tôi nghĩ đền những cặp mắt kính yếu nom vào những dòng chứ kê sát bên chiếc đèn dầu hỏa mập mờ với giọng đọc ê a ngập ngừng, với những thính giả nằm im lắng nghe, hưởng ứng từng đoạn truyện với những tình tiết vui buồn mà khóc mà cười với nhân vật trong truyện. Tôi nghĩ đến ông tôi, đầu bạc phơ nằm lim dim trên bộ ván gõ lắng nghe đứa cháu đọc và đến một ..trang đã được đánh dấu trước thì sẽ đưa thưởng cho nó một đồng nửa xu.

                  Tôi nghĩ tới tôi, cậu bé nằm sấp trên đầu ván đọc mà bụng ..nghĩ tới những cuộc vui chơi rộn rực ngoài kia của chúng bạn, vì thế cho nên hễ thấy ông có vẻ ngủ thì lập tức đọc nhảy trang để mau hoàn thành nghĩa vụ, lãnh thưởng và vọt đi chơi ngay. . .

                  Ấy đó khi tôi viết hai tiếng “truyện Tàu” thì tôi nghĩ đến bao nhiêu việc , bấy nhiêu người đó, và tình cảm của tôi quyện lấy ý nghĩ đó trộn vào máu tim tôi mà chảy xuống ngòi bút nên hai chữ đó. Và đó, nói theo trong nghề văn là sáng tạo. Mà trong văn học nghệ thuật thì sự sáng tạo lớn nhất là thuộc về cá nhân chứ không phải thuộc về tập thể. Ngay như tiếng “Nga” và “Liên Xô” cũng vậy.

                  Hay tiếng “Pháp“, “Tây“, “Lang Sa” cũng vậy nốt. Phải biết dùng nó cho đúng chỗ, chứ không nên lệ thuộc vào tình cảm chủ quan mà bắt người khác sửa theo mình.

                  Ấy vậy, mà cái anh thư ký tòa soạn vốn là một nhà thơ không làm đến ba câu thợ, đã ngang nhiên chữa văn của một người khác như một ông thầy lớp dự bị chữa lỗi “đích tê” cho cậu học trò đầu trọc .

                  Tôi không phản đối, nhưng tôi không chấp nhận. Đó là vấn đề. Và hôm nay gặp ông bác sĩ Năm Cà Dom người cũng bị “quy kết” như tôi cho nên tôi mới nói ra.

                  Mà quả thật, Năm Cà Dom cũng như tôi, anh ta không chịu thua ông già lập trường. Năm Cà Dom nói:

                  - Ông Chín ạ!

                  -Có tôi !

                  - Cháu hỏi thật ông Chín nhé !

                  - Cứ hỏi, tôi sẵn sàng đáp lại.

                  - Cháu xin hỏi ông Chín, là một năm ông Chín sửa lưng những người khác chừng độ mấy lần, như vừa sửa lưng tôi đây ?

                  Ông Chín không nổi cáu được mà vui vẻ.

                  - Có nhiều, sửa nhiều, có ít sửa ít.

                  - Nếu như người ta cãi lại ông thì ông làm sao ?

                  Ông Chín cười, cái cười tự tin rằng không ai cãi thắng mình, ông Chín nói:

                  - Thì đồng chí cứ cãi thử xem.

                  Năm Cà Dom đứng dậy và nói:

                  - Xin lỗi các đồng chí, tôi ra ngoài một chút.

                  Tôi thì thích thú vì thấy trận đấu sắp nổ ra vui vẻ, còn Thu thì càng thích thú hơn vì thấy rằng trên trận tuyến chống ông già gân, mình có thềm đồng minh tích cực (Thu đã cãi nhau với ông Chín nảy lửa cũng vì “lập trường“) .

                  Năm Cà Dom trở lại với điếu thuốc trên môi, trông gương mặt của Năm phấn chấn hằn lên.

                  Năm ngồi vào chỗ cũ và nói ngay:

                  - Đây, vấn đề của tôi, tức bác sĩ Năm Cà Dom nêu ra như thế này. Tôi đồng ý với ông Chín rằng Truyện Tàu phải sửa lại kêu bằng Truyện Cổ Trung Quốc như anh bạn đây vừa nêu. Và Trà Tàu cũng phải sửa lại là Trà Trung Quốc, ví dụ như Trung Quốc Kỳ Chưởng… Nhưng có những chỗ chữ Trung Quốc không thay được chữ Tàu, mà nếu cố gắn bừa chữ này vào chữ kia thì thành ra thất chánh trị !

                  - Ví dụ ! Ví dụ xem ! ông Chín thách thức.

                  Năm gạt nhẹ cái tàn thuốc vào cạnh hòn đá và nói:

                  - Ví dụ như ghẻ Tàu !

                  Mọi người ngả ngửa, nhảy dựng lên mà cười như ở dưới đít và ở trước ngực có gắn lò xo bị bấm nút bật tung ra, làm cho ông Chín như người bị tấn công bằng võ lực thật sự.

                  - Cái gì mà cười dữ vậy t Cứ đơn cử ví dụ xem sao nào

                  - Ví dụ như ghẻ Tàu là ghẻ Tàu chứ không thể kêu là ghẻ Cổ Trung Quốc được !

                  Ông Chín lúng túng, không biết quơ quào câu đáp ở đâu. Năm Cà Dom lại tiếp tục pha trò:

                  - Đứng về mặt y học mà nói thì ghẻ Tàu là một thứ ghẻ vô cùng lợi hại, rất nguy hiểm khè khè. . . trong các thứ ghẻ có vi trùng Sta phi lô cốc, gô nô cốc…, (Năm nếu hai ba thứ vi trùng “cốc, cốc” gì nữa tôi không nhớ hết) .

                  Một anh bạn nhạy miếng tiếp ứng ngay:

                  - Ba-xi-đờ-cốc!

                  - Không phải đâu. Năm Cà Dom tiếp. Đấy trong trường hợp đó mà thay cho “Tàu” bằng chứ “Trung quốc Cổ ” thì nguy hiểm vô cùng ông Chín nghĩ sao !

                  Ông Chín lắc đầu. Mồ hôi rịn ra ở từng nếp nhăn trên trán lão già lập trường.

                  Lão cố chống đỡ miễn cường:

                  - Tôi không biết y học, tôi chỉ biết cái tiếng “Tàu” là cái tiếng của thời nô lệ. Ở chế độ tốt đẹp của ta không thể để cho nó tồn tại được.

                  Tôi chen vào:

                  - Thế thì đem nó bỏ vào chặng đường vắt này cho vắt cắn nó toi mạng đi ! .

                  Mỗi người góp vào một câu, nhưng vì đối tượng chính là ông Chín, mà ông Chín lại xụi lơ cán cuốc rồi, cho nên ý kiến của ai nấy đều trở thành những quả đấm nện vào không khí cho nên câu chuyện cũng nhạt dần theo cái bi đông trà của Năm Cà Dom đã châm nước sôi đến lần thứ mười tám.

                  Và mục đích của thiên hạ đến đây cũng đều để một là uống trà, hai là tán chuyện. Mà trà thì đã nhạt, chuyện lại càng nhạt hơn, cho nên ai nấy đều từ từ rút lui có trật tự. Còn tôi thì đi về võng nằm nói chuyện với Năm Cà Dom. Võng của hai đứa mắc giao đầu với nhau. Chả là cái con người của Năm cũng hợp với tôi mà !

                  Vừa mắc bi đông lên đầu võng, Năm đã nói ngay:

                  - Tôi chắc ông văn sĩ chê tôi kém xã giao lắm phải không ?

                  - Sao?

                  - Còn sao nữa, văn sĩ mà đóng kịch cũng tài thế à ?

                  - Thật mà ! Công bình mà nói thì không biết toàn bộ con người cậu như thế nào, chứ còn từ lúc gặp tới giờ thấy có nhiều cử chỉ tốt có “tính chất lương tâm nhà nghề”. Đặc biệt trong lúc này mà còn dám mời thiên hạ uống một bi đông trà Chính Xuân thì thiệt là “một con người không phải như những người khác”.

                  - Thôi mà, tô vẽ mãi.

                  - Thiệt mà. Còn cái việc cậu lội suối băng bó cho tụi nó.

                  Câu chuyện giữa tôi và Năm Cà Dom còn đang tương đối vui vẻ thì giao liên tới gọi đi lãnh gạo.


                  Hết Chương 9 - Xem Tiếp Chương 10
                  sigpic

                  Comment


                  • #10
                    Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                    Chương 10


                    Trời đất ! Giữa lúc cái ruột tượng cũng như cái bao tử của mình sắp thủng ra rồi mà lại được đi lãnh gạo thì chằng khác nào chiêm bao. Tôi tưởng đâu là ai nói láo. Nhưng sự thật là cậu Tấn đang đứng tước mặt tôi đập đập đầu võng và nói:

                    - Đi! Đi ! Có gạo rồi.

                    Tôi đưa mắt nhìn quanh tôi. Lúc nhúc, lô nhô, loi nhoi trên những cái võng, những sinh vật bắt đầu ngóc dậy, nghển lên như những chú tằm đang ửng bụng trong nong mà nghe hơi dâu phất qua. Tôi nhìn sang ông Chín, thấy ông đang sửa soạn ruột tượng.

                    Tôi nói:

                    - Phen này là hết lo rách bao tử rồi ông Chín ơi !

                    - Sao, cái gì mà rách bao tử?

                    - Không rách thì thủng.

                    - Các đồng chí toàn nói chuyện bi quan.

                    - Có gạo rồi, thôi bây giờ lạc quan. Năm Cà Dom cười ré lên và rứt những chú vắt vứt đi. Lạc quan nè, lạc quan nè, một, hai, ba. . . hé hé hé ! Thế đó lạc quan chưa ?

                    Ông Chín không đáp. Nhưng Năm Cà Dom lại muốn gợi chuyện. Năm Cà Dom nói:

                    - Nhưng mà lội qua khỏi khúc đường vừa rồi chắc chắn có đứa bị ghẻ Tàu. Bởi vì vắt cắn chảy máu. Rồi vi trùng đột nhập vào. Cha chả ở trên con đường hắc xì dầu này mà bị một mụn ghẻ Tàu thì khổ sống lắm. Nó khoét tới xương.

                    Tấn giục:

                    - Thôi đi ! đi ! Người ta đi ào ào rồi kia kìa. .

                    - Đi thì đi. Nói vậy nhưng tôi trông thấy Thu vẫn ngồi ỳ trên võng .

                    Thu sịt mũi. Đôi mắt Thu đỏ hoe. Khổ quá. Lúc nào cũng có thể khóc, Thu tưởng như khóc để trút hết mọi nỗi niềm. Cho nên hễ khi đau khổ, bực tức, Thu đều khóc. Bây giờ được tin có gạo và chuẩn bị lãnh gạo, Thu cũng khóc.

                    Tôi biết Thu khóc không phải vì sung sướng mà vì không đi được. Cơn đau suốt mấy ngày qua của Thu kéo lê trong mưa và dầm dưới nước bây giờ trở nên trầm trọng. Thu sốt, nhưng không phải sốt rét. Ở giữa chốn này mà sốt như vậy, biết lấy gì mà trị ?

                    Tôi bảo Thu:

                    - Em đưa ruột tượng đây anh đi lãnh gạo cho. Em ở nhà coi ba lô cho anh và anh Năm.

                    Thu nhìn tôi với cặp mắt van lơn, phó thác, và tuyệt vọng.

                    Tôi và Năm Cà Dom vắt ruột tượng trên mỗi vai một cái, lòng thòng phía trước, lòng thòng phía sau. Năm vừa đi vừa hỏi tôi:

                    - Cậu có nghe ống chân cậu như thế nào không ?

                    - Ngứa.

                    - Xem tớ đây này. ..

                    Tôi nhìn cặp chân của ông bác sĩ Cà Dom tuy đã gầy đi nhiều nhưng vẫn còn dáng dấp khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Trên làn da vàng sậm những vết đỏ bầm nổi lên và những làn trầy sướt vì móng tay quàu. Năm Cà Dom nói:

                    - Cái lá mục ở rừng này độc thật.

                    Chúng tôi đi lẫn trong các dãy người nối đuôi nhau như kiến từ trong rừng đổ ra con đường mòn càng lúc càng đông hợp thành một chuỗi người càng lúc càng dài và càng dày.

                    Người ở đâu mà đông thế. Té ra vì kẹt đường mà họ bị dồn cục lại ở đây chờ lãnh gạo. Gạo ở đâu mà phát cho đủ kia chứ ? Gạo ở đây tải từng kí lô, bằng vai, bằng xe thồ xe ba gác thì lấy đâu được nhiều ?

                    Tôi đi, không cần hỏi đường, cứ lầm lũi đi như cái wagon xe lửa, cái trước lăn thì cái sau cũng lăn theo. Vì vậy cho nên hễ người kéo ngọn đi không kịp giao liên thì cả đoàn ở phía sau bị lạc hết.

                    Có lần tôi suýt bị thiên hạ đánh vì tôi làm “đứt đuôi” không bám kịp người đi phía trước, cho nên đến ngã ba, thay vì rẽ vào ngả này, tôi lại rẽ vào ngả kia đi mãi, giao liên ở phía trước chờ không thấy đoàn tới bèn quay trở lại mới hay tôi đưa khúc sau vào tử địa.

                    Nhưng ở đây thì không sao, đường lên kho gạo chỉ hai tiếng đồng hồ thôi. Có lần tôi đã đi mất một ngày để lãnh mười sáu kí lô gạo, sáu giờ sáng đi, năm giờ chiều mới về tới nơi. Mệt hơn lần này nhiều.

                    Lần này chúng tôi phải qua mấy con suối, leo một cái dốc đứng mất bốn mươi lăm phút, xuống hết cái dốc đó, rồi đi ngang một chập nữa thì thấy có người vác những cái ruột tượng căng rướn đi ngược chiều chúng tôi.

                    Thì tôi biết rằng mình còn cách sống được.

                    Kho gạo lợp toàn ni lông xanh, nóc đứng như nóc nhà người Thượng nhô lên trong những hàng cây rừng, và tiếng người rào rào như ong vỡ tổ Thấy đó nghe đó nhưng đi tới thì hãy còn khướt.

                    Cái dốc cuối cùng là cái dốc cao nhất. Nhưng rồi cũng đến nơi. Một quang cảnh lạ bày ra trước mắt tôi.

                    Người ta ngồi la hệt dưới đất, trên rễ cây. Đất nhẵn như nền nhà. Một con voi to sầm đứng bên một ngôi nhà đang vung vít cái vòi. Mấy người đứng xa chỉ chỏ ngắm nghía nó.

                    Tôi có cảm tưởng là tất cả miền Bắc đã kéo hết vào đây. Vậy mà gạo đào đâu ăn cho đủ ? Chỉ khổ thân con voi to tát kia, và mấy chiếc xe ba gác chõng gọng kêu trời không thấu đó.

                    Người ta đang bu lại phía kho gạo, vây quanh những bao gạo có lẽ vừa mới được chở tới.

                    Tôi đi về phía đó và cố đi rấn ra đằng sau một chút để tìm xem bằng con đường nào mà xe tải gạo tới đây như vậy. Thì có người quát:

                    - Đi đâu đó, muốn chết hả. Nè, thằng cha kia !

                    Tôi quay sang thì quả thật người ta đang la tôi:

                    - Trở lui lại không ? Vô kỷ luật !

                    Trước sự sừng sộ quá đáng của một đức ông sơn lâm chúa tể nào đó, nhà văn Xuân Vũ bèn ngó dáo dác, tuy biết rằng kẻ bị la là mình mà vẫn làm ra vẻ là không phải mình cho đỡ ngượng. Nhưng cũng chưa hết. Cái giọng kia lại quát tháo tiếp:

                    - Dòm dòm cái gì, muốn đi Bà Rá hả ? Lộn xộn hoài. Tôi bảo ngồi đâu ngồi đó rồi tôi phát gạo cho mà ăn. Tôi quạu là tôi bỏ đói nhăn răng hết.

                    Tôi quay trở lại và suy nghĩ:

                    - Cái gì mà ghê gớm dữ vậy. Mẹ nó, trên đường này sao mình bị người ta nói nặng nói nhẹ luôn vậy. Thằng nào cũng chửi được mình cả.

                    - Ê! ê! ông bạn!

                    Tôi quay lại nhìn vào một đám đông đang ngồi trên một hòn đá to. Có tiếng cười rộ lên. Đúng là họ cười tôi đang ngơ ngác.

                    - Đây này ! đây này !

                    Tôi nhìn thằng vào chỗ có tiếng nói đang phát ra. Một anh chàng gầy nhom với bộ mặt xương và đôi mắt to tròn nhấp nháy dưới một cái nền tóc trắng xóa ! Anh này cười:

                    - Không nhận ra à ?

                    - Ai đâu…

                    - Tôi đây này.

                    Tôi đi đến gần và lại ngơ ngác:

                    - Xin lỗi, tôi quên rồi.

                    - Nhìn kỹ lại xem.

                    - Ai vậy cà ? Tôi vừa nói vừa đi đến chỗ anh ta ngồi và càng chăm chú nhìn vào khuôn mặt ấy.

                    - Dân Lam Sơn đây mà !

                    Phải rồi !

                    Lam Sơn là một kỷ niệm đối với tôi. Nhưng trong cái kỷ niệm đó có hàng trăm mảnh kết thành hợp lại, làm sao tôi nhớ cái mái đầu bạc kia là mảnh nào ?

                    Làm sao tôi nhớ được trong cái vùng xanh bạt ngàn của núi rừng rét buốt ở phfa tây của tỉnh Thanh Hóa đó, mái tóc bạc kia tên gì?

                    Anh chàng đầu bạc lại cười và vò vò mái tóc.

                    - Đi đào gốc lim hoài mà quên à ? Trông cái đầu này không nhớ hay sao ?

                    Quả tình tôi không nhớ. Hình như từ sau cơn sốt đến nay trí nhớ của tôi sút hẳn đi.

                    - Hoa đầu bạc đây này ? Hoa đầu bạc đội trưởng móc gốc lim C2 nông trường Lam Sơn sư đoàn 330 đây nhớ chưa ?

                    - À trời đất ơi ? Tôi nhảy tới vồ lấy anh chàng tự xưng là Hoa đầu bạc và đấm thùm thụp vào lưng anh ta. Cũng đi đây nữa sao ?

                    - Cũng đi chớ sao không đi ?

                    - Tôi tưởng các cha chết hết lúc đào gốc lim rồi sang thời kỳ mắc gốc su hào rau muống ngoài đó chớ.

                    - Mắc cũng ráng gỡ mà đi. Cơ hội này không “về nước” thì chờ cơ hội nào bây giờ.

                    Tôi ngồi lại bên cạnh Hoa đầu bạc.

                    Đúng là một trong những người bạn có liên quan mật thiết trong cuộc đời viết văn của tôi. Lúc đó vào khoảng năm 1958, tôi lên nông tường Lam Sơn để lao động thực tế.

                    Đó là đợt lao động thực tế lớn nhất có lãnh đạo từ Trung ương.Tôi buồn quá, tuy không có dính gì tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm nhưng không muốn ở Hà Nội. Cho nên tôi mới lựa các nông trường thật xa xôi mà đi cho yên ổn tâm thần.

                    Tôi vào cuốc đất ở đơn vị của Hoa tám tháng, mỗi ngày có chấm công ghi điểm, mỗi tuần có tổng kết, mỗi tháng có báo cáo về Hà Nội. Nhờ vậy tôi quen với rất nhiều cán bộ quân sự trong đó có Hoa đầu bạc.

                    Hoa ít tuổi hơn tôi nhưng tóc Hoa bạc sớm quá. Hồi đó tóc Hoa bạc mới phân nửa, còn bây giờ thì hoàn toàn một màu trắng xóa như bọt muối. Hồi đó anh em gọi là “ép em” đầu bạc hay Hoa đầu bạc.

                    Nói chi tới bây giờ, tóc Hoa không còn sợi nào đen để mà bạc nữa. Hoa nhìn tôi và cười, cười rồi lại nhìn tôi, không nói.

                    Tôi hỏl.

                    - Gì mà cười hoài thế?

                    - Coi anh tức cười quá.

                    - Tôi kỳ cục lắm sao?

                    - Không phải anh kỳ cục nhưng cái sự anh đi về Nam nó kỳ cục.

                    -Như thế nào?

                    - Mấy cha mà về trong đó làm chi, chạy mệt lắm !

                    - Có võ có văn chớ.

                    - Văng xương thì có.

                    - Thì xưa nay vẫn thế mà.

                    Hoa vui vẻ:

                    - Cái nghề của tôi là cái nghề đánh đá, chỗ nào khua dao động thớt là người ta gởi tụi tui tới ngay. Đó, hồi đó tôi nhớ tôi nói một câu mà anh cười ngất. Bữa nhậu thịt heo rừng ở ngoài gốc khế, anh nhớ không ?

                    - Anh nói gì ?

                    - Cái gì anh cũng quên được cả.

                    - Lâu quá mà!

                    - Tôi nói là hòa bình thì tôi về vườn cuốc đất trồng khoai. Chừng chiến tranh nổ ra thì Hoa này xin một chưn.

                    - Bây giờ thì xin một chưn rồi hả ?

                    - Phì ! Xin luôn hai chưn ! ..

                    - Nhưng mấy cơn rồi?

                    - Cơn gì?

                    - Sốt!

                    - Cái đó thì kể không hết. Sốt của tôi không còn cơn nữa.

                    - Sao vậy ?

                    - Nó cứ liên miên, ngay bây giờ cũng đang sốt. Đáng lẽ phải nằm, nhưng nằm thì gạo đâu chạy về với mình. Cho nên phải bò

                    - Có ai quen đi nữa không ?

                    - Thiếu gì.

                    - Đâu hết rồi ?

                    - Tụi nó đi trước cả rồi. Chỉ mình sốt nên lọt lại sau đây.

                    - Mình cũng vậy.

                    Tôi lôi Hoa đi ra một góc và tìm chỗ, hai đứa cùng ngồi tâm sự Tôi hởi ngay:

                    - Anh biết đến đây là đâu không ?

                    - Mẹ tôi cũng không biết nổi.

                    - Ủa quân sự sao mà nói vậy ?

                    - Quân cái nước mã gì. Mù tịt. Vô đẩy chỗ nào như chỗ ấy. Đố ai moi cho ra một tên núi tên suối.

                    - Theo anh ức đoán thì còn bao xa nữa ?

                    - Độ hai phần ba đường !

                    - Hả ! Anh nói sao ?

                    - Mình đi mới một phần ba thôi cha non.

                    - Trời đất !

                    - Cái gì mà trời với đất. Tôi đoán chừng đây mới là đến khu sáu thôi, có khi chưa tới nữa là khác. Có phải tụi về khu năm mới vừa tách khỏi tụi mình độ nửa tháng đường không ?

                    - Hơn tháng chứ!

                    - Hơn tháng là vì anh kề cả ngày đau nằm ỳ lại, chứ đi thì chỉ mất nửa tháng thôi.

                    - Vậy à!

                    - Chớ sao!

                    - Còn xa thế à ? Vậy tôi tưởng là ít ra mình cũng đã đi được nửa đường rồi chớ.

                    - Chưa đâu, còn lâu lắm !

                    - Sức khỏe đâu nữa mà đi.

                    - Bồi dưỡng bằng nước suối, bằng lá bép.

                    - Lá bép là gì?

                    - Là lá bép.

                    - Nó ra làm sao ?

                    - Như lá sộp vậy. Cũng láng láng, ăn sống không được, nấu canh ăn nghe béo béo. Hoa đầu bạc tiếp. Ơ vùng này có một tiểu đoàn ăn lá bép ròng sáu tháng thay bắp.

                    - Chớ không phải thay cơm à ?

                    - Không có cơm. Đây là trạm cuối cùng mình được lãnh gạo. Rồi từ đây trở đi khi bắp khi lúa.

                    - Trời đất ! Nói thiệt chơi ?

                    - Tôi đâu nói chơi làm gì 7 Tôi đến đây nằm đã mấy ngày rồi tôi nghe người ta nói mà: Khà khà ! Kể cũng vui. Chớ sao ! Hồi ra đi thì ba ngày, lúc trở về thì ba tháng. Khà khà, bây giờ tôi mới biết là đi tàu mau tới hơn đi bộ. Khà khà…

                    Anh coi hai cái bánh chè của tôi này, đi có ngày nó sẽ rớt ra và lăn lộc cộc trên đá như những trái bả đậu cho mà coi.

                    Tôi thở dài. Hoa đầu bạc nói tiếp:

                    - Nhưng thôi cũng là may, vì mình có ngày về nước, còn hơn khối đứa dính gốc rau muống su hào ngoài đó đời đời kiếp kiếp không có tài nào về nước được nữa ?

                    Tôi đặc biệt chú ý tới cách dùng chữ của nhà quân sự nhất là hai tiếng “về nước“. Lần trước, tôi có gặp hai cán bộ quân sự đi công tác bảo vệ hành lang ở Trung Lào, cũng dùng hai tiếng “về nước” một cách mỉa mai như vậy.

                    Nhưng dù mỉa mai mà nó đúng thật, đúng thật, đúng về mặt tình cảm cả về mặt công pháp quốc tế, lẫn về mặt địa dư. Thực ra Việt Nam đã chia thành hai nước rõ rệt có ranh giới và có hai linh hồn khác hằn nhau, mỗi cái ngự trị trong một thể xác hoàn toàn khác nhau !

                    Người từ phương Bắc đi vào phương Nam bây giờ đâu phải như trước 1954 nữa. Bây giờ từ Bắc vào Nam có ý nghĩa chính trị từ một nước sang một nước khác.

                    Có lẽ những anh bộ đội nằm đêm cay đắng nhiều nỗi lắm cho nên mới nghĩ ra và xài cái danh từ “về nước” chua chát này.

                    Tôi hỏi Hoa:

                    - Bây giờ lên lon gì rồi ?

                    - Lon gì. Hồi cải cách mình là trung đội trưởng. 1958 phong quân hàm xong, mình lãnh thiếu úy, bây giờ về Nam thiên hạ hứa đề bạt mình lên một sao nghĩa là hai sao gạch đít nhưng phải vô tới nơi và phải tốt kìa.

                    -Vậy thì có lên gì đâu.

                    - Lên chớ, lên trời.

                    - Mười hai năm mà không lên nổi một bậc à ?

                    - Còn lâu. Trong cải cách ruộng đất không tụt xuống là may chớ còn lên đâu nữa ?

                    Có người ngoắc:

                    - Vô lãnh gạo!

                    Tức thời tôi và Hoa như cái lò xo bật lên, tay quờ quạng chụp lấy ruột tượng và mạnh thằng nào thằng ấy chạy ào ào không cần nghĩ tới chuyện chia tay từ giã chi nữa.

                    Thế là tôi đến kho gạo. Người ta như kiến cỏ.

                    Tôi không chen vào nổi. Tôi đứng nhón chân nhìn qua vai mọi người nhưng cũng không trông thấy gì. Mồ hôi từ những tấm lưng những bộ áo, những mái tóc bốc lên chua lòm.

                    Tôi đành lui ra ngoài đứng chờ, không hy vọng lãnh được gạo trước ba giờ chiều.

                    Tôi quay ra nhìn con voi cho đỡ sốt ruột.

                    Chú voi to ghê quá. Có lẽ nó là của một vị hoàng thân quốc thích nào từ triều Quang Trung, nó đã từng chở lương thực hay đã làm chân cho một ông tướng thời ấy.

                    Một vành tai nó bị rách tua ra thành nhiều mảnh và nó chỉ còn có một cái ngà. Nhất voi một ngà, nhì người ta một mắt.

                    Những dấu vết vừa kể có thể chứng minh thêm tính nết và chiến công của nó.

                    Trông nó hiền lành cục mịch , chậm chạp , khờ khạo nữa là đằng khác Nó đứng sầm sầm như một quả núi con con, chỉ có cái vòi nhúc nhích đong đưa, còn toàn thân mốc cời đứng im như một màu đá rêu mốc, thỉnh thoảng tấm da của nó mới run run lên để xua đuổi ruồi muỗi.

                    Hoa đầu bạc ngoắc ngoắc tôi:

                    - Vô đi, vô kẻo hết.

                    Tôi cứ ngơ ngác không chịu vô. Hoa quát:

                    - Đã bảo vô mà cứ lừng khừng ở đó hoài vậy ? Muốn chết đói hả ? Trời đất ! Ở Hà Nội ăn phở xếp hàng, người ta không lấn, chớ ở đây không lấn thì không có lãnh gạo được đâu mà.

                    Sự thực ra, không phải là tôi không biết chen lấn. Nhưng nếu chen lấn tương đối khỏe như xếp hàng mua thịt hay mua hàng ở mậu dịch, chen lấn mà còn giữ được cái thể thống cái mặt mũi mình kìa, thì tôi cũng không ngại, còn đằng này thì chen như nêm, như cửi lên nhau thì tôi không có đủ sức khỏe.

                    Nói thì mang tội, chứ nó chẳng khác nào một bầy vịt quá đông mà cái tô lúa quá bé.

                    Người phát gạo đứng trên sàn nhà, vừa quát tháo vừa vung tay đá chân. Tôi chỉ nghe la chớ không rõ anh ta nói cái gì. Chân anh ta dang ra thỉnh thoảng một chân đá hất một cái ruột tượng chìa vào Có lẽ anh ta không biết phải phát cho ai khi mà trước mặt anh ta có vô số ruột tượng và giấy giới thiệu chìa tới quơ quơ, ai cũng quơ thật mạnh để lôi kéo sự chú ý của anh ta.

                    Nên nhớ rằng trong sổ giấy giới thiệu có cả những tấm giấy giả. Trên đường Trường Sơn này đâu có giấy tờ gì cho ra hồn ? Ai muốn viết cũng được Tên đoàn đâu có gọi đúng sự thực, toàn những tên giả mạo A3, Kqt, BCS, A6, v.v… !

                    Cho nên ai muốn viết cho mình cái giấy giới thiệu gì cũng khó có ai kiểm soát cho ra nhẽ. Nhất là lại không có mộc mẹo chi cả. Cho nên anh quản kho không muốn nhận cái giấy nào mà anh ta cứ xem xem mặt một chút rồi độp một cái anh ta bảo:

                    - Anh kia kìaa, đưa ruột tượng đây !

                    Thế là cái anh nào được trỏ vào mặt một cách hết sức vô lễ đó, ngày thường thì có thể đánh nhau vì cái sự trỏ mặt người ta đó, nhưng ở đây thì người bị trỏ mặt lại rất lấy làm hân hạnh sung sướng, nghênh cái mặt lên và chìa ruột tượng ra để nhận… gạo !

                    Tôi đứng lùi ra xa và mặc cho người ta lướt qua trước mặt. Ở phía sau tôi còn mấy cô phụ nữ.

                    Tôi giật mình đánh thót một cái như bị ong chích. Sao lại có một cô ngộ nghĩnh giống như đầm lai thế kia ? Cô ta mặc áo bà ba đen, tóc hai bên thái dương hơi xoăn và chót mũi nhọn hơi hếch lên như mũi hia giống như mũi các cô đầm Tây.

                    Cô ta đứng bên cạnh một cô nữa . Trời xui chi có sự tương phản chua xót làm vậy ? Cô kia đứng bên cạnh cô tóc xoăn chi để làm cho cô tóc xoăn nổi bật thêm lên.

                    Đáng lý ra tôi lê chân tới một chút để cho gần cái lý tưởng lúc bấy giờ là gạo của tôi hơn, nhưng dường như có cái gì đang níu kéo ở phía sau tôi nên tôi cứ đứng lý ra đó với tất cả bình tĩnh của một gã giang hồ cao thượng không thèm đếm xỉa tới cái sự vật chất tầm thường kia, chẳng ngờ trong lòng trái tim đã rung rinh rồi.

                    Năm Cà Dom đã lãnh gạo, hai vai anh ta vác hai cái ruột tượng căng ườn như hai con trăn vĩ đại của gánh hát xiếc Tạ Duy Hiển. Mồ hôi từ trên trán trên cổ chạy xuống có dọc ướt cả ngực, cả vai anh ta. Anh ta vừa đi vừa thở hổn hển.

                    Trông thấy tôi đứng im, anh ta quát:

                    - Đi vô mau đi ! Không hết đấy.

                    Tôi lắc đầu:

                    - Vô gì được mà vô.

                    - Gạo tốt lắm, không có mục như kỳ rồi. Vô mau đi.

                    Tôi vẫn đứng im Năm Cà Dom sốt ruột:

                    - Vô đi kẻo hết.

                    - Đông quá chen ngả nào ?

                    - Thì phải chen mới vô được chứ đứng đó mà chờ người ta dâng cho hai tay à ?

                    - Thong thả đã !

                    Năm Cà Dom ngó dáo dác, rồi bảo:

                    - Thôi, giữ đây này t Đưa ruột tượng đây. Chán cha nội quá. Lúc nào cũng mơ mộng như trên cung trăng rớt xuống vậy.

                    Tôi không ngờ được lòng tốt của anh Năm Cà Dom tới như thế. Ai trong lúc này lại hảo tâm với một thằng mới quen (mà quen trên đường Trường Sơn) đến thế. Lãnh được gạo là người ta ba chân bốn cẳng chạy về ngay để nấu ăn chớ. Gánh làm gì công việc của người khác ?

                    Năm Cà Dom quàng cặp ruột tượng vĩ đại lên vai tôi và bảo:

                    - Coi chừng cho kỹ nhé. Mười bảy ngày sắp tới đây không có phát nữa đấy.

                    - Nghĩa là sao ? -Tôi nghe lùng bùng hai lỗ tai và hỏi – Nghĩa là không có phát gạo trong vòng…

                    - Mười bảy ngày tới đây, hiểu chưa ? Qua ngày thứ mười tám mới có phát. Mà cái đó thiên lôi nó tin chớ ai mà tin cho được ?

                    Tôi nghe mà hết vía. Mang mười bảy lít gạo trên người tức là năm mươi mốt lợn sữa bò gạo thì ít ra cũng mười kí lô. Chết còn sướng hơn, làm thế nào mà mang. Năm Cà Dom chạy phốc đi rồi quay lại bảo:

                    - Có một cái ruột tượng thì làm sao lãnh cho hết gạo ?

                    - Làm sao bây giờ ? Tôi đâu có dè.

                    - Cha nội thiệt, cái gì cũng không dè, không biết cả !

                    - Kệ nó, lãnh vài chục lon thôi.

                    - Bậy nữa. Thôi được rồi !

                    - Sao ?

                    - …Cởi quần ra, gút ống lại cho tôi.



                    - Mau lên ! Sao chết trân đó vậy ?

                    Tôi vẫn không chịu thi hành lệnh của Năm.

                    - …Ai hốt hồn… Năm vừa nói đến đó thì chợt thấy cô gái tóc xoăn bên gốc cây.

                    - À ạ…! Khổ quá !

                    Năm lôi tôi đi chỗ khác, khuất mắt cô ta rồi rỉ tai tôi:

                    - Lại gặp nữa he! Mắc cỡ hả ? Cởi mau lên!

                    Tôi cực chẳng đã phải làm theo ý muốn của Năm Cà Dom.

                    Năm Cà Dom chạy bay vô kho gạo. Tôi buông hai cái ruột tượng gạo xuống đất và tìm chỗ ngồi.

                    Thật là thảm hại. Hôm trước tôi nhìn cái bộ mặt của tôi trong gương mà hoảng kinh hồn vía, bây giờ tôi lại kinh hồn hoảng vía vì nhìn lại cặp giò của mình.

                    Còn tí thịt nào đâu. Cái bắp chuối nhão nhẹt, cái mớ thịt mềm èo như bọt bèo ở phía trong.

                    Vậy mà có lần Thu đùa, bảo “chân bộ đội chẳng khác cây cọc màn ” thì ông Chín làm cho một vố quá sá! Ông bảo là cô “mất lập trường”

                    Làm sao mà đi hai phần ba đường nữa với cặp chân này ?

                    Tôi không ngờ một cặp chân như thế lại là cặp chân của tôi, hay tôi không ngờ cặp chân của tôi lại hóa ra như thế được.

                    Người đi lãnh gạo vẫn rải rác từ các nẻo đường đổ tới như hàng trăm, hàng ngàn cái bao tử đang run rẩy, xoắn lại, gồng lên, co dãn ra trước cái kho gạo kia. Họ vừa đi, vừa giơ cái bao tử thủng tung lên như để làm ngọn cờ đấu tranh.

                    Người nào người nấy trông thật thảm hại. Tất cả đều thảm hại, nhưng mỗi người mỗi vẻ, chứ không giống nhau.

                    Người thi đi khặc khừ người thì lê gậy lọc cọc, người thì buộc ruột tượng ngang lưng bỏ hai mối thòng dài xuống như cái thắt lưng hoa lý của các cô nàng trong một ngày hội chèo ở một làng quan họ. Có người thì vừa đi vừa thở phào phào, còn người lại gục xuống làm cho mái tóc rũ xuống như một chú gà chọi bị chém gục cần.

                    Tôi vẫn tiếc cô gái tóc xoăn. Không biết cô thuộc khối nào, đoàn nào, ai chỉ huy cô ta. Và nhất là cô ta đi về Nam theo cái tiếng gọi nào ?

                    Cô ta đã nhích lên được vài bước để có thể cái hy vọng gạo gần hơn cô ta hơn một chút, nhưng vì người ta không nhường nhịn phái yếu, mà cô ta thì không dám chen lấn như phái mạnh, cho nên đáng lý ra nếu có sự công bình trong cái xã hội trật tự thì cô đã tới cửa kho, nhưng những người đi sau cô mà đã lãnh được gạo rồi.

                    Thế đó, tình đồng chí đồng hành như thế đó.

                    Năm Cà Dom đã trở ra, với cái ruột tượng gạo no nức và một ống quần căng phình.

                    Tôi muốn nhảy lên bá cổ Năm mà hôn, mà cắn rồi quỳ sụp dưới chân mà lạy vài ba chục lạy.

                    Năm nói:

                    - Hết rồi !

                    - Cái gì hết?

                    - Gạo chớ còn cái gì !

                    Mấy người xếp hàng phía sau đố xô vào hỏi Năm:

                    - Gạo hết rồi à đồng chí ?

                    - Còn mẹ gì. Về đi mai mới có.

                    - Sao đồng chí biết ? Một người hỏi vặn.

                    - Thì tôi vừa ở trong ra đây mà. Năm Cà Dom nói. Đáng lẽ tôi lãnh đầy cả hai ống quần mà tôi chỉ lãnh được có một ống thôi không thấy sao hả ? Được rồi, ai không tin thì cứ chen vào tôi cam đoan mấy anh chen cho mệt rồi khi tới nơi cũng chẳng có cái mẹ gì hết !

                    Năm Cà Dom không để ý xem câu nói của anh ta có tác dụng gì hay không, anh ta cứ ngồi phệt xuống đất và mở cái ống quần ra mà bảo tôi:

                    - Cậu mở cái ruột tượng mà trút vào đây luôn đi.

                    - Chi vậy ?

                    - Ấy, mau mau đi mà. Rồi sẽ hay!

                    Tôi nghe lời Năm Cà Dom trút cái ruột tượng gạo vào ống quần. Năm Cà Dom cởi cái mũ tai bèo ném lại cho tôi và chạy bay trở về kho gạo với cái ruột tượng không trên tay.

                    Tôi ngơ ngác không hiểu Năm Cà Dom làm cái trò gì vậy.

                    Nhưng chỉ chập sau là Năm trở ra với cái ruột tượng đầy. Năm Cà Dom hí hửng.

                    - Thôi về, về !

                    Năm Cà Dom vừa nói vừa lôi tay tôi đứng dậy. Tôi quăng hai cái ruột tượng của Năm Cà Dom lên vai tôi và đứng dậy.

                    Nhưng trời ơi!

                    Trời đất ơi ! Cha mẹ ơi ! Tôi không đứng dậy nổi.

                    Chỉ có độ mười ký lô nằm trên vai mà một anh chàng ra đi từ Hà Nội khỏe như vâm, chỉ vượt Trường Sơn hơn một tháng với vài cơn sốt mà giờ đây chỉ với cái sức nặng đó trên vai mà không đứng dậy nổi.

                    Tôi không muốn để cho mọi người trông thấy điều đó, sự suy nhược của một “anh hùng giải phóng” cho nên tôi bám gốc cây trước mặt và cố gắng đứng dậy.

                    Tôi đứng dậy được rồi. Trong thâm tâm tôi, tôi nghĩ chắc Năm Cà Dom không biết sự suy yếu của cơ thề tôi, nhưng Năm Cà Dom nói ngay:

                    - Cậu trông to xác thề mà rệu lắm rồi.

                    - Ư… Tôi lắc đầu và đi theo Năm.

                    Người từ dưới vẫn cứ như ốc như sên bò từ từ lên dốc chậm chạp, lặng lẽ và cố gắng giằn hơi thở không cho nó gây thành tiếng làm thối chí người đi bên cạnh.

                    Đến khúc vắng Năm nói:

                    - Gạo còn nhiều lắm ! Đi nhanh lên, về tới rồi tôi trở lên.

                    - Chi vậy?

                    - Lãnh thêm chớ chi.

                    - Tiêu chuẩn đâu còn mà lãnh ?

                    - Tiêu chuẩn là do cái bao tử của mình đặt ra thôi.

                    - Nhưng làm sao mà cậu lãnh được ?

                    - Được chớ. Mình ăn mặc khác đi. Đội mũ khác đi và rên rẩm kêu la. Đâu có cái gì làm chứng rằng mình đã lãnh gạo rồi. Kêu to, rên mạnh là nó phát nữa thôi. Nó đâu có nhớ mặt thằng nào. Cứ chìa ruột tượng vô là nó phát thôi mà. Dư thiếu gì nó đâu có cần.

                    Năm Cà Dom nói về cái mánh khóe của anh ta thao thao bất tuyệt. Anh ta hỏi tôi:

                    - Tại sao gạo còn mà tôi tung tin là hết, cậu biết không ?

                    - Không.

                    - Cậu gà tồ thật đấy. Cứ cái lối ngoan ngoãn thành thực như cậu rồi chết, đi không tới nơi cho mà coi!

                    - Sao ?

                    - Đời nó vậy đó !

                    Năm Cà Dom tiếp:

                    - Tôi tung tin hết gạo là để cho cái đám lúc nhúc phía sau đang lao tới kia phải thối chí rã ra trở 1ui! Thừa lúc đó có kẽ hở là mình chen vào. Mà quả thật vậy, lần vừa rồi, tôi vô rất dễ.

                    Tôi hỏi:

                    - Nhưng mà làm sao cậu lãnh lần thứ ba được vậy ?

                    - Tớ liệu bề cái bản mặt của tớ thằng phát gạo không quên, cho nên tớ nói là tớ đi lãnh dùm một đồng chí sốt nặng. Nó ngần ngại không muốn phát thế là tớ la toáng lên. Tớ càng sân si, càng nêu cao tình đồng chí, đồng đội.

                    - Tớ phục cậu ghê ! Cậu như con mẹ lái cá vậy.

                    - Tớ bảo nó, nếu đồng chí không phát cho tôi mười bảy lít gạo thì đồng chí sẽ phạm tội sát nhân, tôi trở về không có gạo thì đồng chí lấy gì ăn. Đồng chí vô tình đã tiếp tay cho giặc. . . Bị tôi kết án nặng quá anh ta phát cho tôi, nhưng anh ta nói. Anh ta nói đúng thật.

                    Năm Cà Dom tiếp:

                    - Anh ta nói: Các đồng chí ăn gian dữ lắm. Sở dĩ thiếu gạo là vì có nhiều đồng chí lãnh gạo hai ba lần. . . Hắc hắc hắc. . . (Trong đó cớ đồng chí Năm Cà Dom ! )

                    Một tốp người từ dưới dốc bò lên. Một người hỏi:

                    - Tới kho chưa đồng chí ?

                    - Tới rồi mau lên, kẻo hết, Năm Cà Dom đáp.

                    Tôi hỏi:

                    - Sao cậu bây giờ không bảo là hết gạo như lúc nãy ?

                    - Cậu thật là lơ tơ mơ ! Mình nói hết nó sẽ trở về làm sao ?

                    - Trở về thì trở về chứ !

                    - Nó trở về, nếu nó để mình yên ổn thì mặc kệ nó, đâu có ăn thua gì mình.Nhưng nó trở về mà không có gạo ăn nó sẽ la cà tới chỗ mình nấu cơm nó kêu đồng chí nọ, đồng chí kia nghe ngọt lịm như đường phèn, rồi nó hỏi mượn gạo của mình.

                    Cậu làm sao từ chối ? Từ chối khó coi lắm, cậu hiểu chưa ? Trời đất ! Cậu không có một chút kinh nghiệm đi đường gì hết vậy ? Đó thuộc về tâm lý, cậu viết mà không nghiên cứu à ? .

                    - Tớ bái cậu luôn.

                    - Bái, bái cái gì. Đi một tấc đường học đặng trường khôn, nhất là tấc đường Trường Sơn thì học năm bảy trường khôn.

                    Đột nhiên Năm Cà Dom hỏi:

                    - Ơ này, cậu có quen với cô tóc xoắn ấy à ?

                    Tôi đáp:

                    - Không.

                    - Coi bộ rung rinh rồi đa!

                    - Rung rinh cái gì, run rẩy thì có!

                    - Chia lại mình một “Cu li” đi.

                    -Chia gì mà chia?

                    - Nè trên sân cỏ “deux contre un ” bị phạt đấy nhé !

                    - Tớ đâu có “hai chọi một ” mà phạt ?

                    - Sao lại không !

                    - Đã bảo không quen mà.

                    - Nhưng mà tớ bắt nhãn rồi. Cô ta nhìn cậu với cặp mắt “sương mờ rơi” lắm!

                    Đang đi bỗng có người từ trong rừng rẽ ra, trên tay xách một xâu cá khô. Không biết cá gì, nhưng rõ ràng là cá. Trời đất, ngồi buồn lại gặp chiếu manh. Tôi chưa mở miệng thì Năm Cà Dom đã hỏi:

                    - Này đồng chí ! Khô mua ở đâu vậy ?

                    - Trong kho kia.

                    - Ủa đây có kho thực phẩm à ?

                    - Có chớ. Nhưng bí mật nghe. Vô ít ít chớ vô ào ào nó không có bán cho đâu..

                    - Được rồi tôi vô hai đứa thôi ! Nhưng đi thế nào ?

                    - Đi thẳng vô vài trăm thước thôi !

                    Thế là Năm Cà Dom bảo tôi:

                    - Đi vô kiếm chút “a dốt ” đi ! Chất đạm trong khô nhiều lắm. Có vài chục con khô bỏ theo thì vững bụng lắm.

                    Quả thật, hai đứa đi tới một cái chòi có người ở, bên cạnh chòi có một cái chòi cao cẳng, trên sàn chòi chất đầy khô.

                    Năm dừng lại và rỉ tai tôi:

                    - Cậu còn đá lửa không ?

                    - Còn.

                    - Đưa tớ vài viên.

                    - Chi vậy ?

                    - Tớ vô công tác chính trị thằng gìữ kho này. Tớ cũng có nhưng còn ít quá, sợ không đủ xài vì tớ hút thuốc lá như cậu biết đó

                    Năm Cà Dom đi thẳng vô tìm gặp anh giữ kho. Anh này còn rất trẻ. Vậy cậu ta sẽ là con gà con dưới nanh vuốt của con diều Năm Cà Dom.

                    Năm Cà Dom nói ngay với cậu ta:

                    - Tớ là bác sĩ đây ! Nhưng bây giờ chằng có thứ thuốc nào bằng khô với muối. Cậu bán cho tớ một ít. Tớ trả tiền đàng hoàng, và tớ tặng cậu năm viên đá lửa xài chơi. Ở rừng như cậu mà thiếu lửa là chết ngay. Tớ nói thật. Đứa nào nói gian cho hộc máu ra đi !

                    Năm Cà Dom hỏi tiếp:

                    - Khô bao nhiêu một ký vậy cậu ?

                    - Tùy ! Cậu thanh niên đáp không quả quyết .

                    - Tùy nghĩa là muốn mua bao nhiêu thì mua, trả bao nhiêu thì trả phải không ? Đúng rồi ! Cách mạng mà ! Tất cả đều là của chung. Cậu cho tớ mua năm kí lô đi.

                    - Nhiều dữ vậy ? Mỗi người chỉ được ba con thôi.

                    - Ba con bằng chân cái đó để làm gì ? Đứa nào ăn no, cho ăn no, đứa nào thiếu cứ chờ có thêm sẽ lãnh. Tớ ví dụ một trăm thằng oam oam đi khặc khừ không thể khiêng nổi một nòng pháo, nhưng mười đứa khỏe mạnh sẽ chuyển cái nòng pháo đó chạy te te… Hì hì.

                    Thôi năm kí không được thì ba kí. Tụi tôi không phải mua cho hai đứa đâu mà cả đoàn còn hai chục đứa ở nhà, bác sĩ không thôi ! Hai mươi bác sĩ vô Nam cái là chiến sĩ ta khỏe lên ngay!

                    Anh thanh niên nhìn Năm Cà Dom lặng thinh. Năm Cà Dom bảo tôi lấy đá lửa cho cậu ta rồi nói:

                    - Cậu lại đây xem ! Tôi coi qua con mắt một chút.

                    - Dạ. Anh thanh niên ngoan ngoãn bước tới.

                    Năm Cà Dom vạch mí mắt, rồi sờ bụng, sờ vai. Năm Cà Dom ấn mạnh vào bụng ngay phía dưới hoành cách mạc và hỏi:

                    - Có đau không ?

                    - Dạ đau ạ.

                    - Lá mía cậu thòng rồi ! Sốt nhiều lắm phải không ?

                    - Dạ đúng rồi. Em lúc nào cũng sốt.

                    - Uống thuốc gì ?

                    - Dạ chẳng có thuốc gì hết. Em toàn uống nước dây bồ hòn thôi.

                    - Có cắt cử được không ?

                    - Khi được khi không.

                    - Để tôi cho quinine uống nhé !

                    Năm Cà Dom móc túi lấy hơn chực viên kí nín. Cậu thanh niên đưa tay ra nhận. Có lẽ lâu nay không ai cho cậu nhiều thuốc thế. Còn Năm Cà Dom tuy trong sinh hoạt thì có phần lém nhưng đi vào nghề thì bao giờ cũng tận tâm.

                    - Chậc ! Sốt thế này thì cả đời không chữa được.

                    - Dạ em đâu biết làm sao.

                    - Ăn uống được không ?

                    - Dạ khi được khi không.

                    - Đừng đòi vợ sớm nhé. Hại lắm. Hề hề.

                    Năm Cà Dom bảo:

                    - Thôi cậu bán khô cho tôi đi ? Em cưng !

                    - Dạ.

                    Anh thanh niên leo lên sàn nhà lấy một xâu rồi một xâu nữa thòng xuống cho Năm Cà Dom.

                    Năm Cà Dom bảo:

                    - Hai mươi bác sĩ đi vào Nam nhé ? Nhớ cho họ đắp đầu gối khá khá chút.

                    - Còn anh này cũng là bác sĩ hả anh ?

                    Cậu thanh niên chỉ vào tôi và hỏi. Dường như cậu ta chưa quan niệm được một ông bác sĩ như thế nào.

                    Năm Cà Dom cười:

                    - Ông này hả?

                    - Dạ.

                    - Ông này còn quan trọng gấp mười bác sĩ.

                    - Dạ.

                    - Ổng là bác sĩ nhưng chỉ chữa bệnh tinh thần. Thí dụ như cậu đang bi quan thì ổng làm cho cậu lạc quan, cậu đang bất mãn thì ổng làm cho cậu hết bất mãn.

                    Cậu thanh niên cứ dạ dạ vâng vâng chứ không hiểu gì cả, còn Năm Cà Dom thì cứ vừa pha trò vừa moi cái vựa khô của cậu ta. Năm Cà Dom tiếp:

                    - Nếu như cậu không chịu bán khô cho ổng thì ổng sẽ làm cho cậu bán rất nhiều. Ví dụ như thế. Nhưng ông ít hay nói như tôi ổng chỉ nhìn cậu là cậu phải nghe theo ý muốn của ông thôi. Đây cậu sắp đưa cho ổng một xâu khô rồi đó.

                    - Dạ. Cậu thanh niên như bị thôi miên, cậu ta lấy đưa cho tôi một xâu khô. Và còn hỏi thêm: Các anh có cần muối không ?

                    Năm không đáp mà hỏi lại:

                    - Cậu có nhiều không?

                    - Ít thôi.

                    - Cậu có thể cho tụi tôi mỗi đứa mấy kí ?

                    - Mỗi người một lon sữa bò.

                    - Ba lon nhé. Tôi đã bảo là hai mươi bác sĩ đi vô Nam mà !

                    - Dạ.

                    - Một lon thì chỉ nhỏ con mắt cũng hết rồi, nếu rủi cái mũi có đau lấy gì mà nhỏ?

                    - Thôi em cho các anh ba lon.

                    - Mỗi người ?

                    - Dạ.

                    - Thế thì tạm được, ba lon nhân cho hai mươi là sáu mươi lon. Như vậy là đoàn bác sĩ hai mươi người của chúng tôi chắc chắn sẽ tới nơi với số muối đó. Nhờ ai ? Nhờ cậu, cậu rõ chưa nào ?

                    - Dạ !

                    Cậu bé thấy Năm Cà Dom nói hay quá. Cậu ta phải tự hào chớ. Cậu ta hỏi:

                    - Các anh có cần khô rừng không ?

                    - Khô gì?

                    - Khô voi ?

                    - Ui chà t Không ngon lắm, nhưng ăn cũng tạm được !

                    Thế là cậu thanh niên rút trên giàn bếp khói ám đen ngòm và ném xuống đất những thỏi như củi dừa mà má tôi sấy trên bếp cho mau khô. Cậu ta quăng xuống đất nghe độp độp.

                    Tôi và Năm Cà Dom nhặt và nâng lên mắt xem không có vẻ gì là khô cả.

                    Cậu thanh niên bảo:

                    - Các anh về lùi nó dưới tro nóng một lát lấy ra đập nó tơi ra ăn ngon lắm. . . giống như bố tời vậy !

                    Thế là chuyến đi của chúng tôi thành công mỹ mãn.

                    Nhiều người đến nài nỉ mãi chỉ được có ba con khô thôi. Thấy hai đứa tôi được chiếu cố một cách quá đáng có nhiều người phàn nàn, nhưng cậu thanh niên nói theo cái giọng của bác sĩ Năm Cà Dom lúc nãy:

                    - Một đoàn bác sĩ hai mươi người! Họ mà vô tới trong Nam là tình hình sáng sủa lên ngay. Họ là người đặc biệt. Chúng tôi được chỉ thị cấp trên cung cấp cho họ với tiêu chuẩn đặc biệt.

                    Thấy đứng lâu chỉ để làm đề tài cho khách chống lại cậu thanh niên giữ kho, cho nên tôi và Năm chuồn thẳng. Đi một quãng, Năm cởi áo ra bọc ba xâu khô lại kỹ lưỡng. Năm bảo:

                    - Để người khác trông thấy không nên!

                    Chúng tôi đi lên thì vất vả theo sự đi lên, còn đi xuống vất vả theo đi xuống. Đi tay không thì bụng đói meo chân rã rời, còn lãnh được gạo vác thì mệt quá, đi không nổi. Tôi bị ngã một cái nên thân.

                    Cả người tôi rơi vào một bụi gai lởm chởm, hai cẳng giơ lên trời còn hai cái ruột tượng thì đè xuống, tôi không sao ngóc dậy nổi. Năm phải đến lôi tôi, tôi mới đứng dậy nối. Vậy tôi mới biết sức khỏe của tôi tồi đến đâu.

                    Chúng tôi về đến địa điểm thì thấy trống trơn. Người ta đã cuốn tăng cuốn võng đi đâu hết. Chỉ còn lại một mình Thu ngồi khóc. Tôi vừa cáu vừa thương hại nàng, tôi hỏi:

                    - Cái gì em lại làm mưa thay trời nữa đó!

                    - Người ta đi hết hai đợt rồi.

                    - Đường ” xoi” thủng rồi sao ?

                    - Không phải.

                    - Chớ sao người ta đi?

                    -Đi lánh nạn.

                    - Nạn gì mà lánh?

                    - Ở đây gần địch lắm rồi. Anh không nhớ cách đây ba trạm mình cũng bị kẹt đường à ? Ở cái chỗ em xung phong múa hoa Champa, bị ông già Chín phá đám đó.

                    - Nhưng ở đó khác đây khác chớ !

                    - Không ! Theo như đồng chí đại diện bộ tư lệnh phổ biến thì bọn địch đang nằm trước mặt chúng ta. Có thể là. . .

                    - Ổng đâu rồi?

                    - Ổng đang đả thông anh em đằng kia!

                    - Đâu lại hỏi xem tình hình chút coi anh Năm.

                    - Thôi cậu đi đi! Tớ lo giấu gạo cái đã. Bộ tư lệnh nào cũng không bằng bộ tư lệnh gạo cả.

                    - Nhưng anh giấu đi đâu ?

                    -Trong ba lô!

                    - Để làm gì?

                    - Để không cho người khác thấy. Cậu cứ phơi bày ra đó, bị ăn trộm đấy.

                    - Gi ghê thế!

                    - Để rồi xem.

                    Mặc cho Năm Cà Dom lo chia sớt phân phối gạo, tôi đi về phía có tiếng còi văng vẳng. Tôi không phải lo âu gì về gạo. Bởi vì tôi không bao giờ ăn hết ba lon sữa bò một ngày. Cho nên nhiều lúc tôi cho bớt đi. Ngược lại có những người như Năm Cà Dom ăn một bữa hai lon gạo mà còn đòi thêm.

                    Tôi đến chỗ anh em tập họp. Anh đại diện bộ tư lệnh đứng trên một mô đất đúng ra là một cái nắp hầm cũ không ai dùng nữa.

                    Anh ta mặc đồ bà ba, quần xăn lên quá nửa ống quyển. Lưng đeo súng ngắn, vai mang sắc cốt da. Anh ta nói cà gật cà gật cái đầu và hét to từng chập:

                    - Ăn ở gì thế này hả ? Giống như một đám tàn quân thế này hả ? Tổ chức nát bét thế này đụng địch làm sao chiến đấu hả ?

                    Cứ mỗi câu ông đại diện bộ tư lệnh lại “hả hả ” một cái rõ to để chấm câu. Đám người lớp đứng lớp ngồi nghe ông ta nói thì cứ râm ran phản ứng từng lúc, từng câu ở từng khóm một. Cán bộ dân chánh thì phản ứng theo dân chánh, binh lính thì phản ứng theo binh lính, nhưng ông đại diện đang cáu nên cứ nói bừa lên đầu cái luồng dư luận vừa dấy lên kia.

                    Ông ta nói tiếp:

                    - Ỉa đái đầy suối thế kia. Than củi tùm lum thế kia. Quần áo phơi nhan nhản thế kia. Máy bay nó có mù nó cũng phát hiện được.

                    Một anh lính nói ngay, khá to:

                    - Máy bay nó ngửi được mùi cứt chúng mày ạ !

                    - Câm cái mồm tên vô kỷ luật ! ông đại diện bộ tư lệnh quát và trỏ vào cái nhóm lính đang cười rộ lên vì câu trêu tức vừa rồi.

                    - Chúng mày muốn tù hở! Đơn vị nào thế! Mất dạy? Này tao bảo cho biết ? Nó đánh không phải chỉ bằng máy bay thôi nhé. Trong rừng này không thiếu biệt kích nhé ? Người ta chết chỉ vì một cái tàn thuốc lá nhé ? Đừng có khinh người. Các anh ăn ở thế này nó thối ra nghe chưa ? Biệt kích nó đến ngay đấy, đừng có mà giỡn mặt Chừng chết nhăn răng ra rồi không ân hận kịp!

                    Ông đại diện Bộ tư lệnh tuôn ra một thôi dài không tả xiết. Xong ông đại diện bộ tư lệnh quát anh giao liên lập tức dời địa điểm đoàn khách, không được trì hoãn một phút.


                    Hết Chương 10 - Xem Tiếp Chương 11
                    sigpic

                    Comment


                    • #11
                      Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                      Chương 11


                      Chúng tôi trở về, cuốn tăng, võng, vừa ôm, vừa xách lôi thôi lếch thếch đi theo anh giao liên.

                      Đúng là một đám tàn quân, như lời nhận xét của ông đại diện. Chúng tôi bị lùa vào một con suối cụt. Mà khi vừa bắt đầu đặt chân vô là chúng tôi phải kêu lên: “Khó thở quá ! Khó thở quá ! “

                      Một con suối nước trong vắt , nhưng mỗi lần nhúng chân xuống rút lên tôi có cảm giác là lông chân tôi rụng hết.

                      Tuy vậy Năm Cà Dom vẫn pha trò. Đang đi anh ta quay lại hỏi tôi:

                      - Cậu có nhớ hai câu ca dao không nhỉ ?

                      - Ca dao nào?

                      - Chết rồi! Nhà văn mà không biết hai câu ca dao Nam Bộ sáng tác ở miền Bắc thì chết rồi !

                      - Nhưng ca dao gì mới được chớ ?

                      Năm Cà Dom nói:

                      - Chú ý lắng nghe nhé ! E hèm ! Nghe cho kỹ nhé !

                      Ngang lưng thì giắt su hào

                      Đầu đội rau muống, chân quào bánh đa.

                      Tôi phá lên cười thích thú. Thu cũng cười. Và cả đám lóc nhóc đi đàng sau tôi cũng cười hưởng ứng.

                      Năm Cà Dom vẫn thản nhiên. Một chốc anh ta hỏi tôi:

                      - Bà con cười thế là cười gì ông ” nhà răng ” ?

                      - Cười rùm lên.

                      - Không phải.

                      - Cười ré lên ! Cười hùn !

                      - Không phải. Viết văn phải viết cho đúng tiếng ! Đây là cười tươi như mếu ! Chứ không phải à ? Trong lúc muốn khóc mà lại cười không phải cười tươi như mếu là gì ?

                      - Ái chà ! Đi vào lãnh vực của tôi rồi đấy hả ? Nhưng mà trong đời sống của dân gian, có mấy chục cái loại cười anh có biết không nào?

                      - ….

                      - Có nhiều, ai mà tổng kết cho hết. Chỉ có ông Nguyễn Tuân ổng mới làm nổi việc đó thôi. Ổng cho là có hằng trăm tiếng cười, kể ra đâu có xiết như cười xòa, cười khảy, cười mũi, cười rộ, cười trừ.

                      Năm Cà Dom cắt ngang tôi:

                      - Nhưng lúc nãy anh và cô Thu cười thì cười gì ?

                      Tôi ngẫm nghĩ và đáp:

                      - Có lẽ là cười rộ lên, phải không ?

                      - Chịp, tôi cũng không rõ. Nhưng mà thôi, để việc đó qua một bên. Tôi muốn nói đến cái thần tình của hai câu ca dao. Không biết thằng nào giỏi quá cơ. Nó chơi chơi mà thể hiện đúng cái con người của mình quá nhỉ.

                      - Ừ nhỉ thằng nào lại đặt ra mấy cái câu đó tài thật.

                      - Tôi chắc chắn không có một ông nhà thơ nào làm nổi !

                      Năm Cà Dom nói tiếp:

                      - Tôi không phải văn nghệ sĩ, nhưng tôi xin phép bình hai câu anh xem có tài tình không ? Ngang lưng thì giắt su hào! …

                      - Ừ tài thật. Nó bắt chước bài Lính Thú Thời Xưa: Ngang lưng thời thắt bao vàng, Đầu đội nón dấu vai mang súng dài ! Nhưng bắt chước tài tình hả ?

                      - Ừ. Hay thật !

                      - Đầu đội rau muống, chân quào bánh đa ! Tuyệt hả, ông văn sĩ.

                      Tôi cười ngất:

                      - Cái hình ảnh đó giống như một chiến sĩ.

                      - Chiến sĩ cái kiểu như ông văn sĩ bây giờ vậy đó.

                      - Sao ?

                      - Thì còn sao nữa. Làm bộ hoài. Đầu đội rau muống mà chân thì quào bánh đa rồi còn gì nữa mà làm bộ gà mờ !

                      Tôi cười. Cái thằng cha này khó chịu thật. Nó xoi mói mình hoài. Nó lại còn trêu luôn cả Thu:

                      - Này cô Thu ạ! Cô đừng buồn nhé. Đó là ca dao rất phổ biến, chớ không phải tôi đặt ra đâu mà. Nước mình có ba kỳ Nam Trung Bắc. Mỗi Kỳ đều có đeo “anh xin” trên trán riêng hết thảy. Nam Kỳ thì khắc trái dưa hấu, Trung Kỳ thì in củ khoai, còn Bắc Kỳ vẽ cọng rau muống.

                      Cho nên nói tới dân Trung Kỳ thì người anh em ta thường gọi là “Liên Khu Khoai” còn Nam Kỳ thì xanh vỏ đỏ lòng, còn Bắc Kỳ thì rau muống luộc. Ông bạn văn sĩ tôi đây ra Bắc hơn mười hai năm có lẽ ăn rau muống và su hào ngon hơn ăn dưa hấu rồi ! Phải không ông văn sĩ ?

                      - Còn anh ? Ra miền Bắc chắc anh không ăn cọng rau muống nào chắc?

                      -Úy úy ! Nhập gia tùy tục, đáo xứ tùy dân, sao không ăn ông bạn?

                      - Vậy sao ông bạn cười tôi ?

                      - Nhưng mà tôi thấy ông bạn ra đi đã một tháng trời rồi mà vẫn còn ngang lưng cứ giắt su hào và đầu vẫn cứ đội rau muống như thường.

                      - Úy ! Anh là bác sĩ, chắc anh cũng thừa hiểu rằng su hào với rau muống là những loại rau có nhiều sinh tố lắm chứ ?

                      - Hì hì…

                      - Và lại anh cũng công nhận là ngo…on chứ?

                      - Hé hé…

                      - Thế cho nên trong ba lô tôi có cả giống su hào rau muống đây! Về tới nơi là tôi kiếm đất trồng ngay, để lấy giống !

                      - Há há ! Ông văn sĩ giỏi thật ! Ông đối phó trong văn chương giỏi thật. Thế còn bánh đa thì ông làm sao mang về, bỏ nó trong ba lô thì nó vỡ hết. Này, nhớ là bánh đa chớ không phải cành đa hoặc củ đa nhé!

                      - Lại nữa!

                      Tôi tiếp:

                      -Ông bạn lại muốn nhảy vào làng văn ngồi chồm hổm trong đó rồi. Thì bánh đa chớ cành đa củ đa mang làm chi ? Trong mình thì có bánh tráng đó, có khác gì bánh đa mà phải mang cho tốn công ?

                      - Ừ ừ vậy hả.

                      - Chớ sao?

                      - Nhưng này ông văn sĩ !

                      - Gì?

                      - Tôi thú vị nhất là cái chữ quào bánh đa đó.

                      - Sao vậy ?

                      - Vì tôi hình dung bọn dưa hấu mình sống trên đất Bắc, anh nào cũng tham lam quá. Ngang lưng đã giắt cả lố su hào rồi, lại còn tham lam, dầu lại đội thêm rau muống, đầu đã đội thì hai tay phải vịn cho chắc kẻo rơi hết, thế là bận hết hai tay còn đâu mà hoạt động ! Cho nên hai chân phải “quào ” lấy bánh đa chớ không chịu ở không ! Gớm thật !

                      Năm Cà Dom bỗng đưa tay ngoặc cổ tôi lại và rỉ tai tôi:

                      - Như anh cũng giỏi đấy. Đi đây rồi mà còn ráng quào chớ cũng không chịu nghỉ ngơi!

                      Tôi cười và đẩy Năm ra vừa lúc Thu quay lại:

                      - Không nên nói nhỏ với nhau trước mặt người khác.

                      - Đâu tôi có nói trước mặt ai, tôi chỉ nói sau lưng thôi chứ.

                      - Trước mặt tôi đây còn không nữa à ?

                      - Tại cô quay lại cho nên tôi mới thành ra ở trước mặt cô như thế!

                      Thu quay lại giữa tiếng cười chế riễu thành công của Năm. Thu cứ lẩm bẩm:

                      - Các anh nói xấu tôi đó hả ?

                      - Cô đẹp thì ai nói xấu được ! Ai trở mặt làm trái được ?

                      - Gớm! Anh lắm mồm thế. Tôi chưa thấy anh Nam Bộ nào tay năm miệng mười như anh ! Người ta bảo Nam Bộ thật thà lắm !

                      - Ừ đúng ! Đú. . đúng ! Thiệt thà bắt con gà đổi con vịt như ông bạn văn sĩ của tôi đây này !

                      - Sụyt! Thôi mà.

                      - Thôi sao được ! Cô ấy bảo mình tay năm miệng mười ! Chúng mình chỉ có hai tay và một miệng chớ đâu có tới… nhiều miệng.. . ?

                      - Thôi, tôi lạy anh, anh như con đĩa đói ấy, bám vào đâu cũng khó gỡ cả.

                      - Hì hì… thì để cho dưa hấu thử tài với rau muống thử xem !

                      -Ai mà đấu cho lại anh!

                      Nói lải nhải như vậy mà chúng tôi đã đến nơi. Nói là đến nơi, nhưng không có vẻ gì đến nơi cả. Nhưng người ta bảo là đến nơi vì thấy có người hạ trại dài bên bờ suối. Kết quả của bài diễn thuyết của ông đại diện bộ tư lệnh là lùa đám tàn quân này vào cái suối này để ở ngoài ông ta nhét nút lại chắc !

                      Tôi bàn với Năm Cà Dỏm là đi tìm một chỗ nào tốt để đóng quân. Có nhiều đoàn cũng lao nhao như gà lạc mẹ đi tìm ổ như chúng tôi thành thử ra có cả một dãy người kéo lê thê đi tìm nơi hạ trại. Cứ đi dài dài, chân thì bước chậm rãi, mắt thì ngó hai bên bờ suối hễ chỗ nào tốt mình muốn dừng lại thì cũng đã thấy người nằm sẵn đó rồi.

                      Chúng tôi đi lộn xộn không còn giữ đoàn ba đứa như trước nữa hẹn với nhau rằng hễ đứa nào tìm được chỗ tốt thì gọi hai đứa kia đến.

                      Lộn xộn như thế nào mà một chốc, tôi lại đi sau lưng cô gái tóc quăn quăn lúc nãy tôi gặp trên kho gạo. Nghe cô nói chuyện với những người đi trước thì tôi biết đó là một cô gái quê ở vùng Tân Châu thuộc tỉnh Long Xuyên hay Châu Đốc chi đó và cô là người của Trường Nông Lâm Trung ương về Nam để chỉ dẫn cho nông dân vùng “giải phóng” cày cấy lúa và các thứ ngũ cốc khác.

                      Đang đi bỗng có một nhánh tre ngã ngang qua đường. Ai đi qua cái nhánh tre đó cũng quẹt vào người và quặt lại phía sau như một cái ngọn cần bẫy.

                      Cô gái đỡ cành tre không cho quẹt vào người cô, và khi đi qua xong, cô không buông nhánh tre mà cầm giữ nó quặt ra phía trước, ý cô sợ nhánh tre quất vào mặt người đi sau bất ngờ không đỡ kịp. Cô quay mặt ra phía trước mà vẫn còn giữ cành tre như thế chờ cho tôi đi qua xong cô mới buông nhánh tre ra.

                      Ôi chao ! Bàn tay cô đẹp thế. Những ngón tay thon thon hơi béo tròn và đúng là mũi viết.

                      Khi bàn tay buông nhánh tre ra rồi, cái hình ảnh dịu dàng của bàn tay ấy cứ ở lại mãi trong đầu tôi.

                      Và cái cử chỉ lề độ nhã nhặn đó nữa ! Đi trên đường rừng này mà cô vẫn không quên cái văn minh của những nơi không phải là rừng.

                      Và có lẽ ở đời luật vay trả là sự công bằng chánh trực nhất để cho cái nhân tình thế thái, cho nên đi lộn tới trở lui thế nào mà chập sau tôi lại đi lên trước cô ta. Rồi lại đến một cái lạch nước và mấy bậc đá khá nguy hiểm, tôi phải chìa tay ra để lôi cô lên.

                      Tôi đưa tay cho cô, mà tim hơi rung động. Tôi bảo:

                      - Cô nắm tay tôi đây này, kẻo trợt ngã.

                      Cô gái tóc quăn ngần ngại mãi không chịu nắm tay tôi. Cô ta ngó quanh quẩn tìm xem có chỗ nào cô bước lên mà không cần đến bàn tay của tôi không ? Một bàn tay xa lạ với cô ta. Vậy cũng phải thôi. Ai người ta lại trao tay cho người khác dễ dàng như vậy ?

                      Tôi chờ đợi, với một ít xốn xang trong người.

                      Cuối cùng nàng phải đưa bàn tay cho tôi. Tôi hơi hoa mắt. Cái bàn tay gì đẹp kỳ lạ thế. Nó như một cái búp non đẫm sương vừa nhú đêm qua và khoe sắc trong tia nắng đâu tiền của mặt trời hồng mà tôi đứng trước nó là một gốc cây hết nhựa.

                      Tôi đưa tay tôi ra chậm chạp, e ngại, có phần rung động mà nắm lấy tay nàng. Tôi không cảm thấy gì ngoài sự tưởng tượng rằng mình đang nắm lấy một mảnh nhung.

                      Rồi thôi, chỉ trong chớp mắt tay tôi và tay nàng rời nhau ra, tạm biệt. Một ít đau khổ !

                      Tôi còn đang bâng khuâng trước cuộc tao ngộ và tạm biệt bất ngờ đó thì có tiếng Thu gọi từ bên bờ suối.

                      Tôi giật mình đánh thót như một kẻ cắp bị bắt quả tang.

                      Chết chữa ! Đáng lẽ một con người như tôi bây giờ thì không nên mơ ước gì hơn nữa. Vì trên đường Trường Sơn chó ăn đá gà ăn muối xác rác xơ rơ tả tơi tan nát như thế này mà lại có cả một mùa… Thu thì còn mơ ước cái gì nữa.

                      Vậy mà rồi tôi vẫn có trong tôi một sự nhóm lên của ước mơ. Thu đã trông thấy cái cử chỉ vừa rồi của tôi với nàng tóc quăn và ..có lẽ nàng cũng đoán ra những tình cảm tôi. Nàng đã tìm ra được chỗ tốt và đứng đó chờ tôi đi qua. Tôi đi theo nàng, không dám quay lại nhìn cái bàn tay kia lần nữa.

                      Thu nói:

                      - Chỗ này tốt lắm anh ạ.

                      - Còn anh Cà Dom đâu ?

                      - Ở kia kìa.

                      - Chào ông nhà. . . răng ! ông đi tìm đề tài hả ? Cha chả cái đề tài đó hay lắm đó, ông đã bắt được lúc ở kho gạo mà có hứng chưa ? Nếu tôi không nhầm ….

                      Năm Cà Dom tuôn ra có loạt nghe mà mệt đi thôi.

                      Tôi quát:

                      - Anh cho tôi nghỉ một chút !

                      - Khà khà… à à anh đang “mệt” phải không. Tim anh đang đập mạnh mà !

                      - Anh lúc nào cũng bắt mạch người ta.

                      Chúng tôi vui vẻ sửa soạn chỗ ở.

                      Thôi rồi ! ở đây là nơi “nghỉ ‘ngơi” lâu dài không hẹn ngày tái hành trình. Bao giờ đi tới được nữa ?

                      Anh giao liên không ló mặt ra lần nào để tôi có dịp hỏi chuyện, nhưng Thu thuật lại anh ta có nói với Thu rằng cứ nằm đây chừng nào có lệnh thời đi, nếu đi không được phải quay trở ra. Thu thuật lại cho tôi nghe, với sự thích thú lộ ra mặt về cái vế thứ hai của lời nói anh giao liên.

                      Thu đang mong điều đó.

                      Mưa, chao ôi mưa rừng. Ở giữa rừng lạnh, đã buồn lại thêm mưa mà mưa dai dằng vô cùng, mưa nặng hạt mưa tai hại chứ đâu phải những trận mưa mát thịt da tươi cây xanh lá như ở đồng bằng. Mưa trói chân trói cẳng và làm rệu rã cả lòng người.

                      Có lẽ trời đã về chiều, nhưng không có dấu hiệu gì của buổi chiều cả. Cuộc đời chúng tôi cũng đang lúc chiều tà như cảnh núi rừng này vậy.

                      Thu thì đang ước mong đường tịt để “quay” một cách hợp pháp, còn tôi thì đang xốn xang bứt rứt vì sợ đường tịt phải làm một tên “bê quay” bất đắc chí, riêng bác sĩ Cà Dom thì nằm võng hát hê hát hà không tỏ vẻ lo lắng ái ngại chút nào cả.

                      Tôi hỏi anh ta:

                      - Anh đang nghĩ gì đó ?

                      - Cái ăn.

                      - Cái gì?

                      - Xem cái gì ăn được thì ăn !

                      - Có khô có muối có gạo rồi.

                      - Bấy nhiêu mà đủ à ? Tôi nghi phen này nằm lại ít ra là một tháng Cậu biết chưa?

                      - Tôi đâu phải thầy bói.

                      - Bói biếc gì, nhưng để rồi xem. Tình hình này găng xi măng lắm. Nghe nói tốp đi trước mình bị biệt kích xơi một cú nặng. Nguyên cả đội xích hầu Trung đoàn bị giết sạch, một tay Trung đoàn phó bi mất tích. Tôi nghi là bị bắt sống.

                      Nếu bị bắt sống thì nguy hiểm vô cùng. Kế hoạch hành quân lộ bí mật, nhất định nó sẽ chặn đường mình. Thế là mình treo võng nằm đây đến mục dây võng mới đi được.

                      Tôi thở dài.

                      Thu lặng thinh. Có lẽ Thu không vui trong lúc đáng lẽ Thu phải vui, vì nếu không đi được thì phải trở lại về. .. Hà Nội, giờ đối với Thu về Hà Nội đâu phải là nhảy lên tàu điện mua cái vé hai xu rồi đứng treo tay trên nóc tàu nhìn phố xá diễn hành qua mặt mình, chưa mỏi chân là từ Câu Giấy về đến nơi.

                      Cho nên. theo tôi đoán thì tâm sự Thu bời bời. Cứ đi một bước đi một bước ngập ngừng nhưng phải đi vô mà đi làm gì, chính Thu cũng không xác định được, chỉ có đi ra là xác đinh được mục đích mà thôi. Ra để không bao giờ vô nữa.

                      Năm Cà Dom khuấy tan cái không khí vắng lặng mà thường thường nó là cái đống rơm đầy meo bất mãn ủ đến độ cho những tai nấm bất mãn muôn màu mọc lên.

                      Năm Cà Dom nói:

                      - Thôi mình đi kiếm ăn cái đi !

                      Tôi hỏi:

                      - Kiếm cái gì?

                      - Xách dao đi cái đã rồi sẽ biết mình kiếm cái gì chớ nằm lắc võng thì biết kiếm cái gì, mà có muốn kiếm cái gì cũng không kiếm được ngoài mấy chú “đòn xóc”.

                      Rồi Năm Cà Dom bảo Thu:

                      - Thôi Công chúa Nương Mỵ Ê ở nhà nhé. Đừng có mếu nữa xem nó ê ẩm ruột gan lẩm công chúa ơi !

                      Tôi bật cười. Thu cũng cười.

                      Cái anh chàng này không hiểu sao mà cứ càng nói càng có duyên thêm. Ở đâu mà y lại nhớ cái tiếng Mỵ Ê và phóng ra trong lúc này vậy?

                      Nhìn gương mặt Thu đúng là “ê” thật.

                      Hai đứa xách dao ra đi như hai chàng hiệp sĩ xách đoản kiếm đi phiêu lưu trong miền hoang dã.

                      Suy nghĩ mãi rồi, không lối ra cho nên tôi cũng không buồn suy nghĩ nữa, miễn sao đừng sốt thì thôi tới đâu thì tới.

                      Hai đứa cứ đi lang thang dọc theo bờ suối, nhìn chỗ này ít cái, nhìn chỗ kia ít cái, chỗ nào cũng có người. Chúng tôi đi mãi cho đến không còn người đóng trại nữa. Con suối lạnh buốt cho nên chúng tôi ít dám lội dốc nước và tránh ướt chân.

                      Tôi có cảm giác lạch suối như một làn máu bầm chảy ra từ một vết thương kinh niên.

                      Đi một chập thấy có mấy người chặn một khúc suối để tát bắt cá. Một chập lại thấy mấy người khác giở những hòn đá lên để tìm bắt những chú cua. Những chú cua này đen như than và to bằng những chú cua cắn mạ ở đồng bằng Nam Bộ nghĩa là bằng ngón chân cái, nhưng trông nó khô khan man rợ chứ không có vẻ màu mỡ như cua đồng.

                      Đi một chập nữa, lại gặp một anh cán bộ quân sự. Anh này cầm trong tay một khẩu K54. Anh đi rón rén và nom xuống xem xét những trũng nước, như một chú cò soi những con cá dưới ruộng . Bỗng anh ta dừng lại rồi, đoàng! đoàng !

                      Nước tóe lên trắng xóa, vằng vào cả mặt anh ta, vuốt mặt và càu nhàu, văng tục:

                      - Tao cho mày chết ! Đ. m ! Tao cho mày chết !

                      Rồi anh ta tìm mãi cái gì ở chỗ anh ta vừa nổ súng. Chúng tôi hỏi ra mới biết anh ta bắn vào một đàn cá lòng tong. Năm Cà Dom cười:

                      - Xạ thủ nhất hạng bên Tây

                      - Hạng nhì bên ta! Tôi cười và hỏi anh chàng xạ thủ: Đồng chí bắn được mấy con rồi ?

                      - Đâu có được cái khỉ gì đâu ! Trông kìa, nó chạy ngờ ngờ đó, bắn liền mấy phát mà không trong ma nào cả.

                      Năm Cà Dom lôi tôi đi và nói:

                      - Cái thằng khùng.

                      - Sao?

                      - Cán bộ quân sự gì vậy ? Không hiểu qui luật của đường đạn chi cả. Bắn bừa như vậy, viên bạn có thể xẹt trúng mình đầy ! Năm Cà Dom giải thích tiếp:

                      - Hồi kháng chiến chống Pháp, tôi cũng thấy một thằng cha bắn súng cái kiểu đó. Đó là thằng cha Thiếu lăng quân. Y đi cầu. Cá chốt bu lại rỉa. Thế là y móc súng bắn luôn một loạt remington. Viên đạn xẹt lên sượt trán may không thôi chết.

                      Không đợi tôi hỏi thêm, Năm Cà Dom tiếp.

                      - Vì viên đạn vọt ra khỏi nòng súng đỏ như thỏi sắt nung, chạm vào nước gây ra một phản ứng rất mạnh, cho nên đường đạn không còn bình thường mà nó quặt sang hướng khác rất bất ngờ, ông văn sĩ hiểu chưa ?

                      Năm Cà Dom ngẫm ngẫm một lát rồi nói tiếp:

                      - Cũng như bây giờ mình đang đi tìm cái ăn thơ thẫn dọc con suối này, nếu có thịt nai, thịt heo phía bên phải bên trái thì mình quay ngang ngay, ai can cho lại.

                      Chúng tôi đang đi thì thấy từ trên nguồn có hai người đi xuống. Họ cầm trên tay mấy cái gì giống như tàu hủ cau. Một người vừa bẻ ra từng mảnh và cho vào mồm. Tôi chưa kịp hỏi thì Năm Cà Dom đã hỏi trước:

                      - Cái gì đó, cho tôi thử với.

                      - Cây đái ! Kia kìa ! Thiếu gì đó !

                      Một người chỉ tay vào bụi rậm. Và tiếp:

                      - Hạ xuống mà ăn ! Coi vậy chớ ăn khá lắm. Giống in như cái củ hu cau trong mình.

                      Tôi và Năm Cà Dom nghển cổ cò lên nhìn.

                      Trong lùm rậm vượt lên những thân cây xám suông óng như thân cau, lá cũng giống như lá cau, nhưng nó lại không có buồng có trái. Cả một chòm mươi cây như một bờ cau nho nhỏ ở quê nhà.

                      Tôi biết Năm Cà Dom cũng đang nghĩ như tôi về giống cây rừng này, nhưng Năm Cà Dom không nói chi cả. Anh ta không hay biểu lộ tình cảm về quê hương ra ngoài , trái hẳn với tôi, cái cây ngọn cỏ cái gì cũng làm cho tôi nhớ quê hương lạ lùng.

                      Năm Cà Dom nói phang ngang, có lẽ để gạt phăng đi cái tình cảm trong tôi mà y đoán biết:

                      - Đốn được một cây có mà hụt hơi.

                      - Nhưng muốn ăn thì phải đốn.

                      - Cái gốc cây to quá cụ ơi !

                      - Sao mà to dữ vậy ?

                      - Xem kìa. Tôi trỏ vào bụi rậm. Cái gốc đó làm sao mình hạ cho nổi.

                      Năm Cà Dom nhìn tôi và cười:

                      - Sao cái gốc kia thì hạ nổi ? Nhứt… nhì kéo cưa mà !

                      - Hì hì… anh cũng hiểu rồi, lựa là phải hỏi.

                      - Thì hỏi vậy thôi! Nhưng gốc kia hạ nổi thì gốc này cũng phải hạ nổi chứ.

                      Chao ôi, bây giờ đứng lên ngồi xuống, ngồi xuống đứng lên cũng phải lượng sức mình nữa là chuyện đốn cả một cái cây to tướng như thế bằng lười dao găm to bằng ba ngón tay và lục như trành bằm.

                      Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp.

                      Phải nghĩ xa mà tiết kiệm số khô và muối vừa giật được, chứ nếu chúng tôi biết rõ lúc đi và ngày đến như mọi khách bình thường khác thì lựa là phải tiết kiệm làm chi ?

                      Năm Cà Dom đã lủi vô bụi vạch đường chui vào sát gốc cây và ngoắc tôi:

                      - Vô đây nghiên cứu!! .

                      - Ngửa còn chưa xong nữa là “nghiêng. “

                      -Có khi phải nghiêng, nhưng chính là phải ngửa!

                      - Gì…

                      - Nếu mà cậu làm cha ở dọc đường này thì con cậu sẽ tên là Trường Sơn hả?

                      Tôi giật mình đánh thót:

                      - Cái gì cơ?

                      - Ừ thì cái đó đó!

                      Tôi như bị bấm trúng mạch tim, tôi ậm ờ một chốc rồi trả lời.

                      - Nhưng mà theo luật ô-gi-nô thì không có đâu.

                      Nhưng Năm Cà Dom là bác sĩ. Hắn đâu có dễ gì mà nghe lời tôi phân bua. Hắn nói.

                      - Lần đó thì không sao, đúng rồi, nhưng lần khác thì biết đâu đấy!

                      Tôi lại muốn cãi nữa, nhưng Năm Cà Dom đã nói tiếp ngay:

                      - Tôi nói như vậy là vì ông bạn văn sĩ ơi, có những trường hợp kỳ cục lắm. Người vô Nam hai năm đi chưa tới nơi. Đấy, ông bạn thấy chưa?

                      - Gì mà ghê gớm thế hả?

                      - Ủa, có thật mà. Tôi có quen một thằng bạn. Nó khỏe như vâm.Nó đi vô nam rồi trở ra dắt vợ vào.Nói đúng hơn là nó cõng vợ nó đi luôn. Nhưng đó chỉ là một trường hợp mà cậu không tài .nào làm được. Còn có trường hợp một anh bạn đi hoài không tới. .

                      Cứ hễ nó vô tới khu Sáu là bắt đầu đau, đau nằm đã đời, chữa bịnh không khỏi, cho nên bắt buộc anh ta phải quay ra.

                      Năm Cà Dom kể tiếp:

                      - Nhưng số kiếp long đong, Trường Sơn nặng nợ, cho nên vào không thấu thì lại ra, ra rồi lại đút đầu vào. Mà anh ta thiệt cũng liều. Nhưng kể ra thì cũng không phải là liều, mà vì nhớ nhà nhớ cửa quá sá, chớ ai không biết con đường này là con đường chết. Mà vẫn phải đi. Qua cái chết, tìm cái sống. Thế đó.

                      Thấy ông Cà Dom đi vào triết lý, tôi chêm thêm:

                      - Thiì đúng vậy cũng như chúng mình bây giờ đây, nếu quê hương mình là Lào Kay, Yên Bái thì buộc mình đi sau đít xe tăng mình cũng chơi lại. Dễ gì mình đi ! . . .

                      - Ồ tớ đã nói cậu không có giấu giếm mà ! Tớ đã bảo tớ về đến nơi là tớ nuôi ngựa đua liền ! Đó là nghề của tôi, còn bác sĩ là nghề bất đắc chí. Chớ không bất đắc chí à ? Tôi nói thật, từ ngày tôi biết cầm kim chích cho người ta tới nay tôi toàn gặp những gì đâu, thật khó chịu. Nhất là trên đường này. Cậu xem đó, mổ ruột thừa mà bằng lưới cạo râu. Hỏi chớ thế giới cổ kim ở đâu có trường hợp này ?

                      Tôi lủi vào ngồi với Năm Cà Dom bên cái gốc cây mà Năm định hạ xuống để ăn củ hủ. Tôi hỏi:

                      - Phải kỳ được mình nghe vụ mố ruột thừa bên kia sông Bến Hải đó không ?

                      - Ừ, cái vụ đó chớ vụ nào, anh coi có chết người không ? Nếu anh là bác sĩ, anh lâm vào trường hợp đó thì anh nghĩ thế nào

                      - Nghĩ thế quái nào được. Thôi bỏ đi, bây giờ thì lượng thử sức xem có đốn nổi cái gốc cây này không ?

                      Năm Cà Dom hăm hở rút con dao găm mà Năm đã bao lần khoe là rất bén ra chém hai ba cái liền, rồi năm sáu cái tiếp nữa. Năm Cà Dom nhìn vết chém trên thân cây và lắc đầu.

                      Năm Cà Dom thở ra và lại lắc đầu.

                      - Không được.

                      - Sao ?

                      - Thử đốn vài nhát rồi biết.

                      Tôi nhìn vết chém, rồi sờ vào đó. Vết chém như vết trầy trên da bị gai quào. Nó cứng như gốc cau.

                      Rồi Năm mau mau lủi ra. Tôi cũng lủi theo. Tuy không được gì nhưng rất mừng. Thà nhịn còn hơn phung phí sức lực với gốc cây này. Đâu còn sức để mà phung phí. Ở đây thiếu tất cả. Chỉ có một cái thừa. Đó là tật bệnh, đói khát.

                      Chúng tôi trở ra bờ suối thả xuôi về. Tôi bỗng nom thấy một dáng gầy lóm thóm đi với bộ chân chằng hiu. Và đặc biệt mớ tóc bạc trắng như bông. Tôi gọi:

                      - Hoàng Việt !



                      Hết Chương 11 - Xem Tiếp Chương 12
                      sigpic

                      Comment


                      • #12
                        Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                        Chương 12


                        (Độc giả nam nữ thân mến ! Tôi viết những dòng này với lòng yêu mến chàng nghệ sĩ tài hoa của đất Sài Thành ra đi kháng chiến chống Pháp đầu năm 1946. Có lẽ ngày nay vẫn còn đôi người yêu nhạc còn nhắc nhở tài danh Lê Trực đã từng làm rung lên hàng vạn trái tim nam thanh nữ tú bằng tiếng đàn son trẻ của Lê Trực đã hiện lên trên ngũ tuyến biểu của khúc ca “Tiếng Còi Trong Sương Đêm” như những cánh bướm say tình. ..

                        Tôi đã vượt Trường Sơn cùng với Hoàng Việt tức Lê Trực xưa của đất Sài Gòn. Hôm nay cả Hoàng Việt lẫn Lê Trực đều đã nằm im dưới đất ở một miền nào không rõ địa danh, nhưng có lẽ người yêu nhạc vẫn còn giữ lại cái dư âm của “Tiếng Còi Trong Sương Đêm ” như một kỷ niệm u buồn.

                        Vậy có thể những ngày cuối cùng của chàng nghệ sĩ mà tôi sẽ ghi lại trên con đường khổ ải kia, sẽ không đến đỗi làm mất thì giờ của độc giả.)

                        Đích thị là anh ta rồi ! Hoàng Việt quay lại.

                        Hoàng Việt gọi tên tôi, rồi phá lên cười. Tiếng cười của chàng nhạc sĩ vẫn tếu lại vừa châm chọc.

                        Hoàng Việt nhìn thẳng vào tôi và Năm Cà Dỏm đang đi tới và nói:

                        - Chà chà! Cái bụng teo là trông thấy. Thu vô mấy nấc dây nịt rồi vậy ?

                        - Mới có vài nấc thôi !

                        - Vài mà mấy?

                        - Tức là từ hai tới ba…!

                        - Khỏi tập thể dục he .

                        - Còn anh cái bộ bánh chè còn khua hết?

                        Rồi chúng tôi hỏi nhau ngay về tình hình của đoàn:

                        - Anh nằm lại đây hôm nào ?

                        - Nếu so với cậu thì bằng nhau.

                        - Bằng nghĩa là sao ?

                        - Nghĩa là tôi đi trước nhưng rồi cậu cũng bắt kịp chớ sao ! Nghĩa là trong lúc cậu nằm thì tôi đi, còn lúc cậu đi thì tôi lại nằm.

                        - Còn đứa nào ở lại với anh nữa không ? Tôi lo ngại hỏi.

                        - Không! Chúng nó đi mất mẹ hết rồi. Đứa nào thấy mình đau, cũng lẩn đi hết. Ở lại mần chi với thằng già này ? Ở lại để khiêng để vác à ?

                        - À,quên nữa !

                        - Sao?

                        - Thằng Lâm còn khóc dọc đường không?

                        - Hôm nay nếu cậu gặp lại nó chắc cậu sẽ không nhìn ra nó. Nó còn bằng con nhái bầu thôi !

                        - Anh ở đâu ?

                        - Ở đằng kia kìa.

                        - Quăng ” mấy cái tựa ” thì tới !

                        - Không xa đâu ! Đi giỏi thì tới trước mặt trời, đi chậm thì sau thì tới sau mặt trời.

                        Hoàng Việt nói với giọng bắt chước người Thượng. Chúng tôi nhại lại cái câu công thức của những anh giao liên người Thượng mỗi khi anh ta bị khách gạn hỏi bao giờ thì đến, mà cười xòa với nhau.

                        Hoàng Việt hỏi.

                        - Miss Thu ở đâu?

                        - Ở với “moả”.

                        - Ui cha cha, tài tử giai nhân mê mệt he!

                        - Ghé tụi tôi chơi, anh !

                        - Cậu thiệt không hở, buông cái này bắt cái khác !

                        Rồi chúng tôi dắt ông bạn nhạc sĩ về lều.

                        Lúc bấy giờ Năm Cà Dom mới đến trước mặt Hoàng Việt:

                        - Nhớ tôi không, ông bạn Lá Xanh ?

                        Hoàng Việt chớp chớp mắt nhìn Năm Cà Dom. Năm Cà Dom cười:

                        - Ông bạn đi Tây đi u nhiều quá rồi quên hết anh em.

                        Hoàng Việt vẫn nhìn Năm Cà Dom mà lặng thinh.

                        Tôi xen vào:

                        - Năm Cà Dom!

                        - À ạ…Năm Cà Dom!

                        Hoàng Việt như vớ được một đầu mối trong ký ức, nhưng nó hãy còn mơ màng chưa phăng ra gốc được.

                        Hơn nữa trên con đường này đầu óc minh mẫn của con người bị kí-nín nhuộm vàng đâu còn sáng suốt mà nhớ nổi những kỷ niệm của thời kháng chiến chống Pháp đã lộn xà ngầu cùng với nhữngsự việc mới như một mớ xà bần.

                        Năm Cà Dom trầm tĩnh và hóm hỉnh hỏi nhà soạn nhạc:

                        - Anh có nhớ lúc 307 xuống miền Tây’và chúng tôi gặp anh ở Ô Môn không nào?

                        - À tôi có xuống Ô Môn một vùng gạo trắng nước trong của miền Tây Nam Bộ. Cảm tình lắm.

                        - Rồi kế đến chúng tôi đánh đồn Tây ở Bảy Ngàn.

                        - Vâng, chính nhờ trận đánh đó, tôi viết bài “Đêm Mưa Dầm”.

                        - Rồi sau đó chúng tôi xuống vùng Cà Mau, Bạc Liêu, đánh tàu ở Kinh Nhật Nguyệt.

                        -Trận đó… Hoàng Việt bỗng kêu lên vỗ đánh bốp vào bắp đùi:

                        - Tôi nhớ ra rồi. Kinh Xáng Nhật Nguyệt. Trận đó tôi nhờ anh mang cái ” ba-lô-ma ” của tôi phải không ! Ôi chao ! Thiệt là gặp lại anh bất ngờ. Ừ ừ, có những người chiến hữu mình tưởng đã chết mất từ lâu, chẳng ngờ còn sống gặp lại mình.

                        Hoàng Việt tiếp:

                        - Trận đó, mình bị Tây rượt nột quá mà trước mặt thì con Kinh Nhật Nguyệt rộng mênh mông còn mình thì toàn “lội chó. ” Thế mới biết tài Năm Cà Dom. Gớm thật.

                        Hoàng Việt nói với tôi:

                        - Sông rộng thế mà anh ta một tay cầm ba khẩu súng trường giơ lên, một tay bơi xốc đứng.

                        Tôi cười:

                        - Vì thế mới có danh hiệu Cà Dom.

                        Hoàng Việt ngoặt sang ngay vấn đề ăn uống:

                        - Này, các cậu ăn uống thế nào ? Ủa Miss Thu đâu rồi ?

                        Tôi đáp:

                        - Tụi tôi vừa mới cướp giật được một mớ cá khô. Anh còn gạo không? Đem lại đây nấu cơm, còn thức ăn thì tôi bao cho một bữa.

                        - Bao có lủng không đó !

                        - Không sao đâu, cứ tự nhiên như một vị “khách… không mời mà đến. “

                        Hoàng Việt vui vẻ:

                        - Nhưng đãi món gì mới được chớ ?

                        -Thịt bò bảy món được không?

                        - Chà ! Dân Sài Gòn hả ông bác sĩ ?

                        - Không, Hóc Môn!t Còn anh ?

                        - Sài Gòn chánh cống con nai chà !

                        Hoàng Việt lại vui vẻ:

                        - Bỗng nhiên ông bạn làm tôi thèm rỏ dải vì cái món thịt bò đặc biệt đó. Kỳ thật, cái thằng cha này.

                        Hoàng Việt lên võng của tôi ngồi đu đưa. Và cười như nắc nẻ:

                        - Hay thiệt! Ở giữa chốn này mà nói chuyện thịt bò bảy món thì vui thật – Hắc hắc… chỉ tiếc cái là không có thực thôi…

                        Hoàng Việt là một con người hồn nhiên. Sống trong khung cảnh nào cũng vui vẻ bô lô ba la như vậy.

                        Hoàng Việt là một nhạc sĩ có tài, nếu không nói là nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Văn Cao đã ngợi khen anh chàng này khi anh ta đi học nhạc ở ngoại quốc về và cho biểu diễn bản nhạc giao hưởng Quê Hương ở nhà hát lớn Hà Nội. Cộng sản cũng thừa biết rằng anh chàng này có tài, nhưng vẫn bạc đãi anh ta như thường.

                        Một cái anh chàng mà sáng tác nổi một bản giao hưởng (symphonie) như thế đâu có phải là có nhiều, mà là hiếm có, chưa có từ trước tới nay ở xứ Cộng sản miền Bắc.

                        Ấy vậy mà… khi về Nam, Hoàng Việt cũng quảy ba lô mang dép râu lội Trường Sơn như đám cá kèo lóc nhóc.

                        Hoàng Việt cũng lãnh một lít muối, một lon khô, một túm thuốc và quần thô áo vải nhúng nước, ướt mưa, nặng như sắt !

                        Vậy mà Hoàng Việt không thắc mắc chi cả. Cái lốt nhạc sĩ, anh ta quẳng đi qua một bên, làm một người Nam Bộ tha hương lâu ngày, nay được dịp may trở lại quê hương, bất chấp mọi việc. Trong lúc đó thì không thiếu chi những vị dây mơ rễ má với các ông lớn, nhờ chạy cửa sau mà được đi ” mé bay. “

                        Các bạn cứ thử nghĩ xem, một con người như vậy mà lại mang bị gậy lội Trường Sơn. Trong lúc người ta luôn luôn bô bô cái mồm đề cao văn nghệ hết mức (để khai thác khả năng phục vụ chánh sách Đảng) .

                        Anh ta đi như một thằng lính tải, lẫn trong đám vô danh. Nhưng không riêng gì anh Hoàng Việt mà cả bọn ” kỹ sư tâm hồn ” ma khác chúng tôi, anh nào anh nấy cũng thế thôi.

                        Hoàng Việt ốm tong ốm teo, một người Việt Nam loại bé, chỉ có cái hồn nhiên và mái tóc bạc là cái hấp dẫn nhất trong người anh. Ngoài ra thì còn mấy ngón tay nhuộm nhựa thuốc vàng cháy.

                        Anh ra đi phấn khởi hăng hái thực sự, vừa đi vừa cười nói râm ran, cười như nắc nẻ. Anh vui vẻ nói oang oang lên: “Tao về tới nơi thì năm sau tháng này chỉ Bảy tụi bây (tức vợ anh) sanh một thằng con trai đặt tên là Lè Tương Phùng ! “

                        Anh đi dọc đường gặp cái gì cũng lượm, và có một sự giải thích rất hợp lý nên anh tự cho phép mình nhặt tất cả những thứ ấy gắn vào ba lô. Anh nhặt cái hộp lon thi bảo: “đây là một dụng cụ toàn năng dùng vào chuyện gì cũng tốt cả, múc nước, nấu cơm, ca uống nước, dụng cụ nhạc! “

                        Anh nhặt một sợi mây với sự giải thích: “bỏ sẵn trong ba lô đó có nặng bao nhiêu đâu, khi cần, nửa đêm mắc cái tăng quờ đâu ra!”

                        Anh nhặt một cái mẩu ni lông thì cho rằng “nó sẽ đắc dụng vô cùng . Tụi bây cứ quen ngồi trên ba lô hỏng đồ đạc hết ! ”

                        Cho nên cái ba lô của anh phình to hơn người anh và đầy râu ria phụ tùng lóc cóc leng keng ở bên ngoài. Vậy mà còn những thứ khác không thể dồn hết vào ba lô phải mượn đám thanh niên mang dùm. Cái áo ni lông hai da không biết anh mua được ở đâu chứ Hà Nội thì không có bán. Anh mang về cho thằng con trai. Cũng may là cái áo mất dọc đường chứ đem về cho thằng con trai thì chắc nó càng thấy phụ tử thâm tình .

                        Cái Radio của ông thầy dạy nhạc anh ở Bungarie. Cả hai thứ này đều thừa nếu thãi ở Sài Gòn nhưng tội nghiệp anh đi xa Sài Gòn lâu quá anh muốn đem về cho con một chút tình cha. Ngoài ra còn cái băng nhạc bài “Quê Hương Giao Hưởng” của anh. Nhưng cậu mang dùm lại sốt rét ác tính chết dọc đường. Cậu này là họa sĩ tên Nguyễn Văn Núi.

                        Đấy rành rọt chi tiết về một con người mà tôi quen không nhiều chứ ít ra cũng hai mươi năm.

                        Cho nên gặp lại Hoàng Việt tôi rất mừng không ngần ngại đãi thức ăn cho anh (còn cơm thì tự túc) một cách thẳng thắn như thế đó.

                        Chúng tồi nấu cơm. Hoàng Việt cũng về lo nấu cơm để mang lại. Năm Cà Dom hỏi tôi:

                        - Thằng cha có tài vậy mà bắt đi bộ như mình à ?

                        - Ai?

                        - Hoàng Cò chớ ai!

                        - Suỵt, đừng gọi Hoàng Cò, ổng la dữ lắm.

                        - Sao la ? Việt cũng nhìn Cò vậy chớ khác gì ?

                        - Ổng đổi tên rồi.

                        - Tên gì?

                        - Lê Quỳnh.

                        - Tại sao phải đổi?

                        - Vi hai lý do. Lý do thứ nhất là trên đường đời này không ngờ lại có một thằng khác cũng tên Việt đi gần bên cạnh anh hằng ngày mà lại là một thằng xạo, một thằng láu cá vô dụng mà lại hưởng tiêu chuẩn cao hơn anh trong lúc đi đường.

                        - Là cái thằng chó chết nào kỳ cục vậy ?

                        - Là cái thằng Trí Việt đại úy quân đội dốt đặc cán mai mà làm biên tập Điện Ảnh đó. Nó mê con Thu lắm. Nó giả đau nằm lại trạm chờ con Thu để mong nhờ hoàn cảnh rừng núi mà hoạt động có kết quả, nhưng Thu vẫn không yêu như thường cho nền hắn lủi mất rồi. Có thể nay mai anh ta lại gặp mình, rồi tôi giới thiệu cho mà tiếp xúc.

                        - Chao ôi ! Văn nghệ của ông nhiều nhân vật đặc biệt lắm.

                        - Đó, vì thế cho nên cụ Hoàng ta mới thay danh đổi lánh. Nhưng còn một lý do nữa là… cụ Hoàng sợ lộ bí mật.

                        Năm Cà Dom ngẫm ngẫm một cuộc rồi nói:

                        - Đi giải phóng Miền Nam, la om trên đài nghe oai linh hùng vĩ lắm, thế mà trên mặt đất thì lén lút như đi ăn trộm. Đi đâu chẳng dám đi đâu, còn tên họ thì lại đổi hết. Nói chuyện thì xầm xì rỉ tai chằng dám nói to với nhau, giống tuồng bọn móc túi !

                        - Nói bậy cậu !

                        - Đúng vậy chớ, bậy sao được !

                        - Vậy sao cậu còn đi, còn đổi tên ?

                        - Chứ không đi đường nào về xứ được ?

                        - Vậy trên đường đi này cậu lấy tên gì ?

                        - Cà Dom!

                        - Nhưng có ai gọi bằng cái tên đó đâu ?

                        - Bây giờ thì tôi không cần, ai gọi gì cũng được, miễn tôi đi lọt vô Nam thì thôi.

                        - Đôi khi phải chịu nhục cậu ạ !

                        -Ứ hự!

                        - Tôi đây họ xét đi xét lại, “nghiền úp nghiên ngửa” mất ba năm trời mới cho tôi về đây.

                        - Tôi như cậu thì tôi không về làm mẹ gì. ở ngoài Bắc như các cậu, viết văn ngồi mát ăn bát vàng tà tà, về làm mẹ gì cho nó mệt. Ở đâu mà viết chẳng ra văn ?

                        - Cậu nói dễ ăn quá !

                        - Chớ sao.

                        Tôi cười:

                        - Cuộc đời của mình, mình không còn chủ động nữa, mà do ai đâu quyết định. Tôi bực mình lắm nhưng mà biết làm sao ? Có lần tôi đã nói thẳng với thằng cha tổ chức cơ quan: nếu kỳ này mà không cho tôi về, là tôi cưới vợ. Và khi tôi đã cưới vợ rồi thì tôi không về nữa. Có làm gì tôi cũng không về.

                        Năm Cà Dom cười khì khì:

                        - Trung thành với rau muống luộc dữ vậy ? Rau muống quấn chân hả ?

                        - Không phải vấn đề giản đơn là rau muống quấn chân nhưng đây là vấn đề nhân đạo.

                        - Nhân đạo làm ..?

                        - Nhân đạo đối với con người, với mình.

                        - Nghĩa là sao chớ ?

                        - Cậu có nhìn thấy ở đâu có tình trạng như nước mình không ?

                        : Nhưng mà sao mới được chớ ?

                        - Đất nước chia đôi, chồng Bắc vợ Nam ! Vợ trong Nam chờ đợi mười mấy năm trời, chồng ngoài Bắc cũng lóng ngóng mười mấy năm trời, kêu trời không thấu.

                        Năm Cà Dom cười:

                        - Khặc khặc ? Vì thế mới có câu thơ “đất Bắc anh gìn con tí ngẳng, trời Nam em giữ cái bề hê” là vậy đó.

                        Tôi không để ý tới sự pha trò của bác sĩ Cà Dom mà tôi quạu thực sự Tôi nói:

                        - Giữ với gìn cái con mẹ gì. Đàn bà mà bỏ đi mười lăm, mười bảy năm thời trẻ trung thì còn gì nữa.

                        - Chưa tới mười lăm năm, mới có mười bốn năm thôi, 1954-1967 mà !

                        Tôi nói:

                        - Bây giờ thì mới mười bốn năm thôi, chứ tương lai thì vô hạn định. Trời ! Vậy mà hồi được người ta đem vợ con theo lại không cho.

                        - Để tàu rộng người ta chở lúa ra Bắc chớ !

                        Tôi nói tiếp:

                        - Anh có thấy cảnh chia ly đó không ? Cha con không biết mặt nhau. Vợ chồng chờ nhau từ tóc xanh đến tóc bạc! Còn chờ làm gì?

                        - Ý, có nghĩa lắm chớ. Chờ ổng về bả ngoáy trầu cho ổng ăn!

                        Tôi lại tiếp:

                        - Cho nên tôi nhất định không lấy vợ Bắc, mà chờ ngày về Nam. Nhưng hễ không cho tôi về, tôi cưới vợ rồi thì tôi không về nữa.

                        - Cho rau muống quấn chết luôn.

                        - Nhất định, chớ có vợ con rồi về Nam bỏ vợ bỏ con mình ngoài đó mà chịu được sao ?

                        Năm Cà Dom cứ nói quát ra:

                        - Úy chu choa, anh Nam Kỳ mà lấy Bắc Kỳ thì đẻ con khôn nhất trần đời. Tôi thấy rất nhiều rồi đó !

                        Năm Cà Dom ngẫm ngẫm một chốc rồi nói:

                        - Nói đùa vậy chớ tôi có khác chi ông bạn, gần bốn mươi tuổi đầu rồi còn “solo” đây không thấy sao. Đi bướng về Nam để có mà “hốt ổ” cho kịp kẻo tụi nó về trước chúng nó hốt hết.

                        - Anh Hoàng Việt làm gì mà lâu thế nhỉ ? Cơm mình chín từ lâu rồi mà ảnh chưa xong à ?

                        Tôi bảo:

                        - Thôi cậu ở nhà tôi đi tìm lão coi. Cái lão này gà mờ lắm chỉ được cái tài “Tiếng Còi Trong Sương Đêm “ thôi. Còn ngoài ra thì vô tích sự lắm !

                        Rồi tôi đi tìm Hoàng Việt.

                        Kể thì gặp lại ông cụ non này cũng vui. Có người mình nói chuyện nhưng có một cái khổ khác cụ thể hơn là anh bạn yếu quá. Đi chung lại mệt cho mình. Đã phải dìu cô Ba Lê rồi, lại đèo thêm một ông Giao Hưởng nữa sao xuể ?

                        Hoàng Việt chiếm đóng một nơi rất hiểm hóc. Có tảng đá, có hang và có cả hai thân cây rất vừa làm để mắc võng. Tôi gọi:

                        - Anh Hoàng!

                        Hoàng Việt quay trở lại giụi mắt nhìn tôi, nước mắt nước mũi ròng ròng cặp mắt đỏ chạch. Tôi hỏi:

                        - Làm cái gì lâu vậy?

                        - Thì có làm cái gì đâu. Có cái nấu ga-men cơm mà nãy giờ chưa xong chớ đâu có làm cửa làm nhà gì.

                        Tôi nhìn vào bếp của anh. Củi leo heo vài cành. Mà của đáng tội toàn củi mục. Cho nên nhóm không cháy. Trong bếp chỉ có ít lá tre còn ga-men cơm thì chưa có hơi tí nào cả.

                        Hoàng Việt lại lắc đầu:

                        - Lửa gì mà nhóm mãi không cháy he?

                        Thôi xách cái cà mèn lại đằng tôi, tôi nấu cho. Nấu giờ này là nấu trộm mà anh cứ giềnh giàng mãi như vậy giao liên nó bắt gặp nó chọc lủng nồi của anh ngay !

                        - Ừ nhỉ ! Nhưng mà muốn đi đằng đó thì tôi phải cuốn hết đồ đạc quảy đi chứ nếu để ở nhà thì nó “mượn không thời hạn” hết ráo.

                        - Ừ thì đi.

                        Thế là Hoàng Việt quảy cả tăng màn ba lô đi theo tôi. Trở về đến nơi thì nghe tiếng Thu và Năm Cà Dom cãi nhau léo nhéo.

                        Vừa trông thấy tôi, Năm Cà Dom đã vọt miệng nói ngay:

                        - Mất mẹ nó hết thức ăn rồi.

                        -Thức ăn gì?

                        - Khô cá, khô voi, muối.

                        - Thế à ? Tôi tâng hẩng, đứng chết trân, chẳng hiểu ra làm sao cả Thật tình tôi không hiểu ra sao cả.

                        Tôi hỏi Thu:

                        - Chớ còn em đi đâu ?

                        - Thì em nằm bên võng em ngó sang.

                        - Ngó sang sao nó ăn cắp mà không biết ?

                        Năm Cà Dom đỡ cho Thu:

                        - Ngó sang nhưng ngó lâu quá thì mỏi mắt… mỏi mắt rồi thì mí mắt sụp xuống nhắm lại luôn. Thế đó.

                        Hoàng Việt cười khè khè:

                        - Thật là tài dách he ! Giữa ban ngày mà…

                        - Thôi cũng được. Vậy mình đãi ông bạn mình bằng món bình thường. – Năm Cà Dom vui vẻ nói- Gặp nhau đây liên hoan cái mồm thôi cũng đủ vui rồi.

                        - Nào dọn ra đi ! Tôi bảo.

                        Tôi cố làm ra vẻ tự nhiên để lướt qua nỗi đau đớn trong lòng. Mất bấy nhiêu thức ăn đó trên đường này bằng người ta mất cả lạng vàng trong hoàn cảnh binh thường. Có khi còn hơn. Tôi dọn cơm ra. Nói là dọn vậy, nhưng có cái gì đâu, ngoài mớ thịt kho mặn mà tôi còn giữ được một phần, rất kỹ, dù thèm cách mấy cũng không mang ra ăn, định bụng để khi nào đau đắng miệng mới dùng tới.

                        Nhưng hôm nay, tôi mang ra “đãi” Hoàng Việt là vì cụ Hoàng đã từng đãi tôi nguyên cả một cái lạp xưởng lúc đi được vài tuần lễ.

                        Một cái lạp xưởng ở giữa Trường Sơn, đó là một điều vô cùng bất ngờ, không thể đào bới ra đâu được. Ăn cái lạp xưởng đó, tôi tưởng đời tôi không bao giờ còn được hưởng cái gì, món gì, vật gì ngon lành, thú vị, khoái chí hứng thú hơn nữa.

                        Bây giờ nhìn lại cụ Hoàng tóc bạc trắng dựng đứng lên như bọt suối mà đôi má thỏn, cái cầm nhọn hẳn xuống như một giọt chấm than, mà cái mồm hốc hác không ngậm kín lại được cứ phô hai hàm răng đầy nhựa thuốc lá vàng ệnh ra, tôi nhớ cái lạp xưởng lúc trước vô cùng.

                        Giá bây giờ mỗi đứa được một cái thì chắc tất cả những nét thảm the đó sẽ biến đi .

                        Hoàng Việt sẽ lại là anh chàng nhạc sĩ tuy có tuổi nhưng vẫn bảnh trai, nho nhã, các cô nàng ở thủ đô nom thấy phải mê vì sắc kính vì tài. Nhưng bây giờ thì không có lạp xưởng cũng không có cái gì cả, cho nên Hoàng Việt nhạc sĩ số một của Nam Bộ kháng chiến và người nhạc sĩ đạt tới đỉnh cao nhất của nền âm nhạc Cộng sản ở xứ Bắc Kỳ, trông thiệt là gớm ghiếc quá !

                        Cái đầu chờ vờ như con cá lóc ghe. Tay chân tóp lại và dài ngoẳng như tay vượn, quần áo rộng thùng thình. Ấy vậy mà vẫn còn tếu, tuyên bố tháng này năm sau chị Bảy mày,. . . nọ kia ! Thấy tôi giở lon kho lưng đến phân nửa, Hoàng Việt kêu lên:

                        - Cậu phí quá! Chưa gì mà đã hết từng ấy hàng chiến lược rồi.

                        - Chưa gì là sao anh Bảy ?

                        - Tức là mới được đâu gần gần… nửa đường thôi.

                        - Thế à.

                        -Thế à thế ừ gì nữa.

                        - Thì cho là nửa đường đã qua rồi. Mình hết một nửa lon kho mặn cũng là hợp lý chứ sao.

                        - Cái “nửa”sau này bằng ba cái “nửa” trước cậu ạ. Đừng có dốt quá như vậy. Bây giờ cậu nhớ lại xem. Nếu con Phương còn đi chung với cậu thử xem cậu còn có dắt vô rừng rậm như lúc mới đi nữa không?

                        Tôi nháy mắt cụ Hoàng bảo có Thu. Thu đang nấu cơm đàng kia. Hoàng Việt trừng mắt nhìn tôi rồi lại gầm lên, tỏ ý hiểu tôi đang có “vấn đề” với cô Ba Lê Thu:

                        - Cũng nữa hè ! Nó kiểm thảo, nó bắt hứa là chấm dứt yêu đương ở trong trường mà thoát ra một cái là cứ thế!

                        Tôi cười:

                        - Chíp ! Con người không có sự đó như cục đất không mặt trời vậy anh Bảy à !

                        - Nhưng mà để cho cặp đầu gối còn nước nhờn mà co vô dãn ra với Nó đóng vôi lại một cái là bỏ mạng !

                        Thấy tôi sớt kho mặn nguyên chất ra, anh Bảy kêu lên:

                        - Ấy chết!

                        - Gì thế anh Bảy ?

                        - Trộn muối vào chớ ăn puya (pur) thế này à ?

                        - Thì lâu lâu mới đem ra đãi khách.

                        - Thôi đừng làm thế, nó phí đi. Để dành lúc đau hãy mang ra xài. Đau trên đường này khổ lắm. Ai lo cho. Chị Bảy cậu mà nó biết tôi đi đường như thế này nó không đồng ý đâu.

                        - Sao anh không xin đi máy bay ?

                        - Máy mẹ tôi chớ máy bay.

                        - Cỡ anh là thừa sức đi mà ! Chớ ông chủ trại cưa Kim Hữu (tức Lưu Hữu Phước ngủ có tật ngáy rầm trời như cưa cây nên anh em đặt ông ta là trại cưa Kim Hữu. Vì khi vô trường đi B, ông thay tên là Kiến Hữu) đi máy bay đó thì sao ?

                        - Ổng là vụ tưởng ! Ổng là người ” có chức , ” cậu hiểu chưa ? – Hoàng Việt nhấn mạnh chữ “có chức ” một cách cố ý. – Còn mình là thằng cán bộ quèn lo mà cuốc bộ cho có. Được về quê đây cũng đã là mang ơn mưa móc và hồng ân của Chúa Thượng rồi !

                        Bữa cơm không có gì đáng kể cả. Cơm xong, Hoàng Việt nấu nước sôi rồi lấy trà ra châm và mời tụi tôi. Hoàng Việt quay sang vui vẻ trò chuyện với Thu, còn tôi và Năm Cà Dom thì đi sưu tầm số chiến lợi phẩm bị ăn trộm.

                        - Sao ? Chân cẳng thế nào ? Hoàng Việt hỏi.

                        - Đau quá anh ơi.

                        - Liệu có đi đến nơi không cô em ?

                        - Chưa biết anh ạ.

                        - Cố mà đi chứ.

                        - Các anh thì nên cố, còn em. . .

                        - Còn em thì không à?

                        Thu lặng thinh.

                        - Tại sao bây giờ em có ý nghĩ lừng chừng như vậy?

                        - Các anh đi về quê, còn em thì càng đì xa quê.

                        - Thế ra em nghĩ rằng quê anh và quê em là hai quê à?

                        - Tất nhiên.

                        -Tại sao? .

                        Nam là một. Bắc là một !

                        - Nam Bắc một nhà mà !

                        - Khi em ở ngoài Bắc, ở tại nhà em thì em nghĩ như vậy, nhưng khi em đi một bước rời Hà Nội thì em lại nghĩ khác ngay.

                        - Sao bấp bênh vậy ? .

                        - Có những cái anh xa rồi anh mới hiểu.

                        - Tại sao vậy ?

                        - Đối với em có những cái như vậy. Ví dụ có khi em múa một điệu rồi, người ta hoan nghênh ầm ĩ, em chẳng thấy gì cả, không biết rằng mình và biểu diễn một tiết mục đặc sắc, mà chỉ gục đầu vào một cô bạn mà khóc, hoặc nếu không khóc thì cứ bàng hoàng lâng lâng không có cảm xúc gì cả.

                        Nhưng sau đó có khi một giời, có khi một tuần, có khi một năm, em nhớ lại cái điệu múa mà mình đã biểu diễn, nhớ từng “phi-guya” một, từng cử chỉ một, cười ngạc nhiên, ngạc nhiên, em không hiểu sao em lại làm được những động tác đó .

                        Thu ngừng lại nuốt ực, rồi tiếp ngay như những ý nghĩ đã đến tràn đầy óc Thu. Thu nói tiếp:

                        - Cũng như khi em ở Hà Nội thì em đâu cớ nghĩ rằng những tình cảm của mình sẽ biến động ra sao khi em phải xa Hà Nội một ngày một tháng hay một năm?

                        Hoàng Việt ngồi thừ người ra.

                        Hoàng Việt cả tôi đều công nhận rằng Thu đúng là một cô gái thông minh, tình cảm rất tế nhị và chân thành

                        .Hoàng Việt cũng có những tình cảm đối với Sài Gòn như Thu đối với Hà Nội. Chính vì thế mà anh mang cái tấm thân còm cõi của anh trên con đường chết tiệt này.

                        Quê hương! Đó là bản giao hưởng thứ nhất cũng là bản cuối cùng của anh. Đó, Cộng sản dùng một con người như Hoàng Việt như thế đó ! Để rồi khi anh chết đi, thân thể tan tành, chỉ còn một chỏm tóc bạc thì ở ngoài Hà Nội làm một cái lễ truy điệu thật to đọc một bài diễn văn tràng giang đại biển,

                        khóc khóc, mếu mếu, còn khi anh ta còn sống thì xem như con chó, đi lang thang trong rừng Trường Sơn không có một tấc sắt trong tay, không có ai giúp đỡ với cái chân què mưng mủ sưng to lên như cái bánh bò. Mỗi lần qua suối ai hảo tâm thì cõng dùm, không hảo thời thôi, ông bạn nhạc sĩ số một đó cứ lội bơi và đi cà lỉa với cái chân què.

                        Hoàng Việt bất thần bảo Thu.

                        - Đâu xăn quần lên coi.

                        - Cái anh này.

                        - Tôi nói thật mà, cô em !

                        - Anh kỳ quá, Hoàng Việt chứ phải Trí Việt sao ?

                        - Ừ thì Hoàng Việt chứ Trí Việt làm sao mà dám bảo Thu làm như vậy ?

                        - Anh kỳ quá hè!

                        - Cha chả, cô em bị lai Nam Bộ rồi đó nhé.

                        - Lai gì?

                        - Lai cái tiếng “hè “đó.

                        Thu ngồi tưng hửng. Hoàng Việt lại cười:

                        - Có lẽ cô đã Nam Bộ hóa hồi nào cô không hay phải không ?

                        - ….

                        - Bây giờ trong máu cô có chất Nam Bồ rồi đấy nhé.

                        Thu nhìn xuống đỏ rừ đôi má.

                        Hoàng Việt cười:

                        - Cho anh Bảy xem cặp chân thần kỳ của cưng chút cưng !

                        - Thôi mà anh… kỳ cục quá hà !

                        - Anh Bảy muốn xem xem vô Sài Gòn Thu còn múa “ba lê” được nữa không ? Hay vô tới đó rồi chỉ còn “lết, ba lết ? ” hả ? Cha chả… cặp chân của Thu đem mà mài trên đá tai mèo này lắm lúc tôi cũng xót ruột quá. Còn cái khỉ khô gì mà lê với lết ?

                        Thu bỗng òa lên khóc, úp mặt vào hai bàn tay.

                        - Úy chết. Sao vậy Thu ? Kìa, coi kìa.

                        Hoàng Việt có tính hay trêu đám con gái, mà trêu rất nghệ thuật, cho nên có đứa bị trêu thì cười lăn ra mà thích thú còn Thu thì khóc òa lên.

                        Hoàng Việt không ngờ Thu lại khóc như vậy. Hoàng Việt định đùa chơi chút thôi chớ đâu có ngờ đó chính là tâm sự của Thu mà lâu nay tôi không dám đụng vào.

                        Hoàng Việt hơi hoảng, cố vuốt ve Thu:

                        - Nói vậy chớ đâu có sao. Chân cẳng có rêm chút đỉnh vô trong đó mình tẩm bổ vài… tháng thế là đâu lại vào đấy, có gì đâu. Rồi thì đôi má căng lên, đôi chân tròn như ống chỉ, Thu lại lên sân khấu với đôi chân ngà ngọc chớp lóe như sao sa. . .

                        Thu vụt vén ống quần lên và nói:

                        - Sao sa đây này, anh xem đây này.

                        Hoàng Việt nhìn đôi chân của cô con gái mà Hoàng Việt đã quen mắt nhìn ngắm trong lúc cô nàng biểu diễn cũng như đôi lần lội suối trên đường này.

                        Cặp chân gầy đi, và đầy vết sẹo thâm thẩm, chẳng khác da con lươn bông.

                        Hoàng Việt quay mặt đi lắc đầu, tang thương quá. Nghệ thuật gì nữa. Đôi chân đã trở nên một nỗi khố tâm cả cho Hoàng Việt.

                        Hoàng Việt thấy ngồi lâu không ổn cho nên chàng nhạc sĩ ròm quảy đồ lề rút lui với cái chào của một bá tước gửi lại công chúa Trường Sơn. Chàng gập mình xuống ba mươi lăm độ, đặt bàn tay phải trên tim, và lại giơ lên một cách cung kính. Xong chàng ba chân bốn cẳng chạy tìm tôi mà kể lể hết mọi sự tình. Rồi chàng nói:

                        - Tôi lỡ tôi đụng nhằm trái mít ướt rồi. Nó đang sút củi đổ tòe loe ra đó. Vê mà gom mà hốt vô!

                        - Cái gì vậy anh?

                        - Nó khóc hu hu đằng đó.

                        - Sao vậy ?

                        - Thì có gì đâu, tôi thấy cặp chân của cô ta thảm hại quá…

                        - Thôi chết rồi. Cái vết thương của người ta mà anh đụng vào mần chi ?

                        Hoàng Việt cười khè khè.

                        - Vết thương “nòng” hả ? Vết thương mà hóa công đã rạch thì kim chỉ phàm cũng khó nổi vá may !

                        - Ở đâu mà ông nhạc sĩ lại gẩy Điệu Đàn Muôn Thuở của Lê Văn Trương vậy ?

                        - Khè khè. Thôi, tớ về nhé. Thỉnh thoảng rồi tớ sang.

                        Tôi trở về lều. Thu vẫn còn ngồi khóc. Tôi biết tính Thu. Ứccmà khóc cũng có, nhưng giá đáng khóc vài giọt thì đủ rồi, nhưng lại khóc đầm đìa ra cho có vẻ bi đát thêm lên. Mà nếu tôi có an ủi dỗ dành thì nàng lại làm già nên tôi hỏi sang chuyện khác, xoáy vào cái khuyết điểm của Thu vừa rồi:

                        - Sao em lơ là để cho mất khô và muối hết vậy ?

                        - Em có ngờ đâu?

                        - Không ngờ gì, đã bảo là nó ăn cắp như rươi mà ! Chứ em không thấy bao nhiêu vụ trước mắt đó à ?

                        Thu lặng thinh.

                        Tôi biết như thế là vừa đủ để đắp một cái đê ngăn con sông Hồng nước mắt cho nên tôi ngưng lại ngay chớ nếu xoáy sâu vào thêm nữa thì nước mắt lại trào ra và cái đê nọ lại vỡ ngay vì một lý do mới.


                        Hết Chương 12 - Xem Tiếp Chương 13
                        sigpic

                        Comment


                        • #13
                          Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                          Chương 13


                          Tôi và Năm Cà Dom đi đốn nứa cất hẳn một cái nhà bếp con con để trời mưa khỏi ướt củi. Nóc nhà lợp cả bằng những thanh nứa bổ làm đôi, cứ úp vào nhau, cái sấp cái ngửa như lợp ngói ống.

                          Một hôm Năm Cà Dom mày sáng kiến làm cơm mẽ. Tôi nói: thế thì hay quá. Mỗi bữa ăn mình nhín lại vài muỗng. Làm được một ga-men cơm mẽ thì mình sẽ tìm lá nấu chua. Như vậy sẽ có món ăn lạ miệng, ăn ngon hơn.

                          Nhưng Năm Cà Dom bác ngay cái sáng kiến của chính mình nêu ra. Anh ta nói:

                          - Nói đùa vậy chớ không được đâu!

                          - Tại sao?

                          Anh ta giải thích rằng muốn làm mẽ thì phải có một ít cơm làm cốt cán, rồi bỏ cơm nguội vào đó cho nó ăn, nó mới tiết ra cái chất chua đó được, chứ nếu chỉ có cơm nguội không thôi thì bỏ vào ga-men chỉ thu thập một mớ cơm thiu cơm thối chớ không có con mẽ được.

                          Chỉ có vấn đề con mẽ mà hai đứa cãi nhau hằng mấy tiếng đồng hồ. Rồi thỉnh thoảng mấy ngày sau, tôi lại khui ra mà “tranh luận” nữa. Tôi nói với Năm Cà Dom:

                          - Tôi nhớ hồi ở nhà, người ta cứ rắc cơm nguội vào cái thố thôi mà.

                          - Nhưng mà người ta có sẵn cốt cán trong đó rồi, bỏ cơm nguội vào nó mới ăn hiểu chưa ông anh. Cứ “cải giống” hoài.

                          Tôi ngồi thừ ra mà nhớ cá trê trắng tát đìa, con thật to thịt nó rất dai, khứa nó ra, hoặc nướng nguyên con, chốc chốc lại phết mỡ hành lên, thơm bát ngát.

                          Chao ôi!

                          Tôi kể cho Năm Cà Dom nghe cái món ăn đặc biệt đó ở quê tôi. Năm Cà Dom lắc đầu:

                          - Thôi đi cha, đừng có kích thích cái “thú tính” đó, tôi nổi điên lên tôi mần thịt cô văn công của cậu tôi nướng bây giờ đa.

                          Hai đứa cứ ngồi nói mây nói gió như vậy suốt ngày, không có chuyện gì làm, mà không dám ngủ vì ngủ thì sợ sốt.

                          Bỗng một hôm có chuyện xảy ra:

                          Hôm ấy, chúng tôi đang ngồi tán gẫu bỗng có một cậu có vẻ là giao liên, từ đâu không biết, xăm xăm đi vào chỗ tôi và hỏi:

                          - Có cô nào văn công ở đây không?

                          - Không có ai là văn công hết. – Thu vọt miệng đáp.

                          - Ủa, sao kỳ vậy cà?

                          - Có cô văn công ở đằng kia kìa. – Thu trỏ tay bâng quơ thế là cậu chàng lủi ra, không chú ý nhìn ai hết.

                          Cậu ta vừa đi khuất thì tôi hỏi Thu:

                          - Sao em trả lời như vậy?

                          - Lộn xộn lắm anh ơi.

                          - Sao em biết là lộn xộn? Biết đâu chừng ngoài trung ương cho xe hơi máy bay gì vô rước em.

                          - Xùy! Còn lâu!

                          Tôi cười, Thu tiếp:

                          - Hôm anh đi lãnh gạo, ở nhà em có gặp một cậu bộ đội tới đây nói chuyện với em rất lâu. Anh ta là cần vụ của một ông tướng đóng ở gần đây.

                          - Ông nào?

                          - Cái ông tướng mà viết truyện ngắn đó, anh biết mà!

                          - Ai kìa?

                          - Cái lão phê bình cuốn Mười Năm của Tô Hoài rách mướp ra đó!

                          Tôi vỗ đùi kêu lên:

                          - Thế à? Thế ông ta cũng vô đây à? Anh biết rồi! Ai chớ ông đó thì anh có thấy mặt!

                          - Ông ta văn võ song toàn anh nhỉ?

                          - Võ của ông ta thì anh không biết chứ còn văn thì không “toàn” đâu. Ông ấy viết còn nặc mùi chánh ủy.

                          Thu nói:

                          - Em không rõ, nhưng em đoán là ổng mời em vô hát múa cho mấy ông bự xem chớ gì! Em không có đi đâu. Em ghét lắm. Họ có coi mình ra cái gì.

                          - Sao kỳ vậy?

                          - Em cũng không biết tại sao.

                          - Sao lại không biết?

                          - Hình như những người đó họ xem nghệ thuật với cặp kính kỳ lạ!

                          - Thế à?

                          - Em đã bị rồi mà.

                          - Tệ thế!

                          - Ừ thì như vậy đó. Cho nên bây giờ em có ấn tượng không xoá được. Là: hễ có mấy ông to xem thì em diễn không được.

                          Một buổi sáng, giao liên cho hay:

                          - Chuẩn bị lên đường.

                          Bọn tôi mừng lắm, nhưng khi nghe rõ lại thì chỉ có các vị rẽ xuống Bác Kế mới đi , còn ai đi Ông Cụ thì cứ yên trí nằm chơi đó cái đã. Chưa có hy vọng gì nhấc chân lên nổi đâu. Năm Cà Dom nói với tôi ngay:

                          - Đổi đồ.

                          - Đồ gì mà đổi?

                          - Ậy! Cứ nghe tôi. Cậu soạn quần áo rồi đi theo tôi.

                          - Có sóc hoặc buôn à?

                          - Có! Có!

                          - Người gì? Bana hay Rađê?

                          - Người gì thì người, miễn có đổi cho cậu thì thôi.

                          Tôi nghĩ: bây giờ lại gặp may nữa rồi! Nhưng nghĩ đến chuyện vô sóc thì ớn quá đi mất!

                          Chập sau, tôi đi theo Năm Cà Dom. Ông bác sĩ đi trước với vẻ cương quyết lạ lùng. Đang đi, bỗng ông rẽ sang trái và lom khom chui tọt vào lùm cây và bảo:

                          - Mấy cha nà sắp rẽ xuống Bác Kế, tôi mới làm quen. Họ còn nguyên thịt chà bông và thịt kho mặn.

                          Không hiểu làm thế nào mà các chả để dành giỏi như thế. Cũng nên nói thêm một điều lạ lùng ra đây về vấn đề cấp phát thực phẩm cho người đi Trường Sơn. Kẻ đi gấp đôi gấp ba, còn kẻ rẽ xuống Bác Kế thì chỉ đi một tháng là tới, thế mà thực phẩm vẫn lãnh đều. Tuị đi Ông Cụ có cái gì thì lũ đi Bác kế được cái ấy thậm chí nhiều món nhiều hơn tốt hơn của chúng tôi.

                          Đó, cụ Hồ thương dân Nam Bộ chiếu cố chúng nó như thế đó. Bởi thế cho nên mới có sự đổi chác ở dọc đường thế này.

                          Những hình ảnh mà tôi ghi ra sau đây là những hình ảnh vô cùng bi đát cho cái chánh sách cải cách ruộng đất ở Miền Bắc.

                          Đoá như một ông nông dân bần cố hỉ ngồi trên một cái rễ cây ngoằn ngoèo như một con rắn đang cuộn mình lên. Còn một ông nữa ngồi soạn đồ đạc trong ba-lô. Họ đang tiếp tục soạn một số đồ để giản chính hoặc đổi chác với chúng tôi.

                          Tưởng ai đâu, chẳng ngờ đó là một người quen của tôi trước đây. Anh ta ở Cục Lắp Máy ở ngoài bò sông tên là Đoá. Tôi hỏi Đoá:

                          - Anh còn nhớ tôi không?

                          Đoá nhìn tôi một chập rồi nói:

                          - Hơi quen quen!

                          Sự thực thì không quen gì cho lắm nên Đóa không nhớ tôi cũng phải.

                          Đoá vớ lấy cái gậy trúc bên cạnh. Đó là cái chân thứ ba, vừa là cái điếu cày của Đoá.

                          Đoá mang đi từ Hà Nội hai kí-lô thuốc lào. Đoá nén chặt nó vào một cái túi mủ ấn vào dưới đáy ba-lô xem như đó là thuốc tẩm bổ cho Đoá trong lúc đi đường.

                          Vì anh chàng có sắm một cái điếu cày “poọc-ta-típ” tức là cái điếu rất nhỏ có thể giắt gọn trong lưng. Khi cần Đoá lấy ra hút một cách hết sức chớp nhoáng và giắt vào lưng cũng một cách hết sức chớp nhoáng làm cho người bên cạnh không kịp xin.

                          Mặc dù Đoá đã chuẩn bị chu đáo đến như thế, nhưng bợm ghiền vẫn cứ xin một cách “vô ngại”.

                          Cho nên Đoá vứt cái điếu cày đó đi mà chế tạo một chỉếc khác. Đoá làm ngay trong chiếc gậy trúc của Đoá. Có gì đâu, chỉ cần khoét một cái lỗ ở trên đầu chiếc gậy gắn vào đấy một cái nòng con, rồi chế vào đấy vài chục phân khối nước, thế là xong một cái điếu cày.

                          Đoá lấy làm thích thú về sự sáng tạo này. Nó giải quyết cơn ghiền rất thuận tiện, ngay trong lúc đang đi. Như vậy Đoá sẽ không bị chậm trể một bước nào.

                          Và nếu có ai xin thì Đoá bảo gậy mình mắc chống, không thể đưa cho mượn được. Thấy làm như thế có kết quả, Đoá cứ xơi thuốc trong lúc đang đi, còn khi nghỉ xả hơi thì Đoá ngưng hẳn, không hút một điếu nào.

                          Có lẽ Đoá thấy khách đến để dạm hỏi đổi đồ, cho nên mới mang cái “điếu gậy” này ra để mà vừa mời khách vừa biểu diễn. Đoá tra thuốc, châm lửa, rít khe khẽ. Nước bên trong reo lên sòng sọc. Đoá thổi phù một cái, nước bắn nhẹ ra đằng nòng, rồi lại tiếp tục xơi thêm điếu nữa.

                          Thuốc lào của Đóa đựng trong một cái ống tuýp thuốc Dagénan đã tróc hẳn hết sơn. Đoá móc ra một tí tẹo thuốc, có thể đếm được từng sợi. Những sợi thuốc đen bị hai ngón tay tẫm nhựa vàng sậm và sành sõi vê lại thành viên to bằng hạt tiêu. Đoá tra vào nòng và lại bật lửa châm hút.

                          Đoá làm tất cả những việc trên với những cử chỉ thật kỹ lưỡng, không để đánh rơi một sợi thuốc, không để cho cái bật lửa cháy lâu, không để cho liều thuốc cháy sót một tí nào nghĩa là anh ta tận hưởng hoàn toàn cái liều thuốc của anh ta không để phí đi một sợi khói.

                          Khi đã hít trọn vẹn tất cả nhựa sống vào lồng ngực của anh ta, thì anh ta mới từ từ quay sang một bên và phun khói ra có vòi từ trong mũi trong mồm, từ cả hai khóe mắt, tất cả khói được phun ra từng chập có sự tính toán tiết chế, sao cho thần kinh hệ của anh ta đắm đuối đầy đủ trong cái mới khói và nhựa của liều thuốc.

                          Rồi gật gà, gật gù cái đầu trọc tóc đang ra tua tủa như một trái gáo, với cặp mắt mơ màng, Đoá ngoách sang chúng tôi đang ngồi ngắm hắn như xem một trò ảo thuật.

                          - “Làm” một phát đi cậu!

                          - Cậu làm cho đoả đi rồi mình làm.

                          Năm Cà Dom lắc đầu. Khoái ngồi bên cạnh đón lấy ngay. Khoái bật lửa và hơ vào đầu điếu có tính cách khử trùng, rồi lại hút. Tuy là bạn bè nhưng thuốc ai nấy hút. Thuốc của Khoái đựng trong một cái hộp dẹp nhỏ bằng cái bánh bích-quy.

                          Rít xong một điếu, Khoái cong năm ngón tay lên cào lia lịa trên cái đầu tóc bù xù và hỏi tụi tôi:

                          -Các đồng chấy có món gì đặc biệt không hỉ ?

                          - Thì quân áo lụa Hà Đông, đồ kaki. Cậu còn muốn đòi tiên đòi voi gì nữa hả?

                          - Đâu đưa tôi xem.

                          Tôi ném cả ôm đồ của tôi xuống đất cho Đoá và Khoái. Cả hai vồ lấy, cầm từng chiếc nâng lên xem tận mắt, và bứt bứt bấm bấm từng nơi để thử xem vải có mục không .

                          Tôi nói.

                          -Không có mục đâu mà sợ.

                          Khoái kê vào mũi và nhăn mặt bảo:

                          -Chua lòrn!

                          - Ừ thì bỏ trong ba-lô chớ phải ở Hà Nội sao mà bắt bẻ. Không đổi thì thời tôi mang về cất. – Năm Cà Dom nói xẳng giọng nửa chơi nửa thiệt. Cho mấy cha ~ không có quần áo phải vấn khố bỏ mạng chơi!

                          - Hừm, khu mình có vải xi ta chớ.

                          - Hồi đánh Tây kìa chớ bây giờ còn cái xưởng ma nào đâu mà dệt xi ta với xi tô. Tôi thấy bảo là trong khu các ông ăn toàn ngô mà tôi ớn xương sống.

                          - Ớn vì, ăn mãi rồi nó cũng quen !

                          Năm Cà Dom có lẽ hơi giật mình về cái ” tịch” trốn thoát khỏi cái ngã rẽ xuống khu năm cho nên Năm hỏi dò:

                          - Nhưng sao các cậu về khu năm mà không rẽ xuống ở ngoài kia mà đi tuốt luốt về tới trong này vậy ha?

                          - Khu năm rộng lắm chớ ông bạn. Nếu công tác các tỉnh ngoài kia thì mới rẽ xuống cái ngã đó, còn bọn này thì đi vô tỉnh giáp ranh khu sáu.

                          - Chơi tréo cẳng ngỗng thế. Cá ccha ở Quảng Nam mà họ lại cho các cha về Bình Định, Phú Yên công tác à?

                          - Chơi thế mới chết người. Bọn tôi đang thắc mắc một bụng đây!

                          Tôi đang lo Năm Cà Dom lộ bí mật về các việc đi lậu của anh ta, thì anh ta lại xổ ngay ra vấn đề đó.

                          - Tôi đây này cũng bị chơi tréo giò. Ai đời mình ở Hóc Môn mà nó lại phân công về Bình Định.

                          - Thế à ? Cả Khoái và Đóa trố mắt nhìn Năm Cà Dom.

                          - Thế thì đi vô chơi với bọn mình.

                          Tôi nháy Năm Cà Dom, nhưng Cà Dom cứ nói tướng lên:

                          - Tớ cũng về Bình Đinh đây, đi cùng đường với các cha cho vui. Bởi vậy nên đổi đồ rẻ rẻ nghe ! Có gì thì sau này tớ cho ăn ké. Chớ đổi đắt quá, sau này tớ không cho rớ vô đó !

                          Tôi phục Năm Cà Dom thật. Anh ta làm gì cũng có chuẩn bị trước hết.

                          Khoái nói:

                          - Bộ đồ bà ba lụa Hà Đông này thì tôi đổi cho đồng chí nửa lon kho mặn được không ?

                          - Được Tôi đáp. Hộp kho mặn đâu rồi ? Đưa đây.

                          - Còn tất cả các thứ kia nào khăn, áo tay ngắn, áo thun thì đổi nửa hộp nữa được không ?

                          - Được rồi ! Đưa đây một hộp kho mặn rồi lấy hết chỗ đồ đó.

                          Tôi cứ nói luôn không ăn phải chờ ý kiến của Năm mặc dù đồ đó phần lớn là của Năm, chớ tôi đâu còn món gì đáng kể. Tôi đã để lại tất cả cho đám người Thượng trong một cái buôn vô danh ở sau lưng tôi rồi.

                          Không biết nghĩ sao mà Khoái lại cằn nhằn:

                          - Những thứ này các đồng chí đã mặc cả rồi.

                          - Thì mặc rồi, nhưng còn mới. Có chịu đổi thì đồi, không đổi thì thôi. Cà Dom gắt ầm lên, làm như con buôn chợ đen ở chợ Đồng Xuân vậy. Đây là sự trao đổi tương đối có lợi cho hai bên chớ phải con buôn đâu mà các đồng chí ke re kéc réc tùng chút vậy ?

                          - Thì tôi cũng nói vậy thôi. Muối trên đường này mà, quý hơn vàng, chớ đâu có phải là đồ bỏ ?

                          - Nhưng mà về đó cái là muối trở thành đồ bỏ ngay mà.

                          - Ông bạn lạc hậu rồi . Bãi biển khu năm bây giờ bọn này không có mò xuống đó được như trước kia. Từ trên núi xuống cho thấu biển thì hàng tháng đấy ông bạn ạ, mà có nhiều khi, có đi mà không có về.

                          - Ai bảo?

                          - Quê tôi mà tôi không biết hay sao ?

                          Bỗng Đóa đánh đốp vào đùi một cái rõ to.

                          - Uổng quá ! Đến đây mình mới tiếc ngẩn tiếc ngơ.

                          Khoái quay lại:

                          -Tiếc cái gì?

                          Đóa gãi đầu gãi tai:

                          - Nếu mình “cày” được khỏi đi chuyến này thì ở lại ngoài đó mình mua được một cái “ô ri ông. “

                          - Cái ô-rây-dông hả?

                          - Không, “ô-ri-ôn” là đài radiô của Hungari.

                          Khoái chắn ngang hỏi:

                          - Còn cái đài “ốp ta oa “ của cậu to bằng cái thùng thiếc đó để làm gì mà phải mua thêm một cái nữa ?

                          - Mình mua được cái nọ thì bán cái kia chớ !

                          Khoái càu nhàu:

                          - Anh suýt nữa bị khai trừ vì mấy cái vụ buôn bán radiô đó. Ai đời gần ngày đi rồi mà cứ đòi xin ở lại để bán mấy cái radiô . Anh coi công tác cách mạng chẳng ra cái đếch gì cả.

                          Đoá cãi lại:

                          - Quan trọng cái thớ gì. Nằm đây hằng tháng rồi. Có đi đâu được không ? Nếu để tớ ở lại ít ngày tớ bán cái radiô lời được mấy chục bạc. Đằng này vì gấp đi bán đổ bán tháo. Tiếc tiếc là ! Mình mua cũng mất tiền dữ lắm chớ đâu phải xin người ta mà có được !

                          - Sao không ở ngoài luôn ôm cái radiô đó mà sống ?

                          Tôi ngại phải chứng kiến một sự bùng nổ giữa hai người. Nhưng xem vậy mà không quan trọng gì cả. Đóa cười khi khì và gọi ông bác sĩ Năm Cà Dom đang xem xét hộp kho khô.

                          - Ông bác sĩ ơi!

                          - Gì đó?

                          - Tớ cho xem cái này ! Đóa vớ lấy cái điếu gậy làm một điếu và lại nói rất phấn khởi. Cậu Khoái cậu đần bỏ mẹ đi đấy. Ai đời có chiếc xe đạp “Súp-pe-gốp” (Super Globe) lại bán rẻ mạt. Phải chi cho tôi hay, tôi đổi cho được ít nhất vài công đất.

                          Cà Dom hỏi:

                          - Đất gì ? Mua ở đâu cái thời buổi này mà mua được ?

                          - Được chớ.

                          - Người ta vô hợp tác xã tám, chín mươi phần trăm ai dư đất đâu mà bán vậy chớ. Ai bán đất, ai mua đất cũng bị khai trừ bỏ mạng !

                          - Không ! Tớ mua trong miền Nam quê tớ kia mà.

                          - Trời đất ? Làm sao mà mua vậy ?

                          - Vậy mà tôi mua được chớ ! Đóa lấy làm hãnh diện móc trong túi ra một tờ giấy nhỏ bằng trang giấy học trò trao cho tôi và Năm Cà Dom

                          - Đọc xem !

                          Năm Cà Dom cầm lấy, tôi cũng liếc mắt vào:

                          TỜ BÁN ĐẤT

                          “Tôi là Võ Văn Mịt đồng ý bán một mẫu đất của vườn tôi thuộc khoảnh gia cư do em trai của tôi là Võ Văn Mờ hiện cư ngụ tại đó với giá tiền là hai trăm đồng

                          Vậy khi ông Lê Đoá trình giấy này ra dù mọi quyền sở hữu của mảnh đất này đều thuộc về ông Đoá.

                          Hà Nội, ngàu… 1965

                          Ký tên

                          Đóa cười khè khè:

                          - Phen này về là tôi tha hồ trồng cây ăn trái.

                          Năm Cà Dom trao mảnh giấy lại cho Đóa và nói:

                          - Các cha làm bậy bạ quá. Phạm chánh sách chi bộ, nó kiểm thảo các anh xanh xương gà ác đấy. . .

                          - Cái gì mà phạm “chánh sách” ? Nó ‘ưng bán thì mình ưng mua chớ! Đất bỏ trống không có ai làm mà. Mình về mình tăng gia sản xuất chớ sao. Úy úy coi chừng, mấy hạt giống của tôi đâu rồi.. Chu choa, các cha ngồi trên đó rồi. Mắc mưa tôi sợ nó lên mọng cho nên tôi đem nó ra phơi đó !

                          Tôi ngồi nhóm lên, thấy có một nhúm lúa.

                          - Giống Nông Nghiệp I, Nông Nghiệp II đó các cha. Đem về cấy vào đất Bình Định thì hít thôi.

                          Năm Cà Dom cười:

                          - Nói vậy các cha định về trong đó cấy cày món ăn sao ?

                          - Thì phải tính tới đường đó chớ. Mình già rồi, về trong đó tranh sao lại bọn trẻ?

                          Năm Cà Dom hỏi tiếp:

                          - Nhưng làm sao mà anh mua được vậy ?

                          - Cũng dịp may thôi, thằng Mịt nó vô trường đi B cũng ở với mình một Chi. Nó tâm sự với mình có miếng đất như thế. Chừng về tới nơi hai đứa sẽ sản xuất. Đóa nói với giọng buồn buồn. Không nói giấu gì đồng chí. Tôi nay bốn mươi tám tuổi rồi, trẻ trung gì nữa. Kháng chiến chín năm hết sức lực.

                          Ra Bắc ở mười hai năm chịu mưa phùn gió rét với lại đi làm công trường làm cầu mất năm năm. Cầu Đò Lèn, cầu Ninh Bình đều có tôi. Cầu Làng Giăng, cầu Lao Kay cũng có tôi. Còn sau này thì đi làm công trường đập đá mất bốn năm. Bệnh mất một năm mười một tháng sáu ngày. Còn chi là sức lực. Càng già càng yếu chớ đâu có mạnh lên được.

                          Lại thêm mưa phùn gió bấc mình không quen. Bây giờ tôi biết tôi yếu lắm. Về tới nơi là chỉ còn một tí sức lực nữa thôi. Hoạt động chừng một năm là nằm mép rồi. Chừng đó ai nuôi ? Vợ con hồi mình đi tập kết đem hết ra ngoài đó. Bây giờ quất ngựa về một mình. Ai
                          nuôi ? Cho nên phải tính kế trước chớ.

                          Đóa nói tiếp:

                          - Nói thiệt với đồng chí, chẳng phải mua đắt đỏ gì. Tôi đưa cho thằng Mịt cái radiô Liên Xô với chiếc xe đạp coi như ba trăm bạc để về trong quê lấy miếng đất của nó.

                          Năm Cà Dom hỏi:

                          - Thế anh ta không đi à ?

                          - Gần đến ngày đi, anh ta bàn việc buôn bán với tôi như vậy rồi đập bệnh ở lại luôn.

                          Ban đầu tôi nghe câu chuyện mua bán đất đai thì lấy làm xem thường cái anh Huyện ủy này, nhưng khi nghe trọn đầu đuôi thì tôi rất thương tâm. Cuộc chiến đấu dưới sự điều khiển của các tay tổ thật là vô nhân đạo. Họ chỉ ngắm cái đích còn xác rơi hai bên đường thì không cần đếm làm chi.

                          Công việc của Đóa làm cho tôi bắt suy nghĩ đến số phận mình. Tuy tôi còn ít tuổi hơn Đóa, nhưng tương lai tôi có khác gì. Rồi đây mình sẽ đi đến cái ngày bi đát đó. Mải mê làm cách mạng mà ngày già nua đã đến mà không hay, hai mươi năm trời bất biết cha mẹ gia đình cố hương.

                          Một đêm nọ chàng văn sĩ chợt tỉnh nửa đêm nghe tiếng con cú kêu ở ngọn cây cao, nhớ quê nhà, nhớ song đường mới biết rằng mình bất hiếu.

                          Tôi đâm ra thương anh Huyện ủy viên này. Tôi hỏi:

                          - Thì ra đất Bắc anh không được công tác gì đúng trình độ anh hay sao ?

                          - Đúng cái gì mà đúng. Ở trong Nam tôi làm huyện ủy. Ra đất Bắc tôi suýt đi gác cổng. Cũng may người ta cho tôi đi làm trong đội cầu. Lặn lội với sắt, siết bù lon, sơn cầu v.v… mình không có nghề nên chuyện gì cũng phải làm.

                          Mình có tranh đấu xin việc nhẹ thì nó bảo: Đảng viên phải gương mẫu. Thế là thôi. Kịp đến khi có phong trào về Nam thì nó móc mình lên từ dưới bùn đen. Nó lại cho mình về. Mình nói mình già rồi. Vợ con mình ở ngoài này cả. Vả lại mình bệnh, yếu sức. Nhưng nó lại cũng bảo: “Đảng viên nọ kia ! ” Thế là phải đi. Đấy đồng chí xem, bây giờ chồng Nam vợ Bắc. Vợ tôi nó đòi đi theo. Đi làm sao được mà đi ?

                          Tôi nhìn Đóa. Tội nghiệp anh ta hết sức.

                          Bao nhiêu những cá tính, những chuyện lặt vặt trong sinh hoạt tôi đều thấy không có nghĩa lý gì, so với một đời cần cù lao lực của anh. Con người anh, tuy tôi không quen nhiều nhưng nội cái việc mua đất cũng đủ làm cho tôi hiểu cái tính cần mẫn và biết lo xa của anh. Tôi nói:

                          - Nếu ở ngoài đó hay cái việc anh mua đất, thì nó sẽ khai trừ anh chết tươi .

                          Đóa cười:

                          - Hay làm sao hay được. Vô tới đây tôi mới cho vài anh em biết thôi mà cho dù có khai trừ tôi cũng chịu. Mình phải tính đến cái gì cụ thể hơn, già rồi, đâu có đi theo cái chuyện mông lung mãi được?

                          Tôi và Năm Cà Dom cầm hai cái nửa hộp lon kho khô đi về lều vẻ mặt hớn hở như vừa đạt được một cuộc đại chiến thắng. Chúng tôi biết ở đây là cái cửa khẩu rất lớn, có voi vận tải, cho nên mới có muối có khô.

                          và cậu thủ kho mới bán cho mình dễ dàng như vậy Tôi bèn rủ Năm Cà Dom đi lùng tìm thêm thực phẩm và chất tươi.

                          Nghĩ mà thương anh bạn khu năm. Đúng là tuổi nào mơ ước nấy. Những sự dự tính và tương lai của anh ta làm cho tôi suy nghĩ. Chợt nhớ tới cái thằng “tôi” đâu còn là trẻ trung gì nữa, mà đã quá nửa đời người rồi. Sự nghiệp đúng là lem nhem ba lá sách mà cũng cứ nghé ngọ mãi, có ra cái chi đâu.

                          Con người ta, ai cũng đều phải có hai phần đời một là sự nghiệp của mình, hai là đời tu.

                          Con người ta ít ra cũng phải biết vui thú gia đình chứ. Cách mạng thì cách, chớ đâu cỏ thể bắt người ta trở thành cái cây trụi không lá không cà không hoa không trái!

                          Nếu hỏi cho kỹ lại về động cơ thì một trăm người về Nam có đến một trăm lẻ một người chán ghét miền Bắc và chín mươi chín người về để kiếm vợ theo câu “Ta về ta tắm áo ta, dù trong dù đục ao nhà đã quen”

                          Tôi nhớ lúc tôi đi qua những vùng có lẽ là khu năm, tôi gặp những cô văn công Hà Nội đi vào công tác ở K5 đi lãnh cái ăn. Tôi dùng riêng tiếng cái ăn vì nó phức tạp, nó kỳ cục, không thể gọi là thực phẩm. Cái ăn của anh chị em văn công này là lúa và bắp. Tôi thấy tôi lắc đầu, nhưng những anh chị em ấy bảo như thế hãy còn là quí hóa !

                          Nhiều khi đi lãnh lúa lãnh bắp không có thứ nào cả, phải đi về không, bụng đói chân không muốn bước, nước mắt ròng ròng. Văn công vô khu năm đâu có biểu diễn, vì đâu có chỗ nào để dựng được sân khấu, và đâu có ai có kiên nhẫn ngồi coi văn công. ..

                          Lãnh được lúa về mới đi vào buôn sóc mượn cối mượn chày mà vọt ra gạo.

                          Anh bạn Đóa có lẽ đã biết trước cái cảnh kháng chiến chống Pháp ngày xưa ở quê nhà rồi, cho nên mới nghĩ đến việc mua đất đai về phòng thân.

                          Cái việc này xem ra là phản chánh sách. Lúc đầu ở Hà Nội tôi có nghe chuyện này.

                          Tôi nghĩ như vậy, nhưng khi tôi vào đây thì tôi lại nghĩ khác ngay. Người ở trong cảnh mới có những ý nghĩ chính xác và thích hợp về hoàn cảnh đó.

                          Chỉ cái việc ăn dọc đường mà rắc rối thế đó. Ở Hà Nội dù có một bộ óc phi thường đến mấy cũng không nghĩ ra cái sinh hoạt ở trên con đường này. Thế mà họ dám bày đặt ra cả một chương trình hành quân đại qui mô với sức tưởng tượng của họ.

                          Bây giờ đi vô đây mạnh thằng nào thằng ấy bơi. Cho nên khi nghe ở đây có một cái cửa khẩu lớn có rất nhiều chất tươi thì tôi và Năm Cà Dom rủ nhau đi tìm. Trước khi đi tôi dặn kỹ Thu ở nhà trông chừng đồ đạc rồi chúng tôi mới đi.


                          Hết Chương 13 - Xem Tiếp Chương 14
                          sigpic

                          Comment


                          • #14
                            Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                            Chương 14


                            Chúng tôi đi theo con đường mòn chúng tôi đã đi lãnh gạo. Thật là phiêu lưu. Nhưng cũng cứ đi. Vì tôi có nghe đồn là có một người bạn của tôi tên Bảy Nguyện làm xếp cái cửa khẩu này. Tìm được y thì đỡ lắm.

                            Nhưng không hiểu ma dắt lối quỉ đưa đường thế nào mà chúng tôi đi lọt vào một trại tù binh. . . Thế mới chết . Cho đến bây giờ trong óc tôi vẫn chưa phai mờ về cái trại gọi là trại tù binh đó (xin tạm mượn cái lối nói của các nhà chánh trị: Cái gọi là...)

                            Không ngờ ở giữa rừng này lại có một cái trại để cầm tù những người như thế. Không phải tôi vào đó một cách dễ dàng đâu. Chúng tôi lọt vào khu vực trại tù và bị bắt đưa tới ông cai ngục.

                            Ông ta là một ông già, râu ria xồm xoàm, tóc tai bù xù.

                            Khi chúng tôi tự giới thiệu thì lão rất mừng . Lão bèn tiếp chuyện với chúng tôi rất vui vẻ. Lão hỏi chúng tôi:

                            - Các anh có muốn xem tù nhân không ?

                            Bác sĩ Năm Cà Dom lắc đầu, nhưng tôi thì xin được xem thử có cái gì ở đây. Xem nó có khác với nhà tù ở Vinh và Hỏa Lò Hà Nội hay không ? Cho nên tôi đáp:

                            - Nếu cụ cho phép thì tôi xin xem.

                            - Hừm, tôi mà cụ gì. Anh rủa tôi ư?. ông già phản đối một cách vui vẻ. Trông tôi già lắm hả ?

                            - Có lẽ …

                            - Không ! Tôi chỉ mới bốn mươi hai tuổi thôi. Chẳng lớn hơn anh là mấy đâu.

                            - Nhưng trông… đồng chí… già đi nhiều quá.

                            - Tôi coi cái trại tù này ngót năm năm rồi, nghĩa là từ khi có chiến tranh xảy ra ở miền Nam.

                            Rồi ông ta đưa tôi đi. Ông ta giải thích:

                            - Tôi sẽ cho ông nhà văn xem cái hầm nhốt một tên đầu sỏ vừa cầm đầu một vụ vượt ngục, bi lộ, bi bắt trở lại, nhốt dưới hầm.

                            Ông cai ngục dắt tôi đi qua một cái cửa và một cái hàng rào làm bằng thân cây rừng mỗi chấn song to bằng cột nhà.

                            Xong ông Cai mới đến một chỗ, bảo một cậu cần vụ giở một cái nắp hầm cũng bằng gỗ ra và bảo tôi nhìn xuống dưới hầm. Tôi nhìn xuống đó.

                            Ban đầu thì tôi không trông thấy gì cả nhưng chỉ sau vài giây thì tôi trông thấy một cái thân người nằm cong quắp như con tôm kho tàu, vì cái hầm hẹp không đủ cho anh ta duỗi thẳng chân ra.

                            - Này, thằng kia !

                            Ở dưới đáy em thấy có sự cử động rồi hai chấm sáng chiếu thẳng lên phía tôi. Có lẽ hắn ta đang nằm úp mặt vào vách hầm, nghe tiếng gọi mới quay nhìn lên tìm tí ánh sáng. Chắc anh ta chỉ tìm ánh sáng thôi, còn ngoài ra không có mục đích gì khác, bởi với hắn cũng thừa biết rằng mỗi lần người ta gọi hắn thì chẳng có điều gì tốt lành.

                            - Anh xem đó, ông Cal nói với tôi, hàng rào, hầm hố như vậy đó mà tụi nó dám tổ chức vượt ngục. Bởi vì tụi tôi cũng thả lỏng mỗi buổi sáng được vài phút cho chúng tập thể dục để ngừa bệnh phong tê. Chúng thừa một hôm anh gác bất ý, chúng xông ra tấn công

                            Ông Cai kể tiếp:

                            - Thằng này là đầu sỏ. Hắn đã vượt ngục một lần ở trại trên kia, ba thằng đều bị bắn chết. Hắn còn sống sót đấy. Chúng làm sao chạy thoát được. Đường đi nước bước ở khu rừng này chúng tôi thuộc như chỉ trong lòng bàn tay mà.

                            Chúng nó chạy một buổi, chúng tôi chắc chắn còn theo kịp. Thằng này là lính gì không rõ mà dữ lắm. Hắn nói cũng ghê. Miệng lưới lắm. Một hôm có đồng chí Thượng tá Phó chánh ủy quân khu đền mời tất cả bọn chúng lên nói chuyện chơi.

                            Đồng chí Thượng tá kể cho chúng nghe về những ưu đãi của đảng và chánh phủ đối với cán bộ nhà nước ở ngoài Bắc và bảo chúng nó hãy kể lại những ân huệ mà chúng được hưởng của chánh phủ Sài Gòn.

                            Ông Cai ngừng lại một chút rồi kêu lên:

                            - Mẹ kiếp, tôi nghe xong thì thấy mình tồi quá. Chẳng ra cái nước non gì cả. Nới về cái sự đi đứng ăn ở của nó thì mình không đi tới đâu cả Tội nghiệp, thế mà đồng chí Thượng tá của mình lại cứ tự mình là nhất thế giới cho nên mới bày ra cuộc nói chuyện đó.

                            Chẳng dè nghe xong đồng chí ta mới ngã ngửa ra và suýt nổi quạu với thằng tù binh kia. Cho nên khi chấm dứt cuộc nói chuyện thì đồng chí bảo nhỏ tôi phải tìm cách chế ngự bọn này. Nếu để nó phun cái mùi phản động ra thì cả cán bộ ăn cai ngục đều bị nó mê hoặc: Kịp khi thằng này vượt ngục bi bắt lại thì đồng chí mật lệnh cho tôi. . . ba ngày cho nó ăn một lần.

                            Ông Cai lôi tôi ra đi về một dãy hầm khác và nháy nháy nhìn tôi tỏ vẻ ngại thằng tù dưới hầm nghe được.

                            Ông Cai hỏi tôi:

                            - Đồng chí có muốn xem Mỹ không ?

                            - Ở đây có Mỹ sao ?

                            - Có chớ!.

                            - Nhiều không đồng chí ?

                            - Vài thằng thôi! Ôi chao ! Cái thằng Mỹ thật kỳ lạ !

                            - Đây làm sao bắt được chúng nó ?

                            - Đánh trận bắt được, người ta đưa về.

                            Đứng trước hai tên Mỹ bi cùm trong gông, tôi không dám nhìn lâu. Chân chúng nó thọc vào một cái thân cây sả làm đôi có khoét lỗ vừa ống chân, một thằng thì chỉ thọc một chân vào còn một chân được tự do, còn thằng kia thì thọc cả hai chân vào, cứ ngồi như thế không xoay trở được.

                            Tôi vội vã xin trở ra ngay. Tôi không muốn đứng lâu trong ngục không muốn nhìn sự hành hạ, tra tấn của bất cứ ai đối với bất cứ ai.

                            Tôi đã nhìn thấy một cái củi gỗ nhốt chặt một tên Mỹ cách đây độ vài tuần lễ. Bây giờ tôi lại được xem cái cảnh đó tái diễn. Thật là khốn khổ.

                            Hai thằng Mỹ không biết trước đây ra sao, bây giờ như hai con sem-băng-dê khổng lồ, gần như lông lá trần truồng ngồi tô hô đưa chân vào gông, một thằng thì nằm dài ra, còn một thằng ngồi, hai tay chống tay ra phía sau. Chúng nhìn tôi có lẽ không có một xúc cảm.

                            Chúng cứ đờ đẫn ngây dại. Nhìn tháng ngày qua chúng có cảm giác gì ? Quê hương, gia đình . .. Không ai hiểu được.

                            Tôi đã trông thấy những tên Mỹ nhiều lần lúc tôi còn ở Hà Nội. Một lần ở Vinh, một lần ở Hỏa Lò và một lần khác ở Quảng Bình. Những tên Mỹ ở đây trông hãy còn chưa thành ngợm. Nghĩa là trông thấy chúng người ta còn biết rõ đó là những con người chưa lẫn với những con vật.

                            Tôi đã từng trông thấy những anh Mỹ bị bắt ở Quảng Bình, đại khái có một anh gọi là thiếu tá phi hành gia Sumaker bị bắn rơi cách thị xã Quảng Bình đâu vài chục cây số. Nghe nói anh ta không khai một điều gì ngoài ba điều: tên họ năm sanh và chức vụ.

                            Những kẻ bắt được hắn không biết làm sao khai thác, đã dùng báng súng. Nhưng cuối cùng họ vẫn không đạt được mục đích. Họ phải dùng thủ đoạn khác. Nửa đêm họ vứt Sumaker lên xe chạy một mạch lên một ngọn đồi hoang, tống chàng ta văng xuống đất và chĩa súng vào ngực bảo khai. Nhưng Sumaker vẫn không nói gì ngoài tên tuổi và chức vụ của mình.

                            Nhưng đó là những điều không cần thiết bởi vì anh phi công nào mà chằng có ba điều đó trong cái thẻ quân nhân cất trong túi áo, túi quần.

                            Cuối cùng, họ đưa Sumaker đi. Đi hơn một ngày, mới đến nơi. Vừa đặt chân xuống đất Sumaker đã nói ngay: ” Đây là Hà Nội!”

                            Các người giải hắn đi thảy đều ngạc nhiên, không rõ vì sao mà thằng Mỹ này biết ngay cái địa điểm mà hắn chưa từng quen biết?

                            Tôi còn gặp một anh Mỹ khác trên chiến trường Vinh vào một đêm mùa hè năm 1965. Lúc đó thành phố Vinh bị đánh tan tành, không còn một người đân nào cư ngụ trong thành phố.

                            Tôi đã trông thấy những chiếc xe bò của sinh viên chở sách và học cụ tản cư khỏi thành phố, dưới ánh sáng của những chiếc pháo sáng máy bay Mỹ bắn tua tủa trên nền trời.

                            Ở đây pháo thủ ăn cơm trên mâm pháo và chỉ huy trưởng trận địa không bao giờ dám rời hầm chỉ huy, không bao giờ dám rời ống nghe, máy ngắm và các dụng cụ chỉ huy khác.

                            Một đêm tôi đang nằm chập chờn không ngủ được, thì có người đập tôi dậy và bảo:

                            - Có đi coi Mỹ không?

                            - Mỹ ở đâu mà coi? Tôi vừa dụi mắt vừa hỏi.

                            - Mỹ ở ngoài trận địa kia.

                            - Ở đâu có vậy?

                            - Không biết ở đâu.. hình như ở Đô Lương mang về.

                            - Thế hả.

                            Thế là tôi vừa giụi mắt tiếp, vừa bước đi chân thấp chân cao đi theo người ta ra coi Mỹ.

                            Tôi soi đèn pin lên. Chao ơi, hắn cao hơn tất cả mọi người hai cái đầu. Ấy là hắng đang gục xuống và chân không giày.

                            Người ta đùn hắn vào trại giam của tỉnh. Tôi cũng đi theo như một đứa trẻ con đi xem múa lân ngày Tết.

                            Tôi nom thấy rõ ràng dòng chữ in trên áo hắn mà tới nay tôi còn nhớ rõ ràng: Mac Kamey. Da hắn nâu, tóc hơi xoăn, mặt hắn nhô hẳn ra phía trước như một cái mũi tàu.

                            Người ta móc trong túi hắn ra một trái chanh còn xanh, lột tất cả đồ tư trang trên người hắn, cả sợi dây chuyền đeo trên cổ hắn (hình như đó là bảng loại máu của hắn). Hắn bảo là đồ riêng của hắn nhưng người ta đáp rằng hắn không được quyền giữ một thứ gì trong người hắn. Một người hỏi: trái chanh này mày mua ở đâu? Hắn đáp ở Philippine.

                            Rồi thôi. Sáng hôm sau tôi mới gặp lại Mac Kamey ở cái phòng khi đêm tôi đã trông thấy hắn. Tôi được biết thêm hắn là đại úy, nhờ mấy người làm ở nhà tù nói ra.

                            Người ta cho hắn một mảnh bánh mì trét mắm ruốc, hắn không ăn. Hắn không tỏ ra chút gì sợ sệt. Hắn nom một chú cóc con. Hắn cúi xuống nhặt lấy, đặt lên bàn tay rồi thầm thì với nó, ngây thơ như một thằng cu, trong khi người ta đứng chật ních cả hai bên cửa nhòm ngó hắn. Nhưng vô phúc cho hắn, một chiếc xe jeep đến.

                            Từ trên xe bước xuống một người. Hắn ngạc nhiên vì có lẽ hắn chưa từng trông thấy người Việt Nam nào to lớn như người nầm.

                            Đi cùng với người người kia còn có hai anh mang súng AK. Cái anh chàng to lớn kia đi ngang qua mặt Mac Kamey thì tôi nom thấy anh ta cao đến mép tai của thằng này, nhưng bề ngang thì to gấp rưỡi.

                            Anh ta ngồi vào bàn và, bằng một ngón tay, anh ta vẫy Mac Kamey tới. Anh ta vừa gọi, Kamey chưa kịp bước tới thì anh ta đã xô ghế đứng dậy bước ra khỏi bàn, giơ chân “sút” một cái vào chấn thủy của Mac Kamey đang lơ mơ không kịp đề phòng. Kamey lộn một vòng, văng qua thềm, rơi xuống tam cấp và lăn khoè nằm rên ở giữa sân.

                            Hai anh mang súng AK lôi Kamey vào.

                            Anh chàng to lớn vẫn đứng đó, nghếch mặt hỏi bằng tiếng Anh:

                            - Ai bảo mày đi tới đây ném bom?

                            - Tôi không biết ạ!

                            - Mày đi với ai?

                            - Tôi không biết.

                            - Mày ném bom được mấy lần rồi?

                            - Tất cả những điều ông vừa hỏi, tôi đều không thể trả lời được.

                            - Tại sao?

                            - Tổng thống Johnson không cho phép.

                            Anh chàng khổng lồ kia thộp ngực chiếc áo da phi công của Kamey quay một vòng và nghiến răng lại:

                            - Tổng thống mày không cho phép nói, nhưng tao bảo mày phải nói.

                            Đốp..đốp…đốp… vô hồi kỳ trận. Những cú giáng liên miên không ngừng vào thái dương của Kamey, không thể đếm kịp, không thể đếm hết. Người xem có cảm giác là anh ta đang thoi vào bao cát tập võ. Xong một hiệp, anh ta buông tay ra, đồi sang bên tay kia và lại thoi như trời giáng vào thái dương bên kia của Kamey.

                            Cái khuôn mặt của anh phi công Mỹ vốn đã xẹp, sau hai hiệp bị nện, tôi tưởng nó đã dẹp lại nhu một đồng xu.

                            Kamey ngã qụy xuống đất. Lập tức hai anh cận vệ nện báng súng vào tấm lưng của Kamey theo kiểu đồng bào Thượng vọt lúa chày đôi. Rồi họ lôi Kamey vất lên xe Jeep chạy vút đi. Không biết đi đâu nữa.

                            Cho nên lần này tôi gặp mấy chàng con cưng của Mỹ quốc bị tra chân vào xiềng thì tôi vụt nhớ tới anh chàng Kamey tội nghiệp. Không biết cực hình nào sướng hơn. Đòn hay xiềng?

                            Tôi hỏi anh Cai ngục:

                            - Mình cho bọn nó ăn gì?

                            - Rau.

                            - Nó chịu sao nổi?

                            - Chịu không nổi hả!… hi ..hi..cũng ráng mà chịu chứ. Nhưng đôi khi tôi cũng cho nó ít sắn, ngô. Rồi cũng chịu được cả đồng chí ạ! Như tôi đây, tôi có làm cai ngục bao giờ đâu thế mà tôi vẫn làm, tôi vẫn quen với đám tù này. Tôi mong một đêm nào đó khi ngủ thức dậy thì cả lũ này chết tiệt hết cho tôi nhờ. Thế là khoẻ nhất cho tôi.

                            Anh Cai ngục còn nói:

                            - Tụi tôi còn không có cái ăn, chúng nó tài gì? Tụi tôi còn phải nhịn đói đây mà. Tù càng đông, chúng tôi càng đói, vì cũng từng ấy khoai mì, nhưng phải chia mỏng ra anh hiểu không? Nhưng mình không dám để cho nó chết. Nó chết là mình phạm chính sách.

                            Tôi cười. Tôi nghĩ thầm:

                            - Chánh sách cái cóc gì nữa. Các anh đã bày ra chánh sách nhưng chính các anh đã vi phạm cái chánh sách đó đầu tiên.

                            Ví dụ như cái chánh sách về Miền Nam đây. Chúng tôi có ra hồn gì nữa không? Hình như người ta bị cắn rứt nhiều quá, cho nên người ta bày đặt chánh sách cho đỡ bị cắn rứt vì khi làm chánh sách là người ta như tưởng nó đã được hoàn tất mỹ mãn rồi.

                            Năm Cà Dom không nói gì suốt từ khi vào đây tới lúc trở ra. Ra khỏi khu nhà ngục xong, Năm Cà Dom lè lưỡi:

                            - Chúng mình vừa lạc Thiên Thai!

                            - Rầu quá! Toàn chuyện gì không thôi!

                            - Chuyện rừng!


                            Hết Chương 14 - Xem Tiếp Chương 15
                            sigpic

                            Comment


                            • #15
                              Xương Trắng Trường Sơn - Xuân Vũ

                              Chương 15


                              Chúng tôi lại tìm đường đi ra cửa khẩu. Nhưng lại gặp một đoàn người khá đông. Hỏi ra thì mới hay rằng họ từ trong đi ra. Họ là những đoàn đi trước chúng tôi, nhưng vì kẹt đường nên chạy dội trở lại. Họ đã đi bảy ngày vào.

                              - Bỏ mạng rồi!

                              Tôi và Năm Cà Dom đều kêu lên, tiếng kêu bi thương tự đáy lòng. Giờ phút này tôi mới càng sốt ruột mong đi nhanh về tới nhà. Nhưng tới làm sao được, chỉ mới đi có một phần ba đường.

                              Nằm lại đây thì sức khoẻ cứ mòn dần, cứ yếu dần xuống. Lấy cái gì mà bồi dưỡng! Không khí ở đây là không khí chanh nước. Sức khoẻ của mình là cái lưỡi dao mà không khí vùng này là mảnh đá mài. Trái đất càng xoay thì lưỡi dao sức khoẻ của mình càng mòn.

                              Cho nên tôi và Năm Cà Dom mới tích cực đi tìm ông bạn cũ của tôi. Rốt cuộc lại gặp một ông bác sĩ bạn của Năm Cà Dom.

                              Hai người rất thân nhau nên mầy ta mi tớ ngay:

                              - Có cái mẹ gì ăn không hở mày?

                              - Có chứ.

                              - Cái gì, cho ngay không tao chết lăn ra dưới chân mày rồi mày sẽ bị tội! Mày còn giữ cái tên Cường của mày không?

                              - Đi vào bệnh xá chơi đi. – Cường đáp – Cường chớ đổi tên gì?

                              - Mày làm chức gì? Có quyền cho tao một cục mắm ruốc không?

                              - Được rồi! Đã bảo vào chơi thì vào.

                              Năm Cà Dom ngắm thằng bạn cũ rồi nói:

                              - Mầy trông như con đười ươi thế nhỉ?

                              - Là thế nào?

                              - Răng nhô ra, mắt thụt vào, tay chân ngoằn ngoèo trông đến phát nôn ra.

                              - Tao cũng không còn biết tao ra sao nữa mà.

                              Tôi xen vào câu chuyện:

                              - Tôi xin giới thiệu thêm ông Cà Dom vừa lập thành tích mới trong nền y học nhân loại.

                              - Ghê thế hả?

                              Tôi đáp:

                              - Thật tình như vậy mà. Ông bác sĩ Cà Dom vừa mổ ruột thừa cho người ta bằng lưỡi dao cạo râu.

                              - Trời đất! Cái thằng liều quá mày. Rủi chết người ta thì làm sao?

                              - Chứ bao nhiêu người chết trên đường này còn vô lý hơn đó, thì có ai đã làm sao không? Còn tao nếu tao mổ mà nó chết thì cũng huề. Vì sao? Vì tao không mổ nó cũng chết. Còn tao mổ thì may ra nó sống. Cái nước bài này mình đánh thì chỉ có huề không có thua mày hiểu không?

                              Cường lắc đầu:

                              - Mày ghê gớm thật.

                              Bệnh xá của bác sĩ Cường còn ghê gớm hơn cái lưỡi dao cạo râu mổ ruột thừa của bác sĩ Năm Cà Dom nhiều.

                              Thương binh nằm lểnh nghểnh nhu tằm trong nong. Màu băng trắng nuốt choáng đầu mắt tôi. Tôi có cảm giác tôi đang đi vào một rẫy bông vải đang nở rộ. Không nghe một tiếng rên.

                              Sự im lặng làm tôi ngỡ rằng mình đang đi vào nghĩa địa. Và điều sau này làm cho tâm trí tôi càng khẳng định cái cảm giác đó hơn. Mỗi cái giường của thương binh là sà mặt đất hoặc thương binh nằm ngay trên ni-lông trải dưới đất,

                              bên cạnh đó là một cái hố như cái huyệt mộ để phòng máy bay. Nếu có bom đạn thì khiêng thương binh bỏ dưới hầm để tránh mảnh đạn. Nhưng lúc đó người đâu mà khiêng, hoạ chăng thương binh tự lăn xuống.

                              Hoặc chu đáo hơn, có những thương binh nằm hẳn dưới hố, có lẽ triền miên như thế, cho bảo đảm.

                              Người trông thấy ắt phải nghĩ rằng đó là người được chôn chỉ chờ lấp đất lại.

                              Đây là lần thứ hai tôi vào bệnh xá. Nhưng lần này tôi vào một cách cỡi ngựa xem hoa, bởi vì tôi không phải là bệnh nhân. Nhưng tôi lại có sự ghê tởm của một người “khoẻ!”

                              Thật ghê gớm quá!

                              Cường mời Năm Cà Dom và tôi vào lều của Cường. Có lẽ thân lắm nên Cường mới mời Năm Cà Dom thế này. Thói thường trên đường đi này, người ta chỉ nhận bạn, tìm bạn khi người ta thấy cần sự giúp đỡ của người bạn ấy, còn nếu khoẻ mạnh thì chẳng tìm làm gì. Còn Cường rất yên ổn nhưng vẫn niềm nở vớ Năm, và biết chắc chắn Năm sẽ xin hoặc nhờ mình một chuyện gì mà vẫn mời mọc, vậy là tốt lắm.

                              Cường nấu nước pha trà cho tôi và Năm Cà Dom uống. Xong Cường lấy một hộp sữa trong ba-lô ra và bảo:

                              - Tớ sẽ đãi các cậu mỗi người một ly.

                              - Được rồi. Tôi nhìn thấy hộp sữa mà tưởng như một bảo vật chưa từng thấy. Thế mà Cường đem ra đãi chúng tôi!

                              Ở giữa Trường Sơn này mà đãi nhau một cốc sữa. Ở Hà Nội có lần tôi mua được sữa, nhưng mang về nhà để đó chớ không dám ăn. Mua được hộp sữa cầm đi ngoài hè phố đã thấy hãnh diện vô cùng rồi. Để hộp sữa ngự trong nhà, có khách đến trông thấy mình rất lấy làm tự hào, còn nói gì bạn gái đến mà mình khui hộp sữa đãi một ly thì còn gì bằng?

                              Hồi mới lên đường tôi được phác cho một bọc sữa độ 150, 200 gram gì đ1o. Thế nhưng khi lên xe hơi tôi lại đánh rơi đi dưới sàn xe và cũng chính tôi nhặt được và tôi hỏi tất cả mọi người xem có ai rớt bọc sữa. Cố nhiên là không ai nhận. Khi lội bộ được năm bảy ngày, người ta mang sữa ra pha uống, tôi cũng moi ba-lô ra. Chẳng dè bọc sữa đã biến đi mất: cái bọc sữ kia laị chính là của tôi.

                              Cho nên tôi đành nhịn sữa suốt một tháng rưỡi nay. Nói cho chí tình, có một thằng bạn đã mời tôi một cốc nhạt nhạt gọi là cho có mùi sữa. Ở Hà Nội trước khi đi, tôi đã tặng cho anh bạn này một bình thủy giá trị, nếu tính ra thì bằng một ngàn cốc sữa này.

                              Cho mãi tới bây giờ đây tôi mới được uống một cốc sữa nữa. Nói cho ngay, bác sĩ Cường pha cũng khá ngọt. Tôi uống sữa pha trong cái nắp ga-men. Ngon không biết sao mà tả. Tựa hồ như một thứ cao lương mỹ vị của Ngọc Hoàng Thượng Đế dùng. Nói ra thì thành xấu hổ, chứ tôi có thể uốn sống hết liền hai ba hộp một lúc mới đã thèm.

                              Mình là khách, chẳng lẽ lại nói dèm để uống thêm cốc thứ hai. Sự đời không cho phép mình làm một cử chỉ chứng tỏ rằng mình muốn uống thêm một cốc nữa.

                              Nhưng trong bụng tôi mong sao Năm Cà Dom “làm xấu” nói một câu thì chắc chắn bác sĩ Cường sẽ pha thêm tức khắc. Nhưng Năm Cà Dom lại rất nghiêm trang, không đùa, không nói úp mở gì cả cũng không nhắc đến cục mắm ruốc mà Năm định xin Cường lúc nãy.

                              Uống xong, Năm Cà Dom đứng dậy, từ giã:

                              - Thôi mình về nhé.

                              - Về thật à?

                              - Cũng chưa, nhưng…

                              - Đi đâu?

                              - Đi dạo bậy một lúc coi.

                              - Khoan đã! Để tớ nói chuyện này một chút.

                              Nói vừa dứt tiếng thì có người đến gọi Cường. Cường hỏi:

                              - Cái gì vậy? Chắc thương binh lại về phải không?

                              - Dạ.

                              - Thì bảo anh em y tá họ làm đi.

                              - Dạ đôngn quá mà lại nặng, họ không làm được.

                              Cường thở dài:

                              - Cái kiểu này thì tôi trốn mất.

                              Năm Cà Dom lặng im. Cường nói:

                              - Ở đâu họ không đưa, họ cứ đưa vô đây. Làm chưa xong lớp này đã tới lớp khác.

                              Người kia nói tiếp:

                              - Họ bị toàn bom bi.

                              - Bom bi là bom gì? – Năm Cà Dom hỏi.

                              Người kia hơi cáu:

                              - Dạ bom bi là … bom bi ạ!

                              - Nhưng bom bi là cái con mẹ gì mới được chớ mày Cường.

                              - Chậc ! Đề thong thả rồi tao sẽ giải thích cho. Nhưng hãy biết trước rằng bị thương bom bi thì mình giải phẫu trọc đầu không xong.

                              Cường hất hàm hỏi.

                              - Vô bao nhiêu

                              - Dạ độ trên mươi người.

                              -Anh về đi.

                              - Dạ.

                              Rồi Cường ngồi thừ ra. Cường lại thở dài thườn thượt:

                              - Chết còn sướng hơn. Chỉ có ngày nay là mình tưởng được yên ổn, chẳng ngờ rồi cũng bị thế này.

                              - Ê bác sĩ bác chó gì đâu hết rồi ?

                              Cường ngồi lên

                              - Cái tụi vô trách nhiệm quá ! Người ta đứt động mạch máu chảy như suối thế mà tìm không ra một thằng khốn nạn đó. Tao gặp tao cho một cái kẹo.

                              Cường vẫn ngồi im. Cái anh bộ đội có vẻ chỉ huy, quát lính:

                              - Ê tụi bày ! Nổi lửa đốt mẹ cái bệnh xá này đi. Xóa sổ mẹ nó đi ! Không cần thiết cái lũ vô dụng này.

                              Thấy bọn tôi không nhúc nhích, anh chỉ huy càng tức tối, anh ta sấn vào chòi chúng tôi:

                              - Mấy người biết bác sĩ bệnh xá này ở đâu không ?

                              Năm Cà Dom vọt miệng đáp:

                              - Trên văn phòng. Anh ta đang bào chế xi rô trên đó. Cứ đạp cửa vô là gặp ngay.

                              - Đi đường nào ?

                              - Đi lộn trở lên, rẽ qua tay phải. Nhanh lên kẻo nó đi công việc.

                              - Còn ông là cái gì ở đây?

                              - Dạ em là văn sĩ ạ.

                              - Văn sĩ à? Làm cái gì mà vô đây?

                              - Dạ viết văn ạ !

                              - Viết cái gì?

                              - Viết những gương bộ đội chiến đấu anh dũng.

                              - Còn bộ đội bi thương một lúc hai ba chực người có viết không ? Bị thương la om trời, nhức óc nhức xương, anh dũng cái con khỉ!

                              Rồi anh ta quày quả trở lui.

                              Cường cười khè khè:

                              - Hay lắm !

                              - Sợ à ? Cà Dom hỏi .

                              - Không sợ à?

                              - Sợ thiệt chớ chằng phải chơi. -Năm Cà Dom cười- Mày mà lên tiếng lúc nãy nó dám đá vô đầu mày lẩm. Bộ đội bị thương nhiều quá nên nó cáu. Thôi chấp nhất làm chi.

                              - Tao bị hoài. Có nhiều lúc tao trốn mất tiêu. Mày nghĩ coi toàn những vết thương phức tạp. Ngay ở bệnh viện lớn ở Hà Nội chữa còn chưa chắc đã khỏi, vậy mà tao tay không, không có cả cái nhiệt kế để theo dõi nhiệt độ thế mà bảo chữa làm sao ?

                              Thế là tôi và Năm.Cà Dom đành rút lui, không có ý kiến. Bỗng Năm Cà Dom quay lại:

                              - Ê Cường!

                              - Gì?

                              - Mày có dầu không ?

                              - Dầu nhãn à ?

                              - Không ! Dầu nhãn làm cái gì ở đây. Dầu lửa cơ !

                              - Làm gì?

                              - Đổ hộp quẹt. Bông khô queo quẹt không bắt lửa !

                              - Được tớ sẽ cho. Cậu có gì dựng không ?

                              - Chớ cậu không có một cái chai dư nào à ?

                              - Trời đất ! ở đây không có cái gì dư cả. Tớ muốn tìm một cái chai để làm đèn mà tìm không ra. Có đâu mà cho ? Vậy làm sao ?

                              Tôi bảo:

                              - Chặt ống nứa.

                              - À hay ! Cà Dom cười. Đi chung cả tháng trời mới thấy ông văn sĩ có một cái sáng kiến xài được. Vậy đi chặt dùm đi.

                              Tôi đi chặt một cái ống nứa bằng bắp tay mang vào. Cường trỏ dưới hầm:

                              - Còn trong thùng đó, múc một ít đi.

                              - Bao nhiêu ? Mấy xăng-ti-cuýp? (cm3)

                              - Độ nửa ống cũng được.

                              - Chà ! Sướng he! Ông bác sĩ oai he!

                              - Dầu lửa ở đây chỉ để dành chế hộp quẹt thôi.

                              Tôi muốn nói: “Nếu uống hết hộp sữa đi mình xin luôn cái lon thì hay quá. ” nhưng tôi không dám. Bác sĩ Năm Cà Dom cười:

                              - Nói thiệt tình nhé t Để tớ giúp cậu một tay giải phẫu số thương binh này. Chớ một mình cậu, cậu làm sao xuể ?

                              Thế là hai ông bác sĩ đi đến chỗ đặt thương binh. Tôi vốn sợ thấy máu. nhưng cũng lót thót theo sau.

                              Trời ơi ! Tôi lóa mắt đi. Những thương binh để đầy cả một quãng dài, như những cái của nợ bắt mình phải gánh. Băng bó sơ sơ vì không có đủ băng. Mỗi người chỉ có một cuộn băng cá nhân. Nếu bị thương ở bụng thì chỉ quấn đủ một vòng. Không phải mươi người. Mà tôi có cảm giác là hằng trăm người. Máu chảy ngập đất . Nhiều người đang tự bịt lấy vết thương ngăn máu chảy.

                              Một người nghiến răng ken két, đôi tròng mắt lộ hẳn ra ngoài. Một người cứ thở “phì phì” từng cái ngắn gọn. Một người ngồi tựa gốc cây thều thào: ” Bồ mẹ ơi, chắc phen này con chết !Bố mẹ ơi ! Phen này con không còn trông thấy mặt bố mẹ nữa.” Anh này bị thương ở bả vai. Vết thương toác hoác cho nên tôi liếc qua thấy lá phổi phập phều bên trong như một loại bọt nước màu đỏ.

                              Một người đứt mất một ống chân, cứ quờ quờ tay trong không khí và kêu lên: “Chân tôi đâu rồi, chân tôi… “

                              Mỗi người mỗi kiểu nhưng cùng đau thương, không có anh nào giống anh nào. Họ có thể sống, có thể chết, nhưng vết thương họ một thì sẽ trở thành mười, mười trở thành trăm, vì không có thuốc. Bác sĩ Năm Cà Dom trở lui và rỉ tai tôi:

                              - Về! Về!

                              - Không ! Cậu nên ở lại mà giúp Cường. Tội nghiệp nó!

                              Năm Cà Dom lắc đầu:

                              - Một vết thương có thể giải phẫu mất một buổi. Rút lui là hay nhất . Làm gì nổi !

                              Rồi không từ giã Cường, Năm Cà Dom trở lui, vừa đi vừa chạy vụt nhanh như trốn nợ, không quên mang theo cái ống nứa dầu lửa Hai đứa đi thật nhanh nhưng khi vừa lội qua suối thì có người kêu lên:

                              - Cái gì thơm quá!

                              Tôi vọt miệng đáp:

                              - Dầu lửa hôi rình đây chớ dầu gì mà thơm.

                              - Dầu lửa hả, dầu lửa hả ?

                              Lập tức ba bốn người từ đâu không biết chạy ùa đến vây chúng tôi Một người bạo mồm:

                              - Cho tôi xin chút thấm bông hộp quẹt, đồng chí.

                              Năm Cà Dom gạt phắt:

                              - Dầu đâu mà cho ?

                              - Thì cho một chút, tôi chỉ thấm vừa ướt cái ruột ống quẹt mà thôi !

                              - Không được đâu đồng chí.

                              Năm Cà Dom từ chối khẳng khái. Bỗng một người cầm lấy mảnh bông vàng khè quệt vào cái ống nứa dầu lửa của tôi. Chẳng ngờ cái ống nứa dập, dầu rỉ ra ngoài tự nãy giờ cho nên họ mới thấy thơm. Năm Cà Dom lập tức nhảy vào bụi đốn ngay một cái ống nứa khác, sớt dầu sang rồi ném cái ống nứa dập vào mấy người kia:

                              - Cho mấy đồng chí đó!

                              Tức thì mấy người kia nhặt lấy ngay đập vỡ toang cái ống nứa ra và lấy bông gòn trong ruột ống quẹt chùi lia lia hết bên trong đến bên ngoài của những thanh nứa ướt dầu lửa.

                              Thiệt tội nghiệp ! Năm Cà Dom đoán tôi có thề xiêu lòng mà cho đám kia thấm ướt một ống quẹt nên bảo tôi:

                              - Đưa cho tôi cầm cái ống dầu -rồi đi vụt ra phía trước.

                              Tôi và Năm Cà Dom về gần đến lều thì Năm Cà Dom mới kêu lên :

                              - Bỏ mẹ rồi!

                              - Gì vậy ? Quên cái gì ?

                              - Mắm ruốc.

                              - Mẩm ruốc ở đâu ?

                              - Của thằng Cường. Nó hứa cho mình mà !

                              - Hồi nào ? .

                              - Thì lúc mình về nó bảo có chuyện gì đấy ?

                              - Nhưng sao cậu chắc nó cho mình mắm ruốc !

                              - Chắc thế vì nó là trưởng bệnh xá này mà. Chẳng lẽ nó chẳng cho mình được một cục mắm ruốc.

                              - Trưởng thì trưởng , đến chừng không có cũng không có như thường.


                              Hết Chương 15 - Xem Tiếp Chương 16
                              sigpic

                              Comment

                              Working...
                              X